ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------
NGUYỄN THỊ PHƢỢNG
NHÂN VẬT NỮ TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU ĐỌC THEO LÝ LUẬN VỀ GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
HÀ NỘI, 2013
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------
NGUYỄN THỊ PHƢỢNG
NHÂN VẬT NỮ TRONG THƠ CHỮ HÁN
NGUYỄN DU ĐỌC THEO LÝ LUẬN VỀ GIỚI
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 60.22.01.21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Nho Thìn
- HÀ NỘI, 2013 -
LỜI CẢM ƠN
Với niềm kính trọng, tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến
qúy thầy, cô giáo đã tận tình giảng dạy trong suốt quá trình học tập, nghiên cứu
và hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Đặc biệt, tôi xin được bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc
PGS.TS. Trần Nho Thìn - người hướng dẫn khoa học đã tận tình giúp đỡ tôi
trong quá trình nghiên cứu và hoàn thành luận văn.
Xin chân thành cám ơn gia đình, đồng nghiệp, bạn bè đã động viên, giúp
đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành đề tài.
Nguyễn Thị Phƣợng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................. 6
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề: .............................................................................. 7
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................... 11
4. Mục đích nghiên cứu: ....................................................................................... 11
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................................... 11
6. Phương pháp nghiên cứu ................................................................................. 12
7. Cấu trúc luận văn ............................................................................................... 13
NỘI DUNG .............................................................................................................. 14
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU NGƢỜI
PHỤ NỮ TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI14
1.1. Quan điểm giới (gender) .............................................................................. 14
1.2. Quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại ........................ 18
1.2.1. Quan điểm “tam tòng tứ đức” .................................................................. 18
1.2.2. Quan điểm đề cao trinh tiết ...................................................................... 24
1.2.3. Quan điểm kỳ thị nữ sắc: .......................................................................... 28
1.3. Nguyễn Du với tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du ........................................... 31
CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ
CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU ............................................................................. 37
2.1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ đức hạnh ......................................................... 38
2.2 Hình tƣợng ngƣời phụ nữ phản diện ........................................................... 48
2.3. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ tài sắc, tài tình .................................................. 53
2.4. So sánh ngƣời phụ nữ trong Thơ chữ Hán với ngƣời phụ nữ trong
Truyện Kiều……………………………………………………………………...72
2.4.1. Sự khác biệt giữa người phụ nữ trong Thơ chữ Hán và Truyện Kiều 72
2.4.2. Sự tương đồng giữa người phụ nữ trong Thơ chữ Hán và Truyện Kiều .. 89
CHƢƠNG 3: CÁI MỚI CỦA HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ
CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU TRONG TRÀO LƢU VĂN HỌC MANG
TÍNH NỮ QUYỀN THẾ KỶ XVIII - ĐẦU THẾ KỶ XIX ................................. 95
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 121
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 123
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Văn học là nhân học. Nghiên cứu văn học là môn khoa học về con người thì cần
chú ý đến con người với các nhân tố cấu thành khác nhau, trong đó có nhân tố giới
(gender). Giới là vấn đề văn hóa xã hội. Sự hình thành những chuẩn mực lý tưởng về
người nam/ người nữ chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố văn hóa xã hội, như kinh tế,
đạo đức, tập tục… Lẽ tất yếu, ở mỗi giai đoạn lịch sử, mỗi dân tộc lại có quan niệm
giới khác nhau.
Cách ứng xử, hành động, vị trí và số phận của người phụ nữ trong một thời kỳ,
giai đoạn lịch sử đều bị chi phối bởi quan điểm về giới. Bên cạnh đó, văn học là
nhân học, văn học là tấm gương phản chiếu sống động nhất về đời sống, văn hóa
thực tại. Vì vậy, các nhân vật nữ trong một thời đại văn học là sản phẩm tất yếu của
cách nhìn về giới trong giai đoạn này. Nghiên cứu nhân vật nữ trong một loạt tác
phẩm của một tác giả trong giai đoạn văn học cụ thể chính là tìm hiểu quan niệm
nghệ thuật về con người của tác giả. Nhiệm vụ của người nghiên cứu là vạch ra
quan niệm ấy như là cái lý bên trong của hình tượng. Từ đó hiểu được tư tưởng
quan điểm của nhà văn, nhà thơ đối với các số phận tính cách cá nhân mà quan
niệm về con người cá nhân được mở ra, mỗi tác giả, mỗi thời đại đều có thêm
những đường nét mới.
Trong xã hội phương Đông nói chung và xã hội Việt Nam nói riêng, đã có một
thời kỳ dài giữa người đàn ông và người phụ nữ không có sự công bằng từ địa vị,
quyền lợi. Nói cách khác, đó là một xã hội nam quyền, người đàn ông có vai trò chủ
chốt, là "lực lượng" nắm quyền và "điều khiển" xã hội. Họ có quyền áp đặt chuẩn
mực về cái đẹp, về hành vi, về đạo đức cho người phụ nữ. Từ thời kỳ văn học viết,
kiểu nhân vật trữ tình cũng như tác giả chủ yếu là những người đàn ông, có đôi ba
trường hợp xuất hiện nhân vật phụ nữ, nhưng những nhân vật này lại được nhìn qua
lăng kính tư tưởng nam quyền... Từ sau thế kỉ XVIII hình tượng người phụ nữ được
xuất hiện với tần suất nhiều hơn và tạo được dấu ấn về sự thay đổi tư tưởng, cách
nhìn nhận của nam giới từ thời trung đại.
Nguyễn Du (1765 - 1820) là một trong những tác giả viết nhiều, thể hiện nhiều
những quan điểm về phụ nữ, về giới so với những tác giả thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ
XIX. Đại thi hào cũng có những đóng góp lớn về thể loại, và đạt được thành tựu cả
sáng tác chữ Hán và chữ Nôm. Trong văn học trung đại, nội dung được trình bày
chịu sự quy định của hình thức ngôn ngữ và thể loại. Văn học Nôm thường không
chính thống nên tác giả trung đại dễ dùng các thể văn Nôm để biểu đạt tư tưởng
nhân đạo phi Nho giáo. Còn văn học chữ Hán thường có tính chính thống cao hơn
văn học Nôm. Vì vậy nghiên cứu sáng tác của một tác giả phải chú ý đến cả hai
hình thức ngôn ngữ văn tự Hán-Nôm. Giới nghiên cứu đã bàn nhiều về cái mới, về
tư tưởng nữ quyền của Nguyễn Du trong truyện thơ Nôm Truyện Kiều. Nhưng vấn
đề phụ nữ trong thơ chữ Hán của ông có những đặc trưng gì, có điểm gì khác biệt,
tương đồng so với truyện thơ Nôm? Đây hiện vẫn đang là vấn đề cần được nghiên
cứu hệ thống. Đó là lý do vì sao phải nghiên cứu người phụ nữ trong thơ chữ hán
Nguyễn Du.
Chọn đề tài Nhân vật nữ trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du đọc theo lý luận về
giới là chọn một cách tiếp cận mới để luận giải thái độ hay cách nhìn phụ nữ của
Nguyễn Du trong bối cảnh văn hóa nam quyền thời trung đại. Luận văn chú ý đến
quan điểm của Nguyễn Du, một tác giả nam giới đối với người phụ nữ, tìm hiểu tác
giả quan tâm đến phương diện nào ở người phụ nữ, những phương diện đó có gì
mới, có gì tương đồng, riêng biệt so với các tác giả khác. Qua đó để hiểu thêm về
bối cảnh lịch sử văn hóa xã hội, về quan điểm tư tưởng, cách nhìn nhận của ông đối
với xã hội, với giới nói chung và với người phụ nữ nói riêng.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề:
Về vấn đề Nhân vật nữ trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du đọc theo lý luận về
giới, luận văn tìm hiểu về những nghiên cứu, những thành tựu đã có khi các nhà
nghiên cứu, phê bình tiếp cận với mảng thơ chữ Hán của Nguyễn Du. Nếu tác phẩm
Truyện Kiều, Văn chiêu hồn đã có bề dày nghiên cứu với hàng trăm vấn đề được
khai thác để thấy được tinh hoa văn hóa cũng như thành công trong tư tưởng, nghệ
thuật của Nguyễn Du thì thơ chữ Hán của ông lại chưa nhận được sự quan tâm đúng
mức của các nhà nghiên cứu. Hầu hết các nhà nghiên cứu mới chỉ tập trung sưu
tầm, giới thiệu, in lại, dịch mới… thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Người có công mở đường cho việc nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du là
Đào Duy Anh. Trong bài viết Thi tập của Nguyễn Du trong công trình Khảo luận về
Kim Vân Kiều, lần đầu tiên vị trí của thơ chữ Hán Nguyễn Du được khẳng định “về
hình thức cũng nhƣ về nội dung, thơ chữ Hán Nguyễn Du có thể đề vào hàng với
thơ Cao Bá Quát và có thể đem so sánh với thơ Đƣờng". (Sđd. tr.207).
Đặc biệt Đào Duy Anh là người đầu tiên khẳng định rằng những sáng tác chữ
Hán này "là nguồn tƣ liệu quí giá đế tìm hiểu cái phẩm cách phức tạp và bi đát" của
Nguyễn Du. Có thể nói đây là những ý kiến có giá trị gợi mở cho nhiều nhà nghiên
cứu, phê bình ở các giai đoạn sau.
Trước hết, phải kể đến các bộ lịch sử văn học mới được biên soạn mà ở đó,
thơ chữ Hán Nguyễn Du đã có được một vị trí xứng đáng. Trong cuốn Lƣợc thao
lịch sử văn học Việt Nam (nhóm Lê Quý Đôn, Nxb. Xây đựng, H. 1957), Trương
Chinh khẳng định thơ chữ Hán chẳng những "là nguồn tƣ liệu rất quý để tìm hiểu
tác giả Truyện Kiều", mà còn “phải đƣợc kể là những tác phẩm bậc nhất trong văn
thơ chữ Hán của cha ông ta ngày trƣớc”. Theo ông, những sáng tác đó không phải
làm để tiêu khiển thù ứng "mà là thứ thơ chân thành, xuất phát tự tâm can"... Ông
còn nhấn mạnh rằng giá trị độc đáo nhất trong thơ chữ Hán Nguyễn Du là “đã có
một ngòi bút hiện thực, điều hiếm gặp trong các thi tập thời xƣa".
Xuân Diệu khi viết Con ngƣời Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (Tạp chí Văn
nghệ số 58, tháng 3 năm 1962) đã nghiêng hẳn về cái nhìn buồn thương, day dứt
của Nguyễn Du trước cuộc đời. Tác giả cho rằng, giống như Khuất Nguyên xưa,
Nguyễn Du “mang những vấn đề của ngàn năm, của triệu ngƣời, nên cái đau khổ
của ông là một đau khổ lớn có tính chất đại diện cho nhân loại”. Xuân Diệu cũng
đi sâu vào một số bài thơ tiêu biểu như Sở kiến hành; Thái bình mại ca giả, Phản
chiêu hổn... để thấy nỗi uất hận, căm phẫn cùa Nguyễn Du với xã hội phong kiến.
Tất cả đều chửng tỏ một tấm lòng “yêu thƣơng con ngƣời đến cháy ruột cháy gan”.
Năm 1965 trong Lời giới thiệu công trình Thơ chữ Hán Nguyễn Du (bản in lại
năm 2012), Trương Chính phân tích một cách cụ thể và sâu sắc nhiều vấn đề. Khi
bàn về thái độ của Nguyễn Du với các triều đại, Trương Chính đã có nhiều kiến giải
riêng. Ông không tán thành quan điểm của Đào Duy Anh về vấn đề này và cho rằng
tâm trạng u uất của Nguyễn Du không bắt nguồn từ tâm sự người bề tôi phải thờ hai
vua. Trái lại nó bắt nguồn từ cái nhìn hiện thực của nhà thơ với thời đại mình; từ sự
thất vọng với cái xã hội phong kiến thối nát đương thời. Cũng chính nỗi đau đớn.
thất vọng này đã khiến Nguyễn Du tìm đến những triết lí bi quan, tiêu cực... Đây là
những ý kiên rất xác đáng, có giá trị gợi mở cao.
Cũng vào tháng 11 năm 1965, Tạp chí Văn học đăng bài viết Tìm hiểu thơ chữ
Hán Nguyễn Du của Nguyễn Huệ Chi. Có thể nói ông là người đầu tiên trực tiếp đặt
ra vấn đề nghiên cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du để thấy hình ảnh của chính tác giả
"một hình ảnh rất động trƣớc mọi biến cố của cuộc đời". Từ đó ông phác họa chân
dung của một con người "mất phƣơng hƣớng" giữa cuộc đời dâu bể; hoàn toàn bế
tắc trong một giai đoạn '"cực kì thối nát tan rữa” của chế độ phong kiến. Trong con
người ấy đã luôn xảy ra xung đột giữa "một bên là tƣ tƣởng chính thống... một bên
là hiện thực chói chang, sừng sững". Đặc biệt, ông khẳng định Nguyễn Du "là con
ngƣời tƣ tƣởng" với bao mâu thuẫn, giằng xé dồn nén trong tâm can. Nhưng vượt
lên khối mâu thuẫn phức tạp ấy - là nguồn cảm hứng nhân đạo lớn lao sâu sắc. Nó
bao trùm thế giới nhân vật mà ông tạo dựng trong thơ chữ Hán. Nguyễn Du không
dừng lại ở sự thương khóc họ - mà còn khái quát được bản chất của một xã hội: chà
đạp lên mọi nhân phẩm... tha hóa mọi tính cách... làm tan vỡ mọi giá trị cao đẹp
nhất. Bài viết của Nguyễn Huệ Chi đã mơ ra một hướng đi trên hành trình nghiên
cứu thơ chữ Hán Nguyễn Du: kiếm tìm chân dung của chính tác giả - như một hình
tượng được biếu hiện trực tiếp qua những bài thơ viết về mình và biểu hiện gián tiếp
qua các đôi tượng trữ tình
Nguyễn Thị Nương, giảng viên khoa Văn trường Đại học sư phạm Hà Nội đã
có chuyên luận Con ngƣời Nguyễn Du qua thơ chữ Hán (NXB Đại học Sƣ Phạm, H.
2010). Ở chuyên luận này, tác giả đã bao quát được khá toàn diện chân dung con
người Nguyễn Du qua chính cách nhìn của ông ở cả hai phương diện: hướng nội
(thơ tự họa) và hướng ngoại (hệ thống nhân vật). Tác giả đã sử dụng tư liệu chính
đó là văn bản thơ chữ Hán làm cơ sở, tiền đề hiểu thêm về chính phong cách thơ
cũng như con người Nguyễn Du đặt trong bối cảnh của thời đại.
Có thể nói, ở giai đoạn đầu một số tác giả còn khuôn hẹp giá trị của bộ phận
sáng tác này vào việc thể hiện tâm sự của Nguyễn Du đối với triều đại phong kiến
đương thời. Sau đó các nghiên cứu mới tiếp tục khai thác những nội dung cảm xúc
sâu xa hơn như niềm trăn trở của nhà thơ trước thân phận con người và cuộc đời.
Mỗi nhà nghiên cứu, bằng vốn sống, vốn văn hóa của mình đã làm sống dậy những
tình cảm, tư tưởng mà Nguyễn Du ký thác trong thơ. Lê Thước, Đào Duy Anh
khẳng định giá trị của thơ chữ Hán trong việc phản chiếu cuộc đời và tâm sự
Nguyễn Du; Nguyễn Huệ Chi phát hiện con ngƣời tƣ tƣởng và hình tƣợng tự họa
đặc sắc…; Nguyễn Lộc khẳng định vấn đề trung tâm trong sáng tác chữ Hán của
Nguyễn Du là nỗi đau đời… Nhìn chung, khi nghiên cứu tập thơ chữ Hán của
Nguyễn Du, các nhà nghiên cứu đều chú trọng nghiên cứu con người nhà thơ thể
hiện trong các tác phẩm mà hầu như chưa có sự quan tâm thỏa đáng tới các hình
tượng nhân vật nữ trong tập thơ này.
Góc nhìn nhân vật nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du được đề cập trong
các công trình nghiên cứu như: Tìm hiểu về nhân vật lịch sử trong thơ chữ Hán
Nguyễn Du của Đào Phương Anh, khoa Văn học, hệ tại chức K19, 2005 và So sánh
đề tài thơ chữ Hán của Nguyễn Du và Nguyễn Khuyến của Nguyễn Thị Hiền, khoa
Văn học, hệ chính quy K51, năm 2010. Tuy nhiên trong hai luận văn này, sự tìm
hiểu nhân vật nữ còn khá sơ lược, chưa mang tính chuyên khảo và chưa vận dụng lý
luận với giới để tìm và hiểu về các nhân vật phụ nữ trong tập thơ.
Thơ chữ Hán là tập thơ được khá nhiều các nhà nghiên cứu tập trung khai thác
nhưng hầu hết chưa đặt vấn đề nghiên cứu một cách có chiều sâu, mang tính hệ
thống về Nhân vật nữ nhìn từ góc độ Giới. Điều này khiến việc nhìn nhận về giới
trong thơ Nguyễn Du nói chung và trong thời đại Nguyễn Du sống chưa được đánh
giá và khai thác đúng mức. Chính vì thế, luận văn hy vọng góp một phần nhỏ theo
hướng nghiên cứu giới của nhân vật nữ để nhìn quan điểm tư tưởng tác giả, thời đại
cũng như quan điểm chung của thời đại về giới một cách toàn diện hơn.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng chính trong luận văn của chúng tôi chính là các kiểu nhân vật người
phụ nữ trở thành hình tượng nhân vật chính trong tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du
(Theo Lê Thƣớc - Trƣơng Chính (2012), in lại theo bản 1965, NXB Văn học, H) .
Chúng tôi hy vọng rằng, trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của các thế
hệ đi trước và vận dụng phương pháp, cơ sở lý luận hiện đại, luận văn sẽ góp phần
tìm thêm những nét mới trong hình tượng nhân vật người phụ nữ cũng như quan
điểm về giới, thái độ quan điểm về thời đại của ông. Các nhân vật là phụ nữ nhưng
không phải hình tượng nhân vật như người mẹ, người vợ, người con gái hái sen… không
thuộc đối tượng nghiên cứu của luận văn
Để có cái nhìn đầy đủ, khách quan hơn, chúng tôi chọn nghiên cứu thêm hình
tượng phụ nữ trong một vài tác phẩm văn học Việt Nam trung đại và tư liệu lịch sử,
tư liệu văn hoá để so sánh khi cần thiết. Một số tư liệu tiêu biểu là: Truyện Kiều -
Nguyễn Du, Gia huấn ca, Chinh phụ ngâm – Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm,
Cung oán ngâm khúc – Nguyễn Gia Thiều, Người phụ nữ trong thơ của Hồ Xuân
Hương, Nguyễn Công Trứ…
4. Mục đích nghiên cứu:
Từ việc xác định đối tượng nghiên cứu chính là hình tượng người phụ nữ
trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du nhìn từ góc nhìn lý luận giới, luận văn làm nổi
bật điểm tương đồng cũng như góc nhìn mới của Nguyễn Du so với cái nhìn nam
quyền truyền thống mang tinh thần Nho giáo, qua đó mà xác định bản chất chủ
nghĩa nhân đạo, nhân văn của Nguyễn Du.
Trên cơ sở đó luận văn chỉ ra những biểu hiện của tư tưởng nữ quyền, biểu
hiện rõ rệt của tư tưởng nhân đạo chủ nghĩa của Nguyễn Du, điểm khác biệt và nhất
quán trong hành trình sáng tác của Nguyễn Du, từ thơ chữ Hán đến thơ Nôm.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài như: khái
niệm giới; khái niệm giới tính, quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời trung
đại; nữ giới trong văn học viết Việt Nam thời kì trung đại; tư tưởng nhân đạo cũng
như đặc điểm văn hóa, xã hội thời kỳ trung đại qua sáng tác của Nguyễn Du.
Phân loại, phân tích, cắt nghĩa các hình tượng phụ nữ trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du từ góc nhìn giới gồm người phụ nữ chính diện lý tưởng và người phụ nữ
phản diện theo quan điểm Nho giáo, cái mới, phi Nho giáo của Nguyễn Du khi nhìn
các nhân vật này. Theo quan niệm Nho gia, cái đẹp gắn liền với phạm trù đạo đức,
gắn liền với những chuẩn mực mà chính nam giới quy định. Nhân vật chính diện từ
đó được xem như những người phụ nữ tiết hạnh, trinh liệt, có thể lấy cái chết để
minh chứng hay bảo vệ cho quan niệm này. Ngược lại, những yếu tố thiên về đời
sống bản năng tự nhiên, không phù hợp chuẩn mực được đặt ra sẽ bị coi là xấu, tầm
thường. Đó là những người phụ nữ có lối sống tự do, nhất là tự do yêu đương, tình
yêu mang đậm nét yếu tố thân xác. Qua hình tượng người phụ nữ nhìn từ góc độ
Giới, bằng tinh thần nhân đạo của mình, Nguyễn Du vẫn cố gắng chỉ ra bi kịch và
sự bất công của xã hội nam quyền đã gây nên những số phận đầy xót xa và bi kịch
cho người phụ nữ.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu
Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học:
Để nhìn nhận bất kỳ vấn đề, khía cạnh nào trong một tác phẩm văn học một
cách toàn diện thì việc cần thiết là đặt tác phẩm trong bối cảnh văn hóa, xã hội của
tác phẩm đó khi ra đời. Bởi điều hiển nhiên, một tác phẩm văn học sinh ra trong
một thời kỳ nhất định ít nhiều bị chi phối bởi hệ tư tưởng, quan điểm của chính thời
đại đó.
Văn học trung đại Việt Nam là “cuốn từ điển” phản ánh sâu sắc đời sống văn
hóa, xã hội cũng như cách nhìn nhận của con người trong thời kỳ này. Giai đoạn từ
đầu thế kỷ XVII cuối thế kỷ XVIII, xã hội Việt Nam chịu sự ảnh hưởng của tư
tưởng Nho giáo, hệ tư tưởng vững chắc của xã hội Trung Hoa. Không thể phủ nhận,
Nho giáo đã tạo nên hệ thống xã hội có tôn ti, trật tự, hệ thống xã hội được sắp xếp
theo những quan điểm, chuẩn mực nhất định. Cũng chính vì hệ tư tưởng Nho giáo
có ảnh hưởng lớn từ đời sống đến văn học, đã khiến cho thân phận người phụ nữ từ
thực tế đến trong văn học có số phận khá “thiệt thòi” và xuất hiện nhiều bi kịch.
Quan điểm văn hóa này cũng sẽ giúp chúng tôi hiểu đúng đắn về cách xây dựng
nhiều hình tượng nhân vật trong thơ chữ Hán của Nguyễn Du.
Phƣơng pháp hệ thống, tổng hợp:
Tập thơ chữ Hán Nguyễn Du đã được tổng hợp khá đầy đủ, gồm 250 bài thơ
với nhiều chủ đề khác nhau. Mỗi phần trong tập thơ đều được tác giả thể hiện vấn
đề thực tại cuộc sống đến những tâm sự về thời thế qua nhiều chủ đề như thiên
nhiên, đất nước, qua những câu chuyện về người anh hùng, người kĩ nữ… Chính vì
vậy, để có cách nhìn vấn đề người phụ nữ ở góc độ giới một cách toàn diện và sâu
sắc, chúng tôi đã sử dụng phương pháp hệ thống, tổng hợp để xử lý thông tin một
cách đầy đủ và nhiều chiều.
Phƣơng pháp so sánh:
Để thấy được các mối liên hệ đa dạng, đa chiều cũng như nét chung, nét riêng
độc đáo của nhân vật nữ trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, luận văn sử dụng phương
pháp so sánh. Chúng tôi dự kiến sẽ so sánh người phu nữ trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du với nhân vật nữ trong Truyện Kiều. Bên cạnh đó, chúng tôi còn so sánh
với cách nhìn nhận vị trí, số phận của các hệ thống nhân vật nữ trong các tác phẩm
của các tác giả trước và sau Nguyễn Du cả chữ Hán và chữ Nôm. Điều đó giúp luận
văn đưa ra những quan điểm khách quan, toàn diện về tư tưởng tiến bộ của đại thi
hào Nguyễn Du.
7. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, luận văn được triển khai
thành 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu ngƣời phụ nữ trong thơ
chữ Hán của Nguyễn Du từ quan điểm giới.
Chƣơng 2: Hình tƣợng nhân vật ngƣời phụ nữ trong thơ chữ Hán của Nguyễn
Du.
Chƣơng 3: Cái mới của hình tƣợng ngƣời phụ nữ trong thơ chữ Hán của
Nguyễn Du trong trào lƣu văn học mang tính nữ quyền thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ
XIX
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA
VIỆC TÌM HIỂU NGƢỜI PHỤ NỮ TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN
DU TỪ QUAN ĐIỂM GIỚI
1.1. Quan điểm giới (gender)
Khái niệm thuật ngữ Giới cùng những công trình nghiên cứu dựa trên lý
thuyết về giới đã trở nên phổ biến trong những năm gần đây. Không chỉ trong thực
tế xã hội mà trong văn học, các nhà nghiên cứu đều vận dụng những quan điểm về
giới làm tiền đề cho những công trình của mình. Trong luận văn Nhân vật nữ trong
thơ chữ Hán Nguyễn Du đọc theo lý luận về giới, chúng tôi muốn tìm và hiểu rõ
khái niệm giới, bởi đó là cơ sở để khai thác tác phẩm, chuỗi tác phẩm, tìm ra những
thành công và hạn chế của tác giả trong một giai đoạn văn học nhất định.
Theo David Glover và Cora Kapla, thuật ngữ Gender xuất hiện lần đầu tiên
vào năm 1963 trong Sex in Society (Sex trong xã hội) của Alex Comfort – một
nghiên cứu thuộc về tình dục học (sexology), nhưng thuật ngữ này chỉ thật sự nhận
được sự quan tâm đặc biệt với công trình Sex and Gender: On the Development of
Masculinity and Femininity (1968) (Giới và giới tính: về sự phát triển của nam tính
và nữ tính) của Robert J. Stoller. Như được nhận thấy ngay từ nhan đề của cuốn
sách, Gender bắt đầu được nhìn nhận trong sự khu biệt với sex. Với Stoller, sex
thuộc về sinh vật học còn gender thuộc phạm vi của tâm lí học. Hai năm sau, Kate
Millett viết lại luận điểm của Stoller Sex thuộc về sinh vật học, gender thuộc về tâm
lí học, và vì thế thuộc về văn hóa. Chính nét nghĩa cuối cùng đã tạo ra sự đối lập
giữa sex và gender như là sự đối lập giữa tự nhiên và văn hóa. Bắt đầu từ đây,
những nghiên cứu về gender có được sự quan tâm đặc biệt bởi lẽ nó là một đầu mối
quan trọng để kiến tạo nên phạm trù chủ thể (subject) – một phạm trù luôn ám ảnh
trong những suy tư triết học về con người.
Theo quan điểm của Hoàng Bá Thịnh trong bài Tiểu luận xã hội học về giới thì
Giới được hiểu như sau: Khái niệm giới không chỉ đề cập đến nam và nữ mà cả mối
quan hệ giữa nam và nữ. Trong mối quan hệ này có sự phân biệt vai trò, trách
nhiệm, hành vi xã hội mong đợi và quy định cho mỗi giới, phù hợp với những đặc
điểm văn hoá, chính trị, kinh tế và tôn giáo. Nó luôn biến đổi theo thời gian và có
sự khác biệt theo không gian; vì thế nó luôn biến đổi theo các giai đoạn lịch sử và
có khác biệt giữa các cộng đồng, xã hội” [78, tr.54].
Theo tài liệu Một số thuật ngữ về giới và bình đẳng giới của Hội liên hiệp
phụ nữ Việt Nam, giới được khái quát như sau: Giới (Gender) tức là nói đến đặc
điểm, vị trí, vai trò của nam và nữ trong các mối quan hệ xã hội. Khác với giới
tính là các đặc điểm sinh ra đã có, các đặc điểm giới của nam và nữ đƣợc hình
thành và phát trỉnh trong quá trình lớn lên của mỗi cá nhân do sự tƣơng tác của
các nhân với mội trƣờng xã hội (gia đình, nhà trƣờng, thông tin đại chúng...). Các
đặc điểm này đƣợc xây dựng do sự phối hợp giữa yếu tốc khách quan là sự mong
đợi của xã hội đối với ngƣời nữ hay nam và yếu tố chủ quan là cách mà ngƣời nữ
hay nam đó muốn xã hội nhìn nhận họ. Chính vì thế, trong khi các đặc điểm giới
tính rất ít thay đổi thì các đặc điểm về giới lại rất đa dạng tùy thuộc vào điều kiện
địa lý, thể chế, xã hội, lịch sử...
Qua việc liệt kê một số quan điểm về giới, chúng ta có thể hiểu Giới là một
thuật ngữ để chỉ vai trò xã hội, hành vi ứng xử xã hội và những đòi hỏi, yêu cầu đối
với nam và nữ. Nó là sản phẩm của xã hội, văn hóa. Giới là những đặc điểm mà xã
hội đã tạo nên ở người nam và người nữ, là quy định của xã hội về người nam và
người nữ, là những đặc trưng xã hội ở nam và nữ. Giới thường bao gồm nhiều vấn
đề như: vai trò, vị trí của mỗi giới, đặc điểm và nhiệm vụ của mỗi giới trong xã
hội… Những vấn đề này thường do xã hội quy định và biến đổi theo từng giai đoạn
lịch sử, từng quốc gia, tuỳ theo truyền thống, phong tục tập quán của mỗi dân tộc…
Tuy nhiên, một thực tế còn tồn tại trong cách hiểu của các công trình nghiên
cứu, Giới (Gender) lại thường bị dùng lẫn lộn với Giới tính (sex). Giới tính chỉ nhấn
mạnh đến tính (nam/ nữ) thì Giới nhấn mạnh sự phân biệt nam, nữ trên phương diện
xã hội. Tức là quan điểm giới mà chúng tôi sử dụng không những bao gồm Giới
tính mà còn bao gồm cả phương diện văn hóa - xã hội của họ như trong mối quan
hệ gia đình, quan hệ nam nữ. Văn hóa là đa dạng trong không gian và biến đổi
không ngừng trong thời gian nên một khi thừa nhận gender là một kiến tạo văn hóa
thì chúng ta tất yếu phải chấp nhận một thực tế: không có một quan niệm duy nhất,
phổ quát cho cái gọi là nam tính (masculinity) hay nữ tính (femininity). Nam tính
hay nữ tính biến đổi một cách đa dạng từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác;
và ngay trong một nền văn hóa thì nam tính và nữ tính cũng luôn biến đổi từ thời kì
này sang thời kì khác.
Nữ tính chủ yếu tồn tại trong không gian của gia đình, nam tính chủ yếu được
hình thành trong không gian xã hội, cộng đồng. Sự lưỡng phân này mặc nhiên thừa
nhận vai trò vượt trội và thống trị của nam giới với nữ giới. Những quy phạm về nữ
tính và nam tính, vì thế, không phải là một tồn tại có tính chất tự nhiên mà là sản
phẩm được kiến tạo từ tương quan quyền lực nói trên. Nữ tính là những đặc trưng
cho giới tính nữ trong một nền văn hóa của một giai đoạn lịch sử nào đó. Theo quan
điểm về giới trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội, nữ tính thường được gắn với sự
tái sản sinh ra sự sống và những phẩm chất thuộc về sự chăm sóc, nuôi dưỡng...
Quan hệ giữa nam tính và nữ tính là một quan hệ quyền lực (bao hàm sự phân
biệt tôn ti) nên nó có thể được sử dụng để nhận thức về những quan hệ quyền lực
khác, đặc biệt là quan hệ chủng tộc trong thời kì bành trướng của phương Tây trên
phạm vi toàn thế giới. Những nghiên cứu của E. Said trong Đông phương học
(Orientalism) cho thấy phương Đông dưới con mắt phương Tây đã bị nữ tính hóa
tối đa (thụ động, bị thuần phục) để tô đậm một phương Tây với quyền năng của
nam tính (phiêu lưu, chinh phục và chủ động). Ở cấp độ này, quan hệ về giới tính đã
trở thành một công cụ văn hóa để biểu đạt những tương quan quyền lực.
Trước đây, nhân vật nam, nữ thường chỉ được nhìn theo quan điểm giai cấp:
áp bức hay bị áp bức; theo quan điểm đạo đức: đáng khen hay đáng chê thì với điểm
nhìn giới, chúng ta thấy thêm những phương diện khác của nhân vật. Bởi từ góc độ
giới, chúng ta nhìn nhận rõ hơn bản chất của một thời kỳ xã hội phương Đông nam
quyền, những tiêu chuẩn để xã hội đánh giá nữ giới bị quy chiếu từ điểm nhìn của
người đàn ông. Đó là những tiêu chuẩn kép có lợi cho đàn ông nhưng bất công, bất
lợi cho phụ nữ, khắt khe nghiêm ngặt với phụ nữ nhưng lại khoan dung, độ lượng
với nam giới. Vì thế, chỉ những người phụ nữ đáp ứng các chuẩn mực Nho gia yêu
cầu thì được đánh giá là chính diện lý tưởng còn người phụ nữ vượt ra ngoài khuôn
phép sẽ bị coi là phản diện.
Trong triết học Trung Hoa, nữ tính là âm trong cặp âm, dương. Nhiều nhà
nghiên cứu đã chỉ ra rằng ban đầu âm và dương có nghĩa là bóng tối và ánh sáng,
nhưng về sau chúng không có hàm nghĩa cố định nữa. Chúng được xem là cách để
miêu tả các mối quan hệ giữa vạn vật. Trong vũ trụ luận của Lão-Trang, âm được
đồng nhất với tự nhiên và đàn bà – các nguyên lý được đánh giá cao hơn là dương,
văn hóa và nam tính. Trái lại, trong Nho giáo chính thống, âm và dương lại liên
quan tới các mối quan hệ mang tính tôn ti của con người và quan hệ quyền lực giữa
những gì mang tính âm và tính dương lại bị đảo ngược. Người vợ bị coi là thấp kém
hơn người chồng, như là âm so với dương. Ngay cả một bề tôi hoặc một ông quan
nhà nho cũng được xem là âm trong mối tương quan với tính dương của vua chúa,
và điều đó vẫn đúng ngay cả khi cả hai người trong mối quan hệ cặp đôi này đều là
đàn ông. Âm và dương thể hiện những mối quan hệ có tính tôn ty, phụ thuộc lẫn
nhau không nhất thiết là giữa đàn ông và đàn bà, mặc dù những gì thuộc dương
thường có đặc trưng là thường gắn với những nguyên lý của đàn ông và âm thì gắn
với những nguyên lý của phụ nữ. Vì thế, nam tính và nữ tính không phải là những
giá trị “nhất thành bất biến” mà có tính lịch sử, tính khu vực. Chúng vừa là những
qui ước xã hội về giới áp đặt lên cá nhân từ bên ngoài vừa là ý thức và cách ứng xử
theo giới của chính họ.
Trong nghiên cứu văn học, nghiên cứu giới để tìm hiểu các kiểu hình tượng
nam, nữ. Nhân vật Thúy Kiều trong Truyện Kiều được nghiên cứu từ quan điểm
giới để thấy được quan niệm trinh tiết nghiệt ngã của Nho giáo đã trói buộc nàng
Kiều, khiến nàng mang mặc cảm tội lỗi vì mình không còn trong trắng. Từ đó chi
phối đến hành động, nàng từ chối tình vợ chồng với Kim Trọng. Qua đó ta có thể
hiểu được một cách toàn diện những nguyên nhân dẫn đến bất hạnh của Kiều, từ
nguyên nhân xã hội đến nguyên nhân thuộc về quan niệm giới.
Từ những khái niệm tổng quát nhất, cơ bản nhất về Giới và Giới tính (gồm
nam tính và nữ tính) sẽ phần nào giúp luận văn tìm hiểu, khai thác triệt để cách nhìn
nhận theo quan điểm về Giới một cách toàn diện và khách quan nhất về các hình
tượng nhân vật nữ trong Tập thơ chữ Hán Nguyễn Du. Từ quan điểm về Giới, luận
văn sẽ có thêm cơ sở phân tích, khái quát được những đặc trưng về người nữ, cách
nhìn nhận của người nam đối với người nữ trong một bối cảnh lịch sử, văn hóa, xã
hội thời trung đại. Từ đó nhìn nhận rõ hơn về sự tiến bộ của nhà thơ Nguyễn Du,
với tư cách là một người nam, có cách nhìn mới mẻ và nhân văn đối với cách hành
xử, số phận, cuộc đời của người nữ trong xã hội. Đó cũng chính là cách để đánh giá
cũng như hiểu hơn về tư tưởng, quan điểm nhân văn, chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và
tiến bộ của đại thi hào Nguyễn Du.
1.2. Quan điểm văn hóa về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại
1.2.1. Quan điểm “tam tòng tứ đức”
Nhà nghiên cứu Trần Nho Thìn đã nhận định: Chúng ta vẫn nói văn học là
nhân học. Nói văn hóa học thực ra là phải nói đến con ngƣời. Bất kỳ tác phẩm văn
học nào cũng thể hiện con ngƣời và hoạt động của nó trong không gian và thời gian
xác định. Con ngƣời trong văn học mỗi thời kỳ lịch sử lại có một diện mạo riêng
chịu sự quy định của quan niệm về con ngƣời lý tƣởng trong thời đại ấy". [73,
tr.17]. Tác phẩm văn học không chỉ phản ánh tư tưởng, quan điểm của tác giả trong
thời đại của mình mà còn thể hiện mối quan hệ giữa con người với con người,
những quy định, quy tắc, luật lệ giữa con người với nhau trong xã hội ấy.
Nghiên cứu về lịch sử vấn đề phụ nữ ở Trung Quốc, Tani Barlow nhận thấy,
trong xã hội Trung Quốc truyền thống không có một từ chỉ khái niệm phụ nữ
(woman) nói chung mà chỉ có các từ biểu thị những vai giới tính của một người phụ
nữ ở những giai đoạn khác nhau trong cuộc đời của họ: là con gái khi ở gia đình – là
vợ khi đi lấy chồng – là mẹ khi có con. Không mấy khó khăn để tìm thấy ở đây
những ảnh hưởng sâu đậm từ Nho giáo. Những vai giới tính của người phụ nữ nói
trên là hoàn toàn tương ứng với nguyên lí tam cương (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng
phu, phu tử tòng tử). Tình hình cũng tương tự như thế ở Việt Nam, ít nhất từ thế kỉ
thứ X và ngày càng trở nên đậm nét dưới ảnh hưởng kéo dài của Nho giáo trong
lịch sử. Lẽ đương nhiên là có những khác biệt do môi trường văn hóa tạo ra.
Trong xã hội phương Đông thời trung đại, một điều được mặc nhiên thừa nhận
và liên tục củng cố cả bằng luật pháp lẫn phong tục, văn hoá và văn chương là địa vị
đứng trên của người đàn ông so với người phụ nữ. Đối với chồng, họ phải tôn thờ
như ông trời của mình. Nghĩa vụ của họ là phải sinh được con trai nối dõi và “nâng
khăn, sửa túi” cho chồng.
Trong văn hoá người Việt, giới có tác động không nhỏ đến sự phân công lao
động giữa người phụ nữ và người đàn ông trong gia đình. Người đàn ông luôn là
người giữ vai trò trụ cột trong gia đình. Mọi lĩnh vực có liên quan đến đời sống gia
đình như: làm nhà, dạm vợ, gả chồng cho con cái, chăn nuôi, trồng trọt… nhất nhất
đều do người đàn ông chủ gia đình quyết định. Tư tưởng trọng nam khinh nữ của
Nho giáo góp phần làm cho chế độ phụ hệ gia trưởng trong người Việt thêm củng
cố. Phản ánh lại xã hội Việt Nam thời phong kiến, văn học trung đại Việt Nam trong
cái nhìn lịch sử, nhất là từ khi hệ thống văn tự được xác lập, phái nam gần như giữ
vai trò thống trị tuyệt đối. Họ áp đặt các chuẩn mực về cái đẹp, về hành vi, về đức
hạnh cho người phụ nữ, bất công bất lợi cho người phụ nữ và có lợi cho nam giới.
Văn học trung đại nói chung là nền văn học của nam giới, tác giả của những thành
tựu văn học cũng như hạn chế đều chủ yếu là nam giới. Và những tác phẩm của họ
viết ra đều phản ánh quan điểm tư tưởng, cách nhìn nhận vấn đề của chính nam giới
hay phản ánh hình tượng của họ. Thời kỳ đầu của văn học viết, lực lượng chủ yếu là
tăng lữ, quý tộc và nhà nho (Khương Công Phụ với bài phú hiện còn Bạch Vân
chiếu xuân hải, nhà sư Đỗ Pháp Thuận với Quốc tộ) cho tới Trần Tế Xương và Tản
Đà hầu hết đều là những thành viên của “giới tính thứ nhất”. Do hoàn cảnh lịch sử,
văn hóa xã hội chi phối. Do những quy ước và quan niệm bất bình đẳng về giới tồn
tại hơn 8 thế kỷ đã khắc sâu vào đời sống văn hóa tinh thần cũng như trong văn học,
khiến người phụ nữ "mặc nhiên" phải phụ thuộc vào đàn ông. Họ luôn bị ràng buộc
bởi trách nhiệm trong gia đình và là bộ phận luôn chịu sự thiệt thòi khi so sánh với
nam giới về quyền lợi, địa vị xã hội. Trong một số tác phẩm của Nguyễn Trãi,
Nguyễn Dữ, Lê Thánh Tông đã xuất hiện hình tượng người phụ nữ, nhưng họ đều
được tạo nên bởi lăng kính thiên kiến của các nhà nho chính thống, đó là những
người nam giới, là nhà nho và họ là lực lượng chính chịu sự chi phối của các quy
tắc, quan niệm xã hội.
Tư tưởng Tam tòng tứ đức là một trong những tư tưởng nổi bật nhất được du
nhập từ Trung Hoa sang Việt Nam, đây cũng là một trong những nguyên nhân gây
nên nhiều đau khổ, bất hạnh cho người phụ nữ khi sống trong xã hội bị áp đặt bởi tư
tưởng này. Có thể nói, Tam tòng tứ đức trở thành một luật lệ bó buộc cách suy nghĩ,
hành động đến số phận của người phụ nữ, đòi hỏi sự phục tùng của họ đối với đàn
ông suốt cuộc đời. Đó là tư tưởng thể hiện đậm đặc địa vị thấp hèn, thụ động của
người phụ nữ trong xã hội nam quyền. Dường như tư tưởng "tam tòng" đã ăn sâu
vào tiềm thức của toàn xã hội. Là quy chuẩn để đánh giá hành xử, đạo đức của
người phụ nữ, và cũng là nguyên nhân của những số phận, cuộc đời bi kịch của họ
trong xã hội.
Khái niệm Tam tòng về cơ bản được hiểu như sau: Tại gia tòng phụ
(在家從父): người phụ nữ khi còn ở nhà phải nghe theo cha; Xuất giá tòng phu
(出嫁從夫): lúc lấy chồng phải nghe theo chồng; Phu tử tòng tử (夫死從子): nếu
chồng qua đời phải theo con trai. Câu “Tam tòng” từ sách Lễ Ký, thiên Tang Phục,
Tử hạ truyện, nguyên văn: vị giá tòng phụ, ký giá tòng phu, phu tử tòng tử, chủ
trương nam tôn nữ ti (trọng nam khinh nữ). Tam tòng là cái cùm để cùm chân nữ
giới không cho ra ngoài xã hội, chỉ ở trong nhà để phục vụ cha, chồng rồi con,
người phụ nữ không có quyền hạn gì trong gia đình. Nói về quy định này, Phan Kế
Bính đã đưa ra nhận xét: Quy định tam tòng khiến ngƣời phụ nữ khi xuất giá lấy
chồng thì hoàn cảnh tốt hay xấu thế nào cũng đã trở thành ngƣời nhà chồng, chứ
không đƣợc nƣơng nhờ ai nữa [7, tr. 78]. Những gì Phan Kế Bính phát biểu dường
như được xem là điều hiển nhiên tồn tại lâu dài và sâu sắc trong đời sống xã hội và
văn chương của nước ta. Người phụ nữ không được coi trọng, họ không hề có
quyền lợi đối với bản thân cũng như xã hội bởi xã hội phong kiến được “mặc nhiên”
trở thành xã hội nam quyền, xã hội do đàn ông thống trị, áp đặt nhiều chuẩn mực
khắt khe, bất công.
Phan Khôi trong bài nghiên cứu “Chữ trinh – Cái tiết với cái nết” trên báo Phụ
nữ Tân Văn số 21 cũng đã phát biểu về nguyên tắc Tam tòng tứ đức: Nhƣng chuộng
về tiết thì chết chồng mà lấy chồng khác là thất tiết. Cái luật nghiêm khắc ấy do
lòng tham lam và thói ích kỷ của bọn đàn ông bày ra, rất là không công bình. Trải
xem sử sách, thấy ngƣời đời xƣa chỉ chuộng cái nết trinh mà không ép ngƣời đàn bà
phải giữ cái tiết trinh. Bên Tàu, từ trƣớc cho đến cuối thế kỷ X, đối với việc đàn bà
cải giá, xã hội coi là thƣờng, không hề phi nghị. Những sự cấm chế vô lý là từ các
ông Tống Nho về sau. Theo Phan Khôi, quan niệm “tam tòng” có thể được xem là
một trong những nguồn gốc sâu xa gây nên bất bình đằng giới trong xã hội, cách
nhìn, cách nghĩ, cách hành động lệch lạc của cả một xã hội, mà cụ thể là người nam
đối với người nữ. Cũng theo nhà nghiên cứu này, cái luật nghiêm khắc về tam tòng
tồn tại lâu đời là một “thể chế” vô lý cần được bỏ qua khi nhìn nhận về người phụ nữ.
Nếu như Tam tòng chỉ mối quan hệ giữa người phụ nữ và nam giới trong gia
đình và ngoài xã hội, đó là cha, chồng, con trai, đề cao sự phục tùng một chiều, sự
chung thủy của họ đối với người đàn ông, thì Tứ đức lại chú trọng vào sự tu dưỡng
của chính bản thân người phụ nữ. Tu dưỡng tứ đức để đạt được tam tòng. Tứ đức
như là điều kiện để thực hiện tốt đạo tòng phụ, tòng phu, tòng tử. Ngược lại, tam
tòng chứng minh cho tứ đức, cho phẩm hạnh người phụ nữ. Bản thân phạm trù Tứ
đức cũng có mối quan hệ với nhau, đó là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức,
hạnh là nội dung, công dung ngôn là hình thức. Như vậy, Nho giáo đòi hỏi ở người
phụ nữ vẻ đẹp toàn diện theo một khuôn mẫu nhất định. Sâu xa hơn là đòi hỏi sự
toàn tâm, toàn ý, sự hi sinh hết mình đối với nam giới.
Với người phụ nữ, tứ đức gồm phụ công (婦功), phụ dung (婦容), phụ ngôn
(婦言) và phụ hạnh (婦行): Công: nữ công, gia chánh phải khéo léo. Tuy nhiên các
nghề với phụ nữ ngày xƣa chủ yếu chỉ là may, vá, thêu, dệt, bếp núc, buôn bán, với
ngƣời phụ nữ giỏi thì có thêm cầm kỳ thi họa; Dung: dáng ngƣời đàn bà phải hòa
nhã, gọn gàng, biết tôn trọng hình thức bản thân; Ngôn: lời ăn tiếng nói khoan thai,
dịu dàng, mềm mỏng; Hạnh: Tính nết hiền thảo, trong nhà thì nết na, kính trên
nhƣờng dƣới, chiều chồng thƣơng con, ăn ở tốt với anh em họ nhà chồng. Ra ngoài
thì nhu mì chín chắn, không hợm hĩnh, cay nghiệt. [7, tr. 77]. Bên cạnh những mặt
tích cực, tạo nên vẻ đẹp toàn diện cho người phụ nữ từ tính cách, tâm hồn thì xét
cho cùng vẫn mang tính chất "thiên vị" nam giới bởi tứ đức không mang lại quyền
lợi mà chỉ thêm những nghĩa vụ nặng nề áp đặt phụ nữ phải tuân theo, như trong
Gia huấn ca:
Phận làm gái này lời giáo huấn,
Lắng tai nghe cổ truyện mới nên,
Hãy xem xƣa những bậc dâu hiền,
Kiêm tứ đức: dung, công, ngôn, hạnh.
Công là đủ mùi xôi, thức bánh,
Nhiệm nhặt thay đƣờng chỉ mũi kim.
Dung là mặt ngọc trang nghiêm,
Không tha thiết, không chiều lả tả.
Ngôn là dạy trình thƣa vâng dạ,
Hạnh là đƣờng ngay thảo kính tin.
Xƣa nay mấy kẻ dâu hiền,
Dung, công, ngôn, hạnh là tiên phàm trần
Đời Hán ở Trung Hoa có Ban Chiêu đã dành tâm huyết cho việc hệ thống hóa
lại các chuẩn mực đối với người phụ nữ, “tứ đức” trong cuốn “cẩm nang” dành để
dạy dỗ con gái trong họ Ban: Nữ giới (Răn bảo các cô con gái). Về cơ bản Ban
Chiêu vận dụng và hệ thống lại các quy phạm đạo đức của Nho giáo đối với phụ nữ
(vâng lời; phục tùng cha, chồng và gia đình chồng; thành thạo nữ công phụ xảo, ăn
nói lễ độ cung kính, giữ gìn trinh tiết, sự đúng mực, đoan trang; “dung” thì không
cần phải đẹp). Tuy nhiên, bà còn đề cập đến cả vấn đề giáo dục phụ nữ. Bà biện
luận rằng đàn ông học hành để có thể hiểu những cơ sở của uy quyền của họ và vận
dụng nó hiệu quả; còn phụ nữ cũng cần được học hành để làm đúng những phận sự
trong địa hạt gia đình. Cuốn Nữ giới của Ban Chiêu có ảnh hưởng rất lớn đối với
quan niệm về nữ tính trong thực tế cũng như văn chương Trung Quốc suốt thời
trung đại. Trong tứ đức không có khái niệm về sắc đẹp, đối với nhà nho, sắc đẹp
phụ nữ là sự cám dỗ nguy hiểm, có thể gây ra những tác động tiêu cực đối với sự
nghiệp chính trị, con đường công danh của họ. Sắc đẹp, điều mà người phụ nữ ngày
nay đáng tự hào thì đối với Nho gia, là “giặc”, cần tránh xa: Sắc là giặc đam làm
chi (Nguyễn Trãi).
Tứ đức là một trong những quy định kìm hãm phụ nữ trong không gian gia
đình, chuyên tâm cho gia đình, không có điều kiện cũng như thời gian để hoạt động
xã hội. Từ ngưỡng cửa trở vào là phạm vi hoạt động của người đàn bà, còn từ
ngưỡng cửa trở ra là lãnh địa của người đàn ông. Nó cũng góp phần hình thành nên
quan niệm về nữ tính của Nho giáo. Quan niệm đó được áp đặt vào thực tế khiến
cho không gian hoạt động của người phụ nữ và đàn ông bị phân chia rõ rệt. Đọc văn,
thơ Trung Quốc hay Việt Nam thời trung đại chúng ta dễ thấy một điều là người đàn
ông thường hay xuất hiện trong những không gian như nơi triều chính, trên đường,
đất khách, ngao du sơn thủy, chiến trường… còn phụ nữ thì chủ yếu chỉ xuất hiện ở
chốn buồng khuê, sau ngưỡng cửa. Đây là những không gian qui ước gắn liền với
những hoạt động được ước định cho từng giới. Điều đó thể hiện không phải người
phụ nữ không có khả năng đóng góp cho xã hội mà không có cơ hội, nói cách khác tứ
đức chính là rào cản vững chắc để kìm tỏa họ. Chứng minh cho điều này, trong sử
liệu của Việt Nam hầu như không để lại tên tuổi người phụ nữ nào. Trong chính trị,
chỉ duy nhất Chiêu Thánh công chúa (Lý Chiêu Hoàng) là phụ nữ được phép tham
gia vào công việc nhiếp chính. Tuy nhiên, Chiêu Hoàng lên ngôi vua cũng chỉ là
trường hợp bất đắc dĩ do vua bệnh nặng mà không có con trai nối dõi.
Có thể nói, Tam tòng, tứ đức là hai phạm trù cơ bản, là chuẩn mực đạo đức để
xây dựng mẫu người phụ nữ phong kiến của Nho giáo, giữa chúng luôn có mối
quan hệ chặt chẽ, không thể tách rời. Điểm chung giữa hai phạm trù này đều là
những quy tắc, lễ nghĩa, chuẩn mực bắt buộc đối với người phụ nữ. Cả hai đều được
giai cấp thống trị phong kiến sử dụng như một công cụ đắc lực để giáo hóa người
phụ nữ với mục đích ổn định xã hội, bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị và của
người đàn ông.
Như vậy, theo tiêu chí của nhà nho cũng như quan niệm về tam tòng, tứ đức,
phụ nữ bị coi như công cụ phục vụ nhu cầu tính dục của đàn ông nhưng ngược lại
lại không bao giờ được quyền đòi hỏi cho mình. Nhu cầu tính dục ở người đàn ông
được xem là một nhu cầu bình thường thì với người phụ nữ sẽ là tiêu chí đánh giá
đức hạnh, phẩm chất. Trong quan niệm của những người có tư tưởng nam quyền,
nam giới có thể có từ một đến rất nhiều phụ nữ. Ngược lại, người phụ nữ nghĩ đến
đời sống bản năng, hành động theo bản năng lại bị xem thường, khinh bỉ.
1.2.2. Quan điểm đề cao trinh tiết
Văn hoá giới là hệ thống những quan niệm giá trị hình thành từ thực tiễn quan
hệ giữa người nam với người nữ về mặt giới tính. Xã hội Việt Nam thời trung đại có
nhiều yếu tố của xã hội nam quyền, trong đó, các chuẩn mực, quy tắc đạo đức, hành
vi áp dụng cho phụ nữ chính là do những người đàn ông quy định. Vì thế đã xuất
hiện những bất công lớn giữa quyền của nam và nữ. Nếu chúng ta nhìn con người
trong xã hội phong kiến từ quan điểm giai cấp thì có tất cả mọi người dân đều bị thể
chế phong kiến chà đạp. Tuy nhiên, nếu nhìn từ quan điểm giới, dễ thấy, so với nam
giới, phụ nữ là những người phải chịu nhiều bất công, đau khổ. Người phụ nữ, về
quyền sống dục tính thân thể, bị gông cùm rất bất công bởi phạm trù trinh tiết.
Trinh tiết được coi là biểu hiện của đạo đức chỉ áp dụng cho người phụ nữ;
còn người đàn ông đối với người phụ nữ được tự do, không bị ràng buộc bởi phạm
trù này. Không ai khen hay chê người đàn ông vì giữ hay không giữ trinh tiết với
vợ, song trinh tiết là một trong những chuẩn mực để khen chê đức hạnh người phụ
nữ. Một nhà nho có thể có hàng chục vợ hay một ông vua có hàng trăm, hàng cung
nữ, nhưng vẫn “vô tư” bàn về trinh tiết phụ nữ, vẫn sẵn sàng làm thơ, viết văn ngợi
ca những người phụ nữ tiết hạnh khả phong. Thực tế bất bình đẳng này luôn là phổ
biến trong văn học trung đại. Xã hội phương Đông nam quyền đã đề ra chuẩn mực
kép về trinh tiết, đòi hỏi khắt khe người phụ nữ phải giữ gìn “cái tiết” nhưng không
yêu cầu ngược lại ở đàn ông. Trai năm thê bảy thiếp gái chính chuyên một chồng.
Xã hội Nho giáo đề cao người liệt nữ, người phụ nữ sẵn sàng hy sinh cuộc sống, hy
sinh thân thể để bảo vệ trinh tiết, chung thủy ngay cả đối với những ông chồng đa
thê. Quan niệm bất công này đã cướp đi của người phụ nữ những quyền lợi thuộc về
nhân quyền, khiến họ phải chịu nhiều oan khổ, bất hạnh.
Bàn về chữ trinh tiết, cả Phan Khôi ở Việt Nam và Lâm Ngữ Đường ở Trung
Quốc đều dẫn câu nói nổi tiếng của một nhân vật Tống Nho là Trình Di: Chết đói là
chuyện rất nhỏ, thất tiết là chuyện rất lớn (饿死事极 小,失节事极大) như là bằng
chứng điển hình nhất về sự đàn áp của Nho giáo đối với phụ nữ. Theo học giả Phan
Khôi: Trinh không phải là cái nết thuộc về khách quan, mà là cái nết thuộc về chủ
quan. Mình vì cái ý chí, cái phẩm giá của mình mà giữ trinh… Nhƣ vậy, trinh là một
cái nết. còn Tiết khác với nết. Tiết là một cái dấu tỏ ra mình đã làm hết bổn phận
của mình đối với ngƣời mà mình thuộc về. Một ngƣời đàn bà chết chồng, không lấy
chồng khác, mà gọi là tiết phụ, cũng chẳng khác nào một bề tôi chết vì vua mà gọi
là tử tiết hay là tận thần tiết [37]. Vậy trinh tiết là chuẩn mực đạo đức một chiều áp
đặt cho người phụ nữ. Nhà nho không tiếc công tuyên truyền cho trinh tiết ở phụ nữ
và kết quả đáng buồn là hầu hết người phụ nữ đã tiếp nhận quan niệm trinh tiết
nghiệt ngã này.
Trong xã hội nam quyền thời trung đại này, quan niệm về trinh tiết đã gây ra
nhiều sức ép cho người phụ nữ, tước đi của họ những quyền sống chân chính. Dưới
sức ép của quan điểm văn hóa này, người phụ nữ góa bụa đi lấy chồng khác sẽ bị
đánh giá về mặt đạo đức, bị xã hội, đặc biệt là nhà nho xem thường. Ngược lại,
những người phụ nữ cố gắng tuẫn tiết, thủ tiết sẽ được ngợi ca, nêu gương. Có thể
thấy, việc coi trọng trinh tiết người phụ nữ không chỉ xuất hiện ở Việt Nam mà thực
chất có nguồn gốc từ trung Hoa, mở rộng ra tất cả các quốc gia thuộc vùng văn hóa
phương Đông và âm ỉ tồn tại trong trường kỳ lịch sử ở vùng văn hóa này.
Một vấn đề vào loại hóc búa nhất đối với những người muốn bảo vệ giá trị
Nho giáo là thái độ nghiệt ngã của nó đối với sự sống của người phụ nữ. Tinh thần
thủ tiết, tuẫn tiết đã chi phối đến cách bình luận Thúy Kiều của các nhà nho thế kỷ
XIX. Thúy Kiều sau khi bán mình cho Mã Giám Sinh, bị đưa đến lầu xanh. Tại đây,
nàng đã rút dao tự sát để bảo vệ phẩm giá của người phụ nữ. Hoặc đến cuối câu
chuyện về cuộc đời Kiều, khi Thuý Kiều từ chối cuộc sống vợ chồng với Kim
Trọng là mang một mặc cảm tự ti của người phụ nữ bị áp lực của chuẩn mực đạo
đức do nam giới quy định, tự cho rằng mình không xứng với Kim Trọng nữa sau
bấy nhiêu năm lưu lạc giang hồ. Mặc cho Kim Trọng hết sức cảm thông, chiêu tuyết
cho nàng, Thuý Kiều vẫn một mực từ chối. Tấn bi kịch của ngày tái ngộ chính là tấn
bi kịch do mặc cảm về trinh tiết của chính người phụ nữ đem lại cho chính mình.
Hiển nhiên việc Kiều rơi vào cảnh “ong qua bướm lại” là do chính bọn đàn ông gây
ra, chính họ đã biến Kiều thành một cánh hoa tàn, song Kiều không bao giờ truy
nguyên nhân từ họ.
Sự áp đặt về trinh tiết đối với người phụ nữ trở nên phiến diện và gây áp lực
rất lớn đối với việc tìm đến hạnh phúc riêng của họ. Sự áp đặt này lẽ dĩ nhiên không
có thiết chế hữu hiệu đảm bảo cho thân phận của những người "hồng nhan", khiến
cho những người hồng nhan trở thành nạn nhân của những kẻ có quyền, có tiền.
Không những bản thân họ là nạn nhân, họ còn có thể, một cách gián tiếp, là nguyên
nhân gây ra nỗi bất hạnh cho gia đình, cho người thân (ví dụ, để chiếm đoạt người
vợ đẹp của anh nông dân thấp cổ bé họng, kẻ có thế lực có thể giết chết người
chồng). Nói một cách khách quan, nỗi đau, nỗi bất hạnh của người phụ nữ trong
cuộc sống thời bấy giờ đều bị chi phối bởi quan niệm “trinh tiết”. Chính họ còn bị
lên án, phê phán bởi chính tầng lớp đã tạo ra luật lệ, quy định áp đặt những bất
hạnh, đau khổ trong cuộc sống của họ.
Trong lịch sử bình luận Truyện Kiều, tất cả các nhà nho như Nguyễn Công
Trứ, Tản Đà, Huỳnh Thúc Kháng,… vốn lớn tiếng phê phán Kiều là dâm, là đĩ
nhưng không ai trong số các nhà nho ấy lên án người đàn ông đã tạo nên những áp
lực vô cùng lớn, như một nếp nghĩ, một thói quen là hướng đến quy trách nhiệm
cho Kiều. Và tất nhiên, họ sẽ viết bài phê bình, làm thơ ca ngợi Kiều nếu như nàng
chọn cái chết để bảo toàn trinh tiết như bao liệt nữ khác. Người con gái, người phụ
nữ phải một mình gánh chịu những hậu quả đạo đức nghiêm trọng cho dù thủ phạm
gây ra lại là đàn ông. Nếu nhìn từ góc độ xã hội học thì hầu hết các nhà nghiên cứu
Truyện Kiều mới nhìn nhận, nguyên nhân gây nên đau khổ cho Thuý Kiều từ bản
chất xã hội phong kiến chung chung. Nhưng nếu nhìn từ góc độ về giới, sẽ dễ dàng
nhận thấy sự đau khổ, mặc cảm "thất tiết", không giữ trọn chữ "trinh" chính là do xã
hội nam quyền, do chính những người đàn ông tạo nên và áp đặt lên vai người phụ
nữ thời bấy giờ.
Tuy nhiên, sự áp đặt một cách khuôn mẫu và “đậm đặc” nhất trong quan niệm
và thái độ của người đàn ông với người phụ nữ chỉ tồn tại ở giai đoạn thế kỷ XVI –
XVIII. Đến Nguyễn Du, người đọc đã cảm nhận được sự đồng cảm, sẻ chia cùng
tấm lòng nhân đạo của ông đối với số phận của người phụ nữ, đối với một kiếp
người. Chính vì vậy, trong đoạn kết đoàn viên của Truyện Kiều, tuy quan niệm trinh
tiết Nho giáo đã ăn sâu vào cả cách nghĩ khiến Thuý Kiều tự nguyện gánh chịu tất
cả khổ nạn với một niềm xác tín là người đàn ông như Kim Trọng không thể sống
với một người phụ nữ thất tiết nhưng mỗi lời thơ đều thể hiện nỗi chua xót cùng
cực. Có thể nói những lời xót xa của nàng Kiều đòi hỏi một sự suy nghĩ nghiêm túc
về trách nhiệm của những người đàn ông đối với vấn đề trinh tiết của phụ nữ thay vì
bình thản chứng kiến người phụ nữ phải gánh chịu hậu quả đến mức phải hy sinh cả
hạnh phúc của họ. Vấn đề là tại sao chỉ có người phụ nữ phải tuân thủ tiết hạnh? Và,
tại sao người phụ nữ lại chỉ có giá trị với điều kiện bắt buộc là phải có tiết hạnh?
Dường như nhà thơ vĩ đại muốn đặt những câu hỏi khá bức bối này của tư tưởng nữ
quyền trong phần đại đoàn viên của Truyện Kiều. Đó cũng là một phương diện giá
trị của chủ nghĩa nhân đạo của Nguyễn Du.
1.2.3. Quan điểm kỳ thị nữ sắc:
Nếu như trong các tác phẩm văn học hiện đại, vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ
được đề cao và trân trọng như cội nguồn tạo nên sự hấp dẫn của nữ tính thì vẻ đẹp
ấy trong hầu hết các tác phẩm văn học trung đại đã bị lấn át bởi những tiêu chuẩn về
vẻ đẹp đạo đức. Thái độ kỳ thị nữ sắc của Nho gia đã dẫn đến nguyên tắc miêu tả ít
quan tâm vẻ đẹp ngoại hình người phụ nữ lý tưởng, đặc biệt né tránh cái đẹp thân
xác của họ trong khi đức hạnh lại được khắc sâu với thái độ ngưỡng mộ, thậm chí
tôn thờ như một giá trị. Kỳ thị nữ sắc là quan niệm coi thường và nghiêm khắc với
nữ sắc của Nho gia. Sắc đẹp người phụ nữ, đặc biệt là vẻ đẹp quyến rũ, hấp dẫn về
phương diện giới không biểu trưng cho cái tốt mà thường gắn với sự đen tối, sự cám
dỗ nhục dục, với cái xấu xa, độc ác, gắn với người phụ nữ phản diện còn giá trị của
người phụ nữ lý tưởng không phải ở thân thể mà là đức hạnh.
Quan niệm kỳ thị nữ sắc bắt nguồn từ những quan điểm tư tưởng của bậc thầy
về Nho giáo, Khổng Tử. Có thể nói, người sáng lập nên đạo Nho này đã tạo nên
“khuôn khổ” về cách đối nhân, xử thế cho con người từ ngàn xưa. Và nền tảng đạo
lý luân thường mà Khổng Tử có chỉ dạy cho hậu thế đều phân biệt rõ ràng nhiệm
vụ, vai trò của nam giới và nữ giới trong xã hội. Đạo làm trai phải biết Tam cƣơng,
ngũ thƣờng. Đức tính, phẩm hạnh của người con gái là tam tòng, tứ đức. Cả nam
nhi và nữ nhi phải hiểu được đạo lý: Trai trung nghĩa không theo hai Chúa, Gái tiết
liệt không thờ hai Chồng. Không chỉ Nho giáo mà Phật giáo cũng chủ trương “tiết
dục”, “diệt dục”, coi sắc là cái cần kiêng kỵ nên nhan sắc phụ nữ bị xem thường
trong mắt các tín đồ đạo Phật. Tam tổ thực lục có kể lại câu chuyện ca ngợi thiền sư
Huyền Quang vượt qua sắc dục, giữ lòng chay bạch với thái độ e sợ, cảnh giác với
người phụ nữ nhan sắc.
Trong văn hóa làng xã của Việt Nam thời trung đại, chỉ có đàn ông mới được
lên đình làng bàn việc trọng đại có ý nghĩa quyết định đến cuộc sống văn hóa, xã
hội của làng. Phụ nữ chỉ ở nhà, việc tổ chức các lễ nghi tôn giáo cũng do người đàn
ông thực hiện. Cái nhìn của nam giới về phụ nữ cũng có phần khinh miệt. Nam giới
ca ngợi mẫu hình nam nhi, quân tử, anh hùng, trượng phu, con người trên phương
diện xã hội mà tỏ ra khinh miệt những kẻ mê đắm nữ sắc, coi như những nhân vật
phản diện. Lẽ dĩ nhiên, người đàn ông muốn lập công danh sự nghiệp, có chí khí
nam nhi, chí khí anh hùng cần phải gạt bỏ tình cảm nhi nữ, không đam mê sắc đẹp.
Nhìn nhận số lượng tác phẩm sáng tác trong thời kỳ văn học trung đại, có rất ít
tác giả viết về người phụ nữ và nếu có thì dung lượng thường rất ít ỏi, hầu như
không miêu tả mà chỉ thiên về đánh giá, bình phẩm dưới cái nhìn đạo đức khắt khe
của Nho giáo. Các nhà nho xưa thường coi phụ nữ là lực cản trên con đường tu
dưỡng đạo đức nên phải xa lánh nữ sắc, coi nữ sắc nguy hiểm như ma quái, quỉ, hồ
ly tinh, rắn báo oán… Thiền sư (nam nhân) hy sinh đời sống tình dục để tu luyện
những phép thuật những khả năng phi thường. Đó là lý do sâu xa của việc họ coi
thường sắc đẹp.
Kỳ thị nữ sắc cũng là một trong những quan niệm "cổ hủ, lạc hậu", "quy chụp"
cho người phụ nữ khi đã dùng sắc đẹp của mình làm sụp đổ bao triều đại lừng danh
trong lịch sử. Bàn về vấn đề này, Tuân Tử viết: Ham sắc đẹp của ngƣời con gái là
chuốc lấy cái ác nghiệt vậy. Vương Sung thời Hán tẩy chay sắc đẹp kịch liệt: yêu
khí sinh ra sự xinh đẹp, nên những ngƣời xinh đẹp phần lớn tà ác… Ngƣời có sắc
đẹp có mang châm độc. Những phát ngôn này đều xuất phát từ điểm nhìn nam giới,
đều thể hiện cái nhìn nghiêm khắc với người con gái đẹp của Nho gia.
Trong xã hội Trung Hoa thời trung đại, theo kinh nghiệm của ba vương triều
Hạ, Thương, Chu, người ta đã kết luận: mĩ nữ họa thủy luận, những người phụ nữ
đẹp bao giờ cũng là đầu mối của sự đe dọa mất nước. Nàng Hỷ Muội là mỹ nữ bị
vua Kiệt nhà Hạ cướp được trong chiến tranh và vô cùng sủng ái. Khi nhà Thương
diệt nhà Hạ đã cho Kiệt và Hỷ Muội lên thuyền thả trôi ra biển. Vì vậy, Hỷ Muội bị
các sử gia Nho giáo kết tội làm mất nhà Hạ. Người đẹp Đát Kỷ bị Hữu Tô dâng cho
vua Trụ và cũng bị kết tội làm mất nhà Thương. Cũng như vậy, Dương Quý Phi (tức
Dương Ngọc Hoàn) là vợ của Thọ Vương Mạo, con thứ 18 của Đường Huyền Tông.
Tuy nhiên, nàng lại được Huyền Tông yêu và tuyển vào trong cung làm quý phi. Vẻ
đẹp của Dương Quý Phi lập tức áp đảo hết ba ngàn người đẹp trong hậu cung, khiến
Huyền Tông “không ra triều sớm”. An Lộc Sơn nổi loạn, Huyền Tông chạy vào đất
Thục, đến Mã Ngôi, quân lính không chịu đi, đòi trừng phạt Dương Quốc Trung
(anh họ Dương Quý Phi) và nàng. Dương Quý Phi bị thắt cổ chết ở Mã Ngôi. Xét từ
góc độ phụ nữ, Dương Quý Phi là vật hy sinh của chế độ hậu cung tàn ác, còn về
góc độ giai cấp thì là sự xa xỉ cùng cực, nguyên nhân chính dẫn tới sự bại vong
trong các triều đại. Những người phụ nữ như Hỷ Muội, Đát Kỷ, Dương Quý Phi...
đều bị xem như những con hồ ly, con cáo... Đó cũng là cách buộc tội dễ dàng nhất
cho những người phụ nữ bị coi là đẹp "nghiêng thành".
Trong lịch sử Việt Nam, cũng có những trường hợp tương tự như trong lịch sử
Trung Quốc. Thảm án Lệ Chi Viên là minh chứng cho cách che đậy lịch sử có dụng
ý. Các nhà sử học trước và sau năm 1945 cũng chưa dám nghĩ đến những vấn đề
trái với quốc sử. Họ không dám tin tất cả thảm án này là một vụ đảo chính đẫm máu
kéo dài trên hai mươi năm do chính Thần phi Nguyễn Thị Anh chủ trương cùng với
sự đồng lõa của bọn hoạn quan. Chính vì điều này mà người ta vẫn tin vào truyền
thuyết rắn báo oán...
Câu chuyện Rắn báo oán huyền thoại hóa cuộc đời Nguyễn Thị Lộ được ghi
lại trong Tang thương ngẫu lục với cốt truyện như sau: Tục truyền rằng, thời
Nguyễn Trãi còn dạy học ở làng Nhị Khê, khi dọn gò ngoài đồng làm chỗ dạy học,
học trò của ông đã đánh một con rắn trắng cụt đuôi. Đêm ấy, ông đọc sách dƣới
đèn, con rắn trắng leo lên xà nhà nhỏ một giọt máu xuống giữa cuốn sách, thấm ƣớt
chữ đại đến ba trang giấy (ý sẽ báo oán đến ba đời dòng họ Nguyễn Trãi). Khi hiển
đạt, một hôm đi chầu về, lúc qua phố Hàng Chiếu, Nguyễn Trãi gặp một cô gái xinh
đẹp, dùng thơ từ để xƣớng họa với ông. Rồi ông yêu mến cƣới về làm thiếp. Khoảng
năm Thiệu Bình, cô gái ấy thƣờng đi lại vào trong cấm, vua Thái Tông yêu cho làm
chức Nữ học sĩ. Khi vua băng hà, triều đình đem nàng ra tra hỏi, nàng khai là do
Nguyễn Trãi xui nên ông mới phải tội. Khi lâm hình, ngƣời con gái ấy hóa thành
rắn, bơi xuống nƣớc đi mất. [58, tr 102 – 103]. Việc liên hệ Thị Lộ xinh đẹp tài hoa
với rắn báo oán không phải là ngẫu nhiên. Trong tâm thức của người Việt, rắn
không bao giờ là con vật biểu trưng cho sự tốt đẹp, an toàn mà thường ám chỉ sự
nguy hiểm, đen tối. Câu chuyện trên đây tuy phi lý nhưng ít nhất ở một thời nó đã
được cộng đồng trung đại chấp nhận, thể hiện quan niệm của một bộ phận cộng
đồng đó về sự nguy hiểm của nữ sắc.
Quan điểm kỳ thị nữ sắc của các học giả Nho gia thời trung đại không chỉ thể
hiện qua những giai thoại, liệt truyện mà còn được chính thức hóa bằng nhiều phát
ngôn. Sử gia Ngô Sĩ Liên khi ghi chép chuyện Nguyễn Thị Lộ đã bình luận: Nữ sắc
làm hại ngƣời ta quá lắm. Thị Lộ chỉ là một ngƣời đàn bà thôi, Thái Tông yêu nó
mà thân phải chết, Nguyễn Trãi lấy nó mà cả họ bị diệt, không đề phòng mà đƣợc
ƣ? Tác giả Khóa hƣ lục viết Giới sắc văn với những lời lẽ đầy nghiêm khắc khi
đánh giá về những yếu tố ngoại hình hấp dẫn của người phụ nữ: Tóc mƣợt lƣng ong
dễ khiến mịt mờ tâm tính; mặt hoa da phấn dễ xui rời rã tinh thần. Mắt đƣa lấp
lánh nhƣ dao, ai không đứt ruột; lƣỡi uốn ngọt ngào tựa sáo, hết thảy nghiêng tai.
Ngƣời đắm đuối, nghĩa tình xa bỏ; kẻ đam mê, đạo đức tiêu tan. Trên thì phong
giáo đắm chìm; dƣới thì cửa nhà táng loạn. Không kể kẻ phàm ngƣời học; đều say
áo pháp điểm trang. Cƣơng kỷ quốc gia đổ vỡ chốn Tô đài… Độc giác gần nữ am
mà trở về cõi tục; Chân Quân xa thán phụ mà đƣợc lên thiên đàng. Kẻ lánh sắc
đƣợc ngũ thần thông; kẻ phạm sắc mất toàn giới hạnh [88, tr. 98]. Những phát ngôn
này đều xuất phát từ điểm nhìn nam giới, đều thể hiện cái nhìn nghiêm khắc với
người con gái đẹp của Nho gia.
Tóm lại, kỳ thị nữ sắc cũng là một quan niệm phổ biến trong hệ thống những
quan niệm về nữ giới ở Việt Nam thời trung đại. Quan niệm này có sức chi phối
mạnh mẽ đến tư tưởng, quan điểm đến cách hành xử của người đàn ông đối với người
phụ nữ trong xã hội. Cũng chính quan niệm này là nguyên nhân gây ra nhiều bất
công, đau khổ, bất hạnh mà người phụ nữ trong thời kỳ trung đại phải gánh chịu.
1.3. Nguyễn Du với tập Thơ chữ Hán
Nguyễn Du sinh ra tại phường Bích Câu thuộc kinh thành Thăng Long. Từ
nhỏ, ông đã được tiếp thu sâu sắc cội nguồn văn hóa Thăng Long, đây là kinh đô
nên không chỉ có những người ở đây, mà nhân tài tứ xứ, đặc biệt là văn sĩ Bắc Hà
sinh sống và làm việc ở đó. Xuất thân từ một gia đình khoa bảng, có truyền thống
thi ca lại được giao du, tiếp xúc với những người tài sống ở Thăng Long, tài thơ
bẩm sinh của Nguyễn Du như hạt giống tốt gặp đất tốt, mưa thuận, gió hoà. Nhà thơ
lớn của một dân tộc phải là người hiểu được văn hoá của cả dân tộc mình chứ
không phải chỉ của một vùng đất, một nhóm người. Nguyễn Du không chỉ đem lại
cho văn học Thăng Long những kiệt tác như Bài ca ngƣời gảy đàn ở Long thành
(Long thành cầm giả ca), Thăng Long, Ngộ gia đệ cựu ca cơ... Môi trường sinh hoạt
ấy tổng hòa cả ngôn ngữ tình tứ, trau chuốt của các làn điệu quan họ quê mẹ, sự
chuẩn xác, thuần cổ của vùng Nghệ Tĩnh quê cha và nét hào hoa, thanh lịch của
kinh kì Thăng Long là nền tảng vững chắc ảnh hưởng rất nhiều đến kho tàng ngôn
ngữ của thi hào khi dùng để sáng tác nên những tác phẩm bất hủ.
Trong Tuyển tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã viết khá rõ về “gia cảnh” của
ông: Mẹ Nguyễn Du là bà Trần Thị Tần, là vợ trắc thất hàng thứ 3, và là con gái
một ngƣời thuộc hạ làm chức Câu kế (kế toán). Mẹ Nguyễn Du mất khi ông mới 13
tuổi, bố mất khi ông 10 tuổi. Vì vậy ông phải sống cùng ngƣời anh khác mẹ là
Nguyễn Khản, hơn ông 31 tuổi. Đời sống hƣởng lạc của ông anh này có ảnh hƣởng
rất lớn đến nhà thơ. Cũng chính vì vậy phần nào độc giả giải thích đƣợc phần nào
lòng trắc ẩn của nhà thơ đối với phụ nữ nói chung và đối với ca kĩ nói riêng. Cái
cảnh những ngƣời đàn bà sống trong xã hội cũ, vì có chút nhan sắc hay giọng háy
hay rồi phải đem nhan sắc tài hoa làm trò chơi cho thiên hạ, mà sau này ra đời nhà
thơ còn có nhiều dịp chứng kiến nữa, thì từ những ngày thơ ấu, ông đã chứng kiến
trong gia đình mình, hơn nữa, chính những ngƣời thân của ông là nạn nhân. Cho
nên, ta không lấy làm lạ khi trong tác phẩm của Nguyễn Du khi nói về họ, ông lại
có một thái độ trìu mến, xót thƣơng. [57, tr. 19]. Nhờ có mối đồng tình xót thương
đó, mặc dù chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến, Nguyễn Du không có con mắt
nhìn nghiêm khắc của nhà nho phong kiến, trọng nam khinh nữ. Đối với phụ nữ,
ông không hề có một lời nào khinh bạc mà còn cảm thông, ngợi ca, trân trọng... Nếu
không phải xuất phát tự sự đồng cảm sâu sắc thì không thể nào có một cách nhìn
toàn diện, tiến bộ như vậy.
Là tác giả tiêu biểu cho giai đoạn thứ hai của văn học trung đại Việt Nam,
Nguyễn Du có những đóng góp quan trọng trong tiến trình văn học dân tộc trong cả
mảng sáng tác chữ Hán và chữ Nôm. Đặc biệt với Truyện Kiều, tầm vóc tư tưởng và
tài năng nghệ thuật của tác giả đã, đang và sẽ lay động tâm can của nhiều thế hệ
người Việt. Bên cạnh kiệt tác thơ Nôm Truyện Kiều, đại thi hào Nguyễn Du còn để
lại cho hậu thế kho tàng thơ chữ Hán đồ sộ. Việc nghiên cứu toàn bộ thơ chữ Hán
của Nguyễn Du chưa được khai thác triệt để và có hiệu quả bởi một phần do việc
khảo sát, sưu tầm chưa được hệ thống hóa. Sự tập hợp những bài thơ chữa Hán là
quá trình làm việc không mệt mỏi của các nhà nghiên cứu, sưu tầm để có hậu thế có
cái nhìn tổng quan, nhiều chiều, toàn diện hơn về con người và tư tưởng Nguyễn
Du. Nguyễn Du có để lại 3 tập thơ chữ Hán gồm Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp
ngâm và Bắc hành tạp lục. Từ 3 tập thơ này, các nhà nghiên cứu đã sưu tập và giới
thiệu, dịch thuật, chú giải được tất cả 249 bài thơ chữ Hán của ông. Đến năm 1996,
Mai Quốc Liên phát hiện và công bố thêm một bài nữa, bài Lỗi Dƣơng Đỗ Thiếu
Lăng mộ II trong Bắc hành tạp lục thành 250 bài chẵn.
Tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du được chia làm 3 phần: Thanh Hiên thi tập,
Nam trung tạp ngâm và Bắc hành tạp lục. 250 bài thơ lần lượt được phân chia trong
3 phần của tập thơ phần nào nói lên hành trình cuộc đời của tác giả, về những sự
việc, những câu chuyện, những suy nghĩ, những trải nghiệm… trong cuộc đời mà
Nguyễn Du muốn gửi gắm đến độc giả.
Thanh Hiên thi tập gồm 78 bài thơ, là tập thơ chữ Hán đầu tiên của Nguyễn
Du. Tập thơ này Nguyễn Du làm trong thời kỳ còn hàn vi và có thể phân chia ra làm
ba giai đoạn: 1. Mười năm gió bụi (1786-1795) là thời gian ông lẩn trốn ở Quỳnh
Côi; 2. Dưới chân núi Hồng (1796-1802), về ẩn ở quê nhà; 3. Làm quan ở Bắc Hà
(1802-1804). Phần Thanh Hiên nói về cá nhân Nguyễn Du và những tình cảm của
ông trong hoàn cảnh đương thời.
Thanh Hiên thi tập chính là tâm tình của Nguyễn Du trong những năm tháng
sống long đong vất vả ở Thái Bình (quê vợ), cũng như ở Tiên Điền (quê nhà).
Những bài thơ làm ở Thái Bình hay than thở về cuộc sống, nay đây mai đó, hết ở
nhờ nhà người này lại ở nhờ nhà người khác, “thân thế trăm năm phó mặc cho gió
bụi” (Mạn hứng), “mới rét mà đã thấy khổ vì thiếu áo” (Thu Dạ) và lúc nào cũng “ở
đất khách, giả vụn để phòng thói tục, gặp thời loạn vì muốn giữ toàn mạng nên luôn
sợ người ta” (U cư)... Trong những bài làm trong thời gian về Tiên Điền (Hà Tĩnh),
nhà thơ cũng có một tâm lý chán chường như thế. Có lúc, Nguyễn Du muốn ở ẩn,
muốn trốn vào tôn giáo, rồi có lúc ông lại muốn hành lạc (Hành lạc từ). Nói vậy,
nhưng không thể làm vậy, cho nên ông lại tiếp tục với nỗi buồn của mình và than
thở cho cuộc đời nghèo túng. Những bài thơ Nguyễn Du viết khi ra làm quan cũng
chẳng vui gì hơn. Mới ra làm, ông đã than thở mình “sinh ra vốn không mang sẵn
tướng công hầu, chưa chết thì có ngày sẽ làm bạn với hươu nai” (Ký hữu)... Tất cả
những điều ông viết dường như chỉ là một lớp váng nổi trên bề mặt, còn thực chất
tâm sự của nhà thơ là gì, ông không nói ra cụ thể và hình như ông cũng chưa nhận
thức cụ thể.
Nam trung tạp ngâm (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) là tập thơ chữ Hán
thứ hai (sau Thanh Hiên thi tập) của Nguyễn Du. Nam trung tạp ngâm, gồm những
bài thơ làm từ năm 1805 đến cuối năm 1812, tức là từ khi được thăng hàm Đông
các điện học sĩ ở Huế cho đến hết thời kỳ làm Cai bạ dinh Quảng Bình. Tập thơ
hiện có 40 bài, mở đầu tập là bài Phượng hoàng lộ thượng tảo hành (Trên đường
Phượng Hoàng) và cuối tập là bài Đại tác cửu tư quy (Làm thay người đi thú lâu
năm mong về). GS. Nguyễn Lộc viết: Nam trung tạp ngâm có tính chất nhật ký, bút
ký của tác giả trong những năm tháng làm quan ấy. Về đề tài, chƣa có gì mới so với
tập thơ đầu. Những bài thơ trong tập thơ này vẫn là những tiếng thở dài của nhà
thơ trƣớc một thực trạng mà ông không thấy có gì gắn bó. Cũng giống nhƣ Thanh
Hiên thi tập, trong Nam Trung tạp ngâm, chƣa bao giờ Nguyễn Du nói rõ cái tâm
sự thật của mình; rải rác đây đó, trong thơ chỉ thấy ông than thở cuộc đời là đáng
buồn, đáng chán, là vô nghĩa, là bãi bể nƣơng dâu... [44, tr364]
Bắc hành tạp lục (Ghi chép tản mạn trên đường đi sứ phương Bắc) là tập thơ
cuối trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du, bao gồm 131 bài do Nguyễn Du sáng tác trong
khoảng thời gian ông dẫn đầu đoàn sứ bộ nhà Nguyễn sang Trung Quốc từ đầu năm
Quý Dậu 1813 đến đầu năm Giáp Tuất 1814. Đây là một tập thơ nói lên lòng
thương cảm sâu xa những người trung nghĩa bị hãm hại, những người tài hoa bị vùi
dập, những người lao động cùng khổ bị đói rét cùng nỗi khinh ghét giới thống trị
kiêu căng, tàn bạo, được Nguyễn Du nói lên bằng những vần thơ hết sức sâu sắc.
Nhìn chung, Thơ chữ Hán của Nguyễn Du thể hiện tư tưởng, nhân cách của
ông. Các bài thơ trong Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm tuy biểu hiện
một tâm trạng buồn đau, day dứt nhưng đã cho thấy rõ khuynh hướng quan sát, suy
ngẫm về cuộc đời, về xã hội của tác giả. Trong Bắc hành tạp lục, những điểm đặc
sắc tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Du được thể hiện rõ ràng hơn. Có ba nhóm đáng
chú ý: Một là ca ngợi, đồng cảm với các nhân cách cao thượng và phê phán những
nhân vật phản diện. Hai là phê phán xã hội phong kiến chà đạp quyền sống con
người. Ba là cảm thông với những thân phận nhỏ bé dưới đáy xã hội, bị đọa đày hắt
hủi. Thơ chữ Hán Nguyễn Du chứa đựng những tâm tư tình cảm của một người có
chí cao mộng lớn nhưng thời vận lỡ làng, phản ánh nhân tình thê thái trong con mắt
của một người làm quan nhưng không được hanh thông hoạn lộ, đồng thời cũng ghi
nhận được một cách sắc nét những cảnh trạng bất công, bất nhẫn trong xã hội phong
kiến đương thời mà những người nghèo khổ, yếu đuối phải chịu hầu hết thiệt thòi.
Cũng trong tập thơ này, chúng tôi thấy một nét mới căn bản là nhận thức toàn
diện của Nguyễn Du về con người. Con người không chỉ là thần dân trong con mắt
của vua quan, được triều đình chăm lo mà đồng thời phải phục tùng trật tự đạo đức
nghiệt ngã, phải triệt tiêu cá nhân. Con người còn là một thực thể tồn tại độc lập,
cần được quan tâm không chỉ về phương diện vật chất, chuyện ăn mặc ở... Con
người có thân xác, do đó có quyền sống về mặt thân xác, có trái tim, do đó có quyền
được mong muốn, ước ao, được buồn vui, hy vọng hay đau khổ, có trí tuệ do đó có
quyền có tư tưởng riêng. Ngợi ca con người theo lập trường nhân bản chân chính
không thể không ngợi ca vẻ đẹp của chân dung và hình thể con người.
Từ “những điều trông thấy” trong suốt hành trình cuộc đời của Nguyễn Du
được ghi lại một cách sinh động, chân thực trong tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du đã
thể hiện thành công những diễn biến nội tâm, những quan điểm tư tưởng của cá
nhân trước thực trạng xã hội phong kiến Việt Nam. Hơn ai hết, nhà thơ tiêu biểu cho
giai đoạn văn học trung đại đã bộc lộ khả năng tái hiện hiện thực. Ông không để
ngòi bút rơi vào một chủ nghĩa khách quan tàn nhẫn mà luôn nhập thân vào những
cảnh ngộ ấy, gắn bó ngay với nhân vật của ông. Đó là một tình cảm đã đi vào ý
thức, vượt lên trên những thương vay tự phát, thường tình. Gắn bó với con người,
với cuộc sống, và nhìn sâu vào lịch sử, Nguyễn Du còn đặc biệt thương xót cho một
loại người có tài và có tình. Ấy là những nhà văn nhà thơ nổi tiếng trác tuyệt mà
cuộc đời trải muôn vàn bất hạnh, là những bậc anh hùng hào kiệt thất thế, là những
người phụ nữ có sắc đẹp nghiêng thành phải chịu một số phận buồn thảm. Những
con người ấy, dù thân phận của họ là danh nhân, là đào hát, là tướng giặc, là gì đi
nữa, nhưng đã sống khác với mọi người và chết trong bần cùng hoặc bất đắc kỳ tử,
thì đều là đối tượng của tấm lòng ưu ái của Nguyễn Du.
Từ thơ chữ Hán đến Truyện Kiều, Nguyễn Du với tư cách một nghệ sĩ đã
khiến cho hàng triệu trái tim rung cảm vì những hình tượng khơi gợi sự trải nghiệm
cuộc sống. Từ góc nhìn về giới, từ tấm lòng nhân đạo cao cả, Nguyễn Du đã thể
hiện thành công tư tưởng tiến bộ của mình đến độc giả hậu thế. Những nét tư tưởng
mới được thể hiện rõ rệt trong hình tượng nhân vật, trong những bài thơ miêu tả
thiên nhiên, đất nước, miêu tả đời sống thế sự… Cũng chính Nguyễn Du đã tạo nên
điều khác biệt, nâng tầm vóc của đại thi hào so với những nhà văn, nhà thơ trước và
cùng thời với ông.
Tiểu kết: Ở chương 1, luận văn tìm hiểu những khái niệm cơ bản, phổ biến
nhất về giới, giới tính, nam tính và nữ tính..., trên cơ sở đó để nhìn nhận, phân tích
và khái quát một số quan niệm về nữ giới trong xã hội phương Đông thời trung đại.
Qua đó, luận văn muốn phác thảo sơ bộ về bức tranh xã hội Việt Nam thời trung
đại, từ thực tế cuộc sống đến thơ văn, từ thơ văn đến quan điểm, tư tưởng của tác
giả văn học, đặc biệt là những tác giả tiêu biểu cho cách nhìn mới mẻ và tiến bộ về
giới nói chung và người phụ nữ nói riêng. Những vấn đề lý luận và thực tiễn này
chính là cơ sở giúp luận văn phân loại các kiểu hình tượng nhân vật người phụ nữ
trong kho tàng thơ chữ Hán đồ sộ của Nguyễn Du. Từ đó luận văn đánh giá quan
điểm tư tưởng của nhà thơ qua góc nhìn giới.
CHƢƠNG 2: HÌNH TƢỢNG NHÂN VẬT NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU
Khảo sát phần lớn thơ văn trung đại Việt Nam trước thế kỷ XVIII, chúng ta dễ
nhận thấy tiếng nói át trội trên thi đàn là tiếng nói tỏ chí, tỏ lòng của các anh hùng
hào kiệt, các đấng trượng phu, các bậc quân tử. Đặc biệt là khi Nho giáo giành được
địa vị độc tôn, trở thành ý thức hệ chính thống của dân tộc từ thời Lê Thánh Tông.
Học thuyết Nho giáo, với sự phân chia trật tự xã hội theo triết lý âm – dương, những
lý tưởng tam cƣơng, ngũ thƣờng áp đặt đối với nam giới và đạo tam tòng, tứ đức
ràng buộc người phụ nữ… khiến sự phân biệt giữa nam và nữ càng trở nên triệt để.
Nam tôn nữ ty, nam cao nữ thấp, nam ngoại nữ nội… là những quy tắc mặc nhiên
được thừa nhận và tuân thủ. Đàn ông nói chung và giới trí thức chủ yếu là bộ phận
Nhà nho nói riêng là giới nắm đặc quyền về mọi mặt chính trị, xã hội, kinh tế, văn
hóa. Chỉ có đàn ông mới được đi học và tham gia vào những kì thi chọn người ra
làm quan. Vì thế, lực lượng sáng tác tuyệt đại đa số vẫn là các nhà nho nam giới và
mẫu hình con người lý tưởng trong văn học thời kỳ này là bậc thánh nhân, người
quân tử.
Ở giai đoạn này, người phụ nữ vẫn còn xuất hiện mờ nhạt trong văn học Việt
Nam. Sự xuất hiện của họ thường gắn với chức năng giáo huấn đạo đức. Những vẻ
đẹp hấp dẫn về phương diện giới, những khát vọng, quyền lợi riêng tư của họ cũng
chưa được các tác giả thời kỳ này trân trọng và chú ý miêu tả. Mặc dù người phụ nữ
đã dần xuất hiện nhiều hơn trong văn học giai đoạn thế kỷ XVI, song toàn bộ phẩm
chất, giá trị cũng như đời sống tâm hồn và thân thể của họ luôn được nhìn bằng đôi
mắt của nam giới. Miêu tả người phụ nữ, các nhà văn thiên về tô đậm đức hạnh siêu
phàm, chí khí hơn người của người phụ nữ mà hầu như không chú ý đến yếu tố nữ
tính, yếu tố giới của họ. Tuy nhiên, bước sang thế kỷ XVII - XVIII, khi trật tự xã
hội bắt đầu có những thay đổi nhất định, trong văn học trung đại cũng có những
bước chuyển biến rõ rệt. PGS.TS Trần Nho Thìn nhận định: "Các nhà văn nhà thơ
vỡ mộng, thất vọng về vai trò mà họ hằng tin tƣởng của đạo thánh hiền đối với sự
nghiệp xây dựng quốc gia, xã hội, xây dựng nhân cách. Những biến chuyển tƣ
tƣởng ấy đã làm thay đổi quan niệm về bản chất, nhân vật, thể loại, ngôn ngữ…
Một thời kì văn học mới ra đời… nhìn từ góc độ phát triển thì chính đây lại là thời
kì hóa giải những chi phối của tƣ tƣởng đạo đức chính trị để văn học trở về với
những vấn đề thân thiết của cuộc sống và con ngƣời" [73, tr. 75].
Chính sự chuyển biến này dẫn đến một bộ phận lớn các tác giả văn học
chuyển hướng đề tài sáng tác của mình. Từ việc tỏ chí, tỏ lòng trong thi ca đến việc
bày tỏ những cảm xúc trước thực tại cuộc sống, trước cuộc đời, trước những số
phận mà họ đã được gặp, được nghe kể lại… Tất cả những gì bình dị nhất, giản dị
và chân thực nhất đã trở thành hình tượng, thành đề tài, cảm hứng trong thơ ca của
các nhà nho thời bấy giờ. Tiêu biểu cho xu hướng “thi duyên tình” này là các tác giả
như Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Hồ Xuân Hương, Nguyễn
Du… Đặc biệt, trong Tập thơ chữ Hán của đại thi hào, ngoài những bài thơ thể hiện
cảm xúc bất chợt, những quan điểm trước cuộc sống, trước những điều trông thấy…
thì Nguyễn Du đã dành khá nhiều tâm huyết và tài năng của mình để viết về những
người phụ nữ. Có thể họ là những người bình thường mà ông bắt gặp, có thể là hình
ảnh bất khuất, có thể là những nhan sắc tài hoa… Tất cả đều trở thành những hình
tượng nhân vật sống động, ấn tượng trong thơ. Chính họ đã một phần giúp chúng ta
hiểu hơn về bản sắc tâm hồn cũng như về cách nhìn số phận người phụ nữ trong xã
hội đương thời của Nguyễn Du.
2.1. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ đức hạnh
Nghiên cứu hình tượng người phụ nữ từ quan điểm giới thời trung đại chúng
tôi nhận thấy, quan điểm về nữ giới của Nho gia đã chi phối sâu sắc cách kể, tả,
đánh giá về người phụ nữ. Vì vậy, những người phụ nữ được coi là chính diện
thường được kể, tả với đặc điểm là những người hoàn toàn phụ thuộc vào người đàn
ông, trở thành cái bóng của người đàn ông, hy sinh vì người đàn ông mà không
nhận được sự hy sinh, đền đáp ngược lại. Người phụ nữ chính diện lý tưởng là
những người sống theo bổn phận nghĩa vụ đạo đức, tuân theo khuôn phép Nho gia
yêu cầu và được ngợi khen, được thần thánh hóa do đã hy sinh hết mình vì người
đàn ông và không có đời sống riêng tư cá thể. Nhà thơ Nguyễn Du cũng viết về
người phụ nữ từ điểm nhìn của Nho giáo. Đó là sự nhìn nhận con người trong các
mối quan hệ luân thường. Với Nho giáo, con người không phải là một cá nhân tồn
tại độc lập mà chỉ tồn tại trong những quan hệ luân thường được xác định: vua – tôi,
cha – con, anh – em, vợ - chồng… Chính những mối quan hệ này đã trở thành một
tiêu chuẩn cơ bản để phân loại con người trong văn chương. Và nhà thơ Nguyễn
Du, một người sống trong thời đại của Nho giáo thống trị, ít nhiều cũng ảnh hưởng
đến sự nghiệp sáng tác của ông.
Trong tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du đã dành khá nhiều thời gian để quan tâm
đến những người phụ nữ, đặc biệt là hình tượng người phụ nữ đức hạnh, họ là
những người mang tính cách trung trinh, tiết nghĩa mà ông ngưỡng mộ. Bằng con
mắt của một nhà nho, ông đã lên tiếng ca ngợi đức hy sinh của họ, trân trọng những
hành động “thuận” theo đạo đức Nho gia của họ. Và trong thơ, ta thấy Nguyễn Du
viết về hình tượng người phụ nữ đức hạnh được viết nên bởi lời thơ giản dị, súc
tích, gần gũi như chính cuộc đời của họ.
Trong bài Dao vọng Càn hải từ, Nguyễn Du đã làm thơ đề vịnh câu chuyện bà
Dương Thái hậu, vợ vua Tống Độ Tông được thờ ở Càn Hải (đền Cờn, tỉnh Nghệ
An). Khi nhà Tống mất nước, bà cùng hai người con gái đi thuyền ra biển lánh nạn.
Theo truyền thuyết, thuyền đắm, xác giạt vào cửa Cờn, người địa phương nơi đây
đã lập đền thờ. Ở đây, nhà thơ đã dùng cảnh để tả tình, dùng những hình ảnh thiên
nhiên của buổi chiều tà cùng sự lẻ loi của sự vật để nói lên cảm xúc, tâm trạng của
chính nhân vật trữ tình trong thơ:
Mang mang hải thủy tiếp thiên xu
Ẩn ƣớc cô từ xuất tiểu chu (châu)
Cổ mộ hàn liên phù chử mộ
Tình yên thanh dẫn hải môn thu
Hào thiên tƣớng tƣớng đan tâm tận
Phủ địa Quỳnh Nhai khối nhục vô.
(Nước biển mênh mông tiếp Bắc cực
Thấp thoáng thấy ngôi đền đứng lẻ loi giữa bãi cát nhỏ
Buổi chiều chòm cây cổ thụ lạnh lẽo liền với bến chim phù đậu
Mùa thu, làn khói lúc trời tạnh mát dịu bay ra cửa biển
Kêu trời, các bậc tướng văn tướng võ dốc hết cả lòng son
Vỗ đất, ở Quỳnh Nhai không còn một ai là dòng giống nữa)
Giống như con mắt của các nhà nho khác, Nguyễn Du “nghiêng mình” trước
phẩm chất đáng quý của Dương Thái hậu. Nhưng bài thơ không bình luận khô khan
để rút ra bài học lịch sử hay đạo đức mà thiên về bộc lộ thái độ, cảm xúc. Nguyễn
Du đã cảm thương cho số phận người bạc mệnh trước thời gian và không gian lẻ loi.
Nhà thơ như nhập thân vào nhân vật để cảm nhận cả nỗi cô đơn, lạnh lẽo của con
người giữa sông nước mênh mông, tĩnh mịch và hiu quạnh.
Trong tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du không ít lần cảm kích trước vẻ đẹp tâm
hồn của người phụ nữ. Họ đã tìm đến cái chết để giữ gìn tiết hạnh cũng như đạo
đức, phẩm chất mà xã hội đã “mặc định” và chi phối đến số phận cuộc đời của họ.
Bằng cách nhìn của một nhà nho nhưng lại cảm nhận bằng chính tâm hồn, tư tưởng
nhân văn của mình, nhà thơ đã hết lòng ca ngợi những người phụ nữ có khí tiết như
Dương Thái hậu:
Tiểu nhĩ Minh phi trƣờng xuất tái
Tì bà bôi tửu khuyến Thiền Vu.
(Đáng cười thay nàng Minh phi ra ở ngoài cửa ải
Gảy đàn tì và, rót rượu mời chúa Thiền Vu)
Người đàn bà đã đi vào lịch sử với hình tượng liệt nữ này đã được Nguyễn
Du đặc biệt ngợi ca trong hình ảnh so sánh với Minh Phi (Vương Chiêu Quân),
người chịu gảy đàn, rót rượu cho giặc, chứ không quyên sinh thủ tiết. Nguyễn Du
thể hiện sự đồng tình sâu sắc với quan niệm khắt khe của Nho gia về trinh tiết, thể
hiện cái nhìn “điển chế hóa” với người đàn bà quả phụ của các học giả Tống Nho.
Nhà Tống mất, Dương thái hậu giữ nghĩa không chịu nhục, cùng hai người con gái
cưỡi thuyền ra bể lánh nạn rồi bị đắm thuyền chết. Bà đã giữ toàn vẹn trinh tiết của
người đàn bà, vì mục đích chứng minh lòng tiết liệt mà tự hi sinh mạng sống của
mình. Hành động của bà thể hiện tinh thần trọng danh dự hơn thân xác. Bằng cách
nhìn của nhà nho đương thời, soi chiếu dưới góc độ Nho giáo về người phụ nữ, nhà
thơ đã dành những tình cảm vô cùng đặc biệt, sự trân trọng và cảm phục trước hành
động mang ý nghĩa cao cả của người phụ nữ xưa.
Trong Tam liệt miếu (Miếu 3 liệt nữ), Nguyễn Du đã khéo léo mượn hình ảnh
hai người phụ nữ vốn không được lễ giáo phong kiến đánh giá là tấm gương tốt cho
người phụ nữ là Thái Văn Cơ và Trác Văn Quân cùng với những kẻ khoác lác để tạo
bước đệm làm nổi bật lên hình ảnh của 3 phụ nữ trung trinh tiết liệt: Trương Thị,
Quách Thị và Lưu thị:
Ả Thái sinh con, Ả Trác theo ngƣời yêu
Hoa rơi, bong rụng kể sao xiết
Bia đá nghìn thu biểu dƣơng 3 liệt nữ
Cƣơng thƣờng vạn cổ thuộc về một nhà
Dƣới đất nhìn nhau hẳn không hổ thẹn
Nơi nào bên sông để viếng những hồn trinh ấy
Liệt nữ là kiểu phụ nữ theo đúng chuẩn mực đạo đức mà Nho giáo áp đặt cho
người phụ nữ. Nguyễn Du viết về hình tượng người phụ nữ này như chính người
dân nghĩ về họ. Bên cạnh những vẻ đẹp tâm hồn được xây dựng từ hệ thống quy
định của Nho giáo, những người phụ nữ đức hạnh còn đẹp trong mắt người đời bởi
tấm lòng chung thủy với chồng con, một lòng trung thành với đất nước. Trong bài
Tam liệt miếu, Nguyễn Du đã viết về người vợ, người thiếp và con gái của Lưu Thời
Cửu, ca tụng ba tấm gương nghìn đời còn sáng tỏ. Cũng từ một sự vật, sự việc bắt
gặp trên đường, Nguyễn Du đã nảy sinh những tình cảm khâm phục trước tính cách
anh hùng của ba người phụ nữ: Trương Thị, Quách thị, Lưu thị - không chịu nhục
vào tay giặc cướp mà nhảy xuống sông chết. Ông trân trọng ba người phụ nữ trung
trinh tiết liệt ấy và đã lấy gương ba cái chết của phụ nữ để khích lệ đạo đức trung
nghĩa nơi đàn ông:
Thanh thời đa thiểu tu nhƣ kích
Thuyết hiếu đàm trung các tự tôn
(Thời bình bao nhiêu kẻ râu vểnh lên như mác
Bàn chuyện hiếu trung, ai cũng tự cho mình là nhất)
(Tam liệt miế)
Cũng lấy cảm hứng từ những người phụ nữ Trung Hoa xưa, Nguyễn Du đã
viết về họ bằng sự trân trọng:
Ngu đế nam tuần cánh bất hoàn,
Nhị phi sái lệ trúc thành ban.
Du du trần tích thiên niên thƣợng,
Lịch lịch quần thƣ nhất vọng gian.
Tân lạo sơ thiêm tam xích thuỷ,
Phù vân bất biện Cửu Nghi san,
Tầm thanh dao tạ tỳ bà ngữ.
Thiên lý thanh sam bất nại hàn.
(Vua Ngu đi tuần phương Nam chẳng trở về.
Hai bà phi khóc, nước mắt vương vào cây trúc thành những vệt lốm đốm.
Dấu cũ nghìn xưa ghi trong sử sách,
Nay nhìn thấy rõ trước mắt.
Nước lũ mới đổ về cao hơn ba thước.
Mây che khuất không nhìn rõ núi Cửu Nghi.
Nghe vẳng tiếng tỳ bà nhưng phải từ tạ.
Kẻ mặc áo xanh này từ nghìn dậm đến, không chịu lạnh nổi)
(Thƣơng Ngô tức sự)
Mỗi bài thơ của Nguyễn Du viết về người phụ nữ như một câu chuyện đầy
cảm động và bi thương. Trong hình ảnh người phụ nữ này, nhà thơ đề cập nhiều đến
nhan sắc mà tập trung chủ yếu đến tiết hạnh của họ. Trong bài thơ xuất hiện hình
ảnh 2 bà phi (Nga Hoàng và Nữ Anh) của vua Thuấn, đi tìm chồng ngồi khóc bên
bờ sông Tương, vảy nước mắt vào những khóm trúc, gảy đàn tỳ bà… Đây được
xem như một truyền thuyết đẹp về lòng chung thủy của người phụ nữ xưa. Nhìn
chung các nhân vật phụ nữ này được Nguyễn Du nhìn nhận ở vẻ đẹp theo quan
niệm thông thường, ông vẫn nhìn họ theo quan niệm của một nhà nho nhưng không
phải là quan niệm cực đoan của Tống Nho “tồn thiên lý diệt nhân dục”.
Mỗi một hình tượng người phụ nữ đức hạnh đều được Nguyễn Du nhìn từ góc
độ đạo đức Nho giáo, nhưng điểm nhìn đó không còn sự cứng nhắc, sự khắc nghiệt,
tính bảo thủ như trong Tống Nho, cũng không còn huyền bí như trong Hán Nho.
Nguyễn Du nhìn họ bằng những gì tích cực nhất của quan điểm Nho gia kết hợp với
sự chiêm nghiệm, từng trải của cuộc sống thực tại. Vì vậy, những nhân vật nữ hiện
lên trong thơ của Tố Như đều “đẹp” dưới góc độ đạo đức Nho giáo. Nói cách khác,
phẩm hạnh của người phụ nữ tiết liệt trong thơ Nguyễn Du được ông thổi một luồng
sinh khí mới, mang cảm quan nhân văn, nhân đạo chủ nghĩa, mang đặc trưng riêng
của tư duy Việt Nam dựa trên các chuẩn mực Nho giáo.
Hơn bất cứ tác giả nào trong văn học Việt Nam, trong toàn bộ di sản thơ mà
Nguyễn Du để lại, hầu hết hình tượng người phụ nữ luôn chiếm vị trí hàng đầu và
luôn đẹp. Họ không chỉ làm đẹp cho trang thơ Nguyễn Du, làm đẹp cho những nhân
cách, những lý tưởng trong cuộc đời mà còn nâng tầm của họ trong con mắt người
đời bởi những hành động gìn giữ đạo đức nữ giới theo quan điểm của Nho gia. Hình
ảnh của họ tuy không xuất hiện với tần suất lớn trong thơ nhưng từ những chi tiết,
hình ảnh đến cách kể chuyện của Nguyễn Du đã khiến người đọc không khỏi xúc
động. Chính những cảm xúc chân thực nhất, đời thường nhất của nhà thơ đã chạm
vào trái tim của người đọc.
Hình tượng đá vọng phu, hình ảnh minh chứng cho sự chung thủy, một lòng
của người vợ đối với người chồng được xem là một biểu tượng đẹp, nổi bật của
người phụ nữ xưa. Đây là hòn đá mang người đàn bà ôm con chờ chồng mòn mỏi.
Truyện cổ kể rằng: có hai anh em nhà nọ li tán, thất lạc nhau từ khi còn nhỏ. Lớn
lên không nhận ra nhau kết thành vợ chồng. Một lần nhờ vết sẹo trên đầu mà người
chồng biết được đã lấy em làm vợ. Anh ta lẳng lặng bỏ đi không nói một lời. Người
vợ - người em không biết lí do chồng bỏ đi nên ôm con lên núi chờ chồng. Ngóng
chờ mỏi mòn, người vợ đã hóa thành đá. Ở Đồng Đăng, Lạng Sơn đá vọng phu còn
có tên là hòn Tô Thị . Ca dao có câu:
"Đồng Đăng có phố Kỳ Lừa
Có nàng Tô Thị, có chùa Tam Thanh"
Tuy nhiên những hòn đá mang hình người phụ nữ ôm con chờ chồng không
chỉ có ở Đồng Đăng mà xuất hiện rải rác khắp chiều dài đất nước Việt Nam: trên
đỉnh núi Bà, Bình Định; trên đỉnh núi M'drak, Đắc Lak; trên đỉnh núi Nhồi, Thanh
Hóa; bên bờ khe Giai, bản Cơ Lêc, Nghệ An… Đây vốn là những hòn đá của tự
nhiên mang hình dáng hao hao với người đàn bà bồng con, nhưng chính nhân dân,
với quan điểm đề cao trinh tiết đã nhuốm màu văn hóa cho những hòn đá vô tri này.
Viết về đá vọng phu, Nguyễn Du đã gợi nên câu chuyện bi thương, đẫm nước
mắt bằng những chi tiết, những hình ảnh đặc tả:
Thạch da? Nhân da? Bỉ hà nhân?
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Vạn kiếp diểu vô vân vũ mộng,
Nhất trinh lƣu đắc cổ kim thân.
Lệ ngân bất tuyệt tam thu vũ,
Đài triện trƣờng minh nhất đoạn văn
(Đá chăng? Người chăng? Là ai đó nhỉ?
Đứng một mình trên ngọn núi hàng trăm nghìn năm
Muôn kiếp không bao giờ có giấc mộng mây mưa
Tấm thân giữ trọn được tiết trinh mãi mãi
Mưa thu như dòng lệ chảy không ngớt
Lớp rêu ghi mãi 1 đoạn văn)
(Vọng phu thạch)
Cảm hứng về thân phận người phụ nữ cô đơn cũng là cảm xúc đẹp, nhân đạo,
gần với quan niệm nhân bản dân gian. Nguyễn Du viết về người đàn bà hóa đá,
nghìn năm chờ chồng như những lời giãi bày, tâm sự của chính mình. Tuy viết để ca
ngợi, để “nghiêng mình” trước sự thủy chung, son sắt, đến đá cũng mòn của người
phụ nữ này nhưng nhà thơ như đang khóc cho chính thân phận của họ. Dù vạn kiếp,
dù thiên thu, dù rêu phủ nhưng tấm lòng bền bỉ, trung trinh của họ đã khiến Nguyễn
Du cảm thấy xót thương.
Nhà thơ đã xúc động khi nhìn đá ngóng chồng, theo tích do hóa thân của
người đàn bà ôm con chờ chồng trên đầu núi ngàn năm hóa thành đá. Cách miêu tả
nhẹ nhàng, bày tỏ cảm xúc một cách đơn giản nhưng thấm thía đủ để lòng người
thêm xúc động trước hình ảnh “đá vọng phu” này. Bài thơ như một nỗi buồn triền
miên, dàn trải khắp không gian và thời gian. Đó là nỗi buồn, nỗi đau đớn của thi
nhân khi tỏ lòng thương xót cho thân phận đau khổ của người thiếu phụ đã thành
đá. Cái đau sâu xa của nàng muôn đời không biến đổi. Trông đợi muôn năm là thế,
nhưng dù người đi có về hay không cũng đã quá muộn rồi. Niềm trân trọng của
Nguyễn Du dành cho hòn vọng phu ở đây được bắt nguồn từ tấm gương đạo đức
của hình tượng này:
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Nhất trinh lƣu đắc cổ kim thân
(Muôn kiếp không bao giờ có giấc mộng mây mưa
Tấm thân giữ trọn được tiết trinh mãi mãi)
(Vọng phu thạch)
Hai câu thơ xoay quanh một vấn đề duy nhất đó là vấn đề trinh tiết của người
vợ chung thủy, một lòng một dạ hướng về người chồng, bất kể là người chồng đối
xử với mình như thế nào. Điển tích "giấc mộng mây mưa" chỉ việc trai gái chung
chạ chăn gối, ấp yêu nhau. Người thiếu phụ hóa đá nghìn năm không thất tiết, tấm
thân nàng mãi mãi trong sạch, tiết trinh. Xét cho cùng, ngôn ngữ và tư tưởng của
Nguyễn Du trong hai câu thơ này vẫn có nguồn gốc từ tư tưởng của đạo đức Nho
gia nam quyền. Đứng từ điểm nhìn của người ngoài cuộc, tác giả đã lý tưởng hóa
phần lý trí của người góa phụ theo điểm nhìn của nhà nho mà có thể vô tình bỏ
qua những tâm tư thầm kín của nàng.
Tuy nhiên, đại thi hào Nguyễn Du lại có được tấm lòng vĩ đại, bao dung, độ
lượng của ông đối với người phụ nữ. Chính cái nhìn nhân đạo, cảm thông với nữ
quyền này đã góp phần giúp Nguyễn Du trở thành một nghệ sĩ vĩ đại, vượt rất xa so
với các nhà nho cùng thời và khác thời.
Trong thế kỷ XVIII, sự vận động của xã hội đã đến chỗ nhà nho thức tỉnh,
phần nào nhận ra tính chất không tưởng, ảo tưởng của những giá trị đạo đức Nho
giáo mà trước đây họ vẫn vững tin là có thể cứu vãn xã hội. Từ quan điểm dân bản,
các nhà nho trong đó có Nguyễn Du đã chuyển sang quan điểm nhân bản, quan
điểm mang tính bản thể luận con người. Trong thơ chữ Hán, ông thể hiện “nỗi đau
đớn” do sự từng trải, nghiệm sinh, qua đó thể hiện cái nhìn đầy nhân văn đối với
từng số phận con người bi kịch trong cuộc đời, trong đó có những người phụ nữ đức
hạnh. Mỗi tác phẩm viết về hình tượng người phụ nữ là một bài thơ mang tính nhân
bản của Nguyễn Du. Ông viết không chỉ để cảm thương sâu sắc, không chỉ để tỏ
lòng ngưỡng mộ, khâm phục phẩm chất, khí tiết của họ, mà ông viết để tỏ lòng, để
giãi bày tâm sự, giãi bày nỗi đau đời khi nhìn thấy những số phận bất hạnh, những
cuộc đời chỉ được ca ngợi, được tạc lên thành “tượng đài”, để nghìn năm đau khổ
trước những số phận của chính họ.
Họ là những người phụ nữ đẹp, đẹp từ tâm hồn đến vẻ bề ngoài theo “quy
chuẩn” của Nho gia. Trong bài Sở bá Vƣơng mộ, người đẹp Ngu Cơ cũng được thi
nhân nhắc đến đầy ẩn ý:
Tịch tịch nhị thời vô tảo tế
Xuân lai Ngu thảo tự tùng sinh.
(Vắng vẻ hai mùa xuân thu không ai quét dọn và tế lễ,
Mỗi lần xuân sang ngọn cỏ Ngu mỹ nhân lại xanh tươi)
(Sở Bá Vƣơng mộ II)
Ở hai câu thơ cuối bài này, Nguyễn Du nhắc đến Ngu Cơ với sự nhớ thương,
đồng cảm sâu sắc. Ngu Cơ là mỹ nhân của Hạng Vũ, bà đã hát họa lại bài “Ngu hề”
cho Hạng Vũ nghe khi bị vây chặt ở đất Cai Hạ. Sau khi chồng bị thất bại, người vợ
xinh đẹp này đã tự sát. Họ chết đi để lại danh tiếng cho đời, để nghìn đời còn nhớ
đến họ với hình ảnh đẹp của người phụ nữ xưa. Trong Sở Bá Vƣơng Mộ, dễ thấy
Nguyễn Du bị chi phối nhiều bởi cách nhìn, quan điểm tư tưởng của nhà nho. Quan
điểm “số mệnh”, số tại trời được ông tiếp nhận một cách triệt để. Sự nghiệp của
Hạng Vũ bị thất bại không phải do hoàn cảnh, không phải do mỹ nhân mà do “số
trời” định đoạt. Nguyễn Du đã uất ức kêu trời, rồi đã chán nản vì không còn biết
thoát ra bằng cách nào, điều đó còn chứng tỏ cho những tư tưởng, suy nghĩ tiến bộ
của Nguyễn Du so với các nhà thơ, nhà văn trước và cùng thời nhưng để tìm ra cách
giải quyết, một lối thoát thì thi nhân lại trở nên bế tắc:
Cập thức bại vong phi chiến tội,
Không lao trí lực dữ thiên tranh.
(Đến khi biết bại vong không phải vì đánh trận kém,
Thì mới thấy đem trí chống lại trời là uổng công)
(Sở Bá Vƣơng mộ II)
Ở hình tượng người phụ nữ đức hạnh, chúng ta có thể nhận thấy Nguyễn Du
chủ yếu nhìn nhận từ quan điểm chính thống của Nho gia. Tuy nhiên, không phải
lúc nào tư tưởng này cũng như nhất. Trong Vọng phu thạch, sau khi hết lời ca ngợi
tôn vinh người phụ nữ trung trinh, thờ chồng cho tới chết, Nguyễn Du đã thể hiện
nỗi niềm băn khoăn trăn trở của mình:
Tứ vọng liên sơn diểu vô tế,
Độc giao nhi nữ thiện di luân
(Bốn hướng mịt mù núi tiếp núi
Luân thường riêng tặng gái, sao cân)
(Vọng phu thạch)
Khi nàng còn sống, mọi trông đợi, hi vọng đã rất thê thảm. Nhưng khi hóa đá
nàng còn thê thảm hơn. Bởi nàng phải gánh chịu hết mọi khổ ải trên thế gian này,
chỉ để làm gương cho hậu thế, hay để nhận lấy những lời khen ngợi ca phú hão. Câu
hỏi của Nguyễn Du có vẻ "ngược đời" đối với xã hội nam quyền đương thời, vốn
coi sự hi sinh, cam chịu của người phụ nữ là tất yếu. Xã hội đó không hề đòi hỏi
nghĩa vụ ngược lại ở những người đàn ông. Ngay những người phụ nữ cũng thấy đó
là điều hiển nhiên, nên làm, cần làm. Câu kết đã phản kháng lại sự bất công đó: xã
hội thương mến trao tặng riêng nàng, thật ra là bắt buộc người đàn bà như nàng,
gánh lấy tất cả sức nặng của luân thường đạo lý một mình. Vậy có công bằng
không? Đây chính là con mắt nhìn thông "sáu cõi nghìn đời" của Nguyễn Du. Thực
ra Nguyễn Du muốn nhân đây để gián tiếp phê phán bọn đàn ông không có luân
thường đạo lý (chỉ có riêng phụ nữ là tiêu biểu cho luân thường), một cảm hứng khá
quen thuộc ở thế kỷ XVIII-đầu XIX. Thế kỷ này là lúc Nho giáo suy vong, các nhà
nho thường lấy chuyện những người liệt nữ để gián tiếp phê bọn nam giới.
Nhìn chung, với việc xây dựng hình tượng người phụ nữ đức hạnh trong
những tác phẩm thơ chữ Hán của mình, nhà thơ Nguyễn Du đang viết bằng những
suy tư, những cảm nghĩ của mình, bằng sự khâm phục và ngưỡng mộ những người
phụ nữ sống và chết một cách đúng nghĩa theo tinh thần Nho gia. Những quy chuẩn
xã hội đã “ngấm” vào những con người như họ, và chính họ đã trở thành những số
mệnh “bất diệt” khi chọn cái chết để bảo toàn phẩm chất, tiết khí của mình. Nguyễn
Du đã nhìn nhận họ như chính những nhà nho cùng thời nhìn nhận và ca ngợi cách
hành xử của họ. Tuy nhiên, điểm tiến bộ của nhà thơ chính là nghĩ và viết về họ,
trăn trở nỗi trăn trở nghìn năm về những số phận của họ. Người phụ nữ đã phải sống
trong xã hội phong kiến cùng những kỷ cương, luân thường đạo lý khắc nghiệt và
họ chấp nhận trở thành những “tượng đài” về đạo đức, về lý tưởng sống. Hơn ai hết,
Nguyễn Du cảm nhận được sự đau khổ, bất lực, thậm chí chấp nhận số phận của họ
nhưng chính ông cũng cảm thấy bất lực, chỉ chia sẻ và cảm thông, nhà thơ không
thể tìm được con đường hạnh phúc cho những số phận bất hạnh như vậy trong chính
xã hội mà ông đang sống, chỉ biết thể hiện tấm lòng nhân đạo của mình qua dòng
thơ đầy xúc cảm một cách tài tình. Cũng chính việc sinh ra trong một xã hội phong
kiến nhiều bất công, phi nghĩa nên tình cảm và những bài thơ của Nguyễn Du viết
về người phụ nữ cũng thật đặc biệt.
2.2 Hình tƣợng ngƣời phụ nữ phản diện
So với hình tượng người phụ nữ đức hạnh là những nhân vật chính diện, hình
tượng người phụ nữ phản diện không được Nguyễn Du chú trọng và dành nhiều tâm
huyết. Đây là những người phụ nữ đáng chê trách về đạo đức, đi ngược lại những
quy chuẩn thẩm mỹ của Nho giáo. Ông chỉ phác họa chân dung, tính cách, số phận
của họ cùng thái độ, cách suy nghĩ của chính nhà thơ đối với họ như một cách nhìn
nhận đa chiều về người phụ nữ. Vẫn giữ quan điểm nhìn nhận của một nhà nho có
tư tưởng tiến bộ, Nguyễn Du đã nhìn nhận về hình tượng người phụ nữ phản diện
một cách thiếu thiện cảm. Bởi Tố Như cho rằng, chính những tính cách, cách hành
xử của họ đã trở thành nỗi “ô nhục” cho hình tượng người phụ nữ chính thống trong
xã hội phong kiến. Chính họ đã làm mất đi vẻ đẹp tài sắc và tâm hồn do chính nhà
nho xây dựng nên cho họ.
Hình tượng người phụ nữ phản diện, đáng chê được Nguyễn Du nhắc đến
trong bài Tam liệt miếu và được miêu tả một cách chân thực, sống động trong bài
thơ Vƣơng Thị tƣợng. Dù không có tần suất nhiều như hai hình tượng phụ nữ kể
trên nhưng cũng đủ để người đọc hiểu về tâm hồn, cách nhìn nhận con người cũng
như quan điểm tư tưởng của nhà thơ về nữ giới trong chính xã hội mà ông đang
sống.
Nếu hình tượng người phụ nữ phản diện trong truyện truyền kỳ của Nguyễn
Dữ được miêu tả những nét tâm lý đời thường, những tình cảm thuần túy, thậm chí,
có cả những nét tâm lý chứa đựng yếu tố thân xác, thể hiện tâm tư thầm kín của
người phụ nữ thì hình tượng này trong thơ Nguyễn Du lại được miêu tả một cách
chân thực về những hành động, ứng xử đạo đức xã hội. Tuy nhiên cũng cần phải
hiểu người phụ nữ phản diện nên hiểu theo nghĩa tương đối, gắn liền với quan điểm
về nữ giới trong bối cảnh văn hóa nhất định. Nét tâm lý ở kiểu người phụ nữ này
chính là cách ứng xử và hành động không theo những chuẩn mực đạo đức Nho gia,
không ứng xử và hành động hoàn toàn vì nam giới như những nhân vật nữ chính
diện đã làm.
Nhà nghiên cứu Nguyễn Huệ Chi cũng đã từng viết về kiểu nhân vật nữ đáng
chê này: Trong thơ chữ Hán Nguyễn Du, đa số nhân vật ngƣời phụ nữ đáng chê
đƣợc nhắc tới nhƣ là một loại ngƣời không có ngoại hình rõ ràng. Nhà thơ nhƣ
muốn nói đến một lớp ngƣời quen thuộc nào đấy, một lớp ngƣời mà ông biết rõ tung
tích, lối sống, ông thân cận với chúng nữa là khác. Nhƣng ông không tiện vạch mặt
chỉ tên thẳng ra, chỉ nói vừa cho ngƣời ta đủ hiểu. Có khi ông dùng một đại từ nhân
xƣng: họ. Có khi ông mƣợn một nhân vật phản diện quá khứ: Tần Cối, Tần Thủy
Hoàng... Tƣởng đâu nhƣ ông chỉ bày tỏ nỗi uất ức với “cái ác” từng tồn tại và mất
hút trong lịch sử đã hàng nghìn năm. Thì bất ngờ, ông cắt ngang dòng hồi tƣởng,
đƣa thời gian trở về với hiện tại. Và chỉ bằng một vài câu kết lấp lửng, ngƣời đọc
chợt hiểu, đây chính là ông đang đối thoại với những con ngƣời còn sống, những
con ngƣời đang tác oai tác quái ngay bên cạnh ông, chạm mặt với ông hàng ngày
giữa cuộc đời thực. Sự chuyển đổi của hai tuyến thời gian trong thơ Nguyễn Du là
một nghệ thuật tinh diệu giúp ta nhận diện trong khoảnh khắc gốc gác đích thực
của những con ngƣời ấy. [10, tr69]
Nếu như trong Tam liệt miếu, Nguyễn Du chọn cách so sánh hình ảnh người
phụ nữ đáng chê để làm nổi bật tính cách, phẩm chất cao đẹp, đáng quý của 3 liệt
nữ thì đến bài thơ Vƣơng Thị tƣợng, nhà thơ đã không ngần ngại sử dụng ngôn ngữ
“đanh”, “sắc” và “nét” của mình để kể, miêu tả, thể hiện cảm xúc của chính mình
khi nghĩ về họ:
Thiệt trƣờng tám xích cánh hà vi?
Hảo dữ quyền gian bị xƣớng tùy
Hậu hoạn chính ân cầm hổ nhật
Tiền công an vấn ẩm long kỳ
Nhất sinh tâm tích đồng phu tế
Thiên cổ hình hài nhục nữ nhi
Để sự tƣởng lai "mạc tu hữu"
Khuê trung tƣ ngữ cánh thùy tri?
(Cái lưỡi dài ba thước của thị để làm gì?
Khéo cùng kẻ quyền gian kết làm vợ chồng
Khi cần bắt hổ để phòng mối lo sau
Thì ai còn đếm xỉa đến cái công hẹn sau này uống rượu mừng
Một đời bụng dạ giống hệt chồng,
Nghìn năm hình hài thị làm nhục nữ giới.
Việc đó nghĩ đến ba chữ "Mạc tu hữu"
Biết đâu không phải lời thị nói riêng với chồng trong chốn buồng the)
(Vƣơng Thị tƣợng I)
Vương thị vốn là vợ của Tần Cối, đời Tống. Lúc bấy giờ, triều đình Nam
Tống có hai phe, phe Tần Cối chủ trương hòa với Kim, phe Nhạc Phi chủ trương
đánh. Tần Cối mạo lệnh vua bắt Nhạc Phi rút quân về, bỏ ngục rồi giết chết. Người
đời sau dựng tượng hai vợ chồng Tần Cối quỳ trước mộ của Nhạc Phi, những người
đi qua có thể dùng roi quất, phỉ nhổ để tỏ lòng căm giận.
Nguyễn Du chỉ dùng những hình ảnh "lưỡi dài ba thước" nhưng cũng đủ khái
quát nên con người của Vương thị cũng như sự khinh miệt, coi thường của ông đối
với hình tượng nhân vật nữ này. Nguyễn Du cho rằng, việc đúc tượng vợ chồng Tần
Cối quỳ trước mộ Nhạc Phi để những ngọn roi muôn đời quất vào chúng là đủ. Tuy
nhiên, ông nghĩ liệu có đáng không khi thân hình được đúc bằng gang thép lưu
truyền muôn năm, làm nhục nữ giới nói riêng. Cách lật ngược vấn đề của tác giả
cũng thật thâm thúy, kín kẽ. Chính vì vậy, Nguyễn Du đã dành tất cả những gì sâu
cay nhất, đáng khinh bỉ nhất để nói về tội lỗi của thị.
Trong bài Vƣơng Thị tƣợng II, Nguyễn Du có dịp nói về Vương thị mưu mô
sâu sắc hơn cả chồng, thị là hạng gà mái gáy sớm bậc nhất. Thị có cái lưỡi dài ba
tấc bất hủ, thân hình lại được đúc bằng gan thép lưu truyền lại muôn đời. Trọn đạo
xướng tùy chắc không có gì hối hận? Thủ đoạn bằng nhau nên càng ăn ý với nhau.
Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh. Chính thị đã phá vỡ quân đội của Nhạc Phi.
Thâm đồ mật toán thắng phu quân
Ƣng thị "thần kê" đệ nhất nhân
Bất lạ dĩ sinh tam thốn thiệt
Thuần cƣơng hoàn đắc vạn niên thân
Xƣớng tùy tận đạo ƣng vô hối
Kĩ lƣỡng đồng niên cánh khả thân
Mạc đạo nữ nhi vô lực lƣợng
Dã tằng hám phá Nhạc gia quân
(Mưu mô sâu sắc hơn cả chồng
Thị là hạng "gà mái gáy sớm" bậc nhất.
Thị có cái lưỡi ba tấc bất hủ,
Thân hình lại được đúc bằng gang thép lưu truyền muôn năm
Trọn đạo xướng tùy, chắc không có gì hối hận,
Thủ đoạn bằng nhau nên càng ăn ý với nhau
Chớ bảo đàn bà không có sức mạnh
Chính thị đã phá vỡ đội quân của Nhạc phi)
(Vƣơng Thị tƣợng I)
Nguyễn Du miêu tả Vương thị bằng giọng điệu gay gắt bởi đó là lời phán xét
nghiêm khắc dành cho người đàn bà xấu xa. Nguyễn Du dường như muốn loại trừ,
dường như không hề muốn Vương thị tồn tại trong thế giới những người phụ nữ.
Người phụ nữ trong con mắt Nguyễn Du là thuần khiết, đáng trọng, đáng thương
chứ không phải là kẻ gây thị phi. Vì vậy, hình hài kia nghìn năm chỉ làm nhục cho
người phụ nữ mà thôi.
Cũng như khi viết về tên gian thần Tần Cối, Nguyễn Du viết liền hai bài thơ
nói về Vương Thị vợ y. Có lẽ nếu chỉ trong một bài, thi nhân không thể giải tỏa hết
nỗi u uất, oán giận trong lòng mình. Những lời lẽ khinh miệt chưa bao giờ dùng để
nói về người phụ nữ, Nguyễn Du đều dành cho Vương Thị.
Trong những bài thơ vịnh sử, phần đầu bao giờ cũng là hình ảnh, hiện thực
lịch sử, phần cuối là những bình luận để rút ra các bài học lịch sử. Nhưng trong bài
thơ Vƣơng thị tƣợng, cả hai bài thơ của Nguyễn Du không có một câu nào khắc họa,
miêu tả tượng Vương thị cùng với chồng thị là gian thần Tần Cối, cũng không có
một câu thơ dành cho tả cảnh. Trong cả bài thơ, vị quan giận dữ điểm mặt gọi tên
Vương thị, thẳng tay kết tội: "chính thị đã từng phá tan quân của họ Nhạc". Cả đời
thươnng xót, bênh vực cho người phụ nữ, giờ ông phải thốt lên chua chát: "Chớ bảo
đàn bà không có sức mạnh". Tuy ít viết về nhân vật gian ác, những mỗi bài, mỗi câu
thơ đều tỏ rõ thái độ, cách đánh giá của mình. Đó là thái độ phủ nhận, phê phán, là
cách đánh giá sắc sảo và khách quan.
Cũng trong bài thơ, Nguyễn Du đã dùng hình ảnh "gà mái gáy báo sáng" để
chỉ người phụ nữ thao túng chính trường. Chưa bao giờ trong cuộc đời sáng tác của
mình ông lại nặng lời với phụ nữ như vậy. Ông luôn dành sự đồng cảm, chia sẻ, trân
trọng đối với người phụ nữ. Thế nhưng đối với Vương thị, ông lại dùng những lời lẽ
chua cay.
Những bài thơ viết về người phụ nữ là hình tượng liệt nữ Nguyễn Du viết
bằng tấm lòng nhân đạo cao cả cùng con mắt nhân ái của mình. Điều đó đủ để
chúng ta thấy được Nguyễn Du như một cây đại thụ, luôn mở lòng lắng nghe âm
vang của từng chiếc lá rơi khẽ dưới chân mình và lắng nghe cả âm vang của những
thanh âm từ quá khứ vọng về. Bao nhiêu bài thơ viết về những linh hồn nghìn xưa
tiết nghĩa là bấy nhiêu lần vị quan thổn thức, khóc thương cho họ. Những bậc thánh
nhân để lại đức trọng muôn đời, những bậc trung thần, nghĩa sĩ danh thơm lưu
truyền, những tấm lòng cô trung phải nhận cái chết thảm khốc, những người phụ nữ
tài sắc nghiêng thành bị xô đẩy vùi dập. Chỉ riêng trong những vần thơ Nguyễn Du
viết về người phụ nữ cũng đủ thấy tấm lòng yêu thương của nhà thơ thẳm sâu đến
nhường nào. Hình tượng người phụ nữ ngời sáng trong thơ Nguyễn Du, lấp lánh
muôn sắc hương diệu kỳ. Nguyễn Du thương xót họ, đồng thời ngưỡng mộ, kính
trọng họ. Ông càng thương xót, càng trân trọng họ bao nhiêu thì càng căm ghét,
khinh bỉ những người phụ nữ bất nghĩa, bất trung như Vương thị bấy nhiêu. Điều đó
chứng tỏ được rằng, Nguyễn Du nhìn nhận con người, nhìn nhận cuộc sống, nhìn
nhận xã hội bằng con mắt thấy “sáu cõi”, bằng sự trải nghiệm và bằng tấm lòng
nhân đạo cao cả của mình.
2.3. Hình tƣợng ngƣời phụ nữ tài sắc, tài tình
Trong văn chương thời trung đại thế kỷ XVIII, quan niệm “kỳ thị nữ sắc” đã
dần được thay thế bằng sự ca ngợi, ngưỡng mộ và yêu thích nhan sắc. Hầu hết các
tác phẩm có nhân vật nữ chính đều chú trọng miêu tả đến yếu tố nhan sắc. Sắc đã
trở thành một giá trị, một nét đẹp không thể thiếu khi nhắc đến hình tượng nhân vật
người phụ nữ. Bên cạnh đó, cái đẹp của người phụ nữ đã không còn bó buộc bởi
những quy chuẩn truyền thống Nho gia. Các nhà văn, nhà thơ thời kỳ này đã nhìn
nhận hình tượng người phụ nữ đẹp từ vẻ đẹp bề ngoài đến vẻ đep tài năng, tâm hồn
của họ. Cũng chính vì điều đó, thế giới nội tâm của họ đã được khám phá, chia sẻ
và cảm thông bởi những tác giả nam giới. Vấn đề được các tác giả nam giới quan
tâm nhất đó là sự giải phóng bản năng sống tự nhiên của con người, mà cụ thể là
khao khát có một cuộc sống hạnh phúc, đời thường.
Trong các tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du chỉ có 5 trong số 250 bài viết về người
phụ nữ tài sắc, tài tình. Đó là nàng Tiểu Thanh trong Độc Tiểu Thanh ký, người ca
nữ đất La Thành trong Điếu La Thành ca giả (Thanh Hiên thi tập), cô Cầm trong
Long Thành cẩm giả ca, người hầu cũ của em trong Ngộ gia đệ cựu ca cơ, nàng
Dương Quý Phi trong Dƣơng phi cố lý (Bắc hành tạp lục)... Tuy chiếm phần ít ỏi,
nhưng dễ nhận thấy, những người phụ nữ tài sắc, tài tình đã trở thành hình tượng
nhân vật có sức "nặng" trong thơ Nguyễn Du. Tố Như đã dành không ít tâm huyết
để thể hiện cảm xúc của mình đối với cuộc đời và số phận của họ. Đây là những bài
thơ tiêu biểu của thi nhân viết về vẻ đẹp cùng nỗi bất hạnh của một lớp người vốn
được xã hội gắn liền với triết lý "hồng nhan bạc mệnh", "tài mệnh tương đố".
Cũng cần phải nhấn mạnh rằng, trong nhóm tác phẩm về đề tài người phụ nữ
tài sắc, tài tình thì chỉ có sự hiện diện của một gương mặt phụ nữ thuộc tầng lớp trên
là Dương Quý Phi, còn lại nàng Tiểu Thanh, về cô cầm đất Long Thành, người con
gái đánh đàn ở La Thành đều là hình tượng người kĩ nữ, ả đào. Do đó niềm cảm
thương "hồng nhan bạc mệnh" không phải là chỉ vấn đề bất hạnh của mỹ nhân nói
chung mà được Nguyễn Du gắn liền với những người kĩ nữ bất. Ngay nàng Tiểu
Thanh, vốn được biết đến là vợ lẽ Phùng Sinh, cũng không loại trừ khả năng xuất
thân là ca kĩ:
Son phấn hữu thần liên tử hậu
(Son phấn có thần chôn vẫn hận)
(Độc Tiểu Thanh kí)
"Son phấn" vốn là tín hiệu để nói người làm ca kĩ. Trong Điếu La Thành ca
giả có viết:
Yên chi bất tẩy sinh tiền chƣớng
Phong nguyệt không lƣu tử hậu danh
(Nghiệp chướng son phấn lúc sống đã không rửa sạch
Sau khi chết chỉ để lại tiếng chăng gió)
(Điếu La Thành ca giả)
Trương Chính trong lời giới thiệu tập Thơ chữ Hán Nguyễn Du đã giải thích
hai câu thơ trên như sau: "Theo chúng tôi thì nhà thơ muốn nói thế này: Nàng chết
rồi nhƣng cái chết của nàng không rửa sạch đƣợc cái nghiệp phấn son lúc sống.
Nghiệp chƣớng là nghiệp chƣớng son phấn, tức là làm ca kĩ" [79, tr14]
Những người phụ nữ này bị coi là "xướng ca vô loài", bị cả xã hội coi thường,
khinh rẻ. Thái độ ấy bộc lộ ngay từ cách gọi tên “con hát”, “bọn ca nhi”. Cách
xưng hô như vậy thể hiện sự xem thường, khinh miệt của cả xã hội đối với những
người làm nghề cầm ca trên chiếu hát. Hầu hết họ xem ả đào là một phần của thú
cầm ca, là thú vui, là công cụ phục vụ nhu cầu giải trí chứ không xem các cô đầu là
con người có số phận, có cuộc đời riêng. Sự thống khổ của kĩ nữ biểu hiện trên
nhiều phương diện, hoặc từ sự áp bức của quan phủ, hoặc do khách làng chơi coi
khinh hạch sách, hoặc từ sự dày vò tâm tư của chính mình. Đối với kĩ nữ mà nói họ
không những biểu diễn tài nghệ, ca múa mà còn thỏa mãn dục vọng cho nam nhi.
Họ trở thành vật hi sinh đáng thương, bị đem ra trao đổi mua bán, hành hạ, cưỡng
bức. Một khi đã chấp nhận dấn thân vào kiếp "vô loài" thì họ bị đè nén và khó lòng
mà thoát nổi. Kiếp kĩ nữ sống không ai đồng cảm trân trọng, chết không kẻ thương
tiếc đoái hoài:
Sống làm vợ khắp ngƣời ta
Hại thác xuống làm ma không chồng
Xã hội Việt Nam trung đại vốn có ý thức coi thường nghề ca xướng, miệt thị
các nghệ sỹ; triều đình cũng quan niệm nghệ sĩ chỉ là kẻ để mua vui. Một quan niệm
đạo đức Nho giáo đề cao trinh tiết, thủy chung như nhất của phụ nữ tất không dung
nạp người ả đào nhan sắc thành tài sản chung cho mọi đàn ông có tiền (họ hay nói
đến vàng, ngàn vàng, lạng vàng). Bởi thế người ả đào chưa bao giờ có được cái nhìn
trân trọng trong xã hội Việt Nam cho đến tận hết thế kỷ XIX.
Bất chấp quan niệm cố hữu "hồng nhan bạc mệnh", "xứng ca vô loài" mang
đậm tình chất tiên nghiệm duy tâm của xã hội đương thời, bằng tấm lòng nhân đạo
của mình, Nguyễn Du đã dành khá nhiều tâm huyết để viết nên mẫu hình tượng
người phụ nữ tài sắc, tài tình. Những yếu tố tiểu sử có thể ảnh hưởng sâu sắc đến đề
tài và cảm hứng sáng tác của thi nhân. Từ nhỏ Nguyễn Du sống cùng người anh
cùng cha khác mẹ là Nguyễn Khản - vị quan lớn nuôi nhiều nuôi nhiều ca nhi trong
nhà, nên đã chứng kiến thân phận của họ. Trong Hoàng Lê nhất thống chí, các tác
giả chép rằng Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ của Nguyễn Du, cũng là bậc
phong lưu, trong nhà không lúc nào ngừng tiếng sênh ca. Về Nguyễn Khản, Vũ
trung tùy bút nói kỹ hơn. Nguyễn Khản thích hát xướng, sành âm luật, thường đặt
những bài hát nhạc phủ ra làm điệu hát nói, được các giáo phường tranh nhau
truyền tụng. Bởi thế mà mỗi khi nghe hát, Chúa Trịnh thường để ông cầm chầu.
Trong nhà ông “không lúc nào bỏ tiếng tơ tiếng trúc”, gặp khi con hát tang trở, ông
cũng cứ cho tiền bắt hát. Người thời đó đều nói gia đình Nguyễn Khản phú quý
phong lưu hết mực. Mẹ Nguyễn Du, vợ thứ ba của Xuân Quận công Nguyễn
Nghiễm xuất thân từ làng quan họ ở Bắc Ninh. Không thấy sử chép mà xuất thân từ
ca nữ, nhưng ắt hẳn là người phụ nữ có nhan sắc thì mới có thể làm vợ của Quận
công Nguyễn Nghiễm. Bà phải chịu cảnh vợ lẽ hèn mọn lép vế theo quan điểm Nho
giáo "vợ thêm con thừa", "vợ lẽ lấy que mà gảy"…
Từ những "điều trông thấy", khác với các nhà nho trước và cùng thời, Nguyễn
Du đã nhìn nhận về cuộc đời, số phận của những người phụ nữ tài sắc, tài tình này
bằng những tình cảm trân trọng, sự cảm thông sâu sắc. Cũng như những hình ảnh về
người phụ nữ tiết khí, đại thi hào đã vẽ lại những giai nhân tuyệt sắc bằng ngòi bút
tài năng của mình. Đó là những người phụ nữ hồng nhan, họ đẹp trong con mắt của
người đời, trong con mắt của chính tác giả và họ đã sống trong một xã hội phong
kiến với vô số những quy định, quy chuẩn về đạo đức. Mỗi một nhân vật phụ nữ tài
sắc, tài tình xuất hiện trong tác phẩm là hiện thân của một vẻ đẹp “sắc nước, hương
trời”. Họ đẹp một cách tự nhiên như chính những gì tạo hóa ban tặng. Và cái nhìn
của Nguyễn Du về người phụ nữ cũng trở nên khách quan và thiện cảm hơn so với
những nhà nho trước và cùng thời với ông.
Từ việc ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp “sắc nước, hương trời” của người phụ nữ
tài sắc tài tình
Tất cả những phụ nữ, một khi đã khoác lên mình tên gọi "kĩ nữ" thì đặc điểm
đầu tiên dễ dàng nhận ra ở họ là nhan sắc. Nguyễn Du miêu tả nàng Tiểu Thanh
(Độc Tiểu Thanh ký), cô Cầm (Long Thành cầm giả ca), người ca nữ đất La Thành
(Điếu La thành ca giả), người hầu cũ của em (Ngộ gia đệ cựu ca cơ), mỗi người có
một vẻ đẹp khác nhau. Tất cả những người phụ nữ này đều có tài năng và nhan sắc,
thậm chí có người là bậc tuyệt sắc tuyệt tài, nức tiếng xa gần. Vẻ đẹp của họ qua
những vần thơ của Nguyễn Du lại càng thêm phần tuyệt sắc, nên thơ. Nguyễn Du
vốn là nhà thơ có biệt tài trong việc miêu tả vẻ đẹp của giai nhân. Điều đó xuất phát
từ sự trân trọng, ngưỡng mộ và cảm thông của ông đối với những con người tài hoa
bạc mệnh.
Nguyễn Du cũng đặc biệt ưu ái đối với số phận những ca nữ. Người ca nữ đất
La Thành chết trẻ đã gây niềm xúc động tiếc thương vô cùng trong lòng Nguyễn Du.
Khắp sáu thành ai ai cũng biết nàng. Vẻ đẹp của nàng như không phải ở chốn nhân
gian đua chen này mà mong manh và kỳ diệu như cánh hoa xinh xắn ở cõi tiên:
Nhất chi nùng diễm há bồng doanh
Xuân sắc yên nhiên động lục thành
(Một cành hoa nồng thắm từ cõi tiên sa xuống
Sắc đẹp xuân tươi làm rung động cả sáu thành)
(Điếu La Thành ca giả)
Trong bài thơ Long Thành cầm giả ca, Nguyễn Du kể lại hai lần gặp gỡ một
người đào hát tên là Cầm ở Thăng Long. Trong lần đầu tiên dưới triều Tây Sơn,
chàng thanh niên quý tộc họ Nguyễn đang phải sống những ngày hết sức phong trần
vì thời cuộc đảo lộn, cô Cầm kiều diễm ấy vẫn hiện ra trước mắt ông như một sức
mạnh, một ánh hào quang rực rỡ khiến cho chính Nguyễn Du và mọi người đều bị
hấp dẫn.
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
(Áo hồng cũng bị mờ nhạt đi trước vẻ mặt hoa đào
Má hồng men rượu vẻ ngây thơ rất đáng yêu)
(Long Thành cầm giả ca)
Người hầu cũ của em lưu lại trong trí nhớ của Nguyễn Du một ấn tượng về sự
trẻ trung duyên dáng cùng giọng ca lôi cuốn, chinh phục hết thảy người nghe:
Hồng tụ tằng văn ca uyển chuyển
(Từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng)
(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
Tất cả họ đều rất đẹp, mỗi người một vẻ. Người thì duyên dáng, người thì
tuyệt sắc giai nhân, có người sắc sảo, có người thì đến cả thiên nhiên cũng phải hờn
ghen. Sắc đẹp của họ cũng như điềm báo về một điều gì đó không lành ở tương lai.
Đến ngƣỡng mộ cảm thông tài năng nghệ thuật của ngƣời phụ nữ tài sắc,
tài tình
Họ không chỉ là những người con gái tuyệt sắc mà còn tuyệt tài. Đến khi miêu
tả tài năng của những con người ấy, Nguyễn Du cũng không ngại ngần dành cho họ
những ngôn từ đẹp nhất. Cô Cầm có tài năng đặc biệt với ngón đàn cầm Nguyễn.
Tiếng đàn của nàng là sự tuyệt vời nơi thượng giới cũng như trong chốn nhân gian:
Hoãn nhƣ sơ phong độ tùng lâm,
Thanh nhƣ song hạc mình tại âm.
Liệt nhƣ Tiến phúc bi đầu toái tích lịch,
Ai nhƣ Trang tích bệnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện
Tiện thị Trung hòa đại nội âm”
(Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu nơi xa thẳm
Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến phúc
Tiếng buồn như Trang tích lúc ốm ngâm rên tiếng Việt
Người nghe như say sưa không biết mệt.
Đó là khúc nhạc trong đại nội Trung hòa)
(Long Thành cầm giả ca)
Tiếng đàn của những người ca nữ dường như trở thành nỗi ám ảnh lớn đối với
Nguyễn Du. Ngay trong tập thơ chữ Hán, hầu hết các nhân vật nữ đều có tài chơi
đàn, như tiếng tì bà của Nga Hoàng, Nữ Anh.
Số phận của một ca nữ như nàng gắn liền với tiếng đàn cầm. Mang lại tiếng
đàn, điệu hát cho người đó là nghề của nàng. Quan lại có thể sẽ ngây ngất trước vẻ
duyên dáng của nàng. Thế nhưng để mọi người phải say mê và không muốn rời
bước, vui thâu đêm thì chính là nhờ khả năng đàn hát của nàng. Nguyễn Du miêu tả
cảnh các tướng lĩnh Tây Sơn ngả nghiêng say sưa nghe tiếng đàn của cô Cầm và vãi
tiền vàng thưởng cho cô, coi tiền như bùn đất…
Tây Sơn chƣ thần mãn tọa tận khuynh đảo
Triệt dạ truy hoan bất tri bão
Tả phao hữu trịch tranh triền đầu
Nêu thổ kim tiền thù thảo thảo
Hào hoa ý khí lăng vƣơng hầu
Ngũ lăng thiếu niên bất túc đạo
(Các quan Tây Sơn trong tiệc rượu đều nghiêng ngả,
Mải vui suốt đêm không biết chán
Phía tả, phía hữu tranh nhau gieo thưởng
Tiền bạc coi rẻ như đất bùn
Vẻ hòa hoa át cả các bậc vương hầu
Còn bọn thanh niên Ngũ lang thì không đáng kể)
(Long Thành cầm giả ca)
Từ đồng cảm thƣơng xót thân phận của ngƣời tài sắc tài tình
Mặc dù chịu ảnh hưởng của ý thức hệ phong kiến, Nguyễn Du không có con
mắt nhìn sai lạc của nhà nho phong kiến, trọng nam khinh nữ. Trong bài Dƣơng phi
cố lý, ông minh oan cho Dương Quý Phi:
Tự thị cử triều không lập trƣợng,
Uổng giao thiên cô tội khuynh thành.
(Chỉ vì cả triều đình đều như phỗng đứng,
Mà nghìn năm cứ đổi tội oan cho sắc đẹp nghiêng thành)
(Dƣơng Phi cố lý)
Không có cái nhìn khinh miệt "yêu khí" mà cảm thông bênh vực, ca ngợi cái
đẹp. Từ đó ông đã tìm ra sự thực nhà Đường mất vào tay An Lộc Sơn không phải vì
Dương Quý Phi, vì sắc đẹp nghiêng thành của nàng, mà phải nói là tội của "cả triều
đình đứng nhƣ phỗng". Không phải ở nhà nho nào cũng có cái nhìn rộng rãi như
Nguyễn Du. Đây là cách nhìn mới, trái hẳn với quan niệm thông thường. Các bậc
nhà nho xưa kia coi Dương Quý Phi là người gây nên tất cả những biến cố của nhà
Đường, thậm chí Lê Thánh Tông còn cho rằng trong con người của mỹ nhân này có
"yêu khí":
Yêu khí lăng cung khuyết
Cao đƣờng mộ vũ biên
(Yêu khí nghi ngút khắp trong cung khuyết,
Cung điện đắm chìm trong cơn mưa chiều)
(Mã Ngôi)
Lê Thánh Tông còn có bài thơ khác kết tội mỹ nhân này:
Ngọc cốt băng cơ nhị,
Dung dung thấp thúy kiều
Trần ô giai dị khiết
Yêu khí tẩy nan tiêu
(Da thịt trong trắng như băng ngọc,
Làn nước long lanh làm ướt cả cây trâm cài tóc bằng ngọc biếc
Sự cáu bẩn trần thế đều dễ dàng tắm rửa để trở nên trong sạch
Nhưng còn yêu khí thì khó mà rửa hết được)
(Hoa thanh trì)
Có thể nói, viết bài thơ Dương Phi cố lý, Nguyễn Du đã tiến một bước dài so
với các nhà thơ theo quan điểm Nho giáo khi lý giải hình tượng người đẹp. Ông viết
về những người phụ nữ nhan sắc tuyệt mỹ bằng cả sự trân trọng, cảm thương.
Theo cách phân tích của nhà nghiên cứu Trần Ngọc Vương trong Nhà nho tài
tử và văn học Việt Nam, Nguyễn Du coi "tài" và "tình" làm nên giá trị con người.
Ông cũng hiểu trong xã hội bấy giờ, người tài vốn hiếm, lại dễ mang họa vào thân
"chữ tài liền với chữ tai một vần". Văn chương Nho giáo chính thống được dùng để
răn đe các "tự quân" và bề tôi. Đồng thời áp đặt những người phụ nữ cũng phải theo
mẫu mực của Nho giáo là "tứ đức". Trong xã hội phương Đông nói chung, những
người phụ nữ tài sắc vẹn toàn thường phải chịu số phận "hồng nhan bạc mệnh". Cái
"đa tình" của người tài tử không chỉ say mê sắc đẹp mà phải biết xúc động đối với
số phận người tài sắc. Vì vậy, Nguyễn Du đã xúc động khi người con gái đẹp như
Dương Quý Phi phải chết oan uổng:
Lang tạ tàn hồng vô mịch xứ
(Hương tàn phấn rã, nay biết tìm đâu)
(Dƣơng phi cố lý)
Trong xã hội phong kiến phương Đông nói chung, Việt Nam nói riêng, thân
phận những người phụ nữ tài sắc không chỉ làm cung phi, làm món mồi tranh đoạt
của những gia đình quyền quý mà chính họ phải mang tài sắc của mình phục vụ cho
nhu cầu ăn chơi, giải trí của những người đàn ông, và họ đã trở thành một lớp người
đặc biệt trong xã hội, đó là những đào nương, ca nương, kĩ nữ. Cũng chính tài năng
đàn hát và sắc đẹp của họ đã khiến họ trở thành thê thiếp của những người đàn ông
có quyền, có tiền trong xã hội. Và cái kết cho họ bao giờ cũng là cuộc sống cực khổ,
cô đơn và bất hạnh, thậm chí có người phải bỏ mạng trong cảnh nghèo đói, bệnh tật,
không cửa không nhà. Bằng sự gắn bó với con người, với cuộc sống, và nhìn sâu
vào lịch sử, Nguyễn Du đặc biệt thương xót cho số phận những người có tài và có
tình. Lòng thương xót của Tố Như đối với những nhân vật kỳ tài bao giờ cũng đằm
thắm, ẩn ngụ trong đó nỗi xót thương cho bản thân, vì như nhà thơ vẫn nói, ông đã
tự xem mình là người có chung một mối “phong vận kỳ oan” với các bậc “giai nhân
tài tử”.
Cuộc đời người ca nữ trong Điếu La thành ca giả tiêu biểu cho thân phận
người ca kĩ, là một cuộc đời vô nghĩa. Xinh đẹp, nổi tiếng, nàng được yêu quý, ngợi
khen. Tất cả những điều đó không còn tồn tại nữa khi nàng chết đi:
Thiên hạ hà nhân liên bạc mệnh
Trủng trung ƣng tự hối phù sinh
(Thiên hạ ai người thương kẻ bạc mệnh?
Dưới mồ chắc cũng hối hận cho cái kiếp phù sinh)
(Điếu La Thành ca giả)
Chẳng ai trên thế gian này có thể đồng cảm được với nàng. Cuộc đời kĩ nữ là
cuộc đời mua vui cho người khác. Người vui còn ta thì ê chề đau đớn. Bi kịch đáng
sợ nhất của con người là bi kịch không tìm được người tri âm, đồng cảm. Hàng
ngày người kĩ nữ gặp gỡ và tiếp xúc với biết bao người, còn riêng họ là phải sống
một cuộc đời cô đơn. Những người khách sẽ quay lưng với những kĩ nữ khi họ tìm
được niềm vui khác . Vì suy cho cùng kĩ nữ cũng chỉ là trò vui giải trí mà thôi, theo
cái nhìn bình thường của xã hội. Nguyễn Du ngậm ngùi xót xa cho người ca nữ chỉ
có cô đơn làm bầu bạn. Họ sống, nhưng lại sống trong "kiếp phù sinh" có thể coi
như chưa hề được sống:
Yên chi bất tẩy sinh tiền chƣớng
Phong nguyện không lƣu tử hậu danh
(Nghiệp chướng phấn son lúc sống cũng không rửa sạch được
Sau khi chết vẫn để lại cái tiếng gió trăng)
(Điếu La Thành ca giả)
Người gảy đàn cầm đất Long Thành (Long Thành cầm giả ca) cũng có số
phận không khác người ca nữ trong Điếu La Thành ca giả. Khi nhắc tới cuộc đời
chìm nổi của nàng, một nỗi đau cứ nghèn nghẹn dâng lên trong cõi lòng của nhà
thơ. Nàng là ca nữ trong cung vua dưới triều Lê. Triều đại phong kiến rối ren, loạn
lạc, nhà Tây Sơn dấy cờ khởi nghĩa, chiến tranh li biến. Đội ca nữ đó người chết, kẻ
bỏ đi. Nàng ôm đàn lưu lạc nơi đầu chợ cuối phố mua vui cho người để sống. Rồi
nàng được tuyển vào đội ca nữ dưới triều Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn bại vong, nàng
lại lư lạc làm ca nữ trong thành hầu vui cho các quan triều đại nhà Nguyễn. Cuộc
đời nàng bị đưa đẩy hết nơi này đến nơi khác, triều đại này đến triều đại khác. Kết
cục cuộc đời nàng thảm hại khi nàng phai phấn nhạt hương. Quy luật của lịch sử, sự
hoán đổi các vương triều thì con thuyền của các ca nữ lại càng lênh đênh, dập dềnh
nơi sóng nước.
Điều quan trọng hơn hết trong những bài thơ viết về hình tượng người phụ nữ
tài sắc tài tình này đó chính là với cảm hứng trung thực của một nhà thơ lớn, từ chỗ
thương khóc cho sự oan uổng của những kiếp tài hoa, Nguyễn Du đã tiến đến chỗ
gợi lên được ít nhiều đặc trưng bản chất của thời đại ông.
Cần chú ý là nhà thơ đã xuất phát từ một con người có thật. Ông chỉ đặc biệt
khai thác ở hình tượng cái phong cách phóng khoáng, vượt khỏi khuôn phép; cái
tiếng đàn đột xuất và tư thế ngang nhiên, coi thường hết thảy mọi người mọi việc
xung quanh, nó chứng tỏ một sức sống mãnh liệt bên trong, và một ý thức về tài
năng thiên phú. Dưới ngòi bút Nguyễn Du, hình tượng nghệ thuật đó quả là đỉnh
điểm của sự sống, của cái đẹp, của năng lực sáng tạo. Đó là “Đương thời thành
trung đệ nhất diệu”- người kỳ diệu bậc nhất Kinh thành lúc bấy giờ. Con người đó
hình như có một sức chinh phục rất mạnh, làm cho tất cả đều rạng rỡ hẳn lên; người
đó ở đâu là thoải mái, rộn ràng, thắm tươi... tràn ngập ở đấy.
Lần gặp gỡ thứ hai, khoảng hai mươi năm về sau như một bước ngoặt cho
cuộc đời cô Cầm, đó cũng chính là bi kịch chung, số phận "hẩm hiu" mà những
người phụ nữ tài tình phải chấp nhận khi sống trong xã hội phong kiến này. Ở lần
gặp sau này, tất cả đều đã thay đổi. Cái cô Cầm xiết bao kiêu hãnh xưa kia thì giờ
đây đã “thân tàn hoa tạ”:
Tịch mạt nhất nhân phát bán hoa,
Nhan sấu, thần khô, hình lƣợc tiểu.
Lang tạ tàn mi bất sức trang,
Thùy tri tựu thị đƣơng thời thành trung đệ nhất diệu?
(Cuối chiếu một nàng tóc đốm bạc,
Mặt gầy, sắc võ, hình nhỏ Nhoi,
Phờ phạc đôi mày không tô điểm,
Ai hay chính người kỳ diệu bậc nhất kinh đô thuở đương thời)
(Long Thành cầm giả ca)
Trong hết thảy lòng người mê đắm tài đàn làm mê đắm tài đàn của nàng khi
ấy, chỉ Nguyễn Du nhìn thấy tấn bi kịch của cuộc đời cô Cầm xót thương đến nghẹn
lòng không khỏi khiến nhà thơ rơi nước mắt:
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
(Khúc xưa đàn lên từng tiếng mà nước mắt tôi thầm rơi,
Tai lắng nghe mà lòng đau xót)
(Long Thành cầm giả ca)
Không những thế, ngay chính cuộc sống và con người lúc này cũng
không còn gì là vẻ lạc quan say sưa thuở trước. Một cảm giác buồn nản, một cái gì
đã đổ vỡ, đã suy tàn, trùm lên tất cả:
Thành quách suy di nhân sự cải,
Kỷ xứ tang điền biến thƣơng hải.
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong,
Ca vũ không di nhất nhân tại.
(Thành quách đổi thay người chuyển dời,
Bãi biển nương dâu biết mấy nơi.
Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tán sạch,
Chỉ còn một người con hát thôi)
(Long Thành cầm giả ca)
Trong Truyện Kiều rất nhiều lần Nguyễn Du nhắc đến nỗi bất hạnh mà người
tài sắc phải gánh chịu:
Đau đớn thay phận đàn bà,
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
…Thƣơng thay cũng một thân ngƣời,
Khéo thay mang lấy sắc tài làm chi.
… Nghĩ đời mà ngán cho đời,
Tài tình chi lắm cho trời đất ghen.
Trong thơ chữ Hán, mỗi bài thơ viết về người phụ nữ tài sắc tài tình đều là một
nỗi lòng chất chứa bao sâu lắng, trăn trở của Nguyễn Du. Ông đau cho nỗi đau của
họ, ông khóc cùng họ và ông cảm thương cho số phận bi kịch của họ như cảm
thương cho chính mình. Hình ảnh "hương phấn, phấn son" như một mã văn học cho
những người phụ nữ tài sắc bạc mệnh xuất hiện trong thế giới thơ của Nguyễn Du.
Nàng Tiểu Thanh cũng được nhà thơ đề cập đến "phấn son có thần", lại thêm "văn
chương" và "số mệnh".
Qua hình ảnh đáng thương của một cô gái tài sắc mà chết yểu khi mới 18 tuổi,
người đọc cũng phải xúc động:
Chi phấn hữu thần liên tử hận
Văn chƣơng vô mệnh lụy phần dƣ
(Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết,
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Câu thơ như nói lên sự thấu hiểu những con người đau khổ như Tiểu Thanh.
Cả bài thơ gửi gắm rất nhiều tâm tư, tình cảm của một nhà nho tài tử thương xót cho
người con gái tài năng, phúc mỏng như nàng. Nhà thơ hiểu rằng, nếu như nàng
không hay thơ, hẳn không buồn và không đến nỗi uất hận mà chết. Vì vậy, Nguyễn
Du đã đặt thêm "văn chương" bên cạnh "mệnh bạc" để ngầm như nói văn chương
hay thường bạc mệnh. Phải chẳng Tiểu Thanh cũng hay thơ nên trời đất ghen?:
Bản vô văn tự năng tăng mệnh
Hà sự kiền khôn thác đố nhân
(Vốn chẳng có văn chương nào ghét được số mệnh
Làm sao trời đất lại ghen lầm người)
(Tự thán II)
Không chỉ viết về nàng Tiểu Thanh với mệnh bạc, đời buồn, Nguyễn Du còn
làm thơ về người gảy đàn Nguyễn và Điếu cho ca nữ đất La Thành. Ở họ ông thể
hiện niềm thương xót cho số phận của những người làm ca kĩ. Phải chăng một phần
vì mẹ của ông, một người hát bội và xuất thân từ một gia đình bình thường lại lấy lẽ
một ông quan to trong triều. Các nhà nghiên cứu cũng phán đoán một cách hợp lý
rằng, bà là một cô gái đẹp và giỏi nghề ca xướng mà trở thành nàng hầu của quan tể
tướng họ Nguyễn. Điều này đã ảnh hưởng đến tư tưởng, quan điểm của Nguyễn Du
suốt từ thời thơ ấu đến những sáng tác của ông sau này. Nguyễn Du luôn có lòng
trắc ẩn đối với phụ nữ nói chung và người ca kĩ nói riêng, bởi họ đều có tài và mang
cái tài đó để mua vui cho người khác.
Từ những ca nữ mua vui đất La Thành đến cô người hầu ở nhà người em,
Nguyễn Du đều viết nên những dòng thơ đầy xúc động:
Phúc bồn dĩ hĩ nan thu thủy
Đoạn ngẫu thƣơng lai vị tuyệt ti
Hiến thuyết giá nhân dĩ tam tử
Khả liên do trƣớc khứ thời y
(Chậu nước đổ, thế là thôi, khó lòng vét lại
Ngó sen đứt, thương thay, tơ vẫn còn vương!
Nghe nói lấy người khác đã được ba con
Đáng ái ngại vẫn còn mặc chiếc áo ngày trước)
(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
Thời trẻ, cô nàng hầu đã từng sống trong cảnh giàu sang phú quý mà nay đã
trở thành người phụ nữ “ba con”, và “vẫn còn mặc chiếc áo ngày trước”. Số phận
người phụ nữ dù ở tầng lớp nào, dù xinh đẹp, tài giỏi đến đâu đều trở nên bi
kịch, đau khổ trước sự quăng quật của cuộc đời, cụ thể đó là xã hội phong kiến
đương thời.
Nguyễn Du luôn trăn trở cho số phận bất hạnh của những người phụ nữ như
thế. Tác giả đã bộc lộ nỗi thương cảm của mình ẩn chứa trong những câu thơ chứa
niềm chua xót, nặng lòng với những con người ấy như hình ảnh "cọng sen đứt
nhưng vẫn còn những sợi tơ bền luyến lưu". Đó là nỗi tủi hờn, cảm thông, tiếc nuối
lúc gặp lại nàng hầu cũ của người em:
Hồng tụ tằng vân ca uyển chuyển,
Bạch đầu tƣơng kiến khốc lƣu ly
(Từng nghe giọng ca uyển chuyển khi mặc áo hồng,
Nay đầu bạc gặp nhau, khóc than nỗi lưu ly)
(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
Có thế nói Nguyễn Du là người có sự đồng cảm với kiếp hồng nhan một cách
sâu sắc. Vốn là một bậc chân Nho nhưng khi tiếp cận với người phụ nữ tài sắc,
Nguyễn Du đã không đem giáo lý Nho gia để nhìn nhận, đánh giá mà luôn đặt mình
vào trong vị thế của họ để có thể thấm thía đến tận cùng nỗi đau khổ của phận má
đào, nhất là người kĩ nữ. Thông qua người bài thơ trong tập thơ chữ Hán của ông,
chúng ta gần như đang xem một cuốn phim quay chậm về cuộc đời các kĩ nữ. Xem
xong cuốn phim, chúng ta thấy thương yêu một người con gái chịu quá nhiều bi
kịch khi mới chỉ là thiếu nữ. Chúng ta cũng thấu hiểu hơn nỗi lòng của những ca nữ
trong cung thông qua cuộc đời bếp bênh của họ, xót xa cho những người xưa từng
là người đẹp, đàn hay hát giỏi phải chịu cảnh tàn tạ, rách nát, cuộc sống cơ cực.
Đến cảm thƣơng cho chính thân phận của mình
Những kĩ nữ ả đào là lớp người đem tài sắc, nghệ thuật, âm nhạc, thi ca làm
nghề nghiệp kiếm sống. Đó là một trong những kiểu văn sĩ chuyên nghiệp đầu tiên
trong lịch sử văn học nghệ thuật. Cùng thời đại bấy giờ nhiều nhà thơ cũng đã lấy
thơ nhạc làm lẽ sống, lấy cái đẹp của nghệ thuật làm mục đích, đã biết đến một thứ
"văn chơi" bên cạnh thứ văn "vị đời":
Lời quê chắp nhặt dông dài
Mua vui cũng đƣợc một vài trống canh
Chính vì thế giữa người nghệ sĩ và kĩ nữ ả đào có sự tương thông đặc biệt,
đều là giống "hữu tình". Tình là tình cảm, là nỗi niềm của con tim, là cảm xúc.
Người có tài trước hết là người có tình, là người sống thiên về cảm xúc hơn là lí trí,
có khả năng phô diễn, truyền đạt các cảm xúc đó thành thi ca và âm nhạc. Trong
Truyện Kiều, Nguyễn Du đã xót xa khi nhận thấy một triết lý: tài tình là nguồn gốc
của bất hạnh, là nguyên nhân gây ra sự ghen ghét của trời đất (Tài tình chi lắm cho
trời đất ghen).
Nguyễn Du cũng là một người nghệ sĩ, tự nhận mình bị trời ghét bởi mang cái
nghiệp "văn chương":
Tam thập hành canh lục xích thân,
Thông minh xuyên tạc tổn thiên chân
Bản thân văn tự năng tăng mệnh
Hà sự kiền khôn thác đố nhân
(Tâm thân sáu thước đã ba mươi tuổi rồi
Vì thông minh làm xuyên tạc, hại đến tính trời
Vốn chẳng có văn chương nào ghét được số mệnh
Làm sao trời đất lại ghen làm người)
(Tự thán II)
Từ đó ông ý thức được thân phận của những nghệ sĩ thực sự trong xã hội cũ,
trong đó có chính mình, qua những bài thơ viết về ca nhi, kĩ nữ. Viết về những
người tài sắc, tài tình, Nguyễn Du không chỉ thể hiện lòng cảm thông thương xót
mà ông còn tìm thấy ở họ sự đồng điệu lớn trong tâm hồn. Tìm hiểu chủ nghĩa nhân
bản trong thơ chữ Hán Nguyễn Du cũng chính là tìm hiểu nỗi lòng của người nghệ
sĩ trước những người đồng cảnh ngộ. Những người đẹp xuất hiện trong thơ Nguyễn
Du đều được tác giả nhắc đến như những số mệnh bị trời ghen ghét.
Khi miêu tả tài đàn hát của cô Cầm, Nguyễn Du nhấn mạnh tác động về mặt
cảm xúc:
Lịch loạn ngũ thanh tùy thủ biến.
Hoãn nhƣ sơ phong độ tùng lâm,
Thanh nhƣ song hạc minh tại âm
Liệt nhƣ Tiến Phúc bi đầu toái tích lịch
Ai nhƣ Trang Tích bệnh trung vi Việt ngâm".
(Năm cung réo rắt thay đổi theo ngón tay.
Tiếng khoan như gió thoảng qua rừng thông
Tiếng trong như đôi chim hạc kêu nơi xa thẳm
Tiếng mạnh như sét đánh tan bia Tiến phúc
Nghe buồn hư Trang Tích lúc ốm ngâm rên tiếng Việt).
(Long Thành cầm giả ca)
Tiếng đàn của cô Cầm khiến nhà thơ nghẹn lòng, rơi nước mắt:
Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
(Khúc xưa đàn lên từng tiếng mà nước mắt tôi thầm rơi
Tôi lắng nghe mà lòng đau xót)
(Long Thành cầm giả ca)
Nguyễn Du chứng kiến cô Cầm và người hát cũ của em, xưa trẻ trung, tươi
đẹp, tài hoa bao nhiêu thì bây giờ tàn tạ, tiêu điều bấy nhiêu. Cảm xúc về lẽ bể dâu,
hưng phế, về sự tương đồng giữa thân thế những người nghệ sĩ dâng trào mãnh liệt
trong lòng Nguyễn Du. Ông ngậm ngùi nghĩ tới mái đầu bạc trắng của mình:
Trăm năm thấm thoắt đƣợc mấy nỗi
Buồn cho chuyện cũ áo đẫm lệ rơi
Ta từ Nam ra đầu bạc cả rồi
Trách chi ngƣời đẹp nhan sắc cũng tàn phai
(Long Thành cầm giả ca)
Nay ta đầu bạc, gặp nhau, khóc vì cảnh lƣu ly
Chậu nghiêng nƣớc đổ, thế là xong, khó lòng vét lại cho đầy
Buồn thay thơ còn vấn vƣơng ngó sen gãy
(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
Trong Điếu La Thành ca giả, Nguyễn Du cảm thương nỗi cô đơn, không
người tri kỉ của người ca nữ. Tác giả đoán định, chỉ có xuống suối vàng làm bạn với
Liễu Kỳ Khanh:
Tƣởng thị nhân gian vô thức thú,
Cửu tuyền khứ bạn Liễu Kỳ Thanh
(Điếu La Thành ca giả)
Liễu Kỳ Thanh (987? - 1053?) tức Liễu Vĩnh đời nhà Tống cũng là một nhà
thơ nổi tiếng. Ông làm nhiều bài thơ từ tả cảnh sống của kỹ nữ bị áp bức trong xã
hội phong kiến và tỏ mối đồng tình với họ. Ông thay họ nói lên lòng mong mỏi rất
hợp tình hợp lý là được sống cuộc đời hạnh phúc, cuộc đời thông thường như mọi
người. Khi viết những dòng đoán định ấy, Nguyễn Du cũng thể hiện sự đồng tình
với quan điểm nhân bản của nhà thơ đất nước Trung Hoa.
Viết tác phẩm Độc Tiểu Thanh ký, Nguyễn Du không chỉ viết về thân phận
nàng Tiểu Thanh, một nhân vật kĩ nữ tài tình nhưng mệnh yểu mà nhà thơ viết như
liên tưởng đến thân thế của chính mình và những người làm thơ văn nghệ thuật, một
thứ thơ văn không phải để lập thân, nói chí, giáo huấn mà để bộc lộ cảm xúc. Ông
nêu lên một câu hỏi: Vì sao người tài tình thường khổ? Câu hỏi ấy vẫn treo lơ lửng
giữa trời xanh. Bao giờ và ai là người giải đáp hữu hiệu?
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chƣơng vô mệnh lụy phần dƣ
Cổ kim hận sự thiên nan vấn
Phong vận kỳ oan ngã tự cƣ”
(Son phấn có thần chắc phải xót xa vì những việc sau khi chết
Văn chương không có số mệnh mà cũng bị đốt dở
Những mối hận cổ kim, khó mà hỏi trời được
Ta tự coi như người cùng một hội với kẻ mắc lỗi oan lạ lùng vì nét
phong nhã)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Đọc bài thơ Độc Tiểu Thanh ký, ta thấy Nguyễn Du như đang muốn tỏ lòng,
như đang muốn giãi bày tâm sự về cuộc sống. Bài thơ của ông như dâng trào niềm
thương cảm cho chính bản thân. Từ cuộc đời đau khổ hồng nhan đa truân, sắc tài
mệnh yểu của Tiểu Thanh (1594-1612) sống vào triều đại Minh bên Trung Hoa,
Nguyễn Du (1765-1820), với sức đồng cảm lạ thường của người có cặp mắt trông
suốt sáu cõi, tấm lòng nghĩ tới nghìn đời đã khái quát thành một trong những qui
luật của muôn đời. Hận, oan vốn là những chữ, những khái niệm thường dùng trong
văn chương thời cổ trung đại ở phương Đông. Cổ nhân dùng chúng để biểu hiện
những cung bậc, những sắc thái khác nhau của nỗi buồn nhân thế, thời thế và thân
thế. Đó cũng là những chữ mà người xưa dùng để thể hiện sự tự ý thức về bản ngã.
Hận là nỗi đau đớn tột cùng không thể giải tỏa, không thể sẻ chia vì những giá trị,
những năng lực, những tài năng, phẩm giá... của con người bị lãng quên, bị phí
hoài. Oan là sự tự ý thức của cổ nhân về các giá trị người bị chà đạp, bị kết tội một
cách thậm vô cớ và vô lí. Trong thơ mình, Nguyễn Du chủ yếu thể hiện nỗi đau đứt
ruột, xé lòng trước những đau khổ bất hạnh về tâm và thân của những giai nhân tài
tử rơi vào cảnh đời ngang trái, bởi tài mà không đƣợc gặp gỡ, tình mà không đƣợc
hả hê (Mộng Liên Đường chủ nhân).
Con người đặc biệt là người tài tình, người đẹp chính là sự kết tinh những
phẩm giá người cao nhất, lại thường đau khổ. Mang cái tài cái đẹp chính là mang
cái mầm mống của khổ đau, mang cái bản án của định mệnh phũ phàng nghiệt
ngã... Ngay từ cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX, Nguyễn Du đã chỉ ra sự bất công
của tạo hóa, số phận bi kịch của người phụ nữ tài hoa như chính là số mệnh mà trời
đất định đoạt cho họ. Thương người như thể thương thân, thương thân như thương
người, phải chăng đó là Nguyễn Du? Ông đã nhìn ra trong nỗi đau của đồng loại nỗi
đau của chính mình, và trong nỗi đau của chính mình, ông thấy được nỗi đau của
đồng loại. Giọt nước mắt khóc nàng Tiểu Thanh trở thành lời ai điếu cho mọi kiếp
tài hoa bạc mệnh, trở thành giọt nước mắt khóc chính mình. Ông mơ hồ lo lắng:
Bất tri tam bách dƣ niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhƣ
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Chiếc gạch nối xuyên thời gian, không gian ấy có ý nghĩa như một yêu cầu
phổ quát đặt ra cho mọi dân tộc, mọi thời đại về thái độ nhân hậu, trước hết là sự
cảm thông đối với cái đẹp, sự hoàn thiện hoàn mĩ thể chất và tâm hồn con người.
Nỗi đồng cảm của các thời đại với nhau. Bài thơ với phương thức trữ tình, giọng
thơ chân thành, thông cảm, xót xa có thể xem như một biểu dương, tranh đấu cho
một giá trị, một quan niệm nhân văn về người phụ nữ nói riêng và những người tài
hoa trong xã hội nói chung.
Có thể suy đoán rằng triết lý “tài mệnh tương đố” được bắt nguồn từ những
quan sát và suy ngẫm lâu dài của Nguyễn Du về thân phận của chính mình, về
những người phụ nữ nói chung và nhân vật kĩ nữ tài sắc tài tình nói riêng mà ông đã
có dịp chứng kiến ngay trong gia đình mình và bắt gặp đâu đó trên đường đời.
Chính tấm lòng yêu thương, đồng cảm ấy cho thấy Nguyễn Du có tầm nhân bản cao
hơn các nhà nho khác. Điều đó cho thấy Nguyễn Du đã nhập thân sâu sắc vào cuộc
sống và số phận nhân vật để tạo nên tiếng nói đồng cảm. Đạt đến tầm quan trọng
nhất là Nguyễn Du đã thể hiện hình tượng người phụ nữ theo nhiều tính cách khác
nhau, đặc biệt đã có mối chia sẻ và đề cao họ là người có tài, có sắc, đồng cảm
trước những bất công, những vất vả mà họ phải gánh chịu trong cuộc sống.
2.4. So sánh ngƣời phụ nữ trong Thơ chữ Hán với ngƣời phụ nữ trong Truyện
Kiều
2.4.1. Sự khác biệt giữa ngƣời phụ nữ trong Thơ chữ Hán và Truyện Kiều
Có thể nói, hình tượng người phụ nữ trong thơ Nguyễn Du, cả chữ Hán và chữ
Nôm đã trở thành hình tượng chính, phổ biến. Cũng không phải ngẫu nhiên Nguyễn
Du đã dành khá nhiều thời gian và tâm huyết để viết nên những hình ảnh phụ nữ đa
dạng, nhiều chiều trong thơ của mình, đặc biệt là khi nhà thơ đang sống trong xã hội
nam quyền, một xã hội đề cao quyền lợi của người đàn ông, một xã hội mà tiếng nói
của người phụ nữ gần như trở nên vô nghĩa. Ngoài những đề tài như thiên nhiên,
người nổi tiếng đến những người bình dị mà ông bắt gặp trong xã hội thì người phụ
nữ là hình tượng được tác giả gửi gắm nhiều tâm sự, nhiều nỗi lòng, nhiều sự trăn
trở của mình đối với cuộc đời và thời thế. Ở Truyện Kiều, Nguyễn Du chọn một cô
gái nhà nhà lành bị rơi vào nhà chứa làm nhân vật chính, một nhân vật mà một số
nhà nho đầu thế kỷ XX như Huỳnh Thúc Kháng gọi là đĩ, để thể hiện cách nhìn của
mình, một người nam đối với người nữ. Với cốt truyện vay mượn độc đáo được
xem như lá chắn vững chắc, Nguyễn Du thể hiện một cách nhân bản, sâu sắc đầy
tính nhân đạo khi nhìn về cuộc đời, cách hành xử của người con gái tài sắc vẹn toàn
như Thúy Kiều. Đối với thơ chữ Hán, Nguyễn Du viết bằng cảm hứng, cảm xúc của
mình khi bắt gặp một sự việc đời thường, vì thế những sáng tác chữ Hán có chừng
mực hơn, có che chắn tinh vi hơn. Nhưng ở đó, người đọc vẫn nhận ra được
Nguyễn Du là nhà thơ nữ quyền, có tinh thần bênh vực và cảm thông sâu sắc đối
với người phụ nữ trong xã hội phong kiến.
Từ hoàn cảnh ra đời dẫn đến sự khác biệt về cách nhìn nhận ngƣời phụ
nữ khác nhau
Mỗi một giai đoạn, mỗi thời kì con người sẽ có cách nhìn nhận vấn đề, có
những quan điểm, tư tưởng khác nhau, do sự chi phối mạnh mẽ của thời đại cũng
như sự trưởng thành của họ trước trải nghiệm từ cuộc sống. Tập thơ chữ Hán và
truyện thơ Nôm Truyện Kiều lần lượt được ra đời trong hoàn cảnh lịch sử khác
nhau. Trước sự thay đổi của xã hội, con người cũng như quan điểm tư tưởng, dễ
nhận thấy từ Thơ chữ Hán đến thơ chữ Nôm có những điểm nhìn khác nhau và có
sự chuyển biến trong thống nhất về mặt tư tưởng, quan điểm của nhà thơ Nguyễn
Du. Và lẽ dĩ nhiên, mỗi một tác phẩm, chuỗi tác phẩm không chỉ phản ánh một cách
sinh động về đời sống, về cuộc đời trong một giai đoạn nhất định của tác giả mà còn
đánh dấu bước ngoặt lớn trong tư tưởng nghệ thuật và nội dung của tác phẩm.
Những tác phẩm trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du chủ yếu được sáng tác trong
thời kỳ đầu trong sự nghiệp sáng tạo nghệ thuật của đại thi hào Nguyễn Du. Khi tiếp
cận 250 bài thơ chữ Hán, người đọc sẽ nhìn thấy được cả một xã hội rối ren, loạn
lạc, nhìn thấy được cuộc đời cùng nỗi trăn trở, suy tư của tác giả trước thời vận. Tập
thơ chữ Hán được viết chủ yếu trong thời kỳ "lặn lội" chốn quan trường của Nguyễn
Du. Đó là Thanh Hiên thi tập viết chủ yếu trong những năm tháng trước khi làm
quan nhà Nguyễn, Nam trung tạp ngâm viết khi làm quan ở Huế, Quảng Bình và
những địa phương ở phía nam Hà Tĩnh, chuỗi những ghi chép trong Bắc hành tạp
lục trong chuyến đi sứ sang Trung Quốc. Mỗi một hành trình được ông chiêm
nghiệm và viết nên những bài thơ nổi tiếng trong tập thơ chữ Hán của mình.
Lắng nghe thơ chữ Hán Nguyễn Du là lắng nghe một nỗi niềm tâm sự lớn,
lắng nghe hơi thở của một thời đại bể dâu. Từ những nỗi niềm ấy, ta lại thấy tỏa ra
thứ ánh sáng đẹp đẽ của một chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn sâu sắc. Đặc biệt với
hình tượng người phụ nữ nhìn ở góc độ giới, và dựa trên cơ sở của hoàn cảnh ra đời,
người đọc nhận thức sâu sắc rằng, thơ chữ Hán Nguyễn Du thanh lọc tâm hồn con
người, đưa con người về gần với giá trị nhân bản của mình hơn.
Ở hành trình thơ chữ Hán của mình, ngoài những bài thơ viết về thiên nhiên,
về bậc danh tài, Nguyễn Du còn dành tâm huyết cho những bài thơ viết về hình
tượng người phụ nữ. Nếu như những nhà nho trước và cùng thời, chủ yếu viết về
thiên nhiên để nói lên tâm trạng của mình thì Nguyễn Du lại gửi gắm nỗi niềm chất
chứa trong lòng về cuộc đời và thời cuộc qua những bài thơ viết về phụ nữ. Ông
sinh ra và lớn lên giữa một thời tao loạn, chứng kiến biết bao cuộc đổi thay. Ngay
gia đình ông cũng là cả một tấm bi kịch với sự phân hóa quyết liệt, vì người mang
tâm sự hoài Lê, người nhập cuộc với Tây Sơn, có người chống đối hoặc theo về với
nhà Nguyễn. Bản thân ông cũng bị xô đẩy, vừa mới được giữ một chức quan nhỏ
dưới thời Lê mạt thì phong trào Tây Sơn dấy nghĩa, ông trở thành cánh bèo trôi dạt,
khi ở quê vợ Thái Bình, khi về lại núi Hồng, sông Lam. Đến ngày ra làm quan với
nhà Nguyễn và được trọng dụng thì tuổi đã sang chiều, hơn nữa lại phải ở bên "chúa
lạ", nơi dẫu sao mình cũng chỉ dự một vai phụ, một chân "chầu rìa". Vì thế, dường
như ông luôn bị phân thân, xa gần thấy triều đại nào mình cũng chịu ân sủng và
cũng thấy những điều bất cập, trái chiều, khó có thể tận trung tận hiếu. Vì vậy,
không khó để nhận ra những điều suy tưởng của ông trong những hình tượng người
phụ nữ trong thơ. Họ có thể là những người mà ông bắt gặp trên đường đời, có thể
là những người phụ nữ đã chìm khuất trong lịch sử… Tất cả đều dựa trên cảm hứng
thực tế, từ những chuyến đi ông gặp lại họ, hay gặp lại những hình ảnh về họ để tạo
nên những cảm xúc lớn viết nên tâm sự, tri ân đến họ…. Trên tất cả là sự nhập thân,
cảm thông sâu sắc của chính tấm lòng Nguyễn Du với mọi kiếp con người. Mỗi tứ
thơ, mỗi câu thơ của ông đều chan chứa nỗi niềm, bộc lộ tiếng nói cá nhân nghệ sĩ
theo một cách nhìn riêng, một điểm nhìn khác biệt trước thực tại.
Bên cạnh tập thơ chữ Hán đồ sộ, Nguyễn Du còn “nâng tầm” của mình lên
thành đại thi hào, lên tập đại thành của văn học và văn hóa Việt Nam khi sáng tạo
nên truyện thơ chữ Nôm Truyện Kiều. Nếu như những bài thơ chữ Hán thể hiện
được cảm xúc, tâm hồn, quan điểm của ông đối với người phụ nữ, đối với cuộc sống
và thời đại thì 3254 câu thơ trong Truyện Kiều lại thể hiện một cách đa dạng khả
năng sáng tạo của một người nghệ sĩ, khả năng chuyển tải cách nhìn nhận về cuộc
sống một cách đa dạng nhiều chiều, nhìn nhận về người phụ nữ một cách linh hoạt,
đầy màu sắc cũng như tấm lòng dạt dào yêu thương. Truyện Kiều được sáng tác vào
khoảng thời gian tác giả đã trải qua nhiều thăng trầm, biến cố của của cuộc sống
cũng như của chính cuộc đời mình. Vì vậy, tất cả những tinh hoa của Tố Như được
chắt lọc và thể hiện một cách sâu sắc nhất, tinh tế nhất qua tác phẩm Truyện Kiều.
Tác phẩm Truyện Kiều được Nguyễn Du dựa trên nội dung của tác phẩm Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Tuy mượn cốt truyện
nhưng từng hình tượng nhân vật, từng chi tiết nhỏ của cuộc sống trong Truyện Kiều
đều được thể hiện một cách sinh động, đầy màu sắc sáng tạo mang dấu ấn phong
cách Nguyễn Du. Và chắc chắn rằng, phải có một tâm hồn nghệ sĩ lớn, một năng lực
sáng tạo phi thường và “con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả ngàn
đời”, “lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm trên tờ giấy,
khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn như đứt ruột” (lời Tiên
Phong Mộng Liên Đường chủ nhân) thì Nguyễn Du mới có được những vần thơ
chữ Hán chất nặng suy tư và kiệt tác Truyện Kiều.
Nếu như ở Tập thơ chữ Hán, những suy tư, trăn trở về thời cuộc, về số phận
con người, đặc biệt là người phụ nữ được gợi từ những con người có thực trong
cuộc sống mà Nguyễn Du chứng kiến thì ở Truyện Kiều, Nguyễn Du đã sáng tạo
hoàn toàn, ông chỉ dựa vào cốt truyện của một tiểu thuyết Trung Quốc để dựng lên
cả một xã hội Truyện Kiều đa chiều. Truyện Kiều là một thành công lớn trong việc
phản ánh cuộc sống sinh động đương thời, phản ánh cuộc sống số phận con người
qua cách xây dựng hình tượng nhân vật đa dạng, sắc nét. Ở tập thơ chữ Hán,
Nguyễn Du xây dựng những hình tượng nhân vật phụ nữ cơ bản trong xã hội như
tiết liệt, người phụ nữ tài sắc, tài tình như ca nữ, kĩ nữ… thì ở Truyện Kiều, người
đọc nhìn thấy sự phong phú và vô cùng sinh động bởi nhiều hình tượng người phụ
nữ, mỗi một hình tượng đại diện cho một lớp người trong xã hội, đại diện cho tiếng
nói và tâm tư của họ trong xã hội… Tất cả đều được Nguyễn Du tưởng tượng, sáng
tạo và khắc họa một cách đầy đủ và sắc nét. Đó là chuyển biến “ngoạn mục” của
Nguyễn Du, để ông xứng đáng trở thành nhà thơ đại diện cho tiếng nói, tâm tư tình
cảm của nhân dân.
Sự khác biệt ở điểm nhìn của nhà thơ Nguyễn Du
Trong giai đoạn đầu sáng tác kéo dài đến những năm ra làm quan với triều
Nguyễn, Nguyễn Du có Thanh Hiên thi tập bày tỏ tâm trạng hoang mang, xót xa về
thân phận "chân trời góc bể", "đi khắp chân trời lại đến góc biển", "mối sầu man
mác", "một nhánh cỏ bồng đứt gốc trước gió tây", "người đã đến bước đường
cùng"... Nỗi đau đời, thương đời tiếp tục theo đuổi ông trong những ngày ra làm
quan và thể hiện trong cả tập thơ Nam Trung tạp ngâm. Được làm quan, với ai kia
thì có thể là cả một niềm khắc khoải, một dịp vinh thân và cơ may tiến thân, riêng
với Nguyễn Du, ông ngại ngần và cảm nhận nhiều hơn ở phía mặt trái, những hệ
lụy, ràng buộc "Khá thƣơng mình đầu bạc vẫn phải chịu để ngƣời sai khiến - Không
cùng với núi xanh giữ đƣợc thủy chung" (Vọng trông chùa Thiên Thai). Trong Bắc
hành tạp lục, bên cạnh mấy bài thơ viết về Thăng Long dâu bể, xót thương từ một
kiếp ca nhi, một nàng hầu và biết bao người xưa cảnh cũ đã phai bạc dần theo năm
tháng, còn lại tất thảy đều viết về chuyến đi sứ Trung Quốc kéo dài qua suốt một
năm trời. Nhìn chung, ba tập thơ chữ Hán cho thấy quá trình sáng tác phù hợp với
từng chặng đường đời và tư tưởng tác giả. Xuyên suốt nội dung các bài thơ là tiếng
nói trữ tình, tiếng nói nhân văn giữa một thời tao loạn, tiếng nói khắc khoải tìm về
giá trị và ý nghĩa đích thực của cuộc sống con người.
Có thể nói, Nguyễn Du sáng tác thơ chữ Hán trước hết là để gửi gắm nỗi niềm
riêng. Ông đã “tự họa” chân dung như một con người lẻ loi, nếm trải nhiều cay
đắng, thất vọng song cũng thật cứng cỏi, kiêu hãnh khi gìn giữ sự trong sạch, thanh
cao của lòng mình. Và giữa bao nhiêu ngổn ngang, bế tắc vẫn thấy ngời lên ánh
sáng của một trái tim chưa bao giờ nhầm lẫn trong yêu thương, đau đớn, phẫn nộ...
Hình tượng “tự họa” của Nguyễn Du không chỉ thể hiện thế giới tâm hồn phong
phú, phức tạp của một nghệ sĩ lớn mà còn có khả năng phản ánh và khái quát hiện
thực sâu sắc. Bởi vì, ông đã không hề tách rời cuộc đời mình khỏi số phận của một
lớp người, một thời đại. Trái lại, mọi đau buồn, phẫn uất mà Nguyễn Du bộc lộ đều
gắn liền với những nỗi đau thương bao trùm lên thân phận con người lúc bấy giờ.
Chúng bắt nguồn từ bao nhiêu biến cố của lịch sử. Trong những giọt lệ âm thầm
thấm trên trang thơ chữ Hán có nước mắt Nguyễn Du khóc cho Tố Như, có nước
mắt Tố Như khóc cho con người.
Trong thơ chữ Hán với từng bước đường Nguyễn Du trải nghiệm cùng cuộc
sống thực tại và chốn quan trường, hình ảnh người phụ nữ được xây dựng dựa trên
điểm nhìn của một nhà nho thời phong kiến và cả tư tưởng phi Nho. Nguyễn Du
đứng trên lập trường tư tưởng của Nhà nho, dùng hệ tư tưởng Nho giáo để soi chiếu
những hành động, cuộc đời, số phận của những người phụ nữ được ông viết trong
tập thơ của mình.
Viết về họ, tay bút của ông chừng như uyển chuyển hơn, nhẹ nhàng hơn. Hình
ảnh người phụ nữ hiện lên trong thơ Nguyễn Du đẹp đẽ, thuần khiết như làn mây,
điểm tuyết, như hoa mai trắng nở trên đỉnh núi cao. Đó là một Tiểu Thanh nhan sắc
"có thần", một nàng Cầm "báu vật chốn kinh thành" với ngón đàn tuyệt kĩ, một
Dương Phi nghiêng nước, nghiêng thành. Vậy mà cuộc đời họ thế nào? Cuộc đời họ
là cả một bể khơi nước mắt oán sầu, là cả một đại dương mênh mông, dồn dập
những cơn sóng khổ đau bão tố. Tiểu Thanh như hoa xuân lìa đời khi vừa chớm nở,
vừa bén hương đời. Và cô gái gảy đàn ở thành Thăng Long lộng lẫy ngày nào nay
chỉ còn lại:
Nhan sấu thần khô hình lƣợc tiểu
Lang tạ tàn mi bất sức trang
(Nét mặt võ vàng thần sắc khô khan, thân hình hơi nhỏ
Đôi mày tàn tạ phờ phạc không trang điểm)
(Long Thành cầm giả ca)
Người ca nữ Long Thành trở thành hình ảnh tiêu biểu cho số phận bi kịch của
người phụ nữ trong xã hội xưa. Viết về chủ đề người kĩ nữ, Nguyễn Du có lẽ cũng
đã tiếp nhận những âm vang trong Tỳ bà hành của Bạch Cư Dị song nhà thơ đã đem
lại cho Long thành cầm giả ca một âm điệu khác. Số phận của người ca nữ được
lồng trong số phận của thời đại:
Tây Sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca nữ không di nhất nhân tại
(Cơ nghiệp Tây Sơn tiêu tan hết cả rồi
Chỉ còn sót lại một người ca mua)
(Long Thành cầm giả ca)
Khi “ngụp lặn” trong chính xã hội phong kiến mà mình đang sống, được sinh
ra và lớn lên trong gia đình có truyền thống Nho giáo, lẽ dĩ nhiên Nguyễn Du sẽ xây
dựng những trong thơ bằng tư tưởng của một nhà nho. Ở tập thơ chữ Hán, người
đọc nhận thấy rằng, hình tượng người phụ nữ như người phụ nữ tiết liệt, người phụ
nữ tài sắc tài tình và người phụ nữ đáng chê được xây dựng trong thơ bằng cách so
sánh, hồi tưởng, liên tưởng… Nhà thơ đã viết về cuộc đời họ bằng việc liên tưởng
khi bắt gặp sự việc trong cuộc sống, hay hồi tưởng lại những cuộc gặp gỡ họ trong
những câu chuyện lịch sử, hay đơn giản là những người phụ nữ ông gặp trong cuộc
sống… Tất cả đều được soi chiếu qua lăng kính của một nhà nho. Bởi với ông, một
người phụ nữ đáng được trân trọng là những người có phẩm chất, tiết khí theo quy
định của Nho giáo. Đó là những người trung trinh, giữ được khí tiết khi thời vận đổi
thay. Bên cạnh đó, Nguyễn Du có cách nhìn sâu sắc về người phụ nữ tài sắc tài tình.
Ông trân trọng họ bởi họ là lớp người thấp hèn trong xã hội, luôn chịu thiệt thòi,
khổ đau và thường có số phận bi kịch trong xã hội phong kiến lúc bấy giờ. Nguyễn
Du thương xót cho thân phận của họ, cho cuộc đời tài hoa của họ như thương xót
cho chính mình, thương xót cho cuộc đời cô đơn, bạc bẽo của mình.
Thơ chữ Hán Nguyễn Du còn cho thấy phần sâu kín trong tâm trạng ông. Tập
thơ như một tập nhật ký, giãi bày mọi nỗi niềm, mọi ý nghĩ trong cảnh sống thường
nhật của chính ông. Tập thơ như một tiếng thở dài luận bàn nhân tâm thế sự, xót
thương thân phận và phơi bày hiện thực cuộc sống bi thương trong xã hội phong
kiến cả ở nước ta lẫn ở Trung Hoa thuở ấy. Cũng từ chính cảnh ngộ của mình ông
đã cảm thông sâu sắc, tạo nên tình cảm thấm thía cho những bài thơ thương đời.
Thương đời và thương mình đều thổn thức và da diết.
Bên cạnh tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du đã trở thành đại thi hào dân tộc và là
một tác giả văn học lớn của nhân loại qua cách xây dựng và sáng tạo truyện thơ chữ
Nôm Truyện Kiều. Nếu như thơ chữ Hán bày tỏ nỗi lòng, niềm đau từ điểm nhìn
bên ngoài những sự vật, sự việc mà ông bắt gặp trong cuộc đời thì Truyện Kiều lại
là sự nhập thân, “chín” từ tư tưởng, quan điểm của hơn nửa thế kỷ nghiệm sinh
trong cuộc đời. Trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã thể hiện xuất sắc nhân vật bằng
trí tưởng tượng phong phú cùng ngòi bút sắc sảo, thấu hiểu cuộc sống. Mỗi một
nhân vật điển hình trong Truyện Kiều lại là một hình tượng phổ biến trong xã hội,
được Nguyễn Du ghi nhận, khái quát và sáng tạo một cách sinh động và ấn tượng
qua thể thơ lục bát. Sự khác biệt về điểm nhìn đó góp phần làm nên sự đa sắc trong
giọng thơ, trong tư tưởng cũng như cách nhìn nhận về cuộc đời của thi nhân.
Truyện Kiều được Nguyễn Du mượn cốt truyện của tiểu thuyết Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc. Việc vay mượn này có thể coi
như là cái mặt nạ tốt để giúp ông nói lên được những tư tưởng đạo đức thẩm mỹ,
mà thơ chữ Hán khó nói, không thể nói. Quan niệm về sắc tình, về trinh tiết của
nàng Kiều là cởi mở. Kim Trọng sau khi được nghe Kiều gẩy đàn và thấy nàng làm
thơ quá hay thì không chỉ yêu chuộng tài năng mà còn say đắm nhan sắc nghiêng
nước nghiêng thành của nàng. Trong lúc con tim rạo rực và tình yêu bốc cháy, Kim
Trọng có hành động lả lơi dục tình, như thói thường của người con trai khi được
ngồi gần người mình yêu:
Sóng tình dƣờng đã xiêu xiêu
Xem trong âu yếm có chiều lả lơi
Thấy chàng có hành động muốn chiếm hữu thân xác mình quá vội vàng,
Kiều đã tỏ ra là người luôn tôn trọng luân thường đạo lý, bèn mắng khéo chàng.
Nàng không phải là gái lẳng lơ; nàng muốn nói cho chàng biết khi nào làm vợ, nàng
sẽ noi gương người xưa trở nên vợ hiền và lúc nào cũng chiều theo ý chồng. Khi
chưa kết hợp thành vợ chồng thì đừng có làm hỏng cái trinh tiết của nàng. Nếu chỉ
vì yêu xác thịt thì nàng có cầu mong lấy Kim Trọng làm gì!
"Thƣa rằng đừng lấy làm chơi,
Dẽ cho thƣa hết một lời đã nao.
Vẻ chi một đóa yêu đào,
Vƣờn hồng chỉ dám ngăn rào chim xanh.
Đã cho vào bậc Bố-kinh,
Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu.
Ra tuồng trên Bộc trong dâu,
Thì con ngƣời ấy ai cầu làm chi!"
Chính vì giữ mình trong sạch để chờ ngày vu quy mà Kiều đã từ chối hiến
dâng thân xác mình cho Kim Trọng khi hai người chưa thành hôn. Nhưng sau khi
tình nguyện bán mình làm vợ Mã Giám Sinh để cứu cha, Kiều hối hận, vì đã không
cho Kim Trọng được hưởng cái hạnh phúc thân thể của nàng:
Biết thân đến bƣớc lạc loài
Nhị đào thà bẻ cho ngƣời tình chung!
Trải qua 15 năm lưu lạc, được trở về nhà, biết mình không còn trinh trắng
như thuở đầu mới yêu nhau, Thuý Kiều đã quyết chí tu hành và phản đối việc tái
hôn thành cập vợ chồng chung chăn chung gối. Nếu Kim Trọng còn yêu nàng thì
hãy coi nhau như tình bạn, chơi cờ, ngâm thơ và gẩy đàn cho nhau nghe như xưa
cũng đủ rồi. Nếu chàng cứ nhất quyết đòi hỏi về tình dục thì chàng có khác gì
những người đã qua đi trong đời nàng: "Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi!"
Từ rày khép cửa phòng thu,
Chẳng tu thì cũng nhƣ tu mới là.
Chàng dù nghĩ đến tình xa,
Đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ
và:
“Chữ trinh còn một chút này
Chẳng cầm cho vững lại dày cho tan!
Còn nhiều ân ái chan chan
Hay gì vầy cánh hoa tàn mà chơi”
Cái cao đẹp của Thúy Kiều là sự trinh trong của trái tim, của tình yêu mà
nàng đã dành cho chàng ngay trong thời gian trốn cha mẹ, trèo qua tường sang nhà
Kim Trọng và thề non hẹn biển với chàng.
Điều đáng chú ý, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã để Kim Trọng - người
đàn ông, người thề ước với Thúy Kiều chiêu tiết cho nàng. Đối với Kim Trọng thì
Kiều là:
"Xƣa nay trong đạo đàn bà,
Chữ trinh kia cũng có ba bảy đƣờng.
Có khi biến có khi thƣờng,
Có quyền nào phải một đƣờng chấp kinh.
Nhƣ nàng lấy hiếu làm trinh,
Bụi nào cho đục đƣợc mình ấy vay?"
Gƣơng trong chẳng chút bụi trần,
Một lời quyết hẳn muôn phần kính thêm
Như vậy, thi hào Nguyễn Du, qua vai trò Kim Trọng, đã làm cuộc cách mạng
văn hóa và đem lại giá trị cho phụ nữ, không còn coi việc trai tơ lấy gái Nạ-dòng là
xấu nữa; mà "Hoa tàn mà lại thêm tƣơi, Trăng tàn mà lại hơn mƣời rằm xƣa!"
Có thể nói Nguyễn Du đã bày tỏ quan niệm mới mẻ, cởi mở của mình về sự
cao quý của chữ “trinh” ở Kiều nói riêng và phụ nữ nói chung. Trinh về phương
diện sinh lý hay thể xác; và Trinh về tâm hồn hay tinh thần.
Trong tập Thơ chữ Hán, chủ yếu với kiểu tư duy nhà nho khi quan sát và thể
hiện con người Nguyễn Du sử dụng tư duy phân loại. Với kiểu tư duy này Nguyễn
Du phân loại triệt để con người trong cái nhìn của mình thành nhân vật chính diện
(người phụ nữ đức hạnh, người phụ nữ tài sắc tài tình) và nhân vật phản diện (đáng
chê về đạo đức). Nếu như nhóm nhân vật thứ nhất được ca ngợi, trân trọng cảm
thương bao nhiêu thì nhóm nhân vật thứ hai bị lên án gay gắt bấy nhiêu.
Tuy nhiên trong Truyện Kiều, bên cạnh những nhân vật mang tính cách một
chiều còn có những nhân vật trung gian. Trong số nhân vật nữ, ngoài loại nhân vật
phản diện như Tú Bà lại có những nhân vật trung gian như Hoạn Thư vừa độc ác lại
vừa còn lương tâm. Sau khi bí mật cho người bắt Kiều về, Hoạn Thư đánh đập Kiều
rất dã man:
Trúc côn ra sức đập vào
Thịt nào chẳng nát gan nào chẳng kinh
Sau đó Hoạn thư đã bắt Kiều phải hầu hạ, đánh đàn cho bữa tiệc của hai vợ
chồng. Tuy nhiên, Hoạn Thư, không phải là người đàn bà tàn ác, mất hết lương tâm.
Chứng cớ là khi nghe Kiều đánh đàn thì:
Tiểu thƣ xem cũng thƣơng tài
Khuôn uy âu cũng bớt vài bốn phân
Và nàng còn nói với Thúc Sinh về kẻ đã dám tranh cướp chồng mình những
lời thấu cận nhân tình sau đây:
Rằng: “ Tài nên trọng mà tình nên thƣơng!
Ví chăng có số giàu sang,
Giá này dẫu đúc nhà vàng cũng nên!
Bể trần chìm nổi thuyền quyên,
Hữu tài thƣơng nỗi vô duyên lạ đời!”
Rồi Hoạn Thư còn đồng ý cho Thuý Kiều ra tu ở Quan Âm Các… Nhưng rồi
chính Hoạn Thư lại phải chứng kiến cảnh Kiều, Thúc dãi bày khúc nhôi với nhau
ngay trước mắt ( Hoa rằng bà đến đã lâu,-Nhón chân đứng nép độ đâu nửa giờ,-
Rành rành kẽ tóc chân tơ,-Mâý lời nghe hết đã dƣ tỏ tƣờng.- Bao nhiêu đoạn khổ
tình thƣơng,- Nỗi ông vật vã nỗi nàng thở than.- Ngăn tôi đứng lại một bên,- Chán
tai rồi mới bƣớc lên trên lầu.). Vậy mà, hãy xem cách ứng xử của người đàn bà này
trước cảnh oái oăm, trớ trêu trên:
Tiểu thƣ đâu đã rẽ hoa lối nào
Cƣời cƣòi nói nói ngọt ngào
Hỏi:” Chàng mới ở chốn nào lại chơi ?”…
Hoạn Thư biết hết mà coi như không biết chút gì. Rồi khi Kiều ăn trộm
chuông vàng khánh bạc nhà họ Hoạn trốn đi, Hoạn Thư không cho người đuổi theo
bắt lại, cũng không báo quan. Chính vì vậy cho đến khi đã là phu nhân của đại
vương Từ Hải, Thuý Kiều mở phiên toà báo ân báo oán; nàng xác định: Chính danh
thủ phạm tên là Hoạn Thƣ, nàng kiên quyết báo thù. Nhưng rồi trước những lí lẽ
thấu tình đạt lý và cách ứng xử khôn ngoan của Hoạn Thư, Thuý Kiều đã phải tha
bổng cho Hoạn Thư.
Hoạn thư là một trong những nhân vật sinh động, hấp dẫn nhất, đời nhất,
sống động nhất trong thế giới nghệ thuật Truyện Kiều, một trong những nhân vật thể
hiện sâu sắc nhất cảm quan hiện thực trải đời của thiên tài Nguyễn Du. Hoạn Thư
xấu hay tốt ? Là nhân vật chính diện hay phản diện? Tích cực hay tiêu cực? Đúng
nhất, Hoạn Thư là một nhân vật, một con người đã từ trang sách bước vào cuộc đời,
là mẫu gốc, là siêu mẫu… là sự hoá thân, trải nghiệm, tinh hoa, tinh huyết của cụ
Nguyễn Tiên Điền đó thôi.
Như vậy, sáng tác Nguyễn Du bao hàm một phương diện đặc biệt không thể
không ghi nhận, đó là sự tự ý thức sâu sắc về thân phận của người nghệ sĩ. Truyện
Kiều là tiếng than cho thân phận đầy bi kịch của người kĩ nữ tài sắc, một hình mẫu
điển hình cho người nghệ sĩ chuyên nghiệp trong xã hội xưa. Không phải ngẫu
nhiên mà một nhà nho ở thế kỷ XIX - Tiên Phong Mộng Liên Đường chủ nhân đã
giải mã tác phẩm: Thúy Kiều khóc Đạm Tiên, Tố Nhƣ khóc Kiều. Ngƣời đời nay
khóc ngƣời đời xƣa, ngƣời đời sau khóc ngƣời đời nay, hai chữ tài tình là mối thông
lụy của bọn tài tử khắp cả gầm trời và suốt cả xƣa nay. Nhà thơ khóc thương cho
nàng Tiểu Thanh, cho nữ nghệ sĩ đất Long Thành. Nguyễn Du đã tiến tới nhận thức
tự giác về thân phận cay đắng, đau khổ của những người nghệ sĩ trong đó có chính
ông. Cái giá mà những người nghệ sĩ nổi tiếng phải trả cho các sáng tác nghệ thuật
lớn nhiều khi là cả cuộc đời của họ, cả sự nghiệp chính trị của họ. Điểm nhìn của
Nguyễn Du về con người không còn là điểm nhìn của một nhân cách nhà nho đánh
giá con người theo tiêu chí đạo đức nữa. Nguyễn Du không chỉ thương người mà
còn thương thân, thương chính mình. Nguyễn Du cảm nhận vấn đề thân phận của
những người nghệ sĩ thông qua sự chiêm nghiệm thân phận chính mình.
Tập thơ chữ Hán chú trọng đến tài năng và đạo đức, thơ Nôm chú trọng
đến việc miêu tả cả sắc đẹp, dục tính, tài năng và đạo đức
Từ điểm nhìn xuất phát từ nhận thức cũng như quan điểm tư tưởng về người
phụ nữ, chúng ta thấy được hình tượng người phụ nữ trong thơ chữ Hán ít được
Nguyễn Du “đầu tư” công phu về mặt hình ảnh. Từ cách nhìn truyền thống mỹ học
Nho gia, trọng đức hơn trọng sắc, trọng đức hơn trọng tài, nhà nho Nguyễn Du đã
viết về những hình ảnh người phụ nữ được đánh giá là đẹp và được lưu truyền trong
sử sách hoặc lưu truyền trong dân gian. Nhắc đến họ, ai cũng biết đến vẻ “sắc nước
hương trời”, nhưng Nguyễn Du chú trọng nhiều hơn đến việc miêu tả tài năng của họ.
Người gảy đàn cầm đất Long Thành là một ca nữ trong cung vua dưới triều
Lê. Triều đại phong kiến rối ren, loạn lạc, nhà Tây Sơn dấy cờ khởi nghĩa, chiến
tranh ly biến. Đội ca nữ đó người chết, kẻ bỏ đi. Nàng phải ôm đàn lưu lạc nơi đầu
chợ cuối phố mua vui cho người để sống. Rồi nàng được tuyển vào đội ca nữ dưới
triều Tây Sơn. Khi nhà Tây Sơn bại vong, nàng lại lưu lạc làm ca nữu trong thành
hầu vui cho các quan lại triều Nguyễn. Cuộc đời nàng bị đưa đẩy hết nơi này đến
nơi khác, triều đại này đến triều đại khác. Kết cục cuộc đời nàng thảm hại trong
thân xác phai phấn nhạt hương. Chỉ còn tiếng đàn, cái tiếng đàn một thời như hiện
thân, chứng nhân cho cuộc đời nàng. Dòng chảy lịch sử, sự hoán đổi các vương
triều khiến con thuyền của các ca nữ lại càng lênh đênh và dập dềnh trên sóng nước.
Ngƣời đẹp đất Long Thành
Họ tên không nhớ rõ
Riêng giỏi đàn cầm Nguyễn
Nên mọi ngƣời trong thành gọi nàng là cô Cầm
(Long Thành cầm giả ca)
Tài năng luôn là một giá trị không thể thiếu trong việc miêu tả nhân vật nữ
trong thơ của Nguyễn Du. Trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du chú trọng đến tài năng
để nêu bật lên thân phận hẩm hiu, bi kịch của người phụ nữ. Số phận cô Cầm trở
nên nghiệt ngã khi thời gian đã lấy đi tuổi trẻ và nhan sắc của họ. Cô Cầm ở đây
cũng vậy, thời gian cứ chầm chậm trôi qua, và cứ thế, lấy đi những gì là đẹp nhất
của nàng, để đến lúc chợt nàng nhìn lại sau hai mươi năm:
Riêng ở cuối chiều có ngƣời tóc hoa râm
Mặt gầy, thần sắc võ vàng, ngƣời nhỏ nhắn
Lông mày xác xơ không điểm tô
Ai biết đó lại là ngƣời tuyệt diệu nhất kinh thành thời xƣa
(Long Thành cầm giả ca)
Nàng đã đi qua tuổi trẻ, đi qua thời vàng son, đi qua thời xuân sắc nhất của đời
người. Dửng dưng và cô độc. Đến cái chốn nương thân nàng cũng không có, không
người thân, không gia đình, không người bầu bạn. Con người ngồi đó với một thân
hình tiều tụy, không buồn điểm tô ấy chính là người đã từng được ca ngợi là “người
tuyệt diệu nhất kinh thành xưa. Nàng chẳng còn gì ngoài tiếng đàn nức lòng người.
Tiếng đàn đó cũng có thể được xem như một người bạn, vì giờ đây, tiếng đàn là thứ
duy nhất có thể gửi gắm tâm sự. Đi hết cuộc đời rồi trở về với con số không, trở về
với thân xác võ vàng và mái tóc hoa râm. Sau hai mươi năm, đến giờ gặp lại, nhìn
người đẹp ngày xưa giờ tiều tụy, xác xơ, Nguyễn Du xót xa cho thân phận ấy. Ông
thương cho cuộc đời nàng, thương cho kiếp hồng nhan mà phải chịu bao sóng gió,
lênh đênh để rồi cuối đời là một con số không. Nghĩ từ mình để nghĩ cho người
nhiều hơn:
Trăm năm thấm thoắt đƣợc mấy nỗi
Buồn cho chuyện cũ, áo đẫm lệ rơi
Ta từ Nam ra đầu bạc cả rồi
Trách chi ngƣời đẹp nhan sắc cũng tàn phai”.
(Long Thành cầm giả ca)
Cũng nằm trong chùm thơ viết về số phận các ca nữ, Ngộ gia đệ cựu ca cơ vẫn
có những nét tương đồng nhưng lại có những nét riêng:
Nhân vật đất phồn hoa, sau cơn loạc lạc, đều đối khác,
Chim hạc đen bay về chốn cũ, mấy ai biết
Xƣa áo hồng phất phới, từng đƣợc nghe lời ca uyển chuyển
Nay ta đầu bạc, gặp nhau, khóc vì cảnh lƣu ly
Chậu nghiêng nƣớc đổ, thế là xong, khó lòng vét lại cho đầy
Buồn thay thơ còn vấn vƣơng ngó sen gãy
Nghe nói lấy chồng đã có ba mặt con
Nhƣng vẫn mặc áo thời trƣớc, đáng thƣơng thay
(Ngộ gia đệ cựu ca cơ)
Không những thế, từ việc miêu tả tài năng, ông đã thể hiện tấm lòng của mình
khi kể chuyện, miêu tả về cuộc đời của họ, thể hiện quan điểm cá nhân cũng như
nỗi buồn vương thương tiếc, xót xa cho số phận đau khổ, bi kịch của họ.
Và cũng chính vì thể hiện một cách thành công nỗi lòng của chính bản thân về
cuộc đời, về thân phận con người mà Nguyễn Du đã vượt qua được quan niệm
truyền thống, trọng đức hơn trọng sắc để đến với loại tiểu thuyết “tài tử giai nhân”
của Trung Quốc, nơi nhân vật chính là những người có sắc, tài, đức kết hợp nhuần
nhuyễn. Bước đột phá của Nguyễn Du trong nghệ thuật thể hiện nhân vật bắt đầu từ
việc miêu tả ngoại hình Thúy Vân, Thuý Kiều. Nguyễn Du đã sử dụng hình tượng
thiên nhiên như một công cụ để tô đậm vẻ đẹp ngoại hình hai nàng:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cƣời , ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nƣớc tóc, tuyết nhƣờng màu da
hay
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn,
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh”
Trọng sắc không dừng lại ở việc tả vẻ đẹp chân dung con người mà bao hàm
cả sự trân trọng thân thể. Do đó, chúng ta có bức tranh Kiều tắm được nhà nho
Nguyễn Du tả rất táo bạo:
“Buồng the phải buổi thong dong,
Thang lan rủ bức trƣớng hồng tắm hoa.
Rõ ràng trong ngọc trắng ngà,
Rành rành sẵn đúc một tòa thiên nhiên!”
Nếu như trong thơ chữ Hán, Nguyễn Du đứng trên lập trường quan điểm
Nho gia để ca ngợi phẩm chất, đạo đức, tiết nghĩa của người phụ nữ. Ông khâm
phục, ngưỡng mộ trước những người phụ nữ cam chịu ở vậy khi tình duyên lỡ dở
hay gặp cảnh góa bụa, thậm chí chí sẵn sàng chết để bảo vệ đạo đức, trinh tiết thì ở
Truyện Kiều, Nguyễn Du lại đứng trên quan điểm cá nhân để tôn trọng những khát
khao tính dục ở nhân vật Thúy Kiều. Khi tình yêu với Kiều vừa bén, Kim đã vượt
trào khỏi giới hạn của một nho sĩ chính hiệu để đòi ân ái với Kiều, nhưng bị Kiều
nhân danh đạo đức Nho giáo từ chối. Lập trường Nho giáo của Kiều chỉ là cái vỏ,
cái lõi của thái độ từ chối ái ân này chính là cái run rẩy sợ hãi hậu quả tâm lý của
sinh hoạt tình dục:
Trong khi chắp cánh liền cành,
Mà lòng rẻ rúng đã giành một bên
Đó là cái tâm lý của con người tập nhiễm thái độ coi thường tình dục, coi rẻ
những người phụ nữ dấn thân trong tình dục. Nhưng chính trong lúc từ chối ái ân,
Kiều lại để lộ thái độ cảm thông với thiệt thòi của người yêu, dường như việc ái ân
đó là một quyền chính đáng lẽ ra Kim được hưởng:
Vội chi liễu ép hoa nài,
Còn thân ắt sẽ đền bồi có khi.
Một lời hứa thật nhân văn, nhưng đã thoáng chút bi quan về tương lai, dường
như Kiều dự cảm được cái mong manh của tấm thân trần thế. Quả nhiên, tấm thân
Kiều trở thành hàng hoá, Kiều ám ảnh bởi món nợ tình dục với Kim:
Biết thân đến bƣớc lạc loài,
Nhị đào thà bẻ cho ngƣời tình chung.
Nho nhã thanh cao và trong sạch là vậy, nhưng chàng Kim lại là người ám
ảnh Kiều nhiều nhất về vấn đề sex, khi thì như một ân hận tiếc nuối, khi thì như một
sự băn khoăn dằn vặt. Và khi nói về tình dục trong những đoạn nói về chàng Kim,
câu chữ của Nguyễn Du hết sức tao nhã.
Không chỉ miêu tả vẻ đẹp về ngoại hình, Thúy Kiều còn được Nguyễn Du
luôn gắn chặt vẻ đẹp ấy với tài năng, với phẩm chất tinh thần tốt đẹp mà đặc biệt là
tài năng văn chương nghệ thuật: tài thơ và tài đàn:
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thƣơng lầu bậc ngũ âm ,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trƣơng .
Khúc nhà tay lựa nên chƣơng.
Thúy Kiều là người đam mê sáng tác thi ca, đắm say biểu diễn nghệ thuật. Từ
đầu đến cuối Truyện Kiều, tất cả có tám lần Thúy Kiều đánh đàn và mười một lần
nàng làm thơ. Những lần Kiều làm thơ theo "đơn đặt hàng" (Mã Giám Sinh, Quan
phủ…) không có cảm xúc, chỉ trổ tài theo lối phô trương kĩ xảo thì Nguyễn Du không
tả cụ thể mà lướt qua. Còn lại những lần Kiều làm thơ, nhất là khi đàn đều do cảm
xúc, dạt dào cảm xúc. Khúc nhạc đầu tiên Kiều đánh cho Kim Trọng nghe bản nhạc
do chính mình soạn ra đã làm cho Kim Trọng phải thương tâm, sầu não trong lòng:
Khi tựa gối khi cúi đầu
Khi vò chín khúc khi chau đôi mày
Rằng: hay thì thật là hay
Nghe ra ngậm đắng nuốt cay thế nào
Tài đánh đàn của Kiều có khả năng truyền đạt cảm xúc, động đến lòng người,
trở thành phương tiện để giáo hóa:
Bốn dây nhƣ khóc nhƣ than
Khiến ngƣời trong tiệc cũng tan nát lòng
Cũng trong một tiếng tơ đồng
Ngƣời ngoài cƣời nụ, ngƣời trong khóc thầm
Tiếng đàn của Kiều khiến Hoạn Thư động lòng hỏi. Thế rồi khi đọc tờ khai
của Kiều, Hoạn thư đồng ý cho Hoa Nô vào Quan Âm Các sau vườn để chép kinh.
Những lần khác Kiều đàn cho Thúc Sinh, Hồ Tôn Hiến. Mỗi lần tiếng đàn
của nàng của nàng đều "Nỉ non thánh thót làm say lòng ngƣời".
Có thế nói rằng, lần đầu tiên trong lịch sử văn học nước nhà, hình ảnh người
phụ nữ hoàn mĩ về hình thức lẫn tâm hồn được thể hiện dưới ngòi bút của thiên tài
Nguyễn Du một cách say sưa, nồng nhiệt, tập trung và trân trọng nhất. Đó là một
cái nhìn của con người có tấm lòng nhân đạo mênh mông như ngọn nước triều
dâng. Nguyễn Du đã mở đường cho tư tưởng của mình đi trước thời đại.
2.4.2. Sự tƣơng đồng giữa ngƣời phụ nữ trong Thơ chữ Hán và Truyện Kiều
Giai đoạn từ thế kỷ XVIII - XIX là một thời kỳ biến động dữ dội của lịch sử
nước ta. Gắn với lịch sử phong kiến là nền văn học trung đại cũng có những biến
động không kém với sự phong phú về nội dung và phương cách thể hiện. Qua văn
chương, người đời sau có thể hình dung được bối cảnh lịch sử thời ấy, từ những
câu chuyện lớn lao như vận mệnh đất nước, dân tộc đến những nỗi niềm của người
dân trong cuộc sống hàng ngày. Từng bước ngoặt của thời đại đến mọi ngóc ngách
trong đời sống đều được phản ánh một cách chân thực và rõ nét trong tác phẩm
văn học. Dù đề cập đến nội dung nào thì xuyên suốt chặng đường trung đại, văn
học luôn thể hiện chất nhân văn. Cất tiếng nói để ca ngợi, để thông cảm với con
người là nội dung ta dễ dàng nhận thấy trong văn học trung đại, đặc biệt là thân
phận người phụ nữ.
Giá trị nhân văn luôn là một giá trị quan trọng trong bất cứ một nền văn học
nào. Đặc biệt nó sẽ được thể hiện rõ nét nhất trong giai đoạn mà số phận con người
bị đè nén, cuộc sống của họ phải chịu nhiều bất công. Trong nhiều hình tượng nhân
vật, nổi bật là hình ảnh người phụ nữ. Họ là những nạn nhân nhỏ bé nhất, có một bộ
phận những người kĩ nữ. Đây là một hình ảnh xuất hiện khá thường xuyên trong
những tác phẩm của Nguyễn Du như Ngộ gia đệ cựu ca cơ, Long Thành cầm giả ca,
Truyện Kiều...
Bao trùm đề tài phụ nữ là tình yêu thương. Nguyễn Du trìu mến, nâng niu họ
như những bông hoa quý mà thế giới đã tạo ra cho loài người. Nhà thơ đã biết trân
trọng nhân cách, trọng tài văn chương nghệ thuật và thương xót cho người bạc
mệnh... cũng có khi là ngưỡng mộ những người phụ nữ danh tiếng như hai bà phi
Nga Hoàng và Nữ Anh, giải oan cho Dương Quý Phi. Qua đó, Nguyễn Du đã bộc lộ
tấm lòng nghĩ suốt nghìn đời, tâm hồn nhạy cảm, nhân cách cao đẹp. Cái nhìn của
ông thấu tình đạt lý, đi sâu vào tận ngõ ngách của tâm hồn người, mãi để lại "tấm
lòng ưu ái". Hai lần ông cất tiếng than đứt ruột, như một tiếng nấc "Đau đến thay
phận đàn bà". Bởi thế, khi đọc những tác phẩm của ông viết ra, dù là thơ chữ Hán
hay chữ Nôm, độc giả vẫn luôn cảm nhận được cách nhìn xót xa, thông cảm và
đồng cảm sâu nặng đối với của Nguyễn Du đối với người phụ nữ.
Ông thật sự ngưỡng mộ hai bà phi Nga Hoàng và Nữ Anh đi tìm chồng khóc
bên dòng sông Tương, những giọt nước mặt nhỏ vào những cây trúc trở thành
những vết lốm đốm:
Ngu Đế nam tuần cánh bất hoàn
Nhị phi sát lệ trúc thành ban
(Vua Ngu Thuấn đi tuần ở phương Nam, không trở về nữa
Hai bà phi khóc, nước mắt rưới vào khóm trúc thành vết lốm đốm)
(Thƣơng Ngô tức sự)
Hành động của hai bà làm cho nhà thơ thật xúc động. Trước hành động và cử
chỉ cao đẹp đó ông dành cho hai bà bốn bài thơ trong tập thơ chữ Hán: Thương Ngô
tức sự, Thương Ngô mộ vũ, Thương Ngô trúc chi ca III, VIII. Đến sông Tương,
Nguyễn Du không quên viếng hai bà bằng chén rượu và trầm ngâm tưởng tượng:
Bôi tửu bằng lan điếu thị nhi
(Tựa lan can rót rượu viếng hai bà)
(Thƣơng Ngô mộ vũ)
Thủy diện huyền thanh tự nhị phi
(Thƣơng Ngô Trúc Chi ca III)
Ông thương tiếc kính trọng cho ba phụ nữ tiết liệt như Trương thị, Quách thị
và Lưu thị đời Minh, kiên quyết chống lại bọn hung bạo và hy sinh để giữ mình
được trong sạch. Tấm gương sáng đó nghìn đòi vẫn còn sáng mãi:
Thiên thu bỉ kiệt hiển ta liệt,
Vạn cố cƣơng thƣờng thuộc nhất môn
(Bia kệ ngàn năm làm rạng danh ba người đàn bà tiết liệt,
Cương thường một thuở thuộc về một nhà)
(Tam liệt miếu)
Dương Quý Phi, một quý phi được vua Đường Minh Hoàng vô cùng sùng ái,
sắc đẹp nghiêng nước nghiêng thành nhưng lại bị đổ tội oan chỉ vì vua quan bất tài
không đuổi được giặc, cuối cùng nàng bị thắt cổ tự tử ở đèo Mã Ngôi. Người đời
mắng chửi và nguyền rủa Quý Phi, xem nàng là tội nhân của đất nước. Nhưng
Nguyễn Du minh oan cho nàng:
Tự thị cử triều không lập trƣợng,
Uổng giao thiên cổ tội khuynh thành
(Từ đấy cả triều đình đều là người đứng như phỗng
Mà nghìn năm còn đổ tội oan cho người đẹp khuynh thành)
(Dương Phi cố lý)
Ở đây tư tưởng của Nguyễn Du tương đồng với Hoa Nhị phu nhân:
Quân vƣơng thành thƣợng thụ hàng kỳ
Thiếp tại thâm cung na đắc trì
Tứ thập vạn nhân tề giải giáp,
Ninh vô nhất cá thị nam nhi?
(Cờ hàng vua cắm khắp thành trì
Thếp ở trong cung nào biết chi
Bốn chục vạn người cùng giải giáp,
Lẽ nào không một đấng nam nhi?)
(Thuật vong quốc thi)
Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở chỗ thông cảm mà còn đi đến chỗ đồng cảm
với người phụ nữ phải gánh chịu nhiều mất mát, đau khổ trong đời. Cuộc đời
Nguyễn Du trải qua nhiều đau khổ và thất chí. Hiểu những nỗi bất hạnh của cuộc
đời gây ra cho mình, Nguyễn Du đã viết về họ bằng những vần thơ chân thành. Quả
thật, Nguyễn Du có con mắt tinh tế, tấm lòng nhân đạo cùng tâm hồn nhạy cảm với
mọi tầng lớp con người trong xã hội.
Đối với phụ nữ tài hoa nhưng bất hạnh như kĩ nữ, ả đào, Nguyễn Du còn nhỏ
nước mắt thương cảm. Tất cả họ đều là người có tài, có sắc, danh tiếng một thời. Đó
là người ca nữ đất La Thành, người hầu cũ của em, cô Cầm ở đất Long Thành...
Tiếng đàn của cô Cầm là tinh hoa thuộc về trời đất. Tiếng đàn ấy đã gợi cho Nguyễn
Du biết bao nỗi niềm tâm sự. Vẫn là tiếng đàn tài hoa ngày xưa, nay ông gặp lại
trong buổi tiệc đón tiếp Nguyễn Du do quan Huyện Phủ thiết yến. Giả như những
người làm quan hiển đạt khác, ắt sẽ không chú ý đến một người phụ nữ tóc đã hoa
râm, nét mặt võ vàng khô khan thần sắc, đôi mày tàn tạ phờ phạc giữa đám cô đào
đều rất trẻ đẹp kia. Chỉ có Nguyễn Du mới có cái nhìn sắc sảo đầy lòng yêu thương,
mới có tiếng thở dài não ruột âm thầm kia:
Thùy tri tựu thị đƣơng thời thanh trung đệ nhất diệu
(Ai biết rằng đó chính là người tài danh bậc nhất của kinh thành
ngày xưa)
(Long Thành cầm gia ca)
Và chỉ có Nguyễn Du mới nghe được tiếng đàn của một người đau
khổ. Nghe khúc đàn xưa đàn lên từng tiếng mà nước mắt thi nhân thầm rơi, tai lắng
nghe mà lòng đau xót:
"Cựu khúc thanh thanh ám lệ thùy
Nhĩ trung tĩnh thính tâm trung bi
(Khúc xưa giọng mới lệ thầm rơi,
Tôi lắng nghe, lòng đau xót)
(Long Thành cầm gia ca)
Nàng ca nữ ở đất La Thành đẹp như một cành hồng thắm từ cõi tiên sa xuống,
sắc đẹp làm rung động cả sáu khu trong thành nhưng cuộc đời lại bạc mệnh. Nàng
chết trẻ, lúc sống đã không rửa được nghiệp chướng phấn son chết đi còn để lại
tiếng gió trăng, Nguyễn Du xót thương cho nàng…
Tóm lại, ở Nguyễn Du nổi bật nhất là nét lo đời, lo cho tất cả... vừa lo cho toàn
thể cộng đồng, vừa lo cho số phận cá nhân cụ thể. Tình cảm của ông vừa bao quát
vừa riêng biệt, vừa chung cho cuộc đời, vừa riêng cho con người. Ở đó tập trung
nhiều trạng thái cảm xúc yêu thương con người cùng khổ, sống trong xã hội phong
kiến. Đây cũng là một đạo lý nhân nghĩa mang đậm truyền thống Việt. Đạo lý nhân
nghĩa nổi lên ở đây là đạo lý mang tầm vóc văn hóa dân tộc, đạo lý "thƣơng ngƣời
nhƣ thể thƣơng thân"... Nguyễn Du như truyền vào tâm hồn chúng ta cái xót thương
vô hạn đối với những con người cùng khổ. Khi được thâm nhập vào thơ Nguyễn Du
mới thực sự tìm ra lời giải đáp: nhà thơ viết thật thấm thía về kiếp người, bởi ông đã
viết từ nước mắt cả đời mình - một số phận thăng trầm, đầy đắng cay, tủi nhục.
Đến thơ chữ Nôm, bằng tất cả những chiêm nghiệm cuộc sống của mình qua
ba triều đại Lê, Tây Sơn và Nguyễn, với một tâm hồn lớn chất chứa muôn vàn sự
đời, Nguyễn Du hóa thân vào nhân vật Kiều. Với thiên tài nghệ thuật, Nguyễn Du
nhào nặn tất cả các cung bậc tâm trạng của mình vào tâm trạng người đàn bà mang
tên là Kiều, nên Kiều là một tâm hồn Việt, một thân phận người Việt Nam. Cũng
giống như thơ chữ Hán của Nguyễn Du, khi đọc tác phẩm Truyện Kiều, độc giả lại
càng hiểu hơn về hình tượng người phụ nữ trong xã hội phong kiến, từ cuộc đời đến
số phận của họ. Tất cả đều được phác họa một cách chân thực và sắc nét nhất qua
ngòi bút tài hoa của Nguyễn Du. Hơn ai hết, ông vẫn viết về hình tượng người phụ
nữ bằng tình yêu thương, bằng sự trìu mến và trân trọng.
Dù trong “xã hội” Truyện Kiều mà Nguyễn Du xây dựng nên có hệ thống nhân
vật người phụ nữ phong phú, đa dạng hơn trong thơ chữ Hán, nhưng từng hệ thống
nhân vật đều được nhà thơ thể hiện quan điểm rõ ràng. Đỉnh cao trong cuộc đời
sáng tác của Nguyễn Du cũng như đỉnh cao trong thơ văn trung đại Việt Nam đó là
việc xây dựng nên hình ảnh người con gái tài sắc vẹn toàn, tài hoa bạc mệnh Thúy
Kiều. Về phương diện giới, ở Thúy Kiều đã có những bước chuyển biến rõ rệt, không
tuân theo những quan niệm truyền thống Nho gia mà ở nhân vật này, đã có bóng dáng
của tác giả, đã có tư tưởng cá nhân của Nguyễn Du chi phối hành động và suy nghĩ
một cách sâu sắc. Thúy Kiều đã khá chủ động tìm đến với Kim Trọng, chàng trai mà
nàng yêu quí, sự chủ động mà Nho gia không thể chấp nhận. Thúy Kiều đã bị cảnh
ngộ cuộc sống đẩy vào thanh lâu, nơi là địa ngục đối với người phụ nữ trinh tiết. Tuy
nhiên, Kiều đã đi qua nhà chứa 15 năm mà không chọn cái chết để bảo toàn trinh tiết,
không “tuẫn tiết” dẫu cho nàng đã hứa hôn với Kim Trọng. Nguyễn Du đã viết về
cuộc đời nàng với sự cảm thông, thương yêu, trân trọng đặc biệt.
Tiểu kết: Ở chương 2, chúng tôi tổng hợp, phân loại các hình tượng người
phụ nữ trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du bao gồm: hình tượng người phụ nữ đức
hạnh, hình tượng người phụ nữ tài sắc tài tình, hình tượng người phụ nữ phản diện.
Chương 2 tập trung tìm hiểu về các hình tượng người phụ nữ dựa trên văn bản thơ
để thấy được quan điểm, tư tưởng của nhà thơ Nguyễn Du trong từng giai đoạn sáng
tác cũng như sự ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo lên cách nhìn nhận con người của
ông. Cũng với cách nhìn nhận của tư tưởng Nho giáo, Nguyễn Du đã ngợi ca trân
trọng những tấm gương người phụ nữ tiết liệt và đã phê phán, đả kích những người
phụ nữ đáng chê trách về đạo đức trong xã hội đương thời. Tuy nhiên cũng phải
thấy là ở một số trường hợp, Nguyễn Du lại vượt qua những hạn chế của quan điểm
phụ nữ của Nho giáo để đến với chủ nghĩa nhân đạo mang tinh thần nhân bản sâu
sắc. Luận văn còn đặc biệt so sánh thơ chữ Hán Nguyên Du với chính sáng tác chữ
Nôm nổi tiếng của ông - Truyện Kiều. Truyện Kiều có nhiều yếu tố, điều kiện thuận
lợi về cốt truyện nước ngoài, thể loại truyện thơ, chữ Nôm để Nguyễn Du nói được
những vấn đề của phụ nữ như tình yêu, dục tính. So sánh thơ chữ Hán với Truyện
thơ Nôm Truyện Kiều, hai mảng thơ chính thống và không chính thống, trong cùng
một tác giả để nhìn thấy rõ hơn sự chuyển biến, trưởng thành trong tư tưởng tiến bộ
của Nguyễn Du cũng như những tư tưởng nhất quán của ông trong suốt hành trình
sáng tạo.
CHƢƠNG 3: CÁI MỚI CỦA HÌNH TƢỢNG NGƢỜI PHỤ NỮ
TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA NGUYỄN DU TRONG TRÀO LƢU VĂN
HỌC MANG TÍNH NỮ QUYỀN THẾ KỶ XVIII - ĐẦU THẾ KỶ XIX
Mỗi nền văn học ở một quốc gia đều có sự vận động theo tiến trình vận động
của lịch sử. Văn học Việt Nam trung đại cũng không nằm ngoài quy luật đó. Đặt
văn học vào tiến trình vận động của nó sẽ giúp người đọc có cái nhìn toàn diện hơn
về đề tài, thể loại, ngôn ngữ, nhân vật và tư tưởng của những người cầm bút...
Nhìn lại những trang lịch sử từ thế kỷ thứ X đến thế kỷ thứ XVII, các triều đại
Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Lê, Mạc, Lê Trung hưng lần lượt ra đời, phát triển và
suy vong. Tất cả những điều đó đều được phản ánh rõ nét trên lĩnh vực văn hoá. Sự
hình thành và phát triển của dòng văn học viết trong thời kỳ này là một biểu hiện rõ
nét của công cuộc phục hưng và phát triển văn hoá trong nước Đại Việt ngày càng
trên đà lớn mạnh. Nền văn học Đại Việt từ đây cũng đã hình thành một lực lượng
sáng tác ngày càng đông đảo. Tuy nhiên, có thể dễ dàng nhận thấy, chủ thể sáng tác
và đối tượng phản ánh trong các tác phẩm văn học gần mười thế kỷ tuyệt đại đa số
là nam giới. Quan niệm về thi ca thời kì này chủ yếu là thơ nói chí. Mẫu hình các
nhà nho thường là những người có sứ mệnh cao cả, đem lại sự vẻ vang cho cho đất
nước. Còn những mẫu hình lí tưởng về nữ giới qua các các tác phẩm văn học ở từng
thời kỳ cũng được phản ánh rõ nét. Theo những quan điểm, quy định khắt khe mà
Nho giáo "đặt lên vai" người phụ nữ như "tam tòng, tứ đức", quan niệm về trinh
tiết hay sự "kỳ thị nữ sắc", tất yếu, những người phụ nữ chính diện sẽ gắn liền với
những chuẩn mực mà chính nhà nho, những người đàn ông trong thời trung đại quy
định nên. Những người phụ nữ từ khi sinh ra đã được gia đình dạy dỗ để trở thành
một người phụ nữ đẹp về phẩm chất, đức hạnh. Chính họ là những người phụ nữ
truyền thống được các Nho gia đề cao, ca ngợi. Còn những người phụ nữ phản diện
lại thường là những người phụ nữ hồng nhan. Họ bị coi là tiêu biểu cho sắc dục, là
ma quái, hồ li tinh, rắn báo oán, họ chỉ đem lại bất hạnh cho gia đình, làm khuynh
đảo quốc gia, triều đại.
Tuy nhiên, những tư tưởng, quan niệm đến cách hành động mang tính chất
nhân văn, manh nha "phản kháng" lại những quan niệm áp đặt lên người phụ nữ của
Nho giáo. Bước sang thế kỷ XVI, với tập “Truyền kì mạn lục” dù ý thức hay vô
thức, Nguyễn Dữ bắt đầu đã có đối thoại vượt tầm tư tưởng thời đại. Vấn đề người
phụ nữ trong văn học từ thế kỷ XVII hiện lên dần rõ nét hơn, có tính đời sống hơn.
Ban đầu họ thường là nhân vật trong truyện cổ tích, truyền thuyết, được sưu tầm,
biên soạn lại từ kho tàng văn học dân gian. Sau đó người phụ nữ dần được xây dựng
gần với đời sống hiện thực hơn. Nhiều nhân vật được giới thiệu như là ma quỷ, yêu
tinh, nhưng cũng có suy nghĩ, hành động, có đời sống tâm lý, có khát khao tình yêu
say đắm như con người thực. Đây chính là yếu tố tiền đề để phản ánh người phụ nữ
trong đời sống văn học ở giai đoạn sau.
Sang thế kỷ XVIII, lịch sử xã hội có nhiều biến động dữ dội. Họ Trịnh diệt
Mạc xác lập ngôi chúa từ 1592 cho đến khi bị Tây Sơn diệt, đã cầm quyền thống trị
ngót 200 năm; Tây Sơn khởi quân đánh Nguyễn, diệt Trịnh, đuổi quân xâm lược
nhà Thanh, thống nhất bờ cõi rồi bị nhà Nguyễn diệt, thời gian trong khoảng 25
năm (1789 – 1802). Đó là những năm xã hội suy đồi, kỷ cương đổ nát, chiến tranh
Nam Bắc liên miên suốt thế kỷ XVII, chiến tranh chống ngoại xâm, diệt Trịnh,
Nguyễn, nông dân khởi nghĩa suốt thế kỷ XVIII. Đạo lý, luân thường không còn
theo khuôn thước, hơn thua tuỳ vào sức mạnh từng phe. Thế kỷ XIX là thế kỷ của
nhà Nguyễn. Đó là triều đại từng xây dựng quốc gia hưng thịnh, nhưng cũng nhiều
độc đoán, khắt khe, thuế khoá nặng nề; xây dựng lâu đài, lăng tẩm xa xỉ ; Nho giáo
độc tôn song không còn thiêng liêng; sự xâm nhập của tư bản phương Tây và xâm
lược của thực dân Pháp càng thúc đẩy chế độ phong kiến suy tàn. Đó là thời đại
khiến con người cá nhân thức tỉnh, tự khẳng định mình bằng mọi cách, mà trước hết
là các giá trị cá nhân. Khi bộ cánh luân thường đã rách bươm, danh phận mờ mịt,
con người cá nhân, cá thể hiện ra trần trụi. Chúa lấn vua, giết vua, chúa anh giết
chúa em, bề tôi lột vàng, lột áo chúa thượng. Số phận con người trở nên mong
manh, yếu đuối hơn bao giờ hết, nhất là số phận của người phụ nữ.
PGS. TS Trần Nho Thìn đã nhận định: "Đây là tiền đề tƣ tƣởng để nhiều trí
thức nho sĩ các nhà nhà nho bắt đầu tự giác hay tự phát từ bỏ quan niệm thi ngôn
chí, đến với chủ trƣơng thi nói tình, tức là đề cao phƣơng diện cảm xúc, tình cảm và
nghệ thuật thi ca. Một trào lƣu chủ tình bồng bột xuất hiện trong văn học" [73, tr
305]. Trong bối cảnh “văn hoá giới” đặc biệt đó, trào lưu văn học mang tính nữ
quyền hình thành. Người phụ nữ không còn là “nhân vật phụ” trong tác phẩm mà đã
trở nhân vật thành trung tâm cho các nhà thơ bộc lộ nỗi niềm, tâm tư của mình
trước thời cuộc.
Bước sang thế kỷ XVIII, văn học trung đại Việt Nam chính thức ghi dấu sự
phát triển hoàn thiện của thể loại chữ Nôm. Chữ Nôm là thứ chữ viết được cấu tạo
từ chữ Hán để ghi âm tiếng Việt, xuất hiện từ khoảng thế kỷ IX đến khoảng thế kỷ
XIII và đạt đến thành thục vào thế kỷ XIII. Nôm có nghĩa là nam - chữ Nôm là chữ
của người Nam, mà Nôm cũng có nghĩa là thông tục nôm na. Với bắt nguồn cấu tạo
đó, chữ Nôm nhanh chóng được được nhiều người, kể cả tầng lớp bình dân biết và
sử dụng. Do đó tác phẩm văn học chữ Nôm thường có sức phổ biến rộng trên phạm
vi toàn quốc, mà Truyện Kiều là một dẫn chứng cụ thể. Các tác phẩm văn học chữ
Nôm cũng ghi dấu ảnh hưởng sâu đậm của văn hóa dân gian từ ngôn từ tới nội dung
tư tưởng. Nhờ chữ Nôm, Hồ Xuân Hương đã đưa vào trong thơ cả những biện pháp
tu từ đặc sắc của riêng người Việt như nói lái (Trái gió cho nên phải lộn đèo, Tràng
hạt vãi lần đếm lại đeo); hay Nguyễn Du đưa vào lời ăn tiếng nói của Kiều những
khẩu ngữ dân gian (Vợ chàng quỷ quái ranh ma, Phen này kẻ cƣớp bà già gặp
nhau). Có lẽ chính vì vậy, trong văn học trung đại, văn học chữ Nôm có xu hướng
thiên về tính dân chủ, thông tục, chứa đựng tinh thần cách tân, chú trọng tính thẩm
mỹ. Về đề tài, mảng văn học này viết nhiều về người phụ nữ, về con người tự nhiên,
về con người nhân bản với quyền sống trần thế, kể cả đời sống thân xác. Ngoài sự
thoải mái, cởi mở về đề tài, phương thức nghệ thuật, chữ Nôm còn mở đường cho
cho các thể văn, thơ dân gian đi vào văn học viết, làm thành những thể loại có tính
dân tộc đặc thù như: ngâm khúc, truyện thơ, hát nói và một số thể loại khác.
Trong hai khúc ngâm nổi tiếng đương thời là Chinh phụ ngâm và Cung oán
ngâm khúc hai tác giả nhà Nho Đặng Trần Côn và Nguyễn Gia Thiều vẫn thể hiện
khá rõ ảnh hưởng của những quan niệm truyền thống về giới của Nho giáo đã được
hệ thống hóa “tam tòng” và “tứ đức”. Chính vì thế, trong những bức chân dung của
người chinh phụ và cung nữ, độc giả hiện đại dễ dàng nhận thấy những dấu ấn của
những quan niệm đó. Miêu tả nàng chinh phụ, Đặng Trần Côn không mô phỏng
hoàn toàn những bài thơ khuê oán trong thơ Nam triều hay thơ Đường (những bài
thơ này chỉ miêu tả người phụ nữ buồng khuê trong mối liên hệ với người chồng)
mà ông vẫn điểm qua một vài nét về đạo đức để bức chân dung của nàng vừa toàn
vẹn hơn, vừa hợp với đạo lý truyền thống:
Ngọt bùi thiếp đã hiếu nam
Dạy con đèn sách thiếp làm phụ thân
Nay một thân nuôi già dạy trẻ
Nỗi quan hoài mang mể xiết bao
Bốn câu ngắn ngủi trên cũng đủ cho thấy dấu ấn của quan niệm truyền thống
về vị trí, vai trò và bổn phận đạo đức (hiếu thảo, chăm sóc mẹ chồng, con nhỏ) của
người phụ nữ trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn. Quan niệm về đạo hiếu
này lại được láy lại một lần nữa ở cuối bài thơ, trong lời khẳng định và nguyện ước
của người chinh phụ như một sự động viên tinh thần cho chính mình và trấn an
người chinh phu ngoài sa trường:
Chàng nƣơng vầng nhật thiếp nguyền
Mọi bề trung hiều, thiếp xin vẹn tròn
Dù tác giả cũng có ý khi chỉ dành cho những bổn phận đạo đức và vai trò làm
con dâu, làm mẹ, thay chồng làm con trai này một vài dòng ngắn ngủi như thế,
nhưng sự hiện diện của chúng cũng đủ chứng tỏ phần nữ tính nằm trong qui ước
truyền thống về đạo đức và giới của người chinh phụ.
Với bức chân dung nàng cung nữ, Nguyễn Gia Thiều không đề cập đến “tứ
đức” như Đặng Trần Côn miêu tả nàng chinh phụ. Tuy nhiên, chúng ta vẫn nhận
thấy ở nhân vật này những dấu hiệu của quan niệm giới truyền thống. Ở những
dòng hồi ức về thuở còn con gái, chưa được tuyển vào cung, nàng cung nữ cũng là
cô thiếu nữ được bảo vệ, giữ gìn trong chốn khuê các, không hề tiếp xúc với xã hội,
đặc biệt là đàn ông:
Hồng lâu còn khóa then sƣơng
Thâm khuê còn rấm mùi hƣơng khuynh thành
Vƣờn xuân bƣớm hãy rào rào
Thấy hoa mà chẳng lối vào tìm hƣơng
Những câu thơ trên mang dấu vết của những qui ước xã hội về trinh tiết và
đức hạnh của người con gái. Những từ “khóa”, “then”, “rấm”,… đều ám chỉ đến
tình trạng ngăn chặn, cắt đứt mọi liên hệ với thế giới bên ngoài (và đương nhiên là
với những cám dỗ nguy hiểm, có thể phương hại đến trinh tiết của người con gái)
của gia đình phong kiến đối với người con gái.
Có một cặp thơ khác trong tác phẩm Cung oán ngâm, thoáng qua nhưng
cũng chứng tỏ vị thế thấp kém của người phụ nữ trong xã hội phong kiến:
Gẫm nhƣ cân trất duyên này
Cam công đặt cái khăn này tắc ơ
Cân, trất là khăn lau mặt và cái lược – những vật dụng gắn liền với công việc
săn sóc chồng của người đàn bà. Theo Tả truyện, bà Định Khương nói: “Dƣ dĩ cân
trất sự tiên quân” (Ta từng cầm cái khăn cái lược mà hầu hạ vua trước). Theo Kinh
lễ, khi sinh con gái thì đặt cái khăn bên hữu cửa phòng đẻ để thông báo rằng việc
sinh con gái và qui ước trước việc khăn lược là việc con gái; “tắc ơ”là tiếng chắc
lưỡi lắc đầu có ý chán nản khi đứa con được sinh ra là gái. Như vậy, nàng cung nữ
dù là một giai nhân, một “vưu vật” được quân vương chi chút trên tay song rõ ràng
sự hẩm hiu và vị thế tòng thuộc, thấp kém của đàn bà đã là số phận của nàng từ khi
có mặt trên cõi đời.
Tuy vậy, thể loại ngâm khúc với hai loại nhân vật nữ tiêu biểu là người chinh
phụ và người cung nữ đã đi đầu trong trào lưu văn học mang tính nữ quyền thời kỳ
này. Cả hai loại nhân vật phụ nữ này đều là những hình tượng có tính thời đại đậm
nét và là những nhân vật truyền thống của văn học phương Đông. Chinh phụ ngâm
xuất hiện đã được nhiều người đọc và có nhiều người dịch tác phẩm ra chữ Nôm
(hiện còn giữ được bảy bản dịch khác nhau). Cảm hứng về cung nữ bạc phận cũng
đã tạo nên cả một trào lưu làm thơ cung oán. Trước và sau Nguyễn Gia Thiều, giới
nghiên cứu đã nhắc đến Cung oán quốc âm thi của Nguyễn Bạch Liên, Cung oán thi
tập của Vũ Trinh, Cung oán thi của Nguyễn Huy Lượng, Cung oán thi của Nguyễn
Hữu Chỉnh. Chính những yếu tố này đã tạo điều kiện cho các tác giả viết về những
khát khao chân thực về hạnh phúc và các motip tính dục của nhân vật nữ.
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn (bản Hán văn) và của Đoàn Thị Điểm
(bản dịch Nôm hiện hành) tập trung biểu hiện khát vọng được hưởng hạnh phúc
tuổi trẻ, cái phần vật chất nhất của người phụ nữ. Lý tưởng võ công, lý tưởng hiếu
nghĩa vẫn còn được nhắc đến nhưng không còn là niềm rung cảm. Người chinh phụ
nhân danh “khách má hồng” chịu nỗi “truân chuyên” mà lên án “xanh kia”, không
chấp nhận kiếp hi sinh chiến trường trong chiến tranh phi nghĩa :
Trong cánh cửa đã đành phận thiếp,
Ngoài mây kia há kiếp chàng vay ?
Trong toàn bộ khúc ngâm, duyên đôi lứa là niềm tha thiết nhất. Bao nhiêu
chờ mong, khắc khoải đều tập trung vào nỗi lo sợ “tuổi xuân lỡ thì” :
Gió xuân ngày một vắng tin,
Khá thƣơng lỡ hết mấy phen lƣơng thì.
Thƣơng một kẻ phòng không luống giữ,
Thời tiết lành lầm lỡ đòi nau.
Thoi đƣa ngày tháng ruổi mau,
Người đi thấm thoắt qua màu xuân xanh.
Giấc mộng “chim liền cánh”, “cây liền cành”, “kiếp sau” trở thành vô nghĩa.
Tất cả đều cho thấy một cá nhân vật chất, trần thế duy nhất đang được ý thức, mọi
huyễn hoặc siêu nghiệm đều đáng ngờ. Chữ “dục” hạnh phúc thầm kín, khó nói
nhất xưa nay, bị khinh bỉ nhất của con người, nhất là người phụ nữ, nay đã được nói
to lên bằng ngôn ngữ của tự nhiên như một cái quyền chính đáng, nhân danh âm
dương, tạo hoá :
Kìa loài sâu đôi đầu cùng sánh,
Nọ loài chim chắp cánh cùng bay.
Liễu sen là thức cỏ cây,
Đôi hoa cùng sánh đôi dây cùng liền.
Người phụ nữ rõ ràng chưa ý thức mình như một nhân tố có quyền của xã
hội người. Nó chỉ mong được tồn tại như mọi vật của tạo hoá, như chim muông,
côn trùng, cây cỏ. Đó chẳng phải là phần đáng thương nhất của thân phận con người
hay sao?
Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều (1741 - 1798) là bài ca ai oán
của người cung nữ có tài sắc, lúc đầu được nhà vua yêu chuộng, ái ân hết sức nồng
nàn thắm thiết "mây mƣa mấy giọt chung tình - đình trầm hƣơng khoá một cành
mẫu đơn", nhưng chẳng bao lâu đã bị ruồng bỏ. Ở trong cung, nàng xót thương cho
thân phận mình và oán trách nhà vua phụ bạc "chơi hoa cho rữa nhuỵ dần lại thôi".
Cung nữ khát khao muốn "đạp tiêu phòng mà ra" để trở về với cảnh đời "cục mịch
nhà quê" thuở trước, nhưng nàng vẫn tiếp tục bị giam cầm trong cung điện vàng
son, trong nỗi buồn đau sầu thảm và oán hờn chất chứa. Cuối cùng, nàng vẫn khát
khao có lại những cuộc ân ái hiếm hoi khi xưa "giọt mƣa cửu hạn còn mơ đến rày",
vẫn mong chờ được nhà vua đoái hoài đến trong nỗi niềm tuyệt vọng:
Bóng câu thoáng bên mành mấy nỗi
Những hƣơng sầu phấn tủi sao xong?
Phòng khi động đến cửu trùng
Giữ sao cho đƣợc má hồng nhƣ xƣa?
Câu thơ trong Cung oán ngâm khúc được trau chuốt đến mức tuyệt xảo, âm
điệu góc cạnh và dữ dội, dùng nhiều ngoa ngữ; mỗi câu thơ như dao khắc chạm vào
đá gây ấn tượng đặc biệt mạnh mẽ:
Xiêm nghê nọ tả tơi trƣớc gió
Áo vũ kia lấp ló trong trăng
hay
Thân này uốn éo vì duyên
Cũng cam một tiếng thuyền quyên với đời!
Việc sử dụng điển tích, điển cố vừa thể hiện tính uyên thâm, trình độ học vấn
của tác giả (theo quan niệm của những người cầm bút trong văn học trung đại) vừa
diễn tả được nỗi lòng oán hận, khát vọng bứt phá của người cung nữ:
Tay nguyệt lão chẳng xe thì chớ
Xe thế này có dở dang không
Dang tay muốn dứt tơ hồng
Bực mình muốn đạp tiêu phòng mà ra
Khát vọng của người cung nữ trong Cung oán ngâm – Nguyễn Gia Thiều
không chỉ là khát vọng về hạnh phúc tinh thần mà còn mang cả màu sắc nhục cảm.
Đây là một nét mới trong văn học trung đại. Ở đây, tác giả đã vận dụng tối đa khả
năng ngôn ngữ của mình để thể hiện cuộc sống âm thầm, cô quạnh của người cung
nữ với cảnh xa hoa tráng lệ nơi cung cấm:
Trong cung quế âm thầm chiếc bóng
Đêm năm canh trông ngóng lần lần
…
Lầu đãi nguyệt đứng ngồi dạ vũ
Gác thừa lƣơng thức ngủ thu phong
Miêu tả tình cảnh cô đơn của nhân vật cũng là để diễn tả nỗi thiếu thốn và
khát khao ái ân. Người chinh phụ hồi tưởng lại quá khứ ái ân mặn nồng hoặc tìm
đến với những giấc mộng hợp hoan để khoả lấp sự thiếu thốn trong hiện tại:
Sum vầy mấy lúc tình cờ,
Chẳng qua trên gối một giờ mộng xuân.
Người chinh phụ từ việc coi trọng “niềm công” qua bao ngày tháng khắc khoải
xa chồng, đã có sự thay đổi về nhận thức. Không hề phủ nhận lý tưởng công danh
nhưng nàng cũng đã hiểu chiếc ấn công hầu không có ý nghĩa bằng hạnh phúc đôi
lứa:
Lúc ngoảnh lại ngắm màu dƣơng liễu
Thà khuyên chàng đừng chịu tƣớc phong
Đây không chỉ là sự ý thức mang tính nhân văn mà còn là ý thức phản kháng
một cách sâu sắc đối với xã hội đương thời.
Trong cả hai tác phẩm, có lẽ đây là lần đầu tiên trong lịch sử văn học trung đại
Việt Nam có những tác giả nam giới viết về người phụ nữ từ chính điểm nhìn bên
trong của họ chứ không phải từ điểm nhìn bên ngoài của người đàn ông.
Trong Chinh phụ ngâm, từ đầu đến cuối tác giả đều giữ nguyên điểm nhìn của
người chinh phụ và để nhân vật phát ngôn từ ngôi thứ nhất. Qua khảo sát, chúng tôi
nhận thấy trong tác phẩm có bốn mươi ba lần người chinh phụ xưng “thiếp”, sáu lần
nàng xưng “ngã”. Sử dụng ngôi nhân xưng như vậy tác giả đã đồng nhất điểm nhìn
nhân vật. Tác giả gần như dấu mình đi hoàn toàn để người chinh phụ trực tiếp giãi
bày mọi tâm sự, nỗi lòng, tình cảm, cảm xúc của nàng. Không có sự can thiệp thô
bạo bằng những lời bình luận, giáo huấn đạo đức.
Tác phẩm Cung oán ngâm của Nguyễn Gia Thiều cũng thể hiện lời than oán
chính từ điểm nhìn của nàng cung nữ. Mặt khác, một số chỗ trong tác phẩm tác giả
để cho người cung nữ tự xưng “thân này” hay “hoa này”, tuy không mang tính trực
tiếp như lời tự xưng “thiếp” của nàng chinh phụ nhưng cũng báo hiệu về ngôi thứ
nhất của chủ thể trữ tình.
Việc để cho nhân vật trữ tình ở ngôi thứ nhất tỏ ra rất đắc dụng trong việc
phơi bày đời sống nội tâm của nhân vật chinh phụ. Lần đầu tiên trong văn học Việt
Nam, một nội tâm phong phú với những cung bậc tình cảm phức tạp, đa dạng,
những khao khát mang đậm tính cá nhân được công khai thổ lộ. Sự thay đổi điểm
nhìn như vậy cho thấy sự chuyển biến theo chiều hướng tích cực trong cách nhìn
nhận của các tác giả đối với người phụ nữ. Có quan tâm và trân trọng người phụ nữ
thì các tác giả mới dành một dung lượng tác phẩm lớn đến thế để miêu tả nhan sắc
và vẻ đẹp tâm hồn cùng nỗi khát khao của họ.
Điều đáng chú ý là cả hai ngâm khúc nổi tiếng này đều sử dụng kỹ thuật mượn
giọng (ventriloquism). Các tác giả là nam giới mượn giọng nhân vật nữ giới để gián
tiếp nói ra những suy nghĩ, quan điểm của bản thân mình. Nguyên nhân khiến sự
mượn giọng người phụ nữ trong thời kỳ này giành được sức mạnh của nó một phần
là bởi vì có quá ít phụ nữ thật sự viết và phát ngôn và nếu tiếng nói thật sự của họ
có thật sự được cất lên thì ngay lập tức nó sẽ bị áp đảo bởi đống sách vở do nam
giới viết về họ hoặc bị gạt ra rìa.
Sự xuất hiện của chữ Nôm cũng tạo điều kiện cho các thể loại kể cả vay mượn
được viết bằng tiếng Việt. Thể thơ Đường luật chữ Nôm cũng góp phần thể hiện
trào lưu nữ quyền mạnh mẽ với những sáng tác tiêu biểu của nữ sĩ Hồ Xuân Hương.
Lần đầu tiên trong lịch sử, người phụ nữ làm thơ trực tiếp thể hiện ý thức phản
kháng một cách mạnh mẽ trước "thành trì" quan niệm, những áp đặt do nam giới và
nhà Nho đặt ra đó chính là Hồ Xuân Hương. Bà không chỉ là một tác giả nữ tiêu
biểu, hiếm có trong việc tự bộc lộ "con người cá nhân" trong thơ của chính mình.
Trong phần Lời giới thiệu quyển Thơ Hồ Xuân Hƣơng, Nguyễn Lộc viết: Hồ Xuân
Hƣơng không giả dối, bà đã công khai nói lên cái sự thật ấy. Thoả mãn cuộc sống
bản năng cũng là một khát vọng chính đáng của con ngƣời giống nhƣ bất cứ một
khát vọng chính đáng nào; và điều đáng chú ý hơn nữa ở nhà thơ này là đã công
khai nói đến cuộc sống bản năng, dù viết về những đề tài cốt để ngƣời ta liên
tƣởng đến chuyện trong buồng kín của vợ chồng, nhƣng bất cứ một bài thơ nào của
bà cũng đều gợi lên một cảm giác đẹp hiếm có. Và chính điều này đã nâng nhà thơ
lên hàng những nghệ sĩ lỗi lạc, chứ không phải là những kẻ tầm thƣờng làm thơ,
viết văn với mục đích khiêu dâm. [41, tr. 11]
Với cá tính mạnh mẽ, ngang tàng, dám nói cái mà đời ít người dám nói trong
thơ, đó là tình cảm chân thực, là tiếng nói của chính cá nhân tác giả:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn.
Ngán nỗi xuân đi, xuân lại lại,
Mảnh tình san sẻ tý con con!
(Tự tình II)
Lƣng khoang tình nghĩa dƣờng lai láng,
Nửa mạn phong ba luống bập bềnh.
(Tự tình III)
Nhìn nhận thơ Hồ Xuân Hương, chúng ta thấy được sự đổi mới, cách tân đầy
tính sáng tạo và độc đáo trong từng câu chữ của bà. Thể hiện tiếng nói của chính
mình, về những thân phận người phụ nữ như mình đang sống trong xã hội phong
kiến đương thời, Hồ Xuân Hương được coi là một trong những nhà thơ tiêu biểu
cho trào lưu nhân đạo chủ nghĩa của văn học Việt Nam giai đoạn nửa cuối thế kỉ
XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX. Thơ Hồ Xuân Hương là một lối thơ rất tự nhiên, thật
gần gũi với đời sống thường nhật, với lời ăn tiếng nói của quần chúng nhân dân lao
động. Lời thơ không cầu kỳ, gọt dũa mà vẫn thiết tha, nhẹ nhàng rót vào lòng người
những cung bậc rất thánh thót, ngân vang. Thơ bà đã thoát ra ngoài khuôn sáo, ít
dùng điển cố Hán văn:
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ,
Trách ngƣời thợ vẽ khéo vô tình.
(Đề tranh tố nữ)
Hiền nhân quân tử ai là chẳng,
Mỏi gối chồn chân vẫn muốn trèo…
(Đèo Ba Dội)
Trong những sáng tác của mình, bà đã nêu bật được những vấn đề riêng tư,
những nỗi bất công mà người phụ nữ trong xã hội phong kiến phải chịu đựng. Bà
đấu tranh để bênh vực quyền lợi phụ nữ. Rất nhiều bài thơ của Hồ Xuân Hương nói
lên nỗi niềm của một người phụ nữ giàu sức sống và hết sức tài hoa nhưng cuộc đời
đầy bất hạnh. Những đề tài trong cuộc sống bình thường giản dị hàng ngày nhưng
khi đi vào thơ Hồ Xuân Hương lại rất mới mẻ, sinh động, có tính chất úp mở hai
nghĩa, một nghĩa đen phô ra, nói trực tiếp về đối tượng nhà thơ miêu tả, và một
nghĩa ngầm nói về chuyện thầm kín trai gái. Hồ Xuân Hương còn lớn tiếng đả kích
tất cả những nhân vật tiêu biểu của xã hội phong kiến, bà vạch trần lối sống đạo đức
giảcủa chúng. Bà đã thành công trong việc đưa cuộc sống trần tục hàng ngày vào
những thể thơ vốn đài các, quí phái như thể thất ngôn tứ tuyệt, thể thất ngôn bát cú.
Hồ Xuân Hương lợi dụng triệt để kết cấu chặt chẽ của bài thơ Đường luật với những
câu đối nhau để tạo những mâu thuẫn có tính chất trào phúng trong những bài thơ
châm biếm, đả kích.
Trong thơ mình, Hồ Xuân Hương không xem cái lẳng lơ là lẳng lơ, không xem
cái tục là tục, không xem dâm là dâm. Tất cả đều hồn nhiên, tự nhiên. Đã đến lúc
không nên nói đến cái gọi là dâm và tục trong thơ bà, mà nên nói đến những ám ảnh
tính dục, nhu cầu giải phóng nhãn quan tính dục phong kiến cổ hủ như một nhu cầu
của con người cá nhân. Cũng có người hiểu cái “dâm” trong thơ Hồ Xuân Hương là
biểu hiện của văn hoá phồn thực.
Trong bài Hồ Xuân Hƣơng hoài niệm phồn thực Đỗ Lai Thúy đã khái quát:
"...Những biểu tƣợng phồn thực trong thơ Hồ Xuân Hƣơng vừa không phải là tục
vừa là tục. Bởi vì nó gắn chặt với một điều thiêng liêng là sự cầu mong sinh sôi nảy
nở cho mùa màng, con ngƣời, động vật và cây cối. Nó chính là điều thiêng liêng.
Trong ý thức dân gian ngƣời ta cũng không coi đó đơn thuần là dâm tục, chỉ có
trong ý thức chính thống của xã hội thì đó mới là dâm tục, bởi vì ngƣời ta tách rời
những biểu tƣợng này khỏi cái thiêng liêng là sự cầu mong phồn thực phồn sinh..."
[79, tr. 282]
Ngô Gia Võ trong bài Nghệ thuật với ý nghĩa khẳng định khát vọng nhân văn
trong thơ nôm Hồ Xuân Hƣơng in trong cuốn Hồ Xuân Hương tác gia và tác phẩm
đã khẳng định: "...Thơ Hồ Xuân Hƣơng là khúc hát bay bổng và rạo rực ngợi ca,
khẳng định hạnh phúc trần tục của con ngƣời. Thơ bà xoay đi, xoay lại cuối cùng
chủ yếu để nhằm xoáy vào việc khẳng định khát vọng tự nhiên, ngợi ca hạnh phúc
trần tục, đòi giải phóng bản năng con ngƣời khỏi mọi trói buộc khổ hạnh của cƣờng
quyền và thần quyền…"
Hồ Xuân Hương là một tác giả đặc biệt trong văn học Việt Nam trung đại. Đặc
biệt bởi xã hội mà bà sinh ra, đặc biệt bởi thân phận của bà và đặc biệt bởi tài năng
của bà về thơ Nôm. Mục đích sáng tác văn học của bà là để khẳng định vai trò của
người phụ nữ trong xã hội và phản kháng lại chế độ xã hội nam quyền nên dùng
chất liệu dân gian là phương thức hữu hiệu nhất. Vì thế thơ bà mang đậm yếu tố dân
gian và đã hòa vào mạch nguồn dân gian. Hồ Xuân Hương ca ngợi vẻ đẹp, tài năng,
vai trò của người phụ nữ. Miêu tả khái quát giàu hình ảnh thân thể ngọc ngà của
người phụ nữ:
Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nƣớc non
(Bánh trôi nước)
Những câu thơ viết về vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ cũng được thể hiện
bằng ngôn ngữ khá tự nhiên:
Đôi gò bồng đảo sƣơng còn ngậm
Một lạch đào nguyên nƣớc chửa thông
(Thiếu nữ ngủ ngày)
Xã hội phong kiến với những hủ tục lạc hậu đã áp đặt lên con người sự bất
bình đẳng về quyền sống, quyền tự do con người vốn đã oan nghiệt, sự bất bình
đẳng về tính dục lại càng bất công. Trong chuyện chăn gối người đàn ông tự đặt cho
mình cái quyền chủ động, buộc người phụ nữ phải theo ý muốn của mình, họ phải
làm theo một cách máy móc, khuôn sáo. Chính vì phải chịu đựng những oan ức
thiệt thòi bị ức chế cả về thể xác lẫn tâm hồn, mà người phụ nữ xưa tiêu biểu là Hồ
Xuân Hương là một trong những người tiên phong nói lên tiếng nói phản kháng, đả
kích, bênh vực quyền lợi vốn là tự nhiên của mình. Hồ Xuân Hương đứng lên đòi
quyền bình đẳng cho người phụ nữ, trong đó nhu cầu về tình cảm của người phụ nữ
phải được đáp ứng một cách công bằng. Đó chính là ngọn nguồn ý thức của ý nghĩa
bênh vực nữ quyền thực sự của mọi giá trị nhân văn, nhân bản.
Nguyễn Du là nhà nho - người đàn ông tiến xa nhất, thể hiện sâu sắc nhất ý
thức đấu tranh cho nữ quyền. Trong truyện thơ Nôm nổi tiếng Truyện Kiều, Nguyễn
Du chọn một cô gái nhà nhà lành bị rơi vào nhà chứa làm nhân vật chính. Việc Kiều
sống trong nhà chứa suốt mười lăm năm mà không tuẫn tiết đã gây nên tranh luận
bình phẩm trong suốt cả thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX. Tiêu biểu cho hai thái cực
khen chê Kiều thế kỷ XIX là bài tổng thuyết của Minh Mệnh và bài hát nói Vịnh
Thúy Kiều của Nguyễn Công Trứ. Trong bài tổng thuyết, Minh Mệnh ca ngợi hiếu,
trung và trinh của Kiều:
Gián thế pháp dĩ hoàng kim, xả thân hành hiếu; Tả li sầu ƣ xích chử, thính
muội hoàn thân.
Bạch nhận cam tâm xử nữ, thủ thân chi tiết; Cẩm y hiệu thuận trƣợng phu vị
quốc chi tâm.
(Vì tiền vàng phá phép công bằng, phải bán mình giữ trọn hiếu đạo; mượn
giấy đỏ tả sầu ly biệt, đành cậy em chấp mối thân tình.
Dùng dao nhọn sát thân, lòng trinh nữ giữ mình tiết lớn; khuyên áo gấm quy
thuận, bậc trượng phu vì nước lòng ngay)
Nếu như Minh Mệnh ca ngợi Kiều hết lời, thì Nguyễn Công Trứ lại cực lực
phê phán Kiều, kết án Kiều là "tà dâm":
Đã biết má hồng thì phận bạc
Trách Kiều nhi chƣa vẹn tấm lòng vàng
Chiếc quạt thoa đành phụ với Kim Lang
Nặng vì hiếu nhẹ vì tình thời cũng phải
Từ Mã Giám Sinh cho đến chàng Từ Hải
Canh hoa tàn đem bán chốn thanh lâu
Bấy giờ Kiều còn hiếu vào đâu,
Mà bƣớm chán ong chƣờng cho đến thế!
Bạc mệnh chẳng lầm ngƣời tiết nghĩa
Đoạn trƣờng cho đáng kiếp tà dâm
Bán mình trong bấy nhiêu năm
Đố đem chữ hiếu mà lầm đƣợc ai!
Nghĩ đời mà ngán cho đời.
Những lời thơ vịnh về Thúy Kiều đều ở hai thái cực khen chê, có vẻ đối lâp
nhau. Nhưng có một điểm chung không thể phủ nhận là tác giả của những lời bình,
lời thơ này đều đứng từ điểm nhìn nam quyền để nhận xét Kiều, ngợi khen hành
động bán mình chuộc cha, khen hành động tự vẫn khi lần đầu bị bán vào nhà chứa;
chê việc Kiều chấp nhận sống trong cảnh "thanh lâu hai lượt". Thái độ thương xót,
cảm thông cho thân phận cay đắng của Kiều dù có nhưng nó hầu như không phải là
vấn đề hàng đầu được đặt ra trong lời bình cũng như trong bài thơ đã nêu trên đây.
Khác với những lời đánh giá cực đoan, một chiều của các nhà nho cùng thời,
suốt 3254 câu thơ trong Truyện Kiều lại thể hiện một cách đa dạng khả năng sáng
tạo của một người nghệ sĩ, khả năng chuyển tải cách nhìn nhận về cuộc sống một
cách đa dạng nhiều chiều, nhìn nhận về người phụ nữ một cách linh hoạt, đầy màu
sắc cũng như tấm lòng dạt dào yêu thương. Hơn một lần Nguyễn Du phải thốt lên
nỗi thương cảm xót xa đến quặn lòng trước nỗi bất hạnh, thiệt thòi của người phụ
nữ, nhất là người phụ nữ tài sắc tài tình - những kỹ nữ, ả đào:
Đau đớn thay phận đàn bà
Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung
Phũ phàng chi bấy góa công
Ngày xuân mòn mỏi má hồng phôi pha
Sống làm vợ khắp ngƣời ta
Khéo thay thác xuống làm ma không chồng
Rằng: hồng nhan tự thủa xƣa
Cái điều bạc mệnh có lừa ai đâu
Chính vì thế mà một nhà nho ở thế kỷ XIX - Tiên Phong Mộng Liên Đường
chủ nhân đã giải mã tác phẩm: "Xem chỗ giấc mộng đoạn trƣờng tỉnh dậy mà căn
duyên vẫn gỡ chƣa rồi; khúc đàn bạc mệnh gảy xong mà oán hận vẫn còn chƣa hả,
thì dẫu đời xa ngƣời khuất, không đƣợc mục kích tận nơ, nhƣng lời văn tả ra hình
nhƣ máu chảy ở đầu ngòi bút, nƣớc mắt thấm ở trên tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng
phải thấm thía ngậm ngùi, đau đớn nhƣ đứt ruột. Thế thì gọi tên là Đoạn trƣờng tân
thanh cũng phải".
Trong Truyện Kiều, ngoài sự mởi đường của chữ Nôm và thể loại truyện thơ
Nguyễn Du dễ dàng thể hiện tư tưởng đạo đức thẩm mỹ cởi mở phi chính thống do
có điều kiện thuận lợi khác nữa: Truyện Kiều dùng cốt truyện nước ngoài. Mở đầu
Truyện Kiều Nguyễn Du đã giới thiệu thời gian, khung cảnh xã hội của câu chuyện
"Rằng năm Gia Tĩnh triều Minh". Trong trí nhớ độc giả, ấn tượng các nhân vật
Nguyễn Du trình bày là những nhân vật Trung Hoa. Khi thấy trên các tập Truyện
Kiều xuất bản lâu nay những bức minh họa trình bày các nhân vật đó với bộ mặt và
y phục Trung Hoa, không có một độc giả Việt Nam nào có phản ứng gì. Đó là sự
thực. Tính chất đề tài quả có một ý vị nước ngoài.
Nhìn chung văn học chữ Nôm giai đoạn nửa cuối thế kỷ XVIII - nửa đầu thể
kỷ XIX có những bước phát triển mới. Trên cơ sở của văn học dân gian, và tiếp thu
sâu sắc ảnh hưởng của văn học dân gian, chủ yếu là ca dao, dân ca, vè thể loại ngâm
khúc, truyện thơ, thơ Nôm Đường luật phát triển mạnh theo hướng dân tộc hóa. Từ
đó thơ Nôm vươn lên thể hiện những đề tài lớn, có khả năng bao quát sâu rộng cuộc
sống, đặc biệt là đời sống nội tâm, khát khao thầm kín của người phụ nữ, vốn bị bỏ
qua trong các giai đoạn văn học trước. Tuy vậy ngâm khúc chủ yếu viết về hình
tượng người phụ nữ truyền thống của văn học phương Đông là người chinh phụ và
người cung nữ, Truyện Kiều mượn cốt truyện Kim Vân Kiều Truyện. Đây đều là
những "mặt nạ" của các tác giả nam giới trong việc thể hiện người phụ nữ. Đến thơ
Nôm Hồ Xuân Hương, lần đầu tiên người phụ nữ trực tiếp nói lên tiếng nói của
mình. Nhưng phương thức thể hiện chính trong thơ Hồ Xuân Hương vẫn mang đậm
chất dân gian do đó vẫn chưa phải là tiếng nói chính thống của văn học trung đại.
Khác với chữ Nôm, chữ Hán được sử dụng trong xã hội người Việt từ lâu
đời. Chữ Hán vào nước ta cùng với sự xâm lược, cai trị của người Trung Quốc từ
khoảng thế kỷ thứ nhất trước Công nguyên. Đến thế kỷ thứ X, chữ Hán được người
Việt nắm vững và sử dụng trong văn bản hành chính, tôn giáo, văn học. Các triều
đại phong kiến Việt Nam độc lập đã chọn chữ Hán làm chữ viết chính thức và từ đời
Lý, lại tổ chức các kỳ thi bằng chữ Hán để tuyển chọn người tài bổ sung cho bộ
máy lãnh đạo. Điều đó khiến cho chữ Hán có được vị thế lâu dài ở Việt Nam. Tuy
nhiên, chữ Hán là thứ chữ có âm đọc khác với tiếng Việt và mặt chữ không dễ nhớ
nên chữ Hán hiển nhiên khó đọc, khó hiểu ngay cả với quan lại triều đình nếu như ít
học, chứ không nói gì đến người dân thường không biết chữ. Công chúng của văn
học chữ Hán chủ yếu giới hạn trong phạm vi những người biết chữ Hán có cùng
tầng lớp, giai cấp và học vấn.
Bộ phận tác phẩm do người Việt viết bằng chữ Hán rất đồ sộ. Những hệ quả
của việc dùng chữ Hán là: các tác giả Việt Nam đã chịu ảnh hưởng của quan niệm
chính trị, đạo đức, thẩm mỹ, của quan niệm hệ thống thể loại, của thi pháp văn học
Trung Quốc. Văn học chữ Hán vì thế chủ yếu là sản phấm tinh thần của đẳng cấp
những người đàn ông được trang bị học vấn - các thiền sư, nhà nho, nam nhi anh
hùng quân tử. Họ dùng văn học chữ hán để giáo huấn, nói chỉ tải đạo. Không chỉ
thiếu vắng nữ tác giả, hình ảnh người phụ nữ cũng mới chỉ thấp thoáng xuất hiện trong
một số tác phẩm. Theo thống kê của tác giả luận văn Nhân vật phụ nữ trong Truyền kỳ
mạn lục nhìn từ quan điểm giới (Trần Thị Nhung, Khoa Ngữ văn, ĐHSP Thái
Nguyên) Toàn bộ tuyển tập Thơ văn Lý - Trần có tới 914 tác phẩm nhưng số tác phẩm
có đề cập đến nhân vật nữ chỉ là 13, chiếm 1.42% - một con số khiêm tốn. Thậm chí,
trong Thiền uyển tập anh, nhân vật nữ hoàn toàn không được nhắc tới dù chỉ một lần. Ở
những tuyển tập khác như Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái, Quốc âm thi tập hay
Hồng Đức quốc âm thi tập… hình tượng người phụ nữ xuất hiện nhiều hơn song cũng
chỉ chiếm một số lượng không đáng kể
Văn học chữ Hán giai đoạn thế kỷ XVIII - nửa đầu thế kỷ XIX, về thể tài,
căn bản không có gì khác trước. Phổ biến vẫn là thơ Đường luật, ngoài ra còn một
số thể tài khác như cổ phong, trường thiên… Tác động của cuộc sống đối với thơ
chữ Hán để lại dấu vết trong nội dung của nó hơn là trong thể tài. Đối với các nhà
thơ sáng tác bằng chữ Hán, dường như đã vay mượn ngôn ngữ nước ngoài, thì vay
mượn thể tài của nước ngoài cũng là việc đương nhiên, không có nhu cầu cải tiến.
Tuy vậy ở những nhà thơ lớn, việc vay mượn thể tài của nước ngoài không ngăn cản
họ viết những bài thơ xuất sắc, có nội dung phong phú và có giá trị nghệ thuật cao.
Cùng với sự chuyến biến mạnh mẽ về tư tưởng của thơ chữ Nôm, có những tác giả
đã thể hiện đề tài người phụ nữ với tư tưởng nhân bản sâu sắc. Đó là trường hợp thơ
chữ Hán của Ngô Thì Sĩ, Phạm Nguyễn Du, Phạm Đình Hổ và Nguyễn Du.
Cả Ngô Thì Sĩ và Phạm Nguyễn Du đều có những bài thơ chữ Hán khóc
người vợ xấu số của mình, nỗi lòng thương tiếc xóc xa vô hạn. Khuê ai lục là tập
thơ chữ Hán Ngô Thì Sĩ khóc người vợ thứ của ông chết lúc tuổi đời mới vừa hai
mươi chín: "Vợ chồng ăn ở với nhau không rời nửa bước, mới xa nhau vài tháng mà
về nhà chỉ còn vỗ chiếc quan tài. Trời chăng? Người chăng? Thời chăng? Mệnh
chăng?... Than ôi, còn nói gì nữa" (Khuê ai tiểu truyện). Một năm sau trong ngày
giỗ đầu của nàng, Ngô Thì Sĩ lại làm một bài thơ cảm tác, nỗi xúc động của nhà thơ
vẫn nguyên như cũ:
Khứ niên kim nguyệt tỉnh an quy
Kim nguyệt tƣ niên dĩ luyện kì
Công để khốc quân kim nhật thống
Khách trình hối ngã khứ niên trì
Nhân sinh hành chỉ thành vô định
Thế sự bi hoan quả thục vi?
Truy ức kỷ diên nan súc địa,
Bằng lan ngột tọa bất thăng bi
(Năm ngoái tháng này nàng về thăm tổ tiên
Tháng này năm nay đã đến kỳ giỗ đầu của nàng rồi
Nơi ly sở ta khóc nàng hôm nay thật là đau đớn
Đường về hối rằng năm ngoái ta về đã chậm
Đời người đi hay ở thật là vô định.
Việc đời vui hay buồn ai làm nên nỗi?
Nghĩ đến sự đơm cúng, nhưng khó lòng rút đất được,
Chỉ dự bao lơn ngồi, xiết bao bi thảm)
(Tiêu tƣờng cảm xúc)
Phạm Đình Hổ trong Đông Dã học ngôn thi tập cũng có những bài rât hay về
hình ảnh những cô gái xinh đẹp, ngây thơ:
…Khứ tuế đào hoa phát
Xuân phong hà thê thê?
Lân nữ đối hoa khấp,
Sầu thâm my chuyển đê.
Kim tuế đào hoa phát,
Xuân thảo hà thê thê?
Lân nữ đối hoa tiếu
Ngâm thành thủ tự đề…
(Năm ngoái hoa đào nở,
Gió xuân sao lạnh lùng?
Đứng trước hoa cô gái láng giềng khóc
Buồn quá đôi lông mày cô thành nhăn nhăn
Năm nay hoa đào nở
Cỏ xuân sao mà xanh tươi
Đứng trước hoa cô gái láng giềng tươi cười
Thơ làm ngâm xong, tay cô tự viết lấy…)
(Hoài cổ)
Phạm Đình Hổ cũng viết về các cô gái hát triều Lê:
Chức Cẩm phƣờng đầu thị thiếp gia
Thử thân khởi liệu ngô trâm hoa
Phủng trang cựu đệ lệ Tuyên phi viện,
Án phách tân truyền Lại bộ ca
Tang hải kỷ hồi kinh nhập mộng,
Quần thoa vô kế mạn tùy ba,
Bất tri Liên Thụy cung tiền nguyệt,
Niên khứ, niên lai, hiệu nhƣợc hà?
(Đầu phố Chức Cẩm đấy là nơi nhà thiếp ở,
Có ngờ đâu cái phận trâm thoa làm nhầm nhỡ thân thiếp đến thế này.
Bưng nữ trang chầu chực, trước thuộc cung bà Tuyên phi
Cầm phách gõ nhịp ca, sau vào hát ở trong bộ Lại.
Dâu bể bao phen từng giật mình trong giấc mộng,
Quần thoa không có kế gì được, đành phải liều sống lối buông trôi.
Chả biết mặt trăng trước cung Liên Thụy
Tự bấy đến nay hết năm này sang năm khác bóng sáng so với trước như thế nào?)
Các nhà thơ viết về người phụ nữ với tấm lòng nhân đạo sâu sắc. Đó là nỗi
thương tiếc khi người vợ trở thành người thiên cổ, còn mình sống cô đơn, biết bao
xót xa cay đắng. Đó cũng có thể là hình ảnh người phụ nữ bình dân, phụ nữ lao
động, có người là ca nhi kỹ nữ. Họ được thể hiện nhìn nhận không hoàn toàn theo
quan điểm Nho giáo với cái mẫu "công dung ngôn hạnh", "tại gia tòng phụ, xuất giá
tòng phu…". Nhưng trong các bài thơ chữ Hán các tác giả mới chỉ dừng lại ở việc
trân trọng vẻ đẹp ngây thơ trong sáng, niềm cảm thông, xót thương cũng chỉ dừng
lại ở số phận bị chà đạp áp bức nặng nề về phương diện giai cấp. Các người chưa
nhìn nhận, trân trọng và thể hiện những người phụ nữ ở vẻ đẹp hình thể, ở mặt tài
cũng như tình.
Trong Tập thơ chữ Hán, Nguyễn Du đã dành khá nhiều thời gian để quan
tâm đến những người phụ nữ, đặc biệt là hình tượng người phụ nữ đức hạnh và
người phụ nữ tài sắc tài tình. Họ là những nhân vật chính của các bài thơ: bà Dương
thái hậu nhà Tống (Dao vọng càn hải từ), Trương thị, Quách thị, Lưu thị (Tam liệt
miếu), hai bà phi Nga Hoàng, Nữ Anh (Thƣơng Ngô tức sự), đá vọng phu (Vọng
phu thạch), nàng Ngu Cơ (Sở Bá Vƣơng mộ II), nàng Tiểu Thanh (Độc Tiểu Thanh
ký), người ca nữ đất La Thành (Điếu La Thành ca giả), cô Cầm (Long Thành cẩm
giả ca), người hầu cũ của em (Ngộ gia đệ cựu ca cơ), , nàng Dương Quý Phi
(Dƣơng phi cố lý)...
Nguyễn Du vẫn đứng trên quan điểm lập trường của Nho giáo để ca ngợi, trân
trọng những người phụ nữ đức hạnh, tiết liệt, trung kiên. Nhà thơ đã hết lòng ca ngợi
những người phụ nữ có khí tiết như Dương Thái hậu khi bà cùng con gái cưỡi
thuyền ra biển, rồi bị đắm thuyền chết, quyết không chịu rơi vào tay giặc:
Tiểu nhĩ Minh phi trƣờng xuất tái
Tì bà bôi tửu khuyến Thiền Vu.
(Đáng cười thay nàng Minh phi ra ở ngoài cửa ải
Gảy đàn tì và, rót rượu mời chúa Thiền Vu)
(Dao vọng càn hải từ)
Cũng từ một sự vật, sự việc bắt gặp trên đường, Nguyễn Du đã nảy sinh những
tình cảm khâm phục trước tính cách anh hùng của ba người phụ nữ: Trương Thị,
Quách thị, Lưu thị - không chịu nhục vào tay giặc cướp mà nhảy xuống sông chết:
Thiên thu bi kiệt hiển tam liệt
Vạn cổ cương thường thuộc nhất môn
(Bia đá nghìn thu biểu dƣơng 3 liệt nữ
Cƣơng thƣờng vạn cổ thuộc về một nhà)
(Tam liệt miếu)
Hay trong Thƣơng Ngô tức sự Nguyễn Du trân trọng hai bà phi (Nga Hoàng
và Nữ Anh) của vua Thuấn, đi tìm chồng ngồi khóc bên bờ sông Tương, vảy nước
mắt vào những khóm trúc, gảy đàn tỳ bà…
Nhà thơ đã xúc động khi nhìn đá ngóng chồng, theo tích do hóa thân của
người đàn bà ôm con chờ chồng trên đầu núi ngàn năm hóa thành đá:
Độc lập sơn đầu thiên bách xuân
Nhất trinh lƣu đắc cổ kim thân
(Muôn kiếp không bao giờ có giấc mộng mây mưa
Tấm thân giữ trọn được tiết trinh mãi mãi)
(Vọng phu thạch)
Mỗi một hình tượng người phụ nữ đức hạnh đều được Nguyễn Du nhìn từ góc
độ đạo đức Nho giáo, nhưng điểm nhìn đó không còn sự cứng nhắc, sự khắc nghiệt,
tính bảo thủ như trong Tống Nho. Ông còn thực sự đồng cảm, xót thương cho họ
khi chết đi rồi, miếu thờ ở giữa chốn "cô từ xuất tiểu chu" (Dao vọng càn hải từ),
băn khoăn khi nhận thấy người phụ nữ đã phải sống trong xã hội phong kiến cùng
những kỷ cương, luân thường đạo lý khắc nghiệt và họ chấp nhận trở thành những
“tượng đài” về đạo đức, về lý tưởng sống mà không được đáp lại từ phía nam giới
(Tứ vọng liên sơn diểu vô tế, Độc giao nhi nữ thiện di luân)…
Nói cách khác, phẩm hạnh của người phụ nữ tiết liệt trong thơ Nguyễn Du
được ông thổi một luồng sinh khí mới, mang cảm quan nhân văn, nhân đạo chủ
nghĩa, mang đặc trưng riêng của tư duy dân gian Việt Nam dựa trên các chuẩn mực
Nho giáo.
Hình tượng người phụ nữ phản diện được Nguyễn Du nhắc đến trong Vƣơng
thị tƣợng I, II không phải là người phụ nữ phản diện với những nét tâm lý chứa
đựng yếu tố thân xác, thể hiện tâm tư thầm kín của người phụ nữ như thường thấy
trong các sáng tác thơ chữ Hán của các nhà nho khác mà được miêu tả một cách
chân thực về những hành động, ứng xử đạo đức xã hội. Vương thị cùng với chồng
là gian thần Tần Cối cùng âm mưu giết hại Nhạc Phi, làm điều phi nghĩa. Nguyễn
Du miêu tả Vương thị bằng giọng điệu gay gắt bởi đó là lời phán xét nghiêm khắc
dành cho người đàn bà xấu xa. Nguyễn Du dường như muốn loại trừ, dường như
không hề muốn Vương thị tồn tại trong thế giới những người phụ nữ.
Có thể nói, lần đầu tiên trong lịch sử văn học trung đại nói chung, văn học thế
kỷ XVIII - đầu XIX nói riêng, nhân vật người phụ nữ tài sắc tài tình, các kỹ nữ ả
đào được trở thành nhân vật chính trong các sáng tác thơ chữ Hán - mảng văn học
mang tính quan phương, chính thống. Điều đặc biệt hơn nữa là Nguyễn Du viết về
họ không phải để khinh miệt, coi thường hay giáo huấn đạo đức mà là để xót
thương, đồng cảm, đồng điệu. Ngay trong các bài hát nói, thể loại sáng tác bằng chữ
Nôm, của Nguyễn Công Trứ, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tú Xương… những
người phụ nữ này cũng không nhận được 1 chút đồng cảm nào. Các tác giả được coi
là "nhà nho tài tử" "thị tài đa tình" này.
Đối với Nguyễn Công Trứ, trong số 12 người thiếp của ông (có tài liệu nói là
14), có không ít người xuất thân là ả đào. Gần gũi các cô đào là thế, nhưng Nguyễn
Công Trứ chưa bao giờ thể hiện thái độ thương cảm trước thân phận bạc bẽo của
những người phụ nữ này. Nguyễn Công Trứ từng tận mắt chứng kiến tài năng, mê
mải sắc đẹp của các ả đào; cũng gửi gắm không ít tâm sự ruột gan của mình cho cô
đào hát; trải qua bao nhiêu cuộc tình tha thiết sâu nặng với họ, nhưng vẫn không
trân trọng họ. Đối với Nguyễn Công Trứ, các ca nương chỉ là đối tượng, chính xác
hơn là "đối tác" hành lạc:
Lật đật qua đèo nóng nực thay
Hai cô thƣơng đến lại cho giày
Ơn này biết lấy chi mà trả
Xin quỳ hai gối chống hai tay
(Cảm ơn hai cô đào)
Cô đầu là thú chơi qua đường, chỉ cần có tiền là mua được. Nguyễn Công Trứ
Bỡn cô đào già:
Liếc mắt trong giá đáng mƣời mƣơi
Đem lạng vàng mua lấy tiếng cƣời
Giăng xế nhƣng mà cung chẳng khuyết
Hoa tàn xong nhụy lại còn tƣơi
Cái nhìn về người ả đào của ông thuần túy là cái nhìn từ phía người đàn ông
hưởng thụ ăn chơi. Tiếng đàn hay, giọng hát ngọt, sắc đẹp đã cuốn họ vào cuộc chơi
say sưa mê mải, không một lần dừng lại, không một lần đặt mình vào vị trí người ca
nữ để hiểu phía sau từng cuộc hát là những nỗi đắng cay, tủi nhục của người phụ nữ
đem tài sắc mua vui cho người.
Nguyễn Du ca ngợi, trân trọng vẻ đẹp “sắc nước, hương trời” của người phụ
nữ tài sắc tài tình. Vẻ đẹp của người ca nữ đất Long Thành được miêu tả như không
phải ở chốn nhân gian đua chen này mà mong manh và kỳ diệu như cánh hoa xinh
xắn ở cõi tiên:
Nhất chi nùng diễm há bồng doanh
Xuân sắc yên nhiên động lục thành
(Điếu La thành ca giả)
Trong bài thơ Long Thành cầm giả ca, cô Cầm kiều diễm ấy vẫn hiện ra trước
mắt ông như một sức mạnh, một ánh hào quang rực rỡ khiến cho chính Nguyễn Du
và mọi người đều bị hấp dẫn.
Hồng trang yểm ái đào hoa diện
Đà nhan hám thái tối nghi nhân
Đến khi miêu tả tài năng của những con người ấy, Nguyễn Du ngưỡng mộ tài
năng nghệ thuật của họ. Ông say sưa tả tiếng đàn kỳ diệu mà những người ca nữ
mang đến cho mọi người:
Hoãn nhƣ sơ phong độ tùng lâm,
Thanh nhƣ song hạc mình tại âm.
Liệt nhƣ Tiến phúc bi đầu toái tích lịch,
Ai nhƣ Trang tích bệnh trung vi Việt ngâm
Thính giả mỹ mỹ bất tri quyện
Tiện thị Trung hòa đại nội âm”
(Long Thành cầm giả ca)
Từ sự ngưỡng mộ, trân trọng sắc, tài, tình đó, Nguyễn Du đồng cảm thương
xót thân phận của người kỹ nữ, ả đào. Ông xót xa trước kết cục cuộc đời thảm hại
của những "con hát" khi nàng phai phấn nhạt hương. Quy luật của lịch sử, sự hoán
đổi các vương triều thì con thuyền của các ca nữ lại càng lênh đênh, dập dềnh nơi
sóng nước.
Bằng sự gắn bó với con người, với cuộc sống, và nhìn sâu vào lịch sử, Nguyễn
Du đặc biệt thương xót cho số phận những người có tài và có tình. Lòng thương xót
của Tố Như đối với những nhân vật kỳ tài bao giờ cũng đằm thắm, ẩn ngụ trong đó
nỗi xót thương cho bản thân, vì như nhà thơ vẫn nói, ông đã tự xem mình là người
có chung một mối “phong vận kỳ oan” :
Yên chi bất tẩy sinh tiền chƣớng
Phong nguyện không lƣu tử hậu danh
(Nghiệp chướng phấn son lúc sống cũng không rửa sạch được
Sau khi chết vẫn để lại cái tiếng gió trăng)
(Điếu La Thành ca giả)
Ông đã nhìn ra trong nỗi đau của đồng loại nỗi đau của chính mình, và trong
nỗi đau của chính mình, ông thấy được nỗi đau của đồng loại. Giọt nước mắt khóc
nàng Tiểu Thanh trở thành lời ai điếu cho mọi kiếp tài hoa bạc mệnh, trở thành giọt
nước mắt khóc chính mình. Ông mơ hồ lo lắng:
Bất tri tam bách dƣ niên hậu
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Nhƣ
(Không biết ba trăm năm lẻ nữa
Thiên hạ ai người khóc Tố Như)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Như vậy thơ chữ Hán thế kỷ XVIII – nửa đầu thế kỷ XIX bước đầu đã có
những yếu tố mang tính nữ quyền. Về cơ bản, hình tượng người phụ nữ trong những
sáng tác này còn dè dặt, không cởi mở như sáng tác chữ Nôm, nhất là truyện thơ
Nôm. Các tác giả vẫn thiên về thể hiện niềm yêu mến trước cái đẹp trong sáng của
các thiếu nữ, niềm thương cảm với những người đoản mệnh hoặc xót xa cho thân
phận kỹ nữ bị chà đạp, nghèo khổ về mặt vật chất. Chỉ đến thơ chữ Hán Nguyễn
Du, hình tượng người phụ nữ mới được nhìn nhận toàn diện và nhân bản hơn. Ông
trân trọng say sưa miêu tả vẻ đẹp “sắc nước hương trời”, “nghiêng nước nghiêng
thành” của họ. Đặc biệt nhà thơ trân trọng tài năng ở họ, nhất là tài thơ ca nghệ
thuật. Số phận của họ cũng được nhà thơ nâng lên thành triết lý “hồng nhan bạc
phận”, “tài mệnh tương đố”.
Tiểu kết: Ở chương 3 chúng tôi tìm hiểu góc nhìn người phụ nữ trong thơ
chữ Nôm và thơ chữ Hán. Có thể nhận thấy thơ chữ Nôm thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ
XIX qua những tác phẩm tiêu biểu như Chinh phụ ngâm (Đặng Trần Côn), Cung
oán ngâm khúc (Nguyễn Gia Thiều) và những sáng tác của Hồ Xuân Hương bước
đầu đã thể hiện những quan điểm bênh vực đối với nhu cầu bản năng có thân xác có
giới tính của con người. Đây là những tiếng nói đầu tiên trong văn học Việt Nam
thời trung đại công khai đặt quyền được hưởng những hạnh phúc cá nhân của con
người lên trên những “lợi ích cộng đồng” mà thực chất đã biến thành lợi ích của các
tập đoàn thống trị. Đây là sự tiến bộ của mảng thơ chữ Nôm - vốn được coi là thể
loại phi chính thống, mang đậm tính dân gian. Trong tập thơ chữ Hán - thể loại,
ngôn ngữ mang tính quan phương, chính thống, thiên về giáo huấn, nói chí tải đạo
Nguyễn Du trước sau vẫn thể hiện mình là một nhà nho, tuy vậy ông đã chú ý tới
thân phận đáng thương của người phụ nữ. Trong tập thơ này, Nguyễn Du cũng đặc
biệt quan tâm tới những người phụ nữ tài sắc tài tình, trân trọng ca ngợi vẻ đẹp tài
năng và đồng cảm sâu sắc với họ. Với mảng thơ chứ Hán, Nguyễn Du đã góp phần
hoàn thiện bức tranh "trào lưu văn học mang những yếu tố nữ quyền" của văn học
trung đại Việt Nam thế kỷ XVIII - đầu XIX.
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu lý thuyết về giới, vận dụng những tri thức về văn hóa
giới thời trung đại Việt Nam để tìm hiểu, từ đó phân nhóm hình tượng nhân vật
người phụ nữ trong Tập thơ chữ Hán Nguyễn Du: Người phụ nữ đức hạnh, Người
phụ nữ đáng chê, Hình tượng người phụ nữ tài sắc tài tình, luận văn rút ra một số
kết luận như sau:
1. Xã hội Việt Nam thời trung đại là xã hội nam quyền với Nho giáo là quốc
giáo. Trong bối cảnh văn hóa đó, người phụ nữ có địa vị thấp hèn và sống trong
thân phận phụ thuộc, người đàn ông và toàn xã hội đã lấy tiêu chí giá trị của nam
giới, có lợi cho nam giới để áp đặt cho người phụ nữ. Vì vậy, chỉ có những người
phụ nữ đáp ứng các tiêu chí nam giới đã đưa ra mới được khen ngợi, được coi là
người phụ nữ chính diện lý tưởng, ngược lại sẽ bị phê phán, bị coi là người phụ nữ
phản diện. Nguyễn Du là một nhà nho, vì vậy ông cũng ca ngợi hay phê phán những
người phụ nữ từ quann điểm Nho gia. Căn cứ vào quan điểm như vậy, người phụ nữ
thời trung đại trong Thơ chữ Hán Nguyễn Du xuất hiện hai hình tượng: Người phụ
nữ đức hạnh, Người phụ nữ đáng chê. Những người phụ nữ được coi là đức hạnh
gồm có: bà Dương thái hậu nhà Tống (Dao vọng càn hải từ - Thanh Hiên thi tập),
Trương thị, Quách thị, Lưu thị (Tam liệt miếu - Bắc hành tạp lục), hai bà phi Nga
Hoàng, Nữ Anh (Thƣơng Ngô tức sự - Bắc hành tạp lục), đá vọng phu (Vọng phu
thạch- Thanh Hiên thi tập), nàng Ngu Cơ (Sở Bá Vƣơng mộ II - Bắc hành tạp lục).
Người phụ nữ bị coi là phản diện là Vương thị (Vƣơng Thị tƣợng I, II - Bắc hành
tạp lục). Tuy vậy đứng trên quan điểm lập trường của Nho giáo nhưng trong mỗi
hình tượng ông cũng thể hiện được cách nhìn nhận, đánh giá riêng của mình. Đối
với người phụ nữ đức hạnh trung trinh, tiết liệt theo quan điểm Nho giáo Nguyễn
Du không chỉ ca ngợi, coi họ như những tấm gương cho người đời mà còn thể hiện
niềm xót xa thương cảm tận đáy lòng. Đặc biệt trong Vọng phu thạch ông còn đứng
trên quyền sống chính đáng của người phụ nữ để đòi hỏi sự công bằng từ chính
những trang nam nhi.
2. Cũng từ góc nhìn về giới, luận văn còn nhận thấy có một hình tượng người
phụ nữ nhận được sự quan tâm, đồng cảm đặc biệt của Nguyễn Du trong tập thơ chữ
Hán: Hình tượng người phụ nữ tài sắc tài tình. Hình tượng người phụ nữ này gồm
có: nàng Tiểu Thanh (Độc Tiểu Thanh ký -Thanh Hiên thi tập) , người ca nữ đất La
Thành (Điếu La Thành ca giả - Thanh Hiên thi tập), cô Cầm (Long Thành cẩm giả ca -
Bắc hành tạp lục), người hầu cũ của em (Ngộ gia đệ cựu ca cơ - Bắc hành tạp lục),
nàng Dương Quý Phi (Dƣơng phi cố lý - Bắc Hành tạp lục)... Họ là những kĩ nữ ả
đào - sản phẩm đặc biệt của đời sống văn hóa đô thị khi mà lối sống thị dân đã thành
một nhân tố nổi bật. Từ khi xuất hiện, họ đã bị cả xã hội miệt thị, khinh rẻ, coi là
"xướng ca vô loài". Tuy nhiên Nguyễn Du không kì thị sắc đẹp, coi thường tài năng,
lạnh lùng với số phận thống khổ của họ. Ngược lại, ông hết lòng ca ngợi trân trọng vẻ
đẹp "sắc nước hương trời", ngưỡng mộ cảm thông tài năng nghệ thuật, đồng cảm xót
thương cho số phận đầy bi kịch của họ. Đặc biệt ông còn nhìn thấy ở họ những mối
tương đồng với thân phận của những nhà thơ như mình. Từ đó ông thừa nhận mình là
cùng hội cùng thuyền với họ, cũng cảm thấy một định mệnh bất hạnh đề nặng.
3. Từ việc phân tích và hệ thống hình tượng người phụ nữ trong tập thơ chữ
Hán, luận văn đã sử dụng phương pháp so sánh thơ chữ Hán với Truyện Kiều, tập
truyện thơ Nôm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Nguyễn Du để thấy được sự
thống nhất trong tư tưởng, quan điểm, sự tiếp nối trong sáng tạo nghệ thuật của nhà
thơ. Mặt khác, luận văn so sánh với thơ văn, quan niệm về người phụ nữ trong thơ
Nôm: Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm, Cung oán ngâm khúc
của Nguyễn Gia Thiều, thơ Hồ Xuân Hương... Đặc biệt luận văn còn so sánh thơ
chữ Hán Nguyễn Du với truyện thơ Nôm Truyện Kiều của chính ông. Hai hình thức
ngôn ngữ văn tự Hán - Nôm, hai thể loại truyện thơ - thơ làm nên sự khác biệt trong
phương thức nghệ thuật của hai mảng sáng tác. Tuy nhiên so sánh cũng cho ta thấy
sự tiếp nối và tiến bộ trong tư tưởng Nguyễn Du ngay cả trong mảng thơ chữ Hán -
mảng thơ chính thống. Với những thủ pháp khám phá, biểu hiện nội tâm, cảm xúc
mới mẻ, Nguyễn Du đã có đóng góp lớn lao vào trào lưu văn học mang những yếu
tố nữ quyền và xu hướng chủ tình của văn học Việt Nam thế kỷ XVIII - đầu XIX.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán Việt, NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội.
2. Đào Duy Anh (1974), Từ điển Truyện Kiều, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Đào Phương Anh (2005), Tìm hiểu về nhân vật lịch sử trong Thơ chữ Hán
Nguyễn Du, Khóa luận tốt nghiệp Khoa Văn học, Đại học KHXH & NV Hà Nội
4. Lại Nguyên Ân (2006), Phan Khôi: Tác phẩm đăng báo 1929-1930-1931, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
5. Lại Nguyên Ân (2004), 150 thuật ngữ văn học, tái bản lần thứ 3, NXB Đại học
Quốc gia Hà Nội
6. Phạm Văn Ánh (2009), Có hay không yếu tố nữ trong bài Từ điệu Nguyễn Lang
Quy của Khuông Việt Đại Sƣ, http://khoavaNhoc-ussh.edu.vn/, Hà Nội.
7. Phan Kế Bính (2001), Việt Nam phong tục, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
8. Nguyễn Phan Cảnh (1987), Ngôn ngữ thơ, NXB Đại học và Giáo dục Chuyên
nghiệp, Hà Nội
9. Nguyễn Huệ Chi (1965), Tìm hiểu thơ chữ Hán Nguyễn Du, Tạp chí Văn học,
Hà Nội
10. Trần Văn Chánh, Trần Phướng Thuận, Phan Văn Hòa (2003), Truyện Kiều tập
chu, NXB Đà Nẵng
11. Trương Chính - Nguyễn Thạch Giang (2001), Nguyễn Du cuộc đời và tác phẩm,
NXB Văn hóa thông tin, Hà Nội
12. Nguyễn Đình Chú (1997), Văn học Việt Nam những năm 20 của thế kỷ, Hợp
tuyển văn học Việt Nam, Tập 5, NXB Văn học, Hà Nội
13. Nguyễn văn Dân (1998), Lý luận văn học so sánh, tái bản có bổ sung và sửa
chữa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội
14. Nguyễn Đức Đàn (1961), Trào lƣu tƣ tƣởng nhân đạo chủ nghĩa trong văn học
Việt Nam thế kỷ XIX, tập san Nghiên cứu văn học, số 1/1961
15. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh
16. Nguyễn Xuân Diện (2007), Lịch sử và nghệ thuật ca trù, NXB Thế giới
17. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, NXB Thanh niên, TP Hồ Chí Minh
18. Xuân Diệu (1982), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, NXB Văn học, Hà Nội.
19. Xuân Diệu (1962), Con ngƣời Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, Tạp chí Văn nghệ
số 58
20. Ngô Viết Dinh (2000), Đến với thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Thanh niên, TP
Hồ Chí Minh
21. Trịnh Bá Đĩnh (1999), Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo dục, TP
Hồ Chí Minh
22. Nguyễn Thạch Giang (Khảo đính) (1989), Kiều, NXB Thông tin Hà Nội.
23. Lê Thị Ngân Giang (2003), Một số thuật ngữ về giới và Bình đẳng giới, Nxb
Ban luật pháp chính sách – Trung ương Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam.
24. Nguyễn Thạch Giang (2004), Văn học thế kỷ 18, Nhà xuất bản Khoa học xã hội.
25. Lâm Giang - Vũ Ký (1960), Giảng luận về Nguyễn Khuyến, NXB Tân Việt.
26. Dương Quảng Hàm (1968), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu xuất
bản, Sài Gòn.
27. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học,
NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
28. Hoàng Xuân Hãn, Nghiêm Toản (1951), Thi văn Việt Nam (từ đời Trần đến cuối
đời Mạc), NXB Sông Nhị, Hà Nội.
29. Thiền sư Thích Nhất Hạnh, Thả một bè lau - Truyện Kiều dƣới cái nhìn thiền
quán, NXB Lá Bối
30. Nguyễn Thị Hiền (2010), So sánh đề tài thơ chữ Hán của Nguyễn Du và
Nguyễn Khuyến, Khóa luận tốt nghiệp Khoa Văn học, Đại học KHXH & NV
Hà Nội
31. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
32. Trần Đình Hượu (1995), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn
hóa thông tin, Hà Nội.
33. Nguyễn Văn Huyền (2008), Nguyễn Khuyến tác phẩm, NXB Nghệ An
34. Lâm Khang, Những bi kịch của ả đào xƣa, lamkieu.com.vn
35. Phan Công Khanh (2001), Lịch sử tiếp nhận truyện Kiều, Luận án tiến sĩ,
Trường ĐHSP TP Hồ Chí Minh
36. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2004), Văn học Việt Nam thế
kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Tái bản lần thứ bảy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương (2004), Văn học Việt Nam thế
kỷ X – Nửa đầu thế kỷ XVIII, Tái bản lần thứ bảy, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
38. Phan Khôi (1929), Chữ trinh: cái tiết với cái nết, đăng trên báo Phụ nữ tân văn
số 21, dẫn theo Lại Nguyên Ân http://lainguyenan.free.fr/pk1929/chutrinh.html
39. Lê Đình Kỵ (1970), Truyện Kiều và chủ nghĩa hiện thực của Nguyễn Du, NXB
Văn học, Hà Nội, tr 407.
40. Thanh Lãng (1967), Bảng lƣợc đồ văn học Việt Nam (quyển thƣợng), NXB
Trình bày, Sài Gòn.
41. Mai Quốc Liên (1996), Nguyễn Du toàn tập, NXB Văn học, TP Hồ Chí Minh
42. Ngô Sĩ Liên (2003), Đại Việt sử ký toàn thƣ, NXB Khoa học.
43. Nguyễn Lộc (2004), mục từ “Truyện Kiều” in trong Từ điển văn học (bộ mới),
Nhà xuất bản Thế giới.
44. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII đến hết thế kỷ
XIX, NXB Giáo dục, Hà Nội.
45. Nguyễn Lộc (1990), Nguyễn Du con ngƣời và cuộc đời, NXB Đà Nẵng
46. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII - hết thế kỷ XIX,
NXB Giáo dục, TP Hồ Chí Minh
47. Phương Lựu (2003), Lí luận văn học, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
48. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lí luận văn học, Tái bản lần thứ ba, NXB Giáo
Dục, Hà Nội
49. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du
50. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Đốtxtoiepki, NXB Giáo Dục, Trần
Đình Sử - Vương Trí Nhà dịch.
51. N. Konrat (1996), Phƣơng Đông - Phƣơng Tây (Trịnh Bá Dĩnh dịch), NXB
Giáo Dục
52. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đƣờng giải mã văn học trung đại Việt Nam, Tái
bản lần thứ 1, NXB Giáo Dục, Hà Nội
53. Lê Hằng Nga (2010), Ngƣời phụ nữ trong sáng tác của Nguyễn Du, Luận văn
Thạc sĩ Khoa Văn học, Đại học KHXH & NV
54. Phan Ngọc (1985), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong truyện Kiều, NXB
Văn học, Hà Nội.
55. Phan Ngọc (2001), Tìm hiểu phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều, NXB
Thanh niên, Hà Nội.
56. Phan Ngọc (1995), Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ, NXB Trẻ.
57. Văn học cổ cận đại Việt Nam (2012), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn học.
58. Đạm Nguyên (1970), Tang thƣơng ngẫu lục - Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.
59. Nguyễn Thị Nương (2010), Con người Nguyễn Du qua thơ chữ Hán, NXB Đại học Sư Phạm, Hà
Nội.
60. Nguyễn Khắc Phi (2006), Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn và thơ ca cổ
điển Trung Quốc, Nguyễn Khắc Phi tuyển tập, Vũ Thanh tuyển chọn, NXB
Giáo Dục, Hà Nội.
61. Vũ Tiến Quỳnh (1991), Nguyễn Du (Tuyển chọn những bài bình luận), Khánh
Hòa.
62. Nguyễn Kim Sơn (1996), Những xu hƣớng của Nho học Việt Nam nửa cuối thế
kỉ XVIII - nửa đầu thế kỉ XIX và sự tác động của nó tới văn học, Luận án phó
tiến sĩ khoa học ngữ văn, trường ĐH Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
63. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vương, Trần Nho
Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt
Nam, NXB Giáo dục, Hà Nội.
64. Trần Đình Sử (2000), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
65. Trần Đình Sử (1993), Giáo trình thi pháp học, NXB TPHCM.
66. Trần Đình Sử (1996), Lí luận phê bình văn học, NXB Hội nhà văn Hà Nội.
67. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
68. Trần Đình Sử (2007), Thi pháp Truyện Kiều, NXB Giáo Dục, Hà Nội.
69. Viện sử học, ủy ban khoa học xã hội Việt Nam (1976), Nguyễn Trãi toàn tập,
NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
70. Bùi Duy Tân (2001), Khảo và luận một số thể loại - tác gia - tác phẩm văn học
trung đại Việt Nam, Tập 2, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
71. Bùi Duy Tân (1999), Khảo và luận một số tác gia - tác phẩm văn học Trung đại
Việt Nam, Tập I, NXB Giáo Dục, Hà Nội
72. Trần Nho Thìn (2007), Truyện Kiều: Khảo - chú - bình, NXB Giáo Dục, Hà
Nội.
73. Trần Nho Thìn (2008), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa, Nxb
Giáo Dục, Hà Nội.
74. Trần Nho Thìn (2009), Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng nói
phƣơng pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ quyền,
Báo cáo tại Hội thảo Nho giáo viện Triết học,
http://www.khoavaNhocngonngu.edu.vn/, Hà Nội.
75. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỳ XIX, NXB
Giáo Dục
76. Trần Nho Thìn (2003), Tài tình - một vấn đề văn hoá của thời đại Nguyễn Du,
Tạp chí Văn học, số 7, Hà Nội.
77. Trần Nho Thìn (2003), Nguyễn Công Trứ - Về tác gia và tác phẩm, NXB Giáo
Dục, Hà Nội.
78. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình xã hội học về giới, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
79. Đỗ Lai Thúy (2003), Hồ Xuân Hƣơng hoài niệm phồng thực, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
80. Lê Thước – Trương Chính (2012), Thơ chữ Hán Nguyễn Du in lại theo bản
1965, NXB Văn học, Hà Nội.
81. Đỗ Bằng Toàn, Đỗ Trọng Huề (2004), Việt Nam ca trù biên khảo, NXB TP Hồ
Chí Minh.
82. Đào Thái Tôn (2001), Văn bản Truyện Kiều - Nghiên cứu và thảo luận, NXB
Hội nhà văn.
83. Nguyễn Công Trứ (2001), Thơ Nguyễn Công Trứ chọn lọc, NXB Đồng Nai,
Đồng Nai.
84. Khổng Tử, (2007), Kinh thi, quyển 2, dịch giả Tạ Quang Phát, NXB Văn học, Hà Nội.
85. Khổng Tử, (2007), Kinh thi, quyển 1, dịch giả Tạ Quang Phát, NxbVăn học, Hà Nội.
86. Nguyễn Quảng Tuân (2004), Chữ nghĩa Truyện Kiều, Nxb Văn học, Hà Nội.
87. Đỗ Minh Tuấn (1995), Nghệ thuật trữ tình của Nguyễn Du trong Truyện Kiều,
NXB Văn hóa thông tin Hà Nội.
88. Nhiều tác giả (1977), Thơ văn Lý - Trần, Tập 1, NXB KHXH, Hà Nội.
89. Nhiều tác giả (1988), Thơ văn Lý - Trần, Tập 2, NXB KHXH, Hà Nội.
90. Nhiều tác giả (1978), Thơ văn Lý - Trần, Tập 3, NXB KHXH, Hà Nội.
91. Lê Trí Viễn (2001), Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam, NXB Văn nghệ TP
Hồ Chí Minh, TP Hồ Chí Minh.
92. Nguyễn Khắc Viện (2007), Truyện Kiều và nghiên cứu sáng tác văn học, NXB
Văn hóa Sài Gòn.
93. Trần Ngọc Vương (1999), Nhà nho tài tử và văn học Việt Nam, NXB Đại học
quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
94. Trần Ngọc Vương (1995), Loại hình học tác giả văn học: Nhà nho tài tử và văn
học Việt Nam, NXB Giáo Dục, Hà Nội
95. Trần Ngọc Vương (2007), Văn học Việt Nam thế kỷ X - XIX, những vấn đề lý
luận và lịch sử, NXB Giáo Dục, Hà Nội
96. Lê Thu Yến tuyển chọn (2000), Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ
ngƣời đời sau, NXB Giáo Dục