ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HỒ THỊ PHƢƠNG MAI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬT TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
HÀ NỘI, 2020
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
HỒ THỊ PHƢƠNG MAI
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2016-L
Giảng viên hướng dẫn: Th.S Nguyễn Thị Hoài Phương
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là nghiên cứu của riêng tôi, các số liệu trong Khóa
luận được sử dụng trung thực, nguồn trích dẫn có chú thích rõ ràng, minh
bạch, có tính kế thừa, phát triển từ các tài liệu, tạp chí, các công trình nghiên
cứu đã được công bố, các website.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của tôi.
Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2020
Người thực hiện Khóa luận
i
HỒ THỊ PHƢƠNG MAI
LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, xin trân trọng cảm ơn người đã hướng dẫn tôi là TS.
Nguyễn Thị Hoài Phương, cô đã tận tình hướng dẫn và cho tôi những nhận
xét, góp ý những sai sót của tôi trong quá trình hoàn thành Khóa luận.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô thuộc Khoa Luật - Đại
học Quốc gia Hà Nội đã tận tình giảng dạy cho tôi trong quá trình học tập.
Do giới hạn kiến thức và khả năng lý luận của bản thân còn nhiều thiếu
sót và hạn chế, kính mong sự chỉ dẫn và đóng góp của các Thầy, Cô để bài
Khóa luận của tôi được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 04 tháng 06 năm 2020
Người thực hiện Khóa luận
ii
HỒ THỊ PHƢƠNG MAI
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
1. Luật HN&GĐ năm 2014 : Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014
2. Nghị định số 10/2015/NĐ-CP : Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày
28/01/2015 của Chính phủ quy định
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh
trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo
3. BLHS năm 2015 : Bộ luật Hình sự năm 2015
iii
4. TTTON : Thụ tinh trong ống nghiệm
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
LỜI MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MANG THAI HỘ .......... 6
1.1. Khái niệm chung về mang thai hộ ............................................................. 6
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ” ......................................... 6
1.1.2. Phân loại các hình thức mang thai hộ ..................................................... 8
1.2. Cở sở lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực mang thai hộ ....................... 10
1.2.1. Cơ sở lý luận ......................................................................................... 10
1.2.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 12
1.3. Ý nghĩa của hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo .................... 13
1.3.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp đảm bảo quyền con người ... 13
1.3.2. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang giá trị nhân văn sâu sắc ..... 14
1.3.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là kết quả ứng dụng thành công
thành tựu khoa học kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của lĩnh vực y học . 14
1.3.4. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp duy trì nòi giống .................. 15
CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở
VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................ 17
2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ................... 17
2.1.1. Quy định pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ của một số quốc gia
trên thế giới ..................................................................................................... 17
2.1.2. Lịch sử hình thành phát triển pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam ....... 23
2.1.3. Nội dung pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay ...................... 25
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong
lĩnh vực mang thai hộ ...................................................................................... 46
iv
2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
mang thai hộ ở Việt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 .. 46
2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có hiệu
lực cho đến nay ............................................................................................... 49
CHƢƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH
VỰC MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ................................. 61
3.1. Giải pháp đơn giản hóa quá trình hoàn thiện hồ sơ “mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo” ................................................................................................. 61
3.2. Giải pháp giúp các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đáp ứng đủ
“điều kiện mang thai hộ vì mục đích mang thai hộ” ....................................... 63
3.4. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định về “mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo” trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan .................. 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 69
v
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 70
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Hiện nay, tình trạng vô sinh ở cả nam giới và nữ giới ngày càng nhiều
do các yếu tố tác động như bệnh lý, căng thẳng kéo dài, do môi trường, thói
quen sinh hoạt, vệ sinh an toàn thực phẩm… Theo nghiên cứu trên toàn quốc
do Bệnh viện Phụ sản trung ương và Đại học Y Hà Nội tiến hành trên 14.300
cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ (15-49) ở 08 tỉnh - đại diện cho 08 vùng
sinh thái ở nước ta - cũng xác định tỉ lệ vô sinh của các cặp vợ chồng trong độ
tuổi sinh đẻ là 7,7%, nghĩa là có từ 700.000 đến 1 triệu cặp vợ chồng Việt
Nam bị vô sinh [9]. Nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhiều tiến bộ trong
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã ra đời đã cho phép các cặp vợ chồng vô sinh và
phụ nữ độc thân có thể có con, đáp ứng niềm mong mỏi tha thiết của họ. Các
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản có thể giải quyết được tình trạng vô sinh của phụ nữ
và nam. Tuy nhiên, đối với những người phụ nữ không có khả năng mang thai
hoặc sinh con thì kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là phương pháp TTTON có
thể giúp họ có được đứa con chung huyết thống nhưng chỉ trong trường hợp
pháp luật cho phép mang thai hộ.
Khi Chính phủ ban hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày
12/02/2003 quy định về sinh con bằng phương pháp khoa học, tức là, pháp
luật cho phép thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản để giúp các cặp vợ chồng
vô sinh hoặc người phụ nữ độc thân có thể có con, nhưng lại nghiêm cấm kỹ
thuật này thực hiện cho người phụ nữ không có khả năng mang thai hoặc sinh
con dù độc thân hay là người vợ trong cặp vợ chồng vô sinh trong việc mang
thai hộ. Điều này đã khiến cho việc mang thai hộ dễ bị thương mại hóa, các
dịch vụ mang thai hộ càng diễn ra “sôi động” và tinh vi hơn vì họ nắm được
tâm lý khát khao có được đứa con máu mủ của những người này. Quá trình
mang thai hộ có rất nhiều rủi ro dễ xảy ra tranh chấp cũng như vấn đề pháp lý
liên quan đến đứa trẻ sinh ra trong trường hợp này. Để có cơ sở quản lý xã hội
1
cũng như ổn định các vấn đề liên quan đến dân số, đảm bảo các quyền cơ bản
của con người, pháp luật đã thừa nhận mang thai hộ nhưng phải vì mục đích
nhân đạo và nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Quốc hội đã thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, có hiệu lực ngày
01/01/2015, cùng với đó là Nghị định số 10/2015/NĐ-CP để hướng dẫn thi
hành. Trong đó, pháp luật vẫn tiếp tục ghi nhận hai kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là
thụ tinh nhân tạo và kỹ thuật TTTON, tuy nhiên kỹ thuật thụ tinh nhân tạo
được thực hiện theo quy định của Luật Khám bệnh, chữa bệnh, còn Nghị định
10/2015/NĐ-CP thì quy định chi tiết về sinh con bằng kỹ thuật TTTON và
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Đây là lần đầu tiên Việt Nam thừa nhận và cho phép mang thai hộ, do
đó, việc nghiên cứu và làm rõ hơn pháp luật mang thai hộ là điều cần thiết
nên em đã lựa chọn đề tài: “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ
ở Việt Nam hiện nay” cho khoá luận tốt nghiệp của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mang thai hộ là một vấn đề không mới và đã xuất hiện khá lâu
trong xã hội. Tuy nhiên, thời điểm trước kia do không được pháp luật thừa
nhận và cho phép nên việc mang thai hộ bị biến tướng và được thực hiện trái
pháp luật dưới nhiều hình thức khác nhau. Pháp luật luôn điều chỉnh và thay
đổi để phù hợp với thực tế đời sống, sự phát triển của y học thế giới và quan
trọng là đảm bảo thực hiện các quyền cơ bản của con người. Do đó, Quốc hội
thông qua Luật HN&GĐ năm 2014, ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP.
Ngay khi có dự thảo luật sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000 thì sức nóng của
vấn đề mang thai hộ nhanh chóng được cập nhập trên các phương tiện truyền
thông, báo đài, tin tức thời sự, có thể kể đến như: “Mang thai hộ: nên cho
phép để kiểm soát tốt” trên báo phunuonline.com.vn ngày 17/8/2013; “ Đưa
mang thai hộ vào luật” trên duthaoonline.quochoi.vn; “Chính thức cho phép
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” trên báo http://hn.24h.com.vn/ ngày
19/06/2014; “Luật cho phép mang thai hộ, tình trạng đẻ thuê còn diễn ra?”
2
trên trang web http://www.luattrungnguyen.vn/ ngày 12/07/2014; “Mang thai
hộ: Cửa đã mở, nhưng mới hé ?” trên trang web http://vietnamnet.vn/ ngày
30/12/2014; “Mang thai hộ: Có luật nhưng vẫn khó khăn” trên Báo tuổi trẻ
online ngày 13/05/2015… Điểm chung của các bài viết này đều nêu lên thực
trạng thực hiện pháp luật của hoạt động mang thai hộ , gợi mở vấn đề, nêu ra
một số hạn chế của pháp luật, đánh giá sơ bộ mang tính chất thông báo về quy
định mới của pháp luật tuy chưa đi sâu vào nghiên cứu, phân tích, đánh giá để
làm rõ hơn về những quy định mà pháp luật đưa ra.
Về công trình nghiên cứu khoa học liên quan đến lĩnh vực mang thai hộ
chủ yếu đến từ các bài viết trên tạp chí chuyên ngành và luận văn thạc sĩ, tiêu
biểu như:
- Tạp chí Luật học: “Pháp Luật về mang thai hộ ở Việt Nam” của PGS.
TS Nguyễn Văn Cừ (2016);
- Tạp chí Nhà nước và Pháp luật: “Một số bất cập trong các quy định
về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014” của tác giả Nguyễn Huy Cường (2016);
- Nội san Y học sinh sản: “Mang thai hộ - Những điều cần biết” của
ThS. Hồ Mạnh Tường (2014);
- Luận văn Thạc sĩ: “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai
hộ” của tác giả Bùi Quỳnh Hoa (2014), Trường Đại học Luật Hà Nội;
- Luận văn Thạc sĩ: “Mang thai hộ theo Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014” của tác giả Phạm Thị Hương Giang (2015), Khoa Luật - ĐHQG
Hà Nội.
Ngoài ra, còn có các bài bình luận khoa học được đăn tải trên Internet.
Tất cả, đã giúp vấn đề mang thai hộ được khái quát, mở rộng hơn theo nhiều
góc nhìn khác nhau và nhiều vấn đề liên quan được nêu ra. Qua các góc nhìn
đó, nghiên cứu “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam
hiện nay” này sẽ tổng hợp, chỉ ra những vướng mắc còn tồn động và kiến
3
nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về mang thai
hộ như: khái niệm, đặc điểm, nội dung và ý nghĩa của mang thai hộ; cơ sở của
việc pháp luật quy định mang thai hộ; nội dung các quy định của Luật
HN&GĐ năm 2014 và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan về mang
thai hộ và kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài là về các vấn đề trong lĩnh vực mang
thai hộ trên các phương diện như lý luận khoa học, lịch sử hình thành, pháp
luật về mang thai hộ và thực tiễn áp dụng pháp luật mang thai hộ từ trước và
sau khi hoạt động mang thai hộ được luật hóa vào năm 2014 trên lãnh thổ
Việt Nam. Song, trọng tâm nghiên cứu khóa luận này là thực trạng áp dụng
pháp luật về mang thai hộ để từ đó đưa ra những giải pháp hoàn thiện pháp
luật trong lĩnh vực này. Ngoài ra, phạm vi đề tài còn được mở rộng khi nghiên
cứu pháp luật về mang thai hộ ở một số quốc gia tiêu biểu để đối chiếu với
lịch sử hình thành và pháp luật về mang thai hộ Việt Nam.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu đề tài
Để đạt được mục đích nghiên cứu mà đề tài đặt ra, trong quá trình
nghiên cứu, luận văn đã sử dụng một số phương pháp chung của khoa học xã
hội và các phương pháp đặc thù của luật học để nghiên cứu đề tài. Các
phương pháp chủ yếu bao gồm:
- Phương pháp phân tích quy phạm: phương pháp này được sử dụng
chủ yếu để tìm hiểu các quy định của pháp luật, cũng như các vụ việc liên
quan tới xác định ngữ nghĩa của quy phạm pháp luật, tính hợp lý khi áp dụng.
- Phương pháp phân tích lịch sử: phương pháp này dùng để sử dụng
nhằm khái quát quá trình hình thành chế định mang thai hộ ở Việt Nam.
Ngoài ra, tác giả còn sử dụng một số phương pháp khác như quy nạp,
liệt kê, tổng hợp,… để đánh giá thực trạng của vấn đề nghiên cứu.
5. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
4
a. Mục đích nghiên cứu
Khóa luận nghiên cứu phân tích, làm rõ nội dung quy định về mang
thai hộ trong Luật HN&GĐ năm 2014, chỉ ra thực trạng pháp luật và nguyên
nhân dẫn đến thực trạng pháp luật khi những quy định về mang thai hộ được
áp dụng vào trong cuộc sống. Từ đó, kiến nghị giải pháp khắc phục.
b. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu như trên, nhiệm vụ nghiên cứu
được xác định như sau: Nghiên cứu những vấn đề lý luận về mang thai hộ
như khái niệm, ý nghĩa, cơ sở của mang thai hộ; Phân tích, đánh giá những
quy định của Luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014 về mang thai hộ; Thực trạng
pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay và kiến nghị giải pháp hoàn
thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ.
6. Kết cấu của khóa luận
Ngoài các phần mục lục, phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu
tham khảo, nội dung của khóa luận bao gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về mang thai hộ.
Chương 2: Thực trạng pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt
5
Nam hiện nay.
CHƢƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ MANG THAI HỘ
1.1. Khái niệm chung về mang thai hộ
1.1.1. Các khái niệm liên quan đến “mang thai hộ”
“Mang thai hộ” dưới góc nhìn xã hội (chưa có Luật HN&GĐ năm
2014)
Ở Việt Nam, trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 được ban hành thì các
khái niệm “mang thai hộ”, “chửa hộ”, “đẻ thuê” thường bị đánh đồng với
nhau, nội dung và ý nghĩa của chúng không có sự tách biệt nhất định. Và phần
đông mọi người hiểu “mang thai hộ” giống “đẻ thuê” là khi người đàn ông
(người chồng) quan hệ trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với
một người phụ nữ (không phải là vợ) đến khi người phụ nữ này có thai và
sinh con. Trong trường hợp này đứa trẻ sinh ra bằng tinh trùng của người đàn
ông (người chồng) và noãn của người phụ nữ (không phải là vợ). Cách hiểu
này đã làm cho ý nghĩa của việc “mang thai hộ” trở nên sai lệch, trái với
thuần phong mỹ tục và đi ngược lại với giá trị con người.
“Mang thai hộ” dưới góc nhận định của các chuyên gia
Theo ThS.BS Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di
truyền và Sức khỏe sinh sản, Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết: “Mang thai
hộ là phương pháp giải quyết vấn đề không thể có con ở người phụ nữ do tử
cung nên cần nhờ đến tử cung của người khác. Đến nay, kỹ thuật này đã được
thực hiện tại nhiều quốc gia trên thế giới, nhưng nó đang là vấn đề gây tranh
cãi giữa các trường phái tư tưởng, văn hóa khác nhau”.[34]
Theo Tiến sĩ Luật học Nguyễn Văn Cừ, Phó giáo sư Trường Đại học
Luật Hà Nội, trong bài viết “Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam” đăng trên
Tạp chí Luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội năm 2016, số 6 có đề
cập:“Thuật ngữ “mang thai hộ” được định nghĩa là phương pháp hỗ trợ sinh
6
sản áp dụng khi người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi đã
thực hiện kí thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh
trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung
của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.
Vì vậy, người mang thai hộ không có liên quan về di truyền với đứa trẻ mà
mình nuôi dưỡng trong cơ thể và sinh ra đứa trẻ đó”.[26, tr.11]
Trong bài viết “Một số vấn đề về thực hiện quy định của pháp luật hiện
hành về mang thai hộ ở Việt Nam” đăng trên tạp chí Nghề luật, Học viện Tư
pháp, 2016, số 2, ThS. Trần Đức Thắng có nêu quan điểm của mình như
sau:“Mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự hình thành trên cơ sở tự nguyện.
Thỏa thuận mang thai hộ được xác lập giữa một cặp vợ chồng và người mang
thai hộ, đồng thời làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các bên”.[35, tr.58]
“Mang thai hộ” dưới góc độ pháp lý
Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ 2014 đưa ra khái niệm: “Mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích
thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy
noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống
nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con”.
Khi pháp luật thừa nhận việc mang thai hộ và định nghĩa rõ ràng nội
hàm của mang thai hộ thì khái niệm mang thai hộ đã tách biệt và có nội dung
hoàn toàn khác với “đẻ thuê”, “đẻ mướn”. Tức là, mang thai hộ bắt buộc phải
là trứng của người vợ và tinh trùng của người chồng trong cặp vợ chồng hiếm
muộn, sau khi được TTTON thành phôi thì cấy vào tử cung của người mang
thai hộ, khác hoàn toàn với việc đẻ thuê là người đẻ thuê giao phối trực tiếp
với người chồng và không sử dụng bất kỳ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nào. Đây
chính là sự khác biệt cơ bản giữa “mang thai hộ” và “đẻ thuê”.
Khái niệm “mang thai hộ” dưới góc nhìn của các chuyên gia dù là trong
7
lĩnh vực y tế hay luật học thì đều có tính chất chuyên môn cao, dẫn đến khó
hiểu cho người đọc. Đối với khái niệm “mang thai hộ” trong Luật HN&GĐ
năm 2014 đưa ra không chỉ cụ thể, hoàn chỉnh và dễ tiếp nhận cho người đọc
mà còn thể hiện rõ nội dung mà pháp luật cho phép khi thực hiện hoạt động
mang thai hộ, đó là:
- Thứ nhất, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, người phụ nữ tự
nguyện mang thai hộ cho cặp vợ chồng vô sinh không vì các giá trị vật chất,
tiền bạc hay yếu tố kinh tế nào khác.
- Thứ hai, phương pháp thực hiện mang thai hộ là kỹ thuật TTTON, tức
là việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong
ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ nhờ mang thai hộ để
người này mang thai và sinh con.
- Thứ ba, đối tượng được phép nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng
hiếm muộn và mục đích của hoạt động mang thai hộ là mang tính nhân đạo,
dành cho người phụ nữ không thể tự mình sinh con. Phụ nữ độc thân có thể
xin tinh trùng và TTTON để có đứa con cùng huyết thống, tuy nhiên, pháp
luật không thừa nhận phụ nữ độc thân không có khả năng mang thai và sinh
con được nhờ mang thai hộ.
1.1.2. Phân loại các hình thức mang thai hộ
Hội thảo Tư pháp Quốc tế Hague (HCCH) được tổ chức tại Hà Lan vào
năm 2012 rút ra kết luận: Các thiết chế trên thế giới quy định về hoạt động
“mang thai hộ” đang được chia ra làm bốn nhóm: Nhóm nước chưa có quy
định; nhóm nước phản đối; nhóm nước cho phép vì mục đích nhân đạo và
nhóm các nước chấp thuận thương mại hóa [41]. Các quốc gia đã hợp pháp
hóa việc mang thai hộ lại được chia ra làm hai nhóm nước: Mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Trong Luật HN&GĐ năm 2014 tại khoản 23 Điều 3 cũng phân ra hai
hình thức là “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và “mang thai hộ vì mục
đích thương mại”. Tuy nhiên, pháp luật Việt Nam chỉ thừa nhận hoạt động
8
này dưới góc độ nhân đạo. Cụ thể như sau:
a. Mang thai vì mục đích thƣơng mại
Mang thai hộ vì mục đích thương mại là khi người phụ nữ chấp nhận
mang thai cho bên thuê mang thai hộ rồi sinh con, sau khi trao đứa con lại cho
bên nhờ mang thai hộ. Người phụ nữ sẽ được bên nhờ mang thai hộ trả cho
một khoản tiền hoặc sẽ đáp ứng bằng một lợi ích nào đó mà hai bên đã thỏa
thuận trước đó.
Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo, cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại. Việc mang thai hộ phải được
tuân thủ chặt chẽ quy định tại các điều khoản của Luật HN&GĐ năm 2014 và
Nghị định 10/2015/NĐ-CP.
Khoản 23 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm mang thai hộ
vì mục đích thương mại như sau: “Mang thai hộ vì mục đích thương mại là việc
một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản để được hưởng lợi ích về kinh tế hoặc lợi ích khác”. Khái niệm này đầy
đủ và hoàn toàn đúng theo cách hiểu về việc thương mại hóa mang thai hộ ở một
số quốc gia trên thế giới. Ở các quốc gia đó mang thai hộ giống như một dịch vụ
tự do trao đổi giữa các bên với sự có “cầu” ắt có “cung”.
Có thể thấy, việc mang thai hộ vì mục đích thương mại chính là một
loại hợp đồng đẻ thuê. Sau khi giao kết hợp đồng, hai bên phải thực hiện đúng
quyền và nghĩa vụ của mình theo bản hợp đồng đó. Bản hợp đồng này là hợp
đồng công việc cần làm với đối tượng trao đổi là đứa trẻ và lợi ích. Vô hình
chung, bản hợp đồng đã khiến đứa trẻ trở thành hàng hóa có thể trao đổi. Điều
này vi phạm quyền con người và việc trao đổi theo hợp đồng giống như việc
mua bán trẻ con vi phạm luật quốc tế. Chính vì vậy, pháp luật Việt Nam
không cho phép việc mang thai hộ vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, không
ít trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục
đích mà nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ. Thực tế cho thấy,
việc mang thai hộ vì mục đích thương mại vốn dĩ đã tồn tại từ rất lâu dù vi
9
phạm pháp luật và vấn đề đạo đức xã hội.
b. Mang thai vì mục đích nhân đạo
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là khi người vợ, vì lý do sức khỏe,
bệnh lý mà không thể mang thai nhưng có trứng; tham gia vào quan hệ mang
thai hộ với mong muốn được làm mẹ và người phụ nữ được nhờ mang thai
hoàn toàn tự nguyện để giúp đỡ người vợ thực hiện chức năng làm mẹ, tất
nhiên có hoặc không có bồi dưỡng trong quá trình mang thai nhưng tuyệt
nhiên không vì mục đích kiếm lợi.
Khoản 22 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 đưa ra khái niệm “Mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo” (như đã trình bày ở phần trên). Tuy nhiên,
Luật HN&GĐ năm 2014 cũng quy định rất rõ các điều kiện mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo đối với các bên tham gia thoả thuận mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo, cũng như các thủ tục pháp lý trong quá trình làm hồ sơ xin xét
duyệt mang thai hộ.
Pháp luật cho phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng đủ điều
kiện để bảo đảm quyền làm cha, làm mẹ chính đáng của những cặp vợ chồng
vô sinh và người mang thai hộ không vì mục đích lợi nhuận. Bản chất “mang
thai hộ” là hết sức nhân văn vì là sự giúp đỡ của một người phụ nữ này đối
với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc mang thai và sinh nở
cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết và giữ gìn hạnh
phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng làm việc tốt
hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh của xã hội.
Có thể đánh giá quy định cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
trong Luật HN&GĐ năm 2014 là bước tiến bộ vượt bậc trong tư duy làm luật,
trong nhận thức về việc cho phép ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào
lĩnh vực sản khoa nói riêng và trong công tác bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, bảo
đảm quyền dân sự, hôn nhân và gia đình của cá nhân nói chung.
1.2. Cở sở lý luận và thực tiễn đối với lĩnh vực mang thai hộ
1.2.1. Cơ sở lý luận
Thứ nhất, về mặt khoa học kỹ thuật, mang thai hộ được thực hiện trên
10
cơ bản là kỹ thuật TTTON thông thường, nên không phức tạp về mặt kỹ
thuật. Người vợ trong cặp vợ chồng có nhu cầu nhờ mang thai hộ sẽ được
kích thích buồng trứng, theo dõi và chọc hút noãn. Noãn sẽ được thụ tinh với
tinh trùng người chồng để tạo phôi. Phôi có thể được chuyển vào tử cung
người mang thai hộ đã được chuẩn bị bằng nội tiết hoặc phôi sẽ được đông
lạnh và sẽ được rã đông và cấy vào tử cung người nhận mang thai hộ vào thời
điểm thích hợp. Người chồng trong cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đảm
bảo có đủ tinh trùng để TTTON và người vợ phải có dự trữ buồng trứng đủ để
cho việc thực hiện TTTON. [9]
Năm 2011, với sự ra đời của Trung tâm nghiên cứu về di truyền và sức
khỏe sinh sản (khoa Y Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh), Việt Nam
trở thành một trong bốn trung tâm đào tạo về hỗ trợ sinh sản lớn nhất của
Châu Á (cùng với Singapore, Ấn Độ, Trung Quốc) và hiện mỗi năm tiếp nhận
đào tạo, huấn luyện đào tạo cho nhiều bác sỹ nước ngoài [2, tr.16]. Hiện nay
cả nước có 21 cơ sở đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản được Bộ
Y tế ra quyết định công nhận, trong đó có 05 cơ sở trên cả nước được phép
thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo gồm Bệnh viện Hùng
Vương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh viện Mỹ Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung
ương và Bệnh viện Đa khoa Trung ương Huế [19]. Mặt khác, chi phí một ca
TTTON ở Việt Nam chỉ bằng 1/4 hoặc 1/3 với khu vực và 1/6 -1/8 so với Mỹ,
cụ thể chi phí để điều trị TTTON (thủ thuật và thuốc) ở Việt Nam khoảng
2.000-3.000 USD trong khi ở những nước trong khu vực dao động từ 8.000-
12.000 USD. [39]
Mang thai hộ cũng được coi là một trong những phương pháp hỗ trợ
sinh sản dành cho cặp vợ chồng hiếm muộn. Kỹ thuật chính cần dùng trong
mang thai hộ là kỹ thuật TTTON, đây là kỹ thuật về y tế đòi hỏi công nghệ và
kỹ thuật cao mà Việt Nam đã có các trung tâm hỗ trợ sinh sản, bệnh viện phụ
sản hoàn toàn có đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật TTTON và mang thai hộ để
thực hiện với chi phí hợp lý. Với đầy đủ cơ sở vật chất, nguồn nhân lực được
11
đào tạo mỗi năm, mang thai hộ hoàn toàn có thể thực hiện được và chỉ còn
mang tính chất phức tạp trong mặt quan niệm và các thủ tục pháp lý, quyền
cũng như lợi ích của các bên liên quan.
Thứ hai, về mặt pháp lý, Luật HN&GĐ năm 2014 tạo ra cơ chế pháp lý
khá hoàn chỉnh cho việc mang thai hộ, cụ thể là từ Điều 93 đến Điều 100 về
Xác định cha, mẹ trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
Xác định cha, mẹ trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Điều
kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo; Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Giải quyết
tranh chấp liên quan đến việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo và xử lý hành vi vi phạm về sinh con bằng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản và mang thai hộ.
Việt Nam là một trong số ít quốc gia ở khu vực Đông Nam Á ban hành
riêng Nghị định của Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa
học (kỹ thuật hỗ trợ sinh sản). Nghị định số 10/2015/NĐ-CP và các văn bản
có liên quan đã tạo hành lang pháp lý quan trọng giúp cho hoạt động tư vấn,
khám và điều trị của các cán bộ y tế tư vấn được thuận lợi; các cặp vợ chồng
vô sinh và phụ nữ đơn thân muốn mang thai có cơ sở pháp lý để bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của mình. Hơn nữa các quy định pháp lý về mang thai hộ
nhằm bảo đảm cơ chế, giải quyết hậu quả pháp lý của việc mang thai hộ; bảo
vệ quyền, lợi ích của trẻ em sinh ra từ việc mang thai hộ, bảo vệ bên mang
thai hộ và nhờ mang thai hộ. Nghị định cũng đã bao phủ được hầu hết các vấn
đề liên quan đến hỗ trợ sinh sản. Các quy định của Nghị định phù hợp với các
bằng chứng khoa học và pháp luật trong nước cũng như quốc tế.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn
Nhu cầu mang thai hộ trên thực tế là khá phổ biến. Việc pháp luật
không cho phép đẻ thuê/mang thai hộ vì mục đích thương mại sẽ dẫn đến tình
trạng bác sĩ tại Việt Nam không dám/và không được phép thực hiện vì sẽ là vi
12
phạm pháp luật. Những người có nhu cầu thì đi tìm những dịch vụ chui hoặc
ra nước ngoài để thực hiện mang thai hộ. Việc sử dụng những dịch vụ chui
vừa tốn kém, vừa trái pháp luật, vừa rủi ro mà quyền và lợi ích của người
mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ hay đứa trẻ cũng không được bảo đảm.
Khi có tranh chấp giữa các bên phát sinh trong dịch vụ chui, các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền bị động do không có cơ sở pháp lý để xử lý, vì đây là
hợp đồng không hợp pháp.
Các nguyên nhân gây vô sinh có nguyên nhân do tử cung người vợ bị
tật bẩm sinh hoặc do các bệnh lý khác khiến cho người phụ nữ không thể
mang thai được ngày càng trở nên phổ biến. Mặc dù, áp dụng phương pháp
sinh con theo phương pháp khoa học, người chồng có tinh trùng, người vợ có
noãn nhưng họ cũng không thể có con được. Họ rất cần người mang thai hộ
để có thể có được chính những đứa trẻ do chính tinh trùng và noãn của họ tạo
nên, đây là nhu cầu chính đáng và cần thiết. Hơn nữa, việc cho phép mang
thai hộ là một giải pháp mang tính nhân văn nhằm tạo điều kiện cho các cặp
vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con để thực hiện được
quyền làm cha, mẹ.
Nếu không được quy định trong luật thì do nhu cầu có con nên họ vẫn
thực hiện mang thai hộ và họ làm tại nước ngoài hoặc tại Việt Nam (làm chui)
dẫn tới các hậu quả sẽ xảy ra: Tình trạng đẻ thuê (vì mục đích thương mại);
không đảm bảo an toàn sức khỏe, tính mạng cho đứa trẻ và người mang thai
hộ; quyền lợi của người mang thai hộ và quyền lợi của đứa trẻ sẽ không được
đảm bảo; phát sinh tranh chấp vì không có quy định chặt chẽ của pháp luật.
Do vậy, việc pháp luật cần ghi nhận, hợp pháp hoá mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo là hết sức cần thiết.
1.3. Ý nghĩa của hoạt động mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
1.3.1. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giúp đảm bảo quyền con người
Công nhận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc làm mang tính
nhân văn, đáp ứng nhu cầu chính đáng của con người, đảm bảo cho con người
được hưởng các quyền dân sự cơ bản, quyền đảm bảo chất lượng sống, quyền
13
hôn nhân và mưu cầu hạnh phúc.
Quyền kết hôn, lập gia đình và bình đẳng trong hôn nhân thực chất bao
gồm một số quyền có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Những quyền này có
quan hệ mật thiết với quyền được hỗ trợ để bảo vệ gia đình, quyền của các bà
mẹ và trẻ em được bảo vệ và chăm sóc đặc biệt. Hơn nữa, một trong những
nguyên tắc cơ bản của chế độ hôn nhân và gia đình nhằm bảo đảm quyền dân
sự, hôn nhân và gia đình của cá nhân liên quan đến y tế, đó là nguyên tắc:
“Giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; thực hiện
kế hoạch hóa gia đình” (khoản 4 Điều 2 Luật HN&GĐ năm 2014).
Việc cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo có thể được coi là
một việc mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc, đồng thời thể hiện quyền được bình
đẳng và hạnh phúc của những người không thể có con với những người khác.
Điều này rất có ý nghĩa đối với các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh.
1.3.2. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang giá trị nhân văn sâu sắc
Bản chất vốn có của mang thai hộ là vô cùng nhân văn, bởi nó là sự
giúp đỡ của người phụ nữ này với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa
trẻ. Yếu tố huyết thống của một con người dù thế nào cũng không thay đổi
nên điều khiến một người phụ nữ khác sẵn sàng giúp đỡ để sinh con cho một
cặp vợ chồng được nhìn nhận như một hành vi nhân đạo cao cả. Pháp luật cho
phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của nó, tuy nhiên pháp luật luôn đề
cao ý nghĩa cao cả đó bằng việc chỉ thừa nhận mang thai hộ trên phương diện
nhân đạo để tạo cơ hội được làm cha mẹ cho những cặp vợ chồng hiếm muộn
mà người vợ không thể tự mình mang thai được.
1.3.3. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là kết quả ứng dụng thành công
thành tựu khoa học kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm của lĩnh vực y học
Đứng dưới góc độ y tế có thể thấy rằng, phương pháp mang thai hộ là
giải pháp tốt cho những trường hợp vô sinh mà người phụ nữ không thể chữa
trị để tự mang thai. Và trong trường hợp này, đứa bé ra đời từ mang thai hộ
mang gien di truyền của người phụ nữ có trứng thụ tinh chứ không phải của
14
người mang thai. Nếu hiểu khái niệm huyết thống đồng nhất với khái niệm
gien di truyền (ADN) thì quan hệ huyết thống là quan hệ giữa người phụ nữ
có trứng và đứa trẻ. Nếu chúng ta chấp nhận việc nuôi trẻ bằng sữa của người
phụ nữ khác khi người mẹ của đứa trẻ không có khả năng nuôi con bằng sữa
của chính mình thì chúng ta cũng nên chấp nhận việc mang thai hộ. Hai hiện
tượng này gần như đồng nhất với nhau, chỉ khác ở thời điểm là trước và sau
khi sinh.
Việc cấm mang thai hộ tại Việt Nam sẽ dẫn đến sự phân biệt về giàu
nghèo vì các cặp cha mẹ có điều kiện kinh tế có thể sang nước ngoài để thực
hiện phương pháp này. Hơn nữa, việc mang thai hộ được luật quy định sẽ bảo
đảm sự an toàn và quyền lợi cho các đối tượng tham gia, hạn chế các đường
dây bóc lột phụ nữ nghèo tại các nước đang phát triển. Luật HN&GĐ năm
2014, Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã thiết lập một cơ chế kiểm tra sự đồng
thuận của người mang thai hộ (không bị sức ép tâm lý, kinh tế, gia đình; nhận
thức rõ ràng về các hậu quả của việc rời bỏ đứa trẻ sau khi sinh ra; hậu quả
với sức khỏe cá nhân và đời tư về sau; sự đồng thuận của người chồng của
người mang thai hộ….
1.3.4. Mang thai hộ vì mục đích nhân dạo giúp duy trì nòi giống
Duy trì nòi giống là quy luật tự nhiên của loài người từ xa xưa để phát
triển xã hội. Theo Ăngghen: “con người ta thay đổi hàng ngày cuộc sống của
mình, bắt đầu sản xuất ra những con người khác tức là tự tái sản xuất, đó là
quan hệ giữa đàn ông và đàn bà, giữa cha mẹ và con cái, đó là gia đình” [37,
tr21]. Nếu không có sản xuất và tái sản xuất, kể cả “tái sản xuất con người”
thì xã hội không phát triển, thậm chí không tồn tại được. Nhờ có mang thai hộ
mà chức năng duy trì nòi giống của các cặp vợ chồng hiếm muộn được đảm
bảo, đồng thời đáp ứng được nhu cầu sinh con cùng huyết thống, cùng mã gen
với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha, mẹ, con
mà còn là cơ sở để xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị
văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ gắn với mỗi con
15
người cụ thể. Đó cũng là lý do để các cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn luôn khao
khát có đứa con mang dòng máu của mình và trường hợp người vợ không thể
mang thai và sinh con thì cách duy nhất chỉ có thể là thực hiện “mang thai
hộ”. Như vậy, một ý nghĩa nữa của mang thai hộ chính là đảm bảo khả năng
16
thực hiện chức năng cơ bản của gia đình – chức năng duy trì nòi giống.
CHƢƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY
2.1. Thực trạng xây dựng pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ
2.1.1. Quy định pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ của một số quốc gia
trên thế giới
Thời điểm ca mang thai hộ đầu tiên trên thế giới được xác định vào
năm 1979 tại Hoa Kỳ khi bác sĩ Richard M.Levin tiếp một cặp vợ chồng mà
người vợ không có khả năng sinh con. Khi đó, người vợ đã rất mong muốn có
một đứa con của chồng, dù bản thân bà không mang thai được. Biết được
nguyện vọng này, bác sĩ Levin đã nghĩ đến cách nhờ một phụ nữ khác mang
thai giúp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của người chồng. Tuy nhiên, để thực
hiện được ý định, ông Levin đã vấp phải các vấn đề pháp lý đối với việc mang
thai hộ này và mất chín tháng hợp tác với các luật sư, nghiên cứu luật của
bang và của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ để hiểu rõ hơn các khía cạnh pháp luật
phức tạp của mối quan hệ mang thai hộ (còn gọi là làm mẹ thuê, đẻ thuê). Các
khía cạnh này cũng được nghiên cứu kỹ, có sự tham khảo ý kiến của nhiều
chức sắc tôn giáo và nhà đạo đức học để đi đến một thỏa thuận không xúc
phạm đến giá trị đạo đức của cộng đồng.
Cuối cùng, một “hợp đồng”, còn gọi là “biên bản ghi nhớ” đã được
soạn thảo rất kín kẽ, bảo đảm quyền lợi cho cặp vợ chồng vô sinh, người mẹ
mang thai hộ và cả đứa trẻ. Người mẹ mang thai hộ lần đầu tiên trên thế giới
đó đã được các thầy thuốc khám, tư vấn rất kỹ lưỡng về các vấn đề y tế sinh
sản cũng như được các nhà hoạt động pháp luật tư vấn về vấn đề pháp lý xoay
quanh quyền lợi và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp mang thai hộ này.
Đến đầu năm 1980, theo thỏa thuận giữa người mẹ mang thai hộ và cặp vợ
chồng vô sinh, các bác sĩ đã tiến hành thụ tinh nhân tạo phôi thai bằng tinh
17
trùng của người chồng với noãn của người vợ và phôi thai được cấy vào
người phụ nữ mang thai hộ. Chín tháng sau, tại Lousville, người phụ nữ mang
thai hộ đã sinh hạ một bé trai và năm ngày sau đó, người phụ nữ mang thai hộ
đã trình diện trước Tòa án để chính thức chấm dứt những quyền liên quan đến
việc làm mẹ của mình và trao lại con cho người bố sinh học. Sau khi đã hoàn
tất các thủ tục về mối quan hệ pháp lý với đứa trẻ, cặp vợ chồng được toàn
quyền chăm sóc, nuôi dạy đứa trẻ. Đó là câu chuyện về trường hợp mang thai
hộ hợp pháp và có chuẩn bị kỹ lưỡng đầu tiên trên thế giới. [34, tr.6]
Đó là câu chuyện về trường hợp mang thai hộ hợp pháp và có chuẩn bị
kỹ lưỡng đầu tiên trên thế giới. Cũng từ đây, các quốc gia đã có sự ghi nhận
tuỳ mức độ khác nhau dưới góc độ luật pháp đến vấn đề mang thai hộ này.
Theo một khảo sát của Liên đoàn Sinh sản Thế giới về vấn đề mang thai hộ
được thực hiện vào năm 2013 tại 105 quốc gia, đã có 62 quốc gia phản hồi.
Trong đó, 19 quốc gia có quy định, luật mang thai hộ rõ ràng; 24 quốc gia
theo đạo Hồi và Thiên chúa giáo nghiêm cấm mang thai hộ; 14 quốc gia
không có quy định cụ thể nhưng cho phép thực hiện dựa trên các luật liên
quan. [13]
2.1.1.1. Các quốc gia chưa hợp pháp hóa mang thai hộ
a. Một số nƣớc ở châu Âu
Tại Pháp và Italy quy định cấm phụ nữ độc thân và các cặp vợ chồng
đồng tính nữ sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo, TTTON và cấm mang
thai hộ. Do sự phát triển mạnh mẽ của giáo hội Công giáo tới pháp luật của
các quốc gia này, họ cho rằng đứa trẻ phải được sinh ra một cách tự nhiên, là
món quà của Thượng đế ban tặng, con người không thể tự tạo ra trẻ. Đồng
thời, kỹ thuật TTTON với việc hủy phôi đã đi ngược lại với quan điểm của
Giáo hội. Đạo luật số 94-653 năm 1994 (còn gọi là Luật đạo đức sinh học)
của Pháp cấm việc mang bầu và đẻ thuê. Bất kỳ thoả thuận "mang thai hộ"
nào dù mang tính thương mại hay không cũng là là bất hợp pháp.
Tại tỉnh Quebec, Canada cấm tất cả các thỏa thuận "mang thai hộ". Bộ
18
luật Dân sự Quebec làm cho tất cả các hợp đồng "mang thai hộ", cho dù
thương mại hay nhân đạo, đều không thể thực thi. Điều 541, Bộ luật dân sự
của Quebec năm 1991 quy định: "bất kỳ thỏa thuận nào, theo đó một người
phụ nữ cam kết sinh sản hoặc mang theo một đứa trẻ cho một người khác là
hoàn toàn vô giá trị".
b. Một số bang ở Mỹ
Các bang Arizona, Indiana, Michigan, Uhtar, North Dakota “mang thai
hộ” lại bị cấm tuyệt đối. Pháp luật bang Michigan cấm hoàn toàn tất cả các
thỏa thuận "đẻ thuê" hay nói cách khác là "mang thai hộ" có tính chất thương
mại. Đó là một trọng tội nếu tham gia vào thỏa thuận như vậy, và có thể bị
phạt phạt tiền lên đến 50.000 USD và tối đa năm năm tù giam. Pháp luật làm
cho họ không thể thực thi việc mang thai hộ ở tiểu bang này.
c. Một số nƣớc ở châu Á
Trung Quốc là một quốc gia còn tồn tại cấu trúc mô hình gia đình
truyền thống. Trong mô hình truyền thống này, người phụ nữ sẽ kết hôn và
sinh con một cách tự nhiên. Do vậy, việc mang thai bằng kỹ thuật TTTON với
phụ nữ đơn thân không được khuyến khích ở Trung Quốc. Phụ nữ độc thân
mang thai và sinh con tự nhiên hay bằng phương pháp TTTON đều không
được cấp giấy khai sinh. Điều này dẫn tới việc đứa trẻ sẽ không có hộ khẩu
(hay gọi là hukou) – giấy phép cư trú của địa phương để được tham gia vào
các dịch vụ xã hội, bao gồm giáo dục công cộng, sức khỏe y tế, hộ chiếu, trừ
khi họ đóng một loại phí gọi là “phí bảo trì xã hội” (social maintenance fee)
đối với hành vi vi phạm “Chính sách một con” của Trung Quốc.
Nhật Bản tuy là một trong số các quốc gia đi đầu trong khu vực về
khoa học và các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, tuy nhiên, Nhật Bản vẫn chưa có
luật về công nghệ sinh sản. Hiện nay, dự thảo vẫn đang được thảo luận một số
vấn đề gây tranh cãi, bao gồm vệc đẻ thuê, cho và nhận tinh trùng, noãn từ
người hiến tặng. Do nền tảng tư duy của người Nhật Bản về tầm quan trọng
của gia đình huyết thống, tức là các thành viên trong gia đình phải có mối
19
quan hệ huyết thống với nhau. Việc cho nhận tinh trùng, noãn từ người hiến
tặng sẽ vi phạm sâu sắc tới mô hình gia đình này. Bởi chưa có luật điều chỉnh,
nên đã xảy ra trường hợp một người mẹ đơn thân không thể mang thai đã
dùng noãn của mình và nhờ mang thai hộ, dẫn tới việc đứa trẻ sinh ra bằng
phương pháp TTTON có hai người mẹ: mẹ sinh học (người mang thai và sinh
ra đứa trẻ) và mẹ cung cấp noãn. Trong trường hợp này, Tòa án tối cao Nhật
Bản đã phán quyết phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ hợp pháp của đứa trẻ, song
Bộ luật dân sự Nhật Bản lại chưa có quy định liên quan tới vấn đề này. Do
vậy, tình trạng pháp lý cũng như quyền và lợi ích của phụ nữ độc thân cũng
như đứa trẻ do phụ nữ độc thân sinh ra không được đảm bảo, gây bất lợi trong
việc nuôi dưỡng, chăm sóc đứa trẻ cũng như quyền thừa kế của trẻ trong
trường hợp không có di chúc.
2.1.2.1.Các quốc gia hợp pháp hóa mang thai hộ
Trên thế giới hiện nay nhiều nước, vùng lãnh thổ cho phép mang thai
hộ đã quy định cụ thể trong luật như: Anh, Đan Mạch, Hà Lan, Bỉ, Phần Lan,
Hunggari, Canada, Australia, Nam Phi, Brazin, Hy Lạp, Estonie, Equateur,
Hong Kong, Ấn Độ, Iran, Nga, Salvador, Ukraine, Pháp. Và tại Mỹ, một thiểu
số bang cho phép mang thai hộ như bang Arkansas, Californie, Illinois, New-
Hampshire, Texas, Utah, Virginie, Kentucky, Washington, thậm chí, các bang
Alaska, Lowa, Nevada cho phép ngay cả khi thỏa thuận mang thai hộ vì mục
đích kinh tế.
a. Một số nƣớc ở châu Âu
Tại Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả
việc quảng cáo để tìm người mang thai hộ đều được cho phép, cụ thể là quy
định tại Luật về thụ tinh nhân tạo năm 1994: thừa nhận tính hợp pháp của việc
chuyển quyền làm cha mẹ từ người đẻ thuê sang người thuê đẻ; quan hệ cha
mẹ được thiết lập bằng quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời, từ yêu cầu
của cha mẹ thuê đẻ. Người mẹ đẻ thuê có 6 tuần để phản đối việc xác định
quan hệ cha mẹ này. Bộ Luật Hình sự của Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho
20
người môi giới cha mẹ thuê đẻ và người mang thai hộ.
Ở Ukraine, từ năm 2002, "mang thai hộ" đã được công nhận và hoàn
toàn hợp pháp. “Mang thai hộ” được chính thức quy định bởi Bộ luật Gia
đình Ukraine và Lệnh 771 của Bộ Y tế Ukraine. Theo đó, vợ chồng hiếm
muộn có thể lựa chọn giữa thai “mang thai hộ”, hiến trứng hoặc tinh trùng,
phôi thai thông qua các chương trình đặc biệt và sự kết hợp của chúng mà
không cần có sự cho phép từ bất kỳ cơ quan quản lý. Sự đồng ý bằng văn bản
của tất cả các bên tham gia (người nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ)
trong thỏa thuận “mang thai hộ" là bắt buộc. Theo luật của Ukraine, người
“mang thai hộ” không có quyền đối với trẻ em sinh ra và đứa trẻ sinh ra về
mặt pháp lý là con của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Tên của người “mang
thai hộ” là không bao giờ được liệt kê trong giấy khai sinh. Người mang thai
hộ cũng không thể giữ đứa trẻ sau khi sinh. Ngay cả khi một chương trình
quyên góp đã diễn ra và không có mối quan hệ sinh học giữa đứa trẻ và cha
mẹ nhờ mang thai hộ thì tên của họ vẫn được ghi trong giấy khai sinh (khoản
3 trong tổng số 123 điều của Bộ Luật Gia Đình của Ukraine. Phương pháp
mang thai hộ cũng có thể được áp dụng với những người phụ nữ độc thân
bằng việc áp dụng phương pháp thụ tinh nhân tạo với tinh trùng của những
người hiến tặng đã biết hoặc vô danh. [34, tr.30]
b. Australia
Đạo luật mang thai hộ năm 2010 của Australia quy định, việc mang
thai hộ được công nhận nếu giữa người mang thai hộ và người nhờ mang thai
hộ có thỏa thuận đứa trẻ sau khi sinh ra là con của người nhờ mang thai hộ,
chuyển giao quyền nuôi dưỡng và giám hộ đứa trẻ cho người nhờ mang thai
hộ; người nhờ mang thai hộ đồng ý nhận trách nhiệm lâu dài trong việc nuôi
dưỡng và giám hộ cho đứa trẻ. Luật này cũng quy định hậu quả của việc
mang thai hộ theo một số nguyên tắc: một là, người phụ nữ mang thai hộ và
chồng của người phụ nữ này sẽ là bố mẹ hợp pháp của đửa trẻ từ lúc bắt đầu
mang thai cho đến khi chuyển giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Do đó,
21
trong quá trình mang thai, tính mạng của đứa trẻ hoàn toàn do người phụ nữ
mang thai hộ quyết định. Nếu người này muốn từ bỏ đứa trẻ thì việc đó là hợp
pháp. Hai là, theo thỏa thuận giữa hai bên, sau khi đứa trẻ sinh ra mà có bất
kỳ sự tranh chấp nào về quyền nuôi dưỡng hoặc giám hộ cho đứa trẻ thì
quyền giám hộ hợp pháp thuộc thẩm quyền của Tòa vị thành niên. Nguyên tắc
giải quyết của Tòa vị thành niên là vì lợi ích tốt nhất của đứa trẻ. [33, tr.8]
c. Một số nƣớc ở châu Á
Mặc dù vấn đề "mang thai hộ" vẫn còn gây tranh cãi và bị cấm ở nhiều
quốc gia nhưng ở Ấn Độ "mang thai hộ" lại phát triển mạnh kể từ khi Tòa án
tối cao hợp pháp hóa vấn đề này. Năm 2010, Quốc hội Ấn Độ đã thông qua
dự luật điều chỉnh công nghệ sinh sản có hỗ trợ. Theo luật mới này, tuổi
người mang thai hộ không được dưới 21 hoặc hơn 35 nhằm hạn chế tình trạng
trước đây, có nhiều người mang thai hộ ở tuổi vị thành niên hoặc trên 40 tuổi.
Nếu đương sự có chồng, họ phải được sự đồng ý của chồng. Người mang thai
hộ cũng không được sinh nở quá năm lần, tính cả lần sinh con ruột. Điều
khoản này nhằm bảo vệ sức khỏe của mẹ và trẻ sơ sinh. Riêng mang thai hộ,
luật không cho phép thực hiện quá 03 lần cho cùng một cặp vợ chồng. Trong
luật cũng quy định rõ chỉ có công dân Ấn Độ mới được ký hợp đồng "mang
thai hộ". Không bệnh viện nào được phép đưa người ra nước ngoài để "mang
thai hộ". Tên tuổi người mang thai hộ phải được giữ bí mật tối đa. Đạo luật
cũng có một điều khoản quan trọng quy định rằng giấy khai sinh em bé phải
ghi tên cha mẹ là người nhờ "mang thai hộ" và những người này phải chấp
nhận nuôi dưỡng đứa bé cho dù gặp phải trường hợp mắc bệnh bẩm sinh.
Ở Thái Lan, mang thai hộ vì mục đích thương mại bị cấm. Ngày
28/11/2014, Quốc hội Thái Lan đã bỏ phiếu lần một thông qua dự luật cấm
dịch vụ mang thai hộ. Dự luật này có hiệu lực từ tháng 6 năm 2015. Theo dự
luật này, người thuê sẽ bị phạt đến 10 năm tù và/hoặc phạt tiền 200.000 baht,
còn người môi giới sẽ bị phạt đến 05 năm tù và/hoặc bị phạt 100.000 baht. Dự
luật là một danh sách các thủ tục để bảo vệ các em bé được hình thành qua
22
việc "mang thai hộ", người mang thai hộ và kiểm soát mối quan hệ pháp lý
giữa người "mang thai hộ", người mẹ và người cha của bé. Dự thảo đã ghi
nhận các điều kiện của mang thai hộ, cụ thể: Cha và mẹ thật của đứa bé không
thể có con được và muốn có một đứa con bằng cách nhờ một người phụ nữ
khác mang thai hộ. Cặp vợ chồng này phải sẵn sàng cả tâm lý, tinh thần, và
vật chất để trở thành cha mẹ khi em bé ra đời; Người mang thai hộ không phải
là mẹ của đứa trẻ được sinh ra; Người mang thai hộ phải có một đứa con
trước khi thực hiện "mang thai hộ" và nếu đã kết hôn, phải được sự đồng ý
của chồng mình. Ðiều này rõ ràng là rất cần thiết để phòng việc cô và gia đình
tuyên bố bất kỳ quyền lợi gì khi em bé ra dời. Mặc dù vậy, Cơ quan y tế của
Thái Lan vẫn có thể tuyên bố thêm điều kiện và điều khoản theo sự thích hợp
và chứng thực của Hội đồng bảo vệ trẻ Em. [34, tr.33]
2.1.2. Lịch sử hình thành phát triển pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam
Ở Việt Nam, vào ngày 30/4/1998, 03 em bé TTTON đầu tiên chào đời
tại bệnh viện Từ Dũ, đánh dấu một bước ngoặt lớn cho ngành sản khoa Việt
Nam. Mặc dù ở nước ta, kỹ thuật TTTON được thực hiện thành công khá
muộn so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Song, trong những
năm gần đây, nền y học nước nhà đã đạt được những bước tiến nhanh và đáng
khích lệ, ngay cả khi Luật HN&GĐ năm 2000 chưa quy định về mang thai
hộ. [24]
Tại khoản 1 Điều 6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của
Chính phủ quy định về sinh con theo phương pháp khoa học đã nghiêm cấm
hành vi mang thai hộ. Vì thế chưa có văn bản nào quy định hậu quả pháp lý
cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền nhân thân và
quyền tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan (người mang thai,
người nhờ mang thai hộ).
Năm 2011, Bộ Y tế đã tổ chức Đánh giá 08 năm thi hành Nghị định số
12/2003/NĐ-CP. Qua khảo sát 07 Trung tâm hỗ trợ sinh sản được Bộ Y tế ra
quyết định công nhận đủ điều kiện thực hiện kỹ thuật thụ tinh nhân tạo,
23
TTTON, các Trung tâm đều nêu khó khăn trong việc thực hiện khoản 1 Điều
6 Nghị định số 12/2003/NĐ-CP. Thực tế, pháp luật bấy giờ quy định cấm
mang thai hộ, tuy nhiên các bác sĩ hay nhân viên của Trung tâm không có
nghiệp vụ nên khó có thể phát hiện trường hợp mang thai hộ với trường hợp
thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Qua toạ đàm, các Trung tâm đều có ý kiến
hiện nay có nhiều trường hợp đến gặp bác sĩ bày tỏ nguyện vọng tha thiết
được làm kỹ thuật TTTON để nhờ người mang thai hộ. Tuy nhiên, các bác sĩ
đều từ chối vì pháp luật không cho phép. Có trường hợp các bác sĩ phát hiện
được mang thai hộ là do nghi ngờ và yêu cầu kiểm tra chứng minh nhân dân
nhưng vẫn không dám khẳng định chắc chắn là trong các ca do mình thực
hiện có ca nào là mang thai hộ không. Đây cũng là một áp lực cho đội ngũ
cán bộ, nhân viên y tế khi thực hiện hỗ trợ sinh sản vì nếu vô tình thực hiện
mang thai hộ (do không biết vì không có nghiệp vụ cũng như không có quy
định pháp luật để kiểm tra trường hợp) nên có thể thực hiện hành vi vi phạm
pháp luật và bị xử phạt. Trong Báo cáo tổng kết 08 năm thi hành Nghị định số
12/2003/NĐ-CP đề xuất xem xét bỏ quy định cấm mang thai hộ tại Việt Nam
và quy định cho phép mang thai hộ cũng như cơ chế kiểm soát chặt chẽ các
trường hợp này.
Do nhu cầu của xã hội, sự phát triển của khoa học kỹ thuật, ngày
19/6/2014, tại kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII đã thông qua Luật HN&GĐ
năm 2014, cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và đã quy định cụ thể
về hậu quả pháp lý cũng như xác định cha, mẹ đứa trẻ được sinh ra, các quyền
nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan. Năm
2015 đánh dấu sự ra đời của Nghị định 10/2015/NĐ-CP và Thông tư
57/2015/TT-BYT hướng dẫn thi hành Nghị định 10/2015/NĐ-CP do Bộ
trưởng Bộ Y tế ban hành; Quyết định 7358/QĐ-BYT năm 2016 công bố thủ
tục hành chính được quy định tại Nghị định 98/2016/NĐ-CP sửa đổi Nghị
định 10/2015/NĐ-CP do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. Lần đầu tiên, pháp luật
Việt Nam ghi nhận việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng như đưa ra
24
nhiều quy định cụ thể, hướng dẫn chi tiết quy trình thực hiện sinh con bằng kỹ
thuật TTTON, mở đường cho hàng triệu gia đình, mang đến hy vọng cho
hàng triệu người khó có khả năng mang thai tự nhiên tại Việt Nam.
Từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ-CP có hiệu
lực pháp luật. Bệnh viện Từ Dũ đã được phép áp dụng kỹ thuật mang thai hộ
tại bệnh viện bắt đầu từ tháng 7/2015, tính đến nay đã có 117 ca mang thai hộ
(riêng năm 2018 có 31 ca), trong đó có 58 ca có thai, chiếm tỉ lệ 50%. Hiện đã
có 33 bé được sinh ra nhờ mang thai hộ. Tại Bệnh viện Mỹ Đức, trường hợp
đầu tiên sinh bé từ chương trình mang thai hộ được ghi nhận là bé trai, cân
nặng 3.100g vào ngày 03/8/2018. Hiện bệnh viện đã có 04 bé chào đời và
hoàn tất việc chuyển phôi cho 25 trường hợp. [17]
2.1.3. Nội dung pháp luật mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay
Theo quy định trong Luật HN&GĐ năm 2014 và các văn bản hướng
dẫn thi hành, pháp luật Việt Nam hiện chỉ cho phép thực hiện hoạt động mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo. Vì đây là hoạt động có ảnh hưởng đến nhiều
đối tượng chủ thể, lại là hoạt động khá đặc biệt nên pháp luật Việt Nam có
những quy định rất chặt chẽ về điều kiện, về quyền và nghĩa vụ của các bên
chủ thể, về trình tự, thủ tục, và các vấn đề khác liên quan đến hoạt động mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo này.
2.1.3.1. Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Để tránh tình trạng nhờ người khác mang thai hộ một cách bừa bãi,
pháp luật đã quy định chỉ trong những trường hợp đặc biệt mới được phép
nhờ mang thai hộ và phải đáp ứng những điều kiện rất chi tiết, cụ thể theo luật
định. Cụ thể, bên nhờ mang thai hộ phải có đủ các điều kiện như: người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền; vợ chồng không có con chung và
đã được tư vấn về pháp lý, y tế, tâm lý... Quy định chi tiết như vậy là nhằm
hạn chế việc lợi dụng mang thai hộ trong khi chính người phụ nữ vẫn có khả
năng làm mẹ, đồng thời đó cũng là một cách để hạn chế việc thương mại hóa
25
mang thai hộ.
Luật HN&GĐ năm 2014 đã quy định rất cụ thể về điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo với đối với từng bên tham gia quan hệ pháp luật này
như sau:
a. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải đƣợc thực hiện trên cơ sở tự
nguyện của các bên và đƣợc lập thành văn bản thoả thuận
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
phải dựa trên sự tự nguyện của bên mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ bằng
việc tham gia kí kết văn bản thỏa thuận, gọi là thỏa thuận mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo. Thỏa thuận này là sự ràng buộc trách nhiệm của các bên từ khi
bắt đầu thực hiện việc mang thai hộ cho tới khi giao nhận con, đồng thời, là cơ
sở pháp lý để thực hiện các thủ tục cần thiết như khai sinh cho đứa trẻ được sinh
ra từ việc mang thai hộ hoặc khi có tranh chấp giữa các bên.
b. Điều kiện đối với bên nhờ mang thai hộ
* Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không
thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Khái niệm “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” theo khoản 22 Điều 3
Luật HN&GĐ năm 2014 “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một
người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho
cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng
của người chồng để TTTON, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự
nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”. Ngay trong khái
niệm này đã xác định cụ thể đối tượng được áp dụng mang thai hộ, mang thai
hộ chỉ được đặt ra đối với những cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kĩ thuật hỗ trợ sinh sản. Vợ chồng trong
trường hợp này phải là những người có hôn nhân hợp pháp, nghĩa là phải
đăng kí kết hôn hoặc quan hệ vợ chồng được xác lập trước ngày 03/01/1987
26
(ngày Luật HN&GĐ năm 1986 có hiệu lực).
Các trường hợp sau đây có thể được xem xét mang thai hộ do nguyên
nhân y khoa, nghĩa là một cặp vợ chồng không thể có con ngay cả khi áp
dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hoặc việc mang thai có thể nguy hiểm cho sức
khỏe, tính mạng của người vợ và của trẻ sinh ra: Đã phẫu thuật cắt tử cung do
bệnh lý hay do các tai biến sản khoa…; Không có tử cung hay dị dạng tử cung
bẩm sinh; Người vợ bị bệnh nội khoa nặng không thể mang thai: ví dụ bệnh
tim, suy tim…; Có thể xem xét các trường hợp sẩy thai nhiều lần hay thất bại
TTTON nhiều lần do vấn đề liên quan đến tử cung. [32]
Do đó, điều kiện đầu tiên đối với bên nhờ mang thai hộ là phải có
xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về việc người vợ không thể mang
thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản tại điểm a khoản
2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014. Xác nhận này để đảm bảo hoàn toàn việc
người vợ không có khả năng sinh con. Điểm đ khoản 1 Điều 14 Nghị định số
10/2015/NĐ-CP quy định trong hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo cần có: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
được thực hiện kỹ thuật TTTON về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ
có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi
và người mẹ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản”. Như vậy, qua quy định này có thể hiểu là cơ sở y tế được thực
hiện kỹ thuật TTTON mới có thẩm quyền xác nhận người vợ không có khả
năng mang thai ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Giấy xác nhận
này mang ý nghĩa quan trọng và cần sự chính xác hoàn toàn vì vậy cơ sở y tế
có khả năng thực hiện kỹ thuật TTTON để hỗ trợ sinh sản mới có đủ chuyên
môn cần thiết để đánh giá đúng về tình trạng của người vợ xem có khả năng
mang thai sinh con hay có thể áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản hay không
* Vợ chồng đang không có con chung
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định một trong những điều kiện đối với
bên nhờ mang thai hộ là vợ chồng đang không có con chung. Quy định này có
27
thể hiểu vợ chồng nhờ mang thai hộ phải chưa từng có con chung cho đến
thời điểm nhờ người mang thai hộ hoặc vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đã
từng có con chung nhưng ở thời điểm hiện nay đứa con đã không còn sống, vì
thế họ muốn có thêm con, nhưng lại không thể do không thụ thai được nữa.
Trong trường hợp, vợ chồng đã có con riêng nhưng đang không có con chung
thì vẫn thuộc trường hợp được nhờ mang thai hộ nhưng nếu vợ chồng không
có con riêng nhưng có con chung, con chung đó đã cho người khác nhận nuôi
hoặc bị mắc chứng bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác làm cho đứa con
không phát triển được bình thường… thì lại không được nhờ mang thai hộ.
Với điều kiện trên, vợ chồng có con nhưng con bị bệnh lý di truyền,
dị tật bẩm sinh nếu muốn sinh thêm con nữa thì không thể nhờ mang thai hộ.
Nhưng nhiều ý kiến cho rằng xét về tình thì được nhờ mang thai hộ trong
trường hợp này rất chính đáng, nhân văn. Trước vấn đề này, ông Nguyễn
Hồng Hải Phó Vụ trưởng Vụ Pháp luật Dân sự - Kinh tế, Bộ Tư pháp cũng
giải thích chi tiết: “Ở đây chúng tôi quan tâm về quyền con người, đặc biệt là
quyền lợi đứa con vì trong hoàn cảnh này mà cho mang thai hộ sẽ đồng nghĩa
với việc không thừa nhận đứa trẻ này là người bình thường, gạt bé ra “bên
lề”, vô tình gây ảnh hưởng đến sự phát triển của con. Một đứa trẻ sinh ra dù
bị dị tật thì cũng là con của cha, của mẹ, cần được bảo vệ, chăm sóc chu
đáo”. [25, tr.41]
Quy định chỉ áp dụng mang thai hộ khi vợ chồng chưa có con chung
bởi lẽ mang thai hộ là nhằm mục đích nhân đạo, là một nghĩa cử cao đẹp giữa
những người phụ nữ với nhau, giống một sự hỗ trợ, giúp đỡ để những người
kém may mắn có thể hưởng niềm vui được làm mẹ và khi niềm khao khát có
một đứa con ruột thịt thành hiện thực, niềm hạnh phúc làm mẹ thật thiêng
liêng, đáng trân trọng. Quy định này nhằm góp phần hạn chế việc nhờ mang
thai hộ tràn lan, việc mang thai ảnh hưởng lớn đến người phụ nữ nên không
thể xem nhẹ mà chỉ được áp dụng mang thai hộ là giải pháp tối ưu cuối cùng
28
cho người phụ nữ không thể mang thai và sinh con.
* Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý
Do mang thai hộ là một biện pháp phức tạp về mọi mặt nên người
nhờ mang thai hộ cần phải được chuẩn bị đầy đủ những thông tin, kiến thức
trong cả quá trình mang thai hộ về y tế, pháp lý và tâm lý.
Tư vấn về y tế thì Điều 15 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP nêu ra một
số nội dung cần thiết bao gồm: “Các phương án khác ngoài việc mang thai hộ
hoặc xin con nuôi; Quá trình thực hiện kỹ thuật TTTON và mang thai hộ; Các
khó khăn khi thực hiện mang thai hộ; Tỷ lệ thành công của kỹ thuật có thể rất
thấp nếu dự trữ buồng trứng của người vợ thấp hoặc người vợ trên 35 tuổi;
Chi phí điều trị cao; Khả năng đa thai”. Việc nắm bắt đầy đủ thông tin liên
quan đến y tế trong toàn bộ quá trình mang thai hộ là việc làm hết sức cần
thiết đối với bên nhờ mang thai hộ. Do mang thai hộ là một biện pháp hỗ trợ
sinh sản yêu cầu sự can thiệp của y tế nhiều và rất phức tạp.
Tư vấn về pháp lý là cung cấp, giải đáp thông tin để người nhờ mang
thai hộ biết và hiểu được quyền cũng như nghĩa vụ của mình. Từ chỗ hiểu
được các quyền và nghĩa vụ của mình, người mang thai hộ sẽ có những ứng
xử phù hợp với quy định của pháp luật, gi p hạn chế những tranh chấp xảy ra
giữa các bên trong quan hệ mang thai hộ. Hay những điều kiện, thủ tục cần
thiết về mang thai hộ và bên nhờ mang thai hộ cần nắm được.
Tư vấn về tâm lý cũng là việc cần thiết đối với bên nhờ mang thai hộ
dù người nhờ mang thai hộ không trải qua cảm giác mang thai và sinh con
nhưng họ vẫn cần chuẩn bị tâm lý để đón nhận đứa trẻ, để sẵn sàng làm mẹ.
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã đưa ra một số nội dung tâm lý mà bên nhờ
mang thai hộ cần được tư vấn trong khoản 1 Điều 17 gồm có: “Các vấn đề về
tâm lý trước mắt và lâu dài của việc nhờ mang thai hộ, người thân và bản
thân đứa trẻ sau này; Người mang thai hộ có thể có ý định muốn giữ đứa bé
sau sinh; Hành vi, thói quen của người mang thai hộ có thể ảnh hưởng đến
sức khỏe của đứa trẻ; Tâm lý, tình cảm khi nhờ người mang thai và sinh con;
Thất bại và tốn kém với các đợt điều trị mang thai hộ có thể gây tâm lý căng
29
thẳng, mệt mỏi; Các nội dung khác có liên quan.”
c. Điều kiện đối với bên đƣợc nhờ mang thai hộ
* Là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ
Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP giải thích người thân
thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ gồm: “Anh,
chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con
chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu
của người cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ”.
Quy định này đã phần nào giải quyết được khúc mắc về nội hàm của khái
niệm “người thân thích cùng hàng” được đặt ra trong Luật HN&GĐ năm
2014 nhằm hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ.
Dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng
vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai
hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất
trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định số 10/2015/NĐ-CP
đã nêu trên đều không có chị em gái, hoặc có chị em gái nhưng những người
này không đáp ứng đủ các điều kiện khác như là người chưa thành niên, hay
đã thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc mang
thai hộ sẽ không thể được tiến hành nên nhiều ý kiến cho rằng nên mở rộng
đối tượng được phép mang thai hộ. Tuy nhiên, xét một khía cạnh khác của
vấn đề này, việc mở rộng đối tượng cho phép mang thai hộ lại chứa đựng
nhiều bất ổn có thể xảy ra trong thực tiễn, nhất là khi cơ sở để phân biệt nhân
đạo và thương mại lại rất mong manh, khó xác định. Theo TS Nguyễn Văn
Cừ, Chủ nhiệm Khoa Pháp luật Dân sự, trường Đại học Luật Hà Nội – thành
viên tổ biên tập sửa đổi Luật HN&GĐ năm 2000 cho biết: “Đây là điều hợp
lý bởi sẽ tránh được những vấn đề phát sinh phức tạp về tranh chấp đứa trẻ.
Tuy nhiên, chưa thể mở rộng đối tượng những người được phép mang thai hộ
30
bởi điều đó dễ gây phát sinh chuyện hợp đồng, kinh doanh”. [25, tr.45]
* Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần
Điều kiện yêu cầu người được nhờ mang thai hộ đã từng có thai và
sinh con để đảm bảo rằng người mang thai hộ đã có kinh nghiệm cho việc
mang thai, quy định này cũng nhằm đảm bảo sức khỏe cho cả mẹ và con.
Mang thai và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua
nhiều giai đoạn khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi,
chăm sóc đặc biệt để đảm bảo thai nhi phát triển khỏe mạnh. Người đã từng
mang thai sẽ có nhiều kinh nghiệm trong việc chăm sóc và giữ gìn thai nhi
hơn cũng như biết cách phòng ngừa những biến chứng, những tác động không
tốt đến sức khỏe của thai nhi từ đó ảnh hưởng tới sự thành công của việc
mang thai hộ. Hơn nữa, người đã từng mang thai sẽ hiểu được những ảnh
hưởng về sức khỏe và đặc biệt là tâm lý của thai nhi mang lại, từ đó sẽ hạn
chế được phần nào khả năng tranh chấp có thể phát sinh giữa hai bên do việc
phát sinh tình cảm gắn kết giữa người mang thai hộ và đứa trẻ.
Pháp luật cũng quy định người mang thai hộ chỉ được mang thai hộ
một lần nhằm đảm bảo sức khỏe cho người mang thai hộ, đồng thời hạn chế
được việc biến tấu mang thai hộ trở thành dịch vụ đã được thương mại hóa.
Tuy nhiên, nếu đứa trẻ trong trường hợp mang thai hộ không may chết ngay
sau khi sinh hoặc trước thời điểm sinh thì mục đích cuối cùng của mang thai
hộ chưa đạt được và theo quy định thì người nhận mang thai hộ không thể
mang thai hộ thêm lần thứ hai. Do vậy pháp luật cần cân nhắc đến trường hợp
này để quy định có thể đạt được mục đích cuối cùng của việc mang thai hộ.
* Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền
về khả năng mang thai hộ
Hiện nay, Luật HN&GĐ năm 2014 chỉ mới quy định người được nhờ
mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp, tuy nhiên, độ tuổi nào là độ tuổi thích
hợp thì chưa được quy định. Theo Tiến sĩ bác sĩ Lê Thị Thu Hà, Trưởng khoa
Hậu sản Nhi, Bệnh viện Từ Dũ TP.HCM cho rằng: “Độ tuổi làm mẹ tốt nhất
31
trước hết cơ thể phát triển toàn diện để đảm nhiệm khả năng sinh sản tốt,
vững vàng về kiến thức, định hình về tính cách, ổn định tâm lý, tự tin vào bản
thân và độc lập về tài chính. Độ tuổi sinh sản tốt là không dưới 18 tuổi. Phụ
nữ còn trẻ đã mang thai, lúc này cơ thể chưa phát triển đầy đủ và cũng chưa
sẵn sàng về cả mặt tâm lý lẫn sinh lý nên dễ dẫn đến sẩy thai hoặc các hiện
tượng khác như thai yếu, sinh non. Bởi cơ thể người mẹ còn quá trẻ sẽ chưa
phát triển đầy đủ, xương chậu chưa nở tốt dễ bị sang chấn khi sinh đẻ, tỷ lệ
mổ lấy thai cũng cao hơn. Việc nuôi con của các bà mẹ trẻ cũng gặp không ít
khó khăn do thiếu về tài chính lẫn kiến thức. Ngược lại với phụ nữ trên 35
tuổi thì khả năng mang thai giảm so với độ tuổi dưới 30, và nguy cơ trẻ mắc
bệnh down và các hiện tượng đột biến gene cũng tăng cao. Tỷ lệ này là 1/400
đối với độ tuổi 35 và sẽ dần tăng lên mức 1/109 ở các bà mẹ sinh con khi ở
tuổi 40. Khi ở tuổi 45, nguy cơ này là 1/32 (so với tỉ lệ 1/1.500 ở tuổi 25).
Ngoài ra, các nguy cơ khác như các dị tật, bệnh bẩm sinh do sự biến đổi
gene. Như vậy độ tuổi mang thai tốt nhất trung bình khoảng 22 – 33 tuổi”
[42]. Như vậy, độ tuổi thích hợp để có một “ca” mang thai hộ thành công
được khuyến khích là từ 20 đến 35 tuổi. Độ tuổi của người mang thai hộ
không chỉ ảnh hưởng tới sức khỏe của chính người đó mà còn ảnh hưởng tới
phôi được cấy vào trong tử cung của người đó. Ngoài ra, người mang thai hộ
không mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, HIV-AIDS, bệnh tâm
thần, bệnh truyền nhiễm hay các bệnh di truyền khác thì việc yêu cầu khung
độ tuổi được phép mang thai hộ là rất cần thiết.
Đối với việc xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả năng
mang thai hộ, điểm e khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy
định: “Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ
thuật TTTON đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy
định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị định này
và đã từng sinh con”. Vậy nên bản xác nhận về khả năng mang thai của người
phụ nữ được nhờ mang thai hộ phải do cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện
32
kỹ thuật TTTON đối với người mang thai hộ. Quy định như vậy là hoàn toàn
hợp lý, do chỉ những cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật TTTON
đối với người mang thai hộ mới có đủ chuyên môn để đánh giá đúng thể trạng
của người phụ nữ được nhờ mang thai hộ có khả năng tiếp nhận phôi và mang
thai hộ hay không vì đây là bước quan trọng nhất trong kỹ thuật thực hiện
việc mang thai hộ.
* Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự
đồng ý bằng văn bản của người chồng
Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ
mang thai hộ và cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi quyết định một
chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con
là một nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh phúc gia đình cũng là
nhu cầu chính đáng cần được bảo vệ. Mặt khác, người phụ nữ khi mang thai,
đặc biệt là mang thai hộ có nhiều biến đổi về tâm lý cũng như sức khỏe nên rất
cần sự động viên và quan tâm chăm sóc của người chồng để việc mang thai
được thuận lợi. Hơn nữa, mang thai hộ là một vấn đề phức tạp để tránh được
tối đa những tranh chấp có thể xảy ra, người vợ nhận mang thai hộ phải có sự
đồng ý của người chồng và sự đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản.
* Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý
Mang thai hộ là việc khá phức tạp và có ảnh hưởng lớn nhất đến
người được nhờ mang thai hộ cả về tâm lý và sức khỏe, do đó, người nhận
mang thai hộ cần nắm rõ mọi quy định về mang thai hộ trong pháp luật,
những ảnh hưởng về tâm lý, sức khỏe cũng như cần chuẩn bị tâm lý đầy đủ
trước khi nhận mang thai hộ.
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP cũng đã quy định rõ những nội dung
cần tư vấn y tế cho người nhận mang thai hộ bao gồm: “Các nguy cơ, tai biến
có thể xảy ra khi mang thai như sảy thai, thai ngoài tử cung, băng huyết sau
sinh và các tai biến khác; Khả năng phải mổ lấy thai; Khả năng đa thai; Khả
năng em bé bị dị tật và phải bỏ thai”. Đồng thời, quy định rõ hồ sơ yêu cầu
33
mang thai hộ cần có bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ làm việc
tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ
thuật TTTON. Như vậy, cả bên nhờ mang thai hộ và bên được nhờ mang thai
hộ đều phải được tư vấn y tế từ bác sỹ chuyên khoa sản làm việc tại cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công nhận được thực hiện kỹ thuật
TTTON. Quy định như vậy là hoàn toàn hợp lý về mặt chuyên môn mà người
tư vấn cần có đủ để có thể tư vấn tốt nhất cho các bên.
Đối với tư vấn về pháp lý, người được nhờ mang thai hộ cần nắm được
những nội dung cơ bản như: Xác định cha mẹ con trong trường hợp mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014;
Quyền, nghĩa vụ của người mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định tại
Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014; Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo theo quy định tại Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014. Việc tư
vấn về pháp lý cho người mang thai hộ là việc rất cần thiết và quan trọng vì họ
cần nắm rõ quyền cũng như nghĩa vụ của mình theo pháp luật quy định khi tham
gia nhận mang thai hộ để tránh xảy ra những tranh chấp không đáng có. Nghị
định số 10/2015/NĐ-CP nêu rõ người có thẩm quyền, trách nhiệm tư vấn pháp
lý cho người được nhờ mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ là người
có trình độ cử nhân luật trở lên làm việc tại tổ chức có tư cách pháp nhân về trợ
giúp pháp lý, tư vấn pháp luật.
Việc mang thai cũng ảnh hưởng nhiều đến tâm lý của người mang
thai cũng như những người xung quanh họ. Chính vì vậy, người được nhờ
mang thai hộ cần được tư vấn để chuẩn bị trước tâm lý cho bản thân cũng như
cho những người xung quanh họ. Người tư vấn về tâm lý cho người được nhờ
mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ phải có trình độ đại học
chuyên khoa tâm lý trở lên làm việc tại cơ sở được cấp giấy phép hoạt động
có phạm vi hoạt động chuyên môn tư vấn tâm lý và phải tư vấn tâm lý đầy đủ
các nội dung cần tư vấn. Nội dung tư vấn tâm lý gồm có: Tâm lý, tình cảm
34
của người trong gia đình, bạn bè trong thời gian mang thai hộ; Tâm lý trách
nhiệm đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ nếu để sảy thai, Tác động tâm
lý đối với con ruột của mình; Cảm giác mất mát, mặc cảm sau khi trao lại con
cho cặp vợ chồng nhờ mang thai; Chỉ thực hiện mang thai hộ khi động lực
chính là mong muốn giúp đỡ cho cặp vợ chồng nhờ mang thai, không vì mục
đích lợi nhuận;…
d. Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không đƣợc trái với quy định
của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản
Mang thai hộ cũng là một trường hợp của phương pháp sinh con theo
phương pháp khoa học, sử dụng các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cụ thể là
TTTON. Chính vì vậy, việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo không được
trái với những quy định của pháp luật về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản. Quan trọng nhất là nguyên tắc cơ bản khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản bao gồm:
- Thứ nhất, các cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ sống độc thân có quyền
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa;
- Thứ hai, việc thực hiện các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản phải theo đúng
quy trình kỹ thuật do Bộ Y tế ban hành;
- Thứ ba, TTTON, cho và nhận noãn, cho và nhận tinh trùng, cho và
nhận phôi, được thực hiện trên nguyên tắc tự nguyện;
- Thứ tư, việc cho và nhận tinh trùng, cho và nhận phôi được thực
hiện trên nguyên tắc vô danh giữa người cho và người nhận; tinh trùng, phôi
của người cho phải được mã hóa để bảo đảm bí mật nhưng vẫn phải ghi rõ
đặc điểm của người cho, đặc biệt là yếu tố chủng tộc;
- Thứ năm, việc thực hiện kỹ thuật TTTON phải tuân theo quy trình
kỹ thuật; quy định tiêu chuẩn sức khỏe của người được thực hiện kỹ thuật
TTTON, mang thai và sinh con do Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành. (theo Điều 3
35
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP).
2.1.3.2. Quy định pháp luật về thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
và quyền và nghĩa vụ của các bên mang thai hộ
a. Thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Pháp luật HN&GĐ Việt Nam hiện nay chỉ cho phép mang thai hộ trong
trường hợp vì mục đích nhân đạo và để đảm bảo tính hợp pháp của việc mang
thai hộ và giúp các bên phân định rõ trách nhiệm cũng như quyền lợi của
mình đồng thời là căn cứ giải quyết các tranh chấp phát sinh pháp luật yêu
cầu việc mang thai hộ phải được xác lập theo thỏa thuận đúng với quy định
của pháp luật đặc biệt là Điều 96 Luật HN&GĐ năm 2014. Theo đó, thỏa
thuận phải đáp ứng những điều kiện sau:
- Thứ nhất, về nguyên tắc thỏa thuận mang thai hộ. Về bản chất, thỏa
thuận mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự, do đó cũng giống như các thỏa
thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cũng được pháp luật ghi nhận
nguyên tắc thỏa thuận chung là: tự nguyện. Đó phải là sự thỏa thuận mà có sự
thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, là sự ngang bằng về địa vị và
quyền lợi, không có sự lừa dối, ép buộc giữa người mang thai hộ và người
nhờ mang thai hộ. Việc ghi nhận nguyên tắc của thỏa thuận mang thai hộ là
cần thiết bởi nó là cơ sở quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của việc phát
sinh sự kiện mang thai hộ.
- Thứ hai, về hình thức thỏa thuận mang thai hộ. Pháp luật quy định
hình thức của thỏa thuận mang thai hộ như là một điều kiện để cặp vợ chồng
vô sinh được phép nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ do thỏa thuận mang
thai hộ có tính chất phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, đối tượng của hợp đồng
vô cùng đặc biệt nên thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản với
những nội dung cụ thể. Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận bắt buộc phải được
công chứng, chứng thực tại các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Trong
trường hợp một trong các bên vợ (chồng) của người mang thai hộ hoặc người
nhờ mang thai hộ không thể trực tiếp thỏa thuận về văn bản thì bên chồng
36
(vợ) còn lại phải ủy quyền cho nhau và việc ủy quyền phải lập văn bản có
công chứng. Quy định này nhằm đảm bảo cặp vợ chồng của mỗi bên đều biết
và đồng ý với việc mang thai hộ, tránh trường hợp một bên vợ (chồng) tự thực
hiện thỏa thuận dẫn đến những tranh chấp phát sinh sau này. Việc ủy quyền
chỉ được thực hiện giữa hai vợ chồng của bên mang thai hộ và bên nhờ mang
thai hộ mà không được ủy quyền cho người thứ ba, quy định này đề cao tính ý
chí, tự nguyện của hai bên tham gia thỏa thuận. Trường hợp thỏa thuận mang
thai hộ có sự tham gia của cơ sở y tế thực hiện việc sinh con bằng biện pháp
kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của người có
thẩm quyền của cơ sở y tế.
- Thứ ba, về nội dung thỏa thuận mang thai hộ. Tương tự các thỏa
thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cần có những nội dung cơ bản
sau: Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các
điều kiện có liên quan quy định tại Điều 95 của Luật này; Cam kết thực hiện
các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 và Điều 98 của Luật này; Việc giải
quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để bảo đảm sức
khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh con,
việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối
với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và
các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan; Trách nhiệm dân sự trong trường hợp
một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận. (theo khoản 1 Điều 96
Luật HN&GĐ năm 2014).
b. Quyền và nghĩa vụ các bên trong thỏa thuận mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo
* Quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của bên mang
thai hộ gồm:
Thứ nhất, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có
quyền, nghĩa vụ như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm
37
sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ
và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Đứa trẻ trong những tuần tuổi
đầu cần sự chăm sóc của bên mang thai hộ nên bên mang thai hộ có nghĩa vụ
chăm sóc sức khỏe sinh sản và nuôi dưỡng đứa trẻ cho đến khi giao đứa trẻ
cho bên nhờ mang thai hộ. Bên mang thai hộ có nghĩa vụ phải trao con cho
bên nhờ mang thai hộ theo đúng thời gian đã thỏa thuận.
Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám,
các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai
theo quy định của Bộ Y tế. Quy định này nhằm bảo vệ đứa trẻ sinh ra được
khỏe mạnh, phát triển bình thường.
Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định
của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ
cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm
giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người
mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc
sinh con do mang thai hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế
hoạch hóa gia đình. Chế độ thai sản đối với lao động nữ mang thai hộ được
quy định chi tiết trong Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 và Nghị định
115/2015/NĐ-CP quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về
Bảo hiểm bắt buộc với một số quy định điển hình như sau: “Lao động nữ
mang thai hộ được nghỉ việc để đi khám thai 05 lần, mỗi lần 01 ngày; Trường
hợp ở xa cơ sở khám chữa bệnh hoặc người mang thai có bệnh lý hoặc thai
không bình thường thì được nghỉ 02 ngày cho mỗi lần khám thai; Trong
trường hợp sẩy thai, nạo, hút thai, thai chết lưu hoặc phá thai bệnh lý thì
được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản theo chỉ định của cơ sở khám, chữa
bệnh có thẩm quyền với thời gian nghỉ việc tối đa cụ thể: 10 ngày nếu thai
dưới 05 tuần tuổi; 20 ngày nếu thai từ 05 tuần tuổi đến dưới 13 tuần tuổi; 40
ngày nếu thai từ 13 tuần tuổi đến dưới 25 tuần tuổi; 50 ngày nếu thai từ 25
tuần tuổi trở lên; Trợ cấp một lần cho mỗi con bằng 02 lần mức lương cơ sở
tại tháng lao động nữ mang thai hộ sinh con nếu lao động đó đủ điều kiện
38
như pháp luật quy định;…”.
Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ
thực hiện việc hỗ trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lý do
tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang
thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp
tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh
sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con
thì bên mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ
nhận con. Xuất phát từ nhu cầu và mong muốn có con của bên nhờ mang thai
hộ nên việc mang thai hộ mới được tiến hành. Pháp luật cũng quy định đứa
trẻ sinh ra trong trường hợp mang thai hộ được xác định là con của bên nhờ
mang thai hộ nên bên nhờ mang thai hộ buộc phải nhận con trong mọi tình
huống. Nếu bên nhờ mang thai hộ không nhận con theo thỏa thuận thì bên
nhận mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết.
* Quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định quyền và nghĩa vụ của bên nhờ
mang thai hộ gồm:
Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực
tế để bảo đảm việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế.
Chế định mang thai hộ là chế định được đưa ra nhằm mục đích bảo vệ quyền
lợi làm cha mẹ của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, tuy rằng mang thai hộ chỉ
được chấp thuận trong trường hợp vì mục đích nhân đạo nhưng trong quá
trình mang thai hộ không tránh khỏi có những chi phí cần phải chi trả. Những
chi phí thực tế trong quá trình mang thai hộ liên quan đến chăm sóc sức khỏe
sinh sản bên nhờ mang thai hộ phải chi trả để đảm bảo sức khỏe và sự an toàn
cho mẹ và con như: chi phí khám thai thường xuyên (tối thiểu phải được
khám ba lần trên ba kỳ thai nghén), tiêm phòng, tiêm vắc xin, chi phí về chế
độ dinh dưỡng, ăn uống, nghỉ ngơi. Quy định như vậy nhằm tránh trường hợp
người mang thai hộ đưa ra những đòi hỏi vô lý, vượt quá khả năng hỗ trợ của
39
người nhờ mang thai hộ.
Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo đối với ccho đâyon phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra.
Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của
pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận con cho đến khi
con đủ 06 tháng tuổi.
Thứ ba, bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong
trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi
dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con theo quy định của
Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan; nếu gây thiệt hại
cho bên mang thai hộ thì phải bồi thường. Trong trường hợp bên nhờ mang thai
hộ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp luật đối với di sản
của bên nhờ mang thai hộ.
Thứ tư, giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác
của gia đình bên nhờ mang thai hộ có các quyền, nghĩa vụ theo quy định của
Luật này, Bộ luật Dân sự và luật khác có liên quan. Đứa trẻ sinh ra trong
trường hợp mang thai hộ theo pháp luật được xác định là con đẻ của bên nhờ
mang thai hộ kể từ thời điểm sinh ra, theo đó những mối quan hệ với các
thành viên khác trong gia đình bên nhờ mang thai hộ cũng theo đó mà hình
thành như quan hệ ông, bà, cô dì, chú bác,… với cháu, kèm theo đó là những
quyền và nghĩa vụ của các mối quan hệ theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên
nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai hộ giao con
nhằm đảm bảo mục đích ban đầu của việc mang thai hộ pháp luật quy định
bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc người mang thai hộ phải
giao con.
2.1.3.3. Các quy định pháp luật liên quan trong quá trình thực hiện thoả
thuận mang thai hộ
Trong quá trình thực hiện thoả thuận mang thai hộ giữa bên vợ
40
chồng nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, các bên cần tôn trọng thoả
thuận và các quy định pháp luật liên quan đến các quy định về tham khám,
theo dõi thai nhi, cụ thể như sau:
“Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy
trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào thai theo
quy định của Bộ Y tế” theo khoản 2 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014. Trước
đây, Bộ Y tế đã ban hành Quyết định số 537 /QĐ-BYT ngày 01/02/2010 về
việc ban hành quy trình sàng lọc, chẩn đoán trước sinh và sơ sinh. Tuy nhiên,
thực hiện quy định trên, ngày 21/9/2016, Bộ trưởng Bộ Y tế đã ban hành
Thông tư số 34/2016/TT-BYT quy định về thăm khám, các quy trình sàng lọc
để phát hiện, điều trị, xử trí các bất thường, dị tật của bào thai.
Theo thống kê của Tổng cục Dân số Việt Nam, mỗi năm Việt Nam có
khoảng gần 1,5 triệu trẻ em mới được sinh ra. Nếu được sàng lọc trước sinh
và sơ sinh tốt sẽ phát hiện được khoảng 1.400 -1.800 trẻ bị mắc bệnh Down,
khoảng 250 - 250 trẻ mắc hội chứng Edwards, có 1.000 - 1.500 trẻ bị dị tật
ống thần kinh, 300 - 400 trẻ bị suy giáp bẩm sinh. Đáng lưu ý, số trẻ sơ sinh
tử vong do dị tật bẩm sinh khoảng hơn 1.700 trẻ (chiếm tỷ lệ 11%), số trẻ mắc
dị tật bẩm sinh còn sống sau giai đoạn sơ sinh là khoảng 40.039 trẻ. Khoảng
60 - 70% các dị dạng, dị tật bẩm sinh đến nay vẫn chưa rõ nguyên nhân. Như
vậy nếu thai phụ được sàng lọc trước sinh kết hợp với sàng lọc sơ sinh sẽ loại
bỏ 95% những dị tật bất thường và cho ra đời những đứa trẻ hoàn toàn khỏe
mạnh. [38]
“Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát
triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào
thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai” theo khoản 4 Điều 97 Luật
HN&GĐ năm 2014. Đứng dưới góc độ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
người được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định hợp lý. Bởi hơn ai hết,
người phụ nữ được nhờ mang thai hộ sẽ hiểu rõ tình trạng sức khỏe của mình
để cân nhắc có thể tiếp tục hay không việc mang thai. Tuy nhiên, nếu xét
41
dược góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhờ mang thai hộ quy định này
còn một vấn đề như sau: Theo khoản 4 Điều 94 và Điều 97 Luật HN&GĐ
năm 2014 bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu trách nhiệm chăm sóc đứa
trẻ đó từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng thành và được công
nhận là cha mẹ của trẻ. Tuy nhiên, trong quá trình mang thai, bào thai phát
triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì họ lại không có quyền quyết
định tiếp tục duy trì thai kỳ hay chấm dứt.
Về việc giao và nhận con giữa các bên trong việc mang thai thì theo
quy định tại Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 thì: “Con sinh ra trong trường
hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang
thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra”. Vì vậy, vợ chồng nhờ mang thai hộ
sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được sinh ra. Tuy nhiên, để
bao quát các khả năng phát sinh, luật cũng có quy định thêm rằng: “Trong
trường hộ bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có
quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con” (khoản 5 Điều
97 Luật HN&GĐ năm 2014). Mặt khác, khoản 5 Điều 98 Luật HN&GĐ năm
2014 cũng có quy định: “Trong trường hợp bên mang thai hộ từ chối giao con
cho thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên mang thai
hộ giao con”. Căn cứ vào quy định này có thể thấy rằng luật chỉ mới dự liệu
được hai trường hợp: Thứ nhất, bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên
được nhờ mang thai hộ cũng không muốn nuôi con. Nếu trường hợp này xảy
ra thì bên được nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên nhờ
mang thai hộ nhận con. Thứ hai, bên được nhờ mang thai hộ từ chối giao con
và bên nhờ mang thai hộ cũng muốn nhận con. Nếu phát sinh trường hợp này
thì bên nhờ mang thai hộ sẽ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên được nhờ
mang thai hộ giao con. Tuy nhiên, luật lại chưa dự liệu được trường hợp: bên
nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ đồng ý
nhận nuôi con. Trong trường hợp này cần phải có quy định ghi nhận quyền
được nhận nuôi con của bên được nhờ mang thai hộ nếu bên nhờ mang thai
hộ đã từ chối nhận con và bên được nhờ mang thai hộ đủ điều kiện để nhận
42
con nuôi theo quy định tại Luật nuôi con nuôi năm 2010.
Luật HN&GĐ năm 2014 cũng đã quy định rất chi tiết về thời điểm
chấm dứt quyền, nghĩa vụ chăm sóc con như cha mẹ của cặp vợ chồng được
nhờ mang thai hộ là từ thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Đây
là một quy định hợp lý, đảm bảo tính nhân văn. Bởi vì, quy định này sẽ đảm
bảo tốt về sức khỏe cho những đứa trẻ vừa được sinh ra, tránh những trường
hợp bên nhờ mang thai hộ không quan tâm chăm sóc vì cho đó không phải là
con đẻ của mình sẽ dẫn đến những hậu quả không tốt cho đứa trẻ, hoặc ngược
lại bên nhờ mang thai hộ ngăn cản việc chăm sóc sức khỏe cho đứa trẻ từ phía
người được nhờ mang thai dù người này có đủ các điều kiện tốt nhất để chăm
sóc cho trẻ sơ sinh như nguồn sữa mẹ.
2.1.3.4. Việc xác định thời điểm, quan hệ cha mẹ, con và việc giải quyết tranh
chấp, vi phạm nếu có khi thực hiện thoả thuận mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
* Xác định thời điểm và quan hệ cha mẹ, con trong thoả thuận mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo
Theo pháp luật HN&GĐ năm 2014, căn cứ phát sinh quan hệ pháp luật
giữa cha mẹ và con dựa trên sự kiện sinh đẻ và sự kiện nhận nuôi con nuôi.
Tuy nhiên, trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, căn cứ xác
định cha, mẹ, con trong trường hợp này dựa trên yếu tố huyết thống. Huyết
thống là quan hệ di truyền sinh học, là quan hệ giữa cha, mẹ và con. Trong
trường hợp mang thai hộ, đây là sự kết hợp giữa noãn của người vợ và tinh
trùng của người chồng được TTTON thành phôi, sau đó, mới cấy vào tử cung
của người phụ nữ mang thai hộ. Nhóm máu, cũng như bộ gen di truyền của
đứa trẻ được hình thành ngay khi tinh trùng của người cha kết hợp với trứng
của người mẹ. Vì thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn
không phải là mẹ của đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển
hình hài rồi khi đủ ngày đủ tháng, đứa trẻ ra đời và tính cách của đứa trẻ hoàn
toàn không bị tác động bởi người mang thai hộ. Hiện nay, để xác định được
mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử dụng kỹ thuật khoa học mới
43
nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay không, đây là biện pháp
xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác đến 99,9% và biện
pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong trường hợp mang
thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định mẹ đứa trẻ
được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả ADN của
người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã chứa bộ
gen của người mẹ này.
Xét về góc độ pháp lý, Điều 94 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định:
“Con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con
chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra” và
tại khoản 2 Điều 98 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có quy định: “Quyền,
nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát
sinh từ thời điểm con được sinh ra”. Điều này có nghĩa các quyền dân sự như:
quyền đại diện cho con, quyền quản lý tài sản của con hay quyền thừa kế tài
sản của con… thì sẽ phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và chồng của
người đó đối với con. Vì vậy, nếu có tranh chấp phát sinh giữa người mang
thai hộ và đứa con mang hộ thì hoàn toàn có thể căn cứ vào các quy định của
pháp luật dân sự và pháp Luật HN&GĐ năm 2014 hiện hành để giải quyết.
Việc xác định mối quan hệ cha mẹ con trong mang thai hộ có ý nghĩa rất quan
trọng, từ đó xác định phát sinh quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật
giữa các chủ thể.
* Giải quyết tranh chấp phát sinh trong trường hợp mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo và xử lý vi phạm.
Pháp luật quy định nếu các bên trong quan hệ pháp luật mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo vi phạm điều kiện, nghĩa vụ phải thực hiện thì tùy theo tính
chất, mức độ vi phạm mà xử lý theo trách nhiệm dân sự, hành chính, hình sự.
Luật HN&GĐ năm 2014 quy định tại khoản 1 Điều 99: “Tòa án là
cơ quan có thẩm quyền giải quyết tranh chấp về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ
sinh sản, mang thai hộ”. Theo quy định này, những tranh chấp phát sinh trong
44
mang thai hộ sẽ thuộc thẩm quyền của Tòa án, tuy nhiên luật lại không quy
định rõ đó là những tranh chấp nào. Hiện nay, Bộ Luật Tố tụng dân sự năm
2015 tại Điều 28 và Điều 29 quy định về những tranh chấp, yêu cầu dân sự
thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án có những tranh chấp, yêu cầu liên
quan đến mang thai hộ theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2014. Tuy
nhiên, vẫn cần có những văn bản hướng dẫn cụ thể các trường hợp tranh chấp
có thể phát sinh và thẩm quyền cũng như hướng giải quyết cho vấn đề về
mang thai hộ.
Ngoài ra, đối nới vi phạm hành chính trong hoạt động thực hiện
mang thai hộ thì quy định tại khoản 3 Điều 33 Nghị định số 176/2013/NĐ-CP
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế từ 60.000.000 đồng đến
80.000.000 đồng đối với hành vi thực hiện kỹ thuật mang thai hộ.
Chế tài hình sự được áp dụng để ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì
mục đích thương mại. Tại Điều 187 BLHS năm 2015 quy định về Tội tổ chức
mang thai hộ vì mục đích thương mại như sau: “1. Người nào tổ chức mang
thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến
200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ
03 tháng đến 02 năm. 2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây,
thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm: a) Đối với 02 người trở lên; b) Phạm tội
02 lần trở lên; c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; d) Tái phạm
nguy hiểm. 3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến
50.000.000 đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công
việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm”. Pháp luật Hình sự Việt Nam chú trọng
xử lý người tổ chức mang thai hộ mà chưa mở rộng xử lý các bên tham gia
hoạt động mang thai hộ.
Các quy định về giải quyết các tranh chấp cũng như xử lý các vi
phạm trong hoạt động thực hiện mang thai hộ còn chưa đầy đủ và thống nhất,
tuy nhiên, khi pháp sinh những tranh chấp hoặc xuất hiện những vi phạm mới
mà pháp luật chưa điều chỉnh được hết và những tranh chấp sẽ được giải
45
quyết theo hướng sau:
Một là, ưu tiên sự thỏa thuận giữa các bên. Mang thai hộ được tiến
hành giữa các bên theo thỏa thuận và được lập thành văn bản có công chứng
vì vậy khi các tranh chấp xảy ra văn bản thỏa thuận giữa các bên sẽ là minh
chứng có hiệu lực nhất để giải quyết những tranh chấp ấy.
Hai là, đảm bảo duy trì mục đích của mang thai hộ theo đúng quy
định của pháp luật HN&GĐ, giữ vững tính nhân văn sâu sắc của mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo.
Ba là, đảm bảo quyền lợi cũng như sức khỏe của phụ nữ và đứa trẻ
trong mang thai hộ. Mang thai hộ là một vấn đề phức tạp và phải trải qua quá
trình dài với khá nhiều rủi ro đặc biệt là người mang thai hộ, chính vì vậy,
quyền lợi và sức khỏe của người phụ nữ mang thai hộ cần được đặt lên vị trí
ưu tiên khi giải quyết các tranh chấp phát sinh trong vấn đề về mang thai hộ.
Bên cạnh đó, trẻ em là sinh linh bé nhỏ yêu ớt cần được chăm sóc và bảo vệ
nên khi giải quyết tranh chấp trong mang thai hộ, quyền lợi của đứa trẻ sinh ra
nhờ mang thai hộ cũng cần được ưu tiên xem xét.
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
trong lĩnh vực mang thai hộ
2.2.1. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực
trạng mang thai hộ ở Việt Nam trước khi có Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014
Trước khi Luật HN&GĐ năm 2014 (có hiệu lực ngày 01/01/2015)
được ban hành thì pháp luật Việt Nam vẫn cấm “mang thai hộ”. Tuy nhiên,
với mong muốn được làm cha, làm mẹ thì thực tế, nhiều cặp vợ chồng đã tìm
đến dịch vụ mang thai chui hoặc nhờ môi giới tìm người mang thai hộ. “Chị
Thủy 32 tuổi, quê tỉnh Quảng Bình, vào TP HCM làm công nhân được hơn
một năm. Trước đây, chị đã có chồng và 1 con gái. Sau khi chồng chết do tai
nạn giao thông, chị phải để con ở lại và nhờ bên nội nuôi giùm. Vào TP
46
HCM, hằng tháng, chị gửi tiền về quê cho mẹ chồng nuôi con. Chị đã giấu gia
đình chuyện làm thuê này. Xoa bàn tay lên bụng, nơi đang có một sinh linh
đang lớn lên từng ngày, chị Thủy nói: “Chỉ mong 09 tháng qua mau để mẹ
tròn con vuông, giao bé cho cha mẹ ruột của nó rồi lấy tiền về quê buôn bán
nuôi con”. Theo thỏa thuận, trừ tiền ăn hằng tháng do người thuê cung cấp,
sau khi sinh, Thủy sẽ được 400 triệu đồng nếu là con trai, 350 triệu đồng nếu
là con gái. Để ở lại TP HCM sinh con trong dịp Tết này, chị phải tìm cách nói
dối gia đình để không ai nghi ngờ. Dự định, sau khi sinh khoảng 01 tháng, chị
mới về quê. Khác với chị Thủy, tình cảnh của chị Yến (quê Bến Tre) còn bi
đát hơn. Chị Yến cũng có chồng và 01 bé trai 03 tuổi. Chồng chị chỉ lo nhậu
nhẹt, đánh đề khiến cuộc sống gia đình trở nên ngột ngạt. Cách đây khoảng
01 năm, chẳng lẽ ôm con chờ chết đói, sau khi ly dị chồng, chị thuê người
thân dưới quê nuôi con rồi lên TP HCM làm công nhân may giày. Tiền lương
tháng nào “xào” hết tháng đó, nếu con bệnh thì phải vay mượn . Vì vậy, chị
phải nhận lời đẻ thuê cho cặp vợ chồng vô sinh và đã mang thai được 06
tháng. Vừa rồi, nghe tin mẹ mất, dù rất thương nhưng Yến không thể bụng
mang dạ chửa về quê chịu tang mẹ. Biết tin này, vợ chồng người thuê đẻ cấm
cô không được khóc vì sợ ảnh hưởng đến thai nhi. Những ngày đó, mỗi tối,
chị Yến ôm nằm khóc rưng rức trong phòng trọ. Chị tâm sự: “Nếu biết trước,
em sẽ không nhận làm chuyện này đâu. Sau khi sinh, giao đứa bé lại cho chủ,
việc đầu tiên là em chạy ngay về quê đốt nén nhang tạ lỗi với mẹ và quyết
không rời con nửa bước””. [14]
Trong khi pháp luật Việt Nam còn đang nghiêm cấm mọi hoạt động
mang thai hộ thì quốc gia láng giềng Thái Lan đã hợp pháp hóa mang thai hộ.
Ngoài được luật pháp bảo hộ, đánh giá về chuyên môn cao còn thuận tiện về
mặt địa lý, mang thai hộ ở Thái Lan là lựa chọn hàng đầu của nhiều người,
nhiều cặp vợ chồng Việt Nam có điều kiện kinh tế hơn. “Sang Thái Lan thuê
đẻ nhưng vợ chồng chị B ở quận 2, TP HCM lại thỏa thuận trong hợp đồng
47
phải là bé trai vì gia đình này đã có 2 bé gái. Chị B kể rằng sau khi lấy tinh
trùng của chồng để phối vào trứng của chị, bệnh viện ở Thái Lan cho chị tiếp
xúc với luật sư và người đẻ thuê để thỏa thuận, trong đó có rất nhiều điều ràng
buộc từ tài chính cho đến các xét nghiệm, giới tính, ADN… để có một đứa bé
hoàn hảo nhất cho thân chủ và tuyệt đối không có tình trạng nhùng nhằng đòi
thêm tiền hoặc không giao con. Một tháng sau khi ra đời, bé trai được trao về
cho gia đình chị. Nhìn đứa trẻ giống hệt cha và mang nhiều nét của mẹ, gia
đình chị B vui mừng khôn xiết. Thằng bé này nay đã hơn 1 tuổi, lanh lợi và
hiếu động như bao đứa trẻ khác nhưng nếu không được chị B “bật mí” thì
chẳng ai biết được bé là sản phẩm của dịch vụ mang thai hộ”. [19]
Tuy nhiên, mang thai là một quá trình hết sức phức tạp và phụ thuộc
nhiều yếu tố khách quan nên không phải trường hợp nào cũng thành công.
“Vợ chồng chị L ở quận 7, TP HCM làm đủ các thủ tục từ xét nghiệm, lấy
trứng và tinh trùng rồi tìm người mang thai hộ. Mọi ràng buộc đã được ký kết
trong hợp đồng. Khi người mang thai hộ có bầu đến tháng thứ 4 thì phát hiện
đứa bé trong bụng bị dị tật. Thế là bệnh viện phải bỏ thai nhi bằng phương
pháp cho sinh non. Đây là trường hợp bất khả kháng nên gia đình chị L phải
trả cho người mang thai hộ 1/3 số tiền theo hợp đồng. Chuyện xảy ra đã gần 1
năm nhưng mỗi lần nhắc lại, chị L cho biết vẫn còn ân hận và quyết từ bỏ ý
định thuê đẻ”. [19]
Nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai chui “nở rộ” là do tỷ lệ vô
sinh, hiếm muộn ở Việt Nam ngày càng có xu hướng trẻ, nhu cầu làm cha, mẹ
của các cặp vợ chồng vô sinh ngày càng cao…. Pháp luật trong giai đoạn này
cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức nhưng thực tế ghi nhận tình trạng mang
thai hộ vẫn diễn ra. Nhà nước vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và
pháp lý để bảo vệ quyền, lợi ích của những đứa trẻ được sinh ra từ việc mang
thai hộ. Do đó, pháp luật cần có phương thức điều chỉnh hợp lý để vừa giảm
thiểu những tác động tiêu cực của việc mang thai hộ vừa tạo điều kiện cho
48
những cặp vợ chồng không thể có con được thực hiện quyền làm cha mẹ.
2.2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật và nguyên nhân dẫn đến thực trạng
mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có
hiệu lực cho đến nay
2.2.2.1. Thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam khi Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 có hiệu lực cho đến nay
a. Khó khăn từ bƣớc chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo
Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định về các mẫu biên bản, đơn cam
kết, thỏa thuận, báo cáo thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo có tới 07 mẫu đơn cho cả cơ sở y tế thực hiện kỹ thuật
mang thai hộ cũng như cho cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, người nhận mang
thai hộ. Nhưng tại khoản 1 Điều 14 cũng của Nghị định này hồ sơ mà cặp vợ
chồng vô sinh phải gửi đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh để đề nghị thực hiện
“kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” lại bao gồm 12 loại giấy tờ
(theo mẫu) sau:
“a) Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ;
b) Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo;
c) Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;
d) Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;
đ) Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều
nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
e) Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai,
đáp ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5
Nghị định này và đã từng sinh con;
49
g) Bản xác nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã hoặc người mang thai hộ,
người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng
hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước
pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này;
h) Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ
mang thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.
i) Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;
k) Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học
chuyên khoa tâm lý trở lên;
l) Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc
người trợ giúp pháp lý;
m) Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ
mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định.”
Sau bước chuẩn bị hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thì khó
khăn lại tiếp tục trong việc xin xác nhận hành chính đối với các giấy tờ trong
bộ hồ sơ. Theo bà Phan Thị Yến – y tá trưởng Trung tâm hỗ trợ sinh sản Quốc
gia: “Hai bên nhờ mang thai hộ phải hoàn tất 13 cam kết, trong đó có nhiều
cam kết cần hỗ trợ của chính quyền địa phương, luật sư tư vấn và hai đơn đề
nghị mới đủ thủ tục nhờ - nhận mang thai hộ khó khăn nhất hiện nay là thủ
tục hành chính, nhiều trường hợp đã có chỉ định của trung tâm là cần nhờ
mang thai hộ, nhưng về địa phương chính quyền lại không xác nhận vì họ nói
chưa có ai hướng dẫn. Có trường hợp có xác nhận chưa có con nào thì địa
phương lại bảo nhỡ đâu chồng có con ở ngoài. Có trường hợp ngay tại Hà
Nội là nơi thông tin về cho phép mang thai rất nhiều nhưng chính quyền cũng
không xác nhận hoặc xác nhận chung chung”. [10]
Ngoài những khó khăn trên thì việc xin xác nhận tư vấn về y tế, pháp
lý, tâm lý cũng gây trở ngại cho vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang
thai hộ. BS. Hồ Mạnh Tường, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu di truyền và
sức khỏe sinh sản (CGRH) - khoa Y, Đại học Quốc gia TPHCM, cho biết:
50
“Để thực hiện được một ca mang thai hộ hoàn chỉnh, người có nhu cầu mang
thai hộ phải được tư vấn và xác nhận 5 chữ ký: Của trung tâm thụ tinh trong
ống nghiệm có chuyên khoa hiếm muộn xác nhận người phụ nữ không có khả
năng mang thai; Chữ ký của một luật sư tư vấn cho vợ chồng cần mang thai
hộ để họ nắm được luật; Chữ ký xác nhận của một chuyên gia tâm lý tư vấn
về các vấn đề tâm lý cho vợ chồng người mang thai hộ; Và đặc biệt là chữ ký
của một chuyên gia về xã hội học tư vấn về những thuận lợi và phức tạp trong
các mối quan hệ gia đình huyết thống sau này. Từ đó, cơ sở y tế - nơi thụ tinh
trong ống nghiệm xác nhận xem các chữ ký có đúng không, nếu đúng thì mới
được thực hiện kỹ thuật này.” [11]
Mang thai hộ là vấn đề nhạy cảm, song việc thực hiện nó lại rất phức
tạp nên pháp luật quy định rất chặt chẽ về hồ sơ “mang thai hộ”. Hồ sơ phải
đầy đủ và quan trọng nhất là cam kết giữa hai bên phải đúng theo quy định
của pháp luật, chỉ cần một trong số các cam kết bị thiếu thì lập tức hồ sơ sẽ bị
bác bỏ và cặp vợ chồng hiếm muộn dù có tìm được người đồng ý và đủ điều
kiện để “mang thai hộ” cũng không thể thực hiện được mong muốn có con
bấy lâu nay của mình.
b. Khó khăn đến từ việc không đáp ứng đủ điều kiện theo luật định
Thứ nhất, pháp luật quy định vợ chồng nhờ mang thai hộ phải đang
không có con chung. Tuy nhiên, trên thực tế có khá nhiều cặp vợ chồng đã có
con chung nhưng đứa con bị bệnh tâm thần hoặc một số bệnh khác mà là cho
đứa trẻ không thể phát triển bình thường. Đây là trường hợp phổ biến khiến
nhiều cặp vợ chồng phải trăn trở ví dụ như trường hợp chị Thy Hồng (Q.Bình
Thạnh) gửi đến Báo Phụ Nữ lá thư đẫm nước mắt: “Nghe luật mới cho phép
mang thai hộ, vợ chồng tôi mừng đến phát khóc. Nhưng, tìm hiểu thì thấy thất
vọng vì vợ chồng tôi đã có con chung - một bé gái tám tuổi bị bại não, không
biết tự ăn uống, đi vệ sinh, chỉ nằm oặt ẹo trên giường. Tôi không may bị u xơ
tử cung mà lại có đến ba khối u, vài lần liều mang thai nhưng thai cứ bị chết
lưu, may mà còn cứu kịp tôi. Hằng đêm, nằm bên con, vợ chồng tôi ngậm
51
ngùi hỏi nhau: “Mai này mình qua đời, con sẽ sống sao đây?” [17]. Do đó,
pháp luật cần xem xét, cân nhắc thật kỹ lưỡng đến các trường hợp như thế
này. Liệu rằng cho phép mang thai hộ trong trường hợp này có làm suy giảm
hoặc mất đi sự quan tâm, chăm sóc đối với đứa con bị bệnh hay không? hoặc
có thực sự làm giảm gánh nặng cho gia đình đó không?.
Thứ hai, pháp luật quy định vợ chồng muốn nhờ mang thai hộ phải có
họ hàng thân thích cùng hàng đủ điều kiện mang thai hộ. “Thực tế, tìm được
một người họ hàng cùng hàng tự nguyện mang thai hộ đã khó vì không phải
gia đình nào cũng đông anh chị em họ hàng lại thêm các điều kiện khác đi
kèm càng làm thu hẹp phạm vi người mang thai hộ phù hợp cũng như thu hẹp
cơ hội thực hiện quyền làm cha, làm mẹ của các cặp vợ chồng vô sinh. Anh K
và chị H (Hưng Yên) đã kết hôn gần 04 năm nay nhưng vẫn chưa có con, dù
đã đi thụ tinh nhân tạo nhưng vẫn không thực hiện được vì chị H bị ung thư
cổ tử cung. Tháng 3/2015 khi biết tin Nghị định số 10/2015/NĐ-CP quy định
về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo chính thức có hiệu lực, anh K đã “hùng hục” để hoàn
tất hồ sơ với mong muốn có con. Một lần nữa số phận lại thật trớ trêu khi hồ
sơ của anh không đủ tiêu chuẩn xét duyệt để làm kỹ thuật này vì người mang
thai hộ không có họ hàng thân thích” [12]. Việc xem xét mở rộng phạm vi đối
tượng mang thai hộ có thể là mong muốn của nhiều cặp vợ chồng vô sinh,
hiếm muộn nhưng bên cạnh đó, pháp luật cũng phải đảm bảo mang thai hộ
không bị lợi dụng để thương mại hóa.
Thứ ba, ngay cả khi cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và đã tìm được
người phụ nữ đủ điều kiện để mang thai hộ, thì thoả thuận mang thai hộ vẫn
khó có thể tiến hành vì vướng quy định pháp luật về việc phải có sự đồng ý
của người chồng người mang thai hộ nếu người được nhờ mang thai hộ đã lập
gia đình. Chị L.T.H nhà tại Cống Vị - Ba Đình cho biết: “Tôi lấy chồng đã
gần 4 năm, đến nay vẫn chưa có con. Sau khi biết pháp luật đồng ý cho phép
mang thai hộ, ngay lập tức tôi tìm đến những người họ hàng để xem ai hội đủ
52
các điều kiện. May mắn thay, cũng có một chị thỏa mãn yêu cầu. Tuy nhiên,
niềm vui chẳng được bao khi anh chồng của chị nhất quyết không đồng ý, với
quan niệm con do vợ mình sinh ra lại không phải của mình, sợ người đời cười
chê” [21, tr.79]. Điều kiện này tuy không có ảnh hưởng đến hoạt động mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng nó thể hiện sự tôn trọng lẫn nhau trong
quan hệ vợ chồng của người mang thai hộ nên điều kiện “phải có sự đồng ý
của người chồng của người mang thai hộ” là cần thiết. Đảm bảo hạnh phúc
gia đình cho người phụ nữ mang thai hộ đã có chồng cũng là điều pháp luật
quan tâm.
c. Pháp luật đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhƣng vẫn
còn nhiều trƣờng hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ
Mặc dù mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã được pháp luật cho phép
và có những quy định cụ thể về điều kiện mang thai hộ, các thủ tục, giấy tờ
liên quan để xét duyệt hồ sơ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo những dịch
vụ bất chính về mang thai hộ vẫn tồn tại và chúng hoạt động dưới nhiều hình
thức tinh vi, kín kẽ hơn. Ngoài những cặp vợ chồng tìm đến dịch vụ mang
thai hộ “chui” vì vướng mắc thủ tục hành chính trong quá trình hoàn thiện hồ
sơ hoặc không đủ điều kiện mang thai hộ, thì một số khác tìm đến dịch vụ này
với những lý do khác nhau nhưng tiêu biểu và điển hình nhất vẫn vì:
Một là, tìm người sinh con để nối dõi. Trường hợp này họ biết không
đủ điều kiện để nhờ mang thai hộ theo quy định pháp luật nên quyết định tìm
đến các dịch vụ mang thai hộ chui (không còn vì mục đích nhân đạo mà
thường vì mục đích thương mại). “Một người đàn ông khuyết tật, không thể
lập gia đình nhưng luôn mang nỗi khát khao được ẵm bồng đứa con bé bỏng
của chính mình. Hơn nữa, chính anh cũng chịu áp lực có người nối dõi tông
đường khi là con trai duy nhất trong gia đình. Sau nhiều lần bàn bạc, cuối
cùng anh H đã lựa chọn con đường có được đứa trẻ nối dõi nhờ qua dịch vụ
mang thai hộ. Sau nhiều ngày tìm kiếm, cuối cùng một người phụ nữ quê
Nghệ An gần 40 tuổi cũng đồng ý mang thai giúp anh H. Gia đình anh H biết
53
rõ về người phụ nữ này nhưng cô thì tuyệt nhiên không biết gì về gia đình
anh. Kể cả việc anh H bị khuyết tật, người phụ nữ mang thai hộ cũng không
có thông tin. Sau khi mang thai bằng phương pháp chuyển phôi, người phụ nữ
được bố trí ăn ở và chăm sóc rất chu đáo. Lúc sinh con xong, cô này cũng về
quê và giao lại con cho phía gia đình anh H và không vương vấn gì. Anh H
vui như bắt được vàng vì trải qua một thời gian dài trông ngóng, nay anh đã
có đứa con để ẵm bồng...” [18]. Một trong những yếu tố tiên quyết để có thể
nhờ mang thai hộ là bên nhờ mang thai hộ phải là vợ chồng hợp pháp, có giấy
đăng ký kết hôn và trong trường hợp trên anh H là một người đàn ông độc
thân dù bị tật nguyền thì không được thực hiện hoạt động mang thai hộ. Pháp
luật không có quy định đàn ông hay phụ nữ độc thân được phép mang thai hộ
mà chỉ có phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng kỹ thuật TTTON. Do đó,
để thỏa mãn niềm mong mỏi có cháu nối của gia đình thì mang thai hộ “chui”
là lựa chọn cuối cùng và duy nhất có thể giúp anh H đạt được mục đích.
Trường hợp như của anh H, pháp luật có thể đã lường trước được nhưng việc
quy định đàn ông hay phụ nữ độc thân có thể nhờ mang thai hộ sẽ gián tiếp
cho phép các cặp đôi đồng tính nhờ mang thai hộ mà pháp luật Việt Nam
không thừa nhận các quan hệ đồng tính, trong đó có hôn nhân đồng tính.
Hai là, một biến tướng của hoạt động mang thai hộ chính là việc những
người đàn ông lợi dụng hoạt động mang thai hộ đã tìm đến những người phụ
nữ (để lại thông tin trên các trang mạng hoặc qua thực tế biết được), để đề
nghị được hỗ trợ mang thai hộ nhưng thông qua hình thức trực tiếp… “Vợ
chồng tôi cưới nhau gần 10 năm nhưng chưa có con dù đã chạy chữa khắp nơi
với đủ đông y lẫn tây y. Mọi hy vọng đã tắt ngóm khi cách đây hai năm, tôi
phải cắt bỏ hai bên buồng trứng do biến chứng của bệnh u xơ. Thêm nữa, sau
ca phẫu thuật, tôi bị nhiễm trùng nặng phải cắt bỏ cả tử cung. Chồng tôi
không chấp nhận phương án nhận con nuôi. Cách đây gần một năm, chồng tôi
về bảo đã liên hệ được người nhờ mang thai hộ với chi phí khá thấp. Nghe
đâu, phụ nữ này còn khá trẻ, muốn có vốn làm ăn nên chấp nhận làm cho một
54
đường dây đẻ thuê cho những cặp vợ chồng hiếm muộn. Vì không công khai
nên giá chỉ 60 triệu, chưa kể tiền dưỡng thai và bồi dưỡng thêm cho mẹ. Tính
ra, để đến khi đón đứa bé về, mất gần 100 triệu chứ không hơn. Nhưng để
giảm bớt chi phí thì bỏ qua công đoạn thụ tinh ống nghiệm ở bệnh viện mà
dùng phương pháp "truyền trực tiếp” tại nhà cho nhanh. Lúc đầu, tôi không
hiểu làm vậy nghĩa là như thế nào thì chồng giải thích, không cần đến bệnh
viện lấy trứng và tinh trùng thụ tinh như người ta thường làm mà cả hai quan
hệ trực tiếp luôn. Tôi giật mình khi nghĩ chồng sẽ ngủ với người khác để có
con thì anh an ủi, chỉ vài lần đến khi có thai thôi chứ đâu phải ăn nằm với
nhau đâu mà lo. Anh bảo, làm thế vừa giảm chi phí lại chắc ăn hơn thụ tinh.
Thêm nữa, hai bên thỏa thuận, lúc nào gặp mặt đều có tôi đi cùng. Cô ta hứa,
sau khi sinh con xong sẽ đi nơi khác, hoàn toàn cắt đứt liên lạc để chúng tôi
yên tâm. Khi cái thai được bốn tháng, kết quả siêu âm là con trai khiến chồng
tôi vui mừng khôn xiết. Thông thường, mỗi lần đến gặp người phụ nữ đó, vợ
chồng tôi đi cùng nhau nhưng tôi phát hiện không ít lần anh đi gặp riêng. Thế
rồi, đứa bé sinh ra khỏe mạnh nhưng người phụ nữ đó lần nữa không chịu
giao con mà chồng tôi cũng chẳng hối thúc gì. Anh ở hẳn bên nhà trọ để chăm
con dù tôi đã thuê dịch vụ..” [15]. Trường hợp trên, người chồng đã lợi dụng
sự thiếu hiểu biết pháp luật về mang thai hộ, sự cả tin và mong muốn có con
của người vợ vô sinh, lấy 60 triệu và ngoại tình có con với người phụ nữ
khác. Lấy danh “mang thai hộ”, không ít người chồng đi “lang chạ”, khi có
con riêng thì lấy cớ chăm lo cho con để chung sống như vợ chồng với người
phụ nữ khác. Điều này, không chỉ trái với các chuẩn mực đạo đức, xã hội mà
còn trái pháp luật, đi ngược lại chế độ hôn nhân một vợ một chồng của pháp
luật Việt Nam, đáng bị lên án và chịu trách nhiệm trước pháp luật.
Ba là, có những người phụ nữ coi mang thai hộ như là một “nghề”;
hoặc có những “cò mồi” coi mang thai hộ như một dịch vụ siêu lợi nhuận. Ví
dụ như trường hợp sau: “Huyền sinh con khi vừa tròn 20 tuổi. Không đủ điều
kiện nuôi dạy đứa trẻ, Huyền quyết định cho đi đứa con dứt ruột đẻ ra, nhờ
55
người dắt mối cô tìm được gia đình có điều kiện nhận nuôi đứa trẻ. Sau khi ký
cam kết dứt bỏ mối quan hệ máu mủ với đứa trẻ, chị được gia đình này hậu tạ
một khoản tiền. Cầm tiền trên tay, Huyền bỗng nảy sinh ra ý nghĩ sẽ làm cái
"nghề", không quá nhọc công tốn sức, lại kiếm tiền dễ dàng này và Huyền
quyết định tận dụng thân xác của mình để dấn thân vào nghề đẻ thuê. Theo
hợp đồng, Huyền chấp nhận để người ta cấy trứng đã được thụ tinh vào cơ
thể. Để đảm bảo đứa trẻ được ra đời khỏe mạnh và thông minh, Huyền phải
chấp nhận cuộc sống theo yêu cầu của đối tác. Cô không được phép giữ mối
quan hệ với bên ngoài, cắt đứt hoàn toàn liên lạc với người quen. Phần lớn
khoảng thời gian mang thai, Huyền phải nghe nhạc, tập yoga để "mẹ thoải
mái, con khỏe mạnh". Huyền chỉ được ra ngoài trong những lần khám thai
định kỳ. Mỗi hợp đồng "đẻ thuê" đạt chất lượng, đứa trẻ được ra đời khỏe
mạnh, Huyền sẽ được "đối tác" trả 150 - 200 triệu đồng” [16]. Việc Huyền
nhận những khoản tiền lớn lên đến vài trăm triệu sau mỗi hợp đồng “đẻ thuê”
chính là thương mại hóa mang thai hộ. Điều này đã là mất đi giá trị nhân đạo
mà pháp luật Việt Nam hướng đến.
Bốn là, những người tìm đến dịch vụ mang thai hộ vì thẩm mĩ, đặc thù
nghề nghiệp. Điển hình như trường hợp của ca sĩ N: “Sang Thái Lan thuê đẻ
được cặp song sinh 1 trai 1 gái đẹp như mơ. Để tránh dư luận lùm xùm, gần
ngày sinh, cô ca sĩ này độn bụng như đang mang bầu. Ngay sau đó, cô tuyên
bố sang Thái Lan sinh con rồi đưa về Mỹ nhờ gia đình chồng chăm sóc. Cây
kim trong bọc lâu ngày cũng lòi ra, những bạn thân của ca sĩ này khẳng định
cô đã thuê đẻ với giá 1 tỉ đồng/ca song sinh với ràng buộc sẽ là 1 trai 1 gái.
Hợp đồng này đã mang lại cho cô ca sĩ sự an toàn về sức khỏe vì tuổi cô đã
trên 40, lại giữ được vóc dáng mảnh mai để tiếp tục sự nghiệp ca hát [19].
2.2.2.2. Nguyên nhân dẫn đến các thực trạng mang thai hộ ở Việt Nam từ khi
có Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
a. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
gặp khó khăn trong việc thực hiện hồ sơ
56
Để chuẩn bị hồ sơ đề nghị mang thai hộ, theo quy định pháp luật hiện
hành, bên cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải chuẩn bị 12 loại văn bản, giấy
tờ được quy định tại khoản 1 Điều 14 Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày
28/01/2015 quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và
điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Với quy định về mẫu biên bản,
đơn cam kết, thỏa thuận trong hồ sơ đề nghị mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo nêu trên là tương đối nhiều, và trong số đó có những loại gây khó khăn
rất lớn đối với các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, nhất là những cặp vợ
chồng có xuất thân từ nông dân không có nhiều hiểu biết về lĩnh vực này cũng
như không có nhiều mối quan hệ. Chính những quy định chặt chẽ, cũng như
thủ tục hành chính này là nguyên nhân dẫn đến việc cặp vợ chồng nhờ mang
thai hộ, thậm chí người nhận mang thai hộ trong thoả thuận mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo có khi phải mất cả năm trời mới hoàn thiện được hồ sơ.
b. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
khó thực hiện do các cặp vợ chồng không đáp ứng đủ điều kiện theo luật
định
Để giải thích rõ “gốc rễ” các thực trạng mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo khó thực hiện do các cặp vợ chồng không đáp ứng đủ điều kiện theo luật
định đã nêu ở, tác giả xin chỉ ra 03 nguyên nhân tương ướng với mỗi thực
trạng như sau:
Thứ nhất, điểm b khoản 2 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định
điều kiện của cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải “đang không có con
chung”. Việc xác nhận điều kiện này thuộc về Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ. Song trách nhiệm xác nhận này
cũng không hề đơn giản trong bối cảnh hiện nay. Cụ thể sẽ có các trường hợp
sau đây liên quan đến nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ phát
sinh: Một là, vợ chồng nhờ mang thai hộ có nơi thường trú khác nhau. Đây
không phải là một trường hợp hiếm gặp. Bởi lẽ, quyền có nơi cư trú khác
nhau của vợ chồng là một quyền nhân thân cơ bản và đã được quy định từ rất
57
lâu trong pháp luật Việt Nam. Trong trường hợp này, thiết nghĩ vợ chồng nhờ
mang thai hộ cần phải có bản xác nhận của cả hai nơi: một là nơi vợ thường
trú, hai là nơi chồng thường trú về việc họ đang không có con chung thì mới
đáp ứng đủ yêu cầu. Hai là, vợ chồng nhờ mang thai hộ thường trú cùng một
nơi nhưng đồng thời cũng có nơi tạm trú do tính chất công việc hoặc học tập.
Ở trường hợp này, vấn đề chỉ thật sự trở nên phức tạp khi cặp vợ chồng nhờ
mang thai hộ trước đây đã có con chung và họ đăng ký khai sinh cho con
chung tại nơi người mẹ tạm trú. Dù rằng, luật đã có quy định về trách nhiệm
thông báo của Ủy ban nhân dân cấp xã nơi người mẹ tạm trú cho Ủy ban nhân
dân cấp xã nơi người mẹ thường trú biết để ghi nhận và lưu giữ thông tin.
Trên thực tế, công việc này được thực hiện bằng đường bưu điện và vì vậy hồ
sơ về việc đã đăng ký khai sinh có khả năng sẽ bị thất lạc. Thậm chí, cũng có
những trường hợp do nhiều nguyên nhân, việc thông báo này không được
thực hiện. Trong những trường hợp như vậy, thì Ủy ban nhân dân cấp xã nơi
người mẹ thường trú - cũng chính là nơi vợ chồng thường trú, sẽ không xác
định được cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đã từng có con chung hay chưa để
từ đó xác nhận cho chính xác theo quy định của pháp luật.
Thứ hai, theo quy định tại điểm a khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm
2014, người được nhờ mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của
bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Mục đích của quy định này là nhằm
hạn chế tình trạng thương mại hóa việc mang thai hộ. Tuy nhiên, quy định
này có mang lại hiệu quả hay không khi nhu cầu của việc mang thai hộ ngày
càng lớn và tính thương mại chưa hẳn chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không
thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp ứng nhu cầu và nguyện vọng của các
cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng phần nào hạn chế đối tượng được
nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có không ít các cặp vợ chồng là người
con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi thân thích như Nghị định
10/2015/NĐ-CP đã nêu trên đều không có chị em gái. Hoặc giả sử họ có chị
em gái nhưng những người này là người chưa thành niên, hay đã thành niên
58
nhưng chưa kết hôn và chưa mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ sẽ
không thể được tiến hành dù không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì
vậy, quy định pháp luật với sự hạn chế quá ít đối tượng có thể nhờ mang thai
hộ này tiềm ẩn khả năng dẫn đến việc các cặp vợ chồng vô sinh sẽ nhờ người
mang thai hộ một cách lén lút; và khi đó, tính chất thương mại vi phạm pháp
luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo chắc chắn sẽ xảy ra.
Thứ ba, theo điểm b khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ năm 2014 cũng có
quy định người được nhờ mang thai hộ “chỉ được mang thai hộ một lần”. Cần
xác định rõ đối tượng của quy định này chỉ áp dụng đối với người được nhờ
mang thai hộ. Điều đó có nghĩa, người được nhờ mang thai hộ chỉ được mang
thai hộ một lần. Luật quy định như vậy là chưa rõ trong việc không phân biệt
người nhờ mang thai hộ là ai, cũng như việc mang thai hộ thực hiện thành
công hay không (mà chỉ quy định chỉ được mang thai hộ một lần). Mặt khác,
do quy định này không áp dụng đối với cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ, vì
vậy, nếu việc mang thai hộ đã được tiến hành nhưng cuối cùng không thành
công thì cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể nhờ người khác đủ điều kiện
theo quy định của pháp luật để tiếp tục thực hiện việc mang thai hộ.
Thứ tư, minh chứng cho việc các bên tham gia quan hệ pháp luật mang
thai hộ đã thỏa điều kiện này thì trong bộ hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, vợ chồng nhờ mang thai hộ phải có bản
xác nhận của chồng người mang thai hộ về việc đồng ý cho mang thai hộ.
Điều kiện này thể hiện sự tôn trọng về mặt pháp lý của vợ chồng nhờ mang
thai hộ và cả người mang thai hộ đối với chồng mình khi quyết định một
chuyện hệ trọng có ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bởi lẽ, nhu cầu có con
là một nhu cầu thiết yếu thì nhu cầu được bảo vệ hạnh phúc gia đình cũng là
nhu cầu chính đáng cần được bảo vệ. Tuy vậy, không thể phủ nhận đây cũng
là nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn chồng chất khó khăn trong quá trình đáp
ứng đủ các điều kiện để có thể thực hiện hoạt động mang thai hộ vì mục đích
59
nhân đạo.
c. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng dù pháp luật đã cho phép mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo nhƣng vẫn còn nhiều trƣờng hợp thực hiện chui
các dịch vụ mang thai hộ
Sau đây là các nguyên nhân tương ứng dẫn đến thực trạng dù pháp luật
đã cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo nhưng vẫn còn nhiều trường
hợp thực hiện chui các dịch vụ mang thai hộ. Thứ nhất, đối với mang thai hộ
“chui” để “nối dõi tông đường”. Một trong những ý nghĩa của mang thai hộ là
duy trì nòi giống nhưng trong trường hợp này thể hiện sự một hệ tư tưởng
trọng nam vốn đã lạc hậu, cổ hủ, ăn sâu trong suy nghĩ nhiều gia đình, nhiều
lớp thế hệ. Tức là bằng mọi giá phải sinh con trai nối dõi nếu không theo quan
niệm xưa sẽ phạm phải một trong ba tội lớn nhất đời người, đó là tội bất hiếu.
Thứ hai, nguyên nhân của việc lợi dụng mang thai hộ để quan hệ tình dục với
người phụ nữ mang thai hộ này một phần cũng do tư tưởng trọng nam khinh
nữ, cho phép người đàn ông có “ba thê tứ thiếp” ở chế độ phong kiến còn tàn
dư đến bây giờ và quan trọng nhất vẫn là do bản chất “trăng hoa” của họ. Mặt
khác, rất khó phát hiện các trường hợp trên. Thứ ba, nguyên nhân khiến nhiều
người coi mang thai hộ trở thành một nghề hay một dịch vụ kiếm sống vì lợi
nhuận, giá trị kinh mà mang thai hộ đem lại vô cùng lớn. Họ dễ dàng kiếm
tiền trên chính thể xác của mình để có tiền chi tiêu mà không phải lao động
chân tay hay trí óc. Cuối cùng, là do đặc tính nghề nghiệp, yếu tố thẩm mỹ.
Mang thai và sinh con là cả một quá trình rất vất vả và khả năng hồi sức sau
sinh tốn rất nhiều thời gian. Như trong giới giải trí, thời gian nghỉ hoạt động
nghệ thuật tỷ lệ nghịch với mức độ nổi tiếng, sự quan tâm và yêu thích của
công chúng. Đồng thời, việc mang thai cũng để lại nhiều đấu tích trên cơ thể
như rạn da, vết mổ khi sinh…. Tùy vào mỗi thực trạng thì lại có những
nguyên nhân khác nhau để lý giải, tuy nhiên các thực trạng trên đều bắt nguồn
từ việc chưa có quy định cụ thể để xử lý vi phạm khi xảy ra các vi phạm khi
thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, mang thai hộ nhằm răn đe, ngăn chặn các
60
hành vi vi phạm trong lĩnh vực mang thai hộ ở Việt Nam.
CHƢƠNG 3
GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC MANG
THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Luật HN&GĐ năm 2014 đã có bước tiến đột phá khi ghi nhận việc
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Điều này đã mở ra cơ hội cho các cặp vợ
chồng vô sinh thực hiện mong muốn có được đứa con ruột thịt và mang mã
gen di truyền của mình. Tuy vậy, sau hơn 05 năm, các quy định pháp luật
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đi vào cuộc sống thì vẫn còn nhiều vướng
mắc trong quy định cũng như là trong trình tự, thủ tục thực hiện hoạt động
mang thai hộ. Bên cạnh việc đảm bảo quyền và lợi ích cho các bên trong quan
hệ mang thai hộ, pháp luật cũng cần có cơ chế giải quyết tranh chấp, những
hành vi vi phạm hoạt động mang thai hộ, đặt biệt là mang thai hộ vì mục đích
thương mại.
Tại chương 2, Khóa luận đã nêu nên những thực trạng trong lĩnh vực
“mang thai hộ” đang tồn tại và diễn ra hiện nay, cũng như phân tích các
nguyên nhân tương ứng dẫn đến những thực trạng này. Từ những phân tích đã
nêu, khóa luận xin được đưa ra những giải pháp nhằm giảm thiểu những thực
trạng đó cũng như góp phần hoàn thiện hơn nữa pháp luật trong lĩnh vực
“mang thai hộ”.
3.1. Giải pháp đơn giản hóa quá trình hoàn thiện hồ sơ “mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo”
Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến thực trạng cặp vợ chồng nhờ mang thai
hộ gian nan cả năm trời để hoàn thiện hồ sơ đó là chứng minh mối quan hệ
thân thích cùng hàng giữa họ và bên mang thai hộ. Theo Khoản 1 Điều 14
Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì có 02 cách chứng minh: Một là, xin bản xác
nhận của Ủy ban nhân dân cấp xã. Hai là, người mang thai hộ hoặc người nhờ
mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên
61
cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về
tính xác thực của các giấy tờ đó. Để vấn đề có thể được giải quyết triệt để, cần
sớm thực hiện cơ sở dữ liệu về hộ tịch theo như quy định của Luật Hộ tịch
năm 2014 để việc kiểm tra thông tin về hộ tịch của cặp vợ chồng nhờ mang
thai hộ cũng như của người mang thai hộ được thực hiện chính xác và hiệu
quả. Đồng thời, cũng phải ghi nhận chế tài để xử lý các trường hợp cố ý làm
sai quy định pháp luật trong việc xác nhận để đảm bảo tính nghiêm minh của
pháp luật, đảm bảo trật tự và ổn định cho việc mang thai hộ.
Về phần các cam kết, thỏa thuận mà các bên phải hoàn tất để hoàn
thiện hồ sơ “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”, khó khăn nhất ngoài xác
nhận của địa phương thì chính là việc phải có xác nhận tư vấn về y tế, pháp
lý, tâm lý... Do đó, pháp luật nên quy định các cơ sở y tế có đủ thẩm quyền
(hiện nay 05 cơ sở trên cả nước được phép thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo gồm Bệnh viện Hùng Vương, Bệnh viện Từ Dũ, Bệnh
viện Mỹ Đức, Bệnh viện Phụ sản Trung ương và Bệnh viện Đa khoa Trung
ương Huế) thực hiện kỹ thuật “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Đồng thời,
thành lập đội ngũ chuyên viên y tế riêng chuyên tư vấn (về y tế và tâm lý) cho
các bên trong quan hệ “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo”. Bên nhờ mang
thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ đều phải được tư vấn y tế từ bác sỹ
chuyên khoa sản làm việc tại cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được Bộ Y tế công
nhận được thực hiện kỹ thuật TTTON. Đối với tư vấn tâm lý thì người tư vấn
về tâm lý cho người được nhờ mang thai hộ cũng như người nhờ mang thai hộ
phải có trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên làm việc tại cơ sở được cấp
giấy phép hoạt động có phạm vi hoạt động chuyên môn tư vấn tâm lý và phải
tư vấn tâm lý đầy đủ các nội dung cần tư vấn. Ngoài ra, pháp luật nên có chính
sách khuyến khích các cơ sở y tế này liên kết với các văn phòng luật sư chuyên
tư vấn về pháp lý cho cả cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ và người phụ nữ
mang thai hộ khi đến bệnh việc thực hiện kỹ thuật này. Như vậy, việc hoàn tất
hồ sơ của các cặp vợ chồng sẽ thống nhất hơn, tránh tình trạng các cặp vợ
62
chồng phải đi lại nhiều nơi, mất nhiều thời gian tiền bạc cho thủ tục tư vấn.
3.2. Giải pháp giúp các cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ có thể đáp ứng đủ
“điều kiện mang thai hộ vì mục đích mang thai hộ”
Đối với trường hợp vợ chồng có con chung nhưng con bị mắc các
chứng bệnh tâm thần, bệnh down,… thì về nguyên tắc thì vợ chồng không
được phép nhờ mang thai hộ vì đã có con chung. Tuy nhiên, nếu không được
nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế, tức là nguyện vọng chính
đáng là có một đứa con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuệ. Pháp luật có thể
coi đây là trường hợp ngoại lệ và cho phép vợ chồng được nhờ mang thai hộ.
Để hài hòa được lợi ích chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và lợi
ích của Nhà nước, của xã hội trong công tác này cần phải xem xét về lâu dài
nên cho phép việc mang thai hộ được thực hiện bởi người thân thích không
cùng hàng hoặc cả những người không thân thích nhưng phải đảm bảo thực
hiện đúng các quy định pháp luật về điều kiện xác lập cũng như quyền và
nghĩa vụ của các bên. Đề xuất này sẽ tạo thêm nhiều cơ hội cho các cặp đôi
vợ chồng khó khăn trong việc sinh con.
Bên cạnh các giải pháp pháp lý, có thể xem xét đến các giải pháp về
lĩnh vực tuyên truyền qua các kênh truyền thanh, truyền hình nhằm khuyến
khích chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ tham gia tư vấn tâm lý,
pháp lý... cùng vợ của mình. Bởi việc bắt buộc họ phải nhận tư vấn thì sẽ rất
bất hợp lý nhưng nếu khuyến khích họ tham gia tư vấn sẽ dễ để họ chấp
nhận và hợp tác hơn. Nếu chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ được
tư vấn đầy đủ về tâm lý, pháp lý thì ngoài việc họ có thể san sẻ những khó
khăn người vợ của mình gặp phải trong quá trình “mang thai hộ”, còn giúp
họ hiểu rõ hơn bản chất của kỹ thuật này, để tránh trường hợp có những
người chồng do hiểu sai lệch về kỹ thuật nên mới không đồng ý cho vợ mình
thực hiện “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” dẫn đến bên nhờ và bên
nhận trong quan hệ mang thai hộ không đáp ứng đủ điều kiện theo quy định
63
của pháp luật.
3.3. Giải pháp ngăn chặn và tiến tới xóa bỏ các dịch vụ mang thai hộ trái
pháp luật
Trên thực tế, rất khó để phát hiện và xử lý các dịch vụ thực hiện chui
mang thai hộ vì đây là một vấn đề nhạy cảm. Các dịch mang thai hộ chui
đóng vai trò như “cò mồi” tìm kiếm những người có nhu cầu nhờ mang thai
hộ để kiếm được một khoản lợi ích kinh tế lớn. Chúng thường tìm kiếm
“khách hàng”, liên lạc, giao dịch trao đổi thông tin trên Internet nên khó phát
hiện và nếu bị phát hiện thì dễ dàng xóa thông tin. Các trường hợp bị phát
hiện thì phôi thường đã thành hình hoặc chuẩn bị sinh. Tuy nhiên, tùy vào
từng trường hợp, mà có những giải pháp khác nhau nhằm tiến tới xóa bỏ dịch
vụ thực hiện mang thai hộ chui.
Mang thai hộ để sinh được con trai nối dõi hoặc tìm đến mang thai hộ
với mục đích quan hệ tình dục thì đều thường xuất phát từ nhu cầu của người
chồng bên nhờ mang thai hộ. Do đó, hướng giải quyết của tác giả là tuyên
truyền, phổ biến pháp luật về bình đẳng giới, pháp luật về mang thai hộ vừa
để những người có tư tưởng “trọng nam” có thể hiểu rằng giá trị con người
không nằm ở giới tính vừa để người vợ trong bên nhờ mang thai hộ có sự hiểu
biết về mang thai để đưa ra quyết định sáng suốt, duy trì hạnh phục gia đình.
Thực trạng coi mang thai hộ như một nghề kiếm sống, một dịch vụ
kiếm tiền thì thực sự cần đến những chế tài hình sự mới đủ sức răn đe và áp
chế được những hành vi vi phạm này. Đây là hành vi mang thai hộ vì mục
đích thương mại và theo Điều 187 BLHS năm 2015 thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02
năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm đối với người tổ chức mang thai hộ
vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, người hành nghề mang thai hộ thì chưa
có quy định nào để xử lý, vậy nên, để có cách hiểu và áp dụng thống nhất, cần
khắc phục hạn chế này bằng cách sửa lại tên điều luật theo hướng mở rộng tối
đa chủ thể phạm tội như “Tội mang thai hộ vì mục đích thương mại”, đồng
thời quy định dấu hiệu “tổ chức” trong tên tội danh thành tình tiết định khung
64
tăng nặng trong cùng điều luật.
Đối với người bình thường, đủ khả năng sinh con những vẫn tìm đến
dịch vụ mang thai hộ vì “lười/ngại” sinh, ảnh hưởng đến nhan sắc hoặc không
muốn ảnh hưởng đến công việc thì hình vi này chưa đến mức phải chịu trách
nhiệm hình sự. Tuy nhiên, vẫn phải xử lý để không tạo tiền lệ cho thực trạng
này. Tác giả kiến nghị xử phạt hành chính đối với người nhờ mang thai hộ và
người mang thai hộ, còn cá nhân hay một nhóm người tổ chức mang thai hộ
thì sẽ bị xử lý hình sự như luật quy định.
3.4. Một số giải pháp, kiến nghị hoàn thiện quy định về “mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo” trong các văn bản quy phạm pháp luật liên quan
Chỉ vài tháng sau khi quy định về mang thai hộ trong Luật HN&GĐ
năm 2014 và Nghị định 10/2015/NĐ -CP có hiệu lực, các bác sĩ tại bệnh viện
Từ Dũ đã thực hiện thành công hai ca mang thai hộ. Điều này cho thấy việc
cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự đã giúp cho khao khát
được làm cha mẹ của không ít cặp vợ chồng được trở thành hiện thực. Về mặt
lập pháp, mặc dù đã quy định rõ ràng và hợp lý, hợp tình trong rất nhiều vấn
đề về mang thai hộ nhưng nhìn chung vẫn còn không ít quy định khá khái
quát, hoặc gây ra nhiều cách hiểu khác nhau. Do đó, ngoài những giải pháp
cho từng thực trạng cụ thể nêu trên, thì quy định pháp luật về mang thai hộ ở
Việt Nam cần có những chỉnh sửa, bổ sung một số vấn đề sau để hoàn thiện
hơn, cụ thể như:
Một là, quy định về mục đích của việc mang thai hộ. Luật HN&GĐ
năm 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và cấm mang thai hộ
vì mục đích thương mại. Tuy nhiên, việc phân biệt hai trường hợp này chỉ dựa
vào một tiêu chí là có hay không việc “hưởng lợi ích kinh tế và lợi ích khác”.
Trong quá trình mang thai và sinh con sẽ phát sinh rất nhiều chi phát như: chi
phí khám thai thường xuyên (tối thiểu phải được khám ba lần trên ba kỳ thai
nghén), tiêm phòng, tiêm vắc xin, chi phí về chế độ dinh dưỡng, ăn uống,
nghỉ ngơi. Mặt khác, trong quá trình mang thai người phụ nữ mang thai hộ có
65
thể bị suy giảm mức thu nhập và sau khi sinh thì họ cũng cần một khoản chi
phí để chăm sóc, phục hồi sức khỏe. Khoản chi phí như thế nào là hợp lý để
bên nhờ mang thai chi trả cho bên mang thai hộ thì lại phụ thuộc vào sự thỏa
thuận của các bên. Nội dung này cũng cần phải được nêu trong thỏa thuận
mang thai hộ và luật cần đưa ra mức tối đa mà bên nhờ mang thai hộ phải chi
trả để hạn chế được việc mang thai hộ vì mục đích thương mại có thể xảy ra.
Hai là, về việc yêu cầu ly hôn giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ. Luật
HN&GĐ năm 2014 quy định tại khoản 3 Điều 51: “Chồng không có quyền
yêu cầu ly hôn trong trường hợp vợ đang có thai, sinh con hoặc nuôi con
dưới 12 tháng tuổi”. Đây là quy định áp dụng đối với cặp vợ chồng bình
thường, khi người vợ đang mang thai hoặc nuôi con nhỏ do chính người vợ
sinh ra. Tuy nhiên, đối với trường hợp mang thai hộ thì luật chưa có quy định
cụ thể về vấn đề này. Xét thấy, người chồng của bên mang thai hộ và bên nhờ
mang thai hộ đều nên bị hạn chế quyền yêu cầu ly hôn trong thời gian thai kỳ
và khi đứa trẻ sinh ra chưa đủ 12 tháng tuổi. Điều này xuất phát từ nguyên tắc
bảo vệ quyền của người mẹ, đồng thời, đảm bảo quyền và lợi ích tốt nhất cho
đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ.
Ba là, quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện việc
mang thai hộ. Nếu trong quá trình mang thai, bào thai phát triển không tốt do
các khuyết tật bẩm sinh thì chính cha mẹ của thai nhi sẽ là người quyết định
tiếp tục duy trì hay chấm dứt thai kỳ theo lời khuyên của bác sĩ. Tuy nhiên,
theo quy định tại khoản 4 Điều 97 Luật HN&GĐ năm 2014 thì quyền này
thuộc về người được nhờ mang thai hộ. Việc người mang thai hộ sinh đứa trẻ
dị tật ra sẽ gây không những chỉ là nỗi đau của những trẻ mắc bệnh mà còn là
nỗi đau, là gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội. Do đó, luật cần quy định sự
thỏa thuận của vợ chồng nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ, chứ không
nên giao quyền đó chỉ cho người mang thai hộ như hiện nay. Nếu việc mang
thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe, tính mạng của người được nhờ mang
thai hộ thì việc quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ là do người được nhờ
66
mang thai hộ quyết định. Đối với trường hợp thai nhi phát triển không bình
thường, ví dụ như trong thời gian mang thai hộ, thai nhi được phát hiện là
mang những khuyết tật bẩm sinh thì cần có sự thỏa thuận giữa bên nhờ mang
thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ để đi đến quyết định tiếp tục hay chấm
dứt thai kỳ. Nếu họ không thỏa thuận được thì nhờ Tòa án giải quyết và Tòa
án sẽ ra quyết định trên cơ sở tham vấn ý kiến của tổ chức y tế. Như vậy, sẽ
phần nào hạn chế được tình trạng như đã nêu trên.
Bốn là, nếu bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con và bên được nhờ
mang thai hộ đồng ý nhận nuôi con thì luật nên có quy định ghi nhận quyền
được nhận nuôi con của bên được nhờ mang thai hộ và có thêm các điều kiện
nhận nuôi con nuôi. Luật nuôi con nuôi cần bổ sung trường hợp ưu tiên cho
người mang thai hộ nhận đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ làm con nuôi
tương tự như trường hợp ưu tiên bố dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ hoặc
của chồng làm con nuôi hay cô, dì, chú, bác ruột nhận cháu ruột làm con nuôi.
Năm là, về thủ tục khai sinh cho đứa trẻ sinh ra từ việc mang thai hộ.
Trong hồ sơ đăng ký khai sinh cần bổ sung thêm văn bản thỏa thuận mang
thai hộ để chứng minh tư cách chủ thể thực hiện việc khai sinh cho đứa trẻ.
Bởi vì, theo quy định của pháp luật hiện hành, trong thủ tục đăng ký khai
sinh, người đi đăng ký khai sinh phải nộp giấy chứng sinh (nhằm chứng minh
việc sinh là có thật và về nguyên tắc, người được ghi trong giấy chứng sinh
là mẹ của đứa trẻ đó). Tuy nhiên, trong trường hợp mang thai hộ, giấy chứng
sinh lại mang tên người mang thai hộ chứ không phải ghi tên người vợ trong
cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp khai sinh cho trẻ em sinh
ra từ việc mang thai hộ nhưng tòa án xác định cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ
không phải là cha mẹ của đứa trẻ thì việc khai sinh cho trẻ em phải thực hiện
theo việc khai sinh trẻ bị bỏ rơi. Phần họ tên cha mẹ bỏ trống, ngay cả trong
trường hợp này, giấy chứng sinh không có ý nghĩa trong việc xác định mẹ của
đứa trẻ do người sinh ra đứa trẻ là người mang thai hộ.
Tóm lại, để chế định mang thai hộ vì mục đích nhân đạo thật sự là giải
67
pháp tốt, nhân văn và ít tranh chấp nhằm giúp cho các cặp vợ chồng vô sinh
đáp ứng nhu cầu có được một đứa con theo nguyện vọng chính đáng thì người
làm luật cần nghiên cứu và hoàn thiện thêm quy định pháp luật trong thời
gian tới. Có như vậy, pháp luật điều chỉnh về quan hệ mang thai hộ mới có
sức sống lâu dài và ổn định, đồng thời nâng cao niềm tin của người dân vào
68
pháp luật.
KẾT LUẬN
Hơn 05 năm kể từ khi Luật HN&GĐ năm 2014 có hiệu lực pháp luật
ngày 01/01/2015, pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đã tạo cơ hội
cho rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh thực hiện mong ước có được đứa con máu
mủ của mình. Tuy nhiên, những quy định thực hiện hoạt động mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo vẫn còn có những vấn đề thiếu cụ thể dẫn đến những hạn
chế, lúng túng trong quá trình thực thi pháp luật. Để giải quyết được những
hạn chế, bất cập đó đòi hỏi cơ quan lập pháp cần xây dựng những quy định về
mang thai hộ đầy đủ, chặt chẽ. Vì mang thai hộ vẫn là một vấn đề nhạy cảm,
phức tạp do đó việc quy định như thế nào để vừa đảm bảo quyền và lợi ích
của các bên chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật mang thai hộ nhưng
cũng vừa hạn chế được những hậu quả không hay xảy ra trong thực tiễn cuộc
sống đang là một khó khăn được đặt ra cho cơ quan lập pháp.
Trong chương 1 của khóa luận, tác giả đã đi sâu nghiên cứu một cách
cơ bản khái niệm, ý nghĩa của việc mang thai hộ cũng như cơ sở của việc quy
định mang thai hộ trong Luật HN&GĐ năm 2014.
Trong chương 2, tác giả nêu nội dung quy định của pháp luật hôn nhân
và gia đình về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới và ở Việt Nam, đồng
thời chỉ ra thực trạng và nguyên nhân dẫn đến thực trạng trong lĩnh vực mang
thai hộ ở Việt Nam.
Trong chương 3, tác giả đưa ra một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Tác giả khóa luận hi vọng nội dung nghiên cứu có sẽ có ích cho công
tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở
69
Việt Nam hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2000.
2. Bùi Quỳnh Hoa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ, Luận
văn Thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội.
3. Chính phủ (2003), Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 quy định về
sinh con theo phương pháp khoa học.
4. Chính phủ (2011), Nghị định số 96/2011/NĐ-CP ngày 21/10/2011 quy định xử
phạt vi phạm hành chính về khám, chữa bệnh.
5. Chính phủ (2013). Nghị định số 176/2013/NĐ-CP ngày 14/11/2013 thay
thế cho Nghị định 45/2005/NĐ_CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực y tế.
6. Chính phủ (2015), Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 quy định về
sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo.
7. Chính phủ (2016), Nghị định số 98/2016/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều
của Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
8. “Chính phủ siết điều kiện thực hiện kỹ thuật mang thai hộ”
http://vietnamnet.vn/vn/thoi-su/mang-thai-ho-chinh-phu-siet-dieu-kien-thuc-hien-
duoc-mang-thai-ho-319729.html - ngày 6/8/2016
9. Hoàng Thị Thu Hằng (2017), Pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm, Luận văn Thạc sĩ, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
10. http://bvbacquangnam.org.vn/gioi-thieu/khoa-lam-sang/khoa-cap-cuu/173-
mang-thai-h-co-lut-nhng-vn-kho-khn.html.
11. http://www.thesaigontimes.vn/118218/Mang-thai-ho---chuyen-khong-don-
gian.html.
12.http://www.nguoihanoi.com.vn/modules.php?name=News&op=viewst&si
70
d=32576.
13. http://moh.gov.vn:8086/news/Pages/TinHoatDongV2.aspx?ItemID=1438.22
14. https://nld.com.vn/phong-su-ky-su/dich-vu-mang-thai-ho-ra-nuoc-ngoai-thue-
nguoi-de-20131202085712747.htm
15. https://vietnamnet.vn/vn/doi-song/gia-dinh/toi-bi-gai-bay-tinh-vi-khi-cho-phep-
mang-thai-ho-bang-cach-truyen-thong-552072.html
16. https://plo.vn/plo/nguoi-phu-nu-20-nam-lam-nghe-de-thue-340221.html 60
17. https://tuoitre.vn/cong-an-bat-nhom-de-thue-vay-mang-thai-ho-duoc-khong-
20190212085754736.htm
18. https://afamily.vn/chuyen-that-nhu-dua-me-chong-nai-ni-con-dau-mang-thai-
ho-cho-em-chong-20160413033121135.chn
19. https://suckhoedoisong.vn/nhung-co-so-y-te-nao-o-nuoc-ta-duoc-thuc-hien-ky-
thuat-mang-thai-ho-n159247.html
20. Nguyễn Huy Cường (2016), Một số bất cập trong các quy định về mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, số 9/2016, tr. 38 – 40; 49, Viện Nhà nước và Pháp Luật.
21. Nguyễn Thị Lan (2015), Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh, Tạp chí Luật
học, số 04/2015, tr. 12 – 21, Trường Đại học Luật Hà Nội.
22. Nguyễn Thị Lan (2016), Thụ tinh trong ống nghiệm và những vấn đề phát sinh,
Tạp chí Luật học số 02/2016, tr. 34- 42, Trường Đại học Luật Hà Nội.
23. Nguyễn Văn Lâm (2015), Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ quan
niệm thế nào về “huyết thống” và “mẹ”, Tạp chí Dân chủ và Pháp luật, số 9/2015,
tr. 50-52, Bộ Tư Pháp.
24. “Những điều chưa biết về thực hiện kỹ thuật mang thai hộ ở Việt Nam”
http://www.baomoi.com/nhung-dieu-chua-biet-ve-thuc-hien-ky-thuat-mang-thai-
ho-o-viet-nam/c/18537356.epi - ngày 26/1/2016
25. Phạm Thị Hương Giang (2015), Luận văn Thạc sĩ, “ Mang thai hộ theo Luật
Hôn nhân và Gia đình năm 2014”, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội.
26. PGS. TS Nguyễn Văn Cừ (2016), Pháp Luật về mang thai hộ ở Việt Nam, Tạp
71
chí Luật học, số 06/2016, tr. 11 – 22, Trường Đại học Luật Hà Nội.
27. PGS.TS Nguyễn Viết Tiến (2012), “Dịch tễ học vô sinh và các phương pháp
điều trị”, NXB Y học, Hà Nội
28. Quốc hội (2013), Hiến pháp, Hà Nội.
29. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và gia đình, Hà Nội.
30. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự, Hà Nội.
31. Quốc hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia đình, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
32. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội.
33. suckhoedoisong.vn (Nguồn Pregnancy for Dummies), “Ảnh hưởng của tuổi tác
đến khả năng sinh sản ở phụ nữ”
http://www.orientalstar.vn/contents.asp?msg=129&fields=16
34. ThS. Hồ Mạnh Tường (2014), Mang thai hộ - Những điều cần biết, Nội san Y
học sinh sản, 8/2014.2
35. ThS. Trần Đức Thắng (2016), Một số vấn đề về thực hiện quy định pháp luật
hiện hành về mang thai hội ở Việt Nam, Tạp chí Nghề luật, số 02/2016, tr. 57 – 61,
Học Viện Tư pháp.
36. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), Mang thai hộ - Sự cần thiết phải điều
chỉnh bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường.
37. Trường Đại học Luật Hà Nội (2013), “Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình
Việt Nam”, NXB Công an nhân dân, Hà Nội.
38. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi của phụ nữ và
trẻ em trong mang thai hộ
http://trogiupphaply.com.vn/detail.aspx?lang=1&id_tin=251&id_m=11
#.Vb7Oe_Ptmkq
39. Ts. Nguyễn Huy Quang và Ths. Đinh Thị Thu Thủy (2014), “Mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo”, Thông tin phổ biến giáo dục pháp luật về Y tế số 03 tháng
09/2014
http://moh.gov.vn/province/Pages/CheDoChinhSachYTe.aspx?ItemID=30
40. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi của phụ nữ và
72
trẻ em trong mang thai hộ
http://trogiupphaply.com.vn/detail.aspx?lang=1&id_tin=251&id_m=11
#.Vb7Oe_Ptmkq
41. Văn phòng Luật NewVision Law Co (2014), “Vấn đề pháp lý trong việc mang
thai hộ”
73
42.Vnexpress.net/phu-nu-nen-sinh-con-o-do-tuoi-bao-nhieu-3935425.html