TS. PhạM hUy ThÀNh ĐạI học - ThS. hUỳNh Thị ThÚy LINh

205

KẾ THỪA VÀ PHÁT HUY CÁC GIÁ TRỊ VĂN HÓA TRUYỀN THỐNG DÂN TỘC TRONG VIỆC XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

TS. PhạM hUy ThÀNh Đại học Kinh tế, Đại học Đà Nẵng ThS. hUỳNh Thị ThÚy LINh Cao đẳng Kinh tế – Kế hoạch Đà Nẵng

TÓM TẮT Xây dựng văn hóa kinh doanh trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải phát huy các giá trị văn hóa dân tộc để xây dựng nên những thương hiệu mang tính quốc gia. Những giá trị văn hóa dân tộc là nguồn lực nội sinh thúc đẩy các doanh nghiệp phát triển nhanh và bền vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Bài viết đề cập đến các giá trị truyền thống của văn hóa dân tộc Việt Nam: yêu nước, đoàn kết, cần cù, tiết kiệm, ứng xử linh hoạt mềm dẻo là những yếu tố cần được phát huy đối với việc xây dựng văn hóa kinh doanh hiện nay ở nước ta.

Từ khóa: Văn hóa, dân tộc, tinh thần, kinh doanh, phát huy

1. Đặt vấn đề

triển trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh

Trong thời đại hiện nay, đặc biệt là

trong xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại, muốn đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy khốc liệt thì cần phải xây dựng được những kế hoạch, biện pháp khả thi. Đồng thời phải xây dựng văn hóa doanh nghiệp, đây là những giá trị được các thế hệ thành viên trong doanh nghiệp tạo dựng trên cơ sở nội lực của doanh nghiệp và kế thừa tinh hoa văn hóa của dân tộc. Doanh nghiệp Việt Nam trên con đường hội nhập, phải trang bị cho mình cả một chiều sâu văn hóa với mấy ngàn năm lịch sử của dân tộc, để tạo dựng nên những thương hiệu có đủ sức cạnh tranh lớn và hướng tới các lợi ích mang giá trị chân, thiện, mỹ.

Giá trị văn hóa truyền thống là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống giá trị tinh thần của dân tộc Việt Nam. Nói đến giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam là chúng ta nói đến các giá trị đạo đức đặc thù của con người Việt Nam được thử thách qua hàng ngàn năm lịch sử. Theo cách hiểu đó, giá trị văn hóa truyền thống là những giá trị tinh thần tốt đẹp hình thành trong quá trình dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam và được lưu truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đây là những giá trị nhân văn mang tính cộng đồng, là sự kết tinh của toàn bộ tinh hoa dân tộc, mang tính ổn định và được truyền từ đời này sang đời khác. Trải qua hàng ngàn năm lịch sử với sự “tiếp biến” văn hoá của dân tộc, đã tạo lập nên hệ giá trị văn hóa truyền thống của con người Việt Nam: giàu lòng yêu nước, 2. các giá trị văn hóa truyền thống dân tộc Việt Nam cần được kế thừa và phát

206

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

nhiên, cốt lõi của văn hóa truyền thống Việt Nam hoàn toàn bắt nguồn từ lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam. Trong số những giá trị văn hóa truyền thống đó, theo chúng tôi có mấy giá trị nổi bật sau đây cần được khơi dậy để xây dựng văn hóa kinh doanh :

- chủ nghĩa yêu nước yêu thương con người, cần cù, thông minh, sáng tạo, hiếu học…Những giá trị đó đi sâu vào đời sống của con người Việt Nam và trở thành những chuẩn mực được nâng niu, quý trọng trong suốt lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, trở thành sức mạnh tinh thần to lớn giúp nhân dân ta vượt qua vô vàn khó khăn, gian khổ để đi đến bến bờ vinh quang.

Trải qua hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước, mặc dù đã có những biến cố, thăng trầm trong lịch sử, nhưng dân tộc ta vẫn giữ gìn và phát huy được các giá trịvăn hóa truyền thống dân tộc. Các giá trịvăn hóa truyền thống đó đi sâu vào đời sống tinh thần của con người Việt Nam, tạo dựng được một dòng chảy chủ lưu xuyên suốt chiều dài lịch sử dân tộc, thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu. Điều đó được khẳng định:

Một là, Giá trị văn hóa truyền thống là nền tảng tinh thần truyền thống của Việt Nam, chiếm vị trí quan trọng nhất, chi phối sự vận động và phát triển lịch sử tư tưởng dân tộc.

Yêu quê hương đất nước là một tình cảm tự nhiên của con người được nảy sinh và phát triển trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc. Cùng với sự phát triển của lịch sử dân tộc Việt Nam, tinh thần yêu nước Việt Nam trở thành chủ nghĩa yêu nước, thành một giá trị to lớn, một động lực tinh thần vô cùng mạnh mẽ thúc đẩy biết bao nhiêu thế hệ con người Việt Nam anh dũng hy sinh để bảo vệ Tổ quốc và bảo vệ phẩm giá của con người Việt Nam. Lòng yêu nước được hiểu đó là một thứ lương tri: “chết đứng còn hơn sống quỳ”. “Nó không phải là một cái gì duy tâm, siêu hình mà là kết quả của kinh nghiệm đấu tranh, tồn tại, của ý thức hướng theo lẽ phải, theo cái lý tự nhiên của cuộc sống đúng mực, sống hữu ích và sống xứng đáng với quá khứ, hiện tại, tương lai của nước nhà”1. Bằng lương tri ấy, mỗi con người Việt Nam đã sống, cống hiến cho gia đình, quốc gia, dân tộc Việt Nam vững bền theo năm tháng trước sự thử thách khắc nghiệt của lịch sử dựng nước và giữ nước.

Hai là, trong các giá trịvăn hóa truyền thống, chủ nghĩa yêu nước là giá trị quan trọng nhất, là bậc thang cao nhất trong hệ giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam, nó định hướng cho các giá trị khác cùng phát triển. Chủ nghĩa yêu nước trở thành một triết lý xã hội và nhân sinh của con người Việt Nam. - Tinh thần đoàn kết

Ba là, các giá trị văn hóa truyền thống đã tạo nên hệ thống lý luận mang tính chất triết lý: cùng một giống nòi, cùng một đất nước thì phải có nghĩa vụ yêu thương, đùm bọc lẫn nhau; đoàn kết sẽ có sức mạnh, chung sức, chung lòng thì sẽ dời non, lấp biển.

Với lịch sử dựng nước và giữ nước hết sức đặc biệt, dân tộc Việt Nam đã xây dựng nên tinh thần đoàn kết bền chặt, cố kết cộng đồng sâu sắc trong suốt chiều dài lịch sử, trở thành một trong những giá trị tinh thần truyền thống tốt đẹp, một trong những động lực, sức mạnh to lớn giúp nhân dân ta vượt qua muôn vàn khó khăn, thử thách.

Nền kinh tế của nước ta trước đây chủ yếu là tự cung, tự cấp, dựa vào thiên nhiên. Làng,

1. Vũ Ngọc Khánh: Minh triết Hồ Chí Minh, Nxb, Văn hóa, Hà Nội 1999, tr15.

Như vậy, hệ thống các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam đã được hình thành trong suốt hàng ngàn năm đấu tranh kiên cường dựng nước và giữ nước; trong giao lưu, tiếp thu, cải biến, chọn lọc những giá trị văn hóa của các tộc khác trên thế giới. Tuy

TS. PhạM hUy ThÀNh ĐạI học - ThS. hUỳNh Thị ThÚy LINh

207

người bạc nghĩa, bạc tình “ ăn cháo, đá bát”. “Cơm kẻ bất nhân ăn ấy chớ Áo người vô nghĩa, mặc chẳng thà”2.

Sự mềm dẻo, linh hoạt và lòng yêu thương con người của nhân dân ta còn bao hàm cả lòng vị tha với những kẻ lầm đường, lạc lối, để họ biết lập công chuộc tội để trở về với con đường hiếu sinh: “Đánh kẻ chạy đi, ai đánh người chạy lại”. Đối với kẻ thù khi chúng bị thất bại: “Lấy nhân nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo”. Đây là một trong những nét đặc sắc thể hiện đỉnh cao của nhân ái, của tình yêu thương con người ở dân tộc Việt Nam. bản, thôn, xóm trong truyền thống tổ chức xã hội Việt Nam nhìn chung mang tính chất khép kín. Tuy nhiên, tùy vào điều kiện cụ thể của mỗi vùng, mỗi địa phương mà sự giao lưu về kinh tế, giao thoa về văn hóa vẫn diễn ra. Việc trao đổi, mua bán các sản phẩm được sản xuất ra ở mỗi vùng, mỗi địa phương đã tạo nên sự gắn chặt nhân dân mọi miền đất nước lại với nhau. Những tục “kết bạn” không những chỉ thực hiện giữa các công xã trong từng vùng mà giữa các công xã khác vùng và khác thành phần dân tộc. Đây là cơ sở kinh tế - xã hội để tạo dựng nên sự cố kết cộng đồng, tinh thần hợp tác, đoàn kết trong lao động sản xuất, trong sinh hoạt xã hội. - cần cù, tiết kiệm

Điều kiện thiên nhiên buộc con người muốn tồn tại phải hiệp sức lại với nhau, giữa những người trong vùng, giữa những vùng khác nhau trong cả nước và ý thức sớm liên kết thành một cộng đồng dân tộc thống nhất, phải tựa lưng nhau mà sống đã được hình thành. Chính yêu cầu phải hợp sức, hợp lực trong sản xuất, trong đấu tranh với thiên nhiên từ năm này qua năm khác, đời này qua đời khác, là nhân tố cơ bản đầu tiên tạo nên ý thức thống nhất dân tộc, thống nhất quốc gia.

- Ứng xử linh hoạt, mềm dẻo

Đây cũng là một trong những giá trị đạo đức nổi bật trong hệ giá trị truyền thống của dân tộc Việt Nam. Trong quá trình phát triển của dân tộc, người Việt luôn biết cách tạo ra của cải vật chất từ chính đôi tay và trí tuệ của mình. Với đức tính cần cù, chịu khó cha ông ta đã sáng tạo ra được những thành quả lao động hết sức to lớn và vô cùng quý giá, cả về vật chất lẫn tinh thần. Việt Nam từ một nước có nền nông nghiệp lâu đời, với kết cấu công xã nông thôn bền chặt. Lao động nông nghiệp là loại hình sản xuất vất vả “một nắng, hai sương”, “bán mặt cho đất, bán lưng cho trời”, cần nhiều thời gian, công sức mới có hạt cơm, bát gạo để ăn. Hơn nữa, thiên nhiên lại rất khắc nghiệt, trung bình một năm Việt Nam chịu ảnh hưởng từ 10 cho đến 12 cơn bão, mùa nắng thì hạn cháy đồng, mùa mưa thì lũ lụt. Để hạn chế sự tàn phá của thiên nhiên, người dân Việt Nam quanh năm, suốt tháng phải lo đắp đập, đắp đê (đê sông Hồng là biểu tượng cho sức mạnh kỳ diệu của con người Việt Nam trong chống lụt), đào mương lấy nước tưới cho cây trồng. Theo sự tổng kết của giáo sư Trần Văn Giàu, người nước ngoài đến Việt Nam đều hết sức kinh ngạc khi nhìn thấy mọi cơ năng của con

2. Nguyễn Trãi, Toàn tập, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1976,tr.40.

Xuất phát từ vị trí địa lý của đất nước đã tạo nên điều kiện tự nhiên đa dạng, phong phú, cùng với khí hậu nhiệt đới ẩm giao mùa, nên đã tạo ra những tố chất mềm dẻo, linh hoạt, giỏi thích ứng của người Việt Nam. Trong ứng xử với nhau người Việt Nổi tiếng “mềm mại như nước”, trọng khách, hiếu khách “vừa lòng khách đến, vui lòng khách đi”. Đối cuộc sống, người Việt có cách ứng xử mềm dẻo, vị tha “chín bỏ làm mười”. Khi xảy ra va chạm, người Việt thường cố gắng giải quyết cho êm đẹp, vẹn cả đôi đường, với phương châm “có lý có tình” hay là “một bì cái lý, không bằng một tý cái tình”. Coi trọng cái tình, cho nên con người Việt coi thường và khinh bỉ những

208

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

người Việt Nam đều được sử dụng để làm việc: đầu đội, vai gánh, lưng cõng, tay nhanh nhẹn và khéo léo, chân chạy như bay.

3. Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong việc xây dựng văn hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay.

Việt Nam trong lòng bè bạn quốc tế. Mỗi con người Việt Nam thể hiện bằng cách lao động chăm chỉ, nhiệt tính cống hiến, có ý thức đóng góp vào sự phát triển chung của đất nước, vì một đất nước Việt Nam hùng cường. Các doanh nhân Việt Nam cần phải xác định rõ họ đang đi trên một mặt trận “thương trường là chiến trường”, ở đây họ là “người lính trên mặt trận của thời bình”, đang gánh vác một trọng trách lớn đi đầu trong mặt trận kinh tế để làm giàu cho Tổ quốc.

Xây dựng đất nước sánh vai với các nước trên thế giới, đội ngũ doanh nhân nước nhà phải có ý chí làm giàu, đưa ra những hình thức kinh doanh đủ sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Mặt khác, xã hội phải tạo mọi điều kiện cho họ phát triển các ý tưởng kinh doanh, cổ vũ và tôn vinh những doanh nhân làm giàu cho bản thân, cho gia đình và xã hội. Ngày 31 tháng 7 năm 2009, Bộ Chính trị đã phát động cuộc vận động Người Việt Nam ưu tiên dùng hàng Việt Nam, với mục tiêu khuyến khích người tiêu dùng Việt Nam tiêu thụ hàng nội địa, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp trong nước hướng tới thị trường nội địa.

Cùng với sự phát triển của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, văn hóa kinh doanh ở nước ta bắt đầu được hình thành và phát triển. Trên con đường phát triển, xây dựng văn hóa kinh doanh vẫn đang còn nhiều bất cập, sự nhận thức về tính tất yếu phải xây dựng văn hóa kinh doanh để đáp ứng với yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đang đặt ra nhiều vấn đề. Muốn có một chiến lược phát triển lâu dài, bền vững, các doanh nghiệp Việt Nam phải xây dựng văn hóa kinh doanh, đây chính là nguồn lực nội sinh của doanh nghiệp. Để xây dựng văn hóa kinh doanh trong giai đọan hiện nay, chúng ta cần phát huy và kế thừa những giá trị văn hóa của dân tộc trong hoạt động kinh doanh, làm cho lợi ích của doanh nghiệp gắn với giá trị chân, thiện mỹ. Để làm được điều đó chúng ta cần:

Thứ nhất, phát huy chủ nghĩa yêu nước trong tình hình mới đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng Việt Nam.

Đây là một chương trình khơi dậy tinh thần yêu nước của người Việt Nam, kích thích sản xuất và tiêu thụ hàng hóa trong nước, đảm bảo yếu tố bình ổn giá trên thị trường. Cuộc vận động cũng làm thay đổi nhận thức của các doanh nghiệp Việt Nam: hàng Việt Nam chỉ bán cho người Việt Nam khi người lao động và quản lý doanh nghiệp Việt Nam sản xuất ra những hàng hóa một cách trân trọng, đảm bảo yếu tố chữ tín với chất lượng tốt.

Thứ hai, kế thừa và phát huy truyền thống đoàn kết để tạo nên văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.

Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi các doanh nghiệp và đội ngũ doanh nhân Việt Nam cần phải đồng tâm hợp lực để nâng cao sức cạnh tranh của mình. Đồng thời liên kết lại để chống lại việc bán phá giá của Trong giai đoạn hiện nay với sự tác động sâu sắc của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, đây vừa là cơ hội nhưng cũng là thách thức đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Phát triển nhưng phải tạo dựng được nền tảng vững chắc, phát triển nhưng không đánh mất đi bản sắc, thương hiệu của doanh nghiệp mình. Để làm được như vậy, mỗi doanh nghiệp Việt Nam phải ý thức được vị trí, vai trò của mình đối với phát triển không chỉ của bản thân mình mà còn vì cộng đồng, quốc gia, dân tộc. Phát huy chủ nghĩa yêu nước trong giai đoạn hiện nay, là thể hiện bằng những hành động cụ thể tôn vinh vị thế

TS. PhạM hUy ThÀNh ĐạI học - ThS. hUỳNh Thị ThÚy LINh

209

thức sâu sắc vì trách nhiệm và nghĩa vụ của mình vì nhân dân, đất nước, chỉ có đoàn kết mới tạo ra sức mạnh.

các doanh nghiệp làm ăn không chân chính, bảo vệ thị trường trong nước. Để làm được những vấn đề đó, các doanh nghiệp phải đồng tâm, hợp lực nâng cao sức cạnh tranh, tránh tình trạng mạnh ai người đó làm. “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết Thành công, thành công, đại thành công”.

Thứ ba, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa sự mềm dẻo, linh hoạt, sống có nghĩa, có tình trong xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam

Đoàn kết các doanh nghiệp là một sự tất yếu trong bối cảnh cạnh tranh khắc nghiệt, chỉ có đoàn kết với nhau thì các doanh nghiệp Việt Nam mới đủ sức mạnh để bảo vệ thị trường nội địa, bảo vệ thương hiệu hàng hóa Việt. Đây chính là bảo vệ lợi ích hàng chục triệu lao động Việt Nam, chống lại việc bóc lột sức lao động, chèn ép giá, chống hàng giả, hàng lậu. Các doanh nghiệp phải chủ động liên hệ, liên kết lại với nhau, hỗ trợ, bổ sung cho nhau những vấn đề khiếm khuyết của các doanh nghiệp, tạo thành một sức mạnh cộng sinh hiệu quả, làm nên thương hiệu hàng hóa Việt trong tương lai.

Dân tộc Việt Nam trong lịch sử đã trải nhiều thử thách, gian khổ, con người Việt Nam đã biết lựa thời và thế để ứng xử với các các nước lân bang với mục đích bảo vệ đất nước. Những nhân vật lịch sử đã làm rạng danh đất nước như: Lê Hoàn, Phạm Cự Lượng, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, Mạc Đỉnh Chi, Nguyễn Trãi…đến thời đại Hồ Chí Minh có Xuân Thủy, Nguyễn Thi Thị Bình, Lê Hữu Thọ…đã bình tĩnh, tự tin, mềm dẻo, linh hoạt để đối ứng với kẻ thù, đảm bảo lợi ích của dân tộc.

Gần 30 năm đổi mới, Đảng ta chủ trương “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy với các nước”, dựa vào nguyên tắc quan hệ “hợp tác hai bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, đảm bảo độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Đất nước ta đã đạt nhiều thành tựu trên mặt trận ngoại giao, Việt Nam đã tham gia hầu hết các tổ chức kinh tế của thế giới, vị thế của đất nước được nâng lên. Đây chính là điều kiện và cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập quốc tế một cách sâu rộng.

Các doanh nghiệp phải nhận thức sâu sắc trong điều kiện hội nhập quốc tế, thương hiệu hàng hóa, sản phẩm của các doanh nghiệp là yếu tố quyết định thành công. Muốn làm được điều đó bên cạnh chất lượng sản phẩm, cần quan tâm tới văn hóa ứng xử của các doanh nghiệp đối với người tiêu dùng và đối tác. Sự kiện Việt Nam gia nhập vào WTO đã cho thấy khả năng đàm phán ngoại giao của Đảng và và Nhà nước ta, sự linh hoạt, mềm dẻo Đoàn kết, thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp là vấn đề không dễ dàng trong môi trường cạnh tranh khốc liệt, bài toán lợi ích của các doanh nghiệp luôn được đặt ra, Nếu chỉ vì lợi ích trước mắt, sự liên kết của các doanh nghiệp khó có thể diễn ra được. Do vậy, để đoàn kết, thống nhất ý chí giữa các doanh nghiệp cần phải có niềm tin, chữ tín được đặt lên hàng đầu. Các doanh nhân chỉ có thể hình thành được niềm tin từ việc tôn trọng lợi ích của nhau và có tầm nhìn lâu dài về sự phát triển của doanh nghiệp, đất nước. Mặt khác, niềm tin và chữ tín giúp các doanh nghiệp tạo dựng mối quan hệ tốt đẹp, trên cơ sở tôn trọng, tin cậy lẫn nhau trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, góp phần thúc đẩy thị trường kinh doanh ở nước ta hiện lành mạnh, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào đầu tư, liên doanh, liên kết vì sự phát triển của doanh nghiệp và đất nước. Trên thực tế sự liên kết của các doanh nghiệp Việt Nam chưa chặt chẽ, để lại nhiều lỗ hổng trên thị trường, làm mất đi yếu tố cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt. Khơi dậy và phát huy giá trị đoàn kết của dân tộc, làm cho các doanh nghiệp ý

210

Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

trong ứng xử đã làm thay đổi quan điểm của nhiều nước về Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam cần xem đó là tiền đề, điều kiện lớn để doanh nghiệp Việt Nam đàm phán, ký kết với các đối tác của mình.

nghiệp luôn phải đặt ra những câu hỏi lớn để tồn tại và phát triển: sản xuất cái gì, sản xuất như thể nào, sản xuất cho ai. Tất cả những câu hỏi đó đều hướng tới đầu ra và đầu vào của sản phẩm, trong quá trình đó thì có sự đóng góp lớn của người lao động với đức tính cần cù và sự tiết kiệm từ nguyên liệu, nhân công lao động, chi phí trung gian để hạ giá thành sản phẩm. Đức tính cần cù, tiết kiệm của người dân Việt Nam cần được các doanh nghiệp nước ta phát huy trong quá trình hội nhập, tạo ra những sản phẩm chiếm lĩnh thị trường “tốt, rẻ, mẫu mã đẹp”.

Các doanh nghiệp phải kích thích được đức tính cần cù và sáng tạo của người lao động trong sản xuất, kinh doanh, để tạo ra lợi ích cho doanh nghiệp, từ những sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao. Trong quá trình sản xuất và kinh doanh cần phải sắp xếp con người đúng với sở trường, năng lực của người lao động. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp phải có chiến lược phát triển kinh doanh phù hợp, đầu tư có hiệu quả.Tháo gỡ dần những chi phí trung gian không đáng có, tiết kiệm vốn, thời gian để huy động mọi khả năng có thể đầu tư, phát triển doanh nghiệp với tầm nhìn dài hạn.

Hợp tác để cùng phát triển trong bối cảnh toàn cầu hóa là tất yếu, nhưng các doanh nghiệp Việt Nam cần phải vận dụng đúng nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong quan hệ với các đối tác, mới đảm bảo sự phát triển lâu dài. Nguyên tắc, mục tiêu của doanh nghiệp phải được giữ vững, biện pháp để thực hiện nguyên tắc, mục tiêu đó phải thay đổi theo từng thời điểm, từng đối tác. Phát triển không được đánh mất đi bản sắc văn hóa, thương hiệu của doanh nghiệp, phát triển là đảm bảo cho bản sắc văn hóa, thương hiệu của doanh nghiệp được củng cố và phát triển. Trong điều kiện hội nhập hiện nay, các tập đoàn kinh tế xuyên quốc gia, họ luôn muốn độc bá thị trường, họ có đủ sức mạnh về tài chính để buộc các đối thủ cạnh tranh ngã ngục. Các doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào thị trường quốc tế chúng ta phải nhận thức sâu sắc, văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu sản phẩm sẽ là nền tảng vững chắc để cạnh tranh và phát triển. Đồng thời, phải linh hoạt, khéo léo “liệu cơm gắp mắm” để ứng xử trong thị trường quốc tế đầy những thử thách, khắc nghiệt.

Trong những năm qua, có rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam đã đạt được nhiều thành công to lớn ở trong và ngoài nước trên các lĩnh vực kinh doanh, liên kết đầu tư, thu hút vốn, mở rộng thị trường. Điều đó chứng tỏ, các doanh nhân Việt Nam có khả năng thích ứng nhanh trong quá trình hội nhập, tạo nên thương hiệu hàng hóa Việt.

Thứ tư, kế thừa và phát huy giá trị cần cù, tiết kiệm trong xây dựng văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế.

Đức tính cần cù, tiết kiệm, thông minh của người Việt, là yếu tố nội sinh mà các doanh nghiệp cần phải sớm nhận thức được và phát huy yếu tố đó trong môi trường cạnh tranh. Đây là những phẩm chất đáng quý cần được khơi dậy để tạo ra tiềm lực cho các doanh nghiệp Việt Nam vững bước tiến vào môi trường cạnh tranh quốc tế. Xây dựng nền kinh tế Việt Nam phát triển bền vững, điều cần thiết là phải không ngừng học hỏi kinh nghiệm sản xuất kinh doanh của các nước trên thế giới từ kinh nghiệm quản lý, ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ để tăng năng suất lao động. Bối cảnh toàn cầu hóa là cơ hội để chúng ta học tập kinh nghiệm xây dựng văn hóa kinh doanh ở các nước phát triển, đồng thời chúng ta nâng cao được các C.Mác đã khẳng định trong điều kiện nền kinh tế sản xuất hàng hóa thì các doanh

TS. PhạM hUy ThÀNh ĐạI học - ThS. hUỳNh Thị ThÚy LINh

211

giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam lên một tầm cao mới vừa có sự kế thừa bổ sung và phát triển. Cần cù, tiết kiệm cùng với sự thông minh sáng tạo của người Việt kết hợp với hiệu quả và chất lượng của văn hóa kinh doanh ở các nước phát triển sẽ tạo ra “kiến tha lâu đầy tổ”, “bây giờ khó nhọc có ngày phong lưu”, dẫn đến một sức cạnh tranh mới cho các doanh nghiệp Việt Nam.

4. Kết luận

phát triển của xã hội mang tính nhân văn, hướng thiện. Các hoạt động sản xuất kinh doanh không chỉ nhằm mục tiêu là tối đa hóa lợi nhuận, tìm kiếm lợi ích bằng mọi âm mưu, thủ đoạn mà phải hướng tới những giá trị nhân văn, nhân ái, những giá trị văn hóa tốt đẹp của cộng đồng, dân tộc. Gắn với xu thế phát triển đó là phải xây dựng văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp dựa trên sự kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc. Hướng con người chú ý tới các yếu tố văn hóa, đây là nguồn lực nội sinh, hướng các hoạt động kinh doanh gắn liền với các giá trị chân, thiện, mỹ. Xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, tạo ra sự