ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THU HÀ
QUYỀN AN TỬ
VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP HÓA AN TỬ Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH- 2015 - L
HÀ NỘI – 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
HOÀNG THU HÀ
QUYỀN AN TỬ
VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP HÓA AN TỬ Ở VIỆT NAM
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH - 2015 - L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN: ThS. Nguyễn Thùy Dương
HÀ NỘI - 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Khóa luận này là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Khóa luận đảm bảo chính xác, tin cậy và
trung thực.Tôi đã hoàn thành các môn học và thanh toán đủ các nghĩa vụ tài
chính theo quy định Khoa luật - Đại học quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo
vệ Khóa luận.
Xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN
i
Hoàng Thu Hà
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bộ luật Dân sự BLDS
Bộ luật Hình sự BLHS
HRC Hội đồng nhân quyền Liên Hợp Quốc
HIV/AIDS Hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ở người
ICCPR Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị
LNQQT Luật nhân quyền quốc tế
TCN Trước công nguyên
ii
UDHR Tuyên ngôn thế giới về quyền con người
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ
STT Nội dung Trang Hình, Biểu đồ
1 Hình 2.1 30 Bản đồ các quốc gia/vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử và trợ tử tính đến 2014
2 Biểu đồ 2.1 32 Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử ở Hà Lan (2006-2013)
3 Biểu đồ 2.2 34 Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử tại Bỉ (2002-2011)
4 Biểu đồ 2.3 36 Số lượng các trường hợp tử ở Oregon (1998- 2018)
5 Biểu đồ 2.4 37 Số lượng các trường hợp trợ tử ở Washington (2009 - 2017)
iii
6 Biểu đồ 2.5 38 Số lượng các trường hợp trợ tử ở Thụy Sĩ (1995-2010)
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN ............................................................................................. i
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.......................................................................... ii
DANH MỤC HÌNH, BIỂU ĐỒ ..................................................................... iii
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1.Tính cấp thiết của đề tài ................................................................................. 1
2.Tình hình nghiên cứu ..................................................................................... 2
3.Mục đích, phạm vi nghiên cứu ....................................................................... 3
4.Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu .................................. 3
5.Kết cấu bài khóa luận ..................................................................................... 3
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ AN TỬ ....................................... 4
1.1.Khái quát lịch sử hình thành và phát triển của quyền an tử ........................ 4
1.2.Một số khái niệm cơ bản ............................................................................. 9
1.2.1.An tử ................................................................................................... 9
1.2.2.Quyền an tử ...................................................................................... 13
1.3.Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử ....................................................... 14
1.3.1.Đặc điểm .......................................................................................... 14
1.3.2.Ý nghĩa ............................................................................................. 17
1.4.Một số quan điểm về hợp pháp hóa quyền an tử ...................................... 18
1.4.1.Những lập luận phản đối quyền an tử .............................................. 18
1.4.2.Những lập luận ủng hộ quyền an tử ................................................. 22
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN AN TỬ TRÊN THẾ GIỚI ...... 25
2.1.Pháp luật nhân quyền quốc tế về quyền an tử ........................................... 25
2.2.Quy định pháp luật về quyền an tử của một số quốc gia .......................... 30
2.2.1.Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền an tử ..................................... 30
2.2.2.Một số vụ việc điển hình về quyền an tử trên thế giới .................... 39
CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP
iv
HÓA QUYỀN AN TỬ Ở VIỆT NAM ......................................................... 44
3.1.Thực tiễn pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền an tử ......................... 44
3.1.1.Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam ............................................. 44
3.1.2.Thực trạng yêu cầu về nhận thức, quy phạm hóa quyền an tử tại
Việt Nam ......................................................................................................... 47
3.2.Các yêu cầu về hợp pháp hóa quyền an tử của Việt Nam hiện nay .......... 50
3.3.Các giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam .............................. 52
3.3.1.Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về Quyền an tử ...................... 52
3.3.2.Nhóm giải pháp về hoàn thiện quy chế pháp lý về Quyền an tử ..... 53
3.3.3.Đề xuất mô hình khi luật hóa quyền an tử ....................................... 55
KẾT LUẬN .................................................................................................... 61
v
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 62
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Quyền con người là thành quả phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại, là
sự kết tinh những giá trị cao đẹp nhất trong nền văn hóa của tất cả các dân tộc
trên thế giới, là tiếng nói chung, mục tiêu chung và phương tiện chung của
nhân loại để bảo vệ, thúc đẩy nhân phẩm và hạnh phúc của mọi con người.
Kể từ khi Liên hợp quốc được thành lập (10/1945), quyền con người đã
được quy định trong rất nhiều văn kiện pháp lý quốc tế, trở thành một hệ
thống tiêu chuẩn pháp lý toàn cầu được các quốc gia tôn trọng và thực hiện.
Trong đó quyền sống là quyền con người cơ bản đã được công nhận trong các
văn kiện cốt lõi của luật nhân quyền quốc tế (Điều 3 Tuyên ngôn Toàn thế
giới về nhân quyền (UDHR) năm 1948, điều 6 Công ước quốc tế về các
quyền dân sự, chính trị (ICCPR)). Hệ thống pháp luật hiện hành ở Việt Nam
đã quy định cụ thể về quyền sống.Cụ thể, Điều 19 của Hiến pháp năm 2013
quy định: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được luật pháp
bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.Quyền sống là quyền tự
nhiên cơ bản của con người được công nhận và bảo vệ, vậy được chết có được
xem là quyền hay không?
Trên thế giới hiện nay, an tử, quyền an tử là những vấn đề còn để mở, bao
hàm nhiều quan niệm khác nhau. Ở Việt Nam, an tử, quyền an tử là những
vấn đề mới mẻ còn có sự nhầm lẫn trong quan niệm cũng như trong nhận thức
của nhiều người. Vấn đề này cũng chưa được quy định trong các Hiến pháp
cũng như pháp luật của Việt Nam (đặc biệt là Bộ luật dân sự), do đó cần được
quan tâm và tranh luận. Trong dự thảo xây dựng Bộ Luật dân sự đã có ý kiến
đề xuất về “quyền an tử”, nhưng có nhiều quan điểm khác nhau gây ra những
tranh cãi. Có những người vận động rất mạnh mẽ mong muốn pháp luật thừa
nhận quyền an tử, cho rằng những hành xử ấy là hợp luân lý. Số khác cho
1
rằng làm như thế chẳng những là bất hợp pháp mà còn trái luân lý và chắc
chắn gây tác hại sâu sắc cho y học. Quyền an tử vẫn chưa được công nhận và
thông qua tại Việt Nam do tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực: y học,
chính trị, xã hội,... Trên thực tế, trong bối cảnh Việt Nam là một nước có tỉ lệ
người chết vì bệnh ung thư thuộc top đầu thế giới, những mong muốn nhu cầu
về quyền an tử là có thật và số lượng ngày càng tăng; xét từ góc độ của những
bệnh nhân mắc bệnh nan y, việc đáp ứng nhu cầu đó cũng đảm bảo quyền
sống theo đúng nghĩa của con người. Ở góc độ khoa học pháp lý việc nghiên
cứu về quyền antử mang tính cấp thiết, góp phần quan trọng vào hoạt động
xây dựng nhà nước pháp quyền với một hệ thống quyền dân sự, quyền nhân
thân đầy đủ, hoàn thiện.
Với tầm quan trọng và ý nghĩa trên, em quyết định lựa chọn đề tài “Quyền
an tử và hợp pháp hóa quyền an tử tại Việt Nam” làm đề tài khóa luận tốt
nghiệp để nghiên cứu nhằm làm rõ bản chất của quyền an tử, đồng thời đề cập
đến một số vấn đề giữa pháp luật và thực tiễn để quyền an tử dần được hiểu và
tôn trọng như một quyền cơ bản của con người. Từ đó, đề xuất một số ý kiến
mong có thể góp phần hoàn thiện khung pháp luật, chính sách về vấn đề này.
2. Tình hình nghiên cứu
Quyền an tử là một đề tài còn rất mới mẻ trong các nghiên cứu khoa học
pháp lý. Hiện nay, ở Việt Nam, có rất ít tài liệu viết về vấn đề này. Bài viết
Bước đầu tìm hiểu vấn đề quyền được chết trong bối cảnh hiện nay của tác giả
Trương Hồng Quang trong cuốn Những vấn đề lý luận và thực tiễn về các
quyền mới xuất hiện trong quá trình phát triển xuất bản năm 2012 là tài liệu
trực tiếp đề cập đến vấn đề này. Ngoài ra, liên quan tới vấn đề quyền được
chết có Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Mai Chi – “Quyền an tử những vấn đề lý
luận và thực tiễn” năm 2014. Luận văn phân tích khá kỹ cả về lý luận lẫn
thực tiễn về quyền an tử, từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện khung pháp
luật về vấn đề này. Gần đây nhất có bài viết “Quyền an tử theo Luật Nhân
quyền Quốc tế, pháp luật của một số quốc gia và gợi mở cho Việt Nam”của
2
PGS.TS.Vũ Công Giao và ThS. Nguyễn Minh Tâm trong cuốn Thực thi các
quyền hiến định trong Hiến pháp 2013cũng là công trình nghiên cứu khá sâu
sắc về quyền an tử. Tuy nhiên, công trình không tập trung vào việc phân tích
giải pháp cho vấn đề này.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
Trên cơ sở hệ thống hóa các lý luận và thực tiễn về quyền an tử trên thế giới
và Việt Nam làm rõ bản chất của quyền an tử từ đó đề xuất những quan điểm,
giải pháp về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an tử nhằm hoàn thiện hệ thống
pháp luật, chính sách hiện hành về vấn đề này ở nước ta trong thời gian tới.
Phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào pháp luật quy định và thực
tiễn các vấn đề liên quan đến quyền an tử của một số quốc gia và Việt Nam
cũng như những quan điểm, lập luận về quyền an tử, hợp pháp hóa quyền an
tử. Tuy nhiên quyền an tử là một vấn đề lớn và phức tạp trên nhiều lĩnh vực,
trong phạm vi một khóa luận tốt nghiệp, đề tài tập trung phân tích những vấn
đề cơ bản nhất
4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lí luận dùng để nghiên cứu đề tài này là các quan điểm duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng để giải quyết những vấn đề
đặt ra trong khóa luận này là: tổng hợp, thống kê, phân tích, so sánh.
5. Kết cấu bài khóa luận
Luận văn bao gồm các Phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham
khảo và 03 chương như sau:
Chương 1: Khái quát về vấn đề an tử
Chương 2: Pháp luật về quyền an tử trên thế giới
Chương 3: Pháp luật, thực tiễn và vấn đề hợp pháp hóa quyền an tử ở
3
Việt Nam
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ VẤN ĐỀ AN TỬ
1.1. Khái quát lịch sử hình thành và phát triểncủa quyền an tử
Từ lâu, bất cứ ai làm nghề y cũng phải đọc “lời thề Hippocrates”. Trong
đó có điều: “Tôi sẽ không trao thuốc độc cho bất kỳ ai, kể cả khi họ yêu cầu
và cũng không tự mình gợi ý cho họ”.Ở La Mã và Hy Lạp cổ đại (thế kỷ V
đến thế kỷ I TCN), những người La Mã và Hy Lạp đã có xu hướng khoan
dung, ủng hộ an tử và không tuân theo “lời thề Hippocrates” một cách trung
thành.Nhiều người không có niềm tin xác định về giá trị vốn có của đời sống
con người và các bác sĩ ngoại giáo. Các bác sĩ có thể thực hiện việc giết người
vì mục đích nhân đạo (mercy killing), cả tự nguyện và không chủ ý.Trong
suốt thời cổ đại, có sự ủng hộ rộng rãi cho cái chết tự nguyện thay vì đau đớn
kéo dài, và các bác sĩ đã tuân thủ bằng cách thường xuyên đưa cho bệnh nhân
của họ những chất độc mà họ yêu cầu.
Thuật ngữ an tử (euthanasia) được Suetonius một nhà sử học La Mã sử
dụng lần đầu tiên trong cuốn De Vita Casesarum - Divus Augustus(Cuộc đời
các Ceasar – Con thần Augustus), tác giả đã mô tả cái chết của Augustus
Caesar rằng trong lúc ngài hỏi một số người mới đến từ thành phố về con gái
của Drusus, cô gái đang ốm, ngài đột ngột qua đời khi hôn Livia, thốt ra
những lời cuối cùng: “Hãy luôn nhớ đến cuộc hôn nhân của chúng ta, Livia,
và vĩnh biệt”rồi may mắn có một cái chết dễ dàng và đó là điều mà ngài luôn
mong mỏi. Mỗi khi nghe rằng ai đó chết nhanh chóng và không đau đớn, ngài
luôn cầu nguyện rằng ngài và thân thể ngàicũng có thể có một cái chết êm ả
như thế, đó là khái niệm ngài quen dùng.[25]
Tuy nhiên, khoảng thời gian sau đó cho đến gần cuối thế kỷ XIX, an tử
bị phản đối bởi quan điểm của các tôn giáo lớn (Đạo Thiên chúa, Đạo Do Thái,
Đạo Phật) và bị pháp luật ở nhiều quốc gia cấm (đặc biệt là các quốc gia
theo thông luật). Từ thế kỉ XII đến XV, sự lớn mạnh của đạo Thiên Chúa đã
4
củng cố “lời thề Hippocrates” quan điểm phản đối cái chết êm ả. Vào thế kỉ
XVII, hệ thống pháp luật Common Law có những quy định trừng phạt
hoặckhông chấp nhận, cấm tự tử và an tử lan ra khắp cả các thuộc địa. Ví dụ các
nhà lập pháp của Providence Plantations vùng lãnh thổ sau này trở thành Rhode
Island, đã tuyên bố vào năm 1647 rằng tự tử tuyệt đối là hành vi trái tự nhiên
nhất và hội đồng lập pháp này tuyên rằng người nào thực hiện hành vi này, tự tử
chỉ vì chủ tâm ghét bỏ chính cuộc sống của mình hay niềm hạnh phúc của người
khác… thì đồ đạc và tài sản của họ sẽ do nhà vua định đoạt.[26]
Không có cuộc bàn luận nào về an tử thậm chí còn là điều cấm kị ở các
nước châu Âu cho đến thế kỉ XVIII. Nhiều nhà văn đã tấn công vào các nhà
thờ để truyền bá về mọi khía cạnh đời sống, bao gồm cả về an tử và tự tử,
nhưng vấn đề này không gây được quan tâm nhiều và rộng khắp. Một cuộc
phản công mang tính chất tôn giáo đã diễn ra vào cuối thế kỉ XVIII, bắt đầu
với cuộc Đại thức tỉnh vào khoảng giữa những năm 1700 đến cuộc Đại thức
lần thứ hai vào những năm đầu của thế kỷ XIX, những nhà truyền giáo đã
tăng cường lên án mạnh mẽ tự tử và an tử. Năm 1794, một đạo luật đã được
thông qua nhằm giảm hình phạt của một người đã giết bệnh nhân mắc một
căn bệnh nan y. Sau đó, năm 1828, một văn bản pháp luật được ban hành tại
New York trong đó quy định rõ ràng an tử là hành vi trái pháp luật. Giữa năm
1857 và 1865, một Ủy ban ở New York do Dudley Field lãnh đạo đã soạn
thảo một dự luật hình sự cấm trợ giúp tự tử và đặc biệt là cung cấp cho người
khác bất kỳ vũ khí chết người hoặc ma túy độc hại nào, biết rằng người đó có
ý định sử dụng vũ khí hoặc ma túy như vậy để lấy mạng sống của chính mình.
Vào thời điểm Hiến pháp sửa đổi lần thứ mười bốn đã đượcthông qua, an tử
và trợ tử đều là tội hình sự ở hầu hết các bang.Bộ luật hình sự đã được thông
qua tại Lãnh thổ Dakota vào năm 1877, tại New York năm 1881.
Bước sang thế kỉ XIX, các nhà khoa học đã có một bước tiến lớn trong
việc chiết suất được morphin và được sử dụng làm thuốc giảm đau trên diện
rộng. Samuel Williams, một giáo viên, đã có bài phát biểu đầu tiên ủng hộ
5
cho an tử tích cực, trong đó đề cập đến việc thuốc không chỉ được dùng để
làm giảm cơn đau mà còn giải thoát bệnh nhân một cách có chủ định. Trong
suốt thế kỉ XIX, bài phát biểu đã nhận được sự chú ý nghiêm túc trên nhiều
tạp chí y khoa.Nhưng hầu hết các bác sĩ vẫn giữ quan điểm thuốc giảm đau có
thể dùng để giảm bớt sự đau đớn, không phải thúc đẩy cái chết.
Thế kỷ XX với sự phát triển của ngành y khoa, an tử đã có được những
bước tiến lớn. Về mặt pháp lý, năm 1976, California trở thành bang đầu tiên
của Mỹ thông qua luật cho phép người bị bệnh nan y quyền quyết định hủy bỏ
các điều trị y tế duy trì sự sống khi cái chết được tin rằng sắp xảy ra. Tính đến
năm 1977, đã có 8 bang của Mỹ gồm California, New Mexico, Arkansas,
Nevada, Idaho, Oregon, North Carolina, và Texas đã thông qua các điều luật
về quyền an tử.
Một vụ việc điển hình liên quan đến trợ tử đã từng diễn ra ở nước Mỹ.
Đó là trường hợp của Karen Ann Quinlan vào năm 1975. Người phụ nữ này
bị rơi vào tình trạng hôn mê sau khi bị tai nạn ô tô và được kết luận sẽ không
bao giờ phục hồi được ý thức. Các bác sĩ tin rằng cô sẽ chết nếu bị ngưng
dùng máy thở oxy. Cha mẹ của cô trong hoàn cảnh tuyệt vọng vì không muốn
con gái của mình kéo dài sự sống thực vật đầy đau khổ và thực sự khả năng
kinh tế của gia đình cũng có hạn nên đã đề nghị Tòa án cho phép rút ống thở.
Tuy nhiên Tòa án đã từ chối đề nghị này. Một cuộc chiến pháp lý đã diễn ra
ròng rã suốt một năm trời sau đó và Quinlan đã được dừng máy thở vào năm
1976. Nhưng có một điều là cô vẫn sống thêm được đến 10 năm nữa, cho dù
không thể hiện bất kỳ dấu hiệu nào của sự phục hồi ý thức cũng như cuộc
sống và mất vào năm 1986 vì bệnh viêm phổi [13].
Từ sau vụ việc này đã mở rộng đường cho trợ tử thụ động, các Tòa án
của Mỹ đã thực thi nhiều phán quyết liên quan đến việc từ chối điều trị trong
những trường hợp nhất định. Một số cơ quan lập pháp của một số bang ở Mỹ
đã thừa nhận hoạt động trợ tử để giúp một người bệnh không phải kéo dài thời
gian đau khổ hay sống đời sống thực vật.
Có thể thấy, vấn đề trợ tử và an tử có thể trở thành mối quan tâm hàng
6
đầu về các phương diện xã hội, chính trị và luân lý ở Hoa Kỳ, Ý, Úc và có lẽ
những nơi khác nữa trong tương lai gần. Vấn đề bỗng nhiên được đưa vào
tiêu điểm chính trị, nhất là ở Hoa Kỳ: trước hết là do những việc làm của Jack
Kevorkian, một thời là nhà nghiên cứu bệnh lý học ở Michigan; trong những
năm qua ông đã dùng "máy tự tử" (suicide machine) do ông tự thiết kế để trợ
giúp ít nhất năm mươi người tự tử, mà những người này không phải là bệnh
nhân hấp hối; sau đó là do những nỗ lực ở rất nhiều tiểu bang, bằng một bước
ngoặt pháp lý ngoạn mục, đã làm thay đổi hoặc hủy bỏ những khoản trong
luật lệ đã được luật pháp quy định lâu đời hay luật chung có nội dung nghiêm
cấm hành vi tự tử có trợ giúp; hai Tòa phúc thẩm Liên bang vào năm 1996 đã
phán quyết rằng: người bị bệnh vô phương cứu chữa và một số người khác, có
quyền được trợ giúp để kết liễu mạng sống, và quyền này được hiến pháp bảo
vệ. Tuy cả hai phán quyết ấy đều bị Tòa Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ bác
bỏ vào tháng 6-1997, nhưng ý kiến của các quan tòa này sẽ được đưa ra trước
ngành lập pháp và công luận để tham khảo trong suốt nhiều năm sắp đến.
Vụ Compassion in Dying kiện Tiểu bang Washington của Tòa Lưu
Động Số 9 và vụ Quill kiện Vacco của Tòa Lưu Động Số 2 đều xảy ra vào đầu
mùa xuân năm 1996. Hai tòa phúc thẩm liên bang này đưa ra những quyết
định với những nội dung quan trọng, không những đối với việc xử trí y khoa
cho người hấp hối mà còn cho người quá đau đớn hay bị bệnh gây suy
nhược.Cả hai tòa án đều cho là bất hợp hiến những nghiêm cấm của tiểu
bang đối với việc trợ giúp bệnh nhân tự tử. Ngoài ra, tòa còn phán rằng các
công dân có những quyền lợi được hiến pháp bảo vệ gọi là "quyền tự do về sở
thích" trong việc chọn thời điểm và cách thức từ giã cõi đời
[10]. (Compassion in Dying là một tổ chức của các bác sĩ ủng hộ trợ tử. Năm
1996 họ đâm đơn kiện lên Tòa Án Liên Bang, cho rằng tiểu bang Washington
nghiêm cấm bác sĩ trợ giúp bệnh nhân tự tử là vi hiến (trái hiến pháp) và vi
phạm quyền của bệnh nhân vô phương cứu chữa. Trong vụ án kia, Timothy E.
Quill và một số bác sĩ hành nghề ở NewYork đứng nguyên đơn vào năm 1997
kiện Dennis C. Vacco, Chưởng lý NewYork. Các bác sĩ cho rằng “rất phù hợp
7
với nghề nghiệp bác sĩ” khi chỉ định thuốc kết liễu mạng sống cho “những
bệnh nhân vô phương cứu chữa, không còn khả năng trí não” và đang phải
đau đớn cùng cực, thế nhưng các bác sĩ bị cản trở việc này do luật của tiểu
bang NewYork cấm trợ giúp tự tử).
Hai Tòa án Liên bang đã đi một bước ngoặt pháp lý ngoạn mục. Trước
hết là Tòa Phúc Thẩm Lưu Động Số 9 (ngày 06-03-1996) mở tại San
Francisco. Tám trong mười một vị quan tòa, đồng tâm nhất trí, phán quyết
rằng: mỗi cá nhân có “quyền tự do về những sở thích” được hiến pháp bảo vệ
dựa trên bản Tu Chính Hiến Pháp Số 14, trong việc chọn thời điểm và cách
thức từ giã cõi đời. Một tháng sau, vào ngày 02-04-1996, Tòa Phúc Thẩm
Lưu Động Số 2, mở tại New York, cũng đi đến cùng một kết luận tương tự,
nhưng những lý do đưa ra có hơi khác. Dựa trên Mệnh Đề Được Bảo Vệ Như
Nhau của bản Tu Chính Hiến Pháp Số 14, tòa biện luận rằng không có sự
khác biệt giữa việc đình chỉ các hệ thống duy trì sự sống và việc cung cấp
thuốc để gây ra cái chết. Đây là quyết định chung của ba quan tòa. Tham
chiếu một cách đặc biệt đến sự kiện bệnh nhân lệ thuộc máy móc có quyền
quyết định giờ chết của mình, hai trong số ba quan tòa phát biểu rằng: bệnh
nhân vô phương cứu chữa “phải được tự do thực hiện việc ấy bằng cách yêu
cầu bác sĩ kết liễu mạng sống của mình trong những giai đoạn cuối của căn
bệnh vô phương cứu chữa.” Tuy nhiên sau đó, cả hai phán quyết này đều bị
Tòa Án Tối Cao Hoa Kỳ thay đổi và vô hiệu hóa, vào ngày 28-06-1997. Dù
các tòa án quyết định thế nào đi nữa, các luận cứ do Tòa Phúc Thẩm Lưu
Động Số Hai và Số Chín nêu ra, có lẽ sẽ ảnh hưởng đến các cuộc thảo luận về
an tử và trợ tử trong những năm sắp đến.
Bước sang đầu thế kỷ XXI, năm 2001, Hà Lan trở thành quốc gia đầu
tiên hợp pháp hóa an tử; tiếp sau đó là Bỉ (năm 2002), Luxembourg (năm
2008); và ba bang của Mỹ gồm Washington (năm 2008), Montana (năm
2008), Vermont (năm 2013).
Hà Lan là đất nước đầu tiên hợp pháp hóa "cái chết nhân đạo" từ tháng
8
4/2002. Người muốn chết phải đang đối mặt với nỗi đau đớn dày vò và các
bác sĩ đều thất bại trong việc chữa trị. Họ phải hoàn toàn tỉnh táo khi ra quyết
định. Độ tuổi được chọn cái chết êm ái là trên 12. Chính phủ Hà Lan cho phép
thành lập các đội cứu trợ cung cấp "cái chết nhân đạo". Sáu đội chuyên biệt sẽ
di động đến nơi bệnh nhân yêu cầu được trợ tử nếu các bác sĩ khác từ chối
tiến hành việc này. Mỗi năm có khoảng 3.100 trường hợp được trợ tử ở nước
này [17].
Tháng 2/2008, nối gót Hà Lan và Bỉ, Luxembourg trở thành nước thứ
ba trong Liên minh châu Âu cho phép "cái chết êm ái". Điều luật này chỉ
được áp dụng đối với bệnh nan y không có biện pháp chữa trị.Tháng 3/2014,
Bỉ đã hợp pháp hóa an tử đối với trẻ em bị bệnh nan y và không thể cứu chữa
Tháng 2/2015, Tòa án Tối cao Canada đã bãi bỏ lệnh cấm tự sát có trợ
giúp của bác sĩ. Tháng 4/2015, Tòa án Nam Phi đã cho phép tự sát có trợ giúp
đối với những người bị bệnh nan y.
1.2. Một số khái niệm cơ bản
1.2.1. An tử
Thuật ngữ an tử hay euthanasia (trong tiếng Anh) bắt nguồn từ thuật
ngữ “euthanatos” trong tiếng Hy Lạp, có thểhiểu sát nghĩa là “cái chết êm ả”
hay “cái chết êm dịu”. Trong đó “eu” có nghĩa là “tốt” và “thanatos”là “chết”).
Nghĩa của từ này theo tiếng Hy Lạp là chấm dứt cuộc sống của ai đó một cách
ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp họ khỏi kéo dài cuộc sống trong
những điều kiện không mong muốn. Đến nay chưa có một định nghĩa cụ
thểthống nhất nào về khái niệm về an tử. Có thể hiểu, an tử là chấm dứt cuộc
sống của một người theo một cách ít đau đớn nhất hay không đau đớn để giúp
họ khỏi kéo dài cuộc sống trong những điều kiện không mong muốn. Xuất
hiện đầu tiên trong lời thềHippocrates và sau đó bắt đầu xuất hiện rộng rãi
hơn vào thế kỷ XVII, nhằm khuyến khích các bác sĩ quan tâm đến sự đau đớn
của người bệnh và giúp đỡ người sắp chết thoát khỏi thế giới này một cách
nhẹ nhàng và dễ dàng hơn.
Theo Từ điển Merriam-Webster Online, an tử là “hành động hoặc thực
9
hành giết chết hoặc cho phép cái chết của những cá nhân (như con người
hoặc động vật nuôi) bị ốm hoặc chấn thương không còn hy vọng [cứu chữa]
theo cách ít đau đớn nhất vì lý do nhân từ/nhân đạo”. Một tài liệu khác định
nghĩa: “an tử là sự giết chết có chủ ý một người lệ thuộc (a dependent human
being) bởi hành động hoặc không hành động vì lợi ích được viện ra của người
đó” [5].
The British House of Lords Select Committee on Medical Ethics (Ủy
ban đặc biệt của Thượng Nghị viện Anh về Đạo đức y học) định nghĩa về an
tử là "một sự can thiệp cố ý được thực hiện với ý định rõ ràng về sự kết thúc
một cuộc sống, để xoa dịu sự đau đớn khó chữa"[18]
Như vậy, có thể hiểu “an tử” là việc chủ ý chấm dứt cuộc sống của một
người mà thường là những bệnh nhân không còn khả năng cứu chữa theo cách
ít hoặc không đau đớn vì những lợi ích của người đó. Theo những phân tích
trên, với những mục đích tốt đẹp của an tử thì nên gọi là “cái chết nhân đạo”
thay vì gọi “cái chết êm ả”.
An tử bao gồm những nội dung sau:
Thứ nhất, Tính chủ ý chấm dứt cuộc sống
Đây là nội dung quan trọng nhất của quyền an tử. Việc chấm dứt cuộc
sống phải là ý chí chủ quan của bệnh nhân, mong muốn của bản thân họ,
không bị ép buộc bởi bất cứ chủ thể nào khác. Nếu thiếu đi tính chủ ý thì sẽ
không còn là an tử.
Thứ hai, Đối tượng là những người không còn khả năng cứu chữa
Bệnh nhân phải ở trong tình trạng bệnh lý không còn khả năng cứu
chữa, chỉ khi có kết luận của hội đồng bác sỹ về tình trạng bệnh lý. Đây là yêu
cầu quan trọng giúp phân biệt giữa hành vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi
tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp,
xúi giục người khác tự tử.
Vậy như thế nào là những người không còn khả năng cứu chữa?Ở các
quốc gia đã công nhận hay chưa công nhận quyền an tử có cách phân loại
10
khác nhau về phạm vi các loại bệnh nhân. Theo tác giả Trương Hồng Quang
trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về quyền được chết trong bối cảnh hiện
nay”, thì giới y học hầu hết thống nhất có hai dạng bệnh nhân:
(1) Những trường hợp chết não: “tình trạng toàn não bộ bị tổn thương
nặng, chức năng của não đã ngừng hoạt động và người chết não không thể
sống lại được”. Bệnh nhân sống hoàn toàn nhờ vào các biện pháp hỗ trợ như
hô hấp, tuần hoàn và nuôi dưỡng nhân tạo… nếu rút máy thì coi như sự sống
chấm dứt.
(2) Trường hợp người bệnh mất ý thức kéo dài và không có khả năng hồi
phục. Trường hợp này bệnh nhân có sống cũng chỉ là gánh nặng của gia đình
(bản thân họ không còn biết khổ hay sướng). Đôi lúc người bệnh biểu lộ được
ý chí của mình và hoàn toàn không sống nhờ các biện pháp nhân tạo. Trường
hợp này bao gồm cả bệnh nhân chịu nhiều đau đớn kéo dài nhưng không mất
ý thức thường xuyên.
Nguyên nhân dẫn đến các tình trạng trên có thể là sau một tai nạn hay
bị mắc bệnh hiểm nghèo, vô phương cứu chữa.
Thứ ba, cách thực hiện ít hoặc không gây đau đớn
An tử tức là cái chết nhẹ nhàng, êm ái, là cái chết nhân đạo. Vì thế cách
thức thực hiện an tử cũng phải hạn chế đến mức thấp nhất đau đớn cho bệnh
nhân, giúp họ được ra đi một cách thanh thản, chấm dứt cuộc sống đau đớn đã
kéo dài. Một số biện pháp có thể thực hiện như: tiêm thuốc, rút ống dẫn…
Thứ tư, vì lợi ích của người được an tử
Với ý nghĩa nhân đạo sâu sắc, an tử trên hết phải với mục đích đem lại
sự thanh thản cho người bệnh, giúp họ không phải chịu đựng những ngày
tháng đau đơn với bệnh tật, chứ không phải vì bất kỳ lợi ích kinh tế hay
nguyên nhân từ chủ thể nào khác (gia đình, xã hội).
Như vậy, có bốn yếu tố để xác định “an tử” đó là: (i) tính chủ ý chấm
dứt cuộc sống; (ii) đối tượng là những người không còn khả năng cứu chữa;
(iii) cách thức thực hiện ít hoặc không gây đau đớn; và (iv) vì lợi ích của
11
người được an tử. Trong các yếu tố này, “tính chủ ý” được xem là quan trọng
nhất mà thiếu nó sẽ không được coi là an tử; lợi ích của người được an tử
thường là để chấm dứt những nỗi đau không thể chịu đựng được (mục đích
nhân đạo) và để giảm gánh nặng kinh tế cho gia đình và người thân.
An tử có thể được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí, trong đó hai tiêu
chí có thể thể hiện rõ nhất tính chất của vấn đề đó là dựa trên sự tự nguyện và
cách thức thực hiện.
- Dựa trên tính chất ý chí của người được an tử, an tử có thể chia thành
an tửtự nguyện (Voluntary Euthanasia), an tử không tự nguyện (Non -
VoluntaryEuthanasia), và an tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia).
An tử tự nguyện (Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân trong tình trạng
tỉnh táo(nghĩa là có ý thức, đủ tuổi và cảm xúc ổn định), có sự đồng tình rõ
ràng trong quyết định kết thúc cuộc sống với sự hỗ trợ, trợ giúp của bác sĩ. Ví
dụ: Thực hiện theo yêu cầu của bệnhnhân ung thư giai đoạn cuối ngừng điều
trị bằng việc ngừng tiêm thuốc hóa trị do tình trạng tâm lý và sức khỏe hiện
nay hay ở tương lai tiên liệu được.
An tử không tự nguyện (Non - Voluntary Euthanasia): Bệnh nhân
không có khả năng bày tỏ sự ưng thuận và tự đưa ra quyết định (Trẻ sơ sinh
thiểu năng trầm trọng, bệnh nhân trong tình trạng thực vật vĩnh viễn, người
tâm thần), quyết định chấm dứt cuộc sống của họ do người khác đưa ra
(người thân)
An tử trái nguyện vọng(Involuntary Euthanasia): Bệnh nhân không hề
bày tỏ mong muốn, cũng không hề đưa ra bất cứ bằng chứng nào cho thấy
mạng sống của người ấy cần phải được chấm dứt, nhưng việc này vẫn được
thực hiện trái ý chí của người bệnh. Khác với an tử không tự nguyện, ở an tử
trái nguyện vọng bệnh nhân tỉnh táo, có thể tự đưa ra quyết định, minh nhiên
từ chối, không đồng ý việc bị làm chết.
- Dựa trên tiêu chí cách thức thực hiện, an tử được chia thành an tử chủ
động (Active Euthanasia/Euthanasia by Action), an tử thụ động (Passive
12
Euthanasia/Euthanasia by Omission)
An tử chủ động (Active Euthanasia): Trường hợp có sự tác động của
người khác để giúp bệnh nhân chấm dứt cuộc sống một cách nhanh chóng. Ví
dụ: Bác sĩ trực tiếp gây tử vong theo yêu cầu của bệnh nhân bằng cách tiêm
thuốc… Đây được coi là cách thức hiệu quả nhất dù tình trạng bệnh nhân có
như thế nào. Hình thức này được hợp pháp hóa ở Netherlands và Australia.
An tử thụ động (Passive Euthanasia): Ngừng các biện pháp điều trị
đang áp dụng cho bệnh nhân để bệnh nhân chết đi. Ví dụ: Bác sĩ ngưng mọi
biện pháp kéo dài sự sống đối với bệnh nhân như rút ống dẫn, tắt máy trợ thở,
ngừng việc tiêm các chất hóa trị… Tuy nhiên, vẫn duy trì các biện pháp/thuốc
giảm đau. Như vậy, an tử thụ động phụ thuộc vào khá nhiều yếu tố, đặc biệt là
tình trạng bệnh nhân
Bên cạnh thuật ngữ an tử, ở nhiều quốc gia còn sử dụng thuật ngữ trợ
tử (physician-assisted suicide: tự tử với sự trợ giúp của bác sĩ).Nếu như an tử
là việc biết, trực tiếp hành động một cách có chủ đích đem đến cái chết nhẹ
nhàng cho một cá nhân thì trợ tử được định nghĩa là việc biết, hành động trực
tiếp một cách có chủ đích cung cấp phương tiện để cá nhân thực hiện việc tự
tử. Như vậy có thể thấy, điểm phân biệt lớn nhất giữa an tử và trợ tử là chủ
thể nắm giữ vai trò chủ đạo trong quá trình, hay chủ thể thực hiện toàn bộ
hành vi hoặc thực hiện hành vi cuối cùng. Có sự khác biệt như vậy nhưng nếu
xét cho cùng thì trợ tử là hình thức sơ khai của an tử, trong đó vai trò của bác
sĩ chưa được mở rộng. Ở hầu hết các nước đã thông qua luật an tử, hành vi trợ
tử cũng hợp pháp và dùng chung với nhau.
Theo một báo cáo năm 2010 tại Hà Lan tỷ lệ an tử chủ động là 2,8%
trong khi trợ tử là 0,1% trên tổng số người chết. Ở những vùng lãnh thổ mới
chỉ hợp pháp hóa hành vi trợ tử, an tử có thể bị coi là hành vi vượt quá thẩm
quyền và dẫn tới khả năng phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc trách nhiệm
nghề nghiệp cho người thực hiện [6].
1.2.2. Quyền an tử
Xuất phát từ khái niệm an tử, quyền an tử có thể được định nghĩa là
13
quyền nhân thân và là đặc quyền của những cá nhân rơi vào trạng thái bệnh lý
không có khả năng chữa trị, được quyết định kết thúc cuộc sống của mình với
sự hỗ trợ của chủ thể có thẩm quyền và tuân theo quy định chặt chẽ của
phápluật [6]
Tuy nhiên, một quyền được công nhận là quyền nhân thân chỉ khi
quyền đó được pháp luật ghi nhận một cách chính thức.Quyền an tử(hay
quyền được chết - right to die) trên thực tế chỉ được công nhận là quyền nhân
thân ở một số quốc gia hợp pháp hóa an tử. Theo quan điểm của các nhà lập
pháp và các nhà khoa học, công nhận quyền được chết là quyền nhân thân
nhưng chưa quy định trong Luật. Thực tế cho thấy có quy định hay không chỉ
là vấn đề về mặt thời gian: có phù hợp với hiện tại hay không và hệ thống
pháp luật có đồng bộ, thống nhất hay không. Khi chưa được công nhận về mặt
pháp luật, một người nếu thực hiện hành vi trợ giúp tự tử, giúp người bệnh ra
đi có thể quy vào một số tội như: tội giết người, tội giúp người khác tự sát…
Hiện nay, chưa có một định nghĩa cụ thể về quyền an tử. Tuy nhiên,
theo phân tích các quan điểm đồng tình và đạo luật một số quốc gia đã hợp
pháp hóa an tử cũng như quan điểm cá nhân, có thể hiểu: Quyền an tử là một
quyền nhân thân của những người đang phải chịu sự đau đớn về thể chất
hoặc tinh thần kéo dài và không thể chịu đựng được sau một tai nạn hay một
bệnh nan y không thể cứu chữa, và việc thực hiện quyền này phải tuân theo
quy định của pháp luật.
1.3. Đặc điểm và ý nghĩa của quyền an tử
1.3.1. Đặc điểm
- Quyền an tử là một quyền nhân thân
Quyền an tử gắn liền với một chủ thể nhất định và không thể chuyển
giao cho chủ thể khác. Điều này có nghĩa rằng bản thân chủ thể hưởng quyền
an tử họ không thể chuyển giao quyền này cho người khác và cũng không ai
có thể đại diện cho họ để thực hiện quyền này. Một cá nhân không thể áp đặt
quyền an tử lên một chủ thể nào khác ngoài chính bản thân mình, đơn giản
14
bởi sự sống của chủ thể đó không thuộc phạm vi có thể quyết định rằng chấm
dứt hay không của họ. Hơn nữa, quyền an tử cũng mang tính chất phi tài sản.
Quyền an tử không thể đem ra mua bán, cầm cố, thế chấp… đây là hệ quả của
tính chất không thể chuyển giao của quyền nhân thân, chủ thể khác không thể
đặt mình vào vị thế của có quyền để hưởng thụ quyền này.
- Quyền an tử là đặc quyền
Điều này không có nghĩa quyền an tử chỉ thuộc về một nhóm chủ thể cá
biệt trong xã hội, mà đặc biệt có nghĩa quyền an tử chỉ phát sinh khi chủ thể
hưởng thụquyền ở trong tình trạng đặc biệt, rơi vào trạng thái bệnh lý không
còn khả năng cứu chữa. Đây là đặc điểm quan trọng giúp phân biệt giữa hành
vi hưởng thụ quyền an tử và hành vi tự tử, cũng như phân biệt hành vi thực
hiện quyền an tử và hành vi trợ giúp, xúi giục người khác tự tử. Nếu như
quyền an tử và thực hiện quyền an tử chỉ áp dụng đối với những bệnh nhân
mắc bệnh nan y, không có hy vọng chữa trị và trong luật pháp một số quốc
gia còn quy định thêm rằng thời hạn sống không còn dài, thì tự tử và hành vi
xúi giục, trợ giúp người khác tự tử có thể được thực hiện bởi các chủ thể
không mắc bệnh ,vì thế bị coi là hành vi có hại cho xã hội và bị luật pháp
nhiều quốc gia quy định là tội hình sự.
- Quyền an tử là quyền thực hiện được khi có sự hỗ trợ của chủ thể có
thẩm quyền
Quyền an tử không giống như các quyền khác là chủ thể có thể tự do
hưởng thụ quyền bằng khả năng của mình. Một chủ thể khi hội tụ đủ các điều
kiện chỉ có thể hưởng thụ quyền thông qua sự trợ giúp của người khác. Sự trợ
giúp này có thể biểu hiện bằng hành vi hành động (tiêm thuốc gây chết người
trong an tử chủ động) hoặc không hành động (không tiếp tục các hỗ trợ y tế
trong an tử bị động). Ngay cả trong trường hợp trợ tử khi người bệnh tự thực
hiện việc đưa thuốc gây chết vào cơ thể hoặc uống thuốc gây chết, họ vẫn cần
đến sự trợ giúp của bác sĩ trong việc kê đơn và có được các loại thuốc mình
cần một cách hợp pháp. Mọi hành vi chấm dứt cuộc sống không có sự hỗ trợ
15
của chủ thể có thẩm quyền đều mang tính chất chủ quan, bộc phát. Ngoài ra,
chủ thể hỗ trợ cũng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Họ phải là
những bác sĩ có bằng cấp, đủ thẩm quyền thực hiện chứng nhận tình trạng của
bệnh nhân cũng như có đủ kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm để thực hiện an tử
trong trường hợp bệnh nhân không thể hoặc không muốn tự thực hiện.
- Mục đích của quyền an tử là giúp bệnh nhân được kết thúc cuộc sống
một cách nhanh chóng và an toàn theo mong muốn.
Đây chính là mục đích nhân đạo của an tử mà tất cả các quốc gia hướng
tới. An tử giúp cho những bệnh nhân trong tình trạng không thể cứu chữa
được ra đi thanh thản, không phải chịu đau đớn, sống những ngày dài chiến
đấu với bệnh tật. An tử là cách giải thoát hợp lý nhất trong trường hợp này.
- Quyền an tử là quyền được thực hiện theo quy định chặt chẽ của
phápluật.
Xuất phát từ tính chất nhân thân và đặc quyền, quyền an tử chỉ được
thực hiện khi đáp ứng đủ các điều kiện và theo quy trình chặt chẽ do pháp luật
các quốc gia quy định. Hiện nay, ở nhiều quốc gia, thủ tục để tiến hành việc
an tử cũng như để thụ hưởng quyền an tử hết sức chặt chẽ nhằm mục đích
tránh mọi trường hợp lạm dụng, bởi hậu quả của một vụ sai phạm là không
thể cứu chữa bằng mọi biện pháp. Việc không tuân thủ đúng theo các quy
định này có thể làm phát sinh trách nhiệm hình sự, dân sự hoặc kỷ luật nghề
nghiệp đối với người thực hiện an tử cho bệnh nhân.
- Quyền này có thể được yêu cầu bởi chính người đó hoặc người đại diện
Như đã phân tích, quyền an tử phải xuất phát từ sự tự nguyện của người
yêu cầu: tự nguyện được thực hiện an tử khi còn tỉnh táo, tự nguyện chỉ định
người đại diện cho mình trong trường hợp rơi vào tình trạng không biểu lộ
được ý chí (người này sẽ có quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến việc
chữa bệnh của bệnh nhân).
- Chủ thể của quyền này là người đang chịu sự đau đớn kéo dài do bệnh
tật hoặc tai nạn
Không phải ai cũng là đối tượng của quyền an tử. An tử chỉ được áp
16
dụng với một số đối tượng đặc thù: bệnh nhân đang trong tình trạng đau đớn
cả về thể chất lẫn tinh thần, không thể cứu chữa được, do tai nạn hoặc mắc
bệnh nan y, vô phương cứu chữa.
1.3.2. Ý nghĩa
1.3.2.1. Ý nghĩa pháp lý
Quyền an tử được công nhận là sự khẳng định rằng pháp luật tôn trọng
giá trị tự do và quyền tự quyết của con người. Pháp luật các quốc gia, khu vực
và quốc tế ngày càng đề cao các giá trị này, trong khi quyết định về giá trị
cuộc sống của chính bản thân mình lại là quyết định căn bản và gắn liền với
mỗi chủ thể nhất định.
Quyền an tử sẽ là công cụ pháp lý giúp cho việc quản lý hoạt động an
tử. Vì bị cấm đoán hoặc không được cho phép nên những người có nguyện
vọng được hưởng thụ quyền an tử cũng như những bác sĩ có ý định thực hiện
an tử cho người bệnh luôn phải sống một cuộc sống ngầm với những hành vi
mà họ cố tình che giấu không để cho người khác biết. Công nhận quyền an tử
sẽ góp phần thay đổi cách nhìn của xã hội đối với những đối tượng này từ đó
họ sẽ không muốn che giấu và công khai hóa hành vi của mình. Sự công khai
này là điều kiện thuận lợi để nhà nước có thể quản lý một cách hiệu quả.
Việc công nhận quyền an tử sẽ giải quyết được tình trạng pháp lý bế tắc
cũng như nhu cầu được an tử trong thực tiễn. Hợp pháp hóa an tử giúp cho
việc quản lý hoạt động này được công khai, minh bạch, dễ dàng mà còn hạn
chế được trường hợp sử dụng an tử vào mục đích khác thay vì nhân đạo.
1.3.2.2. Ý nghĩa xã hội
Sự không công nhận quyền an tử đã và đang gây ra nhiều tranh cãi
cũng như bức xúc trong cộng đồng những người hành nghề y, những người
hành nghề luật cũng như những bệnh nhân mắc bệnh nan y. Thời kỳ trước
đây, những bức xúc đó còn chưa đáng kể vì nhiều nguyên nhân: số lượng
người có nhu cầu hưởng thụ quyền còn thấp, tư tưởng tôn giáo mang đậm
thành kiến với hành vi tự nguyện chấm dứt cuộc sống. Trải qua thời gian, số
17
lượng người có mong muốn hưởng thụ quyền đã tăng lên, hơn nữa, sự giao
lưu văn hóa, tư tưởng mang đến sự thay đổi mạnh mẽ trong nhận thức của xã
hội, nhiều vấn đề trước đây bị cho là trái với thuần phong đã được nhìn nhận
thoáng hơn. Vấn đề an tử cũng vậy, với sự đồng tình, ủng hộ ngày càng lớn,
những người mong muốn hưởng thụ quyền an tử chắc chắn sẽ đấu tranh đòi
quyền lợi cho mình. Như vậy, các quốc gia cần phải giải quyết vấn đề này kịp
thời để đảm bảo cho sự ổn định, và giải pháp để giải quyết vấn đề này là công
nhận quyền an tử.
Việc công nhận quyền an tử có thể giảm những tác động tiêu cực có thể
gây ảnh hưởng không nhỏ đối với xã hội. Công nhận quyền an tử có ý nghĩa
xã hội rất lớn với những mục đích xã hội tốt đẹp. Khi sự sống của bệnh nhân
không còn được được đảm bảo (mắc bệnh nan y, đang phải chịu đựng đau
đớn kéo dài…) thì an tử là giải pháp hợp lý nhất. Điều này không chỉ tốt cho
bệnh nhân mà còn tốt cho gia đình, xã hội. Người bệnh ra đi thanh thản, chấm
dứt những ngày tháng đau đớn, mệt mỏi chiến đấu với bệnh tật. Gia đình bệnh
nhân cũng không phải tốn kém về chi phí cũng như công sức không đáng có.
Xã hội cũng tránh được những tranh luận gay gắt về vấn đề này.
1.4. Một số quan điểm về hợp pháp hóa quyền an tử
Những quan điểm về Quyền an tử luôn gây ra sự tranh cãi gay gắt vì
vấn đề này không chỉ liên quan đến y học mà còn liên quan đến nhiều lĩnh
vực khác như: Luật pháp, tôn giáo, phong tục, tập quán, đạo đức xã hội…
1.4.1. Những lập luận phản đối quyền an tử
Người được cho là chống đối trợ tử đầu tiên trong lịch sử y học là
Hippocrates, ông tổ ngành y phương Tây.Trong lời thề Hippocrates, ông kêu
gọi thầy thuốc “không bao giờ cho ai một liều thuốc độc dù người đó yêu cầu
và không bao giờ gợi ý về điều đó”.Trong Luật Y đức (Code de Déontologie)
của Pháp, điều 38 quy định thầy thuốc không có quyền cố tình gây nên cái
chết. Tuy nhiên, lý do lớn nhất là ảnh hưởng của tôn giáo thần khải tin rằng sự
sống có tính chất thiêng liêng do thượng đế ban cho con người, chỉ có thượng
đế mới có quyền lấy đi sự sống. Chính niềm tin này làm rất nhiều người lên
18
án trợ tử, xem trợ tử là giết người [4].
An tử thường bị phản đối trong mọi nền luân lý tôn giáo lớn, như Phật
giáo và điển hình là Công giáo Rôma phản đối mọi hình thức an tử. Trong
giới luật của Phật giáo, đức hiếu sinh luôn được đề cao, do vậy tự mình sát
hại, bảo người khác sát hại, khen ngợi hay tán đồng sự sát hại đều phạm trọng
tội. Đối với giáo pháp Phật giáo, chết không phải là chấm dứt, và đau khổ sẽ
không chấm dứt sau khi chết, mà vẫn tiếp tục cho đến khi nào giải được tất
cả Ác nghiệp, người bệnh dù tự sát vẫn phải tiếp tục chịu đau đớn
trong kiếp sau chứ không thể nào trốn tránh được. Tự sát cũng là một loại Ác
nghiệp, việc tự giết mình - hay giúp người khác tự sát - không thể giúp trả cho
hết Ác nghiệp, mà chỉ sinh ra Ác nghiệp mới cho bản thân và xã hội mà thôi.
Tự sát tạo Ác nghiệp cho mình, giúp tự sát tạo Ác nghiệp cho xã hội, Ác
nghiệp cứ chất chồng thì sẽ đến ngày chính xã hội phải gặt lấy Ác quả: cha
mẹ muốn ông bà bệnh tật phải tự sát để đỡ "gánh nặng", rồi đến đời con cháu
cũng sẽ học theo mà làm vậy với cha mẹ, tất cả chỉ muốn đưa người thân
bệnh tật vào cửa tử để đỡ tốn công chăm sóc. Vì lẽ Nhân - Quả đó, Đức Phật
dạy: Nếu một người bệnh đang chờ chết, nếu có một cơ hội nào để cho họ
hoặc người thân có những ý nghĩ an lành và đạo đức, thì vẫn phải cố cho họ
sống thêm dù chỉ thêm 5 phút, bởi 5 phút đó đủ để vãng sinh một vong linh và
gieo thêm mầm Thiện nghiệp cho xã hội.
- Có thể xảy hệ quả “trượt dốc” (slippery slope) – tức an tử ban đầu chỉ
được coi là hợp pháp cho người bị bệnh nan y, sau đó luật được thay đổi cho
phép an tử cả trong những trường hợp khác, kể cả khi không có sự tự nguyện.
- Việc công nhận quyền an tử sẽ làm xói mòn quyền cơ bản được sống
Hồng Y Javier Lozano Barragan, người đứng đầu ủy Ban y tế Vaticang
tuyên bố hành động gỡ bỏ ống truyền đạm tương đương với hành động giết
người trong vụ T.Schiavo (Mỹ): “Cuộc sống con người không phụ thuộc vào
cá nhân mà phụ thuộc đấng sáng tạo”. Vì thế, chúng ta có điều răn thứ năm
không cho phép giết người. Việc khiến người bệnh chết nhẹ nhàng chính là
19
hành động giết người. Bản chất của nền văn minh là người mạnh có nghĩa vụ
bảo vệ kẻ yếu. Trong những trường hợp có các nghi ngờ và câu hỏi nghiêm
trọng, cơ sở nhận định của chúng ta cần hướng đến sự ủng hộ cuộc sống”
Theo bbc.co.uk, Trích bài “Bệnh nhân Terri Schiavo qua đời”, 2005
Việc cho phép trợ tử có thể làm "bình thường hóa" suy nghĩ của xã hội
về nạn tự sát (rằng ai cũng có thể chọn tự sát như một biện pháp giải quyết bế
tắc cá nhân mà không cần có nghị lực vươn lên, không cần quan tâm đến nỗi
đau của người thân), từ đó vô tình cổ súy nạn tự sát trong xã hội. Nhiều người
dù không bị bệnh nan y nhưng chỉ cần cảm thấy bế tắc trong cuộc sống, tình
cảm... đã vội đi tìm cách tự sát, khiến tỷ lệ tự sát trong xã hội tăng lên (điều
này càng dễ xảy ra ở những nước nghèo có hệ thống an sinh xã hội kém).
- Nếu có Luật An tử, nhiều người bệnh sẽ giảm ý chí, mất niềm tin vào
cuộc sống.
Việc thi hành trợ tử sẽ dẫn tới nhiều bệnh nhân không còn tinh thần đấu
tranh với bệnh tật, nhiều người sẽ chỉ muốn chết sau một vài nỗi đau đớn (dù
cơ hội cứu chữa cho họ vẫn còn). Việc chữa trị do đó sẽ sụt giảm hiệu quả do
tinh thần người bệnh bị buông xuôi. Nhiều trường hợp người bệnh có thể hồi
phục một cách kỳ diệu ngoài dự đoán của y học (ví dụ như đột ngột tỉnh dậy
sau nhiều năm hôn mê) hoặc bệnh đó sẽ được tìm ra cách chữa trong tương lai
gần, nếu áp dụng quyền được chết thì bệnh nhân không còn cơ hội chữa trị
sau này, đó sẽ là vô tình giết hại một mạng người.
- Cho rằng cái chết êm ả là giết người bởi chức năng của bác sỹ là phải
cứu người. Tức là xung đột với quy tắc chỉ cứu người chứ không tước bỏ tính
mạng con người của bác sĩ và nhân viên y tế, có thể phá hỏng những truyền
thống của ngành y.
Một số bác sĩ thiếu y đức sẽ dùng quyền được chết để "loại bỏ" những
bệnh nhân không có tiền chi trả viện phí hoặc những bệnh nhân từng có thù
oán với họ.Ngược lại, nhiều bác sĩ sẽ không bao giờ dám trợ tử bệnh nhân vì
20
lương tâm nghề nghiệp hoặc sợ bị người thân bệnh nhân trả thù.
PGS Nguyễn Tiến Dũng, Trưởng khoa Nhi, Bệnh Viện Bạch Mai nói:
“Không có cái gì được gọi là cái chết nhân đạo; chết là tình huống xấu
nhất. Tại sao mình lại nói để họ chết đi một cách thanh thản, nhẹ
nhàng.Thay vì để người ta chết tại sao không nghĩ đến việc giảm nỗi
đau cho họ. Mỗi con người đều có số phận nếu đến lúc số phận của họ
chưa hết thì tại sao lại can thiệp để họ chết… Một số trường hợp gia
đình thấy con khó cứu chữa, muốn xin cho con về chết; bệnh viện
không thuyết phục được thì yêu cầu gia đình tự rút ống thở của
con.Nhưng 10 gia đình thì hầu hết đều không dám.Họ đã không dám,
bác sỹ lại càng không dám.Nhiều bệnh nhân tưởng chết rồi nhưng cuối
cùng vẫn cứu được” [8].
- Nếu thông qua quyền an tử thì sẽ bị lạm dụng để thực hiện tội ác vô
nhân đạo. Tình trạng sẽ lớn hơn ở các nước có hệ thống pháp luật lỏng lẻo,
không kiểm soát được tình hình phạm tội
Giả sử điều này được thông qua thì rất có thể người ta sẽ lợi dụng, giết
người thì không truy cứu được. Ví dụ như người ta có thể ép người bệnh bằng
một hình thức nào đấy viết, hoặc đồng ý theo nội dung như, "do tôi lâu ngày,
không có khả năng hồi phục, đồng thời làm ảnh hưởng đến những người thân
nên muốn tự nguyện được nhận cái chết êm ái" [2], dùng vũ lực hoặc tình
trạng không tỉnh táo của bệnh nhân để ép họ ký vào giấy đề nghị an tử. Hay
một số người bệnh sẽ tự chọn cái chết (dù bệnh có thể chữa khỏi) để trốn
tránh những khoản nợ hoặc để gian lận bảo hiểm. Nghiêm trọng hơn, có thể
xảy ra trường hợp Con cháu bệnh nhân sẽ thông đồng với bác sĩ để sửa bệnh
án, hoặc cưỡng ép ông bà, cha mẹ bị bệnh ký vào giấy an tử nhằm thi
hành "án tử" với ông bà, cha mẹ mình để trốn tránh nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng hoặc để tranh giành tài sản. Trong trường hợp này, Luật An tử lại là
công cụ tiếp tay cho hành vi giết người có chủ đích, cổ súy hành vi và tư
tưởng bất hiếu trong xã hội.
- Gây ra hậu quả về y tế: Có những trường hợp bác sĩ chẩn đoán sai tình
21
trạng bệnh, nếu áp dụng quyền được chết thì cũng sẽ là vô tình giết người.
- Để lại hậu quả về tâm lý, đạo đức và xã hội
Người trực tiếp tiến hành an tử cho bệnh nhân sẽ phải gánh chịu nhiều
di chứng tâm lý, vì hành động của họ luôn là sự tước đoạt sinh mạng một con
người (dù rằng người đó có thể không sống được bao lâu nữa). Nếu có người
thân bệnh nhân không đồng ý việc trợ tử, người tiến hành an tử rất có thể sẽ bị
trở thành mục tiêu trả thù.
1.4.2. Những lập luận ủng hộ quyền an tử
Theo Vnexpress.net ngày 01/09/2001, trích bài phát biểu của Paul Tully,
Tổng thư ký Hiệp hội Bảo vệ Thai nhi Anh Quốc:
Theo chủ quan của người viết, quyền được chết không làm xói mòn
quyền cơ bản là được sống.Quyền được chết không chỉ liên quan đến
bệnh nhân đó mà còn cả gia đình và xã hội.Người ở giai đoạn cuối của
bệnh chịu nhiều đau đớn nếu có sống cũng chỉ thêm khổ, thậm chí nhiều
người không biết mình sướng hay khổ nữa.Cho nên nếu họ không muốn
gây thêm tốn kém không cần thiết cho gia đình, xã hội thì hãy nên tôn
trọng họ.Hơn nữa, mục đích của quyền được chết là làm cho họ không
phải sống đau đớn kéo dài, đó là mục đích nhân đạo.Họ không chối bỏ
quyền được sống mà vì họ không còn đủ điều kiện đảm bảo sự sống.Điều
này khác hẳn với người có điều kiện để sống, bị bệnh có thể cứu chữa
được nhưng lại muốn chết, đó mới là trường hợp nên lên án.
- Công nhận quyền an tử hướng đến mục đích tốt đẹp, nhân đạo bởi nó
giải phóng nỗi đau khổ cùng cực của con người, giúp những bệnh nhân ở
trong tình trạng đau đớn kéo dài, bệnh nan y vô phương cứu chữa ở giai đoạn
cuối được “ra đi” thanh thản. An tử là hành vi từ bi, nhân ái, đáp ứng được
nguyện vọng trốn thoát đau khổ của nhiều người bệnh nặng vô phương cứu
chữa. Hành vi này còn được hiểu là "giết vì xót thương". Công nhận quyền an
tử sẽ chấm dứt nỗi đau đớn cho bệnh nhân cũng đồng nghĩa với việc giảm bớt
gánh nặng vật chất cũng như tinh thần cho gia đình họ, từ đó, tạo sự ổn định
22
cho xã hội. Việc kết thúc mạng sống như một đặc ân, là sự giải thoát và là lựa
chọn của họ, thì người thân, bác sĩ, chúng ta và pháp luật cần tôn trọng điều
này. Chính vì thế, quy định quyền an tử của một người là cần thiết, vì sống
hay chết phải được thực hiện bằng ý chí của chính người đó, không một ai có
quyền định đoạt thay họ.
- Việc pháp luật công nhận quyền an tử sẽ giải tỏa nỗi bức xúc của các
bác sỹ trong hoàn cảnh bệnh nhân đang phải chịu đau đớn kéo dài. Không có
nỗi đau đớn nào bằng nỗi đau của người thân khi chứng kiến người thân của
mình phải sống quằn quại mà không thể giúp đỡ. Không có nỗi đau nào bằng
nỗi đau của người bác sỹ khi nhìn thấy bệnh nhân của mình đau đớn mà
không có cách nào cứu giúp.
GS.TS Đỗ Kim Sơn, nguyên giám đốc Bệnh Viện Việt Đức chia sẻ:
trong nhiều năm qua đã từng phải chứng kiến rất nhiều bệnh nhân
mắc các chứng bệnh nan y ở giai đoạn mà sự sống chỉ còn là vô vọng,
hay những bệnh nhân chết não do tai nạn giao thông không thể nào
vớt vát nổi, chính bệnh nhân hoặc gia đình bệnh nhân đã đề đạt với
bác sỹ nguyện vọng được chết nhưng không thầy thuốc nào dám làm.
Theo GS Sơn, nếu đưa quyền được chết vào Luật phải có tiêu chí xác
định rõ ràng đâu là trường hợp không còn hy vọng sống về mặt khoa
học thì mới cho phép, còn không, dù với bất cứ lý do nào cũng không
được phép mà phải ngăn cản, giúp đỡ họ. Do đó, Luật phải quy định
thật cẩn thận, chặt chẽ nếu không sẽ vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
- Tự do lựa chọn cuộc sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt, thể hiện quyền
tự quyết cá nhân: mỗi người có quyền định đoạt thân xác và mạng sống của
mình, kể cả việc kết liễu nó. Do đó, mỗi người phải được trao cho sự tự do để
thực hiện quyền tự quyết này. Theo sự tôn trọng quyền tự quyết, con người phải
có quyền định đoạt sự sống và cái chết của mình, họ phải được đủ khả năng để
kết liễu sự sống khi nào họ muốn, chặn đứng sự đau khổ không cần thiết.
- Một điểm nữa có thể quan tâm đó là, nếu không công nhận quyền an tử,
23
vấn đề này sẽ vẫn mãi bế tắc bởi liên quan đến yếu tố chính trị, tôn giáo…
Những đề nghị, yêu cầu xin được chết dai dẳng kéo theo cả Tòa án và chính
quyền vào cuộc, không ít trường hợp vấn đề này được sử dụng vào mục đích
chính trị. Chẳng hạn như vụ Terri Schiavo ở Mỹ đã kéo cả Tòa án tối cao
bang Florida, Tòa án Liên Bang Mỹ vào cuộc và cả Quốc hội Mỹ vào cuộc.
Diễn biến: Tháng 2/1990: Terri Schiavo bị tổn thương não sau khi
ngất tại nhà; tháng 5/1998: Michael Schiavo gửi đơn xin rút ống
truyền dinh dưỡng cho vợ, gây nên một cuộc chiến pháp lý; tháng
2/2000: Toà án cho phép rút ống; tháng 10/2003: Hạ viện Florida
thông qua “Luật Terri”, cho phép thống đốc ra lệnh ngừng truyền
thức ăn cho Schiavo; tháng 9/2004: Toà án tối cao Florida bác bỏ
luật này; tháng 12/2004: Vụ việc đưa lên Toà án Tối cao Mỹ; tháng
1/2005: Toà án bác đơn; tháng 3/2005: Toà án Florida một lần nữa
cho phép rút ống; Ngày 20/3/2005: Quốc hội thông qua luật khẩn cấp
cho phép cha mẹ Schiavo khiếu nại để nối ống truyền; ngày
22/3/2005: Thẩm phán liên bang bác đơn của cha mẹ Schiavo; ngày
23/3/2005: Toà phúc thẩm ủng hộ phán quyết của toà án liên bang;
ngày 24/3/2005: Toà án Tối cao từ chối xem xét đơn khiếu nại [10].
Như vậy, những lý do phổ biến để muốn hợp pháp hóa an tử có thể được
phân loại là: tìm kiếm sự từ bi của đau đớn và đau khổ, bảo vệ các bác sĩ cư
xử một cách từ bi, tôn trọng nhân quyền và giúp đỡ trong việc ngăn ngừa các
chi phí y tế.
Nhìn chung, mỗi luồng quan điểm nêu trên đều có những yếu tố hợp lý,
để đạt được sự đồng thuận với vấn đề an tử gần như là điều không thể ở mọi
xã hội. Quyết định cấm hay hợp pháp hóa an tử là một quá trình cần nhiều thời
gian và chịu tác động của nhiều yếu tố như trình độ nhận thức, kinh tế, khoa
học kĩ thuật, truyền thống văn hóa,...Tuy nhiên, xu hướng đang diễn ra trên
24
thế giới là an tử ngày càng được nhiều quốc gia thừa nhận hơn.
CHƯƠNG 2: PHÁP LUẬT VỀ QUYỀN AN TỬ TRÊN THẾ GIỚI
2.1. Pháp luật nhân quyền quốc tế về quyền an tử
Trong luật nhân quyền quốc tế (NQQT), quyền an tử là một chủ đề còn
mới, chưa được thảo luận nhiềuvà chưa từng được quy định trong các văn bản
pháp luật nhân quyền quốc tế. Đề cập đến mối quan hệ giữa quyền an tử và
luật nhân quyền quốc tế tức là ta xem xét đến việc liệu quyền an tử có đi ngược
lại các quyền đã được pháp luật nhân quyền quốc tế thừa nhận hay không.Thực
tế cho thấy, quyền an tử vẫn tìm được một chỗ đứng thích hợp trong hệ thống
nhân quyền, không những không mâu thuẫn với các quyền tự nhiên cơ bản, mà
còn phù hợp và phát triển trên nền tảng các quyềnnày, bởi lẽ:
Khi nhắc đến quyền an tử không thể không nhắc đến quyền sống, trong
hệ thống quyền con người, quyền sống có mối quan hệ gần gũi nhất với quyền
an tử. Quyền sống (the right to life) nói riêng và nhân quyền nói chung vốn là
những quyền tự nhiên cơ bản của bất kỳ một công dân, là mục tiêu quan trọng
mà các nhà lập pháp hướng đến. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con
người (UDHR) được Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua ngày 10/12/1948
đã khẳng định “mọi người đều có quyền sống, quyền tự do và an toàn cá
nhân” (Điều 3).Khoản 1 Điều 6 Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính
trị (ICCPR) cụ thể hóa Điều 3 UDHR, trong đóquy định: “Mọi người đều có
quyền cố hữu (inherent) là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ.
Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện.”
Trong mối quan hệ giữa quyền an tử và quyền sống, trước hết cần trả
lời được câu hỏi quyền cố hữu là gì, nó mang tính tùy nghi (optional) hay tính
bắt buộc (mandatory)?Nếu được coi là mang tính tùy nghi, chủ thể của quyền
sống được tự do quyết định tức là có quyền lựa chọn hưởng thụ hoặc từ bỏ
quyền. Trong trường hợp này, quyền an tử sẽ có thể được chấp nhận và không
đi ngược lại với luật nhân quyền quốc tế. Ngược lại, nếu quyền sống được coi
25
là mang tính bắt buộc, chủ thể của quyền sẽ không có lựa chọn nào khác ngoài
việc hưởng thụ quyền. Như vậy, quyền an tử sẽ đi ngược lại với quyền sống
trong trường hợp này. Sự phân định đúng hay sai, hợp lý hay không hợp lý về
tính “tùy nghi” và tính “bắt buộc” của quyền sống là không dễ dàng, vì vậy
cuộc tranh cãi về tính chất của quyền sống vẫn chưa có hồi kết. Tuy nhiên,
quyền sống với ý nghĩa là quyền tự nhiên và tối cao của con người thì không
nên coi việc hưởng thụ quyền là một nghĩa vụ, tức là quyền sống nên được coi
là quyền tùy nghi, việc tự quyết định, lựa chọn sống hay không tiếp tục sống
đều là hưởng thụ quyền. Và với cách hiểu này, quyền sống và quyền an tử
không hề mâu thuẫn nhau.
Quyền thứ hai cần được xem xét trong mối quan hệ với quyền an tử là
quyền không bị tra tấn và đối xử nhân đạo(freedom from torture). Được ghi
nhận lần đầu tiên tại Điều 5 Tuyên ngôn toàn thế giới về nhân quyền
(UDHR), được tái khẳng định tại Điều 7 Công ước quốc tế về các quyền dân
sự, chính trị (ICCPR), theo đó:
“Không ai có thể bị tra tấn, đối xử hoặc trừng phạt một cách tàn ác, vô
nhân đạo hoặc hạ thấp nhân phẩm. Đặc biệt, không ai có thể bị sử dụng để
làm thí nghiệm y học hoặc khoa học mà không có sự đồng ý tự nguyện của
người đó”.
Theo Luật nhân quyền quốc tế, một trong những yếu tố để xác định tra
tấn và những hành vi đối xử tồi tệ khác đó là những “đau đớn hoặc đau khổ
nghiêm trọng về thể xác hay tinh thần”. Trong an tử, có ít nhất hai đối tượng
có liên quan đó là bác sĩ (người chấp nhận và thực hiện an tử) và bệnh nhân
(người đưa ra yêu cầu và được an tử); hai câu hỏi đặt ra trong mối quan hệ với
quyền không bị tra tấn đó là : (i) liệu việc duy trì sự sống của những bệnh
nhân không có khả năng cứu chữa và phải chịu những nỗi đau cùng cực có là
một sự đối xử tồi tệ với họ không? (ii) liệu các bác sĩ có thể bị coi là làm trái
với đạo đức ngành y và sẽ phải chịu những ảnh hưởng tâm lý bởi chính họ đã
26
trực tiếp hoặc gián tiếp lấy đi mạng sống của người khác hay không?
Câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất sẽ còn tùy thuộc vào từng trường hợp
cụ thể (ví dụ: bệnh nhân chết não hoặc sống thực vật thì khó có thể cho rằng
họ đang chịu những đau đớn cùng cực). Tuy nhiên, một trong những tranh
luận ủng hộ an tử đó là để giải phóng nỗi đau cùng cực của bệnh nhânvề thể
chất hoặc tinh thần và không thể chịu đưng được, thì an tử lại là một cách đối
xử nhân đạo hơn với bệnh nhân. Còn ở câu hỏi thứ hai, câu trả lời có thể rõ
ràng hơn là không, bởi bác sĩ với năng lực chuyên môn của mình sẽ chẩn
đoán chính xác tình hình hiện tại của bệnh nhân là không thể cứu chữa nữa,
nhiều đau đớn kéo dài, sẽ biết điều gì là tốt hơn với bệnh nhân và bác sĩ cũng
có quyền từ chối thực hiện yêu cầu an tử của bệnh nhân nếu không muốn (vì
trái đạo đức y học: nguyên tắc chỉ cứu người chứ không tước bỏ tính mạng
con người của bác sĩ). Từ những phân tích trên cho thấy, an tử góp phần bảo
đảm hơn là vi phạm quyền không bị tra tấn.
Sự hình thành quyền an tử và phân loại quyền an tửđều dựa trên sự tự
do ý chí của con người. Việc không tôn trọng quyền tự quyết của con người,
kể cả trong trường hợp quyết định về chấm dứt cuộc sống cũng có thể coi là
hành vi hạ thấp nhân phẩm. Hơn nữa, việc kéo dài sự sống của người bệnh
không còn khả năng cứu chữa, đang phải chịu đau đớn kéo dài, trong nhiều
trường hợp là tra tấn, vô nhân đạo với họ. Như vậy quyền không bị tra tấn và
đối xử nhân đạo không những không mâu thuẫn với quyền an tử mà còn là
căn cứ để hợp pháp hóa quyền an tử trong thực tế.
Quyền thứ hai có mối liên hệ với quyền an tử đó là quyền riêng tư quy
định tại Điều 17 ICCPR:
“Không ai bị can thiệp một cách tùy tiện hoặc bất hợp pháp vào đời
sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xâm phạm bất hợp pháp đến
danh dự và uy tín”.
“Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo vệ chống lại những can
thiệp hoặc xâm phạm như vậy”
Xét về mặt xã hội và tâm lý thì đời sống riêng tư của một cá nhân là sự
27
lựa chọn có thể có sai lầm và hợp với thói quen, sự trải nghiệm, rèn luyện và
nhận thức về cuộc sống hiện thực của cá nhân như một chức năng, như một
ước vọng hay một nhu cầu đơn thuần về tinh thần của cá nhân. Sự tự mình,
cho mình và chỉ riêng mình với mục đích và quan niệm sống của cá nhân tồn
tại khách quan trong xã hội hiện đại và được tôn trọng, bảo vệ bằng pháp luật.
Xét về mặt quan hệ pháp lý, quyền về đời sống riêng tư của cá nhân là
quyền do luật định. Việc thực hiện quyền này và mức độ thực hiện đến đâu là
do chính cá nhân định đoạt bằng hành vi của mình, vì mình, cho riêng mình
và tự do hưởng dụng những lợi ích nào đó cho riêng mình, chỉ là của mình và
không ai được xâm phạm.
Như vậy, quyền riêng tư khẳng định rằng: khả năng quyết định chấm
dứt cuộc sống của người bệnh, nghĩa vụ tôn trọng quyết định này của các chủ
thể khác. Bất kì sự cấm đoán nào cũng có thể được coi là sự can thiệp hoặc
xâm phạm.
Ủy ban Nhân quyền (HRC – cơ quan giám sát thực thi Công ước quốc
tế về các quyền dân sự và chính trị – ICCPR) cũng chỉ mới đề cập đến quyền
này một lần trong Nhận xét kết luận về báo cáo của Hà Lan năm 2001 - thời
điểm quốc gia này thông qua đạo luật về an tử. Trong Nhận xét này, HRC cho
rằng an tử tự nguyện chỉ nên được phép trong những tình huống hãn hữu nhất
mà mọi điều kiện về thủ tục và nội dung được đảm bảo, trong đó bao gồm cần
phải thể hiện được ý chí rõ ràng của bệnh nhân. Tuy nhiên, HRC không đồng
tình với các quy định về việc chấp thuận chấm dứt cuộc sống của trẻ em, bởi
cho rằng trẻ em chưa đủ trưởng thành để bày tỏ ý chí về một vấn đề quan
trọng như vậy với cuộc sống của mình.
Cần phân biệt an tử với việc tước đi tính mạng của cá nhân mà không
vi phạm LNQQT. Nhìn chung, theo pháp luật quốc tế và pháp luật của các
quốc gia, có 3 trường hợp mà tính mạng của cá nhân có thể bị tước đi “hợp
pháp”, đó là: (i) hình phạt tử hình; (ii) trong xung đột vũ trang; và (iii) phòng
vệ chính đáng. Trong các trường hợp này, mục đích của việc tước đi mạng
sống của nạn nhân được coi là “cần thiết” để bảo vệ cá nhân khác, cộng đồng
28
và xã hội; và thuật ngữ “bị tước” cho thấy nó không phụ thuộc vào ý chí của
nạn nhân. Do đó, quyền an tử (thể hiện ý chí của bệnh nhân, vì mục đích nhân
đạo đối với bệnh nhân) hoàn toàn khác biệt với khía cạnh “không ai có thể bị
tước mạng sống một cách tùy tiện” của quyền sống [5].
Như vậy, nhìn chung an tử không đi ngược lại với LNQQT, tuy nhiên,
để quyền an tử được thừa nhận một cách rộng rãi ở các quốc gia là điều tương
đối khó. Hiện nay, những tranh luận về an tử có xu hướng diễn ra chủ yếu ở
khu vực Bắc Mỹ, châu Âu và Úc hơn là ở châu Á, châu Phi, Nam Mỹ, và
Trung Đông, mặc dù vẫn có những ngoại lệ trong xu hướng này. Ở châu Âu,
nơi mà luôn đi đầu trong lĩnh vực nhân quyền, trong Khuyến nghị số 1418
của Nghị viện Hội đồng châu Âu năm 1999 nêu rõ Ủy ban Bộ trưởng khuyến
khích các nước thành viên của Hội đồng Châu Âu tôn trọng và bảo vệ nhân
phẩm của những người bệnh nan y hoặc sắp chết theo mọi khía cạnh:
Bằng việc công nhận và bảo vệ quyền của những người bệnh nan y
hoặc sắp chết đối với việc chăm sóc giảm nhẹ toàn diện, đồng thời vẫn thực
hiện các biện pháp cần thiết
Bảo đảm rằng, trừ khi người bệnh lựa chọn cách khác, một người bị
bệnh nan y hoặc sắp chết sẽ được nhận đầy đủ các biện pháp chăm sóc để làm
giảm sự đau đớn, ngay cả khi các biện pháp này có thể gây ra tác dụng phụ làm
rút ngắn cuộc sống của họ.
Nội dung khuyến nghị này cho thấy ý chí của bệnh nhân là rất quan
trọng, và nó cũng hàm ý rằng việc hỗ trợ bệnh nhân ngừng sử dụng các thiết
bị điều trị duy trì sự sống nếu bệnh nhân có mong muốn là không vi phạm
29
pháp luật.
2.2. Quy định pháp luật về quyền an tử của một số quốc gia
2.2.1. Các quốc gia đã hợp pháp hóa quyền an tử
Hình 2.1. Bản đồ các quốc gia/vùng lãnh thổ đã hợp pháp hóa an tử và trợ tử
tính đến 2014 [23]
Hà Lan:
Thượng viện Hà Lan thông qua đạo luật Luật yêu cầu chấm dứt sự sống
và Trợ tử ngày 10/4/2001 và chính thức có hiệu lực ngày 01/04/2002. Trước
đó, Hạ viện bỏ phiếu thông qua vào tháng 11/2000 với 104 phiếu ủng hộ và
40 phiếu chống. Trong năm 2000, tại Hà Lan, có 2.113 ca "chết êm ả" được
chính thức ghi nhận, trong đó 1.893 ca liên quan tới bệnh nhân ung thư giai
đoạn cuối [14]. Ở Hà Lan, Luật “cái chết êm ả” đã được chấp thuận sau một
cuộc tranh cãi kéo dài nhiều năm. Trên thực tế, luật chỉ quy tắc hóa một hành
vi đã được chấp thuận từ năm 1997 với một số điều kiện nhất định, trong đó
quan trọng hơn cả là bệnh nhân phải chịu đựng đau đớn tột cùng và bệnh của
họ là vô phương cứu chữa.
Theo quy định của luật, bác sĩ có thể thực hiện "cái chết êm ả" mà
không bị truy tố nếu tuân thủ một số "quy định tối thiểu" sau:
(1) Bệnh nhân phải là người mắc những bệnh vô phương cứu chữa, không
30
thể chịu đựng nổi.
(2) Bác sĩ phải tham khảo ý kiến của một đồng nghiệp độc lập trước khi
thực hiện động thái này.
(3) Hồ sơ sau đó được chuyển tới hội đồng gồm một luật sư, một bác sĩ và
một chuyên gia đạo đức học. Hội đồng có nhiệm vụ kiểm tra việc tuân
thủ các quy định tối thiểu.
(4) Nếu những quy định này không được tuân thủ, hồ sơ được chuyển tới
tòa án và bác sĩ sẽ bị truy tố.
Tiếp theo đó, trong năm 2006, Hà Lan còn cho phép an tử đổi với trẻ
em mắc bệnh nặng không thể cứu chữa. Bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi cũng có
quyền được "chết êm ả" nếu có sự đồng ý của cha mẹ. Đối với trẻ trên 16
tuổi, không cần phải có ý kiến của gia đình, có thể yêu cầu và được an tử hoặc
trợ tử
Có thể thấy, Đạo luật này hợp pháp hóa an tử và trợ tử trong những
trường hợp và hoàn cảnh rất đặc biệt và phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i)
nỗi đau của bệnh nhân là không thể chịu đựng được và không có triển vọng
cải thiện; (ii) yêu cầu an tử của bệnh nhân phải tự nguyện (không chịu ảnh
hưởng của người khác, tâm lý bệnh tật hoặc của thuốc) và kiên trì theo thời
gian; (iii) bệnh nhân phải nhận thức được đầy đủ về tình trạng của mình, triển
vọng và các lựa chọn; (iv) phải có sự tham vấn với ít nhất một bác sĩ độc lập
khác là người mà cần xác nhận các điều kiện nêu trên; (v) cái chết phải được
thực hiện theo cách phù hợp về mặt y tế bởi bác sĩ hoặc bệnh nhân và bác sĩ
phải có mặt; (vi) bệnh nhân ít nhất 12 tuổi (bệnh nhân từ 12 đến 16 tuổi đòi
hỏi có sự chấp thuận của cha mẹ).
Về số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử ở Hà Lan, theo nguồn số
liệu thống kê cho thấy, trong khoảng thời gian 7 năm, con số đã tăng lên gấp
31
gần 2,5 lần và dự đoán xu hướng sẽ tiếp tục tăng, thể hiện qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2.1. Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử ở Hà Lan (2006-
2013) [5]
Tại Hà Lan, khoảng những năm 1970, câu hỏi về ý nghĩa và tính hợp
pháp của việc kéo dài sự sống và sự thừa nhận chấm dứt nó trở thành đề tài
tranh luận công khai tại Hà Lan. Vấn đề này bắt nguồn từ cuốn sách của Van
den Berg, rồi đến các chương trình truyền hình, phát thanh nói về sự hấp hối
và những lời nói thực lòng của một bệnh nhân đang chờ chết được phát lên.
Chính phủ Hà Lan đã đề xuất một ủy ban xem xét về vấn đề này và yêu cầu
sự tư vấn từ Hội đồng y tế, nhất là Ủy ban về đạo đức y tế. Nhiều hội nghị
chuyên đề được tổ chức và rồi “hỗ trợ cho quá trình chết” đã trở thành một
khái niệm quen thuộc. Cụm từ “cái chết êm ái” đã được nhắc đến nhiều hơn
và bắt đầu từ năm 1972, các tổ chức khác nhau đã bắt đầu “thông” được ý
kiến của họ về vấn đề này. Các cuộc thăm dò cho thấy tỷ lệ người dân nghĩ
rằng cuộc sống đôi khi có thể (chủ động) được chấm dứt và rằng “cái chết êm
ái” nên được hợp pháp hóa ngày càng tăng. Trước khi Hội đồng y tế có báo
cáo, Tổng thượng Hội đồng cải cách giáo hội Hà Lan đã thông qua một báo
cáo, kết luận rằng: “Cái chết êm dịu thụ động”, như việc kiêng các biện pháp
kéo dài sự sống vì lý do y tế là có thể chấp nhận; Và, nếu một bệnh nhân có
32
đủ thẩm quyền, vào lúc bắt đầu hấp hối yêu cầu các bác sĩ ngừng điều trị thêm
thì mong muốn này phải được tôn trọng. Rốt cuộc, “cái chết êm dịu” được đa
số nhận thức là “hành động với ý định có chủ ý để rút ngắn cuộc sống của
bệnh nhân hoặc cố gắng không hành động với ý định cố ý không để kéo dài
cuộc sống của bệnh nhân, dù mặt nào thì đây là điều có lợi nhất đối với người
bệnh và tình trạng của bệnh nhân vốn không thể cứu chữa”. Ủy ban chức
năng cũng đã phân biệt và chi tiết hóa “cái chết êm dịu” ra thành tự nguyện và
không tự nguyện, thụ động và tích cực. Đến nay, Hà Lan cũng đã cho phép
thực hiện “cái chết êm ái” cho trẻ em dưới 12 tuổi trong điều kiện giám sát
nghiêm ngặt [15]
Bỉ:
Bỉ trở thành quốc gia thứ hai trên thế giới thông qua Luật An tử. Tác
giả Trương Hồng Quang trong bài viết “Bước đầu tìm hiểu về vấn đề quyền
được chết trong bối cảnh hiện nay” có thống kê như sau:
Với 86 phiếu thuận, 51 phiếu chống và 10 phiếu trắng, tối
16/05/2002, Thượng viện Bỉ đã chấp thuận đạo luật cho phép
bệnh nhân bị bệnh rất nặng có quyền được chết dưới những điều
kiện nhất định. Đây là chặng cuối của cuộc đua pháp lý kéo dài
3 năm, khởi xướng vào năm 1999 khi mà lần đầu tiên trong vòng
hơn 40 năm, Liên minh dân sự lên nắm quyền ở Bỉ.
Đạo luật về an tử của Bỉ (The Belgian Act on Euthanasia) được thông
qua vào ngày 28/5/2002, chính thức có hiệu lực ngày 03/09/2002 và được sửa
đổi ngày 13/02/2014, trong đó có một số nội dung đáng chú ý sau: bác sĩ thực
hiện an tử không phạm tội hình sự khi họ đảm bảo rằng: (i) bệnh nhân là một
người trưởng thành có năng lực pháp lý, trẻ vị thành niên sống tự lập
(emancipated minor) có năng lực pháp lý, hoặc trẻ vị thành niên có năng lực
về nhận thức và ý thức tại thời điểm đưa ra yêu cầu; (ii) yêu cầu là tự nguyện,
được xem xét thận trọng và được lặp lại và không là kết quả của bất kỳ áp lực
bên ngoài nào; (iii) bệnh nhân là người trưởng thành hoặc trẻ vị thành niên
33
sống tự lập ở trong tình trạng y tế vô vọng không thay đổi, và đau khổ thể xác
hoặc tinh thần không chịu đựng nổi mà không thể giảm bớt, và là kết quả từ
một rối loạn nghiêm trọng và không thể cứu chữa gây ra bởi bệnh tật hoặc tai
nạn; (iv) trẻ vị thành niên có năng lực nhận thức ở trong tình trạng y tế vô
vọng không thay đổi và đau khổ thể xác không chịu đựng nổi mà không thể
giảm bớt và sẽ gây ra cái chết trong thời gian ngắn, và là kết quả từ một rối
loạn nghiêm trọng và không thể cứu chữa gây ra bởi bệnh tật hoặc tai nạn.
Đạo luật này cũng yêu cầu quá trình đưa ra yêu cầu của bệnh nhân cần
có sự tham vấn của một bác sĩ khác là bác sĩ tâm thần hoặc một chuyên gia;
với trẻ vị thành niên sống tự lập cần tham vấn một bác sĩ tâm thần trẻ em hoặc
một nhà tâm lý học và thông báo về lý do được tham vấn. Mọi yêu cầu phải
được đưa ra bằng văn bản, và với bệnh nhân là trẻ vị thành niên sẽ cần sự
đồng ý của người đại diện hợp pháp
Về số lượng các trường hợp an tử đã thực hiện ở Bỉ, theo thống kê sau
10 năm luật có hiệu lực, con số luôn có chiều hướng tăng (xem biểu đồ).
Trong 2 năm tiếp theo (2012 và 2013), con số lần lượt là 1.432 và 1.816
trường hợp.
Biểu đồ 2.2. Số lượng các trường hợp đã thực hiện an tử tại Bỉ (2002-2011)[22]
Tại Bỉ, người ta đã bãi bỏ những hạn chế về “cái chết êm dịu” vào
tháng 9/2002 với các bệnh nhân tuổi từ 18 trở lên, có yêu cầu chấm dứt cuộc
34
sống một cách tự nguyện, đã được cân nhắc theo cách lặp đi lặp lại để tránh
việc bị cưỡng ép. Quy định về cái chết được bác sĩ hỗ trợ trong các trường
hợp đáp ứng những tiêu chí theo luật cũng có thể được quy định trong “di
chúc sống” được viết bởi người khỏe mạnh trước khi họ bị ốm và đang còn
hiệu lực trong vòng 5 năm. Vào tháng 2/2014, Bỉ đã trở thành quốc gia đầu
tiên cho phép trẻ em được yêu cầu cái chết êm dịu nếu họ bị một căn bệnh
nan y giai đoạn cuối và hiểu được hậu quả của hành động này. Mặc dù điều
này vẫn bị các tôn giáo như Thiên Chúa giáo, Do Thái giáo và Hồi giáo phản
đối kịch liệt. Nhiều bác sĩ nhi khoa cũng đã ký thỉnh nguyện thư lên Quốc hội
Bỉ để phản đối điều luật này bởi họ cho rằng trẻ em chưa đủ khả năng ra
quyết định kết thúc cuộc sống của mình. Nhưng những người ủng hộ thông
qua luật này cho rằng đây là lựa chọn tốt nhất, bao hàm ý nghĩa nhân đạo đối
với các em nhỏ xấu số này. Tiến sĩ Gerlant van Berlaer, một bác sĩ nhi khoa
tại Bệnh viện UZ Brussels nói: “Rất hiếm khi, nhưng nó vẫn xảy ra, có những
đứa trẻ mà chúng tôi đã cố gắng chữa trị nhưng không có cách gì để giúp họ
tốt hơn được. Những trẻ em đó phải có quyền quyết định việc kết thúc cuộc
sống của họ” [15].
Lucxembourg
Ngày 20/2/2008, Quốc hội Lucxembourg đã thông qua một dự luật hợp
thức hóa cái chết nhân đạo với 30/39 phiếu ủng hộ. Đây là quốc gia thứ ba
thuộc Liên minh Châu Âu chấp nhận quyền được chết. Người bị bệnh ở giai
đoạn cuối có thể sẽ kết thúc cuộc sống của mình nếu nhận được sự chấp thuận
của hai bác sỹ và bảng chỉ dẫn của chuyên gia. Bệnh nhân bắt buộc phải có
những yêu cầu nhiều lẫn với bác sỹ với những tài liệu và sự chứng kiến rõ
ràng của người làm chứng. Cái chết êm ả chỉ được áp dụng đối với các bệnh
nhân bị bệnh nan y không thể chữa trị và đang chịu nhiều đau đớn.
Mỹ:
Ở Mỹ, Chính phủ Liên bang và tất cả 50 bang và Quận Columbia đều
nghiêm cấm an tử theo luật về tội giết người nói chung. Chính phủ Liên bang
35
không có luật về trợ tử mà những luật này thường chỉ được sử dụng ở cấp
bang. Hiện tại, đã có tới 8 bang thông qua luật hợp pháp hóa trợ tử là
California, Colorado, Hawaii, New Jersey, Oregon, Vermont, DC và
Washington; 1 bang là Montana hợp pháp hóa trợ tử qua phán quyết của Tòa
án Tối cao (của bang). Điểm chung là bệnh nhân phải cư trú trên lãnh thổ của
các bang và phải thỏa mãn các điều kiện:
(i) độ tuổi tối thiểu của bệnh nhân là 18;
(ii) bệnh nhân có khả năng thực hiện và truyền đạt các quyết định
chăm sóc y tế cho mình;
(iii) thời gian dự kiến cái chết sẽ xảy ra trong 6 tháng hoặc ít hơn;
(iv) yêu cầu được thực hiện 2 lần bằng miệng (cách nhau ít nhất 15
ngày) và 1 lần bằng văn bản.
36
Biểu đồ 2.3. Số lượng các trường hợp tử ở Oregon (1998-2018)[26].
Biểu đồ 2.4. Số lượng các trường hợp trợ tử ở Washington (2009 - 2017)[28].
Qua các biểu đồ trên cho thấy, tỷ lệ bệnh nhân thực hiện cái chết/được kê
đơn ở Oregon dao độngtrong khoảng từ 55 đến 70% và xu hướng thực hiện cái
chết là tăng nhẹ. Oregon là tiểu bang đầu tiên hợp pháp trợ tử và đặt ra những
tiêu chuẩn cho việc thực hành ở các tiểu bang khác sau đó. Ở Washington, tỷ lệ
này là cao hơn (từ 95 đến 99%) và xu hướng tăng cũng rõ hơn
Thụy Sỹ:
Ở Thụy Sỹ không có luật về an tử hay trợ tử. Mọi dạng an tử chủ động
đều bị cấm, và luật chỉ cho phép trợ tử. Sự cho phép này được suy ra từ Điều
115 Bộ luật Hình sự của Thụy Sỹ (có hiệu lực từ năm 1942), trong đó quy
định rằng: “Xúi giục và hỗ trợ tự tử: Bất kỳ người nào vì động cơ ích kỷ xúi
giục hoặc trợ giúp người khác thực hiện hoặc cố gắng thực hiện tự tử mà sau
đó người này thực hiện hoặc cố gắng thực hiện tự tử thì sẽ phải chịu án tù
không quá 5 năm hoặc bị phạt tiền”. Như vậy, trợ tử chỉ bị coi là tội phạm
khi động cơ thực hiện là “ích kỷ” (ví dụ: thu lợi cá nhân).
Về số lượng các trường hợp thực hiện trợ tử ở Thụy Sỹ, số liệu thống
kê cho thấy một xu hướng tăng mạnh; và có một điểm đáng chú ý đó là do
luật của Thụy Sỹ về trợ tử là không rõ ràng, do đó, ngày càng có nhiều du khách
đến quốc gia này chỉ với mục là để kết thúc cuộc sống của mình (tự tử), chiếm
từ 25 đến 30% số trường hợp được hỗ trợ tự tử mỗi năm (tính từ năm 2008 đến
37
năm 2012).
Biểu đồ 2.5. Số lượng các trường hợp trợ tử ở Thụy Sĩ (1995-2010)[21]
Thụy Sĩ là quốc gia cho phép trợ tử bằng chính bệnh nhân thông qua
một liều thuốc gây chết. Quốc gia này không cho phép “cái chết êm ái” tích
cực và trực tiếp bởi một bên thứ ba, nhưng cho phép việc cung cấp các chất
để giảm bớt sự đau khổ, ngay cả khi tác dụng phụ của nó có thể là cái chết.
Chết êm dịu thụ động hoặc dừng các thủ thuật y tế để duy trì sự sống cũng
được chấp nhận ở Thụy Sĩ [15].
Thụy Sĩ là quốc gia duy nhất chấp nhận trợ tử đối với người có quốc
tịch nước ngoài. Hàng loạt các tổ chức hỗ trợ tự tử đã được thành lập ở Thụy
Sĩ cuối những năm 1990 đầu 2000 với mục đích mang tới “cái chết nhân đạo”
cho khách hàng, là những người dân trong và ngoài nước. Trong đó, điển hình
nhất là các tổ chức Dignitas hay Life Circle mở rộng dịch vụ của mình đón
tiếp khách nước ngoài. Điều này đã làm nở rộ một xu hướng du lịch tới Thụy
Sĩ - “Du lịch tự tử”.
Một nghiên cứu được tiến hành ở Zurich (Thụy Sĩ) từ năm 2014 về
dịch vụ “trợ tử” cho thấy số lượng người nước ngoài đến Thụy Sĩ tìm kiếm
những dịch vụ này ngày càng tăng. Theo số liệu các nhà nghiên cứu đưa ra,
có khoảng 123 người nước ngoài sử dụng dịch vụ này ở Thụy sĩ vào năm
38
2008 và con số này tăng lên 172 người vào năm 2012. Tổng cộng trong 4 năm
2008 - 2012 có khoảng 611 người tham gia “du lịch tự tử” đến từ 31 quốc gia,
chủ yếu là từ Đức và Anh chiếm lần lượt 44% và 21%. Độ tuổi trung bình của
những du khách “một đi không về” này là 69, trong đó nữ giới chiếm gần
60%. Tính đến nay, đã có hơn 1000 người nước ngoài tìm đến Thụy Sĩ với
mong muốn được chấp dứt cuộc sống của mình. Gần đây nhất, ngày
10/5/2018, giáo sư người Australia David Goodall cũng đã lựa chọn “quyền
được chết” tại trung tâm trợ tử Life Circle(Thụy Sĩ) khi 104 tuổi. Ông bày tỏ
trước chuyến bay rằng: “Tôi chẳng muốn đi nhưng cần cơ hội mà chính phủ
Australia không cho phép”.[7]
Trên đây là một số khái quát về thực tiễn và pháp luật về an tử và trợ tự
ở một số quốc gia điển hình mà có số lượng các trường hợp mỗi năm là tương
đối lớn. Từ đây có thể thấy, một mặt, nó phản ánh nhu cầu hưởng thụ quyền
an tử trên thực tế ngày càng tăng; mặt khác, nó cũng cho thấy những mối lo
ngại như những tranh luận phản đối an tử đã đưa ra. Dường như xu hướng
“trượt dốc” (slippery slope) đang diễn ra khi số lượng các trường hợp an tử và
trợ tử tăng rất nhanh (ở Hà Lan, Bỉ và Thụy Sỹ); đồng thời đối tượng được an
tử và trợ tử đã dần được mở rộng (ở Thụy Sỹ).
2.2.2. Một số vụ việc điển hình về quyền an tử trên thế giới
Vụ 1: Cái chết của giáo hoàng John Paul II
Tòa thánh Vatican cũng từng gặp rắc rối liên quan tới cái chết của giáo
hoàng John Paul II năm 2006. Tiến sĩ Lina Pavanelli, một nữ chuyên gia hồi
sức cấp cứu đã tố cáo Vatican đã thực hiện “cái chết êm ái” đối với giáo
hoàng. Dựa trên kiến thức chuyên môn của mình cùng sự quan sát về tình
hình sức khỏe của giáo hoàng trong những ngày cuối đời, bà cho rằng Vatican
đã để giáo hoàng John Paul II được dùng ống truyền thức ăn quá muộn và
điều này là nguyên nhân gây nên cái chết.
Vụ 2: Sự ra đi trong cô đơn của bà Sebire
Bà Sebire có khối u ác tính tấn công cơ thể từ khoang mũi. Căn bệnh đã
39
cướp đi gần hết ngũ giác của bà và gây cho bà những cơn đau khủng khiếp,
mỗi cơn có thể kéo dài tới bốn giờ. Chỉ có hai nhà phẫu thuật thần kinh nhận
điều trị cho bà và đều kết luận đây là căn bệnh bất trị. Trong lời thỉnh cầu của
mình, bà nói: "Ngay cả thú vật, người ta cũng không để phải chịu đựng như
tôi đang chịu đựng”.Chỉ vài ngày sau khi tòa án Dijon (Pháp) bác bỏ thỉnh
nguyện xin được "ra đi xứng đáng" bằng cách được chích thuốc độc chết (mà
người ta vẫn hay gọi là “cái chết êm ái” hay “an tử’), hôm 20-3-2008, người
ta đã phát hiện thi thể của bà Sebire tại một căn hộ ở Plombières-les-Dijon,
miền đông nước Pháp. Mặc dù nguyên nhân cái chết của bà chưa được xác
định, nhưng đã gây nên sự thổn thức trên toàn thế giới. Bởi trước đó, bà nói:
“Tôi biết cách xoay những thứ cần thiết để tự chết”.Giữa tháng 3, bà Sebire
làm đơn gửi tòa án xin được chết, sau khi đã thỉnh cầu Tổng thống Sarkozy
can thiệp để bác sĩ điều trị được kê toa độc dược “giúp” bà được chết trong
tỉnh táo, nhanh và trong vòng tay thân quyến, bạn bè.Sau khi tòa Dijon bác bỏ
thỉnh nguyện của bà Sebire, với lý do luật hiện hành không cho phép bác sĩ
giúp bệnh nhân được chết, thủ tướng Pháp đã chỉ thị lập một ủy ban xem xét
có thể điều chỉnh luật hay không. Tuy nhiên, trong khi cả nước Pháp còn đang
bàn cãi về “cái chết êm ái” dưới lăng kính đạo đức thì bà Sebire ra đi trong sự
cô đơn.
Cùng lúc với cái chết của bà Sebire, tại Bỉ - một nước không xa Pháp là
bao, người ta cũng đưa tin cái chết của nhà văn Bỉ Hugo Claus, 78 tuổi. Bị
mắc chứng Alzheimer, ông đã sử dụng “quyền an tử” theo luật pháp Bỉ và đã
“được” chết tại Bệnh viện Middelheim. Với “quyền an tử”, ông đã "chọn giờ
chết cho chính mình, vì không muốn kéo dài đau đớn".
Như vậy, cùng là bệnh nhân bị bệnh nan y, cùng là chết - nhưng một
người thì bị từ chối và đã ra phải ra đi trong đau đớn và cô đơn, còn một
người khác thì được chọn và ra đi trong trong êm ái giữa những người thân.
Sự khác biệt ở đây chính là pháp luật. Đó là vấn đề: quyền được chết
Vụ 3: Vụ án của Cruzan
Vụ án năm 1983, Nancy Beth Cruzan bị tai nạn xe hơi, rơi vào “tình
40
trạng thực vật vĩnh viễn,” gia đình nạn nhân yêu cầu đình chỉ hệ thống duy trì
sự sống để Nancy được chết, bệnh viện đòi phải có sự chấp thuận của tòa án.
Tòa án Tối Cao Hoa Kỳ phán quyết rằng gia đình bệnh nhân không có đủ
bằng chứng cho thấy Nancy không muốn duy trì sự sống. Sau đó gia đình
Cruzan trình được bằng chứng ấy trước Tòa án Tối Cao Missouri và tòa đã
chấp thuận vào cuối năm 1990. Việc dinh dưỡng cho Nancy được cắt đứt vào
tháng 12-1990 và cô chết trong tháng ấy. Quyết định của tòa án gây ra nhiều
tranh cãi về pháp lý. Trong vụ án này, Cruzan kiện Giám đốc Sở Y tế
Missouri, vấn đề là có thể đình chỉ hay chăng, việc điều trị duy trì sự sống cho
một bệnh nhân hôn mê, mà trong suốt mấy năm trời chỉ tỏ ra được rất ít dấu hiệu
của ý thức. Cha mẹ và các bác sĩ của Nancy Cruzan đã không được phép đình
chỉ việc điều trị vì không có bằng chứng “rõ ràng và thuyết phục,” như luật pháp
Missouri đòi hỏi, rằng Nancy muốn được thực hiện điều đó cho mình.
Một số vụ việc khác
Ở một số nước trên thế giới, nhất là tại các nước Tây Âu, đang tồn tại thực
tế là các bác sĩ "giúp" bệnh nhân chấm dứt cuộc sống đớn đau vì những căn
bệnh nan y. Chẳng hạn như tại Ý, theo một báo cáo của Hiệp hội Bác sĩ quốc
gia, có khoảng 0,7% bác sĩ Ý thừa nhận đã tiến hành an tử cho bệnh nhân.
Cuối năm 2006, ở Ý có một sự kiện làm dấy lên sự tranh cãi và ồn ào trên
cả nước liên quan đến một cái chết được thực hiện theo kiểu “an tử” nhưng
trái pháp luật. Bệnh nhân 60 tuổi là nhà thơ Welby, bị teo cơ làm liệt các ngón
tay, đau đớn và hạn chế nhiều trong giao tiếp. Ông đã gửi thư lên Tổng thống
Giorgio Napotalino xin được chết. Lá thư đã gây xúc động sâu sắc, khiến
Tổng thống Napotalino mời các chính khách, chuyên gia cùng bàn bạc. Sau
đó, một tòa án được yêu cầu ra phán quyết. Nhưng họ lại chuyển hồ sơ về
quốc hội với lý do không tìm ra luật nào giải quyết trường hợp này. Ngày 20-
12-2006, bác sĩ điều trị của Welby là Mario Riccio khẳng định nguyện vọng
xin được chết của Welby không bị một cản trở pháp lý nào. Và ông đã tắt máy
trợ thở, “giúp” an tử.
Tuy vậy, cái chết của Welby không giải quyết được vấn đề đạo đức nói
41
trên mà thậm chí còn gây chia rẽ ngay trong nước Ý nhiều hơn. Trong khi
một số người khẳng định cái chết là sự giải thoát cho Welby, thì những người
khác gọi bác sĩ Riccio là kẻ sát nhân. Nhà thờ đã từ chối phục vụ các nghi
thức tôn giáo cho lễ tang Welby.
Năm 1999, tại Mỹ có trường hợp "bác sĩ tử thần" Jack Kevorkian (bang
Michigan) bị truy tố về tội giết người do đã "giúp" tới 130 bệnh nhân được
“ra đi”. Jack Kevorkian bị kết án tới 25 năm tù. Tuy nhiên, ông được giảm án,
trả tự do trước thời hạn sau 8 năm ngồi tù.
Thụy Điển đã cho phép ủy quyền thực hiện “cái chết êm dịu” thụ động
từ năm 2010. Tương tự, các nước Áo và Đức cũng cho phép nếu bệnh nhân đã
yêu cầu. Còn tại Na Uy, khi đã có yêu cầu từ bệnh nhân hoặc bởi người thân
của họ trong trường hợp bệnh nhân ở tình trạng hôn mê thì nó là hợp pháp.
Tại nước Anh, nhân viên y tế đã được cho phép ngừng điều trị duy trì
sự sống trong một số trường hợp nhất định từ năm 2002. Một vụ truy tố
những người đã giúp đỡ người thân của họ chết sau khi người đó thể hiện rõ
mong muốn kết thúc cuộc sống của mình đã được rút lại trong năm 2010.
Kể từ năm 1992, Đan Mạch cho phép bệnh nhân nộp văn bản từ chối
điều trị quá mức, trong những tình huống bệnh nghiêm trọng, với các văn bản
được tiến hành tại một cuộc đăng ký tập trung từ trước.
Đối với các nước Hungary, Tây Ban Nha và Cộng hòa Séc, người mắc
bệnh nan y có thể từ chối điều trị để đợi cái chết.
Tại Bồ Đào Nha, “cái chết êm ái” tích cực và thụ động đều là không
hợp pháp, nhưng một hội đồng đạo đức được phê chuẩn cho việc quyết định
ngưng điều trị trong một số trường hợp nhất định.
Với các nước Italy, Romania, Hy Lạp, Bosnia, Serbia, Croatia, Ba Lan
và Ailen hiện nay, “cái chết êm ái” bị cấm triệt để và nó bị coi là hành động
giết người. Hình phạt có thể dao động từ 14-15 năm tù theo thứ tự ở Ireland
và Italy, nhưng án lại tương đối nhẹ ở Croatia.
Nhìn chung, xu hướng là ngày càng có nhiều quốc gia thông qua “cái
chết êm ái”, với các mức độ khác nhau và kèm theo những điều kiện ràng
42
buộc chặt chẽ, cụ thể. Tùy vào hoàn cảnh của mỗi quốc gia, từ nhận thức văn
hóa, tôn giáo, nền tảng pháp lý đến điều kiện kinh tế xã hội, y tế, dân sinh,
dân trí,... mà họ lựa chọn ứng xử theo cách phù hợp với nước họ. Tuy nhiên,
dù “cái chết êm ái” đã được hợp pháp hóa ở mức độ nào thì các cuộc tranh cãi
giữa bên ủng hộ và bên phản đối vẫn diễn ra và chắc chắn sẽ không bao giờ
chấm dứt tại các nước châu Âu, cũng như trên toàn thế giới [15].
Ở Trung Quốc, Hàn Quốc, chỉ một số trường hợp cá biệt mới được
quốc hội phê chuẩn tạm dừng điều trị, chờ cái chết đến tự nhiên. Luật pháp
không công nhận "cái chết nhân đạo", mọi hành động trợ giúp bệnh nhân chết
bị coi là sát nhân. Trên tờ Nhật báo Thế giới, đại diện các cộng đồng tôn giáo
ở Pháp phản đối kịch liệt “cái chết êm ái” và khẳng định rằng sự sống của con
người cho dù mong manh vẫn phải được tôn trọng. Bộ trưởng Y tế Pháp
Marisol Tourane cũng phản đối điều luật này.
Vụ việc được chết ở Hàn Quốc
Ngày 21-5, Tòa án tối cao Hàn Quốc đã lần đầu tiên chấp thuận cho
một bệnh nhân nữ sống thực vật được quyền chết theo yêu cầu của gia đình
dù bệnh viện phản ứng quyết liệt. Theo tòa, việc dùng các biện pháp y học để
duy trì sự sống cho bệnh nhân không còn khả năng hồi phục là xúc phạm đến
lòng tự trọng của họ.Bệnh nhân này hiện 76 tuổi, hôn mê hơn một năm nay vì
não đã chết, nằm tại một bệnh viện ở thủ đô Seoul. Thấy bệnh nhân không thể
hồi phục, người nhà yêu cầu rút ống thở nhưng bệnh viện từ chối. Người nhà
bệnh nhân đã kiện ra tòa. Sau đó, các cấp tòa đã bác bỏ sự phản đối của bệnh
viện, chấp thuận yêu cầu của gia đình người bệnh.Phán quyết trên của Tòa án
tối cao Hàn Quốc là trong một trường hợp cụ thể, không đồng nghĩa với việc
Hàn Quốc cho phép các bệnh viện giúp đỡ bệnh nhân chết êm ái [16].
Các quốc gia chịu ảnh hưởng sâu sắc của Giáo hội Thiên Chúa giáo La
Mã, đặc biệt là khu vực châu Mỹ La Tinh, người dân tổ chức các cuộc biểu
tình chống lại dự luật về cái chết nhân đạo. Ở Đức và Italy, đây là đề tài tranh
cãi gay gắt trong nhiều năm qua. Tại các quốc gia châu Á chịu ảnh hưởng của
Phật giáo, mọi hành động can thiệp hay giúp đỡ người bệnh chết "nhân tạo"
43
đều bị coi là giết người [17].
CHƯƠNG 3: PHÁP LUẬT, THỰC TIỄN VÀ VẤN ĐỀ HỢP PHÁP
HÓA QUYỀN AN TỬ Ở VIỆT NAM
3.1. Thực tiễn pháp luật Việt Nam hiện hành về quyền an tử
3.1.1. Quyền an tử theo pháp luật Việt Nam
Tại Việt Nam, quyền an tử chưa được pháp luật quy định, tuy nhiên
trong quá trình xây dựng luật vẫn có những ý kiến đề nghị thể chế hóa quyền
này vào luật. Dấu ấn đầu tiên của Quyền an tử trong hoạt động lập pháp của
Việt Nam là tại kỳ họp thứ 6 và 7 Quốc hội Khóa XI (2004, 2005), Hội nghị
đại biểu Quốc hội chuyên trách năm 2005, vấn đề quyền an tử (lúc này gọi là
quyền được chết) được đưa vào dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự. Tuy nhiên đa
số đại biểu cho rằng đây là vấn đề nhạy cảm, không phù hợp với đạo lý người
Á Đông hiện nay và không đồng ý với hợp pháp hóa quyền an tử. PGS.
TS. Phùng Trug Tập cho rằng:
Câu hỏi được đặt ra bao trùm toàn bộ những quan niệm về sự sống và
chết của cá nhân. Trước hết, nhân loại tồn tại có ý nghĩa là sự sống và mỗi
người sinh ra đều có quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc trong sự phát
triển của xã hội. Pháp luật không nên quy định cho cá nhân một loại quyền
được chết hay quyền được lựa chọn cách chết hay phương thức chết! Theo
tôi, mọi cái chết chứa đựng tính cưỡng bức hay có chủ tâm đều là những cái
chết không bình thường và bất thường. Vì hệ quả của những cái chết như vậy
thường kéo theo nhiều vấn đề mang tính không tích cực và còn ảnh hưởng
đến tâm lý của những người khác. Con người là thực thể của tự nhiên, cho
nên sự sống và cái chết hãy để chúng diễn ra một cách tự nhiên.
Đến năm 2013, khi cơ quan lập pháp Việt Nam tiến hành sửa đổi Hiến
pháp 1992, vấn đề quyền an tử một lần nữa được chú ý tới. Tuy nhiên, đây là
vấn đề mới, còn nhiều tranh luận khác nhau không chỉ ở nước ta mà ở nhiều
nước trên thế giới nên vấn đề vấn còn được tiếp tục nghiên cứu, chưa thể hiện
44
trong Dự thảo Hiến pháp. Cùng năm, Bộ Y tế trong quá trình xây dựng Luật
dân số cũng đề xuất cho phép thực hiện quyền an tử. Ông Trương Hồng
Quang – Viện Nghiên cứu pháp lý (Bộ Tư pháp) cho rằng không nên đưa vấn
đề an tử vào Luật Dân số:
Pháp luật dân số quy định về các vấn đề liên quan tới dân số. Trong khi
đó, về mặt lý thuyết thì “cái chết êm ái”, hay chính xác hơn là quyền được
chết là một quyền nhân thân. Nếu được công nhận, trước hết phải được ghi
nhận thành một quyền nhân thân trong Bộ luật Dân sự. Sau đó có thể hướng
dẫn cụ thể quyền này ở Luật An tử hoặc một nghị định của Chính phủ. Việc
đưa vấn đề an tử vào Luật Dân số là không phù hợp [12].
Điều 19 của Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền sống.
Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính
mạng trái luật". Ngoài ra, không có bất cứ quy định nào về “quyền được
chết”. Ngoài ra, Việt Nam đã gia nhập Công ước Quốc tế về các Quyền dân
sự và chính trị từ ngày 24/9/1982, Khoản 1 điều 6 Công ước ghi rằng “Mọi
người đều có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo
vệ. Không ai có thể bị tước mạng sống một cách tuỳ tiện”.
Điều 33 Bộ luật dân sự 2015 quy định về Quyền sống, quyền được bảo
đảm an toàn về tính mạng, sức khỏe, thân thể như sau:
1. Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân
thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính
mạng trái luật.
2. Khi phát hiện người bị tai nạn, bệnh tật mà tính mạng bị đe dọa thì
người phát hiện có trách nhiệm hoặc yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức khác
có điều kiện cần thiết đưa ngay đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nơi gần
nhất; cơ sở khám bệnh, chữa bệnh có trách nhiệm thực hiện việc khám bệnh,
chữa bệnh theo quy định của pháp luật về khám bệnh, chữa bệnh…
Quy định của Bộ luật dân sự xuất phát từ nền tảng coi quyền sống của
con người là trên hết và không thừa nhận việc tước đoạt quyền sống này trong
45
bất kỳ hoàn cảnh nào, kể cả khi người bệnh không còn khả năng cứu chữa.
Cho đến thời điểm hiện tại, quyền an tử là khái niệm không hoàn toàn
mới mẻ ở Việt Nam, tuy nhiên thuật ngữ này chưa từng xuất hiện trong bất kỳ
văn bản pháp lý nào của Việt Nam từ khi thành lập và trong suốt quá trình
xây dựng và phát triển. Hiện nay, có thể thấy, đại đa số người dân đang có
nhận thức sai về an tử, về hành vi của bác sỹ trong việc thực hiện cái chết êm
ả. Do vậy, cần phân biệt hành vi thực hiện quyền an tử với các hành vi khác
có liên quan.
Đối với hành vi tự sát
Hành vi tự sát do chính người tự sát thực hiện có thể do sự quẫn bách
về tinh thần, sai lệch trong suy nghĩ. Nếu một bệnh nhân mắc bệnh vô phương
cứu chữa tự tìm đến cái chết mà không có sự giúp đỡ của bác sỹ thì không hội
tụ đủ yếu tố cấu thành quyền an tử. Do đó, hành vi này cũng chỉ được coi là
tự sát. Còn hành vi thực hiện quyền được chết có thể được tiến hành bởi chính
bác sỹ hoặc bệnh nhân (dưới sự trợ giúp của bác sỹ). Theo đó, việc một bác sỹ
thực hiện hành vi kết thúc mạng sống cho bệnh nhân (theo yêu cầu của bệnh
nhân hoặc người đại diện bệnh nhân) rõ ràng hoàn toàn khác với việc tự sát
do chính bệnh nhân tự thực hiện.
Đối với tội giúp người khác tự sát
Điều 131 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi bổ sung 2017 có quy định tội
xúi giục hoặc giúp người khác tự sát. Về hành vi xúi giục người khác tự sát rõ
ràng khác hành vi thực hiện quyền được chết bởi lẽ khi thực hiện quyền được
chết, bác sỹ chỉ làm theo yêu cầu của bệnh nhân chứ không xúi giục bệnh
nhân. Do đó, chúng ta chỉ cần phân biệt hành vi giúp người khác tự sát và
hành vi thực hiện quyền an tử. Hành vi giúp người khác tự sát có nhiều loại
và đa dạng về chủ thể. Chủ thể thực hiện việc kết thúc sự sống của bênh nhận
là bác sỹ, còn trong việc giúp người khác tự sát thì chủ thể thực hiện rộng
hơn. Đặc biệt, tình trạng của bệnh nhân trong quyền an tử là điểm mấu chốt
46
để phân biệt với hành vi khác.
Đối với tội giết người
Trong hành vi giết người, cái chết xảy ra không có sự đồng ý của nạn
nhân còn đối với hành vi thực hiện quyền an tử của bác sỹ thì có sự đồng ý/
yêu cầu của bệnh nhân hoặc người đại diện của bệnh nhân. Ở các nước chưa
hợp pháp hóa quyền an tử, việc bác sỹ thực hiện quyền an tử theo yêu cầu của
bệnh nhân thường bị coi là hành vi giết người, vi phạm đạo đức nghề y.
Hành vi theo Luật Phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 của Việt Nam
Luật phòng, chống HIV/AIDS năm 2006 của Việt Nam quy định quyền
của người nhiễm HIV: “từ chối khám bệnh, chữa bệnh khi đang điều trị bệnh
AIDS giai đoạn cuối”(Điểm đ, Khoản 1, Điều 4). Có nhiều người cho rằng
đây là một dạng của cái chết êm ả nhưng đây là quan điểm không đúng.
Trong quy định này của Luật phòng, chống HIV/AIDS, bác sỹ không chủ
động ngừng cuộc sống của bệnh nhân mà chỉ chấp thuận theo nguyện vọng
thôi điều trị của họ, để họ không kéo dài những ngày tháng đau đớn về thể
xác. Hành vi này cũng như việc người thân của bệnh nhân sắp chết xin bệnh
viện cho đưa về nhà. Điều này khác quyền được chết. Bệnh viện không vi
phạm pháp luật nếu bệnh nhân không còn hy vọng gì nữa, gia đình cũng
không có khả năng kinh tế để tiếp tục điều trị nên xin về nhà tìm cách khác
hoặc ngừng chữa trị và cam kết rằng: bệnh viên sẽ không chịu trách nhiệm
nếu có bất cứ chuyện gì thì bệnh viện không phạm luật trong trường hợp này.
Hiểu được việc phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong nhận thức khi
mà thời điểm này Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới vẫn
chưa cho phép và thông qua Luật an tử.
3.1.2. Thực trạng yêu cầu về nhận thức, quy phạm hóa quyền an
tử tại Việt Nam
Chúng ta phải thừa nhận rằng trên thực tế, còn rất nhiều căn bệnh mà y
học bất lực, không thể chữa trị chẳng hạn như bệnh Aids, bệnh ung thư...
Trong những trường hợp như vậy, tác dụng của y học họa chăng chỉ là trì
47
hoãn cái chết. Qua nghiên cứu cho thấy, các trường hợp bị bệnh nan y kéo
dài, hôn mê sâu cũng không phải là hiếm ở Việt Nam. Các bác sỹ cũng đã
từng thông qua các diễn đàn, các kênh thông tin để nói về vấn đề này. Hầu hết
các bác sỹ đều cho rằng việc chứng kiến người bệnh trong tình trạng hôn mê
hay sống thực vật là một điều hết sức đau đớn, nhưng khó khăn hơn cả là khi
tình trang hôn mê của bệnh nhân kéo dài và buộc gia đình và bác sỹ phải đưa
ra quyết định về việc có tiếp tục điều trị để duy trì tình trạng sồng này của
bệnh nhân hay không. Tại Việt Nam, chúng ta vẫn luôn chứng kiến hàng
ngày, không ít những bệnh nhân bị bệnh viện trả về vì không thể giúp gì hơn.
Đối với những trường hợp này, biết chắc là bệnh nhân sẽ chết, người thân chỉ
còn biết khóc, mà bất lực, mà chứng kiến người bệnh nhiều khi phải lịm đi vì
sự đau đớn.Thực tế có nhiều bệnh nhân hiểm nghèo: Ung thư giai đoạn cuối,
tai nạn giao thông, những bệnh nhân sống thực vật khi mọi nỗ lực cứu chữa
đều vô ích, mà chỉ kéo dài thêm tình trạng “khổ sở” của bệnh nhân. Có trường
hợp bệnh nhân ung thư, cũng được các bác sĩ khuyên gia đình không nên chạy
chữa nữa. Ngược lại, cũng đã có nhiều bệnh nhân ung thư, mặc dù các thành
viên trong gia đình (và cả các bác sĩ) xác định “còn nước còn tát”. Tuy nhiên
bệnh nhân này nhận thấy tình cảnh “vô nghĩa” của mình, nên đã từ chối điều
trị. Theo họ như vậy đỡ tốn kém vô ích, đỡ khổ cho bản thân họ cũng như
người thân. Thực tế, có nhiều trường hợp bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối
phải trải qua những ngày tháng cuối đời vô cùng đau đớn. Thời khắc đó,
nhiều bệnh nhân cầu xin bác sĩ cho họ được chết. Tuy nhiên, trong điều kiện
hiện tại luật không cho phép, nên các bác sĩ không dám hay không có cách
nào giúp họ.
Tuy nhiên, có một thực tế vẫn luôn tồn tại từ lâu, mà hầu như nhiều
người biết mà không nói ra. Đó là việc thân nhân của người bệnh thường tạo
ra “cái chết êm ái” cho họ khi họ quá đau đớn, quá già nua hoặc đã được thầy
cúng xem “ngày chết tốt”. Khi đó, cái chết sẽ đến với người bệnh – do thân
nhân của họ không cho uống thêm sâm - vốn chỉ có tác dụng duy trì sự sống
48
thêm trong vòng một vài giờ hoặc chủ động không cho uống thêm thuốc nữa.
Có thực tế rằng, một bệnh nhân hơn 70 tuổi, Việt kiều Mỹ, ở quận 3, TP
Hồ Chí Minh, đã làm đơn gửi chính quyền địa phương nơi ông đang sinh
sống để xin được chết đúng ngày giờ tốt.Bệnh nhân trình bày mình đang
mang căn bệnh ung thư giai đoạn cuối, không thể chữa trị. Bác sĩ riêng
dự đoán ông chỉ còn sống chừng ba tháng. Nay ông quay trở về quê cha
đất tổ để sống cuối đời và thầy tử vi đã chọn được cho ông giờ và ngày
đẹp để ra đi. Theo lời thầy bói, nếu vĩnh biệt thế gian vào đúng ngày giờ
này, con cháu ông sẽ có được phúc đức lâu dài về sau. Vì vậy, ông muốn
được chết êm ái vào đúng giờ ngày tốt đó vì con cháu.Yêu cầu được chết
của bệnh nhân thực chất là một vấn đề pháp lý mà nhiều người đang
quan tâm.Do sợ chết đau đớn, ông phân vân là nên lựa cách tiêm thuốc
hay uống thuốc độc để ra đi được nhẹ nhàng. Đồng thời, ông còn phải
sắp xếp làm sao cho việc chết tự nguyện không gây phiền phức cho bất
kỳ ai. Trong khi đó, bác sĩ của ông từ chối tiêm thuốc, còn những người
thấu hiểu tâm tình ông lại không chịu giúp ông mua thuốc độc.Ông đành
phải làm đơn xin chính quyền địa phương xác nhận để bác sĩ có điều
kiện hợp pháp giúp đỡ ông chết.Tuy nhiên, chính quyền địa phương đã
từ chối ngay đơn xin được chết của ông bởi hiện nay, luật pháp Việt
Nam chưa quy định về vấn đề này.
Một câu hỏi đang được đặt ra đó là về khả năng luật hóa quyền an tử ở
Việt Nam. Trong lĩnh vực pháp luật nói chung, pháp luật về nhân quyền nói
riêng, việc hợp pháp hóa một quyền thường diễn ra theo con đường là nhận
thức của công chúng về quyền dần thay đổi và bắt đầu tác động đến chính
quyền để công nhận quyền đó. Hiện nay, quyền an tử là một vấn đề còn chưa
được bàn luận nhiều ở Việt Nam, nhận thức của công chúng về vấn đề này
chưa phổ biến và đầy đủ; cùng với nhiều yếu tố xã hội khác tác động như
truyền thống văn hóa, khoa học kĩ thuật, trình độ lập pháp,…nên khả năng
công nhận quyền an tử khó xảy ra.
Về vấn đề trên, trong nghiên cứu của mình, tác giả Trương Hồng Quang
49
đã nêu ra 5 điều kiện để một quốc gia có thể ban hành luật về an tử đó là:
(i) số lượng bệnh nhân giai đoạn cuối, mắc bệnh vô phương cứu chữa
xin được chết lớn; giới bác sỹ tồn tại nhiều bức xúc về vấn đề này;
(ii) quốc gia có hệ thống pháp luật chặt chẽ, đồng bộ, nghiêm minh;
kỹ thuật lập pháp của quốc gia đó đủ để có thể xây dựng luật ít bị
lạm dụng nhất;
(iii) người dân quốc gia đó có ý thức tuân thủ pháp luật cao;
(iv) tại thời điểm muốn ban hành luật về an tử không có quá nhiều
người của quốc gia đó phản đối (thông qua thăm dò dư luận);
(v) quyền an tử cần được ghi nhận trong các đạo luật gốc với tư cách
là quyền nhân thân, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng luật
chuyên ngành (luật về an tử).
Đối chiếu với các điều kiện trên, Việt Nam có lẽ chỉ thỏa mãn điều kiện
thứ nhất về nhu cầu xã hội, tuy nhiên hiện vẫn chưa có những điều tra và số
liệu thống kê cụ thể. Các điều kiện còn lại Việt Nam hầu như chưa đáp ứng
được. Nói cách khác, để luật hóa quyền an tử ở Việt Nam, cần có thêm những
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề.
3.2. Các yêu cầu về hợp pháp hóa quyền an tử của Việt Nam hiện nay
Việc khai sinh, khai tử của con người đều gắn chặt chẽ với quyền nhân
thân – đối tượng điều chỉnh của Bộ luật Dân sự Việt Nam. Việc đề xuất đưa
chế định “An tử” vào Bộ luật Dân sự để điều chỉnh quan hệ này, là đúng đắn
và cần thiết trong một xã hội phát triển và văn minh.
Về văn hóa, Việt Nam là một đất nước truyền thống, quan niệm phương
Đông coi trọng sự sống con người, xem nó là thứ quý giá nhất đã ăn sâu vào ý
thức hệ của nhiều thế hệ người Việt Nam. Thực tế cho thấy ở Việt Nam, gia
đình người bệnh vẫn quan niệm “còn nước còn tát” hay “có bệnh vái tứ
phương” dù đã có kết luận về tình trạng không thể chữa trị hay người bệnh
đang phải sống trong hoàn cảnh đau đớn kéo dài. An tử với mục đích nhân
đạo vì vậy chấp nhận an tử không có nghĩa là không tôn trọng sự sống. Việc
50
thay đổi quan niệm truyền thống, nhất là khi liên quan đến sự sống và cái chết
thì cần có thời gian, chúng ta cần đặt cơ sở dần chấp nhận an tử. Vì vậy, với
quyền an tử, một quyền nhân thân cần thiết và hoàn toàn mang mục đích nhân
đạo, điều cần thiết là cần nâng cao nhận thức về bản chất vấn đề, quan niệm
truyền thống tiếp cận, thích nghi dần với quyền an tử để có thể được công
nhận ở Việt Nam.
Về kinh tế, Việt Nam còn là một nước đang phát triển, những điều kiện
về cơ sở vật chất và dịch vụ chăm sóc, khám chữa bệnh y tế còn thấp. Trình
độ y học thấp dẫn đến việc chuẩn đoán sai người, sai bệnh. Khoa học kỹ thuật
về y tế sẽ không cung cấp cho người bệnh được những lựa chọn chăm sóc
giảm nhẹ đau đớn. Hoàn cảnh này rất dễ dẫn đến hệ quả quyền an tử bị lạm
dụng, làm sai lệch bản chất và mục đích nhân đạo của quyền, không chỉ dừng
lại ở những bệnh nhân bị bệnh nan y mà đối tượng lại là: người già neo đơn,
người bị bệnh thần kinh…
Về xã hội, số lượng bệnh nhân có nguyện vọng hưởng thụ quyền tại
Việt Nam chưa nhiều. Không phải do Việt Nam là đất nước ít bệnh tật, không
phải Việt Nam là đất nước với trình độ y học phát triển để có thể chữa trị
được hầu hết các bệnh mà bởi ở Việt Nam, vấn đề còn khá mới mẻ, nếu chưa
từng nghe, chưa từng biết đến thì sẽ không phát sinh nhu cầu thụ hưởng.
Về mặt pháp luật, kỹ thuật lập pháp của Việt Nam còn thấp, nhiều văn
bản ra đời nếu không chồng chéo, mâu thuẫn, vi hiến về nội dung, sai phạm
về hình thức thì ban hành cũng không đúng thủ tục. Một trong những yêu cầu
ban hành Luật an tử là hệ thống pháp luật của nước đó phải nghiêm minh,
chặt chẽ và đồng bộ. Bên cạnh đó cần học hỏi kinh nghiệm các nước trong
việc xây dựng và áp dụng Luật an tử. Đây là hạn chế lớn khi xem xét đến hợp
pháp hóa quyền an tử bởi tính chất nhạy cảm, dễ lạm dụng và hậu quả nặng
nề nếu việc quy định không chặt chẽ, rõ ràng.
Ngoài ra, yếu tố tự giác tuân thủ pháp luật của người dân cũng là yêu cầu
51
cấp bách. Thực tế cho thấy, tư duy, ý thức tuân thủ pháp luật của người dân chưa
cao. Nhiều người thậm chí không bao giờ đọc một văn bản pháp lý. Có những
người rất hiểu biết pháp luật thì lại dùng kiến thức của mình để lách luật.
Như vậy, điều quan trọng là cần phải nâng cao nhận thức, tư duy của người
dân về vấn đề này, đồng thời chuẩn bị điều kiện để xây dựng Luật an tử.
3.3. Các giải pháp liên quan đến quyền an tử ở Việt Nam
Để có thể xây dựng được Luật An tử ở Việt Nam, trước tiên cần có
những biện pháp để nâng cao nhận thức của người dân, giúp họ hiểu rõ về bản
chất quyền an tử và dần dần chấp nhận nó đồng thời chuẩn bị những điều kiện
cần thiết để có thể xây dựng Luật An tử. Cụ thể:
3.3.1. Nhóm giải pháp nâng cao nhận thức về Quyền an tử
- Phổ biến, tuyên truyền kiến thức về Quyền an tử thông qua sách, báo,
phương tiện truyền thông.
Ở nước ta hiện nay, so với các nước trên thế giới thì nhu cầu an tử ở
nước ta không cao. Việc nhận thức về nhóm quyền này trong đại bộ phận
nhân dân còn hết sức hạn chế. Đại đa số những người có biết về an tử thì lại
cho đó là hành vi giết người, trái với đạo đức xã hội… Vì thế, việc giúp nhân
dân hiểu rõ bản chất của quyền an tử là việc cần thiết.
Một số kênh có thể áp dụng để tuyên truyền, giáo dục về quyền an tử như:
+ Đăng trên các báo, tạp chí về vần đề quyền an tử. Chúng ta nên phân
tích thực tiễn của Quyền an tử hiện nay trên thế giới và ở Việt Nam; phân tích
mục đích tốt đẹp của quyền này để từ đó dần dần thay đổi nhận thức của
người dân.
+ Thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng: ngày nay, công
nghệ thông tin ngày càng phát triển, sức mạnh của phương tiện truyền thông
trong việc phản ánh các vấn đề xã hội ngày càng mạnh mẽ. Vì thế, việc đăng
trên các phương tiện truyền thông là kênh hữu ích nhất để người dân có thể
tiếp thu vấn đề này.
+ Tổ chức các buổi tuyên truyền, trao đổi về Quyền an tử tại các địa phương,
52
các khu dân cư, tổ dân phố… hay phát trên đài phát thanh của các địa phương.
Nội dung tuyên truyền cần đảm bảo: phân tích được bản chất, mục đích
nhân đạo của quyền an tử; nêu những quan điểm ủng hộ, chỉ ra những ý kiến
phản đối từ đó phân tích cái đúng cái sai của mỗi ý kiến để người dân nhận
thức đúng bản chất vấn đề; đồng thời phổ biến kiến thức về thực hiện quyền
an tử (đặc biệt là điều kiện, yêu cầu để có được quyền này).
- Tổ chức các cuộc thăm dò, lấy ý kiến người dân.
Thăm dò ý kiến dư luận đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng
Luật an tử. Bởi lẽ, kết quả thăm dò không chỉ phản ánh nhu cầu, quan điểm
của người dân mà còn góp phần phổ biến kiến thức đến đại bộ phận nhân dân.
Việc này không những giúp người dân biết về an tử, tiếp cận nó đồng thời biết
được quan điểm, ý kiến người dân về vấn đề này. Các ý kiến trong kết quả
thăm dò sẽ là cơ sở trong quá trình xây dựng Luật An tử. Như vậy, nếu được
ban hành, Luật An tử sẽ phù hợp với nguyện vọng của người dân, dễ đi vào
cuộc sống.
- Thống kê tình hình số lượng bệnh nhân đang mắc bệnh giai đoạn cuối,
xin được chết.
Việc thống kê số lượng người có nguyện vọng hưởng thụ quyền an tử
nên quy định thuộc thẩm quyền của hai cơ quan: Cơ quan y tế (Bộ y tế) và Cơ
quan hành chính địa phương quản lý vấn đề khai sinh - khai tử (UBND cấp xã
nơi người có nguyện vọng cư trú). Việc công bố công khai, minh bạch những
số liệu thống kê này sẽ giúp cho cộng đồng hiểu rõ không phải chỉ có một vài
người mong muốn quyền an tử, từ đó thấy được nhu cầu thực tiễn, tính cấp
thiết của việc xây dựng Luật an tử.
3.3.2. Nhóm giải pháp về hoàn thiện quy chế pháp lý về Quyền
an tử
- Học hỏi kinh nghiệm của các nước đã hợp pháp hóa an tử để xây dựng
Luật an tử phù hợp với Việt Nam.
Có thể thấy, hiện nay trên thế giới có khá nhiều quốc gia đã hợp pháp
53
hóa an tử. Việt Nam có thể học hỏi, tiếp thu những điều phù hợp với hoàn
cảnh đất nước để xây dựng Luật An tử ở Việt Nam. Một số cách thức để hiện
thực hóa điều này như: mời các chuyên gia nước ngoài về lĩnh vực an tử trợ
giúp, tạo điều kiện cho một số cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài để
từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. Ngoài ra, Nhà nước Việt Nam cũng
cần hợp tác với Nhà nước các Quốc gia để có trao đổi về tư duy lập pháp,
thực tiễn cũng như những vấn đề bất cập khi thi hành quyền an tử để có chính
sách phù hợp với đất nước.
- Sửa đổi bổ sung các quy định pháp luật có liên quan trong hệ thống
pháp luật hiện hành cho phù hợp với Luật An tử khi được ban hành, đặc biệt
là Bộ luật dân sự và Bộ luật Hình sự.
Đây là việc hết sức quan trọng đối với Việt Nam. Luật An tử nếu được
ban hành sẽ dẫn đến không đồng bộ, thiếu tính thống nhất với các văn bản đã
ban hành trước đó. Những mâu thuẫn này sẽ tạo nên những rắc rối về mặt
pháp lý không chỉ đối với người dân mà ngay cả đối với cán bộ, công chức
nhà nước cũng không biết là phải dựa vào quy định nào của pháp luật để thực
thi công vụ trong các trường hợp quy định của pháp luật có sự mâu thuẫn,
chồng chéo và trùng lắp.
Thiết nghĩ có nên áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản
trong trường hợp này hay không? Việc dùng một văn bản để sửa nhiều văn
bản là một quy định tiến bộ, theo đó có thể tiến hành việc sửa đổi nhiều văn
bản ngay trong một văn bản thay vì phải sửa đổi lần lượt từng văn bản. Chính
vì vậy, với việc áp dụng kỹ thuật một văn bản sửa nhiều văn bản cho phép
một cơ quan khi sửa đổi một quy định của pháp luật sẽ đồng thời sửa ngay
những quy định có liên quan trong các văn bản quy phạm pháp luật khác do
mình ban hành để bảo đảm sự thống nhất giữa các quy định mới với với hệ
thống pháp luật, tránh xảy ra các trường hợp mâu thuẫn, chồng chéo, trùng
lắp với các quy định cũ trong hệ thống pháp luật. Chỉ trong trường hợp không
thể sửa ngay được các văn bản khác vì lý do khách quan, việc sửa đổi phức
54
tạp thì phải xác định rõ danh mục văn bản, điều, khoản, điểm của văn bản quy
phạm pháp luật do mình đã ban hành trái với quy định của văn bản quy phạm
pháp luật mới và có trách nhiệm sửa đổi, bổ sung trước khi văn bản quy phạm
pháp luật mới có hiệu lực để bảo đảm pháp luật được thống nhất của hệ thống
pháp luật.
Việc áp dụng phương thức một văn bản sửa đổi nhiều văn bản chỉ phát
huy được tối đa tác dụng bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật
trong điều kiện chúng ta tiến hành pháp điển hoá hệ thống quy phạm pháp
luật. Khi đó mọi quy định sau khi được sửa đổi và có hiệu lực sẽ được cập
nhật ngay vào các bộ pháp điển và do đó trong các lần sửa đổi sau chỉ cần rà
soát trên bộ pháp điển hoá.
3.3.3. Đề xuất mô hình khi luật hóa quyền an tử
Khi luật hóa Quyền An tử, sẽ phải có một hành lang pháp lý chặt chẽ để
tránh sự lạm dụng. Việc hợp pháp hóa an tử cho phép bác sỹ và bệnh nhân
thực hiện hành vi này mà không phải chịu trách nhiệm pháp lý hoặc nghề
nghiệp nào, nếu tuân thủ đúng quy định của pháp luật. Trên cơ sở tham khảo
quy định của pháp luật một số quốc gia cũng như phân tích thực trạng quyền
an tử hiện nay, có thể xây dựng mô hình của Luật an tử như sau:
Về các khái niệm
Đây là phần không thể thiếu trong bất kỳ luật nào, đặc biệt đối với Luật
An tử. Một số khái niệm Luật An tử cần giải thích như: Cái chết êm ả (an tử),
người đã thành niên, bệnh nhân, bệnh nan y, vô phương cứu chữa; tình trạng
giai đoạn cuối của bệnh, các biện pháp kéo dài sự sống, bác sỹ điều trị, hội
đồng bác sỹ, chúc thư y tế, người giám hộ, người đại diện…
+ Quyền an tử: trước hết cần giải thích thế nào là quyền an tử ở góc độ
bản chất của vấn đề.
+ Bệnh nan y: cần định nghĩa dựa trên đặc điểm bản chất, bệnh nan y có
thể được định nghĩa là bệnh không thể chữa trị và không thể phục hồi đã được
xác nhận y tế, sẽ dẫn tới cái chết không thể tránh khỏi cho người bệnh.
55
+ Tình trạng sống vô thức:
Từ ngàn xưa, chết là hậu quả của tim ngừng đập, phổi ngưng thở. Xác
định đó đầy đủ và chính xác nhất, dầu định nghĩa của chữ chết có thể không
đơn giản như vậy, vì tính thực nghiệm không thể tồn tại nếu không có những
liên đới và hổ trợ của các ngành khoa học tâm linh. Nhưng từ những năm 60
của thế kỷ 20, những tiến bộ y học, với phát minh các máy trợ sinh (life-
support technology), và các nguyên tắc cấp cứu được hệ thống hóa và phổ
biến, các bác sĩ đã có thể giữ cho tim vẫn đập, phổi vẫn làm việc để đưa
dưỡng khí đến nuôi dưỡng của các mô, bào, thì cái định nghĩa rất rõ ràng và
đầy đủ này đã được xét lại vì không còn hoàn toàn đúng để có thể áp dụng
cho mọi trường hợp tử vong. Vì tim đập, phổi làm việc không làm con người
tỉnh lại, và có ý thức. Do vậy, từ đầu thập niên 80, sự sống được định nghĩa
bằng hai yếu tố: tim, phổi còn làm việc, và não bộ còn sống. Và định nghĩa về
cái chết được xác định lại như sự ngừng đập của tim, phổi ngừng thở hay não
bộ ngưng hoạt động (loss of all independent lung and heart functions, or
irreversible cessation of all functions of the entire brain). Sở dĩ có sự phân
biệt rõ ràng như vậy vì có nhiều trường hợp não bộ đã chết, nhưng tim, phổi
vẫn làm việc, hoặc nhờ máy trợ sinh, hoặc do sự hoạt động dai dẵng của hệ
thần kinh tự trị. Như vậy, sống là mọi hoạt động của cơ thể nhằm giữ cho con
người có ý thức, và chết chỉ là một sự chuyển thái sinh lý tâm thức từ cỏi ý
thức qua vô thức. Tình trạng sống vô thức được xem là tình trạng sống như
thực vật hay tình trạng thực sinh từ danh từ y học permanent vegetative state.
Về điều kiện của chủ thể có Quyền được chết
Để thực hiện đúng bản chất của Quyền an tử, nhà làm luật nên quy định
chủ thể thực hiện quyền được chết phải thỏa mãn các điều kiện như:
- Là người đã thành niên (từ đủ 18 tuổi trở lên)
Như ở Hà Lan, có quy định an tử đối với trẻ em: bệnh nhân từ đủ 12
tuổi đến dưới 16 tuổi cần có ý kiến của gia đình, từ đủ 16 tuổi trở lên thì ý
kiến gia đình là không cần thiết. Theo ý kiến chủ quan của tác giả, không nên
56
quy định an tử cho trẻ em bởi đây là độ tuổi dễ bị lạm dụng vào mục đích xấu.
Với các nước phương Đông như Việt Nam, hủ tục trọng nam khinh nữ vẫn
còn rõ rệt hay vì những mục đích xấu như tranh giành tài sản… có thể làm
cho Luật bị lạm dụng.
- Đang phải chịu nhiều đau đớn về thể chất hoặc tinh thần hay đang sống
trong trạng thái thực vật kéo dài, dai dẳng sau một tai nạn hoặc mắc bệnh nan
y, vô phương cứu chữa.
- Tự nguyện đưa ra yêu cầu xin được chết, không chịu áp lực từ bên nào,
yêu cầu này phải được lặp đi lặp lại nhiều lần
- Yêu cầu được chết của bệnh nhân phải có người làm chứng, phải là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, không phải là bác sỹ điều trị cũng
như người thân hay người có liên quan tới tài sản của bệnh nhân.
- Có chúc thư y tế, nếu bệnh nhân lúc lập chúc thư chưa bước vào giai
đoạn cuối của bệnh tật.
- Không có vấn đề về tâm thần khi đưa ra quyết định xin được chết (lúc
xin chết tại thời điểm ở giai đoạn cuối của bệnh tật) hay lập chúc thư y tế (khi
chưa bước vào giai đoạn cuối của bệnh tật).
Bệnh nhân có quyền thay đổi quyết định bất cứ lúc nào. Như vậy, chúng
ta đã loại trừ các dạng bệnh nhân khác như người mặc bệnh tâm thần, người
thiểu năng trí tuệ, người già neo đơn bị bệnh tật…mà chỉ cho phép các bệnh
nhân thỏa mãn các điều kiện trên có quyền xin được chết.
Những quy định đối với bác sỹ
Có thể xác định những yêu cầu đối với bác sỹ khi thực hiện an tử như:
- Đã xác nhận được rằng quyết định của bệnh nhân là tự nguyện và đã
được xem xét cẩn trọng
- Đã có kết luận cuối cùng là bệnh nhân không còn sự lựa chọn hợp lý
nào khác, sự đau khổ của bệnh nhân là không giảm đi, không tránh được
cái chết.
- Phải hỏi ý kiến của 01 bác sỹ khác trước khi tiến hành an tử cho bệnh nhân
57
- Phải thực hiện thủ tục theo một trình tự nghiêm ngặt.
Ngoài ra, cũng cần quy định thêm: An tử chỉ nên được cho phép thực
hiện ở bệnh viện do các bác sỹ có chứng chỉ hành nghề đảm nhiệm. Cần một
bác sỹ chuyên chẩn đoán tình hình hiện tại của bệnh nhân là không thể cứu
chữa nữa. Đặc biệt quan trọng là việc ra quyết định kết luận cuối cùng về tình
trạng của bệnh nhân nên thông qua một hội đồng bác sỹ để đảm bảo tính
khách quan, chính xác, hạn chế sự lạm dụng vào mục đích xấu.
Quy định đối với cơ sở khám chữa bệnh
Ở một số quốc gia nơi Luật an tử có quá trình phát triển lâu dài như Bỉ,
Hà Lan, hành vi an tử được cho phép diễn ra tại nhiều nơi, thậm chí nhà của
bệnh nhân.
Theo một thống kê các trường hợp an tử tại Bỉ từ năm 2010 đến năm
2012, tổng số trường hợp là 2086, trong đó các trường hợp thực hiện an
tử tại bệnh viện chiếm 45%, bằng tỷ lệ các trường hợp an tử tại nhà.
Các trường hợp thực hiện an tử tại trung tâm chăm sóc y tế và địa điểm
khác chiếm lần lượt 7% và 3% [1].
Việc để bệnh nhân lựa chọn nơi thực hiện hành vi an tử một mặt giúp
cho việc di chuyển của bệnh nhân được dễ dàng, nhất là với những bệnh nhân
ở giai đoạn cuối, di chuyển khó khăn, mặt khác đáp ứng nguyện vọng của họ
nếu họ muốn an nghỉ tại quê nhà. Tuy nhiên, nếu việc an tử được thực hiện ở
địa điểm ngoài cơ sở khám chữa bệnh rất dễ có khả năng bị lợi dụng làm sai
lệch. Hơn nữa, việc thực hiện an tử nhiều khi cần đến sự hỗ trợ của máy móc,
thiết bị y tế mà chỉ có ở cơ sở khám chữa bệnh mới đầy đủ.
Như vậy, theo ý kiến cá nhân, hành vi an tử chỉ nên được thực hiện ở
các cơ sở khám, chữa bệnh đầy đủ điều kiện để thực hiện tốt yêu cầu này.
Bệnh viện cần có đội ngủ chuyên gia về vấn đề an tử, từ khâu chứng nhận
tình trạng bệnh nhân, bác sỹ thực hiện đến giám sát quy trình thực hiện để
đảm bảo an tử được thực hiện một cách nghiêm ngặt, chặt chẽ.
Quy định đối với yêu cầu an tử
Yêu cầu an tử phải được lập thành văn bản, trong đó nêu rõ tình trạng
58
bệnh lý của bệnh nhân, cam kết ý chí tự nguyện thực hiện an tử của bệnh
nhân. Yêu cầu phải có chữ ký của bệnh nhân và ít nhất hai người làm chứng.
Người làm chứng phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, một trong
số những người làm chứng không có quan hệ thân thích với người yêu cầu,
không được hưởng bất kỳ di sản nào của người yêu cầu sau khi người này qua
đời. Ngoài ra, kèm theo đơn yêu cầu phải có hồ sơ bệnh án và ý kiến bác sỹ
điều trị cho bệnh nhân chứng nhận tình trạng bệnh lý và khả năng tâm thần
của bệnh nhân.
Quy định đối với chúc thư y tế
Chúc thư y tế được lập khi bệnh nhân còn tỉnh táo, chưa bước vào giai
đoạn cuối, chưa chịu nhiều đau đớn. Trong chúc thư, bệnh nhân phải nêu rõ
những yêu cầu và những quyết định của mình, chỉ định người được ủy nhiệm
(nếu có) thay mình quyết định các vấn đề khi mất năng lực, ý chí. Người này
phải tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật và yêu cầu của bệnh nhân. Tất
nhiên, người này phải đồng ý làm người được ủy nhiệm bằng cách ký tên vào
chúc thư của bệnh nhân thì chúc thư mới có giá trị.
Trong y khoa, chúc thư xác định cho bác sĩ biết người bệnh muốn chọn
lựa phương pháp chữa bệnh trị liệu nào khi mình bị bệnh nặng không còn đủ
sáng suốt để quyết định nữa. Nội dung bản chúc thư bao gồm nhiều mục:
- Chỉ định một người làm đại diện cho mình để quyết định sự điều trị
thay cho mình khi không còn đủ sức quyết định lấy. Cho biết ý muốn của
mình để giới hạn sự điều trị nếu hoặc mình bị bệnh không chữa được và có
thể sẽ chết trong thời gian ngắn, hoặc mình bị hôn mê và có thể không tỉnh lại
nữa, hoặc có chữa cũng không ích lợi gì cả.
- Cho phép dùng thuốc chống đau tối đa dù nó có thể làm người bệnh
mau chết hơn.
- Cho biết một số nguyện vọng khác như vấn đề cho một hay nhiều cơ
quan của mình sau khi chết cho người khác để thay (transplantation).
Về nguyên tắc chúng ta nên tìm hiểu những điều cần biết chung quanh
59
chúc thư:
- Ðây là vấn đề tự nguyện, nhưng nên là, khi bệnh nhân lớn tuổi và bị
bệnh nặng.
- Có thể thay đổi ý kiến bất cứ lúc nào, không có ràng buộc gì cả.
- Bác sĩ phải tuân theo nguyện vọng của người bệnh như bản chúc thư đã
ghi rõ, người nhà của bệnh nhân không được làm khác những ý muốn của
bệnh nhân. Ðể tránh mâu thuẫn trong gia đình, khi làm chúc thư nên thảo
luận với toàn thể gia đình trước.
Quy định quy trình xin được chết và thực hiện an tử một cách nghiêm
ngặt, chặt chẽ.
Khi bệnh nhân yêu cầu quyền được chết thì nhất thiết phải thành lập
Hội đồng y khoa với đầy đủ bác sỹ, chuyên gia y tế, thần kinh, pháp lý… để
đánh giá khả năng khôi phục, khả năng chữa trị của bệnh nhân và quyết định
có thực hiện quyền được chết cho người bệnh hay không. Để đưa ra quyết
định cho phép ai đó “chết êm ái” cần phải có quy định, tư vấn, kiểm tra, kết
luận của hội đồng khoa học như: Bác sĩ chuyên khoa, bác sĩ tâm thần, luật sư
và cả chính quyền sở tại của người bệnh... Hội đồng này sẽ chứng thực các
điều kiện "được chết" theo đúng quy định. Người bệnh phải được công nhận
là hoàn toàn sống thực vật, không có khả năng cứu chữa hoặc người thân cạn
kiệt tài chính, không thể "nuôi" một người không còn nhận thức. Việc này
phải tuân thủ theo các trình tự, thủ tục nhất định.
Ngoài ra, Luật cũng cần quy định các biện pháp xử phạt hành chính đối
với các tổ chức, cá nhân vi phạm các quy định của luật mà chưa đến mức truy
cứu trách nhiệm hình sự. Đồng thời, Luật hình sự cũng cần bổ sung tội liên
60
quan đến Luật an tử của cá nhân.
KẾT LUẬN
Qua quá trình nghiên cứu, người viết đã nhận được rằng quyền an tử là
vấn đề khá nhạy cảm ở Việt Nam, pháp luật nước ta cũng chưa có quy định
nào về quyền này. Hợp pháp hóa quyền an tử là vấn đề còn gây nhiều tranh
cãi bởi tính phức tạp của nó trên nhiều lĩnh vực : Y học, chính trị, xã hội, tôn
giáo,… Vì vậy khi đề cập đến quyền an tử chúng ta cần thận trọng xem xét và
đánh giá từ nhiều góc cạnh. An tử tuy không phải là vấn đề thời đại hiện nay
nhưng là một vấn đề khó - khó lý giải, khó thuyết phục và khó được chấp
nhận. Chúng ta đã biết được tình hình quy định an tử hiện nay trên thế giới và
ở Việt Nam được đánh giá là còn chưa phù hợp, còn quá sớm.
Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng đưa ra được xu hướng đối với truyền
thống phương Đông là chỉ nên tiếp cận dần quyền an tử để chấp nhận chứ
không để thay đổi quan niệm. Đến thời điểm người ta vẫn tôn trọng sự sống
đồng thời chấp nhận an tử thì quyền an tử mới hòa hợp với thực tại, phát huy
được bản chất của mình. Như vậy, vấn đề quan trọng nhất là cần tạo ra sự
đồng thuận trong dư luận xã hội để làm sức mạnh bảo đảm các quy định pháp
luật được thực thi trong thực tế, đảm bảo quyền, nghĩa vụ của công dân.
Xu thế chung của các quốc gia trên thế giới đang dần công nhận quyền
an tử, thực tế cũng đã chứng minh rằng số lượng các nước chấp thuận quyền
được chết và xây dựng Luật An tử đang có xu hướng tăng dần trong các năm
qua. Kết quả nghiên cứu cũng khẳng định việc xây dựng Luật An tử ở Việt
Nam là vấn đề tương lai, tuy nhiên thực sự cần rất nhiều điều kiện để phù hợp
với hoàn cảnh Việt Nam và cũng phải tiên liệu trước những khó khăn gặp
phải khi quyền an tử có hiệu lực. Bên cạnh việc xây dựng các quy phạm chặt
chẽ hợp lí cần tuyên truyền, nâng cao nhận thức về quyền an tử. Vì vậy có thể
nhận thấy rằng chấp nhận quyền an tử như một quyền nhân thân không phải là
61
vấn đề đơn giản song không phải là không có triển vọng thực tế.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Việt Anh, Quyền được chết, chuyển giới tính có đưa vào luật?
xemhttps://vnexpress.net/thoi-su/quyen-duoc-chet-chuyen-gioi-tinh-co-dua-
vao-luat-2015685.html
2. GS-TS Nguyễn Đình Cử, Dự thảo luật “cái chết êm ái”: Nhân văn hay
trái truyền thống đạo đức?, xem http://anninhthudo.vn/van-de-va-du-luan/du-
thao-luat-cai-chet-em-ai-nhan-van-hay-trai-truyen-thong-dao-
duc/521183.antd
3. Nguyễn Mai Chi (2014), Quyền an tử - Những vấn đề lý luận và thực
tiễn, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội.
4. PGS-TS Nguyễn Hữu Đức, Nghĩ về quyền được chết, xem
http://nld.com.vn/suc-khoe/nghi-ve-quyen-duoc-chet-
20160901210804634.htm
5. PGS.TS Vũ Công Giao - ThS. Nguyễn Minh Tâm (2016), Quyền an tử
theo Luật Nhân quyền quốc tế, Pháp luật của một số quốc gia và gợi mở cho
Việt Nam trong cuốn: Thực thi các quyền hiến định trong Hiến pháp năm 2013
6. Lan Anh – Sơn Hà, Đề xuất quyền được chết vào bộ luật dân sự?,
xem,https://tuoitre.vn/phong-ve/de-xuat-dua-quyen-duoc-chet-vao-bo-luat-
dan-su-
737417.htm?fbclid=IwAR1sscuirjOANo9_8_5A2TwgHOPMKUXyK86duPs
T6zMjdu0jHgpTZIwbhSI
7. Minh Hạnh, Ngày càng nhiều người đến Thụy Sĩ tìm "quyền được
chết", xem https://anninhthudo.vn/the-gioi/ngay-cang-nhieu-nguoi-den-thuy-
si-tim-quyen-duoc-
chet/767859.antd?fbclid=IwAR3yrvVVnPLo5_9v_znIyJBZnmsIbicE-
t2a88aVCU2EpOigUkzOq2SbrBs
8. TS. Trần Mạnh Hùng, An tử và trợ tử: Tình hình tranh luận hiện nay,
xemhttp://www.sinhvienconggiao.com/8/1215/AnTuVaTroTuTinhHinhTranh
62
LuanHienNay.aspx
Công Khanh, Chưa quy định Quyền được chết vào Hiến pháp, xem 9.
https://www.tienphong.vn/xa-hoi/chua-quy-dinh-quyen-duoc-chet-vao-hien-
phap-652226.tpo
10. M.C, Cha mẹ Schiavo thua trong cuộc chiến pháp lý, xem
http://vnexpress.net/tin-tuc/the-gioi/cha-me-schiavo-thua-trong-cuoc-chien-
phap-ly-2023239.html
11. Trung Nhân, Đừng tưởng ai cũng có “quyền được chết”, xem
https://plo.vn/quoc-te/muon-mat/dung-tuong-ai-cung-co-quyen-duoc-chet-
639744.html
12. Diệu Linh, Đề xuất áp dụng cái chết êm ái, xem http://danviet.vn/tin-
tuc/de-xuat-ap-dung-cai-chet-em-ai-168417.html
13. Trương Hồng Quang, “Một số vấn đề cơ bản về quyền được chết và
vấn đề xây dựng Luật an tử ở Việt Nam”, Số Thông tin Khoa học Pháp lý
(Viện Khoa học Pháp lý – Bộ Tư pháp) tháng 3/2011, xem
http://www.phanblogs.info/2011/09/quyen-uoc-chet-right-to-die.html
14. Thu Thủy, Hà Lan: Luật “cái chết êm ả” bắt đầu có hiệu lực, xem
http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/ha-lan-luat-cai-chet-em-a-bat-
dau-co-hieu-luc-2252078.html
15. ThS. Nguyễn Thức Tuấn, Về “cái chết êm ái” tại Châu Âu, xem:
http://www.tapchihuongviet.eu/index.php/sc-khe-i-sng/i-sng-sp-
179961436/12346-ve-cai-chet-em-ai-tai-chau-au
16. Lê Minh Trường, Thực tiễn quyền nhân thân của cá nhân: Xin được
chết đúng ngày, giờ tốt, xem https://luatminhkhue.vn/kien-thuc-luat-dan-
su/thuc-tien-quyen-nhan-than-cua-ca-nhan--xin-duoc-chet-dung-ngay--gio-
tot.aspx
17. Thi Trân, Cái chết nhân đạo gây tranh cãi ở các nước, xem
http://suckhoe.vnexpress.net/tin-tuc/suc-khoe/cai-chet-nhan-dao-gay-nhieu-
tranh-cai-o-cac-nuoc-3204264.html
63
18. Wikipedia, Quyền được chết, xem
https://vi.m.wikipedia.org/wiki/Quy%E1%BB%81n_%C4%91%C6%B0%E1
%BB%A3c_ch%E1%BA%BFt?fbclid=IwAR0AlVafQGatcSJHHVntyy0mA
75WyiS7NxB0TWbbOYnDAQwlx85zVounyz8
19. Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người và Quyền Công dân, Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Giới thiệu công ước quốc tế về các
quyền dân sự và chính trị (ICCPR, 1996), NXB Hồng Đức, Hà Nội.
20. Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người và Quyền Công dân,Khoa
Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2012), Hỏi đáp về quyền con người, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
Tiếng Anh
21. Assisted suicide in Switzerland(1982 - ) 2006 – 2010, xem
http://sph12.organizers-
congress.ch/downloads/presentations/C1_2_Junker.pdf
22. Belgium’s grisly descent down euthanasia’s slippery slope, xem
http://pjsaunders.blogspot.com/2013/11/belgiums-grisly-descent-down.html
23. Belgium surprised at international backlash at euthanasia for minors, xem
http://blogs.reuters.com/faithworld/2014/02/14/belgium-surprised-at-
international-backlash-at-euthanasia-for-minors/
24. Human rights and euthanasia, xem
http://www.bioethics.org.au/Resources/Online%20Articles/Other%20Articles
/Human%20rights%20and%20euthanasia.pdf
25. Life, “A General History of Euthanasia”, xem
http://www.life.org.nz/euthanasia/abouteuthanasia/history-euthanasia1/
26. Oregon Death with Dignity Act 2018 Data Summary, xem
https://www.oregon.gov/oha/PH/PROVIDERPARTNERRESOURCES/EVA
LUATIONRESEARCH/DEATHWITHDIGNITYACT/Documents/year21.pd
f?fbclid=IwAR1xWQy2Y43nAu8mVGq4YGQoXIB4dou6DcOncGXB3FOf
64
Nnm6YHON0CzPkjs
27. ProCon.org (2010) Religious Concerns, xem
https://euthanasia.procon.org/view.timeline.php?timelineID=000022#500-bc-
16th-century-ad
28. Washington State Death With Dignity Act Report, xem
https://www.doh.wa.gov/Portals/1/Documents/Pubs/422-109-
DeathWithDignityAct2017.pdf?fbclid=IwAR3kY9e4sBf7WmZz1MKrw4_L
65
WSULsUUgf889MeZ7pkFiEPy2jzNrVn_0o50