ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

  

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP

Bộ môn Lý luận và Lịch sử Nhà Nước và Pháp luật

ĐỀ TÀI:

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ AN NINH MẠNG

Người thực hiện : Nguyễn Mạnh Tùng

Lớp : K61CLC

MSV : 16061087

Người hướng dẫn : TS. Nguyễn Văn Quân

`

¬

Hà Nội – 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Khóa luận tốt nghiệp “Hoàn thiện pháp luật về an ninh

mạng” là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, thông tin được trích dẫn

được sử dụng trong Khóa luận này là hoàn toàn chính xác, tin cậy, trung thực và kết

quả nghiên cứu do quá trình học tập, nghiên cứu của bản thân và sự hướng dẫn tận

tình của Giáo viên hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Quân.

Hà Nội, ngày 01 tháng 06 năm 2020

Tác giả Khóa luận tốt nghiệp

i

Nguyễn Mạnh Tùng

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................................... i

MỤC LỤC .................................................................................................................................... ii

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................................1

I.Tính cấp thiết của đề tài .......................................................................................... 1

II. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................ 2

1. Mục tiêu chung ...................................................................................................... 2

2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu .......................................................................... 3

3.Phương pháp nghiên cứu ........................................................................................ 3

4.Kết cấu khóa luận ................................................................................................... 4

CHƯƠNG 1:KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ AN NINH MẠNG CỦA VIỆT NAM .5

I. Pháp luật về An ninh mạng của Việt Nam ............................................................ 5

1.Một số nội dung chính của Luật An ninh mạng: .................................................... 7

2.Nguyên tắc và chính sách về bảo vệ An ninh mạng của Việt Nam ...................... 11

II.Các thuật ngữ về An ninh mạng: .......................................................................... 13

1. An ninh mạng ....................................................................................................... 13

2.Thông tin ............................................................................................................... 17

3. Không gian mạng ................................................................................................. 18

4.Tội phạm mạng ..................................................................................................... 21

5. Khủng bố mạng ................................................................................................... 22

6. Gián điệp mạng .................................................................................................... 23

III. Điểm hạn chế trong pháp luật về an ninh mạng của Việt Nam ......................... 24

1. Sự trùng lặp pháp luật .......................................................................................... 24

2. Hạn chế trong cách quy định và sự thiếu hụt văn bản hướng dẫn ....................... 28

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1 ........................................................................................... 36

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG AN NINH MẠNG TRÊN THẾ GIỚIVÀ Ở

ii

VIỆT NAM ............................................................................................................. 37

I.Tình hình An ninh mạng trên thế giới: ..................................................................................... 37

1. Tổng quan về tình hình an ninh mạng trên thế giới .............................................................. 37

2. Các cuộc tấn công mạng và tác động của chúng.................................................. 41

II.Tình hình An ninh mạng ở Việt Nam ..................................................................................... 44

1. Tổng quan về tình hình an ninh mạng của Việt Nam .......................................... 44

2. Thống kê, đánh giá và dự báo về tình hình an ninh mạng của Việt Nam trong những năm

gần đây và thời gian sắp tới .......................................................................................................... 47

3. Những nguy cơ và thách thức đến từ môi trường mạng ...................................... 48

III.Tình hình thực hiện pháp luật về an ninh mạng của Việt Nam .......................... 50

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2 ........................................................................................... 56

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT AN NINH

MẠNG CỦA VIỆT NAM ........................................................................................................ 57

I. Hệ thống các biện pháp bảo đảm An ninh mạng ................................................. 57

II.Pháp luật về an ninh mạng của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam 61

1. Tổng quan về pháp luật và chiến lược an ninh mạng của các nước trên thế giới ..... 61

2. Pháp luật an ninh mạng của một số nước trên thế giới ........................................ 65

III.Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi hiệu quả Luật An ninh mạng

của Việt Nam .......................................................................................................... 73

1.Hoàn thiện pháp luật .................................................................................................................. 73

2. Thực thi pháp luật và chiến lược an ninh mạng quốc gia .................................... 77

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3 ........................................................................................... 80

KẾT LUẬN.................................................................................................................................. 81

iii

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 82

MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài:

Trong xã hội phát triển ngày nay thì một trong những yếu tố quan trọng

mang ý nghĩa quyết định sự tiến bộ của nền văn minh nhân loại, đó là công nghệ.

Ứng dụng khoa học công nghệ được sử dụng vào trong các ngành nghề khác nhau

và từng bước đóng vai trò cốt yếu trong nhiều lĩnh vực đời sống xã hội. Một trong

những phát kiến có thể nói là vĩ đại nhất trong lịch sử công nghệ- thông tin của loài

người đó là mạng Internet.

Với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, không gian mạng trở

thành một bộ phận cấu thành không thể thiếu, đóng vai trò quan trọng trong xây

dựng xã hội thông tin và phát triển kinh tế tri thức. Sự bùng nổ của công nghệ mang

tính đột phá như trí tuệ nhân tạo, Internet của vạn vật, máy tính lượng tử, điện toán

đám mây, hệ thống dữ liệu lớn, hệ thống dữ liệu nhanh… đã làm không gian mạng

thay đổi sâu sắc cả về chất và lượng, được dự báo sẽ mang lại những lợi ích chưa

từng có cho xã hội loài người nhưng cũng làm xuất hiện những nguy cơ tiềm ẩn vô

cùng lớn.

Từ khi mạng Internet ra đời, các vấn đề an ninh như tấn công mạng, đánh

cắp thông tin, giả mạo, khủng bố... liên tục diễn ra, an ninh mạng ngày nay không

chỉ dừng lại ở việc bảo mật thông tin của cá nhân, doanh nghiệp mà còn liên quan

đến chính trị, kinh tế, pháp lý, trở thành thủ đoạn trong việc đối đầu giữa các nước.

Các cuộc tấn công mạng với động cơ chính trị vào hệ thống thông tin trọng yếu của

các nước ngày càng gia tăng, gây thiệt hại nghiêm trọng về kinh tế, quốc phòng và

an ninh. Tội phạm mạng ngày càng nguy hiểm với nhiều thủ đoạn tinh vi, kỹ thuật

cao, sử dụng các loại mã độc ứng dụng trí tuệ nhân tạo để tấn công, xâm nhập.

Không gian mạng đang trở thành môi trường thuận lợi để các cơ quan đặc biệt,

nước ngoài, cá nhân, tổ chức khủng bố liên lạc, tuyển mộ lực lượng, gây quỹ,

truyền bá tư tưởng chống đối cực đoan, kích động sự hận thù và bạo lực. Mạng

Internet không chỉ là phương tiện thiết yếu trong cuộc sống, mà nó còn đặt ra nhiều

1

vấn đề mới cho an ninh quốc gia.

Nhiều quốc gia đã nhận thức rõ về những mối đe dọa đối với an ninh mạng,

coi đây là thách thức mới, mối đe dọa mới có tầm quan trọng và nguy hiểm cao nên

đã cụ thể hóa thành các văn bản chính sách, văn bản pháp luật như luật hoặc văn

bản dưới luật tại hơn 80 quốc gia, tổ chức, liên minh quốc tế như Mỹ, Anh, Đức, Hà

Lan, Pháp, Canada, Hàn Quốc,… nhằm tạo ra các thiết chế, cơ sở pháp lý chống lại

các nguy cơ đe dọa đến an ninh quốc gia từ không gian mạng; thành lập các lực

lượng chuyên trách về an ninh mạng, tình báo mạng, chiến tranh mạng, phòng

chống khủng bố mạng và tội phạm mạng. Đến nay, có 138 quốc gia trong đó có 95

nước đang phát triển đã ban hành Luật An ninh mạng. Chỉ trong vòng 06 năm trở

lại đây, đã có 23 quốc gia trên thế giới ban hành trên 40 văn bản luật về an ninh

mạng. Luật An ninh mạng (LANM) của Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIV

thông qua tại Kỳ họp thứ 5, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ

bản về bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin an ninh quốc gia; phòng

ngừa, xử lý hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh

mạng và quy định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân, chính thức có hiệu lực

từ 01/01/2019.

Sự tác động của các vấn đề về an ninh mạng đến kinh tế, văn hóa, chính trị

và xã hội là vô cùng to lớn. Việc phòng ngừa, đấu tranh chống lại tội phạm và

những hành vi bất hợp pháp trên không gian mạng là một nhiệm vụ tất yếu đối với

mỗi quốc gia. Tuy nhiên tại Việt Nam, cho tới nay, an ninh mạng còn là một vấn đề

chưa được nghiên cứu thực sự kỹ lưỡng, hiện có khá ít những nghiên cứu chuyên

sâu về vấn đề này đặc biệt là trên khía cạnh pháp lý. Hi vọng bài nghiên cứu này có

thể chỉ ra những vấn đề pháp lý liên quan đến an ninh mạng nói chung và pháp luật

về an ninh mạng của nước ta nói riêng, từ đó đề ra những hướng đi, giải pháp nhằm

từng bước nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa, đấu tranh chống tội phạm

mạng và hoàn thiện pháp luật an ninh mạng của Việt Nam.

II. Mục đích nghiên cứu

1. Mục tiêu chung

2

Nghiên cứu tập trung vào một số vấn đề pháp lý của an ninh mạng, đánh giá

chúng dưới góc nhìn pháp luật. Đi sâu vào phân tích nội dung của Luật An ninh

mạng. Thông qua các vụ việc cụ thể cũng như nghiên cứu pháp luật về an ninh

mạng của Việt Nam và một số nước trên thế giới, tìm ra những điểm đáng chú ý,

phân tích trên cơ sở pháp lý. Từ đó đưa ra phương hướng hoàn thiện pháp luật, giải

pháp, khuyến nghị để nâng cao hiệu quả thực thi và bảo đảm an ninh mạng.

So sánh pháp luật Việt Nam với pháp luật của các quốc gia khác, từ đó tìm ra

những điểm khác biệt trong mô hình, phương thức xây dựng và thực thi pháp luật

về an ninh mạng.

Chỉ ra những thuận lợi, khó khăn trong vấn đề phòng ngừa, đấu tranh chống

tội phạm mạng cũng như vai trò, sự tác động của pháp luật tới hoạt động này.

2.Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Không gian: Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quốc gia, vùng,

lãnh thổ khác trên thế giới.

Thời gian: từ năm 2010 tới nay

Đối tượng nghiên cứu: Pháp luật về an ninh mạng của Việt Nam và một số

nước khác. Các vụ tấn công mạng và sự cố an ninh mạng lớn trên thế giới do tội

phạm mạng, khủng bố mạng gây ra và sự ảnh hưởng của chúng tới đời sống, kinh

tế, chính trị, xã hội .

Vấn đề nghiên cứu: An ninh mạng dưới góc độ pháp lý; Hoàn thiện pháp luật

về an ninh mạng ở Việt Nam.

Do an ninh mạng tác động đến rất nhiều mặt của đời sống xã hội nên nghiên

cứu sẽ chỉ tập trung vào khía cạnh liên quan đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã

hội chứ không đề cập nhiều tới những khía cạnh khác như kinh tế hay môi trường,...

3.Phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác-Lênin. Trên cơ

sở đó, đề tài sẽ sử dụng một số phương pháp nghiên cứu khác như sau:

Phương pháp so sánh: đối sánh vấn đề lý luận và thực tiễn giữa Việt Nam và

các quốc gia khác trên thế giới nhằm tìm ra những điểm chung và khác biệt về vấn

3

đề lý luận và thực tiễn về các vấn đề an ninh mạng.

Phương pháp phân tích và bình luận để làm rõ những vấn đề lý luận, tìm ra

mối liên hệ giữa lý luận và những hành vi thực tế, tìm ra những điểm còn hạn chế

trong chính sách, pháp luật từ đó đánh giá và đề xuất phương hướng giải quyết,.

Phương pháp tổng kết thực tiễn nhằm khái quát hoá thực trạng, có cái nhìn

bao quát về tình hình an ninh mạng và pháp luật hiện nay, xem xét và đánh giá

những bài học kinh nghiệm thực tiễn.

4.Kết cấu khóa luận

Nghiên cứu gồm 3 phần, xây dựng theo hướng nghiên cứu từ những vấn đề

lý luận và thực trạng tới nguyên nhân và đưa ra giải pháp.

Phần đầu tiên, phân tích pháp luật về an ninh mạng của Việt Nam, đặc biệt là

nội dung của Luật An ninh mạng. Chỉ ra những ưu điểm và nhược điểm, rút ra cái

nhìn tổng quan nhất về pháp luật an ninh mạng. Ngoài ra, những khái niệm quan

trọng trong lĩnh vực an ninh mạng cũng được làm rõ trên cơ sở so sánh, đánh giá

qua các quan điểm ở nhiều góc độ khác nhau. Ở phần này, nghiên cứu cũng tập

trung vào những điểm còn hạn chế, bất cập trong Luật An ninh mạng của Việt Nam,

làm cơ sở đặt ra phương hướng hoàn thiện ở phần sau.

Phần hai, nghiên cứu tìm hiểu tình hình an ninh mạng nói chung, tình hình an

ninh mạng trên thế giới và tại Việt nam. Chỉ ra những hệ quả và tác động từ những

vụ tấn công mạng, phân tích những mối đe dọa có thể xảy ra. Từ đó tìm ra sự cần

thiết của pháp luật trong hoạt động kiểm soát, ngăn chặn và xử lý những mối đe dọa

tới từ không gian mạng.

Phần ba, nghiên cứu đưa ra hệ thống biện pháp bảo đảm an ninh mạng, từ đó

đề ra những giải pháp nhằm củng cố, kiểm soát các vấn đề an ninh mạng, đồng thời

kiến nghị phương hướng hoàn thiện pháp luật và thực thi hiệu quả Luật An ninh

mạng của Việt Nam. Xây dựng mô hình phối hợp giữa kỹ thuật công nghệ và pháp

4

luật nhằm nâng cao khả năng bảo vệ an ninh mạng.

CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT PHÁP LUẬT VỀ AN NINH MẠNG CỦA

VIỆT NAM

I. Pháp luật về An ninh mạng của Việt Nam

Dân số thế giới hiện nay được ước tính vào khoảng 7,7 tỉ người, xấp xỉ 55% số đó có tiếp cận với mạng Internet1. Mạng, thiết bị và dịch vụ công nghệ thông tin

ngày càng quan trọng đối với cuộc sống hàng ngày. Những nguy cơ nguy hiểm tới

từ không gian mạng là hiện hữu đối với bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống xã hội.

Cũng như thế giới thực, thế giới mạng cũng phải đối mặt với hàng loạt các mối đe

dọa an ninh to lớn.

Cùng với sự phát triển của mạng máy tính, những tầng lớp người mới được

sinh ra, đó là những hacker. Hacker là khái niệm có lẽ không còn xa lạ đối với xã

hội, họ có đam mê và trình độ cao đối với máy tính, công nghệ thông tin. Nhìn

chung, Hacker chia thành hai phái: phái thứ nhất nghiên cứu, khám phá công nghệ

tin học để báo cho các nhà quản trị hệ thống thông tin, tìm cách phòng ngừa, sửa

chữa, khắc phục nhằm bảo vệ cho hệ thống – đó là các hacker mũ trắng (white-hat

hacker). Phái thứ hai muốn tấn công hệ thống, lấy cắp thông tin, tiền bạc hoặc chỉ

để ghi lại tên tuổi của mình cho nổi tiếng – đó là các hacker mũ đen (black-hat

hacker). Loại hacker mũ đen này hết sức nguy hiểm do trình độ cao kèm theo mục

đích đen tối của chúng. Hacker mũ đen là một trong những nguyên nhân chính của

tội phạm mạng hoặc khủng bố mạng, gây rối loạn an ninh mạng nói chung.

Tình hình an ninh mạng trên thế giới cũng như nước ta hiện nay diễn biết rất

phức tạp. Tin tặc, tội phạm mạng ngày càng có nhiều thủ đoạn, chiêu trò nhằm mục

đích xấu như đánh cắp thông tin, tống tiền, bôi nhọ danh dự, phá hoại an ninh quốc

gia, trật tự xã hội,... Từ đó nảy sinh yêu cầu cấp thiết về những biện pháp đối phó,

phòng ngừa và xử lý tình trạng trên. Bên cạnh những giải pháp mang tính kỹ thuật

thì căn cứ pháp lý, nền tảng pháp luật sẽ là cơ sở vững chắc để thực thi chính sách,

hoạt động phòng ngừa, ứng phó với các nguy nguy cơ đe dọa an ninh mạng của các

1 Theo số liệu thống kê của Ngân hàng thế giới. Tham khảo tại: https://www.worldbank.org/. Truy cập ngày 14/04/202

5

cơ quan nhà nước, tổ chức và cá nhân.

Sự phát triển của các hành vi trên không gian mạng từ giả mạo, đánh cắp

thông tin đến tống tiền, phá hoại hệ thống hay cao hơn là đe dọa đến an ninh quốc

gia, an toàn trật tự xã hội đặt ra vấn đề về nhu cầu pháp luật để điều chỉnh phù hợp

cho từng hành vi, hoạt động và hậu quả mà chúng gây ra. Cụ thể với Việt Nam, có

một giai đoạn chúng ta chỉ dựa vào các nghị định và hướng dẫn của Chính phủ quy

định về xử phạt vi phạm hành chính và quy định về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch

vụ internet và thông tin trên mạng, cùng với một số thông tư hướng dẫn thực hiện2.

Kể cả khi có sự ra đời của Luật An toàn thông tin mạng (LATTTM) vào năm 20153,

việc nhận diện, đánh giá và xử lý các hành vi trên không gian mạng vẫn chưa chính

xác, chưa tiếp cận bao quát, đúng bản chất. Việc xử lý tình hình an ninh mạng phát

triển từ những giải pháp mang tính kỹ thuật tới những biện pháp an ninh, biện pháp

xã hội và không thể thiếu là biện pháp pháp lý.

Từ năm 1997 chúng ta bắt đầu tiếp cận và sử dụng Internet. Theo thống kê của

Báo cáo Digital Marketing Việt Nam 2019, sau hơn 20 năm phát triển, nước ta có 64

triệu người dùng Internet. Với con số này, Việt Nam là quốc gia có lượng người dùng

Internet cao thứ 12 trên toàn thế giới và đứng thứ 6 ở khu vực châu Á. Tuy nhiên pháp

luật Việt Nam chưa đáp ứng được theo xu thế và tốc độ phát triển này.

Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh mạng, cụ thể là Luật An

ninh mạng (LANM) là yêu cầu hết sức cấp thiết, là cơ sở pháp lý quan trọng trong

phòng ngừa, đấu tranh, xử lý các hoạt động vi phạm pháp luật trên không gian

mạng, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân; tạo hành lang

pháp lý để nâng cao năng lực bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc

gia, góp phần bảo đảm chủ quyền, an ninh, trật tự và xây dựng môi trường an toàn,

lành mạnh trên không gian mạng.

Trước khi LANM được ban hành, các vấn đề của an ninh mạng đã được quy

định rải rác tại nhiều văn bản pháp luật trong các lĩnh vực khác nhau, tổng hợp

2 Nghị định số 28/2009/NĐ-CP, Nghị định Quy định xử phạt hành chính trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet (Hết hiệu lực ngày 15/01/2014). 3 Luật số 86/2015/QH13, Luật An toàn thông tin mạng

6

thành các nguyên tắc, yêu cầu và trách nhiệm của các bên liên quan về an toàn

thông tin mạng, quản lý về mặt nội dung các thông tin được đăng tải trên không

gian mạng và bảo mật dữ liệu người dùng trong môi trường Internet. Một số văn

bản có thể kể đến như: Luật An toàn thông tin mạng 2015 (LATTTM); Luật Viễn

thông 2009; Luật giao dịch điện tử 2005;... Các quy định này được thể hiện chung

chung và không rõ ràng, có khả năng tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước giải

thích và áp dụng một cách tùy tiện, đồng thời gây khó khăn cho các doanh nghiệp

cung cấp dịch vụ trên không gian mạng và tăng nguy cơ xâm phạm các quyền cơ

bản của công dân liên quan đến tự do ngôn luận và bảo mật thông tin cá nhân,... và

trên hết là chúng chưa có tính thống nhất và cụ thể hóa.

Do các căn cứ pháp luật có liên quan đến vấn đề an ninh mạng nằm ở nhiều

văn bản khác nhau nên nghiên cứu sẽ không đi sâu vào nội dung của chúng mà sẽ

đưa ra so sánh tương quan đối với LANM ở phần sau.

1.Một số nội dung chính của Luật An ninh mạng:

LANM của Việt Nam đã được Quốc hội khóa XIV thông qua tại Kỳ họp thứ

5, với tỷ lệ 86.86%, gồm 7 chương, 43 điều, quy định những nội dung cơ bản về

bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin an ninh quốc gia; phòng ngừa, xử lý

hành vi xâm phạm an ninh mạng; triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng và quy

định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân. Cụ thể là:

Thứ nhất, quy định các khái niệm cơ bản và chính sách của Nhà nước về an

ninh mạng; nguyên tắc và biện pháp bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ không gian mạng

quốc gia; hợp tác quốc tế về an ninh mạng; các hành vi bị nghiêm cấm về an ninh

mạng; xử lý vi phạm pháp luật về an ninh mạng. Đây là cơ sở để xác định phạm vi

đấu tranh, biện pháp áp dụng, các hành vi vi phạm và cách thức phòng ngừa, xử lý

các hành vi này cũng như triển khai công tác nghiên cứu, hoàn thiện lý luận về an

ninh mạng.

Thứ hai, quy định các hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông

tin quan trọng về an ninh quốc gia. Với các quy định về thẩm định, kiểm tra, đánh

giá điều kiện, ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng được quy định tại Chương II,

7

hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ chặt chẽ từ bên

trong. Với các biện pháp bảo vệ an ninh mạng, xử lý các hành vi tấn công mạng,

khủng bố mạng, gián điệp mạng, chiếm đoạt thông tin thuộc bí mật nhà nước, các

hành vi chống, phá Nhà nước được quy định tại Chương I, Chương III, hệ thống

thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được bảo vệ từ bên ngoài. Đây là cơ sở

pháp lý quan trọng, thể hiện sự bảo vệ tương xứng với vai trò của hệ thống thông tin

an ninh quốc gia.

Thứ ba, đưa ra các quy định nhằm tạo nền tảng pháp lý trong phòng ngừa, phát

hiện, đấu tranh và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật, ảnh hưởng tới an ninh quốc gia,

trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức cá nhân trên không

gian mạng, như soạn thảo, đăng tải thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên

truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; kích động gây bạo loạn,

phá rối an ninh, gây rối trật tự công cộng, làm nhục, vu khống; xâm phạm trật tự quản

lý kinh tế; sử dụng không gian mạng để tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp

mạng, chiếm đoạt bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên không gian

mạng; sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để thực

hiện các hành vi vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; tấn công mạng... Đây là hành

lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm kết bạn, trao đổi, buôn bán, kinh

doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Thứ tư, tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng một

cách đồng bộ, thống nhất từ trung ương tới địa phương, trọng tâm là các cơ quan

Nhà nước và các tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai, hoạt động

kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ chức này. Kết

cấu hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng là một

trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ cùng sự

tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc sử

dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của

người khác sẽ bị xử lý nghiêm minh; hành vi xâm phạm an ninh mạng sẽ được phát

hiện, cảnh báo kịp thời. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển an ninh mạng, phát

8

triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng, nâng cao

năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không gian mạng cũng được

quy định chi tiết, là nền tảng pháp lý quan trọng triển khai công tác an ninh mạng

hiện tại và tương lai.

Thứ năm, tạo cơ sở pháp lý quan trọng thực thi chính sách của Nhà nước về

bảo vệ dữ liệu cá nhân, dữ liệu quốc gia trên không gian mạng. Để quản lý chặt chẽ,

bảo vệ nghiêm ngặt dữ liệu của nước ta trên không gian mạng, LANM đã quy định

các doanh nghiệp trong và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng viễn thông,

mạng Internet và các dịch vụ gia tăng trên không gian mạng tại Việt Nam có hoạt

động thu thập, khai thác, phân tích, xử lý dữ liệu về thông tin cá nhân, dữ liệu về

mối quan hệ của người sử dụng dịch vụ, dữ liệu do người sử dụng dịch vụ tại Việt

Nam tạo ra phải lưu trữ dữ liệu này tại Việt Nam trong thời gian theo quy định của

Chính phủ Việt Nam. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng để nâng cao hiệu quả quản lý

nhà nước, đấu tranh phòng, chống tội phạm trước các diễn biến phức tạp của hoạt

động cung cấp dịch vụ xuyên biên giới, thương mại điện tử, kinh doanh tiền ảo, tiền

điện tử thời gian qua.

Thứ sáu, tạo cơ sở pháp lý cho công tác bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an

ninh mạng, xây dựng và hình thành lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng đủ

khả năng đáp ứng yêu cầu của tình hình thực tế, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh

mạng chất lượng cao. Chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh

mạng cho cơ quan, tổ chức, cá nhân với mục tiêu tham gia không gian mạng an toàn,

lành mạnh, hạn chế tối đa nguy cơ, tác động tiêu cực, phát huy tối đa hiệu quả.

Thứ bảy, quy định rõ trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân khi tham gia

hoạt động trên không gian mạng, tập trung vào việc xác định trách nhiệm của lực

lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng được bố trí tại Bộ Công an, Bộ Quốc

phòng.4 Theo chức năng, nhiệm vụ được giao, các bộ, ngành chức năng, ủy ban

nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm thực hiện đồng bộ các biện pháp được phân công

để hướng tới một không gian mạng ít nguy cơ, hạn chế tối đa các hành vi vi phạm

4 Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng, chống tội phạm sử dụng công nghệ cao, Bộ Công an Nguyễn Minh Chính, “Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, đăng ngày 25/09/2019.

9

pháp luật trên không gian mạng.

Về nội dung chung của pháp luật an ninh mạng gồm những phần chính: An

ninh mạng về mặt kỹ thuật; Quản lý nội dung thông tin trên mạng; Bảo mật dữ liệu

cá nhân; Các biện pháp áp dụng để bảo vệ an ninh mạng; Hợp tác quốc tế và địa

phương hóa dữ liệu nhằm phát triển cũng như quản lý tốt hơn tình hình an ninh

mạng. Những nội dung này được đưa vào trong pháp luật kết hợp cùng với chiến

lược không gian mạng, chính sách thực thi sẽ tạo ra hiệu quả cao trong công tác bảo

vệ, bảo đảm an ninh mạng.

Bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc

gia là một trong những nội dung đặc biệt quan trọng của LANM. Quy định các biện

pháp, hoạt động bảo vệ tương xứng với mức độ quan trọng của hệ thống thông tin

này, trong đó nêu ra tiêu chí xác định, lĩnh vực liên quan, quy định các biện pháp

như thẩm định an ninh mạng, đánh giá điều kiện, kiểm tra, giám sát an ninh và ứng

phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh

quốc gia.

Để bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, LANM đã

dành riêng Chương III quy định đầy đủ các biện pháp phòng ngừa, đấu tranh, xử lý

nhằm loại bỏ các nguy cơ đe dọa, phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp luật, bao

gồm: phòng ngừa, xử lý thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền

chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; phòng, chống gián điệp

mạng, bảo vệ thông tin bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên

không gian mạng; phòng ngừa, xử lý hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ

thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự; phòng,

chống tấn công mạng; phòng, chống khủng bố mạng; phòng, chống chiến tranh

mạng; phòng ngừa, xử lý tình huống nguy hiểm về an ninh mạng; đấu tranh bảo vệ

an ninh mạng. Đây là hành lang pháp lý vững chắc để người dân có thể yên tâm

buôn bán, kinh doanh hay hoạt động trên không gian mạng.

Chương IV của LANM tập trung quy định về triển khai hoạt động bảo vệ an

ninh mạng một cách đồng bộ, thống nhất từ Trung ương tới địa phương, trọng tâm

10

là các cơ quan nhà nước và tổ chức chính trị, quy định rõ các nội dung triển khai,

hoạt động kiểm tra an ninh mạng đối với hệ thống thông tin của các cơ quan, tổ

chức này. Cơ sở hạ tầng không gian mạng quốc gia, cổng kết nối mạng quốc tế cũng

là một trong những đối tượng được bảo vệ trọng điểm. Với các quy định chặt chẽ,

sự tham gia đồng bộ của cơ quan nhà nước, doanh nghiệp và tổ chức, cá nhân, việc

sử dụng thông tin để vu khống, làm nhục, xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín

của người khác sẽ được xử lý nghiêm minh. Các hoạt động nghiên cứu, phát triển

an ninh mạng, phát triển công nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an

ninh mạng, nâng cao năng lực tự chủ về an ninh mạng và bảo vệ trẻ em trên không

gian mạng cũng được quy định chi tiết trong Chương này.

Nguồn nhân lực bảo vệ an ninh mạng là một trong những yếu tố quyết định sự

thành bại của công tác bảo vệ an ninh mạng. Chương V của LANM đã quy định các

nội dung bảo đảm triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng, xác định lực lượng

chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, ưu tiên đào tạo nguồn nhân lực an ninh mạng chất

lượng cao, chú trọng giáo dục, bồi dưỡng, phổ biến kiến thức về an ninh mạng.5

Luật cũng nghiêm cấm các hành vi tội phạm mạng, khủng bố mạng, gián

điệp mạng, xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, thông tin cá nhân trên

không gian mạng. (Bao gồm: Chiếm đoạt, mua bán, thu giữ, cố ý làm lộ thông tin

thuộc bí mật nhà nước, bí mật công tác; bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật

gia đình và đời sống riêng tư gây ảnh hưởng đến danh dự, uy tín, nhân phẩm, quyền

và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân; Đưa lên không gian mạng những thông tin

thuộc bí mật cá nhân, bí mật gia đình, đời sống riêng tư trái quy định của pháp

luật;...).

2.Nguyên tắc và chính sách về bảo vệ An ninh mạng của Việt Nam

Đối với Việt Nam, trong quá trình triển khai thực hiện bảo vệ an ninh mạng

cần tuân thủ các nguyên tắc đã định rõ trong LANM:

- Tuân thủ Hiến pháp và pháp luật; bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và

lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân.

5 “Hiểu về Luật an ninh mạng”. Tham khảo tại: http://tuyengiao.vn/ban-can-biet/hieu-ve-luat-an-ninh-mang- 113375. Truy cập ngày 06/05/2020

11

- Đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, sự quản lý thống nhất

của Nhà nước; huy động sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị và toàn dân tộc;

phát huy vai trò nòng cốt của lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng.

- Kết hợp chặt chẽ giữa nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ hệ thống thông

tin quan trọng về an ninh quốc gia với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm

quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt

động trên không gian mạng.

- Chủ động phòng ngừa, phát hiện, ngăn chặn, đấu tranh, làm thất bại mọi hoạt

động sử dụng không gian mạng xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội,

quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân; sẵn sàng ngăn chặn các

nguy cơ đe dọa an ninh mạng.

- Triển khai hoạt động bảo vệ an ninh mạng đối với cơ sở hạ tầng không gian

mạng quốc gia; áp dụng các biện pháp bảo vệ hệ thống thông tin quan trọng về an

ninh quốc gia.

- Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia được thẩm định, chứng

nhận đủ điều kiện về an ninh mạng trước khi đưa vào vận hành, sử dụng; thường

xuyên kiểm tra, giám sát về an ninh mạng trong quá trình sử dụng và kịp thời ứng

phó, khắc phục sự cố an ninh mạng.

- Mọi hành vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng phải được xử lý kịp thời,

nghiêm minh.

LANM nêu ra chính sách của Nhà nước về an ninh mạng với những định

hướng phát triển và ưu tiên đối với từng lĩnh vực:

Thứ nhất, ưu tiên bảo vệ an ninh mạng trong quốc phòng, an ninh, phát triển

kinh tế - xã hội, khoa học, công nghệ và đối ngoại. Rõ ràng, đây phải là vấn đề hàng

đầu cần quan tâm, các lĩnh vực được nêu ra đều là những lĩnh vực chủ chốt, quan

trọng và có sức ảnh hưởng lớn tới hoạt động của quốc gia.

Thứ hai, xây dựng không gian mạng lành mạnh, không gây phương hại đến

an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức, cá nhân. Bảo đảm và duy trì các hoạt động diễn ra bình thường, hợp pháp trên

12

môi trường mạng.

Thứ ba, ưu tiên nguồn lực xây dựng lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh

mạng; nâng cao năng lực cho lực lượng bảo vệ an ninh mạng và tổ chức, cá nhân

tham gia bảo vệ an ninh mạng; ưu tiên đầu tư cho nghiên cứu, phát triển khoa học,

công nghệ để bảo vệ an ninh mạng. Công tác xây dựng, phát triển môi trường mạng,

bảo đảm an ninh mạng yêu cầu đội ngũ có trình độ năng lực và kỹ thuật cao, đồng

nghĩa với việc đào tạo chuyên môn, đầu tư tạo điều kiện phát huy tối đa năng lực.

Thứ tư, khuyến khích, tạo điều kiện để tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ an

ninh mạng, xử lý các nguy cơ đe dọa an ninh mạng; nghiên cứu, phát triển công

nghệ, sản phẩm, dịch vụ, ứng dụng nhằm bảo vệ an ninh mạng; phối hợp với cơ

quan chức năng trong bảo vệ an ninh mạng. Đây là những chủ thể tham gia và góp

phần tạo nên hoạt động trên môi trường mạng, là nơi phát sinh các vấn đề của an

ninh mạng vì các cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp cũng là mục tiêu mà tin tặc, tội

phạm mạng nhắm tới.

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế về an ninh mạng. Học hỏi kinh nghiệm

và những chiến lược an ninh từ các nước, đặc biệt là các nước phát triển với trình độ

khoa học công nghệ tiên tiến, góp phần tìm ra những điểm hạn chế trong pháp luật,

cơ chế thực thi và nâng cao hiệu quả trong bảo vệ an ninh mạng.

II.Các thuật ngữ về An ninh mạng:

1. An ninh mạng

“An ninh mạng” là một thuật ngữ xuất hiện chưa lâu, tuy nhiên, những thể

hiện của nó trên thực tế đã có trước. Những vụ tấn công mạng xảy ra trước khi có đạo

luật điều chỉnh về chúng, thậm chí vụ tấn công mạng đầu tiên xảy ra vào thời điểm chưa có mạng Internet6. Trên thế giới, việc đưa ra các định nghĩa còn dựa trên cách

nhìn nhận của mỗi quốc gia về vấn đề này, do hệ thống thông tin, mạng và thiết bị

cũng như trình độ khoa học công nghệ mỗi nơi là khác nhau cùng hàng ngàn yếu tố

tác động khác mà việc đánh giá, nhìn nhận và xử lý các vấn đề của an ninh mạng

cũng từ đó có điểm khác biệt riêng. An ninh mạng cùng những vấn đề của nó là một

lĩnh vực đặc thù, luôn luôn thay đổi và phát triển một cách khó lường, vì thế, trên

6 Vụ việc François và Joseph Blanc đã “hack” một hệ thống truyền tin của chính phủ Pháp nhằm phục vụ cho lợi ích cá nhân

13

phương diện pháp lý việc nắm bắt, định nghĩa hay dự đoán chúng là rất khó khăn.

Đối với thuât ngữ “An ninh mạng”, hiện tại các quốc gia, tổ chức trên thế

giới có cách hiểu và cách tiếp cận tương đối khác nhau. Theo nghĩa đen, An ninh

mạng hay An ninh không gian mạng (“Cybersecurity”) có thể được hiểu một cách

nôm na là “trạng thái không có nguy hiểm hoặc không có đe dọa đối với không gian

mạng” hoặc “sự bảo đảm an toàn an ninh trên môi trường mạng”,...

Rất nhiều quốc gia xây tiếp cận và dựng định nghĩa về an ninh mạng trên cơ

sở kỹ thuật, đây là cách tiếp cận phổ biến và thường gặp trong các chính sách và

nghiên cứu về an ninh mạng của các nước công nghiệp phương Tây như Liên minh Châu Âu, Mỹ7. Cụ thể:

Liên minh Châu Âu (EU) định nghĩa an ninh mạng là “các biện pháp bảo vệ

và hành động có sẵn để bảo vệ không gian mạng, cả trong các lĩnh vực dân sự và

quân sự, khỏi những mối đe dọa có liên quan hoặc có thể gây tổn hại đến mạng và cơ sở hạ tầng thông tin phụ thuộc của nó”.8

Từ điển trích dẫn trong Phát kiến quốc gia về sự nghiệp và nghiên cứu an

ninh mạng của Hoa Kỳ (NICCS) định nghĩa an ninh mạng là “hoạt động hoặc quá

trình, khả năng, hay trạng thái mà theo đó thông tin, hệ thống thông tin liên lạc và

thông tin chứa trong đó được bảo vệ khỏi và/hoặc bảo vệ chống lại thiệt hại, sự sử dụng trái phép hoặc sửa đổi, khai thác”.9

Theo Liên minh viễn thông quốc tế (ITU), an ninh mạng nghĩa là “tập hợp

các công cụ, chính sách, khái niệm về bảo mật, biện pháp bảo vệ an toàn, các

hướng dẫn, phương pháp quản lý rủi ro, hành động, đào tạo, phương cách thực

khảo

Tham

Security

National

“Nineteen

Stategies”

tại:

Tham khảo

7 Cyber https://informationsecurity.report/Resources/Whitepapers/cf8d0895-e0c8-4256-8b12- bdd2eb0f9358_543545380cf2bf1f1f286509.pdf . Truy cập ngày 23/04/2020 8 Nguyên văn: “the safeguards and actions available to protect the cyber domain, both in the civilian and military fields, from those threats that are associated with or that may harm its interdependent networks and information infrastructure”. Tham khảo tại https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2019/01/savenet- camnangluatanninhmang-nhungdieucanbiet.pdf . Truy cập ngày 23/04/2020 9 Nguyên văn: “The activity or process, ability or capability, or state whereby information and communications systems and the information contained therein are protected from and/or defended against damage, unauthorized use or modification, or exploitation”. tại https://niccs.us- cert.gov/glossary#C. 10 Nguyên văn: “Cybersecurity is the collection of tools, policies, security concepts, security safeguards, guidelines, risk management approaches, actions, training, best practices, assurance and technologies that

14

hành tốt nhất, các đảm bảo và công nghệ có thể được sử dụng để bảo vệ môi trường mạng và tài sản của tổ chức và của người dùng”.10

Ngôn ngữ sử dụng để định nghĩa an ninh mạng trong các tài liệu nói trên

không hoàn toàn đồng nhất. Tuy nhiên, dễ dàng nhận thấy, các định nghĩa trên đều

tiếp cận an ninh mạng thiên về mặt kỹ thuật. Theo cách tiếp cận này, an ninh mạng

được hiểu là khả năng hoặc tình trạng mà không gian mạng và việc sử dụng không

gian mạng của các tổ chức, cá nhân được bảo vệ chống lại các cuộc tấn công hoặc

các hành động không được phép của các bên thứ ba nhằm phá hủy hoặc gây hại cho

không gian mạng và các thành phần của chúng.

Khác một chút so với cách tiếp cận trên, cách tiếp cận mang tính kỹ thuật và

yếu tố chính trị - pháp lý (Trung Quốc, Việt Nam và Liên Bang Nga) mang đến một

cái nhìn với nội hàm rộng hơn:

Luật An ninh mạng của Trung Quốc, có hiệu lực từ ngày 01/07/2016, tại

Điều 76.2 quy định: “An ninh mạng đề cập đến các biện pháp cần thiết để ngăn

chặn các cuộc tấn công mạng, xâm nhập, can thiệp, phá hủy và việc sử dụng bất

hợp pháp, cũng như các tai nạn bất ngờ nhằm duy trì mạng ở trạng thái hoạt động

ổn định và đáng tin cậy, cũng như đảm bảo tính hoàn chỉnh, bảo mật và khả dụng

của dữ liệu mạng”.

LANM của Việt Nam, có hiệu lực từ ngày 01/01/2019 quy định: “An ninh

mạng là sự bảo đảm hoạt động trên không gian mạng không gây phương hại đến an

ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ

chức, cá nhân”.

Liên Bang Nga sử dụng đồng thời thuật ngữ “An ninh thông tin”

(information security) và “An ninh mạng” (cyber security) một cách không phân

biệt và có thể thay thế cho nhau để cùng chỉ an ninh mạng. Các tài liệu chính thức

của Liên Bang Nga khẳng định rằng an ninh mạng không thể tách rời an ninh thông

tin. Cụ thể, theo tài liệu Học thuyết về an ninh thông tin của Liên bang Nga

(Doctrine of Information Security of the Russian Federation) được phê duyệt theo

Nghị định của Chủ tịch Liên bang Nga số 646 ngày 05/12/2016, “An ninh thông tin

15

của Liên Bang Nga là trạng thái bảo vệ cá nhân, xã hội và Nhà nước chống lại các can be used to protect the cyber environment and organization and user's assets”. Tham khảo tại http://www.itu.int/online/termite/index.html. Truy cập ngày 26/05/2020

mối đe dọa thông tin nội bộ và bên ngoài, cho phép bảo đảm tự do và quyền con

người và quyền công dân hiến định, chất lượng và tiêu chuẩn sống hợp lý cho công

dân, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và phát triển kinh tế xã hội bền vững của Liên

bang Nga, cũng như quốc phòng và an ninh của Nhà nước”.11

Đối với các quy định theo cách tiếp cận thứ nhất thiên về kỹ thuật, nhấn

mạnh đến những rủi ro, đe dọa về mặt kỹ thuật, cụ thể là tấn công mạng hoặc các

hành động bất hợp pháp của các bên thứ ba đối với sự an toàn của không gian mạng

và các yếu tố cấu thành không gian mạng, mà ít quan tâm đến nội dung của các dữ

liệu, thông tin trên không gian mạng hay đối tượng bị tác động là an ninh quốc gia.

Trong khi đó, theo cách tiếp cận thứ hai có yếu tố chính trị - pháp lý, an ninh mạng

bao hàm việc chống lại hành vi vi phạm hoặc mối đe dọa đối với an ninh quốc gia,

ổn định chính trị, xã hội cũng như xâm phạm quyền và lợi ích của cá nhân, cơ quan,

tổ chức và Nhà nước được thực hiện trên hoặc sử dụng không gian mạng, bên cạnh

những rủi ro hoặc đe dọa về mặt kỹ thuật đối với không gian mạng.

Một số nước khác định nghĩa về an ninh mạng như một trạng thái mong

muốn, trong đó các miền trên không gian mạng được bảo vệ khỏi sự nguy hiểm

hoặc các mối đe dọa và rủi ro khi xảy ra đạt đến mức thấp nhất có thể chấp nhận

được; là trạng thái mà các thành phần hệ thống có thể chống lại các sự kiện đến từ

không gian gây tổn hại đến tính sẵn có, tính toàn vẹn hoặc tính bí mật của dữ liệu

được lưu trữ, xử lý, truyền đi cũng như các dịch vụ liên quan được cung cấp.12

Quan niệm về an ninh mạng định hướng quá trình hoạch định chính sách và

pháp luật về an ninh mạng của các quốc gia, do đó, cách nhìn nhận từ những góc độ

khác nhau dẫn tới chiến lược thực thi bảo vệ an ninh mạng trên thực tế cũng khác

nhau. Không những thế, nó còn ảnh hưởng tới nhiều đối tượng khác trong xã hội

https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2019/01/savenet-camnangluatanninhmang-

11 nhungdieucanbiet.pdf . Truy cập ngày 29/04/2020 12 “Chiến lược An ninh không gian mạng quôc gia- Xu hướng toàn cầu trên không gian mạng”. Tham khảo tại: https://cybersecurityandvietnam.blogspot.com/2016/10/chien-luoc-ninh-khong-gian-mang-quoc.html. Truy cập ngày 04/05/2020

16

khi mà không chỉ những cơ quan chấp hành, áp dụng, thực thi pháp luật của Nhà

Nước mà còn có cả những cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức cũng nằm trong phạm

vi điều chỉnh của pháp luật an ninh mạng. An ninh mạng cũng có thể xác định thông

qua các biện pháp thực hiện để đạt được trạng thái này.

2.Thông tin

Theo từ điển trực tuyến Oxford, thông tin có nghĩa là “Sự thật hoặc chi tiết

về người hoặc sự vật”13. Từ điển trực tuyến Cambridge định nghĩa thông tin là “Tin

tức, sự thật hoặc kiến thức”14.

Theo định nghĩa của Viện Từ điển học và Bách Khoa Thư Việt Nam, thông

tin là “một khái niệm cơ bản của khoa học hiện đại, khái quát về các điều hiểu biết,

tri thức thu được qua nghiên cứu, khảo sát hoặc trao đổi giữa các đối tượng với

nhau. Một thuộc tính cơ bản của thông tin là đối lập với tính bất định, ngẫu nhiên

và hỗn loạn”.15

Thông tin là bất kỳ thực thể hoặc hình thức cung cấp câu trả lời cho một câu

hỏi hoặc giải quyết sự không chắc chắn. Nó liên quan đến dữ liệu và kiến thức, vì

dữ liệu đại diện cho các giá trị được gán cho các tham số và kiến thức biểu thị sự

hiểu biết về những điều thực tế hay khái niệm trừu tượng.16 Có thể hiểu rằng thông

tin là một sự thật, kiến thức chứa đựng hoặc truyền tải ý nghĩa nhất định về hiểu biết

của con người hoặc liên quan đến vạn vật xung quanh. Hai yếu tố quan trọng hình

thành nên thông tin đó là ý nghĩa và sự chứa đựng, một thông tin mang kiến thức

làm nó có ý nghĩa và phải được truyền đi với phương thức cụ thể để hiểu được. Ví

dụ: con người thời cổ khắc họa cuộc sống của họ lên hang đá, từ những kỹ thuật săn

bắt hái lượm hay cách tạo ra lửa,... Đó là thông tin, chúng giúp cho con người thời

sau biết về cuộc sống thời trước diễn ra như thế nào để thấy được từng thời kỳ phát

13 Nguyên văn: “Facts or details about somebody/something”. Tham khảo tại: https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/information?q=information. Truy cập ngày 29/04/2020. 14 Nguyên văn: “News, facts, or knowledge”. Tham khảo tại: https://dictionary.cambridge.org/dictionary/english/information#dataset-cacd. Truy cập ngày 29/04/2020. 15 Tham khảo tại: http://bachkhoatoanthu.vass.gov.vn/noidung/tudien/Lists/GiaiNghia/View_Detail.aspx?TuKhoa=th%C3%B4 ng%20 tin&ChuyenNganh=0&DiaLy=0&ItemID=389 . Truy cập ngày 29/04/2020 16 Tham khảo tại : https://www.merriam-webster.com/dictionary/information . Truy cập ngày 29/04/2020

17

triển của con người...

Không phải tất cả mọi thông tin trên thế giới đều được công khai, thậm chí

nhiều thông tin còn được bảo vệ một cách rất nghiêm ngặt, như bí mật của các quốc

gia. Hình thức chứa đựng của thông tin cũng rất đa dạng theo từng thời kỳ, từ lá

cây, phiến đá, da thú, ván gỗ, tới giấy hay dữ liệu số. Trong thời đại công nghệ số

hiện nay thì một trong những cách bảo vệ thông tin đó là “mã hóa” chúng, đưa

thông tin vào một môi trường đặc biệt, khiến chúng trở thành dữ liệu. “Dữ liệu”

(Data) là khái niệm khá tương đồng nhưng không đồng nhất với “thông tin” , là các

dữ kiện không có cấu trúc và không có ý nghĩa rõ ràng nếu không được tổ chức và

xử lý. Dữ liệu chỉ có thể trở thành “thông tin” khi nó được diễn giải trong một ngữ

cảnh và mang ý nghĩa nhất định. Một thông tin có thể được thể hiện bằng những dữ

liệu khác nhau, cho nên, nếu so về lượng, dữ liệu thường nhiều hơn thông tin. Tóm

lại, thông tin chính là dữ liệu mang một số ý nghĩa nhất định. Do sự đa dụng, tiện

lợi và tính chất hiện đại, linh hoạt của dữ liệu nên chúng dần được sử dụng để lưu

trữ khối tri thức khổng lồ của nhân loại.

Nếu như trong cuộc sống đời thực, những vụ trộm cướp thường nhắm đến tài

sản, vật chất thì trong môi trường mạng, thứ có giá trị chính là dữ liệu, thông tin và

đó cũng chính là một trong những thứ mà tấn công mạng nhắm đến. Một vụ tấn

công mạng bình thường với mục tiêu phá hoại, đánh sập hệ thống hoàn toàn có thể

khắc phục được, nhưng nếu là mất cắp dữ liệu, thông tin thì hệ quả là khôn lường và

cực kỳ khó kiểm soát. Đó mới chính là giá trị và ý nghĩa của thông tin, chúng có thể

chứa đựng bí mật về công thức ẩm thực nổi tiếng hay bất cứ lợi thế cạnh tranh nào,

thậm chí là bí mật chính trị của một quốc gia,... Do vậy, bảo mật thông tin, bảo vệ

chúng khỏi những mối nguy trong môi trường mạng là điều cần thiết mà mỗi cá

nhân, tổ chức hay Nhà nước đều phải thực hiện.

3. Không gian mạng

Với sự phát triển của công nghệ thì hiện nay thì một trong những vấn đề

an ninh phi truyền thống mà các nước phải đối mặt đó là tội phạm công nghệ

cao, đặc biệt là tội phạm mạng và những hành vi phi pháp diễn ra trên không

18

gian mạng. Sự ra đời của một phần lãnh thổ với những đặc thù, tính chất khác

biệt đòi hỏi có sự nhận diện về cả mặt hình thức thể hiện lẫn bản chất của chúng

để từ đó đề ra chiến lược bảo đảm an ninh hiệu quả. Đây là một mặt trận mới,

thách thức mới cần đối mặt.

“Không gian mạng” là từ tiếng Việt được dịch từ thuật ngữ “Cyberspace”

trong tiếng Anh. Khái niệm về không gian mạng trở nên phổ biến hơn vào những

năm 1990 khi thế giới bắt đầu chứng kiến sự bùng nổ của mạng Internet cũng như

sự phát triển vượt bậc của các công nghệ bán dẫn, kĩ thuật số, hệ thống điện toán,

thông tin liên lạc và đây cũng chính là thành tựu quan trọng nhất trong Cách mạng

công nghiệp lần 3. Không gian mạng là một không gian ảo, nơi các máy tính trao

đổi dữ liệu, thông tin, nó cũng dùng để chỉ một mạng lưới toàn cầu của các cơ sở hạ

tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn nhau, mạng viễn thông và các hệ thống máy

tính. Theo một khía cạnh khác thì không gian mạng được xem như một trải nghiệm

xã hội, mà ở đó các cá nhân có thể tương tác, trao đổi ý kiến, chia sẻ thông tin, cung

cấp hỗ trợ xã hội, đạo đức kinh doanh, hành động trực tiếp, tạo ra phương tiện

truyền thông nghệ thuật, chơi trò chơi, tham gia vào các cuộc thảo luận chính trị,...

và như vậy, sử dụng mạng lưới mang tính toàn cầu này để mang mọi người tới gần

nhau cũng như dễ dàng tiếp cận tri thức hơn.

LANM của Việt Nam quy định tại Khoản 3, Điều 2 như sau: “Không gian

mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng

viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và

điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội

không bị giới hạn bởi không gian và thời gian.”

Theo Danh mục các Thuật ngữ An toàn Thông tin chính của Viện NIST,

không gian mạng được định nghĩa là “một miền toàn cầu trong môi trường thông

tin, bao gồm mạng lưới các hệ thống thông tin phụ thuộc lẫn nhau, gồm có: mạng

controllers.”

processors

embedded

. Tham

systems,

khảo

and

and

17 Nguyên văn: “A global domain within the information environment consisting of the interdependent network of information systems infrastructures including the Internet, telecommunications networks, computer tại: https://nvlpubs.nist.gov/nistpubs/ir/2013/nist.ir.7298r2.pdf. Truy cập ngày 04/05/2020

19

Internet, mạng viễn thông, hệ thống máy tính và bộ xử lý và bộ điều khiển nhúng”17.

Từ các định nghĩa trên, có thể hiểu, về mặt bản chất, không gian mạng là một

môi trường trong đó các liên kết và tương tác thông qua mạng viễn thông hoặc

mạng máy tính kết nối với nhau được diễn ra và hầu như mọi cá nhân hoặc tổ chức

bằng cách này hay cách khác đều được kết nối vào môi trường đó. Theo học giả Jeff

Kosseff của Mỹ, các thành phần chính cấu thành nên không gian mạng bao gồm: dữ

liệu (Data); các hệ thống (Systems) trên đó dữ liệu được lưu trữ; và mạng

(Networks) là môi trường nơi mà các dữ liệu được truyền tải. Đây cũng chính là

những yếu tố quan trọng là mục tiêu nhắm tới của tin tặc, tội phạm mạng. Rõ ràng,

dựa trên những cơ sở này để xây dựng chiến lược ứng phó là hoàn toàn hợp lý bởi

đây chính là gốc rễ của các vấn đề xảy ra trong môi trường mạng.

Khái niệm “không gian mạng” được hiểu gần sát với một khái niệm có lẽ là

thông dụng hơn, đó là “mạng Internet”. Lịch sử phát triển của các khái niệm liên

quan đến không gian mạng gắn liền với cuộc Cách mạng công nghiêp lần 3 cùng

với sự bùng nổ của Internet nên việc sử dụng hai thuật ngữ này đôi khi không tách

biệt, và người ta thường biết đến mạng Internet nhiều hơn là không gian mạng. Tuy

nhiên các chuyên gia khẳng định các khái niệm về không gian mạng không thể lẫn

lộn với Internet và không gian mạng được xem như là một phép ẩn dụ khi nói về

Internet.

Internet là một hệ thống thông tin toàn cầu có thể được truy nhập công cộng

gồm các mạng máy tính được liên kết với nhau sử dụng kiểu truyền thông tin

theo dạng chuyển mạch gói dữ liệu dựa trên một giao thức liên mạng đã được chuẩn

hóa. Đó là một mạng lưới bao gồm các mạng riêng, công cộng phục vụ học thuật,

kinh doanh và chính phủ có phạm vi địa phương đến toàn cầu, được liên kết bởi một

loạt các công nghệ mạng điện tử, không dây và mạng quang. Internet mang theo

một loạt các tài nguyên và dịch vụ thông tin. Theo một số quan điểm khái niệm

“không gian mạng” và “Internet” như đã nêu trên thì có thể nhận thấy một điều

rằng mạng Internet là một hợp phần của không gian mạng, tức nghĩa, xem xét ở góc

20

độ kỹ thuật thì khái niệm “không gian mạng” rộng hơn khái niệm mạng “Internet”.

4.Tội phạm mạng

Mạng internet toàn cầu đang trở thành một “mảnh đất màu mỡ” cho đủ loại

tội phạm sinh sôi nảy nở với tác hại khôn lường. Theo số liệu báo cáo của Tổ chức

Cảnh sát Hình sự quốc tế, tội phạm sử dụng công nghệ cao, cụ thể là tội phạm mạng

đứng thứ 2 trong các loại tội phạm nguy hiểm nhất hiện nay, tức là chỉ sau tội phạm

khủng bố. Qua thống kê cho thấy phần lớn các loại tội phạm truyền thống đã

chuyển sang môi trường mạng hoặc có sử dụng các thiết bị công nghệ cao để hoạt

động và thực hiện các hành vi phạm tội.

Tội phạm mạng hay tội phạm không gian ảo (Cyber criminal) là bất kỳ hành

động phi pháp nào liên quan đến một máy tính hoặc một mạng máy tính. Các máy

tính có thể được dùng như phương tiện để thực hiện các hoạt động phạm pháp hoặc

cũng có thể là mục tiêu của hành vi phạm tội. Tội phạm mạng có liên quan mật thiết

với hình thức tội phạm công nghệ cao, đó là những hành vi phạm pháp có chủ đích

đối với một cá nhân, một nhóm người hay một tổ chức nào đó, gây ảnh hưởng xấu

đến danh tiếng của nạn nhân hoặc gây hại về mặt vật chất hoặc tinh thần cho nạn

nhân một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bằng những công nghệ hiện đại, phần lớn

liên quan đến mạng viễn thông như Internet (việc này cũng bao gồm các nhóm chat,

email, mạng xã hội,....) và điện thoại (các công nghệ Bluetooth, 3G, SMS,

MMS,...). Tội phạm mạng nói chung đã và đang phát triển mạnh, báo cáo của

Microsoft cũng cho thấy tội phạm mạng ngày càng trở nên tinh vi hơn khi thực hiện

việc mô hình hóa hoạt động của chúng dưới dạng các quy trình nghiệp vụ phổ biến

để lừa người sử dụng nhằm đánh cắp và gian lận các thông tin quan trọng, phá hủy

hệ thống thông tin.

LANM của Việt Nam định nghĩa tội phạm mạng là hành vi sử dụng không

gian mạng, công nghệ thông tin hoặc phương tiện điện tử để thực hiện tội phạm

được quy định tại Bộ luật Hình sự. Pháp luật hình sự Việt Nam không đưa ra

khái niệm tội phạm mạng nhưng lại có cách quy định điều chỉnh thông qua lĩnh

vực hoạt động và từng loại hành vi trái pháp luật của chúng. Tội phạm mạng

21

thực hiện hành vi trái pháp luật thông qua rất nhiều hoạt động như đánh cắp,

tống tiền thông tin, phá hủy dữ liệu,... với các hình thức như phát tán mã độc,

truy cập trái phép,... Bộ luật hình sự gián tiếp định nghĩa tội phạm mạng bằng

cách quy định sự thể hiện của chúng:

Ví dụ: Trong BLHS, ở Chương XXI, Mục 2 về Tội phạm trong lĩnh vực

công nghệ thông tin, mạng viễn thông:

Điều 287 BLHS quy định Tội cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng

máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử là người nào tự ý xóa, làm tổn hại

hoặc thay đổi phần mềm, dữ liệu điện tử hoặc ngăn chặn trái phép việc truyền tải dữ

liệu của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử hoặc có hành vi khác

cản trở hoặc gây rối loạn hoạt động của mạng máy tính, mạng viễn thông, phương

tiện điện tử.

Điều 289 BLHS quy định Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng

viễn thông hoặc phương tiện điện tử là người nào cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy

cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác

xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử

của người khác chiếm quyền điều khiển; can thiệp vào chức năng hoạt động của

phương tiện điện tử; lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu hoặc sử dụng trái

phép các dịch vụ.

...

Tuy có thể chưa bao quát được toàn bộ các hành vi nhưng nó cũng đã tác

động đến phần lớn các dạng hành vi mà tội phạm mạng thường thực hiện, tùy theo

từng mức độ và tính chất mà có phương án xử lý phù hợp. Qua đó góp phần phòng

chống tội phạm công nghệ cao, tội phạm mạng và bảo vệ an ninh mạng nói chung.

5. Khủng bố mạng

Khủng bố mạng là việc sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc

phương tiện điện tử để thực hiện hành vi khủng bố, tài trợ khủng bố. Hiểu một các

nôm na thì đó là những đối tượng và phẩn tử khủng bố thực hiện hành vi qua không

gian mạng để đạt được mục đích.

22

Khủng bố là hoạt động phá hoại, đe dọa bằng lời nói, hình ảnh hoặc video do

cá nhân hoặc tổ chức thực hiện làm thiệt mạng, đặc biệt là thường dân, hoặc gây tổn

thất cho xã hội và cộng đồng để tác động vào tâm lý đối phương gây hoang mang

khiếp sợ, nhằm mục đích chính trị hoặc tôn giáo (các cuộc tấn công nhằm vào các

mục tiêu quân sự khi đang diễn ra xung đột vũ trang dù có gây thiệt mạng cho dân

thường vẫn không được coi là khủng bố). Định nghĩa chung của chủ nghĩa khủng

bố chỉ đề cập đến những hành vi bạo lực được dự định để tạo ra sự sợ hãi tạo ra

nhằm mục tiêu tôn giáo, chính trị hay ý thức hệ; và cố tình nhắm vào các mục tiêu

hoặc không quan tâm đến sự an toàn của những người không có khả năng tự

vệ. Một đặc tính thống nhất của khủng bố là việc sử dụng bừa bãi bạo lực đối với

những người không có khả năng chống cự với mục đích là sự nổi tiếng cho một

nhóm, một phong trào, một cá nhân hoặc gây áp lực lên đối thủ chính trị buộc họ

phải chấp nhận một giải pháp chính trị có lợi cho mình.

Khủng bố mạng là một phần của chủ nghĩa khủng bố được mở rộng và hoạt

động trên lĩnh vực công nghệ thông tin và không gian mạng. Cũng có bản chất của

chủ nghĩa khủng bố nên khủng bố mạng nhắm tới sự hoang mang, nỗi khiếp sợ

trong nội bộ hoặc trong cộng đồng. Khủng bố mạng với sự phá hoại một cách công

khai, trên phạm vi rộng, trực tiếp ảnh hưởng đến cuộc sống và sự ổn định xã hội.

Khi hệ thống thông tin hoặc dữ liệu của Nhà Nước bị tấn công sẽ tác động tới các

hoạt động bình thường của đất nước có thể gây xôn xao dư luận và mất trật tự an

ninh xã hội, chưa kể những tin đồn xuyên tạc với mục tiêu gây bất ổn chính trị,

chiêu trò diễn biến hòa bình với hình thức khác nhau trên mạng Internet,... là những

thứ mà khủng bố mạng nhắm đến.

6. Gián điệp mạng

Theo LANM, gián điệp mạng là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy

cập, mật mã, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng

phương thức khác để chiếm đoạt, thu thập trái phép thông tin, tài nguyên thông

tin trên mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ

thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của cơ

23

quan, tổ chức, cá nhân.

Theo định nghĩa này thì có thể thấy rõ tiêu chí để phân biệt gián điệp mạng

với khủng bố mạng hay tội phạm mạng, đó là mục tiêu và cách thức thực hiện của

chúng. Nếu như khủng bố mạng tấn công công khai làm hoang mang, hoảng sợ

nhằm mục đích chính trị thì gián điệp mạng lại tấn công ngầm với mục đích là tài

nguyên thông tin hoặc theo dõi hoạt động một cách trái phép. Hành vi xâm nhập trái

phép hệ thống mạng để thu thập thông tin được làm rõ và xử lý theo Điều 289

BLHS về Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc

phương tiện điện tử của người khác như đã phân tích ở phần trước.

Thông thường, gián điệp mạng sẽ sử dụng những mã độc, phần mềm gián

điệp để thực hiện hành vi. Phần mềm gián điệp (Spyware) được biết đến như là

những phần mềm được cài đặt bí mật hoặc lén lút vào một hệ thống thông tin để thu

thập thông tin về cá nhân hoặc các tổ chức mà họ không hề biết đến sự tồn tại đó; là

một loại mã độc.18 Với tính chất môi trường không gian mạng thì gián điệp mạng có

rất nhiều lợi thế, cực kỳ khó nắm bắt và định danh. Chúng không bị hạn chế bởi

những giới hạn không gian và thời gian thông thường nên có thể đột nhập vào nhiều

mục tiêu một lúc, trong một thời gian dài, ít rủi ro thực tế, không cần qua các bước

trung gian... Gián điệp mạng cũng rất khó bị bại lộ thân phận, cho dù hoạt động gián

điệp có bị phát hiện, việc lần ra địa chỉ tốn rất nhiều thời gian.

III. Điểm hạn chế trong pháp luật về an ninh mạng của Việt Nam

1. Sự trùng lặp pháp luật

LANM tới năm 2019 mới có hiệu lực thi hành nhưng trước đó, manh nha về nó

đã xuất hiện trong hệ thống pháp luật và nằm rải rác ở những văn bản khác nhau, phần

nào đó đã có tác động tới tình hình an ninh mạng nói chung. Kể cả sau khi LANM có

hiệu lực thi hành thì những căn cứ đó vẫn có tác dụng bổ sung cho việc thực thi, áp

dụng, giải thích trong một số trường hợp thuộc lĩnh vực thuộc chuyên ngành. Tuy

nhiên, điều này đôi lúc cũng gây ra một hiện tượng không hiếm gặp của pháp luật Việt

18 Nguyên văn: “Spyware – Software that is secretly or surreptitiously installed into an information system to gather information on individuals or organizations without their knowledge; a type of malicious code.” . Tham khảo tại: https://nvlpubs.nist.gov/nistpubs/ir/2013/nist.ir.7298r2.pdf. Truy cập ngày 07/05/2020

24

Nam đó là sự chồng chéo, quy định trùng lặp hoặc quy định khác nhau về một vấn

đề,... Để làm rõ hơn về sự trùng lặp pháp luật này, chúng ta cần có cơ sở so sánh, từ đó

nhìn ra những điểm giống, khác nhau giữa các quy định và xem có thể tăng khả năng

bảo vệ an ninh mạng của Việt Nam hay không và có ảnh hưởng tiêu cực nào đối với

không chỉ cá nhân mà còn tất cả các doanh nghiệp đang kinh doanh dịch vụ trên không

gian mạng và hệ thống thông tin quốc gia nói chung không.

Điểm qua nội dung của một số quy định và văn bản pháp luật có liên quan

đến lĩnh vực an ninh mạng:

Thứ nhất, Hiến pháp 2013 với những nguyên tắc bảo vệ quyền tự do ngôn

luận, quyền bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin

khác, quyền bất khả xâm phạm về đời sống riêng tư và bí mật cá nhân. Quyền tự do

ngôn luận bao gồm cả với những phát biểu, bình luận trên mạng xã hội, quyền bất

khả xâm phạm về bí mật cá nhân bao gồm những dữ liệu trên máy tính hay những

cuộc hội thoại cá nhân trên không gian mạng. Đây là những quyền tự do cơ bản mà

hầu hết các nước tiến bộ trên thế giới đều công nhận, thể hiện sự văn minh và tôn

trọng đối với con người, chúng dần được mở rộng ra theo sự phát triển của xã hội

mà cụ thể là với những hoạt động trên không gian mạng.

Thứ hai, những bộ luật quan trọng như Bộ Luật Hình sự với quy định các tội

xâm phạm trong lĩnh vực công nghệ thông tin, mạng viễn thông; Bộ Luật Dân sự

2015 cũng có quy định bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân (Điều 38). Đối với

những Luật chuyên ngành: LATTTM 2015 quy định bảo đảm an toàn thông tin

mạng, bảo vệ hệ thống thông tin tránh đột nhập trái phép hay phá hoại dữ liệu; Luật

Công nghệ thông tin nghiêm cấm hành vi trộm cắp, lưu trữ và sử dụng thông tin của

cá nhân và tổ chức một cách phi pháp (Điều 72); Luật Viễn thông 2009 quy định

bảo đảm an toàn cơ sở hạ tầng viễn thông và an ninh thông tin, bí mật thông tin với

tài nguyên viễn thông... Bên cạnh đó, những nghị định, thông tư hướng dẫn, bổ sung

và giải thích cũng không hề ít: Nghị định 85/2016/NĐ-CP về bảo đảm an toàn hệ

thống thông tin theo cấp độ (Hướng dẫn Luật an toàn thông tin mạng) xác định bảo

mật và an toàn dữ liệu, hệ thống và trách nhiệm bảo đảm an toàn thông tin theo từng

25

cấp độ, áp dụng với các chủ thể có liên quan đến hoạt động xây dựng, quản lý hệ

thống thông tin như cơ quan, tổ chức, cá nhân; Thông tư 24/2015/TT-BTTTT quy

định về quản lý và sử dụng tài nguyên Internet cũng có phần về giải quyết tranh

chấp giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên mạng Internet; Thông tư 31/2017/TT-

BTTTT quy định về hoạt động giám sát an toàn hệ thống thông tin với nhiều

phương thức khác nhau và nghĩa vụ của các chủ thể liên quan.

Các quy định này hiện được thể hiện chung chung và không rõ ràng theo

LANM, có khả năng tạo điều kiện cho các cơ quan nhà nước giải thích và áp dụng một

cách tùy tiện, đồng thời gây khó khăn cho các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên

không gian mạng và tăng nguy cơ xâm phạm các quyền cơ bản của công dân liên quan

đến tự do ngôn luận và bảo mật thông tin cá nhân. Sự trùng lặp giữa các quy định của

LANM và các quy định của pháp luật hiện hành được phân tích như sau:

LATTTM và LANM có nhiều quy định trùng lặp:

Có hai cách giải thích về “hệ thống thông tin quan trọng quốc gia”, dẫn đến

tồn tại hai hệ thống phân loại, đánh giá và thẩm định về các hệ thống thông tin quan

trọng đối với quốc gia.

Điều 10 LANM: Hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia là hệ thống

thông tin khi bị sự cố, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn,

ngưng trệ, tê liệt, tấn công hoặc phá hoại sẽ xâm phạm nghiêm trọng an ninh mạng.

Điều 3 LATTTM: Hệ thống thông tin quan trọng quốc gia là hệ thống thông

tin mà khi bị phá hoại sẽ làm tổn hại đặc biệt nghiêm trọng tới quốc phòng, an ninh

quốc gia.

...

LATTTM quy định về đánh giá tiêu chuẩn về an toàn thông tin mạng, doanh

nghiệp kinh doanh lĩnh vực an toàn thông tin, phải được sự thẩm định, cấp phép của

Bộ Thông tin và Truyền thông. Bản thân trong Luật này cũng quy định các đơn vị

chức năng thuộc Bộ Thông tin và Truyền thông, Bộ Quốc phòng có trách nhiệm

tham gia chứng nhận, thẩm định các điều kiện. Phía LANM cũng có quy định tương

tự nhưng lại thêm sự phối hợp kiểm tra thẩm định của Bộ Công an. Như vậy sẽ gây

ra khó khăn cho doanh nghiệp, tốn kém thời gian và kinh phí do không biết cấp nào

26

mới là cấp cuối cùng ra quyết định, cấp nọ đè lên cấp kia với thủ tục phức tạp.

Khoản 3 Điều 8 LANM nghiêm cấm hành vi phát tán các chương trình tin

học gây hại cho hoạt động của hệ thống mạng, trong khi đó, hành vi này đã được quy định tại khoản 4 Điều 7 LATTTM19 và bị xử lý hình sự theo Điều 286 BLHS

(Tội phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng máy tính, mạng

viễn thông, phương tiện điện tử).

Khái niệm Gián điệp mạng theo LANM là hành vi cố ý vượt qua cảnh báo,

mã truy cập, mật mã, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng

phương thức khác để chiếm đoạt, thu thập trái phép thông tin, tài nguyên thông

tin trên mạng viễn thông, mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ

thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của cơ quan,

tổ chức, cá nhân. Hành vi này có sự trùng lặp với các hành vi bị nghiêm cấm tại

Điều 7 LATTTM, cụ thể:

“Điều 7. Các hành vi bị nghiêm cấm

3. Tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng của biện pháp bảo

vệ an toàn thông tin mạng của hệ thống thông tin; tấn công, chiếm quyền điều

khiển, phá hoại hệ thống thông tin.

5. Thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân

của người khác; lợi dụng sơ hở, điểm yếu của hệ thống thông tin để thu thập, khai

thác thông tin cá nhân.

6. Xâm nhập trái pháp luật bí mật mật mã và thông tin đã mã hóa hợp pháp

của cơ quan, tổ chức, cá nhân; tiết lộ thông tin về sản phẩm mật mã dân sự, thông

tin về khách hàng sử dụng hợp pháp sản phẩm mật mã dân sự; sử dụng, kinh doanh

các sản phẩm mật mã dân sự không rõ nguồn gốc.”

Điều 15 LANM quy định về hoạt động ứng phó, khắc phục sự cố an ninh

mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia thì cũng đã được

quy định tại Điều 13, 14 LATTTM về ứng cứu sự cố an toàn thông tin mạng và ứng

cứu khẩn cấp bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia. Đó là còn chưa kể đến một

19 Khoản 4 Điều 7 về các hành vi bị nghiêm cấm, Luật An toàn thông tin mạng: “Phát tán thư rác, phần mềm độc hại, thiết lập hệ thống thông tin giả mạo, lừa đảo”. 20 Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 05/2017/QĐ-TTg về Ban hành quy định về hệ thống phương án ứng cứu khẩn cấp bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia

27

quyết định quy định chi tiết về hệ thống phương án ứng cứu khẩn cấp bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia của Thủ tướng Chính phủ.20

Còn rất nhiều điểm “tuy giống mà khác” của hai văn bản luật này, cùng một

vấn đề nhưng lại có hai hướng giải thích khác nhau, gây ra sự không thống nhất,

chồng chéo trong quy định và khó khăn trong áp dụng. Bảo vệ hệ thống kỹ thuật là

vấn đề cốt lõi trong bảo vệ an ninh mạng tuy nhiên chúng lại được quy định một

cách không chặt chẽ, từ hành vi phá hoại hệ thống kỹ thuật trên không gian mạng,

hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia hay hoạt động thẩm định an ninh

mạng, đánh giá điều kiện an ninh mạng tới hoạt động ứng phó, khắc phục sự cố an

ninh mạng, đều có những lỗ hổng do sự trùng lặp pháp luật như đã phân tích ở trên.

Qua rà soát hệ thống pháp luật của một số quốc gia trên thế giới như Anh, Mỹ,

Nhật, Úc... cho thấy, các quốc gia này không phân tách “cyber security” thành “an

ninh mạng” và “an toàn thông tin mạng” như ở nước ta, mà thống nhất giao một đầu

mối thực hiện chức năng quản lý nhà nước, căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ của các

bộ, ngành để có sự phân công phù hợp. Hai vấn đề trên đã dẫn tới công tác bảo vệ

an ninh mạng chưa được triển khai trên tất cả các lĩnh vực, đối tượng mà không

gian mạng bao phủ và hiện đang có ảnh hưởng sâu sắc.

2. Hạn chế trong cách quy định và sự thiếu hụt văn bản hướng dẫn

2.1. Quản lý nội dung trên không gian mạng

Quản lý nội dung thông tin trên không gian mạng là nội dung rất quan trọng

đối với pháp luật an ninh mạng. Quy định về nội dung thông tin bị nghiêm cấm trên

mạng tại LANM không mới và cũng đã được quy định rải rác tại nhiều văn bản

khác nhau như Luật Công nghệ thông tin, Luật tiếp cận thông tin, Luật Viễn thông

và Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và

thông tin trên mạng. Bên cạnh đó, đa phần các hành vi này cũng được quy định là

tội phạm theo BLHS. Vừa hoạt động quản lý thông tin trên không gian mạng, kiểm

soát các luồng thông tin và vừa giữ cho dữ liệu cá nhân không bị xâm phạm, không

ảnh hưởng đến quyền riêng tư, bí mật thông tin của các chủ thể là nhiệm vụ rất khó

khăn để có thể thực hiện đồng thời hiệu quả. Thời gian đầu khi LANM mới có hiệu

lực, hoặc thậm chí ngay khi nó còn nằm trên dự thảo, đã có không ít ý kiến trái

chiều đưa ra để chỉ trích LANM thu hẹp, cản trở quyền tự do dân chủ của người dân

28

khiến cho quyền lợi của họ bị hạn chế, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận.

Có lẽ nguyên nhân phần lớn là do quy định chưa rõ ràng, lại không có văn

bản hướng dẫn nên chuyện hiểu sai lệch, cố ý hiểu sai lệch quy định là điều hoàn

toàn có thể xảy ra. Ví dụ như hành vi “phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc,

đạo đức xã hội, sức khỏe cộng đồng..."21, nhiều ý kiến cho rằng họ không rõ thông

tin nào được quy là phá hủy thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội để mà

không vi phạm và giới hạn rất mong manh, mà thực chất, xem xét một cách nghiêm

túc thì cũng khó có thể đánh giá xem hành vi, sự thể hiện cụ thể nào sẽ vi phạm,

liệu hành vi nói bậy chửi thề trên mạng, khoe ảnh ăn mặc sexy có là vi phạm? Hiện

nay còn có tình trạng đăng tải video clip công an giao thông xử lý vi phạm xảy

tranh cãi với người vi phạm, đôi khi có xô xát, người vi phạm hô hào người xung

quanh ủng hộ mình, gây áp lực thậm chí khi lực lượng công an không thể xử lý và

phải để cho người vi phạm đi thì họ quay lại mỉa mai, nói xấu lực lượng công an.

Những clip này nhận được nhiều bình luận ủng hộ, thậm chí còn làm theo, không

cần biết đến căn cứ pháp luật mà cứ gặp công an là lớn tiếng “cãi tay đôi”, hết hỏi

tên, nơi công tác, lịch trình làm việc rồi không chấp hành,...Không những gây mất

trật tự xã hội mà còn ảnh hưởng rất lớn đến đời sống riêng tư của họ. Vậy những

clip như thế có bị coi là “đăng thông tin chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt

động của cơ quan, tổ chức gây mất ổn định về an ninh, trật tự.” hay “Xúc phạm

nghiêm trọng danh dự, uy tín, nhân phẩm của người khác”.22

Theo Khoản 1 Điều 26 LANM, trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện

tử hoặc chuyên trang trên mạng xã hội của cơ quan, tổ chức, cá nhân không được

cung cấp, đăng tải, truyền đưa thông tin có nội dung quy định tại các khoản 1, 2, 3,

4 và 5 Điều 16 của LANM và thông tin khác có nội dung xâm phạm an ninh quốc

gia. Thông tin được liệt kê tại từ Khoản 1 đến Khoản 5 Điều 16 LANM có nội hàm

21 Điều 8 Luật An ninh mạng 22 Điều 16 Luật An ninh mạng 23 Khoản 5 Điều 16 Luật An ninh mạng : “Thông tin trên không gian mạng có nội dung bịa đặt, sai sự thật gây hoang mang trong Nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác.”

29

rộng và khó xác định23. Ngoài ra, LANM chưa có quy định giải thích về nội dung

xâm phạm an ninh quốc gia. LANM chưa quy định cơ chế đánh giá và xác định

thông tin thuộc các trường hợp trên một cách rõ ràng. Như vậy, các cơ quan hành

pháp có thể giải thích nội dung thông tin được xem là thuộc trường hợp quy định từ

Khoản 1 đến Khoản 5 Điều 16 LANM hoặc được xem là xâm phạm an ninh quốc

gia theo quan điểm của mình. Điều này dẫn đến nguy cơ các thông tin phản biện đa

chiều liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước có thể bị xem là vi phạm và bị xóa

bỏ, ngăn chặn theo ý kiến của cơ quan thực thi pháp luật mà không có sự kiểm tra,

đánh giá của một cơ quan độc lập với hoạt động quản lý nhà nước đó, chẳng hạn

như tòa án.

Để tuân thủ quy định về quản lý nội dung thông tin thì tổ chức, cá nhân vận

hành các trang thông tin điện tử, cổng thông tin điện tử hoặc các trang mạng xã hội

phải kiểm tra, đánh giá các thông tin được đăng tải để xác định các thông tin đó có

thuộc các trường hợp vi phạm pháp luật như được nêu tại Điều 16 hoặc có nội dung

xâm phạm an ninh quốc gia hay không. Quy định này khó có thể được thực hiện

trên thực tế, đặc biệt là đối với thông tin trên các mạng xã hội, khi các thông tin này

do một số lượng lớn người dùng đăng tải. Việc đặt ra nghĩa vụ kiểm soát nội dung

thông tin cho các nhà cung cấp dịch vụ mạng xã hội cũng không thật sự hợp lý, bởi

việc đánh giá tính xác thực và hệ quả của các thông tin có dấu hiệu được quy định

tại Điều 16 là không dễ dàng và có thể tốn nhiều thời gian, trong khi khối lượng

thông tin được trao đổi qua mạng xã hội là một khối lượng khổng lồ. Quy định này

có thể dẫn đến tình trạng các nhà cung cấp dịch vụ trên mạng áp dụng các biện pháp

hạn chế việc đăng tải các thông tin có chủ đề liên quan đến các nội dung quy định

tại Điều 16 và các nội dung được cho là xâm phạm an ninh quốc gia khi chưa có đủ

cơ sở và điều kiện để kiểm tra và đánh giá nội dung thông tin nhằm tuân thủ triệt để

và chặt chẽ nghĩa vụ theo khoản 1 Điều 26 LANM. Điều này làm ảnh hưởng đến

hoạt động lưu chuyển thông tin tự do trong xã hội và hạn chế việc tiếp cận thông tin

của người sử dụng mạng. Có thể công nhận rằng, việc đưa thông tin sai lệch có hậu

quả khôn lường. Tuy nhiên, việc hạn chế đăng tải thông tin không phải là một biện

30

pháp hữu hiệu mà ngược lại còn có tác động tiêu cực, đặc biệt là trong bối cảnh

phản biện xã hội cần được tự do hóa để thu thập ý kiến quần chúng và phát huy sức

mạnh của cộng đồng.24

2.2 Địa phương hóa dữ liệu

Riêng đối với doanh nghiệp trong lĩnh vực Internet, hiện đang sốt ruột chờ

xem chi tiết của các văn bản hướng dẫn thi hành Luật An ninh mạng của Việt Nam,

vì luật sẽ không chỉ buộc các công ty như Google hay Facebook phải gỡ bỏ những

nội dung chỉ trích chính phủ, mà còn phải lưu trữ các dữ liệu ở Việt Nam. Hơn nữa,

các công ty này sẽ phải lập văn phòng đại diện ở Việt Nam25, tuy nó cần thiết để

đảm bảo chủ quyền và an ninh quốc gia cả ngoài thực lẫn không gian mạng nhưng

đây là một điều bất cập và không khả thi cho lắm do khả năng nảy sinh vấn đề pháp

lý và làm tăng chi phí cho các doanh nghiệp. Với quy định về lưu trữ dữ liệu tại

Việt Nam của doanh nghiệp trong nước và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên mạng

viễn thông, mạng Internet cũng gặp nhiều vấn đề về chính sách nội bộ của họ.

Chẳng hạn như Facebook, họ có khoảng 11 trung tâm lưu trữ dữ liệu, trong đó có

đến 6 trung tâm là nằm ở Mỹ, 2 nằm ở Singapore, Hồng Kông, một số trung tâm

khác nằm ở châu Âu, được sử dụng cho toàn bộ các quốc gia và hoạt động rất là tốt.

Google có nhiều hơn, với tổng cộng 15 trung tâm dữ liệu, trong đó có 8 đặt tại Mỹ,

một ở Nam Mỹ, 4 tại châu Âu và hai ở châu Á là Đài Loan và Singapore. Tức nghĩa

họ không cần thiết và không thể đặt máy chủ lưu dữ liệu ở mọi quốc gia trên thế

giới. Mặt khác, khi các nhà cung cấp dịch vụ phải lưu trữ thông tin tại một địa điểm

tại Việt Nam, nguy cơ rò rỉ thông tin lớn hơn do hành vi tấn công mạng và đánh cắp

thông tin có thể được thực hiện một cách dễ dàng hơn, quyền riêng tư của người

dùng sẽ bị đe dọa. Chi phí sử dụng dịch vụ mạng của người dùng có thể tăng thêm

do các nhà cung cấp dịch vụ mạng phải tốn chi phí nhiều hơn để đáp ứng các yêu

cầu của LANM. Đây có thể là rào cản đối với việc người dùng Việt Nam tiếp cận

dịch vụ trên không gian mạng và thông tin ngang hàng và bình đẳng với người dùng

24 Tham khảo tại: https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2019/01/savenet-camnangluatanninhmang- nhungdieucanbiet.pdf. Truy cập ngày 16/05/2020 25 Điều 26 Luật An ninh mạng

31

ở các nước khác trên thế giới.

Dữ liệu và thông tin người dùng tại Việt Nam thì nếu được lưu trữ ở Việt

Nam có thể dựa trên yếu tố chủ quyền lãnh thổ. Các thông tin về người Việt Nam,

hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam được khi phát sinh các hoạt động và giao dịch và

thậm chí tranh chấp thì do tài phán của Việt Nam giải quyết. Khi đó nếu không có

căn cứ và cơ sở dữ liệu sẽ rất khó để cơ quan chức năng giải quyết theo đơn thư yêu

cầu của cá nhân hoặc tổ chức, cũng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho công tác quản lý

Nhà nước, đặc biệt là việc điều tra, xác minh nguồn gốc, phương thức của các hoạt

động trái pháp luật, tội phạm trên không gian mạng. Facebook, Google đang thu

thập rất nhiều dữ liệu người dùng nhưng Việt Nam lại chưa có cơ sở pháp lý và biện

pháp để đảm bảo việc lưu trữ và khai thác dữ liệu đúng mục đích nên thông tin

người dùng có thể bị sử dụng vào những mục đích khác nhau thậm chí là có thể dữ

liệu của chúng ta bị lạm dụng, xâm phạm mà ta không biết. Vấn đề địa phương hóa

dữ liệu cần có sự phối hợp của cả doanh nghiệp lẫn cơ quan quản lý nhà nước trong

phối hợp thực hiện để đạt được hiệu quả cao. Tới nay thì nhiều doanh nghiệp trong

nước đã cho Facebook, Google (Youtube) đặt máy chủ tại Việt Nam.26 Các doanh

nghiệp cung cấp mạng Internet của Việt Nam thường tạo điều kiện tối đa cho

Google, Facebook đặt máy chủ ở trong nước. Thậm chí, có đơn vị còn không thu

phí đặt chỗ máy chủ của các công ty này. Lý do là việc đặt máy chủ tại Việt Nam sẽ

làm giảm băng thông đi quốc tế của các nhà cung cấp mạng này, từ đó tiết kiệm chi

phí của họ với các đối tác quốc tế.

2.3. Bảo mật dữ liệu cá nhân

Về hoạt động bảo mật dữ liệu cá nhân thì chưa bàn đến khía cạnh quy định

pháp luật, thực tế thì dữ liệu cá nhân của Việt Nam rất dễ bị đánh cắp. Hầu hết mọi

người dùng điện thoại, email, hay các tài khoản cá nhân trên mạng xã hội đều trải

nghiệm việc bị quấy rối, hoặc ít nhất là nhận những thông tin không mong muốn từ

một bên thứ ba nào đó. Không nói đến việc các thông tin cá nhân bị rò rỉ bằng cách

nào, nhưng việc bị xâm phạm quyền riêng tư và bảo mật cá nhân lâu nay rõ ràng là

26 Theo Ông Trương Minh Tuấn, Bộ trưởng Bộ Thông tin và Truyền thông

32

rất phổ biến. Tất cả những ai sử dụng các thuê bao di động đều từng nhận được các

cuộc điện thoại từ các công ty bảo hiểm; công ty bất động sản; các trung tâm chăm

sóc và dịch vụ làm đẹp chào mời sử dụng dịch vụ, có nhiều hành khách đi máy bay

bị lộ thông tin về chuyến bay về số điện thoại và lịch trình di chuyển,... Đây là

những thông tin cá nhân thông thường nên hậu quả của việc rò rỉ cũng không lớn,

nhưng những dữ liệu cá nhân khác, được cho là rất quan trọng, như: dữ liệu tài

chính; hồ sơ sức khỏe; hồ sơ kinh doanh,... nếu bị rò rỉ thì hậu quả sẽ lớn hơn rất

nhiều. Câu hỏi đặt ra là làm thế nào để hạn chế tình trạng này. Pháp luật An ninh

mạng vẫn chưa đưa ra được câu trả lời hoặc do cách quy định của Luật An ninh

mạng không nhắm đúng vào trọng tâm của vấn đề.

LANM được quy định theo hướng tăng quyền cho Bộ Công an trong việc

kiểm tra, xử lý và thực hiện các biện pháp cần thiết để bảo đảm an ninh mạng cũng

như phối hợp cùng các cơ quan chức năng có liên quan. Cách quy định này sẽ bảo

đảm việc quản lý, kiếm soát tình hình chung của an ninh mạng nhưng vấn đề bảo

mật dữ liệu cá nhân lại là một chuyện khác. Dữ liệu cá nhân cũng được coi như một

dạng thông tin riêng tư, được pháp luật bảo vệ, với tính chất đó thì theo nghĩa hẹp,

chỉ cần thêm dù chỉ một bên nữa biết một phần thông tin này thì nó đã không còn

riêng tư nữa, chưa kể tới sự cho phép của người chủ của thông tin. Thông thường,

đối với những thông tin được lưu giữ trên môi trường mạng thì chỉ có người chủ của

thông tin và doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng để lưu trữ thông tin đó biết. Với

chính sách bảo mật thông tin khách hàng nghiêm ngặt của những doanh nghiệp như

Google, Apple thì việc rò rỉ thông tin hay cung cấp thông tin cho một bên thứ 3 là

cực kỳ tối kỵ. Pháp luật an ninh mạng cần có thêm quy định về trách nhiệm cho các

doanh nghiệp cung cấp dịch vụ trên không gian mạng, hợp tác hỗ trợ họ trong việc

bảo đảm dữ liệu cá nhân cho công dân, tuân thủ pháp luật mà không phá vỡ quy

định, chính sách nội bộ của doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nước ngoài.

LANM có quy định trách nhiệm của doanh nghiệp phải cung cấp thông tin người

dùng cho Bộ Công an khi có yêu cầu bằng văn bản để phục vụ điều tra, xử lý hành

vi vi phạm pháp luật về an ninh mạng nhưng lại không có một quy trình cụ thể về

33

loại thông tin cung cấp, cách thức cung cấp hay việc báo cho người dùng về việc

thông tin của họ đang được cung cấp và cam kết bảo mật liên quan phát sinh. Vô

hình chung, chúng ta có thể nhận định đây là một hình thức rò rỉ thông tin cá nhân.

Đã từng có những vụ việc lớn xảy ra minh chứng cho việc trách nhiệm bảo mật

thông tin cá nhân thuộc phần nhiều về doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng.

Đầu năm 2020, Apple từ chối cho phép chính phủ Mỹ truy cập vào iPhone

của một người đàn ông 21 tuổi - nghi phạm giết chết ba thủy thủ trong vụ xả súng

tại căn cứ hải quân Penacola ở Florida của nước này. Apple đã công khai chống lại

các đề xuất chính phủ Mỹ trong những tình huống tương tự xảy ra trước đó. Năm

2016, công ty phản đối lệnh của tòa án nhằm giúp FBI mở khóa iPhone của một

trong hai kẻ đã xả súng ở San Bernardino, California, khiến 14 người thiệt mạng.

Cam kết bảo vệ quyền riêng tư người dùng của Apple đã được công ty này gìn giữ

và là lợi thế lớn so với các đối thủ trên thị trường. CEO Tim Cook của Apple cũng

liên tục khẳng định quyền riêng tư là quyền cơ bản của con người, nó cần được bảo

vệ tối đa. Apple cũng cho rằng hiện nay các cơ quan thực thi pháp luật đã có quyền

truy cập vào nhiều dữ liệu hơn bao giờ hết, với yêu cầu về thông tin thì hãng đã đáp

ứng kịp thời với tất cả thông tin có thể cung cấp nên họ từ chối bẻ khóa iPhone bằng

backdoor và khẳng định bảo vệ dữ liệu của người dùng của họ bằng mã hóa là rất

quan trọng.

Dữ liệu cá nhân được doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng bảo đảm lưu trữ

cho người dùng, được sự đồng ý của họ thông qua những điều khoản bảo mật khi sử

dụng dịch vụ. Trong trường hợp cần cung cấp thông tin cho bên thứ ba thì cần phải

xem xét vì mục đích gì, cung cấp những loại thông tin ở mức độ nào, có ảnh hưởng

đến quyền riêng tư không? Nếu không quy định rõ ràng thì không những thông tin

bị rò rỉ mà doanh nghiệp cũng mất uy tín đối với khách hàng. Trong trường hợp

cung cấp thông tin cho Cơ quan nhà nước thì nên có quy trình và quy định trách

nhiệm bảo mật thông tin của cơ quan đó sau khi tiếp nhận. LANM cũng chưa có

quy định hạn chế đối với quyền của cơ quan nhà nước thực thi pháp luật để chỉ

được cung cấp những thông tin thật sự cần thiết phục vụ cho hoạt động xử lý thông

34

tin trên không gian mạng có nội dung vi phạm pháp luật. Điều này dẫn đến lo ngại

về nguy cơ rò rỉ thông tin từ hoạt động của cơ quan nhà nước, ảnh hưởng đến quyền

riêng tư của người có thông tin được cung cấp và thông báo, trong khi chưa có kết

35

luận về hành vi vi phạm.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 1

Ở phần đầu tiên, tác giả chủ yếu đi sâu vào phân tích, bình luận pháp luật về

an ninh mạng của Việt Nam mà chủ yếu là LANM. Chỉ ra những điểm chính trong

nội dung của LANM, tạo cái nhìn bao quát chung về hệ thống pháp luật an ninh

mạng. Ngoài ra, tác giả làm rõ một số khái niệm, thuật ngữ trong lĩnh vực này để

người đọc hiểu và có cái nhìn đa chiều dưới nhiều góc độ. Tiếp thu và đánh giá vấn

đề cùng các quan điểm khác nhau giúp mở rộng cách tiếp cận đối với vấn đề an

ninh mạng.

Trên cơ sở phân tích lý luận đó, tác giả chỉ ra mặt hạn chế tồn tại trong pháp

luật về an ninh mạng của Việt Nam làm cơ sở đề ra hướng giải quyết, kiến nghị

36

hoàn thiện ở phần sau.

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG AN NINH MẠNG TRÊN THẾ GIỚI

VÀ Ở VIỆT NAM

I. Tình hình An ninh mạng trên thế giới:

1. Tổng quan về tình hình an ninh mạng trên thế giới

Với xu hướng công nghệ hóa trên toàn cầu, khi mọi hoạt động đều được số

hóa, không gian mạng ngày càng trở nên quan trọng và được mở rộng mỗi ngày.

Các chủ thể tham gia trên mạng thực hiện hành vi đa dạng và khó kiểm soát, tình

hình an ninh mạng nhìn chung đang diễn biến phức tạp trên toàn thế giới, đặc biệt là

ở các nước phát triển, có nền tảng khoa học công nghệ tiên tiến. Trên phạm vi toàn

cầu, tội phạm mạng gây thiệt hại lên tới khoảng 600 tỷ USD mỗi năm, tương đương

0,8% GDP toàn cầu. Trong đó, khu vực Đông Á thiệt hại ước tính từ 120 - 200 tỷ

USD, tương đương 0,53 - 0,89% GDP khu vực. Mức thiệt hại 642 triệu USD tương

đương 0,26% GDP của Việt Nam, tuy chưa phải cao so với khu vực và thế giới,

nhưng cũng là mức đáng báo động.

Thực tế cho thấy, phần lớn các cuộc tấn công trên mạng được thực hiện

thông qua việc sử dụng một hoặc nhiều công cụ phần mềm do người tấn công tự

xây dựng hoặc có được từ các nguồn khác nhau nhằm mục đích tấn công gây tổn

thất hay chiếm dụng bất hợp pháp tài nguyên. Các vụ tấn công trên mạng ngày càng

gia tăng cả về quy mô và tính chất nguy hiểm, đặt ra những thách thức mới, yêu cầu

phối hợp các biện pháp kỹ thuật, pháp lý, xã hội để ứng phó và xử lý kịp thời.

Các nước trên thế giới cũng liên tục phát hiện các vụ tấn công, xâm nhập vào

hệ thống máy tính của các cơ quan chính phủ, tổ chức chính tri, các ngành công

nghiệp, kinh tế mũi nhọn, các hãng hàng không lớn, cơ quan truyền thông, tổ chức y

tế, giáo dục... nhằm phá hoại, đánh cắp dữ liệu, thu thập thông tin tình bảo liên quan

đến chính sách về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng và đối ngoại. Nổi lên là

các vụ tấn công vào hệ thống thư điện tử của Bộ Ngoại giao, hệ thống máy tính của

Nhà Trắng, Cơ quan quản lý nhân sự Chính phủ Mỹ... Nhiều nhóm tin tặc tấn công

37

bằng mã độc để đánh cắp dữ liệu, thu thập thông tin tình báo quan trọng về chính

trị, kinh tế, quân sự. Đối tượng chính là các cơ quan chính phủ, các tổ chức kinh tế,

các cơ quan báo chí của hầu hết các nước trên thế giới đặc biệt là khu vục Châu Á

và Đông Nam Á như Malaysia, Thái Lan, Ấn Độ, Hàn Quốc, Nhật Bản...

Hầu hết pháp luật, chính sách các quốc gia trên thế giới đều chia sẻ quan

điểm rằng đối tượng mà an ninh mạng hướng đến để chống lại là các cuộc tấn công,

phá hoại, hay đột nhập không được phép hoặc hành động bất hợp pháp của các bên

thứ ba nhằm phá hủy hoặc gây hại cho không gian mạng (gọi chung là “tấn công

mạng”) gây ra bởi các tin tặc, tức những cá nhân, tổ chức không được ủy quyền hay

cấp phép nhưng cố gắng tiếp cận hoặc có được sự tiếp cận, truy cập trái phép hoặc

tấn công vào hệ thống dữ liệu và thông tin của cá nhân, tổ chức hoặc quốc gia khác

trên không gian mạng nhằm nhiều mục đích khác nhau. LANM Việt Nam định

nghĩa tấn công mạng là hành vi sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin hoặc

phương tiện điện tử để phá hoại, gây gián đoạn hoạt động của mạng viễn thông,

mạng Internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển

thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử.

Các nước công nghiệp phát triển phương Tây mà Hoa Kỳ là một đại diện tiêu

biểu có cách tiếp cận về tấn công mạng dựa trên mục tiêu tấn công mạng của chúng.

Từ điển Quân đội và các thuật ngữ liên quan của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ 27 định

nghĩa tấn công mạng là “hành vi thù địch sử dụng máy tính hoặc các mạng hoặc hệ

thống liên quan và có ý định phá hoại và/hoặc phá hủy hệ thống, tài sản hoặc chức

năng mạng quan trọng của đối thủ. Các hiệu ứng dự định của tấn công mạng không

nhất thiết bị giới hạn ở các hệ thống máy tính được nhắm mục tiêu hoặc dữ liệu - ví

dụ, các cuộc tấn công trên các hệ thống máy tính nhằm làm suy giảm hoặc phá hủy

cơ sở hạ tầng của khả năng thực thi và kiểm soát. Tấn công mạng có thể sử dụng

các phương tiện truyền tải trung gian bao gồm thiết bị ngoại vi, thiết bị phát điện

tử, mã nhúng hoặc nhà khai thác con người. Việc kích hoạt hoặc ảnh hưởng của

27 Tham khảo tại: http://www.nsci-va.org/CyberReferenceLib/2010-11 joint%20Terminology%20for%20Cyberspace%20Operations.pdf . Truy cập ngày 17/05/2020

38

cuộc tấn công không gian mạng có thể được phân tách rộng rãi theo thời gian và

địa lý từ quá trình truyền tải”28. Một số học giả trong lĩnh vực pháp luật về an ninh

mạng của Hoa Kỳ cho rằng tấn công mạng nên được hiểu là “bất kỳ hành động nào

được thực hiện để làm ảnh hưởng đến các chức năng của của mạng máy tính vì lý

do chính trị hoặc lý do an ninh quốc gia”. Có thể thấy, tuy có nhiều định nghĩa về

tấn công mạng nhưng điểm mấu chốt của cách tiếp cận này là “tấn công mạng”

được giới hạn ở những hành vi có chủ ý và nhắm đến mục đích gây hại hoặc phá

hủy các hệ thống máy tính và mạng vì lý do chính trị hoặc an ninh quốc gia. Nói

cách khác, hướng tiếp cận này giới hạn phạm vi của tấn công mạng dựa vào mục

tiêu của cuộc tấn công. Theo cách tiếp cận thứ nhất này, tấn công mạng có thể được

thực hiện bằng nhiều phương thức (ví dụ: tấn công, đánh bom, cắt phá, gây nhiễu

loạn v.v…) nhưng để được xem là tấn công mạng, hành vi đó phải nhằm mục tiêu

gây hại hoặc phá hủy chức năng của không gian mạng vì lý do chính trị hoặc an

ninh quốc gia. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt cách tiếp cận khái niệm

tấn công mạng của Hoa Kỳ và cách tiếp cận của Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải sẽ

được phân tích dưới đây.

Cách tiếp cận của Tổ Chức Hợp Tác Thượng Hải (The Shanghai Cooperation

Organization) – một tổ chức an ninh chung liên chính phủ được thành lập năm 2001

bởi lãnh đạo các quốc gia Trung Quốc, Nga, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan và

Uzbekistan và bao gồm các quan sát viên là Iran, Ấn Độ và Pakistan. Theo đó, tổ

chức này bày tỏ quan ngại về các mối đe dọa hiện hữu bởi việc sử dụng các công

nghệ và phương tiện thông tin và truyền thông mới và cho các mục đích chống lại

việc đảm bảo an ninh và sự ổn định quốc tế trên bình diện dân sự và quân sự29. Tổ

chức này dùng thuật ngữ “chiến tranh thông tin” tương đương và thay thế cho thuật

28 Nguyên văn: “A hostile act using computer or related networks or systems, and intended to disrupt and/or destroy an adversary's critical cyber systems, assets, or functions. The intended effects of cyber attack are not necessarily limited to the targeted computer systems or data themselves-for instance, attacks on computer systems which are intended to degrade or destroy infrastructure of C2 capability. A cyber attack may use intermediate delivery vehicles including peripheral devices, electronic transmitters, embedded code, or human operators. The activation or effect of a cyber attack may be widely separated temporally and geographically from the delivery”. 29 Thỏa thuận giữa Chính Phủ của các thành viên của tổ chức hợp tác Thượng Hải hợp tác trong lĩnh vực an toàn thông tin quốc tế, Phiên họp toàn thể lần thứ 61 (ngày 2 tháng 12 năm 2008) (Sau đây gọi là “Thỏa Thuận Hợp Tác Thượng Hải”).

39

ngữ “cyberwarfare” (tấn công mạng). Theo đó, “Chiến tranh thông tin là cuộc tẩy

não tâm lý đại chúng để làm mất ổn định xã hội và nhà nước, cũng như buộc nhà

nước phải đưa ra quyết định vì lợi ích của một đảng đối lập”30. Hơn nữa, nó xác

định sự phổ biến các thông tin gây hại cho “các hệ thống chính trị xã hội và, kinh tế

xã hội cũng như bình diện đạo đức và văn hóa của các quốc gia khác” như là một

trong những mối đe dọa chính đến an ninh thông tin”. Các quy định này cho thấy

rằng Tổ chức Hợp tác Thượng Hải có quan điểm tương đối rộng về tấn công mạng

theo hướng bao gồm cả việc sử dụng công nghệ không gian mạng (cyber-

technology) để phá hủy sự ổn định chính trị. Một số nhà bình luận quan ngại rằng

định nghĩa này thể hiện nỗ lực hợp pháp hóa việc kiểm duyệt các phát ngôn chính

trị trên mạng Internet31. Với bối cảnh Internet đang ngày càng được sử dụng như

diễn đàn trao đổi ý kiến và quan điểm chính trị, các quy định như trên có nguy cơ đe

dọa đến nhân quyền, đặc biệt là quyền tự do ngôn luận của người dân. Tóm lại, cách

tiếp cận thứ hai này dựa trên khía cạnh phương tiện của hành vi tấn công mạng hơn

là khía cạnh mục đích như cách tiếp cận thứ nhất. Theo đó, bất kể mục tiêu của

hành vi có nhắm đến gây hại hoặc phá hủy chức năng của mạng máy tính và hệ

thống mạng hay không, chỉ cần hành vi đó được thực hiện bằng phương tiện là

không gian mạng chống lại việc đảm bảo an ninh và sự ổn định quốc tế trên bình

diện dân sự và quân sự thì hành vi đó có thể bị coi là tấn công mạng. So với cách

tiếp cận thứ hai, cách tiếp cận thứ nhất không ảnh hưởng đến tự do ngôn luận trên

Internet. Theo cách tiếp cận thứ hai, bất kỳ hành động nào sử dụng phương tiện là

không gian mạng làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá

nhân và nhà nước hoặc sự ổn định chính trị, xã hội (ví dụ, các phản biện hoặc phát

ngôn chính trị chống lại đảng cầm quyền thông qua môi trường không gian mạng

mà không nhằm mục tiêu gây hại hoặc phá hủy chức năng của mạng máy tính vì lý

“Seeing

'Information Weapon'”,

Tham

khảo

The

An

As

30 Thỏa Thuận Hợp Tác Thượng Hải, Phụ lục I, tại tiểu mục 209. 31 tại: Internet https://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=130052701?storyId=130052701. Truy cập ngày 17/05/2020

32 Tham khảo tại: https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2019/01/savenet-camnangluatanninhmang- nhungdieucanbiet.pdf. Truy cập ngày 17/05/2020

40

do chính trị hoặc an ninh quốc gia) đều có thể bị coi là tấn công mạng.32

Báo cáo Chỉ số an ninh mạng toàn cầu năm 2017 của Liên minh Viễn thông

quốc tế (ITU) 37 thuộc Liên Hợp Quốc cho biết hiện tại chỉ có một nửa số quốc gia

trên thế giới có chiến lược an ninh mạng hoặc đang trong quá trình đề ra chiến lược

liên quan tới vấn đề này. Cụ thể, khoảng 38% quốc gia trên thế giới đã công bố

chiến lược an ninh mạng. Trong đó, chỉ 11% quốc gia có chiến lược độc lập, chuyên

dụng về an ninh mạng. Ngoài ra, 12% quốc gia đang phát triển chiến lược. Báo cáo

của này cũng cho biết chỉ trong vòng 6 năm trở lại đây, đã có 23 quốc gia trên thế

giới ban hành trên 40 văn bản luật, dưới luật về an ninh mạng.33

2. Các cuộc tấn công mạng và tác động của chúng

Tháng 4/2011, Sony PlayStation Network (PSN) đã bị các tin tặc tổ chức

cuộc tấn công mạng rầm rộ. Dịch vụ chơi game Multiplay, mua trò chơi trực tuyến

và các nội dung khác của Sony bị rò rĩ.34 Trong đó, có đến thông tin cá nhân của 77

triệu người chơi toàn cầu. Thậm chí, các thông tin ngân hàng của các tài khoản này

còn bị các Hacker xâm phạm. Ngay sau khi phát hiện vụ việc, PSN cũng như Sony

Online Entertainment và Qrocity đã phải ngưng tất cả dịch vụ trong khoảng 1 tháng.

Để xoa dịu người dùng, Sony đã phải chi 15 triệu đô la tiền bồi thường cho những

người bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, Sony đã quá xem thường các tin tặc ở thời điểm đó.

Thậm chí khi các Hacker đã công bố lỗ hổng cơ sở dữ liệu của Sony nhưng họ đã

bỏ ngoài tai lời cảnh báo này. Dữ liệu hoàn toàn không được mã hóa và dễ dàng bị

tấn công. Vì lẽ đó, tháng 11/2014 một công ty con của Sony là Sony Pictures

Entertaiment bị tấn công bởi một Virus mang tên “Guardians of Peace” và lần này

thiệt hại còn lớn hơn trước khi có đến 100 terabyte (1TB bằng khoảng 1000 GB)

bao gồm các dữ liệu quan trọng bị đánh cắp35. Cuộc tấn công Internet bởi các tin tặc

33 “Global Cybersecurity Index (GCI) 2017”. Tham khảo tại: https://www.itu.int/dms_pub/itu-d/opb/str/D- STR-GCI.01-2017-PDF-E.pdf. Truy cập ngày 21/05/2020 34 "PlayStation Network Restoration Begins". PlayStation Network / PSN News. Tham khảo tại: cập https://uk.playstation.com/psn/news/articles/detail/item369506/PSN-Qriocity-Service-Update/. Truy ngày 17/05/2020 35 “Who are the Guardians of Peace? A new hacker group is on the loose” .Tham khảo tại: https://www.pandasecurity.com/mediacenter/news/guardians-peace-new-hacker-group-loose/. Truy cập ngày 17/05/2020

41

lần này đã lấy đi nhiều kịch bản phim, email và dữ liệu cá nhân của 47.000 nhân

viên. Nhiều nhân viên bị buộc phải nghỉ việc vì thiệt hại lần này. Ngoài ra, Sony

còn phải hủy phát song một vài bộ phim và trả tiền bồi thường lên đến 8 triệu đô la

cho nội bộ nhân viên bị lộ thông tin. Trước đó, Sony đã tiến hành kiểm tra hệ thống

bảo mật của công ty mình cho thấy rằng họ sẽ không thể chịu nổi bất kì đợt tấn

công internet mang tính vĩ mô nào bởi sự khổng lồ của cơ sở dữ liệu. Việc chậm trễ

nâng cấp đã khiến Sony phải trả giá rất đắt.

Năm 2013, chỉ một vụ xâm nhập tài khoản Twitter của bộ phận truyền thông

Nhà Trắng và đăng tin giả về vụ nổ tại Nhà Trắng cũng đã khiến chỉ số S&P 500 (1

chỉ số chứng khoán dựa trên vốn hóa thị trường của 500 công ty giao dịch công khai

trên thị trường chứng khoán Mỹ) giảm 0,9%, làm thị trường thiệt hại 130 tỷ USD.

Năm 2015, trang web hẹn hò trực tuyến Tinder đã bị tấn công Internet nhằm

mục đích đánh cắp toàn bộ thông tin của người dùng tại đây. Những thông tin quan

trọng như tên thật, ngày tháng năm sinh, mã bưu chính, địa chỉ IP và cả sở thích

tình dục… của 4 triệu tài khoản đã bị công khai trên một diễn đàn truy cập trên trình

duyệt Tor. Đợt tấn công internet lần này, các Hacker thật ra chỉ muốn cảnh báo về

lỗ hổng bảo mật của nền tảng hẹn hò Tinder nên may mắn đã không có vụ việc lạm

dụng hay đánh cắp tống tiền nào xảy ra. Nhưng Tinder đã vẫn chưa tỉnh ngộ, năm

2016 họ đã phải chịu tổn thất nặng nề hơn và lần này hậu quả để lại gấp 100 lần.

400 triệu tài khoản đã bị đánh cắp thông tin nhạy cảm, 20 năm dữ liệu của ứng dụng

hẹn hò khổng lồ chính thức bị công khai trên mạng. Các nhà nghiên cứu bảo mật

nói rằng hình ảnh thu được từ các cuộc tấn công mạng có thể được sử dụng cho

nhiều dự án độc ác như tạo ra các video giả mạo sâu sắc hoặc làm thành hình ảnh

của nhiều nhà lãnh đạo chính trị trong các chiến dịch bầu cử của họ. Thông thường

những bức ảnh như vậy xuất hiện trên web tối nơi mọi người có thể mua chúng và

tạo ra một sản phẩm rồi dùng vào mục đích riêng mà không cần ý kiến của người

36 Nguyên văn: “Security researchers say that images gained from cyber attacks could be used for many malevolent projects such as the creation of deep fake videos or to tarnish the image of many political leaders during their election campaigns. Often such pictures land up on the dark web where anyone can purchase them and train a product with machine learning algorithms without the consent of users.” Tham khảo tại:

42

dùng36. Những Hacker đã sử dụng phương thức Local File Inclusion (một kỹ thuật

đưa một tệp cục bộ chuyển thẳng về kho tài nguyên trực tuyến của tin tặc). Rất

nhiều người dùng đã lên tiếng phản đối vì họ bị lộ thông tin cực kì nhạy cảm kể cả

khi họ đã hủy tài khoản từ nhiều năm trước. Cuộc khủng hoảng của Tinder đã vượt

xa cuộc tấn công internet cũng trên một nền tảng hẹn hò trực tuyến khác là Ashley

Madison (đã bị lộ 30 triệu thông tin người dùng trên 40 quốc gia). Thiệt hại cũng

nằm ở những khoản phạt mà Tinder phải gánh chịu, theo Luật bảo mật dữ liệu châu

Âu, bất kỳ ứng dụng hẹn hò nào bị phát hiện rò rỉ thông tin người dùng của mình

cho tin tặc hoặc công ty quảng cáo sẽ bị phạt rất nặng.37

Tháng 5/2017, mã độc WannaCry đã lây nhiễm hơn 300 nghìn máy tính tại

hơn 90 nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Nạn nhân của mã độc này sẽ bị

khóa các dữ liệu trong máy tính và phải thanh toán tiền chuộc từ 300 đến 600 Euro

bằng bitcoin để khôi phục. Khi các vụ tấn công mã độc tống tiền WannaCry chưa

kết thúc, vào cuối tháng 6/2017, mã độc mới Petya xuất hiện được nhận định còn

nguy hiểm hơn WannaCry do mã hóa toàn bộ ổ cứng và có khả năng lây lan rộng

trong mạng nội bộ. Petya đã làm tê liệt hàng loạt ngân hàng, sân bay, máy ATM và

một số doanh nghiệp lớn tại châu Âu.

Các cuộc tấn công mạng đang dần nguy hiểm hơn do được các tổ chức, quốc

gia tài trợ nhằm nhắm đến những tập đoàn kinh tế lớn của đất nước, cơ quan chính

phủ, cơ quan quân đội, an ninh. Bảo vệ quyền, lợi ích và an ninh quốc gia trên

không gian mạng và ứng phó với những nguy cơ mới từ không gian mạng đã trở

thành vấn đề toàn cầu, được xác định là một nội dung cốt lõi, sống còn trong quá

trình bảo vệ và phát triển ở nhiều quốc gia trên thế giới. Tất cả mọi con số đều chỉ

chung về một viễn cảnh tương lai của thế giới mạng – các cuộc tấn công mạng đã,

đang và sẽ tăng với vận tốc chóng mặt cả về số lượng, độ tinh vi cũng như sự phong

phú trong hình thức tấn công. Chỉ trong thập kỷ vừa qua, các nguy cơ tới từ không

.

https://www.cybersecurity-insiders.com/tinder-cyber-attack-exposes-70k-female-photos-for-catfishing/ Truy cập ngày 17/05/2020 37 Tham khảo tại: https://www.cybersecurity-insiders.com/tinder-cyber-attack-exposes-70k-female-photos- for-catfishing/ . Truy cập ngày 17/05/2020

43

gian mạng nổi lên như những mối đe dọa khi thế giới đang ngày càng được số hóa.

Các cuộc tấn công mạng có chi phí thấp nhưng gây ra thiệt hại lớn một cách khó

lường, càng nguy hiểm hơn khi chúng không bị hạn chế bởi các ranh giới thông

thường. Với tính chất và sự phát triển chóng mặt của chúng nên các nguy cơ tới từ

không gian mạng ngày càng khó đối phó và ngăn chặn.

II. Tình hình An ninh mạng ở Việt Nam

1. Tổng quan về tình hình an ninh mạng của Việt Nam

Hiện nay, Việt Nam có trên 45 triệu người sử dụng Internet, đứng thứ 4 thế

giới về thời gian sử dụng internet với hơn 30 triệu người sử dụng Facebook; 55%

dân số đang sử dụng điện thoại di động. Hàng năm, Việt Nam phải chịu hàng nghìn

cuộc tấn công mạng và đứng thứ 20 trên thế giới về xếp hạng các quốc gia bị tấn

công mạng nhiều nhất.

Việt Nam đang phải đối mặt với vấn đề an ninh mạng ngày càng nghiêm

trọng, đặc biệt là trong những năm gần đây. Theo Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm

trong buổi trình dự thảo Luật Bảo vệ bí mật nhà nước trước Quốc hội, từ năm 2001

đến nay, Việt Nam đã xảy ra hơn 840 vụ lộ, mất bí mật nhà nước, chủ yếu qua

thông tin, liên lạc, báo chí, xuất bản, quan hệ quốc tế... Đây là con số đáng báo động

đối với hệ thống thông tin của quốc gia và cũng đặt ra vấn đề bảo vệ thông tin bí

mật Nhà Nước bởi an ninh quốc gia ảnh hưởng tới mọi mặt của đời sống xã hội.

Thực tế trong nước và thế giới cho thấy, một tin đồn thất thiệt về tình trạng tài

chính, nhân sự cấp cao, giám đốc ngân hàng bỏ trốn hay bị bắt… đều trực tiếp hoặc

gián tiếp gây tác động xấu tới sự ổn định của các tổ chức tài chính tín dụng có liên

quan và có thể gây hiệu ứng lan tỏa tới toàn bộ nền kinh tế. Hệ quả càng lớn khi

thông tin mập mờ, suy luận thiếu căn cứ, nguồn tin không rõ ràng và khó xác minh

cụ thể, còn bản thân đơn vị, cơ quan chức năng chậm phản ứng xử lý chính thức,

không minh bạch thông tin, chủ động công bố thông tin cần thiết.

Năm 2012, theo nghiên cứu của Hiệp hội an toàn thông tin Việt Nam

(VNISA) phát hiện 3697 lỗi trong 100 website.gov.vn, trong đó 489 lỗi thuộc diện

nghiêm trọng, 396 lỗi ở mức cao, còn lại 2812 lỗi ở mức trung bình/yếu. 80%

44

website được khảo sát không có biện pháp bảo mật tối thiểu. Theo một thống kê của

hãng bảo mật Kaspersky, Việt Nam đứng hàng đầu trên thế giới về tỷ lệ lây nhiễm

mã độc qua thiết bị lưu trữ ngoài (USB, thẻ nhớ, ổ cứng di động với tỷ lệ 70,83%

máy tính bị lây nhiễm; 39,95% người dùng phải đối mặt với mã độc bắt nguồn từ

không gian mạng.

Chỉ riêng 2015, Việt Nam có hơn 10.000 trang web/cổng thông tin điện tử có

tên miền .vn bị tấn công, chiếm quyền điều khiển, thay đổi giao diện, cài mã độc

(tăng 68% so với năm 2014), trong đó có 224 trang thuộc quản lý của các cơ quan

nhà nước (giảm 11% so với năm 2014). Thời gian tin tặc tấn công vào hệ thống

thông tin điện tử của Việt Nam nhiều nhất là tháng 6-2015 với số lượng các trang

tin bị tấn công lên đến hơn 1.700 trang, trong đó có 56 trang tên miền .gov.vn. Có

24 bộ/ngành, 48 tỉnh/thành phố, 13 trường đại học, cao đẳng bị tin tặc tấn công. 38

Vào năm 2016, tin tặc đã tấn công và làm tê liệt nhiều giờ liền tại Trung tâm

điều khiển của Hãng hàng không tại sân bay Tân Sơn Nhất và Nội Bài, làm thiệt hại

lớn về kinh tế và gây bức xúc trong dư luận. Vào khoảng 16h ngày 29/7/2016, tại

sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất, nhiều hành khách đang làm thủ tục hốt hoảng khi

thấy các màn hình thông tin chuyến bay của hãng hàng không Vietnam Airlines bất

ngờ thay đổi. Sau khi chiếm quyền điều khiển website của Vietnam Airlines, nhóm

tin tặc đưa những nội dung thông tin xuyên tạc liên quan đến vấn đề biển Đông, xúc

phạm Việt Nam, Philippines tại sân bay Tân Sơn Nhất và Nội Bài, đồng thời nêu rõ:

“Đây là lời cảnh cáo từ nhóm hacker Trung Quốc 1937CN”. Đồng thời website

của Vietnam Airlines cũng bị hack với 411.000 dữ liệu của hành khách đi máy bay

đã bị hacker thu thập và phát tán. Cuộc tấn công website và hệ thống thông tin sân

bay này được đánh giá là lớn nhất từ trước đến nay vào hệ thống thông tin hàng

không của Việt Nam, trong đó có 1 hacker nổi tiếng Việt Nam được cho là có liên

quan đến các vụ tấn công này. Đến 17h45 cùng ngày, sự cố đã được khắc phục.39

Theo thống kê của Bkav, năm 2019, thiệt hại do virus máy tính gây ra đối

38 Tham khảo tại: https://www.mic.gov.vn/atantt/Pages/TinTuc/132987/Mat-an-toan-thong-tin--Nguy-co-tu- chinh-thiet-bi--ke-ke--ben-nguoi.html. Truy cập ngày 17/05/2020 39 Tham khảo tại: https://vnexpress.net/san-bay-noi-bai-tan-son-nhat-bi-tin-tac-tan-cong-3444469.html. Truy cập ngày 17/05/2020

45

với người dùng Việt Nam đã lên tới 20.892 tỷ đồng (902 triệu USD), vượt xa con số

14.900 tỷ đồng của năm 2018. 80% máy tính bị nhiễm virus do cài đặt phần mềm từ

trên mạng. Tỷ lệ lây nhiễm virus qua USB vẫn ở mức cao 55%, nhưng đã giảm tới

22% so với năm 2018. Virus lây nhiễm qua email tăng lên mức 20%, tăng 4% so

với năm 2018. Cũng theo thống kê của Bkav, vẫn tồn tại tới 41,04% máy tính tại

Việt Nam có chứa lỗ hổng SMB, từng bị virus Wanna Cry khai thác để lây nhiễm

hơn 300.000 máy tính chỉ trong vài giờ. Tổng số lượt máy tính bị nhiễm mã độc

được ghi nhận trong năm 2019 lên tới 85,2 triệu lượt, tăng 3,5% so với năm 201840.

Đây vẫn là những nguy cơ rất lớn về mất an ninh thông tin tại Việt Nam. Tuy không

có sự cố nào đặc biệt nghiêm trọng xảy ra, nhưng sự gia tăng các máy tính bị nhiễm

mã độc mã hóa dữ liệu và mã độc tấn công có chủ đích APT là nguyên nhân chính

gây ra những thiệt hại khổng lồ này. Báo cáo Kaspersky Security Network (KSN)

2019 cho thấy năm 2019, Việt Nam có 371.979.051 sự cố tấn công ngoại tuyến. Với

số lượng sự cố giảm đáng kể, Việt Nam từ vị thứ 2 với 415.592.714 sự cố năm 2018

đã xuống vị trí thứ 6 trên toàn cầu năm 2019. Việt Nam xếp thứ 17 trên toàn thế

giới với 75.004.388 sự cố đe doạ trực tuyến trong năm 2019, tương ứng với 40%

người dùng bị tấn công bởi các mối đe dọa từ internet, Singapore là quốc gia có tỷ

lệ tấn công ngoại tuyến thấp nhất khu vực Đông Nam Á (34,8%) vào năm 2019,

tương ứng với vị trí thứ 130 trên thế giới41. Đây cũng là một số tín hiệu tích cực khi

mà có thể đây là tác động của Luật An ninh mạng đến tình hình an ninh mạng của

Việt Nam. Ông Yeo Siang Tiong, Tổng Giám đốc Kaspersky khu vực Đông Nam Á

cho biết: “Năm 2019 chứng kiến sự cải thiện đáng kể của bối cảnh an ninh mạng tại

Việt Nam. Chúng tôi đánh giá cao những nỗ lực của Chính phủ Việt Nam trong việc

nâng cao nhận thức của người dùng và khả năng phòng thủ trước các cuộc tấn

công mạng của doanh nghiệp. Mặc dù những thay đổi này đã và đang mang lại

nhiều lợi ích cho người dùng Việt Nam, nhưng chúng ta cần phải đề cao cảnh giác

trước tội phạm mạng vì chúng chắc chắn vẫn đang tiếp tục gây lây nhiễm mã độc

40 Tham khảo tại: https://m.bkav.com.vn/ho_tro_khach_hang/-/chi_tiet/669034/tong-ket-an-ninh-mang-nam- 2019-va-du-bao-2020. Truy cập ngày 17/05/2020

41 Tham khảo tại: https://kaspersky.nts.com.vn/kaspersky-an-ninh-mang-viet-nam-chuyen-bien-tich-cuc- trong-nam-2019. Truy cập ngày 17/05/2020

46

nhiều nhất có thể”.

2. Thống kê, đánh giá và dự báo về tình hình an ninh mạng của Việt Nam trong

những năm gần đây và thời gian sắp tới

Bkav dự báo trong năm 2020, mã độc tấn công sẽ tinh vi hơn, tấn công mã

hóa tống tiền sẽ tiếp tục gia tăng do nguồn lợi trực tiếp ngày càng lớn mà nó mang

lại. Tin tức giả mạo sẽ tiếp tục là vấn đề nhức nhối đối với cộng đồng và các cơ

quan quản lý nhà nước. Sẽ xuất hiện những tin giả mạo, clip giả mạo với mục đích

xấu, ứng dụng công nghệ trí tuệ nhân tạo AI,... Theo nghiên cứu thì 5 mối đe dọa

trực tuyến hàng đầu ở Đông Nam Á là: Mã độc ẩn trong các website - rất dễ gặp khi

người dùng truy cập vào trình duyệt web bị nhiễm mã độc hoặc các quảng cáo trực

tuyến; Mã độc trong tệp/chương trình được người dùng vô tình tải xuống từ

internet; Tệp đính kèm độc hại từ email trực tuyến; Mã độc ẩn trong tiện ích mở

rộng trên trình duyệt; và Tệp chứa mã độc hoặc bị điều khiển bằng phương thức

C&C (command-and-control) từ máy chủ của hacker.

Theo khảo sát của Cục An toàn thông tin và Hiệp hội An toàn thông tin Việt

Nam (VNISA) phối hợp thực hiện, bên cạnh những yếu tố khác, điểm yếu nhất của

các cơ quan và tổ chức, doanh nghiệp Việt Nam vẫn là nhận thức về an toàn thông

tin. Báo cáo đánh giá cho biết xếp hạng mức độ đảm bảo an toàn thông tin mạng

năm 2018 được Cục An toàn thông tin công bố hồi tháng 4/2019 vừa qua cho thấy

tỷ lệ cơ quan có khả năng ghi nhận tấn công mạng là 25,3%; tỷ lệ cơ quan có hệ

thống giám sát an toàn thông tin mạng chỉ chiếm 9,2%; tỷ lệ cơ quan có quy trình

thao tác chuẩn ứng phó sự cố là 35,7%. Đáng chú ý, báo cáo cũng cho thấy có tới

51,82% cơ quan tự đánh giá an toàn thông tin chưa được ưu tiên đúng mức và gần

30% cơ quan cho rằng lãnh đạo chưa quan tâm đến an toàn thông tin. Trước thực tế

đó, Bộ Thông tin và Truyền thông cho biết sẽ thường xuyên đưa ra các cảnh báo về

an toàn, an ninh mạng. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cần thay đổi thái độ khi

tiếp nhận các cảnh báo đó, vì hậu quả xảy ra là nghiêm trọng, gây thiệt hại về uy tín

cũng như tiền bạc. Các cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cũng được khuyến nghị cần

42 Tham khảo tại: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/phai-vao-cuoc-lap-tuc-khi-xay-ra-su-co-an- ninh-mang-315754.html. Truy cập lúc 20/05/2020

47

tham gia vào mạng lưới ứng cứu sự cố quốc gia để chia sẻ, tiếp nhận các thông tin về sự cố an toàn, an ninh mạng và hỗ trợ xử lý nếu cần.42

Có thể nói, Việt Nam đã trở thành mục tiêu tấn công, xâm nhập và thu thập

thông tin tình báo hàng đầu của các nhóm tội phạm, tin tặc trên không gian mạng.

Các vụ tấn công mạng này càng tinh vi hơn với những hình thái mới của giới tội

phạm mang tính chất quốc gia. Trong khi đó, vấn đề an ninh mạng của Việt Nam

còn quá yếu, thiếu lực lượng chuyên gia, tư vấn chuyên sâu về an ninh mạng. Luật

An toàn thông tin mạng và Luật An ninh mạng cùng những chính sách thực thi, biện

pháp đối phó còn hạn chế, thiếu gắn kết trong lĩnh vực này.

Các loại tội phạm công nghệ cao tại Việt Nam phát triển cả về số lượng các

cuộc tấn công cũng như phương thức, thủ đoạn ngày một tinh vi, gây ra những hậu

quả nghiêm trọng hơn, phạm vi và quy mô lớn hơn. Hacker mũ đen tấn công vào

bất kỳ chỗ nào có thể, để phá hoại, trộm cắp các thông tin, dữ liệu với đa phần là

mục đích xấu. Thời gian qua, nhiều cơ quan Nhà nước của Việt Nam bị tấn công

gây hậu quả về tài chính, kinh tế, làm tê liệt công tác quản lý nhà nước và cao hơn

nữa là làm ảnh hưởng tới uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế.

3. Những nguy cơ và thách thức đến từ môi trường mạng

Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có tốc độ phát triển Internet nhanh

nhất thế giới, không gian mạng ở nước ta xuất hiện nhiều nguy cơ, thách thức lớn

tác động đến an ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội, cụ thể:

Thứ nhất, các thế lực thù địch, phản động tăng cường sử dụng không gian

mạng để phá hoại tư tưởng, phá hoại nội bộ, thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình,

gây mâu thuẫn dân tộc, kích động biểu tình, bạo loạn nhằm chuyển hóa thể chế

chính trị tại Việt Nam.

Thứ hai, vấn nạn tin giả, thông tin sai sự thật, tin xấu, độc, làm tổn hại đến

quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân đang diễn ra nghiêm trọng. Việt

Nam hiện có hơn 400 trang mạng xã hội được cấp phép hoạt động, Facebook và

YouTube là hai mạng xã hội nước ngoài có ảnh hưởng nhất, trong đó Facebook có

hơn 60 triệu người dùng tại Việt Nam. Tuy nhiên, hai mạng xã hội này cũng là nơi

tán phát nhiều thông tin xấu, độc nhất hiện nay, với hàng loạt chuyên trang của các

tổ chức phản động lưu vong, thù địch, chống đối, một số trang Facebook có số

48

lượng lượt người theo dõi lên tới hàng trăm nghìn

Thứ ba, hệ thống mạng của nước ta nằm trong nhóm các quốc gia phải đối

mặt với hoạt động tấn công mạng quy mô lớn, cường độ cao, tính chất nghiêm trọng

và ngày càng nguy hiểm. Nước ta xếp thứ 20 trong các nước trên thế giới có hệ

thống mạng bị tấn công bởi phần mềm độc hại, đứng thứ 8 trong số 10 quốc gia

hàng đầu thế giới về tình trạng lây nhiễm mã độc cục bộ... Tình hình chiếm đoạt

thông tin, làm lộ bí mật nhà nước, lộ thông tin cá nhân của người dùng Internet diễn

ra đáng lo ngại.

Thứ tư, hoạt động tội phạm sử dụng công nghệ cao gia tăng về số vụ, thủ

đoạn tinh vi, gây thiệt hại nghiêm trọng về nhiều mặt và hệ lụy lâu dài cho xã hội,

trong đó có các hoạt động tội phạm, như lừa đảo, tổ chức đánh bạc trực tuyến.

Thứ năm, công tác quản lý nhà nước về không gian mạng đối mặt với nhiều

thách thức trước những dịch vụ mới trên mạng, như thanh toán trực tuyến, thương

mại điện tử, trò chơi trực tuyến, kinh doanh tiền ảo, kinh doanh đa cấp. Đồng thời,

đặt ra một số vấn đề về an ninh quốc gia, nguy cơ mất an ninh thanh toán, an ninh

thông tin mạng, như nguy cơ mất an ninh thông tin mạng tạo điều kiện cho đối

phương tiến hành thu thập tin tức tình báo; nguy cơ thất thu thuế, mất chủ quyền

không gian thanh toán; tình trạng cạnh tranh không bình đẳng giữa các doanh

nghiệp hoạt động trong lĩnh vực thanh toán, trung gian thanh toán trong và ngoài

nước tạo môi trường lý tưởng cho tội phạm sử dụng công nghệ cao hoạt động phạm

tội, xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự xã hội.

Thứ sáu, công tác đào tạo chuyên gia an ninh mạng còn hạn chế, chưa đáp

ứng yêu cầu thực tiễn đặt ra.

Nhìn chung, nước ta chưa thực sự đầu tư và coi trọng đúng mức tới an ninh, an toàn

hệ thống thông tin, bên cạnh đó, điều kiện về trang thiết bị, vật chất kỹ thuật công

nghệ còn hạn chế. Nguồn nhân lực chất lượng, có trình độ cao, chuyên môn vững ở

lĩnh vực an ninh mạng thiếu hụt. Đây là điều kiện thuận lợi cho các đối tượng tội

phạm mạng thực hiện các hành vi tấn công mạng, xâm nhập để đánh cắp hoặc phá

hoại hệ thống thông tin. Ngoài ra, lỗi chủ quan của các đơn vị khác như cá nhân,

49

doanh nghiệp cũng dẫn đến tình trạng này. Ứng dụng công nghệ thông tin vào học

tập, làm việc không được chú trọng dẫn đến việc thiếu kiến thức, chủ quan trong

khâu bảo mật dữ liệu, thông tin cũng như ứng phó một cách bị động khi xảy ra sự

cố hoặc khi có tấn công mạng.

III. Tình hình thực hiện pháp luật về an ninh mạng của Việt Nam

Hoạt động trên không gian mạng đã ngày càng trở nên đa dạng và phức tạp,

và nếu không có một khung pháp lý vững chắc để kiểm soát và điều chỉnh thì trong

tương lai gần, môi trường này sẽ trở nên mất kiểm soát, ảnh hưởng trực tiếp tới

người sử dụng về cả khía cạnh vật chất lẫn tinh thần và xa hơn, đó là tài sản, an ninh

quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Pháp luật về an ninh mạng nói chung và LANM nói

riêng là cơ sở để trước hết bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội cũng như

bảo đảm các hoạt động và quyền lợi của người dân trên môi trường mạng một cách

đúng đắn. Tạm bỏ qua những hạn chế của LANM thì rõ ràng mặt tích cực nó mang

lại là tác động không nhỏ đến đời sống trên mạng của chúng ta thông qua việc kiểm

soát nội dung thông tin, bảo vệ dữ liệu cá nhân và ứng phó, xử lý tốt hơn các vấn đề

an ninh mạng. Thời điểm khi LANM mới có hiệu lực, xuất hiện nhiều ý kiến trái

chiều nhằm chỉ trích, phản đối. Thậm chí, nhiều đối tượng với mục đích, động cơ

xấu đã lợi dụng tình hình để kích động, tuyên bố rằng một số nội dung được quy

định trong Luật có thể gây cản trở tới sự phát triển kinh tế - xã hội, vi phạm quyền

con người, bóp nghẹt quyền tự do dân chủ, tự do ngôn luận. Tuy nhiên, những gì

diễn ra trên môi trường mạng trong thời gian qua cho thấy, luật không những bảo

vệ, bảo đảm an toàn, an ninh thông tin cho tổ chức, doanh nghiệp, người dân, mà

còn góp phần nâng cao ý thức của người sử dụng khi tương tác, chia sẻ thông tin

trên mạng.

Ảnh hưởng rõ nhất của LANM là nâng cao nhận thức của người sử dụng

internet, đặc biệt là mạng xã hội Facebook, Youtube, Zalo.... Trước đây, cộng đồng

mạng tự cho mình hoạt động hoàn toàn tự do, bất chấp pháp luật, đến nay hầu hết

đều hiểu rằng, dù là trên mạng thì họ vẫn phải tuân thủ pháp luật và quy phạm đạo

đức của người Việt Nam. Thực tế, sự ra đời của Luật thực sự đã khiến cho môi

trường của không gian mạng trở nên văn hóa, lành mạnh hơn rất nhiều bởi những

50

thông tin có nội dung xấu, ảnh hưởng đến chuẩn mực đạo đức, thuần phong mĩ tục

của đất nước đã bị ngăn chặn, xử lý một cách nghiêm túc, hiệu quả trong khi quyền

tự do ngôn luận của người dân vẫn được đảm bảo miễn là những hoạt động đó nằm

trong giới hạn cho phép của pháp luật Việt Nam. Hàng trăm bài viết với thông tin

thất thiệt đã bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; đời tư cá nhân được bảo vệ; hoạt động kinh doanh trên môi trường mạng được đảm bảo… 43. Theo Thượng

tá Lưu Thanh Long - Phó Trưởng phòng phòng An ninh chính trị nội bộ, Công an

TP. Hồ Chí Minh, thời gian qua, nhiều người dùng mạng xã hội có dấu hiệu vi

phạm LANM. Phải làm sao để người dân biết nếu chia sẻ, phát tán các nội dung trái

phép lên mạng là vi phạm pháp luật và sẽ bị xử lý. Trên các diễn đàn, nhiều ý kiến

cho rằng, trước đây, nhiều cá nhân lên tiếng phản đối LANM. Tuy nhiên, nhiều

trường hợp phải nhờ đến cơ quan pháp luật, cần đến Luật An ninh mạng để được

bảo vệ, như trường hợp ca sĩ Văn Mai Hương bị lộ clip về cuộc sống riêng tư. Điều

này chứng tỏ, Luật An ninh mạng rất cần thiết, để mỗi khi có những vụ việc thế này

sẽ có công cụ xử lý kẻ vi phạm, hoặc để phòng ngừa không xảy ra những vụ việc

tương tự.

Về quyền lợi của người dân, Trung tướng Hoàng Phước Thuận nguyên Cục

trưởng Cục ANM (nay là Cục ANM và phòng chống tội phạm công nghệ cao, Bộ

Công an) cho biết : “Khẳng định đầu tiên của tôi là không có gì cản trở ngôn luận, nếu

chúng ta trình bày đúng quan điểm của chúng ta mà không vi phạm. 29 nội dung BLHS

sự cấm, thì trên không gian mạng cũng phải cấm. Không thể nào đe dọa giết người

trên mạng lại được tự do, trong khi đó đe dọa giết người ở đời thực thì bị bắt. Tương

tự, không thể nào kích động biểu tình ngoài đời bị xử lý còn trên mạng thì

không…”. Ông cũng cho hay rằng người dân được nói, được phản biện các vấn đề,

miễn là không vi phạm pháp luật hình sự đã được quy chiếu; mọi hành vi vi phạm về

tôn giáo, dân tộc, kỳ thị đều bị xử lý đúng mức; việc quy định đầy đủ các biện pháp

phòng ngừa, đấu tranh, xử lý loại bỏ nguy cơ phát hiện và xử lý hành vi vi phạm pháp

43 Tham khảo tại: https://baotuyenquang.com.vn/khoa-hoc/cong-nghe/sau-hon-mot-nam-thuc-hien-luat-an- ninh-mang-bao-dam-an-toan-an-ninh-thong-tin-129643.html. Truy cập ngày 20/05/2020 44 Tham khảo tại: http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/quyen-va-trach-nhiem-tren-khong-gian-mang- 301918.html. Truy cập ngày 20/05/2020

51

luật nhằm bảo vệ tối đa quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, tạo điều kiện để người dân yên tâm kinh doanh, hoạt động trên không gian mạng.44

Thời gian qua, trên không gian mạng xuất hiện rất nhiều bài viết, thông tin

về tình hình dịch COVID-19, lợi dụng tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, nhiều

đối tượng đã đưa các thông tin sai lệch nhằm trục lợi cá nhân, gây hoang mang dư

luận, ảnh hưởng đến công tác phòng, chống dịch. Trước tình hình đó, cơ quan chức

năng các địa phương trên cả nước đã vào cuộc một cách quyết liệt. Theo đó, các đối

tượng tung tin thất thiết đã bị xử lý nghiêm theo quy định của pháp luật; các mạng

xã hội phải gỡ bỏ những thông tin nói trên và đăng tải những thông tin chính thức từ

cơ quan có thẩm quyền. Song song với đó là việc đưa tin, đính chính từ những

nguồn truyền thông chính thống, ổn định tâm lý cho xã hội. Theo Thiếu tướng

Nguyễn Văn Giang, Phó Cục trưởng Cục An ninh mạng và phòng chống tội phạm

sử dụng công nghệ cao - Bộ Công an, thời gian qua, lực lượng Công an đã lập danh

sách hàng trăm đối tượng, tổ chức triệu tập, đấu tranh gần 200 trường hợp và xử lý

hành chính hơn 30 trường hợp có hành vi tung tin thất thiệt về dịch COVID-19. Cơ

quan chức năng rà soát và triệu tập làm việc những trường hợp tung thông tin sai sự

thật trên mạng xã hội. Không chỉ là những người dân bình thường, thời gian qua,

một số nghệ sĩ tại TP Hồ Chí Minh cũng đã phải làm việc với cơ quan chức năng và

bị xử phạt vi phạm hành chính do đưa thông tin thất thiệt lên mạng xã hội về tình

hình dịch COVID-19. Cũng liên quan đến việc đưa thông tin sai về dịch Covid-19,

bà Nguyễn Thị Mai Hương, Phó Giám đốc Sở Thông tin và Truyền thông Hà Nội

cho biết, Sở đã chuyển Công an thành phố hồ sơ về 4 tài khoản Facebook đưa thông

tin sai sự thật; xử phạt vi phạm hành chính 15 triệu đồng với 1 trang tin điện tử vì

không trích dẫn chính xác nguồn tin chính thức theo quy định.

Ông Vũ Hoàng Liên, Chủ tịch Hiệp hội Internet Việt Nam nhận định: “Luật

An ninh mạng đã có tác dụng tốt với mạng xã hội nói riêng và xã hội nói chung là

đã hạn chế được tình trạng đưa thông tin giả, tin sai sự thật. Từ đó giúp cảnh tỉnh

nhiều người dùng mạng xã hội phải cẩn trọng khi đưa tin, dẫn nguồn tin...”. LANM

có tác dụng rất lớn khác là có những quy định rõ nhằm bảo vệ hệ thống thông tin

quan trọng của quốc gia và trên không gian mạng. Điều này tưởng như vô hình,

nhưng lại cho một kết quả tích cực hơn, như giúp doanh nghiệp kinh doanh thuận

52

lợi, người dân yên tâm làm ăn, công tác.

Pháp luật an ninh mạng được củng cố làm công tác chiến lược về an ninh

mạng diễn ra có hiệu quả hơn. Chúng ta có thể dễ dàng thấy trong thời gian vừa

qua, những trang thông tin, báo điện tử đưa tin sai lệch về tình hình chính trị xã hội

hoặc những trang web phim khiêu dâm, ấn phẩm đồi trụy đều đã bị chặn địa chỉ trên

các trình duyệt web. Đương nhiên bằng một giải pháp kỹ thuật nào đó thì vẫn có thể

truy cập được nhưng ít nhất nó cũng hạn chế được phần nào sự phát tán những

thông tin có khả năng gây tác động xấu. Một ví dụ khác, chính sách nội dung của

Youtube đã có sự thay đổi nhằm bảo vệ trẻ em hơn khi sử dụng dịch vụ của họ.

YouTube phát triển một ứng dụng xem video riêng- YouTube Kids. Ứng dụng này

cung cấp nội dung hướng tới trẻ em, với công cụ kiểm soát nội dung và được quản

lý bởi phụ huynh, ứng dụng cho phép lọc các video được coi là không phù hợp với

trẻ em 12 tuổi trở xuống.45 Ngoài ra, Youtube thắt chặt kiểm duyệt nội dung video

khi đăng tải, hạn chế tối đa nhất ảnh hưởng đến trẻ em hoặc nội dung không phù

hợp với lứa tuổi.

Trong năm vừa qua hàng loạt các hoạt động phi pháp trên không gian mạng

đã được phát hiện, ngăn chặn và xử lý. Những đường dây đánh bạc, cá cược trên

mạng với giá trị cực lớn lên đến hàng chục tỷ đồng đã bị triệt phá, thậm chí còn liên

quan đến quan chức cấp cao trong Bộ máy nhà nước. Các vụ buôn bán hàng cấm

qua trang cá nhân trên Facebook bị phát hiện và xử lý kịp thời. Hay có trường hợp

các cơ quan an ninh nhận được thông tin và bắt được tội phạm thông qua nguồn

thông tin trên mạng, đặc biệt là mạng xã hội, qua việc đưa tin của những trang giải

trí có nhiều người theo dõi.

Việc quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin nhằm phục vụ mục đích an ninh

của LANM tỏ ra hiệu quả trong việc truy bắt người phạm tội khi mà hầu hết hiện

nay ai cũng có tài khoản mạng xã hội Facebook, Zalo,... và ít ai quan tâm đến các

điều khoản về thông tin khi chấp nhận sử dụng chúng. Đôi khi những ứng dụng sẽ

yêu cầu sử dụng vị trí khi mở, qua đó, bằng thao tác xác định thông tin và truy cập

Perez,

Sarah. “YouTube

TVs”. Tham

comes

smart

Kids

to

khảo

tại:

45 https://techcrunch.com/2017/04/25/youtube-kids-comes-to-smart-tvs/ . Truy cập ngày 30/04/2020.

53

vị trí đang sử dụng tài khoản thì hoàn toàn có cơ sở xác định nơi mà người đó đang

ở. Đó là chưa kể đến thông tin về cuộc gọi, tin nhắn và hình ảnh mà nhà cung cấp

dịch vụ mạng có thể kết xuất và đưa cho cơ quan chức năng. Thực tế, đã có rất

nhiều tội phạm bị bắt bằng những phương pháp này. Tuy nhiên, điều đó đặt ra nghi

vấn về việc người dùng bị theo dõi trái phép thông qua các thiết bị kết nối mạng.

Một cuộc điều tra của Liên đoàn Báo chí (AP) tại Mỹ đã cho thấy Google theo dõi

người dùng. Các dịch vụ từ công ty luôn yêu cầu sự cho phép của họ khi cần truy

cập vị trí. Tuy nhiên, Google ghi lại dữ liệu vị trí ngay cả khi người dùng vô hiệu

hóa mục lịch sử vị trí trên thiết bị. Phản hồi với cuộc điều tra của AP, công ty cho

biết: “Có nhiều cách Google sử dụng vị trí để cải thiện trải nghiệm người dùng. kể

cả lịch sử vị trí, web, hoạt động của ứng dụng và các dịch vụ ở mức độ trên thiết

bị. Chúng tôi đã mô tả rõ ràng và cung cấp bộ điều khiển để người dùng có thể tắt

hoặc bật hay xóa lịch sử bất cứ lúc nào.”46 Như vậy, dữ liệu người dùng hoàn toàn

có thể bị theo dõi và thu thập trái phép qua các ứng dụng từ nhà cung cấp dịch vụ

mạng trong nước.

Như đã phân tích tại phần trước, do chưa kịp thời có những văn bản hướng

dẫn nên việc áp dụng, thực thi LANM còn nhiều vướng mắc. Ông Lê Quý Vương,

thứ trưởng bộ Công An, đã giải thích :“Sự chậm trễ này là do gặp nhiều khó khăn,

vướng mắc, vì đây là lĩnh vực mới, đối tượng chịu điều chỉnh của các quy định gồm

nhiều bộ, ngành, địa phương, tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp, nên việc xin ý kiến

phải thực hiện nhiều lần, nhiều địa chỉ”47. Ông Lê Quý Vương cho rằng còn có

nhiều ý kiến khác nhau cần thống nhất giữa Bộ Công An, Bộ Quốc Phòng và Bộ

Thông Tin - Truyền Thông nên cần trao đổi kỹ càng nhằm bảo đảm hiệu quả của

chúng khi ban hành. Tuy vậy, sự ra đời của Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định

xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến

điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử mới có hiệu lực đầu năm 2020 cũng

đã bổ sung phần nào cho sự thiếu hụt văn bản hướng dẫn, mặc dù phạm vi tác động

46 Tham khảo tại: https://securitydaily.net/google-theo-doi-vi-tri-nguoi-dung/. Truy cập ngày 20/05/2020 47Tham khảo tại: http://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20190415-viec-ap-dung-luat-an-ninh-mang-cua-viet-nam-gap- cham-tre. Truy cập ngày: 20/05/2020

54

hầu hết là những hành vi có mức độ chưa nghiêm trọng trong lĩnh vực này. Nhìn

chung, sự phát triển của pháp luật là cần thiết nhưng quan trọng hơn vẫn là chất

lượng của nó. LANM đã phải trải qua nhiều lần sửa đổi góp ý ngay từ khi còn là dự

thảo, thậm chí bị chỉ trích nặng nề về sự tồn tại và cần thiết của nó trong hệ thống

pháp luật Việt Nam, tuy còn nhiều hạn chế nhưng sự tác động của nó đến tình hình

an ninh mạng là không hề nhỏ.

Nhìn chung thì kể từ khi LANM có hiệu lực thi hành cộng thêm nhiều vụ

việc vi phạm bị xử lý thì người dân đã có ý thức và làm chủ được hành vi của mình

hơn trên không gian mạng, từ điều nhỏ như nội dung trạng thái cá nhân chia sẻ hay

bình luận thể hiện ý kiến trên diễn đàn tới việc đóng góp tích cực xây dựng pháp

luật và tự bảo vệ dữ liệu của chính mình. Các doanh nghiệp trong nước và nước

ngoài đều thích nghi dần, phối hợp cùng các cơ quan chức năng và đối tác khắc

phục khó khăn gặp phải trong quá trình thay đổi chính sách, thiết lập hệ thống kỹ

55

thuật tuân thủ đúng quy định.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 2

Trong Chương 2, tác giả đi vào thực tiễn tình hình an ninh mạng trên thế giới

và ở Việt Nam. Thông qua những số liệu thống kê, báo cáo của từng giai đoạn để

làm rõ diễn biến phức tạp và dự báo về xu hướng phát triển của tình hình an ninh

mạng trong năm tiếp theo. Bình luận các vụ việc tấn công mạng, gây mất an ninh

mạng lớn trên thế giới và Việt Nam, cho thấy sự tác động và sức ảnh hưởng của

những nguy cơ hiện hữu đến từ môi trường mạng là cực kỳ khủng khiếp, khó lường

như thế nào. Từ đó đặt ra yêu cầu về biện pháp phòng, ngừa, ngăn chặn và khắc

phục sẽ phân tích trong Chương 3.

Tác giả cũng phác họa tình hình thực hiện pháp luật an ninh mạng của Việt

Nam trong thời gian hơn một năm vừa qua, từ khi LANM chính thức có hiệu lực.

Nhìn chung đã có sự thay đổi tích cực trong nhận thức của người dân về hoạt động

trên môi trường mạng, ý thức của doanh nghiệp về trách nhiệm của mình với an

ninh mạng cũng được nâng cao. Tuy nhiên vẫn tồn tại hạn chế trong công tác thực

thi pháp luật, còn nhiều khó khăn, vướng mắc và thách thức cần đối mặt và giải

quyết.

Thông qua phân tích thực trạng, tác giả giúp người đọc hình dung ra bức

tranh về sự vận động của các vấn đề về an ninh mạng, đề cao vai trò của pháp luật

56

trong hệ thống biện pháp bảo đảm, bảo vệ an ninh mạng.

CHƯƠNG 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT AN NINH

MẠNG CỦA VIỆT NAM

I. Hệ thống các biện pháp bảo đảm An ninh mạng

Nguy cơ đe dọa an ninh mạng tồn tại bao gồm một số hành vi như: Thông

qua không gian mạng thực hiện âm mưu diễn biến hòa bình, phá hoại tư tưởng,

chuyển hóa chế độ chính trị. Không gian mạng trở thành môi trường lý tưởng cho

âm mưu lật đổ chế độ chính trị nước ta, thông qua các hoạt động thúc đẩy “tự diễn

biến”, “tự chuyển hóa”; liên lạc, móc nối, chỉ đạo và thành lập tổ chức hoạt động

chống phá; sử dụng không gian mạng để kích động biểu tình, gây rối an ninh,

chuyển hóa chế độ chính trị ở nước ta.

Nguy cơ đối mặt với các cuộc tấn công mạng trên quy mô lớn, cường độ cao.

Mục tiêu tấn công mạng là hạ tầng truyền dẫn vật lý (cáp truyền dẫn quốc tế, trục

truyền dẫn nội bộ quốc gia...), hạ tầng dịch vụ lõi (router, thiết bị mạng...), hệ thống

điều khiển tự động hóa của các cơ sở quan trọng về kinh tế, quốc phòng, an ninh...

Tấn công mạng có thể diễn ra theo kiểu tự phát, đơn lẻ, theo các chiến dịch với mục

đích khống chế và thu thập thông tin, khủng bố, đe dọa và tán phát các thông điệp

xấu, phá hủy cơ sở hạ tầng trọng yếu quốc gia,hệ thống thông tin quan trọng về an

ninh quốc gia, thậm chí là phục vụ chiến tranh.

Nguy cơ mất kiểm soát về an ninh, an toàn thông tin mạng. Nguy cơ này

chịu tác động trực tiếp từ bốn yếu tố: Sự phụ thuộc vào hạ tầng và dịch vụ công

nghệ, thiếu hụt nguồn nhân lực công nghệ thông tin chất lượng cao, ý thức người

dùng hạn chế và bất cập, hạn chế, yếu kém trong quản lý nhà nước về an ninh, an

toàn thông tin mạng.

Để phòng ngừa, kiểm soát và giải quyết được những nguy cơ này thì cần

phối hợp những biện pháp khác nhau trong từng giai đoạn phù hợp nhằm đạt được

hiệu quả cao. Những mối nguy tiềm ẩn cần có sự chuẩn bị, tiên đoán trước để khỏi

bị động, bên cạnh đó khi xảy ra dự cố làm mất an ninh mạng thì lại cần những biện

57

pháp kỹ thuật kịp thời, nhanh chóng khắc phục và giảm thiếu tối đa thiệt hại. Chính

vì thế, xây dựng hệ thống biện pháp bảo đảm an ninh mạng đa dạng, linh hoạt, phù

hợp với xã hội, văn hóa là yêu cầu cấp thiết trong lúc này.

LANM đã quy định 4 nhóm biện pháp bảo vệ an ninh mạng, gồm nhóm biện

pháp an ninh mạng; nhóm biện pháp hành chính; nhóm biện pháp điều tra, truy tố

theo quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự; và nhóm các biện pháp khác theo quy

định của pháp luật. Cụ thể là:

Thứ nhất, nhóm biện pháp an ninh mạng, gồm các biện pháp:

- Thẩm định an ninh mạng: hoạt động xem xét, đánh giá những nội dung về an

ninh mạng để làm cơ sở cho việc quyết định xây dựng hoặc nâng cấp hệ thống

thông tin, quy định tại Điều 11 LANM.

- Đánh giá điều kiện an ninh mạng: hoạt động xem xét sự đáp ứng về an ninh

mạng của hệ thống thông tin trước khi đưa vào vận hành, sử dụng, quy định tại Điều

12 LANM.

- Kiểm tra an ninh mạng: hoạt động xác định thực trạng an ninh mạng của hệ

thống thông tin, kết cấu hạ tầng hệ thống thông tin hoặc thông tin được lưu trữ, xử

lý, truyền đưa trong hệ thống thông tin nhằm phòng ngừa, phát hiện, xử lý nguy cơ

đe dọa an ninh mạng và đưa ra các phương án, biện pháp bảo đảm hoạt động bình

thường của hệ thống thông tin, quy định tại Điều 13 LANM

- Giám sát an ninh mạng: hoạt động thu thập, phân tích tình hình nhằm xác định

nguy cơ đe dọa an ninh mạng, sự cố an ninh mạng, điểm yếu, lỗ hổng bảo mật, mã

độc, phần cứng độc hại để cảnh báo, khắc phục, xử lý, quy định tại Điều 14 LANM

- Ứng phó, khắc phục sự cố an ninh mạng đối với hệ thống thông tin: hoạt động

phát hiện, xác định sự cố an ninh mạng; bảo vệ hiện trường, thu thập chứng cứ;

phong tỏa, giới hạn phạm vi xảy ra sự cố an ninh mạng, hạn chế thiệt hại do sự cố

an ninh mạng gây ra; xác định mục tiêu, đối tượng, phạm vi cần ứng cứu; xác minh,

phân tích, đánh giá, phân loại sự cố an ninh mạng; triển khai phương án ứng phó,

khắc phục sự cố an ninh mạng; xác minh nguyên nhân và truy tìm nguồn gốc; điều

tra, xử lý theo quy định của pháp luật, quy định tại Điều 15 LANM

58

- Đấu tranh bảo vệ an ninh mạng: hoạt động có tổ chức do lực lượng chuyên

trách bảo vệ an ninh mạng thực hiện trên không gian mạng nhằm bảo vệ an ninh

quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội. Sử dụng mật mã để bảo vệ thông tin

mạng: các biện pháp mã hóa bằng mật mã để bảo vệ thông tin mạng khi truyền đưa

thông tin, tài liệu có nội dung thuộc bí mật nhà nước trên không gian mạng.

Thứ hai, nhóm biện pháp hành chính, gồm 5 biện pháp:

- Ngăn chặn, yêu cầu tạm ngừng, ngừng cung cấp thông tin mạng;

- Đình chỉ, tạm đình chỉ các hoạt động thiết lập, cung cấp và sử dụng mạng

viễn thông, in-tơ-nét, thiết bị phát, thu phát sóng vô tuyến;

- Yêu cầu xóa bỏ thông tin trái pháp luật hoặc thông tin sai sự thật;

- Phong tỏa, hạn chế hoạt động, đình chỉ, tạm đình chỉ hoặc yêu cầu ngừng

hoạt động hệ thống thông tin;

- Thu hồi tên miền.

Thứ ba, nhóm biện pháp điều tra, truy tố theo quy định của Bộ luật Tố tụng

hình sự, gồm:

- Hoạt động thu thập dữ liệu điện tử liên quan đến hành vi vi phạm;

- Các quy trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử theo quy định của Bộ luật Tố

tụng hình sự.

Thứ tư, nhóm các biện pháp khác, gồm các biện pháp theo quy định của Luật

An ninh quốc gia, như vận động nhân dân, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật,

nghiệp vụ, vũ trang; các quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, như

xử phạt hành chính (cảnh cáo, phạt tiền), các hình phạt bổ sung (tước quyền sử

dụng giấy phép, tịch thu tang vật vi phạm), các biện pháp khác (buộc ngừng hoạt

động, đình chỉ, tạm đình chỉ, buộc khôi phục tình trạng cũ, buộc xóa bỏ, tháo gỡ,

tiêu hủy thông tin, nội dung thông tin)

Các biện pháp này được quy định trong LANM, tùy theo tính chất, mức độ

của hành vi trong những điều kiện cụ thể sẽ được áp dụng.

Công tác bảo vệ an ninh mạng đối với hệ thống thông tin quan trọng về an

ninh quốc gia được giao cho lực lượng chuyên trách bảo vệ an ninh mạng, trực tiếp

là lực lượng An ninh mạng thuộc Bộ Công an (Cục An ninh mạng và phòng, chống

59

tội phạm sử dụng công nghệ cao), lực lượng tác chiến không gian mạng thuộc Bộ

Quốc phòng (Bộ Tư lệnh Tác chiến không gian mạng). Để bảo đảm hiệu quả trong

chiến lược bảo đảm an ninh mạng còn cần đến sự phối hợp giữa Bộ Công an, Bộ

Quốc phòng, Bộ Thông tin và Truyền thông, Ban Cơ yếu Chính phủ, các bộ, ngành

chức năng trong việc thẩm định, đánh giá, kiểm tra, giám sát, ứng phó, khắc phục

sự cố đối với hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia. Tuy nhiên thực tế

vẫn tồn tại sự chồng chéo trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng

giữa các bộ, ngành chức năng. An ninh mạng bao gồm hoạt động bảo vệ an ninh

quốc gia, trật tự, an toàn xã hội theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Công an; hoạt

động tác chiến trên không gian mạng theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Quốc phòng

và bảo đảm an toàn thông tin mạng theo chức năng, nhiệm vụ của Bộ Thông tin và

Truyền thông. An toàn thông tin mạng là điều kiện cho bảo đảm an ninh mạng được

thực thi có hiệu quả, bền vững. Các cơ quan nên định rõ đâu là phần việc thuộc

trách nhiệm của mình và đâu là phần việc phải phối hợp với cơ quan khác.

Một biện pháp quan trọng mang tính cốt lõi để bảo vệ an ninh mạng đó là

biện pháp pháp lý. Bằng việc đưa những khái niệm, hành vi liên quan đến an ninh

mạng, không gian mạng vào trong luật pháp nói chung và pháp luật chuyên ngành

nói riêng đã tạo nên cơ sở vững chắc, một hành lang pháp lý để triển khai chiến

lược bảo vệ an ninh mạng.Việc phát hiện, nhận thức đúng bản chất của vấn đề là

tiền đề quan trọng để xây dựng phương pháp điều chỉnh phù hợp. Khi ứng phó, xử

lý hay khắc phục các vấn đề về an ninh mạng thì không thể thiếu quy định về trình

tự, yêu cầu bắt buộc, bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp cho công dân, doanh nghiệp.

Sau khi được giải quyết thì lại đặt ra vấn đề về trách nhiệm, lỗi và hình phạt với các

bên vi phạm. Pháp luật đóng vai trò mấu chốt, là công cụ hỗ trợ hữu ích bên cạnh

những giải pháp kỹ thuật, bằng cách giải thích, làm rõ khái niệm cũng như bao quát

và dự liệu về các trường hợp có thể phát sinh. Vậy nên xây dựng một nền pháp luật

vững chắc để đối mặt với tình hình an ninh mạng phức tạp, một lĩnh vực còn khá

mới, là ưu tiên hàng đầu.

Bên cạnh hoạt động nghiên cứu, giám sát và đánh giá thực thi pháp luật an

ninh mạng, tìm ra những điểm hạn chế cần khắc phục thì công tác phát triển pháp luật,

60

tiếp thu học hỏi kinh nghiệm từ các nền pháp luật khác cũng rất cần thiết. Những nước

có nền công nghệ tiên tiến hàng đầu như Mỹ, Canada, Anh,... đều có cho mình nền

pháp luật an ninh mạng phát triển cùng chiến lược bảo đảm an ninh không gian mạng

định hướng lâu dài. Tham khảo cách họ làm, kinh nghiệm từ những vụ việc thực tế

hoặc kỹ thuật xây dựng chiến lược và thực thi pháp luật sẽ giúp tìm ra cách loại bỏ hạn

chế trong pháp luật và khó khăn vướng mắc trong hoạt động áp dụng. Nhìn chung, an

ninh mạng vốn dĩ không phải là vấn đề mang tầm vóc quốc gia, nó đang dần mở rộng

và ảnh hưởng trên phạm vi toàn cầu, vậy nên hội nhập, hợp tác và tiếp thu những điểm

tốt từ các quốc gia khác được coi là một biện pháp hữu ich để pháp luật phát triển đáp

ứng nhu cầu và xu hướng của tương lai.

II. Pháp luật về an ninh mạng của một số nước trên thế giới và kinh nghiệm

cho Việt Nam

1. Tổng quan về pháp luật và chiến lược an ninh mạng của các nước trên thế giới

Như đã phân tích, tham khảo pháp luật của các nước trên thế giới, đặc biệt là

nước có nền công nghệ tiên tiến, pháp luật về an ninh mạng của họ ra đời sớm với

những đặc thù rất khắc biệt là rất cần thiết với nền pháp luật non trẻ mới chỉ trải qua 1

năm đi vào cuộc sống của nước ta. Tuy nhiên, tiếp thu, chắt lọc và ứng dụng những kỹ

thuật pháp lý hay chiến lược thực hiện bảo đảm an ninh mạng từ nước ngoài để phù

hợp với điều kiện kinh tế xã hội, chính trị và đặc biệt là dân trí ở nước ta lại đặt ra

nhiều vấn đề và mất thời gian nghiên cứu. Bên cạnh đó, công tác đưa sáng kiến mới để

sửa đổi pháp luật trải qua các quy trình khắt khe, không thể sửa đổi một văn bản luật

mới chính thức tồn tại được hơn một năm, mà thực tế nó cũng không bộc lộ quá nhiều

hạn chế hay lỗi nghiêm trọng. Do đó, có thể bổ sung vào những văn bản hướng dẫn

chưa ra đời, đang trong quá trình xây dựng, sẽ hợp lý hơn.

Về hệ thống pháp luật an ninh mạng trên thế giới, qua nghiên cứu cho thấy,

hiện đã có nhiều quốc gia trên thế giới ban hành các văn bản luật về an ninh mạng,

điển hình như: Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Anh, Úc, Cộng hòa Séc, Hàn Quốc... Riêng

Mỹ đã ban hành tới 6 đạo luật chuyên ngành về các vấn đề về an ninh mạng là: Đạo

luật Đánh giá Lực lượng An ninh mạng, Đạo luật Tăng cường An ninh mạng năm

61

2014, Đạo luật Bảo vệ An ninh mạng Quốc gia 2014, Đạo luật hiện đại hóa An ninh

thông tin Liên bang năm 2014, Dự luật Chia sẻ thông tin An ninh mạng năm 2015,

Dự luật Tăng cường Bảo vệ An ninh mạng Quốc gia năm 2015. Năm 2015, Hội

đồng và Nghị viện châu Âu đạt được sự thống nhất về các biện pháp thúc đẩy an

ninh mạng tổng thể trong Liên minh châu Âu tại Chỉ thị An ninh thông tin và mạng

(Network and Information Security) nhằm tăng cường các khả năng an ninh mạng

của các quốc gia thành viên, tăng cường sự hợp tác của các quốc gia thành viên

trong lĩnh vực an ninh mạng.

Báo cáo Cybersecurity Law Overview của tổ chức Mannheimer Swartling,

công bố tháng 4 năm 2017 (nghiên cứu và tổng hợp từ quy định về an ninh mạng

của các quốc gia khác nhau) phân chia luật an ninh mạng của các quốc gia làm ba

nhóm: thứ nhất là nhóm đáp ứng an ninh nội địa, thứ hai là nhóm bảo vệ lợi ích

quốc gia, và thứ ba là nhóm ngăn chặn các hình thức tội phạm trong không gian

mạng48. Cụ thể:

Nhóm bảo vệ an ninh nội địa yêu cầu tổ chức công quyền và công ty khai

thác mạng phải bảo đảm rằng họ có đủ biện pháp ngăn chặn các cuộc tấn công trên

nền tảng Internet. Đó là những biện pháp tối thiểu để bảo vệ các dịch vụ công cộng,

bao gồm dịch vụ thiết yếu và cơ sở hạ tầng quan trọng như cơ sở cung cấp điện

nước, bệnh viện và ngân hàng chống lại những mối đe dọa từ không gian mạng.

Mặt khác, nhóm này cũng bao gồm những luật lệ bảo vệ dữ liệu riêng tư của cá

nhân hay công dân.

Nhóm bảo vệ lợi ích quốc gia bao gồm những luật lệ liên quan chặt chẽ đến

quốc phòng, với mục tiêu giữ gìn toàn vẹn lãnh thổ quốc gia bằng việc ngăn chặn

các hoạt động như dùng mạng Internet để do thám hay thực hiện các điệp vụ.

Những luật lệ thuộc nhóm này thường hạn chế các nguyên tắc thị trường và giới hạn

dòng vốn đầu tư nước ngoài trong việc mua lại các công ty nội địa, hạn chế các nhà

cung ứng nước ngoài tham gia đấu thầu các dự án hạ tầng khoa học kỹ thuật và

công nghệ thông tin quan trọng. Các luật lệ này cũng thường hạn chế việc xuất khẩu

48 Tham khảo tại: https://www.mannheimerswartling.se/globalassets/publikationer/cybersecurity-law- overview.pdf. Truy cập ngày 21/05/2020

62

và cung ứng công nghệ an ninh thiết yếu nhằm tránh bị phổ biến ra ngoài.

Nhóm chống các hình thức tội phạm mạng bao gồm những quy định có liên

quan đến các hoạt động tội phạm sử dụng phương tiện điện tử hay kỹ thuật số, gọi

là cybercrime, và các hoạt động mạng có khả năng dẫn đến tình trạng phạm tội, gọi

là cyber-enable crime, phổ biến nhất là các hành động đột nhập hệ thống, đánh cắp

thông tin, hay đánh cắp dữ liệu. Trong trường hợp này, nhiều quốc gia áp dụng

Công ước về tội phạm mạng (Công ước Budapest)49 trong việc xác định những hoạt

động mạng nhất định nào đó có thể trở thành tội phạm mạng. Công ước Budapest

không điều chỉnh tất cả các vấn đề của an ninh mạng mà điều chỉnh tội phạm tiến

hành qua Internet và các mạng máy tính khác. Hiện có 56 nước tham gia Công ước

Budapest (trong đó có các quốc gia Châu Âu, Australia, Cộng hòa Dominica, Nhật

Bản, Mauritius, Panama, và Hoa Kỳ)

Một trong các lý do để đi đến ký kết và thông qua một công ước toàn cầu về

an ninh mạng là sự khác biệt trong quan niệm về an ninh mạng và các yếu tố của an

ninh mạng giữa các nước phương Tây (tiêu biểu là Hoa Kỳ, các nước thuộc Liên

minh Châu Âu) và các nước phương Đông (tiêu biểu là Trung Quốc và Liên Bang

Nga), cụ thể là những khác biệt về chiến lược, hiểu biết về các nguyên tắc, đối

tượng và định nghĩa về an ninh mạng. Dù vậy, theo Báo cáo của OECD50, hầu hết

luật, các chiến lược và chính sách an ninh mạng của các quốc gia trên thế giới đều

chia sẻ bốn giá trị tương đồng sau:

Thứ nhất, tăng cường sự phối hợp giữa các Chính phủ ở cấp độ chính sách và

hoạt động. Do an ninh mạng trở thành ưu tiên cấp quốc gia, trách nhiệm trong

hoạch định và thực thi chính sách về an ninh mạng thuộc về Nhà nước. Tuy nhiên,

không một cơ quan ngành dọc nào có thể hiểu biết toàn diện và đủ năng lực quản lý

tất cả các khía cạnh của an ninh mạng. Do đó, sự phối hợp giữa các cơ quan liên

tội phạm mạng. Tham khảo

là hiệp ước quốc

tế đầu

tiên về

economy”.

strategies

Internet

Tham

khảo

the

for

49 Năm 2001, Hội đồng châu Âu đã soạn thảo và thống nhất ban hành Công ước về Tội phạm mạng (Công ước Budapest), đây tại: https://rm.coe.int/16802fa422. Truy cập ngày 22/05/2020 50 “CYBERSECURITY POLICY MAKING AT A TURNING POINT- Analysing a new generation of national cybersecurity tại: https://www.oecd.org/sti/ieconomy/cybersecurity%20policy%20making.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020

63

quan là rất quan trọng.

Thứ hai, tăng cường hợp tác công tư. Không gian mạng phần lớn được kiểm

soát và vận hành bởi khu vực tư. Do vậy, hợp tác công - tư (trong đó có thể gồm có

doanh nghiệp, xã hội dân sự, cộng đồng công nghệ và giới học giả) rất cần thiết để

ứng phó phù hợp với những mối đe dọa nhằm vào không gian mạng.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế. Nhiều quốc gia đã nhận thấy tầm quan

trọng của hợp tác quốc tế về không gian mạng. Các vấn đề an ninh mạng sẽ không

thể giải quyết được bởi một quốc gia đơn lẻ, mà cần có sự hợp tác trên bình diện

quốc tế. Tuy nhiên, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này trở nên khó khăn do chính

sách an ninh của các quốc gia liên quan đến thông tin mật về an ninh quốc phòng.

Thứ tư, những giá trị cơ bản của Internet và tự do Internet cần phải được tôn

trọng. Nói cách khác, những giá trị cơ bản của việc sử dụng Internet như sự riêng

tư, tự do ngôn luận và tự do trao đổi thông tin trong chiến lược an ninh mạng của

các quốc gia được đề cao. Giá trị này xuất phát từ lập luận và quan điểm cho rằng

các quyền con người cơ bản phổ quát được bảo đảm theo Tuyên ngôn quốc tế về

nhân quyền và Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị, bao gồm

quyền tự do biểu đạt, tự do ngôn luận, quyền riêng tư, quyền tự do phát biểu ý kiến

và tự do lập hội, v.v… mà con người có được ở đời thực (môi trường ngoại tuyến)

thì cũng phải được bảo vệ trong môi trường trực tuyến.

Cơ sở và lịch sử của giá trị thứ tư này gắn với hai sự kiện/văn kiện tiêu biểu

mang tính quốc tế sau: thứ nhất, để đáp lại việc tạo ra Internet như một nền tảng

mới để bày tỏ quyền con người cơ bản, Báo cáo viên đặc biệt của Liên Hợp Quốc

về Tự do nêu Ý kiến và Tự do Biểu đạt và các báo cáo viên về tự do biểu đạt từ

Châu Âu, Châu Mỹ Latinh và Châu Phi đã ký một tuyên bố chung xác nhận rằng

"tự do ngôn luận áp dụng cho Internet"51 vào năm 2011; và thứ hai, Hội đồng Nhân

51 Nguyên văn: “Freedom of expression applies to the Internet” _ CYBERSECURITY AND HUMAN RIGHTS Tham khảo tại: https://www.gp-digital.org/wp-content/uploads/2015/06/GCCS2015-Webinar- Series-Introductory-Text.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020

64

quyền Liên Hiệp Quốc tiếp tục khẳng định rằng “các quyền tương tự mà mọi người

có được ngoại tuyến cũng phải được bảo vệ trực tuyến”52, do đó, các tuyên bố về

quyền con người được đề cập trước đây trong Tuyên ngôn quốc tế về nhân quyền và

Công ước Quốc tế về các Quyền Dân sự và Chính trị cũng áp dụng cho môi trường

Internet.53 Giá trị thứ tư này là rất quan trọng khi đánh giá luật và chính sách về an

ninh mạng của một quốc gia, khu vực hay tổ chức. Một luật hay chính sách an ninh

mạng tốt phải khuyến khích tính bảo mật, tính toàn vẹn và tính khả dụng của thông

tin, hệ thống và mạng chung và riêng thông qua việc sử dụng các quy định và ưu đãi

mang tính dự báo, với mục tiêu bảo vệ nhân quyền và quyền riêng tư, lợi ích kinh tế

cũng như an ninh quốc gia. Trong mối quan hệ với vấn đề nhân quyền, các luật và

chính sách an ninh mạng của các quốc gia nên được hoạch định, tổ chức theo hướng

vừa tạo ra một không gian mạng an toàn cho tất cả người dùng và cũng vừa là một

môi trường an toàn cho nhân quyền trong môi trường mạng.

2. Pháp luật an ninh mạng của một số nước trên thế giới

Colombia đã trở thành một trong những quốc gia đầu tiên trên thế giới khi

vào năm 2009, họ ban hành một luật đặc biệt nhắm vào không gian mạng. Luật

1273 (Bộ luật hình sự được sửa đổi, theo đó một quyền hợp pháp mới được tạo ra

được gọi là bảo vệ thông tin và dữ liệu và các hệ thống sử dụng công nghệ thông

tin, truyền thông được bảo vệ toàn diện, trong số các điều khoản khác) kêu gọi phạt

tù hoặc phạt tiền lớn cho bất cứ ai bị kết án liên quan đến hệ thống thông tin hoặc

tội phạm mạng viễn thông. Pháp luật bao gồm các lĩnh vực như truy cập trái phép

thông tin cá nhân, chặn dữ liệu, hủy dữ liệu hoặc sử dụng phần mềm độc hại.54

that people have offline must also be protected online”_ tại: https://www.gp-digital.org/wp-

52 Nguyên văn: “the same rights CYBERSECURITY AND HUMAN RIGHTS. Tham khảo content/uploads/2015/06/GCCS2015-Webinar-Series-Introductory-Text.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020 53 Tham khảo tại: https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2019/01/savenet-camnangluatanninhmang- nhungdieucanbiet.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020 54 Nguyên văn: “Colombia became one of the first countries in the world when, in 2009, it enacted a law specifically targeting cyberspace. Law 1273 (entitled "By means of which the Penal Code is amended, a new legal right is created - called ’protection of information and data‘- and systems that use information and communication technologies are fully preserved, among other provisions"1 ) calls for a prison sentence or large fines for anyone convicted of information systems or telecommunication network crimes. The law covers areas such as illegally accessing personal information, intercepting data, destroying data or using malicious software”. Tham khảo tại: https://www.itu.int/dms_pub/itu-d/opb/str/D-STR-GCI.01-2017-PDF- E.pdf . Truy cập ngày 22/05/2020

65

Georgia thiết lập luật pháp về tội phạm mạng theo các nguyên tắc và quy tắc của

Công ước Budapest cả về khía cạnh thực chất và thủ tục. Hành vi bất hợp pháp truy

cập vào hệ thống thông tin, can thiệp dữ liệu và hệ thống và sử dụng sai thiết bị bị

hình sự bởi bộ luật hình sự Georgia. Đạo luật bảo vệ dữ liệu cá nhân là được Nghị

viện ban hành năm 2011 và nhằm đảm bảo bảo vệ quyền con người và các quyền tự

do, bao gồm quyền riêng tư, trong quá trình xử lý dữ liệu cá nhân.

2.1. An ninh mạng của Hoa Kỳ

Hoa Kỳ không có một đạo luật chung về an ninh mạng. Các vấn đề liên quan

đến an ninh mạng được quy định rải rác trong nhiều văn bản khác nhau, có thể kể đến:

Đạo luật về An ninh mạng năm 2015 (hay còn được gọi là Đạo luật về Chia

sẻ Thông tin An ninh mạng) (Cybersecurity Act 2015 or Cybersecurity Information

Sharing Act) được ban hành năm 2015: Đạo luật này có thể được xem là một trong

những văn bản quan trọng ở cấp liên bang điều chỉnh vấn đề liên quan đến an ninh

mạng tại Hoa Kỳ. Đạo luật này quy định về vấn đề chia sẻ thông tin giữa các tổ

chức tư nhân (như các công ty công nghệ và sản xuất) và các cơ quan công quyền

của Hoa Kỳ. Mục đích của đạo luật này là để tăng cường an ninh mạng tại Hoa Kỳ

thông qua việc chia sẻ thông tin về các rủi ro về an ninh mạng.55 Tổng thống Obama

nêu ra ba nỗ lực chính để hướng tới một không gian mạng an toàn hơn đối với

Mỹ. Nỗ lực chính đầu tiên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cấp phép chia sẻ

thông tin an ninh mạng. Bằng cách này, đề xuất của Tổng thống Obama khuyến

khích chia sẻ thông tin giữa chính phủ và khu vực tư nhân, cho phép chính phủ biết

những hiểm họa mạng chính mà các công ty tư nhân đang phải đối mặt và sau đó sẽ

cho phép chính phủ cung cấp bảo vệ trách nhiệm pháp lý đối với những công ty đã

chia sẻ thông tin của họ. Hơn thế nữa, điều này sẽ cung cấp cho chính phủ ý tưởng

tốt hơn về những gì nước Mỹ cần để bảo vệ chính mình. Một nỗ lực chính khác đã

được nhấn mạnh là hiện đại hóa các cơ quan hành pháp để “trang bị” tốt hơn cho

việc đối phó với tội phạm mạng bằng cách cung cấp những công cụ mà họ cần. Nó

Cybersecurity

“The

2015”

Tham

khảo

Act

of

tại:

55 https://www.sullcrom.com/siteFiles/Publications/SC_Publication_The_Cybersecurity_Act_of_2015.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020

66

cũng sẽ cập nhật phân loại tội phạm không gian mạng và các hậu quả. Một trong

những cách để điều này sẽ trở thành hiện thực là quy kết việc bán thông tin tài chính

ra nước ngoài là phạm pháp. Một mục tiêu khác của nỗ lực này là việc khởi tố tội

phạm mạng. Và nỗ lực lớn cuối cùng là yêu cầu các doanh nghiệp báo cáo việc xâm

phạm dữ liệu người dùng nếu thông tin cá nhân của họ phải chịu hi sinh. Bằng cách

yêu cầu các công ty phải làm như vậy, người dùng sẽ nhận thức được thời điểm mà

dữ liệu cá nhân của họ đang trong tình trạng nguy cấp bị trôm cắp.

Đạo luật Quản trị An ninh Thông tin Liên bang (FISMA) được áp dụng cho

mọi cơ quan của chính quyền Liên bang “yêu cầu sự phát triển và áp dụng các chính

sách bắt buộc, các nguyên tắc, các tiêu chuẩn và các hướng dẫn về an ninh thông

tin”. Tuy nhiên, những luật này lại không giải quyết được vấn đề của các ngành

khác liên quan tới máy tính chẳng hạn như ngành cung cấp dịch vụ Internet và

ngành phần mềm. Hơn thế nữa, những đạo luật này không chỉ rõ những biện pháp

an ninh mạng nào phải được áp dụng và yêu cầu chỉ một mức độ an ninh hợp lý.56

Đạo luật Tăng cường An ninh mạng 2014 (Cybersecurity Enhancement Act

of 2014): Đạo luật này được ban hành tháng 12/2014, quy định việc hợp tác giữa

khối tư nhân và công quyền trong việc tăng cường an ninh mạng, nghiên cứu và

phát triển về an ninh mạng và nâng cao ý thức cộng đồng trong lĩnh vực này.

Trong lĩnh vực tài chính, Đạo luật Gramm-Leach-Bliley năm 1999 (Gramm-

Leach-Bliley Act of 1999) được ban hành như là công cụ để kiểm soát việc các tổ

chức tài chính xử lý các thông tin cá nhân của. Đạo luật này nêu ra các quy định

trong việc thu thập, xử lý và tiết lộ thông tin cá nhân của khách hàng, cũng như yêu

cầu các tổ chức tài chính phải xây dựng các chương trình an ninh nhằm đảm bảo các

thông tin cá nhân và thông báo cho khách hàng biết trong trường hợp xảy ra vi

phạm. Các tổ chức y tế cũng có nghĩa vụ tương tự.

Ngoài ra, nền tảng vững chức của an ninh mạng Mỹ còn dựa trên chiến lược

không gian mạng của nước này. Vào năm 2016, Tổng thống Obama đã phát

triển Kế hoạch hành động an ninh quốc gia về An ninh Mạng (CNAP). Kế hoạch

56 Tham khảo tại: https://viettimes.vn/luat-an-ninh-mang-o-cac-nuoc-chau-au-va-my-148293.html. Truy cập ngày 22/05/2020

67

này đã được thực hiện để tạo ra những hành động và chiến lược lâu dài trong một

nỗ lực để bảo vệ nước Mỹ chống lại các hiểm họa mạng. Trọng tâm của kế hoạch

này là để thông báo cho công chúng về mối đe dọa ngày càng tăng của tội phạm

mạng, cải thiện bảo vệ an ninh mạng, bảo vệ thông tin cá nhân của người Mỹ, và để

thông báo cho người Mỹ về cách kiểm soát an ninh kỹ thuật số. Một trong những

điểm nổi bật của chương trình này bao gồm việc tạo ra một “Ủy ban về Tăng cường

An ninh Mạng Quốc gia”. Mục đích của việc này là để tạo ra một Ủy ban bao gồm

một nhóm đa dạng các nhà tư tưởng với các quan điểm có thể góp phần vào việc

đưa ra khuyến nghị về cách tạo ra một an ninh mạng mạnh mẽ hơn cho khu vực

công và tư nhân. Điểm nổi bật thứ hai của kế hoạch này là để thay đổi mảng IT của

Chính phủ được an toàn hơn. Điểm nổi bật thứ ba của kế hoạch này là để cho người

Mỹ hiểu biết về cách họ có thể bảo mật các tài khoản trực tuyến và tránh hành vi

trộm cắp thông tin cá nhân của mình thông qua xác thực đa yếu tố. Và cuối cùng,

điểm nổi bật thứ tư của kế hoạch này là để tăng số tiền đầu tư vào an ninh mạng. 57

Gần đây, Chiến lược không gian mạng quốc gia Hoa Kỳ (National cyber

strategy of the United States of America58), được Nhà Trắng công bố vào tháng

9/2018, là bản cập nhật đầy đủ đầu tiên sau Chiến lược quốc gia đảm bảo an toàn an

ninh không gian mạng (The national strategy to secure cyberspace59) năm 2003.

Chiến lược mới duy trì nhiều nguyên tắc và ý tưởng trong tài liệu ban đầu, có sự cập

nhật về môi trường đe dọa không gian mạng, nghiên cứu và phát triển, bảo vệ hạ

tầng mạng trọng yếu; nhấn mạnh đến vai trò quan trọng của Internet trong nền kinh

tế Hoa Kỳ ; duy trì trọng tâm vào các khía cạnh quốc tế của các đe dọa không gian

mạng, nhấn mạnh tầm quan trọng về quan hệ với đối tác quốc tế trong đấu tranh

chống tội phạm không gian mạng và đáp trả các đe dọa từ các đối địch nước ngoài.

Hơn hết, chiến lược này được xây dựng gắn kết trực tiếp với Chiến lược an ninh

57 Tham khảo tại: https://viettimes.vn/luat-an-ninh-mang-o-cac-nuoc-chau-au-va-my-148293.html. Truy cập ngày 22/05/2020 58 Tham khảo tại: https://www.whitehouse.gov/wp-content/uploads/2018/09/National-Cyber-Strategy.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020 59 Tham khảo tại: https://www.energy.gov/sites/prod/files/National%20Strategy%20to%20Secure%20Cyberspace.pdf. Truy cập ngày 22/05/2020

68

quốc gia Hoa Kỳ năm 2017 trên nhiều hoạt động, cho thấy không gian mạng được

tích hợp vào tất cả các thành tố của sức mạnh quốc gia hơn là xem nó như là một

chủ thể riêng rẽ, từ đó công tác bảo vệ cũng được củng cố trên mọi lĩnh vực.

Chiến lược không gian mạng quốc gia được bố cục thành các mục dựa trên

bốn trụ cột chính:

Trụ cột I: Bảo vệ nhân dân, lãnh thổ và lối sống Hoa Kỳ. Trong đó nhấn

mạnh ba lĩnh vực chính gồm: Cải thiện khả năng đáp trả của Chính phủ Liên bang

trong sự biến động môi trường đe dọa đối với không gian mạng; Đảm bảo an toàn

hạ tầng mạng trọng yếu; Đấu tranh chống lại tội phạm trên không gian mạng. Theo

đó cần đẩy mạnh và cải thiện hiệu quả đáp trả của chính phủ trong sự biến động của

môi trường đe dọa không gian mạng; bảo đảm an toàn hạ tầng mạng trọng yếu của

Hoa Kỳ, tập trung vào giảm thiểu đe dọa; Đẩy mạnh chiến dịch chống lại tội phạm

không gian mạng.

Trụ cột II: Thúc đẩy sự thịnh vượng của Hoa Kỳ, khuyến khích đầu tư ứng

dụng các công nghệ mới cho an toàn không gian mạng, phát triển nhân lực an toàn

không gian mạng. Phần này xác định ba nội dung chính là: Thúc đẩy nền kinh tế số

năng động và kiên cường; Khích lệ và bảo vệ sự linh hoạt của Hoa Kỳ; và Xây

dựng đội ngũ chuyên gia giỏi về không gian mạng.

Trụ cột III: Sử dụng sức mạnh để duy trì hòa bình với hai nội dung chính là

nâng cao sự ổn định không gian mạng và xác định, ngăn chặn “hành vi không chấp

nhận được trong không gian mạng”. Đây là mục ngắn gọn và có sự khác biệt đáng

kể nhất so với Chiến lược năm 2003, thể hiện sự liên kết trực tiếp giữa an ninh

không gian mạng với an ninh quốc gia.

Trụ cột IV: Tăng cường ảnh hưởng của Hoa Kỳ bao gồm việc “Thúc đẩy một

Internet mở, giao tác, tin cậy và an toàn”; Mục này đưa ra các vấn đề và các hành

động của chiến lược mới, các nguyên tắc của Hoa Kỳ có tác động lâu dài về không

gian mạng. Thúc đẩy một Internet mở, giao tác, tin cậy và an toàn đã được tuyên bố

trong nhiều tài liệu. Đáng lưu ý nhất là Chiến lược quốc tế về không gian mạng năm

2011 (The International Strategy for Cyberspace). Nguyên tắc này tái khẳng định

69

chính sách mà Hoa Kỳ đã tiến hành tại các diễn đàn không gian mạng toàn cầu

trong 15 năm qua và đối lập với các quốc gia độc tài, những quốc gia “xem một

Internet mở như là một đe dọa chính trị” – Theo quan điểm của Hoa Kỳ.

2.2. An ninh mạng của Châu Âu

Ba thành tố cấu tạo nên luật an ninh mạng trong EU bao gồm ENISA (European

Union Agency for Cybersecurity), Chỉ thị về An ninh mạng và An ninh thông tin (NIS)

(The Directive on security of network and information systems (NIS Directive (EU)

2016/1148)) và Tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu chung của EU (EU GDPR).

ENISA, Cơ quan về an ninh mạng và an ninh thông tin của Liên minh châu

Âu EU, là cơ quan quản lý mà ban đầu được thành lập bởi các Quy định (EC) số

460/2004 của Nghị viện Châu Âu và của Hội đồng Liên minh châu Âu vào ngày

10/03/2004 với mục đích nâng cao an ninh mạng và an ninh thông tin, chỉ thị về an

ninh mạng và an ninh thông tin (NIS), sự nhận thức cho tất cả các hoạt động liên

mạng bên trong EU. ENISA hiện thời hoạt động dưới Quy định (EU) số 526/2013

để thay thế các quy định ban đầu vào năm 2013. ENISA làm việc tích cực với tất cả

các nước thành viên của Liên minh châu Âu để cung cấp một loạt các dịch

vụ. Trọng tâm của các hoạt động của họ tập trung vào ba yếu tố chính sau: Khuyến

nghị các nước thành viên về quá trình hành động đối với vi phạm an ninh mạng;

Xây dựng chính sách và hỗ trợ vấn đề thực hiện cho tất cả các thành viên EU; Hỗ

trợ trực tiếp - ENISA trực tiếp làm việc với các đội nhóm hoạt động bên trong EU.

ENISA đã phát hành các ấn phẩm khác nhau bao quát tất cả các vấn đề quan trọng

liên quan đến an ninh mạng. Sáng kiến trong quá khứ và hiện tại của ENISA bao

gồm: Chiến lược đám mây EU, các tiêu chuẩn mở trong Công nghệ Truyền thông

Thông tin, Chiến lược An ninh mạng của EU và một nhóm điều phối An ninh

mạng. ENISA cũng bắt tay hợp tác với các tổ chức tiêu chuẩn quốc tế hiện thời như

ISO và ITU.

Chỉ thị về An ninh mạng và An ninh thông tin (NIS) là quy định pháp luật

đầu tiên ở cấp độ liên minh Châu Âu về vấn đề an ninh mạng. Vào ngày

06/07/2016, Nghị viện châu Âu đưa Chỉ thị về an ninh của mạng và hệ thống thông

70

tin (chỉ thị NIS) thành chính sách, tất cả các quốc gia thành viên của Liên minh

châu Âu được cho 21 tháng để tích hợp các luật lệ của chỉ thị này vào luật quốc gia

riêng của họ. Mục đích của Chỉ thị NIS này là tạo ra một mức độ an ninh mạng tổng

thể cao hơn trong EU. Các quốc gia thành viên của EU được yêu cầu phải tạo ra

một chiến lược chỉ thị NIS bao gồm các đội phản ứng nhanh sự cố an ninh máy

tính bên cạnh các cơ quan có thẩm quyền quốc gia và các cơ quan điều phối; phải

áp dụng các yêu cầu đảm bảo an ninh thông tin và nghĩa vụ thông báo khi xảy ra vi

phạm đối với các nhà cung cấp dịch vụ thiết yếu ở quốc gia đó, trong cả lĩnh vực

công và tư (vận tải, ngân hàng tài chính) và quy định biện pháp chế tài trong trường

hợp vi phạm60. Các nhà cung cấp dịch vụ số (ví dụ điện toán đám mây, thương mại

điện tử, công cụ tìm kiếm trực tuyến) cũng phải tuân thủ các quy định về an ninh và

thông báo vi phạm theo Chỉ thị này.

Tiêu chuẩn bảo vệ dữ liệu chung của EU (EU GDPR) quy định chung về bảo

vệ dữ liệu của EU, GDPR, ra đời vào ngay 14/04/2016, tuy nhiên ngày thực thi là

25/5/2018. Các quy định chung này nhằm mang lại một tiêu chuẩn duy nhất để bảo

vệ dữ liệu và quyền riêng tư giữa tất cả các nước thành viên trong EU. Quy định

không chỉ áp dụng cho các tổ chức hoạt động trong EU mà còn áp dụng cho các tổ

chức xử lý dữ liệu của bất kỳ cư dân nào của EU. Bất kể nơi nào dữ liệu được xử lý,

nếu dữ liệu của một công dân EU đang được xử lý, các tổ chức hiện tại phải tuân

theo quy định này. Tiền phạt cũng trở nên nặng hơn và tổng cộng có thể lên tới 20

triệu euro hay 4% doanh thu hàng năm. Các công ty nắm giữ dữ liệu liên quan đến

công dân EU hiện thời cũng phải cung cấp cho các công dân quyền được từ chối

chia sẻ dữ liệu dễ dàng như việc người dân đồng ý chia sẻ chúng. Ngoài ra, người

dân cũng có thể hạn chế việc xử lý các dữ liệu được lưu trữ về họ; họ có thể chọn

lựa để cho phép các công ty lưu trữ dữ liệu của họ nhưng không xử lý nó, do đó,

điều này tạo ra một sự khác biệt rõ ràng. Khác với các quy định trước đây, GDPR

cũng hạn chế việc chuyển giao dữ liệu của một công dân ra bên ngoài EU hoặc cho

60 “The Directive on security of netwwork and information systems (NIS Directive)”. Tham khảo tại: https://ec.europa.eu/digital-single-market/en/network-and-information-security-nis-directive. Truy cập ngày 23/05/2020 61 Tham khảo tại: https://viettimes.vn/luat-an-ninh-mang-o-cac-nuoc-chau-au-va-my-149360.html. Truy cập ngày 23/05/2020

71

một bên thứ ba mà không có sự đồng ý trước của công dân đó. 61

Ngoài ra, vấn đề trách nhiệm của các bên có liên quan trọng việc đảm bảo

tính trung thực và toàn vẹn của thông tin trong quá trình hoạt động được đề cập

trong các văn bản khác của EU như: Chỉ thị 2002/21/EC của EU về truyền thông

điện tử (The EU electronic communications Directive 2002/21/EC) yêu cầu các bên

vận hành hệ thống truyền thông công cộng và dịch vụ truyền thông điện tử phải

đảm bảo an toàn thông tin trong quá trình hoạt động; Chỉ thị 2009/140 EC

(Directive 2009/140 EC (Telecom Package)) yêu cầu các nhà cung cấp dịch vụ viễn

thông phải đảm bảo tính trung thực của thông tin và thông báo về các sự cố; Chỉ thị

về bảo mật dữ liệu (EU Data privacy rules and ePrivacy Directive) cũng yêu cầu

bên vận hành phải đảm bảo tính trung thực và bảo mật thông tin.

2.3. An ninh mạng của Trung Quốc

Luật An ninh Mạng của Trung Quốc được thông qua vào tháng 11/2016 và

có hiệu lực thi hành từ ngày 01/06/2017 bởi Ủy ban Thường vụ Đại hội Đại biểu

Nhân dân Toàn quốc Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa nhằm tăng cường an ninh

mạng và an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền không gian mạng và lợi ích công cộng,

bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, pháp nhân và các tổ chức khác và

thúc đẩy phát triển kinh tế và xã hội lành mạnh.. Đây là luật đầu tiên của Trung

Quốc điều chỉnh các vấn đề về không gian mạng, bao gồm việc thành lập, hoạt

động, duy trì và sử dụng hệ thống mạng tại Trung Quốc và việc giám sát và quản lý

an ninh mạng.62 Luật tạo ra Nguyên tắc chủ quyền không gian mạng; Xác định

nghĩa vụ bảo mật của các nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ internet; Nêu chi tiết

nghĩa vụ bảo mật của nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP); Hoàn thiện hơn nữa các

quy tắc bảo vệ thông tin cá nhân; Thiết lập một hệ thống bảo mật cho cơ sở hạ tầng

thông tin quan trọng.

Như đã nêu ở phần trên, khái niệm "an ninh mạng" của Trung Quốc rộng

hơn nhiều so với khái niệm thông thường ở các nước phương Tây. Bất kỳ thông tin

số nào ảnh hưởng đến tính ổn định của xã hội và chính trị đều có thể bị xem là một

62 Tham khảo tại: https://www.lexology.com/library/detail.aspx?g=e09bb238-86dc-4037-8e22-3746f3d8f4f9. Truy cập ngày 23/05/2020

72

mối nguy về an ninh mạng. Do vậy, luật an ninh mạng Trung Quốc được xem là

công cụ của nhà cầm quyền để kiểm soát thông tin trên Internet và đảm bảo an ninh

quốc gia, tức đảm bảo sự toàn vẹn lãnh thổ, tính ổn định về kinh tế, xã hội và trật tự

xã hội.

Nhìn chung, các quy định của luật an ninh mạng Trung Quốc khá tương

đồng với luật an ninh mạng của Việt Nam. Một số quy định có thể kể đến:

Yêu cầu đối với các bên điều hành hệ thống mạng: Các bên "điều hành hệ

thống mạng” được định nghĩa rộng, có thể được diễn giải bao gồm các nhà cung cấp

hạ tầng Internet hay bất kỳ tổ chức nào sử dụng máy vi tính hoặc cổng thông tin như

website, ứng dụng di động, nền tảng di động, nơi thông tin được lưu giữ, trao đổi

hoặc xử lý. Các nghĩa vụ và yêu cầu đối với các bên "điều hành hệ thống mạng"

như xây dựng quy định nội bộ và quản lý hệ thống mạng, bổ nhiệm người chuyên

trách về an ninh mạng, xây dựng kế hoạch ứng phó khẩn cấp đối với các sự cố an

ninh mạng, hỗ trợ kỹ thuật và hợp tác với cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo an

ninh quốc gia và điều tra tội phạm, tuân thủ quy định trong thu thập, sử dụng và tiết

lộ thông tin cá nhân.

Địa phương hóa dữ liệu: Các bên điều hành hệ thống thông tin thiết yếu bị

yêu cầu phải lưu trữ các thông tin cá nhân và các thông tin quan trọng khác tại lãnh

thổ Trung Quốc và cần phải có đánh giá và chấp thuận về an ninh từ các cơ quan có

thẩm quyền của Trung Quốc trước khi chuyển thông tin hay dữ liệu ra nước ngoài.

III. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật và thực thi hiệu quả Luật An ninh mạng

của Việt Nam

1. Hoàn thiện pháp luật

Từ lúc cuộc tấn công mạng lớn nhất trong lịch sử - WannaCry diễn ra vào

5/2017, các quy định về an ninh mạng toàn cầu mới cần được cải thiện một cách toàn

diện. Thực tế, chúng ta đã được chứng kiến nhiều sự hợp tác toàn cầu giữa các cơ quan

thực thi pháp luật nhằm hoàn thiện hệ thống pháp lý trong thời gian gần đây. Tuy nhiên

hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia luôn tồn tại lỗ hổng và hạn chế nhất định. Như đã

chỉ ra ở phần trước thì đối với Việt Nam, pháp luật an ninh mạng đang vướng phải

73

những vấn đề như: chồng chéo quy phạm; hạn chế trong cách quy định và thiếu hụt văn

bản hướng dẫn; thiếu đi một chiến lược an ninh mạng định hướng lâu dài,... Và để cải

thiện tất cả những hạn chế này, chúng ta phải cố gắng trong không chỉ một hai năm mà

có thể là hàng chục năm, trên nhiều lĩnh vực khác nhau.

Đầu tiên, cần thể chế hóa đầy đủ, kịp thời các chủ trương, đường lối của

Đảng về an ninh mạng. Quan điểm, tư tưởng chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về an

ninh mạng đã thể hiện rõ, nhất quán, có hệ thống và phù hợp với từng thời kỳ, kịp

thời điều chỉnh, đưa ra các quan điểm, tư tưởng chỉ đạo về vấn đề an ninh mạng

trong tình hình mới. Đây là nền tảng và cơ sở để hoàn thiện hệ thống pháp luật

mang màu sắc quốc gia, phù hợp với tình hình chính trị- xã hội của Việt Nam.

Ngoài ra, quá trình pháp luật hóa, các quy định phải không được vi phạm nguyên

tắc cơ bản của Hiến pháp.

Vấn đề về chồng chéo quy phạm, trùng dẫm trong thực hiện chức năng,

nhiệm vụ bảo vệ an ninh mạng giữa các bộ, ngành chức năng, không còn cách nào

khác ngoài yêu cầu rà soát, kiểm tra lại hệ thống pháp luật. Một số quy định của

LANM là không cần thiết và không phù hợp trong thời đại công nghệ số hiện nay,

khi các quy định này không chỉ chồng chéo với luật hiện hành mà còn tạo gánh

nặng và rủi ro cao hơn cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ trong không gian

mạng. Theo đó, những quy định nào trùng lặp thì có thể gộp hoặc bãi bỏ, nếu cùng

điều chỉnh một vấn đề nhưng lại theo nhiều hướng khác nhau thì cần thống nhất

quan điểm, đưa ra cách xử lý phù hợp. Việc tập hợp tất cả các quy phạm liên quan

đến an ninh mạng hiện hành về một văn bản duy nhất là điều bất khả thi do có quá

nhiều lĩnh vực điều chỉnh với đặc thù khác nhau, sẽ dẫn đến tình trạng hỗn loạn. Do

vậy, nên lấy cơ sở từ LANM đối sánh với các quy định của Luật chuyên ngành

khác, từ đó tìm ra điểm trùng nhau hoặc chưa thống nhất để giải quyết. Việc kiểm

tra pháp luật cũng giúp cho các cơ quan chức năng hiểu và phân định rõ chức năng,

trách nhiệm và quyền hạn của họ, tránh trường hợp làm sang phần việc của cơ quan

khác, hay tự suy ra quy trình làm việc cho mình mà không có căn cứ pháp lý nào.

Thứ hai đó là chưa có văn bản hướng dẫn LANM, quy định về công tác an

74

ninh mạng. Các quy định hiện nay chưa đáp ứng được yêu cầu thực tiễn của công

tác an ninh mạng đặt ra trong tình hình mới, còn thiếu sót về các quy trình ứng phó

với tấn công mạng, khắc phục hậu quả các cuộc tấn công mạng gây ra trên từng lĩnh

vực xã hội, bảo đảm an toàn thông tin cá nhân trong trường hợp phải cung cấp vì lý

do an ninh... Thực trạng này đã gây khó khăn, vướng mắc trong tổ chức, triển khai

các phương án bảo đảm an ninh thông tin, an ninh mạng cũng như trong công tác

phòng ngừa, đấu tranh ngăn chặn các hoạt động sử dụng internet để xâm phạm an

ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội. Trong giai đoạn nghị định hướng dẫn LANM

chưa được ban hành, với quy định chung chung của LANM, khả năng lạm quyền

của cơ quan nhà nước có thể tăng và theo đó, tăng rủi ro xâm phạm các quyền cơ

bản của công dân liên quan đến tự do ngôn luận và bảo mật thông tin cá nhân. Do

đó, cần đẩy nhanh tiền độ xây dựng và ban hành các văn bản hướng dẫn, cụ thể hóa

các quy trình và khắc phục hạn chế đang tồn tại.

LANM quy định các biện pháp nghiệp vụ an ninh mạng, trong đó có một số

biện pháp có khả năng ảnh hưởng tới quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản

của công dân như giám sát an ninh mạng, hạn chế thông tin mạng… bên cạnh đó là

những hành vi bị cấm, thì phải cụ thể hơn về điều này, dù ranh giới của nó mong

manh, nhưng việc quy định rõ ràng sẽ là cơ sở để người dân thực hiện các quyền tự

do của mình mà không vi phạm phát luật, ví dụ:

Biện pháp bảo vệ an ninh mạng cần quy định rõ:

1. Trường hợp nào sẽ áp dụng biện pháp nào, cần quy định chi tiết từng biện

pháp cho từng loại thông tin bị quản lý;

2. Quy trình, thủ tục để áp dụng;

3. Mức độ áp dụng, thời gian áp dụng;

4. Quyền lợi của các doanh nghiệp có liên quan;

5. Phải phân định rõ ràng thẩm quyền của Lực lượng chuyên trách và thẩm

quyền của Tòa án;

Nghĩa vụ của doanh nghiệp trong nước và ngoài nước cung cấp dịch vụ trên

mạng: cần quy định rõ:

75

1. Trường hợp nào cơ quan nhà nước có thể yêu cầu cung cấp thông tin, cụ

thể thời điểm và tài liệu, chứng cứ yêu cầu để xem là có hành vi vi phạm pháp luật

(ví dụ: chỉ được phép thực hiện khi có lệnh yêu cầu từ Toà án);

2. Mức độ và loại thông tin được cung cấp.

3. Các trường hợp nào mới cần xác thực thông tin người dùng;

4. Mức độ thông tin cần phải xác thực (nên hạn chế ở các thông tin tối thiểu);

Kiểm tra an ninh mạng cần quy định rõ:

1. Trường hợp nào cơ quan nhà nước có thể kiểm tra hệ thống thông tin của

tổ chức khác, cụ thể thời điểm và tài liệu, chứng cứ yêu cầu để xem là có hành vi vi

phạm pháp luật (chỉ được phép thực hiện khi có lệnh yêu cầu từ Toà án);

2. Mức độ và loại thông tin mà lực lượng chuyên trách được phép tiếp cận;

3. Trình tự, thủ tục và tài liệu yêu cầu mà lực lượng chuyên trách phải thực

hiện để tiến hành việc kiểm tra;

4. Trình tự, thủ tục kiểm tra an ninh mạng (cho phép các đối tượng liên quan

được khiếu nại, khiếu kiện);

5. Trường hợp nào biên bản kiểm tra được bảo mật, các trường hợp còn lại

phải công khai.

Cuối cùng, tiếp thu những điểm tiến bộ của pháp luật an ninh mạng trên thế

giới, ứng dụng phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Có rất nhiều sáng kiến liên

quan đến các vấn đề của an ninh mạng được thúc đẩy bởi các tổ chức quốc tế như

Diễn đàn Kinh tế Thế giới(WEF), Liên đoàn và Hiệp hội quản lý rủi ro châu Âu

(FERMA), Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) hay Diễn đàn quản lý

Internet (IGF),....hoặc luật pháp và sự hợp tác giữa những ông lớn như châu Âu và

Mỹ là một phần vô cùng quan trọng trong vấn đề bảo vệ an ninh mạng và phòng

chống tội phạm công nghệ cao, đóng vai trò như một tấm gương để các khu vực

khác trên thế giới học hỏi theo, bao gồm cả Việt Nam. Hợp tác quốc tế về an ninh

mạng cần được tăng cường, thực hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và

toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng và

cùng có lợi. Nội dung hợp tác quốc tế về an ninh mạng bao gồm: Nghiên cứu, phân

76

tích xu hướng an ninh mạng; Xây dựng cơ chế, chính sách đẩy mạnh hợp tác giữa

các cá nhân, tổ chức trong nước và nước ngoài; Chia sẻ thông tin, kinh nghiệm và

hỗ trợ đào tạo, xây dựng trang thiết bị công nghệ bảo vệ an ninh mạng và phát triển

nguồn nhân lực an ninh mạng; Tham gia các dự án, hội thảo, diễn đàn quốc tế, đồng

thời ký kết các điều ước, thỏa thuận về bảo đảm, phát triển an ninh mạng.

2. Thực thi pháp luật và chiến lược an ninh mạng quốc gia

Việc quản lý an ninh mạng toàn cầu đang thay đổi và các mục tiêu tiềm năng

của tội phạm công nghệ cao bắt buộc phải giám sát quá trình phát triển của các cuộc

tấn công mạng để chuẩn bị tinh thần kịp thời ứng phó. An ninh mạng là một phần

ngày càng quan trọng trong cuộc sống của chúng ta ngày nay và mức độ kết nối của

các mạng ngụ ý rằng mọi thứ đều có thể được phơi bày, từ hệ thống thông tin quan

trọng quốc gia, cơ sở hạ tầng cho đến quyền con người cơ bản của chúng ta có thể

bị xâm phạm. Chính phủ vì thế được khuyến khích xem xét các chính sách hỗ trợ để

áp dụng chiến lược an ninh mạng quốc gia cũng như phương án thực thi pháp luật

hiệu quả.

Để bảo đảm vấn đề thực thi pháp luật hiệu quả, đưa pháp luật vào đời sống

tạo nên một thói quen, ý thức pháp luật trong tiềm thức mỗi người dân cần thực

hiện chính sách tăng cường giáo dục nâng cao ý thức, chú trọng tuyên truyền, phổ

biến cho học sinh, sinh viên và các đối tượng khác trong xã hội về các nguy cơ, các

yếu tố gây mất an ninh, đe dọa gây mất an ninh mạng. Nâng cao nhận thức về bảo

đảm an ninh thông tin, khả năng nhận biết, tiếp nhận thông tin, từ đó nâng cao ý

thức trong sử dụng các dịch vụ viễn thông, thực hiện các hoạt động trên không gian

mạng cũng như bảo vệ thông tin cá nhân, phản ứng với những tình huống phát sinh.

Vai trò của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng được đề cao, phát triển hệ thống

dữ liệu, củng cố chính sách bảo mật cho người dùng, đồng thời phối hợp với các cơ

quan chức năng trong công tác kiểm tra, phòng ngừa tấn công mạng hoặc thậm chí

là truy bắt tội phạm mạng. Bên cạnh đó, các cơ quan chức năng cần làm tốt nhiệm

vụ của mình, tuân thủ quy định của pháp luật, tránh sự lạm quyền và tạo điều kiện

cho sự phát triển của doanh nghiệp cung cấp dịch vụ mạng, bảo đảm quyền, lợi ích

77

hợp phát cho người dân.

Tập trung nguồn lực phát triển công nghệ, xây dựng hệ thống thông tin,

mạng xã hội, và hệ thống tiện ích của Việt Nam, từ đó khẳng định vị thế quốc

gia, đảm bảo độc lập, tự chủ, chủ quyền quốc gia trên không gian mạng, từng bước

hạn chế sự lệ thuộc vào công nghệ của nước ngoài, nâng cao khả năng bảo mật và

khả năng tự chủ trong đảm bảo an ninh thông tin, đảm bảo lợi ích kinh tế quốc gia,

tạo thuận lợi cho việc bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, chủ động trong việc

tiếp nhận thông tin, ngăn chặn có hiệu quả các thông tin xấu, độc hại, gia tăng khả

năng đảm bảo bí mật thông tin cá nhân người dùng. Đồng thời cần có kế hoạch hợp

lý khai thác và bảo vệ tài nguyên thông tin quốc gia phục vụ phát triển kinh tế, xã

hội, đảm bảo quốc phòng an ninh.

“Xác định các yếu tố cấu thành và đẩy mạnh giải pháp nhằm thực thi có hiệu

quả bảo đảm an ninh mạng:

- Phát triển công nghệ phần cứng nhằm bảo đảm tự chủ về phương tiện, thiết

bị, nhất là hệ thống mạng lõi, máy tính, điện thoại, cơ sở hạ tầng thông tin;

- Phát triển công nghệ phần mềm nhằm tạo lập hệ sinh thái phần mềm riêng,

bao gồm: hệ điều hành, công cụ tìm kiếm, mạng xã hội và các ứng dụng dịch vụ

trên Internet;

- Phát triển công nghệ bảo mật riêng và hệ thống kiểm tra, giám sát an ninh

nhằm chủ động phát hiện và ngăn chặn, chặn lọc các thông tin giả, thông tin xấu,

độc hại;

- Xây dựng hệ cơ sở dữ liệu quốc gia tích hợp, liên thông, an toàn (Big Data)

tạo thuận lợi cho quá trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số;

- Xây dựng hệ thống tuyên truyền, định hướng thông tin hiện đại, an toàn và

có trách nhiệm; hệ thống tấn công, phòng thủ riêng, đặc biệt là hệ thống thông tin

trọng yếu của Đảng, Nhà nước và trên lĩnh vực an ninh, quốc phòng;

- Xây dựng, hoàn thiện thể chế, chính sách, pháp luật và thị trường dịch vụ

phát triển.63”

An ninh mạng là một bộ phận của an ninh quốc gia, gắn với công tác quốc

63 Tham khảo tại: http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/an-ninh-thong-tin-o-viet-nam-trong-dieu-kien-hien- nay-van-de-dat-ra-va-giai-phap-127785. Truy cập ngày 25/05/2020

78

phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội. Chiến lược về an ninh mạng đối với nước

ta hiện nay là, nâng cao tiềm lực an ninh mạng, nhanh chóng khắc phục các sơ hở, tồn

tại, yếu kém về nhận thức, tăng cường thế chủ động, hiệu quả trong công tác bảo vệ an

ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân,

giành thế chủ động trong quản lý vi phạm không gian mạng quốc gia, đạt được những

lợi ích lâu dài cho đất nước như quản lý được dữ liệu mà đất nước tạo ra, bảo đảm an

toàn cho các hệ thống trọng yếu, hình thành nền công nghiệp an ninh mạng chủ động,

hạn chế sự phụ thuộc vào công nghệ nước ngoài, đủ sức phòng thủ, phát hiện, cảnh báo

các nguy cơ đe dọa an ninh quốc gia, đáp trả các cuộc tấn công của các thế lực thù

địch; đặt vấn đề an ninh mạng song hành với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, không

cản trở sự phát triển kinh tế nhưng cũng không được coi nhẹ vấn đề an ninh trong quá

trình phát triển. Tập trung phát triển, xây dựng một chiến lược an ninh mạng quốc gia

chi tiết với định hướng rõ ràng, mục tiêu cụ thể sẽ góp phần gia tăng hiệu quả thực thi

pháp luật cũng như bảo đảm an ninh mạng. Chúng ta đang thiếu một chiến lược an

ninh mạng với khả năng dự báo, triển khai các giải pháp đấu tranh vô hiệu hóa hoạt

động xâm hại an ninh mạng, một công cụ nhằm cụ thể hóa pháp luật an ninh mạng, tạo

điều kiện cho cơ quan chuyên trách kịp thời xử lý sự cố và hạn chế rủi ro của các nguy

cơ từ môi trường mạng.

Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 25/7/2017 của Bộ Chính trị về Chiến lược

an ninh mạng quốc gia và LANM là hai văn bản nền tảng cho công tác xây dựng

và định hướng chiến lược an ninh mạng quốc gia, tạo hành lang pháp lý để tăng

cường các hoạt động ngăn chặn tấn công mạng. Gần đây, Thủ tướng Chính phủ

vừa có Chỉ thị số 14/CT-TTg về việc tăng cường bảo đảm an toàn, an ninh mạng

nhằm cải thiện chỉ số xếp hạng của Việt Nam, theo đó các chủ thể chủ trương có

kế hoạch kiện toàn đầu mối đơn vị chuyên trách về an toàn thông tin mạng để

làm tốt công tác tham mưu, tổ chức thực thi và kiểm tra, đôn đốc thực hiện các

quy định của pháp luật về bảo đảm an toàn, an ninh mạng; phối hợp chặt chẽ với

cơ quan chuyên trách về an toàn, an ninh mạng của Bộ Thông tin và Truyền

thông, Bộ Công an, Bộ Quốc phòng trong giám sát, chia sẻ thông tin, kiểm tra,

79

đánh giá an toàn, an ninh mạng.

TIỂU KẾT CHƯƠNG 3

Trong Chương cuối, tác giả đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật an

ninh mạng Việt Nam. Thông qua phân tích về hệ thống biện pháp bảo đảm an ninh

mạng, người đọc sẽ có cái nhìn bao quát và tự đánh giá được tầm quan trọng của

các biện pháp này trong công cuộc bảo đảm an ninh mạng. Pháp luật là một trong

những biện pháp cốt lõi nên việc củng cố, hoàn thiện pháp luật phù hợp với xu

hướng đấu tranh, tình hình an ninh mạng trong tương lai là cực kỳ quan trọng.

Tác giả phân tích một số hệ thống pháp luật an ninh mạng lớn trên thế giới

làm cơ sở cho Việt Nam tiếp thu, học hỏi, sửa đổi phù hợp với tình hình xã hội.

Ngoài việc hoàn thiện pháp luật thì khâu thực thi có hiệu quả là rất cần thiết để đưa

chúng vào đời sống, nâng cao ý thức và dân trí của người dân. Theo đó, Việt Nam

cần xây dựng chiến lược an ninh mạng quốc gia đa lĩnh vực, có kế hoạch định

hướng và tầm nhìn dài hạn, làm cơ sở để thực thi pháp luật an ninh mạng, gia tăng

khả năng đối mặt với những mối nguy từ không gian mạng và bảo vệ quyền lợi cho

80

cá nhân, tổ chức, doanh nghiệp, đặc biệt là quyền con người, quyền công dân.

KẾT LUẬN

Sau khoảng hai thập kỷ từ khi tiếp cận với Internet, chúng ta mới có một văn

bản Luật quy định về hoạt động bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn

xã hội trên không gian mạng cũng như trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có

liên quan, đó là Luật An ninh mạng. Rõ ràng, chỉ khi sự hiện hữu của những nguy

cơ, mối đe dọa nguy hiểm tới từ không gian mạng, những cuộc tấn công mạng trên

thế giới cũng như tại Việt Nam diễn ra không kiểm soát thì những vấn đề an ninh

mạng mới được đặt ra với hệ thống pháp luật của chúng ta. Tuy có phần muộn

màng hơn so với thế giới nhưng tác động và ý nghĩa của nó đối với tình hình an

ninh mạng trong xã hội Việt Nam là không hề nhỏ.

Xây dựng pháp luật và chiến lược đấu tranh cần dựa trên những nội dung cốt

yếu của an ninh mạng đó là: An ninh mạng về mặt kỹ thuật; Quản lý nội dung thông

tin trên mạng; Bảo mật dữ liệu cá nhân; Các biện pháp áp dụng để bảo vệ an ninh

mạng; Hợp tác quốc tế và địa phương hóa dữ liệu nhằm phát triển cũng như quản lý

tốt hơn tình hình an ninh mạng.

Trong bối cảnh tình hình hiện nay, không chỉ ở Việt Nam mà tất cả các nước

trên thế giới đều đang phải hàng ngày, hàng giờ đối mặt với nguy cơ từ các cuộc tấn

công mạng, tội phạm mạng, gián điệp mạng, khủng bố mạng và chiến tranh mạng.

Hợp tác đưa ra những phương án chiến lược an ninh mạng quốc gia, khu vực và

quốc tế tạo ra một lớp phòng vệ vững chắc, chủ động trong mọi tình huống có thể

xảy ra. Bên cạnh đó, công tác tiếp thu, củng cố và phát triển pháp luật phù hợp với

tình hình từng quốc gia cần được đẩy mạnh, tạo hành lang pháp lý vững chắc cho

việc thực thi đạt hiệu quả cao.

Để không gian mạng thực sự trở thành một môi trường an toàn, lành mạnh,

nơi cong người có thể thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn về không gian,

thời gian, mỗi cá nhân cần nắm vững, tự giác, chủ động thực hiện theo quy định của

pháp luật, doanh nghiệp cần hiểu rõ trách nhiệm và vai trò của mình trong việc bảo

đảm an ninh mạng, Nhà nước và các cơ quan chức năng nên tạo điều kiện để doanh

nghiệp phát triển, bảo đảm cá nhân không bị xâm hại về quyền và luôn tuân thủ quy

81

định pháp luật đặt ra.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. Văn bản pháp luật:

1. Hiến pháp Việt Nam 2013, Nxb Lao động

2. Bộ luật hình sự, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

3. Bộ luật dân sự 2015, Nxb Lao động

4. Luật an ninh mạng 2018, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

5. Luật an toàn thông tin mạng 2015, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật

6. Luật Công nghệ thông tin 2006, Nxb Thông tin truyền thông

7. Luật tiếp cận thông tin 2016, Nxb Chính trị quốc gia

8. Luật Viễn thông 2009, Nxb Tư pháp

9. Luật giao dịch điện tử 2005, Nxb Chính trị quốc gia

10. Nghị định số 28/2009/NĐ-CP, Nghị định Quy định xử phạt hành chính

trong quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin điện tử trên Internet

(Hết hiệu lực ngày 15/01/2014).

11. Nghị định số 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet

và thông tin trên mạng

12. Nghị định 85/2016/NĐ-CP về bảo đảm an toàn hệ thống thông tin theo cấp

độ

13. Nghị định số 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong

lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao

dịch điện tử

14. Thông tư 24/2015/TT-BTTTT quy định về quản lý và sử dụng tài nguyên

Internet

15. Thông tư 31/2017/TT-BTTTT quy định về hoạt động giám sát an toàn hệ

thống thông tin

16. Quyết định số 05/2017/QĐ-TTg về Ban hành quy định về hệ thống phương

án ứng cứu khẩn cấp bảo đảm an toàn thông tin mạng quốc gia

82

II. Tài liệu tham khảo khác:

1. “A Brief Introduction to China’s Cybersecurity Law” (Giới thiệu tóm tắt về Luật

An ninh mạng Trung Quốc), 16/06/2017. Tham khảo tại:

https://www.lexology.com/library/detail.aspx?g=e09bb238-86dc-4037-8e22-

3746f3d8f4f9. Truy cập ngày 30/04/2020

2. “An ninh thông tin ở Việt Nam trong điều kiện hiện nay- Vấn đề đặt ra và giải

pháp”. Tạp chí Ban tuyên giáo Trung ương, đăng ngày 4/5/2020. Tham khảo tại:

http://tuyengiao.vn/nghien-cuu/ly-luan/an-ninh-thong-tin-o-viet-nam-trong-dieu-

kien-hien-nay-van-de-dat-ra-va-giai-phap-127785. Truy cập ngày 15/04/2020

3. Báo VnExpress, “Sân bay Nội Bài, Tân Sơn Nhất bị tin tặc tấn công”, đăng ngày

29/07/2016

4. Báo điện tử VTV, “Hiệu quả sau 1 năm thực thi Luật An ninh mạng”,

11/02/2020. Tham khảo tại:

https://vtv.vn/trong-nuoc/hieu-qua-sau-1-nam-thuc-thi-luat-an-ninh-mang-

20200211201505781.htm. Truy cập ngày 30/04/2020

5. BKAV, “Tổng kết an ninh mạng năm 2019 và dự báo 2020”

6. Công ước Budapest ngày 23/11/2001 của Hội đồng châu âu Về tội phạm mạng.

Tham khảo tại: https://rm.coe.int/16802fa422. Truy cập ngày 18/04/2020

7. Carolina Rossini and Natalie Green, “CYBERSECURITY AND HUMAN

RIGHTS” (An ninh mạng và quyền con người). GCCS 2015 - Webinar series

training summaries. Tham khảo tại:

https://www.gp-digital.org/wp-content/uploads/2015/06/GCCS2015-Webinar-

Series-Introductory-Text.pdf. Truy cập ngày 01/05/2020

8. “Chiến lược An ninh không gian mạng quốc gia - Xu hướng toàn cầu trên không

gian mạng”, đăng ngày 08/10/2016. Tham khảo tại:

https://cybersecurityandvietnam.blogspot.com/2016/10/chien-luoc-ninh-khong-

gian-mang-quoc.html .Truy cập ngày 01/05/2020

9. Cystack, “Tình hình an ninh mạng Website 2019”. Tham khảo tại:

https://cystack.net/vi/resource/tinh-hinh-an-ninh-mang-2019/ .Truy cập ngày

83

01/05/2020

10. “Definition of information” . Tham khảo tại:

https://www.merriam-webster.com/dictionary/information.Truy cập ngày

04/05/2020

11. D. Bùi, “Phải vào cuộc lập tức khi xảy ra sự cố an ninh mạng”, Tạp chí tài

chính, đăng ngày 25/11/2019.

12. Eric Luiijf, Kim Besseling, Patrick de Graaf, “Nineteen National Cyber Security

Stategies” (19 chiến lược an ninh mạng quốc gia), 1/2013. Article in International

Journal of Critical infrastructure protection

13. Giao Tuyến ,“Hiểu về Luật an ninh mạng”, Tạp chí Ban Tuyên giáo Trung

ương, đăng ngày 17/07/2018.

14. Hanoimoi, “Sau hơn một năm thực hiện Luật An ninh mạng: Bảo đảm an toàn,

an ninh thông tin”, báo Tuyên Quang, đăng ngày 03/03/2020.

15. Hoàng Anh, “Google theo dõi vị trí của bạn ở mọi nơi qua Google Maps” .

SecurityDaily, đăng ngày 14/08/2018

16. “Information” . Tham khảo tại:

https://www.oxfordlearnersdictionaries.com/definition/english/information?q=infor

mation. Truy cập ngày 15/05/2020

17. ITU.“Global Cybersecurity Index (GCI) 2017” (Liên minh Viễn thông Quốc tế-

Chỉ số an ninh mạng toàn cầu 2017). Tham khảo tại:

https://www.itu.int/dms_pub/itu-d/opb/str/D-STR-GCI.01-2017-PDF-E.pdf. Truy

cập ngày 25/05/2020

18. Kaspersky, “An ninh mạng Việt Nam chuyển biến tích cực trong năm 2019”,

đăng ngày 05/03/2020.

19. “Luật an ninh mạng và những điều cần biết”. Tham khảo tại:

https://vanhocnghethuat.files.wordpress.com/2019/01/savenet-

camnangluatanninhmang-nhungdieucanbiet.pdf. Truy cập ngày 27/05/2020

20. Mannheimer Swartling, “Cybersecurity Law Overview”. 4/2017. Tham khảo tại:

https://www.mannheimerswartling.se/globalassets/publikationer/cybersecurity-law-

84

overview.pdf. Truy cập ngày 08/05/2020

21. “National Cyber Strategy of the United States of America 2018”. Tham khảo

tại:

https://www.whitehouse.gov/wp-content/uploads/2018/09/National-Cyber-

Strategy.pdf. Truy cập ngày 04/05/2020

22. Naveen Goud, “Tinder Cyber Attack exposes 70K female photos for

Catfishing”. Cybersecurity Insiders

23. Nguyễn Minh Chính, “Hoàn thiện pháp luật về an ninh mạng trong tình hình

hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, đăng ngày 25/09/2019.

24. NICCS, “Cybersecurity Glossary - Explore Terms: A Glossary of Common

Cybersecurity Terminology” (Thuật ngữ về bảo mật không gian mạng). Tham khảo

tại:

https://niccs.us-cert.gov/about-niccs/cybersecurity-glossary#C. Truy cập ngày

01/05/2020

25. NIST, “Glossary of Key Information Security Terms” (Viện Tiêu chuẩn và Kỹ

thuật quốc gia Hoa Kỳ- Bảng chú giải thuật ngữ bảo mật thông tin chính), cập nhật

03/7/2019. Tham khảo tại:

https://nvlpubs.nist.gov/nistpubs/ir/2013/nist.ir.7298r2.pdf. Truy cập ngày

12/05/2020

26. OECD, “Cybersecurity policy making at a turning point- Analysing a new

generation of national cybersecurity strategies for the Internet economy” (Tổ chức

hợp tác và phát triển kinh tế- Xây dựng chính sách an ninh mạng). Tham khảo tại:

https://www.oecd.org/sti/ieconomy/cybersecurity%20policy%20making.pdf. Truy

cập ngày 03/05/2020

27. PlayStation Network/ PSN News, "PlayStation Network Restoration Begins".

Tham khảo tại:

https://uk.playstation.com/psn/news/articles/detail/item369506/PSN-Qriocity-

Service-Update/. Truy cập ngày 29/04/2020

28. Perez Sarah, “YouTube Kids comes to smart TVs”. TechCrunch, đăng ngày

85

26/04/2017.

29. Sullivan and Cromwell LLP, “The Cybersecurity Act of 2015”. 22/10/2015.

Tham khảo tại:

https://www.sullcrom.com/siteFiles/Publications/SC_Publication_The_Cybersecurit

y_Act_of_2015.pdf. Truy cập ngày 17/05/2020

30. Phạm Quang Hiệp, “Quản trị an ninh phi truyền thống và đấu tranh với hoạt

động lợi dụng Youtube truyên truyền chống phá Nhà nước hiện nay”, Luận văn thạc

sĩ Quản trị an ninh phi truyền thống. ĐHQGHN Khoa Quản trị và kinh doanh

31. PGS, TS Nguyễn Thị Ngọc Hoa, ThS Bùi Thị Long, “Sự cần thiết phải có luật

an ninh mạng”. Lý luận chính trị, đăng ngày 29/10/2018. Tham khảo tại:

http://lyluanchinhtri.vn/home/index.php/dien-dan/item/2704-su-can-thiet-phai-co-

luat-an-ninh-mang.html.Truy cập ngày 01/04/2020

32. “The National Strategy To Secure Cyberspace 2003” (Chiến lược quốc gia về

bảo đảm an ninh mạng của Hoa Kỳ năm 2003). Tham khảo tại:

https://www.energy.gov/sites/prod/files/National%20Strategy%20to%20Secure%20

Cyberspace.pdf. .Truy cập ngày 09/04/2020

33. “The Directive on security of network and information systems (NIS Directive)”

(Chỉ thị về bảo mật mạng và hệ thống thông tin). Tham khảo tại:

https://ec.europa.eu/digital-single-market/en/network-and-information-security-nis-

directive. Truy cập ngày 16/04/2020

34. Triệu Anh Ba, “Chiến lược an ninh mạng của Nhật Bản”, Luận văn Thạc sĩ

Quốc tế học, ĐHQGHN Trường Đại học KHXH và Nhân Văn.

35. Trịnh Tiến Việt, Dương Văn Tiến, “Pháp luật hình sự Việt Nam trước thách

thức an ninh phi truyền thống”, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN: Luật học, Tập 32, số

4.Tham khảo tại:

https://repository.vnu.edu.vn/flowpaper/simple_document.php?subfolder=13/88/53/

&doc=138853090015177650704612130567512946056&bitsid=43ed8692-ef24-

4dd8-80c6-e12d1051a18a&uid=.Truy cập ngày 26/04/2020

36. Tùng Lâm, “Luật An ninh mạng ở các nước châu Âu và Mỹ”, Báo Viettimes,

86

đăng ngày 3/12/2017. Tham khảo tại:

https://viettimes.vn/luat-an-ninh-mang-o-cac-nuoc-chau-au-va-my-

148293.html.Truy cập ngày 12/05/2020

37. Trần Lưu, “Quyền và trách nhiệm trên không gian mạng”, Tạp chí tài chính,

đăng ngày 11/01/2019. Tham khảo tại:

http://tapchitaichinh.vn/tai-chinh-phap-luat/quyen-va-trach-nhiem-tren-khong-

gian-mang-301918.html. .Truy cập ngày 29/05/2020

38. Trần Quang Kỳ, “Chiến lược không gian mạng quốc gia Hoa Kỳ”, An toàn

thông tin, đăng ngày 03/10/2019. Tham khảo tại:

http://antoanthongtin.vn/chinh-sach---chien-luoc/chien-luoc-khong-gian-mang-

quoc-gia-hoa-ky-105473.Truy cập ngày 03/05/2020

39. TS. Nguyễn Minh Phong, ThS. Nguyễn Trần Minh Trí, “Kiểm soát an ninh

mạng ở một số nước thế giới và việt nam hiện nay”. Văn hóa học, đăng ngày

15/11/2018. Tham khảo tại:

http://www.vanhoahoc.vn/nghien-cuu/ly-luan-van-hoa-hoc/cac-binh-dien-cua-van-

hoa/3524-nguyen-minh-phong-nguyen-tran-minh-tri-kiem-soat-an-ninh-mang-o-

mot-so-nuoc-the-gioi-va-viet-nam-hien-nay.html.Truy cập ngày 14/04/2020

40. TS Nguyễn Minh Phong, “Bảo đảm an ninh thông tin trong hội nhập”, Báo

Nhân dân, đăng ngày 5/11/2017. Tham khảo tại:

https://www.nhandan.com.vn/chinhtri/item/34613502-bao-dam-an-ninh-thong-tin-

trong-hoi-nhap.html.Truy cập ngày 21/05/2020

41. Trung Hiền, Hồng Thơ, “Mất an toàn thông tin: Nguy cơ từ chính thiết bị “kè

kè” bên người”. Bộ Thông tin và Truyền thông, đăng ngày 30/03/2016

42. Tom Gjelten, “Seeing The Internet As An 'Information Weapon”. NPR

September 23, 2010. Tham khảo tại:

https://www.npr.org/templates/story/story.php?storyId=130052701.Truy cập ngày

26/05/2020

43. Trần Thị Hằng, “Nghiên cứu tìm hiểu thực trạng về an ninh mạng và biện pháp

khắc phục”, Luận văn Thạc sĩ ngành Hệ thống thông tin, Đại học Dân lập Hải

87

Phòng. Tham khảo tại:

https://lib.hpu.edu.vn/bitstream/handle/123456789/25237/1_TranThiHang_CHCNT

TK1.pdf?sequence=1&isAllowed=y.Truy cập ngày 01/05/2020

44. “Việc áp dụng Luật An ninh mạng của Việt Nam gặp chậm trễ”. Tham khảo tại:

http://www.rfi.fr/vi/viet-nam/20190415-viec-ap-dung-luat-an-ninh-mang-cua-viet-

nam-gap-cham-tre.Truy cập ngày 20/05/2020

45. “Who are the Guardians of Peace? A new hacker group is on the loose”,

08/01/2015. Tham khảo tại:

https://www.pandasecurity.com/mediacenter/news/guardians-peace-new-hacker-

group-loose/.Truy cập ngày 27/04/2020

46. “Joint Terminology for Cyberspace Operations” (Thuật ngữ chung cho hoạt

động không gian mạng). Tham khảo tại:

http://www.nsci-va.org/CyberReferenceLib/2010-11-

joint%20Terminology%20for%20Cyberspace%20Operations.pdf. Truy cập ngày

19/04/2020

88

,