BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ TÍNH
THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
HÀ NỘI, 2014
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI
NGUYỄN THỊ TÍNH
THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62.22.34.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học:
PGS.TS. LÃ NHÂM THÌN
Hà Nội, 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tác giả luận án xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng mình. Những kết quả và số liệu
trong luận án là trung thực và chưa từng được công bố
trên bất cứ tài liệu nào. Nếu sai, tác giả xin hoàn toàn
chịu trách nhiệm.
Hà Nội, ngày tháng năm 2014
Tác giả luận án
Nguyễn Thị Tính
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài 1
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu 2
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu 2
4. Phƣơng pháp nghiên cứu 3
5. Đóng góp của luận án 5
6. Cấu trúc của luận án 5
NỘI DUNG
6 Chương 1: TỔNG QUAN
6 1.1. Lịch sử vấn đề
1.1.1. Lịch sử văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát 6
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu quan niệm văn học của Cao Bá Quát 7
1.1.3. Lịch sử nghiên cứu những điểm mới của thơ chữ Hán 10
Cao Bá Quát
1.1.3.1. Nghiên cứu những điểm mới về nội dung 10
1.1.3.2. Nghiên cứu những điểm mới về nghệ thuật 14
17 1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Lí thuyết liên văn bản 17
1.2.2. Lí thuyết nghiên cứu văn học sử về tác giả 18
22 Chương 2: NHỮNG TIỀN ĐỀ TẠO NÊN ĐIỂM MỚI TRONG THƠ
CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
22 2.1.Tiền đề lịch sử, xã hội nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX
2.1.1.Những yếu tố truyền thống đã tỏ ra lỗi thời 22
2.1.2. Tầng lớp thị dân và tư tưởng phi Nho giáo 24
2.1.3. Ảnh hưởng bước đầu của tư tưởng, văn hoá phương Tây 25
29 2.2. Tiền đề văn hóa, văn học
2.2.1. Tiền đề văn hoá 29
2.2.1.1. Văn hóa dân gian và trào lƣu tƣ tƣởng nhân văn chủ nghĩa 29
2.2.1.2. Hoạt động chấn hƣng văn hoá của nhóm sĩ phu Hà thành 31
đầu thế kỉ XIX
2.2.2. Tiền đề văn học 32
2.2.2.1. Đổi mới về lực lƣợng sáng tác 32
2.2.2.2. Đổi mới trong quan niệm sáng tác 33
2.2.2.3. Sự ƣu thắng của văn học phi chức năng, văn học hình tƣợng 34
36 2.3. Cuộc đời, con người Cao Bá Quát
2.3.1. Con người tài năng, phóng túng, ưa đổi mới 36
2.3.2. Con người ưu phẫn 37
2.3.3. Con người được giao lưu, tiếp xúc với phương Tây qua chuyến 38
đi “Dương trình hiệu lực” ở Hạ Châu
41 Chương 3: NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG
41 3.1. Từ quan niệm văn học của Cao Bá Quát đến những điểm mới
trong thơ chữ Hán của tác giả
47 3.2. Điểm mới trong quan niệm về xã hội
3.2.1. Điểm mới trong việc nhìn nhận và phản ánh hiện thực xã hội 47
trong nước
3.2.1.1. Sự hoài nghi về lí tƣởng, con đƣờng khoa cử 47
3.2.1.2. Sự quan tâm tới rủi may của cuộc đời và tƣ tƣởng, 52
nhân tính con ngƣời trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt
3.2.2. Ảnh hưởng của nước ngoài trong cách nhìn về xã hội, 58
về thế giới được phản ánh trong sáng tác
3.2.2.1. Thể hiện nhận thức mới ở sự khác lạ về con ngƣời 59
3.2.2.2. Thể hiện nhận thức mới về sự giàu sang và sức mạnh 61
của văn minh phƣơng Tây
3.2.2.3. Thể hiện nhận thức mới về khả năng xâm lƣợc của 64
phƣơng Tây
69 3.3. Điểm mới về chữ “tình”
3.3.1. Quan niệm về chữ “tình” 70
3.3.2 Thế giới tình cảm của Cao Bá Quát trong các mối quan hệ của 72
cuộc sống đời thường
3.3.2.1. Tình cảm gia đình 72
3.3.2.2. Tình cảm bạn bè 79
3.3.2.3. Tình cảm trong các mối quan hệ xã hội khác 85
88 3.4. Điểm mới trong chủ đề người phụ nữ
3.4.1. Điểm mới về đối tượng phản ánh 88
3.4.2. Điểm mới trong cảm nhận về ngoại hình,hành động, cử chỉ và 89
tâm lí nhân vật
96 3.5. Điểm mới trong chủ đề thiên nhiên
3.5.1. Cảnh sinh động, đa sắc, giàu trạng thái 98
3.5.2. Cảnh khắc nghiệt, dữ dội, thất thường, hủy diệt 102
106 Chương 4: NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NGHỆ THUẬT
106 4.1. Không gian, thời gian đời tư
4.1.1. Không gian đời tư 106
4.1.1.1. Không gian đời tƣ - nơi quê nhà thân thiết 106
4.1.1.2. Không gian đời tƣ - nơi chất chứa nỗi sầu hận, bế tắc 109
4.1.2. Thời gian đời tư 116
4.1.2.1. Thời gian sinh hoạt hàng ngày 116
4.1.2.2. Thời gian cụ thể, trực cảm 119
121 4.2. Sự phát triển hình thức thể loại kí sự thơ
4.2.1. Sự nhiệt thành thể hiện cái tôi của tác giả 122
4.2.1.1. Sử dụng đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất 122
4.2.1.2. Nghệ thuật tự dẫn, chú giải 126
4.2.1.3. Biểu hiện lí sự, nghị luận, phân tích của lí tính 132
4.2.2. Sự gia tăng tính trần thuật, miêu tả tường tận, chi tiết 135
4.2.2.1. Cách đặt nhan đề tƣờng minh 135
4.2.2.2. Cách chú trọng các chi tiết cụ thể 137
4.2.2.3. Cách liên tƣởng, so sánh 142
148 KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ 151
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
TÀI LIỆU THAM KHẢO 152
PHỤ LỤC 165
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1.1. Về khoa học cơ bản
1.1.1. Cùng với mảng văn học chữ Nôm, văn học chữ Hán nửa đầu thế kỉ XIX
phát triển rực rỡ. Trong đó, Cao Bá Quát (1808 - 1855) không chỉ là một nhân vật lịch sử
mà còn là một tác gia văn học lớn. Ông đƣợc mệnh danh là Thánh Quát và đƣợc đánh giá
là một hiện tƣợng có lẽ “chỉ xuất hiện một lần trong văn học Việt Nam” [74,11]. Nổi
tiếng với tài “tịch thƣợng tác”, Cao Bá Quát thành công ở nhiều thể loại: truyện, phú, hát
nói, thơ… Trong đó, chủ yếu là bằng chữ Hán, đặc biệt là thơ chữ Hán. Với 1212 bài thơ
chữ Hán đã đƣợc sƣu tập, công bố (căn cứ vào Cao Bá Quát toàn tập (Mai Quốc Liên
chủ biên), hai tập, Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2004, 2012),
ông trở thành một trong những cây bút sáng tác bằng chữ Hán lớn nhất trong lịch sử văn
học dân tộc.
1.1.2. Thơ chữ Hán của Cao Bá Quát đã thu hút mạnh mẽ sự quan tâm của giới
nghiên cứu ngay từ sau cách mạng tháng Tám. Tuy nhiên, dù đã có nhiều công trình về
Cao Bá Quát - cả về sƣu tầm, dịch thuật và nghiên cứu nhƣng những đổi mới của nhà thơ
lớn này vẫn chƣa đƣợc nghiên cứu một cách thấu đáo và có hệ thống. Một phần nguyên
nhân là do sáng tác của ông chƣa đƣợc sƣu tầm, dịch thuật, công bố đầy đủ. Bộ sách Cao
Bá Quát toàn tập (hai tập) do Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học xuất bản
tạo điều kiện to lớn cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán toàn diện, hệ thống. Trên cơ sở tác
phẩm thơ chữ Hán của Cao Bá Quát đã đƣợc xử lí cơ bản về văn bản học, cùng với
những tƣ liệu hữu quan, ngƣời nghiên cứu có thể tiếp cận Cao Bá Quát từ nhiều góc độ
khác nhau, trong đó việc so sánh thơ chữ Hán Cao Bá Quát với các tác giả trƣớc và cùng
thời với ông có vai trò rất quan trọng. Cách tiếp cận này vừa cho phép tìm hiểu con ngƣời
và thời đại Cao Bá Quát vừa đánh giá đƣợc đóng góp của ông đối với tiến trình lịch sử
văn học dân tộc, từ đó, góp phần xác định địa vị văn học sử của tác giả.
1.1.3. Trong thời trung đại, sự tự ý thức về tác giả chƣa cao, làm văn thơ có khi
vay mƣợn, sao chép theo những khuôn mẫu. Cao Bá Quát kịch liệt phản đối lối sáng tác
truyền thống ấy. Ông theo quan niệm “Văn tất kỉ xuất” (Văn phải tự mình làm ra). Văn
chƣơng của ông thể hiện “một tâm hồn nhạy cảm, một năng lực sáng tạo to lớn, trƣớc
chiều sâu suy tƣởng và dự cảm xã hội có ý nghĩa thời đại, trƣớc diện đề tài phong phú và
2
những hình ảnh, tứ thơ thực sự sinh động, tân kì” [148,15]. Từ tƣ tƣởng quan điểm đề cao
mạnh mẽ vai trò sáng tạo của cá nhân, với tài năng của mình, Cao Bá Quát trở thành một
trong số rất ít cây bút trong văn học Việt Nam trung đại có phong cách sáng tác. Văn
chƣơng của ông có vị trí quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam trung đại với những
đóng góp mang ý nghĩa đổi mới cả về nội dung và nghệ thuật. Đề tài làm sáng tỏ vị trí
của Cao Bá Quát - “nhân vật có tính chất tƣợng trƣng thực sự đứng giữa ngƣỡng cửa một
giai đoạn mới trong lịch sử Việt Nam”, “là ngƣời khởi xƣớng phong trào cải lƣơng vào
nửa sau thế kỉ XIX” (N.I.Nikulin). Mặt khác, đề tài góp phần làm sáng tỏ hơn đặc điểm
“ngã” và “phi ngã” trong văn học Việt Nam thời trung đại.
Xuất phát từ những lí do trên, chúng tôi chọn đề tài Thơ chữ Hán Cao Bá Quát -
những điểm mới về nội dung và nghệ thuật.
1.2. Về ý nghĩa thực tiễn
Tác phẩm của Cao Bá Quát đƣợc chú trọng giảng dạy rộng rãi từ hệ phổ thông, cao đẳng
đến đại học trong cả nƣớc. Nhiều tác phẩm đƣợc giảng dạy trong nhà trƣờng thể hiện
những đổi mới của Cao Bá Quát. Đề tài này góp phần phục vụ việc giảng dạy văn
chƣơng Cao Bá Quát nói riêng, văn học Việt Nam trung đại nói chung ở các cấp học hiệu
quả hơn.
Ngoài ra, luận án còn góp phần khẳng định tài năng của Cao Bá Quát một cách có
cơ sở, giúp cho việc nghiên cứu toàn diện về nhà thơ này có hệ thống hơn.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
- Đặt thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong tiến trình của văn học dân tộc, so sánh thơ
ca của ông với thơ chữ Hán của các tác giả tiêu biểu trƣớc và cùng thời với ông, đề tài
nhằm tìm ra những điểm riêng, mang tính chất đổi mới của Cao Bá Quát.
- Từ đó, đề tài xác định, tìm hiểu những đóng góp của Cao Bá Quát đối với văn
học Việt Nam thời trung đại, thấy đƣợc vai trò dự báo cho sự phá cách của cả một thế hệ,
góp phần tạo nên đặc điểm giao thời của văn học trung đại với văn học hiện đại trong thế
kỉ XIX.
3
3. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
- Thơ chữ Hán Cao Bá Quát (gồm 1212 bài đƣợc dịch ra tiếng Việt, in trong Cao
Bá Quát toàn tập).
- Thơ chữ Hán của một số tác giả tiêu biểu trong văn học Việt Nam trung đại
(Nguyễn Trãi, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Du, Phan Thúc Trực, Nguyễn Miên Thẩm…)
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nội dung: Những đổi mới về nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá
Quát so với các tác giả trƣớc và cùng thời với ông trong văn học Việt Nam trung đại.
- Phạm vi tƣ liệu:
+ Tài liệu chính mà chúng tôi sử dụng trong luận án là Cao Bá Quát toàn tập
(Mai Quốc Liên chủ biên), hai tập, Nxb.Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà
Nội, 2004, 2012. Bên cạnh đó, chúng tôi có tham khảo cuốn Thơ văn Cao Bá Quát, Vũ
Khiêu (Chủ trì), Nxb. Hà Nội, Hà Nội, 2010 và các văn bản dịch thơ Cao Bá Quát từ
nhiều nguồn khác nhau để đối chiếu, tham khảo.
+ Để phục vụ cho việc so sánh, chúng tôi sử dụng thêm các tài liệu thơ chữ Hán
của các tác giả văn học Việt Nam trung đại: Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Ngô Thì
Nhậm, Nguyễn Du, Phan Thúc Trực, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Miên
Thẩm…
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp so sánh đối chiếu
Đây là phƣơng pháp quan trọng nhất đƣợc sử dụng trong nghiên cứu đề tài của
chúng tôi.
Chúng tôi chủ yếu so sánh nội dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát với
các tác giả tiêu biểu trƣớc Cao Bá Quát (đặc biệt là Nguyễn Trãi, Nguyễn Du) để thấy sự
kế thừa và đổi mới của Cao Bá Quát so với thi ca thời trƣớc ông.
Bên cạnh đó, chúng tôi kết hợp so sánh thơ chữ Hán Cao Bá Quát các tác giả cùng
thời với ông (nửa đầu thế kỉ XIX, trọng tâm là các tác giả Nguyễn Văn Siêu, Phan Thúc
Trực, Nguyễn Miên Thẩm) để tìm ra sự khác biệt, mới mẻ của Cao Bá Quát so với các
tác giả đƣơng thời.
4
Chúng tôi cũng đặt thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong mối tƣơng quan với đặc điểm
thi pháp của văn học trung đại và văn học hiện đại Việt Nam để thấy đƣợc những đóng
góp của tác giả đối với văn học dân tộc, nhất là ở việc bƣớc đầu đặt nền móng cho sự
hiện đại hoá văn học dân tộc.
4.2. Phương pháp hệ thống
Phƣơng pháp hệ thống cung cấp cho ngƣời viết cái nhìn bao quát khi nghiên cứu
những điểm mới về nội dung, nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát, thấy đƣợc sự kế thừa
và sáng tạo của Cao Bá Quát.
Với phƣơng pháp hệ thống, chúng tôi sử dụng các thao tác khảo sát, thống kê,
phân loại…
4.3. Phương pháp lịch sử - cụ thể
Phƣơng pháp lịch sử nhằm nghiên cứu Cao Bá Quát trong mối quan hệ với hoàn
cảnh lịch sử cụ thể để làm cơ sở cho những phân tích, nhận định, đánh giá về tác giả.
4.4. Phương pháp tiếp cận liên ngành
Bằng phƣơng pháp tiếp cận liên ngành, chúng tôi vận dụng các thành tựu nghiên
cứu của các bộ môn khoa học xã hội nhƣ: văn bản học, sử học, văn hoá học, triết học,
lịch sử tƣ tƣởng, tâm lí học, xã hội học… nhằm nghiên cứu Cao Bá Quát trong mối quan
hệ với văn hoá, hoàn cảnh lịch sử cụ thể… để làm cơ sở cho những nhận định, đánh giá
mang ý nghĩa lí luận.
4.5. Phương pháp loại hình học tác giả
Với phƣơng pháp loại hình học tác giả, chúng tôi đặt Cao Bá Quát trong hệ thống
các nhà nho tài tử, các tác giả “chủ tình”, “quý chân”… trong văn học cuối thế kỉ XVIII
đầu thế kỉ XIX để tìm những điểm mới của thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong xu hƣớng của
giai đoạn văn học nói chung, của Cao Bá Quát nói riêng.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng kết hợp các phƣơng pháp khác: phƣơng pháp đọc
sâu, phƣơng pháp phân tích - tổng hợp… để thực hiện đề tài.
5
5. Đóng góp của luận án
- Luận án là công trình đầu tiên khảo sát, thống kê toàn bộ thơ chữ Hán Cao Bá
Quát - 1212 bài thơ - trên nhiều phƣơng diện khác nhau để đánh giá một cách hệ thống và
toàn diện cả về nội dung, nghệ thuật.
- Luận án bổ sung những lí giải mới, chỉ ra đƣợc sự độc đáo của thơ chữ Hán Cao
Bá Quát về nội dung và nghệ thuật.
- Luận án góp thêm một tiếng nói và sự nhìn nhận đánh giá thơ chữ Hán Cao Bá
Quát - một nhân vật lịch sử đặc biệt và một hiện tƣợng thơ văn mới mẻ. Kết quả nghiên
cứu của luận án nêu bật những đóng góp của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân
tộc, góp phần nhận diện sự vận động và phát triển của văn học dân tộc. Qua đó, luận án
góp phần tìm hiểu thời đại Cao Bá Quát và các tác gia văn học trung đại khác đồng thời
góp phần nhận diện sự vận động và phát triển của văn học dân tộc.
- Luận án góp phần khẳng định tài năng Cao Bá Quát một cách có cơ sở, giúp cho
việc nghiên cứu toàn diện về nhà thơ này có hệ thống hơn.
- Luận án góp phần giảng dạy tác giả, tác phẩm Cao Bá Quát ở các cấp đào tạo
đƣợc tốt hơn.
6. Cấu trúc của luận án
Ngoài những phần quy định chung (Mở đầu, Kết luận, Danh mục công trình
nghiên cứu của tác giả có liên quan đến đề tài luận án, Tài liệu tham khảo), luận án đƣợc
trình bày thành 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Tổng quan
Chƣơng 2: Những tiền đề tạo nên điểm mới trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát
Chƣơng 3: Những điểm mới về nội dung
Chƣơng 4: Những điểm mới về nghệ thuật
Ngoài ra, luận án còn có phần Phụ lục - bao gồm các bảng thống kê tƣ liệu sử
dụng trong luận án.
6
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1. Lịch sử vấn đề
Việc nghiên cứu, tìm hiểu về Cao Bá Quát đã đƣợc bắt đầu ngay từ trƣớc cách
mạng tháng Tám 1945. Khảo sát các công trình nghiên cứu, chúng tôi thấy những vấn đề
liên quan đến đề tài đã đƣợc đề cập trên các phƣơng diện sau:
1.1.1. Lịch sử văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát
Lịch sử văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã đƣợc nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc
Quận tìm tòi, xác định công phu, chi tiết trong các bài: Vài nhận xét về tập Thơ văn Cao
Bá Quát [128], Văn bản tác phẩm Cao Bá Quát [129], Vấn đề văn bản tác phẩm Cao Bá
Quát [131]. Trên cơ sở các công bố khoa học của nhà nghiên cứu, chúng tôi xin tóm lƣợc
nhƣ sau:
- Năm 1970, Công trình tập thể Thơ chữ Hán Cao Bá Quát do nhóm Vũ Khiêu
tuyển dịch và biên soạn có 161 bài tính theo lần in thứ nhất (1970). Bấy giờ, số bài thơ
chữ Hán đƣợc xác định của Cao Bá Quát là 1353 bài.
sách này đăng 156 bài, rút bỏ 5 bài do nhóm biên soạn phát hiện các bài thơ ấy là của tác
- Năm 1984, nhân lần in thứ 3, tập sách đổi tên thành Thơ văn Cao Bá Quát. Cuốn
giả khác. Tuy nhiên, cuốn sách “vẫn còn khoảng 5 bài nữa không phải của Cao Bá Quát”
[128,15].
- Theo kết luận của nhà nghiên cứu, số lƣợng thơ chữ Hán của Cao Bá Quát là
1335 bài. Tuy nhiên, tác giả cũng nói rõ, trong 1335 bài ấy, “có 8 bài không thấy chép
trong toàn bộ tƣ liệu thơ chữ Hán” mà tác giả thu thập đƣợc, “46 bài chỉ tìm thấy trong
bản D (Cao Bá Quát thi tập, ký hiệu A.210) là bản có nhiều ghi chép rối rắm”, “không
thấy chép trong các sách nào khác nên cũng cần đƣợc chú ý khảo sát thêm về mặt văn
bản học” [131].
Trên cơ sở sƣu tầm và khảo cứu văn bản tác phẩm của nhà nghiên cứu Nguyễn
Ngọc Quận, Trung tâm Nghiên cứu quốc học đã kế thừa công trình của nhóm Vũ Khiêu,
đồng thời tổ chức dịch thuật toàn bộ thơ văn Cao Bá Quát. Năm 2004 và năm 2012,
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, nhà xuất bản Văn học đã xuất bản Cao Bá Quát toàn
tập, trong đó công bố 1212 bài thơ chữ Hán. Nhƣ vậy, so với kết luận của nhà nghiên
7
cứu, còn 123 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát vẫn chƣa đƣợc công bố trong bộ toàn tập
này.
Do đó, vấn đề văn bản thơ chữ Hán Cao Bá Quát tuy đã có kết quả to lớn, song
vẫn cần đƣợc khảo sát, nghiên cứu thêm để hoàn thiện.
1.1.2. Lịch sử nghiên cứu quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát
Quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát đã đƣợc bàn đến qua những bài viết của
các tác giả: Trúc Khê, Lê Trí Viễn, Phƣơng Lựu, Nguyễn Lộc, Vũ Khiêu…, trong đó, có
cả những công trình nghiên cứu chuyên biệt của Nguyễn Tài Thƣ, Nguyễn Ngọc Quận,
Phạm Quang Trung…
Viết về vấn đề này, trƣớc khi có sự đính chính của Nguyễn Ngọc Quận năm 2004,
nhiều tác giả đã trích dẫn bài bạt Thư Tiêu Lâm thi tập hậu để khẳng định quan niệm sáng
tác của Cao Bá Quát. Trong khi đó, "…bài Thư Tiêu Lâm thi tập hậu chép trong Cao Chu
Thần thi tập - ký hiệu A. 299, là một bài hậu tự viết cho tập thơ Tiêu Lâm của tác giả
Phạm Kế Chi đƣợc nhiều nhà nghiên cứu coi là của Cao Bá Quát…", “Bài tự Thư Tiêu
Lâm thi tập hậu chƣa đủ cơ sở để xác định tác giả của nó là Cao Bá Quát hay một tác giả
cụ thể nào khác cho đến thời điểm này” [129,1135-1136].
Rất may, tƣ tƣởng trong bài Thư Tiêu Lâm thi tập hậu trùng với quan niệm của
Cao Bá Quát thể hiện trong nhiều tác phẩm, vậy nên sai lầm trên không làm thay đổi kết
quả đánh giá về quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát.
Trong các công trình nghiên cứu, các ý kiến sau có vai trò góp phần định hƣớng
cho chúng tôi khi nghiên cứu đề tài:
Thứ nhất là các ý kiến về quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát.
Trƣớc hết là ý thức về vai trò của nghệ sĩ. Về vấn đề này, nhà nghiên cứu Trần
Ngọc Vƣơng khẳng định: Trong lịch sử văn học Việt Nam, “chỉ đến thế kỉ XVIII mới có
hiện tƣợng có những nhà nho coi văn chƣơng (hiểu theo nghĩa sáng tác văn học) là sự
nghiệp chính của đời mình” và nhà nghiên cứu đã xếp Cao Bá Quát vào số 11 nhà thơ tài
tử tiêu biểu “đã lấy văn chƣơng, coi tài năng văn học là thƣớc đo quan trọng” [199,124].
Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận đánh giá: “Trong ý thức về ngƣời làm thơ, Cao Bá
Quát thuộc số rất hiếm tác gia văn học Việt Nam trung đại tự nhận mình là nhà thơ, tự
xác định tƣ cách nhà thơ của mình [130,131]. Điều này có ý nghĩa đặc biệt. Vì lẽ, “Khẳng
8
định và tự hào về tƣ cách của ngƣời làm thơ, của chính mình là biểu hiện của ý thức cá
tính, về vai trò của văn chƣơng” [130,132].
Về sự coi trọng “chân” và “tình” của thơ, các tác giả Nguyễn Lộc, Nguyễn Ngọc
Quận,… từ bài thơ Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh dạ toạ (Bài tiểu kệ “Uống chè” làm
trong khi ngồi khuya với Phan Sinh) đã nhận ra sự liên hệ của Cao Bá Quát giữa việc
uống trà với làm thơ: Uống chè cốt nhất là giữ đƣợc chân vị chè, nghệ thuật làm thơ cũng
vậy, cái hay không phải ở sự diêm dúa, hào nhoáng. Các tác giả Nguyễn Lộc, Nguyễn Tài
Thƣ, Nguyễn Ngọc Quận, Phạm Quang Trung… cùng chú ý tới phát biểu của Cao Bá
Quát: “Bàn về thơ, tuy phải chú trọng về quy cách, song làm thơ thì phải gốc ở tính tình”.
Nguyễn Tài Thƣ viết: “Xem “tính tình” là gốc của thơ, Cao Bá Quát đã đề cập một vấn
đề cơ bản của sáng tác nghệ thuật, đó là sự rung cảm của nghệ sĩ; nghệ sĩ có rung cảm
thật sự thì tác phẩm mới có hồn, mới có khả năng truyền tải và có tính độc đáo”
[181,324]. Nguyễn Ngọc Quận khẳng định: “Ông đã hƣớng đến vấn đề nội dung và hình
thức của thơ ca”. “Xác định phải chú trọng về quy cách” là Cao Bá Quát muốn nói đến
những luật lệ thi pháp và câu chữ, vần điệu. Và xác định: “làm thơ phải gốc ở tính tình”
tức là xác định cái căn cốt nhất của thơ” [96,32], “Chú trọng đến cảm xúc riêng của chủ
thể sáng tạo, rõ ràng Cao Bá Quát đã nhấn mạnh đến cá tính, đến sắc thái riêng của chủ
thể trữ tình” [130,133]…
Về quan niệm văn chƣơng phải có sự sáng tạo của Cao Bá Quát, Nguyễn Tài Thƣ
viết: “Cao Bá Quát luôn quan niệm thơ ca phải có hình thức đẹp (…). Nhƣng ông phản
đối chủ nghĩa hình thức trong sáng tác, phản đối lối sáng tác cầu kì, kiểu cách, chỉ biết
chạy theo câu chữ mới lạ và âm điệu khác thƣờng” [181,324]; “Là một nhà thơ lớn, Cao
Bá Quát thấy cần thiết phải học tập vốn nghệ thuật cũ của dân tộc (…) . Song học tập của
Cao Bá Quát không đồng nhất với lối giáo điều, rập khuôn, mô phỏng, bắt chƣớc. (…).
“Ông chủ trƣơng học tập song phải tiêu hoá đƣợc, phải biết biến những cái học đƣợc ở
ngƣời thành cái của mình, phải biết biến hoá trong quá trình sáng tác” [181,325- 326].
Đây cũng là ý kiến thống nhất với các tác giả khác khi tìm hiểu quan niệm văn chƣơng
của Cao Bá Quát.
Các tác giả Trần Nho Thìn, Nguyễn Ngọc Quận, Phạm Ngọc Hiền, Nguyễn Thanh
Tùng còn chú ý đến sự ảnh hƣởng thuyết “tính linh” của Cao Bá Quát. Các nhà nghiên
cứu đã khẳng định, Cao Bá Quát là ngƣời đi tiên phong trong việc ảnh hƣởng và đƣa tƣ
tƣởng thuyết “tính linh” thời Minh Thanh, quan niệm “tính linh” của Viên Mai vào sáng
9
tác. Theo nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn, “chỉ thấy Cao Bá Quát trong thế kỉ XIX đề cập
đến khái niệm “tính linh”, còn trƣớc đó, Lê Quý Đôn và các nhà thơ thế kỉ XVIII chỉ nói
đến tình” [174,139]. Tác giả Nguyễn Ngọc Quận viết: “Cao Bá Quát còn nhấn mạnh đến
tính linh. Có thể ông đã kế thừa nhà lí luận Trung Quốc nổi tiếng Viên Mai (1715 - 1797)
về thuyết “tính linh” - tức tình cảm chủ quan của ngƣời làm thơ” [130,134]. Tác giả
Nguyễn Thanh Tùng khẳng định: quan niệm nghệ thuật cơ bản của Cao Bá Quát là theo
thuyết “tính linh” thời Minh Thanh. Với tƣ tƣởng chủ đạo này, Cao Bá Quát “ngầm ý
tranh luận với Miên Thẩm và các thành viên trong thi xã Tùng Vân”, “phê phán lối thơ
bắt chƣớc, mô phỏng, không chân thực về tình cảm; cũng là sự phê phán khuynh hƣớng
tƣ tƣởng “phục cổ”, “cách điệu” thịnh hành đƣơng thời” [194,54-55]. Tác giả Phạm Ngọc
Hiền đánh giá: “Sang giữa thế kỉ XIX, Cao Bá Quát đề cao thuyết tính linh trong sáng tác
văn học và đƣợc nhiều nhà nho có tƣ tƣởng cởi mở thời đó ủng hộ. Điều này cho thấy
văn chƣơng lúc bấy giờ đang có sự bứt phá khỏi thi pháp cổ điển để chuẩn bị chuyển
sang thi pháp hiện đại” [40].
Về ngƣời sáng tác, tác giả Nguyễn Ngọc Quận viết: “Cao Bá Quát quan niệm
ngƣời làm thơ phải từng trải”, “ngƣời làm thơ phải có kiến văn phong phú mà sự thực
học cần phải trải qua công tôi luyện, hiểu biết không thể lờ mờ, nửa vời” [130,137-138].
Tác giả Phạm Quang Trung nhận xét: Cao Bá Quát nói tới các điều kiện: “Một là, đi
nhiều, vết chân đã in khắp trên non sông muôn dặm. Cũng có nghĩa là trải đời nhiều
để kim cổ sự đa tu thức định (việc kim cổ có nhiều, cần phải nhận định vững chắc). Hai
là, đọc nhiều, trong bụng chứa đầy sách vở. Cũng có nghĩa là biết thâu thái, chắt lọc để
giúp cho sức nghĩ của bản thân: khán thư song nhãn vạn niên đăng (xem sách, đôi mắt
nhƣ ngọn đèn muôn năm - Bài Bệnh trung). Ba là, biết sáng tạo theo đặc trƣng của nghệ
thuật, lời nói bi tráng, văn viết thì trầm hùng, những cái đó khác nào như bụi bặm, cám
bã mà đã đem hun đúc thành gạch ngói. Và bốn là (điểm này thật là sáng suốt) rất cần sự
cảm thông, chia sẻ của ngƣời sáng tạo” [188,54-55]. Nhiều tác giả nữa cũng có chung sự
đánh giá trên.
Không chỉ quan tâm đến nội dung quan niệm sáng tác, các tác giả còn có ý kiến
đánh giá về quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến trình văn hoá dân tộc.
Nguyễn Tài Thƣ khẳng định: “Nhờ có tinh thần nhƣ thế, nên thơ ca ông từ trƣớc đến sau,
từ đầu đến cuối đều tỏ ra nhất quán, và hình thành một phong cách riêng biệt, gây chấn
động trong làng thơ đƣơng thời” [181;326]. Nguyễn Ngọc Quận đánh giá: “Đặt vấn đề
10
nhƣ vậy trong bối cảnh Cao Bá Quát đang sống, thời kì mà văn chƣơng hƣớng vào việc
ca ngợi thiết chế phong kiến, công đức của các bậc đế vƣơng, ca ngợi sự linh thiêng, thần
thánh, đất trời… thì mới thấy hết quan niệm của Cao Bá Quát” [119,32]…
Ngoài các nội dung chính trên, nhiều tác giả còn đề cập đến những ý kiến của Cao
Bá Quát về truyền thống và kế thừa, vai trò của văn chƣơng và việc sử dụng chữ Nôm
trong sáng tác…
Nhƣ vậy, việc bàn tới quan niệm sáng tác của Cao Bá Quát đã khá toàn diện. Các
tác giả cho thấy Cao Bá Quát có quan niệm khá hệ thống về văn học từ bản chất, đặc
trƣng, chức năng của văn chƣơng cho đến vai trò của ngƣời sáng tác. Nói chung, các nhà
nghiên cứu đều khẳng định quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát là mới mẻ và ảnh
hƣởng rõ rệt đến sáng tác của ông.
1.1.3. Lịch sử nghiên cứu những điểm mới của thơ chữ Hán Cao Bá Quát
1.1.3.1. Nghiên cứu những điểm mới về nội dung
Ở phƣơng diện nội dung thơ chữ Hán Cao Bá Quát, nhiều nhà nghiên cứu khẳng
định: “Đối với nhà Nho, dù là nhà Nho có phần chính thống nhƣ Cao Bá Quát, tƣ tƣởng
trung quân vẫn không dễ gì thay đổi”, “niềm hi vọng về một vị vua hiền và tƣ tƣởng
trung quân của Cao Bá Quát vẫn rất sâu đậm” [130,121]. Đây là một nhận định đúng.
Tuy nhiên, có lẽ do tâm lí ngƣỡng mộ về một ngƣời anh hùng chống lại chế độ phong
kiến, cho nên phần nhiều các nhà nghiên cứu hƣớng đến dòng ý thức thứ hai trong thơ
chữ Hán Cao Bá Quát: sự li tâm tƣ tƣởng Nho giáo, phản kháng chế độ, khát vọng đổi
thay xã hội. Quan tâm tới dòng ý thức thứ hai này, các nhà nghiên cứu đã đề cập tới nội
dung thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Việc phản ánh hiện thực xã hội của Cao Bá Quát đƣợc các nhà nghiên cứu chỉ ra ở
các mặt sau: phê phán tình hình suy thoái, lạc hậu của chế độ phong kiến; phản ánh nỗi
thống khổ của dân; thể hiện tầm nhìn xa trông rộng trƣớc hiểm hoạ đất nƣớc rơi vào tay
thực dân. Từ phƣơng diện này, các tác giả khẳng định con ngƣời khẳng khái, khí phách
của Cao Bá Quát. Vũ Khiêu viết: “Những cảnh túng thiếu, đói rét, phải đi ăn xin, bị bắt
phu, bắt lính đã khiến ông rất đau xót” [57,26]. Nguyễn Đổng Chi cho rằng: “Mặc dầu
văn chƣơng Cao Bá Quát còn lại không mấy nhƣng số còn lại đã nêu lên đƣợc cái đẹp rất
hiếm có trong văn học phong kiến. Đó là lòng khinh ghét cuộc sống chật hẹp, ti tiện. Đó
là sự trực tiếp hoặc gián tiếp phủ nhận chính quyền đƣơng thời, đó cũng chính là phủ
11
nhận hiện thực. Nói chung, đó là cái hiên ngang của một tâm hồn chỉ biết thờ có tự do và
chân lí” [10,251]. Nguyễn Lộc chứng minh thơ Cao Bá Quát phê phán quan lại phong
kiến, cảm thƣơng nỗi thống khổ của dân, mong muốn đổi thay xã hội. Ông khẳng định:
“Cao Bá Quát là một ngƣời rất có ý thức về thời cuộc, và có cái nhìn khá nhạy bén đối
với thời cuộc lúc bấy giờ” [77,363]. Nguyễn Huệ Chi từ việc “Tìm hiểu nhân sinh quan
tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, “Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong
thơ Cao Bá Quát”,…đã kết luận: “chỉ một việc dám nói toạc lên tình trạng lạc hậu của
học thuật nƣớc nhà cũng chứng tỏ Cao Bá Quát có cái nhìn sáng suốt và có thái độ dũng
cảm nhƣ thế nào” [11,70]. Nói chung, đây cũng là ý kiến đánh giá khá thống nhất của
nhiều tác giả khác (Lê Trí Viễn, Bùi Đức Tịnh, Vĩnh Sính, Trần Nho Thìn…).
Theo quan niệm của chúng tôi, nội dung trên trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát quả
là có mới so với văn chƣơng giai đoạn trƣớc, nhƣng với các tác giả cùng thời, sự phản
ánh hiện thực xã hội của Cao Bá Quát nằm trong quan niệm sáng tác chung của văn
chƣơng thời kì này.
Điểm khác lạ, mới mẻ của Cao Bá Quát so với các tác giả đƣơng thời chính là sự
nhìn nhận thế giới phƣơng Tây để rồi nhận thấy tình trạng lạc hậu của đất nƣớc mình.
Các tác giả Nguyễn Tài Thƣ, Vĩnh Sính, Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp,
N.I.Nikulin, Trần Nho Thìn… bàn khá sâu sắc về thơ và tƣ tƣởng của Cao Bá Quát khi
ông đi “dƣơng trình hiệu lực”. Vĩnh Sính có bài “Thử tìm hiểu về chuyến đi công vụ ở Hạ
Châu của Cao Bá Quát”. Bài viết phân tích mục đích của chuyến đi và ấn tƣợng về văn
minh Tây phƣơng của Cao Bá Quát qua “Hồng mao thuyền hoả ca”, “Hình ảnh ngƣời
phụ nữ Tây phƣơng”, “Ý thức đồng văn đồng chủng đối với ngƣời Trung Quốc”. Từ đó,
tác giả kết luận: “qua những bài thơ Cao Bá Quát sáng tác trong thời kì xuất dƣơng và
sau khi về nƣớc, ta thấy tác giả không chỉ là một nhà thơ đa tài mà còn là một trí thức
mẫn cảm trƣớc thời cuộc” [144,198]. “Trên thực tế, Cao Bá Quát là một trong số ít ngƣời
Việt Nam đã cảm nhận rất sớm - ngay giữa thập niên 1840 - về mối hiểm hoạ Tây xâm và
chế độ khoa cử lỗi thời chỉ dựa trên từ chƣơng và hƣ văn. Những vấn đề này sẽ đƣợc tiếp
tục là đề tài nóng bỏng đối với đất nƣớc trong suốt hơn một thế kỉ sau đó”, “Trong mảng
thơ văn đi sứ hay đi công cán ở nƣớc ngoài của các sứ thần Việt Nam vào thế kỉ XIX, bài
thơ của Cao Bá Quát về ngƣời phụ nữ Tây phƣơng là một trƣờng hợp rất hiếm hoi và có
ý nghĩa bởi lẽ điều này nói lên cá tính phóng khoáng của Cao Bá Quát- không chịu bó
mình trong khuôn phép Nho giáo”, “Trong chữ Hán, danh từ “tiên giác” dùng để chỉ
12
ngƣời thấy sớm hơn những ngƣời cùng thời các sự kiện chƣa xảy ra. Tiên đoán về tiền đồ
u ám của đất nƣớc ngay vào giữa thế kỉ XIX, Cao Bá Quát đáng đƣợc xếp vào trong số
những nhà tiên tri tiên giác rất hiếm hoi ở Việt Nam vào thời điểm đó” [144,198].
Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp có bài “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và
nhận thức của ông qua chuyến đi công cán “vùng Hạ Châu”. Bài viết khá tƣờng tận và
đƣợc minh hoạ bằng nhiều dẫn chứng thơ chữ Hán của Cao Bá Quát sáng tác trong và
sau thời gian này để chỉ ra sự kết tinh nhận thức mới của Cao Bá Quát về sự lỗi thời của
thực tế đất nƣớc, văn minh phƣơng Tây và nguy cơ bị phƣơng Tây thôn tính. Claudine
Salmon và Tạ Trọng Hiệp đánh giá: “Chuyến đi của ông đã khiến cho ông nhận thức
đƣợc tính tƣơng đối của sự hiểu biết và coi sự hiểu biết của bản thân mình là hết sức hạn
hẹp trƣớc sự bao la của thế giới”, “ông còn đi xa hơn nữa, bởi vì ông muốn công khai
xem xét lại ngay cả những nền tảng của sự hiểu biết của các nhà nho. Chắc chắn ở đây có
phần quá cƣờng điệu, song ở đây cần phải hiểu rằng đối với Cao Bá Quát thì sự quan sát
thế giới đƣơng đại cũng không kém gì việc học tập sách xƣa. Nó giúp cho mọi ngƣời ý
thức đƣợc những giới hạn của thế giới bị Hán hoá và sự tồn tại song song của một thế
giới bên ngoài mà sự đe doạ đang đến gần từng ngày. Tất cả đều cho thấy Cao Bá Quát
hoàn toàn ý thức đƣợc về những nguy hiểm mà đất nƣớc ông đang bị đe doạ và cuối cùng
sẽ sụp đổ.” [141,846]. N.I.Nikulin - cũng đánh giá Cao Bá Quát từ chuyến đi sứ: “Có thể
gọi Cao Bá Quát là ngƣời tiền khu của phong trào cải cách nửa sau thế kỉ XIX”
[101,217]. Xuân Diệu cũng viết: “Ông là ngƣời đầu tiên đƣa vào văn học nƣớc nhà hình
ảnh ngƣời đàn bà Tây Dƣơng”, “và ông cũng là nhà thơ đầu tiên đƣa vấn đề da đen da
trắng vào thơ” [23,643]. Trần Nho Thìn đánh giá: “Thực tế, tiếp xúc với con ngƣời và
văn hoá phƣơng Tây, cho dù trên mảnh đất thuộc địa của họ, xác định thành ngữ “trăm
nghe không bằng một thấy” [175,8]. Mặt khác, những gì Cao Bá Quát thể hiện trong thơ
viết khi đi dƣơng trình hiệu lực lại cho thấy tầm tƣ tƣởng của riêng ông mà nhiều sứ thần
không có đƣợc”, “Đó là sự sòng phẳng trong tƣ duy của một con ngƣời dám nghĩ một
cách mới về cái mới, dám thừa nhận sự ƣu việt của kĩ thuật Tây phƣơng” [175;10].
Về phần phản ánh những nỗi thống khổ của con ngƣời, điểm mới của Cao Bá Quát
đƣợc Trần Thị Băng Thanh phát hiện. Nhà nghiên cứu từ sự phân tích bài Đạo phùng ngạ
phu đã kết luận: “Đạo phùng ngạ phu một mặt phản ánh một khía cạnh hiện thực xã hội
đƣơng thời - sự bế tắc của tầng lớp nho sĩ - trí thức, nạn đói nghèo, thất nghiệp và cuộc
sống đầy may rủi, bất trắc - một mặt thể hiện đặc sắc của ngòi bút Cao Bá Quát. Cách
13
nhìn cuộc sống của thi sĩ họ Cao là cái nhìn xác thực, có dáng vẻ “khách quan”, lệnh sắc,
tinh tế của lí trí, có suy tƣ, phân tích”. “Và nếu nhƣ trong các tác gia thời trung đại có
một ai mà cách nhìn, cách quan sát thể hiện con ngƣời, cuộc sống đã có những nét gần
gũi với hiện đại thì phải kể đến Cao Bá Quát. Điều đó cũng góp phần làm nên sức sống
lâu bền của thơ ông.” [163;87].
Bên cạnh những nội dung trên, nhiều nhà nghiên cứu còn đề cập đến nội dung tình
cảm với thiên nhiên, với bạn bè, gia đình… của Cao Bá Quát. Các tác giả đều nhằm
hƣớng tới khẳng định: khác với các giai thoại đều có khuynh hƣớng chứng tỏ Cao Bá
Quát là ngƣời ngông nghênh, tự phụ, thực tế ông là ngƣời rất mềm yếu, ngập tràn tình
cảm. Cao Bá Quát kết giao nhiều, ông yêu thƣơng chân thành mẹ già, con nhỏ, vợ hiền.
Ông yêu thiên nhiên, “thƣờng thích cảnh rộng lớn”...
Tuy nhiên, đề cập đến phƣơng diện tình cảm của Cao Bá Quát, các tác giả mới chỉ
dựng lên chân dung con ngƣời cá nhân Cao Bá Quát đằm thắm, chân thành, mà chƣa có
kết luận về sự mới lạ của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc.
Nói chung, qua thơ chữ Hán, Cao Bá Quát đƣợc tất cả các học giả đánh giá là một
trí thức mẫn cảm với thời cuộc. Điều này đã đƣợc tác giả Nguyễn Hữu Sơn khẳng định:
“Ông sống với lí tƣởng chung của Nho giáo nhƣng cá tính con ngƣời cá nhân trong ông
lại luôn luôn li tâm, luôn tỏ thái độ hoài nghi, luôn vƣợt lên bộc lộ xúc cảm riêng tƣ, luôn
phá cách để tự khẳng định mình. Cũng có thể coi ông là đứa con ngỗ nghịch của chế độ
phong kiến đƣơng thời” [145,484], “Cao Bá Quát đã trở thành một hiện tƣợng lịch sử,
hiện thân cho sự dự cảm yêu cầu một cuộc canh tân và là mầm triệu báo hiệu cho sự ra
đời những tiếng nói canh tân quyết liệt của một thế hệ nối tiếp ngay sau đó” [145,494].
1.1.3.2. Nghiên cứu những điểm mới về nghệ thuật
Vấn đề nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát cũng đƣợc nhiều tác giả quan tâm.
Các tác giả đã chỉ ra đặc điểm cơ bản của phong cách thơ chữ Hán Cao Bá Quát: hào
sảng, lãng mạn, vƣợt ra ngoài quy tắc luật lệ nghiêm ngặt của lối văn thơ trƣờng ốc. Tác
giả Nguyễn Tài Thƣ nhận định: “Thơ ca Cao Bá Quát đã hình thành một phong cách mới
mẻ ít thấy trong lịch sử cũng nhƣ đƣơng thời” [181,331]. Nhà nghiên cứu Nguyễn Lộc
viết: Cao Bá Quát “chịu ảnh hƣởng sâu sắc phong cách Lí Bạch” [77,387]… Ông Ngô
Văn Phú đánh giá: “thơ Cao Bá Quát thoát ra hùng khí”, “thơ Cao là của Cao mà trong
Cao có cả chất Lí Bạch, chất Đỗ Phủ, chất Lí Thƣơng Ẩn, Đỗ Mục của thơ Đƣờng”
14
[113,70]. Nhà thơ, nhà phê bình Xuân Diệu nhận xét: “thơ Chu Thần có cái hơi chất hào
sảng, dịch rồi mà vẫn còn giữ đƣợc”, “Cao có những tứ đột ngột kì thú” [23,658]. Giáo
sƣ Vũ Khiêu khẳng định: “Khi cái văn hứng đã tung bay, ngòi bút dƣới tay Cao Bá Quát
nó muốn đƣợc ngang dọc tuỳ lòng, không chịu tự giam ở trong những khuôn khổ chật
hẹp (…), ngòi bút ấy, chỉ hợp để dùng viết những văn chƣơng tự do, chứ nếu đem vào
trƣờng thi để viết văn cử nghiệp, e rằng ít khi tránh khỏi những điều bất nhƣ ý”
[57,126]…
Với cảm nhận chung nhƣ vậy, nhiều tác giả đã chỉ ra những khía cạnh cụ thể trong
sự đổi mới nghệ thuật thơ chữ Hán của Cao Bá Quát từ thể loại cho đến đặt câu, gieo vần,
sử dụng bút pháp tự sự, kết hợp tự sự với lãng mạn….
Tác giả Thuần Phong khi viết về “Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ” một cách khái
quát có đề cập đến nghệ thuật thơ Cao Bá Quát trên các phƣơng diện: văn pháp, tả cảnh,
tả ngƣời, tả tình. Ông viết: “trong những bài thơ ngũ ngôn và thất ngôn, nhƣ bài “Phó
Nam cung xuất giao môn biệt chư đệ tử, Đạo phùng ngạ phu, Quá Dục Thuý sơn, Hoành
sơn vọng hải ca, ông tự do đặt thanh, gieo vần, hạn số tiếng, định số câu, không chịu tuân
theo niêm luật Đƣờng thi” [112,326 - 327].
Tác giả Nguyễn Lộc nói: “Cao Bá Quát còn là một nhà thơ trữ tình với bút pháp
đặc sắc (…) Thơ Cao Bá Quát cảm xúc dồi dào, đồng thời lại có nhiều chất suy nghĩ (...).
Thông thƣờng nhà thơ ít khi bó hẹp cảm xúc trong giới hạn cụ thể của đối tƣợng phản
ánh hay miêu tả mà có xu hƣớng mở rộng, hoặc nâng cao do sự liên tƣởng từ một hiện
tƣợng này đến một hiện tƣợng khác, từ một hiện tƣợng thiên nhiên đến một hiện tƣợng xã
hội, của con ngƣời hay từ một đối tƣợng cụ thể đến một nhận thức có tính phổ biến, khái
quát.” [77,383 - 384].
Nguyễn Tài Thƣ quan tâm đến sự liên tƣởng của Cao Bá Quát: “Hình thức diễn ra
trong thơ Cao Bá Quát thƣờng là liên tƣởng tƣơng đồng, tức là liên tƣởng mà ở đó các
cảm xúc nối tiếp nhau cùng một tính chất, cảm xúc trƣớc là nguồn, cảm xúc sau là sự
lắng đọng, giữa cảm xúc trƣớc và cảm xúc sau là sự tƣơng hỗ, làm cho tình cảm thêm
thấm đƣợm” [181,348].
Đáng kể nhất là sự phát hiện về bút pháp tự sự khi viết về hiện thực của Cao Bá
Quát. Nguyễn Lộc viết: “Trong các bài miêu tả những cảnh khổ của con ngƣời, hay
những bài viết về quê hƣơng Phú Thị của ông, ngòi bút của Cao Bá Quát lại có tính chất
15
hiện thực. Ở đây, nhà thơ không sử dụng lối hƣ cấu có tính chất phóng đại, không dùng
những ẩn dụ, hoán dụ, mà sử dụng nhiều chi tiết chân thực, gợi cảm. Trong những bài
viết về con ngƣời đau khổ, để đảm bảo tính chất khách quan trong việc thể hiện, Cao Bá
Quát thƣờng cho nhân vật tự nói lên cảnh ngộ của họ” [77,388]. Nguyễn Huệ Chi từ việc
phân tích chủ đề những con ngƣời khốn khổ trong thơ Cao Bá Quát cũng đã khẳng định:
“Thơ ông có những cách tân táo bạo, không còn là loại thơ “kỉ sự” của thế kỉ XVIII mà
đã chuyển sang một giai đoạn mới, kết hợp tự sự với đối thoại cho nên lời thơ hàm súc,
đa nghĩa và mạch thơ hƣớng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng” [14, 457]. Tác
giả Nguyễn Ngọc Quận nhận định: “Điểm độc đáo của Cao Bá Quát là ông thƣờng xuất
hiện trong thơ với tƣ cách là ngƣời trần thuật, và điểm nhìn trần thuật của ông cũng
thƣờng dịch chuyển linh động”, “chất tự sự trong thơ Cao Bá Quát nhƣ một dấu hiệu sự
cách tân trong thơ, tạo điều kiện cho thơ hƣớng đến những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu
rộng, là điều nhận thấy đƣợc”, “chất tự sự nhƣ là một trong những dấu hiệu khá đặc trƣng
trong thơ Cao Bá Quát góp phần làm rõ hơn cá tính sáng tạo của nhà thơ” [130,171]…
Cùng với yếu tố tự sự này, bút pháp cụ thể hoá cũng đã đƣợc tác giả Thuần Phong
phát hiện: “Một ngón văn đặc biệt của Cao Bá Quát là phép cụ thể hoá, làm cho câu văn
linh hoạt phi thƣờng” [112,327], Nguyễn Lộc nhận thấy: “Trong những bài viết về quê
hƣơng, nhà thơ trực tiếp miêu tả, thì ông cũng miêu tả một cách tỉ mỉ, chi tiết [77,390].
Từ tự sự, dùng lối cụ thể, tác giả Vũ Khiêu khái quát: “Thơ Cao Bá Quát dù tả
cảnh hay tả tình đều có những xúc động chân thành, nhiều lúc có những nét rất sinh động
và cụ thể của chủ nghĩa hiện thực” [57,35].
Một phƣơng diện nữa trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát là sự kết hợp tả thực và
lãng mạn. Nhà nghiên cứu Nguyễn Tài Thƣ kết luận: “Cảnh đối với Cao Bá Quát là hiện
thực khách quan với tính chất xác định và thuộc tính thẩm mĩ của nó, là đối tƣợng cảm
xúc của nhà thơ; để tái tạo đƣợc cảnh đó trong thơ, ông đã dùng các bút pháp tả thực,
miêu tả và tự sự; song để nói rõ đƣợc tình cảm của mình với cảnh, ông đã sử dụng các
yếu tố lãng mạn biểu hiện, trữ tình và phát huy trên cơ sở của tả thực, miêu tả và tự sự.
Do đó, thơ ông là sự thống nhất giữa cảnh và tình, giữa thế giới khách quan và nội tâm
của nhà thơ, làm thành một sức quyến rũ đặc biệt” [181,345]. Tác giả Nguyễn Lộc viết:
“Thơ Cao Bá Quát thƣờng có hình ảnh độc đáo, tứ thơ bay bổng, khoáng đạt. Ông hay
nhân cách hoá những hiện tƣợng thiên nhiên, coi thiên nhiên là rộng lớn, là tri âm tri kỉ.
Qua những bài thơ viết về thiên nhiên của ông thƣờng thấy thế đứng của nhà thơ rất cao,
16
và tầm mắt của ông nhìn xa vòi vọi”, “Thơ cao Bá Quát viết về hiện thực khách quan
nhiều khi cũng là viết về con ngƣời cá nhân của mình. Trong một số bài thơ của ông, hiện
thực chỉ là phƣơng tiện để nhà thơ tự thể hiện. Do đó, Cao Bá Quát có tính cách của một
nhà thơ lãng mạn hơn là một nhà thơ hiện thực”, “ảnh hƣởng Lí Bạch”. “Hình tƣợng thơ
của Cao Bá Quát thƣờng có tính chất phóng đại kiểu lãng mạn chủ nghĩa” [77,387].
Theo hƣớng khác với các tác giả trên, từ những câu hỏi tu từ, những bài thơ viết
về cảnh chùa và đề cập đến tƣ tƣởng Phật giáo trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tác giả
Nguyễn Hữu Sơn đã chứng minh thơ Cao Bá Quát nặng chất suy tƣởng... Ở thơ Đƣờng
luật, câu hỏi thƣờng đặt ở câu chẵn (sau câu lẻ) nhằm khơi gợi, nêu vấn đề. “Vậy mà ở
thơ Cao Bá Quát, đa phần các câu hỏi lại đặt ở vị trí câu lẻ, tức là nêu câu hỏi trƣớc rồi
mới đoán định, dẫn giải vấn đề”, “Thơ văn Cao Bá Quát chất nặng suy tƣ, suy tƣởng và
những trăn trở về cuộc sống, về cõi nhân gian, về kiếp con ngƣời” [145,484], “có thể nói
ở hoàn cảnh nào, gặp điều gì Cao Bá Quát cũng đặt ra câu hỏi, trao đổi, luận bàn, đặt lại
vấn đề” [145,491]. Nguyễn Hữu Sơn cũng khẳng định: “có cả một dòng thơ du kí đã xuất
hiện trong thơ Cao Bá Quát. Qua những chuyến đi, những điều tai nghe mắt thấy, ông đã
nâng thơ mình lên những tầm cao những chiêm nghiệm, suy tƣởng, nghiền ngẫm về cuộc
thế chứ không chỉ đơn thuần là những vần thơ xƣớng hoạ, đề vịnh quen thuộc nữa” [145,
503].
Nguyễn Thị Kim Châu viết về “Không gian “Đƣờng đời” và sự thể hiện nhận thức
về con ngƣời phi lí trong thơ Cao Bá Quát”. Tác giả chứng minh, thơ Cao Bá Quát có sự
ám ảnh khắc khoải về sự phi lí và kết luận: “Sự bế tắc của đƣờng thế lộ gian nan, sự vô
vọng của công việc tiến lên rồi lại lùi lại trên con đƣờng cát rõ ràng là cách thể hiện nhận
thức về sự tồn tại đầy phi lí của con ngƣời cá nhân trong cái xã hội triều Nguyễn vốn
cũng đầy rẫy những điều phi lí” [9,175].
Từ những quan niệm và phong cách trên, các nhà nghiên cứu cũng khẳng định, vì
thế mà Cao Bá Quát cũng có sự lựa chọn thể thơ thích hợp. Tác giả Nguyễn Lộc nhận
định: “So với các nhà thơ khác, Cao Bá Quát là ngƣời sử dụng khá nhiều loại thơ cổ thể
trƣờng thiên. Đối với ông, thể tài này tƣơng đối tự do và có dung lƣợng lớn, thích hợp với
những tứ thơ hào mại, sảng khoái. Nhƣng nhà thơ cũng sử dụng nhiều thể thơ Đƣờng
luật. Trong trƣờng hợp này ta thấy nhiều khi một đề tài ông phải làm đến năm ba bài thơ
Đƣờng luật. Đó cũng là một biểu hiện nữa về sự phong phú, dồi dào trong cảm xúc của
nhà thơ” [77,383]…
17
Nói chung, các tác giả đã nhận thấy Cao Bá Quát có những điểm mới táo bạo về
nghệ thuật: có bút pháp kì vĩ khác thƣờng, có chất tự sự, suy tƣởng...
1.2. Cơ sở lí thuyết của đề tài
1.2.1. Lí thuyết liên văn bản
Lí thuyết liên văn bản đƣợc gợi ý từ chủ nghĩa đối thoại của nhà lí luận văn học
Nga M. Bakhtin, và đƣợc phát triển bởi nhiều ngƣời: Kristeva, Bloom, Miller, Genette,
Riffater… Từ khi ra đời, lí thuyết liên văn bản đã làm thay đổi hệ hình nghiên cứu văn
học, làm nảy sinh những cách tiếp cận văn học mới. Trong luận án này, chúng tôi lấy
quan niệm về đối thoại của lí thuyết này làm cơ sở lí thuyết của đề tài.
Về đặc tính đối thoại của văn bản, các nhà tƣ tƣởng của lí thuyết liên văn bản quan
niệm: Từ trong bản chất, lời nói mang tính đối thoại, giao tiếp đối thoại chính là môi
trƣờng đích thực của đời sống ngôn ngữ. Từ những phát ngôn đơn giản của đời sống cho
đến những tác phẩm thông thái của khoa học hoặc nghệ thuật của văn học, không phát
ngôn nào tồn tại một mình, cô lập mà dƣờng nhƣ luôn có mối quan hệ giữa văn cảnh của
mình với văn cảnh ngƣời. Do đó, với tƣ cách là một kiểu lời nói, tác phẩm văn học tất
yếu có quan hệ đối thoại với những tác phẩm khác ra đời trƣớc đó và trong tƣơng lai, nó
lại trở thành đối tƣợng cho những tác phẩm ra đời sau đối thoại. Đây là bản chất đối thoại
của ngôn ngữ và tồn tại xã hội.
Tiếp cận liên văn bản xem sự ra đời của văn bản là một hiện tƣợng quan hệ, một
quá trình kết nối, tƣơng tác, đối thoại của văn bản trong mạng lƣới diễn ngôn xã hội. Văn
bản có những mối quan hệ liên văn bản trong mạng lƣới ở nhiều cấp độ, từ vi mô đến vĩ
mô: từ ngữ, các thủ pháp nghệ thuật, hình tƣợng, điển tích, điển cố, thể loại… Bất kì một
văn bản nào cũng có thể trở thành chất liệu của một văn bản khác ra đời sau nó, bất cứ
một văn bản nào cũng đƣợc giả thiết là sự đối thoại với nhiều văn bản khác nhau. Thừa
nhận tính liên văn bản là thừa nhận rằng tác phẩm văn học nào cũng đƣợc tạo dựng từ
những hệ thống, những truyền thống đã đƣợc thiết lập bởi các tác phẩm văn học trƣớc đó;
mỗi tác phẩm đều có những quan hệ, kết nối, đối thoại và liên thuộc với những tác phẩm
văn học khác. Nói cách khác, quan niệm của lí thuyết liên văn bản là mọi sáng tác đều có
sự lặp lại, lấy lại, mƣợn lại ý tƣởng, ngôn từ, kết cấu, cốt truyện… của các nhà văn có
trƣớc rồi biến đổi đi, cấu tạo lại để làm ra cái mới. Tiếp cận liên văn bản đòi hỏi ngƣời
nghiên cứu đƣa văn bản vào mạng lƣới văn bản xã hội, diễn ngôn ý thức hệ và diễn ngôn
18
tập thể. Có nghĩa là, muốn hiểu tác phẩm cần phải so sánh đối chiếu, phân tích nhiều mối
quan hệ với vô vàn văn bản khác.
Cao Bá Quát đứng trƣớc truyền thống hàng nghìn năm của văn học dân tộc. Ông
vừa tiếp thu các tinh hoa của văn học nƣớc nhà và văn học Trung Quốc vừa bƣớc đầu bứt
phá, “đối thoại” với truyền thống và đƣơng thời, tạo nên những đổi mới. Đặt thơ chữ Hán
Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc, luận án sử dụng phƣơng pháp so sánh
nhằm tìm ra sự đối thoại của Cao Bá Quát với truyền thống và đƣơng thời để từ đó chỉ ra
những đóng góp mới của ông.
1.2.2. Lí thuyết nghiên cứu văn học sử về tác giả.
Nghiên cứu văn học sử là nghiên cứu văn học quá khứ. “Thông qua việc tái hiện
diện mạo cá biệt những hiện tƣợng văn học cụ thể trong quá trình phát triển lịch sử, lịch
sử văn học phải lí giải, làm sáng tỏ bản chất cũng nhƣ quy luật vận động của các hiện
tƣợng ấy, tìm hiểu ý nghĩa của chúng đối với đời sống xã hội, xác định xem chúng có
đóng góp gì mới về tƣ tƣởng nghệ thuật” [38,11]. Nghiên cứu văn học sử có nhiệm vụ
nghiên cứu quy luật sinh thành và phát triển của các hiện tƣợng và quá trình văn học diễn
ra trong những điều kiện xã hội - lịch sử nhất định trên nhiều phƣơng diện: tác phẩm, tác
giả, thể loại, trào lƣu, giai đoạn, tiến trình văn học… Luận án này chủ yếu vận dụng lí
thuyết nghiên cứu văn học sử về tác giả.
Là ngƣời sáng tạo ra các giá trị văn học mới trong sự kết hợp với sự sáng tạo độc
đáo của cá nhân, tác giả văn học là một đơn vị, một điểm nhìn, một bộ phận hợp thành
quá trình văn học, là một gƣơng mặt không thể thay thế tạo nên diện mạo chung của một
thời kỳ hoặc một thời đại văn học. Về tác giả Cao Bá Quát, chúng tôi chủ yếu nghiên cứu
trên những bình diện sau:
1.2.2.1. Nghiên cứu tác giả Cao Bá Quát trong mối tương quan với thời đại, gia
đình, cuộc đời - con người tác giả.
Thời đại bao gồm các yếu tố về hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa tƣ tƣởng. Các
đặc điểm tình hình lịch sử, xã hội nhà Nguyễn đầu thế kỷ XIX trong bối cảnh khu vực
và thế giới cho thấy sự tác động nhiều mặt của hoàn cảnh, môi trƣờng đến tƣ tƣởng, tâm
hồn Cao Bá Quát tạo tiền đề cho sự đổi mới thơ ca của ông. Những phƣơng diện về văn
hoá văn học chứng tỏ những thành tựu mà Cao Bá Quát có đƣợc một phần là nhờ tiếp
nối đƣợc sự vận động của văn hoá, văn học và không khí chấn hƣng văn hoá Bắc Hà
19
thời bấy giờ.
Bên cạnh những yếu tố lịch sử, văn hoá, văn học, chúng tôi cũng tìm hiểu những
nhân tố thuộc về gia đình, con ngƣời Cao Bá Quát ảnh hƣởng đến sang tác của ông.
Những đặc điểm gia đình nho gia, con ngƣời tài năng, cá tính, con ngƣời đƣợc tiếp xúc
với văn minh phƣơng Tây của Cao Bá Quát đƣợc chúng tôi chú ý khai thác cho thấy ở
Cao Bá Quát có sự thống nhất giữa một con ngƣời khát khao đổi mới, “chân trời mới”
và một nhà thơ có phong cách sáng tạo.
Phƣơng diện này chúng tôi trình bày trong chƣơng 2 của luận án.
1.2.2.2. Nghiên cứu tác giả trong tiến trình văn học
Chúng tôi đặt tác giả trong mối tƣơng quan với các giai đoạn văn học trƣớc, cùng
thời và sau tác giả để thấy đƣợc những kế thừa, phát huy và những đóng góp của tác giả.
Với các giai đoạn văn học trƣớc, chúng tôi chủ yếu so sánh nội dung và nghệ
thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát với các tác giả tiêu biểu trƣớc Cao Bá Quát (đặc biệt là
Nguyễn Trãi, Nguyễn Du) để thấy sự kế thừa và đổi mới của Cao Bá Quát so với thi ca
thời trƣớc ông.
Bên cạnh đó, chúng tôi kết hợp so sánh thơ chữ Hán Cao Bá Quát các tác giả
cùng thời với ông (nửa đầu thế kỉ XIX, trọng tâm là các tác giả Nguyễn Văn Siêu, Phan
Thúc Trực, Nguyễn Miên Thẩm) để tìm ra sự khác biệt, mới mẻ của Cao Bá Quát so với
các tác giả đƣơng thời.
Chúng tôi cũng đặt thơ chữ Hán Cao Bá Quát trong mối tƣơng quan với đặc điểm
thi pháp của văn học trung đại và văn học hiện đại Việt Nam để thấy đƣợc những đóng
góp của tác giả đối với văn học dân tộc, nhất là ở việc bƣớc đầu đặt nền móng cho sự
hiện đại hoá văn học dân tộc.
Khi so sánh, chúng tôi quan niệm về mức độ của điểm mới trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát nhƣ sau:
- Điểm mới là những đặc điểm riêng (ít có ở tác giả khác).
- Điểm mới có tác dụng làm thay đổi sắc thái văn học (mới so với truyền thống -
cũ chƣa có, mới trong đặc điểm chung của đƣơng thời và so với đƣơng thời - các tác giả
cũng đề cập đến, nhƣng Cao Bá Quát riêng ở khía cạnh nào).
- Về mức độ: không phải là toàn bộ hệ thống mà chỉ là những yếu tố trong hệ
20
thống. Điểm mới không phải là tầm vĩ mô (lí tƣởng xã hội, triết lí nhân sinh) mà là ở
những yếu tố trong hệ thống: quan niệm khoa cử, quan niệm con ngƣời - đặc biệt là con
ngƣời phụ nữ, sự nhạy cảm trƣớc những vấn đề của đời sống…. Điểm mới còn đƣợc
hiểu hẹp hơn: sự mở rộng, phát triển những yếu tố có trƣớc.
1.2.2.3. Nghiên cứu tác giả trong loại hình tác giả nhà nho
Nghiên cứu tác giả trong loại hình tác giả nhà nho để thấy đƣợc điểm chung và
độc đáo ở Cao Bá Quát.
Trong nghiên cứu văn học, bên cạnh sự nghiên cứu riêng về từng tác giả văn học,
phạm trù loại hình tác giả cũng đƣợc nhấn mạnh với tƣ cách là loại hình chủ thể thẩm
mĩ, đƣợc hình thành nhƣ những sản phẩm xã hội, lịch sử, văn hoá cụ thể. Những loại
hình tác giả văn học thƣờng có dấu hiệu chung về cách nhìn và cách lựa chọn thái độ
sống, tƣ thế ứng xử, quan điểm thẩm mĩ, xu hƣớng nghệ thuật… Trong thời trung đại,
nhà nho là tầng lớp trí thức chủ yếu trong xã hội. Tuy nhiên, theo quá trình lịch sử, đội
ngũ nhà nho có sự vận động, phân hoá, hình thành nên những loại hình nhà nho - cũng
là những loại hình tác giả văn học, mang những đặc trƣng loại biệt đối với nhau. Chúng
tôi đặt Cao Bá Quát trong loại hình tác giả nhà nho để thấy điểm mới. Cụ thể:
- Trong hệ thống các nhà nho hành đạo nhƣng bất đắc chí, các nhà nho trƣớc Cao
Bá Quát lui về ẩn cƣ, còn Cao Bá Quát có hành động để thay đổi triều đại. Ông “nổi
loạn” trong sự nghiệp và trong thi ca.
- Trong hệ thống các nhà nho có những biểu hiện li tâm với Nho giáo đặc biệt là
Nho giáo thời Nguyễn. Các nhà nho thời trƣớc bất mãn với các vị vua cụ thể nhƣng
không li tâm với quan điểm Nho giáo. Đến Cao Bá Quát đã có những biểu hiện li tâm
với tƣ tƣởng Nho giáo. So với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, ông rất ít ca tụng
thánh đế, minh vƣơng.
- Cao Bá Quát thuộc lớp các nhà nho có tƣ tƣởng tiến bộ. Ông thuộc số ít nhà nho
dự báo sự xuất hiện của một lớp sĩ phu thức thời có tƣ tƣởng canh tân của giai đoạn sau
(Nguyễn Trƣờng Tộ, Phan Thanh Giản, Phạm Phú Thứ, Trƣơng Vĩnh Ký...). Cao Bá
Quát cũng là tác giả có tính dự báo cho sự phá cách của cả một thế hệ, đƣa đến phong
trào tiếp nhận các thể thơ tự do của phƣơng Tây sau này.
21
Từ đƣờng hƣớng trên, mục đích đạt tới của đề tài là:
- Tìm những đặc điểm mang tính chất đổi mới trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát
(cả nội dung và nghệ thuật).
- Lí giải nguyên nhân dẫn đến những nét mới lạ của thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
- Rút ra những vấn đề lí luận về nghiên cứu văn học trung đại.
Nói chung, trên cơ sở các thành tựu sƣu tầm, khảo cứu, dịch thuật thơ chữ Hán
Cao Bá Quát; trân trọng, kế thừa các kết quả nghiên cứu trƣớc và những băn khoăn khoa
học đã mở đƣờng, gợi ý, chúng tôi tiếp tục suy nghĩ để bổ sung những điểm mới về nội
dung và nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
22
Chương 2
NHỮNG TIỀN ĐỀ TẠO NÊN ĐIỂM MỚI TRONG
THƠ CHỮ HÁN CAO BÁ QUÁT
2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội triều Nguyễn đầu thế kỷ XIX
Sinh năm 1808, mất năm 1855, cuộc đời Cao Bá Quát trải qua các triều vua: Gia
Long (1802-1820), Minh Mệnh (1820-1840), Thiệu Trị (1841-1847) và thời kỳ đầu của
triều vua Tự Đức (1848-1883). Đây là giai đoạn đầu, độc lập tự chủ của triều Nguyễn,
đồng thời là giai đoạn bắt đầu có sự xâm lƣợc của phƣơng Tây. Đặc điểm lịch sử xã hội
đầu thế kỷ XIX ảnh hƣởng lớn đến Cao Bá Quát, tạo tiền đề cho sự xuất hiện những điểm
mới trong thơ ca chữ Hán của ông.
2.1.1. Những yếu tố truyền thống đã tỏ ra lỗi thời
Ra đời vào năm 1802, triều Nguyễn đã có công thống nhất đất nƣớc cả về lãnh thổ
lẫn chính quyền. Trong khoảng 50 năm đầu thế kỉ XIX, triều Nguyễn đã nỗ lực và đạt
không ít thành tựu trong củng cố và xây dựng nhà nƣớc phong kiến trung ƣơng tập
quyền. Tuy nhiên, hệ tƣ tƣởng và chính sách cai trị của triều Nguyễn đã bộc lộ nhiều yếu
tố lỗi thời so với thời cuộc.
Thứ nhất là việc triều Nguyễn dùng Nho giáo làm quốc giáo. Xem mình là “trung
quốc ở phía Nam: ở trung tâm thế giới phía Nam, xung quanh có các nƣớc chƣ hầu và
bình đẳng với ngƣời láng giềng phƣơng Bắc”, các vua Nguyễn nỗ lực để chuyển tải mô
hình chính trị chuyên chế đại tập trung, đại thống nhất của các đế chế Trung Hoa xƣa vào
Việt Nam. Học giả Yoshiharu Tsuboi đã viết: “Trong lúc nhà Thanh đang trị vì ở Trung
Hoa sau khi lật đổ nhà Minh năm 1644, thì nhà Nguyễn vẫn thích tự coi mình nhƣ nhà
Minh. Điều này cho phép họ tỏ vẻ là những ngƣời thừa kế chính thống của nền văn minh
Trung Hoa, thấm nhuần truyền thống và đạo lí Nho giáo” [191,224]. Song, dù có rất
nhiều biện pháp nhằm chấn hƣng, triều Nguyễn vẫn không làm Nho giáo có đƣợc vị thế
nhƣ nó từng có ở thế kỉ XV. Hơn nữa, “không phải Minh Mạng cố thủ xây dựng một
quốc gia mới, đặc biệt mọi hình thức mới để hội nhập tầng lớp văn thân trong lòng dân
tộc, mà nhà vua chỉ muốn tái tạo lại bằng cung cách nệ cổ, kể cả tranh đua về mặt văn
hoá với triều Mãn Thanh, tái tạo lại những định chế không còn thích hợp và liên hệ gì với
thực tế xã hội của đất nƣớc” [191,60]. Với việc làm này, nhà Nguyễn đã đƣa chế độ
23
chuyên chế trở lại, thắt nghẹt bầu không khí ít nhiều dân chủ của chế độ lưỡng đầu chế
có vua Lê chúa Trịnh thời trƣớc. Đối chiếu với phạm vi toàn cầu, bấy giờ các nƣớc
phƣơng Tây đã chuyển sang chủ nghĩa tƣ bản đƣợc khá lâu, việc tiếp tục dùng hệ tƣ tƣ
tƣởng Nho giáo rõ ràng là lạc hậu so với thế giới. Nó “cản trở trào lƣu duy tân đổi mới
khiến cho thế nƣớc ngày càng suy vi, tinh thần bạc nhƣợc đối lập với các trào lƣu tiến
hoá” [8,15].
Thứ hai là về giáo dục, nhƣ nhiều triều đại trƣớc trong lịch sử, các vua Nguyễn từ
Gia Long, Minh Mệnh đến Thiệu Trị, Tự Đức đều coi trọng và đánh giá cao vai trò, vị trí
của giáo dục, tất nhiên là giáo dục theo Nho học. Đáng tiếc, hạn chế của lối Nho học đã
lập tức thể hiện và để lại hậu quả nghiêm trọng. Chính vua Minh Mạng đã nói: “Lâu nay
cái học khoa cử làm cho ngƣời ta sai lầm. Trẫm nghĩ văn chƣơng vốn không có quy củ
nhất định, mà nay những văn cử - nghiệp chỉ câu nệ cái hƣ sáo khoe khoang lẫn với nhau,
biệt lập mỗi nhà một lối, nhân phẩm cao hay thấp do tự đó. Khoa tràng lấy hay bỏ cũng
do tự đó. Học nhƣ thế thì trách nào mà nhân tài chẳng mỗi ngày một kém đi. Song tập tục
đã quen rồi, khó đổi ngay đƣợc, về sau nên dần dần đổi lại" [63,462]. Lối giáo dục này
làm ảnh hƣởng rõ rệt đến bộ máy quan lại thời Nguyễn. Các học giả cho rằng thời vua
Gia Long (1802-1820) đến Minh Mạng (1820 - 1840), nhà Nguyễn đã thực hiện công
cuộc cải cách hành chính theo xu hƣớng đơn giản, hợp lý, hiệu quả, chú trọng xây dựng
đội ngũ quan lại có năng lực, đáp ứng yêu cầu của đất nƣớc. Song đến thời vua Tự Đức,
bộ máy quan lại bộc lộ rõ sự cồng kềnh, kém hiệu quả. Theo Nguyễn Trƣờng Tộ, quan
chế thời Tự Đức là một hệ thống quan liêu nặng nề đến mức “10 con dê chín ngƣời
chăn”, “1 con ngựa 9 ngƣời giữ”. “Quan viên phần lớn là bất tài, quan võ nhƣ đề đốc,
lãnh binh có ngƣời không đọc đƣợc binh thƣ, chỉ viết hai chữ “tuân phụng”. Làm dân
chúng lầm than, bộ máy này còn khiến nhà Nguyễn “không bắt kịp xu thế của thời đại,
không đƣa ra đƣợc những đối sách phù hợp để tự cứu mình, cứu dân tộc trong bối cảnh
chủ nghĩa tƣ bản châu Âu đang ráo riết bành trƣớng sang phƣơng Đông” [8,15].
Thứ ba là về kinh tế, do ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Nho giáo và truyền thống, triều
Nguyễn thực hiện chính sách “trọng nông ức thƣơng” làm triệt tiêu nội lực, ngăn cản sự
phát triển. Nhiều học giả khẳng định, kinh tế triều Nguyễn là một bƣớc tụt hậu so với
triều đại trƣớc. Nhà Nguyễn đã làm “ngăn chặn và thui chột những yếu tố tiến bộ của nền
sản xuất hàng hoá, đã manh nha xuất hiện từ thế kỷ XVIII” [8,15].
24
Thứ tƣ là về xã hội. Chính sách cai trị nói trên khiến khởi nghĩa nông dân nổ ra
khắp nơi. Nếu nhƣ ở các triều đại trƣớc, phong trào đấu tranh của nông dân chủ yếu xảy
ra ở cuối một vƣơng triều khi vƣơng triều đã suy yếu, khủng hoảng, thì phong trào nông
dân ở triều Nguyễn lại bùng nổ ngay từ khi triều đình Nguyễn mới ra đời. Năm mƣơi
năm đầu thế kỉ XIX có tới 400 cuộc đấu tranh của nông dân. Các cuộc khởi nghĩa nổ ra
liên tục, đồng loạt ở nhiều nơi đã nói lên một hiện tƣợng không bình thƣờng trong quan
hệ giữa nhân dân và nhà nƣớc phong kiến. Nó chứng tỏ, nhà Nguyễn chƣa kết hợp đƣợc
quyền lợi của giai cấp với quyền lợi dân tộc, chƣa đáp ứng đƣợc quyền lợi của nhân dân,
chủ yếu là nông dân.
Nói chung, đặt trong xu thế các nƣớc châu Âu đã chuyển sang chế độ tƣ bản chủ
nghĩa từ thế kỉ XVII - XVIII với nền văn minh công nghiệp, các nƣớc châu Á cùng thời
nhƣ Nhật Bản, Thái Lan cũng đã bƣớc đầu đổi mới, sự hạn chế của nhà nƣớc phong kiến
Việt Nam với nền sản xuất nông nghiệp càng thể hiện rõ rệt.Những yếu tố truyền thống
đã tỏ ra lạc hậu khiến cho Cao Bá Quát chịu áp lực lớn hơn các tác giả thời trƣớc.
2.1.2. Tầng lớp thị dân và tư tưởng phi Nho giáo
Ở Việt Nam, nền kinh tế hàng hoá xuất hiện từ thế kỉ XVI - XVII. Trƣớc kia, vua
chúa chủ yếu chỉ giao dịch ngoại thƣơng với nƣớc ngoài qua một cửa khẩu xa xôi là Vân
Đồn, nhà vua mua toàn bộ sản phẩm nƣớc ngoài, đổi bằng sản phẩm trong nƣớc. Thời
chúa Trịnh, do thiếu tiền, chúa đã phải để cho ngoại thƣơng vào tận phố Hiến, tức là
trong nội địa. Biện pháp này đã làm cho kinh tế thƣơng nghiệp phát triển và thực tế đã
làm nảy sinh một tầng lớp thị dân ở đô thị. Kẻ Chợ đã trở nên một thành phố sầm uất, với
ba mƣơi sáu phố phƣờng, và thủ công nghiệp bắt đầu phát triển. Giữa các tỉnh bắt đầu có
quan hệ nội thƣơng.
Chúa Nguyễn cần tiền để xây đắp thành luỹ cũng phải mở rộng ngoại thƣơng. Quy
Nhơn, Hội An ra đời. Còn Sài Gòn, thì vào thế kỉ XVIII đã là một trung tâm xuất cảng
gạo. Việc phát triển thƣơng mại giai đoạn này đã tạo điều kiện cho sự ra đời một tầng lớp
buôn bán. Họ giàu có không phải nhờ làm quan mà nhờ lợi nhuận thƣơng trƣờng. Để
ngăn chặn nguy cơ không có lợi cho triều đình phong kiến, chúa Nguyễn cũng nhƣ chúa
Trịnh đều đặt thƣơng nghiệp dƣới sự quản lí của chính quyền quan liêu. “Thế là ở Việt
Nam hình thành thêm một tầng lớp thƣơng nhân độc đáo của chính quyền vua chúa
phƣơng Đông, tầng lớp thị dân nảy sinh từ nách của quan lại phong kiến (…) giàu có nhờ
thế lực phong kiến chứ không phải nhờ tài kinh doanh” [93,58-59].
25
Cả hai đối tƣợng giàu có này đều có “tật” của thị dân: thích tiền, thích hƣởng thụ,
ghét nghèo khổ, nghĩ đến cá nhân. Thêm nữa, dù chƣa phát triển hoàn chỉnh để trở thành
một giai cấp mới tác động đến sự phát triển kinh tế chính trị, văn hoá, xã hội nhƣng tầng
lớp này, do sinh hoạt kinh tế của họ, đã ly khai phần nào với quan hệ sản xuất phong
kiến. Họ quan hệ phƣờng hội mang tính chất bình đẳng (quan hệ ngang) thay vì quan hệ
đẳng cấp trên dƣới (quan hệ dọc). “Cuộc sống của họ là đi đây đi đó, giao tiếp rộng rãi,
kể cả giao tiếp với ngƣời nƣớc ngoài, dù còn ít ỏi, là cuộc sống tƣơng đối tự do hơn cuộc
sống của ngƣời nông dân bị trói buộc vào mảnh ruộng lĩnh canh hay cuộc sống của nho sĩ
rập khuôn theo trăm nghìn thể chế, giáo điều cứng nhắc” [71,12]. Do đó, “Tƣ tƣởng thị
dân đòi hƣởng lạc, đòi hỏi hạnh phúc, chống lại thói an bần lạc đạo xuất hiện, và trở
thành xu thế chính (…). Con ngƣời tài tử là điển hình mới của thời đại. Còn ngƣời quân
tử bị chế giễu, đạo đức khắc kỉ bị mạt sát. Một trào lƣu tƣ tƣởng mới manh nha trong
lòng những chàng trai tài giỏi nhất của thời đại” [93,60], “mọi ngƣời đều ý thức về cái tài
của mình, đều khoe tài và đều đòi hỏi phải đãi ngộ xứng đáng với cái tài của họ” [93,62].
Buôn bán dƣới thời Nguyễn hạn chế, “nhƣng tƣ tƣởng thị dân không thể vì thế mà
mất đi. Những con ngƣời của thời đại vẫn đi theo hệ tƣ tƣởng cũ mà họ cho là thích hợp
với nhu cầu của chính họ” [93, 78].
Tầng lớp thƣơng nhân đã làm xuất hiện và phát triển không gian văn hoá “thị -
chợ”. Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã nói rất chính xác rằng: “Đó là một không gian
văn hoá khác biệt so với văn hoá cung đình, hàm chứa những vấn đề của đời sống thị
dân, văn hoá thị dân, mang cái nhìn cuộc sống và con ngƣời từ điểm nhìn thị dân”
[176,28]. Không gian ấy có đông đảo các nhân vật hoạt động trong lĩnh vực giải trí nhƣ
ca nhi, kĩ nữ, ả đào... Họ phục vụ cả tầng lớp thƣơng nhân lắm tiền nhiều của lẫn lớp
quan lại, nho sĩ… cùng có nhu cầu hƣởng lạc. Các tiểu thuyết tài tử - giai nhân, “dâm từ,
diễm khúc”, các sách “nôm na mách qué”… đƣợc truyền tay, in ấn…
Hoạt động của không gian văn hoá thành thị tất yếu ảnh hƣởng mạnh mẽ đến sự
vận động, thay đổi cho nền văn học vốn đƣợm màu quan phƣơng, chính thống. Thơ chữ
Hán Cao Bá Quát, đƣơng nhiên, không nằm ngoài từ trƣờng của ảnh hƣởng này.
2.1.3. Ảnh hưởng bước đầu của tư tưởng, văn hoá phương Tây.
Vào nửa đầu thế kỉ XIX, châu Á chịu sự tấn công dữ dội của các nƣớc Âu - Mĩ.
Mĩ, Anh, Pháp, Nga, Đức đua nhau ép Nhật kí các hiệp ƣớc bất bình đẳng khiến Nhật
26
Bản rơi vào khủng hoảng và buộc phải đứng trƣớc sự lựa chọn: hoặc duy trì chế độ
phong kiến trì trệ, bảo thủ để bị các nƣớc đế quốc xâu xé hoặc phải tiến hành duy tân,
đƣa Nhật Bản phát triển theo con đƣờng của chủ nghĩa phƣơng Tây. Ấn Độ đã bị Anh
xâm lƣợc. Trung Quốc rơi vào cuộc chiến tranh thuốc phiện rồi buộc phải kí hiệp ƣớc
Nam Kinh với thực dân Anh, trở thành nƣớc nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Các nƣớc
Đông Nam Á cũng hoặc bị xâm lƣợc hoặc bị nhòm ngó (cuối thế kỉ XIX thì đều trở thành
thuộc địa, trừ nƣớc Xiêm - Thái Lan). Bối cảnh châu lục này tác động nhiều mặt tới Việt
Nam. Mặc dù nhà Nguyễn thực hiện nhiều rào cản, song những luồng gió từ phƣơng Tây
vẫn xâm nhập vào Việt Nam dƣới nhiều hình thức.
Trƣớc hết là bằng những con đường “chính danh” được mở ra từ chính triều đình
phong kiến. Do muốn dựa vào thế lực của Pháp để chống Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cho
con trƣởng là Cảnh sang Pháp làm tin (sau này hoàng tử về nƣớc, nhà vua đã ngạc nhiên
vì hoàng tử không đến nhà thờ tổ dự lễ tế tổ tiên). Ngay sau khi đánh bại Tây Sơn để lên
cầm quyền, Gia Long đã “trả ơn” cho một số ngƣời Pháp. Ông giữ lại một số ngƣời làm
quan trong triều, phong cho các chức quan cao cấp, biệt đãi hậu hĩnh. Việc ngƣời phƣơng
Tây ở Việt Nam đã có từ trƣớc, nhƣng đây là lần đầu tiên có ngƣời đƣợc làm quan trong
triều. Thêm nữa, triều Nguyễn còn cho phép Pháp thiết lập toà lãnh sự quán ở Huế vào
năm 1805 cùng với việc thành lập nhà công quán để khoản tiếp các thƣơng gia phƣơng
Tây. Bằng những việc trên, chính vị vua đầu của nhà Nguyễn đã “rƣớc” con ngƣời và văn
hoá phƣơng Tây đến hiện diện trên đất Việt Nam.
Giai đoạn đầu của vƣơng triều, nhà Nguyễn cũng thực hiện chính sách mở cửa,
tạo điều kiện cho việc giao thƣơng buôn bán với phƣơng Tây. Trong thực tế, triều
Nguyễn đã mở các cánh cửa giao lƣu, cho thuyền buôn Trung Quốc và các nƣớc trong
khu vực thông thƣơng, mở cửa khẩu Đà Nẵng cho thuyền phƣơng Tây đến buôn bán.
Triều Nguyễn cũng là thời kỳ khởi phát của những chuyến tàu viễn dƣơng, thông thƣơng,
quan hệ quốc tế với nhiều nƣớc trong khu vực và châu Âu. “Trong khoảng 1835-1840 đã
có 21 chuyến đi” [58,546]. Năm 1844, Cao Bá Quát cũng đƣợc phái đi Hạ Châu “dƣơng
trình hiệu lực”. “Ngoài nhiệm vụ diễn tập và mua bán, phái bộ đi Hạ Châu năm 1844 còn
có mục đích mua chiếc tàu chạy bằng hơi nƣớc cỡ lớn” [144,189]. Từ thời Thiệu Trị, do
xung đột với phƣơng Tây bởi nguyên nhân tôn giáo, quan hệ buôn bán với các nƣớc này
bị tổn hại. Năm 1850, Tự Đức không phái thuyền đi buôn ở Hạ Châu nữa.
27
Nói chung, hƣớng đi của phƣơng châm phát triển kinh tế đối với nhà Nguyễn vẫn
là nông nghiệp truyền thống, song việc buôn bán với phƣơng Tây thời kỳ này có ý nghĩa
lớn. Nó làm cho hàng hoá của phƣơng Tây xâm nhập vào thị trƣờng Việt Nam: len, thuỷ
tinh, súng, tàu… Nó khiến cho Việt Nam có thêm một số thị dân mới: buôn bán với Tây.
Nó còn mang theo cả các yếu tố văn hoá văn minh khác.
Đặc biệt là với Cao Bá Quát, chuyến đi “dƣơng trình hiệu lực” đã mở ra một tầm
nhìn mới, tầm nhìn thế giới của ông và một số ngƣời ngay từ nửa đầu thế kỉ XIX.
Triều Nguyễn cũng là triều đầu tiên trong lịch sử có những chính sách nhằm tiếp
cận với khoa học, kỹ thuật phƣơng Tây thông qua việc mở các lớp học ngoại ngữ và cử
ngƣời sang phƣơng Tây du học. Việc cử ngƣời học tiếng nƣớc ngoài đƣợc bắt đầu từ thời
Minh Mệnh. Năm 1835, nhà vua có chỉ dụ cho các bộ - viện và quan lại chọn học trò từ
16 tuổi trở lên đƣa về kinh để học văn tự ngoại quốc tại Quán tứ dịch. Các ngôn ngữ
đƣợc học ở đây gồm tiếng Pháp, tiếng Xiêm, tiếng Lào. Học trò đƣợc cấp học bổng và có
tuyển định lệ khảo xét [21, 282].
Về khoa học kỹ thuật, từ các cuộc nội chiến ở Đại Việt trƣớc đó, kỹ thuật công
nghệ của phƣơng Tây đã đƣợc các vua chúa đem vào Việt Nam rất nhiều, đặc biệt trong
lĩnh vực quân sự. Thời nhà Nguyễn vẫn kế thừa những thứ đã du nhập ấy, nhiều công
trình đƣợc xây dựng theo kiểu kiến trúc Vauban của phƣơng Tây nhƣ thành Bát Quái,
kinh thành Huế, thành Hà Nội. Thời vua Gia Long đã từng cho đóng một loại thuyền lớn
bọc đồng để tuần tra biển. Sang đến thời vua Minh Mạng, nhiều máy móc mang tính mới
mẻ đã đƣợc chế tạo gồm: máy cƣa chạy bằng sức trâu và sức nƣớc, máy xẻ gỗ chạy bằng
sức trâu. Thời vua Tự Đức, nhiều sách kỹ thuật phƣơng Tây đƣợc dịch sang tiếng Hán
nhƣ Bác Vật tân biên, Khai Môi yếu pháp, Hàng hải Kim châm.
Tuy những tiến bộ này vẫn chƣa kịp tác động vào quá trình phát triển của xã hội
Việt Nam song văn hoá, xã hội phƣơng Tây vẫn là những mảnh đất mới lan toả vào đời
sống tƣ tƣởng, tinh thần thời đại.
Một số yếu tố văn hoá khác vừa đi theo con đƣờng “chính danh” vừa tìm cách tự
đi vào Việt Nam bằng nhiều hình thức.
Thứ nhất là đạo Thiên chúa. Đến Việt Nam từ thế kỉ XVI (1533), nhƣng do khá xa
lạ với truyền thống tôn giáo, tín ngƣỡng của dân tộc nên nó xâm nhập vào nƣớc ta rất
chậm. Vả lại, do Thiên chúa giáo bị coi nhƣ sự dự báo về việc xâm lƣợc của phƣơng Tây
28
nên các triều đại trƣớc nhà Nguyễn cũng đã từng cấm đoán. Đến nhà Nguyễn, thời Gia
Long, nhƣ đã nói ở trên, có cho các giáo sĩ tự do truyền đạo. Song, từ thời Minh Mệnh trở
đi, việc truyền đạo Kitô bị cấm. Tuy thế, các hoạt động tuyên truyền của phƣơng Tây về
đạo này ở Việt Nam vẫn diễn ra ở khắp mọi nơi. Giáo dân mỗi ngày một tăng. Ảnh
hƣởng lớn nhất của các giáo sĩ đến văn hoá Việt Nam thời kì này là sự truyền bá và sử
dụng chữ quốc ngữ. Các thừa sai dạy cho trẻ em giáo lí bằng chữ quốc ngữ. “Chữ quốc
ngữ có hai điều lợi: một là nó tách tâm trí ngƣời ta ra khỏi nền triết học Nho giáo, hai là
lối phiên âm này dễ đọc hơn chữ Nho. Do đó, trong các nhà trƣờng Công giáo, ngƣời ta
dạy chữ Pháp, chữ Latin và chữ quốc ngữ, đồng thời cũng dạy một ít chữ Nho cần thiết”,
“Thật lợi ích để đƣa vào chƣơng trình học là sự tập đọc, tập viết tiếng Nam bằng mẫu tự
Latin, nên coi đó là đối tƣợng của nền học vấn. Đó là phƣơng thức tốt nhất để dần xoá bỏ
chữ Hán và chữ Nôm mà có lẽ việc sử dụng đã là trở ngại lớn cho sự tiến bộ về trí tuệ của
xứ sở này.” [191,87]. Bên cạnh chữ quốc ngữ, các giáo sĩ còn mang tới Việt Nam những
cách thức chữa bệnh bằng Tây y, những tƣ tƣởng về nữ quyền… Đó là những mặt tích
cực của Thiên chúa giáo tại Việt Nam thời kì này.
Thứ hai là các hoạt động ngoại giao chính trị và thƣơng mại. Triều đình thực hiện
chính sách “đóng cửa”, khƣớc từ nhiều quan hệ với phƣơng Tây. Năm 1803, Anh Quốc
sai sứ là Robert sang xin cho mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua
Gia Long không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau ngƣời Anh còn đƣa thƣ
sang hai ba lần nữa, nhƣng vẫn bị từ chối. Năm 1817, khi chiến hạm Cybèle cập bến Đà
Nẵng và liên lạc với những đại diện Pháp ở Huế (Jean Baptiste Chaigneau, Philipe
Vannier) và nhờ họ vận động để đƣợc tiếp kiến vua Gia Long nhƣng Gia Long lấy cớ
phái viên nƣớc Pháp không có quốc thƣ nên không cho gặp. Năm1819, Jean Baptiste
Chaigneau xin phép về nƣớc nghỉ ba năm và đến năm 1821, trở lại Việt Nam với tƣ cách
là quan chức lãnh sự của nƣớc Pháp trình quốc thƣ yêu cầu thông thƣơng với Việt Nam,
nhà vua đã từ chối. Minh Mệnh từ chối không ký hiệp định thƣơng mại với Pháp và từ
chối bức thƣ, không tiếp nhận bức thƣ của vua Louis XVIII gửi năm 1825 về vấn đề này.
Năm 1826, Minh Mệnh từ chối không tiếp lãnh sự Pháp và xoá bỏ quan hệ chính thức với
Pháp.
Trong thời gian Minh Mệnh trị vì, phía Pháp đã ba lần cố gắng lập lại quan hệ
thƣơng mại với Việt Nam thông qua các đại diện của mình (Bougainville năm 1825, De
Kergariou năm 1827 và đô đốc Laplace năm 1831) song đều không thành. Năm 1830,
nhà vua còn đóng cửa lãnh sự Pháp. Quan hệ với Pháp căng thẳng, dẫu rằng năm 1840,
29
Minh Mệnh tìm cách cải thiện mối quan hệ bằng cách cử phái bộ 4 ngƣời qua Pháp bao
gồm tƣ vụ Trần Viết Xƣơng, thƣ lại Tôn Thất Thuyết và 2 viên thông ngôn đến Pari để
điều đình và bàn việc ký hiệp ƣớc thƣơng mại, song sự việc không thành. Vua Thiệu Trị
tiếp tục đƣờng lối trên.
Cũng theo đƣờng lối của hai triều Minh Mạng và Thiệu Trị, vua Tự Đức khƣớc từ
mọi việc giao thiệp với các nƣớc ngoài, dầu việc giao thiệp chỉ nhằm phục vụ thƣơng
mại. Năm 1850 có tàu của nƣớc Mỹ vào cửa Hàn, có quốc thƣ xin thông thƣơng nhƣng
không đƣợc tiếp nhận….
Tuy tất cả những đề nghị mở cửa thông thƣơng, giao lƣu với nƣớc ngoài theo con
đƣờng chính thống đều bị bác bỏ, nhƣng những sự kiện trên hẳn đã trở thành những sự
kiện chính trị, chứng tỏ sự hiện diện của phƣơng Tây và thu hút sự chú ý của không ít kẻ
sĩ, trong đó có Cao Bá Quát.
Sự kiện lớn nhất đánh dấu sự hiện diện của phƣơng Tây trong thời Cao Bá Quát là
cuộc hải chiến giữa thuỷ quân Việt Nam với chiến hạm Pháp ngoài khơi Đà Nẵng tháng 4
năm 1847. Chỉ sau hơn một tiếng đồng hồ, hơn 10.000 thuỷ binh - hầu nhƣ toàn bộ lực
lƣợng thuỷ quân nòng cốt của triều đình đã hi sinh. Sự kiện này chính thức đặt Việt Nam
trong hiểm hoạ xâm lƣợc của Pháp.
Có thể nói, ngay từ đầu thế kỉ XIX, những cơ hội mới trong tiếp xúc với văn hoá
phương Tây được mở ra. Nó đi ngƣợc với truyền thống vốn chỉ lấy Trung Hoa làm chuẩn
mực. Sự bắt rễ của văn hoá phƣơng Tây cộng với các yếu tố tự phá vỡ trong lòng xã hội
phong kiến đã bƣớc đầu tạo nên đặc điểm “giao thời” giữa xã hội phong kiến và xã hội
hiện đại ở Việt Nam. Và “trong những thời kì nóng bỏng của lịch sử, thực tế của cuộc
sống tràn qua khuôn khổ mà vào nội dung văn học và nội dung mới đòi hỏi nghệ thuật
mới” [50,41]. Thực tế lịch sử này đã góp phần tạo nên những điểm mới cho thơ ca Cao
Bá Quát.
2.2. Tiền đề văn hoá, văn học
2.2.1. Tiền đề văn hoá
2.2.1.1. Văn hoá dân gian và trào lưu tư tưởng nhân văn chủ nghĩa
Văn hoá dân gian giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX tiếp tục có ƣu thế nổi trội và phần
nhiều kế thừa, phát triển những nội dung mang tƣ tƣởng nhân văn đi ngƣợc lại với tinh
thần của lễ giáo phong kiến.
30
Kế thừa việc sử dụng các motip dân gian trên các bức phù điêu, chạm nổi trên các
đình chùa ở thế kỉ XVII nhƣ cảnh chọi gà, đánh vật ở đình Hoàng Xá, cảnh đi cày, đá cầu
ở đình Thổ Tang (Vĩnh Phúc), bức chạm khắc Trai gái đùa vui (ở đình Liên Hiệp - Hà
Tây thế kỉ XVIII; Rồng thú giao phối (chùa Diềm, Ninh Bình- thế kỉ XVIII)…, các công
trình kiến trúc và điêu khắc từ sau thế kỉ XVIII cũng toát lên một cảm quan thế tục hơn là
cảm quan đạo đức hoặc tôn giáo, một nghệ thuật trung thành với hiện thực, đẩy lùi dần
các công thức ƣớc lệ. Các tƣợng Phật bà nghìn mắt nghìn tay ở chùa Bút Tháp và Quan
Thế Âm ở chùa Dạm (Bắc Ninh) và nhất là các bức tƣợng La Hầu La, Tuyết Sơn ở chùa
Tây Phƣơng (Hà Nội) v.v… đều nói lên điều đó. “Nhìn vào các bức tƣợng này ở chùa
Tây Phƣơng, ngƣời ta ít liên tƣởng đến cha con Phật Thích Ca đang tu hành đắc đạo bên
Ấn Độ cổ xƣa, mà nhƣ thấy bóng dáng của các cụ già Việt Nam quen thuộc, thân hình
gầy yếu, đang lo nghĩ về việc nhà, việc nƣớc” [80,132].
Các bức tranh dân gian Tố nữ, Hứng dừa, Đánh ghen, Đàn lợn âm dương… của
các dòng tranh dân gian vẫn tiếp tục đƣợc in ấn. Các trò chơi dân gian nhún đu, ném còn,
đánh đáo, cướp nõn nường trong các hội làng, trò chơi Tùng dí trong lễ hội Giỗ tổ Hùng
Vƣơng…, phong tục giã cối đón dâu ở vùng Phú Thọ… diễn ra sôi nổi. Không thể không
kể đến nữa là sân khấu chèo ở các vùng quê. Rồi tín ngƣỡng thờ Mẫu… Tất cả đều là
những sản phẩm độc đáo của môi trƣờng văn hoá dân gian, đƣa con ngƣời trở về với đời
sống tự nhiên, gần gũi, khác biệt với quan niệm hà khắc của Nho giáo.
Điều đáng nói thêm nữa là những tín ngƣỡng của dân gian (đặc biệt là tín ngƣỡng
thờ cúng tổ tiên) cũng đƣợc nhà Nguyễn khéo léo kết hợp với các yêu cầu của Nho giáo
“góp phần quan trọng vào sự gắn bó về sinh hoạt văn hoá và tôn giáo giữa nhân dân và
nhà nƣớc” [62,27].
Dòng chảy của văn hoá dân gian và cả những ảnh hƣởng của văn hoá dân gian đến
văn hoá cung đình triều Nguyễn tạo nên tinh thần dân chủ trong đời sống xã hội trƣớc
những câu thúc của lễ giáo phong kiến, ảnh hƣởng lớn đến tâm lí của mỗi con ngƣời
trong lòng thời đại.
Cùng với dòng chảy văn hoá dân gian, trào lƣu tƣ tƣởng nhân văn chủ nghĩa trong
đời sống xã hội thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX xuất hiện và phát triển mạnh trong mọi
mặt của đời sống xã hội. Sự biến thiên dâu bể của ngai vàng bệ ngọc, những cuộc chiến
tranh liên miên, tàn khốc… đã làm không ít số phận con ngƣời chao đảo nhƣ Nguyễn Du
than vãn: “Một phen thay đổi sơn hà/ Mảnh thân chiếc lá biết là về đâu”. Hoàn cảnh lịch
31
sử đã đặt ra những vấn đề về số phận và quyền sống, quyền đƣợc hạnh phúc của con
ngƣời.
Yếu tố nhân văn của văn học dân gian và trào lƣu tƣ tƣởng nhân văn của thời đại
là yếu tố kích thích cho những đổi mới tƣ tƣởng và quan niệm của Cao Bá Quát. Những
thành tựu mà Cao Bá Quát có đƣợc một phần là nhờ tiếp nối đƣợc chủ nghĩa nhân đạo,
cũng nhƣ những tƣ tƣởng dân chủ, nhân văn của truyền thống và đƣơng thời.
2.2.1.2. Hoạt động chấn hưng văn hoá của nhóm sĩ phu Hà thành đầu thế kỉ XIX
Từ khi vƣơng triều Nguyễn đƣợc thành lập, Thăng Long mất vị trí là trung tâm
văn hoá chính trị của đất nƣớc, văn hoá Thăng Long cũng dần sa sút do nhà Nguyễn tập
trung chú trọng văn hoá đàng Trong. Các nho sĩ Bắc Hà lại bị triều đình Huế muốn hạn
chế ảnh hƣởng, quyền lực và “dằn mặt”. Thêm vào đó là sự lúng túng trong kế sách phát
triển và bảo vệ đất nƣớc của triều đình... Tất cả đã tạo nên tình trạng ly tâm trong giới kẻ
sĩ. Điều này đã làm cho các sĩ phu Bắc Hà rất đau lòng và hi vọng phục hồi lại thời vàng
son của văn hoá đất Thăng Long. Phong trào chấn hƣng văn hoá của mảnh đất rồng
thiêng đƣợc khởi xƣớng và hoạt động sôi nổi.
Tham gia phong trào này là các nhà nho nổi tiếng đạo cao đức trọng nhƣ Lập Trai
Phạm Quý Thích và các học trò của ông, Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn
Siêu, Hà Tông Quyền ... Họ lập Văn hội Thọ Xƣơng, lập Văn chỉ, xây dựng đền thờ các
bậc tiên hiền, mở các trƣờng Hồ Đình (của Vũ Tông Phan), Phƣơng Đình (của Nguyễn
Văn Siêu), Chí Đình (của Nguyễn Văn Lý)…, in sách, bao gồm cả thơ văn và sách giáo
khoa…
Đặc biệt, để khuếch trƣơng mục tiêu đào tạo kẻ sĩ Thăng Long, năm 1841, Vũ
Tông Phan còn lập “Hội Hƣớng thiện” và đƣợc bầu làm Hội trƣởng. Từ đây, Ngọc Sơn
đƣợc sửa thành đền, là trụ sở của Hội khuyến thiện, một tổ chức của các sĩ phu danh tiếng
ở Thăng Long lúc đó. Mục đích của Hội là làm rõ đức sáng, đổi mới dân sinh; đồng thời,
Hội cũng đóng vai trò một nhà xuất bản lớn phổ biến những tác phẩm nâng cao dân trí,
cổ vũ lòng yêu nƣớc, tiêu biểu nhất là bộ văn sách Cổ văn hợp tuyển dày gần 3.000 trang;
bên cạnh đó là Kinh đạo nam; Tang thương ngẫu lục của Phạm Đình Hổ; Phượng Sơn từ
chí lược của Nguyễn Thu; Khán Sơn đình thi tập của Đặng Huy Tá; tổng tập đồ sộ của
Nguyễn Văn Siêu gồm Phương Đình văn loại, Phương Đình tuỳ bút, Anh ngôn tập, Vạn
lý tập, v.v.
32
Sách báo còn ghi, sau này, vị Hội trƣởng thứ hai của Hội khuyến thiện là Nguyễn
Văn Siêu từng sửa sang đền Ngọc Sơn, và dựng thêm Tháp Bút, Đài Nghiên, bắc lại cầu
Thê Húc, xây đình Trấn Ba...
Cùng thờì gian này, có một hoạt động văn hoá khác cũng rất sôi động, đó là các
“Thiện đàn cầu tiên giáng bút”.
Nói chung, với các hoạt động chấn hƣng văn hoá Thăng Long, kẻ sĩ Bắc Hà vừa
thể hiện sự phản ứng đối với triều đình, vừa thể hiện nhiệt tâm, trách nhiệm đối với việc
“chiêu hồn” cho Thăng Long, tìm lại bộ mặt văn hoá Thăng Long, tạo nên một trào lƣu tƣ
tƣởng tiến bộ trong sĩ phu Hà Thành đầu triều Nguyễn.
2.2.2. Tiền đề văn học
Điều kiện văn học có ảnh hƣởng đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát nằm trong cả giai
đoạn văn học XVIII- XIX. Tiền đề này ảnh hƣởng trực tiếp đến sự đổi mới thơ chữ Hán
Cao Bá Quát.
2.2.2.1. Đổi mới về lực lượng sáng tác
Sự bùng nổ về lực lƣợng tác giả bắt đầu từ thế kỉ XVIII. Bƣớc sang nửa đầu thế kỉ
XIX - thời kì đầu nhà Nguyễn, số lƣợng tác giả tiếp tục tăng lên đông đảo, tài năng.
Nhiều tác giả tên tuổi ở nhiều địa vị và hoàn cảnh khác nhau tham gia vào sáng tác văn
chƣơng. Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức đều là những ông vua hay chữ và đều có
các tập Ngự chế. Các hoàng tử Miên Thẩm, Miên Trinh, Tƣơng An nổi tiếng về thi văn
đƣợc ngƣời đời xƣng tụng là “Tam Đƣờng của triều Nguyễn”. Các cựu thần nhà Lê:
Nguyễn Du, Phạm Quý Thích…, những trung hƣng công thần của nhà Nguyễn nhƣ
Nguyễn Văn Thành, Đặng Trần Thƣờng, Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định…, những danh
nhân sinh trƣởng, hành tàng trong lòng vƣơng triều Nguyễn: Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn
Văn Lý, Phan Thúc Trực… và rất nhiều tác giả nữa có đóng góp to lớn vào sự phát triển
của văn học dân tộc. Do thành phần khác nhau, nên tƣ tƣởng chính trị, quan điểm xuất xử
của họ cũng mỗi ngƣời một khác tạo nên một cảnh tƣợng trăm hoa đua nở và gồm nhiều
khuynh hƣớng khác nhau: đạo lí, thời thế, tình cảm… phong phú, đa dạng
Trong số lƣợng đông đảo tác giả trên, kiểu tác giả có biểu hiện tự do, phóng túng
trong đời sống và trong sáng tác nổi trội hẳn lên. Đó là một Hồ Xuân Hƣơng dƣờng nhƣ
phủ nhận cả Nho lẫn Phật, chỉ coi trọng mùi vị của cuộc đời trần thế. Một Nguyễn Công
Trứ xác định “Phải có danh gì với núi sông” nhƣng cũng không quên hƣởng lạc. Đó là
33
những Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Đặng Trần Thƣờng, Phạm Quý Thích, Phạm Thái,
Nguyễn Quý Tân… sâu lắng với đời sống cá nhân, nhiệt thành “thị tài”, “đa tình”. Mỗi
ngƣời một đóng góp làm đổi thay cơ bản cảm hứng văn chƣơng.
Cùng với lực lƣợng tác giả, các thi xã và nhóm sáng tác văn chƣơng, hoạt động
văn hoá đƣợc thành lập. Nhóm Sơn Hội (tên các hội viên đều có chữ Sơn, nhƣ Chỉ Sơn
Trịnh Hoài Đức, Nhữ Sơn Ngô Nhân Tĩnh, Kỳ Sơn Diệp Minh Phụng, Hối Sơn Hoàng
Ngọc Uẩn...) ra đời từ cuối thế kỉ XVIII và hoạt động rất tích cực. Để phát triển hơn nữa
về mặt văn hoá, các hội viên trong nhóm Sơn Hội mở thêm thi xã Bình Dƣơng. Sau thi xã
Bình Dƣơng, Mặc Vân thi xã (nhóm văn chƣơng của các nhà thơ hoàng phái) ra đời. Ở
Thăng Long, nhóm sĩ phu Hà Thành vừa sáng tác vừa có những hoạt động tích cực chấn
hƣng văn hoá (nhƣ trên đã nói). Sự xuất hiện của các nhóm văn chƣơng, thi xã khiến cho
việc sáng tác văn chƣơng hoạt động có tổ chức và có khí thế sôi nổi tạo nên một sức bật
mới và theo đó, xuất hiện tầng lớp tác giả, độc giả khác trƣớc góp phần ảnh hƣởng không
nhỏ tới những đổi mới trong sáng tác của Cao Bá Quát.
2.2.2.2. Đổi mới trong quan niệm sáng tác
Theo nhiều nhà nghiên cứu, đến thời đại Cao Bá Quát, công cuộc cải cách Thực
học của các nhà nho khởi phát từ thế kỉ XVII, XVIII đã đạt nhiều thành tựu hết sức rực
rỡ.
Công cuộc cải cách Thực học là một trào lƣu học thuật Nho giáo ảnh hƣởng của
thực học Minh Thanh, chủ trƣơng chuộng thực chất, bỏ hƣ rỗng, hƣớng học thuật vào đời
sống thực tiễn, đề cao cái hữu ích, thiết dụng của văn chƣơng. Phong trào cải cách Thực
học đã kéo theo sự cải cách văn thể từ quan niệm cho tới sáng tác văn chƣơng.
Tiếp nối thế kỉ XVIII, vào đầu thế kỉ XIX, sự phát biểu về quan niệm sáng tác
diễn ra hết sức sôi nổi. Các tƣ tƣởng “phản Tống quy Đƣờng”, “cách điệu”, “thần vận”,
quý chân”, “chủ tình”, “tính linh”… tiếp tục đƣợc đề xuất, tranh biện. Trong đó, xu
hƣớng “quý chân”, “chủ tình” từ giai đoạn trƣớc, phát triển thêm mạnh với nhiều tên tuổi:
Nguyễn Du, Nguyễn Hành, Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Năng Tĩnh... tạo nên “trào lƣu văn
học đề cao tình (emotions), tức thiên về cảm xúc thay vì lí trí tỉnh táo của nhà nho truyền
thống” [174, 548].
Cùng với “quý chân”, “chủ tình”, thuyết “tính linh” có vai trò khá đặc biệt trong
quan niệm sáng tác văn chƣơng giai đoạn này.
34
“Tính linh” là một học thuyết lâu đời ở Trung Hoa, phát triển mạnh trong thời
Minh - Thanh và đƣợc Viên Mai (1716-1797) hoàn thiện. Thuyết tính linh của Viên Mai
bao gồm ba điểm cơ bản. Trƣớc hết là chân tình (tâm tình chân thật). Ông quan niệm:
“Thơ là do cái tình sinh ra”, “Cầm bút trƣớc tiên hỏi tính tình”, “Kẻ làm thơ không đƣợc
đánh mất đi tấm lòng trẻ thơ”. Thứ hai là cá tính. Viên Mai cho rằng “làm thơ không thể
không có cái tôi”, “Phàm kẻ làm thơ ai có thân phận nấy, nên mỗi ngƣời có nỗi lòng, suy
nghĩ riêng”, vì vậy thơ mỗi ngƣời có mỗi mặt khác nhau, nên sự biểu hiện cảm thụ và
nhận thức thẩm mỹ cũng khác. Đồng thời, ông nhấn mạnh, cá tính của nhà thơ phải đƣợc
tự do phát huy, mà không bị gò bó ở triều đại nào cả: “Thơ là tính tình của mỗi ngƣời,
không liên quan gì đến thời Đƣờng, Tống”. Cái tôi tạo nên tính sáng tạo độc đáo của mỗi
tác giả. Thứ ba là tài năng. Nếu có tình mà không có tài thì tình cũng không đƣợc thể
hiện: “nhà thơ mà không có tài thì không thể vận chuyển đƣợc tâm linh”. Trong quan
niệm giữa tình và tài thì tình là điều kiện tiên quyết: “Không có tình thì không phải là tài”
(Vô tình bất thị tài). Xuất phát từ những quan niệm trên, Viên Mai phê phán mạnh mẽ tệ
sung bái mù quáng của ngƣời xƣa, lối dùng điển cố một cách xơ cứng. Ông quan niệm:
“Chỉ cần có cái tôi tồn tại, không thể làm cái việc đánh cắp văn thơ của ngƣời khác”. Tuy
nhiên, ông không hề phủ nhận ý nghĩa của việc học tập ngƣời xƣa: “Ngƣời đời sau chƣa
từng có kẻ không học ngƣời xƣa mà có thể làm thơ”. Ông thấy rõ vai trò của tình cảm,
yếu tố quyết định giá trị nội dung song cũng không hề coi nhẹ vai trò của hình thức: “Chỉ
lời tinh vi đẹp đẽ mới có thể khiến cho ngƣời cảm kích mà phấn chấn, còn nhƣ lời thơ
quá ngay thẳng, thật thà, tầm thƣờng, cũ kĩ thì có thể làm cho ai hứng thú đƣợc?” [dẫn
theo thƣ mục 16 và 82].
Học thuyết tính linh ảnh hƣởng lớn đến văn học Việt Nam thế kỉ XVIII-XIX.
“Các tác giả Cao Bá Quát, Trƣơng Đăng Quế, Bùi Văn Hi… là những ngƣời đề cập và
bàn sâu và theo học thuyết này” [192]. “Sự coi trọng thuyết “tính linh” của đông đảo nhà
nho trong giai đoạn này “cho thấy văn chƣơng lúc bấy giờ đang có sự bứt phá khỏi thi
pháp cổ điển để chuẩn bị chuyển sang thi pháp hiện đại” [40].
2.2.2.3. Sự ưu thắng của văn học phi chức năng, văn học hình tượng.
Từ những đổi mới nói trên, văn chƣơng giai đoạn này có sự chiến thắng áp đảo
của văn học nghệ thuật so với văn học chức năng. Những tác phẩm tuyên ngôn cho trọng
trách “văn dĩ tải đạo, thi dĩ ngôn chí” vẫn còn, nhƣng cơ bản và chủ yếu là các tác phẩm
văn chƣơng thẩm mĩ, nghệ thuật. Về thơ, Hồ Xuân Hƣơng đã làm “dân chủ hoá” thể thơ
Nôm Đƣờng luật, đƣa thơ Nôm Đƣờng luật từ đạo trở về với đời. “Đến Hồ Xuân Hƣơng,
35
Đƣờng luật Nôm đã thực hiện một cuộc cách tân đầy ý nghĩa. Cuộc sống đời thƣờng,
nguyên sơ, chất phác, dân dã trở thành đối tƣợng thẩm mĩ của thơ bà. Cái bản năng, tự
nhiên, trần tục vốn xa lạ với phong cách trang trọng, cao quý của Đƣờng luật bỗng trở
nên thích dụng với phong cách trào phúng của Hồ Xuân Hƣơng” [170,46-47]. Về kí,
“Thượng kinh kí sự là tác phẩm kí nghệ thuật đích thực đầu tiên của Việt Nam. Nó không
chỉ là đỉnh cao, là sự hoàn thiện thể kí trung đại Việt Nam, mà còn là mực thƣớc cho lối
viết kí sau này” [87,46]. Về tiểu thuyết chƣơng hồi, với Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô
gia văn phái đã đƣa tiểu thuyết chƣơng hồi vƣợt qua phạm trù văn học chức năng hành
chính “tới bên kia bờ của văn học đích thực” [86,55]… Tính chất nghệ thuật thống lĩnh
gần nhƣ tuyệt đối trên văn đàn.
Đặc biệt, giai đoạn này còn phát triển thể hát nói - thể thơ do sự ảnh hƣởng của
kinh tế hàng hoá thiên về ca ngợi cuộc sống hƣởng lạc. “Thể loại này lúc đầu chỉ là phản
ánh sinh hoạt công xã (thế kỉ XV). Nhƣng vào thế kỉ XVIII, hát nói đã là một tổ chức
thành thị, có mục đích hành lạc, và ngƣời ta đến đây không phải để ca ngợi đạo đức Nho
giáo, mà để hƣởng thú “tài tử với giai nhân là nợ sẵn” [93,59]. Thêm nữa, đây còn là một
thể loại phối hợp nhiều thể văn: ngũ ngôn, thất ngôn Đƣờng luật, tứ lục, cổ phong, song
thất, lục bát và đƣợc coi là thể thơ “tự do” đầu tiên của Việt Nam. Nó thể hiện tài năng,
sự phóng túng, vƣợt ra ngoài sự kiềm toả khuôn khổ lễ giáo phong kiến của ngƣời cầm
bút. Cao Bá Quát là một trong những tác giả thành công nổi bật ở thể loại này. Đây cũng
chính là một trong những tác động tạo nên đổi mới thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Cùng với hát nói, các thể ca, hành… là những thể thơ tự do, ít bị câu thúc bởi luật
lệ gò bó đƣợc đƣa vào trong sáng tác nhiều hơn hẳn các giai đoạn trƣớc. Thơ Miên Thẩm,
Miên Trinh… có rất nhiều bài sáng tác theo những thể loại này. Sự xuất hiện của các thể
loại này nhiều trong thi ca càng chứng tỏ thơ ca thời kì này coi trọng sự cởi mở, tự do của
nghệ thuật.
Thêm vào đó, tuồng cũng phát triển rất mạnh dƣới triều Nguyễn, có khả năng lớn
trong khái quát cuộc đời. Tuồng, “bằng nghệ thuật tƣợng trƣng, cách điệu hoá của mình,
bằng phƣơng pháp kịch, đã đem vào văn học cuộc sống với các thực tế phong phú, sinh
động của nó, từ thực tế ở cung đình, ở triều quận đến thực tế ở xã thôn. Về phƣơng diện
này, tuồng là một kho lịch sử xã hội đóng góp lớn cho văn học giai đoạn này” [195,313 -
314].
Nói chung, tiền đề văn học giai đoạn thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX tạo điều
kiện rõ rệt cho sự đổi mới thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
36
2.3. Cuộc đời, con ngƣời Cao Bá Quát
2.3.1. Con người tài năng, phóng túng, ưa đổi mới
Năm 1808, Cao Bá Quát sinh ra trong một gia đình, một dòng họ lớn ở Phú Thị,
Gia Lâm, Bắc Ninh (nay thuộc ngoại thành Hà Nội):
Dõi đời khoa bảng xuất thân
Trăm năm lấy chữ thanh cần làm bia
(Tự tình khúc - Cao Bá Nhạ)
Ngay từ nhỏ, ông đã nổi tiếng thông minh, học giỏi. Vốn văn hay, chữ tốt, ông lại
đƣợc thầy giỏi là Cao Huy Diệu (hiệu Hồng Quế - đỗ cử nhân kh oá đầu tiên thời Gia
Long, 1807) trực tiếp dạy dỗ, dìu dắt. Sau này, trong bài thơ Bình sinh ngũ thập vận),
Cao Bá Quát đã nhớ lại mà viết rằng:
Thiếu dữ Văn Ngu huynh,
Ý chí tưởng thướng hạ.
Tộc tổ Hồng Quế ông,
Tiển phất phú thanh giá.
(Lúc nhỏ cùng với anh Văn Ngu,
Hai ngƣời ý khí suýt soát nhau.
Tổ họ là ông Hồng Quế,
Sửa chữa cho thành ngƣời thanh giá.)
Tiếng tăm của ông lừng lẫy thiên hạ. Ngƣời ta gọi ông bằng biệt danh “Thánh
Quát” (Thần Siêu, Thánh Quát) và truyền đi nhiều giai thoại đề cao tài năng của ông.
Vốn tài năng, Cao Bá Quát còn có chí khí hơn ngƣời. Chí khí ấy đƣợc gieo mầm,
nuôi dƣỡng từ ngƣời cha của ông. Sinh đôi hai con trai, cha ông ao ƣớc con mình sau này
sẽ trở thành rƣờng cột triều đình nên lấy tên hai hiền thần nhà Chu để đặt tên cho con. Về
sau, Cao Bá Quát lấy tên tự là Chu Thần (bề tôi nhà Chu). Cái tên ấy chứng tỏ lí tƣởng,
khát vọng có minh quân để “phò nghiêng đỡ lệch”, “thƣợng chí quân, hạ trạch dân” của
Cao Bá Quát.
Có tài, Cao Bá Quát còn nổi lên một tính cách phóng túng, vƣợt ra ngoài khuôn
khổ của lễ giáo phong kiến. Tƣơng truyền, ngay từ khi ông còn nhỏ, cha ông đã nhận ra
đặc điểm này khi nhận xét về văn chƣơng của hai ngƣời con sinh đôi của mình: “Văn của
Bá Đạt hơn về khuôn phép nhưng kém về tài tứ, văn của Bá Quát hơn về tài tứ nhưng
37
kém về khuôn phép”. Chính Cao Bá Quát cũng nói về tính cách ấy của mình: Thiếu niên
tâm tích tảo thanh cuồng (Từ thuở trẻ tính nết đã phóng khoáng rồi - Cấm sở cảm sự,
túng bút ngẫu thư).
Vì tài năng, chí khí, phóng túng, Cao Bá Quát có các hành động vì nghĩa lớn.
Theo nhà nghiên cứu Vũ Thế Khôi, Cao Bá Quát có tham gia các “hoạt động chấn hƣng
văn hoá Thăng Long”, cùng một số sĩ phu danh tiếng đƣơng thời ở Bắc Hà trong những
năm 30 của thế kỉ XIX [59,35-37]. Việc Cao Bá Quát có mở lớp dạy học từ trƣớc năm
1834 khoảng gần khu vực Quán Thánh [59,37] hẳn không chỉ vì kiếm sống mà chính là
vì mục đích chấn hƣng văn hoá.
Sau việc làm này, tháng 8/1841, khi làm giám khảo trƣờng thi thấy một số bài thi
hay nhƣng có lỗi phạm trƣờng quy, ông cùng với bạn của mình là Phan Nhạ lấy son hoà
muội đèn chữa giúp 24 quyển. Việc bị lộ, giám khảo trƣờng thi là Hồ Trọng Tuấn đàn
hặc, ông bị bắt giam, tra tấn rồi khép vào tội chết. Khi án đƣa lên vua, vua Thiệu Trị cho
rằng ông là ngƣời ngông cuồng mà làm vậy, chứ không có ý tây vị ai, nên giảm tội từ
“trảm khuyết” xuống tội “giảo giam hậu”, tức là giam lại đợi lệnh.
Với cốt cách con ngƣời nhƣ vậy, ông khó chấp nhận những cái đã quá lỗi thời, sáo
rỗng. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản tạo nên ý thức tìm tòi, sáng tạo thi ca
của Cao Bá Quát.
2.3.2. Con người ưu phẫn
Khát vọng làm Chu Thần, nhƣng con đƣờng hoạn lộ của Cao Bá Quát lận đận,
trắc trở. Mộng ƣớc của ông dần bị thực tế nghiệt ngã bóp nghẹt. Năm 14 tuổi (1821), Cao
Bá Quát đi thi Hƣơng lần đầu nhƣng không đỗ. Năm 1831, đời vua Minh Mạng, ông đỗ
trong kì thi Hƣơng. Nhƣng năm 1832, Cao Bá Quát đi thi Hội lại trƣợt. Trải qua mấy kì
thi khác nữa, Cao Bá Quát vẫn không thể “vƣợt thác Vũ Môn”. Điều đó đã hình thành nỗi
chán chƣờng, thất vọng về con đƣờng công danh cũ mòn của kẻ sĩ đối với Cao Bá Quát.
Năm 1840, vua Minh Mệnh mất, vua Thiệu Trị nối ngôi, tỏ ý trọng hiền tài, nên
ông đã đƣợc triệu vào kinh đô Huế, bổ nhiệm làm Hành Tẩu Bộ Lễ (một chức quan nhỏ
chuyên lo việc lặt vặt). Niềm vui nhỏ chƣa đƣợc bao lâu thì đến năm 1841, vua Thiệu Trị
có chiếu mở ân khoa, đƣợc cử làm sơ khảo trƣờng thi Thừa Thiên, Cao Bá Quát lại phạm
tội và bị tống giam. Dù đƣợc nhà vua giảm án và cho đi “Dƣơng trình hiệu lực” chuộc
tội, song đây vẫn là một nỗi đau thấm thía nữa đối với Cao Bá Quát. Tài năng của ông
không có môi trƣờng thi thố. Phải chăng đây là một nguyên nhân khiến Cao Bá Quát phất
38
cờ khởi nghĩa chống lại triều đình nhƣ Đại Nam thực lục đã viết: “Quát là ngƣời kiêu
ngạo, tự phụ là có tài, danh, mà phải khuất làm chức vị thấp, mới mƣu làm loạn”?
Nguyên nhân cơ bản nhất thực chất là sự bất mãn với những chính sách bảo thủ
của triều đình khiến dân tình đói khổ, nƣớc nhà lạc hậu của Cao Bá Quát. “Trong thơ Cao
Bá Quát, nhân dân là hình tƣợng nổi bật, nỗi khổ của ngƣời dân luôn hiện lên day dứt.
Chính đây là hệ quy chiếu để Cao Bá Quát xét đoán giá trị, và đến một lúc nào đó, tƣ
tƣởng ái dân đậm tính nhân văn ở Cao Bá Quát trở thành sức mạnh phủ định triều đình
đƣơng thời” [130,112].
Tâm trạng phẫn uất của Cao Bá Quát đi vào văn chƣơng của ông khá rõ rệt, đặc
biệt là qua những vần thơ viết về thiên nhiên. Cao Bá Quát thƣờng mƣợn thiên nhiên để
phản ánh sự ngột ngạt của xã hội và kí thác sự bức bối trong tƣ tƣởng, tâm trạng của
mình: Âm vân thuỳ xúc nhữ/ Thiên bán thượng du nhiên (Mây đen ai động chạm đến mi/
Mà ùn lại ở lƣng trời - Đối vũ, kì nhị), Tứ hải dĩ vọng vũ/ Ngũ lôi trường bế san (Bốn bể
đã mong mƣa rồi/ Sao phép ngũ lôi còn giữ kín trong núi? - Du vân), Nam huân tiêu tức
lai hà vãn?/ Lan đắc cuồng xuy dĩ tứ canh (Tin tức gió Nam đến sao muộn thế?/ Ngăn
đƣợc gió thổi điên cuồng đã sang canh tƣ - Thập tứ dạ Nghệ An thành trị bạo phong)…
Sự bức bối ấy đã thôi thúc con ngƣời phải hành động, phải thay đổi:
Ô hô! Hàn thử biến thái thúc hốt gian,
Bất tri lai nhật thử hoặc hàn?
Như hà cửu toạ linh tâm toan!
(Kim nhật hành)
(Than ôi! Nóng lạnh đổi thay trong chốc lát,
Nào ai biết ngày mai nóng hay rét?
Sao cứ ngồi đây cho lòng xót xa!)
“Văn học là nhân học”. Con ngƣời tƣ tƣởng của Cao Bá Quát hẳn ảnh hƣởng rõ
rệt tới đặc điểm sáng tác thi ca của ông. Nó tạo nên tinh thần đổi mới trong thơ ca của
ông.
2.3.3. Con người được tiếp xúc với văn minh phương Tây qua chuyến đi
“Dương trình hiệu lực” ở Hạ Châu
Tháng 1/ 1844 (tháng 12 Quý Mão), để Cao Bá Quát chộc lỗi, triều đình nhà
Nguyễn phái ông đi “Dƣơng trình hiệu lực” ở Hạ Châu. Chuyến đi ấy theo đúng nghĩa là
39
sự trừng phạt, để chuộc tội song nó lại trở thành bƣớc ngoặt trong thay đổi nhận thức của
Cao Bá Quát.
Hạ Châu là vùng đất có vị trí chiến lƣợc rất quan trọng. Theo công trình nghiên
cứu của cố học giả Trần Kinh Hoà (Chen Ching Ho): “Địa danh Hạ Châu, tuỳ theo thời
điểm có thể dùng để chỉ những địa điểm khác nhau. Nói một cách cụ thể, địa danh Hạ
Châu nguyên vào đầu thế kỉ XIX dùng để chỉ Penang và Malacca, nhƣng sau khi Tân Gia
Ba trở thành nhƣợng địa của Anh và cảng này đƣợc khai trƣơng vào năm 1819, cả hai
danh xƣng Hạ Châu và Tân Gia Ba đều đƣợc sử dụng chỉ tân cảng Singapore….” [Dẫn
theo 141,124]. Vào năm 1819, khi Singapore bắt đầu thuộc về ngƣời Anh, hòn đảo này
dân cƣ còn rất thƣa thớt, chỉ có một làng chài nhỏ với dân chƣa đầy 1000 ngƣời. Sau khi
thuộc quyền sở hữu của Anh, ngƣời Anh đã bắt đầu xây dựng Singapore từng bƣớc thành
một cảng thƣơng mại lớn ở Đông Nam Á, vào những năm 1830 nó đã trở thành một trong
ba cảng thƣơng mại chính ở Đông Nam Á (cùng với Manila ở Philippines và Batavia -
Jarkata ngày nay- ở đảo Java) và là một phần thu nhỏ của đế quốc Anh ở Châu Á. Sự
giàu mạnh của Singapore xuất phát từ những thuận lợi từ vị trí địa lý và vị trí của nó
trong hệ thống thuộc địa của Anh. Các thƣơng gia ngƣời Anh và các thƣơng gia Trung
Hoa bị thu hút đến Singapore bởi các quy chế cảng tự do, sự chắc chắn của hệ thống luật
pháp Anh và vị trí chiến lƣợc của Singapore.
Phái đoàn của Cao Bá Quát khởi hành trên con tàu mang tên Phấn Bằng. Ngƣời
dẫn đầu phái đoàn là Đào Trí Phú (nguyên Tả tham tri bộ Hộ), Trần Tú Dĩnh (Viên ngoại
lang Nội bộ phủ). Ngoài ra, số quan viên đi tháp tùng bao gồm Thừa biện Lê Bá Đĩnh, Tƣ
vụ Nguyễn Văn Bàn và Nguyễn Công Dao, Thị vệ Trần Văn Quý, cùng hai ngƣời đi
“hiệu lực” là Cao Bá Quát và Hà Văn Trung. Đoàn chính thức bắt đầu khởi hành vào
tháng 1 năm 1844 và về nƣớc vào tháng 7 năm đó.
Nhiệm vụ của Cao Bá Quát trong chuyến đi lần này là có trách nhiệm tìm hiểu,
tiếp xúc với ngƣời Trung Hoa trên các thuộc địa ngƣời Âu Châu, bút đàm với họ nhằm
tìm hiểu và thu thập thông tin về động tĩnh của ngƣời Châu Âu trên những vùng mà phái
bộ ghé tới.
Đối với Cao Bá Quát có lẽ đây là một sự kiện “Tái ông thất mã”, khi ông đƣợc
tiếp xúc với một chân trời mới. “Tuy nhiên, không phải cứ tiếp xúc với các nƣớc phƣơng
Tây hoặc tiếp xúc với các nƣớc đã bị Âu hoá là hiện thực cuộc sống châu Âu nghiễm
nhiên bƣớc vào văn học. Chỉ những ngƣời tiên tiến, có khát vọng vƣơn lên và đặc biệt
vƣợt khỏi tính kì thị dân tộc nhỏ nhen phƣơng Đông mới dám nhìn thẳng vào xã hội
40
phƣơng Tây và phản ánh chúng vào văn học” [87, 62]. Cao Bá Quát chính là một trong
“những ngƣời tiên tiến” đó! Chuyến đi lịch sử đã khiến ông đƣợc cọ xát với văn hoá
ngoại sinh. Hành trình tìm và tiếp cận luồng tƣ tƣởng mới của ông chỉ diễn ra vẻn vẹn
trong vòng bảy tháng. Nhƣng trong khoảng thời gian ấy, ông thu đƣợc kết quả lớn. “Đi
một ngày đàng, học một sàng khôn”. Việc đƣợc đi ra nƣớc ngoài, tiếp xúc, gặp gỡ với
bầu trời văn hoá mới của thế giới Phƣơng Tây ở vùng thuộc địa đã làm nhận thức trong
ông thay đổi. Điều này đƣợc thể hiện rõ trong văn chƣơng của ông (chúng tôi đề cập tới ở
phần sau).
Nói chung, chuyến đi “Dƣơng trình hiệu lực” ở Hạ Châu là một mốc lịch sử rất
quan trọng đối với chặng đƣờng phát triển tƣ tƣởng Cao Bá Quát. Nó là một yếu tố cơ
bản tạo nên những đổi mới trong thơ ca của ông.
Tiểu kết
Ngọn nguồn tạo nên những những điểm mới của thơ chữ Hán Cao Bá Quát bao
gồm: tiền đề xã hội lịch sử, tiền đề văn hoá, văn học Việt Nam và con ngƣời Cao Bá
Quát.
Về tiền đề lịch sử xã hội: thời Cao Bá Quát đã xuất hiện những sự khác biệt, mâu
thuẫn rõ rệt giữa những yếu tố trong nƣớc, giữa những yếu tố trong nƣớc với nƣớc ngoài.
Trong nƣớc, có sự mâu thuẫn giữa các yếu tố lỗi thời (hệ tƣ tƣởng, đƣờng lối chính sách
Nho giáo) với các yếu tố tiến bộ (tầng lớp thị dân và tƣ tƣởng phi Nho giáo, ảnh hƣởng
bƣớc đầu của tƣ tƣởng, văn hoá phƣơng Tây). Trong nƣớc vẫn duy trì chế độ phong kiến
trong khi thế giới đã chuyển sang chủ nghĩa tƣ bản… Những mâu thuẫn này đòi hỏi đƣợc
giải toả, làm xuất hiện những luồng tƣ tƣởng mới, những nhận thức, lối sống mới.
Về tiền đề văn hoá và văn học: văn hoá dân gian tiếp tục phát triển các nội dung
phi chính thống, giàu giá trị nhân văn; các sĩ phu Hà Thành có hoạt động chấn hƣng văn
hoá sôi nổi; văn hoá học thuật và văn học chịu sự chi phối của “phong trào Nho học thực
học”, phát triển các quan niệm sáng tác “chủ tình”, “quý chân”, “tính linh”…, hƣớng tới
đời sống hiện thực, nhân bản.
Không khí đó của thời cuộc kết hợp với nhân tố con ngƣời Cao Bá Quát (tài năng,
phóng túng, ƣa đổi mới, nhận thấy thực trạng trong nƣớc, ngoài nƣớc…) trở thành những
điều kiện cần và đủ tạo nên những điểm mới cho thơ chữ Hán của ông.
41
Chương 3
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NỘI DUNG
3.1. Từ quan niệm văn học của Cao Bá Quát đến những điểm mới trong thơ
chữ Hán của tác giả
Tìm hiểu quan niệm nghệ thuật thơ Cao Bá Quát là một trong những tiền đề lí
luận cần thiết để từ đó nghiên cứu sự đổi mới trong thơ ca của ông và toàn bộ thơ văn của
ông. Vì lẽ, quan niệm nghệ thuật là những cách hiểu, cách lí giải về nghệ thuật - ở đây là
thơ văn - nghệ thuật ngôn từ. Nó là tầm cảm xúc, tầm trí tuệ trong việc nhận biết, xác
định và cắt nghĩa về nghệ thuật. Nó là kim chỉ nam, có ý nghĩa chỉ đạo, định hƣớng cho
ngòi bút của tác giả.
Quan niệm nghệ thuật của Cao Bá Quát đƣợc bộc lộ trực tiếp trong 12 bài thơ bàn
về thơ - luận thi thi - của ông (Hí tác thi luận, thập nhị thủ) và một số bài ông bàn về thơ
với bạn bè (Đồng Nguyễn Chuyết Hiên, Phạm Thúc Minh luận thi, đắc tâm tự…). Ngoài
ra, quan điểm của ông còn đƣợc thể hiện dƣới nhiều dạng, nhƣ chủ động phát biểu chính
thức về một tác phẩm văn học của ngƣời khác, gởi gắm trong chính tác phẩm do mình
sáng tác, hoặc là những suy nghĩ nhân cảm thụ những giá trị văn học của quá khứ hoặc
đƣơng thời. Những ý kiến, quan niệm khác nhau trong các dạng nói trên cũng đã đƣợc
nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến, nhƣ Trúc Khê, Lê Trí Viễn, Phƣơng Lựu, Nguyễn Lộc,
Vũ Khiêu, Trần Ngọc Vƣơng, Nguyễn Ngọc Quận, Nguyễn Thanh Tùng… Ở đây có sự
kế thừa, bổ sung và chú ý đến những quan niệm tạo nên sự đổi mới trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát.
Trong tƣ tƣởng của mình, Cao Bá Quát có sự tự tin hơn khi dùng chữ Hán để sáng
văn chƣơng so với chữ Nôm. Ông viết: “Than ôi, lấy quốc ngữ làm văn chƣơng thì ta
chƣa dám, nhƣng lấy văn chƣơng mà coi quốc ngữ thì ta có phần tán thành.” (Đệ bát tài
tử Hoa Tiên kí diễn âm hậu tự). Sáng tác của Cao Bá Quát hầu hết đều làm bằng chữ
Hán.
Tƣ tƣởng chính ảnh hƣởng đến những điểm mới của thơ chữ Hán Cao Bá Quát là
thuyết “tính linh”. Dù chỉ nhắc đến từ tính linh 4 lần (trong bài Thương Sơn công thi tập
hậu tự, Vĩnh Tường phủ trị tây hiên ký và hai bài thơ Phục thứ tiền vận tự di kiêm trình
Phạm Phủ doãn, Chu Thần thị xướng) song hầu hết các phát biểu trực tiếp về quan niệm
văn chƣơng và thực tế sáng tác của Cao Bá Quát là xoay quanh tƣ tƣởng này. Ông bày tỏ:
42
Tính linh quan xứ hiếu chi di (Chỗ nào có liên quan/dính líu đến tính linh thì thƣờng hay
chống cằm - Phục thứ tiền vận tự di kiêm trình Phạm Phủ doãn).
Biểu hiện đầu tiên của sự ảnh hƣởng thuyết “tính linh” của Cao Bá Quát là ông
luôn luôn đề cao chữ “tình”. Ông xác định rành rọt, dứt khoát: Bàn về thơ, tuy có phải
trọng về quy cách, nhưng làm thơ thì phải gốc ở tính tình (Thương Sơn công thi tập hậu
tự). Cao Bá Quát nhiều lần nhấn mạnh điều mà bản thân ông cho là cốt tuỷ này.
Trong Thiên cư thuyết, ông viết: Đã đành rằng ồn hay tĩnh là tuỳ từng nơi, khổ hay vui là
tuỳ từng cảnh, song trông thấy vật mà cảm đến việc, rồi lặng lẽ mà ngậm ngùi cho cái đã
qua, âu cũng bởi chữ tình xui nên như thế! Đây cũng là định hƣớng chính giúp ông phán
xét có sức thuyết phục mọi hiện tƣợng văn chƣơng lớn nhỏ ở đời. Hoa tiên của Nguyễn
Huy Tự là một ví dụ. Ông viết trong Hoa tiên truyện tự: Xưa nay nỗi khổ của người ta
không gì bằng chữ tình, mà cái khó của đời không gì bằng sự gặp gỡ. Đem cái đó mà
giải thích ra, theo loại mà suy rộng ra, thì cái lý trong thiên hạ đã biết được quá nửa rồi.
Ta đối với truyện Hoa tiên có một mối cảm là vì thế. Ông đồng tình cùng quan niệm
không thể “vong tình” với ngƣời thân của ngƣời xƣa: Tình cự năng vong huống khách tâm (Tình sao có thể quên phƣơng chi ở lòng con ngƣời - Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão
bệnh sổ nhật hĩ. Dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm,
nhân giản Trần Ngộ Hiên, kỳ nhị); Vong tình năng hữu kỷ (Đã mấy ngƣời quên hẳn đƣợc
tình - Hữu sở tư)… Cho nên, với Cao Bá Quát:
Hữu đan năng hoán cốt,
Đắc thủ vị diên tâm.
(Đồng Nguyễn Chuyết Hiên, Phạm Thúc Minh luận thi, đắc tâm tự)
(Có thuốc tiên mới đổi đƣợc cốt phàm,
Đƣợc tay chƣa chắc theo đƣợc lòng.)
Thứ hai là Cao Bá Quát đề cao cá tính, thiên tƣ hay cái tôi (bản ngã). Ông đòi hỏi
văn phải tự mình làm ra (Văn tất kỉ xuất) và phản đối gay gắt lối thơ “uỷ mị, yếu ớt”,
thiếu cá tính sáng tạo, mô phỏng, bắt chƣớc máy móc cổ nhân. Ông trở đi trở lại quan
niệm này nhiều lần. Trong bài Văn tất kỉ xuất, Cao Bá Quát viết: “Há có đôi bàn tay khéo
chạm trổ/ Mà lại đi làm bài văn bằng cách chắp vá văn của ngƣời khác?/ Chọn lời phải
thật lòng từ chính mình/ Văn từ viết ra ắt hơn hẳn ngƣời khác/ Đánh cắp câu văn đồng
nghĩa với cặn bã/ Câu thơ hay mới mẻ phải thoát ly khỏi sách vở cổ xƣa/ Khí văn thông
thoáng ào ạt tựa giấy cỏ rậm/ Lời văn viết ra tinh diệu nhƣ muốn vút tầng không/ Lam
bản hoàn toàn không để ý đến/ Kẻ có tài văn xuất chúng ai thèm theo lối của anh/ Buông
43
lời chân thật có thể trở thành một nhà trong thiên hạ/ Vì thế ngọn bút cũng có sức mạnh
quét đƣợc nghìn quân/ Cái tự mình tìm đƣợc không giống cái mà mọi ngƣời cùng đƣợc/
Điều ngƣời khác đã nói mình cũng dễ dãi nhại theo/ Thì chỉ đáng dùng làm đồ tế khí nơi
tông miếu mà thôi”. Trong bài Đề Sát viện Bùi công Yên Đài anh ngữ khúc hậu, Cao Bá
Quát tuyên bố dõng dạc: “Đóng cửa mà gọt giũa câu văn, lải nhải nhai lại từng câu từng
chữ/ Điều đó khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời”.
Điều đáng nói là Cao Bá Quát không phủ nhận học vấn, tri thức hay sự kế thừa.
Trong thơ ca của mình, ông từng mơ có đƣợc một phần chất thơ của Đỗ Phủ: Phong tình
cưỡng bán Đỗ Lăng thi (Phong tình gắng bằng nửa thơ Đỗ Lăng (Đỗ Phủ) - Thận Tư dĩ
Phương Đình chi cố thời quá Lê Hiên Vĩnh thư hiên. Thị tịch phong thậm, cảm tác tứ thủ.
Dư tuy bất tòng diệc liêu dĩ uỷ lương hữu dã. Nhân phục thứ vận, kì tứ). Cái ông phê
phán ở đây là sự bắt chƣớc cổ nhân “không quan hệ gì đến tính linh”: “Nếu chỉ việc gì
cũng bắt chƣớc, lời nào cũng mô phỏng, nhƣ: chia tay vặt ở đầu thôn mà ca câu “chén
rƣợu Dƣơng Quan”, tạm qua chơi bên xóm mà làm câu “tiếng gà điếm cỏ”, sửa đổi lời
thơ biên tái, khoe cái tuyệt diệu của Gia Châu, trau chuốt thể thơ cung đình, huênh hoang
cái tiếng nối theo Thiếu Bá; thì dẫu dùng nghìn bài chất chứa bể khổ, có trăm vần vắt kiệt
từ tấc dạ héo khô cũng không quan hệ gì đến tính linh cả” (Thương Sơn công thi tập hậu
tự). Nhƣ vậy, Cao Bá Quát đòi hỏi tiếp thu phải tiếp thu đƣợc hồn cốt, thần tình một cách
linh hoạt nghệ thuật của cổ nhân. Ông bày tỏ: “Ông Tô Đông Pha bàn về viết chữ có nói
là “không học cũng xong”, ai mà hiểu đƣợc ý của ông thì có thể cùng bàn chuyện làm
thơ” (Thương Sơn công thi tập hậu tự). “Quan niệm “không học là hơn” còn có thể gợi ý
cho sự tự do cá nhân của ngƣời nghệ sĩ - điều đó rất có ý nghĩa cho vấn đề phong cách cá
nhân trong văn chƣơng. Và nhƣ thế, quan niệm của Cao Bá Quát thật gần gũi với quan
điểm lý luận mỹ học và lý luận văn học của chúng ta ngày nay” [119,33].
Có thể nói, khi phát biểu về quan niệm nghệ thuật, Cao Bá Quát đầy bản lĩnh và
chính kiến. Không dễ dãi theo phong trào “thi tất Thịnh Đƣờng”, “phản Tống quy
Đƣờng” đang thịnh hành đƣơng thời, Cao Bá Quát đƣa ra quan điểm của cá nhân mình.
Ông quan niệm cần tiếp thu tinh hoa của quá khứ. Trong bài Bình sinh ngũ thập vận, ông
ca ngợi nền văn hoá Lí - Trần Việt Nam:
Lí Trần uý tài tảo,
Khinh khoái nhược sương khả.
(Thời Lí, Trần văn tài tƣơi tốt,
Nhẹ nhàng sảng khoái nhƣ mũi tên sƣơng).
44
Ông đánh giá cao thơ Tô Đông Pha đời Tống:
Uất uất thiên vạn thiên,
Lâm lang xán di thảo.
Tam Đường thuỳ tự âm,
Tư nhân trác cô kiểu.
(Dạ thính Phan Sinh tụng Tô Pha)
(Đẹp đẽ bóng bẩy muôn nghìn bài,
Di cảo xán lạn nhƣ ngọc quý.
Trong Tam Đƣờng ai là ngƣời tiếp nối tiếng thơ ấy,
Con ngƣời ấy trác việt, trơ trọi, cứng cỏi.)
Ông cũng bày tỏ thái độ trƣớc sự phê phán đánh giá Tô Đông Pha không đúng của
Ngô Thế Vinh:
Cố tai Trọng Phu thị,
Nhĩ thực bất tự liệu.
Dư tử nha hậu tuệ,
Xuy điểm hà nhiễu nhiễu.
Tệ sách vô trường đồ,
Kiển nô khiết diểu niểu.
(Dạ thính Phan Sinh tụng Tô Pha)
(Cố chấp thay Trọng Phu,
Tai nghe bừa mà không tự nhìn sáng.
Những lời học mót nhặt nhạnh của ông đã thừa,
Mà sao cứ nhiễu chuyện nhằm vào một điểm mà chê cƣời.
Sự soi mói tệ hại không phải là con đƣờng dài rộng,
Bọn ngựa què nghiến răng trƣớc con tuấn mã.)
Nhƣ vậy, Cao Bá Quát không ủng hộ phong trào “phản Tống quy Đƣờng”, “thi tất
Thịnh Đƣờng”. Ông bày tỏ rõ ràng quan điểm: những gì là tinh hoa, tốt đẹp của cổ nhân
phải học tập, không cứ phải Tống hay Đƣờng.
Trên cơ sở đòi hỏi “Văn tất kỉ xuất”, học tập tinh hoa của cổ nhân, phê phán thứ
văn bắt chƣớc cặn bã, Cao Bá Quát hướng tới hai đặc điểm cơ bản mà ông mong muốn
có được: đó là sự tự nhiên và phóng khoáng.
Ông xác định, làm thơ cần chú trọng sự chân tình, mộc mạc hơn là chạy theo sự
cầu kì về câu chữ:
45
Huyễn phục phi tráng nhan,
Phồn âm biến Đại Nhã.
(Vị mính tiểu kệ đồng Phan sinh dạ t oạ)
(Áo loè loẹt không làm cho dáng ngƣời mạnh mẽ,
Âm điệu rƣờm rà làm mất thể thơ Đại Nhã)
Thơ Đại Nhã là một thể thơ hay trong Kinh Thi - một thành tựu văn học dân gian
rực rỡ của Trung Quốc cổ đại. Cao Bá Quát cho rằng muốn có thơ hay, mẫu mực nhƣ thể
thơ Đại Nhã thì không nên quá chú trọng đến sự rƣờm rà của âm điệu. Ông chủ trƣơng
sáng tác phải bình dị, mộc mạc nhƣ Tô Đông Pha và Hoàng Đình Kiên:
Tô, Hoàng khí cách quân hưu tiếu,
Bình đạm môn phong tưởng vị phương!
(Phục dụng tiền vận hoạ Di Xuân)
(Khí phách nhƣ Tô, Hoàng bác đừng cƣời,
Phong cách bình dị, mộc mạc tƣởng cũng không hại gì !)
Ông chủ trƣơng làm thơ tự nhiên, không đẽo gọt. Tứ thơ cần thanh thoát, tao nhã:
- Văn nhã tức ngô sư
(Hoạ lưỡng Thị độc nguyệt dạ du liên trì)
(Tao nhã tức thầy ta)
- Nhược tùng tiêu khắc khoa tam muội,
Khủng dữ ôn nhu biệt nhất môn.
(Hí tác thi luận, kì thập)
(Nếu từng giờ từng phút đem khoe cái bí quyết của thơ mình,
Thì e rằng tính ôn hoà nhu thuận sẽ trở thành một môn phái riêng.)
Vì thế, hứng thơ đến, theo Cao Bá Quát, rất tự nhiên, bất chợt, không thể có sự
gƣợng ép, nhƣ cơn mƣa đến tự nhiên giục thi nhân có thơ ca: Đầy trời mƣa đúng lúc/
Giúp ta có hứng ngâm/ Chèo thuyền giục tay bút/ Đối khách thơ mới ra/ Tinh thần tràn
mặt giấy/ Tí tách vó ngựa phi/ Ngân hà tranh rửa bút/ Tầm sét mƣợn tu từ/ Khạc lời nghĩ
theo gió/ Ngọc nẩy kết ý hay/ Rào rào tiếng vang dội/ Lời chọn thấm đẫm tình/ Chắc sớm
tìm li châu (Ưng thị vũ thôi thi). Với tƣ tƣởng đó, Cao Bá Quát bày tỏ sự quý trọng Kinh
Thi, thơ Tô Đông Pha… Ông cũng mến mộ thơ Cù Tiên và đánh giá thơ Cù Tiên phải
khuyên son tròn nhƣ mặt trời vì lẽ Công hữu Hoài Các, Tào, Lê Quang, Thuận Chi
phong trí thậm nhã (Ông có văn phong rất tao nhã kiểu Hoài Các, Tào, Lê Quang, Thuận
Chi).
46
Theo Cao Bá Quát, chính sự tự nhiên ấy khiến cho thơ không gò bó, phóng
khoáng. Những vần thơ đƣợc Cao Bá Quát ƣa chuộng là thơ hào sảng, sống động, phóng
khoáng, cá tính. Ông yêu mến thơ Nguyễn Văn Siêu vì: Phương Đình thi tối hào/ Khinh
khoái phục trầm trước/ Tuy tại pháp độ trung/ Diệc bất giả thằng tước/ Thập vi nhi ngũ
công/ Phong khách dữ sắc trạch/ Hứng thú sở đáo thì/ Cảnh vật hạo phân thố (Thơ ông
Phƣơng Đình rất hào sảng/ Vui tƣơi nhẹ nhàng lại trầm lắng rõ ràng/ Dù trong khuôn khổ
pháp độ/ Cũng không vay mƣợn (ý thơ) và ràng buộc trong sự đẽo gọt/ (Giống nhƣ) mƣời
vòng vây mà dùng nhiều quân sĩ công kích/ Phong độ sang trọng cùng với sắc thái nhuần
thấm/ Nguồn cảm hứng đúng lúc/ Cảnh vật trong thơ của ông lớn lao, phơi phới xen kẽ
nhau - Phục hoạ Phương Đình phân vận, dư đắc động, xuân, chước tam vận, kì tam).
Cao Bá Quát cho rằng thơ Lí Bạch đƣợc ngƣời đời truyền tụng chính vì thơ ông “sống
động, phong phú”: Thanh Liên khả thị nhất gia danh/ Xoang điệu hưu khan dĩ phóng
sinh/ Đẩu tửu bách thiên tùng điệt đãng/ Khởi ưng biến xứ tận ca hành (Thanh Liên (Lí
Bạch) cũng đáng một danh gia/ Không cần xem xét đến xoang điệu thi gia này mà là sự
sống động phong phú của ông ta/ Uống hết đấu rƣợu làm trăm bài thơ xuất phát từ sự xuề
xoà tự nhiên không gò bó/ Thế cho nên khắp nơi ngƣời ta vừa đi vừa ngâm nga thơ ông -
Hí tác thi luận, kì tứ). Điều này sẽ ảnh hƣởng lớn đến phong cách thơ Cao Bá Quát mà
chúng tôi sẽ bàn tới ở những phần sau.
Cũng cần lƣu ý, để có đƣợc những vần thơ tự nhiên phóng khoáng ấy, theo Cao
Bá Quát, không hề đơn giản. Nghệ sĩ phải là ngƣời đi nhiều, đọc nhiều: Cước để giang
sơn vạn dư lý/ Quy lai mãn phúc trữ đồ thư (Vết chân đã in khắp trên non sông muôn
dặm/ Khi trở về trong bụng chứa đầy sách vở - Đề Sát viện Bùi công "Yên Đài anh ngữ"
khúc hậu), Bách trác thiên ma phương thị học/ Nhất tri bán giải vị vi văn (Trăm giũa
nghìn mài mới gọi là sự học/ Hiểu biết nửa vời thì chƣa làm văn chƣơng đƣợc - Hí tác thi
luận, kì nhất). Do đó, theo Cao Bá Quát, Tô Đông Pha làm thơ tự nhiên nhƣ vậy, là vì
sinh thời ông đã đọc vạn cuốn sách:
Bình sinh vạn quyển thư,
Xúc tiệp nhất mang miếu.
(Dạ thính Phan Sinh tụng Tô thi)
(Bình sinh Tô tử đã đọc vạn cuốn sách,
Chớp mắt là nắm đƣợc những điều bề bộn trong sách vở.)
47
Quan điểm này của Cao Bá Quát giống nhƣ tƣ tƣởng của Đỗ Phủ: Độc thư phá
vạn quyển/ Hạ bút như hữu thần. Đó là đòi hỏi vốn liếng hiểu biết. Điều này sẽ quy định
ngòi bút của tác giả, khiến cho tác giả có đƣợc ý đẹp lời hay.
Cao Bá Quát còn quan niệm, để có đƣợc văn chƣơng đặc sắc, quan trọng là còn
phải có sự sáng tạo thần tình của ngƣời cầm bút, thêm nữa, lòng thi sĩ cần “yên” xa rời
dục vọng:
Long nhãn tòng thiện hoạ,
An đạo cố năng cầm.
(Đồng Nguyễn Chuyết Hiên, Phạm Thúc Minh luận thi, đắc tâm tự, kì nhất)
(Mắt rồng tuỳ ở ngƣời vẽ giỏi,
Có giữ lòng yên với đạo mới đàn hay.)
Nhƣ vậy, Cao Bá Quát có quan điểm khá toàn diện về văn chƣơng, từ quan niệm
về ngƣời sáng tác cho đến khí cốt của tác phẩm. Ông đề cao chữ “tình”, sự sáng tạo, sự
thần diệu của ngòi bút… Những điều đó là những nhân tố mang ý nghĩa chi phối, làm
nên những điểm mới trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
3.2. Điểm mới trong quan niệm về xã hội
3.2.1. Điểm mới trong việc nhìn nhận và phản ánh hiện thực xã hội trong nước
3.2.1.1. Sự hoài nghi về lí tưởng, con đường khoa cử
Tu thân bằng đèn sách, nỗ lực thi cử để đỗ đạt là con đƣờng truyền thống của kẻ sĩ
trung đại. Phải đỗ đạt mới đƣợc ra làm quan để “phò nghiêng đỡ lệch”, giúp “vua Nghiêu
Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”. Bắt đầu từ việc thi đỗ, con đƣờng lập công danh để lƣu tên
vào bảng vàng bia đá mới đƣợc mở ra. Bởi thế, thƣ sinh xƣa luôn dốc toàn bộ tâm, trí, lực
vào dấu mốc hệ trọng này của cuộc đời. Nguyễn Trãi tâm niệm:
Một thân lẩn quất đường khoa mục,
Hai chữ mơ màng việc quốc gia.
(Ngôn chí, bài 7)
Nguyễn Công Trứ “vịnh” - ngợi ca việc đi thi của chính mình và quyết tâm đỗ đạt
cho kì đƣợc:
Đi không há lẽ trở về không,
Cái nợ cầm thư phải trả xong.
(Đi thi tự vịnh)
48
Đến Cao Bá Quát, nhiệt thành, nỗ lực ấy đã chóng vánh trôi qua. Thay vào đó là
sự hoài nghi, chán nản. Cao Chu Thần trên đƣờng lều chõng đi thi đã không còn khí thế
hồ hởi, tự tin, quyết thắng:
Nhập thế do khoa mục,
Tri danh tức thị triều.
Minh thời vô xích sĩ,
Đốn thủ vọng thanh tiêu.
(Nhập Vĩnh Lợi kiều)
(Vào đời chỉ có con đƣờng khoa mục,
Muốn nổi tiếng phải đến nơi đông ngƣời.
Thời buổi có minh quân không ruồng bỏ kẻ sĩ,
Cúi đầu ngồi dƣới trời xanh.)
Cao Chu Thần xác định chỉ có một con đƣờng trong cuộc đời: con đƣờng khoa
mục, cũng hi vọng “thời buổi trong sáng không ruồng bỏ kẻ sĩ”, song lại “cúi đầu ngồi
dƣới trời xanh”. Hành động ấy hàm chứa rất nhiều ý nghĩa. Nó gợi một tâm sự nhiều
chồng chất, gợi một sự bắt buộc chấp nhận, sự hoài nghi chán chƣờng? “Trời xanh” trong
ý thức Nho giáo còn chỉ vua, thể chế triều đình. Kẻ sĩ không “ngẩng đầu” nhìn “trời
xanh” mà “cúi đầu” phải chăng đã không còn một niềm tin vững chắc. Đi thi lại không đỗ
đạt, Cao Chu Thần tự yên ủi mình:
Công danh nhất lộ kỉ nhân nhàn?
Quan cái phân phân ngã hành hĩ!
(Hoành Sơn vọng hải ca)
(Trên con đƣờng công danh mấy ai đã nhàn?
Mũ lọng nhộn nhịp ta cũng đi đây!)
Câu thơ đã mang sắc thái trào lộng. Trợ từ “hĩ” (rồi, đây) ở cuối câu chẳng những
thể hiện tinh thần kẻ sĩ Cao Bá Quát bị buông xuống mà nó còn nhƣ biểu lộ việc Cao Chu
Thần đi thi giống nhƣ đi theo số đông, bị cuốn theo dòng mà mất đi ý thức chủ quan của
mình. Nó nhƣ khởi đầu cho lối đi thi mang tính a dua, bắt chƣớc của Tú Xƣơng sau này:
Tấp tểnh người đi, tớ cũng đi,
Cũng lều cũng chõng, cũng đi thi.
(Đi thi)
49
Tuy nhiên, nụ cƣời hài hƣớc của Chu Thần không nhiều. Chủ yếu là nỗi buồn đau
vời vợi về sự mù mịt của con đƣờng thi thố: Du du từ cố quốc/ Man man hướng trường
lộ/(…)Ức ngã tích niên du/ Dĩ vi phù danh ngộ/ Thử biệt hựu an chi?/ Vãng sự không hồi
thủ/ Nhập thế hữu văn chương/ Đào danh hà sở mộ? (Lòng vời vợi từ biệt quê nhà/ Đi
trên con đƣờng dài thăm thẳm/ (…) Nhớ lại những chuyến đi năm trƣớc/ Đã bị lầm vì
chút phù danh/ Lần này lại từ biệt để đi đâu nhỉ?/ Ngoảnh đầu lại nhìn hoài việc cũ/
Nhƣng vào đời đã có văn chƣơng/ Trốn danh thì còn ham muốn gì? - Phó Nam cung,
xuất giao môn, biệt chư đệ tử), Cử bôi thời tự vấn/ Quyện mã thượng trường đồ (Thƣờng
có lúc cất chén tự hỏi/ Ngựa đã mỏi, đƣờng dài, tính sao? - Đáp Trần Ngộ Hiên)…
Cao Chu Thần bị rơi vào bế tắc. Nhận thấy rõ đó là “hƣ danh”, không tƣơng lai,
không hi vọng, song lại chƣa tìm đƣợc một con đƣờng nào khác. Bởi vậy, cứ phải chấp
nhận trƣợt theo con đƣờng định sẵn. Bản thân lận đận trên con đƣờng công danh, lại
chứng kiến cảnh hiện thực trƣờng thi, Cao Chu Thần càng ngán ngẩm:
Hội đồng từ ngoại nhật tây tà,
Túc vũ hoàng nê một bích sa.
(Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan huyện thí)
(Họp nhau bên ngoài nhà thờ, mặt trời đã xế trƣa,
Mƣa đêm đƣa bùn vàng chôn vùi cỏ biếc.)
Chỉ bằng vài ba nét phác hoạ, trƣờng thi dƣới mắt Chu Thần hệt nhƣ một thảm
cảnh. Thời gian là lúc trời đã xế trƣa - mặt trời ngả sang hƣớng tây - nhật tây tà. Đó là
thời gian đã qua thời điểm chính dƣơng, sang âm theo quan niệm của ngƣời trung đại.
Thời khắc ấy ứng với nỗi buồn, với sự suy thoái. Không gian là bên ngoài nhà thờ, trên
một mảnh đất bẩn vừa trải qua cơn mƣa đêm, bùn “một” - vấy lên chôn vùi, làm chìm cỏ.
Sĩ tử xuất hiện trong thời gian, không gian ấy thật nhếch nhác. Cảnh ấy khiến Chu Thần
buông một lời than:
Chính thị văn chương tân khổ địa,
Mĩ nhân đường thượng thái kiêu ngoa.
(Ngũ nguyệt thập nhị nhật quan huyện thí)
(Đúng thật văn chƣơng là đất cay đắng khổ sở,
Ngƣời đẹp trên nhà quá kiêu ngoa.)
Hai câu này Cao Bá Quát đã lấy ý từ bài thơ của Tống Trân Tông Triệu Hằng:
50
Phú gia bất dụng mãi lương điền,
Thư trung tự hữu thiên chung túc.
An cư bất dụng giá cao lâu,
Thư trung tự hữu hoàng kim ốc.
Thú thê mạc hận vô lương môi,
Thư trung tự hữu nhan như ngọc.
Xuất môn mạc hận vô nhân tuỳ,
Thư trũnga mã đa như thốc.
Nam nhi dục toại bình sinh chí,
Ngũ kinh cần hướng song tiền đọc.
(Nhà giàu chẳng phải mua ruộng tốt,
Trong sách tự có ngàn bồ thóc.
An cƣ chẳng phải xây nhà cao,
Trong sách tự có nhà lầu vàng.
Lấy vợ chẳng hận không ngƣời mối,
Trong sách tự có ngƣời nhƣ ngọc.
Ra đƣờng chẳng hận không tuỳ tùng,
Trong sách xe ngựa nhiều vô khối.
Làm trai muốn thoả chí tang bồng,
Bên cửa chuyên cần đọc ngũ kinh.)
Tống Trân Tông Triệu Hằng nhiệt thành khẳng định muốn giàu sang phú quý, vợ
đẹp nhƣ ngọc, kẻ hầu ngƣời hạ, xe đƣa ngựa đón thì chăm chỉ dùi mài kinh sử, để đi thi
đỗ đạt làm quan. Còn Cao Bá Quát cay đắng phát biểu học tập để đƣợc nhà vàng, ngƣời
đẹp khó lắm, khổ lắm. Ông từ chính bản thân mình khẳng định sự nhọc nhằn của kẻ sĩ:
Dư sinh phù danh ngộ,
Thập niên trệ văn mặc.
Gian nan nhất đệ hậu,
Tiều tuỵ vô nhan sắc.
(Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Đời ta trót nhầm nhỡ vì cái danh hờ,
Hàng mƣời năm chìm đắm trong bút mực.
Sau bao khó khăn mới thi đỗ đƣợc,
51
Tiều tuỵ không còn ra hồn ngƣời.)
Đây là một luồng ý thức mới lạ trong văn học thời trung đại. Bởi các nhà Nho
trƣớc có thất vọng về triều chính, có thấy con đƣờng mình đi, việc mình làm là “danh
tiếng hão”… nhƣng là sau khi đã hết mình cống hiến, tận tâm tham gia triều chính. Trần
Nguyên Đán sau khi về trí sĩ mới than thở:
Tam vạn quyển thư vô dụng xứ,
Bạch đầu không phụ ái dân tâm.
(Nhâm Dần lục nguyệt tác)
(Ba vạn sách hoá thành giấy vụn,
Bạc đầu luống những phụ dân đen.)
Nguyễn Công Trứ trải qua đƣờng công danh hoạn hải ba đào mới thề:
Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo!
(Vịnh cây thông)
Còn Cao Bá Quát ngay khi còn là bạch diện thƣ sinh đã hoài nghi, ngao ngán.
Tâm trạng ấy theo ông, dằn vặt ông suốt trong từng hành trình cuộc đời. Ông thấy mình
không còn sức lực để theo đuổi con đƣờng hoạn lộ:
Thích xúc ngâm thành đản tự bi,
Thôi tê khởi liệu nhập niên kì?
Bất kham trọng vọng Kinh thương đạo,
Kí đắc tương tòng trấn phủ ti.
(Dạ thoại thị Phan Hành Phủ)
(Vắt óc làm xong thơ chỉ thấy buồn cho mình,
Sự trông chờ qua mƣời năm đèn sách có ngờ đâu lại dun dủi nhƣ thế này.
Không đủ sức theo con đƣờng trọng vọng ở kinh đô,
Ghi đƣợc là sẽ theo các chức ở dinh trấn phủ, tuần phủ thôi.)
Và càng ngày, ông càng nhận thấy lối học hành, thi cử kiểu Nho giáo là thiếu thiết
thực: Khách tâm kinh tế nguyệt/(…) Tương từ uổng tri thức (Lòng khách kinh sợ những
năm tháng trôi qua/ (…) Gom góp tri thức chỉ uổng phí - Đoan ngọ), Ngô nghi dĩ quyết
thập niên sơ/ Nhất tiền bất trị văn chương sự (Ý ngờ của ta đã quyết mƣời năm trƣớc/
Chuyện văn chƣơng không đáng giá một đồng tiền - Hạ dạ vấn bốc đồng Hành Phủ),
52
Thập niên ác bút phí quang âm (Mƣời năm cầm bút phí cả thì giờ - Phục giản Phương
Đình), Nhất sinh cô phụ ngũ xa thư (Một đời đã phụ cả năm xe sách - Sơ đầu), Tảo tín
văn chương bất trị tiền (Ta sớm tin rằng văn chƣơng là điều chẳng đáng giá - Thuật
hoài), Văn chương Tinh Vệ hận (Văn chƣơng đã mang mối hận của chim Tinh vệ - Thuật
hoài)…
Nhận thức ấy trở nên thấm thía, rõ rệt vào lúc Cao Bá Quát đi “dƣơng trình hiệu
lực”, đƣợc tận mắt thấy văn minh của một chân trời khác:
Hoạn du tỉnh thức ngư thiên lí,
Ngưng kiến chân thành báo nhất ban.
(Nhị thập nhị nhật đắc phong, hí trình đồng chu, kì nhị)
(Có cuộc hoan du mới biết cá lớn nghìn dặm,
Kiến thức hẹp hòi khác nào thấy con báo chỉ thấy có một vằn.)
Theo giai thoại, Cao Bá Quát vốn tự nhận “thiên hạ có ba bồ sách, mình đã chiếm
một”. Kiêu đến vậy mà nay tự nhận thấy kiến thức của mình chỉ hẹp hòi nhƣ “thấy con
báo chỉ thấy có một vằn”, Cao Bá Quát nhƣ rơi từ lồng lộng trời xanh xuống gồ ghề mặt
đất. Câu thơ đƣợm một nỗi buồn chua chát, xót xa!
Tƣ tƣởng, tâm trạng này của Cao Bá Quát khác với các nhà nho thời trƣớc và các
nhà nho hoàng tộc đƣơng thời. Các nhà nho trƣớc đã li tâm khá nhiều với các vị vua, với
triều đình. Cao Bá Quát tiến thêm một bƣớc. Với việc sớm thức tỉnh, nhận ra nhƣợc điểm
của con đƣờng khoa cử học hành theo Nho giáo truyền thống, ở Cao Bá Quát đã bắt đầu
xuất hiện sự li tâm với tƣ tƣởng, con đƣờng của Nho giáo. Còn các nhà nho hoàng tộc
đƣơng thời “Đƣợc hƣởng những quyền lợi lớn lao, đƣợc sống cuộc đời vƣơng giả, tất
nhiên giai cấp quý tộc phải cố bảo vệ những đặc quyền của mình bằng sự trung quân,
bằng cách ca tụng triều đại của mình và đề cao chế độ đƣơng quyền” [61,87]. Thơ của
Tƣơng An quận vƣơng là một ví dụ. “Tâm trạng của Tƣơng An quận vƣơng quả thật đã
tiêu biểu cho tâm trạng của giai cấp quý tộc thống trị. Đó là lòng tôn sùng và trung thành
tuyệt đối với vua, niềm kiêu hãnh về tổ tiên, dòng họ và triều đại nhà Nguyễn” [61,103].
3.2.1.2. Sự quan tâm tới rủi may của cuộc đời và tư tưởng, nhân tính con người
trong hoàn cảnh sống khắc nghiệt
Trong trào lƣu văn chƣơng viết về “những điều trông thấy”, phản ánh hiện thực
nóng bỏng của xã hội, Cao Bá Quát góp thêm một tiếng nói. Thơ ông có nhiều bức tranh
hiện thực xã hội nhức nhối. Đó là nỗi đau về nhân tình: Tục sự ái huyên tảo/ Vật tình hiếu
53
khoa trá/ Trung trực thành uý đồ/ Nhân nghĩa vi truyền xá (Việc thông thƣờng (chỉ) yêu
thích ầm ĩ sớm/ (Đối với) vật, tình (thì) muốn khoe khoang dối trá/ Ngay thẳng trở thành
con đƣờng nguy sợ/ Nhân nghĩa làm truyền xá - Bình sinh ngũ thập vận), là cảnh dân đói,
quan phát chẩn, nơi khác cũng bồng bế nhau đến trông chờ (Quan chẩn), cảnh bắt lính
hệt nhƣ trong Thạch Hào lại của Đỗ Phủ (Phúc Lâm lão)… Đối lập với cảnh khốn khổ
của dân chúng là cảnh nhà vua xây hành cung để du ngoạn, nghỉ mát (Quá Quảng Trị
tỉnh), cảnh nhà vua quyên tiền dân chúng để mua hàng quân dụng; khánh tiết, vua ban áo
mặc cho các quan trong khi dân tình xơ xác (Tạp đề, kì nhị)…
Tuy nhiên, so với các bậc tiền bối Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nguyễn Gia Thiều, Đặng
Trần Côn, Nguyễn Du… và các tác giả đƣơng thời Nguyễn Miên Thẩm, Phan Thúc Trực,
Nguyễn Văn Siêu…, việc khắc hoạ thảm cảnh của dân chúng và hiện thực tối đen của xã
hội trong thơ Cao Bá Quát chƣa đậm nét và sinh động bằng. Song, ông lại bƣớc đầu đóng
góp một hƣớng nhìn nhận mới: chú ý đến sự rủi may của cuộc đời và tư tưởng, nhân tính
con người trong cảnh lầm than, cay cực.
Cao Bá Quát nhận thấy, con ngƣời bị đẩy vào nhọc nhằn khổ đau còn vì rủi ro dễ
dàng ập đến từ tứ phía. Do thiên tai, lũ lụt:
Hàn lạo nãi liên phát,
Tai lê huống vị tô.
(Độc dạ)
(Nhƣng nạn rét, nạn lụt cứ phát sinh liên tiếp,
Huống chi dân đen bị tai nạn chƣa đƣợc khôi phục.)
Do “vận mệnh?” mà con ngƣời không thể lƣờng:
Ngã hành vị sổ nguyệt,
Sự biến lũ bất trắc.
Lai nhật thả do đa,
Thuỳ năng liễu thông tắc.
(Đắc gia thư, thị nhật tác)
(Ta mới đi chƣa đƣợc vài tháng,
Mà đã bao nhiêu biến cố không ngờ.
Nữa rồi ra ngày còn dài,
Ai lại có thể không có sự may rủi?
54
Thậm chí, do chính từ hoàn cảnh cuộc sống. Đọc Đạo phùng ngạ phu (Giữa
đƣờng gặp ngƣời đói), độc giả không biết nên khóc hay nên cƣời. Ngƣời bốc thuốc ngƣợc
xuôi từ chốn này tới chốn khác: từ nông thôn anh ta lên kinh kì - nơi đông ngƣời, hi vọng
dễ dàng kiếm sống hơn - nào ngờ ngƣời kinh kì đều khoẻ mạnh. Kinh kì không có kẻ ốm
đau cũng là sự rủi ro của ngƣời bốc thuốc! Anh ta rơi vào bế tắc không còn biết đi đâu, về
đâu:
Gia bần nghiệp y bốc,
Ngã lai tẩu Trường An.
Trường An vô bệnh nhân,
Quần y như khâu san.
Linh đinh vọng qui lộ,
Cực mục vân man man.
(Nhà nghèo làm thuốc và coi bói,
Tôi đi tới Trƣờng An.
Trƣờng An không ai ốm,
Các thầy lang đầy rẫy nhƣ núi gò.
Bơ vơ nhìn con đƣờng về,
Hết tầm mắt chỉ thấy mây che mù mịt.)
Có khi, rủi ro lại đến từ chính sự hậu đậu của bàn tay ngƣời khó:
Triêu lai lí tửu tịch,
Ngộ phá lưu li tôn.
(Phụ tương tử)
(Chẳng may, sáng nay dọn tiệc rƣợu,
Lại lỡ tay đánh vỡ mất cái bình bằng ngọc lƣu li (của ông chủ).)
Những sự bất trắc ấy làm cho con ngƣời thật đáng thƣơng. Cao Chu Thần khiến
ngƣời đọc thấy cuộc sống thực nghiệt ngã. Con ngƣời bị bất hạnh muôn hình ngàn trạng
đe doạ, không thể lƣờng. Vậy nên, “trông ngƣời mà nghĩ đến ta”, Cao Bá Quát than:
Du du nghịch lữ trung,
Bách niên thuỳ tự khoan.
(Đạo phùng ngạ phu)
(Đời ngƣời dằng dặc nhƣ ở quán trọ,
55
Ai dám khoe mình thƣ thái trọn đời.)
Quan tâm đến rủi may, Cao Bá Quát đã thể hiện cảm giác bất an trƣớc cuộc đời.
Thơ ông không chỉ tái hiện nỗi khổ đau trăm chiều của cuộc sống mà còn có chiều sâu
trong sự phản ánh, biểu đạt.
Không chỉ chú ý khắc hoạ nỗi khổ của con ngƣời một phần do sự rủi may, Cao
Chu Thần còn quan tâm đến bản chất của con người trong hoàn cảnh khốn cùng ấy. Cao
Chu Thần nhận thấy, có những con ngƣời, hoàn cảnh khốn cùng trở thành lửa thử vàng
phẩm chất nhân ái, giàu đức hi sinh của họ. Đó là “Cô gái đi trên cầu lúc chiều tối”:
Tư lương hàn khổ vị đương ki,
Khang hột như châu khước điển y.
Phong lộ quá kiều hồn bất ác,
Ỷ môn ưng hữu vọng nùng quy.
(Mộ kiều quy nữ)
(Lo lắng rét khổ chƣa bằng đói,
Tấm cám đắt nhƣ châu, đành cầm cố chiếc áo (để mua).
Trong sƣơng gió qua cầu, không hề hay trời rét,
(Vì) có ngƣời đang tựa cửa ngóng nàng về.)
Đàn bà trong xã hội xƣa thƣờng “khuê môn bất xuất”, họ chỉ lo nội trợ. Ấy vậy
mà đói khổ đã buộc cô phải ngƣợc xuôi lo cái ăn cho gia đình. Dƣờng nhƣ đây không
phải là một cô gái Cao Bá Quát vô tình gặp. Hẳn là một ngƣời quen, một ngƣời thân của
Mẫn Hiên? Nên nhà thơ mới thấu cả cảnh ngộ lẫn tâm trạng của ngƣời con gái giàu đức
hi sinh này? Quên mình, đem áo đi cầm cố, quên cả trời đang rét, chỉ còn nỗi lo về cho
nhanh vì có ngƣời nhà đang ngóng trông! Cô hiện lên nhƣ “hạt bụi vàng” của cuộc sống.
Đó là một ngƣời ăn xin có “nhân cách”:
Cái tử lập trì trù,
Cơ hàn bất cảm hô.
Y khiên song lạp phá,
Mệnh đãi nhất tiền tô.
(Cái tử)
(Ngƣời ăn xin đứng ngập ngừng,
Đói rét chẳng dám lên tiếng.
56
Lê áo chắp bằng hai mê nón rách,
Tính mạng đợi một đồng tiền để đƣợc sống.)
Ngƣời ăn xin đã rơi vào tình cảnh “đến cái khố cũng không có mà mặc”. Áo anh
ta là “hai cái mê nón rách chắp lại”. Sắp chết đói đến nơi, buộc phải đi xin ăn, thế mà anh
ta vẫn “đứng ra vẻ ngập ngừng”, “không dám lên tiếng”. Hành động ngƣợng ngập bên
ngoài ấy đã thể hiện phẩm giá con ngƣời, ý thức tự trọng nhân phẩm của anh ta.
Nhƣng cũng có những nhân vật, cái đói đã khiến họ hoàn toàn trở về với con
ngƣời sinh học. Cao Bá Quát đã kể về việc gặp một ngƣời đói rách dọc đƣờng. Ngƣời đó
vốn là một nhà nho, nhƣng nghèo nên phải bốc thuốc và coi bói. Thế là một lúc, anh ta có
đến hai nghề. Ấy vậy mà vẫn không đủ sống. Anh ta lên kinh kì hi vọng kiếm đƣợc ăn -
nào ngờ không cạnh tranh nổi. Nực cƣời thay! Vì anh ta làm nghề thầy bói mà lại không
“bói” nổi đƣờng đi nƣớc bƣớc cho chính mình. Song tình cảnh thê thảm của anh ta đã át
đi tiếng cƣời mai mỉa. Hôm trƣớc, anh ta đã đành cầm cố cái tráp không, hôm sau - đành
nhịn, gặp ngƣời - chỉ mừng hụt, đƣợc nhân vật “tôi” cho ít đồ ăn thì nuốt vội vàng hấp
tấp! Đúng là “chân khả liên!". Nhà nho vốn trọng danh tiết, quan niệm “quân tử cố
cùng”. Nhƣng cái đói đã khiến vị nhà nho - thầy thuốc mà Cao Bá Quát gặp đã không còn
cảm giác xấu hổ, không còn đủ nghị lực để nghĩ đến chuyện giữ gìn chút thể diện. Qua
câu chuyện về nhà nho tội nghiệp, Cao Bá Quát cho thấy đúng là “Mọi lí thuyết chỉ là
màu xám”! Tƣ tƣởng cao đạo của Nho giáo chẳng phải lúc nào cũng có thể đƣợc áp dụng.
Hiện thực khắc nghiệt đã buộc con ngƣời ta phải sống trở về với bản năng “thực sắc tính
dã” (ăn uống, sắc dục là bản tính), với những nhu cầu sinh học rất thực - đói phải ăn, khát
phải uống. Miếng cơm, manh áo, sự sinh tồn trở thành yếu tố cốt tuỷ của cuộc sống! Đƣa
hiện thực này vào văn chƣơng, một lần nữa, Cao Bá Quát chứng tỏ cách nhìn thực tế sâu
sắc và nhân văn.
Và điều đáng nói nữa là sự tác động đến tƣ tƣởng của con ngƣời khi bị đẩy vào
đƣờng cùng. Cao Bá Quát đã cảnh báo thấm thía điều đó qua hành động và lời nói của
ông già Phúc Lâm nọ:
Hu ta lão hĩ! Chỉ bại tường
(Phúc Lâm lão)
(Nhƣng than ôi. Tôi già rồi”. (Lão vừa nói vừa) chỉ tay vào bức tƣờng đổ).
57
Hành động và lời nói đầy ám chỉ. Nó vừa thể hiện ý muốn phản kháng, vừa bộc lộ
sự nuối tiếc chua xót về tuổi già “lực bất tòng tâm”! Sự thay đổi nhân tính, tƣ tƣởng của
nhân vật nhà nho đói khổ và ông già Phúc Lâm trong thơ chữ Cao Bá Quát đã bắt đầu
chạm tới vấn đề trong các sáng tác hiện đại: kiểu nhân vật tha hoá.
Ở một bài thơ khác Cao Bá Quát có nhãn quan rất mới về sự thay đổi tâm lí, tình
cảm của con ngƣời. Từ góc nhìn của ngƣời vợ, Cao Bá Quát đã diễn tả sự biến đổi của
chinh phu:
Quân lai hà thảo thảo,
Vô nãi luyến khuê vi?
(Chinh nhân phụ)
(Chàng về sao qua quýt?
Hay là không còn lƣu luyến chốn phòng khuê.)
Chinh nhân phụ viết về một ngƣời vợ có chồng đi chinh chiến nhớ chồng ở nhà
dệt vải may chiến y, chồng phá đƣợc vòng vây, quay trở về nhƣng phẫn uất vì lòng hăng
say chƣa đạt hiệu quả, nên lại đi. Hai câu kết: “Chàng về sao qua quýt/ Hay không còn
quyến luyến chốn phòng khuê” biểu thị một nỗi niềm khác biệt của ngƣời chinh phụ
trong thơ Cao Bá Quát so với các tác giả khác trong văn học Việt Nam thời trung đại.
Các bài khác khai thác khía cạnh bi kịch chinh phu không về, chinh phụ buồn khổ trong
chờ đợi vô vọng. Cao Bá Quát viết chinh phu có về nhƣng không còn là ngƣời của ngày
xƣa nữa. Bất hạnh của chinh phụ chƣa hẳn là mất ngƣời chồng đi chiến trận mà còn là
mất ngƣời chồng ngay khi ngƣời chồng từ cuộc chiến đó trở về. Ngƣời chồng đã trở
thành một con ngƣời khác, không còn lƣu luyến chốn phòng khuê, không còn tình yêu
mặn nồng với vợ. Sự biến đổi tâm lí, tình cảm của con ngƣời - điều không dễ nhận thấy
ấy thật đáng sợ. Nỗi bất hạnh của chinh phụ đâu phải chỉ là chồng không về. Về rồi có
hạnh phúc? Bài thơ của Cao Bá Quát thể hiện sự khác biệt lớn về quan niệm, tƣ tƣởng.
Ngay từ thời trung đại, Cao Bá Quát đã đặt ra vấn đề về thế giới tình cảm phức tạp của
con ngƣời.
Có thể nói, trong sáng tác của mình, Cao Bá Quát đã bước đầu cho thấy mối quan
hệ giữa hoàn cảnh với tính cách con người, con người là sản phẩm của hoàn cảnh. Do
đó, “nếu nhƣ trong các tác gia thời trung đại có một ai mà cách nhìn, cách quan sát thể
hiện con ngƣời, cuộc sống đã có những nét gần gũi với hiện đại thì phải kể đến Cao Bá
Quát. Điều đó cũng góp phần làm nên sức sống lâu bền của thơ ông.” [163,87].
58
3.2.2. Ảnh hưởng của nước ngoài trong cách nhìn về xã hội, về thế giới được
phản ánh trong sáng tác
Trong và sau khi đi “dƣơng trình hiệu lực”, Cao Bá Quát đã có một nhận thức mới
về nhiều vấn đề của cá nhân và xã hội.
Đến phƣơng trời lạ, lúc đầu ông vẫn mang theo quan niệm của ngƣời phƣơng
Đông khi gọi ngƣời thuộc các nƣớc ở ngoài ảnh hƣởng văn hoá Hán là Man - Di:
Man ca quát nhĩ kỉ hồi văn,
Độc ỷ nguy lan tửu bán huân.
(Hạ Châu tạp kí, kì thập)
(Giọng) Man ca ầm tai đã nghe mấy hồi,
Một mình (ta) dựa vào lan can (uống) nửa chén rƣợu.)
Thậm chí, có lúc xấu hổ vì phải xa nơi văn minh (nơi ảnh hƣởng của văn hoá
Hán), để đến nơi man rợ (nơi ảnh hƣởng ngoài văn hoá Hán):
Tiêu tiêu liên mạc nhất tham quân,
Ngâm đáo“Tu ngu” bất nhẫn văn.
(Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự hữu cảm tẩu bút dữ chi)
(Vất vƣởng một chức tham quân trong màn sen (giữ việc văn thƣ),
Ngâm đến câu “Tu ngu” buồn không nỡ nghe.)
Tuy nhiên, những quan niệm cũ của ông nhanh chóng bị đổi thay hoàn toàn. Cao
Bá Quát thích thú, hứng khởi với những điều lần đầu tiên đƣợc nhìn thấy, đƣợc nghe
thấy:
Biểu lạp Tây lai đệ kỉ châu?
(…)Hải sự hỉ đa văn kiến ngoại.
(Tiểu ẩm hí bút)
(Đeo bầu xách nón sang phƣơng Tây, không biết là cõi thứ mấy,
(…) Việc ngoài khơi mừng có nhiều điều lạ tai lạ mắt.)
Từ đó, nhận thức về sự mới lạ, rộng lớn của thế giới đã đƣợc mở ra trong tâm trí
Cao Bá Quát. Ông có 46 bài viết về đất trời, con ngƣời ở vùng thuộc địa của phƣơng Tây
mới lạ.
59
3.2.2.1. Thể hiện nhận thức mới ở sự khác lạ về con người
Hình ảnh ấn tƣợng đầu tiên hiện ra trƣớc mắt ông là sự khác lạ về ngoại hình của
những con ngƣời đang sống ở đây:
Ba Tư cao kì thị
(Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)
(Ngƣời Ba Tƣ có sống mũi cao)
Qua cảm nhận khách quan, Cao Bá Quát lập tức có sự chú ý về ngoại hình của con
ngƣời. Hình ảnh quen thuộc của tầm vóc con ngƣời Việt Nam là: “Trạc ngƣời thì thấp
nhỏ hơn ngƣời Tàu, mà lăn lẳn con ngƣời, chứ không to béo. Mặt thì xƣơng xƣơng, trông
hơi bèn bẹt, trán thì cao và rộng, mắt thì đen và hơi xếch về đàng đuôi, hai gò má thì cao,
mũi hơi tẹt, môi hơi dày, răng thì to mà lại nhuộm đen. Râu thì thƣa mà ít, tóc thì nhiều
và dài, đen và hơi cứng. Dáng điệu đi đứng thì nhẹ nhàng và xem ra bộ vững vàng chắc
chắn” (Trần Trọng Kim). Trái với dáng vóc nhỏ bé, mũi tẹt của ngƣời Việt, Cao Bá Quát
lập tức bị thu hút bởi sống mũi cao của ngƣời Ba Tƣ. Đó là sự khác biệt về nhân chủng
học.
Không những vậy, ngƣời nƣớc ngoài còn khác ngƣời Việt về phong tục, văn hoá.
Trang phục, cử chỉ của họ cũng rất lạ:
Tây dương thiếu phụ y như tuyết,
Độc bẵng lang kiên toạ thanh nguyệt.
Khước vọng Nam thuyền đăng hoả minh,
Bả duệ nam nam hướng lang thuyết.
Nhất uyển đề hồ thủ lãn trì,
Dạ hàn vô ná hải phong xuy.
Phiên thân cánh thính lang phù khởi,
Khởi thức Nam nhân hữu biệt li!
(Dương phụ hành)
(Ngƣời thiếu phụ Tây dƣơng áo trắng nhƣ tuyết,
Tựa vai chồng ngồi dƣới bóng trăng trong.
Nhìn sang thuyền Nam có ánh đèn sáng,
Níu áo chồng nói chuyện ríu rít.
Tay cầm chén sữa một cách uể oải,
Đêm lạnh không chịu nổi gió bể.
60
Nghiêng mình, lại đòi chồng nâng dậy,
Đâu biết có ngƣời Nam đang ở cảnh biệt li!)
Trang phục của ngƣời đàn bà Tây dƣơng đối lập hoàn toàn với phụ nữ phƣơng
Đông truyền thống. Theo quan niệm của phƣơng Đông, màu trắng thƣờng là màu đau
buồn. Phụ nữ chỉ mặc đồ trắng khi có đại tang. Cô gái phƣơng Tây diện đồ trắng ngay cả
khi chồng đang còn sống, kề bên. Cao Bá Quát dùng lối so sánh “trắng nhƣ tuyết” để
tuyệt đối hoá màu sắc trên trang phục của cô. Toàn bộ trang phục ấy là một màu trắng
tinh, không hề có sự pha điểm màu khác. Thế mới lạ! Chƣa hết, phƣơng Đông thời đó,
đàn bà phải cung kính, phục tùng, giữ lễ với chồng, ở nhà phải “cử án tề mi” (dâng cơm
ngang lông mày) nhƣ nàng Mạnh Quang, ra ngoài phải ý tứ “thụ thụ bất thân”, đứng xa
chồng. Thế mà trƣớc mắt “ngƣời Nam” họ Cao, giữa bóng trăng trong, giữa gió bể (thiên
nhiên), cạnh thuyền của ngƣời Nam (thiên hạ), thiếu phụ phƣơng Tây kia trong quan hệ
với chồng hoàn toàn phá „lễ”. Thứ bậc, tôn ti ở đây đã bị đảo lộn. Hơn cả sự bình đẳng,
thiếu phụ Tây dƣơng chẳng những “dựa vào vai chồng” mà còn tự nhiên “kéo áo”, “nói
chuyện”, “đòi nâng dậy”. Không bình phẩm về họ, nhƣng Cao Bá Quát đã hạ một câu
kết: “Đâu biết ngƣời Nam đang ở cảnh biệt ly”. Chính câu kết này đã khiến bài thơ ngắn
giàu “ý tại ngôn ngoại”. Vì “đâu biết” nên họ mới tự nhiên thể hiện. Đây là cảnh thực,
không phải là cảnh diễn của sân khấu.
Cao Bá Quát còn nhận thấy sự kì thị màu da, đẳng cấp. Ông ghi lại cảnh bất công
giữa ngƣời da đen và ngƣời da trắng:
Thiết li vô toả quy xa nhập,
Cá cá ô nhân ngự bạch nhân.
(Hạ Châu tạp kí, kì tứ)
(Rào sắt không khoá, xe cộ trở về (cứ việc) đi vào,
Rặt những ngƣời da đen đánh xe cho ngƣời da trắng.)
Ở đây có sự tƣơng phản đối lập: da đen - da trắng; da đen làm, kéo xe chở ngƣời
da trắng - da trắng đƣợc đàng hoàng ngồi trên xe. Màu da ở đây ứng với công việc và
thân phận. Cảnh tƣợng này - sự phân biệt màu da gắn liền với đẳng cấp - ở phƣơng Nam
chƣa từng có!
Tiếp đó, cảm nhận của Cao Bá Quát về thế giới con ngƣời ngoại quốc còn là ở chỗ
họ rất năng động và sôi động với nghề buôn bán:
61
Tây sa phát Hán lộ,
Khai nguyên đãng nan thu.
(…)Hiệp thử vạn lí du.
(Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)
(Bè Tây theo đƣờng đi (của chúng tôi),
Nguồn mở khó thu lại.
(…) Len lỏi vƣợt hàng ngàn dặm.)
Điều này, khác biệt với tố chất của ngƣời Việt Nam, ngại di chuyển, thích gắn bó
với luỹ tre làng “Ta về ta tắm ao ta / Dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn”. Ngƣời ngoại quốc
vừa chú ý sử dụng và khai thác các giá trị tài nguyên của nƣớc mình vừa tích cực “Hán
lộ”, xuôi xuống các vùng biển ở các nƣớc xung quanh để tìm kho báu. Ngƣời phƣơng
Đông theo tƣ tƣởng Nho giáo chỉ trọng ngƣ, tiều, canh, mục - những nghề trong sạch, còn
buôn bán bị coi là thấp hèn, trọng lợi, thiếu nhân cách. Trong khi đó, ở phƣơng trời khác,
các thuyền buôn tấp nập, tác động mạnh mẽ đến đời sống xã hội.
Từ sự khác biệt về con ngƣời, nghề nghiệp, văn hoá…, Cao Bá Quát nhận thấy
nhiều điểm dị biệt khác giữa hai vùng Âu, Á.
3.2.2.2. Thể hiện nhận thức mới về sự giàu sang và sức mạnh kì lạ của văn minh
phương Tây
Con ngƣời khác biệt cho nên cuộc sống của con ngƣời ở vùng thuộc địa của
phƣơng Tây cũng không giống đất nƣớc nghèo khó của họ Cao. Cao Chu Thần đƣợc tận
mắt chứng kiến những ngôi nhà sang trọng và lối sinh hoạt vƣơng giả. Ông có thêm nhận
thức nữa về sự giàu sang và sức mạnh kì lạ của văn minh phương Tây di căn, di thực vào
thuộc địa:
Lâu các trùng trùng giáp thuỷ tân,
Tùng âm lương xứ dị hoa xuân.
(Hạ Châu tạp kí, kì tứ)
(Lầu gác từng dãy kề sát bên bến nƣớc,
Dƣới bóng tùng râm mát hoa lạ tốt tƣơi.)
Không gian thế giới văn hoá vật chất phƣơng Tây mở ra trƣớc mắt ngƣời đọc.
Sông núi đất trời ở đâu cũng thế, nhƣng chính khối óc và bàn tay con ngƣời, chính "nhân
tạo" làm cho "thiên tạo" cũng trở nên khác lạ. Ở đó, không chỉ có hoa, sông, bóng cây
62
tùng đại diện cho cảnh thiên nhiên, mà còn đƣợc tô điểm làm đẹp hơn bởi “lầu gác trập
trùng”, các khu biệt thự nối tiếp nhau nguy nga.
Đó thực là thế giới văn minh sầm uất, giàu có. Bầu không khí phố xá, ngƣời -
ngƣời qua lại trên xe đông vui, náo nhiệt. Cuộc sống của họ thật ung dung, thoải mái:
Song song phù lạp hạ triêu tình,
Phiến phiến hồng kì chiếu thuỷ thanh.
Dương nữ như hoa thướng xa khứ,
Kỉ hàng huề thủ sấn du minh.
(Hạ Châu tạp kí, kì ngũ)
(Hai thuyền cập bến vào buổi sáng tạnh ráo,
Từng lá cờ đỏ chiếu xuống làn nƣớc trong.
Cô gái Tây đẹp nhƣ hoa lên xe đi,
Mấy hàng ngƣời dắt tay nhau vui chơi trong sáng mai.)
Có nhà cao cửa rộng, ăn mặc sang trọng, ngƣời ngoại quốc còn có cả các sản
phẩm khoa học văn minh kì lạ. Đó là chiếc kính viễn vọng chính tác giả đƣợc thƣơng gia
Hoàng Liên Phƣơng cho ngắm thử:
Quần sơn như khối, hải như bôi,
Tống hướng tằng lâu biểu lí khai.
(…)Nhất uyển thanh trà, nhất chú yên,
Ô bì gian ý vọng vân thiên.
Tòng quân triển khước Ba Tư kính,
Khán đáo Bồng Lai thuỷ thiển biên.
(Đề Mĩ Tường điếm chủ Hoàng thị nạp lương lâu)
Núi non từng khối, biển nhƣ chén nƣớc,
Từ trong nhà lầu mở ra mọi hƣớng.
(…) Một chén trà xanh, một ngọn đèn,
Ở giữa (đám ngƣời) da đen (bản xứ) tôi ngắm mây trời.
Cùng ông lên đƣờng với kính (viễn vọng) Ba Tƣ,
(Tôi) nhìn thấy cảnh bờ nƣớc cạn Bồng Lai.)
Đặc biệt nhất là Hồng mao hoả thuyền ca. Cao Bá Quát tập trung khắc hoạ sức
mạnh chiếc tàu thuỷ Anh mà ông tận mắt chứng kiến. Lần đầu tiên biết về chiếc tàu thuỷ,
63
Cao Bá Quát đã quan sát hết mực tỉ mỉ và miêu tả nó bằng tất cả cảm hứng ngợi ca thán
phục của mình:
Cao yên quán thanh không,
Tả tác bách xích đôi.
Yêu kiều thuỳ thiên long,
Cương phong xuy bất khai.
Đà sư kinh khởi thuỷ thủ lập,
Tứ biên tiếu ngữ phân huyên hôi.
Ngã diệc lãm y hướng đông vọng,
Đạo thị dương phiên hoả thuyền thiên di lai.
Nguy tường ngật lập ngũ lạng tĩnh,
Tu đồng trung trĩ, phún tác yên tồi ngôi.
Hạ hữu song luân triển chuyển đạp cấp lăng…
(Khói ùn lên tuốt trời xanh,
Đùn lên cao ngút ba trăm thƣớc liền.
Rồng trời sa xuống nghiêng nghiêng,
Mặc cuồng phong thổi con thuyền chẳng sao.
Ta cũng xốc áo hƣớng đông ngắm,
Đây là chiếc tàu Tây đang tiến lại veo veo.
Cột tàu chót vót, quay hƣớng gió lặng,
Ống khói đứng giữa nhả mây lƣng trời cao.
Dƣới có hai guồng xoay chuyển đập ngọn sóng,
Guồng quay, sóng vỗ ầm ầm nhƣ sấm gào.
Có lúc chạy ngang, giật lùi nhanh nhƣ ngựa…)
Sự xuất hiện của con tàu làm sững sờ tất cả mọi ngƣời: ngƣời lái thuyền (thuyền
An Nam) sửng sốt đứng dậy, các thuỷ thủ cũng đều đứng. Còn bản thân tác giả thì bị
“sốc” thực sự. Khác với những con tàu ở các nƣớc Phƣơng Đông đầu thế kỉ XIX lúc bấy
giờ - sản phẩm của nền văn hoá nông nghiệp, chỉ là những con tàu rất nhỏ, ngƣời ta phải
dùng sức để chèo, lái, mũi thuyền nặng có sức cản rất lớn. Con tàu của ngƣời Anh trong
mắt Cao Bá Quát nhƣ “rồng trên trời sa xuống”, bất chấp thiên nhiên: “gió thổi mạnh
cũng không tan”, “làm sóng tung toé nhƣ sấm ran”. Cao Bá Quát đã sử dụng các hình
tƣợng thiên nhiên kì vĩ: rồng, gió mạnh, sấm ran để thể hiện sức mạnh “siêu nhiên” của
64
con tàu. Nó nhƣ một con tàu thần: “không buồm, không chèo cũng không ngƣời đẩy”, thế
mà “có lúc đi ngang, chạy ngƣợc, nhanh nhƣ ngựa phi”, “chỉ búng ngón tay đã vƣợt qua
những đợt sóng kinh ngƣời”! Ngƣời điều khiển con tàu ấy mới thật phi thƣờng:
Hoán nhi ủng tị đàm tiếu lai,
Tuyết khố nga cân nhiễu tường lập.
(Họ gọi trẻ đến vểnh mũi cƣời nói,
Quần trắng mũ cao đứng vây quanh cột buồm.)
Ngự trị một con tàu thần kì nhƣ vậy, thế mà họ không hề có biểu hiện vất vả, nhọc
nhằn; trái lại ung dung, cƣời nói, quần trắng mũ cao sang trọng đàng hoàng. Đó là tƣ thế
của những con ngƣời làm chủ khoa học - kĩ thuật hiện đại. Không một lời bình phẩm,
nhƣng cách miêu tả của Cao Bá Quát đã không giấu giếm nổi nỗi thán phục của ông.
3.2.2.3. Thể hiện nhận thức mới về khả năng xâm lược của phương Tây
Nhƣ trên đã nói, năm 1847, Pháp đã tấn công Việt Nam, khiến hầu nhƣ toàn tộ
thuỷ quân của triều đình nhà Nguyễn bị hi sinh. Con ngƣời Việt Nam đã có sự chú ý rất
lớn tới hiểm hoạ xâm lƣợc của phƣơng Tây. Điểm mới trong cách nhìn của Cao Bá Quát
là ở chỗ ông cảm phục, thậm chí ngƣỡng mộ nền văn minh phƣơng Tây, đồng thời nhận
thức rõ phƣơng Tây xâm lƣợc phƣơng Đông không chỉ bằng vũ lực mà còn bằng chính
sức hút tự nhiên của văn minh.
Sang vùng thuộc địa của phƣơng Tây, quan sát văn hoá, văn minh phƣơng Tây di
thực, di căn vào các vùng thuộc địa, Cao Bá Quát đặc biệt chú ý đến các hình thức xâm
lƣợc của phƣơng Tây đối với các nƣớc phƣơng Đông. “Ông phát hiện ra rằng những
chiếc tàu hơi nƣớc lớn của ngƣời phƣơng Tây và những thƣơng nhân nƣớc ngoài khác
đầy rẫy trên mặt biển đi săn lùng các kho báu” [141,834]. “Nguy hiểm hơn nữa, ngƣời ta
còn nhận thấy rằng những ngƣời phƣơng Tây này không chỉ bằng lòng với việc săn lùng
gắt gao lợi nhuận, nhƣng họ còn đƣợc thúc đẩy bởi động cơ thống trị thế giới. Và ông
(Cao Bá Quát) còn viện dẫn ra cuộc bao vây châu Á từ thủa ngƣời Bồ Đào Nha chiếm
Ma Cao vào năm 1553, tiếp đến là cuộc chiếm đóng Penghu bởi ngƣời Hà Lan vào năm
1606, cuộc chiếm đóng Bengale của ngƣời Anh vào thế kỉ XVII và sự nhòm ngó của họ
vào Birmanie (Arakan và Tinasserim bị thất thủ vào năm 1826) và cả Thái Lan nữa”
[141,836]:
Ma Cao thuỷ nạp vũ,
65
Bành Hồ diệc bao tu.
Toại sử xà thỉ kiêu,
Quật trạch la Thương Châu.
(Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)
(Mà đất Ma Cao bắt đầu chịu sự ức hiếp khinh nhờn,
Đất Bành Hồ cũng chịu chung nỗi hổ thẹn.
Bèn khiến cho bọn lợn, bọn rắn sinh kiêu ngạo,
Chúng đào hang xây nhà la liệt ở đất Thƣơng Châu.)
Đối với Cao Bá Quát, dƣờng nhƣ thế giới này là dành riêng để phục vụ cho ngƣời
phƣơng Tây. Thêm nữa, không phải chỉ vì phƣơng Tây đích thân xâm lƣợc, có khả năng
xâm lấn mà còn là vì phƣơng Tây có một sức cuốn hút ghê gớm khiến cả đất trời lẫn con
ngƣời phƣơng Đông cũng tự bị ngả theo. Trên trời, mặt trăng hƣớng về phía Tây:
Thỉnh quân thí vấn châu tiền nguyệt,
Hà sự niên niên cánh hướng Tây?
(Đề Mĩ Tường điếm chủ Hoàng thị nạp lương lâu)
(Xin phép hỏi ông: mặt trăng ở phía trƣớc,
Cớ sao hết năm này sang năm khác lại cứ hƣớng về phía Tây?)
Dƣới đất, biển xuôi về Tây:
Hải thế hạ Tây cực,
Nộ quyển Côn Lôn khâu.
(Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)
(Thế biển bị hạ thấp về cực phƣơng Tây,
Sự tức giận cuộn về gò Côn Lôn.)
Và ngƣời ngƣời đắm đuối thèm khát sự giàu có của họ:
Dị địa luận thanh nhãn,
Y nhân vọng bạch lâu.
(Tặng Tô Thiên Tì)
(Trên đất lạ mà bàn về thanh nhãn (hoà hợp),
Ngƣời ngƣời nhìn theo lầu trắng - nhà của ngƣời Hà Lan.)
Rõ ràng, phƣơng Tây đang xâm lƣợc, đe doạ toàn bộ châu Á bằng nhiều hình
thức. Đó không chỉ là xâm lƣợc bằng súng đạn mà còn là xâm lƣợc bằng văn hoá, văn
66
minh. Từ chỗ kính phục, Cao Bá Quát đã đi tới hoảng sợ, đến mức hoang mang, thậm chí
có thể nói là hoảng loạn. Tác giả tìm câu hỏi ở sao trời:
Ngã hành tố Ngân chử,
Tầm vấn đông Khiên Ngưu.
Tinh tú bất khả độ,
Hoàng Cô diểu an cầu?
(Quan hải tam thập lục vận thư trình Ngộ Hiên)
(Ta đi ngƣợc lên bến Ngân Hà,
Tìm hỏi chàng chăn trâu bên bờ đông.
Không thể vƣợt sang tinh cầu khác,
Hoàng Cô mịt mùng sao tìm đƣợc?)
Rồi tìm đến sự hỗ trợ của thần thánh. Song cả thần thánh dƣờng nhƣ cũng sợ hãi
phƣơng Tây: Tây Vƣơng Mẫu đã bỏ trốn, chim xanh bặt tiếng, Zi Mâu - ngƣời sáng tạo
ra cung tên cũng bất lực trong việc bảo vệ nƣớc Trung Hoa, những con chim Tinh Vệ
không còn lấp đƣợc biển khơi và các quần đảo thì trôi dạt. Cuối cùng, tác giả bỗng giật
mình thấy có lẽ ông phải chạy trốn khỏi thế giới này để tìm đến đảo Bồng Lai thần bí ở
xa mãi tận biển Đông:
Tá vấn Bồng Lai thuỷ,
Cánh tác thanh thiển phần.
Hành đương hiệp bôi độ,
Cao phàn truy minh sưu.
(Tạm hỏi nƣớc Bồng Lai,
Làm cho cạn hƣơng trong sạch.
Chiếc chén nhỏ có thể vƣợt qua chăng,
Trèo lên cao truy tìm những điều còn tăm tối.)
“Nếu nhƣ những phái viên trƣớc đó nhƣ Lí Văn Phức và Phan Huy Chú đã biết rõ
sự cạnh tranh lẫn nhau giữa những nƣớc Âu Châu hùng mạnh và họ cũng đã nhận thức rõ
trình độ cao hơn hẳn của kĩ thuật phƣơng Tây đối với các nƣớc Trung Hoa, song họ lại
không thể hiện sự nao núng thực sự trong thâm tâm họ. Trái lại, Cao Bá Quát đã phải
thay đổi cách nhìn đối với thế giới.” [141,844].
Là ngƣời yêu nƣớc, Cao Bá Quát hi vọng vào thế hiểm của biển Đông:
67
Quân bất kiến:
Vỹ Lư chi thuỷ hối Ốc Tiêu,
Kiếp hoả trực thượng thanh vân tiêu.
Khai châm đông khứ thận tự giới,
Bất tỉ Tây minh triêu mộ triều.
(Hồng mao hoả thuyền ca)
(Ngƣơi chẳng biết:
Nƣớc Vỹ Lƣ rót về núi Ốc,
Ngọn lửa bừng bừng vƣợt thẳng mây.
Xoay hƣớng sang đây hãy cẩn thận!
Khác hẳn trào dâng bên bể Tây.)
mong ƣớc có một ngọn “gió đông”, đuổi sạch chiến hạm Tây phƣơng ra khỏi bờ cõi:
Nhất dạ trường phong hám hải đài,
Thuận An môn ngoại lãng như lôi.
Thiên thu thượng tác Chu Lang khí,
Yếu đả Hồng Mao cự hạm hồi!
(Thập ngũ nhật đại phong)
(Đêm qua sóng biển thét gầm vang,
Hải trấn rung mình - cửa Thuận An!
Ngàn thu nộ khí Chu Lang vẫn,
Đuổi bạt tàu Tây chạy ngút ngàn!)
Tuy nhiên, dù tìm đối tƣợng để hỏi, dù chạy trốn thực tại, rồi lại hi vọng hoang
đƣờng, Cao Bá Quát vẫn không thoát khỏi sự ám ảnh ghê gớm đối việc xâm lƣợc của
phƣơng Tây. Vậy nên, trong một lần chứng kiến cảnh ngƣời Hoa ngồi xem tuồng một
cách vô tƣ ở Singapore mà không nghĩ gì tới đất nƣớc mình đang trong cảnh hiểm hoạ -
nhà Thanh đã thua trận trong cuộc chiến tranh Nha phiến, ông bất bình, đau xót:
Liệt cự thôi minh tối thượng đàn,
Nhất thanh hám khởi dạ phong hàn.
Kích tu tráng sĩ phương hoành giáp,
Nộ mục tướng quân dĩ cứ an.
Xuất thế khởi vô chân diện mục,
Phùng trường lãng tiếu cổ y quan.
68
(Dạ quan Thanh nhân diễn kịch trường)
(Sân khấu đèn chăng rực rỡ soi,
Gió đêm hoà tiếng thét ghê ngƣời.
Quân vừa đeo giáo sùa râu đứng,
Tƣớng đã lên yên trợn mắt ngồi.
Tai mặt đời đâu toàn bộ giả,
Áo xiêm xƣa cũng thực trò chơi.)
Ánh đèn mắc giăng rực rỡ, quân tƣớng mạnh mẽ, tiếng thét ghê ngƣời hoà với làn
gió đêm xung quanh… tiếc thay lại chỉ là sân khấu! Cao Bá Quát tiếc cho ngƣời xem
đắm mình vào quá khứ, phi thực tế mà mù loà trƣớc hiện thực đang nhức nhối. Ông cảnh
tỉnh:
Hổ Môn cận sự quân tri phủ?
Thán tức hà nhân ủng tị khan.
(Việc ở Hổ Môn gần đây, anh có biết không?
Đáng phàn nàn cho ai đó cứ nghếch mũi ngồi xem.)
Việc ở Hổ Môn mà Cao Bá Quát nhắc tới ở đây, chính là tình hình chính trị ở
Trung Quốc lúc bấy giờ, khi điều ƣớc Nam Kinh đƣợc kí kết (1840). Đây là một điều ƣớc
bất bình đẳng đầu tiên, mở đƣờng cho bọn tƣ bản thực dân vào xâm lƣợc Trung Quốc.
Trong khi đó tình hình xã hội, nạn hút thuốc phiện, gian lậu ngày càng gia tăng. Là
những ngƣời con quê hƣơng, mang trong mình dòng máu Trung Hoa vậy hỏi anh sự kiện
ấy liệu anh có biết không? Không dừng lại ở cá nhân ngƣời xem tuồng, Cao Bá Quát mở
rộng đối tƣợng chê trách“ngán nỗi kìa ai mũi nghếch coi”. “Ai” (hà nhân) không phải là
từ nghi vấn dùng hỏi riêng một ngƣời, cũng không ám chỉ vào một ai đó, và cũng có thể
sẽ còn biết bao nhiêu ngƣời khác đang quên đi vận mệnh, lòng tự tôn với quê hƣơng đất
nƣớc mình giống nhƣ anh xem tuồng này.
Vƣợt lên trên những kẻ ấy, Cao Bá Quát ví mình nhƣ Trƣơng Khiên hay Ngũ Tử
Tƣ:
Phiếm sà mạn tự đàm Trương sứ,
Quyết nhãn bằng thuỳ điếu Ngũ Viên.
(Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm,
tẩu bút dữ chi)
69
(Cũng chuyện cƣỡi bè, cứ nói tràn đến Trƣơng sứ,
Ngẫm lời dặn “khoét mắt” nhờ ai viếng hộ Ngũ Viên.)
Trƣơng sứ (Trƣơng Khiên) một ngƣời Hán, ông nổi tiếng với việc cƣỡi bè đi sứ
nƣớc Nguyệt Thị, trên đƣờng đi ông đã hai lần bị nƣớc Hung Nô bắt giữ, mãi cho tới 15
năm sau ông mới trốn về đƣợc. Nhân vật Ngũ Viên hay đƣợc gọi theo tên tự là Ngũ Tử
Tƣ - một vị tƣớng giỏi có công giúp vua Ngô là Phù Sai đánh bại và bắt giam vua Việt là
Câu Tiễn. Vua Việt đem dâng nàng Tây Thi, vua Ngô Phù Sai tha cho Việt Vƣơng Câu
Tiễn. Nhƣng Ngũ Viên phản đối, vì ông dự đoán trƣớc đƣợc sự quay trở lại xâm lƣợc
nƣớc Ngô của Việt Vƣơng Câu Tiễn. Vua Ngô nghe gièm pha, sau đó bắt và giết Ngũ
Viên. Trƣớc khi bị giết, Ngũ Viên có dặn lại rằng: “Sau khi ta chết đi, thì khoét mắt ta
đem treo ở cửa thành để ta nhìn thấy quân Việt kéo vào nước Ngô”. Hai câu thơ kết thúc
bài thơ, Cao Bá Quát đã nghĩ mình giống nhƣ thân phận của Trƣơng Khiên và Ngũ Viên
vậy:
Ngã thị Trung Nguyên cựu nhân vật,
Tây phong hồi thủ lệ phân phân.
(Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm,
tẩu bút dữ chi)
(Ta cũng là nhân vật cũ ở Trung Nguyên,
Trƣớc ngọn gió Tây, ngoảnh đầu lại, lệ tuôn lã chã).
Qua hai nhân vật ấy, rõ ràng, Cao Bá Quát ngầm ý: ông đi “dƣơng trình hiệu lực”,
nhận thấy rõ ràng thế mạnh không thể cản trở của phƣơng Tây đối với việc xâm lƣợc
phƣơng Đông nói chung, Việt Nam nói riêng. Chắc chắn, ông sẽ nhận bi kịch của con
ngƣời có tầm nhìn trƣớc thời đại!
3.3. Điểm mới về chữ “tình”
Trong trào lƣu của một giai đoạn văn học “chủ tình”, Cao Bá Quát thị tài và cũng
rất đỗi đa tình. Ở thể phú, Cao Bá Quát đặc biệt “trọng tình”, “đa tình” với mối quan hệ
“tài tử - giai nhân” nhƣ các nhà nho tài tử khác:
Giai nhân nan tái đắc,
Trót yêu hoa nên dan díu với tình.
(Giai nhân I)
Tài tử với giai nhân là nợ sẵn,
70
Giải cấu nan chữ ấy nghĩa là sao.
Trải xưa nay từng đã xiết bao,
Kìa tan hợp nọ khứ lưu đâu dám chắc,
Giai nhân khứ khứ hành hành sắc.
Tài tử triêu triêu mộ mộ tình,
(…)
Hội tương phùng còn lắm lúc về sau,
Yêu nhau xin nhớ lời nhau.
(Giai nhân II)
Song đến thơ chữ Hán, cái “Tình” của nhà nho tài tử Cao Bá Quát có sự chuyển
hƣớng rõ rệt. Ông có sự bổ sung so với các bậc tiền bối và hƣớng về sự đề cao tình cảm
tự nhiên, chân thành với các mối quan hệ trong cuộc sống đời thƣờng.
3.3.1. Quan niệm về chữ “tình”
Nguyễn Công Trứ chủ yếu dành tình cảm cho các giai nhân, cô đào, nàng hầu;
Nguyễn Du nhìn thấy con ngƣời là thấy khổ đau (Văn chiêu hồn) và đặc biệt thƣơng cảm
những kiếp hồng nhan bạc mệnh - những con ngƣời tinh hoa của xã hội… Cao Bá Quát
mở rộng hơn trái tim yêu thương của mình.
Ông đề cao, trân trọng danh vị con người trong cái nhìn bình đẳng:
Bất tài diệc nhân dã,
Nhi nữ mạc khiêu du.
(Cái tử)
(Hèn ngu thì cũng là ngƣời,
Trẻ em chớ có trêu cƣời rẻ khinh.)
Với Cao Bá Quát, không phải chỉ đại diện cho tinh hoa, cái đẹp của con ngƣời
mới là đáng quý, đáng yêu. Dù là ăn mày, hèn ngu cũng đáng trọng - vì họ cũng là ngƣời.
Đây là một quan điểm hết sức nhân văn của Cao Bá Quát.
Trân trọng, đề cao con ngƣời, Cao Bá Quát đặc biệt coi trọng tình cảm gắn bó tự
nhiên giữa con ngƣời với quê hƣơng, bạn bè, gia đình, đặc biệt là với vợ con. Ông khẳng
định: Nhân sinh phi thảo mộc/ Ai lạc hệ tri thức/ Thuỳ vô thân gia luỵ/ Phủ ngưỡng lệ
triêm ức (Ngƣời ta sinh ra không phải là cỏ cây/ Có buồn có vui vì có hiểu biết/ Ai không
có cái luỵ gia đình/ Nhìn xuống trông lên nƣớc mắt tràn thấm ngực - Đắc gia thư thị nhật
71
tác). Nhƣ thế, đối với Cao Bá Quát, tình cảm của con ngƣời nhƣ bản năng tự nhiên,
không ai có thể thiếu. Đây là yếu tố cơ bản để tạo ra sự khác biệt giữa con ngƣời với cỏ
cây vô tri vô giác. Chẳng phải chỉ những anh tài, đấng bậc mới có mà là ở mọi con ngƣời.
Cũng theo quan niệm của Cao Bá Quát, gắn với chữ “tình” phải là chữ “chân”:
Sinh nhân vô dĩ tục tình lưu (Sống với nhau không nên giữ cái tình theo thói tục - Lưu
vận hoạ Hoán Phủ), Nhân sinh cảm ý khí (Ở đời ngƣời ta cảm nhau vì ý khí - Chu hành
há Thanh Khê, nhân cố nhân kí biệt tòng du chư đệ tử), Khổ liên thanh nhãn sinh tương
hứa (Khổ vì nỗi sống ở đời đã lấy mắt xanh mà đối đãi nhau - Dư hốt ư mộng trung vãng
thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm giả dã, nhân kí Tuần
Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm Tử, kì nhất), Tuyển hữu mạc thủ khí (Kén bạn không nên
chuộng khí - Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh dạ toạ), Bàn trung mục túc đạm do chân
(Mâm cơm đạm bạc có rau mồng tơi, mới là chân tình - Thương Sơn công kiến thị đáp
tặng tảo phạn trường cú, bái huệ chi nhục, ca dĩ hoạ chi)… Với quan niệm này, Cao Bá
Quát hƣớng tới điều cốt yếu nhất trong quan hệ là tình cảm chân thành!
Từ những quan niệm ấy, tiếng nói về đời sống tình cảm của Cao Bá Quát khác với
các bậc tiền bối.
Nguyễn Trãi chủ yếu nói về tình ƣu ái cháy bỏng với nhà vua. Khi nói tới cha,
ông cũng thƣờng gắn song hành với tình vua tôi: Quân thân nhất niệm cửu anh hoài (Một
niềm với vua và cha vƣơng vấn trong lòng - Đề Đông Sơn tự), Quân thân tại niệm thốn
tâm đan (Quân thân vẫn để dạ một tấc lòng son - Hải khẩu dạ bạc hữu cảm)… Nguyễn
Du bên cạnh nỗi lòng nhìn thấy con ngƣời là thấy khổ đau (Văn chiêu hồn), thƣơng cảm
đặc biệt những kiếp hồng nhan bạc mệnh (Đoạn trường tân thanh, Độc Tiểu Thanh ký…),
còn có niềm “thƣơng thân”. Ông cũng nói đến tình cha con, nhƣng nghiêng nhiều về
trách nhiệm của một bậc làm cha, day dứt vì không nuôi nổi vợ con: Thập khẩu đề cơ
Hoành Lĩnh bắc/ Nhất thân ngoạ bệnh đế thành đông (Mƣời miệng ăn kêu đói ở phía bắc
dãy Hoành Sơn/ Một mình ta đau yếu nằm rụi ở phía đông đế thành - Ngẫu đề). Nguyễn
Công Trứ quan niệm, ngƣời ta sống ở đời, không phải ai cũng gặp đƣợc giai nhân. Uy
Viễn tƣớng công xem mình là ngƣời hạnh phúc trên đời vì hiếm có ngƣời đƣợc hƣởng
thanh sắc nhƣ ông:
Minh quân lương tướng tao phùng dị
Tài tử giai nhân tế ngộ nan
(Duyên gặp gỡ)
72
(Vua sáng, tƣớng giỏi bỗng gặp nhau dễ
Tài tử giai nhân có cơ hội gặp nhau khó)
Đem hai phạm trù khác nhau đặt cạnh nhau: thú vui với chuyện cƣơng thƣờng,
thậm chí, chuyện trọng đại quốc gia còn dễ hơn là thú vui trong đời, Nguyễn Công Trứ
đặc biệt coi trọng giai nhân, thanh sắc.
So với các tác gia trên, Ngô Thì Sĩ có biểu hiện mới. Ông “chú tâm nhiều đến
những trăn trở về các vấn đề mang tính chất nhân bản nhất: tình yêu, hạnh phúc gia đình,
tình bè bạn, thân phận con ngƣời”, “chỉ tính riêng trong Anh ngôn thi tập số lƣợng thơ
dành cho anh em, cha con, ông cháu, chồng vợ, bạn bè và những kỉ niệm cá nhân đã
khoảng 100 bài, chiếm một tỉ lệ không nhỏ” [161,172], “Ngô Thì Sĩ bày tỏ tình cảm của
mình qua những chi tiết cụ thể rất thực” [161,265].
Nửa đầu thế kỉ XIX, các tác giả Nguyễn Văn Siêu, Phan Thúc Trực, Cao Bá
Quát… đi tiếp chiều hƣớng nội dung thơ ca của Ngô Thì Sĩ. Bóng hình vua, ngƣời đẹp
trong thơ chữ Hán thời này mờ nhoè đi. Biên giới của chữ “tình” tài tử đã được các tác
giả mở rộng và hướng về đời sống thường nhật, về các mối quan hệ gắn bó thân thiết
trong cuộc đời: gia đình, bạn bè, hàng xóm… Giống nhƣ các tác giả đƣơng thời, Cao Bá
Quát đã để tâm hồn của mình rất tự nhiên gắn bó mật thiết với cuộc đời, khiến thơ ca của
ông có chữ “tình” nguyên sơ, nhân bản. Thêm nữa, Cao Bá Quát diễn tả thế giới tình cảm
cá nhân ấy rất thắm thiết, xúc động. Ông thể hiện được tình cảm hai chiều giữa ông với
người thân và giữa người thân với ông ở chốn dương gian, trong cuộc sống đời thường.
Do đó, thơ chữ Hán Cao Bá Quát vừa có điểm chung so với các tác giả đƣơng thời, vừa
có độ sâu đậm, hấp dẫn riêng.
3.3.2. Thế giới tình cảm của Cao Bá Quát trong các mối quan hệ của cuộc sống
đời thường
3.3.2.1. Tình cảm gia đình
Theo thống kê của chúng tôi, Cao Bá Quát có 49 bài trực tiếp bộc lộ tình cảm với
những ngƣời thân yêu ruột thịt trong gia đình - cha mẹ, vợ con, anh chị em (đó là không
kể những bài ông nói chung về nỗi niềm với quê hƣơng). So với các tác giả cùng thời thì
đây là con số đáng kể, nhƣng so với tổng số 1212 bài thơ chữ Hán của Cao Bá Quát đã
đƣợc công bố, con số này chƣa phải là nhiều (4,04%). Điều đáng nói ở đây chính là bằng
73
sự chân tình và xúc động lớn, những bài thơ này đã gây ấn tƣợng đặc biệt trong số lƣợng
đồ sộ thơ chữ Hán của Cao Bá Quát.
Ngƣời thân trong gia đình Cao Bá Quát đƣợc nhắc đến gần nhƣ đủ đầy: ông tổ
Hồng Quế (Bình sinh ngũ thập vận), song thân (Quy cố trạch), anh trai Văn Ngu - hiệu
của Cao Bá Đạt (Bình sinh ngũ thập vận), ngƣời chị gái đã mất trong thời gian anh em
ông ở xa (Khốc vong tỷ), vợ (Tiếp nội thư tính kí hàn y, bút điều sổ sự), ngƣời con gái
sang thế giới bên kia trong cảnh nghèo khó (Mộng vong nữ)…
Viết về những ngƣời máu mủ ruột rà, gắn bó thân thiết ấy, ngòi bút của Mẫn Hiên
sử dụng tối đa lối biểu cảm của văn chƣơng trung đại: lấy cái cụ thể nói cái trừu tƣợng,
mƣợn cách diễn tả cực đoan để thể hiện tình cảm ở mức cao độ, nồng nàn, chứa chan
cảm xúc. Nói tới ngƣời thân là ông lệ rơi, hồn nát, hồn hoảng loạn, hồn lìa theo giấc
mộng về quê nhà: Cố hương hồi thủ viễn/ Cảm thán dục triêm cân (Quay đầu trông lại
quê nhà xa xôi/ Cảm thán lệ muốn thấm khăn - Tạc ức), Phong vũ cộng triêm khâm
(Trong buổi gió mƣa này, ai mà chẳng nƣớc mắt thấm áo - Văn Lưu Nguyệt Trì Bắc hành khuyết vi diện biệt phụng kí, kì nhị), Nhất giam đăng hạ vạn hàng đề (Một phong thƣ đọc
dƣới đèn, muôn hàng lệ rỏ - Tiếp nội thư tính kí hàn y bút điều sổ sự), Độc dạ tài thư lệ
(Một mình trong đêm viết bức thƣ đẫm lệ - Mộ đắc xá huynh quán dạ giam thư kiến kí),
Sậu kiến lệ như thôi (Nhác trông thấy con mà nƣớc mắt giàn giụa- Mộng vong nữ), Vô
ngôn lệ ám lưu (Không nói gì mà nƣớc mắt lặng lẽ tuôn - Nhất dạ); Hà xứ tương tư bất
đoạn hồn (Đã nhớ nhau thì ai ở đâu mà tâm hồn chẳng tan nát - Trệ vũ chung dạ cảm
tác), Trường đoạn nam phong khốc tỉ bi (Ruột nát theo gió nam buồn khóc chị - Khốc
vong tỉ), Cức thủ khải giam thư/ Tinh thần loạn hoàng hoặc (Vội vàng tay mở phong thƣ/
Tinh thần bàng hoàng rối loạn - Đắc gia thư thị nhật tác), Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê
(Đêm nay hồn vật vờ quanh chốn buồng thêu - Tiếp nội thư tính kí hàn y bút điều sổ
sự)…
Mỗi lần nhớ về quê nhà nhƣ vậy là một lần đau xót về ngƣời thân. Khi là sự khắc
khoải xin con gái đã mất trở về với mình: Thái diêm bần vị khuyết/ Tân khổ nhữ quy lai
(Nhà ta nghèo nhƣng dƣa muối vẫn không thiếu/ Dù đói khổ con hãy cứ trở về - Mộng
vong nữ), khi là lo lắng cho mẹ già không ngƣời an ủi, chăm sóc: Thuỳ hướng cao đường
uý nhị thân? (Nào ai an ủi mẹ cha - Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ
ngục), khi là dằn vặt mình bởi nỡ để Thê tử dị phương du (Vợ con lênh đênh quê ngƣời -
Tuế mộ), Bần thê tự cổ Hồ (Vợ nghèo tựa rợ Hồ đi buôn - Tự uỷ), “tự kể tội” mình Toạ
74
lệnh khuê thát tư/ Thất vi Hà Gian phụ (Khiến cho nhan sắc chốn phòng khuê/ Phải thất
vọng làm ngƣời vợ Hàn Gian - Tự cữu)….
Rõ ràng, Cao Bá Quát rất tình cảm và sống rất thực với nỗi niềm tâm trạng từ gan
ruột của mình chứ không phải từ những đòi hỏi của lễ giáo phong kiến. Ở đây không có
quan niệm “Quân tử cố cùng” (quân tử kiên cố trong hoàn cảnh cùng quẫn) - bất cứ hoàn
cảnh nào cũng khí phách, kiên trinh nhƣ tùng bách. Cao Chu Thần, ngƣợc lại, bộc lộ đến
cực độ đau khổ và yếu đuối khi nghĩ đến những ngƣời thân yêu!
Không chỉ là chuyện tình cảm nhớ thƣơng, đau xót, dằn vặt…, Cao Bá Quát còn
khác ngƣời ở chỗ ông chú trọng cả về nhu cầu về thể xác, trao thân gửi phận với người
vợ thân yêu. Biểu đạt nỗi nhớ ngƣời vợ “sống gửi thịt chết gửi xƣơng”, ngoài hình ảnh
chiếc gƣơng, tấm áo… của đời thƣờng, Mẫn Hiên đã không ngần ngại khi mƣợn hình
ảnh“chẩm”(chiếc gối), “sàng” (cái giƣờng) và “khuê” (căn buồng) gắn bó mật thiết với đời sống vợ chồng: Thiên biên chinh khách khuê trung phụ (Kẻ ở nơi chân trời, ngƣời ở chốn phòng khuê - Trệ vũ chung dạ cảm tác), Thử dạ tàn hồn nhiễu tú khuê (Đêm nay
hồn vật vờ quanh chốn buồng thêu - Tiếp nội thư tính kí hàn y bút điều sổ sự), Dạ dạ thủ không sàng (Đêm đêm em giữ chiếc giƣờng không - Tự quân chi xuất hĩ), Địch thanh
nhiễu chẩm tế như ngữ (Tiếng sáo quẩn quanh bên gối nhƣ giọng tỉ tê - Văn địch), Chẩm
biên hương mộng tam canh viễn (Ba canh bên gối, giấc mộng quê hƣơng càng thấy xa -
Dữ gia nhân tác biệt thị dạ dư bệnh chuyển phát), Khâm chẩm ng oạ thường đan (Chăn
gối nằm thƣờng lẻ loi - Độc dạ), Hồi phong suy quyện chẩm (Gió quẩn vào chiếc gối của
ngƣời đã mỏi - Hàn dạ tức sự)… Những hình ảnh này đã xuất hiện trong thơ Đặng Trần
Côn: Chàng thì đi cõi xa mưa gió/ Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn (Chinh phụ ngâm
khúc), thơ Nguyễn Du: Vầng trăng ai xẻ làm đôi/ Nửa in gối chiếc nửa soi dặm trường
(Đoạn trường tân thanh), nhƣng đó là hình ảnh dùng để nói hộ nỗi đau chia lìa của lứa
đôi trong tác phẩm, chủ thể phát ngôn là ngƣời chinh phụ (Chinh phụ ngâm khúc), là các
nhân vật trong Truyện Kiều có cốt truyện vay mƣợn. Còn ở đây, Cao Bá Quát dùng nó để
trực tiếp phát ngôn về tình cảm của chính mình. Những hình ảnh ấy là không gian riêng
tƣ của đời sống vợ chồng, vừa lắng sâu tình cảm, vừa thể hiện niềm khao khát ân ái - điều
mà trong quan niệm thời trung đại nhiều khi là cấm kị. Tiếng nói của Cao Bá Quát đã gặp
gỡ với con ngƣời hiện đại: vợ chồng là sự gắn kết cả tâm hồn lẫn thể xác. Phải nói rằng,
trong hoàn cảnh lễ giáo phong kiến khắt khe, nặng nề, nỗi niềm, khát khao của Cao Bá
Quát thực sự là mới mẻ và tiến bộ.
75
Cùng thời với Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Lý có bài Uỷ gia nội, Phan Thúc Trực
có tới 13 bài khóc thƣơng vợ. Những bài ấy đều rất cảm động, song đều là những tiếng
khóc nghẹn ngào dành cho vợ khi ngƣời vợ của các ông đã ở nơi chín suối. Cao Bá Quát
diễn tả xúc động đƣợc tình cảm vợ chồng quấn quýt, mặn nồng khi đang cận kề bên nhau,
đồng cam cộng khổ bên nhau trong từng khoảnh khắc của cuộc sống. Đây là điểm riêng
của Cao Bá Quát khi diễn tả tình cảm vợ chồng nói riêng, tình cảm gia đình nói chung.
Một điểm mới rõ rệt nữa của thơ chữ Hán Cao Bá Quát ở chủ đề gia đình là cách
thi sĩ tự sự bằng các chi tiết chân thực, cụ thể, sinh động. Trƣớc hết là sự biểu lộ tình cảm
của bản thân mình với gia đình qua kí ức về những hành động thực của người thân trong
sinh hoạt gia đình, trong đó, nổi bật lên là hình ảnh vợ con: Chuyết thê ỷ chẩm sơ bồng mấn/ Trĩ tử khiên y tạ khúc quăng (Bà vợ vụng về tựa vào gối chải mái tóc rối/ Con trẻ
ngây thơ kéo áo khoanh tay để gối đầu - Bệnh trung), Đối tháp bần thê phanh Bắc mính/ Xao môn tiểu nữ lộng Nam âm (Ngồi bên giƣờng ngƣời vợ nghèo đun ấm chè Bắc/ Gõ
vào cửa con gái bé chơi khúc nhạc miền Nam - Bạc mộ tư gia), Tha thời khan bút chỉ/
Thử nhật tiếu gia nương (Hôm nào đó xem giấy bút/ Hôm nay vui đùa cùng mẹ cha - Ức tử), Luyến mẫu đề cơ xứ/ Khiên ông học bái thì (Nào lúc bám lấy mẹ kêu đói/ Nào khi níu
lấy ông học vái - Hữu sở tư)…
Kí ức bao giờ cũng là sự thanh lọc từ ngồn ngộn các hoạt động, sự kiện; giữ lại
những gì ấn tƣợng nhất, sâu sắc nhất. Qua kí ức, Mẫn Hiên đã khắc hoạ đƣợc sống động
những đặc điểm bản chất nhất của vợ, con. Đó là dáng điệu ân cần của ngƣời vợ quê khi
chăm chồng đau ốm (chải tóc, đun thuốc bắc…). Đó là những hình ảnh thơ ngây, ngộ
nghĩnh đặc trƣng của con nít. Chúng hồn nhiên trong nhu cầu - đói đòi ăn, khát đòi uống
(níu mẹ kêu đói). Chúng thích bắt chƣớc ngƣời lớn (níu lấy ông học vái). Chúng tò mò,
nghịch ngợm (xem giấy bút). Chúng vui đùa, nũng nịu (kéo áo, khoanh tay để gối đầu)…
Tất cả đều là những hình ảnh cụ thể, chân thực đến từng chi tiết khiến cho tình cảm của
Mẫn Hiên dành cho ngƣời thân đƣợc thể hiện sinh động, phác thực, hồn nhiên, thấm thía,
khác xa tính chất chung chung, ƣớc lệ thƣờng thấy của văn chƣơng thời trung đại.
Một điều đáng chú ý là, trong mảng thơ này, Cao Bá Quát không chỉ diễn tả tình
cảm của mình với ngƣời thân mà còn luôn cảm động trước sự yêu thương và chăm sóc
của người thân dành cho mình. Ở phƣơng diện này, ông cũng diễn tả bằng những hành
động, lời nói cụ thể của ngƣời thân. Cao Bá Quát cho thấy vợ ông rất ân cần chu đáo. Bà
76
luôn “nâng khăn sửa túi” chu tất cho chồng. Lúc phu quân chuẩn bị lên đƣờng đi xa, bà
để:
Tiểu kính kí viễn khiếp,
Hàn y cố lưu phòng.
(Tự quân chi xuất hĩ)
(Chiếc gƣơng nhỏ đã gửi vào tráp ngƣời đi xa,
Tấm áo rét để lại trong phòng cũ.)
Bằng việc làm đó, vợ Mẫn Hiên gửi tới chồng biết bao tình ý. Chiếc gƣơng là lời
dặn dò thuỷ chung, mong chồng hiểu mình luôn ở bên phu quân (tích “gƣơng vỡ lại
lành”). Chiếc áo rét là niềm ƣớc muốn luôn có đƣợc hơi ấm của chồng kề bên, giống nhƣ
ngƣời con gái trong ca dao: “Chàng về để áo lại đây/ Phòng khi em đắp gió tây lạnh
lùng”, “Áo xông hương của chàng vắt mắc/ Đêm em nằm, em đắp lấy hơi”…! Ở đây, có
sự gửi đi và để lại, song ngƣời vợ đã xoá đi sự chia li bằng việc làm đầy ý nghĩa của
mình. Những vật dụng ấy mang hộ hồn của ngƣời này đến với ngƣời kia. Vợ chồng vẫn
nhƣ hình với bóng, luôn bên nhau. Đủ thấy, ý trung nhân của Cao Bá Quát không chỉ
“từng giã gạo mƣớn”, đảm đang, chịu thƣơng chịu khó mà còn là một thiếu phụ có chiều
sâu văn hoá, rất mực đằm thắm, hồn hậu!
Một lần khác, phẩm chất vàng ngọc của bà lại khiến Cao Bá Quát cảm động rơi
nƣớc mắt. Chồng vƣớng cảnh ngục tù lao lí, bà gửi thƣ cùng với:
Hàn y ổn thiếp phong tân tứ, Tố quản tiêm minh tẩy cựu đề.
(Tiếp nội thư tính kí hàn y bút điều sổ sự)
(Chiếc áo rét xếp phẳng phiu, gói ghém bao ý mới,
Ngọn bút trắng, nhọn, xoá sạch những lời đề xƣa.)
Những tính từ “thiếp” (phẳng phiu), “tố” (trắng), “tiêm” (nhọn) cho thấy sự cẩn
thận, nâng niu của vợ Mẫn Hiên. Bà đã sửa soạn những đồ đạc thiết yếu gửi cho chồng
bằng cả trái tim chan chứa yêu thƣơng của mình. Và điều đáng nói thêm là Cao Bá Quát
đã không xem đó là trách nhiệm, nghĩa vụ đƣơng nhiên phải làm của ngƣời vợ theo quan
niệm phƣơng Đông truyền thống. Ông chú ý đến cái tình thẳm sâu của ngƣời vợ, ở việc
“bàn chữ gấm”, “gói ghém bao ý mới”, “xoá sạch những lời đề xƣa”, và “không để cho
77
đôi ta quên nhau”. Điều này khiến cho Cao Bá Quát trở thành ngƣời đàn ông tiến bộ,
khác xa với lối gia trƣởng trong thời đại của mình!
Còn đây nỗi niềm của Mẫn Hiên trƣớc sự hi sinh thầm lặng, gánh vác việc nhà,
thay hai em trai chăm sóc song thân của chị gái:
Nhị đệ phiêu linh vi khách nhật,
Lão thân tiều tuỵ kí cư thì.
(Khốc vong tỉ)
(Ngày hai em trai phiêu bạt phƣơng xa,
(Là) lúc cha mẹ tiều tuỵ sống nhờ nhà ngƣơi.)
“Nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, vậy mà hai con trai của song thân Cao Chu
Thần đều “phiêu bạt” - không phụng dƣỡng đƣợc mẹ cha chu đáo khi mẹ cha còn sống
theo yêu cầu trƣớc tiên của chữ “hiếu” Nho giáo. “Hữu” thành “vô” và ngƣợc lại! Câu
thơ vừa khắc khoải về tội bất hiếu của bản thân, vừa bộc bạch niềm thƣơng cảm xót xa về
gánh nặng đổ lên vai gầy của ngƣời chị, đồng thời thể hiện nỗi xót thƣơng cha mẹ tuổi xế
chiều mà không mái ấm, không trƣởng nam, thứ nam thần hôn báo đáp.
Xúc động hơn nữa là những câu thơ Mẫn Hiên diễn tả “Tư tử tình vô hạn” (Lòng
thƣơng nhớ con là vô hạn - Tự sơn tống Ngọc Tiên quy tỉnh) của song thân dành cho cho ông. Đó là hình ảnh: “Bạch phát cao đường ỷ vọng thâm” (Cao đƣờng tóc bạc tựa ngóng
phƣơng xa - Để gia), là cảnh “Mẫu thân sạ kiến hỉ giao bi” (Mẹ già chợt trông thấy con,
mừng mừng, tủi tủi - Quy cố trạch). Đặc biệt là chuyện khi Mẫn Hiên Quy cố trạch (Về
đến nhà):
Cảm tạ song thân nhục,
Bất khí thượng tư tồn.
(Cảm động và đội ơn nhất là thấy song thân cũng đến,
Tỏ lòng gắn bó thƣơng nhớ con.)
Hoàn toàn không phải là những phụ mẫu của lễ giáo tôn ti thứ bậc yêu cầu con
mỗi sáng phải đến thăm hỏi, chúc phúc cho mình. Cha mẹ của ngƣời con họ Cao nghe tin
con của mình về đã là ngƣời đến trƣớc để “tỏ lòng thƣơng nhớ”. Ngƣời cha, ngƣời mẹ ấy
đã hành động theo sự thôi thúc thuần nhất của tình phụ tử, tình mẫu tử, nóng lòng muốn
gặp ngay đứa con mang nặng đẻ đau đi xa mới trở về! Cao Bá Quát đã xếp thứ nhất về
tình cảm và sự biết ơn cha mẹ trong trái tim! Phút giây sum họp với gia đình của Mẫn
78
Hiên không có chữ “lễ” của Nho giáo, không có sự khách sáo, chỉ có tình yêu từ trái tim
đến trái tim, tấm lòng ruột rà, ân nghĩa!
Song có lẽ, với ngƣời đọc, sự cảm động hơn cả là niềm tin của Cao Bá Quát về
tình cảm của đứa con dành cho mình trong bài Thất tử. Đây là một trong những bài thơ
đặc sắc, nghẹn ngào về tình cha con. Mất con, ông “kêu toáng ngƣời đời”, rồi đến trời,
đòi trả lời câu hỏi vì sao con ông mất! Một gã tóc đỏ - có lẽ là kẻ đại diện phát ngôn cho
chốn âm ti địa ngục giải thích rất dài và cuối cùng kết luận rằng: nguyên nhân chính là tại
“cha mày đức mỏng” đã gây ra cái chết oan nghiệt ấy! Căn vặn từ đối tƣợng này đến đối
tƣợng khác, từ ngƣời đời chốn trần gian đến đối tƣợng siêu nhiên - trời, rồi lại tƣởng
tƣợng ra cái gã tóc đỏ phát ngôn cho bộ máy huyền vi của trời đất để hắn đƣa ra lời kết
tội hết sức vô lí và độc ác - lấy tội của cha đổ lên đầu con trẻ, bắt sinh linh vô tội phải đến
nỗi chết trẻ - nỗi đau của Cao Bá Quát đƣợc diễn tả tới cùng cực. Song niềm đau thƣơng
không chỉ dừng lại ở đó. Ngƣời đọc buốt xé tim gan khi Cao Bá Quát hình dung đứa con
tha thứ cho mình:
Cao tử dạ mộng,
Hữu hài nhi tuỳ.
Cụ xưng thần ngôn,
Khẩu tạ thủ huy.
Bái đảo khung mân,
Hoằng ngã tích hi.
(Chàng Cao đêm nằm mơ,
Có đứa con đi theo. Nói đủ lời thần bí,
Miệng tạ, tay vẫy.
Cầu lạy cao dày,
Ban cho ta phúc lành.)
Đến tội lỗi ấy mà con cũng rộng lƣợng đƣợc với cha, lại còn mong phúc lành cho
cha nữa! Đứa bé thực “ngƣời lớn” - sâu sắc và bao dung! Đáng yêu biết chừng nào! Thật
là khó có biểu hiện nào xúc động, thấm thía hơn nữa của tình cha con nói riêng, tình cảm
gia đình nói chung của Cao Bá Quát!
Đƣợc hƣởng tình yêu thƣơng chan chứa nhƣ thế dễ hiểu vì sao Cao Chu Thần Uý hướng gia nhân ngữ biệt li (Đối với ngƣời nhà, không dám nói tới hai chữ biệt li nữa -
Để gia). Với Cao Bá Quát, hạnh phúc là đƣợc về với gia đình, ngƣợc lại,“Tội tật chính li
79
hương” (Tội tình khổ đau chính là xa quê nhà - Ức tử). Cao Bá Quát đặc biệt chú ý đến
tình ngƣời chốn quê nhà. Ông về đến quê hƣơng là đƣợc hƣởng vòng tay chào đón nồng
nhiệt, thắm thiết của ngƣời nhà. Có cảm giác, họ không bao giờ thiếu nồng ấm dành cho
ông. Cảm động diễn tả chân tình vẻ đẹp đó, Cao Bá Quát rõ ràng đã mang đến cho văn
chƣơng trung đại một cảm xúc rất mới mẻ.
3.3.2.2. Tình cảm bạn bè
Cùng với tình cảm gia đình, tình bạn là một chủ đề nổi bật trong thơ chữ Hán Cao
Bá Quát.
Thời trung đại, do có lối thơ thù tạc, xƣớng hoạ, nên thƣờng có các bài thơ giao
lƣu từ ngƣời này tới ngƣời khác. Các tác giả thời trung đại thƣờng có tên những ngƣời
bạn cụ thể trong thơ mình. Song không ai có tên bạn bè xuất hiện trong thơ nhiều nhƣ
Cao Bá Quát. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận đã thống kê và kết luận: “Những
ngƣời bạn xuất hiện trong thơ Cao Bá Quát nếu kể tên có thể đến hàng trăm nhân vật”
[130,93]: Trần Ngộ Hiên, Phƣơng Đình (Nguyễn Văn Siêu), Trần Thận Tƣ , Lê Bảo
Xuyên, Di Xuân, Thúc Minh, Phạm Đôn Nhân, Phan Hành Phủ, Lê Hy Vĩnh, Chuyết
Hiên, Đoàn Tính, Phan Sinh, Hoài Phủ, Thƣơng Sơn, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Chính
Tự, Hoán Phủ, Ngô Dƣơng Đình, Nguyễn Đài, Nguyễn Mã Trai, Đỗ Lý An, Lƣu Nguyệt
Trì, Cao Tú tài… Trong đó, “Phƣơng Đình (Nguyễn Văn Siêu) đƣợc nhắc đến trong 25
bài và chùm (nếu tính đơn vị thủ là 52 bài), Thận Tƣ (Trần Văn Vi) 18 bài và chùm (tính
thủ: 44 bài), Thƣơng Sơn công (Nguyễn Miên Thẩm) 23 bài… là những ví dụ tiêu biểu
nhất” [130,93]. “Cao Bá Quát là tác gia có thơ viết về bạn bè nhiều nhất và có tỉ lệ cao
nhất trong toàn bộ sáng tác của ông so với các tác gia tiêu biểu cùng giai đoạn”, Thơ chữ
Hán Nguyễn Du, “250 bài thì có 19 bài viết cho bạn (chiếm 7,6%) trong đó, 7 bài ghi tên
bạn, còn lại chỉ ghi chung chung là “giản”, “kí hữu”, “tống nhân”, “tặng nhân”, “lƣu
biệt…”, thơ đáp hoạ chỉ có 3 bài” [130,95], Thơ Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, 104 bài,
“có 10 bài thuộc loại trên, chiếm tỉ lệ 9,6%”, Thơ văn Phạm Văn Nghị, “chỉ có 5 bài”,
“chiếm tỉ lệ 5,9%”. Còn thơ Cao Bá Quát, “có 633 bài (trên tổng số 1267 bài thơ chữ Hán
của Cao Bá Quát đã đƣợc xác định), chiếm tỉ lệ 50%! (chính xác là 49,96%). Con số và tỉ
lệ này quả là bất ngờ, có ý nghĩa đặc biệt xét trong tiến trình lịch sử thơ ca trung đại”
[130,95].
Thành phần bạn bè của Cao Bá Quát rất phong phú. Họ là “bạn ở Thăng Long từ
thƣở còn đi học, bạn ở cùng vƣờn, bạn láng giềng (lân hữu), bạn văn chƣơng thù tạc, bạn
80
ngao du trên bƣớc đƣờng 10 năm phiêu lãng trƣớc khi làm quan, bạn tù (cấm sở… hữu
nhân), bạn thơ (thi hữu), bạn đồng niên, bạn vong niên, bạn làm quan ở Bộ, bạn sơ giao
Hoa kiều ở Hạ Châu, bạn đồng chí cùng chiến hào chống lại triều đình… Nhiều ngƣời đỗ
đạt làm quan ở các Bộ, làm quan các tỉnh, huyện khắp nƣớc, từ Tuyên Quang, Lạng Sơn
đến An Giang, Trấn Tây” [130,91].
Với thế giới bạn bè đông đảo ấy, thơ Cao Bá Quát có đủ mọi chủ đề: gặp gỡ, vui
chơi, xƣớng hoạ cùng bạn (Dạ bán nạp lương đồng Trần Ngộ Hiên, Lê Trực Hiên; Đặng
Ngự sử trạch, phùng Diệp Di Xuân cộng tức; Đối cúc Chuyết Hiên trạch đồng chư hữu
phúc…), tiễn bạn (Tống hữu nhân xuất tái, Tống Nguyễn Trúc Khê xuất lị Thường Tín
kiêm trí Lê Hy Vĩnh lão khế, Tống Sơn Tây học chính Nguyễn Đài chi lị…), mong bạn
đến chơi (Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận (thập nhất thủ)- kì lục), mơ
đƣợc gặp bạn (Mộng Ngô Dương Đình; Bạc xuân giản Nguyễn Chính Tự, Đề Trần Thận
Tư học quán, thứ Phương Đình vận (thập nhất thủ) - kì lục), thƣơng bạn (Đắc Lưu Thị
độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ; Thị vệ Đoàn Tính đắc trích Cam Lộ kí hữu sở
tặng), mừng cho bạn đỗ đạt (Hạ Phổ Nghị Lưu Hiệu Phủ tiến sĩ vinh hồi), mừng bạn sinh
đƣợc con trai (Tặng hữu nhân sinh tử tinh ngữ), mừng bạn đƣợc thăng chức (Văn Thận
Phu tân trạc học sĩ hỉ nhi hữu tặng), ngợi ca, thán phục bạn (Kí Nguyễn cố hữu hồi tịch;
Phục hoạ Phương Đình thứ vận; Vĩnh Tường thành đồng Trần Cung Trọng dạ túc), tâm
sự với bạn về cảnh ngộ, nỗi niềm của mình (Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu nhân; Dạ
thoại thị Phan Hành Phủ; Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở
cảm, tẩu bút dữ chi… ), trách bạn nhẹ nhàng (Hí tặng Phan Sinh)…
Ấn tƣợng về tình bạn của Cao Bá Quát không chỉ là ở sự giao thiệp rất rộng rãi mà
còn là chiều sâu trong mối tƣơng giao tri kỉ. Ông quan niệm, gặp đƣợc bạn thân nhƣ uống
rƣợu thuần giao, nhƣ khát mà đƣợc uống trà ngon:
Thời thời năng kiến quá,
Hà xí thắng thuần giao.
(Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận (thập nhất thủ) - kì lục)
(Mong sao hằng đƣợc bạn qua chơi,
Thật không khác gì uống rƣợu thuần giao vậy.)
Có bạn là có cảm hứng bay bổng và quên cả thời gian trôi: Bồi hồi chung nhật ý/
Thi hứng dục phiêu không (Suốt ngày ý dùng dằng/ Ý thơ muốn vút trong không - Đề
Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận, kì thập nhất), Đàm tiếu ưng vong hiểu
81
lậu can (Nói cƣời đã quên cả trời sáng - Hàn vận hoạ Thận Tư), Tư quân thúc vong dạ
(Nhớ anh quá quên cả đêm đã đến - Bộ nguyệt đồng Phạm Hoà Phủ), Luận tâm khả vong
quy (Cùng nhau luận về chữ tâm nên quên về - Đặng Ngự sử trạch, phùng Diệp Di Xuân
cộng túc)… Sắc thái cảm xúc và thời gian tâm lí ấy chỉ có thể có đƣợc khi sự tâm giao
bạn bè đạt đến độ tâm giao đặc biệt, đem đến niềm vui, sự hứng khởi đối với con ngƣời.
Trong tình bạn, Cao Bá Quát cũng thƣờng dùng lối diễn đạt thể hiện cảm xúc ở
mức cao độ của văn học trung đại để thể hiện tình cảm của mình. Ông đã nhớ bạn là “nhớ
ngày mấy lần”, “nhớ hàng trăm lần”: Tương tư nhật kỉ hồi (Nhớ nhau ngày mấy lần -
Tống Nguyễn Tuần Phủ hồi kinh, kì nhị), Hốt nhĩ hoài nhân nhật bách tao (Có khi nhớ
bạn mỗi ngày hàng trăm lần - Thù hữu nhân uý vấn)… Những con số chỉ số lƣợng lớn ấy
cho thấy nỗi nhớ bạn suất hiện với tần xuất dày đặc, thƣờng trực trong lòng Cao Bá Quát.
Lúc nào trong tâm trí ông cũng có hình bóng của bạn. Hình ảnh bạn bè còn đi cả vào giấc
chiêm bao của ông: Chỉ kim lai vãng thục/ Do tác mộng trung du (Nhƣ nay qua lại quen
thuộc nhƣ thế/ Vẫn còn cùng nhau du hƣởng nhƣ trong giấc chiêm bao - Đề Trần Thận
Tư học quán, thứ Phương Đình vận (thập nhất thủ)- kì lục), Mộng trung do tiếp khứ niên
hồn/ (…)Nhất sàng triển chuyển cánh vô ngôn (Trong giấc mơ còn chuyện trò với hồn
hồi năm trƣớc/ (…) Nằm trên giƣờng cứ trằn trọc mãi càng không nói đƣợc lời nào -
Mộng Ngô Dương Đình),
Cao Bá Quát còn khóc khi gặp gỡ, tâm sự, chia tay với bạn. Nƣớc mắt ông đã rơi
là chan chứa: Cánh vi thử biệt lệ triêm cân (Nay lại phải chia tay, khiến cho chiếc khăn
đẫm lệ - Đoàn Tính lâm hành bả tửu vi biệt, tẩu bút dữ chi), Tiễn chúc luân tâm lệ tiễn y
(Khêu ngọn đèn, nói chuyện tâm sự mà lệ rảy khắp áo - Đồng Bùi Nhị Minh Trọng Trà
giang dạ bạc), Tha niên tương kiến khủng triêm cân (Năm ấy gặp nhau e nƣớc mắt sẽ
thấm ƣớt cả khăn - Thừa tuý toại giản Thúc Minh), Hận biệt hoa kinh mộng/ Sầu thần lệ
tiễn bôi (Giấc mộng hoa kinh hãi lúc chia tay/ Lệ sầu rơi vào chén - Tống Nguyễn Tuần
Phủ hồi kinh, kì nhị), Trướng vọng độc triêm khâm (Trông vời xót xa, riêng ta nƣớc mắt
đầm đìa vạt áo - Đắc Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ), Tòng thử lệ thanh
minh (Từ đây lệ nhƣ mƣa đổ đầy trời - Tống Nguyễn Tuần Phủ hồi kinh, kì tam)...
Nhƣng cũng có nhiều khi Cao Bá Quát chẳng thể khóc khi nói về bè bạn. Ông rơi
vào trạng thái “vô ngôn”: Sạ kiến nan vi ngữ (Thình lình gặp nhau không nói lên lời -
Đáp Trần Ngộ Hiên), Dao trữ bích vân đầu (Đứng lặng hồi lâu dƣới khoảng trời trong
xanh - Bảo Xuyên Ông nhục kiến thứ hoạ, tẩu bút thù chi)...
82
Đối lập với thế tĩnh “chết lặng” bên ngoài ấy là sự tan nát gan ruột, tâm hồn: Dục
thuyết bất nhẫn tận/ Sử ngã tồi tâm can (Muốn nói mà không nỡ nói hết/ Làm cho ta ruột
gan rối bời - Trấn An lệnh Lê tử chi nhiệm, đặc lai tương phỏng, kỳ hữu sở tặng, thư dĩ
dữ chi), Kí đắc tiêu hồn phú biệt nhân (Nhớ đến nẫu ruột làm bài thơ chia tay - Khách
trung hữu hoài Nam Ngãi Nguỵ hầu quân thứ Ngộ Hiên vận), Nhất thuỷ tương tư khước
đoạn hồn (Dòng sông tƣơng tƣ lại càng tan nát tâm hồn - Tứ nhật hoạ Đôn Nhân kiến kí
thứ vận), Ác thủ tương khan tiếu bất ngôn/ Biệt hoài nan nhẫn cộng tiêu hồn (Bắt tay
nhìn nhau cƣời không nói/ Nỗi lòng từ biệt khó kìm nén, cùng (nhƣ kẻ) mất hồn - Lưu
biệt Hoàng Liên Phương), Tương tống minh triêu các đoạn hồn (Sáng mai tiễn biệt nhau
cả bọn đều tan nát tâm hồn - Tịch thượng nhân đại Phan Hành Phủ)…
Với những cách diễn đạt ấy, tình cảm với bè bạn của Cao Bá Quát đƣợc diễn tả
nồng nàn, mãnh liệt. Ở đó, không có sự chung chung, mờ nhạt; không có sự tác động của
lí trí, chỉ thuần tim gan cháy bỏng, thiết tha.
Tuy nhiên, yếu tố khiến cho tình bạn của Cao Bá Quát có chiều sâu và sự mới mẻ
so với các tác giả khác là ở cách diễn đạt cụ thể những dấu mốc thời gian, những hành
động và sự chia sẻ. Vì sâu sắc, tình cảm nên tình bạn của Cao Bá Quát thƣờng có dấu
mốc thời gian cụ thể: Dĩ tứ niên lai bất tương kiến (Đã bốn năm nay không gặp nhau -
Biệt Phạm Đôn Nhân Lang trung), Nhất biệt vi tam hữu/ Trùng lai cận lục tuần (Một lần
chia tay, giã từ ba bạn/ Nay lại đến sau sáu tuần - Châu Long tự ức biệt), Phân thủ Hà
Thành thập quá xuân (Đã hơn mƣời năm rồi chúng ta chia tay nhau ở Hà Thành - Thiên
Áo thành phùng cố nhân Cổ Vân Khê văn kì cận phả đắc ý ư hoạ dữ ẩm cập chi), Thập
tải tương phùng chuyển cánh bi (Xui chi gặp bạn mƣời năm, phút đã xa nhau thực là đau
đớn - Biệt Nguyễn Vĩnh Trai tinh trí Phương Đình), Tứ niên phục kim tịch (Bốn năm lại
có đêm nay - Phục hoạ Đôn Nhân thứ vận), Sa đà bán tải dư (Lần lữa quá nửa năm -
Tống Nguyễn Tuần Phủ hồi kinh)… Ngƣời đọc xúc động khi ông nhắc đến cả những “sự
kiện” thời gian gắn liền với sự sống và cái chết: Đoạn sài phi diệp loạn lưu trung (Lá
bay, củi gẫy ngổn ngang giữa dòng sông - Đồng Lê Ứng Khanh dạ ẩm), nguyên chú: Cửu
dạ phong lạo kiêm phát, dư dữ Lê Ứng Khanh Đỗ Tự Phủ cơ vẫn vu hải ngư chi phúc -
(Chín đêm sóng gió, lụt lội cùng nổi lên. Tôi cùng Lê Ứng Khanh, Đỗ Tự Phủ cơ hồ
tƣởng chết trong bụng cá biển)… Những dấu ấn thời gian ấy cho thấy Cao Bá Quát ghi
nhớ sâu sắc những kỉ niệm với bè bạn. Theo thời gian, tất cả đều trở đẹp đẽ, khó mờ phai
trong kí ức tác giả.
83
Trong mối quan hệ bằng hữu, Cao Bá Quát còn luôn ghi lòng tạc dạ, cảm động
trƣớc những hành động thể hiện tình cảm của bạn bè. Họ tặng Cao Bá Quát quà: Phạm
Kinh doãn nhục quỹ hải vật, bệnh vị đáp bái, hốt trị phong vũ, cảm sự thư hoài nhân giản
Phạm công kiêm trí bỉ ý - Quan Kinh doãn họ Phạm hạ mình biếu món đồ biển, đang
bệnh chƣa đến vái tạ, bỗng gặp mƣa gió, cảm kích viết niềm riêng gửi ngài Phạm cùng
bày tỏ ý thô thiển), Đáp Lưu Nguyệt Trì kiến huệ Bắc mính - Đáp Lƣu Nguyệt Trì đến
thăm biếu chè Bắc), (Dịch Đường kiến huệ song cáp - Dịch Đƣờng biếu đôi chim bồ
câu), Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm trí hảo thi, bộc phương nhiễu vu thất tử chi
thích, cảm thê giao khẩn tình hiện hồ từ (Ông Thƣơng Sơn tặng quà, có kèm theo một bài
thơ hay, ta đang bối rối vì con chết, thƣơng cảm dồn dập, tình hiện ra lời), Trân trọng
lang can trì tặng huống/ Xuân phong mi vũ mộng lai tần (Ông đã trân trọng đem ngọc
lang can tặng tôi/ Nhiều lần mộng thấy dung nhan ân huệ đến - Thứ vận Thương Sơn
công kiến kí), Nhất phong tân mính sổ hàng thư/ Thiều đệ nhân nhân kí trích cư (Một gói
chè xanh vài dòng chữ/ Nơi xa xôi có ngƣời (vào) gửi cho kẻ đày ải - Đoàn Tính bình
nhân lai uỷ vấn, tẩu bút đáp tặng), Phách tiên thụ quản na trùng vấn (Mở thƣ trao bút
với bao lời thăm hỏi - Đáp Lưu Nguyệt Trì kiến huệ Bắc mính), Hoàng phục giam hoài
trọng/ Châu đề chiếu nhãn minh/ Vân hà khan tự thế/ Kim ngọc tưởng thi thanh (Khăn
gói màu vàng phong kín tấm lòng sâu nặng/ Nét son phúc hậu chiếu sáng đôi mắt/ Xem
thế chữ đẹp nhƣ mây, ráng/ Tiếng thơ tƣởng nhƣ tiếng vàng, tiếng ngọc - Phú Yên Niết
đài, Thái Xá Nguyễn ông dạ quá, nhục hữu sở kí, khai giam tinh đắc Đỗ Tuy Hoà quỹ
vật, cập sở hoạ thi, kiêm phụ Nguyễn Ninh Thuận nhất thủ, lưu lạc chi huống bất tưởng
cố nhân, do phục tương hậu, viên thuật bỉ vận dụng chí hảo ý), Nang dưỡng xảo liên
Song Tỉnh viễn/ Dịch truyền hư sĩ bán bình nan (Cất trong bọc khéo thƣơng Song Tinh xa
vời/ Đƣa đƣờng trạm tới, luống đợi nửa bình khó khăn - Tạ Phạm Tư Nghiệp huệ
mính)…
Những quà tặng ấy đều rất quý với Cao Bá Quát. Quý ở chỗ đó là đồ có giá trị lớn
của ngƣời thuộc dòng dõi hoàng tộc (ngọc lang can). Quý vì đó là đặc sản (chè Bắc), là
đồ thơm ngon (chim bồ câu). Quý ở bàn tay sửa soạn đầy trân trọng của bạn (phong kín
trong khăn gói, chữ đề tặng nắn nót đẹp đẽ…). Quý vì ở nơi xa xôi gửi tới, qua bao
đƣờng trạm khó khăn… Nó cho thấy các bạn của Cao Bá Quát có thể mỗi ngƣời một
hoàn cảnh, một tính cách, sở trƣờng, sở đoản khác nhau, ví nhƣ Vị Phủ năng ẩm nhật
bách bôi/ Phương Đình năng thi thi tức giai/ Trượng phu kiến nhân vị bất thị/ Hy Vĩnh
thanh khan thiên hạ tài (Bạn Vị Phủ hằng ngày uống rƣợu đƣợc trăm chén/ Bạn Phƣơng
84
Đình hay làm thơ, mà hễ làm thì có thơ hay/ Bậc trƣợng phu nhìn ngƣời chƣa có lần nào
mà chẳng đúng/ Nhƣ bạn Hy Vĩnh có con mắt xanh trong xem biết nhân tài trong thiên hạ
- Đoản ca hành Vị Phủ tịch thượng vị chư hữu)… nhƣng điểm chung của họ là những
con ngƣời có văn hoá, giàu tình cảm, đối đãi với ông hết mực thắm thiết, trân trọng.
Ân tình của bạn bè khiến Cao Bá Quát xúc động. Ông có những câu thơ rất đẹp
diễn tả nỗi niềm của mình: Thiều đệ lao tiên sứ/ Ân cần huống bệnh phu/ Bái gia cân lực
quyện/ Nhuận hạc phế trường tô (Xa xôi nhọc sứ tiên/ Ân cần ban cho ngƣời bệnh/ Vái tạ
(ơn) lớn đã ban cho kẻ sức lực đã cạn/ (Làm) nhuần đƣợm sự khô cạn (cho) phổi ruột
sống lại - Dịch Đường kiến huệ song cáp), Hiền đạt luân giao cảm cựu nhân (Cảm lòng
ngƣời cũ tài năng thông đạt (đã từng) bàn luận trò chuyện - Đáp Đặng Tam Tú tài kiến
sách Phạm Đôn Nhân Lang trung nguyên vận), Ức ngã gian ngu tế/ Lao quân khiển
quyển thâm (Nhớ khi tôi đang gian nan lo lắng/ Làm anh vất vả lƣu luyến không rời -
Đắc Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ)… “Lúc khó khăn mới biết ai là
ngƣời bạn tốt”, Cao Bá Quát có bạn không chỉ trong lúc thù tạc, ngao du mà cả khi ông
rơi vào cùng quẫn nhất. Ông xúc động nguyên chú trong thơ mình: Dư tại cấm ngục nhật,
tự phận cô nguy tất hãm tử địa. Lưu nhật dạ tỉnh thị bất tị phong vũ. Tuy cổ chi đốc ư
hữu đạo giả đãi bất thị quá. Mỗi niệm thử sự vị chi hư hi - Những ngày tội giam trong
ngục, biết phận mình đơn côi nguy hiểm ắt hãm vào chỗ chết. Anh Lƣu ngày đêm đến
thăm hỏi chẳng nề gió mƣa. Dù cái đạo dốc lòng trung thành với bạn hữu thời cổ cũng
chƣa vƣợt qua đƣợc sự nguy hiểm đó. Mỗi khi nhớ tới sự kiện này, lòng tôi lại nghẹn
ngào, nức nở - Đắc Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ)… Rõ ràng, các bạn
của Cao Bá Quát trở nên vô cùng ý nghĩa trong cuộc đời ông.
Đáp lại sự trao tặng cao đẹp ấy, trong thơ, Cao Bá Quát thƣờng nói sự mong muốn
biểu lộ tình cảm của mình với bè bạn, hoặc vì bạn mà làm điều gì đó cho bạn, không chỉ
hoạ, đáp, tặng thơ bạn mà còn: Nghĩ hoạ sơn tùng hiến bắc đường (Định vẽ cây tùng trên
núi dâng mẹ bạn - Tự sơn tống Ngọc Tiên quy tỉnh), Bắc sơn thi tiên Mẫn Hiên ông/ Vị
quân năng lai phát thanh ca (Ông tiên thơ Mẫn Hiên ở núi Bắc/ Vì ngài đến cất lời trong
trẻo - Di Xuân dĩ tu trúc sinh hoa thi kiến thị, tức tịch tẩu bút, ca dĩ đáp chi), Vị quân
nhất ca hồi mộ sầu (Xin vì các bạn ca một khúc cho tan sầu chiều hôm - Đoản ca hành Vị
Phủ tịch thượng vị chư hữu)…
85
Nói chung, tình cảm bạn bè của Cao Bá Quát không chỉ là sự “đồng thanh tƣơng
khí”, mà còn có sự trao và nhận hết mình. Đó là thứ tình cảm bền chặt và có sự sẻ chia
ngọt ngào, xúc động.
3.3.2.3. Tình cảm trong các mối quan hệ xã hội khác
Biên giới chữ “tình” của Cao Bá Quát đƣợc mở rất rộng: họ hàng thân thích, hàng
xóm, ngƣời ở trong gia đình, những con ngƣời ông giao tiếp, gặp gỡ trong xã hội… Song
ngay cả trong các mối quan hệ này, “phong cách” chữ tình của ông vẫn đƣợc thể hiện rất
rõ: chân tình, thiết tha, nồng hậu và gắn bó chặt chẽ với cái gần gũi, cụ thể, thân thƣơng
trong cuộc sống.
Đối với những ngƣời có quan hệ gắn bó trong họ hàng, làng xóm, ngƣời ăn kẻ ở
trong gia đình, ngƣời ông từng gặp gỡ, quen biết, Cao Bá Quát hết mực yêu quý. Ông day
dứt vì thân thích làng quê mỗi ngày một ít mà mình chƣa “mổ đƣợc dê béo để mời": Thân
thích nhật dĩ sơ/ Hà thường tốc phì trữ (Thân thích mỗi ngày một thƣa/ Chả bao giờ mổ
đƣợc dê béo mời mọc - Sa hành để Đông Dư, kí mộ lưu túc). Ông không đánh mắng, mà
chăm chút chân thành cho chú bộc: Hàn cực bất năng miên/ Khởi cải tân thi cú/ Chúc tận
hoán nô thiêm/ Nô ngoạ thân ngâm cửu/ Xuyết tịch khứ thông thông/ Khước bả nô nhi
phú (Rét quá không ngủ đƣợc/ Trở dậy chữa câu thơ mới làm/ Đèn hết dầu gọi nhỏ rót
thêm/ Nhỏ cứ nằm lì rên rỉ/ Vội vàng đi lấy chiếu/ Đem đắp lên mình nhỏ - Hàn dạ
ngâm). Ông xót xa khi ngƣời giúp việc cũ là Lê Kế Diên bị ốm: Nhất biệt viên phi thượng
khứ hương/ Trùng trùng cộng thoại giản thư mang/ Quan san tựu ngã tình nan đoạn/
Dưỡng thống liêu nhân sự diệc thường/ Trung dạ tối liên hô Triệu Biện/ Khách đồ thuỳ
thị thác Tiêu lang/ Như kim dược nhị cần tu khuyến/ Tân khổ khan tha lệ kỉ hàng (Rời
làng ra đi tiễn biệt nhau ở cửa vƣờn/ Gặp lại nhau trò chuyện trong lúc tôi bận mải việc
giấy tờ/ Nơi xa xôi anh đến với tôi, tình cảm khôn dứt đƣợc/ Chuyện đau yếu khêu gợi
nỗi lòng là việc thƣờng tình/ Song thƣơng xót nhất là đang đêm anh gọi tên Triệu Biện/
Con đƣờng lữ khách, tôi biết ai là Tiêu lang mà cậy nhờ/ Nay khuyên anh nên chăm việc
thuốc thang/ Nhìn anh lòng tôi đắng cay nhỏ lệ mấy hàng - Cựu bộc Lê kế Diên ngoạ
bệnh hữu sở). Ông cảm kích trƣớc việc ngƣời đầy tớ thân cận đã không bỏ ra đi khi ông
thất thế sa cơ, tù tội mà an ủi, động viên ông: Đa tạ Tiêu gia cựu thời bộc/ Khấp tương ôn
ngữ uý vi tu (Đa tạ chú bộc cũ của nhà họ Tiêu/ Đã khóc lóc, đem những lời ôn tồn mà an
ủi thân này - Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí
86
- kỳ nhị). Rồi đến ngƣời đào hát ở Đằng Châu tên là Phú Nhi muốn xin thơ ông cũng viết
tặng (Đằng Châu ca giả Phú Nhi kí hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi)…
Cao Bá Quát còn dành nhiều tình cảm đối với học trò của mình. Ông xúc động về
sự đƣa tiễn quyến luyến của họ khi ông lên đƣờng đi thi: Chư tử phục bất xả/ Luyến
luyến tòng ngã du/ Thần tịch ý vị thiếp/ Tải tửu tuỳ khinh chu (Các anh vẫn chƣa chịu
chia tay/ Cứ quấn quýt đi theo tôi mãi/ Hết sớm lại chiều vẫn chƣa thoả lòng/ Lại còn tải
rƣợu theo thuyền tôi - Chu hành há Thanh Khê, nhân cố nhân kí biệt tòng du chư đệ tử),
Đệ tử tống ngã hành/ Tương tuỳ bất nhẫn trú/ Khởi thị nhi nữ tình/ Yểm diện lệ như vũ/
(…) Đa tạ chư thiếu niên/ Luyến ngã độc an thủ (Các học trò tiễn ta đi/ Cứ theo mãi
không nỡ dừng chân/ Đâu phải tình nhi nữ/ Mà che mặt khóc sƣớt mƣớt/ (…) Đa tạ các
bạn thiếu niên/ Ta có gì đáng quyến luyến - Phó Nam cung, xuất giao môn, biệt chư đệ
tử). Đặc biệt, tình cảm của ngƣời thầy Cao Bá Quát còn thể hiện qua nỗi cảm thông với
cảnh thi hỏng của học trò mình, cảnh lận đận của sĩ tử bảy mƣơi tuổi đầu còn đi thi. Cảm
thông, chia sẻ “đồng bệnh tƣơng liên” nên ông “tìm điều nhân” - xuất phát từ tình thƣơng
mến những ngƣời có tài chỉ vì những quy chế khắc khe của trƣờng thi mà bị đánh hỏng -
chữa bài thi phạm huý. Việc bại lộ, Cao Bá Quát cắn rứt lƣơng tâm mình vì mang hoạ
đến cho ngƣời: Cầu nhân vị đắc thành chiêu hoạ/ Đồng bệnh tương liên khước luỵ thân
(Cầu điều nhân chƣa đƣợc thành gây hoạ/ Cùng bệnh thƣơng nhau lại làm luỵ đến ngƣời
- Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ ngục)...
Với những ngƣời xa lạ, chỉ là gặp gỡ giữa đƣờng, Cao Bá Quát cũng không kém
phần thân ái. Ông Phân khâm tá khách miên (Chia chăn cho khách ngủ nhờ - Hàn dạ tức
sự). Ông mời ngƣời đói một bữa ăn (Đạo phùng ngạ phu). Ông ghi lại cảnh bất hạnh của
con ngƣời: ngƣời tát nƣớc trên đồng bụng đói, môi run, (Hiểu lũng quán phu), cảnh
ngƣời bồng bế nhau để đƣợc phát chẩn (Quan chẩn), cảnh ngƣời ngƣời lƣu vong, trẻ già
trốn lính, đói khổ kiệt sức (Phúc Lâm lão). Ông hoà vào niềm vui hân hoan của ngƣời
dân mà viết nên vần thơ tƣơi tắn. Điền tẩu quy lai hà thái hỉ/ Đồn đề liệu lí hạ phong niên
(Lão nông trở về hớn hở làm sao/ Chân giò chuẩn bị mừng năm mới đƣợc mùa - Tương
vũ hí tác), Phụ ác đồn đề nhi tái tửu/ Nhất chước nhất ca sừ tại thủ (Vợ xách chân giò
con khiêng rƣợu/ Vừa uống vừa ca cuốc cầm tay - Các thí nông phu lạc tuế hành)…
Có thể thấy rằng tình thƣơng của Cao Bá Quát dành cho ngƣời hết sức sâu sắc,
mang dấu ấn chủ nghĩa nhân văn cao cả. Đó là biểu hiện của tinh thần đồng cam cộng
khổ, của lòng thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân.
87
Cùng với tình yêu thƣơng dành cho con ngƣời, Cao Bá Quát còn có tình cảm mặn
nồng với cảnh vật quê hƣơng. Nhớ quê, Chu Thần nhớ những gì thân thuộc, gần gũi nhất
nhƣ cây gạo cao cao, hồ Ngựa Trời, dòng Đức giang, gò Phƣợng Chuỷ, hồ Tây... Trong
đó, cây gạo ở làng Phú Thị nhƣ một “biểu tƣợng” về quê hƣơng và nỗi nhớ:
Cao cao mộc miên thụ,
Cổ cán hà thanh sơ!
(Tương đáo cố hương)
(Cây gạo cao cao kia,
Gốc già mà ngọn thanh đẹp làm sao !)
Nói chung, thế giới tri âm của Cao Bá Quát là những con ngƣời, hiện vật nơi
dƣơng thế, là những ngƣời gắn bó mật thiết với ông trong cuộc sống đời thƣờng. Cao Bá
Quát cũng không nhìn từ trên cao, đứng bên ngoài quan sát, chiêm nghiệm. Ông cúi đầu
sẻ chia, đối thoại, hoà đồng. Có thể nói, nếu thế giới tình cảm của nhiều nhà nho khác
còn mang đặc điểm quý tộc, thì đến Cao Bá Quát đã hết mực gần gũi, thân thiết. Đó là
tình cảm của cuộc đời thƣờng, chân tình - của một con ngƣời thắm thiết nhƣ bao con
ngƣời khác. Đây là biểu hiện mới, thậm chí rất mới mà ta bắt gặp trong thơ Cao Chu
Thần.
Rõ ràng, với nội dung chữ “tình”, Cao Bá Quát đã chứng tỏ sự đổi thay rõ rệt cảm
hứng và bút pháp của thi ca thời trung đại. Ông không quá đề cao tƣ tƣởng “quân thân”
nhƣ Nguyễn Trãi, cũng không sa vào lối hành lạc, chìm ngập trong khoái dục “hồng hồng
tuyết tuyết” nhƣ Nguyễn Công Trứ. Thế giới tri âm của ông là những con ngƣời gắn bó
máu thịt với ông trong đời sống hàng ngày, không phải chủ yếu là những anh hoa của xã
hội và ngƣời dƣới suối vàng nhƣ Nguyễn Du… Mẫn Hiên nồng thắm hƣớng về ngƣời
thân bằng lối viết hết sức chân thực, sinh động; bứt phá khỏi bức tƣờng “vô ngã, phi ngã”
để cất tiếng nói chân thành, sâu sắc về cái tôi cá nhân của mình. Từ đó, ông đã góp phần
làm đổi thay tính chất quý tộc, ƣớc lệ, quy phạm, đƣa thi ca trung đại đến tình đời gần
gũi, đằm thắm, đậm chất nhân văn, nhân bản. Cao Bá Quát đã không “khắc kỉ phục lễ”
theo yêu cầu của Nho giáo. Trái lại, ông lấy đời sống tình cảm của cái tôi cá nhân làm
trọng. Con ngƣời đối với Cao Bá Quát trƣớc hết là con ngƣời của cuộc sống đời thƣờng,
chứ không chỉ là con ngƣời của những đức tin, bổn phận và trách nhiệm ngoài xã hội.
88
3.4. Điểm mới trong chủ đề ngƣời phụ nữ
Tiếp nối chủ đề phụ nữ, sang nửa đầu thế kỉ XIX, những bài thơ chữ Hán về “phái
yếu” của Cao Bá Quát vẫn có những dấu ấn riêng, khá độc đáo.
Trong sáng tác chữ Nôm, Cao Bá Quát đã dành nhiều tình cảm cho các “giai
nhân”: Phận hồng nhan có mong manh, Nghĩ tiếc cho ai, Giai nhân I, Giai Nhân II, Tài
hoa là nợ… Thơ chữ Hán, theo thống kê của chúng tôi, Cao Bá Quát có 90/1212 bài đề
cập tới phụ nữ (đó là chƣa kể những bài ông dùng những cụm từ: “tình chăn gối”, “ngủ
một mình”… khiến độc giả ít nhiều liên tƣởng đến ngƣời vợ mà ông yêu thƣơng, xa nhớ).
Số lƣợng này chứng tỏ mối quan tâm lớn của Cao Bá Quát đối với chủ đề phụ nữ so với
các tác giả thời trung đại và so với chính hệ thống chủ đề trong thơ chữ Hán của ông. Ở
đề tài này, bên cạnh sự kế thừa truyền thống biểu lộ niềm thƣơng cảm và thái độ ngợi ca,
trân trọng… Cao Bá Quát còn có những thể hiện sáng tạo.
3.4.1. Điểm mới về đối tượng phản ánh
Trƣớc Cao Bá Quát, mỗi tác giả dƣờng nhƣ đều có “sở trƣờng” về một kiểu phụ
nữ nhất định. Đặng Trần Côn viết về lời than của ngƣời chinh phụ (Chinh phụ ngâm
khúc); Đoàn Thị Điểm ngợi ca những phụ nữ túc trí, tiết liệt, cá tính (Thứ phi Bích Châu,
Vân Cát thần nữ,… trong Truyền kì tân phả); Hồ Xuân Hƣơng chia sẻ, bênh vực, chở che
những ngƣời đàn bà của cuộc sống đời thƣờng với những đau khổ riêng, vẻ đẹp riêng của
ngƣời phụ nữ; Nguyễn Du “đau đớn lòng” trƣớc các kiếp “hồng nhan đa truân”; Nguyễn
Công Trứ đắm say các đào nƣơng…
Đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát, nhân vật nữ rất phong phú. Trƣớc hết vẫn là các
giai nhân, tài nữ, chinh phụ - những đối tƣợng đã tốn không biết bao nhiêu giấy mực bình
phẩm, ngợi ca, cảm thƣơng… của các văn nhân. Đó là chị Hằng Nga trong tƣởng tƣợng
(Nhị thập tam dạ khán nguyệt h oạ Phan Hành Phủ, kì nhất), những mĩ nhân của lịch sử:
Tây Thi (Nhất khả), Chiêu Quân (Chiêu Quân), Ngu Cơ (Ngu hề); những phụ nữ mà tên
của họ đã trở thành điển tích điển cố về tình yêu, phẩm giá: Văn Quân (Đương lư), Lục
Châu (Truỵ lâu); cung nữ (Cung từ), chinh phụ (Chinh nhân phụ), đào nƣơng (Đằng
Châu ca giả Phú Nhi kí hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi)… Họ chiếm số lƣợng lớn trong sáng
tác của Cao Bá Quát với 47/90 bài (52%). Nhƣng chân dung nữ thu hút nhiều sự chú ý
của độc giả trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát lại thuộc về những ngƣời hoặc gắn bó thân
thiết với cuộc đời Cao Bá Quát nhƣ ngƣời mẹ (Quy cố trạch), chị gái (Đắc gia thư, thị
89
nhật tác), vợ (Tiếp nội thư tính kí hàn y, bút điều sổ sự), con gái (Mộng vong nữ); hoặc
Cao Bá Quát bất ngờ quan sát đƣợc trong những hoàn cảnh cụ thể của đời sống: cô gái
tƣơi trẻ trong ngày tết (Nguyên triêu), cô gái nghèo khổ trên cầu lúc chiều tối (Mộ kiều
quy nữ), ngƣời đàn bà Hạ Châu (Man phụ hành), thiếu phụ Tây dƣơng (Dương phụ
hành)... “Mỗi ngƣời một vẻ”. Họ góp phần tạo nên xu hƣớng “đời thƣờng hoá”, “phi
truyền thống” nữ giới trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
3.4.2. Điểm mới trong cảm nhận về ngoại hình, hành động, cử chỉ và tâm lí
nhân vật
Xu hƣớng “đời thƣờng hoá”, “phi truyền thống” nữ giới nói trên của Cao Bá Quát
đƣợc tiếp tục với sự cảm nhận về ngoại hình, hành động của nhân vật.
Về phƣơng diện ngoại hình, ngòi bút của Cao Bá Quát ít sa vào những công thức
ƣớc lệ quen thuộc: sắc nƣớc hƣơng trời, hoa nhƣờng nguyệt thẹn, chim sa cá lặn, nghiêng
nƣớc nghiêng thành… Thay vào đó, ông thƣờng chớp lấy những đặc điểm cụ thể, sinh
động, mới lạ mà đôi mắt nhà thơ bất chợt bắt gặp trong những hoàn cảnh cụ thể.
Đây là hình ảnh cô gái đẹp đi chơi xuân:
Vi, Đỗ giai nhân tú phượng hài,
Đạp xuân cộng khởi mại hoa lai.
(Xuân nhật tuyệt cú thập thủ, kì tứ)
(Ngƣời đẹp nhƣ họ Đỗ, họ Vi mang đôi giày thêu chim phƣợng,
Dạo bƣớc chơi xuân cùng tới chỗ bán hoa.)
và các thiếu nữ hồn nhiên trong ngày tết:
Sổ hàng nhi nữ huyễn tân y,
Lan thủ ủng tiễn tương nhĩ nhữ.
(Nguyên triêu)
(Vài hàng cô gái khoe áo mới,
Chặn tay lấy mứt chuyện trò vui.)
Bút pháp thiên về tả trong những câu thơ này rất gần nhau. Ở cặp câu thứ nhất, cô
gái vốn đã là ngƣời đẹp đến nhƣ họ Đỗ, họ Vi, lại mang giày thêu chim phƣợng. Cặp câu
thứ hai, cô gái vốn đã trẻ trung lại khoác trên mình áo mới. Cặp câu thứ nhất, nơi cô dạo
bƣớc tới là chỗ bán hoa - nơi tụ lại vẻ đẹp tinh tú của tự nhiên. Cặp câu thứ hai, các cô
hành động rất hồn nhiên, vui vẻ: khoe áo mới, lấy mứt ngọt ăn, chuyện trò vui. Nói
90
chung, cặp câu nào cũng có cả ba hình ảnh của cái đẹp cùng xuất hiện, tạo thành hệ
thống hoàn mĩ: người đẹp, trang phục đẹp và hành động tươi vui. Các cô đã trở thành
điểm nhấn đặc biệt tạo hồn cho bức tranh mùa xuân đầy chất thơ.
Ở bài khác, Cao Bá Quát đột ngột đƣa vào thơ chữ Hán vốn trang trọng, quý phái
chân dung “ngồ ngộ” của một thổ dân Hạ Châu ông gặp trong chuyến đi “dƣơng trình
hiệu lực”:
Trường sạn thôn đầu man tiểu cô,
Lũ trư như diện tất như phu.
Bản kiều du biến mộ quy khứ,
Tiếu hoán tân nhân tán cố phu.
(Man phụ hành)
(Trên lối đi bắc cây gỗ ở đầu xóm có cô ngƣời Hạ Châu nhỏ nhắn,
Mặt nhƣ lợn nái, da (đen) nhƣ sơn.
Dạo chơi khắp các cầu ván, chiều quay về,
Cƣời to gọi bạn mới về giúp chồng cũ.)
Cô gái thổ dân Hạ Châu xuất hiện khác biệt hoàn toàn với những ngƣời đàn bà
“công, dung, ngôn, hạnh” trong truyền thống. Về dung, cô không hƣơng sắc, yểu điệu.
Cao Bá Quát dùng liên tiếp hai hình ảnh so sánh để gợi tả khuôn mặt và màu da của cô:
mặt nhƣ lợn nái, da đen nhƣ sơn. Cô không phải là mĩ nữ. Nhƣng trong so sánh, Cao Bá
Quát chỉ đƣa đối tƣợng (lợn nái, sơn), mà không đƣa ra đặc điểm cụ thể. Do đó, ngƣời
đọc không có ấn tƣợng về một ngƣời đàn bà “ma chê quỷ hờn”. Ngƣợc lại, nó chỉ khiến
ngƣời ta liên tƣởng đến một dung nhan kì kì, khác lạ đến ngỡ ngàng! Về ngôn, đàn bà
theo lễ giáo phải nhỏ nhẹ, ý nhị: “ngôn vô lộ xỉ, tiếu vô xuất thanh”. Còn ngƣời đàn bà
“tiếu hoán tân nhân” - cƣời to gọi bạn mới. Về công, cô không ở trong “trƣớng phủ màn
che” để thêu thùa, may vá, nội trợ… mà dạo chơi khắp các cầu ván! Vậy hạnh của cô ra
sao? Không chêm xen lời bình, ngòi bút của Cao Bá Quát ghi lại khách quan một “hiện
tƣợng lạ” để ngƣời đọc thoả sức tự “chiêm ngƣỡng” và phẩm bình!
Những chân dung sống động đó cùng với hình ảnh thiếu phụ Tây dƣơng trong
Dương phụ hành chứng tỏ Cao Bá Quát có một đôi mắt nghệ sĩ ƣa quan sát và nhạy cảm
trƣớc những hiện tƣợng tân kì của hiện thực khách quan. Hơn thế, ông còn có sự tiến bộ
trong quan niệm, tƣ tƣởng. Cao Bá Quát không kì thị những phụ nữ xa lạ so với truyền
thống. Bằng nhãn quan tƣ tƣởng và tâm hồn đi trƣớc thời đại, ông đã để lại những đoạn
91
“clip” thuộc loại “độc”, “hot” trong xu hƣớng văn chƣơng viết về “những điều trông
thấy” của cả giai đoạn văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX.
Cũng chính vì hƣớng đến “con ngƣời thực” của cuộc sống nên cách Cao Bá Quát
liên tƣởng theo lối “đời” hoá mà vẫn không kém phần thi vị, tân kì. Đây là hình ảnh một
cô gái dƣới trăng trong đêm 17:
Noa y hiệt kì quang,
Bất nhẫn nhàn phao trí.
Tài tác hợp hoan thư,
Kí tử tâm trung sự.
(Thập thất dạ thừa nguyệt, tẩu bút kí hữu nhân)
(Kéo áo bọc lấy trăng,
Không nỡ dễ dàng bỏ phí.
Xén ra viết thành bức thƣ hợp hoan,
Gửi cho chàng những điều tâm sự.)
Thật khó có thể hình dung đƣợc ngay từ đầu thế kỉ XIX đã có một nhà thơ có trí
tƣởng tƣợng về hành động của một con gái gần giống nhƣ lời bài hát của thế kỉ XXI hiện
nay: “cắt nửa vầng trăng tôi làm con đò nhỏ (…) đƣa tôi về cái thuở tôi yêu”. Cả hai đều
có hành động “phi lý” đối với vầng trăng, ánh trăng. Với cô gái của thơ Cao Bá Quát, cô
ngắm trăng trong đêm 17 mùa thu. Rằm đã qua hai ngày. Đêm 17, ánh trăng đã dần hao
khuyết, bƣớc đầu đi về phía nửa kia cuộc đời- phía của tuổi già, mòn mỏi. Trƣớc vầng
trăng có tuổi ấy, lòng cô trào dâng cả một dòng cảm xúc. Trƣớc hết là sự hồi tƣởng quá
khứ vàng son: Thiếp niên nhị bát thời/ Doanh doanh chính tương tự (Khi thiếp tuổi đôi
tám/ Cũng đầy đặn nhƣ trăng.). Rồi cô trở về hiện tại và thất vọng vì nỗi “những tƣởng”
của mình: Trưởng đại ái dư nghiên/ Thượng tưởng dung nhan mị (Lớn lên vẫn yêu cái
đẹp xƣa/ Những tƣởng giữ mãi đƣợc nhƣ thế). Vậy nên, cô cố hành động để giữ lấy tuổi
xuân: kéo áo bọc lấy ánh trăng, để xén ra thành bức thƣ… Ánh trăng vốn không hình
khối, vậy mà cô lại tƣởng tƣợng có thể “bọc” vào một chiếc khăn. Hơn thế, ánh trăng
trong khăn lại còn có thể đông lại thành vật rắn để cô “xén”. Hết ý tƣởng này lại đến ý
tƣởng khác. Cô đang muốn ánh trăng phải đọng lại hoặc tan ra… tuỳ theo ý mình. Phải
nói rằng, vƣợt lên trên một tâm hồn giàu mơ mộng, lãng mạn là một khát vọng quá lớn
lao! Khát vọng có đƣợc phép thuật phi thƣờng của thần tiên? Không phải là để hƣớng về
92
“chí” “đạo” mà vì tình yêu và hạnh phúc! Đây là những câu thơ “siêu thực”, chứng tỏ
một tâm hồn rất nhạy cảm, một cách viết rất thơ, rất nghệ sĩ của Cao Bá Quát.
Thú vị nhất là sự tƣởng tƣợng của thi sĩ họ Cao về chị Hằng Nga:
Bả kính Sương Nga trắc nhãn khuy,
Tự liên u độc, tự kiều si.
Khởi tri bắc quách cô ngâm dạ,
Cánh thị tây song ngưỡng diện thì.
(Nhị thập tam dạ khán nguyệt hoạ Phan Hành Phủ)
(Chị Hằng goá bụa cầm gƣơng ghé mắt nhìn,
Tự thƣơng mình âm thầm mà sinh ra bẽn lẽn.
Biết đâu cái đêm ở thành bắc (có ngƣời) ngâm nga một mình,
Lại là lúc (ngƣời khác) ở cửa sổ phía tây đang ngẩng mặt nhìn chị.)
“Thơ xƣa chuộng cảnh thiên nhiên đẹp/ Mây gió trăng hoa tuyết núi sông” (Hồ
Chí Minh). Các thi nhân đặc biệt yêu trăng - hình ảnh tƣợng trƣng cho sự trong sáng,
thanh khiết, hiền hoà, thơ mộng. Vầng trăng thƣờng đƣợc hình dung nhƣ tri âm, tri kỷ.
Đến Cao Bá Quát, cảm nhận về vầng trăng đã có sự thay đổi. Ông tƣởng tƣợng vầng
trăng với khía cạnh hạnh phúc lứa đôi đời thƣờng. Về phƣơng diện này Cao Bá Quát gần
nhƣ đi tiếp chiều hƣớng của Xuân Hƣơng nữ sĩ:
Năm canh lơ lửng chờ ai đó,
Hay có tình riêng với nước non?
(Hỏi trăng)
song không vừa thanh vừa tục nhƣ bà chúa thơ Nôm. Với ông, chị Hằng trở thành ngƣời
đàn bà đáng thƣơng: goá bụa nhƣng vẫn thiết tha với cuộc đời. Nàng vẫn cầm gƣơng
ngắm mình! Nàng thƣơng thân. Và nữ tính nhƣ một cô gái trẻ: bẽn lẽn dù đã “goá bụa”!
Thêm nữa, nàng vô tình, không hề biết có một ngƣời đang ngẩng mặt ngắm nhìn nàng
đắm đuối! Đọc lên rõ ràng thấy phảng phất ý thơ của “trích tiên” Tản Đà - con ngƣời của
hai thế kỷ sau này:
Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi,
Trần thế em nay chán nửa rồi.
Cung quế có ai ngồi đó chửa?
Cành đa xin chị nhấc lên chơi.
93
(Muốn làm thằng Cuội)
Tản Đà ỡm ờ tán tỉnh chị Hằng. Còn Cao Bá Quát dƣờng nhƣ “đứng đắn” hơn. Dù
vậy, ý tinh nghịch trêu đùa của một ngƣời trần với Hằng Nga tiên nữ vẫn hé lộ, dù tác giả
cố gắng kín đáo, ý nhị!
Rõ ràng, thay đổi bút pháp truyền thống, để nhân vật hành động “tự nhiên”, Cao
Bá Quát đã khiến cho nhân vật nữ của ông trở nên gần gũi hơn. Họ nhƣ đã từ đời sống
thực đi vào trang sách.
Thêm nữa, nhân vật nữ của Cao Bá Quát còn bước đầu có “phép biện chứng tâm
hồn”. Ở thơ ca trung đại, gái có chồng là theo chuẩn mực đạo đức tiết hạnh. Họ thuỷ
chung, một lòng hƣớng tới chồng. Còn trong thơ Cao Bá Quát đã xuất hiện một chinh
phụ bóng gió thể hiện nỗi lo sợ cho sự thay đổi tình cảm vợ chồng. Làm thơ, cô nhắc đến
khúc Bạch đầu ngâm - bài thơ của Trác Văn Quân làm khi chồng cô muốn lấy thêm vợ
lẽ. Đọc bài này, Tƣ Mã Tƣơng Nhƣ không lấy thêm ngƣời khác nữa. Điển tích ấy nói đến
sự thay đổi tình cảm ở ngƣời chồng. Nhƣng ý nghĩ của chinh phụ dƣờng nhƣ không dừng
lại ở đó. Trƣớc khi bắt chƣớc ngƣời xƣa viết khúc Thái tiêu (một ngày không gặp tƣởng
đã ba thu trôi qua), ánh mắt cô đã hƣớng sang nhà hàng xóm và nhận thấy:
Lân hoa thổ nghiên diễm,
Độ ngã khúc tường âm.
Vi phong động viễn phức,
Xuy nhập u nhân khâm.
(Khuê oán, kỳ nhị)
(Hoa bên hàng xóm nhả màu tƣơi đẹp,
Nhô sang chỗ bóng rợp góc tƣờng ta.
Gió thoảng đƣa hƣơng xa,
Thổi vào vạt áo của ngƣời ở nơi vắng vẻ.)
Những câu thơ này có lẽ Cao Bá Quát đã mƣợn ý của bài Du viên bất trị (Đến
vƣờn chơi không gặp đƣợc chủ nhân - Diệp Thiệu Ông):
Ưng lân kịch xỉ ấn thương đài,
Tiểu khấu sài phi cửu bất khai.
Xuân sắc mãn viên quan bất trú,
Nhất chi hồng hạnh xuất tường lai.
94
(Có lẽ chủ nhân khu vƣờn sợ gót giày của khách giẫm lên đám rêu xanh,
Chớ sao mà gõ cửa hồi lâu chẳng thấy ai ra mở.
Khắp cả vƣờn sắc xuân tràn ngập không ngăn lại đƣợc,
Nên đã có một cành hạnh đỏ vƣợt ra khỏi tƣờng.)
Song hình ảnh thơ của Cao Bá Quát vẫn có nét riêng. Bông hoa của Cao Bá Quát
cũng vƣợt qua ranh giới của bức tƣờng - bức tƣờng thực và cũng là bức tƣờng ranh giới
của lễ giáo, của tình cảm. Nhƣng hƣơng thơm của nó đi xa hơn: thổi vào vạt áo của ngƣời
ở nơi vắng vẻ. Hẳn có tình ý về tâm hồn giữa hoa và ngƣời chăng? Thật khó phủ định ẩn
ý của lời thơ.
Nhờ độc thoại, chinh phụ đã thể hiện khá “tự nhiên” những nỗi lo lắng đổi dạ thay
lòng của bản thân. Đây đã là một tiếng nói gây ấn tƣợng mạnh vì rất táo bạo trong hoàn
cảnh lễ giáo phong kiến khắt khe (Ở bài khác, Cao Bá Quát cũng sử dụng khá thành công
phƣơng thức này khiến ngƣời đọc “gai ngƣời” trƣớc tâm sự của một cô gái tự nhận “Tội
thiếp đáng muôn lần chết” bởi “Thân đã đem hiến cho chàng” ngóng trông ngƣời đàn ông
của đời mình xuất hiện (Độc dạ khúc)). Tuy nhiên, bút lực của Cao Bá Quát tỏ ra hấp dẫn
hơn nữa ở một số bài ông để nhân vật nữ đối thoại. Họ giãi bày nỗi lòng với ngƣời yêu và
ngƣời đàn ông khác ngoài chồng mình. Những lời chia sẻ ấy bộc lộ rõ rệt quan niệm, lối
sống nghịch chiều với truyền thống của một số nữ nhi, đồng thời biểu hiện thế giới nội
tâm vô cùng phức tạp của trái tim phụ nữ. Khi là nỗi buồn li biệt (Đà Môn trúc chi từ, kì
nhất). Khi nhƣ nàng Kiều “xăm xăm” chủ động tìm đến nơi ở của ngƣời thƣơng, nhƣng
ngƣời một nơi, tìm một nẻo, thất vọng, buồn bã (Đà Môn trúc chi từ, kì nhị). Khi là sự tỏ
bày niềm quý trọng, tiếc nuối với ngƣời trong mộng trƣớc hoàn cảnh “Thân thiếp đã gả
cho ngƣời” (Huy thủ từ)… Đặc biệt là tâm sự của thiếu phụ có chồng là thƣơng nhân:
Tùng tiền hữu nguyện dữ lang tri,
Bất giá thương nhân khinh biệt li.
Nhật lai tu khước thương gia phụ,
Thần khởi ngưng trang phu hoạ mi.
(Đà Môn trúc chi từ, kì tam)
(Ngày trƣớc em có ƣớc nguyện hai ta cùng biết (hiểu) nhau,
Em (nói) không lấy chồng đi buôn vì họ coi nhẹ sự biệt li.
Rồi sau đó làm vợ ngƣời lái buôn (mới) thấy xấu hổ (về ý nghĩ trƣớc đây
của mình),
95
Sáng dậy chăm chú trang điểm, chồng thì vẽ lông mày cho.)
Thƣơng nhân buôn bán thƣờng đi xa, để lại vợ cô đơn, lẻ loi ở nhà. Cho nên, lúc
đầu, ngƣời đàn bà hẳn đã bị ám ảnh bởi “tấm gƣơng tày liếp” trong Tì bà hành của Bạch
Cƣ Dị:
Khách trọng lợi khinh thƣờng li cách,
Mải buôn chè sớm tếch miền khơi.
Thuyền không đậu bến mặc ai,
Quanh thuyền trăng dãi nƣớc trôi lạnh lùng.
Đêm khuya sực nhớ vòng tuổi trẻ,
Lệ trong mơ hoen vẻ phấn son.
(Bản dịch của Phan Huy Vịnh)
Sự đối lập giữa tƣ tƣởng “trƣớc” và “nay” cho thấy nhận thức của cô đã thay đổi
hoàn toàn. Trƣớc là nghĩ theo số đông dƣ luận. Nay làm vợ ngƣời lái buôn thực, cô nhƣ
đƣợc “tẩy não”, hiểu đúng con ngƣời qua sự hiển hiện rất thực của đời sống:
Sáng dậy trang điểm, chồng thì vẽ lông mày cho
“Sáng dậy trang điểm” là đƣợc an nhàn, thảnh thơi; có thời gian, điều kiện tô điểm
dung nhan, bắt đầu ngày mới bằng gƣơng mặt yêu kiều - đó đã là rất quý. Diễm phúc hơn
nữa là cô còn đƣợc “chồng thì vẽ lông mày cho”. Hành động ấy chứng tỏ tình yêu
thƣơng, sự chăm sóc vợ ân cần của ngƣời chồng, sự ríu rít gần gũi, yêu chiều nhau của
đôi uyên ƣơng hạnh phúc. Bằng điển tích Trương Sưởng hoạ mi, ngƣời đàn bà đã minh
chứng rõ ràng: chồng nàng đâu chỉ chú tâm đến tiền bạc, lợi nhuận. Thƣơng nhân còn
biết yêu cái đẹp và rất có tình. Chàng chăm sóc và “bù đắp” cho vợ những khi có thời
gian bên nhau. Hƣởng tình yêu thƣơng ấy, thiếu phụ “xấu hổ” về sự hiểu lầm cố hữu
trƣớc đây của mình. Thái độ ấy vừa bộc lộ tình yêu thƣơng tha thiết dành cho chồng vừa
thể hiện sự thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về giới thƣơng nhân nói chung. Đây đúng
là một tiếng nói hết sức mới mẻ giữa thời phong kiến trọng nông ức thƣơng.
Trong văn học Việt Nam thế kỉ XVIII- XIX, truyện Nôm đã có hình thức đối thoại,
mang chức năng trần thuật. Bằng cách để nữ giới đối thoại, thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã
cùng với khuynh hƣớng của truyện Nôm - đƣa hình thức tự sự của thơ chữ Hán sang màu
sắc cận đại - để nhân vật “độc lập” nói lên hoàn cảnh tình huống, sự việc, con ngƣời,
hành động, tâm trạng của mình, của nhân vật khác. Với đối thoại, nhân vật nữ đã không
96
chỉ “Nỗi riêng riêng chạnh tấc riêng một mình” (Đoạn trường tân thanh). Họ đã dám
thành thật tâm sự. Nhƣ thế cũng là sự khẳng định bản lĩnh và đƣợc sẻ chia với xã hội.
Cách thức này của Cao Bá Quát rõ ràng cũng là một phƣơng thức mới mẻ trong thơ chữ
Hán thời trung đại.
Nói chung, đặt mối quan tâm tới phụ nữ, ngòi bút Cao Bá Quát vừa kế thừa dòng
cảm hứng chung của thời đại vừa tìm cho mình một lối đi riêng. Các nhân vật nữ của ông
gần với cuộc đời thực. Họ trở thành những con ngƣời bằng xƣơng bằng thịt và bộc bạch
“dũng cảm” diễn biến tâm hồn mình.
3.5. Điểm mới trong chủ đề thiên nhiên
Hƣớng tới thiên nhiên là tƣ tƣởng chung của các nhà nho. Nhƣng ở mỗi thời kì,
mỗi tác giả lại có sự tiếp cận riêng với chủ đề này.
Trƣớc thế kỉ XVIII, thiên nhiên thƣờng đƣợc khắc hoạ ở phƣơng diện nên thơ,
tƣơi đẹp. Nguyễn Trãi cũng từng cấp “thói xấu” cho hình ảnh thiên nhiên khi thiên nhiên
trở thành ẩn dụ để nói về con ngƣời: Co que thay ruột ốc. Khúc khuỷu làm chi trái hoè
(Trần tình, bài 8), Trì cỏ tươi nhưng lòng tiểu nhân (Cuối xuân)… Nhƣng về cơ bản,
thiên nhiên trong thơ Nguyễn Trãi luôn xanh non, tƣơi rói, căng tràn nhựa sống: Xuân
đến hoa nào chẳng tốt tươi (Mai), Một đoá hoa đào khéo tốt tươi (Hoa đào), Lầm nhơ
chẳng bén tốt hoà thanh (Hoa sen), Dây dây hoa nở tốt hoà tươi (Cây dương), Trời cho
tốt lạ mười phần (Hoa Tường An), Tự bén hơi xuân tốt lại thêm (Cây chuối)… Thêm nữa,
Ức Trai còn thấy thiên nhiên vô cùng giàu có và hào phóng:
Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,
Thuyền chở yên hà nặng vạy then.
(Thuật hứng)
Sau Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm dù ít có bài thơ hoàn chỉnh dành riêng cho
thiên nhiên, nhƣng dòng cảm xúc của thi sĩ sông Tuyết vẫn chảy tràn giữa thiên nhiên tạo
vật:
Tùng hạ nguyệt lai, kim toả toái,
Trúc biên phong đáo, ngọc tung tranh.
(Trung Tân ngụ hứng)
(Trăng đến dƣới bóng thông, nhƣ vàng nát vụn ra,
Gió đến bên khóm trúc, tiếng ngọc kêu soang soảng.)
97
Cảm nhận vẻ tuyệt mĩ của thiên nhiên, các thi nhân thƣờng vịnh thiên nhiên để
nhằm những mục đích lớn lao. Họ ngợi ca địa linh của dân tộc:
Quan hà bách nhị do thiên thiết,
Hào kiệt công danh thử địa tằng.
(Bạch Đằng hải khẩu)
Quan ải hiểm trở trời kia đặt,
Hào kiệt công danh đất ấy từng.)
Hoặc kí thác vẻ đẹp thanh cao trong tâm hồn nhà nho qua tùng, cúc, trúc, mai;
hoặc để thể hiện lí tƣởng sống nhàn, thanh khiết - đến với thiên nhiên để thoát khỏi tình
trạng phong bế của cá nhân trong cuộc đối thoại trƣờng kì với xã hội, đến với thiên nhiên
để khôi phục lại trạng thái nguyên sơ hồn hậu của xúc cảm:
Hương đầy tiệc khách hoa khi rụng,
Hứng dẫy vườn xuân chim thủa kêu.
(Vô đề - Nguyễn Bỉnh Khiêm)
Nhà thơ xƣa cũng nhận thấy sức mạnh vô tận của thiên nhiên, thấy thiên nhiên dài
rộng, vô cùng về không gian, thời gian. Trong tự nhiên, con ngƣời hữu hạn, nhỏ bé. Do
đó, các nhà thơ thƣờng ôm một nỗi đau nhức nhối trƣớc giới hạn không thể vƣợt qua của
mình: Thiên nhiên trƣờng tồn - con ngƣời trong khoảnh khắc, thiên nhiên vô cảm - con
ngƣời hữu cảm:
Giang san như tạc anh hùng thệ,
Thiên địa vô tình sự biến đa.
(Quá Thần Phù hải khẩu - Nguyễn Trãi)
(Non sông vẫn nhƣ trƣớc mà anh hùng đã mất,
Trời đất thật vô tình sinh ra sự biến nhiều.)
Đến Nguyễn Du, thiên nhiên trong thi ca đã đổi hẳn sang một sắc thái khác. Nó
nặng nề buồn bã và bị ám ảnh vào thế giới tƣ tƣởng của ngƣời nghệ sĩ: buồn đau cho sự
tang thƣơng bể khổ của cõi trần ai: Đêm tối sói hổ kiêu ngạo (Biệt Nguyễn Đại Lang II);
Trăng lặn ở ngoài phía có vượn kêu/ Người đi trong vết chân hổ (Phượng hoàng lộ thượng
tảo hành); Núi trùng điệp đã chất thành đống/ Dây leo bò khắp mặt đất chật chội khó mở lối
đi (Sơn trung tức sự); Thần mưa khóc sướt mướt, thần nước giận dữ/ Trước núi Ngủ chỉ
98
nước như trút xuống/ Sóng bạc suốt ngày như rắn rồng đua chạy/ Hai bên bờ, núi xanh như
sói cọp (Bất tiến hành)…
Cao Bá Quát tiếp tục phát triển con đƣờng Nguyễn Du đã mở, hƣớng vào thiên
nhiên của thực tế khách quan, không còn nhìn thiên nhiên một chiều theo tâm thức của
nhà nho.
3.5.1. Cảnh sinh động, đa sắc, giàu trạng thái
Thiên nhiên trong thơ Cao Bá Quát gắn liền với hiện thực khách quan với đủ các
trạng thái.
Khi tƣơi đẹp, yêu kiều:
Điên đảo xuân tâm bất tự trì,
Tây hồ chân cá tự Tây Thi.
Doanh doanh thuý đại ba bình hậu,
Khúc khúc quần yêu thảo lục thì.
(Du Tây hồ bát tuyệt, kì nhị)
(Lòng xuân nghiêng ngả không tự kìm giữ nổi,
Hồ Tây quả thật nhƣ nàng Tây Thi.
Vẻ mày nở nang là khi lớp sóng vừa lặng,
Dây lƣng uốn lƣợn là lúc cỏ đƣơng xanh.)
Khi vắng vẻ, tĩnh lặng:
Ba tĩnh hàn ngư không hấp ảnh,
Nguyệt minh cao điểu thượng nghi cung.
(Thanh minh nhật cảm tác, hoạ Trần Ngộ Hiên)
(Mặt sóng lặng, cá lững lờ đớp cái bóng không,
Vành trăng sáng, chim trên cao còn tƣởng cung thật.)
Lúc trong lành, mát mẻ:
Khinh phong điều ngọ khí,
Tế vũ thấp hồi đường.
Trúc tả quyên quyên tịnh,
Hoa thư nhiễm nhiễm hương.
(H oạ Thận Tư nhật ngọ phục đắc hoà vũ thứ vận)
99
(Gió nhẹ điều hoà không khí ban trƣa,
Lại có mƣa rây quanh ao.
Cành trúc (nhƣ bút) viết xuống từng giọt sạch trong,
Hoa chầm chậm toả hƣơng.)
Cảnh âm u, mờ tối:
Ngạn trách phan nguy đặng,
Huề hồ tứ viễn du.
Bán nhai tàng tự trách,
Nhất kính nhập sơn u.
(Dạ du Bối Am động tuý hậu chấp chúc đề bích)
(Bờ tối nhƣ trùm khăn, vin từng bậc đá lên cao,
Ôm bầu rƣợu làm cuộc viễn du phóng túng.
Lƣng núi đá ẩn giấu ngôi chùa nhỏ,
Một lối nhỏ dẫn vào núi âm u.)
Lúc đơn lẻ, phiêu dạt, nổi trôi:
Uỷ ba vô định ảnh,
Trước lộ bất thăng hàn.
Ỷ trạo cô vân viễn,
Thôi bồng bích thuỷ khoan.
(Chu trung đối nguyệt)
(Ánh trăng đẩy đƣa theo sóng không có bóng hình ổn định,
Sƣơng đêm thấm lạnh xiết bao!
Tựa mái chèo (trông) chòm mây lẻ trôi xa,
Xua đám cỏ bồng cho vùng nƣớc biếc thêm rộng.)
Cảnh thôn quê bình dị:
Khinh khinh vân ám độ,
Đạm đạm nguyệt vi quang.
Yên tán văn cầm tĩnh,
Phong từ điểu vận trường.
Đình không giao phục dực,
Tường ảnh vũ sơ lang.
100
Hứng đáo vong ngôn xứ,
Du nhiên hứng diệc vong.
(Cửu toạ)
(Nhè nhẹ mây bay qua,
Nhàn nhạt trăng mờ toả.
Khói sƣơng tan, xua đi tiếng đàn của muỗi,
Gió hiu hiu, kéo dài thanh vận (tiếng hót) của chim.
Sân trống đôi cánh dơi giao nhau,
Cau thƣa múa bóng trên tƣờng.
Cơn hứng đạt đến chỗ quên lời,
Ung dung quên cả hứng luôn.)
Đây là một trong những bài thơ hấp dẫn của Cao Bá Quát về cảnh thiên nhiên
thôn quê nên thơ. Cao Bá Quát đã mở đầu bài thơ bằng lối viết rất lạ: đƣa vào hai từ láy
khinh khinh, đạm đạm kết hợp với hình thức đối tƣơng quan (thơ Đƣờng luật thƣờng chỉ
đối câu 3 - 4, 5 - 6). Cách thức ấy khiến câu 1 - 2 không chỉ giới thiệu mà là lột tả thần
thái của cảnh vật: dịu nhẹ, toả lan. Câu 3 - 4 đƣợc tiếp nối ấn tƣợng:
Yên tán văn cầm tĩnh,
Phong từ điểu vận trường.
(Khói sƣơng tan, xua đi tiếng đàn của muỗi,
Gió hiu hiu, kéo dài thanh vận (tiếng hót) của chim.)
Ở đây, có sự tác động tự nhiên, khéo léo của sự vật, hiện tƣợng. Tiếng của đàn
muỗi - âm thanh không thuận tai - khói sƣơng xua đi. Nhƣờng vào chỗ đó là sự kéo dài
âm thanh kì diệu của tiếng chim hót nhờ làn gió. Không gian đƣợc thanh lọc, chỉ còn
thuần điệu nhạc vui tƣơi. Sự chuyển đổi cảm giác thi vị này chỉ có đƣợc ở những tâm hồn
nghệ sĩ lớn. Thế kỉ XV, Nguyễn Trãi cũng có những câu thơ diễn tả cảm giác hay nhƣ
vậy:
Ngư ca tam xướng yên hồ khoát,
Mục địch nhất thanh thiên nguyệt cao.
(Chu trung ngẫu thành)
(Ông chài hát lên ba lần thì mặt hồ phủ khói lại rộng thêm ra,
Chú chăn trâu thổi lên một tiếng sáo thì mặt trăng trong bầu trời lại
đƣợc đẩy cao hơn.)
101
Điểm lạ và tài hoa của Cao Bá Quát bộc lộ đặc biệt trong hai câu 5 - 6:
Đình không giao phục dực,
Tường ảnh vũ sơ lang.
(Sân trống đôi cánh dơi giao nhau,
Cau thƣa múa bóng trên tƣờng.)
Cái hay, mới lạ ở đây không chỉ là những hình ảnh rất đơn sơ, đời thƣờng - mảnh
sân, bức tƣờng, con dơi, hàng cau - đƣợc đƣa vào hình thức thơ chữ Hán vốn dành cho
những đề tài ƣớc lệ, trang trọng, mà còn chính là ở sự sinh động, vui mắt của cảnh vật, ở
sự kết hợp giữa thế động với thế tĩnh, giữa hữu hình với ảo ảnh… Sự vật, hiện tƣợng có
đôi, sự vật nọ làm nền cho sự vật kia và xuất hiện uyển chuyển, đẹp mắt qua sự biểu hiện
của hai động từ giao, vũ.
Ở một bài thơ khác, cảnh thiên nhiên trong thơ Cao Bá Quát lại sinh động, vui vẻ
với những hoạt động ngộ nghĩnh của các côn trùng bé nhỏ và bác nông phu lúc trời sắp
mƣa:
Tàn thiền cao khiếu mộ giang thiên,
Thiên khí khinh âm tác tiểu nghiên.
Tây nhật bán trầm vân tự bạng,
Nam phong hốt lãnh điện như tiên.
Nhất thanh oa tử xao tùng mãng,
Vạn điểm thanh đình sướng dã yên.
Điền tẩu quy lai hà thái hỉ!
Đồn đề liệu lí hạ phong niên.
(Tương vũ hí tác)
(Tiếng ve cuối mùa vút cao vào khoảng trời sông ban chiều,
Khí trời dịu nhẹ làm cho cảnh vật thêm xinh đẹp.
Mặt trời phía Tây lặn còn một nửa, đám mây tựa hình con trai,
Gió nam chợt thổi lạnh, tia chớp trông giống chiếc roi da.
Tiếng ếch kêu vang trong bụi rậm,
Muôn đốm chuồn chuồn nhởn nhơ bay trong làn khói ngoài đồng.
Lão nông phu trở về, hớn hở làm sao,
(Có) chân giò lợn chuẩn bị mừng năm đƣợc mùa.)
102
Cao Bá Quát dùng tiếng ve cuối mùa để giới thiệu thời gian: cuối hè, đầu thu. Hai
chữ "tàn thiền" thƣờng đƣợc ngƣời xƣa dùng trong thi văn để chỉ con ve mùa thu, khi
mùa hạ của chúng đã qua. Chiều xuống, mây đen ùn ùn từng lọn (nhƣ hình con trai), gió
lớn, chớp giật. Khí trời thay đổi đột, báo hiệu sắp có mƣa lớn. Loại côn trùng rất nhạy,
nên có phản ứng rất thú vị. Ếch kêu ồm ộp làm rung động bụi rậm. Vô số chuồn chuồn
xuất hiện, bay lƣợn nhởn nhơ trên đồng. Loài vật dƣờng nhƣ cũng đang háo hức chờ đón
một cơn mƣa lớn nhất định sẽ đổ xuống. Bác nông dân trên đồng trở về nhà trong tƣ thái
hết sức vui mừng, hớn hở. Bác ta nghĩ ngay đến chiếc giò lợn ăn mừng vì một mùa bội
thu (miễn có mƣa lớn thì nhất định sẽ đƣợc mùa). Cảnh tƣợng lúc sắp mƣa trong thơ Cao
Bá Quát rộn ràng hình ảnh, âm thanh sinh động, khác biệt hoàn toàn với thơ Lê Thánh
Tông. Ở thế kỉ XV, thơ Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn đầy ắp tự hào vì chế độ thịnh trị.
Ở thơ Cao Bá Quát là cảnh sắc tự nhiên và là niềm vui của dân thƣờng, thoát khỏi tính
khuôn sáo.
Rõ ràng, thơ chữ Hán Cao Bá Quát không còn công thức ƣớc lệ. Thay vào đó là
những chất liệu từ phong cảnh hiện thực. Thơ ông cũng không còn sắc thái thuần theo
cảm thức của nhà nho nhƣ văn chƣơng giai đoạn trƣớc nữa.
Cao Bá Quát khắc hoạ thiên nhiên chủ yếu bằng bút pháp tả, ít khi dùng bút pháp
vịnh. Đây cũng là một hƣớng đổi mới trong cách tiếp cận chủ đề thiên nhiên của thi sĩ.
Thơ xƣa thƣờng dùng bút pháp vịnh, hình ảnh thiên nhiên thƣờng không thuần là nó mà
mang theo tâm sự “tỏ lòng”, “ngôn chí” của tác giả. Đến Cao Bá Quát phần nhiều cảnh
sắc thiên nhiên đã là chính nó với những hƣơng vị, màu sắc, hình khối tự nhiên.
3.5.2. Cảnh khắc nghiệt, dữ dội, thất thường, huỷ diệt
Đặc biệt, Cao Bá Quát thường chú ý đến sự khắc nghiệt của tự nhiên. Ở phƣơng
diện này, ông vừa tiếp nối Nguyễn Du, vừa có con đƣờng mới của mình.
Có những vùng đất thực là cảnh chết, toàn cát là cát, đất đai cằn lụi, không chút
màu mỡ: Tứ vọng hoàng sa thiên vạn điệp/ Thử sinh quán kiến tiếu tiêu hồn (Bốn phía
cát vàng muôn ngàn lớp/ Cuộc sống ở đây vẫn thế, đúng là đáng kinh sợ - Thuận Trạch
chu hành Động Hải). Có những tiết lạnh, buốt thấu xƣơng: Bạch lộ, thanh sương sảo xâm
cốt (Móc trắng, sƣơng trong đã bắt đầu lạnh buốt đến xƣơng - Trà giang thu nguyệt ca).
Có cảnh khô hạn lâu (Cửu hạn), khi mƣa lại dầm dề không tạnh (Tích vũ thán). Có cảnh
mƣa gió dữ dội, điên cuồng: Bạo vũ khuynh thiên lậu/ Phi đào táp địa lai (Mƣa dữ nhƣ
103
nghiêng trời đổ xuống/ Sóng tung toé ngập tràn mặt đất - Đối vũ), Bắc phong phi vũ tẩu
kinh sa (Gió bấc mƣa bay cát kinh hãi chạy - Bắc phong). Có cảnh lụt lội khủng khiếp:
Đông phong mộ xuy kính/ Nộ lãng vô đình hào/ Dạ giác thế chuyển hoạnh? Ổng ổng
bách khê trướng/ Tẩu chú dữ trào cạnh/ Nghịch đào tẩu bành phái/ Phún bạc khí vị định/
Hạo hãn thiên vạn thôn/ Khoảnh khắc xuyên hải tính (Gió đông thổi rất mạnh về chiều/
Sóng giận dữ không ngừng gào thét/ Đêm đến thế càng hung hãn/ Nƣớc trăm khe ồ ạt
dâng cao/ Trút về giành giật với thuỷ triều/ Sóng ngƣợc chạy ầm ầm/ Phun hơi mỏng
không ngừng/ Muôn nghìn xóm mênh mông/ Khoảnh khắc bị sông biển nuốt - Dạ lạo)…
Với những câu thơ này, thế giới tự nhiên trong thơ Cao Bá Quát đƣợc khắc hoạ ở mặt trái
của nó. Nó hiện hình lên sự dữ dội, độc ác, đe doạ cuộc sống của con ngƣời. Nó khiến ta
cảm thấy con ngƣời thực nhỏ bé, yếu ớt trƣớc sự cuồng bạo của tự nhiên.
Không chỉ là những trận rét nhƣ cắt, nóng nhƣ than lửa, rồi mƣa dữ, sấm sét,
cuồng phong, lũ lụt…, sự khắc nghiệt của thiên nhiên trong thơ Cao Bá Quát còn thể hiện
ở sự thất thƣờng của nó. Những trận gió giật, mƣa tuôn, nóng lạnh đột ngột xuất hiện:
Nam phong tạc dạ nộ đào thanh (Đang đêm nổi gió nồm, sóng gầm dữ dội - Quá Bình
Định dương phận vọng Cù Mông sơn), Mộ kiến đông phương minh/ Vân căn thổ hoa
nguyệt/ Sạ kinh giang thượng phong/ Sậu vũ tán phi đột (Tối thấy phƣơng Đông sáng/
Trăng ló phía chân mây/ Bỗng gió giật trên sông/ Mƣa rào tuôn đột ngột - Trung thu
nguyệt), Tàn nhật hàn vân bế/ Bạc mộ hốt vi minh (Cả ngày đóng chặt cửa vì mƣa rét/
Xẩm tối thoạt nhiên ánh sáng lại loé lên - Hàn vũ sảo tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, hoạ
Phương Đình). Nó thay đổi khủng khiếp đến mức không thể ngờ, đi từ trạng thái cực
đoan này sang trạng thái cực đoan khác: Tạc dạ sậu hàn sinh/ Kiết kiết nghiêm phong
thích/ Hiểu lai sương lộ thấu y thường/ Mạch thượng bất kiến hành nhân tích/ Kim nhật
thoái hàn uy/ Liệt liệt lưu hy hách/ Phiền thâm nhiệt trọng bất thăng sam/ Ỷ trụ bồi hồi
hãn như trích (Đêm trƣớc trận rét bất thình lình/ Ào ào cơn giớ thổi lạnh buốt/ Sáng ngày
ra sƣơng móc thấm áo xiêm/ Trên đƣờng không thấy vết chân ngƣời đi lại/ Hôm nay hết
rét rồi/ Ánh mặt trời hừng hực toả ra/ Bức bối, khó chịu, chiếc áo lót mình cũng không
dám mặc/Tựa cột bồn chồn mồ hôi nhỏ giọt - Kim nhật hành)…
Đáng nói là sự thất thƣờng ấy không phải chỉ là trong chốc lát, ngày này ngày
khác mà kéo dài liên tục, thậm chí cả năm trời, từ đầu năm đến cuối năm: Xuân lai tích
lịch thịnh/ Xứ xứ hữu áp tử/Phong long thực bất liêm/ Cao thu thượng thuỳ sử (Xuân
sang đã sét nhiều/ Nơi nơi đều có ngƣời bị đánh chết/ Thần phong long thực không biết
104
điều/ Cuối thu rồi, ai khiến làm thế nữa - Trung dạ thập tứ vận). Những sự thất thƣờng
của thiên nhiên mang đến cho con ngƣời tai hoạ khủng khiếp. Không thể lƣờng trƣớc nên
cũng không thể đối phó. Thiên nhiên hiện hình thành một thế lực đáng sợ khủng khiếp!
Chƣa hết, Cao Bá Quát còn nhận thấy sự mất mát, huỷ diệt ở thiên nhiên. Trong
thơ ông, thiên nhiên đã có những hình ảnh đi về phía tàn lụi: Đỗ quyên thanh lí vũ mông
mông/ Nhất dạ chi đầu khấp lạc hồng/ Xuân sắc khả liên lưu bất trú/ Tiếu tha bạc hãnh
giá đông phong (Mây bay lất phất trong tiếng quyên kêu/ Tiếng khóc (đỗ quyên) làm rơi
hết màu đỏ đầu cành/ Đau thƣơng là không giữ đƣợc màu xuân/ Cƣời cho chúng bệnh gả
nhằm gió đông - Lạc hoa), Linh lạc yên hồng kỉ kỉ chi/ Đỗ quyên thanh khổ điệp hồn chi
(Vài cánh hồng xinh đẹp rơi rụng/ Tiếng đỗ quyên kêu nghe đau khổ, hồn bƣớm mê dại -
Mộ xuân quá Mã thị viên lâm), Lạc diệp phân phân nhi (Lá cây rụng đang phơ phất - Dữ
thi hữu Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn Sơn hành vân), Nhất lâm hoàng diệp
yểm sài phi (Lá rụng phủ kín cả cửa sài - Kinh độc thư xứ), Hàn diệp thu vân vô hạn sự
(Lá rụng mây thu kể ra biết bao nhiêu chuyện - Kí hận), Hoàng diệp lâm phong lư bối
lãnh (Lá vàng rụng, gió rừng lạnh lƣng lừa - Nghĩa Quảng phố tảo phát), Đoạn bồng khô
mạn liệu li tà (Cỏ bồng gãy, dây khô héo viền quanh tấm phên giậu xiêu vẹo - Xuân nhật
tuyệt cú thập thủ, kì thất)…
Nói chung, thiên nhiên trong thơ Cao Bá Quát gắn liền với hiện thực môi trƣờng
khách quan. Thơ ông cũng có những cảnh phế tích thành trì của các hoàng triều đời trƣớc
song không thiên về cảnh nghĩa địa, gò hoang, phế tích, dâu bể, thảm thƣơng của cõi trần
ai nhƣ Nguyễn Du. Thiên nhiên trong thơ Cao Bá Quát là những cảnh sắc trải trƣớc đôi
mắt thơ và tâm hồn suy tƣởng của tác giả.
Tiểu kết
Nội dung thơ chữ Hán Cao Bá Quát có nhiều điểm mới về giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo.
Về phản ánh hiện thực xã hội, thơ chữ Hán Cao Quát không chỉ dừng lại ở sự phản
ánh hiện thực khách quan mà là thể hiện một tầm nhận thức, đánh giá hiện thực có chiều
sâu của một trí thức uyên thâm, sắc sảo, tiến bộ. Tác giả chỉ ra thấm thía sự lạc hậu của
tình hình đất nƣớc trong việc tổ chức chính sự theo con đƣờng Nho giáo từ hàng nghìn
năm. Ông không chỉ bằng thị giác thấy những sự khác biệt về con ngƣời, nghề nghiệp,
105
cuộc sống trời Tây mà còn có sự ngạc nhiên, cảm phục và tiên đoán chính xác xu thế của
thời cuộc.
Về giá trị nhân đạo, Cao Bá Quát đã nâng sự “chuyên chú ở con ngƣời” của văn
học trung đại lên một tầm cao mới. Ở nỗi thống khổ của con ngƣời, ông còn thấy thêm
một nguyên nhân nữa mà thi ca chữ Hán trung đại Việt Nam chƣa đề cập tới: sự rủi ro
trong cuộc đời (nội dung này đƣợc văn học hiện đại chú ý). Thơ ông không chỉ là niềm
thƣơng cảm mà còn có sự trân trọng đối với mọi kiếp ngƣời. Ông đƣa chữ “tình” của thơ
ca về với cuộc sống đời thƣờng, về với những con ngƣời, sự vật gần gũi, gắn bó, thân
thƣơng trong cuộc đời (gia đình, anh em, bạn bè, quê hƣơng…) khiến cho thơ ông giảm
gần hết tính chất ƣớc lệ, quý tộc của văn chƣơng trung đại. Ông còn đặc biệt đáng quý
khi đƣa những hình ảnh phụ nữ phi truyền thống vào thơ ca, thấy đƣợc sự thay đổi tâm lí
rất đời thƣờng của những ngƣời đàn bà. Trong thơ Cao Bá Quát, họ là những con ngƣời
của cuộc đời, không phải là con ngƣời của sách vở, của những chuẩn mực đạo đức.
Về chủ đề thiên nhiên, Cao Bá Quát tiếp nối con đƣờng của Nguyễn Du, nhƣng
không phải nhìn bằng đôi mắt nặng quan điểm tang thƣơng, dâu bể, chết chóc, dữ dằn.
Cao Bá Quát khắc hoạ thiên nhiên phần nhiều bằng bút pháp tả, sinh động, đƣa muôn
màu muôn sắc của thiên nhiên vào văn chƣơng.
Với những thay đổi ấy, thơ Cao Bá Quát có sức hấp dẫn đặc biệt. Thơ ông đã
manh nha báo hiệu sự chuyển mình của văn học trung đại sang văn học hiện đại
106
Chương 4
NHỮNG ĐIỂM MỚI VỀ NGHỆ THUẬT
4.1. Không gian, thời gian đời tƣ
“Tìm hiểu thời gian, không gian nghệ thuật của một hiện tƣợng văn học chính là
tìm hiểu cách cảm nhận cuộc sống một cách nghệ thuật và thẩm mĩ ở trong đó” [111,6].
Không gian, thời gian trong văn học trung đại chủ yếu là không gian, thời gian vũ
trụ. Văn học nửa cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX có thiên hƣớng đi về phía không
gian, thời gian đời thƣờng. Thơ chữ Hán Cao Bá Quát ngoài dấu ấn không gian, thời gian
vũ trụ còn có một mảng lớn thơ ca viết về không gian, thời gian đời thƣờng, trong đó
lắng sâu vào khoảng không gian, thời gian đời tƣ. Ở đó, ngƣời đọc vừa thấy đƣợc con
ngƣời riêng tƣ của tác giả vừa nhận ra sự vận động theo xu hƣớng đổi mới của thơ chữ
Hán Cao Bá Quát trong dòng văn học Việt Nam thời trung đại.
4.1.1. Không gian đời tư
Không gian đời tƣ là không gian của cá nhân, mang tính chất cá nhân. Không gian
đời tƣ thể hiện rõ nét trạng thái tinh thần của cá nhân nhân vật và chịu sự quy định chặt
chẽ bởi quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của nhà văn. Phân tích các đặc tính của
không gian đời tƣ giúp ngƣời nghiên cứu một mặt khám phá thế giới khách thể, một mặt
khác, khám phá chính cái nhìn thế giới của chủ thể.
Không gian đời tƣ thay đổi ảnh hƣởng tới cuộc sống, tâm lý của nhân vật. Kiểu
không gian này đƣợc quy định bởi trạng thái bên trong của con ngƣời. Đó là môi trƣờng
để nhà thơ tự khám phá thế giới nội tâm mình với những góc độ, khía cạnh khác nhau.
Không gian đời tƣ là không gian con ngƣời sống thật nhất với chính mình.
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát bên cạnh kiểu không gian vũ trụ quy phạm của văn học
trung đại còn xuất hiện khá nhiều không gian đời tƣ gắn liền với con ngƣời tác giả, biểu
đạt sâu sắc tâm trạng cảm xúc của chính tác giả.
4.1.1.1. Không gian đời tư - nơi quê nhà thân thiết
Trong sự so sánh với thơ chữ Nôm, thơ chữ Hán thƣờng nặng về tính khái quát,
trang nhã, hoài cổ. Đề tài của nó thƣờng là những vấn đề trọng đại ở tầm vĩ mô: xã tắc và
tƣ tƣởng lễ giáo tam cƣơng, ngũ thƣờng, chí hƣớng tu thân, tề gia, trị quốc… Gắn với nó
là những hình tƣợng nghệ thuật mang tính quy phạm, ƣớc lệ, cao quý…
107
Song những đặc điểm này đến thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã có sự đổi thay rõ rệt.
Ở đó, tính chất bác học, quý tộc của Đƣờng thi đã giảm hẳn đi. Thay vào đó là những
hình ảnh bình dị của không gian đồng nội - không gian quê nhà gắn bó với đời sống
thƣờng nhật của tác giả.
Quang cảnh đó gắn liền với ngôi nhà thân thƣơng với thềm, sân, vƣờn, giậu, ao:
Sơ hoàng lâm khúc kính/ Hồng diệp nhiễu u cư (Đƣờng nhỏ quanh co với rặng tre lƣa
thƣa/ Lá đỏ bao quanh nhà lặng lẽ - Đề Phụng Tá sứ quân hoạ lí đồ), Lão thụ toản giai
cổ/ Hồng liên ỷ bích sơ (Cây già chụm bên thềm tạo vẻ cổ kính/ Sen đỏ thƣa thớt tựa
vách - Đề Trần Thận Tư học quán, thứ Phương Đình vận thập nhất thủ, kì tứ), Thảo mãn
hồ đường trúc mãn ly (Cỏ đầy bờ ao, trúc đầy giậu - Nguyệt trung vịnh mạt lị hoa), Ly
ngoại nhân yên, trúc ngoại âm (Ngoài bờ dậu có khói bếp, ngoài rặng tre có bóng râm -
Thôn cư vãn cảnh), Khinh phong điều ngọ khí/ Tế vũ thấp hồi đường/ Trúc tả quyên
quyên tịnh/ Hoa thư nhiễm nhiễm hương (Gió nhẹ điều hoà không khí ban trƣa/ Lại có
mƣa rây quanh ao/ Cành trúc (nhƣ bút) viết xuống từng giọt sạch trong/ Hoa chầm chậm
toả hƣơng - Hoạ Thận Tư nhật ngọ phục đắc hoà vũ thứ vận)… Khung cảnh ấy gắn liền
với cái nghèo, đơn sơ, bình dị của thôn quê Việt Nam tự bao đời: Đoạn bồng khô mạn
liệu ly tà (Cỏ bồng gãy, dây leo khô héo viền quanh tấm phên giậu xiêu vẹo - Xuân nhật
tuyệt cú thập thủ, kì thất), Khô trì tạp suy liễu/ Khích tường xuyên thụ căn (Thấy ao khô
lẫn lộn với những thứ rau dừa, rau ngổ tàn lụi/ Tƣờng nhà thì rễ cây xoi thủng - Quy cố
trạch)…
Đó còn là ngôi làng chôn rau cắt rốn của tác giả: Cao cao mộc miên thụ/ Cổ cán
hà thanh sơ! Thiều thiều vọng thử bang/Quyết hữu cao nhân lư/ Trúc mật phú dư kính/
Thảo phong nhiễu tiền trừ/ Bích chiểu hý tiêm lân/ Lục đẳng tú gia sơ (Cây gạo cao cao
kia/ Gốc già mà ngọn thanh đẹp sao!/ Xa xa trông vào trong làng/ Nơi có nhà bậc “cao
nhân” ở/ Tre rậm che kín lối đi/ Cỏ tốt mọc quanh trƣớc thềm/ Cá tung tăng lội trong ao
nƣớc biếc/ Lúa tốt xanh um khắp chốn ruộng đồng - Tương đáo cố hương)… Và cảnh
đồng quê trải ra trƣớc mắt tác giả trên con đƣờng du kí: Lô giá độ phong hài viễn địch/
Ba tiêu đái vũ thấp tà huy (Gió qua làn mía lau đƣa tiếng sáo xa êm dịu/ Mƣa đọng trên
tàu lá chuối, rọi ánh nắng chiều ƣớt đầm - Nhật mộ), Viên bách dao điều ám/ Trù hoa
thiểm diệp vi (Cây bách tán tròn, lặng lẽ rung những cành nhỏ/ Bông hoa dày đặc lấp lánh
trong đám lá li ti - Nguyệt dạ đồng chư hữu du Phạm Hoà Phủ hoa viên, kì nhị), Giang
thiên không thoát mộ minh minh/ Tứ hợp cao đê trúc thụ bình (Trời nƣớc mênh mông,
108
hoàng hôn buông lờ mờ/ Bốn phía nhấp nhô, khóm tre già nghìn cây che chắn - Viễn tụ
minh hà). Rồi những cảnh “Thử mẫu phong sơ” (Gió nhẹ thổi qua ruộng lúa) hoặc Tân
viên vũ hậu (Vƣờn cau sau cơn mƣa): Khoái khan tán tảo vân thu hậu/ Nhất bán tân viên
dũng ngọc thiềm (Mây tan, mƣa tạnh trông vui mắt/ Nửa vƣờn cau đọng (vũng) nƣớc tựa
vầng trăng). Cảnh Cô thôn tịch chiếu (Xóm lẻ chiều buông): Sắt sắt vi phong mạc mạc
yên/ Tịch dương bán quách đạm hàm nghiên/ Nhất song thê điểu thiên can trúc/ Lưỡng
cá quy ngưu vạn lắng điền (Vi vu gió nhẹ khói mịt mờ/ Nửa xóm chiều tà ngậm vẻ tƣơi/
Một đôi chim đậu giữa muôn cành trúc/ Hai chú trâu về trên đồng ruộng mênh mông)…
Góp thêm vào bức tranh thiên nhiên là hình ảnh của những con vật nhỏ bé, gắn với
cuộc sống đời thƣờng: Bồn trì dược tiêm lân (Bể nƣớc (non bộ) cá nhảy nhót, khua vây
nhỏ - Vi vũ), Nhất song thê điểu thiên can trúc/ Lưỡng cá quy ngưu vạn lắng điền (Một
đôi chim đậu giữa muôn cành trúc/ Hai chú trâu về trên đồng ruộng mênh mông - Cô
thôn tịch chiếu), Kinh tùng huỳnh tự vũ/ Xúc mạn điệp tương phi (Sợ bụi rậm, đom đóm
tung tăng nhƣ múa/ Đụng dây cỏ, bƣơm bƣớm cùng bay lên - Nguyệt dạ đồng chư hữu du
Phạm Hoà Phủ hoa viên, kì nhị), Phệ phi như dẫn lộ/ Thuỵ áp diệc phong thê (Tiếng chó
sủa văng vẳng nhƣ dẫn đƣờng/ Vịt cũng quên chuồng về ngủ - Mạnh Hạo Nhiên dạ quy
Lộc Môn thi), Xích lưu hoa ngoại hiểu âm âm/ Tử diệp phi thời hương chính thâm (Sáng
sớm mờ mờ ngoài khóm hoa lựu đỏ/ Mùi hƣơng nồng đƣợm chính là lúc bƣớm tía bay -
Sơn chi hiểu vịnh), Phấn điệp tiều vô thanh (Bƣớm phấn bay không nghe tiếng - Tam
nguyệt Giang Thành liễu tứ phi), Đậu lũng lân lân bạch diệp ban/ Xúc nhiệt mỗi phùng
ngưu ngoạ xuyễn/ Kinh phong diêu tiễn điểu phi hoàn) (Cánh bƣớm trắng dập dờn trên
luống đậu/ Mỗi lần gặp trời nóng trâu nằm thở hổn hển/ Sợ gió chim từ xa muốn bay về -
Dã hành), Oa quy minh không viên (Rùa, ếch kêu trong vƣờn hoang - Sậu vũ), Tàn thiền
cao khiếu mộ giang thiên/(…) Nhất thanh oa tử xao tùng mãng/ Vạn điểm thanh đình
sướng dã yên (Tiếng ve cuối mùa vút cao vào khoảng trời sông ban chiều/ (…) Tiếng ếch
kêu vang bụi rậm/ Muôn đốm chuồn chuồn nhởn nhơ bay trong làn khói ngoài đồng -
Tương vũ hí tác), Ngưu bối miên cù dục/ Tường đầu ngữ tích linh (Chim sáo ngủ trên
lƣng trâu/ Chim chìa vôi kêu đầu vách - Viên trung tán bộ)…
Trong khung cảnh làng quê ấy có cuộc sống sinh hoạt thƣờng ngày, vất vả của
ngƣời dân: Xuất môn xứ xứ kham thừa đĩnh/ Bão tráp gia gia tự chướng xuyên (Ra cửa
nơi nơi phải đi thuyền/ Ôm cái mai nhà nào cũng tựa nhƣ muốn ngăn nƣớc sông lên - Đại
vũ), Vụ lý song cao tấn thủ khiên/ Phúc hiêu, thần chiến đoản xoa xuyên/ Bách tầm phá
109
thảo trường đê mạch/ Ngũ xích tân ương thượng bạn điền (Sƣơng nặng gầu đôi mới kéo
lên/ Môi run, bụng lép, chiếc tơi quèn/ Ven đê cỏ vỡ ngoài trăm đám/ Dăm thƣớc vừa
gieo mạ ruộng trên - Hiểu lũng quán phu)…
Nhìn chung, cảnh quê trong thơ Cao Bá Quát phần nhiều vẫn là những hình ảnh
đồng quê thanh bình và những con vật bé nhỏ, hiền lành. Cảnh ấy, ta ít nhiều đã gặp
trong thơ Trần Nhân Tông (Mục đồng địch lí ngưu quy tận/ Bạch lộ song song phi hạ
điền), Nguyễn Trãi (Ðỗ Vũ thanh trung xuân hướng lão, Nhất đình sơn vũ luyện hoa
khai). Đến văn học thế kỉ XVIII - nửa đầu XIX, thôn làng, quê hƣơng trở thành một
không gian đƣợc khắc hoạ đậm nét trong thơ của Nguyễn Du, nhóm Gia Định tam thi…
Song phải đến thơ Nguyễn Khuyến sau này, cảnh thôn quê Việt Nam mới hiện hình đủ
các cung bậc của sự nghèo đói, bần hàn. Dành một lƣợng lớn thơ chữ Hán để viết về
không gian quê hƣơng với những hình ảnh giản dị, gần gũi, thân thƣơng nhất, thơ chữ
Hán Cao Bá Quát vừa nằm trong mạch vận động của văn học nửa đầu thế kỉ XIX vừa
đóng góp vào văn chƣơng cảm xúc riêng tƣ, thắm thiết của ông với quê hƣơng. Với
phƣơng diện này, Cao Bá Quát đóng góp một phần vào sự dân chủ dân chủ hoá thơ chữ
Hán trong văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX.
4.1.1.2. Không gian đời tư - nơi chất chứa nỗi sầu hận, bế tắc
Trong thơ Cao Bá Quát, ngoài không gian vũ trụ, không gian xã hội, con ngƣời cá
nhân Cao Bá Quát có xu hƣớng tìm về nơi ẩn náu trong ngôi nhà, khu vƣờn của mình:
Tán phát xuân phong kịch khả liên/ Nhược vi duệ lý vãng tiền hiên (Tóc x oã trong gió
xuân thật đáng thƣơng/ Lê bƣớc dạo về hiên trƣớc - Viên cư trị vũ). Thế nhƣng, đây
không còn thuần là nơi giải khuây, vợi đi nỗi niềm thế tục. Với Cao Bá Quát, nó là biểu
hiện cho sự bất lực, không thoát ra đƣợc để tới nơi xã hội rộng lớn: Tráng niên tâm sự
độc sài phi (Tâm sự của tuổi trai tráng đành gửi trong cửa sài - Nhật mộ), Thập niên do
trệ thảo vân cư (Mƣời năm trời vẫn chìm lặng ở chốn am mây, nhà cỏ - Tặng Thổ Khối
Đỗ vệ uý xuất Thanh Hoá). Nó cũng chính là không gian biểu lộ rõ rệt nỗi cô đơn của
ông: Ngung toạ độc trầm ngâm/ Đáo minh thượng bằng kỉ (Một mình ngồi xó trầm
ngâm/ Mãi đến sáng vẫn còn tựa ghế - Trung dạ thập tứ vận)…
Thế nên, nếu ngƣời xƣa dù ở trong nhà thì vẫn mở cửa hoặc “ngỏ song mây” để
luôn thông hoà với không gian vũ trụ, thì Cao Bá Quát giống nhƣ Nguyễn Du, thƣờng
đóng cửa ngôi nhà vốn đã bé mọn của mình: Duyên khê mao ốc yểm sài phi (Ngôi nhà
tranh ven suối cửa rào khép kín - Vãn quy), Bắc song cao chẩm kiển duy lưu (Cửa sổ phía
110
Bắc lót gối cao, kéo màn xuống - Thử khốn hí ngoạ hà điệp, đồng Phan Sinh, kì nhất), U
song ngoạ thính tiểu đào thanh (Nằm chỗ cửa sổ kín (của thuyền) nghe tiếng sóng nhỏ -
Nhị thập nhị nhật đắc phong, hí trình đồng chu, kì nhất)… Có lúc Chu Thần Bế hộ duy
vô sự (Đóng cửa vì không bận việc gì - Nhàn cư). Có lúc Tận nhật hàn vân bế (Cả ngày
đóng chặt cửa vì mây mƣa gió rét - Hàn vũ sảo tức, dạ ngẫu kiến nguyệt, hoạ Phương
Đình), Tế vũ phi phi dạ bế môn (Mƣa bụi lất phất ban đêm đóng cửa - Trệ vũ chung dạ
cảm tác), Hải ấp xuân vân độc bế môn (Mây xuân nƣớc biển ập vào nhà chỉ đóng cửa -
Mộng Ngô Dương Đình). Lúc thì ông đóng cửa để dùi mài kinh sử: Ta ngã bế hộ điêu
trùng, xỉ khẩu giảo văn tự (Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt giũa câu văn - Đề
Sát viện Bùi công “Yên đài anh ngữ” khúc hậu). Lại có lúc đóng cửa vì thấy mình lạc
lõng giữa đám phong trần: Hỗn tích phong trần lý/ Viện thâm trường bế quynh (Sống lẫn
trong đám phong trần/ Nhà ở sâu thƣờng đóng cửa - Độc thi)…
Dƣờng nhƣ có cả ngàn lí do để tác giả đóng cửa, tự nhốt mình trong không gian
chật chội, kín đáo ấy: Phiền nghệ lưu nhân bất xuất môn (Nghề mệt nhọc, ngƣời ở lại
không ra cửa - Tứ nhật hoạ Đôn Nhân kiến kí thứ vận), cho dù: Bế hộ khổ đằng nhiệt
(Đóng cửa thêm nóng càng khổ - Vi vũ)!
Những khi mở cửa, tác giả cũng ít khi đón nhận đƣợc những niềm an ủi. Có khi
mở cửa là lập tức cái khắc nghiệt của thiên nhiên đƣợc dịp ùa vào: Khai hiên địch hiêu
trần (Mở hiên quét sạch, hơi nóng ngợp vừa ồn ào, vừa bụi - Vi vũ), Quyện nhập hàn
song dạ lậu đa (Cuốn vào song cửa của cái đêm nhiều mƣa gió thấm ƣớt - Trấp tứ nhật
thuyền bạc Thiên Sơn cảng dạ trị phong vũ, thứ vận Trần Ngộ Hiên)…
Có khi bƣớc chân ra cửa là gắn liền với một kỉ niệm buồn, là đi vào một con
đƣờng không phƣơng hƣớng: Xuất môn đản bằng thiếu/Trường lộ thượng du du (Ra cổng
lên cao nhìn phƣơng xa/ Đƣờng dài còn thăm thẳm - Chí gia), hoặc chứng kiến những
cảnh buồn não: Tẩu khan môn ngoại động thanh hô/ An Thượng hà nhân cánh h oạ
đồ/(…) Khả liên dị cảnh diệc huề phù (Chạy ra cổng xem, có tiếng gọi nhau ồn ào/ Biết
có ai nhƣ ngƣời ở An Thƣợng để đem cảnh này vẽ nên tranh/(…) Ngƣời ở nơi khác cũng
bồng bế nhau đến, tình cảnh đáng thƣơng - Quan chẩn)…
Do đó, dẫu không mấy thân thiện với không gian ngột ngạt của ngôi nhà, chủ
nhân của nó vẫn hạn chế bƣớc ra ngoài: Phiền nghệ lưu nhân bất xuất môn (Ngƣời lại
không ra cửa - Tứ nhật hoạ Đôn Nhân khiến kí thứ vận). Lúc mở cửa là đã có ý cảnh
giác: Xuất môn lưu nhãn cửu (Bƣớc ra cửa đã để mắt coi chừng - Tức sự).
111
Còn khi hƣớng ra thế giới bên ngoài, bao giờ tác giả cũng phải ỷ - dựa mình vào
vật gì đó nhƣ khung cửa, lan can, ghế tựa. Theo sự thống kê của chúng tôi, Cao Bá Quát
có tới 42 lần viết về tƣ thế dựa tấm thân vào đồ vật nhƣ vậy. Ví dụ: Tàn canh quyện ỷ
nam song khán/ Kỉ điểm sơ tinh nhiễu hộ trừ (Canh tàn mệt mỏi tựa vào cửa sổ phía Nam
ngắm nhìn/ Mấy đốm sao lƣa thƣa vây quanh thềm nhà - Hạ dạ vấn bốc đồng Hành Phủ),
Ỷ lan sầu bất ngữ (Tựa lan can buồn không nói lên lời - Châu Long tự ức biệt)…
Tƣ thế ấy cho thấy sự mệt mỏi, chán chƣờng của chủ nhân ngôi nhà. Tuy nhiên,
ngôi nhà đã trở thành chỗ dựa cho tấm thân và tƣ tƣởng mệt mỏi của tác giả. Có lẽ, đây
cũng chính là một lí do thêm nữa để Cao Bá Quát đóng cửa ngôi nhà thân yêu của mình.
Điều đó cho thấy, con ngƣời cá nhân tác giả có xu hƣớng thu mình vào cuộc sống riêng,
bế tắc và chán chƣờng trƣớc thực tại. Ngôi nhà, chiếc giƣờng với tác giả đã trở thành nơi
lắng lại, cô đọng những nỗi sầu vô tận: Tiêu trai tận nhật tăng trù trướng (Phòng văn
suốt ngày càng thêm buồn - Mộ xuân tức cảnh hoài nhân), Hồi phong xuy quyện chẩm
(Gió quẩn vào chiếc gối ngƣời đã mỏi - Hàn dạ tức sự), Sầu tuyệt không phùng phong vũ
dạ/ Nhất đăng minh diệt đối cô miên (Sầu đã dứt đêm gió mƣa còn đó/ Ngọn đèn leo lét
bên giấc ngủ cô đơn - Khốc tử), Dạ bất thành miên thôi chẩm khởi (Đêm không ngủ đƣợc
đẩy gối dậy - Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miễn Chi Ngự sử), Minh cư đạm bạc thích/… Uý
ngã cơ lưu hồn (Ở trong tối đạm bạc càng vừa ý/… Để an ủi cái tâm hồn bị trói buộc của
mình - Thu dạ độc toạ tức sự)…
Biểu hiện cụ thể, cao độ nhất cho sự tù túng bế tắc ở không gian đời tƣ trong thơ
chữ Hán Cao Bá Quát là khung cảnh nhà giam của triều Nguyễn đối với tội nhân Cao
Chu Thần. Có lẽ Cao Bá Quát là tác giả đầu tiên trong văn học trung đại tƣờng thuật
tƣờng tận cảnh nhà giam và sự tra tấn chính bản thân mình. Ông có tới 21 bài viết về
cảnh giam cầm, khiến cho cảnh nhà tù trở thành ám ảnh nghệ thuật gây ấn tƣợng mạnh
trong lòng độc giả:
1. Bộ trung thính hậu sổ nhật tác (làm thơ trong khi đợi vài ngày nghe quyết định
của bộ Lễ)
2. Cấm sở cảm sự, túng bút ngẫu thư (Nơi nhà giam nhân việc cảm xúc phóng
bút viết ngay)
3. Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu nhân (Tháng chín trong nhà giam làm thơ
trình các bạn)
112
4. Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục toả cấm (Ngày 21
tháng giêng bị giải sang giam ở ngục Thừa Thiên)
5. Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ ngục (Ngày 7 tháng chín
tống giam nhà tù Trấn Phủ vì vụ trƣờng thi)
6. Cửu nhật chiêu khách (Ngày trùng cửu mời khách)
7. Dĩ sự đãi vấn thừa bộ trát tái hạ Trấn Phủ (Thừa hành trát bộ (Lễ) có việc bắt
tra hỏi rồi lại tống xuống Trấn Phủ
8. Đằng tiên ca (Bài ca cái roi song)
9. Đoàn Tính bình nhân lai uỷ vấn, tẩu bút đáp tặng (Đoàn Tính sai ngƣời đến
thăm, viết nhanh đáp tặng)
10. Khách phục hữu thỉnh canh phú giả. Niệm tự đắc cấm hậu, khốn ư thử vật giả,
mĩ nhật y tịch tuần vi lãm phận, thậm tri bất khả ư ngôn dã. Trung dạ ngẫu
dịch chính mông chi chỉ, hốt cảm thử vật, ninh phi trợ ngã thâm giả, triếp phục
hô nhi dữ chi. Nhân dĩ miễn tha, diệc liêu dĩ cảnh ngã dã (Khách lại có lời mời
làm thêm bài thơ khác. Nhớ lại từ sau khi bị vào nhà giam, rất khốn khổ về
“cái của nợ” ấy - nó làm lãng phí ngày đêm. Xem cái phận mình vì trái khuôn
phép triều đình, rất biết không còn gì để nói nữa. Nửa đêm ngẫu nhiên tìm ra
đầu mối, chính là đội ơn chiếu chỉ (nhà vua), bỗng nhiên có cảm về cái vật này
(cái gông). Thà rằng không ai giúp ta trong lúc tối tăm này bèn gọi mà cho
quách nó đi thay vì khích lệ nó, song cũng là tạm thời cảnh tỉnh cho ta vậy.)
11. Lục nguyệt thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng kí chư cố nhân (Đêm rằm tháng
6, dƣới ánh trăng viết gửi các bạn cũ)
12. Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí tứ
thủ, kì nhất (Ngày 17 tháng 10, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt, gƣợng đau
viết luôn bốn bài, bài 1)
13. Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí tứ
thủ, kì nhị (Ngày 17 tháng 10, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt, gƣợng đau
viết luôn bốn bài, bài 2)
113
14. Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí tứ
thủ, kì tam (Ngày 17 tháng 10, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt, gƣợng đau
viết luôn bốn bài, bài 3)
15. Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí tứ
thủ, kì tứ (Ngày 17 tháng 10, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt, gƣợng đau viết
luôn bốn bài, bài 4)
16. Tội định, kì nhất (Khép tội rồi, bài 1)
17. Tội định, kì nhị (Khép tội rồi, bài 2)
18. Trường giang thiên, kì nhất (Một thiên vịnh cái gông dài, bài 1)
19. Trường giang thiên, kì nhị (Một thiên vịnh cái gông dài, bài 2)
20. Trường giang thiên, kì tam (Một thiên vịnh cái gông dài, bài 3)
21. Tức sự (Tức sự)
Với 21 bài thơ này, đoạn đời tăm tối tù ngục đƣợc Cao Bá Quát thuật lại trong thi
ca bằng sự trải nghiệm đầy cay đắng, uất hận và đau đớn. Từ ngòi bút Cao Bá Quát, ngục
tù không chỉ còn là không gian thực mà còn trở thành hình tƣợng điển hình cho sự tù
túng, giam cầm, chôn vùi chí hƣớng con ngƣời. Trong không gian ấy có đủ mọi chốn:
chốn giam cầm, chốn hỏi cung, tra tấn với đủ các vật liệu để tra tấn, đày đoạ con ngƣời:
bức tƣờng, cái gông cùm, chiếc giƣờng gãy, không khí ẩm ƣớt, độc hại… Trong phòng
giam ảm đạm đã đành, ngay cả bên ngoài nó cũng là cảnh: Bạch nhật ảm thảm thần vô
quang (Mặt trời u ám ban mai không có ánh nắng - Đằng tiên ca). Đó đúng là “địa ngục
trần gian”. Viết về không gian này, có lúc Cao Bá Quát xem mình là một vị khách nƣơng
náu nhƣ một chốn nơi cõi trần nhỏ hẹp, tạm bợ: Bệ hạn u thê khách (Khách nƣơng náu
nhà giam - Tội định, kì nhị). Song nhiều hơn là hình ảnh một bề tôi bị tù tội: Sầu thế xuân
đài chỉ xích diêu (Buồn bã nheo mắt nhìn Đài xuân cách trong gang tấc - Thập nguyệt
thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí, kì tam), Chỉ xích thiên uy
vọng đồ nhân/ Phúc đường bồ bặc khấp cô thần (Trong tấc gang oai phong của nhà vua
ngóng về phía ngoài thành/ Bề tôi lẻ loi nằm lăn lóc trong nhà giam - Cửu nguyệt sơ thất
nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ ngục)…
Những câu thơ này đƣợm một ý vị mỉa mai chua xót. Vua - thiên tử - trong quan
niệm Nho giáo dùng “đức trị”. Ấy vậy mà “thiên uy” - oai trời - của nhà vua lại đƣợc
114
biểu hiện cụ thể bởi cái nhà giam! Sự cƣơng toả của không gian trong thơ chữ Hán lúc
này hiện hình thêm con ngƣời và tƣ tƣởng chỉ đạo nó: vua triều Nguyễn và tƣ tƣởng Nho
giáo. Không gian nhà tù đã trở thành hình tƣợng nghệ thuật thể hiện sâu sắc nhất sự
phong bế, ngột ngạt của không gian sống trong thơ Cao Bá Quát.
Từ sự ngột ngạt, bức bối đó, thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã xuất hiện những hình
ảnh bé mọn, biểu hiện cho sự chật hẹp, trói buộc của cuộc đời: chiếc gối, võng, màn,
lồng, thuyền…: Mộng nhiễu gia hương chỉ xích gian/ Phàn lung thê điểu vị tri hoàn (Hồn
mộng quẩn quanh nơi quê nhà trong gang tấc/ Nhƣ con chim nhốt trong lồng không biết
bao giờ về - Để ngụ bệnh trung giản chư hữu), Si hao kì tại lung (Chim cú nhốt yên trong
lồng - Đề Trần Thận Tư học quán thứ Phương Đình vận, kì tam), Nhất sàng triển chuyển
cánh vô ngôn (Nằm trên giƣờng cứ trằn trọc mãi càng không nói đƣợc lời nào - Mộng
Ngô Dương Đình), Địch thanh nhiễu chẩm tế như ngữ (Tiếng sáo quẩn quanh bên gối
nhƣ giọng tỉ tê - Văn địch), Yên đạm vân gian thuỷ trúc cư (Khói nhạt trong mây nhƣ
thấy sống trên thuyền - Ngụ quán tức sự), Tiêu tiêu liên mạc nhất tham quân (Vất vƣởng
một chức tham quân trong màn sen - Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp
hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi), Xuân phong hà sự lai thôi bách/ Lãm não tây viên từ phú
khách (Gió xuân cớ chi đến thúc bách/ Sự não nùng buộc chặt khách văn ở vƣờn tây -
Thứ Phương Đình, Hoán Phủ, Thận Tư phân vận ngũ thử)…
Nói chung, không gian ấy nhìn vào đâu cũng thấy bủa vây, giam hãm con ngƣời.
Từ cái lồng lớn là đất trời, đến cái lồng nhỏ hơn là ngôi nhà, rồi cái võng, cái gối… Hết
vòng xiết này lại đến vòng xiết khác. Nó khiến cho con ngƣời tự ý thức của tác giả trong
không gian ấy trở nên bi thiết: Tuế nguyệt vi trường toạ/ Giang sơn bế độc miên (Năm
tháng vây kẻ ngồi dài/ Non sông đóng lại kẻ ngủ một mình - Đối vũ, kì nhị), Trắc thân
thiên địa bi cô chưởng (Nép mình giữa khoảng trời đất, thƣơng nỗi bàn tay cô đơn - Bệnh
trung), Thoát tục vị năng liêu nhĩ nhĩ (Chƣa ra khỏi vòng thế tục thôi thì thì thế - Hạ dạ
vấn bốc đồng Hành Phủ)…
Rõ ràng, trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát, con ngƣời đã trở thành một thực thể bé
nhỏ giữa giới hạn không thể nào vƣợt qua đƣợc. Thực khác hẳn với những hình tƣợng
anh hùng đƣợc đặt trong không gian tầm kích vũ trụ của những giai đoạn trƣớc.
Không gian đời tƣ trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát còn đƣợc thể hiện qua không
gian “đƣờng đời” phi lí, vô định. Không gian “đƣờng đời” trở đi trở lại trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát. Tác giả Nguyễn Kim Châu khảo sát 160 bài đã thấy: “có 11 lần nhà thơ sử
115
dụng các từ vạn lý, thiên lý để chỉ con đƣờng dài và 31 lần nhà thơ trực tiếp nói đến hình
ảnh “con đƣờng”, trong đó các từ đƣợc sử dụng nhiều nhất là trường đồ (2 lần) uý lộ (2
lần), danh lộ, hoạn đồ (3 lần), cùng đồ, lộ tận (5 lần), trần đồ, trần lộ, thế lộ (4 lần), hành
lộ nan (2 lần), tiền trình, tiền lộ (3 lần)… [9;172]. Con đƣờng là một biểu hiện cụ thể cho
sự thay đổi, từ nơi này chuyển tới nơi khác. Nhƣng trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát, con
đƣờng ấy khi thì tăm tối: Lộ thiểu đăng hành thất hi chúc (Ngoài đƣờng ít bóng đèn đi,
trong nhà hiếm thấy ánh nến - An Quán tảo xuân), khi thì xa lơ xa lắc, thăm thẳm: Vạn lí
ức quy sầu Tử Mĩ (Đƣờng muôn dặm chỉ những mong về, Tử Mĩ buồn bã - Biệt Phạm
Đôn Nhân lang trung), Đại xuyên tây vọng hoàn trù trướng/ Thượng cách vân sơn sổ vạn
trùng (Đứng trên sông lớn nhìn về phía tây lại buồn bã/ Còn cách núi mây mấy vạn trùng
- Dạ túc Triệu Chân kiều), Khách lộ na kham hoàn trở vũ (Đƣờng xa quá sức lại còn bị
gió mƣa ngăn trở - Khách lộ cảm hoài)…, khi thì xa lạ, viển vông: Tiền đồ lịch lịch câu
nhàn mộng/ Phù thế du du kỉ thiếu niên (Con đƣờng phía trƣớc rõ là giấc mộng viển
vông/ Cõi đời phù du đằng đẵng tuổi trẻ có là bao - Hoạ Thúc Minh lưu biệt Doãn Trai
chi tác kiêm thứ kì vận)… Ác nghiệt thay, ngƣời ta không thể tìm kiếm các nẻo đƣờng
khác, vì xã hội chỉ có “độc đạo”: Nhập thế do khoa mục (Vào đời chỉ có con đƣờng khoa
mục - Nhập Vĩnh Lợi kiều). Đã vậy, đó lại là con đƣờng cát - càng bƣớc đi lại càng nhƣ bị
lùi lại (Sa hành đoản ca)… Hình tƣợng con đƣờng vừa là hình ảnh thực theo mỗi dấu
chân tác giả, vừa là hình ảnh tƣợng trƣng cho sự bế tắc về phƣơng hƣớng cuộc đời của
tác giả nói riêng, xã hội nói chung.
Chú tâm vào cảnh không gian ấy, Cao Bá Quát đã liên tƣởng tới thân phận của
mình. Thay vì ví mình nhƣ tùng, cúc, trúc, mai, ông so sánh đƣờng đời, thân đời mình với
những hình ảnh nổi trôi, vô định của không gian: Thế lộ cánh yên vân (Đƣờng đời nhƣ
khói mây thay đổi - Sa hành để Đông Dư, kí mộ lưu túc), Nhất thu linh lạc hướng tây
phong (Một đời long đong gửi gió thu - Trung thu kiến nguyệt), Dư sinh nhất dã mã/
Phiêu chuyển tuỳ thiên phong/(…)Nhất diệp vũ bành bái/(…)Phận uỷ cô phi bồng (Đời ta
nhƣ một luồng hơi/ Di chuyển theo gió trời/ (…) Khác nào một chiếc lá quay cuồng trên
sóng cả/… Thân phận nhƣ sợi cỏ bồng phiêu dạt - Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di
tống Thừa Thiên ngục toả cấm)…
Bao quanh nhân vật trữ tình trĩu nặng suy tƣ Mẫn Hiên là các hình ảnh gió mƣa và
chòm mây cô lẻ. Những nhọc nhằn, long đong, lận đận, không phƣơng hƣớng, mịt mờ về
tƣơng lai bủa vây lấy tâm hồn Cao Bá Quát. Thơ ông vừa khắc khoải tâm trạng bi kịch
tinh thần của nhà Nho khi xung đột với hiện thực xã hội vừa mang cảm thức của con
116
ngƣời hiện đại khi đối mặt với sóng gió, thử thách. Với những hình ảnh đó, Cao Bá Quát
đã khắc hoạ một con ngƣời cá nhân nhà thơ với cái tôi chơi vơi giữa cuộc đời. Hơn nữa,
đặc điểm không gian này thêm một lần nữa cũng cho thấy, nếu các nhà nho trƣớc Cao Bá
Quát thƣờng chăm lo cho danh tiết của mình - khi “thiên hạ đều đục, một mình trong”,
nhà nho “độc thiện kì thân” - thì Cao Bá Quát lại chú ý nhiều đến nghĩa lí cuộc đời, mục
đích và hạnh phúc của cuộc sống.
Với những đặc điểm ấy, không gian trong thơ Cao Bá Quát không phải chỉ xuất
hện dƣới dạng đề, vịnh, cũng không phải loại không gian vũ trụ mà là không gian đầy
chất sự vật, đối tƣợng.
4.1.2. Thời gian đời tư
Thời gian đời tƣ là thời gian cá nhân mà ở đó các sự kiện trong cuộc đời nhân
vật đƣợc thể hiện theo những cách thể rất linh hoạt và đa dạng. Thời gian đời tƣ của nhân
vật có thể đƣợc sắp xếp theo trình tự tuyến tính (trật tự biên niên), có thể đƣợc phi tuyến
tính hoá dựa vào cách cảm nhận và tổ chức thời gian khác nhau của tác giả (đảo thuật, dự
thuật, xen kẽ, gấp khúc, xoắn vặn...).
Cũng nhƣ không gian đời tƣ, thời gian đời tƣ vừa chịu sự quy định bởi cái nhìn
nghệ thuật của nhà văn về thế giới, vừa là biểu hiện thế giới tinh thần của bản thân nhân
vật. Không gian đời tƣ và thời gian đời tƣ là chỉnh thể nghệ thuật cụ thể của thế giới nghệ
thuật.
Có thể nói, thời gian nghệ thuật trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát là một minh
chứng rõ ràng cho xu hƣớng chuyển từ thời gian vũ trụ sang thời gian đời thƣờng - thời
gian hiện tại, có tính chất cụ thể, trực cảm; đó là thời gian sự kiện, thời gian sinh hoạt…
chứ không phải là cảm niệm về thời gian.
4.1.2.1. Thời gian sinh hoạt hàng ngày
Thời gian của văn học trung đại thƣờng mang tính phổ quát. Các buổi sáng, buổi
chiều, buổi tối, mùa xuân, mùa thu… trong thơ mới đọc tƣởng nhƣ cũng là những thời
khắc cụ thể, song không phải nhƣ vậy. Các khoảng thời gian ấy phần lớn trở thành ƣớc
lệ, đại diện chung cho nhiều buổi, nhiều mùa gắn liền với tâm trạng tác giả. Trái lại, trong
thơ chữ Hán Cao Bá Quát, thời gian đã gắn liền với một thời khắc cụ thể. Con ngƣời cá
nhân Cao Bá Quát trong thơ sống giữa thời gian hiện thực.
117
Thống kê 418 bài ở tập 1, chúng tôi thấy thơ Cao Bá Quát thƣờng gắn liền với
mùa thu, mùa đông, buổi chiều và những đêm dài (141 bài). Những bài viết về mùa xuân,
hè, buổi sáng, trƣa ít hơn nhiều (72 bài). Điều đáng nói là vì gắn với hiện thực và tâm
trạng, nên những khoảng thời gian trên trong thơ ông đã vƣợt ra ngoài công thức “thu bi
đông ai” ƣớc lệ của văn học trung đại. Tâm trạng bi, ai trong trong thơ Cao Bá Quát
chiếm lĩnh cả mùa xuân ấm áp và hè rực lửa.
Xuân trong thơ Cao Bá Quát không chỉ có những ngày tƣơi đẹp mà còn có cả
những ngày buồn não nề. Đó là những ngày xuân buồn, ốm, không hi vọng: Tam canh
chung đoạn kê y ốc/ Lạc lạc sổ gia văn bộc trúc/ Xuất môn quyện ỷ lập môn khan/ Lộ
thiểu đăng hành thất y chúc (Tiếng chuông chấm dứt canh ba, xen lẫn tiếng gà gáy/ Đây
đó mấy nhà nghe tiếng pháo nổ/ Ra cửa mỏi mệt đứng tựa cửa ngắm nhìn/ Ngoài đƣờng
ít bóng đèn đi, trong nhà hiếm thấy ánh nến - An Quán tảo xuân, kì nhất), Xuân thiên hà
minh mông (Trời xuân sao mịt mùng - Dữ thi Phan Long Trân du Côn Sơn, nhân tác Côn
Sơn hành vân), Xuân phong hà sự lai thôi bách/ Lãm não tây viên từ phú khách (Gió
xuân cớ chi đến thúc bách/ Sự não nùng buộc chặt khách văn ở vƣờn tây - Thứ Phương
Đình, Hoán Phủ, Thận Tư phân vận ngũ thủ, kì nhất), Vong tình tạm tá khiển xuân sầu
(Tạm mƣợn sự vô tình để tiêu khiển nỗi sầu xuân - Du Tây hồ bát tuyệt- kì thất), Nhất
xuân tiều tuỵ bệnh niên xâm (Cả một mùa xuân tiều tuỵ đau ốm đã hàng năm rồi - Dư hốt
mộng trung vãng Thám Tuần Phủ, ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm
ngã giả, nhân kí Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm tử, kì nhị), Tán phát xuân phong
kịch khả liên (Tóc xoã trong gió xuân thật đáng thƣơng - Viên cư trị vũ)…
Đó là những ngày xuân rét lạnh, tha hƣơng, khách giữa đƣờng cô đơn: Thuỳ niệm
xuân hàn trung lộ khách/ Ngưu y lang tạ lệ thành băng (Có ai nghĩ đến khách giữa đƣờng
trong cữ rét xuân/ Trên chiếc áo tơi đầy những hạt lệ đọng thành băng - Dữ gia nhân tác
biệt thị dạ dư bệnh chuyển phát), Xuân lai tâm lực lưỡng kham tăng (Từ xuân sang đến
nay, cảm thấy tâm, lực cả hai đều đáng phàn nàn - Bệnh trung), Yên hoa lang tạ dị hương
xuân (Khói hoa ngổn ngang ngày xuân ở quê ngƣời - Di đĩnh nhập Dũng cảng)…
Hè trong thơ Cao Bá Quát cũng không phải là cảnh hoa rực rỡ, chói chang, căng
tràn nhựa sống nhƣ thơ Nguyễn Trãi mà trái lại buồn nản, hiu quạnh:
Cưỡng niêm tôn tửu uỷ phương triêu
Giang quốc Đoan dương chính tịch liêu.
(…) Cát y vị tứ niên không trưởng,
118
Hao ngải trùng lai mộng ám tiêu.
(Đoan dương)
(Gƣợng cầm chén rƣợu an ủi một buổi sáng tốt lành,
Nơi sông nƣớc tiết Đoan dƣơng thực là hiu quạnh.
(…) Áo mát muà hè chƣa ban, thời gian cứ trôi,
Hao ngải lại tới, ngầm tan giấc mộng.)
Ở đây có sự tƣơng phản giữa tự nhiên với con ngƣời. Đoan dƣơng - tết Đoan ngọ
mùng 5 tháng 5 là thời điểm nóng nhất trong năm. Trời đất đúng vào lúc chính dƣơng.
Vậy mà con ngƣời lại không đƣợc tiếp thêm nhiệt lƣợng. Trái lại, rơi vào chán chƣờng, bi
quan, sầu não.
Các buổi sáng trong thơ Cao Bá Quát cũng không phải là khởi đầu cho những sự
tƣơi mới, ngọt ngào. Trái lại, nó lại nhƣ là sự bắt đầu và tiếp nối cho những sầu buồn vô
tận:
Tòng thử năng cao hứng,
Hành ca muộn khả thinh.
(Hiểu nhập Quảng Trị giới)
(Từ đây chợt (trỗi niềm) cao hứng,
Vừa đi vừa hát nghe buồn tênh.)
Đặc biệt, Cao Bá Quát thƣờng chứng kiến những cảnh khổ đau vào buổi sáng: gặp
ông già Phúc Lâm tội nghiệp, chứng kiến cảnh quan phát chẩn, ngƣời tát nƣớc đói khổ,
nhọc nhằn trên cánh đồng… Buổi sáng với Cao Bá Quát thật đáng kinh sợ:
Duyên lưu đáo xứ hữu nhân thôn,
Phá hiểu bình khan Động Hải môn.
Tứ vọng hoàng sa thiên vạn điệp,
Thử sinh quán kiến tiếu tiêu hồn.
(Thuận Trạch chu hành Động Hải, kì nhị)
(Dòng chảy đến nơi có xóm có làng,
Tảng sáng xem mặt nƣớc phẳng lặng ở cửa Động Hải.
Bốn phía cát vàng muôn ngàn lớp,
Cuộc sống ở đây vẫn thế, đúng là đáng kinh sợ.)
Với tính chất thời gian hiện thực này, thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã vƣợt ra ngoài
công thức ƣớc lệ “thiên nhân tƣơng ứng” của văn học trung đại. Tâm trạng, cảm xúc của
119
con ngƣời không chỉ gắn với thời gian vũ trụ mà chủ yếu là do tác động của thời gian
cuộc sống sinh hoạt. Cao Bá Quát đã tạo ra một kiểu thời gian hiện thực hằng ngày gắn
liền với cuộc sống cá nhân. Những dấu hiệu thời gian này khiến thơ chữ Hán Cao Bá
Quát có tính chất hiện thực, kí sự. Thơ ông mang đặc điểm của thơ điệu nói.
4.1.2.2. Thời gian cụ thể, trực cảm
Dấu ấn thời gian cụ thể trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát hết sức rõ rệt. Ngay nhan
đề các bài thơ đã cho thấy rõ điều đó: Cấm sở cửu nguyệt trình chư hữu nhân (Tháng 9
trong nhà giam làm thơ trình các bạn), Chí nhật đồng Chí Đình tiểu ẩm tẩu bút thứ vận
(Ngày đông chí cùng Chí Đình trong bữa tiệc xoàng vẩy bút nhanh hoạ vần thơ), Chinh
nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên (Ngày 21 tháng giêng bị giải sang giam ở
ngục Thừa Thiên), Cửu nguyệt sơ thất nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ ngục (Ngày 7/9
tống giam nhà tù Trấn Phủ vì tội trƣờng thi), Cửu nhật chiêu khách (Ngày trùng cửu mời
khách), Cửu nhật Di Xuân kiến kí thứ vận (Ngày trùng cửu hoạ thơ ông Di Xuân gửi
đến), Đoan dương, Đoan ngọ, Hoạ Lục Phóng Ông chinh nguyệt ngũ nhật xuất du (Ngày
5 tháng giêng đi chơi hoạ thơ Lục Phóng Ông)…
Ngoài những nhan đề có ngày tháng cụ thể trên, còn có kiểu nhan đề ghi rõ không
gian, sự kiện gắn liền với sinh hoạt cá nhân: Ẩm tửu đắc chư hữu giai tác, tức phục tẩu
bút thư thị (Uống rƣợu, nhận đƣợc tác phẩm hay của các bạn liền sáng tác nhanh tại chỗ
đƣa cho họ), Bảo Xuyên Lê ông kiến h oạ dư thi nhân kí bách nhãn lê, phụng thứ lai vận
(Đƣợc thấy ông Lê Bảo Xuyên hoạ thơ tôi, nhân gửi biếu na, kính h oạ bài thơ gửi tới),
Dữ gia nhân tác biệt thị dạ dư hốt bệnh chuyển phát (Từ biệt ngƣời nhà, ngay đêm ấy ta
lại phát bệnh), Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự triếp hữu sở cảm, tẩu bút
dữ chi (Cùng với Hoàng Liên Phƣơng nói chuyện hải ngoại, có điều cảm xúc, viết nhanh
bút đƣa bạn)…
Đáng nói thêm nữa là thời gian trong thơ Cao Bá Quát đƣợc tính theo năm, mùa,
ngày, giờ... Ví dụ:
- Đời người: Tịch mịch bán thương xuân (Buồn đau nửa tuổi xuân - Châu Long
tự ức biệt)…
- Năm: Thập bát thu lai cố cựu hi (Mƣời tám năm qua những ngƣời cố cựu đã
hiếm hoi - Tống Nguyễn Mã Trai niên ông đắc giả Bắc hồi), Phân thủ Hà thành Thập
quá xuân (Đã hơn mƣời năm rồi ta chia tay nhau ở Hà Thành - Thiên Áo thành phùng cố
120
nhân Cổ Vân Khê văn kì cận phả đắc ý ư hoạ dữ ẩm cập chi), Thư kiếm thanh cuồng
thập quá niên (Sách gƣơm lãng đãng quá 10 năm - Túc Giai Lạc cựu Tổng mục gia,
tương biệt Lưu Đề), Thập niên ác bút phí quang âm (Mƣời năm cầm bút phí cả thì giờ -
Phục giản Phương Đình), Thập niên trùng đáo Liễu Đình nam (Mƣời năm nay mới lại
đến phía Nam - Trùng quá Vạn Liễu Đình), Thập niên tiền bạc Mạnh gia thi (Mƣời năm
trƣớc ta từng coi thƣờng con nhà họ Mạnh - Ngụ sở cảm sự, mạn bút thư hoài), Cô đăng
tự chiếu thập niên tâm (Ngọn đèn lẻ loi chiếu sáng tấm lòng mƣời năm - Độc dạ thư
hoài), Nhân thế thăng trầm ngũ lục niên (Ta nổi chìm cõi ngƣời đời năm sáu năm rồi -
Ẩm tửu đắc chư hữu gia tác tức phục tẩu bút thư thị), Lục niên sinh tử phù trầm địa (Qua
sáu năm ở nơi sống chết chìm nổi - Đáp Hà Thành cố nhân thư thoại cập gia tình kiêm
vấn cận tác), Nam lai ngũ lục niên (Đến miền Nam đã năm sáu năm - Đoan ngọ), Động
trung lai vãng dĩ tam xuân (Tới lui động này đã là ba xuân - Tàng Chân động), Hoàng
tâm khánh tuế nhương (Lòng vua mừng năm đƣợc mùa - Ngũ phong thập vũ tuế phong
nhương)…
- Tháng, tuần - mười ngày: Cơ lưu lưỡng thiên thứ/ Thập kiến hải nguyệt viên
(Bị giam cầm đã hai lần đổi chỗ/ Và đã mƣời lần thấy trăng tròn trên mặt bể - Lục nguyệt
thập ngũ dạ nguyệt hạ tác phụng kí chư cố nhân), Dương liễu xuân tam nguyệt (Dƣơng
liễu tháng ba mùa xuân - Tam nguyệt Giang Thành liễu nhứ phi), Tam nguyệt giang
thành thượng bạc hàn (Tháng ba ở thành bên sông còn hơi lạnh - Hàn vận hoạ Thận Tư),
Trùng lai cận lục tuần (Nay lại đến, sau sáu tuần - Châu Long tự ức biệt)…
- Ngày: Tiết nhật cánh lưu liên (Ngày tết lại càng mê chơi quên quê nhà - Đoan
ngọ), Cửu nguyệt vọng hậu thiên khí lương (Sau hôm rằm tháng chín, khí trời đã dịu -
Đằng tiên ca), Giang quốc Đoan dương chính tịch liêu (Nơi sông nƣớc tiết Đoan dƣơng
thực là hiu quạnh - Đoan dương), Thiên trung giai tiết nhập phương triêu (Ngày tết thiên
trung tốt đẹp đi vào buổi sáng trong lành - Ngũ nhật thù Phạm Lang trung, Nguyễn viên
ngoại chiêu ẩm), Phong lực nhất phàm tam nhật dạ (Một cánh buồm chạy bằng sức gió
suốt ba ngày đêm - Hạ Liêu thành ngoại tức sự)…
- Buổi, canh, giờ: Thiên trung giai tiết nhập phương triêu/(…) Y quan sơ tán tử
thần triều/(…) Ngọ lai bồ tửu sổ tương yêu (Ngày tết thiên trung tốt đẹp đi vào buổi sáng
trong lành/(…) Áo mão vừa tan buổi chầu ở nội điện/ (…) Giờ ngọ đến mời uống mấy
chén rƣợu xƣơng bồ - Ngũ nhật thù Phạm Lang trung, Nguyễn viên ngoại chiêu ẩm), Đài
cổ báo sơ canh (Trống trên đài báo canh một - Đồng Bùi Nhị công tử Tôn Thất Minh
121
Trọng phiếm chu Đà Môn, mộ yết đãi nguyệt), Tam canh chung đoạn kê y ốc (Tiếng
chuông chấm dứt canh ba, xen lẫn tiếng gà gáy - An Quán tảo xuân, kì nhất), Mao điếm
kê sơ khiếu (Ở quán lợp tranh, gà vừa gáy lần đầu - Khách trung tảo khởi)…
Điều đó cho thấy, thơ chữ Hán Cao Bá Quát không còn đơn thuần là thơ tải đạo
ngôn chí hoặc cảm xúc ƣớc lệ về vũ trụ nữa mà thƣờng là những tâm trạng, cảm xúc
đƣợc ghi lại trong một thời điểm, một không gian nhất định. Đó là tâm trạng đƣợc nảy
sinh do một tác động nào đó của hoàn cảnh sống sôi động, phức tạp, phong phú. Đối với
cuộc sống, Cao Bá Quát đã không còn mang đặc điểm của ngƣời trung đại: cảm nhận thời
gian theo lối tuần hoàn, ngƣng đọng, kéo dài. Thơ ông đã mang cảm xúc của thi ca hiện
đại: quý giá, chú trọng từng phút giây của của cuộc đời; thời gian đi là mất.
Dấu ấn thời gian cụ thể trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát còn đƣợc thể hiện qua
nhiều bài đƣợc tác giả sáng tác trong thời gian diễn ra tết hội theo phong tục tập quán: tết
Nguyên tiêu, Đoan ngọ, Trùng cửu… Số lƣợng bài sáng tác trong khoảng thời gian này là
37 bài. Điều này chứng tỏ, những thời gian tết hội tác động rất mạnh mẽ đến tâm trạng,
cảm xúc của Cao Bá Quát. Đó là những thời điểm đặc biệt trong năm, đem đến những đổi
mới của đất trời, của vũ trụ, làm dậy lên những niềm khát khao hi vọng mới cho con
ngƣời. Nhƣng với Cao Bá Quát, đó lại là những thời điểm khiến ông buồn sầu nhất. Vì
những thời điểm ấy là những dấu ấn cụ thể minh chứng cho sự vèo trôi của năm tháng
cuộc đời. Trƣớc những thời khắc ấy, thơ Cao Bá Quát thƣờng thảng thốt những nỗi buồn
sầu cho sự mất mát thời gian, sự nuối tiếc vì chƣa làm gì nên chuyện…
Nói chung, thời gian trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã có xu hƣớng nghiêng về
thời gian đời tƣ, gắn liền với cuộc sống của tác giả. Các thời điểm đƣợc định vị trong thơ
ông phản ánh con ngƣời cá nhân, hành động, sự kiện con ngƣời cá nhân của nhà thơ.
Điều này khiến thơ Cao Bá Quát nặng kí thác những tâm sự cá nhân.
4.2. Sự phát triển hình thức thể loại kí sự thơ
Kí là loại tác phẩm phản ánh đời sống chủ yếu bằng cách tái hiện sự kiện, hiện
tƣợng, con ngƣời trong tính quá trình của nó - nhƣ cái gì mình trông thấy và cảm nhận;
trình bày theo cảm xúc và cảm hứng cá nhân; với thành phần lời văn kết hợp đang xen
giữa câu trần thuật, miêu tả, phân tích và cảm thán.
Thể kí trong văn học trung đại Việt Nam đến thế kỉ XVIII- XIX đã phát triển lên
đến đỉnh cao. Thành tựu to lớn của kí văn xuôi trong thời kì này dƣờng nhƣ đã ảnh hƣởng
122
cả sang lĩnh vực thơ ca, khiến cho không ít tác giả, tác phẩm thơ cũng có tính chất của kí.
Tiêu biểu cho hiện tƣợng này có lẽ là thơ chữ Hán Cao Bá Quát.
Hình thức kí trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát rất phong phú, có kí tự sự, kí du
hành; kí ghi phong cảnh, ghi ngƣời ghi việc; nhật kí, hồi kí… Trong đó, những đặc điểm
của thể kí đƣợc thể hiện hết sức rõ rệt.
4.2.1. Sự nhiệt thành thể hiện cái tôi của tác giả
Xét cho cùng, tác phẩm văn học nào cũng biểu hiện cái tôi tác giả, dù nó nghiêng
về phản ánh hiện thực đời sống hay hiện thực tâm linh. Phƣơng diện chủ thể là một yếu
tố có vai trò quyết định đến quá trình sáng tác và đặc thù tác phẩm. Dù muốn hay không,
cái tôi nghệ sĩ cũng ít nhiều in dấu trong tác phẩm. Tuy nhiên, ở mỗi loại hình, cách thức
bộc lộ cái tôi đó có những điểm khác biệt.
Cái tôi của cá nhân tác giả có vai trò lớn đối với thể kí. “Kí chỉ thực sự ra đời khi
ngƣời cầm bút trực diện trình bày đối tƣợng phản ánh bằng cảm quan của chính mình”
[87;40]. Do đó, cái tôi tác giả của thể kí khác với cái tôi tác giả của các thể loại khác.
Truyện có cái tôi hƣ cấu, tuỳ bút cho phép ghi lại điều tác giả nghe nói, trữ tình chủ yếu
là cảm xúc tâm trạng của tác giả. Ở những thể loại này, tác giả có thể ẩn mình đi, bọc
mình lại khiến bạn đọc không dễ gì thấy ngay diện mạo của họ. Còn kí là cái tôi thật,
chứng kiến, chép sự thật, tƣờng thuật... Đó là cái tôi không trang điểm, trang sức, phản
ánh và bày tỏ cảm xúc, suy tƣ thực của mình trƣớc những sự việc mắt thấy tai nghe, trƣớc
những điều nhà văn nhận thức đƣợc từ cuộc sống. Những đặc điểm của cái tôi tác giả
trong thể kí thể hiện khá rõ rệt trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát khiến cho thơ ông có
nhiều bài mang đặc điểm của thể loại này.
4.2.1.1. Sử dụng từ nhân xưng ngôi thứ nhất
Yếu tố đầu tiên thể hiện đặc điểm thể loại kí sự trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát là
việc mạnh mẽ, rõ ràng bộc lộ sự hiện diện cái tôi cá nhân chủ quan của tác giả trên nhiều
hình thức khác nhau.
Biểu hiện đầu tiên trong ý thức cá nhân của Cao Bá Quát là mật độ xuất hiện đại
từ nhân xƣng ngôi thứ nhất: ngã, tự, kỉ, bối, khách… dày đặc và liên tục.
Trong văn học Việt Nam trung đại, việc sử dụng từ tự xƣng không phải đến Cao
Bá Quát mới xuất hiện. Tác giả Lê Thu Yến thống kê thơ chữ Hán cho kết quả: Nguyễn
Trãi có 22 từ tự xƣng trên 52 bài thơ, Nguyễn Đề có 40 từ tự xƣng trên 143 bài thơ,
123
Nguyễn Du có 269 từ trong 250 bài thơ chữ Hán còn lại của ông. Nhƣ vậy, việc sử dụng
từ tự xƣng đến Nguyễn Du đã trở thành “hiện tƣợng”. Song, Cao Bá Quát còn đi xa hơn
nữa. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc Quận đã thống kê và kết luận “mật độ dùng từ tự
xƣng loại này của Cao Bá Quát nhiều gấp 2,37 lần so với Nguyễn Du. Do đó, tính chất
“riêng tƣ” cũng thể hiện mạnh mẽ hơn” [130;176].
Bên cạnh đại từ nhân xƣng, Cao Bá Quát còn đích thân xƣng danh. Trong văn học
trung đại Việt Nam, hiện tƣợng xƣng danh nhiều nhƣ Cao Bá Quát là rất hiếm. Cao Bá
Quát có tới “16 lần tự xƣng đích danh (Mẫn Hiên 4 lần, Chu thần 3 lần, Cúc Đường 3
lần, Cao tử 3 lần, Cao lang 1 lần, Cao thị 1 lần, Quát 1 lần” [114; 76]. Đơn cử: Mẫn Hiên
(Thử Mẫn Hiên tử kim sinh sơ độ chi tịnh dã - Đây là tiệc sinh nhật kiếp này của gã Mẫn
Hiên đây; Lục bức dương bình hoạ Mẫn Hiên - Sáu bức bình phong vẽ chàng Mẫn Hiên
trên biển; Kì phụ Mẫn Hiên xưởng hoảng nhược thất giả sổ nhật hĩ - Cha nó là Mẫn Hiên
thẫn thờ nhƣ ngƣời mất hồn vài ba ngày), Cao lang (Cao lang chỉ tự mai hoa sấu - Chàng
Cao gầy gò giống hệt cành mai), Cao thị (Cao thị chi tử đắc mạo - con của họ Cao cảm
mạo đột ngột), Cao tử (Cao tử bất hạnh, Cao tử dạ mộng - Chàng Cao đêm nằm mơ)…
Việc xƣng tên nhiều nhƣ vậy cho thấy ý thức về bản thân đầy bản lĩnh của tác giả.
Thêm nữa, Cao Bá Quát còn có rất nhiều cách gọi khác để chỉ đích danh cá nhân
mình trong từng hoàn cảnh, nỗi niềm khác nhau: trượng phu (Trượng phu tam thập bất
thành danh - Trƣợng phu ba mƣơi tuổi chẳng nên danh gì - Du Đằng Giang dữ hữu nhân
đăng Chung Kim tự, tuý hậu lưu đề, tính tự), hạnh nhân (Thiên tá giang hồ độc hạnh
nhân - Trời mƣợn sông hồ để ban riêng cho ngƣời may mắn - Du Tây hồ bát tuyệt, kì
nhất), Nam nhân (Khởi thức Nam nhân hữu biệt li - Đâu biết ngƣời Nam nỗi biệt li -
Dương phụ hành), kim nhân (Cổ nhân bất thức kim nhân hận - Ngƣời đời xƣa không biết
nỗi hận của ngƣời đời nay - Đằng Châu ca giả Phú Nhi kí hữu sở dữ, thư dĩ tặng chi), cơ
nhân (Cơ nhân bồng phát toạ đoạn sàng- Ngƣời bị giam xù đầu ngồi trên chiếc giƣờng
gãy - Đằng tiên ca), tản nhân (Tản nhân quy khứ ngoạ giang thành - Kẻ nhàn tản này thì
về nằm khểnh ở thành bên sông - Đông Tác Tuần phủ tịch thượng ẩm), thi ông (Chỉ
khủng thi ông bất khẳng hồi - Chỉ e nhà thơ không chịu trở về - Ninh Bình đạo trung), y
quan nhân (Hốt phùng y quan nhân - Bỗng gặp ngƣời áo khăn đứng đắn - Phụ tương tử),
ly nhân (Tƣơng tống ly nhân đáo Hạ Châu - Tiễn khách biệt ly đến xứ Hạ Châu - Tảo
phát Liêu cảng), ngoan tiên (Ngoan vân thâm xứ ngoạ ngoan tiên - Đám mây nhởn nhơ
124
nơi sâu thẳm có ông tiên bƣớng bỉnh nằm trên đó - Tặng Trà Lũ cử nhân), u nhân (U
nhân ái dạ toạ - Ngƣời buồn vẫn thích ngồi khuya - Thu dạ độc toạ tức sự)…
Chƣa hết, Cao Bá Quát còn thƣờng xuyên dùng tên các danh nhân, hào kiệt trong
quá khứ để chỉ bản thân mình: Lí Bạch - Hảo bằng báo thân thức/ Bạch dã chính dương
cuồng (Nhân tiện nhờ bác báo cho các bạn thân biết/ Rằng: “Lí Bạch lúc này đang giả
điên” - Văn Lưu Nguyệt trì Bắc hành khuyết vi diện biệt phụng kí), Ngũ Tử Tƣ - Ngã thị
Trung Nguyên cựu nhân vật (Ta cũng là nhân vật cũ ở Trung Nguyên - Dữ Hoàng Liên
Phương ngữ cập hải ngoại sự, triếp hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi), Khổng Minh - Hồ hải
Nguyên Long cố bất trừ (Khí phách hồ hải của Nguyên Long cố giữ chửa rời - Tặng Thổ
Khối Đỗ Vệ uý xuất Thanh Hoá), Đào Tiềm, Cố Khải Chi - Do lai bần thắng Đào
Nguyên Lượng/ Đáo để si đồng Cố Trưởng Khang (Bởi chƣng nghèo khó hơn Đào
Nguyên Lƣợng/ Rốt cuộc si cuồng giống Cố Trƣởng Khang - Tân ngụ hí bút, thị đồng xá
Dương Lục Lang), Đỗ Phủ, Hàn Dũ - Bệnh liên Lão Đỗ cùng thiên sấu/ Học ái Xương Lê
vãn cánh thâm (Bệnh thƣơng lão Đỗ khốn cùng lại gầy guộc/ Học tiếc Xƣơng Lê đã
muộn càng thêm sâu - Độc dạ thư hoài), Tô Thức, Hạ Hầu Thắng - Thi tài đáo để liên Tô
tử/ Thư nghĩa chung tu thuyết Hạ Hầu (Kể tài làm thơ cuối cùng cũng phải tiếc đến Tô
Tử/ Bàn kinh nghĩa thƣ, rốt cuộc cũng phải nhắc đến Hạ Hầu - Trường giang thiên, kì
tam)…
Ngoài ra, Cao Bá Quát còn mƣợn vật thiêng, hoa quý để chỉ bản thân mình. Ông
ví mình nhƣ rùa thiêng: Linh qui khởi trùng vật/ Sinh trưởng biệt Gia Lâm/ Đắc khí tiên
thiên địa/ Tri vi quán cổ câm (Rùa thiêng há phải vật côn trùng/ Lớn lên đi khỏi Gia
Lâm/ Nhận đƣợc tinh khí mà trời đất phú trƣớc cho/ Nên sự hiểu biết rất mầu nhiệm,
thông suốt cả xƣa nay - Qui), nhƣ loài chim hồng, chim hạc: Bệnh hạc thương hồng vọng
dĩ cô (Chim hạc ốm, chim hồng đau hi vọng đã dừng lại - Thuyền hồi quá Bắc dữ, dư bão
bệnh sổ nhật hì, dạ bán đăng tường tứ vọng, thê nhiên độc hữu hương quan chi cảm,
nhân giản Trần Ngộ Hiên), nhƣ các loài hoa đẹp: hoa lan - Cô lan ám kì hinh (Cây lan
đơn độc, thơm không ai biết - Độc thi), hoa hải đƣờng - Ô hô nhất chi xuân hải đường/
Tồi chiết bất biện Xương Châu hương (Than ôi một nhành hoa hải đƣờng đƣơng xuân/ Bị
bẻ tan nát, không kể gì đến cái hƣơng thơm ở Xƣơng Châu nữa - Đằng tiên ca)...
Rõ ràng, ý thức cá nhân của Cao Bá Quát nổi bật rõ rệt trong tác phẩm. Điều này
khiến cho thơ chữ Hán Cao Bá Quát khác biệt rõ rệt so với thơ Đƣờng nói chung và thơ
ca trung đại Việt Nam nói riêng. Do lối sống “khiêm cung” và “khát vọng hoà nhập làm
125
một với vũ trụ”, chủ thể trung đại thƣờng ẩn đi bằng biện pháp tỉnh lƣợc (chủ thể). “Ý
muốn tránh càng nhiều càng tốt ba ngôi trong ngữ pháp chứng tỏ sự chọn lọc có ý thức,
nó làm nảy sinh một lối nói đặt chủ ngữ nhân xƣng trong một mối quan hệ đặc biệt với
các sự vật. Bằng cách xoá, nói đúng hơn, là bằng cách khiến ngƣời ta “ngầm hiểu” sự tồn
tại của nó, chủ ngữ đã hoà tan vào các yếu tố bên ngoài” [147;112]. Nếu chủ thể có xuất
hiện trực tiếp trong sáng tác trung đại thì thƣờng thu nhỏ mình lại một cách khiêm tốn,
dùng những cách xƣng hô rất công thức: kẻ hèn, kẻ mọn, hủ nho, ngựa già… Đó là kết
quả của cái nhìn phi cá thể.
Do vậy, sự xuất hiện đậm đặc của các hình thức tự xƣng chứng tỏ Cao Bá Quát đã
nhiều lần vƣợt ra ngoài “khuôn phép”, quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong văn học
trung đại. Thơ Cao Bá Quát không còn là “sự biểu thị nào đó cho các lực lƣợng vũ trụ”
mà trở thành tiếng nói đầy tính chủ quan, độc lập của cá nhân tác giả. Con ngƣời cá nhân
trong thơ Cao Bá Quát đã thoát ra khỏi mối quan hệ chung với tạo vật, với “đại vũ trụ” để
thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm riêng của mình, bộc lộ cá tính của bản thân. Nhà thơ xuất hiện
không phải với tƣ cách một con ngƣời “siêu cá thể” mà là một cái tôi cá nhân sừng sững.
Từ vị trí chủ thể, Cao Bá Quát xuất hiện trong tác phẩm với vai trò chứng kiến,
ghi chép, bày tỏ thái độ tư tưởng của mình. Những bài thơ chữ Hán của ông đầy ắp các
cụm từ: ngã thị, ngã dục, ngã hành, ngã biên (ta là, ta muốn, ta đi, ta ghi)…:
- Ngã thị Trung Nguyên cựu nhân vật
(Dữ Hoàng Liên Phương ngữ cập hải ngoại sự triếp hữu sở cảm, tẩu bút dữ chi)
(Ta cũng là nhân vật cũ ở Trung Nguyên)
- Ngã dục huề Ma Cật
(Đề Đức Khê tử u cư, thứ Nguyễn Tuần Phủ tiến sĩ vận)
(Ta muốn mang tranh Ma Cật đến)
- Quan cái phân phân ngã hành hĩ
(Hoành Sơn vọng hải ca)
(Mũ lọng nhộn nhịp ta cũng đi đây)
- Thắng du kì tuyệt ngã tư biên
(Cửu nhật chiêu khách)
(Thật là một cuộc vui tuyệt lạ ta ghi lại bài này)
126
- Ngã bản ái khâu sơn
(Đăng Mật Sơn)
(Tôi vốn yêu cảnh núi gò)
- Ngã ca tài đáo Thương Lang ngâm
(Thù Phạm Ôn Phủ)
(Ta ca vừa đến bài Thƣơng Lang)…
Trong nhiều bài thơ, Cao Bá Quát thƣờng xuất hiện với tƣ cách là ngƣời trần
thuật, và điểm nhìn trần thuật của ông cũng thƣờng dịch chuyển sinh động. Nhiều trƣờng
hợp tác giả vừa xuất hiện với tƣ cách là ngƣời trò chuyện, đối thoại với nhân vật, lại vừa
vừa với tƣ cách là ngƣời trần thuật (Mộng vong nữ, Đằng tiên ca, Đạo phùng ngạ phu,
Phúc Lâm lão)… Nhờ vậy, hiện thực đƣợc phản ánh với toàn bộ tính khách quan của nó.
Hơn nữa, tác giả cũng không chỉ là ngƣời quan sát từ bên ngoài mà trở thành ngƣời nhập
cuộc, khiến cho câu chuyện không còn là của ngƣời ngoài mà còn nhƣ của chính bản thân
mình với sự đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc!
Nhƣ vậy, sự ý thức về mình của Cao Bá Quát đã khiến cho thơ ca chữ Hán của
ông có tính tự sự. Thơ ông một mặt có đặc điểm rõ rệt của thể kí: ngƣời sáng tác trở
thành chủ thể ghi lại “những điều trông thấy”, bày tỏ xúc cảm, tƣ tƣởng. Mặt khác, thơ
Cao Bá Quát còn có đặc điểm của thơ ca lãng mạn hiện đại: lấy cái nhìn cá thể làm nền
tảng tạo hình, lấy tiếng nói cá thể làm giọng điệu và nhạc điệu.
4.2.1.2. Nghệ thuật tự dẫn, chú giải
“Tự dẫn” là một bài viết, hay một đoạn dẫn đặt phía trƣớc một bài thơ có tác dụng
dẫn dắt ngƣời đọc, giúp ngƣời đọc hiểu sâu hơn về bài thơ. Tác giả ghi là “Tính thuyết”,
“tính tự "tính ngữ"…
“Chú giải” là viết lời giải thích các từ, các chi tiết trong bài để ngƣời đọc hiểu rõ.
“Chú giải” thƣờng do ngƣời soạn sách làm nhƣng cũng nhiều khi do chính tác giả chú
thích. Phần chú thích của chính tác giả đƣợc ngƣời soạn sách ghi là “nguyên chú”.
Hình thức tự dẫn và chú giải xuất hiện nhiều trong văn chƣơng thế kỉ XVIII - nửa
đầu thế kỉ XIX. Bảng thống kê việc sử dụng tự dẫn, chú giải của các tác giả Phan Huy
Ích, Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Siêu, Phan Thúc Trực dƣới đây cho thấy rõ điều đó:
127
Tác giả Số lần tự Số bài có tự Số bài Tỉ lệ số bài có tự dẫn, chú
dẫn, chú giải dẫn, chú giải khảo sát giải và số bài khảo sát
Phan Huy Ích 86 69 255 27%
Nguyễn Văn Lý 160 104 331 31,4%
Nguyễn Văn Siêu 82 82 316 25.9%
Phan Thúc Trực 149 98 160 61,2%
Bốn tác giả trên, tác giả sử dụng tự dẫn, chú giải ít nhất là Phan Huy Ích thì cũng
đã chú tới hơn ¼ lƣợng bài. Nhiều nhất là Phan Thúc Trực - quá nửa số bài có tự dẫn, chú
giải.
Việc sử dụng tự dẫn, chú giải là điểm mới của văn chƣơng giữa thế XVIII - XIX
so với giai đoạn trƣớc. Nó xuất hiện nhiều là do sự thay đổi về quan niệm và phƣơng thức
sáng tác. Văn chƣơng giai đoạn này hƣớng tới nội dung chân thực, đậm tính chất kí, coi
trọng bạn đọc và mong có sự thấu hiểu sẻ chia của cả thế giới bạn đọc đông đảo.
Tuy nhiên, thiên hƣớng sử dụng tự dẫn của các tác giả đƣợc chúng tôi khảo sát,
thống kê cũng có sự khác nhau khá rõ rệt.
Các tự dẫn, chú giải của Phan Huy Ích phần nhiều nhằm “khoe” gia đình, dòng họ
thuộc hàng danh gia vọng tộc, vinh hoa phú quý. Phan Huy Ích chú nhiều về những việc:
vua ban ân sủng; cha Phan Huy Cận và mình thăng chức, nhận chức; sinh con Phan Huy
Chú tam hợp, khôi ngô; nhạc phụ Ngô Thì Sĩ, anh vợ Ngô Thì Nhậm vinh hiển… Chúng
tôi thống kê đƣợc 46/86 lần Phan Huy Ích tự dẫn, chú giải về phƣơng diện này (Xin xem
bảng thống kê, phần phụ lục, trang 165).
Khác với Phan Huy Ích, Nguyễn Văn Lý lại chủ yếu kê dẫn rõ rệt ông sử dụng
điển tích, điển cố gì và ngƣời đƣợc nói tới trong bài là ai. Ông có 49/160 lần (30,6%) dẫn
điển tích, điển cố, 52/160 (32,5%) lần chú giải về ngƣời đƣợc nhắc đến trong thi phẩm
(Xin xem bảng thống kê, phần phụ lục, trang 173)..
Nguyễn Văn Siêu lại khiến ngƣời đọc kinh sợ vì sự thông kim bác cổ các nhân
vật, địa danh, sự kiện lịch sử… Ông dẫn sách ngồn ngộn sách, bình chú chi tiết nhân vật,
sự kiện lịch sử, đƣa chính kiến của mình về các chi tiết sai của Sử kí Tƣ Mã Thiên và
quốc sử nƣớc nhà; chú giải tƣờng tận gốc gác tên gọi, dòng chảy, lƣu lƣợng của các dòng
128
sông… Thêm nữa, ông còn cho thấy rõ ông đi đến đâu đọc đến đó. Các tự dẫn, chú giải
của ông vừa có căn cứ từ sách vở vừa từ những văn bia, biển đề… ông đọc khi đến tham
quan, xem xét (Xin xem bảng thống kê, phần phụ lục, trang 178). Tự dẫn, chú giải của
Nguyễn Văn Siêu cho thấy ông là nhà văn hoá, nhà khoa học tầm cỡ của dân tộc.
Phan Thúc Trực sử dụng tự dẫn, chú giải chủ yếu nhằm giải thích nội dung thơ ca
của ông. Ông thƣờng nói rõ câu này lấy ý ở đâu, tại sao nói nhƣ vậy, câu này làm nền cho
câu khác ra làm sao. Chúng tôi thống kê đƣợc 80/149 lần (53,6%) Phan Thúc Trực dẫn
giải ý thơ (Xin xem bảng thống kê, phần phụ lục, trang 183)..
Rõ ràng, cùng sử dụng nhiều tự dẫn, chú giải, song mỗi tác giả mỗi khác. Điều đó
góp phần cho thấy thiên hƣớng thơ ca của các tác giả cũng có nhiều khác biệt.
Thơ Cao Bá Quát nằm trong xu thế đổi mới của văn chƣơng giai đoạn nên ông sử
dụng khá nhiều tự dẫn và chú giải. Cao Bá Quát có 106/1212 bài sử dụng tự dẫn, chú giải
(chiếm 8,7%). Trong đó, không ít bài, lƣợng chữ tự dẫn, chú giải khá nhiều. Chẳng hạn:
bài Tiễn cố nhân Bình Định học chính Trương Giản Trai đắc giả hồi hương có 126 chữ
tính tự và 53 chữ nguyên chú/120 chữ bài thơ (dài hơn 1,5 lƣợng chữ bài thơ), bài Tiểu
mãn nhật đồng Minh Trọng chư nhân du Phúc Kiều tửu gia có 281 chữ tựa/56 chữ thơ
(dài hơn 5 lần lƣợng chữ của bài thơ), bài Túc Tĩnh Gia thành kỉ sự có 183 chữ/28 chữ
thơ (dài gấp hơn 6,5 lần chữ thơ)…
Giống nhƣ các tác giả khác, tự dẫn, chú giải của Cao Bá Quát hƣớng tới nhiều vấn
đề: chú giải về điển tích, điển cố (Cổ phong - kì thất, kì thập, kì thập bát…), tên sao (Dạ
toạ nạp lương đồng Phan Sinh), Lý Định (Dạ thính Phan Sinh tụng Tô thi), câu thơ (Dạ
thính Phan Sinh tụng Tô thi), điệu từ Đoàn Phiến lang (Đoàn phiến lang, kì nhất), đƣa ra
lời nghị luận về một nhân vật, sự kiện lịch sử hoặc một vấn đề xã hội (Chiêu Quân, Đề
Minh Thành thư viện...), dẫn hoàn cảnh sáng tác (Ngư Sơn từ, Thất tử), giải thích nghĩa
từ…
Song điều đáng chú ý là các tự dẫn và nguyên chú trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát
chủ yếu hướng tới việc khẳng định sự việc được nói tới trong bài thơ là có thật và rất cụ
thể.
Đó là lí do nảy sinh cảm hứng sáng tác thơ: Ngẫu yết Hoàng Mai quán, lộ nhân
ngôn tứ nhật Ngư sơn chi nạn bất thăng chỉ phát, cảm nhi phú thử (Tình cờ nghỉ ở quán
Hoàng Mai. Ngƣời đi đƣờng nói mồng bốn Ngƣ sơn có nạn, chẳng kể xiết, (nghe mà)
129
dựng tóc gáy. Cảm xúc làm mấy bài này - Ngư sơn từ). Hoặc lí do dùng từ, diễn đạt của
tác giả: Thời dĩ thân bệnh chi quy bất đắc cố vân (Bấy giờ bố mẹ bị bệnh không về đƣợc
nên mới nói thế - Thu dạ thư hoài chư cố nhân), Phương Đình cận lai thư vân hữu dục
tiến dư giả, cố cập chi (Phƣơng Đình gần đây viết thƣ nói có ngƣời muốn tiến cử ta, cho
nên đề cập tới việc này - Tống Yên Thái Nguyễn Hiến phó công xa), Dư sở thực đồ mi,
kim niên thuỷ hoa, cận dĩ tặng sở thân, biệt hậu niệm chi, cảm nhi tác thử (Cây đồ mi của
tôi trồng, năm nay mới có hoa, gần đây đem tặng ngƣời thân tình, sau khi rời nó, lại nhớ
nó, nên cảm mà làm ra bài này - Đồ mi dẫn), Ngẫu hữu dĩ mĩ nhân đồ lai chu trung cầu
thụ nhân hí cập chi (Ngẫu nhiên có ngƣời mang bức tranh mĩ nhân đến thuyền muốn bán,
nhân việc đó mà đùa thôi - Đồng Lạng Giang Phạm Thúc Minh Bảo Lộc Lệnh Cát Sư Bạt
mộ phiếm Xương Giang tuý trung túng bút, kì tam)… Những tự dẫn, chú giải này chỉ rõ
ngọn nguồn nảy sinh cảm hứng của tác giả. Nó cho thấy thơ ca của tác giả đƣợc sáng tác
rất đỗi tự nhiên trong dòng cảm xúc cao độ mà nên lời. Mặt khác, nó còn làm nổi bật tính
chất nhật kí, kí sự trong thi ca của tác giả.
Tính chất của thể kí qua tự dẫn, nguyên chú còn đƣợc thể hiện rõ ở những tự dẫn,
chú giải về thời gian và không gian, sự việc. Chẳng hạn:
- Dư khứ niên đãi hệ chi thứ nhật, kháp đương trùng cửu. Nhật nguyệt y thời, viên
cảm ngã sinh cẩu hạnh bất tử, dĩ phi cố ngã, nhi đăng cao chi du, liêu bất khả đắc, nãi
trường lân hữu bát cửu tử nhi cáo chi viết: Thử Mẫn Hiên tử kim sinh sơ độ chi tịch dã.
Toạ giả dị nhi vấn chi, tiếu thuật kì do, thả hữu thử phú (Năm ngoái tôi bị tống giam hôm
trƣớc thì hôm sau là ngày trùng cửu. Tháng ngày trôi qua, nay ngày ấy lại đến, cảm thấy
đời mình, nếu có may mà không chết, cũng không còn là cái “ta” khi trƣớc nữa rồi, mà
những cuộc lên cao cũng không thể có nữa, mới rót rƣợu mời các bạn chung quanh tám
chín ngƣời và nói: “Đây là tiệc sinh nhật kiếp này của gã Mẫn Hiên đây!”. Mọi ngƣời lấy
làm lạ mà hỏi. Tôi cƣời nói rõ đầu đuôi mà làm bài thơ này - Cửu nhật chiêu khách)
- Hồ Ngựa Trời: “Ngã hương lộ nhập Trung Nghĩa lý môn tức quá Thiên Mã hồ
bạn, vọng ngã gia cách viên nhĩ” (Đƣờng về làng ta đi qua cổng làng Trung Nghĩa thì
đến bờ hồ Thiên Mã, đứng đấy trông về nhà ta chỉ cách một khu vƣờn - Để gia)
- Dương bồn hương mai xích hử, văn nhân cận sáp trung kim trảm nhiên quá đầu
hĩ (Cây hoa mai cao hơn một thƣớc trồng trong chậu sứ, nghe nói gần đây ngƣời nhà đã
đem trồng ra vƣờn, nay đã lên vọt, cao quá đầu ngƣời rồi - Kiến Bắc nhân lai, nhân thoại
cố hương tiêu tức)
130
- Dư lâm hành nhật, thất nội liên táng nhị thử. Đáo Bộ vị kỉ hựu thất nhất bộc
(Ngày ta sắp đi, trong nhà mất liền hai đứa con. Đến Bộ chẳng đƣợc bao lâu, lại mất một
ngƣời đầy tớ - Tạc ức)
- Phan Sinh hiếu thủ mính xuyễn, nạp hám đạm trung, kinh túc chữ ẩm, hỉ hữu
lương phức - Phan Sinh hay lấy lá chè bỏ vào trong nụ sen, để cách đêm, rồi lấy ra pha
uống, cho là có mùi thơm mát rất thú - Vị mính tiểu kệ đồng Phan Sinh dạ toạ)
Nhƣ đã nói ở trên, tên các bạn bè xuất hiện rất nhiều trong thơ chữ Hán Cao Bá
Quát. Trong phần nguyên chú, ông thƣờng chú thích tƣờng tận về bạn bè về hoàn cảnh,
địa vị, tâm tính và cả những dấu ấn, sự kiện liên quan đến tình riêng của tác giả. Ví dụ:
Phạm Thúc Minh cận dĩ ngôn sự, trích phối Nông Giang (Phạm Thúc Minh gần đây có
nói vì việc mà bị “trích” đi Nông Giang - Đằng Giang chu trung hoài cựu du nhân kí
Phượng Tá sứ quân, kì nhị), Vũ Đồng Tri tức Vĩnh Trụ Tiến sĩ Vũ công Văn Lí (Đồng Tri
phủ họ Vũ tức Tiến sĩ Vũ Văn Lí ở Vĩnh Trụ); Vũ thời hậu Án tại tỉnh (Vũ bây giờ làm
Án sát tại tỉnh), Phan nãi y dư hứa cửu kim nãi dị xứ (Phan là ngƣời nƣơng nhờ ta khá
lâu, nay mới ra ở riêng nơi khác - Di Phan sinh)… Đặc biệt là những nguyên chú về Lƣu
Quỹ (1811-1845), đỗ cử nhân cùng khoa với tác giả:
- Thọ Khê Ngô công ngô châu tối xưng quân tử, độc dữ Lưu vi mạc nghịch (Ông
Ngô ở Thọ Khê, ngƣời châu ta khen ông là bậc quân tử. Riêng với Lƣu, ông không phản
đối anh điều gì - Đắc Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ, kì nhị).
- Lưu tiền cửu tại Sát viện (Anh Lƣu trƣớc công tác lâu ngày ở viện Đô sát - Đắc
Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ, kì tam).
- Lưu khất bệnh quy dưỡng, vị kỉ toại Đinh thái phu nhân gian (Anh Lƣu bị ốm
xin về nhà điều dƣỡng. Chẳng bao lâu mẹ là Đinh thái phu nhân qua đời - Đắc Lưu Thị
độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ, kì tam).
- Dư gia cư nhật dữ chư hữu ước vi Quế Lâm văn phổ, đồng du sổ thập nhân. Đôn
Nhân Phạm công tối tiên đắc đệ hựu phục tiên yểu, Lưu công thứ chi. Di Xuân Diệp công
kế giáp, Mậu Tuất phó xa, kim do Thiên Trường Thiếu doãn. Hoà Phủ Phạm huynh cửu
bất đệ, cận văn mục tật vị điển. Long chung hãi nhân. Ngô phổ chung tối tương vãng lai
giả duy thử sổ nhân. Kim lạc lạc như thần tinh hĩ (Tôi ngày thƣờng ở nhà cùng với các
bạn giao ƣớc sẽ có tổ chức “Quế Lâm văn phổ”. Các bạn đồng du vài mƣơi ngƣời. Phạm
Đôn Nhân là ngƣời đỗ sớm nhất, lại chết yểu. Anh Lƣu là ngƣời thứ hai. Tiếp đó Diệp Di
131
Xuân đi thi đỗ Phó bảng khoa Mậu Tuất nay đang làm chức Thiếu doãn ở Thiên Trƣờng.
Anh Phạm Hoà Phủ thi lâu không đậu. Gần đây đƣợc tin bệnh mắt anh chƣa khỏi, đi lảo
đảo ngƣời ta hãi. Trong danh sách bạn bè tôi gần đây đi lại với nhau chỉ còn vài ngƣời,
rơi rụng dần nhƣ sao buổi sớm - Đắc Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện hồ từ, kì
tứ).
- Dư tại cấm ngục nhật, tự phận cô nguy tất hãm tử địa. Lưu nhật dạ tỉnh thị bất tị
phong vũ. Tuy cổ chi đốc ư hữu đạo giả bất đãi thị quá. Mỗi niệm thử sự vị chi hư hi
(Những ngày tôi bị giam trong ngục, biết phận mình đơn côi nguy hiểm ắt hãm vào chỗ
chết. Anh Lƣu ngày đêm đến thăm hỏi chẳng nề gió mƣa. Dù cái đạo dốc lòng trung
thành với bạn hữu thời cổ cũng chƣa vƣợt qua đƣợc sự nguy hiểm đó. Mỗi khi nhớ tới sự
kiện này, lòng tôi lại nghẹn ngào nức nở - Đắc Lưu Thị độc vong tín cảm niệm tồn ai hiện
hồ từ, kì ngũ).
Lƣu Quỹ mất, Cao Bá Quát làm 5 bài thơ khóc than kèm theo 5 nguyên chú. Năm
nguyên chú ấy giúp ngƣời đọc vừa biết tƣờng tận đó là ai, làm gì, gia thế ra sao vừa hiểu
rõ tình riêng sâu sắc của tác giả với ngƣời đƣợc nhắc đến bài thơ. Những nguyên chú nhƣ
thế này góp phần khẳng định rõ ràng điều tác giả nói đến trong bài thơ là ngƣời thật, việc
thật.
Thêm nữa, rất nhiều chi tiết, từ ngữ của bài thơ đƣợc tác giả ghi chú rõ tại sao lại
có câu thơ ấy, tại sao lại dùng từ nhƣ vậy:
- Dư phương dữ chư nhân nghị khai hồ điền tác sưu cừu kế cổ tập chi (Ta cùng
mọi ngƣời bàn việc mở ruộng ven hồ, đang lập kế hoạch nên nói đến ở đây - Du hồ
thướng Thuỷ đình)
- Dư bệnh niệu huyết cơ khốn giả du niên, thử cái đạo thực kì dã (Ta mắc bệnh đi
tiểu ra máu, suýt nguy, hơn một năm mới khỏi, đây là nói sự thực - Tặng thổ Khối Đỗ Vệ
uý xuất Thanh Hoá)
- Cửu dạ phong lạo kiêm phát, dư dữ Lê Ứng Khanh, Đỗ Tự Phủ cơ vẫn vu hải
ngư chi phúc (Chín đêm sóng gió, lụt lội cùng nổi lên. Tôi cùng Lê Ứng Khanh, Đỗ Tự
Phủ cơ hồ tƣởng chết trong bụng cá biển - Đồng Lê Ứng Khanh dạ ẩm)…
Rõ ràng, các tự dẫn, nguyên chú của Cao Bá Quát góp phần không nhỏ vào việc
diễn giải, chứng minh nội dung, tâm sự trong thơ của Cao Bá Quát có căn rễ là những sự
thực, cụ thể chi tiết, biểu lộ rõ ràng một đặc điểm cơ bản của thể kí.
132
Việc sử dụng tự dẫn, chú giải trong thơ Cao Bá Quát nói riêng, văn học thế kỉ
XVIII - XIX nói chung vừa cho thấy sự thay đổi về quan niệm văn chƣơng của thời đại
vừa cho thấy những nhƣợc điểm của hình thức kí sự bằng thơ. Với thơ xƣa, các nhà thơ
quan niệm thơ có ý nghĩa tự thân. Nội dung, ý nghĩa của bài thơ đƣợc bộc lộ qua ngôn từ
trong tác phẩm, đặc biệt là qua những “nhãn tự”, “thần cú”. Khi đƣa vào các tự dẫn, chú
giải chứng tỏ các tác giả đã không tin tƣởng tuyệt đối vào sự truyền đạt của ngôn từ trong
tác phẩm. Họ phải chú thích rõ hơn để minh hoạ cho câu chữ. Điều đó cũng cho thấy áp
lực khó giải quyết của thơ ca đối với việc kí sự. Vì lẽ, kí sự đòi hỏi cụ thể, chi tiết, cần rất
nhiều ngôn từ. Trong khi đó, thơ chữ Hán có lƣợng từ ít, lại phải có vần, nhịp… Do đó,
bản thân thơ sẽ không đủ để phô bày hết nội dung cần diễn đạt của tác giả, cần phải có sự
tƣờng minh thêm bằng tự dẫn, chú giải.
4.2.1.3. Biểu hiện lí sự, nghị luận, phân tích của lí tính
Biểu hiện lí sự, nghị luận, phân tích của lí tính đã có trong thơ trung đại. Song yếu
tố lời nói thu hẹp vào mấy dòng “luận” hoặc “kết”, dƣới dạng câu hỏi, câu cảm thán,
chƣa trở thành yếu tố nổi trội. Trái lại, bàn luận cá nhân là đặc điểm của thể kí và cũng
còn là dấu hiệu đặc trƣng của thơ ca lãng mạn hiện đại. Nghị luận phát triển mạnh trong
Thơ mới và trở thành đặc trƣng của Thơ mới.
Đƣa yếu tố chủ quan, lí tính cá nhân vào thơ ngay từ nửa đầu thế kỉ XIX, Cao Bá
Quát đã bƣớc đầu làm mới câu thơ trung đại. Trong thơ chữ Hán, Cao Bá Quát có tới
792/1212 bài có yếu tố nghị luận nhiều phƣơng diện khác nhau. Khi thì bàn về vai trò
xuất hiện của bản thân mình, nâng mình lên một giá trị hơn cả thiên nhiên, làm nổi danh
thắng cảnh: Phong cảnh dĩ kì tuyệt/ Nhi ngã diệc lai thử (Phong cảnh đã kì tuyệt/ Lại
thêm ta đến đây - Quá Dục Thuý Sơn). Khi thì bày tỏ sự nghi ngờ cả quá khứ vàng son
truyền tụng của ngƣời đời: Thái bình ca thịnh thế/ Ý tại hoạ đồ tiên (Đời thịnh vang lên
tiếng hát thanh bình/ Ngờ rằng trƣớc tiên ở bức tranh vẽ - Bân phong đồ). Khi thì luận về
anh hùng, hào kiệt: Độc hữu tiên thời kiệt/ Đương tôn lão thượng tinh (Chỉ có bậc hào
kiệt biết trƣớc thời cục/ Thì trƣớc chén rƣợu mới còn tỉnh táo - Phục hoạ cựu Tri phủ Nhị
Khê ông thứ vận)… Ngay cả những cái thú tao nhã, ý riêng của bạn, mà ông thấy cần
phải phê bình, ông cũng thẳng tuột, nhƣ với ông bạn Phan Sinh. Phan Sinh thích ƣớp trà
vào sen, để qua đêm, lấy ra uống, vì cho là có mùi thơm thú vị. Cao Bá Quát không thích,
ông phê ngay cái cách uống trà của bạn, từ đó bày tỏ luôn quan điểm của mình về sự coi
trọng cái chân thực trong các mối quan hệ:
133
Nhứ hương quí thanh chân,
Bất dụng ngoại thước ngã.
Vô dĩ nhất ác khan,
Phóng nhĩ tị quan giả.
Huyễn phục phi tráng nhan,
Phồn âm biến Ðại Nhã.
(Vị mính Tiểu Kê đồng Phan Sinh dạ toạ)
(Thử hƣơng quí tinh trà,
Chẳng cần thêm vị khác.
Ðừng vì yêu cái hiếm,
Ðánh lừa mũi của ta.
Áo sắc không mạnh ngƣời.
Lời dài mất nhạc hay.)
Nói chung, lập luận, đƣa ra chính kiến của cá nhân là một cách thể hiện bản thân
đầy bản lĩnh và cá tính của Cao Bá Quát.
Điểm mới mẻ nữa của thơ chữ Hán Cao Bá Quát còn là ở vị trí xuất hiện câu luận
bàn. Nếu thơ trung đại yếu tố lời nói thể hiện cảm xúc và nghị luận cá nhân chỉ thể hiện ở
phần “luận”, “kết” và chủ yếu ở câu kết thì trong thơ Cao Bá Quát, nó xuất hiện ở các vị
trí khác nhau. Có khi ngay ở nhan đề: Bồng Doanh đô xứng liệt tiên du (Bồng Lai, Doanh
Châu xứng đáng là nơi các vị tiên rong chơi), Ngụ sở thực cúc sổ thập tùng, bất đắc kiến
giả cơ tứ nguyệt hĩ. Huống thử âm vũ, đương như hà da? Hệ chi dĩ thi, dụng uỷ cô liêu
(Nơi ở trồng vài chục khóm cúc, đã gần bốn tháng không đƣợc thấy. Huống chi cảnh mƣa
gió âm u thế này, biết làm thế nào đây? Viết ra thơ để an ủi cảnh cô liêu), Quỳnh Cần
Phạm Giám sinh vị dư tụng mỗ phụ nhân trung dạ thi, tình trí thê uyển, nhược hữu bất
thăng li biệt chi cảm giả. Kì tình dâm cố kì từ ai dĩ thương. Lễ nghĩa quân tử sở bất dự
dã. Nhiên Khâu Ma, Trạch Bồ chi phong do kiến thái ư kinh, tư cố thủ nhi lục chi, kiêm
thứ kì vận, dụng tắc Phạm tử, diệc dĩ di chư hảo sự vân (Ông Quỳnh Cần Giám sinh họ
Phạm có đọc tôi nghe bài thơ đêm trung thu của một phụ nữ nào đó, tả tình tiếc than thê
thiết, có sự cảm động về nỗi biệt li không kể xiết. Vì cái dâm tình ấy nên lời lẽ đau buồn.
Ngƣời quân tử có lễ nghĩa không dự vào đó đƣợc. Song trong phong dao ở Khâu Ma,
Trạch Bồ còn ngó thấy trong kinh sách. Vì lẽ ấy mà sao chép lại, kèm làm theo vần bài
đó, qua loa chiều ý ông Phạm, cũng để lại một việc tốt)…
134
Có khi tính chất nghị luận đƣợc bộc lộ qua lời tựa, lời dẫn của chính tác giả.
Trong bài thơ Đề Minh Thành thư viện, Cao Bá Quát cũng có lời tựa nghị luận khá dài:
Thư viện Minh Thành ở Ba (Batavia), người Phúc Kiến lấy đây làm nơi thờ vị tiên nho
Chu phu tử (Chu Hi). Thời gần đây những lời dị đoan sủa vang lên như tiếng chó cắn
nhau ở Trung Quốc. Song cái đạo của thánh nhân may mà không bị rơi rụng nhờ có cái
học của Chu phu tử giảng rõ ràng trong thiên hạ. Những tập quán, tập tục của Ba Thành
vắng vẻ nơi hải ngoại rất khác với Trung Quốc. Người Phúc Kiến cớ sao vui vẻ đến đây?
Hầu như họ có thể thay đổi theo tập tục lạc hậu của người dân phía đông nam Trung
Quốc ở đây. Mới biết rằng việc sùng kính thờ phụng những lớp người trước hòng gìn giữ
lễ nghĩa Trung Hoa, há chẳng phải là sự giáo hoá của thánh hiền đã ăn sâu vào nhân
dân nơi đây nên mới được như thế chăng?
Tôi vui mà dự vào việc này liên hệ có thơ. Nơi đây có vị quân tử nào còn im hơi
lặng tiếng, một ngày nào đó sẽ coi lời tôi nói là như thế nào? (bản dịch). Không ít bài
tựa, Cao Bá Quát đƣa ra quan điểm của riêng cá nhân mình nhƣ vậy (nhƣ bài Chiêu
Quân...).
Trong bài thơ, vị trí những câu luận bàn của Cao Bá Quát cũng không có sự cố
định. Các câu nghị sự của Cao Bá Quát cũng phần lớn nằm ở câu kết. Song cũng có
không ít trƣờng hợp xuất hiện ngay câu mở đầu bài thơ: Dạ bất thành miên thôi chẩm
khởi/ Đốt đốt thuỳ vi thiên hạ sĩ (Đêm không ngủ đƣợc đẩy gối dậy/ Chậc chậc ai là kẻ sĩ
trong thiên hạ - Phù Liệt lữ đình tống Đỗ Miễn Chi Ngự sử). Hoặc ở giữa bài thơ: Sơn hải
chỉ nghi Tề cận lợi/ Lũ thường hoàn tưởng Nguỵ dư phong (Thấy núi cùng bể, ngờ nhƣ
nƣớc Tề chỉ chăm chăm cái lợi trƣớc mắt/ Nhìn dép cùng xiêm, tƣởng chừng nhƣ phong
tục nƣớc Nguỵ còn sót lại - Quá Quảng Trị tỉnh), Trượng phu tế ngộ an khả thường/ Du
nhận phương khan thí bàn thác (Cuộc tế ngộ của bậc trƣợng phu đâu có thể tầm thƣờng/
Xem nhƣ đƣa lƣỡi dao thử vào thứ gỗ xoắn - Tống Nghiêu Phong Nguyễn Tể chi lị)…
Góp thêm vào những câu nghị sự trực tiếp ấy là các câu hỏi. Việc sử dụng câu
nghi vấn cũng là một hiện tƣợng của thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Tác giả Nguyễn Hữu
Sơn đã nhận thấy: “Hầu hết các bài thơ của Cao Bá Quát đều xuất hiện các câu nghi vấn”
[145;485], “có thể nói ở hoàn cảnh nào, gặp điều gì Cao Bá Quát cũng đặt ra câu hỏi, trao
đổi, đặt lại vấn đề” [145;491]. Ở thơ Đƣờng luật, câu hỏi thƣờng đặt ở câu chẵn (sau câu
lẻ) nhằm khơi gợi, nêu vấn đề. “Vậy mà ở thơ Cao Bá Quát, đa phần các câu hỏi lại đặt ở
vị trí câu lẻ, tức là nêu câu hỏi trƣớc rồi mới đoán định, dẫn giải vấn đề” [145;491]. Cách
135
thức dùng câu hỏi và việc sắp xếp vị trí câu hỏi nhƣ vậy càng khiến cho yếu tố nghị luận
của thơ chữ Hán Cao Bá Quát nổi bật rõ rệt.
Thêm nữa, thơ chữ Hán Cao Bá Quát còn có sự xuất hiện của các thán từ, trợ từ:
y, ô hô, hĩ, đốt đốt…: Y! Tử thả hưu lệ (Ôi thôi! Anh hãy cầm nƣớc mắt lại - Đạo phùng
ngạ phu), Ô hô cốt nhục tình (Than ôi! Tình cốt nhục - Đắc gia thư thị nhật tác), Ô hô!
Nhất danh cơ bạn trường như thử/ Bạch phát thanh bào ngô lão hĩ (Than ôi! Một chút
danh cứ ràng buộc mãi thế này/ Bạc đầu với chiếc áo xanh ta già mất rồi - Đề Sát viện
Bùi Công “Yên Đài anh ngữ” khúc hậu)… Những từ này khiến cho câu thơ của Cao Bá
Quát có tính chất “văn xuôi”, thể hiện cao trào cảm xúc, quan điểm cá nhân.
Rõ ràng, với hình thức nghị luận, phân tích lí tính, Cao Bá Quát đã góp phần “tạo
dáng” mới cho thơ ca chữ Hán, khiến thơ chữ Hán của ông có đặc điểm của thể kí với
cách thức mở rộng nội dung sang lĩnh vực ý nghĩ, suy ngẫm, tạo đà cho chất văn xuôi
nhiều khái quát về cuộc sống.
4.2.2. Sự gia tăng tính trần thuật, miêu tả tường tận, chi tiết
“Văn chƣơng truyền thống thƣờng không chú ý lắm đến những chi tiết xác thực về
thời điểm và nếu có nhắc đến thì cũng chỉ nói chuyện xảy ra đã xa xƣa vào một thời điểm
có biên độ rất rộng” [155,302]. Đến thơ chữ Hán của Cao Bá Quát, bút pháp này đã có sự
thay đổi rõ rệt. Thơ Cao Bá Quát có xu hƣớng chú ý, quan tâm tới sự chi tiết, tƣờng tận
và xác thực.
4.2.2.1. Cách đặt nhan đề tường minh
Tính cụ thể ấy đƣợc bộc lộ ngay ở cách đặt thi đề của nhiều bài thơ: Dư hốt ư
mộng trung vãng thám Tuần Phủ ám tưởng kinh trung cố nhân hoặc đương hữu niệm ngã
giả nhân kí Tuần Phủ kiêm trình Đôn Nhân Phạm tử (Ngẫu nhiên nằm mơ đến thăm ông
Tuần Phủ, nghĩ thầm các bạn ở kinh cũng có ngƣời đang nhớ mình, nhân gửi bài này cho
ông Tuần Phủ đồng thời gửi ông Phạm Đôn Nhân), Mông đắc hồi bổ Hàn lâm, lâm hành
chư đệ tử tương tiễn, nhân thứ tiền vận vi biệt (Đƣợc tha lại bổ vào viện Hàn lâm; sắp
khởi hành, các học trò đi tiễn, theo vần cũ viết để từ biệt), Phạm Kinh doãn nhục quỹ hải
vật, bệnh vị đáp bái hốt trị phong vũ cảm sự thư hoài nhân giản Phạm công kiêm trí bỉ ý
(Quan Kinh Doãn họ Phạm hạ mình biếu món đồ biển, đang bệnh chƣa đến vái tạ, bỗng
gặp mƣa gió, cảm kích viết niềm riêng gửi ngài Phạm cùng bày tỏ ý thô thiển), Thập
136
nguyệt thập nhất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn chí tứ thủ (Ngày 17
tháng 10, sau khi bộ Lễ tra tấn nghiêm ngặt, gƣợng đau viết luôn bốn bài)…
Ngay kiểu đặt nhan đề nói rõ tình huống, nguyên nhân… này đã khiến cho thơ
Cao Bá Quát có ngữ pháp truyện: Truyện kể: môi trƣờng + đề tài + cốt truyện + giải pháp
(Trong đó, môi trƣờng gồm: nhân vật + vị trí + thời gian) [155,71]
Về môi trƣờng (không gian, thời gian, nhân vật). Riêng khảo sát Cao Bá Quát
toàn tập, tập I (418 bài thơ), chúng tôi đã thấy có 83 tiêu đề bài thơ gắn với địa danh cụ
thể, gắn liền với từng vùng đất cả trong nƣớc lần ngoài nƣớc: Quảng Trị (Quá Quảng
Trị), Huế (Hiểu quá Hương giang), cảng Bành Thạch (Thuyền nhập Bành Thạch cảng
bạc mộ yết đỉnh)... Những địa danh ấy cho thấy dấu chân những nẻo đƣờng đi, những
miền đất đến của Cao Bá Quát. Về thời gian, có đến 20 tiêu đề bài thơ đề cập tới những
thông số về năm tháng, mùa vụ, ngày giờ... Về nhân vật, nhƣ trên đã trình bày, Cao Bá
Quát dùng rất nhiều từ ngữ chỉ bản thân, nhiều tên riêng của bè bạn cùng những hình ảnh
về vợ con, gia đình... Điều này rất cho thấy Cao Bá Quát muốn ghi lại những sự việc xảy
ra nhƣ một cuốn nhật ký của đời mình, nhật kí hành trình theo trình tự thời gian.
Về đề tài, thơ Cao Bá ghi lại nhiều sự kiện: việc bị bắt giam (Cửu nguyệt sơ thất
nhật dĩ trường sự hạ Trấn Phủ ngục - Ngày bảy tháng chín tống giam nhà ngục Trấn Vũ
vì vụ trƣờng thi; Thập nguyệt thập thất nhật thừa Lễ bộ nghiêm tấn hậu cưỡng bệnh mạn
chí (tứ thủ) - Ngày 17 tháng 10, sau khi bị bộ Lễ tra trấn nghiêm ngặt, gƣợng đau viết
luôn bốn bài; Chinh nguyệt nhị thập nhất nhật di tống Thừa Thiên ngục t oả cấm - Ngày
21 tháng giêng, bị giải sang giam ở ngục Thừa Thiên; Cửu nhật chiêu khách - Ngày trùng
cửu mời khách), việc đi “dƣơng trình hiệu lực” (Nhị thập nhị nhật đắc phong, hí trình
đồng chư hữu (nhị thủ) - Ngày hai mƣơi hai đƣợc thuận gió viết đùa đƣa các bạn cùng
thuyền (hai bài); Nhị thập tam dạ khán nguyệt h oạ Phan Hành phủ (nhị thủ) - Đêm hai
mƣơi ba trông trăng, hoạ thơ Phan Hành Phủ (hai bài); Nhị thập tứ nhật hồi thuyền hiểu
phát Bành Thạch cảng - Ngày hai mƣơi bốn quay thuyền về, rạng sáng xuất phát từ cảng
Bành Thạch…; Trấp tam nhật thuyền xuất cảng khẩu sảo viễn trị bạo phong vũ giảm
phàm nhi tiến - Ngày hai mƣơi ba thuyền ra cách xa cửa biển gặp gió mƣa lớn giảm
buồm mà tiến; Trấp tứ nhật thuyền bạc Thiên Sơn cảng dạ trị phong vũ, thứ vận Trần
Ngộ Hiên - Ngày hai mƣơi bốn thuyền ghé vào cảng Thiên Sơn. Đêm gặp gió mƣa, hoạ
bài thơ của Trần Ngộ Hiên), rồi những sự kiện con mất, lâu rồi mới đƣợc trở lại quê
hƣơng...
137
Tính tự sự thể hiện rõ nhất ở cảm hứng sáng tác đối với sự kiện, biến cố và đối
tƣợng. Dấu hiệu để nhận biết điều này thông qua sự xuất hiện của các từ tẩu bút (viết
nhanh, túng bút (viết ngay); hí bút (viết đùa:); tức sự (làm ngay), thí bút (thử bút), mạn
bút (tản mạn), hí tác (viết chơi)... Sự xuất hiện những từ này vừa chứng tỏ Cao Bá Quát
có tài ứng tác nhanh, vừa cho thấy tính chất thời sự nóng hổi của tin tức thơ ông.
Một điều nữa là nhiều tiêu đề bài thơ chữ Hán Cao Bá Quát là những câu văn tự
sự dài mang tính kể, tƣờng thuật lại. Con số những bài thơ kiểu này có tới gần 238 bài
trên tổng số 418 bài thơ khảo sát. Có những tiêu đề rất dài, nhất là khi nó có đủ ngày
tháng, năm sự kiện, đối tƣợng. Ví nhƣ: Thương Sơn công hữu sở quỹ vật kiêm trí hảo thi,
bộc phương nhiễu vu thất tử chi thích, cảm thê giao tình khẩn tình hiện hồ từ - Ông
Thƣơng Sơn tặng quà, có kèm một bài thơ hay, tôi đang bối rối vì con chết, thƣơng cảm
dồn dập, tình hiện ra lời; Thương Sơn công tịch thượng nghĩ đông dạ quan Vưu Hối Am
Minh sử Nhạc phủ đồng hữu nhân phân phú - Làm theo sự cùng phân công của các bạn
nhân nghe Nhạc phủ về sử đời Minh của Vƣu Hối Am tại tiệc ngài Thƣơng Sơn trong
đêm đông; Trấp tứ nhật thuyền bạc Thiên Sơn cảng dạ trị phong vũ, thứ vận Trần Ngộ
Hiên - Ngày hai mƣơi bốn thuyền ghé vào cảng Thiên Sơn. Đêm gặp gió mƣa, hoạ bài
thơ của Trần Ngộ Hiên... Điều này không phù hợp với tiêu đề thơ chữ Hán trƣớc đó, bởi
thơ chữ Hán nói chí, tải đạo và rất ngắn ngọn nhƣ Thuật hoài của Phạm Ngũ Lão, Tụng
giá hoàn kinh sư của Trần Quang Khải…
Rõ ràng tiêu đề của thơ chữ Hán Cao Bá Quát là sự phá cách rất hiếm thấy so với
các nhà thơ trƣớc ông, cùng thời và cả sau này. Nó cho thấy, Cao Bá Quát không chỉ chú
trọng ghi việc, diễn ý mà còn tái tạo sự sống trong tính hoàn chỉnh của nó. Ở đây “trong
việc có ngƣời”, ngƣời gắn chặt với cảnh, với môi trƣờng hoạt động cụ thể.
4.2.2.2. Cách chú trọng các chi tiết cụ thể
“Nghệ thuật tự sự là khả năng dừng lại kĩ càng ở sự vật đó, tìm thấy cho mình một
sự hứng thú trong việc ngắm nhìn nó và cảm thấy nó có một bí mật có thể tìm hiểu mãi
mà không chán” [155,166]. Tự sự tƣờng tận, chi tiết là một đặc điểm cơ bản tạo nên tính
chất “kí” trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát. Không chỉ có ngọn có ngành về các yếu tố:
nhân vật, thời gian, không gian, thơ chữ Hán Cao Bá Quát còn đặc biệt chú ý đến những
chi tiết cụ thể. Đặc điểm của sự vật, hiện tƣợng, con ngƣời thƣờng đƣợc miêu tả tƣờng
tận, tỉ mỉ.
138
Trƣớc hết là sự miêu tả chân thực, cụ thể dạng vẻ bên ngoài với hình dáng, màu
sắc… nhƣ nó vốn có.
Thơ xƣa nhiều bài “Tự thuật” cả về ngoại hình lẫn hoài bão chí hƣớng. Song sự tự thuật
của các nhà nho phần nhiều hƣớng đến tính phổ quát, khẳng định lòng son trung trinh dù
ngoại hình biến đổi theo thời gian năm tháng. Đến Cao Bá Quát, ngoại hình con ngƣời cá
nhân của ông đƣợc thuật lại trong những khoảng khắc cụ thể: Sầu ỷ long chung cực/ Tần
tần bả kính khan/ Thặng toàn mi lệ ám/ Vị thức lệ ngân can/(…) Do lân tạc dạ mộng/
Lưu trước cựu y quan (Buồn rầu hết mức dáng vẻ lọm khọm/ Luôn luôn đem gƣơng ra
soi/ Hãy còn vết thâm nơi cuối mày/ (…) Còn buồn thƣơng giấc mộng đêm qua/ Vẫn mặc
nguyên mũ áo cũ - Đối kính). Dung nhan cá nhân tác giả đƣợc khắc hoạ rõ nét sau một
đêm thức giấc, soi gƣơng, nhận thấy dáng vẻ lọm khọm, vết thâm nơi cuối mày vẫn còn
và vẫn mặc nguyên quần áo cũ. Những chi tiết ấy làm nổi bật lên sự ốm yếu, chán
chƣờng, mệt mỏi từ bộ dạng đến tâm hồn Cao Bá Quát. Lần khác, ông về thân hình chính
bản mình khi bị tra tấn: từ đặc điểm áo quần “xốc xếch” cho đến màu sắc “xanh xám” hãi
hùng của khuôn mặt. Nỗi sợ hãi, đau đớn còn đƣợc tác giả cực tả qua hình ảnh đôi mắt:
hai mắt quáng lên. Thơ Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… đã có không ít câu nói về đôi mắt
hoa, mái tóc bạc. Nguyễn Trãi còn có những câu tự trào về dáng vẻ già nua của mình:
Vừa sáu mươi dư tám chín thu/ Lưng gầy da sỉ tướng lù khù. Song phải đến Cao Bá Quát,
tính chi tiết mới thực giống nhƣ văn chƣơng hiện đại. Khuôn mặt Cao Bá Quát trong thơ
có màu sắc. Lúc điểm một vết thâm cuối lông mày (dấu tích của một sự kiện không hay,
là việc mất ngủ?). Khi xanh xám toàn diện trong sự hốt hoảng cùng cực: Cơ nhân yển
ngoạ hình thương hoàng/ Hồi đầu trắc cố như kinh dương (Ngƣời bị tội nằm duỗi, vẻ sợ
xanh xám/ Đầu quay nghiêng, mắt lấm lét nhƣ con dê hoảng hốt - Đằng tiên ca). Ngoại
hình tù nhân Cao Bá Quát trong những câu thơ này nhƣ đƣợc “chụp ảnh” từng bức cận
cảnh, từ dáng đầu phải nghiêng cho đến nỗi sợ ánh lên trong mắt. Nhiều nỗi cơ cực khác
của Cao Bá Quát cũng đƣợc giãi bày tƣờng tận: Bình sinh thanh sấu tự Thẩm Ước/ Trích
hậu tiêu khát như Văn Viên (Cả đời gầy guộc nhƣ Thẩm Ƣớc/ Sau khi bị đày (mắc bệnh)
tiêu khát nhƣ Văn Viên), Đa bệnh niên lai bán tí khô (Lắm bệnh nên từ năm nay một nửa
cánh tay đã khô - Hoạ Nhữ Nguyên Lập giáo thụ ngũ thập tự thọ ngũ thủ thứ vận), Tục
nhân bất giải ái trư can (Ngƣời đời không hiểu đƣợc (tính) thích ăn gan lợn - Tạp hứng,
kì nhất), Mộ lai khuyết úng tôn/ Khô trường tẩu vạn nghĩ (Chiều nay không có cơm/ Ruột
quắt cồn cào nhƣ kiến bò - Mộ phạm bất cấp hí bút kí sự)…
139
Thơ Cao Bá Quát còn có chân dung một số con ngƣời đƣợc tả thực trực tiếp trong
những khoảnh khắc của cuộc sống thƣờng nhật. Đó là hình ảnh ngƣời ăn xin khổ sở,
thiếu cả ăn lẫn mặc: Y phá lạp bất hoàn (Áo rách nón cũng không lành - Đạo phùng ngạ
phu), là hình ảnh nông phu làm đồng nhọc nhằn: Phúc hiêu, thần chiến, đoản xoa xuyên
(Bụng đói môi run, mình khoác chiếc áo tay ngắn - Hiểu lũng quán phu) và nhất là hình
ảnh Lân phụ thập phiêu sài/ Lang tạ phát bất chính (Mụ láng giềng nhặt củi trôi/ Tóc rối
bời bết bát) trong ngày lũ. Mỗi dung nhan một vẻ sống, đầy sức ám ảnh. Hình ảnh đôi
môi run của ngƣời tát nƣớc đƣợc đặt giữa câu thơ, giữa cái đói và cái lạnh (chiếc áo tay
ngắn) và là hệ quả của cả hai yếu tố ấy cộng lại. Ngày lũ ngƣời đàn bà nọ không lo trốn
tránh cái khắc nghiệt của tự nhiên, còn tận dụng “cơ hội” để nhặt củi khô, đến nỗi “Tóc
rối bời bết bát”, vì nƣớc lũ, vì không kịp chải, vì vội vàng nhọc nhằn… Dung nhan của
ngƣời lao động vừa khiến ta thƣơng cảm về nỗi nhọc nhằn vừa làm ta nể phục về sự cố
gắng, sự can trƣờng của họ.
Ghi tạc ngoại hình con ngƣời bằng lối chi tiết nên ngay cả hình ảnh đứa con trong
giấc mơ của Cao Bá Quát cũng hiển hiện, rõ nét. Trong giấc mơ của ngƣời cha, hình ảnh
con trẻ trở về thật tội nghiệp với “áo quần xác xơ” - cái nghèo đói hằn lên quần áo đứa bé
mặc, “nét mặt buồn bã ủ ê”- cái buồn khổ oằn lên hình hài, khuôn mặt đứa trẻ mang…
Đã về suối vàng, cái nghèo, cái khổ vẫn đeo đẳng, chùm phủ khiến đứa trẻ không có một
chút cái hồn nhiên, thơ ngây! Vong linh nhỏ bé, siêu hình đƣợc hữu hình hoá nhƣ con
ngƣời bằng xƣơng bằng thịt càng làm tăng thêm niềm thƣơng tâm, tê tái.
Cùng với ngoại hình, Cao Bá Quát còn “chớp” đƣợc những hành động, cử chỉ rất
“đắt” lột tả đƣợc đúng thần thái, bản chất, tâm trạng của con ngƣời. Nhƣ chúng tôi đã đề
cập ở phần trên, tình cảm yêu thƣơng của gia đình, bạn bè… đƣợc Cao Bá Quát diễn tả
qua những cử chỉ, hành động, lời nói. Tác giả đã kể lại xúc động chuyện thƣờng nhật
trong cuộc sống của mình.
Tái hiện những con ngƣời trong những cảnh huống khác nhau của đời thƣờng,
Cao Bá Quát thƣờng xuyên chú tâm ghi lại những hành động cử chỉ của họ. Ngƣời tát
nƣớc (Trong sƣơng mù, tay lôi chiếc gầu đôi thoăn thoắt - Hiểu lũng quán phu). Ngƣời
ăn xin (Ngƣời ăn xin đứng ra vẻ ngập ngừng - Cái tử). Bọn trẻ thấy ngƣời đi xa về quê:
Lân nhụ tế diện khuy (Bọn trẻ hàng xóm che mặt nghiêng ngó - Quy cố trạch), Lân ông
phất trường tu/ Hoãn bộ tường âm nội (Ông hàng xóm vuốt râu dài/ Thƣ thả bƣớc đi phía
bên trong tƣờng - Tức sự). Hành động đứng lên vì ngạc nhiên của mọi ngƣời và tác giả
khi thấy một con tàu kì lạ: Đà sư kinh khởi thuỷ thủ lập/ Tứ biên tiếu ngữ phân huyên
140
hôi/ Ngã diệc lãm y hướng đông vọng (Ngƣời lái thuyền sửng sốt đứng dậy các thuỷ thủ
đều đứng/ Bốn bên cƣời nói ồn ào/ Ta cũng xóc áo đứng nhìn đứng nhìn về phía đông -
Hồng Mao hoả thuyền ca)…
Ấn tƣợng hơn cả là sự khắc hoạ hành động của chính nhân vật tác giả trong nhiều
tình huống khác nhau, trong nhiều “môi trƣờng” của cuộc sống. Khi thanh thản: Dã chỉ
ba tô thủ tự niêm/ Toạ thân cốt đốt thủ vi viêm (Giấy nội vội ghi tay tự dán/ Ngồi bệt trên
thanh củi để có chút hơi nóng - Cối giang thu oán khúc, kì tam). Lúc ngủ lƣời: Nhật xuất
phá khâm dung vị khỉ/ Phong tình tối hỉ đông gia tử (Mặt trời đã mọc, đắp cái mềm rách
vẫn còn lừ đừ chƣa muốn dậy - Lập mai thi đồng Thận Phu Cung Trọng). Khi nằm bó rọ
co ro: Điên đảo sàng duy ủng thúc sài (Lộn nhào màn gƣờng ôm bó củi - Hữu quỹ vật
giả, dư dĩ bệnh bất tác ẩm, nhân kí y giả Lê Hành Phủ giám phó), Nhất thanh cô ố nhập
liêm lung/ Kinh khởi li nhân phục chẩm trung (Một tiếng “cô ố” vọng vào rèm cửa sổ/
Kinh quá, một mình lẻ loi vội núp vào trong gối - Văn bá lao), thậm chí, cả chuyện “bắt
rận” trong ngƣời: Môn sắt tiểu hiên tê (Bắt rận ngoài hiên nhỏ phía tây - Độc dạ), Tương
phùng ỷ chẩm tần môn sắt (Gặp nhau ngồi tựa gối tay luôn mò bắt rận- Ẩm trung giản
Chí Đình)… Nói chung, những chi tiết miêu tả cụ thể về dung nhan, cử chỉ hành động ấy
đã làm cho ngòi bút của Cao Bá Quát đã vƣợt ra ngoài tính quy phạm của văn chƣơng
thời trung đại: nhân vật tốt đẹp, ƣu mĩ - miêu tả bằng bút pháp ƣớc lệ, nhân vật phi nghĩa
- miêu tả bằng bút pháp cụ thể, trực tiếp. Yếu tố cụ thể trong thơ Cao Bá Quát đƣợc thể
hiện ở nhiều trƣờng hợp, nhiều nơi, nhiều lúc, không kể xấu tốt thiện ác.
Cùng với hành động, lời thoại của các nhân vật cũng đƣợc Cao Bá Quát chú ý ghi
lại. Lời cầu xin của ngƣời cha: (Con ạ! Nhà ta tuy nghèo nhƣng dƣa muối không thiếu/
Dù tận khổ thì con hãy cứ trở về!- Mộng vong nữ). Lời tù nhân trong khi bị tra khảo chỉ
còn biết kêu “Oan! Oan” (Đằng tiên ca), lời phân trần cảnh ngộ của ngƣời ăn xin (Đạo
phùng ngạ phu), của ông già Phúc Lâm (Phúc Lâm lão)… Những lời thoại này khiến cho
nhiều bài thơ của Cao Bá Quát thành câu chuyện.
Đối với sự vật, Cao Bá Quát cũng ƣa dùng lối miêu tả chi tiết. Hồng mao hoả
thuyền ca là một trong những bài thơ tiêu biểu của Cao Bá Quát sử dụng lối miêu tả chi
tiết. Ông tả từng bộ phận của con tàu: Nguy tường ngật lập ngũ tạng tĩnh (cột tàu cao
chót vót, con quay gió đứng im), Tu đồng trung trĩ, phún tắc yên thôi ngôi (ở giữa có ống
khói phun khói lên cao ngất), Hạ hữu song luân triển chuyển đạp cấp lãng (bên dƣới có
hai bánh xe chuyển liên hồi đạp sóng sóng dồn), Luân phiên lãng phá, ẩn kỳ sinh nộ lôi
141
(guồng quay, sóng đánh tung toé ầm ầm nhƣ tiếng sấm rền)… Con tàu còn đặc biệt hơn
nữa ở “khả năng” kì diệu của nó - khói tuôn cao và tốc độ nhanh: Cao yên quán thanh
không/ Tả tác bách xích đôi/ Yêu kiều thuỳ thiên long/ Cương phong xuy bất khai (Khói
ùn ùn tuôn lên trời xanh/ Toả ra thành một đống cao hàng trăm thƣớc/ Ngoằn ngoèo nhƣ
con rồng trên trời sa xuống/ Gió mạnh thổi cũng không tan), Vô phàm, vô lỗ, vô nhân
thôi/ Long nha, Xích khảm bách lý ngoại/ Đàn chỉ tảo khước kinh lan hồi… (Không
buồm, không chèo cũng không ngƣời đẩy/Từ những đảo Nanh Rồng, hang Đá Đỏ xa
ngoài trăm dặm/ Chỉ búng ngón tay đã vƣợt qua những đợt sóng kinh ngƣời…). Với sự
miêu tả tƣờng tận nhƣ vậy, ngƣời đọc thế kỉ sau vẫn dễ dàng hình dung đƣợc con tàu mà
Cao Bá Quát quan sát.
Với cái roi tra tấn tù nhân, Cao Bá Quát cũng tả thật cụ thể: kích thƣớc của nó
“vừa to vừa dài”, màu sắc của nó là “màu tía”, cái roi vừa cứng lại vừa dẻo “mình nó
cứng, uốn nó lại thẳng đờ ra”… Khi trận đòn bắt đầu thì roi “quất nhoang nhoáng, liệng
đi liệng lại nhƣ ánh chớp; lúc giơ lên, lúc ngừng”, và khi trận đòn chấm dứt thì “roi song
rủ xuống thôi không còn hung hăng nhƣ trƣớc nữa”. Các tính từ đƣợc dùng nhiều để chân
thực hoá từng yếu tố trong từng trạng thái khác nhau, khiến cho cái roi vừa nhƣ một đồ
vật vừa nhƣ một kẻ “quyền uy” dữ dội lúc thực hiện “uy quyền”.
Lối tả cảnh thiên nhiên của Cao Bá Quát cũng có không ít bài vƣợt ra ngoài lối tả,
vịnh của văn học trung đại. Ngay cả khi làm thơ đề tranh thuỷ mặc, ông không trọng sự
hài hoà của bố cục theo tính hoạ mà “trộn lại”, miêu tả theo điểm nhìn của riêng mình:
Tỉ ỷ nguy đình vọng,
Dao không yểm thuý vi.
Hốt khan hồng thụ ngoại,
Hoàn hữu kiển lư quy.
Tịch chiếu thiên thôn hợp,
Cô phàm nhất diệp phi.
(Từ ngôi đình cao thê thiết trông ra,
Khoảng không xa xa bị che màu xanh ngắt.
Chợt thấy phía ngoài cây đƣớc,
Còn có chú lừa khập khiễng đi về.
Nghìn xóm quây quần trong nắng chiều,
Một cánh buồm lạc lõng bay.)
142
Có lẽ sinh động và chi tiết hơn cả là những bài thơ Cao Bá Quát tả cảnh mƣa lũ:
Thôi chẩm hạ phùng giai,
Khiêu ba hốt triêm hĩnh.
Dược dược thử duyên kình,
Kháp kháp oa minh tắng.
Huỳnh huỳnh úng (?) tụ,
Địch địch khiếp lí tịnh.
Lân cẩu xỉ thằng huyên,
Báo dữ đề nhi ứng.
(Dạ lạo)
(Đẩy gối bƣớc ra gặp bậc thềm,
Chợt sóng vọt lên ƣớt bắp chân.
Chuột nhảy phóng lên giàn,
Ếch ộp oạp trong cái nồi đất.
Đom đóm xúm lại trong hũ nhấp nháy,
Nƣớc chao nhƣ rửa sạch rƣơng tráp.
Chó hàng xóm tru vang liên hồi,
Cùng với tiếng khóc của trẻ con.)
Nếu nói đƣa chất văn xuôi vào thơ là một hƣớng phát triển quan trọng của thơ ca
thế giới thì thơ chữ Hán Cao Bá Quát quả là thể hiện hƣớng này một cách độc đáo. Bằng
những hình ảnh tả thực đó, nhà thơ không hề hƣ cấu, trau chuốt, ở đây, thơ ca đã mƣợn
ƣu thế văn xuôi để diễn đạt cuộc sống.
4.2.2.3.Cách liên tưởng, so sánh
Liên tƣởng, so sánh là một biện pháp nghệ thuật thi nhân ƣa dùng để thể hiện trí
tƣởng tƣợng. Trong văn học trung đại, liên tƣởng so sánh thƣờng hƣớng đến những đặc
điểm phổ quát: đẹp nhƣ tiên, trong nhƣ ngọc, trắng nhƣ tuyết… Nhƣng đến Cao Bá Quát,
nhiều câu thơ liên tƣởng so sánh đã mang tính cá thể hoá cao độ, tạo nên hiệu quả thẩm
mĩ lớn và góp phần thể hiện rõ rệt bút pháp kí sự của thơ ông.
Khi so sánh, Cao Bá Quát thƣờng liên tƣởng với những hình ảnh quen thuộc, gần
gũi của thế giới đời thƣờng:
Truy du cựu kí nhân như hải
143
(Dữ Long Trân du Trấn Quốc tự, kì nhị)
(Đi chơi nhớ lại các chuyến cũ ngƣời (đông) nhƣ sóng biển)
Quần y như khâu san
(Đạo phùng ngạ phu)
(Các thầy lang (đầy rẫy) nhƣ núi gò)
Phiến phàm như diệp thuỷ như thung
(Vũ trung độ Linh giang)
(Mảnh buồm nhƣ chiếc lá, nƣớc (xoáy tròn) nhƣ hình cối giã)
Tây nhật bán trầm vân tự bạng,
Nam phong hốt lãnh điện như tiên.
(Tương vũ hí tác)
(Mặt trời phía tây lặn còn một nửa, đám mây tựa hình con trai,
Gió nam chợt thổi mạnh, tia chớp trông giống chiếc roi da.)
Sự xuất hiện của những hình ảnh ngón tay, cối giã, chiếc thang, roi da, con trai…
khiến cho tính chất quý tộc ƣớc lệ vốn có của thơ chữ Hán không còn nữa. Thay vào đó
là sự bình dị nhƣng có sức gợi sắc nét. Tác giả không đƣa ra cơ sở so sánh, chỉ có hai vế
A - B. Nhƣng hình ảnh đƣợc dùng so sánh lập tức khiến cho đặc điểm của đối tƣợng diễn
tả đƣợc hình dung rõ rệt. “Sóng biển” luôn nhiều không thể đếm, lại ào ạt hết lớp này đến
lớp khác, trùng trùng điệp điệp. Mƣợn hình ảnh sóng biển, Cao Bá Quát làm nổi bật
lƣợng ngƣời đông đúc, đoàn đoàn lớp lớp, lớp này đi, lớp kia tới trong những cuộc chơi
vui nhộn cũ. Khâu san (núi gò) cũng có số lƣợng nhiều, nhƣng mang đặc tính khác: nổi
cao, cố định, chắc chắn. Hình ảnh núi gò không chỉ khắc hoạ số lƣợng đông của các thầy
lang ở kinh kì mà còn cho thấy họ có tài và họ ở đó từ lâu, vững vàng, bền bỉ hành
nghiệp. Đó là những đối tƣợng có quá nhiều ƣu thế chẳng dễ bề để cho một thầy lang tỉnh
lẻ đến cạnh tranh! Nƣớc nhƣ cối giã làm độc giả liên tƣởng đến sự xoáy tròn dữ dội, hết
vòng này đến vòng khác. Con trai khiến ngƣời đọc liên tƣởng tới hình ảnh đám mây vồng
lên to lớn. Chiếc roi da lại khiến ta thấy tia chớp rất dài, ghê rợn… Hình ảnh so sánh nào
cũng đƣa ngƣời đọc hình dung rõ hơn đặc tính cụ thể của sự vật hiện tƣợng và con ngƣời.
Hƣớng đến tính cụ thể, nhiều câu thơ so sánh của Cao Bá Quát có sức gợi đặc biệt, đọc
một lần không thể quên. Chẳng hạn:
Ta ngã bế hộ điêu trùng, xỉ khẩu giảo văn tự,
Hữu như xích hoạch lượng thiên địa.
(Đề sát viện Bùi công "Yên Đài anh ngữ" khúc hậu)
144
(Đáng phàn nàn cho ta chỉ đóng cửa mà gọt rũa câu văn, lải nhải nhai lại
từng câu từng chữ,
Khác chi con sâu đo muốn đo cả đất trời.)
Con sâu đo bé nhỏ chƣa bằng đốt ngón tay. Bầu trời bao la, vô cùng vô tận. Con
sâu đến bao giờ mới đo đƣợc đất trời? Đặt hai hình ảnh tƣơng phản ấy bên cạnh nhau (ví
việc học hành nhai văn nhá chữ của mình nhƣ hành động của con sâu đo, thế giới nhƣ
bầu trời), Cao Bá Quát diễn tả thấm thía sự nực cƣời của lối học hành, thi cử truyền thống
- hết sức nhọc nhằn, mất thời gian nhƣng thiếu thực tế, vô tác dụng và vô cùng lạc hậu so
với sự văn minh tiến bộ của thế giới.
Trong bài Đằng tiên ca, ngòi bút Cao Bá Quát tỏ ra xuất chúng khi sử dụng liên
tiếp thủ pháp nghệ thuật so sánh:
Đô nhân hãi quan như đổ tường.
(…) Hồi đầu trắc cố như kinh dương.
(…) Quan thanh tích lịch tồi đài lương,
Điện quang thiểm thiểm giao phi tường.
Hân như song giao bác hoại đường,
Bãi như lãnh thuỷ quán cấp thang.
(…) Củng lập nhiễu chỉ hồi nhu trường.
Ngƣời ở kinh đô ngơ ngác đứng xem, vây kín nhƣ bức tƣờng.
(…) Đầu quay nghiêng, mắt lấm lét nhƣ con dê hoảng hốt.
(…) Quan thét lên nhƣ tiếng sét rung cả rƣờng nhà,
Roi quất nhoang nhoáng bay đi liệng lại nhƣ ánh chớp.
Lúc giơ lên nhƣ hai con thuồng luồng quật vào bờ ao lở,
Lúc ngừng nhƣ nƣớc lạnh đổ vào nƣớc sôi.
(…) Chắp tay đứng ruột mềm nhƣ cuốn vào ngón tay đƣợc.)
Hầu hết “yếu nhân” của của buổi tra tấn đƣợc tác giả miêu tả bằng thủ pháp so
sánh: ngƣời xem, vị quan, chiếc roi, ngƣời tù. Mỗi so sánh đều đƣợc lựa chọn chính xác
và đặt trong thế đối lập, tác động mạnh mẽ vào trực quan của ngƣời đọc. Ngƣời xem nhƣ
bức tƣờng - đông đúc, vây kín, lặng lẽ. Đối lập với số đông ở thế tĩnh ấy là tiếng viên
quan và hoạt động của cái roi - hai thế lực thi hành “công lí” của buổi tra tấn. Tiếng viên
quan nhƣ sét, đanh to, ghê sợ. Tiếp đến là hình ảnh cái roi - đối tƣợng đƣợc nói tới nhiều
nhất: 4 lần dùng so sánh, trong đó, 3 lần lúc nó thực hiện “uy quyền” và lần cuối là lúc nó
đã hoàn tất việc tra tấn. Khi thực hiện quyền uy, nó mang dạng vẻ của những thế lực dữ
145
tợn - tia chớp, con thuồng luồng, nƣớc lạnh - hành động thể hiện tối đa sức mạnh của
mình: giao (bay), bác (quất), quán (đổ). Đối lập với sự hung hăng của ngọn roi là hình
ảnh tù nhân nhƣ một con dê bé nhỏ bị trói, mắt lấm lét hoảng hốt. Thế tƣơng phản và sự
so sánh ấy làm nổi bất lên hình ảnh tội nghiệp của tù nhân và sự dã man của kẻ thi hành
công vụ. Hình ảnh so sánh cuối: cái roi “ruột mềm nhƣ cuốn vào ngón tay đƣợc” có giá
trị biểu nghĩa đặc biệt! Hết cái cƣơng hống hách và man rợ, ruột cái roi trở về “bản tính”
của nó: nhu hiền hết mực. Sự thay đổi tƣơng phản từ thái cực này tới thái cực khác ấy
làm ngƣời đọc kinh sợ về quyền lực. Hoá ra, sự vật vô tâm, vô tính khi bị đặt vào tay kẻ
quyền lực, trở thành công cụ của quyền lực cũng ác độc, tàn bạo! Bằng lối so sánh, tƣơng
phản, Cao Bá Quát đã khiến cái roi trở thành hình tƣợng nghệ thuật có sức triết lí, khái
quát lớn. Ý nghĩa triết lí sâu sắc ấy đâu chỉ thuộc về thời trung đại. Nó đúng với muôn
đời.
Không chỉ hấp dẫn về khả năng hƣớng đến sự cụ thể hoá sự vật, hiện tƣợng, con
ngƣời, so sánh trong thơ Cao Bá Quát còn hay ở sự biến đổi phong phú trong trí tƣởng
tƣợng của tác giả. Không có sự trùng lặp. Với mỗi ngọn núi, con sông, ở những thời khác
nhau, Cao Bá Quát có sự liên tƣởng khác nhau, luôn mới lạ. Nhìn núi, có lúc ông liên
tƣởng nó nhƣ những ngón tay:
Hải khí quyển sơn, sơn như chỉ
(Hoành Sơn vọng hải ca)
(Hơi bể quyện vào núi, núi (lởm chởm) nhƣ ngón tay)
Lúc lại cảm giác nó nhƣ mẹ con đàn lợn:
Sơn thế do liên tử mẫu trư
(Do Địa Bàn sơn thủ lộ kinh lưỡng trúc vãn vọng khiển hoài)
(Thế núi liên tiếp nhau nhƣ mẹ con đàn lợn)
Lúc lại thấy nó giống nhƣ chiếc chén của khách làng say:
Sơn như tuý khách bích loa bôi.
(Ninh Bình đạo trung)
(Núi nhƣ chiếc chén xà cừ của khách làng say.)
Mỗi so sánh gợi một dáng hình những dãy ngọn núi, không dãy nào giống dãy
nào. Liên tƣởng về những con sông của Cao Bá Quát cũng vậy, rất đa dạng và bất ngờ.
Khi yểu điệu thục nữ:
146
Giang tự mĩ nhân thanh luyện đái,
(Ninh Bình đạo trung)
(Sông nhƣ dải lụa xanh của cô gái đẹp)
Khi buồn đau tê tái:
Sa hồi giang tự sầu trường khúc
(Đồng Bùi Minh Trọng Trà giang dạ bạc)
(Bãi cát uốn quanh, khúc sông trông nhƣ khúc ruột quặn đau)
Khi dài sắc, cứng rắn oai hùng:
Trường giang như kiếm lập thanh thiên
(Hiểu quá Hương giang)
(Dòng sông dài nhƣ lƣỡi kiếm dựng giữa trời xanh)
Rõ ràng, đó là những hình tƣợng thơ bắt nguồn từ trí tƣởng tƣợng của một hồn thơ
không hề ảnh hƣởng từ bất kì một khuôn mẫu nào. Điều này càng đƣợc thể hiện rõ nét
qua cách ông dùng phụ nữ làm đối tƣợng so sánh. Bài thơ Cao Bá Quát đƣa tặng ông
Long Linh, tác giả ví cảnh làm quan nhƣ cảnh đàn bà làm dâu:
Nhất vi nhân gia phụ,
Đề tiếu bất do thân.
Phu tế thả khinh bạc,
Khởi năng nhật phản thần.
(Long Linh lai dĩ bốc trạch chi nhiên cáo thả thuật sở cư, sách vi đề tả, tinh
tích sổ ngữ khả ích giả, kì nhất)
(Một khi làm vợ ngƣời ta,
Khóc cƣời thân cũng không tự do.
Ngƣời chồng lại là ngƣời khinh bạc,
Chả lẽ ngày nào cũng cãi nhau.)
Và có lẽ cũng chƣa nhà nho nào dùng số phận khốn khổ của gái điếm để ví với
mình nhƣ Cao Bá Quát:
Khởi tri hồ hải phiêu linh khách,
Biệt thị yên hoa cung dưỡng thân.
(Thiên Áo thành phùng cố nhân Cổ Vân Khê
văn kì cận phả đắc ý ư hoạ dữ ẩm cập chi)
147
(Đâu hay nay đây mai đó trở thành khách lênh đênh,
Khác nào nhƣ gái điếm lo nuôi thân mình.)
Lẽ nào Cao Chu Thần lại không sợ ô danh khi ví mình với loại đàn bà mạt hạng
nhất trong xã hội? Dùng lối so sánh này, câu thơ thể hiện sự cay đắng, chua chát đến thê
thảm trong lòng Cao Bá Quát.
Có thể nói, nhiều so sánh của Cao Bá Quát gắn với những tƣởng tƣợng, liên
tƣởng, cảm nhận sống động của chủ thể. Nó nằm trong những khoảnh khắc nhất định và
cá thể hoá cao độ, khác biệt hoàn toàn với tính liên tƣởng phổ quát của thi pháp văn học
trung đại. Bằng lối so sánh, đặc điểm tƣờng tận, chi tiết sự vật hiện tƣợng của bút pháp kí
sự trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát càng đƣợc thể hiện rõ rệt.
Tiểu kết
Nghệ thuật thơ chữ Hán Cao Bá Quát có nhiều đổi mới đem đến đóng góp lớn cho
tiến trình văn học dân tộc.
Về không gian, thời gian nghệ thuật, Cao Bá Quát hƣớng nhiều về không gian,
thời gian đời tƣ. Không gian đời tƣ trong thơ Cao Bá Quát hƣớng về cội nguồn quê nhà
góp phần làm giảm đi chất quý tộc, Hán học của thi ca chữ Hán, vừa chứng tỏ xu hƣớng
viết về chữ “Tình” của ông: hƣớng tới những yếu tố gần gũi, thân thiết, máu thịt, cội rễ
trong cuộc sống của con ngƣời! Không gian đời tƣ còn là nơi chất chứa sầu muộn, bế tắc
của tác giả. Nó mang theo cảm nhận về cuộc sống o bế, dồn ép, vô hƣớng của con ngƣời
hiện đại. Thời gian trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát gắn với những khoảnh khắc cụ thể,
ghi lại những xúc cảm của cá nhân nghệ sĩ trong những hoàn cảnh rõ rệt của cuộc sống.
Nó cho thấy thơ ca cao Bá Quát nảy ra từ hiện thực cuộc đời, chứ không phải là sự đúc
kết tâm tƣ mang tính phổ quát, trừu tƣợng. Thời gian không chỉ biểu hiện đổi mới về
nghệ thuật mà còn thể hiện những phƣơng diện đổi mới trong quan niệm sống của một
con ngƣời.
Hình thức kí sự bằng thơ là một dấu hiệu cơ bản của sự đổi mới thơ chữ Hán Cao
Bá Quát, tạo điều kiện cho cái tôi cá nhân của Cao Bá Quát đƣợc thể hiện sắc nét về cá
tính, tài năng, tâm hồn. Nó khiến thơ Cao Bá Quát có tính tự sự chi tiết, mang đặc điểm
của thơ điệu nói gần gũi với thi ca hiện đại.
Với những đóng góp lớn về nghệ thuật, thơ chữ Hán Cao Bá Quát góp phần tạo ra
những bƣớc quá độ từ văn học trung đại sang văn học hiện đại.
148
KẾT LUẬN
Thơ chữ Hán Cao Bá Quát thực sự có nhiều đổi mới so với văn chƣơng truyền
thống và đƣơng thời.
1. Tiền đề tạo nên những điểm mới của thơ chữ Hán Cao Bá Quát gồm nhiều nhân
tố, trong đó có sự cọ xát gay gắt giữa các yếu tố cũ và mới trong lòng xã hội. Trƣớc hết là
sự lỗi thời của bộ máy tổ chức chính trị xã hội đƣơng thời, lối giáo dục nặng về chữ
nghĩa, nền kinh tế trọng nông ức thƣơng… làm cho đất nƣớc nghèo nàn, lạc hậu so với
thế giới, nhân dân khổ sở, bùng lên khởi nghĩa ở khắp mọi nơi. Bên cạnh những yếu tố
truyền thống lỗi thời, những yếu tố truyền thống tích cực cũng phát triển, thể hiện vai trò
của mình. Đó là tinh thần phi nho trong dân gian, trào lƣu tƣ tƣởng nhân văn chủ nghĩa.
Cộng thêm nhiều yếu tố mới đã nảy sinh. Đó là hoạt động chấn hƣng văn hoá sôi nổi của
nhóm sĩ phu Hà Thành đầu thế kỉ XIX, tầng lớp thị dân phát triển đem đến những quan
niệm và lối sống mới, giai đoạn Nho học mang nhiều đặc điểm của thực học khiến cho
các nhà văn chuyển mối quan tâm từ luân lí đạo đức sang hứng thú cao độ đối với thực
tiễn. Thêm vào đó, tƣ tƣởng đổi mới của các những ngƣời đi sứ, sách vở mang về của họ
(Lê Quý Đôn, Phan Huy Chú…) và sự ảnh hƣởng bƣớc đầu của những luồng văn hoá
phƣơng Tây cũng tác động đến các trí thức tiến bộ đƣơng thời. Cao Bá Quát là một nhà
nho tài năng, vốn có tinh thần phóng khoáng, cởi mở. Do đó, những ảnh hƣởng canh tân
của xã hội tác động lớn đến ông, tạo thành những tiền đề tích cực cho tinh thần đổi mới
sáng tác văn chƣơng của ông.
2. Ở phƣơng diện nội dung, thơ chữ Hán Cao Bá Quát có nhiều biểu hiện mới mẻ
rõ rệt.
Ông đem đến cho thơ chữ Hán một cách nhìn mới về hiện thực xã hội trong nƣớc.
Đó là sự thẳng thắn chỉ ra thực trạng lạc hậu của con đƣờng học hành thi cử truyền thống,
vừa nhọc nhằn, vừa thiếu thực để xây dựng, phát triển. Trong sự phản ánh nỗi thống khổ
của con ngƣời, Cao Bá Quát cũng có một hƣớng đi mới. Ông đề cập tới sự rủi ro của
cuộc đời con ngƣời và chú ý đến lƣơng tâm, phẩm giá, tƣ tƣởng con ngƣời trong hoàn
cảnh ngặt nghèo của cuộc sống. Hƣớng khám phá này của Cao Bá Quát khiến sự phản
ánh của ông vừa có cái nhìn sắc sảo đối với hiện thực vừa có chiều sâu của lòng nhân ái.
Cao Bá Quát đã bắt đầu chạm tới vấn đề trong các sáng tác hiện đại: kiểu nhân vật tha
hoá và cho thấy mối quan hệ giữa hoàn cảnh với tính cách con ngƣời, con ngƣời là sản
phẩm của hoàn cảnh
149
Trong xu hƣớng nhìn ra nƣớc ngoài, Cao Bá Quát là một trong những ngƣời đầu
tiên đƣa hình ảnh của ngƣời phƣơng Tây vào trong văn chƣơng Việt Nam về cả ngoại
hình văn hoá, lối sống. Ông ngạc nhiên và ấn tƣợng trƣớc sự giàu sang và sức mạnh kì lạ
của văn minh phƣơng Tây di căn di thực ở thuộc địa, nhận thấy rõ nguy cơ xâm lƣợc cả
bằng vũ lực lẫn văn minh, văn hoá của phƣơng Tây với phƣơng Đông. Ông chứng tỏ một
nhãn quan sáng suốt và một tƣ tƣởng tiến bộ đi trƣớc thời đại.
Đối với xu hƣớng văn học “chủ tình”, Cao Bá Quát có đóng góp đặc biệt ở việc
đƣa chữ “tình” của nhà nho, của văn chƣơng thời trung đại về với đời thƣờng, thắm thiết
trong các mối quan hệ gia đình, bạn bè và những ngƣời gắn bó gần gũi hoặc gặp gỡ trong
cuộc đời.
Về chủ đề ngƣời phụ nữ, Cao Bá Quát cũng có tiếng nói mới. Ông mở rộng đối
tƣợng nữ, đặc biệt hƣớng sự phản ánh tới những phụ nữ ông bắt gặp trong cuộc đời. Bên
cạnh sự đề cao, ngợi ca phẩm giá của họ, Cao Bá Quát chú ý tới tính phi chuẩn mực đạo
đức Nho giáo qua hình ảnh những phụ nữ ngoại quốc và “phép biện chứng tâm hồn” của
họ. Với điều này, Cao Bá Quát càng làm tăng thêm yếu tố hiện thực của cuộc sống và giá
trị nhân văn của văn chƣơng trung đại.
Về chủ đề thiên nhiên, Cao Bá Quát có sự bứt phá khỏi tính quy phạm của văn
chƣơng trung đại, xem thiên nhiên là chuẩn mực của cái đẹp, sinh ra tài năng, nhân cách.
Thơ viết về thiên nhiên của Cao Bá Quát hết sức sinh động, gắn liền với hiện thực khách
quan. Cảnh sắc trong thơ ông vừa hấp dẫn bởi sự sinh động, đa sắc, giàu trạng thái vừa
khiến ngƣời đọc lo sợ, hãi hùng về sự khắc nghiệt, dữ dội, thất thƣờng, huỷ diệt.
Với những sự tiến bộ ấy, thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã bƣớc đầu mang hơi thở của
thi ca hiện đại sau này.
3. Ở phƣơng diện nghệ thuật, thơ chữ Hán Cao Bá Quát đã thay đổi không gian kì
vĩ mang tầm vũ trụ của thơ ca trung đại bằng thời gian và không gian đời tƣ. Đó là cảm
nhận không gian rất riêng của cảm quan cá nhân nghệ sĩ, mang theo cảm nhận và quan
niệm riêng của Cao Bá Quát về một thời cuộc cụ thể. Với không gian đời tƣ, Cao Bá
Quát đã hƣớng về những nơi chốn gắn bó mật thiết với đƣờng đời của mình. Đó là nới
quê nhà thân thiết gắn bó, là con đƣờng đời chông gai và là cả nơi o ép, phong bế chí
hƣớng, ƣớc vọng của cá nhân tác giả. Ở phạm vi thời gian đời tƣ, thơ chữ Hán Cao Bá
Quát gắn liền với những dấu hiệu thời gian cụ thể, từng giờ, ngày, tháng năm… mang
150
tính hiện thực của nhật kí, kí sự của cái tôi nhà thơ. Với không gian, thời gian đời tƣ, thơ
Cao Bá Quát có xu hƣớng ngả về đời sống thƣờng nhật, rời xa tính quy phạm, ƣớc lệ của
văn chƣơng thời trung đại.
Đặc điểm nổi bật thể hiện rõ rệt sự đổi mới của ngòi bút Cao Bá Quát trong thơ
chữ Hán là sự phát triển thể loại thơ kí sự. Với bút pháp kí sự, Cao Bá Quát thể hiện nhiệt
thành cái tôi của mình bằng việc sử dụng tối đa đại từ nhân xƣng ngôi thứ nhất và các
hình tƣợng thể hiện con ngƣời cá nhân. Ông còn chú ý lí sự, nghị luận, phân tích lí tính
những vấn đề phản ánh trong tác phẩm, đƣa nhiều tự dẫn, chú giải, đồng thời gia tăng
tính trần thuật, miêu tả tƣờng tận. Cách thức này khiến cho thơ chữ Hán Cao Bá Quát bắt
đầu có những điểm mới so với tính chất chung của văn học trung đại.
Với những sự bứt phá, tìm tòi lối đi riêng của mình, Cao Bá Quát trở thành một
trong số ít nhà thơ có phong cách trong văn chƣơng thời trung đại. Thơ ông là bƣớc đầu
dự báo cho sự phá cách của cả một thế hệ, đƣa đến phong trào tiếp nhận các thể thơ tự do
của phƣơng Tây sau này.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Thị Tính (2012), “Chủ đề gia đình - một biểu hiện cách tân thơ chữ Hán
Cao Bá Quát”, Nghiên cứu văn học, số 12, tr. 25 - 34.
2. Nguyễn Thị Tính (2013), “Chủ đề phụ nữ - một biểu hiện cách tân thơ chữ Hán
Cao Bá Quát”, Khoa học Xã hội Việt Nam, số 2, tr. 97- 104.
3. Nguyễn Thị Tính (2013), “So sánh trong thơ chữ Hán Cao Bá Quát”, Ngôn ngữ và
văn học - Kỷ yếu Hội thảo Ngôn ngữ học toàn quốc, Nxb. Đại học Sƣ phạm, tr.847-
852.
4. Nguyễn Thị Tính (2013), “Bài thơ Đà Môn trúc chi từ ,kì tam - một biểu hiện tiến
bộ trong tƣ tƣởng của Cao Bá Quát”, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm
Hà Nội, số 10 , tr.56-61.
5. Nguyễn Thị Tính (2013), “Bàn thêm về quan niệm thơ ca của Cao Bá Quát”, Tạp
chí khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội 2, số 12, tr. 39-46.
6. Nguyễn Thị Tính (2014), “Đọc Cao Bá Quát toàn tập”, Nghiên cứu văn học, số 3,
tr. 114 - 117.
7. Nguyễn Thị Tính (2014), “Khảo sát thể loại ngũ ngôn bát cú trong thơ chữ Hán
Cao Bá Quát”, đã đƣợc nhận đăng trong Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ
phạm Hà Nội, số 4.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Lƣơng An (1980), “Đề sau thơ Cúc Đƣờng, một nhận xét đúng đắn và dũng cảm của Miên Thẩm đối với Cao Bá Quát”, Tạp chí Văn học, số 3, tr. 116-117.
2. Lƣơng An, “Qua tập Thƣơng Sơn thử tìm hiểu tƣ tƣởng yêu nƣớc của Miên Thẩm”,
http://www.vanhocviet.org/tu-lieu-van-hoc-1/chuyn--trit-hc---vn-ha-hc-v-vn- hc/-lng-an-qua-tp-thng-sn-th-tm-hiu-t-tng-yu-nc-ca-min-thm.
3. Nguyễn Thế Anh (2008), Việt Nam dưới thời Pháp đô hộ, Nxb. Văn học, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (2001), Từ điển văn học Việt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX,
tái bản lần thứ ba, có bổ sung, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
5. Nguyễn Văn Bách (1994), “Bài thơ Phạm Sĩ Ái nhớ Cao Bá Quát”, Tạp chí Hán
Nôm, số 3, tr. 63-64.
6. Đỗ Bang (2005), “Triều Nguyễn - sau 200 năm nhìn lại”, in trong Lịch sử nhà
Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
7. Phan Kế Bính (2006), Việt Nam phong tục, tái bản, Nxb. Văn học, Hà Nội.
8. Nguyễn Ngọc Cơ (2005), “Một giai đoạn của lịch sử Việt Nam thời Nguyễn và những câu hỏi cần giải đáp thoả đáng”, in trong Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
9. Nguyễn Kim Châu, “Không gian “đƣờng đời” và sự thể hiện nhận thức về con ngƣời phi lí trong thơ Cao Bá Quát”, trong sách Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2004, tr.167 - 175.
10. Nguyễn Đổng Chi (2007), “Cao Bá Quát trên văn đàn thế kỉ XIX”, trong sách Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), tái bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
11. Nguyễn Huệ Chi (2004), “Tìm hiểu nhân sinh quan tích cực trong thơ Cao Bá Quát”, trong sách Cao Bá Quát - tư liệu bài viết từ trước đến nay, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
12. Nguyễn Huệ Chi (1983), Mấy vẻ mặt thi ca Việt Nam thời kì cổ - cận đại, Nxb.
Tác phẩm mới, Hà Nội.
13. Nguyễn Huệ Chi (2000),“Nhận diện văn học Thăng Long mƣời thế kỷ", Tạp chí
Văn học, số 11, tr. 3-13.
14. Nguyễn Huệ Chi (2003), “Tiếp cận nghệ thuật đối với hai chủ đề độc đáo trong thơ Cao Bá Quát”, trong sách Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn - Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2006.
153
15. Hà Nhƣ Chi (1994), Việt Nam thi văn giảng luận, tái bản, Nxb. Tổng hợp Đồng
Tháp.
16. Vƣơng Anh Chí (1999), “Về thuyết tính linh Viên Mai”, Lê Quang Trƣờng dịch và chú thích từ Cổ điển văn học tam bách đề,Thƣợng Hải cổ tịch xuất bản xã, in lần thứ 7, 11- 1999.
http://khoavanhoc- ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=105 0:v-thuyt-tinh-linh-ca-vien-mai&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vn- hc&Itemid=135
17. Trƣơng Chính (1997, “Cao Bá Quát (1808-1855)”, in trong Tuyển tập Trương
Chính, tập 2, Nxb. Văn học, Hà Nội.
18. Nguyễn Đình Chú (1999), “Vấn đề ngã và phi ngã trong văn học Việt Nam trung
cận đại”, Tạp chí Văn học, số 5.
19. Nguyễn Đình Chú (2002), “Vấn đề văn sử triết bất phân trong văn học trung đại
Việt Nam”, Tạp chí Văn học, số 5.
20. Phan Huy Chú (1960), Lịch triều hiến chương loại chí, tập I, Nxb. Sử học, Hà
Nội.
21. Lê Hiến Chƣơng (2005), “Về chính sách giáo dục của triều Nguyễn ở thế kỉ XIX”, in trong Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
22. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb. Khoa học
Xã hội, Hà Nội.
23. Xuân Diệu (1971), “Cao Bá Quát”, trong sách Cao Bá Quát - tư liệu bài viết từ trước đến nay, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, 2004.
24. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb. Văn học, Hà Nội.
25. Nguyễn Du - cuộc đời và tác phẩm (2001), Nguyễn Thạch Giang, Trƣơng Chính
biên khảo và chú giải, Nxb. Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
26. Quang Đạm (1994), Nho giáo xưa và nay, Nxb. Văn học, Hà Nội.
27. Biện Minh Điền (2001), Phong cách nghệ thuật Nguyễn Khuyến: sự hình thành và những đặc trưng, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
28. Biện Minh Điền (2005), “Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại
Việt Nam”, Tạp chí văn học, số 4.
29. Ngô Thời Đôn (2000), Giá trị nhân văn trong Thương Sơn thi tập của Miên
Thẩm, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
154
30. Ngô Thời Đôn, “Sự nghiệp văn chƣơng Tùng Thiện Vƣơng Miên Thẩm” (1819- http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c207/n5415/Su-nghiep-van-
1870), chuong-Tung-Thien-Vuong-Mien-Tham-1819-1870.html.
31. Ngô Thời Đôn (2000), “Về một phƣơng diện văn hoá dân gian trong Thương Sơn
thi tập của Miên Thẩm”, Văn hoá dân gian, số 1.
32. Hà Minh Đức (1997), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
33. Trịnh Hoài Đức, Ngô Nhơn Tĩnh, Lê Quang Định (2003), Gia Định tam gia, Hoài Anh biên dịch và chú giải, Huỳnh Văn Tới, Bùi Quang Huy hiệu đính, giới thiệu, Nxb. Tổng hợp Đồng Nai.
34. Đoàn Lê Giang (2001), Ý thức văn học cổ trung đại Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, bảo vệ năm 2001 tại Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP. Hồ Chí Minh.
35. Trần Văn Giàu (1996), Sự phát triển của tư tưởng ở Việt Nam từ thế kỷ XIX đến
Cách mạng tháng Tám, in lần thứ ba, tập I, Nxb. Chính trị Quốc gia Hà Nội.
36. A.Ja. Gurêvich (1996), Các phạm trù văn hoá trung cổ, Hoàng Ngọc Hiến dịch,
Nxb.Giáo dục, Hà Nội.
37. Nguyễn Thị Bích Hải (1995), Thi pháp thơ Đường, Nxb. Thuận Hoá.
38. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi chủ biên (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
39. Đặng Thị Hảo (1983), “Thử đặt lại vị trí văn học của Cao Bá Nhạ", Tạp chí Văn
học, số 4, tr. 110-117.
40. Phạm Ngọc Hiền (2008), “Lƣợc sử thi pháp Việt Nam”, Tạp chí Văn nghệ sông
Cửu Long điện tử. URL: http://vannghesongcuulong.org.
41. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (đồng chủ biên)
(2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb. Thế giới.
42. Nguyễn Văn Hoàn (1980), “Chƣơng XXIII: Cao Bá Quát” trong Lịch sử văn học
Việt Nam, tập I, Nxb. KHXH, Hà Nội, tr. 386-396.
43. Hội Văn nghệ dân gian Nghệ An - Hội đồng gia tộc họ Phan (2012), Danh nhân văn hoá Đình nguyên Thám hoa Phan Thúc Trực (Kỉ yếu Hội thảo khoa học), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
44. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb. Đại học
Quốc gia Hà Nội.
45. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Văn học cổ Việt Nam tìm tòi và suy nghĩ, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
46. Lại Văn Hùng (2000), Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu, Nxb. Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
155
47. Lại Văn Hùng chủ biên (2005), Nguyễn Huy Vinh với “Chung Sơn di thảo”,
Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
48. Cao Xuân Huy (1995), Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu,
Nguyễn Huệ Chi soạn, chú, giới thiệu, Nxb. Văn học, Hà Nội.
49. Trần Đình Hƣợu - Lê Chí Dũng (1988), Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời
1900-1930, Nxb. Đại học và Giáo dục Chuyên nghiệp, Hà Nội.
50. Trần Đình Hƣợu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb. Văn
h oá - Thông tin, Hà Nội.
51. Trần Đình Hƣợu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, in lần thứ hai có bổ sung,
Nxb. Văn hoá, Hà Nội.
52. Tố Hữu (2002), "Cao Bá Quát một khí phách hào hùng, một nhà thơ lỗi lạc của dân tộc", in trong Bản sắc dân tộc trong văn hoá văn nghệ, in lần thứ 2, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
53. Thơ văn Phan Huy Ích (1978), tập 1, Dụ Am ngâm lục, Uỷ ban Khoa học xã hội
Việt Nam, Ban Hán Nôm, Nxb. Khoa học Xã hội.
54. Thơ văn Phan Huy Ích (1978), tập 2, Dụ Am ngâm lục, Uỷ ban Khoa học xã hội
Việt Nam, Ban Hán Nôm, Nxb. Khoa học Xã hội.
55. Đinh Thị Khang (2011), “Cảm thức về Thăng Long trong thơ chữ Hán Nguyễn
Du”, Nghiên cứu văn học, số 6.
56. Vũ Khiêu (1969), “Đọc Cao Bá Quát nhân 160 năm ngày sinh của nhà thơ", Tạp
chí Tác phẩm mới, Hà Nội, số 4, tháng 10-11-12, tr. 74-80.
57. Vũ Khiêu (1970), "Lời giới thiệu" trong sách Thơ chữ Hán Cao Bá Quát, tuyển
dịch, in lần thứ nhất, Nxb. Văn học, Hà Nội.
58. Phan Khoang (2001), Việt sử xứ Đàng Trong, Nxb. Văn học, Hà Nội.
59. Vũ Thế Khôi (1995), “Thần Siêu dựng Phƣơng Đình dạy học từ bao giờ”, Tạp
chí Hán Nôm, số 4.
60. Vũ Thế Khôi (chủ biên) (2010), Vũ Tông Phan với văn hoá Thăng Long - Hà Nội, tái bản, Nxb. Lao động, Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
61. Nguyễn Khuê (2006), Tâm trạng Tương An quận vương qua thi ca của ông, Nxb.
Văn nghệ, Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Nguyễn Văn Kiệm (1993), “Chính sách tôn giáo của nhà Nguyễn nửa đầu thế kỉ
XIX”, Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 6.
63. Trần Trọng Kim (1999), Việt Nam sử lược, tái bản, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà
Nội.
64. Lê Đình Kỵ (1995), Trên đường văn học, tập II, Nxb. Văn học, Hà Nội.
156
65. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá chủ biên (2004),
Từ điển văn học, bộ mới, Nxb.Thế giới, Hà Nội.
66. Thanh Lãng (1967), Bảng lược đồ văn học Việt Nam, quyển thƣợng, Nxb. Trình
bầy, Sài Gòn.
67. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội.
68. Mã Giang Lân (2001), Tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
69. Phong Lê (2008), “Cao Bá Quát và Nguyễn Công Trứ - Hai cốt cách và thân
phận nho sĩ mở đầu triều Nguyễn”, Nghiên cứu văn học, số 11.
70. Trần Thị Hoa Lê (2010), “Sa hành đoản ca - một cách cảm nhận về đƣờng đời của nho sĩ Việt Nam thế kỉ XIX”, Bản tin Dạy và học trong nhà trường, ĐHSP Hà Nội, số 3.
71. Đặng Thanh Lê, Hoàng Hữu Yên, Phạm Luận (1990), Văn học Việt Nam nửa
cuối thế kỉ XVIII nửa đầu thế kỉ XIX, tái bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
72. I.X.Li-xê-vích (1993), Tư tưởng văn học cổ Trung Hoa, Trần Đình Sử dịch, Nxb.
Đại học Sƣ phạm thành phố Hồ Chí Minh.
73. Mai Quốc Liên phiên âm, dịch nghĩa, chú thích (1996), Nguyễn Du toàn tập, Tập
I, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
74. Mai Quốc Liên (2004), "Cao Bá Quát - Một thiên tài kỳ vĩ của văn học Việt Nam", in trong Cao Bá Quát toàn tập, tập I, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, tr. 7-39.
75. Tạ Ngọc Liễn (1999), “Cao Bá Quát bàn về văn học”, Văn nghệ Trẻ số 43 (152),
ngày 24/10/1999.
76. Iu.M.Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật (Trần Ngọc Vƣơng, Trịnh Bá
Đĩnh, Nguyễn Thu Thuỷ dịch), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.
77. Nguyễn Lộc (1978), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX, tập II, Nxb. Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
78. Nguyễn Lộc (1992), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ
XIX, tập I, tái bản, Nxb. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
79. Phƣơng Lựu (1985), Về quan niệm văn chương cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà
Nội.
80. Phƣơng Lựu (1997), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại
Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
81. Phƣơng Lựu (2002), Từ văn học so sánh đến thi học so sánh, Nxb. Văn học –
Trung tâm Văn hoá Ngôn ngữ Đông Tây, Hà Nội.
82. Viên Mai bàn về thơ (trích Tuỳ Viên thi thoại), in trong sách giáo khoa Ngữ Văn
10, tập 1, bộ nâng cao, Nxb. Giáo dục, 2006.
157
83. Hồ Á Mẫn (2011), Giáo trình văn học so sánh, Lê Huy Tiêu dịch, Nxb. Giáo dục
Việt Nam, Hà Nội.
84. Chí Đình Nguyễn Văn Lý - Tuyển tập thơ văn (2011), Trần Thị Băng Thanh chủ
biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
85. Nguyễn Đăng Na (1999), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập I, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
86. Nguyễn Đăng Na (2000), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập III, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
87. Nguyễn Đăng Na (2001), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, tập II, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
88. Nguyễn Đăng Na (2001), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại - Những vấn đề
văn xuôi tự sự, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
89. Nguyễn Đăng Na (2006), Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
90. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2007), Văn học trung đại Việt Nam, tập I, Nxb. Đại
học Sƣ phạm, tái bản, Hà Nội.
91. Nguyễn Đăng Na (chủ biên) (2008), Văn học trung đại Việt Nam, tập II, tái bản,
Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
92. Bửu Nam, “Thiên nhiên và ý thức nghệ thuật của Tùng Thiện - Miên Thẩm trong http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c207/n5430/Thien-nhien-va-y-
thơ”, thuc-nghe-thuat-cua-Tung-Thien-Mien-Tham-trong-tho.html.
93. Phan Ngọc (2007), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, tái bản
có bổ sung, Nxb. Thanh niên, Hà Nội.
94. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập I, Nxb. Đồng
Tháp tái bản (in lần đầu năm 1961).
95. Phạm Thế Ngũ (1997), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên, tập II, Nxb.
Đồng Tháp tái bản (in lần đầu năm 1961).
96. Đoàn Hồng Nguyên (2010), Thơ Tú Xương trong tiến trình hiện đại h oá văn học
Việt Nam, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Tp.Hồ chí Minh.
97. Bùi Thị Đào Nguyên, “Đọc thơ Tùng Thiện vƣơng Miên Thẩm”,
http://chimviet.free.fr/vanhoc/btdaonguyen/btdn050.htm
98. Bùi Văn Nguyên, Hà Minh Đức (1971), Thơ ca Việt Nam - hình thức và thể loại,
Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
99. Tuyển tập thơ văn Ngô Thì Nhậm, quyển I (Cao Xuân Huy, Thạch Can chủ biên)
(1978), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
100. N. I. Nikulin (2000), Văn học Việt Nam và giao lưu quốc tế (Nguyễn Hữu Sơn
tuyển chọn và giới thiệu), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
158
101. N. I. Nikulin (2004), “Cao Bá Quát - nhà thơ tiên khu của phong trào cải cách thế kỉ XIX”, in trong Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
102. N. I. Nikulin (2007), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb. Văn học, Trung tâm
Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
103. Nguyễn Thị Nƣơng (2007), “Hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du”, Tạp chí Khoa học Trƣờng ĐHSP Hà Nội, số 2.
104. Nguyễn Thị Nƣơng (2007), “Sự vận động trong tƣ tƣởng nghệ thuật Nguyễn Du
qua những bài thơ tự thuật”, Nghiên cứu văn học, số 5.
105. Nguyễn Thị Nƣơng (2010), Con người Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, (chuyên
luận), Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
106. Nhiều tác giả (1984), Từ điển văn học, tập II: N-Y, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
107. Nhiều tác giả (2004), Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học - Trung
tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
108. Nhiều tác giả (2005), Lịch sử nhà Nguyễn một cách tiếp cận mới, Nxb. Đại học
Sƣ phạm, Hà Nội.
109. Nhiều tác giả (2002), Tuyển tập những bài nghiên cứu về triều Nguyễn, Sở Khoa học, công nghệ và môi trƣờng Thừa Thiên Huế, Trung tâm bảo tồn di tích cố đô Huế xuất bản.
110. Lê Lƣu Oanh (2011), Văn học và các loại hình nghệ thuật, Nxb. Đại học Sƣ
phạm Hà Nội.
111. Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử biên soạn, dịch thuật với sự cộng tác của Lê
Tẩm (1997), Về thi pháp thơ Đường, Nxb. Đà Nẵng.
112. Thuần Phong (2004), “Cao Bá Quát và Cao Bá Nhạ”, trong sách Cao Bá Quát - tư liệu bài viết từ trước đến nay, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
113. Ngô Văn Phú (2004), “Thơ Cao Bá Quát”, trong sách Cao Bá Quát - Tham luận
Hội thảo, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
114. Nguyễn Đình Phức (2006), “Luận thi thi, một hình thức phê bình trong văn học
Việt Nam cần đƣợc chú ý khai thác”, Tạp chí Hán Nôm, số 3.
http://khoavanhoc- ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=299:thi-phm- trich&catid=94:ly-lun-va-phe-binh-vn-hc&Itemid=135
115. Nguyễn Đình Phức, Lê Quang Trƣờng trích dịch (2009), Thi phẩm (trích),
116. Cao Bá Quát toàn tập (Mai Quốc Liên chủ biên) (2004), tập I, Nxb.Văn học,
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
159
117. Cao Bá Quát toàn tập (Mai Quốc Liên chủ biên) (2012), tập II, Nxb.Văn học,
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
118. Thơ văn Cao Bá Quát (Vũ Khiêu chủ biên) (2010), Nxb. Hà Nội.
119. Nguyễn Ngọc Quận (1998), “Quan niệm của Cao Bá Quát về văn học, Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh, số 6.
120. Nguyễn Ngọc Quận (1998), “Về một giai thoại đƣợc xem là của nhà thơ Cao Bá
Quát”, Kiến thức ngày nay, số 299, ra ngày 20-11-1998.
121. Nguyễn Ngọc Quận (1999), “Tình hình nghiên cứu về Cao Bá Quát trƣớc Cách mạng tháng Tám”, Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn (Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 9.
122. Nguyễn Ngọc Quận (2001), “Tình hình nghiên cứu về Cao Bá Quát sau cách mạng tháng Tám năm 1945”, Tập san Khoa học Xã hội và Nhân văn (Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh), số 17.
123. Nguyễn Ngọc Quận (2002), “Danh cú „Nhất sinh đê thủ bái mai hoa‟ không phải
của Cao Bá Quát”, Tiền phong chủ nhật, số 39, ngày 29-9-2002.
124. Nguyễn Ngọc Quận (2002), “Chất tự sự trong thơ chữ Hán của Cao Bá Quát”, in trong Hợp tuyển Nghiên cứu - Giảng dạy Văn học và Ngôn ngữ, Khoa Ngữ văn Trƣờng Đại học Sƣ phạm Quy Nhơn - Nxb. Đà Nẵng.
125. Nguyễn Ngọc Quận (2003), “Chùm thơ vịnh cảnh quê của Cao Bá Quát”, in trong Thơ - Nghiên cứu, Lý luận, Phê bình, Khoa Ngữ văn và Báo chí Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh - Nxb. Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
126. Nguyễn Ngọc Quận (2002), “Thêm một cứ liệu xác định năm sinh Cao Bá Quát”, in trong Thông báo Hán Nôm học năm 2002, Trung tâm KHXH và NVQG - Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Hà Nội.
127. Nguyễn Ngọc Quận (2004), “Từ sự phân tích một bài thơ…” (mục Ý kiến trao
đổi), Tạp chí Ngôn ngữ, số 9.
128. Nguyễn Ngọc Quận (2004), “Vài nhận xét về tập Thơ văn Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - Tham luận hội thảo, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học - Nxb. Văn học, Hà Nội.
129. Nguyễn Ngọc Quận (2004), Các bài “Tiểu sử Cao Bá Quát (1808-1855)”, “Niên biểu”, “Văn bản tác phẩm Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát toàn tập,tập I, Nxb. Văn học - Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
130. Nguyễn Ngọc Quận, Sáng tác của Cao Bá Quát trong tiến trình văn học dân tộc, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, bảo vệ ngày 03.01.2006, tại Trƣờng ĐHKHXH&NV Thành phố Hồ Chí Minh.
160
131. Nguyễn Ngọc Quận, Vấn đề văn bản tác phẩm Cao Bá Quát, http://khoavanhoc- ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_content&view=article&id=175 9%3Avn-vn-bn-tac-phm-cao-ba-quat-&catid=65%3Ahan- nom&Itemid=153&lang=vi
132. Quốc sử quán triều Nguyễn, bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Sử học (1963), Đại Nam thực lục, tập III, Chính biên đệ nhất kỷ II. Nxb. Sử học, Hà Nội.
133. Quốc sử quán triều Nguyễn, bản dịch của Viện KHXH Việt Nam - Viện Sử học (1963), Đại Nam thực lục, tập IV, Chính biên đệ nhất kỷ II. Nxb. Sử học, Hà Nội.
134. Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch (1969), Đại Nam thực lục chính biên, tập XXII, Đệ nhị kỷ XVIII – Minh Mệnh năm thứ 21 (1840), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
135. Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch (1970), Đại Nam thực lục chính biên, tập XXIII, Đệ tam kỷ I - Thiệu Trị năm thứ I (1841), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
136. Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch (1971), Đại Nam thực lục chính biên, tập XXIV, Đệ tam kỷ II - Thiệu Trị năm thứ 2 và 3 (1842- 1843), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
137. Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch (1971), Đại Nam thực lục chính biên, tập XXV, Đệ tam kỷ III - Thiệu Trị năm thứ 4 và 5 (1844- 1845), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
138. Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ phiên dịch Viện Sử học phiên dịch (1973), Đại Nam thực lục chính biên, tập XXVIII, Đệ tứ kỷ II - Tự Đức năm thứ 7-11 (1854-1858), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
139. Nguyễn Phƣớc Bảo Quyền, “Tính hiện thực và tính nhân đạo trong thơ Tùng tập”, Thương Thẩm Sơn qua thi
Thiện Vƣơng Miên http://thuanmychanh.blogspot.com/2012/05/tinh-hien-thuc-va-tinh-nhan-ao- trong.html
140. Trƣơng Hữu Quýnh (chủ biên), Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh (1998), Đại cương lịch sử Việt Nam, tập I (từ thời nguyên thuỷ đến 1858), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
141. Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp (2004), “Sứ thần Việt Nam Cao Bá Quát và nhận thức của ông qua chuyến đi công cán „Vùng Hạ Châu‟”, in trong Cao Bá Quát - tư liệu bài viết từ trước đến nay, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
142. Tuyển tập thơ văn Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (2010), tập 3, Trần Lê Sáng, Phạm Đức Duật, Phạm Vân Dung, Phạm Kỳ Nam, Lê Nhƣ Duy tuyển dịch và giới thiệu, Nxb. Hà Nội.
161
143. Tuyển tập thơ văn Phương Đình Nguyễn Văn Siêu (2010), tập 4, Trần Lê Sáng, Phạm Đức Duật, Phạm Vân Dung, Phạm Kỳ Nam, Lê Nhƣ Duy tuyển dịch và giới thiệu, Nxb. Hà Nội.
144. Vĩnh Sính (2007), “Thử tìm hiểu chuyến đi công vụ ở Hạ Châu của Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), tái bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
145. Nguyễn Hữu Sơn (2007), “Cao Bá Quát và những suy tƣởng trong thơ”, in trong Cao Bá Quát- về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn - Đặng Thị Hảo tuyển chọn và giới thiệu), tái bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
146. Nguyễn Hữu Sơn (Biên soạn, giới thiệu, đồng tác giả) (2005), Cao Bá Quát - một đời thơ suy tưởng, Nxb Trẻ - Hội Nghiên cứu & Giảng dạy văn học TP Hồ Chí Minh.
147. Nguyễn Hữu Sơn - Trần Đình Sử - Huyền Giang - Trần Ngọc Vƣơng - Trần Nho Thìn - Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
148. Nguyễn Hữu Sơn - Đặng Thị Hảo (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Cao Bá
Quát - về tác gia và tác phẩm, tái bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
149. Nguyễn Kim Sơn, Vận động cải cách văn thể, tâm thái sĩ phu, và động hình của
văn chương Việt Nam cuối TK XVII, TK XVIII,
http://vanhoanghean.com.vn/index.php?option=com_k2&view=item&id=1139 :l%E1%BB%87-th%E1%BA%A7n-tr%E1%BA%A7n-tr%E1%BB%8Dng-kim- 1883-1953-h%E1%BB%8Dc-gi%E1%BA%A3--ch%C3%ADnh-kh%C3%A1ch
150. Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
151. Trần Đình Sử (2005), Giáo trình dẫn luận thi pháp học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
152. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, tập 1, Những công trình thi pháp
học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
153. Trần Đình Sử (2005), Trần Đình Sử tuyển tập, tập 2, Những công trình lí luận và
phê bình văn học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
154. Trần Đình Sử, Lã Nhâm Thìn, Lê Lƣu Oanh (tuyển chọn) (2005), Văn học so
sánh nghiên cứu và triển vọng, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
155. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học (một số vấn đề về lí luận và lịch sử),
phần 1, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
156. Trần Đình Sử (chủ biên) (2008), Tự sự học (một số vấn đề về lí luận và lịch sử),
phần 2, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
157. Trần Đình Sử (2008), “Đôi điều về quan niệm văn học của Cao Bá Quát”,
Nghiên cứu văn học, số 11.
162
158. Bùi Duy Tân (1979), “Bài thơ Trào chiết tí Phật không phải của Cao Bá Quát”
(mục Ý kiến ngắn), Tạp chí Văn học, số 1.
159. Bùi Duy Tân (2005), Theo dòng khảo luận văn học trung đại Việt Nam, Nxb. Đại
học Quốc gia Hà Nội.
160. Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981), Từ trong di sản, Nxb. Tác phẩm mới, Hà
Nội.
161. Trần Thị Băng Thanh (1992), Ngô Thì Sĩ - những chặng đường thơ văn (chuyên
khảo), Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
162. Trần Thị Băng Thanh (1999), Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb. Khoa
học Xã hội, Hà Nội.
163. Trần Thị Băng Thanh (2004), “Một thoáng nhìn của Cao Bá Quát: Giữa đƣờng gặp ngƣời đói (Đạo phùng ngạ phu)”, trong sách Cao Bá Quát - Tham luận Hội thảo, Nxb. Văn học, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội, tr. 82 - 85.
164. Trần Thị Băng Thanh, Lại Văn Hùng (2005), Tìm hiểu quan niệm và sự hình thành dòng văn trong văn học Việt Nam (thế kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
165. Trần Thị Băng Thanh (2011), “Nguyễn Văn Lý - kẻ sĩ - nhà văn hoá đất Thăng Long”, trong sách Chí Đình Nguyễn Văn Lý - tuyển tập thơ văn, Trần Thị Băng Thanh chủ biên, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
166. Khâu Chấn Thanh (2001), Lý luận văn học nghệ thuật cổ điển Trung Quốc, Mai
Xuân Hải dịch, Nxb. Văn học, Hà Nội.
167. Vũ Thanh (2008), “Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến - Hình tƣợng nghệ thuật đa
nghĩa”, Tạp chí Văn học tuổi trẻ, số 10.
168. Nguyễn Bá Thành (1996), Tư duy thơ và tư duy thơ Việt Nam hiện đại, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
169. Nguyễn Q. Thắng (1999), Từ điển tác gia văn hoá Việt Nam, Nxb. Văn hoá-
Thông tin, Hà Nội.
170. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đường luật, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
171. Lã Nhâm Thìn (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc
nhìn thể loại, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
172. Lã Nhâm Thìn (2011), “Thiên tài văn học Nguyễn Du nhìn từ điểm giao thoa
giữa hai vùng văn hoá Thăng Long - Nghệ Tĩnh”, Nghiên cứu văn học, số 6.
173. Lã Nhâm Thìn (2012), “Từ con ngƣời cá nhân trong thơ Nguyễn Du đến cái tôi trong phong trào Thơ mới”, in trong Dòng chảy văn hoá xứ Nghệ từ Truyện Kiều đến phong trào Thơ mới, Nxb. Văn học, Hà Nội.
174. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hoá, Nxb.
Giáo dục, Hà Nội.
163
175. Trần Nho Thìn (2008), “Chuyến đi dƣơng trình hiệu lực năm 1884 (sic) và tƣ
tƣởng Cao Bá Quát”, Nghiên cứu văn học, số 11.
176. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb.
Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.
177. Thư của các giáo sĩ thừa sai (2013), Nguyễn Minh Hoàng dịch, Nxb. Văn học,
Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.
178. Thơ văn Nguyễn Khuyến (1979), Xuân Diệu giới thiệu, Nxb. Văn học, Hà Nội.
179. Đỗ Lai Thuý (2000), “Trần Đình Hƣợu và những khái niệm công cụ trong
nghiên cứu Nho giáo”, Văn hoá Nghệ thuật, số 192.
180. Thái Vị Thuỷ (1965), “Thiên nhiên với nhà thơ Cao Bá Quát”, Tạp chí Vạn
Hạnh, Sài Gòn, số 3.
181. Nguyễn Tài Thƣ (1980), “Quan điểm sáng tác và nghệ thuật thơ ca Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - về tác gia và tác phẩm (Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thị Hảo tuyển chọn, giới thiệu), tái bản, Nxb. Giáo dục, 2007, Hà Nội.
182. Nguyễn Trãi toàn tập (1976), in lần thứ hai, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
183. Tảo Trang (1963), “Một số tài liệu về thơ văn Cao Bá Quát” (mục Đính chính
văn thơ cổ), Nghiên cứu Văn học, số 2.
184. Tảo Trang (1963), “Góp thêm tài liệu về năm sinh và chỗ ở của Cao Bá Quát”,
Tạp chí Văn học, số 5.
185. Hoàng Hƣơng Trang (2004), “Không thể lẫn lộn Tự Đức và Cao Bá Quát”, Tạp
chí Văn, Hội Nhà văn TP. HCM, số 19, tháng 09-10.
186. Mai Trân (1964), “Hai bài thơ của Miên Thẩm về Cao Bá Quát” (mục Sƣu tầm),
Tạp chí Văn học, số 6.
187. Phƣơng Tri (1971), “Kỷ niệm lần thứ 160 ngày sinh Cao Bá Quát và lần thứ 100
ngày sinh Trần Tế Xƣơng” (mục Sinh hoạt văn học), Tạp chí Văn học, số 1.
188. Phạm Quang Trung (2004), “Bƣớc đầu tìm hiểu quan niệm văn chƣơng của Cao Bá Quát”, in trong Cao Bá Quát - Tham luận hội thảo, Trung tâm Nghiên cứu Quốc học, Nxb. Văn học, Hà Nội.
189. Phan Thúc Trực (2011), Cẩm Đình thi tuyển, Nguyễn Thị Oanh giới thiệu, phiên
âm, chú giải, Trần Thị Băng Thanh hiệu đính, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội.
190. Lê Quang Trƣờng (2010), Gia Định Tam gia thi trong tiến trình văn học Hán Nôm Nam Bộ, Luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Trƣờng Đại học KHXH&NV - Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
191. Yoshiharu Tsuboi (2011), Nước Đại Nam đối diện với Pháp và Trung Hoa 1847 - 1885, Nguyễn Đình Đầu dịch với sự cộng tác của Bùi Trân Phƣợng và Tăng Văn Hỷ, Nxb. Tri thức, Hà Nội.
164
192. Nguyễn Thanh Tùng (2008), “Vài nét về thuyết tính linh trong tƣ tƣởng thi học Việt Nam thời Trung đại”, Nghiên cứu văn học, số 1; http://idoc.vn/tai-lieu/vai- net-ve-thuyet-tinh-linh-trong-tu-tuong-thi-hoc-viet-nam-thoi-trung-dai.html
193. Nguyễn Thanh Tùng (2010), “Tìm hiểu quan niệm thi học của Cao Bá Quát”, Kỉ yếu Hội thảo Khoa học Cán bộ trẻ Trường ĐHSP Hà Nội, Nxb. Đại học Sƣ phạm Hà Nội; http://ruansonghnue.blogspot.com/2010/10/tim-hieu-quan-niem- thi-hoc-cua-cao-ba.html
194. Nguyễn Thanh Tùng (2010), Sự phát triển tư tưởng thi học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Luận án tiến sĩ Ngữ Văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.
195. Lê Trí Viễn (1978), Lịch sử văn học Việt Nam tập III (viết chung với Phan Côn, Đặng Thanh Lê, Phạm Văn Luận, Lê Hoài Nam), Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
196. Lê Trí Viễn (1985), Lịch sử văn học Việt Nam (Văn học viết thời quốc gia phong kiến độc lập, thế kỷ X - giữa thế kỷ XIX), Trƣờng ĐHSP TP. Hồ Chí Minh, lƣu hành Nội bộ.
197. Thơ Tùng Thiện Vương (1991), Ngô Văn Phú tuyển chọn, sƣu tầm, Nxb. Văn
học, Hà Nội.
198. Trần Ngọc Vƣơng (1998), Văn học Việt Nam - dòng riêng giữa nguồn chung, tái
bản, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
199. Trần Ngọc Vƣơng (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
200. Trần Ngọc Vƣơng (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ X-XIX những vấn
đề lí luận và lịch sử, Nxb. Giáo dục, Hà Nội.
201. Hoàng Hữu Yên (2012), Đọc và nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, in lần
thứ hai, Nxb. Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.
202. Lê Thu Yến (1999), Đặc điểm nghệ thuật thơ chữ Hán Nguyễn Du, Nxb. Thanh
niên, Hà Nội.
165
PHỤ LỤC
1. NHỮNG TỰ DẪN, CHÚ GIẢI CỦA PHAN HUY ÍCH VỀ DANH GIA
VỌNG TỘC CỦA BẢN THÂN (Thống kê từ Thơ văn Phan Huy Ích, tập I, II, Dụ Am
ngâm lục, Nxb. Khoa học Xã hội, 1978, Hà Nội)
Tập I 1. Tháng 10 mùa đông, thƣợng tuần vào kì đệ nhất, đến kì đệ tam khôi, tôi trúng đầu
bảng ất, thân phụ tôi từ viện phúc khảo, đƣợc đặc cách ra ngoài trƣờng thi, tôi vào
đối sách, buổi chiều về trình đọc bản thảo, thân phụ tôi cho rằng thể nào cũng đỗ
cao. Buổi chiều hôm sau Ngƣời trở về trấn trông coi công việc. Ngày mùng 8/11
văn đình treo bảng, hợp cách tất cả 18 ngƣời, tôi đỗ hội nguyên, lập tức sao các tên
trên bảng, sai ngƣời nhà về báo tin. Ngày hôm sau, nững ngƣời cùng khoa đều kể
tuổi của mình thì tôi dự vào hàng trẻ tuổi, ngày 11 thân phụ tôi đến nhà riêng ở
kinh, để họp mặt vui mừng (Lễ vi báo tiệp hoan bối tôn toạ chí khánh, tr. 62 - 63).
2. Ngày 20 tháng 12, tôi đƣợc nhà vua cho vinh quy theo phụ thân về chầu. Chiều
hôm đó trú lại ở chợ Ngọ Du huyện Gia Lâm. Hôm sau viên quan võ ở trấn là
Địch Bầu Hán đem vài trăm vệ binh, hai con voi, đặt trạm nghỉ trƣa đón tiếp ở chợ
Dị Sử huyện Đƣờng Hào, ngƣời trong quận xúm quanh xem. Đến chiều tôi đến
trấn Mao Điền, rồi ở lại dinh phụ thân ăn tết, đợi sang năm mới sẽ về (Cấm tuyên
nhật, chuyên phó Hải Dương, trấn đình trú, kí sự, tr. 64).
3. Ngày 4 tháng giêng, tôi từ tỉnh Đông (tỉnh Hải Dƣơng) ra đi, qua Sơn Nam
thƣợng, Sơn Nam hạ đến bến đò Vọng Doanh, chèo thuyền đến Vân Sáng. Đi theo
đƣờng chính, hôm rằm về đến chợ huyện quê nhà, bà con trong hành tổng tập họp
chỉnh tề đón rƣớc. Sớm hôm sau sắp xếp nghi vệ về làng (Bính Thân xuân chính
vọng hậu gia hương diệu cấm hỉ phú, tr.66).
4. (…) Khi trình lên bề trên đặc biệt đổi tên thân phụ tôi ra tên tôi, lại dụ tôi phải vào
để dặn dò công việc, khi nào xong việc phải về triều đình trình bày, lại đƣợc tiện
đƣờng về thăm phụ thân, nhƣ vậy càng thoả đáng đôi đƣờng. Tôi mới nhận chức ở
Thiêm sai hơn một tháng nhiều lần đƣợc gọi vào hầu để chỉ bảo phƣơng lƣợc.
Đƣợc trên ban ơn, khen thƣởng yên ủi đầy đủ và truyền xuống để cho các trấn cử
quan binh lần lƣợt bảo vệ nghênh tiếp. Ngày 2 bắt đầu ra đi, cả đi lẫn về gần ba
tháng có tập thơ Nam trình tạp vịnh, đại lƣợc nhƣ sau (Phụng mệnh Nam hành,
tr.70).
166
5. Tôi xuất phát từ kinh thành, qua các trấn Sơn Nam, Thanh Hoa, Nghệ An, đến đâu
cũng đƣợc các trấn giao cho hai viên thuộc tƣớng đem năm mƣơi ngƣời lính mang
theo vũ khí đợi tiễn, lại bắt dân ở dọc đƣờng thay nhau gánh hành trang qua các
trạm. Đến địa giới Thuận Hoá, quan Trấn thủ trƣớc đó đã lấy dân phu ven đƣờng
san bằng đƣờng sá, giao cho thuộc tƣớng đem lính và voi chờ đón. Lính ở cơ trung
Bổ của đồn Động Hải, lính hai cơ Tả Nhuệ, Trung Kiên ở đồn Cát Doanh đi từ
sông Bái Đáp vào. Lính mƣời cơ của bản đạo chỉnh đốn binh khí đợi để đón rƣớc
(…). Lúc đó, tôi đƣợc vua ban ba đạo sắc có ấn sẵn và hai đạo lệnh dụ đóng dấu
sẵn, cho tôi đƣợc quyền tuỳ tiện xử trí. Nhân đó, tôi điền vào sắc lệnh ban xuống
cho: trƣởng hiệu Tây Sơn là Nguyễn Nhạc làm Lƣu thú Quảng Nam(…) (Đáo Phú
Xuân thành, tr, 76-77).
6. Mùa hạ năm Mậu tí (1768), tôi trở về quê ứng thí, nhân cùng gia quyến theo nhạc
phụ, khi ấy ông làm Hiến sát ở trấn Thanh Hoa (…) (Phỏng Hiến ti cựu du, tr.80).
7. Lúc đó, ông Minh Nhạc làm trƣởng toà án mở tiệc đãi, có mời những ngƣời nha
lại quen biết tôi trƣớc cùng đến dự tiệc ((Phỏng Hiến ti cựu du, tr.80).
8. Thân phụ tôi mệnh ứng cung Dần, còn tôi mệnh ứng cung Ngọ, con trai tôi mệnh
đƣợc ứng cung Tuất. Nhƣ vậy là tam hợp (Thứ nam Thực sinh hỉ phú, tr.88).
9. Phụ thân tôi thi hƣơng, thi hội 2 lần đỗ đầu (lƣỡng nguyên). Bố vợ tôi thi hội, thi
đình 2 lần đỗ đầu (lƣỡng nguyên). Tôi thi hƣơng, thi hội, thi ứng chế ba lần đều đỗ
đầu (tam nguyên). Cậu Hi Doãn và chú Nhã Hiên đều đỗ đầu thi hƣơng. Tất cả
cộng lại đƣợc 9 lần đỗ đầu, gọi là “cửu nguyên” (Thứ nam Thực sinh hỉ phú,
tr.88).
10. Ông nhạc tôi mở mang doanh trại chấn chỉnh binh vệ ở đầu thành núi Lộc Mã dựa
vào thế cao nhìn ra xa, hình thể rất hùng tráng (Đáo Thành Đoàn, tr.88).
11. Ông nhạc tôi tìm ra đƣợc hai toà động ở ngoài thành Lạng Sơn thuộc sơn phận
Vĩnh Trại, phía bắc sông Hoá. Động ngoài lập làm chùa tam giáo, tạc tƣợng, sắm
đủ đồ thờ; động trong hình thể cao thoáng (…) (Đề Nhị Thanh động khắc thạch,
tr.89).
12. Mùa xuân năm Canh Tí (1780), em thứ ba là Nhã Hiên đỗ tiến sĩ vinh quy. Phụ
thân tôi từ doanh Động Hải đem voi lính về quê hoan tiếp. Tôi ở kinh, dâng tờ
khải xin về thăm cha mẹ (…) (Đáo gia quán hỉ phú, tr.91).
167
13. Lúc đó phụ thân tôi uỷ thác cho quân lính chở gỗ từ Động Hải về quê, dựng các
toà tẩm thất, nghi môn, sinh từ, công việc vừa mới hoàn thành (Đáo gia quán hỉ
phú, tr.91).
14. Phụ thân tôi giữ đồn Động Hải. Năm Đinh Dậu (1777), ngƣời có công dẹp yên
giặc núi, đƣợc thƣởng thẻ bài bằng bạc lớn. Chính phủ định thăng chức hai bậc,
hiện nay còn đợi lệnh (Đáo gia quán hỉ phú, tr.91).
15. Ông Ngô Thì Nhậm coi việc quân ở Thái Nguyên và Kinh Bắc. Mùa đông năm Kỉ
Hợi (1779) vâng mệnh đến xƣởng Tụ Long ở Tuyên Quang cùng với đạo Tây
hƣng hợp lực dẹp bọn giặc núi. Mùa xuân năm Canh Tí (1780) việc xong ông về
triều, tôi làm bài thơ mừng (Canh Tí xuân hạ kiêm Đốc đồng quyên đài tham
nhung hoàn cấn, tr.94).
16. Từ mùa hạ năm bính thân (1776), phụ thân tôi giữ chức hiệp trấn đồn Động Hải, ở
biên giới lâu ngày, đầu xuân này đƣợc trao chức Phó Đốc thị. Tôi trong lòng rất
mong nhớ, dâng lời thỉnh cầu lên trên, thiết tha nói rõ tình cảnh, lập tức có chiếu
chỉ ban xuống cho lệnh: Phụ thân tôi vất vả lâu ngày ở ngoài biên, nay cho về hầu
cận. Mệnh lệnh tới nơi, phụ thân tôi từ Động Hải đi vào Phú Xuân, trên đƣờng
quay về có mang theo 1 con voi đực và 2 cỗ súng lớn tới kinh để dâng vua. Lúc
đó, tôi sửa sang nhà cửa trƣớc. Khi đón xe về, tôi vui mừng ghi lại việc đó (Tân
Sửu vãn xuân tôn giá Nam thuỳ phụng triệu hồi kinh chiêm bái, hỉ phú, tr.99).
17. Tôi lại vào làm Thiêm sai, càng ngày càng đƣợc bề trên chú ý, thƣờng sai đem
cơm đến chỗ ở trong kinh thành ban cho. Thoạt tiên cho kiêm chức Tu soạn ở toà
Nội các biên soạn tập lịch triều điển cố, làm xong dâng lên bề trên xem. Đến đầu
mùa hạ, quan Tuỳ sai Ngũ phủ là Diêu Trung hầu kiêm chức Lƣu thú trấn Thanh
Hoa, có lệnh vua bảo chọn kĩ lấy một viên Đốc đồng (…). Tôi đƣợc ơn trên soi
tới, vâng mệnh lên đƣờng, không dám nghĩ đến chuyện so sánh làm việc trong
triều với làm việc ở bên ngoài, nên có bài này để ghi lại sự thực (Nhâm Dần thu,
phụng đặc mệnh Đốc đồng Thanh Hoa đăng nhậm thuật hoài, tr.101).
18. Mùa đông năm ngoái, thân sinh tôi đang ở trần, bị cảm nhẹ, tôi đƣợc tin, tự ý dâng
tờ khải nói vì già yếu nên xin từ chức, đƣợc bề trên triệu về, thăng chức Thiêm đô
ngự sử (…) (Giáp Thìn xuân, gia tôn phụng chuẩn nhập thị Bồi tụng, bái khánh kỉ
sự, tr.110).
19. Từ năm Nhâm Dần (1782), tôi cảm thấy sự gặp gỡ không đƣợc may mắn, bị đối
xử không đúng, từ đấy chán cảnh làm quan. Mùa hạ năm Quí Mão (1783), lấy cớ
168
bệnh tật tôi ở lại dâng khải xin từ chức, đợi hơn một năm vẫn chƣa nhận đƣợc
mệnh, nay có chỉ của triều đình giục đến trấn ngay (…) (. Giang cư tức sự, tr.112).
20. Mùa thu năm Nhâm Dần (1782), tôi phụng mệnh bổ làm Đốc trấn Thanh Hoa,
đƣợc hơn 10 ngày thì có tin buồn thánh chúa băng hà. Tới mùa đông đƣợc hầu nơi
Xƣởng vệ mới đƣợc tỏ long thƣơng nhớ (…) (Phụng tiên vương đàm tể lễ cảm tác,
tr.116-117).
21. Lúc đó, tôi vâng mệnh triều đình tới chỗ cầu mƣa, đến đêm trời mƣa (Hỉ vũ tác,
tr.129).
22. Mùa đông năm Nhâm Dần (1782) sinh Chú, mùa xuân năm nay lên đậu đã khỏi. Ở
nơi xa xôi, gửi tin mừng để an ủi lòng (Văn tam nam chú tại kinh xuất đậu khang
cát hỉ phú, tr.130).
23. Thân phụ nghỉ việc quan về làng, chúng con chắp tay cúi đầu, dâng lời chúc tụng
(Nhi bôi hạ,tr.146).
24. Ông thân sinh tôi vâng sắc chỉ nhà vua đi xem đất xây lăng ở Bàn Thạch, tôi theo
hầu. Khi làm lễ ở lăng, quân Tây Sơn tìm đƣờng tản đi hết. Tôi về đóng ở bến Cự
Khánh, xếp nơi ăn ở cho ngƣời nhà, thuê chiếc thuyền nhẹ mời ông thân sinh đi.
Thuyền về thẳng kinh. Tuần đầu tháng cuối thu, vào chầu đấng Tự quân lại vào
bái yết Chúa mới, ngay lúc ấy truyền ban cho thân sinh tôi đƣợc vào nắm quyền
cơ mật, chức hành tham tụng, tôi thì đƣợc sung chức chánh đốc thị tỉnh Nghệ An.
Ít lâu sau, tôi đƣợc giữ cả chức quản đội trung Chử kiêm coi việc quân tỉnh Thanh
Hoa và Nghệ An, đi đầu dẹp giặc. Vâng mệnh chuẩn bị nhung trang (Thuật hoài,
tr.155-156).
25. Từ mùa đông năm ngoái, khí thế bên phủ chúa suy dần, các quan nhiều ngƣời đút
lót bên Điện để mong đƣợc biết đến. Vũ Thành Đạo, Nguyễn Hữu Chỉnh nhận mật
chỉ đem quân vào bảo vệ. Tôi trót đã nhận nhiệm vụ coi binh, va chạm với quân
Vũ Thành Đạo, long chỉ sợ trái ý vua.Trƣớc ngày rằm tháng chạp về đến kinh, lập
tức vào chầu, đƣợc vua truyền phải vào triều để nghe việc công. Kịp đến ngày 15
tháng giêng, toà hành chính có ý cử hẳn cho giữ chức ấy, đƣợc vua phê chuẩn, khi
lạy tạ nhận chức, sung sƣớng vƣợt ngoài hi vọng, bèn ghi sự thực bằng bài thơ sau
đây (Đinh Mùi sơ xuân, Khâm ban hành Nam xứ Tham chính, bái mệnh cung kí,
tr.159).
26. Tháng 6 mùa hạ, tôi đƣợc vua Quang Trung triệu về phú Xuân, đến doanh Cầu thì
cáo bệnh rồi uỷ ngƣời vào Nam xin lƣu lại Nghệ An để điều dƣỡng, lúc đó tôi vẫn
169
trú tại lữ điếm chợ Cầu đợi mệnh và thƣờng tới đến thánh tiên ở xã Phú Nghĩa đốt
hƣơng khấn cầu mong đƣợc nhƣ sở nguyện. Sau đó ít lâu, Phú Xuân lại xuống
chiếu sai lính tại doanh chợ Cầu hộ tống về kinh và không đƣợc chậm trễ. Lúc đó,
tôi đành dứt tình lên đƣờng, bồi hồi ngoảnh lại. Khi tới bến Trung Hoà vƣợt sông
Gianh, trong lòng bỗng xúc cảm giữa cảnh lữ thứ, bất giác rơi lệ (Văn khiển cảm
tác, tr.182).
27. Phan Huy Chú sinh năm Nhâm Dần (1872) số giống nhƣ số phụ thân tôi, cốt cách
khác tục (Tam nam Chú, khải mông tại Tả ấp ngẫu thư thị giáo, tr.189).
28. Bấy giờ nội địa hẹn ngày 15 mở cửa ải. Đoàn sứ bộ hẹn vào đêm mùng 9 sẽ từ Bắc
thành lên đƣờng, tôi phải vội vàng quay về quê, để sáng ngày mùng 8 chuẩn bị
nghi lễ cáo yết từ đƣờng làm lễ tiểu trƣờng và xin từ hôm đó vào các tiết hạ tế,
trung nguyên sẽ uỷ cho đứa con trƣởng là Quýnh thay việc tiến hiến, sau đó lập
tức về Bắc thành chuẩn bị hành trang, trong lúc cảm thƣơng thuật lại nỗi lòng
(Mạnh hạ sơ cán dự cáo tiểu tường lễ mang phó sứ trình, tr.199).
Tập II
29. Giờ Tị ngày 15 tháng 4 mở cửa ải, phụng mệnh đến làm lễ ở đài Chiêu Đức. Các
quan đốc phủ và đế trấn dẫn đầu các viên chức, các đạo, đài, phủ, huyện tiếp đƣa
lên đƣờng. Ngựa xe cờ xí sáng rực núi khe (Xuất quan, tr.8).
30. Ngày hôm ấy tự kinh thành hộ giá đến Nguyệt Đàn, đêm đến công quán Viên
Minh (Khách quán trung thu, tr.25).
31. Mùa thu năm Mậu Thân (1788), kính hầu vua ở thành Phú Xuân, mùa thu năm Kỉ
Dậu (1789) chờ mệnh ở trấn Lạng Sơn để đón tiếp sứ giả, mùa thu năm nay lại tới
Yên Kinh (Khách quán trung thu, tr.25).
32. Từ yên Kinh đi hơn ba nghìn dặm đến Hán Dƣơng, lƣu lại mấy hôm. Tổng đốc họ
Phúc từ biệt về tỉnh thành Quảng Đông. Tuần phủ Quảng Tây là Trần Dụng Phu,
Bố chánh là Thanh Hùng Nghiệp, cùng quan văn, võ chức vẫn đi theo sứ bộ ta để
lo liệu thuyền bè. Ngày 22/9 nhổ neo, qua 7 ngày đêm thì đến hồ Động Đình (Hán
thuỷ chu trình, tr.32).
33. Thuyền nhổ neo từ Hán Khẩu, đêm đậu lại ở bến huyện thành Gia Ngƣ, hóng mát
và rót rƣợu uống tạm (Hán thuỷ chu trình, tr.32).
170
34. Thuyền sứ qua các phủ huyện thành, quan sở tại dựng thuỷ đình ở bến sông, bố trí
cả nhạc cụ và yến tiệc. Mỗi đêm khi qua các đình bên sông thì ở đó thắp đèn đốt
đuốc sáng rực, ánh sáng rọi lên tận trăng sao (Hán thuỷ chu trình, tr.32).
35. Ngày 29 tháng 11 đến chỗ đóng quân, cởi y phục sứ thần, mặc y phục nƣớc nhà, từ
biệt các vị quan hộ tống. Sáng hôm sau tới ải Nam Quan gặp ngƣời bà con là quan
Binh bộ hỏi thăm và biết đƣợc tin nhà bình yên, vui mừng liền làm bài thơ này
(Hồi trình khải quan, tr.46-47).
36. Bấy giờ tôi bị đau chân chƣa khỏi, đang ngụ ở phố Cửa Nam để chữa bệnh, thì
nhận đƣợc chiếu chỉ của nhà vua khuyên phải cố gắng trọng đạo làm thầy, nghiêm
túc, cần mẫn giảng Kinh Xuân Thu để giúp con vua hiểu rõ danh phận, tôi cố gắng
tuân theo. Tiết chế công làm nhà cho tôi ở thành, lại còn tặng tôi gậy song để
chống khi vào giảng (Thu phụng chiếu ban giáo đạo Tiết chế công đắc mệnh ngẫu
thuật, tr.55).
37. Trung tuần tháng 6, tôi đƣợc thăng chức Nội các Thị trung ngự sứ. Ngày 30 tháng
7 thì vua Quang Trung về chầu trời (Thu phụng quốc tang, cảm thuật, tr.75).
38. Lúc ấy quan Đại học sĩ (Ngô Thì Nhậm) vâng mệnh sang sứ phƣơng Bắc, giữ vai
chính trong ban cáo thính của sứ bộ. Tôi vâng mệnh đến Bắc thành để lo liệu mọi
việc đi sứ và đem theo mƣời dật vàng, một trăm cân quế bổ sung vào lễ vật tiến
cống. Mồng một tháng chạp, khởi hành từ kinh đô Phú Xuân. Ngày hai mƣơi mốt
đến công quán ở Bắc thành. Ngày hai mƣơi bốn làm lễ thành phục (Đông quí
phụng phó Bắc thành công cán, thuật hoài, tr.76).
39. Năm Kỉ Mão (1759) niên hiệu Cảnh Hƣng (1740-1787), phụ thân tôi lập dinh ở
bên tả cửa nhà Giám, đến tôi lại sửa sang thêm, cơ ngơi khá đẹp đẽ. Năm Mậu
Thân (1788), triều đại đổi thay, mới bị phá huỷ. Nay tôi nhận lấy ngôi nhà sứ quán
ở Linh Đƣờng, dỡ đem đến nền nhà cũ, gia công, xây dựng lại hơn 1 tháng thì
hoàn thành (Hạ quý câu để vu Bích Câu cựu doanh thổ, công thuyền kỉ hoài,
tr.78).
40. Đầu mùa đông mua gỗ và mọi thứ cần thiết, thuê thợ khởi công, dựng hai nếp nhà
thờ ở xứ Đồng Rùa trong xóm, dỡ bỏ nhà cũ làm mới một loạt, dùng gỗ xoan, lợp
lá gồi, qua hai tháng mới xong, chi phí hết 300 quan tiền. Giữa tháng chạp, rƣớc
thần chủ đặt lên và bày đồ thờ, ngày hoàn thành làm lễ cáo miếu. Thơ này ghi lại
công việc (Đông quí gia miêu tân hoàn, cung kỉ, tr.81).
171
41. Tôi sắm sửa hành lí sắp đi, mới mời ngƣời bà con trong họ là ông giải nguyên
Phan Mậu Hiên nguyên là huấn đạo, đến nhà tôi ở trong thành mở lớp dạy học cho
các con cháu, phí tổn do tôi đài thọ. Ông Mậu Hiên vừa mới đƣợc thăng chức Hàn
lâm Biên tu, tôi có ý định đề cử ông làm Tƣ nghiệp Văn Miếu ở Bắc thành để coi
việc dạy học. Cho nên câu kết của bài có nhắc đến chuyện đó (Thứ tặng quán tân
Phan Biên tu, tr.91).
42. Vâng chiếu vua sai đến Bắc thành lo việc tiễn sứ, kiêm giữ việc bộ Hình. Tôi thấy
mình sơ sài lƣời biếng cố ý từ chối không giữ việc bộ Hình, nhƣng vua không
bằng long. Trƣớc tiết trùng dƣơng một ngày, tôi từ kinh đô ra đi, các bạn đồng liêu
làm thơ tặng tiễn, trên đƣờng đi tôi làm thơ gửi để đáp lại (Hoạ đáp Hình bộ hữu
Đồng Nghị Hạo trạch Vũ hầu, tr.125).
43. Ngƣời vợ thiếp họ Nguyễn vừa sinh con trai vào tháng tám (Trùng dƣơng nhật đồ
ngộ Hải phái Đoàn Khê tự Bắc hồi, tuần tri gia tín, tiểu chƣớc tác biệt ngẫu đắc, tr.
129).
44. Khi tiên công ta làm quan ở Đồng Hới có xây một sinh từ ở ngay trong làng quy
mô rất bề thế. Ti giáo phƣờng của huyện xin đƣợc đem đàn sáo đến để hát thờ khi
tế lễ. Năm Bính Ngọ (1786), gặp nạn binh đao, sinh từ biến thành tro. Lệ hát thờ
của giáo phƣờng cũng bị gác lại. Gần đây, tôi vào chầu vua tiện đƣờng về quê, tập
hợp nhân viên trong huyện, nêu lại điều lệ trƣớc đây, bèn mua gỗ lim, gỗ táu,
dựng lại đền thờ ngay trên nền cũ, lại đặt ruộng thờ để hàng năm cung cấp lễ vật
cho các ngày lễ nhƣ: ngày sinh, ngày mất, Tết Nguyên đán, Tết Trung thu và cho
các giáo phƣờng ca xƣớng trong khi tế lễ, tất cả đã ghi thành điều khoản. Nay
nhân có việc công lại trở về đốc thúc ngƣời nhà dựng miếu và ngƣời trong huyện
kí kết khoán ƣớc, đặt thành nghi thức thờ cũng mãi mãi, rồi làm bài minh truyền
cho giáo phƣờng phổ vào nhạc để hàng năm dâng hát ở miếu (Hồi gia quán điều
trí tiên công tự nghi, kính thuật dĩ minh, tr.132-133).
45. Mùa xuân năm Quí Sửu (1793), làm lễ hết tang tiên khuê xong, đặt bài vị trong
nhà cũ ở ấp Tả, giao cho các con hàng năm thờ cúng. Nay sắm lễ vật long trọng
rƣớc bài vị về thờ phụ tại nhà thờ ở ấp Thuỵ. Trên đƣờng đi có cờ, trống, nghi
trƣợng sáo đàn và phƣờng nhạc đi trƣớc kiệu án, thân quyến xe ngựa theo sau, đi
đến đâu, ngƣời ra xem đông nghịt thế rồi đặt bát hƣơng thờ bóng ở ấp Tả (Mạnh
xuân hạ cán nghinh tiên khuê thần chủ thăng phụ Gia Miêu kỉ hoài, tr.150).
172
46. Đầu mùa hạ, tôi dựng một nhà thuỷ tạ ở trên ao sen, đằng sau nhà chính, bốn mặt
treo rèm, tuỳ ý đóng mở từng lúc. Quanh hiên, tám góc đều làm vách phấn, mỗi
nơi có treo một bức hoạ, đặt tên là quán Bảo Chân, sớm tối nằm nghỉ ở đó, phía
trên cửa có để một bài kí, chỗ hiên vách treo tranh, mỗi bức để một bài tứ tuyệt
(Đề Bảo Chân quán hiên bích hoạ đồ bát tuyệt, tr.156).
173
2. CÁC NGUYÊN CHÚ DÙNG ĐIỂN CỦA NGUYỄN VĂN LÝ (Thống kê theo Chí
Đình Nguyễn Văn Lý (1795-1868)- Tuyển tập thơ văn, Nxb. Khoa học Xã hội, 2011, Hà
Nội)
1. Theo sách Quốc sử bổ, chế độ nhà Đƣờng rất trọng tiến sĩ, có ngƣời chết già ở
trƣờng văn (thi mãi không đỗ) vẫn không ân hận, vì vậy có thơ: Vua Thái Tông
chính sách thật giỏi/ Lừa đƣợc hết anh hùng đến bạc đầu (Ứng xuân thí sơ quá Hà
Mai dịch, tr.104).
2. Tính lí, Khoa cử luận có câu: Thánh nhân sinh ở đời này cũng không đƣợc miễn
thi (Ứng xuân thí sơ quá Hà Mai dịch, tr.104).
3. Văn tuyển có câu: Tranh lên hàng đầu trên con đƣờng ngàn dặm, vì lo chuyện của
thân mình trăm năm (Ứng xuân thí sơ quá Hà Mai dịch, tr.105).
4. Thơ Đỗ Phủ: Tạo hoá chung đúc cảnh đẹp (Quá Dục Thuý sơn, tr.107)
5. Thơ Đỗ Phủ có câu: Cánh đồng một màu trắng mênh mang (Quá Thanh Hoa Bố
Vệ cố Lê liệt miếu, tr.115).
6. Lấy câu trong sử: có thể giữ đƣợc lâu nhƣng không thể làm cho mạnh (Quá Thanh
Hoa Bố Vệ cố Lê liệt miếu, tr.115).
7. Tiên sinh Phạm Lập Trai trong bài thơ Quá Hoành Sơn có câu rằng: Khó hiểu tại
sao lại phân chia Bắc Nam/ Tần ngần mỗi bƣớc đi lại ngoái đầu (Quá Hoành Sơn,
tr.120).
8. Đường thi có câu: Để cho cành quế tiên rơi ở đất này (Thần đầu Lê Bảng nhãn từ,
tr.122).
9. Theo Quốc sử, thơ của Anh Tông có câu: Châu Hoan, châu Diễn vẫn còn mƣời
vạn quân (Nghệ An đạo trung, tr.127).
10. La Ẩn đời Đƣờng trong bài thơ Đăng Hạ Châu thành lâu có câu: Chuyện cũ đã
qua nên hỏi chim hồng ngoài biên tái (Thanh giang, tr.129).
11. Chu Tử xem sách có thơ cảm khái: Vì có bãi dâu ngoài bến có nƣớc chảy (Yết
Nam Giao học tổ Sĩ Vương miếu, tr.155).
12. Trong Văn tuyển bài Tây kinh phú của Trƣơng Hành có dùng chữ “khiếu diếu”,
trong Đường thi Đỗ Mục cũng dùng từ này (Phỏng Nhạ Tháp Ninh Phúc tự,
tr.157).
13. Đời Tấn, Cát Hồng lúc đầu đƣợc phong chức Tán kị thƣờng thị, ông không nhận,
nghe tin Giao Chỉ có loại đan sa, liền xin làm chức Lệnh ở Câu Lậu. Vua cho là
tham chức cao, không cho. Hồng thƣa: “Không phải muốn làm quan sang mà chỉ
174
vì ở đấy có đan sa”. Đời Đƣờng thơ Bì Nhật Hƣu “Gửi đề nơi ở của La Phù Hiên
Viên tiên sinh”, có câu: Từ nay muốn đến thăm sƣ biết rằng không xa. Xin làm
quan trƣớc hãy có cái tâm của Cát tiên. Ý nói chỉ muốn tu tiên. Ta đến đây cũng
tƣơng tự nhƣ vậy (Trùng đáo Ninh Phúc tự yết Cô Tô di tượng cảm thành, tr.160).
14. Bậc đại trí luận về bồ đề thƣờng dùng tích trƣợng; Cao tăng truyện ghi: “Thần
tăng bay lƣợn trên không mà đi” (Trùng đáo Ninh Phúc tự yết Cô Tô di tượng cảm
thành, tr.160).
15. Pháp hoa kinh ghi: “ta ngồi dƣới gốc bồ đề ở thành Già da đạt đƣợc chính giác tối
thƣợng, chuyển bánh xe pháp vô thƣợng” (…) (Trùng đáo Ninh Phúc tự yết Cô Tô
di tượng cảm thành, tr.160).
16. Hợp Bích Tào Tử Kiến đi chơi Ngƣ Sơn, bỗng nghe trên không trung có âm thanh
tiếng Phạn trong trẻo, lắng nghe hồi lâu rồi bắt chƣớc tiếng đó viết thành chữ
Phạn. “bối là tiếng tán vịnh vậy” (Trùng đáo Ninh Phúc tự yết Cô Tô di tượng cảm
thành, tr.160).
17. Tạ Huyền Huy bị giáng làm Thái thú Tuyên Thành, bài thơ Lên thành chơi có câu:
Hàn thành nhìn ra xa/ Cánh đồng bằng đang xanh ngắt (…) (Xuân nhật đồng
Phương Đình thướng thành đài, tr.169).
18. Theo Tấn thư, Tạ An từng cùng Vƣơng Hy Chi lên thành, bỗng nhiên suy nghĩ xa
xôi, bỗng có chí của bậc “cao thế” (Xuân nhật đồng Phương Đình thướng thành
đài, tr.169).
19. Theo Thế thuyết, Văn đế nhà Lƣơng vào vƣờn Hoa thôn, ngoảnh lại bảo những
ngƣời theo hầu: “Nơi lòng gặp gỡ chẳng cần tƣởng đến rừng rậm, thác cao, chỉ cần
có chim cá thân cận với ngƣời” (Xuân nhật đồng Phương Đình thướng thành đài,
tr.169).
20. Theo một câu của Trang Tử thì nếu ham thích nhiều, thiên cơ sẽ bị hoại (Tống
Hương niên An Thái Phùng Tuần Phủ quy hưu, tr.190).
21. Câu này lấy ý của một câu trong sách Lão Tử: Hoạ là chỗ dựa của phúc, phúc là
chỗ ẩn nấp của hoạ (Niên huynh đồng Bộ Lang Tiên Điền Nguyễn Tụ Phủ Cẩm
Đình bãi quy, thư tặng, tr.331).
22. Thơ của Vĩnh Thúc điếu vua Tống Nhân Tông có câu: Cơ nghiệp trăm năm
truyền cho ngƣời con thánh chí/ Dân đen bốn kỉ đƣợc vui cảnh đài xuân (Truy tư
Nhân Hoàng Đế công đức long thịnh phụng vãn, tr. 359).
175
23. Thơ cổ có câu: Mây trắng bay lên từ nơi quê hƣơng (Xuân nhật đăng tỉnh lị Xuân
Đài sơn, tr.385).
24. Tử Cao nói: Con ngƣời có phải là con hƣơu, con lợn đâu mà luôn đƣợc ở cùng
nhau (Thứ Hình Bộ Lang Đông An Nguyễn tử nguyên vận, tr.391).
25. Ngoại tổ làm chức Thƣợng thƣ, là con trai thứ 5, thi Hƣơng nhiều lần đỗ tam
trƣờng (Tú tài). Lúc tuổi về già, tổ làm đôi câu đối rằng: Ngoài phận mình ra có
mong cầu điều chi? Chỉ mong truy cầu cái bản tâm đã bị đánh mất; Trong mọi
việc không có lòng ham muốn. Chỉ ham muốn ít lỗi lầm mà chƣa làm đƣợc (…)
(Ngoại tổ Nguyễn đại phu chí nghiệp thư thuật, tr. 399).
26. Đào Uyên Minh từng làm truyện cho ngoại tổ của mình (Ngoại tổ Nguyễn đại phu
chí nghiệp thư thuật, tr. 399).
27. Trƣợng Vịnh, tự hiệu là Quai Nhai vào núi học đạo, tiên nhân nói với ông rằng:
Ông là ngƣời trong chỗ vất vả bộn rộn, nơi đây không phải là chỗ để ông nghỉ
ngơi vậy (Kí Nguyên Quảng Yên Bố chính kim sĩ Hình Bộ Lang Lê Cấn Trai, kiêm
trình Hồng Lô Tự Khanh Sung Sử quán Nam Minh Vũ Đông Dương, tr.403).
28. Tả truyện có câu: Lòng ngƣời không giống nhau, cũng nhƣ là khuôn mặt vậy (Hoạ
đáp Nguyễn tử Phương Đình thư hoài kiến kí, tr.404).
29. Dùng tứ thơ trong Trong ngục vịnh ve sầu của Lạc Tân Vƣơng. Lại dùng thơ Lửa
đom đóm của Đỗ Phủ: Sông xanh tóc bạc buồn ngắm bác (Thứ Cao tử tại ngục
kiến kí vận, tr.407).
30. Có ngƣời đi qua đất tổ nhà Chu Hi nói: Đất này có hƣơng bút mực, sẽ ra đời một
bậc đại thông minh nhƣ Khổng Tử vậy (Đắc “Chu Tử toàn thư” cảm thành,
tr.422).
31. Câu thơ này của họ Chu (Hoạ đáp Nguyễn tử Phương Đình, tr.443).
32. Thơ Chu: Lòng hẹn ở nơi xa ((Hoạ đáp Nguyễn tử Phương Đình, tr.444).
33. Thơ ông Chu viết: Trăm năm mƣa gió thoảng qua/ Hãy nên cƣời lớn khóc mà làm
chi (Hoạ đáp Nguyễn tử Phương Đình, tr.443).
34. Thơ cổ: Lòng khách tranh với ngày tháng (Hoạ đáp Nguyễn tử Phương Đình,
tr.444).
35. Thơ cổ: Ôn tồn thử hỏi kẻ bị biếm trích. Lại theo Tạc Phi Am kí: Có vị quan đi gặp
mƣa liền vào nhà tìm áo phết dầu. Ngƣời vợ già mắng rằng: Tôi đây nóng không
ra ngoài, lạnh không ra ngoài, lấy đâu ra áo phết dầu (Hoạ phục Cao tử “Quảng
Nam Trà giang dạ bạc” kiến kí, tr.468).
176
36. Trâu Diễn ở nƣớc Yên hết lòng trung thành, vậy mà bị hạ ngục, Diễn ngẩng nhìn
trời mà than. Trời vì thế đƣơng mùa hè mà có sƣơng bay (Bình Định Đoan ngọ,
tr.475).
37. Tam Lƣ đại phu nƣớc Sở là Khuất Nguyên bị gièm pha rồi nhảy xuống sông Mịch
La tự trầm, về sau Giả sinh bị biếm đi Trƣờng Sa có làm văn điếu ông (Bình Định
Đoan ngọ, tr.475).
38. Tƣ Mã Thiên vì giải thích hộ cho Lý Lăng nên Hán Vũ đế nổi giận, khép tội xử
nhục hình, Thiên nói: “Một ngày ruột quặn chín lần” (Bình Định Đông chí,
tr.477).
39. Thơ Đƣờng: Mấy điểm sao tàn nhạn bay qua biên tái (Thất tịch cảm thành, tr.481).
40. Bài Sơ thu của Đỗ Phủ có câu: Tiếng chày đập vải nhà ai vang lên trong cảnh tịch
liêu (Thất tịch cảm thành, tr.481).
41. Thơ Vịnh Thất tịch của Đƣờng Tổ có câu: Không biết nhà ai đƣợc khéo/ Sáng mai
thử tìm xem. Sách Kinh Sở tuế thời kí ghi: vào đêm Thất tịch, đàn bà con gái kết
lầu hoa, xâu kim bảy lỗ. Lại theo sách Mộng hoa lục, vào tiết này ngƣời ta bắt con
nhện bỏ vào trong hộp, sáng hôm sau bỏ ra xem, nếu lƣới nhện kết đều đặn gọi là
“đắc xảo” (Thất tịch cảm thành, tr.481).
42. Bài thơ Trì đường thất tịch của Ôn Đình Quân thời Đƣờng viết: Lầu gấm the ở
chốn nào? ở lầu kim (Thất tịch cảm thành, tr.481).
43. Cổ văn viết: Chuyện văn chƣơng là tấc lòng từ thiên cổ (Thị tòng học tú tài, học
sinh, tr.484).
44. Thơ về Tây Hồ của Đỗ Mục có câu: Xuân về trên mặt hồ trông nhƣ bức tranh (Tây
Hồ, tr.486).
45. Thơ Lí Bạch có câu: Thăng trầm đã định sẵn, chẳng cần phải hỏi Quân Bình. Quân
Bình là một thầy bói giỏi ở Thành Đô, mỗi ngày có hàng trăm ngƣời đến bói,
nhƣng ông chỉ xem lấy đủ tiền ăn rồi đóng cửa đọc sách Lão tử (Dạ ẩm Phan Bố
chánh Tiểu Hiên tửu hậu, tr.506).
46. Thơ Đỗ Phủ có câu: Trong mắt ngƣời đời ta đã già rồi (Trung thu hậu, Bình Định
phiên sứ Phan huynh chiêu ẩm, bôi thứ, huynh nhất xỉ lạc phóng tiền, vũ nhiên
cảm thƣ, tr.507).
47. Hàn Xƣơng Lê có bài thơ về chuyện rụng răng nhƣ sau: Hôm trƣớc rụng một răng/
Hôm nay rụng chiếc nữa/ Ngày mai sẽ nhiều hơn/ Còn rụng, chẳng dừng đƣợc
177
(Trung thu hậu, Bình Định phiên sứ Phan huynh chiêu ẩm, bôi thứ, huynh nhất xỉ
lạc phóng tiền, vũ nhiên cảm thư, tr.507).
48. Tương dương kí chép: Phía tây Nghiễu Sơn có nhiều ao lớn, Sơn Đào mỗi khi đến
bên ao ắt say khƣớt mới về (…) (Tiểu xuân thư tặng Bình Định Bố chánh Phan
Phù Xuyên nhập cận, nhị thủ, tr. 515).
49. Theo sách Thế Thuyết, Lƣu Đàm viết: Gió mát trăng trong/ Lại nhớ Huyền Độ
(Tiểu xuân thư tặng Bình Định Bố chánh Phan Phù Xuyên nhập cận, nhị thủ, tr.
515).
178
3. NHỮNG SÁCH NGUYỄN VĂN SIÊU DÙNG ĐỂ TỰ DẪN, CHÚ GIẢI (Thống kê
theo Thuyển tập thơ văn Phương Đình Nguyễn Văn Siêu, tập 3, 4, Nhà xuất bản Hà Nội,
2010; Tên sách theo chú giải của tác giả)
Tên sách Tên bài thơ Trang Ghi chú ST
T Tập 3 Tập
4
514 1 An Nam chí Quá Lục giang khẩu hữu hoài Hữu
Trúc Bùi tiên khế
2 Chẩm trung kí Hàm Đan cổ quán đề bích- hữu tựa 193
3 Chí Tuyên Hoá vịnh hoài cổ tích 30
Vũ trung vọng Bắc Chƣớng sơn 106
Phát Hoành Dƣơng đoản ca 118
Nghiêu thành 213
3 Chích quái Quan Cổ Loa thành An Dƣơng 477
Vƣơng miếu hữu tác
4 Chung chữ Chu để Hƣng Hoá trình Hộ Phủ 716
phiên Niết nhị vị
5 Chủng chí
thắng
6 Chất Ổn truyện Văn giá cô tác 74
7 Cựu Lê sử Cố Lê Trung Hƣng Quận công tặng 461
Thái tể phong Phúc thần Nghị Trai
Phùng Công Khắc Khoan mộ chí
Thạch Thất Huấn đạo Bùi quân
Huy Hiên khắc thành tái trƣng thi
biểu chi thạch
8 Giao Chỉ Xuân Ngô Châu lãm cổ 66
Thu
9 Giao phổ hoài Phiếm Động Đình 138
cổ
10 Giao Quảng Quan Cổ Loa thành An Dƣơng 477
179
chí Vƣơng miếu hữu tác
11 Đỗ Dự truyện Quá cố Tống Thái sƣ Âu Dƣơng 168
Văn Trung Công mộ
12 Địa lí chí Nghiêu thành 213
13 Đường sử Quá Ân Mạt cố đô 177
14 Hán thư Cửu Long giang 24
Ngô Châu lãm cổ 66
Phiếm Động Đình 138
Hứa Xƣơng di sự 163
Ƣ Oanh trạch độ Hoàng Hà 171
Hình Đài cổ trấn khiển hoài 199
Sĩ Vƣơng miếu 175
15 Hậu Hán thư Văn giá cô tác 74
16 Hậu Tề thư Sĩ Vƣơng miếu 175
17 Hoàn Vũ kí Hứa Xƣơng di sự 163
18 Huyện chí Quý Huyện thành châu thú hứng 49
tác
Nhạc Vũ Mục Vƣơng cố lý chiêm 180
yết linh từ cảm thành
Hình Đài cổ trấn khiển hoài 199
19 Kinh Thi Gia Ngƣ huyện Bắc nhập đại giang 144
20 Kinh Thư Quá Ân Mạt cố đô 177
21 Lư Sơn Thuấn Ngô Châu lãm cổ 66
miếu kí
22 Mã Viện truyện Cửu Long giang 24
23 Nam Việt liệt Ngô Châu lãm cổ 66
truyện
24 Nhất thống chí Tuyên Hoá vịnh hoài cổ tích 30
Quý Huyện thành châu thú hứng 49
tác
180
Văn giá cô tác 74
Gia Ngƣ huyện Bắc nhập đại giang 144
25 Nhĩ Nhã Quá cố Tống Thái sƣ Âu Dƣơng 168
Văn Trung Công mộ
26 Ngoại kỉ Quan Cổ Loa thành An Dƣơng 477
Vƣơng miếu hữu tác
27 Ngu sơn miếu Văn giá cô tác 74
kí
28 Phân dã chí Ngô Châu lãm cổ 66
29 Phong thổ chí Ba Lăng ca giả duyên lƣu vãng lai 141
văn chi cảm hoài
30 Phủ chí Ngô Châu lãm cổ 66
Thƣơng Ngô huyện phỏng Sĩ Nhiếp 71
mộ
31 Quảng dư chí Cửu Long giang 24
Nhạc Vũ Mục Vƣơng cố lý chiêm 180
yết linh từ cảm thành
32 Quận quốc chí Quan Cổ Loa thành An Dƣơng 477
Vƣơng miếu hữu tác
33 Sử kí Tư Mã Cửu Long giang 24 154
Thiên (Hoá Tiên hiền Tử Cống từ (Hiệp khách 154
thực liệt truyện)
truyện, Hiệp
khách truyện,
Thương Ngô
Vương liệt
truyện…)
34 Sử kí Nghiêu thành 213 Tác giả
ghi
chung
chung là
“sử tải”
181
Quý Huyện thành châu thú hứng 49
tác
35 Tả truyện Loan Thành Loan Vũ Tử đài 202
36 Tam quốc chí Gia Ngƣ huyện Bắc nhập đại giang 144
37 Tấn thư Quan Cổ Loa thành An Dƣơng 477
Vƣơng miếu hữu tác
38 Tào Tháo nghi Quá Tào Tháo nghi chủng 186
chủng chí
thắng
39 Tiền Hán thư Ngô Châu lãm cổ 66
40 102 Thông chí Ƣ linh xuyên phỏng Nghiêu Sơn
138 Phiếm Động Đình
41 Thông kí Ngô Châu lãm cổ 66
42 30 Thuỷ kinh chú Tuyên Hoá vịnh hoài cổ tích
109 Hƣng Yên trở vũ
138 Phiếm Động Đình
Đồng nhân tố chu du Sơn Tây 646
138 42 Thượng thư Sái Phiếm Động Đình
truyện
44 Thượng thư Vũ Ƣ Oanh trạch độ Hoàng Hà 171
Cống truyện
45 Tô Tần truyện Ba Lăng ca giả duyên lƣu vãng lai 141
văn chi cảm hoài
46 Tương Sơn tự Đề Tƣơng Sơn tự chí hậu- tinh dẫn 114
chí
47 Trà thuyết Hoạ đáp Bình Chuẩn Sứ Hồng Lô 643
Tự khanh Đặng quân Hoàng Trung
đầu tặng nguyên vận
48 Triệu thế gia Hàm Đan quá Triệu Vƣơng cổ 189
thành di chỉ
49 Truyện kí Ngô Châu lãm cổ 66
Văn giá cô tác 74
182
Phiếm Động Đình 138
Vĩnh Thuần 50 43
51 Sách xƣa Đăng Tƣợng Tỵ sơn lâu 90 Tác giả
ghi
chung
chung là
“Sách
xƣa”
52 Các bài thơ, Quế Bình tứ tuyệt, 55 Tác giả
phú, biển đề… dùng Ƣ linh xuyên phỏng Nghiêu Sơn 102
các bài Hồ Nam thành hạ bạc châu mạn 126
thơ, phú thuật
và biển Vũ Xƣơng 144
đề, câu Hàm Đan cổ quán đề bích- hữu tựa 193
đối…
vịnh,
hoạ, di
tích…
183
4.TỰ DẪN, CHÚ GIẢI CỦA PHAN THÚC TRỰC VỀ NỘI DUNG THƠ CA CỦA
ÔNG (Thống kê theo Phan Thúc Trực - Cẩm Đình thi tuyển, Nguyễn Thị Oanh giới
thiệu- phiên âm- dịch chú, Trần Thị Băng Thanh hiệu đính, Nxb. Khoa học Xã hội, 2011,
Hà Nội)
1. Thơ làm vào mùa đông, ngày 21 tháng 11 năm Thiệu Trị thứ nhất (1841). Vợ mất
vào ngày 16 tháng đó,. Ngày hôm đấy khóc vợ (Vãn khốc vong thê mộ, hữu cảm
nhất tuyệt, tr.56).
2. Câu đầu nói cảnh, câu sau nói tình. Câu 3 thừa tiếp ý câu 2, câu 4 thừa tiếp ý câu
1, ứng với chữ “vãn” (buổi chiều) trong nhan đề bài thơ (Vãn khốc vong thê mộ,
hữu cảm nhất tuyệt, tr.56).
3. Câu 3, câu 4 gửi tình cảm vào cảnh, tiếp vế trên gặp ngày đông (Tàn đông khách
ngụ thư hoài, tr.58).
4. Câu 5, câu 6 nói tình cảm, tiếp câu trên làm khách ở đất Thái (Tàn đông khách ngụ
thư hoài, tr.58).
5. Hai câu cuối “vãn luật” kết với “cùng đông”. “Vũ thuỷ” kết với “khách ngụ”. Vũ
thuỷ là nơi đặt phần mộ cha ta, thuộc xã Vân Lôi. “Vũ thuỷ” là tên sông (Tàn đông
khách ngụ thư hoài, tr.58).
6. Câu 3, câu 4 thừa tiếp ý “có điều nhớ thƣơng”. Đó là nỗi nhớ ngƣời vợ đã mất.
Câu 5, câu 6 thừa tiếp ý hai câu đầu (Đối vũ, tr.60).
7. Lo lắng nhiều kết thành suy nghĩ, nhƣ tơ kết thành mƣa bay bay. Câu 1, câu 2 là
„thực”, câu 3, câu 4 là “hƣ”. Câu 5, câu 6 là “thực”, câu 7 câu 8 là “hƣ”. Hƣ và
thực đan xen nhau. Câu cuối cùng là bắt chƣớc theo thơ Đỗ Phủ: Lo lắng nhiều
ngổn ngang trăm mối, Cũng nhƣ mƣa giăng giăng kéo tan ra nhƣ tơ (Đối vũ,
tr.60).
8. Câu đầu đƣợc bắt đầu bằng đêm đông, câu tiếp theo nói đến việc không ngủ đƣợc
(Đông dạ bất mị hữu cảm, tr.64).
9. Câu 3, câu 4 tả cảnh, theo ý câu đầu. Tiếng dế kêu là thực, chim hạc đậu là tƣởng
tƣợng (Đông dạ bất mị hữu cảm, tr.64).
10. Câu 5, câu 6 tiếp ý “nhạ hận” - đem mối sầu hận lại (Đông dạ bất mị hữu cảm,
tr.64).
11. Câu kết nói về việc không ngủ, đủ để nói về nhan đề bài thơ (Đông dạ bất mị hữu
cảm, tr.64).
184
12. Bài thơ này bắt chƣớc bài Tống biệt của Đỗ Phủ. Thơ Đỗ Phủ có câu rằng: “tiễn
biệt ngƣời đi xa/ Núi xanh luống làm tổn thƣơng tình cảm/ Bao lần cùng nâng
chén/ Cùng dạo trăng tối qua. Câu 2, câu 3 nói việc đôi lứa mất nhau. Câu 3 lấy
nói việc viên Doãn Kinh Triệu tên là Trƣơng Sƣởng tô mày cho vợ. Câu 4, đoạn
trên nói tình, đoạn dƣới nói cảnh. Cả bài thơ là tình cảnh đan xen (Cảm biệt, tr.67).
13. Bài thơ này câu đầu nói ý nhà nghèo nhớ vợ hiền. 4 câu trên nói lúc vợ còn mọi
việc đều đảm đƣơng, ta quả thật là ngƣời nhàn nhã. 4 câu dƣới nói từ sau khi vợ
mất, ta phải tự đốc thúc gia nhân trồng lúa. Vì là ngƣời quen bút mực, nay phải tự
cấy cày, việc đó trái lại chẳng bằng ngƣời chồng đi cày, ngƣời vợ mang cơm. Đó
là điều đau thƣơng nhất (Đông thập nhị nguyệt đốc gia nô thực mạch, tr.69).
14. Câu đầu của bài thơ này bắt chƣớc câu “bất miên tri tịch trƣờng” (Không ngủ biết
đêm dài) của Đào Tiềm. Câu 3, câu 4 nói “đêm dài không ngủ”, lúc đó có nhiều
trộm cắp, làng xóm cả đêm gõ mõ, nghiêng tai nằm lắng nghe (…). Câu 5, câu 6
dùng nghĩa chim hạc, chim loan lìa bạn của Tƣơng Nhƣ. Câu 6 thừa tiếp ý câu sầu
thƣơng, ý nói vì mất vợ ở tuổi trung niên nhƣ chim loan, chim phƣợng lẻ loi một
mình, khiến cho tráng chí muốn bay cao nhƣ cánh chim hồng hộc tiếc lại bị cản
trở. 2 câu đầu là đề dẫn cho 4 câu ở giữa, 4 câu giữa chia làm đôi, ngắt 2 câu trên
và 2 câu dƣới (hai câu trên ứng với “đêm không ngủ”, 2 câu dƣới ứng với sự buồn
rầu day dứt. Chữ “nguyệt” trong câu 7 ứng với chữ “dạ”, chữ “hƣ truyền” ứng với
chữ „sầu” (Bất miên, tr. 73-74).
15. Bốn câu đầu mở đầu cho toàn bài thơ (Điệu nội thuật tác, tr.79).
16. Bấy giờ nhờ bà nội là Tạ Thục Khƣơng còn sống nuôi dƣỡng. 4 câu này tiếp ý thời
thiếu niên chịu nhiều khổ cực (Điệu nội thuật tác, tr.79).
17. Dùng biểu thị ý bài thơ (Điệu nội thuật tác, tr.80).
18. Dùng câu “Quy mƣu chi quả thê” trong bài phú Hậu Xích Bích của Tô Đông Pha.
8 câu của đoạn này nói lí do tình cảm vợ chồng thuỷ chung (Điệu nội thuật tác,
tr.80).
19. Đoạn này kết thúc đoạn trên, mở ra đoạn cuối, “hồng nhạn” ứng với anh em cùng
sống một nhà, “loan phƣợng” ứng cho đến chỗ ngƣời mất vợ. “Nội” tức là “nội”
(ngƣời vợ) trong “điệu nội” (khóc vợ) (Điệu nội thuật tác, tr.80).
20. Chữ „vấn” tức ý nói ta tự mình tuỳ lúc hỏi han các con có ấm không hay đã no
chƣa (Điệu nội thuật tác, tr.81).
185
21. Câu 14 của đoạn này chiếu lên trên lại gặp biến cố đó, cho nên từ việc có cái ăn,
cái mặc hay không, trừ việc quét tƣớc sân, phàm việc gì cũng tự mình làm lấy. Đó
là tả việc ngày thƣờng nhƣ vậy. Hai câu cuối nói về cảnh, tức những việc nhìn
thấy nhƣ trông nom cả việc quét tƣớc (Điệu nội thuật tác, tr.81).
22. Thanh trùng tức con nhện. Dùng câu “Thanh trùng huyền tựu nhật” thơ của Đỗ
Phủ (Điệu nội thuật tác, tr.81).
23. 16 câu trong đoạn này thuật lại nỗi lòng, lấy một chữ „tình” để thể hiện “nỗi lòng”.
Đoạn thơ trên nói ý thời niên thiếu chịu khổ cực, đoạn thơ giữa nói tình cảm vợ
chồng, đoạn thơ cuối nói tình cảnh khi không còn đôi lứa. Đó là phép mô tả tình
cảm. Câu trƣớc nói ban ngày quét tƣớc nhà cửa, từ chiều đến đêm, từ đêm đến
sáng, đó là phép tả cảnh. Từ đó, có thể thấy ý vất vả, phân tích theo tầng lớp, xem
kĩ có thể tự biết rõ (Điệu nội thuật tác, tr.82).
24. Do làm điếm canh trông mộ, vì thế làm bài thơ này. Buổi chiều tháng 12 (Vãn
thướng vong thê mộ trị vũ tạm yết tuần phu điếm sở, tr.86).
25. Thơ Đƣờng có câu: Mƣa dày buông nhƣ tơ (Vãn thƣớng vong thê mộ trị vũ tạm
yết tuần phu điếm sở, tr.86).
26. Ngày tháng giống với bài trên (Khiển muộn, tr.88).
27. Bốn câu đầu bày tỏ sự phiền muộn, 4 câu dƣới thể hiện ý tự an ủi mình, nói tự an
ủi. Ở câu cuối xuất hiện chữ “khiển”, đó là phép nhấn mạnh để ở câu cuối (Khiển
muộn, tr.88).
28. Bài thơ này làm vào mùa đông, bắt chƣớc thơ Đỗ Phủ (Tuế yến hành, tr.91).
29. Câu 1, câu 2 nói trời đã khổ vì gió, lại khổ vì mƣa, nhƣng không thể nói rằng vì
khổ gió, khổ mƣa. Câu “Cung như giai tự dân gian thủ” là nói năm đó phàm các
vật liệu nhƣ cá sông, thú rừng cho đến gà lợn, thóc lúa, rau cỏ, mâm đồng vải xanh
ghế ngồi, tất cả các vật có thể dùng, có thể lấy đều phân theo nhân số để trƣng thu.
Hai chữ “cơ hàn” chiếu vào hai chữ “y thực” của câu 3. Bốn câu trên mở thành
một đoạn, nói về năm đã muộn. Đoạn giữa 12 câu cuối thu tóm lại (Tuế yến hành,
tr.92).
30. Bốn câu đầu nói việc nên trồng khoai, trồng bông (Xuân nhật khoá thực vu miên,
tr.95).
31. Haicâu đầu đoạn này nói về việc trồng khoai, trồng bông (Xuân nhật khoá thực vu
miên, tr.95).
186
32. Sáu câu đoạn này nói việc trồng bông, trồng khoai đã xong, tƣởng tƣợng đến lúc
thu hoạch (Xuân nhật khoá thực vu miên, tr.95).
33. Hai chữ cơ hàn đối sánh nhau (Xuân nhật khoá thực vu miên, tr.95).
34. Làm thơ vào cùng tháng năm trên. Mộ cũ của cha ta ở Quảng Hà, năm Ất Mùi có
vị cử nhân ở Ninh Bình tới nhận chức quan ở Hoan Châu chơi thân với ta, nhân
chọn giúp miếng đất tốt ở xứ Nàng Anh, Ngọc Long. Ta nhân cƣ tang, đến bái mộ
cha, cảm hứng thành thơ (Vãng bái phụ oanh, tr.100).
35. Bốn câu đầu nói cảm nghĩ khi đến bái yết mộ cha, hai chữ “bi oán” mô tả sự đau
thƣơng tột cùng (Vãng bái phụ oanh, tr.100).
36. Sau khi vợ cũ mất thƣơng nhớ khôn nguôi bèn mời bà đồng về chiêu hồn, bỗng
thấy càng huyễn hoặc nhân làm bài thơ thuật lại (Hoài giai nhân, tr.103).
37. Câu đầu nói lúc vợ lâm chung không trăng trối. Câu 3, câu 4 nói ý nhớ nhung, bấy
giờ khăn, nón ngƣời vợ cũ vẫn còn, lấy đó để an ủi. Câu 5, câu 6 nói muốn nhìn
thấy vợ nhƣng chẳng biết làm thế nào. Thƣờng sau khi vĩnh biệt, nơi gặp gỡ duy
nhất có thể là ngƣời trong mộng. Đấy là cách nói một cách da diết về lúc gặp gỡ.
Muốn nhìn thấy hình hài mà không thể thấy đƣợc, mới mời bà đồng chiêu hồn
nhƣng càng thấy buồn tê tái. Câu 7, câu 8 nói muốn nhờ bà đồng để mong đƣợc
gặp một lần nhƣng lời bà đồng huyễn hoặc không đủ để tin. Lúc đó chẳng biết làm
thế nào, buồn bã cho đến sáng (Hoài giai nhân, tr.103).
38. Làm ngày 26 tháng 4 (Vũ tình ngải mạch, tr.111).
39. Cắt lúa ở ruộng thấp, sau mƣa tạnh lại cắt, nói không sợ thửa ruộng trũng ngoài
đồng, vì sau mƣa trời hửng phải gấp thu hoạch để lúa khỏi bị ngâm nƣớc. Câu 3,4
là để nói ý nghĩa của câu đầu tiên (Vũ tình ngải mạch, tr.111).
40. Câu này nói lí do hoá đồ vật, tức khăn nón để lại (Trùng ngọ nhật phần hoá vong
thê cân lạp y phục tại mộ cảm tác, tr. 114).
41. Câu đầu nói ngƣời ta sinh ra có phận, không thể gắng gƣợng tìm kiếm. sự vinh,
nhục, cùng thông, mọi ngƣời ai cũng có vận số. Ta sở dĩ tiêu khiển đƣợc là nhờ
sách vở, cái đó đủ để nuôi dƣỡng tính mệnh (…) (Nhàn tụng Đỗ thi hữu “Quang
nhãn khinh bạc, Hư hoài nhiệm khuất thân” chi cú nhân hiệu nhất luận, tr.119).
42. Bốn câu trên ghi lại việc mƣa bão; câu 3, câu 4 nói ý dân tình thật đáng thƣơng.
Bốn câu dƣới ghi việc phát chẩn cứu dân, nhƣng việc phát tiền gạo ở đất Đƣờng
chẳng có ngƣời hiền nhƣ Mạnh Tử (…) (Triều đình khai thương cấp phát lai tê,
nhân thư dĩ kí kì sự, tr.130).
187
43. Chiều ngày trùng cửu xa ngắm, làm thơ trình lên huyện quan Đông Triều họ Hồ
mời hoạ (Mộ hứng, tr.132).
44. Đoạn trên là buổi chiều, đoạn dƣới là hứng thơ (Mộ hứng, tr.132).
45. Làm ngày 15 tháng 9 (Phó Đào viên phỏng lƣỡng Phan Tú tài vãn hồi ngẫu thuật,
tr.135).
46. Đoạn này bắt chƣớc tập thơ của họ Đỗ, đây là phép câu đảo trang. Thơ Đỗ Phủ có
câu: Quy điểu đầu thụ, lạc hà chiếu sơn”, nay đặt ngƣợc lại để dùng (Phó Đào viên
phỏng lưỡng Phan Tú tài vãn hồi ngẫu thuật, tr.135).
47. Bốn câu trên nói ý chiều trở về. Vì đến thăm ngƣời bạn, bấy giờ vào cửa, bạn mời
ngắm trúc, lại mời lên chiếu dùng trà, vì thế về muộn, đến tận chiều. Bốn câu
dƣới, câu 5,6 tả buổi chiều, câu kết nói việc đi chậm chạp, kết thúc ở hai chữ “vãn
diếu” (ngắm chiều tà), câu 5,6 ý nói vì mải ngắm cảnh chiều nên đến khi quay đầu
đã thấy nhà mình rồi, đi chẳng xa nhƣng lòng thì bồi hồi nhƣ thế (Phó Đào viên
phỏng lưỡng Phan Tú tài vãn hồi ngẫu thuật, tr.135).
48. Làm vào ngày 17 tháng 9. Do ta và Cai viên đã biết nhau từ lâu, từng đã lấy văn
chƣơng chén rƣợu để tỏ niềm vui và chí khí của mình, hẹn cũng đã lâu rồi. Nay
Cai viên đã hiển đạt, còn ta vẫn chƣa từng đƣợc làm quan, nhân làm thơ để thể
hiện ý đó (Tiên Lữ huyện Tri huyện Nguyễn kí trà tịnh vấn thất ngẫu sự, nhân tiện
giản kí nhất luật, tr.138).
49. Hai câu đầu là đầu đề cho hai ý. Hai câu giữa tự nói, nhƣng ý muốn nói về việc
mình vẫn còn là anh học trò mặt trắng. Do câu đầu ném ra một chữ khách nên lấy
bạn để nói mình. Câu 5, câu 6 là nói chuyện vợ mất, hai câu cuối với 2 câu đầu hai
chữ giao tình hồi chiếu lại chữ „cố nhân”; hai chữ “u sầu” kết ý 2 câu 5, 6 Tiên Lữ
huyện Tri huyện Nguyễn kí trà tịnh vấn thất ngẫu sự, nhân tiện giản kí nhất luật,
tr.139).
50. Câu đầu bài thơ đƣa ra chỉ 1, câu tiếp theo điểm cho đầu đề bài thơ. Câu 3 nói về
bừa sạch cỏ; câu 4 nói về gieo các loại hạt rau; câu 5,6 tả cảnh; câu 7, 8 trở xuống
là một đoạn kế theo ý trong vƣờn đầy rau xanh; câu 13, 14 lật ý; câu 15,16,17,18
vẫn theo ý nói về vƣờn rau. Câu 19,20 nói việc giúp việc ăn uống hàng ngày, câu
kết đảo lại ý ở nơi thôn xóm hẻo lánh. Hai câu cuối ngụ ý của mình để kết thúc bài
thơ (Sơ viên sừ sáp bá chư tiểu thái nhân đề, tr.143).
51. Làm ngày 22 tháng Chạp. Chân giẫm phải gai tre, điều trị mất nửa tháng, nhân
làm bài thơ (Thương túc, tr. 148).
188
52. Thềm rêu theo ý nói theo chữ „tuyết”, “khói cây” theo cảnh “hửng” (Tình, tr. 150).
53. Thơ Đỗ Phủ có câu: Chẳng mệt khi vịnh ngày hửng, Chuông trống báo ngày mới
(Tình, tr. 150).
54. Hai câu này ý tả tình cảm nhân ngày “Nhân nhật” (Nhân nhật, tr.155).
55. Làm thơ vào tháng 9 (Thục xá thư hoài, tr. 157).
56. Làm ngày 11 tháng 10 (Hạ Quỳnh Đôi tân tiến sĩ Văn Đức Giai, tr.160).
57. Trung tuần tháng 10, nhiều ngày mƣa liên tiếp, thóc lúa đã chín nhƣng chƣa kịp
gặt, cảm hứng thành thơ. Các bài dƣới đây đều làm tại trƣờng (Khổ vũ, tr.163).
58. Câu này ý oán thán (Khổ vũ, tr.163).
59. Bốn câu sau tự bày tỏ ý nhàn nhã tịch liêu và lấy hai chữ “mong hửng” để kết thúc
(Khổ vũ, tr.163).
60. Ngày 12 tháng 10, ta từ Quỳnh Đôi gấp trở về nhà, đi bộ thấy mệt, muốn đi nhanh
đến chỗ nghỉ ở núi Di Sơn. Ngày 13 nhân đi đến thôn Trƣờng Sơn hỏi thăm bạn,
thì núi Di Lặc sơn đã ở đằng sau lƣng rồi, cho nên cảm hứng làm thơ (Di Sơn
ngâm, tr.166).
61. Bài thơ này nói ý nếu không đoái đến nhau là do vật không cùng loại, tuy nhiên,
vật vốn dĩ chia bầy, sao thay đổi nỡ phụ nhau. Chiếu theo ý lao khổ ở câu thơ bên
trên (Hí vịnh kê mẫu bão áp sồ, tr.168).
62. Bốn câu giữa tả cảnh kiêm tả tình cảm, hai câu kết và câu đầu ý nói chiều tối, sắp
vào đêm (Vãn, tr.170).
63. Các bài thơ dƣới đây làm tại quê hƣơng (Kí Giản Ngự sử Vũ Hựu Phủ, tr.178).
64. Bấy giờ khảo khoá ở Hà Nội, mệnh lấy làm đề, nhân đó làm bài thơ phụ vào đây
(Nhĩ thuỷ hiểu tình, tr.210).
65. Bấy giờ ta cùng các vị tú tài uống rƣợu, làm thơ, trong lúc men say lời lẽ hoặc có
lúc không phải nhƣng các vị đó đều không trách cứ. Về đến nhà bèn làm thơ tạm
biệt gửi tặng (Kí biệt Bắc Thành Hồ Khẩu phường Tú tài Úc, An Thái phường Tú
tài Hằng, Minh Tảo xã Tú tài Vân, tr.214).
66. Bấy giờ ta ngồi một mình, đêm đã gần tàn, chỉ thấy mây che núi, nửa ẩn nửa hiện,
nhƣ chiếc tù và. Ánh trăng chiếu rọi xuống song nƣớc lay động, lúc lên lúc xuống,
trông nhƣ viên ngọc nhảy nhót. Thế rồi tức cảnh sinh tình làm thơ (Hiểu vịnh,
tr.218).
67. Các bài thơ dƣới đây sáng tác nhân chuyến ra Bắc vào Nam năm 1843, niên hiệu
Thiệu Trị thứ 3 (Tây Hồ Trấn Vũ quán hành, tr.221).
189
68. Do đƣợc sung làm Cống cử vì thế lên đƣờng tới kinh. Thơ làm ngày 14 tháng 6
(Bái biệt gia miếu, tr.239).
69. Ngày mùng 3, cùng thời gian với các bài trên (Hồng Lĩnh, tr. 253).
70. Dƣới đây là các bài thơ sáng tác nhân dịp đƣợc sung làm Hƣơng cống vào năm Ất
Tị (1845) (Đăng trình biệt ấp nhân, tr.260).
71. Khi ta chƣa thi đỗ, lúc đó có tú tài Trƣơng Văn Dụ ngƣời cùng quận nằm mơ thấy
ta đi với một ngƣời lên tháp chùa Thiên Mụ (…). Lúc đó ta ở tầng ba bèn dùng
ngũ ngôn đọc nối tiếp rằng: Ao sâu cá tự nhảy, Tháp cao mây có thang. Cho nên
dùng câu 5 là để thể hiện ý đó (Cập đệ hậu thích điện vãn quá Hương Nguyện
đình toạ nguyệt lí thư, tr.290).
72. Các bài thơ làm vào tháng Mƣời năm Mậu Thân (1848) ở trƣờng thi Hà Nội (Dạ
thâm duyệt quyển giả mị mạn thư, tr.308).
73. Bài thơ trên vịnh ngày rét (Phong vũ, tr.317).
74. Bài thơ trên vịnh ngày nắng (Đông hàn, tr.319).
75. Làm thơ ngày 14 tháng 11. Đến ngày 21 trở về tỉnh nhà (Nông Cống đạo trung,
tr.385).
76. Bài thơ này làm lúc tiệc ca hát kết thúc, nhân cảnh bèn nhớ đến ngày xƣa. Câu 1,2
là nói năm nay nhân việc đi tìm sách vở, gặp đúng ngày gần Tết, trọ lại ở lầu nam
nhà ông họ Trần. Câu 3 và câu 4 là nói nghe tiếng ca nhịp phách nhè nhẹ, hƣơng
hoa thoang thoảng, đó là nói ý theo lệ tuỳ nơi mà cùng vui với ngƣời. Câu 5, câu 6
trở xuống là nói ngƣời đời ngày nay tranh nhau khoe sự phóng khoáng hào mại,
cũng tuỳ theo mà ứng tiếp. Còn có câu nhƣ Lầu Tần múa Triệu, chỉ việc xa xƣa,
chiều dựa lan can, cảm thấy bồi hồi, ngƣời xƣa cầm đuốc đi chơi đêm, còn ta thì
thế nào (Xuân nhật trưng ca hậu thư tặng chủ nhân Trần Tử nhất luật kiêm thị
Hoàng Chu Sĩ, tr.399).
77. Nói về chủ (Tàn tạ, tr.404).
78. Nói về mình (Tàn tạ, tr.404).
79. Nói về cảnh (Tàn tạ, tr.404).
80. Hoạ theo bài thơ của Tế tửu Phạm tiên sinh, Huyện nha Đông Triều phụng chép.