ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

HỒ THỊ PHƢƠNG MAI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬT TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

HÀ NỘI, 2020

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

HỒ THỊ PHƢƠNG MAI

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC

MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2016-L

Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Hoài Phương

HÀ NỘI, 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu trong Khóa

luận được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh

bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên

cứu đã được công bố, các website.

Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.

Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2020

Người thực hiện Khóa luận

i

HỒ THỊ PHƢƠNG MAI

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, xin trân trọng cảm ơn người đã hướng dẫn tôi là TS.

Nguyễn Thị Hoài Phương, cô đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những nhận

xét, góp ý những sai sót của tôi trong quá trình hoàn thành Khóa luận.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô thuộc Khoa Luật - Đại

học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy cho tôi trong quá trình học tập.

Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu

sót và hạn chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của các Thầy, Cô để bài

Khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2020

Người thực hiện Khóa luận

ii

HỒ THỊ PHƢƠNG MAI

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

1. Luật HN&GĐ năm 2014 : Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014

2. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP : Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày

28/01/2015 của Chính phủ quy định

về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh

trong ống nghiệm và điều kiện mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo

3. BLHS năm 2015 : Bộ luật Hình sự năm 2015

iii

4. TTTON : Thụ tinh trong ống nghiệm

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN

LỜI CẢM ƠN

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1

CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MANG THAI HỘ .......... 6

1.1. Khái niệm chung về mang thai hộ ............................................................. 6

1.1.1. Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ” ......................................... 6

1.1.2. Phân loại các hình thức mang thai hộ ..................................................... 8

1.2. Cở sở lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực mang thai hộ ....................... 10

1.2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 10

1.2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 12

1.3. Ý nghĩa của hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................... 13

1.3.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp đảm bảo quyền con người ... 13

1.3.2. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang giá trị nhân văn sâu sắc ..... 14

1.3.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là kết quả ứng dụng thành công

thành tựu khoa học kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của lĩnh vực y học . 14

1.3.4. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp duy trì nòi giống .................. 15

CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở

VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 17

2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ................... 17

2.1.1. Quy định pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ của một số quốc gia

trên thế giới ..................................................................................................... 17

2.1.2. Lịch sử hình thành phát triển pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam ....... 23

2.1.3. Nội dung pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay ...................... 25

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong

lĩnh vực mang thai hộ ...................................................................................... 46

iv

2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng

mang thai hộ ở Việt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 .. 46

2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng

mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu

lực cho đến nay ............................................................................................... 49

CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH

VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................. 61

3.1. Giải pháp đơn giản hóa quá trình hoàn thiện hồ sơ “mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo” ................................................................................................. 61

3.2. Giải pháp giúp các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đáp ứng đủ

“điều kiện mang thai hộ vì mục đích mang thai hộ” ....................................... 63

3.4. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định về “mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo” trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan .................. 65

KẾT LUẬN .................................................................................................... 69

v

TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70

LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài

Hiện nay, tình trạng vô sinh ở cả nam giới và nữ giới ngày càng nhiều

do các yếu tố tác động như bệnh lý, căng thẳng kéo dài, do môi trường, thói

quen sinh hoạt, vệ sinh an toàn thực phẩm… Theo nghiên cứu trên toàn quốc

do Bệnh viện Phụ sản trung ương và Đại học Y Hà Nội tiến hành trên 14.300

cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) ở 08 tỉnh - đại diện cho 08 vùng

sinh thái ở nước ta - cũng xác định tỉ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ

tuổi sinh đẻ là 7,7%, nghĩa là có từ 700.000 đến 1 triệu cặp vợ chồng Việt

Nam bị vô sinh [9]. Nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều tiến bộ trong

kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã ra đời đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh và

phụ nữ độc thân có thể có con, đáp ứng niềm mong mỏi tha thiết của họ. Các

kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể giải quyết được tình trạng vô sinh của phụ nữ

và nam. Tuy nhiên, đối với những người phụ nữ không có khả năng mang thai

hoặc sinh con thì kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là phương pháp TTTON có

thể giúp họ có được đứa con chung huyết thống nhưng chỉ trong trường hợp

pháp luật cho phép mang thai hộ.

Khi Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày

12/02/2003 quy định về sinh con bằng phương pháp khoa học, tức là, pháp

luật cho phép thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để giúp các cặp vợ chồng

vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân có thể có con, nhưng lại nghiêm cấm kỹ

thuật này thực hiện cho người phụ nữ không có khả năng mang thai hoặc sinh

con dù độc thân hay là người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh trong việc mang

thai hộ. Điều này đã khiến cho việc mang thai hộ dễ bị thương mại hóa, các

dịch vụ mang thai hộ càng diễn ra “sôi động” và tinh vi hơn vì họ nắm được

tâm lý khát khao có được đứa con máu mủ của những người này. Quá trình

mang thai hộ có rất nhiều rủi ro dễ xảy ra tranh chấp cũng như vấn đề pháp lý

liên quan đến đứa trẻ sinh ra trong trường hợp này. Để có cơ sở quản lý xã hội

1

cũng như ổn định các vấn đề liên quan đến dân số, đảm bảo các quyền cơ bản

của con người, pháp luật đã thừa nhận mang thai hộ nhưng phải vì mục đích

nhân đạo và nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Quốc hội đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, có hiệu lực ngày

01/01/2015, cùng với đó là Nghị định số 10/2015/NĐ-CP để hướng dẫn thi

hành. Trong đó, pháp luật vẫn tiếp tục ghi nhận hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là

thụ tinh nhân tạo và kỹ thuật TTTON, tuy nhiên kỹ thuật thụ tinh nhân tạo

được thực hiện theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, còn Nghị định

10/2015/NĐ-CP thì quy định chi tiết về sinh con bằng kỹ thuật TTTON và

điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận và cho phép mang thai hộ, do

đó, việc nghiên cứu và làm rõ hơn pháp luật mang thai hộ là điều cần thiết

nên em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ

ở Việt Nam hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài

Mang thai hộ là một vấn đề không mới và đã xuất hiện khá lâu

trong xã hội. Tuy nhiên, thời điểm trước kia do không được pháp luật thừa

nhận và cho phép nên việc mang thai hộ bị biến tướng và được thực hiện trái

pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau. Pháp luật luôn điều chỉnh và thay

đổi để phù hợp với thực tế đời sống, sự phát triển của y học thế giới và quan

trọng là đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của con người. Do đó, Quốc hội

thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP.

Ngay khi có dự thảo luật sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000 thì sức nóng của

vấn đề mang thai hộ nhanh chóng được cập nhập trên các phương tiện truyền

thông, báo đài, tin tức thời sự, có thể kể đến như: “Mang thai hộ: nên cho

phép để kiểm soát tốt” trên báo phunuonline.com.vn ngày 17/8/2013; “ Đưa

mang thai hộ vào luật” trên duthaoonline.quochoi.vn; “Chính thức cho phép

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” trên báo http://hn.24h.com.vn/ ngày

19/06/2014; “Luật cho phép mang thai hộ, tình trạng đẻ thuê còn diễn ra?”

2

trên trang web http://www.luattrungnguyen.vn/ ngày 12/07/2014; “Mang thai

hộ: Cửa đã mở, nhưng mới hé ?” trên trang web http://vietnamnet.vn/ ngày

30/12/2014; “Mang thai hộ: Có luật nhưng vẫn khó khăn” trên Báo tuổi trẻ

online ngày 13/05/2015… Điểm chung của các bài viết này đều nêu lên thực

trạng thực hiện pháp luật của hoạt động mang thai hộ , gợi mở vấn đề, nêu ra

một số hạn chế của pháp luật, đánh giá sơ bộ mang tính chất thông báo về quy

định mới của pháp luật tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá để

làm rõ hơn về những quy định mà pháp luật đưa ra.

Về công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực mang thai hộ

chủ yếu đến từ các bài viết trên tạp chí chuyên ngành và luận văn thạc sĩ, tiêu

biểu như:

- Tạp chí Luật học: “Pháp Luật về mang thai hộ ở Việt Nam” của PGS.

TS Nguyễn Văn Cừ (2016);

- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật: “Một số bất cập trong các quy định

về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình năm

2014” của tác giả Nguyễn Huy Cường (2016);

- Nội san Y học sinh sản: “Mang thai hộ - Những điều cần biết” của

ThS. Hồ Mạnh Tường (2014);

- Luận văn Thạc sĩ: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai

hộ” của tác giả Bùi Quỳnh Hoa (2014), Trường Đại học Luật Hà Nội;

- Luận văn Thạc sĩ: “Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014” của tác giả Phạm Thị Hương Giang (2015), Khoa Luật - ĐHQG

Hà Nội.

Ngoài ra, còn có các bài bình luận khoa học được đăn tải trên Internet.

Tất cả, đã giúp vấn đề mang thai hộ được khái quát, mở rộng hơn theo nhiều

góc nhìn khác nhau và nhiều vấn đề liên quan được nêu ra. Qua các góc nhìn

đó, nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam

hiện nay” này sẽ tổng hợp, chỉ ra những vướng mắc còn tồn động và kiến

3

nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài

Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về mang thai

hộ như: khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của mang thai hộ; cơ sở của

việc pháp luật quy định mang thai hộ; nội dung các quy định của Luật

HN&GĐ năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về mang

thai hộ và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.

Phạm vi nghiên cứu của đề tài là về các vấn đề trong lĩnh vực mang

thai hộ trên các phương diện như lý luận khoa học, lịch sử hình thành, pháp

luật về mang thai hộ và thực tiễn áp dụng pháp luật mang thai hộ từ trước và

sau khi hoạt động mang thai hộ được luật hóa vào năm 2014 trên lãnh thổ

Việt Nam. Song, trọng tâm nghiên cứu khóa luận này là thực trạng áp dụng

pháp luật về mang thai hộ để từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp

luật trong lĩnh vực này. Ngoài ra, phạm vi đề tài còn được mở rộng khi nghiên

cứu pháp luật về mang thai hộ ở một số quốc gia tiêu biểu để đối chiếu với

lịch sử hình thành và pháp luật về mang thai hộ Việt Nam.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài

Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình

nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp chung của khoa học xã

hội và các phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các

phương pháp chủ yếu bao gồm:

- Phương pháp phân tích quy phạm: phương pháp này được sử dụng

chủ yếu để tìm hiểu các quy định của pháp luật, cũng như các vụ việc liên

quan tới xác định ngữ nghĩa của quy phạm pháp luật, tính hợp lý khi áp dụng.

- Phương pháp phân tích lịch sử: phương pháp này dùng để sử dụng

nhằm khái quát quá trình hình thành chế định mang thai hộ ở Việt Nam.

Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp,

liệt kê, tổng hợp,… để đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu.

5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài

4

a. Mục đích nghiên cứu

Khóa luận nghiên cứu phân tích, làm rõ nội dung quy định về mang

thai hộ trong Luật HN&GĐ năm 2014, chỉ ra thực trạng pháp luật và nguyên

nhân dẫn đến thực trạng pháp luật khi những quy định về mang thai hộ được

áp dụng vào trong cuộc sống. Từ đó, kiến nghị giải pháp khắc phục.

b. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu

được xác định như sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về mang thai hộ

như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của mang thai hộ; Phân tích, đánh giá những

quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 về mang thai hộ; Thực trạng

pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay và kiến nghị giải pháp hoàn

thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.

6. Kết cấu của khóa luận

Ngoài các phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu

tham khảo, nội dung của khóa luận bao gồm 03 chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về mang thai hộ.

Chương 2: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.

Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt

5

Nam hiện nay.

CHƢƠNG 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MANG THAI HỘ

1.1. Khái niệm chung về mang thai hộ

1.1.1. Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ”

 “Mang thai hộ” dưới góc nhìn xã hội (chưa có Luật HN&GĐ năm

2014)

Ở Việt Nam, trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành thì các

khái niệm “mang thai hộ”, “chửa hộ”, “đẻ thuê” thường bị đánh đồng với

nhau, nội dung và ý nghĩa của chúng không có sự tách biệt nhất định. Và phần

đông mọi người hiểu “mang thai hộ” giống “đẻ thuê” là khi người đàn ông

(người chồng) quan hệ trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với

một người phụ nữ (không phải là vợ) đến khi người phụ nữ này có thai và

sinh con. Trong trường hợp này đứa trẻ sinh ra bằng tinh trùng của người đàn

ông (người chồng) và noãn của người phụ nữ (không phải là vợ). Cách hiểu

này đã làm cho ý nghĩa của việc “mang thai hộ” trở nên sai lệch, trái với

thuần phong mỹ tục và đi ngược lại với giá trị con người.

 “Mang thai hộ” dưới góc nhận định của các chuyên gia

Theo ThS.BS Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di

truyền và Sức khỏe sinh sản, Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết: “Mang thai

hộ là phương pháp giải quyết vấn đề không thể có con ở người phụ nữ do tử

cung nên cần nhờ đến tử cung của người khác. Đến nay, kỹ thuật này đã được

thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng nó đang là vấn đề gây tranh

cãi giữa các trường phái tư tưởng, văn hóa khác nhau”.[34]

Theo Tiến sĩ Luật học Nguyễn Văn Cừ, Phó giáo sư Trường Đại học

Luật Hà Nội, trong bài viết “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam” đăng trên

Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016, số 6 có đề

cập:“Thuật ngữ “mang thai hộ” được định nghĩa là phương pháp hỗ trợ sinh

6

sản áp dụng khi người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi đã

thực hiện kí thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh

trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung

của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.

Vì vậy, người mang thai hộ không có liên quan về di truyền với đứa trẻ mà

mình nuôi dưỡng trong cơ thể và sinh ra đứa trẻ đó”.[26, tr.11]

Trong bài viết “Một số vấn đề về thực hiện quy định của pháp luật hiện

hành về mang thai hộ ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Nghề luật, Học viện Tư

pháp, 2016, số 2, ThS. Trần Đức Thắng có nêu quan điểm của mình như

sau:“Mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự hình thành trên cơ sở tự nguyện.

Thỏa thuận mang thai hộ được xác lập giữa một cặp vợ chồng và người mang

thai hộ, đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên”.[35, tr.58]

 “Mang thai hộ” dưới góc độ pháp lý

Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra khái niệm: “Mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích

thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang

thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy

noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống

nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để

người này mang thai và sinh con”.

Khi pháp luật thừa nhận việc mang thai hộ và định nghĩa rõ ràng nội

hàm của mang thai hộ thì khái niệm mang thai hộ đã tách biệt và có nội dung

hoàn toàn khác với “đẻ thuê”, “đẻ mướn”. Tức là, mang thai hộ bắt buộc phải

là trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng trong cặp vợ chồng hiếm

muộn, sau khi được TTTON thành phôi thì cấy vào tử cung của người mang

thai hộ, khác hoàn toàn với việc đẻ thuê là người đẻ thuê giao phối trực tiếp

với người chồng và không sử dụng bất kỳ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nào. Đây

chính là sự khác biệt cơ bản giữa “mang thai hộ” và “đẻ thuê”.

Khái niệm “mang thai hộ” dưới góc nhìn của các chuyên gia dù là trong

7

lĩnh vực y tế hay luật học thì đều có tính chất chuyên môn cao, dẫn đến khó

hiểu cho người đọc. Đối với khái niệm “mang thai hộ” trong Luật HN&GĐ

năm 2014 đưa ra không chỉ cụ thể, hoàn chỉnh và dễ tiếp nhận cho người đọc

mà còn thể hiện rõ nội dung mà pháp luật cho phép khi thực hiện hoạt động

mang thai hộ, đó là:

- Thứ nhất, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, người phụ nữ tự

nguyện mang thai hộ cho cặp vợ chồng vô sinh không vì các giá trị vật chất,

tiền bạc hay yếu tố kinh tế nào khác.

- Thứ hai, phương pháp thực hiện mang thai hộ là kỹ thuật TTTON, tức

là việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong

ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ nhờ mang thai hộ để

người này mang thai và sinh con.

- Thứ ba, đối tượng được phép nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng

hiếm muộn và mục đích của hoạt động mang thai hộ là mang tính nhân đạo,

dành cho người phụ nữ không thể tự mình sinh con. Phụ nữ độc thân có thể

xin tinh trùng và TTTON để có đứa con cùng huyết thống, tuy nhiên, pháp

luật không thừa nhận phụ nữ độc thân không có khả năng mang thai và sinh

con được nhờ mang thai hộ.

1.1.2. Phân loại các hình thức mang thai hộ

Hội thảo Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) được tổ chức tại Hà Lan vào

năm 2012 rút ra kết luận: Các thiết chế trên thế giới quy định về hoạt động

“mang thai hộ” đang được chia ra làm bốn nhóm: Nhóm nước chưa có quy

định; nhóm nước phản đối; nhóm nước cho phép vì mục đích nhân đạo và

nhóm các nước chấp thuận thương mại hóa [41]. Các quốc gia đã hợp pháp

hóa việc mang thai hộ lại được chia ra làm hai nhóm nước: Mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Trong Luật HN&GĐ năm 2014 tại khoản 23 Điều 3 cũng phân ra hai

hình thức là “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và “mang thai hộ vì mục

đích thương mại”. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hoạt động

8

này dưới góc độ nhân đạo. Cụ thể như sau:

a. Mang thai vì mục đích thƣơng mại

Mang thai hộ vì mục đích thương mại là khi người phụ nữ chấp nhận

mang thai cho bên thuê mang thai hộ rồi sinh con, sau khi trao đứa con lại cho

bên nhờ mang thai hộ. Người phụ nữ sẽ được bên nhờ mang thai hộ trả cho

một khoản tiền hoặc sẽ đáp ứng bằng một lợi ích nào đó mà hai bên đã thỏa

thuận trước đó.

Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo, cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại. Việc mang thai hộ phải được

tuân thủ chặt chẽ quy định tại các điều khoản của Luật HN&GĐ năm 2014 và

Nghị định 10/2015/NĐ-CP.

Khoản 23 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm mang thai hộ

vì mục đích thương mại như sau: “Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc

một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ

sinh sản để được hưởng lợi ích về kinh tế hoặc lợi ích khác”. Khái niệm này đầy

đủ và hoàn toàn đúng theo cách hiểu về việc thương mại hóa mang thai hộ ở một

số quốc gia trên thế giới. Ở các quốc gia đó mang thai hộ giống như một dịch vụ

tự do trao đổi giữa các bên với sự có “cầu” ắt có “cung”.

Có thể thấy, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại chính là một

loại hợp đồng đẻ thuê. Sau khi giao kết hợp đồng, hai bên phải thực hiện đúng

quyền và nghĩa vụ của mình theo bản hợp đồng đó. Bản hợp đồng này là hợp

đồng công việc cần làm với đối tượng trao đổi là đứa trẻ và lợi ích. Vô hình

chung, bản hợp đồng đã khiến đứa trẻ trở thành hàng hóa có thể trao đổi. Điều

này vi phạm quyền con người và việc trao đổi theo hợp đồng giống như việc

mua bán trẻ con vi phạm luật quốc tế. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam

không cho phép việc mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, không

ít trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục

đích mà nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ. Thực tế cho thấy,

việc mang thai hộ vì mục đích thương mại vốn dĩ đã tồn tại từ rất lâu dù vi

9

phạm pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.

b. Mang thai vì mục đích nhân đạo

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là khi người vợ, vì lý do sức khỏe,

bệnh lý mà không thể mang thai nhưng có trứng; tham gia vào quan hệ mang

thai hộ với mong muốn được làm mẹ và người phụ nữ được nhờ mang thai

hoàn toàn tự nguyện để giúp đỡ người vợ thực hiện chức năng làm mẹ, tất

nhiên có hoặc không có bồi dưỡng trong quá trình mang thai nhưng tuyệt

nhiên không vì mục đích kiếm lợi.

Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm “Mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo” (như đã trình bày ở phần trên). Tuy nhiên,

Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định rất rõ các điều kiện mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo đối với các bên tham gia thoả thuận mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo, cũng như các thủ tục pháp lý trong quá trình làm hồ sơ xin xét

duyệt mang thai hộ.

Pháp luật cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng đủ điều

kiện để bảo đảm quyền làm cha, làm mẹ chính đáng của những cặp vợ chồng

vô sinh và người mang thai hộ không vì mục đích lợi nhuận. Bản chất “mang

thai hộ” là hết sức nhân văn vì là sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối

với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai và sinh nở

cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh

phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng làm việc tốt

hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh của xã hội.

Có thể đánh giá quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

trong Luật HN&GĐ năm 2014 là bước tiến bộ vượt bậc trong tư duy làm luật,

trong nhận thức về việc cho phép ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào

lĩnh vực sản khoa nói riêng và trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bảo

đảm quyền dân sự, hôn nhân và gia đình của cá nhân nói chung.

1.2. Cở sở lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực mang thai hộ

1.2.1. Cơ sở lý luận

Thứ nhất, về mặt khoa học kỹ thuật, mang thai hộ được thực hiện trên

10

cơ bản là kỹ thuật TTTON thông thường, nên không phức tạp về mặt kỹ

thuật. Người vợ trong cặp vợ chồng có nhu cầu nhờ mang thai hộ sẽ được

kích thích buồng trứng, theo dõi và chọc hút noãn. Noãn sẽ được thụ tinh với

tinh trùng người chồng để tạo phôi. Phôi có thể được chuyển vào tử cung

người mang thai hộ đã được chuẩn bị bằng nội tiết hoặc phôi sẽ được đông

lạnh và sẽ được rã đông và cấy vào tử cung người nhận mang thai hộ vào thời

điểm thích hợp. Người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đảm

bảo có đủ tinh trùng để TTTON và người vợ phải có dự trữ buồng trứng đủ để

cho việc thực hiện TTTON. [9]

Năm 2011, với sự ra đời của Trung tâm nghiên cứu về di truyền và sức

khỏe sinh sản (khoa Y Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Nam

trở thành một trong bốn trung tâm đào tạo về hỗ trợ sinh sản lớn nhất của

Châu Á (cùng với Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc) và hiện mỗi năm tiếp nhận

đào tạo, huấn luyện đào tạo cho nhiều bác sỹ nước ngoài [2, tr.16]. Hiện nay

cả nước có 21 cơ sở đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được Bộ

Y tế ra quyết định công nhận, trong đó có 05 cơ sở trên cả nước được phép

thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gồm Bệnh viện Hùng

Vương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Mỹ Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung

ương và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế [19]. Mặt khác, chi phí một ca

TTTON ở Việt Nam chỉ bằng 1/4 hoặc 1/3 với khu vực và 1/6 -1/8 so với Mỹ,

cụ thể chi phí để điều trị TTTON (thủ thuật và thuốc) ở Việt Nam khoảng

2.000-3.000 USD trong khi ở những nước trong khu vực dao động từ 8.000-

12.000 USD. [39]

Mang thai hộ cũng được coi là một trong những phương pháp hỗ trợ

sinh sản dành cho cặp vợ chồng hiếm muộn. Kỹ thuật chính cần dùng trong

mang thai hộ là kỹ thuật TTTON, đây là kỹ thuật về y tế đòi hỏi công nghệ và

kỹ thuật cao mà Việt Nam đã có các trung tâm hỗ trợ sinh sản, bệnh viện phụ

sản hoàn toàn có đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật TTTON và mang thai hộ để

thực hiện với chi phí hợp lý. Với đầy đủ cơ sở vật chất, nguồn nhân lực được

11

đào tạo mỗi năm, mang thai hộ hoàn toàn có thể thực hiện được và chỉ còn

mang tính chất phức tạp trong mặt quan niệm và các thủ tục pháp lý, quyền

cũng như lợi ích của các bên liên quan.

Thứ hai, về mặt pháp lý, Luật HN&GĐ năm 2014 tạo ra cơ chế pháp lý

khá hoàn chỉnh cho việc mang thai hộ, cụ thể là từ Điều 93 đến Điều 100 về

Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Điều

kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo; Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;

Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Giải quyết

tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo và xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ

thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ.

Việt Nam là một trong số ít quốc gia ở khu vực Đông Nam Á ban hành

riêng Nghị định của Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa

học (kỹ thuật hỗ trợ sinh sản). Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và các văn bản

có liên quan đã tạo hành lang pháp lý quan trọng giúp cho hoạt động tư vấn,

khám và điều trị của các cán bộ y tế tư vấn được thuận lợi; các cặp vợ chồng

vô sinh và phụ nữ đơn thân muốn mang thai có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa các quy định pháp lý về mang thai hộ

nhằm bảo đảm cơ chế, giải quyết hậu quả pháp lý của việc mang thai hộ; bảo

vệ quyền, lợi ích của trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ, bảo vệ bên mang

thai hộ và nhờ mang thai hộ. Nghị định cũng đã bao phủ được hầu hết các vấn

đề liên quan đến hỗ trợ sinh sản. Các quy định của Nghị định phù hợp với các

bằng chứng khoa học và pháp luật trong nước cũng như quốc tế.

1.2.2. Cơ sở thực tiễn

Nhu cầu mang thai hộ trên thực tế là khá phổ biến. Việc pháp luật

không cho phép đẻ thuê/mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ dẫn đến tình

trạng bác sĩ tại Việt Nam không dám/và không được phép thực hiện vì sẽ là vi

12

phạm pháp luật. Những người có nhu cầu thì đi tìm những dịch vụ chui hoặc

ra nước ngoài để thực hiện mang thai hộ. Việc sử dụng những dịch vụ chui

vừa tốn kém, vừa trái pháp luật, vừa rủi ro mà quyền và lợi ích của người

mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ hay đứa trẻ cũng không được bảo đảm.

Khi có tranh chấp giữa các bên phát sinh trong dịch vụ chui, các cơ quan nhà

nước có thẩm quyền bị động do không có cơ sở pháp lý để xử lý, vì đây là

hợp đồng không hợp pháp.

Các nguyên nhân gây vô sinh có nguyên nhân do tử cung người vợ bị

tật bẩm sinh hoặc do các bệnh lý khác khiến cho người phụ nữ không thể

mang thai được ngày càng trở nên phổ biến. Mặc dù, áp dụng phương pháp

sinh con theo phương pháp khoa học, người chồng có tinh trùng, người vợ có

noãn nhưng họ cũng không thể có con được. Họ rất cần người mang thai hộ

để có thể có được chính những đứa trẻ do chính tinh trùng và noãn của họ tạo

nên, đây là nhu cầu chính đáng và cần thiết. Hơn nữa, việc cho phép mang

thai hộ là một giải pháp mang tính nhân văn nhằm tạo điều kiện cho các cặp

vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con để thực hiện được

quyền làm cha, mẹ.

Nếu không được quy định trong luật thì do nhu cầu có con nên họ vẫn

thực hiện mang thai hộ và họ làm tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam (làm chui)

dẫn tới các hậu quả sẽ xảy ra: Tình trạng đẻ thuê (vì mục đích thương mại);

không đảm bảo an toàn sức khỏe, tính mạng cho đứa trẻ và người mang thai

hộ; quyền lợi của người mang thai hộ và quyền lợi của đứa trẻ sẽ không được

đảm bảo; phát sinh tranh chấp vì không có quy định chặt chẽ của pháp luật.

Do vậy, việc pháp luật cần ghi nhận, hợp pháp hoá mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo là hết sức cần thiết.

1.3. Ý nghĩa của hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

1.3.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp đảm bảo quyền con người

Công nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc làm mang tính

nhân văn, đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người, đảm bảo cho con người

được hưởng các quyền dân sự cơ bản, quyền đảm bảo chất lượng sống, quyền

13

hôn nhân và mưu cầu hạnh phúc.

Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân thực chất bao

gồm một số quyền có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những quyền này có

quan hệ mật thiết với quyền được hỗ trợ để bảo vệ gia đình, quyền của các bà

mẹ và trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt. Hơn nữa, một trong những

nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình nhằm bảo đảm quyền dân

sự, hôn nhân và gia đình của cá nhân liên quan đến y tế, đó là nguyên tắc:

“Giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện

kế hoạch hóa gia đình” (khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014).

Việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có thể được coi là

một việc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đồng thời thể hiện quyền được bình

đẳng và hạnh phúc của những người không thể có con với những người khác.

Điều này rất có ý nghĩa đối với các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh.

1.3.2. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang giá trị nhân văn sâu sắc

Bản chất vốn có của mang thai hộ là vô cùng nhân văn, bởi nó là sự

giúp đỡ của người phụ nữ này với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa

trẻ. Yếu tố huyết thống của một con người dù thế nào cũng không thay đổi

nên điều khiến một người phụ nữ khác sẵn sàng giúp đỡ để sinh con cho một

cặp vợ chồng được nhìn nhận như một hành vi nhân đạo cao cả. Pháp luật cho

phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của nó, tuy nhiên pháp luật luôn đề

cao ý nghĩa cao cả đó bằng việc chỉ thừa nhận mang thai hộ trên phương diện

nhân đạo để tạo cơ hội được làm cha mẹ cho những cặp vợ chồng hiếm muộn

mà người vợ không thể tự mình mang thai được.

1.3.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là kết quả ứng dụng thành công

thành tựu khoa học kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của lĩnh vực y học

Đứng dưới góc độ y tế có thể thấy rằng, phương pháp mang thai hộ là

giải pháp tốt cho những trường hợp vô sinh mà người phụ nữ không thể chữa

trị để tự mang thai. Và trong trường hợp này, đứa bé ra đời từ mang thai hộ

mang gien di truyền của người phụ nữ có trứng thụ tinh chứ không phải của

14

người mang thai. Nếu hiểu khái niệm huyết thống đồng nhất với khái niệm

gien di truyền (ADN) thì quan hệ huyết thống là quan hệ giữa người phụ nữ

có trứng và đứa trẻ. Nếu chúng ta chấp nhận việc nuôi trẻ bằng sữa của người

phụ nữ khác khi người mẹ của đứa trẻ không có khả năng nuôi con bằng sữa

của chính mình thì chúng ta cũng nên chấp nhận việc mang thai hộ. Hai hiện

tượng này gần như đồng nhất với nhau, chỉ khác ở thời điểm là trước và sau

khi sinh.

Việc cấm mang thai hộ tại Việt Nam sẽ dẫn đến sự phân biệt về giàu

nghèo vì các cặp cha mẹ có điều kiện kinh tế có thể sang nước ngoài để thực

hiện phương pháp này. Hơn nữa, việc mang thai hộ được luật quy định sẽ bảo

đảm sự an toàn và quyền lợi cho các đối tượng tham gia, hạn chế các đường

dây bóc lột phụ nữ nghèo tại các nước đang phát triển. Luật HN&GĐ năm

2014, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã thiết lập một cơ chế kiểm tra sự đồng

thuận của người mang thai hộ (không bị sức ép tâm lý, kinh tế, gia đình; nhận

thức rõ ràng về các hậu quả của việc rời bỏ đứa trẻ sau khi sinh ra; hậu quả

với sức khỏe cá nhân và đời tư về sau; sự đồng thuận của người chồng của

người mang thai hộ….

1.3.4. Mang thai hộ vì mục đích nhân dạo giúp duy trì nòi giống

Duy trì nòi giống là quy luật tự nhiên của loài người từ xa xưa để phát

triển xã hội. Theo Ăngghen: “con người ta thay đổi hàng ngày cuộc sống của

mình, bắt đầu sản xuất ra những con người khác tức là tự tái sản xuất, đó là

quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, giữa cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [37,

tr21]. Nếu không có sản xuất và tái sản xuất, kể cả “tái sản xuất con người”

thì xã hội không phát triển, thậm chí không tồn tại được. Nhờ có mang thai hộ

mà chức năng duy trì nòi giống của các cặp vợ chồng hiếm muộn được đảm

bảo, đồng thời đáp ứng được nhu cầu sinh con cùng huyết thống, cùng mã gen

với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha, mẹ, con

mà còn là cơ sở để xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị

văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ gắn với mỗi con

15

người cụ thể. Đó cũng là lý do để các cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn luôn khao

khát có đứa con mang dòng máu của mình và trường hợp người vợ không thể

mang thai và sinh con thì cách duy nhất chỉ có thể là thực hiện “mang thai

hộ”. Như vậy, một ý nghĩa nữa của mang thai hộ chính là đảm bảo khả năng

16

thực hiện chức năng cơ bản của gia đình – chức năng duy trì nòi giống.

CHƢƠNG 2

THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM

HIỆN NAY

2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ

2.1.1. Quy định pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ của một số quốc gia

trên thế giới

Thời điểm ca mang thai hộ đầu tiên trên thế giới được xác định vào

năm 1979 tại Hoa Kỳ khi bác sĩ Richard M.Levin tiếp một cặp vợ chồng mà

người vợ không có khả năng sinh con. Khi đó, người vợ đã rất mong muốn có

một đứa con của chồng, dù bản thân bà không mang thai được. Biết được

nguyện vọng này, bác sĩ Levin đã nghĩ đến cách nhờ một phụ nữ khác mang

thai giúp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người chồng. Tuy nhiên, để thực

hiện được ý định, ông Levin đã vấp phải các vấn đề pháp lý đối với việc mang

thai hộ này và mất chín tháng hợp tác với các luật sư, nghiên cứu luật của

bang và của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để hiểu rõ hơn các khía cạnh pháp luật

phức tạp của mối quan hệ mang thai hộ (còn gọi là làm mẹ thuê, đẻ thuê). Các

khía cạnh này cũng được nghiên cứu kỹ, có sự tham khảo ý kiến của nhiều

chức sắc tôn giáo và nhà đạo đức học để đi đến một thỏa thuận không xúc

phạm đến giá trị đạo đức của cộng đồng.

Cuối cùng, một “hợp đồng”, còn gọi là “biên bản ghi nhớ” đã được

soạn thảo rất kín kẽ, bảo đảm quyền lợi cho cặp vợ chồng vô sinh, người mẹ

mang thai hộ và cả đứa trẻ. Người mẹ mang thai hộ lần đầu tiên trên thế giới

đó đã được các thầy thuốc khám, tư vấn rất kỹ lưỡng về các vấn đề y tế sinh

sản cũng như được các nhà hoạt động pháp luật tư vấn về vấn đề pháp lý xoay

quanh quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp mang thai hộ này.

Đến đầu năm 1980, theo thỏa thuận giữa người mẹ mang thai hộ và cặp vợ

chồng vô sinh, các bác sĩ đã tiến hành thụ tinh nhân tạo phôi thai bằng tinh

17

trùng của người chồng với noãn của người vợ và phôi thai được cấy vào

người phụ nữ mang thai hộ. Chín tháng sau, tại Lousville, người phụ nữ mang

thai hộ đã sinh hạ một bé trai và năm ngày sau đó, người phụ nữ mang thai hộ

đã trình diện trước Tòa án để chính thức chấm dứt những quyền liên quan đến

việc làm mẹ của mình và trao lại con cho người bố sinh học. Sau khi đã hoàn

tất các thủ tục về mối quan hệ pháp lý với đứa trẻ, cặp vợ chồng được toàn

quyền chăm sóc, nuôi dạy đứa trẻ. Đó là câu chuyện về trường hợp mang thai

hộ hợp pháp và có chuẩn bị kỹ lưỡng đầu tiên trên thế giới. [34, tr.6]

Đó là câu chuyện về trường hợp mang thai hộ hợp pháp và có chuẩn bị

kỹ lưỡng đầu tiên trên thế giới. Cũng từ đây, các quốc gia đã có sự ghi nhận

tuỳ mức độ khác nhau dưới góc độ luật pháp đến vấn đề mang thai hộ này.

Theo một khảo sát của Liên đoàn Sinh sản Thế giới về vấn đề mang thai hộ

được thực hiện vào năm 2013 tại 105 quốc gia, đã có 62 quốc gia phản hồi.

Trong đó, 19 quốc gia có quy định, luật mang thai hộ rõ ràng; 24 quốc gia

theo đạo Hồi và Thiên chúa giáo nghiêm cấm mang thai hộ; 14 quốc gia

không có quy định cụ thể nhưng cho phép thực hiện dựa trên các luật liên

quan. [13]

2.1.1.1. Các quốc gia chưa hợp pháp hóa mang thai hộ

a. Một số nƣớc ở châu Âu

Tại Pháp và Italy quy định cấm phụ nữ độc thân và các cặp vợ chồng

đồng tính nữ sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, TTTON và cấm mang

thai hộ. Do sự phát triển mạnh mẽ của giáo hội Công giáo tới pháp luật của

các quốc gia này, họ cho rằng đứa trẻ phải được sinh ra một cách tự nhiên, là

món quà của Thượng đế ban tặng, con người không thể tự tạo ra trẻ. Đồng

thời, kỹ thuật TTTON với việc hủy phôi đã đi ngược lại với quan điểm của

Giáo hội. Đạo luật số 94-653 năm 1994 (còn gọi là Luật đạo đức sinh học)

của Pháp cấm việc mang bầu và đẻ thuê. Bất kỳ thoả thuận "mang thai hộ"

nào dù mang tính thương mại hay không cũng là là bất hợp pháp.

Tại tỉnh Quebec, Canada cấm tất cả các thỏa thuận "mang thai hộ". Bộ

18

luật Dân sự Quebec làm cho tất cả các hợp đồng "mang thai hộ", cho dù

thương mại hay nhân đạo, đều không thể thực thi. Điều 541, Bộ luật dân sự

của Quebec năm 1991 quy định: "bất kỳ thỏa thuận nào, theo đó một người

phụ nữ cam kết sinh sản hoặc mang theo một đứa trẻ cho một người khác là

hoàn toàn vô giá trị".

b. Một số bang ở Mỹ

Các bang Arizona, Indiana, Michigan, Uhtar, North Dakota “mang thai

hộ” lại bị cấm tuyệt đối. Pháp luật bang Michigan cấm hoàn toàn tất cả các

thỏa thuận "đẻ thuê" hay nói cách khác là "mang thai hộ" có tính chất thương

mại. Đó là một trọng tội nếu tham gia vào thỏa thuận như vậy, và có thể bị

phạt phạt tiền lên đến 50.000 USD và tối đa năm năm tù giam. Pháp luật làm

cho họ không thể thực thi việc mang thai hộ ở tiểu bang này.

c. Một số nƣớc ở châu Á

Trung Quốc là một quốc gia còn tồn tại cấu trúc mô hình gia đình

truyền thống. Trong mô hình truyền thống này, người phụ nữ sẽ kết hôn và

sinh con một cách tự nhiên. Do vậy, việc mang thai bằng kỹ thuật TTTON với

phụ nữ đơn thân không được khuyến khích ở Trung Quốc. Phụ nữ độc thân

mang thai và sinh con tự nhiên hay bằng phương pháp TTTON đều không

được cấp giấy khai sinh. Điều này dẫn tới việc đứa trẻ sẽ không có hộ khẩu

(hay gọi là hukou) – giấy phép cư trú của địa phương để được tham gia vào

các dịch vụ xã hội, bao gồm giáo dục công cộng, sức khỏe y tế, hộ chiếu, trừ

khi họ đóng một loại phí gọi là “phí bảo trì xã hội” (social maintenance fee)

đối với hành vi vi phạm “Chính sách một con” của Trung Quốc.

Nhật Bản tuy là một trong số các quốc gia đi đầu trong khu vực về

khoa học và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, tuy nhiên, Nhật Bản vẫn chưa có

luật về công nghệ sinh sản. Hiện nay, dự thảo vẫn đang được thảo luận một số

vấn đề gây tranh cãi, bao gồm vệc đẻ thuê, cho và nhận tinh trùng, noãn từ

người hiến tặng. Do nền tảng tư duy của người Nhật Bản về tầm quan trọng

của gia đình huyết thống, tức là các thành viên trong gia đình phải có mối

19

quan hệ huyết thống với nhau. Việc cho nhận tinh trùng, noãn từ người hiến

tặng sẽ vi phạm sâu sắc tới mô hình gia đình này. Bởi chưa có luật điều chỉnh,

nên đã xảy ra trường hợp một người mẹ đơn thân không thể mang thai đã

dùng noãn của mình và nhờ mang thai hộ, dẫn tới việc đứa trẻ sinh ra bằng

phương pháp TTTON có hai người mẹ: mẹ sinh học (người mang thai và sinh

ra đứa trẻ) và mẹ cung cấp noãn. Trong trường hợp này, Tòa án tối cao Nhật

Bản đã phán quyết phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ hợp pháp của đứa trẻ, song

Bộ luật dân sự Nhật Bản lại chưa có quy định liên quan tới vấn đề này. Do

vậy, tình trạng pháp lý cũng như quyền và lợi ích của phụ nữ độc thân cũng

như đứa trẻ do phụ nữ độc thân sinh ra không được đảm bảo, gây bất lợi trong

việc nuôi dưỡng, chăm sóc đứa trẻ cũng như quyền thừa kế của trẻ trong

trường hợp không có di chúc.

2.1.2.1.Các quốc gia hợp pháp hóa mang thai hộ

Trên thế giới hiện nay nhiều nước, vùng lãnh thổ cho phép mang thai

hộ đã quy định cụ thể trong luật như: Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan,

Hunggari, Canada, Australia, Nam Phi, Brazin, Hy Lạp, Estonie, Equateur,

Hong Kong, Ấn Độ, Iran, Nga, Salvador, Ukraine, Pháp. Và tại Mỹ, một thiểu

số bang cho phép mang thai hộ như bang Arkansas, Californie, Illinois, New-

Hampshire, Texas, Utah, Virginie, Kentucky, Washington, thậm chí, các bang

Alaska, Lowa, Nevada cho phép ngay cả khi thỏa thuận mang thai hộ vì mục

đích kinh tế.

a. Một số nƣớc ở châu Âu

Tại Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả

việc quảng cáo để tìm người mang thai hộ đều được cho phép, cụ thể là quy

định tại Luật về thụ tinh nhân tạo năm 1994: thừa nhận tính hợp pháp của việc

chuyển quyền làm cha mẹ từ người đẻ thuê sang người thuê đẻ; quan hệ cha

mẹ được thiết lập bằng quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời, từ yêu cầu

của cha mẹ thuê đẻ. Người mẹ đẻ thuê có 6 tuần để phản đối việc xác định

quan hệ cha mẹ này. Bộ Luật Hình sự của Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho

20

người môi giới cha mẹ thuê đẻ và người mang thai hộ.

Ở Ukraine, từ năm 2002, "mang thai hộ" đã được công nhận và hoàn

toàn hợp pháp. “Mang thai hộ” được chính thức quy định bởi Bộ luật Gia

đình Ukraine và Lệnh 771 của Bộ Y tế Ukraine. Theo đó, vợ chồng hiếm

muộn có thể lựa chọn giữa thai “mang thai hộ”, hiến trứng hoặc tinh trùng,

phôi thai thông qua các chương trình đặc biệt và sự kết hợp của chúng mà

không cần có sự cho phép từ bất kỳ cơ quan quản lý. Sự đồng ý bằng văn bản

của tất cả các bên tham gia (người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ)

trong thỏa thuận “mang thai hộ" là bắt buộc. Theo luật của Ukraine, người

“mang thai hộ” không có quyền đối với trẻ em sinh ra và đứa trẻ sinh ra về

mặt pháp lý là con của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Tên của người “mang

thai hộ” là không bao giờ được liệt kê trong giấy khai sinh. Người mang thai

hộ cũng không thể giữ đứa trẻ sau khi sinh. Ngay cả khi một chương trình

quyên góp đã diễn ra và không có mối quan hệ sinh học giữa đứa trẻ và cha

mẹ nhờ mang thai hộ thì tên của họ vẫn được ghi trong giấy khai sinh (khoản

3 trong tổng số 123 điều của Bộ Luật Gia Đình của Ukraine. Phương pháp

mang thai hộ cũng có thể được áp dụng với những người phụ nữ độc thân

bằng việc áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của những

người hiến tặng đã biết hoặc vô danh. [34, tr.30]

b. Australia

Đạo luật mang thai hộ năm 2010 của Australia quy định, việc mang

thai hộ được công nhận nếu giữa người mang thai hộ và người nhờ mang thai

hộ có thỏa thuận đứa trẻ sau khi sinh ra là con của người nhờ mang thai hộ,

chuyển giao quyền nuôi dưỡng và giám hộ đứa trẻ cho người nhờ mang thai

hộ; người nhờ mang thai hộ đồng ý nhận trách nhiệm lâu dài trong việc nuôi

dưỡng và giám hộ cho đứa trẻ. Luật này cũng quy định hậu quả của việc

mang thai hộ theo một số nguyên tắc: một là, người phụ nữ mang thai hộ và

chồng của người phụ nữ này sẽ là bố mẹ hợp pháp của đửa trẻ từ lúc bắt đầu

mang thai cho đến khi chuyển giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Do đó,

21

trong quá trình mang thai, tính mạng của đứa trẻ hoàn toàn do người phụ nữ

mang thai hộ quyết định. Nếu người này muốn từ bỏ đứa trẻ thì việc đó là hợp

pháp. Hai là, theo thỏa thuận giữa hai bên, sau khi đứa trẻ sinh ra mà có bất

kỳ sự tranh chấp nào về quyền nuôi dưỡng hoặc giám hộ cho đứa trẻ thì

quyền giám hộ hợp pháp thuộc thẩm quyền của Tòa vị thành niên. Nguyên tắc

giải quyết của Tòa vị thành niên là vì lợi ích tốt nhất của đứa trẻ. [33, tr.8]

c. Một số nƣớc ở châu Á

Mặc dù vấn đề "mang thai hộ" vẫn còn gây tranh cãi và bị cấm ở nhiều

quốc gia nhưng ở Ấn Độ "mang thai hộ" lại phát triển mạnh kể từ khi Tòa án

tối cao hợp pháp hóa vấn đề này. Năm 2010, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua

dự luật điều chỉnh công nghệ sinh sản có hỗ trợ. Theo luật mới này, tuổi

người mang thai hộ không được dưới 21 hoặc hơn 35 nhằm hạn chế tình trạng

trước đây, có nhiều người mang thai hộ ở tuổi vị thành niên hoặc trên 40 tuổi.

Nếu đương sự có chồng, họ phải được sự đồng ý của chồng. Người mang thai

hộ cũng không được sinh nở quá năm lần, tính cả lần sinh con ruột. Điều

khoản này nhằm bảo vệ sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh. Riêng mang thai hộ,

luật không cho phép thực hiện quá 03 lần cho cùng một cặp vợ chồng. Trong

luật cũng quy định rõ chỉ có công dân Ấn Độ mới được ký hợp đồng "mang

thai hộ". Không bệnh viện nào được phép đưa người ra nước ngoài để "mang

thai hộ". Tên tuổi người mang thai hộ phải được giữ bí mật tối đa. Đạo luật

cũng có một điều khoản quan trọng quy định rằng giấy khai sinh em bé phải

ghi tên cha mẹ là người nhờ "mang thai hộ" và những người này phải chấp

nhận nuôi dưỡng đứa bé cho dù gặp phải trường hợp mắc bệnh bẩm sinh.

Ở Thái Lan, mang thai hộ vì mục đích thương mại bị cấm. Ngày

28/11/2014, Quốc hội Thái Lan đã bỏ phiếu lần một thông qua dự luật cấm

dịch vụ mang thai hộ. Dự luật này có hiệu lực từ tháng 6 năm 2015. Theo dự

luật này, người thuê sẽ bị phạt đến 10 năm tù và/hoặc phạt tiền 200.000 baht,

còn người môi giới sẽ bị phạt đến 05 năm tù và/hoặc bị phạt 100.000 baht. Dự

luật là một danh sách các thủ tục để bảo vệ các em bé được hình thành qua

22

việc "mang thai hộ", người mang thai hộ và kiểm soát mối quan hệ pháp lý

giữa người "mang thai hộ", người mẹ và người cha của bé. Dự thảo đã ghi

nhận các điều kiện của mang thai hộ, cụ thể: Cha và mẹ thật của đứa bé không

thể có con được và muốn có một đứa con bằng cách nhờ một người phụ nữ

khác mang thai hộ. Cặp vợ chồng này phải sẵn sàng cả tâm lý, tinh thần, và

vật chất để trở thành cha mẹ khi em bé ra đời; Người mang thai hộ không phải

là mẹ của đứa trẻ được sinh ra; Người mang thai hộ phải có một đứa con

trước khi thực hiện "mang thai hộ" và nếu đã kết hôn, phải được sự đồng ý

của chồng mình. Ðiều này rõ ràng là rất cần thiết để phòng việc cô và gia đình

tuyên bố bất kỳ quyền lợi gì khi em bé ra dời. Mặc dù vậy, Cơ quan y tế của

Thái Lan vẫn có thể tuyên bố thêm điều kiện và điều khoản theo sự thích hợp

và chứng thực của Hội đồng bảo vệ trẻ Em. [34, tr.33]

2.1.2. Lịch sử hình thành phát triển pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam

Ở Việt Nam, vào ngày 30/4/1998, 03 em bé TTTON đầu tiên chào đời

tại bệnh viện Từ Dũ, đánh dấu một bước ngoặt lớn cho ngành sản khoa Việt

Nam. Mặc dù ở nước ta, kỹ thuật TTTON được thực hiện thành công khá

muộn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Song, trong những

năm gần đây, nền y học nước nhà đã đạt được những bước tiến nhanh và đáng

khích lệ, ngay cả khi Luật HN&GĐ năm 2000 chưa quy định về mang thai

hộ. [24]

Tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của

Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa học đã nghiêm cấm

hành vi mang thai hộ. Vì thế chưa có văn bản nào quy định hậu quả pháp lý

cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và

quyền tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan (người mang thai,

người nhờ mang thai hộ).

Năm 2011, Bộ Y tế đã tổ chức Đánh giá 08 năm thi hành Nghị định số

12/2003/NĐ-CP. Qua khảo sát 07 Trung tâm hỗ trợ sinh sản được Bộ Y tế ra

quyết định công nhận đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật thụ tinh nhân tạo,

23

TTTON, các Trung tâm đều nêu khó khăn trong việc thực hiện khoản 1 Điều

6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP. Thực tế, pháp luật bấy giờ quy định cấm

mang thai hộ, tuy nhiên các bác sĩ hay nhân viên của Trung tâm không có

nghiệp vụ nên khó có thể phát hiện trường hợp mang thai hộ với trường hợp

thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Qua toạ đàm, các Trung tâm đều có ý kiến

hiện nay có nhiều trường hợp đến gặp bác sĩ bày tỏ nguyện vọng tha thiết

được làm kỹ thuật TTTON để nhờ người mang thai hộ. Tuy nhiên, các bác sĩ

đều từ chối vì pháp luật không cho phép. Có trường hợp các bác sĩ phát hiện

được mang thai hộ là do nghi ngờ và yêu cầu kiểm tra chứng minh nhân dân

nhưng vẫn không dám khẳng định chắc chắn là trong các ca do mình thực

hiện có ca nào là mang thai hộ không. Đây cũng là một áp lực cho đội ngũ

cán bộ, nhân viên y tế khi thực hiện hỗ trợ sinh sản vì nếu vô tình thực hiện

mang thai hộ (do không biết vì không có nghiệp vụ cũng như không có quy

định pháp luật để kiểm tra trường hợp) nên có thể thực hiện hành vi vi phạm

pháp luật và bị xử phạt. Trong Báo cáo tổng kết 08 năm thi hành Nghị định số

12/2003/NĐ-CP đề xuất xem xét bỏ quy định cấm mang thai hộ tại Việt Nam

và quy định cho phép mang thai hộ cũng như cơ chế kiểm soát chặt chẽ các

trường hợp này.

Do nhu cầu của xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày

19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật HN&GĐ

năm 2014, cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và đã quy định cụ thể

về hậu quả pháp lý cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền

nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan. Năm

2015 đánh dấu sự ra đời của Nghị định 10/2015/NĐ-CP và Thông tư

57/2015/TT-BYT hướng dẫn thi hành Nghị định 10/2015/NĐ-CP do Bộ

trưởng Bộ Y tế ban hành; Quyết định 7358/QĐ-BYT năm 2016 công bố thủ

tục hành chính được quy định tại Nghị định 98/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị

định 10/2015/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. Lần đầu tiên, pháp luật

Việt Nam ghi nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng như đưa ra

24

nhiều quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết quy trình thực hiện sinh con bằng kỹ

thuật TTTON, mở đường cho hàng triệu gia đình, mang đến hy vọng cho

hàng triệu người khó có khả năng mang thai tự nhiên tại Việt Nam.

Từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP có hiệu

lực pháp luật. Bệnh viện Từ Dũ đã được phép áp dụng kỹ thuật mang thai hộ

tại bệnh viện bắt đầu từ tháng 7/2015, tính đến nay đã có 117 ca mang thai hộ

(riêng năm 2018 có 31 ca), trong đó có 58 ca có thai, chiếm tỉ lệ 50%. Hiện đã

có 33 bé được sinh ra nhờ mang thai hộ. Tại Bệnh viện Mỹ Đức, trường hợp

đầu tiên sinh bé từ chương trình mang thai hộ được ghi nhận là bé trai, cân

nặng 3.100g vào ngày 03/8/2018. Hiện bệnh viện đã có 04 bé chào đời và

hoàn tất việc chuyển phôi cho 25 trường hợp. [17]

2.1.3. Nội dung pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay

Theo quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản hướng

dẫn thi hành, pháp luật Việt Nam hiện chỉ cho phép thực hiện hoạt động mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo. Vì đây là hoạt động có ảnh hưởng đến nhiều

đối tượng chủ thể, lại là hoạt động khá đặc biệt nên pháp luật Việt Nam có

những quy định rất chặt chẽ về điều kiện, về quyền và nghĩa vụ của các bên

chủ thể, về trình tự, thủ tục, và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo này.

2.1.3.1. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Để tránh tình trạng nhờ người khác mang thai hộ một cách bừa bãi,

pháp luật đã quy định chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới được phép

nhờ mang thai hộ và phải đáp ứng những điều kiện rất chi tiết, cụ thể theo luật

định. Cụ thể, bên nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện như: người vợ

không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền; vợ chồng không có con chung và

đã được tư vấn về pháp lý, y tế, tâm lý... Quy định chi tiết như vậy là nhằm

hạn chế việc lợi dụng mang thai hộ trong khi chính người phụ nữ vẫn có khả

năng làm mẹ, đồng thời đó cũng là một cách để hạn chế việc thương mại hóa

25

mang thai hộ.

Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định rất cụ thể về điều kiện mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo với đối với từng bên tham gia quan hệ pháp luật này

như sau:

a. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đƣợc thực hiện trên cơ sở tự

nguyện của các bên và đƣợc lập thành văn bản thoả thuận

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

phải dựa trên sự tự nguyện của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ bằng

việc tham gia kí kết văn bản thỏa thuận, gọi là thỏa thuận mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo. Thỏa thuận này là sự ràng buộc trách nhiệm của các bên từ khi

bắt đầu thực hiện việc mang thai hộ cho tới khi giao nhận con, đồng thời, là cơ

sở pháp lý để thực hiện các thủ tục cần thiết như khai sinh cho đứa trẻ được sinh

ra từ việc mang thai hộ hoặc khi có tranh chấp giữa các bên.

b. Điều kiện đối với bên nhờ mang thai hộ

* Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không

thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Khái niệm “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” theo khoản 22 Điều 3

Luật HN&GĐ năm 2014 “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một

người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho

cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp

dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng

của người chồng để TTTON, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự

nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Ngay trong khái

niệm này đã xác định cụ thể đối tượng được áp dụng mang thai hộ, mang thai

hộ chỉ được đặt ra đối với những cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang

thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Vợ chồng trong

trường hợp này phải là những người có hôn nhân hợp pháp, nghĩa là phải

đăng kí kết hôn hoặc quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987

26

(ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực).

Các trường hợp sau đây có thể được xem xét mang thai hộ do nguyên

nhân y khoa, nghĩa là một cặp vợ chồng không thể có con ngay cả khi áp

dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc việc mang thai có thể nguy hiểm cho sức

khỏe, tính mạng của người vợ và của trẻ sinh ra: Đã phẫu thuật cắt tử cung do

bệnh lý hay do các tai biến sản khoa…; Không có tử cung hay dị dạng tử cung

bẩm sinh; Người vợ bị bệnh nội khoa nặng không thể mang thai: ví dụ bệnh

tim, suy tim…; Có thể xem xét các trường hợp sẩy thai nhiều lần hay thất bại

TTTON nhiều lần do vấn đề liên quan đến tử cung. [32]

Do đó, điều kiện đầu tiên đối với bên nhờ mang thai hộ là phải có

xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang

thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại điểm a khoản

2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014. Xác nhận này để đảm bảo hoàn toàn việc

người vợ không có khả năng sinh con. Điểm đ khoản 1 Điều 14 Nghị định số

10/2015/NĐ-CP quy định trong hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo cần có: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh

được thực hiện kỹ thuật TTTON về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ

có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi

và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản”. Như vậy, qua quy định này có thể hiểu là cơ sở y tế được thực

hiện kỹ thuật TTTON mới có thẩm quyền xác nhận người vợ không có khả

năng mang thai ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Giấy xác nhận

này mang ý nghĩa quan trọng và cần sự chính xác hoàn toàn vì vậy cơ sở y tế

có khả năng thực hiện kỹ thuật TTTON để hỗ trợ sinh sản mới có đủ chuyên

môn cần thiết để đánh giá đúng về tình trạng của người vợ xem có khả năng

mang thai sinh con hay có thể áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hay không

* Vợ chồng đang không có con chung

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định một trong những điều kiện đối với

bên nhờ mang thai hộ là vợ chồng đang không có con chung. Quy định này có

27

thể hiểu vợ chồng nhờ mang thai hộ phải chưa từng có con chung cho đến

thời điểm nhờ người mang thai hộ hoặc vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đã

từng có con chung nhưng ở thời điểm hiện nay đứa con đã không còn sống, vì

thế họ muốn có thêm con, nhưng lại không thể do không thụ thai được nữa.

Trong trường hợp, vợ chồng đã có con riêng nhưng đang không có con chung

thì vẫn thuộc trường hợp được nhờ mang thai hộ nhưng nếu vợ chồng không

có con riêng nhưng có con chung, con chung đó đã cho người khác nhận nuôi

hoặc bị mắc chứng bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác làm cho đứa con

không phát triển được bình thường… thì lại không được nhờ mang thai hộ.

Với điều kiện trên, vợ chồng có con nhưng con bị bệnh lý di truyền,

dị tật bẩm sinh nếu muốn sinh thêm con nữa thì không thể nhờ mang thai hộ.

Nhưng nhiều ý kiến cho rằng xét về tình thì được nhờ mang thai hộ trong

trường hợp này rất chính đáng, nhân văn. Trước vấn đề này, ông Nguyễn

Hồng Hải Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp cũng

giải thích chi tiết: “Ở đây chúng tôi quan tâm về quyền con người, đặc biệt là

quyền lợi đứa con vì trong hoàn cảnh này mà cho mang thai hộ sẽ đồng nghĩa

với việc không thừa nhận đứa trẻ này là người bình thường, gạt bé ra “bên

lề”, vô tình gây ảnh hưởng đến sự phát triển của con. Một đứa trẻ sinh ra dù

bị dị tật thì cũng là con của cha, của mẹ, cần được bảo vệ, chăm sóc chu

đáo”. [25, tr.41]

Quy định chỉ áp dụng mang thai hộ khi vợ chồng chưa có con chung

bởi lẽ mang thai hộ là nhằm mục đích nhân đạo, là một nghĩa cử cao đẹp giữa

những người phụ nữ với nhau, giống một sự hỗ trợ, giúp đỡ để những người

kém may mắn có thể hưởng niềm vui được làm mẹ và khi niềm khao khát có

một đứa con ruột thịt thành hiện thực, niềm hạnh phúc làm mẹ thật thiêng

liêng, đáng trân trọng. Quy định này nhằm góp phần hạn chế việc nhờ mang

thai hộ tràn lan, việc mang thai ảnh hưởng lớn đến người phụ nữ nên không

thể xem nhẹ mà chỉ được áp dụng mang thai hộ là giải pháp tối ưu cuối cùng

28

cho người phụ nữ không thể mang thai và sinh con.

* Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý

Do mang thai hộ là một biện pháp phức tạp về mọi mặt nên người

nhờ mang thai hộ cần phải được chuẩn bị đầy đủ những thông tin, kiến thức

trong cả quá trình mang thai hộ về y tế, pháp lý và tâm lý.

Tư vấn về y tế thì Điều 15 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP nêu ra một

số nội dung cần thiết bao gồm: “Các phương án khác ngoài việc mang thai hộ

hoặc xin con nuôi; Quá trình thực hiện kỹ thuật TTTON và mang thai hộ; Các

khó khăn khi thực hiện mang thai hộ; Tỷ lệ thành công của kỹ thuật có thể rất

thấp nếu dự trữ buồng trứng của người vợ thấp hoặc người vợ trên 35 tuổi;

Chi phí điều trị cao; Khả năng đa thai”. Việc nắm bắt đầy đủ thông tin liên

quan đến y tế trong toàn bộ quá trình mang thai hộ là việc làm hết sức cần

thiết đối với bên nhờ mang thai hộ. Do mang thai hộ là một biện pháp hỗ trợ

sinh sản yêu cầu sự can thiệp của y tế nhiều và rất phức tạp.

Tư vấn về pháp lý là cung cấp, giải đáp thông tin để người nhờ mang

thai hộ biết và hiểu được quyền cũng như nghĩa vụ của mình. Từ chỗ hiểu

được các quyền và nghĩa vụ của mình, người mang thai hộ sẽ có những ứng

xử phù hợp với quy định của pháp luật, gi p hạn chế những tranh chấp xảy ra

giữa các bên trong quan hệ mang thai hộ. Hay những điều kiện, thủ tục cần

thiết về mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ cần nắm được.

Tư vấn về tâm lý cũng là việc cần thiết đối với bên nhờ mang thai hộ

dù người nhờ mang thai hộ không trải qua cảm giác mang thai và sinh con

nhưng họ vẫn cần chuẩn bị tâm lý để đón nhận đứa trẻ, để sẵn sàng làm mẹ.

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã đưa ra một số nội dung tâm lý mà bên nhờ

mang thai hộ cần được tư vấn trong khoản 1 Điều 17 gồm có: “Các vấn đề về

tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ mang thai hộ, người thân và bản

thân đứa trẻ sau này; Người mang thai hộ có thể có ý định muốn giữ đứa bé

sau sinh; Hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh hưởng đến

sức khỏe của đứa trẻ; Tâm lý, tình cảm khi nhờ người mang thai và sinh con;

Thất bại và tốn kém với các đợt điều trị mang thai hộ có thể gây tâm lý căng

29

thẳng, mệt mỏi; Các nội dung khác có liên quan.”

c. Điều kiện đối với bên đƣợc nhờ mang thai hộ

* Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ

mang thai hộ

Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP giải thích người thân

thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ gồm: “Anh,

chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con

chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu

của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ”.

Quy định này đã phần nào giải quyết được khúc mắc về nội hàm của khái

niệm “người thân thích cùng hàng” được đặt ra trong Luật HN&GĐ năm

2014 nhằm hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ.

Dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng

vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai

hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất

trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định số 10/2015/NĐ-CP

đã nêu trên đều không có chị em gái, hoặc có chị em gái nhưng những người

này không đáp ứng đủ các điều kiện khác như là người chưa thành niên, hay

đã thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc mang

thai hộ sẽ không thể được tiến hành nên nhiều ý kiến cho rằng nên mở rộng

đối tượng được phép mang thai hộ. Tuy nhiên, xét một khía cạnh khác của

vấn đề này, việc mở rộng đối tượng cho phép mang thai hộ lại chứa đựng

nhiều bất ổn có thể xảy ra trong thực tiễn, nhất là khi cơ sở để phân biệt nhân

đạo và thương mại lại rất mong manh, khó xác định. Theo TS Nguyễn Văn

Cừ, Chủ nhiệm Khoa Pháp luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội – thành

viên tổ biên tập sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000 cho biết: “Đây là điều hợp

lý bởi sẽ tránh được những vấn đề phát sinh phức tạp về tranh chấp đứa trẻ.

Tuy nhiên, chưa thể mở rộng đối tượng những người được phép mang thai hộ

30

bởi điều đó dễ gây phát sinh chuyện hợp đồng, kinh doanh”. [25, tr.45]

* Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần

Điều kiện yêu cầu người được nhờ mang thai hộ đã từng có thai và

sinh con để đảm bảo rằng người mang thai hộ đã có kinh nghiệm cho việc

mang thai, quy định này cũng nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và con.

Mang thai và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua

nhiều giai đoạn khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi,

chăm sóc đặc biệt để đảm bảo thai nhi phát triển khỏe mạnh. Người đã từng

mang thai sẽ có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc và giữ gìn thai nhi

hơn cũng như biết cách phòng ngừa những biến chứng, những tác động không

tốt đến sức khỏe của thai nhi từ đó ảnh hưởng tới sự thành công của việc

mang thai hộ. Hơn nữa, người đã từng mang thai sẽ hiểu được những ảnh

hưởng về sức khỏe và đặc biệt là tâm lý của thai nhi mang lại, từ đó sẽ hạn

chế được phần nào khả năng tranh chấp có thể phát sinh giữa hai bên do việc

phát sinh tình cảm gắn kết giữa người mang thai hộ và đứa trẻ.

Pháp luật cũng quy định người mang thai hộ chỉ được mang thai hộ

một lần nhằm đảm bảo sức khỏe cho người mang thai hộ, đồng thời hạn chế

được việc biến tấu mang thai hộ trở thành dịch vụ đã được thương mại hóa.

Tuy nhiên, nếu đứa trẻ trong trường hợp mang thai hộ không may chết ngay

sau khi sinh hoặc trước thời điểm sinh thì mục đích cuối cùng của mang thai

hộ chưa đạt được và theo quy định thì người nhận mang thai hộ không thể

mang thai hộ thêm lần thứ hai. Do vậy pháp luật cần cân nhắc đến trường hợp

này để quy định có thể đạt được mục đích cuối cùng của việc mang thai hộ.

* Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền

về khả năng mang thai hộ

Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ mới quy định người được nhờ

mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp, tuy nhiên, độ tuổi nào là độ tuổi thích

hợp thì chưa được quy định. Theo Tiến sĩ bác sĩ Lê Thị Thu Hà, Trưởng khoa

Hậu sản Nhi, Bệnh viện Từ Dũ TP.HCM cho rằng: “Độ tuổi làm mẹ tốt nhất

31

trước hết cơ thể phát triển toàn diện để đảm nhiệm khả năng sinh sản tốt,

vững vàng về kiến thức, định hình về tính cách, ổn định tâm lý, tự tin vào bản

thân và độc lập về tài chính. Độ tuổi sinh sản tốt là không dưới 18 tuổi. Phụ

nữ còn trẻ đã mang thai, lúc này cơ thể chưa phát triển đầy đủ và cũng chưa

sẵn sàng về cả mặt tâm lý lẫn sinh lý nên dễ dẫn đến sẩy thai hoặc các hiện

tượng khác như thai yếu, sinh non. Bởi cơ thể người mẹ còn quá trẻ sẽ chưa

phát triển đầy đủ, xương chậu chưa nở tốt dễ bị sang chấn khi sinh đẻ, tỷ lệ

mổ lấy thai cũng cao hơn. Việc nuôi con của các bà mẹ trẻ cũng gặp không ít

khó khăn do thiếu về tài chính lẫn kiến thức. Ngược lại với phụ nữ trên 35

tuổi thì khả năng mang thai giảm so với độ tuổi dưới 30, và nguy cơ trẻ mắc

bệnh down và các hiện tượng đột biến gene cũng tăng cao. Tỷ lệ này là 1/400

đối với độ tuổi 35 và sẽ dần tăng lên mức 1/109 ở các bà mẹ sinh con khi ở

tuổi 40. Khi ở tuổi 45, nguy cơ này là 1/32 (so với tỉ lệ 1/1.500 ở tuổi 25).

Ngoài ra, các nguy cơ khác như các dị tật, bệnh bẩm sinh do sự biến đổi

gene. Như vậy độ tuổi mang thai tốt nhất trung bình khoảng 22 – 33 tuổi”

[42]. Như vậy, độ tuổi thích hợp để có một “ca” mang thai hộ thành công

được khuyến khích là từ 20 đến 35 tuổi. Độ tuổi của người mang thai hộ

không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe của chính người đó mà còn ảnh hưởng tới

phôi được cấy vào trong tử cung của người đó. Ngoài ra, người mang thai hộ

không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV-AIDS, bệnh tâm

thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác thì việc yêu cầu khung

độ tuổi được phép mang thai hộ là rất cần thiết.

Đối với việc xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng

mang thai hộ, điểm e khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy

định: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ

thuật TTTON đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy

định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này

và đã từng sinh con”. Vậy nên bản xác nhận về khả năng mang thai của người

phụ nữ được nhờ mang thai hộ phải do cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện

32

kỹ thuật TTTON đối với người mang thai hộ. Quy định như vậy là hoàn toàn

hợp lý, do chỉ những cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật TTTON

đối với người mang thai hộ mới có đủ chuyên môn để đánh giá đúng thể trạng

của người phụ nữ được nhờ mang thai hộ có khả năng tiếp nhận phôi và mang

thai hộ hay không vì đây là bước quan trọng nhất trong kỹ thuật thực hiện

việc mang thai hộ.

* Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự

đồng ý bằng văn bản của người chồng

Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ

mang thai hộ và cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi quyết định một

chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con

là một nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh phúc gia đình cũng là

nhu cầu chính đáng cần được bảo vệ. Mặt khác, người phụ nữ khi mang thai,

đặc biệt là mang thai hộ có nhiều biến đổi về tâm lý cũng như sức khỏe nên rất

cần sự động viên và quan tâm chăm sóc của người chồng để việc mang thai

được thuận lợi. Hơn nữa, mang thai hộ là một vấn đề phức tạp để tránh được

tối đa những tranh chấp có thể xảy ra, người vợ nhận mang thai hộ phải có sự

đồng ý của người chồng và sự đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản.

* Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý

Mang thai hộ là việc khá phức tạp và có ảnh hưởng lớn nhất đến

người được nhờ mang thai hộ cả về tâm lý và sức khỏe, do đó, người nhận

mang thai hộ cần nắm rõ mọi quy định về mang thai hộ trong pháp luật,

những ảnh hưởng về tâm lý, sức khỏe cũng như cần chuẩn bị tâm lý đầy đủ

trước khi nhận mang thai hộ.

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng đã quy định rõ những nội dung

cần tư vấn y tế cho người nhận mang thai hộ bao gồm: “Các nguy cơ, tai biến

có thể xảy ra khi mang thai như sảy thai, thai ngoài tử cung, băng huyết sau

sinh và các tai biến khác; Khả năng phải mổ lấy thai; Khả năng đa thai; Khả

năng em bé bị dị tật và phải bỏ thai”. Đồng thời, quy định rõ hồ sơ yêu cầu

33

mang thai hộ cần có bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ làm việc

tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ

thuật TTTON. Như vậy, cả bên nhờ mang thai hộ và bên được nhờ mang thai

hộ đều phải được tư vấn y tế từ bác sỹ chuyên khoa sản làm việc tại cơ sở

khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật

TTTON. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý về mặt chuyên môn mà người

tư vấn cần có đủ để có thể tư vấn tốt nhất cho các bên.

Đối với tư vấn về pháp lý, người được nhờ mang thai hộ cần nắm được

những nội dung cơ bản như: Xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014;

Quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại

Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014; Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014. Việc tư

vấn về pháp lý cho người mang thai hộ là việc rất cần thiết và quan trọng vì họ

cần nắm rõ quyền cũng như nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định khi tham

gia nhận mang thai hộ để tránh xảy ra những tranh chấp không đáng có. Nghị

định số 10/2015/NĐ-CP nêu rõ người có thẩm quyền, trách nhiệm tư vấn pháp

lý cho người được nhờ mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ là người

có trình độ cử nhân luật trở lên làm việc tại tổ chức có tư cách pháp nhân về trợ

giúp pháp lý, tư vấn pháp luật.

Việc mang thai cũng ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của người mang

thai cũng như những người xung quanh họ. Chính vì vậy, người được nhờ

mang thai hộ cần được tư vấn để chuẩn bị trước tâm lý cho bản thân cũng như

cho những người xung quanh họ. Người tư vấn về tâm lý cho người được nhờ

mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ phải có trình độ đại học

chuyên khoa tâm lý trở lên làm việc tại cơ sở được cấp giấy phép hoạt động

có phạm vi hoạt động chuyên môn tư vấn tâm lý và phải tư vấn tâm lý đầy đủ

các nội dung cần tư vấn. Nội dung tư vấn tâm lý gồm có: Tâm lý, tình cảm

34

của người trong gia đình, bạn bè trong thời gian mang thai hộ; Tâm lý trách

nhiệm đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nếu để sảy thai, Tác động tâm

lý đối với con ruột của mình; Cảm giác mất mát, mặc cảm sau khi trao lại con

cho cặp vợ chồng nhờ mang thai; Chỉ thực hiện mang thai hộ khi động lực

chính là mong muốn giúp đỡ cho cặp vợ chồng nhờ mang thai, không vì mục

đích lợi nhuận;…

d. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không đƣợc trái với quy định

của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản

Mang thai hộ cũng là một trường hợp của phương pháp sinh con theo

phương pháp khoa học, sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là

TTTON. Chính vì vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được

trái với những quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh

sản. Quan trọng nhất là nguyên tắc cơ bản khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh

sản bao gồm:

- Thứ nhất, các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền

sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa;

- Thứ hai, việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng

quy trình kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành;

- Thứ ba, TTTON, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và

nhận phôi, được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện;

- Thứ tư, việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực

hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi

của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ

đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc;

- Thứ năm, việc thực hiện kỹ thuật TTTON phải tuân theo quy trình

kỹ thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật

TTTON, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. (theo Điều 3

35

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).

2.1.3.2. Quy định pháp luật về thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

và quyền và nghĩa vụ của các bên mang thai hộ

a. Thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện nay chỉ cho phép mang thai hộ trong

trường hợp vì mục đích nhân đạo và để đảm bảo tính hợp pháp của việc mang

thai hộ và giúp các bên phân định rõ trách nhiệm cũng như quyền lợi của

mình đồng thời là căn cứ giải quyết các tranh chấp phát sinh pháp luật yêu

cầu việc mang thai hộ phải được xác lập theo thỏa thuận đúng với quy định

của pháp luật đặc biệt là Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo đó, thỏa

thuận phải đáp ứng những điều kiện sau:

- Thứ nhất, về nguyên tắc thỏa thuận mang thai hộ. Về bản chất, thỏa

thuận mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự, do đó cũng giống như các thỏa

thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cũng được pháp luật ghi nhận

nguyên tắc thỏa thuận chung là: tự nguyện. Đó phải là sự thỏa thuận mà có sự

thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, là sự ngang bằng về địa vị và

quyền lợi, không có sự lừa dối, ép buộc giữa người mang thai hộ và người

nhờ mang thai hộ. Việc ghi nhận nguyên tắc của thỏa thuận mang thai hộ là

cần thiết bởi nó là cơ sở quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của việc phát

sinh sự kiện mang thai hộ.

- Thứ hai, về hình thức thỏa thuận mang thai hộ. Pháp luật quy định

hình thức của thỏa thuận mang thai hộ như là một điều kiện để cặp vợ chồng

vô sinh được phép nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ do thỏa thuận mang

thai hộ có tính chất phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, đối tượng của hợp đồng

vô cùng đặc biệt nên thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản với

những nội dung cụ thể. Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận bắt buộc phải được

công chứng, chứng thực tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong

trường hợp một trong các bên vợ (chồng) của người mang thai hộ hoặc người

nhờ mang thai hộ không thể trực tiếp thỏa thuận về văn bản thì bên chồng

36

(vợ) còn lại phải ủy quyền cho nhau và việc ủy quyền phải lập văn bản có

công chứng. Quy định này nhằm đảm bảo cặp vợ chồng của mỗi bên đều biết

và đồng ý với việc mang thai hộ, tránh trường hợp một bên vợ (chồng) tự thực

hiện thỏa thuận dẫn đến những tranh chấp phát sinh sau này. Việc ủy quyền

chỉ được thực hiện giữa hai vợ chồng của bên mang thai hộ và bên nhờ mang

thai hộ mà không được ủy quyền cho người thứ ba, quy định này đề cao tính ý

chí, tự nguyện của hai bên tham gia thỏa thuận. Trường hợp thỏa thuận mang

thai hộ có sự tham gia của cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng biện pháp

kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có

thẩm quyền của cơ sở y tế.

- Thứ ba, về nội dung thỏa thuận mang thai hộ. Tương tự các thỏa

thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cần có những nội dung cơ bản

sau: Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các

điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này; Cam kết thực hiện

các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này; Việc giải

quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức

khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con,

việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối

với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và

các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; Trách nhiệm dân sự trong trường hợp

một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận. (theo khoản 1 Điều 96

Luật HN&GĐ năm 2014).

b. Quyền và nghĩa vụ các bên trong thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo

* Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của bên mang

thai hộ gồm:

Thứ nhất, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có

quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm

37

sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ

và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Đứa trẻ trong những tuần tuổi

đầu cần sự chăm sóc của bên mang thai hộ nên bên mang thai hộ có nghĩa vụ

chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi dưỡng đứa trẻ cho đến khi giao đứa trẻ

cho bên nhờ mang thai hộ. Bên mang thai hộ có nghĩa vụ phải trao con cho

bên nhờ mang thai hộ theo đúng thời gian đã thỏa thuận.

Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám,

các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai

theo quy định của Bộ Y tế. Quy định này nhằm bảo vệ đứa trẻ sinh ra được

khỏe mạnh, phát triển bình thường.

Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định

của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ

cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm

giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người

mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc

sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế

hoạch hóa gia đình. Chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ được

quy định chi tiết trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Nghị định

115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về

Bảo hiểm bắt buộc với một số quy định điển hình như sau: “Lao động nữ

mang thai hộ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; Trường

hợp ở xa cơ sở khám chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai

không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai; Trong

trường hợp sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì

được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám, chữa

bệnh có thẩm quyền với thời gian nghỉ việc tối đa cụ thể: 10 ngày nếu thai

dưới 05 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40

ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25

tuần tuổi trở lên; Trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở

tại tháng lao động nữ mang thai hộ sinh con nếu lao động đó đủ điều kiện

38

như pháp luật quy định;…”.

Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ

thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do

tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang

thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp

tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh

sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con

thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ

nhận con. Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn có con của bên nhờ mang thai

hộ nên việc mang thai hộ mới được tiến hành. Pháp luật cũng quy định đứa

trẻ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ được xác định là con của bên nhờ

mang thai hộ nên bên nhờ mang thai hộ buộc phải nhận con trong mọi tình

huống. Nếu bên nhờ mang thai hộ không nhận con theo thỏa thuận thì bên

nhận mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.

* Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của bên nhờ

mang thai hộ gồm:

Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực

tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.

Chế định mang thai hộ là chế định được đưa ra nhằm mục đích bảo vệ quyền

lợi làm cha mẹ của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, tuy rằng mang thai hộ chỉ

được chấp thuận trong trường hợp vì mục đích nhân đạo nhưng trong quá

trình mang thai hộ không tránh khỏi có những chi phí cần phải chi trả. Những

chi phí thực tế trong quá trình mang thai hộ liên quan đến chăm sóc sức khỏe

sinh sản bên nhờ mang thai hộ phải chi trả để đảm bảo sức khỏe và sự an toàn

cho mẹ và con như: chi phí khám thai thường xuyên (tối thiểu phải được

khám ba lần trên ba kỳ thai nghén), tiêm phòng, tiêm vắc xin, chi phí về chế

độ dinh dưỡng, ăn uống, nghỉ ngơi. Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp

người mang thai hộ đưa ra những đòi hỏi vô lý, vượt quá khả năng hỗ trợ của

39

người nhờ mang thai hộ.

Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo đối với ccho đâyon phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra.

Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của

pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi

con đủ 06 tháng tuổi.

Thứ ba, bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong

trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi

dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của

Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại

cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai

hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản

của bên nhờ mang thai hộ.

Thứ tư, giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác

của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của

Luật này, Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan. Đứa trẻ sinh ra trong

trường hợp mang thai hộ theo pháp luật được xác định là con đẻ của bên nhờ

mang thai hộ kể từ thời điểm sinh ra, theo đó những mối quan hệ với các

thành viên khác trong gia đình bên nhờ mang thai hộ cũng theo đó mà hình

thành như quan hệ ông, bà, cô dì, chú bác,… với cháu, kèm theo đó là những

quyền và nghĩa vụ của các mối quan hệ theo quy định của pháp luật.

Thứ năm, trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên

nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con

nhằm đảm bảo mục đích ban đầu của việc mang thai hộ pháp luật quy định

bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc người mang thai hộ phải

giao con.

2.1.3.3. Các quy định pháp luật liên quan trong quá trình thực hiện thoả

thuận mang thai hộ

Trong quá trình thực hiện thoả thuận mang thai hộ giữa bên vợ

40

chồng nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, các bên cần tôn trọng thoả

thuận và các quy định pháp luật liên quan đến các quy định về tham khám,

theo dõi thai nhi, cụ thể như sau:

“Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy

trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo

quy định của Bộ Y tế” theo khoản 2 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014. Trước

đây, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 537 /QĐ-BYT ngày 01/02/2010 về

việc ban hành quy trình sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh. Tuy nhiên,

thực hiện quy định trên, ngày 21/9/2016, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành

Thông tư số 34/2016/TT-BYT quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc

để phát hiện, điều trị, xử trí các bất thường, dị tật của bào thai.

Theo thống kê của Tổng cục Dân số Việt Nam, mỗi năm Việt Nam có

khoảng gần 1,5 triệu trẻ em mới được sinh ra. Nếu được sàng lọc trước sinh

và sơ sinh tốt sẽ phát hiện được khoảng 1.400 -1.800 trẻ bị mắc bệnh Down,

khoảng 250 - 250 trẻ mắc hội chứng Edwards, có 1.000 - 1.500 trẻ bị dị tật

ống thần kinh, 300 - 400 trẻ bị suy giáp bẩm sinh. Đáng lưu ý, số trẻ sơ sinh

tử vong do dị tật bẩm sinh khoảng hơn 1.700 trẻ (chiếm tỷ lệ 11%), số trẻ mắc

dị tật bẩm sinh còn sống sau giai đoạn sơ sinh là khoảng 40.039 trẻ. Khoảng

60 - 70% các dị dạng, dị tật bẩm sinh đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Như

vậy nếu thai phụ được sàng lọc trước sinh kết hợp với sàng lọc sơ sinh sẽ loại

bỏ 95% những dị tật bất thường và cho ra đời những đứa trẻ hoàn toàn khỏe

mạnh. [38]

“Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát

triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào

thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai” theo khoản 4 Điều 97 Luật

HN&GĐ năm 2014. Đứng dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của

người được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định hợp lý. Bởi hơn ai hết,

người phụ nữ được nhờ mang thai hộ sẽ hiểu rõ tình trạng sức khỏe của mình

để cân nhắc có thể tiếp tục hay không việc mang thai. Tuy nhiên, nếu xét

41

dược góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhờ mang thai hộ quy định này

còn một vấn đề như sau: Theo khoản 4 Điều 94 và Điều 97 Luật HN&GĐ

năm 2014 bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu trách nhiệm chăm sóc đứa

trẻ đó từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng thành và được công

nhận là cha mẹ của trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình mang thai, bào thai phát

triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì họ lại không có quyền quyết

định tiếp tục duy trì thai kỳ hay chấm dứt.

Về việc giao và nhận con giữa các bên trong việc mang thai thì theo

quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 thì: “Con sinh ra trong trường

hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang

thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Vì vậy, vợ chồng nhờ mang thai hộ

sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được sinh ra. Tuy nhiên, để

bao quát các khả năng phát sinh, luật cũng có quy định thêm rằng: “Trong

trường hộ bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có

quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con” (khoản 5 Điều

97 Luật HN&GĐ năm 2014). Mặt khác, khoản 5 Điều 98 Luật HN&GĐ năm

2014 cũng có quy định: “Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con

cho thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai

hộ giao con”. Căn cứ vào quy định này có thể thấy rằng luật chỉ mới dự liệu

được hai trường hợp: Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên

được nhờ mang thai hộ cũng không muốn nuôi con. Nếu trường hợp này xảy

ra thì bên được nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ

mang thai hộ nhận con. Thứ hai, bên được nhờ mang thai hộ từ chối giao con

và bên nhờ mang thai hộ cũng muốn nhận con. Nếu phát sinh trường hợp này

thì bên nhờ mang thai hộ sẽ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên được nhờ

mang thai hộ giao con. Tuy nhiên, luật lại chưa dự liệu được trường hợp: bên

nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ đồng ý

nhận nuôi con. Trong trường hợp này cần phải có quy định ghi nhận quyền

được nhận nuôi con của bên được nhờ mang thai hộ nếu bên nhờ mang thai

hộ đã từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ đủ điều kiện để nhận

42

con nuôi theo quy định tại Luật nuôi con nuôi năm 2010.

Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã quy định rất chi tiết về thời điểm

chấm dứt quyền, nghĩa vụ chăm sóc con như cha mẹ của cặp vợ chồng được

nhờ mang thai hộ là từ thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Đây

là một quy định hợp lý, đảm bảo tính nhân văn. Bởi vì, quy định này sẽ đảm

bảo tốt về sức khỏe cho những đứa trẻ vừa được sinh ra, tránh những trường

hợp bên nhờ mang thai hộ không quan tâm chăm sóc vì cho đó không phải là

con đẻ của mình sẽ dẫn đến những hậu quả không tốt cho đứa trẻ, hoặc ngược

lại bên nhờ mang thai hộ ngăn cản việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ từ phía

người được nhờ mang thai dù người này có đủ các điều kiện tốt nhất để chăm

sóc cho trẻ sơ sinh như nguồn sữa mẹ.

2.1.3.4. Việc xác định thời điểm, quan hệ cha mẹ, con và việc giải quyết tranh

chấp, vi phạm nếu có khi thực hiện thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

* Xác định thời điểm và quan hệ cha mẹ, con trong thoả thuận mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo

Theo pháp luật HN&GĐ năm 2014, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật

giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ và sự kiện nhận nuôi con nuôi.

Tuy nhiên, trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, căn cứ xác

định cha, mẹ, con trong trường hợp này dựa trên yếu tố huyết thống. Huyết

thống là quan hệ di truyền sinh học, là quan hệ giữa cha, mẹ và con. Trong

trường hợp mang thai hộ, đây là sự kết hợp giữa noãn của người vợ và tinh

trùng của người chồng được TTTON thành phôi, sau đó, mới cấy vào tử cung

của người phụ nữ mang thai hộ. Nhóm máu, cũng như bộ gen di truyền của

đứa trẻ được hình thành ngay khi tinh trùng của người cha kết hợp với trứng

của người mẹ. Vì thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn

không phải là mẹ của đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển

hình hài rồi khi đủ ngày đủ tháng, đứa trẻ ra đời và tính cách của đứa trẻ hoàn

toàn không bị tác động bởi người mang thai hộ. Hiện nay, để xác định được

mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử dụng kỹ thuật khoa học mới

43

nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay không, đây là biện pháp

xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác đến 99,9% và biện

pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong trường hợp mang

thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định mẹ đứa trẻ

được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả ADN của

người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã chứa bộ

gen của người mẹ này.

Xét về góc độ pháp lý, Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:

“Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con

chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra” và

tại khoản 2 Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có quy định: “Quyền,

nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát

sinh từ thời điểm con được sinh ra”. Điều này có nghĩa các quyền dân sự như:

quyền đại diện cho con, quyền quản lý tài sản của con hay quyền thừa kế tài

sản của con… thì sẽ phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và chồng của

người đó đối với con. Vì vậy, nếu có tranh chấp phát sinh giữa người mang

thai hộ và đứa con mang hộ thì hoàn toàn có thể căn cứ vào các quy định của

pháp luật dân sự và pháp Luật HN&GĐ năm 2014 hiện hành để giải quyết.

Việc xác định mối quan hệ cha mẹ con trong mang thai hộ có ý nghĩa rất quan

trọng, từ đó xác định phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật

giữa các chủ thể.

* Giải quyết tranh chấp phát sinh trong trường hợp mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo và xử lý vi phạm.

Pháp luật quy định nếu các bên trong quan hệ pháp luật mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo vi phạm điều kiện, nghĩa vụ phải thực hiện thì tùy theo tính

chất, mức độ vi phạm mà xử lý theo trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.

Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tại khoản 1 Điều 99: “Tòa án là

cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ

sinh sản, mang thai hộ”. Theo quy định này, những tranh chấp phát sinh trong

44

mang thai hộ sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án, tuy nhiên luật lại không quy

định rõ đó là những tranh chấp nào. Hiện nay, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm

2015 tại Điều 28 và Điều 29 quy định về những tranh chấp, yêu cầu dân sự

thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có những tranh chấp, yêu cầu liên

quan đến mang thai hộ theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy

nhiên, vẫn cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể các trường hợp tranh chấp

có thể phát sinh và thẩm quyền cũng như hướng giải quyết cho vấn đề về

mang thai hộ.

Ngoài ra, đối nới vi phạm hành chính trong hoạt động thực hiện

mang thai hộ thì quy định tại khoản 3 Điều 33 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP

về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ 60.000.000 đồng đến

80.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện kỹ thuật mang thai hộ.

Chế tài hình sự được áp dụng để ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì

mục đích thương mại. Tại Điều 187 BLHS năm 2015 quy định về Tội tổ chức

mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau: “1. Người nào tổ chức mang

thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến

200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ

03 tháng đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,

thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đối với 02 người trở lên; b) Phạm tội

02 lần trở lên; c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; d) Tái phạm

nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến

50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công

việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Pháp luật Hình sự Việt Nam chú trọng

xử lý người tổ chức mang thai hộ mà chưa mở rộng xử lý các bên tham gia

hoạt động mang thai hộ.

Các quy định về giải quyết các tranh chấp cũng như xử lý các vi

phạm trong hoạt động thực hiện mang thai hộ còn chưa đầy đủ và thống nhất,

tuy nhiên, khi pháp sinh những tranh chấp hoặc xuất hiện những vi phạm mới

mà pháp luật chưa điều chỉnh được hết và những tranh chấp sẽ được giải

45

quyết theo hướng sau:

Một là, ưu tiên sự thỏa thuận giữa các bên. Mang thai hộ được tiến

hành giữa các bên theo thỏa thuận và được lập thành văn bản có công chứng

vì vậy khi các tranh chấp xảy ra văn bản thỏa thuận giữa các bên sẽ là minh

chứng có hiệu lực nhất để giải quyết những tranh chấp ấy.

Hai là, đảm bảo duy trì mục đích của mang thai hộ theo đúng quy

định của pháp luật HN&GĐ, giữ vững tính nhân văn sâu sắc của mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo.

Ba là, đảm bảo quyền lợi cũng như sức khỏe của phụ nữ và đứa trẻ

trong mang thai hộ. Mang thai hộ là một vấn đề phức tạp và phải trải qua quá

trình dài với khá nhiều rủi ro đặc biệt là người mang thai hộ, chính vì vậy,

quyền lợi và sức khỏe của người phụ nữ mang thai hộ cần được đặt lên vị trí

ưu tiên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong vấn đề về mang thai hộ.

Bên cạnh đó, trẻ em là sinh linh bé nhỏ yêu ớt cần được chăm sóc và bảo vệ

nên khi giải quyết tranh chấp trong mang thai hộ, quyền lợi của đứa trẻ sinh ra

nhờ mang thai hộ cũng cần được ưu tiên xem xét.

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng

trong lĩnh vực mang thai hộ

2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực

trạng mang thai hộ ở Việt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia

đình năm 2014

Trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 (có hiệu lực ngày 01/01/2015)

được ban hành thì pháp luật Việt Nam vẫn cấm “mang thai hộ”. Tuy nhiên,

với mong muốn được làm cha, làm mẹ thì thực tế, nhiều cặp vợ chồng đã tìm

đến dịch vụ mang thai chui hoặc nhờ môi giới tìm người mang thai hộ. “Chị

Thủy 32 tuổi, quê tỉnh Quảng Bình, vào TP HCM làm công nhân được hơn

một năm. Trước đây, chị đã có chồng và 1 con gái. Sau khi chồng chết do tai

nạn giao thông, chị phải để con ở lại và nhờ bên nội nuôi giùm. Vào TP

46

HCM, hằng tháng, chị gửi tiền về quê cho mẹ chồng nuôi con. Chị đã giấu gia

đình chuyện làm thuê này. Xoa bàn tay lên bụng, nơi đang có một sinh linh

đang lớn lên từng ngày, chị Thủy nói: “Chỉ mong 09 tháng qua mau để mẹ

tròn con vuông, giao bé cho cha mẹ ruột của nó rồi lấy tiền về quê buôn bán

nuôi con”. Theo thỏa thuận, trừ tiền ăn hằng tháng do người thuê cung cấp,

sau khi sinh, Thủy sẽ được 400 triệu đồng nếu là con trai, 350 triệu đồng nếu

là con gái. Để ở lại TP HCM sinh con trong dịp Tết này, chị phải tìm cách nói

dối gia đình để không ai nghi ngờ. Dự định, sau khi sinh khoảng 01 tháng, chị

mới về quê. Khác với chị Thủy, tình cảnh của chị Yến (quê Bến Tre) còn bi

đát hơn. Chị Yến cũng có chồng và 01 bé trai 03 tuổi. Chồng chị chỉ lo nhậu

nhẹt, đánh đề khiến cuộc sống gia đình trở nên ngột ngạt. Cách đây khoảng

01 năm, chẳng lẽ ôm con chờ chết đói, sau khi ly dị chồng, chị thuê người

thân dưới quê nuôi con rồi lên TP HCM làm công nhân may giày. Tiền lương

tháng nào “xào” hết tháng đó, nếu con bệnh thì phải vay mượn . Vì vậy, chị

phải nhận lời đẻ thuê cho cặp vợ chồng vô sinh và đã mang thai được 06

tháng. Vừa rồi, nghe tin mẹ mất, dù rất thương nhưng Yến không thể bụng

mang dạ chửa về quê chịu tang mẹ. Biết tin này, vợ chồng người thuê đẻ cấm

cô không được khóc vì sợ ảnh hưởng đến thai nhi. Những ngày đó, mỗi tối,

chị Yến ôm nằm khóc rưng rức trong phòng trọ. Chị tâm sự: “Nếu biết trước,

em sẽ không nhận làm chuyện này đâu. Sau khi sinh, giao đứa bé lại cho chủ,

việc đầu tiên là em chạy ngay về quê đốt nén nhang tạ lỗi với mẹ và quyết

không rời con nửa bước””. [14]

Trong khi pháp luật Việt Nam còn đang nghiêm cấm mọi hoạt động

mang thai hộ thì quốc gia láng giềng Thái Lan đã hợp pháp hóa mang thai hộ.

Ngoài được luật pháp bảo hộ, đánh giá về chuyên môn cao còn thuận tiện về

mặt địa lý, mang thai hộ ở Thái Lan là lựa chọn hàng đầu của nhiều người,

nhiều cặp vợ chồng Việt Nam có điều kiện kinh tế hơn. “Sang Thái Lan thuê

đẻ nhưng vợ chồng chị B ở quận 2, TP HCM lại thỏa thuận trong hợp đồng

47

phải là bé trai vì gia đình này đã có 2 bé gái. Chị B kể rằng sau khi lấy tinh

trùng của chồng để phối vào trứng của chị, bệnh viện ở Thái Lan cho chị tiếp

xúc với luật sư và người đẻ thuê để thỏa thuận, trong đó có rất nhiều điều ràng

buộc từ tài chính cho đến các xét nghiệm, giới tính, ADN… để có một đứa bé

hoàn hảo nhất cho thân chủ và tuyệt đối không có tình trạng nhùng nhằng đòi

thêm tiền hoặc không giao con. Một tháng sau khi ra đời, bé trai được trao về

cho gia đình chị. Nhìn đứa trẻ giống hệt cha và mang nhiều nét của mẹ, gia

đình chị B vui mừng khôn xiết. Thằng bé này nay đã hơn 1 tuổi, lanh lợi và

hiếu động như bao đứa trẻ khác nhưng nếu không được chị B “bật mí” thì

chẳng ai biết được bé là sản phẩm của dịch vụ mang thai hộ”. [19]

Tuy nhiên, mang thai là một quá trình hết sức phức tạp và phụ thuộc

nhiều yếu tố khách quan nên không phải trường hợp nào cũng thành công.

“Vợ chồng chị L ở quận 7, TP HCM làm đủ các thủ tục từ xét nghiệm, lấy

trứng và tinh trùng rồi tìm người mang thai hộ. Mọi ràng buộc đã được ký kết

trong hợp đồng. Khi người mang thai hộ có bầu đến tháng thứ 4 thì phát hiện

đứa bé trong bụng bị dị tật. Thế là bệnh viện phải bỏ thai nhi bằng phương

pháp cho sinh non. Đây là trường hợp bất khả kháng nên gia đình chị L phải

trả cho người mang thai hộ 1/3 số tiền theo hợp đồng. Chuyện xảy ra đã gần 1

năm nhưng mỗi lần nhắc lại, chị L cho biết vẫn còn ân hận và quyết từ bỏ ý

định thuê đẻ”. [19]

Nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai chui “nở rộ” là do tỷ lệ vô

sinh, hiếm muộn ở Việt Nam ngày càng có xu hướng trẻ, nhu cầu làm cha, mẹ

của các cặp vợ chồng vô sinh ngày càng cao…. Pháp luật trong giai đoạn này

cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức nhưng thực tế ghi nhận tình trạng mang

thai hộ vẫn diễn ra. Nhà nước vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và

pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích của những đứa trẻ được sinh ra từ việc mang

thai hộ. Do đó, pháp luật cần có phương thức điều chỉnh hợp lý để vừa giảm

thiểu những tác động tiêu cực của việc mang thai hộ vừa tạo điều kiện cho

48

những cặp vợ chồng không thể có con được thực hiện quyền làm cha mẹ.

2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng

mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có

hiệu lực cho đến nay

2.2.2.1. Thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014 có hiệu lực cho đến nay

a. Khó khăn từ bƣớc chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo

Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về các mẫu biên bản, đơn cam

kết, thỏa thuận, báo cáo thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo có tới 07 mẫu đơn cho cả cơ sở y tế thực hiện kỹ thuật

mang thai hộ cũng như cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, người nhận mang

thai hộ. Nhưng tại khoản 1 Điều 14 cũng của Nghị định này hồ sơ mà cặp vợ

chồng vô sinh phải gửi đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để đề nghị thực hiện

“kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” lại bao gồm 12 loại giấy tờ

(theo mẫu) sau:

“a) Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ;

b) Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;

c) Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;

d) Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân

dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;

đ) Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ

tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều

nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ

không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

e) Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ

tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai,

đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5

Nghị định này và đã từng sinh con;

49

g) Bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người mang thai hộ,

người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng

hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước

pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này;

h) Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ

mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.

i) Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;

k) Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học

chuyên khoa tâm lý trở lên;

l) Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc

người trợ giúp pháp lý;

m) Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ

mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định.”

Sau bước chuẩn bị hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì khó

khăn lại tiếp tục trong việc xin xác nhận hành chính đối với các giấy tờ trong

bộ hồ sơ. Theo bà Phan Thị Yến – y tá trưởng Trung tâm hỗ trợ sinh sản Quốc

gia: “Hai bên nhờ mang thai hộ phải hoàn tất 13 cam kết, trong đó có nhiều

cam kết cần hỗ trợ của chính quyền địa phương, luật sư tư vấn và hai đơn đề

nghị mới đủ thủ tục nhờ - nhận mang thai hộ khó khăn nhất hiện nay là thủ

tục hành chính, nhiều trường hợp đã có chỉ định của trung tâm là cần nhờ

mang thai hộ, nhưng về địa phương chính quyền lại không xác nhận vì họ nói

chưa có ai hướng dẫn. Có trường hợp có xác nhận chưa có con nào thì địa

phương lại bảo nhỡ đâu chồng có con ở ngoài. Có trường hợp ngay tại Hà

Nội là nơi thông tin về cho phép mang thai rất nhiều nhưng chính quyền cũng

không xác nhận hoặc xác nhận chung chung”. [10]

Ngoài những khó khăn trên thì việc xin xác nhận tư vấn về y tế, pháp

lý, tâm lý cũng gây trở ngại cho vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang

thai hộ. BS. Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và

sức khỏe sinh sản (CGRH) - khoa Y, Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết:

50

“Để thực hiện được một ca mang thai hộ hoàn chỉnh, người có nhu cầu mang

thai hộ phải được tư vấn và xác nhận 5 chữ ký: Của trung tâm thụ tinh trong

ống nghiệm có chuyên khoa hiếm muộn xác nhận người phụ nữ không có khả

năng mang thai; Chữ ký của một luật sư tư vấn cho vợ chồng cần mang thai

hộ để họ nắm được luật; Chữ ký xác nhận của một chuyên gia tâm lý tư vấn

về các vấn đề tâm lý cho vợ chồng người mang thai hộ; Và đặc biệt là chữ ký

của một chuyên gia về xã hội học tư vấn về những thuận lợi và phức tạp trong

các mối quan hệ gia đình huyết thống sau này. Từ đó, cơ sở y tế - nơi thụ tinh

trong ống nghiệm xác nhận xem các chữ ký có đúng không, nếu đúng thì mới

được thực hiện kỹ thuật này.” [11]

Mang thai hộ là vấn đề nhạy cảm, song việc thực hiện nó lại rất phức

tạp nên pháp luật quy định rất chặt chẽ về hồ sơ “mang thai hộ”. Hồ sơ phải

đầy đủ và quan trọng nhất là cam kết giữa hai bên phải đúng theo quy định

của pháp luật, chỉ cần một trong số các cam kết bị thiếu thì lập tức hồ sơ sẽ bị

bác bỏ và cặp vợ chồng hiếm muộn dù có tìm được người đồng ý và đủ điều

kiện để “mang thai hộ” cũng không thể thực hiện được mong muốn có con

bấy lâu nay của mình.

b. Khó khăn đến từ việc không đáp ứng đủ điều kiện theo luật định

Thứ nhất, pháp luật quy định vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đang

không có con chung. Tuy nhiên, trên thực tế có khá nhiều cặp vợ chồng đã có

con chung nhưng đứa con bị bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác mà là cho

đứa trẻ không thể phát triển bình thường. Đây là trường hợp phổ biến khiến

nhiều cặp vợ chồng phải trăn trở ví dụ như trường hợp chị Thy Hồng (Q.Bình

Thạnh) gửi đến Báo Phụ Nữ lá thư đẫm nước mắt: “Nghe luật mới cho phép

mang thai hộ, vợ chồng tôi mừng đến phát khóc. Nhưng, tìm hiểu thì thấy thất

vọng vì vợ chồng tôi đã có con chung - một bé gái tám tuổi bị bại não, không

biết tự ăn uống, đi vệ sinh, chỉ nằm oặt ẹo trên giường. Tôi không may bị u xơ

tử cung mà lại có đến ba khối u, vài lần liều mang thai nhưng thai cứ bị chết

lưu, may mà còn cứu kịp tôi. Hằng đêm, nằm bên con, vợ chồng tôi ngậm

51

ngùi hỏi nhau: “Mai này mình qua đời, con sẽ sống sao đây?” [17]. Do đó,

pháp luật cần xem xét, cân nhắc thật kỹ lưỡng đến các trường hợp như thế

này. Liệu rằng cho phép mang thai hộ trong trường hợp này có làm suy giảm

hoặc mất đi sự quan tâm, chăm sóc đối với đứa con bị bệnh hay không? hoặc

có thực sự làm giảm gánh nặng cho gia đình đó không?.

Thứ hai, pháp luật quy định vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ phải có

họ hàng thân thích cùng hàng đủ điều kiện mang thai hộ. “Thực tế, tìm được

một người họ hàng cùng hàng tự nguyện mang thai hộ đã khó vì không phải

gia đình nào cũng đông anh chị em họ hàng lại thêm các điều kiện khác đi

kèm càng làm thu hẹp phạm vi người mang thai hộ phù hợp cũng như thu hẹp

cơ hội thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của các cặp vợ chồng vô sinh. Anh K

và chị H (Hưng Yên) đã kết hôn gần 04 năm nay nhưng vẫn chưa có con, dù

đã đi thụ tinh nhân tạo nhưng vẫn không thực hiện được vì chị H bị ung thư

cổ tử cung. Tháng 3/2015 khi biết tin Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định

về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo chính thức có hiệu lực, anh K đã “hùng hục” để hoàn

tất hồ sơ với mong muốn có con. Một lần nữa số phận lại thật trớ trêu khi hồ

sơ của anh không đủ tiêu chuẩn xét duyệt để làm kỹ thuật này vì người mang

thai hộ không có họ hàng thân thích” [12]. Việc xem xét mở rộng phạm vi đối

tượng mang thai hộ có thể là mong muốn của nhiều cặp vợ chồng vô sinh,

hiếm muộn nhưng bên cạnh đó, pháp luật cũng phải đảm bảo mang thai hộ

không bị lợi dụng để thương mại hóa.

Thứ ba, ngay cả khi cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và đã tìm được

người phụ nữ đủ điều kiện để mang thai hộ, thì thoả thuận mang thai hộ vẫn

khó có thể tiến hành vì vướng quy định pháp luật về việc phải có sự đồng ý

của người chồng người mang thai hộ nếu người được nhờ mang thai hộ đã lập

gia đình. Chị L.T.H nhà tại Cống Vị - Ba Đình cho biết: “Tôi lấy chồng đã

gần 4 năm, đến nay vẫn chưa có con. Sau khi biết pháp luật đồng ý cho phép

mang thai hộ, ngay lập tức tôi tìm đến những người họ hàng để xem ai hội đủ

52

các điều kiện. May mắn thay, cũng có một chị thỏa mãn yêu cầu. Tuy nhiên,

niềm vui chẳng được bao khi anh chồng của chị nhất quyết không đồng ý, với

quan niệm con do vợ mình sinh ra lại không phải của mình, sợ người đời cười

chê” [21, tr.79]. Điều kiện này tuy không có ảnh hưởng đến hoạt động mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng nó thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau trong

quan hệ vợ chồng của người mang thai hộ nên điều kiện “phải có sự đồng ý

của người chồng của người mang thai hộ” là cần thiết. Đảm bảo hạnh phúc

gia đình cho người phụ nữ mang thai hộ đã có chồng cũng là điều pháp luật

quan tâm.

c. Pháp luật đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhƣng vẫn

còn nhiều trƣờng hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ

Mặc dù mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã được pháp luật cho phép

và có những quy định cụ thể về điều kiện mang thai hộ, các thủ tục, giấy tờ

liên quan để xét duyệt hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo những dịch

vụ bất chính về mang thai hộ vẫn tồn tại và chúng hoạt động dưới nhiều hình

thức tinh vi, kín kẽ hơn. Ngoài những cặp vợ chồng tìm đến dịch vụ mang

thai hộ “chui” vì vướng mắc thủ tục hành chính trong quá trình hoàn thiện hồ

sơ hoặc không đủ điều kiện mang thai hộ, thì một số khác tìm đến dịch vụ này

với những lý do khác nhau nhưng tiêu biểu và điển hình nhất vẫn vì:

Một là, tìm người sinh con để nối dõi. Trường hợp này họ biết không

đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ theo quy định pháp luật nên quyết định tìm

đến các dịch vụ mang thai hộ chui (không còn vì mục đích nhân đạo mà

thường vì mục đích thương mại). “Một người đàn ông khuyết tật, không thể

lập gia đình nhưng luôn mang nỗi khát khao được ẵm bồng đứa con bé bỏng

của chính mình. Hơn nữa, chính anh cũng chịu áp lực có người nối dõi tông

đường khi là con trai duy nhất trong gia đình. Sau nhiều lần bàn bạc, cuối

cùng anh H đã lựa chọn con đường có được đứa trẻ nối dõi nhờ qua dịch vụ

mang thai hộ. Sau nhiều ngày tìm kiếm, cuối cùng một người phụ nữ quê

Nghệ An gần 40 tuổi cũng đồng ý mang thai giúp anh H. Gia đình anh H biết

53

rõ về người phụ nữ này nhưng cô thì tuyệt nhiên không biết gì về gia đình

anh. Kể cả việc anh H bị khuyết tật, người phụ nữ mang thai hộ cũng không

có thông tin. Sau khi mang thai bằng phương pháp chuyển phôi, người phụ nữ

được bố trí ăn ở và chăm sóc rất chu đáo. Lúc sinh con xong, cô này cũng về

quê và giao lại con cho phía gia đình anh H và không vương vấn gì. Anh H

vui như bắt được vàng vì trải qua một thời gian dài trông ngóng, nay anh đã

có đứa con để ẵm bồng...” [18]. Một trong những yếu tố tiên quyết để có thể

nhờ mang thai hộ là bên nhờ mang thai hộ phải là vợ chồng hợp pháp, có giấy

đăng ký kết hôn và trong trường hợp trên anh H là một người đàn ông độc

thân dù bị tật nguyền thì không được thực hiện hoạt động mang thai hộ. Pháp

luật không có quy định đàn ông hay phụ nữ độc thân được phép mang thai hộ

mà chỉ có phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng kỹ thuật TTTON. Do đó,

để thỏa mãn niềm mong mỏi có cháu nối của gia đình thì mang thai hộ “chui”

là lựa chọn cuối cùng và duy nhất có thể giúp anh H đạt được mục đích.

Trường hợp như của anh H, pháp luật có thể đã lường trước được nhưng việc

quy định đàn ông hay phụ nữ độc thân có thể nhờ mang thai hộ sẽ gián tiếp

cho phép các cặp đôi đồng tính nhờ mang thai hộ mà pháp luật Việt Nam

không thừa nhận các quan hệ đồng tính, trong đó có hôn nhân đồng tính.

Hai là, một biến tướng của hoạt động mang thai hộ chính là việc những

người đàn ông lợi dụng hoạt động mang thai hộ đã tìm đến những người phụ

nữ (để lại thông tin trên các trang mạng hoặc qua thực tế biết được), để đề

nghị được hỗ trợ mang thai hộ nhưng thông qua hình thức trực tiếp… “Vợ

chồng tôi cưới nhau gần 10 năm nhưng chưa có con dù đã chạy chữa khắp nơi

với đủ đông y lẫn tây y. Mọi hy vọng đã tắt ngóm khi cách đây hai năm, tôi

phải cắt bỏ hai bên buồng trứng do biến chứng của bệnh u xơ. Thêm nữa, sau

ca phẫu thuật, tôi bị nhiễm trùng nặng phải cắt bỏ cả tử cung. Chồng tôi

không chấp nhận phương án nhận con nuôi. Cách đây gần một năm, chồng tôi

về bảo đã liên hệ được người nhờ mang thai hộ với chi phí khá thấp. Nghe

đâu, phụ nữ này còn khá trẻ, muốn có vốn làm ăn nên chấp nhận làm cho một

54

đường dây đẻ thuê cho những cặp vợ chồng hiếm muộn. Vì không công khai

nên giá chỉ 60 triệu, chưa kể tiền dưỡng thai và bồi dưỡng thêm cho mẹ. Tính

ra, để đến khi đón đứa bé về, mất gần 100 triệu chứ không hơn. Nhưng để

giảm bớt chi phí thì bỏ qua công đoạn thụ tinh ống nghiệm ở bệnh viện mà

dùng phương pháp "truyền trực tiếp” tại nhà cho nhanh. Lúc đầu, tôi không

hiểu làm vậy nghĩa là như thế nào thì chồng giải thích, không cần đến bệnh

viện lấy trứng và tinh trùng thụ tinh như người ta thường làm mà cả hai quan

hệ trực tiếp luôn. Tôi giật mình khi nghĩ chồng sẽ ngủ với người khác để có

con thì anh an ủi, chỉ vài lần đến khi có thai thôi chứ đâu phải ăn nằm với

nhau đâu mà lo. Anh bảo, làm thế vừa giảm chi phí lại chắc ăn hơn thụ tinh.

Thêm nữa, hai bên thỏa thuận, lúc nào gặp mặt đều có tôi đi cùng. Cô ta hứa,

sau khi sinh con xong sẽ đi nơi khác, hoàn toàn cắt đứt liên lạc để chúng tôi

yên tâm. Khi cái thai được bốn tháng, kết quả siêu âm là con trai khiến chồng

tôi vui mừng khôn xiết. Thông thường, mỗi lần đến gặp người phụ nữ đó, vợ

chồng tôi đi cùng nhau nhưng tôi phát hiện không ít lần anh đi gặp riêng. Thế

rồi, đứa bé sinh ra khỏe mạnh nhưng người phụ nữ đó lần nữa không chịu

giao con mà chồng tôi cũng chẳng hối thúc gì. Anh ở hẳn bên nhà trọ để chăm

con dù tôi đã thuê dịch vụ..” [15]. Trường hợp trên, người chồng đã lợi dụng

sự thiếu hiểu biết pháp luật về mang thai hộ, sự cả tin và mong muốn có con

của người vợ vô sinh, lấy 60 triệu và ngoại tình có con với người phụ nữ

khác. Lấy danh “mang thai hộ”, không ít người chồng đi “lang chạ”, khi có

con riêng thì lấy cớ chăm lo cho con để chung sống như vợ chồng với người

phụ nữ khác. Điều này, không chỉ trái với các chuẩn mực đạo đức, xã hội mà

còn trái pháp luật, đi ngược lại chế độ hôn nhân một vợ một chồng của pháp

luật Việt Nam, đáng bị lên án và chịu trách nhiệm trước pháp luật.

Ba là, có những người phụ nữ coi mang thai hộ như là một “nghề”;

hoặc có những “cò mồi” coi mang thai hộ như một dịch vụ siêu lợi nhuận. Ví

dụ như trường hợp sau: “Huyền sinh con khi vừa tròn 20 tuổi. Không đủ điều

kiện nuôi dạy đứa trẻ, Huyền quyết định cho đi đứa con dứt ruột đẻ ra, nhờ

55

người dắt mối cô tìm được gia đình có điều kiện nhận nuôi đứa trẻ. Sau khi ký

cam kết dứt bỏ mối quan hệ máu mủ với đứa trẻ, chị được gia đình này hậu tạ

một khoản tiền. Cầm tiền trên tay, Huyền bỗng nảy sinh ra ý nghĩ sẽ làm cái

"nghề", không quá nhọc công tốn sức, lại kiếm tiền dễ dàng này và Huyền

quyết định tận dụng thân xác của mình để dấn thân vào nghề đẻ thuê. Theo

hợp đồng, Huyền chấp nhận để người ta cấy trứng đã được thụ tinh vào cơ

thể. Để đảm bảo đứa trẻ được ra đời khỏe mạnh và thông minh, Huyền phải

chấp nhận cuộc sống theo yêu cầu của đối tác. Cô không được phép giữ mối

quan hệ với bên ngoài, cắt đứt hoàn toàn liên lạc với người quen. Phần lớn

khoảng thời gian mang thai, Huyền phải nghe nhạc, tập yoga để "mẹ thoải

mái, con khỏe mạnh". Huyền chỉ được ra ngoài trong những lần khám thai

định kỳ. Mỗi hợp đồng "đẻ thuê" đạt chất lượng, đứa trẻ được ra đời khỏe

mạnh, Huyền sẽ được "đối tác" trả 150 - 200 triệu đồng” [16]. Việc Huyền

nhận những khoản tiền lớn lên đến vài trăm triệu sau mỗi hợp đồng “đẻ thuê”

chính là thương mại hóa mang thai hộ. Điều này đã là mất đi giá trị nhân đạo

mà pháp luật Việt Nam hướng đến.

Bốn là, những người tìm đến dịch vụ mang thai hộ vì thẩm mĩ, đặc thù

nghề nghiệp. Điển hình như trường hợp của ca sĩ N: “Sang Thái Lan thuê đẻ

được cặp song sinh 1 trai 1 gái đẹp như mơ. Để tránh dư luận lùm xùm, gần

ngày sinh, cô ca sĩ này độn bụng như đang mang bầu. Ngay sau đó, cô tuyên

bố sang Thái Lan sinh con rồi đưa về Mỹ nhờ gia đình chồng chăm sóc. Cây

kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, những bạn thân của ca sĩ này khẳng định

cô đã thuê đẻ với giá 1 tỉ đồng/ca song sinh với ràng buộc sẽ là 1 trai 1 gái.

Hợp đồng này đã mang lại cho cô ca sĩ sự an toàn về sức khỏe vì tuổi cô đã

trên 40, lại giữ được vóc dáng mảnh mai để tiếp tục sự nghiệp ca hát [19].

2.2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến các thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam từ khi

có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

a. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ

gặp khó khăn trong việc thực hiện hồ sơ

56

Để chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ, theo quy định pháp luật hiện

hành, bên cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải chuẩn bị 12 loại văn bản, giấy

tờ được quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày

28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và

điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Với quy định về mẫu biên bản,

đơn cam kết, thỏa thuận trong hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo nêu trên là tương đối nhiều, và trong số đó có những loại gây khó khăn

rất lớn đối với các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, nhất là những cặp vợ

chồng có xuất thân từ nông dân không có nhiều hiểu biết về lĩnh vực này cũng

như không có nhiều mối quan hệ. Chính những quy định chặt chẽ, cũng như

thủ tục hành chính này là nguyên nhân dẫn đến việc cặp vợ chồng nhờ mang

thai hộ, thậm chí người nhận mang thai hộ trong thoả thuận mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo có khi phải mất cả năm trời mới hoàn thiện được hồ sơ.

b. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

khó thực hiện do các cặp vợ chồng không đáp ứng đủ điều kiện theo luật

định

Để giải thích rõ “gốc rễ” các thực trạng mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo khó thực hiện do các cặp vợ chồng không đáp ứng đủ điều kiện theo luật

định đã nêu ở, tác giả xin chỉ ra 03 nguyên nhân tương ướng với mỗi thực

trạng như sau:

Thứ nhất, điểm b khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định

điều kiện của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải “đang không có con

chung”. Việc xác nhận điều kiện này thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã nơi

thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Song trách nhiệm xác nhận này

cũng không hề đơn giản trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể sẽ có các trường hợp

sau đây liên quan đến nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ phát

sinh: Một là, vợ chồng nhờ mang thai hộ có nơi thường trú khác nhau. Đây

không phải là một trường hợp hiếm gặp. Bởi lẽ, quyền có nơi cư trú khác

nhau của vợ chồng là một quyền nhân thân cơ bản và đã được quy định từ rất

57

lâu trong pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này, thiết nghĩ vợ chồng nhờ

mang thai hộ cần phải có bản xác nhận của cả hai nơi: một là nơi vợ thường

trú, hai là nơi chồng thường trú về việc họ đang không có con chung thì mới

đáp ứng đủ yêu cầu. Hai là, vợ chồng nhờ mang thai hộ thường trú cùng một

nơi nhưng đồng thời cũng có nơi tạm trú do tính chất công việc hoặc học tập.

Ở trường hợp này, vấn đề chỉ thật sự trở nên phức tạp khi cặp vợ chồng nhờ

mang thai hộ trước đây đã có con chung và họ đăng ký khai sinh cho con

chung tại nơi người mẹ tạm trú. Dù rằng, luật đã có quy định về trách nhiệm

thông báo của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ tạm trú cho Ủy ban nhân

dân cấp xã nơi người mẹ thường trú biết để ghi nhận và lưu giữ thông tin.

Trên thực tế, công việc này được thực hiện bằng đường bưu điện và vì vậy hồ

sơ về việc đã đăng ký khai sinh có khả năng sẽ bị thất lạc. Thậm chí, cũng có

những trường hợp do nhiều nguyên nhân, việc thông báo này không được

thực hiện. Trong những trường hợp như vậy, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi

người mẹ thường trú - cũng chính là nơi vợ chồng thường trú, sẽ không xác

định được cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đã từng có con chung hay chưa để

từ đó xác nhận cho chính xác theo quy định của pháp luật.

Thứ hai, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm

2014, người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của

bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Mục đích của quy định này là nhằm

hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ. Tuy nhiên, quy định

này có mang lại hiệu quả hay không khi nhu cầu của việc mang thai hộ ngày

càng lớn và tính thương mại chưa hẳn chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không

thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các

cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được

nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người

con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định

10/2015/NĐ-CP đã nêu trên đều không có chị em gái. Hoặc giả sử họ có chị

em gái nhưng những người này là người chưa thành niên, hay đã thành niên

58

nhưng chưa kết hôn và chưa mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ sẽ

không thể được tiến hành dù không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì

vậy, quy định pháp luật với sự hạn chế quá ít đối tượng có thể nhờ mang thai

hộ này tiềm ẩn khả năng dẫn đến việc các cặp vợ chồng vô sinh sẽ nhờ người

mang thai hộ một cách lén lút; và khi đó, tính chất thương mại vi phạm pháp

luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chắc chắn sẽ xảy ra.

Thứ ba, theo điểm b khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có

quy định người được nhờ mang thai hộ “chỉ được mang thai hộ một lần”. Cần

xác định rõ đối tượng của quy định này chỉ áp dụng đối với người được nhờ

mang thai hộ. Điều đó có nghĩa, người được nhờ mang thai hộ chỉ được mang

thai hộ một lần. Luật quy định như vậy là chưa rõ trong việc không phân biệt

người nhờ mang thai hộ là ai, cũng như việc mang thai hộ thực hiện thành

công hay không (mà chỉ quy định chỉ được mang thai hộ một lần). Mặt khác,

do quy định này không áp dụng đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, vì

vậy, nếu việc mang thai hộ đã được tiến hành nhưng cuối cùng không thành

công thì cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể nhờ người khác đủ điều kiện

theo quy định của pháp luật để tiếp tục thực hiện việc mang thai hộ.

Thứ tư, minh chứng cho việc các bên tham gia quan hệ pháp luật mang

thai hộ đã thỏa điều kiện này thì trong bộ hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có bản

xác nhận của chồng người mang thai hộ về việc đồng ý cho mang thai hộ.

Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ mang

thai hộ và cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi quyết định một

chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con

là một nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh phúc gia đình cũng là

nhu cầu chính đáng cần được bảo vệ. Tuy vậy, không thể phủ nhận đây cũng

là nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn chồng chất khó khăn trong quá trình đáp

ứng đủ các điều kiện để có thể thực hiện hoạt động mang thai hộ vì mục đích

59

nhân đạo.

c. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng dù pháp luật đã cho phép mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo nhƣng vẫn còn nhiều trƣờng hợp thực hiện chui

các dịch vụ mang thai hộ

Sau đây là các nguyên nhân tương ứng dẫn đến thực trạng dù pháp luật

đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng vẫn còn nhiều trường

hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ. Thứ nhất, đối với mang thai hộ

“chui” để “nối dõi tông đường”. Một trong những ý nghĩa của mang thai hộ là

duy trì nòi giống nhưng trong trường hợp này thể hiện sự một hệ tư tưởng

trọng nam vốn đã lạc hậu, cổ hủ, ăn sâu trong suy nghĩ nhiều gia đình, nhiều

lớp thế hệ. Tức là bằng mọi giá phải sinh con trai nối dõi nếu không theo quan

niệm xưa sẽ phạm phải một trong ba tội lớn nhất đời người, đó là tội bất hiếu.

Thứ hai, nguyên nhân của việc lợi dụng mang thai hộ để quan hệ tình dục với

người phụ nữ mang thai hộ này một phần cũng do tư tưởng trọng nam khinh

nữ, cho phép người đàn ông có “ba thê tứ thiếp” ở chế độ phong kiến còn tàn

dư đến bây giờ và quan trọng nhất vẫn là do bản chất “trăng hoa” của họ. Mặt

khác, rất khó phát hiện các trường hợp trên. Thứ ba, nguyên nhân khiến nhiều

người coi mang thai hộ trở thành một nghề hay một dịch vụ kiếm sống vì lợi

nhuận, giá trị kinh mà mang thai hộ đem lại vô cùng lớn. Họ dễ dàng kiếm

tiền trên chính thể xác của mình để có tiền chi tiêu mà không phải lao động

chân tay hay trí óc. Cuối cùng, là do đặc tính nghề nghiệp, yếu tố thẩm mỹ.

Mang thai và sinh con là cả một quá trình rất vất vả và khả năng hồi sức sau

sinh tốn rất nhiều thời gian. Như trong giới giải trí, thời gian nghỉ hoạt động

nghệ thuật tỷ lệ nghịch với mức độ nổi tiếng, sự quan tâm và yêu thích của

công chúng. Đồng thời, việc mang thai cũng để lại nhiều đấu tích trên cơ thể

như rạn da, vết mổ khi sinh…. Tùy vào mỗi thực trạng thì lại có những

nguyên nhân khác nhau để lý giải, tuy nhiên các thực trạng trên đều bắt nguồn

từ việc chưa có quy định cụ thể để xử lý vi phạm khi xảy ra các vi phạm khi

thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ nhằm răn đe, ngăn chặn các

60

hành vi vi phạm trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam.

CHƢƠNG 3

GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG

THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Luật HN&GĐ năm 2014 đã có bước tiến đột phá khi ghi nhận việc

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Điều này đã mở ra cơ hội cho các cặp vợ

chồng vô sinh thực hiện mong muốn có được đứa con ruột thịt và mang mã

gen di truyền của mình. Tuy vậy, sau hơn 05 năm, các quy định pháp luật

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đi vào cuộc sống thì vẫn còn nhiều vướng

mắc trong quy định cũng như là trong trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động

mang thai hộ. Bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên trong quan

hệ mang thai hộ, pháp luật cũng cần có cơ chế giải quyết tranh chấp, những

hành vi vi phạm hoạt động mang thai hộ, đặt biệt là mang thai hộ vì mục đích

thương mại.

Tại chương 2, Khóa luận đã nêu nên những thực trạng trong lĩnh vực

“mang thai hộ” đang tồn tại và diễn ra hiện nay, cũng như phân tích các

nguyên nhân tương ứng dẫn đến những thực trạng này. Từ những phân tích đã

nêu, khóa luận xin được đưa ra những giải pháp nhằm giảm thiểu những thực

trạng đó cũng như góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật trong lĩnh vực

“mang thai hộ”.

3.1. Giải pháp đơn giản hóa quá trình hoàn thiện hồ sơ “mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo”

Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng cặp vợ chồng nhờ mang thai

hộ gian nan cả năm trời để hoàn thiện hồ sơ đó là chứng minh mối quan hệ

thân thích cùng hàng giữa họ và bên mang thai hộ. Theo Khoản 1 Điều 14

Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì có 02 cách chứng minh: Một là, xin bản xác

nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Hai là, người mang thai hộ hoặc người nhờ

mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên

61

cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về

tính xác thực của các giấy tờ đó. Để vấn đề có thể được giải quyết triệt để, cần

sớm thực hiện cơ sở dữ liệu về hộ tịch theo như quy định của Luật Hộ tịch

năm 2014 để việc kiểm tra thông tin về hộ tịch của cặp vợ chồng nhờ mang

thai hộ cũng như của người mang thai hộ được thực hiện chính xác và hiệu

quả. Đồng thời, cũng phải ghi nhận chế tài để xử lý các trường hợp cố ý làm

sai quy định pháp luật trong việc xác nhận để đảm bảo tính nghiêm minh của

pháp luật, đảm bảo trật tự và ổn định cho việc mang thai hộ.

Về phần các cam kết, thỏa thuận mà các bên phải hoàn tất để hoàn

thiện hồ sơ “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, khó khăn nhất ngoài xác

nhận của địa phương thì chính là việc phải có xác nhận tư vấn về y tế, pháp

lý, tâm lý... Do đó, pháp luật nên quy định các cơ sở y tế có đủ thẩm quyền

(hiện nay 05 cơ sở trên cả nước được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo gồm Bệnh viện Hùng Vương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh

viện Mỹ Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Đa khoa Trung

ương Huế) thực hiện kỹ thuật “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Đồng thời,

thành lập đội ngũ chuyên viên y tế riêng chuyên tư vấn (về y tế và tâm lý) cho

các bên trong quan hệ “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Bên nhờ mang

thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ đều phải được tư vấn y tế từ bác sỹ

chuyên khoa sản làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công

nhận được thực hiện kỹ thuật TTTON. Đối với tư vấn tâm lý thì người tư vấn

về tâm lý cho người được nhờ mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ

phải có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên làm việc tại cơ sở được cấp

giấy phép hoạt động có phạm vi hoạt động chuyên môn tư vấn tâm lý và phải

tư vấn tâm lý đầy đủ các nội dung cần tư vấn. Ngoài ra, pháp luật nên có chính

sách khuyến khích các cơ sở y tế này liên kết với các văn phòng luật sư chuyên

tư vấn về pháp lý cho cả cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và người phụ nữ

mang thai hộ khi đến bệnh việc thực hiện kỹ thuật này. Như vậy, việc hoàn tất

hồ sơ của các cặp vợ chồng sẽ thống nhất hơn, tránh tình trạng các cặp vợ

62

chồng phải đi lại nhiều nơi, mất nhiều thời gian tiền bạc cho thủ tục tư vấn.

3.2. Giải pháp giúp các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đáp ứng đủ

“điều kiện mang thai hộ vì mục đích mang thai hộ”

Đối với trường hợp vợ chồng có con chung nhưng con bị mắc các

chứng bệnh tâm thần, bệnh down,… thì về nguyên tắc thì vợ chồng không

được phép nhờ mang thai hộ vì đã có con chung. Tuy nhiên, nếu không được

nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế, tức là nguyện vọng chính

đáng là có một đứa con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuệ. Pháp luật có thể

coi đây là trường hợp ngoại lệ và cho phép vợ chồng được nhờ mang thai hộ.

Để hài hòa được lợi ích chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và lợi

ích của Nhà nước, của xã hội trong công tác này cần phải xem xét về lâu dài

nên cho phép việc mang thai hộ được thực hiện bởi người thân thích không

cùng hàng hoặc cả những người không thân thích nhưng phải đảm bảo thực

hiện đúng các quy định pháp luật về điều kiện xác lập cũng như quyền và

nghĩa vụ của các bên. Đề xuất này sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho các cặp đôi

vợ chồng khó khăn trong việc sinh con.

Bên cạnh các giải pháp pháp lý, có thể xem xét đến các giải pháp về

lĩnh vực tuyên truyền qua các kênh truyền thanh, truyền hình nhằm khuyến

khích chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ tham gia tư vấn tâm lý,

pháp lý... cùng vợ của mình. Bởi việc bắt buộc họ phải nhận tư vấn thì sẽ rất

bất hợp lý nhưng nếu khuyến khích họ tham gia tư vấn sẽ dễ để họ chấp

nhận và hợp tác hơn. Nếu chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ được

tư vấn đầy đủ về tâm lý, pháp lý thì ngoài việc họ có thể san sẻ những khó

khăn người vợ của mình gặp phải trong quá trình “mang thai hộ”, còn giúp

họ hiểu rõ hơn bản chất của kỹ thuật này, để tránh trường hợp có những

người chồng do hiểu sai lệch về kỹ thuật nên mới không đồng ý cho vợ mình

thực hiện “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” dẫn đến bên nhờ và bên

nhận trong quan hệ mang thai hộ không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định

63

của pháp luật.

3.3. Giải pháp ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ các dịch vụ mang thai hộ trái

pháp luật

Trên thực tế, rất khó để phát hiện và xử lý các dịch vụ thực hiện chui

mang thai hộ vì đây là một vấn đề nhạy cảm. Các dịch mang thai hộ chui

đóng vai trò như “cò mồi” tìm kiếm những người có nhu cầu nhờ mang thai

hộ để kiếm được một khoản lợi ích kinh tế lớn. Chúng thường tìm kiếm

“khách hàng”, liên lạc, giao dịch trao đổi thông tin trên Internet nên khó phát

hiện và nếu bị phát hiện thì dễ dàng xóa thông tin. Các trường hợp bị phát

hiện thì phôi thường đã thành hình hoặc chuẩn bị sinh. Tuy nhiên, tùy vào

từng trường hợp, mà có những giải pháp khác nhau nhằm tiến tới xóa bỏ dịch

vụ thực hiện mang thai hộ chui.

Mang thai hộ để sinh được con trai nối dõi hoặc tìm đến mang thai hộ

với mục đích quan hệ tình dục thì đều thường xuất phát từ nhu cầu của người

chồng bên nhờ mang thai hộ. Do đó, hướng giải quyết của tác giả là tuyên

truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật về mang thai hộ vừa

để những người có tư tưởng “trọng nam” có thể hiểu rằng giá trị con người

không nằm ở giới tính vừa để người vợ trong bên nhờ mang thai hộ có sự hiểu

biết về mang thai để đưa ra quyết định sáng suốt, duy trì hạnh phục gia đình.

Thực trạng coi mang thai hộ như một nghề kiếm sống, một dịch vụ

kiếm tiền thì thực sự cần đến những chế tài hình sự mới đủ sức răn đe và áp

chế được những hành vi vi phạm này. Đây là hành vi mang thai hộ vì mục

đích thương mại và theo Điều 187 BLHS năm 2015 thì bị phạt tiền từ

50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02

năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người tổ chức mang thai hộ

vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, người hành nghề mang thai hộ thì chưa

có quy định nào để xử lý, vậy nên, để có cách hiểu và áp dụng thống nhất, cần

khắc phục hạn chế này bằng cách sửa lại tên điều luật theo hướng mở rộng tối

đa chủ thể phạm tội như “Tội mang thai hộ vì mục đích thương mại”, đồng

thời quy định dấu hiệu “tổ chức” trong tên tội danh thành tình tiết định khung

64

tăng nặng trong cùng điều luật.

Đối với người bình thường, đủ khả năng sinh con những vẫn tìm đến

dịch vụ mang thai hộ vì “lười/ngại” sinh, ảnh hưởng đến nhan sắc hoặc không

muốn ảnh hưởng đến công việc thì hình vi này chưa đến mức phải chịu trách

nhiệm hình sự. Tuy nhiên, vẫn phải xử lý để không tạo tiền lệ cho thực trạng

này. Tác giả kiến nghị xử phạt hành chính đối với người nhờ mang thai hộ và

người mang thai hộ, còn cá nhân hay một nhóm người tổ chức mang thai hộ

thì sẽ bị xử lý hình sự như luật quy định.

3.4. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định về “mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo” trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan

Chỉ vài tháng sau khi quy định về mang thai hộ trong Luật HN&GĐ

năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ -CP có hiệu lực, các bác sĩ tại bệnh viện

Từ Dũ đã thực hiện thành công hai ca mang thai hộ. Điều này cho thấy việc

cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự đã giúp cho khao khát

được làm cha mẹ của không ít cặp vợ chồng được trở thành hiện thực. Về mặt

lập pháp, mặc dù đã quy định rõ ràng và hợp lý, hợp tình trong rất nhiều vấn

đề về mang thai hộ nhưng nhìn chung vẫn còn không ít quy định khá khái

quát, hoặc gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Do đó, ngoài những giải pháp

cho từng thực trạng cụ thể nêu trên, thì quy định pháp luật về mang thai hộ ở

Việt Nam cần có những chỉnh sửa, bổ sung một số vấn đề sau để hoàn thiện

hơn, cụ thể như:

Một là, quy định về mục đích của việc mang thai hộ. Luật HN&GĐ

năm 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và cấm mang thai hộ

vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, việc phân biệt hai trường hợp này chỉ dựa

vào một tiêu chí là có hay không việc “hưởng lợi ích kinh tế và lợi ích khác”.

Trong quá trình mang thai và sinh con sẽ phát sinh rất nhiều chi phát như: chi

phí khám thai thường xuyên (tối thiểu phải được khám ba lần trên ba kỳ thai

nghén), tiêm phòng, tiêm vắc xin, chi phí về chế độ dinh dưỡng, ăn uống,

nghỉ ngơi. Mặt khác, trong quá trình mang thai người phụ nữ mang thai hộ có

65

thể bị suy giảm mức thu nhập và sau khi sinh thì họ cũng cần một khoản chi

phí để chăm sóc, phục hồi sức khỏe. Khoản chi phí như thế nào là hợp lý để

bên nhờ mang thai chi trả cho bên mang thai hộ thì lại phụ thuộc vào sự thỏa

thuận của các bên. Nội dung này cũng cần phải được nêu trong thỏa thuận

mang thai hộ và luật cần đưa ra mức tối đa mà bên nhờ mang thai hộ phải chi

trả để hạn chế được việc mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể xảy ra.

Hai là, về việc yêu cầu ly hôn giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ. Luật

HN&GĐ năm 2014 quy định tại khoản 3 Điều 51: “Chồng không có quyền

yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con

dưới 12 tháng tuổi”. Đây là quy định áp dụng đối với cặp vợ chồng bình

thường, khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ do chính người vợ

sinh ra. Tuy nhiên, đối với trường hợp mang thai hộ thì luật chưa có quy định

cụ thể về vấn đề này. Xét thấy, người chồng của bên mang thai hộ và bên nhờ

mang thai hộ đều nên bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong thời gian thai kỳ

và khi đứa trẻ sinh ra chưa đủ 12 tháng tuổi. Điều này xuất phát từ nguyên tắc

bảo vệ quyền của người mẹ, đồng thời, đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho

đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ.

Ba là, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện việc

mang thai hộ. Nếu trong quá trình mang thai, bào thai phát triển không tốt do

các khuyết tật bẩm sinh thì chính cha mẹ của thai nhi sẽ là người quyết định

tiếp tục duy trì hay chấm dứt thai kỳ theo lời khuyên của bác sĩ. Tuy nhiên,

theo quy định tại khoản 4 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014 thì quyền này

thuộc về người được nhờ mang thai hộ. Việc người mang thai hộ sinh đứa trẻ

dị tật ra sẽ gây không những chỉ là nỗi đau của những trẻ mắc bệnh mà còn là

nỗi đau, là gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội. Do đó, luật cần quy định sự

thỏa thuận của vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ, chứ không

nên giao quyền đó chỉ cho người mang thai hộ như hiện nay. Nếu việc mang

thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người được nhờ mang

thai hộ thì việc quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ là do người được nhờ

66

mang thai hộ quyết định. Đối với trường hợp thai nhi phát triển không bình

thường, ví dụ như trong thời gian mang thai hộ, thai nhi được phát hiện là

mang những khuyết tật bẩm sinh thì cần có sự thỏa thuận giữa bên nhờ mang

thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ để đi đến quyết định tiếp tục hay chấm

dứt thai kỳ. Nếu họ không thỏa thuận được thì nhờ Tòa án giải quyết và Tòa

án sẽ ra quyết định trên cơ sở tham vấn ý kiến của tổ chức y tế. Như vậy, sẽ

phần nào hạn chế được tình trạng như đã nêu trên.

Bốn là, nếu bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên được nhờ

mang thai hộ đồng ý nhận nuôi con thì luật nên có quy định ghi nhận quyền

được nhận nuôi con của bên được nhờ mang thai hộ và có thêm các điều kiện

nhận nuôi con nuôi. Luật nuôi con nuôi cần bổ sung trường hợp ưu tiên cho

người mang thai hộ nhận đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ làm con nuôi

tương tự như trường hợp ưu tiên bố dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc

của chồng làm con nuôi hay cô, dì, chú, bác ruột nhận cháu ruột làm con nuôi.

Năm là, về thủ tục khai sinh cho đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ.

Trong hồ sơ đăng ký khai sinh cần bổ sung thêm văn bản thỏa thuận mang

thai hộ để chứng minh tư cách chủ thể thực hiện việc khai sinh cho đứa trẻ.

Bởi vì, theo quy định của pháp luật hiện hành, trong thủ tục đăng ký khai

sinh, người đi đăng ký khai sinh phải nộp giấy chứng sinh (nhằm chứng minh

việc sinh là có thật và về nguyên tắc, người được ghi trong giấy chứng sinh

là mẹ của đứa trẻ đó). Tuy nhiên, trong trường hợp mang thai hộ, giấy chứng

sinh lại mang tên người mang thai hộ chứ không phải ghi tên người vợ trong

cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh

ra từ việc mang thai hộ nhưng tòa án xác định cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ

không phải là cha mẹ của đứa trẻ thì việc khai sinh cho trẻ em phải thực hiện

theo việc khai sinh trẻ bị bỏ rơi. Phần họ tên cha mẹ bỏ trống, ngay cả trong

trường hợp này, giấy chứng sinh không có ý nghĩa trong việc xác định mẹ của

đứa trẻ do người sinh ra đứa trẻ là người mang thai hộ.

Tóm lại, để chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự là giải

67

pháp tốt, nhân văn và ít tranh chấp nhằm giúp cho các cặp vợ chồng vô sinh

đáp ứng nhu cầu có được một đứa con theo nguyện vọng chính đáng thì người

làm luật cần nghiên cứu và hoàn thiện thêm quy định pháp luật trong thời

gian tới. Có như vậy, pháp luật điều chỉnh về quan hệ mang thai hộ mới có

sức sống lâu dài và ổn định, đồng thời nâng cao niềm tin của người dân vào

68

pháp luật.

KẾT LUẬN

Hơn 05 năm kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực pháp luật

ngày 01/01/2015, pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã tạo cơ hội

cho rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh thực hiện mong ước có được đứa con máu

mủ của mình. Tuy nhiên, những quy định thực hiện hoạt động mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo vẫn còn có những vấn đề thiếu cụ thể dẫn đến những hạn

chế, lúng túng trong quá trình thực thi pháp luật. Để giải quyết được những

hạn chế, bất cập đó đòi hỏi cơ quan lập pháp cần xây dựng những quy định về

mang thai hộ đầy đủ, chặt chẽ. Vì mang thai hộ vẫn là một vấn đề nhạy cảm,

phức tạp do đó việc quy định như thế nào để vừa đảm bảo quyền và lợi ích

của các bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật mang thai hộ nhưng

cũng vừa hạn chế được những hậu quả không hay xảy ra trong thực tiễn cuộc

sống đang là một khó khăn được đặt ra cho cơ quan lập pháp.

Trong chương 1 của khóa luận, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một cách

cơ bản khái niệm, ý nghĩa của việc mang thai hộ cũng như cơ sở của việc quy

định mang thai hộ trong Luật HN&GĐ năm 2014.

Trong chương 2, tác giả nêu nội dung quy định của pháp luật hôn nhân

và gia đình về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam, đồng

thời chỉ ra thực trạng và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong lĩnh vực mang

thai hộ ở Việt Nam.

Trong chương 3, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.

Tác giả khóa luận hi vọng nội dung nghiên cứu có sẽ có ích cho công

tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở

69

Việt Nam hiện nay.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2000.

2. Bùi Quỳnh Hoa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ, Luận

văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.

3. Chính phủ (2003), Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 quy định về

sinh con theo phương pháp khoa học.

4. Chính phủ (2011), Nghị định số 96/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 quy định xử

phạt vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh.

5. Chính phủ (2013). Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 thay

thế cho Nghị định 45/2005/NĐ_CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính

trong lĩnh vực y tế.

6. Chính phủ (2015), Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 quy định về

sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo.

7. Chính phủ (2016), Nghị định số 98/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều

của Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật

thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

8. “Chính phủ siết điều kiện thực hiện kỹ thuật mang thai hộ”

http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/mang-thai-ho-chinh-phu-siet-dieu-kien-thuc-hien-

duoc-mang-thai-ho-319729.html - ngày 6/8/2016

9. Hoàng Thị Thu Hằng (2017), Pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật thụ

tinh trong ống nghiệm, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

10. http://bvbacquangnam.org.vn/gioi-thieu/khoa-lam-sang/khoa-cap-cuu/173-

mang-thai-h-co-lut-nhng-vn-kho-khn.html.

11. http://www.thesaigontimes.vn/118218/Mang-thai-ho---chuyen-khong-don-

gian.html.

12.http://www.nguoihanoi.com.vn/modules.php?name=News&op=viewst&si

70

d=32576.

13. http://moh.gov.vn:8086/news/Pages/TinHoatDongV2.aspx?ItemID=1438.22

14. https://nld.com.vn/phong-su-ky-su/dich-vu-mang-thai-ho-ra-nuoc-ngoai-thue-

nguoi-de-20131202085712747.htm

15. https://vietnamnet.vn/vn/doi-song/gia-dinh/toi-bi-gai-bay-tinh-vi-khi-cho-phep-

mang-thai-ho-bang-cach-truyen-thong-552072.html

16. https://plo.vn/plo/nguoi-phu-nu-20-nam-lam-nghe-de-thue-340221.html 60

17. https://tuoitre.vn/cong-an-bat-nhom-de-thue-vay-mang-thai-ho-duoc-khong-

20190212085754736.htm

18. https://afamily.vn/chuyen-that-nhu-dua-me-chong-nai-ni-con-dau-mang-thai-

ho-cho-em-chong-20160413033121135.chn

19. https://suckhoedoisong.vn/nhung-co-so-y-te-nao-o-nuoc-ta-duoc-thuc-hien-ky-

thuat-mang-thai-ho-n159247.html

20. Nguyễn Huy Cường (2016), Một số bất cập trong các quy định về mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tạp chí Nhà nước

và Pháp luật, số 9/2016, tr. 38 – 40; 49, Viện Nhà nước và Pháp Luật.

21. Nguyễn Thị Lan (2015), Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh, Tạp chí Luật

học, số 04/2015, tr. 12 – 21, Trường Đại học Luật Hà Nội.

22. Nguyễn Thị Lan (2016), Thụ tinh trong ống nghiệm và những vấn đề phát sinh,

Tạp chí Luật học số 02/2016, tr. 34- 42, Trường Đại học Luật Hà Nội.

23. Nguyễn Văn Lâm (2015), Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ quan

niệm thế nào về “huyết thống” và “mẹ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9/2015,

tr. 50-52, Bộ Tư Pháp.

24. “Những điều chưa biết về thực hiện kỹ thuật mang thai hộ ở Việt Nam”

http://www.baomoi.com/nhung-dieu-chua-biet-ve-thuc-hien-ky-thuat-mang-thai-

ho-o-viet-nam/c/18537356.epi - ngày 26/1/2016

25. Phạm Thị Hương Giang (2015), Luận văn Thạc sĩ, “ Mang thai hộ theo Luật

Hôn nhân và Gia đình năm 2014”, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.

26. PGS. TS Nguyễn Văn Cừ (2016), Pháp Luật về mang thai hộ ở Việt Nam, Tạp

71

chí Luật học, số 06/2016, tr. 11 – 22, Trường Đại học Luật Hà Nội.

27. PGS.TS Nguyễn Viết Tiến (2012), “Dịch tễ học vô sinh và các phương pháp

điều trị”, NXB Y học, Hà Nội

28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.

29. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.

30. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.

31. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

32. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.

33. suckhoedoisong.vn (Nguồn Pregnancy for Dummies), “Ảnh hưởng của tuổi tác

đến khả năng sinh sản ở phụ nữ”

http://www.orientalstar.vn/contents.asp?msg=129&fields=16

34. ThS. Hồ Mạnh Tường (2014), Mang thai hộ - Những điều cần biết, Nội san Y

học sinh sản, 8/2014.2

35. ThS. Trần Đức Thắng (2016), Một số vấn đề về thực hiện quy định pháp luật

hiện hành về mang thai hội ở Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, số 02/2016, tr. 57 – 61,

Học Viện Tư pháp.

36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Mang thai hộ - Sự cần thiết phải điều

chỉnh bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường.

37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình

Việt Nam”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.

38. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi của phụ nữ và

trẻ em trong mang thai hộ

http://trogiupphaply.com.vn/detail.aspx?lang=1&id_tin=251&id_m=11

#.Vb7Oe_Ptmkq

39. Ts. Nguyễn Huy Quang và Ths. Đinh Thị Thu Thủy (2014), “Mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo”, Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về Y tế số 03 tháng

09/2014

http://moh.gov.vn/province/Pages/CheDoChinhSachYTe.aspx?ItemID=30

40. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi của phụ nữ và

72

trẻ em trong mang thai hộ

http://trogiupphaply.com.vn/detail.aspx?lang=1&id_tin=251&id_m=11

#.Vb7Oe_Ptmkq

41. Văn phòng Luật NewVision Law Co (2014), “Vấn đề pháp lý trong việc mang

thai hộ”

73

42.Vnexpress.net/phu-nu-nen-sinh-con-o-do-tuoi-bao-nhieu-3935425.html