
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thông tư 37/2018/TT-BGTVT “Quy định về quản lý, vận hành
khai thác và bảo trì công trình đường bộ” có quy định rõ về các bộ
phận công trình cần thiết phải thực hiện công tác quan trắc gồm các
kết cấu chịu lực chính của công trình như nhịp, mố, trụ, tháp trụ, vỏ
hầm. Các nội dung về quan trắc được quy định bao gồm biến dạng lún,
nứt, nghiêng, chuyển vị võng với thời gian và số lượng được quy định
chi tiết trong các tài liệu [2,3]. Về mặt cung cấp các giải pháp quan
trắc, PGS. TS Tống Trần Tùng đã tổng kết rằng phần lớn là được cung
cấp bởi các đơn vị nước ngoài như VSL, Freysinet, NiponKoe,
Cementys, Socotec...điển hình là các công trình như cầu Nhật Tân, cầu
Trần Thị lý, cầu Bính, cầu Rạch Miễu và hiện có tồn tại một số bất cập
trong quản lý, khai thác, lưu trữ dữ liệu quan trắc.
Về mặt thiết bị, do đặc thù kết cấu vô cùng phức tạp của các kết
cấu lớn trên các tuyến cao tốc, đặc biệt là công trình cầu lớn nên thiết
bị được sử dụng trong quan trắc rất đa dạng nhằm đánh giá đầy đủ các
phản ứng của công trình cầu trong quá trình khai thác, sử dụng dưới
ảnh hưởng của các tác động như tải trọng bản thân, tải trọng động, các
điều kiện ngoại cảnh.
Về mặt kết nối, truyền dữ liệu, tác giả Lương Minh Chính cũng
đã tổng kết dựa trên thực tiễn các công trình cầu đã được triển khai
quan trắc theo phương pháp SHMS.
Các nghiên cứu, tổng kết đi trước đã phần nào cho thấy sự tiến
bộ trong công tác quan trắc, giám sát công trình tự động. Tuy nhiên
thiếu chủ động trong công tác quản lý chất lượng và đánh giá, dự báo
tính an toàn của công trình. Luận án với đề tài “nghiên cứu kết hợp
thiết bị trắc địa và cảm biến trong quan trắc dịch chuyển công trình
giao thông đường bộ” có tính phù hợp trong bối cảnh thực tiễn đã và