TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
ĐẠI HỌC UEH
TRƯỜNG KINH TẾ, LUẬT VÀ QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
KHOA LUẬT
ĐỀ TÀI:
PICC VÀ CISG - ÁP DUNG PICC TRONG
VIỆC BỔ SUNG, GIẢI THÍCH CHO CÁC
ĐIỀU KHOẢN CỦA CISG
1
TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, thương mại quốc tế ngày một mở rộng, các quy tắc
điều chỉnh quan hệ thương mại quốc tế ngày càng trở nên quan trọng hơn. Với sự khác
biệt về phong tục, tập quán, pháp luật giữa các quốc gia, nhiều doanh nghiệp khi mở
rộng phạm vi phát triển ra nước ngoài gặp phải nhiều trở ngại, đặc biệt những rào
cản về mặt pháp lý. Để giải quyết những mối lo ngại về sự khác biệt về hệ thống luật
pháp giữa các quốc gia, nhiều nguyên tắc Điều ước, Công ước quốc tế đã ra đời
nhằm tạo ra một hệ thống pháp luật thống nhất, hài hòa những sự khác biệt của các hệ
thống pháp luật khác nhau trên thế giới. hiện nay, hai nền tảng pháp được xem
quan trọng phát triển nhất Bộ nguyên tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế
(PICC) Công ước của Liên hợp quốc về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế
(CISG). Đây những công cụ pháp luật được hình thành dựa trên nỗ lực của cộng
đồng quốc tế nhằm hài hòa và hiện đại hóa luật hợp đồng quốc tế. Song, qua thời gian
hình thành phát triển, nhiều luật gia trên thế giới đã nhận thấy sự hài hòa, thống
nhất giữa chính PICC và CISG. Do đó, nội dung của bài báo cáo là để làm rõ hơn mối
quan hệ giữa PICC CISG, đặc biệt sự hỗ trợ của PICC trong việc giải thích, bổ
sung cho CISG.
2
TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN
1. Tổng quan về Công ước Viên 1980
1.1. Giới thiệu
Công ước Vn 1980 về Hợp đồng Mua bán Hàng hóa Quốc tế (gọi tắt CISG)
được soạn thảo phát triển bởi Ủy ban Liên hợp quốc về Luật Thương mại quốc tế
(UNCITRAL)1 với mục tiêu hướng tới một nguồn luật chung trong tạo lập thực
hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế trên thế giới. CISG còn được gọi Công
ước Viên vì nó được ký ban đầu tại Viên vào năm 1988.
Mục tiêu mà các nhà làm luật khi soạn thảo CISG là xây dựng một nền tảng pháp lý
thống nhất từ những nguyên tắc chung trong thương mại quốc tế, hướng đến sự hài
hòa giữa nhiều hệ thống pháp luật khác nhau trên thế giới, là công cụ để giải quyết các
tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại quốc tế, củng cố hành lang pháp
cho các thương nhân khi tiến hành giao kết các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế,
từ đó góp phần thúc đẩy hoạt động thương mại giữa các quốc gia.
CISG được nhìn nhận một thành tựu to lớn của UNCITRAL, với 94 quốc gia
thành viên (tính đến năm 2020) đến từ “mọi khu vực địa lý, mọi giai đoạn phát triển
kinh tế mọi hệ thống luật pháp, hội kinh tế”, trong đó bao gồm hầu hết các
nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đức, Pháp... CISG được coi
là khung pháp lý đồng nhất, hiện đại về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và có sức
ảnh hưởng rộng nhất trên toàn thế giới hiện nay, gần số lượng hợp đồng quốc tế
được điều chỉnh bởi CISG.
CISG là một cam kết quốc tế giữa các quốc gia. Thế nên, CISG có hiệu lực pháp lý
cao hơn luật quốc gia đối với bất kỳ giao dịch quốc tế nào giữa các quốc gia khi ký kết
tham gia Công ước. Điều này đồng nghĩa, so với luật của các quốc gia thành viên,
CISG được ưu tiên áp dụng để điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Bởi
tính ràng buộc này rất nhiều quốc gia đã tỏ ra e ngại khi kết CISG. để thu
hút các quốc gia tham gia hiệp ước, đã có một vài thỏa hiệp được xây dựng thông qua
các điều khoản về phạm vi áp dụng của CISG. Theo đó, dựa trên nguyên tắc tự do hợp
1 “Giới thiệu chung về Công ước Viên, Trung tâm WTO.
https://trungtamwto.vn/chu_de_khac/304-gioi-thieu-chung-ve-cong-uoc-vien/1
3
TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
đồng, các quốc gia thành viên hoàn toànquyền bảo lưu một phần hoặc toàn bộ các
điều khoản được quy định trong CISG.
1.2. Phạm vi điều chỉnh
Đầu tiên, một điều kiện tiên quyết để một hợp đồng thuộc phạm vi điều chỉnh của
CISG thì hợp đồng đó phải hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tính chất quốc tế
được CISG định nghĩa việc các bên tham gia trong hợp đồng phải trụ sở kinh
doanh tại các quốc gia khác nhau. Thông thường, tính chất quốc tế được nhìn nhận
sự chuyển dịch hàng hóa xuyên biên giới giữa các quốc gia, tuy nhiên, với CISG,
không quy định tiêu chí phải sự chuyển dịch hàng hóa qua biên giới xem xét
đến địa điểm kinh doanh của các bên, không lưu ý đến nơi giao kết hợp đồng, hay nơi
thực hiện hợp đồng. Bên cạnh đó, phạm vi điều chỉnh của CISG tương đối hẹp, cụ thể,
hợp đồng phải hợp đồng mua bán hàng hóa, không thể là các hợp đồng dịch vụ,
hoặc mua bán hàng hóa không mục đích thương mại, đấu giá,…. (theo Điều 2,
khoản 2 Điều 3 và Điều 5 CISG).
Tiếp đến, căn cứ theo khoản 1 Điều 1 của CISG về những trường hợp thuộc phạm
vi điều chỉnh của CISG, bao gồm:
“a.Khi các Quốc gia này là các Quốc gia thành viên của Công ước;
b.Khi các quy tắc pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một
Quốc gia thành viên Công ước.”2
Trong trường hợp nếu các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tếtrụ
sở kinh doanh tại các quốc gia khác nhau, và các quốc gia này là thành viên của CISG
thì Công ước sẽ mặc nhiên điều chỉnh hợp đồng mua bán hàng hóa trên. Bên cạnh đó,
CISG hiệu lực pháp cao hơn so với luật quốc gia, nên ngay cả khi các bên
tham gia không trụ sở kinh doanh tại quốc gia thành viên của Công ước nhưng
thỏa thuận áp dụng luật của quốc gia quốc gia này thành viên của CISG thì
CISG vẫn được ưu tiên áp dụng. Mặt khác, CISG còn được áp dụng khi các quy tắc tư
pháp quốc tế dẫn chiếu đến việc áp dụng luật của một Quốc gia thành viên Công ước.
Công ước Viên, mặc sự cam kết giữa các quốc gia, nhưng vẫn đề cao tính
pháp lý của sự thỏa thuận giữa người bán và người mua lên trên hết. Cụ thể, theo Điều
6 CISG, quy định rằng các bên quyền loại trừ một phần hoặc toàn bộ các điều
2 Khoản 1 Điều 1 CISG
4
TIỂU LUẬN LUẬT THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ
khoản của Công ước, hoặc sửa đổi hiệu lực của bất điều khoản nào của Công ước.
Quyền loại trừ sự áp dụng của Công ước cho hợp đồng của các bên là một quyền được
thừa nhận trong pháp quốc tế, thể hiện nguyên tắc tự do hợp đồng. Do đó, cho
các bên trụ s kinh doanh tại các quốc gia thành viên của Công ước thì vẫn
quyền được loại trừ sự điều chỉnh của Công ước. Thông thường, việc lựa chọn loại trừ
áp dụng CISG để các bên có thể thỏa thuận áp dụng luật quốc gia, bởi lẽ, mỗi bên
đều quen thuộc với luật bán hàng nội địa của riêng mình và mong muốn hợp đồng của
họ được điều chỉnh bởi luật nội địa. hai cách để loại trừ việc áp dụng CISG. Thứ
nhất, các bên thể lựa chọn áp dụng luật của một nước không phải thành viên của
Công ước. Thứ hai, CISG tính chất pháp vượt lên trên luật quốc gia nên vẫn
được ưu tiên áp dụng khi giải quyết tranh chấp, do đó, nếu không muốn chịu sự điều
chỉnh của CISG, các bên cần quy định cụ thể về việc loại bỏ sự áp dụng của CISG,
chẳng hạn, hợp đồng cần ghi “Luật của quốc gia sẽ được sử dụng luật của hợp
đồng Công ước Viên cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế sẽ không được áp
dụng”, nếu không CISG vẫn được áp dụng.
Mặt khác, trong trường hợp các bên thỏa thuận áp dụng luật của nước là thành viên
của Công ước nhưng quốc gia này bảo lưu một phần hoặc toàn bộ các điều khoản
của CISG thì tùy vào từng trường hợp cụ thể phạm vi áp dụng ca CISG sẽ khác
nhau.
2. Tổng quan về Bộ quy tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC)
2.1. Giới thiệu
Bộ nguyên tắc về Hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) do Viện Thống nhất
pháp Quốc tế (UNIDROIT) soạn thảo và ban hành năm 1994, được sửa đổi và bổ sung
vào các năm 2004, 2010, 2016. Đây văn bản tập hợp những nguyên tắc pháp
bản phản ánh những khái niệm đã được công nhận phần lớn các hệ thống pháp luật
trên thế giới.
Khi soạn thảo PICC, mục đích của những nhà sáng lập không chỉ dừng lại việc
xây dựng một hệ thống hóa các nguyên tắc hợp đồng phổ biến đa số các quốc gia,
trên hết để hướng tới một cách giải quyết công bằng chung, nhiều tiện ích
nhất cho cộng đồng thương mại quốc tế, được nhìn dưới một góc độ của bất cứ hệ
5