
Kết quả bước đầu thí nghiệm nuôi cá tra
thâm canh bằng hệ thống tuần hoàn quy
mô Pilot
Thí nghiệm nuôi cá tra thâm canh bằng hệ thống tuần hoàn quy mô pilot là một
phần của đề tài nghiên cứu cấp nhà nước thuộc Chương trình Công nghệ Sinh học
“Nghiên cứu và xây dựng công nghệ nuôi cá tra thương phẩm thâm canh bằng hệ
thống tuần hoàn, không gây ô nhiễm và an toàn sinh học” kết hợp với dự án SuPa
do Ths. Nguyễn Nhứt làm chủ nhiệm, được thực hiện tại Trung Tâm Quốc Gia
Thủy Sản Nước Ngọt Nam Bộ từ tháng 12/2011 đến 7/2012.
Mục tiêu của thí nghiệm:
- Xác định chất lượng và số lượng bùn thải trong hệ thống nuôi cá tra thương
phẩm.
- Xác định sức tải của hệ thống và khả năng sinh trưởng, năng suất tối đa của cá
nuôi.
- Đánh giá ảnh hưởng của đạm cao và đạm thấp lên tăng trưởng và chất lượng

nước trong hệ thống tuần hoàn.
- Đánh giá chất lượng cá tra trong hệ thống nuôi tuần hoàn (RAS).
Sáu hệ thống RAS được bố trí thí nghiệm gồm 03 bể nuôi cá tra được cho ăn thức
ăn có hàm lượng protein 38% và 03 bể nuôi cá tra được cho ăn thức ăn có hàm
lượng protein 26%. Nghiệm thức protein được bố trí tương tự cho hệ thống đối
chứng (nước chảy tràn 10m3/kg cá). Các nghiệm thức bố trí cùng mật độ nuôi 260
con/m3. Với thời gian nuôi 210 ngày, kết quả đạt được như sau:
Hệ thống RAS sử dụng thức ăn có hàm lượng protein 38% cho năng suất cá đạt
120 -144 kg/m3 và tỷ lệ sống của cá đạt 95 – 97% cao hơn so với sử dụng thức ăn
có hàm lượng protein 26%, năng suất 110 – 130 kg/m3 và tỷ lệ sống 85 -95%.
Kích cỡ cá của 02 nghiệm thức đạt kích cỡ thương mại dao động 300 g – 1,8
kg/con. Chất lượng thịt được đánh thịt trắng (trắng trong) loại I theo yêu cầu xuất
khẩu, mùi vị của thịt bình thường không có sự khác biệt với cá nuôi trong lồng bè.
Khi so sánh với RAS, hệ thống nuôi đối chứng nước chảy liên tục kích cỡ cá (300
g -1,8 kg/con), tỷ lệ sống > 97%), năng suất (160 -190kg/m3) cao hơn so với hệ
thống nuôi RAS cùng nghiệm thức sử dụng thức ăn protein 26% và 38%. Chất
lượng thịt cá trong hệ thống nước chảy được đánh giá cảm quan tương đồng với hệ
thống nuôi RAS.
Sự khác biệt rất lớn của 2 hệ thống RAS và nước chảy thể hiện qua sự sử dụng
nước và tỷ lệ thay nước. RAS kết quả cho thấy tỷ lệ thay nước (2%/ngày bao gồm
lấy mẫu nước và bốc hơi) trong khi đó hệ thống nước chảy (FT) thay nước 1600%.
Sự tiêu thụ nước hệ thống RAS khoảng 75 – 200 L/kg cá thấp hơn nhiều so với hệ
thống nước chảy FT (15-20m3/kg cá).
Đây là kết quả ban đầu để định hình xây dựng hệ thống RAS ngoài ao nuôi năng
suất cao ít thay nước và nâng cao chất lượng nước và thịt cá thương phẩm. Số liệu
của hệ thống thí nghiệm này nhằm định hướng thiết kế chi tiết các yêu cầu kỹ thuật
của hệ thống lớn thương mại đầy hứa hẹn và ứng dụng trong năm 2012 trong qui
mô lớn hơn. Phần nghiên cứu này cũng mở ra cho nghề nuôi cá giá trị cao thâm
canh trong nhà quy mô nhỏ vừa.
Nguồn: Nguyễn Nhứt. 2013. Kết quả bước đầu thí nghiệm nuôi cá tra thâm canh
bằng hệ thống tuần hoàn quy mô Pilot. Viện Nghiên cứu NTTS II.