Một số khó khăn khi kiểm toán các

Doanh nghiệp cổ phần hóa

Chủ trương cổ phần hóa Doanh nghiệp của Đảng

và Nhà nước ta trong các năm qua là một chủ

trương lớn và đang đạt được những kết quả nhất

định. Tuy nhiên trong quá trình cổ phần hóa đang

bộc lộ nhiều mặt hạn chế như: Thời điểm IPO lần đầu, việc đánh

giá giá trị tài sản, cổ phiếu ưu đãi, các thông tin liên quan có lợi

mà các doanh nghiệp chưa thông báo hoặc cố tình không thông

báo…

Mặt khác các văn bản chế độ, chính sách về cổ phần hóa doanh

nghiệp nhà nước vẫn đang trong quá trình hoàn thiện. Việc kiểm

toán đối với các doanh nghiệp trong giai đoạn cổ phần hóa cũng

rất mới mẻ đối với các kiểm toán viên, trong quá trình kiểm toán

cũng phát sinh rất nhiều khó khăn, vướng mắc, thể hiện trên các

mặt:

Theo Nghị định 109/2007/NĐ-CP ngày 26/6/2007 của Chính phủ

về chuyển doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thành công ty cổ

phần thì doanh nghiệp cần phải lập báo cáo tài chính ( BCTC ) tại

các thời điểm chính như sau:

Căn cứ vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hóa đã được cơ quan

có thẩm quyền quyết định, doanh nghiệp có trách nhiệm điều

chỉnh số liệu trong sổ kế toán; bảo quản và bàn giao các khoản

nợ và tài sản đã loại trừ khi xác định giá trị doanh nghiệp; lập báo

cáo tại chính doanh nghiệp giai đoạn từ thời điểm xác định giá trị

doanh nghiệp đến thời điểm doanh nghiệp chính thức chuyển

thành công ty cổ phần.

Trong thời gian từ 01 tháng từ thời điểm được cấp Giấy chứng

nhận đăng ký kinh doanh lần đầu, doanh nghiệp cổ phần hóa

phải hoàn thành việc lập báo cáo tài chính tại thời điểm đăng ký

kinh doanh, xác định giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm

chính thức chuyển thành công ty cổ phần và các tồn tại về tài

chính cần tiếp tục xử lý.

Việc cổ phần hóa phải trải qua nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn sẽ

có sự thay đổi về số liệu kế toán. Do đó, nếu các thời điểm nêu

trên thuộc phạm vi niên độ kiểm toán của Kiểm toán Nhà nước thì

cũng phải kiểm toán các giai đoạn khác nhau trong tiến trình cổ

phần hóa doanh nghiệp. Khi đó khi kiểm toán các công ty này sẽ

nảy sinh nhiều vấn đề khó khăn, phức tạp hơn nhiều khi kiểm

toán các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hoặc các công ty cổ

phần đang hoạt động ổn định trong thời gian cả niên độ .

Có thể liệt kê một số khó khăn chính như sau:

Về tính tuân thủ pháp luật:

Giai đoạn DNNN cổ phần hóa doanh nghiệp theo Luật DNNN,

còn giai đoạn công ty cổ phần hoạt động theo Luật DN.

Nghị định 199/2004/NĐ-CP và Thông tư 33/2005.TT-BTC về Quy

chế quản lý tài chính công ty nhà nước và quản lý vốn nhà nước

đầu tư vào doanh nghiệp khác chỉ áp dụng đối với doanh nghiệp

nhà nước cổ phần hóa, không áp dụng cho công ty cổ phần.

Nghị định 206/2004/NĐ-CP về quản lý lao động, tiền lương và lao

động trong công ty nhà nước cũng chỉ áp dụng đối với doanh

nghiệp nhà nước, không áp dụng đối với công ty cổ phần.

Kiểm toán nhiều giai đoạn mà mỗi giai đoạn lại chịu sự điều chỉnh

của nhiều chính sách, chế độ khác nhau là một công việc khó

khăn cho các kiểm toán viên. Đặc biệt là việc phân định rạch ròi

các giai đoạn, ví dụ: thông thường các cơ quan chức năng giao

đơn giá tiền lương trên cơ sở cả niên độ năm tài chính, tuy nhiên

khi thực hiện quyết toán quỹ tiền lương hạch toán vào chi phí thì

phải áp dụng đơn giá tiền lương năm cho số tháng là doanh

nghiệp nhà nước và phải xác định rõ ràng các chỉ tiêu tính lương

như: doanh thu, sản lượng, lợi nhuận…của số tháng là DNNN,

mà đôi khi các chỉ tiêu này doanh nghiệp không có số liệu hoặc

số liệu không đáng tin cậy, chỉ mang tính thống kê.

Về việc xử lý số liệu do kiểm toán phát hiện chênh lệch:

Trong quá trình kiểm toán, nếu có phát hiện chênh lệch thì việc

xử lý số chênh lệch ở mỗi giai đoạn cũng là vấn đề rất khác nhau.

Cụ thể:

Vấn đề thứ nhất: Việc xử lý số liệu chênh lệch trước thời

điểm xác định giá trị doanh nghiệp.

Theo quy định thì Tổ chức tư vấn định giá chịu trách nhiệm về kết

quả xác định giá trị doanh nghiệp; Căn cứ Hồ sơ xác định giá trị

doanh nghiệp do tổ chức tư vấn định giá xây dựng ( hoặc do

doanh nghiệp cổ phần hóa tự xây dựng ), Ban chỉ đạo cổ phần

hóa doanh nghiệp có trách nhiệm trình cơ quan có thẩm quyền

quyết định giá trị doanh nghiệp; Kết quả công bố giá trị doanh

nghiệp của cơ quan có thẩm quyền là cơ sở để xác định quy mô

vốn điều lệ, cơ cấu cổ phần phát hành lần đầu và giá khởi điểm

để thực hiện đấu giá cổ phần.

Doanh nghiệp cổ phần hóa đước điều chỉnh giá trị doanh nghiệp

đó công bố trong trường hợp sau đây:

Có những nguyên nhân khách quan ( thiên tai địch họa, chính

sách Nhà nước thay đổi hoặc do nguyên nhân bất khả kháng

khác ) làm ảnh hưởng đến giá trị những tài sản của doanh

nghiệp.

Sau 12 tháng kể từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp mà

doanh nghiệp chưa thực hiện việc bán cổ phần.

Do đó, nếu có sự chênh lệch giữa số liệu của kiểm toán và số liệu

xác định giá trị doanh nghiệp thì cũng không đủ cơ sở để điều

chỉnh bởi:

Thứ nhất: Kiểm toán Nhà nước chỉ xác nhận và đánh giá về

BCTC của doanh nghiệp, không có chức năng định giá doanh

nghiệp do số liệu kiểm toán cũng chưa đủ cơ sở pháp lý.

Thứ hai: Kiểm toán Nhà nước thông thường chỉ kiểm toán trên

tài liệu, hồ sơ, chứng từ đơn vị cung cấp ( chỉ kiểm toán theo sổ

sách kế toán ), nhưng giá trị doanh nghiệp được xác định trước

khi cổ phần hóa ngoài căn cứ theo giá trị sổ kế toán còn căn cứ

vào tài liệu kiểm kê, phân loại và đánh giá chất lượng tài sản của

doanh nghiệp tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp; Giá thị

trường của tài sản tại thời điểm tổ chức định giá; Giá trị quyền sử

dụng đất được giao, được thuê và giá trị lợi thế kinh doanh của

doanh nghiệp. Do đó số liệu kiểm toán cũng chưa được chính

xác hoàn toàn.

Thông thường kiểm toán viên gặp trường hợp này đều xác nhận

theo giá trị doanh nghiệp đã xác định mà chỉ đánh giá, nhận xét,

kiến nghị ( nếu có ).

Vấn để thứ hai: việc xử lý số liệu chênh lệch sau thời điểm

xác định giá trị doanh nghiệp đến trước thời điểm chính thức

chuyển thành công ty cổ phần.

Theo quy định thì khoản chênh lệch tăng giữa giá trị thực tế vốn

nhà nước tại thời điểm doanh nghiệp chuyển sang công ty cổ

phần với giá trị trị thực tế phần vốn nhà nước tại thời điểm xác

định giá trị doanh nghiệp được xử lý về Quỹ hỗ trợ sắp xếp

doanh nghiệp. Trường hợp phát sinh chênh lệch giảm thì doanh

nghiệp cổ phần hóa có trách nhiệm báo cáo cơ quan có thẩm

quyền quyết định cổ phần hóa để kết hợp với các cơ quan liên

quan tổ chức kiểm tra, làm rõ nguyên nhân, xác định trách nhiệm

tập thể, cá nhân và xử lý như sau:

Nếu do nguyên nhân khách quan ( do thiên tai dịch họa; do Nhà

nước thay đổi chính sách hoặc do biến động của thị trường quốc

tế và các nguyên nhân bất khả kháng ) doanh nghiệp cổ phần

hóa báo cáo cơ quan có thẩm quyền quyết định cổ phần hóa xem

xét, quyết định sử dụng tiền thu từ bán cổ phần để bù đắp tồn

thất sau khi trừ đi bồi thường của bảo hiểm ( nếu có ). Trường

hợp tiền thu từ bán cổ phần không đủ bù đắp, cơ quan quyết định

cổ phần hóa xem xét, điều chỉnh giảm quy mô, cơ cấu vốn điều lệ

của công ty cổ phần.

Nếu do nguyên nhân chủ quan:

- Nếu lỗ do việc không xử lý dứt điểm các tồn tại về tài chính theo

quy định hiện hành của Nhà nước khi xác định giá trị doanh

nghiệp thì phải xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan cơ liên

quan: doanh nghiệp, tổ chức tư vấn định giá và cơ quan quyết

định cổ phần hóa để xử lý bồi thường vật chất.

- Nếu lỗ do điều hành sản xuất, kinh doanh thì các cán bộ quản lý

doanh nghiệp đó có trách nhiệm bồi thường toàn bộ tổn thất do

chủ quan gây ra theo quy định hiện hành.

- Trường hợp vì lý do bất khả kháng mà người có trách nhiệm bồi

thường không có khả năng thực hiện việc bồi thường theo quyết

định của cơ quan có thẩm quyền thì phần tổn thất còn lại được

xử lý như trường hợp do nguyên nhân khách quan theo quy định

tại điểm a khoản này.

Trong giai đoạn này điều cần thiết là KTV phải xác định được

trong tổng số chênh lệch do kiểm toán xác định có bao nhiêu là

ảnh hưởng đến giá trị phần vốn nhà nước tại thời điểm đó và

phải làm rõ nguyên nhân chủ quan, khách quan, trách nhiệm bồi

thường…sau đó mới có thể điều chỉnh được, điều này quá khó

đối với các kiểm toán viên với thời gian ngắn kiểm toán tại đơn vị.

Đặc biệt đối với trường hợp phải giảm quy mô, cơ cấu vốn điều lệ

của công ty cổ phần khi mà công ty đã IPO lần đầu ra công

chúng.

Vấn đề thứ ba: Việc xử lý số liệu chênh lệch sau thời điểm

chính thức chuyển thành công ty cổ phần đến cuối niên độ

kế toán ( 31/12/XX ).

Trường hợp này tiến hành kiểm toán bình thường như kiểm toán

những công ty cổ phần cả niên độ.

Khó khăn về quá trình thực hiện kiểm toán:

Cổ phần hóa các doanh nghiệp ở Việt Nam vẫn đang trong quá

trình vừa làm vừa điều chỉnh, thể hiện qua việc các chế độ, chính

sách về cổ phần hóa DNNN thay đổi liên tục ( khoảng 2 năm thay

đổi một lần ). Trong bối cảnh mới mẻ đó, Kiểm toán Nhà nước

cũng chưa có quy trình, chuẩn mực hướng dẫn về việc tổ chức

kiểm toán các đơn vị đang trong quá trình cổ phần hóa doanh

nghiệp.

Khi kiểm toán các doanh nghiệp cổ phần hóa có nhiều giai đoạn

trong một niên độ thì phải lập biên bản kiểm toán cho nhiều giai

đoạn. Tuy nhiên, mẫu biểu hồ sơ cho kiểm toán các công ty cổ

phần chưa được ban hành khiến rất khó khăn trong việc lập biên

bản kiểm toán cũng như việc tổng hợp kết quả kiểm toán toàn

Tập đoàn hoặc toàn Tổng công ty.

Vấn để đặt ra là kiểm toán báo cáo tài chính nào khi trong năm có

cả giai đoạn là DNNN, cả giai đoạn là công ty cổ phần; kiểm toán

Bảng cân đối tài khoản của đơn vị tại thời điểm 31/12 hay cả thời

điểm doanh nghiệp chính thức chuyển sang công ty cổ phần;

kiểm toán Doanh thu, thu nhập, chi phí và kết quả kinh doanh cả

niên độ hay từng giai đoạn v.v…tất cả những vấn đề đó vẫn chưa

có hướng dẫn để thực hiện cho thống nhất trong các Đoàn kiểm

toán, các tổ chức kiểm toán.

Những đề xuất kiến nghị:

- Nên chăng hạn chế độ hoặc có thể không kiểm toán xác nhận

đối với các doanh nghiệp cổ phần hóa vừa có giai đoạn DNNN

vừa có giai đoạn công ty cổ phần trong niên độ kiểm toán, mà chỉ

kiểm toán tính tuân thủ, kiểm toán hoạt động để có thể đưa ra

đánh giá, nhận xét về quá trình cổ phần hóa và đưa ra kiến nghị

nhằm tháo gỡ vướng mắc trong quá trình cổ phần hóa DNNN.

Theo kinh nghiệm thì thông thường các trường hợp này không có

chênh lệch về số liệu kiểm toán hoặc nếu có chênh lệch cũng

không trọng yếu. Bởi lẽ theo quy định trước khi cổ phần hóa phải

có định giá giá trị doanh nghiệp, xác nhận báo cáo tài chính của

kiểm toán độc lập; phải được kiểm tra, thẩm định của Ban chỉ đạo

cổ phần hóa và cơ quan có thẩm quyền quyết định giá trị doanh

nghiệp; phải có quyết toán thuế của sơ quan thuế v.v…do đó số

liệu có thể đáng tin cậy, dòng thời gian không tiến hành kiểm toán

còn tiết kiệm được thời gian và chi phí cho cuộc kiểm toán đó.

- Chỉ kiểm toán việc quản lý phần vốn nhà nước tại công ty cổ

phần thông qua Người đại diện phần vốn nhà nước, không kiểm

toán xác nhận toàn bộ số liệu của công ty cổ phần. Đặc biệt đối

với các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán tập trung

được kiểm toán chỉ định theo Luật chứng khoán.

- Ban hành quy trình, chuẩn mực, hồ sơ mẫu biểu đặc thù để

kiểm toán các công ty cổ phần để áp dụng thống nhất trong toàn

ngành.

- Theo Điều 14 Luật KTNN thì KTNN có chức năng kiểm tra các

cơ quan, tổ chức có sử dụng tiền và tài sản nhà nước, nhưng

trong quá trình định giá giá trị tài sản và xử lý tài chính để xác

định giá trị phần vốn Nhà nước tại Doanh nghiệp lại không có

thành phần của KTNN. Nên chăng KTNN nên kiến nghị với Quốc

hội bổ sung kiểm toán viên nhà nước trong Ban định giá xác định

giá trị DN để tránh tình trạng thất thoát tiền và tài sản của nhà

nước trong quá trình phức tạp này.