BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------
Nguyễn Thị Minh
THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ
SONNET SHAKESPEARE TỪ GÓC NHÌN
KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành: Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam)
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH
--------------------------
Nguyễn Thị Minh
THƠ CHỮ HÁN NGUYỄN DU VÀ THƠ SONNET SHAKESPEARE TỪ GÓC NHÌN KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA
Chuyên ngành: Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam
Mã số: 62 22 01 21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
(Chuyên ngành : Ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam )
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TPHCM, NĂM 2019
Tên thành phố - Năm
PGS. TS. LÊ THU YẾN
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn PGS.TS. Lê Thu Yến, người đã tận tình hướng dẫn
tôi hoàn thành luận án này, cũng là người cho tôi học được đức khiêm tốn,
nhẫn nại của một người làm khoa học, người mang đến cho tôi cảm giác ấm
áp của sự sẻ chia mỗi khi tôi nản chí. Xin cảm ơn gia đình và bạn bè đã luôn
động viên, giúp đỡ và làm điểm tựa tinh thần cho tôi trong suốt quá trình làm
luận án.
TPHCM, ngày 2 tháng 3 năm 2019
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Minh
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các
kết quả được trình bày trong luận án là trung thực và chưa được ai công bố
trong một công trình nào khác.
TPHCM, ngày 2 tháng 3 năm 2019
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Minh
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƯƠNG I: KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ THỂ TÍNH TRONG VĂN HỌC THUỘC TRÀO LƯU NHÂN VĂN CHỦ NGHĨA ......................................................................................................... 28
1.1. Ký hiệu học và ký hiệu học văn hóa với việc nghiên cứu văn học ... 28
1.1.1. Ký hiệu học .................................................................................. 28
1.1.2. Ký hiệu học văn hóa .................................................................... 34
1.1.3. Nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa - một vài định hướng cơ bản ..................................................................................................... 50
1.2. Chủ thể tính trong văn học trào lưu nhân văn chủ nghĩa ................... 68
1.2.1. Khái niệm chủ thể tính ................................................................. 68
1.2.2. Chủ nghĩa nhân văn cùng quan niệm về chủ thể thời Nguyễn Du và Shakespeare ....................................................................................... 74
CHƯƠNG 2: CHỦ THỂ NỘI QUAN: VẤN ĐỀ THÂN XÁC .................. 80
2.1. Ý thức về chữ thân ............................................................................. 80
2.1.1. Thân xác con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare ........................................................................................... 80
2.1.2. Mối quan hệ giữa thân xác và tinh thần....................................... 87
2.2. Các kí hiệu của thân xác .................................................................... 99
2.2.1. Tóc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du ............................................. 99
2.2.2. Mắt trong thơ sonnet Shakespeare ............................................. 116
CHƯƠNG 3: CHỦ THỂ TƯƠNG CHIẾU: NHỮNG SỨC CĂNG TRONG BẢN CHẤT NHỊ NGUYÊN CỦA CON NGƯỜI .................................... 131
3.1. Chủ thể trong quan hệ với cuộc đời ................................................. 131
3.1.1. Phân biệt “tôi” với “thiên hạ” .................................................... 131
3.1.2. Hướng về cuộc đời trần thế bằng tinh thần hoài nghi .............. 146
3.2. Chủ thể trong quan hệ với chính mình ........................................... 156
3.2.1. Hành động soi gương ................................................................. 156
3.2.2. Suy tư về văn chương ................................................................ 165
KẾT LUẬN ................................................................................................... 191
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 197
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
1.1. Tiến trình văn hóa, văn học của mỗi dân tộc đến một thời điểm
nhất định sẽ kết tinh ở những cá nhân đặc biệt, những con người không chỉ cất
lên tiếng nói riêng tư của trải nghiệm bản thân mà còn đại diện cho cả thế hệ
mình. Nói đến văn học Việt Nam, người ta không thể không nhắc đến Nguyễn
Du, người đi vào huyền thoại với “con mắt trông thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ
suốt nghìn đời” đã làm đẹp thêm cho ngôn ngữ dân tộc, đi vào cả câu ca điệu
hò của người bình dân lẫn những suy tư sâu sắc nhất của người trí thức, cũng
như nhắc đến văn học Anh là người ta nói đến Shakespeare, bậc thầy ngôn
ngữ mang đến rất nhiều cách diễn đạt mới mẻ cho không chỉ thời đại mình mà
cả nhiều thế hệ sau. Tính đại diện của Nguyễn Du và Shakespeare cho nền
văn hóa dân tộc nơi họ sinh ra là một điều có lẽ không cần bàn cãi. Song loài
người – loài sinh vật có khả năng tạo ra ý nghĩa và sống trong thế giới ý nghĩa
bên cạnh ý thức về tính khu vực, tính dân tộc, còn không ngừng băn khoăn về
tính nhân loại. Và có lẽ đó là lý do vì sao văn học so sánh bước vào thế giới
của diễn ngôn khoa học, tạo điều kiện cho người nghiên cứu có thể đặt những
tiếng nói tương đương ở một phương diện nào đó trong các tương quan đa
dạng.
Văn học so sánh, khởi đầu bằng nghiên cứu ảnh hưởng của Pháp, tiếp
nối và mở rộng bằng nghiên cứu song hành của Mỹ, tiếp tục với các nghiên
cứu tổng hợp theo tinh thần chống lại “thuyết lấy châu Âu làm trung tâm”
(eurocentrism hay Western-centrism) của phái Liên Xô, đang ngày càng phát
triển, hòa vào dòng chảy của nghiên cứu văn hóa. Đại diện tiêu biểu của
trường phái Liên Xô là Konrad. Bằng các nghiên cứu của mình, ông đã khẳng
định Phục Hưng là một hiện tượng mang tính toàn thế giới chứ không riêng gì
ở châu Âu. Mặc dù người viết không hoàn toàn đứng về phía những người
2
cho rằng ở Việt Nam cũng có một thời kì Phục Hưng theo đúng nghĩa như
những gì đã diễn ra ở phương Tây thế kỉ 15-17, song có thể nói các phân tích
của Konrad đã tạo một tiền đề nhất định cho sự so sánh Nguyễn Du và
Shakespeare: con người sống trong điều kiện có sự xuất hiện của đô thị ngay
trong lòng xã hội phong kiến, khi các giá trị văn hóa, tư tưởng cũ đang rạn nứt
và đổ vỡ, tiếng nói của họ dễ có những điểm chung đặc biệt với tư cách một
chủ thể.
1.2. Trong bối cảnh hiện tại, nghiên cứu văn học Việt Nam rất cần mở
rộng, hòa nhập với xu thế chung của thế giới. Trong đó, nghiên cứu văn học
từ kí hiệu học là một phương pháp nền tảng nhưng chưa thực sự được quan
tâm chú ý, chưa có nhiều công trình nghiên cứu có hiệu quả. Vậy ký hiệu học
có thể đóng góp gì cho so sánh văn học? So sánh văn học từ ký hiệu học sẽ
thấy một vấn đề: các chất liệu âm thanh thì ngôn ngữ nào cũng có, nhưng việc
tổ chức các chất liệu ấy thì khác nhau. Các chất liệu tư tưởng, cảm xúc thì
cộng đồng nào cũng có, nhưng tổ chức chúng lại khác nhau. Cần phân biệt
giữa sự tương đồng trên bề mặt với sự tương đồng ở bề sâu. Chẳng hạn, sự
tương đồng về chủ đề trong sáng tác của một số tác giả trên thực tế lại có
nghĩa rất khác nhau theo ký hiệu học. Ngược lại, nhìn vấn đề ở bề sâu, người
ta đôi khi lại phát hiện ra những nét tương đồng mà nhìn trên bề mặt chẳng có
gì liên quan đến nhau. So sánh văn học từ góc nhìn ký hiệu học mở ra khả
năng nhìn vào bề sâu của các đối tượng mà thoạt tiên rất khác biệt. Do vậy, so
sánh văn học từ ký hiệu học sẽ giúp tránh cái nhìn giản lược trên bề mặt, tìm
hiểu vấn đề ở bề sâu và hứa hẹn phát hiện những bản chất ngầm ẩn của hiện
tượng.
1.3. Người viết có cơ duyên làm việc với đối tượng từ luận văn thạc sĩ,
xuất phát từ một so sánh về cảm thức thời gian ở hai tác giả. Việc dấn bước
tiếp trên con đường đã hé lộ tia sáng dù nhỏ bé mong manh là một thôi thúc
3
thường trực của đam mê gắn liền với công việc của người nghiên cứu và
giảng dạy. Con đường ấy nhiều chông gai song cũng đầy vẫy gọi. Nhiều năm
đọc thơ chữ Hán, đọc và dịch sonnet, người viết cũng cảm thấy ký hiệu học là
một phương pháp khả hữu vì trước hết nó giúp người đọc thâm nhập vào văn
bản, độc lập với các yếu tố ngoài văn bản.
Trên đây là những lý do thúc đẩy chúng tôi chọn “Thơ chữ Hán
Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare từ góc nhìn ký hiệu học văn hóa” làm
đề tài cho luận án của mình.
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du
Nguyễn Du là đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Tác
phẩm của ông (chủ yếu là “Truyện Kiều”) đã được dịch ra nhiều thứ tiếng. Ở
Việt Nam, tuy chưa có ngành “Kiều học” hay “Nguyễn Du học” như
“Shakespeare học” ở Anh, song sự quan tâm đến Nguyễn Du hầu như chưa
bao giờ giảm sút, biểu hiện cụ thể của điều này là các hội thảo khoa học về
Nguyễn Du, các luận văn, luận án về Nguyễn Du vẫn tiếp tục đều đều xuất
hiện qua các năm. Song một thực tế cần phải thừa nhận là có sự chênh lệch rất
lớn về số lượng, chất lượng các công trình nghiên cứu thơ chữ Hán so với
“Truyện Kiều”. Nếu theo đúng nhận định của Mai Quốc Liên trong lời giới
thiệu “Nguyễn Du toàn tập, tập 1”: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du là những áng
văn chương nghệ thuật trác tuyệt, ẩn chứa một tiềm năng vô tận về ý nghĩa.
Nó mới lạ và độc đáo trong một nghìn năm thơ chữ Hán của ông cha ta đã
đành, mà cũng độc đáo so với thơ chữ Hán của Trung Quốc”* thì sự chênh
lệch này rõ ràng là một khiếm khuyết cần phải khắc phục. Về các nguyên
* Lời nói đầu của Mai Quốc Liên trong “Nguyễn Du toàn tập, tập 1 – Thơ chữ Hán, NXB Văn học, 1996,
trang 7”.
nhân dẫn đến thực tế này, chúng tôi sẽ bàn đến trong một bài viết khác, ở đây
4
chỉ ghi nhận điều này trước khi đi vào cụ thể các nghiên cứu về thơ chữ Hán.
Để thuận tiện cho việc tìm hiểu, chúng tôi phân tài liệu về thơ chữ Hán
Nguyễn Du làm 2 dạng: dạng tài liệu phân tích một vấn đề trong sáng tác
Nguyễn Du nói chung hoặc nói về các vấn đề khác nhưng có đề cập đến thơ
chữ Hán; dạng tài liệu lấy thơ chữ Hán làm đối tượng nghiên cứu chính.
Dạng tài liệu phân tích một vấn đề trong sáng tác Nguyễn Du nói
chung hoặc nói về các vấn đề khác nhưng có nhắc đến thơ chữ Hán
Về dạng tài liệu thứ nhất này, ý kiến đầu tiên có thể kể đến là của
Nguyễn Đăng Thục trong cuốn Thế giới thi ca Nguyễn Du. Tác giả đã gợi lại
không khí xã hội thời Lê mạt Nguyễn sơ qua các dẫn chứng lấy từ Hoàng Lê
nhất thống chí, từ đó phân tích tâm hồn Nguyễn Du thể hiện qua các sáng tác
của ông. Khi nhắc đến thơ chữ Hán, tác giả chủ yếu gắn nó với tâm Thiền như
một biện pháp giải thoát của nhà thơ khỏi tình cảnh bế tắc. Đây cũng là một
cách tiếp cận khá lạ so với đương thời, và bằng các nhận định của mình,
Nguyễn Đăng Thục cũng phần nào hé lộ tư tưởng văn hóa trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du.
Trong “Chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du”, Đỗ Đức Dục khi tìm
hiểu tuyên ngôn sáng tác của Nguyễn Du đã đặt ra vấn đề “để xác định được
đầy đủ thế giới quan của nhà thơ, cần phải xem xét toàn bộ tác phẩm của
ông, tức là cả thơ chữ Hán và “Văn tế chiêu hồn”, trong đó tập thơ “Bắc
hành tạp lục” có một vị trí đặc biệt quan trọng”*. Tìm hiểu “Truyện Kiều” và
thơ chữ Hán, ông chỉ ra “…có thể xem Nguyễn Du như người mở đầu cho chủ
nghĩa hiện thực trong văn học Việt Nam. Chủ nghĩa hiện thực ở bước đầu đó
còn có những hạn chế và mang những đặc thù do điều kiện xã hội – lịch sử và
do thế giới quan của bản thân nhà thơ: nó chưa hoàn toàn thoát ra khỏi ràng
* Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội, trang 57.
buộc của mĩ học phong kiến, nó chưa đạt tới điển hình xã hội mà mới dừng
5
lại ở điển hình tâm lí, nó cũng chịu ảnh hưởng phong cách chung của thời đại
là phong cách trữ tình. Cho nên có thể gọi đó là chủ nghĩa hiện thực tâm lí –
trữ tình tạo nên cái âm hưởng chủ đạo cho cả nền văn học đương thời”*. Tác
giả chú ý đến các thay đổi trong tư tưởng Nguyễn Du qua các tập thơ chữ Hán
“…rõ ràng có sự khác biệt giữa hai tập đầu là “Thanh hiên thi tập”, “Nam
trung tạp ngâm” với tập cuối là “Bắc hành tạp lục”. Trong hai tập trên, nói
chung, hầu hết chỉ là những bài thơ trữ tình nói lên tâm sự riêng của Nguyễn
Du trong cảnh đầu bạc, ốm đau, lưu lạc, xa anh em, nhớ quê hương, và nhất
là cái tâm tư u uất khôn nguôi của nhà thơ, của một con người có tài năng mà
cảm thấy mình rất bất lực, không làm được việc gì cho đời. Chỉ đến “Bắc
hành tạp lục” mới xuất hiện rất nhiều bài thơ kí sự, hoặc nửa trữ tình nửa kí
sự trong đó Nguyễn Du nói lên dõng dạc, đanh thép ý kiến của mình phê
phán, đánh giá những nhân vật, sự kiện, những vấn đề chính trị, xã hội quá
khứ cũng như đương thời”†. Ông nhấn mạnh tư tưởng “tài mệnh tương đố” ở
Nguyễn Du, xem xét các tác phẩm của Nguyễn Du như một quá trình dưới tác
động của hiện thực. Vấn đề có hay không nên dùng thuật ngữ “chủ nghĩa hiện
thực” để gọi tên một xu hướng trong văn học trung đại còn gây nhiều tranh
luận, song tác giả cũng đã thể hiện một tinh thần làm việc nghiêm túc trong
thế đối thoại với những người nghiên cứu cùng thời và trước đó. Đây là một
điều đáng ghi nhận.
Trong cuốn Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài tử và văn hóa
Việt Nam, Trần Ngọc Vương xếp Nguyễn Du vào loại hình nhà Nho tài tử
cùng với Phạm Thái, Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Chu Mạnh Trinh, Tản
Đà… và lí giải sự xuất hiện của loại hình tác giả này trong một thời điểm đặc
biệt: cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX khi mọi thay đổi to lớn diễn ra trên
tất cả các phương diện: quan niệm văn học, tư tưởng thẩm mĩ, hệ thống chủ * Đỗ Đức Dục, tlđd, trang 104. † Đỗ Đức Dục, tlđd, trang 112.
6
đề đề tài, hình tượng văn học trung tâm, hệ thống thể loại, ngôn ngữ văn học.
Tác giả lấy Nguyễn Du (bên cạnh Cao Bá Quát) là điển hình tiêu biểu cho
kiểu “nhà nho coi văn chương (hiểu theo nghĩa sáng tác văn học) là sự
nghiệp chính của đời mình” (108 - 109). Ông có cách phân tích cụ thể, thấu
đáo “Tuy làm quan đến bậc đại thần, Nguyễn Du vốn xuất chính bằng một
chức quan võ nhỏ. Ông không có cái vinh quang đạt được bằng con đường
quen thuộc là đỗ đạt cao trong các kí thi, sự nghiệp cai trị, hoạn lộ cũng
không có thành tựu gì nổi bật. Không thấy ông trăn trở nhiều theo hướng
“kinh bang tế thế” hay “trí quân trạch dân”. Là “trai thời loạn” như những
chàng trai trẻ tuổi nhiều tham vọng của thời đại mình, ông cũng ít nhiều tự
vấn, tự thán về “chí làm trai” nhưng nổi bật hơn cả, rõ rệt hơn cả, ở ông, lại
là ý thức về tài năng văn chương và cùng với nó, là khả năng sống chết với tài
năng đó. Thơ chữ Hán của ông phản ánh khá rõ rệt điều đó”*. Trần Ngọc
Vương là người đi tiếp con đường của Trần Đình Hượu, đặt văn học Việt
Nam trong chỉnh thể văn hóa. Ông đã làm rõ một khái niệm do thầy mình đặt
ra – khái niệm “nhà Nho tài tử” và phần nào chứng minh đây là một hiện
tượng mang tính quy luật của cả vùng văn hóa Đông Á chịu ảnh hưởng Nho
giáo. Cách đặt vấn đề của ông rất thú vị và cho chúng tôi nhiều bài học kinh
nghiệm quý báu.
Trần Đình Sử trong cuốn Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, khi
nói về sự vận động, phát triển của con người trong thơ, đã xuất phát từ một
đặc điểm văn hóa của thời đại “đô thị phát triển, dù là đô thị theo kiểu
phương Đông, gắn với trung tâm chính trị và đời sống kinh tế nông nghiệp,
thì cũng tạo một môi trường cho ý thức thị dân phát triển, làm nảy sinh tư
* Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học – Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB GD, trang 110.
tưởng tự do, hưởng lạc. Đến lượt mình tư tưởng ấy lại làm thay đổi diện mạo
7
văn học”* từ đó lí giải sự thay đổi quan niệm về con người cá nhân. Tác giả
lấy Nguyễn Du làm một trường hợp tiêu biểu “…cùng với ý thức về quyền
sống, ý thức về số phận con người được nêu cao. Những nỗi buồn, nỗi oán
hận trong các số phận oan trái trở thành niềm day dứt, thổn thức của nhà thơ.
Nguyễn Du khóc nàng Tiểu Thanh, khóc ca nữ La Thành, khóc người đánh
đàn ở Thăng Long… Cả mấy tập thơ chữ Hán của ông đều là tiếng khóc than
cho đời người bị phôi pha, tan nát, oan uổng”†. Các nhận định trên là những
gợi ý cho chúng tôi trong việc nghiên cứu Nguyễn Du từ góc nhìn văn hóa,
cần luôn đặt nhà thơ trong dòng chảy của văn học dân tộc có tính đến các đặc
điểm riêng biệt của từng thời kì.
Trong một đề tài khá hiếm phân tích Nguyễn Du từ cái nhìn so sánh,
luận án tiến sĩ Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về
tư tưởng nghệ thuật, tác giả Hoàng Trọng Quyền đã so sánh Nguyễn Du –
Đỗ Phủ trên các phương diện quan niệm sáng tác, cảm quan hiện thực, tư
tưởng nhân văn, cảm hứng chủ đạo để thấy “hành trình tư tưởng thơ của các
tác giả là con đường tiến đến bản chất hiện thực (…). Trong diễn tiến tư
tưởng nghệ thuật của các nhà thơ, các yếu tố tích cực của Nho, Phật, Lão có
những ảnh hưởng nhất định nhưng chính hiện thực cuộc đời mới là yếu tố
đóng vai trò quyết định”‡. Tác giả cũng lí giải về những điểm tương đồng và
về tư tưởng nghệ thuật của hai nhà thơ lớn này, có phần là do ảnh hưởng của
Đỗ Phủ đến Nguyễn Du, phần do tương đồng về thời đại, hoàn cảnh sống
cũng như khí chất “đồng thanh tương ứng”, “đồng bệnh tương liên” giữa hai
* Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 188. † Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB GD, trang 190.
‡ Hoàng Trọng Quyền (2005), Nguyễn Du và Đỗ Phủ - những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ
thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư phạm TPHCM, trang 201.
người. Các dẫn chứng dùng để phân tích phần lớn là thơ chữ Hán, song
8
Hoàng Trọng Quyền chủ yếu dùng bản dịch thơ. Do đặc trưng của đề tài, ông
không đối chiếu với nguyên tác và cũng ít quan tâm đến nghệ thuật ngôn từ
thơ.
Bên cạnh đó, có một dạng tài liệu thường lấy chất liệu từ thơ chữ Hán,
đó là các sách viết về tiểu sử Nguyễn Du. Dạng sách này thời gian gần đây có
xu hướng tăng lên. Các cuốn tuy viết đã lâu song viết kĩ và có nhiều giá trị
tham khảo, thường được nhiều người nhắc đến là “Nguyễn Du – người tình và
Nguyễn Du – tình người” của Bùi Văn Nguyên, “Nguyễn Du” của Nguyễn
Lộc. Các tác giả văn học trung đại Việt Nam, cho đến tận Tản Đà ở cuối thế
kỉ XIX, thường có ý thức phân biệt rất rõ hai mảng sáng tác của mình: một
loại được họ gọi là “văn chơi” và loại kia là “văn vị đời”, loại thứ nhất viết
bằng chữ Nôm và loại thứ hai viết bằng chữ Hán. Khi cần viết về những vấn
đề nôm na bình dị trong cuộc sống, họ chọn ngay chữ Nôm – thứ chữ viết dân
tộc mộc mạc, có thể biểu đạt trực tiếp suy nghĩ, tình cảm con người. Song khi
cần kí thác tâm sự, nói những vấn đề nghiêm túc, dường như thứ chữ Hán
trang trọng cùng các thể loại được quy định chặt chẽ mới giúp họ vừa thổ lộ
tâm tình, vừa khéo léo kín đáo giấu chúng đi dưới điệp trùng quy phạm, ước
lệ. Nguyễn Du cũng không nằm ngoài quy luật này, ông nói về “Truyện
Kiều”: “Lời quê chắp nhặt dông dài/ Mua vui cũng được một vài trống canh”,
song trong thơ chữ Hán ông lại rất chân thành thể hiện con người thật của
mình: con người hùng tâm tráng chí khi còn trẻ, con người đau đớn nỗi đau
thất bại, tuyệt vọng trong hành trình sống. Có lẽ thấu hiểu điều này, các nhà
nghiên cứu khi viết tiểu sử Nguyễn Du khi cần lấy dẫn chứng cho các dẫn dắt
của mình thuyết phục, có chiều sâu, họ đều sử dụng thơ chữ Hán để minh họa.
Điều này một lần nữa khẳng định mối quan hệ của thơ chữ Hán với các chặng
đường đời, các tâm sự sâu kín của nhà thơ. Cũng theo xu hướng nghiên cứu
văn chương gắn với tiểu sử này là luận văn thạc sĩ của Nguyễn Thị Thu Hà
9
“Nguyễn Du và con đường hoạn lộ qua thơ chữ Hán”. Tác giả lần theo con
đường làm quan của Nguyễn Du để tìm hiểu tâm sự của nhà thơ về thời thế,
về bản thân, về phận người. Tất nhiên, ta cần phân biệt giữa con người đời
thực với nhân vật trữ tình trong thơ, với hình tượng tác giả - người kể. Song
các tư liệu trên cũng đã cung cấp nhiều cứ liệu quan trọng giúp khớp nối các
yếu tố tiểu sử giúp hiểu đúng, hiểu sâu hơn văn bản.
Dạng tài liệu lấy thơ chữ Hán làm đối tượng nghiên cứu chính
Về dạng tài liệu thứ hai, chúng tôi lại chia ra các bài viết lẻ và các sách
chuyên luận. Về các bài viết, có thể kể đến: Thơ chữ Hán Nguyễn Du và tâm
sự của nhà thơ của Nguyễn Lộc, Tâm tình Nguyễn Du qua một số bài thơ
chữ Hán của Hoài Thanh, Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán của
Xuân Diệu, Nguyễn Du và thế giới nhân vật của ông trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Huệ Chi, Tâm sự của Nguyễn Du qua thơ chữ Hán của Trương
Chính, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Du trong
những bài thơ chữ Hán của Đào Xuân Quý, Thơ chữ Hán Nguyễn Du của
Mai Quốc Liên… Các bài viết đều đưa ra những nhận định khái quát về thơ
chữ Hán Nguyễn Du, khẳng định bên cạnh Truyện Kiều, thơ chữ Hán là một
cứ liệu quan trọng nếu muốn thực sự đi sâu vào thế giới tâm hồn, thấu hiểu
những suy tư kín đáo của Nguyễn Du. Các tác giả đã phần nào chỉ ra, lí giải
thực chất cái gọi là “tâm sự hoài Lê” cùng thái độ chính trị phức tạp trong thơ
cụ Nguyễn Tiên Điền. Dù có khi bất đồng ở chỗ này chỗ khác, các ý kiến trên
thống nhất với nhau ở một điểm: khẳng định giá trị hiện thực, nhân đạo cùng
nét đặc sắc về mặt nghệ thuật của thơ chữ Hán, xem đây như một kho báu còn
chưa được khai thác hết và vẫn hứa hẹn những điều bất ngờ.
Hai vấn đề đặc biệt được các tác giả quan tâm gồm thứ nhất là cái tôi
trữ tình của nhà thơ và thứ hai là các nhân vật được miêu tả trong thơ chữ
Hán. Cả hai đối tượng này lại được các nhà nghiên cứu soi chiếu trong mối
10
quan hệ với thời đại Nguyễn Du sống, thời mà theo Nguyễn Huệ Chi “là một
thời kì giằng co quyết liệt giữa nhiều xu thế chính trị khác nhau. Trong đời
sống tư tưởng của xã hội, từng mảng nhỏ của hệ thống giáo lí phong kiến cơ
hồ bị bung ra, bị lật xáo đến gốc, tạo nên không ít những cuộc khủng hoảng
tinh thần. Chiến thắng hiển hách của nông dân khởi nghĩa, rồi sự phục thù
của những thế lực phản động, sức vang dội của những yêu cầu tự do và công
lý rồi việc lập trở lại một trật tự phong kiến đen tối vào bậc nhất… Tất cả
những điều trái ngược đó khiến cho không khí thời đại càng thêm phức tạp,
với những màu sắc phấn khởi và tuyệt vọng, lạc quan và bi quan, lẫn lộn”*.
Các nhà nghiên cứu lưu tâm chỉ ra các kiểu nhân vật được Nguyễn Du miêu tả
trong thơ chữ Hán: người có tài có tình mà bất hạnh, người trung nghĩa bị
gian thần hãm hại, người dân nghèo khổ hạnh đáng thương… Có giá trị tham
khảo đối với chúng tôi hơn cả là các khía cạnh trong con người Nguyễn Du
qua thơ chữ Hán. Theo Nguyễn Huệ Chi, “Nguyễn Du không phải con người
hành động mà là con người tư tưởng”† còn theo Xuân Diệu “Tập thơ chữ Hán
đựng đầy cái uất ức của Tố Như; như trên tôi đã nói: thơ trong này để lại
cảm giác chung một buổi chiều thu tê tái. Buổi chiều đó là xã hội phong kiến
ở Việt Nam, ở Trung Quốc, phản ánh trong tâm hồn Nguyễn Du”‡. Trương
Chính thì nhấn mạnh sự phức tạp trong tâm sự Nguyễn Du và đề xuất phải
xem xét tâm sự ấy từ nhiều khía cạnh, nhất là từ thơ chữ Hán.
Ngoài ra có một số bài thơ chữ Hán của Nguyễn Du trở thành đối tượng
được quan tâm trong các nghiên cứu phê bình, bình luận như các bài “Sở kiến
hành”, “Long Thành cầm giả ca”, “Phản chiêu hồn”, “Độc Tiểu Thanh kí”…
* Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn và giới thiệu (1992), Nguyễn Du, NXB Tổng hợp Khánh Hòa, trang 112. † Vũ Tiến Quỳnh, tlđd, trang 115. ‡ Nhiều tác giả (2011), Nguyễn Du tác phẩm và lời bình, NXB Văn học, Hà Nội, trang 177.
Các nhà nghiên cứu khi tìm hiểu các tác phẩm này thường nghiên cứu từ góc
11
độ cảm hứng sáng tác, chỉ ra lòng thương mình, thương người thương đời của
nhà thơ. Đặc biệt, riêng tác phẩm “Độc Tiểu Thanh kí” được nhiều nhà nghiên
cứu đánh giá là một trong các bài thơ chữ Hán hay nhất của Nguyễn Du.
Đáng chú ý là đã có nhiều người khám phá vẻ đẹp ngôn từ, chữ nghĩa, thể loại
của bài thơ này và có nhiều nhận xét có giá trị.
Về các sách chuyên luận, có thể nói đến thời điểm hiện tại, công trình
công phu, chi tiết về các khía cạnh nghệ thuật thơ chữ Hán phải kể đến là luận
án tiến sĩ Ngữ Văn của Lê Thu Yến: Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Nguyễn Du. Trên cơ sở xử lí những vấn đề liên quan đến văn bản thơ, tác giả
xem xét thơ chữ Hán Nguyễn Du từ góc độ thi pháp trên các phương diện:
hình tượng nghệ thuật về con người, thời gian, không gian nghệ thuật, ngôn
ngữ. Tác giả, qua quá trình khái quát nghệ thuật đã đi đến định danh các kiểu
hình tượng con người trong thơ Nguyễn Du theo những gì bộc lộ ra từ tâm
hồn họ: con người lãng mạn, con người lo âu, con người đau khổ; gọi tên các
kiểu thời gian: thời gian úa tàn, thời gian kí ức, thời gian khoảnh khắc; dựng
lại các mô hình không gian: không gian nhỏ hẹp, không gian rộng lớn. Trong
phần ngôn ngữ, tác giả phân tích các kiểu câu, các loại từ được sử dụng trong
thơ chữ Hán để thấy nét riêng của Nguyễn Du.
Công trình gần đây nhất về thơ chữ Hán là cuốn Đọc và dịch thơ chữ
Hán của Thảo Nguyên. Bên cạnh các bài dịch thơ, tác giả cũng đưa ra một số
lời bình chú có phần nghiệp dư nhưng nếu chú ý ta sẽ thu được một vài suy
ngẫm thú vị.
Như vậy, ở Việt Nam, các công trình nghiên cứu về Nguyễn Du có thể
nói khá nhiều, song mối quan tâm chính của các tác giả là “Truyện Kiều”,
mối quan tâm dành cho thơ chữ Hán giữ vị trí khiêm tốn hơn. Trong các công
trình nghiên cứu về thơ chữ Hán, các tác giả chủ yếu nghiên cứu khía cạnh
nội dung rồi quy chiếu đến hiện thực huyền thoại hoặc theo lối miêu tả, phẩm
12
bình, cảm thán. Nghiên cứu thơ chữ Hán từ góc nhìn ngôn ngữ - kí hiệu học
hầu như rất hiếm. Đặc biệt, nhiều tác giả có xu hướng đồng nhất chủ thể trữ
tình – một hình tượng được sáng tạo bằng ngôn ngữ trong thơ và Nguyễn Du
với tư cách là một nhân vật lịch sử. Nhiều tác giả chủ yếu nhìn ngôn ngữ của
Nguyễn Du ở tầng thứ nhất là ngôn ngữ tự nhiên mà chưa đi sâu vào tổ chức
của nó ở tầng thứ hai với tư cách là ngôn ngữ thứ cấp, ngôn ngữ được mã hóa
nhiều lần, xếp chồng lên trên ngôn ngữ tự nhiên. Đây là điều mà chúng tôi sẽ
cố gắng thực hiện trong luận án.
2.2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu thơ sonnet Shakespeare
Chúng tôi cũng phân chia tài liệu về thơ sonnet Shakespeare thành hai
loại: tài liệu bằng tiếng Việt và tài liệu bằng tiếng Anh. Các tài liệu bằng tiếng
Việt rất ít ỏi và chủ yếu mang tính chất giới thiệu, nên chúng tôi cũng không
bàn đến vấn đề phương pháp. Riêng đối với mảng tài liệu bằng tiếng Anh, vì
khá phong phú và có nhiều bài viết chuyên sâu, chúng tôi cũng sẽ đề cập đến
hai vấn đề: nội dung văn hóa và phương pháp nghiên cứu sonnet Shakespeare.
Tài liệu bằng tiếng Việt
Sonnet là thể thơ rất phổ biến ở phương Tây nhưng ở Việt Nam, thể thơ
này chưa thực sự được biết đến một cách rộng rãi. Shakespeare nổi tiếng ở
Việt Nam từ cách đây hơn một thế kỉ, tuy nhiên người ta biết đến ông chủ yếu
với tư cách là nhà viết kịch. Đến nay hầu hết các tác phẩm kịch của ông đã
được dịch ra tiếng Việt, còn sonnet Shakespeare thì vẫn chưa có bản dịch
nghĩa nào mà chủ yếu là dịch thơ*. Tài liệu bằng tiếng Việt về thơ sonnet
Shakespeare do vậy càng hiếm hơn nữa. Tài liệu sớm nhất mà chúng tôi tìm
được là cuốn Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh của tác giả Đỗ Khánh
Hoan – Trưởng ban văn hóa Anh – Mĩ Đại học Văn khoa Sài Gòn, xuất bản
* Tuyển tập Shakespeare in năm 2006 cũng chỉ có kịch.
lần đầu năm 1971, được sửa chữa và in lần thứ hai năm 1974. Trong cuốn
13
sách này, tác giả đã phân tích quá trình lịch sử của ngôn ngữ Anh, nêu lên một
cách khá đầy đủ các hình thức thi ca Anh, trong đó có sonnet mà ông gọi là
thể “thập tứ hàng thi”. Khi nhận xét sơ bộ tiến trình phát triển của thể sonnet,
ông có nhiều nhận định đáng chú ý: “Thập tứ hàng thi (Anh) kiểu
Shakespeare và thập tứ hàng thi kiểu Milton là những biến đổi đầy tính cách
thí nghiệm đã được công nhận, bởi vì có nhiều bài thơ giá trị đã được sáng
tác theo khuôn khổ này; tuy nhiên, nếu không có Shakespeare và Milton chắc
uy tín của chúng chưa hẳn lộng lẫy như thế”*. Tác giả cũng khẳng định:
“Cũng như trong các kịch phẩm, qua tập thập tứ hàng thi gồm 154 bài,
Shakespeare tỏ ra hiểu cuộc đời, hiểu trái tim con người hơn ai hết. Thêm vào
đó ông đã sử dụng một thứ ngôn từ thật thi vị đơn giản nhưng trau chuốt.
Không kể 37 kịch phẩm bất hủ, riêng thi phẩm này đã đủ đưa Shakespeare lên
hàng thi hào của Anh quốc”†. Do giới hạn của một cuốn sách khái quát về
một đối tượng thuộc phạm vi rộng, tác giả không đưa ra dẫn chứng, cũng
không phân tích, song các nhận xét của ông đã giúp chúng tôi rất nhiều trong
bước đầu tìm hiểu sonnet Shakespeare. Tài liệu thứ hai có thể kể đến là cuốn
W. Secxpia thơ xônê chọn lọc của dịch giả Thái Bá Tân. Tác giả đã chọn
dịch 77 bài sonnet tiêu biểu của Shakespeare kèm theo lời giới thiệu nhiều
tâm huyết. Trong phần này, Thái Bá Tân có giới thiệu sơ bộ về hình thức, bố
cục và những yêu cầu nghiêm nhặt đã trở thành bắt buộc của thể sonnet cùng
quá trình phát triển của nó và đi vào sonnet Shakespeare : “Nhìn chung, mặc
dù chủ đề xen kẽ nhau khá phức tạp, đại khái ta có thể chia toàn tập 154 bài
xônê của Shakespeare thành hai phần lớn – một phần nói về người bạn, và
phần kia nói về người yêu. Cụ thể hơn, có thể chia thành từng nhóm như sau:
- Từ xônê 1 đến xônê 26: ca ngợi vẻ đẹp của bạn, thuyết phục bạn lấy
vợ, có con để truyền lại vẻ đẹp ấy cho các thế hệ sau * Đỗ Khánh Hoan (1974), Khái niệm về ngôn ngữ và thi pháp Anh, Nxb Ba Vì, trang 117. † Đỗ Khánh Hoan, tlđd, trang 119.
14
- Từ xônê 27 đến xônê 32: nỗi buồn xa cách
- Từ xônê 33 đến xônê 42: những nghi ngờ và rạn nứt đầu tiên trong
tình bạn
- Từ xônê 43 đến xônê 75: nỗi buồn và lo sợ
- Từ xônê 76 đến xônê 96: lòng ghen tuông và đố kị đối với các nhà thơ
khác
- Từ xônê 97 đến xônê 99: mùa đông của sự chia li
- Từ xônê 100 đến xônê 126: niềm vui của tình bạn được khôi phục
- Từ xônê 127 đến xônê 127 đến xônê 152: tình cảm mâu thuẫn của nhà
thơ đối với người yêu: “the Dark Lady”
- Hai bài 153 và 154 là hai xônê kết, ít liên quan đến toàn bộ “cốt
truyện”, chủ yếu phỏng theo các bài xônê cổ điển có trước”*. Nhà nghiên cứu
cũng chia sẻ những khó khăn trong quá trình đến với tác phẩm để thấy: “Cho
đến nay chưa hề có bản dịch thơ Sêxpia nào ra tiếng Việt, nghĩa là chúng ta
hoàn toàn chưa biết đến một Sêxpia khác cũng vĩ đại như Sêxpia kịch, đó là
Sêxpia thơ trữ tình. Nguyên nhân thì nhiều, nhưng có lẽ nguyên nhân cơ bản
nhất là ở chỗ dịch thơ xônê của Sêxpia rất khó, hầu như vượt ra ngoài khả
năng của người dịch, ngay cả những người dịch tài năng và kinh nghiệm.”†.
Có thể nói trong tình hình tư liệu tiếng Việt còn ít ỏi, cuốn sách của Thái Bá
Tân cùng các bản dịch thơ của ông là một nỗ lực đáng quý đưa thơ sonnet đến
với độc giả Việt Nam.
Tài liệu bằng tiếng Anh
Đối với dạng tài liệu này, chúng tôi cũng chia thành hai dạng: các bài
viết lẻ đăng trên tạp chí và các sách chuyên khảo.
Về dạng tài liệu thứ nhất, chúng tôi thu thập từ hai nguồn: tạp chí
chuyên về Shakespeare của “Hiệp hội Shakespeare Anh” (the British * Thái Bá Tân (dịch) (1995), W. Sexpia – Thơ xônê chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội, trang 14-15. † Thái Bá Tân, tlđd, trang 17.
15
Shakespeare Association*) và tuyển tập phê bình sonnet Shakespeare qua các
thời đại do James Schiffer biên tập. Theo đó, các tác giả chú ý đến một số vấn
đề sau:
Một là trình tự sắp xếp các bài sonnet. Đây là nội dung chính trong bài
viết của Cathy Shrank đăng trên tạp chí Shakespeare tập 5, số 3 năm 2009.
Thơ sonnet Shakespeare lần đầu được xuất bản năm 1609 tại Luân Đôn dưới
tên là “SHAKE-SPEARES SONNETS”, bìa sách ghi “chưa từng được in trước
đó”, bên trong là 154 bài thơ theo trình tự từ sonnet 1 đến sonnet 154. Nhưng
vào năm 1640, John Benson xuất bản một cuốn sách dưới cái tên
“Shakespeare’s Poems”, ông đã sắp xếp lại các bài sonnet (nhập nhiều bài
thành các bài thơ dài hơn), thêm vào các tiêu đề mô tả và công bố cùng cùng
với các bài thơ không được xem là do Shakespeare viết, ở phần phụ lục ông
còn thêm vào các bài thơ mà ông viết là “do các quý ông khác viết” bao gồm
các bài thơ của Ben Jonson, John Milton, Francis Beaumont và Robert
Herrick. Cuốn sách đã bị rất nhiều người chỉ trích là cắt xén, sửa đổi nguyên
tác và bị cho là không có giá trị. Nhưng theo Cathy Shrank, nhiều người đã
chưa đánh giá đúng được giá trị của cuốn sách này. Cathy Shrank cho rằng
thực ra cuốn sách là “một cách đọc sonnet Shakespeare”. Các nhà kí hiệu học
Tartu – Moscow khi nghiên cứu văn bản từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa rất
quan tâm đến một khái niệm mà họ gọi là “khung” của tác phẩm. Nó liên
quan đến bìa sách, lời đề tựa, phần mở đầu và phần kết thúc…, cho nên sự sắp
xếp các yếu tố trong văn bản cũng là một vấn đề rất quan trọng. Khi chọn
* “Hiệp hội Shakespeare Anh” – tên viết tắt BSA, được thành lập năm 2002, là một hiệp hội chuyên nghiệp,
một tổ chức tự nguyện cống hiến cho việc học tập, thực hành và thưởng thức Shakespeare trên toàn lãnh thổ
nước Anh. Hiệp hội có một tập san chuyên ngành - được đánh giá là tập san hàng đầu trong lĩnh vực nghiên
cứu về Shakespeare, số đầu tiên ra năm 2005, xuất bản online 4 lần 1 năm và ra bản in mỗi năm 1 lần. Các
bài viết về sonnet Shakespeare mà chúng tôi thu thập được chủ yếu là từ tập san chuyên ngành này.
nghiên cứu sonnet, đương nhiên chúng tôi chọn bản in đầu tiên được nhiều
16
người đồng thuận. Song cách nghĩ của Cathy Shrank cũng là một kiến giải
độc đáo, đưa ra nhiều gợi ý hay. Nó cũng cho thấy một thực tế: việc nghiên
cứu Shakespeare ở thời nào cũng có khả năng sinh ra các hiện tượng thú vị,
Shakespeare đã lôi cuốn các thế hệ, các nền văn hóa không thuộc về mình,
đến mức người ta gọi đó là “nghiên cứu văn hóa Shakespeare”
(Shakespearean cultural studies).
Vấn đề thứ hai cũng được các nhà nghiên cứu quan tâm là vấn đề
truyền thống trong các bài sonnet. Chữ “truyền thống” (tradition) ở đây bao
gồm cả truyền thống tư tưởng lẫn truyền thống văn chương. Sonnet
Shakespeare không tách rời thời đại Phục Hưng khi mà niềm tin vào thần
thánh, nhà thờ đang có nguy cơ đổ vỡ, các nhà tư tưởng, bên cạnh việc phục
hồi các giá trị của nền văn minh Hy Lạp, cũng đặt niềm tin sâu sắc vào con
người, vào tình yêu, vào tất cả những gì hiện hữu. Sonnet Shakespeare đồng
thời không tách rời hệ đề tài, lối biểu đạt của cội nguồn của nó – sonnet Ý
cùng các nhà sáng tác sonnet Anh đi trước. Chỉ có điều, đến ông, tất cả đều
đạt độ kết tinh. Và đây là một yếu tố bộc lộ khía cạnh văn hóa trong sonnet
Shakespeare. Vì văn hóa là kí ức cộng đồng bao gồm cả ý thức và vô thức, tác
phẩm là một thông điệp dồn nén trong nó các trầm tích văn hóa. Cũng giống
như con người không thể sống tiếp mà không có quá khứ, cái mới chỉ có thể
hình thành trên nền tảng của cái cũ.
Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn chú ý đến một số vấn đề khác như
vần, nhịp, nhạc tính của thơ* cùng các nhân vật bí ẩn “a young man” và “a
sensual woman” là đối tượng mà Shakespeare muốn gửi gắm, nhắn nhủ trong
* Sonnet từ Ý vào anh đã có nhiều thay đổi về vần, nhịp, bố cục để thích nghi với ngôn ngữ và đôi
tai thẩm âm của người Anh, trong đó Shakespeare là người có công lớn tạo nên phong cách riêng của sonnet
Anh. Cho nên, ông không phải người đầu tiên viết sonnet theo kiểu Anh, nhưng sau này người ta vẫn gọi
sonnet Anh là sonnet kiểu Shakespeare để phân biệt với sonnet theo kiểu Ý.
các bài thơ của mình. Đặc biệt, vấn đề được xem như hiện tượng văn hóa thời
17
đại – vấn đề đồng tính luyến ái trong sonnet cũng được các nhà nghiên cứu
quan tâm.
Bên cạnh đó là rất nhiều các nghiên cứu chỉ quan tâm riêng đến một bài
sonnet nào đó, tập trung khám phá giá trị nghệ thuật, nội dung của nó. Theo
Harold Bloom, ba bài sonnet có vị trí then chốt trong sonnet Shakespeare là
sonnet 3, sonnet 64 và sonnet 116. Còn các bài sonnet hay được nhắc đến nhất
là sonnet 20, sonnet 134, sonnet 135, sonnet 136.
Về dạng tài liệu thứ hai, các tác giả khi viết chuyên luận về sonnet
Shakespeare thường có hai xu hướng: phân tích sonnet theo chủ đề và đi chi
tiết cụ thể từng bài. Tiêu biểu cho xu hướng thứ nhất là Dympna Callaghan,
Michael Schoenfeldt cùng một số người khác; tiêu biểu cho hướng thứ hai là
Helend Vendler. Trong cuốn “Shakespeare’s Sonnets”, Dympna Callaghan,
như ông tự bộc bạch, tập trung vào văn bản tác phẩm hơn là các vấn đề xung
quanh tác giả. Ông đặc biệt chú ý đến các vấn đề nổi trội trong sonnet như
“cái đẹp”, “tình yêu” và “thời gian”. Ông cũng có ý thức đi tìm khuôn mẫu
của các nhân vật được miêu tả trong tác phẩm ở các hình mẫu thời đại, nằm
trong truyền thống văn hóa phương Tây và so sánh Shakespeare với các nhà
thơ trước đó, đặc biệt là Petrarch. Nói chung, đây là một cuốn sách dễ đọc,
cung cấp cho người đọc các kiến thức chung nhất về sonnet, nó được xem là
cuốn sách nhập môn khi muốn bước vào thế giới sonnet Shakespeare. Trong
cuốn sách biên soạn, tập hợp các bài phê bình nghiên cứu của các học giả qua
nhiều thời đại*, Michel Schoenfeldt cũng cùng quan điểm với Callaghan,
nhóm các bài viết thành các vấn đề, theo đó cuốn sách được chia làm 6 phần:
phần 1 tập hợp các bài viết về hình thức, cấu trúc sắp xếp các bài sonnet, phần
2 bàn về mối quan hệ giữa sonnet Shakespeare và sáng tác của các nhà thơ
* Chi tiết xin xem: “A Companion to Shakespeare’ Sonnets” (Michael Schoenfeldt).
trước ông, phần 3 nói về các lí thuyết biên tập và tiểu sử, phần 4 dành nói về
18
các bản chép tay và bản in sonnet qua quá trình lịch sử, phần 5, 6 và phần 7
dành nói về ba chủ đề chính trong sonnet: các mô hình của ham muốn, ý niệm
về bóng tối, kí ức trong sonnet. Các phần còn lại nói về mối quan hệ của
sonnet Shakespeare với các vở kịch và trường ca khác của ông. Việc nhóm
các tác giả với cách viết, quan điểm khác nhau theo cùng một chủ đề của
người biên tập đã giúp chúng tôi rất nhiều trong việc có được cái nhìn đa
chiều về các vấn đề trong sonnet. Trong Shakespeare’s Sonnets, Tiến sĩ
James K. Lowers thuộc Đại học Hawaii có đưa ra những kiến giải về các vấn
đề cơ bản nhất của sonnet Shakespeare: thời điểm sáng tác (date of
composition); trật tự và cách sắp xếp (order and arangement); các nghi vấn
mang tính tự truyện (question of autobiography) liên quan tới các nhân vật
“the fair young man”, “the dark lady”, “the rival poet”; các chủ đề nổi trội
(dominant themes) và tập hợp các bài phê bình hay của các nhà nghiên cứu.
Tác giả xem ba trong số các chủ đề nổi trội của sonnet Shakespeare là sự bất
tử qua thế hệ sau (immortality through offspring), sự bất tử qua thơ ca
(immortality through verse), sự bất tử qua tình yêu (immortality through
love).
Công trình nghiên cứu công phu và kĩ lưỡng về thơ sonnet Shakespeare
được nhiều người nhắc đến là của Giáo sư Đại học Harvard Helen Vendler:
The Art of Shakespeare’s Sonnets. Trong cuốn sách này, bằng việc diễn giải
chi tiết 154 bài sonnet của Shakespeare, nhà nghiên cứu đã chỉ ra những hình
tượng được ẩn giấu và đặc điểm phong cách các bài thơ, nêu lên được những
tầng nghĩa quan trọng trong mỗi dòng thơ cũng như cách các phần kết hợp với
nhau để tạo ra ý nghĩa. Trước khi đi vào từng bài thơ, tác giả cũng dành một
phần giới thiệu kĩ lưỡng về cấu trúc, giọng điệu của sonnet, về Shakespeare
như một người kể chuyện, một nhà thơ. Phương pháp của Helend Vendler khá
đa dạng, song chủ yếu là phương pháp phân tích ngôn ngữ học của chủ nghĩa
19
cấu trúc. Đây là một cuốn sách khó đọc song rất lí thú và có giá trị về phương
pháp luận.
Chúng tôi đặc biệt quan tâm đến các nghiên cứu về sonnet từ góc nhìn
kí hiệu học.
Các nghiên cứu về sonnet từ góc nhìn ký hiệu học
Trong bài viết “Sound and Meaning in Shakespeare’s Sonnets”*,
Shapiro đặt ra vấn đề thơ Shakespeare đầy những sự trùng điệp âm thanh và
chơi chữ, song câu hỏi về mối quan hệ giữa âm và nghĩa trong sonnet thì vẫn
chưa được trả lời, một phần vì chưa có một phương pháp để chỉ ra được là có
sự tương ứng như thế tồn tại. Ông dựa vào sự phân biệt giữa các chuỗi âm
sonorant và obstruent†, cho rằng trong sonnet Shakespeare chúng tương ứng
với các ý nghĩa chỉ sự tự do và ràng buộc, và khẳng định mối quan hệ giữa âm
và nghĩa vì thế mang tính hình hiệu. Ông nhận định, trong số các tác phẩm
của Shakespeare, ngoại trừ Hamlet, sonnet là tác phẩm được bàn đến nhiều
nhất, song chưa có tác phẩm nào trả lời được cho câu hỏi: liệu âm có phải là
tiếng vọng của nghĩa hay không. Ông dẫn ra một vài nghiên cứu và chỉ ra các
tác giả chưa chứng minh được sự song hành về âm có vai trò gì trong việc
kiến tạo ý nghĩa mà theo các phân tích trước đó, nó chỉ như một thứ trang sức
cho lời thơ hoặc phục vụ cho các hình thức song hành về cú pháp và ý nghĩa.
Tác giả bỏ qua nguyên âm vì các nguyên âm đương nhiên vang và mở, sau
nguyên âm là đến các sonorant và sau đó mới đến các obstruent. Bằng cách
đếm số đơn vị sonorant (SUs) trong bài thơ rồi chia cho tổng số âm tiết, tác
* Michael Shapiro (1998), Sound and Meaning in Shakespeare’s Sonnets, Linguistic Society of America, Vol. 74, No. 1 (Mar., 1998), pp. 81-103. Nguồn: https://www.jstor.org. † Trong bài viết, Shapiro cũng chú thích: sonorants bao gồm các âm mũi (được thể hiện bằng các chữ cái: m,
n, ng); âm nước ( được thể hiện bằng chữ cái r) và các âm lướt (được thể hiện bằng các chữ cái h, y, w); còn
obstruents bao gồm các phụ âm còn lại, là các phụ âm đúng nghĩa.
giả tìm được thương số thanh tính (sonority quotient - SQ) của tác phẩm.
20
Theo đó, những bài thơ có chỉ số SQ trên 0,300 có tính kêu vang và tính mở.
Gắn với nó là sức mạnh tự do, không rang buộc. Ông chứng minh điều này
bằng sonnet 55, một bài thơ có tỉ lệ SQ cao. Ngược lại, những bài có tỉ lệ
obstruents cao thì có nội dung gắn với sự chế định, ràng buộc, mất tự do. Ông
cũng chứng minh bằng sonnet 33 và 34. Tuy nhiên, trong chương 5 cuốn “Art,
Culture and the Semiotics of Meaning”*, ở chương 5 – phần bàn về kí hiệu
học thơ ca, “The Semiotics of Poetry: that a Poem Mat Mean and Be”,
Jackson Barry đặt ra nghi vấn: liệu mối quan hệ giữa âm và nghĩa có thực sự
là quan hệ hình hiệu? Theo ông, để điều này có thể xảy ra, cần có hai điều
kiện: thứ nhất là thanh tính được nhận ra, có thể chỉ vô thức, nhưng chắc chắn
là có tự trong bản thân nó đặc tính mở của cơ quan phát âm đã tạo ra nó. Thứ
hai, cảm giác vật lý của các âm mở cần nghe có vẻ như là mở. Tuy nhiên ngay
cả khi có quan hệ hình hiệu giữa một đặc trưng vật lý của cái biểu đạt và bản
chất trừu tượng của một trạng thái cảm xúc, thì sự phù hợp này vốn không
dựa trên đặc trưng của âm mà dựa trên việc tạo ra âm đó, lại có vẻ không triển
vọng. Ông phản bác bằng một ví dụ cụ thể. Theo Shapiro, chỉ số SQ của
sonnet 4 là 0.086, là thương số thanh tính thấp nhất†, và theo ông, chỉ số này tỉ
lệ nghịch với nội dung tự do: bài thơ đầy dẫy các hình ảnh về tiền bạc, cho
vay, quyền thừa kế… từ đó liên hệ đến chủ đề chính: sự giới hạn của kinh tế
lên tự do của con người. Tuy nhiên, sonnet 134, một bài thơ có chỉ số SQ là
0.207, dưới mức thanh tính trung bình song cao hơn sonnet 4, lại có nội dung
tăm tối và bế tắc hơn nhiều so với sonnet 4. Ông so sánh nội dung hai bài thơ
để chứng minh nhận định của mình. Từ đó ông chỉ ra: ít nhất trong cặp sonnet
này, chất liệu về ngữ âm mở hơn có vẻ như không có mối quan hệ hình hiệu
với nội dung về tự do và phóng khoáng hơn. Tóm lại Jackson Barry cho rằng
phân tích của Shapiro về âm và nghĩa trong sonnet Shakespeare sẽ gặp một * Jackson Barry (1999), “Art, Culture and the Semiotics of Meaning”, St. Martin’s Press, New York. † Cao nhất là sonnet 71, với chỉ số SQ là 0.393.
21
trở ngại vì khó mà cho rằng những âm nào đó có quan hệ hình hiệu với chủ đề
tự do vì các âm này được phát âm một cách tự do.Vậy là mối quan hệ giữa âm
và nghĩa trong thơ sonnet Shakespeare vẫn là vấn đề còn để ngỏ.
Trong cuốn “Art, Culture, and the Semiotics of Meaning – Culture’s
Changing Signs of Life in Poetry, Drama, Painting, and Sculpture”*, ở
chương 5, “The Semiotics of Poetry: That a Poem May Mean and Be”,
Jackson Barry bàn về kí hiệu học thơ ca và có bàn về vấn đề vần trong sonnet
4 của Shakespeare. Bỏ qua các câu hỏi về sự sinh sản, về việc nhận diện the
young man, Barry tập trung vào câu hỏi: liệu vần có nghĩa không, và ông hi
vọng mình có thể trả lời là có từ phương pháp của kí hiệu học. Vần có nghĩa
trên phương diện là, dù đôi khi không được chú ý một cách có ý thức, nó vẫn
có vai trò quan trọng đối với hiểu biết của chúng ta về ngôn ngữ và mối quan
hệ của ngôn ngữ với thế giới:
Unthrifty loveliness, why dost thou spend
Upon thyself thy beauty’s legacy?
Nature’s bequest gives nothing, but doth lend,
And, being frank, she lends to those are free.
Then, beauteous niggard, why dost thou abuse
The bounteous largess given thee to give?
Profitless usurer, why dost thou use
So great a sum of sums yet canst not live?
For having traffic with thyself alone,
Thou of thyself thy sweet self dost deceive.
Then how when nature calls thee to be gone,
What acceptable audit canst thou leave?
* Jackson Bary (1999), Art, Culture, and the Semiotics of Meaning – Culture’s Changing Signs of Life in Poetry, Drama, Painting, and Sculpture, Palgrave Macmillan, London, trang 57-75
Thy unused beauty must be tombed with thee,
22
Which usèd lives th' executor to be.
Tác giả khởi đầu bằng việc nhìn vào hình thức chuẩn của bài sonnet và
chỉ ra lớp nghĩa trên bề mặt: này chàng trai, đừng keo kiệt với di sản mà Tự
nhiên thừa kế cho anh. Trên phương diện chất liệu nội dung, ông cũng điểm
lại kiến thức về di sản hay tài sản thừa kế gắn với thời Phục Hưng phương
Tây: tài sản không chỉ là tiền mà thường là đất đai đi kèm với huyết thống,
dòng dõi, danh tiếng. Chất liệu ấy đi vào sonnet 4 trong hình thức của di sản
thừa kế từ Tự nhiên và hiện thực hóa trong phần thân của văn bản bằng các
thuật ngữ tài chính: tài sản thừa kế, người thi hành di chúc, giao dịch, cho
vay, người cho vay nặng lãi không có lãi… Ông cũng chỉ ra hàm ý của bài
sonnet là “Dụ ngôn những yến bạc” trong Kinh Thánh (The Parable of the
Talents – Matthew 25: 14-30)* mà thông điệp là người nào biết cách sử dụng
và khiến của cải sinh sôi là người đầy tớ trung thành nhất.
Tác giả cũng xem xét chất liệu của biểu hiện bằng cách nhìn vào lịch sử
tiếng Anh sơ kì cận đại từ thời điểm Shakespeare cầm bút, 200 năm sau sự ra
đi của Chaucer, nhà thơ Trung cổ vĩ đại, khi những sự chơi chữ tạo ra tiếng
cười cho các khán giả thời Elizabeth. Jackson Barry tập trung vào ba khía
cạnh của sonnet 4: thứ nhất là mô thức của lập luận chia phần chính của bài
thơ thành hai tập hợp cú pháp: hỏi – trả lời; thứ hai là mô thức ngữ nghĩa
được tạo lập xung quanh các từ “use/abuse” và thứ ba là các giả định về năng
lực văn chương của Shakespeare. Và nội dung thứ hai chính là nội dung ông
phân tích nghĩa của vần. Tác giả cho rằng, nếu hình thức là có nghĩa, thì vần
cũng phải có nghĩa, dù hình thức này của chất liệu hầu như không có khả
năng vượt ra ngoài tính chất liệu của nó. Ông phân tích các từ hiệp vần “use”
và “abuse”, được nối với nhau bởi gốc từ “use” và được phân biệt bởi tiền tố * Câu chuyện kể về một ông chủ trước lúc đi xa nhà đã đưa cho ba người đầy tớ mỗi người một số tiền để trông coi cho đến khi ông trở về. Hai người làm số tiền sinh lời được khen thưởng và được giao thêm nhiều hơn, còn người đầy tớ chôn của cải xuống đất làm nó hư hao thì bị trách mắng, bị lấy lại số của đã được đưa và bị đuổi về nơi tăm tối.
23
“ab”, thiết lập một hệ thống hình thức khác biệt. Tất nhiên không chỉ riêng
thơ mới có cách sử dụng này, nhưng các tác phẩm được xem là thơ thường
cung cấp nhiều chất liệu cho các trò chơi như vậy hơn là các hình thức khác.
Có điều chắc chắn là sonnet 4 thu hút sự chú ý của độc giả vào khái niệm
use/abuse thông qua vị trí của nó – thuộc về chuỗi các bài sonnet sinh
sản.Trong nhóm các bài sonnet này, chàng trai trẻ được cổ vũ hãy sử dụng
(use) vẻ đẹp và cuộc sống thiên phú để duy trì của báu ấy cho thế hệ sau; thất
bại của anh trong việc làm này sẽ tạo ra sự lạm dụng (abuse) bị kết án là ích
kỉ, tự cao, ngoan cố và lãng phí. Nó có một hàm ý về tình dục, một dấu hiệu
của sự thủ dâm. Trong cặp vần use/abuse, hình thức của chất liệu, tức là sự
tương đồng và khác biệt của các âm được thể hiện rõ thông qua tiền tố phủ
định và từ gốc chung. Ông so sánh với cách sử dụng vần tương tự trong
sonnet 134:
The statute of thy beauty thou wilt take,
Thou usurer, that put’st forth all to use,
And sue a friend came debtor for my sake;
So him I lose through my unkind abuse.
Để thấy rằng, trên bề mặt, các từ hiệp vần là có thể thay thế cho nhau
trong hai bài thơ, song vì đặt trong các quan hệ cấu trúc khác nhau, tạo ra các
đối lập nghĩa khác nhau. Trong ngôn ngữ thông thường, đối lập use/abuse là
đối lập giữa cách hành xử tốt và xấu. Ở sonnet 4, nó không còn mang nghĩa
trên mà chỉ liên quan đến việc sử dụng tài sản, của cải. Đến sonnet 134, đó lại
là đối lập liên quan đến đạo đức: dù vẫn là đối lập xấu – tốt như trong ngôn
ngữ tự nhiên. Trong sonnet 4, use và abuse giới hạn ở trong bản ngã, đến
sonnet 134 đã mở rộng liên quan đến cả các đối tượng khác.
Như vậy là các vấn đề còn nghi vấn xung quanh sonnet (về thời điểm
sáng tác, về bố cục sắp xếp các bài thơ, về các nhân vật bí ẩn trong thơ…);
24
các chủ đề lớn (thời gian và sự chiến đấu với thời gian, vấn đề truyền thống,
đam mê và ý chí…), những nét nghệ thuật chủ yếu (vần, nhịp, nhạc điệu, cách
phát huy tối ưu thể loại…); các vấn đề văn hóa của thời đại (cuộc cải cách tôn
giáo, chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng, tư tưởng hoài nghi) dù chưa được giải
quyết triệt để song đều đã được các tác giả nhắc đến một cách rải rác. Các
phương pháp được sử dụng để nghiên cứu sonnet cũng khá đa dạng: từ khảo
cứu tiểu sử tới các phương pháp của chủ nghĩa cấu trúc và ngôn ngữ học. Đây
là một thuận lợi rất lớn cho chúng tôi trong quá trình thực hiện đề tài.
Tóm lại, qua quá trình tìm hiểu lịch sử vấn đề, chúng tôi nhận thấy: các
đề tài nghiên cứu riêng biệt thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet
Shakespeare khá phong phú song nghiên cứu so sánh thơ chữ Hán Nguyễn Du
và thơ sonnet Shakespeare từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa vẫn còn là một
mảnh đất trống.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ của luận án là so sánh thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet
Shakespeare từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa, vận dụng các phương pháp của
kí hiệu học để chỉ ra các lớp nghĩa tiềm ẩn trong văn bản thơ, so sánh để thấy
được nét chung và riêng của chúng.
4. Đối tượng, phạm vi và dữ liệu nghiên cứu
Đối tượng chính của luận án là 250 bài thơ chữ Hán Nguyễn Du và 154
bài thơ sonnet Shakespeare, tuy nhiên, ở phạm vi nghiên cứu cơ bản từ kí hiệu
học, chúng tôi chủ yếu tập trung vào chủ thể trữ tình. Lý do cụ thể cho điều
này sẽ được giải thích ở phần cơ sở lý luận. Về thơ chữ Hán Nguyễn Du,
Nguyễn Khắc Phi dịch (2006), “Bút pháp thơ ca Trung Quốc” và Ernest Fenollosa (1920), “The Chinese
Written Character as a Medium for Poetry”, in trong Ezra Pound (1920), “Instigation of Ezra Pound
Together with an Essay on The Chinese Written Character by Ernest Fenollosa”, nguồn:
người viết chủ yếu nghiên cứu trên nguyên bản thơ chữ Hán* có đối chiếu * Về giá trị kí hiệu học của chữ Hán trong thơ, có thể tham khảo thêm các phân tích của Francois Cheng,
25
trong hai cuốn: Thơ chữ Hán Nguyễn Du của nhóm Mai Quốc Liên, Nguyễn
Quảng Tuân* và bản của Lê Thước, Trương Chính. Người viết có tham khảo
bản dịch nghĩa của các tác giả đi trước song chủ yếu xem xét trên nguyên bản
để thấy được mối quan hệ của các yếu tố ngôn ngữ thứ cấp.
Về văn bản thơ sonnet Shakespeare, tôi chủ yếu dựa vào hai bản chú
giải được coi là uy tín nhất cho đến thời điểm hiện tại†: bản của Stephen
Booth‡ và của Helen Vendler. Về bản dịch thơ, một số là bản dịch của dịch
giả Thái Bá Tân, một số là của người viết§.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp chủ đạo được sử dụng trong luận án là phương pháp phân
tích văn bản của kí hiệu học trường phái châu Âu.
Phù hợp với đối tượng nghiên cứu là văn bản thơ, chúng tôi sử dụng
các khái niệm công cụ của kí hiệu học như: kí hiệu, cái biểu đạt, cái được biểu
phê phán nên cần thiết phải bàn thêm.
* Sở dĩ chúng tôi phải dùng thêm một văn bản đối chiếu khác vì bản của Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng
Tuân có một số sai sót như không thống nhất về chữ Hán và âm đọc trong một số bài thơ: phần chữ Hán của
bài “Quỷ môn quan” gắn nhầm sang phần phiên âm của bài “Giáp thành Mã Phục Ba miếu”, còn phần chữ
Hán của bài “Giáp thành Mã Phục Ba miếu” lại gắn nhầm với phần phiên âm của bài “Lạng thành đạo
trung”, phần chữ Hán của bài “Lạng thành đạo trung” lại gắn sang phiên âm của “Quỷ môn quan”… Ngoài ra
còn một số vấn đề khác về sự không trùng khớp giữa chữ Hán với phiên âm của một số chữ cụ thể gây bối rối
khi chúng tôi tra từ điển.
† Uy tín của hai cuốn sách chú giải được khẳng định bằng việc: hầu như tất cả các cuốn sách phân tích sonnet
đều nhắc đến hai tác giả trên, hầu như bài giảng của bất cứ một giáo sư nào cũng bắt đầu bằng việc khuyên
đọc hai cuốn sách trên, đặc biệt cuốn của Stephen Booth, cùng với cuốn “An Essay on Shakespeare’s
Sonnets” của ông, vốn được coi là kinh điển trong lịch sử nghiên cứu sonnet Shakespeare. Cũng giống như
bất kì một nhà ngôn ngữ học nào sau Saussure trước khi thao tác đều phải xác lập vị trí, quan điểm của mình
so với ông, bất kì một nhà nghiên cứu sonnet nào trước khi thao tác cũng phải xác lập vị trí của mình so với
Booth.
‡ Stephen Booth (1977), Shakespeare’s Sonnets, Yale University Press, New Haven and London.
§ Bản dịch của người viết được chú là NTM dịch.
đạt, chất liệu, hình thức, các quan hệ song hành để phân tích chủ yếu ở cấp độ http://www.gutenberg.org. Nhưng cách phân tích của Fenollosa cũng có điểm bị Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân
26
từ vựng. Chúng tôi không nhìn từ trên phương diện khái quát mà đi vào các
danh từ cụ thể xuất hiện với tần số lớn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ
sonnet Shakespeare. Điều này xuất phát từ một nguyên tắc tồn tại từ buổi sơ
khai của lịch sử nghiên cứu kí hiệu: những kí hiệu lặp đi lặp lại là dấu hiệu
đầu tiên người ta dựa vào để đi tìm chìa khóa mã*. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng
lại ở thống kê rồi kết luận ngay là không đủ, nhất lại là với văn bản nghệ
thuật, các yếu tố ngôn ngữ được mã hóa theo những cách hết sức phức tạp.
Cho nên, chúng tôi cố gắng đi tìm mối quan hệ của từ được lặp lại với các yếu
tố khác trong văn bản để chỉ ra nghĩa thứ cấp, cũng là những ý nghĩa xuyên
suốt trong văn bản.
Phương pháp cơ bản thứ hai được sử dụng trong luận án là phương
pháp so sánh loại hình, đươc áp dụng để nghiên cứu so sánh các đối tượng
vốn không có quan hệ trực tiếp về mặt lịch sử. Phương pháp này dựa trên
điểm tựa cơ bản là một số đặc trưng phổ quát trong kiểu tư duy và phương
thức biểu đạt của con người ở các nền văn hóa xa nhau về không gian địa lý
cũng như thời gian lịch sử.
6. Đóng góp mới của luận án
Luận án có một số đóng góp như sau:
Về mặt lý thuyết, luận án góp phần đưa ra các định hướng của việc
nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa, từ các vấn đề nguyên tắc đến các
thao tác cụ thể. Luận án cũng đóng góp vào giới thiệu lý thuyết về chủ thể -
vốn có một lịch sử lâu dài trong nghiên cứu xã hội nhân văn ở phương Tây
* Thời xưa, người ta giải mã bằng cách tính tỉ lệ chữ cái lặp lại trong một thông điệp được mã hóa, rồi so sánh
với tỉ lệ lặp lại của các chữ trong một văn bản thông thường để tìm ra chữ thay thế. Cho nên, với các nhà giải
mã, điều đầu tiên cần chú ý đến là các chữ cái lặp lại nhiều.
song lại chưa phổ biến ở Việt Nam.
27
Về mặt thực hành, luận án tập trung nghiên cứu so sánh thơ chữ Hán
Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa thể
xác với tinh thần từ góc nhìn chủ thể. Từ đó, luận án giúp nhìn một số vấn đề
vốn quen thuộc từ một góc độ mới, có thể bổ sung cho các góc nhìn đã có.
Các thao tác phân tích còn có giá trị về mặt phương pháp luận, các kết luận có
giá trị tham khảo đối với những người nghiên cứu tiếp sau.
7. Bố cục của luận án
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, luận án gồm có ba chương:
Chương 1: Ký hiệu học văn hóa với việc nghiên cứu chủ thể tính trong
văn học thuộc trào lưu nhân văn chủ nghĩa. Đây là chương có ý nghĩa phương
pháp luận, đặt nền móng cho việc nghiên cứu ở các chương sau. Trong
chương này, chúng tôi trình bày hai vấn đề chính: giới thiệu các khái niệm
then chốt của ký hiệu học, ký hiệu học văn hóa, từ đó đưa ra một vài định
hướng của việc nghiên cứu văn học từ ký hiệu học văn hóa; giới thiệu khái
niệm chủ thể cùng quan niệm về chủ thể trong văn học thời Nguyễn Du và
Shakespeare.
Chương 2 và chương 3 trình bày kết quả nghiên cứu văn bản cụ thể.
Chương 2 có tựa đề: Chủ thể nội quan: vấn đề thân xác. Đây là chương trong
đó người viết phân tích cách thức chủ thể tự hình dung về mình thông qua các
ký hiệu chỉ thân xác.
Chương 3: Chủ thể tương chiếu: những sức căng trong bản chất nhị
nguyên của con người. Chương này nghiên cứu sự trình hiện chủ thể thông
qua các ký hiệu ngoài thân – một hình thức chủ thể soi chiếu từ đó ta thấy
phần nào cách thức chủ thể nhìn nhận căn tính, ngã tính của mình.
28
CHƯƠNG I: KÝ HIỆU HỌC VĂN HÓA VỚI VIỆC NGHIÊN CỨU CHỦ THỂ TÍNH TRONG VĂN HỌC THUỘC TRÀO LƯU NHÂN VĂN CHỦ NGHĨA
1.1. Ký hiệu học và ký hiệu học văn hóa với việc nghiên cứu văn
học
Roland Barthes trong “Những huyền thoại” đã đặt ra vấn đề từ trước và
đồng thời với khi Saussure tiên đoán sự ra đời của kí hiệu học như một ngành
khoa học, các nghiên cứu của các ngành khác: phân tâm học, chủ nghĩa cấu
trúc, tâm lí học thực thể và phê bình mới đã và đang giải quyết các vấn đề của
kí hiệu học “Vả chăng khẳng định một ý nghĩa biểu đạt là tìm đến với kí hiệu
học”*. Tuy nhiên, kí hiệu học chỉ thực sự ra đời khi nó được định danh với đối
tượng, thuật ngữ, hệ phương pháp. Trước hết, có lẽ nên nói sơ lược về lịch sử
phát triển của kí hiệu học.
1.1.1. Ký hiệu học
1.1.1.1. Lược sử sự phát triển của ký hiệu học
Ký hiệu học (cách dùng phổ biến hiện nay là semiotics†) – khoa học về
các kí hiệu - đã có một lịch sử rất lâu dài. Thuật ngữ kí hiệu học có nguồn gốc
từ từ Hi Lạp “semeion” nghĩa là “kí hiệu” . Từ này lần đầu tiên được bác sĩ
Galen thời văn minh Hi Lạp (thế kỉ 2) sử dụng. Ông dùng từ ký hiệu để chỉ
cái bây giờ chúng ta gọi là triệu chứng – symptom (người Hi Lạp cổ đại chưa
biết tới ký hiệu học như một khoa học khái quát về các kí hiệu). Cũng có ý
kiến cho rằng khoa học kí hiệu đã manh nha từ các ý kiến của Platon và
* Roland Barthes, người dịch : Phùng Văn Tửu (2008), Những huyền thoại, NXB Tri thức, trang 292. † Người ta thường sử dụng hai thuật ngữ để gọi tên ngành học này: semiology và semiotics. Cách gọi
semiology xuất phát từ Ferdinand de Saussure, còn cách gọi semiotics xuất phát từ Charles Sanders Peirce.
Hiện nay, các nhà nghiên cứu đều sử dụng thuật ngữ semiotics.
Aristote về ngôn ngữ khi họ coi ngôn ngữ là “ký hiệu của quan niệm”. Các
29
nhà nghiên cứu đã tìm thấy, năm 1640, trong một công trình liên quan đến y
học của Henry Stubbes, thuật ngữ semiotics lần đầu xuất hiện. Năm 1690,
trong cuốn “An Essay concerning Human Understanding” (Luận về giác tính
con người), John Locke đã sử dụng từ này dưới dạng thức một thuật ngữ ngôn
ngữ học. Ông gọi nó là semiotika và định nghĩa là “học thuyết về kí hiệu ”
Thế kỉ XIX, trong Trường Đại học Tartu có bộ môn Kí hiệu học thuộc khoa Y
học.
Tuy nhiên, phải đến cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20, những nền tảng thực
sự cho việc ra đời ký hiệu học như một ngành khoa học nghiên cứu về các hệ
thống ký hiệu mới thực sự xuất hiện. Về điều này, lịch sử ghi công hai nhân
vật xuất chúng là Charles Sanders Peirce (1839 - 1914) – nhà triết học, nhà
toán học, nhà logic học người Mĩ và Ferdinand de Saussure (1857 - 1913) –
nhà ngôn ngữ học người Thụy Sĩ.
Trong cuốn sách học trò ghi lại các bài giảng của Saussure được xuất
bản sau khi ông mất, ở phần nói về vị trí của ngôn ngữ trong các sự kiện nhân
loại, có thể thấy Saussure đã dự báo về sự ra đời của kí hiệu học (Cao Xuân
Hạo dịch là “phù hiệu học”) như sau:
“Vậy có thể quan niệm một ngành khoa học nghiên cứu đời sống của
các dấu hiệu trong lòng sinh hoạt xã hội ; nó sẽ là một bộ phận của tâm lí học
xã hội, và do đó, của tâm lí học đại cương; chúng tôi sẽ gọi nó là phù hiệu
học (sémiologie – do từ Hy Lạp sẽmeion, “dấu hiệu”). Ngành học này sẽ cho
ta biết thế nào là dấu hiệu, nó tuân theo những quy luật nào. Vì hiện nay chưa
có ngành học đó, cho nên không thể nói rõ nó sẽ ra sao; nhưng nó có quyền
tồn tại; vị trí của nó đã được định sẵn từ trước. Ngôn ngữ học chỉ là một bộ
phận của ngành khoa học tổng quát này, những quy luật mà khoa phù hiệu
học phát hiện sẽ có thể áp dụng được cho ngôn ngữ học, và như vậy ngành
30
ngôn ngữ học sẽ được gắn liền vào một lĩnh vực được xác định rất rõ trong
toàn thể các sự kiện nhân loại”*
Saussure phân tích các nguyên nhân chủ quan và khách quan khiến
ngành học này chưa thể xuất hiện, ông thấy trước việc xem các sự kiện như
các dấu hiệu đặt trong hệ thống sẽ làm cho chúng hiện ra dưới ánh sáng mới.
Không chỉ có vậy, cũng trong cuốn sách này, Saussure đưa ra các khái
niệm, các quan điểm mà sau này sẽ trở thành những thuật ngữ chính yếu của
kí hiệu học: quan niệm về tính hai mặt của kí hiệu, quan niệm xem ngôn ngữ
là hệ thống cơ bản thiết yếu nhất trong các hệ thống kí hiệu, quan niệm về
nghiên cứu hệ thống với cách ranh giới, về trục đối vị và trục kết hợp...
Từ góc độ triết học, Peirce gắn kí hiệu học với logic học. Tư tưởng
trung tâm của Peirce là ý niệm kí hiệu học như một quá trình đối thoại. “Với
quan điểm của Peirce, logic học tồn tại một cách độc lập cả về mặt lí luận và
thực tiễn. Những nền tảng cơ bản của nó không phải là các chân lí đương
nhiên mà là những sự “xác định và phân loại” (Tuyển tập C. S. Peirce, tập 3,
mục 149) và những điều này rút cục đến từ bản chất và chức năng của các kí
hiệu. Kết quả là, logic có thể được nhìn nhận như một khoa học về các quy
luật chung cần thiết của các kí hiệu (Sđd, tập 2, mục 227). Logic, đó chính là,
khoa học về các kí hiệu”†.
Kể từ đó, kí hiệu học đã từng bước phát triển, hình thành hai trung tâm,
một ở Mỹ theo truyền thống của Peirce và các môn đệ của ông, gắn với các
tên tuổi: Charles W. Morris, N. Chomsky, T. A. Sebeok, M. Danesi, J. Dili;
* Ferdinand De Saussure, người dịch: Cao Xuân Hạo (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội. † Dẫn lại theo Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết, NXB Thế giới,
Hà Nội.
một trung tâm khác ở châu Âu theo truyền thống của Saussure và Hjelmslev.
31
Chúng tôi chủ yếu theo phương pháp của nhánh thứ hai này. Nhánh châu Âu
lại nổi bật lên hai trường phái ít nhiều có điểm khác biệt nhau: trường phái kí
hiệu học cấu trúc và hậu cấu trúc Pháp (còn gọi là trường phái Paris chịu ảnh
hưởng của Jakobson, A. Propp… gắn với tên tuổi Greimas) và trường phái
Tartu – Moscow (Nga) với chủ soái là Lotman, Uspenski, Torodov, Pjagorski,
Tinianov. Theo Lotman, sự khác biệt chủ yếu của hai trường phái này là ở
chỗ: một bên nghiên cứu kí hiệu học từ góc độ cấu trúc (ngôn ngữ) còn một
bên nghiên cứu kí hiệu học từ các văn bản cụ thể. Hướng thứ nhất sẽ dẫn đến
việc tạo ra siêu kí hiệu học, còn hướng thứ hai tất yếu dẫn đến việc hình thành
kí hiệu học văn hóa.
Roland Barthes (thời kì đầu) luôn lấy cấu trúc ngôn ngữ làm yếu tố
trung tâm. Ông thậm chí đã muốn đảo ngược quan điểm của Saussure: theo
Saussure, trong tương lai sẽ xuất hiện ngành kí hiệu học mà ngôn ngữ học chỉ
là một bộ phận của nó, còn theo Barthes, do tất cả mọi phương pháp đều bắt
nguồn từ ngôn ngữ học, kí hiệu học cũng chỉ là một bộ phận của ngôn ngữ
học.
Còn Lotman cho rằng bản chất của kí hiệu học là một môn khoa học
thực nghiệm, và các nhà nghiên cứu quan tâm hàng đầu đến việc phân tích
các chất liệu thực tế. Khái niệm trung tâm đối với ông là văn bản. Ông cùng
các đồng sự đã đưa ra các dẫn chứng thuyết phục để cho thấy sự hạn chế của
ngôn ngữ so với văn bản (lời nói) và đến lượt mình, lại đảo ngược mô hình
của Saussure: không phải ngôn ngữ sản sinh ra văn bản mà chính văn bản tạo
ra ngôn ngữ.
Tuy nhiên, dù theo khuynh hướng nào, kí hiệu học cũng đều gắn với lí
thuyết thông tin, giao tiếp.
Theo “Dictionary of Semiotics”(Từ điển kí hiệu học), vào khoảng hai,
ba thập kỉ cuối của thế kỉ 20, kí hiệu học, như một lí thuyết văn học đã khẳng
32
định được vị trí của nó. Hiện tại, ở châu Âu, kí hiệu học nằm trong chương
trình văn chương trung học và là một trong các lí thuyết phê bình. Hơn nữa, kí
hiệu học còn là một phần của diễn ngôn truyền thông trong phim ảnh và
quảng cáo trên toàn châu Âu. Tuy nhiên, cũng như Daniel Chandler, Bronwen
Martin khẳng định rằng trong khi nghiên cứu lí thuyết thuộc lĩnh vực này đã
có nhiều tiến bộ, song đối với nhiều người, ở nhiều khu vực (mà Việt Nam
không là ngoại lệ), thuật ngữ kí hiệu học vẫn còn là một thuật ngữ xa lạ, có
phần bí ẩn. Vì thế, chúng tôi thấy cần thiết phải giới thiệu sơ nét về các vấn đề
cơ bản của kí hiệu học, bao gồm phương pháp, đối tượng nghiên cứu, các
thuật ngữ kí hiệu học cùng một số phân ngành của kí hiệu học có liên quan
đến văn học.
1.1.1.2. Phương pháp, đối tượng nghiên cứu của kí hiệu học
Từ chỗ chỉ manh nha, kí hiệu học đã trở thành một ngành khoa học với
hệ thuật ngữ, phương pháp nghiên cứu riêng cùng khả năng ứng dụng rộng rãi
trong nhiều lĩnh vực.
Phương pháp chủ yếu của kí hiệu học là phương pháp phân tích văn
bản. Bronwen Martin đưa ra bốn nguyên tắc mà phương pháp phân tích kí
hiệu học đối với văn bản dựa vào như sau:
Thứ nhất, nghĩa không có sẵn trong các đối tượng, các đối tượng không
tự chúng có nghĩa. Đúng hơn, ý nghĩa được xây dựng bởi cái được biết đến
như là người quan sát giỏi, tức là bởi một chủ thể có khả năng đem đến hình
thức cho các đối tượng. Ví dụ: đứng trước một đồ dùng thuộc về một nền văn
hóa khác biệt, ví dụ thuộc một châu lục khác, chúng ta có thể có khả năng
không nắm được ý nghĩa của nó. Tuy nhiên, cũng với đồ vật đó, ta có thể cho
nó một ý nghĩa dựa vào hiểu biết ta có và phù hợp với mục đích của ta.
Thứ hai, kí hiệu học xem bất kì một văn bản nào như là một đơn vị tự
trị, nghĩa là nối kết tự bên trong. Những phân tích kí hiệu học bắt đầu bằng
33
việc nghiên cứu ngôn ngữ và cấu trúc thực tế của văn bản, chỉ ra ý nghĩa được
xây dựng như thế nào và tất nhiên đồng thời chỉ ra những ý nghĩa này là gì.
Vì thế phương pháp phân tích kí hiệu học trở thành một sự khám phá về
phương pháp và rõ ràng thành một công cụ có giá trị cho tất cả những người
đã tham gia vào nghiên cứu ban đầu.
Thứ ba, kí hiệu học cho rằng cấu trúc truyện kể nằm dưới các diễn
ngôn, chẳng hạn diễn ngôn chính trị, xã hội và luật pháp.
Thứ tư, kí hiệu học đặt ra khái niệm các cấp độ của ý nghĩa, cấp độ sâu
trừu tượng sinh ra cấp độ bề mặt. Vì thế, văn bản cần phải được nghiên cứu ở
các cấp độ sâu khác nhau này chứ không chỉ ở cấp độ bề mặt như ngôn ngữ
học truyền thống vẫn làm.
Theo Terence Hawkes, “Lĩnh vực kí hiệu học dĩ nhiên rất rộng lớn, bắt
đầu từ những nghiên cứu về hành vi giao tiếp của các loài động vật (kí hiệu
học động vật - zoosemiotics) tới những phân tích về các hệ thống kí hiệu biểu
tượng như giao tiếp thông qua điệu bộ cơ thể con người (kinesics và
proxemics), các kí hiệu khứu giác (“sự mã hóa” các mùi hương), lý thuyết mĩ
học và tu từ học”*. Cũng theo ông, “các ranh giới của nó (nếu có) đều có sự
giáp giới với những gì thuộc về thuyết cấu trúc” và ông đặt ra khả năng đưa
cả hai vào một lĩnh vực rộng lớn hơn: lĩnh vực giao tiếp. Tư tưởng của
Hawkes tiêu biểu cho kí hiệu học cấu trúc. Nhưng có thể thấy trong lịch sử kí
hiệu học, khuynh hướng nghiên cứu chuyển dần từ cấu trúc (ngôn ngữ) sang
* Đinh Hồng Hải (2014) dịch trong Nghiên cứu biểu tượng một số hướng tiếp cận lí thuyết, NXB Thế giới,
Hà Nội, trang 389.
lời nói.
34
Theo Lotman con*, đối tượng của kí hiệu học là ý nghĩa được biểu đạt,
kí hiệu học nghiên cứu “cơ cấu, ý nghĩa và hoạt động của các kí hiệu (các
bình diện tương ứng của các khoa học về các kí hiệu được gọi là cú pháp học,
ngữ nghĩa học và dụng học) chứ không nghiên cứu, ví như, các mối liên hệ
nhân quả giữa các đối tượng, các kí hiệu khác nhau, hoặc, ngay cả các kí
hiệu và các đối tượng. Khi nghiên cứu các kí hiệu, nhà kí hiệu học không
quan tâm tới các vấn đề thuộc loại như tại sao, mà quan tâm đặc biệt tới vấn
đề cái gì và như thế nào”†
1.1.2. Ký hiệu học văn hóa
Tên của luận án “Thơ sonnet Shakespeare và thơ chữ Hán Nguyễn Du
từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa” đã phần nào nói lên hướng đi của luận án:
theo các khuynh hướng lý thuyết của kí hiệu học châu Âu đi ra từ Saussure.
Không giống như kí hiệu học Mĩ nghiên cứu cả “kí hiệu học động vật”‡, xem
kí hiệu học văn hóa chỉ là một nhánh của kí hiệu học; các lý thuyết gia của kí
hiệu học châu Âu cho rằng: kí hiệu học chính là kí hiệu học văn hóa.
1.1.2.1. Quan niệm về kí hiệu học văn hóa của các nhà kí hiệu học
Tartu – Moscow trong thế đối sánh với các nhà kí hiệu học Tây Âu và Mĩ
Con trai Lotman, trong bài viết nêu lên các kiến thức cơ bản cần thiết
để hiểu lí thuyết của cha và những người cộng sự đã chỉ ra: “Trong các công
* Iu. M. Lotman có ba người con trai, trong đó có người con trai trưởng Lotman Mikhain Iurevich (sinh
1952) hiện là giáo sư kí hiệu học và nghiên cứu văn học tại Đại học Tallin. Để tránh nhầm lẫn giữa hai người,
chúng tôi gọi Lotman và Lotman con.
† M. IU. Lotman, người dịch: Lã Nguyên (2014), Kí hiệu học văn hóa ở trường phái kí hiệu học Tartu –
Moskva, nguồn: https://languyensp.wordpress.com/
‡ Về kí hiệu học Mĩ khởi đầu từ Charles Sanders Peirce, người viết hi vọng có thể giới thiệu trong một công
trình khác. Kí hiệu học Mĩ do xuất phát từ những nguyên tắc khác nên đi tới những cách tiếp cận hoàn toàn
khác.
trình nghiên cứu kí hiệu học vẫn tồn tại hai hướng phân tích văn hóa cơ bản.
35
Hướng thứ nhất gắn với truyền thống của Peirce và những công trình của các
môn đệ của ông, chủ yếu là cánh Bắc Mỹ. Hướng thứ hai, trước hết, hướng
tiêu biểu của những nhà nghiên cứu châu Âu, gắn với việc phát triển các tư
tưởng của F de Saussure”*. Các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow thừa hưởng
nhiều quan điểm từ Saussure tuy có nhiều điểm khác.
Thông thường, người ta cho rằng kí hiệu học văn hóa là sự ghép lại của
hai từ: kí hiệu học và văn hóa. Như trên đã nói, và theo Roland Posner “Kí
hiệu học nghiên cứu kí hiệu với các chức năng hoạt động của chúng trong các
quá trình kí hiệu† thuộc các hệ thống kí hiệu‡”§. Như vậy, trong cụm từ này,
kí hiệu học là phương pháp nghiên cứu, còn văn hóa là đối tượng nghiên cứu.
Thuật ngữ kí hiệu học văn hóa được sử dụng lần đầu bởi Ernst Cassirer (1923
- 1929) khi ông “mô tả một số loại hệ thống dấu hiệu là “các hình thái tượng
trưng” và tuyên bố rằng các hình thái tượng trưng của một xã hội tạo thành
nền văn hóa của nó”**. Theo Cassirer, Posner, kí hiệu học văn hóa là một
trong những tiểu môn của kí hiệu học, lấy văn hóa làm đối tượng nghiên cứu,
còn theo Peirce, kí hiệu học văn hóa đứng ở đâu đó giữa nhân chủng học văn
hóa, triết học văn hóa. Trong rất nhiều đối tượng nghiên cứu của kí hiệu học
có một đối tượng là văn hóa, và trong rất nhiều phương pháp để nghiên cứu
* M. IU. Lotman, người dịch: Lã Nguyên (2014), Kí hiệu học văn hóa ở trường phái kí hiệu học Tartu –
Moskva, nguồn: https://languyensp.wordpress.com/
† Quá trình kí hiệu (sign process, semiosis) được xem là quá trình trong đó các kí hiệu và người diễn giải kí
hiệu tham gia vào, bao gồm lập mã, truyền thông tin, giải mã…
‡ Hệ thống kí hiệu (sign system) là tập hợp những người diễn giải cùng với các kí hiệu và các thông điệp
được họ giải thích, cũng như các hoàn cảnh tiếp tục có liên quan đến việc giải thích.
§ Roland Posner (2004), Basic Tasks of Cultural Semiotics, In: Gloria Withalm and Josef Wallmannsberger
(eds.), Signs of Power – Power of Signs, Essays in Honor of Jeff Bernard. Vienna: INST, trang 1.
** Roland Posner, tlđd, trang 1.
văn hóa, có một phương pháp là kí hiệu học. Theo đó, “văn hóa không có vị
36
trí gì đặc biệt trong tương quan đối với kí hiệu học, mà kí hiệu học chẳng có
vị thế gì trong tương quan với văn hóa”*.
Các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow, một mặt, tiếp thu các quan niệm
của người đi trước, mặt khác, đối với kí hiệu học văn hóa, họ có một cái nhìn
độc đáo. Quả thật, “tiếp cận kí hiệu học văn hóa của nhóm này dẫn tới sự kết
hợp của ngôn ngữ học và lí thuyết mĩ học của trường phái Prague và các nhà
cấu trúc Nga, quan điểm nhân loại học truyền thống của văn hóa như là ứng
xử khuôn mẫu, mang tính giao tiếp và nhờ học tập đã tạo nên một truyền
thống được thừa kế”†, nhưng với họ, vấn đề không đơn giản như vậy. Kí hiệu
học văn hóa không hẳn là phép cộng của phương pháp kí hiệu học và chủ đề
văn hóa, kí hiệu học văn hóa không chỉ là một trong những nhánh của kí hiệu
học đứng chung với kí hiệu học ngôn ngữ, kí hiệu học xã hội, kí hiệu học sinh
học, kí hiệu học kinh tế… Theo họ, giữa kí hiệu học với văn hóa có mối quan
hệ chặt chẽ đến mức không thể chia tách. Điều này là hoàn toàn dễ hiểu khi ta
biết rằng các nhà kí hiệu học Tartu đi ra từ Saussure xem ngôn ngữ là hệ
thống kí hiệu nguyên khởi để từ đó các hệ thống khác (siêu kí hiệu, hệ thống
mô hình hóa thứ sinh) xếp chồng lên trên. Mà bản chất ngôn ngữ là sản phẩm
của văn hóa, là cách thức con người dùng các phạm trù quan niệm áp đặt lên
hiện thực khách quan. Hay nói cách khác, văn hóa được xây dựng trên nền
tảng của các kí hiệu (như ở phần sau chúng tôi sẽ chỉ ra, văn hóa là hệ thống
* M. IU. Lotman, người dịch: Lã Nguyên (2014), Kí hiệu học văn hóa ở trường phái kí hiệu học Tartu –
Moskva, nguồn: https://languyensp.wordpress.com/
† IU. M. Lotman, Ký hiệu học và mĩ học điện ảnh, người dịch: Bạch Bích, Erika Fischer-Lichte, người dịch:
Bùi Khởi Giang (1997), Ký hiệu học sân khấu, in trong Ký hiệu học nghệ thuật, Viện Nghệ thuật và lưu trữ
điện ảnh Việt Nam, Hà Nội, trang 103.
phân tầng các hệ thống kí hiệu, là sự chồng chất, tập hợp các hệ thống kí hiệu,
37
được hiện thực hóa bởi các văn bản). Cơ chế của văn hóa là bảo tồn các kí
hiệu và các văn bản, luân chuyển, tái tạo và sản sinh ra các kí hiệu, các thông
tin mới*. Việc bảo tồn sẽ quyết định kí ức văn hóa, mối liên hệ của nó với
truyền thống, việc luân chuyển, tái tạo đảm bảo hoạt động phiên dịch, hoạt
động giao tiếp trong nội bộ nền văn hóa và giao tiếp liên văn hóa, sự sản sinh
quyết định khả năng đổi mới và gắn kết với hoạt động sáng tạo đa dạng. Đây
chính là các chức năng kí hiệu học, nền tảng sinh ra các chức năng khác của
văn hóa. Hơn nữa, bản chất của kí hiệu học, như phần trên đã phân tích, là
khoa học nghiên cứu các hệ thống kí hiệu. Các hệ thống kí hiệu này (ngôn
ngữ, kí hiệu nhân tạo, hệ thống kí hiệu thứ sinh) là do văn hóa tạo ra.
Quả thực, kí hiệu học đã gắn chặt với văn hóa học, không chỉ có những
người thuộc trường phái Tartu – Moscow, mà cả các nhà kí hiệu học lớn sau
họ và hiện thời đều gắn những thành tựu của mình với nghiên cứu văn hóa:
Roland Barthes, Umberto Eco…
1.1.2.2. Những nhiệm vụ cơ bản của kí hiệu học văn hóa
Trong chuyên luận “Basic Tasks of Cultural Semiotics” (Những nhiệm
vụ cơ bản của kí hiệu học văn hóa), Roland Posner nhấn mạnh các nhiệm vụ
khác nhau của kí hiệu học văn hóa xuất phát từ Cassirer và Lotman. Theo
Cassirer, với tư cách là một trong những bộ môn thuộc về kí hiệu học, lấy văn
hóa làm đối tượng nghiên cứu, lấy kí hiệu học làm phương pháp nghiên cứu,
kí hiệu học văn hóa, thứ nhất: nghiên cứu xem các hệ thống kí hiệu trong một
nền văn hóa đã đóng góp gì vào nền văn hóa đó (từ văn hóa được dùng theo
nghĩa của Herder hoặc Tylor); thứ hai: nghiên cứu các nền văn hóa như các hệ
* Theo Lotman, văn hóa có ba chức năng: chức năng ghi nhớ (văn hóa là kí ức tập thể, là văn bản do vô số
văn bản tạo thành); chức năng giao tiếp (nghĩa là chức năng truyền đạt các văn bản theo những kênh thông
tin khác nhau) và chức năng sáng tạo( nghĩa là chức năng sáng tạo ra những văn bản mới).
thống kí hiệu liên quan đến các thuận lợi và khó khăn mà một cá nhân trải
38
nghiệm khi thuộc về một nền văn hóa cụ thể. Liên quan đến kí hiệu học văn
hóa gắn với khái niệm kí hiệu quyển của Lotman, theo Posner, kí hiệu học
văm hóa sẽ cung cấp cơ sở để trả lời cho một loạt các câu hỏi:
1 – Làm thế nào để phân biệt các kí hiệu, quá trình kí hiệu, hệ thống kí
hiệu của một nền văn hóa với các kí hiệu, quá trình kí hiệu và các hệ thống kí
hiệu không phải văn hóa (tức là, tự nhiên)?
2 – Làm thế nào những người diễn giải các kí hiệu văn hóa phân biệt
được các kí hiệu văn hóa với các kí hiệu của tự nhiên?
3 – Điều gì xác định bản sắc và ranh giới của một nền văn hóa?
4 – Trong kí hiệu quyển, các nền văn hóa khác nhau có mối quan hệ
với nhau như thế nào?
5 – Biến đổi văn hóa phát sinh như thế nào?*
Quan điểm về nhiệm vụ của kí hiệu học văn hóa không được viết tập
trung mà nằm rải rác trong các bài viết của các thành viên trường phái Tartu –
Moscow. Lotman trong bài viết “Kí hiệu học văn hóa và khái niệm văn bản”
đã nêu ra hai khuynh hướng trong sự phát triển của kí hiệu học, một khuynh
hướng theo đuổi các mô hình trừu tượng vì lấy ngôn ngữ làm trung tâm theo
quan điểm Saussure, tạo ra siêu kí hiệu học, khuynh hướng còn lại quan tâm
đến kí hiệu học của các văn bản thực tế, khuynh hướng này sẽ tạo ra kí hiệu
học văn hóa. Lotman cho nhiệm vụ của kí hiệu học văn hóa là “khảo sát sự
tương tác giữa các hệ thống kí hiệu có cấu trúc khác nhau, khám phá sự vênh
lệch, không đồng bộ tự bên trong của không gian kí hiệu học, nghiên cứu sự
* Chi tiết xin xem Roland Posner (2004), Basic Tasks of Cultural Semiotics, In: Gloria Withalm and Josef
Wallmannsberger (eds.), Signs of Power – Power of Signs, Essays in Honor of Jeff Bernard. Vienna: INST,
p. 56 – 89.
cần thiết phải hiểu biết nhiều ngôn ngữ văn hóa và kí hiệu học”.
39
Tóm lại mối quan tâm của kí hiệu học văn hóa xoay quanh kí hiệu, văn
bản và văn hóa. Khái niệm kí hiệu của các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow
xuất phát từ Saussure, nhưng họ đã đưa ra các quan niệm mới mẻ hơn hẳn về
văn bản và văn hóa như sau đây chúng tôi sẽ phân tích
1.1.2.3. Những phê phán dành cho kí hiệu học văn hóa
Phương pháp phân tích theo quan điểm kí hiệu học văn hóa đặt ra rất
nhiều khả năng cho việc nghiên cứu, đặc biệt khi các hướng nghiên cứu
đương đại đều gắn liền với văn hóa. Song nó cũng tồn tại nhiều vấn đề, đặt ra
nhiều dấu hỏi cần tiếp tục hoàn thiện. Thực ra, như Lotman, Umberto Eco và
nhiều nhà kí hiệu học khác thừa nhận, kí hiệu học và kí hiệu học văn hóa chưa
phải là một ngành khoa học đã hoàn tất, nó vẫn đang tiếp tục phát triển.
Thứ nhất: Quan điểm cho rằng ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu thứ nhất
cần phải được làm rõ hơn và chưa có nhiều người đồng tình. Người ta đặt ra
dấu hỏi liệu ngoài ngôn ngữ có thể có nền tảng nào khác hay không
Thứ hai, phân tích kí hiệu học nói chung, kí hiệu học văn hóa nói riêng
phụ thuộc nhiều vào năng lực phân tích cá nhân, vì vậy với tư cách là một
khoa học, nó phần nào mang tính chủ quan. Điều này lại dẫn đến một hệ quả
là các nhà kí hiệu học nhiều khi không hẳn thống nhất về phương pháp làm
việc. Hơn nữa, nó có quá nhiều biệt ngữ gây khó khăn cho người đọc, người
nghe. Đôi khi, nó gây cho người ta cảm giác khó chịu vì quá chú trọng vào
hình thức. Nó quá chú trọng vào “là gì” và “như thế nào” trong khi khoa học
nhân văn rất cần trả lời câu hỏi “tại sao”. Và vì quá chú trọng vào đồng đại,
nó xem nhẹ yếu tố lịch đại, xem nhẹ bản chất động lực của các quy ước trung
gian.
40
1.1.2.4. Quan niệm về văn hóa của kí hiệu học văn hóa
Vấn đề văn bản
Vì sao trước khi trình bày quan niệm về văn hóa theo phương pháp
nghiên cứu kí hiệu học văn hóa của trường phái Tartu – Moscow, chúng tôi
lại trình bày vấn đề văn bản. Đó là vì, các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow
xem văn bản là một khái niệm chìa khóa, là nhân tố đầu tiên hay là các đơn vị
có ý nghĩa nền tảng của văn hóa. Đóng góp chủ yếu của trường phái này và
đơn vị chủ yếu họ dựa vào để phân tích cũng chính là văn bản. Và từ đơn vị
nền tảng này, họ đưa ra các định nghĩa về văn hóa. Để tổng thuật về khái
niệm này, chúng tôi dựa chủ yếu vào bài viết của Lotman “Kí hiệu học văn
hóa và khái niệm văn bản” (bản dịch của Lã Nguyên, in trong “Lí luận văn
học những vấn đề hiện đại”, trang 117 - 122), các chương trong cuốn “Cấu
trúc văn bản nghệ thuật”*, chuyên luận của hai tác giả Irene Portis Winner,
Thomas G. Winner: “The Semiotics of Cultural Texts” (Kí hiệu học các văn
bản văn hóa) và bài viết của Goran Sonesson: “The Concept of Text in
Cultural Semiotics” (Khái niệm văn bản trong kí hiệu học văn hóa).
Khái niệm, đặc trưng của văn bản
Khái niệm văn bản (text) có một lịch sử phát triển lâu dài và nhiều nhà
nghiên cứu không thống nhất với nhau trong việc định nghĩa nó. Xuất phát
điểm của các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow khi nghiên cứu văn hóa là xem
văn hóa như là thông tin, văn hóa là một cơ chế kí hiệu học cho việc cung cấp
và lưu trữ thông tin. Theo đó, văn bản nói chung được hiểu là các dạng đặc
* Về cuốn sách này, ở Việt Nam hiện nay có hai bản dịch: bản của nhóm tác giả Trần Ngọc Vương – Trịnh
Bá Đĩnh – Nguyễn Thu Thủy và bản tập hợp một số chương song chưa đầy đủ của La Khắc Hòa. Tuy nhiên,
về mặt thuật ngữ hai bản trên đều có điểm chưa thống nhất, nên chúng tôi chủ yếu dựa vào bản tiếng Anh mà
theo chúng tôi là rõ ràng và dễ hiểu hơn, các thuật ngữ trong bản tiếng Anh cũng giúp chúng tôi nắm bắt các
vấn đề cơ bản nhanh hơn.
biệt của các thông điệp hay các nhóm thông điệp. Goran Sonesson nhận định
41
“Không dễ gì để tìm được một định nghĩa cô đọng về văn bản trong các bài
báo được viết bởi các thành viên của trường phái Tartu. Trong bài viết đầu
tiên, Lotman (1966) nói với chúng ta rằng “một văn bản là một thông điệp
được chia tách mà có thể dễ dàng nhận thức như là phân biệt với phi văn bản
hay văn bản khác”; “Một văn bản có bắt đầu, kết thúc, và tổ chức bên trong
nhất định”; và nó không phải là “một tập hợp vô định hình của các kí hiệu”*.
Trong “Cấu trúc văn bản nghệ thuật”, Lotman định nghĩa cụ thể hơn về văn
bản. Theo ông, văn bản là một đơn vị nghĩa với các đặc điểm: tính biểu đạt,
tính biệt lập và tính cấu trúc. Tính biểu đạt thể hiện ở chỗ văn bản thuộc về
lĩnh vực lời nói, được cố định hóa trong các kí hiệu xác định và hiện thực hóa,
vật chất hóa một hệ thống nào đó. Tính biệt lập nói lên bản chất của văn bản
hiện ra trong những ranh giới: ranh giới giữa bên trong với bên ngoài văn bản,
ranh giới giữa các thành phần trong cấu trúc phân tầng của văn bản. Các ranh
giới đó đảm bảo cho văn bản thực hiện chức năng văn hóa, truyền đạt một ý
nghĩa trọn vẹn và xác định nét riêng của văn bản (không phải đơn thuần là
dấu cộng của các kí hiệu hay các cấu trúc phân tầng). Tính cấu trúc gắn với
tính biệt lập của văn bản, thể hiện ở chỗ nó có một tổ chức nội tại, toàn vẹn.
Theo Pjatigorski (1962), “một văn bản được định nghĩa như là nhiều
dấu hiệu khác nhau tạo thành một toàn thể tự trị và có ranh giới. Một thông
báo như vậy được đặc trưng bởi ba phương diện:
Về phương diện cú pháp, nó cần phải được cố định về không gian
(bằng quang học, bằng âm thanh hay bằng cách khác) để có thể cảm nhận
bằng trực giác là không phân biệt với cái phi văn bản.
Về phương diện dụng học, sự cố định không gian của nó là không ngẫu
* Goran Sonesson, The Concept of Text in Cultural Semiotics, nguồn: www.academia.edu.
nhiên, mà là phương tiện cần thiết cho sự truyền tải có ý thức thông báo bởi
42
tác giả của nó hay các cá nhân khác. Vì vậy văn bản có một cấu trúc bên
trong.
Về phương diện ngữ nghĩa học, một văn bản phải có khả năng hiểu
được, tức là nó không thể bao gồm những khó khăn không vượt qua được cản
trở việc lĩnh hội nó (Pjatigorskij, 1962: 79)”*.
Có thể thấy khái niệm văn bản đến trường phái Tartu – Moscow đã
được mở rộng chiều kích: văn bản không chỉ giới hạn trong các phạm vi giao
tiếp bằng lời mà cả trong giao tiếp phi lời. Nhóm này cũng xuất phát từ một tư
tưởng xem ngôn ngữ là hệ thống kí hiệu học cơ bản đầu tiên. Các hệ thống
khác (bao gồm văn học, kiến trúc, điện ảnh…) được xem là các hệ thống mô
hình thứ sinh. Như vậy không chỉ có các tư liệu bằng lời mà cả các nghi lễ
cũng là văn bản†. Trong văn học, khái niệm văn bản cũng được mở rộng.
Theo Lotman, “khái niệm văn bản không có tính tuyệt đối. Nó liên quan đến
một loạt những cấu trúc tâm lí, lịch sử - văn hóa khác kèm theo”. Đồng thời,
khái niệm văn bản được nhìn trong hệ thống văn hóa và đối lập với cái phi
văn bản. Các nhà kí hiệu học này cũng đưa ra các tiêu chuẩn để xác định một
đối tượng là một văn bản văn hóa:
Thứ nhất: nó mang một ý nghĩa trọn vẹn
Thứ hai: nó có giá trị và được bảo tồn
Thứ ba: nó được tổ chức, thuộc về một thể loại hay phong cách nhất
định
* Irene Portis Winner and Thomas G. Winner (1976), The Semiotics of Cultural Texts, Semiotica 18: 2, pp.
101 – 156, Mouton Publishers, trang 103.
† Điều này có lẽ cũng bắt nguồn từ Saussure khi trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” ông viết “khi coi
những nghi lễ, phong tục… như những dấu hiệu, những sự kiện này sẽ hiện ra dưới một ánh sáng mới” (12,
56).
Thứ tư: nó được sản sinh dựa trên các quy tắc nhất định.
43
Trong nhiều bài viết của mình, Lotman con thường nhắc đến một câu
trong Kinh Thánh mà cha ông rất thích: “Hòn đá mà những người thợ xây bỏ
đi đã thành vật đắc dụng”. Và ông kết luận: Lotman đã biến hòn đá vứt đi ấy
của chủ nghĩa cấu trúc thành hòn đá thử vàng của trường phái Tartu, văn bản,
một “hộp đen”, một “vật tự nó” (tư tưởng xuất phát từ triết học Kant) nhưng
lại đầy tiềm năng tạo nghĩa đã thực sự mở ra nhiều triển vọng nghiên cứu có
giá trị.
Phân loại văn bản
Trong “Theses on the Semiotic Study of Culture” (Đề cương về nghiên
cứu kí hiệu học văn hóa) do Lotman, Uspenski, Ivanov, Toporov, Pjatigorski
cùng viết, các nhà nghiên cứu đưa ra khá nhiều tiêu chí phân loại văn bản,
trong đó có thể kể đến hai tiêu chí cơ bản: phân loại dựa vào cấu trúc bên
trong của văn bản và dựa vào khuynh hướng của văn bản.
Về cấu trúc bên trong, văn bản được tạo thành bởi các kí hiệu, và dựa
vào bản chất các kí hiệu này, họ phân biệt các loại văn bản. Theo đó, văn bản
được chia thành hai loại: loại liên tục (nondiscrete) và loại không liên tục
(discrete).
Văn bản liên tục hay văn bản mang đặc trưng không gian là văn bản
được cấu thành chỉ bởi một loại kí hiệu hình tượng, loại kí hiệu này không thể
chia tách thành các kí hiệu nhỏ hơn, chỉ có thể chia thành các đặc điểm. Ví dụ
về kiểu loại văn bản này là các văn bản trực quan như hội họa, điêu khắc,
truyền hình, điện ảnh và khiêu vũ. Đây được xem là kiểu văn bản đầu tiên.
Văn bản không liên tục hay văn bản mang đặc trưng thời gian là các
văn bản được tạo thành bởi sự phối hợp của nhiều kí hiệu quy ước, kí hiệu
bằng lời. Ví dụ về kiểu loại văn bản này là âm nhạc, các văn bản bằng lời mà
tiêu biểu là văn học. Đây được xem là loại văn bản thứ cấp.
44
Nhưng sự phân biệt này không triệt để vì trong các văn bản không liên
tục vẫn có những yếu tố liên tục và ngược lại trong các văn bản liên tục vẫn
chứa đựng các yếu tố không liên tục, chẳng hạn “Trong âm nhạc, tính đồng
thời được biểu đạt bằng hợp âm, và trong các nghệ thuật bằng lời thì bằng ẩn
dụ và tất cả các dạng song song, mặc dù các phẩm tính không liên tục chiếm
ưu thế trong hai nghệ thuật này. Mặt khác, trong khi các nghệ thuật thị giác
thường được xem là liên tục và không riêng rẽ, chúng cũng chia sẻ các yếu tố
không liên tục, dù trong một vai trò phụ trợ”*
Dựa trên khuynh hướng của văn bản gắn với văn hóa, người ta chia ra
các văn bản hướng về người gửi và hướng về người nhận, xác định thang bậc
giá trị của nó trong một nền văn hóa nhất định. Theo đó, “Các văn bản và các
văn hóa như là một tổng thể có thể hướng về người gửi hay hướng về người
nhận. Trong các văn hóa hướng về người nhận, các văn bản có giá trị cao
nhất được cho là các văn bản dễ hiểu, mở (văn xuôi, phim tài liệu), và giá trị
thực là quan trọng. Mặt khác trong các văn hóa hướng về người gửi, các văn
bản có giá trị cao nhất là các văn bản khép kín, không dễ hiểu. Trong các văn
hóa bí truyền như vậy, nhà tiên tri và các văn bản của tu sĩ, lời nói trong lúc
xuất thần, những lời không thể hiểu được và thơ ca là có giá trị”†
Ứng dụng cách phân loại trên, chúng ta có thể làm rõ đối tượng nghiên
cứu của mình. Theo đó, về cấu trúc, văn bản văn học thuộc loại văn bản
không liên tục (hay gián đoạn). Tuy nhiên, việc tìm hiểu tính liên tục, tỉ lệ,
tương quan của nó với các yếu tố không liên tục như là đặc điểm chính sẽ cho
101 – 156, Mouton Publishers, trang 112.
† Irene Portis Winner and Thomas G. Winner (1976), tlđd, trang 114.
người nghiên cứu nhiều hiểu biết thú vị. Việc xác định khuynh hướng văn bản * Irene Portis Winner and Thomas G. Winner (1976), The Semiotics of Cultural Texts, Semiotica 18: 2, pp.
45
trong nền văn hóa hướng về người gửi hay người nhận cũng sẽ giúp ta hiểu
được bàn chất văn bản trong mối quan hệ với văn hóa.
Các quan niệm về văn hóa dựa trên văn bản
Ở đây chúng ta thấy có mối liên hệ giữa văn hóa, văn bản và kí hiệu:
văn hóa và văn bản đều có thể được nghiên cứu như là một kí hiệu.
Trong mối tương quan giữa người nghiên cứu và người mang văn hóa,
văn bản và văn hóa có điểm tương đồng là chỉ có thể được hiểu từ hai điểm
nhìn: bên trong và bên ngoài.
Lấy văn bản làm trung tâm, các nhà kí hiệu học trường phái Tartu –
Moscow đưa ra định nghĩa về văn hóa trên ba cấp độ: văn hóa như là kí ức,
văn hóa như là hệ thống phân tầng các hệ thống kí hiệu, văn hóa như là tổng
số các văn bản.
Văn hóa như là hệ thống phân tầng các hệ thống kí hiệu
“Các hệ thống kí hiệu” ở đây hàm chỉ các ngôn ngữ, nhưng không phải
riêng ngôn ngữ tự nhiên mà là ngôn ngữ theo nghĩa rộng. Lotman xem là
ngôn ngữ tất cả các hệ thống dùng làm phương tiện giao tiếp có sử dụng kí
hiệu, và các kí hiệu này được được tổ chức, sắp xếp theo một trật tự, cấu trúc
nào đó với các quan hệ bên trong chặt chẽ. Theo đó, ông phân ra ba loại ngôn
ngữ: thứ nhất là ngôn ngữ tự nhiên (tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Nga…), thứ
hai là ngôn ngữ nhân tạo (ngôn ngữ khoa học, ngôn ngữ của các tín hiệu quy
ước như kí hiệu hàng hải), thứ ba là các ngôn ngữ thứ sinh (văn học, hội họa,
âm nhạc, điện ảnh… và các nghệ thuật nói chung). Trong đó, tiếp nối truyền
thống Saussure, các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow xem ngôn ngữ là hệ
thống kí hiệu đầu tiên cơ bản nhất, là ngôn ngữ thứ nhất. Các ngôn ngữ thứ
sinh không chỉ sử dụng ngôn ngữ tự nhiên với tư cách là chất liệu, mà còn xây
dựng các quan hệ bên trong của nó theo kiểu mẫu ngôn ngữ (điển hình là
quan hệ kết hợp và quan hệ lựa chọn). “Do chỗ ý thức của con người là ý thức
46
mang tính ngôn ngữ, nên mọi dạng mô hình được xây chồng lên trên ý thức –
nghệ thuật cũng nằm trong số đó – đều có thể được xác định như là các hệ
thống mô hình hóa thứ sinh”*. Và văn hóa được xem là hệ thống tạo nên bởi
sự xếp chồng đó.
Lotman trong bài viết “Quan điểm hiện đại về văn bản” đã hình dung
về cái mà ông gọi là “không gian kí hiệu” này “Hãy tưởng tượng một không
gian kí hiệu học, trên đó, ở sườn bên này là sự phân bố của các ngôn ngữ
nhân tạo và các siêu ngữ, ở trung tâm – không gian văn hóa – là các ngôn
ngữ tự nhiên, còn sườn bên kia là các tổ chức kí hiệu học phức tạp thuộc loại
ngôn ngữ thi ca (ngôn ngữ nghệ thuật nói chung) và các hệ thống phái sinh
khác”†.
Tuy nhiên, luận điểm này khiến nhiều nhà nghiên cứu nghi ngờ, đặt ra
những yêu cầu phải mở rộng và linh hoạt hơn vì nhiều lí do. Điều này chúng
tôi sẽ trình bày ở phần sau. Từ quan điểm thứ nhất này về văn hóa mới dẫn
đến cách định nghĩa văn hóa ở cấp độ thứ hai: văn hóa như là tổng số các văn
bản.
Văn hóa như là tổng số các văn bản
Theo như trên đã phân tích, nếu văn hóa là hệ thống phân tầng các hệ
thống kí hiệu, thì văn hóa phải là tổng số các ngôn ngữ mới đúng, tại sao lại là
tổng số các văn bản? Thật ra, khác với Sausure, các nhà kí hiệu học Tartu –
Moscow không lấy ngôn ngữ làm trung tâm. Khái niệm nền tảng có vai trò
quan trọng trong văn hóa, với họ, chính là văn bản. Nếu xét trong tư duy đối
lập nhị phân của Saussure, văn bản thuộc lĩnh vực lời nói, là một dạng lời nói
* Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, NXB GD, trang 28. † M. IU. Lotman, người dịch: Lã Nguyên (2014), Quan điểm hiện đại về văn bản, nguồn:
https://languyensp.wordpress.com/.
được tổ chức đặc biệt. Theo Saussure, nếu so sánh với ngôn ngữ, văn bản
47
không hề có chỗ đứng, vì chỉ ngôn ngữ mới là hệ thống kí hiệu, là mã giúp
cho việc hiểu thông tin (lời nói, cụ thể là văn bản). Ý nghĩa kí hiệu học của
văn bản chỉ ở chỗ nó hiện thực hóa ngôn ngữ, thực hiện cấu trúc ngôn ngữ*.
Các nhà kí hiệu học Tartu, trái lại, đã cấp cho văn bản những ý nghĩa
khác hẳn. Theo Lotman, văn bản không đơn thuần là sự hiện thực hóa ngôn
ngữ, thậm chí, văn bản, ở một số khía cạnh còn lớn hơn ngôn ngữ do đặc
trưng của nó: thứ nhất, văn bản có nhiều yếu tố mà ngôn ngữ không có, chẳng
hạn như khung văn bản (yếu tố mở đầu và kết thúc, phần vừa thuộc về văn
bản vừa nằm ngoài nó, phân biệt nó với các hệ thống ngoài văn bản), các
nguyên tắc kết cấu; thứ hai, văn bản được trao cho ý nghĩa, ý nghĩa này gắn
chặt với cấu trúc của nó, văn bản có khả năng sản sinh vô giới hạn các văn
bản khác nhằm diễn giải nó; thứ ba, văn bản lớn hơn ngôn ngữ ở chỗ: nó
mang tính đa ngữ chứ không chỉ là sự hiện thực hóa một ngôn ngữ riêng biệt
nào. Lotman nêu ra xu hướng quan tâm chuyển dịch từ ngôn ngữ tới văn bản
(từ cấu trúc tới lời nói), nó chuẩn bị để các nhà ngôn ngữ học và kí hiệu học
tiếp nhận những chức năng khác, phức tạp hơn của hệ thống kí hiệu học. Theo
đó, chức năng giao tiếp của ngôn ngữ đã được các nhà ngôn ngữ học khẳng
định, song, với việc nghiên cứu các văn bản văn hóa, có thể rút ra thêm một
chức năng nữa của ngôn ngữ: chức năng tạo nghĩa. Ngôn ngữ cũng như văn
bản đều là một cỗ máy sinh nghĩa. Không phải ngôn ngữ xuất hiện trước văn
bản mà là văn bản xuất hiện trước ngôn ngữ. Ông minh chứng bằng việc giải
* Lotman, trong bài viết “Quan điểm hiện đại về khái niệm văn bản” đã làm rõ hơn điều này. Ông chỉ ra, với
Saussure và cả các nhà ngôn ngữ - kí hiệu học sau này như Jakobson, Greimas, sự đối lập giữa văn bản và
ngôn ngữ là sự đối lập giữa cái được biểu hiện với cái không được biểu hiện, cái vật chất với cái lí tưởng, cái
không gian phân giới với cái ngoài không gian, cái có sau với cái có trước, cái không phải yếu tố mang tính
khu biệt ý nghĩa với cái hiển nhiên.
mã các văn bản cổ, việc sáng tạo các tác phẩm nghệ thuật mới nhất, việc học
48
tiếng mẹ đẻ*, trong đó, người ta đều nhận các văn bản trước rồi sau đó mới tái
tạo cấu trúc theo văn bản. Cho nên, không phải ngôn ngữ tạo ra văn bản mà
chính văn bản tạo ra ngôn ngữ. Cũng vì vậy, văn hóa không phải là tổng số
các ngôn ngữ mà là tổng số các văn bản.
Các nhà nghiên cứu lưu ý từ “tổng” ở đây không nên bị hiểu một cách
máy móc theo phép cộng thông thường. Theo các nhà kí hiệu học Tartu –
Moscow, trong một nền văn hóa cụ thể, có một văn bản văn hóa là mô hình
trừu tượng về hiện thực hay mô hình thế giới, mà các văn bản khác là các biến
thể của nó.
Tóm lại, trong lịch sử nghiên cứu kí hiệu, mỗi nhà nghiên cứu, mỗi
trường phái đã chọn một khái niệm chìa khóa làm trung tâm cho các phân tích
của mình, với Saussure là ngôn ngữ, với Peirce là kí hiệu, với các nhà cấu trúc
chủ nghĩa là cấu trúc, còn với các nhà kí hiệu học Tartu – Moscow là văn bản.
Theo đó, văn hóa là tập hợp các văn bản, kí hiệu học văn hóa nghiên cứu các
văn bản, và thậm chí, văn hóa cũng có thể được nghiên cứu như là một văn
bản.
Văn hóa như là kí ức
Mỗi cá nhân trong một xã hội được xem là một đối tượng mang văn
hóa, và nếu kí ức cá nhân phản ánh đời sống riêng của mỗi con người thì kí ức
tập thể là tài sản chung của cộng đồng trong quá trình sống, tương tác với tự
nhiên, xã hội và chính mình. Và con người cần có các phương tiện sinh học
(cơ chế di truyền trong gen) để duy trì giống nòi, đồng thời cũng cần các
phương tiện xã hội (ký ức văn hóa) để lưu giữ, truyền đạt thông tin đến thế hệ
việc sáng tạo tác phẩm mới, người đọc đầu tiên chỉ có văn bản của ông ta, rồi sau đó mới đi tìm và thích ứng
với ngôn ngữ mà ông ta sáng tạo ra từ văn bản, trong việc học tiếng mẹ đẻ, trẻ cũng không học ngôn ngữ mà
học các văn bản, rồi sau đó mới tổng hợp thành kiến thức ngôn ngữ.
sau, tiếp tục sáng tạo các thông tin mới nhằm thích ứng với mọi biến đổi. Con * Trong việc giải mã các văn bản cổ, người ta có các văn bản trước rồi mới dựa vào đó đi tìm ngôn ngữ, trong
49
người không có kí ức thì không thể tiếp tục sống cân bằng trong hiện tại, tập
thể không có kí ức là một tập thể vô hồn, hỗn loạn. Theo đó, văn hóa có thể
hiểu là kí ức tập thể, là phương tiện xã hội duy trì sự tồn tại của con người.
Ký ức là sự ngưng kết của kinh nghiệm quá khứ, là một chương trình, chỉ dẫn
cho việc tạo ra các văn bản mới (ở phương diện này có thể nói văn hóa là cơ
chế sản sinh ra các văn bản). Ở đây có quan hệ hai chiều: kí ức chỉ dẫn cho
việc tạo ra các văn bản và các văn bản, đến lượt nó, lại bao gồm kí ức của
những người tham gia.
Ký ức, về bản chất, là cơ chế tập thể trong việc lưu trữ thông tin. Ký ức
này mang tính lịch sử, tức là không bất biến, tĩnh tại, mà luôn được làm đầy
lên theo thời gian, được điều chỉnh. Quy luật của kí ức tập thể có lẽ cũng
giống như kí ức cá nhân, có những phần bất biến và khả biến. Tuy nhiên, theo
quy luật của thông tin, khi thông tin quá đầy, quá tải, nó phải được mã hóa.
Ký ức văn hóa bao gồm phần ý thức: những cấu trúc và cá tính của các
cách ứng xử. Bên cạnh đó nó cũng bao gồm phần vô thức (chủ yếu là vô thức
tập thể).
Cũng trong bài viết “Quan điểm hiện đại về văn bản”, Lotman nêu lên
ba chức năng của văn bản: chức năng giao tiếp, chức năng tạo nghĩa, chức
năng sáng tạo và cho rằng ba chức năng này có quan hệ với vấn đề kí ức văn
hóa. Ông lấy ví dụ từ việc các văn bản thuộc các nền văn hóa cổ xưa còn
truyền lại đến chúng ta ngày nay có khả năng giúp phục hồi ngôn ngữ và một
loạt các lớp văn hóa tưởng đã chìm sâu vào quá khứ. Ông so sánh chúng với
những hạt giống có khả năng nảy mầm ở mọi môi trường sinh thái xa lạ.
Trong chúng chứa đựng những lượng thông tin được nén chặt. Thông tin ấy là
kí ức về cái cây đã sinh ra chúng. Từ đó ông đặt ra vấn đề văn bản có xu
hướng biểu tượng hóa và biến thành các biểu tượng văn hóa, có khả năng tự
trị so với ngữ cảnh văn hóa, tồn tại cả trong trục đồng đại lẫn trục lịch đại.
50
Tóm lại, xuyên suốt lí thuyết về kí hiệu học văn hóa của các nhà nghiên
cứu thuộc trường phái Tartu – Moscow, chúng ta thấy mối quan hệ giữa kí
hiệu – văn bản và văn hóa. Văn bản và văn hóa đều có thể được nghiên cứu
như là một kí hiệu với hai bình diện: biểu hiện và nội dung, hay cái biểu đạt
và cái được biểu đạt
1.1.3. Nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa - một vài định
hướng cơ bản
1.1.3.1. Đối tượng của nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa
Sự giống nhau trong việc tiếp nhận một văn bản từ ngôn ngữ tự nhiên
với một văn bản thuộc ngôn ngữ nghệ thuật là ở chỗ, người ta phải hiểu cái
ngôn ngữ đó thì mới mong lĩnh hội được thông điệp. Nhưng điều khác biệt là
ở chỗ, trong trường hợp của ngôn ngữ tự nhiên, khi nắm cách dùng ngôn ngữ
rồi, việc tiếp nhận thông tin trở nên tự động, và người ta chỉ quan tâm đến
thông điệp. Trái lại, văn bản nghệ thuật làm cho người ta phải chú ý đến cả
các yếu tố ngôn ngữ của nó, tức là nó không còn trong suốt như không khí mà
trở nên hữu hình, và hình ảnh ấy mang thông điệp. Nên thông điệp trong văn
bản nghệ thuật luôn dồi dào, phong phú, đa tầng hơn. Và vấn đề thứ hai là
người nghiên cứu cần quan tâm trước hết đến ngôn ngữ được nhà văn sử
dụng. Các công trình nghiên cứu kí hiệu học văn bản nghệ thuật đôi khi cũng
phải giống như các cuốn sách giáo khoa ngoại ngữ, không cuốn hút người đọc
vì những tư tưởng sâu sắc mà mục đích là dạy một ngôn ngữ như một hệ
thống để người ta có thể đọc được nội dung viết ra từ thứ ngôn ngữ ấy.
Như vậy đối tượng trước hết của nghiên cứu văn học từ kí hiệu học là
ngôn ngữ văn học. Sau đây chúng tôi sẽ đưa ra một vài định hướng của việc
nghiên cứu ngôn ngữ văn học từ ngôn ngữ học đến kí hiệu học và dừng lại
phân tích kĩ cách làm của các nhà kí hiệu học văn hóa.
51
Ngôn ngữ trong ngôn ngữ học và kí hiệu học văn hóa
Ngôn ngữ với tư cách là đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học
Trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương”, Saussure lần đầu tiên đã
xác định đối tượng nghiên cứu của ngôn ngữ học, phân biệt nó với các khoa
học tiếp cận như dân tộc học, tiền sử học, nhân loại học, xã hội học, tâm lí
học, sinh lí học, ngữ văn học. Theo Saussure, đối tượng duy nhất của ngôn
ngữ học là ngôn ngữ (langue), bộ phận quan trọng của hoạt động nói năng
(langage) đã trừ đi lời nói (parole). Về bản chất, ngôn ngữ là hình ảnh tinh
thần của âm thanh và khái niệm tồn tại trong đầu óc của một cộng đồng, là
sản phẩm quy ước của tập thể. Ngôn ngữ phân biệt với lời nói ở tính xã hội
với tính cá nhân, tính cốt yếu với tính ngẫu nhiên, thứ yếu. Saussure so sánh
ngôn ngữ với một bản giao hưởng mà sự tồn tại của nó độc lập với cách trình
tấu, với một bàn cờ chỉ phụ thuộc vào vị trí của các quân cờ trong một thời
điểm bất kể chúng được làm từ chất liệu gì hay các nước đi trước đó như thế
nào. Xác lập ngôn ngữ như một hệ thống kí hiệu thống nhất hai mặt cái biểu
đạt và cái được biểu đạt, Saussure đồng thời cũng tiên đoán sự ra đời của một
ngành khoa học mới mà ngôn ngữ học chỉ là một bộ phận – ngành kí hiệu học
. Ông là người đã đặt những nền tảng quan trọng cho khoa học về các kí hiệu
bằng lời lẫn phi lời, giúp phát hiện ra các quy tắc, các cấu trúc sâu ngầm ẩn
đằng sau các hiện tượng cá biệt, ngẫu nhiên.
Trong “Cơ sở kí hiệu học”, Roland Barthes khẳng định tính ưu việt của
khái niệm ngôn ngữ mà Saussure đưa ra. Theo ông, đối tượng thuần mang
tính xã hội và hệ thống của các quy ước cần thiết cho việc giao tiếp này giúp
con người bước qua tấm màn chắn đa hình thức và hỗn tạp của không chỉ
ngôn ngữ tự nhiên mà còn nhiều lĩnh vực khác nữa. Ông tổng hợp, cụ thể hóa
bản chất ngôn ngữ theo Saussure trên hai phương diện: ngôn ngữ như một
thiết chế xã hội và một hệ thống các giá trị. Với tư cách là một thiết chế xã
52
hội, ngôn ngữ là một trò chơi với quy tắc riêng của nó, các cá nhân chỉ có thể
học luật chơi, không thể thay đổi tùy tiện theo ý mình. Với tư cách là hệ thống
các giá trị, ngôn ngữ được cấu thành bởi các yếu tố nhất định giống như đồng
tiền, vừa tương đương với giá trị của hàng hóa mà nó có thể mua được, vừa
có giá trị trong mối quan hệ với các đồng tiền khác cùng hệ thống. Hai đặc
trưng này của ngôn ngữ có liên quan đến nhau: vì ngôn ngữ là một hệ thống
các giá trị được thỏa thuận (phần nào võ đoán) nên nó không cho phép các cá
nhân tùy tiện thay đổi, và vì vậy nó là một thiết chế xã hội.
Từ quan niệm về ngôn ngữ trong ngôn ngữ học của Saussure, các nhà
kí hiệu học nêu lên những triển vọng của việc tìm hiểu “ngôn ngữ” trong các
hệ thống kí hiệu ngoài ngôn ngữ .
Ngôn ngữ trong kí hiệu học văn hóa
Trong kí hiệu học, khái niệm ngôn ngữ được hiểu rộng hơn dù không
tách rời các đặc trưng bản chất đã được Saussure chỉ ra.
Khi tiên báo về một ngành khoa học mới - kí hiệu học, Saussure đã
mường tượng về triển vọng xem xét những mặt mà ngôn ngữ có chung với
các hệ thống kí hiệu khác, chẳng hạn nghi lễ, phong tục, từ đó có cơ sở giải
thích các hiện tượng này bằng quy luật của kí hiệu học.
Nối tiếp Saussure, Lotman trong “Cấu trúc văn bản nghệ thuật” xác
lập khái niệm ngôn ngữ trong phạm vi kí hiệu học: Ngôn ngữ là “bất kì hệ
thống giao tiếp nào sử dụng kí hiệu và tổ chức các kí hiệu theo một cách thức
nhất định”*. Như vậy theo Lotman, ngôn ngữ trong tổng thể hệ thống kí hiệu
học sẽ bao gồm: các ngôn ngữ tự nhiên (tiếng Anh, tiếng Việt, tiếng Nga…);
* Jurij Lotman (1977), Gail Lenhoff and Ronald Vroon dịch, The Structure of the Artistic Text. Ann Arbor:
the University of Michigan Press, trang 8.
các ngôn ngữ nhân tạo –gồm siêu ngôn ngữ (ngôn ngữ của các khoa học) và
53
các tín hiệu quy ước (chẳng hạn kí hiệu đường sá); các ngôn ngữ thứ sinh
(huyền thoại, tôn giáo, nghệ thuật, âm nhạc…).
Cũng xuất phát từ Saussure, kết hợp với lý thuyết của Hjelmslev,
Roland Barthes cho ta một hình dung tổng thể về hệ thống kí hiệu thông qua
việc đưa ra khái niệm hệ thống kí hiệu sở thị (denotation) và hệ thống kí hiệu
sở biểu (connotation). Roland Barthes sử dụng mô hình hệ thống biểu đạt
ERC (trong đó E (expression*) là phương diện biểu hiện, C (content†) là
phương diện nội dung, R (relation‡) là quan hệ giữa hai phương diện trên) của
Hjelmslev để diễn giải. Theo đó, một hệ thống biểu đạt với ERC đơn được gọi
là hệ thống kí hiệu sở thị (điển hình là ngôn ngữ tự nhiên). Trên cơ sở đó sẽ
có các hệ thống thứ hai xếp chồng lên hệ thống thứ nhất. Khi ERC của hệ
thống thứ nhất trở thành E của hệ thống thứ hai§ (hệ thống thứ hai này sẽ có
mô hình: (ERC) RC), ta gọi hệ thống thứ hai ấy là hệ thống kí hiệu sở biểu
(huyền thoại được ông phân tích là một trong các hệ thống kí hiệu sở biểu tiêu
biểu). Khi ERC của hệ thống thứ nhất trở thành C của hệ thống thứ hai** (hệ
thống này sẽ có mô hình ER (ERC)), ta gọi hệ thống thứ hai này là siêu ngôn
ngữ (metalanguage) – ngôn ngữ của chẳng hạn khoa học hay các tạp chí bàn
* Tương đương với “cái biểu đạt” (tiếng Anh “signifier”) của Saussure.
† Tương đương với “cái được biểu đạt” (tiếng Anh “signified”) của Saussure.
‡ Tương đương với “sự biểu đạt” (tiếng Anh “signification”) của Saussure.
§ Roland Barthes cụ thể hóa bằng mô hình:
Hệ thống thứ hai: E
R
C
Hệ thống thứ nhất: ERC
** Roland Barthes cụ thể hóa:
Hệ thống thứ hai: E
R
C
Hệ thống thứ nhất:
ERC
về thời trang. Như vậy cách phân chia của Lotman và Roland Barthes về thực
54
chất là giống nhau, đều quan niệm các hệ thống kí hiệu bao gồm ngôn ngữ tự
nhiên, siêu ngôn ngữ và ngôn ngữ thứ sinh (hay hệ thống kí hiệu hàm biểu).
Cũng trong “Cơ sở kí hiệu học”, Barthes nêu lên các khả năng đã, đang
và sẽ trở thành hiện thực của việc nghiên cứu ngôn ngữ trong các khoa học xã
hội chẳng hạn triết học của Merleau-Ponty, nhân loại học của Claude Lévi –
Strauss, phân tâm học của Lacan… và đi đến kết luận: “Vì thế ta nên thừa
nhận rằng có một phạm trù ngôn ngữ/ lời nói phổ quát, cái có ở mọi hệ thống
kí hiệu; vì không có một thuật ngữ tốt hơn, ta vẫn giữ nguyên thuật ngữ ngôn
ngữ * và lời nói† ngay cả khi chúng được áp dụng cho các hệ thống giao tiếp
mà chất liệu không phải là ngôn từ”‡. Ông đồng thời cũng đưa ra các nét phác
thảo của việc nghiên cứu cặp đối lập nhị phân này trong các hệ thống kí hiệu
khác như: hệ thống thời trang, ẩm thực, đồ dùng, truyền thông đại chúng.§
Barthes không quên cảnh báo về một xu hướng áp dụng máy móc mô hình
ngôn ngữ tự nhiên vào các hệ thống kí hiệu phi ngôn ngữ, điều mà các nhà kí
hiệu học sau này cũng nhận ra.
Các cơ sở lí thuyết trên đây cho phép đặt ra khả năng nghiên cứu ngôn
ngữ trong văn học – một hệ thống kí hiệu đặc thù.
Ngôn ngữ trong văn học từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa
Vị trí của văn học trong các hệ thống kí hiệu
Trong khi phê phán các nhà nghiên cứu trước ông đã sử dụng ngôn ngữ
trong văn học làm ngữ liệu nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên, Saussure đặt ra vấn
* Tiếng Anh “language”, tương đương với khái niệm “langue” của Saussure.
† Tiếng Anh “speech”, tương đương với khái niệm “parole” của Saussure.
‡ Roland Barthes (1957), Annette Lavers và Colin Smith dịch, Elements of Semiology. New York: Hill and
Wang, tái bản lần thứ 11 năm 1986, trang 25.
§ Từ các cơ sở này, ông đã phân tích cụ thể ngôn ngữ của hai hệ thống: thời trang và huyền thoại trong hai
cuốn sách nổi tiếng “Mythologies” và “the Fashion System”.
đề cần phải phân biệt giữa thứ ngôn ngữ đời thường, mang tính khẩu ngữ, gắn
55
với phương ngữ, phát triển một cách tự nhiên, hữu cơ với ngôn ngữ văn học
vốn mang tính nhân tạo và được tổ chức theo kiểu khác. Đây là luận điểm
chính được những người sau ông tiếp tục triển khai. Trong cuốn sách đầu tay
“Độ không của lối viết”, Roland Barthes đặt ra khái niệm lối viết (writing) mà
ông quan niệm như một cá ngữ (idiolect) theo nghĩa rộng. Theo Barthes, lối
viết là một phạm trù nằm giữa ngôn ngữ và lời nói, là lời nói đã được thiết
chế hóa nhưng chưa được hình thức hóa một cách triệt để như ngôn ngữ*.
Thực chất ông đang phân tích ngôn ngữ văn học. Trong cuốn sách sau này,
“Cơ sở kí hiệu học”, Barthes xếp văn học vào hệ thống kí hiệu sở biểu, với
ngôn ngữ tạo thành hệ thống thứ nhất và các hệ thống phức tạp khác xếp
chồng lên.
Quan điểm này rất gần với quan điểm của Lotman. Theo Lotman, văn
học cùng các nghệ thuật khác thuộc loại hệ thống mô hình hóa thứ sinh trong
mối quan hệ với hệ thống mô hình nguyên khởi là ngôn ngữ tự nhiên. Được
xây dựng theo mô hình ngôn ngữ tự nhiên, nghệ thuật là một ngôn ngữ thứ
sinh, và tác phẩm nghệ thuật là một văn bản trong ngôn ngữ đó.
Dù xác lập văn học ở vị trí nào trong các hệ thống kí hiệu, có thể khẳng
định: thứ nhất, văn học là một hệ thống kí hiệu đặc thù; thứ hai, với tư cách là
hệ thống kí hiệu, văn học có ngôn ngữ riêng của nó. Ở đây chúng tôi giới
thiệu hai quan điểm phân tích ngôn ngữ trong văn học: quan điểm của Roland
Barthes trong “Độ không của lối viết” và quan điểm của Lotman trong “Cấu
* Khái niệm này, theo Roland Barthes, đã được chỉ ra bởi lý thuyết về tập quán (usage) của Hjelmslev: tập
quán được hiểu là ngôn ngữ như một tập hợp các thói quen phổ biến trong cộng đồng nhất định: chẳng hạn
chữ “r” được phát âm ở một vùng nào đó.
trúc văn bản nghệ thuật”.
56
Ngôn ngữ văn học trong “Độ không của lối viết” của Roland
Barthes
Trong phần mở đầu, Roland Barthes đặt ra vấn đề lịch sử của biểu đạt
văn chương, không phải là lịch sử của ngôn ngữ, cũng không phải lịch sử của
phong cách, mà là lịch sử của các kí hiệu văn học, một lịch sử thuần túy hình
thức. Khi dùng chữ “hình thức” (form) để chỉ “lối viết” (writing*), Barthes đã
gợi lại nhận định nổi tiếng của Saussure trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại
cương”: “Ngôn ngữ là hình thức, không phải chất liệu†”. Trong khi theo đuổi
dạng lịch sử riêng thuộc về văn học này, Barthes nêu ra những gợi mở mang
tính phương pháp luận cho việc nghiên cứu ngôn ngữ trong văn học: ngôn
ngữ văn học là một thứ ngôn ngữ có hình thể và có khả năng gợi ra cảm xúc,
hay nói khác đi, có tính kí hiệu.
Tính kí hiệu của ngôn ngữ văn học
Đối với người bản ngữ, ngôn ngữ tự nhiên trở thành một thứ vô thức,
một kho tàng họ chiếm lĩnh hoàn toàn mà không cần băn khoăn về nó. Vì vậy,
trong khi giao tiếp, người ta chỉ quan tâm đến thông điệp. Đối với người học
* Theo dịch giả Susan Sontag, từ tiếng Anh “writing” dịch từ tiếng Pháp “écriture”, gần nghĩa với động từ
“écrite” chỉ hoạt động sáng tạo tác phẩm. Trong cuốn sách của Barthes, nó được dùng với nghĩa thuật ngữ
nghiêm nhặt biểu đạt một khái niệm mới. Khái niệm này được Barthes thảo luận trong “Cơ sở kí hiệu học”
như chúng tôi đã chỉ ra ở trên (chi tiết xin xem Roland Barthes (1970), Annette Lavers và Colin Smith dịch,
Writing Degree Zero. United States of America: Beacon và “Elements of Semiology”, tlđd).
† Bản thân Saussure cũng có lúc tự mâu thuẫn với chính mình khi một mặt ông khẳng định “Ngôn ngữ là hình
thức, không phải chất liệu”, mặt khác ông lại nói về “tuyến tính của năng biểu”. Tuy nhiên, như Cao Xuân
Hạo đã chỉ ra, “là những người có diễm phúc thừa hưởng một di sản vô giá do Ferdinand de Saussure để lại,
các thế hệ đi sau phải hiểu hết ý nghĩa của nó, nhất là biết cách nắn lại những chỗ thiếu nhất quán mà người
Thầy, trong khi vất vả dò lối đi trên một con đường gần như không có vết chân người, đã có lúc vấp váp và
phản lại chính lời dạy của mình” (chi tiết xin xem Ferdinand de Saussure (2005), Cao Xuân Hạo dịch, Giáo
trình ngôn ngữ học đại cương. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội, trang 23), về điểm này, có thể thấy Roland
Barthes quả là một học trò xuất sắc.
ngoại ngữ, lúc đầu, để nắm được chính xác thông điệp, họ mới cần phải để ý
57
đến hệ thống từ vựng và quy tắc ngữ pháp. Một khi người học đã thông thạo,
ngôn ngữ cũng dần trở nên vô hình. Trong bối cảnh của văn học Pháp, theo
Roland Barthes, trước những năm cuối của thế kỉ XVIII, ngôn ngữ trong văn
học cũng trong suốt, không lắng cặn, chỉ là phương tiện để chuyển tải thông
điệp. Khi nhà văn bắt đầu ý thức về ngôn ngữ, văn học mới trở thành một đối
tượng. Ngôn ngữ văn học lúc này thoát ra khỏi địa vị của ngôn ngữ tự nhiên,
có hình thể (cái biểu đạt) và chiều sâu ẩn giấu (cái được biểu đạt) – có khả
năng gợi ra những cảm xúc hiện sinh: lạ lẫm hay quen thuộc, ghê tởm hay
ham thích… Quá trình ấy cũng trải qua nhiều giai đoạn khác nhau (Barthes
chỉ nêu ra các giai đoạn điển hình): với Chateaubriand nó là đối tượng để nhìn
ngắm, với Flaubert nó là sản phẩm của sự chế tạo, với Mallarmé, nó bị hạ sát,
chỉ còn là xác chết, và đến Camus, Blanchot, Cayrol, chỉ còn một lối viết
trung tính, vô sắc mà Barthes gọi là “độ không của lối viết”. Quá trình phát
triển của ngôn ngữ văn học là quá trình mà Barthes gọi là “lịch sử của lối
viết”.
Ngôn ngữ văn học khác với ngôn ngữ tự nhiên là bởi nó thuộc về một
hệ thống kí hiệu đặc biệt: hệ thống kí hiệu sở biểu.
Tính sở biểu của ngôn ngữ văn học
Như trên đã nói, theo Roland Barthes, văn học thuộc về hệ thống kí
hiệu hàm biểu có mô hình tối thiểu (ERC) R C. Nhất quán với quan niệm của
Saussure, khi tìm hiểu về mặt biểu hiện của hệ thống này, Barthes chủ yếu
quan tâm đến hình thức của biểu hiện (form of expression). Theo đó, mặt biểu
hiện của kí hiệu văn học, bản thân nó lại là một kí hiệu được tạo thành từ hai
trục: trục ngang – ngôn ngữ tự nhiên (mà phía sau nó là lịch sử, truyền thống)
và trục dọc – phong cách*. Theo phân tích của ông, ngôn ngữ là một không
* Chữ “phong cách” (tiếng Anh style) cũng cần được hiểu theo cách riêng của Barthes.
khí tự nhiên cung cấp một chân trời thân thuộc mang tính người, một trật tự
58
ngăn nắp, một tiềm năng cho sự kết hợp mà phía sau nó là lịch sử, tập quán.
Vì những gì ngôn ngữ che giấu trong tác phẩm nghệ thuật được tháo mở bằng
độ dài tự liên tục, gắn với quan hệ hiện diện nên nó là một chiều nằm ngang.
Trái lại, phong cách được Barthes xem là cội nguồn của những hình ảnh, cách
nói, từ ngữ của nhà văn. Phong cách nhúng sâu vào kí ức bí ẩn bị nhốt trong
cá nhân theo chiều thẳng đứng, có nguồn gốc sinh học. Ngôn ngữ tự nhiên
cùng phong cách đều là các cơ chế tự động, nếu ngôn ngữ trong suốt đối với
mỗi cá nhân thì phong cách trong suốt đối với xã hội, cả hai hợp lại tạo thành
các tiềm năng biểu đạt cho lối viết của nhà văn, ngôn ngữ của văn học xếp
chồng lên hai thứ ngôn ngữ này.
Nhất quán với quan điểm xem lối viết là một hệ thống nằm giữa ngôn
ngữ và lời nói, ở phần sau Barthes chạm đến đặc trưng gần với lời nói của lối
viết – sự tự do (dù chỉ trong khoảnh khắc của nhà văn) hiện thực hóa các yếu
tố tiềm năng. Vấn đề này sẽ được chúng tôi bàn đến trong một bài viết khác.
Ngôn ngữ văn học trong “Cấu trúc văn bản nghệ thuật” của
Lotman
Lotman cũng thừa nhận tính không trong suốt của ngôn ngữ nghệ
thuật, ông cụ thể hóa bằng việc các yếu tố mà trong ngôn ngữ tự nhiên vốn
không có nghĩa (chẳng hạn âm) khi đi vào văn học lại trở thành yếu tố mang
nghĩa, gợi cảm xúc. Tuy nhiên, ông chủ yếu dựa vào một luận điểm khác của
Saussure: ngôn ngữ luôn gắn với một cộng đồng diễn giải, và việc phân tích
ngôn ngữ của Lotman gắn với văn bản. Ông nhấn mạnh hai chức năng của
ngôn ngữ nghệ thuật: chức năng mô hình hóa và chức năng giao tiếp.
Ngôn ngữ văn học là một hệ thống mô hình hóa thứ sinh
Điều này được thể hiện ngay trong cách phạm trù hóa của Lotman: văn
học cũng như các nghệ thuật khác thuộc về hệ thống mô hình hóa thứ sinh.
Ngôn ngữ tự nhiên, ngoài việc dùng để giao tiếp, về bản chất còn là một hệ
59
thống mô hình hóa. Vì thế giới là một thể liên tục (continuum), để nhận thức
được nó, người ta cần phải phân đoạn, cắt khúc nó. Quá trình ấy cũng chính là
quá trình con người mô hình hóa, biểu đạt quan niệm của mình, Vì mỗi dân
tộc, cộng đồng có cách hình dung khác nhau về thế giới nên nhân loại có các
ngôn ngữ tự nhiên khác nhau*. Bởi vậy, các nhà kí hiệu học trường phái Tartu
xem ngôn ngữ là hệ thống mô hình nguyên khởi, làm nền tảng cho mọi hệ
thống kí hiệu. Các nghệ thuật (bằng lời hay phi lời) đều được xây dựng theo
cách thức của hệ thống mô hình nguyên khởi ấy: cắt thể liên tục của ngoại
giới thành các khúc đoạn không liên tục, trong đó thấm đẫm tư tưởng, quan
điểm của người tạo ra và sử dụng kí hiệu. Văn học là một trong những hệ
thống mô hình hóa thứ cấp, ngoài chức năng giao tiếp nghệ thuật, nó còn là
mô hình thế giới, là bức tranh tinh thần của vũ trụ trong đầu óc nhà văn. Tuy
nhiên, mô hình này không đơn nhất như mô hình ngôn ngữ tự nhiên mà đa
tạp, mang tính cấp bậc, xếp chồng nhiều lớp do được mã hóa nhiều lần.
Vẫn là một hệ thống trừu tượng các yếu tố cùng quy tắc hoạt động của
các yếu tố ấy, gắn với văn bản, ngôn ngữ nghệ thuật không đơn nhất vì “Khi
nhà văn lựa chọn một thể loại, phong cách hay trường phải nghệ thuật nào
đó, anh ta đồng thời cũng chọn ngôn ngữ mà anh dự định dùng để nói với độc
giả. Ngôn ngữ này gia nhập vào một hệ thống cấp bậc phức tạp của các ngôn
ngữ nghệ thuật của một thời đại, một nền văn hóa, một dân tộc, hay một nhân
loại nhất định”†. Có nghĩa trong văn bản nghệ thuật không phải có một mà
* Cho nên trong việc đặt tương đương các kí hiệu ngôn ngữ của một hệ thống này với một hệ thống khác, bên
cạnh nghĩa, cần tính đến giá trị. Đây cũng là điều được Saussure phân tích khá kĩ.
† Jurij Lotman (1977), tlđd, trang 18.
nhiều ngôn ngữ cùng hoạt tác. Các ngôn ngữ này không loại trừ lẫn nhau, bởi
60
thế cùng với việc xếp chồng các ngôn ngữ trong văn bản nghệ thuật là việc
xếp chồng các cách diễn giải của độc giả theo thời gian.
Ngôn ngữ văn học là một hệ thống giao tiếp đặc biệt
Áp dụng lý thuyết thông tin trong phân tích ngôn ngữ nghệ thuật,
Lotman chỉ ra một hiện tượng thoạt nhìn có vẻ nghịch lý trong giao tiếp. Cụ
thể, khi có hai hệ thống cùng chuyển tải thông tin, cùng mất một chi phí để
khắc phục tiếng ồn, theo quy tắc tiết kiệm, hệ thống nào đơn giản hơn sẽ được
lựa chọn, hệ thống cồng kềnh phức tạp sẽ bị loại trừ. Thế nhưng tại sao trong
nhiều trường hợp, người ta vẫn dùng ngôn ngữ văn học – một thứ ngôn ngữ
rất phức tạp thay vì một câu hay vài câu tóm tắt bằng ngôn ngữ tự nhiên. Điều
này Lotman đã trả lời: đó là bởi vì ngôn ngữ văn học có thể chuyển tải những
thông điệp mà ta không thể chuyển tải bằng các ngôn ngữ khác. Do đó ngôn
ngữ nghệ thuật là không thể phiên dịch. Vậy thì cơ chế nào đã tạo nên điều
này? Đó là do tính dồn nén, do trạng thái số nhiều của các mã nghệ thuật.
Điều này lại dẫn đến một hệ quả khác: văn bản nghệ thuật là một đơn vị có
khả năng lưu trữ, nén thông tin kì diệu.
Lotman cũng phân tích một đặc trưng khác của ngôn ngữ nghệ thuật:
trong giao tiếp bằng ngôn ngữ tự nhiên, ở đầu vào và đầu ra của kênh giao
tiếp chỉ có hai loại quan hệ: trùng khớp hay không trùng khớp tương ứng với
việc hiểu hay không hiểu thông điệp. Khi hai bên cùng sử dụng một ngôn
ngữ, trường hợp không trùng khớp liên quan đến tiếng ồn – một loại lỗi và
ngôn ngữ tự nhiên có cơ chế để khắc phục lỗi ấy bằng yếu tố dư thừa. Còn
trong nghệ thuật, giữa việc hiểu với không hiểu là cả một khoảng không rộng
lớn. Ngôn ngữ nghệ thuật, sử dụng ngôn ngữ tự nhiên làm cái biểu đạt, cho
phép việc áp dụng mỗi một loại mã vào văn bản sẽ phân tách ra thành các kí
hiệu khác nhau. Vì thế, mỗi người đọc đều có thể nhận được thông tin nghệ
thuật tương ứng với những mã mà họ có.
61
Tóm lại, trong sự đa dạng chừng như vô tận của hoạt động ngôn ngữ
(langage), Saussure xác định đối tượng nghiên cứu của mình là ngôn ngữ
(langue), ông gạt ra ngoài tất cả những yếu tố cá nhân, không mang tính quy
luật mà ông gọi là lời nói (parole). Các nhà kí hiệu học trường phái Tartu xác
định đối tượng nghiên cứu của họ là văn bản. Trong văn bản, người ta sẽ thấy
sự hiện diện của ngôn ngữ (langue) ở nhiều tầng bậc qua các lần mã hóa cộng
với tất cả tính cụ thể, riêng biệt của nó. Dù đối tượng là gì thì từ góc độ kí
hiệu học, có thể thấy nghiên cứu văn bản văn học là nghiên cứu bức tranh tinh
thần về thế giới và con người được nhà văn dựng lên, nó thấm đẫm cái nhìn,
quan điểm của cộng đồng sử dụng kí hiệu trên nhiều phương diện. Cho nên,
vấn đề không chỉ dừng ở chỗ miêu tả, phân loại các yếu tố ngôn ngữ, hình
tượng trên bề mặt mà còn cần phải đi tìm cái bề sâu, cái quan niệm gắn với
chủ thể. Mọi phân tích đều phải lấy cấu trúc văn bản làm nền tảng chứ không
phải quy chiếu đến một hệ thống ở bên ngoài nó. Nghiên cứu văn bản từ kí
hiệu học là đứng từ quan điểm của người sử dụng kí hiệu, là đi tìm cái nhìn
bên trong văn bản chứ không phải nhìn từ bên ngoài để rồi áp đặt các hệ
thống khác lên trên nó.
Khi đã xác định như vậy, người ta phải xem xét các kí hiệu trong hệ
thống, và cần tránh đồng nhất đơn giản hệ thống này với hệ thống kia. Các
nhà kí hiệu học phân chia khá rõ ba hệ thống kí hiệu: hệ thống kí hiệu nguyên
cấp là ngôn ngữ tự nhiên. Hệ thống siêu kí hiệu là ngôn ngữ khoa học, ngôn
ngữ huyền thoại. Hệ thống kí hiệu thứ cấp (hay hệ thống mô hình hóa thứ
sinh) là ngôn ngữ của các nghệ thuật như văn học, hội họa, điện ảnh… Mỗi hệ
thống có đặc trưng riêng và người ta cần biết rõ mình đang bàn đến kí hiệu
của hệ thống nào. Chẳng hạn, có người khi diễn giải về một khái niệm của lý
luận văn học chẳng hạn – là một kí hiệu thuộc hệ thống siêu ngôn ngữ - lại đi
trích dẫn từ điển tiếng Việt – vốn là kho diễn giải thuộc hệ thống nguyên cấp.
62
Cần phải nhớ muốn hiểu một thuật ngữ khoa học cũng giống như học một từ
trong một ngôn ngữ khác, cần đặt từ đó trong hệ thống của nó, gắn với các
diễn giải của những người đã tạo ra và sử dụng thuật ngữ đó. Có khi ta sẽ thấy
nhân vật trữ tình trong thơ không có liên quan gì đến ông nhà thơ ngoài đời
thực, dù người ta vẫn xem thơ trữ tình là một hình thức tự bộc lộ. Thực ra mối
liên hệ tinh tế và sâu sắc hơn nhiều, đó có thể chỉ là một hình thức phóng
chiếu bản ngã, người ta tái hiện trong thơ cái phần đời, phần tâm hồn mà họ
không thể sống trong đời thực.
Tuy nhiên, không chỉ dừng ở ngôn ngữ văn học, nghiên cứu văn học từ
kí hiệu học văn hóa còn phải tập trung vào yếu tố thứ hai trong văn bản: đó là
thông điệp.
Cần tách biệt hai yếu tố trong văn bản: cấu trúc ngôn ngữ và thông
điệp. Thông điệp chỉ có thể đến với người đọc khi anh ta nắm được cấu trúc
ngôn ngữ của văn bản, cũng giống như ta không thể hiểu một văn bản bằng
tiếng Anh nói gì nếu ta không biết tiếng Anh. Mức độ nắm các thông điệp
khác nhau lại phụ thuộc vào mức độ ta thấm sâu vào thứ ngôn ngữ đó: trong
một số văn bản, bên cạnh thông điệp bề mặt, còn có các thông điệp bề sâu mà
người đọc chỉ có thể nhận ra nếu anh ta biết được hàm ý văn hóa của, chẳng
hạn, các điển cố, ẩn dụ, các ám chỉ liên văn bản.
Đặc trưng của tác phẩm nghệ thuật là ở chỗ: nó sử dụng loại kí hiệu
biểu hiệu (symbol) theo cách nói của Peirce, nhưng lại tạo ra một loại hình
hiệu (iconicity). Và có những yếu tố mà trong ngôn ngữ tự nhiên là không có
nghĩa (chẳng hạn âm vị), hay nghĩa thường bị quên lãng, trở nên vô hình
(chẳng hạn ngữ pháp) khi đi vào nghệ thuật lại trở nên có nghĩa. Nếu không
hiểu được sự khác biệt này thì sẽ không thấy được giá trị của kí hiệu văn học.
Tìm hiểu ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là nhìn nó như một hiện tượng đa
tầng, các mã nghệ thuật có tính đa bội, tác phẩm như chiếc kính vạn hoa nhiều
63
màu sắc, biến đổi khi ta thay đổi góc nhìn; hay như những con búp bê
Matryoshka, các lớp ý nghĩa xếp chồng lên nhau. Vấn đề là ở chỗ, các xu
hướng nghĩa đó không loại trừ mà tồn tại song hành tạo ra sức căng, tính đối
thoại, chính đặc trưng ấy tạo ra giá trị cho tác phẩm nghệ thuật.
Điều kì lạ là ở chỗ: bằng sự lặp lại, ngôn ngữ thơ không những không
thu hẹp mà còn nới rộng biên độ của entropy, tăng khả năng lựa chọn, và vì
thế, tăng khả năng dồn nén về nghĩa cho văn bản nghệ thuật. Chẳng hạn, sự
lặp lại về nhịp làm tăng khả năng lựa chọn từ ở một vị trí: không chỉ phụ
thuộc vào ý nghĩa mà trước hết là phù hợp về nhịp. Như trên đã nói, kí hiệu
văn học được xem là một loại hypersign – kí hiệu thứ cấp, kí hiệu đa tầng với
rất nhiều mã xếp chồng lên trên.
1.1.3.2. Các thao tác nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa
Về mối quan hệ giữa nội dung – hình thức
Trả lời cho mối quan hệ giữa hình thức với nội dung, các nhà kí hiệu
học cho rằng hình thức với nội dung không tách biệt mà hòa trộn như
Saussure quan niệm về tính hai mặt của một tờ giấy: không thể cắt mặt này
mà không đồng thời cắt luôn mặt kia (nói như thế cũng không có nghĩa người
ta đồng nhất cái biểu đạt là hình thức, cái được biểu đạt là nội dung). Theo
Lotman, hình thức không đơn thuần là cái khung để người ta đổ đầy nội dung
vào đó, không thể đập vỡ ngôi nhà để đi tìm mô hình kết cấu ẩn giấu bên
trong nó, chỉ có hình thức ấy mới làm sinh ra được nội dung ấy mà thôi. Nói
vậy có nghĩa là ý tưởng không thể tách khỏi cấu trúc đặc thù, mà một khi đã
tách biệt thì nó không còn là nó nữa. Theo Saussure, cả hai đều là hình thức.
Nhưng đó không phải là hình thức theo nghĩa tách biệt với nội dung. Lotman
phê phán cách tiếp cận với nghệ thuật theo lối tách biệt nội dung – hình thức
bằng so sánh với các phương thức truyền đạt khác từ góc nhìn lý thuyết thông
tin: trong hai hệ thống truyền đạt thông tin, hệ thống nào đơn giản hơn, chi
64
phí khắc phục tiếng ồn thấp hơn thì sẽ được lựa chọn, hiểu như vậy thì người
ta sẽ luôn dùng ngôn ngữ giao tiếp chứ không cần đến nghệ thuật. Nhưng tại
sao nghệ thuật vẫn tồn tại, vẫn cần thiết, đó là bởi có những thông điệp không
thể được truyền đạt bằng một ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ nghệ thuật.
Sự phức tạp của cấu trúc tỉ lệ thuận với sự phức tạp của thông tin được truyền
đạt, cũng như nhà văn không bao giờ có thể nói hết ý nghĩa của tác phẩm, vì
nếu làm vậy, ông ta sẽ phải viết lại tác phẩm đó. Văn học không phải là một
cách trình bày dông dài và hoa mĩ những tư tưởng lẽ ra có thể nói một cách
đơn giản và ngắn gọn, những nội dung nhất định của văn học chỉ có thể được
nắm bắt với điều kiện nó mang đúng hình thức nhất định đó. Theo kí hiệu
học, ngôn ngữ là một phần của nội dung và mang thông tin. Cho nên kí hiệu
học không đặt ra vấn đề phân biệt hình thức với nội dung mà chỉ phân biệt
hình thức và chất liệu.
Về thao tác thực tế
Theo các nhà kí hiệu học, bất cứ một yếu tố nào của văn bản khi đi vào
tác phẩm nghệ thuật đã không còn là nó, mà là kí hiệu biểu thị nó*, và cái độc
đáo của nghệ thuật là ở chỗ nó đặt song song các yếu tố mà trong ngôn ngữ
thông thường khó có thể đối lập. Chẳng hạn, trong tác phẩm nghệ thuật, từ
“yêu” không trái nghĩa với “không yêu” hay “ghét” mà trái nghĩa với “chết”
* Trong văn bản nghệ thuật, với tư cách là một kí hiệu nghệ thuật, ngữ nghĩa của từ không phải nằm trong
chính bản thân nó mà nằm trong ngữ cảnh, trong tương quan của một vị trí cấu trúc nhất định, do đó mà nó
mang tính lâm thời, tính quan niệm, tính mô hình hóa và hoàn toàn khác với bản thân nó trong ngôn ngữ tự
nhiên. Do vậy mới có trường hợp có những từ hoàn toàn trùng khớp trên phương diện ngôn ngữ tự nhiên
song thực chất chỉ là từ đồng âm khác nghĩa trong ngôn ngữ nghệ thuật, còn các từ vốn không liên quan gì
đến nhau lại trở thành các từ đồng nghĩa. Như vậy ngôn ngữ thơ tạo nên một thế giới ngữ nghĩa của các
tương đồng, đối lập không trùng khớp với hệ thống ngữ nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên mà xung đột, đối lập
với chúng. Khi phân tích điều này, Lotman còn đẩy vấn đề đi xa hơn, ông cho rằng, đó là sự xung đột, đối lập
của các mô hình thế giới.
vì nó đồng nghĩa với “sống”. Nghiên cứu từ kí hiệu học cũng bắt đầu từ thống
65
kê, phân loại, nhưng không dừng lại ở miêu tả, diễn giải mà đi tìm quan hệ
dựa trên các yếu tố cấu trúc văn bản, dựa trên bản chất của tác phẩm nghệ
thuật, nhờ vậy đối tượng nghiên cứu hiện ra dưới một ánh sáng mới, và giúp
người đọc thấy được hệ thống quan niệm về thế giới của nhà văn. Theo
Lotman, danh sách các từ trong một bài thơ biểu đạt cái ấn tượng đầu tiên về
vũ trụ của nó, và các từ tạo nên vũ trụ ấy, dân số của thế giới này. Mối quan
hệ của chúng được xem là cấu trúc của thế giới ấy. Hệ thống các từ đồng
nghĩa và trái nghĩa trong văn bản thơ khác với trong ngôn ngữ thông thường,
và chính sức căng giữa nghĩa từ điển với nghĩa trong văn bản tạo nên tính thơ.
Những cái được biểu đạt, chẳng hạn, nghĩa của các từ trong một hệ thống là
có quan hệ với nhau. Các từ trong văn bản cũng giống như các công dân trong
một xã hội, các mối quan hệ phức tạp của chúng làm thành mạng lưới quan hệ
định hình các hệ giá trị trong “xã hội” đó. Chúng đồng thời phân biệt với các
“xã hội” khác.
Cho nên, như tinh thần của Saussure, cần phải xem xét nghĩa của các
yếu tố trong hệ thống của nó. Cũng là từ đó nhưng từ ngôn ngữ này sang ngôn
ngữ khác thì không hề tương đương chút nào. Vấn đề là người nghiên cứu
không nên đồng nhất thô sơ đơn giản từ hệ thống này sang hệ thống khác, cần
phải xem cái chất liệu của biểu hiện và chất liệu nội dung đã được tổ chức
như thế nào để tạo ra nghĩa. Khi đi vào tác phẩm nghệ thuật, tất cả các yếu tố
chất liệu đều đã được mã hóa. Chẳng hạn trong Genji người ta cũng nhắc đến
các khái niệm đạo đức, nhưng đạo đức khác với quan niệm của Nho giáo: đây
là điều nhà nghiên cứu ngữ văn cổ Nhật Bản Motoori Norinaga đã chỉ ra.
Đó là lý do vì sao ta cần hết sức lưu ý quan điểm về giá trị của Saussure
trong phân tích ký hiệu văn học: đồng tiền (ký hiệu) có thể quy đổi thành
bánh mì (nghĩa) nhưng giá trị của đồng tiền phải được đặt trong tương quan
với các đồng tiền khác của cùng hệ thống, và tiền không phải là bánh mì (trừ
66
những trường hợp đặc biệt, còn lại, khó có thể hình dung người ta đem bánh
mì để đổi lấy, chẳng hạn, một cây nến, dù số tiền dùng để mua chúng là ngang
nhau).
Những lặp lại trong hình thức tổ chức của thơ, suy cho cùng, có thể
xem là những dồn nén của cảm xúc. Người làm thơ phiên dịch hình thức bị
dồn nén của tâm trạng thành một hình thức dồn nén khác, mã hóa nó. Khi
người đọc và văn bản có chung chìa khóa mã, anh ta có thể mở ra được những
lớp ý nghĩa nhất định. Nhưng lưu ý là bao giờ cũng có những mã không trùng
khớp, ý nghĩa của văn bản không thể được thấu tỏ hoàn toàn.
Theo các nhà kí hiệu học, điểm khác biệt của việc đọc một văn bản văn
học với đọc một văn bản thuộc về một ngôn ngữ khác là ở chỗ, người đọc dù
chưa nắm được ngôn ngữ của nhà văn, vẫn cảm nhận lượng thông tin ở một
mức độ nào đó. Lượng thông tin nghèo nàn hay dồi dào phong phú phụ thuộc
vào các bộ mã mà họ có để khai thác thông tin. Tuy nhiên việc áp dụng tùy
tiện các bộ mã sẽ làm cho thông tin bị bóp méo, tiềm ẩn nhiều nguy cơ sai lạc.
Kí hiệu học cung cấp cho người đọc một hệ thống mã và phương pháp sử
dụng các mã để tìm được lượng thông tin tối đa trong văn bản văn học.
Các nhà kí hiệu học cho rằng không phải hiện thực kiến tạo nên ngôn
ngữ mà chính ngôn ngữ kiến tạo nên hiện thực, cho nên cái mà ta hiểu là hiện
thực chính là hiện thực được kiến tạo bởi ngôn ngữ, bởi các văn bản. Và giữa
các hệ thống văn bản, mặc dù có mối tương liên, song về cơ bản có khoảng
cách nhất định. Cho nên, nghiên cứu một tác phẩm văn học từ kí hiệu học là
tìm hiểu bức tranh tinh thần được nhà văn dựng lên trong tác phẩm, đằng sau
đó là các quan niệm kiến tạo hiện thực của tác giả. Nghiên cứu nhân vật trong
tác phẩm là nghiên cứu con người được kiến tạo trong văn bản qua cái nhìn
của nhà văn. Cũng giống như ngôn ngữ tự nhiên tổ chức thế giới thành các
khái niệm hay phạm trù, ngôn ngữ của nhà văn là một hệ thống thứ cấp xếp
67
chồng lên trên hệ thống nguyên cấp, nó cũng có vai trò mô hình hóa. Tuy
nhiên, hệ thống này phức tạp hơn và luôn có sự song song tồn tại, sự giao
tranh giữa các lớp khái niệm, phạm trù, nó làm thành tính đa nghĩa, sức sống
và tiềm năng diễn giải vô hạn của văn bản.
Từ góc độ của kí hiệu học văn hóa, đã là kí hiệu thì luôn mang tính ý
hướng, tính quan niệm. Cho nên vấn đề cốt yếu của việc nghiên cứu một văn
bản văn học từ góc nhìn kí hiệu học là phải chỉ ra được mô hình thế giới trong
quan niệm của nhà văn, mô hình ấy được kiến tạo qua ngôn ngữ, qua các mối
quan hệ chồng chéo phức tạp của các yếu tố trong văn bản đó.
Các nhà kí hiệu học trường phái Tartu mà tiêu biểu là Lotman xem văn
bản như một hộp đen, một “vật tự nó”, có nghĩa người ta không bao giờ có thể
nhìn xuyên thấu, có thể diễn giải được nó hoàn toàn, không bao giờ có một
tiếng nói xác quyết, hoàn kết về văn bản. Nhận thức sâu sắc điều này, chúng
tôi không có tham vọng rằng cách đọc văn học từ kí hiệu học có thể là một
cách đọc phổ quát và thay thế cho tất cả các cách đọc khác, về bản chất, mọi
tri thức, mọi diễn giải chỉ là hành động của ông thầy bói xem voi mà thôi. Tuy
nhiên, với xu hướng lấy văn bản làm trung tâm, lấy ngôn ngữ làm điểm xuất
phát, cách đọc kí hiệu học có khả năng nhất định đặt nền tảng cho các cách
đọc sau đó – có thể đối thoại, phản bác, bổ sung cho nó.
Tóm lại điều cuối cùng một nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa
cần chỉ ra là mô hình cấu trúc thế giới của nhà văn được bộc lộ qua hệ thống
kí hiệu, qua mối tương quan của các kí hiệu trong hệ thống, qua cấu trúc của
hệ thống đó. Nhưng cấu trúc thế giới tinh thần ấy lại được miêu tả chủ yếu
qua cái nhìn của chủ thể. Do đó, nghiên cứu kí hiệu học văn hóa tất yếu phải
đả động đến vấn đề chủ thể tính (subjectivity). Vấn đề cái tôi và mối quan hệ
của nó với thế giới, với các yếu tố xung quanh vì thế trở thành vấn đề trung
tâm của kí hiệu học văn hóa. Việc định hình chủ thể sẽ tạo ra nền tảng cho
68
việc tìm hiểu các yếu tố khác. Vậy chủ thể tính là gì, quan niệm chủ yếu về
chủ thể ở thời của Nguyễn Du và Shakespeare là như thế nào? Đó là các câu
hỏi sẽ được người viết trình bày ở các phần tiếp theo.
1.2. Chủ thể tính trong văn học trào lưu nhân văn chủ nghĩa
1.2.1. Khái niệm chủ thể tính
Trong phần này chúng tôi chủ yếu lược thuật theo các tác giả Donald E.
Hall trong cuốn “Subjectivity”* và Nick Mansfield trong “Subjectivity:
Theories of the Self from Freud to HarawayӠ.
Vấn đề chủ thể tính (subjectivity), việc đi tìm câu trả lời cho câu hỏi
“tôi là ai” (Who am I) là một vấn đề xuyên suốt trong lịch sử nhân loại, cũng
là khởi nguồn cho rất nhiều cuộc tranh luận không có hồi kết. Chủ thể có thể
hiểu là chủ thể trong quan hệ với bản thân mình, hay trong quan hệ với người
khác, và là chủ thể nhận thức. Bởi vì khi tôi dùng từ “tôi”, chưa chắc tôi đã
dùng nó theo nghĩa mà người khác dùng. Tôi thể hiện mình theo các cách
thức khác nhau khi ở trong các cương vị khác nhau: trong công việc, trong gia
đình, trong quan hệ bạn bè… Chủ thể tính nằm trong thế vừa đối lập vừa
tương quan với khách thể tính (objectivity).
Tuy nhiên trước hết cần hiểu bản chất, nguồn gốc khái niệm chủ thể và
phân biệt khái niệm này với các khái niệm gần với nó song có ý nghĩa khác
nhau. Về mặt từ nguyên, từ “chủ thể” (subject) có nghĩa là được đặt hay ném
xuống bên dưới (tiền tố sub = under = bên dưới). Một chủ thể luôn luôn phụ
thuộc vào hay tuân theo một cái gì đó khác, là chủ thể của một đối tượng nào
đó. Vì thế từ chủ thể hàm ý rằng bản ngã không phải là một thực thể tách biệt
và cô lập, mà luôn hoạt động ở giao điểm của những chân lý phổ quát và * Donald E. Hall (2004), Subjectivity, Routledge, New York. † Nick Mansfield (2000), Subjectivity: Theories of the Self from Freud to Haraway, Allen and Unwin, Australia.
69
những nguyên tắc chung. Vấn đề thống trị lý thuyết và gây ra tranh cãi là: bản
chất của các chân lý và quy tắc này là gì, phạm vi quyền lực của chúng là gì,
liệu chúng quy định ta hay bị ta - như các cá nhân – quy định. Mansfield phân
ra bốn loại chủ thể: thứ nhất là chủ thể của ngữ pháp (subject of grammar) –
như nguồn gốc của hành động, cảm xúc và kinh nghiệm mà ta dùng để nói về
cuộc sống của mình khi ta dùng chữ “tôi”(I) như chủ ngữ của câu. Từ góc độ
này, có thể thấy loại chủ thể tính này dễ gây nhầm lẫn: nó có vẻ như cho thấy
nghĩa đơn giản và trực tiếp nhất của ngã tính, nhưng vì ta chia sẻ nó với mọi
người dùng chung ngôn ngữ với mình, nó tự động đưa ta vướng vào một
mạng lưới rộng lớn, không ổn định, thậm chí vô tận và xuyên lịch sử của việc
tạo ra ý nghĩa. Thứ hai đó là chủ thể của chính trị - luật pháp (politico-legal
subject). Theo nhiều cách khác nhau, các luật lệ và thiết chế quy định những
giới hạn tương tác xã hội của ta, bên ngoài chứa đựng các giá trị đáng kể nhất
của ta, hiểu ta như người nhận và là diễn viên trong các mã và quyền lực cố
định: ta phải tuân theo đấng chủ tể, nhà nước và luật pháp. Ít nhất trong các xã
hội dân chủ tự do, loại chủ thể tính này đòi hỏi tinh thần công dân trung thực
và tôn trọng quyền cá nhân của ta. Vì có bổn phận với nhau, ta đi vào hay ít
nhất là đồng tình với cái mà Jean-Jacques Rousseau (1712-78) gọi là “khế
ước xã hội” (social contract) đòi hỏi ở ta các trách nhiệm nhất định và ngược
lại cho ta những tự do nhất định. Loại chủ thể thứ ba là chủ thể triết học
(philosophical subject). Ở đây cái tôi vừa là đối tượng của phân tích vừa là
nền móng của chân lý và tri thức. Immanuel Kant (1724-1804) là người phác
thảo những điều xác định vấn đề của chủ thể triết học: Tôi biết được thế giới
bằng cách nào? Tôi phán đoán về thế giới bằng cách nào. Ở đây chủ thể được
đặt ở trung tâm của chân lý, đức lý và ý nghĩa. Loại chủ thể thứ tư là chủ thể
như một cá thể người (subject as human person). Dù ta có thể phân tích cạn
kiệt ngã tính của mình dưới hình thức ngôn ngữ, chính trị và triết học, ta vẫn
70
sống bằng thứ kinh nghiệm trực tiếp và phong phú khi đi vào thế giới. Đôi khi
ta nỗ lực biểu hiện chủ thể tính của mình một cách đơn thuần và hết sức thông
thường: ta muốn thể hiện mình như một người bình thường, trực tiếp. Lúc
khác ta lại khao khát phép màu, sự nguy hiểm hay sự nổi tiếng, muốn gây ấn
tượng, muốn được nhớ đến. Ta thường sống trong một chuyến phiêu lưu vào
kinh nghiệm. Đó là cái mà ta thường hiểu như là ngã tính hay cá tính của
mình.
Chủ thể đôi khi được dùng thay thế cho “bản ngã” (the self). Từ “bản
ngã” thường không bao hàm các nghĩa gắn với xã hội và văn hóa như từ “chủ
thể ”(subject). Chủ thể tính quy chiếu tới một nguyên tắc trừu tượng hay phổ
quát, dù ta bị phân tách thành những bản ngã riêng biệt như thế nào, thì đời
sống bên trong của ta vẫn có liên hệ đến những đối tượng khác, hoặc là đối
tượng của nhu cầu, ham muốn hoặc quan tâm hay những người cùng chia sẻ
kinh nghiệm chung. Theo cách này, chủ thể luôn luôn nối với một cái gì bên
ngoài nó – một ý niệm hay một nguyên tắc hay cộng đồng các chủ thể khác.
Chủ thể đôi khi cũng được dùng thay thế cho “căn tính” hay “tính đồng
nhất”(identity). Căn tính được hiểu là một tập hợp riêng biệt các đặc điểm,
niềm tin và xác tín cấp cho con người một tính cách ổn định và một phương
thức tồn tại trong xã hội, trong khi chủ thể tính hàm ý chỉ mức độ suy tư và tự
ý thức về căn tính đó, đồng thời tạo ra những giới hạn, những đè nén hạn chế
khả năng lĩnh hội hoàn toàn căn tính của ta. Chủ thể tính như một khái niệm
có tính phê phán cho phép ta suy nghĩ về câu hỏi căn tính của ta xuất hiện từ
đâu và như thế nào, nó được hiểu ở mức độ nào, và ở mức độ nào nó là cái
vượt ra ngoài phạm vi ta có thể đo đếm được ảnh hưởng hay sự chi phối.
Chủ thể tính được xem là nằm ở giao điểm của hai ngành học thuật:
nhận thức luận (epistemology) – nghiên cứu về việc làm thế nào ta biết được
71
cái ta biết và bản thể luận (ontology) – nghiên cứu về bản chất của tồn tại hay
hiện hữu. Cái “tôi” nằm ở giao điểm giữa các khái niệm có tính hình thức và
trừu tượng cao với các cảm xúc trực tiếp và mãnh liệt nhất. Nó tập trung vào
bản ngã vừa như là trung tâm của kinh nghiệm sống và của ý nghĩa có thể
nhận ra được đã trở thành quyết định ở các nền văn hóa hiện đại và hậu hiện
đại. Nói cách khác, các nghiên cứu về chủ thể tính sẽ đặt câu hỏi: sự hiểu biết
tri thức của ta liên hệ hay ảnh hưởng hay giới hạn như thế nào đến sự hiểu
biết của ta về hiện hữu của chính ta? Và câu hỏi kéo theo sẽ là: sự hiện hữu
mang tính cá nhân và xã hội của ta có được xác định bằng cách thức ta tổ
chức tri thức chung hay không?
Donald E. Hall nêu ra hai lý do vì sao ngày nay các câu hỏi mà suy tư
về chủ thể tính đặt ra lại thuộc về phạm vi rộng lớn của phê bình văn học và
văn hóa. Lý do thứ nhất là trong lịch sử nhân loại, đây là các câu hỏi mang
tính tôn giáo, triết học và chính trị, song hầu như không cấu thành động lực
đằng sau những phân tích phê phán về tiểu thuyết, thơ ca, kịch và các hình
thức biểu đạt thẩm mỹ khác. Trái lại ngày nay lý thuyết văn học và văn hóa
đặt ra những câu hỏi siêu hình học lớn lao liên quan đến bản chất của hiện
thực, ngôn ngữ, quyền lực, giới tính, thân thể và cái tôi. Tất nhiên trong quá
khứ người ta đã đặt ra và cố gắng trả lời các câu hỏi này, song từ kỉ nguyên
hậu – Darwin, chúng không còn làm con người thỏa mãn nữa. Thêm vào đó,
trong khi triết học Anh Mỹ thế kỉ 20 hướng về các phương pháp mang tính
phân tích và định lượng, thì các câu hỏi lớn (big questions) này trở thành lĩnh
vực quan tâm của các nhà triết học lục địa (đặc biệt là Đức, Pháp) cùng các
nhà phê bình văn học Anh – Mỹ có đọc và sử dụng chúng. Nguyên do thứ hai
là sự mở rộng phạm vi của nghiên cứu văn học ra ngoài lãnh địa của thưởng
thức thẩm mỹ với các thể loại truyền thống thuần túy văn chương. Khái niệm
văn bản, như chúng tôi đã giới thiệu ở phần giới thuyết về kí hiệu học văn
72
hóa, cũng được mở rộng. Ở thế kỉ 19 và 20, căn tính được chính trị hóa một
cách sâu sắc và trở thành một phần của nỗ lực không ngừng của chúng ta để
hiểu các cách thức khác nhau trong đó căn tính được định giá hay bị chất vấn
về mặt xã hội, và được tái tạo qua quá trình đọc, nghiên cứu và tham dự vào
các văn bản văn hóa. Cho nên, trên thực tế, người ta khám phá “cái tôi” cũng
như một văn bản, một chủ đề của các phân tích mang tính phê phán, cả bên
trong và bên ngoài mối quan hệ của nó với các văn bản văn học và văn hóa
truyền thống. Mansfield bổ sung thêm: như các nhà lý thuyết hậu hiện đại đã
cố gắng chỉ ra, kỉ nguyên đương thời là kỉ nguyên mà ta luôn luôn phải thú
nhận về những cảm xúc của ta: trả lời các câu hỏi khảo sát trên tạp chí hay
mạng xã hội về điều ta thích, các khảo sát về chính trị gia mà ta ưa chuộng,
các nhóm quan sát việc ta phản ứng thế nào với các chiến dịch quảng cáo, các
trận đấu thể thao, các cuộc chiến, các vụ tai nạn hay tội phạm được truyền
hình ghi lại đều được thiết kế để tạo ra cảm xúc. Một vận động viên bơi lội
của kì thi Olympic bước ra từ bể bơi, những người nhà của nạn nhân từ tòa
án, người sống sót được lôi lên từ đống đổ nát đều phải đứng trước camera và
nói họ cảm thấy như thế nào.
Nghiên cứu về chủ thể trở đi trở lại với các câu hỏi: ta là ai, là gì, làm
thế nào và vì sao ta trở thành hay giữ nguyên là ta, và ở mức độ nào ta có khả
năng và năng lực trở thành khác đi. Ý thức về cái tôi của tôi đến từ đâu? Nó bị
chi phối như thế nào bởi những gì xung quanh tôi: nền giáo dục tôi thừa
hưởng, xã hội tôi sống, hệ thống chính trị mà tôi phải tuân phục và những
khao khát thôi thúc trong tôi?
Trong lịch sử, chủ thể tính chỉ thực sự xuất hiện với sự ra đời của triết học
Descartes khi ông suy tư về một cái tôi suy tư, biện biệt về một cái không thể
bị hoài nghi khi con người hoài nghi. Tuy nhiên, những mầm mống của cái tôi
73
hoài nghi, của chủ thể tự ý thức đã xuất hiện từ thời Phục Hưng, bắt đầu từ
thuyết viễn cận trong hội họa, khi người nghệ sĩ vẽ tranh xuất phát từ điểm
nhìn cá nhân của anh ta, từ đó mà bức tranh được bố cục xa gần. Trong tiến
trình của triết học từ hệ hình bản thể luận đến nhận thức luận đến ngôn ngữ
học*, quan niệm về chủ thể, hay nhận thức về chủ thể đã trải qua nhiều giai
đoạn: từ cái tôi hoài nghi thuần túy tinh thần của Descartes, nối tiếp bằng cái
tôi “phê phán” (chữ “phê phán” dùng theo nghĩa của Kant tức là biện biệt và
đi tìm những điều kiện khả thể để nhận thức thế giới) đến cái tôi chịu sự chi
phối của vô thức của Freud, Lacan và rồi là cái tôi nằm trong quan hệ “liên
vấn” (interpellation) của Althusser. Ngày nay thì các nhà nghiên cứu, dù có
chỗ tranh biện, song đều thống nhất với nhau ở chỗ: không có một cái tôi có
cấu trúc ổn định, toàn thể, nhất thống và bất biến. Theo “Phê phán lý tính
thuần túy” của Kant, có thể phân biệt những cái tôi khác nhau theo các tầng
bậc của hoạt động tâm thức: cấp độ thứ nhất là cái tôi hiện ra qua các cảm
giác (the sensual self) hay cái tôi tri giác (perceptual self): tôi cảm thấy tôi
đang vui, tôi đang buồn, tôi thấy cái này nặng cái kia nhẹ…; cấp độ thứ hai là
là cái tôi được phạm trù hóa, cái tôi qua hoạt động của giác tính
(understanding self) – cái tôi tự quan sát, phân tích, suy tưởng trên các phạm
trù khái quát hơn. Song cả hai cái tôi này đều khác với một cái tôi thứ ba, cái
tôi tự thân (self – in - itself) bất khả tri đối với tri thức lý thuyết. Nghiên cứu
văn bản chỉ có thể phán đoán về hai cái tôi đầu tiên, không thể tham vọng nói
về cái tôi tự thân.
Cái tôi về bản chất là một thực thể được kiến tạo, đúng hơn, không có
* Về sự phân biệt ba hệ hình này, có thể tham khảo thêm: Bùi Văn Nam Sơn (2013), “m.E” và đối thoại triết
học, nguồn: triethoc.edu.vn.
cái tôi mà chỉ có sự trình hiện về cái tôi.
74
Sự trình hiện cái tôi cũng đã trải qua một lịch sử dài mà luận án này
không dám có tham vọng bao quát. Trong phạm vi giới hạn của luận án,
người viết chỉ xin giới thiệu sơ nét về đối tượng chính: chủ nghĩa nhân văn
cùng quan niệm về chủ thể thời Nguyễn Du và Shakespeare.
1.2.2. Chủ nghĩa nhân văn cùng quan niệm về chủ thể thời Nguyễn Du và
Shakespeare
Về vấn đề chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng, chúng tôi chủ yếu dựa theo
các tác giả: Angelo Mazzocco trong “Interpretations of Renaissance
Humanism”*, Philip Schwyzer trong “Archaeologies of English Renaissance
Literature”†, Christopher S. Celenza và Kenneth Gouwens trong “Humanism
and Creativity in the Renaissance”‡ cùng Stephen Gersh và Bert Roest trong
“Medieval and Renaissance Humanism: Rhetoric, Representation and
Reform”§. Về mặt thời gian, ở phương Tây thời đại của chủ nghĩa nhân văn
(humanism) được xem là tiếp nối thời Trung Cổ (Middle Ages) tuy không hẳn
có một sự tách biệt rõ ràng. Nó gắn liền với một khái niệm khác là thời Phục
Hưng (Renaissance). Bản thân khái niệm này lại có một lịch sử phức tạp với
nhiều thăng trầm và hiện không phải mọi tranh cãi đã kết thúc.
Người đầu tiên đã nghiên cứu một cách đầy đủ, nghiêm túc về thời
Phục Hưng là Jacob Burckhardt, nhà lịch sử nghệ thuật trứ danh người Thụy
Sĩ trong cuốn “The Civilization of the Renaissance in Italy”** xuất bản năm
* Angelo Mazzocco (2006), Interpretations of Renaissance Humanism, Brill Leiden Boston, USA. † Philip Schwyzer (2007) “Archaeologies of English Renaissance Literature”, Oxford University Press, New York. ‡ Christopher S. Celenza and Kenneth Gouwens (2006) “Humanism and Creativity in the Renaissance”, Brill Leiden Boston , USA. § Stephen Gersh and Bert Roest (2003) “Medieval and Renaissance Humanism: Rhetoric, Representation and Reform”, Brill Leiden Boston , USA. ** Jacob Burckhardt (1960), The Civilization of the Renaissance in Italy, the translation of S.G.C. Middlemore, revised and edited by Irene Gordon, Mentor Books, The New American Library of World Literature, New York
1860. Lập luận xuất phát của ông là khoảng thế kỉ 14 và 15 ở Italia có một
75
điểm đặc biệt phân biệt nó với thế giới phương Tây, đó là sự phát triển mạnh
mẽ của chủ nghĩa cá nhân (individualism). Sự ưa chuộng các giáo sĩ thế tục
và việc nhấn mạnh vào con người đa dạng tạo thành đối trọng với giáo hội và
thế giới Trung Cổ nói chung. Các học giả Trung Cổ đặc biệt phản đối
Burckhardt ở chỗ ông cho giáo hội là tổ chức mê tín, cản trở sự phát triển của
lịch sử và lập luận ngược lại: chính giáo hội đã đem đến sự tái phát hiện về cá
nhân và thế giới nói chung. Một số người cực đoan đến mức phủ nhận chính
sự tồn tại của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng ở Italia. Một số học giả thậm
chí nói đến chủ nghĩa Phục Hưng ở thế kỉ 9. Đến khoảng những năm 1930
đến 1950, người ta bắt đầu nhìn nhận lại vấn đề theo nhiều cách khác nhau.
Ngày nay thì các học giả về cơ bản nhất trí ở chỗ thừa nhận có một chủ nghĩa
nhân văn Phục Hưng nhờ việc đọc sâu các văn liệu của thời kì này, nhất trí
rằng việc tái phát hiện thế giới và cá nhân là điều quan trọng làm nên sự thay
đổi của thời đại, tạo nên sự mở đầu thời hiện đại, phủ định chủ nghĩa khắc kỉ
và đóng vai trò là phản đề biện chứng của tư tưởng Trung cổ.
Về mặt từ nguyên, “humanism” được cho là xuất phát từ “humus”
nghĩa là bụi đất, chỉ con người như sản phẩm của Thượng Đế. Cũng có chỗ
cho là nó gắn với chữ “humanitat” nghĩa là văn hóa, giáo dục. Về cơ bản chủ
nghĩa nhân văn là một hệ thống tư duy bác bỏ niềm tin tôn giáo, tập trung vào
con người và giá trị, năng lực, phẩm cách của họ. Trào lưu nhân văn chủ
nghĩa ra đời ở phương Tây thế kỉ 14-16 được cho là xuất phát từ sự vỡ mộng,
sự suy giảm niềm tin vào nhà thờ và phép màu của Thượng Đế khi bệnh dịch
hạch (bubonic plague) tàn phá châu Âu, giết chết hơn một nửa dân số của
nhiều nước. Cùng với thảm họa trên là sự trỗi dậy của các đô thị trong lòng xã
hội phong kiến, khi tiền được tích lũy thông qua giao thương, quyền lực bị chi
phối bởi kinh tế. Tất cả những điều trên dẫn người ta đi tìm những diễn giải
khác bên cạnh những diễn giải mang tính tôn giáo. Những ý tưởng thiếu thực
76
tế, nghiêm khắc và gây ngột ngạt được thay bằng lý tưởng của chủ nghĩa nhân
văn, nơi việc nghiên cứu về sự tiến bộ và bản chất của con người là vấn đề
trung tâm. Chất xúc tác cho tư tưởng này là các phát kiến địa lý, các phát
minh khoa học cùng việc tái phát hiện gia tài đồ sộ của triết học Hy Lạp - các
trước tác của Aristotle làm bừng dậy niềm tin vào con người. Cho nên không
thể hiểu đơn giản Phục Hưng nghĩa là làm sống dậy giá trị của nền văn minh
Hy Lạp, thực ra nó là quá trình đi ra khỏi thời Trung Cổ một cách từ từ.
Đặc điểm quan trọng nhất của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng là tinh
thần thế tục, hướng về cuộc sống của con người, về cái “ở đây và bây giờ”
(here and now). Các nhà nhân văn chủ nghĩa không đặt nhiều lòng tin vào
phép màu và tránh các tư biện thần học, giải thích các sự kiện lịch sử trên nền
tảng duy lý nghiêm ngặt. Họ tin rằng con người nên tôn trọng con người bất
kể giai cấp, chủng tộc hay tín ngưỡng. Trong các nguyên tắc đạo đức cơ bản,
người ta xem tự do, công bằng, khoan dung và hạnh phúc là thái độ để con
người có thể sống một đời trung thực, có ý nghĩa mà không cần đi theo một
tín ngưỡng tôn giáo chính thống nào. Thay vì tin vào đời sống sau khi chết và
những nhận thức siêu hình về vũ trụ, các nhà nhân văn chủ nghĩa tin rằng con
người có thể hành động để đem đến ý nghĩa cho đời sống của họ bằng tìm
hạnh phúc trong chính đời sống này và giúp người khác cũng làm như vậy.
Nhà nhân văn chủ nghĩa cho rằng khi ta chết thì là như thế. Cơ thể người là
một tổ chức tuyệt vời, nhưng khi nó không còn hoạt động nữa, người ta chết
và không còn hiện hữu nào xa hơn nữa. Vậy thì con người nên sống như thế
nào: con người có vẻ đẹp, giá trị, phẩm giá. Con người sống trên trái đất là để
được yêu thương chứ không phải để chịu đựng. Cho nên họ có quyền theo
đuổi giàu có, sự thoải mái và cái đẹp. Mọi người đều xứng đáng được tôn
trọng, được quyết định cuộc đời mình và dùng lý trí để phân biệt đúng sai.
77
Trong cuốn Phương Đông học*, Konrad cho rằng khái niệm Phục Hưng
là một khái niệm mang tính thế giới. Ông dựa vào hai điểm tựa cơ bản là sự
hưng thịnh của đô thị trong lòng xã hội phong kiến, sự thức tỉnh những giấc
mộng giáo điều và hướng về trân trọng giá trị của đời sống con người có kể
đến cả niềm mong muốn phục hồi tinh thần nguyên sơ của các nhà tư tưởng
thời cổ đại để phân tích một loạt các trường hợp ở Trung Quốc, Nhật Bản và
một số nước Trung Đông…
Riêng trường hợp Việt Nam, xét theo các tiêu chí dẫn đến sự hình
thành tư tưởng nhân văn chủ nghĩa thời Nguyễn Du không phải là không có
những nét tương đồng với phương Tây thời Shakespeare: những cuộc chiến
tranh, những biến động đảo lộn cương thường làm người ta mất niềm tin vào
đạo lý thánh hiền. Thêm vào đó, sự hình thành và hưng thịnh của đô thị trong
lòng xã hội phong kiến, sự manh nha của ý thức thị dân, sự xuất hiện cả một
lớp người thị tài, khoe tài đã được Phan Ngọc phân tích rất kĩ lưỡng trong
cuốn “Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều”†. Trong văn học
Việt Nam thời kì này quả thực đã có cả một trào lưu nhân văn chủ nghĩa lên
tiếng về quyền sống của con người trong các sáng tác của Hồ Xuân Hương,
Nguyễn Gia Thiều, Đặng Trần Côn – Đoàn Thị Điểm…
Tuy nhiên, có thể nói tư tưởng nhân văn chủ nghĩa (humanism) không
phải là một tư tưởng đột biến của thời đại mà có mầm mống trong nền tảng
triết mỹ của cả Đông Tây nơi Nguyễn Du và Shakespeare thừa hưởng. Ở
phương Tây đó là truyền thống tin vào năng lực của con người có từ thời cổ
đại bên cạnh truyền thống tin vào sự cứu độ linh thiêng. Ở phương Đông, nó
cũng bắt nguồn từ tư tưởng trọng sự sống của Dương Chu. Nhìn vấn đề từ góc
* Konrad N.I (2007), Phương Đông học, Trịnh Bá Đĩnh tuyển chọn, giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội. † Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB Thanh Niên, Hà Nội.
độ này, có thể thấy tư tưởng mang tinh thần nhân văn hướng về con người và
78
đời sống thế tục thay vì các niềm tin giáo điều không phải chỉ là hiện tượng
riêng biệt của thời Phục Hưng. Nó có thể xuất hiện trong những thời điểm
khác nhau, dưới các hình thức khác nhau và đủ làm cơ sở cho nghiên cứu so
sánh song hành mà Nguyễn Du và Shakespeare có thể xem là các trường hợp
tiêu biểu.
Tiểu kết chương
Tóm lại trong chương I người viết đã trình bày khái lược về lý thuyết kí
hiệu học, kí hiệu học văn hóa, đưa ra một vài định hướng cơ bản của việc
nghiên cứu văn học từ kí hiệu học văn hóa có tính đến các thao tác cụ thể. Ký
hiệu học tất yếu đặt ra vấn đề chủ thể - cái nhìn về con người và các giới hạn
chi phối cái nhìn ấy. Vì thế trong chương tổng quan, người viết cũng đã trình
bày khái quát khái niệm chủ thể tính cùng quan niệm về chủ thể thời Nguyễn
Du và Shakespeare – thời được coi là có sự trỗi dậy mạnh mẽ của tư tưởng
nhân văn chủ nghĩa.
Xuất phát từ các điểm tựa lý thuyết trên, ở các chương sau, chúng tôi
chủ yếu đi vào tìm hiểu vấn đề chủ thể trữ tình trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
và thơ sonnet Shakespeare. Điều này có nghĩa chúng tôi đi tìm câu trả lời cho
câu hỏi “Ai đang bộc lộ tâm tình trong tác phẩm nghệ thuật”, chủ thể đó được
* Cũng cần phân biệt các khái niệm tác giả (the author) là Nguyễn Du, Shakespeare với tư cách là
những con người hiện diện trong lịch sử, là người đã viết ra các tác phẩm với chủ thể trữ tình (the speaker,
the lyric subject) là người phát ngôn, người trực tiếp bộc lộ tâm trạng, tình cảm trong thơ song về bản chất
cũng chỉ là một nhân vật, một sản phẩm được sáng tạo trong văn bản. Chủ thể trữ tình không thể bị đồng nhất
với tác giả, anh ta là con người được hình tượng hóa, trở thành một kí hiệu trong văn bản và đi vào mối quan
hệ với các yếu tố khác trong hệ thống văn bản. Một nhà văn có thể xưng “tôi” trong tác phẩm, nhân vật “tôi”
ấy có thể là một kẻ giết người, nhưng như thế không có nghĩa ông là kẻ giết người. Nguyễn Du có thể nói
“Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như” (Đọc Tiểu Thanh kí), song người đọc không
thể kết luận ông Tố Như trong bài thơ chính là ông Tố Như sống ở cuối thế kỉ 18, đầu thế kỉ 19, sinh năm
trình hiện như thế nào*. Nói như Heidegger, người ta không thể đi tìm câu trả
79
lời cho câu hỏi “tôi là gì” mà chỉ có thể đặt câu hỏi “tôi là ai”. Chủ thể này có
thể được biểu đạt trực tiếp thông qua đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, có thể
gián tiếp thông qua cách cảm, cách nghĩ, lối nhìn… Tuy nhiên cái tôi không
đến với người đọc một cách trực tiếp (cho dù có thể trong thơ các tác giả dùng
đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất) mà trung giới thông qua hệ thống kí hiệu – cụ
thể ở đây là ngôn ngữ. Đến đây thì phương pháp của kí hiệu học tỏ ra đắc
dụng vì nó là khoa học nghiên cứu bản chất của kí hiệu, các phương pháp giải
mã hệ thống kí hiệu. Thông qua việc đọc kí hiệu, ta có thể phần nào hiểu được
1765, mất năm 1820… Ông Tố Như trong đời thực lấy ba bà vợ, đẻ hơn chục người con, hiền lành chẳng bao
giờ tranh cãi với đời, nhưng ông Tố Như trong thơ lại là một kẻ luôn cô đơn chẳng có ai bên mình, như thể
chỉ có một mình trong đời, một kẻ không ngừng suy nghĩ, tranh luận, châm biếm… Giữa hai con người ấy là
cả một khoảng cách nghệ thuật. Cũng như vậy, trong sonnet, Shakespeare có khi nói trực tiếp “because my
name is Will” (bởi vì tên tôi là Will) (sonnet 136) nhưng ông Will trong thơ và ông Will trong đời có khi
hoàn toàn khác nhau, không có gì trùng khớp. Và đối tượng nghiên cứu của luận án là nhân vật thứ hai, chủ
thể trữ tình trong thơ, chúng tôi sẽ đặt chủ thể ấy trong các quan hệ nhiều tầng của văn bản.
sự trình hiện của chủ thể trữ tình qua cách biểu đạt của anh ta.
80
CHƯƠNG 2: CHỦ THỂ NỘI QUAN: VẤN ĐỀ THÂN XÁC
Về cơ bản, chủ thể có hai cách hình dung, biểu đạt bản ngã: thứ nhất là
bằng con đường nội quan, tự quan sát từ bên trong; thứ hai là thông qua soi
chiếu, nhìn ngắm các đối tượng ngoại tại. Trong tác phẩm nghệ thuật, cả hai
hình thức biểu đạt chủ thể đều trung giới qua kí hiệu ngôn từ. Ở chương này,
người viết tập trung vào cách biểu đạt thứ nhất: chủ thể nội quan về các kí
hiệu thân xác.
2.1. Ý thức về chữ thân
Quan tâm đến thân xác có thể xem là một nội dung mới đậm tinh thần
nhân văn chủ nghĩa của văn học cả thời Nguyễn Du và Shakespeare. Ở
phương Tây Trung cổ, quan điểm thần học Kito giáo xem ham muốn thể xác
là tội lỗi. Ở phương Đông, cả Nho, Phật, Đạo đều không chú trọng chuyện thể
xác, đều khuyên con người muốn đạt đạo phải vươn lên trên xác thịt trần tục.
Nho giáo dạy người quân tử “thực vô cầu bão, cư vô cầu an”. Người chỉ quan
tâm đến chuyện thỏa mãn thể xác là người hết sức tầm thường. Tuy nhiên,
trong thơ Nguyễn Du và Shakespeare, người đọc có thể thấy được sự xuất
hiện của một cái tôi được chú trọng cả phần hồn và phần xác. Với Nguyễn
Du, làm thơ không còn chỉ là để di dưỡng tính tình, tu tâm dưỡng chí mà đôi
khi chỉ là để tả chiếc thân, tả những cảnh tình, cảm giác của thân thể.
Shakespeare trong thơ mình cất lên tiếng nói thân xác như một đối tượng có
sức mạnh, nội lực riêng.
2.1.1. Thân xác con người trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ
sonnet Shakespeare
Vấn đề chữ “thân” trong sáng tác Nguyễn Du đã được Trần Đình Sử
đặt ra trong bài viết “Chữ thân và vấn đề thân phận trong tư tưởng Truyện
Kiều”. Trong bài viết, tác giả thống kê tần số xuất hiện của chữ “thân”, chữ
81
“phận” trong Truyện Kiều, xem vấn đề thân phận con người cũng là một chủ
đề quan trọng trong tác phẩm kinh điển của Nguyễn Du. Ông phân biệt chữ
“thân” mang hàm ý tôn giáo của đạo Phật, hàm ý triết học của Lão Tử, đồng
thời khẳng định có cả một dòng văn học chữ thân trong văn học Việt Nam thế
kỉ 18 mà Truyện Kiều là trường hợp tiêu biểu. Tác giả có một nhận định đáng
chú ý là chủ nghĩa nhân đạo thời Nguyễn Du khác với chủ nghĩa lý tính trong
chủ nghĩa nhân đạo phương Tây ở chỗ lấy chữ Thân làm nền tảng. Tuy nhiên,
tư tưởng “trọng thân” mạnh mẽ nhất có lẽ không phải ở Lão Tử mà là ở
Dương Chu, được Phùng Hữu Lan cho là người khởi đầu của Đạo gia. Dương
Chu chủ trương vị ngã, quý kỉ. Theo Mạnh Tử, Tận Tâm – thượng “Dương
Tử thủ vi ngã, bạt nhất mao nhi lợi thiên hạ bất vi dã”* (Dương Chu chủ
trương vị ngã. Nhổ một sợi lông mà có lợi cho thiên hạ thì ông cũng chẳng
làm). Xét cho cùng đó là tư tưởng khinh sự vật mà trọng sự sống, không vì
vật mà lụy thân. “Thiên hạ tuy lớn nhưng cũng là ngoại vật. Một sợi lông tuy
nhỏ nhưng thuộc hình thể của ta và là một phần sự sống của ta. Cho nên thiên
hạ thì đáng xem nhẹ mà một sợi lông thì đáng xem trọng”†.
Cảm hứng thương thân, xót thân có thể xem là một cảm hứng lớn trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare. Trong thơ chữ Hán,
Nguyễn Du dùng chữ “thân” tới 22 lần. Chữ “thân” có khi gợi lại âm hưởng
của Lão Tử lúc ông nói “Táp tải phù sinh hoạn hữu thân” (Cuộc phù sinh ba
mươi năm có mối lo vì có thân – Mạn hứng)‡, có khi mang tinh thần của
Trang Tử “Thử thân dĩ tác phàn lung vật” (Thân này đã là chim trong lồng –
Tân thu ngẫu hứng) , song nhìn chung đó là một chiếc thân lăn lóc trong cuộc
* Chi tiết xin xem: Phùng Hữu Lan (2013), Lê Anh Minh dịch, Lịch sử triết học Trung Quốc tập 1: Thời đại Tử học, NXB Khoa học xã hội, TPHCM, trang 187. † Phùng Hữu Lan, tài liệu đã dẫn, trang 188. ‡ Lão Tử, Đạo Đức kinh: “Ngô sở dĩ đại hoạn giả vị ngô hữu thân”.
đời. Tấm thân đó, bị đày đọa, đầy bệnh tật, như lá vàng, như cỏ bồng, luôn
82
ôm mộng về quê: “Thiên địa dữ nhân truân cốt tướng,/ Xuân thu hoàn nhữ lão
tu mi. (Trời đất bắt mang nghèo cốt tướng/ Tháng năm đem lại trắng mày
râu(Tự thán 1). Tấm thân này khi xuân đến lại buồn phiền vì nỗi hư hao:
Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng,
Thiên nhai vô tửu đối thanh minh
(Xuân tấm thân không còn trẻ
Góc trời chẳng rượu uống thanh minh)
(Thanh minh ngẫu hứng)
Thân được đặt song song với lá vàng:
Tứ thời hảo cảnh vô đa nhật,
Phao trịch như thoa hoán bất hồi.
Thiên lý xích thân vi khách cửu,
Nhất đình hoàng diệp tống thu lai.
(Bốn mùa cảnh đẹp được bao ngày
Vùn vụt thoi đưa gọi chẳng lùi.
Ngàn dặm năm chầy thân khách trọi,
Một sân thu đến lá vàng bay)
(Thu chí 2)
Cũng giống như Nguyễn Du, chủ thể trong sonnet Shakespeare tự hình
dung thân mình như chiếc lá tơi tả trên cành mùa trơ trụi:
83
That time of year thou mayst in me behold
When yellow leaves, or none, or few, do hang
Upon those boughs which shake against the cold,
Bare ruined choirs, where late the sweet birds sang.
In me thou see’st the twilight of such day
As after sunset fadeth in the west;
Which by and by black night doth take away,
Death’s second self, that seals up all in rest.
In me thou see’st the glowing of such fire,
That on the ashes of his youth doth lie,
As the deathbed whereon it must expire,
Consumed with that which it was nourished by.
This thou perceiv’st, which makes thy love more strong,
To love that well which thou must leave ere long.
(Trong tim anh chỉ mùa đông em thấy,
Khi lá vàng theo gió lạnh lắt lay,
Phất phơ treo trên cành khô run rẩy,
Vườn chim xưa nay tuyết trắng phủ dày.
84
Em chỉ thấy trong anh ngày sắp hết,
Khi hoàng hôn le lói phía chân trời,
Để bóng tối bằng màn đen cái chết
Khẽ buông dần, đang phủ kín khắp nơi.
Em chỉ thấy dưới tro tàn tuổi trẻ
Ngọn lửa hắt hiu thiêu cháy bao tình
Và những gì xưa làm đời đẹp thế,
Nay thành mồ chôn hết cả đời anh.
Em thấy hết, nhưng cũng từ buổi đó
Càng yêu thêm người từ lâu đáng bỏ.
(Sonnet 73)
Ý thức về con người như một thực thể hết sức mong manh dễ bị tác
động được thấy khá rõ trong thơ Nguyễn Du: “Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo/
Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân” (Người cứ bơ phờ, xuân cứ đẹp/ Thành
Đoàn đứng ngắm, hạt châu rơi – Xuân tiêu lữ thứ) và cả Shakespeare “Time
doth transfix the flourish set on youth/ And delves the parallels in beauty's
brow/ Feeds on the rarities of nature's truth/ And nothing stands but for his
scythe to mow” (Thời gian phá những mùa xuân tuổi trẻ/ Trên trán người,
nhiều nếp khắc in sâu/ Và những gì trong thiên nhiên đẹp thế / Trước thời
gian, tất cả phải cúi đầu – Sonnet 60). Từ đó, các tác giả nói đến thân bằng
85
một giọng than thở “Bách kì đãn đắc chung triêu túy/ Thế sự phù vân chân
khả ai” (Ước được trăm năm say khướt mãi/ Việc đời mấy nỗi, nghĩ buồn
thay! – Đối tửu) hay “When to the sessions of sweet silent thought/ I summon
up remembrance of things past/ I sigh the lack of many a thing I sought/ And
with old woes new wail my dear time's waste/ Then can I drown an eye,
unused to flow/ For precious friends hid in death's dateless night/ And weep
afresh love's long since cancelled woe/ And moan the expense of many a
vanished sight” (Khi yên tĩnh một mình ngồi suy nghĩ/ Điểm lại bao nhiêu
mất mát trong đầu/ Và luyến tiếc nhớ những gì yêu quý/ Vết thương lành lần
nữa bắt anh đau/ Anh đã khóc, dù không quen làm vậy/ Khóc người thân dưới
đất ẩm đang nằm/ Và nước mắt mối tình xưa lại chảy/ Và nỗi buồn thất vọng
bấy nhiêu năm... – Sonnet 30).
Con người nhân văn chủ nghĩa cho cơ thể là một tổ chức tuyệt vời và
đáng được trân trọng. Đáng trọng không phải chỉ ở chỗ nó mong manh yếu
đuối dễ hư hao thương tổn mà còn ở chỗ, nó là cái hiện hữu một lần duy nhất,
không có lần thứ hai. Ý thức về lúc này, bây giờ ở chủ thể trong thơ cả hai
nghệ sĩ là rất mạnh mẽ. Nguyễn Du luôn hoài nghi “Ninh tri dị nhật tây lăng
hạ/ Năng ẩm trùng dương nhất trích vô?” (Phía tây bãi cỏ khi nằm xuống,/
Chén rượu trùng dương ai tưới cho– Mạn hứng) và “Sinh tiền bất tận tôn
trung tửu/ Tử hậu thùy kiêu mộ thượng bôi” (Sống đã không vơi bầu rượu
được,/ Chết rồi ai rưới mộ mình đây?– Đối tửu). Cho nên ông cổ vũ “Hửu
khuyển thả tu sát/ Hữu tửu thả tu khuynh” (Có chó cứ giết thịt/ Có rượu cứ
nghiêng bầu – Hành lạc từ 1) còn Shakespeare cũng nhấn mạnh tính ngay lúc
này, ngay bây giờ: “Then hate me when thou wilt; if ever, now/ Now, while
the world is bent my deeds to cross/ Join with the spite of fortune, make me
bow/ And do not drop in for an after-loss:” (Nếu ghét tôi xin thể hiện lúc này/
Khi cuộc đời dìm tôi xuống đắng cay/ Khi không may tôi cúi đầu bất lực/
86
Đừng là cú đánh chót cùng khiến tôi ngã gục - Sonnet 99). Vì chỉ có cuộc
sống hiện tại, lúc này là đáng trọng, chết đi có nghĩa là kết thúc, Nguyễn Du
băn khoăn “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như”
(Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng) còn
Shakespeare phủ định luôn:
No longer mourn for me when I am dead
Than you shall hear the surly sullen bell
Give warning to the world that I am fled
From this vile world with vilest worms to dwell:
Nay, if you read this line, remember not
The hand that writ it, for I love you so,
That I in your sweet thoughts would be forgot,
If thinking on me then should make you woe.
(Đừng buồn lâu khi nhà thơ em chết,
Khi nghe tiếng chuông rung báo ngân rền,
Rằng thế giới này tối tăm, anh vĩnh biệt
Về thế giới côn trùng tăm tối đất đen.
Một ngày kia sonnet này em đọc,
Xin chớ phiền lòng thương tiếc nhà thơ.
87
Anh không muốn thấy em buồn, em khóc
Khi nhớ về anh, nhớ những phút bây giờ.)
(Sonnet 71)
Một điểm chung đáng chú ý khác là cả hai khi nhắc đến thể xác đều đặt
nó trong mối quan hệ với tinh thần. Tìm hiểu những giằng co phức tạp trong
việc nhìn nhận sự tương tác giữa tinh thần với thể xác sẽ cho ta thấy những
nét đặc sắc trong biểu đạt về chủ thể của mỗi nhà thơ.
2.1.2. Mối quan hệ giữa thân xác và tinh thần
Như trên đã nói, cả Kito giáo ở phương Tây thời Trung cổ lẫn Nho,
Phật giáo ở phương Đông đều không coi trọng thể xác của con người, chỉ có
linh hồn là bất tử, là cái cần di dưỡng, là cái đáng trọng. Lão Trang coi trọng
sự hài hòa của con người với tự nhiên và đề cao thiên tính của con người song
cũng chủ trương tiết dục, đặt nhẹ những hưởng thụ của “ngũ vị, ngũ quan”.
Từ đó có thể nói, trong mối quan hệ với tinh thần thì thể xác chỉ là phần thứ
cấp, phái sinh, phần “hình nhi hạ”. Trong Truyện Kiều, câu “thác là thể phách
còn là tinh anh”, có vẻ như cũng chịu ảnh hưởng của ý hệ này. Tuy nhiên, khi
đọc thơ chữ Hán, người đọc sẽ thấy những khác biệt tinh tế trong cách quan
niệm về mối quan hệ giữa thể xác với tinh thần của chủ thể trữ tình. Cũng như
vậy, khi nói: “As the riper should by time decease/ His tender heir might bear
his memory” (Như trái chín đến thì phải rụng/ Chỉ thế hệ sau mang kí ức của
người – Sonnet 1), chủ thể trữ tình đang đi tìm con đường bất tử cho linh hồn
khi thể xác rữa tan. Nhưng nói như vậy không có nghĩa là tinh thần, linh hồn
hoàn toàn giữ địa vị thống trị trong thơ sonnet Shakespeare và thơ chữ Hán
Nguyễn Du. Thông qua các đối lập thứ cấp, ta nhận ra được điều mà các chủ
thể biểu đạt. Mỗi tác phẩm có các hình thức đối lập khác nhau, trong thơ chữ
88
Hán Nguyễn Du, đó là đối lập giữa “thân” với “danh”; trong thơ sonnet
Shakespeare, đó là đối lập giữa “thể xác” (body) với “tâm trí” (mind) hoặc đôi
khi là “tinh thần”(spirit).
Sự đối lập thân – danh trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Trong bài “Tự thán”, Nguyễn Du viết:
Sinh vị thành danh thân dĩ suy
(Sống chưa làm nên danh, thân đã suy yếu)
Câu thơ, từ cấp độ âm vị đến nghĩa từ vị đều đối xứng qua chữ “danh”:
“sinh” (sống) – “suy” (suy yếu); “vị” (chưa) – “dĩ” (đã); “thành” (đạt
nguyện) – thân (trần trụi, không có gì). “Danh” thông qua các đối xứng âm vị
học và đối xứng về nghĩa từ trở thành trung tâm của câu thơ, cũng là của bài
thơ mà nhân vật trữ tình tự than thở về bản thân. Ám ảnh về danh là một ám
ảnh lớn gắn với mọi loại nhân vật trong thơ chữ Hán: người ca nữ đất La
Thành “Yên chi bất tẩy sinh tiền chướng/ Phong nguyệt không lưu tử hậu
danh” (Phấn son lúc sống chưa rồi nợ/ Trăng gió đời sau luống để danh), chủ
thể trữ tình “Vì danh phải lăn lóc trong đám bụi trần” mà “Hư danh chưa tha
cho người đầu bạc – Mạn hứng 1”, người đời “Thói đời suy kiệt bao người
chết vì danh”, “bao người đọc truyện Tô Tần vậy mà vẫn để phú quý làm hại
bản thân”.
Ám ảnh về “danh” quả thực là một ám ảnh lớn gắn với “thân”. Ông
thường đặt “thân” cạnh “danh” hoặc nói về “thân” trong sự xung đột với
“danh”. Điều này sẽ giúp người đọc cảm được khá nhiều bài thơ khó hiểu,
chẳng hạn bài “Điệu khuyển”:
Niệm nhĩ thuộc thổ súc,
89
Dữ nhân mao cốt đồng.
Tham tiến bất tri chỉ,
Vẫn thân hàn sơn trung.
Vẫn thân vật thán uyển,
Sổ thí vô toàn công.
(Nghĩ mày thuộc giống gia súc,
Lông xương cũng giống như người.
Ham tiến không biết dừng,
Bỏ mình trong núi lạnh.
Bỏ mình chớ oán than,
Bao lần thử sức mà không thành công)
Có hiểu được mối quan hệ chặt chẽ giữa “thân” và “danh” mới hiểu
được tâm sự gửi gắm trong bài thơ này. Con người nói thương con chó bỏ
mình trong núi lạnh, chớ oán than một lời và bao lần thử sức mà không thành
công, thực ra là thương cho chính mình. Ông cũng không hề giấu giếm ý đó:
con chó thuộc giống gia súc song “dữ nhân mao cốt đồng”. Người đang nói về
chính mình trong nỗ lực tìm kiếm công danh mà cả đời luôn mang mặc cảm
thất bại, ám ảnh lỡ làng, dang dở. Con người hình dung cuộc đời là “Bách
niên đa thiểu thương tâm sự” (Trăm năm của cuộc đời biết bao việc thương
tâm – Giang Đình hữu cảm). Các nhà kí hiệu học về thơ thường quan tâm đến
sự song hành của các yếu tố trong nhịp tạo ra nghĩa thứ cấp. Xét từ góc độ
ngữ nghĩa, cách ngắt nhịp của câu này rất đặc biệt, đó là nhịp 2/5. Bằng cách
90
này, tác giả đặt song song hai (cụm) danh từ, từ đó hoàn thành một vũ trụ,
một thế giới: “bách niên” chỉ thời gian, một đời người và “đa thiểu thương
tâm sự” chỉ thứ chất chứa trong thời gian ấy. Trong cuộc đời vô vàn việc
thương tâm ấy, điều con người luôn ôm ấp trong lòng, luôn kín đáo không nói
ra là gì? Có thể phần nào thấu cảm điều ấy qua các câu thơ chẳng hạn:
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long
(Đứng lặng trước sân nhìn khóm trúc,
Tuyết sương tiêu hết hoá rồng bay
(Ký hữu)
Chuyện “hóa rồng” thì ra là chuyện trở đi trở lại trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du:
Ngư long lãnh lạc nhàn thu dạ
Bách chủng u hoài vị nhất sư
Hai câu này bản Mai Quốc Liên dịch là :
(Cá rồng lặng lẽ đêm thu vắng,
Trăm nỗi u buồn chưa một lần được giải thoát)
Câu thơ như vậy rất khó hiểu, đặt trong văn cảnh toàn bài, người ta
không thể giải thích được sự xuất hiện của “cá rồng”. Tuy nhiên, theo cách
ngắt nhịp 2/5 và cách đặt song song danh từ/cụm danh từ quen thuộc trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du, cụm “ngư long” có thể hiểu là “ngư vượt long
môn”, từ “lãnh lạc” (đìu hiu) ở đây bổ nghĩa cho “nhàn thu dạ”. Như thế, câu
91
này có thể hiểu là: “Trong đêm khuya vắng lặng đìu hiu nghĩ chuyện cá chép
hóa rồng, trăm nỗi u hoài không nói ra được”*.
Như vậy có thể nhận thấy trong thơ chữ Hán Nguyễn Du sự giằng co
giữa quan niệm về thân thể như một hiện diện thể chất, một đau đớn hướng về
sự tráng kiện với thân thể như một hiện diện tinh thần đặt trong mối quan hệ
* Đó là lý do vì sao ông phân biệt cái thân đáng trọng với cái thân đáng khinh, cái “thân” thật và cái
“thân” giả. Trong loạt bài về Nhạc Phi và vợ chồng Tần Cối, ông nhắc đi nhắc lại ý này:
- Thị phi tẫn thuộc thiên niên sự,
Đả mạ hà thương nhất giả thân.
(Đúng, sai là chuyện nghìn năm định luận,
Đánh mắng có làm đau đớn gì cái thân giả ấy?)
(Tần Cối tượng 1)
- Bất lạn dữ sinh tam thốn thiệt
Thuần cương hoàn đắc vạn niên thân
(Sinh ra là đã có ba tấc lưỡi “bất hủ”
Lại có được cái thân bằng gang thép muôn năm bền vững)
(Vương Thị tượng 2)
Ông phân biệt giữa cái “thân” thật là đối tượng chịu sự tác động của thời gian, yếu đuối, dễ suy
nhược nhưng đáng trọng với cái “thân” giả mình đồng da sắt song một là không có cảm giác, hai là ô uế, bị
người đời phỉ nhổ.
† Chữ “thân” cũng cần được đặt bên cạnh chữ “nhân” khi nhân vật trữ tình tự định danh mình. Chủ
thể trữ tình có khi gọi mình là “dã nhân” (Sơn cư mạn hứng), “hành nhân” (U cư 2, Tái du Tam Điệp sơn,
Trở binh hành), “du nhân” (Độ Phú Nông giang cảm tác), “sầu nhân” (Sơ thu cảm hứng 2), “bạch đầu nhân”
(Mạn hứng 1), thường nhất là “vị/ bất quy nhân” (Giản công bộ Thiêm sự Trần 1, 2, Thu nhật ký hứng) và
“tha/dị hương nhân” (Xuân nhật ngẫu hứng, An Huy đạo trung, Độ Long Vĩ giang); tuy nhiên đáng chú ý là
các bài thơ ông đặt song song “thân” và “nhân” với “xuân”:
với danh†. Sự giằng co giữa “thân” với “danh” về bản chất là sự giằng co giữa
92
- Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng
Thiên nhai vô tửu đối thanh minh
(Ngày xuân nhưng thân mình không còn trai trẻ nữa
Ở chân trời, tiết thanh minh không có phẩm vật gì vui tết)
(Thanh minh ngẫu hứng)
- Xuân tòng giang thượng lai hà khứ
Nhân ỷ thiên nhai trệ nhất quan
(Xuân theo dòng sông đến nơi nào
Người nương chốn chân trời một chức quan cột chặt)
(Ngẫu thư công quán bích 2)
- Tha hương nhân dữ khứ niên biệt
Quỳnh Hải xuân tòng hà xứ lai
(Nơi đất khách người từ biệt năm cũ,
Xuân ở Quỳnh Hải từ đâu lại?)
(Xuân nhật ngẫu hứng)
- Cộng chỉ mai hoa báo tiêu tức
Xuân hà tằng đáo dị hương nhân
(Cùng trỏ hoa mai báo tin xuân,
Nhưng xuân có bao giờ đến với người từ nơi đất khách)
(An Huy đạo trung)
- Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo
Đoàn thành thành hạ nhất triêm cân
(Người cứ tiêu điều, xuân vẫn tươi đẹp,
Dưới Đoàn thành, nước mắt thấm khăn)
93
quan niệm về con người vũ trụ với một kiểu quan niệm mà ở đây chúng tôi
tạm gọi là “con người cảm năng”. Ông ngao ngán việc con người cứ phải
sống vì danh “Vạn cổ nhất hồng trần/ Kỳ trung giai lục lục” (Bụi hồng muôn
thuở nơi đây/ Biết bao nhiêu kẻ lao đao muộn phiền - Lý gia trại tảo phát),
ông đau đớn khi bản thân vì danh mà tóc bạc vẫn lặn lội trên đường (“danh” ở
đây cần hiểu theo nghĩa tích cực là sự tự ý thức của kẻ sĩ quân tử chứ không
phải theo cách hiểu của người hiện đại). Ông phủ nhận cách sống đó, ông
nhiều khi tự mỉa mai mình “không bệnh mà lưng cứ khom khom”, ông muốn
thoát ra*, và đó suy cho cùng là một sự phủ định “Nhãn tiền đắc táng dĩ nan
nhận/ Hà sự mang mang thân hậu danh?” (Được mất trên đời chưa dễ biết/
Cần gì lo tiếng hão về sau – Hành lạc từ 1).
Trong thơ sonnet Shakespeare, người ta thấy một mô hình tương quan
khác: tương quan giữa thân thể (body) với tâm trí (mind).
Sự đối lập thân thể (body) - tâm trí (mind) trong thơ sonnet Shakespeare
Trong sonnet Shakespeare, thân thể con người thường được hình dung
như một tờ giấy trắng, hay một tấm vải bạt dùng để vẽ tranh đã căng sẵn
(canvas) còn tinh thần, tình yêu là bút, mực tha hồ vẽ lên đó những hình thù,
kí ức. Đây là dấu nối vì sao nhà thơ hình dung người ta có thể đồng thời chiến
đấu với thời gian bằng thơ ca và bằng tình yêu – bằng cách in dấu mực không
thể bôi xóa lên thân thể người yêu dấu. Trong Sonnet 24, ông viết:
(Xuân tiêu lữ thứ)
Điều đáng chú ý trong các bài thơ trên là “xuân” luôn nằm trong thế đối lập với “thân” hay “nhân”.
* Nhưng đến với xuân, con người đó lại luôn luôn trong một cảm thức lỡ làng “Xuân nhật hữu thân phi thiếu tráng”, “Nhân tự tiêu điều xuân tự hảo”, con người dù khao khát đến mấy cũng không hưởng được cái đẹp của mùa xuân, không thể đắm mình trong xuân.
My body is the frame wherein ’tis held,
94
And pérspective it is best painter’s art.
(Thân thể tôi là chiếc khung lưu giữ
Bức họa tuyệt vời của nghệ sĩ tài ba)
(Sonnet 24)
Dù vậy, con người chớ bao giờ coi thường thể xác âm u mù tối, có khi
nó chỉ là cái khung để in dấu tinh thần, song tinh thần một khi đã in dấu rồi thì
vĩnh viễn không tách rời, không thoát ra khỏi thân thể. Và một khi thân thể bị
chôn vùi thì không còn gì đáng giá nữa, tinh thần sẽ mất nơi trú ngụ, vĩnh
viễn biến mất:
After my death, dear love, forget me quite,
For you in me can nothing worthy prove;
(Sau khi tôi chết, người yêu dấu, xin hãy quên tôi thật nhẹ nhàng
Bởi nơi tôi không còn gì đáng giá)
(Sonnet 72)
Và “My name be buried where my body is” (Tên tôi bị chôn vùi cùng
thân thể - Sonnet 72). Ở điểm này nó cũng phần nào tương tự như đối lập giữa
thân – danh tỏng thơ chữ Hán Nguyễn Du. Chỉ có điều chủ thể trong thơ
Shakespeare cho thân bị hủy thì danh cũng bị chôn vùi, vì không còn ai cất
tiếng, không lời đối chứng, còn chủ thể trong thơ Nguyễn Du thì cho rằng
thân bị chôn vùi trong nấm mộ, danh có thể còn nhưng vô nghĩa. Suy cho
cùng, đây là đối lập giữa cái “ở đây và bây giờ” với cái tương lai siêu hình xa
xôi diệu vợi, cái đời sống cảm năng trước mặt trải nghiệm từng ngày với cái
còn để lại sau khi chết
95
Thể xác và tinh thần thuộc về hai nhóm biểu tượng khác nhau.
Shakespeare phân biệt hành trình của thể xác và hành trình của tinh thần:
Weary with toil, I haste me to my bed,
The dear repose for limbs with travel tired;
But then begins a journey in my head,
To work my mind, when body's work's expired:
For then my thoughts (from far where I abide)
Intend a zealous pilgrimage to thee,
And keep my drooping eyelids open wide,
Looking on darkness which the blind do see:
Save that my soul's imaginary sight
Presents thy shadow to my sightless view,
Which, like a jewel hung in ghastly night,
Makes black night beauteous and her old face new.
Lo, thus, by day my limbs, by night my mind,
For thee, and for myself, no quiet find.
Kiệt sức vì lao động nhọc nhằn, vội vã tôi lên giường ngủ
Chân tay nghỉ ngơi sau mệt nhọc cuộc hành trình
Nhưng khi ấy khởi sự hành trình trong đầu óc
Thể xác yên rồi mà tâm trí không yên
96
Vì những nghĩ suy tôi, từ xa vẫn cứ
Xếp đặt chuyến hành hương hăng hái tới bên người
Và khiến mi mắt ríu xuống rồi lại mở
Nhìn vào bóng tối như người đui
Duy chỉ cảnh tưởng tượng trong hồn tôi
Hiện hữu bóng người nơi mờ câm cõi tối
Như đá quý trên cổ thần đêm nhợt nhạt
Khiến bà thành đẹp và gương mặt tươi lên
Vậy đấy, ban ngày vì chân tay và ban đêm vì tâm trí
Vì người, và bởi chính tôi, không thể có lặng im
(Sonnet 27 – NTM dịch)
Hành trình của thể xác thuộc về ban ngày, cái nằm dưới ánh sáng mặt
trời. Còn hành trình của tinh thần thuộc về ban đêm, có thể làm cho gương
mặt của phù thủy đêm đen rực sáng lên.
Sự gắn bó không thể tách biệt giữa thể xác với tinh thần
Có thể nói chính trong cố gắng tách biệt giữa thể xác với tinh thần, họ
nhận ra một điều dường như đi ngược lại với những gì họ được dạy và tin
97
tưởng, từ đó hoài nghi, đặt câu hỏi: có phải thực sự tinh thần là thứ bất tử,
quan trọng, đáng có vị thế ưu trội hơn thể xác? Dùng hình ảnh tấm gương thật
để soi thể xác là thứ yếu đuối, suy nhược, chóng tàn tạ và dùng trăng như một
tấm gương để soi tinh thần vốn là thứ bền vững, không suy chuyển, chủ thể
trong thơ Nguyễn Du có vẻ như dành địa vị tất nhiên cho yếu tố tinh thần.
Thế nhưng, trong Độc Tiểu Thanh ký, phần luận bàn về bi kịch của Tiểu
Thanh lại có câu:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư
(Son phấn có thần chôn vẫn hận
Văn chương không mệnh đốt còn vương)
Thật tình cờ là ở đây ta cũng thấy một quan hệ theo đường chéo
(chiamus) vốn rất thường thấy trong sonnet. “Chi phấn” (son phấn) là hoán dụ
chỉ vẻ đẹp thuộc về diện mạo. Nó gắn với “mệnh” mà những người đề cao
tinh thần thường cho là “nhẹ tựa lông hồng”. Còn “văn chương” ở đây chỉ giá
trị tinh thần, nằm trong quan hệ đồng nhất theo đường chéo với “thần”. Hai
phần ấy gắn chặt, không thể tách rời nhau.
Trong Sonnet 44, Shakespeare viết:
If the dull substance of my flesh were thought,
Injurious distance should not stop my way;
For then despite of space I would be brought,
From limits far remote where thou dost stay.
(Nếu người anh bỗng trở thành ý nghĩ...
98
Qua núi cao, qua sóng biển êm đềm,
Qua khoảng cách xa muôn trùng, anh sẽ
Như nhẹ nhàng cơn gió, đến cùng em.)
Nếu thể xác vô tri mờ đục có được sức mạnh của tinh thần thì rất nhiều
khó khăn đã được giải quyết, phép màu đã có thể xảy ra. Thế nhưng ngay
trong cách ví von ao ước ta thấy được giới hạn của linh hồn, sự phụ thuộc của
nó vào thể xác. Tâm trí có thể nghĩ những điều rất phi thường, nhưng không
có thể xác, không hoạt động nào thực hiện được. Tương tự cũng có lúc trong
thơ Nguyễn Du ta thấy sự bất lực của tinh thần vì thể xác:
- Dục điển túc sương mưu nhất túy
Nại hà đầu dĩ bạch như ngân
(Áo cừu muốn bán mua say ngất
Chỉ hiềm đầu tóc đã bạc phơ)
(Quảng Tế kí thắng)
- Đáo đắc thanh sơn tận
Kì như bạch phát hà
(Đến chỗ tận cùng núi xanh
Nhưng đầu đã bạc biết làm sao đây)
(Hoàng Mai đạo trung)
Như vậy, đã có những bài thơ chủ thể dần tiến đến không còn đối lập
giữa xác với hồn, xem chúng là một hợp thể thống nhất, phụ thuộc vào nhau
99
và ở một chừng mực nào đó, chuyển hóa cho nhau. Ta sẽ thấy điều này rõ hơn
khi đi vào cụ thể một số kí hiệu của thân xác, từ phương pháp phân tích của kí
hiệu học, đặt chúng trong các quan hệ song hành để hiểu được ý nghĩa gợi ra
qua các quan hệ ấy.
2.2. Các kí hiệu của thân xác
2.2.1. Tóc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, có một điều dễ nhận thấy là hình ảnh tóc
bạc xuất hiện với tần số lớn, thu hút sự chú ý của người đọc. Hình ảnh này
được gợi ra trực tiếp thông qua các từ “bạch đầu”, “bạch phát”. Theo khảo sát
của người viết, có 43 trên tổng số 250 bài thơ Nguyễn Du trực tiếp sử dụng
các từ trên. Chi tiết này cũng thường được nhắc đến trong một số công trình
phân tích thơ chữ Hán Nguyễn Du. Tuy nhiên, từ góc nhìn kí hiệu học, các tác
giả chủ yếu mới tiếp cận “bạch đầu”, “bạch phát” trên phương diện chất liệu
(substance), xem xét nghĩa của từ dưới góc độ ngôn ngữ tự nhiên*. Ở đây,
người viết đề xuất hướng phân tích đi tìm khía cạnh hình thức (form), xem
các từ trong thơ như một kí hiệu nghệ thuật.
Trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương”†, Saussure nêu lên hai cách
nhận diện giá trị của một kí hiệu: một mặt nó được thể hiện thông qua khả
năng liên hệ đến một cái khác nó (chẳng hạn một từ với một khái niệm, một
đồng tiền với cái bánh mì), mặt khác kí hiệu cần được đặt trong mối liên hệ
với các kí hiệu khác của cùng hệ thống (chẳng hạn từ trên với các từ có thể
* Các tác giả thường phân tích hình ảnh này như một biểu hiện của nỗi lo âu về tuổi già, và giải thích bằng
nỗi buồn gắn với những sự kiện trong cuộc đời nhà thơ.
† Ferdinand de Saussure, Cao Xuân Hạo dịch, tái bản lần thứ hai (2005), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương,
TPHCM: NXB Khoa học xã hội.
thay thế cho nó, đồng 1 đô la với, ví dụ, 2 đô la). Quan niệm của ông đã cung
100
cấp cơ sở lý thuyết để nghiên cứu không chỉ hệ thống kí hiệu nguyên cấp
(ngôn ngữ tự nhiên) mà còn cả các kí hiệu thứ cấp như ngôn ngữ nghệ thuật.
Giá trị của một kí hiệu không chỉ nằm ở bản thân nó, mà còn nằm trong mối
quan hệ tương đồng hay tương phản giữa kí hiệu đó với các kí hiệu khác. Sự
phân biệt tạo nên giá trị. Trong “Ngôn ngữ học và thi pháp học”*, Jakobson
nêu ra nguyên tắc tổ chức của văn bản thơ: trong thơ, người ta đem nguyên lý
song song của trục lựa chọn chiếu lên trên trục kết hợp. Từ đó dẫn đến một hệ
quả: quan hệ lựa chọn trong thơ thay vì là quan hệ giữa cái hiện diện với cái
vắng mặt đã trở thành quan hệ giữa những yếu tố hiện diện; chúng tạo thành
một hệ hình trong ý thức người đọc (và cả hệ hình này sẽ đối lập với các hệ
hình vắng mặt để họ thấy được quan niệm về thế giới trong tinh thần của nhà
thơ). “Cái vắng mặt” vốn ngầm ẩn và bị bỏ qua, bị lãng quên hay tự động hóa
trong ngôn ngữ tự nhiên khi đi vào thơ đã hiện ra cụ thể, làm rõ cho những
“cái hiện diện” khác. Trong “Cấu trúc văn bản nghệ thuật”†, Lotman chỉ ra: từ
trong ngôn ngữ nghệ thuật, một mặt vẫn là nó như trong ngôn ngữ tự nhiên,
mặt khác, lại đi vào các mối quan hệ song song trên nhiều cấp độ, được mã
hóa nhiều lần và do đó mang các nghĩa thứ cấp vốn không thể có trong ngôn
ngữ thông thường. Việc đặt các từ tối thiểu vào các vị trí tương đương tối đa
khiến chúng mở rộng biên độ nghĩa, trở thành đồng hay trái nghĩa lâm thời.
Tính đa nghĩa của văn bản nghệ thuật đến từ sức căng giữa ngôn ngữ nguyên
cấp và ngôn ngữ thứ cấp. Tất cả tạo thành tiền đề để phân tích ngôn ngữ trong
văn bản nghệ thuật nói chung, ngôn ngữ trong văn bản thơ nói riêng: căn cứ
vào các quan hệ song song của từ trong văn bản, ta có thể thấy không chỉ
* Jakobson (1960), Closing Statement: Linguistics and Poetics, in trong Style in Language, USA: The
Massachusetts Institute of Technology, trang 350-377.
† Jurij Lotman (1977), The Structure of the Artistic Text, USA: The University of Michigan.
nghĩa nguyên cấp, mà cả nghĩa thứ cấp của chúng.
101
Trở lại với các từ “bạch đầu”, “bạch phát” trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du, cách làm của người viết là đặt chúng trong các cặp câu song hành cú
pháp; xem xét chúng trong mối quan hệ với các yếu tố ở vị trí tương đương
của cùng hệ thống. Căn cứ trên các quan hệ tương đồng, tương phản mà nếu
đứng riêng rẽ, chúng không thể có được, ta sẽ phần nào hiểu nghĩa (meaning)
và giá trị (value) của kí hiệu này trong thơ Nguyễn Du. Người viết cũng so
sánh với thơ các tác giả khác cùng dùng các từ tương tự để thấy cái riêng của
Nguyễn Du trong cách sử dụng hình ảnh tóc bạc như một cách kiến tạo một
chủ thể hình dung về bản thân.
Trong số 43 bài thơ, có tới 11 lần “bạch đầu”, “bạch phát” được đặt vào
quan hệ song song, tương chiếu với núi (“Hồng Lĩnh” hoặc “thanh sơn”)*.
Chúng tôi sẽ phân tích các quan hệ song song này để thấy được từ “tóc bạc”
không phải một yếu tố riêng lẻ mà là một kí hiệu bị quy định bởi các yếu tố
tương đồng, tương phản với nó.
Trong bài thơ Tiềm sơn đạo trung, tác giả từng khẳng định “ta vốn có
tính yêu núi”† (Túc hữu ái sơn tích/ Biệt hậu tứ hà như – Vốn lòng yêu thích
non xanh/ Ra đi từ độ ôm lòng nhớ thương). Cách nói này dễ làm người đọc
* Trong bài viết “Nỗi buồn tha hương và mặc cảm lưu lạc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du” (trích trong
“Nguyễn Du tiếp cận từ góc độ văn hóa, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, trang 261-273), các tác giả Nguyễn
Bá Thành, Phạm Thị Tuyết nhận ra “Tóc bạc thường đi đôi với giấc hương quan”, và cho rằng Nguyễn Du
khao khát trở về như Bá Di, Thúc Tề khao khát xa lánh cuộc đời gió bụi, họ thấy Hồng Lam, với Nguyễn Du
là một giấc mộng lớn, nhưng chỉ cho đó là giấc mộng “Trở về với nơi cội nguồn phát tích, vứt bỏ mọi danh
lợi phù hoa, chấm dứt cái hành trình lưu lạc, thất cước mấy chục năm”. Chúng tôi nghĩ không hẳn là như vậy.
† Lưu ý là Nguyễn Du dùng chữ “tích” với nghĩa ham, mê, thậm chí “ghiền”, nghĩa là niềm hứng thú đối với
núi đã trở thành một phần quan trọng trong con người ông, khó mà bỏ.
‡ Đoạn ấy như sau: “Tử viết: trí giả nhạo thủy, nhân giả nhạo sơn; trí giả động, nhân giả tĩnh; trí giả lạc, nhân
giả thọ” (người trí yêu thích nước, người nhân yêu thích núi; người trí động, người nhân tĩnh; người trí vui
vẻ, người nhân sống lâu). Trần Trọng Kim giải thích sự “cho đi và không cầu được đáp trả” là đức nhân của
người quân tử. Tác giả Phạm Quang Ái trong bài viết “Xứ sở Hồng Lam trong tâm thức Nguyễn Du” (In
liên tưởng đến lời của Khổng Tử trong Luận ngữ, thiên Ung Dã‡. Hiểu như
102
vậy, tình yêu núi của chủ thể trữ tình gắn liền với đức nhân của nhà Nho, với
ý thích một cái đẹp bền vững của người tin vào đạo lý, cái đẹp ấy là nơi khởi
phát nguồn sống, cho đi mà không mong nhận lại. Trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du, chữ “sơn” cũng xuất hiện với tần số lớn. Ở đây có hai loại núi: một loại là
núi thực ông nhìn thấy thường là trên đường đi sứ, ông hoặc gọi tên cụ thể,
hoặc dùng chữ “sơn” chung chung; hai là loại núi mang tính ý niệm, mà ông
dùng chữ “thanh sơn”, và thường đặt song song với “bạch đầu”. Có người cho
tình yêu núi, mong ước trở về với núi thể hiện khao khát lánh đục về trong
vốn thường trực và đầy quen thuộc trong thơ của nhà Nho Việt Nam, chẳng
hạn Nguyễn Trãi*. Tuy nhiên, trong thơ Nguyễn Du ta thấy chủ thể thường
bộc lộ tình yêu núi, luôn mong được nhìn thấy núi, song lại phủ nhận khả
năng có thể trở về hay khi trên đường gặp được núi xanh thì không thể vui vẻ
như ý nguyện. Núi với nhân vật trữ tình chỉ còn là một cái gì xa vời, một nỗi
nuối tiếc, một niềm đau, nơi núi có một ước mong không khi nào đạt được.
Đến chỗ tận cùng núi xanh tưởng là đến nơi mình suốt đời mong mỏi, nhưng
có một điều gì đã ngăn người có cảm giác hạnh phúc, toại nguyện. Cũng như
Kiều trở về cùng Kim Trọng nhưng không bao giờ còn có thể như lúc ban
trong Nguyễn Du tiếp cận từ góc độ văn hóa, NXB Đại học quốc gia Hà Nội, trang 83-95) có nhắc đến đoạn
này trong Luận ngữ và cả bài “Tiềm Sơn đạo trung” của Nguyễn Du nhưng chỉ dừng lại ở chỗ khẳng định:
Nguyễn Du yêu núi nói chung, yêu núi Hồng nói riêng. Thực ra đây là điều hiển lộ trên văn bản, không cần
phải chứng minh, bàn bạc gì cả.
* Nguyễn Trãi dùng chữ “lâm tuyền” hay “tuyền thạch” để hình dung mộng trở về rừng suối, an nhiên với cỏ
cây của mình, chẳng hạn trong bài “Oán thán” (Phù tục thăng trầm ngũ thập niên/ Cố sơn tuyền thạch phụ
tình duyên) hay bài “Loạn hậu đáo Côn Sơn cảm tác” (Lâm tuyền hữu ước na kham phụ/ Trần thổ đê đầu chỉ
tự liên). Tình yêu đối với núi cũng được Nguyễn Trãi bộc lộ trực tiếp “Như kim chỉ ái sơn trung trú/ Kết ốc
hoa biên độc cựu thư”. Tuy nhiên, ông khác Nguyễn Du: tình yêu với núi trong thơ Nguyễn Trãi trong trẻo,
tươi sáng, là tình yêu của một đấng anh hùng dù trong hoàn cảnh nào cũng tự tin, cũng đầy hi vọng chứ
không dằn vặt, tuyệt vọng như Nguyễn Du.
đầu, quá nhiều điều đã trôi qua, chiếc thân đã tàn.
103
Nếu trong Truyện Kiều, người ta thấy một xu hướng phủ nhận kiểu tình
yêu tài tử giai nhân với cái kết đoàn tụ viên mãn trong văn học chữ Nôm thì
bằng những bài thơ như thế này, ta cũng thấy một xu hướng phủ nhận kiểu
nhà Nho an nhiên, tự tại, luôn có một chốn ẩn dật đợi chờ trong văn học chữ
Hán Việt Nam.
Phủ nhận cách hiểu, cách cảm của nhà Nho lánh đục về trong, vậy hình
ảnh núi trong thế song hành với tóc bạc có liên quan gì đến tinh thần của Lão
giáo hay không? Quả thật, trong thơ Nguyễn Du, ta có thể nhận ra ảnh hưởng
của Đạo gia rất đậm*. Nhưng không giống như Lão Tử coi trọng yếu tố nước,
xem nó là bản nguyên của sự sống, hài hòa phẳng lặng rất gần với đạo, chinh
phục cả thứ rất mạnh là đá bằng sự mềm yếu, bền bỉ của mình; nhân vật của
Nguyễn Du lại sợ nước và thấy ở nước sự trôi chảy lạnh lùng, nghiệt ngã của
thời gian, dòng sức mạnh đáng sợ của thiên nhiên. Chủ thể nhìn thấy trong
dòng nước lưu chuyển hình ảnh của mái tóc bạc. Tất nhiên, không dừng ở
việc tả thực, nhân vật thường có xu hướng đối lập nước với lòng mình. Trong
khi nước sông chảy không ngừng thì mối sầu lại dồn tụ, chồng chất, nghẹn ứ.†
* Chủ thể trữ tình trong thơ chữ Hán Nguyễn Du đặc biệt thấm nhuần tinh thần của Lão Tử về thuật tránh tai
họa: thương con chó vì ham tiến không biết dừng mà bỏ mình trong núi lạnh (Điệu khuyển), tự nhắc bản thân
dưỡng cái vụng về để phòng thói tục (U cư 1), tuyệt đối giấu mình, không tranh giành, cũng nhiều lần bàn
đến “Thuốc tiên lấy đâu ra” và “chi bằng đi học theo đạo thần tiên”. Ta còn thấy ở đây dấu vết của Trang Tử
trong hình dung về con người như các sinh vật tự nhiên nếu bị can thiệp sẽ đánh mất thiên tính, méo mó về
bản chất…
† Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, các bài miêu tả sông, nước rất nhiều, chẳng hạn bài Đồng Lung giang:
Đồng Lung giang thủy khứ du du
Kim cổ nhàn sầu bất trú lưu
Cách đặt song song nước sông đồng Lung với nỗi sầu kim cổ gợi ra một quan hệ ẩn dụ. Và trong khi đàn âu
theo dòng nước lội đi, thảnh thơi thanh thản thì con người mãi phải lặn lội trong kiếp phù sinh (Tiễn nhĩ dã
âu tùy thủy khứ/ Phù sinh lao lục kỉ thời hưu).
Nước đối lập với núi như cái biến đổi khôn lường với cái bền vững, đáng tin
104
cậy. Cho nên chủ thể khi nói “Bồi hồi chính ức Hồng sơn dạ/ Khước tại La
Phù giang thủy biên” (Bồi hồi đêm trước nơi Hồng Lĩnh/ Nay ở La Phù tận
bến sông – Sơ nguyệt) ngoài ý đối sánh các địa danh cụ thể còn hàm chỉ:
trong khi nhớ mong đến núi thì bên cạnh lại chỉ có nước. Từ nhãn quan Nho
gia, có người có thể giải thích đó là một cách tự xem mình là “nhân giả” trong
đối lập với “trí giả”. Tuy nhiên như trên đã nói, con người nhà Nho trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du là một kiểu nhà Nho hoàn toàn khác trước.*
Như vậy tình yêu núi, cặp song hành tóc bạc – núi xanh trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du có thể biểu lộ điều gì? Ở đây con người tuyệt vọng trong ao
ước “lánh đục về trong”, và chỉ nhắc đến Lão giáo như một cách xử thế, cũng
không tự ý thức mình như một “nhân giả” và phủ nhận khả năng là “trí giả”†.
Giống như trong khi Plato chỉ lên trời, Aristotle hướng xuống đất, trong khi
Đạo giáo hướng về tự nhiên (núi xanh là đường về với đạo, với tự nhiên),
Nho giáo hướng con người về với cuộc đời, thôi thúc họ dấn thân trong cuộc
đời ấy bằng các giềng mối, bằng đạo lý. Nguyễn Du ở chỗ nào trong mớ mâu
thuẫn ấy? Chìa khóa để giải quyết mâu thuẫn của hai hình tượng này là gì?
Khi nghiên cứu văn bản, người viết nhận ra Nho gia hay Đạo gia cũng chỉ là
chất liệu để bộc lộ nội tâm của chủ thể trữ tình. Nội tâm ấy được hiện thực
hóa qua các trường hợp song hành đa dạng của “tóc bạc” và “núi xanh”.
Bài Mạn hứng 2 có câu:
Vô cùng kim cổ thương tâm xứ
* Con người ấy, nếu không phải là loại hình mà các nhà nghiên cứu thuộc phái Trần Đình Hượu gọi bằng cái
tên “nhà Nho tài tử” (Chi tiết xin xem: Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà Nho tài
tử và văn học Việt Nam, Hà Nội: NXB GD) thì cũng không còn thuần là kiểu nhà Nho khi đắc chí thì hành
đạo, khi thất vọng thì lui về ở ẩn nữa.
† Thực ra tóc bạc mới là hình ảnh của Nho gia trong thế đối lập với thanh san – cái đẹp bất tuyệt hướng lên
trời của Đạo gia.
Y cựu thanh sơn tịch chiếu hồng
105
(Cổ kim xiết nỗi đau lòng
Là núi xanh chiếu chiều hồng như xưa)
Cái núi xanh xưa chiếu ánh chiều hồng thực ra là chốn nào? Tại sao đó
lại là xứ vô cùng thương tâm? “Vô cùng kim cổ thương tâm xứ” ở bài thơ này
đặt trong quan hệ với “cổ kim hận sự thiên nan vấn” (Đọc Tiểu Thanh ký),
“kim cổ nhàn sầu bất trú lưu” (Đồng Lung giang), “kim cổ hứa đa sầu” (Thu
chí), “kim cổ nhàn sầu lai túy hậu” (Dạ tọa)… thì có thể thấy, chốn thương
tâm “vô cùng kim cổ” luôn gắn với một nỗi đau trong tâm hồn chủ thể trữ
tình. “Núi xanh” cũng không quy chiếu đến một đối tượng cụ thể, mà là một
biểu tượng tinh thần. “Bạch phát” cũng vậy. Từ góc nhìn tiểu sử, các tác giả
nghiên cứu về thơ chữ Hán Nguyễn Du đều lấy làm quái lạ vì sao ông mới ba
mươi mà đã luôn tự miêu tả mình như một người “đầu bạc”. “Đầu bạc” có
phải đơn thuần là một tín hiệu của tuổi già hay không?* Trong số 43 trường
hợp sử dụng từ “đầu bạc” thì có đến 7 trường hợp tác giả đặt song song hình
* Trong thơ Đỗ Phủ, ta cũng thấy ông dùng các từ “bạch phát”, “bạch đầu”, “bạch thủ” để nói chuyện đầu
bạc, nhưng tần số xuất hiện của các từ đó ít hơn nhiều so với các từ miêu tả tuổi già. Nguyễn Du thì ngược
lại. Trong thơ Đỗ Phủ, chuyện “đầu bạc” là chuyện đã hoàn kết, còn trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, tác giả
thường miêu tả nó như một quá trình đang tiếp diễn.
† Đó là các trường hợp:
- Lưu lạc bạch đầu thành để sự
Tây phong xuy đảo tiểu ô cân
(U cư 1)
- Xuân sắc tiệm thiên hoàng điểu khứ
Niêm quang ám trục bạch đầu lai
(Đối tửu)
- Vạn lý tây phong lai bạch phát
Nhất song thu sắc tại hoàng hoa
(Tạp ngâm 1)
- Tha hương bạch phát lão bất tử
Tạc tuế hoàng hoa kim cánh sinh
ảnh này với hoa vàng, mùa thu, gió tây†. Đây đều là các hình ảnh gắn liền với
106
mùa thu dễ làm người ta liên tưởng đến tuổi già – mùa thu của đời người. Tuy
nhiên, các câu thơ chủ yếu nhấn vào sự tàn tạ, tổn thương của tinh thần con
người hơn là chuyện tuổi tác. Nỗ lực của người viết ở đây là muốn tách biệt
hết các yếu tố tiểu sử và bối cảnh, chỉ dựng lại các bức tranh tinh thần được
hữu hình hóa bằng các trường hợp cụ thể của văn bản.
Trong số 11 trường hợp đã nói ở trên, có 5 lần Nguyễn Du đặt song
song “bạch phát” với Hồng Lĩnh, 5 lần đối lập chúng với “thanh sơn”. Người
viết sẽ lần lượt phân tích các quan hệ này.
Quan hệ song hành bạch phát – Hồng Lĩnh
Các tác giả khi nhắc đến Hồng Lĩnh trong thơ Nguyễn Du thường xem
nó là một biểu hiện của lòng yêu quê, trong đó núi Hồng – sông Lam thường
đi thành một cặp. Quả thực, lòng nhớ quê là một đề tài lớn trong thơ không
chỉ Nguyễn Du mà nhiều tác giả trung đại khác. Có người giải thích cơ sở của
nó xuất phát từ tâm thức con người phương Đông chỉ thích sống trong chốn
quen thuộc, không ưa phiêu lưu và từ một điều kiện rất thực tế: thời trung đại,
khi giao thông cách trở chưa thuận tiện, đi lại khó khăn, người ta “Tài qua
Long Vĩ thủy/ Tiện thị dị hương nhân” (Vừa qua sông Long Vĩ/ Đã là người
tha hương – Độ Long Vĩ giang). Nhân vật trong thơ Nguyễn Du cũng nhiều
(Tạp ngâm)
- Tự thẩn bạch đầu khiếm thu thập
Mãn đình hoàng diệp lạc phân phân
(Thu nhật ký hứng)
- Quan ngoại thu phong tống địch xuy
Ban Siêu đầu bạch vị thành quy
(Đại tác cửu thú tư quy)
- Bạch phát thu hà hạn
Tây phong biến dị hương
(Tín Dương tức sự)
lần than thở: “Chỉ cách một đầu núi, đường về nhà mất có ba ngày mà riêng
107
ôm lòng nhớ quê đã bốn năm” (Nễ Giang khẩu hương vọng). Tuy nhiên, để
nói lên nỗi nhớ nhà, chủ thể trữ tình có thể trực tiếp dùng rất nhiều các từ
“hương quan”, “gia hương”, “cố hương”, “hương tâm”… Núi Hồng, sông
Lam là một cách biểu đạt, ngoài gợi ra địa danh cụ thể không có gì ưu việt
hơn các cách biểu đạt khác. Như trên đã nói, nếu tách hình ảnh thơ ra khỏi các
chi tiết về tiểu sử, về bối cảnh, chỉ căn cứ trên văn bản, ít nhất trong phạm vi
các câu thơ có đối lập bạch phát – Hồng Lĩnh, ý nghĩa của Hồng Lĩnh đã vượt
ra ngoài nghĩa cụ thể của một ngọn núi thực, chẳng hạn như trong bài Quỳnh
Hải nguyên tiêu:
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên
Nhìn trên bề mặt, bài thơ tả tình cảnh nhân vật trữ tình trong một đêm
trăng sáng, nhưng ở bề sâu, nó gợi ra bi kịch của một con người yêu cái đẹp,
tha thiết với cuộc đời song cũng ý thức rất rõ cái đẹp ấy không dành cho
mình. Hai câu này có thể hiểu là “Ở Hồng Lĩnh, ta không còn nhà, anh em tan
tác; đầu bạc, nhiều nỗi hận, ngày tháng trôi”. Tuy nhiên, thủ pháp tỉnh lược
chủ thể cùng sự song hành cú pháp khiến cho “Hồng Lĩnh” đứng song song
với “bạch đầu” thành hai chủ thể trữ tình của hai câu thơ đối nhau. Sự đồng
nhất giữa “tán” (ly tán, tan tác) với “thiên” (thiên di, chuyển dời), sự kết hợp
của “Hồng Lĩnh” với “vô gia huynh đệ tán” gợi ra một đồng nhất khác giữa
“bạch đầu” với “Hồng Lĩnh”, tạo một quan hệ ẩn dụ: Hồng Lĩnh và người đầu
bạc có điểm đồng nhất trong bi kịch không nhà và nhiều nỗi hận. Trong
trường hợp này, “Hồng Lĩnh” vốn là không gian, tĩnh lặng, bất biến nhưng
khi song hành với “bạch đầu”, kết hợp với cảnh không nhà, anh em tan tác đã
mất đi ý nghĩa tĩnh tại, nó cũng trở thành đối tượng bị tác động bởi thời gian,
bị cuốn vào sự thay đổi của cuộc đời, cũng đầy đau khổ. Hai câu thơ, xét trên
bình diện ngôn ngữ tự nhiên chỉ là câu kể việc song trên bình diện ngôn ngữ
108
nghệ thuật đã trở thành một mô hình thống nhất, miêu tả một cái tôi với hai
phương diện trái ngược: một con người bình thường, tóc nhuốm bạc theo thời
gian, đau lòng trước “thời quá cảnh thiên” bên cạnh một con người thi sĩ
mang vẻ đẹp của non Hồng, có cái thanh cao của núi, thanh bạch của mong
muốn sống trong sạch, có cái tâm sáng kiên trì bền vững giữa cái “tán” của
thời điểm lịch sử và “thiên” của quy luật muôn đời: sự trôi chảy của thời gian,
sự xoay vần, biến chuyển tất yếu, con người ấy, đau đớn vì “vô gia” – nỗi đau
cá nhân, cụ thể và “đa hận” – nỗi đau nhân tình thế thái. “Bạch đầu” và
“Hồng Lĩnh” trở thành hai thái cực trong tâm hồn của một chủ thể trữ tình –
“bạch đầu” là cái bên ngoài, còn “Hồng Lĩnh” là mặt bên trong. Chủ thể ấy bị
đặt trong dòng biến đổi không ngừng của các biến cố thời đại nói riêng, thời
gian vũ trụ nói chung.
Ngọn núi Hồng Lĩnh ấy thường gắn với mộng:
- Trần thế bách niên khai nhãn mộng
Hồng sơn thiên lý ỷ lan tâm
Bồi hồi đối ảnh độc vô ngữ
Bạch phát sổ hành thùy ngã khâm
(La Phù giang thủy các độc tọa)
- Hồng Lĩnh cách niên hư túc mộng
Bạch đầu thiên lý tẩu thu phong
(Nhiếp Khẩu đạo trung)
- Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạ liệp
Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên
(Hàm Đan tức sự)
Trong các trường hợp trên, Hồng Lĩnh và mộng khi thì gối đầu từ câu
này sang câu kia, khi thì đứng ở hai đầu câu thơ, khi đứng song hành như hai
danh từ để tạo ra cái mà các nhà nghiên cứu Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân gọi
109
là cú pháp độc lập, tạo ra ngôn ngữ ý tượng*. Vậy đó là mộng gì, có phải là
mộng về quê, chấm dứt đời lưu lạc, tha hương không? Quả thực trong thơ
Nguyễn Du có những hình ảnh quen thuộc của thơ xưa: nhớ rau thuần cá
vược, muốn về quê. Nhưng như trên đã nói, nó gắn với các từ “hương quan”,
“gia hương”, “cố hương”… nhiều hơn. Nói đến Hồng Lĩnh là nói đến chốn
non xanh nước biếc, phong cảnh hữu tình, là nơi đủ đầy để ngâm vịnh, không
lo không có nguồn cảm hứng:
- Sơn thượng hữu đào hoa
Sơn xước như hồng ỷ
Thanh thần lộng xuân nghiên
Nhật mộ trước nê trỉ
(Hành lạc từ 2)
- Hồng sơn nhất sắc lâm bình cừ
Thanh tịch khả vi hàn sĩ cư
(Tạp thi 2)
- Mạc sầu tịch địa vô giai khách
Lam thủy Hồng sơn túc vịnh ngâm
(Tặng Thực Đình)
- Lam thủy Hồng sơn vô hạn thắng
Bằng quân thu thập trợ thanh ngâm
(Phúc Thực Đình)
Cho nên, giấc mộng Hồng Lĩnh nghiêng nhiều về mộng văn chương.
Cũng giống như Hàn Mặc Tử mơ về thôn Vĩ không chỉ để “nhìn nắng
hàng cau nắng mới lên” ở một xóm nhỏ bên bờ sông Hương mà còn là về với
* Chi tiết xin xem: Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân – Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch (2000), Nghệ thuật ngôn ngữ
thơ Đường, Hà Nội: NXB Văn học.
cuộc đời trong trẻo, với tuổi trẻ ở độ mới bắt đầu, với cái đẹp thanh tân đã
110
vĩnh viễn mất đi trong cuộc sống đầy nghiệt ngã; chủ thể trữ tình trong thơ
Nguyễn Du về với núi Hồng trong mơ cũng là để về với nơi non nước hữu
tình cho ông nguồn cảm hứng mà ngâm vịnh, thỏa sức làm một người nghệ sĩ
đích thực.
Điều này càng nổi bật khi trong đối lập với Hồng Lĩnh, “bạch phát” gắn
với sự tàn tạ, cạn kiệt nguồn cảm hứng, mà Hồng Lĩnh như một chốn xa với
ao ước khơi nguồn hứng thơ. “Bạch phát” ở đây là những nhọc nhằn trong
cuộc đời, là những dấu vết cho thấy con người không có đủ thời gian, đủ điều
kiện, đủ tự do để làm người nghệ sĩ đích thực. Hồng Lĩnh là biểu trưng của tự
do, của không gian sáng tạo dành cho người nghệ sĩ.
Như vậy đối lập bạch phát – Hồng Lĩnh là đối lập của giấc mơ thành người
nghệ sĩ trong sạch, ngâm vịnh, hết mình cho văn chương – thứ văn chương có
lúc được tự nhủ là chỉ để “mua vui cũng được một vài trống canh”, thứ văn
chương mà chủ thể tự nhận là “chả ích gì cho ta”, nhưng “sách vở đầy mà mãi
không chán”. Núi Hồng vì thế trở thành cái tôi thứ hai của chủ thể khi ông
viết:
Vị ngã Hồng sơn tạ tùng thạch
Tái vô diện mục kiến đồng minh
(Non Hồng thâm tạ tình ta
Thề xưa lỗi hẹn xót xa nỗi niềm)
(Tạp ngâm 2)
Thủ pháp đặt song song ngã/ Hồng Sơn có thể gợi ra một nghĩa khác*: Vì ta
núi Hồng từ tạ với cây tùng tảng đá. “Hồng sơn” trở thành người đại diện,
người bạn, là một cái tôi khác của chủ thể. Cho nên có những khi tác giả nhớ
Hồng sơn không hẳn là nhớ về quê nhà như một không gian sống mà là nhớ
về một cái tôi khác của mình, một con người khác ở trong mình. Cho nên, khi * Thủ pháp này đã được các tác giả Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân và Francois Cheng phân tích rất hay, lấy trường hợp là các bài thơ Đường.
111
cái tôi “tóc bạc” không còn mặt mũi nào gặp đồng minh, thì cái tôi kia từ tạ,
đó là cái phần bản ngã đã bị chôn vùi đi, không có cơ hội được sống, được
hiện diện. Tương tự như vậy là hai câu trong bài “Hàm đan tức sự”:
Hồng Lĩnh mộng trung hoang xạ liệp
Bạch đầu túc tích biến sơn xuyên
“Hồng Lĩnh mộng trung” thường được dịch là “trong mơ về Hồng Lĩnh”. Tuy
nhiên, hình thức tỉnh lược chủ thể khiến câu thơ có xu hướng được hiểu thành
“trong mơ của Hồng Lĩnh”, nhà thơ đồng nhất bản thân với Hồng Lĩnh, nó
nhất quán với câu thứ hai “bạch đầu túc tích” (dấu chân của người đầu bạc) –
thực chất cả hai câu chỉ nói về một chủ thể bị phân rã với các phần khác nhau.
Giống như khi viết về Tiểu Thanh với tâm thế của người trong cuộc,
chủ thể trữ tình đã chỉ ra hai bi kịch của nàng; khi tự hình dung về bản thân,
con người trong thơ Nguyễn Du cũng chỉ ra hai bi kịch: thứ nhất là bi kịch
của người nghệ sĩ như trên đã nói, thứ hai là bi kịch của con người mộng mơ
nhưng mộng không bao giờ có thể thành. Điều này được thể hiện qua quan hệ
song hành thứ hai:
Quan hệ song hành bạch phát – thanh san
Trong My trung mạn hứng, ta bắt gặp một câu thơ gây suy nghĩ:
Ngã hữu thốn tâm vô dữ ngữ
Hồng sơn sơn hạ Quế giang thâm
(Tấc lòng ta biết cùng ai tỏ
Hồng Quế cao sâu phỏng mấy tầm.)
Người ta thường dẫn hai câu này để làm minh chứng cho việc con
người Nguyễn Du không đơn giản, ông có nhiều tâm sự sâu kín. Nhưng tâm
sự đó là gì? Nguyễn Du bảo rằng ông không thể nói ra, nó im lìm như dòng
sông Quế dưới chân núi Hồng. Lại có lúc ông chỉ nói một nửa: “Trù trướng
lưu quang thôi bạch phát/ Nhất sinh u tứ vị tằng khai’ (Ngày tháng trôi mau
112
buồn tóc bạc,/ Nỗi riêng u uất chửa chừng khuây. – Thu chí). Bằng những nỗ
lực dùng tiểu sử giải thích cho văn bản và ngược lại, dùng văn bản minh họa
cho tiểu sử, các nhà nghiên cứu đã bàn rất nhiều, rằng đó là tâm sự “hoài Lê”,
là nỗi lòng của một người làm quan trong thế “Hàng thần lơ láo phận mình ra
đâu”… Có thể thấy những tranh cãi như vậy sẽ không bao giờ kết thúc, hơn
nữa là sự bàn luận về “vật tự thân” (thing in itself như cách gọi của Kant) bất
khả tri, bất khả tư nghì và đồng nhất hai yếu tố thuộc về hai hệ thống khác
nhau. Ở đây người viết đề xuất hướng tiếp cận kí hiệu học, tạm thời bỏ qua
một bên các yếu tố ngoài hệ thống và chỉ tập trung vào các mối quan hệ hình
thức trong văn bản*.
“Bạch phát” nếu trong thế đối lập với “Hồng Lĩnh” thường gắn với
cảnh ngộ bi đát ở khía cạnh tâm hồn khô kiệt, không cách gì hưởng cái đẹp
của cuộc đời thì trong thế đối lập với “thanh san”, cái được nhấn mạnh là sự
thất bại trong cuộc đời, là đau đớn bị người sai khiến, không làm nên sự
nghiệp gì:
- Lão lai bạch phát khả liên nhữ
Trú cửu thanh sơn vị yếm nhân
(Ở mãi, non xanh chưa chán khách,
Về già tóc bạc khá thương người.)
(Thu dạ 1)
- Khả liên bạch phát cung khu dịch
Bất dữ thanh sơn tương thủy chung
(Thương thay tóc bạc còn vất vả
Chẳng cùng non xanh giữ thủy chung)
* Cách làm này dựa trên tiền giả định là ý đinh hay tâm sự thật của Nguyễn Du là gì thì không ai biết được hoàn toàn chính xác , ta chỉ có cái xác tín nhất là văn bản trước mặt mình mà thôi.
(Vọng Thiên Thai tự)
113
“Thanh sơn” trong Thanh Hiên thi tập gắn với một nỗi đau lòng xưa
cũ, gần như một niềm tuyệt vọng:
Thanh sơn thương vãng sự
Bạch phát phục trùng lai
Non xanh việc trước đau lòng
Bạc đầu ta lại long đong chốn này.
(Độ Phú Nông giang cảm tác)
Hai câu này thường được dịch thành “Nhìn núi xanh thương việc cũ/
Tóc bạc lại quay về chốn xưa”. Tuy nhiên, chữ “trùng lai” không khỏi khiến
người ta liên tưởng đến cái nghĩa trong một thành ngữ rất quen thuộc “họa vô
đơn chí/ phúc bất trùng lai”, cộng với thế song hành “thanh sơn” và “bạch
phát”, câu này còn có thể hiểu là “Đang lúc núi xanh đau thương vì chuyện cũ
thì tóc bạc lại đến”: nỗi đau nhân lên gấp đôi, chuyện tóc bạc xếp chồng lên
chuyện buồn của núi xanh, hai bi kịch gom lại một nơi.
Đến Bắc hành tạp lục, “thanh sơn” luôn song hành với người lặn lội
trên đường làm nhiệm vụ:
Nhất lộ giai lai duy bạch phát
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san
(Bầu bạn đường xa chòm tóc trắng
Mắt nhìn nửa tháng dãy non xanh)
(Nam quan đạo trung)
Và đến gần cuối đời, ông nói:
Đáo đắc thanh sơn tận
Kỳ như bạch phát hà
(Đến chỗ tận cùng núi xanh
Mà đầu đã bạc biết làm sao đây)
(Hoàng Mai đạo trung)
114
Vậy “thanh san” trong đối lập với “bạch phát” có thể là gì? Nỗi buồn
không thể nói ra của chủ thể trữ tình trong thơ Nguyễn Du có thể là gì? Muốn
hiểu rõ điều này, cần gắn với một số bài thơ khác, chẳng hạn bài “Bát muộn”.
Các tác giả thường dịch tên bài là “xua nỗi buồn”. Tuy nhiên, chữ “bát” còn
có nghĩa là “khêu, khơi”*. Kết thúc bài thơ lại là “Bách chủng u hoài vị nhất
sư” (Trăm mối u sầu chưa một lần tỏ bày). Như vậy, bài thơ khó lòng hiểu là
“xua nỗi buồn” mà đúng hơn nên là “khơi nỗi buồn”. Vậy nỗi buồn ấy là gì?
Cần đặt nó trong tương quan với câu cùng liên thơ “Ngư long lãnh lạc nhàn
thu dạ”. Câu này thường được dịch là “Cá rồng lặng lẽ đêm thu vắng”. Tuy
nhiên chữ “lãnh lạc” (hiu quạnh) nên được hiểu là bổ nghĩa cho “thu dạ”. Như
vậy, câu thơ tạo thành hình thức song hành hai danh từ gợi ra nhiều ý nghĩa:
cá rồng trong đêm thu vắng hiu quạnh, hay trong đêm thu hiu quạnh nghĩ đến
chuyện cá hóa rồng. “Cá vượt vũ môn” hóa rồng liên quan trực tiếp đến nỗi
lòng sâu kín của người phát ngôn. Ý này cũng xuất hiện ở bài “Ký hữu 1”:
Vô ngôn độc đối đình tiền trúc
Sương tuyết tiêu thời hợp hóa long
(Đứng lặng trước sân nhìn khóm trúc,
Tuyết sương tiêu hết hoá rồng bay.)
Trong một số bài thơ, tâm sự này có vẻ được phát biểu trực tiếp, vẫn
thông qua các hình thức song hành với “đầu bạc”:
Tráng sĩ bạch đầu bi hướng thiên
Hùng tâm sinh kế lưỡng mang nhiên
(Trai tài đầu bạc ngóng trời than,
Dựng nghiệp mưu sinh luống lỡ làng.)
* “Khiêu bát” là khêu gợi, “bát huyền” là gảy đàn, “bát đăng” là khêu đèn.
(Tạp thi 1)
115
Ở đây “tráng sĩ bạch đầu” được đem song chiếu với “hùng tâm” và
“sinh kế”. “Hùng tâm”* là giấc mộng anh hùng vĩnh viễn không bao giờ thành
sự thật, “sinh kế” là thứ mà vì nó, giấc mộng thành một nghệ sĩ cũng tiêu tan.
Trực tiếp hơn là bài Tự thán 2:
Thư kiếm vô thành sinh kế xúc
Xuân thu đại tự bạch đầu tân
(Dở danh thư kiếm lại cùng quẫn,
Lần lữa xuân thu tóc bạc rồi)
Hai giấc mộng lớn được đề cập ở đây là “thư” (giấc mộng văn chương)
và “kiếm” (giấc mộng lập công tích). Nhưng giấc mộng nào cũng dang dở, cái
hiện diện chỉ có đầu bạc mà thôi. Đời con người này chỉ toàn thất bại. Đó là lí
do vì sao có lúc ông thốt lên “Sinh vị thành danh thân dĩ suy/ Tiêu tiêu bạch
phát mộ phong xuy†” (Danh phận chưa thành, thân yếu đau,
Bơ phờ tóc bạc gió may chiều.). Người ta khi “công thành” mới mơ
“thân thoái”, nhưng con người này chưa làm nên công trạng gì, thân đã suy
yếu‡.
Như vậy, hình ảnh tóc bạc trong thơ chữ Hán Nguyễn Du vừa vẫn
mang nghĩa như vốn có trong ngôn ngữ tự nhiên, vừa không còn là nó, vì nó
Thanh chiên cựu vật khổ trân tích
Bạch phát hùng tâm không đốt ta
(Khai song)
Sự bao hàm của “cựu vật” đối với “thanh chiên” làm người ta liên tưởng đến một sự bao hàm tương tự của
“hùng tâm” với “bạch phát”. Người thơ giữ lại vật cũ khư khư bên mình, cũng như lòng luôn ôm giấc mộng
không thành.
† Đỗ Phủ cũng từng có câu thơ tương tự “Nam nhi sinh bất thành danh thân dĩ lão”. Trong khi Đỗ Phủ dùng
chữ “lão” (già) thì Nguyễn Du dùng chữ “suy” với nghĩa suy yếu, mệt mỏi, nhụt chí, như cô Kiều mới 30 đã
“tắt lửa lòng” chứ không phải chuyện tuổi tác.
‡ Các hình thức song hành đầu bạc – sinh kế bổ sung, giải thích thêm cho bi kịch của ông (trích)
không hẳn đối lập với “tóc xanh” mà mang những dung lượng ngữ nghĩa khác * “bạch phát” và “hùng tâm” còn xuất hiện trong một hình thức song hành khác:
116
khi được đứng trong các quan hệ song song nhờ sự song hành cú pháp. Các
hình thức song hành, đặc biệt là song hành về cú pháp trong thơ, theo các nhà
kí hiệu học, rất giống cách làm trong nghệ thuật montage của điện ảnh: việc
đặt hai cảnh cạnh nhau sẽ làm xuất hiện trong đầu người đọc các liên tưởng
mà nếu đứng tách rời nó không thể có được.
Cách đối lập tóc bạc – núi xanh cho thấy ở chủ thể hai con người: con
người nghệ sĩ đầy bi kịch và một người mộng mơ luôn thất bại. Suy cho cùng,
nó là sự hiện hữu của một con người mơ mộng sống trong thực tế phũ phàng.
Con người ấy, một mặt chấp nhận đối mặt với cái thực tế nghiệt ngã, mặt
khác lại vẫn khăng khăng sống với giấc mơ.
2.2.2. Mắt trong thơ sonnet Shakespeare
Cũng giống như các bài thơ về tóc của Nguyễn Du, các bài thơ về mắt
chiếm một tần số lớn trong sonnet của Shakespeare. Có 52 trên tổng số 154
bài sonnet xuất hiện chữ “eye” hay “eyes”, trong đó 12 bài chúng đóng vai trò
là key word hoặc Couplet Tie theo Helen Vendler*. Trong “Một ghi chú về
các bài thơ “mắt và tim” và các vấn đề về mối quan hệ giữa các bài sonnet
trong chuỗi 1609”†, Booth đặt ra vấn đề rằng mặc dù Shakespeare sáng tác rất
* Key word và Couplet Tie là các thuật ngữ Vendler sử dụng trong cuốn “Nghệ thuật thơ sonnet
Shakespeare” của bà. Couplet Tie là các từ xuất hiện ở phần thân của bài sonnet (câu 1-12) và được lặp lại
trong cặp câu cuối (13-14). Tác giả dùng chữ “từ” theo nghĩa là từ và các biến thể của nó, chẳng hạn, các
trường hợp live, lives và outlive được Vendler cho là cùng một “từ”. Theo bà, Shakespeare có nhiều nỗ lực
trong việc tạo ra mối liên kết giữa phần thân của bài sonnet và cặp câu cuối, và các từ được ông chọn để lặp
lại theo cách này luôn là các từ có ý nghĩa lớn về mặt chủ đề. Ngoài ra Shakespeare còn sử dụng một hình
thức lặp lại phức tạp hơn là cách dùng Couplet Tie. Ông thường nối bốn phần của bài sonnet (ba khổ tứ cú và
một cặp câu cuối) bằng cách lặp lại ở mỗi trong các phần này một từ đơn. Từ này xuất hiện ít nhất 4 lần trong
bài sonnet, ít nhất một lần trong mỗi phần đã nói ở trên. Vendler gọi từ đó là KEY WORD(Chi tiết xin xem:
Helen Vendler 1999: xiv-xv).
† Stephen Booth, tài liệu đã dẫn, trang 489-491
nhiều bài sonnet dựa trên sự ý thức về mắt và tim, gần như tạo thành một
117
chuỗi và khiến người đọc đọc bài này sẽ liên tưởng đến bài kia, rồi đồng nhất
ý nghĩa của các hình ảnh xuất hiện trong chúng, nhưng vấn đề không đơn giản
như vậy. Chúng vừa có sự đồng nhất vừa có sự phân biệt, ngay cả khi người
đọc hiểu được những hàm ý khi Shakespeare viết các bài thơ*, họ cũng cần
luôn luôn lưu ý đến các khác biệt trong từng bài thơ.
Trong Sonnet 18, mắt được đặt vào một cấu trúc song hành:
So long as men can breathe or eyes can see,
So long live this, and this gives life to thee.
(Chừng nào người còn thở hay mắt còn trông
Chừng đó thơ ta còn sống và đem cuộc sống cho người – NTM dịch)
Liên từ “hay” (or) nối hai vế song hành “man can breathe” và “eyes can
see”. Sư lặp lại vế thứ hai có vẻ dư thừa và kì lạ. Chữ “hoặc” tạo ra một quan
hệ tương đồng (hoặc cái này hoặc cái kia, cả hai đều thỏa mãn điều kiện) cộng
với sự lặp lại động từ “can” đã tạo điều kiện đồng nhất các yếu tố ngôn ngữ
nằm trước và sau động từ ấy: trong trường hợp này “người” đồng nhất (tất
nhiên là không hoàn toàn) với “mắt” và “thở” đồng nhất với “thấy”. Hình
thức song hành ấy tạo ra ý nghĩa: người còn thở nghĩa là mắt còn thấy, hay
“thấy” là một hành động điển hình của trạng thái sống, và “mắt” đại diện cho
toàn bộ con người, là minh chứng cho việc con người đang sống. Mắt không
còn chỉ là một giác quan trên cơ thể người mà trở thành hình ảnh sống động
minh chứng cho trạng thái tồn tại. Cụm “so long as” nhấn mạnh ý nghĩa điều
kiện tiên quyết của trạng thái tồn tại ấy. Ở đây sự song hành nhấn mạnh ý
tương đồng, đưa một bộ phân (mắt) lên vị trí toàn thể (người), từ đó ta thấy
được tầm quan trọng của đôi mắt trong quan niệm của Shakespeare.
Từ góc nhìn kí hiệu học, trong sonnet Shakespeare, ý nghĩa của “mắt”
* Booth minh họa bằng cách ngôn trong Kinh Cựu ước.
cần được đặt trong quan hệ song song với “tim”.
118
Quan hệ song hành “mắt” và “tim”
Như trên đã nói, Shakespeare viết một loạt các bài sonnet đặt “mắt” và
“tim” ở vị trí đối xứng cả về cú pháp lẫn ý nghĩa. Sonnet 46 có thể xem là một
trường hợp tiêu biểu:
Mine eye and heart are at a mortal war
How to divide the conquest of thy sight;
Mine eye my heart thy picture’s sight would bar;
My heart mine eye the freedom of that right.
My heart doth plead that thou in him dost lie,
A closet never pierced with crystal eyes;
But the defendant doth that plea deny,
And says in him thy fair appearance lies.
To 'cide this title is empanellèd
A quest of thoughts, all tenants to the heart,
And by their verdict is determinèd
The clear eye’s moiety and the dear heart’s part:
As thus—mine eye’s due is thy outward part,
And my heart’s right, thy inward love of heart.
(Tim, mắt anh luôn cãi nhau gay gắt:
Làm cách nào mong có thể chia em?
Mắt nhất định đòi trao em cho mắt,
Tim nói rằng nên để đấy cho tim.
Tim quả quyết là tim em tim giữ
Sâu trong lòng mà mắt chẳng hề hay.
119
Nhưng đôi mắt không ngớt lời chống cự,
Bảo hình em mắt chụp giữ bao ngày.
Để chấm dứt mối bất hòa, Lý trí
Đem hai bên đương sự đặt lên cân
Và kết luận sau hồi lâu suy nghĩ -
Phải chia sao cho ai cũng có phần:
Những gì thuộc về phần ngoài - cho mắt;
Còn phần trong - cho trái tim chân thật.)
Ở đây, “eye” và “heart” đi vào quan hệ vừa song hành vừa đảo đổi:
“mine eye and heart” ở câu đầu, “mine eye my heart” ở câu số ba, “my heart
mine eye” câu số bốn. Bên cạnh đó là các hình thức song hành do cách hiệp
vần mang lại: lies – eyes (Booth chỉ thêm: dòng số 5 bắt đầu với my heart và
kết thúc với lie, từ hiệp vần với eye, cho nên trong dòng này, từ xuất hiện ở
đầu và cuối câu thơ lại tạo ra một thế song hành khác); heart-part (vần này
xuất hiện hai lần: ở khổ tứ cú thứ ba và ở cặp câu cuối). Cuộc chiến sinh tử
giữa mắt và tim được hình dung mang màu sắc một cuộc chiến về pháp lý.
Chủ thể trữ tình đóng vai trò ở giữa thuật lại cho chàng trai. Trái tim biện hộ
* Booth chú thích rằng cách nói này phản ánh và hỗn dung hai khái niệm thường thấy: luật pháp về bất động
sản (của cải nằm trên lãnh thổ của người nào thì thuộc về người đó) và cách biểu đạt truyền thống về tình yêu
rằng chàng thuộc về anh ta*. Đó là căn phòng riêng bí mật, là cái rương để
120
châu báu mà đôi mắt không bao giờ soi tới được. Còn đôi mắt, đến lượt mình,
phủ nhận bằng lí lẽ: vẻ đẹp của chàng nằm trong đôi mắt. Theo Booth, lập
luận của mắt có vẻ dựa trên một cảm thức thông thường (hay còn gọi là lương
thức - common sense): đối tượng tranh chấp là một người đẹp, cần được nắm
bắt bằng thị giác, vì thế thuộc lãnh địa của mắt. Cuối cùng hội đồng xét xử
quyết định, trái tim sẽ sở hữu phần bên trong, đôi mắt sở hữu phần bên ngoài.
Theo Helen Vendler, sự phân chia mắt và tim như phần bên trong và phần bên
ngoài là một cách phân chia quen thuộc, khẳng định một truyền thống lâu đời.
Tuy nhiên, sự phân đôi ấy không biểu lộ được phương pháp riêng của
Shakespeare. Helen đặt ra vấn đề: tại sao phải cần đến hội đồng xét xử? Và
theo bà, sự phân biệt bên trong-bên ngoài có vẻ như chỉ là một cách thức tạo
ra tính đối xứng cho cặp câu cuối nói lên lời phán quyết. Thực ra lời biện hộ
của bị đơn- mắt là đúng. Tim với tư cách là nguyên đơn muốn cấm mắt không
được ngăn chặn quyền của anh ta, anh nói rằng người yêu thuộc về riêng anh,
trong một căn phòng kín không cửa sổ. Lời khẳng định này cũng có lý vì
người được yêu không thể ở nơi này mà vẻ ngoài của anh ta lại ở nơi khác. Bà
lí giải: bên trong tranh chấp là sự trở lại của Shakespeare giữa cảm xúc và
thẩm mĩ. Liệu tôi yêu bằng mắt (có nghĩa người yêu thuộc về chúng) hay tôi
yêu bằng con tim (và điều này có nghĩa vẻ bề ngoài là không liên quan)?
Thực ra thì cả mắt và tim đều có vai trò trong tình yêu của con người. Bà
cũng nhắc lại đoạn thơ trong Người lái buôn thành Venice, khi nhà thơ quy tất
cả tình yêu cho mắt, nhưng trong Sonnet 141 ông lại nói: thành thật, ta không
phải yêu người bằng đôi mắt. Bài thơ cho thấy những mâu thuẫn giằng xé
(cách nói đặt người nào đó vào trong tim là cách nói rất quen thuộc từ truyền thống Plato đến Thiên Chúa
giáo đến thời Shakespeare) – Booth trang 209.
phức tạp, sự đan chéo khó gỡ thể hiện xung đột của những phần cơ thể của
121
con người. Sự phức tạp ấy thể hiện ngay trong hình thức kết hợp của các từ
eye và heart.
Cũng theo Vendler, lời phán quyết cuối cùng là một giải pháp pháp lý,
song như hầu hết các dòng thơ trong Sonnet Shakespeare, chúng có thể được
đọc như một sự tự phát hiện: đôi mắt cũng rõ ràng như trái tim thiết tha, và
cuối cùng thì tim không thể giành độc quyền trong tình yêu, nó phải thỏa hiệp
và thừa nhận vị trí của mắt.
Sonnet 24 cũng là một trường hợp khác:
Mine eye hath played the painter and hath stelled
Thy beauty’s form in table of my heart.
My body is the frame wherein’tis held,
And perspective it is best painter’s art,
(Mắt tôi là họa sĩ
Vẽ hình người trong tim
Thân tôi là giá vẽ
Để hình người xuyên qua)
Mới nhìn người đọc có thể thấy ngay quan hệ song hành nằm ở đầu các
câu thơ hiệp vần “mine eye” – “my body”. Tuy nhiên, còn một quan hệ theo
đường chéo khác: “my eye” – “my heart”, “my body” – “painter’s art” (Booth
đã lưu ý về sự chơi chữ giữa “heart” với “art”). Các quan hệ này tạo ra những
tầng nghĩa phức tạp trong bài thơ, đồng thời hé lộ ý nghĩa của từ eye trong
cách sử dụng của Shakespeare. Nhà thơ ví đôi mắt mình như một họa sĩ, khắc
tạc vẻ đẹp của người yêu trong “table of my heart”. Chữ “table” có thể là
“table diamond”, là khung tranh, là cuốn sổ ghi chép, cũng có thể là tấm
gương. Còn thân thể nhà thơ là giá vẽ. Bằng chơi chữ, painnter’s art có thể là
painter’s heart, người vẽ không phải bằng kĩ năng (skill) mà bằng trái tim.
Muốn làm được điều đó, người nghệ sĩ phải có khả năng “perspective” (nhìn
122
xuyên qua thân xác, qua lồng ngực). Và, cũng bằng khả năng ấy, đến lượt
mình, người được yêu kia phải nhìn xuyên qua người họa sĩ (trong trường hợp
này là đôi mắt) để thấy được hình ảnh của chính mình được khắc tạc trong trái
tim họa sĩ. Đến hai câu cuối, cặp vần art-heart xuất hiện ở khổ tứ cú đầu tiên
lại lặp lại. Nhưng trớ trêu thay, cuối cùng người họa sĩ không thể nhìn xuyên
qua vẻ bề ngoài để thấy được hiện thực. Cả chàng ta lẫn mặt trời đều chỉ nhìn
thấy the young man, còn bản thân trái tim chàng thì không ai nhìn thấu.
Như vậy, mắt không còn nằm trong hệ thống các giác quan (bên cạnh
thính giác, khứu giác, vị giác...) mà đi vào một tương quan khác: trong đối lập
với tim, là nơi khởi phát và chứa đựng tình yêu của con người. Mắt mở đầu
phiên toà với tư cách là bị đơn, nhưng kết thúc vẫn có được quyền lợi và lãnh
địa riêng. Chiến thắng đó là chiến thắng của chủ nghĩa nhân văn Phục Hưng:
giành quyền cho thể xác, cho khoái lạc của các giác quan. Trong trường hợp
này mắt đại diện cho tất cả các giác quan với tư cách là thể xác, nằm trong thế
đối lập với tinh thần, đạo đức vốn là các giá trị của nhà thờ Trung cổ. Mắt là
phần thân thể bị buộc phải im tiếng đang trỗi dậy dù không tuyên chiến nhưng
lại nghiễm nhiên có địa vị vững chắc khi con người cá nhân tư sản bừng tỉnh,
nhìn sâu vào chính bản thân mình. Chính ở khía cạnh này, chủ thể trong thơ
Shakespeare có điểm tương đồng với chủ thể trong thơ Nguyễn Du ở cách
nhìn người: Cái nhìn trong thơ Nguyễn Du nói chung dựa trên cái nền đạo
đức của Nho giáo: ông chửi vợ Tần Cối là loại gà mái gáy sáng, rõ ràng ông
đang đánh giá từ nhãn quan Nho giáo với quan niệm phụ quyền: chuyện triều
đình đại sự là chuyện của đàn ông, cũng như chuyện gáy sáng là của gà trống,
đàn bà xía vô thì cũng vô duyên và vô dụng, nực cười như gà mái gáy sáng
vậy. Tuy nhiên, đến khi nói về Dương Quý Phi, ta thấy một sự thay đổi thái
độ: vì Dương Quý Phi là người đẹp, người đẹp có đặc quyền vượt ra ngoài sự
123
đánh giá về đạo đức. Mà cái đẹp ấy trước hết là đẹp ở nhan sắc, thỏa mãn con
mắt của người nhìn.
Trong thơ Shakespeare người ta thấy sự phân chia hai loại mắt: khi là
mắt chủ thể trữ tình, như một tình nhân say đắm, nó tượng trưng cho thể xác,
cho phần thân thể có tiếng nói riêng của con người. Khi là mắt người đời, nó
lại tương trưng cho một cách đánh giá mang màu sắc ý hệ, đạo đức, xã hội.
Cho nên cùng là eye song thực chất đôi khi chúng là các từ đồng âm khác
nghĩa:
1. Mắt người đang yêu: phần thể xác đầy say mê, như một chiếc
gương để người nhìn nhận ra một phần bản ngã của mình
2. Mắt người đời: là phần tinh thần, ý thức xã hội khuôn định con
người vào các giá trị
Sự phân chia rành mạch lãnh địa của mắt và tim cũng cho thấy ý thức
của nhà thơ về cơ thể con người như một khối đầy mâu thuẫn, phức tạp, mỗi
phần đều đòi hỏi được thỏa mãn.
Đôi mắt có khi được hình dung như một nơi chứa đựng, cư ngụ, đại
diện cho toàn bộ vẻ bên ngoài của con người (sonnet 93), lại có khi di chuyển
vào trong tâm trí (sonnet 113). Chủ thể trữ tình kể câu chuyện từ khi xa người
yêu thì mắt nằm trong tâm trí, nó bị chia tách, không thực hiện đầy đủ chức
năng như bình thường, một nửa đã bị đui. Đôi mắt lúc này không có khả năng
nắm bắt bất cứ một hình thù nào khác, vì nó chuyển mọi hình dáng nó nhìn
thấy thành hình ảnh người yêu. Vẫn tiếp tục chủ đề của các bài eye-heart
trước, trái tim vì chứa đầy hình bóng người yêu nên không có chỗ cho bất kì
một hình bóng nào khác nữa. Lúc này không còn giống như trong sonnet 47
“With my love’s picture then my eye doth feast/ And to the painted banquet
bids my heart/ Another time mine eye is my heart’s guest,/ And in his
thoughts of love doth share a part” (Chẳng bao giờ bóng hình em mắt thấy/
124
Mà chẳng chia phần cho bạn đồng minh/ Cũng như tim, khi tình yêu trỗi dậy/
Tim không tham lam sung sướng một mình) - mắt và tim thết đãi lẫn nhau
những bữa tiệc, an ủi nhau vì sự vắng mặt của người yêu.
Mắt trong sonnet Shakespeare đồng thời là một biểu tượng thuộc về
mặt trời, nằm trong cùng hệ thống với các biểu tượng cùng loại.
Trong Sonnet 55, bằng hình ảnh “Even in the eyes of all posterity”,
người viết cho “eye” chính là quan niệm của con người:
Not marble, nor the gilded monuments
Of princes, shall outlive this powerful rhyme;
But you shall shine more bright in these contents
Than unswept stone, besmear'd with sluttish time.
When wasteful war shall statues overturn,
And broils root out the work of masonry,
Nor Mars his sword nor war's quick fire shall burn
The living record of your memory.
'Gainst death and all-oblivious enmity
Shall you pace forth; your praise shall still find room
Even in the eyes of all posterity
That wear this world out to the ending doom.
So, till the judgment that yourself arise,
You live in this, and dwell in lovers' eyes.
(Lăng tẩm vua dát bạc vàng, đá trắng
Không sống lâu như thơ viết trang này.
Trong thơ anh, hơn vàng em tỏa sáng.
Không bị đời và thế kỷ làm dây.
125
Khi chiến tranh vung đôi tay tàn phá
Bắt kim cương, sắt thép phải yếu mềm,
Thì thầm Mars với lửa gươm, tất cả
Bất lực trước bài sonnet viết về em.
Thắng lãng quên, trong thơ em sống mãi,
Chấp thời gian và cái chết hung tàn.
Muôn đời sau em sẽ còn ở lại
Cho tới ngày tận thế của trần gian.
Em sẽ sống trong bài thơ anh viết,
Và trong những trái tim yêu mãnh liệt)
Trong các bài trước, Shakespeare nói đôi mắt đóng vai trò họa sĩ và
khắc tạc. Đến bài này, ông nói người yêu, cho đến ngày tận thế, vẫn sẽ sống,
trong những vần thơ, trong đôi mắt của những người đọc chúng, trong
“lovers’eyes”. Hình thức song hành trong câu thơ cuối: “You live in this, and
dwell in lovers’eyes” tạo ra ý nghĩa: sự lặp lại hai động từ đồng nghĩa “live”
và “dwell” khiến người ta có xu hướng đồng nhất “this” (this pow’rful rhyme,
these contents – đối lập với sluttish time – những vần thơ) với “lovers’eyes” –
thơ là thuộc về đôi mắt, là kết quả của sự đắm say từ đôi mắt, được viết, được
khắc sâu trong mắt và khi thời gian qua đi, lại được khám phá, được sống dậy
126
cũng nhờ những đôi mắt sẽ đọc nó. Thế là với Shakespeare, mắt không chỉ là
bộ phận trên cơ thể, là giác quan mà còn là nguồn khởi phát của thơ. Tất cả
qua đôi mắt mà thành thơ cũng như thơ nhờ mắt mà sẽ sống mãi. Cho nên
lovers’eyes không chỉ là những đôi mắt sau này sẽ đọc, mà còn là chính thơ,
thơ là hình ảnh của đôi mắt người yêu: người làm thơ viết về người yêu qua
cái nhìn đặc biệt, riêng của anh ta, không ai có thể nhìn như thế, không ai có
thể viết như thế (đây cũng chính là điều Helen Vendler phát hiện trong bài thơ
này: cứ cái gì gắn với người yêu là đẹp, là cao quý, cái gì không gắn với
người yêu, mặc dù vẫn là chính nó, lại trở nên xấu và thấp hèn).
Trong Sonnet 69, “eye” không còn chỉ đối lập với “heart” mà được đặt
trong mối quan hệ với các phần khác của cơ thể: tongues, soul, voice, mind,
deed... Tuy nhiên, vấn đề ở chỗ, từ trong cấu trúc của nó, sự xuất hiện và vắng
mặt của từ eye ở các khổ tứ cú và cặp câu cuối bản thân nó tạo nên ý nghĩa.
Trong bài thơ này, eye được sử dụng không phải như mắt của người yêu mà
là con mắt người đời, là quan điểm, sự đánh giá. Con mắt ấy xuất hiện xuyên
suốt trong khổ tứ cú thứ nhất (Those parts of thee that the world’s eye doth
view), khổ tứ cú thứ hai (By seeing farther than the eye hath shown) và khổ tứ
cú thứ ba (Then, churl, their thoughts (although their eye were kind)/ To thy
fair flower add the rank smell of weeds) song lại vắng mặt trong cặp câu
cuối. “Eye” do đó trở thành cái mà Helen Vendler gọi là “defective key
word”. Khác với con mắt của người yêu có khả năng “perspective” – nhìn
xuyên qua lồng ngực, xuyên qua vẻ bề ngoài vào sâu trong nội tâm, con mắt
người đời dù thế nào cũng chỉ có thể “in guess” – bằng phỏng đoán. Đến cặp
câu cuối, khi người ta đã có thể nhận ra sự vênh lệch không phải bằng đôi
mắt, thì mắt biến mất. Như vậy cùng dùng từ mắt nhưng Shakespeare đã phân
ra hai cấp độ của sự nhìn: nhìn bằng trực giác, bằng những gì hết sức tự nhiên
của cơ thể và nhìn bằng các quy chuẩn xã hội, cái nhìn từ bên ngoài. Trong đó
127
cái nhìn thứ nhất nhân văn hơn, chính xác hơn và là cái nhìn có khả năng sản
sinh ra thơ, là tiềm năng tạo ra sự bất tử. Trong trường hợp này các từ eye về
thực chất chỉ là các từ đồng âm khác nghĩa hơn là đa nghĩa, vì chúng dùng
cho các đối tượng khác nhau và có nghĩa sở biểu hoàn toàn khác nhau.
Lưu ý là Shakespeare dùng heart với nghĩa là mind: Hamlet I.v.121:
“Would heart of man once think it?” Trong sonnet ông cũng viết “the
marriage of true mind” chứ không phải “true heart”. Cho nên đối lập heart –
eye có khi là đối lập giữa phần bản năng và phần lý trí, là phần quan sát bên
ngoài với phần tự quan sát bên trong cơ thể con người. Khi rời xa người yêu
thì eye và heart nhập làm một, con người không quan sát bên ngoài nữa mà
rút vào nội tâm, quan sát phần bên trong mình.
Thơ không cần tô vẽ cũng như nàng Cordelia không cần tô son trát
phấn cho những lời lẽ của mình. Nàng giản dị và chân thật. Đó cũng chính là
quan niệm của chủ thể trữ tình về con người, về vẻ đẹp và giá trị của con
người cũng như của đời sống. Nghịch lý của vua Lia có thể tìm thấy âm
hưởng ở đây: khi sáng mắt, con người ta không thể nhìn rõ tốt xấu. Chỉ khi
mù lòa, người ta mới hiểu rõ lòng người. Từ đó, ta thấy được chiều kích thứ
hai của mắt: không chỉ nhìn cái bên ngoài mà cần thấu được cái bên trong đối
tượng nhìn.
Trong tâm thức của các khán giả thời Phục Hưng, có một sự phân biệt
rất rõ ràng không ngừng được lặp đi lặp lại: đó là sự phân biệt giữa tình yêu
đích thực, là tình yêu nằm trong trái tim với thứ tình cảm say đắm nhất thời, là
tình yêu nằm ở đôi mắt. Xung đột và tranh chấp về mặt pháp lý giữa mắt với
tim cũng là một hình ảnh tưởng tượng quen thuộc trong thơ ca tình yêu thời
này. Qua các cách diễn đạt của Shakespeare, có thể thấy ông có xu hướng
chống lại sự phân biệt trên, cả trong kịch lẫn trong sonnet. Tronng Romeo và
128
Juliet, hồi 2, cảnh 3, ông viết: “Young men's love then lies not truly in their
hearts, but in their eyes”
Còn trong Người lái buôn thành Venice, hồi 3, cảnh 2, ông cũng viết:
Tell me where is fancy bred,
Or in the heart or in the head?
How begot, how nourished?
… It is engender’d in the eyes,
With gazing fed; and fancy dies
In the cradle, where it lies.
Trong sonnet, ông vẫn khai thác hình ảnh có tính chất quy ước ấy.
Thoạt nhìn, các kết luận của “hội đồng xét xử” phân chia lãnh địa thuộc mắt
và tim cũng không có gì mới so với truyền thống thơ Anh: mắt sở hữu vẻ bên
ngoài, tim sở hữu phần bên trong. Song, theo Joel Fineman, tác giả đã thêm
vào âm hưởng hoài nghi vốn là điều không hề có trong xu hướng ý tưởng hóa
của thơ trước Shakespeare*.
Tóm lại, các từ gọi tên các bộ phận cơ thể cho thấy cách chủ thể trữ
tình nhìn nhận về bản thân với tư cách một con người cá thể. Ở đây ta thấy
điểm chung trong cách tự hình dung của chủ thể trữ tình: cá nhân ấy bị phân
rã, không còn là con người thống nhất nguyên khối nguyên phiến. Đó là
những con người luôn luôn nhìn ra những phần đối lập, mâu thuẫn bên trong
mình, thể hiện nó dưới nhiều hình thức khác nhau. Tóc trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du còn khẳng định một cảm thức luôn tràn ngập trong thơ ông: cảm
thức lỡ làng. Còn mắt trong thơ sonnet Shakespeare cũng đã trở thành một
biểu tượng: biểu tượng về một cái tôi bản năng đầy say đắm, say sưa và say
* Chi tiết xin xem: Joel Fineman (1984), “Shakespeare’s Perjur’d Eye”, from Representation, trích trong Harold Bloom (2008), “Bloom’s Shakespeare Through the Ages: The Sonnets”, New York: Infobase Publishing.
mê trong tình yêu, trong cuộc đời. Nó không phải chỉ là một từ riêng biệt mà
129
còn mở ra cả một thế giới: thế giới trong sonnet là thế giới của tình yêu, sự
say mê, ngưỡng mộ. Con người đắm chìm trong tình cảm đó, đau khổ vì nó,
hạnh phúc cũng nhờ nó, có lúc thấy mình tệ hơn một kẻ ăn mày, nhưng cũng
có lúc coi thường việc hoán đổi vị trí của mình với một ông Vua. Bằng việc
giành không gian, tiếng nói cho đôi mắt, Shakespeare đồng thời cũng lên
tiếng cho quyền của một sự đánh giá chủ quan, đi ngược lại với các quy ước
truyền thống về con người phận vị, mở đường cho một con người cá nhân đầy
suy tư.
Tóc và mắt cũng liên quan đến hai quan niệm về cuộc đời của chủ thể
trong thơ Nguyễn Du và Shakespeare: với nhân vật của Nguyễn Du, đời là
mộng – chữ mộng không nên chỉ được hiểu ở khía cạnh là sự ngắn ngủi,
chóng qua, mà còn là những mộng ước, khao khát của con người thoát ra khỏi
vòng trần tục, vượt lên trên kiếp sống tầm thường, thực hiện những điều đẹp
đẽ. Khía cạnh này cũng có trong cả các điển cố về đời như giấc mộng kê
vàng: con người trong phút chốc vươn tới đỉnh cao sự nghiệp, danh vọng, có
được gia đình hạnh phúc viên mãn... Hình ảnh mái tóc quả thực đã hé cho
người đọc những giấc mộng sâu kín của chủ thể trong thơ Nguyễn Du. Tóc
bạc cũng là một biểu tượng hết sức tiêu biểu cho quan niệm về đời như mộng:
vì đời người là hữu hạn, không có gì mãi mãi, không có gì vĩnh viễn. Mái tóc
bạc là bằng chứng hiển nhiên cho thấy dấu ấn của thời gian in hằn trên mỗi
con người và cho họ biết một sự thật: rằng giấc mộng nào rồi đây cũng sẽ tàn.
Ở một phương diện khác, hình ảnh đôi mắt phản chiếu quan niệm về cuộc đời
trong thơ Shakespeare: đời là sân khấu và mỗi con người sống là các diễn
viên. Vì đời là sân khấu, anh cần phải có con mắt, mở to mắt để nhìn và
thưởng thức. Không có đôi mắt, anh sẽ vô vọng trong việc xem được vở kịch
đời.
130
Nên nói đây là cách hình dung về bản thân của chủ thể trữ tình, song nó
không tách rời mà nối kết chặt chẽ với quan niệm về cuộc đời của họ.
Tiểu kết chương:
Trong chương này người viết đã trình bày cách thức chủ thể trình hiện
thông qua hoạt động nội quan, chủ yếu là ý thức về thân xác, mối quan hệ
giữa thể xác với tinh thần, và phân tích một số kí hiệu biểu đạt thân xác, đó là
tóc và mắt. Tóc vốn là một hình ảnh cảm tính của cái tôi được nhìn bằng thị
giác, khi vào thơ Nguyễn Du đã thành một kí hiệu, một hình ảnh của tâm
trạng, của trạng thái nội tâm. Tương tự mắt cũng là yếu tố để suy tư vì nó
không hẳn thực hiện chức năng nhìn ngắm. Như vậy có thể nói sự xuất hiện
tiếng nói thể xác, cảm hứng thương thân, xót thân là một nhân tố mới của văn
học trào lưu nhân văn chủ nghĩa nói chung, thơ sonnet Shakespeare và thơ
chữ Hán Nguyễn Du nói riêng như một cách phản ứng với một thời kì dài
điển phạm hóa, quan liêu hóa, làm mất cân bằng trong đời sống thực tế của
con người. Tuy nhiên, để được cấp cho giá trị, các yếu tố thể xác vẫn cần
được cấp cho yếu tố tinh thần. Điều đáng ghi nhận ở đây là nỗ lực của các chủ
thể: đặt tóc trong mối quan hệ với núi xanh là một hình thức xóa nhòa ranh
giới giữa cái khả biến với cái bất biến, đặt mắt trong quan hệ với tim là một
hình thức xóa nhòa ranh giới giữa yếu tố tượng trưng cho thể xác với yếu tố
tượng trưng cho tinh thần. Và xu hướng chung là để cho cái vốn trước nay bị
đè nén – cái thân xác, cái cảm năng được cất lên tiếng nói.
Sự giằng xé này được biểu đạt ở một hình thức khác: sức căng trong
bản chất nhị nguyên của con người, là chủ đề chính được luận án phân tích ở
chương 3.
131
CHƯƠNG 3: CHỦ THỂ TƯƠNG CHIẾU: NHỮNG SỨC CĂNG
TRONG BẢN CHẤT NHỊ NGUYÊN CỦA CON NGƯỜI
Con người Trung cổ ở phương Tây và con người thời Trung đại ở
phương Đông thường xem mình là thành viên của một chủng tộc, một dân
tộc, đảng phái, hội đồng hay gia đình, họ không có cảm giác mạnh mẽ về căn
tính cá nhân của mình. Con người nhân văn chủ nghĩa, bên cạnh yếu tố tiếp
thu từ truyền thống trên, đã phần nào xem mình như một cá thể độc lập, thể
hiện ở việc họ tách biệt với ngoại giới. Sự tách biệt này luôn được đặt trong
quan hệ tương chiếu: từ soi chiếu đối tượng mà suy ngẫm, định hình bản thân
mình. Trong chương này, người viết sẽ phân tích chủ thể qua các hình thức
tương chiếu: chủ thể định hình bản thân trong mối quan hệ với cuộc đời và
quan hệ với chính mình thông qua các kí hiệu ngoài thân.
3.1. Chủ thể trong quan hệ với cuộc đời
Có thể thấy trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare
một nỗ lực biểu đạt bản ngã mạnh mẽ, mà biểu hiện đầu tiên là tách mình ra
như một cá thể độc lập có suy tưởng, có chủ kiến, một hình thức phân biệt
“tôi” với “thiên hạ”.
3.1.1. Phân biệt “tôi” với “thiên hạ”
Chủ thể trước hết bộc lộ trực tiếp qua các đại tự nhân xưng ngôi thứ
nhất như một con người có cách nhìn nhận và suy nghĩ riêng
Cái tôi với cách nhìn nhận và suy nghĩ riêng
Nguyễn Du có thể xem là một trường hợp đặc biệt khi ông sử dụng
trong thơ mình khá nhiều các đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất như ngã (21
lần), ngô (3 lần), dư (1 lần), ngoài ra chủ thể còn tự định danh bằng một loạt
132
các từ khác*: “nam nhi”, “trệ khách”, “chinh khách”, “tráng sĩ”, “xử sĩ”, “hàn
nho”… Trong thơ Shakespeare, vừa là truyền thống của thơ trữ tình phương
Tây vừa là đặc trưng của thể sonnet, chủ thể thường sử dụng ngôi thứ nhất và
đặt các đối tượng ở ngôi thứ hai như trong đối thoại trực tiếp. Trừ một số bài
thuần túy bộc lộ tâm trạng, cảm xúc của nhân vật trữ tình, còn lại tính trực
tiếp thể hiện rất rõ qua việc các bài thơ luôn hướng đến một đối tượng cụ thể,
xác định: the fair youth, the dark lady hay tên bạo chúa khát máu thời gian
hoặc bạn đọc thế hệ sau, hoặc một nhà thơ khác… Do đó, dễ thấy thế giới
được nhìn qua nhân vật trữ tình xưng “tôi” này: tôi xem, tôi tính toán, tôi
thấy, tôi ngắm nhìn, tôi đặt câu hỏi, tôi suy nghĩ… Các bài thơ khác đều như
vậy, tôi muốn so sánh anh với một ngày mùa hè nhưng tôi thấy hè rực rỡ cũng
không sánh bằng anh (Sonnet 18), tôi như người diễn viên không hoàn hảo
trên sân khấu, quá tải vì sức nặng tình yêu (Sonnet 23).
Cách chủ thể biểu đạt chủ kiến của mình cũng khá giống nhau. Trong
thơ Nguyễn Du, mặc những người làm quan hiển đạt chí ở mây xanh, chủ thể
trữ tình tự có niềm vui riêng của mình “Y quan đạt giả chí thanh vân/ Ngô
diệc lạc ngô my lộc quần/ Giải thích nhàn tình an tại hoạch/ Bính trừ dị loại
bất phương nhân” (Áo mão đường mây mặc kẻ tài/ Ta vui vui với lũ hươu
nai/ Cốt khuây lúc rỗi, mong gì lợi/ Há trái điều nhân, diệt khác loài – Liệp).
Theo cách tương tự, chủ thể trữ tình trong sonnet Shakespeare mặc kệ người
đời với sự kiêu sa hào nhoáng, chỉ cần bản thân vui và kiêu hãnh với điều
mình có: “Let those who are in favour with their stars/ Of public honour and
proud titles boast/ Whilst I, whom fortune of such triumph bars/ Unlook'd for
joy in that I honour most/ Great princes' favourites their fair leaves spread”
* Bên cạnh các danh từ và đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất, Nguyễn Du còn dùng chữ “nhữ” vốn là đại từ nhân xưng ngôi thứ hai để diễn tả sự phân thân của chủ thể trữ tình.
(Mặc người khác có sao thần chiếu mệnh/ Khoe tước danh, khoe của lắm tiền
133
nhiều/ Sao đời tôi không huy hoàng lấp lánh/ Nhưng tôi tìm hạnh phúc ở tình
yêu – Sonnet 25).
Họ cũng thể hiện một thái độ khước từ và phủ định tương tự trong
nhiều trường hợp khác: người đời có xu hướng như thế này, nhưng tôi nghĩ
khác, người đời đều trách mắng Dương Quý Phi, tôi thấy nàng chỉ có tội là
trót sinh ra mang nhan sắc “khuynh thành”, người đời muốn chiêu hồn Khuất
Nguyên, tôi cho chuyện đó vô nghĩa, thậm chí có hại vì cõi sống đâu đâu cũng
là sông Mịch La, và những kẻ gian ác như Thượng Quan ở khắp nơi, người
đời khen dáng điệu con công đẹp, tôi chỉ tiếc bộ lông lạ của nó, người đời đều
trọng cái danh làm thầy thiên hạ của Đỗ Thiếu Lăng, tôi chỉ thương nấm mồ
của ông gửi nơi đất khách, hôm nay chỉ riêng tôi khóc Tiểu Thanh, hơn ba
trăm năm sau thiên hạ có khóc tôi, bạn bè cứ bảo rằng tôi hay sầu mộng,
nhưng cả thiên hạ đều ở trong mộng, có điều họ không tự ý thức giống tôi mà
thôi*… Và cũng thế, người khác cho rằng danh tiếng, địa vị xã hội, niềm tự
hào ở giữa tầng lớp quý tộc mới là đáng trọng, riêng tôi thấy nó không nghĩa
lý gì, dù biết mình không may mắn, không sang giàu, nhưng tôi hài lòng với
* Những hàm ý đó có thể được thấy rõ qua hai câu cuối bài thơ Á Phụ mộ: “Đa thiểu nhất tâm trung
sở sự/ Mỗi vi thiên hạ tiếu kì ngu”(Bao nhiêu kẻ một lòng trung thành với người mình thờ/ Thường bị người
đời cười là ngu).
Người ta thường căn cứ vào hai câu này để nói rằng Nguyễn Du chê cười Phạm Tăng là kẻ “ngu
trung”. Tuy nhiên, trên thực tế ông chỉ đang dẫn lời “thiên hạ”. Mà trong thơ chữ Hán, “thiên hạ” thường
được đem ra để đối lập với nhà thơ hay với nhân vật được nhắc đến: “Bất tri tam bách dư niên hậu/ Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như” (Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa/ Người đời ai khóc Tố Như chăng - Độc Tiểu Thanh
ký); “Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh/ Trủng trung ưng tự hối phù sinh” (Thiên hạ ai thương người bạc
mệnh? Dưới mồ chắc hẳn cũng tự mình hối hận cho kiếp phù sinh – Điếu La Thành ca giả)
Có khi chủ thể trữ tình thay “thiên hạ” bằng “nhân” (ý chỉ “tha nhân”) để đối lập với “ngã”: “Nhân
khoa dung chỉ thiện/ Ngã tích vũ mao kì” (Người đời khen dáng điệu (con công) đẹp/ Ta tiếc bộ lông kỳ lạ
(của nó) - (Khổng Tước vũ).
những gì tôi có, đó là tình yêu, vì tôi biết ngay cả một ông hoàng đôi khi cũng
134
chỉ như một bông cúc vạn thọ dưới ánh mặt trời, ngay cả những chiến binh
lừng lẫy nhất cũng sẽ bị quên lãng, rơi xuống đáy vực chỉ vì một lần thất bại.
Còn tình yêu, tôi biết tình yêu không phù du thoáng chốc, không thể đổi thay
vì tôi không dễ thay lòng (Sonnet 25).
Tất cả đều có chung một hàm ý, rằng “thiên hạ” là một đối tượng khác,
có ý kiến và cách đánh giá riêng của họ, còn tôi là tôi: “No, I am that I am,
and they that level/ At my abuses reckon up their own/ I may be straight,
though they themselves be bevel/ By their rank thoughts my deeds must not
be shown” (Không, xin lỗi, tôi là tôi, thiết nghĩ/ Không nên cho ai cũng xấu
như mình/ Người ta thẳng nhưng thước đo các vị/ Có thể tồi, xiêu vẹo, thiếu
công minh – Sonnet 12). Tôi có lúc thèm muốn sự giàu có, hi vọng của người
này, cũng thích được đề cao, có nhiều bè bạn giống người kia, hay thèm muốn
sự khéo léo, cơ hội của người nọ…, nhưng tóm lại tôi là tôi, người khác là
người khác, tôi chỉ cần tình yêu ngọt ngào của người tôi thương mến, và có
được điều đó, tôi thậm chí không màng đổi địa vị mình với một ông vua
(Sonnet 29).
Điểm nhìn này thể hiện một con người cá nhân với ý thức về bản thân
rất mạnh mẽ. Họ biết cái họ không là. Phân biệt với “thiên hạ”, vậy con người
ấy trình hiện ra như thế nào? Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du người ta thấy
một cái tôi lạc loài lỡ dở, còn trong thơ sonnet Shakespeare, đó là cái tôi vai
diễn.
Cái tôi lạc loài lỡ dở trong thơ chữ Hán Nguyễn Du
Phân tích ký hiệu học mở ra các khả năng nghĩa đằng sau lớp ngôn
ngữ nguyên cấp hay từ sự giằng co giữa ngôn ngữ đó và ngôn ngữ thứ cấp.
Trường hợp tiêu biểu là bài Nam quan đạo trung. Thoạt nhìn, trên bình diện
ngôn ngữ tự nhiên, bài thơ chỉ đơn thuần tả cảnh, kể sự tình một ông quan
135
được lệnh đi sứ: Chiếu của nhà vua ban xuống từ tầng mây năm sắc / Từ vạn
dặm chiếc xe đơn lẻ đi qua cửa ải nhà Hán/ Đường đi cùng ta chỉ có mái tóc
bạc/ Hai tuần chỉ thấy núi xanh/ Ơn vua như biển chưa hề báo đáp/ Mưa xuân
như mỡ xương tự nhiên lạnh/ Đường vua rộng phẳng chớ hỏi thăm/ Theo
sông Minh Giang lên phía Bắc là Trường An. Tuy nhiên, nếu xem xét kĩ
những lặp lại về mặt âm thanh, người đọc sẽ thấy nhiều tương đồng, đối lập
gợi ra các nghĩa thứ cấp không thấy có trên phương diện ngôn ngữ tự nhiên.
Để thuận tiện cho việc quan sát các âm bằng thị giác, các lặp lại về âm vị âm
đầu được người viết in đậm, các lặp lại âm chính được in nghiêng và gạch
chân:
Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan
Vạn lý đan xa độ Hán quan
Nhất lộ giai lai duy bạch phát
Nhị tuần sở kiến đãn thanh san
Quân ân tự hải hào vô báo
Xuân vũ như cao cốt tự hàn
Vương đạo đãng bình hưu vấn tấn
Minh Giang Bắc thướng thị Trường An
Điểm đầu tiên gây ấn tượng với người đọc là các đối xứng âm vị học
trong hai câu đầu: hai âm ng tạo đối xứng giữa “ngọc” (thư) và “ngũ” (vân
đoan), về thực chất sự đồng nhất ngữ âm cũng đồng nhất hai đối tượng này:
ngọc thư (chiếu của nhà vua) và ngũ vân đoan (tầng mây năm sắc, chỉ triều
đình) đều là các đối tượng ở trên cao, tôn quý, đẹp đẽ, rộng lớn. Ở câu thứ
hai, lẽ ra trọng âm dồn vào chữ “lý”, chữ “xa”, chữ “độ” và chữ “quan”, song
thanh trắc của chữ vạn, sự lặp lại âm đ kéo trọng âm câu thơ theo hướng
ngược lại thành: Vạn' lý đan' xa độ' Hán' quan. Thủ pháp điệp âm cũng tách
nửa cuối của câu thơ thành hai phần tương đương: “đan xa”/ “độ Hán quan”
136
và cùng ngăn cách với phần không điệp: “vạn lý”. Mối quan hệ của “đan xa”
(chiếc xe đơn lẻ) với “độ Hán quan” (đi qua cửa ải nhà Hán) và “vạn lý”
(muôn dặm) là mối quan hệ của một vật nhỏ nhoi với một khoảng không gian
cách trở xa xôi chừng như vô tận mà “Hán quan” mới chỉ là một cái mốc đánh
dấu sự khởi đầu của con đường vạn dặm ấy. Âm a trong chữ “há” của câu 1
được điệp lại trong từ “xa” của câu số 2, tạo ra một đối xứng khác giữa hai
câu này: “há” chỉ chiều hướng chuyển động từ trên xuống dưới, theo chiều
dọc, trong khi “xa” chỉ sự di chuyển theo chiều ngang. Trong khi tốc độ
chuyển động qua từ “há” là rất nhanh (từ trời mây, chiếu chỉ triều đình đưa
xuống ) thì tốc độ di chuyển của “xa” lại hết sức chậm chạp. Ở đây “đan xa”
đối lập với “vạn lý”, “Hán quan” và với cả “Ngọc thư phủng há ngũ vân
đoan” như là một cái xe nhỏ bé giữa trời cao, đất rộng. Sự đối lập này có một
cái gì trớ trêu: ngọc thư cao quý, mây năm sắc quyền uy thế kia, nhưng lại trút
hết gánh nặng lên một chiếc xe nhỏ bé. Và vũ trụ trong cái nhìn của chủ thể
trữ tình đã hiện ra qua liên đầu như thế: một vũ trụ mênh mông, đường xa vạn
dặm, một sức nặng vô hình từ trên đè xuống chiếc xe nhỏ bé đơn lẻ không
biết làm gì hơn là lầm lũi đi trên con đường ấy. Liên hai tiếp tục các đối xứng
âm vị khiến người đọc đi sâu hơn vào thế giới của bài thơ. Trước hết là hình
thức điệp âm đầu nh trong “nhất lộ” với “nhị tuần” và trùng âm chính /ă - a/
trong “bạch phát” với “thanh san”* tạo ra quan hệ tương đồng, đối lập giữa
các từ này. Quan hệ đan chéo của “nhất lộ” với “thanh san” – đều chỉ không
gian và “nhị tuần” với “bạch phát” – đều chỉ thời gian tạo quan hệ đối vị.
Trong khi thủ pháp điệp âm đầu “nhất” – “nhị” trong cặp “nhất lộ”,
“nhị tuần” đồng nhất ở chỗ gợi tâm thế như đếm từng ngày từng giờ, đếm
* Có thể có người sẽ nói đây là một trong những biểu hiện của thủ pháp đối trong liên bắt buộc có đối của thơ
bát cú Đường luật, song ở đây chúng tôi chủ yếu tập trung vào phương diện âm.
từng đoạn đường đi, thì sự đối lập “thanh san” – “bạch phát” là sự đối lập
137
giữa cái bất biến, trường tồn, vĩnh cửu với cái biến đổi, mong manh, hữu hạn;
giữa cái yên bình, trẻ trung với cái già nua, tội nghiệp, cũng là đối lập giữa
chủ thể với khách thể. Trong khi khách thể (thanh san) đẹp đẽ, hứa hẹn yên
bình thì chủ thể long đong có lẽ vô vọng trong việc tận hưởng niềm vui ấy. Sự
đối lập bạch phát – thanh san khắc sâu bi kịch của con người: yêu đời, thấy
cuộc đời đẹp đẽ song mình thì đã già. Bi kịch này cũng được thể hiện trong
“Quỳnh Hải nguyên tiêu”. Núi còn là biểu tượng của tâm thiền trong sáng,
thanh tịnh trong khi tóc bạc là biểu tượng của sự lăn lóc trong đời sống trần ai
bụi bặm. Hiểu như thế, hai hình ảnh không chỉ là đối lập giữa chủ thể với
khách thể mà còn là những mâu thuẫn nội tại của chủ thể. Như vậy người đi
không chỉ khổ sở vì “ngọc thư” mà còn khổ vì nội tâm nhiều sầu muộn. Câu
thơ không đơn thuần là tả cảnh mà đã gợi ra nhiều liên tưởng sâu sắc trong
tâm hồn người đọc. Ta sẽ thắc mắc sao đi làm việc công mà không thấy nhắc
đến ơn vua, đến lòng báo đáp? Thì đây, liên 3 đã trả lời ngay bằng “quân ân”
và “xuân vũ”. Trên bình diện nghĩa nguyên cấp, người đọc chỉ thấy đây là
một ông sứ thần nặng lòng báo đáp ơn vua. Song các thế đối xứng âm vị học
lại mở cho ta khả năng suy nghĩ về các nghĩa khác. Hình thức song hành cú
pháp và các ẩn dụ truyền thống trong thơ ca trung đại đồng nhất “quân ân”
với “xuân vũ”*. Tuy nhiên, độ vênh giữa “hào vô báo” với “cốt tự hàn” lại
khiến người đọc băn khoăn. Chìa khóa của mâu thuẫn nằm ở hình thức song
thanh “hải”- “hào” và “cao”- “cốt”. Đáng chú ý là việc lặp âm lại diễn ra ngay
ở chỗ ngắt thường thấy trong thơ Đường luật bát cú khiến cho nó ngắt mà
dường không ngắt:
* Ẩn dụ khuôn sáo ngầm ví quân vương với mưa xuân, gió xuân là một hình ảnh quen thuộc trong văn học
trung đại: Thơ Nguyễn Đình Chiểu: Hoa cỏ ngùi ngùi ngóng gió Đông/ Chúa xuân đâu hỡi có hay không”;
“Chừng nào Thánh đế ân soi thấu/ Một trận mưa nhuần rửa núi sông”.
Quân ân tự hải/ hào vô báo
138
Xuân vũ như cao/ cốt tự hàn
“Hải” nghĩa là biển lớn, tượng trưng cho ân trạch dồi dào, cách so sánh
này vốn chỉ là một sáo ngữ, còn “hào” là cực nhỏ bé, đi với chữ “vô” để chỉ ý
“tuyệt không”. Hai từ đứng cạnh nhau càng tô đậm sự khác biệt trong thái độ
ứng xử của hai đối tượng. “Hào” là sự phủ định của “hải” về mặt nghĩa song
đồng nhất với “hải” về mặt âm, sự đồng nhất nối “hào” với “hải”. “Cốt” là từ
dùng để chỉ xương, phần cốt yếu trong cơ thể người và vật, còn được dùng để
chỉ phần lõi quan trọng nhất của con người, như cốt tướng, cốt cách. “Cốt”
còn có nghĩa là người chết. “Cao” có nhiều nghĩa: là mỡ nước, dầu thơm, là
đồ ăn béo ngậy, chỗ đất màu mỡ, ở đây đi với mưa xuân ý chỉ mưa xuân tốt
tươi tưới cho vạn vật. Tuy nhiên, “cao” còn một nghĩa chỉ một thứ thuốc tăng
lực mà các nhà quyền quý xưa rất hay dùng được chế biến bằng cách đun thật
kĩ xương động vật rồi cô đặc lại: có cao xương trâu, cao xương hổ, cao xương
ngựa. Như vậy trạng thái đồng nhất về âm không hoàn toàn cũng thể hiện sự
đồng nhất về nghĩa không hoàn toàn của hai từ này: cao và cốt đều là các
phần cốt yếu, tinh túy của cơ thể ở các trạng thái khác nhau, vả lại nói đến
“cao” là người ta nghĩ đến cốt vì cao từ cốt mà thành. Người đọc nếu chú ý
đến hình thức câu thơ cũng sẽ chú ý đến hình thức âm đối xứng: tự* hải hào –
cao cốt tự, thêm nữa về mặt nghĩa “quân ân” đồng nhất với “xuân vũ”, “tự”
đồng nhất với “như”, về mặt âm “báo” có điểm chung với “hào” và “cao”.
Hai câu thơ thể hiện rất rõ chức năng thơ theo quan điểm của Jakobson: xếp
* Việc lặp lại hai từ đồng nghĩa dùng để so sánh: “tự” và “như” (trong “quân ân tự hải” và “xuân vũ như
cao”) cũng hết sức đáng chú ý: vì khi so sánh là đã ngầm ý không đồng nhất hoàn toàn: chỉ là một phép liên
tưởng mà thôi. Bằng cách lặp lại, Nguyễn Du đã khiến cho người đọc phải chú ý đến các lối so sánh tưởng đã
rất quen thuộc trong thơ cổ, phải nhìn nhận lại về ý nghĩa của nó: nếu so ơn vua như biển, thì người lênh
đênh trên biển có dễ chịu hay không? Nếu so sánh ơn vua như mưa xuân, thì mưa xuân có đều đặn, công
bằng, đúng lúc cho mọi sinh vật không hay cũng thất thường như thời tiết?
chồng trục lựa chọn lên trên trục kết hợp. Sự lặp âm, lặp ý, soi chiếu lẫn nhau
139
giữa các kí hiệu tạo ra nghĩa thứ sinh và đặt câu hỏi: đây có đơn thuần là câu
thơ ca tụng ơn vua hay không (đây cũng là ý Xuân Diệu và một số nhà nghiên
cứu khác đã lờ mờ nhận thấy khi đọc bài thơ này, song dùng cách làm của kí
hiệu học, nó hiện ra rõ hơn). Hiểu như vậy, hai câu cuối là một tiếng thở dài
ngao ngán: đường vua “đãng” (nghĩa là mênh mông, còn có một nghĩa là
loạn) hay là “bình” thôi cũng đừng hỏi nữa, cứ nhắm mắt mà đưa chân thôi,
không khác được nữa rồi.
Việc lặp lại chữ “tự” tạo ra quan hệ đường chéo trong hai câu cũng rất
đáng chú ý, “tự” trong “quân ân tự hải” đồng nhất về nghĩa với “như” trong
“xuân vũ như cao” song lại đồng âm với “tự” trong “cốt tự hàn”. Ba từ này
soi chiếu, tương tác, xâm nhập khiến câu thơ thêm mờ nghĩa: “quân ân tự hải”
và “xuân vũ như cao” có thêm nét nghĩa của “tự”: tự nhiên: những so sánh
khuôn sáo đến mức người ta xem nó là tự nhiên, không suy xét, tra vấn về nó
nữa. Hay là chỗ của vua là ngồi ở ngôi cao, ban phát ân huệ, cũng tự nhiên
như mưa xuân đến mùa là lại xuống. Đấy là còn chưa kể khi đặt song hành
“quân ân” với “mưa xuân” sẽ thấy tính chất đôi khi ngẫu nhiên và thất thường
của nó (liên hệ với “Ngọc thư phủng há ngũ vân đoan” - câu thơ đầu), vậy thì
chuyện “hào vô báo” thành ra cũng là một chuyện tự nhiên. Cần chú ý thêm là
thông thường để nói việc gì đó chưa làm được người ta sẽ dùng chữ “vị” thay
vì chữ “vô”. “Vị” hàm ý là “chưa”, để ngỏ một khả năng cho tương lai. Ở đây
chủ thể trữ tình lại dùng một từ phủ định tuyệt đối “hào vô” – không hề mảy
may chút nào. Đường đi của “quân ân” và “xuân vũ” gợi nhắc đến “ngọc thư”
và “ngũ vân đoan” ở câu đầu: là đường thẳng từ trên xuống và chỉ có một
chiều, không thấy có chiều đáp lại. Nhân vật trữ tình có vẻ như chẳng hề mặn
mà gì với thứ ân trạch mà nhiều người đang thèm muốn.
Tóm lại, bài thơ mở ra nhiều hướng nghĩa đa dạng, những nghĩa thứ
cấp do sự đặt kề nhau, sự tương tác, tương đồng, tương phản giữa các kí hiệu
140
tạo ra. Nó đồng thời gợi ra thế giới trong quan niệm của người quan sát: thế
giới của sự đối lập một bên là “mưa xuân”, “quân ân” với “ngọc thư”, một
bên là con người lạnh lẽo từ trong xương cốt. Con người ấy, không thuộc về
thế giới bên trên theo chiều dọc, cũng luôn đau khổ lạc loài trong thế giới theo
chiều ngang mà mình đang lặn lội.
Các phân tích ký hiệu học của Lotman và Jakobson gợi ra vấn đề là các
đối xứng hình thức có khả năng tạo ra một bố cụ phân chia khác cho các bài
thơ quen thuộc hoặc thường được phân chia theo bố cục nội dung. Đó là cơ sở
để người viết thử nghiệm cách đọc với một bài thơ, chẳng hạn bài “Quỳnh
Hải nguyên tiêu”. Tạm thời bỏ qua một bên các yếu tố khác và chỉ tập trung
vào sự lặp âm của âm tiết cuối, ta có cấu trúc như sau:
Nguyên dạ không đình nguyệt mãn thiên 1
Y y bất cải cựu thiền quyên 2
Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc
Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên 3
Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán
Bạch đầu đa hận tuế thời thiên 1
Cùng đồ liên nhữ dao tương kiến 2
Hải giác thiên nhai tam thập niên 3
Xét về bố cục nội dung, bài thơ được chia làm hai phần: 4 câu đầu tả
cảnh đêm trăng tròn ở Quỳnh Châu, 4 câu sau tả tình cảnh nhà thơ anh em ly
tán, đầu bạc, lưu lạc góc biển chân trời. Bên cạnh đó, cấu trúc lặp của âm tiết
cuối lại sắp xếp bài thơ theo một bố cục khác, dù vẫn chia đôi 4/4. Sự sắp xếp
này tạo ra đối xứng, tương ứng kì lạ như được đánh số thứ tự. Trong bài chỉ
có duy nhất hai từ cuối là không lặp, đó là các từ lạc – tán, và chúng được đối
xứng qua từ có lặp “viên”. Đối xứng này cũng có thể mở ra một hướng nghĩa
nào đó với tư cách là trung tâm của cấu trúc lặp.
141
Chúng tôi sẽ phân tích từng cặp đôi đối xứng theo thứ tự để xem xét
khả năng gợi liên tưởng về ý nghĩa của chúng:
- Cặp 1 – 1: thiên – thiên: hai từ đồng âm khác nghĩa dựng lên không
gian rộng lớn (trời) và thời gian nhiều biến đổi (thời quá cảnh thiên: năm
tháng trôi qua, hoàn cảnh thay đổi), có thể hình dung là một thời điểm loạn
lạc, nhiều tai ương giáng xuống.
Cặp 2 – 2: thiền quyên – kiến: gặp người đẹp. Nếu cặp đồng nhất thứ
nhất gợi khung cảnh lớn thì cặp thứ hai gợi một câu chuyện cụ thể: gặp người
đẹp trong một đêm trăng đẹp.
Cặp 3 – 3: viên – niên: trong khi “viên” chỉ ý vẹn tròn, đầy đủ, viên
mãn thì “niên” chỉ tuổi tác. Đây là một người già, người mang hận, người
không thể yêu, không thể hết mình với tình yêu, người quá mệt mỏi vì li biệt.
“Viên” là mong mỏi, còn “niên” là thực tế cuộc đời.
Câu có lặp “Vạn lý Quỳnh Châu thử dạ viên” nằm giữa hai câu không
lặp “Nhất thiên xuân hứng thùy gia lạc” và “Hồng Lĩnh vô gia huynh đệ tán”
với ý đối lập rất rõ: cũng là “gia” nhưng “xuân hứng” là của “thùy gia”,
không phải của mình, còn mình “vô gia”.
Như vậy sự đối lập trong cấu trúc lặp âm tiết cuối đã làm cho các từ
trong ngôn ngữ tự nhiên vốn không thể đối sánh xích lại gần nhau thành các
cặp đồng nghĩa – phản nghĩa, trên cơ sở đó tạo ra nghĩa thứ cấp. Nghĩa thứ
cấp này trước hết giúp giải thích mâu thuẫn của nghĩa trên phương diện ngôn
ngữ tự nhiên: tại sao tác giả lại ví trăng như cô gái đẹp, vì sao trong đêm trăng
lại nói chuyện bạc đầu. Phần trẻ trung, yêu đời tha thiết trong con người gặp
gỡ với trăng, một ánh trăng viên mãn, luôn trẻ trung dịu dàng xinh đẹp, nhưng
cái phần phong trần từng trải thì nhận ra nghịch cảnh éo le: mình với giai
nhân cách xa nhau nhiều quá, không thể tương phùng, kề cận, chỉ có thể nhìn
nhau từ xa mà rơi lệ. Câu thơ lại là một tiếng thở dài, cho thấy cái nghịch lí,
142
bi kịch trong tâm hồn của chủ thể trữ tình: thấy cái đẹp của cuộc đời, nhìn đời
bằng con mắt phong tình, nhưng vì đời nhiều trắc trở ưu phiền, con người
không thể hưởng thụ niềm vui. Bài thơ, nhìn từ cấu trúc lặp của các âm tiết
cuối, là cuộc tình nhỡ nhàng đầy tiếc nuối của tâm hồn chủ thể trữ tình với
cuộc đời (được thể hiện qua biểu tượng trăng như cô gái đẹp xưa không thay
đổi). Con người lạc loài, lỡ dở này được thấy trong những câu thơ như: “Dục
điển túc sương mưu nhất túy/ Nại hà đầu dĩ bạch như ngân”(Quảng Tế ký
thắng), và trong cả các hình thức song hành giữa “kì tài” với “dị vật”*
Như vậy, chủ thể trữ tình, nhìn bên ngoài có vẻ vẫn nói bằng giọng
khách quan, mượn các quy luật chung, một tiếng nói chung, song ở bề sâu đã
có sự phân tách, có ý thức về mình như một cá thể độc lập, tự trị có cách nhìn,
cách nghĩ khác với “thiên hạ”. Và nền tảng chi phối cách nhìn ấy là con người
nhận ra bản chất khác thường của mình, dễ bị thiên hạ cho là “dị vật”, song
ông chấp nhận cái bản chất ấy “Tính thành hạc hĩnh hà dung đoạn”. Con
người trong thơ sonnet Shakespeare cũng là một “dị vật” ở khía cạnh xa lạ,
tách ra khỏi xã hội mà mình thuộc về trong ý niệm đời là một sân khấu lớn
còn mình chỉ là diễn viên.
Cái tôi vai diễn trong thơ sonnet Shakespere
Trong “An Essay on Shakespeare’s Sonnets”, Stephen Booth phân tích
Sonnet 15 để thấy cấu trúc “When”… “then” đã chia bài thơ thành hai nửa:
nửa 8 câu đầu và nửa 6 câu sau: “When I consider everything that grows/
Holds in perfection but a little moment/ That this huge stage presenteth
* Chẳng hạn: Thiên giáng kì tài vô dụng xứ Nhật tà dị vật hữu lai thì (Trường Sa giả thái phó) Ở đây “kì tài” được đặt song hành với “dị vật”, trong khi cụm từ chỉ không gian “vô dụng xứ” và cụm từ chỉ thời gian “hữu lai thì” đã dựng lên một thế giới không cần, thậm chí xem người tài hoa chỉ là một thứ “dị vật” bất thường, kì dị, khiến người ta lo sợ, phải tìm cách trừ khử, tiêu diệt, nếu không thì cũng gạt ra ngoài lề. Đây là vấn đề mà chúng tôi sẽ triển khai cụ thể, kĩ lưỡng trong một bài viết khác.
nought but shows/ Whereon the stars in secret influence comment/ When I
143
perceive that men as plants increase/ Cheered and check'd even by the
selfsame sky/ Vaunt in their youthful sap, at height decrease/ And wear their
brave state out of memory/ Then the conceit of this inconstant stay/ Sets you
most rich in youth before my sight/ Where wasteful Time debateth with
Decay/ To change your day of youth to sullied night/ And all in war with
Time for love of you/ As he takes from you, I engraft you new” (Khi ta nhìn
mọi thứ lớn lên/ Chỉ vẹn tròn ở phút đầu tiên/ Vì cuộc đời là sân khấu lớn/ Và
phẩm bình ở những vì sao; Khi ta nhìn con người như cây/ Cùng lớn lên dưới
một bầu trời/ Hút nhựa xanh căng tràn đến đỉnh/ Rồi héo tàn như khói như
mây; Ta nhìn vật phù du thoáng chốc/ Thấy người đẹp trẻ trung trước mắt/ Và
thời gian giành giật không ngừng/ Biến ngày người thành đêm tối mông lung;
Ta, từ trên tay thời gian sẽ lấy/ Lại hình người bằng tình yêu luôn mới).
Hai khổ tứ cú đầu tiên có sự đồng nhất về cú pháp: cấu trúc câu “When
I + động từ”* cùng với từ “that” được tỉnh lược ở câu thứ nhất (When I
consider (that) every thing that grows) và hiện diện trong các câu tiếp theo tạo
ra quan hệ song song giữa các đối tượng mà trong ngôn ngữ tự nhiên vốn
không thể xếp cùng một phạm trù: every thing/ this huge stage/ man/ plants.
Theo đó, điểm nhìn của nhà thơ được đặt ở các vì sao, thế giới là một sân
khấu lớn trong đó con người cũng như cây cỏ chỉ đang đóng các vai của mình
– các diễn viên trên sân khấu cuộc đời không được nghe lời nhận xét như các
diễn viên thông thường nhận phản hồi từ khán giả vì các ngôi sao ở xa kia giữ
kín cho riêng chúng “secret influence comment”. Sự song hành về cú pháp
cũng góp phần dựng lên một mô hình thế giới với ba mảng màu sắc, chuyển
động rõ nét: dốc lên bên này là niềm hân hoan của sự sinh sôi, nảy nở, trưởng
thành (grows, increase, cheered), dốc xuống bên kia là nỗi đau của sự tàn lụi,
* Các động từ “consider” và “perceive” cũng có sự tương đồng về nghĩa
kết thúc, rơi rụng (checked, decrease, wear out). Trên đỉnh dốc là một thời kì
144
huy hoàng đẹp đẽ (holds in perfection, vaunt in their youthful sap, at height,
brave state). Vấn đề là giai đoạn huy hoàng đẹp đẽ ấy vô cùng ngắn ngủi, chỉ
trong “a little moment”. Sự ngắn ngủi ấy càng được làm cho nổi rõ bởi các
hình thức song hành về âm và nghĩa kéo gần hai mảng màu sắc, chuyển động
đã nói ở trên lại với nhau “Cheered and checked even by the selfsame sky”.
Không dừng ở đó, bài thơ một mặt theo cấu trúc 4-4-4-2 của sonnet
Anh, mặt khác lại có dấu hiệu của cấu trúc sonnet Italia, sau khi khai triển ở
đoạn 8 câu (octave) đến đoạn 6 câu (sestet) bắt đầu chuyển hướng. Nó nằm ở
bước chuyển từ “when” sang “then”.
Theo Paul Edmondson và Stanley Wells, đó là tỉ lệ vàng. Còn theo
Helen Vendler, sự thay đổi điểm nhìn từ rộng sang hẹp, từ những ngôi sao
sang con người thể hiện một cái nhìn nhân văn. Những người đọc kĩ sonnet
Shakespeare sẽ ngay lập tức nhận ra sự song hành kì lạ về cấu trúc cú pháp
của bài thơ này với bài sonnet 12: “When I do count the clock that tells the
time/ And see the brave day sunk in hideous night/ When I behold the violet
past prime/ And sable curls all silver'd o'er with white/ When lofty trees I see
barren of leaves/ Which erst from heat did canopy the herd/ And summer's
green all girded up in sheaves/ Borne on the bier with white and bristly beard/
Then of thy beauty do I question make/ That thou among the wastes of time
must go/ Since sweets and beauties do themselves forsake/ And die as fast as
they see others grow/ And nothing 'gainst Time's scythe can make defence/
Save breed, to brave him when he takes thee hence” (Khi tôi thấy thời gian
trôi lẳng lặng/ Để màn đêm chầm chậm tấn công ngày/ Khi tôi thấy mái tóc
đen điểm trắng/ Hoa hồng tàn héo rụng, gió lắt lay/ Khi tôi thấy cả khu rừng
trụi lá/ Nơi mùa xuân anh chăn thú từng ngồi/ Và đâu đó bên tấm bia tàn tạ/
Những bó mì phơi bạc trắng, than ôi/ Tôi lại nghĩ rằng bề ngoài đẹp đẽ/ Mà
nay anh đang có sẽ mất dần/ Như bông hoa đang héo tàn - tuy thế/ Bông hoa
145
còn sống lại với mùa xuân/ Anh cũng vậy, chỉ con anh để lại/ Thắng thần chết
và giúp anh sống mãi”.
Nhưng cái tôi ấy thực sự là gì? Ý niệm về cuộc đời như một sân khấu
và con người như những diễn viên được Shakespeare biểu đạt trực tiếp trong
màn 2, cảnh 7 của vở As you like it qua lời nhân vật Jacques: “All the world's
a stage/ And all the men and women merely players/ They have their exits and
their entrances/ And one man in his time plays many parts” (Và thế giới là sân
khấu lớn/ Còn con người là những diễn viên/ Họ tồn tại và đi nhiều lối/ Có
khi một người đóng rất nhiều vai).
Trong sonnet, cách biểu đạt ấy, trực tiếp thông qua chủ thể ở ngôi thứ
nhất xưng tôi, thường trở đi trở lại. Chủ thể có khi tự ví mình như một diễn
viên không chuyên nghiệp, khi như người chồng bị lừa dối, người nô lệ… Dù
trong vai trò nào, con người vừa đồng thời sống hết mình với vai diễn, vừa ý
thức rằng mình chỉ “như là” – có nghĩa vẫn có một mong muốn định vị bản
thể của mình phía sau vai diễn ấy.
Tách mình ra khỏi đám đông, khỏi “thiên hạ”, cho dù tự hình dung
mình như một diễn viên trên sân khấu cuộc đời hay một “dị vật”, một kẻ lạc
loài lỡ dở, điểm chung ở họ là đều không thuộc về nơi họ vốn thuộc về. Họ tự
mỉa mai mình diễn xuất rất tồi, tự cười chê mình già mà vẫn long đong, khao
khát những gì không thể khao khát, nghĩa là ý thức rằng mình không thuộc về
chốn này, cuộc sống mình mong muốn không phải cuộc sống này. Tôi chỉ biết
cái mà tôi không là, còn tôi thực sự là gì? Ta còn thấy ở đây một khát khao
mãnh liệt: khát khao được thành thực, được cất lên tiếng nói riêng tư, cảm
tính, tiếng nói của những con người nếm trải và không ngừng bị tổn thương
bởi những ba động của cuộc đời. Sự thành thực đến đáy khiến con người tha
146
thiết sống với những gì hiện hữu, chân thực nhất. Do đó, họ luôn hướng về
cuộc đời trần thế bằng tinh thần hoài nghi.
3.1.2. Hướng về cuộc đời trần thế bằng tinh thần hoài nghi
Con người nhân văn chủ nghĩa thường không tin vào một đời sống sau
khi chết, chỉ coi trọng đời sống này, lúc này và bây giờ. Có thể thấy rất rõ tinh
thần đó trong sáng tác Nguyễn Du khi ông luôn khẳng định: lúc sống không
uống cạn bầu rượu, chết rồi ai rưới rượu lên mồ cho, sau này chết nằm dưới
gò tây liệu còn được uống giọt rượu nào trong tiết trùng dương không. Ông
đôi khi cũng cổ vũ sự hưởng thụ ở ngay kiếp này “có chó cứ giết thịt, có rượu
cứ nghiêng bầu”, muốn chiếc áo cừu lông chim túc sương lấy một cuộc say…
Nó cũng tương đồng với tinh thần hoài nghi đậm chất thế tục thấm đẫm trong
các bài sonnet của Shakespeare. Về cơ bản, là một nghệ sĩ, vấn đề thiết thân
đối với chủ thể trữ tình là cái đẹp. Hướng về trần thế trước hết là hướng về cái
đẹp.
Thường gặp trong cả sonnet Shakespeare và thơ chữ Hán Nguyễn Du là
một chủ thể quan sát các hiện tượng xung quanh, chẳng hạn bài “Đối tửu” của
Nguyễn Du: “Phù toạ nhàn song tuý nhãn khai/ Lạc hoa vô số há thương đài/
Sinh tiền bất tận tôn trung tửu/ Tử hậu thuỳ kiêu mộ thượng bôi?/ Xuân sắc
tiệm thiên hoàng điểu khứ/ Niên quang ám trục bạch đầu lai/ Bách kỳ đãn đắc
chung triêu tuý/ Thế sự phù vân chân khả ai” (Ngồi bên cửa sổ mắt đờ
say,/Trên thảm rêu xanh hoa rụng đầy./ Sống đã không vơi bầu rượu được,/
Chết rồi ai rưới mộ mình đây?/ Sắc xuân dần đổi, chim vàng lánh,/ Năm tháng
ngầm xui tóc bạc dày./ Ước được trăm năm say khướt mãi,/Việc đời mấy nỗi,
nghĩ buồn thay!) và sonnet 64 của Shakespeare: “When I have seen by Time's
fell hand defaced/ The rich proud cost of outworn buried age/ When sometime
lofty towers I see down-razed/ And brass eternal slave to mortal rage/ When I
have seen the hungry ocean gain/ Advantage on the kingdom of the shore/
147
And the firm soil win of the watery main/ Increasing store with loss, and loss
with store/ When I have seen such interchange of state/ Or state itself
confounded to decay/ Ruin hath taught me thus to ruminate/ That Time will
come and take my love away/ This thought is as a death which cannot choose/
But weep to have that which it fears to lose”( Khi tôi thấy thời gian đang tàn
ác/ Đem bàn tay phá hủy hết những gì/ Do quá khứ đã làm nên: tháp bạc/
Tượng, lâu đài - tất cả cuốn phăng đi: Khi tôi thấy biển rú gầm lấn đất/ Sóng
ngày đêm vật vã thế muôn đời/ Nhưng bờ đất không thua: nay để mất/ Mai lại
bồi, xô sóng biển ra khơi/ Khi tôi thấy bao quốc gia rất dễ/ Bị thời gian xóa
bỏ, biến mất dần/ Tôi lại nghĩ một ngày kia cũng thế/ Sẽ mất người tôi kính
trọng, yêu thân/ Nghĩa là tôi cái chết mình sẽ thấy?/ Ôi hạnh phúc sao mong
manh quá vậy!) Hai bài thơ giống nhau một cách kì lạ về cảm hứng và cấu
trúc tâm trạng của chủ thể trữ tình. Ta đều thấy hiện ra một con người quan
sát vạn vật, nhận thấy thời gian đang trôi chảy, cái đẹp đang tàn phai, để rồi
ngậm ngùi buồn bã.
Điểm chung trong cách nhìn nhận về cái đẹp của cả hai mô hình chủ
thể là họ đều thấy tính hữu tử, tính nhất thời của nó. Và kiểu chủ thể hiện ra
qua suy tư về cái đẹp là một kiểu chủ thể nghệ sĩ đầy bi kịch, đầy thao thức.
Suy tư về bản chất của cái đẹp có khi được biểu lộ tinh tế hơn thông
qua việc đặt song hành âm vị của các từ vốn không có quan hệ trong ngôn
ngữ tự nhiên, chẳng hạn sonnet 60: “Like as the waves make towards the
pebbled shore/ So do our minutes hasten to their end/ Each changing place
with that which goes before/ In sequent toil all forwards do contend/ Nativity,
once in the main of light/ Crawls to maturity, wherewith being crown'd/
Crooked eclipses 'gainst his glory fight/ And Time, that gave, doth now his
gift confound/ Time doth transfix the flourish set on youth/ And delves the
148
parallels in beauty's brow/ Feeds on the rarities of nature's truth/ And nothing
stands but for his scythe to mow/ And yet to times in hope my verse shall
stand/ Praising thy worth, despite his cruel hand”( Như sóng biển đêm ngày
trên bãi sỏi/ Đang xô nhau tìm cái chết của mình/ Phút tiếp phút, Thời gian
không biết mỏi/ Vào vĩnh hằng, phút tiếp phút trôi nhanh/ Vầng trăng non
những đêm đầu nhợt nhạt/ Đã to dần, thêm sáng với thời gian/ Nhưng thời
gian lại làm trăng che khuất/ Để ngày kia không sáng nữa, trăng tàn/ Thời
gian phá những mùa xuân tuổi trẻ/ Trên trán người, nhiều nếp khắc in sâu/
Và những gì trong thiên nhiên đẹp thế -/Trước thời gian, tất cả phải cúi đầu/
Nhưng thơ tôi thời gian không thể giết -/ Trong thơ tôi, em trở thành bất diệt).
Các nhà nghiên cứu khi nói đến bài thơ này thường chú ý đến sự tương
ứng kì lạ giữa con số là tên bài thơ (sonnet số 60) với nội dung mà nó biểu đạt
(so do our minutes hasten to their end – đơn vị đo thời gian nhỏ nhất ở thời
Shakespeare – phút – thời gian đời người). Bài thơ nằm trong chuỗi bài có
chủ đề về thời gian thường được nhắc đến kèm theo sonnet 18 và 73. Nhưng
tác giả đã biểu đạt thời gian theo những cách thức nghệ thuật như thế nào? Có
thể thấy ở đây, sự tương đồng – đối lập về âm vị có vai trò quan trọng. Chúng
tôi chỉ phân tích sự song hành âm vị nằm trong hai câu giữa của khổ tứ cú thứ
hai: “crawls” – “crowned” – “crooked”. Sự trùng âm “cr” đã đưa ba từ mà
trong ngôn ngữ tự nhiên của tiếng Anh vốn không liên quan đến nhau vào
quan hệ có khả năng biểu đạt các nghĩa thứ cấp. Trong trường hợp này, ba từ
trên đã quy tụ toàn bộ tiến trình biểu nghĩa của bài thơ. Bài thơ được xem là
một ví dụ điển hình của kiểu sonnet Anh chuẩn có cấu trúc 4-4-4-2 (ba khổ tứ
cú và cặp câu cuối). Mỗi khổ tứ cú nói về một đối tượng khác nhau: khổ đầu
miêu tả những con sóng tràn vào bờ cát sỏi như cuộc đời con người tiến dần
đến điểm kết thúc. Cách tả sóng của Shakespeare rất lạ: bởi nó được bổ sung
bằng hai câu tiếp trong khổ tứ cú đầu tiên: quá trình sóng tràn vào bờ cát, cái
149
sau thay thế cái trước thực ra không hề diễn ra nhanh chóng như ta thấy trong
tự nhiên: đó là một cuộc hành trình mệt mỏi, nơi con người phải tranh đấu,
khó nhọc từng ngày. Khổ thứ hai nói về hành trình của ánh sáng trên đại
dương, hành trình của đời người từ khi là đứa trẻ mới sinh ra, huy hoàng lúc
trưởng thành rồi bị tự nhiên lấy đi phần đã được cho trước đó (nhiều người
liên hệ khổ thơ này với các lời dùng trong đám tang). Khổ thứ ba, vừa lặp lại
vừa xếp chồng lên hai khổ trước, nói về hành trình của thực vật, giống loài
quý hiếm bị thời gian đâm xuyên và rồi kết thúc bằng lưỡi hái trong mùa gặt.
Toàn bộ tiến trình đó có thể được thấy qua trật tự của ba từ “crawls” –
“crowned” – “crooked”. Chúng gợi ra chiều của chuyển động: từ chuyển động
ngang chậm chạp trong “crawls” đến chuyển động hướng lên trên trong
“crowned” và kết thúc bằng chuyển động theo chiều từ trên xuống trong
“crooked”. Theo đó, đỉnh nằm ở “crown” – con người ở độ phát triển viên
mãn nhất, đẹp đẽ nhất. Đường đi từ chân lên đến đỉnh rồi xuống đáy còn nằm
ở sự phân biệt nghĩa sở biểu của ba từ có sự lặp lại về âm vị trên: “crawls” và
“crooked” đều mang nghĩa tiêu cực (“crawls” không chỉ gợi tư thế bò trườn
của một đứa trẻ mà còn được nối với hình ảnh con rắn trong Sáng thế ký,
“crooked eclipses” gắn với bóng tối và hình ảnh một người già còng lưng vì
năm tháng) trong khi “crown” hoàn toàn mang nghĩa tích cực. Đây cũng là
chủ đề hạt nhân của cả phần thân bài thơ “nothing stands” – không gì có thể
đứng lại, không gì tồn tại vĩnh cửu trước sự tàn phá của thời gian, trạng thái
viên mãn luôn chỉ là nhất thời. Cấu trúc hạt nhân đó sẽ chuẩn bị cho hai câu
kết lật ngược toàn bộ tình thế. Tóm lại trong trường hợp này, sự song hành âm
vị góp phần tạo ra một mô hình thế giới trong quan niệm của nhà thơ: thế giới
nơi cái đẹp tự nhiên đầy mong manh, dễ thương tổn, mà người nghệ sĩ là
người luôn đau buồn chứng kiến nghịch cảnh ấy, khao khát dùng ngôn từ để
vĩnh cửu hóa cái đẹp ấy. Nằm sâu dưới mô hình đời sống đó là sự chuyển
150
dịch quan niệm của con người về thời gian: từ thời gian liên tục, tiếp nối (time
passus) sang thời gian đứt gãy, phân mảnh (time fractus)*.
Nguyễn Du cũng suy tư về bản chất khả tử của ngoại vật, chẳng hạn
như trong bài Độ Hoài hữu cảm Hoài âm hầu: “Thôi thực giải y† nan bội đức/
Tàng cung phanh cẩu diệc cam tâm”. Nếu “thôi thực giải y” và “tàng cung
phanh cẩu” mâu thuẫn để thể hiện thái độ tráo trở, cách cư xử bạc bẽo, tiền
hậu bất nhất (lúc cần lợi dụng người xông pha để vượt qua hiểm nguy gian
khó thì mới nhường cơm sẻ áo, đến khi thành công thì vì sợ bị đe dọa mất
quyền lực mà hãm hại chính những người từng vào sinh ra tử vì mình) của
Lưu Bang, Lữ Hậu thì “nan bội đức” và “diệc cam tâm” lại đồng nhất ở cách
hành xử trọng tình nghĩa của Hàn Tín. Đặc biệt, sự xuất hiện của “tâm” và
“đức” khi nhắc đến Hàn Tín đã ngầm phủ định các yếu tố phẩm chất tương
đương của những kẻ cai trị. Cả hai vế “Thôi thực giải y”, “tàng cung phanh
cẩu” lại cùng tương phản với “nan bội đức” và “diệc cam tâm”. Nếu chỉ đơn
lẻ một câu thì không thể diễn đạt được các tương quan phức tạp như vậy,
không thể khiến người đọc hình dung ra rõ nét đến thế hay bức tranh nhân
cách, hai lối ứng xử trong một thế giới đầy biến động, đầy những quy luật tàn
khốc xuất phát từ toan tính của những kẻ mưu đoạt quyền lực. Đến hai câu
tiếp theo, tác giả suy ngẫm về lẽ mất còn – vẫn trên cơ sở thủ pháp song hành
ngữ pháp: “Bách man khê động lưu miêu duệ/ Lưỡng Hán sơn hà biến cổ
* Có thể tham khảo thêm bài viết: “Teaching Shakespeare’s Sonnets: time as fracture in sonnets 18, 60 và 73” của Miguel Martinez Lopez trong Sederi VII (1996), trang 287-295. † Cụm “thôi thực giải y” có rất nhiều ẩn ý: chuyện Hàn Tín và bát cơm Phiếu mẫu, chuyện Lưu Bang nói lời
mật ngọt, nhưng đặt trong văn cảnh câu thơ, song hành với câu sau, thì ý nghiêng về thứ 3: ứng xử của Hàn
Tín với Lưu Bang.
câm”.
151
Trọng tâm của hai câu thơ, cũng là tình cảm của chủ thể trữ tình nằm ở
sự đối lập của các từ “lưu” và “biến”. Hai từ này xuất hiện dường như là hệ
quả của các cách ứng xử đã nói ở trên.
Ta bắt gặp quan niệm về cái đẹp của chủ thể trữ tình trong sonnet
Shakespeare qua các cặp song hành cú pháp tạo ra các nghĩa thứ sinh, chẳng
hạn cặp đối trong khổ tứ cú đầu tiên của sonnet 130: “If snow be white, why
then her breasts are dun/ If hairs be wires, black wires grow on her head” (Làn
da nàng cũng không như tuyết trắng/ Tóc nàng bay không gợn sóng ven hồ).
Cấu trúc câu điều kiện “If - then” chia hai câu thơ thành hai nửa: một nửa là
lý tưởng – điều mà sau đó Shakespeare gọi là “false compare” (những nàng
thơ – người đẹp lý tưởng da trắng như tuyết, tóc ánh vàng) và một nửa là hiện
thực (tình nương của nhà thơ da màu xám, tóc màu đen). Nhưng bài thơ
không chỉ nói về một trường hợp cá biệt mà còn là “any she belied” – bất cứ
người nào bị đánh lừa bởi những so sánh bóng bẩy. Cấu trúc song hành đồng
thời cũng tạo ra đối lập về màu sắc: một bên là màu trắng “snow white” vốn
có nguyên mẫu là nàng Bạch Tuyết ngây thơ, trong trắng của văn học phương
Tây, cộng với ánh vàng rực rỡ* của mái tóc mà ta từng thấy được ca ngợi rất
nhiều trong văn học truyền thống với một bên là màu xám (từ “dun” ngoài
nghĩa chỉ màu sắc còn có ý chỉ vết nhơ, sự không trong sạch) và màu đen (sự
mờ ám, đen tối). Câu thơ trước hết thể hiện tâm sự rất riêng tư của nhân vật
trữ tình: khi yêu, người ta thường mơ những điều trong trẻo, đẹp đẽ, lý tưởng
hóa mọi hình dung, song sự trong trẻo đẹp đẽ không nhiều, cuộc đời đôi khi
đen tối, người ta phải lòng đôi khi rất xấu xa – nghịch lý ở chỗ ta yêu chính
* Từ “wire” có thể khiến các độc giả hiện đại nghĩ đến dây điện, dây đồng – các kim loại trong công nghiệp,
song với độc giả thời Phục Hưng thì đó là ánh vàng của dây chuyền – sự lấp lánh của một thứ trang sức. Phải
hiểu điều này mới thấy được hết hàm ý của Shakespeare trong cách dùng từ.
cái xấu xa đầy ma lực ấy, tình yêu có logic riêng của nó, không thể đem
152
những quy chuẩn thẩm mĩ hay đạo đức thông thường để đánh giá. Bằng sự
tương phản ý nghĩa của hai vế song hành trong cấu trúc cú pháp, tác giả cũng
đồng thời thể hiện sự nghi vấn, thách thức và khước từ quy chuẩn thẩm mĩ
truyền thống: ông không phải không biết đến cái đẹp tiêu chuẩn của thời
Trung cổ, nhưng cái đẹp ấy không dành cho ông, không phải điều ông muốn
theo đuổi. Và theo Booth, bài thơ châm biếm việc áp dụng một cách máy móc
các ẩn dụ phổ biến của thời Petrarch.
Điều đau đớn nhất với chủ thể trong thơ Shakespeare như một nghệ sĩ
thời Phục Hưng là nỗi đau về sự không vĩnh viễn của cái đẹp, nỗi đau phải
chiến đấu với thời gian từng giờ từng khắc để sống, mãnh liệt, ý nghĩa, không
uổng phí, không trở thành kẻ tham lam, thành người có vay mà không có trả.
Con người tha thiết yêu cái đẹp, chiêm ngắm những buổi bình minh rực
rỡ với núi đồi, đồng cỏ xanh, hoa violet (Sonnet 12, Sonnet 33). Song cái đẹp
hấp dẫn hơn cả là cái đẹp của con người. Sonnet Shakespeare, từ bài 1 đến bài
126, rồi rải rác cho đến bài cuối cùng, đều là khúc ca say đắm ca ngợi chàng
trai trẻ đẹp – hình mẫu của thời đại, ca ngợi tình yêu thần thoại. Điều thực sự
ám ảnh trong thơ ông không hẳn là cái chết, mà là sự già nua, là cái đẹp tàn
phai. Con người thường thấy cái đẹp ở giây phút này, giây phút ông vừa nhận
ra “the rich proud” thì cũng đồng thời “weep to have” và “fear to lose” ở khi
mường tượng về tương lai phai rữa của nó. Con người trong thơ Nguyễn Du,
trái lại, thường đứng ở thời điểm khi cái đẹp đã phai tàn, nhìn ngược trở lại
lúc nó còn rực rỡ. Như vậy cái đẹp rực rỡ, thường chỉ nằm trong kí ức. Đó là
cô Cầm xinh tươi mà nhà thơ đã gặp ở kinh đô thời trẻ (Long Thành cầm giả
ca), là người ca nữ “xuân sắc yên nhiên” đất La Thành (Điếu La Thành ca
giả), là nàng ca nương có giọng ca uyển chuyển vốn ở trong phủ đệ của em
nhà thơ (Ngộ gia đệ cựu ca cơ), là nàng Dương Quý Phi kiều diễm (Dương
Phi cố lý), nàng Tiểu Thanh tài hoa (Độc Tiểu Thanh ký). Đặc biệt, chủ thể
153
trữ tình có xu hướng tự đồng nhất với những người đẹp “Phong vận kì oan
ngã tự cư” (Độc Tiểu Thanh ký).
Nếu kiểu chủ thể nghệ sĩ của thơ Nguyễn Du nằm trong không gian văn
hóa của nó – xã hội chuyên chế phương Đông không có chỗ cho người nghệ
sĩ tự do tư tưởng, tự do phê phán, tự do sáng tạo, họ phải mượn hình tượng
người đẹp để tự biểu lộ thì kiểu chủ thể của Shakespeare thuộc về không gian
văn hóa phương Tây với chữ “tôi” viết hoa (I) - luôn là đối tượng suy ngẫm
của triết học, khoa học tự nhiên cũng như nghệ thuật. Chữ “tôi” ấy, con người
cá nhân tồn tại như là một hữu thể không ngừng bị tra vấn về giá trị. “Tôi” là
một thân thể cường tráng được tạo ra theo mô hình các vị thần có thể vươn
đến đỉnh Olimpia chiến thắng, hay tôi là một sinh linh bình đẳng trước Chúa,
hay tôi tựa vào trí tuệ, lí trí, tư suy để tồn tại, hay tôi chỉ là một kí hiệu trong
trò chơi phi lí của cuộc đời? Tôi vì say đắm một người đàn bà nên để người
đàn bà ấy đưa vào trần gian đủ các loại hạt giống xấu xa nghi kị tàn ác, chỉ
giữ lại duy nhất một mầm hi vọng. Vì sao tôi là con của Chúa, là sản phẩm
được nặn theo hình hài của người, được thổi linh hồn nhưng không thể bất tử,
vẫn vướng vào bao lầm lạc u mê? Vì sao tôi phạm tội tổ tông để rồi phải hứng
tội lỗi ấy suốt đời, quay cuồng trong sinh lão bệnh tử đau thương? Con người
phương Tây không quan tâm làm sao giữ “tam cương”, “ngũ thường”, trọn
đạo hay “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” mà suy tư về những điều như
thế. Bi kịch của người nghệ sĩ trong sonnet Shakespeare cũng cần được đặt
trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể - thời đại được ghi dấu bằng thuật ngữ
“Reformation”(thời cải cách tôn giáo), khi những niềm tin vào sự bất tử của
thánh thần, vào những giáo lí nhà thờ có nguy cơ sụp đổ, chủ nghĩa hoài nghi
tràn lan khắp mọi nơi. Hoài nghi vào những tín điều cũ, con người trên cơ sở
phục hồi lại những giá trị từ thời cổ đại Hi Lạp, tin vào chủ nghĩa nhân văn
với hạt nhân tư tưởng cho thế giới lẫn con người đều do tự nhiên sinh ra,
154
không phải Chúa, trong 6 ngày tạo ra thế giới, cũng không Chúa trời nào lấy
bụi đất nặn ra hình người. Và cuộc sống trần thế không phải nơi đày ải, mà là
nơi con người có thể xây dựng hạnh phúc, con người có thể hạnh phúc ngay
lúc này, ngay hôm nay, không cần phải chờ lên đến thiên đàng. Cuộc đời chứa
đựng vô vàn cái đẹp, mà con người là trung tâm của cái đẹp, do vậy con
người phải trở thành đối tượng của nghệ thuật. Cái đẹp trung tâm được
Shakespeare miêu tả trong sonnet là một hình mẫu của thời đại – con người
vừa đẹp về hình thể, vừa dịu dàng, có đời sống tâm hồn phong phú, quyến rũ
và thắm tươi hơn một ngày mùa hè (Sonnet 18), con người ấy là đồ trang sức
tươi mơn mởn của thế gian, là sứ giả của mùa xuân rực rỡ (Sonnet 1). Con
người này có đôi mắt đẹp là sản phẩm kì diệu của tự nhiên, đôi mắt khiến cho
ai ai cũng muốn ngắm nhìn (Sonnet 5), con người hăm hở như vầng mặt trời ở
phương Đông một sớm bình minh leo lên dốc đồi thiên đường (Sonnet 7), con
người tràn đầy nhiệt tình tuổi trẻ cùng dòng máu nóng sẵn sàng gieo trồng
trên khu vườn trinh nữ (Sonnet 16). Hình thức nghệ thuật chiếm vị trí chủ đạo
của thời Phục Hưng là hội họa, và hầu hết các hình thức nghệ thuật khác đều
chịu ảnh hưởng của nó – phô bày cái đẹp ngoại cỡ của thiên nhiên và đời sống
con người. Sonnet Shakespeare không là ngoại lệ. Cái tôi nghệ sĩ, nhân vật
“tôi” trong sonnet, ví đôi mắt mình như cửa sổ cho vầng mặt trời rực rỡ xuyên
qua, ví ngực mình như cửa hàng trưng bày hình ảnh người đẹp, còn thân thể
mình là cái khung treo tranh. Con người trong thơ sonnet Shakespeare, cũng
như con người thời Phục Hưng, đã hiện ra với vẻ rực rỡ chưa từng thấy trong
văn học.
Nhưng ngay khi thoát ra khỏi giáo lí nhà thờ Trung cổ, trả con người về
với bản chất tự nhiên, con người lại đứng trước nỗi đau về sự không vĩnh
viễn. Con người thời này chỉ tin vào cái hiện thực, cái mình mắt thấy tai nghe,
tin vào giác quan chính xác của mình, cũng như tin vào khoa học. Nghệ sĩ là
155
người có quyền năng mô phỏng cái đẹp trong thiên nhiên và xã hội con người,
nhưng anh ta ứng xử thế nào trước thời gian từng giờ từng khắc trôi đi khắc
rãnh sâu, hằn nếp nhăn lên vầng trán con người? Liệu những hình mẫu lí
tưởng anh vẽ ra có còn mãi, và cho dù anh rất thành thật, anh chỉ phỏng theo
điều thật không chút thêm nếm, nhưng rồi thời gian trôi và khi cái đẹp ấy
không còn, ai sẽ tin anh? Trong khi vẻ đẹp con người rất thực thì thời gian với
chiếc lưỡi hái, con dao quắm, bàn tay rách nát tả tơi của nó cũng rất thực, như
con sóng đang vỗ vào bờ xô đi từng lớp cát, đến cả thành quách lâu đài cao
ngất, biết bao công trình đồ sộ còn tiêu tan huống gì con người? Nhà thơ ý
thức rất rõ không phải vàng bạc hoa cương cẩm thạch, không phải mặt đất
mênh mông hay đại dương kì vĩ mà là cái chết sẽ thống ngự thế giới này, ấy
vậy mà cái đẹp, nội lực của nó không mạnh hơn một bông hoa dễ dàng tàn
héo, và mong manh như hơi thở mùa hè (Sonnet 65), điều ấy khiến nhà thơ
trăn trở, đau xót, lo âu. Sự không vĩnh viễn của cái đẹp hiện diện thông qua
những nếp nhăn đào rãnh sâu trên cánh đồng khô nứt nẻ, mọc đầy cỏ dại tả tơi
(Sonnet 2), nó diễn ra cũng nhanh chóng như buổi sáng trong cuộc hành trình
về dốc đêm tuổi tác, cũng phũ phàng như ông vua bị đánh cắp kho báu chỉ
trong chốc lát rồi từ địa vị tối cao rơi xuống cảnh bần cùng (Sonnet 63). Và
tuổi trẻ, những tưởng vĩnh viễn thanh xuân, hóa ra chỉ là lớp phấn son che đậy
khiếm khuyết rằng con người thực ra không thể mãi mãi như ban đầu.
Con người đề ra ba phương án để chiến đấu chống lại sự không vĩnh
viễn ấy: một là bằng tình yêu, hai là bằng thế hệ sau – những đứa con của
mình, và ba là bằng thơ ca.
Định vị mình trong mối quan hệ với cuộc đời, chủ thể cũng đồng thời
định vị mình trong quan hệ với chính bản thân.
156
3.2. Chủ thể trong quan hệ với chính mình
Con người luôn có nhu cầu nhìn ngắm, soi chiếu bản thân mình. Tuy
nhiên, do cấu trúc đặc biệt, hai mắt nằm ở phía trước, nó không có khả năng
bao quát toàn bộ thân thể. Nó cần phải trung giới qua một yếu tố ngoài thân:
nó soi chiếu mình hoặc qua tấm gương hoặc qua sự đánh giá của người khác.
Thông qua đó, nó mới nhìn lại và có được sự hình dung về mình. Không phải
ngẫu nhiên mà trong cả thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare,
hành động soi gương là một hành động đầy ám ảnh.
3.2.1. Hành động soi gương
Soi gương là một hành động rất quen thuộc trong cuộc sống của con
người, người ta dù là nam hay nữ đều có ý thức nhìn vào gương để hoặc tự tin
hoặc điều chỉnh cho phù hợp với hình ảnh mình mong đợi. Tuy nhiên, ít ai để
ý rằng đó là một phương thức định vị chủ thể.
Trong bài viết “The Mirror Stage as Formative of the Function of the
I”, Lacan phân tích một giai đoạn đặc biệt trong sự phát triển của con người:
“giai đoạn soi gương” (the mirror stage)*. Đó là thời gian khi đứa trẻ khoảng
từ 6 đến 18 tháng tuổi (tương ứng với giai đoạn ái kỉ đầu tiên theo Freud).
Đây là thời điểm đứa trẻ có tình yêu với chính hình ảnh và cơ thể của nó trước
khi có tình yêu với tha nhân. Tấm gương ở đây có thể là gương thật, cũng có
thể là ẩn dụ để chỉ, chẳng hạn, ánh mắt của người mẹ, giúp đứa trẻ lần đầu
tiên nhận ra mình như một toàn thể, có thể điều khiển cái toàn thể đó thông
qua vận động và có được niềm khoái lạc. Đứa trẻ có xu hướng đồng nhất
mình với hình ảnh trong gương và do đó bắt đầu quá trình trở nên xa lạ với
* Chi tiết xin xem: Jaques Lacan (1989), Écrits, translated by Alan Sheridan, Routledge, London và Sean Homer (2005), Jacques Lacan, Routlede, New York.
chính nó. Theo Lacan, chính ở giai đoạn này, cái tôi (ego) bắt đầu xuất hiện.
157
Nó được định hình bởi các thuộc tính cấu thành của hình ảnh trong gương,
dựa trên một hình ảnh mang tính ảo tượng mà sự thống nhất và sự làm chủ
đối lập với tính phân mảnh và sự xa lạ. Cũng từ giai đoạn này, trong đứa trẻ
bắt đầu hình thành xung đột giữa một bên là cảm giác về một bản ngã bị chia
tách cố hữu với một bên là sự tự do về ý chí mang tính ảo tượng do hình ảnh
trong gương mang lại.
Điều có thể thấy trước hết từ phân tích của Lacan là hình ảnh khả kiến
có vai trò rất lớn trong việc kiến tạo bản ngã của chủ thể. Đây cũng là nguồn
cảm hứng để Joel Fineman phát triển thành một công trình xuất sắc về sonnet
Shakespeare*: Shakespeare’s Perjured Eye: the Invention of Poetic
Subjectivity in the Sonnets. Luận điểm cơ bản của tác giả là trong sonnet của
mình, Shakespeare đã phát minh ra một chủ thể tính trong thơ trữ tình hoàn
toàn mới đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong văn học hậu Phục Hưng và
hậu nhân văn chủ nghĩa vì nó đã mở rộng bằng cách phá vỡ điều mà đến
sonnet Shakespeare vẫn là bản chất có tính quy phạm của nhân vật trữ tình và
chủ thể trữ tình. Cụ thể hơn, từ kiểu chủ thể thấu thị (visionary subject) - thi sĩ
như người quan sát và biểu tỏ những gì đẹp đẽ mình quan sát được, ông đã
viết lại và phát triển thành kiểu chủ thể mà ông dùng chữ của chính
Shakespeare trong sonnet 152: chủ thể của đôi mắt bội thề (the subject of a
“perjur’d eye”) – sản phẩm của ngôn ngữ thơ chống lại truyền thống mạnh mẽ
cho rằng thơ là diễn ngôn của sự nhìn ngắm, phản chiếu, mở đầu quan niệm
thơ như là diễn ngôn của lời, đôi khi hoàn toàn khác biệt với những gì được
nhìn thấy. Các phân tích của Joel Finneman là cực kì phức tạp và thách thức
khiến người viết có thể phải mất rất lâu mới hiểu được hết, song điều chúng
* Chi tiết xin xem: Joel Fineman (1988), Shakespeare’s Perjured Eye: the Invention of Poetic Subjectivity in the Sonnets, University of California Press, Carlifornia.
tôi có thể tiếp thu ở đây là: tác giả gợi ra cách thức nắm bắt chủ thể trữ tình
158
thông qua các kí hiệu bằng hình, thông qua sự hình dung của thị giác. Phần
tiếp theo của chương chủ yếu xoáy vào nội dung đó: quan niệm về chủ thể
được bộc lộ qua các hình ảnh khả kiến như thế nào. Có thể thấy ở chủ thể
trong thơ Nguyễn Du và Shakespeare hai loại gương soi ứng với hai phần
luôn giằng xé trong con người: gương soi lòng thánh nhân và gương soi diện
mạo con người phàm nhân sống trong cõi thế.
Gương soi lòng thánh nhân
Con người là một sinh vật rất đặc biệt. Theo các huyền thoại của Kito
giáo phương Tây, con người được làm ra từ bụi đất, được thổi linh hồn và
mang hình hài của Chúa. Xa hơn, từ trong thần học của Plotinus, nó bị lưu
xuất (emanate) từ cái Một (the One) mang thần tính*. Bị giáng cấp (degradate)
thành các hình thức tồn tại khác nhau và trở nên bất tất (contingent), nó luôn
luôn nhớ về nguồn gốc thần thánh, ý thức về thần tính trong mình và khao
khát trở về với cái Tuyệt Đối (Absolute) nguyên sơ. Ở phương Đông Lão Tử
cũng có tư tưởng tương tự khi ông viết: “Đạo sinh nhất, nhất sinh nhị, nhị
sinh tam, tam sinh vạn vật”. Trở về với Đạo cũng là trở về với trạng thái ban
đầu. Nho giáo nguyên thủy với tinh thần thực tế, trọng thực nghiệm cho đối
với quỷ thần phải “kính nhi viễn chi”, song lại phân chia ra hai đẳng cấp: kẻ
tiểu nhân và người quân tử. Bậc quân tử lấy tu thân làm gốc, tu dưỡng những
phẩm chất đặc biệt vượt lên trên kẻ tầm thường. Khổng Tử đến đời Tống qua
học thuyết của Trình Hạo, Trình Di lại được thánh hóa. Các bậc quân tử theo
đạo thánh hiền đều tha thiết hướng về bậc thánh nhân ấy.
Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, có một loại
* Chi tiết xin xem: Leszek Kolakowski, translated from the Polish by P.S.Falla (1978), Main Currents of Marxism, Clarendon Press, Oxford, trang 12-17. Bản dịch tiếng Việt do Nguyễn Thị Minh dịch, Bùi Văn Nam Sơn hiệu đính có thể xem tại triethoc.edu.vn.
gương đặc biệt nhắc nhở con người, hướng họ đến cái đẹp lý tưởng. Đặc
159
trưng của loại gương này là gắn với ánh sáng, chính là ánh sáng tinh thần.
Chủ thể thông qua việc đồng nhất với gương thể hiện phần nào bản chất lý
tưởng gắn với thánh nhân của mình. Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, tấm
gương đó chính là trăng, còn trong thơ sonnet Shakespeare, đó là mặt trời.
Trang Tử (Ứng Đế Vương) có câu “Chí nhân chi dụng tâm nhược kính,
bất tương bất nghinh, ứng nhi bất tàng, cố năng thắng vật nhi bất thương”. Lê
Anh Minh dịch “Bậc chí nhân dụng tâm như chiếc gương soi, chẳng mong
chờ cũng chẳng nghinh đón ai hay vật gì. Phản chiếu người hay vật trước nó,
nhưng nó không lưu giữ các hình ảnh đó. Vì thế ngài siêu vượt trên mọi sự
vật và không gây hại cho ai”*. Nguyễn Du có lẽ chính là muốn thể hiện tinh
thần này khi ông viết bài “Đạo ý”: “Minh nguyệt chiếu cổ tỉnh/ Tỉnh thủy vô
ba đào/ Bất bị nhân khiên xỉ/ Thử tâm chung bất dao/ Túng bị nhân khiên xỉ/
Nhất dao hoàn phục chỉ/ Trạm trạm nhất phiến tâm/ Minh nguyệt cổ tỉnh
thủy” (Trăng sáng soi giếng xưa/ Nước giếng không nổi sóng/ Không bị
người khuấy động/ Lòng này rốt cuộc chẳng lung lay/ Nếu bị người khuấy
động/ Lay rồi lại lặng yên/ Một tấm lòng thanh trong/ Như trăng sáng chiếu
giếng xưa). Ví tâm như chiếc gương không bị ngoại vật tác động hay như
nước giếng xưa in hình trăng sáng, con người hướng tới một cái tâm bất biến,
vượt lên trên cuộc đời tầm thường. Đọc thơ chữ Hán Nguyễn Du, độc giả sẽ
nhận thấy ông nhiều lần nhắc đến trăng, cũng như nhiều nhà thơ trung đại ở
Trung Quốc và Việt Nam. Song nếu với các thi nhân khác, trăng thường đóng
* Chi tiết xin xem: Phùng Hữu Lan (2013), Lê Anh Minh dịch, Lịch sử triết học Trung Quốc tập 2: Thời đại Kinh học, NXB Khoa học xã hội, TPHCM, trang 319. Về các tham chiếu đến lịch sử tư tưởng phương Đông trong luận án, người viết chủ yếu dựa vào tác giả Phùng Hữu Lan – một sử gia xuất sắc về triết học Trung Quốc được các học giả phương Tây tin cậy. Các sách của ông phần lớn cũng được chuyển ngữ sang tiếng Việt bởi dịch giả, nhà nghiên cứu cổ học uyên bác Lê Anh Minh. † Có thể thấy cả điều này trong Truyện Kiều. Trăng trong truyện Kiều thường đóng vai trò nhân chứng “Vầng trăng vằng vặc giữa trời/ Đinh ninh hai miệng một lời song song”, và “Nhìn trăng mà thẹn những lời non sông”…
vai tri kỉ của thi sĩ, thì trong thơ Nguyễn Du, trăng lúc nào cũng trung tính†.
160
Trăng đóng vai trò là tấm gương soi lòng, để nhà thơ bày tỏ một cái tôi không
dời đổi theo năm tháng. Đó có khi là tấc lòng đối với quê hương dù qua bao
năm vẫn không thay đổi: “Nhất phiến hương tâm thiềm ảnh hạ/ Kinh niên biệt
lệ nhạn thanh sơ” (Dưới bóng trăng một mảnh lòng nhớ quê/ Tiếng nhạn đầu
mùa khơi lại dòng lệ biệt ly từ bao năm - Sơn cư mạn hứng); có khi là tình
bạn sáng lên trong khi chia biệt: “Lưu thủ giang nam nhất phiến nguyệt/ Dạ
lai thường chiếu lưỡng nhân tâm” (Xin giữ lấy một mảnh trăng ở phía nam
sông/ Đêm đến thường soi lòng hai ta – Lưu biệt Nguyễn đại lang). Trong con
mắt của chủ thể, trăng là thứ có thể vượt qua mọi khoảng cách không gian và
không biết đến giới hạn thời gian. Trăng vì thế thường là hình ảnh phản chiếu
của những gì bất biến, bền vững, đẹp đẽ trong lòng người.
Trong thơ sonnet Shakespeare, người ta cũng thấy một hình ảnh lý
tưởng tương tự dù xuất hiện trong một hình thức khác. Các nghiên cứu từ góc
độ triết học, chẳng hạn của Somer Christine Hodges Gawlikowski* đã chỉ ra
tính lý tưởng, tinh thần Kito giáo kiểu tân – Plato trong sonnet Shakespeare.
Trái ngược với thơ chữ Hán Nguyễn Du, tấm gương soi lòng, chỉ ra cái đẹp lý
tưởng bất biến trong sonnet Shakespeare là mặt trời. Trong sonnet
Shakespeare, mặt trời đôi khi đươc gọi là “mắt của Thượng Đế” (the eye of
Heaven), “ánh sáng từ bi” (gracious light) là biểu tượng của nguyên tắc sáng
tạo trong vũ trụ cũng như trong thế giới loài người, là quy luật của tự nhiên,
trung tâm cung cấp nguồn sáng và sự sống, cũng tượng trưng cho minh triết,
lương tâm, ý thức… Trong các bài thơ miêu tả tình yêu lý tưởng kiểu Plato,
Shakespeare thường đồng nhất đối tượng ca ngợi với mặt trời: “Lo! in the
orient when the gracious light/ Lifts up his burning head, each under eye/
Doth homage to his new-appearing sight/ Serving with looks his sacred * Chi tiết xin xem: Somer Christine Hodges Gawlikowsk (1991), Petrarchan, Neo-Platonic, and Christian Love Conventions in Shakespeare’s Sonnets, Thesis in English for the Degree of Master of Arts, Texas Tech University.
161
majesty/ And having climbed the steep-up heavenly hill/ Resembling strong
youth in his middle age/ Yet mortal looks adore his beauty still/ Attending on
his golden pilgrimage”(Khi Phương Đông được bình minh kéo dậy/ Mặt trời
lên, rực rỡ một khối hồng/ Cả trái đất rất hân hoan lúc ấy/ Tắm trong bầu ánh
sáng, ngước lên trông/ Lúc mặt trời đến giữa trưa, sáng nhất/ Đứng trên cao
như một cỗ xe vàng/ Cũng là lúc hàng trăm nghìn cặp mắt/ Chiêm ngưỡng
nhìn rực rỡ ánh hào quang - sonnet 7). Và giống như quy ước truyền thống có
từ Petrarch, chủ thể cho rằng bằng cách ngưỡng vọng một đối tượng lý tưởng,
giữ tình cảm trong sáng thuần khiết nguyên vẹn gần như tình yêu Thượng Đế,
anh có thể đến gần với thiên đường: “Haply I think on thee, and then my
state/ Like to the lark at break of day arising/ From sullen earth, sings hymns
at heaven’s gate/ For thy sweet love remembered such wealth brings/ That
then I scorn to change my state with kings”(Nhưng bỗng chốc nghĩ về em lúc
ấy/ Anh giật mình khinh phút yếu vừa qua/ Như con chim khi mặt trời mới
dậy/ Tâm hồn anh bay trong nắng chói loà/ Vì tình em mỗi lần anh lại nhớ/
Hơn cả vua, anh thấy đời rực rỡ - sonnet 29). Có lúc chủ thể cũng tự đồng
nhất mình với mặt trời: “In me thou see'st the twilight of such day/ As after
sunset fadeth in the west/ Which by-and-by black night doth take away/
Death's second self, that seals up all in rest”( Em chỉ thấy trong anh ngày sắp
hết/ Khi hoàng hôn le lói phía chân trời/ Để bóng tối bằng màn đen cái chết/
Khẽ buông dần, đang phủ kín khắp nơi - sonnet 73).
Tuy nhiên khao khát hướng về cái tâm bất biến, cái đẹp của thánh nhân
thường bị lung lay khi đối diện với đời thực. Dù muốn dù không, hai thi sĩ
đều phải thừa nhận, con người có một cái tôi khác, khả giác, được nhìn thấy
qua tấm gương thực.
162
Gương soi diện mạo phàm nhân
Con người là một sinh vật nhị nguyên. Một mặt, nó khao khát hướng về
cái lý tưởng. Mặt khác, nó luôn đau khổ vì cái nửa bên kia rất hiện thực, ý
thức về cái phần bất tất, trần tục, đầy yếu đuối của mình. Ý niệm này được
chủ thể nhận ra thông qua tấm gương thật – gương soi diện mạo phàm nhân.
Giống như Shakespeare, Nguyễn Du cũng nhiều lần tả chuyện soi
gương: “Minh kính hiểu hàn khai lão sấu/ Sài phi dạ tĩnh bế thân ngâm”
(Sáng lạnh soi gương mình ốm sọm,/ Đêm thanh đóng cửa giọng rên sầu -
Ngọa bệnh 2). Nếu lấy chủ thể làm trung tâm, thì không gian và thời gian
không phải là các yếu tố ngoại tại mà là khả năng đặc biệt của tri giác xếp đặt
các sự vật hiện tượng vào các khung rỗng thuần túy của trí óc để nhận thức sự
vật hiện tượng. Hiểu như vậy, có thể thấy ở đây cái tôi được xếp đặt vào
khung thời gian của một ngày – sáng – tối, khung không gian ngăn cách bằng
tấm gương và cửa sổ. Sáng “khai” – mở mắt, soi gương; đêm “bế” – đóng
cửa, phong bế tấm thân bệnh tật. Buổi sáng mở mắt không phải để quan sát
ngoại vật mà mở gương quan sát bản thân – thấy mình vừa già vừa gầy. Đêm
vắng, cánh cửa đóng kín, không còn ánh sáng để soi gương, chỉ còn tấm thân
bệnh. Dù sáng hay tối, dù mở hay khép thì cái mà con người nhận thấy rõ
ràng vẫn là bản thân mình, không phải nội tâm, mà là diện mạo – một con
người vừa già vừa gầy vừa tàn tạ, hết sức thê thiết.
Có khi người soi gương lúc đang ở trên đường: “Ảnh lý tu mi khan lão
hỷ/ Mộng trung tùng cúc ức quy dư” (Trước kính mày râu nhìn cảnh
lão,/Trong mơ tùng cúc nhớ quê ta - Lạng Sơn đạo trung); “Tha hương nhan
trạng tần khai kính/ Khách lộ trần ai bán độc thư” (Ðường hé quyển vàng
khuây gió bụi,/Trạm lau gương sáng ngắm mày râu.- Đông lộ). Điều kì lạ là
trong cả hai bài thơ này, tác giả thao thức về hai chuyện: chuyện “độc thư” và
163
“quy dư”. Người chỉ chú tâm vào chuyện đọc sách làm tấm thân tiều tụy. Và
tấm gương là thứ nhắc nhở con người rằng đã đến lúc rời xa sách vở, xa lánh
chuyện đời, trở về nghỉ ngơi như ông già trong xóm núi, nghe theo lời của
tiền nhân. Nhìn gương để biết mình đã già, chiếc thân đã mỏi mệt.
Với nhân vật của Shakespeare, soi gương có khi chỉ đơn giản là để nhìn
thấy khuôn mặt: “Thy glass will show thee how thy beauties wear/ Thy dial
how thy precious minutes waste/ The vacant leaves thy mind's imprint will
bear/ And of this book, this learning mayst thou taste” (Bao thời gian - kim
đồng hồ cho biết/ Gương chỉ cho anh tóc bạc trên đầu/ Trang giấy trắng mang
những dòng anh viết/ Truyền những gì anh nghĩ đến đời sau – Sonnet 77).
Tuy nhiên, khi tác giả đặt song hành tấm gương soi với chiếc đồng hồ
thì gương lại trở thành sự nhắc nhở về thời gian. Trong khi mặt đồng hồ cho
biết bao nhiêu giây phút quý giá đã trôi đi thì mặt gương cho thấy vẻ đẹp của
con người, đồng thời cũng nhắc nhở là cái đẹp ấy sẽ không vĩnh viễn, nó đang
phai nhạt đi. Song thường trực hơn cả, với chủ thể trữ tình, gương là một hình
thức nhân bản con người: “Look in thy glass, and tell the face thou viewest/
Now is the time that face should form another/ Whose fresh repair if now thou
not renewest/ Thou dost beguile the world, unbless some mother”(Nhìn
gương soi và nói cùng gương mặt/ Giờ là khi một gương khác sáng lên/ Làm
mới trong ta dòng máu nóng/ Chớ phụ người, phụ cả nhân gian - Sonnet 3).
Gương không chỉ là vật dụng để nhìn rõ diện mạo mà còn là một hình
thức phân thân của con người. Nhìn vào gương và trò chuyện với gương mặt
mình trông thấy là trò chuyện với cái tôi tạm thời trong khoảnh khắc của
mình. Như vậy bằng hình thức soi gương, con người không ngừng tự đối
thoại. Con người ý thức về cái tôi ở mỗi thời điểm, mỗi phút giây trong đời
sống.
164
Cũng giống như Nguyễn Du, Shakespeare quan tâm đến diện mạo của
con người, là thứ rất dễ chịu sự tác động của thời gian. Mặt bên kia của vẻ
đẹp, sự trẻ trung là sự già nua hiện hình cảm tính, trực tiếp thông qua các nếp
nhăn: “When forty winters shall beseige thy brow/ And dig deep trenches in
thy beauty's field” (Khi bốn mươi mùa đông rồi phủ lên vầng trán/ Và đào
những rãnh hầm sâu trên vùng đẹp mơ màng - Sonnet 2).
Những nếp nhăn trên vầng trán tựa như những rãnh hầm công sự mà
con người đào bới trong cuộc chiến với thời gian. Nếp nhăn là hiện diện rõ
nhất của thời gian mà gương soi là nhân chứng. Có khi nhà thơ gọi hẳn “tấm
gương tráo trở” (fickle glass) là một thứ công cụ của thời gian: “O thou, my
lovely boy, who in thy pow'r/ Dost hold time’s fickle glass, his sickle hour”
(Này người thương mến ơi sức mạnh có thể/ Giữ được lưỡi hái của gã thời
gian tráo trở - Sonnet 126).
Tóm lại, hành động soi gương qua con mắt của chủ thể trữ tình trước
hết thể hiện ý thức về thời gian. Con người luôn ám ảnh về sự trôi chảy của
thời gian, nhìn dung mạo như một hình thức đếm thời gian trôi. Tuy nhiên,
trong khi nhân vật trữ tình trong thơ Nguyễn Du so sánh mình với chính mình
trong quá khứ thì nhân vật của Shakespeare lại luôn mường tượng về bản thân
trong tương lai. Với nhân vật của Nguyễn Du, soi gương để rồi giật mình,
buồn bã hay suy tư. Với Shakespeare, tấm gương lại như là một minh chứng
để thuyết phục mình hay người khác hãy làm một việc gì chống lại thời gian.
Triết gia Heidegger cho nỗi lo âu đó là một cảm trạng thuộc về cái phổ sinh.
Soi gương cũng là một hành động cho thấy ý thức về bản thân của chủ thể trữ
tình. Trong trường hợp này, có thể nhận thấy một ý thức đi tìm kiếm bản thân
của nhân vật trữ tình. Vô tình hay cố ý, khi nhìn vào tấm gương, anh buộc
phải thừa nhận con người thế tục, thuộc về trần gian này của mình, anh không
165
thể chỉ sống với cái lý tưởng. Đặt ra vấn đề thân xác, mỗi nhà thơ có cách bộc
lộ khác nhau. Tuy nhiên, điểm chung của họ là họ đều trân trọng, đề cao tấm
thân trước hết ở tính mong manh yếu đuối dễ bị tác động của nó.
Như vậy, thông qua hành động soi gương – khi là gương thật, khi là
gương theo nghĩa biểu tượng – chủ thể trong thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ
sonnet Shakespeare phần nào nhận ra mình như một cá nhân tự trị. Cá nhân
ấy, về bản chất là một nghệ sĩ. Suy tư mạnh mẽ nhất của anh ta chính là suy tư
về văn chương.
3.2.2. Suy tư về văn chương
Chủ thể trữ tình đồng thời cũng bộc lộ những suy tư về văn chương. Có
thể nói chưa ở đâu như trong suy tư về văn chương, hai chủ thể lại có nhiều
điểm tương đồng đến thế. Nó cũng quy tụ toàn bộ nội hàm ý nghĩa được chủ
thể trình hiện trước đó vì họ ý thức về bản thân trước hết là ý thức mình như
một người nghệ sĩ, một người viết. Kiểu nghệ sĩ này khó có thể quy vào một ô
phân loại nào thống nhất, chẳng hạn con người trong thơ Nguyễn Du có lúc
mong làm “thư kí thời đại”, vẽ bức tranh về cảnh khốn cùng ai oán của con
người để dâng lên thiên tử (Sở kiến hành), có khi lại rất lãng mạn, chỉ mơ đến
“Người đẹp vời xa khuất dãy tường/ Trong tiếng cuốc kêu xuân đã hết” (Ngẫu
thư công quán bích 1), có khi hướng về ngoại giới “Hoa tặng người mình sợ/
Gương tặng người mình thương (Mộng đắc thái liên 2), song ngoại cảnh
chính là tâm cảnh “Thân sen vướng sợi tơ/ Vấn vương không lìa đứt” (Mộng
đắc thái liên 4); cũng thế người nghệ sĩ của Shakespeare có khi như một nhà
hiền triết quan sát thiên nhiên và các vì sao để cuối cùng rút ra “Rằng cái đẹp,
cùng tình yêu, sự thật/ Nếu được truyền cho con cháu mai sau/ Sẽ sống mãi,
còn nếu không , tất cả/ Sẽ theo anh xuống mồ sâu dưới đá (Sonnet 15), có lúc
lại “Như anh hề trước đám đông khán giả/ Lo quên vai đang sắm, bỗng rụt
166
rè;/ Như thằng điên trong cơn cuồng giận quá/ Sức có thừa mà lý trí không
nghe” (Sonnet 23), khi thèm khát danh tiếng, khi lại từ chối đổi địa vị của
mình với một ông vua (Sonnet 29).
Trong phần này, người viết sẽ xem xét các hình thức song hành từ
vựng, cú pháp và vị trí hiệp vần để đi tìm cách thức chủ thể biểu lộ bản thân
qua suy tư về văn chương. Các từ chỉ văn chương (trong thơ Nguyễn Du là
“thi” (thơ), “văn chương”, trong thơ Shakespreare là “verse” (câu thơ),
“rhyme” (vần), bằng các hình thức song hành quy tụ xung quanh nó các từ
khác góp phần tạo nên một hệ hình, một thế giới.
Vậy đó là một thế giới như thế nào? Cả hai chủ thể đều có ý thức phân
biệt văn chương như cái đẹp màu mè hoa mĩ bên ngoài với văn chương* đích
thực xuất phát từ trong thâm tâm, không cần tô vẽ. Trong bài Lương chiêu
minh thái tử phân kinh thạch đài, ta thấy một nhận định “Linh văn bất tại
ngôn ngữ khoa” (Văn thiêng chẳng ở tại ngôn ngữ). Chủ thể trữ tình bàn về
chim công múa cũng sợ hãi “Ngoại lộ văn chương thể/ Trung tàng sát phạt ki”
(Vẻ đẹp lộ ngoài mã,/ Chất độc giấu trong lòng) dù quả tình say mê cái đẹp
“Nhân khoa dung chỉ thiện,/ Ngã tích vũ mao kỳ” (Người thường khen cái
dáng,/ Ta chỉ tiếc bộ lông) và ca tụng người lặng lẽ không khoe mẽ “Hạc hải
* Lưu ý là văn chương ở đây cũng được hiểu theo nhiều nghĩa: văn chương như là cái đẹp nói chung “Đại địa
văn chương tùy xứ kiến” (Cảnh đẹp ở đâu mà chẳng có – Hoàng Mai kiều vãn diểu), văn chương khoa cử để
tiến thân “Nhất sinh từ phú tri vô ích” (Một đời từ phú thành vô ích), và văn chương theo nghĩa đích thực là
những rung động xuất phát từ nội tâm trong quá trình tiếp xúc với ngoại cảnh.
diệc hội vũ,/ Bất dữ thế nhân tri” (Hạc bể cũng biết múa,/ Không cho người
167
đời trông).* Chủ thể trong thơ Shakespeare thông qua hình thức chơi chữ
“mộ” (tomb) với “sách” (tome) nhấn mạnh: dù bị ghét bỏ, hiểu lầm, nhưng
người nghệ sĩ sẽ chọn cách im lặng thay vì nói những lời sáo rỗng:
This silence for my sin you did impute,
Which shall be most my glory being dumb;
For I impair not beauty being mute,
When others would give life, and bring a tomb.
(Nhưng than ôi, phũ phàng em đã trách
Rằng anh im, anh khô héo tâm hồn.
Anh không muốn như nhiều người kiểu cách
Khen quá nhiều làm cái đẹp vùi chôn.)
* Ý này của Nguyễn Du thực ra cũng không hoàn toàn mới, ta đã thấy từ Khuất Nguyên trong “Bi hồi phong”
(Buồn gió lốc):
Khác loài, cá sắp, vẫy riêng,
Không khoe văn vẻ rồng thiêng ẩn mình!
Mỏ với lý chẳng sinh cùng đất
Huệ và lan riêng ngát bên rừng
† Trong bài viết “Lối chơi chữ với từ “mộ” của Shakespeare” (T. Walter Herbert(1949) Shakespeare's Word-
Play on Tombe, Modern Language Notes, Vol. 64, No. 4 (Apr., 1949), pp. 235-241, Published by: The Johns
Hopkins University Press. Nguồn: http://www.jstor.org.), Walter Herbert đã phân tích khá kĩ sự xuất hiện của
từ mộ (tomb) trong sáng tác của Shakespeare. Ông nhận thấy cả trong thơ lẫn trong kịch, Shakespeare đều
thể hiện sự hứng thú đối với mối quan hệ giữa tomb (mộ), dumb (sự câm lặng) và womb (tử cung) thông qua
sự song hành về vần (Thực ra thì cũng theo tác giả, Shakespeare không phải là người đầu tiên nhận ra và sử
(Sonnet 83)†
168
dụng hình thức song hành về vần này. Nguồn gốc của nó có thể được tìm thấy trong Chidiock Tichborne viết
trên tháp trước khi bị hành hình:
I sought my death and found it in my womb
I looked for life and saw it was a shade
I trod the earth and knew it was my tomb
(T. Walter Herbert 1949: 235)). Theo Walter Herbert, sự song hành ấy củng cố việc gợi ra sự câm lặng vĩnh
cửu của cái thùng chứa bằng cẩm thạch nặng nề cuối cùng của con người. Tuy nhiên, không dừng lại ở chỗ
đó, ông chỉ ra rằng các ý nghĩa song song như trên vẫn vẹn nguyên như khi tác phẩm được sáng tác, nhưng
còn ý nghĩa đối lập khác, ngầm ẩn và đã bị thời gian và sự biến đổi ngữ âm che lấp đi. Bằng các phương pháp
của ngữ âm học lịch sử, Walter Herbert chỉ ra, một sự chơi chữ cho thấy sự quan tâm của Shakespeare đối
với các mối quan hệ ý nghĩa được thiết lập bởi việc đặt kề nhau hai từ gần như cùng âm, có thể được phát âm
như nhau. Và ông phát hiện ra, từ Shakespeare dùng để chơi chữ với chữ tomb là tome (nghĩa là sách, thường
là các cuốn sách cỡ lớn, rất dày và nặng). Ở thế kỉ 17, hai chữ này được phát âm như nhau. Có thể tìm thấy
dấu vết của sự lưỡng lự giữa hai cách viết ấy trong bài thơ “Lời từ biệt của cuốn sách” của John Done:
This book, as long-lived as the elements,
Or as the world’s form, this all-graved tome
In cipher writ, or new made idiom;
We for love’s clergy only’are instruments,
When this book is made thus,
Should again the ravenous
Vandals and the Goths invade us,
Learning were safe; in this our universe
Schools might learn sciences, spheres music, angels verse.
Trong bản in năm 1669, chữ tome được viết là tomb, sau mới được sửa lại. Ông còn dẫn ra nhiều
trường hợp tương tự khác để chứng minh cho nhận định của mình. Sau khi chứng minh nhận định của mình
bằng các bằng chứng từ lịch sử ngữ âm tiếng Anh, ông cũng đặt các bài sonnet của Shakespeare theo chiều
lịch đại (3, 17, 83, 86, 101, 107) và đưa ra giả thiết rằng lúc đầu Shakespeare dùng chữ tomb với nghĩa thông
thường để chỉ mộ, đến lần thứ hai ông bắt đầu nhận ra ý vị chơi chữ của nó, lần thứ ba ông dùng với toàn bộ
ý vị cay đắng và tinh vi, lần thứ 4,5 ông dùng để gợi ra sự thú vị nó có thể mang đến cho tâm trí con người,
và lần cuối cùng ông quay trở lại với nghĩa ban đầu của từ. Ông phân tích sonnet 17:
Who will believe my verse in time to come
If it were filled with your most high deserts?
Though yet heav'n knows it is but as a tomb
Which hides your life and shows not half your parts.
169
Điều người viết cho là một điểm tương đồng đặc biệt thú vị trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare là các chủ thể khi suy tư về
văn chương đều hình dung nó như một sinh mệnh có tính độc lập tương đối,
cuộc đời, nấm mộ che giấu cái chết. Không nghi ngờ gì là nhà thơ muốn ám chỉ dòng chữ trên bia mộ,
nhưng một tấm bia có thể bị lên án nếu nó che giấu cuộc đời của người chết và cho biết quá ít về những thành
tựu của anh ta. Tuy nhiên nếu mộ được xem như một tác phẩm thì chức năng thiết yếu của nó sẽ được xem
như chức năng của cuốn sách (tome). Và ông cho rằng Shakespeare có vẻ như đã nhận ra và có hàm ý này
khi dùng từ.
Bài thơ này nhấn mạnh tính chất câm lặng của nấm mồ. Trong đó, Shakespeare tự nhận thơ mình sẽ
chỉ là nấm mộ. Đến bài 83, ông so sánh thơ của các nhà thơ khác với mộ.
Ông tiếp tục phân tích các bài sonnet 82 và 83 trên phương diện: chủ thể trữ tình bình luận về các
nhà thơ dành tặng thơ cho các mạnh thường quân riêng của họ, được các vị này khuyến khích tiếp tục công
việc. Tuy nhiên, bản thân Nguyễn Du bày tỏ một thái độ khác: ông hầu như tránh dựng chân dung bằng thơ
để ca ngợi, với ý thức rằng các bức chân dung ấy không thể sánh được với nguyên bản. Ông trích dẫn khổ tứ
cú thứ ba trong sonnet 83:
This silence for my sin you did impute,
Which shall be most my glory, being dumb.
For I impair not beauty, being mute,
When others would give life, and bring a tomb.
Trong bài thơ, “mộ” (tomb) được dùng với hàm ý của “sách” (tome): trong khi các nhà thơ đối thủ
dâng tặng thơ cho người bảo trợ, họ mang đến sự lãng quên thay vì sự bất tử như mong đợi. Cuốn sách hủy
hoại cái đẹp cũng như nấm mộ hủy hoại cái đẹp, nấm mộ câm lặng theo nghĩa là Shakespeare không câm
lặng (chính ở đây ta thấy quan điểm gần gũi với Nguyễn Du: ông luôn miêu tả những nấm mộ lẻ loi, tàn tạ,
câm lặng, nhưng nó có câm lặng không. Bản thân sự câm lặng của nó là một dấu hiệu của những tiếng nói
còn chưa được vang lên, là dấu hiệu của những tiếng nói khác ở một thế giới khác đòi hỏi được khám phá,
được lắng nghe), còn cuốn sách ba hoa nhiều điều trong khi Shakespeare giữ yên lặng. Vì thế cuốn sách ba
hoa trong khi nói được rất ít, và nó đem đến cái chết hơn là sự bất tử. Ông tiếp tục phân tích khổ tứ cú đầu
tiên của sonnet 86, 101, liên hệ đến sonnet 55, tác giả đặt lại vấn đề về một niềm xác tín xưa nay rằng nơi
chứa đựng hợp lý của những tư tưởng chín muồi không phải là trong đầu óc nhà thơ, mà trong những cuốn
sách, ông đồng thời đưa ra quan điểm: chính những gì chân thật nhất, không cần tô vẽ mới làm cho con người
bất tử.
điều ít thấy ở các nhà thơ trước và cùng thời với họ. Không ai có thể nghi ngờ là nhà thơ đang so sánh những vần thơ với nấm mộ, nấm mộ che giấu
170
Văn chương như một sinh thể tự trị
Trong các hình thức song hành, nếu Nguyễn Du đặt văn chương trong
mối quan hệ không gian: “văn chương” với “thiên địa” thì Shakespeare đặt
văn chương trong quan hệ thời gian: “rhyme” (vần thơ) – “time (thời gian)”.
Dù ta thường nghe nói “văn chương vô mệnh” (Độc Tiểu Thanh ký), nhưng
trong bài Chu hành tức sự lại có những câu như thế này:
Thiên địa biên chu phù tự diệp,
Văn chương tàn tức nhược như ty
(Thuyền ở bên trời như chiếc lá
Hơi tàn văn lực yếu như tơ)
Thông thường người ta sẽ hiểu hai câu này là: trong trời đất chiếc
thuyền nổi trôi như chiếc lá, lúc hơi tàn văn chương yếu đuối như sợi tơ. Theo
nghĩa này, văn chương là một phần gắn bó không thể tách rời khỏi chủ thể,
hưng khởi khi khỏe mạnh, yếu ớt khi con người suy nhược. Tuy nhiên, các
nhà phân tích kí hiệu học về thơ Đường đã phát hiện ra một quan hệ không –
thời gian đặc biệt trong một bài bát cú*: hai câu đầu và hai câu cuối thường
nối tiếp nhau theo quan hệ thời gian, nếu có đối thì là kiểu đối lưu thủy; bốn
câu giữa với các hình thức đối của nó tạo thành một hệ hình: các yếu tố ngôn
ngữ quan hệ với nhau theo kiểu không gian như trong hội họa. Từ đó có thể
đọc thơ bát cú theo một kiểu khác trước, căn cứ trên các quan hệ đối xứng. Ở
đây, hình thức đối “thiên địa” với “văn chương” làm cho văn chương được
đưa lên trước, tách ra như một thực thể, như trong “thiên địa dữ nhân”. Và
* Có thể xem kĩ các phân tích này trong phần viết của Cao Hữu Công, Mai Tổ Lân (Trần Đình Sử, Lê Tẩm dịch) và Francois Cheng (Nguyễn Khắc Phi dịch).
nếu ở câu trên ta hiểu “chiếc thuyền trong trời đất”, nằm trong trời đất, giữa
171
trời đất, thuộc về trời đất, thì câu dưới tương ứng sẽ là “hơi tàn của văn
chương”. Văn chương thông qua hình thức song hành còn được ngầm so sánh
với chiếc thuyền nhỏ bé nổi nênh không bờ bến không nơi nương tựa. Đó là
một nghĩa thứ cấp khả thể bên cạnh nghĩa nguyên cấp ban đầu.
Quả thực Nguyễn Du trong nhiều trường hợp song hành khác cũng đặt
văn chương ở thế chủ động của chủ thể, biết lựa chọn, xa lánh hay đến gần
người, chẳng hạn như:
Sự lai đồ lệ giai kiêu ngã
Lão khứ văn chương diệc tị nhân
(Việc bày, nha lại đều lên mặt,
Già đến, văn chương cũng tránh mình)
(Ngẫu đắc)
Ở đây ta thấy có sự đối lập giữa lý tưởng và hiện thực, cả hai đều làm
cho chủ thể trữ tình thất vọng, đau khổ, chua xót. Con người cả trong mộng
tưởng lẫn đời thực đều bị đối xử tàn tệ. Tuy nhiên vấn đề đáng chú ý là ở chỗ,
hình thức đối “đồ lệ” – chỉ người với “văn chương” và cụm động từ đồng nhất
về cấu trúc phía sau “giai kiêu ngã” và “diệc tị nhân” khiến ở một góc độ nào
đó, có thể hình dung văn chương như một sinh thể có hành động, suy nghĩ
như người, không còn chỉ là một sản phẩm tinh thần hay một phần phụ thuộc
vào chủ thể. Trong thơ Shakespeare, ý này được bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ
hơn các hình thức song hành về vần giữa “rhyme” với “time”, chẳng hạn
trong sonnet 16:
But wherefore do not you a mightier way
172
Make war upon this bloody tyrant Time?
And fortify yourself in your decay
With means more blessed than my barren rhyme?
(Nhưng sao không chọn cách mạnh mẽ hơn
Để chiến đấu với thời gian bạo chúa?
Phòng vệ bản thân trước ngày phai úa
Khi vần thơ cô độc mong manh )
Cấu trúc vần của khổ tứ cú đầu tiên này là abab (trong toàn bộ cấu trúc
sonnet kiểu Shakespeare là abab cdcd efef gg). Không chỉ sự đồng nhất ở vị
trí hiệp vần “Time” với “rhyme” mà cả sự lặp âm “t” trong “tyrant Time”, “r”
trong “barren rhyme” đã tạo ra một quan hệ song hành, đưa thơ trở thành một
đối trọng với thời gian. Cả hai đều được hình dung như các nhân vật có cá
tính, sứ mệnh riêng.
Cách diễn đạt này khá thống nhất trong nhiều bài thơ khác. Trong cuộc
chạy đua bất tận, ngòi bút nhà thơ và lưỡi hái thời gian diễn ra hai quá trình
ngược nhau: Trong khi thời gian khắc sâu những nếp nhăn, cướp đi tuổi trẻ
con người, nhà thơ, bằng khả năng sáng tạo, đem đến cho họ một cuộc sống
khác, khắc họa hình hài họ trên trang giấy. Cũng có khi con người cho rằng,
vẻ đẹp đích thực của cuộc sống không gì tô vẽ được, ta chỉ có thể cảm nhận
nó một cách chính xác nhất bằng trực quan sinh động hay qua tấm qương soi.
Mặc dù vậy, cố gắng làm một tấm gương - dù chưa thật hoàn hảo - thi sĩ miêu
tả lại thật chi tiết những gì mình thấy, như người ta chưng cất phần thơm tho
giá trị nhất của hoa hồng phòng khi cánh hoa phai màu, nhụy hoa tàn rữa
(Sonnet 18). Như bông hoa đã được bảo toàn hương sắc, được cất giữ ở một
173
nơi tin cậy, mặc kệ những cơn gió dữ, nắng chói, người trẻ tuổi sẽ mãi giữ
được vẻ trẻ trung trong vần thơ bất tử. Thần chết khi ấy cũng sẽ trở thành một
kẻ bất lực bởi hắn không mang theo được gì. Giấy trắng mực đen tưởng
chừng yếu ớt, không nanh vuốt, lại dễ dàng bị ố vàng nhưng hóa ra nó còn tồn
tại lâu hơn cả đá, tượng thần hay các công trình kiến trúc nguy nga (Sonnet
55). Khi tất cả đều trở nên bất lực, những câu thơ vẫn kiên cường, cho đến
ngày tận thế như phán quyết của thượng đế chí tôn (Sonnet 55, Sonnet 60).
Bởi thơ ca tồn tại song song với sự tồn tại của con người. Khi nào con người
còn sống, còn thở, còn đôi mắt để nhìn, còn yêu cái đẹp thì thơ ca còn giữ mãi
giá trị (Sonnet 18). Thơ ca sẽ lưu giữ như một kỉ niệm không phai rằng đã
từng có con người đẹp tươi nhường ấy sống và yêu thiết tha (Sonnet 80). Có
lẽ không với vũ khí nào như thơ ca, con người thấy mình mạnh mẽ đến thế,
quyết liệt đến thế trong nỗ lực khắc chế sức mạnh bạo tàn của thời gian. Con
người tin tình yêu, tài năng của mình sẽ giúp giữ lại sự thật và cái đẹp trong
những vần thơ (Sonnet 19, Sonnet 123).
Thơ Shakespeare cũng có sự phân vân, mơ hồ nghĩa giữa văn chương
như là một phần thân thể với văn chương như một sinh thể độc lập, tự trị.
Cách nói của chủ thể trong thơ Shakespeare về thơ như “the better part of me”
(phần tốt hơn trong tôi) mang âm hưởng của Ovid về “a mighty part of me”
(phần mạnh mẽ trong tôi). Nhà thơ từng lập luận: muốn níu giữ được bước
chân nhanh chóng của thời gian, ngăn chặn sự phá hủy của nó với cái đẹp, trừ
phi có một phép màu (Sonnet 65). Và phép màu ấy chính là tình yêu tỏa sáng
trong thơ. Từ đâu thơ ca có sức mạnh diệu kỳ như vậy? Shakespeare giải
thích nó ở chỗ: thơ chính là những đứa trẻ được tách ra từ trí óc, và khi nó
thoát ra khỏi người anh, được trao cho bảo mẫu chăm sóc, nó có một đời sống
riêng, sinh mạng riêng giữa cuộc đời. Thơ có thể giúp con người bày tỏ những
điều bình thường họ không thể nói, không dám thốt ra lời. Thơ được chắt lọc
174
từ phần tốt nhất, giàu có nhất, phần sẽ được giữ lại sau khi thể xác bị chôn vùi
dưới ba tấc đất. Rất chân thành, nhà thơ tâm sự với người đọc, khi ông đi vào
cõi hư vô, thể xác ông để cho giun gặm nhấm, nhưng loài vật ấy chỉ chiếm
được phần ít giá trị trong con người ông, phần cao quý hơn vẫn tiếp tục sống
trong những trang thơ ông để lại, như một kỉ niệm gợi nhắc về một thi nhân
đã sống, hiến dâng tinh thần mình (Sonnet 74). Là một giá trị tinh thần, thơ
ca, tự bản thân nó có một linh hồn, một trí tuệ. Ta thấy trong sonnet
Shakespeare, đôi khi con người tự phân thân để cầu khẩn, thuyết phục nàng
thơ thực thi nhiệm vụ, phát huy khả năng của mình. Đã lâu hình như nàng thơ
đi vắng, hay quên hát bên tai lời hát truyền cảm hứng cho thi sĩ. Vì thế, biết
bao ngày đã trôi qua lãng phí (Sonnet 100). Điều này cũng giống cách hình
dung của Nguyễn Du khi ông nói “Lúc già văn chương cũng xa lánh mình”.
Như vậy hai cách tư duy, dù đặt văn chương trong mối quan hệ không
gian (“văn chương” song hành với “thiên địa”) hay thời gian (“rhyme” song
hành với “time”) song đều có điểm chung là suy ngẫm về số mệnh của văn
chương, nó không chỉ là tinh thần, tình cảm hay bức tranh đời sống mà còn có
thân mệnh, số phận, được hình dung như một sinh linh. Quan điểm này khá
hiện đại khi nó còn hình dung người làm văn chương như một cá nhân bất
toàn
Người làm văn chương như một cá nhân bất toàn
Lưu Hiệp trong Văn tâm điêu long phân tích “văn” như là cái đẹp của
* “Ta ngẩng đầu lên xem cái cảnh tượng rực rỡ chói lọi [của trời] [hay] cúi xuống nhìn cái vẻ phong quang chứa chất [của đất] [thì thấy rằng] cái cao [trời] và cái thấp [đất] đã có địa vị dứt khoát rồi. (…) Còn như: gió thổi qua rừng, âm hưởng vang lên, điệu như tiếng đàn, tiếng sáo. Suối chảy trên đã, nghe có nhạc điệu, như tiếng chuông tiếng khánh hòa nhau. Đủ biết có cái hình xuất hiện thì cái đẹp (chương) nảy sinh; thanh âm đã phát ra thì cái nhạc (văn) lộ rỡ. Ôi! Những vật vô tri vô giác kia mà còn đẹp rực rỡ như thế, [con người là] cái vật có tinh thần (tâm) lẽ nào chẳng có văn hay sao?” (Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch, giới thiệu và chú thích, NXB Lao động, 2007, trang 15, 16.).
người trong đối sánh với cái đẹp của trời đất.* Văn là phần đẹp đẽ trong con
175
người, nói lên cái chí, cái tình. Thơ Nguyễn Du và Shakespeare ở một mức độ
nào đó đã manh nha xem văn chương như một sinh mệnh tự trị tách ra khỏi
con người. Đó suy cho cùng là một hình thức soi chiếu của chủ thể: tách văn
ra để thấy người, từ văn mà ngẫm về người, tựa như luật viễn cận, nhìn và vẽ
tranh là do lấy góc nhìn của người vẽ làm tâm điểm. Vậy thì con người với tư
cách nghệ sĩ trong thơ của hai thi nhân là con người như thế nào? Tinh thần
cổ phương Đông cho “Chỉ có con người là tham dự được vào [sự biến hóa
của] trời đất, bởi vì người là nơi chung đúc của cái linh thiêng của thiên tính
(tính linh). Vì vậy cho nên gọi [trời, đất, người] là ba yếu tố (tam tài). Người
là cái tinh hoa của ngũ hành (năm yếu tố tạo nên vũ trụ: kim, mộc, thủy, hỏa,
thổ), thực là trung tâm của trời đất”*. Tư tưởng phương Tây từ thần học Kito
giáo đều cho con người mang thần tính, về bản chất là sự “lưu xuất” từ cái
Một tuyệt đối thành cái nhiều, đến thời Phục Hưng, với sự trỗi dậy của tinh
thần nhân văn, con người sánh ngang với thần thánh. Bản thân Shakespeare
trong Hamlet, hồi 2 cũng viết: “Kì diệu thay là con người! con người cao quý
làm sao về mặt lí trí, vô tận làm sao về mặt năng khiếu. Trong hành động thật
như thần tiên, về trí tuệ ngang tài Thượng đế! Thật là vẻ đẹp của thế gian,
kiểu mẫu của muôn loài…”. Nhưng đó không phải là con người nghệ sĩ. Xã
hội phương Đông không xếp nghệ sĩ vào một thang bậc nào trong “tứ dân”.
Nguyễn Du và Shakespeare, thông qua sự trình hiện của chủ thể trong suy tư
về văn chương, đã dành chỗ đứng cho kiểu chủ thể nghệ sĩ. Vậy đó là kiểu
chủ thể như thế nào?
Nhân vật của Nguyễn Du nhìn mọi thứ đều lấy cái đẹp của quá khứ làm
tâm điểm. Cái đẹp, cái đáng trân trọng là cái trong quá khứ. Song khi nói đến
văn chương, con người ấy lại có xu hướng nhìn về tương lai hoặc đặt quá khứ
trong cái nhìn xuyên suốt đến hiện tại và tương lai, đến sự vĩnh hằng. Cách tư * Lưu Hiệp, tlđd, trang 15, 16.
176
duy này rất giống với kiểu suy nghĩ của nhân vật trong thơ Shakespeare khi
dự phóng về tương lai thực sự là một ám ảnh. Như vậy ta bắt gặp hai con
người trong nỗi giằng xé: một bên là sự nếm trải tận cùng đời sống này, để
nhận ra những đau khổ, khiếm khuyết của mình, đối diện với những câu đố
bất khả giải về thân phận, một bên là niềm tha thiết hướng về tương lai của sự
đồng cảm, tri âm song cũng lại đối mặt với những câu hỏi, những hoài nghi
bất tận.
Suy tư về văn chương vì thế đi cùng với suy tư về bản chất nghệ sĩ.
Người xưa coi trọng “vi thế dụng giả” (có ích dụng cho đời), “văn tu hữu ích
vu thiên hạ” (văn chương phải có ích cho thiên hạ)*. Nhân vật của Nguyễn Du
tự hỏi “Văn tự hà tằng vi ngã dụng” (Văn chương chữ nghĩa nào có ích gì cho
ta). Con người ấy có xu hướng quy tất cả vào bản thân, vào bản tính nghệ sĩ
của mình.
Ý thức về bản chất nghệ sĩ trong mình, nhân vật của Nguyễn Du thấy
được cái khổ do trời sinh, và gọi cái khổ đó là cái khổ vì quá thông minh, vì
đam mê chữ nghĩa. Mệt mỏi vì văn chương, thấy ông già an nhàn vì không
đọc sách (Lạng Sơn đạo trung), con người có xu hướng đem tất cả nguyên
nhân nỗi khổ của mình đổ tại văn chương, tại trời sinh ra mình quá thông
minh. Cũng giống như Tô Thức dưới triều Tống làm câu thơ bi phẫn: “Nhân
giai sinh tử vọng thông minh/ Ngã bị thông minh ngộ nhất sinh”(Người ta
sinh con đều mong muốn chúng thông minh/ Ta bị thông minh làm lỡ cả đời),
cong người này nhiều lúc mong mình bớt thông minh đi, đốt nén hương mong
* Chi tiết xin xem: Khâu Chấn Thanh, lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Mai Xuân Hải dịch, NXB Văn học, 2001, trang 9-13.
† Con người trong thơ Nguyễn Du nhiều lần khẳng định mình có tài không giấu giếm: “thời trẻ ta
cũng là người có tài” (Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch) và: “tự xếp mình vào chỗ những người mắc nỗi oan
làm tiêu tan nghiệp chướng vì trí tuệ(Vọng Quan âm miếu)†.
177
Như con bướm đắm mình trong sách, dù “nghe đạo cũng đành cam một
chết/ Mê sách hơn bận lòng vì hoa” (Điệp tử thư trung) song người ấy không
thấy nhắc đến thứ văn chương giáo hóa mà chỉ viết thứ “mua vui cũng được
một vài trống canh”, tự nhận mình là “sầu nhân” nghe được điệu “thanh
thương” trong tiếng ve đoản mệnh. Với người ấy, văn chương là sự nghiệp cả
đời, “Tứ bích đồ thư bất yếm đa” (Sách vở đầy bốn vách nhiều mấy cũng
không chán – Tạp ngâm 1). Con người có lẽ đã tự xếp mình vào thành viên
của hội đoạn trường – hội những người có nỗi đau đứt ruột. Nhưng trước khi
đứt ruột vì sự o ép của hoàn cảnh, họ đã đứt ruột vì chính bản chất, chính
thiên tính của mình: “Chân hạc dài là do tính trời, sao chặt ngắn được?/ Mệnh
nhẹ như lông hồng mà không tự biết”(Tự thán 1). Câu thơ phảng phất tư
tưởng Trang Tử trong thiên Biền mẫu. Nhưng ở đây người nói chỉ muốn
mượn lời Trang Tử để nói về chuyện trời sinh ra mình như thế, câu thơ không
hề có cái ung dung thư thái của Trang Tử cứ thuận theo lẽ tự nhiên mà sống,
mà lại mang dáng dấp một mối ưu tư, một lời than thở. Trời đã sinh ra người
mang bản chất đa sầu đa cảm như con hạc chân nó vốn dài không thể cắt ngắn
lạ lùng vì nết phong nhã” (Độc Tiểu Thanh kí). Cái tài được nhắc đến ở đây, trong xã hội phong kiến, không
gì hơn là tài văn chương. Với tài năng ấy, không cần phải dựa vào gia thế, con người vẫn có thể lập thân, lập
danh, vẻ vang gia đình dòng họ, có một cuộc sống cao sang vinh hiển. Quả thực, giấc mộng gác vàng, mây
xanh là một giấc mộng lớn trong thơ chữ Hán. Sau này những khi con người phủ định đã lâu không còn ôm
mộng đó thì chính lại là khẳng định trước đây mình từng nung nấu giấc mộng này (Mạn hứng 1, Ngẫu thư
công quán bích 3). Từng ôm mộng dùng văn chương làm nên sự nghiệp, con người day dứt vì “sống chưa
làm nên danh, thân đã suy yếu”(Tự thán 1); và đau xót vì văn chương không có chỗ dùng “như chim phượng
phải nằm trong lồng nát”(Tống Nguyễn Sĩ Hữu nam quy). Nỗi ám ảnh công danh bị số phận chặn đứng còn
đến cả khi đi sứ: gò cao và đá hiểm dứt tuyệt con đường người đi tìm công danh phú quý (Sơn trung tức sự).
Nhưng rồi con người nhận ra thứ văn chương cử tử ấy không giúp gì được cho mình: “Văn chương chữ nghĩa
nào đã từng ích gì cho ta?” , thậm chí cực đoan hơn văn chương còn làm mình ngu đi: “Một đời từ phú biết là
vô ích/ Sách đàn đầy giá chỉ làm cho mình thêm ngu”(Mạn hứng).
đi. Câu thơ cũng không hề có cái bình thản của tinh thần coi cái chết nhẹ tựa
178
lông hồng, mà là “Mệnh nhẹ như lông hồng mà không tự biết”. Thực ra không
phải là không biết, biết nhưng không thể làm khác được. Có thể thấy ở đây
người nghệ sĩ được sinh ra với hệ thống các giác quan tinh nhạy hơn người
bình thường, có cách đánh giá, cách nhìn đời sống khác người thường, họ
thường ngông ở chỗ thấy cái đẹp, cái hay, cái đáng thương ở nơi mà người
thường không thấy được. Trong những đêm không ngủ, con người suy nghĩ
mông lung: “Thầm tự hỏi văn chương (sao lại lụy đến mình),/ (Muốn hỏi trời)
nhưng trời cao làm sao mà hỏi?”(Bất mị). Với người ấy, văn chương là chốn
náu mình cho những ngày buồn chán “Chuyện buồn chuyện vui trăm năm biết
đến bao giờ hết?/ Sách vở đầy bốn vách nhiều mấy cũng không chán”(Tạp
ngâm 1). Khi không còn gì ở bên mình, văn chương là niềm an ủi duy nhất, là
thứ không chỉ nâng đỡ thể xác mà còn cứu vớt tâm hồn đang đau khổ, tuyệt
vọng(Chẩm bạn thúc thư phù bệnh cốt – Cạnh gối có bó sách để nâng đỡ bộ
xương bệnh – Tạp ngâm 2).
Những suy tư về văn chương trong thơ chữ Hán Nguyễn Du nhuốm
* Vấn đề “tài mệnh tương đố” là một vấn đề không chỉ xuyên suốt trong các sáng tác bằng chữ Nôm
của Nguyễn Du mà còn xuất hiện dày đặc trong thơ chữ Hán. Chữ “tài” trong “Truyện Kiều” được Trần Nho
Thìn quy về tài tình – tài sắc. Trong thơ chữ Hán, người viết nhận thấy nó chủ yếu là tài văn chương. Đào
Duy Anh cho gốc của nó nằm ở thuyết thiên mệnh của Nho giáo, Phan Ngọc chứng minh rằng đây là tư
tưởng của riêng Nguyễn Du, là sản phẩm của thời Lê mạt – Nguyễn Sơ. Theo chúng tôi đây là một bi kịch
gắn với thân phận của người nghệ sĩ trong xã hội chuyên chế phương Đông – một xã hội mâu thuẫn sâu sắc
với đặc trưng khí chất, tâm lí riêng của kiểu người này.
Có lẽ ta nên bắt đầu từ mâu thuẫn giữa bản chất nghệ sĩ với xã hội phong kiến chuyên chế theo Nho
giáo, bao gồm bản chất của thiết chế quyền lực phong kiến và quan niệm của Nho giáo về con người, quan
niệm của Nho giáo về văn học.
Nho giáo với tư cách là một học thuyết nhấn mạnh vào việc tu thân – tề gia – trị quốc – bình thiên
hạ bằng tu dưỡng đạo đức, học theo điều nhân đã không được các vua chúa Trung Quốc sử dụng trong quá
trình mưu bá đồ vương. Bản thân Hán vương Lưu Bang hiểu rất rõ ông ta đã giành chính quyền bằng con
màu bi kịch: bi kịch “tài mệnh tương đố”*. Cớ sao “Vốn chẳng có văn chương
179
đường nào, thậm chí muốn đái vào mũ của nhà Nho. Nhưng khi đã thống nhất được thiên hạ, các ông vua lại
cần đến Nho giáo để ổn định trật tự, giữ vững sự cai trị, bởi Nho giáo thần thánh hóa ngôi vua và khuyên con
người biết giữ lễ, sống đúng phận vị. Theo các phân tích của Trần Đình Hượu, bản chất của thiết chế quyền
lực theo Nho giáo là các thế lực cần dựa vào nhau để duy trì sự tồn tại và không đủ sức để thanh toán lẫn
nhau. Trong 4 tầng lớp của xã hội Nho giáo: sĩ – nông – công – thương, Nguyễn Du thuộc vào tầng lớp sĩ –
tầng lớp được đánh giá cao. Nhưng thực ra, tâm hồn ông không thuộc về tầng lớp này, và càng về sau ông
càng nhận ra điều đó. Nguyễn Du xếp mình ngang với Tiểu Thanh, Thúy Kiều, Cô Cầm – những ca nhi,
những người lạc lõng không thuộc vào loại nào trong “tứ dân”, mà thuộc dạng “xướng ca vô loài”. Và thân
phận thực sự của người nghệ sĩ trong chế độ phong kiến chuyên chế phương Đông là rất bi thảm. Ông vua
chuyên chế chỉ cần người nghệ sĩ ca ngợi cảnh thái bình, ca ngợi công đức cai trị của ông ta, tô điểm cho
cuộc sống xa hoa chốn cung đình, hoàn toàn không cần đến tài năng, không quan tâm đến tâm tư của họ. Cho
nên một “thi tiên” như Lí Bạch vào cung điện của Đường Minh Hoàng cũng chỉ là để làm thơ ca ngợi Dương
Quý Phi, không có cơ hội đem tài năng làm chuyện khác. Nhận ra bi kịch của mình, Lí Bạch mới bỏ đi, từ
chối làm một “nhà thơ cung đình”.
Vì là một học thuyết lấy gia đình làm yếu tố trung tâm để hình dung tất cả các mối quan hệ xã hội,
Nho giáo đề cao những con người an phận. Về quan niệm văn học, Nho giáo coi trọng sự hài hòa, không
khuyến khích những gì vượt quá khuôn khổ. Cả hai điều này đều mâu thuẫn với tâm lí nghệ sĩ - tâm lí những
người luôn sống trong mộng tưởng về cái đẹp tuyệt đối, xem sáng tạo nghệ thuật là khao khát lớn nhất trong
đời họ. Nghệ thuật đích thực là sự thăng hoa của những cảm xúc mãnh liệt trái ngược với yêu cầu “trung
dung”, tiết chế của Nho giáo.
Trong xã hội chuyên chế, quyền lực tập trung toàn bộ trong tay Hoàng đế. Các lực lượng khác muốn
kiếm lợi đều phải lấy lòng ông vua tối cao này và tìm cách thanh toán những người có khả năng tranh giành
địa vị. Cho nên, ở xã hội này, có một hiện tượng rất hiếm khi xuất hiện trong các chế độ khác: hiện tượng
ngục văn tự* dẫn đến người tài hoa đôi khi vì một câu thơ mà mang họa sát thân. Mầm bạc mệnh nằm sẵn
trong người họ trước hết từ tài năng văn chương. Họa này thường xảy ra một là với những người chính trực
thẳng thắn dùng văn chương để can ngăn hoàng đế làm những điều vô đạo, hai là với những người phóng
túng vượt ra ngoài khuôn phép bị kẻ xấu ghen ghét tìm cách hãm hại. Cộng thêm với quan niệm văn chương
Nho giáo thần thánh hóa văn chương, khoác cho nó quá nhiều chức năng: giáo hóa, chở đạo. Trong quan
niệm văn chương phương Tây, văn học được xếp ngang với khoa học, có vai trò phát hiện tri thức. Còn ở
phương Đông, văn học là sự biểu hiện của tâm can, là tiếng nói của trái tim. Người có tài văn chương rất dễ
bị quy kết. Nguyễn Du đau xót vì người tài cứ luôn khổ, mà khổ vì chính tài năng của họ, có lẽ nguyên nhân
sâu xa chính là xuất phát từ điều này.
Trong thơ Nguyễn Du thời kì làm quan cho nhà Nguyễn người ta thấy một không khí nghi kị, ghen
ghét: “Hoa đào chớ cậy chúa xuân yêu/ Bên cạnh có dì gió tính rất chua ngoa”(Ngẫu thư công quán bích 2),
“Những con oanh đẹp trong vườn thượng uyển ghen nhau vì sắc đẹp”(Tống nhân). Được vua sủng ái nhưng
180
có thể ghét số mệnh/ Thì sao trời đất lại ghét lầm người làm văn chương”(Tự
thán 2)? Thực ra là: “Cao tài mỗi bị văn chương đố” (Tài cao thường bị văn
chương ghen ghét – Ninh Minh giang chu hành). Câu này có lẽ nên hiểu là:
người có tài thường bị ghen ghét vì văn chương, người có tài văn chương
thường bị chính cái tài của mình làm hại. Vì văn chương thì làm sao lại biết
ghét ghen, chỉ có người ghét người, khép tội cho văn chương, dùng văn
chương để hại người. Và cũng chỉ ở một xứ mà người ta thần tượng hóa văn
chương, đặt ra cho nó quá nhiều đòi hỏi, chức năng, trách nhiệm thì mới có
thể dùng văn chương khép người ta vào tội chết. Quá đề cao văn chương hóa
ông chỉ thấy trong xương lạnh buốt: “Ơn vua như biển chưa mảy may báo đáp/ Mưa xuân như mỡ nhưng vẫn
thấy trong xương lạnh buốt”(Nam quan đạo trung). Ông bất bình trước cảnh “Tam nguyệt xuân thì trưởng
đậu miêu/ Hoàng hồ phì mãn bạch hồ kiêu” (Tháng ba xuân, đậu và lúa lớn/ Cáo vàng béo múp, cáo trắng
kiêu căng – Ngẫu hứng 1). Ông ao ước được sống như ông chài và chim âu không nghi ngờ nhau, bởi biết
mình “Vô lụy vị ưng chiêu quỷ trách/ Bất tài đa khủng tốc quan phi” (Không lụy (vì danh lợi) nên chưa
chuốc lấy sự trách móc của quỷ/ Bất tài nên hay sợ rước lấy sai lầm trong việc quan). Ở đây chữ “tài” được
dùng với hàm ý rất mỉa mai: đó có thể là tài luồn lọt, thủ đoạn nịnh trên nạt dưới chốn quan trường mà rõ
ràng Nguyễn Du sinh ra không có.
Những kẻ được xem là có tài ở chốn đường mây thường lợi dụng sự sơ hở của người đối lập, đặc
biệt là xuyên tạc những ý tình trong thơ ca của họ để hãm hại. Vì thế mà người tài, đặc biệt là tài văn chương
trong xã hội chuyên chế thường bạc mệnh. Mối nguy nằm chính ngay trong cái tài trời phú của họ. Thực ra,
ngay trong thời Nguyễn Du sống, vào thời điểm ông đi sứ cũng đã diễn ra một vụ án văn chương vô cùng
thảm khốc. Qua trường hợp của Khuất Nguyên, Nguyễn Du cất lên một tiếng kêu thương cho những người
tài hoa thực sự. Nguyễn Du bác Giả Nghị, phản đối bài “Chiêu hồn” của Tống Ngọc bởi nếu trở về “Đại địa
xứ xứ giai Mịch La” – khắp nơi trên mặt đất này đâu đâu cũng là chỗ trầm mình của người tài năng, trung
nghĩa*.
Như vậy, một trong những nguyên nhân khiến Nguyễn Du luôn luôn đau đớn kêu lên “tài mệnh
tương đố” là vì sự ghen ghét của kẻ tiểu nhân cộng với bản chất nghệ sĩ mâu thuẫn sâu sắc với xã hội phong
kiến chuyên chế dẫn đến các vụ án văn chương khiến người tài lụy vì chính tài năng của họ. Nó được thể
hiện, dù kín đáo song khá dày đặc trong các sáng tác Nguyễn Du. Đây là điều chưa được các nhà nghiên cứu
quan tâm đánh giá đúng mức.
ra lại gây ra tác dụng ngược lại: gây áp lực cho nó, không cho nó có cơ hội
181
phát triển tự do. Người nghệ sĩ cũng bị cột chặt vào những khuôn khổ cứng
nhắc.
Ở đây con người có xu hướng tin vào một niềm tin thần bí, niềm tin
rằng những người tài hoa được sinh ra với những điểm đặc biệt khác người
thể hiện ngay trong vẻ ngoài của họ*. Sự khác người này dự báo ở họ một
cuộc đời không xuôi chèo mát mái, họ có khả năng làm những việc phi
thường song đôi khi phải ôm hận ngàn năm… tóm lại là luôn vượt qua trạng
thái bình thường của phận người trên cõi thế. Họ ý thức được rằng mình đang
sống trong một xã hội không dung chứa những người như mình: “Phàm sinh
ra mang khí phách khác thường/ Thì trời đất không có chỗ dung”(Điệu
khuyển). Họ không có cách nào sống khác với con người thật của mình. Tâm
hồn người nghệ sĩ được ví với cây liễu, yếu đuối, nhạy cảm mà kì thực bên
trong vẻ mềm mại kia là một sức sống mãnh liệt: “Lúc chúng điên cuồng nhất
chính là lúc tinh thần cốt cách của chúng cao đẹp nhất”(Thương Ngô trúc chi
ca 13).
Những cơn thần hứng sáng tạo là những cơn thai nghén đau đớn, lao
tâm khổ tứ như được miêu tả trong Vĩnh Châu Liễu Tử Hậu cố trạch “Huyết
chỉ hãn nhan thành khổ hỹ” (Như người thợ ngón tay bầm máu, mặt đẫm mồ
hôi, khổ đã tột bực vậy). Đó có lẽ cũng là cái khổ của Đỗ Phủ khi ông tuyên
bố “Ngữ bất kinh nhân tử bất hưu”, nên Nguyễn Du nói Đỗ Phủ “cùng quẫn
như thế phải chăng vì giỏi làm thơ”, và tự nói về mình “Bách niên cùng tử
văn chương lí” (Cuộc đời trăm năm chết xác chốn văn chương – Mạn hứng
* Chẳng hạn mắt vua Thuấn có hai con ngươi, ở giữa lưng Lí Bạch có một cái ngạo cốt (xương kiêu ngạo ), Đỗ Phủ có chứng lắc đầu, tim Tỉ Can có 7 khiếu… Nguyễn Du có nhắc đến những điều này trong các bài thơ chữ Hán của mình.
2).
182
Với nhân vật của Shakespeare, thơ ca có thể được xem là một vũ khí
chống lại thời gian. Tuy nhiên, vấn đề không đơn thuần như vậy. Trong khi
khẳng định sức mạnh của thơ ca, con người đồng thời cũng nhận ra giới hạn
của nó: sự bất lực của thơ ca trong các tình huống nhất định. Ý thức về sự bất
toàn này của vật cũng chính là ý thức về sự bất toàn của con người.
Cũng như người nghệ sĩ trong thơ Nguyễn Du, nhà thơ trong sonnet có
khi tột cùng đau khổ vì đời sống này quá nghiệt ngã:
Tired with all these, for restful death I cry,
As to behold desert a beggar born,
And needy nothing trimm'd in jollity,
And purest faith unhappily forsworn,
And gilded honour shamefully misplaced,
And maiden virtue rudely strumpeted,
And right perfection wrongfully disgraced,
And strength by limping sway disabled
And art made tongue-tied by authority,
And folly, doctor-like, controlling skill,
And simple truth miscalled simplicity,
And captive good attending captain ill:
183
(Quá mỏi mệt, anh cầu mong cái chết,
Vì thấy dân phải sống kiếp ăn mày,
Và cái tốt bị xem thường, khinh miệt,
Và cái tồi, đời quí trọng, khen hay
Và niềm tin bị đạp chà, lừa dối,
Và gái ngoan cam chịu nhục suốt đời,
Và kẻ mạnh trước kẻ hèn uốn gối,
Và bao lần danh dự hoá trò chơi,
Và nghệ thuật bị chính quyền khoá miệng,
Và người ngay nô lệ kẻ côn đồ,
Và thằng dốt chê người tài lên tiếng,
Và thật thà bị chế giễu ngây ngô...)
(Sonnet 66)
Trên đời không có gì hoàn hảo, không gì có giá trị tuyệt đối. Các nhà
nghiên cứu về Shakespeare thấy ở đây tinh thần của thời đại Phục Hưng, tinh
thần của cuộc cải cách tôn giáo khi con người hoài nghi về các giá trị. Con
người có phải do Thượng Đế tối cao tạo ra hay không? Các kinh sách, giáo
184
điều được truyền dạy và buộc tuân theo có thực sự là lời của Chúa hay cũng
chỉ là sản phẩm của chính con người? Tinh thần hoài nghi ấy thấm đẫm trong
những câu thơ như: “The age to come would say 'This poet lies/ Such
heavenly touches ne'er touched earthly faces (Thế hệ sau sẽ nói: “Nhà thơ này
dối trá”/ Lấy đâu ra vẻ thần thánh phi phàm trong gương mặt nhân gian -
Sonnet 17).
Người nghệ sĩ của Shakespeare mường tượng rằng các thế hệ sau khi
đọc thơ ông cũng sẽ nghi ngờ giống như ông và những người cùng thời nghi
ngờ các kinh sách thiêng liêng từ xưa để lại. Chính ở đây ta thấy tinh thần
“giải thiêng” đối với thơ ca, một tư tưởng rất mới đương thời. Điều này gắn
với ý thức về vai trò của chủ thể tính, của con người. Thơ ca không còn là lời
thiên khải, do được thần thơ ban cho, mà là những xúc động rất người trong
các trải nghiệm nhân sinh. Con người ý thức rất rõ rằng mình mới là chủ thể,
chủ nhân của mọi hoạt động xung quanh. Con người đồng thời cũng ý thức về
giới hạn của mình và của thơ ca. Thơ ca cũng hữu tử và chỉ có khả năng biểu
đạt trong một phạm vi nhất định.
Giải pháp cuối cùng của họ là hướng về tương lai. Điều này lại được
biểu đạt qua các hình thức song hành. Ở Shakespeare đó là sự song hành ở vị
trí hiệp vần “câu thơ” (verse) và việc “đọc lại” thơ (rehearse):
No longer mourn for me when I am dead
Than you shall hear the surly sullen bell
Give warning to the world that I am fled
From this vile world with vilest worms to dwell:
185
Nay, if you read this line, remember not
The hand that writ it, for I love you so,
That I in your sweet thoughts would be forgot,
If thinking on me then should make you woe.
O! if, I say, you look upon this verse,
When I perhaps compounded am with clay,
Do not so much as my poor name rehearse;
But let your love even with my life decay;
(Ðừng buồn lâu khi nhà thơ em chết,
Khi nghe tiếng chuông rung báo ngân rền,
Rằng thế giới này tối tăm, anh vĩnh biệt
Về thế giới côn trùng tăm tối dất đen.
Một ngày kia sonet này em đọc,
Xin chớ phiền lòng thương tiếc nhà thơ.
Anh không muốn thấy em buồn, em khóc
Khi nhớ về anh, nhớ những phút bây giờ.
186
Anh không muốn khi anh không còn sống
Mà tên anh vẫn giữ trong đầu.
Em hãy để tình yêu và hy vọng
Theo anh về nơi ấy dưới đất sâu.)
Ở Nguyễn Du đó là sự song hành giữa cái còn với cái mất, giữa vật
chất với tinh thần:
Tây hồ hoa uyển tẫn thành khư,
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
Chi phấn hữu thần liên tử hậu,
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
(Tây Hồ cảnh đẹp hóa gò hoang,
Thổn thức bên song mảnh giấy tàn.
Son phấn có thần chôn vẫn hận,
Văn chương không mệnh đốt còn vương.
Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi,
Cái án phong lưu khách tự mang.
187
Chẳng biết ba trăm năm lẻ nữa,
Người đời ai khóc Tố Như chăng ?)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Thật ngẫu nhiên tình cờ là cả hai chủ thể nghệ sĩ trong thơ đều mường
tượng rất lâu sau khi mình chết đi, chỉ còn câu thơ ở lại, và hậu thế sẽ đọc thơ
mà than khóc.
Thông qua cái nhìn đối với văn chương, ta thấy được từng kiểu chủ thể
nghệ sĩ. Kiểu nghệ sĩ được Nguyễn Du thể hiện trong thơ chữ Hán là một kiểu
nghệ sĩ phức hợp, là sản phẩm của nền văn hóa phương Đông trong thời đại
chế độ chuyên chế ngự trị. Nó, về bản chất là rất phức tạp. Xã hội này có chỗ
cho một ông nhà Nho – nếu thi đỗ thì làm vị quan ôm mộng “trí quân trạch
dân”, nếu thi rớt hay khi bất đắc chí thì về làng làm ông thầy đồ, ông thầy
thuốc truyền bá đạo lí, giúp duy trì đạo đức quân thần,vua tôi, chồng vợ -
nghĩa là gián tiếp duy trì cái chế độ, nền tảng tư tưởng đã sinh ra ông ta, cũng
có chỗ cho người theo quan điểm Trang Tử về với thiên nhiên, “tìm nơi vắng
vẻ*” giữ sự trong sạch như Hứa Do, Sào Phủ†, cũng có chỗ cho người theo
Phật, tham thiền mà không nhất thiết phải xa lánh sự đời, ích nước lợi dân
như Tuệ Trung hay các chân sư đời Lý. Nhưng đau đớn thay, xã hội này
không có địa vị riêng cho người nghệ sĩ, Nếu muốn theo đuổi đến cùng thiên
tính của mình, họ phải nhận chịu chỗ không được xếp hạng trong tứ dân, “vô
loài”. Nếu không, họ phải bộc lộ mình thông qua những vai trò khác. Cho
* Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ/ Người khôn người đến chốn lao xao”. † Hứa Do, Sào Phủ đều là các ẩn sĩ coi thường danh lợi. Khi Thuấn muốn nhường ngôi cho Hứa Do, Hứa Do từ chối rồi bỏ đi sống ở nơi vắng vẻ. Người của nhà vua lại tìm đến nơi thuyết phục, Hứa Do xuống sông rửa tai để nước làm trôi hết những lời đã nghe. Sào Phủ chăn trâu, đang định cho trâu uống nước thấy Hứa Do rửa tai ở đó thì dắt trâu lên bờ, không cho uống nữa. Câu chuyện nhấn mạnh tinh thần kiên quyết không vướng vào lợi danh của các ẩn sĩ.
nên, ở con người trong thơ Nguyễn Du, chúng ta thấy có cả tinh thần của
188
Nho, Phật, Đạo mà không yếu tố nào thực sự thuần nhất. Trong con người
nghệ sĩ ấy có phẩm chất nhà Nho, nhưng theo Trần Đình Hượu, Trần Ngọc
Vương là Nho tài tử*. Con người ấy có mong đạt Đạo, tu tiên, mong về núi
Hồng làm bạn hươu nai, ông chài, chim âu trắng nhưng lòng vẫn khắc khoải
việc đời, gánh nặng cơm áo. Con người ấy có lòng từ bi của nhà Phật, như
một ông Phật cứ đau nỗi đau của thế gian, kêu than cho hết cả mọi con người
đau khổ, mọi nỗi oan ức kể cả của người đã nằm xuống. Có một loại người
ông đặc biệt quan tâm, đó là loại “phong vận kì oan” – loại người ông tự liệt
mình vào. Nhưng ông không đành theo Phật, ông không thể gọt tóc vào rừng
ở, vả lại ông vẫn tha thiết lạc thú trần gian: có chó cứ giết, có rượu cứ nghiêng
bầu. Ở trong thời đại tất cả giá trị đang vỡ nát, gãy vụn, tâm tư ông cũng luôn
giằng xé. Còn chủ thể của Shakespeare là con người của chủ nghĩa nhân văn
phương Tây thời Phục Hưng. Điều họ trăn trở là thời kì đẹp nhất trong đời và
niềm hi vọng sống lâu, vẻ đẹp thể chất, tình yêu, danh tiếng lẫy lừng, là hạnh
phúc†. Shakespeare có nhắc đến các khái niệm tôn giáo như ngày phán quyết,
giờ tận thế… nhưng về cơ bản ông chỉ quan tâm đến những vấn đề thuộc về
con người.
Cùng soi mình trong văn chương, suy tư về văn chương vừa như đứa
con tinh thần, sản phẩm chiết xuất từ con người nghệ sĩ, lại vừa là một sinh
* Nhiều người dùng các chi tiết về tiểu sử của Nguyễn Du để phản bác quan điểm của Trần Ngọc Vương và những người theo phái Trần Đình Hượu khi phân tích một hiện tượng có tính khu vực – hiện tượng nhà Nho tài tử mà Nguyễn Du là một dẫn chiếu. Tuy nhiên, như người viết nhận thấy, cả hai quan điểm trên đều dựa vào một tiền giả định về con người nguyên khối, nguyên phiến, thống nhất, có thể phân chia vào các phạm trù, các ô, khung diễn giải. Thực tế thì bản thân Nguyễn Du trong Truyện Kiều cũng viết “Mà trong lẽ phải có người có ta”, con người được thể hiện trong sáng tác Nguyễn Du phức tạp hơn, có mặt này mà cũng có mặt khác. Nếu nhìn từ tiểu sử (và đồng nhất với một số câu thơ chữ Hán, đồng nhất con người trong tác phẩm trữ tình với cong người tiểu sử) thì thấy ông là người nghiêm túc, hết sức cẩn trọng giữ mình. Còn nếu chỉ từ văn bản, con người còn nhiều chiều kích khác. Cho nên mọi nỗ lực quy giản con người vào một khung nhất định có lẽ đều sẽ vấp phải những nghịch lý. Đây là lý do khiến người viết đề xuất một cách tiếp cận trước hết thuần túy văn bản và nhìn con người ở khía cạnh biện chứng, nhiều chiều. † Chi tiết xin xem “Triết học thời Phục Hưng”, Nguyễn Kim Dân dịch, NXB Văn hóa thông tin, 2005.
mệnh có số phận, lựa chọn riêng, các chủ thể nghệ sĩ đã nêu lên một vấn đề
189
rất hiện đại: văn chương gắn bó chặt chẽ với người sáng tác, với hoàn cảnh xã
hội, môi trường sống nơi nó được sinh ra, nhưng cũng có tính độc lập tương
đối, và khả năng tồn tại vĩnh hằng như một đặc điểm chung có tính thế giới
của nó là điều người nghệ sĩ đặt niềm hi vọng, là điểm sáng trong chuỗi giằng
co với bản chất nhị nguyên đầy bi kịch của mình.
Văn chương như vậy là một hình thức soi chiếu để con người nghệ sĩ tự
nhận thức về bản thân. Ở đó, ta thấy những giằng xé trong bản chất nhị
nguyên người: có khoái cảm của việc sáng tác, cũng có đau khổ vì chữ nghĩa,
có khao khát hướng về sự bất tử, cũng có niềm đau chấp nhận sự hữu hạn, có
mong ước sống trọn, hưởng trọn kiếp này, giây phút này, cái đẹp này của đời
người, cũng có đau đáu về chuyện mai sau…
Tóm lại, trong suy tư về cái đẹp và văn chương ở cả hai chủ thể, ta thấy
hai đặc trưng: một là tính khả tử, và hai là tính bất toàn. Các đặc trưng này
đều xuất phát từ sự ý thức của chủ thể trữ tình về bản thân mình. Đó là những
con người với đời sống nội tâm không nhất khối nhất phiến, phân chia rạch
ròi, đơn giản một chiều, trái lại, đó là các chủ thể luôn có sự phân rã của các
xu hướng nội tâm.
Tiểu kết chương
Trong chương 3, người viết đã phân tích cách thức chủ thể trình hiện
bản ngã thông qua tương chiếu với các đối tượng ngoài thân. Sự tương chiếu
đặt ra vấn đề về mối quan hệ giữa tôi với cuộc đời, giữa tôi với chính bản thân
tôi. Trong quan hệ với cuộc đời, tôi khác với thiên hạ, và hướng về cuộc sống
thế tục bằng tinh thần hoài nghi vốn là cội nguồn của suy tư, là cách thức để
tra vấn về các tín điều tưởng chắc như đinh đóng cột. Trong quan hệ với chính
mình, con người luôn giằng xé giữa thánh nhân – phàm nhân, vừa khao khát
một đời sống lý tưởng, vừa đủ hiện thực để nhìn ra sự yếu đuối, nhỏ nhoi, dễ
190
thương tổn của mình, ý thức về mình như một nghệ sĩ đích thực với sứ mệnh
của văn chương và số phận đầy nghịch lý của nó.
191
KẾT LUẬN
Dòng chảy lịch sử tư tưởng nhân loại ở cả phương Đông và phương
Tây, dù đa đạng, phức tạp, nhiều nhánh rẽ, song về cơ bản có hai xu hướng
quan niệm về con người: con người như một thực thể yếu đuối, nhỏ bé, cần
được khép vào khuôn phép, phải tiết dục, nằm trong các trật tự, chỉ có phần
tinh thần là đáng giá, đáng được cứu độ và con người như các cá nhân đáng
trọng chỉ sinh ra một lần duy nhất, cần được trân trọng ở tất cả các phương
diện, cần cổ vũ việc tận hưởng, có tiềm năng và không cần đến một đấng
thiêng liêng thần thánh nào. Các tư tưởng lớn có vai trò hướng đạo cho đời
sống tinh thần của con người cũng thường trải qua nhiều giai đoạn: giai đoạn
khởi đầu đầy cởi mở, khai phóng, giai đoạn thần thánh hóa, điển phạm hóa,
độc tôn hóa trên các quy tắc mô phạm, giai đoạn nhìn nhận lại, mở rộng biên
giới và tiếp tục biến chuyển. Quan niệm về chủ thể trong thơ sonnet
Shakespeare và thơ chữ Hán Nguyễn Du như được phân tích trong luận án
thuộc về giai đoạn thứ hai và nằm ở trong xu hướng thứ hai như trình bày ở
trên.
Người viết đã nỗ lực miêu tả một hiện tượng đáng chú ý xuất hiện ở cả
hai nền văn học Đông Tây: ngay trong lòng những xã hội tưởng mang tính
quy phạm, vẫn luôn có một dòng chảy ngầm đưa con người trần thế bằng
xương bằng thịt trở thành vấn đề quan trọng hơn hết trong mối quan hệ với
thiết chế, giáo lý hay ý niệm đạo đức mà họ được dạy dỗ và buộc phải tuân
theo xuất phát từ việc những cá nhân vĩ đại không ngừng tự đặt câu hỏi về
chính mình. Việc đặt câu hỏi như thế, dù đơn lẻ, dù phải vật lộn với các quy
ước ngôn từ của thời đại, vẫn góp phần làm rạn nứt các tín điều khô cứng, mở
ra khả năng cho những tiếng nói câm lặng được cất lên.
Ý thức về chữ thân là một đặc điểm vô cùng đáng chú ý của văn học
trào lưu nhân văn chủ nghĩa, dù nó được cất lên từ trong vô vàn giằng xé của
192
ý hệ chính thống. Ở Nguyễn Du, đó là mối giằng xé giữa một bên là con
người Nho giáo quan niệm mình nằm giữa tam tài thiên – địa – nhân, là linh
khí của đất trời, tấm thân không thuộc về mình mà thuộc về cha mẹ, về các
mối quan hệ, về vũ trụ; với một bên là con người sống trong cuộc đời này, ở
giây phút này, sống bằng cảm xúc, cảm giác, muốn trải nghiệm sâu sắc đủ đầy
từng khoảnh khắc. Tuy nhiên, vấn đề nằm ở chỗ: đi giữa các lằn ranh, các giới
hạn, các xu hướng tinh thần, chủ thể trữ tình của Nguyễn Du không thực sự
thuộc về một xu hướng nhất định nào. Ở Shakespeare, đó là sự giằng xé giữa
tinh thần của Kito giáo phân chia rõ rệt giữa phần cao khiết là linh hồn bất tử
thuộc về Chúa và phần tội lỗi xấu xa thấp hèn thuộc về cõi tục với một cảm
nhận đầy tự nhiên, đầy hiện thực về sự quý giá của từng giây phút sống, sự
thiêng liêng của phần vật chất trong mình.
Có thể thấy trong thơ Nguyễn Du và Shakespeare những con người
khao khát đi tìm nơi nương náu trước hết là cho tấm thân của mình, nhưng
tấm thân ấy luôn luôn trôi dạt, lưu lạc giữa mênh mông ý niệm. Cho nên chữ
“thân” ở đây không đơn thuần là chuyện “thương thân, xót thân”, mà còn là
sự ý thức về chủ thể một cách sâu sắc, thể hiện qua nhu cầu thường trực là tìm
kiếm bản thân. Ở tầng sâu của nó, chủ thể trữ tình trong thơ cả hai tác giả đều
là những con người luôn đầy mâu thuẫn, luôn ở trong trạng thái bị thôi thúc
mãnh liệt phải trả lời câu đố bất khả giải về phận làm người, luôn ý thức về
thân mà trước hết là ý thức về cơ thể vật lý, một thực thể rất người, đầy yếu
đuối, nhỏ bé, dễ hư hao, lại luôn lạc loài giữa chốn nhân gian.
Vật lộn với câu hỏi đó, con người không chỉ tự vấn từ bên trong mà
không ngừng nhìn ngắm, soi chiếu với ngoại giới rồi sau đó lại tự định vị
mình. Trong văn học trước Nguyễn Du, người ta chủ yếu miêu tả phụ nữ soi
193
gương*, còn nếu là người quân tử thì chỉ có “bảo kính cảnh giới” (gương báu
răn mình) chứ không phải soi gương để nhìn thấy hình ảnh trần tục, yếu đuối
của con người trong cõi sống này. Tương tự như vậy là trường hợp của
Shakespeare, đối tượng soi gương được ông miêu tả cũng là nam giới. Điều
này có phần khác biệt với các tiền bối của ông ở lãnh địa thơ trữ tình. Soi
gương – dù là gương thật hay gương biểu tượng, đều là cách thức chủ thể
trình hiện bản ngã. Thông qua hoạt động soi chiếu, ta thấy chủ thể trữ tình
trong thơ cả hai tác giả đều thể hiện một xu hướng giằng xé: một mặt hướng
về con người lý tưởng, về phần “thánh nhân” bất biến mang niềm tin vào các
giá trị vĩnh cửu; mặt khác lại ý thức hết sức sâu sắc về phần yếu đuối mỏng
manh dễ thấy của mình. Ở cả thơ Nguyễn Du và Shakespeare, gương soi lòng
đều được đặt trong quan hệ hệ thống với một loại gương khác: gương soi hình
dáng. Nếu thông qua mặt trời hay mặt trăng, nhân vật hoặc thấy tâm tư, tình
cảm, chí khí của mình còn nguyên vẹn hoặc động viên cổ vũ bản thân hướng
đến cái toàn thiện toàn mỹ thì gương (kính) là tấm gương hiện thực nhắc nhở
con người về thời gian hữu hạn, đời người ngắn ngủi.
Các nhà nghiên cứu về chủ thể tính đều khẳng định con người cá nhân
tự ý thức chỉ thực sự xuất hiện từ thời Phục Hưng. Khởi nguồn của ý thức cá
nhân lại xuất phát từ trong nghệ thuật, nhất là từ sự ra đời của luật viễn cận
trong hội họa, theo đó điểm tụ nằm ở đường tầm mắt, là điểm đồng quy của
những đường thẳng cùng hướng trong phối cảnh, từ đó thế giới trong bức họa
hiện ra. Shakespeare là một tác giả Phục Hưng điển hình, và có thể nhận thấy
các suy tư của ông đều lấy cái tôi tự ý thức làm điểm tựa. Ở Nguyễn Du ta
đồng thời cũng thấy rõ điều này. Bản chất khả tử của cái đẹp được ý thức một
cách sâu sắc là bởi con người luôn ý thức, luôn âu lo về tuổi già và cái chết
của bản thân. Con người luôn tra vấn về các giá trị, luôn nhìn bản thân cũng * Chinh phụ ngâm: “Gương gượng đốt hồn đà mê mải/ Gương gượng soi lệ lại châu chan”.
194
như cuộc đời trong tính hai mặt của nó vì tâm tình họ luôn dao động, họ là
những con người nếm trải, sống với những khoảnh khắc. Từ đó cái tôi hiện ra
trong những khoảnh khắc với sự mong manh của tâm trạng, với những kẽ hở
sâu kín chỉ được tiết lộ bằng cách đọc sâu văn bản. Nó kháng cự lại xu hướng
nhìn cái tôi như một cấu trúc tĩnh, ổn định, có thể phân chia rạch ròi thành các
ô, các phần, có thể định nghĩa bằng một vài danh từ giản đơn.
Những vấn đề được phân tích trong luận án là một lát cắt đồng đại về
sự biểu hiện và khám phá chủ thể trong tiến trình của cả hai nền văn hóa. Mặt
khác, nó làm hiện ra những khía cạnh mới qua sự tương chiếu giữa
Shakespeare và Nguyễn Du: Shakespeare nhìn từ phía Nguyễn Du và Nguyễn
Du nhìn từ Shakespeare. Cùng sử dụng các chất liệu truyền thống nhưng cả
Nguyễn Du và Shakespeare đều tỏ ra là những người chơi tài năng. Các văn
bản thơ vì thế, theo cách nói của Lotman, trở thành một “cỗ máy sinh nghĩa”,
một văn bản văn hóa. Cả Shakespeare và Nguyễn Du đều suy tư và thể hiện
về bản thân qua những quy ước ngôn từ của thời đại, nhưng xuyên qua những
quy ước ấy là những sự suy tư cá nhân về chính mình, về bản thân như là thân
xác, về bản thân trong cảm nhận về cái đẹp, về thời gian, về cuộc sống.
Sự biểu hiện chủ thể trong văn học, đặc biệt là đối với các tác giả văn
học có ảnh hưởng đến lịch sử văn hóa như Shakespeare và Nguyễn Du, là
dòng chảy ngầm nhưng mạnh mẽ của tiến trình văn hóa của một dân tộc. Tìm
hiểu và phân tích vấn đề nêu trên chính là để làm rõ mối quan hệ giữa văn học
và các lĩnh vực nhân văn khác trong quá khứ, và qua đó là để hiểu cái quá khứ
ấy kiến tạo hiện tại như thế nào. Cả Shakespeare và Nguyễn Du đều định hình
nên ngữ cảnh văn hóa của thời đại mình bằng cách mở rộng biên giới của nó,
chất vấn nó từ góc nhìn cá nhân như là chủ thể.
195
Cuối cùng, người viết cũng có một số kiến nghị và đề xuất đối với ba
vấn đề: về lí luận văn học so sánh, về vấn đề nghiên cứu kí hiệu học văn học
ở Việt Nam, và về các hướng triển khai khả hữu đối với nghiên cứu thơ
sonnet Shakespeare và thơ chữ Hán Nguyễn Du:
1. Về lí luận văn học so sánh
So sánh văn học từ kí hiệu học là một hướng nhìn triển vọng có khả
năng mở ra bề sâu của sự tương đồng giữa các đối tượng tưởng chừng không
ăn nhập gì với nhau, đồng thời cho thấy cái khác biệt của các kiểu đề tài, các
từ ngữ mà thoạt nhìn có vẻ như tương ứng khi nhìn văn học từ khía cạnh hình
thức. Việc so sánh, khi đạt đến độ thấu đáo, có thể lần ra những sợi chỉ xuyên
qua các giai đoạn văn học, các nền văn hóa. Về phương diện này, chúng tôi
cũng nhận thấy các kết quả đạt được còn rất khiêm tốn, cần thêm thời gian và
suy ngẫm nếu thực sự muốn tiếp tục đào sâu.
2. Về vấn đề nghiên cứu kí hiệu học văn học ở Việt Nam
Xuất phát từ tình hình thực tế của việc giới thiệu lý thuyết và ứng dụng
kí hiệu học trong văn học ở Việt Nam, theo chúng tôi, nhiệm vụ của nghiên
cứu kí hiệu học văn học thời gian tới nên tập trung vào ba điểm. Thứ nhất, cần
tiếp tục cập nhật các kiến thức, các xu hướng nghiên cứu kí hiệu học trên thế
giới, chỉ có đặt mình trong dòng chảy chung của thế giới, chúng ta mới không
bị lạc hậu về mặt học thuật. Điều này có thể được hiện thực hóa bằng việc tích
cực giới thiệu các công trình lý thuyết và ứng dụng kí hiệu học có giá trị
thông qua dịch thuật. Thứ hai, cần tiếp tục điều chỉnh những sai sót đáng tiếc
trong giới thiệu lý thuyết kí hiệu học bằng cách tạo ra một môi trường học
thuật cởi mở, có sự trao đổi thường xuyên mang tính chất phê phán giữa các
nhà nghiên cứu. Việc đối thoại và tranh luận sẽ giúp chỉ ra những điểm chưa
hợp lý của những người đi trước để thế hệ sau có được một định hướng đúng
196
đắn nếu muốn đi con đường này. Thứ ba, cần tiếp tục thúc đẩy, mở rộng các
ứng dụng nghiên cứu kí hiệu học trong văn học.
Luận án này có thể xem là một nỗ lực bước đầu thực hiện định hướng
chung ấy, dù chúng tôi nhận thức rất rõ những kết quả mình đạt được còn hết
sức khiêm tốn. Đây hoàn toàn không phải là một cách nói khiêm nhường, bản
thân chúng tôi hiểu rất rõ những hạn chế nhưng vì trong khuôn khổ một luận
án và với năng lực có hạn trong thời điểm hiện tại, chúng tôi chưa thể triển
khai các vấn đề rộng lớn và sâu sắc hơn. Vì vậy cần thiết phải bàn về các vấn
đề liên quan đến thơ sonnet Shakespeare và thơ chữ Hán Nguyễn Du.
3. Về hướng triển khai đối với thơ chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet
Shakespeare
Về đề tài này, chúng tôi nhận thấy có một số hướng có thể triển khai
Thứ nhất là có thể nghiên cứu thể loại: thể sonnet và thể bát cú luật
đường như một mã kí hiệu học. Đây là điều chúng tôi chưa có cơ hội đề cập
trong luận án
Thứ hai là nghiên cứu các hình thức song hành về ngữ pháp: ở đây
người viết mới chỉ đề cập đến từ trong các hình thức song hành, tuy nhiên bản
thân các hình thức song hành ấy và ý nghĩa, giá trị của chúng cũng chưa thực
sự được nghiên cứu đầy đủ.
Đây là các gợi mở để có thể tiếp tục trong thời gian tới.
197
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Phan Cảnh (2006), Ngôn ngữ thơ, Nxb Văn học,
Hà Nội.
2. Cao Hữu Công - Mai Tổ Lân, Trần Đình Sử - Lê Tẩm dịch
(2000), Nghệ thuật ngôn ngữ thơ Đường, NXB Văn học, Hà Nội.
3. Trương Chính, Lê Thước (1978), Thơ chữ Hán Nguyễn
Du, Nxb Văn học, Hà Nội.
4. Đỗ Đức Dục (1989), Về chủ nghĩa hiện thực thời đại
Nguyễn Du, NXB Văn học, Hà Nội.
5. Trịnh Bá Đĩnh (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học,
NXB Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, HN.
6. Edward B. Tylor, người dịch: Huyền Giang (2001) , Văn
hóa nguyên thủy, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.
7. A. JA. Gurevich (1996), Các phạm trù văn hóa trung cổ,
Nxb Giáo dục
8. Đinh Hồng Hải (2014), Nghiên cứu biểu tượng một số
hướng tiếp cận lí thuyết, NXB Thế giới, Hà Nội.
9. Trần Ngọc Hiếu (2012), Lý thuyết trò chơi và một số hiện
tượng thơ Việt Nam đương đại, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Đại học Sư
phạm Hà Nội.
10. Đỗ Khánh Hoan (1974), Khái niệm về ngôn ngữ và thi
pháp Anh, Nxb Ba Vì.
11. Trần Đình Hượu (2007), (Trần Ngọc Vương giới thiệu và
tuyển chọn), Tuyển tập Trần Đình Hượu tập 1: Những vấn đề triết học
và lịch sử tư tưởng, NXB GD.
198
12. Trần Đình Hượu (2007), (Trần Ngọc Vương giới thiệu và
tuyển chọn), Tuyển tập Trần Đình Hượu tập 2: Những vấn đề lịch sử
văn học, NXB GD.
13. IU. M. Lotman, người dịch: Lã Nguyên (2014), Kí hiệu
https://languyensp.wordpress.com/
học văn hóa ở trường phái kí hiệu học Tartu – Moskva, nguồn:
14. IU. M. Lotman, người dịch: Lã Nguyên (2014), Quan
điểm hiện đại về văn bản, nguồn: https://languyensp.wordpress.com/
15. IU. M. Lotman, Ký hiệu học và mĩ học điện ảnh, người
dịch: Bạch Bích, Erika Fischer-Lichte, người dịch: Bùi Khởi Giang
(1997), Ký hiệu học sân khấu, in trong Ký hiệu học nghệ thuật, Viện
Nghệ thuật và lưu trữ điện ảnh Việt Nam, Hà Nội.
16. IU. M. Lotman, người dịch: Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, , NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
17. IU. M. Lotman, người dịch: Trần Ngọc Vương, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội.
18. John Lyons, người dịch: Nguyễn Văn Hiệp (2006), Ngữ
nghĩa học dẫn luận, NXB GD.
19. Konrad N.I (2007), Phương Đông học, Trịnh Bá Đĩnh
tuyển chọn, giới thiệu, NXB Văn học, Hà Nội.
20. Nguyễn Hiến Lê (1994) (chú dịch và giới thiệu), Trang Tử
- Nam Hoa Kinh, Nxb Văn hóa.
21. Nguyễn Lộc (1985), Nguyễn Du, NXB Đà Nẵng.
22. I. X. Lixêvich, người dịch: Trần Đình Sử (2003), Tư tưởng
văn học cổ Trung Quốc, NXB GD.
199
23. Mai Quốc Liên, Nguyễn Quảng Tuân (chủ biên) (2001),
Nguyễn Du toàn tập (tập1), Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Marcel Mauss, Nguyễn Tùng dịch (2011), Luận về biếu
tặng, hình thức và lí do của sự trao đổi trong các xã hội cổ sơ, NXB
Tri thức.
25. Nguyễn Thị Minh (2010), Cảm thức thời gian trong thơ
chữ Hán Nguyễn Du và thơ sonnet Shakespeare, Luận văn Thạc sĩ văn
học, Trường Đại học Sư phạm TPHCM.
26. Trần Văn Nhĩ (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb Văn
nghệ.
27. Nhiều tác giả (2006), William Shakespeare Tuyển tập tác
phẩm, Nxb Sân khấu, Trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây.
28. Nhiều tác giả (2011), Nguyễn Du tác phẩm và lời bình,
NXB Văn học, Hà Nội.
29. Phan Ngọc (1994), Văn hóa Việt Nam và cách tiếp cận
mới, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
30. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB Văn
học, Hà Nội.
31. Nguyễn Đức Nam, Lương Duy Trung (1976), Sexpia, Nxb
Văn hóa.
32. Bùi Văn Nguyên (1992), Nguyễn Du – người tình và
Nguyễn Du – tình người, NXB Khoa học xã hội – NXB Mũi Cà Mau.
33. Lã Nguyên (tuyển dịch) (2012), Lí luận văn học những
vấn đề hiện đại, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.
34. Thảo Nguyên (2009), Đọc và dịch thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, Nxb Hội nhà văn.
200
35. Hoàng Phê (chủ biên) (2006), Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà
Nẵng.
36. Hoàng Trọng Quyền (2005), Nguyễn Du và Đỗ Phủ -
những tương đồng và khác biệt về tư tưởng nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ
Ngữ Văn, Đại học Sư phạm TPHCM.
37. Vũ Tiến Quỳnh tuyển chọn và giới thiệu (1992), Nguyễn
Du, NXB Tổng hợp Khánh Hòa.
38. V. M. Rôđin, người dịch: Nguyễn Hồng Minh (2000), Văn
hóa học, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
39. Roland Barthes, người dịch : Phùng Văn Tửu (2008),
Những huyền thoại, NXB Tri thức.
40. Nguyễn Ngọc San, Đinh Văn Thiện (1998), Từ điển điển
cố văn học, Nxb Giáo dục.
41. Ferdinand de Saussure, người dịch: Cao Xuân Hạo (2005),
Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, NXB Khoa học xã hội.
42. Trần Trọng Sâm biên dịch (2002), Luận ngữ viên ngọc quý
trong kho tàng văn hóa phương Đông, NXB Văn hóa thông tin.
43. Nguyễn Hữu Sơn (2006), Thi hào Nguyễn Du từ thơ chữ
Hán đến kiệt tác Truyện Kiều, Nxb Trẻ.
44. Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu) (2000),
Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục.
45. Bùi Văn Nam Sơn (2013), “m.E” và đối thoại triết học,
nguồn: triethoc.edu.vn.
46. Trần Đình Sử (1997), Những thế giới nghệ thuật thơ, NXB
GD.
47. Trần Đình Sử (2000), Lí luận và phê bình văn học, NXB
GD.
201
48. Trần Đình Sử (2005), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
49. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt
Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
50. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lưu Oanh (tuyển chọn)
(2005), Văn học so sánh nghiên cứu và triển vọng, Nxb ĐHSP, Hà Nội.
51. Nguyễn Đăng Thục (1971), Thế giới thi ca Nguyễn Du,
Nxb Kinh Thi.
52. Thái Bá Tân (dịch) (1995), W. Sexpia – Thơ xônê chọn
lọc, Nxb Văn học, Hà Nội.
53. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới
góc nhìn văn hóa, NXB GD.
54. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học –
Nhà Nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB GD.
55. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán
Nguyễn Du, Nxb Thanh niên, TP. HCM.
Tiếng Anh
56. Angelo Mazzocco (2006), Interpretations of Renaissance
Humanism, Brill Leiden Boston, USA.
57. Alan Sinfield (2007), Coming on to Shakespeare: Offstage
Action and Sonnet 20, Shakespeare, Volume 3, Issue 2, p 108 – 125.
58. Ali Behdad and Dominic Thomas (2011), A Companion to
Comparative Literature, Wiley Blackwell, United Kingdom.
59. Bradin Cormack (2009), On Will: Time and Voluntary
Action in Coriolanus and the Sonnets, Shakespeare, Volume 5, Issue 3,
p 253 – 270.
202
www.handprint.com.
60. Bruce Mac Evoy (2005), Shakespeare’s Sonnets, nguồn:
61. Cathy Shrank (2009), Reading Shakespeare’s Sonnets:
John Benson and the 1640 poems, Shakeapeare, Volume 5, Issue 3, p
271 – 279.
62. Charles Bernheimer (1995), Comparative Literature in the
Age of Multiculturalism, The Johns Hopkins University Press.
63. Chris Barker (2011), Cultural Studies: Theory and
Practice, Sage Publications Ltd.
64. Christopher S. Celenza and Kenneth Gouwens (2006)
“Humanism and Creativity in the Renaissance”, Brill Leiden Boston ,
USA.
65. Daniel Chandler (2007), second edition, Semiotics The
Basics, London and New York: Routledge.
66. David Schalkwyk (2002), Speech and Performance in
Shakespeare’s Sonnets and Plays, Cambridge University Press.
67. Dympna Callaghan (2007), Shakespeare’s Sonnets,
Blackwell Publishing Ltd, USA.
68. Donald Hall (2004), Subjectivity, Routledge, New York.
69. Elizabeth Heale (2009), Will in the Sonnets, Shakespeare,
Volume 5, Issue 3, p 219 – 234.
70. Ernest Fenollosa (1920), “The Chinese Written Character
as a Medium for Poetry” in Ezra Puond (1920), Instigation of Ezra
Pound together with an Essay on The Chinese Written Character by
Ernest Fenollosa, resource: http://www.guttenberg.org.
203
71. Claudio Guillén, translated by Colla Franzen (1993), The
Challenge of Comparative Literature, Havard University Press,
London.
72. G. Wilson Knight (1955), The Mutual Flame on
Shakespeare’s Sonnets and The Phoenix and the Turtle, Methuen and
Co. Ltd, London.
73. G.C. Thornley and Gwuyneth Roberts (1968), An Outline
of English Literature, Longman, England.
74. Goran Sonesson, The Concept of Text in Cultural
Semiotics, resource: www.academia.edu
75. Goran Stanivukovic (2013), Shakespeare and the New
Aestheticism: Space, Style and Text, Shakespeare Volume 9, Issue 2, p
141 – 148.
76. Helend Vendler (1999), The Art of Shakespeare’s Sonnets,
The Belknap Press of Harvard University Press.
77. Irene Portis Winner and Thomas G. Winner (1976), The
Semiotics of Cultural Texts, Semiotica 18: 2, pp. 101 – 156, Mouton
Publishers.
78. Jackson Barry (1999), Art, Culture and the Semiotics of
Meaning, St. Martin’s Press, New York.
79. James Schiffer edit (2000), Shakespeare’s Sonnets:
Critical Essays, Garland Publishing, USA.
80. James. K. Lowers, Ph. D (1965), Shakespeare’s Sonnets,
Cliff’s notes.
81. Jane Kingsley – Smith (2013), Shakespeare’s Sonnets and
the Claustrophobic Reader: Making Space in Modern Shakespeare
fiction, Shakespeare, Volume 9, Issue 2, p 187 – 203.
204
82. Jacob Burckhardt (1960), The Civilization of the
Renaissance in Italy, the translation of S.G.C. Middlemore, revised and
edited by Irene Gordon, Mentor Books, The New American Library of
World Literature, New York.
83. Jerry Brotton (2006), The Renaissance: A Very Short
Introduction, Oxford University Press, New York.
84. Jurij Lotman (1977), The Structure of the Artistic Text,
University of Michigan, Ann Arbor.
85. Kaye Mc Lelland (2011), Toward a Bisexual Shakespeare:
The Social Important of Specifically Bisexual Reading of Shakespeare,
Journal of Bisexuality, Volume 11, Issue 2-3, p 346 – 361.
86. Leszek Kolakowski, translated from the Polish by
P.S.Falla (1978), Main Currents of Marxism, Clarendon Press, Oxford.
87. Lucy Munro (2011), Shakespeare and the Uses of the
Past: Critical Approaches and Current Debates, Shakespeare, Volume
7, Issue 1, p 102 – 125.
88. M. C. Brandbrook (1965), Shakespeare and Elizabethan
Poetry, Chatto and Windus, London.
89. Michael Schoenfeldt edit (2007), A Companion to
Shakespeare’s Sonnets, Blackwell Publishing Ltd, USA.
90. Michael Shapiro (1998), Sound and Meaning in
Shakespeare’s Sonnets, Linguistic Society of America, Vol. 74, No. 1
(Mar., 1998), pp. 81-103. Nguồn: http://www.jstor.org.
91. Mike Ingham (2013), “The true concord of well-tuned
sounds”: Musical Adaptations of Shakespeare’s Sonnets, Shakespeare,
Volume 9, Issue 2, p 220 – 240.
205
92. Natasha Distiller (2012), Shakespeare’s Perversion: A
Reading of Sonnet 20, Shakespeare, Volume 8, Issue 2, p 137 – 153.
93. Nick Mansfield (2000), Theories of the Self from Freud to
Haraway, Allen and Unwin, Australia.
94. Paul Edmondson and Stanley Wells (2004), Shakespeare’s
Sonnets, Oxford University Press, USA.
95. Paul Innes (1997), Shakespeare and the English
Renaissance Sonnet: Verses of Feigning Love, Macmillan Press,
London.
96. Philip Schwyzer (2007) “Archaeologies of English
Renaissance Literature”, Oxford University Press, New York.
97. R.A. Foakes (1989), Coleridge’s Criticism of
Shakespeare, Wayne State University Press, Michigan.
98. Raphael Lyne (2009), Introduction: Tradition and the
Sonnets, Shakespeare, Volume 5, Issue 3, 2009, p 215 – 218.
99. Roland Barthes, translated from the French by Annette
Lavers and Colin Smith (1968), Elemments of Semiology, Hill and
Wang, New York.
100. Roland Posner (2004), Basic Tasks of Cultural Semiotics,
In: Gloria Withalm and Josef Wallmannsberger (eds.), Signs of Power
– Power of Signs, Essays in Honor of Jeff Bernard. Vienna: INST, p.
56 – 89.
101. Roman Jakobson (1985), Verbal Art, Verbal Sign, Verbal
Time, University of Minnesota Press, Minneapolis.
102. Sean Keilen (2009), The Tradition of Shakespeare’s
Sonnets, Shakespeare, Volume 5, Issue 3, p 235 – 252.
206
103. Stephen Booth (1997), Shakespeare’s Sonnets, Yale
University Press, New Haven and London.
104. Stephen Booth (1969), An Essay on Shakespeare’s
Sonnets, Yale University Press, New Haven and London.
105. Stephen Gersh and Bert Roest (2003) “Medieval and
Renaissance Humanism: Rhetoric, Representation and Reform”, Brill
Leiden Boston , USA.
106. Terence Hawkes (1992), Meaning by Shakespeare,
Routledge, London.
107. Umberto Eco (1976), A Theory of Semiotics, Indiana
University Press, London.
108. Umberto Eco (1984), Semiotics and the Philosophy of
Language, Indiana University Press, London.
109. William Shakespeare (1996), Shakespeare’s Sonnets, Yale
University Press.