BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

ĐẠI HỌC QUỐC GIA TP. HỒ CHÍ MINH

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM

LÊ THU YẾN

KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT

THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU

CHUYÊN NGÀNH : VĂN HỌC VIỆT NAM

MÃ SỐ : 50433

LUẬN ÁN PHÓ TIẾN SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học :

MAI QUỐC LIÊN

Phó Tiến sĩ - Phó Giáo Sƣ

TP. Hồ Chí Minh 1997

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu thống kê nêu

trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất k ỳ công trình nào khác.

Lê Thu Yến

MỤC LỤC

PHẦN MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1

CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN BẢN THƠ CHỮ HÁN

NGUYỄN DU ............................................................................................................................ 8

1.1. Quá trình thu thập di cảo thơ chữ Hán Nguyễn Du ............................................ 9

1.2. Tình trạng các văn bản hiện có ......................................................................... 11

1.3. Cách sắp xếp cụ thể từng phần ........................................................................ 15

1.4. Sự sai biệt về từ ngữ ......................................................................................... 20

1.5. Sự khác biệt về vấn đề dịch nghĩa ................................................................... 28

CHƢƠNG II: KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ CHỮ HÁN

NGUYỄN DU: HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI, THỜI GIAN NGHỆ

THUẬT, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT .............................................................................. 41

2.1. Hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời ................................................................ 41

2.2. Thời gian nghệ thuật ......................................................................................... 81

2.3. Không gian nghệ thuật ...................................................................................... 97

CHƢƠNG 3 : KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN

DU: NGÔN NGỮ .................................................................................................................. 117

3.1. Câu thơ: ........................................................................................................... 118

3.2. Từ ngữ: ............................................................................................................ 137

3.3. Từ những đặc điểm nghệ thuật trên đi vào phân tích một bài thơ cụ thể: Long

thành cầm giả ca ................................................................................................................ 179

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................... 183

THƢ MỤC THAM KHẢO ........................................................................................ 186

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Thơ chữ Hán là một bộ phận sáng tác quan Trọng của Nguyễn Du, một nhà thơ lớn

của dân tộc ta. Nghiên cứu, khảo sát về thơ chữ Hán Nguyễn Du là một công việc cần thiết và

là một vinh hạnh cho ngƣời đi sau. So với truyện Kiều, thơ chữ Hán ít đƣợc giới nghiên cứu

quan tâm. Có một số công trình đã đề cập đến tƣ tƣởng, quan niệm... của tác giả qua nội dung

thơ chữ Hán. Các công trình này thƣờng nhằm mục đích giúp minh hoạ và soi sáng cho cuộc

đời của tác giả Truyện Kiều hơn là xem thơ chữ Hán nhƣ một đối tƣợng nghệ thuật cần

nghiên cứu. Nhƣ vậy các công trình trên chủ yếu mới tiếp cận từ góc độ nội dung tƣ tƣởng

tập trung ở một số bài thơ tiêu biểu. Trong khi con số 250 bài thơ là con số không nhỏ đối với

một nhà thơ. Hơn nữa Nguyễn Du là một nhà thơ nổi tiếng với lòng nhân ái bao la, yêu đời

thƣơng ngƣời, mà thơ chữ Hán là những mẫu chuyện tâm tình của chính tác giả, không phải

ai khác,thì chắc chắn những cảm hứng nghệ thuật ấy còn chất chứa bao điều, nếu chúng ta có

dịp đi sâu.

Việc giảng dạy trong trƣờng Đại học cũng cần phải quan tâm sâu sắc hơn đối với bộ

phận sáng tác quan trọng này. Nếu chỉ có Truyện Kiều và đôi nét về tác giả qua thơ chữ Hán

có lẽ sẽ còn nhiều thiếu sót. Đi tìm một hệ thống giải mã tƣơng đối hữu hiệu cho thế giới

nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du nhằm phục vụ trực tiếp cho giảng dạy cũng là vấn đề

mang tính cấp thiết.

Bên cạnh đó, còn có sự say mê hứng thú của ngƣời viết đối với một vùng đất nghệ

thuật mênh mông chƣa đƣợc cày xới bao nhiêu và tham vọng hiểu hết, thấu hết bao điều còn

tiềm ẩn trong thế giới nghệ thuật đầy màu sắc kia. Tất nhiên khả năng hạn chế trƣớc tham

vọng to lớn, nhƣng ngƣời viết vẫn nghĩ nếu thực hiện đƣợc tốt đề tài này một là sẽ đóng góp,

bổ sung những hiểu biết về một tác giả lớn, hai là có thể giúp cho việc mở rộng hƣớng giảng

dạy ở nhà

1

trƣờng Đại học. Đó cũng là lý do của việc thực hiện đề tài: Khảo sát một số đặc điểm nghệ

thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du.

2. Mục đích nghiên cứu

2.1. Luận án tổng hợp kết quả nghiên cứu của những ngƣời đi trƣớc về thơ chữ Hán

Nguyên Du, ghi nhận những nét khái quát đã đƣợc nêu ra.

2.2. Luận án bƣớc đầu thể nghiệm hƣớng tiếp cận mới giúp khám phá hiểu biết sâu

hơn và có thể nghiên cứu tiếp thơ chữ Hán Nguyễn Du trên những phƣơng diện khác.

2.3. Luận án mở ra một phạm vi rộng hơn, phục vụ cho việc giảng dạy thơ chữ Hán

Nguyễn Du ở trƣờng Đại học.

3. Lịch sử vấn đề:

Thơ chữ Hán Nguyễn Du từ trƣớc đến nay cũng có một số nhà nghiên cứu quan tâm,

tuy số lƣợng không nhiều. Có 3 hƣớng nghiên cứu:

Hướng đi vào văn bản: hƣớng này có các bài nghiên cứu nhƣ sau :

- "Một vài ý kiến về tập thơ chữ Hán Nguyễn Du" - Trƣơng Chính - Tạp chí Văn học

số 8 năm 1962.

- "Mấy ý kiến về bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du" - Đỗ Văn Hỷ - Tạp chí Văn học

số 12 năm 1966.

- "Một vài ý kiến nhỏ trong việc sƣu tầm và dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du - Lê

Thƣớc" - Tuần báo Văn nghệ số 133 (12.1 1.1965).

Các bài viết này tập trung đi sâu vào việc tìm kiếm một văn bản tốt nhất, đúng nhất.

Hướng đi vào nội dung: tuy chƣa có những công trình lớn nhƣng cũng có một số công

trình có giá trị.

- Bài viết "Con ngƣời Nguyễn Du qua thơ chữ Hán" - Xuân Diệu, trong cuốn "Các

nhà thơ cổ điển Việt Nam" nhà xuất bản Văn học năm 1987.

2

- Bài viết "Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm sự của nhà thơ" - Nguyễn Lộc, trong cuốn

"Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII-XIX", nhà xuất bản Đại học và Trung học chuyên nghiệp,

1978.

- Bài viết "Tâm hồn Nguyễn Du qua thi văn chữ Hán và chữ Quốc âm" - Nguyễn

Đăng Thục, trong cuốn "Thế giới thi ca Nguyễn Du", Nhà xuất bản Kinh Thi, Sài Gòn 1971.

- Bài viết "Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ chữ Hán" - Hoài Thanh, trong

cuốn "Phê bình và tiểu luận" Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội 1960.

- Bài viết "Tìm hiểu thơ chữ Hán" - Nguyễn Huệ Chi. Tạp chí văn học số 11-1965,

- Bài viết "Nguyễn Du qua thơ chữ Hán" - Lê Đình Kỵ, Kiến thức ngày nay số 30-

1988.

- Bài viết "Nguyễn Du nhƣ một huyền thoại" - Thanh Lãng, Tạp chí Nghiên cứu Văn

học - Số 4, 5, 6 -1971.

- Bài viết "Nguyễn Du trong những bài thơ chữ Hán" - Đào Xuân Quý. Tuần báo Văn

nghệ số 133 (12.1.1965).

Những công trình này thƣờng đi vào một số bài thơ tiêu biểu cho lòng yêu thƣơng con

ngƣời, sự phê phán kẻ ác, kẻ xấu, và tâm tình của nhà thơ. Bài viết của Thanh Lãng đặc biệt

quan tâm đến tâm lý nhiều mặt của Nguyễn Du, ông khai thác thơ chữ Hán tƣơng đối sâu. Bài

viết của Nguyễn Lộc có tính chất đúc kết về cuộc đời và tâm sự của nhà thơ, phạm vi khai

thác thơ chữ Hán cũng khá rộng... Bài viết của Xuân Diệu mang tính chất cảm thụ nhiều hơn

là kiến giải một điều gì đó. Một số lƣợng lớn thơ chữ Hán đƣợc ông đề cập đến...

Hướng đi vào từng bài thơ cụ thể: có một số bài viết đi theo hƣớng này.

- "Nguyễn Du với Đỗ Phủ" - Mai Quốc Liên - Trong cuốn "Trƣớc đèn" Nhà xuất bản

Văn nghệ TP.HCM, 1992.

3

- Lời bình về một số bài thơ chữ Hán nhƣ: Độc Tiểu Thanh Ký, Mộng đắc thái liên,

Ký mộng, Vọng phu thạch... của Lƣu Trọng Lƣ trong tập Tiểu luận về Nguyễn Du "Nhật ký

đọc Kiều" Nhà xuất bản Hội Nhà văn Hà Nội, 1995.

- "Sự đồng cảm của Nguyễn Du với Thôi Hiệu qua hai bài thơ về lầu Hoàng Hạc" -

Nguyễn Huy Quát - Kiến thức ngày nay số 91.

- "Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du" - Trần Đình Sử Văn nghệ số 28 (10-7-1993).

- Cần phải tìm hiểu chính xác hơn bài “Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du" - Nguyễn

Quảng Tuân - Tạp chí Hán Nôm số 1 - 1994).

- "Về lời dịch Độc Tiểu Thanh ký" - Nguyễn Đình Chú. Văn nghệ số 24 (12.6.1993).

Hƣớng đi này thƣờng là để tranh luận một vấn đề chƣa nhất trí hoặc có cảm hứng

riêng đối với một số bài thơ.

Tóm lại, một số công trình không nhiều lắm đã đề cập đến thơ chữ Hán Nguyễn Du.

Trong đó chủ yếu các tác giả chú trọng về mặt nội dung, khai thác tâm tình, tƣ tƣởng để lý

giải về con ngƣời và cuộc đời Nguyễn Du.

Nhìn chung, có thể nói những đặc điểm nghệ thuật của thơ chữ Hán hầu nhƣ là một

vấn đề chƣa đƣợc đề cập tới một cách toàn diện, có hệ thống và chƣa đƣợc khai thác sâu. Một

số bài viết trên chỉ một phần nhỏ là tiếp cận đối tƣợng từ góc độ nghệ thuật.

Tiếp thu những công trình trên, ngƣời viết đặt vấn đề nghiên cứu những đặc điểm

nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du trên một số phƣơng diện nổi bật. Tất nhiên không thể

khai thác hết vùng đất nghệ thuật mênh mông này đây chỉ mới là bƣớc đầu thể nghiệm. Có

thể có những công trình lớn lao hơn về sau.

4

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Luận án khảo sát toàn bộ 250 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du qua các tập thơ: Thanh

Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục.

Phạm vi nghiên cứu đƣợc giới hạn trong những vấn đề liên quan đến văn bản trong

một số đặc điểm nghệ thuật nổi bật đƣợc tìm thấy nhƣ: hình tƣợng nghệ thuật, ngôn ngữ nghệ

thuật.. Có những phƣơng diện về nghệ thuật khác nhƣ thể loại, kết cấu, giọng điệu... ngƣời

viết chƣa có điều kiện để đề cập tới. Hy vọng những công trình kế tiếp sẽ thực hiện đƣợc đầy

đủ hơn.

5. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án đƣợc thực hiện qua các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ phƣơng pháp lịch sử,

phƣơng pháp loại hình, phƣơng pháp cấu trúc, phƣơng pháp so sánh... kết hợp với các thao

tác : phân loại, thống kê, phân tích và đối chiếu so sánh.

Các phƣơng pháp này đƣợc dùng xuyên suốt ở các chƣơng.

Đầu tiên là phân loại đối tƣợng, tiếp theo là thống kê các yếu tố có tính chất lặp đi lặp

lại nhiều lần, tính tỷ lệ các yếu tố đó. Sau đó, ở từng loại, khảo sát theo những phƣơng diện

khác nhau (hình tƣợng, ngôn ngữ...) kết hợp phân tích từng đối tƣợng, khái quát lại để rút ra

những luận điểm quan trọng mang tính quan niệm.

Trong quá trình khảo sát, nhận xét đánh giá đối tƣợng, ngƣời viết còn so sánh đối

chiếu từng phƣơng diện với tác phẩm của các tác giả khác để làm rõ thêm những đặc điểm

nghệ thuật của thơ chữ Hán Nguyễn Du.

6. Những đóng góp mới của luận án:

6.1. về mặt khoa học:

Thông qua việc thống kê phân loại những điểm khác nhau giữa các văn bản thơ chữ

Hán Nguyễn Du đã có từ trƣớc, luận án góp thêm một số ý kiến về cách sắp xếp tác phẩm

theo thứ tự thời gian sáng tác, về phiên âm và dịch nghĩa... với

5

mong muốn có đƣợc một văn bản chính xác và thống nhất. Đồng thời luận án cũng đi sâu vào

khảo sát từng phƣơng diện trong thế giới nghệ thuật chữ Hán Nguyễn Du rút ra đƣợc những

nét đặc sắc độc đáo về quan niệm nhân sinh, về sáng tạo nghệ thuật của một tác giả lớn.

6.2. Về mặt ứng dụng thực tiễn

Từ những kết quả khoa học đạt đƣợc có thể áp dụng vào thực tế giảng dạy vào lĩnh

vực tiếp nhận và cảm thụ tác phẩm thơ chữ Hán Nguyễn Du.

7. Kết cấu luận án

Phần mở đầu.

Chương 1: Những vấn đề liên quan đến văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du.

1.1. Quá trình thu thập di cảo thơ chữ Hán Nguyễn Du

1.2. Tình trạng văn bản hiện có.

1.3. Cách sắp xếp cụ thể từng phần trong các văn bản.

1.4. Sự sai biệt về từ ngữ trong các văn bản.

1.5. Sự sai biệt về vấn đề dịch nghĩa trong các văn bản.

Chương 2: Khảo sát một số đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du: hình tƣợng

nghệ thuật về con ngƣời, thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật

2.1. Hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời

2.1.1.Con ngƣời lãng mạn.

2.1.2. Con ngƣời âu lo.

2.1.3. Con ngƣời đau khổ.

2.2. Thời gian nghệ thuật

2.2.1. Thời gian úa tàn

2.2.2. Thời gian ký ức.

2.2.3. Thời gian - khoảnh khắc.

2.3. Không gian nghệ thuật

6

2.3.1. Không gian nhỏ hẹp

2.3.2. Không gian rộng lớn

Chương 3: Khảo sát đặc điểm nghệ thuật thớ chữ Hán Nguyễn Du : ngôn ngữ

3.1. Câu thơ.

3.1.1. Câu trần thuật

3.1.2. Câu nghi vấn

3.1.3. Câu cầu khiến

3.1.4. Câu cảm thán

3.1.5. Câu đảo trang

3.2. Từ ngữ

3.2.1. Hƣ từ

3.2.2. Từ tự xƣng

3.2.3. Từ mang sắc thái biểu cảm

3.2.4. .Từ mang ý nghĩa triết lý.

3.2.5. Từ đặc biệt thƣờng thấy.

3.3. Từ những đặc điểm nghệ thuật trên đi vào phân tích một bài thơ cụ thể: Long

Thành Cầm giả ca.

Phần kết luận.

7

CHƢƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VĂN BẢN THƠ

CHỮ HÁN NGUYỄN DU

Đầu thế kỷ XX, khi giới nghiên cứu nhận thấy cần phải tập hợp lại những trƣớc tác

của các tác giả ở các thế kỷ trƣớc để lƣu giữ cho ngƣời đời sau, thì họ vấp phải khó khăn do

những nguyên nhân sau: một là các nhà thơ xƣa sáng tác không với mục đích lƣu danh. Họ

sáng tác là để giải trí, để nói chí không phải để trở thành ngƣời có tên tuổi. Hai là do quan

niệm "văn chương công khí" sách vở đƣợc xem nhƣ của chung. Chuyện "bản quyền", chuyện

"trung thành với nguyên tác", nhiều khi không hệ trọng. Một ngƣời nào đó ghi chép tác phẩm

của mình hoặc của kẻ khác truyền lại cho thế hệ sau. Thế hệ sau tự ý sửa chữa thêm bớt

những gì chủ quan cho là cần thiết và truyền lại cho thế hệ sau nữa. Cái của ngƣời lƣu truyền

nghiễm nhiên nhập vào cái lƣu truyền. Với phƣơng thức tiếp nhận lƣu truyền nhƣ vậy, tên tác

giả dễ bị thất lạc hoặc dễ lẫn lộn giữa tác giả này và tác giả khác. Có khi còn trở thành công

trình của tập thể nhiều thế hệ. Ba là văn bản cũ bị hƣ hỏng, bị hủy hoại mất mát rất nhiều.

Khi thì do chiến tranh sách vở bị cháy, bị cƣớp... khi thì do hành động trả thù của vua chúa

phong kiến nhƣ việc thủ tiêu các tác phẩm của Nguyễn Trãi và Cao Bá Quát, lúc hai ông bị

hại, thái độ ghét bỏ của triều Nguyễn đối với các sáng tác của họ Trịnh hoặc những ngƣời

cộng tác với Tây Sơn... Cũng có khi công tác lƣu trữ chƣa tốt… Ngoài ra còn những việc linh

tinh nhƣ việc các nhà thơ thƣờng không ghi lại năm tháng sáng tác, do đó ngƣời đời sau rất

khó xác định tác phẩm ra đời vào thời điểm nào, việc sắp xếp thứ tự sáng tác của một tác giả,

việc dịch thuật cũng gặp phải rất nhiều khó khăn.

Một vấn đề khác nữa có quan hệ đến việc tồn tại của các văn bản, đó là các tác phẩm

chữ Hán. Công văn giấy tờ hoặc các sáng tác bằng chữ Hán thƣờng

8

đƣợc lƣu hành trong giới trí thức. Đại bộ phận nhân dân không tiếp cận đƣợc, do đó không

đƣợc phổ biến rộng rãi. Nếp nghĩ "Nôm na là cha mách qué" là một quan niệm đối với ngƣời

trí thức phong kiến, nhƣng đối với nhân dân thì ngƣợc lại cái gì quen thuộc thân thiết sẽ đƣợc

họ tiếp nhận một cách ƣu ái, bền lâu và nhanh chóng lan rộng. Thơ chữ Hán dù đƣợc tôn

trọng đề cao nhƣng nó khá xa lạ đối với đông đảo nhân dân vì thế nó nhanh chóng đi vào

quên lãng. Điều này cũng cắt nghĩa đƣợc vì sao Truyện Kiều và Văn Chiêu Hồn đƣợc đông

đảo nhân dân biết đến, ca tụng và lƣu truyền, trong khi cả ba tập thơ chữ Hán, một công trình

quy mô nhƣ vậy mà lại ít đƣợc quan tâm. Thơ chữ Hán của các tác giả khác cũng vậy.

Với những nguyên nhân chung đã nói ở trên, thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng không có

đƣợc một biệt đãi nào dù ông đƣợc tôn vinh là bậc thầy về thơ. Cuối thế kỷ XIX đến đầu thế

kỷ XX thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng vẫn nằm ở dạng bản thảo không ai chú ý đến việc khắc

in lƣu giữ. Nhiều bài nghiên cứu có nhắc đến việc vua Tự Đức lúc bấy giờ có quan tâm đến

những sáng tác của Nguyễn Du nên có xuống lệnh cho quan tỉnh Nghệ An thu thập di cảo

đem về kinh đô Nhƣng đem về kinh đô cũng chỉ để cho Vua xem riêng chứ Vua không ra

lệnh cho khắc bản. Sau này tập hợp lại đƣợc các sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du cũng là

nhờ công lao ý thức bảo vệ tài sản dân tộc của một số cá nhân.

1.1. Quá trình thu thập di cảo thơ chữ Hán Nguyễn Du:

- Theo gia phả họ Nguyễn Tiên Điền thì Nguyễn Du có để lại ba tập thơ chữ Hán là

Thanh Hiên tiền hậu tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc Hành tạp lục và một quyển sử là Lê quý

kỷ sự. Riêng quyển sử về sau ngƣời ta biết không phải là của Nguyễn Du mà là của Nguyễn

Thu ở cuối đời Minh Mệnh, do hai chữ Thu ( ) và Du ( ) giống nhau nên ngƣời chép

gia phả nhầm là của Nguyễn Du. Về ba tập thơ theo cụ Đào Duy Anh thì đã bị thất lạc một

phần, chính nhà họ ở Tiên Điền cũng không giữ đƣợc tập nào. Cụ nghè Nguyễn Mai là cháu

9

họ xa Nguyễn Du cũng chỉ giữ đƣợc một tập thơ đề là "Nguyễn Gia phong vận tập" trong đó

có chép đƣợc mấy chục bài thơ của Nguyễn Du cùng với thơ của nhiều ngƣời khác trong họ

trƣớc Nguyễn Du và đồng thời với Nguyễn Du.

- Bảo Đại thƣ viện là nơi chứa phần nhiều sách vở ở Nội các đem ra cũng không có di

cảo nào là của Nguyễn Du.

- Thƣ viện Viễn Đông bác cổ chỉ có một tập "Bắc Hành tạp lục" gồm những bài thơ

Nguyễn Du làm lúc đi sứ.

- Hai ông Lê Thƣớc và Phan Sĩ Bàng trong khi đi tìm tƣ liệu để viết tiểu sử Nguyễn

Du có chú ý đến thơ chữ Hán, tìm trong đó các chi tiết về cuộc đời nhà thơ và các ông đã tìm

đƣợc một số trong các tập thơ trên. Tuy nhiên do không phải mục đích biên soạn lại công

trình của Nguyễn Du nên các ông không dịch và công bố.

- Tạp chí Nam Phong trong số 161 năm 1931 ở phần chữ Hán có đăng 13 bài thơ chữ

Hán của Nguyễn Du trong bài "Tiên Điền Nguyễn Du tiên sinh di trƣớc".

- Ông Đào Duy Anh đƣợc một ngƣời bạn ở Vinh cho mƣợn một tập thơ đề là Thanh

Hiên thi tập, đó là một tập sách chép lại bằng chữ thảo. Theo ông, các đề mục ghi trong sách

này không đúng với nội dung, vì trong ấy có 65 bài làm từ khi Nguyễn Du trốn tránh ở quê

vợ tại Quỳnh Côi, sau cuộc cần Vƣơng thất bại. đến khi ra làm quan ở Bắc dƣới triều Gia

Long có lẽ là thuộc về Thanh Hiên tiền tập, 55 bài làm khi đi sứ sang Trung Quốc thuộc về

tập Bắc Hành tạp lục và 11 bài có lẽ là thuộc về Thanh Hiên hậu tập (tất cả là 131 bài).

- Các ông Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh có sƣu tầm đƣợc một quyển chép tay

ký hiệu HVE - 50 ở tủ sách của Vụ Bảo tồn (Bộ văn hóa) vốn thu thập lại từ nhiều địa

phƣơng khác nhau trong thời gian cải cách ruộng đất (1953-1955). Quyển này gồm 3 tác

phẩm Hữu liễu thi tập (chƣa rõ tác giả); Minh Quyết thi tập của Nguyễn Hành và Thanh Hiên

thi tập của Nguyễn Du. Các ông đã lấy

10

96 bài trong số hơn 100 bài ở tập này, 5 bài ở Nam Phong tạp chí và 1 bài ở Khảo luận Kim

Vân Kiều của Đào Duy Anh để cho ra đời tập thơ chữ Hán Nguyễn Du đầu liên [44].

- Hai ông Lê Thƣớc và Trƣơng Chính đã sƣu tầm đƣợc một bản sao chụp ảnh do một

kiều bào ở Pháp gởi cho gồm 38 bài. Nhân dịp kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, hai

ông đã tập hợp lại tất cả sáng tác thơ chữ Hán đã có từ trƣớc đến giờ cùng với 38 bài mà hai

ông mới có đƣợc để cho ra đời tập thơ chữ Hán Nguyễn Du với số lƣợng 249 bài với sự có

mặt của cả ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắt hành tạp lục. Đặc biệt có

Nam Trung tạp ngâm bấy lâu chƣa tìm thấy chỉ thấy ghi trong Thƣ viện Khoa học Trung

ƣơng mà thôi.

1.2. Tình trạng các văn bản hiện có:

• "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh Khổ sách 16

x 24, 152 trang, in tại nhà in Hoàn Cầu, số 12 Nguyễn Thiện Thuật Hà Nội năm 1959. Sách

gồm 102 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du đƣợc chia theo 3 thời kỳ.

- Thời kỳ nhà Lê gồm 28 bài

- Thời kỳ làm quan triều Nguyễn gồm 24 bài.

- Thời kỳ đi sứ Trung Quốc gồm 50 bài.

• "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" của Lê Thƣớc, Trƣơng Chính sƣu tầm, chú thích, phiên

dịch, sắp xếp; các ông Phạm Khắc Khoan, Ngô Ngọc Can, Vũ Tan Tập, Nguyễn Văn Tú,

Nguyễn Hữu Bổng, Trần Thanh Mai, Vũ Mộng Hùng Nguyễn Xuân Tảo, Huỳnh Tạo dịch

thơ. Nguyễn Sĩ Lâm hiệu đính, Trƣơng Chính giới thiệu. Sách khổ 14 x 22, 573 trang, nhà

xuất bản Văn học Hà Nội năm 1965 gồm 249 bài thơ chia theo tên của từng tập thơ. Riêng

tập Thanh Hiên đƣợc chia làm 3 giai đoạn: Mƣời năm gió bụi (1786-1795) gồm 27 hài. Dƣới

chân núi Hồng (1796-1802) gồm 33 bài, Làm quan ở Bắc Hà (1802-1804) gồm 18 bài

11

Nhƣ vậy Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài, Nam Trung tạp ngâm gồm 40 bài và Bắc hành tạp

lục gồm 131 bài. Mục lục sách này đề lên bài thơ theo thứ lự A, B, c không ghi theo thứ tự

các tập thơ. Cuối sách có phần phụ lục chữ Hán.

• "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" cũng của Lê Thƣớc, Trƣơng Chính sƣu tầm, chú thích,

phiên dịch, sắp xếp. Các ông Phạm Khắc Khoan, Ngô Ngọc Can, Vũ Tam Tập, Nguyễn Văn

Tú, Nguyễn Hữu Bổng, Trần Thanh Mai, Vũ Mộng Hùng, Nguyễn Xuân Tảo, Hoàng Tạo

dịch thơ; Nguyễn Sĩ Lâm hiệu đính. Trƣớng Chính giới thiệu. Cuốn này căn bản không khác

cuốn trên, đƣợc in lại lần thứ hai, nhà xuất bản văn học năm 1978. Khổ sách 13 x 19. Sách

cũng gồm 249 bài, 468 trang. Cũng đƣợc chia theo tên các tập thơ không thay đổi. Riêng

phần mục lục thì đƣợc sắp xếp theo các tập thơ chứ không theo thứ tự A, B, c nhƣ bản trƣớc.

Và bản in lại lần hai này không có phần phụ lục chữ Hán.

• "Tuyển tập thơ Hán Việt" của Đông Xuyên, Nhà xuất bản Cảo Thơm năm 1972.

Nguyễn Mƣu Lê viết lời tựa. Sách chọn lọc một số tác phẩm tiêu hiểu của nhiều nhà thơ.

Trong đó có thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tác giả đã dành ra 45 trang, khổ 14 - 20 để trích giới

thiệu với độc giả 18 bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Cách sắp xếp: bản chữ Hán, phiên âm,

dịch thơ, không có phần dịch nghĩa, 18 bài có rãi rác trong ba tập nhƣng chủ yếu là những bài

thơ có ở Thanh Hiên.

• "Tố Nhƣ thi" do Quách Tấn dịch nghĩa và dịch thơ. Thi Vũ trình bày bìa. Nhà xuất

bản An Tiêm, Sài Gòn năm 1973, khổ sách 14x20, 255 trang, sách gồm 72 bài, cũng đƣợc

chia theo từng tập thơ. Thanh hiên thi tập 30 bài, Nam Trung thi tập 20 bài, Bắc Hành tạp lục

22 bài. Riêng tập Thanh Hiên thi tập tác giả chia ra ba thời kỳ.

- Mƣời năm đất khách (1786-1975)

- Sáu năm quê nhà (1796-1802)

- Làm quan Bắc Hà (1802-1804)

12

Theo tác giả thì ông đã có trong tay 245 bài do ngƣời bạn là Thi Vũ sao chụp trong

thƣ viện ở Paris (Thanh Hiên 75 bài, Nam Trung 40 bài, Bắc Hành 130 bài) nhƣng do điều

kiện này khác nên ông không phiên dịch tất cả mà chỉ lựa chọn một số bài tiêu biểu. Các bài

thơ đƣợc sắp xếp theo trình tự: bản phiên âm, phần chữ Hán, dịch nghĩa, chú thích và dịch

thơ.

• "Thơ chữ Hán Nguyễn Du" do Đào Duy Anh sắp xếp, dịch nghĩa, chú thích, Nguyễn

Kim Hƣng hoàn chỉnh bản dịch, biên soạn. Các Ông Đào Duy Anh, Ngô Ngọc Can, Nguyễn

Huệ Chi, KD, Nguyễn Khắc Hanh, Đỗ Văn Hỷ, Bùi Kỷ, Phạm Khắc Hoan, Trần Thanh Mai,

Nguyễn Vũ My, Nguyễn Xuân Tảo, Quách Tấn, Vũ Tam Tập, Lê Thƣớc, Nguyễn Văn Tú,

Trần Lê Văn, Phan Võ. Các bà Phạm Tú Châu, Kim Hƣng, Trần Thị Băng Thanh dịch thơ.

Xuân Diệu viết lời giới thiệu, Nguyễn Kim Hƣng viết lời để dẫn, Đào Duy Anh viết phần

phàm lệ. Sách khổ 13x19, 452 trang. Nhà xuất bản Văn học Hà Nội, 1988. Sách đƣợc chia

theo từng tập thơ. Tập Thanh Hiên gồm 79 bài, Nam trung tạp Ngâm gồm 40 bài, Bắc hành

tạp lục gồm 130 bài. Sách không có phụ lục chữ Hán. Phần chú thích để riêng phía cuối sách.

Mục lục ghi theo tên từng tập thơ.

• "Nguyễn Du toàn tập" gồm 2 tập, Tập I Thơ chữ Hán do Mai Quốc Liên phiên âm,

dịch nghĩa, chú thích với sự cộng tác của Nguyễn Quảng Tuân, Ngô Linh Ngục, Lê Thu Yến.

Tập II Truyện Kiều (Đoạn trƣờng tân thanh) do Nguyễn Quảng Tuân khảo đính và chú giải.

Sách khổ 14,5 x 20,5. Cả 2 tập dày 1058 trang. Nhà xuất bản Văn học, Trung tâm nghiên cứu

Quốc học 1996. Tập I thơ chữ Hán, phần dịch thơ, ngoài Ngô Linh Ngọc còn có một số bài

dịch của Đào Duy Anh, Ngô Ngọc Can, Huy Cận, Bùi Hanh Cẩn, Phạm Tú Châu, Giản Chi,

Xuân Diệu, Bảo Định Giang, Nguyễn Khắc Hạnh, Tế Hanh, Dũng Hiệp, Đỗ Văn Hỷ, Phạm

Khắc Khoan, Bùi Kỷ, Mai Quốc Liên, Trần Thanh Mai, Hải Nhƣ, Viễn Phƣơng, Quách Tấn,

Vũ Tam Tập, Nguyễn Quang Tuân, Trần Thị Băng Thanh, Hoàng Trung Thông, Lê Thƣớc,

Lê Thu Yến, Trần Lê Văn, Phan Võ.

13

Sách đƣợc chia theo từng tập thơ. Thanh Hiên gồm 78 bài, Nam Trung gồm 40 bài, Bắc hành

gồm 132 bài (Trong tập Bắc Hành có thêm 1 bài do ông Mai Quốc Liên phát hiện, đó là bài

Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu Lăng Mộ II). Cách sắp xếp: chữ Hán, phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ,

chú thích. Sách có 2 mục lục: một là sắp xếp theo từng tập thơ, hai là theo thứ tự A, B, C. Có

kèm bản đồ đi sứ, bản tấu trình của Nguyễn Du, niên biểu Nguyễn Du.

• "192 Bài thơ chữ Hán của Nguyên Du" do Bùi Hạnh Cẩn biên dịch và chú thích.

Sách này có đặc điểm là do một ngƣời lựa chọn, biên soạn, dịch thuật. Sách cũng không theo

hƣớng đi của các tác giả trƣớc. Không có phần chữ Hán, không có phần dịch nghĩa, chỉ có

phần phiên âm, dịch thơ và chú thích. Sách làm chủ yếu để thƣởng thức không phải để nghiên

cứu. Sách in 1000 cuốn, khổ 13 x 19. Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin 1996. Mục lục theo

thứ tự A, B, C.

Qua 8 văn bản trên chúng ta thấy đã khá đầy đủ dựng lên diện mạo của dòng thơ chữ

Hán Nguyễn Du. Trƣớc đây chúng ta thƣờng nói đến Truyện Kiều và Văn Chiêu Hồn, nay

chúng ta có thêm 250 mẫu chuyện tâm tình để hiểu kỹ và sâu hơn con ngƣời Nguyễn Du. Tuy

số lƣợng của các văn bản không đồng đều nhƣng đã có những dấu hiện cho thấy số lƣợng

hiện có là chính xác, không lẫn lộn với các tác giả khác. Ông Đào Duy Anh đƣợc một ngƣời

bạn ở Vinh cho mƣợn tập thơ đề là Thanh Hiên thi tập gồm 131 bài. Ông Lê Thƣớc và

Trƣơng Chính thu thập đƣợc cả 249 bài. Ông Quách Tấn ở miền Nam cũng đƣợc ngƣời bạn

là Thi Vũ gửi tăng một tập thơ sao chụp đƣợc từ Thƣ viện Paris gồm 245 bài... nhƣ thế số

lƣợng không chênh lệch nhau nhiều lắm, chúng ta có thể an tâm với nó. 249 bài thơ cùng với

một bài do PTS. Mai Quốc Liên tìm đƣợc và công bố lần đầu ở Tập Tiểu luận văn học "Dƣới

gốc me vƣờn Nguyễn Huệ " [51:128]. Đó là bài "Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu Lăng Mộ II" đƣợc ghi

theo ký hiệu của Bắc Hành tạp lục A.1495- Thƣ viện KHXH Hà Nội và nó đã góp mặt trong

sách "Nguyễn Du toàn tập" để chúng ta có đƣợc con số tròn, thật đẹp, 250 bài thơ chữ Hán.

Sự

14

sắp xếp giữa các tập thơ nhƣ tập Thanh Hiên tác giả làm vào khoản 1786-1802 gồm 3 phần

mở nhỏ: mƣời năm gió bụi, Dƣới chân núi Hồng, Làm quan triều Nguyễn, Tập Nam Trung

tác giả làm vào khoảng 1805-1812 chia theo 2 giai đoạn: 5 năm đầu làm quan ở Huế, 4 năm

sau làm Cai bạ ở tỉnh Quản Bình, Tập Bắc Hành làm trong thời gian đi sứ năm 1813. Các giai

đoạn này đều ứng khớp với tiểu sử cuộc đời ông còn ghi lại trong gia phả. Nhƣ vậy, phần thơ

chữ hán sẽ giúp chúng ta bổ túc đầy đủ hồ sơ về cuộc đời của một ngƣời làm vinh quang thơ,

vinh danh con ngƣời ( chữ dùng của Mai Quốc Liên).

1.3. Cách sắp xếp cụ thể từng phần trong các tập thơ:

1.3.1. Sự khác nhau giữa các văn bản đã có :

Ở đây chúng ta sẽ không đề cập đến bản A, C, D, E, H (Bản A, viết tắt của bản Bùi

Kỷ, Phan Võ, Nguyễn khắc Hạnh. Bản C, Viết tắt của bản Lê Thước, Chương chính in lần 2.

Bản D, viết tắt của Đông Xuyên. Bản E, viết tắt của Quách Tấn). Vì các bản này đều không

đầy đủ. Chúng ta cũng không đề cập đến bản G (Bản G, viết tắt của bản Mai Quốc liên) vì

chúng tôi đã khảo sát các văn bản kia trƣớc khi văn bản G ra đời. Hơn nữa quan điểm của

chúng tôi, tất cả là ở bản G nên ở đây chỉ tập trung chú ý vào 2 bản B và F ( Bản B, viết tắt

của bản Lê Thước. Trương chính in lần I. Bản F, viết tắt của bản Đào Duy Anh) vì đây là hai

văn bản có nhiều hƣớng nhìn ngƣợc và đồng thời cũng tiêu biểu cho hai cách dịch diễn đạt

lƣu loát tài hoa và ngắn gọn, chắc, khỏe, sát nghĩa.

Bản B của hai cụ Lê Thƣớc và Trƣơng Chính rất chú trọng đến việc sắp xếp vị trí của

các bài thơ. Hai cụ đã nói "Cách sắp xếp các bài thơ rất quan trọng. Mỗi bài thơ có một hoàn

cảnh lịch sử riêng... Một bài thơ làm trong giai đoạn này mà để vào giai đoạn khác sẽ làm cho

ngƣời đọc không biết đầu đuôi đằng nào mà mò"[14:13]. Vì thế các cụ đã có một sự lƣu tâm

đáng kể, để xử lý tài liệu tìm đƣợc một cách cẩn trọng. Ví nhƣ tập Nam Trung gồm những bài

thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ lúc đƣợc thăng hàm Đông Các học sĩ vào

làm quan ở Kinh

15

(gần 4 năm) cho đến hết thời kỳ làm Cai Bạ ở Dinh Quảng Bình (3 năm 5 tháng). Các bài thơ

đã sắp xếp trong Nam trung đều khớp với các thời kỳ này. Hầu hết đều nói lên nỗi lòng nhớ

quê hƣơng, nhớ bạn, nhớ gia đình, tâm trạng chán nản khi phải chung đụng với những con

chim oanh ƣa mách lẻo và những dì gió luôn cất giọng chua lè, bản thân thì trôi dạt đó đây.

Thử thân dĩ tác phàn lung vật (Tân thu ngẫu hứng)

(Thân này đã làm chim trong lồng)

Tha hƣơng thân thế thác phù vân (Thu nhật ký hứng)

(Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi)

Một số bài thơ, ý thơ rất khớp với tâm sự làm việc quan sợ mắc sai lầm, sợ những kẻ

hay lên mặt... xa nhà, lòng rất muốn cáo quan mà về ... Nhƣ vậy tập Nam trung theo tài liệu

tìm đƣợc tƣơng đối ổn thỏa không có gì cần phải chấn chỉnh.

Đối với Bắc Hành tạp lục, những bài thơ làm trong thời gian đi sứ Trung Quốc, các

cụ Lê Thƣớc, Trƣơng Chính cũng có chú ý đến cuộc sứ trình này trên bản đồ, có sự so sánh

và đối chiếu kỹ lƣỡng con đƣờng đi và các bài thơ đã đƣợc sắp xếp theo tài liệu tìm đƣợc.

Các ông cho rằng bài mở đầu của tập thơ là bài "Long Thành Cầm giả ca" làm khi đi qua

Thăng Long tháng 2/1813 và bài kết thúc tập thơ là "Chu phát" làm khi ông về lại xã Võ

Xƣơng cuối năm 1813. Chỉ có một số bài nhƣ Dƣơng Phi cố lý, Tần Cối tƣợng, Vƣơng CHỊ

Tƣợng không thấy khớp với con đƣờng đi sứ trên bản đồ nên các ông còn nghi ngờ. Tuy vậy

các ông vẫn để nguyên bên cạnh các bài: Kê thị Trung từ, Nhạc vũ Mục mộ, Đồng Tƣớc đài,

Thất thập nhị nghỉ trủng,... các ông có lƣu ý có thể các bài này do nhà thơ nhân nhớ đến các

nhân vật ấy mà làm chứ không phải thuộc dạng tức cảnh sinh tình trên đƣờng đi nhƣ các bài

khác, nhƣng cũng chƣa rõ lắm. Nhƣ vậy, theo các ông Trƣơng Chính, Lê Thƣớc thì tập Bắc

Hành cũng không có gì đáng phải tra cứu lại.

16

Đặc biệt với tập Thanh Hiên, các ông cho là tập này trích lục rất lộn xộn không theo

thứ tự nào và những bài tiền hoặc hậu tập không phân định đƣợc. Các ông đã xem xét kỹ,

nghiên cứu đời sống và tâm sự nhà thơ, đối chiếu với từng bài thơ cụ thể và các ông đã sắp

xếp theo ba giai đoạn cuộc đời Nguyễn Du.

1. Giai đoạn "10 năm gió bụi" từ năm 1786, năm Tây Sơn bắt đầu đƣa quân ra Bắc

cho đến năm Nguyễn Du trở về quê nhà ở Hồng Lĩnh khoảng cuối năm 1795 đến năm 1796.

2. Giai đoạn "Dƣới chân núi Hồng" từ năm 1796 đến năm 1802.

3. Giai đoạn "Ra làm quan ở Bắc hà" từ năm 1802 đến cuối năm 1804.

Với cách sắp xếp này, giới nghiên cứu, đa số đồng tình, không có ý kiến phản bác.

Bản F của cụ Đào Duy Anh xuất bản năm 1988 có những điểm khác biệt so với bản

của cụ Lê Thƣớc, Trƣơng Chính.

Tập Nam trung không có vấn đề gì nên không có sự thay đổi lớn. Thứ tự các bài

tƣơng đối giống bản B. Tuy nhiên hai bài "Thủy liên đạo trung tảo hành" và "Vọng Thiên

Thai tự" có sự thay đổi vị trí nhƣng không đáng kể. Và theo cụ Đào Duy Anh 40 bài trong tập

Nam trung chƣa đủ.

Tập Thanh Hiên, Cụ Đào Duy Anh cũng nhất trí các giai đoạn sáng tác theo cách

phân chia của bản B nhƣng với bài Độc Tiểu Thanh ký thì cụ cho rằng Nguyễn Du làm bài

này khi thăm mộ Tiểu Thanh ở Hàng Châu nên đã đặt bài này vào tập Bắc Hành và ngƣợc lại

ở tập Bắc Hành có 2 bài "Phản chiêu hồn" và "Biện giả" cụ cho rằng không phải do thây cảnh

trên đƣờng đi sứ mà làm nhƣ các bài khác, mà chỉ là nhân đọc Sở từ mà làm, có thể làm trƣớc

khi đi sứ nên đã rút 2 bài này đặt vào cuối tập Thanh Hiên.

Tập Bắc hành cụ Đào Duy Anh đã có những thay đổi quan trọng do ông đã phác họa

bản đồ trên đƣờng đi sứ của các bài thơ hầu nhƣ đƣợc sắp xếp khác biệt

17

so với bản B trừ đoạn đầu từ bài “Long Thành cầm giả ca” cho đến bài “Tƣơng giang dạ bạc”

là tƣơng đối giống nhau”. Ngoài ra hai bài “Bùi Tấn công mộ” và “Dƣơng Phi cố lý” ông ngờ

rằng không phải là của Nguyễn Du nên xếp vào cuối tập Bắc Hành.

Theo chúng tôi nhận thấy, việc tìm đƣợc các sáng tác chữ Hán của Nguyễn Du là điều

đáng quý, nó giúp chúng ta rất nhiều trong việc tìm hiểu thêm về cuộc đời và con ngƣời ông.

Việc sắp xếp vị trí các bài thơ theo trình tự thời gian sáng tác cũng là điều quan trọng, cần

thiết và rất nên làm vì nếu để lẫn lộn thì việc tìm hiểu tâm tƣ nhà thơ trong từng giai đoạn của

cuộc đời cũng khó mà thấu đáo để đánh giá, nhận xét thật đúng, thật chính xác. Tuy nhiên,

nếu có cơ sở thật chắc chắn thì chúng ta hãy làm một cuộc sắp xếp hoàn chỉnh, còn nếu nhƣ

chỉ dựa vào những suy đoán cảm tính cá nhân thì không nên, vì nhƣ thế nó sẽ làm xáo trộn và

sự tìm hiểu cũng sẽ rối thêm. Hơn nữa, cũng cần phải có sự tôn trọng đối với văn bản đầu tiên

tìm đƣợc dù chỉ là bản chép tay, vì khi sao chép nhƣ vậy ngƣời ta cũng đã dựa vào những tiền

đề nhất định và cũng có cái lý riêng của ngƣời sao chép. Nếu ta chỉ sắp xếp theo sự suy đoán

chủ quan thì sẽ giúp ích đƣợc gì cho ngƣời nghiên cứu? Và con đƣờng đi sứ dù có tài liệu lƣu

trữ từ đời Thanh ở Bắc Kinh [142: 211] còn ghi lại những trắc trở về mặt giao thông cũng có

thể gây nên những thay đổi, trừ những bài ta có thể biết chính xác qua một số địa danh còn

lƣu lại trong bài thơ nhƣ: Quỉ môn quan, Lạng Thành đạo trung, Ninh Mịnh giang chu hành,

Thái Bình mại ca giả, Thƣơng Ngô tức sự, Tƣơng âm dạ, Nhiếp khẩu đạo trung, Vũ Thắng

quan, Tín Dƣơng tức sự… Chúng ta cũng không nên nghi ngờ bài thơ này hay bài thơ nọ

không phải của Nguyễn Du chỉ vì những di tích đó không có trên đƣờng đi sứ, có thể Nguyễn

Du đọc sách cảm hứng mà làm, nhƣ ông thƣờng nói: Khách lộ trần ai bán độc thƣ (Đông lộ)

(Thời giờ đi trên đƣờng gió bụi một nửa là đọc sách).

18

Bài "Dƣơng phi cố lý", "Bùi Tấn công mô", ngoài việc xét thấy hình thức và nội dung

có vẻ hợp với phong cách Nguyễn Du ( Theo cụ Đào Duy Anh) còn về mặt đề tài cũng rất

quen thuộc và nổi bật trong sáng tác của Nguyễn Du, đó là đề tài về ngƣời đẹp, ngƣời tài.

Chúng ta hiểu Nguyễn Du gần nhƣ là ngƣời có mối liên hệ chặt chẽ với những con ngƣời tài

hoa mà số phận nghiệt ngã. Dƣơng Quý Phi là một phụ nữ đẹp có thể chinh phục đƣợc kẻ ở

ngôi cao tối thƣợng hoặc dũng tƣớng ngang dọc nơi sa trƣờng nhƣng nàng không chiến thắng

đƣợc số phận của mình. Quan niệm hồng nhan đa truân "Trời xanh quen thói má hồng đánh

ghen" và cái đẹp, bản thân nó không có tội, chỉ có tội ở những kẻ tranh giành chiếm đoạt nó.

Nguyễn Du thƣờng nói về điều này. Vì vậy xét thấy bài "Dƣơng Phi cố lý" không có gì đáng

nghi ngờ. Cả bài "Bùi Tấn công mộ" cũng vậy. Khi chƣa có tƣ liệu chính xác tốt nhất vẫn là

sắp xếp theo tài liệu đầu tiên tìm đƣợc.

Ngoài ra những sắp xếp hợp lý theo trật tự đƣờng đi sứ chúng tôi rất tán thành, vì điều

đó góp phần làm sáng tỏ cảm hứng của Nguyễn Du trên đƣờng đi khớp với năm tháng thời

tiết.

1.3.2. Nhận xét chung về 3 tập thơ:

Đối với tập Thanh Hiên hoàn cảnh sáng tác không rõ lắm, không thể phân định đƣợc

đâu là tiền đâu là hậu tập, chỉ biết rằng có một số sáng tác ông viết vào lúc làm quan thời

Nguyễn. Tuy nhiên phần lớn vẫn là giai đoạn sáng tác của thời thanh niên chí cao mộng lớn,

nhƣng thời vận lỡ làng, số phận long đong đành gửi vào thơ những nỗi niềm tâm sự, triết lý

về cuộc đời hiện thực đầy dẫy khổ đau.

Tập Nam trung, con đƣờng làm quan không thênh thang rộng mở mà lắm gian nan rối

rắm. Con ngƣời luôn phải giữ gìn ở chỗ này, thủ thế ở chỗ kia để tránh va chạm. Thế thái

nhân tình xƣa nay vẫn là lời than ở cửa miệng bao ngƣời. Nguyễn Du cũng không tránh khỏi

điều đó.

Tập Bắc hành, có sự khởi sắc rõ rệt. Đƣờng lên phía Bắc mở rộng tầm nhìn.

19

không gian chừng nhƣ khoáng đãng hơn để có thể tự do thả hết tầm ý của mình vào những

tấm gƣơng tốt xấu của ngƣời đời xƣa, lồng vào đó ít nhiều hình ảnh của cuộc sống hiện thực

để phê phán, chỉ trích và thƣơng tiếc. Ngƣời đời xƣa là tấm gƣơng cho ngƣời đời nay. Thời

gian không nhiều (hơn 1 năm) nhƣng tập Bắc hành quả đã chứng minh cho tài nhận định tổng

kết một cách sâu sắc văn hóa của Trung Quốc và cũng cho thấy một tâm hồn lớn có thể đồng

cảm với mọi đau khổ của kiếp ngƣời, vƣợt xa khuôn khổ hạn hẹp của một quốc gia.

Ba tập thơ là sự bổ sung trọn vẹn cho nhau.

1.4. Sự sai biệt về từ ngữ trong các văn bản thơ chữ Hán Nguyễn Du:

Thống kê về mặt chữ, chúng tôi nhận thấy có quá nhiều điểm khác biệt trong các văn

bản. Chúng ta không có văn bản gốc, Bắc Hành tạp lục cũng chỉ là bản chép tay (Bắc Hành

tạp lục hiện có 2 bản: 1 ở Vụ Bảo tồn bảo tàng, 1 ở Thƣ viện Viễn Đông bác cổ), các tập khác

đều do in, sao từ Paris (Các bản in sao thì cũng từ bản của Viễn Đông bác cổ). Nhƣ vậy khó

mà phân định đƣợc cái nào đúng, sai. Lại thêm các nhà nghiên cứu về sau cũng đã dựa vào

cuộc đời, hoàn cảnh đƣờng đi nƣớc bƣớc của tác giả để mà suy đoán. Từ một từ này có thể

gạt bỏ để thay thế một từ khác vào do ý kiến cá nhân. nhƣ vậy sẽ không tránh khỏi chủ quan

phiến diện. Thêm nữa là việc in ấn sai sót nên cũng đã góp phần làm rối thêm việc tìm hiểu.

Một số bản không có chữ Hán đi kèm, chỉ có phần phiên âm nên dễ nhầm lẫn với những chữ

cùng âm khác nghĩa.

Chúng tôi đã thống kê đƣợc 145 bài và hơn 300 trƣờng hợp khác biệt. Có thể chia

thành nhiều dạng nhƣ sau :

1.4.1. Do in chữ phiên âm sai:

Loại này có rất nhiều, nhất là đối với các bản in về sau này. Loại này tuy không gây

khó khăn lắm cho việc tìm hiểu nội dung thơ nhƣng cũng làm xáo trộn

20

không ít cho những ngƣời nghiên cứu vì phải tra lại thật chính xác. Bởi vì hai âm nếu xét về

nghĩa thì khác nhau hoàn toàn.

Ví dụ : Chung, trung ( ) trong bài Mi trung mạn hứng

Nhàn, nhân ( ) trong bài Bái muộn

Kinh, khinh ( ) trong bài Thu dạ II

Thái, đại ( ) trong bài Ký hữu

Câm, cấm ( ) trong bài Phƣợng hoàng lộ thƣợng tảo hành

Đạt, đại ( ) trong bài Tạp ngâm II

Loại in sai này đều xuất phát từ thanh và âm mà ra nên nếu đọc toàn bộ câu thơ thì có

thể hiểu đƣớc từ nào sai từ nào đúng.

Ví dụ1 : "Đạt nhân tâm kính quang nhƣ nguyệt" (Tạp ngâm II)

Câu này có nghĩa là "Tấm lòng kẻ đạt nhân sáng tỏ nhƣ vầng trăng "- Đạt nhân có

nghĩa là bậc đạt nhân, thông hiểu lẽ đời rất khác với đại nhân (cách gọi của bậc trƣớng

thƣờng trên trƣớc). Khi đọc câu này ngƣời ta có thể hiểu ngay, đạt và đại khác nhau, rật xa.

Ví dụ 2: "Ngƣ long lãnh lạc nhàn thu dạ" (Bát muộn) - Câu này có nghĩa là "Cá rồng

lặng lẽ đêm thu vắng". Chữ nhàn đi với thu dạ. Không thể là nhân. Đây là đo in đâu sai.

1.4.2. Do chữ khác âm nhưng cùng nghĩa :

Dạng này cũng có khá nhiều, chủ yếu là do một chữ mà nhiều âm. Dạng này tuy có

mặt nhƣng không gây rắc rối lắm.

Ví dụ : Liệp và lạp : đi săn ( ) trong bài Liệp

Đái và đới : đeo mang ( ) trong bài Mộ xuân mạn hứng

Yến và án : bầu trời xanh ( ) trong bài Sở Kiến hành

Tản và tán : tan ra ( ) trong bài Mạn hứng II

Nẫm và táp: số 30 ( ) trong bài Lƣu biệt cựu khế Hoàng

Huyễn và ảo : không có thật ( ) trong bài Đại tác cửu thú tƣ qui II

Phùng và bổng:bụi đất ( ) trong bài Nam quan đạo trung.

21

1.4.3 Do âm vận câu thơ hoặc âm theo địa phương :

VD : Tẫn và tận: hết ( ) trong bài Độc Tiểu Thanh ký và nhiều bài khác. Bản B

thƣờng ghi tận, bản G thƣờng ghi tẫn.

Trọng và trùng hoặc trụng : nặng ( ) trong bài Long Thành Cầm giả ca và nhiều bài

khác. Bản B thƣờng ghi trùng, bản F thƣờng ghi trọng.

Phồn và phiền : nhiều ( ) trong bài Ngẫu thƣ công quán bích II và nhiều bài khác.

Mỵ mỵ, mỹ mỹ, my my : say sƣa ( ) trong bài Long Thành Cầm giả ca và nhiều bài

khác.

Kệ và Kiệt: tảng đá ( ) trong bài Tam liệt miếu và nhiều bài khác.

Tệ và tế: tạnh ( ) trong hài Hoàng Mai đạo trung.

1.4.4. Do khác chữ, khác âm, khác nghĩa

Dạng này có khá nhiều, chúng tôi thống kê có 28 trƣờng hợp khác chữ khác âm khác

nghĩa ở bản A và B. Bản A và Bản B đều có nguyên bản chữ Hán nhƣng vì số lƣợng cứa Bản

A chỉ có 102 bài nên thống kê so sánh cũng chỉ tƣơng đối. Còn với các bản A, B, C, D, E, F

thì có 150 trƣờng hợp khác chữ khác âm khác nghĩa. Vì bản F không có nguyên bản chữ Hán

nên chúng tôi chỉ so sánh dựa vào phần phiên âm và chú thích bản F so với các bản khác là

bản in gần đây nhất (1988) có nhiều thay đổi về cách sắp xếp cũng nhƣ từ ngữ trong từng bài.

Bản G, mà chúng tôi có tham gia phiên âm dịch nghĩa thì cũng có chú ý kế thừa những thay

đổi hợp lý của tất cả các bản, nhất là với F. Tuy nhiên ở đây chúng ta không đặt ra vấn đề bản

nào đúng hoặc bản nào sai, bản nào sai nhiều hoặc sai ít mà chỉ xem xét chữ hợp lý và không

hợp lý trong từng bài thơ mà thôi. Tất nhiên đây cũng chỉ là những ý kiến đƣa ra để tham

khảo.

Ví dụ 1 : Bài Xuân nhật ngẫu hứng

Bản A : Thuân tuần hàn thử cố tƣơng thôi.

Bản B : Thoan tuần hàn thử cố tƣơng thôi.

22

Bản F: Tuấn tuần hàn thử cố tƣơng thôi.

Ba chữ này xét về thanh âm thì chúng có chỗ gần nhau: uân, oan, uấn. Có thể do

phiên âm na ná nhau mà thành. Theo cách ghi âm phiên thiết của tự điển đời Đƣờng, Tống thì

chữ ( ) đọc từ chữ thất, luân ( , ) do đó phải có phiên âm là thuân, lấy âm th của

chữa thất và âm uân của chữ luân mà đọc thành.

Từ điển Hán Việt của Thiều Chửu có chữ thuân, nghĩa là: đổ lỗi, chừa…. không

có chữ Thoan cũng nhƣ chữ Tuấn. Từ điển Hán Việt của Nguyễn Quốc Hùng cũng có chữ

( ) Thuân nghĩa là lùi lại, từ chối … không có chữ Thoan chữ Tuấn. Từ điển Hán Việt

của Đào Duy Anh thì có chữ thoan nghĩa là rút về, sợ hãi không dám tiến lên nữa...

không có chữ Tuấn, chữ Thuân. Bản F là bản của cụ Đào Duy Anh có chữ Tuấn khác với bản

A, B, C, D, E nhƣng Tự điển của cụ lại không có từ này.

Nhƣ vậy chữ nào trong những chữ này là hợp lý nhất? Theo ý kiên chúng tôi chữ

Thuân có lẽ xác đáng nhất, đọc âm thuẫn là đúng. Và ý nghĩa của cả câu là: "Mùa rét mùa

nóng lần lƣợt theo nhau trôi qua".

Ví dụ 2 : Bài Lƣu biệt Nguyễn Đại Lang

Bản A : Tây phong qui tụ liễu cao lâm

Bản B: Tây phong tiêu táp phất cao lâm

Bản F : Tây phong qui tụ liễu cao lâm.

Về 3 chữ tiêu táp phất ( ) hoặc qui tụ liễu ( ) của 3 bản

này chúng tôi rất nhất trí với ý kiến của Ông Đỗ Văn Hỷ trong bài viết "Mấy ý kiến về bản

dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du (147:84) ông cho rằng liễu cao lâm là kết cấu trạng ngữ chỉ nơi

chốn đƣợc đặt ở cuối câu, nên không thể thay thế chữ liễu bằng chữ phất đƣợc. Thực vậy nếu

đem chữ phất thay thế chữ liễu thì phất không đứng đƣợc với cao lâm mà làm động từ cho

tây phong. Từ phất nghĩa là rung động qua lại, phủi, quét, phảng phất... Từ này không hợp

với cao lâm (rừng

23

cao). Rừng cao, cây to không thể xao động bởi gió tây hiu hắt đƣợc. Còn quy tụ thì chúng tôi

thấy hợp lý hơn bởi có chữ này câu thơ trở nên duyên dáng tình tứ hơn khi hai ngƣời bạn chia

xa, cảnh và tình hòa quyện vào nhau làm cho câu thơ sáng đẹp hơn. Với chữ quy tụ chúng ta

có thể dịch nhƣ sau : "Gió tây thổi vào ống tay áo khi ra về chôn rừng liễu cao".

Ví dụ 2: Bài Ngọa bệnh II

Bản A : Sài phi dạ lĩnh khốn thân ngâm

Bản B : Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm

Bản F : Sài phi dạ tĩnh khốn thân ngâm

Khốn có nghĩa là tai nạn, khổ sở, khốn khổ, mệt mỏi.

Bế có nghĩa là đóng lại (cửa), ngƣng lại, chấm dứt làm cho lƣu thông tắc nghẽn...,

nếu là danh từ thì có nghĩa là cái then cài cửa.

Hai từ này có thể do viết tắt mà có sự nhầm lẫn. Chữ bế có thể viết tắt là ( ) nên dễ

nhầm với khốn ( ). Ở đây chúng ta có thể thấy hai trƣờng hợp: một là chữ bế đi với thân

ngâm và làm động từ cho sài phi để đối thật chỉnh với câu trên:

Minh kính hiểu hàn khai lão sấu

Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm

Khai và bế đều giữ chức năng là động từ. Hai là chữ khốn giữ chức năng tính từ bổ

nghĩa cho thân ngân. Nhà nghiên cứu Nguyễn Quảng Tuân cho rằng chữ bế không có nghĩa

nên không cần đối với câu trên. Chữ khốn mới có nghĩa mệt nhọc nằm co thân lại [53:138].

Bản F cũng cho rằng chữ khốn mới thông nghĩa hơn [3:384].

Hai trƣờng hợp này đều tạo nghĩa khác nhau cho câu thơ, nếu là bế câu thơ dịch sẽ có

nghĩa là: "Cửa sài đóng kín trong đêm vắng nằm rên than". Nếu là khốn câu thơ dịch sẽ

là:"Cửa sài đêm yên tĩnh một thân khốn khó rên than". Xin ghi lại để tham khảo.

Ví dụ 3: Bài "Thanh Minh ngẫu hứng"

24

Bản A : Đông phong trú dạ động giang thành

Thiên nhai vô vật đối thanh minh.

Bản B : Đông phong trú dạ động giang thành

Thiên nhau vô tửu đối thanh minh

Bản F : Đông phong tận dạ động giang thành

Thiên nhai vô vật đối thanh minh

Trú có nghĩa là ban ngày (khác với ban đêm). Trú dạ là ngày và đêm.

Tận có nghĩa là hết, không còn gì. Tận dạ là hết đêm, suốt đêm.

Hai từ với hai nghĩa trên hoàn toàn khác nhau, ảnh hƣởng rất lớn đến câu thơ. Một

bên là ngày và đêm, nếu nói rộng hơn là suốt cả ngày đêm, còn một bên là chỉ có suốt đêm.

Thực ra đã nói gió đông là nói đến sự kéo dài. Gió đông không đến rồi đi ngay mà thƣờng

kéo dài từng đợt, mấy ngày có khi mấy tuần, nên nói suốt ngày đêm có vẻ hợp lý hơn. Suốt

đêm e không xác đáng vì câu sau tác giả còn nói "Nhân tự bi thê thảo tự thanh" (ngƣời cứ

buồn thƣơng cỏ cứ xanh). Theo mạch văn kéo dài nối tiếp nhƣ vậy thì cứ gì chỉ nói về ban

đêm mà không nói cả ban ngày? Hơn nữa chữ trú và tận hình dạng khá giống nhau, có lẽ do

đọc nhầm.

Câu thứ hai có chữ tửu rƣợu và chữ vật chỉ chung một loài (sinh vật, động

vật), đồ đạc... Cả hai chữ này đều có nghĩa tƣợng trƣng cho những phẩm vật của ngày lễ

thanh minh. Ở đây tác giả nhìn ngắm khung cảnh trong tiết thanh minh cảm nhận về mùa

xuân. Ngày xuân là cái gì hết sức tƣơi trẻ, mới mẽ nhƣng tác giả lại cảm thấy mình không

còn trẻ, hơn nữa tâm trạng cũng không đƣợc vui. Xuân đến, tiết thanh minh đến mà không có

gì để mừng, có lẽ trong tâm trạng buồn nên nhà thơ đã không chuẩn bị đƣợc gì, hoặc không

có gì để chuẩn bị. Chữ vật hay chữ tửu ở đây đều nói lên những phẩm vật của ngày lễ, rƣợu

hay đồ vật khác thì cũng thế thôi. Cái chính là tác giả muốn làm nổi bật tâm trạng mình trƣớc

cái trống không của ngày xuân. Có thể ghi lại cả hai trƣờng hợp để tham khảo.

25

Ví dụ 4 : Bài Đồng Lung giang

Bản A : Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu

Bản B : Lũng đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu.

Bản E : Lững đầu lạc nguyệt ngọa hàn ngưu.

Bản F : Long đầu lạc nhật ngọa hoàng ngưu.

Hình ảnh lạc nguyệt (trăng rụng, trăng lặn, trăng xế), lạc nhật (mặt trời rụng, mặt trời

lặn, mặt trời xế) thƣờng thấy trong thơ ca. Đó là những hình ảnh đẹp tuy có buồn. Lạc hoa,

lạc diệp, lạc nhạn... cũng mang ý nghĩa tƣơng tự. Trong câu thơ trên xét về mặt ý nghĩa :

"Đầu ghềnh, bóng trăng xế con trâu mệt nằm nghỉ". Đầu ghềnh, mặt trời lăn con trâu mệt

nằm nghỉ? Không gian là đầu ghềnh, thời gian là mặt trăng lặn (hoặc mặt trời lăn) và có sự

hiện diện của con trâu (hoặc con bò).

Cách hiểu thứ nhất: do có sự hiện diện của con trâu và khung cảnh đầu ghềnh nên

mặt trời lặn là hợp lý hơn. Buổi trƣa nắng nhiều con trâu làm việc hoặc ngâm mình dƣới nƣớc

cho mát, buổi chiều nó lên bờ nghỉ hoặc về chuồng. Trăng xế thƣờng vào lúc làn đêm, mà

đêm thì không thể có con trâu nằm lang thang ở đâu ngoài ghềnh bãi. Về mặt văn pháp lạc

nhật cũng đối chặt chẽ với tàn lô (đám lau tàn) ở cân trên. Hơn nữa câu dƣới có lập lại hình

ảnh buổi chiều:"Loạn sơn thúy tiếp cô thành mộ" (Buổi chiều những ngọn núi xanh chơm

chởm tiếp liền thành trơ trọi) do đố mặt trời xế hợp lý hơn.

Cách hiểu thứ hai: Đầu ghềnh, dƣới bóng trăng xế, con trâu mệt nằm nghỉ - Về mặt

văn pháp: lạc nguyệt cũng đối rất chỉnh với tàn lô ở câu trên. Tuy nhiên nếu so với câu dƣới

nói về cảnh chiều thì không gian, thời gian trong bài có vẽ tùy tiện không phù hợp. Nhƣng

với tinh thần tôn trọng văn bản đầu tiên nên chúng ta có thể chờ đợi và nghiên cứu thêm.

Cũng nhƣ "hàn ngưu" đƣợc thay thế bằng "hoàng ngưu" thì cần phải xem xét lại. Hàn

ngưu là trâu lạnh (vì trâu

26

thƣờng ngâm mình dƣới nƣớc), còn hoàng ngưu là bò vàng. Quách Tấn phân biệt rõ hàn

ngƣu và hoàng ngƣu và ông đã phiên chữ hàn ngƣu [86:94].

Ví dụ 5 : Bài Hán Dƣơng văn diễu

Bên A : Bạch tần hồng liệu mãn đinh châu.

Bên B : Bạch tần hồng liễu mãn đinh châu

Bản F : Bạch tần hồng lục mãn đinh châu.

Chữ âm là liệu hoặc lục có nghĩa là tên của một loài rau mọc dƣới

nƣớc, một loài rau sinh trƣởng rất nhanh. Chữ này không có âm là liễu. Các từ điển Hán Việt

đều không thấy có âm liệu. Liễu là cây liễu thì viết khác . Liễu là một loài cây cành lá

mềm yếu, rũ xuồng rất đẹp. Truyện Kiều có câu: "Lơ thơ tơ liễu buông mành" Hai chữ trên

hoàn toàn khác nhau, một là loài rau, một là loài cây. Nhƣng loại rau thích hợp hơn bởi rau

thƣờng mọc bên bờ nƣớc nên mới có vế sau "mãn đinh châu" (đầy bãi). Hơn nữa rau tần

trắng (bạch tần) phải đi với rau liệu đỏ (hồng liệu) thì mới đúng. Thƣờng không ai "sánh đôi"

rau với cây cả. Nếu liễu là cây liễu thì trong thơ văn cổ ngƣời ta thƣờng dùng: liễu dương

(cây liễu và cây dƣơng) hay liễu bồ (cây liễu và cây bồ). Hai loại cây mềm yếu chỉ thể chất

ngƣời đàn bà). Còn ở đây rau tần phải đi với rau liệu.

Nhìn chung các trƣờng hợp sai biệt trên đây xảy ra ở các văn bản Thơ chữ Hán

Nguyễn Du rất nhiều. Sai biệt về chữ dẫn đến sai biệt về âm và nghĩa, hoặc từ âm dẫn tới

khác nghĩa. Cần phải có một sự lựa chọn thích hợp để văn bản đƣợc thông nhất đồng bộ, tạo

điều kiện thuận lợi cho giới nghiên cứu khi tiếp xúc với văn bản. Chúng tôi đã làm thống kê

và bên cạnh đó là ý kiến lựa chọn đề nghị của chúng tôi, góp phần bảo vệ văn bản không bị

rối rắm mất trật tự. Tất nhiên chúng tôi tôn trọng những trƣờng hợp dị bản và có thể xếp riêng

ở phần dị bản để tham khảo, và dĩ nhiên đây cũng là những ý kiến của cá nhân, rất cần sự chỉ

giáo thêm của các nhà nghiên cứu đi trƣớc.

27

1.5. Sự khác biệt về vấn đề dịch nghĩa trong các văn bản thơ chữ Hán

Nguyễn Du:

Dịch nghĩa thơ chữ Hán là một vấn đề khá phức tạp. Không riêng thơ chữ Hán

Nguyễn Du mà thơ chữ Hán của các tác giả khác cũng là những vấn đề đáng quan tâm. Quan

niệm dịch thơ xƣa nay "Traduttore, traditore" (dịch là phản) theo thành ngữ Latin, vì vậy khó

ai bằng lòng với ai về bản dịch này hay bản dịch khác, trừ ngƣời dịch. Đụng đến vấn đề này

là đụng đến ngƣời dịch, đến quan điểm, đến cách dịch của từng ngƣời dịch. Cho nên khó mà

lấy cái chủ quan này để phê phán cái chủ quan khác, mỗi ngƣời đều có cái lý riêng của mình.

Tất nhiên đối với một lác gia lớn nhƣ Nguyễn Du chúng ta có thể mở lòng ra để đón nhận tất

cả các bản dịch mà nó có thể giúp ta thƣởng thức tốt và hiểu cặn kẽ thêm về bản thân tác gia.

Nguyễn Kim Hƣng trong lời đề dẫn cho cuốn thơ chữ Hán Nguyễn Du của Đào Duy Anh đã

nói:"Cần có không phải chỉ một bản dịch mà nhiều bản dịch khác nhau mới có thể dần dà

truyền đạt hết cái hay, cái nhiều vẻ của thơ chữ Hán Nguyễn Du cho bạn đọc nƣớc ta. Hơn

nữa cái hay ấy lại không phải là cái hay bất biến đứng im" [3:25] và lời của ông Đào Duy

Anh "nếu có ba bản dịch khác nhau cũng chƣa lấy gì làm nhiều lắm. Có thể là đời sau sẽ còn

có nhiều bản dịch khác nữa, vì mỗi thời, mỗi ngƣời dịch có thể góp phần tích cực vào sự tìm

hiểu thi phẩm của Nguyễn Du một cách đặc sắc" [3:29]. Quan niệm của các nhà nghiên cứu

trên rất hay, chúng ta có thể tham khảo của dịch giả này, dịch giả khác để hƣởng hết cái tri

thức, cái tinh hoa của dịch giả đó đồng thời hiểu kỹ hớn, thấu đáo hơn về nhà thơ lớn của

chúng ta. Do đó việc một vài nhà nghiên cứu đã đƣa ra ý kiến của mình để nhận định về các

bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng là ý kiến đóng góp với tất cả lòng mong muốn sao

cho dịch phẩm tốt hơn, chứ không hề phê phán hoặc vạch trần sai sót của ngƣời này, ngƣời

khác. Đó là những ý xây dựng rất cần khi ngƣời ta chƣa đủ điều kiện để có thể cho ra đời

những dịch phẩm mới. Nó có tác dụng làm sáng tỏ thêm những

28

chỗ chƣa sáng rõ, làm sâu sắc hơn những chỗ chƣa sâu sắc. Chúng tôi với cách hiểu nhƣ trên,

cũng xin đƣa ra ý kiến của mình với hy vọng góp phần nhỏ vào việc tìm hiểu một cách thấu

đáo tƣờng tận cuộc đời, con ngƣời và con ngƣời thơ của tác giả.

Qua các văn bản có trong tay (ký hiệu A, B, C, D, E, F, G, H theo trật tự thời gian ra

đời), chúng tôi nhận thấy có những chỗ dịch chƣa xác đáng, chƣa thật hợp lý cần phải bổ

sung hoặc chấn chỉnh kịp thời. Tất nhiên cái chƣa xác đáng, chƣa hợp lý này chỉ là những sai

sót những khiếm khuyết nhỏ trong công trình lớn, giá trị đã đƣợc thừa nhận từ nhiều năm

nay.

Bản A của các tác giả Bùi Kỷ, Phan Võ, Nguyên Khắc Hanh với 102 bài, các Cụ làm

rất công phu từ phần nguyên bản đến phiên âm, dịch nghĩa, dịch thơ. Nhất là phần dịch nghĩa

và dịch thơ, nhiều bản dịch sau đã dùng lại bài của các cụ. Ƣu điểm của tập sách này là cách

dịch nhẹ nhàng, phóng khoáng mà không mất đi cái chân xác của từ gốc. Việc làm của các cụ

đã nêu gƣơng cho đời sau rất nhiều về cách dịch, cách hiểu một bài. Có những câu thơ các cụ

dịch một cách dễ dàng nhƣ lƣớt trên ngọn chữ , ví dụ câu:"Niên quang ám trục bạch đầu lai"

trong bài Đối tửu, các cụ dịch: "Năm tháng vẫn lẵng lặng đƣa đầu bạc đến". Câu rất nhẹ

nhàng đồng thời mang đầy đủ sắc thái biểu cảm từ nghĩa của câu chữ. Hay trong câu "Hồi thủ

cố hƣơng thu sắc viễn" các cụ dịch:"Quay nhìn về phía quê nhà, vẻ thu xa lắc". Nhóm từ "vẻ

thu xa lắc" đầy chất thơ và chứng tỏ đƣợc bút pháp già dặn, tài hoa.

Bản B của các nhà nghiên cứu Lê Thƣớc, Trƣờng Chính vừa công phu vừa rất cẩn

thận. Từ việc chọn lựa sắp xếp các bài thớ sao cho phù hợp với quá trình hoạt động đi đứng

của Nguyễn Du trong các thời kỳ của cuộc đời ông. Đến việc chọn lọc các bài dịch thơ hay,

các phần chú thích tỉ mỉ và đầy đủ. Đó là chƣa kể phần dịch nghĩa rất thanh thoát dễ hiểu, câu

văn mƣợt mà óng chuốt, chƣa dịch thành thơ đã thấy đẹp, hay, lôi cuốn. Ví dụ câu:"Bạch phát

sinh tăng Ban Định

29

Viễn - Ngọc môn quan ngoại lão thu phong" trong bài "Sơ thu cảm hứng" đƣợc dịch là : "Ban

Định Viễn rất ghét mái tóc bạc. Cứ ở mãi ngoài ải Ngọc Môn, già với gió thu". Nhóm từ "Già

với gió thu" nổi bật trong câu thơ, diễn đạt đƣợc hình ảnh ngƣời lính đem cả cuộc đời mình,

đem cả tuổi xuân mình xông pha, giong ruỏi mãi ngoài chiến trƣờng trả nợ núi sông. Đồng

thời hình ảnh ấy cũng đại biểu cho tầng lớp nho sĩ đỗ đạt trải thân vì sự nghiệp chung. Vì thế

tác giả vừa nói chuyện Ban Định Viễn lại vừa thể hiện con ngƣời cá nhân của mình - một ông

quan đang thi hành công vụ - một cách rất rõ nét nhờ hình ảnh "lão thu phong" hay nói đúng

hơn là nhờ chữ dùng xác đáng, hợp lý, rõ nghĩa, hình tƣợng ... trong câu dịch nghĩa... "già với

gió thu".

Hay một câu khác trong bài "Hoàng Hà trở tạo" cũng chứng minh đƣợc nét bút tài

hoa: Long môn tây thƣợng xích vân phù.

Khuynh tận Côn Lôn nhất phiến thu.

Dịch nghĩa : Phía Tây dãy núi Long môn màu đỏ nổi lên.

Trút hết cả mảnh trời thu trên ngọn Côn Lôn xuống.

Câu thơ đã hay, câu dịch cũng rất tài tình. Dùng chữ trút hết để dịch chữ "Khuynh

tận", chữ mảnh trời thu để dịch chữ: "nhất phiến thu" rõ ràng dịch giả đã cảm đƣợc cái cảm

của tác giả trƣớc cái cảnh lụt lội của sông Hoàng Hà ngày đó. Câu dịch vừa sát nghĩa vừa tạo

đƣờng nét, âm hƣởng để ngƣời đọc có thể hình dung ra khung cảnh của bài thơ.

Bản F của ông Đào Duy Anh gần đây nhất (1988) lại có những ƣu điểm khác. Đó là

cách dịch bám sát từ, nghĩa của từ, nắm ý, chắc gọn, dịch cô đọng dễ hiểu, không rƣờm rà,

lan man, chung chung... chú thích cũng rất cẩn thận kỹ lƣỡng, các bài thơ đƣợc sắp xếp theo

một trật tự nhất định, nhất là đối với tập Bắc Hành. Chủ trƣơng của ông Đào Duy Anh là

"bám sát nguyên tác, cố gắng tái hiện trung thành tƣ tƣởng tình cảm của tác giả bằng cách giữ

đúng hình tƣợng, điển cố và phong cách của nguyên tác" [1:30], do đó có những cân dịch

tƣởng

30

"khô nhƣ ngói" nhƣng thực ra nó tạo đƣợc một trƣờng nghĩa chính xác giúp ngƣời đọc đi sâu

đi sát tƣ tƣởng tình cảm tác giả hơn. Ví dụ trong bài "Ký mộng" có câu:

Mộng lai cô đăng thanh.

Mộng khứ hàn phong xuy.

Dịch nghĩa: Chiêm bao đến, ngọn đèn cô đơn leo lét.

Chiêm bao đi, gió thổi lạnh lùng.

Với câu này dịch giả cố gắng giữ đúng sắc thái câu nguyên văn, từ ngữ nghĩa đến

thanh điệu, từ ý tƣớng đến cách sắp xếp câu chữ, giúp ngƣời đọc tái lập lại trật tự cũng nhƣ

diễn biến tƣ tƣởng của tác giả trƣớc ngoại cảnh. Hoặc một câu khác trong bài "Dạ hành":

Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý.

Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân.

Đƣợc dịch là: Nơi biển nam mảnh trăng tàn nỗi trôi trong khoảng nghìn dặm

Trên lối xƣa chỉ có một ngƣời cùng với gió lạnh.

Vẫn với cấu trúc ngữ pháp của câu nguyên tác, chỉ thay đổi một ít để làm rõ nghĩa,

vẫn với nghĩa sát thực của từ và chữ dừng đơn giản mà câu dịch hoàn toàn có thể chinh phục

ngƣời đọc. Đây là một phong cách dịch cần đƣợc phát huy.

Nhìn chung, các bản dịch đã làm rất tốt chức năng của mình trong việc phổ biến cái

hay cái đẹp trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tất nhiên cũng còn một vài chỗ khiếm khuyết mà

chúng tôi có thể góp phần làm sáng rõ hờn để bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du có điều kiện

hoàn hảo hơn. Sau đây là một số ví dụ:

Ví dụ 1 : Bài U Cƣ I

Câu 5:

Dị hƣơng dƣỡng chuyết sơ phòng tục

Bản E dịch : Nơi đất lạ giả vụng về để phòng thói đời

Bản B dịch : Ở đất khách giả vụng về để phòng thói tục

31

Bản F dịch : Chốn tha hƣơng giữ sự vụng về để phòng kẻ tục.

Với câu này chữ dưỡng chuyết cần đƣợc hiểu kỹ hơn. Dưỡng là nuôi nấng, sinh đẻ,

chữa trị... chuyết là vụng về, không khéo léo... nhƣ chuyết công là thơ vụng, chuyết bút là

ngòi bút vụng... vậy dưỡng chuyết tức là nuôi dưỡng sự vụng về. Những ngƣời đọc có thể

thấy lạ, lại sao lại nuôi dƣỡng sự vụng về? Sự vụng về coi nhƣ một khiếm khuyết cần khắc

phục, tại sao lại nuôi dƣỡng? Có thể đây là cái lý của Nguyễn Du. Vốn là ngƣời ngay thẳng,

bộc trực lại trầm tính, ít nói... Nguyễn Du coi đó là sự vụng về của mình, là cái ít khôn khéo

của mình. Trong thời buổi nhiễu loạn có khi nói nhiều lại có hại, thẳng thắn quá thì bị ngƣời

ganh ghét,... vụng về, khôn khéo có khi tránh đƣợc những điều đáng tiếc. Hơn nữa ông lại

đang trên đất khách "dị hƣơng" không phải là quê hƣơng quen thuộc của mình vì thế cần phải

nuôi dƣỡng cái tính vụng về ấy để phòng thói tục. Trong bài "Tạp thi" Nguyễn Du đã từng

nói "Tiếu đề tuẫn tục can qua tế" (Trong buổi can qua, cƣời nói đều phải theo thói tục). Vì

vậy, trong câu trên, chữ dưỡng có thể là đo Nguyễn Du có ý nhấn mạnh dưỡng chứ không

phải giữ càng không phải là giả.

Mặt khác đứng về phía triết học mà nói, có thể chữ dưỡng chuyết xuất phát từ câu

nói của Lão Tử: "Chuyết giả thiên chi đạo" ( ): chuyết là đạo của trời. Chữ

chuyết ở đây dùng để phản đối lại chữ xảo ( ) nghĩa là khéo léo, tinh xảo, giỏi. Bởi vì

Lão Tử chủ trƣơng đạo trời chỉ tự nhiên vô vi chứ không cần trí xảo. Phải chăng điều này đã

đƣợc thấu suốt ở Nguyễn Du - một con ngƣời thông hiểu cả tam giáo thời bây giờ và ông đã

thể hiện lại điều đó trong thơ của mình. Nhƣ vậy chữ chuyết càng sáng rõ hơn, giúp chúng ta

khẳng định chữ dưỡng tức là nuôi dƣỡng, nuôi dƣỡng cái vụng về, cái tự nhiên ấy để ứng xử

với đời. Câu này, theo ý nghĩa trên cần dịch đúng là: "Khác quê hƣơng dƣỡng cái vụng về để

phòng thói đời".

Ví dụ 2 : Bài "Điếu La Thành ca giả"

32

Câu 5, 6:

Yên chi bất tẩy sinh tiền chƣớng

Phong nguyệt không lƣu lử hậu danh

Bản A dịch: Phấn son đã không rửa sạch những nghiệt chƣơng lúc sống

Trăng gió chỉ để liếng lại sau khi đã chết.

Bản B dịch: Nghiệp chƣớng phấn son lúc sống đã không rửa sạch

Sau khi chết chỉ để lại tiếng trăng gió

Bản E dịch: Nghiệp phấn son lúc sống không rửa sạch

Tiếng trăng gió sau khi chết vẫn còn lƣu

Bản F dịch : Phấn son không rửa đƣợc nghiệp chƣớng của kiếp trƣớc

Gió trăng luống để lại cái danh sau khi chết.

Về mặt văn pháp, hai câu này là hai câu luận nên đối nhau rất chỉnh. Đối từng cặp từ,

nhóm từ: yên chi - phong nguyệt (bất tẩy - không lƣu), sinh tiền chƣớng - tử hậu danh (sinh -

tử; tiền - hậu; chƣớng - danh).

Đối về từ loại: danh - danh; động - động; trợ từ - trợ từ. Đối về mặt ý nghĩa: nghĩa đen

- nghĩa đen; nghĩa bóng - nghĩa bóng; nghĩa cụ thể - nghĩa cụ thể; nghĩa trừu tƣợng - nghĩa

trừu tƣợng. Với câu có hình thức nghiêm ngặt nhƣ vậy thì khi dịch cũng phải dịch sao cho

giữ lại đƣợc cái đối ấy thì nghĩa của nó mới hoàn toàn phơi bày ra. Hơn nữa đây là một trong

những câu cổ hình thức phức tạp sử dụng nhiều biện pháp tu từ (ẩn dụ, hoán dụ); cấu trúc câu

đảo trang ... vì vậy khó xác định chủ ngữ, cũng nhƣ khó dịch rõ hết nghĩa của nó.

Về mặt ý nghĩa, hầu nhƣ toàn bộ câu này đều phải đƣợc hiểu theo nghĩa tƣợng trƣng,

chứ không cụ thể, mặc dù nghĩa của từ rất cụ thể.

Yên chi: tên một thứ cây, hột có phấn trắng, đàn bà thời cổ lấy phấn này thoa da mặt;

về sau yên chi chỉ chung phấn thoa mặt của đàn bà. Riêng chữ chi nghĩa là mỡ đọng, sáp tô

môi của đàn bà.

33

Phong nguyệt: gió trăng. Phong nguyệt còn có ý nghĩa chỉ thú liêu khiển của ngƣời

xƣa thích cảnh trăng trong gió mát, không ham vật chất gió bụi chốn phồn hoa đô hội. Tích

xƣa Từ Miêu ban đêm thƣờng cùng học trò hội họp, nhân có ngƣời khách hỏi về việc quan.

Từ Miều nghiêm nghị đáp: "Đêm nay chỉ nói đến cảnh gió trăng mà thôi, không nói đến việc

quan" (Theo Tầm Nguyên từ điển). Ngƣời xƣa cũng thƣờng hay nói: "bán nang phong

nguyệt" (nửa túi gió trăng). Truyện Kiều cũng có câu tƣơng tự: "Đề huề lƣng túi gió trăng".

Phong nguyệt lại còn có nghĩa là trai gái tình tự thề thốt với nhau trƣớc cảnh trăng trong gió

mát. Truyện Kiều cũng có câu theo nghĩa này "Góp lời phong nguyệt, nặng nguyền nƣớc

non". Từ đó dẫn tới nghĩa không mấy tốt đẹp: phƣờng trăng gió, thói phong nguyệt. Trong

Hoa Tiên cũng có câu "Đặt bày phong nguyệt dèm pha cƣơng thƣờng".

Chướng: che lấp, ngăn ra, làm cho cách biệt; cái bức che cửa hay che mặt... Các nhà

quý phái đi ra ngoài có tấm bình che trƣớc mặt gọi là bộ chướng hay hành chướng đều là

những thứ dùng để che cho đỡ bụi (khác với trướng : bức màn, tấm rèm). Các từ điển

Thiều Chửu, Đào Duy Anh, Nguyễn Quốc Hùng... đều giải thích nhƣ vậy. Kể cả Từ điển

Trung Việt của Văn Tân cũng giải thích chướng (zhạng) cách trở, che đậy, bình

phong,…

Tuy nhiên chữ chướng còn có thể hiểu là nghiệp chướng (chữ của nhà Phật) mặc đù

các từ điển thông thƣờng không giải thích nhƣ vậy. Với ngƣời Việt Nam từ nghiệp chướng

khá quen thuộc, cho nên do yêu cầu về câu chữ của thơ, từ này có thể bị cắt xén đi thành

nghiệp hoặc chƣớng mà ngƣời đọc không cảm thấy xa lạ. Trong bài Thôn dạ Nguyễn Du

cũng đã dùng riêng một chữ chướng: "Chƣớng tiêu thời giác túc tâm không" (Hết nghiệp

chƣớng mới thấy tấm lòng xƣa nhẹ nhõm). Chữ nghiệp chướng theo nhà Phật cũng là che lấp,

ngăn cách... cái gì che lấp, ngăn cách con ngƣời để dẫn tới con ngƣời u mê trong kiếp sống

trầm luân khổ ải làm cho con ngƣời không thể giác ngộ đƣợc thì đó là nghiệp chướng.

34

Danh: tên gọi; tên của vật, của ngƣời; gọi tên là; tiếng tăm.

Bất tẩy: bất: không; tẩy : rửa, làm cho sạch, làm cho hết. Bất tẩy là không rửa sạch,

không rửa hết.

Không lưu: không là không, trống không, hƣ không, chẳng có gì, nghèo nàn, rảnh

rang... Xin nới thêm từ không nghĩa rất phong phú nên các nhà thơ xƣa thƣờng dùng vì nó có

thể diễn đạt trạng thái cảnh vật hay tâm trạng con ngƣời - Thiều Chửu giải thích về từ không :

là vơi vơi, tả cái ý nhƣ để lòng thiếu thốn, không tự cho là đầy đủ. Theo nghĩa nhà Phật thì

cái không cũng không nốt... vì thế chữ không trong thơ chữ Hán thƣờng đƣợc dịch không

những là không mà còn là vẫn, là chỉ, là luống những.

Bài "Đằng Vƣơng các tự" của Vƣơng Bột có câu: Hạm ngoại Trƣờng giang không tự

lƣu (Ngoài hiên sông Trƣờng giang vẫn tự trôi đi)

Bài "Trƣờng tƣơng tƣ" của Lý Bạch có câu: Quyển duy vọng nguyệt không trƣờng

than (Cuộn rèm ngắm trăng, luống những than dài).

Riêng Nguyễn Du, trong thơ chữ Hán, chúng tôi thống kê có 47 trƣờng hợp tác giả sử

dụng từ không. Vì vậy với từ này có thể dịch thoát tùy theo văn cảnh từng bài thơ.

Lưu : ngừng lại, ở lại, để cho ngƣời đời sau.

Không lưu: chỉ lƣu lại

Về mặt cấu trúc câu, do từ dùng có tính cách tƣợng trƣng nên rất khó xác định thành

phần câu: chứ ngữ, vị ngữ. Trong mỗi câu đều có 2 danh từ: yên chi và chướng; phong nguyệt

và danh. Vậy từ nào là chủ ngữ? Hoặc yên chi và phong nguyệt làm chủ ngữ còn chướng và

danh thuộc thành phần vị ngữ; Hoặc cả yên chi, chướng; phong nguyệt, danh đều là chủ ngữ.

Các từ khác thì rõ hơn sinh tiền và tử hậu là thành phần trạng ngữ chỉ thời gian, bất tẩy và

không lưu là động từ làm vị ngữ.

35

Xét tổng quát các mặt ta có thể sắp xếp câu theo trật tự hợp lý của cú pháp Hán.

Sinh tiền - bất tẩy - yên chi - chƣớng.

Tử hậu - không lƣu - phong nguyệt - danh

và khi dịch chúng ta xếp theo trật tự cú pháp tiếng Việt

Sinh tiên - chƣớng - yên chi - bất tẩy

Tử hậu - danh - phong nguyệt - không lƣu.

tức là theo trật tự câu : Trạng ngữ - Chủ ngữ - Vị ngữ

Nếu nhƣ vậy chúng ta sẽ thấy yên chi là biện pháp tu từ hoán dụ, tác giả dùng để chỉ

nghiệp cầm ca của cô gái. Yên chi là son phấn mà son phân thì luôn gắn với kỹ nữ, ở đây

hoán dụ tức là lấy cái bộ phận chỉ cái toàn thể, lấy hình thức son phấn của cô gái để nói về cô

gái. Phong nguyệt là biện pháp tu từ ẩn dụ, tác giả dùng để chỉ việc tình tự gió trăng mà các

kỹ nữ phải làm, tức là ẩn dụ về cuộc đời không mấy tốt đẹp của cô gái. Ở đây có sự so sánh

ngầm giữa một bên là cuộc đời ngƣời ca nữ và một bên là gió trăng nhƣng sự vật so sánh tức

cuộc đời ngƣời ca nữ ẩn đi chỉ nêu hình ảnh so sánh tức là phong nguyệt, danh và chướng.

Danh thì không có vấn đề gì, vì nghĩa của nó khá tập trung ổn định. Riêng chữ chướng nhƣ

đã nói ở trên có hai nghĩa, một là nghĩa đƣợc giải thích trong các tự điển, hai là đo cách hiểu

quen thuộc của từ. Nếu chướng là che lắp, ngăn cản hay tấm che mặt... đặc biệt khi nó đứng ở

vị trí danh từ thì phải dịch là tấm che mặt mà nhƣ vậy nó quá cụ thể không đối trọng với danh

là tiếng tăm nghĩa không cụ thể, vì tiếng tăm nằm ở phạm trù trừu tƣợng, khó nắm bắt. Cho

nên dịch chữ chướng là nghiệp chướng có lẽ đúng hơn, vì đây cũng thuộc thế giới mông lung

trừu tƣợng, nhƣ vậy đối với danh mới cân xứng.

Hơn nữa trong toàn bộ văn cảnh của bài thơ, tác giả đã nhắc đến: bạc mệnh, phù sinh,

yên chi, phong nguyệt... những từ dễ khiến ngƣời ta nghĩ đến nghiệp chƣớng, duyên nghiệp

của ngƣời con gái "Kiếp sinh ra thế biết là lại đâu" (Văn

36

chiêu hồn) tức là định mệnh buộc cô gái phải làm ca kỹ, số phận cô phải nhƣ vậy: Đó là

nghiệp chƣớng của cô. Tóm lại với câu này có thể hiểu và dịch xuôi theo mô hình trên:

Lúc còn sống, nghiệp chƣớng phấn son đã không rửa hết.

Sau khi chết, tiếng trăng gió vẫn còn lƣu lại.

hoặc: Lúc còn sống đã không rửa đƣợc nghiệp chƣớng, phấn son.

Sau khi chết chỉ để lại cái tiếng trăng gió

Ví dụ 3: Bài Ký Hữu

Câu 7:

Tiển sát bắc song cao ngọa giả

Bản A dịch: Đáng khen thay ngƣời nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc

Bên B dịch : Rất thèm đƣợc nhƣ ngƣời nằm khểnh bên cửa sổ phía bắc

Bên E dịch: Rất thèm cái thú của ngƣời ngồi cao nơi song bắc

Bên F dịch: Thèm muốn đƣợc nhƣ ngƣời nằm cao nơi cửa sổ phía bắc.

Câu này có từ sát rất đáng chú ý. Các bản dịch cũng có chú ý tới từ này nhƣng có lẽ

chƣa sát đến mức cần thiết phải có.... Sát: giết, chết, làm cho... đến chết. Từ này thƣờng thấy

trong thơ cổ, đặc biệt thơ Đƣờng dùng rất nhiều. Ngoài chức năng là động từ chi phối hoạt

động của câu, nó còn có thể đứng ở vị trí bổ nghĩa cho động từ giúp diễn tả hành động rõ

ràng hơn, sâu sắc hơn. Ví dụ trong bài "Hoài thƣợng biệt cố nhân" của Trịnh Cốc:

"Dƣơng tử giang đầu dƣơng liễu xuân

Dƣơng hoa sầu sát độ giang nhân

(Đầu sông Dƣơng tử cây dƣơng liễu đang độ xanh tƣơi

Hoa dƣơng liễu buồn muốn chết lòng người sang sông

Lý Thƣơng Ẩn cũng có câu:

Thử hoa thử điệp trƣờng tƣơng ánh

Thúy giảm hồng suy sầu sát nhân"

37

(Hoa kia lá ấy cùng chiếu nhau dài lâu

Màu xanh kém, màu hồng phai buồn đến chết ngƣời)

Từ sát ở đây bổ sung nghĩa cho từ sầu rất nhiều. Sầu đã là một nỗi buồn không dứt,

thêm sát càng tăng thêm độ đậm của sầu, sầu đến chết ngƣời. Câu thơ hay, ý nghĩa thơ đậm

đà sâu lắng, tình thơ lai láng ... Bài thơ đẹp hơn nhiều lần.

Hay trong bài "Nhàn vịnh" của Cao Bá Quát cũng có câu

An tri bất ngộ Đƣờng ngu thánh

Tiếu sát hà nhân vị lãng ca"

(Biết đâu sẽ không gặp đƣợc vua hiền nhƣ vua Đƣờng nhà Ngu

Chết cƣời cho ai đó những vì thế mà nghêu ngao).

Từ sát trong bài này cũng vậy, bổ nghĩa cho từ tiếu. Đây không phải là cái cƣời bình

thƣờng, do có sự kết hợp của hai từ này khiến chúng ta hình dung nhƣ đây là cái cƣời, cƣời

nghiêng cƣời ngữa, cƣời chán chê... Cƣời cho thân mình, cƣời cho thế sự, cũng có thể cƣời để

quên... Tóm lại đó là cái cƣời mai mỉa, đầy ẩn ý. Có thêm từ sát, động từ tiếu đã biến đổi

không còn với nguyên nghĩa của nó nữa. Do vậy câu thơ diễn đạt trọn ý, rõ ý tác giả hơn

nhiều. Chính Nguyễn Du có lẽ cũng tâm đắc với từ này nên ông cũng đã dùng nó trong một

bài khác:

Não sát thù phƣơng lão sứ thần (Quá thiên bình)

(Não lòng ông sứ thần già ở phƣơng khác đến, buồn muốn chết đi đƣợc)

Do từ sát có nhiều hàm nghĩa nhƣ vậy, cho nên khi có sự hiện diện của nó trong câu

thơ, chúng ta không thể bỏ qua, hoặc dịch thoát mà phải dịch cho sáng rõ từ này, vì đây chắc

chắn là cách nhấn mạnh của tác giả.

Trở lại câu "Tiếu sát bắc song cao ngọa giả" các bản dịch có chú ý dịch rất thèm

nhƣng chữ rất ở đây chƣa diễn đạt hết ý, chúng ta phải vận dụng ngôn ngữ Việt sao cho từ sát

đƣợc nổi bật trong câu. Có lẽ phải dịch là "Thèm chết đi đƣợc nhƣ ngƣời nằm khểnh bên

song cửa sổ phía Bắc". Bởi vì sự thèm muốn này thực sự không thể có trong đời sống của tác

giả, mà cái gì không thể thực hiện

38

đƣợc ngƣời ta càng ham muốn, ham muốn đến chết ngƣời... Mà cái chí muốn đƣợc thảnh thơi

an nhàn, không vƣớng bận giàu sang phú quý hay công hầu khanh tƣớng đã nới ở câu trên:

Nhất châu hà sự tiểu công danh? Hữu sinh bất đái công hầu cốt. (Một châu nhỏ kể gì chút

công danh. Sinh ra không ai mang sẳn cốt tƣớng công hầu), và cái quyết tâm giữ lời thề rằng

sẽ trở về sống cảnh yên vui với cỏ cây mây nƣớc làm bạn với hƣơu nai "Vô tử chung tầm thỉ

lộc minh" (không chết, cuối cùng sẽ giữ lời thề tìm về làm bạn với hƣơu nai). Đó là mong

ƣớc lớn lao nhất, cái ham muốn lận cùng, cái thèm thuồng đến chết ngƣời của một ông quan

dƣ chí xã thân giúp đời, giúp ngƣời nhƣng cuộc đời và con ngƣời hiện tại không tạo điều kiện

cho ông tròn ý nguyện, cảnh bất công xảy ra nhan nhãn khiến ông bi quan chán nãn muốn tìm

về vui thú - Chữ vô tử đã nói rõ cái ý chán chƣờng đó.

Nhìn chung qua một số trƣờng hợp tiêu biểu nên trên chúng tôi muốn đƣợc góp chút ít

hiểu biết của mình vào việc khai thác thêm những nét mới còn ẩn sâu trong lớp vỏ của từ,

hiểu thấu đáo hơn phong cách của một nhà thơ lớn nƣớc ta, chứ không hề có ý định "bới lông

tìm vết" hay "vạch lá tìm sâu" đối với các bản dịch đã đƣợc thừa nhận bấy lâu nay.

Nói tóm lại, chƣơng I chúng tôi đi sâu tìm hiểu các vấn đề liên quan đến văn bản thơ

chữ Hán Nguyễn Du nhƣ xem xét lại việc phát hiện di cảo, các văn bản hiện có, cách sắp xếp,

từ ngữ, phiên âm, dịch nghĩa... Mục đích của việc làm này là: một là muốn có một văn bản

thật hoàn chỉnh trong đó việc sắp xếp các giai đoạn sáng tác, phiên âm, dịch nghĩa,.... phải

đƣợc thống nhất. Hai là trên cơ sở sự thống nhất về văn bản chúng ta có một hƣớng nhìn

tƣơng đối nhất quán về tác giả khi đi sâu vào từng hệ thống vi mô của cấu trúc tác phẩm. Sự

sắp xếp các giai đoạn sáng tác giúp ta có cái nhìn tổng quan về cuộc đời tác giả; sự thống

nhất về chữ nghĩa cũng tạo điều kiện cho ta có thể dễ dàng trong khảo sát, thống

39

nhất về chữ nghĩa cũng tạo điều kiện cho ta có thể dễ dàng trong khảo sát, thống kê những

hình ảnh, từ ngữ có tính chất lập đi lập lại hoặc tƣơng đƣơng xuất hiện trong từng giai đoạn

cuộc đời tác giả. Từ đó chúng ta có thể khám phá lĩnh hội đƣợc tất cả những tầng ý nghĩa ẩn

tiềm trong câu chữ, trong văn bản. Và đ â y cũng là cơ sở chắc chắn để chƣơng hai và

chƣơng ba có thể khai thác thật sâu vào từng tác phẩm của nhà thơ dân tộc mến yêu.

40

Mộ Nguyễn Du ở Tiên Điền

CHƢƠNG II: KHẢO SÁT MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ

CHỮ HÁN NGUYỄN DU: HÌNH TƢỢNG NGHỆ THUẬT VỀ CON NGƢỜI,

THỜI GIAN NGHỆ THUẬT, KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT

2.1. Hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời

Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời là một phạm trù rất quan trọng của thi pháp học.

Nó hƣớng ta nhìn về đối tƣợng chủ yếu của văn học, trung tâm quan niệm thẩm mỹ của nghệ

sĩ. Hình tƣợng nghệ thuật xuất hiện trong tác phẩm bao giờ cũng mang tính quan niệm, tức là

cách phản ánh miêu tả, thể hiện nhân vật, con ngƣời bao giờ cũng mang trong nó quan niệm

của tác giả. Quan niệm nghệ thuật gắn liền với thế giới quan, với quan điểm triết học chính

trị, nhƣng nó có sự chuyển hóa từ quan niệm chính trị, quan niệm triết học sang quan niệm

nghệ thuật. Và quan niệm nghệ thuật này đƣợc thể hiện trong sự lặp lại nhiều lần, thể hiện

một cách nhìn, một cách tiếp cận, cách lý giải đối với con ngƣời. Trần Đình Sử có giải thích

rõ thêm: "Quan niệm không phải là khái niệm về đối tƣợng, về hiện thực, mà là khái niệm về

sự cắt nghĩa đối với đối tƣợng và hiện thực... Do vậy quan niệm xét về bản chấtt là một khái

niệm về chủ thể, khái niệm về hệ quy chiếu, thể hiện tầm lý giải, tầm hiểu biết, tầm trí tuệ,

tầm nhìn, tầm cảm, nói tổng quát là tầm hoạt động của chủ thể. Quan niệm cung cấp một mặt

bằng để trên đó diễn ra sự lựa chọn, khái quát, nhào nặn, tạo ra hình tƣợng nghệ thuật..."

[84:97,98].

Ở đây chúng ta xem xét hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời trong thở chữ Hán

Nguyễn Du cũng chính là xem xét quan niệm của tác giả thông qua hình tƣợng con ngƣời,

nhân vật có mặt trong tác phẩm của ông. Vì là hình tƣợng con ngƣời nhân vật trong thơ trữ

tình nên chúng ta có thể xem xét ở nhiều góc độ: cái tôi với bản thân, cái tôi với những ngƣời

khác, cái tôi với thế giới tự nhiên bên ngoài...

41

Hình tƣợng nghệ thuật về con ngƣời trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là tƣơng đối phức

tạp. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình trƣớc đây bằng nhiều phƣơng pháp tiếp cận đã lật đi lật

lại những trang đời cũng nhƣ những trang thơ để tìm cho kỳ hết tất cả những ý tƣởng còn lẩn

khuất trong đó nhƣng dƣờng nhƣ cũng chƣa ai thỏa mãn với kỳ công của mình. Vẫn cứ còn

một cái gì đó mà ngƣời ta chƣa thấy hết. Nó lung linh bàng bạc, ẩn hiện mơ hồ nhƣ sƣơng

khói. Những mâu thuẩn đan chéo nhau tạo nên một mạng lƣới mỏng manh nhƣng chắc bền

không dễ gì gở ra đƣợc. Chỉ thấy thấp thoáng trong lời thơ là nỗi đau nhân thế, là những âu lo

vụn vặt đời thƣờng và mập mờ giữa các lằn ranh của tâm trạng là những dự định nhập cuộc

không thành, những bƣớc đi tự tìm mình khắc khoải... Có thể nói đó là hình tƣợng con ngƣời

vừa có tầm nhìn cao rộng thoáng đại khao khát hiểu biết chiếm lĩnh thế giới vừa lê gót chân

chậm chạp năng nề giữa nhân gian để có thể hội nhập vào thế giới của đói nghèo, bệnh tật,

chết chóc, phóng tầm mắt rà sát lại những cay cực phong trần mà mọi kiếp đời phải nếm trải,

để đặt câu hỏi tại sao và tại sao?... Có lẽ bao trùm lên tất cả là sự tự ý thức: ý thức về cá nhân

mình, ý thức về con ngƣời và thế giới chung quanh - Sự tự ý thức ấy nó chi phối tất cả các

mặt tâm trạng thể hiện trong tác phẩm. Để giải mã đƣợc hình tƣợng nhiều rắc rối phức tạp kia

có lẽ phải thâm nhập thật sâu vào thế giới trữ tình của tác giả.

2.1.1. Con người lãng mạn:

Thơ đƣợc hình thành từ những cảm xúc lãng mạn trong cuộc đời. Thơ chữ Hán

Nguyễn Du là những trang nhật ký ghi lại từng hình ảnh, từng chi tiết, từng cảm xúc trong

cuộc đời sóng gió của ông. Trong đấy có cả nét bi, hùng để làm nên khúc ca bi tráng của một

con ngƣời suốt đời mang nặng tâm tình đối với cuộc đời mà vẫn hoàn toàn cô độc, âu lo trƣớc

những biến chuyển hóa sinh của trời đất, trƣớc những đƣợc mất của cuộc đời. Chính ở đây

nét thơ thể hiện một mặt con ngƣời vũ trụ mà Nguyễn Du không tránh khỏi ảnh hƣởng, một

mặt cũng cho

42

thấy con ngƣời đời thƣờng với tầm suy nghĩ không thực tế. Đó là những ƣớc mơ bay cao bay

xa với lý tƣởng hoài bão và sự thất vọng, chán chƣờng, cô đơn, bế tắc khi lý tƣởng hoài bão

ấy không thực hiện đƣợc.

Chất hùng thể hiện rõ nhất ở Nguyễn Du thời thanh niên - Chàng trai Nguyễn Du buổi

bình minh của cuộc đời cũng đã rất xông xáo dấn thân. Dù không ồn ào nhƣ Nguyễn Công

Trứ "Đã mang tiếng ở trong trời đất - Phải có danh gì với núi sông" (Đi thi tự vịnh - Nguyễn

Công Trứ) nhƣng Nguyễn Du cũng muốn lập chí giúp đời. Muốn giúp đời phải qua con

đƣờng công danh -Nguyễn Du cũng muốn bắt đầu cuộc đời mình bằng con đƣờng đó - Lúc

đầu làm chức quan võ nhỏ tập âm của ngƣời bố nuôi họ Hà nhƣng sau đó Tây Sơn ra Bắc

đánh Trịnh phò Lê, rồi đuổi giặc Thanh về nƣớc chính thức lập nên triều đại mới, đƣờng công

danh của ông trở nên dang dở, ông về quê vợ làm thân ẩn sĩ. Con ngƣời trong thơ lúc đó chán

chƣờng và tuyệt vọng:

Sinh vị thành danh thân dĩ suy (Tự thán I)

(Sống chƣa làm nên danh ngƣời đã suy yếu)

Hƣ danh vị phóng bạch đầu nhân (Mạn hứng I)

(Hƣ danh vẫn chƣa buông tha ngƣời đầu bạc)

Ồng cảm thấy mình sống chẳng có ích gì, thừa thải, vô dụng trƣớc cuộc đời. Muốn

vào Nam theo Nguyễn Ánh tái lập sự nghiệp cho mình nhƣng mộng không thành, một lần

nữa công danh lỡ làng tuột mất nhƣ rắn chạy vào hang (Phù thế công danh tẩu hác xà – Tống

Nguyễn Sĩ Hữu nam quy). Nhƣ vậy giai đoạn đầu của cuộc đời, Nguyễn Du cũng muốn làm

một ngƣời hùng. Nói Nguyễn Du muốn làm một ngƣời hùng có thể ai đó cảm thấy buồn cƣời

vì một ngƣời lúc nào cũng rầu rĩ, buồn thƣơng, âu lo... nhƣ Nguyễn Du, làm sao có thể trở

thành ngƣời hùng? Đúng vậy, Nguyễn Du đã không trở thành ngƣời hùng nhƣng có lúc

Nguyễn Du muốn đƣợc nhƣ vậy. Con ngƣời trong thơ có lúc đã là tráng sĩ tay đeo thƣ kiếm,

mình mặc áo tơi, đầu đội nón cỏ, xông xáo lăn lộn

43

trong chốn giang hồ. Có lẽ Nguyễn Du cũng muốn: "Làm trai cho đáng nên trai Xuống đông

đông tĩnh, lên đoài đoài tan? (Ca dao). Ông cố tìm cho mình một hƣớng đi. Nghề văn cũng

rất cần nhƣng thời buổi loạn lạc, thanh gƣơm yên ngựa là cấp bách cần thiết. Chức quan

Chánh thủ hiệu hiệu quân hùng hậu, tập ấm của ngƣời cha nuôi họ Hà là bƣớc tiền đề để

Nguyễn Du nghĩ đến chuyện trở thành tráng sĩ. Tất nhiên con ngƣời tráng sĩ này chƣa có

đƣợc cái phong vị hào hùng của một Đặng Dung mài kiếm dƣới trăng

Quốc thù vị báo đầu tiên bạch

Kỹ độ long tuyền đái nguyệt ma (Cảm Hoài - Đặng Dung)

(Thù nƣớc chƣa trả mái đầu đã sớm bạc

Bao phen mang gƣơm báu ra mài dƣới bóng trăng)

Rồi mộng không thành, chí không đạt nhƣng cái tâm tráng sĩ vẫn cứ vƣơng vấn

chuyện kiếm cung nhƣ kiếm cung đã là ngƣời bạn đƣờng thân thiết không thể tách rời.

Yên gian trƣờng kiếm quải thanh phong (Ký hữu)

(Kiếm đài đeo lƣng trƣớc gió thu)

Tằng lăng trƣờng kiếm ỷ thanh thiên (Khất thực)

(Kiếm dài ngạo nghễ hiên ngang nhƣ tựa trời xanh)

Câu thơ cũng đầy khẩu khí của một trang anh hùng tung hoành ngang dọc muôn vẫy

vùng cho thỏa sức. Nhƣng thời thế đã không chọn mặt anh hùng hoặc bầu trời chƣa đủ cao

rộng thoáng đạt để cho cánh chim hồng có thể sảy cánh tung bay. Dang dở hối tiếc, Nguyễn

Du để cho thơ cất cánh.

Loạn thế nam nhi tu đối kiếm (Lƣu biệt Nguyễn Đại Lang I)

(Làm trai thời loạn nhìn thanh gƣơm mà thẹn)

Liêu lạc tráng tâm hƣ đoản kiếm (Tạp ngâm)

(Tấm lòng hùng tráng lụi tàn làm cây đoản kiêm thành vô vụng).

Thƣ Kiếm vô thành sinh kế xúc (Tự thán II)

44

(Thƣ kiếm đều không thành sinh kế quẫn bách)

Hùng tâm tráng chí nguội lạnh dần theo tháng năm với tóc bạc, với nghèo đói.

Hùng tâm sinh kế lƣỡng man nhiên (Tạp thi)

(Hùng tâm và sinh kế cả hai đều mờ mịt)

Bạch phát hùng tâm không đốt ta (Khai song)

(Tóc bạc rồi chỉ có hùng tâm cũng chỉ còn biết than thở)

Và ngƣời tráng sĩ chỉ còn lại đau thƣớng oán giận

Tráng sĩ bạch đầu bi hƣớng thiên (Tạp thi)

(Ngƣời tráng sĩ đầu hạc bi thƣơng nhìn trời)

Nhƣng với kiêm cung, trƣớc sau nó vẫn là hình ảnh đẹp mà con ngƣời tráng sĩ ƣớc mơ

vƣơn tới.

Thập niên vị tiết nam nhi hận.

Đàn kiếm trƣờng ca đối bạch vân (Ninh Công Thành)

(Mƣời năm chƣa rửa đƣợc mối hận nam nhi.

Gõ kiếm ca dài trƣớc mây trắng).

Lời thơ có gì nhƣ nuối tiếc, nhƣ thể than thở cho giấc mộng đã không thành. Kiếm

cung không tung hoành ngang dọc mà trở thành vật trang sức, hoài niệm một thời.

Lại nữa, giai đoạn đầu, đàn kiếm của Nguyễn Du không theo xe rồng trấn nhậm đây

đó mà lang thang cùng áo tơi nón cỏ phiêu bạt giang hồ. Dƣờng nhƣ tráng chí Kinh Kha, Dự

Nhƣợng còn quanh quất đâu đây. Mê nón rách của Dự Nhƣợng, tiếng sáo của Cao Tiệm Ly,

bài hát của Kinh Kha... đã đi vào thiên cổ, nghìn đời sau ngƣời ta còn nhắc mãi những tên

tuổi này. Và nó có sức âm vang trong con ngƣời lãng mạn Nguyễn Du.

Tàn lạp tẩu thu phong (Biệt Nguyễn Đại Lang)

(Chiếc nón rách đi trong gió thu)

Giang hồ soa lạp thập niên câm (Phúc Thực Đình)

45

(Áo tơi nón lá sống kiếp giang hồ hàng mƣời năm nay).

Bƣớc chân lãng tử cùng trôi nổi bềnh bồng theo nhịp thời gian.

Viễn tụ hàn xâm du tử mộng (Tạp ngâm III)

(Khí lạnh rặng núi xa thấm vào giấc mộng ngƣời du tử)

Triển chuyển nê đồ lam thập niên (Khất thực)

(Lăn lóc trong bùn lầy đã ba mƣơi năm)

Con ngƣời trong thơ cảm thấy mình là kẻ giang hồ thật sự. Năm tháng trôi, kiếp sống

trôi không định hƣớng, không mục đích mặc cho gió bụi cuộc đời dẫn dắt. Hình ảnh con

ngƣời từ mộng lớn chí cao vơi xuống bờ vực của thất vọng chán nân, từ hùng tâm tráng chí

hừng hực ngọn lửa dấn thân cống hiến trôi dần vào hƣ không, từ cái hùng chuyển dần sang

cái bi... gây nên một hụt hẫng lớn. Bài thơ Mạn Hứng II là bức tranh tự họa của con ngƣời

thất chí rõ nét nhất. Bức tranh mở ra bằng ngọn cỏ bồng không còn gốc rễ, nhẹ lâng, mặc cho

gió chuyển dời. Khung đóng lại bằng một dãy núi xanh tít tắp nhuộm ánh chiều hồng.

Khoảng giữa hiển hiện trong khung là tấm thân sáu thƣớc, làn tóc bạc phơ với chiếc túi rỗng

không đi trên con đƣờng vạn lý. Bóng chiều nhạt màn chiếu hắt lên chiếc mũ vàng lang thang

càng làm nổi rõ bóng ngƣời thất chí kia. Có gì giống nhau giữa con ngƣời và ngọn cỏ, cả hai

cùng cất bƣớc trên đƣờng vô định không có hƣớng đích để dừng chân cũng không có tổ ấm

để quay về. Ngọn cỏ bồng, dãy núi xanh cho thấy viễn cảnh trôi nổi muôn dặm. Đó là khung

trời không có lối thoát cũng không có một viễn cảnh tƣơi sáng để theo đuổi trong tƣơng lai.

Con ngƣời cứ đi đi mãi và rồi sẽ mất hút trong chốn không gian vô hình.

Ngay cả khi đã ra làm quan, trên đƣờng công vụ, con ngƣời cũng cứ nghĩ mình là kẻ

lạc bƣớc trong chốn giang hồ.

Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ (Đồng lƣ lộ thƣợng dao kiên Sài Sơn)

(Chiếc áo xanh đi khắp đƣờng bụi hồng)

46

Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong (Nhiếp khẩu đạo trung)

(Mái đầu bạc vẫn lặn lội trong gió thu ngoài nghìn dặm)

Bƣớc chân phiêu lãng của con ngƣời tráng sĩ đã về chiều ấy luôn gắn với con đƣờng.

Con đƣờng gió bụi, con đƣờng gió lạnh, con đƣờng gió thu, con đƣờng nguy hiểm, con

đƣờng khó khăn... Nghĩa là bao phủ chung quanh con ngƣời thất chí không gặp thời kia là

không gian hoang vắng, mờ bụi, lạnh lẽo, xám tối, buồn rũ... Và thời gian cứ đi tới, đi tới nhƣ

mũi tên lao vút. Mũi tên ấy nhƣ muốn thúc giục con ngƣời nhanh chóng đi tới bến bờ của sự

diệt vong.

Ý thức đƣợc điều đó, con ngƣời thất chí lãng mạn kia cũng muốn lao vào hƣởng lạc.

Rƣợu không chỉ là một thứ nƣớc cay nồng mà còn là một lạc thú đối với con ngƣời. Con

ngƣời cảm thấy thú vị thật sự khi có nó.

Bách kỳ đản đắc chung triêu túy (Đôi tửu)

(Cuộc đời trăm năm chỉ ƣớc đƣợc say suốt ngày)

Thôn cƣ bất yếm tần cô tửu (Tạp thi II)

(Ở thôn quê mua rƣợu hoài không chán)

Ngƣời thơ lãng mạn cũng rất khâm phục ông Tiên trong làng say - Lý Bạch.

Tự ngôn thần thị tửu trung tiên

Bạc thị vinh danh đồng lệ lý (Đào hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)

(Tự xƣng ta là tiên trong làng rƣợu Xem nhẹ vinh hoa nhƣ chiếc giày rách)

Thậm chí có lúc cao hứng, con ngƣời còn tiếng luận bàn khuyến khích hƣởng lạc. Hai

bài Hành lạc từ đã cho thấy rõ điều đó.

Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan

Tây song nhật lạc thiên tƣơng mộ (Hành Lạc từ II)

(Khuyên anh uống rƣợu rồi vui chơi

Mặt trời đang lặn ở cửa sổ phía Tây, trời sắp tối)

47

Con ngƣời chừng nhƣ thấy đƣợc sự hữu hạn của kiếp ngƣời. Hình ảnh mặt trời lặn là

biểu tƣợng cho một cái gì sắp tàn, sắp vãn, sắp kết thúc... Vì vậy mà nếu có dịp vui chơi, hãy

cứ vui chơi, có rƣợu cứ uống... Cần phải tận hƣởng những gì mà mình có thể có, nếu bỏ 1ỡ

cơ hội sẽ không còn kịp vì thời gian trôi rất nhanh. Con ngƣời lãng mạn nói nhƣ một chuyên

gia hành lạc thật sự. Nguyễn Công Trứ sau Nguyễn Du cũng nói nhiều đến thời gian trôi

nhanh, đến hành lạc nhƣng cách nói ngông của ông khác hẳn giọng nghiêm túc của Nguyễn

Du.

"Nhân sinh ba vạn sáu ngàn thôi

Vạn sáu tiêu nhăng đã hết rồi.

Nhắn con tạo hóa xoay thời lại.

Để khách tang bồng rộng bƣớc chơi" (Đời ngƣời thắm thoát)

"Cuộc hành lạc bao nhiêu là lãi đây

Nếu không chơi thiệt ấy ai bù " (Chơi xuân kẻo hết xuân đi)

Xuân Diệu sau này còn nói với giọng già giặn, kinh nghiệm hơn.

"Mau với chứ vội vàng lên với chứ

Em em ơi tình non sắp già rồi.

Con chim hồng trái tim nhỏ của tôi.

Mau với chứ thời gian không đứng đợi" (Giục giã)

Nhƣ vậy từ cái hùng tâm tráng chí, đến sự thất vọng chán chƣờng, con ngƣời muốn

lắp chỗ trống bằng những thú vui trần thế. Nhƣng đó có phải là con ngƣời hành lạc thật sự

không? Hay đó chỉ là cách nói khuất lấp nỗi sầu theo kiểu ngƣời xƣa mỗi khi cảm thấy bế

tắc? Thật sự, con ngƣời trong thơ chƣa bao giờ là con ngƣời hƣởng thụ. Uống rƣợu chỉ là để

giải sầu. Rƣợu là ngƣời bạn tốt trong những lúc buồn. Nó là phƣơng tiện, không phải là đối

tƣợng, nhờ rƣợu mà mặt tƣơi lên đƣợc một chút, ấm lòng một chút.

Đăng tiền đấu tửu khởi suy nhan (Tạp ngâm II)

(Trƣớc đèn uống chén rƣợu để hồng lên sắc mặt suy yếu)

48

Nhất lộ hàn uy trƣờng tửu ôn (Quỉ môn đạo trung)

(Giá lạnh suốt dọc đƣờng nhờ rƣợu để có hơi ấm).

Còn vui chơi hành lạc, đôi lúc con ngƣời cũng thấy nó hấp dẫn lôi cuốn. Những buổi

tiệc có rƣợu ngon, có con gái đẹp.... vẫn là điều thích thú với bao ngƣời. Nhƣng con ngƣời

hiểu rằng mình sinh ra không phải để hƣởng lạc. Do tính nết cuồng phong thời trẻ nên đôi khi

con ngƣời muốn tham dự. Muốn rồi lại thôi. Ở đây có sự do dự, ngập ngừng băn khoăn nghĩ

ngợi; nên hay không nên và cuối cùng nguyên do cái già đã đƣợc đƣa ra để làm cái cớ hạn

chế sự hƣởng lạc.

Mỗi liên cố thái duy cuồng tại

Dục mịch tân toan nại lão hà (Từ châu đạo trung)

(Nghĩ thƣơng cho tính nết của mình vẫn còn cuồng phóng

Muốn tìm thù vui mới nhƣng già rồi làm sao đƣợc)

Đó cũng là kiểu cách của con ngƣời hiện đại, họ thƣờng bị dằn dặt giữa cái ham muốn

thỏa mãn nhƣng rồi trong chừng mực nào đó lƣơng tâm đã réo gọi. Ranh giới không rõ ràng

giữa muốn và không muốn cho thấy đây là con ngƣời hết sức bình thƣờng trong cuộc sống

(con ngƣời bình thƣờng khác với con ngƣời cao đạo của đạo đức phong kiến). Và vì hết sức

bình thƣờng nên cũng hết sức thực, không tô vẽ, không hình thức, không lên giọng đạo đức...

Con ngƣời trong thơ Nguyễn Công Trứ là con ngƣời hƣởng lạc thực sự.

"Thú tiêu sầu rƣợu rót thơ đề

Có yến yến hƣờng hƣờng mới thú

Khi đắc ý mắt đi mày lại

Đủ thiên thiên thập thập thêm nồng" (Tài tình),

Con ngƣời trong thơ Nguyễn Du có chút lãng mạn đời thƣờng nhƣng chƣa bao giờ có

đƣợc sự ung dung trên sự hƣởng lạc. Con ngƣời luôn chần chừ do dự trƣớc những cái mời gọi

có tính chất khơi gợi lôi cuốn hấp dẫn nhƣng sau đó đã kịp dừng lại. Giống nhƣ trạng thái

phấp phỏng day dứt trƣớc miếng ăn của nhân

49

vật Thứ trong Sống mòn của Nam Cao. Tất nhiên mọi sự so sánh đều khập khiễng. Có lẽ con

ngƣời âu lo chiếm chỗ trội hơn nên con ngƣời lãng mạn không có dịp thực hiện những hứng

thú nhỏ nhoi đời thƣờng để lấp chỗ trống chán nãn thất chí của mình. Cái chính là con ngƣời

không thiết tha lắm đối với những hứng thú đó. Còn một điều quan trọng và lớn lao hơn nữa

đó là mong muốn sao cho mọi kiếp đời đều đƣợc hƣởng thụ và thời gian hƣởng thụ phải thật

dài lâu. Điều đó làm sao có thể trở thành hiện thực trong thời đại Nguyễn Du.

Con ngƣời lãng mạn còn là con ngƣời của buồn hận, của ƣớc vọng, của mộng mơ...

thể hiện rõ tính chất bi của một cá nhân có nhiều thất vọng bất mãn trong cuộc đời. Buồn hận

vì bản thân không làm đƣợc gì. Một chút chí khí, một chút hùng tâm không đủ để đánh bạt

cái già nua và nghèo đói. Ngƣời đến bƣớc đƣờng cùng, suy nhƣợc cả thể chất lẫn tinh thần.

Buồn hận vì thời thế.

Bình Chƣơng di hận hà thời liễu? (My trung mạn hứng)

(Mối hận Bình Chƣơng để lại biết bao giờ hết)

Thập niên vị tiết nam nhi hận (Ninh Công Thành)

(Mƣời năm chƣa rửa đƣợc mối hận của nam nhi)

hận vì bản thân đƣợc trời phú cho cái cốt tƣớng gian truân (Tự thán I) nên cứ gian nan vất vã

mãi mà chẳng thành đƣợc sự gì (U cƣ I). Con ngƣời lãng mạn không cần khiêm tốn giả tạo,

cứ nói thẳng ra mình là ngƣời có tài.

Tráng niên ngã diệc vì tài giả (Vĩnh Châu Liễn Tứ Hậu cố trạch)

(Thời trẻ ta cũng là ngƣời có tài)

Nhƣng tài ấy đã không dùng đƣợc vào việc gì, đành chỉ biết than thở với gió thu.

Bạch phát thu phong không tự ta (Vĩnh Châu....)

(Nay đầu bạc chỉ luống tự mình than vãn với gió thu)

và không biết phải chịu đựng cho đến bao giờ.

Phù sinh lao lục kỷ thời hƣu (Đồng lung giang)

50

(Còn cảnh phù sinh vất vã đến bao giờ mới thôi)

Vì thế mà cứ chất chứa mối hận trong tim. Mối hận ấy tồn tại mãi không có cách gì

giải tỏa đƣợc. Hỏi trời cao nhƣng biết trời cao ở đâu mà hỏi (Bất mị), hơn nữa xƣa nay những

mối hận khó mà hỏi trời đƣợc (Độc Tiểu Thanh ký).

Đau hận nhƣ thế con ngƣời chỉ còn biết gửi lòng mình vào trong mong ƣớc. Hiện thực

có mức độ nhƣng mong ƣớc thì không có giới hạn.

Hà năng lạc phát quy lâm khứ (Tự thán II)

(Ƣớc sao có thể xuống tóc vào rừng ở)

Ná đắc khiên ly phù thế ngoại (Sơn thôn)

(Ƣớc gì thoát khỏi vòng trần tục)

An đắc huyền quang minh nguyệt hiện (Ngoại bệnh II)

(Ƣớc gì vầng trăng sáng hiện ra trƣớc cửa huyền)

An đắc phong xa nhận vạn lý (Trở bình hành)

(Ƣớc gì có đƣợc cổ xe gió một ngày đi vạn dặm)

Mong ƣớc chẳng qua xảy ra trong lúc tâm trạng dao động thất vọng, nhƣng mong ƣớc

không phải là cứu cánh. Ƣớc đƣợc vào rừng, ƣớc đƣợc thoát khỏi vòng trần tục nhƣng mong

ƣớc chẳng bao giờ thành. Mong có đƣợc vầng trăng thật sáng nhƣng cuộc đời cứ đƣa lại

những "hắc dạ". Mong muốn có đƣợc chiếc xe gió đi vạn dăm nhƣng thực tế con ngƣời vẫn

phải lên thác xuồng ghềnh, phải qua những chặng đƣờng hiểm trở, phải ở giữa hai đội quân

đang đánh nhau, phải nhịn đói, nhịn khát... Đó chỉ là sự thèm muốn khi ý thức rõ mình chẳng

đạt đƣợc điều đó bao giờ.

Tiễn sát bắc song cao ngoạ giả (Ký hữu)

(Thèm chết đi đƣợc nhƣ ngƣời nằm khểnh bên song cửa phía Bắc)

Tiễn nhĩ dã âu tùy thử khứ (Đồng lung giang)

(Thèm nhƣ đàn âu kia theo dòng nƣớc mà trôi đi)

51

Đau khổ buồn hận con ngƣời cũng gửi cả vào trong giấc mộng. Chìm vào hƣ ảo để quên thực

tại đau buồn. Con ngƣời biết rõ điều đó ở mình.

Tri giao quái ngã sầu đa mộng

Thiên hạ hà nhân khắp mộng trung (Ngẫu đề)

(Bạn bè thân thiết lấy làm lạ rằng sao ta hay sầu mộng

Nhƣng thiên hạ ai là ngƣời không ở trong mộng?)

Dùng cách nói Lão Trang để giải thích nhƣng thực ra đây là một kiểu xác nhận cuộc

đời. Cuộc đời này với những mong ƣớc chỉ có thể có trong mộng mà thôi. Càng đi xa quê nhà

giấc mộng càng dài.

Quan sơn dẫn mộng trƣờng (Bất mị)

(Sự xa cách dẫn hồn vào giấc mộng dài).

Thiên lý ly gia lữ mộng trì (Đại tác cửu thú tƣ quy II).

(Xa nhà ngoài ngàn dặm, giấc mộng đất khách thêm dài).

Mộng nào cũng to lớn, nặng trịch: mộng mây xanh (Ngẫu thƣ công quán bích III);

mộng gác vàng (Mạn hứng I), mộng cỏ bờ ao (Xuân tiêu lữ thứ), mộng lấy lá chuối giấu

hƣơu (Tăng nhân) ... Đó là chƣa kể mộng đi săn, mộng gặp anh, gặp vợ... Thế nhƣng giống

nhƣ ngƣời chinh phụ trong Chinh Phụ Ngâm của Đặng Trần Côn:

"Khi mơ những tiếc khi tàn

Tình trong giấc mộng muôn vàn cũng không"

Con ngƣời rất biết giấc mộng chẳng là gì cả, chẳng thay đổi đƣợc gì. Cả cuộc đời này

cũng thế thôi.

Trần thế bách niên khai nhãn mộng (La phù giang thủy các độc tọa)

(Cuộc đời trăm năm trên trần thế chỉ là giấc mộng vừa mở mắt.)

Mộng đến có thể an ủi con ngƣời trong phút giây. Mộng đi tâm sự càng trở nên năng

nề hơn.

Mộng lai cô đăng thanh

52

Mộng khứ hàn phong xuy (Ký mộng)

(Mộng đến ngọn đèn cô đơn sáng lên.

Mộng làn gió thổi lạnh lùng)

Nhìn chung con ngƣời lãng mạn trong thơ Nguyễn Du vừa có tầm nhìn vũ trụ với ƣớc

mơ bay cao hay xa trên con đƣờng cung kiếm vừa có cái nhìn hết sức vụn vặt đời thƣờng với

buồn hận, với chuyện hành lạc... nó giải thích đƣợc tâm lý rất thực của con ngƣời là dễ bị dao

động hoang mang, dễ chán nản và lúc nào cũng thấy bế tắc không lối thoát. Có lẽ đó là quá

trình thực hiện cuộc đi tìm mình của chính Nguyễn Du.

2.1.2. Con người âu lo:

Cuộc sống vốn có nhiều cái để lo toan. Con ngƣời ý thức phải trải thân theo những lo

toan ấy. Ở vào thời loạn con ngƣời ý thức càng gặp phải nhiều mối lo: lo đói nghèo, lo bệnh

tật, lo già, lo chết, lo thế thái nhân tình... Con ngƣời cảm thấy mất phƣơng hƣớng, mất niềm

tin, không có chỗ để bám víu tựa nƣớng, một mình "bơi" trong thế giới xa lạ đầy bí ẩn, suốt

đời kiếm tìm. Vì vậy mà con ngƣời ý thức trở thành con ngƣời âu lo, luôn suy tƣ trăn trở về

kiếp sống đời ngƣời.

Hiện thực cuộc sống luôn hiền hòa dễ dãi với số ít ngƣời giàu, ngƣời sang trọng

nhƣng lại rất khắc nghiệt tàn nhẫn với số đông ngƣời nghèo, ngƣời bất hạnh. Nguyễn Du rơi

từ địa vị một ngƣời sang trọng xuống hạng cùng dân rồi từ vị trí của ngƣời cùng dân đƣợc trở

lại ngôi vị cao sang. Ở bất cứ thời điểm nào, Nguyễn Du cũng rất ý thức về cái nghèo. Ý thức

từ cái ấm êm của chăn nệm đến cái rét buốt của ngƣời không áo, từ miếng béo bở thừa mứa

no nê đến cái thắt ruột thắt gan của ngƣời sắp chết đói... Ông đã từng nói:"Ngƣời ta thà chết

còn hơn nghèo" (Thái Bình mại ca giả). Cái nghèo làm cho ngƣời ta trở thành hèn mọn: ông

già hát rong nhận 5, 6 đồng tiền cứ quay lại chúc phúc tạ ơn mãi (Thái Bình mại ca giả), mấy

mẹ con ngƣời ăn xin đi đƣờng gặp ngƣời không

53

dám ngƣớc mắt nhìn lên (Sở kiến hành); đa phần dân chúng đều có sắc mặt ôm đói (Trở binh

hành)... Cái nghèo cũng làm cho ngƣời ta mất hết chí khí: đầu bạc chỉ mãi lo chuyện cơm áo

(Dạ tọa); thƣ kiếm không thành, sinh kế bức bách (Tự thán II); hùng tâm và sinh kế đều mờ

mịt (Tạp thi) ... và nó trở thành vật trói chân trói chân không cho ngƣời trƣợng phu thả sức

tung hoành. Cái nghèo không chỉ thể hiện ở nét mặt tồi tàn mà còn len lỏi đi sâu vào làm lạnh

suốt tận tâm hồn. Một bài thơ, cái tê buốt ấy thể hiện rõ ở tựa đề: Khất thực (Xin ăn). Con

ngƣời trong ấy đã nói một cách cay đắng:

Tằng lăng trƣờng kiếm ỷ thanh thiên

Triển chuyển nê đồ tam thập niên

Văn tự hà tằng vi ngã dụng?

Cơ hàn bất giác thụ nhân liên

(Kiêm dài ngạo nghễ hiên ngang nhƣ tựa trời xanh

Lăn lóc trong bùn lầy đã ba mƣơi năm

Văn chƣơng chữ nghĩa nào đã từng có ích gì cho ta?

Không dè đói rét phải nhận lòng thƣơng hại của ngƣời)

Đây là thân phận của kẻ nam nhi trƣớc mọi nẻo đƣờng bị đóng kín. Nghề võ không

thành, hùng tâm tráng chí tiêu ma, văn chƣơng chữ nghĩa không ích lợi gì, lăn lóc trầy trật

mãi để cuối cùng phải ngữa mặt đón nhận lòng thƣơng hại của ngƣời. Cay cực và buốt lòng

xiết bao! Cái nghèo của con ngƣời trong thơ Nguyễn Du là cái nghèo thực sự. Con ngƣời

luôn có chí cao mộng lớn mà bị cái nghèo trói buộc dẫm chân tại chỗ làm sao không tủi cực

hờn ghen? Những con ngƣời nghèo ấy lại thấy trƣớc mắt mình một sự đối lập ghê gớm. Đó là

ngƣời giàu có trên bến sông Nhĩ, mình ông ta riêng chiêm vẻ xuân của một thành lầu gác cao

ngất trời, con ngựa đeo giàm vàng ăn rau mục túc một cách kiêu hãnh, ngƣời trong lầu ngọc

thì uống đến say chếch choáng rƣợu bồ đào... quanh năm suốt tháng hết cuộc vui này đến

cuộc vui khác, chuyện của cõi trần ai nào hay

54

biết đến. (Đại nhân hý bút) Tại sao trong cõi đời này có cảnh kẻ thì giàu sang sung sƣớng, kẻ

thì chết đói bên vệ đƣờng?

Nghèo đói thƣờng đi chung với bệnh lật. Bệnh tật cũng là một mối lo khác của con

ngƣời. Bệnh tật làm con ngƣời héo mòn dần. Lại không phải bệnh một ngày một bữa mà là

bệnh kéo dài mấy tháng, có khi mấy năm. Bệnh nhiều, do nghèo không có tiền lo thang thuốc

điều trị, bệnh càng dai dẳng thêm. Trong thơ, bệnh đƣợc nhắc đến khá nhiều: bệnh cũ (U cƣ

II), bệnh không thuốc (Mạn hứng I), bệnh lâu ngày (Xuân dạ), nằm bệnh (Thu dạ II), bệnh tái

phát (Khai song), nằm dƣỡng bệnh (Tạp thi I), nằm rên than (Ngọa bệnh II), bộ xƣơng bệnh

tật (Tạp ngâm II); tấm thân nhiều bệnh (Thủy liên lộ thƣợng tảo hành)... Con ngƣời trong thơ

đau yếu liên miên tuy không thấy rõ cụ thể là bệnh gì. Khi bệnh tật, con ngƣời lo sợ, thƣờng

than vãn không biết tìm đâu ra thuốc tiên luyện chín lần, thƣờng trách móc không ai hỏi thăm

đến mình, thƣờng rên rỉ sống chƣa nên danh ngƣời đã già yếu...

Đôi khi cái bệnh thật của con ngƣời đƣợc nâng lên thành tâm bệnh. Thời thế đổi thay,

lòng ngƣời dâu bể, bản thân không làm đƣợc gì, nghèo đói cứ triền miên... làm sao con ngƣời

có thể khỏe mạnh về mặt tinh thần đƣợc ? Sự thất vọng, chán chƣờng thƣờng làm cho con

ngƣời trở nên mỏi mệt suy yếu. Không phải con ngƣời không có nghị lực để vƣợt qua, không

đủ dũng khí để chống chọi mà là thác quá cao, ghềnh quá sâu, con ngƣời nhỏ bé không thể

làm gì, đành ngồi chờ lắt lay bên bờ vực. Tâm sầu dẫn đến tâm bệnh. Con ngƣời tự nhận thấy

nhƣ thế.

Đa bệnh đa sầu bất khí thƣ (Ngọa bệnh I)

(Nhiều bệnh nhiều sầu tâm thần không đƣợc thƣ thái)

Con ngƣời biết rõ bệnh của mình, bệnh ấy phải có thuốc tiên, một thứ thuốc cực kỳ

quý hiếm, mới mong chữa khỏi nhƣng thuốc ấy kiếm đâu ra giữa thời buổi loạn lạc này.

55

Cửu chuyển hoàn đan hà xứ tầm (Ngoạ bênh II)

(Biết tìm đâu thuốc tiên luyện chín lần)

ví nhƣ bầu trời tối đen thăm thẳm cần một thứ ánh sáng huyền dịu, nhƣng ánh sáng ấy ở đâu?

Cuộc sống này cũng ngắn ngủi lắm thay! Đặc biệt với con ngƣời ý thức, luôn lo âu thì

cuộc sống dƣờng nhƣ ngắn ngủi thêm. Họ cảm thấy mình chƣa làm đƣợc gì thời gian trôi đi,

cơ thể dần suy yếu, già nua. Tóc bạc là biểu hiện của sự suy yếu, sự già nua đó. Tuổi cao tóc

bạc là lẽ đƣơng nhiên nhƣng tuổi mới trên dƣới ba mƣơi mà tóc bạc thì hiếm thấy. Con ngƣời

trong thơ Nguyễn Du thƣờng gắn với tóc bạc nhƣ một thứ ám ảnh của định mệnh. Có 58 lần

trong suốt ba tập thơ con ngƣời tóc bạc xuất hiện. Các nhà thơ khi tuổi đã cao cũng thƣờng

nói về tóc bạc nhƣng không ai nói hoài, nói dai dẳng nhƣ Nguyễn Du. Tóc bạc của Nguyễn

Trãi là tóc của ngƣời thoát tục, thế sự thăng trầm chìm nổi đã gác qua một bên, dành lòng cho

một cõi thanh sạch: uống chè, đọc sách, dạo đàn, quét tuyết, thƣởng mai... Đỗ Phủ thƣờng

dùng tóc bạc nhƣ là một đối tƣợng để trêu đùa, giễu cợt hơn là để than thơ "Đầu đã bạc phơ

dƣới ánh đèn sáng. Cần gì hoa đèn nở ra nhiều" (Nhật mộ - Đỗ Phú) Còn con ngƣời trong thơ

Nguyễn Du chỉ thấy đậm chất bi. Có lẽ có một nỗi niềm nào đó in sâu trong lòng, không thoát

ra đƣợc, nó ẩn vào trong tóc làm cho tóc chóng bạc. Mà tóc đã bạc thì còn làm đƣợc gì?

Bạch phát hừng tâm không đốt ta (Khai song)

(Tóc bạc rồi dù còn có hùng tâm cũng chỉ còn biết than thở)

Bạch phát tiêu ma bần sĩ khí (Tặng Thực Đình)

(Tóc bạc làm tiêu ma chí khí của kẻ sĩ nghèo)

Còn gì xúc động hơn hình ảnh con ngƣời tuổi trẻ, chí lớn không thành, kiếm cung lỡ

bƣớc, đèn sách dở dang... ngày lại qua ngày tóc trắng phủ dần, chí khí tiêu ma, tráng sĩ đau

xót ngẩn nhìn trời cao (Tráng sĩ bạch đầu bi hƣớng thiên –

56

Tạp thi) nhƣ muốn vẽ vào không trung một dấu hỏi to tƣớng. Kể cả lúc con ngƣời mang trên

vai trọng trách nặng nề, tóc bạc vẫn cứ theo đuổi ám ảnh. Dƣờng nhƣ con ngƣời âu lo đánh

bại hết những cảm giác thƣ thái dễ chịu dành chỗ cho cái sầu, cái thƣơng, cái hận tràn ngập.

Những nổi uất hận không nói đƣợc thành lời, những mối thƣơng cảm trải mãi không dứt. Đó

là cái đau khổ của ngƣời luôn tự vấn về mình, tự vấn về cuộc đời. Cả đời bôn ba xuôi ngƣợc,

cuối cùng chỉ còn lại dấu chân của ngƣời đi trên cát, chỉ còn lại hình ảnh tóc trắng phất phơ

giữa gió thu, giữa trời chiều.

Bạch phát tiêu tiêu cổ đạo bàng (Giang đầu tản bộ I)

(Đầu tóc bạc phơ đi trên con đƣờng xƣa)

Ba ba bạch phát hồng trần lộ (Tổ sơn đạo trung)

(Mái tóc bạc phơ trên đƣờng bụi đỏ)

Bạch phát sa trung hiện (Độ long vĩ giang)

(Trên cát hiện rõ mái đầu bạc).

Hình ảnh "bạch phát tiêu tiêu..." có gì làm ngƣời đọc xót xa. Một ông già chƣa già,

một ông quan chƣa phải là đạt quan, một con ngƣời âu lo luôn đau đời và thắm tình ngƣời...

tóc bạc trắng đi giữa trời chiều, giữa bụi cát, trƣớc gió tây, bên con đƣờng cổ... Hình ảnh này

rõ ràng gây ấn tƣợng mạnh. Bản thân từ "hạch phát" cũng ngụ ý triết lý sâu xa. Tóc xanh -

tóc trắng là cả một quá trình từ non nớt đến trải đời, từ chƣa hiểu biết đến kinh nghiệm, từ

vƣơn dậy đến lụi tàn, từ tƣơi thắm đến úa rả... Đó là con đƣờng dài của cả cuộc đời ngƣời,

vậy mà con ngƣời cảm thấy rất ngắn. Quá trình ấy, nó đến từ từ rồi nhanh chóng tiêu tán

không dễ nhận biết. Mới tóc xanh đó, mới trẻ trung xinh đẹp đó thoáng chốc đã thành ông

thành bố, thành mẹ bế con, thành gầy gò xơ xác... Con ngƣời kinh sợ tuổi già, biết nó đang

đến gần nhƣng không có cách nào lẫn tránh.

Ý thức đƣợc sự già nua chính là dự cảm đƣợc cái chết. Con ngƣời cảm thấy thời gian

trôi nhanh, đời ngƣời ngắn ngủi chƣa kịp làm gì, cái già đã đến. Cái già

57

đã đến tất cái chết theo sau. Tiến trình đi đến hủy diệt tan rửa ấy không chậm bƣớc trƣớc một

ai. Vua chúa hay thƣờng dân cuối cùng cũng chỉ còn lại một nấm đất. Nấm đất ấy lại tiếp tục

đi vào hệ thống tan rã, nó sẽ bị san phẳng hoặc sụp đổ, nghiêng lỡ để cuối cùng không còn lại

dấu vết nào. Con ngƣời khi ấy thực sự trở về với cát bụi. Nhƣ vậy có sự tồn lại của kiếp sau

đời ngƣời hay không? Con ngƣời trong thơ chữ Hán Nguyễn Du khao khát muốn đƣợc giải

đáp điều đó. Kiếp này và kiếp sau có liên quan nhau? Con ngƣời chết rồi thì đi đâu, về đâu?

Tiêu rửa hoàn toàn hay xác thân vùi trong đất, hồn còn lơ lững vật vờ? Nhƣng làm sao ai có

thể giải đáp đƣợc, "thiên cơ bất khả lậu", máy trời con ngƣời không thể dò biết đƣợc. Vì vậy

đáng sợ nhất là cái chết. Cái chết là cửa ải mà không ai có thể vƣợt qua đƣợc. Chết là mức

cuối của con ngƣời trên trần thế. Vậy mà cứ mỗi lần giở gƣơng ra xem mặt là mỗi lần thấy

mình già thêm .

Ảnh lý tu mi khan lão hỷ (Lạng sơn đạo trung)

(Soi gƣơng mày râu xem ra đã già rồi)

Tha hƣơng nhan trạng tần khai kính (Đông lộ)

(Trên đất khách nhiều lần giở gƣơng ra soi dáng mặt)

Soi gƣơng xem vẻ mặt là hành động thƣờng thấy của nhiều ngƣời, nhất là phụ nữ.

Nhƣng phụ nữ thì quan tâm tới vẻ đẹp, còn con ngƣời trong thơ chữ Hán thì âu lo và quan

tâm sâu sắc tới cái già, cái chết.

Không chỉ lo cho bản thân, con ngƣời trong thơ chữ Hán còn có mối lo chung cho mọi

ngƣời. Sợ bệnh tật, sợ những mối nguy hiểm dẫn con ngƣời đến gần cái chết. Đứng trƣớc

cảnh sông Lam sóng to gió lớn, nƣớc lũ tràn đầy, bờ sông sụp lỡ... Con ngƣời cảm nhận đƣợc

mối hiểm họa khó tránh mà hằng ngày ngƣời dân cứ xông pha vào nó không biết sợ. Họ thay

mặt muôn ngƣời kêu gọi đức hiếu sinh của trời, sự hỗ trợ của thần linh... Trên đƣờng công vụ

phải qua lắm thác nhiều ghềnh... nhìn thấy những cơn giận dữ của thiên nhiên, con ngƣời thật

sự hoảng sợ. Một loạt những bài nhƣ: Ninh Minh giang, Chu hành, Chu hành

58

hành tức sự, Bất tiến hành, Văn há đại than tân lạo bạo trƣớng chƣ hiểm câu thất... đã nói lên

điều đó.

Nguy hồ đại tai cốt một vô để (Ninh Minh giang chu hành)

(Nguy thay! hiểm thay! chìm sâu không đáy)

Băng nhai quái thạch nộ tƣơng hƣớng (Chu hành tức sự)

(Những bờ núi lỡ những hòn đá kỳ quái giận giữ nhìn nhau)

Nghiêng đổ, sụp lở, chìm lỉm,... là do ý trời, con ngƣời không thể chống lại. Đem lòng

trung tín ra để kêu gọi Trời Phật, Thần Thánh, điều đó cũng không thể. Nhƣ vậy đứng trƣớc

sự nguy hiểm lớn lao, con ngƣời không còn tin vào Trời Phật Thần Thánh, nghi ngờ cả lòng

trung tín... Điều này rất hiện thực, trong cuộc sống con ngƣời phải tiếp nhận đối đầu với bao

sóng gió và điều may rủi phó thác cho mệnh trời.

Tuy nhiên, một mặt trái ngƣợc khác là mặc dù không tin nhƣng đi đến đâu, khi dừng

chân nghỉ trạm, con ngƣời thƣờng đôt hƣơng khấn vái, viếng các bậc thần minh, hiền nhân,

thổ công ở địa phƣơng đó. Vừa để tỏ lòng "tri ngộ" vừa cũng để cầu xin sự bình an trên

đƣờng. Đó là nét truyền thông của ngƣời Việt Nam ta.

Tâm hƣơng bái đảo tƣớng quân từ (Ha Than hỷ phú)

(Thành tâm dân hƣơng cầu khẩn trƣớc đền tƣớng quân)

Nhất bôi không điện lâm giang miêu (Quá Thiên Bình)

(Một chén rƣợu làm lễ suông tại ngôi đền bên sông)

Chứng tỏ con ngƣời hết sức bận tâm đến những hiểm nguy có thể gây chết chóc.

Những điều lo sợ của con ngƣời khi đứng giữa lằn ranh của sự sống và cái chết không

ai có thể phê phán. Đƣa vấn đề ấy ra để suy luận nghiêm túc và muốn có cách nào đó có thể

giảm bớt những nguy hiểm đang rình rập con ngƣời. Đó là phƣơng châm sống của chính tác

giả, là sự quan tâm sâu sắc đến vận

59

mệnh của con ngƣời đƣợc biểu hiện bằng những âu lo. Âu lo về đói nghèo, về bệnh tật, cả cái

chết và đằng sau cái chết nhƣ một thứ ám ảnh không dứt đƣợc.

Cuộc sống vốn đa dạng phức tạp, lòng ngƣời cũng quanh co sâu thẳm. Thời đại

Nguyễn Du là thời đại đầy ba động. Xã hội vì thế nảy sinh nhiều nếp nghĩ khác nhau, con

ngƣời không đồng lòng đi theo một quỹ đạo nào đổ nên không còn tiếng nói chung, việc đối

nhân xử thế trở nên khó khăn hơn. Có ngƣời khƣ khƣ ôm giữ cái cũ, ngƣời thì chạy theo cái

mới, ngƣời thì đứng giữa ngã ba đƣờng... Ai khôn ngoan luồn lách giỏi thì sẽ ngất nghễu ở

địa cao, ai rụt rè an phận thì chịu thiệt thòi. Chốn quan trƣờng càng thấy rõ điều này hơn. Con

ngƣời trong thơ Nguyễn Du luôn bận rộn việc nƣớc, bận rộn cả việc đối phó với những con

oanh đẹp trong vƣờn thƣợng uyển (Tống nhân) với những dì gió chua ngoa (Ngẫu thƣ cổng

quán bích II) ... Con ngƣời phải luôn thận trọng giữ gìn.

Dị hƣơng dƣỡng chuyết sơ phòng tục

Loạn thế toàn sinh cửu Hý nhân (U cƣ I)

(Ở đất khách nên dƣỡng cái vụng về phòng thói đời

Đời loạn, muốn bảo toàn sinh mệnh, từ lâu phải sợ ngƣời)

Thậm chí phải khóc cƣời,nhăn mặt, nhăn mày theo Ngƣời.

Danh lợi doanh trƣờng lụy tiếu tần (Xuân tiên lữ thứ)

(Trong trƣờng danh lợi nhiều khi phải cƣời và nhăn mày)

Lấy lý thuyết Lão Trang để giải thích thực ra đó cũng là tâm lý của con ngƣời đời

thƣờng, tâm lý nhiều mặt, buồn vui, lo sợ, tính toán, đối phó, nhún nhƣờng, có khi phải nhịn

nhục nữa. Thói đời nhiều màu sắc, phong phú đa dạng đã tạo nên tâm lý đó. Con ngƣời tốt

không chỉ đối đầu với cái xấu, trực diện đấu tranh với cái xấu đó mà đôi khi cũng phải chịu

thất thế khi cái tốt không đủ mạnh. Quần tử không chỉ biết giữ gìn thanh danh của mình mà

đôi khi cũng phải cúi khom ngƣời để tránh đụng chạm.

60

Vô bệnh cố câu câu (Thu chí)

(Không bệnh mà lƣng cứ khom khom).

Con ngƣời luôn âu lo, lo làm việc quan mắc sai lầm, lo sợ cả những tên lính hầu cấp

dƣới.

Bất tài đa khủng tốc quan phi (Giang đầu tản bộ I)

(Bất tài nên hay sợ rƣớc lấy những sai lầm trong việc quan)

Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã (Ngẫu đắc)

(Khi gặp việc bọn đầy tớ lính hầu đều lên mặt với ta)

Bởi vì đấu tranh đôi khi là một thất sách, biết giữ mình có khi lại thành công. Đơn

thƣơng độc mã "tỉnh" một mình biết đâu lại trở thành Khuất Nguyên thứ hai. Hơn nữa đây

không còn là lúc anh hùng phải xả thân, quân tử phải trung trực, phụ nữ phải chính chuyên.

Do đó mà con ngƣời có nhiều mâu thuẫn, mâu thuẫn giữa mong muốn và thực tế, giữa bản

chất và hiện tƣợng, giữa suy nghĩ và việc phải làm... Con ngƣời luôn muốn cái tâm mình

trong suốt nhƣ nƣớc đầm (Tạp ngâm III) nhƣ giếng xƣa (Đạo ý)... Muốn sống theo bản tính

tự nhiên của mình nhƣ chân hạc dài không thể cắt ngắn đƣợc (Tự thán I), không đƣợc làm tổn

hại thiên tính... Nhƣng cũng rất biết rằng mỗi ngƣời khó giữ đƣợc cái thiên tính giữa bao

sóng gió của cuộc đời. Chân con hạc dài thì bị cắt ngắn, chân con vịt thì lại đƣợc nối dài thêm

(Ngẫu hứng I), làm mất tính tự nhiên của ngựa, làm mất bộ mặt thật chất phác của viên ngọc

(Ký Hữu)... Tuy nhiên con ngƣời cảm thấy vui mừng khi thấy mình không đi quá xa bản tính

tự nhiên trời phú cho.

Bất sầu cửu lộ triêm y duệ

Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần (Dạ hành)

(Không buồn sƣơng đêm thấm ƣớt vạt áo

Hãy mừng là mày râu không bị nhuốm bụi)

Con ngƣời ở đây rất thực, rất đời thƣờng. Thực ở chỗ dám phơi bày lòng mình, cả

bản chất lẫn hiện lƣợng, không dấu diếm. Con ngƣời là con ngƣời chứ

61

không phải là thánh nhân. Con ngƣời đời thƣờng càng phải chịu sự chi phối của cuộc sống,

mà cuộc sống thì luôn luôn không dễ dàng. Cái chật hẹp gò bó của đời thƣờng có thể xói mòn

dần cái khoáng đạt rộng mở của chân tính thiên nhiên. Con ngƣời phải tạo cho mình một cách

sống để có thể thích ứng và cách sống này cũng có thể thay đổi tùy hoàn cảnh. Cho nên cùng

một vấn đề, con ngƣời có thể có những ý kiến khác nhau. Sự dao động là lất yếu của con

ngƣời đời thƣờng,con ngƣời hiện đại. Cứng nhắc một chiều là con ngƣời của chủ nghĩa cổ

điển. Giống nhƣ Cô Kiều (Truyện Kiều) trong sáng ngây thơ là thế, đến phong trần cũng

phong trần nhƣ ai, cô cũng phải nói cƣời, mắt đƣa mày liếc với khách đa tình dù lòng cô

không muốn. Cô cũng đã phải yêu Từ Hải, lấy Thúc Sinh dù Dẫu lìa ngó ý còn vƣơng tơ

lòng và lúc nào hình ảnh Hài văn lần bƣớc dặm xanh. Một vùng nhƣ thể cây quỳnh cành

dao của Kim Trọng vẫn còn nhƣ in trong tâm tƣởng của cô. Và dẫu yêu Kim Trọng đến cháy

lòng, buổi đoàn viên cô cũng buộc phải từ chối, để cho tình yêu thật sự đẹp, trọn vẹn. Con

ngƣời trong thơ chữ Hán cũng vậy, muốn giữ trọn bản tính chân thật của mình nhƣng có lúc

phải cúi ngƣời khom khom, muốn giữ cái tâm trong suốt nhƣng có lúc bị dao động, muốn cáo

quan nhƣng mãi vẫn không về một cách dứt khoát đƣợc... Cứ phải chịu để cho thế sự lôi cuốn

và giằng co giành lại đƣợc chút nào bản chất tốt đẹp thì mừng cho chút ấy. Con ngƣời ở đây

không muốn mình trở thành cao siêu, cũng không muốn hòa nhập vào thế giới cao siêu đó,

cũng không thể "tỉnh" một mình, gàn dỡ tuột mình... Chỉ muốn mình là chính mình với cá

nhân nhỏ bé muốn thực hiện đƣợc nhiều điều nhƣng khả năng có hạn, hiện thực cuộc sống lại

lắm phong ba bão táp đành nuối tủi, ngậm hờn, co ngƣời lại để giữ mình. Đó là con ngƣời hết

sức sinh động, hết sức trần thế, hết sức đời thƣờng.

Một phiên bản khác của con ngƣời âu lo là con ngƣời lặng im, vô ngôn. Vô ngôn đây

không phải là khái niệm của nhà Phật, mà là sự lặng yên, không muốn bày tỏ cùng ai. Lặng

im một cách cô độc. Câm nín chôn sâu vào tận đáy lòng.

62

Nhất sinh u tứ vị tằng khai (Thu chí)

(Suốt đời ôm mối u sầu chƣa từng gỡ ra đƣợc)

Bách chủng u hoài vị nhất sƣ (Bát muộn)

(Trăm nỗi u buồn chƣa một lần đƣợc giải thoát)

Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ (Mi trung mạn hứng)

(Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai)

Thiên tế trƣờng ƣu vị tử tiền (Mộ xuân mạn hứng)

Trƣớc khi chối còn lo mãi chuyện nghìn năm)

Ai có thể biết đƣợc: mối u sầu, nỗi buồn, tấc lòng, chuyện nghìn năm... kia là những

gì? Ngƣời đọc chỉ có thể cảm nhận qua những lời không thành lời đó là một nỗi niềm tâm sự.

Nỗi niềm ấy lại không thể chia sẻ cho ai. Nỗi niềm ấy phải lắng vào, chìm sâu tận trong máu

thịt bởi vì nó không thoát đƣợc ra ngoài.

Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ (La Phù giang thủy các độc tọa)

(Bồi hồi trƣớc bóng mình một mình yên lặng)

Chung dạ bồi hồi tứ chuyển mê (Ngẫu hứng I)

(Suốt đêm bồi hồi nghĩ ngợi mê man)

Trù trƣớng thân tiêu cô đối ảnh (Tống nhân)

(Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng)

Cô đăng tƣơng đối đáo thiên minh (Mặc phủ tức sự)

(Ngọn đèn cô đơn đối ddiện với mình cho đến sáng)

Tự ngũ đáo thiên minh (Quế Lâm công quán)

(Mình nói chuyện với mình cho mãi đến sáng)...

Chỉ có gió mát trăng thanh, hoa vàng trúc xanh có thể bày tỏ đƣợc nhƣng những thứ

ấy lại cũng lặng im, không nói.

Nỗi niềm ở đây không thoát ra cùng cảnh vật, không gởi đƣợc vào thiên nhiên, không

hòa điệu cùng núi sông mây nƣớc, cảnh vật là cảnh vật, nỗi niềm không khỏa lấp trong cảnh

vật mà ngƣợc lại cảnh vật càng làm nổi rõ nỗi niềm.

63

Tiếng mƣa không gội sạch nỗi lòng, dòng nƣớc không cuốn trôi tâm sự, gió tây không chở

nổi u sầu, ngọn đèn không làm sáng lên cõi lòng u tối... Cứ mình với mình, nói chuyện với

mình, ngắm bóng mình. đối diện với mình... nhƣ một khối băng im lặng đáng sợ. Nỗi niềm

chất chứa trong sự lặng im đó chính là mối lo nghìn năm Thiên tế trường ưu không có gì có

thể giải tỏa đƣợc. Nói chung con ngƣời sống giữa đời cảm thấy cái gì cũng tạm bợ, dở dang,

lỡ làng, bế tắc... Chân bƣớc đi mà lòng cứ ngập ngừng,muốn dấn thân lại cứ quay đầu về

chốn cũ, muốn làm việc lớn, cái nhỏ nhặt đời thƣờng cứ níu lấy... Tự mình cảm thấy nhƣ bị

bỏ rơi, bị đày ải, bị lãng quên... sinh ra chán chƣờng, âu lo, tuyệt vọng. Phải chăng đó là tâm

lý của những kẻ ý thức rõ mình hữu hạn nhƣng không thôi khao khát vƣơn tới sự vô hạn của

cuộc đời tƣơi đẹp vĩnh viễn rồi lại chán chƣờng, tuyệt vọng, mỗi khi không đạt dƣợc mục

đích. Hình ảnh con ngƣời lang thang dƣới bóng trăng tàn mờ nhạt, gió lạnh dồn cả vào ngƣời

"Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân" (Dạ hành) và cái bóng cô đơn in lên bãi cát lúc chiều là

"Bình sa nhân ảnh tại tà dƣơng" (Giang đầu tản bộ II) là hình ảnh đậm nét nhất khắc họa một

chân dung âu lo, khổ hạnh, thất vọng, đơn độc. Hình ảnh đó mãi hằn sâu trong ký ức ngƣời

đọc Nguyễn Du.

2.1.3. Con người đau khổ

Thế kỷ XVIII, XIX, dƣới sự bùng nổ dữ dội đã ý thức cá nhân. con ngƣời vƣơn lên để

tìm hiểu, để nhận biết về bản thân mình và cộng đồng. Trong quá trình vƣờn lên đó, họ nhận

rõ số phận hết sức mong manh của mình và ngƣời. Họ nhìn thấy những cuộc đời đau khổ

đang rên la, đang kêu gào, những bất công đang đe dọa, đang truy bức, những khoảng không,

thời gian vô hình đang siết chặt dồn ép con ngƣời vào chốn hủy diệt, tan rữa... Bản thân mình

cũng đang trôi trong dòng đời nghiệt ngã dó. Con ngƣời cảm thấy xót xa, thƣơng mọi kiếp

đời, thƣơng chính mình. Thƣơng cuộc đời chung trƣớc mắt, cuộc đời cụ thể chung quanh. Ở

đâu cũng có những cảnh thƣơng tâm đau lòng. Con ngƣời buộc mình

64

với những nỗi đau đời ấy và luôn cảm thấy có gì động thấu vào tận bên trong, cho nên chỉ cần

gợi lại một câu chuyện cũ cũng đủ để thấy nặng lòng.

Vãng sự bi thanh trủng (Thu chí)

(Chuyện cũ bi thƣơng nấm mồ cỏ xanh)

Một bãi cỏ xanh, mội đám bụi hồng... Cũng dâng lên trong lòng ngƣời một nỗi buồn

rợn ngợp.

Nam phố thƣơng tâm khan lục thảo (Xuân nhật ngẫu hứng)

(Đau lòng nhìn bãi cỏ xanh ở bến Nam)

Trƣớng vọng hồng trần diễu vô tế (Từ Châu đổ thƣợnng vọng)

(Buồn trông đám bụi hồng mờ mịt không bờ bến)

Trên con đƣờng đời đầy gió bụi đó, con ngƣời đã chứng kiến biết bao kiếp đời đau

khổ trong đó có cả những sinh vật nhỏ bé: con chó vì tham tiền mà chết, con ngựa già bị

ruồng bỏ, con bƣớm chết trong sách, một cánh hoa rơi, một ngọn cỏ bị đốt cháy, bị đẩy

sạch... Trong cuộc sống, con ngƣời luôn quý trọng thời gian tồn tại của đời ngƣời. Đặc biệt là

những giây phút hạnh phúc dù đơn sơ nhất. Đó là sự thanh thản của ông hàng xóm với be

rƣợu quả cam (Xuân nhật ngẫu hứng); là sự thƣ giãn thoải mái tuyệt điệu của ông chài gối

thuyền dƣới trăng (Hoàng Mai kiều vãn điểu); là sự thong dong sảng khoái của trẻ mục đồng

cƣỡi trâu ung dung thổi sáo trƣớc làn giỏ (Lạng sơn đạo trung); là lao động đời thƣờng nhẹ

nhàng êm ái của bác tiều bác ngƣ (Thanh quyết giang vãn diểu); là giấc ngủ vô tƣ êm đềm

trong mây trắng của những ngƣời lánh xa thế tục (Lạng sơn đạo trung, Vọng Thiên thai tự,

Vọng Quan Âm miếu)... Con ngƣời khao khát, mong muốn có đƣợc những giây phút vô tâm

vô sự nhƣ thế. Khao khát mong muốn nhƣng chƣa bao giờ con ngƣời đạt đƣợc. So với ngƣời

hàng xóm ngồi xe nhỏ cƣỡi ngựa hèn, con ngƣời cảm thấy thẹn vì mình với ngƣời quá xa

cách. Không phải xa cách về địa vị thấp hèn hay cao sang mà xa cách về sự không vƣớng

bận, sự tự do nội tâm. Giây phút hạnh phúc thong dong đâu dễ gì có đƣợc

65

trong thời buổi loạn lạc nhiễu nhƣơng. Con ngƣời cứ phải sống trong thấp thỏm, lo đói, lo no,

lo sống, lo chết... Số phận họ hết sức mỏng manh. Rõ ràng tƣơng lai đen tối đang chờ đón

ông già mù hát rong, mấy mẹ con ngƣời hành khất, những ngƣời dân chạy loạn, những ngƣời

lao động chân tay nghèo khổ... Ở họ ranh giới giữa cái sống và cái chết chƣa đƣợc phân định

rõ ràng, họ đang sống đó nhƣng nguy cơ của cái chết đang đến gần. Không gì và không ai có

thể bảo đảm đời sống cho họ. Cái mong manh ấy thể hiện rõ qua từng thái độ, dáng vẻ, hành

động, cử chỉ... của những con ngƣời đau khổ.

Hãy nhìn vào bàn tay run run dò tìm chỗ ngồi, sờ soạng nắn phím so dây, tạ ơn chúc

phúc nghìn lần của ông già mù hái rong.

Mô sách dẫn thân hƣớng tọa ngung

Tái tam cử thủ xƣng đa tạ (Thái bình mại ca giả)

(Ông già sờ soạng đến ngồi vào một góc

Hai ba lần giơ tay lên thi lễ tạ ơn)

Dáng điệu rầu rỉ vỗ về con trong cơn đói khát của ngƣời mẹ hành khất

Kiến nhân bất ngƣỡng thị

Lệ lƣu khâm lang lang (Sở kiến hành)

(Thấy ngƣời không dám ngƣớc nhìn lên)

Nƣớc mắt chảy ròng ròng trên vạt áo)

Sắc mãi tiều tụy của những ngƣời dân khốn khổ chạy loạn, đói khát.

Đại nam tiểu nữ tần cơ sắc

Khang tì vi thực lê vi canh (Trở binh hành)

(Trai lớn gái bé đều có sắc mặt ốm đói)

Tấm cám làm cơm, rau lê làm canh).

Tất cả những ngƣời khốn khổ đều có nỗi bất hạnh giống nhau.

Hồi xứ thôi xa hán

Tƣơng khan lục lục đồng (Hà nam đạo trung khóc thử)

66

(Anh chàng đẩy xe kia ở đâu nhỉ

Nhìn nhau thấy vất vả nhƣ nhau)

Họ ở đâu, họ là ai, không cần phân biệt, chỉ biết họ khổ và vất vả. Họ có bản chất tốt

đẹp nhƣng cuộc đời họ trần trụi khổ ải, thật đáng thƣơng.

Hữu nhất nhân yên lƣơng khả ai

Phá y tàn lạp sắc nhƣ hôi (Ngẫu hứng V)

(Có một ngƣời kia thật đáng thƣơng

Áo rách nón xơ sắc mặt xám tro)

Dã túc phùng tiều giả

Tƣơng liên bất tại đồng (Phƣợng hoàng lộ thƣơng tảo hành)

(Trọ nơi đồng quê gặp ngƣời hái củi

Thƣơng nhau không cứ ở chỗ giống nhau)

Tất cả họ đều là những ngƣời khốn khổ và bất cứ ở đâu Trung Quốc hay ở ta đều cùng

tồn tại những bất công phi lý. Ở đây nhân vật trữ tình Nguyễn Du bày tỏ quan điểm của mình

rằng: quần chúng lao động là những ngƣời vất vả nhất, đau khổ nhất, chịu thiệt thòi nhiều

nhất. Và vì cùng là những con ngƣời cùng khổ nên giữa ta và ngƣời Trung Quốc có những

nét giống nhau thậm chí còn có cảm tình với nhau, bởi vì họ cũng cổ những nét ngộ nghĩnh

đáng yêu:

Hồ tê vi lộ tiếu nam di (Thƣơng ngô trúc chi ca V).

(Hàm răng hạt bầu hé cƣời vì thấy ta là ngƣời phƣơng Nam).

Họ cũng nhớ hàng nghìn hàng vạn nông dân Việt Nam nghèo đói từ trƣớc Cách mạng,

những con ngƣời hầu nhƣ lúc nào cũng đứng trƣớc nguy cơ rơi xuống thân phận của kẻ hành

khất ăn xin, vứl xác nơi ngòi rãnh.

Nhƣ vậy, với cách nhìn trên, rõ ràng nhân dân cùng khổ đã có một chỗ đứng hết sức

vững chắc trong lòng Nguyễn Du. Động đến nhân dân nhƣ động đến đƣờng tơ sâu nặng nghĩa

tình, dù đó là nhân dân nƣớc mình hay nƣớc khác. Ông không thể bƣớc đi một cách hững hờ

nhƣ khách qua đƣờng, không thể nghe

67

Tây Hồ ở Hàng Châu

một cách lạnh nhạt câu chuyện thƣơng tâm. Ông nghiêng xuống họ một cách chân thành bởi

chính ông và những ngƣời thân của ông cũng đã từng đói rét, từng để cho ngƣời khác phải

thƣơng hại mình. Cái quý nhất ở ông là xem tàt cả những ngƣời cùng khổ có nỗi bất hạnh

giống nhau. Dù ông là một ông quan, khác rất xa đối với họ nhƣng ông vẫn là ngƣời gần gũi

nhất, thấu hiểu nhất về thân phận của họ, "khác nhau" mà "thƣơng nhau" là thế.

Hình lƣợng con ngƣời đau khổ còn là hình ảnh những ngƣời phụ nữ tài hoa mà bạc

mệnh. Họ dù là hạng ngƣời nào: một bà phi, một cô hầu, một cô bé ngây thơ hay một ngƣời

kỹ nữ... đều đƣợc Nguyễn Du hết sức trân trọng. Nhiều nhà nghiên cứu phê bình đã nhận thấy

Nguyễn Du có cảm tình đặc biệt với phụ nữ. Viết về họ tay bút của ông chừng nhƣ uyển

chuyển hơn, nhẹ nhàng hơn. Có lẽ thế! Từ nàng Đạm Tiên, Cô Kiều trong Truyện Kiều, từ

các cô gái buôn nguyệt bán hoa trong Văn Chiêu hồn, đến nàng Tiểu Thanh, Cô cầm, ngƣời

hầu cũ của em, cô gái ở đất La Thành, cô gái hái sen ở Hồ Tây, ngƣời đẹp cách tƣờng cao,

các cô gái đẹp ở đất Thƣơng Ngô, Quảng tế, cô gái cài hoa vàng, ngƣời đàn bà giận chồng,

ngƣời đàn bà trong đá vọng phu, các bà phi vợ Vua Thuấn, chị em Tiểu Kiều, Đại Kiều thời

Tam Quốc, Dƣơng Quý Phi, Ngu Cơ, Chiêu Quân, ba ngƣời đàn bà ở miếu Tam Liệt... và đặc

biệt là hình ảnh ngƣời vợ hiền đầu gối tay ấp của nhà thơ... tất cả họ đều mang chung một nét

rất đậm là họ rất đẹp, họ tài hoa và dĩ nhiên bất hạnh.

Nguyễn Du trân trọng từ những nét đơn sơ giản dị nhất, ông vẽ lại họ chỉ bằng những

nét chấm phá, ngƣời đọc vẫn thấy sự chăm chút nơi ông: Một cô gái thôn dã ngày xuân ra

giếng kéo nƣớc. Chỉ cần điểm xuyết không khí xuân và màu ngọc trong của giếng, cô gái trở

nên đẹp và xinh tƣơi hơn bao giờ hết.

Cấp nữ đồng liên ngọc tĩnh xuân (Sơn thôn)

(Cô gái kéo gàu nƣớc ở giếng ngọc ngày xuân)

Cô gái hái sen trong mộng mới dễ thƣơng làm sao! Bóng ngƣời chƣa thấy đã thấy

tiếng cƣời nói bên hoa. Buổi sáng trong veo, tiếng cƣời trong veo, sen

68

Hoa Thanh trì (Nơi Dương Quý Phi tắm)

đẹp, ngƣời hàng xóm hái sen càng thêm đẹp (Mộng đắc thái liên III). Hay mội giây phút mơ

màng, xao lòng trƣớc hình ảnh ngƣời đẹp xa vời cách tƣờng cao chợt một lần trông thấy

(Ngẫu thƣ công quán bích I). Hoặc hình ảnh một cô gái ngây thơ đầu cài hoa vàng mải miết,

ham vui đứng giữa mũi thuyền không tránh ngƣời lên xuống (Thƣơng ngô Trúc chi ca XI).

Rồi đến các cô thiếu nữ nơi phồn hoa đô hội, quần là áo lƣợt, tóc bới cao, đầu cài lông chim

thúy... đẹp nhƣ tiên dễ khiến lòng ngƣời điên đảo (Thƣơng ngô trúc chi ca XIV, Quảng tế ký

thắng)...

Đối với những ngƣời phụ nữ danh tiếng, Nguyễn Du thật sự ngƣỡng mộ. Hình ảnh hai

bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh vợ vua Nghiêu - Thuấn đi tìm chồng ngồi khóc bên bờ sông

Tƣơng... làm con ngƣời thơ Nguyễn Du xúc động. Có 4 bài thơ nhắc đến hai bà. Ông đã lên

gác thắp hƣơng, đã rót rƣợu và đã trầm ngâm tƣởng tƣợng ra tiếng đàn của hai bà (Thƣơng

ngô tức sự, Thƣơng ngô mộ vũ, Thƣơng ngô trúc chi ca III, VIII). Ông cũng rất trân trọng ba

ngƣời phụ nữ trung trinh tiết liệt, tấm gƣơng sáng đó nghìn đời còn sáng tỏ (Tam liệt miên).

Dƣơng Quý Phi, sắc đẹp nghiêng nƣớc nghiêng thành bị đổ tội oan, chỉ vì cả triều đình nhƣ

phổng đứng, bài tài không đuổi đƣợc giặc (Dƣơng Phi cố lý). Tiếng hát và cỏ Ngu Cơ ngàn

năm vẫn còn và vẫn xanh, còn cơ đồ nghiệp bá của Hạng Vũ vùi dƣới lớp cát mỏng, muôn

đời để lại tiếng bàn tán khen chê (Sở Bá Vƣơng mộ) ... Nguyễn Du quả thật có con mắt nhìn

sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời, một tâm hồn nhạy cảm phong phú luôn đến với mọi

lớp ngƣời.

Nguyễn Du đặc biệt thƣơng cảm đối với những ngƣời phụ nữ tài hoa nhƣng bất hạnh.

Tất cả họ đều là ngƣời có tài có sắc, nức tiếng một thời. Đó là nàng Tiểu Thanh, ngƣời ca nữ

đất La Thành, ngƣời hầu cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành... Thời tuổi trẻ các nàng tài

sắc không thua kém ai

Nhất chi nùng diễm há bồng doanh

Xuân sắc yên nhiên động lục thành (Điếu La Thành ca giả)

(Một cành hoa nồng thắm từ cõi tiên sa xuống

Sắc đẹp xuân tƣơi làm rung động cả sáu thành).

Hồng trang yểm ái đào hoa diện

69

Đà nhan hám thái tối nghi nhân (Long Thành cầm giả ca)

(Ao hồng cũng bị mờ nhạt đi trƣớc về mặt hoa đào

Má hồng men rƣợu vẻ ngây thơ rất đáng yêu)

Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển (Ngộ gia đệ cƣu ca cơ)

(Từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng)

Nhƣng rồi ngƣời ca nữ đất La Thành chết trẻ, Tiểu Thanh oan thác, ngƣời hầu cũ của

em tàn lạ rách nát, Cô cầm tiều tụy xác xơ ... Hình ảnh ấy gây một mối thƣơng tâm lớn lao

trong Nguyễn Du. Những con ngƣời tài hoa không dễ dàng tồn tại một cách bình yên trong

cuộc đời. Ông đã từng nói "Ngựa hay không chết già, liệt nữ không chết bệnh, ngƣời có khí

phách khác thƣờng thì trời đất không có chỗ dung" (Điệu khuyển). Quả đúng nhƣ vậy, Tiểu

Thanh không chịu nỗi đòn ghen của vợ cả, ngƣời ca nữ đất La Thành tìm đến cái chết vì

không ai hiểu mình. Còn cô Cầm một thời nổi danh vào bậc nhất chốn Kinh thành thì bây giờ

tàn tạ, gầy còm, ngồi nép bên góc chiếu, dáng tội nghiệp. Ngƣời hầu cũ của em ngày xƣa

xinh đẹp, giọng ca có một không hai, bây giờ đã lấy chồng, có ba con mà đáng thƣơng thay

nàng vẫn còn mặc chiếc áo cũ từ ngày ra đi. Thật là đau xót! Cô gái đất La Thành và nàng

Tiểu Thanh, Nguyễn Du nghe chuyện rồi cảm xúc thành thơ. Còn cô Cầm và ngƣời hầu cũ

của em ít nhất hai lần Nguyễn Du đã giáp mặt. Một lần lúc họ còn trẻ và là một lần lúc nhan

sắc của họ đã phai tàn. Họ là những ngƣời quen biết cũ. Nguyễn Du thƣơng tâm, đau lòng

trƣớc cái đẹp đã không còn tồn tại. Ông nặng lòng với họ nhƣ cọng sen đứt vẫn còn những

sợi tơ bền luyến lƣu, càng kéo càng dài ra mãi không dứt đƣợc. Cái nhìn của ông xuyên

ngƣợc thời gian để khóc cho chiếc áo cũ cho tiếng đàn xƣa. Xót ngƣời rồi chạnh đến ta. Nàng

đã ba con, ta cũng đầu đã bạc, nhan sắc nàng tàn phai, đầu ta cũng bạc trắng. Những cô gái

xinh đẹp quen biết trƣớc kia cũng vậy, nay họ đã thành mẹ bế con; những bạn bè thân chơi

thƣở trƣớc, nay đều làm ông, làm bố (Thăng Long I). Thời gian đã cƣớp đi tất cả, chậu nƣớc

đỗ đi sao hốt lại đƣợc, thành quách còn suy di huống gì là con ngƣời? Biết thế nhƣng Nguyễn

Du vẫn thấy nó quá khắc nghiệt, vẫn thấy đau lòng.

70

Thƣơng tâm vãng sự lệ triêm y (Long Thành cầm giả ca)

(Đau lòng việc cũ nƣớc mắt thấm áo)

Nguyễn Du rất quý trọng cuộc sống, dù có lần ông đã nói "...Chết cũng đƣợc chẳng

sao" (Giang đầu tản bộ I). Đó chỉ là cách nói. ông yêu cuộc sống, hơn nữa là cuộc sông hạnh

phúc, còn cuộc sống tạm bợ, dang dở là cuộc sống bỏ đi. Vì vậy khi nhìn đá vọng phu, hóa

thân của ngƣời phụ nữ ôm con chờ chồng đứng mãi trên đầu núi ngàn năm (Vọng phu thành)

ông thật sự xúc động. Cả đời ngóng tin chồng, muôn kiếp vắng bặt giấc mộng mây mƣa, chỉ

còn lại duy nhất chữ trinh. Và ngƣời đọc thấy rõ hơn từ trong sâu thẳm của chữ trinh ấy là

thiệt thòi của cả mội đời. Đúng nhƣ LƣuTrọng Lƣ đã nói: "đối với cái tƣợng chờ chồng của

Nguyẽn Du không phải ngƣời đời chỉ cám cảnh đau thƣơng mà cuối cùng nhƣ chỉ muôn xô

ngã đi, không muốn cho cái cảnh đau lòng đó còn mãi giữa cuộc đời" [57:115]. Cái nhìn của

Nguyễn Du thấu tình đạt lý đi sâu vào tận ngõ ngách của tâm hồn ngƣời. Ông luôn có những

ý nghĩ hết sức độc đáo, thể hiện lòng thƣơng ngƣời triệt để không bao giờ vơi cạn.

Hình ảnh ngƣời vợ trong thơ cũng là một hình ảnh đẹp, các nhà thơ thƣờng ít ca ngợi

vợ. Họ chỉ ca ngợi vợ khi vợ đã qua đời. Nguyễn Kiều, Bùi Hữu Nghĩa có câu đối viếng vợ ;

Tự Đức có thơ khóc Bằng Phi; Ngô Thì Nhậm, Cao Bá Quát có thơ ca ngợi công lao của

vợ...Nguyễn Du không kể công lao vợ nhƣ những ngƣời khác mà thực sự nghĩ về vợ bằng tất

cả nỗi nhớ nhung xuất phát từ tình yêu. Bài Ký mộng đã cho thấy điều đó. Điều gì thƣờng

nghĩ đến và mong ƣớc nhiều tất dễ đi vào trong mộng. Nguyễn Du xa nhà năm tháng phiêu

bạt, ngƣời vợ hiền chắc là chờ đợi héo hon. Ông đã hình dung ra điều ấy. Gặp lại vợ trong

giấc mơ, bao nhiêu nỗi niềm trong tƣởng tƣợng đƣợc dịp tuôn chảy dạt dào. Ngƣời vợ từ quê

hƣơng lặn lội tìm chồng nơi bên sông, nhan sắc vẫn nhƣ xƣa lũy áo quần có hơi xốc xếch.

Xốc xếch vì bệnh hoạn, vì vợ chồng xa nhau lâu. Thêm nữa, vốn không biết đƣờng mà núi

Tam Điệp nhiều hổ báo, sông Lam lắm thuồng luồng, đƣờng đi hiểm trở... vẽ ra bao nhiêu lý

do đó để thấy chuyện tìm chồng của vợ là cực kỳ khó khăn, nhƣng nhớ nhau quá đành phải

liều. Nàng không dắt con chạy loạn nhƣ vợ Ngô Thì Nhậm, không thăm chồng bị giam giữ

71

nhƣ vợ Cao Bá Quát, không muôn dặm một thân liều chết minh oan cho chồng nhƣ vợ Bùi

Hữu Nghĩa... nàng chỉ có một lý do duy nhất là nhớ chồng. Ôi tình cảm mới đẹp và sâu nặng

làm sao! Vợ Nguyễn Du đã vƣợt qua tất cả, cả khuê môn, lẫn đƣờng xa vất vả chỉ để nói lên

tiếng nói tình yêu. Tình tứ biết bao! Điều này cũng thấy đƣợc ở thơ Cao Bá Quát. Cao Bá

Quát là ngƣời luôn bực bội chốn quan trƣờng, ngao ngán trƣớc hiện thực, chỉ chăm chăm một

việc lớn lao là "xây bạch ốc lại lâu đài" ấy vậy mà vẫn đầy ắp tình yêu ngọt ngào để "vọng

mỹ nhân hề thiên nhất phƣơng". Cƣời cợt vua chế giễu quan lại... vẫn không quên dành một

góc tâm hồn đầy hƣơng hoa cho ngƣời vợ hiền tấm mẵn.

Tiểu kính ký viễn khiếp

Hàn y lƣu cố phƣờng

Trì thử các tự úy

Bất khiển lƣỡng tƣơng vƣơng (Tự quân chi xuất hỷ)

(Chiếc gƣơng nhỏ gửi vào tráp ngƣời đi xa. Tấm áo rét để lại trong phòng cũ. Giữ

những vật ây để cùng tự yên ủi. Không để cho đôi ta quên nhau)

Họ nhƣ là những ngƣời mới yêu nhau. Nguyễn Du hiện thực hơn dù chỉ là trong

mộng. Trong mộng mà còn "không biết rõ thực hay hƣ". Khi tỉnh giấc rồi gió thổi lạnh lùng

ngƣời đẹp không thấy nữa, lúc bây giờ mới thấy tình vẫn vƣơng rối nhƣ tơ.

Mỹ nhân bất tƣơng kiến

Nhu tình loạn nhƣ ti

Không ốc lậu tà nguyệt

Chiếu ngã đan thƣờng y (Ký mộng)

(Ngƣời đẹp không thấy nữa. Tình vẫn vƣơng rối nhƣ tơ. Trăng xế vào nhà trống.

Chiếu lên tấm áo đơn của ta).

Chữ dùng ở đây quả đã diễn đạt đƣợc hết tâm tình của ngƣời yêu đối với ngƣời yêu.

Lòng rối nhƣ khi ngƣời đẹp đã đi rồi, lại thêm ánh trăng xế lọt vào mái nhà trống chiếu lên

tấm áo đơn thì nỗi nhớ nhung sau cơn mộng càng thêm chất ngất. Chắc rằng cả hai đều là

ngƣời đau khổ.

72

Những bậc hiền tài cũng là đối tƣợng quan tâm của nhà Ihơ. Đọc hết sử sách, đi khắp

Trung Quốc nghe danh ngƣời tài, Nguyễn Du rất ngƣỡng mộ. Hàng loạt bài thơ dành cho

những Hoàng Sào, Cù Các Bộ, Liễu Tông Nguyên, Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Lý Bạch, Hàn

Tín, Văn Thiên Tƣờng, Âu Dƣơng, Bùi Tấn Công, Tỉ Can, Lạn Tƣơng Nhƣ, Liêm Pha, Dự

Nhƣợng, Kinh Kha, Liễu Hạ Huệ, Chu Lang, Hai ông họ Sơ... Họ đều là những ngƣời tiếng

tăm lừng lẫy trong lịch sử Trung Quốc. Tất cả đều đƣợc ông yêu mến và có thái độ kính trọng

thật sự. Ông thay mặt đất nƣớc Trung Quốc tổng kết những giá trị văn hóa truyền thống

thông qua nhƣng nhân vật lịch sử này.

Xƣa nay ngƣời tài thƣờng hiếm, lại hay bị trời đất ghen ghét. Nguyễn Du mến họ vì

họ là những ngƣời trung nghĩa, yêu nƣớc thƣơng nòi, trọng dân kính chúa, một đời vì nghĩa

lớn quên mình, một lòng tận trung báo nƣớc. Ông hết lời tuyên dƣơng họ và nêu bật đƣợc

những nét tích cực nhất của họ. Ông ca ngợi Cù Thức Trĩ ở Quế Lâm tuẫn tiết giữ thành,

nghìn năm nằm dƣới đất tóc ông vẫn dài nhát định không chịu hàng phục nhà Thanh (Quế

Lâm Cù Các Bộ). Ông thông cảm cho Liễu Tông Nguyên, một trong bát đại danh gia, thƣơng

cho số kiếp đày đọa của con ngƣời tài hoa, thấu hiểu vì sao cỏ cây khe suối nới ông ở đều có

tên là Ngu (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch). Qua sông Hoài nhớ Hàn Tín, chuyện thắng

thua thành bại của Hàn Tín, Nguyễn Du không luận bàn chỉ nhắc đến nghĩa cử cao đẹp: đền

ơn Phiếu mẫu, tình nghĩa đối với vua... theo Nguyễn Du đó là nghĩa trọng tình thâm (Độ hoài

hữu cảm Hoài âm hầu tác). Cũng trên sông Hoài, lịch sử còn ghi danh Văn Thiên Tƣờng tác

giả "Chính khí ca" nổi tiếng, Nguyễn Du vừa phục tài thơ và thâm cảm chính khí của ngƣời

anh hùng dân tộc thời Nam Tống (Độ Hoài hữu cảm Văn Thừa tƣớng). Ông cũng ca ngợi Âu

Dƣơng, ngƣời đƣợc mệnh danh là Hàn Phi đời Tống. Âu Dƣơng là ngƣời tài giỏi, tính cƣơng

trực thẳng thắn, làm quan thanh liêm, không đƣợc lòng bọn quyền quý, nhiều lần bị giáng

chức vẫn hết lòng can Vua. Đó là một ngƣời vừa có tài vừa có đức. (Âu Dƣơng Văn Trung

Công mộ). Bùi Tấn Công cũng vậy, tƣớng mạo tầm thƣờng mà văn võ song toàn, một đời xả

thân cống hiến nhƣng cứ bị bọn hoạn quan lộng quyền, phải cáo quan về nghỉ (Bùi Tân Công

mộ). Tỷ

73

Nhạc vương miếu ở Hàng Châu

Can, Liêm Pha, Dự Nhƣợng, Kinh Kha đều là những bề tôi trung nghĩa. Tỷ Can chết một gò

cây cỏ đều đƣợc thành nhân. Lạn Tƣơng Nhƣ là bậc đại dũng không cần đến sức mạnh mà có

thể bảo đảm cho nƣớc Triệu không trở thành gò đống. Liêm Pha nghìn thuở tên tuổi vẫn còn

truyền. Kinh Kha một lần ra đi làm lạnh cả dòng nƣớc sông Dịch. Gƣơng trung liệt của Dự

Nhƣợng nghìn đời còn ghi... Nguyễn Du không chỉ thƣơng cảm số phận bi đát của họ mà ông

còn khâm phục họ là những bậc hiền tài, dẫu họ chết cách nào: hi sinh, bị hại, bị lƣu đày...

Đứng trƣớc mộ, ngƣời xƣa, mấy nén hƣơng tƣởng niệm, lau chùi bia, chảy nƣớc mắt... thậm

chí xuống cả xe để tỏ lòng kính trọng. Nguyễn Du thật chí tình.

Chí tình và sâu sắc hơn nữa là đối với những ngƣời mắc một nỗi oan lạ lùng nhƣ

Khuất Nguyên, Đỗ Phủ, Nhạc Phi ... Ông tự xem mình cùng hội cùng thuyền, tự ngồi vào

ngã tự cư con thuyền số mạng chòng chành của những nhân vật sống cách ông hàng nghìn

năm. Nguyễn Du đau đớn thay Khuất Nguyên, nuốt tủi thay Đỗ Phủ, ngậm hờn thay Nhạc

Phi... Đó là những ngƣời tài, một sớm một chiều bị số phận vùi dập. Họ sống giữa đời ôm tài

nuốt tiếng, thân xác biến thành tro lạnh, tài hận mang theo. Nguyễn Du thƣơng, đau hận thét

lên thay họ.

Có đến 6 bài thơ Nguyễn Du nói đến Khuất Nguyên. Chừng nhƣ trong khuôn khổ một

bài thơ khí trầm uất không thoát ra đƣợc, Nguyễn Du phải viết nhiều lần ở nhiều bài mới có

thể giải tỏa đƣợc phần nào nỗi lòng, nhƣng lời thơ thì vẫn nặng trịch, đau điếng, tê dại.

Nguyễn Du coi Khuất Nguyên nhƣ một tƣợng trƣng đau đớn về số phận con ngƣời tài hoa mà

bất hạnh. Con ngƣời suối cuộc đời "tỉnh một mình" kia luôn là nhân chứng mạnh mẽ thuyết

phục cho chế độ khắc bạc với ngƣời tài. Hoa lan, hoa chỉ là loại cỏ thơm tƣợng trƣng cho tấm

lòng cao khiết mà Khuất Nguyên thƣờng đeo bên mình đƣợc Nguyễn Du nhắc lại nhiều lần

biểu hiện sự tri âm tri kỷ. Ông phản đối hết tất cả những gì ngƣời khác không hiểu vế Khuất

Nguyên. Tống Ngọc cho là hồn phách Khuất Nguyên sắp tiêu tan nên gọi hồn về để có nơi

nƣơng tựa, Nguyễn Du cho rằng khắp mặt đất này đâu đâu cũng là Mịch La, ai ai cũng là

Thƣợng quan thì làm gì có chỗ cho ngƣời có cái tâm trong suốt kia có chỗ tựa nƣớng. Tống

Ngọc gọi hồn về, Nguyễn Du khuyên hồn hãy sớm thu linh thần vào cõi hơ vô, đừng trở lại

đây mà

74

Tượng Nhạc Phi ở Hàng Châu

ngƣời ta mai mỉa (Phản chiêu hồn). Giả Nghị luận bàn có ý chê Khuất Nguyên ôm lòng cô

trung, không đi khắp chín châu mà tìm vua khác. Nguyễn Du bác bỏ ý kiến này và cho rằng:

"Không đọc Hoài Sa phú, không hiểu đƣợc lòng Khuất Nguyên" (Biện Giả). Làm sao Giả

Nghị có thể hiểu đƣợc một cách sâu sắc rằng Khuất Nguyên không có chấp ôm lấy nƣớc cũ...

mà Khuất Nguyên khổ vì Sở Hoài Vƣơng tin vào bọn nịnh thần, mắc mƣu Tần vƣơng để cho

mất nƣớc. Nƣớc đã mất, nhà đã tan thì còn sống làm gì nữa, có vua nào thay thế Sở Hoài

Vƣơng để lấy lại nƣớc đâu? Không đơn giản nhƣ suy nghĩ của Giả Nghị. Ngày mồng 5 tháng

5 hàng năm ngƣời dân Trung Quốc kỷ niệm Khuất Nguyên bằng cách tổ chức đua thuyền

tƣợng trƣng cho việc tìm xác ông - Nguyễn Du không cho đó là một cách hiểu Khuất Nguyên

và thƣơng tiếc ông thật sự, mà đấy chỉ là tự bày trò mua vui, nắm xƣơng tàn của Khuất

Nguyên cá rồng đã rút rỉa còn đâu mà tìm (Ngũ nguyệt quan canh độ) .

Với Nhạc Phi, Nguyễn Du khâm phục một con ngƣời văn võ toàn tài, tận trung báo

quốc, một sớm một chiều bị hại chết bởi tên gian thần Tần Cối. Qua Yến thành nơi Khạc Phi

đóng quân Nguyễn Du buồn rầu cho tình đời, mƣời năm chiến đấu xả thân chỉ đƣợc cái việc

bị giết chết mội cách tàn nhẫn nơi đình Phong ba để triều đình tạ tội với ngƣời Kim (Yển

Thành Nhạc Vũ Mục ban sƣ xứ). Nguyễn Du nói một cách chua chát, ngao ngán cho lòng

ngƣời. Ngƣời trung đến thế mà chết oan đến thế. Qua núi Thê Hà nơi có mộ Nhạc Phi, ông

lặng lẽ nhìn bỗng núi chìm khuất trong khói chiều con ngƣời thế ấy, lừng danh thế ấy cuối

cùng chẳng còn đƣợc gì, cây tùng cây bách vẫn hiên ngang lao vào gió bão, lãng miếu cũ trơ

vơ đứng đó chỉ thêm buồn (Nhạc Vũ Mục mộ).

Với Đỗ Phủ, nhà thơ lớn đời Đƣờng, Nguyễn Du có sự đồng cảm sâu sắc. Nguyễn Du

yêu mến Đỗ Phủ, thân thiết với Đỗ Phủ nhƣ ngƣời bạn cùng thời. Hoàn cảnh hai ngƣời rất

giống nhau: một đời trôi giạt, nghèo đói cầu thực tha phƣơng, lận đận chốn quan trƣờng, yếu

đuối bệnh tật, giỏi làm thơ... Nguyễn Du coi Đỗ Phủ là bậc thầy của muôn đời và bản thân

ông "Trọn đời khâm phục chẳng chút đơn sai" ... "Ban đêm mộng hồn thƣờng nhập vào thơ

Thiếu lăng". Mỗi lần nhắc đến Đỗ Phủ là mỗi lần rơi nƣớc mắt.

75

Thiếu Lăng thảo đường ở Tứ Xuyên

Dị đại tƣơng liên không sái lệ (Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu lãng mộ II)

(Lại một lần khóc thƣơng cho ngƣời đất Đỗ Lăng nghìn năm trƣớc)

Ông cảm thông cho cái nghèo cay cực của Đỗ Phủ hỏi chính ông cũng đã từng bị cái

nghèo đẫn đến bƣớc đƣờng cùng. Nếu Đỗ Phủ lúc trời đông giá rét phái lặn lội vào rừng đào

củ mài cho gia đình ăn đỡ đói, thì Nguyễn Du cũng đã từng có mƣời miệng trẻ đói, mặt xanh

nhƣ rau. Nguyễn Du rất hiểu cái "bất khả văn" của Đỗ Phủ trƣớc cảnh "nam nữ thân ngâm"

Nguyễn Du không giải thích nổi cái nghèo của Đỗ Phủ kể cả của chính mình. Ồng nghĩ

không lẽ lại giỏi làm thơ?

Nhất cùng chí thử khởi công thi (Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu Lăng mộ I)

(Cùng quẫn đến nhƣ thế có phải vì giỏi làm thơ ?)

Văn chƣơng quang diệm thành hà dụng? (Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu lãng mộ II)

(Văn chƣơng ngời sáng dùng đƣợc vào việc gì?)

Hỏi nhƣng có lẽ Nguyễn Du cũng đã hiểu vì sao con ngƣời lại gánh lấy nỗi đau nhƣ

thế. Xã hội đảo điên, lòng ngƣời li tán, ngƣời trung có ít, kẻ nịnh quá nhiều. Giàu sang phú

quý xƣa, nay vẫn là miếng mồi cho sự tranh đoạt... thì những kẻ sống trung thực, giàu lòng

thƣơng ngƣời, luôn trăn trở suy tƣ cho kiếp ngƣời chắc chắn sẽ bị ném ra bên lề của cuộc

sống. Sống cách nhau hàng nghìn năm tâm sự vẫn giống nhau là thế.

Vƣợt lên trên sự thƣơng yêu đồng cảm là sự nhập thân mình vào ngƣời để thấy hết nỗi

đau ngƣời gánh chịu cũng nhƣ chính ta cố tìm lối thoát mà không thể nào bứt phá đƣợc. Đó là

việc mọi ngƣời ai cũng khen Đỗ Phủ là bậc thầy về thơ trăm năm, chỉ riêng Nguyễn Du nghĩ

tới nấm mộ cô đơn của Đỗ Phủ gởi nơi đất khách (Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu lăng mộ II). Ngƣời ta

ai cũng "sống gởi thác về" Đỗ Phủ mất nơi quê ngƣời, 40 năm sau con cháu ông mới cải táng

hài cốt ông về quê nhà. Đó là một điều cực kỳ đau khổ của ngƣời xƣa. Sống đã trôi giạt tha

phƣơng, chết cũng không đƣợc yên nơi yên chỗ. Nguyễn Du dùng câu "Độc bi dị vực ký cô

phần" để biểu hiện cái "bi" của mình đối với Đỗ Phủ, quả là có sự cộng hƣởng lớn lao giữa

hai tâm hồn nghệ sĩ. Độc là một mình, có nghĩa là trên đời này chỉ có một mình tôi. Mỗi một

mình tôi buồn (bi) cho ông. Buồn cái gì ? Buồn

76

cho nấm mộ (phần); nấm mộ cô đơn (cô phần) của ông gởi (ký) ở nơi đất khách (dị vực).

Nghĩa cả câu: Riêng tôi buồn cho nấm mồ cô đơn của ông gởi nơi đất khách. Câu thơ 7 chữ,

4 thanh trác trong đó có 3 thanh nặng kéo xuống, gây âm hƣởng đục nặng (độc, dị vực) khiến

cho câu thơ có gì đó nhƣ uất nghẹn, trầm thống, động thấu đến tận bên trong con tim khối óc

ngƣời đọc. Từng tầng lớp nối tiếp đắp thêm, chất cao lên để cho sự bi phẫn lên đến tột cùng.

Nấm mồ ấy, sự cô đơn ấy, cái dật dờ nơi đất khách ấy đã làm bật lên kiếp sống đày đọa của

một con ngƣời tài hoa. Ngƣời ta khen ông nhƣng không hề chia xẻ cùng ông nỗi đau cùng

cực ấy. Nguyễn Du buồn, bi phẫn thay cho Đỗ Phủ. Ngƣời sao lúc sống đã khổ, chết rồi vẫn

khiến cho ngƣời khác phải rơi nƣớc mắt. Nhƣng Nguyễn Du cũng chỉ buồn, thƣơng thế thôi,

bản thân ông rồi cũng sẽ rơi vào hoàn cảnh tƣơng tự. Đâu đó thấp thoáng trong đám mây

chiều ở Lỗi Dƣơng, trên chiếc thuyền con nhiều thu tứ, Nguyễn Du thấy đƣợc cái dự cảm đến

lƣợt mình.

Xuất phát từ tình thƣơng bao la đối với mọi kiếp đời mà Nguyễn Du thƣờng lên tiếng

phê phán kẻ ác, kẻ xấu. Ông có thể vạch mặt chỉ tên một cách cụ thể hoặc nêu rõ bản chất

chung của một xã hội. Ông thấy đƣợc nguyên nhân vì đâu ngƣời hiền ngƣời tài bị hại, bị bức

chết... Vì đâu ngƣời lao động bình thƣờng phải chịu vất vả đói kém... vì đâu những cô gái tài

sắc vẹn toàn phải giữa đƣờng gãy gánh, mai một một đời... nếu không phải do bọn tham quan

ô lại tranh quyền đoạt lợi, do chế độ đa thê, quan niệm coi khinh phụ nữ hết sức lỗi thời. Tuy

Nguyễn Du chƣa nêu bật thành hệ thống nhƣng ngƣời đọc có thể tiếp nhận ngay tƣ duy ấy len

lỏi trong sự phê phán tƣởng nhƣ âm thầm nhƣng có lúc cũng rất mạnh mẽ táo bạo. Điều này

có lí do, bởi Nguyễn Du là một ông quan lớn của triều đình ông đã là "vật trong lồng củi" một

lồng củi có nhiều đố kỵ, có những con chim oanh ƣa mách lẻo, những dì gió đỏng đảnh hay

ghen... sống trong lồng củi không bệnh mà lƣng cứ phải khòm khom, thậm chí còn giả vụng

về để đề phòng thói tục. Nhƣ vậy Nguyễn Du khó lòng nói thẳng nói thật.

Tuy nhiên Nguyễn Du luôn giữ chính kiến của mình. Trong bài Kỳ lân mộ ông mắng

không tiếc lời đối với Yên Vƣơng Đệ Minh Thành Tổ, một tên vua đê tiện, gian ác. Ồng quát

luôn cả con Kỳ lân "Nếu mầy vì kẻ đó mà hiện ra thì

77

mày chỉ là đồ yêu quái có gì là đáng quý ?" Trong bài Phản chiêu hồn cũng với giọng đanh

sắc nhƣ vậy. Ông chỉ ra cả một chế độ xã hội bất công tàn nhẫn. Xã hội ấy đƣợc biểu tƣợng

qua các nhân vật nhƣ Sở Hoài Vƣơng, Thƣợng quan Ngân Thƣợng; dòng sông Mạch La, cá

rồng hùm sói... tất cả chúng nó đã hãm hại bậc trung thần. Và chúng nó mạnh lắm, nhiều lắm

không dễ gì tiêu diệt, chúng vẫn còn đó đầy dẫy: nhân nhân ... xứ xứ ... Đó là một tháii độ

sống, thái độ bất hợp tác với kẻ xấu, thậm chí không chịu cùng chung một vòm trời.

Với Tào Tháo, Nguyễn Du phê phán nhẹ nhàng hơn nhƣng không kém phần sâu sắc.

Một con ngƣời cả đời tung hoành ngang dọc xem thƣờng nhà vua, lấn át các vƣơng hầu, oai

hùm một cõi.... vậy mà lúc cuối đời bụng dạ lại nhỏ nhen "giống hệt bọn đàn bà". Xây đài

Đồng Tƣớc định bắt chị em Tiểu Kiều, nhƣng đến già Tiểu Kiều vẫn là vợ của Chu Lang

(Đồng Tƣớc đài). Dùng mƣu trí để xây 72 ngồi mộ giả thật là uổng phí. Chôn giấu kỹ để làm

gì khi tiếng xấu chất đầy trong quách? (Thất thập nhị nghi trùng). Nói nhƣ vậy Nguyễn Du

muốn cho ngƣời đời thấy rõ giá trị thực của cái đẹp. Cái xấu, cái gian ác đù có che đậy đắp

điếm thế nào, ngƣời ta vẫn thấy. Còn cái đẹp cái tốt dù không phô trƣơng, giá trị của nó vẫn

bất hủ.

Với Tô Tần cũng vậy, việc làm hay dở Nguyễn Du không nói tới chỉ chú ý đến nhân

cách của hắn ta, một nhân cách tầm thƣờng nhỏ nhen ti tiện. Đâm dùi vào vế để học, nhƣng

học để làm gì? Để mƣu cầu danh lợi, về nhà lên mặt với ngƣời thân? Cao hơn bƣớc nữa,

Nguyễn Du phê phán cả ngƣời đời nay, dù thấy gƣơng Tô Tần treo trƣớc mắt, sách chép dày

ra đó, mà họ vẫn u mê theo đƣờng danh lợi. Ấn sáu nƣớc không còn, vàng ngọc cũng mất

dấu, ngôi đình cỏ thu mọc đầy... ấy vậy mà con ngƣời vẫn ngày một lao thân vào vòng u mê

đó.

Với vợ chồng Tần Cối, kẻ đã hại chết Nhạc Phi, Nguyễn Du lại có suy nghĩ khác.

Ngƣời đời sau Nhạc Phi đã trả thù giùm ông bằng cách dựng lên hai pho tƣợng bằng sắt quỳ

trƣớc mộ Nhạc Phi để ngƣời đến viếng Nhạc Phi có thể dùng đùi đánh lên đầu hoặc phun nhổ

vào mặt... Nguyễn Du không đồng ý, ông cho rằng làm nhƣ thế chỉ tội oan cho cục sắt sống

đúc thành hình kẻ gian ác, cục sắt có tội gì đâu mà phải chịu bị chửi, bị đánh. Lại thêm tác

dụng ngƣợc lại vợ

78

Tượng vợ chồng Tần Cối ở Hàng Châu

chồng Tần Cối mãi còn đó cứng hơn sắt thép và chúng cũng bất tử cùng với ngƣời anh hùng

Nhạc Phi.

Đắc dữ trung thần đồng bất hủ

Tề thiên kỳ phúc thái vô đoan (Tần Cối tƣợng II)

(Đƣợc cùng với trung thần đồng bất hủ

Cái phúc lạ, lớn tày trời của nó thật quá vô lý)

Vợ Tần Cối cũng đƣợc bất tử. Chƣa bao giờ trong cuộc đời sáng tác của mình Nguyễn

Du lại nặng lời với phụ nữ. Phụ nữ luôn đƣợc ông trân trọng thƣơng yêu. Thế nhƣng với

Vƣơng thị ông dùng lời mỉa mai, châm biếm hết sức sâu cay. Nào là cái lƣỡi dài ba tấc, bụng

dạ sâu độc, hạng gà mái gáy sớm... nghìn năm hình hài y thị làm nhục cho nữ giới "Thiên cổ

hình hài nhục nữ nhi" (Vƣơng Thị tƣợng II).

Nhìn chung trong từng ý từng lời hiện rõ sự phê phán khá sắc nét của Nguyễn Du.

Ông sẵn sàng lên tiếng một cách mạnh mẽ và thể hiện nỗi bất bình của mình. Ông đã tổng

kết, đánh giá, hàng loạt những, vấn đề tai nghe mắt thấy và qua những tấm gƣơng tiêu biểu:

cùng khổ, tai họa, bất hạnh, tốt, xấu, gian ác... đƣợc đọc trong sách, tận tƣờng hơn khi đến

nơi, cảm đƣợc khung cảnh, nhận rõ sự việc... ông nhƣ càng sáng thêm chân lý của cuộc đời.

Cái gì có thực - tồn tại mãi. Cái gì thoáng qua - mất hút trong hư vô. Cái gì mang giá trị vĩnh

cửu, cái gì bị chôn vùi theo tháng năm... Điều đó cũng chính là nếp nghĩ và cách xử sự trong

suốt cuộc đời ông. Bởi thế cho nên trong thơ ông chữ thƣơng tràn lấp, chỗ nào cũng thây

thƣơng tâm, đau lòng. Những cảnh đời đau khổ, những ngang trái oan khiên đƣợc bàn tay

nhân ái, yêu thƣơng che chở, chí ít làm vợi đi nỗi đau. Một chút an ủi vỗ về sẽ làm nhẹ đi rất

nhiều nỗi niềm của ngƣời khác. Tục ngữ Anh có câu : "Shared happlness, double happlness,

Shared grief, half grief (Chia hạnh phúc đƣợc gấp đôi hạnh phúc, chia nỗi đau còn nửa nỗi

đau). Ý định của Nguyễn Du có lẽ là thế. Ổng muốn làm với nỗi đau cho ngƣời, tiếc rằng

trong cõi đời này niềm vui quá hiếm, còn nỗi đau thì chất đầy... một lời an ủi một thái độ cảm

thông... có thấm vào đâu? Mặt khác sự vỗ về thƣơng yêu, thái độ chỉ trích phê phán cái xấu,

cái ác... cũng là một cách vạch trần bộ mãi xấu

79

xa của chế độ xã hội đã sản sinh ra nó. Con ngƣời nhân đạo vì thế vừa có sự thƣơng cảm sâu

sắc đồng thời cũng có sự đấu tranh mạnh mẽ với cái xấu cái ác, vƣơn lên theo tầm thời đại.

*

* *

Tóm lại hình tƣợng con ngƣời nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du phản ánh rõ

nét quan niệm nghệ thuật thời đại. Tuy vẫn giữ nét truyền thống nhƣng do sự chi phối quá lớn

của thời đại mà cái nhìn con ngƣời cũng có những chuyển biến theo. Thời đại Nguyễn Du có

quá nhiều biến động tang thƣơng dâu bễ, sự sinh tồn là điều cần thiết đối với con ngƣời.

Trong khi đó lại xẩy ra những cảnh chém giết, ngƣời chết đầy dẫy khắp nơi, nạn đói, thiên tai

cũng góp phần làm cho sinh mạng con ngƣời đã nhỏ bé càng yếu đi hơn. Lại nữa con ngƣời

sinh ra lớn lên với ƣớc mơ hoài bão cao xa nhƣng xã hội cứ đắm chìm trong bon chen danh

lợi tầm thƣờng, con ngƣời thất vọng buồn chán não nề, tìm về quá khứ, lục lợi trong hiện tại

và vọng về tƣơng lai để mong cầu ... Nhƣng cũng chính ở chỗ số phận con ngƣời bị đẩy đồn

vào góc tối nhƣ thế mà con ngƣời ý thức rõ về mình hơn, có ý muôn vƣơn lên tìm hiểu sâu về

chính con ngƣời mình, tìm hiểu về các mối quan hệ trong xã hội. Con ngƣời tuy có kế thừa

quan niệm truyền thông là con ngƣời vũ trụ, con ngƣời đạo lý nhƣng do hoàn cảnh xã hội tác

động mạnh mẽ nên tính chất con ngƣời vũ trụ, con ngƣời đạo lý bị lu mờ trƣớc những đau

thƣơng mất mát quá lớn mà con ngƣời trần thế, con ngƣời công dân, con ngƣời đời thƣờng

phải gánh chịu. Những khuôn khổ chật hẹp tù túng bó buộc con ngƣời với miếng cơm manh

áo, với bệnh tật già nua, với thất vọng chán chƣờng đã ngăn những ƣớc mơ bay bỗng hoà

nhập với đất trời của con ngƣời vũ trụ. Do đó con ngƣời đời thƣờng với những trăn trở lo âu,

đau đớn, buồn thƣơng, xót xa, tủi hận, ... trở thành nét thể hiện chính trong thơ chữ Hán

Nguyễn Du. Con ngƣời lãng mạn buồn, hận suốt đời tìm kiếm, con ngƣời âu lo, khao khát

hiểu biết khám phá, con ngƣời đau khổ kêu gào rên than. Đó là những nét tập tập trung trong

cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán.

80

2.2. Thời gian nghệ thuật

Có thể nói thời gian là một đại lƣợng để xác định quá trình tồn tại, vận động, phát

triển của mọi vật trong tự nhiên. Nó vận động phát triển theo qui luật một chiều: đi tới, mang

tính khách quan. Còn thời gian trong tác phẩm nghệ thuật là thời gian đƣợc sáng tạo lại mang

tính chất chủ quan của tác giả. Cả chiều dài qui mô và hƣớng vận động của nó đều tùy thuộc

vào chủ quan của tác giả, tùy thuộc vào đặc điểm tâm lý, hoạt động nhận thức, sự hiểu biết,

sự liên tƣởng, tƣởng tƣợng của tác giả. Và do các yếu tố thuộc về chủ quan ấy mà tác phẩm

nghệ thuật thoát khỏi qui luật vận động một chiều của thời gian tự nhiên. Có nghĩa là thời

gian trong tác phẩm nghệ thuật sẽ không tuân thủ qui luật một chiều: đi tới, mang tính khách

quan của thời gian tự nhiên mà nó mang đầy tính chất chủ quan chủ yếu dùng làm phƣơng

tiện nghệ thuật để phản ánh hiện thực, thể hiện cảm xúc và quan niệm. Trần Đình Sử có nói:

"Thời gian nghệ thuật là một hình tƣợng thời gian đƣợc sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ

thuật" [83:39].

Thời gian nghệ thuật mang tính chất tự do hơn thời gian tự nhiên. Nó có thể đảo

ngƣợc, hay nói cách khác trong nghệ thuật, thời gian có thể giong ruổi ngƣợc xuôi một cách

tự do tùy theo tác giả.

Với thơ chữ Hán Nguyễn Du, thời gian cũng đƣợc vận hành theo suy nghĩ, cảm xúc

chủ quan của tác giả và đồng thời qua đó thể hiện quan niệm, thể hiện sự nhận thức, tƣ duy

của nhà thơ.

Điều nhận ra ngay ở thơ chữ Hán Nguyễn Du là ông ít nói về tƣơng lai, càng không

khẳng định một điều gì ở tƣơng lai, tốt xấu, hạnh phúc hay khổ đau. Hình nhƣ ông không

nhìn về tƣơng lai mặc dù khi tham gia chính sự ông đã làm hết sức mình, có lẽ ông nghĩ rằng

sự cố gắng của ông chỉ là một hạt nƣớc trong biển nƣớc, một sợi tơ trong vô vàn tơ sen ...chỉ

có thể làm vơi bớt phần nào hiện thực khổ đau chứ không thể xoa sạch để làm nên một điều

gì lớn lao to lát cho tƣơng lai. Toàn bộ 250 bài thơ chỉ có hai lần đề cập tới tƣơng lai mà lại là

một tƣơng lai gần, tƣơng lai cá nhân chứ không là tƣơng lai chung, có tác dụng an ủi,

81

khuyên nhủ bạn, chƣa phải là ý khẳng định (Biệt Nguyễn Đại Lang I, Đại tác cửu (thứ tƣ quy

I) .

Nguyễn Du thƣờng nói đến hiện tại - một hiện thực quá lớn, quá rộng chứa tất thảy

những biến thiên, vận động không phải đi lên mà là đi xuống đang phủ chụp mọi kiếp đời đau

khổ. Cái hiện tại ấy, nó đầy ắp căng tức trong lồng ngực không thể không nói đến và cái đƣợc

nói đến cũng chỉ mới là một vài khía cạnh trong trăm ngàn khía cạnh của hiện thực lớn lao

kia. Vì vậy mà ông nói nhiều đến dòng thời gian này. Đó cũng chính là "những điều trông

thấy" mà ông đã tận mắt chứng kiến. Lại là những điều làm đau lòng, làm chảy nƣớc mắt nên

không thể diễn tả bằng thời gian của sự bừng nở, rực rỡ của những buổi sáng tinh khôi, buổi

trƣa nắng ấm... mà phải là những buổi chiều, buổi chiều của sự tàn tạ, rét mƣớt, cô đơn,

quạnh vắng...

Nếu đem so sánh hiện tại với quá khứ thì quá khứ có sự hơn hẳn. Quá khứ vàng son

tƣơi đẹp luôn gợi dậy ƣớc mơ từ thực tại phũ phàng. Vì vậy dòng thời gian quá khứ đƣợc

Nguyễn Du chọn để gửi gắm hoài vọng của mình, hoài vọng về tuổi trẻ, về cái đẹp, về thời

vàng son... để so sánh mội cách tiếc nuối với thời hiện tại héo úa, tàn rửa... Đồng thời hoài

niệm cũng để luận bàn, kiểm nghiệm những đƣợc, mất, tốt, xấu đã qua bằng những nhận định

tinh tế, sắc sảo.

Và thời gian với ông còn là một kết thúc nhanh chóng, nhanh chóng đến không ngờ.

Thời gian trôi đi từng ngày từng giờ vẫn theo chu kỳ tuần hoàn của trời đất nhƣng ông cảm

thấy nó nhanh quá, nó lấp lánh hiện ra để rồi mất hút trong cõi vô hình. Con ngƣời sẽ không

bắt kịp nó nhƣng ngƣợc lại nó có thể vƣợt qua để khép chặt con ngƣời vào vòng sinh, lão,

bệnh, tử. Mới đó mà đã mƣời năm, hai mƣơi năm, mới đó mà đã tóc bạc, mới đó mà đã quá

xa xôi...

Nhƣ vậy thời gian trong thơ Nguyễn Du vận hành tất yếu theo quá trình nhận thức và

cảm xúc của nhà thơ. Có thể gọi thời gian nghệ thuật trong thơ ông theo ba tên gọi nhƣ sau:

Thời gian úa tàn. Thời gian ký ức. Thời gian - khoảnh khắc.

82

2.2.1 Thời gian úa tàn:

Nguyễn Du mất lúc tuổi đời chƣa cao lắm. Trên năm mƣơi, cái tuổi "tri thiên mệnh"

vừa đủ để nhận thức toàn bộ chân giá trị cuộc sống. Cuộc sống thời ấy lại có quá nhiều những

biến đổi kinh thiên động địa, từng cá nhân con ngƣời cũng phải cuồn theo cơn lốc xoáy ấy

Nguyễn Du lại là ngƣời nhanh nhạy nắm bắt hiện thực, tiếp nhận nó ở tầng số cao và

cảm xúc trong ông liên tục đạt đến điểm đỉnh. Tóc ông sớm bạc, cơ thể yếu đuối, bệnh hoạn

chính là do cảm xúc nhạy bén đó. Và dĩ nhiên phần tinh lực dồi dào ông dành hết cho thơ để

cho những bức xúc những đớn đau có dịp tuôn trào theo đầu ngọn bút.

Nguyễn Du là ngƣời rất sợ già. Trên đƣờng gió bụi bôn ba nơi đất khách quê ngƣời

ông thƣờng giở gƣơng ra xem mặt mình. Mỗi lần xem là mỗi lần thấy già thêm (Thu nhật ký

hứng, Lạng Sơn đạo trung ...). Thƣờng ngƣời ta hễ sợ cái gì thì hay nhắc đến nó. Nguyễn Du

sợ già nên thƣờng nói đến đầu bạc, sợ ngày tháng trôi mau nên thƣờng nói đến cảnh về chiều,

sợ sự biến dịch dời đổi nên thƣờng nổi về đêm, hơn nữa là đêm tàn. Tại sao buổi sáng tƣơi

vui rực rỡ nắng ấm lại ít đến với thơ Nguyễn Du? Tại sao ông không tiếp nhận thời khắc của

buổi ban mai, mở đầu cho một ngày mới chu đáo nhƣ đã tiếp nhận buổi cuối ngày, thời khắc

sắp kết thúc của một điểm trong thời gian? Có 17 lần trong 250 bài thơ có nói đến buổi sáng

với những từ: hiểu, thần, tảo, triêu... nhƣng thƣờng những buổi sáng đó đều đƣợc diễn tả nhƣ

một công cụ khách quan để nói về một nội dung khách quan hoàn toàn không mang màu sắc

tâm trạng (Lam Giang, Ngẫu thƣ công quán bích I, Mộng đắc thái liên III..).

Có lẽ trong tƣ duy của Nguyễn Du chồng chất quá nhiều những rối rắm, uẩn khúc...

khó giải thoát, nên cái sớm sủa, huy hoàng, tƣơi mới... khó đến với thơ ông. Trong ông không

có thực tế đó. Trƣớc mắt ông hằng giờ, hằng ngày, hằng bao nhiêu năm vẫn tồn tại những bất

công phi lý, chƣa có một tín hiệu nào cho thấy sẽ mở ra một tƣơng lai sáng sủa đẹp đẽ. Bóng

tối lúc nào cũng vây quanh ông.

83

Hắc dạ thiều quang hà xứ tầm ? (Xuân Dạ)

(Đêm tối đen tìm đâu thấy cảnh xuân tƣơi sáng)

Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu (Dạ hành)

(Đêm đen tối,lúc này là lúc nào, mãi không thấy sáng) và ông đã ƣớc ao :

An đắc huyền quang minh nguyệt hiện

Dƣơng quang hạ chiếu phá quần âm (Ngọc bệnh II)

(Ƣớc gì tƣớc cửa huyền vầng trăng sáng hiện ra

Ánh sáng rọi xuống phá tan mọi u buồn).

Điều ƣớc ao ấy cũng chính là để trả lời cho câu hỏi tại sao ông ít nói đến buổi sáng

tƣơi đẹp mới mẽ mà chỉ thu tóm vào thơ mình những buổi chiều vàng tái tê, những đêm tàn

xao động giấc ngủ...

Văn nghệ sĩ thƣờng sử dụng ngày chiều để nói lên cái buồn, cái lắng đọng trong suy

tƣ.

" Trên đƣờng về nhớ đầy

Chiều chậm đƣa chân ngày

Tiếng buồn vang trong mây...

... Có phải sầu vạn cổ

Chất trong hồn chiều nay..." (Chiều - Hồ Dzếnh).

"Không gì buồn bằng những buổi chiều êm

Mà ánh sáng mờ dần cùng bóng tối

... Anh một mình nghe tất cả buổi chiều

Vào chầm chậm ở trong hồn hiu quạnh "(Tƣơng tƣ chiều - Xuân Diệu)

Nguyễn Du cả đời bôn ba xuôi ngƣợc, không dừng chân chỗ nào đƣợc lâu. Hai phần

ba số lƣợng thơ ông đều viết về những nơi ông đến và đi qua. Ồng luôn là lữ khách ở phƣơng

trời. Nhƣng bất cứ ở đâu, cảnh trí nào ông cũng thấy nó chìm trong sắc chiều. Bóng chiều

luôn vây phủ bƣớc chân đi. Thời gian nhƣ ngƣng đọng lại trong sắc chiều. Nó gợi buồn, gợi

nhớ bao nỗi niềm.

Hoàng Mai kiều thƣợng tịch dƣơng hồng (Hoàng Mai Kiều vãn diễu)

(Trên cầu Hoàng Mai bóng chiều nhuốm đỏ)

84

Thành ngoại sơn sơn giai mộ sắc (Tạp ngâm)

(Các ngọn núi ngoài thành đều nhuốm sắc hoàng hôn)

Buổi chiều là cảnh gia đình sum hợp, bếp đỏ lửa, đèn thắp sáng... đầm ấm hạnh phúc.

Nhƣng sự đầm ấm hạnh phúc ấy không đến với kẻ tha hƣơng, vì vậy mà bóng chiều càng trở

nên thê lƣơng ảm đạm.

Sa trƣờng nhật mộ trận vân thâm (Thành hạ khí mà)

(Phía bãi cát trời chiều mây kéo dày đặc)

Lạc nhật sơn sơn viên khiếu ai (vọng Quan Âm Miếu)

(Núi núi bóng chiều rơi, tiếng vƣợn bi thƣơng).

Bóng chiều làm cho tâm sự thi nhân thêm não nề, nhƣng ông không từ chối nó, mà cứ

muốn đắm mình trong nó, chủ động ngắm nhìn mọi biến thái của nó, có lẽ, để chiêm nghiệm

mọi lẽ đời còn chìm khuất sau nó.

Tây phong nhật lạc thiên tƣớng mộ (Hành lạc từ II)

(Mặt trời lặn cửa sổ phía Tây, trời sắp tối)

Trƣớng vọng Lỗi Dƣơng nhật mộ vân(Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu Lãng mộ II)

(Buồn trông về đám mây chiều ở Lỗi Dƣơng)

Trong đó có nỗi nhớ quê hƣơng của ngƣời xa xứ, một nỗi nhớ rất cổ điển "nhật mộ

hƣơng quan" (Sở Vọng - Hán Dƣơng vãn diễu...) Chủ động ngắm nhìn, cảm nhận để rồi kết

lại bằng hình ảnh:

Nhật mộ đăng cao bi mạc bi (Tổ sơn đạo trung)

(Chiều rồi leo núi không gì buồn bằng)

Bình sa nhân ảnh lại tà dƣơng (Giang đầu tản bộ II)

(Bóng ngƣời in trên cát lúc chiều tà)

"Đăng cao" là hình ảnh tƣợng trƣng của thơ cổ điển, nó đại diện cho tâm ý kẻ tha

hƣơng, "Đăng cao" để trông vời cố xứ, "Đăng cao" cũng để cảm nhận hết nỗi đau riêng mình

lẫn nỗi đau nhân thế. Và "Đăng cao" trong trời chiều còn là một ý niệm cho thấy sự vận hành

của thời gian đi vào khoảng cuối của điểm đích, thời gian biểu hiện sự tàn tạ, héo úa, phai

rửa...

"Bình sa nhân ảnh" hình ảnh bóng ngƣời lầm lũi bƣớc đi trong cô đơn, một thân một

mình, đổ dài trên bãi cát, trong trời chiều... là biểu hiện của thời gian

85

vô định, nó đi vào tàn lụi và chƣa có điểm dừng, không ai biết là sẽ đi tới đâu và bao giờ đến

nơi.

Bóng chiều đã hiu hắt, bóng đêm mờ mịt âm u lại còn nặng nề hơn. Ngƣời trong đêm

cứ thao thức trăn trở, khi giấc ngủ chập chờn đến thì mộng mị cũng tràn vào, nhƣng thƣờng là

không có mộng đẹp. Nếu nhƣ với bóng chiều nhà thơ còn có thể "đăng cao" một mình lăng

ngắm thì với bóng đêm ông chỉ có thể thao thức và chịu đựng.

Mãn địa phồn thanh văn dạ vũ

Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn ((Ngẫu thƣ công quán bích II)

(Đêm nghe tiếng mƣa sầm sập khắp mặt đất

Trên giƣờng nỗi buồn đơn côi chọi lại cái rét đêm xuân)

Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy (Thăng Long I)

(Suốt đêm nghĩ ngợi thao thức không ngủ đƣợc)

Không chỉ nằm thao thức mà còn nằm không yên, có cái gì đó đánh động tận tâm hồn

ông, làm cho ông không thể yên tâm mà nằm. Mái tóc bạc lò dò trong đêm,khêu lên một ngọn

đèn để rồi một mình cùng với ngọn đèn đối bóng.

Trù tƣớng thân tiêu cô đối ảnh (Tông Nhân)

(Trong đêm khuya cô tịch một mình buồn rầu đối bóng)

Cô đăng tƣơng đối đáo thiên minh (Mạc phủ tức sự)

(Ngọn đèn cô đơn đối diện với mình cho đến sáng).

Thao thức để lắng nghe dòng thời gian trôi, trôi chảy mãi không ngừng. Nhịp thời

gian đƣợc đánh dấu bằng tiếng trống canh, tiếng ốc, tiếng gà gáy, tiếng chuông, tiếng sáo cả

tiếng thu vô thanh,vô hình nữa.

Bài mị thính hàn canh (Bất mị)

(Không ngủ nằm nghe tiếng trống điểm canh trong đêm lạnh)

( Canh cổ giác ngứ canh kê (Ngẫu hứng)

(Canh một nghe tiếng trống tiếng ốc, canh năm nghe gà gáy)

Hà xứ thu thanh tạc dạ văn (Thu nhật ký hứng)

(Đêm qua nghe tiếng thu ở đâu nổi lên)

86

Trong đêm còn có bóng trăng, Nguyễn Du rất thân thiện gần gũi với trăng. Tuy nhiên,

ngoài một số hình ảnh đẹp, tứ lạ nhƣ: cái sáng trong vằng vặc, cái độ tròn thật tròn (Quỳnh

Hải nguyên liêu...), trăng nhƣ hộp gƣơng, nhƣ vành cung tráng sĩ (Sơ nguyệt) thì đậm nét

nhất, phổ biến nhất vẫn là những hình ảnh: là nguyệt (trăng xế) tàn nguyệt (trăng tàn), lạc

nguyệt (trăng lặn)... để thấy cảnh buồn hiu hắt, đơn lạnh...

Sơn trung lạc nguyệt dạ đề viên (Qui môn đạo trung)

(Trăng lặn sau dãy núi, đêm nghe tiếng vƣợn kêu)

Nam minh tàn nguyệt phù thiên lý (Dạ hành)

(Trên biển nam trăng tà dập dờn nghìn dặm)

Cả lúc đêm thật đẹp, trăng tròn thật tròn, sáng hết độ sáng của nó... con ngƣời vẫn

cảm thây rầu rỉ và cảnh vẫn buồn tê tái.

Hoại bích nguyệt minh bản tích dịch (U cƣ II)

(vách nát trăng sáng rắn mối leo quanh )

Nguyệt minh hồng nhạn tán (Biệt Nguyễn Đại Lang I)

(Trăng sáng chim hồng chim nhạn tan tác).

Rõ ràng đêm đẹp, trăng đẹp nhƣng cái đẹp ấy vẫn có cái gì không trọn vẹn. Đêm đẹp

nhƣng không có bạn, trăng sáng nhƣng vách nát, trăng sáng nhƣng chim hồng chim nhạn ly

tán, ngƣời có tâm sự thì trăng dẫu đẹp, thân thiện, gần gũi vẫn không xóa đƣợc những ƣu

phiền. Cho nên thời khắc muộn màng, trễ nải lụi tàn,có thể dễ dàng trang trải đƣợc nỗi lòng

và giúp chuyển tải đƣợc tâm thức rắc rối phức tạp đầy kín chƣa bao giờ vơi cạn kia của tác

giả.

Cũng nhƣ so với mùa xuân, thì mùa thu gần gũi với Nguyễn Du hơn bởi nó vốn là

khuôn mặt của u buồn tƣ lự, của lá vàng rơi, của gió hiu hắt. Tuổi trẻ đầy nhiệt huyết nhƣng

gặp nhiều bất hạnh đổ vỡ Nguyễn Du đã sớm làm quen với cái lạnh tê buốt, cái hiu hắt rợn

ngợp của buổi chiều thu. Có đến 81 lần trong 250 bài thơ Nguyễn Du nói tới thu. Thu với

dáng vẻ xác xơ cằn cỗi, với cái lạnh len lỏi man mác, với cái mơ màng nửa thực nửa hƣ ... thu

thực sự tĩnh tại và sâu lắng hết chiều sâu của nó. Ở thu còn có hình ảnh hoa cúc vàng rực,

rừng phong giăng giăng lá đỏ. Đặc biệt là cây phong, quá trình vận động chuyển hóa của nó

từ

87

chiếc lá xanh thay màu vàng rồi màu đỏ thắm vào mùa thu gây nên một sự xúc động lạ

thƣờng trong lòng ngƣời ngắm cảnh. Đây là loại lá cây làm đẹp rừng làm đẹp đời mà Nguyễn

Du thƣờng nhắc tới trong thơ của mình.

Với Nguyễn Du, xuân là bà tiên kiêu kỳ còn thu chỉ là mội nàng thu lặng lẽ sầu muộn.

Nếu nhƣ xuân đến nhà thơ ngại ngùng đóng cửa để rồi tiếc nuối tự hỏi không biết xuân lọt

vào nhà ai (Quỳnh Hải nguyên tiêu) ... thì với thu, nhà thơ đã nhận biết từ xa và nhƣ có sức

húi cực mạnh nó đến thẳng với Nguyễn Du (Tạp ngâm I). Thu dẫu nghèo nàn nhƣng hào

phóng hơn tất cả, ban phát và đồng cảm. Phải chăng thu cũng buồn bã tƣ lự, khép kín nhƣ

ngƣời say mê nó? Cho nên cùng với bóng chiều, bóng đêm, thu ngã màu phai nhạt cùng đã

góp phần thể hiện rõ thời gian úa tàn mà Nguyễn Du bằng sự cảm nhận không tự giác đã vận

vào thơ mình một cách thấm sâu, đầy kín .

2.2.2. Thời gian ký ức:

Thơ đời Đƣờng nói nhiều đến quá khứ, thậm chí có ý muốn khôi phục lại quá khứ, ít

nói đến hiện tại và tƣơng lai hầu nhƣ vắng bóng. Thơ Nguyễn Du ít nhiều ảnh hƣởng thơ

Đƣờng nhƣng do sự chi phối của thời đại nên cách biểu hiện của ông có khác. Thơ Đƣờng

thƣờng hoài niệm về cái đẹp. Nguyễn Du cũng trân trọng cái đẹp, thời gian trong thơ ông

cũng làm một cuộc quay vòng trở về quá khứ nhƣng không phải để ca tụng cái đẹp, tỉa tót, cắt

xén sao cho cái đẹp hiện ra với đƣờng nét, dáng vẻ riêng của nó. Nguyễn Du ngƣợc dòng quá

khứ để ghi nhận những việc đã qua cả việc tốt lẫn việc xấu, có khi chỉ là một kỷ niệm gắn bó

thiết thân. Thời gian ngƣợc dòng nảy sinh thời gian ký ức. Ký ức luôn trở về với nhà thơ.

Ngƣời ta thƣờng không hay sống với quá khứ, nhƣng một khi quá khứ quá đậm sâu thì cũng

không dễ gì bôi xóa. Nhƣ cô Kiều 15 năm lƣu lạc, thân xác dãi dầu, phong trần nếm trãi, mỗi

mội năm tháng trôi qua là mỗi lần cuộc sống chạm khắc vào cô bao nổi ê chề. Vết thƣơng cũ

bên ngoài tuy lành lặn nhƣng bên trong nỗi đau âm ỉ cứ triền miên. Chính hiện tại êm đềm ấm

cúng với những lời nói xoa dịu ngọt ngào thiết tha của cả gia đình là lƣỡi dao oan nghiệt

88

nhắc nhớ, cái cứa nhói buốt vào trái tim vẫn còn tràn ngập tình yêu cuộc sống của nàng Kiều.

Cô từ chối chung chăn gối với ngƣời yêu cũ cũng là điều tấityếu.

Kiều cũng là Nguyễn Du. Quá khứ là một cái gì rất khó rời bỏ đối với ông, nhƣ chiếc

thoa, tờ mây, mảnh hƣơng, phím đàn của cô Kiều, nhƣ chiếc áo sồi, chiếc nệm xanh của

chính nhà thơ .

Đề bào trân trọng cố nhân tâm (Tặng Thực Đình).

(Chiếc áo sồi trân trọng tấm tình ngƣời cũ)

Thanh chiên cựu vặt khổ trân tích (Khai song)

(Chiếc nệm xanh, vật cũ, khƣ khƣ giữ mãi)

Thời gian ký ức luôn trải ra với Nguyễn Du. Những từ ức, hoài, tƣ, niệm xuất hiện

khá nhiều trong thơ ông. Những từ này điều có nghĩa chung là nhớ. Nguyễn Du thƣờng nhớ

không phải chuyện đời xƣa mà là những chuyện vặt vãnh gắn với cuộc sống của mình, có khi

không mang ý nghĩa gì. Nhớ con đƣờng đèo đã từng đi qua (Tái du Tam Điệp Sơn), nhớ

chuyện cũ bên bờ sông Phú nông (Độ Phú Nông giang cảm tác). Dù không nói rõ câu chuyện

nhớ về nó nhƣng ngƣời đọc chúng ta ắt phải hiểu một điều gì đó đã khắc con dấu thật sâu,

thật đậm nói lên con đƣờng đèo, lên vùng núi xanh bên bờ sông, những nơi mà tác giả đã một

lần đi qua và bây giờ một lần nữa trở lại. Có nhƣ thế khách du hành mới cảm tình chan chứa

(Du nhân vô hạn cảm) đến nhƣ vậy. Hoặc chỉ là một khoảnh khắc hồi hƣơng về ngôi đình

vùng sông Lam (Giang đình hữu cảm) ngày đó cha của nhà thơ cáo lão về hƣu, ngựa xe đƣa

đón lấp nập ở bến sông này cho tới ngày nhà thơ trở lại nơi đây nhìn cảnh cũ mà khôn xiết

bùi ngùi. Thăm ngôi chùa Thiên Thai (Thiên Thai tự) tác giả nhìn thấy quả chuông thời Cảnh

Hƣng. Điều ghi nhận ở đây không phải là quả chuông mà là dấu ấn triều đại mang trên mình

nó, một triều đại gắn liền thời thơ ấu đến trƣởng thành, gắn liền một họ lộc lớn giờ đã sụp đổ

không còn...

Thời gian ký ức cũng tóm thâu hình ảnh của ngƣời thân trong gia đình, bạn bè, ngƣời

quen biết cũ... của tác giả. Một hình ảnh hay một dấu hiệu của quá khứ cũng khiến cho nhà

thơ suy tƣ nặng lòng. Những bạn bè cùng chơi lúc trẻ nay đã thành bố thành ông, những

ngƣời con gái xinh đẹp ngày xƣa, bây giờ

89

cũng đã con bế, con bồng. Gặp lại ngƣời hầu cũ của em, nghĩ đến thời thế đổi thay, xót cho

nàng vẫn mặc chiếc áo ngày cũ (Ngộ gia đệ cựu ca cơ). Chiếc áo cũ là một vết tích. Thấy

chiếc áo cũ có thể hình dung đƣợc cảnh đời vất vả gian nan mà ngƣời phụ nữ kia phải gánh

chịu. Chiếc áo còn là nhân chứng của thời gian đồng hiện nối quá khứ vàng son với hiện tại

ngỡ ngàng. Ngƣời mặc chiếc áo cũ đó, ai biết ngày xƣa đã từng có giọng ca uyển chuyển một

thời. Thời gian trôi mọi thứ đều trở thành hoài niệm. Cô Cầm ở đất Long Thành cũng gây xao

động tâm hồn tác giả không ít. Cô gái tài hoa nhất thành xƣa kia bây giờ là một ngƣời tóc hoa

râm, nét mặc võ vàng, thân hình bé nhỏ, đôi mày phờ phạc không điểm tô. Thời gian đã làm

tàn phai tất cả. Nhìn cô gái ấy, Nguyễn Du nhƣ sực tỉnh thời gian 20 năm trƣớc. 20 năm đâu

phải là ít? Ngần ấy đủ làm cho một cô gái thanh xuân tài hoa trở thành già nua, gầy yếu, ngần

ấy cũng đủ làm cho nhà thơ tóc bạc. Đau xót cho ngƣờ, đau xót cả cho mình:

Mãnh nhiên ức khởi nhị thập niên tiền sự (Long Thành cầm giả ca).

(Bỗng sực nhớ hai mƣơi năm trƣớc)

Cái nhớ của Nguyễn Du quả là dựng dậy cả một thời đại.

Đặc biệt vầng trăng tròn sáng vằng vặc ở Quỳnh Châu. Vầng trăng năm cũ "Y y bất

cải cựu thiền quyên" (Quỳnh Hải nguyên tiêu), vẻ đẹp của trăng vẫn nhƣ xƣa không thay đổi.

Gọi là vầng trăng năm cũ bởi vì tâm lý Nguyễn Du luôn cho trăng là ngƣời bạn tâm tình, hơn

nữa là ngƣời bạn thân thiết có thể giải bày thông hiểu... Vầng trăng năm cũ cũng giống nhƣ

hoa đào năm ngoái "Đào hoa y cựu ..." của Thôi Hạo. Hoa đấy, trăng đây vẫn nguyên vẹn

trong suốt, chỉ có con ngƣời là mất dấu, là thay đổi mà thôi. Thế nên ngƣời rất cảm động khi

thấy trăng vẫn không quên ngƣời, ở xa cũng tìm đến thăm nhau.

Cùng đồ liên nhữ dao tƣớng kiến.

(Cảm động thay lúc cùng đƣờng vẫn đƣợc trăng từ xa đến thăm).

Đây cũng là thời gian đồng hiện nối quá khứ với hiện tại.

Không chỉ nhớ chuyện xƣa với thời gian ký ức, hoài niệm,Nguyễn Du còn đếm bƣớc

đi của thời gian. Có khi không cần xác định rõ, ông vẫn phải đếm.

90

phải suy nghĩ tới. Thời gian không xác định đƣợc đánh dấu bằng các từ : cựu [lâu (ngày)],

kinh (đã qua), đa (nhiều năm) ... các bài: U cƣ I, Sơn cƣ mạn hứng, Xuân dạ, Thu chí, Thu dạ

... cho thấy bƣớc đi của thời gian luôn đƣợc tác giả quan tâm . Tác giả thấy đƣợc sự vận hành

của vũ trụ luôn tác động đến con ngƣời dù là tác động một cách khách quan. Ông ý thức đƣợc

hằng ngày con ngƣời vẫn trôi trong quỉ đạo của thời gian và cảm thấy ngày một hao mòn dần,

ngày một phai nhạt thậm chí ngày một kiệt lực hơn khi giật mình đếm rõ số thời gian trôi

qua.

Hải giác thiên nhai tam thập niên (Quỳnh Hải nguyên tiêu)

(Ba mƣơi năm qua nơi chân trời góc bể).

Cƣờng bán xuân quang tại hải nha (U cƣ II)

(Qua nữa tuổi xuân đã lƣu lạc nơi góc biển)

Thập niên vị tiết nam nhi hận (Ninh công thành).

(Mƣời năm chƣa rửa đƣợc mối hận nam nhi)

Xác định thời gian để kiểm nghiệm thành bại trong cuộc đời, những ƣu khuyết trong

xử thế, những đƣợc mất trong phẩm cách một con ngƣời. Ngƣời không lƣu tâm đến quá khứ

là ngƣời không biết sống sao cho đáng sống. Nguyễn Du lƣu tâm đến độ trở thành tính toán.

Thời gian tính toán hiện diện rõ ở đây. Nguyễn Du không chỉ nói một cách thờ ơ bàng quan

mà nói rõ, nói đến nơi đến chốn những hoạt động, cảm nghĩ về nhƣng năm tháng đã qua và

có đúc kết.

Cũng không phải con số to tát ba mƣơi năm, hai mƣơi năm, mƣời năm ... Nguyễn Du

mới nhắc đến. Đã đếm và tính toán thì ít nhiều gì cũng đếm và tính toán. Tính toán một cách

ráo riết mới gọi là thời gian kiểm nghiệm. Những tam niên (Ức gia huynh), thập tuần (My

trung mạn hứng, Ngọa bệnh), tam chu (Tân thu ngẫu hứng); tứ niên (Nễ giang Khẩu hƣơng

vọng) kinh tuần (Mạc phủ tức sự) thập nhật (Đào hoa dịch đạo trung)... có mặt rất nhiều trong

thơ ông. Ở đây thời gian kiểm nghiệm bao gồm thời gian sinh hoạt đi, đứng, ăn, ở, đau bệnh,

nhớ nhà, tù tội, đóng... Ba năm , mƣời tuần, mấy tuần, mƣời ngày... Nguyễn Du

91

cũng cứ quay đầu nhìn lại. Ông cho đó là cần thiết, có thể giúp trút bớt phần nào những ẩn ức

chất chứa trong lòng.

Thời gian trần thuật cũng đƣợc thiết lập chung quanh chuyện cuộc đời chìm nổi,

chuyện trăm năm nghìn năm, chuyện bãi bể hóa nƣơng dâu... Trần thuật có đánh giá nhận xét

nên có thời gian luận bàn. Nó đƣợc đánh dấu bằng các từ . thiên niên, thiên tải, bách niên,

thập thế. Luận bàn để đánh giá chung về những nhân vật thời cũ , những nhân vật nổi liếng,

những tấm gƣơng sáng mà tác giả đã âm thầm ngƣỡng mộ (Đế Nghiêu miếu, Yến thành Nhạc

vũ Mục ban sƣ xứ; Nhị sơ cố lý, Độ Hoài hữu cảm Văn thừa tƣớng; Âu Dƣơng Văn Trung

mộ, Liêu Hạ Huệ mộ, Dự Nhƣợng chủy thủ hành...) chuyện xƣa đối với Nguyễn Du không

phải là đề lài để ngâm vịnh, để biến hóa câu chữ mà là để chiêm nghiệm luận bàn chỗ đúng

chỗ sai, chỗ tối, chỗ xấu bằng con mắt hết sức tinh tế và sắc sảo. Thái độ của ông đối với

chuyện xƣa cũng rất rạch ròi, yêu ghét phân minh. Không phải chỉ nói suy nghĩ của mình mà

còn nói sao cho thuyết phục đƣợc ngƣời đọc.

Nói chung thời gian ký ức trong thơ Nguyễn Du không chỉ hoài niệm mà còn tính

toán, luận bàn, chiêm nghiệm những sự việc trong quá khứ. Thực sự, việc ngƣợc dòng thời

gian đem lại giá trị đích thực cho sự nhìn nhận về văn hóa quá khứ, từ đó soi lại trong hiện

tại, trong lƣơng lai .

2.2.3. Thời gian - khoảnh khắc:

Ngƣời luôn cảm nhận đƣợc bƣớc đi của thời gian là ngƣời luôn đau khổ. Sống mà

không cần biết đến thời gian là ngƣời hiển đạt hạnh phúc hoặc kẻ đến lúc túng cùng liều

mạng. Nguyễn Du không thuộc hai loại ngƣời này mặc dù ông cũng có lúc cùng đƣờng và có

lúc gọi là hiển đạt. Trong ông luôn tồn tại một cách nghĩ, cách nhìn không thay đổi. Ông nhìn

thấy bƣớc đi của thời gian, thấy sự đời đổi biến dịch trong nó, và điều ông cảm nhận đƣợc là

thời gian tựa mũi tên bay, nhanh vun vút. Mũi tên ấy bay mang theo tất cả những gì nó có

thể: niềm vui, tuổi xuân, hy vọng và có khi là cả một đời ngƣời nữa. Quá trình nó bay và

mang theo những thứ ấy không ai nhìn thấy đƣợc mà chỉ bằng tâm niệm, cảm giác

92

mà thôi. Nguyễn Du lại là ngƣời rất nhanh nhạy trong cảm xúc nên đã nắm bắt đƣợc tất cả.

Ồng tính toán rất chi li bƣớc chân của thời gian cũng bởi ông thấy kinh sợ trƣớc cái nhanh

chóng đến độ khủng khiếp của nó.

Ám lý thiên kinh vật hậu tân (Xuân tiêu lữ thứ)

(Thấy thời tiết mọi vật đổi thay lòng riêng những kinh sợ)

Cứ mỗi giai đoạn đi qua, Nguyễn Du đã vội vàng đúc kết kiểm nghiệm. Tất nhiên đúc

kết kiểm nghiệm để thấy đƣợc nó chứ không thể làm gì cho mũi tên kia đi chậm lại hoặc

dừng bƣớc. Càng kiểm nghiệm đúc kết càng thấy nó trôi nhanh hơn bao giờ hết.

Thực ra thời gian đƣợc quan niệm nhƣ một dòng chảy liên lục tuần hoàn không nghỉ

và con ngƣời cũng liên tục cuốn theo dòng chảy tuần hoàn đó. Theo Phật giáo, thời gian vận

động vô thủy vô chung, không có khởi đầu cũng không có kết thúc và con ngƣời ngụp lăn

trong vòng luân hồi đó. Thời gian đời ngƣời chẳng qua chỉ là một khoảnh khắc (ksana) trong

luân hồi vô thủy vô chung đó. Đạo giáo cũng xem đời ngƣời chỉ là một mắt khâu trong dòng

sinh hóa miên man bất tận của vũ trụ. Nho giáo cũng thấy sự vận động của thời gian. Khổng

tử khi ngắm đòng sông đã thốt lên "Thệ giả nhƣ tƣ phù, bất xả trú dạ". Con ngƣời cũng nhƣ

dòng nƣớc kia trôi chảy mãi không ngừng.

Do quan niệm nhƣ vậy, con ngƣời cảm thấy thời gian trôi nhanh nhƣ mũi tên, vút qua

rồi mất hút. Nguyễn Du là ngƣời học cao hiểu rộng, thông suốt cả Nho, Phật, Đạo. Ông

thƣờng nói:"Lòng này thƣờng định không xa đạo Thiền" (Đề Nhị Thanh động) hoặc "Chi

bằng theo kịp đạo thần tiên" (Mộ xuân mạn hứng) chính là vì ông rất hiểu thời gian hiện thực

trần thế vô cùng ngắn ngủi mang tính chất vô thƣờng. Trƣớc Nguyễn Du nhiều ngƣời đã nói :

Thân nhƣ điện ánh hữu hoàn vô (Thị đệ tử - Sƣ Vạn Hạnh)

(Thân nhƣ ánh chớp có rồi không)

Thân nhƣ băng kiến hiệu

Mệnh lựa chúc phong ( Khóa hƣ lục - Trần Thái Tông)

(Thân nhƣ băng gặp nắng trời

93

Mệnh nhƣ ngọn đuốc giữa gió).

Nguyễn Du cũng hiểu, nhƣng có lẽ cái tâm của ông chƣa đạt đƣợc đạo,chƣa "ngộ"

đƣợc đạo, chƣa vƣơn tới đƣợc tâm thái "Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận..." (Cáo tật thị chúng -

Mãn giác thiền sƣ), chƣa thấy đƣợc điều mà các nhà thơ Lý Trần đã thấy:

Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt

Tân niên hoa phái cố niên hoa (Đốn tỉnh - Tuệ Trung)

( Xuân đến xuân đi ngờ là xuân hết

Hoa rụng hoa nở vẫn chỉ là mùa xuân đó).

Nguyễn Du không thể không phân biệt một cách rạch ròi cái đã qua, cái hiện đang và

cái sẽ tới, không thể không sợ xuân qua, thu đến, đông lạnh, hè nóng... cƣớp đi niềm vui tuổi

trẻ của bao ngƣời.

Nhìn thời gian trôi đi vun vút, thời gian đời ngƣời, thời gian của đời cây cỏ... chỉ là

những khoảnh khắc, Nguyễn Du ngao ngán kinh sợ.

Thuấn tức bách niên năng kỹ thì (Long Thành cầm giả ca)

(Trăm năm nhƣ chớp mắt có là bao)

Phao trịch nhƣ thoa hoán bất hồi (Thu chí)

(Ngày tháng thoi đƣa gọi không trở lại

Bách tuế vi nhân bi thuấn tức (Mạn hứng)

(Cuộc đời trăm năm thƣơng thay chỉ là chớp mắt)

Khoảnh khắc ấy đã làm biến đổi tất cả.

Du du vân ảnh biến thần tịch (La Phù giang thủy các độc tọa)

Bóng mây lững thững biến đổi sớm chiều)

Nhàn đình tiết tự đãi oanh thiên (Mộ xuân mạn hứng)

(Trên sân vắng, thời tiết cũng theo chim oanh mà đổi dời).

Hình ảnh cánh hoa đào đỏ thắm tƣơi đẹp nhƣ tấm lụa, sáng sớm còn đùa giỡn với gió

xuân đẹp, ai biết chiều tối nó đã yên vị chốn bùn lầy (Hành lạc từ II). Thời gian thật là tàn

nhẫn, thật là đáng sợ! Nguyễn Gia Thiều cũng đã thấy đƣợc cái nghiệt ngã của thời gian.

94

Trăm năm nào có gì đâu

Chẳng qua một nấm cỏ khâu xanh rì (Cung oán ngâm)

Rõ ràng đời ngƣời chỉ là khoảnh khắc. Chẳng trách Nguyễn Du luôn thất vọng và hối

tiếc.

Sinh vị thành danh thân dĩ suy (Tƣ thán I)

( Sống chƣa nên danh vọng gì ngƣời đã suy yếu)

Niên tham cánh giác lão tùy thân (U cƣ II)

(Qua nhiều năm biết cái già đã đến với mình)

Ông luôn có cảm giác mới đó... mà đã...

Nhất ngọa Hồng sơn tuế nguyệt thâm (Ngọa bệnh II)

(Vừa về nằm ở Hồng Sơn mà đã mấy năm trời)

Giang thành nhất ngọa duyệt tam chu (Tân thu ngẫu hứng)

(Nằm ở Giang Thành chốc đã ba năm tròn)

Nhanh chóng khủng khiếp. Càng nhiều tuổi Nguyễn Du càng "dị ứng" với thời gian,

làm việc gì ông cũng vội vội vàng vàng.

Hành sắc thông thông tuế vân mộ (Đông lộ)

(Cuộc hành trình vội vàng năm cũng đã sắp hết)

Thông thông tuế dục chu (Chu phát)

(Vội vội vàng vàng đã sắp hết năm)

Kế trình tam tại nguyệt

Do cập tƣờng vi hoa (Hoàng Mai đạo trung)

(Tính đƣờng đi tháng ba có thể về đến nơi

Còn kịp thấy hoa tƣờng vi nở)

Không phải là ngƣời sống gấp, sống vội nhƣng rõ ràng Nguyễn Du thấy cuộc đời trôi

qua vô cùng lãng phí khi ngƣời ta chƣa kịp nhận ra chân giá trị của nó. Niềm vui của con

ngƣời sao quá ngắn ngủi.

Một niên hành lạc tích du du (Mạn hứng)

(Tuổi già mua vui tiếc quá ngắn ngủi)

Dục mịch tân toan nại lão hà (Từ châu đao trung)

95

(Muốn tìm thú vui nhƣng khốn nỗi đã già rồi)

Cách nghĩ này, san ông hơn thế kỷ Xuân Diệu đã nói một cách rõ ràng bằng một

giọng già dặn, đầy kinh nghiệm.

"Xuân đang tới nghĩa là xuân đang qua

Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già

Mà xuân hết nghĩa là tôi cũng mất

Lòng tôi rộng nhƣng lƣợng trời cứ chật

Không cho dài thời trẻ của nhân gian

Nói làm chi rằng xuân vẫn tuần hoàn

Nếu tuổi trẻ chẳng hai lần thắm lại

Còn trời đất nhƣng chẳng còn tôi mãi

Nên bâng khuâng tôi tiếc cả đất trời..." (Vội vàng).

Cái "bâng khuâng tiếc nuối" của Xuân Diệu cũng chính là cái "bâng khuâng" tiếc nuối

của Nguyễn Du từ thế kỷ trƣớc.

Thơ Nguyễn Du nhuốm đầy màu sắc tâm trạng. Thời gian nghệ thuật trong thơ ông

cũng chính là thời gian tâm trạng mà tâm trạng ở đây đƣợc thiết lập ở vị thế đối chọi lại với

đất trời. Khác với các nhà thơ trƣớc, con ngƣời vũ tru tự xem mình là một "tiểu vũ trụ",

những "tiểu vũ trụ " này có xu hƣớng hội nhập tƣơng thông cùng với "đại vũ trụ" và những

"tiểu thiên địa" khác nữa, đó là cách làm của một giọt nƣớc tự đi tìm và hòa nhập với biển cả

mênh mông để khỏi làm cho mình tan biến đi. Nguyễn Du không nhƣ thế, cái ngã của

Nguyễn Du khác với cái ngã "siêu cá thể" của những nhà thơ trƣớc, Nguyễn Du chừng nhƣ

một mình muốn chống chọi lại với thời gian. Ông thông suốt Nho, Phật, Đạo nhƣng giữa ông

và các lý thuyết ấy không có sự thẩm thấu nào. Ổng muốn kéo ngƣợc thời gian hoặc bắt nó đi

chậm lại nhƣng điều đó không thể thực hiện. Vì vậy mà ông suốt đời đau khổ, suốt đời vật

lộn với cái mình không thích và không chiến thắng đƣợc bao giờ.

Tóm lại qua khung thời gian đƣợc vẽ ra trong thơ, chúng ta thấy rõ ràng dấu tích của

con ngƣời cá nhân với những bứt phá vƣợt thời đại. Con ngƣời cá nhân ấy luôn vùng vẫy, cựa

quậy, quay đầu về quá khứ, trực diện với hiện tại, đánh

96

dấu hỏi vào tƣơng lai... nhƣng chƣa đủ mạnh để có thể lật tung mọi ngỏ ngách tâm hồn, tự

tìm mình khắc khoải giữa đời hoặc tiến lên một bƣớc đấu tranh giành quyền sống quyết liệt

nhƣ con ngƣời của thế kỷ XX. Thời gian rõ ràng tƣơng ứng với cách nhìn riêng của con

ngƣời ở giai đoạn cuối của thời trung đại, thời gian của giai đoạn sắp tàn, sắp vãn, thời gian

của những ký ức xa xăm, thời gian của khoảnh khắc, bay vút, mất hút trong khoảng không vô

hình. Và con ngƣời mang một tâm trạng u hoài, nuối tiếc, u uất... nỗi bật giữa dòng thời gian

đang trôi đó.

2.3. Không gian nghệ thuật

Không gian nghệ thuật bao giờ cũng gắn liền với cảm xúc và mang ý nghĩa nhân sinh.

Không gian nghệ thuật không giản đơn là không gian vật chất mà chủ yếu là tái hiện không

gian tinh thần. Nói cách khác đó là hình tƣợng không gian. Cấu trúc của không gian tinh thần

bao giờ cũng đƣợc xác định bởi chỗ đứng của tác giả với điểm nhìn, trong đó điều cần lƣu ý

là các chiều không gian chỉ là những dữ kiện.

Theo Trần Đình Sử, không gian nghệ thuật trong thơ cổ điển là không gian vũ trụ bởi

vì ngƣời xƣa rất khao khát đƣợc lên cao để chan hòa với vũ trụ, để chiếm lĩnh không gian. Và

trong thơ cổ không có chỗ cho không gian cá nhân. Thơ trữ tình dù rất riêng tƣ nhƣng cá

nhân ở đây là hòa đồng với thế giới,hòa tan với vũ trụ . Cá nhân cũng là một vũ trụ do quan

niệm triết học: con ngƣời là một trong "tam tài" (thiên - địa - nhân) chi phối. Con ngƣời có

thể cảm thông với trời đất "Thiên nhân tƣơng cảm"; trời đất cũng sinh ra với ta "Thiên địa dữ

ngã tịnh sinh" [83:54,55].

Thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng nằm trong khuôn khổ của nền văn học trung đại, cho

nên chắc chắn không gian nghệ thuật trong thơ của ông cũng là không gian vũ trụ. Nhƣng

không gian vũ trụ ấy đƣợc thể hiện nhƣ thế nào và liệu con ngƣời cá nhân Nguyễn Du có phải

là một tiểu vũ trụ trong cái vũ trụ lớn lao kia không? Có lẽ Nguyễn Du lớn và khác hơn so với

các tác giả khác chính ở chỗ ông không đi chung đƣờng, không cùng một suy nghĩ với họ.

97

Khảo sát toàn bộ thơ chữ Hán của Nguyễn Du chúng ta sẽ nhận thấy ngay một điều là

có hai khoảng không gian tồn tại. Tạm gọi là không gian rộng lớn và không gian nhỏ hẹp. Có

một chân trời mở ra với không gian rộng lớn mênh mông khoáng đạt và một góc trời thu hẹp

lại ở một vị trí nhỏ bé, chiếm chỗ rất khiêm nhƣờng trong không gian hiện thực. Hai khoảng

không gian này tuy rộng hẹp lớn bé khác nhau nhƣng cùng thể hiện một cách trọn vẹn thế

giới tâm linh của tác giả.

2.3.1. Không gian nhỏ hẹp:

Không gian nhỏ hẹp trƣớc hết đƣợc biểu hiện qua ngôi nhà. Trong cuộc đời của mình

Nguyễn Du sống hầu hết là trên đƣờng đi, làm thân lữ khách. Nhà cửa đối với ông chỉ là tạm

bợ qua ngày. Thời gian sống ở quê vợ Quỳnh Châu,ông cũng không cho đó là nhà. Nhà phải

gắn với quê, mà ông có ở quê đƣợc bao lâu! Tất cả đối với ông đều là tạm bợ, ngắn ngủi và

chóng vánh. Nhà là mái ấm, là nơi chở che nhƣng nó chỉ ấm thực sự, đƣợc chở che thực sự

khi nó là mái nhà của chính mình và trong mái nhà ấy con ngƣời phải thực sự đƣợc hạnh

phúc. Nguyễn Du suốt đời lang bạt, tâm trạng luôn bất an, chƣa bao giờ ông cảm thấy hạnh

phúc khi sống ở một nơi nào đó. Thơ ông luôn cho thấy: xa nhà, đau bệnh, vợ buồn, con đói,

bạn bè xa cách, hoài bão không thành... Với một ngƣời nhƣ thế thì không gian có mái che

cũng không thể là một nơi ấm áp, một nơi tin cậy có thể gỉu bỏ tất cả để cái tâm đƣợc an

định. Mơ thì Nguyễn Du đã từng mơ:

Theo Phật: Diệp diệp hoa khai nhãn tiền sự

Tứ thời tâm kính tự nhƣ nhƣ (Tạp thi II)

(Chuyện trƣớc mặt thay đổi nhƣ hoa nở lại rụng.

Quanh năm cõi lòng thản nhiên nhƣ không)

Theo Nho: Hà năng lạc phát quy lâm khứ

Ngọa thính tùng phong hƣởng bán vân (Tự thán II)

(Ƣớc gì có thể gọt tóc vào rừng ở.

Nằm nghe tiếng thông reo lƣng chừng mây)

Theo Đạo: Thu trung khả hữu phù sà quá

98

Ngã dục thừa chi lái thƣợng thiên (Hoàng Hà)

(Giữa mùa thu nếu lại có bè đi qua.

Ta cũng sẽ cƣỡi để lên trời nhƣ ngƣời đời trƣớc).

Nguyễn Du luôn mong muốn có đƣợc một không gian yên tĩnh không gian không

vƣớng bận để có thể tự nhiên tự lại, nhƣng thực tế không có đƣợc. Bởi một lẽ đơn giản là

lòng ông không cho phép. Cuộc đời đời này đâu đã yên ổn, trăm họ còn lầm than, số phận

con ngƣời còn nhiều cay nghiệt... mắt ông thấy hết, thấu hết nên lòng nào có thể yên vui, tâm

nào có thể an định? Lòng ông không trống không mà ngƣợc lại nó đầy ắp những nỗi niềm.

Những nỗi niềm ấy luôn gây rối, quấy phá không cho ông đƣợc yên tĩnh. Cho nên ở đâu trong

ông cũng có chung mội nỗi sầu. Nhà ở Hồng Lĩnh, ở Thăng Lọng, ở Quỳnh Châu, ở Thƣờng

Tín, ở Quảng Bình, ở nhà công, nhà trạm, nhà thuyền... Nguyễn Du đều có chung tâm trạng.

Có nghĩa là không gian có mái che này luôn chất chứa những nỗi niềm sâu kín, không dễ bày

tỏ cùng ai.

Khi nhận xét chung về không gian nghệ thuật trong thơ cổ, Trần Đình Sử có nói: "Do

có sự tƣơng thông giữa không gian con ngƣời với không gian vũ trụ nên cách miêu tả trong

thơ cổ cũng rất đặc biệt - chẳng hạn trong thơ cổ không miêu tả ngôi nhà, ngƣời ta miêu tả

ngôi nhà bằng cái cửa. Vì sao? Bởi chính cái cửa vừa mở vào thế giới con ngƣời vừa mở vào

vũ trụ. Cho nên trong thơ cổ cửa không đóng để con ngƣời giao tiếp với vũ trụ song cũng là

song thƣa, để thế giới đi vào con ngƣời ?" [83:571. Thật vậy, Nguyễn Trãi thƣờng nói về cái

cửa với một sự nhẹ nhàng thông thoáng :

Lão mai song bạn lý dao cầm (Thu nguyệt ngẫu thành)

(Mai giả bên cửa sổ, ngồi gãy đàn ngọc).

Nguyễn Đề:

Hoa đăng xuất dũ xạ hồ quang (Tịch thứ Minh giang thủy nguyệt am)

(Đèn hoa lọt qua cửa sổ, chiếu sáng mặt hồ)

Nguyễn Khuyến cũng đã để cảm xúc của mình dõi qua song cửa.

Song thƣa để lọt ánh trâng vào (Thu vịnh).

99

Hồ Chí Minh sau này cũng vậy ;

Nhân hƣớng song tiền khán minh nguyệt

Nguyệt tòng song khích khán thi gia (Vọng nguyệt)

(Ngƣời ngắm trăng soi ngoài cửa sổ

trăng nhòm khe cửa ngắm nhà thơ).

Thơ chữ Hán Nguyễn Du không giống những nhận định trên. Nguyễn Du cũng viết về

cánh cửa nhƣng cánh cửa của ông thƣờng ở trạng thái đóng, ít khi ở trạng thái mở. Chỉ một

lần duy nhất Nguyễn Du nói tới cánh cửa mở với tâm thái phấn khởi tƣơi vui trong bài thơ

cũng có tựa dề là mở cửa (Khai song).

Nhàn nhật khai song sinh ý đa

(Ngày nhàn mở cửa sổ thấy nhiều sinh ý).

Còn lại thì hoặc là mở cửa sổ sau khi đã đóng cửa lớn.

Bế môn tạ tri giao

Khai song kiến kinh kỷ (Ngẫu thƣ công quán bích I)

(Đóng cửa tạ từ không tiếp bạn quen

Mở cửa sổ thây cây kinh cây kỷ).

Hoặc là một cử chỉ gắng ngƣợng

Cƣỡng khỏi thôi song vọng minh nguyệt

Lục âm trùng diệp bất di quang (Ngẫu hứng II)

(Gƣợng dậy đẩy cửa ngắm trăng sáng

Bỗng cây xanh trùng điệp làm ánh trăng không lọt qua đƣợc)

Tiểu song khai xứ liễu âm âm (Xuân dạ)

Trƣớc song cửa nhỏ mở chỉ thấy bóng liễu âm u).

Chừng nhƣ Nguyễn Du không muốn mở cửa. Bởi vì ông mong muốn khao khát đƣợc

nhìn thấy vẻ tƣới sáng rạng rỡ của nắng, của ngày xuân nhƣng đáp lại ông chỉ có bóng cây

xanh trùng diệp, bóng liễu âm u. Có lẽ vì vậy mà chủ nhân thƣờng đóng cửa. Đóng cửa là

hành động có chủ ý. Có khi có lý do:

Hoạn khí kinh thời hộ bất khai (Xuân nhật ngẫu hứng)

(Lâu nay khí trời xấu không mở cửa)

100

Có khi chẳng có lý do gì, mà chỉ bằng trực cảm, cảm giác tạo nên.

Bế môn bất ký xuân thâm thiển (Tạp ngâm)

(Đóng cửa không biết xuân đến sớm hay muộn)

Bế môn cao chẩm ngọa kỳ trung (Ký hữu)

(Đóng cửa đầu gối cao nằm trong nhà)

Là ngƣời có nỗi sầu, lại thêm bệnh tật, chủ nhân càng không muốn ra ngoài.

Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm (Ngọa bệnh II)

(Cửa sài đóng kín trong đêm vắng nằm rên than)

Thâm đƣờng tiểu tiểu há liêm lung (Ngẫu đề)

(Nhà sâu thẳm lặng lẽ buông rèm xuống)

Trong nhà quan trọng nhất là cái cửa. Sự đóng mở của cánh cửa góp phần quyết định

sự vui buồn, đầm ấm hạnh phúc hay lạnh lẽo cô đơn. cửa đóng tất nhiên tạo thêm đáng vẻ bẩn

chật, tối tăm. Không gian đã nhỏ hẹp, cửa đóng, càng thấy nhỏ hẹp hơn. Nhỏ từ cái cổng

ngoài đơn sơ bằng tre nứa, từ cái vách nát đến con giun, con dế, rắn mối leo quanh.

Phế táo tụ hà ma

Thâm đƣờng xuất khâu dận (Bất mị)

(Cóc nhái nhóm quanh bếp vắng

Giun từ góc nhà bò ra)

Hoại bích nguyệt minh bản tích dịch (U cƣ II)

(Vách nát trăng sáng rắn mối leo quanh)...

Từ cái bếp suốt ngày không đỏ lửa (Tạp thi II) cho đến ánh đèn leo lét trƣớc làn gió

muôn cây (Thôn dạ). Lại thêm không khí u buồn lạnh lẽo tràn ngập phủ vây

Bán gian yên hỏa tạp trần ai (Ngẫu hứng III)

(Một túp nhà đầy khói lửa bụi bặm).

Nhất thất xuân hàn cựu bệnh đa (U Cƣ II)

(Một nhà xuân lạnh bệnh cũ lại nhiều).

Ông trời cũng ý thức tiếp thêm cái âm u

101

Giang nam dạ sắc thƣơng liêm lung (Thôn dạ)

(Bóng tối bên bể nam đã phủ dần lên bức mành)

Sài môn trú tỉnh sơn vân bế (Sơn cƣ mạn hứng)

(Ngày vắng mây núi nhƣ đóng kín cửa sài)

Con ngƣời thì buồn rầu héo hắt. Tự mình đóng cửa, từ chối tất cả, để rồi than thở:

Không biết xuân đến sớm hay muộn "bất ký xuân thâm thiển", không biết xuân từ đâu đến

đây "Xuân tòng hà xứ lai", không biết xuân lọt vào nhà ai "xuân hứng thùy gia lạc"... Tƣởng

nhƣ mâu thuẫn nhƣng thực ra chính Nguyễn Du muốn mở cửa, muốn bƣớc ra cuộc đời để

đƣợc biết, đƣợc hƣởng mọi thú vui của cuộc đời nhƣng không gian này chật chội, bức bối,

ngột ngạt quá mà ngƣời thì không tự thoát ra đƣợc cho nên phải nằm bẹp trong nhà tự trói, tự

nhốt để gặm nhắm từng sợi giá buốt, từng cơn nhức nhối, từng mảnh cô đơn ... đang dằn xé,

căng kéo trong lòng. Rõ ràng tâm sự của con ngƣời không thể khai thông cùng trời đất và

ngƣợc lại trời đất cũng không chia xẻ với con ngƣời. Không gian nhỏ hẹp, thông qua cái nhà,

cái cửa là bằng chứng xác đáng nhất để thấy con ngƣời không muốn hòa nhập với vũ trụ. Cái

vũ trụ đầy bí ẩn kia dẫn dắt con ngƣời đi tới đâu, không ai biết đƣợc, chỉ thấy trƣớc mắt

không gian đầy sự bức bối ngộp thở kia chừng nhƣ muốn nhấn chìm, muốn dìm con ngƣời

vào cõi u tối thê lƣơng với buồn đau và bệnh tật. Nguyễn Du dƣờng nhƣ rất hiểu cái vũ trụ to

lớn ấy nhƣng rồi cũng rất mù mờ không hiểu tại sao cuộc sống tƣơi đẹp hạnh phúc không đến

với con ngƣời, nó cứ chập chờn ở ngoài xa kia để cho con ngƣời rƣợt đuổi mà chẳng nắm bắt

đƣợc bao giờ. Ông rất yêu mùa xuân nhƣng xuân đến và mất hút ở nhà một ai đó chứ không

phải nhà ông. Ông muốn nhìn thấy sắc xuân tƣơi sáng thì vũ trụ chỉ ban tặng bóng liễu âm u,

ông muốn vui cùng cỏ cây mây nƣớc nhƣng thực tế ông đƣợc gì?. Hãy xem chân dung một ẩn

sĩ:

Long vĩ giang đầu ốc nhát gian

U cƣ sầu cực hốt tri hoan

Đạt nhân tâm cảnh quang nhƣ nguyệt

Xử sĩ môn tiền thanh giả san

102

Chẩm bạn thúc thƣ phù bệnh cốt

Đăng tiền đấu tửu khởi suy nhan

Táo đầu chung nhật vô yên hỏa

Song ngoại hoàng hoa tú khả xan (Tạp ngâm II)

(Đầu sông Long vĩ một gian nhà

Ở nơi u tịch buồn cực độ bỗng thấy vui

Tấm lòng kẻ đại nhân sáng nhƣ vầng trăng

Trƣớc cửa ngƣời ẩn dật ấy là sắc xanh của núi

Cạnh gối có chồng sách có thể đỡ tấm thân bệnh tật

Trƣớc đèn uống chén rƣợu để hồng lên sắc mặt suy yếu

Bếp núc suốt ngày không khói lửa

Hoa cúc vàng ngoài cửa sổ tƣởng có thể ăn đƣợc)

Bài thơ không mang đến sắc vị Nho, Phật hay Đạo mà chỉ thây đậm nét hiện thực của

cuộc sống trần thế: nghèo đói, bệnh tật, buồn khổ. Mặc dù ông nói: hốt tri hoan" nhƣng có lẽ

đó chỉ là cách nói của ngƣời muốn "dĩ hòa vi quí" không muốn "gây gỗ" với cái nghèo, cái

buồn cực độ của mình.Ngƣời đọc có thể hình dung khi ông nói vui kèm theo một nụ cƣời

méo xệch, khi ông nói cõi lòng ngƣời khoáng đạt sáng tỏ nhƣ vầng trăng thì kèm theo là cái

nhếch mép. Ông không thể nói khác hơn đƣợc. Trong nhà có chồng sách an ủi đôi chút, có

chén rƣợu làm hồng lên sắc mặt tiều tụy, nhƣng trƣớc cửa nhà là sắc xanh tràn lan của núi,

sắc xanh âm u không hứa hẹn một ngày mai tƣơi sáng. Ngoài cửa sổ có hoa cúc vàng tƣơi

đẹp tƣởng có thể ăn đƣợc nhƣng thực tế là không ăn đƣợc ... Cả bài thơ vẽ nên cảnh mờ mịt

của tƣơng lai trong hiện tại đói nghèo và buồn cực độ. Không có cách giải quyết đành phải

chịu đựng và có thích nghi với nó bằng cái cƣời chua chát, bằng sự gắng gƣợng pha trò, bằng

cái nhìn khoáng đạt nhức buốt tâm can. Rõ ràng không gian có mái che không làm cho con

ngƣời đầm ấm hạnh phúc ngƣợc lại nó hiện hữu giữa trần gian nhƣ cái lồng chật hẹp tồi tàn

kiềm hãm những đôi cánh ƣớc mơ bay bổng. Không gian có mái che cũng không phải là trạm

dừng chân để con ngƣời có thể tƣơng thông với đất trời và

103

đất trời có thể dang rộng vòng tay che chở cho con ngƣời. Có lẽ thơ Nguyễn Du có chỗ khác

các nhà thơ khác là thế.

Không gian nhỏ hẹp còn đƣợc biểu hiện qua một loại không gian có mái che khác, đó

là không gian của mồ mả, đình đền, gò đống... có 84 lần Nguyễn Du nhắc đến trong thơ chữ

Hán của mình. Con số không phải là nhỏ. Đây cũng là loại không gian có mái che nhƣng

khác với nhà cửa, nó vừa rộng hơn vừa hẹp hơn. Rộng hơn là vì thông qua mồ mả còn có sự

thăng hoa tới một đỉnh trời nào đó. Còn hẹp hơn là do kích thƣớc đã thấy rõ ràng. Một điểm

khác nữa, tuy cả hai cùng là mái che nhƣng nhà là mái che của ngƣời sống, còn mồ mả lá mái

che của ngƣời chết. Có dự cảm nào dành cho không gian tăm tối kia không? Tại sao Nguyễn

Du quan tâm quá nhiều tới mái che của ngƣời chết?.

Trong Truyện Kiều, choán hết cả nền chính của không gian du xuân của chị em Kiều

là những nấm mồ nghi ngút khói hƣơng tạo một cảm giác về chốn vĩnh viễn hƣ không. Trên

nền chung đó nổi bật lên nấm mộ hoang không ai nhang khói đã phát ra tín hiệu bạc mệnh mà

ngƣời duy nhất linh cảm đƣợc tín hiệu ấy lại là Thúy Kiều và cô phải bƣớc đi cho hết những

bƣớc đoạn trƣờng mƣời lăm năm sau đó. Còn Nguyễn Du có phải là:"Ma đƣa lối quỉ dẫn

đƣờng"? Thực ra trong thơ chữ Hán có bộ phận thơ đi sứ, ở đó ông thƣờng nhắc lại những

nhân vật tiếng tăm trong lịch sử Trung Quốc mà ông đã đƣợc đọc qua sách vở hay chứng kiến

tận mắt trên đƣờng đi, tất nhiên phải nói đến mồ mả, đình , đài ... tuy không nhất thiết phải

vậy! và ở một số bộ phận thơ khác, trong cảnh cũng có lẫn khuất hình ảnh những nấm mộ

hoang, những đống xƣơng tàn, những đình đài xiêu ngã ...Có phải chính trong Nguyễn Du

cũng lẫn khuất những ý niệm về cái chết, về cõi vĩnh hằng mà bản thân ông luôn khao khát

muốn khám phá hiểu biết về nó. Trong thế giới của sự sống thì cái chết là một cái gì vô cùng

bí ẩn, con ngƣời luôn thấy sợ hãi trƣớc nó và muốn hiểu biết về nó. Ai biết nghĩ đến cái chết

chính là đang ý thức cuộc sống của mình. Nguyễn Du có phải hơn ai hết đã ý thức về sự sống

tạm bợ ngắn ngủi này và luôn lo lắng: phập phồng về cái chết. Tại sao nó hủy diệt con ngƣời?

Tại sao không có một sự sống vĩnh viễn bất tận

104

cho con ngƣời? Và khi chết chóc đã là một nỗi lo sợ thì con ngƣời tại sao còn thù hằn chém

giết nhau? Bao nhiêu câu hỏi về nhân sinh cứ chất chật trong đầu óc Nguyễn Du khiến ông

không thể không đƣa nó vào thế giới nghệ thuật của mình. Nó trở thành mội mối bận tâm sâu

sắc và hễ lúc nào thuận tiện thì nó bật ra trong thơ. Cho nên những đình, đền, gò đống, mồ

mả thƣờng phát ra tín hiệu âu lo về cuộc sống nhân sinh và Nguyễn Du là ngƣời luôn luôn

nhanh nhạy nắm bắt tín hiệu đó và phát sóng đi, lan truyền tới mọi ngƣời.

Không vậy tại sao cứ gặp mồ mả, gò đống thì Nguyễn Du xúc động?

Vãng sự bi thanh trƣng (Thu chí)

(Chuyện cũ bi thƣơng nấm mồ cỏ xanh)

Trƣớng vọng Lâm an cựu lăng miếu (Nhạc vũ Mục mộ)

(Buồn trông về lăng miễu cũ ở Lâm An)

Lộ kinh Tam Tân giai khâu thổ (Dự Nhƣợng chủy thủ hành)

(Đƣờng qua Tam Tân dẫy đầy gò đống)...

Ông muốn kiến giải về những nấm mồ, những lăng miếu kia nhƣng rồi ông chỉ nói

theo cách nói của ngƣời xƣa với giọng ngùi ngùi.

Thiên niên cổ mộ một Phiên ngu (Triệu Vũ để cố cảnh)

(Ngôi mộ nghìn năm ở Phiên Ngung cũng đã mất)

Thu thảo nhất khâu làng thử lạc (Âu Dƣơng Văn Trung mộ)

(Một nấm cỏ thu thành hang chuột cáo)

Nhƣ muốn thấu suốt một điều rằng, kể cả cái chết, thời gian cũng vùi lấp. Chỉ có

không gian của vũ trụ là trƣờng tồn. Thế mà thế giới này con ngƣời cứ tranh giành sát hại

nhau, cuối cùng ngƣời chết lẫn ngƣời sống vẫn không đạt đƣợc một điều gì.

Tuy nhiên đối với những con ngƣời cụ thể mà ông tỏ lòng ngƣỡng mộ thì cái không

gian chết chóc có vẻ giảm nhẹ sự nặng nề nhƣờng chỗ cho sự cảm thông.

Địa hạ vô linh quỷ bối xi (Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu Lăng mộ)

(Dƣới suối vàng đừng để cho bọn quỷ cƣời)

105

Thiên cổ trùng tuyền thƣợng hữu hƣơng (Âu Dƣơng văn trung mộ)

(Nghìn năm dƣới suối vàng vẫn còn tiếng thơm)

Thế nhƣng tất cả mọi điều, thƣơng, buồn, giận, oán, tiếng thơm, tiếng thối, chiến

thắng, thất bại... tất cả mọi loại ngƣời: anh hùng, kẻ cƣớp, ngƣời hiền, ngƣời ngu, kẻ giàu,

ngƣời nghèo, ngƣời đẹp, ngƣời tài... đều đƣợc Nguyễn Du đúc kết bằng:

Phong xuy cổ trủng phù vinh tận (Ngẫu thƣ công quán bích)

(Gió thổi vào nấm mồ xƣa bao vinh hoa hảo tan hết)

Cổ kim hiền ngu nhất khâu thổ (Hành lạc từ II)

(Xƣa nay kẻ hiền ngƣời ngu cũng chỉ còn trở lại một nấm đất).

Thật là tàn nhẫn và khủng khiếp. Nguyễn Du đã thây trƣớc nỗi kinh hoàng này và

không một ai trong cõi đời này có thể thoát khỏi nó. Cuối đời tất cả đều phải trở về với cái

mái che bé tí của mình, và rồi cả mái che bé tí đó thời gian cũng vùi lấp, xóa nhòa trong cõi

hƣ vô không định hình.

Nhƣ vậy một lần nữa chúng ta cảm thấy không gian nhỏ hẹp mà Nguyễn Du muốn

cắm cái mốc vào đó không hoàn toàn là không gian tƣơng thông với vũ trụ. Nguyễn Du nhƣ

muốn đặt dấu hỏi với trời đất. Ông không tự giải thích đƣợc, nhƣng cũng không muốn hòa

nhập vào cái thế giới mù mịt bao la chứa bao điều bí ẩn mà con ngƣời không thể vƣơn tới

đƣợc.

2.3.2. Không gian rộng lớn:

Trong thơ chữ Hán nếu nhƣ không gian có mái che làm cho con ngƣời cảm thấy ngột

ngạt tù túng và bế tắc thì đƣờng đi vạn dặm mở ra cho con ngƣời một khoảng không gian

rộng lớn, nhìn hút tâm mắt. Ở đó con ngƣời sẽ không còn cảm thấy ngột ngạt bức bối nữa

nhƣng lại rơi vào một trạng thái khác, đó là cảm giác chới với mất điểm tựa và chìm sâu vào

cõi mênh mông vô tận. Trên con đƣờng, con ngƣời cảm nhận hết tất cả những dấu hiệu đó.

Không gian xa cách chiếu ứng từ không gian lữ thứ, không gian gió bụi mờ mịt xuất phát từ

đƣờng xa nghìn dặm, không gian lạnh lẽo cô đơn nảy sinh từ đất khách muôn dặm một mình.

106

Trƣớc hết là không gian xa cách. Cuộc đời Nguyễn Du nhƣ con thuyền nổi trôi

ngƣợc xuôi sớm tối, nhƣ ngọn cỏ bồng lìa gốc lăn lóc bên trời, nhƣ cánh chim hồng lạc đàn lẻ

bạn kêu thƣơng... Có một không gian xa cách nhƣ thế dành cho ngƣời viễn khách. Ngƣời xƣa

rất ngại đi xa. Đƣợc sinh ra, lớn lên, học hành, đỗ đạt và yên vị ở chỗ thành đạt của mình, đó

là điều lý tƣởng. Đi xa là điều bất hạnh. Tuy nhiên mặt khác con ngƣời có cái thú trong sự bất

hạnh đó. Có thể gọi là thú đau thƣơng. Đi xa, trọng trách gánh trên vai, xa gia đình, ngƣời

thân... ngƣời đi luôn than thở, phiền muộn, nhƣng tiềm ẩn bên trong là nỗi khao khát vƣơn tới

chiếm lĩnh khoảng không gian rộng lớn, thu vào tầm mắt tất cả những gì của thế giới để bù

lại nỗi nhớ quay quắt điên cuồng về những thứ quen thuộc phải để lại ở nhà. Nguyễn Du có lẽ

ở trong tâm trạng này. Ông ví mình nhƣ ngọn cỏ bồng lìa gốc trƣớc làn gió tây thổi mạnh (Tự

thán I), ngọn cỏ bỗng ấy chân không bén rễ mặc cho chuyển dời (Mạn hứng II) và lấy làm

đau khổ về điều đó, cả khi lang bạt lẫn lúc làm quan.

Giang nam giang bắc nhất nang không (Mạn hứng II)

(Một chiếc túi rỗng đi hết phía Nam đến phía Bắc sông)

Lục xích phù sinh thiên địa trung (Mạn hứng II)

(Tấm thân sáu thƣớc sống lênh đênh trong vòng trời đất)

Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ (Đồng Lƣ lộ thƣợng dao kiến Sài Sơn)

(Một chiếc áo xanh đi khắp cõi bụi hồng)

Trong xa cách, có cái mất nhƣng cũng có cái đƣợc. Bản thân sự đi xa đã là một điều

gì đó ghê gớm dƣới mắt ngƣời có học. Đƣợc hiểu biết, đƣợc thu vào tầm mắt tất cả những gì

thuộc về thế giới vật chất. Điều đó đâu phải ai cũng có đƣợc. Cho nên chúng ta không lấy làm

lạ lại sao khi nhìn ra ngoài thì Nguyễn Du cố nhìn cho hết tầm mắt. Hết tầm mắt chừng nhƣ

chƣa đủ, chƣa thỏa mãn. Những chữ: nhất vọng, cực mục, mục đoạn... thƣờng thấy trong thơ

của ông.

Nhất vọng tân nhai thông cự hải (Độ Linh giang)

(Đứng ở bên sông trông suốt tận biển cả)

Cực mục thƣờng tâm hà xứ thị (Tƣơng Đàm điếu Tam lƣ đại phu I)

107

(Nhìn hết tầm mắt đau lòng không biết là đâu)

Mục đoạn diệt quy hồng (Hà Nam đạo trung khốc thử)

(Nhìn hết tầm mắt mất bổng chim hồng)...

Đó là biểu hiện của sự khao khát muốn khám phá hiểu biết. Tất nhiên chƣa đạt đến ý

thức vƣơn lên làm chủ tự nhiên nhƣ thế hệ sau Nguyễn Du. Đây chỉ là bƣớc chuyển tiếp giữa

sự hòa nhập và tách bạch của con ngƣời với thiên nhiên. Nguyễn Du chƣa thoát khỏi hẳn sự

hòa nhập với thiên nhiên và đồng thời cũng chƣa đứng độc lập ở cái thế đối chọi lại thiên

nhiên để có thể khám phá, cải tạo lại nó. Bằng chứng là trên đƣờng đi, nhìn thì cứ muôn nhìn

cho hết tầm mắt, nhƣng than thở thì vẫn than thở và nhất là luôn quay đầu nhìn lại. Nhìn

trƣớc, nhìn sau là điều bình thƣờng, Nguyễn Du bằng động tác rõ ràng dứt khoát hơn: quay

đầu lại. Quay đầu hẳn lại để luyến lƣu tiếc nuối một cái gì đang tồn tại ở quê nhà. Hàng loạt

những từ hồi thủ, hồi đầu ... đã nói lên điều đó.

Thƣơng lâm thiên lý nhất hồi thủ (Vũ thắng quan)

(Ngoài nghìn dặm bùi ngùi quay đầu lại)

Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai (Vọng Quan.Âm miếu)

(Ngoảnh lại đã xa cách muôn trùng núi non)

Con ngƣời khi đi xa thƣờng cảm thấy thiếu vắng bàn tay chăm sóc của quê hƣơng.

Nguyễn Du cũng vậy, ông luôn thấy nhớ, nhớ đến chết ngƣời từ khi mới bắt đầu ra đi, chứ

không phải đi lâu rồi mới nhớ.

Kinh tuần khứ quốc tâm nhƣ tử (Mạc phủ tức sự)

(Xa nƣớc mấy tuần lòng nhƣ chết)

Não sát thù phƣơng lão sứ thần (Quá Thiên Bình)

(Não lòng ông sứ thần già ở phƣơng khác đến, buồn muốn chết đi đƣợc).

Không gian xa cách càng thêm xa khi ƣớc vọng, chí nguyện đƣợc cùng quê hƣơng

bầu bạn tâm tình không thực hiện đƣợc. Ông đau khổ nhƣ ngƣời bị buộc phải phụ tình với

ngƣời mà mình hết lòng yêu dấu.

Nhàn tâm tạ bạch âu (Thu chí)

(Lòng muốn nhàn đành phải tạ từ cùng chim âu trắng)

108

Trúc thạch đa tàm phụ nhĩ minh (Tống nhân)

(Rất thẹn cùng trúc đá vì đã lỗi thề phụ ƣớc với nó)

Bất dữ thanh sơn tƣơng thủy chung (Vọng Thiên Thai tự)

(Không đƣợc cùng núi xanh trọn nghĩa thủy chung)...

Quê hƣơng ngày càng xa mịt mù, còn con ngƣời thì nhƣ bị trói chặt, không về đƣợc.

Ở mãi nơi đất khách không chết, cũng không về đƣợc. Điều đáng quý là trong không gian lữ

thứ vời xa ấy con ngƣời luôn tự nhắc mình phải nhớ quê hƣơng, phải làm sao cho quê hƣớng

thƣờng xuyên vào trong giấc mộng "Ná đắc gia hƣơng nhập mộng tần" (Tam gia Khẩu

Đƣờng dạ bạc). Đó cũng là cách níu giữ hình ảnh quê hƣơng không để nó bị xóa nhòa đi

trong khoảng không gian rộng lớn và nó cũng chứng tỏ một điều chỉ có quê hƣơng mới là nơi

có thể chở che an ủi cho mọi kiếp đời. Cắt lìa quê hƣơng, kiếp đời chới với lạc loài mất

phƣơng hƣớng và lẽ đƣơng nhiên kiếp đời ấy chấp nhận nỗi đau triền miên.

*

* *

Làm bạn với không gian xa cách là không gian mờ mịt, gió bụi. Đƣờng Nguyễn Du

đi cát bụi đầy trời, không gian mờ tối hiu hắt. Đƣờng vào phía Nam, đƣờng lên phía Bắc khắp

núi sông nơi đâu cũng có cảnh xuân tƣơi sáng. Ấy vậy mà Nguyễn Du chỉ thấy bụi và cát, mờ

và tối. Bất kể đó là mùa gì trong năm - Tại sao vậy? Có lẽ tiếp với ý đã nói ở trên: Xa quê

hƣơng trên đƣờng vạn dặm dù là đi đến đâu, làm việc gì, trọng trách gánh vác tới đâu...

Nguyễn Du cũng cứ coi là đi chứ không phải là ở. Mà đi thì có nghĩa là không còn bám vào

đất mẹ nhƣ Thần Ăng-Tê dễ dàng bị Heraklex siết chết lúc bị nhấc bổng trên không (Thần

thoại Hy Lạp) Nguyễn Du cũng bị gió bụi của cuộc đời nuốt chửng vào trong đó. Cho nên đi

đến đâu Nguyễn Du cũng thấy buồn tê tái lòng. Xuân đến nhƣng xuân đã vào nhà ai kia chứ

không phải đến với mình. Cảnh sắc xuân tƣới sáng cũng chỉ hiện ra với ngƣời trong lầu ngọc

uống rƣợu bồ đào đến say mèm (Đại nhân hý bút) chứ không hề đến với ngƣời lữ khách

phiêu dạt bên đƣờng. Nguyễn Du đi làm quan, đi sứ chứ không phải đi tù, mà còn không có

đƣợc phong thái bi hùng của Hồ Chí Minh sau này:

109

Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thƣợng

Nghênh diện thu phong trận trận hàn (Tảo giải)

(Ngƣời đi xa cất bƣớc trên đƣờng xa

Mặt đón gió thu từng cơn từng cơn lạnh buốt)

Ngƣời đọc hình dung chiếc áo xanh lầm lũi bên trời. Không gian rộng lớn làm cho

con ngƣời trỏ nên nhỏ bé lọt thỏm vào trong nó, chới với, không dễ định hƣớng. Con ngƣời

phải dầm mình trong nó, cuốn thân trong nó, trôi nổi bềnh bồng, không biết đâu là bến bờ.

Chiếc áo xanh ấy có vẻ nhƣ cam chịu nhẩn nhục trƣớc gió bụi.

Bách niên thân thế ủy phong trần (Mạn hứng I)

(Thân thế trăm năm phó mặc cho gió bụi)

Lục lục công danh nhất phiến trần (An Huy đạo trung)

(Công danh lận đận mãi trong đám bụi)

Ba ba bạch phái hồng trần lộ (Tổ sơn đạo trung)

(Mái tóc bạc phơ trên đƣờng bụi đỏ)...

Bụi cát có khi là bụi cát trên đƣờng đi nhƣng hầu hết là gió bụi trong mắt Nguyễn Du.

Ông không nhìn thấy gì ngoài gió bụi. Gió bụi là muôn thuở, nó che lấp cả thành quách, che

lấp cả mặt trời.

Cổn cổn trần ai tế thiên nhật (Trở binh hành)

(Cát bụi bay cuồn cuộn che lấp cả mặt trời).

Yên giao nhất vọng giai trần thổ (Kinh Kha cố lý)

(Nay nhìn cõi nƣớc Yên chỉ thấy toàn bụi đất).

Thế lộ trần ai tín hổn trọc (Đào hoa đàm Lý Thanh Liên cựu tích)

(Đƣờng trần đầy gió bụi biết bao nhơ đục)

Con ngƣời biết nó nhơ đục xấu xa nhƣng không thể thoát khỏi nó, hằng ngày vẫn phải

quẫn quanh theo nó, lăn lóc chìm nổi cùng với nó. Kiếp sinh ra là thế.

Trƣớng vọng hồng trần diểu vô tế

Bất tri nhật nhật thử trung hành (Từ Châu đê thƣợng vọng)

(Buồn trong áng bụi hồng mờ mịt không bờ bến

110

Đâu biết rằng ngày ngày mình phải đi lại trong ấy).

Dơ đục, mù mịt, tối tăm không chỉ do gió, bụi, cát, đất mà còn do sắc đêm, khí trời,

bóng mây, sƣơng khói... Vũ trụ thiên nhiên quả nhiên đã đƣa bàn tay của mình vẩy nên

những sắc màu u ám, để con ngƣời đi trong nó không còn đƣợc trông rõ bất kỳ cái gì tƣơi đẹp

rực rỡ, lại còn nhấn chìm hết thảy vào chốn hƣ vô.

Hắc dạ hà kỳ mê thất hiểu (Dạ hành)

(Đêm tối mờ mịt, không biết bây giờ là bao giờ mãi chẳng thấy sáng)

Sa trƣờng nhật mộ trận vân thâm (Thành hạ khí mã)

(Phía bãi các trời chiều mây kéo dày đặc)

Biết rõ và cam chịu nhƣng đôi lúc Nguyễn Du muốn tránh xa nó .

Bài dung trần câu tạp thanh hƣ (Ngọa bệnh)

(Không cho bụi bặm lẫn vào hồn trong trẻo)

Và tỏ vẻ mừng vui khi mình lẫn trong nó mà không bị nhiễm theo nó.

Thả hỷ tu mi bất nhiễm trần (Dạ hành)

(Hãy mừng mày râu không phải nhuốm bụi)

Luôn mong ƣớc đƣợc hít thở trong một không gian xa cách gió bụi

Vạn sơn thâm xứ tuyệt phong trần (Sơn thôn)

(Nơi hàng vạn núi sâu, cách tuyệt gió bụi)

Ƣớc có đƣợc vầng trăng thật sáng để có thể xua tan mọi bóng tối

An đắc huyền quang minh nguyệt hiện

Dƣơng quang hạ chiếu phá quần âm (Ngọa bệnh II)

(Ƣớc gì trƣớc cửa huyền vầng trăng sáng hiện ra

Ánh sáng rọi xuống phá tan mọi u ám)

Mong ƣớc này cũng cho thấy lúc nào, ở đâu Nguyễn Du cũng rất có ý thức về cá nhân

mình, về những gì xung quanh mình, luôn khao khát hiểu biết để có thể vận động tự thân

vƣợt lên cái tối tăm ngột ngạt u ám vƣơn tới một không gian đầy ánh sáng rạng rỡ.

*

* *

111

Một không gian khác cũng xuất hiện bao quanh con ngƣời là không gian lạnh. Con

ngƣời hằng ngày hằng giờ đã phải tiếp xúc với gió bụi lại phải nhận lãnh thêm cái giá buốt

lạnh lẽo của đất trời. Đi đến đâu hoặc dừng lại một địa điểm nào, con ngƣời vẫn thấy không

gian lạnh lẽo bao trùm. Có 47 lần Nguyễn Du nhắc đến cái lạnh. Cái lạnh của thịt da và cái

lạnh của tâm hồn cùng tồn tại. Cái lạnh mang theo cảm giác buồn, trống vắng cô đơn. Ngƣợc

lại con ngƣời cô đơn thì cảm giác lạnh lẽo càng gia tăng. Cảnh vật mang không khí lạnh cũng

thấm một màu thê lƣơng tràn lan mênh mông. Ngôi nhà lạnh, ngọn đèn lạnh, sắc xuân lạnh,

hơi thu lạnh, buổi sáng lạnh, trăng sông lạnh... cả dải cát, làn khói, tiếng sóng, đóa mai... thảy

đều run rẩy theo cái lạnh của con ngƣời.

Không gian lạnh lẽo không những thấm sâu vào tận bên trong tâm hồn con ngƣời mà

còn làm héo úa tàn tạ cả ngoại cảnh.

Thiên hàn thảo mộc thu (Tái du Tam diệp sơn)

(Trời lạnh cây cỏ dâu dàn)

Thạch lũy thu hàn kinh thảo đoản (Thành hạ khí mã)

(Trên lũy đá hơi thu lạnh lối cỏ cằn cổi)

Nhất đái hàn sa thảo thụ phân (Giản Công bộ thiêm sự Trần II)

(Một dãi cát lạnh chia cắt cây cỏ)

Ngôi nhà gặp lạnh, băng giá nhƣ in lên từng bức vách, ngọn đèn, ma quỉ chỉ chực vây

lấy ngƣời. Nhiều khi độ lạnh không cần gia tăng con ngƣời vẫn cảm nhận rất nhanh nhạy theo

tâm trạng. Cái chính là con ngƣời cảm thấy nó đến quá khắc nghiệt và tàn nhẫn, dƣờng nhƣ

nó đến với riêng mình, dồn hết tất cả vào mình.

Cổ mạch hàn phong cộng nhất nhân (Dạ hành)

(Gió lạnh trên con đƣờng xƣa dồn cả vào một ngƣời)

Đấy là một sự tiếp nhận vội vàng hay có sự cảm ứng từ trong tâm khiến cho cái lạnh

len lỏi thấm tận vào trong máu thịt. Có lẽ Nguyễn Du đang ở tâm thế "Khƣ khƣ mình buộc

lấy mình vào trong" (Truyện Kiều). Tự mình đặt mình vào không gian lạnh đến tê ngƣời ấy

rồi lại cố gắng chống chọi hoặc chấp nhận, chịu đựng

112

Thực ra cái lạnh phần nhiều xuất phát từ trong tâm Nguyễn Du. Cả cuộc đời này đi

đến đâu, ở bất cứ nơi đâu cái xấu xa vẫn còn đầy dẫy. Nhìn thấy mà đau lòng, quay mặt đi

không đƣợc, cứ phải chứng kiến và buồn bực lo nghĩ. Với một tâm trạng nhƣ thế thì chỉ cần

cái lạnh mới chớm cũng đủ thấy lạnh buốt cả lòng. Đất trời thì cứ vô tình buông xuống cái

lạnh làm cho con ngƣời càng thấy cô đơn bế tắc hơn bao giờ hết. Tâm sự ngập tràn mà không

có chỗ để trút cạn thì nỗi đau cứ dồn ứ, cái lạnh cứ cắt buốt và con ngƣời mãi nằm trong trạng

thái tái tê triền miên.

Nhìn chung không gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Nguyễn Du dù ở bình diện

khoáng đạt rộng lớn hay trong khuôn khổ hạn hẹp thì nó vẫn toát lên cái không khí thâm

trầm, u ám, ngột ngạt, bế tắc, lạnh lẽo, mờ tối... Trên cái nền chung ấy con ngƣời biểu hiện

khát vọng khám phá hiểu biết, tự đối lập mình với vũ trụ thiên nhiên để kêu gọi đồng cảm,

biểu hiện sự cam chịu nhẫn nhục khi cảm thấy mình không vƣợt đƣợc không gian hiện thực

để đạt tới một lý tƣởng vạch sẳn cho mình. Con ngƣời không có sự tƣơng thông với vũ trụ dù

đã nhiều lần "đăng cao" mắt dõi khắp "thiên nhai hải giác". Vũ trụ chừng nhƣ cũng quay lƣng

lại với con ngƣời, chỉ đem lại cho con ngƣời những gì con ngƣời không thích ứng nổi: chết

chóc, tàn úa, xa cách, lạnh lẽo... và những bí ẩn muôn đời con ngƣời không thể giải thích

đƣợc.

Dù là ngƣời thông hiểu Nho, Phật, Đạo nhƣng Nguyễn Du không chịu giải thích kiểu

Vạn Hạnh thiền sƣ :

Thân nhƣ điện ảnh hữu hoàn vô

Vạn mộc xuân vinh thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bô úy

Thịnh suy nhƣ lộ thảo đầu phô (Thị đệ tử)

(Thân ngƣời nhƣ bóng chớp có rồi không

Cây côi tiết xuân tƣơi, tiết thu héo

Đã tu đến trình độ nhậm vận thì không sợ hãi trƣớc sự thịnh suy

Thịnh suy nhƣ giọt sƣơng đọng trên cỏ).

113

Hay theo lý luận của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Tự tín đắc giai chung hữu thất (Khiển hứng)

(Ta tin rằng sự đời cái gì đƣợc rồi cũng mất cả)

Con ngƣời trong Nguyễn Du không phải "Thiên địa dữ ngã tịnh sinh" cho nên không

cùng hiểu biết. Trời đất trở thành đối tƣợng để con ngƣời có thể khám phá và tác động đến.

Vì vậy mà ông luôn cƣỡng lại tự nhiên. Ông "đăng cao" là để đƣợc phổng tầm mắt bao quát

tìm hiểu chứ không phải để hòa với vũ trụ nhƣ cách Không lộ thiền sƣ đã làm.

Hữu thì trực thƣớng cô phong đỉnh

Trƣờng khiếu nhất thanh hàn thái hƣ (Ngôn hoài)

(Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót

Kêu lên một tiếng to vang làm lạnh cả bầu trời).

Ông từ chối hội nhập với thiên nhiên. Ông thƣờng ƣớc ao đƣợc cùng sông Lam núi

Hồng thực hiện giấc mộng bầu bạn ngâm vịnh nhƣng điều đó không có đƣợc. Chƣa bao giờ

trong thơ ông hiện diện một không gian khoáng đãng rộng rãi sáng sủa. Nguyễn Bỉnh Khiêm

xƣa cũng lo đời, cũng đầy ắp hoài bão giúp dân giúp nƣớc, nhƣng một khi ông đã yên tâm trí

sĩ thì tất cả mọi thứ lui lại, nhƣờng chỗ cho một không gian rộng mở.

Tú hoa dã trúc tam xuân hảo

Tỉnh kỷ minh song nhất thất hƣ

Thúy thị, thúy phi hựu thuyết trƣớc

Lão cuồng tự tiếu thái duy sơ (Trí sĩ - Nguyễn Bỉnh Khiêm)

(Hoa thanh tú, trúc mộc mạc giữa tháng xuân tƣơi đẹp.

Giƣờng ghế sạch, cửa sổ sáng, trong căn nhà trống rỗng

Mặc ai phải ai trái không nói đến làm gì

Lão già ngông cuồng tự cƣời mình biếng nhác và sơ sài)

Nguyễn Du làm gì có đƣợc khí vị này. Nhà cửa của ông âm u, cửa tre đóng kín, rầu rỉ

và nhất là làm gì có đƣợc cái cƣời thỏa mãn đầy ý nghĩa của Bạch Vân cƣ sĩ. Nguyễn Du

cũng không bằng đƣợc cốt cách của Nguyễn Trãi một con ngƣời lúc nào cũng canh cánh một

mối tiên ƣu .

114

Nhàn trung tân nhật bế thƣ trai

Môn ngoại toàn vô tục khách lai

Đỗ vũ thanh trung xuân hƣớng lão

Nhất đình sơ vũ luyện hoa khai (Mộ xuân tức sự)

(Cả ngày nhân rỗi đổng cửa phòng sách

Không có khách phàm tục nào bƣớc tới cửa

Nghe chim đỗ vũ kêu biết mùa xuân đã muộn

Một sân hoa xoan nở trong hạt mƣa thƣa thớt)

Cảnh tuy cũng buồn bã, khép kín nhƣng không nặng nề nhƣ bốn vách không gian của

Nguyễn Du. Ông cũng chƣa từng có cái hứng sẵn sàng mặc quần áo ngắn đến đầu thôn để

mời ngƣời bạn đến cùng nhấm rƣợu ngon với cua béo nhƣ Ngô Thì Nhậm (Khiển hoài).

Không gian bao quanh Nguyễn Du là không gian lối xám u ám nặng nề và âm khí luôn lẫn

khuất. Nó biểu hiện một sự khao khát không thỏa mãn, một khám phá chƣa đi đến đâu, một

ngõ thoái bế tắc, một mối thƣơng tâm đau đáu... Nói nhƣ Xuân Diệu trong "Hoa nở để mà

tàn":

"Hoa thu không nắng cũng phai màu.

Trên mặt ngƣời kia in nét đau"

Có lẽ trên mặt Nguyễn Du luôn in một nét đau nào đó.

Vì vậy nêu xét và đặt thơ chữ Hán Nguyễn Du trong tƣơng quan của nền văn học

trung đại thì rõ ràng ông có nét khác biệt so với các tác giả khác. Không gian vũ trụ vẫn là

không gian bao trùm nhƣng trong cái lõi của nó đã có những dấu hiệu mới. Đây là bƣớc

chuyển mình tất yếu. Ở Nguyễn Du ta không thấy cái khoáng đạt cao rộng của thời kỳ Lý,

Trần, Lê mà lại có cái bấp bênh, chơi vơi, phập phồng, âu lo... của văn học lãng mạn sau này,

dù mới chỉ là những tín hiệu. Nó có cả không gian vũ trụ giãn nở với thiên lý, vạn lý, hải giác

thiên nhai và cũng có cả không gian chật hẹp của cuộc sống đời thƣờng đi những bƣớc đầu

đại diện cho cuộc sống mòn đi rỉ ra giữa bốn bức tƣờng của đói nghèo hiu quạnh với tâm

trạng khắc khoải âu lo tuyệt vọng và nếu kết hợp với thời gian nghệ thuật ta cũng sẽ thấy Thơ

chữ Hán Nguyễn Du có cả thời gian vũ trụ vƣơn tới thiên niên, vạn cổ, cổ kim nhƣng cũng có

thời gian tàn tạ héo úa lẫn cái chớp mắt qua mau

115

để con ngƣời rơi vào trạng thái vội vàng sợ hãi. Thời, không gian trong thơ chữ Hán Nguyễn

Du có thể làm nền, để từ đó bật lên làn điệu sống động của giai đoạn nối tiếp.

"Hết ngày hết tháng hết em ơi

Kinh hãi không gian quặn tiếng còi

Anh ngóng tìm em trông thấy đó

Sắp xa thôi cũng tựa xa rồi" (Hết ngày hết tháng - Xuân Diệu)

Rõ ràng thời gian réo gọi, không gian thúc giục khiến cho con ngƣời luôn bị dồn nén

ức chế dẫn đến tâm trạng bực bội, chán chƣờng, bế tắc.

Có thể hình dung thời gian và không gian theo 2 trục dƣới đây để thấy nó khác với

nền chung là không thời gian vũ trụ và gần với không thời gian đời thƣờng chật hẹp của văn

học lãng mạn: Không gian bao la rộng lớn nhƣng chừng nhƣ vận động, điều khiển dẫn dắt

con ngƣời tới một không gian có mái che, nhỏ hẹp hơn đó là nấm mồ. Và thời gian dù đƣợc

đẩy ngƣợc lên tận nghìn vạn năm nhƣng rồi cũng khép chặt con ngƣời bỡi áp lực chớp mắt

của nó. Còn con ngƣời trong vòng thời và không gian ấy thì luôn hối tiếc, hoang mang, lo sợ

gần với con ngƣời của nền văn học hiện đại.

116

CHƢƠNG 3 : KHẢO SÁT ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT THƠ CHỮ

HÁN NGUYỄN DU: NGÔN NGỮ

Ngôn ngữ thơ chữ Hán Nguyễn Du trƣớc hết mang nét chung của ngôn ngữ nghệ

thuật trung đại phƣơng đông, chịu sự chi phối của tƣ duy nghệ thuật thơ Hán. Tuy nhiên quá

trình phát triển của lịch sử trung đại đã tạo điều kiện cho bƣớc phát triển của cá tính sáng tạo

trong văn học nghệ thuật.Không phải ngẫu nhiên mà thế kỷ XVIII - XIX có một bƣớc tiến

cực kỳ rực rỡ với những ngôi sao trên văn đàn nhƣ Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều,

Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ ,... Tất nhiên sự tồn tại tiếp

tục của thiết chế chính trị xã hội cũng nhƣ thiết chế tinh thần ý thức phong kiến chƣa thể tạo

điều kiện cho một sự giải phóng toàn diện của cá tính nghệ thuật nhƣ ở thời kỳ hiện đại sau

này. Những cơ sở đấu tranh giai cấp của thế kỷ trung đại cuối cùng cũng nhƣ quá trình phát

triển văn học trƣớc đây đã cho phép sự vỗ cánh của những tài năng văn học trên nhiều bình

diện sáng tác: cảm hứng thể loại, hình tƣợng và đặc biệt là ngôn ngữ văn học. Do vậy, dù

chịu sự chi phối chung nhƣng ngôn ngữ văn học thời kỳ này cũng đã có những dấu hiệu của

sự bứt phá vƣợt thời đại, đậm nét ở các tác giả nổi trội nhƣ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hƣơng,

Cao Bá Quát... Đặc biệt là Nguyễn Du, thậm chí có thể nói ngôn ngữ thơ của Nguyễn Du có

những nét gần với ngôn ngữ của văn học hiện thực, văn học lãng mạn sau này.

Về mặt thi pháp học, ngôn ngữ nghệ thuật đƣợc xem là ngôn ngữ hình tƣợng vì nó là

ngôn ngữ của hình tƣởng và là hình lƣợng của ngôn ngữ. Nói cách khác nó không chỉ phục

tùng qui luật nói chung mà còn phục tùng qui luật cấu trúc của tác phẩm. Mà cấu trúc tác

phẩm bao giờ cũng chịu sự chi phối của hệ thống tƣ duy. Do vậy mà có sự tác động qua lại

với nhau hình thành nên phong cách ngôn ngữ của mỗi tác giả, vừa có cái chung cũng vừa có

cái riêng độc đáo không thể lẫn lộn với bất cứ ai. Cái riêng biệt độc đáo này sẽ đƣợc phát

hiện khi đặt hình tƣợng ngôn ngữ vào trục tuyển lựa (seleclion) và trục kết hợp

117

(combinalion) theo cách làm của R. .Jakovson [202]. Đó là những phƣơng thức cơ bản của sự

sắp xếp đƣợc sử dụng trong cách ứng xử ngôn từ của mỗi tác giả.

Thơ chữ Hán Nguyễn Du, đi vào cụ thể trên hai phƣơng diện câu thơ và từ ngữ dùng

trong câu thơ, chúng ta cũng sẽ thấy nổi bật lên những vấn đề chung riêng đã nói ở trên, đặc

biệt khai thác cái riêng để thấy rõ những đóng góp của Nguyễn Du với nền thơ chữ Hán nhƣ

thế nào sau truyện Kiều, đại diện cho nền thơ Nôm mà thế giới đã biết tiếng. Về câu thơ,

chúng ta sẽ đi vào các dạng câu cụ thể nhƣ câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cảm thán, câu

cầu khiến, đặc biệt trong đó nhấn mạnh các dạng câu trần thuật phủ định, câu phức mang tính

quan hệ và hình thức tu từ ngữ pháp (câu đảo trang), về hệ thống từ ngữ, đặc biệt chú trọng

cách dùng từ, mối quan hệ giữa chúng với nhau, những từ xuất hiện với tần số cao.

3.1. Câu thơ:

Ngữ pháp tiếng Việt xét về mặt hình thức thì có hai kiểu câu. Đó là câu đơn và câu

phức. Xét về mặt ý nghĩa thì có những kiểu câu nhƣ: câu trần thuật, câu nghi vấn, câu cầu

khiến, câu cảm thán. Ngữ pháp tiếng Hán cũng giống nhƣ vậy, chỉ khác một chút ở trật tự

câu, nhất là ở phần bổ ngữ. Thơ tuy có nhiều nét đặc thù nhƣng cũng không ngoài những kiểu

câu cơ bản ấy. Thơ có thể cho phép tĩnh lƣợc chủ ngữ hoặc những từ quan hệ không cần thiết.

Ngƣời đọc có thể hiểu ngầm và vẫn nhận biết đó là loại câu gì và thành phần nào đƣợc hiểu

ngầm.

Hầu nhƣ làm thơ tác giả nào cũng đi vào bốn loại câu trên. Tuy nhiên do tƣ duy nghệ

thuật qui định cho nên mỗi tác giả có cách viết riêng của mình, không ai giống ai. Thơ chữ

Hán Nguyễn Du cũng có đủ các kiểu câu trên nhƣng có loại câu đƣợc tác giả sử dụng nhiều,

có loại câu tác giả sử dụng ít - Khảo sát 250 bài thơ của Nguyễn Du, chúng ta sẽ thấy dạng

câu trần thuật đƣợc sử dụng nhiều nhất, kế đến là câu nghi vấn và câu cảm thán, câu cầu

khiến rất ít. Điều này chắc chắn có lí do của nó. Đi sâu vào từng loại câu chúng ta sẽ thấy nội

dung qui định hình thức nhƣ thế nào và ngƣợc lại.

118

3.1.1. Câu trần thuật:

Nhƣ trên đã nói, nhiều hơn tất cả trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là dạng câu trần

thuật. Câu trần thuật nhiều là điều tất nhiên. Trong đời sống cũng nhƣ trong thơ loại câu

thƣờng dùng nhất vẩn là câu trần thuật vì chức năng của nó là thông báo, vì vậy rất thuận tiện

khi dùng nó để miêu tả. Khác với thơ Đƣờng cũng nhƣ khác với thơ Đƣờng luật nói chung ở

giai đoạn trƣớc là gợi sự liên tƣởng, tƣởng tƣợng nới ngƣời đọc, thơ Nguyễn Du đi sâu vào

miêu tả và hình nhƣ miêu tả là chính. "Những điều trông thấy" đƣợc ông đƣa hết vào thơ và

có nhận xét đánh giá. Không cần nói bóng gió xa xôi, không cần vay mƣợn những hình ảnh

tƣợng trƣng ƣớc lệ để nói, để bộc lộ tâm sự. Ông muốn phơi bày ra tất cả để tìm một sự tƣơng

ứng, mội sự tƣơng giao trừ những điều không thể nói ra (Ông đang là một ông quan giữ chức

vụ cao trong triều đình). Nói chung hiện thực cuộc sống bộc lộ khá rõ nét qua cái nhìn và cái

cảm của ông. Điều này cũng thể hiện rõ khi con số thông kê cho thấy câu trần thuật hiện tại

chiếm đa số, câu trần thuật quá khứ chiếm sổ lƣợng khiêm tốn hơn, câu trần thuật tƣơng lai ít

nhất, nó chiếm không đến 20 câu trên 250 bài thơ. Nhƣ vậy, cho thấy hiện thực quá tải trong

thơ ông, quá khứ chỉ là để hoài niệm, còn tƣơng lai thì Nguyễn Du chƣa thể hình dung đƣợc

nhƣ thế nào nên không nói đến.

Tƣơng lai thật sự mù mịt. Hiện tại đã là một mớ bòng bong rối rắm không gở ra đƣợc

thì nền tảng đâu để hƣớng về tƣơng lai. Có nói đến tƣơng lai cũng chỉ là những ý nghĩ bâng

quơ.

Vô ngôn độc đối đình tiền trúc

Sƣơng tuyết tiêu thời hợp hóa long (Ký hữu)

(Riêng mình lẳng lặng trƣớc cây trúc ngoài sân

Lúc sƣơng tuyết tan nó sẽ hóa rồng)

Hƣu kỳ bất thậm viễn

Tƣơng kiến tại trung châu (Biệt Nguyễn Đại Lang I)

(Ngày nghỉ ngơi sẽ không còn xa

Sẽ gặp nhau tại trung châu)

119

Câu trần thuật quá khứ chiếm số lƣợng tƣơng đối, 124 câu trên 250 bài thơ. Một số

câu rõ ràng là quá khứ do có sự hiện diện của những từ nhƣ dĩ , thành, ký . Còn

một số câu chỉ mang ý nghĩa quá khứ, ngƣời đọc nhận biết đƣợc qua cách trình bày của tác

giả. Số lƣợng tƣơng đối cũng nói lên nét khác biệt giữa Nguyễn Du và các nhà thơ khác cùng

thời. Đáng lẽ thấy chán ngán thực tại, mờ mịt tƣơng lai, ngƣời ta sẽ quay về quá khứ để tiếc

nhớ hoài niệm nhƣ các nhà thở khác thƣờng làm. Nguyễn Du không nhƣ thế, ông có cách

riêng của ông. Chỉ cần lấy thơ Nguyễn Đề, để so sánh chúng ta cũng thấy đƣợc nét khác biệt.

Nguyễn Đề so với Nguyễn Du là ngƣời rất thành đạt, lừ lúc trẻ cho đến lúc cuối đời lúc nào

ông cũng hài lòng toại nguyện. Thế mà thơ Nguyễn Đề âm vang của quá khứ lại khá nặng nề,

câu trần thuật quá khứ trong thơ ông xuất hiện nhiều. Thơ Ngô Thì Nhậm cũng vậy, ông nhắc

đến quá khứ quá nhiều trong khi cuộc đời ông cũng có nét tƣơng tự nhƣ Nguyễn Du. Ông là

ngƣời có tài, học nhiều, hiểu rộng. Chốn quan trƣờng có lúc rất thành đạt nhất là vào thời Tây

Sơn, tuy cũng có lúc lận đận lao đao... nhƣng ông luôn hƣớng về quá khứ để nuối tiếc những

gì đã trôi qua. Còn Nguyễn Du, chúng ta biết nhà thơ đi nhiều, đọc sách nhiều, hiểu biết về

lịch sử khá rộng, cả lịch sử Trung Quốc. Nhƣng cái chính Nguyễn Du nhìn những di tích xƣa,

những danh lam thắng cảnh không bằng con mắt của ngƣời xƣa mà bằng cặp mắt hết sức tỉnh

táo quan sát và đánh giá nhận xét tinh nhạy của ngƣời đời nay. Vì vậy, cảnh xƣa luôn hòa

quyện với cuộc sống nay, tƣ tƣởng xƣa đụng với lối nghĩ nay nên màu sắc quá khứ nhiều khi

không quan trọng đối với ông. Cho thấy sự phát triển của ngữ pháp cùng lúc với sự phát triển

của tƣ duy. Một kiểu loại tƣ duy sẽ nảy sinh một kiểu loại ngữ pháp. Đó cũng là chỗ khác

nhau giữa các nhà thơ dù họ cùng sử dụng một thể thơ.

Câu trần thuật quá khứ cứa Nguyễn Du thƣờng dùng để miêu lả những sự việc - liên

quan đến bản thân - đã đi qua với lòng tiếc nuối.

Khách xá hàm sầu dĩ vô hạn (Thanh minh ngẫu hứng)

(Ở nơi khách xá đã mang nỗi buồn vô hạn)

120

Hồi đầu dĩ cách vạn trùng nhai (Vọng Quan âm miếu)

(Quay đầu nhìn lại đã cách muôn lớp núi

Thập niên dĩ thất hoàn hƣớng lộ (Tam giang Khẩu đƣờng dạ bạc)

(Mƣời năm đã quên mất đƣờng về làng cũ)

Hoặc để khẳng định một quyết tâm nào đó của chính mình hãy còn trù trừ do dự chƣa

dứt khoái.

Bình sinh dĩ tuyệt vân tiêu mộng (Ngẫu thƣ công quán bích III)

(Bình sinh đã dứt giấc mộng bay lên mây xanh)

Cao hứng cửu vô hoàng các mộng (Mạn hứng I)

(Đã lâu không còn cao hứng với giấc một gác vàng)

Cũng để than thở cho mình đã nhƣ thế này, đã nhƣ thế kia...

Sinh vị thành danh thân dĩ suy (Tự thán I)

(Sống chƣa làm nên danh ngƣời đã suy yếu)

Thử thân dĩ tác phàn lung vật (Tân thu ngẫu hứng)

(Thân này đã làm chim trong lồng)

Nại hà đầu dĩ bạch nhƣ ngân (Quảng tế ký thắng)

(Nhƣng tóc trên đầu đã bạc trắng)

Và cũng để hƣớng về một thời xƣa cũ.

Bá thƣợng dĩ thành thiên tử khí (Sở Bá Vƣơng mộ I)

(Đất Bá thƣợng đã hiện ra khí thiên tử)

Bất tri thiên mệnh dĩ qui lƣu (Á phủ mộ)

(Không biết mảnh trời đã về họ Lƣu)

Trong câu trần thuật hiện tại đáng chú ý là câu trần thuật ở dạng phủ định. Số lƣợng

kiểu câu này rất đáng kể, 460 câu, gần 1/4 số câu của 250 bài với những từ nhƣ: bất ( ); vô

( ); vị ( ); phi ( )); nan ( ); hƣu ( ) vật ( ); mạc ( )…Có nhiều

dạng phủ định:

Thƣờng là những câu miêu tả cảnh vật hay sự việc bình thƣờng nhƣng ở trạng thái

không của nó. Loại này rất nhiều.

Hồng lĩnh vô gia huynh đệ tán (Quỳnh Hải nguyên tiêu)

121

(Chốn non Hồng không còn nhà anh em tan tác)

Hoạn khí kinh thời hộ bất khai (Xuân nhật ngẫu hứng)

(Lâu nay khí trời xấu không mơ cửa)

Hoặc những câu dùng nhƣ khuyên bảo ở dạng: hãy, đừng, chớ ... do có sự hiện diện

của từ mạc.

Mạc giao mao thảo dĩ vô hạn (Thanh minh ngẫu hứng)

(Chớ để cỏ tranh mọc gần thềm)

Mạc hƣớng thiên nhai thán luân lạc (Tân thu ngẫu hứng)

(Chớ nhìn cuối trời mà than thân luân lạc)

Có khi là một hình thức nhận xét sự vật, hiện tƣợng

Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại (Mộ xuân mạn hứng)

(Tâm thân không thể ra ngoài vòng hữu hình)

Hữu sinh bất đái công hầu cốt (Ký hữu)

(Lúc sinh ra không mang cốt cách vƣơng hầu)

Có khi là một lời than tuy không phải là câu cảm thán.

Bách chủng u hoài vị nhất sƣ (Bát muộn)

(Trăm nỗi u buồn chƣa một lần đƣợc giải thoát)

Ngã hữu thôn tâm vô dữ ngữ (Mi trung mạn hứng)

(Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai)

Có khi là những lời tự nói với mình, thƣờng là những ý phủ nhận.

Chỉ xích Long Thành bất phục kiến (Long Thành cầm giả ca)

(Long thành trong gang tấc, không đƣợc thấy lại)

Thế sự phù trầm hưu thán tức (Thăng Long ì)

(Việc đời chìm nổi đừng than thở)

Cũng có khi phủ định để khẳng định một điều gì

Cận nhật Trƣờng An lại dĩ phi (Giang đình hữu cảm)

(Ngày gần đây Trƣờng An đã khác xƣa nhiều)

Cô trúc cao phong bất khả tầm (Mi trung mạn hứng)

(Phong cách cao thƣợng của ngƣời nƣớc Cô Trúc không thể tìm)

122

Câu trần thuật phủ định xuất hiện nhiều trong thơ Nguyễn Du cũng chứng tỏ dƣới mắt

ông cuộc đời này đầy dẫy những bất công, những phi lý, những bế tắc... Con ngƣời không

vƣợt qua đƣợc, trƣớc mắt chỉ thấy những con số không. Muốn làm một điều gì đó, rồi cũng

phải tự bảo mình: thôi, đừng, chớ... kể cả khi muốn khẳng định một điều gì đó cũng phải

khẳng định ở dạng phủ định...

Một khía cạnh đáng chú ý nữa trong câu trần thuật hiện tại, đó là loại câu theo các mặt

quan hệ loại này đã biểu đạt đƣợc tất cả quan hệ tƣ duy ngữ pháp. Đó là các quan hệ điều

kiện (nếu ... thì); quan hệ nguyên nhân kết quả (vì... nên); quan hệ nhƣợng bộ (tuy...

nhƣng); quan hệ tăng tiến (càng... càng). Thƣờng biểu hiện ở một số từ nhƣ: nhược ( )

vi ( ) thí ..... hoặc không có các từ chỉ quan hệ (do câu trúc bài thơ cho phép tĩnh lƣợc

những từ công cụ ấy) ngƣời đọc vẫn có thể hiểu đƣợc.

Loại câu này không nhiều lắm nhƣng nó cũng thƣờng đi theo dạng câu phủ định.

Trong thơ Đƣờng loại câu phán đoán thƣờng đi với câu nghi vấn - Nguyễn Du ngƣợc lại hầu

nhƣ cuộc sống trƣớc mắt có quá nhiều cái phải phủ nhận. Trƣớc hết là quan hệ điều kiện:

nếu ... thì

Nhược ngộ sơn trung mi lộc hữu

Yên hà cựu thoại bài kham đề (Ngẫu hứng) (Nếu gặp bạn hƣờn nai trong núi

Những câu chuyện cũ khói mây không đành lòng nhắc lại)

Thí tự thuần lô tôi quan thiết

Hoài qui nguyện bất đãi thu phong (Ngẫu hứng IV)

(Giá nhƣ rất tha thiết canh rau thuần gỏi cá lô

Thì lòng muốn về vốn chẳng cần đợi gió thu nổi)

Quan hệ tăng, tiến (càng... càng)

Tiêu điều lữ muộn đối thời ca (Tạp ngâm)

(Nghe khúc ca đƣơng thời khiến cho nỗi buồn của khách càng tiêu điều

Thu cao sƣơng lộ đa (Ký giang bắc Huyền hƣ tử)

(Càng vào cuối thu sƣơng móc càng nhiều)

123

Quan hệ nhƣợng bộ (tuy,... nhƣng)

Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng (Thanh minh ngẫu hứng)

(Ngày xuân (tuy) mình có thân nhưng không còn trẻ nữa)

Quan hệ nguyên nhân - kết quả (vì. .. nên)

Tham tiến bất tri chỉ

Vẫn thân hàn sơn trung (Điệu khuyển)

(Vì ham tiến không biết dừng

Nên bỏ mình trong núi lạnh)

Vị liên thƣơng quốc phong quang hảo

Quan tỏa hƣơng tình vị phóng qui (Chu hành tức sự)

(Vì yêu phong cảnh đẹp của thƣơng quốc

Nên khóa chặt tình quê chƣa thả cho về)

Thƣờng để diễn đạt câu quan hệ thì tác giả luôn dùng từng đôi câu một mới diễn tả hết

ý. Một câu trong phạm vi 7 chữ vẫn là quá chật hẹp trƣớc tầm nhìn to lớn rộng rãi của Ông.

Đó là những câu phức có các ý đối lập nhau Nguyễn Du đƣa ra để kiến giải, để thuyết minh

biện luận với ngƣời đọc.

Đa thiểu nhất tâm trung sở sự

Mỗi vi thiên hạ tiếu kỳ ngu (Á phụ mộ)

(Bao nhiêu kẻ một lòng trung thành với ngƣời mà mình thờ

Thƣờng bị ngƣời đời cƣời là ngu)

Từ những ví dụ trên, ta nhận thấy: các kiểu quan hệ đều có mặt trong thơ Nguyễn Du.

Xét về phƣơng diện ngữ nghĩa thì phải hai câu thơ mới thành đƣợc một câu mang ý nghĩa

thông báo hoàn chỉnh. Xét về hình thức thì hai câu mới thành một câu ngữ pháp (tức dạng

câu phức) và các kiểu câu này thƣờng xuất hiện ở phần kết của bài thơ, nêu bật trọng tâm vấn

đề vì ý nghĩa bao trùm bao giờ cũng nằm ở phần kết. Phần kết khái quát tổng hợp ý nghĩa của

toàn bài.

3.1.2. Câu nghi vấn:

Thơ chữ Hán Nguyễn Du câu nghi vấn khá nhiều. Thƣờng trong thơ ngƣời ta ít dùng

dấu chấm câu, cho nên khó phân biệt loại câu. Tuy nhiên ta phát hiện

124

đƣợc nhờ vào từ ngữ. Những câu hỏi có những từ : hà, thùy, nhƣ hà, ná đắc, an đắc, nại hà...

Câu nghi vấn xuất hiện khá thƣờng xuyên trong thơ Nguyễn Du. Ngƣợc lại với thơ Đƣờng,

hình nhƣ con ngƣời trong thơ Đƣờng với tầm nhìn thoáng đạt rộng rãi đã nắm bắt đƣợc

quy luật riêng chung của vũ trụ nên họ không vƣớng mắc điều gì. Họ thả cái tâm trong sáng

của mình hòa với thiên nhiên tƣơi đẹp đầy sức sống, chỉ cần với tay ra là có thể hái đƣợc

trăng sao.Vì vậy họ không ƣu tƣ, không chìm đắm vào trong cái thế giới hữu hạn của mình.

Họ chẳng có gì để hỏi trời, hỏi đất, cũng chẳng có gì để chất vấn ngƣời, họ mong muốn đƣợc

làm giọt nƣớc tan trong bể cả. Do đó mà họ chỉ chú ý đến cái tôi của mình hòa làm một với

đất trời. Họ thƣờng khuyên nhau hơn là đặt những dấu hỏi để rồi day dứt với nó. Thơ Đƣờng

số lƣợng câu cầu khiến rất nhiều. Bài thơ thƣờng kết ở câu cầu khiến.

Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu

Tây xuất Dƣơng quan vô cố nhân (Tống nguyên nhị sứ An Tây-Vƣơng Duy)

Mạc oán tha hƣơng tam ly biệt

Trừ quân đào xứ hữu phùng nghinh (Dạ biệt Vi tƣ sĩ - Cao thích)

Họ khuyên nhau, an ủi nhau cùng hƣớng về vũ trụ. Nguyễn Du lại không nhƣ thế.

Nguyễn Du thƣờng kết bằng câu hỏi. Trong Ông luôn đau đáu những câu hỏi về cuộc đời,

ông mang luôn nỗi niềm đó vào thơ. Nó không chỉ biểu hiện ở lời thơ mà còn ở hình thức cấu

trúc câu thơ. Có tất cả 115 câu nghi vấn trong 250 bài thơ (chƣa kể câu hỏi ở dạng câu phức,

2 câu thơ trở lên), và 38 bài thơ có câu kết là câu nghi vấn.

Câu hỏi trong thơ Nguyễn Du cũng khá đa dạng. Câu hỏi ông đặt ra có khi có đối

tƣợng cụ thể.

Trạo đầu cựu chứng y thuyên vị? (Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu Lăng mộ)

(Chứng lắc đầu cũ đã chữa khỏi đƣợc chƣa?)

Lạc lạc trƣợng phu hà nhỉ nhỉ? (Đồng tƣớc đài)

(Bậc trƣợng phu lỗi lạc sao lại nhƣ thế?).

Có khi hỏi là một cách để phê phán, để vạch mặt kẻ xấu cho ngƣời đọc thấy rõ bộ mặt

thật của chúng.

125

Tƣ nhân thịnh thời thúy đảm đƣơng? (Đồng Tƣớc đài)

(Ngƣời ấy lúc thịnh, nào ai dám chống lại)

Xú danh mãn quách tàng hà dụng? (Thất thập nhị nghi trủng)

(Tiếng xấu đầy trong quách thì còn chôn dấu kỹ để làm gì?)

Có khi hỏi cũng là một cách để ngậm ngùi nuối tiếc mội cái gì đã không thể tồn tại

theo thời gian.

Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ? (Dƣơng phi cố lý)

(Cánh hồng tàn rơi tơi tả biết tìm thấy ở nơi đâu?)

Hà xứ thần tiên kinh kỹ thì?

Do lƣu tiên tích thử giang mi? (Hoàng hạc lâu)

Thần tiên ở nơi nào đến đã trãi qua bao thời

Còn để lại dấu tiên ở bờ sông này?)

Có khi là câu hỏi về quê nhà, nơi mà dẫu có đi đến nơi đâu, xa bao nhiêu ngƣời ta vẫn

đau đáu mong mỏi tìm về.

Môn tiền yên cảnh cận nhƣ hà? (Khai song)

(Cảnh mây khói trƣớc cửa gần đây nhƣ thế nào rồi?

Chinh hồng ảnh lý gia hà tại? (Ngẫu hứng II)

(Trong bóng chim hồng đang bay xa, nhà ta ở đâu?)

Có khi là hỏi để mà hỏi, hỏi chính mình hoặc để cho điều thắc mắc cũng vang vọng

vào đất trời. Kiểu câu hỏi tu từ, không hỏi để trả lời.

Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhƣ? (Độc Tiểu Thanh ký).

(Thiên hạ có ai ngƣời khóc Tố Nhƣ không?)

Thiên hạ hà nhân khấp mộng trung? (Ngẫu đề)

(Nhƣng thiên hạ ai là ngƣời không ở trong mộng?).

Đặc biệt là các câu hỏi nằm trong câu kết của bài thơ có sức vang mạnh mẽ, có giá trị

thẩm mỹ cao. Có nghĩa là thay vì tác giả kết luận sau khi đặt vấn đề thì tác giả lại mở ra một

khía cạnh mới của vấn đề gây ấn tƣợng mạnh nơi ngƣời đọc. Vấn đề để hỏi có thể là lớn lao,

khái quát cũng có thể là vụn vặt, cá nhân, nhƣng tất cả đều gây một chấn động về mặt tâm lý

tạo nên một trƣờng liên tƣởng, trƣờng cảm xúc nơi ngƣời đọc. Ngƣời đọc cảm theo ác giả và

cảm thấy bị

126

đuối khi phải liên tục dõi theo những vấn đề mà tác giả đặt ra. Ví nhƣ bài Phản chiêu hồn, sau

khi phân tích đủ mọi khía cạnh để khuyên hồn Khuất Nguyên không nên trở về trần thế, vì

ngƣời đời sau vẫn còn những thƣợng quan Ngân Thƣợng và mặt đất đâu đâu cũng là Mịch

La. Nếu đến đây Nguyễn Du chấm dứt, ta có thể hiểu ý Nguyễn Du muốn nói gì, thế nhƣng

vẫn còn một câu hỏi thòng lại phía sau chót "Hồn hề! hồn hề! nại - hồn hà?" Câu hỏi rõ ràng

mở ra sự liên tƣởng mới nơi ngƣời đọc. Phải chăng Nguyễn Du rất thƣơng tiếc ngƣời tài, rất

mong muốn có đƣợc một ngƣời hiền, ngƣời tài nhƣ thế trong cõi đời, cõi ngƣời thực sự

nhƣng biết làm thế nào, đành phải khuyên ngƣời ấy đi vào cõi hƣ vô còn hơn. Khuyên nhƣ

thế nhƣng Nguyễn Du vẫn dành quyền quyết định cho Khuất Nguyên. Đó là ý tôn trọng đồng

thời Nguyễn Du hiểu ngƣời nhƣ Khuất Nguyên không thể chung đụng với bầy quỷ dữ ở cõi

trần chuyên cắn xé thịt ngƣời ngọt xớt nhƣ đƣờng, không để cho lộ vuốt nanh và nọc độc.

Hỏi cũng là để quyết định thay cho Khuất Nguyên.

Đấy là ở bài thơ có tính chất tự sự, còn bài thơ mang tính chất trữ tình cũng vậy. Bài

Hoàng Hạc lâu, sau khi nhắc lại tích xƣa, luận bàn về cuộc đời cái gì còn, cái gì mất, trƣớc

mắt khói sóng vẫn mênh mang, cỏ cây vẫn nhƣ xƣa. Rồi đột ngột Nguyễn Du bật ra câu hỏi :

Trung tình vô hạn bằng thùy tố?

Minh nguyệt thanh phong dã bất tri

Sáu câu trên tác giả không hề nói gì đến mình, chỉ thuần là cảnh. Hai câu kết, Nguyễn

Du đƣa cảm xúc của mình vào. Đây là cảm xúc bất chợt hay lan tỏa từ cảnh vật tiêu sái gợi

tình? Minh nguyệt và thanh phong dƣờng nhƣ không liên quan gì đến lời thơ Thôi Hạo, tại

sao tác giả lại đƣa vào đây? Phải chăng thế giới "thảo thụ", "yên ba" là thế giới của ngƣời

xƣa, còn minh nguyệt, thanh phong là thế giới riêng của tác giả. Và cay nghiệt thay! lòng

ngƣời thì cảm xúc tràn trề vô hạn còn trăng trong gió mát thì cứ vô tình. Cảm xúc ấy biết ngỏ

cùng ai, ngƣời mắt xanh không có hoặc ở đâu xa. Chỉ có gió trăng là gần gũi mà gió trăng thì

nỡ thờ ơ. Cảm xúc bắt nguồn từ ngoại cảnh. Ngoại cảnh chi phối tâm tình con ngƣời

127

tạo ra cảm xúc, từ đó lan truyền những tín hiệu cảm xúc ấy đến với ngƣời, đọc thông qua câu

hỏi mở ra một khung trời khác của chính tác giả.

Nói chung trong thơ chữ Hán Nguyễn Du có rất nhiều câu hỏi đƣợc đƣa ra để thay

cho lời kết luận kiểu nhƣ vậy. Có khi một câu, nhƣng cũng có khi tác giả dùng luôn 2 câu kết

của bài thờ luật Đƣờng để làm thành câu hỏi.

Nhân sinh quyền lợi thành vô vị

Kim cổ thúy năng phá thử mê (Tô Tần đình)

(Đời ngƣời quyền lợi thật vô vị.

Xƣa nay, ai có thể phá đƣợc cái mê muội ấy?)

Cộng chỉ hoa mai báo tiên tức

Xuân tằng hà đáo dị hƣơng nhân? (An Huy đạo trung)

(Cùng nhau chỉ hoa mai báo tin xuân

Nhƣng xuân có bao giờ đến với ngƣời từ nơi đất khách?).

Những câu hỏi ấy ngàn năm mãi còn vang vọng, Nguyễn Du không tự trả lời đƣợc,

ngƣời đọc cũng chỉ cảm đƣợc cái tâm của tác giả, không làm gì hơn đƣợc. Đó là những bức

thông điệp cảm ứng.

3.1.3. Câu cầu khiến :

Thơ chữ Hán Nguyễn Du thiếu vắng câu cầu khiến, chỉ có 30 câu trên 250 bài thơ.

Điều này ngƣợc lại với thơ Đƣờng (nhƣ trên đã nói). Thơ Đƣờng nhiều câu cầu khiến đến nỗi

có bài thơ cả bốn câu đều là câu cầu khiến nhƣ bài Kim lũ y của Đỗ Thu Nƣơng.

Khuyến quân mạc tích kim lũ y

Khuyến quân tích thủ thiếu niên thì

Hoa khai kham chiết trực tu chiết

Mạc đãi vô hoa không chiết chi

(Khuyên anh đừng nên tiếc áo thêu vàng

Khuyên anh hãy tiếc thời tuổi trẻ

Hoa nở đáng hái thì nên hái

Đừng chờ hoa rụng bẻ cành không).

128

Bài thơ 4 câu mà có đến 5 lừ mang nghĩa cầu khiến. Nguyễn Du không dùng nhiều

câu cầu khiến, lừ mang nghiã cầu khiến cũng vắng bóng. Hình nhƣ hình thức câu thơ này

không phù hợp với con ngƣời Nguyễn Du. Ông không khuyên bảo ai, cũng không giáo dục

ai, càng không yêu cầu ai làm gì. Ông khá xa lạ với những điều này. Từ khuyến ( ) ông

dùng đƣợc 2 lần; tu ( ) dùng 6 lần, còn lại là mạc cho nên rất hiếm những câu thơ

nhƣ :

Tái bệnh thƣợng tu điều nhiếp lực (Khai song)

(Bệnh tái phát phải gắng sức điều trị.)

Khuyến quân ẩm tửu thả vi hoan (Hành lạc từ II)

(Khuyên anh uống rƣợu rồi vui chơi).

Hữu khuyến thả tu sát

Hữu tửu thả tu khuynh (Hành lạc từ I)

(Có chó cứ nên giết

Có rƣợu cứ nghiêng bầu).

Thƣờng tác giả dùng từ mạc để tự khuyên mình hoặc ngƣời khác hoặc nhận xét về

một việc nào đó ở dạng phủ định. Suốt 132 bài trong Bắc Hành tạp lục hầu nhƣ không có các

từ khuyến, thỉnh. Từ nguyện có dùng 2 lần trong chỉ 1 câu "Phàm nhân nguyện tử bất

nguyện bần" (Thái bình mại ca giả).

3.1.4. Câu cảm thán :

Câu cảm thán cũng khá nhiều. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du có 128 câu trên 250 bài

thơ. Loại câu này thƣờng là những lời than, những thƣơng xót, những tiếc nuối, những xúc

động... Thƣờng loại câu này đi kèm theo là những từ chỉ trạng thái tình cảm của con ngƣời

nhƣ: trù trướng, thương tâm, liên, vô hạn, vô cùng, thương tai, tai...

Trù trướng lƣu quang thôi bạch phái (Thu chí)

(Buồn rầu vì ngày tháng trôi giục mái tóc bạc thêm)

Vô ná cố hƣơng sầu! (Tái du Tam điệp sơn)

(Nỗi sầu cố hƣơng biết sao đây!)

Vô hạn thương tâm nhất dạ da trung (Sơ thu cảm hứng)

129

(Trong một đêm xiết bao nỗi đau lòng)

Đăng lâm hà tráng tai ! (Đăng Nhạc Dƣơng lâu)

(Đứng trên cao nhìn xuống phong cảnh sao mà tráng lệ) đặc biệt nhóm từ bất thăng...

diễn tả đƣợc mức độ cảm xúc của câu cảm nhiều lần hơn.

Bạch vân nam hạ bất thăng đa! (Ngẫu hứng)

(Phía nam mây trắng nhiều không kể xiết?)

Lạc hoa phi nhƣ bất thăng ngôn! (Tam liệt miếu)

(Hoa rụng tơ bay nổi sao cho xiết!)

Đông phong thành hạ bất thăng tình! (Dƣơng phi cố lý).

(Dƣới thành gió đông thổi, khiến lòng ngậm ngùi không kể xiết)

Dƣờng nhƣ con ngƣời Nguyễn Du phù hợp với kiểu câu này. Kiểu câu tƣơng ứng để

diễn đạt một nội dung tràn ứ cảm xúc chỉ chực trào dâng ra ngoài.

3.1.5. Câu đảo trang :

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du. Đặc biệt, câu đảo trang khá nhiều, có những câu khá

đặc sắc. Đọc thơ Nguyễn Du, ta nhƣ thấy lại Đỗ Phủ với những câu thơ cực kỳ trau chuốt. Có

hơn 60 câu Nguyễn Du dùng theo cách này. Tuy nhiên Nguyễn Du không cố gò chữ cũng

nhƣ Đỗ Phủ thơ hay nỗi tiếng không phải do tạo câu cầu kỳ. Nhƣng có lẽ cả hai gặp nhau ở

chỗ muốn thể hiện lòng trắc ẩn dày đặc, đầy ắp trong ngƣời. Muốn cho điều trắc ẩn ấy thoát

ra cũng khó, vì vậy khi nó thoái đƣợc ra ngoài thì nó cũng mang trên thân nó lớp vỏ tƣởng

nhƣ lạ thƣờng. Thực sự thơ Đỗ Phủ không phải gò chữ để chơi hay tiêu khiển. Những câu

hay nhất của ông là những câu khó hiểu hoặc có thể hiểu theo nhiều cách khác nhau, bởi vì

bản thân nó có nhiều lớp nghĩa, ẩn trong đó còn là cái gì mà nhà thơ muốn gởi tới cho cuộc

đời.

Ví dụ : Tùng cúc lƣỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Thu hứng I - Đỗ Phủ)

có thể đƣợc hiểu là :

Lƣỡng khai lùng cúc tha nhất lệ

Nhất hệ cô chu cố viên tâm

130

Hoặc: Tha nhật lệ lƣỡng khai tùng cúc

Cố viên tâm nhất hệ cô chu

Hay là câu: Ngƣ long tịch mịch thu giang lãnh

Cố quốc bình cƣ hữu sở ti (Thu hứng II - Đỗ Phủ).

Cũng có thể hiểu theo cách trên hoặc:

Thu giang lãnh ngƣ long tịch mịch

Hữu sở tƣ cố quốc bình cƣ.

Thƣờng thì cũng có một số nhà thơ cố ý làm cho câu thơ đẹp lên, nhƣ về sau ta thấy

có một số lối thơ phát sinh từ thơ luật Đƣờng, gọi là những điệu thơ chơi nhƣ là: Thủ vĩ

ngâm, thuận nghịch độc, hạn vận, song điệp, vĩ tam thanh, triệt hạ, yết hậu, liên hoàn... Đó là

loại thơ rõ ràng để chơi hoặc khi cần thiết để châm biếm một số đối tƣợng nào đó. Đỗ Phủ

hay Nguyễn Du có lẽ không làm thơ để chơi. Hai nhà thơ này cuộc đời lắm nhiêu khê, lại

sống vào thời điểm xã hội đầy biến động. Tâm hồn hai ông lại là những tâm hồn đa sầu, đa

cảm. Nhiều vấn đề đã xảy ra, những ăng ten đa sầu đa cảm cực mạnh của 2 ông đã nhanh

nhạy nắm bắt tất cả. Vì vậy mà lời thơ chuyển tải không hết ý định của ngƣời làm thơ, nghĩa

của nó còn ở bên ngoài ngôn ngữ, còn ẩn trong thứ tự xếp đặt câu chữ, còn lẫn trong âm

thanh nhịp điệu. Câu đảo trang là một trong những hình thức giúp ẩn chứa nội dung theo cách

này.

Câu đảo trang trong thơ Nguyễn Du khá phong phú. Có loại đảo thành phần trạng ngữ

hoặc vị ngữ nhƣng cũng có một số câu đảo toàn bộ trật tự của câu.

Ví dụ : Đảo thành phần trạng ngữ

Câu : Lịch lịch lâu đài thiên ngoại kiên

Vi vi chung cổ nguyệt trung văn (Đồng lƣ lộ thƣợng dao kiến Sài Sơn)

Đúng ra câu thơ phải :

Thiên ngoại kiến lịch lịch lâu đài

Nguyệt trung văn vi vi chung cổ

131

Nhƣng có lẽ Nguyễn Du muốn nhấn mạnh ý thấy rõ lâu dài khi còn ở xa xa và nghe

văng vẳng tiếng chuông trong không gian tràn ngập ánh trăng, cách nói nhƣ vậy hay hơn, ý

nghĩa sâu hơn.

Câu : Loạn sơn thúy tiếp cô thành mộ

Thủy trúc hàn sinh tửu điếm thu (Đồng lung giang).

Đúng ra là: Mộ, loạn sơn thúy tiếp cô thành

Thu, thủy trúc hàn sinh tửu điếm.

Buổi chiều những ngọn núi xanh lổm chổm tiếp liền với tòa thành trơ trọi và lúc

đƣơng tiết thu, mấy khóm tre nƣớc tỏa hơi lạnh quanh túp lều nhỏ. Cũng với ý nhấn mạnh sự

kiện, không gian thời gian chỉ để lót nền.

Đảo thành phần vị ngữ

Câu: Hoang giao tĩnh dạ loạn phi huỳnh (Vị hoàng doanh)

Câu viết bình thƣờng phải là: Hoang giao tĩnh dạ phi huỳnh loạn.

Đêm vắng giữa cánh đồng hoang đom đóm bay tƣ tung loạn xạ. Cách nói trong tiếng

Việt cũng vậy, khi muốn nhấn mạnh thƣờng ngƣời ta đảo ngƣợc lại để ngƣời đọc có thể cảm

nhận đƣợc mức độ đậm nhạt khác nhau. Cho nên thay vì: đom đóm hay tứ tung, đƣợc đảo

ngƣợc lại: bay tứ lung chính là đom đóm Nguyễn Du dùng kiểu này rất nhiều.

Câu: Sa chủy tàn lô phi bạch lộ

Lũng đầu lạc nguyệt ngoa hàn ngƣu (Đồng lung giang).

Nếu viết: bạch lộ phi hoặc hàn ngưu ngọa thì dễ nghe hơn, xuôi tai hơn nhƣng phi

bạch lộ, ngọa hàn ngưu thì rõ ràng hơn, chính xác hơn, đậm hét hơn: có thể dịch là:

Bay trên đám lau tàn cuối bãi cát là đàn cò trắng.

Nằm dƣới bóng trăng tà lạnh lẽo đầu ghềnh là con trâu lạnh.

Câu: Hoại bích nguyệt minh bản tích dịch

Hoang trì thủy hạc xuất hà ma (U cƣ II).

Tích dịch bản, hà ma xuất là câu nói xuôi nhƣng, Bản tích dịch, xuất hà ma là để nhấn

mạnh khung cảnh vắng lặng dù cái vắng lặng ấy đã đƣợc đề cập tới rồi. Sự xuất hiện của rắn

mối leo quanh, của cóc nhái nhảy ra làm đậm nét hơn về

132

khung cảnh không có sự hiện diện của con ngƣời hay con ngƣời chìm hút trong khung cảnh

vắng lặng.

Câu : Thƣơng minh thủy dẫn bôi trung lục

Cố quốc thiềm tùy mã hậu minh (Họa Hải ông Đoàn...).

Lục bôi trung, minh mã hậu vẫn là cái gì đó hết sức bình thƣờng so với một câu có

đầy đủ thành phần chủ ngữ vị ngữ và mỗi thành phần đứng đúng vị trí của nó, Nguyễn Du

không muốn nhƣ vậy, ông muốn câu thơ của ông phải óng chuốt hơn, mềm mại hơn vì vậy

ông đã đặt thành tố chính của vị ngữ ở phía sau cùng buộc ngƣời đọc phải chú ý .

Đảo chủ ngữ vị ngữ

Loại này câu thơ tiếng Việt cũng thƣờng làm vì nó đƣa lại cho câu thơ giá trị thẩm mỹ

cao.

Câu: Đoản sa ngƣ chẩm cô chu nguyệt

Trƣờng địch đồng xuy cổ kính phong (Hoàng mai kiều vãn diểu)

Viết bình thƣờng là:

Ngƣ chẩm đoản sa cô chu nguyệt

Đồng xuy trƣờng địch cổ kính phong

Nghĩa của câu là: nằm gối áo tơi là nhà chài trong chiêc thuyền lẻ loi dƣới ánh trăng.

Thổi sáo dài là em bé đi trên đƣờng xƣa trƣớc gió. Cách nói làm ngƣời đọc thấy ngay trung

tâm điểm của khung cảnh, sau đó mới tới các cảnh phụ. Thành phần vị ngữ đƣợc hoán đổi ra

đầu câu để dồn sự chú ý cho ngƣời đọc.

Câu: Không ốc lậu là nguyệt (Ký mộng) cũng vậy.

lẽ ra là: Tà nguyệt lậu không ốc: Ánh trăng xế lọt vào nhà trống .

Câu: Phong vũ xuân tùy nhất dạ thẩm ( Xuân dạ).

Bình thƣờng là: Xuân tùy phong vũ nhất dạ thâm.

Chủ ngữ là Xuân, tác giả để phía sau, đƣa thành phần vị ngữ phong vũ lên trƣớc để

nhấn mạnh ý: vẻ xuân cũng theo mƣa gió mà chìm trong đêm khuya. Thực ra cái chính ở đây

là hình ảnh mƣa gió. Tác giả muốn làm nổi bật điều này. Chính mƣa gió đã làm cho vẻ xuân

biến mất. Cộng vào đó là hình ảnh đêm

133

khuya góp phần cùng mƣa gió làm chìm mất vẻ xuân. Câu thơ nặng hơn, có chiều sâu hơn.

Câu: Liêm thùy tiểu các tây phong động (Thu chí).

Thực ra là: Tây phong động liêm thủy tiểu các.

Chủ thể ở đây là gió tây. Gió tây làm lay động bức rèm trên gác nhỏ, nhƣng có lẽ tác

giả muốn nhìn thấy bức rèm trƣớc, trƣớc khi biết nó lay động vì ngọn gió tây và tác giả muốn

ngƣời đọc chúng ta cảm nhận đƣợc nhƣ vậy.

Đảo nhiều thành phần trong câu

Đối với những cách đảo trên do Nguyễn Du một mặt muốn nhấn mạnh ý nghĩa một

mặt cũng muốn làm cho câu thơ đẹp hơn, trau chuốt hơn. Nhƣng đối với một số câu, cách đảo

rắc rối phức tạp hơn, đảo nhiều thành phần trong câu. Chúng ta biết Nguyễn Du không có

thời gian để gò câu gọt chữ, mà nếu có thì với cái đầu luôn đầy ắp những suy tƣ dằn vặt kia

Nguyễn Du không thể ngồi đó làm thơ cầu kỳ để mà tiêu khiển. Cái chính là Nguyễn Du

muốn thể hiện trọn vẹn thế giới tâm trạng của mình vào bài thơ, vào từng cảnh trí, từng sự

kiện của thơ, vì vậy mà có cách đảo phức tạp hơn.

Câu: Mục túc thu kiêu kim lặc mã

Bồ đào xuân túy ngọc lâu nhân ( Đại nhân hý bút)

Với câu này các thành phần trạng ngữ, chủ ngữ, vị ngữ đều bị đảo lộn.

Kim lặc mã : con ngựa đeo giàm vàng → chủ ngữ

Thu : mùa thu→ trạng ngữ

Kiêu : Kiêu hãnh (động từ chỉ trạng thái) → vị ngữ.

Mục túc : rau mục túc → thành phần phụ của vị ngữ

Ngọc lâu nhân : ngƣời lầu ngọc → chủ ngữ

Xuân : mùa xuân → trạng ngữ.

Túy : say → động từ làm vị ngữ

Bồ đào : Rƣợu bồ đào → thành phần phụ của vị ngữ.

Có thể hiểu là :

Mùa thu con ngựa đeo giàm vàng kiêu hãnh ăn rau mục túc

134

Mùa xuân, ngƣời trong lầu ngọc say mèm uống rƣợu bồ đào

Hai từ kiêu, túy cũng có thể là một trạng từ bổ ngữ cho hành động ăn và uống đƣợc

hiểu ngầm trong câu.

Mùa thu, con ngựa đeo giàm vàng ăn rau mục túc một cách kiêu hãnh

Ngày xuân, ngƣời trong lầu ngọc uống rƣợu bồ đào đến say mèm

Câu thơ vừa sang trọng, vừa đẹp lại vừa ngầm chứa cả ý giễu đùa một ngƣời nào đó

quanh năm sống cảnh phồn hoa không chú ý gì đến cảnh loạn lạc bên ngoài. Lời thơ sang

trọng, kiểu câu cầu kỳ, giọng điệu giễu cợt quả là phù hợp với ý nghĩa của bài thơ.

Câu: Cổ kính tiều qui minh nguyệt đảm

Triều môn ngƣ tống tịch dƣơng thuyền (Thanh quyết giang vãn diễu)

Theo thứ tự câu phải là :

Minh nguyệt cổ kính tiều qui đảm

Tịch dƣơng triều môn ngƣ tống thuyền

Hoặc một cách khác nữa :

Minh nguyệt tiều qui đảm cổ kính

Tịch dƣơng ngƣ tống thuyền triều môn

Nghĩa là: Trong trăng sáng, bác tiều gánh củi trở về đƣờng cũ

Dƣới bóng chiều, nhà chài đƣa thuyền ra lúc nƣớc lên.

Đây là bài thơ tả cảnh, lại là câu thơ tả cảnh theo hƣớng nhìn của tác giả. Tả cảnh bao

giờ cũng cho phép nhà thơ phóng hết tầm mắt của mình vào đối tƣợng. Một đôi câu thơ

nhƣng muốn cho hình ảnh tràn ngập phong phú thì phải dùng từ thật hàm súc cô đọng, với hai

câu thơ này ta thấy đƣợc suốt chiều dài của phong cảnh từ hành động của bác tiều, bác ngƣ.

Vì vậy mà tác giả phải dùng từ thật khéo. Chúng ta cảm thấy nhƣ khuôn khổ còn thơ quá chật

chội trƣớc những từ ngữ và hình ảnh chen chúc nhau để có vị trí thích đáng - nhƣng rõ ràng

những từ ngữ, hình ảnh không làm câu thơ trở nên rƣờm rà luộm thuộm mà ngƣợc lại nó còn

làm tăng vẻ mƣợt mà óng chuốt cho câu thơ. Đó là thủ thuật sắp xếp chữ tài tình của một

Nguyễn Du bậc thầy.

135

Câu: Minh kính hiểu hàn khai lão sấu

Sài phi dạ lĩnh bế thân ngâm (Ngọa bệnh II).

Có thể là: Hiểu hàn khai minh kính lão sấu

Dạ tĩnh bế sài phi thân ngâm

Nghĩa là: Buổi sáng lạnh soi gƣơng thấy mình gầy và già đi.

Đêm thanh vắng cửa sài đóng kín nằm rên rỉ.

Nhìn chung câu thơ của Nguyễn Du có sức cuốn hút mạnh mẽ lạ thƣờng. Cùng một

thể thơ rất khó có thể thấy đƣợc nét đặc biệt của nhà thơ này hay nhà thơ khác ngoài nội dung

ý nghĩa của nó. Nhƣng đối với thơ Nguyễn Du càng di sâu vào cấu trúc câu lại càng phát hiện

đƣợc nhiều nét khu biệt khiến ta có thể nhận đƣợc phong cách riêng của Nguyễn Du. Lại

thêm nội dung quy định hình thức khá chặt chẽ nên chúng ta có thể hình dung ra một Nguyễn

Du thâm trầm mà sâu sắc, chuộng cái đẹp nhƣng chủ yếu vẫn là cái chất bên trong, không

quá giản đơn cũng không quá cầu kỳ rỗng tuếch. Chỉ cần lấy câu đảo trang để so sánh ta cũng

có thể thấy đƣợc Nguyễn Du khác với anh ruột của mình là Nguyễn Đề nhƣ thế nào. Câu của

Nguyễn Đề rất đơn giản và đúng luật, các thành phần trong câu thƣờng đứng nguyên ở vị trí

của mình không thay đổi trật tự cũng nhƣ câu trúc câu không đa dạng.

Sầu cảnh hạ tằng vong mỹ đức ?

Úy đồ vị khả kết phƣơng lân (Tạ tửu - Nguyễn Đề)

(Cảnh sầu muộn sao có thể quên đức đẹp).

Đƣờng đời kinh sợ nên chƣa kết láng giềng thân).

Hay : Thân lân kiên tửu lƣu du tử

Tân hữu ngâm thi tống sứ lang (Hồi hƣơng ngẫu phú - Nguyễn Đề)

(Họ hàng làng xóm bày rƣợu để giữ ngƣời ở lại

Khách khứa bạn bè ngâm thơ tiễn sứ thần ra đi).

Tóm lại câu thơ Nguyễn Du vừa có những nét chung của một giai đoạn vừa có nét

riêng của một cá nhân đặc biệt xuất sắc trong việc sử dụng cấu trúc câu sao cho nó có thể

chuyển tải đầy đủ sắc thái tình cảm đồng thời làm tăng tính chất thẩm mỹ của câu thơ.

136

3.2. Từ ngữ:

Từ trong thơ chữ Hán Nguyễn Du rất đa dạng và phong phú, nó vừa mang nét chung

của nghệ thuật trung đại vừa có tính chất bứt phá đi trƣớc thời đại. Do đặc điểm của thơ chữ

Hán, Nguyễn Du vẫn phải đi theo hƣớng nhƣng ngƣời đi trƣớc, nghĩa là hệ thống từ vựng ít

nhiều mang tính khái quát ƣớc lệ để bày giải tình cảm. Mãi khác tuy vẫn nằm trong tƣ duy

Hán nhƣng dƣờng nhƣ Nguyễn Du đã vƣợt lên trên thời đại mình, hé cho thấy những nét mới.

Đại diện cho nét mới này là hệ thống từ mang tính cụ thể, trực quan sinh động, để kể và tả

nhiều khi là để thể hiện những nỗi niềm sâu kín thông qua những chi tiết hết sức vụn vặt của

đời thƣờng.

Đó là nhìn một cách tổng quát. Đi vào cụ thể ta sẽ xét cách dùng từ, quan hệ giữa từ

với từ, sự xuất hiện của một số từ ở tần số cao, hƣớng đi riêng của những từ có tính chất khái

quát. Những khía cạnh có tính chất chung của tƣ duy Hán, biểu hiện bằng hệ thống từ loại,

bằng hình thức tƣợng trƣng ƣớc lệ, điển cố, điệp từ, ẩn dụ, kể cả hệ thống từ láy âm quen

thuộc nhƣ: mang mang, thê thê, du du, tiêu tiêu, phân phân… do có tính chất trùng khớp với

các tác giả thơ chữ Hán khác, nên ở đây không bàn tới. Vì vậy, hƣớng quan tâm khảo sát sẽ

đi sâu vào những khía cạnh nhƣ: hệ thống hƣ từ, hệ thống từ tự xƣng, từ mang chức năng

biểu cảm, từ mang tính chất triết lý về cuộc sống, quy trình và hƣớng đi của một số từ thƣờng

thấy nhƣ: không-bất-vô, nhất-độc-cô, tƣơng- dữ - cộng...

3.2.1. Hư từ :

Cổ văn xƣa sử dụng hƣ từ rất nhiều, bởi vì đó là những công cụ ngữ pháp rất quan

trọng. Nổ dùng để diễn đạt những tƣ duy phán đoán, suy lý, dùng để xác lập những quan hệ

hoặc những tín hiệu ngắt câu (trong bài vãn xuôi cổ ngày xƣa ngƣời ta không dùng dấu chấm

câu). Đó là những từ nhƣ: chi, hồ, giả, dã, ƣ, nhĩ, hỉ... Còn gọi là loại văn chi hồ giá dã.

Trong thơ cổ trƣớc thời Đƣờng số lƣợng hƣ từ cũng có hiện diện tuy ít hơn so với văn xuôi.

Do đặc điểm của thơ nói chung: thơ cần nói gọn, có vần, có nhịp, ngắt câu tƣơng đối

đều đặn... nên những hƣ từ nhiều khi không cần thiết. Nhất là đến thời

137

Đƣờng do đặt trƣng nghệ thuật, do yêu cầu ngắn gọn hàm súc, lời ít ý nhiều... nên hƣ từ càng

giản lƣợc đi rất nhiều. Theo thống kê của Phan Ngọc (trong Đƣờng thi tập I) thì sự xuất hiện

của các từ chi hồ giả dã rất ít. Từ hồ hầu nhƣ không có, từ chi có 4 lần; nhi có 1 lần, giả 7 lần,

dã 4 lần... và theo ông các hƣ từ chỉ những thao tác của tƣ duy đều loại trừ hết nhƣ: kỳ, cái,

tắc, phù, phàm, cố, hưu... bản thân nó còn tạo lập ra một hệ hƣ từ cho riêng mình [ 178:27].

Ông Phạm Thế Ngữ trong cuốn "Khảo luận về thơ cổ Trung Hoa" có dẫn những lời

nói của các ông nhƣ Triệu Mạnh Phủ đời Nguyên" Thơ mà dùng hƣ từ thì không hay"; Phạm

Phanh: "Thơ dùng nhiều thực từ thì mạnh, dùng nhiều hƣ từ thì yếu"; Tạ Trần "Dùng nhiều

thực tự thì ý giản mà câu mạnh, dùng nhiều hƣ tự thì ý phồn mà câu yếu". Và ý kiến của

chính Phạm Thế Ngũ là "Đƣờng nhân hay dùng thực tự, Tống Nhân hay dùng hƣ tự". Ông

dẫn thơ của Hoàng Đình Kiên với những câu nhƣ:

Thả nhiên liên nhĩ nhĩ

Đắc dã tự tri chi

Nhân tích kỳ du kim thục tại

Thụ do như thử ngã hà kham

Quyển khách tái du hành lão hĩ

Cao lãng nhất tiếu cố y nhiên

Ông cho rằng những câu này "Có vẻ sinh động và phong vận dồi dào, thực không thua

kém gì những câu thơ hay chuyên dùng thực tự" [66:110].

Đối với thơ chữ Hán Nguyễn Du chúng ta không bàn tới cái hay hay dở của các hƣ từ

mà chúng ta chỉ xét mức độ xuất hiện và tác dụng của nó mà thôi.Bởi từng thời kỳ, đặc trƣng

nghệ thuật khác nhau và từng tác giả có những nét riêng khác nhau, không thể lấy cái không

có của ngƣời này để so sánh hay hay dở với cái có của ngƣời khác. Chỉ thấy đặc biệt ở

Nguyễn Du hƣ từ xuất hiện khá nhiều. Điều đó nói lên tính chất gì? nó có nhiệm vụ gì? diễn

tả cái gì của riêng Nguyễn Du ?

Nói đến hƣ từ phải nói cho đến đầu đến đũa. Phan Ngọc chỉ mới nói tới một số từ tiêu

biểu chứ chƣa đi sâu vào hệ thống của nó. Thơ Đƣờng dĩ nhiên vẫn còn

138

có sự hiện diện của các hƣ từ nhƣ: tƣơng, dữ, hựu, cánh, do, duy, tận, thái, tối... Nhƣng ở đây

nó không thuộc hệ "chi hồ dã giả" nên Phan Ngọc không đề cập đến. Đã nói đến hƣ từ thì

phải xét đến toàn bộ hệ thống của nó.

Hệ thống hƣ từ ở Tiếng Việt theo ngôn ngữ học hiện đại thì còn nhiều vấn đề tranh

cãi và phải cân nhắc nhiều. Ở đây chúng ta chỉ thu hẹp lại hệ thống này trong chữ Hán. Trƣớc

nay nói đến hƣ từ ngƣời ta thƣờng chia làm 4 loại: liên từ, trợ từ, phó từ, giới từ. Ông Phạm

Thế Ngũ trong cuốn khảo luận về thơ cũ Trung Hoa cũng đã xác nhận nhƣ vậy. Ông Trần

Vãn Chánh trong cuốn Sơ lƣợc ngữ pháp Hán văn đã giải nghĩa và phân tích rất rõ:[10:29].

"Liên từ là từ dùng để nối kết các từ ngữ thành phần của câu hoặc đoạn câu, đoạn văn

với nhau" [10,29] Gồm có những từ nhƣ: dữ, tƣơng cập , nhi , thả

, hựu ; hoặc , nhƣợc , nhƣ , nhiên , huống ,

, cố , tuy dĩ phù cái ...

"Trợ từ là loại từ biểu thị hình thái, vốn không có ý nghĩa cụ thể và chỉ dùng để giúp

cho từ hoặc câu cho biết rõ thêm về tinh thần, thái độ, phong cách bao hàm trong câu văn

hoặc lời nói" [10:29]. Gồm những từ nhƣ: dã , hĩ hề , hồ tai ,

da ; dƣ , yên

"Giới từ là từ dùng để nêu lên sự liên hệ ý nghĩa giữa các từ hay các thành phần có

nhiệm vụ bổ túc cho nhau" [10:31].Gồm những từ nhƣ:chi , ƣ

"Phó từ là những từ dùng để bổ sung ý nghĩa cho động từ. Có thể coi phổ từ là từ

trung gian giữa thực từ và hƣ từ" [10:34]. Gồm những từ nhƣ: duy ('Ki.), hựu , giai

, thậm , tối , cánh ; nại tăng ( ), tận , do , thái

...

Bên cạnh đó còn có những từ mang tính chất lƣỡng khả vừa là thực từ vừa là hƣ từ. Ví

dụ nhƣ: nhất ; độc ... những lừ này khi đi với danh từ thì nó mang ý nghĩa số lƣợng

(nhất sơn, nhài thủy; độc hạc), còn nếu nó đi với động từ thì sẽ trỏ thành phó từ (nhất kiếm,

nhài hành, nhài vọng, độc điếu, độc ẩm...)

Trong thơ Nguyễn Du có 52 bài trên tổng số 250 bài không có dùng hƣ từ (trong đó

có 15 bài tứ tuyệt, 6 bài ngụ ngôn, 31 bài thất ngôn bát cú), số lƣợng

139

bài thơ còn lại là 198, trong đó có 21 bài thơ cổ thể. Số lƣợng hƣ từ đƣợc Nguyễn Du dùng là

625 lần, nếu tính trung bình thì có khoảng 3 từ trong 1 bài. Số lƣợng này cũng đáng kể. Nếu

nhƣ chúng ta nói đặc điểm của thơ có thể giản lƣợc đi những từ không cần thiết hoặc những

từ không mang ý nghĩa xác đáng cho câu thơ, thì tại sao Nguyễn Du lại dùng nhiều nhƣ vậy?

Có thể so sánh với Nguyễn Đề anh ruột Nguyễn Du, trong 143 bài thơ, có 113 hƣ từ, tính

trung bình một bài thơ chƣa đƣợc 1 từ. Ngô Thì Nhậm trừ một số bài thơ dài còn lại các bài

thất ngôn bát cú rất ít dùng hƣ từ. Nguyễn Du dùng nhiều hẳn là có lý lẽ của riêng ông.

Trƣớc hết chúng ta thấy tác dụng của những hƣ từ này. Vì là hƣ từ nên nó có nhiệm

vụ trợ giúp, bổ nghĩa, giải thích nghĩa hoặc liên kết các thực từ với nhau làm rõ ý cần diễn đạt

của tác giả. Dùng phó từ là để bổ nghĩa nhân mạnh. Dùng trợ từ để phụ giúp làm sáng tỏ các

thực từ. Dùng giới từ là giúp liên hệ giữa ý này với ý khác. Dùng giới từ là để nối kết các ý

với nhau.

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du khi có sự hiện diện của các hƣ từ này, câu thơ trở nên

phức tạp đa nghĩa và cấu trúc câu cũng thƣờng ở dạng câu ghép. Có khi 2, 3 câu mới hết một

ý. Nhiều nhà nghiên cứu cố gắng giải thích bằng cách chia ra làm 2 loại thơ: thơ trữ tình và

thơ hiện thực, đồng thời nêu lên nhận xét:ở mảng thơ phản ánh hiện thực thì hƣ từ đƣợc dùng

nhiều hơn và những động từ chỉ hoạt động thực tiễn nhất là những từ có bộ thủ nhiều hơn. Do

đó loại thơ này sôi động, ồn ào hơn so với cái tĩnh tại, nghiêm lặng của mảng thơ trữ tình.

Điều đó cũng có lý do của nó. Tuy nhiên thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng có đủ 2 mảng thơ

trên nhƣng hầu nhƣ mảng thơ nào cũng có sự hiện diện của các hử từ. Và chừng nhƣ những

hƣ từ đó có nhiệm vụ làm cho thơ ông mang một nét khu biệt nào đó so với thơ chữ Hán của

các tác giả khác.

Hãy xem cách nói của Ông khi dùng những hƣ từ này:

Phao trịch nhƣ thoa hoán bất hồi ...

Nhất sinh u tứ vị tằng khai (Thu chí)

(Ngày tháng thoi đƣa gọi không trở lại

140

... Suốt đời ôm mối u sầu chƣa tững gỡ ra đƣợc)

Đông bích hàn trùng bi cánh tân...

Tối thi thiên nhai quyện du khách (Thu dạ I)

(Vách phía đông tiếng côn trùng mùa lạnh nghe buồn bã xót xa)

... Đáng buồn nhất là ngƣời du khách nơi chân trời đã mỏi mệt)

Đạp biến thiên nha hựu hải nha ...

Đản kiến đƣờng lê lạc tận hoa (Tạp ngâm)

(Đi khắp chân trời lại đến góc biển ...

Chỉ thấy cây đƣờng lê đã rụng hết hoa rồi)

Thần phách tương cầu mộng diệc nan (Ức gia huynh)

(Hồn phách tìm nhau trong mộng cũng khổ)

Với những câu thơ trên nếu vứt hết những hƣ từ thì có lẽ chỉ còn cảnh mà không thấy

tình, chỉ có miêu tả mà không thể hiện tâm trạng. Nói cách khác nó chỉ là một số hình ảnh rời

rạc, không cảm xúc. Chỉ cần thêm vào một từ: nhƣ, tằng, cánh, tối, hựu, đản, tận, tƣơng,

diệc... thì sẽ thấy hiện lên đầy đủ ý tình của tác giả.

Nêu chỉ nói "Nhất sinh u tƣ vị khai" có lẽ cũng đủ nghĩa, nhƣng nếu thêm từ tằng

(từng) thì nghĩa đƣợc nhấn mạnh hơn, ý cũng quyết liệt hơn làm tăng giá trị biểu đạt tình

trạng hiện có của nhân vật.

Cũng nhƣ câu "Đông bích hàn trùng bi tân", thiếu chữ cánh câu thơ giảm nhẹ ý nghĩa.

Có thêm chữ cánh, tâm sự tác giả trở nên nặng nề hơn, bi thƣơng hơn.

Hay với câu "Đản kiến đƣờng lê lạc tận hoa", nếu không có đản và tận câu thơ cũng

đủ nghĩa: thấy cây đƣờng lê hoa rụng, nhƣng nếu có thì nghĩa sẽ đƣợc nâng lên rất nhiều. Từ

đản (chỉ); đản kiến (chỉ thấy) ngụ ý còn có nhiều cái khác để thấy nữa nhƣng hiện tại thì

không còn, chỉ có một điều đƣơng xảy ra trƣớc mắt là cây đƣờng lê. Cây đƣờng lê rụng hoa,

nghĩa quá nhẹ. Thêm tận (hết) vào trổ thành: rụng hết hoa; ngƣời đọc cảm thấy cảnh buồn

thảm hơn, chua xót hơn nghĩa là không còn sót lại một bông hoa nào trên cành. Thêm một từ

mà câu thơ sáng lên rất nhiều.

141

Câu "Thần phách tương cầu mộng diệc nan". Nếu không có tương và diệc câu thơ

cũng đã đủ nghĩa. Nhƣng nếu có thì nghĩa rõ hơn, câu thơ trên nên tha thiết, thấm sâu hơn.

Hồn phách cùng tìm nhau, nhấn mạnh ý cùng nhau. Cả hai đều tìm nhau, trong giấc mộng

cũng đã khó, còn nói chi trong hiện thực. Câu thơ tăng trọng lƣợng lên rất nhiều.

Trƣờng hợp khác nữa là những hƣ từ đƣợc dùng khi Nguyễn Du không muốn nói rõ ý

nghĩ của mình. Ông chỉ thể hiện điều đó một cách mập mờ và chừng nhƣ điều ấy chỉ để một

mình mình biết, còn ngƣời đọc muốn hiểu sao cũng đƣợc.

Hải hạc diệc hội vũ

Bất dữ thế nhân tri (Khổng Tƣớc vũ)

(Con hạc biển cũng biết múa

Những không cho ngƣời đời biết)

Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần

... Khu xa ƣng cái thị hà nhân? (Liệp)

(Còn ta ta cũng vui với bầy hƣơu nai của ta

... Những ngƣời lộng đón xe đƣa là ngƣời nào thế nhĩ?)

Bất sầu cửu lộ triêm y duệ

Thả hỷ tu mi bát nhiễm trần (Dạ hành)

(Không lo đi lâu dƣới sƣơng, áo bị thấm ƣớt.

Hãy mừng vì mày râu không phải nhuốm bụi)

Bách kỳ đản đắc chung triêu túy (Đối tửu)

... Cuộc đời trăm năm chỉ ƣớc đƣợc say suốt ngày)

Nguyệt trung hoành định thái vô tại (Đại tác cửu thủ tƣ qui II)

(Cầm ngang chiếc sáo dƣới ánh trăng, thật là buồn tẻ).

Lời lẽ của Nguyễn Du cứ do những hƣ từ mà tạo nên một màn sƣơng mỏng che phủ ý

nghĩ dấu bên trong. Đó là cái gì, tâm sự nào, ý nghĩa ra sao?... ngƣời đọc khó biết một cách rõ

ràng chỉ thấy lờ mờ và cũng hiểu lờ mờ qua cách đoán định mà thôi. Con hạc biển nó cũng

biết múa nhƣng nó không để cho ngƣời đời cùng biết cái việc nó biết múa, ta thì ta có thú vui

riêng của ta, ngƣời ta có mình

142

cũng có những thú vui của mình khác với thú vui của ngƣời ta, lọng đón xe đƣa là thú vui của

ai đó chứ không phải của mình; Dù cho sƣơng gió nhiều, áo bị thấm ƣớt, nhƣng chớ lo vì

điều đó, hãy mừng cho việc sƣơng gió làm sạch hết bụi, làm cho ta không phải nhiễm những

thứ dơ bẩn, ấy là điều nên, còn việc ƣớt áo bị lạnh là không đáng kể; Khi còn sống phải uống

cạn cả bầu rƣợu hỏi vì cuộc đời này đây không có gì đáng quan tâm... không có gì đáng quan

tâm hay có quan tâm cũng chẳng đƣợc gì. Hai điều này nhƣ nhau trong cuộc đời này. Cho

nên không mong gì hơn là đƣợc say suốt ngày. Say ở đây có thể là để thỏa mãn thú vui ẩm

tửu, mà cũng có thể say để quên sầu, quên những nỗi niềm cứ nằm sâu trong tim không đƣợc

giải tỏa. Cũng có thể say để không nhìn, không thấy, không nhận biết thực tế của cuộc đời

đang diễn ra trƣớc mắt... Ngƣời đọc chúng ta muốn hiểu sao cũng đƣợc; Dƣới trăng cầm

ngang ống sáo và cảm thấy buồn, không phải chỉ thoáng buồn mà là rất buồn. Ở tƣ thế thái vô

lại rất chênh vênh, không chắc chắn, không có điểm tựa và cũng không có khả năng nào để

có những thứ đó.

Nói chung, ngƣời đọc không thể biết rõ điều ông suy nghĩ, điều ông dấu kín, chỉ lơ

mơ thấy một cái gì đó thật buốt trong trái tim ông, mà nỗi đau đó không bao giờ dứt, nó cứ

vận hành trong ông không thoát ra đƣợc, chỉ khi nào cọ xát, đụng chạm thì nó mới bật ra một

âm điệu nào đó trong thơ, giải đáp một phần nào thắc mắc của ngƣời đọc chúng ta.

Một khía cạnh khác nữa, đó là sự tiếc nuối. Tiếc nuối quá khứ vàng son đã qua. Tiếc

nuối cái đẹp đã bị thời gian tàn phá. Tiếc nuối cái gì đã đƣợc gầy dựng nên, phút chốc lại sụp

đổ tan tành không còn dấu vết hoặc một cái gì đó còn sót lại biểu tƣợng cho sự đỗ vỡ, tan tác.

Rất nhiều câu thơ, bài thơ tác giả đã vẽ nên những cảnh nhƣ vậy. Và cũng chính những hƣ từ

góp một phần làm nỗi bật điều mà Nguyễn Du muốn để lại ấn tƣợng nơi ngƣời đọc.

Bài Long Thành cầm giả ca thể hiện sự tiếc nuối rõ rệt nhất. Tác giả luôn luôn nhấn

mạnh đến việc mình đã từng chứng kiến, từng tận mắt thấy đƣợc cái đẹp.

143

Dƣ ức thiếu thời tằng nhất kiến

... Đã nhan hanh thái tối nghi nhân

... Giám hồ tích trung tằng kiến chí

(Tôi nhớ lúc trẻ đã từng gặp một lần

Má hồng, men rƣợu, vẻ ngây thơ rất dễ thƣơng

... Từng gặp nàng trong tiệc bên hồ giám)

Nhƣng rồi thời gian hai mƣơi năm đã làm đổi thay tất cả, triều đại sụp đổ, yến tiệc xa

vời, ngƣời đẹp giờ đã tàn tạ. Nguyễn Du xem điều đó rất ghê gớm, rất dữ đội. Chữ tằng nhƣ

một tiếng kêu thảng thốt... nét đẹp ngày xƣa đã không còn. Triều đại oanh liệt một thời đã

mất dấu. Bản thân mình đầu cũng đã bạc trắng.

Rõ là một sự tiếc nuối lớn lao, nó đã làm cho ông chảy nƣớc mắt thâm áo "lệ triêm y".

Trong đầu ông nhƣ hiện lên những dấu hỏi khổng lồ: tại sao? tại sao? Chính những hƣ từ:

tằng, tối, chỉ, huống, tận... đã giúp cho ta thấy đƣợc điều đó.

Những bài: Ngộ gia đệ cựu ca cơ; Điếu La Thành ca giả, Độc Tiểu Thanh ký, Thăng

Long I, II cũng nằm trong mạch cảm xúc nhƣ trên. Cũng chính những hƣ từ soi sáng tâm tình

ấy của Nguyễn Du:

Xuân sắc yên nhiên động lục thành (Điếu La Thành ca giả)

(Sắc xuân tƣơi đẹp làm rung động cả sáu khu trong thành)

Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển (Ngộ gia đệ cựu ca cơ)

(Đã từng nghe giọng ca uyển chuyển khi nàng mặc áo hồng)

Nhan sắc đẹp nhƣờng ấy, tài nhƣờng ấy thế mà chỉ sau một thời gian

Tây hồ hoa uyển tận thành khƣ (Độc Tiểu Thanh ký)

(Vƣờn cảnh ở Tây Hồ nay đã thành gò hoang)

Mọi việc đã thay đổi không còn nhƣ trƣớc nữa. Ông đau lòng, đau cho quá khứ vàng

son.

Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy (Ngộ Gia đệ cựu ca cơ)

(Chậu nƣớc đổ, thế là thôi khó mà thu lại đƣợc)

144

và đau cả hiện tại.

Bạch đầu tương kiến khốc lƣu ly (Ngộ gia đệ cựu ca cơ)

(Đầu bạc cùng gặp nhau khóc than nỗi lƣu li)

Khóc than còn vì một nỗi, thân phận của cô hầu chẳng những nhan sắc tàn phai mà

kiếp đời cũng không khá hơn đƣợc cô vẫn còn mặc chiếc áo cũ thời trƣớc.

Khả liên do trƣớc khứ thời y (Ngộ Gia đệ...)

(Đáng ái ngại là vẫn còn mặc chiếc áo ngày trƣớc)

Hai bài Thăng Long cũng chung tâm trạng. Sau thời gian dài xa cách, ông đƣợc trở lại

Thăng Long. Ông mừng vì điều đó và nhấn mạnh cái diễm phúc của mình.

Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long (Thăng Long I)

(Đầu bạc còn đƣợc thấy cảnh Thăng Long)

Chữ do quả là có vai trò lo lớn trong câu này. Nó giúp ta thấy đƣợc cái mừng đến xúc

động của Nguyễn Du khi gặp lại đế đô xƣa. Cái mừng còn rõ hơn khi ông nhận thấy Thăng

Long vẫn còn những nét xƣa. Từ do lập lại một lần nữa, lần này lại đứng ở đầu câu nhƣ để

nhấn mạnh thêm.

Do thị Thăng Long cựu đế kinh (Thăng Long II)

(Đây vẫn còn là Thăng Long kinh đô cũ)

Tuy nhiên, thời gian đã mài mòn tất cả. Vẫn là kinh đô cũ nhƣng đã có những thay đổi

khác trƣớc. Những ngôi nhà lớn đồ sộ nay đã thành đƣờng cái. Cung điện cũ không còn dấu

vết, nhƣờng chỗ cho một dãy thành mới. Đƣờng ngang lối dọc, lạc mất lối cũ... Ngƣời đẹp

ngày xƣa bây giờ đã có chồng đã bế con, bạn bè thân kẻ mất ngƣời còn, có kẻ đã lên chức

ông, chức bố.

Tương thức mỹ nhân khan bảo tứ

Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông (Thăng Long I)

(Những cô gái xinh đẹp quen biết nay đã thành mẹ ẵm con

Những bạn hào hiệp cùng chơi nay đã thành bố cả rồi)

Thế sự thăng trầm hưu thán tức (Thăng Long II)

(Việc đời nổi chìm, thôi đừng than thở)

145

Tự gia đầu bạch diệc tinh tinh (Thăng Long II)

(Chính mình đầu cũng đã bạc lốm đốm)

Từ hưu, diệc cho thấy sự tất yếu của qui luật thời gian. Những ngƣời ấy và chính

mình cũng sẽ không thoát khỏi nó.

Đi qua đất Hán Dƣơng nhớ lời thơ Thôi Hộ, nhƣng thần tiên bây giờ còn đâu, chỉ thấy

trơ một chiếc lầu không:

Thần tiên nhất khứ chỉ lâu không (Hán Dƣơng vãn diễu)

(Thần tiên đi rồi chỉ còn cái lầu không)

Đi qua Hà Nam thƣơng ngƣời hiền, nhớ tích xƣa, nhƣng cảnh tù không còn gì

Nhân tử, cầm vong đài diệc hoang (Kê Khang cầm đài)

(Ngƣời chết, đàn mất, đài cũng bỏ hoang)

Đông Tây hƣơng tấn diệc mang mang

(Đông tân Tây tấn cũng đã mất tăm rồi...)

Cũng ở Hà Nam, nhìn thấy đài Đồng Tƣớc nhớ đến "ngƣời hùng" Tào Tháo một thời

oanh liệt.

Nhất thế chi hùng an tại tai (Đồng Tƣớc đài)

(Anh hùng một thuở, giờ nơi đâu?)

Đài cơ tuy lại dĩ khuynh dĩ

(Nền đài tuy còn nhƣng đã nghiêng lở)

Các hƣ từ ở đây cho thấy tâm trạng tiếc nuối của Nguyễn Du. Tiếc cái đẹp, tiếc ngƣời

tài, tiếc cả cái suy nghĩ điên rồ và công sức khổng lồ bỏ ra của Tào Tháo rốt cuộc hắn ta đƣợc

gì, chỉ là công dã tràng của con ngƣời đầy tham vọng.

Chỉ hận tằng đài không luật ngột

(Chỉ tiếc rằng đài nguy nga cũng vô ích

Thiên cơ vạn xảo tẩn thành không

(Nghìn vạn mƣu mô cũng đều vô ích cả)

Suy ngẫm về ngƣời để rồi băn khoăn nỗi mình

Nhƣ thử anh hùng thả nhƣ thử

Huống hồ thốn công dữ bạc danh

146

(Anh hùng đều nhƣ thế mà nhƣ thế

Huống chi những ngƣời chí có chút công nhỏ với cái danh mỏng manh)

Ngƣời vang tiếng một thời mà còn nhƣ thế, huống gì là mình. Tác giả liên tiếp đƣa ra

những liên từ để nối kết các ý, chứng minh luận điểm của mình.

Nhân gian huân nghiệp nhược trƣờng tại

Thứ địa cao đài ứng vị khuynh

(Ở đời nếu sự nghiệp vẻ vang còn mãi

Thì tòa đài cao ở khoảng đất này chắc chƣa bị đổ).

Luận điểm cuối cùng cũng qui về sự biến thiên của thời gian, sự thay đổi theo từng

ngày tháng. Con ngƣời quả là hữu hạn, ngắn ngủi trong cái vô hạn đi mãi không dừng. Trách

ngƣời xƣa thì cũng có trách nhƣng cái chính là tác giả đã đắm chìm suy nghĩ của mình vào

trong cái mất còn của cuộc đời. Cuộc dời này ngắn ngủi, chóng vánh tại sao con ngƣời không

biết tận dụng nó để làm những điều tốt, để sống thanh thản và khi chết cũng đƣợc nhẹ nhàng

với đất trời, với hậu thế... Các hƣ từ: thả, dữ, huống, hồ, nhược,... góp phần làm cho ta

cảm nhận đƣợc nhƣ thế.

Nhìn chung, từ những thực từ đa dạng sinh động nhà thơ cung cấp những thông tin

cho ngƣời đọc nhƣng phải thấy vai trò quan trọng của các hƣ từ giữ nhiệm vụ liên kết, giải

nghĩa, trự giúp, nhấn mạnh... thì mới thấy hối đƣợc ý tứ của nhà thơ. Nếu gạch bỏ nó sẽ là

một thiếu sót lớn, chúng ta sẽ chỉ thấy những thông tin khách quan mà không thấy đƣợc diễn

biến chủ quan thông qua thái độ tâm trạng của ngƣời cung cáp thông tin. Hệ thống hƣ từ

không thể thiếu đƣợc nhất là đối với một ngƣời luôn chất đầy những u uất, gánh nặng những

nỗi niềm của thiên hạ nhƣ Nguyễn Du. Và hệ thống hƣ từ này cũng tạo thành một trƣờng suy

tƣởng trong thơ Ông giúp ngƣời đọc hiểu rõ về Ồng hơn. Đó là một con ngƣời luôn day dứt,

quanh quẩn với những suy nghĩ dằn vặt không lối thoát. Ông luôn ý thức, những cái ý thức đó

cũng chỉ để suy ngẫm mà chƣa hao giờ nâng tầm mức để nó có thể cất cánh thành một hành

động gì đó trong cuộc đời. Các hƣ từ tạo cho

147

ngƣời đọc thấy đƣợc cái quanh co, lẩn quẩn ấy trong Ông. Đó cũng là một nét riêng của

Nguyễn Du.

3.2.2. Từ tự xưng:

Trong thơ Đƣờng, hình ảnh con ngƣời thƣờng hƣớng tới sự giao hòa tƣơng thông giữa

con ngƣời với thiên nhiên, nhà thơ thƣờng đặt cái tâm giữa thiên nhiên, tạo nên cảm giác hòa

điệu giữa nội tâm và ngoại cảnh. Vì vậy mà trong hình tƣợng thơ khó có thể tìm thấy một

cách rạch ròi con ngƣời nổi bật giữa thiên nhiên. Thiên nhiên không làm nền cho con ngƣời,

cũng không phải là đối tƣợng chủ yếu để con ngƣời miêu tả ngâm vịnh mà là hòa với con

ngƣời làm một, đi bên cạnh con ngƣời nhƣ một thể thông nhất bày tỏ cái tình hay cái đạo. Có

thể thấy rõ ở thơ Đƣờng rất ít sự hiện diện của những từ cụ thể nói về cá nhân con ngƣời. Con

ngƣời và tâm tình con ngƣời ẩn dấu vào trong thiên nhiên, và thiên nhiên chìm đắm trong tâm

tình của con ngƣời hòa làm một không thể bứt rời. Dù rằng trong Đƣờng thi, cái tôi cũng khá

nổi bật nhƣng do ngôn ngữ thơ Đƣờng đặc biệt mang tính ƣớc lệ nên cái gì cũng tƣợng trƣng;

lời ít ý nhiều, ý tại ngôn ngoại. Những từ không cần thiết ngƣời ta có thể ngầm hiểu với nhau

thƣờng không đƣợc đƣa vào. Hơn nữa cái tôi ở đây là cái tôi "siêu cá thể", nó có thể mƣợn

cảnh vật, hòa vào cảnh vật để thể hiện tâm tình nên cũng không cần phái có những từ tự xƣng

rõ rệt. Chính đặc điểm này làm cho thơ Đƣờng trở nên hàm súc và gợi cảm hơn bao giờ hết.

Nhƣ bài Kim lăng đồ của Vi Trang

Giang vũ phi phi giang thảo tề

Lục trần nhƣ mộng điểu không đề

Vô tình tối thị Đài thành liễu

Y cựu yên lung thập lý đê

(Mƣa trên sông lất phất, cỏ bên sông mọc tốt đều

Đời lục triều nhƣ giấc mộng chim vẫn kêu

Vô tình nhất là cây liễu ở Đài thành

Nó vẫn nhƣ xƣa rủ bóng trên bờ thành mƣời dặm)

148

Trong bài thơ này cảnh và tình trộn lẫn vào nhau. Không rõ tình là chính yếu hay cây

cỏ vạn vật Kim Lăng là chính yếu. Dƣờng nhƣ cây cỏ vạn vật mang tâm tình con ngƣời và

tâm tình con ngƣời thể hiện qua đƣờng nói, dáng dấp, âm thanh của cây cỏ vạn vật. Tiếng

chim kêu cũng là tiếng kêu cảm khái hoài cổ của con ngƣời. Chính nỗi khắc khoải của nhà

thơ dội vào tiếng chim kêu hoài, bên cạnh cỏ cây tốt đều và hàng liễu vô tình rủ bóng. Cũng

có thể cây cỏ, tiếng chim ở Kim Lăng tạo cho nhà thơ cảm giác đó. Cả hai lẩn khuất vào nhau

tạo nên nét riêng biệt cho bài thơ. Nhƣ vậy không cần có từ tự xƣng vẫn thấy thấp thoáng con

ngƣời cảm khái của tác giả, không cần phơi bày, cái tôi vẫn hiện diện.

Bài Trại đầu xuân độ của Nguyễn Trãi cũng mang đậm phong vị thơ Đƣờng.

Độ đầu xuân thảo lục nhƣ yên

Xuân vũ thiên tai thủy phát thiên

Dã kính hoang tƣờng hành khách thiểu

Cổ châu trấn nhật các sa niên

(Đầu bến cỏ xuân xanh lục nhƣ khói

Lại thêm trời mƣa xuân nƣớc vỗ ngang trời

Đƣờng ngoài nội vắng teo ít ngƣời qua lại

Thuyền lẻ loi suốt ngày gác đầu lên bến mà ngủ)

Đây cũng là cảnh, lồng vào đó là tâm trạng con ngƣời. Có bến nƣớc, có cỏ xanh, có

mƣa gió, có con đƣờng vắng và đặc biệt là có con thuyền lẻ loi suốt ngày gác đầu lên bến mà

ngủ. Tƣởng chừng nhƣ không có bóng dáng của một ai đó, nhƣng ai đó vẫn cứ có mặt ở đầu

bến, mắt dõi theo từng góc độ của cảnh vật và đến chiếc thuyền thì chừng nhƣ có sự hóa thân

vào nhau của ngƣời và vật tạo nên một thể thống nhất gắn bó chặt chẽ - không cần có một

ngã, hay ngô, hay dƣ ở đây vẫn thấy cá nhân của nhà thơ bộc lộ rõ ràng.

Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du có khác. Tất nhiên Nguyễn Du cũng có những bài thơ

kể chuyện ngƣời, cảnh, sự kiện... thì ở những bài thơ này không cần có sự xuất hiện của

chính tác giả, tác giả là ngƣời muốn trình bày, muốn kể lể sự kiện và bày giải theo quan điểm

của mình. Loại này chỉ chiếm tỉ lệ khiêm

149

tốn. Phần lớn thơ là bộc lộ tâm trạng. Nguyễn Du thƣờng không tự giấu mình, không muốn

trộn lẫn mình với thiên nhiên mà muốn khẳng định một cách rõ ràng sự có mặt của mình.

Theo thống kê, có 269 lần tác giả đã dùng từ tự xƣng nhƣ: ngã, ngô, dƣ, độc, thân, nhân,

khách, du khách, hành nhân, du nhân, du tử, lão ông, tráng sĩ, đạt nhân, lão, thanh sam, Tố

Nhƣ, hành nhân, chủ nhân, tâm... Số lƣợng này cũng rất đáng kể so với các tác giả

khác.Nguyễn Trãi có 22 từ tự xƣng trên 52 bài thơ. Ngô Thì Nhậm và Cao Bá Quát có số từ

tự xƣng tƣơng đƣờng Nguyễn Du, Nguyễn Đề có 40 từ trên 143 bài thơ. Có lẽ càng về sau

các nhà thơ càng có khuynh hƣớng tự thể hiện mình rõ hơn.

Con ngƣời vũ trụ là nét chính trong nền văn học trung đại, chƣa có một tƣ duy mới để

thay thế. Tuy nhiên, Nguyễn Du dƣờng nhƣ có khác, Ông nhƣ ngƣời đứng giữa truyền thống

và hiện đại. Một đôi nét về hoài bão, ƣớc mơ có trùng khớp với con ngƣời trong thơ cổ nhƣng

trong chừng mực nào đó, cái tôi của Nguyễn Du muốn đƣợc khẳng định nhƣ một thực thể tồn

tại rõ rệt. Vì vậy con ngƣời cá nhân ấy không trộn lẫn vào thiên nhiên, không muốn hòa điệu,

không muốn làm giọt nƣớc tan vào biển cả, mà muốn nổi bật giữa cuộc đời, giữa đất trời. Dù

cái tồn tại nổi bật ấy phát triển tốt đẹp đi lên hay trì trệ tàn tạ đi xuống thì ta vẫn cứ là ta, chứ

không là ai khác, không nhờ bất cứ ai, bất cứ gì thay thế hoặc nói hộ mình. Do đó mà hàng

loạt từ biểu hiện cái tôi, cái ta xuất hiện trong thơ ông.

Nguyễn Du thƣờng tự nói về mình, về bản thân mình, về sự tồn tại của bản thân mình

trong xã hội, trong trời đất. Ông lo lắng cho cái thân khó thích nghi với cuộc sống mà mình

đang sống.

Sinh vị thành danh thân dĩ suy

Tiêu tiêu bạch phát mộ phong xuy

Tính thành hạc lĩnh hà dung đoạn

Mệnh đẳng hồng mao bất tự tri (Tự thán I)

(Sông chƣa làm nên danh, thân đã suy yếu

Tóc bạc phơ phơ, gió chiều thổi

150

Chân hạc dài là do tính trời, sao chặt ngắn đƣợc?

Mệnh nhẹ nhƣ lông hồng mà không tự biết).

Chặt ngắn chân hạc, thì hạc sẽ không còn là hạc nữa. Ta thì phải là ta chứ không là

một ai khác. Nhƣng ta chƣa làm nên danh phận gì, thân ta đã suy yếu. Nếu hạc không phải là

hạc, ta không còn là ta thì có lẽ dễ thở hơn, yên ổn hơn trong cuộc đời đầy ba động này.

Tam thập hành canh lục xích thân

Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân ( Tự thán II)

(Tấm thân sáu thƣớc tuổi ba mƣơi )

Vì thông minh làm xói mòn nên hao tổn thiên tính trời cho)

Ở đây thân đƣợc khẳng định rõ hơn: thân sáu thƣớc, ba mƣơi tuổi - Cái thân ấy chƣa

làm đƣợc gì mà còn không giữ đƣợc tròn cái thiên tính của mình. Sự tồn tại rõ rệt ấy nhiều

khi phải chống chọi một cách yếu ớt với những ràng buộc, những lôi cuốn không dễ chối bỏ

chung quanh mình.

Trắc thân bất xuất hữu hình ngoại (Mộ xuân mạn hứng)

(Chiếc thân không thể ra ngoài vòng hữu hình)

Nên con ngƣời cứ phải lo cho cái thân của mình

Trấp tải phù sinh hoạn hữu thân (Mạn hứng I)

(Cuộc phù sinh ba mƣơi năm có mối lo vì có thân)

Một cái thân cụ thể mong manh, yếu ớt, lạc loài, bơ vơ không có gì chắn bền vững.

Tha hƣơng thân thế thác phù vân (Thu nhật ký hứng)

(Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi)

Thiên lý xích thân vi khách cửu (Thu Chí)

(Thân mình trần trụi ngoài nghìn dặm ở lâu nơi đất khách)

Bệnh tật, già nua cũng làm cho cái thân đang tồn lại ấy cảm thấy n nghiệp hơn. Cái

thân đuối sức trƣớc thời gian.

Thiên nhai không đái lão tùy thân (Giản công bộ thiêm sự Trần I)

(Nơi chân trời chỉ đeo cái già theo mình)

151

Nhất thân ngọa bệnh đế thành đông (Ngẫu đề)

(Một thân nằm bệnh ở phía đông đế thành)

Cái thân ấy lại mang trên nó một tâm sự nặng nề không thể tỏ cùng ai. Nhất thiết con

ngƣời đó phải là ta.

Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ (Mi trung mạn hứng)

(Ta có tấc lòng không biết nói cùng ai)

Chính ta lo lắng về điều đó

Ngã vọng Lam giang đầu

Thôn tâm thƣờng chủy chủy (Lam giang)

(Ta nhìn ra đầu sông Lam

Tấc lòng thƣơng lo rầu)

Nhất hành tam nhật tâm huyền huyền

Tâm huyền huyền đa sở úy (Ninh minh giang chu hành)

(Đi một mạch ba ngày, lòng ta lo lắng

Lòng ta lo lắng vì sợ nhiều).

Chính ta tự xem nhƣ :

Phong vận k ỳ oan ngã tự cƣ (Độc tiểu Thanh k ý )

(Ta tự coi mình nhƣ ngƣời cùng chịu nỗi oan lạ lùng của ngƣời phong nhã)

Chính ta muốn điều ấy

Ngã dục quải quan lòng thứ đệ (Tăng nhân)

(Ta muốn từ đây treo mũ ba về)

Ngô diệc lạc ngô mi lộc quần (Tiệp)

(Còn ta, ta cũng vui với lũ hƣơu nai của ta)

Hoặc một cái gì từ bên ngoài tác động đến ta.

Thu thanh nhật dạ độ lam hà

Vô ảnh vô hình nhập ngã gia (Tạp ngâm)

(Tiếng thu một đêm vƣợt qua sông Lam

Không bóng không hình lọt vào nhà ta)

Tây phong xuy ngã chính thê thê (Ngẫu hứng I)

152

(Gió tây thổi vào ta lạnh ngăn ngắt)

Ta yêu cầu một điều gì với một đối tƣợng nào đó.

Vị ngã Hồng sơn lạ lùng thạch (Tạp ngâm)

(Hãy vì ta mà từ tạ cây lùng tảng đá ở núi Hồng)

Khi muốn bày tỏ tình cảm một cách mạnh mẽ hơn, Nguyễn Du dùng từ độc (một

mình). Từ này Nguyễn Du không dùng rộng rãi. Dƣờng nhƣ nó chỉ đƣợc đặt vào những

trƣờng hợp nhƣ không tiện giải bày, không muốn nói ra mà để trong lòng thì cảm thấy bức

bối khó chịu.

Độc điếu song tiền nhất chỉ thƣ (Độc Tiểu Thanh ký)

(Một mình viếng nàng qua lập sách trƣớc cửa sổ)

Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm (Thu dạ II)

(Mây khói bốn mùa một mình trầm ngâm)

Vô ngôn độc đối đình tiền trúc (Ký hữu )

(Riêng mình lẳng lặng trƣớc cây trúc ngoài sân

Khi không cần nhấn mạnh nhƣng vẫn ý khẳng định, Nguyễn Du có thể dùng từ một

cách nhẹ nhàng: du khách, du nhân, hành nhân, chính khách.

Du nhân vô hạn cảm (Độ Phú nông giang cảm tác)

(Du khách cảm xúc vô hạn)

Hành nhân hồi thủ xứ (Tái du Tam Điệp sơn)

(Ngƣời khách quay đầu nhìn lại)

Chinh khách nam qui dục đoạn hồn (Quỉ Môn đạo trung)

(Khách đi đƣờng xa về nam nhƣ muốn dứt hồn)

Tối thị thiên nhai quyện du khách (Thu dạ I)

(Đáng buồn nhất là ngƣời du khách nơi chân trời đã mỏi)

Có khi chỉ cần nói tới chiếc áo xanh (chỉ ngƣời làm quan) hoặc ngƣời đi sứ.

Thanh sam tẩu biến hồng trần lộ (Đồng lƣ lộ thƣợng dao kiến Sài Sơn)

(Một chiếc áo xanh đi khắp cõi bụi hồng)

Thiên lý thanh sam bất nại toàn (Thƣơng Ngô tức sự)

(Khách áo xanh trên đƣờng nghìn dặm không thể qua lại đƣợc)

153

Não sát thù phƣơng lão sứ thần (Quá Thiên Bình)

(Làm cho ngƣời sứ thần già phƣơng xa buồn muốn chết đi đƣợc)

Nhiều lúc Nguyễn Du thể hiện các tôi của mình qua hình lƣợng bạch phát, bạch đầu,

hoặc chỉ cần nói đến cái tâm. Với cách này Nguyễn Du vừa thể hiện đƣợc cái tôi riêng lẻ vừa

nhấn mạnh đƣợc khía cạnh tình cảm cảm xúc của con ngƣời.

Bạch phát thu phong không tự ta (Vĩnh Châu LTH cố trạch)

(Nay đầu bạc chỉ luống tự mình than thở trƣớc gió thu)

Thử tâm thƣờng định bất ly thiền (Đề Nhị Thanh động)

(Tâm này thƣờng định không xa đạo Thiền)

Tất nhiên thơ xƣa, ngƣời xƣa cũng có dùng cách này. Nhiều ngƣời cũng nói đến cái

tâm, đến bạch phát nhƣng những hình ảnh đó thƣờng là tƣợng trƣng và nó cũng mang tính

cách thậm xƣng rõ hơn.

Bạch phát tam thiên trƣợng

Duyên sầu tự cá trƣờng

Bài tri minh kính lý

Hà xứ đắc thu sƣớng (Thu phố ca - Lý Bạch)

Tùng cúc lƣỡng khai tha nhật lệ

Cô chu nhất hệ cố viên tâm (Thu hứng - Đỗ Phủ)

Nguyễn Du tả thực hơn, chỗ nào cần nói rõ ý mình, do mình, của mình là Ồng sẵn

sàng đƣa những từ tự xƣng vào, không nói một cách chung chung, nhƣ chuyện của ai đó chứ

không phải của mình, hoặc chuyện đó của mình nhƣng cũng giống chuyện của muôn ngƣời

nhƣ cách nói của Lý Bạch:

Trừu đao đoạn thủy, thủy cánh lƣu

Cử bôi tiêu sầu, sầu cánh sầu

Nhân sinh tại thế bất xứng ý

Minh triều tản phát lộng biên châu

(Tuyên Châu Tụ Diễu Lẩu tiễn biệt hiệu thư Thúc Vân)

154

Không thấy có chủ ngữ, không biết hành động "trừu đao đoạn thủy";'cử bôi tiêu sầu"

là hành động của ai, của tác giả hay của ngƣời đời? Ai "bất xứng ý", ai 'tản phát"? Ngƣời đọc

có thể tự cảm nhận, hiểu sao cũng đƣợc.

Thơ xƣa cũng dùng ngã, nhƣng thƣờng là dùng trong các trƣờng hợp xƣớng họa, tiễn

biệt. Ngã đi với quân.

Ngã ký sầu tâm dữ minh nguyệt

Tùy quân trực đáo dạ lang tê

(Văn Vương Xương Linh tả thiên Long Tiêu Dao hữu thử ký - Lý Bạch)

Nguyễn Du quan tâm đến cái ta của chính mình cũng là điều tất nhiên. Thế kỷ XVIII

- XIX con ngƣời đã bắt đầu hƣớng về cá nhân mình, hƣớng về những cái gì thuộc về mình.

Nguyễn Du có thể nói ông chẳng những bắt kịp thời đại mà vƣợt lên trên thời đại mình để

thấy trƣớc và phản ánh kịp thời. Do vậy thơ ông mang đậm nét con ngƣời cá nhân của thời

đại mình. Con ngƣời cá nhân thực sự với những đau buồn, lo âu, sợ hãi... từ những vấn đề lớn

lao cho đến những vấn đề nhỏ bé, vặt vanh. Con ngƣời cá nhân, chứ không phải con ngƣời

"siêu cá thể" hay "tiểu ngã" muốn hòa nhập với đất trời để cùng tồn tại. Đây là con ngƣời

mong muốn khám phá hiểu biết gần với con ngƣời hiện đại hơn. Tuy nhiên với Nguyễn Du

cũng chỉ là những bƣớc đầu cũng muốn khẳng định mình. Đó là ta đang có mặt giữa đời, ta

suy nghĩ về điều này, ta muốn biết điều kia, ta ƣớc mơ điều nọ... thậm chí ta là ngƣời có tài.

Tráng niên ngã diệc vi tài giả (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch)

(Thời trẻ ta cũng có tài ví nhƣ cây gỗ tốt)

Vị tài hữu nhân tri hữu ngã (Biện giả)

(Chƣa chắc ngƣời xƣa biết có ta)

Từ tự xƣng của Nguyễn Du cho ngƣời đọc thấy rõ đƣợc điều đó. Tại sao chỉ trong

một bài thơ mà tác giả dựng nên nào là: bạch phát, tâm, nhân, khách, ngã, dƣ... Đó không

phải tự khẳng định mình thì là gì? Và số bài thơ nhƣ vậy cũng không phải ít. Có đến 48 bài

thơ trên hai lần tác giả nói đến chủ thể là mình.

Đây là cách làm gần với các nhà thơ hiện đại. Nhà thơ hiện đại luôn tự thể hiện mình:

tôi là "khách giang hồ", tôi là "khách bộ hành phiêu lãng", tôi là "kẻ

155

lạc loài", tôi là "một kiếp đi hoang", tôi là "khách tình si"... Các nhà thơ xƣa ít khi nói nhƣ

vậy. Lý Bạch trong bài thơ "Xuân nhật túy khỏi ngôn chí" 12 câu để nói về chí của mình mà

tuyệt nhiên không có một chữ nào nói rõ về cá nhân mình. Nguyễn Du cũng có nhiều bài,

theo cách làm của bài thơ trên, nhƣng một số khác Ông lại theo cách viết muốn tự khẳng định

mình, Ông không muốn nói chung chung để mình cũng giống nhƣ ai kia và ngƣợc lại. Ông

muốn cho mọi ngƣời thấy đó chính là ta, ta là nhƣ thế, nhƣ thế... chứ không phải ai khác.

Ngƣời xƣa, mấy ai làm thơ lại đem cả tên tuổi của mình vào, Nguyễn Du thì không ngại điều

đó. (Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhƣ - Độc Tiểu Thanh ký).

Bài Thu dạ I cũng cho thấy rõ điều đó. Bài thơ có 5 lần tác giả đề cập đến chính mình.

Lão, bạch phát, nhữ, nhân, du khách

Tác giả không chỉ nói mình già mà còn nhấn mạnh đến tóc bạc và cảm thấy đáng

thƣơng. Thƣơng cho cái tóc bạc ấy, cái già ấy. Ngƣơi (nhữ) là tóc bạc, là cái già ấy. Còn núi

xanh thì chƣa chán ngƣời, ngƣời đây chính là ta. Ta cũng chính là du khách. Thật là lạ,

Nguyễn Du nói loanh quanh, lòng vòng những kỳ thực là đang nói về mình, tự xƣng mình là

già (lão), mình là tóc bạc (bạch phát), mình chính là ngƣơi (nhữ), mình là ngƣời (nhân), mình

là du khách (du khách).

Nhƣ vậy chúng ta thấy Nguyễn Du có ý thức về việc làm của mình xuất phát từ việc

muốn khẳng định cái tôi cá nhân của mình. Cách viết nhƣ vậy chỉ thấy ở thơ hiện đại, từ ta -

mình đi đến đối thoại anh - em, ta - nàng, tôi - em, ta - em.

Tất nhiên luật thơ cho phép giản lƣợc chủ ngữ nhƣng khi cần thiết và để nhấn mạnh

thì chủ thể của sự vật sự việc không thể không nói đến. Nguyễn Du là những mầm mống bắt

đầu để hình thành tƣ duy nghệ thuật mới sau đó.

3.2.3. Từ mang chức năng biểu cảm:

Thơ là tiếng nói của tình cảm cảm xúc. Chu Tử khi đề tựa cho Kinh Thi có nói: "Thơ

là do cảm xúc trong lòng ta mà hình thành ra lời nói" [16:l06]. Quả vậy thơ luôn luôn xuất

phát từ lấm lòng, từ tình cảm của ngƣời viết về một đối tƣợng, một sự vật nào đó, có khi là

tình cảm của chính mình. Lƣu Hiệp cũng đã

156

từng nói: "Tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi" [159:158] (Trong tim là chí, phát ra lời là thơ)

hoặc "Nhân bẩm thất tình, ứng vật tƣ cảm, cảm vật ngâm thi, mạc phi tự nhiên" [58:159]

(Ngƣời vốn có bảy tính, tiếp xúc với vật mà cảm động, cảm động ngâm ngợi ý chí, đó là tự

nhiên vậy). Bạch Cƣ Dị cũng có quan điểm tƣơng tự: "Đại phàm nhân chi cảm vu sự, tắc tất

động vu tình, nhiên hậu ứng vu ta thán, nhi tình vu ca thi hĩ" [59:159] (Đại phàm con ngƣời

cảm xúc trƣớc sự việc, tất sẽ xúc động trong tình cảm rồi hứng lên ngâm nga mà hình thành

nên thơ ca vậy).

Tình cảm cảm xúc cũng có nhiều màu nhiều vẻ: yêu, thƣơng, buồn, giận, oán, ghét,

ham muốn... là cái mà Lƣu Hiệp gọi là "thất tình". Các trạng thái tình cảm này luôn đƣợc các

nhà thơ đƣa vào trong sáng tác của mình. Từ dùng để diễn tả các trạng thái tình cảm này cũng

rất phong phú đa dạng và mỗi tác giả có cách thể hiện riêng. Cũng tùy từng tác giả đi theo

một hƣớng phản ánh nào: buồn thƣơng, lo âu hay oán trách, ta thán, tiếng nói ƣớc mơ hay

tiếng nói phê phán, chỉ than vãn hay có hành động thực sự... mà có mức độ thể hiện sâu nông,

đậm nhạt khác nhau. Có nhà thơ thể hiện ƣớc vọng về một tình yêu lớn, tình yêu có tính chất

đại đồng. Có nhà thơ nói lên cái bi phẫn của lòng mình đối với xã hội thời đại. Có nhà thơ

hƣớng về hoài niệm dĩ vãng, nhớ tiếc một thời đã qua... Đỗ Phủ xƣa từng ƣớc có đƣợc hàng

vạn hàng nghìn ngôi nhà rộng rãi để che cho tất cả hàn sĩ trong thiên hạ (Mao ốc vi thu phong

sở phá ca) - Lý Bạch cũng mơ sao cho có đƣợc chiếc áo dài vạn dặm để có thể che trùm ủ ấp

cho tất cả mọi ngƣời (Tân chế bố cừu). Nguyễn Trãi suốt đời ôm ấp chí tiên ƣu, lòng nhân

nghĩa, ơn vua nợ nƣớc. Nguyễn Bỉnh Khiêm ƣu thời mẫn thế, ƣu quốc ái dân, Cao Bá Quát

thể hiện khát vọng thay đổi bộ mặt xã hội bằng sự phê phán quyết liệt và hành động cụ thể.

Nguyễn Công Trứ thì ngất ngƣởng, ngạo đời... Đó là tiếng nói tình cảm, cảm xúc của các nhà

thơ biểu hiện qua những nét khác nhau nhƣng tựu trung tất cả đều xuất phát từ tâm, từ tình

mà ra.

Ở Nguyễn Du nổi bật là nét lo đời, lo cho tất cả... vừa lo cho toàn thể cộng đồng vừa

lo cho từng số phận cá nhân cụ thể. Tình cảm cảm xúc của Nguyễn Du thể hiện vừa bao quát

vừa riêng biệt, vừa chung cho cuộc đời, vừa riêng cho một

157

ai kia. Do đó tập trung ở Nguyễn Du nhiều trạng thái cảm xúc: yêu thƣơng con ngƣời cùng

khổ; căm giận oán ghét sự tàn ác, bất công; lo lắng ƣu tƣ trƣớc thế thái nhân tình, nhớ tiếc

hoài niệm một thời tƣơi đẹp, ƣớc mơ hy vọng một ngày mai đầy ánh sáng... Từ ngữ để diễn

đạt cảm xúc đó cũng nổi bật trong thơ Ông -Nào là: trù trƣớng ; thƣơng tâm ;

liên ;sầu ; bi tƣ ; hoài , ƣu , hoạn ; cảm,

oán …

Nguyễn Du dùng nhiều những từ ngữ này không phải do ý thích mà chính từ những suy nghĩ,

nhận xét, đánh giá, thƣơng cảm của Ông về cuộc đời. Cuộc đời này ngắn ngủi, thoáng qua

nhƣ chớp mắt nên nó rất đáng đƣợc quan tâm. Nghĩ nhƣ vậy nên Nguyễn Du cứ thƣơng tâm,

buồn lo, căm giận, mong ƣớc... và thể hiện tất cả những điều đó vào trong câu chữ.

Thƣờng thấy nhất trong thơ là sự thƣơng tâm. Thƣơng cho mình:

Khả liên bạch phát cung khu dịch (Thiên Thai tự)

(Khá thƣơng mình đầu bạc rồi vẫn phải chịu để ngƣời sai khiến)

Mỗi liên cố thái duy cuồng tại (Từ Châu đạo trung)

(Thƣờng nghĩ thƣơng cho tính cũ của mình vẫn còn cuồng phóng)

Thƣơng cho ngƣời :

Thương tâm vãng sự lệ triêm y (Long Thành cầm giả ca)

(Đau lòng việc cũ lệ thấm áo)

Một ngƣời bạn khác thời đại.

Khả liên thúy lão Tiêu hiền phổ (Nhị sơ cố lý)

(Thƣơng thay Tiêu hiền phó đến già (mà vẫn làm quan)

Sự tiếc nuối cũng là một trạng thái xót xa của tâm hồn Nguyễn Du. Nuối tiếc quá khứ

đẹp, đi không trở lại. Tiếc cho ƣớc muốn không đƣợc thực hiện.

Khả tích Hồng sơn thuộc vãn tiều (Ngẫu hứng)

(Đáng tiếc cho Hồng sơn thuộc về ông tiều hái cũ chiều hôm)

Mộ niên hành lạc tích du du (Mạn hứng)

(Cuộc vui chơi lúc tuổi già, tiếc chỉ là thoáng chốc)

Có khi đau lòng thƣơng tâm vì những việc không rõ ràng: Chuyện xƣa nay, chuyện

trăm năm, nghìn năm…

158

Chung cổ thương tâm Chƣơng giang thủy (Đồng tƣớc đài) (Từ nghìn xƣa đau lòng nƣớc sông Chƣơng

Vô hạn thương tâm nhất dạ trung (Sơ thu cảm hứng) (Trong một đêm xiết bao nỗi đau lòng)

Còn cái buồn thì luôn dằn vặt, thấm sâu

Trù trướng thân tiêu cô đối ảnh (Tống nhân)

(Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng) Trướng vọng hồng trần diểu vô tế (Từ Châu đê thƣợng vọng)

(Buồn trông áng bụi hồng mù mịt không bờ bến)

Nỗi buồn có khi là một tiếng trùng, một giấc mơ, một nét quê hƣơng, hoặc chỉ là

những ƣu tƣ sầu muộn không giải tỏa đƣợc.

(Đông bích hàn trùng bị cánh tân (Thu dạ)

(Vách phía đông tiếng côn trùng mùa lạnh nghe buồn bã xót xa) Nhu tình loạn nhƣ ti (Ký mộng)

(Tình vấn vƣơng rối nhƣ tơ) Vô ná cố hƣơng sầu (Tái du Tam Điệp sơn)

(Nỗi sầu cô hƣơng biết sao đây?)

Từ dùng của Nguyễn Du rất đa dạng. Đối với một khía cạnh của cảm xúc Nguyễn Du

có thể dùng nhiều từ khác nhau để có thể dễ dàng trong việc phối hợp với vần, điệu của câu thơ, bài thơ. Ví dụ nhƣ ý tiếc nuối, ý thƣơng xót Nguyễn Du có thể dùng từ liên, hoặc chỉ để

diễn tả nỗi buồn Nguyễn Du có thể dùng bi, sầu, trù trướng, du du, ưu; để diễn tả nỗi nhớ ông dùng hoài, tư,ức; để diễn tả cảm xúc có: cảm, tình...

Ngoài ra nếu thống kê thì sẽ thấy trong thơ chữ Hán Nguyễn Du những từ mang bộ

tâm rất nhiều. Đó là những từ liên quan đến trạng thái tâm lý của con ngƣời,

những từ mang tính chất nội động nhƣ:

Ẩn : dấu kín; Ý. ý tứ ; Đức; : oán cái đức; Oán

giận; Duy : chỉ có; Ƣng : nhận; Ngu : ngu si; Cụ: sợ;

Nhẫn nhịn; Huệ :giúp dỡ ; Tức : ngừng nghỉ; cấp

gấp; Quí :hổ thẹn; Tàm: ; Chí hổ thẹn; Vong: quên

159

ghi lại; Khẳng khái khẳng khái; Du du : mờ mịt, xa xôi; Tƣởng :

nghĩ; Khủng : sợ; Chí : chí hƣớng; Hốt : hốt hoảng; Duyệt :

vui; Quái : kỳ lạ; Niệm : suy nghĩ; Nộ giận; Hám : giận

ghét; ức nhớ; Lãn : lƣời; Thính nghe; Tích : tiếc...

Tóm lại với một con ngƣời lúc nào cũng thƣơng ngƣời, lo đời nhƣ Nguyễn Du, tình

cảm lúc nào cũng luôn chảy dạt dào thì làm thế nào mà không ảnh hƣởng đến câu chữ - Điều

đó chúng ta không thấy lạ ở Nguyễn Du. Con số 452 từ mang bộ tâm rất phù hợp với con

ngƣời tình cảm, con ngƣời đau khổ, con ngƣời âu lo, con ngƣời lãng mạn là Nguyễn Du.

3.2.4. Từ mang ý nghĩa triết lý về cuộc sống:

Nguyễn Du là ngƣời luôn đứng trƣớc mối lo nghìn năm "Thiên tế trƣờng Ƣu vị tử

tiền" cho nên chuyện trời đất đổi thay, thành quách xiêu tán, lòng ngƣời đổi dời... đối với ông

có cái gì đó hết sức bức xúc, khiến cho ông cứ nghĩ đến và suy luận về nó. Không phải một

vài lần mà rất nhiều lần. Thơ chữ Hán là những nỗi niềm tâm sự, là chỗ mà ông có thể trút

cạn nỗi lòng, là nơi mà ông có thể gửi vào đó bao chí nguyện, tâm huyết. Nó là gan, là máu,

là máu và cả nƣớc mắt nữa. Nên ở đó ta thấy rất rõ mọi khía cạnh của con ngƣời Nguyễn Du.

Chỗ nào Nguyễn Du nhấn đi nhấn lại là cứ chỗ đó có gì khúc mắc, có gì bức bối khiến ông

phải nói đến nhiều lần nhƣ để vơi bớt, thông thoáng, nhẹ thở cho chính mình.

Đọc thơ Nguyễn Du ngƣời ta sẽ dễ dàng phát hiện những chỗ nhƣ thế. Thấp thoáng

đâu đó chuyện trăm năm, nghìn năm, chuyện xƣa nay, kiếp phù sinh, chuyện văn chƣơng,

chuyện tuổi già, tóc bạc..Gần nhƣ đó là những yếu tố lúc nào và ở đâu nó cũng có mặt bên

cạnh ông. Có lẽ Nguyễn Du không ƣa triết lý vì ông thƣờng nhìn thẳng vào thực tế. Nhƣng

cũng chính từ những thực tế đó, ông lại đi đến những kết luận có tính chất triết lý khái quát,

tạo thành một hệ trong suy nghĩ của ông. Có lẽ đó cũng là cách lí giải riêng của ông đối với

cuộc đời.

160

Tại sao ông thƣờng nói đến kiếp phù sinh? Nói đến kiếp phù sinh, không phải chỉ

riêng ông. Nhiều nhà thơ đã nói nhƣng không ai nói nhiều nhƣ ông. Phải chăng ông xem cuộc

đời này là:

Trần thế bách niên khai nhản mộng (La Phù giang thủy các độc tọa)

(Cuộc đời trăm năm trên trần thế chỉ là giấc mộng vừa mở mắt)

Hay là:

Kim lai cổ vãng Lƣ sinh mộng (Hoàng Hạc lâu)

(Cuộc đời xƣa nay chỉ là giấc mộng của chàng Lƣ )

Có lẽ nhƣ thế, thời đại ông có nhiều biến thiên trọng đại, cứ thấy thoáng chốc đã thay

đổi sơn hà, thoáng chốc đã bãi bể hóa nƣơng dâu. Rõ ràng

Tứ thời phao trịch thái thông thông (Ngẫu hứng I)

(Bốn mùa nhƣ thoi đƣa rất nhanh)

Vì vậy mà ông coi đời là phù sinh (cuộc sống tạm bợ), phù thế (cuộc đời thay đổi),

phù vân (mây nổi-không vững bền), phù vinh( sự vẻ vang trống rỗng) phù danh (tiếng tăm

hảo huyền), phù bình (cuộc sốngnhƣ bèo nổi trôi vất vả) phù trầm (cuộc đời chìm nổi)... có

đến 38 lần ông nhắc đến những từ này.

Cuộc sống đối với ông là cái gì không chắc chắn, luôn dời đổi, vô định.

Phù thế kỷ kinh tang lổ biến (Tái thứ nguyên vận)

(Cuộc đời phù sinh đã trãi qua bao phen ruộng dâu biến thành ruộng muối)

Cuộc sống ấy thật đáng thƣơng

Bồi hồi phủ ngƣỡng bi phù sinh (Đồng Tƣớc đài)

(Bồi hồi ngẩng lên cúi xuống, thƣơng kiếp phù sinh)

Ông thấy cuộc đời mình, cuộc đời ngƣời, cuộc đời chung đều giống nhƣ cánh bèo mãi

nƣớc.

Lạc ngạch phiêu bình thốt tự mƣu (Hoàng hà trở lạo)

(Cành rụng bèo trôi không tự mƣu toan gì đƣợc)

Giống nhƣ đám mây nổi bên trời

Tha hƣơng thân thế thác phù vân (Thu nhật ký hứng)

(Thân thế nơi đất khách gửi đám mây nổi)

161

Giống nhƣ chiếc lá giữa dòng

Thiên địa biên chu phù tự diệp (Chu hành tức sự)

(Chiếc thuyền con nổi trôi nhƣ chiếc lá trong trời đất)

Ông tự biết rõ hơn ai hết.

Nhãn để phù vân khan thế sự (Ký hữu)

(Xem việc đời nhƣ mây nổi trong đáy mắt)

Tất cả những danh lợi, giàu sang, phú quí... rồi chẳng còn gì. Cái gì trên cõi đời này

cũng ngắn ngủi, tạm bợ, trống rỗng, không bền vững.

Thế gian phú quí đẳng phù vân (Đồ trung ngẫu hứng)

(Giàu sang trên đời chỉ là mây nổi)

Phù thế công danh khan điểu quá (Mộ xuân mạn hứng)

(Công danh trên phù thế xem nhƣ chim vút qua)

Nhiều lúc ông cảm thấy lo lắng

Trấp tải phù sinh hoạn hữu thân (Mạn hứng I)

(Cuộc phù sinh ba mƣơi năm có mối lo vì có thân)

Nhƣng rồi ông cảm thấy lúng túng. Lo là lo nhƣ thế nào? cuộc đời đã vậy có lo cũng

chẳng đƣợc gì. Tự khuyên mình, khuyên mọi ngƣời hãy cứ vui tràn, vui cho thỏa thích.

Thế sự phù trầm hƣu thán tức (Thăng Long II)

(Việc đời nổi chìm thôi đừng than thở)

Phù sinh hành lạc sự (Hành lạc từ II)

(Kiếp phù sinh nên hành lạc)

Nhƣng nói thì nói vậy, Nguyễn Du chƣa bao giờ đi vào hƣởng lạc thật sự. Cao hơn

hết có lẽ là ƣớc muốn của ông.

Ná đắc khiêu ly phù thế ngoại (Sơn Thôn)

(Ƣớc gì thoái ra khỏi vòng trần tục)

Ƣớc muốn đó có vẻ phù hợp với ông hơn tất cả, nhƣng ƣớc muốn muôn đời vẫn là

ƣớc muốn, ông vẫn phải đi cho hết quãng đƣờng của mình. Vì vậy mà ông cứ nhìn thấy rồi cứ

than thở và cứ ƣớc mơ.

*

* *

162

Xem cuộc đời là bấp bênh, trôi nổi, không chắc chắn, nên ông thƣờng nhắc đến

Chuyện trăm năm, nghìn năm (thiên cổ, thiên niên,bách niên, bách tải bách thế...). Trăm

năm nghìn năm có vẻ to tát lớn lao với tất cả chiều rộng lẫn chiều dài. Lấy niên (năm) để đọ

với bách, thiên, (trăm, nghìn) - Năm đã quá dài với đời sống con ngƣời lại chất chồng lên trên

nó những con số trăm nghìn quả là ngƣời có mắt nhìn sáu cõi, mới thấy hết những gì hàm

chứa trong nó. Nguyễn Du thấy hết, thông suốt hết, bởi vì với ông thời gian đó thậm chí quá

ngắn.

Bách tuế vi nhân bi thuấn tức (Mạn hứng)

(Cuộc đời trăm năm thƣơng hay chỉ là chớp mắt)

Thuấn tức bách niên năng kỷ thì (Long thành cầm giả ca)

(Trăm năm nhƣ chớp mắt có là bao)

Nó ngắn ngủi thế, mà thƣơng thay trong cõi trần có mấy ai sống đến trăm tuổi

Nhân sinh vô bách tải (Hành lạc từ I)

(Đời ngƣời ai sống đƣợc trăm tuổi)

Nhân thọ vô bách tuế(Hành lạc từ II)

(Ngƣời thọ chẳng đƣợc trăm tuổi)

Cuộc sống ngắn ngủi ấy lại chứa quá nhiều những nỗi thƣơng tâm.

Bách niên đa thiểu thƣơng tâm sự (Giang đình hữu cảm)

(Trăm năm của cuộc đời có biết bao chuyện thƣơng tâm)

Cuộc sống ngắn ngủi ấy có biết bao nhiêu điều muộn phiền

Bách niên cùng tử văn chƣơng lý (Mạn hứng II)

(Cuộc đời trăm năm chết xác trong chốn văn chƣơng)

Đành phó mặc chiếc thân cho gió bụi.

Bách niên thân thế ủy phong trần ( mạn hứng I)

(Thân thế năm năm phó mặc gió bụi)

Và ông có thể kết luận một cách kinh nghiệm

Bách niên đáo để giai nhƣ thị (Đồ trung ngẫu hứng )

(Trăm năm rốt cuộc đều nhƣ thế cả)

163

Cuộc đời nhƣ thế không thể làm gì hơn cho nên ông mong đƣợc say suốt ngày. Say để

quên, để không nhìn thấy, không nhận biết thời gian đang trôi.

Bách kỳ đản đắc chung triêu túy (Đối tửu)

(Cuộc đời trăm năm chỉ ƣớc đƣợc say một ngày)

Để có đƣợc cảm giác cuộc đời đang đang ở lại bên ta.

Bách niên ai lạc hà thời liễu? (Tạp ngâm)

(Chuyện vui buồn trăm năm biết đến bao giờ mới hết)

Nghĩ nhƣ vậy nhƣng cũng có lúc Nguyễn Du rất rạch ròi phân minh. Đối với cái đẹp

cái tốt thì ông muốn cho nó bất diệt với thời gian. Đi qua miếu thờ vua Nghiêu, một ông vua

tốt để lại tiếng thơm cho đời, Nguyễn Du dã nói rõ điều dó.

Thiên cổ sùng từ đối Cửu Nghi ( Đế Nghiêu miếu)

(Ngôi đền cao nghìn thuở đối diện với núi Cửu Nghi)

Đi qua cầu Dự Nhƣợng, nhớ lại câu nói xƣa, ông cám phục hiền tài.

Quần thần chính luận kham thiên cổ (Dự Nhƣợng kiều)

(Lời bàn đúng đắn về nghĩa vua tôi đáng để muôn đời)

Đi qua làng cũ của hai ông họ Sơ, Nguyễn Du đã cảm nghĩa khí của hai ông quan đó

Sự cách thiên niên thạch vị khuynh (Nhị sơ cố lý)

(Chuyện cách nghìn năm mà bia đá vẫn chƣa nghiêng đổ)

Những tài thơ xuất chúng luôn đƣợc ông xem là giá trị của muôn đời.

Thiên cổ văn chƣơng thiên cổ si (sƣ) (Lỗi Dƣơng Đỗ thiếu Lãng mộ)

(Văn chƣơng để lại muôn đời, bậc thầy của muôn đời)

Thi thành thảo thụ giai thiên cổ (Hán Dƣơng vãn diễu)

(Thơ làm xong cỏ cây cũng cùng thơ đƣợc truyền tới nghìn năm)

và nhất là đối với những tấm lòng cao cả, sáng trong trinh liệt... thì còn mãi với thời gian.

Thiên thu bi kiệt hiển lam liệt (Tam liệt miếu)

(Bia kệ ngàn năm làm rạng danh ba ngƣời đàn bà tiết liệt)

Ngƣợc lại với cái đẹp, cái tốt cái xấu, cái ác, cái danh phù phiếm. Những thứ đó thảy

đều nhanh chóng trôi qua và bị thời gian vùi lắp. Hiện tại đổ nát, tôi tăm ẩm ƣớt là cách cuộc

đời phủ nhận nó, đẩy lùi nó vào chốn hƣ vô.

164

Thiên niên cổ một trƣờng kinh cửu (Lƣu Linh mộ)

(Ngôi một cổ nghìn năm đầy gai góc)

Bá đồ dẫn diệt thiên niên hậu (Á Phủ mộ)

(Nghiệp bá đã tiêu tan nghìn năm rồi)

Nguyễn Du cũng nói đến cái tất nhiên theo qui luật của tự nhiên và xã hội ông trời

gây áp lực với con ngƣời bằng sức mạnh của mình. Xã hội qui định sẵn những chuẩn mực về

luân lý đạo đức để trói buộc con ngƣời. Tốt hay xấu đúng hay sai, ông không luận bàn mà chỉ

trình bày rõ hiện trạng đó.

*

* *

Ông lại là ngƣời luôn quan tâm đến chuyện nghìn xƣa. Nó luôn là mối bận tâm lớn

của ông.

Thiên tuế trƣờng ƣu vị tử tiền (Mộ xuân mạn hứng)

(Trƣớc khi chết còn lo mãi chuyện nghìn năm)

Ông cũng lại là ngƣời luôn ngƣỡng mộ ngƣời xƣa và rất trân trọng chuyện xƣa.

Thiên cổ v ă n phong nhất há xa (Liếu Hạ Huệ mộ)

(Nghìn năm sau nghe danh tiếng Ổng, tôi xuống xe)

Hậu nhân đồ hữu thiên niên cảm (Hoàng Châu trúc lâu)

(Ngƣời đời sau luống cảm xúc vì chuyện nghìn năm cũ)

Nhắc đến chuyện xƣa liên hệ đến chuyện nay để đối chiếu so sánh, để thấy cái hay cái

dở xƣa nay cũng là một việc mà Nguyễn Du thƣờng làm. Cho nên trong thơ Nguyễn Du cũng

thƣờng thấy từ cổ kim (xƣa nay). Có những câu thơ Nguyễn Du dùng cổ kim với nghĩa chính

của nó, nhƣng nhiều chỗ Nguyễn Du dã dùng với nghĩa chuyển vì vậy mà cái xƣa nay trở

thành một thời điểm hết sức chung chung mơ hồ và ông đề cập tới mọi vấn đề chứ không

phải chỉ để nói chuyện xƣa nay.

Chuyện xƣa nay cũng là một hoài niệm của nhà thơ. Đọc nhiều, nghe nhiều rồi thấy

tận mắt vết tích còn lại Nguyễn Du có lúc cảm thấy gần nhƣ nắm bắt đƣợc vũ trụ.

Dịch thủy ba lƣu kim cổ (Kinh Kha cố lý)

165

(Sông Dịch từ ngàn xƣa đến nay vẫn chảy hoài)

Thử sự hất kim dĩ kinh cổ (Kỳ lân mộ)

(Việc ấy đến nay đã lâu rồi)

Chuyện xƣa nay cũng lại là những vấn đề đƣợc đúc rút từ kinh nghiệm thực tiễn rất dễ

dàng nhận thấy.

Cổ kim vị kiến thiên niên quốc (Vị Hoàng doanh)

(Xƣa nay chƣa thấy triều đại nào dài đƣợc nghìn năm)

Kim cổ thúy đồng bạch nghĩ oa (Tạp ngâm)

(Xƣa nay ai cùng ở một tổ với mối?)

Nhƣng điều mà ông quan tâm nhất lại là cái không dễ dàng nhận thấy. Ổng nói đến nó

nhƣ một cái gì sâu kín vừa gần gũi vừa xa xôi, vừa man mác lại vừa lắng đọng, rất mơ hồ

nhƣng cũng rất thực.

Kim cổ nhàn sầu bất trú lƣu (Đồng lung giang)

(Mối sầu man mác về xƣa và nay chảy trôi mãi không ngừng)

Cổ kim hận sự thiên nan vấn (Độc Tiểu Thanh ký)

(Mối hận xƣa nay khó hỏi trời)

Đó là những gì thuộc về thế giới nội tâm của riêng Ông. Điều mà Ông cảm nhận đƣợc

từ những cái thấy và nghe.

*

* *

Chuyện văn chƣơng cũng là một khía cạnh quan trọng đối với Nguyễn Du. Nhiều

lần trong thơ ông nhắc đi nhắc lại từ "văn chƣơng". Trƣớc hết ngƣời đọc sẽ thấy sự tôn trọng

của Nguyễn Du đối với những bậc hiền tài văn chƣơng lỗi lạc để lại cho đời những tác phẩm

bất hủ.

Sở từ vạn cổ thiện văn chương (Tƣơng Đàm viếng TLĐP)

(Muôn đời Sở từ vẫn là áng văn chƣơng tuyệt tác)

Thiên cổ văn chương bát đại gia (Vĩnh Chân liễu Tử Hậu cố trạch)

(Văn chƣơng để lại nghìn đời (buộc vào hàng tám văn hào lớn)

Ông cho thấy rằng văn chƣơng không có số mệnh, văn chƣơng cũng không sinh ra

nghiệp chƣớng, văn chƣơng cũng không ghét số mệnh.

166

Văn chương vô mệnh lụy phần dƣ (Độc Tiểu Thanh ký)

(Văn chƣơng không có số mệnh lại mang lụy đến tập thơ bị đốt còn lại)

Vị hữu văn chương sinh nghiệt chƣớng (Ngọa bệnh)

(Chƣa từng có văn chương nào sinh ra nghiệp chƣớng)

Bản vô vãn tự năng tăng mệnh ( Tự thán II)

(Vốn chẳng có văn chƣơng nào có thể ghét số mệnh)

Ấy vậy mà nhiều lúc ông thấy buồn, một nỗi buồn thấm sâu, day dứt. Bởi vì văn

chƣơng không làm cho cuộc sống ông thoải mái, nhẹ nhàng hơn. Văn chƣơng đã để cho ông

ốm mà không có thuốc, đói không có cơm, rét không có áo ấm để mặc... Nói chung, văn

chƣơng không giúp ích gì cho ông.

Bách niên cùng tử văn chương lý (Mạn hứng II)

(Cuộc đời trăm năm chết xác trong chốn văn chƣơng)

Văn tự hà tằng vô ngã dụng (Khất thực)

(Văn chƣơng chữ nghĩa nào đã từng giúp ích cho ta?)

Thậm chí ông còn nghi ngờ chính văn chƣơng đã làm nên nghèo đói.

Nhất dùng chí thử khởi công thi ? (Lỗi Dƣơng ĐTL mộ I)

(Cùng quẫn nhƣ thế, có phải vì giỏi làm thơ?)

Nhƣng rồi cả cuộc đời ông không rời trang sách, bên cạnh ông luôn là sách. Sách

nhƣ ngƣời bạn tâm tình (Tạp ngâm, Tạp ngâm II, Lạng Thành đạo trung, Bông lộ, Điệp tử

thƣ trung)

Ý nghĩa triết lý ở chỗ ông băn khoăn làm ngƣời có nên đọc sách nhiều không, có nên

làm bạn với sách không. Ông là ngƣời đọc sách nhiều nên tâm thần ông lúc nào cũng bận bịu,

cũng suy nghĩ về việc đời việc ngƣời. Còn ngƣời không đọc sách, họ nhàn nhã thảnh thơi,

không vƣớng bận (Lạng Sơn đạo trung).

Nguyễn Du cảm thấy thẹn với ngƣời hàng xóm ngồi xe nhỏ, cƣỡi ngựa hèn (Mạn

hứng I), ngƣời ta thì thảnh thơi rong chơi hƣởng thú nhàn thực sự còn ông lúc nào cũng đa

mang, niềm đau ở đâu cũng cứ vận vào.

Văn chƣơng nói chung cũng là điều ông bận tâm. Văn chƣơng có số mệnh hay

không? Không có số mệnh tại sao bài thơ của nàng Tiểu Thanh bị vùi dập? Không có số

mệnh lại sao ngƣời giỏi thơ phải trở nên cùng khổ? Không có số

167

mệnh tại sao ngƣời yêu thơ nhƣ ta cứ mãi long đong? Có lúc ông khẳng định chƣa từng có

văn chƣơng nào sinh ra nghiệp chƣớng, thế thì tại sao Đỗ Phủ xƣa nghèo kiết xác, ta cứ lận

đận vì manh áo miếng cơm? Và văn chƣơng không giành với số mệnh thì tại sao trời đất lại

ghét lầm ngƣời... Bao nhiêu khía cạnh Nguyễn Du ra với mong muốn biết rõ nó nhƣ thế nào.

Nhƣng rồi cũng không tự giải thích đƣợc bởi có lúc ông cảm thấy văn chƣơng cũng nhƣ số

mệnh vậy, nó cũng ruồng bỏ xa cách ông khi ông đã già.

Lão khứ văn chương diệc tị nhân (Ngẫu đắc)

(Già đến rồi, văn chƣơng cũng xa lánh ngƣời)

Văn chương tàn tức nhƣợc nhƣ ti (Chu hành tức sự)

(Hơi tàn văn chƣơng yêu đuối nhƣ sợi tơ)

Nhƣng nói gì thì nói, ngƣời đọc chúng ta vẫn nhìn thấy ông yêu văn chƣơng, cả đời

gắn bó với văn chƣơng và đã để lại trong văn chƣơng một tâm hồn vĩ đại.

Tóm lại một số từ đƣợc dùng thƣờng xuyên có tính chất triết lý thực ra không phải lý

luận mà nhƣ để kiểm chứng lại thực tế sự việc đã xảy ra. Nguyễn Du không thích lý luận

nhƣng ông khao khát muốn hiểu biết, muốn nắm bắt cho đƣợc qui luật khách quan của trời

đất nhƣ cái chủ quan nghiệt ngã của cuộc đời. Cái mà ông gọi là số mệnh, là kiếp phù sinh đó

do đâu mà có? Tại trời hay tại ngƣời? Và chuyện xƣa nay, chuyện trăm năm nghìn năm phải

cứ tiếp diễn nhƣ thế, cho đến bao giờ? Nguyễn Du lại đi lật lại nhƣ muốn khẳng định nhƣng

rồi ông chẳng khẳng định đƣợc gì, suối đời lang bạt tìm, kiếm tìm một cách khắc khoải mông

lung. Kiếm tìm ở đâu ? Nho, Phật, Đạo, suốt cả đời tại sao không có một điểm sáng nào bắt

gặp mình lung linh réo gọi…? chữ dùng của Nguyễn Du đã tạo cho ta thấy tâm trạng thật ấy

ở ông.

*

* *

3.2.5 Một số từ đặc biệt thường thấy :

Ngoài một số từ nhƣ: từ tự xƣng, hƣ từ, từ mang tính chất biểu cảm, từ mang tính chất

triết lý... xuất hiện nhiều lần có tính chất hệ thống trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, còn có một

số từ cũng thƣờng thấy xuất hiện lặp đi lặp lại nhiều lần

168

trong thơ ông, tƣởng nhƣ không mang lại một nét chung nào nhƣng kỳ thực nó có thể là một

nét đặc thù riêng của thơ ông. Vì vậy không thể không giới thiệu; không giới thiệu số từ đó

vào đây. Nó làm vƣớng mắt ngƣời đọc, tại sao nó xuất hiện nhiều nhƣ thế? Có điều gì ẩn bên

trong cách dùng những chữ đó. Và điều đó nói lên tâm trạng gì, lên tâm trạng gì, suy nghĩ nào

của nhà thơ?

Phan Ngọc khi nhận xét về thơ Đƣờng có cho cho rằng "Trong thơ Đƣờng có những

chữ đặc biệt không dịch đƣợc nếu không xét về mặt cấu trúc của nó [ 78:27] và "một khi từ

ngữ của thơ đã nằm trong một cấu trúc thì cái nghĩa của chữ cũng phải hiểu trong quan hệ cấu

trúc" [178:27]. Đúng vậy, từ là một bộ phận nhỏ của quan hệ cấu trúc, nếu không nắm đƣợc

cái chung của cấu trúc sẽ không hiểu nổi từng từ nằm trong, dù mỗi chữ đều có nghĩa của nó.

Cũng nhƣ Phan Ngọc cho rằng ở Thơ Đƣờng hệ thống hƣ từ đều đƣợc gạt bỏ tất cả (ngƣợc lại

với Kinh Thi, Kinh Thi, hƣ từ trở thành hệ thống) và thay vào đó là cái mã riêng của thơ

Đƣờng. Cái mã ấy là một hệ hƣ từ khác. Hệ này gồm 3 chữ : nhất, độc, cô, tƣơng, dữ, cộng,

không, vô. Hệ này xuất hiện rất nhiều, nhiều đến độ trở thành thừa thãi. Nhƣng cái thừa thãi

này này lại là một vấn đề thú vị bậc nhất của nghệ thuật. Bởi vì "Sự thừa thãi này là một sự

thừa thãi tất yếu do cái mã nghệ thuật đòi hỏi" [ 178:27]. Đó là lý luận của Phan Ngọc và mọi

ngƣời cũng công nhận ở thơ Đƣờng có những nét đặc biệt đó.

Nhìn lại Nguyễn Du, ngƣời đọc ai cũng thấy thơ ông vừa có vô số những từ hƣ từ

(giới từ, liên từ, trợ từ, phó từ) nhƣ dã nói ở trên nên đồng thời lại cũng có vô số những từ

đại diện cho cái mã nghệ thuật của thơ Đƣờng nhƣ Phan Ngọc đã nói. Tức là thơ ông cũng có

hàng loạt những từ nhƣ: nhất , độc c ô tƣơng ,dữ .cộng

.không , vô và bất nữa. Nhƣ thế giải thích nhƣ thế nào về hiện

tƣợng đó? Đặt trong cấu trúc câu những từ ấy có phải là cái mã riêng của thơ chữ Hán

Nguyễn Du hay không?

Tất nhiên ở mỗi thời đại x ã hội khác nhau, nghệ thuật cũng có những nét dặc trƣng

riêng. Đời sau có thể ít nhiều tiếp thu hoặc ảnh hƣởng cái hay cái đẹp của thời trƣớc nhất là

đối với nền v ă n học có thành tựu quá xuất sắc vƣợt mọi thời gian, không gian nhƣ nền thơ

Đƣờng. Tuy nhiên vẫn không thể có tính chất

169

lập lại, mỗi thời đại đều có nét riêng của mình. Nguyễn Du thƣờng tôn sùng những nhà thơ

nổi tiếng ở Trung Quốc thời Đƣờng chắc chắn có ít nhiều ảnh hƣởng. Thơ ông có những bài

mang hơi hƣớng cùng khổ của Đỗ Phủ, lại có ít nhiều nét phóng khoáng của Lý Bạch...

Nhƣng dẫu sao Nguyễn Du vẫn là Nguyễn Du với nét nghệ thuật đặc sắc của riêng ông. Một

loạt những từ đặc biệt xuất hiện nhiều trong thơ chính là nét riêng của thơ ông.

Loạt từ này đƣợc chia làm ba nhóm theo nghĩa tƣơng xứng của nó. Đó là cái không

(không, bất, vô); cái một (nhất, độc, cô); cái nhiều (tƣơng, dữ, cộng)… Số lƣợng của những

nhóm này cũng tƣơng ứng với nghĩa trên. Nhiều nhất là cái không (không bất vô) chiếm 408

từ trên 250 bài thơ, thứ hai là cái một (nhất độc cô) chiếm 204 trên 250 bài thơ, thứ ba cái ít

nhất là cái nhiều (tƣơng dữ cộng) chiếm 86 trên 250 bài thơ. Nhìn vào thì thấy có sự trái

ngƣợc, ắt hẳn là có vấn đề. Tại sao cái nhiều, cái số đông lại quá ít, ngƣợc lại, cái không, cái

một thì lại quá nhiều? Tại sao không có sự cân bằng?

Có thể giải thích nhƣ thế này: Xã hội thời Nguyễn Du sống có quá nhiều sự chia ly

tan tác, có quá nhiều những đổ vỡ, mất mát, có quá nhiều biến đổi tang thƣơng... Vì vậy mà

Nguyễn Du nhìn đời bằng con mắt của ngƣời chán ngán thế sự hiện tại, âu lo về con đƣờng

tƣơng lai. Cho nên cái dâu bể, cái hoang phế, cái đổ nát, cái điêu tàn, cái hủy diệt, cái không

còn... đầy rẫy, chán ngán mà âu lo chứ không phải chán ngán rồi quay lƣng bỏ mặc. Nguyễn

Du luôn mong muốn nhận xét, đánh giá về cuộc đời. Mặc dù ông không dứt khoát nhƣ Phạm

Thái hay phản kháng có hành động rõ rệt nhƣ Cao Bá Quát... Không thể thể hiện điều mong

ƣớc của mình vào đâu, ông chỉ biết gửi vào thơ. Chí nguyện của mình, chỉ mình biết, chỉ

mình hay. Bế tắc, đơn độc, âm thầm vì không có ai là tri âm tri kỷ. Một mình ông với tóc bạc,

với năm tháng, với giá lạnh, với trời chiều... chiếc thân trải mãi. Ông vẫn sống, vẫn làm quan,

vẫn lo tròn trọng trách, vẫn đi về trong cái vòng vô hình đó mỗi ngày. Ông cho nó là điều

phải làm không thể khác. Còn ý nghĩ, điều quan tâm, chiều sâu tƣ tƣởng đích thực thì lại làm

ở những chữ tƣởng nhƣ vô hình, không đƣợc sắp xếp, rơi vào đúng ngay vào vị trí của

170

nó trong những câu thơ dòng thơ kia. Đó mới thực là tâm hồn ông, nhận thức lớn lao của ông.

Không thế sao cuộc đời trong thơ lại lắm cái vô? Vô nghĩa là không có gì, trống

không, hƣ vô, hƣ không, không phải... Vô tri (không biết ), vô thức (không nhận biết), vô

phúc (không có phúc); vô ích (không có ích), vô định (không định hƣớng), vô hảo mộng

(không có mộng đẹp)... Cái gì cũng không cả.

Từ vô có thể ghép rộng rãi với danh từ hoặc động từ. Ghép với động từ thƣờng là

với những động từ chỉ hoạt động nhận thức của con ngƣời nhƣ: vô ngữ (không nói); vô thụy

(không ngủ), vô hối (không hối hận), vô úy (không sợ); vô văn (không nghe), vô quí (không

hổ thẹn), vô hận (không hận), vô phụ (không phụ lòng), vô ngôn (không nói), vô tri (không

biết), vô thức (không nhận biết)... Những hoạt động nhận thức này lại ở dạng phủ định tạo ra

một trƣờng liên tƣởng nơi ngƣời đọc. Đó là một thái độ có vẻ chấp nhận, nhẫn nhục, chịu

đựng... Không muốn nhƣng cũng phải thế thôi.

Ghép với những danh từ thì phong phú hơn: vô gia (không nhà ), vô lệ (không nƣớc

mắt); vô đăng ( không đèn); vô tửu ( không rƣợu); vô nguyệt ( không trăng); vô mệnh (không

có số mệnh), vô phận (không có phận), vô phúc (không có phúc), vô sự ( không có việc gì ),

vô tế (không bờ bến ), vô ảnh ( không bóng ); vô hình (không hình) vô lại ( không có chỗ

dựa) vô căn (không rễ); vô y ( không áo); vô nhân (không ngƣời); vô tử (không chết); vô lộ

(không có đƣờng đi); vô danh (không có danh phận); vô dụng (không dùng vào việc gì)...

Những danh từ này bao gồm danh từ cụ thể và danh từ trừu tƣợng có nghĩa là vừa vật chất

vừa tinh thần, cái nào cũng ở trạng thái phủ định (không có)... Điều đó cho thấy Nguyễn Du

nghèo không những vật chất mà còn ở mặt tinh thần nữa. Cái nghèo về mặt tinh thần ở đây

không phải là tâm hồn không rộng mở mà chính là sự bế tắc không lối thoát, không hƣớng đi,

hoặc không định đƣợc hƣớng đi. Cái nghèo về vật chất thì đã cho thấy rõ ràng. Với ông cái gì

cũng không có , không còn, không tồn tại

171

Bên cạnh vô còn có bất - Bất nghĩa là: không, chẳng, đừng. Chừng nhƣ vô chƣa thể

diễn đạt hết sự đa dạng trong chiều sâu suy nghĩ tác giả dùng thêm bất. Số lƣợng từ bất này

lại nhiều nhất trong nhóm không bất vô, nó riêng chiếm 2/2 lần trên 250 bài. Khác với vô, bất

chỉ đi với động từ chỉ hoạt động hoặc trạng thái của con ngƣời. Thỉnh thoảng có chen vào

giữa bất và động từ là những trợ từ nhƣ tƣơng, thậm... trƣớc sự xuất hiện khá nhiều của từ

bất, ngƣời đọc cảm giác đƣợc một điều gì đó bất an, bất ổn, và cả bất lực nữa... Thế đứng của

con ngƣời chòng chành, chông chênh, nghiêng ngả, không vững chắc một chút nào. Có lẽ nó

biểu hiện sự không thỏa mãn, không hài lòng... trƣớc dòng đời đang cuồn cuộn trôi chảy

ngoài kia. Hàng loạt từ bất... đã nói lên điều đó, bất tri (không biết), bất kiến (không thấy),

bất dung (không để cho), bất tẩy (không rửa), bất yếm (không muốn nữa), bất sầu (không

sầu), bất tức (không trở lại), bất cải (không thay đổi), bất mị (không ngủ), bất hoàn (không

về), bất tín (không tin), bất hồi (không trở lại), bất khởi (không nổi lên), bất ngộ (không gặp)

bất thư (không thƣ thái)...

Từ không khi dịch nghĩa trừu tƣợng hơn bất và vô, bời vì bản thân nó cũng đa nghĩa.

Không là: chẳng có gì, hết, chẳng còn gì, trống vắng ... nếu đặt trong từng cấu trúc thì có khi

nó mang thêm nghĩa: chỉ, luống, mãi mãi... Với từ này Nguyễn Du sử dụng đầy đủ các nghĩa

của nó, không chỉ dùng thiên về một nghĩa nào.

Không là không, là trống, vắng... đƣợc Nguyễn Du sử dụng khá nhiều.

Hạc khứ lâu không Thôi Hạo thi (Hoàng Hạc lâu)

(Hạc đi, lầu vắng, còn lại lời thơ Thôi Hạo)

Giang hồ xứ xứ không Nam Quốc (Nhạc Vũ Mục mộ)

(Giang hồ nơi nơi còn đó nhƣng Nam quốc thấy không)

Không là luống những... nghĩa này Nguyễn Du cũng dùng khá nhiều. Những câu thơ

có từ không mang nghĩa này đều có âm hƣởng mênh mông buồn.

Kiều biên thu thảo không tiêu tiêu (Dự Nhƣợng kiều)

(Cỏ thu bên cầu luống xơ xác)

172

Trƣớng trung không thính mỹ nhân ca (Sở Bá Vƣơng mộ I)

(Trong màn luống nghe tiếng hát của ngƣời đẹp

Không là chỉ cũng khá nhiều. Loại này thực ra dịch là luống cũng đƣợc, chỉ cần dịch

cho câu văn suôn sẻ là đƣợc. Nhƣng nhƣ trên đã nói, dịch phải căn cứ vào cấu trúc câu

Ca vũ không di nhất nhân tại (Long thành cầm giả ca)

(Chỉ còn sót lại một ngƣời ca múa)

Cổ tự thiên niên không mộ vân (Vọng Tƣơng sơn tự)

(Ngôi chùa cổ nghìn năm chỉ còn lạ đám mây chiều)

Đình tiền chi thảo không thanh thanh (Tô Tần đình II)

(Trƣớc đình chỉ thấy cỏ mọc xanh tƣơi)

Cũng có những từ không, phải dịch nghĩa khác đi so với nghĩa ở trên để phù hợp với

nghĩa của câu của cảu bài. Thƣờng dịch là uổng.

Không lao trí lực dữ thiên tranh(Sở Bá Vƣơng mộ II)

(Mới hay đem trí lực tranh với trời chỉ uổng công)

Phục lạp tử tôn không hoại tửu (Đồ trung ngẫu hứng)

(Đến tiết phục lạp con cháu tƣới uổng rƣợu xuống đất)

Vị trí của từ không cũng phong phú đa dang. Đầu câu, cuối câu hoặc giữa câu đều có

cả. Đứng đầu câu thì có tác dụng nhấn mạnh, đứng giữa câu hoặc cuối câu làm tăng thêm

cảm giác man mác buồn. Nói chung từ không bản thân nó cũng nhƣ cách dùng của tác giả

đều làm cho từ này trong câu trở nên đậm nét hơn về mặt tu từ. Thật vậy âm hƣởng buồn,

giọng điệu thƣơng sầu cũng đều xuất phát từ những từ nhƣ từ này. So với từ không đƣợc

dùng trong thơ Đƣờng thì thấy các tác giả thơ Đƣờng dùng hạn chế hơn và thƣờng thiên về

nghĩa luống, mãi...

*

* *

Đối với nhóm nhất độc cô nhóm xuất hiện nhiều thứ hai sau nhóm không bất vô thì

chắc hẳn ngƣời đọc chúng ta thấy rõ hơn qua tâm sự chung của Nguyễn Du. Nguyễn Du đau

đời, tỏ tấm lòng ƣu ái của mình đến từng kiếp ngƣời, thấm một cách sâu xa sự lan truyền xúc

cảm từ những cảnh đời

173

ấy. Nhƣng ngƣời nhƣ ông có lẽ quá ít trong xã hội ấy vì thế lúc nào và ở đâu cũng thấy mình

lẻ loi cô độc - Ở triều đình ông quan hàm tam phẩm thƣờng không nói nửa lời trong các cuộc

họp. Chốn quan trƣờng ông luôn bị thua thiệt luôn bị dòm ngó soi mói khiến ông phải nhiều

lần co ngƣời lại. Với bạn bè cũng khó thổ lộ chân tình, biết ai là ngƣời mắt xanh. Núi xanh

mây trắng bên dãy Lam Hồng có thể nghe và hiểu nỗi niềm của ông không?.. Vì vậy mà ý

nghĩa: một, một thân, một mình, cô đơn, riêng .. cứ nổi rõ mồn một trong thơ Nguyễn Du.

Nỗi niềm của ông chìm trong câu chữ, phá hết câu chữ của ông thì sẽ thấy cái căn bản, cái cốt

lỏi nào đã đặt nền trong đó.

Cứ thế, độc (một mình, đơn độc) rồi đến cô (đơn côi, cô độc) rồi đến nhất (chỉ có

một, không lẫn lộn, thuần nhất, duy nhất) đều đặn xuất hiện trong tác phẩm của Ông nhƣ một

dấu ấn thật sâu không thể phai mờ, không thể khác đƣợc.

Độc thƣờng đƣợc diễn tả trạng thái cô đơn, tĩnh tại. Độc khi đứng một mình, nó có

thể kết hợp với động từ hoặc đứng một mình diễn tả nỗi buồn, sự cô đơn khôn cùng của tác

giả. Cô đơn trống vắng vì xa quê hƣơng, vì không ngƣời bầu bạn, vì không thể giải bày....

Tứ thời yên cảnh độc trầm ngâm (Thu Dạ II)

(Mây khói bốn mùa một mình trầm ngâm)

Vô ngôn độc đối đình tiền trúc (Ký hữu)

(Riêng mình lẳng lặng trƣớc cây trúc ngoài sân)

Khi nó kết hợp với động từ thì cũng chỉ trạng thái cô đơn nhƣng có hành động tham

gia vào không khí tĩnh lặng ấy. Trong trƣờng hợp này độc thƣờng đứng đầu câu.

Độc lập sơn đầu thiên bách xuân (Vọng Phu Thạch)

(Đứng một mình nơi đầu núi nghìn trăm năm)

Độc bão hƣơng tâm dĩ tứ niên (Nễ Giang khẩu hƣơng vọng)

(Mã riêng ôm lòng nhớ đã bốn năm)

Cô nghĩa cũng gần giống nhƣ độc nhƣng cô thƣờng kết hợp với danh từ và một ít

động từ. Có sự hiện diện của từ cô, cảnh thêm nặng sầu. Đền, đình

174

cũng thành cô từ, thuyền cũng thành cô hạm, cô chu, thành cũng trở nên cô thành, cây tùng

cao lớn mặc gió thổi ngoài kia cũng trở nên cô tùng… Trƣớc cảnh, tình càng thêm thê lƣơng,

áo não. Trong đem tối, bên ngọn đèn

Mộng lai cô đăng thanh ( K ý m ộ n g )

(Mộng đến ngọn đèn cô đơn s á n g leo lét)

Cô đăng tƣơng đối đáo thiên minh (Mạc Phủ tức sự)

(Ngọn đèn cô đơn đối diện với mình cho đến sáng)

Trong chiếc thuyền con, lúc chiều tà.

Phong vũ túc cô chu (Biệt Nguyễn Đại Lang)

(Giữa gió mƣa đỗ chiếc thuyền đơn côi )

Cô thu giang thƣợng bằng tôi xứ (Vọng Tƣơng Sơn tự)

(Đứng dựa lan can chiếc thuyền cô đơn trên sông)

Cảm thấy lẻ loi, đơn độc, băn khoăn nghĩ ngợi và chịu đựng một mình.

Trù trƣớng thân tiêu cô đối ảnh (Tống nhân)

Trong đêm khuya cô tịch buồn rầu một mình đối bóng)

Nhất sàng cô muộn địch xuân hàn (Ngẫu thƣ công quán bích II)

(Trên giƣờng nỗi buồn côi chọi lại cái rét đêm xuân)

Từ nhất cũng tƣơng tự nhƣ vậy. Tuy nhiên nghĩa của từ nhất khi đi vào cấu trúc câu

thì phong phú hơn, mang sắc thái tu từ rõ nét hơn bản thân nó. Nhất là một, chỉ có một đƣợc

dùng ít hơn, nhất với nghĩa toàn thể, bao gồm tất cả đƣợc dùng nhiều hơn.

Chính với nghĩa này chữ nhất mới sinh động đa dạng. Có khi rất khó dịch, muốn dịch

trọn ý nghĩa phải nắm hết hồn thơ, ý thơ câu thơ rồi tùy theo ý nghĩa của câu thơ đó mà dịch

cho phù hợp.

Nhất thƣờng đi kèm với danh từ và động từ. Khi đi kèm với động từ nhất thƣờng

mang ý nghĩa mạnh hơn thậm xƣng nhiều lần hơn, hành động có cƣờng độ đậm hơn, trạng

thái rõ nét hơn.

Dã hạc phù vân thời nhất kiến (Ký Huyền Hƣ tử)

175

(Hạc nội mây bay thỉnh thoảng một lần đƣợc thấy)

Văn đạo dã ƣng cam nhất thử (Điệp tử nhƣ trung)

(Nghe đƣợc đạo lý cũng đành cam kết một chết)

Từ nhất đi kèm với danh từ phong phú đa dạng và cũng xuất hiện nhiều hơn. Thƣờng

nó diễn tả cái toàn thể, mênh mông rộng lớn không cùng. Một loạt từ diễn tả hình ảnh núi

sông: Nhất sơn, nhất giang, nhất xuyên, nhất thủy, nhất ba, nhất phương, nhất nhai, nhất

đái.... Một loạt từ nói về nhà cửa : nhất thất nhất viện, nhất mon, nhất song, nhất sàng... về

phƣơng tiện sinh hoạt: nhất thuyền, thất trạo, nhất xa... Về khoảng không rộng lớn: nhất

đình, nhất thiên, nhất lộ, nhất khâu... về cuộc đời: Nhất thế, nhất sinh, nhất thì....Về thời gian:

nhất dạ, nhất canh, nhất triêu...

Có từ nhất đi bên cạnh, các danh từ này tự nhiên trở nên rộng hơn, sâu hơn, bao

quát hơn so với nghĩa chính của nó, đồng thời cũng tạo nên một màu sắc dáng vẻ riêng, một ý

nghĩa riêng cho thơ Nguyễn Du.

*

* *

Nhóm từ tương dữ cộng ít hơn so với hai nhóm đã nói ở trên. Tuy nhiên số ít này

phản ánh đƣợc nét đặc trƣng của thơ Nguyễn Du. Nếu đem so sánh với Đƣờng thì nhóm từ

này ở thơ Nguyễn Du ít hơn rất nhiều. Bởi thơ Đƣờng tuy cũng mang màu sắc cá nhân,

nhƣng cái cá nhân ấy hòa làm một với vũ trụ, không cắt lìa vũ trụ. Thiên nhiên vẫn có thể

thông cảm đƣợc với con ngƣời, vẫn có thể chia xẻ với con ngƣời những niềm vui nỗi buồn,

vẫn có thể làm vơi đi, tan đi lo lắng, đau đớn của con ngƣời.

Tức kim thiên chủng hận

Duy cộng thủy đông lƣu (Ức độ - Đỗ Phủ)

(Hiện nay hàng nghìn mối hận

Đành phó cùng dòng nƣớc xuôi đông)

Tương khan lƣỡng bất yếm

Duy hữu Kính Đình san (Độc tọa Kính Đình sơn - Lý Bạch)

(Cùng nhìn nhau không biết chán

176

Duy có núi Kính Đình)

Lại có thêm con ngời trong thơ Đƣờng, dẫu lẻ loi trong cái không cùng, hữu hạn trong

cái vô hạn nhƣng ít nhiều họ vẫn còn có bạn, còn có đối tƣợng để tâm sự, để giải bày, để trút

cạn nỗi lòng...

Tương tống sài sài môn nguyệt sắc tân (Dữ chu sơn nhân - Đỗ Phủ)

(Tiễn nhau trƣớc cổng gióng tre, ánh trăng mời mọc sáng ngời)

Thế nên những từ mang tính ý nghĩa cùng nhau, với nhau, cùng với... xuất hiện trong

thơ Đƣờng khá nhiều.

Còn đối Nguyễn Du, ông cô độc lẻ loi thật sự. Không có sự cảm thông nào của trời

đất, của con ngƣời đến với Nguyễn Du. Và với thái độ tƣơng tự, Nguyễn Du nhìn trời đất,

con ngƣời có vẻ xa lạ, đố kỵ bởi tất cả đều hững hờ lạnh nhạt với ông. Dƣờng nhƣ đối với

Nguyễn Du ít ai và ít cái gì trong cuộc đời này có thể cùng ông sẻ chia, an ủi. Vì vậy mà

trong thơ Nguyễn Du nhóm tƣơng dữ cộng chiếm con số hết sức khiêm nhƣờng ấy có lẽ

dành để thể hiện con ngƣời ƣớc mơ và con ngƣời thất bại. Con ngƣời luôn quí cái đẹp những

cái đẹp với Ông luôn chóng tàn... Cứ thế con ngƣời chìm trong suy tƣ và dốc toàn bộ suy tƣ

ấy vào câu vào chữ.

Có lẽ nhƣ vậy, mong ƣớc của Nguyễn Du là sớm hôm đƣợc cùng với quê hƣơng sông

Lam núi Hồng nhàn tản ngao du nhƣng mong ƣớc đó ít có khả năng trở thành hiện thực.

Bất dữ thanh sơn tƣơng thủy chung (Vọng Thiên Thai tự)

(Không cùng với núi xanh giữ đƣợc thủy chung)

Vì vậy nó thƣờng đƣợc thể biểu lộ cái tiêu điều, úa tàn, xế chiều... và nhìn cảnh đó

ông càng cảm thấy lẻ loi trống vắng.

Giang thành thảo mộc cộng tiêu sâm (Thu dạ II)

(Cây cỏ quanh thành bên sông thảy tiêu điều)

177

Nhất đình sƣơng lộ cộng sầu miên (Sơ nguyệt)

(Dầy sân sƣơng móc giục giấc ngủ buồn)

Thƣờng thì Nguyễn Du không có bạn bè để tâm sự

Tịch liêu lƣơng dạ dữ thùy đồng (Trệ khách)

(Đêm đẹp và vắng lặng biết cùng ai tâm sự)

Nhƣng nếu có bạn tâm giao, có ngƣời tri kỉ để cảm thông, để gửi gắm thì những ngƣời

ấy cũng ở đâu xa, lâu rồi không thấy, không gặp... Cho nên chỉ thấy những lời than thở tiếc

nuối và nỗi chờ mong vô vọng mà thôi

Thần phách tương cầu mộng diệc nan (Ức gia huynh)

(Hồn phách tìm nhau trong mộng cũng khó)

Kinh niên bất tương kiến (Ký mộng)

(Bao năm không gặp nhau)

Hoặc nếu có gặp hay có thấy thì lúc ấy cũng đã trễ tràng, đã xế chiều, đã dang dở...

Tương thức mỹ nhan khan bão tử (Thăng Long I)

(Những cô gái xinh đẹp quen biết nay đã thành mẹ ẵm con)

Bạch đầu tương kiến khốc lƣu ly (Ngộ gia đệ cựu ca cơ)

(Đầu bạc gặp nhau khó than nỗi lƣu ly)

nên chỉ còn những thông cảm muộn màng, sau chót

Dị đại tƣơng liên không sái lệ (Lỗi dƣơng ĐTL mộ I)

(Sống khác thời đại thƣơng nhau chỉ biết rơi nƣớc mắt)

Tƣơng khan lục lục đồng (Hà nam đạo trung khốc thử)

(Nhìn nhau thấy vất vả nhƣ nhau)

Tất nhiên làm nên ý nghĩa của câu là do nhiều từ hợp lại, trong đó mỗi từ có một

nhiệm vụ riêng, cho nên nếu bỏ sót hoặc có sự nhầm lẫn thì câu thơ sẽ không diễn đạt đƣợc

hết điều muốn nói. Ở đây nhóm tƣơng, dữ cộng mặc dù xuất hiện ít nhƣng những lần xuất

hiện đó đều góp phần làm rõ tính chất đặc thù của thơ chữ Hán Nguyễn Du, minh chứng cho

tƣ tƣởng, tâm hồn ông.

Nói tóm lại các nhóm từ đã nêu ở trên phần nào đã nói hộ Nguyễn Du bao điều mà

chừng nhƣ nội hàm của những câu chữ chƣa lột tả hết đƣợc. Đó là những

178

nỗi niềm sâu kín thể hiện thành bản chất, thành thói quen trong thơ ông. Cho nên chúng ta

không ngạc nhiên khi thấy trong một bài thơ mà có lắm từ đại diện cho bản chất, thói quen

này. Bài Thu dạ II có 2 độc, cộng, không, vô. Bài ký hữu có 2 nhất, 2 bất, 2 vô. Bài Sơ

nguyệt có bất, vô, nhất, công. Bài Vọng phu thạch có 2 độc, 2 vô, nhất, không. Bài Lỗi

Dƣơng Đỗ thiếu lăng mộ có bất, tƣơng, không, nhất, vô với những bài thơ dài số lƣợng

những từ này càng tăng cao. Có những bài có tới 15, 17 từ. Với số lƣợng này, thiết nghĩ cách

dùng từ của tác giả không phải là ngẫu nhiên, nó chừng nhƣ là tim là máu thịt của tác giả nên

đã phả vào thơ những hơi thở đó. Đó cũng là một nét góp phần làm nổi rõ cái riêng của thơ

chữ Hán Nguyễn Du.

3.3. Từ những đặc điểm nghệ thuật trên đi vào phân tích một bài thơ cụ

thể: Long thành cầm giả ca

Nằm trong cảm hứng quen thuộc của Nguyễn Du - bi cảm trƣớc những biến động dâu

bể của cuộc đời, kiếp ngƣời ngắn ngủi, cái đẹp, cái tài hoa sớm tàn phai, Long Thành cầm giả

ca vẫn mang một vẻ riêng đặc sắc để trở thành một bài thơ danh huyền.

Chọn thể thơ cổ phong tự do, phóng khoáng thƣờng dùng kể chuyện hiện thực nhƣ

trong các bài "hành" (Sở kiến hành, Trở binh hành), tính chất "ca" của "bài ca ngƣời gảy đàn

ở thành Thăng Long" càng làm cách hiểu hiện phóng đạt hơn và kết hợp tự nhiên giữa chài tự

sự với cảm xúc trữ tình dào dạt trong lòng ngƣời viết.

Ngoài mấy câu mở đầu ngắn gọn tận cùng bằng những thanh bằng điềm đạm nhằm

tạo vẻ khách quan khi giới thiệu nhân vật chính, bài thơ đa số là những câu 7 chữ, thỉnh

thoảng xen vào một hoặc hai câu 9 chữ hay 11 chữ ở những điểm nút của chuyển biến câu

chuyện, hoặc cao trào cảm xúc nơi ngƣời viết. Cách sắp xếp các vần bằng trắc ở cuối câu và

các câu dài ngắn là cả một sự dụng công tinh tế. Ngƣời đẹp hiện lên trong câu thơ vần trắc -

"Hồng trang yểm ái đào hoa diện" – trẻ trung, rực rỡ, thắm tƣơi nhƣ vẻ mặt hoa dào, màu

hồng sắc áo. Tiếng đàn biến hóa thần diệu nhiều cung bậc cũng đƣợc miêu tả

179

qua câu thơ nhiều thanh trắc và tận cùng bằng vần trắc để thể hiện hết vẻ sống động - "Lịch

loạn ngũ thanh tùy thủ biến". Cân đối ngay với sự sôi nổi, réo rắt đó là thứ thanh âm khoan

hòa, mềm mại, dịu êm cùng những hình ảnh so sánh tƣơng ứng - "Hoãn nhƣ sơ phong độ

tùng lâm; Thanh nhƣ song bạc minh tại âm". Thoát nhiên, tiếng đàn bỗng khẩn trƣơng dồn

dập, riết róng nhƣ sấm sét để rồi dãn ra trầm tƣ, ai oán nhƣ giọng tha hƣơng- "Liệt nhƣ Tiến

Phúc bi đầu trái tích lịch; Ai nhƣ Trang Tích bệnh trung vi việt ngâm".

Sự phối hợp câu dài ngắn, thanh âm bằng trắc phù hợp, sự đối ngẫu và sức biểu cảm

của hình ảnh vừa thể hện đƣợc tài hoa của ngƣời chơi đàn vừa biểu hiện đƣợc sự đồng cảm

đa thanh nhƣ sóng trào lớp lớp trong tâm tƣ ngƣời thƣởng thức. Nhƣng đỉnh cao của tứ thơ

khoái chá, giọng thơ hào hứng phải kể là đoạn miêu tả các quan tƣớng Tây Sơn vui say

nghiêng ngả suốt đêm, cuộc vui ngất trời, vƣợt qua mọi câu thức, giới hạn. Ngƣời trong cuộc

lấy cái sở thích phong lƣu làm đầu, quý cái "nhân sinh thích chí", tiền của vật chất là vô

nghĩa, sự hào phóng át cả mọi kẻ quyền quý xƣa nay. Giọng thơ không dấu diếm sự đồng

tình, hâm mộ, nếu không muốn nói là thán phục những con ngƣời tài hoa ấy. Những vần trắc

liên tiếp làm điệu thơ sôi nổi, lôi cuốn nhƣ tuổi xuân đầy sức sống - "Tây Sơn chƣ thần mãn

tọa tận khuynh đảo"; Triệt hạ truy hoan bất tri bão. Tả phao hữu trịch tranh triền đầu; Nê thổ

kim tiền thì thảo thảo". Ở đây dƣờng nhƣ có sự gặp gỡ giữa những tâm hồn đồng điệu - yêu

cái đẹp, trân trọng cái đẹp, cái tinh hoa trong đời - bất chấp cả sự đối lập về cái chính kiến cố

hữu trong đầu óc tác giả đối với triều Tây Sơn - Chất nhân văn đẹp đẽ của bài thơ một phần

toát lên từ đấy. Bài thơ nói về một nhân vật chính - Cô Cầm - nhƣng có đến hai hình tƣợng

tỏa sáng. Nàng với vẻ tƣơi thắm đƣơng xuân, với cung đàn thần diệu là tƣợng trƣng cho cái

đẹp. Nhƣng cái đẹp chóng tàn phai nhƣ một ảo ảnh! Hứng thơ đang mạch tuôn tràn, dạt dào

khinh khoái bỗng chững lại, chậm với hai câu liền vần bằng, một câu vần trắc rồi trở lại vần

bằng ("Thử tịch...ca vũ diên"), nhƣ bản lè chuyển tiếp từ quá khứ sang hiện tại. Hiện tại

chừng nhƣ lặp

180

lại một tiệc vui phong nhã, một chính sách tƣng bừng nhƣ ngày xƣa, và sẽ không ai nhận ra

những biến động khốc liệt của cuộc đời, nếu không có sự xuất hiện của một chứng nhân quá

khứ. Nhƣng ngƣời đàn bà luống tuổi, nhan sắc tàn phai ngồi ở cuối chiếu bên các ca kỹ xinh

tƣơi kia vẫn chƣa minh chứng đƣợc điều gì nếu tiếng đàn năm xƣa không cất lên. Tơ đàn lập

tức rung động tơ lòng của ngƣời quen biết cũ, gọi dậy tất cả ký ức huy hoàng, để tác giả nhận

thức sâu sắc hơn bao giờ hết sự nghiệt ngã của thời gian, của quy luật cuộc sống.

Ngƣời đánh đàn ấy nhƣ một tấm gƣơng phản chiếu những bể dâu của cuộc đời. Nhà

thơ đau lòng nhìn vào đó thấy lại một quá khứ vàng son của ngƣời đẹp, của một triều đại

đang ở đỉnh cao của thịnh thời. Và cũng nhìn vào đó để nhận chân sự đổi thay khủng khiếp

của cuộc đời, để soi thấy mái tóc bạc của chính mình, thấy cái đoạn cuối ngậm ngùi cho

những kiếp tài hoa. "Bách niên thuấn tức" là một bi cảm thƣờng trực của Nguyễn Du nói

riêng, một số nhà thơ cổ nói chung, nhƣng không đâu bằng giây phút này, điều đó đƣợc cảm

nhận một cách thấm thía nhất, từ một chứng nhân còn sót lại - "Ca vũ không không đi nhất

nhân tại” - trơ vơ sau bao cơn lốc của thế sự cuốn phăng đi tất cả. Cuộc đời mới phù du làm

sao! giọt lệ "thƣơng tâm" ở đây dành cho nàng, cho mình, cho tất cả những "tài hoa bạc

mệnh" trên đời, trong đó không loại trừ những quan tƣớng Tây Sơn "ý khí hào hoa lấn át cả

bọn vƣơng hầu " trong yến tiệc năm xƣa. Giọt nƣớc mắt rơi là có hạn, nhƣng nỗi ngậm ngùi

thì vô giới hạn khi tác giả và nàng, đối diện nhau mà không nhận ra nhau, để mỗi ngƣời tự

mang lấy nỗi cô đơn thăm thẳm của riêng mình - "Song nhãn trừng trừng không tƣởng tƣợng;

Khả liên đối diện bất tƣơng tri". Câu cuối bài tận cùng với một thanh bằng không dấu và âm

mở nhƣ gieo lại cái dƣ hƣởng khắc khoai mênh mang vƣợt qua không gian và thời gian gian,

tìm một âm ba cộng hƣởng ở những tâm hồn đồng điệu.

Điều đáng nói là lúc làm bài thơ này, nhà thơ đang ở cƣơng vị chánh sứ của triều

đình, sắp lên đƣờng với trọng trách "làm vẻ vang đất nƣớc. Ở đỉnh cao vinh hiển ấy sự cảm

nhận cuộc đời là dâu biển, thế sự là phù du, thƣờng cảm cho những cái tài hoa chóng lụi tàn,

và hơn hết, nỗi cô đơn sâu thẳm tận tâm hồn, mới thật lớn lao, cao cả biết bao ! Bài thơ phải

chăng vì thế mà thấm đƣợm tình

181

ngƣời, làm lay động ngƣời đọc nhiều thế hệ và trở thành một danh tác nghệ thuật bất tử.

182

PHẦN KẾT LUẬN

Thơ chữ Hán Nguyễn Du là môt thành tựu rực rỡ song song với truyện Kiều. 250 bài

thơ là kết quả những suy tƣ, trăn trở, tồn tại, bi thiết của cả một đời ngƣời. 250 bài thơ còn là

một thể nghiệm nghiêm túc và độc đáo, những sáng tạo nghệ thuật, cho thấy Nguyễn Du có

hƣớng đi riêng, khác với các nhà thơ khác.

Đối với thơ chữ Hán Nguyễn Du, luận văn đã hệ thống lý giải và nêu bật đƣợc các

vấn đề sau :

1. Nhìn lại các văn bản đã có, kiểm nhận tất cả các mặt văn bản, vạch ra những sai

biệt với mong muốn tiến tới một văn bản thống nhất. Điều này giúp ta có cái nhìn tƣơng đối

nhất quán về tác giả, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiếp cận có chiều sâu vào từng cấu trúc

tác phẩm

2. Đi vào thế giới nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du để phát hiện hình tƣợng con

ngƣời với tầm nhìn sâu rộng về cuộc đời, về bản thân, về thế giới chung quanh. Con người

lãng mạn mơ ƣớc thật nhiều nhƣng thất bại cũng nặng nề suốt đời âm thầm lao vào những

cuộc kiếm tìm, nhƣng chƣa bao giờ đi đến đích. Con người âu lo với những suy tƣ khắc

khoải về bao điều xảy ra trong cuộc sống: Đói nghèo, bệnh tật, già nua và cả cái chết nữa. Đó

là những thứ mà con ngƣời không thể vƣợt qua đƣợc. Ý thức đƣợc cái hữu hạn của kiếp

ngƣời vẫn không thôi mơ ƣớc vƣơn tới sự vô hạn của cuộc đời tƣơi đẹp vĩnh viễn. Con người

đau khổ đƣợc vẽ nên bởi những bức chân dung thực chất, cụ thể nhất. Những kiếp đời phong

trần cay đắng, những số phận tài hoa bất hạnh tồn tại trong xã hội nhƣ một điều tất yếu hiển

nhiên.

3. Thời gian, không gian cũng là một nét thể hiện tƣ duy nghệ thuật có tính chất bứt

phá vƣợt thời đại của một tác giả ở vào giai đoạn giai đoạn xã hội có những biến chuyển dữ

dội giữa cái cũ và cái mới. Thời gian nghệ thuật là thời gian tâm

183

trạng. Thời gian úa tàn biểu hiện sự bế tắc không lối thoát. Thời gian ký ức, hoài niệm về

một thời vàng son, kiểm nghiệm lại quá khứ. Thời gian khoảnh khắc trôi nhanh kéo những

thay đổi lớn dẫn dắt con ngƣời đến với bến bờ của sự diệt vong. Không gian nghệ thuật cũng

là không gian tâm trạng. Không gian mênh mông với tầm nhìn cao rộng thoáng đạt trải ra

cùng thiên lý vạn lý và không gian nhỏ hẹp tù túng giới hạn bởi bốn vách xiêu vẹo và nấm

mồ âm u... tất cả tạo nên cái thế bấp bênh, chơi vơi, phập phồng âu lo, tuyệt vọng của một

con ngƣời suốt đời tìm kiếm, suốt đời mong cầu.

4. Ngôn ngữ nghệ thuật trong chừng mực thể hiện chính xác bản chất con ngƣời

trong đó. Ở câu thơ, sự xuất hiện nhiều hay ít của các dạng trong câu thơ có thể lý giải đƣợc

tầm nhìn, tầm nghĩ của nhà thơ. Ở từ ngữ, thông qua mức độ biểu thị có thể nắm bắt đƣợc

thần thái của mỗi phƣơng diện tâm trạng Từ tự xƣng biểu hiện con ngƣời cá nhân rõ nét. Hư

từ biểu hiện sự quẩn quanh bế tắc, từ đặc biệt nói lên tƣ thế đơn độc riêng lẻ trong một thế

giới trống không hiu quạnh...

Do những kết quả trên, dù chƣa toàn diện, luận văn cũng đã có một số đóng góp:

Về mặt cảm thụ, việc tìm hiểu những đặ điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du

giúp ngƣời đọc thấy đƣợc cái hay cái đẹp của tác phẩm nghệ thuật qua cách tiếp cận mới cả

bề mặt lẫn bề sâu.

Về mặt giảng dạy, trƣớc nay, thơ chữ Hán hầu nhƣ chỉ là phần phụ nhằm minh họa

soi sáng cho cuộc đời và con ngƣời tác giả của tác phẩm lớn là Truyện Kiều. Việc giảng dạy

chủ yếu đề cập đến nội dung tƣ tƣởng thông qua một số bài thơ tiêu biểu cho lòng nhân ái và

thái độ tố cáo phê phán hiện thực xã hội. Những điều dã đúc kết đƣợc đó chỉ có ý nghĩa trên

phƣơng diện khái quát, không lý giải đƣợc mọi vấn đề trong tất cả những bài thơ cụ thể và

không khai thác

184

đƣợc hết những nét riêng phong phú, độc đáo. Luận văn tiếp cận tác phẩm ở góc độ nghệ

thuật giúp khám phá đƣợc thêm nhiều lớp nghĩa của tác phẩm, phát hiện đƣợc quan niệm

nghệ thuật của tác giả ...

Về mặt nghiên cứu văn học, việc khảo sát những đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán đặt

trong mối liên hệ với giai đoạn lịch sử trƣớc và sau nó để phân biệt đƣợc và phát hiện đƣợc

sự phát triển bình thƣờng hay những bứt phá vƣợt thời đại của nền văn học nói chung.

185

BẢN ĐỒ CHỈ ĐƢỜNG ĐI CỦA SỨ BỘ NGUYỄN DU

THƢ MỤC THAM KHẢO

I - SÁCH TRONG NƢỚC

1 - Đào Duy Anh - Khảo luận về Kim Vân Kiều, nxb Tiếng Dân , Huế 1943

2 - Đào Duy Anh - Tự điển Hán Việt

Đào Duy Anh - Thơ chữ Hán Nguyên Du, nxb Văn học, Hà Nội, 1988 3-

Phan Kế Bính - Việt Hán văn khảo, nxb Trung Bắc tân Văn, Hà Nội 1930 4-

Nguyễn Phan Cảnh - Ngôn ngữ thơ, nxb Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp Hà Nội 5-

1987

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (dịch) - Lão tử Đạo đức kinh, nxb Văn Học , 1992 6-

Thu Giang Nguyễn Duy Cần (dịch) - Lão tử tinh hoa, nxb TP, Hồ Chí Minh 1992 7-

Nguyễn Sĩ Cẩn - Mấy vấn đề phƣơng pháp dạy thơ văn cổ Việt Nam, nxb Giáo dục 8-

1984.

9- Bùi Hạnh Cẩn - 192 hài thơ chữ Hán của Nguyễn Du, nxb Văn hóa thông tin, HàNội

1996

10- Trần Văn Chánh - Sơ lƣợc ngữ pháp Hán Văn, nxb TP.Hồ Chí Minh, 1991

11- Nguyễn Huệ Chi - Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam, nxb Tác phẩm mới và Hội nhà Văn

Việt Nam 1983

12- Hà Nhƣ Chi - Việt Nam thi văn giảng luận, nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1967

Trƣơng Chính - Thơ văn Nguyễn Công Trứ, nxb Văn Học , Hà Nội, 1983 13-

Trƣơng Chính, Lê Thƣớc - Thơ chữ Hán Nguyễn Du, nxb Văn hóa, Hà Nội 1965 14-

Trƣơng Chính Lê Thƣớc - Thơ chữ Hán Nguyễn Du (tái bản), nxb Văn học Hà Nội 15-

1978

Phan Huy Chú - Lịch triều hiến chƣơng loại chí, nxb Khoa học xã hội Hà Nội 1992 16-

Thiều Chữu - Hán Việt từ điển, nxb TP.Hồ Chí Minh 1990 17-

18- Đoàn Trung Côn - Luận ngữ Khổng tử, nxb Trí Đức, Sài Gòn, 1950

19- Phạm Văn Diêu - Việt Nam văn học giảng bình, nxb Tân Việt, Sài Gòn 1961

20- Xuân Diệu - Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Tập I, II, nxb Văn học 1987

21- Đỗ Đức Dục - Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, nxb Văn học 1989 22- Lê Anh Dũng - Con đƣờng tam giáo Việt Nam, nxb TP.Hồ Chí Minh 1994

23- Hà Minh Đức, Lê Bá Hán - Cơ sở lý luận Văn học, nxb Đại học và Trung học chuyên

nghiệp 1984

Lam Giang - Khảo luận về thơ, nxb Đồng Nai 1994 24-

Trần Văn Giàu - Triết học và tƣ tƣởng, nxb TP. Hồ Chí Minh, 1988 25-

186

26- Nguyễn Thị Bích Hải - Thi pháp thơ Đƣờng, nxb Thuận Hóa 1995 27- Dƣơng Quảng Hàm - Việt Nam thi văn Hợp tuyển, nxb Bộ Giáo Dục Trung tâm học

liệu, Sài Gòn, 1968

28- Hoàng Ngọc Hiến - Văn học học Vãn, nxb Trƣờng Cao Đẳng Sƣ Phạm và Trƣờng

viết văn Nguyễn Du, Hà nội 1990

30- Hoàng Ngọc Hiếu - Năm bài giảng về thể loại, nxb Trƣờng viết Văn Nguyễn Du, Hà

Nội 1992 31- Thái Doãn Hiểu - Chân dung kẻ sĩ, nxb Văn nghệ Tp.Hồ Chí Minh 1988 32- Đỗ Đức Hiểu - Chân dung kẻ sĩ, nxb khoa học xã hội Mũi cà Mau 1993 Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu - Kinh thi, nxb TP,Hồ Chí Minh, 1992 33- 34- Nguyễn Quốc Hùng - Hán Việt tân từ điển, nxb Khai Trí, Sài Gòn 1975 (1982 Công

ty phát hành sách thành phố Hồ Chí Minh in lại)

35- Nguyễn Quang Huy - Luận đề văn chƣơng những tác giả thế kỷ XIX, nxb, Thế giới

Sài Gòn 1972

36- Nguyễn thị Dƣ Khánh - Phân tích tác phẩm nhìn từ góc độ thi pháp học nxb Giáo

Dục, Hà Nội 1995

37- Vũ Ngọc Khánh - Giai thoại văn học Trung Quốc, nxb Văn học 1992 38- Đinh Giã Khánh (chủ biên) Hợp tuyển thơ văn thế kỷ X - XVII , nxb Văn học, Hà Nội

1978

39- Nhóm Vũ Khiêu - Thơ Ngô Thì Nhậm, nxb Văn học 1986 40- Nhóm Vũ Khiêu - Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, nxb Văn học 1976 41- Nguyễn Xuân Kính - Thi pháp ca dao, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1992 42- Ƣu Thiên Bùi Kỹ - Quốc văn cụ thể, nxb Tân Việt, Sài Gòn, 1950 43-

44-

45- 46-

Trƣơng Vĩnh Ký - Minh tâm bửu giám, nxb Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Thành phố, Hồ Chí Minh 1991 Bùi Kỷ Phan Võ, Nguyễn Khắc Hanh - Thơ chữ Hán Nguyễn Du; nxb Hoàn cầu, Hà Nội 1959 Lê Đình Kỵ - Tìm hiểu Văn học, nxb TP,Hồ Chí Minh, 1984 Lê Đình Kỵ-Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du - nxb KHXH, TP.HCM 199

47- Nguyễn Lai - Ngôn ngữ và sáng tạo văn học, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1991 48- Đặng Thanh Lê - Văn học Việt Nam, nxb Giáo dục, Hà Nội 1990 49- Đặng Thanh Lê - Truyện Kiều và thể loại truyện tthơ Nôm, nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội 1979

187

50- Mai Quốc Liên - Ngô Thì Nhậm và văn học Tây Sơn, nxh Sở Văn Hóa Thông tin

Nghĩa Bình. 1985

51- Mai Quốc Liên - Dƣới gốc me vƣờn Nguyễn Huệ, nxb Sở Văn hóa thông tin Nghĩa

Bình 1986

52- Mai Quốc Liên - Trƣớc đèn, nxb Văn nghệ, TP.Hồ Chí Minh 1992 53- Mai Quôc Liên... Nguyễn Du toàn tập, nxb Văn học, Trung Tâm Quốc học 1996 54- Nguyễn Lộc - Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - XIX. nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp 1978

Phƣơng Lựu - Tinh hoa lý luận văn học cổ điển Trung Quốc, nxb Giáo dục, 1985 Phƣơng Lựu - về quan niệm văn chƣơng cổ Việt Nam, nxb Giáo Dục 1985

55- Nguyễn Lộc (tuyển chọn) -Thơ Nôm Hồ Xuân Hƣơng, nxb Văn học, Hà Nội 1982 56- Nguyễn Lộc - Nguyễn Du con ngƣời và cuộc đời, nxb Đà Nẵng, 1990 57- Lƣu Trọng Lƣ - Nhật ký đọc Kiều, nxb Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội 1995 58- 59- 60- Huỳnh Lý (chủ Biên)- Hợp tuyển thơ văn Thế kỷ XVIII - XIX, nxb Văn học, Hà Nội

1978

61- Lạc Nam - Tìm hiểu các thể loại, nxb Văn học, Hà Nội 1993 62- Lê Đức Niệm - Thơ Đƣờng, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1993 63-

Phan Ngọc - Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1985 64- Phan Ngọc - Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, nxb Trẻ 1995 65- Ngô gia văn phái - Hoàng Lê nhất thống chí, nxb Văn học Hà Nội 1958 66- 67-

Phạm Thế Ngũ - Khảo luận về thơ cũ Trung Hoa Phạm Thế Hiển Sài Gòn 1968 Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ƣớc tân biên, nxb Quốc học tùng thƣ, Sài Gòn 1965

68- Bùi Văn Nguyên - Hà Minh Đức - Các thể thơ ca và sự phát triển của hình thức thơ ca

trong Văn học Việt Nam, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1969

69- Bùi Văn Nguyên - Việt Nam truyện cổ triết lý và tình thƣơng, nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội 1991

70- Bùi Văn Nguyên - Nguyễn Du ngƣời tình và Nguyễn Du tình ngƣời, nxb Khoa học xã

hội, nxb Cà Mau 1992

71- Nhiều tác giả - Chân dung Nguyễn Du, nxb Nam Sơn, Sài gòn, 1971 72- Nhiều tác giả - Công việc viết văn, nxb Trƣờng viết Văn Nguyễn Du, Hà Nội 1985 73- Đặng Duy Phúc - Về Tiên Điền nhớ... , nxb Hà Nội, 1994 74- Vũ Tiến Phúc - Việt Nam Văn học giảng minh, nxb Sống mới Sài gòn 1968

188

75- Nguyễn Thị Phƣợng - Tuyển tập thơ chữ Hán Nguyễn Đề, nxb Khoa học xã hội, Hà

Nội 1995

76- Vũ Tiến Quỳnh - Nguyễn Du ( Bình luận Văn học) nxb Tổng hợp Khánh Hòa 19 77- Nguyễn Ngọc San - Tìm hiểu về tiếng Việt lịch sử, nxb Giáo dục Hà Nội, 1993 78- Trần Trọng San - Kim Thánh Thán phê bình thơ Đƣờng, nxb Đại Học Tổng hợp, Tp.

Hồ Chí Minh, 1990

79- Đặng Đức Siêu - Ngữ vãn Hán Nôm, nxb Giáo Dục, Hà Nội, 1989 80- Lê Văn Siêu - Nguồn gốc Văn học Việt Nam, nxb Thế giới, Sài Gòn, 1956 81- Trần Đình Sử - Thi pháp thơ Tố Hữu, nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam,

1987

82- Trần Đình Sử - Những thế giới nghệ thuật thơ, nxb Giáo dục, Hà Nội, 1995 83- Trần Đình Sử - Giáo trình thi pháp học, nxb TP. Hồ Chí Minh, 1993 84- Trần Đình Sử - Lý luận phê bình văn học, nxb Hội nhà Văn Hà Nội 1996 85- Nguyễn Minh Tuấn - Từ trong di sản - nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam

1988

86- Quách Tấn - Tố Nhƣ thi, nxb An Tiêm, Sài Gòn, 1973 87- Phan Sĩ Tấn, Trần Thanh Đạm - Thơ văn Nguyễn Trãi, nxb Giáo dục 1980 88- Nguyễn Tỏa - Việt Nam văn học sử trích yếu, nxb Khai Trí, Sài Gòn I968 89- Đặng Tiến - Vũ trụ thơ, nxb Giao Điểm, Sài Gòn 1972 90 91 93

- Hoài Thanh - Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam, nxb Văn sử Địa Hà Nội 1959 - Nguyễn Bá Thành - Tƣ duy thơ và Tƣ duy thơ hiện đại , nxb Văn học 1996 - Trần thị Băng Thanh - Ngô Thì Sĩ- Những chặng đƣờng thơ văn, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1992 Phạm Thiều - Thơ đi sứ, nxb Khoa học xã hội. Hà Nội 1993

94- 95- Nguyễn Đăng Thục - Thế giới thơ ca Nguyễn Du , nxb Kinh thi, Sài gòn 1971 96- Lê Ngọc Trà - Lý luận và văn học, nxb Trẻ, 1990 97- Lê Ngọc Trà - Mỹ học đại cƣơng, nxb Văn hóa thông tin 1994 98- Nam Trân - Thơ Đƣờng tập II, nxb Văn học, Hà Nội, 1987 99- Nguyễn Phúc Ƣng Trình ... - Tùng Thiện vƣơng, nxb Huế, Sài Gòn 1970 100- Cù Đình Tú - Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, nxb Đại Học và Trung học

chuyên nghiệp 1983

101- Đỗ Minh Tuấn - Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều, nxb Văn hóa

thông tin, Hà Nội 1995

102- Nguyễn Khắc Viện - Bàn về đạo Nho, nxb Thế giới, Hà Nội, 1993

189

103- Lê Trí Viễn - Đặc điểm có tính qui luật của lịch sử Văn học Việt Nam, nxb Đại học Sƣ

phạm, 1984.

104- Lê Trí Viễn - Thơ xuân và hình thơ xuân - nxb Thông tin Văn hóa Nghĩa Bình, sở

Giáo dục Nghĩa Bình, 1986

105- Lê Trí Viễn - Lịch sử văn học Việt Nam lập III, nxb Giáo dục 1978 106- Lê Trí Viễn - Cơ sở ngữ văn Hán Nôm, nxb Giáo Dục, 1986 107- Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Một số vấn đề Văn bản học Hán Nôm, nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội 1983

108- Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Dịch từ Hán sang Việt một khoa học, một nghệ thuật,

nxb Khoa học xã hội, Hà Nội 1982

109- Viện văn học - Kỷ niệm 200 năm ngày sinh Nguyễn Du, nxb Khoa học xã hội, Hà Nội

1965

110- Đông Xuyên - Tuyển tập thơ Hán Việt, nxb Cảo thơm, Sài Gòn 1972 111- Thơ Văn Nguyễn Khuyến - nxb Văn học, Hà Nội 1979 112- Tú Xƣơng tác phẩm và giai thoại - nxb Hội Văn nghệ Hà Nam Ninh 1987 II : SÁCH NƢỚC NGOÀI 113- M Bakhtin - Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, nxb Trƣờng viết Văn Nguyễn Du, Hà

Nội 1992

114- M Bakhtin - Những vấn đề thi pháp Doxtoiepxki, nxb Giáo Dục, Hà Nội 1979 115- Lâm Ngữ Đƣờng - Nhân sinh quan và thơ văn Trung hoa, Nguyễn Hiến Lê dịch, nxb

Văn hóa, 1993 tái bản

116- P- S Lirevich - Tƣ tƣởng văn học Trung Quốc cổ xƣa (Trần Đình Sử dịch) nxb

Trƣờng Đại Học sƣ phạm Thành phố Hồ Chí Minh 1993

117- G.N Pospelov - Dẫn luận nghiên cứu văn học lập I,II ( Trần Đình Sử, Lại Nguyên Ân,

Nguyễn Nghĩa Trọng dịch ) nxb Giáo dục Hà Nội 1985

118- Hồ Thích - Trung Quốc triết học sử ( Huỳnh Minh Đức dịch) nxb Khai Trí, Sài Gòn

1970

119- Khâu Chấn Thanh - Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc (Mai Xuân Hải

dịch) nxb Giáo Dục 1994

120- Huỳnh Sanh Thông - The tale Kiều, Prinled in the United Slater of America by vail - Ballou Press, Binghamton , N.Y 1983 (Preferce - The Historical Background by Alexander B.Woodside -Introduction).

121 - Chu Quang Tiềm - Tâm lý văn nghệ mỹ học hiện đại (Khổng Đức và Đinh Tấn Dung

dịch) nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1991

190

III : TẠP CHÍ

122- Đào Duy Anh - Nguyễn Du, viết Đoạn Trƣờng Tân Thanh vào lúc nào? Tạp chí Tri

Tân số 96 năm 1943

123- Đào Duy Anh - Xuân của Nguyễn Du, Tạp chí Tri Tân, số 81 , 82 năm 1943

124- Thạch An (dịch) - Cầm giả dẫn, Văn hóa nguyệt san, số 69 năm 1962

125- Thái Bạch - Nhân tết Đoạn Ngọ nói chuyện Khuất Nguyên, Tạp chí Phổ thông số 151,

152 năm 1965

126- Hoa Bằng - Thân thế và sự nghiệp của nhà thi hào Nguyễn du, Tạp chí Tri Tân số 61

năm 1942

127- Dƣơng Châu - Nguyễn Du, Tạp chí phổ thông số 157 năm 1965

128- Nguyễn Huệ Chi - Tìm hiểu thơ chữ Hán - Tạp chí Văn học số 11 năm 1965

129- Trƣơng Chính - Một vài suy nghĩ về thân thế Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 10 năm

1965

130- Trƣơng Chính - Một vài ý kiến về tập thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 8

năm 1962

131- Nguyễn Đình Chú - về lời dịch Độc Tiểu Thanh ký (Nguyễn Du) Báo Văn nghệ số 24

(1744) Thứ bảy 12 - 6 - 1993

132- Song Cối - Khóc vì Tố nhƣ, Tạp chí Tri Tân, số 43, năm 1942

133- Đỗ Đức Dục - Tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 2 năm 1984

134- Đỗ Đức Dục - Từ Truyện Kiều đến thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 6

năm 1987

135- Lê Xuân Giáo - Tấc lòng cố quốc tha hƣơng của Nguyễn Du, Nội san khảo cổ học số

4 năm 1995

136- Lê Xuân Giáo - Nhắc qua vài mẫu chuyện tâm tình của cụ Nguyễn Du Nội san khảo

cổ học, số 2 năm 1965

137- Lê Xuân Giáo - Đệ nhất thi hào nƣớc Việt Nam.Văn hóa nguyệt san số 4 năm 1970

138- Liên Giang - Vì sao Nguyễn Du lại cảm truyện Tiểu Thanh, Tạp chí Tri Tân số 72

năm 1942

139- Tô Hà - Khoảng cách im lặng giữa những câu thơ, Tạp chí Văn học số 2 năm 1991

140- Lê Văn Hảo - Có một mối tình Hồ Xuân Hƣơng - Nguyễn Du, Kiến thức ngày nay ,

số 5

191

141- Nguyễn Trung Hiếu - Truyện Kiều yêu cầu đổi mới của khoa nghiên cứu Văn học

hiện nay. Tạp chí Văn học, số 6 năm 1486

142- Nguyễn Văn Hoàn - Giới thiệu một số tƣ liệu về Nguyễn Du mới tìm đƣợc ở Trung

Quốc, Tạp chí Văn học số 4 năm 1964

143- Nguyễn Văn Hoàn - Nhân dân thế giới kỷ niệm 200 năm sinh nhà thơ Nguyễn Du của

chúng ta, Tạp chí Văn học số 5 năm 1996.

144- Ứng Hòe - Phê phán Nguyễn Du và Truyện Kiều, Tạp chí Tri Tân số 88 năm 1943

145- Nguyễn Công Huân - Cây cỏ trong truyện Kiều - Văn hóa nguyệt san số 10 năm 1964

146- Nguyễn Phạm Hùng - Sự xuất hiện khuynh hƣớng trong Văn học Việt Nam cổ - Tạp

chí Văn học số 3 năm 1989

147- Đỗ Văn Hỹ - Mấy ý kiên về bản dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí Văn học số 12

năm 1966

148- Đỗ Văn Hỹ - Cái hay trong thơ xƣa dƣới con mắt nhà thơ xƣa. Tạp chí Văn học số 4

năm 1983

149- Klanixoi. Tibro - Về khái niệm thời kỳ văn học - Tạp chí Văn học số 1 năm 1989

150- Châu Hải Kỳ - Vì Ngƣời viết những dòng tâm sự, Tạp chí Giáo dục Phổ thông số 25

năm 1958

151- Châu Hai Kỳ - Cụ Nguyễn Du có cảm tình với triều đại Gia long không? Tạp chí Giáo

dục phổ thông - số 6 năm 1958

152- Châu Hải Kỳ, KXT - Quê quán Nguyễn Du, Tạp chí Giáo dục phổ thông số 30 năm

1959

153- Lê Đình Kỵ - Nguyễn Du qua thơ chữ Hán , Kiến thức ngày nay số 30 năm 1988

154- Thanh Lãng - Nguyễn Du nhƣ là một huyền thoại, Tạp chí nghiên cứu Văn học số4, 5,

6 năm 1987.

155- Thanh Lãng - Từ vạn Hạnh đến Nguyễn Du - Tạp chí Nghiên cứu Văn học, số 9 năm

1971

156- Quỳnh Lân - Mùa thu trong thơ ca - Văn hóa Nguyệt san số 15 năm 1965

157- Duy Liên - Những mối tình của Nguyên Du, Tạp chí Giáo dục phổ thông số 33 năm

1959

158- Vũ Đình Liên - Nguyễn Du một tâm hồn lạc loài trong xã hội phong kiến - Tạp chí

Văn học số 2 năm 1971

192

159- Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Ngu Ý - Nỗi lòng đau khổ của Nguyễn Du, Tạp chí Giáo

dục Phổ thông, số 27 năm 1958

160- Bình Nguyên Lộc, Nguyễn Ngu Ý - Hoàn cánh nào đã gợi ý Nguyễn Du viết Văn

chiêu hồn, Tạp chí Giáo dục Phổ thông số 58 năm 1960

161- Bình Nguyên Lộc- Nguyễn Ngƣ Ý – Nguyễn Du nhà thơ của dân tộc Việt Nam - Tạp

chí Giáo dục phổ thông, số 27, năm 1958

162- Phạm Luận - Thể loại thơ trong Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi và thi pháp Việt

Nam, Tạp chí Văn học, số 4, năm 1991

163- Lƣu Trọng Lƣ - Vấn đề thƣơng ghét qua tập thơ chữ Hán Nguyễn Du - Tuần báo Văn

nghệ, số 135 (26 /11/1965)

164- D.X. Likhachốp - Thời gian nghệ thuật của tác phẩm Văn học - Tạp chí Văn học, số

3, năm 1989

165- Niculin - Nguyễn Du một nhà thơ nhân đạo lỗi lạc - Tạp chí Văn học số 10 năm 1960

166- Phạm Mạnh Phan - Tâm hồn thi nhân với mảnh trăng thu - Tạp chí Tri Tân số 161

năm 1944

167- Nguyễn Huy Quát - Sự đồng cảm của Nguyễn Du với thể hiện qua 2 bài thơ về lầu

Hoàng Hạc - Kiến thức ngày nay số 91

168- Kiều Thanh Quế - Nỗi lòng Tố Nhƣ dƣới triều Gia Long - Tạp chí Tri Tân số 50 năm

1942

169- Đào Xuân Quí - Nguyễn Du trong bài thơ chữ Hán - Tuần báo Văn nghệ số 133 (12 -

11- 1965)

170- Trần Lê Sáng - Thử tìm hiểu quan niệm " thi ngôn chí" của nhà nho. Tạp chí Văn học

số 1 năm 1973

171- Trần Đình Sử - Cái nhìn nghệ thuật của Nguyễn Du trong truyện Kiều - Tạp chí Văn

học số 6 năm 1983

172- Trần Đình Sử - Thời gian nghệ thuật trong truyện Kiều và cảm quan hiện thực của

Nguyễn Du - Tạp chí Văn học số 2 năm 1981

173- Trần Đình Sử - Độc Tiểu Thanh ký của Nguyễn Du Văn nghệ số 28 (1948) thứ bảy

10-7-1993

174- Lê Công Tâm - Mùa xuân trên thi đàn Việt - Tạp chí Giáo dục phổ thông - số 53 - 54

năm 1960

175- Nguyễn Đan Tâm - Cái án tình phụ nhờ cụ Nguyễn Du mà đƣợc minh oan, Tạp chí

Tri Tân số 63 năm 1942.

193

176- Phan Đình Tân -Nguyễn Du thi sĩ của đau khổ. Tạp chí Minh Đức số 4 năm 1973.

177- KXT và ND - Khai phá tâm tình Nguyễn Du - Tạp chí Giáo dục phổ thông số 55

năm 1960

178- Nhữ Thành - Tìm hiểu tứ thơ của thơ Đƣờng - Tạp chí Văn học số 1 năm 1982

179- Hoài Thanh - Nguyễn Du một trái tim lớn, một nghệ sĩ lớn - Tạp chí Văn học số 11

năm 1965

180- Vân Thạch - Nguyễn Nghiễm - Tạp chí Tri Tân số 44 năm 1942

181- Lạc Thiện - Nhận thức chữ Hán , Vãn hóa tập san số 4 năm 1943

182- Nguyễn Khắc Thiệu - Mối tình của Nguyễn Du - Tạp chí Phổ thông số 17 năm 1960

183- Văn Thôn - Dự cảm trong văn chƣơng Việt Nam - Văn hóa nguyệt san số 21 năm

1965

184- Nguyễn Khánh Toàn - Nguyễn Du nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, Tạp chí Văn

học số 12 năm 1965

185- Nguyễn Văn Tố - Chữ xuân trong văn cổ - Tạp chí Tri Tân số 34 xuân Nhâm Ngọ

186- Trần Quang Thuận - Esthetic Prychology of Kim Vân Kiều or Kiều's real and dream

word . Văn hóa nguyệt san số 10-11 năm 1965

187- Lê Thƣớc - Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng thuộc một dòng họ và chung ông tổ-

Văn hóa nguyệt san số 57 năm 1965

188- Lê Thƣớc - Một vài ý kiến nhỏ trong việc sƣu tầm và dịch thơ chữ Hán Nguyễn Du,

Tuần báo Văn nghệ số 133 (12 -11- 1965)

189- Lê Ngọc Trà - Mùa xuân trong mắt ai - Kiến thức ngày nay số 54

190- Lê Ngọc Trụ - Tiếng Việt Tiếng Trung Hoa, Tạp chí Phổ thông số 203

191- Hoàng Trinh - Những truyền thống nhân đạo chủ nghĩa trong thơ Việt Nam Tạp chí

Văn học số 2 năm 1984

192- Nguyễn Quảng Tuân - Cần phải tìm hiểu chính xác hơn bài Độc Tiểu Thanh ký của

Nguyễn Du - Tạp chí Hán Hôm số 1(18) năm 1994

193- Nguyễn Đức Vân - Quan niệm văn học của một số nhà nho Việt Nam, Tạp chí Văn

học số 6 năm 1963

194- Chế Lan Viên - Nguyễn Du hay tấm lòng của một ngƣời anh - Tạp chí Văn học, số 5

năm 1958

195- Xuân Việt - Viếng Tố Nhƣ - Văn hóa nguyệt san số 34 năm 1965

194

196- Châm Vũ - Tinh thần Nguyễn Du trong thể thơ Haikai Nhật Bản, Văn hóa nguyệt san

số 10, 11 năm 1965

197- Tô Thúy Yên - Đi tìm Nguyễn Du - Văn nghệ số 17 năm 1962

198- Nhiều Tác giả - 200 năm sinh Nguyễn Du - Tạp chí Văn , số 43 - 44 năm 1965 (Sài

Gòn )

TÀI LIỆU CHƢA IN

199- Trần Thanh Đạm - Văn học so sánh ( giảng dạy sau Đại Học).

200- Trần Thanh Đạm - Sự chuyển tiếp của Văn chƣơng Việt Nam sau thời kỳ hiện đại

(giảng dạy sau Đại Học).

201- A. Gurevrch - Những phạm trù Văn học Trung cổ (A Gurevich Kalcgoric

Srednevekoboi Kultury - Iskusslvo - Moskva 1972 )

202- Jakokson - Tiểu luận ngôn ngữ học đại cƣơng (Trần Duy Châu dịch theo bản dịch

pháp văn của Nicolas Kuvvel) ( tài liệu giảng dạy sau Đại Học)

203- Nguyễn Thị Bích Hải - Thử đề xuất một hƣớng tiếp cận thơ Đƣờng luật

204- Nguyễn Thị Bích Hải - Satna đốn ngộ trong thơ Đƣờng

205- Lê Trí Viễn - Một đặc trƣng của Văn học Việt Nam - vô ngã

206- Lê Trí Viễn - Hiểu văn học trung đại trong lịch sử văn học Việt Nam nhƣ thế nào cho

phải ?

195