ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ NHẬT HUỆ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC

MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH: LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-L

HÀ NỘI – 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.

Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và

được trích dẫn đầy đủ theo quy định.

Tác giả

Nguyễn Thị Nhật Huệ

2

LỜI CẢM ƠN

Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Thị Lan Phương, người đã

tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này.

Tôi cũng sinh gửi lời càm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tại Khoa Luật –

ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn gia đình và bạn bè đã bên cạnh

động viên tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp

Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi

những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy

cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.

Tác giả

Nguyễn Thị Nhật Huệ

3

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 1

LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 3

MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6

Tính cấp thiết của đề tài: .................................................................................................................... 6 I.

Tình hình nghiên cứu đề tài:.............................................................................................................. 7 II.

Đối tượng nghiên cứu: ....................................................................................................................... 8 III.

IV. Mục đích nghiên cứu: ......................................................................................................................... 8

Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................................. 8 V.

Ý nghĩa khoa học của đề tài: ............................................................................................................. 9 VI.

VII. Kết cấu khóa luận: ............................................................................................................................... 9

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT

VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 10

1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ .................................................................. 10

1.1.1. Khái niệm mang thai hộ ................................................................................................................. 10

1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ ................................................................................................ 12

1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ .................................................................................... 16

1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong

việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ ...................................................................................................... 16

1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia quan hệ mang thai hộ .... 16

1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ............. 17

1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống ................................................................................. 17

1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội.................................................................................................................. 18

1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ............................................................................................. 18

1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới............................................................ 19

1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ ........................................................................ 20

1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ ................................................................... 21

1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ ......................................................................... 22

1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ ......................................................................................... 22

1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ ....................................................................................... 25

1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..... 26

1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia ....................................... 26

1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức ................................... 29

4

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ

MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM ........................................................................ 33

2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ .................................................................................................. 33

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam ............. 33

2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam .... 50

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ ............................................................................... 56

2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ .................................................................. 56

2.1. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................................................................. 60

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG

CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT

NAM..................................................................................................................... 64

3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mang thai hộ ......................................................................... 64

3.1.1. Hoàn thiện một số các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình về mang thai hộ ............. 64

3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ .................................................. 69

3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ ................................................ 69

3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật

về mang thai hộ ................................................................................................................................................. 70

KẾT LUẬN .......................................................................................................... 72

TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 73

5

MỞ ĐẦU

I. Tính cấp thiết của đề tài:

Tổ chức Y tế thế giới (WTO) dự báo: Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy

hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này

dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam. Ước muốn có

được những đứa con là nguyện vọng rất chính đáng của những cặp vợ chồng

hiếm muộn. Vì thế, đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho quá trình mang thai ra đời,

từ phương pháp thụ tinh ống nghiệm cho đến việc mang thai hộ hay đẻ thuê đã

gây ra những tranh cãi phức tạp.

Ở Việt Nam, hằng năm có khoảng 500-700 cặp vợ chồng cần sử dụng các biện

pháp y tế hỗ trợ để có con, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn ngày càng nhiều. Trước khi

Luật hôn nhân và gia đình 2014 sửa đổi và bổ sung có hiệu lực thì mang thai hộ

là vấn đề bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, do nhu cầu của các cặp vợ chồng khao

khát có con nên đã xuất hiện những bên “cung”, là những đường dây cung cấp

dịch vụ mang thai hộ ngầm ngoài thị trường nhằm mang mục đích thương mại.

Vì thế, đi kèm theo đó là phát sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến cả 2 bên về

pháp lý và hợp đồng, gây khó khăn cho cơ quan chức năng có trách nhiệm xử lý.

Trước tình hình đó, những quy định pháp luật điều chỉnh về mang thai hộ đã

được Quốc Hội thông qua, điều chỉnh và bổ sung trong Luật Hôn nhân và Gia

đình năm 2014 .Đi kèm đó là những văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành để

đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Việc quy định về mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo là 1 bước tiến rất mạnh và tiến bộ của pháp luật

Việt Nam, đáp ứng vấn đề chính đáng của các cặp vợ chồng hiếm muộn, giúp

duy trì hạnh phúc gia đình bởi đã có nhiều trường hợp “ngang trái” với những

hành vi “ông ăn chả, bà ăn nem” bên ngoài quan hệ hôn nhân hợp pháp để có con

nối dõi. Việc quy định pháp luật như vậy đã tránh sự lạm dụng của các trường

hợp vì mục đích thương mại như “đẻ thuê” hay lạm dụng tình dục, lợi dụng việc

“đẻ thuê” để cưỡng đoạt tài sản,… Với những đổi mới về pháp luật cho thấy sự

thay đổi nhận thức của các nhà làm luật Việt Nam khi quan tâm nhiều hơn đến

vấn đề gia đình, thể hiện xu hướng hòa nhập quốc tế về khía cạnh mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo. Việc xác định quan hệ trong gia đình có ý nghĩa rất lớn

đối với duy trì xã hội ổn định.

Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề pháp lý liên quan khá phức tạp về việc áp

dụng pháp luật vào thực tiễn khi mà đi sâu vào cuộc sống, pháp luật đã thể hiện 6

nhiều sự bất cập, gây khó khăn cho những cặp vợ chồng vô sinh muốn có con với

lí do chính đáng như việc quy định về điều kiện về người mang thai hộ và người

nhận mang thai hộ, xác định quan hệ cha mẹ con,…và hơn nữa là dù đã quy định

nhưng vấn đề mang thai hộ vì mục đích thương mại vẫn còn tồn tại do chế tài xử

lý chưa thật sự thắt chặt. Điều đó thể hiện những quy định pháp luật chưa đi sát

và giải quyết gốc rễ các vấn đề liên quan trong khi tình hình xã hội càng ngày

càng phát triển và nảy sinh nhiều trường hợp “khó xử lý”. Do đó luôn cần hoàn

thiện pháp luật để có thể theo kịp được sự phát triển của xã hội trong vấn đề về

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Em nhận thấy việc nghiên cứu tổng quan về

quản lý thực hiện cũng như thực trạng và thực thi pháp luật để tìm ra và đề xuất

những giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới là rất cần thiết.Chính

vì thế, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở

Việt Nam hiện nay” nhằm nghiên cứu cụ thể và rõ ràng hơn về vấn đề này.

II. Tình hình nghiên cứu đề tài:

Mang thai hộ là một vấn đề rất mới trong quy định pháp luật Việt Nam, cụ thể

hơn là pháp luật về Hôn nhân và Gia đình. Sở dĩ như vậy là do trước đây, pháp

luật nước ta nghiêm cấm hành vi này vì cho rằng đó là vi phạm đạo đức và xâm

phạm quan hệ giữa cha mẹ con, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện thiên chức của

mỗi người. Tuy vậy, trước tình hình xã hội, chúng ta đã có cái nhìn khác và đã đề

cập đến vấn đề dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện sự kiểm

soát của Nhà nước và cũng là mở ra con đường sang hơn cho các cặp vợ chồng

vô sinh, hiếm muộn.

Qua tìm hiểu thực tế, em thấy đây là 1 vấn đề có tính lý luận và áp dụng thực

tiễn cao. Sau khi luật Hôn nhân và gia đình 2014 được Quốc Hội thông qua và có

hiệu lực, đã có nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này

như: Nguyễn Thị Hương, “Một số vấn đề pháp luật về mang thai hộ”, khoa dân

sự, trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về

MTH ở Việt Nam” , Tạp chí Luật học số 06/2016; Nguyễn Văn Lâm, “Bàn về

mang thai hộ theo quy định pháp luật Việt Nam, tạp chí Kiểm sát 04/2016;

Nguyễn Thị Lan, “Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh”, tạp chí Luật học số

04/2015….Hay là những luận văn nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Một số vấn

đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ” - Bùi Thị Hoa, 2014; Luận văn thạc sĩ

“Pháp luật kiểm soát mang thai hộ ở Việt Nam” – Trần Thị Thu Hằng, 2018;

Luận văn thạc sĩ “Hợp đồng mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam” – Nguyễn 7

Thị Phượng, 2019,… Cùng nhiều tác phẩm nghiên cứu, bài viết của các tác giả

khác có liên quan đến vấn đề này.

Những công trình nghiên cứu nêu bên trên đã phân thích, đánh giá và có những

kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và thực hiện quy

định pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo nhiều khía cạnh. Mặc

dù vậy, đề tài về mang thai hộ vẫn không mất đi tính thời sự của nó và còn ẩn

chứa nhiều bất cập khi đưa vào áp dụng thực tiễn. Chính vì thế bài khóa luận này

em sẽ cố gắng nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng của vấn đề mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Để từ đó có cái

nhìn khách quan hơn, chỉ ra những ưu điểm và những điểm còn hạn chế của pháp

luật. Dựa theo đó kiến nghị sửa đổi những bất cập và đóng góp xây dựng hoàn

thiện pháp luật để các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ được đảm bảo tuyệt

đối về quyền và nghĩa vụ, ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì mục đích thương

mại xảy ra gây rào cản về pháp luật.

III. Đối tượng nghiên cứu:

Đối tượng nghiên cứu: Luận văn “Hoàn thiện pháp luật mang thai hộ ở Việt

Nam” tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật

Việt Nam về vấn đề mang thai hộ để từ đó chỉ ra các điểm bất cập và hoàn thiện

pháp luật.

Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khac nhau, song do giới hạn

của luận văn, tác giả xin phép chỉ đi sâu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội

dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, các tiêu chí hoàn thiện, các

yếu tố ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật quốc gia về mang thai hộ đến

việc tìm hiểu pháp luật mang thai hộ ở một số quốc gia; thực trạng pháp luật và

những nguyên nhân, hạn chế đề từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện

pháp luật về mang thai hộ.

IV. Mục đích nghiên cứu:

Khóa luận nghiên cứu những khía cạnh pháp lý cơ bản về lý luận của mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo, những quy định của pháp luật hiện hành đối với vấn đề

này nhằm tiếp cận cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thời, có sự khái quát, khách quan,

toàn diện hơn, góp phần hoàn thiện quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo nói riêng và Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nói chung.

V. Phương pháp nghiên cứu

8

Để đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, trong quá trình nghiên

cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp tổng hợp, bình luận: sử dụng trong chương 1 khi

nghiên cứu vấn đề chung về khái niệm, nội dung, vai trò, ý nghĩa của việc mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo; pháp luật một số nước trên thế giới và các tiêu chí

hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ.

- Phương pháp phân tích, thống kê: sử dụng ở chương 2 khi phân

tích từ pháp luật những hạn chế, vướng mắc về quyền và nghĩa vụ của các bên;

chế tài áp dụng xử lý khi xảy ra vi phạm khi thực hiện mang thai hộ; đưa ra

những trường hợp xảy ra khi áp dụng pháp luật về mang thai hộ diễn ra trong

thực tiễn cuộc sống để từ đó đưa ra kiến nghị về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh

vực này ở chương 3.

VI. Ý nghĩa khoa học của đề tài:

Có cái nhìn khái quát và toàn diện hơn về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,

đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật để từ đó các cặp vợ

chồng rơi vào trường hợp hiếm muộn có nhu cầu có con hợp pháp có thể yên tâm

áp dụng, đồng thời, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể tham gia vào

quan hệ pháp luật này.

VII. Kết cấu khóa luận:

Khóa luận được chia làm 3 chương:

- Chương I: Một số vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về mang

thai hộ ở Việt Nam hiện nay

- Chương II: Thực trạng pháp luạt và thực hiện pháp luật trong lĩnh

vực mang thai hộ ở Việt Nam

- Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ

9

CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP

LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ

1.1.1. Khái niệm mang thai hộ

Vô sinh là điều không mong muốn ở các cặp vợ chồng hiện nay. Tuy nhiên,

bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản, không ít cặp vợ chồng đã có thể chào đón em bé

ra đời. Hiểu đơn giản, đó là những biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp

vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích cao cả là giúp những người

hiếm muộn, vô sinh có thể mang thai và được thực hiện thiên chức của mình.

Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của

khoa học kỹ thuật, giải quyết được tình trạng vô sinh của cả nam và nữ do ảnh

hướng của nhiều yếu tố bên ngoài như môi trường, hóa chất,… hoặc đến từ sự

cấu tạo cơ địa của mỗi người gây khó khăn cho quá trình mang thai. Sự phát triển

tích cực từ y học này đã đem lại rất nhiều hi vọng và hạnh phúc cho các cặp vợ

chồng hiếm muộn có nhu cầu có con trên Thế giới nói chung và ở Việt Nam nói

riêng. Vì vậy, vô sinh là nguyên do dẫn đến sự hình thành các phương pháp hỗ

trợ sinh sản, trong đó có phương pháp mang thai hộ.

Ở Việt Nam, trước khi Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành, các

khái niệm “mang thai hộ” và “chửa hộ”, “đẻ thuê” đã được sử dụng rộng rãi và phổ

biến.Tuy nhiên, nội dung và ý nghĩa của các khái niệm này chưa có sự đồng nhất,

thậm chí có sự đánh đồng giữa các khái niệm.

Có người hiểu rằng “mang thai hộ” là việc người đàn ông (người chồng) quan

hệ (sinh lý) trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với một người phụ

nữ (không phải là vợ), cho đến khi người phụ nữ này thụ thai, mang thai và sinh

con. Trong trường hợp này, đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người đàn ông

(người chồng) kết hợp với noãn của người phụ nữ (không phải vợ). Thực tế ở

Việt Nam hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng vì lí do nào đó mà không thể có con

chung tự nhiên (như người vợ bị dị tật mà không thể thụ thai và sinh con; hoặc

người vợ không có tử cung do bệnh tật đã phải cắt bỏ,…) nên hai vợ chồng đã

bàn bạc, thỏa thuận để cho người chồng có quan hệ (sinh lí) trực tiếp với một

người phụ nữ khác (đã đồng ý) để thụ thai, mang thai và sinh con cho cặp vợ

chồng vô sinh và người phu nữ nhận “mang thai hộ” có thỏa thuận với nhau về

thù lao (tiền hoặc tài sản) cho việc mang thai hộ này. [1, tr11,12]

10

“Đẻ thuê” hiểu một cách đơn giản là việc bên thuê đẻ và bên để thuê có thỏa

thuận với nhau theo đó bên thuê đẻ sẽ trả cho bên đẻ thuê tiền hoặc tài sản, còn

bên đẻ thuê sẽ mang thai, sinh con và trao con cho bên đẻ thuê.

Với thực tế hiện nay cho thấy, việc đánh đồng khái niệm mang thai hộ với đẻ thuê,

đẻ mướn không còn phù hợp, nó khiến vấn đề trở nên phức tạp và nhạy cảm hơn,

không còn phù hợp với thuần phong mỹ tục cũng như luật pháp của người Việt Nam.

Đã đến lúc phải hiểu mang thai hộ theo đúng ý nghĩa của nó, phù hợp với chế độ nhà

nước và hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.

Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, những việc làm trên không

được luật pháp bảo hộ và xã hội lên án. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là

thụ tinh ống nghiệm cho phép lấy tinh trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra khỏi cơ

thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi vào tử

cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, kỹ thuật mang thai hộ chính danh mới

có thể được thực hiện. Với thụ tinh ống nghiệm, chúng ta mới có kỹ thuật mang thai

hộ đúng nghĩa.

Mang thai hộ có thể hiểu đơn giản là trường hợp sau khi thụ thai trong ống

nghiệm, nếu người mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang

thai, phải nhờ đến người phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ. Có nhiều khái niệm

và cách hiểu khác nhau về vấn đề này nhưng theo tác giả, để hiểu chuẩn về mặt

pháp lý thì trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có định nghĩa rất rõ

ràng tại khoản 22 điều 3: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người

phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ

chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ

thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người

chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự

nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”.

Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên nguyên tắc tự

nguyện của cả 2 bên và đáp ứng các điều kiện và yêu cầu của pháp luật là “người

phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại”. Có nghĩa, người mang thai hộ

sẽ không vì mục đích kinh tế hay bất kỳ mục đích nào khác để mang thai giúp

cặp vợ chồng không thể sinh con. Việc quy định như vậy giúp phân biệt giữa

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại –

điều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, được quy định rõ trong Bộ luật hình sự.

11

Pháp luật cũng quy định rất rõ điều kiện để nhờ người mang thai hộ ở đây là

người vợ ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác mà vẫn không

thể có con, thì mới được tìm đến biện pháp này như một cách “mượn tử cung”

của người phụ nữ khác.

Không chỉ thế, khái niệm trên đã đưa ra và quy định phương thức thực hiện

mang thai hộ phải được thực hiện bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm,

tức là “lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong

ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ được nhờ mang thai và

sinh con”.Như vậy, về mặt khoa học, noãn của người phụ nữ, tinh trùng của

người đàn ông không phải là kết quả của sự kết hợp tự nhiên, trực tiếp giữa vợ và

chồng mà phải nhờ vào biện pháp hỗ trợ y tế của các bác sỹ chuyên ngành. Từ

noãn và tinh trùng lấy từ cơ thể vợ và chồng, bác sỹ thụ tinh trong ống nghiệm để

tạo thành phôi và cấy phôi thai vào tử cung người mang thai hộ. Qua đó có thể

thấy, việc mang thai hộ phải trải qua các trình tự nghiêm ngặt, không được “giúp

đỡ trực tiếp” giữa người chồng bên nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ [4,

tr18]. Điều đó có nghĩa con sinh ra sẽ có đặc điểm sinh học của cả vợ và chồng

nhờ mang thai hộ. Khác với cách trước khi có biện pháp này là người chồng phải

quan hệ trực tiếp hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của người nhận mang thai hộ.

Như vậy không đảm bảo về tính sinh học và bản chất thì hành vi này không thể

được coi là mang thai hộ.

1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ

1.1.2.1. Mang tính hợp đồng

Theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa

các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Yếu

tố thỏa thuận chính là yếu tố quyết định tạo nên hợp đồng. Đối với trường hợp

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, để được công nhận và đảm bảo thì các bên

tham gia vào quan hệ này phải tuân thủ theo các điều kiện quy định, phải có đầy

đủ giấy tờ chứng thực chứng minh giữa người nhờ mang thai, người mang thai

trước bên thứ 3 là pháp luật để được Nhà nước bảo hộ.

Ta có thể định nghĩa về hợp đồng mang thai hộ như sau:“Hợp đồng mang thai

hộ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của bên nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng

vô sinh với bên mang thai hộ là người phụ nữ tự nguyện mang thai vì mục đích

nhân đạo, nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan hệ pháp

luật về mang thai hộ”.[5, tr12]

12

Trong mang thai hộ, trước khi các chủ thể tiến hành hoạt động mang thai hộ thì

việc đầu tiên đó là các bên phải thỏa thuận với nhau những nội dung trong suốt

quá trình mang thai hộ. Nói nôm na, đó chính là sự bàn thảo để tạo nên một hợp

đồng dân sự mang tên hợp đồng mang thai hộ.

Hợp đồng mang thai hộ là một loại hợp đồng đặc biệt bởi đối tượng ở đây là

con người – đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Với loại

hợp đồng này, pháp luật phải có những quy định rất sát sao để có thể đảm bảo

được các quyền lợi của trẻ em. Với tính chất này, mục đích nhân đạo là cái cốt

lõi xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Trường hợp vì mục đích

thương mại hay có tính chất miễn cưỡng do bị đe dọa buộc phải chấp nhận hoặc

khi giao dịch người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình

thì không được chấp nhận. Vì vậy, hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu bởi trẻ em

không phải là món hàng trao tay, điều đó là vi phạm đạo đức con người và thuần

phong mỹ tục.

Quy định nội dung hợp đồng chặt chẽ là điều vô cùng quan trọng nhằm đảm

bảo tính pháp lý cho hợp đồng mang thai hộ đồng thời là căn cứ để giải quyết các

tranh chấp phát sinh trước tòa.

Hiện tại, pháp luật Việt Nam đã ban hành Mẫu số 06 thỏa thuận mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo, ban hành kèm theo Nghị định Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP

quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo.Thỏa thuận mang thai hộ này cũng được xem như một hợp đồng

mang thai hộ mẫu được pháp luật ban hành sẵn để các bên chủ thể dựa vào đó, có

căn cứ cũng như các điều khoản mẫu tiếp tục hoàn thiện những thỏa thuận của

mình. Trong hợp đồng này có đầy đủ thông tin của các chủ thể tham gia vào quan

hệ này.

Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ là tự nguyện, bình

đẳng và thỏa thuận, đặt lợi ích của đứa trẻ sinh ra từ mang thai hộ lên hàng đầu.

Mang thai hộ luôn đi kèm theo là những vấn đề pháp lý phức tạp và nhiều

trường hợp dễ dẫn đến tranh chấp. Vì vậy hợp đồng mang thai hộ cần rõ ràng chi

tiết bởi trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn thì các bên chủ thể trong quan hệ này

là những người có quyết định cao nhất trong việc đưa ra các phương án hành

động. Do vậy, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng ban đầu là căn cứ sát sao

và rõ ràng nhất để giải quyết tranh chấp.

13

1.1.2.2. Mang tính kiểm soát

Theo từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” được hiểu là xem xét để phát hiện, ngăn

chặn những gì trái với quy định, được đặt trong phạm vi, quyền hành của một đối

tượng nào đó.

Từ khái niệm trên có thể hiểu kiểm soát pháp luật về mang thai hộ là cá nhân,

một nhóm người, một tổ chức theo dõi, xem xét, đánh giá, đối chiếu với những quy

định đã được đặt ra xem những cá nhân, nhóm người hay tổ chức nào đó có tuân

thủ đúng với những quy định đó hay không. Nếu phát hiện ra có những hành vi

trái với quy định đã được đặt ra thì phải kịp thời ngăn chặn, tránh để xảy ra hậu

quả xấu [4, tr18]

Có nghĩa, Nhà nước sẽ ban hành các văn bản pháp luật, quy định các điều kiện

về mang thai hộ, các quy định sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc thỏa

thuận của các bên, việc xác định cha mẹ con và giải quyết các tranh chấp pháp

sinh. Tính kiểm soát của pháp luật ở đây bao quát cả tính hợp đồng thỏa thuận

giữa các bên để đảm bảo được các vấn đề pháp lý liên quan trong trường hợp có

phát sinh tranh chấp và đồng thời kiểm soát bằng các biện pháp y tế cụ thể, các

cách thức để thực hiện mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của

các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp

lý. Cụ thể để thực hiện mang thai hộ, các bên phải gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ

thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám chữa bệnh được phép

thực hiện kỹ thuật này, gồm:1. Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ

theo mẫu; 2. Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo

mẫu; 3. Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần

nào; 4. Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp

xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; 5. Bản xác nhận của

cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc

người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe,

tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con

ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sả; 6. Bản xác nhận của cơ sở khám

chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người

mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi

theo quy định sau: người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức

khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con;

không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh 14

truyền nhiễm thuộc nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ

sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,

làm chủ được hành vi của mình và đã từng sinh con; 7. Bản xác nhận của UBND

cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về

mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và

chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; 8. Bản xác

nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có

chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; 9. Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế

của bác sỹ sản khoa; 10.Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có

trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; 11.Bản xác nhận nội dung tư vấn về

pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; 12. Bản thỏa

thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và

bên mang thai hộ theo quy định. [4, tr20]

Để ràng buộc trách nhiệm của các bên với sự thỏa thuận của mình và để pháp

luật dễ kiểm soát, theo dõi thỏa thuận của hai bên, việc thỏa thuận giữa hai bên

tham gia vào thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công

chứng theo quy định của pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện rõ tinh thần

tự nguyện của các bên tham gia thỏa thuận mang thai hộ với quy định hai vợ

chồng bên nhờ mang thai hộ và nhận mang thai hộ đều phải tham gia ký kết thỏa

thuận, trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc

vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy

quyền phải lập thành văn bản có công chứng và việc ủy quyền cho người thứ ba

không có giá trị pháp lý. Việc quy định rõ về sự tự nguyện của các bên phải được

lập thành văn bản và có công chứng là điều kiện để pháp luật dễ dàng kiểm soát .

Hiện nay trên Thế giới có thể chia thành 4 nhóm: nhóm nước chưa có quy định,

nhóm nước phản đối, nhóm nước cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

và nhóm nước chấp thuận thương mại hóa. Dù tình hình xã hội và quan điểm

pháp luật của các quốc gia về mang thai hộ có khác nhau thì việc ban hành các

quy định để kiểm soát cũng đều hướng chung một mục đích là bảo vệ quyền lợi

của các bên tham gia vào quan hệ và đảm bảo ý chí của Nhà nước về vấn đề này

nhằm thỏa mãn các điều kiện và mục tiêu được đặt ra trước đó.

1.1.2.3. Mang thai hộ mang tính đạo đức

Có thể nói, cho phép “mang thai hộ” không phải là cho phép “đẻ thuê”. Cho

phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ định để bảo đảm quyền làm 15

mẹ chính đáng của mọi phụ nữ và người mang thai hộ không vì mục đích lợi

nhuận. Mang thai hộ là một thành tựu của y học, có thể nói là một tiến bộ vượt

bậc để biến mơ ước không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được trở thành hiện

thực. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một

người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc

mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết

và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình

1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ

1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền

hạn của các cơ quan trong việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ các cơ sở y tế khám bệnh,

chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; điều kiện

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và thẩm quyền cung cấp giấy xác nhận tình

trạng sinh sản cho các trường hợp vô sinh muốn thực hiện biện pháp mang thai

hộ. Ủy ban Nhân dân cấp xã là nơi đảm nhận việc xác nhận tình trạng quan hệ

hôn nhân, quan hệ giữa bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, tình

trạng đã có hoặc chưa có con chung,…Trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì

các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể là Tòa án nhân dân cấp

Huyện. Mọi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình

và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia

quan hệ mang thai hộ

Hai bên khi tham gia vào quan hệ này sẽ phải xác lập các quyền và nghĩa vụ lẫn

nhau. Điều này không chỉ được thể hiện dưới dạng thỏa thuận theo ý chí của bên

nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ mà còn phải dựa vào yêu cầu của pháp

luật về các nội dung thực hiện quyền. Pháp luật quy định rõ việc giải quyết hậu

quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản

cho người mang thai hộ trong thơi gian mang thai và sinh con, việc nhận con của

bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường

hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác

có liên quan.

Có thể nhận thấy, quy định về thời điểm phát sinh chấm dứt quyền và nghĩa vụ

của các bên trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hợp lý, một mặt

bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe của đứa trẻ từ khi còn là bào thai cho đến khi sinh 16

ra, bảo đảm đứa trẻ nhận được sự chăm sóc tốt nhất từ hai bên trong quan hệ

mang thai hộ, mặt khác bảo vệ quyền lợi, sức khỏe sinh sản cho người phụ nữa

mang thai hộ.

1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật

về mang thai hộ

1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống

Phong tục tập quán trở thành một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống

văn hóa và giá trị đạo đức, việc duy trì và phát triển phong tục tập quán là việc

làm cần thiết để bảo vệ bản sắc văn hóa và chuẩn mực đạo đức truyền thống của

dân tộc. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo

đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều

chỉnh các quan hệ xã hôi. Pháp luật chỉ thực sự phát huy được hiệu quả của nó

khi được nhân dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. Các nhà làm luật phải

căn cứ dựa theo các giá trị truyền thống để ban hành các quy định pháp luật phù

hợp với đặc điểm của dân tộc. Cơ sở đó là điều kiện khách quan giúp cho pháp

luật gần với đời sống của người dân, dễ dàng được người dân chấp nhận và thực

thi.

Thiên chức làm mẹ là vinh dự mà tất cả phụ nữ trên Thế giới đều hạnh phúc

mong đón nhận. Sự gắn kết giữa mẹ và con trong quá trình mang thai 9 tháng 10

ngày là sự thiêng liêng và đáng trân trọng. Trong cuộc sống, không có gì đáng

quý và cảm động hơn tình mẫu tử. Chính vì vậy mà trước đây, việc một người

mang thai và sinh con hộ người khác là điều không thể chấp nhận.

Đã có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo

đức, đi ngược lại phong tục, tập quán và truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ

là hành vi đáng lên án mà còn bị phản đối kịch liệt bởi quan niệm mang thai, sinh

con là công việc của người mẹ mà không thể trao thiên chức này cho một người

phụ nữ khác. Sự phản đối này là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ mang thai và sinh con là

đặc điểm riêng có ở người phụ nữ, thể hiện 21 tính đặc trưng của giống loài,

trong quá trình hình thành và nuôi dưỡng thai, với tất cả tình yêu thương của

người phụ nữ giành cho đứa trẻ đã hình thành nên sợi dây liên kết vô hình giữa

mẹ và con. Sự liên kết này tuy vô hình nhưng thiêng liêng và ý nghĩa.Tuy vậy

nhưng tạo hóa không phải lúc nào cũng công bằng với tất cả. Có những người

phụ nữ không có khả năng làm mang thai và sinh con, họ chỉ có thể trông cậy

vào các biện pháp hỗ trợ sinh sản và bước cuối là nhờ tới sự giúp đỡ của người 17

phụ nữ khác (ở đây không bàn tới trường hợp người phụ nữ vô sinh nhưng không

có nhu cầu nhờ mang thai hộ). Dù rằng nhờ người khác mang thai hộ đi ngược lại

với những thói quen và quan niệm văn hóa của người Việt nhưng trong trường

hợp này là vì mục đích nhân đạo cao cả nên dễ dàng được người dân chấp nhận.

Nhưng không đồng nghĩa với việc tất cả các quốc gia đều đồng thuận.Nhiều dân

tộc trên Thế giới coi đây là việc làm trái đạo đức và đáng bị lên án.

Như vậy, sự chấp nhận, ủng hộ hay phản đối của người dân về vấn đề mang thai

hộ là cơ sở để pháp luật hoàn thiện. Nếu pháp luật hợp lòng dân, đem lại lợi ích và

thỏa mãn tư duy của nhân dân thì việc thực hiện pháp luật sẽ được diễn ra một

cách tự giác. Vì vậy, trong việc xây dựng pháp luật về mang thai hộ cần phải nắm

bắt được tinh thần và quan điểm chung của xã hội khi ban hành các quy định.

1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội

Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, pháp luật là một bộ phận

của kiến trúc thượng tầng.Các điều kiện kinh tế là cơ sở hạ tầng. Trong mối quan

hệ biện chứng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, do 22 vậy, nội

dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định. “Sự thay đổi

của điều kiện kinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của

pháp luật để phù hợp. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, nó

không thể thấp hơn hay cao hơn trình độ phát triển của kinh tế”[7]

Muốn pháp luật phát huy được hiệu quả, pháp luật phải phù hợp với những điều

kiện cụ thể của xã hội ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản

ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện

nay, kinh tế và xã hội phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều hơn các các nhu

cầu mới trong đó có nhu cầu về mang thai hộ. Sở dĩ nhu cầu mang thai hộ nhiều

do tỷ lệ vô sinh của người phụ nữ ở nước ta ngày càng cao. Bên cạnh đó, xã hội

ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng phát triển đã góp phần làm tăng mức sống,

mức thu nhập của người dân, nhiều người có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật mang thai

hộ vì chi phí của việc mang thai hộ là rất cao. Như vậy, chính sự đặc trưng và phổ

biến của việc mang thai hộ đã đòi hỏi pháp luật cần nhanh chóng xây dựng các quy

định về mang thai hộ để điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến vấn đề này nhằm

hạn chế những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong thực tiễn cuộc sống.

1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật

Sau khi Luật được ban hành, Luật phải được thi hành. Pháp luật muốn thi hành

được đòi hỏi phải có các yếu tố đảm bảo "hiện thực hóa" các quy định đó trong 18

cuộc sống. Việc xây dựng pháp luật mang thai hộ trong giai đoạn hiện nay là phù

hợp nhờ vào những thành tựu phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh

vực y học. Quá trình mang thai hộ buộc phải có sự tham gia của các cơ sở y tế để

tiến hành các kỹ thuật đối với người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ, đây

là những kỹ thuật khó, đòi hỏi trình độ cao. Do đó, dù pháp luật cho phép mang

thai hộ nhưng nếu khoa học học kỹ thuật về lĩnh vực y học không phát triển cũng

không đủ điều kiện để thực hiện việc mang thai hộ trong thực tế.

Với những thành tựu kỹ thuật y tế về mang thai hộ của Việt Nam hiện nay được

giới chuyên gia nước ngoài đánh giá cao về sự tiến bộ và phát triển, đáp ứng

được các yêu cầu khoa học và chuyên môn. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc

xây dựng những quy định pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam. Nó không chỉ

là nền tảng khoa học để đưa ra khái niệm pháp lý liên quan mang thai hộ mà còn

là cơ sở thực tiễn để đưa ra những quy định về mang thai hộ có tính khả thi, hiệu

quả cao khi áp dụng vào thực tế. Do vậy, khi xây dựng các quy định pháp luật về

mang thai hộ, chúng ta không chỉ dựa trên nền tảng yếu tố phong tục tập quán,

tinh thần nhân đạo, điều kiện kinh tế xã hội mà còn dựa trên những thành tựu

cũng như định hướng phát triển của khoa học kỹ thuật để nâng cao tính thực tiễn,

tính khả thi cũng như hiệu quả lâu dài của quy định pháp luật. [6, tr20-23]

1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới

Theo phân tích điều tra về mang thai hộ thì trong tổng số 105 quốc gia

được thăm dò chỉ 71(68%) quốc gia trả lời câu hỏi về mang thai hộ. Hầu hết các

quốc gia không trả lời về thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ là vì lý do

tôn giáo. Trong số 71 quốc gia trả lời thì 15 (21%) quốc gia cho phép thụ tinh

trong ống nghiệm để mang thai hộ và được quy định trong luật, 13 (23%) quốc

gia có chủ trương, 30 (42%) quốc gia không cho phép và 10 (14%) quốc gia

không đề cập đến thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ. 17 trong tổng số 71

quốc gia (24%) việc thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ được thực hiện,

nhưng trong đó có 9 quốc gia không có quy chế hoặc hướng dẫn về vấn đề này.

(LV KSoat MTH)

Các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn đề mang thai

hộ. Có quốc gia thừa nhận, và đã luật hóa mang thai hộ nhưng có quy định điều

kiện chặt chẽ, có quốc gia không thừa nhận nhưng cũng không cho phép; có

nhiều quốc gia cấm hoàn toàn… Sở dĩ có sự khác nhau này là do: truyền thống,

19

phong tục, tập quán, chế độ xã hội cũng như vấn đề quản lý công dân, dư luận xã

hội, trình độ khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau.

1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ

Các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ được chia ra làm hai nhóm

nước: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương

mại. Đối với các quốc gia thuộc nhóm vì mục đích nhân đạo, chẳng hạn như

Anh, Hy Lạp, Hunggari, Hà Lan, Bỉ, Canada, Australia, Nam Phi,… các thỏa

thuận mang thai hộ chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. Ở những quốc

gia này, mang thai hộ được người dân quan tâm và ủng hộ bởi mang thai hộ

ngoài việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn thỏa mong ước có con còn góp

phần đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của phụ nữ.

Ở Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả việc quảng

cáo đề tìm người mang thai hộ đều được phép theo luật về thụ tinh nhân đạo từ

năm 1994. Theo đó, Luât thừa nhận tính hợp pháp của việc hcuyeenr quyền làm

cha mẹ từ người nhận đẻ thuê sang người thuê đẻ và việc xác định quan hệ cha

mẹ con được thiết lập dựa trên quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời theo

yêu cầu của cặp vợ chồng đã thuê đẻ. Luật này cũng quy định cho người mẹ đẻ

thuê có quyền phản đối việc xác định quan hệ cha mẹ con này trong thời hạn 6

tuần. Luật Hình sự Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho người môi giới đối với việc

mang thai hộ. [1, tr14]. Tại Anh, trừ phi được tòa án yêu cầu, người nhờ mang

thai hộ không được phép chi trả bất kỳ khoản tiền nào đối với người mang thai

vượt quá “các chi phí hợp lý” trong quá trình thai kỳ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn

chưa có cách giải thích cụ thể nào về “các khoản chi phí hợp lý” này có tính xác

thực như thế nào. Theo luật pháp Anh, mọi khoản chi trả của người mẹ phục vụ

cho quá trình mang thai đều được xem là “chi phí hợp lý”.

Pháp luật Hungari quy định biện pháp mang thai hộ chỉ được thực hiện giữa các

thành viên trong gia đình.

Tại Israel, Luật về mang thai hộ quy định biện pháp hỗ trợ sinh sản chỉ dành

cho các cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn. Người phụ nữ nhận mang thai hộ có

thể là người độc thân hoặc đã li hôn hay góa phụ và không thể là nguồ mẹ sinh

học của đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. [1, tr14]

Nhìn chung, quy định pháp luật về mang thai hộ của các quốc gia này cũng có

những nội dung tương đồng và phù hợp với thực tế của xã hội.

20

Chính phủ các nước này phải lập ra các ủy ban đạo đức độc lập để xét duyệt các

đơn xin mang thai hộ trên nguyên tắc thẩm tra từng trường hợp một. Pháp luật

các nước nói trên không thừa nhận tính hợp pháp của các thỏa thuận mang thai

hộ có trả tiền công. Các đối tượng được phép mang thai cũng chỉ được giới hạn

trong những tiêu chuẩn nhất định, trong đó người mang thai hộ phải được xét lý

lịch. [14]

Hiện đã có một số quốc gia cho phép công dân nước mình mang thai hộ vì mục

đích thương mại. Những quốc gia nổi bật trong danh sách này có thể kể đến Ấn

Độ, Ukraine hay Thái Lan. Luật pháp các nước này thường không bắt buộc cặp

vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là công dân của nước đó. Thậm chí một số nước

chỉ đơn giản hợp pháp hóa mang thai hộ vì mục đích lợi nhuận chứ không xây

dựng hoặc chưa hoàn thiện các văn bản luật để kiểm soát và hướng dẫn hoạt

động này. Đối với nhóm nước này, thị trường chợ đen và nạn lạm dụng cơ thể

phụ nữ để sinh lời vẫn là một mối lo ngại lớn.

1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ

Việc hợp pháp hóa mang thai hộ hay không tùy thuộc vào bản chất của nhà

nước và các điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia. Các quốc gia

hiện nay chưa cho phép mang thai hộ chủ yếu do những lý do sau đây: vì vấn đề

nhân đạo liên quan đến tình cảm mẹ con giữa người mang thai và cháu bé, vì sự

bóc lột tàn nhẫn sức khỏe của người mang thai hộ nhất là những phụ nữ nghèo

khó ở các quốc gia nghèo, đang phát triển; lo ngại về vấn nạn buôn bán trẻ

em…Đặc biệt các nước này lo ngại với việc cho phép mang thai hộ sẽ dẫn đến

việc khuyến khích người dân thực hiện việc mang thai hộ vì những lý do như

nghề nghiệp, thẩm mỹ…

Tại một số quốc gia có nền y tế và pháp luật tiến bộ như Thụy Điển, Tây Ban

Nha, Pháp hay Đức,… việc mang thai hộ là bất hợp pháp. Năm 1991, tòa án tối

cao Pháp tuyên bố: “Cơ thể con người là không phải để cho mượn, cho mướn hay

để bán đi”. Quyết định này cấm tuyệt đối mọi hình thức mang thai hộ dẫu là tự

nguyện hay được thương mại hóa. Mọi trường hợp bị phát hiện sẽ phải hầu tòa,

thậm chí bị buộc tội hình sự.

Tại tỉnh Quebec, Canada cấm tất cả các thỏa thuận "mang thai hộ". Bộ luật Dân

sự Quebec làm cho tất cả các hợp đồng "mang thai hộ", cho dù thương mại hay

nhân đạo, đều không thể thực thi. Điều 541, Bộ luật dân sự của Quebec năm

21

1991 quy định: "bất kỳ thỏa thuận nào, theo đó một người phụ nữ cam kết sinh

sản hoặc mang theo một đứa trẻ cho một người khác là hoàn toàn vô giá trị"

Tại Cộng hòa Liên bang Đức, pháp luật quy định cấm việc mang thai hộ dưới

mọi hình thức với quan điểm, việc làm này vi phạm nhân phẩm con người. Vì

vậy, để phù hợp với Hiến pháp, Cộng hòa Liên Bang Đức đã ban hành Đạo luật

về bảo vệ phôi thai và thích ứng Đạo luật môi giới con nuôi. Việc mang thai hộ

vi phạm nhân phẩm của cả đứa trẻ và người mẹ. Đứa trẻ bị coi là đối tượng của

hợp đồng và bị biến thành hàng hóa; còn người mẹ “mang thai hộ” được coi là dã

tự biến mình trở thành người “cho thuê tử cung”. Qua thực tiễn xét xử ở đây,

quyền được có cong không được công nhận là quyền cơ bản vì cho rằng không ai

có thể đòi quyền có con. Trong trường hợp vi phạm các quy định cấm của pháp

luật, các bác sĩ và người môi giới tham gia vào việc này sẽ phải chịu trách nhiệm

hình sự.

Hiện nay, ở Cộng hòa Liên bang Đức đang diên ra tranh luận nên vẫn tiếp tục

cấm các việc liên quan đến mang thai hộ hay cần phải thay đổi quan điểm, nhận

thức về mang thai hộ và trong chừng mực nhất định, pháp luật phải quy định cho

phép mang thai hộ để phù hợp với thực tiễn của xã hội như nhiều quốc gia đã ghi

nhận. [1, tr13]

Như vậy, có thể thấy, các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn

đề mang thai hộ. Có quốc gia thừa nhận, đã luật hóa mang thai hộ theo cả mục

đích nhân đạo hay vì mục đích thương mại, có quốc gia không thừa nhận nhưng

cũng không cho phép; có nhiều quốc gia cấm hoàn toàn,… Sở dĩ có sự khác nhau

này là do: truyền thống, phong tục tục quán; chế độ xã hội cũng như trình độ

khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau. Việc thừa nhận mang thai hộ cũng

như quy định như thế nào về pháp luật mang thai hộ tại Việt Nam không chỉ dựa

trên những yếu tố “nội địa” của quốc gia cũng cần dựa trên những kinh nghiệm

của các quốc gia trên thế giới, nhằm nâng cao tính khả thi, hiệu quả của pháp luật

về mang thai hộ tại Việt Nam.

1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ

1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ

Trong cuộc sống hôn nhân hiện nay, có rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm

muộn. Theo các chuyên gia y tế và dân số, với nhiều lí do khác nhau mà tỉ lệ các

cặp vợ chồng (đang ở độ tuổi sinh đẻ) bị vô sinh (không thể có con tự nhiên với

nhau) ngày càng gia tăng trong số các cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh đẻ. Nguyên do 22

là do cơ địa mỗi người hoặc cũng có thể do các yếu tố bên ngoài như điều kiện

sinh hoạt, thực phẩm ăn hàng ngày,… Sự khao khát có một đứa con huyết thống

để chăm sóc và nuôi dưỡng của họ rất lớn, chính vì thế mà các phương pháp hỗ

trợ sinh sản xuất hiện, trong đó có cả mang thai hộ. Tuy nhiên, đi theo đó là vô

vàn các hệ quả pháp lý, những rắc rối cho cả bên nhờ mang thai và bên mang thai

cũng như cho cả chính quyền. Sự tham gia của pháp luật điều chỉnh vấn đề này

đã mở ra những cơ hội cho các cặp vợ chồng vô sinh được hiện thực hóa ước mơ

làm cha, làm mẹ - một trong những nhu cầu chính đáng của con người.

Trên thế giới, không phải quốc gia nào cũng pháp luật hóa vấn đề này. Tuy

nhiên điều đó vẫn diễn ra dù có được pháp luật công nhận hay không do “có cầu

thì sẽ có cung” và mục đích hướng tới cuối cùng là một bên có con và một bên có

tiền. Nếu pháp luật không có quy định thì do nhu cầu, một số cặp vợ chồng vẫn

thực hiện việc này, dẫn đến quyền lợi, sức khỏe và kể cả tính mạng của phụ nữ,

trẻ em không được bảo đảm, tranh chấp có thể phát sinh. Việc quy định về quyền

mang thai hộ (dù là vì mục đích thương mại hay vì mục đích nhân đạo) thì vẫn

đảm bảo sự kiểm soát của pháp luật. Cụ thể, pháp luật quy định về điều kiện mà

các bên phải đáp ứng, nếu không thực hiện đủ các điều kiện đó thì sẽ không được

phép mang thai hộ, hoặc các bên vi phạm sẽ không được thực hiện tiếp các bước

tiếp theo để tiến hành mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của

các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp

lý và quyền lợi cho các bên. Về cơ chế, nội dung mà pháp luật kiểm soát là

quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào mang thai hộ và chế tài xử lý khi

xảy ra vi phạm hoặc tranh chấp.

Như vậy, pháp luật sẽ bảo hộ cho các bên để thực hiện quyền mang thai hộ. Và

dựa vào pháp luật, các chủ thể trong quan hệ này được đảm bảo về quyền và lợi

ích trong khi mang thai hộ “chui” không có căn cứ gì để bảo vệ cho tương lai của

họ và đứa trẻ khi sinh ra.

Thực tế, đã có nhiều trường hợp thỏa thuận mang thai hộ được thực hiện qua

trung gian môi giới hoặc giữa 2 bên với nhau mà không theo thủ tục pháp luật đã

dẫn đến việc bên nhờ mang thai bỏ rơi không nhận con, hoặc bên mang thai hộ

không giao con,… Câu chuyện về bé trai mắc bện Down bị cha mẹ người Úc bỏ

rơi khi nhờ mang thai hộ đã lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho pháp luật các nước về

sự cần thiết của quy định về mang thai hộ.

23

Câu chuyện thương tâm này xảy ra ở Thái Lan và đang là để tài được cả thế giới

nói đến. Một cặp vợ chồng người Australia đã phải sử dụng phương pháp mang thai

hộ bởi họ không thể thụ thai một cách tự nhiên. Họ nhờ một phụ nữ Thái có thể là

Pattaramon Chanbua mang thai hộ với giá 15,000 đô la Mỹ. Người phụ nữ này sinh

đôi, một trai một gái, bé gái khỏe mạnh thì được cha mẹ Úc đem về nuôi, bé trai

mang bệnh Down thì bị bỏ lại.

Không những bị bệnh down, cậu bé không may hiện đã được 6 tháng tuổi có tên

là Gammy này còn bị các chứng bệnh hiểm nghèo khác, như bệnh tim bẩm sinh,

nhiễm trùng phổi, và đang điều trị ở một bệnh viện, bà mẹ không có tiền để lo

cho con. Gia đình người mẹ “đẻ thuê” này đang liên tiếng nhờ đến các nhà hảo

tâm trên Thế giới giúp đỡ mình về kinh tế để có thể tiếp tục cưu mang đứa trẻ tội

nghiệp này.[12]

Sau vụ việc xảy ra này, Thái Lan cũng đã phải xem xét và sửa đổi lại quy định

về mang thai hộ nghiêm ngặt hơn.

Trên đây chỉ là 1 ví dụ điển hình cho việc mang thai hộ “chui” và những hậu

quả pháp lý khó lường trước trong thực tiễn xã hội. Có rất nhiều trường hợp mà

các bên chủ thể tham gia phải “đau đầu” do chính vòng luẩn quẩn mà mình tạo

ra. Sở dĩ xảy ra như vậy là do không có sự kiểm soát của pháp luật cùng những

hợp đồng không rõ ràng, minh bạch, có nhiều điều khoản gây bất lợi cho bên nhờ

mang thai hộ hoặc bên mang thai hộ (Chủ yếu là bên mang thai hộ vì đối tượng ở

đây là những người nghèo, dân trí thấp, cần tiền). Bên nhờ mang thai hộ dễ rũ bỏ

trách nhiệm của mình và bên mang thai hộ có thể không được nhận thù lao và sự

chăm sóc thai sản cần có,…Tất cả những điều đó đều khiến cho các bên luôn có

thể ở trong trạng thái bị động, yếu thế nếu bên còn lại làm gì đó đi ngược lại với

thỏa thuận ban đầu; và thiệt thòi nhất ở đây có lẽ là đứa trẻ được sinh ra từ

phương pháp này. Một số nước không công nhận mang thai hộ nên những đứa trẻ

sinh ra dưới dạng “đẻ thuê” không được “minh bạch” về khai sinh, kéo theo đó là

những hệ quả pháp lý về chăm sóc, sự bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của chúng sau

này.

Vì vậy, việc ban hành các quy định pháp luật về mang thai hộ có ý nghĩa rất

lớn. Sự tham gia của pháp luật vào quan hệ này là phương tiện cần thiết để các

bên chủ thể thực hiện nhu cầu và quyền được mang thai hộ của mình dưới sự

kiểm soát của Nhà nước; là hành lang pháp lý, bảo vệ được quyền của bên nhờ

mang thai hộ, bên mang thai hộ và thai nhi; đảm bảo xác định được quan hệ cha, 24

mẹ, con hợp pháp, bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ khi sinh ra. Hơn nữa cũng

giúp Nhà nước kiểm soát tốt tình hình dân số và tỉ lệ tội phạm xảy ra.

1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ

a) Mang thai hộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc

Mang thai hộ mà cụ thể là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang ý nghĩa

nhân văn sâu sắc. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được hiểu cơ bản là việc

người phụ nữ mang thai và sinh con cho người phụ nữ khác không có khả năng

sinh sản mà không đòi hỏi các yêu cầu về vật chất hay lợi ích khác. Yếu tố huyết

thống của một con người dù thế nào cũng không thể thay đổi nên điều khiến một

người phu nữ khác sẵn sang giúp đỡ để sinh con cho một cặp vợ chồng qua

phương pháp thụ tinh ống nghiệm và có sự hỗ trợ của y học được nhìn nhận như

một hành vi nhân đạo cao cả. Nhìn rộng hơn nhữa đó còn là tình đồng loại cũng

tương tự như việc hiến máu nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể để cứu giúp những

người khác đang trong hoàn cảnh khó khăn hiểm nghèo. Pháp luật cần thiết phải

cho phép việc mang thai hộ vì ý nghĩa nhân văn của nó, chúng ta chỉ đặt vấn đề

mang thai hộ không gì khác ngoài mục đích nhân đạo để tạo cơ hội cho những

cặp vợ chồng không thể thực hiện được hết quá trình thụ thai, sinh nở.

b) Đảm bảo hoàn thiện gia đình trong xã hội

Mang thai hộ giúp đảm bảo khả năng thực hiện chức năng cơ bản của gia đình là

chức năng tái sản xuất con người. Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội,

gia đình đảm nhận chức năng tái sản xuất con người; tái tạo, bảo dưỡng sức lao

động cho xã hội. Tái sản xuất con người là một chức năng cơ bản và riêng có của

gia đình. Hoạt động sinh con đẻ cái trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính

con người, của xã hội, trong xã hội hiện đại đứa con trong gia đình vẫn là một biểu

hiện của giá trị hạnh phúc gia đình, chức năng cơ bản này khiến các cá nhân gắn

kết lại với nhau tạo thành gia đình có tính truyền thống và toàn cầu. Việc thực hiện

chức năng này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu, mong ước của người vợ, người

chồng mà còn là vấn đề của xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội.

Nhờ có mang thai hộ mà chức năng duy trì nói giống của ác cặp vợ chồng hiếm

muộn được đảm bảo đồng thời đáp ứng được nhu cầu sinh con cùng huyết thống

cùng mã gen với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha,

mẹ, con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị

văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ gắn với mỗi con người

cụ thể. Đó cũng là lý do để những cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn luôn khao khát 25

có đứa con mang dòng máu của mình và cách duy nhất sau khi sử dụng các

phương pháp hỗ trợ sinh sản thất bại chỉ có thể là mang thai hộ. Như vậy, mang

thai hộ giúp đảm bảo sự hoàn thiện của gia đình trong xã hội và thực hiện chức

năng cơ bản của gia đình là chức năng tái sản xuất con người.

1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo

Pháp luật về mang thai hộ được xây dựng dựa trên nhu cầu xã hội và tình hình

thực tiễn. Phục vụ cho những đối tượng và trường hợp cụ thể dưới sự kiểm soát

của Nhà nước.

1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia

Việc quy định mang thai hộ dựa trên yếu tố nhân đạo của pháp luật Việt Nam

đã thể hiện tinh thần đạo đức của dân tộc, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công

dân được quy định trong Hiến pháp 2013.

Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một

người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc

mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết

và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng

làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh

của xã hội.

Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là một hệt thống đảm bảo được quyền và lợi

ích của mọi đối tượng có trong xã hội.

a) Đối tượng mang thai hộ

Với mang thai hộ, đối tượng ở đây cần được đặt trong pháp luật là những cặp

vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, những bà mẹ đơn thân vô sinh khó có con và

nhóm người đồng tính chuyển giới có nhu cầu có con chính đáng. Đó là những

nhóm người yếu thế, cần được bảo vệ và yêu cầu được đối xử bình đẳng.Những

cặp vợ chồng vô sinh mặc nhiên là đối tượng đầu tiên được xem xét tham gia vào

quan hệ này nhưng chúng ta cũng không thể bỏ qua trường hợp khác khiếm

khuyết hơn về hôn nhân.

Pháp luật không nên “đóng khung” các trường hợp cụ thể được phép nhờ mang

thai hộ và các đối tượng mang thai hộ. Điều này tuy đảm bảo được sự kiềm soát

của nhà nước nhưng lại bó hẹp lại cơ hội cho các trường hợp khác có nhu cầu có

con chính đáng nhưng không đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định.

26

b) Điều kiện mang thai hộ

Cần thiết phải có những điều kiện cơ bản để thực hiện quá trình mang thai hộ

đối với bên nhờ mang thai và bên nhận mang thai hộ như:

- Yêu cầu xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyển về việc người nhờ mang

thai hộ không thể có con (đã trải qua các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác hoặc

vướng các vấn đề về bệnh lí khiến quá trình có con khó khăn)

- Tình trạng có/chưa có con trước khi yêu cầu thực hiện mang thai hộ: cho thấy

khả năng mang thai bình thường hoặc không bình thường của người nhờ mang

thai hộ. Quy định này để ngăn chặn sự biến tướng về mục đích mang thai hộ

chính đáng.

Trường hợp sau khi sinh con mà đứa con bị mắc những bệnh như down hay một

số bệnh lí khác khiến chúng không thể phát triển được bình thường hoặc không

còn sống thì những trường hợp này vẫn nằm trong dạng được nhờ mang thai hộ,

miễn việc đảm bảo rằng việc thêm một đứa con nữa không vi phạm đến chính

sách dân số của quốc gia.

- Quy định về người nhận mang thai hộ: độ tuổi phù hợp nhận mang thai hộ,

sức khỏe, khả năng mang thai và những điều kiện cần có khác tương thích với

tình hình xã hội, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và yêu cầu của pháp luật như

người thân trong gia đình hoặc bạn bè – những người tự nguyện nhận mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo chứ không phải vì các yêu cầu về kinh tế hay vật chất

khác. Việc tìm người mang thai hộ cần phải được dễ dàng để tạo điều kiện cho

những người vô sinh, muốn có con qua phương pháp này.

- Điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ: Điều kiện về ý chí của các bên trong

việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện.

Theo đó, phải đảm bảo sự tự nguyện giữa 2 bên. Đây là điều kiện quan trọng để

các bên có tâm lí thoải mái nhất, sẵn sàng đón nhận việc mang thai hộ. Trường

hợp người mang thai hộ độc thân thì phải có giấy cam kết mang thai hộ hoàn

toàn tự nguyện, không do ép buộc. Còn nếu trường hợp bên mang thai hộ đang

tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người

chồng; trong trường hợp người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì người

phụ nữ nhận mang thai hộ lúc này được quyền đơn phương quyết định nhận hay

không nhận mang thai hộ. Chính điều này là yếu tố quan trọng để ràng buộc trách

nhiệm của các bên đối với việc mang thai hộ và là cơ sở pháp lí để giải quyết các

vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện mang thai hộ [2].

27

c) Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên

Khi tham gia vào quan hệ mang thai hộ, đồng nghĩa với việc các bên tham gia

ràng buộc mình vào những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của bản thân đối với

bên kia và ngược lại. Điều này để đảm bảo quá trình mang thai hộ diễn ra thuận

lợi và tình trạng đứa trẻ được ổn định.

- Đối với bên nhờ mang thai hộ: cần thanh toán đầy đủ các khoản chi phí để

thực hiện mang thai hộ theo đúng yêu cầu và quy định; giải quyết hậu quả trong

trường hợp tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai

hộ; không được từ chối nhận con và đảm bảo hoàn thành trách nhiệm với đứa trẻ

từ khi nhận con cho đến khi trưởng thành.

- Đối với bên nhận mang thai hộ: Có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dạy

đứa trẻ trong suốt thời kỳ mang thai để đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ;

không được từ chối giao con.

Những yêu cầu về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên với nhau không chỉ căn cứ trên

thỏa thuận ban đầu mà còn phải dựa trên những quy định cụ thể của pháp luật.

d) Quy định về thỏa thuận mang thai hộ trong bộ Luật Dân sự

Về bản chất, thỏa thuận mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự, do đó cũng

giống như các thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cũng cần được

pháp luật ghi nhận nguyên tắc thỏa thuận chung là: tự nguyện. Đó phải là sự thỏa

thuận mà có sự thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, là sự ngang bằng về

địa vị và quyền lợi, không có sự lừa dối, ép buộc giữa người mang thai hộ và

người nhờ mang thai hộ. Việc ghi nhận nguyên tắc của thỏa thuận mang thai hộ

là cần thiết bởi nó là cơ sở quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của việc phát

sinh sự kiện mang thai hộ [6, tr50]. Việc quy định về thỏa thuận mang thai hộ

cần được quy định cụ thể thành một mục riêng trong Bộ luật Dân sự.

Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật có những quy định rõ ràng những

điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự

nguyện nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các

bên thể hiện được ý chí của mình; thỏa thuận với nhau trách nhiệm dân sự trong

trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng. Do quan hệ mang

thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó phân xử, nên hợp

đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của bên kia và là cơ sở

cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5, tr77]

28

e) Quy định về chế tài xử lý vi phạm

Trên tinh thần thực hiện pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cần có

những quy định chặt chẽ, cụ thể về chế tài xử lý vi phạm để những quy định về

mang thai hộ được thực thi một cách nghiêm túc. Không chỉ quy định trong luật

Hôn nhân và Gia đình hoặc Luật Dân sự mà cần thiết phải được đưa vào trong

luật Hình sự với tội danh tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình với

cách xác định các tội phạm cụ thể cùng với khung hình phạt áp dụng cho loại tội

phạm này. Để hạn chế tính thương mại của hành vi mang thai hộ đòi hỏi mức xử

phạt phải đủ mạnh, tương xứng với hành vi vi phạm và có sức răn đe. Sở dĩ cần

như vậy là bởi đây là quan hệ pháp luật đặc biệt, yếu tố con người cần được bảo

vệ tuyệt đối để không đi ngược lại với quan điểm đáo đức của nhân dân và tinh

thần của pháp luật.

1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức

Quan điểm về “cha sinh, mẹ đẻ” luôn sâu trong tư tưởng của người dân Việt

Nam. Con phải là do mẹ mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, “dứt ruột đẻ ra”.

Đứa trẻ ấy được nuôi lớn trong sự yêu thương của cha mẹ chúng. Việc nhờ một

người “đẻ hộ”, mang thai hộ hay phụ nữ “không chồng mà chửa” luôn bị dị nghi.

Theo sự phát triển của nhịp sống hiện đại, người dân đã nâng cao nhận thức và có

cái nhìn bao dung hơn với những trường hợp này. Vì thế pháp luật cũng thay đổi

để phù hợp với xã hội, trao cho những người vô sinh có cơ hội để được làm cha

mẹ bằng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác với sinh sản theo hướng “tự nhiên”,

truyền thống như trước đây, đồng thời cũng là đề cao vai trò của sự hoàn thiện

gia đình trong cuộc sống. Tuy nhiên, xã hội chúng ta chỉ cho phép thực hiện vì

mục đích nhân đạo, có nghĩa là giống như một sự hỗ trợ, giúp đỡ để những người

kém may mắn có thể hưởng trọn niềm vui được làm mẹ chứ không đồng thuận

với những hành vi thương mại hóa, xem con người là vật mua bán, trao đổi.

Pháp luật cần quy định theo hướng: “Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện của các bên và nghiêm cấm mang thai

hộ vì mục đích thương mại hay vì các lợi ích vật chất khác”. Pháp luật cần làm rõ

hơn như thế nào là “nhân đạo”, cần phải hiểu “nhân đạo” nghĩa là không gắn với

mục đích kinh tế, thương mại mà đơn thuần chỉ là sự giúp đỡ hoàn toàn tự

nguyện của bên mang thai hộ đối với bên nhờ mang thai hộ.

Mặc dù đề xuất pháp luật mở rộng đối tượng chủ thể tham gia vào mang thai hộ

không chỉ bó hẹp trong cặp vợ chồng vô sinh được quyền nhờ mang thai hộ hay 29

điều kiện của người mang thai hộ là người thân thích cùng hàng nhưng để đảm

bảo không trái với thuần phong mỹ tục của người Việt (mẹ ruột mang thai hộ cho

con đẻ, mẹ chồng mai thai hộ cho con dâu hay phụ nữ độc thân muốn có con xin

tinh trùng của họ hàng thân thích trong gia đình,…) pháp luật cũng cần quy định

cấm một số trường hợp cụ thể (như trên) tham gia vào xây dựng mối quan hệ này

để không xảy ra tranh chấp hoặc vi phạm đến tư tưởng đạo đức của nhân dân.

1.6.3. Hoàn thiện pháp luật để tương thích với pháp luật Quốc tế

Trên phương diện quốc tế, quan hệ pháp luật mang thai hộ được xếp vào khía

cạnh thuộc luật nhân quyền Quốc tế nhằm bảo vệ, thúc đẩy các quyền tự do cơ

bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. [25, tr113]. Những chủ thể

tham gia vào quan hệ này thuộc nhóm người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em,

nhóm người đồng tính chuyển giới,..), là những người cần được chú ý bảo vệ đặc

biệt so với những nhóm người, cộng đồng khác. Do vị thế yếu hơn nên những

nhóm người này rất dễ bị vi phạm các quyền hoặc gặp khó khăn trong việc

hưởng thụ các quyền.

Việt Nam hiện nay đã tham gia vào hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về

quyền con người. Trong đó có Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối

xử với phụ nữ 1979, ký kết ngày 29-7-1980, phê chuẩn ngày 17-2-1982; Công

ước về Quyền Trẻ em 1989, ký kết ngày 26-1-1990, phê chuẩn ngày 28-2-1990

và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang (ký kết ngày 8-9-

2000, phê chuẩn ngày 20-12-2001) và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động

mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm (ký kết ngày 8-9-2000, phê chuẩn ngày 20-12-

2001); Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006, ký ngày 22-11-2007 và

phê chuẩn ngày 5-2-2015;…. [25] vì thế việc đảm bảo thực hiện quyền cho

những nhóm người này là cần thiết.

Theo đó, phụ nữ có quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình như

quyền quản lý tài sản, quyền được nghỉ ngơi, quyền được quyết định về con

cái,… Chính vì vậy mà không chỉ có những người phụ nữ vô sinh có quan hệ hôn

nhân hợp pháp mới được nhờ mang thai hộ mà cả những người phụ nữ vô sinh

độc thân cũng cần được đảm bảo quyền này. Đó là quyền mưu cầu hạnh phúc và

quyền yêu cầu con cái cơ bản của họ.

Trong luật quốc tế, trẻ em được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn

thương nhất.Trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ một cách đặc biệt

không chỉ ở mức độ gia đình mà còn mở rộng đến trách nhiệm của quốc gia. Vì 30

thế, pháp luật cần phải có những quy định tương thích với những quyền cơ bản

mà trẻ em cần cótheo pháp luật Quốc tế về quyền trẻ em để bảo vệ cho lợi ích và

sự phát triển chung. Hơn nữa, những trẻ em sinh ra từ biện pháp mang thai hộ lại

là những trường hợp nhạy cảm hơn, dễ bị tác động ảnh hưởng đến tâm lý. Trách

nhiệm đặt ra cho các nhà làm luật là cần phải quy định quyền và nghĩa vụ của các

bên tham gia vào quan hệ này gồm bên nhờ mang thai hộ, bên nhận mang thai

hộ; trách nhiệm của xã hội trong việc bảo đảm sự phát triển và lợi ích của trẻ em

được sinh ra từ biện pháp này.

Thực tế, không phải quốc gia nào trên thế giới cũng cho phép mang thai hộ

hoặc có thể cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hay thương mại, tùy

vào quan điểm về đạo đức và pháp luật riêng. Tuy vậy, trên cơ sở là tính nhân

đạo của pháp luật Việt Nam, một số quốc gia có tư tưởng về nhân đạo trong vấn

đề mang thai hộ rất “mở” nhưng vẫn đảm bảo hạn chế sự thương mại hóa mà cơ

hội trao cho những cặp vợ chồng vô sinh lại nhiều hơn. Vì thế, chúng ta cần điều

chỉnh pháp luật trong nước để tương thích với pháp luật quốc tế, học tập và kế

thừa những tư tưởng tiến bộ về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để xây dựng

và áp dụng pháp luật toàn diện hơn, bảo vệ được tối đa quyền của phụ nữ và trẻ

em; đồng thời tăng sự kiểm soát của pháp luật về các vấn đề xã hội liên quan,

đảm bảo được quyền con người triệt để.

31

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Ở chương 1, tác giả đã nêu ra những vấn đề lý luận chung về mang thai hộ và

việc cần thiết hoàn thiện pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bao gồm

các nội dung sau:

Thứ nhất, tác giả đưa ra cách hiểu mang thai hộ, từ đó đưa ra khái niệm mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo theo luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cùng với

những đặc điểm của pháp luật về mang thai hộ.

Thứ hai, tác giả trình bày nội dung của pháp luật về mang thai hộ và các yếu tố

tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật.

Thứ ba, tác giả nêu quy định về mang thai hộ trong pháp luật một số nước trên

thế giới để qua đó Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm về quản lý và thực hiện

pháp luật về mang thai hộ.

Thứ tư, tác giả nêu vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa của pháp luật về mang thai

hộ và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật.

Từ những lý luận chung này có thể hiểu rõ về mang thai hộ và sự cần thiết phải

hoàn thiện pháp luật đối với mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

32

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP

LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM

2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ

2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam

2.1.1.1. Pháp luật Việt Nam trước khi có quy định về mang thai hộ

Tại Việt Nam, mang thai hộ từ lâu đã tồn tại trong thực tiễn cuộc sống. Xuất

phát từ nhu cầu thực tiễn là vì các lí do khác nhau mà có nhiều cặp vợ chồng vô

sinh do người vợ không thể thụ thai hoặc sinh con ngay cả khi đã thử qua các

biện pháp hỗ trợ sinh sản khác. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy

định về cho phép mang thai hộ, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP nghiêm cấm mang

thai hộ xong hoạt động này vẫn diễn ra lén lút dưới dạng “chửa thuê”, “đẻ thuê”

bởi nhu cầu có con của các cặp vợ chồng hiếm muộn. Bằng nhiều hình thức, từ

việc cấy phôi mang gen của cả 2 vợ chồng vào tử cung của người đẻ thuê hoặc

thực hiện “trực tiếp” giữa người chồng và người nhận mang thai hộ, những đứa

trẻ có được bằng phương pháp này lần lượt ra đời. Nhà nước mặc dù cấm nhưng

vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích

cho những trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ trái pháp luật này.

Sở dĩ pháp luật thời kỳ này không cho phép mang thai hộ bởi nhiều lý do:

Thứ nhất: nhìn dưới góc độ pháp lý, cấm mang thai hộ là bởi mang thai hộ vốn

là một vấn đề vô cùng nhạy cảm trong xã hội cũng như trong nền khoa học pháp

lý. Nếu thừa nhận mang thai hộ sẽ dẫn đến sự gia tăng tình trạng mua bán trẻ sơ

sinh bất hợp pháp, lách luật để sinh con thứ ba…cũng như ảnh hưởng tới nhiều

chế định trong Luật HN&GĐ 2000, trong đó có chế định xác định quan hệ cha,

mẹ, con, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình giải quyết quyền và nghĩa vụ của

các chủ thể có liên quan.

Theo Luật HN&GĐ 2000 nguyên tắc xác định cha, mẹ, con là dựa vào sự kiện

sinh đẻ, theo đó, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ (dù nó cùng hay

không cùng huyết thống với người đã sinh ra nó). Vì vậy, nếu quy định về mang

thai hộ sẽ làm đảo lộn phương pháp xác định cha, mẹ, con theo truyền thống bởi

lúc này, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ không phải là mẹ của đứa trẻ nữa, thay vào

đó, người được xác định là mẹ của đứa trẻ lại là một người phụ nữ khác không

trực tiếp sinh ra nó. Như vậy, nguyên tắc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp

mang thai hộ là một ngoại lệ.

33

Thứ hai, nhìn dưới góc độ đạo đức, có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một

hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại truyền thống dân tộc, vì

vậy khi nói đến mang thai hộ đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhiều người.

Đến năm 2000-2001, với những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y

học, người dân đã biết đến và dần chấp nhận một hình thức sinh sản mới đó là

sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Vì pháp luật nghiêm cấm

mang thai hộ nên trong trường hợp mang thai hộ bị phát hiện thì sẽ bị xử phạt hành

chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 96/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi

phạm hành chính về khám, chữa bệnh như sau:“phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến

40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: mang thai hộ; sinh sản vô

tính; cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa

những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời”. Dù pháp luật nghiêm cấm

mang thaihộ nhằm hạn chế những tiêu cực xảy ra nhưng khi quy định này được áp

dụngvào thực tiễn đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Cụ thể:

Một là: NĐ 12/2003/NĐ-CP chỉ quy định nghiêm cấm mang thai hộ và sinh sản

vô tính trong khi chưa có bất cứ sự giải thích nào của pháp luật về phương pháp

mang thai hộ, gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật.

Hai là: Phạm vi đối tượng mà NĐ 12/2003/NĐ-CP đưa ra quá rộng, nghiêm

cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức. Đối với những cặp vợ chồng trong đó

người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tự nhiên thì quy định này vô

hình chung đã hạn chế quyền quyền được làm cha, làm mẹ của họ.

Ba là: Các vấn đề pháp lý có liên quan như xác định cha, mẹ cho đứa trẻ được

sinh ra, các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan

như: người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ… cũng không được pháp luật

đề cập tới [6, tr30-33].

Với nhu cầu của các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn muốn có con hoặc vì các

mục đích khác thì mặc dù pháp luật không quy định nhưng vẫn có rất nhiều các

trường hợp vẫn “lén lút” mang thai hộ “chui” bằng nhiều hình thức khác nhau,

thậm chí là ra nước ngoài, nơi cung cấp dịch vụ mang thai hộ dẫn đến nhiều rủi

ro như: người nhận mang thai hộ không giao đứa bé cho bên nhờ mang thai hộ

như đã thỏa thuận, trong quá trình mang thai hộ không thực hiện đúng thỏa thuận

như thăm khám, phát sinh những rắc rối về mặt giấy tờ pháp lý… đặc biệt khi có

tranh chấp phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và người nhận mang thai hộ về

việc xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền 34

và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ sẽ không có cơ sở pháp lý để

giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thòi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ

cũng như của các bên liên quan.

Theo xu hướng này, Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) đã được

Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ hợp thứ 7 (Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2014), quy định chính thức về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thể hiện tính

nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta.

2.1.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo

A. Quy định về mang thai hộ trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014

Hơn 10 năm sau, luật Hôn nhân và Gia đình 2014 căn cứ theo điều kiện thực

tiễn phát triển xã hội đã có sửa đổi và quy định về việc mang thai hộ. Bổ sung hai

khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích

thương mại cùng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Trong đó, tại điểm g

khoản 2 điều 5 về “Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình” cũng có quy định

“nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại” cùng với các hành vi lựa

chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính.

Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một phụ nữ tự nguyện,

không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ

không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản,

bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong

ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để

người này mang thai và sinh con. Còn mang thai hộ vì mục đích thương mại là

việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Như vậy, việc mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại được phân

định bởi việc giữa hai bên có thỏa thuận về việc bên mang thai hộ được hưởng

lợi về kinh tế hay các lợi ích khác hay không.

Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã quy

định cụ thể và chặt chẽ các điều kiện cho việc mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo; buộc các bên tham gia vào quá trình mang thai hộ phải tuân thủ. Đây là cơ

chế kiểm soát cho việc mang thai hộ không bị chệch hướng và là cơ sở pháp lý

để việc mang thai hộ có hiệu lực; chi phối quyền và nghĩa vụ của các bên và 35

được bảo đảm thực hiện trong quá trình mang thai hộ. Việc mang thai hộ phải

bảo đảm các nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo.

a) Đối với người nhờ mang thai hộ

Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ là phải tồn tại quan hệ

hôn nhân hợp pháp, nghĩa là quan hệ hôn nhân phải được pháp luật thừa nhận và

bảo hộ. Đây là quy định nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng

với nhau cũng như đối với đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ [2, tr13].

Quy định này khác với trường hợp các đối tượng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh

sản, được áp dụng cho cả người phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng vô sinh ( Điều

93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ; Khoản 1 điều 3 NGHỊ ĐỊNH SỐ

10/2015/NĐ-CP /2015/NĐ-CP).

Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo

1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật

thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô

sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

Theo quy định trên thì việc mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với trường hợp là cặp

vợ chồng vô sinh, còn đối với trường hợp là phụ nữ độc thân chỉ có quyền sinh con

bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.

Đối với nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGBT), do

pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính

nên với tư cách là cá nhân đơn lẻ, họ cũng không được phép nhờ mang thai hộ.

Đặc biệt là các cặp đồng tính nam muốn có đứa con ruột thịt của mình bằng việc

nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ cũng không được chấp thuận.

Thứ hai, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng vô sinh. Vô sinh là

tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình từ 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai. 1

Đối với cặp vợ chồng vô sinh, nguyên nhân có thể do vợ hoặc chồng và người

vợ cũng không thể mang thai được ngay cả khi có sự can thiệp của các biện pháp

hỗ trợ sinh sản. Song vẫn phải đảm bảo điều kiện là người chồng có tinh trùng,

người vợ có noãn được xác định là đảm bảo chất lượng để kết hợp thụ tinh. Đây

1 Xem: Khoản 2 điều 2 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

36

là điều kiện nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai hộ cũng như việc giao nhận

con sinh ra từ việc mang thai hộ được thực hiện một cách tốt nhất.

Thứ ba, vợ chồng đang không có con chung. Với điều kiện này, do chưa có quy

định và hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền nên có thể suy đoán theo

các trường hợp sau:

-Vợ chồng vô sinh, chưa có con chung với nhau nên được quyền nhờ mang thai hộ

- Vợ chồng tuy đã có con chung nhưng con sau khi sinh đã chết vẫn được quyền

nhờ mang thai họ (vì hiện tại vợ chồng chưa có con chung và pháp luật không

hạn định về số lần nhờ mang thai hộ của cặp vợ chồng vô sinh)

- Vợ chồng dù đã có con chung nhưng con bị mắc các chứng bệnh tâm thần,

bênh down….thì về nguyên tắc không được nhờ mang thai hộ. Tuy vậy, nếu

không được nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế khi nguyện vọng

chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuê. Trong

trường hợp này, pháp luật cần xem xét nguyện vọng chính đáng để cho phép các

vợ chồng vô sinh được nhờ mang thai hộ [1, tr17].

Thứ tư, vợ chồng nhờ mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.

Thông qua việc tư vấn, người nhờ mang thai hộ được cung cấp thông tin cần thiết

về mặt y tế, mặt pháp lý cũng như mặt tâm lý. Điều kiện này là rất cần thiết để

cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ hình dung được toàn bộ quá trình mang thai hộ,

những vấn đề phát sinh xung quanh việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của

mình trong việc nhờ mang thai hộ. Từ đó, họ quyết định có thực hiện nhờ mang

thai hộ hay không. Điều này cũng là tiền đề đảm bảo cho trẻ em sinh ra từ việc

mang thai hộ được hưởng các quyền lợi của mình và được pháp luật bảo vệ.

b) Đối với người mang thai hộ:

Khoản 3 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 214 quy định điều kiện đối với

người được nhờ mang thai hộ như sau:

a) Phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ

mang thai hộ;

b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;

c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về

khả năng mang thai hộ;

d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng

ý bằng văn bản của người chồng;

e) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý;

37

Trước hết, người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ

hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP

quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo xác định: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ

hoặc chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị,em cùng cha mẹ, cùng cha khác

mẹ, cùng mẹ khác nha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì

của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ” 2. Điểm a Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ

năm 2014 cũng đã quy định người được nhờ mang thai hộ phải là người thân

thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.

Việc pháp luật quy định như vậy nhằm tránh các hành vi trục lợi, lợi dụng điều

này để thương mai hóa hành vi mang thai hộ. Việt Nam hiện nay về trình độ y

học hoàn toàn đủ khả năng để thực hiện được kỹ thuật y tế liên quan đến thụ tinh

ống nghiệm để phục vụ cho mang thai hộ. Nhưng vấn đề ở đây liên quan đến mặt

đạo đức xã hội. Sự lo ngại về mang thai hộ sẽ bị thương mại hóa trong khi bản

chất của nó là phải vì nhân đạo bởi lẽ pháp luật cấm việc buôn bán người và trẻ

em không phải một dạng hàng hóa để mua bán đổi chác. Việc quy định người

nhờ mang thai hộ phải là người thân thích trong gia đình sẽ làm giảm bớt lợi ích

mà bên được nhờ mang thai hộ đòi hỏi các điều kiện, đảm bảo hạn chế những

biến tướng của việc mang thai hộ đồng thời cũng ngăn chặn những nguy cơ có

thể phá vỡ kết cấu và hạnh phúc gia đình. Hơn nữa nếu là người trong gia đình

thì sẽ đảm bảo được dòng máu, gen di truyền và phù hợp với thuần phong mỹ tục

của Việt Nam.

Thứ hai, người mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một

lần. Điều kiện này nhằm đảm bảo có sự trải nghiệm, kinh nghiệm của người

mang thai hộ với thiên chức làm mẹ; bảo đảm sự hòa hợp về tình cảm, tâm lí của

cả hai bên nhờ và bên nhận mang thai hộ trong quá trình mang thai hộ. Mang thai

và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua nhiều gia đoạn

khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc đặc biệt để

đảm bảo sự phát triển của thai nhi trong bụng. Người đã mang thai và sinh con

một lần sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc chăm sóc và giữ gìn sự an toàn,

sức khỏe của thai nhi hơn cũng như biết cách phòng ngữa những biến chứng,

2 Xem: Khoản 2 điều 7 Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP

38

những tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi. Mặt khác, điều kiện này bảo

đảm sức khỏe cho bên mang thai hộ cũng như các quy định khác liên quan, ví dụ

như chính sách kế hoạch hóa gia đình của Nhà Nước.

Thứ ba, người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức

y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Mặc dù hiện nay pháp luật chưa có

quy định cụ thể về độ tuổi phù hợp để mang thai hộ nhưng cũng có thể khẳng

định người mang thai hộ phải đang ở trong độ tuổi sinh sản tốt nhất. Nếu dưới 18

tuổi là độ tuổi pháp luật chưa cho phép mang thai và cơ thể của người phụ nữ lúc

đó được cho là chưa hoàn thiện về mặt sinh học, chưa phù hợp để sinh con. Còn

sau tuổi 30, khả năng sinh nở của người phụ nữ bắt đầu giảm dần và đó là lý do

vì sao các cặp vợ chồng khó có con hơn và cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề

sinh sản hơn. Qua tuổi 40, khả năng sinh sản của nữ giới bắt đầu giảm, trứng

rụng thưa dần, mỗi năm có thể có vài chu kỳ kinh nguyệt không có trứng rụng.

Đến một lúc nào đó, người phụ nữ sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh, kết thúc tuổi

sinh sản. Vì thế theo tác giả, có thể suy ra độ tuổi sinh sản phù hợp nhất với quy

định này là từ trên 18 đến dưới 35 tuổi. Sự xác nhận của tổ chức y tế có thẩm

quyền về khả năng mang thai hộ đảm vảo cho sự an toàn về điều kiện sức khỏe

của người mang thai hộ và của thai nhi, đảm bảo cho việc mang thai hộ đạt được

kết quả như mong muốn.

Thứ tư, người phụ nữ mang thai hộ phải được sự đồng ý bằng văn bản của

người chồng nếu đang có chồng.Đây là điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ

và bên nhờ mang thai hộ. Điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ

là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện. Việc yêu cầu sự

đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ là sự cần thiết. Bởi

việc mang thai hộ lúc này không phải là chuyện riêng của người vơ mang thai hộ

mà là việc chung của cả hai vợ chồng và của gia đình riêng của họ. Ý chí thỏa

thuận đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ còn là cơ sở

pháp lý quan trọng làm phát sinh và thực thi các quyền, nghĩa vụ của hai bên

trong quá trình mang thai hộ cũng như giải quyết các hệ quả pháp lý liên quan

đến việc mang thai hộ. Trường hợp chồng của người phụ nữ mang thai hộ không

đồng ý thì không thể thực hiện quá trình mang thai hộ.

Thứ năm, người mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là

điều kiện bắt buộc để việc mang thai hộ được thực hiện. Điều kiện này cũng

tương tự như đối với người nhờ mang thai hộ, giúp cho người mang thai hộ cân 39

nhắc về việc có nên thực hiện mang thai hộ người khác hay không. Người mang

thai hộ phải được biết các vấn đề liên quan đến việc mang thai hộ như: vấn đề về

sức khỏe, sự an toàn, sự rủi ro có thể xảy ra của quá trình mang thai hộ, quyền và

nghĩa vụ của 2 bên,… để từ đó có quyết đúng đắn và thỏa mãn nguyện vọng của

mình đồng thời chuẩn bị tâm lý ổn định cho việc mang thai hộ chuẩn bị được

thực hiện.

c) Về điều kiện của cơ sở khám, chữa bệnh phải đáp ứng các điều

kiện về máy móc, thiết bị y tế, nhân sự.

Hiện có 3 cơ sở khám bệnh được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo đó là:

– Bệnh viện Phụ sản trung ương;

– Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;

– Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh

d) Về thủ tục thực hiện việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo

Thực hiện việc thỏa thuận bằng văn bản với người mang thai hộ, bao gồm

những nội dung sau đây:

– Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các

điều kiện có liên quan

– Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật hôn nhân

và gia đình.

– Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để

bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và

sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên

đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và

các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;

– Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam

kết theo thỏa thuận.

Văn bản mang thai hộ cần thực hiện công chứng theo quy định của pháp luật.

Cặp vợ chồng chuẩn bị hồ sơ, gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực

hiện kỹ thuật này, gồm:

- Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban

hành kèm theo Nghị định này;

40

- Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05

ban hành kèm theo Nghị định này;

- Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;

- Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân

cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;

- Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ

tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều

nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ

không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;

- Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ

tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp

ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị

định này và đã từng sinh con;

- Bản xác nhận của Ủy Ban Nhân Dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người

nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên

cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính

xác thực của các giấy tờ này;

- Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang

thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.

- Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;

- Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên

khoa tâm lý trở lên;

- Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc

người trợ giúp pháp lý;

- Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ

mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định.

Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ sở được cho phép thực

hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang

thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng

văn bản, đồng thời nêu rõ lý do.

41

Nội dung của thỏa thuận mang thai hộ:

Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên, được thành lập thành văn bản và phải được công chứng theo quy định của pháp luật3.

Nội dung cơ bản của văn bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đao,

bảo gồm:

-Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều

kiện có liên quan quy định tại Điều 95 Luật HNGĐ ( các điều kiện mang thai hộ

vì mục đích nhân đạo);

- Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 (Đối với người

mang thai hộ) và Điều 98 (Đối với người nhờ mang thai hộ) của Luật HNGĐ;

- Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để đảm

bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh

con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối

với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các

quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;

- Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết

theo thỏa thuận4. [4, tr58]

Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ

Luật HNGĐ quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ

bao gồm các quyền và nghĩa vụ giữa họ đối với nhau, quyền và nghĩa vụ của họ

đối với đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của đứa con sinh

ra từ việc mang thai hộ với các thành viên trong gia đình người nhờ mang thai

hộ, quyền được hưởng chính sách phúc lợi xã hội của các bên, quyền được khởi

kiện giải quyết tranh chấp về mang thai hộ,..

a) Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ:

Trước hết, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền và

nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ

mang thai hộ và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.

Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy

trình sang lọc để phát hiện, điều trị các bấ thường, dị tật của bào thai theo quy

định của Bộ y tế. 3 Xem: Khoản 1 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 4Xem: Khoản 1 điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

42

Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp

luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ

mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà

thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn

được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai

hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.

Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ, thực hiện hỗ

trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lí do tính mạng, sức khỏe

của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định

về số lượng bào thai và việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hơp với

quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật

hỗ trợ sinh sản.

Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên

mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con5.

b) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ:

Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ phải chi trả các chi phí thưc tế để bảo đảm

việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ y tế.

Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con

phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được

hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã

hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.

Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ

mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng cho con theo

quy định về cấp dưỡng của Luật HNGĐ và bị xử lí theo quy định của pháp luật

có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì cần phải bồi dưỡng kịp

thời và đầy đủ. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng

thừa kế theo quy định của pháp luật Dân sự về thừa kế đối với di sản của bên nhờ

mang thai hộ.

Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của bên nhờ

mang thai hộ có các quyền, nghĩa vu theo quy định của Luật HNGĐ, Bộ luật Dân

sự và các luật khác có liên quan.

43

Người mang thai hộ có nghĩa vụ phải giao con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai

hộ theo đúng như cam kết giữa hai bên ghi nhận trong thỏa thuận. Trong trường

hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên mang thai hộ giao con6.

c) Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo:

Trong cuộc sống, việc người phụ nữ sinh con làm cơ sở phát sinh mối quan hệ

giữa cha mẹ và con. Quan hệ cha mẹ con không phụ thuộc vào hôn nhân của cha

mẹ có hợp pháp hay không mà phụ thuộc vào sự kết hợp giữa trứng của người

phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông tạo ra phôi là đứa con mang gen di

truyền của cả hai người. Nhà nước và pháp luật quy định nguyên tắc suy đoán

pháp lý xác định cha, mẹ, con vì đó là cơ sở nhằm xác thực mối quan hệ cha mẹ

con, từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong mối

quan hệ này theo quy định của pháp luật.

Xét về mặt y học, mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng

của vợ và tinh trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử

cung của một người phụ nữ khác để nhờ người này mang thai hộ do tử cung của

người vợ không thể mang thai. Với các tiến bộ trong lĩnh vực sinh sản, chức năng

làm mẹ sinh học hoàn toàn có thể được phối hợp giữa người mẹ chính thức - là

người cung cấp trứng và người mẹ mang thai hộ - là người phụ nữ mang phôi

thai từ trứng của người vợ đã được thụ tinh với tinh trùng của người chồng. Vì

thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn không phải là mẹ của

đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển rồi khi đủ ngày đủ tháng,

đứa trẻ đó ra đời mà thôi.

Hiện nay, để xác định được mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử

dụng kỹ thuật khoa học mới nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay

không, đây là biện pháp xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác

đến 99,9% và biện pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong

trường hợp mang thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định

mẹ đứa trẻ được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả

ADN của người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã

chứa bộ gen của người [4, tr55,56]

6 Điều 97, Luật HNGĐ

44

Xét về góc độ pháp lý, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã khẳng định:

con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra 7. Vì vậy, vợ

chồng nhờ mang thai hộ sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được

sinh ra.

Như vậy, xét cả trên phương diện sinh học, đạo đức và pháp luật, con sinh ra

trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải là con chung của vợ

chồng nhờ mang thai hộ. Nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ cho con

theo quy định tại khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được

áp dụng: Con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con chung của vợ chồng8. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài

sản giữa cha mẹ và con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ, giữa con với các

thành viên của gia đình bên nhờ mang thai hộ được pháp luật thừa nhận và bảo

hộ. Trường hợp có tranh chấp từ xác định cha, mẹ, con sẽ do tòa án giải quyết

khi có yêu cầu [1, tr21].

B. Quy định về mang thai hộ trong các văn bản pháp luật khác

Quy định về mang thai hộ theo luật dân sự năm 2015

Như đã nêu bên trên, trong luật Dân sự hiện nay không có quy định cụ thể về

mang thai hộ. Tuy nhiên, thỏa thuận giữa 2 bên về mang thai hộ cũng được coi

có tính chất như một hợp đồng thỏa thuận dân sự. Vì thế, có thể áp dụng tính chất

của luật hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự năm 2015 vào vấn đề này.

Cụ thể trách nhiệm dân sự căn cứ theo quy định tại luật Hôn nhân và Gia đình

trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận như sau:

-Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng.

Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ

chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền

phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có

giá trị pháp lý.

- Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên

nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện

việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận

của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này. 7Xem: Khoản 4 điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 8 Xem: Khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014

45

Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật đã quy định rõ những điều khoản

về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự nguyện

nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thể

hiện được ý chí của mình bao gồm việc giải quyết hậu quả trong trường hợp tai

biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai hộ, trong thời

gian mang thai, việc giao nhận con của các bên trong quan hệ mang thai

hộ...Cuối cùng, hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thỏa thuận với nhau trách

nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng.

Do quan hệ mang thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó

phân xử, nên hợp đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của

bên kia và là cơ sở cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5,

tr77]

Quy định về mang thai hộ theo Bộ luật Hình sự năm 2015

Việc mang thai hộ phải quy định tại các điều Luật hôn nhân và gia đình 2014 và

Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống

nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, không ít

trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục đích mà

Nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ.

Theo xu hướng đó, nhằm điều chỉnh hiện tượng lạm dụng việc mang thai hộ vì

mục đích nhân đạo đi ngược với bản chất nhân văn của việc mang thai hộ, Bộ

luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) đã bổ sung tội “Tổ chức

mang thai hộ vì mục đích thương mại” (Điều 187), nằm trong Chương XVII. Các

tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (BLHS). Đây là một điều luật mới

nhằm đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi lợi dụng quy định của Luật hôn nhân và

gia đình 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để trục lợi.

Theo quy định tại điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Tội tổ chức mang thai

hộ vì mục đích thương mại là hành vi thành lập, chủ trì, dụ dỗ, lôi kéo, lên kế

hoạch để các bên mang thai hộ gặp nhau của một người hoặc một nhóm người có

năng lực trách nhiệm hình sự, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì mục đích

hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. [13]

Điều 187 về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định:

1.Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ

50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm

hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

46

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm

đến 05 năm:

a) Đối với 02 người trở lên;

b) Phạm tội 02 lần trở lên;

c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;

d) Tái phạm nguy hiểm.

3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000

đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ

01 năm đến 05 năm [9].

Dấu hiệu pháp lý:

Khách thể: Hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại xâm hại đến

chế độ quản lý nhà nước về sinh sản bằng phương pháp kỹ thuật và tính nhân đạo

của hành vi mang thai hộ trong trường hợp vợ chồng gặp khó khăn về vấn đề

sinh sản.

Mặt khách quan: Tổ chức mang thai hộ là hành vi bao gồm tổng hợp của nhiều

hành vi khác nhau từ việc tạo điều kiện cho các bên có nhu cầu mang thai hộ gặp

gỡ, trao đổi, bàn bạc, sắp xếp, tạo điều kiện và hỗ trợ về các phương tiện để các

bên tiến hành việc mang thai hộ bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mục

đích cuối cùng của người thực hiện hành vi là vì mục đích thương mại, nếu có

hành vi “tổ chức” nhưng không “vì mục đích thương mại” thì không cấu thành

tội này

Chủ thể: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là bất

kỳ người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo

quy định của BLHS là từ đủ 16 tuổi trở lên

Mặt chủ quan: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại

thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là “người tổ chức hiểu rõ

được hành vi phạm tội của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, hoj thực hiện một

cách chủ động và mong muốn việc mang thai hộ diễn ra”; không có trường hợp

người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện tội phạm do vô ý,

vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn thực hiện hành vi phạm tội.

Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi

của mình với động cơ vụ lợi (nhằm hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác).

Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi

của mình với mục đích thương mại [13]. 47

Đường lối xử lý

Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo cấu

thành cơ bản (Điều 187 khoản 1 BLHS)

Khoản 1 Điều 187 BLHS là cấu thành cơ bản của Tội tổ chức mang thai hộ vì

mục đích thương mại, (không có những tình tiết định khung tăng nặng tại khoản

2 của Điều luật này) thì bị phạt một trong ba hình phạt sau: Phạt tiền từ

50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm

hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm Tội tổ chức mang thai hộ vì mục

đích thương mại theo Khoản 1 Điều 187 BLHS, Tòa án cần căn cứ vào các quy

định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS (từ Điều 50 đến Điều 59)

Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1

Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng một hình

phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang

một hình phạt khác nhẹ hơn là hình phạt cảnh cáo. Lý do của việc giảm nhẹ phải

ghi vào bản án.

Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình Sự thì người phạm tội tổ

chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được hưởng án treo. Nếu người phạm

tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình Sự, không có

tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 02 năm tù.

Nếu các tình tiết của vụ án như nhau, thì người phạm tội này có nhiều tình tiết

giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn

người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn; người phạm tội này

có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS sẽ được áp dụng hình

phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặn hơn.

Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo cấu thành tội phạm tăng nặng 9.

Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một trong

các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Đối với 02 người trở lên: Là trường hợp tổ chức mang thai hộ vì mục

đích thương mại đối với 02 người trở lên. Nghĩa là cùng một khoảng thời gian

9 Xem: khoản 2 điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015

48

một hoặc một nhóm người đã tổ chức cùng một lúc cho 02 người mang thai hộ để

hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.

b) Phạm tội 02 lần trở lên: Là trường hợp tổ chức mang thai hộ vì mục

đích thương mại từ 02 lần trở lên. Đây cũng có thể được xem là phạm tội 02 lần

nhưng chỉ đối với 01 người (để phân biệt với trường hợp “Đối với 02 người trở

lên”).

Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp có từ 02 lần tổ chức mang thai hộ vì mục

đích thương mại trở lên, mỗi lần tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại

đều đã cấu thành tội phạm và nay bị đưa ra xét xử cùng một lúc, không phụ thuộc

vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước đến lần phạm tội sau.

Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội 02 lần trở lên nếu tất cả những lần phạm tội đó

chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó, chỉ có 01

lần phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, còn các lần phạm tội

khác chỉ là vi phạm kỹ luật hoặc đã bị xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách

nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội tổ chức mang thai hộ

vì mục đích thương mại 02 lần trở lên.

c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức: Là trường hợp người phạm

tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên, ví dụ như lợi

dụng danh nghĩa bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức nhân đạo…để đứng

ra tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng là lợi

dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức khi mà chính người tổ chức đang làm việc

trong cơ quan, tổ chức. Nếu người phạm tội giả mạo là thành viên của bệnh viện,

cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức nhân đạo…để đứng ra tổ chức mang thai hộ vì

mục đích thương mại thì không áp dụng tình tiết này.

d) Tái phạm nguy hiểm: Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm

nguy hiểm:

Là trường hợp người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đã

bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,

chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng,

tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.

Là trường hợp người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đã

tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

49

Người phạm tội Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một

trong các trường hợp nêu trên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Khi quyết định hình phạt đối với người phạm Tội tổ chức mang thai hộ vì mục

đích thương mại theo Khoản 2 Điều 187 BLHS, Tòa án cần căn cứ vào các quy

định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS (từ Điều 50 đến Điều 59).

Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1

Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng một hình

phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong

khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 03 tháng đến 01 năm).

Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS,

không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 05 năm. Đường lối xử lý Tội tổ

chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo hình phạt bổ sung (Khoản 3 điều

187 Bộ luật Hình sự).

Ngoài hình phạt chính, người phạm tội Tổ chức mang thai hộ vì mục đích

thương mại có thể bị phạt một trong các hình phạt bổ sung sau đây: Phạt tiền từ

10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề

hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm/.

Như vậy,có thể thấy, pháp luật đã có những dự liệu về các tình huống và

trường hợp xảy ra quanh vấn đề mang thai hộ nên đã có những quy định rất cụ

thể về các điều kiện áp dụng cũng như chế tài xử lý nếu xảy ra vi phạm. Điều này

cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đến đời sống xã hội. Những quy định của

pháp luật trên cả phương diện Hôn nhân gia đình, dân sự, hình sự nhằm bảo đảm

sự phát triển lành mạnh của xã hội và phát huy giá trị nhân văn của hình thức

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam

Hạn chế về mặt nội dung của các điều kiện áp dụng mang thai hộ vì mục

đích nhân đạo

Tiếp cận các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay cho thấy,

mặc dù hệ thống pháp luật đã xây dựng hành lang pháp lý tạo cơ sở cho việc thực

hiện quyền làm cha mẹ cho bất kỳ các nhân nào, song những quy định của pháp

luật hiện nay vẫn còn bộc lộ những “rào cản” nhất định khiến cho nhiều cặp vợ

chồng không thể tiếp cận được với mang thai hộ. Cụ thể:

Thứ nhất, điều kiện để được phép mang thai hộ ở nước ta còn khá khắt khe.

Theo quy định của pháp luật hiện hành, để có thể tiến hành việc mang thai hộ 50

một cách hợp pháp, các bên phải đáp ứng khá nhiều các quy định của pháp luật

về yếu tố chủ thể, độ tuổi, tình trạng hôn nhân,… Những ràng buộc quá kín kẽ

này đã khiến không ít bệnh nhân phải “đỏ mắt” để tìm người nhờ mang thai hộ,

dập tắt nhiều hi vọng của họ.

Gian nan tìm người mang thai hộ

Đã 4 năm nay, một gia đình hiếm muộn đã rời Hà Nội vào TP.HCM sinh sống.

Căn phòng nhỏ là nơi vợ chồng chị tá túc trong thời gian điều trị bệnh. Theo chỉ

định của bác sĩ, vợ chồng này phải tìm người mang thai hộ. Sau đó, anh chị đã

tìm được người bà con bên chồng và người này cũng đồng ý giúp. Tuy nhiên, khi

làm thủ tục bệnh viện thông báo người mang thai hộ không "cùng hàng" mà là

"cháu" của chị, theo quy định pháp luật sẽ không được.

Còn một trường hợp bệnh nhân khác từ Quảng Ngãi vào TP.HCM. Ngay khi

vừa có nghị định 10/2015 cho phép mang thai hộ chị rất mừng. Thế nhưng chị

rất ngỡ ngàng khi bị từ chối vì người này là "cô", cũng không "cùng hàng" với

chị. Chị bị từ chối điều trị mang thai hộ [15].

Có thể thấy, những niềm hy vọng có con lần lượt bị dập tắt bởi vướng quy định

điều kiện về “người thân thích cùng hàng” dẫn đến quyền được làm cha mẹ của

các cặp vợ chồng vô sinh bị bó hẹp. Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP

giải thích người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai

hộ. Có thể nói mục đích của quy định này là nhằm hạn chế tình trạng thương mại

hóa việc mang thai hộ. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, song sự ràng buộc về

mặt văn hóa truyền thống khiến quy định “thân thích cùng hàng” của Việt Nam

(hiểu đơn giản là người ngang vai trong mối quan hệ gia đình, dòng họ) đã triệt

tiêu một số lượng không nhỏ những người sẵn sàng mang thai cho cặp vợ chồng

vô sinh vì không phải ai cũng tìm được người đủ điều kiện để thực hiện thủ tục

mang thai hộ.

Từ quy định này đặt ra câu hỏi rằng điều này có mang lại hiệu quả hay không

khi nhu cầu của việc mang thai hộ ngày càng lớn và tính thương mại chưa hẳn

chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp

ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng

phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có

không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi

thân thích như Nghị định 10/2015/NĐ - CP đã nêu trên đều không có chị em gái,

hoặc có chị em gái nhưng những người này là người chưa thành niên, hay đã 51

thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ

sẽ không thể được tiến hành dù không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì

vậy, quy định này tiềm ẩn khả năng các cặp vợ chồng vô sinh sẽ nhờ người mang

thai hộ một cách lén lút, gây ra nhiều hậu quả pháp lý khó kiểm soát.

Thứ hai, pháp luật quy định trong trường hợp nhờ mang thai hộ, vợ chồng phải

không có con chung.

Trên thực tế chúng ta đều có thể nhận thấy tỷ lệ rủi ro của các biện pháp kỹ

thuật hỗ trợ sinh sản là không hề nhỏ.Có những cặp vợ chồng thực hiện thụ tinh

nhân tạo đến lần thứ 3, thứ 4 vẫn không thành, nhưng người vợ vẫn không mất đi

khả năng sinh con. Nhưng nếu tình trạng này kéo dài lâu sẽ rất dễ xảy ra tình

trạng người vợ lớn tuổi mới bắt đầu mang thai, khi đó sự đảm bảo về sức khỏe

của người mẹ và thai nhi đều thấp hơn rất nhiều so với thông thường. Chưa kể

những rủi ro về mặt dị tật đối với đứa trẻ cũng là rất lớn. Vậy phải chăng khi này,

họ nên được áp dụng biện pháp mang thai hộ?

Trong trường hợp nếu vợ chồng đã có con chung nhưng con chung mắc những

bệnh như down hay một số bệnh lí khác làm cho đứa con không thể phát triển

được bình thường, hoặc không còn sống mà muốn có thêm con nhưng khả năng

sinh đẻ không còn do không thể thụ thai được nữa thì trong trường hợp này cũng

không được pháp luật cho phép. Tác giả nhận thấy quy định này hoàn toàn không

hợp lý do nguyện vọng chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể

chất và trí tuệ. Pháp luật hiện hành cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,

vì thế việc cần thiết cho phép các trường hợp này được thực hiện mang thai hộ

thì tính chất nhân văn càng được thể hiện rõ rệt.

Thứ ba, quy định về người ký thỏa thuận mang thai hộ (hợp đồng). Quy định

“Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng

văn bản của người chồng” và phần ký kết trong hợp đồng cũng ghi rõ là bốn

người cùng ký. Đây là một quy định còn khá cứng nhắc bởi lẽ trong trường hợp

người chồng của người phụ nữ mang thai hộ là người mất năng lực hành vi dân

sự, là người mắc các chứng bệnh như thiểu năng, liệt toàn thân, hoặc các chứng

bệnh về thần kinh khác... thì rất khó để cho ý kiến và đồng ý bằng văn bản trong

trường hợp này. Thậm chí, việc ký vào hợp đồng của họ cũng còn là một điều

khó khăn. Chính vì thế cần có sự điều chỉnh từ pháp luật trong vấn đề này.

Thứ tư, quy định về quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không

tiếp tục mang thai. Cụ thể tại khoản 4 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 52

2014 quy định: “Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc

sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng

bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai”. Trong trường hợp thai nhi

trong bụng phát triển không bình thường, có dấu hiệu của dị tật, bệnh hiểm nghèo

thì bên mang thai hộ có quyền quyết định việc tiếp tục hay không tiếp tục mang

thai. Quy định này nếu xét theo khía cạnh của người nhận mang thai hộ thì rất

nhân đạo bởi điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể và sức khỏe của họ. Hơn

nữa theo quy định, phụ nữ được quyền nạo thai, phá thai theo nguyện vọng và

được theo dõi sức khỏe trong thời kì thai nghén.Đứng dưới góc độ bảo vệ quyền

và lợi ích hợp pháp của người được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định

hợp lý. Tuy nhiên, nếu xét dược góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhờ

mang thai hộ quy định này còn một vấn đề như sau: Theo quy định của Luật Hôn

nhân và Gia đình năm 2014 bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu trách nhiệm

chăm sóc đứa trẻ đó từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng thành và

được công nhận là cha mẹ của trẻ. Chính vì vậy, nếu trong quá trình mang thai,

bào thai phát triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì chính cha mẹ của thai

nhi sẽ là người quyết định tiếp tục duy trì thai kỳ hay chấm dứt theo lời khuyên

của bác sĩ. Việc cho đơn phương cho phép bên nhận mang thai hộ quyết định là

không hợp lý vì như thế rất có thể xảy ra trường hợp bên mang thai hộ vì một lý

do nào đó dùng đứa trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ để đáp ứng

những yêu cầu khác không theo thỏa thuận ban đầu.

Thứ năm, pháp luật không cho phép trường hợp mẹ đơn thân vô sinh và nhóm

người đồng tính, chuyển giới nhờ mang thai hộ. Với những người không kết hôn

mà không có khả năng mang thai, pháp luật hạn chế quyền này của họ. Điều này

đặt ra câu hỏi tại sao cùng là phụ nữ trong trường hợp đặc biệt nhưng người được

trao quyền còn người thì bị hạn chế? Liệu quyền con người, quyền bảo vệ nhóm

người yếu thế ở đây có được đảm bảo? Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã

cho phép phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng phương pháp thụ tinh trong

ống nghiệm. Họ được phép xin tinh trùng, sau đó lấy trứng của bản thân minh

thụ tinh thành phôi và cấy trở lại dạ con của mình. Họ được phép có con, có

quyền có con như mình mong muốn. Tuy nhiên, nếu bản thân những người phụ

nữ độc thân này có noãn nhưng noãn của họ không thể phát triển thành phôi hoặc

họ mắc một số bệnh bẩm sinh, bệnh di truyền, dị tật, bản thân họ không thể mang

53

thai bình thường được thì họ vẫn không được phép nhờ mang thai hộ vì pháp luật

hiện hành không cho phép họ mang thai hộ.

Bên cạnh đó, nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới nếu có nhu cầu có

con bằng phương pháp mang thai hộ thì không được pháp luật cho phép do pháp

luật không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Bộ luật Dân sự

năm 2015 đã cho phép cá nhân chuyển đổi giới tính. Như vậy, người chuyển đổi

giới tính sẽ được quyền kết hôn theo quy định của pháp luật về HNGĐ. Đương

nhiên, họ có quyền nhớ mang thai hộ. Tuy vậy, theo quy định thì cặp vợ chồng

nhờ mang thai hộ phải có noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để

kết hợp thụ thai, vì vậy trường hợp này nếu không đảm bảo điều kiện trên thì

không được nhờ mang thai hộ. Có nghĩa, pháp luật HNGĐ đã công nhận và bảo

vệ quyền của họ nhưng lại hạn chế quyền mang thai hộ. Đây cũng là 1 điểm bất

cập lớn của pháp luật.

Thứ sáu, có rất nhiều loại thủ tục phải thực hiện để hoàn tất hồ sơ mang thai

hộ. Mặc dù tất cả giấy tờ cần thiết đểu được quy định rõ ràng trong các văn bản

pháp luật nhưng việc đảm bảo các thủ tục hành chính rất khó khăn vì rườm rà.

Hồ sơ đó phải gồm đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu

số 4 ban hành kèm theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15-3-

2015, bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 5,

bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào, bản

xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi

thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận. Cần có bản xác nhận của cơ

sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về

việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức

khỏe. Ngoài ra còn cần 6 văn bản xác nhận nữa, là xác nhận của cơ sở khám

bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người

mang thai hộ về khả năng mang thai, xác nhận của UBND cấp xã hoặc người

mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân

thích, xác nhận của chồng người mang thai hộ, trường hợp người phụ nữ mang

thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý của chồng về việc cho mang thai

hộ…Chính vì những khó khăn về khâu giấy tờ khiến các cặp vợ chồng hiếm

muộn e ngại, thời gian chờ đợi để duyệt hồ sơ lâu. Điều đó cũng gián tiếp tạo ra

điều kiện để họ tìm đến các cơ sở mang thai hộ “chui” gây khó kiểm soát trong

mang thai hộ ở nước ta hiện nay.

54

Thứ bảy, chi phí để thực hiện mang thai hộ hiện nay còn khá cao mà không

được hỗ trợ Bảo hiểm y tế. Ngoài các quy định về điều kiện chủ thể, thì nếu

muốn thực hiện việc sinh con bằng mang thai hộ thì người vợ phải là người mà

kết quả khám bệnh chỉ ra rằng không thể sinh con dù đã áp dụng các biện pháp

hỗ trợ sinh sản. Chi phí để thực hiện các thủ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đã

có giá hàng chục triệu đồng, thêm vào đó chi phí để thực hiện việc mang thai hộ

có thể lên đến hàng trăm triệu đồng.

Luật BHYT năm 2015 sửa đổi ban hành có thêm một số hạng mục thuốc điều trị

mới được thanh toán, nhưng người điều trị hiếm muộn vẫn phải tự chi trả chi phí

điều trị.Vì sao ở nước ta, điều trị hiếm muộn chưa được đưa vào danh sách

BHYT chi trả? Ông Hà Văn Thúy - Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế)

cho biết: Nguyên nhân gây hiếm muộn rất khó xác định; đồng thời chi phí cho

chẩn đoán và điều trị cũng rất lớn. Trong khi đó, hiện nay quỹ BHYT chỉ bảo

đảm chi trả cho khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ và sinh

con. Tuy nhiên, có một thực tế là điều trị hiếm muộn có nhiều phương pháp,

trong đó các biện pháp trị hiếm muộn ít phức tạp như điều trị bằng hoóc môn,

thụ tinh nhân tạo… có xác suất thành công 20-30% tùy vào mức độ bệnh lý.Giá

mỗi đợt điều trị này chỉ dao động từ 5 triệu đến 20 triệu đồng.Số tiền không quá

lớn, vì sao BHYT vẫn không chi trả?

Theo BS Hoàng Thị Diễm Tuyết, hiếm muộn, vô sinh không phải là căn bệnh

hiếm gặp, 10% dân số nước ta có nhu cầu điều trị vô sinh, hiếm muộn. Với các

phương pháp hỗ trợ sinh sản, những cặp vợ chồng hiếm muộn phải chi trả mức

phí từ vài chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng. BS Hoàng Thị Diễm Tuyết

nói: "Đây là rào cản khiến không ít gia đình ngậm ngùi chấp nhận cảnh không

có con vì không có tiền điều trị". Mấy chục năm gắn bó với nghề điều trị vô sinh,

GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã xót xa với không ít trường hợp: "Nhiều cặp

điều trị 5-6 lần, cầm cố nhà cửa, đến khi thành công thì không còn nhà để con ở.

Có khi vì quá tội với đứa trẻ, sinh ra phải khổ sở nên tôi đã tự mình bỏ tiền túi

cho bệnh nhân về chuộc lại nhà, chuộc lại sổ đỏ". Việc điều trị hiếm muộn tốn

phí tiền bạc, công sức, làm nhiều gia đình nghèo trở nên khốn khó hơn."Khi chữa

trị thành công cho những cặp vợ chồng hiếm muộn, tôi vừa mừng và giật mình lo

lắng vì không ít đứa trẻ được sinh ra phải chịu cảnh nghèo khó.Bản thân tôi cũng

phân vân, không biết làm thế nào?" - GS. BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng nói [16]

55

Như vậy, có thể nói điều này là không thể đối với những cặp vợ chồng nghèo.

Vậy nên, mang thai hộ hiện nay vẫn còn là cơ hội dành cho những người có điều

kiện. Còn người nghèo hiếm muộn chỉ biết…đợi chờ.

Bất cập về chế tài xử lý vi phạm:

Về chủ thể tội phạm, Điều 187 BLHS năm 2015 quy định đối với cá nhân có

hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục thương mại là những cá nhân từ đủ 16 tuổi

trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét trong mối tương quan giữa tên tội danh “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích

thương mại” với chủ thể tội phạm theo tinh thần điều luật thì đối tượng chủ thể

của điều luật này không chỉ hướng tới cá nhân trực tiếp mang thai hộ mà còn cả

những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Tuy nhiên, cả tên điều luật và chủ thể phạm tội quy định tại khoản 1 điều này

đang tạo ra các cách hiểu khác nhau theo chiều hướng thu hẹp đối tượng phạm

tội chỉ đối với “người tổ chức”, còn người mang thai hộ đơn thuần (không có yếu

tố tổ chức) thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội danh này. Vì thế, trong

trường hợp người mang thai hộ không qua khâu “trung gian” mà trực tiếp làm

việc với bên nhờ mang thai hộ theo hình thức thỏa thuận thương mại thì rất dễ bị

tội phạm lợi dụng sơ hở của pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội. Phần này

viết nagwns quá không tương xứng với phần trên

2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ

2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ

Theo báo cáo của Tổ chức Y tế, Thế giới có khoảng 8-12% các cặp vợ chồng bị

vô sinh, còn theo thống kê của Bộ Y tế ở Việt Nam tại hội thảo quốc gia về sức

khỏe sinh sản và tình dục tổ chức ngày 12/12/2012 tại Hà Nội, thứ trưởng Bộ Y

tế, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản trung ương, T.S Nguyễn Viết Tiến cho biết kết

quả điều tra gần 14.400 cặp vợ 35 chồng đại diện cho tại 8 vùng sinh thái tại Việt

Nam cho thấy tỉ lệ vô sinh chung trên phạm vi toàn quốc là 7,7% trong độ tuổi từ

15-49 tuổi trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%. Từ

những số liệu trên cho thấy, tỉ lệ vô sinh của nước ta liên tục tăng cao, năm 1982

là 13%, năm 1998 là 13,4%, năm 2000 là 15%. Trong vòng 15 năm (1982 -

2000), tỉ lệ vô sinh tăng 2%, trung bình 0,13% /năm. Trong những năm về sau,

dù Việt Nam đã ứng dụng nhiều dịch vụ y tế trong chẩn đoán và điều trị vô sinh

tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng tỉ lệ vô sinh vẫn rất cao. Tỉ lệ thành

công của những cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chiếm rất 56

ít (chỉ khoảng 20- 30%), những cặp vợ chồng còn lại (70 - 80%) dù đã tiến hành

các biện pháp hỗ trợ sinh sản vẫn không thể mang thai và sinh con, chính vì vậy

đã dẫn đến hiện tượng mang thai hộ diễn ra ngày càng nhiều trong thực tế cuộc

sống [6]. Nguyên nhân này 1 phần xuất phát cũng bởi các kỹ thuật y tế nước ta

thời kỳ này phát triển chưa mạnh nên việc chữa trị vô sinh hiếm muộn còn gặp

nhiều khó khăn.

Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) có hiệu lực từ 01/01/2015 và Nghị định

10/2015 có hiệu lực từ 15/03/2015 giống như “phao cứu sinh” hạnh phúc cho

nhiều đôi vợ chồng hiếm muộn, bởi cho phép mang thai hộ. Và chỉ sau đó 1 năm,

ngày 22-1-2016, Việt Nam đã lần đầu tiên đón nhận em bé chào đời từ mang

thaihộ, đánh dấu một nét son mới của ngành y tế và cũng là bước tiến bộ đầy

nhân văn đáng ghi nhận.

Ngày 22-1-2016, Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã đón chào công dân đầu tiên

ra đời bằng kỹ thuật mang thai hộ .Bé gái được đặt tên Đinh Quỳnh Anh ra khỏi

bụng mẹ ở tuần thai thứ 38, nặng 3,6kg, là con của chị Nguyễn Thị Hà (ngụ tại

Hà Nam). Vợ chồng chị Hà lấy nhau đã 18 năm, không có con do chị bị tử cung

nhỏ bẩm sinh. Vợ chồng chị cố gắng chạy chữa vẫn không có kết quả. Ngay khi

biết luật cho phép, vợ chồng chị liền nhờ người cô họ mang thai hộ. Bác sĩ đã

tiến hành lấy noãn của chị và tinh trùng của chồng, sau đó cấy phôi vào người

MTH và bắt đầu thụ thai từ tháng 3-2015…Hiện đã có hơn 10 ca mang thai hộ

thành công (trong số hàng trăm hồ sơ chờ xin được duyệt), thực hiện tại Bệnh

viện Phụ sản Trung ương. Tương tự, ngày 28-7-2016, Bệnh viện Trung ương

Huế (đại diện cho khu vực miền Trung được phép triển khai kỹ thuật mang thai

hộ) cũng đón chào bé gái đầu tiên từ kỹ thuật Mang thai hộ khỏe mạnh, nặng

3,5kg; là con của đôi vợ chồng (ngụ thị xã Hương Trà, Thừa Thiên - Huế) đã kết

hôn được 8 năm nhưng không thể tự mang thai do người vợ bị cắt tử cung… Đến

nay, Bệnh viện Trung ương Huế cũng đã tiếp nhận hồ sơ, thực hiện thụ tinh trong

ống nghiệm thành công cho gần 10 trường hợp. Trong khi đó, dù “quả ngọt” đến

sau, nhưng Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TPHCM (đại diện được phép thực hiện

mang thai hộ tại khu vực phía Nam) từ khi triển khai thực hiện đến nay, đã có 9

trường hợp mang thai hộ được thụ thai thành công tại Bệnh viện Từ Dũ

(TP.HCM) [18] và đặc biệt hơn vì đón nhận một ca sinh đôi thành công nhờ

mang thai hộ. Đó là ngày 17-9-2015, BV thông báo đã thực hiện thành công

trường hợp mang thai hộ song thai của 1 phụ nữ quê ở Khánh Hòa, 28 tuổi, bị 57

khiếm khuyết ở hệ sinh dục (mắc chứng tử cung nhi hóa, không có cổ tử cung).

Người mang thai hộ là người chị họ, 33 tuổi…

Theo Bộ Y tế, tính đến nay cả nước đã có hơn 30 trường hợp sinh con nhờ

mang thai hộ thành công. Cùng với đó là có khoảng gần 500 hồ sơ mang thai hộ

được duyệt trong số hàng ngàn hồ sơ đăng ký [19]. Bên cạnh đó, nền y học về

lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm của nước ra cũng gặt hái được rất nhiều thành

quả đáng mừng, khi các nguyên cứu liên tục được đăng trên các tạp chí y khoa uy

tín thế giới [17]

Có thể thấy rằng, từ lúc được hợp pháp hóa đến nay, đã có rất nhiều cặp vợ

chồng được tận hưởng niềm vui làm cha mẹ, điều mà trước đây họ không thể tự

mình làm được. Đây quả thật là điều đáng mừng cho nền y học nước nhà và cũng

là niềm hy vọng lớn lao cho những cặp vợ chồng kém may mắn khác.

2.2.2. Thực trạng vi phạm pháp luật về mang thai hộ

Tuy luật mang thai hộ đã được áp dụng vào thực tiễn, mở ra cơ hội với nhiều

cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy vậy, không phải trường hợp nào cũng nhận được

những “quả ngọt”.Bởi hiện nay, do những khắt khe trong việc quy định về điều

kiện được phép mang thai hộ mà nhiều cặp vợ chồng dù có mong muốn nhưng

không đáp ứng được vẫn phải tìm đến những cánh cửa khác. Cũng từ đó, mang

thai hộ “chui” lại trở thành một mảnh đất màu mỡ để những kẻ môi giới kiếm lời

trên khát khao mong mỏi của người khác. Những người nhờ mang thai hộ là

những trường hợp đặc biệt nhưng không đủ điều kiện mang thai hộ theo quy định

của pháp luật, hoặc cũng có thể là những người phụ nữ “sợ đẻ”, sợ ảnh hưởng sự

nghiệp nhưng vẫn muốn có con huyết thống,…Còn những người nhận mang thai

hộ đa phần có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cần tiền để trang trải cuộc sống, bù

đắp nợ nần. Theo tìm hiểu, mỗi lần giao dịch mang thai hộ, tùy vào giá mà các

bên “cò mồi” ra khác nhau, nhưng trung bình người nhờ mang thai hộ sẽ tốn

khoản 300 – 500 triệu đồng, chưa tính các chi phí bồi dưỡng ngoài cho bà bầu;

bên trung gian nhận 1/3 số tiền, số còn lại trao cho người “đẻ thuê”. Ngoài ra mỗi

tháng, người nhờ mang thai hộ còn phải cung cấp cho người mang thai hộ tiền ăn

uống, thuốc men, khám thai... và khá nhiều những khoản chi phí khác. Vì là dịch

vụ chui, nên gần như họ chỉ thỏa thuận một cách sơ sài chứ ít ai lập thành hợp

đồng hay công chứng chứng thực thỏa thuận của mình. Chính vì thế, kể từ khi

thỏa thuận được hình thành cho đến lúc sinh em bé luôn chứa đựng rất nhiều rủi

58

ro bởi tính pháp lý khi hợp đồng của họ chỉ được bảo chứng bằng chữ “tín” của

những người không quen biết [20]

Có trường hợp người mang thai hộ sau thời gian mang thai ít nhiều cũng có tình

cảm máu mủ với đứa trẻ bị sinh ra. Vì vậy, cũng có thể xảy ra tình trạng “phá

hợp đồng”, không giao con cho bên thuê hoặc bỏ trốn… Lúc này thì người nhờ

mang thai hộ bị đứng trước hoàn cảnh trớ trêu, không thể kiện đối tác vì rõ ràng

trên luật pháp, đứa trẻ sinh ra là con của người mang thai hộ; những cũng không

thể bỏ đi vì đứa con đó trên thực tế lại là máu mủ của mình. Hoặc cũng có trường

hợp đối tượng mang thai hộ khi đã trở thành chuyên nghiệp có thể nghĩ ra nhiều

chiêu vòi vĩnh người thuê như đòi thêm tiền, ra nhiều điều kiện “trời ơi đất hỡi”.

Hoặc quá đáng hơn là sau khi nhận tiền thì tìm cách bỏ trốn, người đẻ thuê sẽ phá

thai và tiếp tục hành trình lừa đảo của mình,…v….v…. Tất nhiên trong những

tình huống này thì người đi nhờ mang thai hộ cũng không biết kêu ai vì họ không

được pháp luật bảo vệ.

Ngược lại, người mang thai hộ cũng có nguy cơ gặp không ít rủi ro khi thực

hiện dịch vụ “chui” này. Có trường hợp trong quá trình mang thai gia đình người

nhờ mang thai hộ có trục trặc trong hôn nhân không muốn nhận con nữa. Hoặc

khi đứa bé sinh ra gặp rặc rối về sức khỏe như sinh non, ốm yếu, dị tật,… bên

thuê không muốn đón con về, trốn tránh. Khi đó người mang thai hộ sẽ găp rất

nhiều khó khăn.

Những người nhận mang thai hộ “chui” không chỉ đáp ứng riêng nhu cầu nhờ

mang thai hộ trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Vì thế, những đường dây buôn

người sang Trung Quốc, Campuchia để cấy phôi, thụ thai rồi về Việt Nam dưỡng

thai xuất hiện rất nhiều, lẩn trốn trong xã hội. Nên những “lò” nuôi bà bầu vẫn

hoạt động nhộn nhịp.

Mới đây, tháng 12/2018, Phòng Cảnh sát hình sự (Công an TPHCM) triệt phá

đường dây mang thai hộ vì mục đích thương mại xuyên quốc gia. Theo tin báo,

lực lượng chức năng phát hiện và bắt giữ nhóm người chuẩn bị sang Campuchia

mang thai hộ. Cơ quan công an đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh

tạm giam với 5 đối tượng trong đường dây này.

Với từ khoá cho và nhận con nuôi trên mạng xã hội, hàng loạt nhóm cho và

nhận con nuôi hiện lên xoay quanh câu chuyện những người phụ nữ nhỡ mang

thai, không có khả năng nuôi con và người hiếm muộn muốn tìm nhận con nuôi.

Mỗi ngày, có cả chục trường hợp bà bầu muốn cho con đăng trên nhóm.Với 59

những thông tin rất công khai và đề cập trực tiếp nhu cầu, hoạt động này diễn ra

nhộn nhịp như một cái chợ buôn bán trẻ sơ sinh.có rất nhiều người môi giới chờ

sẵn trên các trang mạng để tìm bà bầu. Các hình ảnh siêu âm, ảnh bà bầu sinh

hoạt được đưa lên trang cá nhân trên mạng xã hội để tạo sự tin tưởng. Không chỉ

hoạt động trong nước, ngoài tuyển người sang Trung Quốc mang thai hộ, nhiều

“cò mồi” còn tuyển người mang thai hộ sang Campuchia cấy phôi, trở về dưỡng

thai ở Việt Nam. Với đủ chiêu trò, lời dụ dỗ ngon ngọt, chăm sóc tận tình, “cò

mồi” “buông câu” những phụ nữ nhẹ dạ cả tin từ Hà Nội lên Lạng Sơn rồi vượt

biên sang Trung Quốc. Không có gì bảo đảm, nhiều phụ nữ phó mặc tính mạng

vào những lời cam kết qua mạng xã hội.

Như vậy có thể thấy, mặc dù pháp luật đã có những hướng đi cởi mở hơn nhưng

chỉ quy định “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và đóng khung những trường

hợp cụ thể là chưa đủ đáp ứng nhu cầu, do đó khó có thể ngăn những giao dịch

ngầm này xảy ra trong thực tế. Điều này gây khó kiểm soát cho Nhà nước, vô

hình biến chủ thể của mang thai hộ thành “công cụ” đẻ thuê và trẻ em thành mặt

hàng để mua bán, đi ngược lại với đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.

2.1. Nguyên nhân của những hạn chế

Thứ nhất là do nhận thức của xã hội tác động đến nhận thức của nhà làm luật

- Hiện nay pháp luật quy định về điều kiện đối với người mang thai hộ phải là

“người thân thích cùng hàng với bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ” nhằm

ngăn chặn nguy cơ thương mại hóa. Tuy nhiên, không phải ai cũng tìm được

người đủ điều kiệntheo quy định để thực hiện thủ tục mang thai hộ. Có người thì

không có chị, em cùng hàng đáp ứng phù hợp (về độ tuổi, khả năng sinh con, sức

khỏe,…). Hoặc tìm được thì không đồng ý nhận vì sợ “lời ra tiếng vào” hoặc ảnh

hưởng đến vóc dáng, công việc.Điều này là một trong những nguyên nhân chính

dẫn đến mang thai hộ “chui” vì mục đích thương mại.

Quan niệm của người dân Việt Nam có vẻ rất “dị ứng” với những mối quan hệ

gia đình, những mối quan hệ truyền thống mà lại dính dáng đến kinh doanh, đến

tiền bạc. Song thực tế, những thỏa thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những

thỏa thuận dễ điều chỉnh nhất, dưới góc độ pháp lý.

- Việc bỏ qua quyền nhờ mang thai hộ của phụ nữ độc thân vô sinh có thể coi là

khoảng trống của nhà làm luật khi chưa quan tâm đến quyền làm mẹ của người

phụ nữ trong trường hợp này. Điều này có lẽ xuất phát từ định kiến xã hội Việt Nam

về người phụ nữ làm mẹ đơn thân. Quan niệm “không chồng mà chửa” đã ăn sâu 60

vào tư tưởng của người dân Việt Nam với những cái nhìn không mấy thiện cảm, gây

ảnh hưởng tới tư duy của nhà làm luật. Mặc dù quy định về mẹ đơn thân đã được

luật hóa nhưng thực tế khó thay đổi được quan niệm truyền thống.

- Đối với những trường hợp chuyển giới hoặc đồng tính, pháp luật hiện hành

không công nhận hôn nhân đồng tính nên họ không được coi là vợ chồng và vì

thế không được nhờ mang thai hộ. Bởi những người này không đảm bảo về điều

kiện kết hôn theo quan điểm thuần phong mỹ tục của Việt Nam và điều kiện thụ

thai nên pháp luật không công nhận trường hợp của họ, vì thế gián tiếp không

trao cơ hội mang thai hộ cho những người này mà chỉ cho phép nhận nuôi con

nuôi. Mặc dù hiện nay, xã hội Việt Nam đã có cái nhìn thoáng hơn về những

người thuộc giới tính thứ 3. Tuy vậy, tư tưởng đậm tính truyền thống vẫn ăn sâu

vào tiềm thức nên pháp luật cũng chưa có những quy định rộng hơn.

Thứ hai, nhận thức pháp luật còn hạn chế

- Những người nhận mang thai hộ thực tế thường là những người có hoàn cảnh

khó khăn, ở các vùng nông thôn, sự tiếp cận và hiểu biết pháp luật còn hạn chế.

Các thỏa thuận nhiều khi lại không có hợp đồng, khi trao con cho người khác lại

bị “bùng” tiền không được thanh toán.Lúc đó câu hỏi đặt ra ở đây là ai sẽ bảo vệ

họ?hay họ chỉ còn cách ôm nỗi uất ức chấp nhận?

- Sự phổ cập pháp luật không phải chỉ hạn chế với những người ở vùng sâu

vùng xa, khó khăn với tiếp cận pháp luật mà còn là với những người có tiền, kinh

tế vững nhưng không chịu tìm hiểu pháp luật hoặc khinh thường, coi rẻ luật pháp

mà vẫn tiếp tục thực hiện các hành vi bị cấm. Hoặc chỉ vì họ khao khát có một

đứa con huyết thống mà không tìm được cách nào khác ngoài việc nhờ mang thai

hộ “chui”

Việc kém hiểu biết về pháp luật tạo nên một lỗ hổng kiến thức, dễ dẫn đến tình

trạng tranh chấp xảy ra.

Thứ ba, các thủ tục yêu cầu mang thai hộ rườm rà

Để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ việc mang thai hộ không bị biến tướng, pháp

luật yêu cầu rất nhiều thủ tục để hoàn thiện hồ sơ mang thai hộ gồm xác nhận của

nhiều cấp chính quyền và cơ quan chức năng khác nhau. Tuy nhiên chính điều

này cũng gây khó khăn cho các cặp vợ chồng đi xin giấy tờ khi bỏ nhiều thời

gian ra để đi làm thủ tục hành chính rất rườm rà.Chính vì thế nên điều này cũng

khiến các cặp vợ chồng e ngại.Hơn nữa, thời gian đợi duyệt hồ sơ lâu. Đây cũng

61

có thể coi là nguyên nhân gián tiếp khiến các cặp vợ chồng tìm những dịch vụ

“đẻ thuê” bên ngoài vì tính chất “nhanh, gọn, tiện”.

Thứ tư, về điều kiện kinh tế

Chi phí cho các lần chữa trị vô sinh hiện nay rất lớn mà không được bảo hiểm y

tế chi trả. Bên cạnh đó lại tốn kém về thời gian nên không ít cặp vợ chồng chọn

cách tìm “thị trường ngoài” để rút ngắn lại thời gian và đảm bảo được chi phí

mình có thể chi trả, mặc dù biết đứa trẻ sinh ra có thể bị hạn chế nhiều quyền lợi

hợp pháp mà đáng lẽ nó phải được nhận.

Mang thai hộ không nhằm mục đích thương mại nhưng có thể sẽ là một lý do để

sau khi mang thai người mang thai hộ đòi hỏi tiền hoặc lợi ích vật chất từ người

nhờ mang thai hộ. Vì thế mà nguyên nhân về kinh tế là một trong những nguyên

nhân chính gây ra hoạt động mang thai hộ vì mục đích thương mại hoặc lợi ích

kinh tế khác.

62

KẾT LUẬN CHƯƠNG II

Ở chương II, tác giả đã nêu và phân tích cụ thể các quy định về mang thai hộ

theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Luật Hình sự năm 2015. Từ nội

dung quy định của pháp luật đến việc đưa pháp luật áp dụng vào thực tiễn cuộc

sống, bên cạnh những kết quả đạt được đáng mừng của việc thực hiện pháp luật

về mang thai hộ thì cũng còn nhiều hạn chế và bất cập. Sự va chạm đến quyền và

lợi ích của các nhóm chủ thế; đến nhu cầu thực tế của xã hội đã vượt qua những

dự liệu của pháp luật, dẫn đến tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại

vẫn tiếp tục diễn ra, gây sự mất cân bằng xã hội và hạn chế tầm kiểm soát của

Nhà nước. Vì lợi nhuận và vì khó khăn kinh tế có thể sẽ có trường hợp phụ nữ

Việt Nam trở thành công cụ sản xuất những đứa trẻ. Hơn nữa, đây còn là nguy cơ

cho việc bóc lột và thương mại hóa người đẻ thuê.

Từ những nhận định khách quan về nguyên nhân và sự hạn chế của pháp luật đã

phân tích tại chương II sẽ là cơ sở thực tiễn quan trọng để đề xuất một số giải

pháp hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam tại chương III.

63

CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ

NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ

Ở VIỆT NAM

3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mang thai hộ

3.1.1. Hoàn thiện một số các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình về

mang thai hộ

Thứ nhất, điều chỉnh về điều kiện “có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền

về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật

hỗ trợ sinh sản”

Với quy định này, yêu cầu người phụ n ữ trước đó phải thực hiện kỹ thuật hỗ

trợ sinh sản và nếu không thành công thì mới có đủ điều kiện để cơ sở y tế có

thẩm quyền xác nhận thực hiện nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Như

vậy, sau khi đã bỏ ra một khoản tiền rất lớn để thực hiện thụ tinh nhân tạo hoặc

thụ tinh trong ống nghiệm không thành, họ phải bỏ ra một khoản chi phí tương

đương và thậm chí cao hơn để sử dụng kỹ thuật mang thai hộ. Điều đó sẽ gây

khó khăn đối với các cặp vợ chồng có thu nhập thấp. Do đó, theo tác giả, Điểm a

khoản 2 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có thể sửa lại về quy định

điều kiện của người nhờ mang thai hộ là “Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm

quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con đối với những trường

hợp có bệnh lí cụ thể về sinh sản mà không thể khắc phục được bằng các phương

pháp khác” sẽ hợp lý và mở rộng cánh cửa pháp lý hơn cho các cặp vợ chồng vô

sinh muốn thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. đi kèm theo đó là Chính

phủ phải ban hành thêm hướng dẫn chi tiết hơn điều kiện này để xác định rõ cách

thức thực hiện việc xác nhận cũng như trách nhiệm của cơ sở khám chữa bệnh có

thẩm quyền để tránh sự tùy tiện và tốn kém trong thực hiện, áp dụng triệt để

pháp luật trong thực tiễn.

Thứ hai, về quy định tại điểm b khoản 2 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014 quy định “vợ chồng đang không có con chung”

Theo tác giả, pháp luật cần mở rộng đối tượng thực hiên trong trường hợp này

để đáp ứng sự cần thiết và phản ánh đúng tinh thần nhân đạo trong việc xây dựng

và thực thi pháp luật của Nhà nước.

Cụ thể nên có thêm trường hợp các cặp vợ chồng đã có 01 con chung nhưng bị

mắc các bệnh dẫn đến không nhận thức và điều chỉnh được nhận thức và hành vi

64

của mình, người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tiếp dù đã áp dụng

các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.

Bên cạnh đó, pháp luật cũng nên thêm trường hợp các cặp vợ chồng đã áp dụng

các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ 3 lần trở lên mà không có con thì cũng

có thể được áp dụng biện pháp mang thai hộ.

Thứ ba, về quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng

của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.

Để hài hòa được lợi ích chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và lợi ích của

Nhà nước, của xã hội trong công tác này cần phải xem xét về lâu dài nên cho

phép việc mang thai hộ được thực hiện bởi người thân thích không cùng hàng

hoặc cả những người không thân thích nhưng phải đảm bảo thực hiện đúng các

quy định pháp luật về điều kiện xác lập cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên.

Điểm cần lưu ý nữa là giải thích về khái niệm “người thân thích” theo Luật Hôn

nhân và Gia đình năm 2014 và “người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên

chồng nhờ mang thai hộ” theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP không có sự thống nhất10. NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP bao gồm: “Anh, chị, em cùng cha mẹ,

cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con

cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc

cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Trong khi đó Luật Hôn nhân và Gia

đình năm 2014 quy định: “Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi

dưỡng, người cùng có dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba

đời”. Theo quy định này, người thân thích không bao gồm chị dâu, em dâu của

bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ. Theo tác giả, cần có sự thống nhất giữa

Nghị định và luật để phù hợp với quy định và dễ dàng hơn cho những người thực

hiện.

Thứ tư, mở rộng đối tượng tham gia vào quan hệ mang thai hộ vì mục đích

nhân đạo

Pháp luật cần xem xét mở rộng và trao thêm cơ hội được mang thai hộ cho

trường hợp phụ nữ đơn thân muốn có con nhưng bị vô sinh và những người đồng

tính chuyển giới (Gọi chung là LGBT) để đảm bảo quyền con người, quyền mưu

cầu hạnh phúc theo đúng tinh thần của Hiến pháp.

10 Xem khoản 7 điều 2 NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP 65

Do vậy, xét ở khía cạnh xã hội, những vấn đề nhân văn và nhân đạo, những

người độc thân phải được quan tâm hơn hết. Cho phép đối tượng này được phép

có con bằng phương pháp mang thai hộ sẽ góp phần giảm bớt những gánh nặng

cho xã hội, đặc biệt khi họ ốm đau, bệnh tật hay khi về già có người chăm sóc.

Chúng ta cho phép những người độc thân, những người thuộc thế giới LGBT

được quyền có con bằng phương pháp mang thai hộ cũng là thừa nhận và phù

hợp với pháp luật của các nước trên thế giới, cũng chính là chúng ta đang tôn

trọng, bảo vệ và thực thi các quyền cơ bản của con người trong đời sống thực

tiễn. Trong một thế giới xu thế hòa nhập trên nhiều lĩnh vực thì pháp luật cũng

không nằm ngoài quỹ đạo đó

Cách làm này cũng thể hiện tính nhân đạo theo đúng bản chất của pháp luật về

mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bởi lẽ dù pháp luật có hạn chế quyền của họ

thì vì khao khát muốn có con huyết thống, họ vẫn lén lút thực hiện. Điều này sẽ

gây ra nhiều vấn đề pháp lý và đứa trẻ sẽ không được đảm bảo đầy đủ quyền và

lợi ích của mình, cũng sẽ để lại vết đen tâm lý cho chúng khi lớn lên.Việc mang

thai hộ chui gây ra rất nhiều rủi ro cho cả 2 phía, người nhờ mang thai hộ và

người được nhờ. Và người được hưởng lợi duy nhất đó là những người môi giới,

những người tổ chức dắt mối mang thai hộ. Để hạn chế những rủi ro và những

hậu quả phức tạp khó lường này, theo tác giả, quy định đối tượng được nhờ mang

thai hộ phải mở rộng hơn nữa.

Thứ năm, điều kiện “trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải

có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng”

Tuy nhiên, trên thực tế không phải người chồng nào cũng chấp nhận, vượt qua

rào cản định kiến xã hội để cho vợ của mình mang thai đứa con không phải là

con chung của vợ chồng dẫn đến việc không đồng ý. Cũng có những trường hợp

do vợ chồng ở cách xa nhau về mặt địa lý, người vợ cố tình giấu và giả chữ ký

của chồng để thực hiện việc mang thai hộ. Hoặc có trường hợp hai vợ chồng

đang trong giai đoạn rạn nứt tình cảm, ly thân thì việc nhận được sự đồng ý của

người chồng là một việc khó khan.Có nhiều trường hợp người phụ nữ mang thai

hộ có chồng nhưng chồng của họ lại mắc các chứng bệnh về tâm thần, hạn chế

trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, các chứng bệnh khác như bại

liệt... Đối với những trường hợp này nên có quy định mở rộng về việc nếu thuộc

các trường hợp nêu trêu, người phụ nữ có thể tự mình quyết định việc mang thai

hộ vì mục đích nhân đạo hộ người khác. Đồng thời, được phép bỏ trống mục chữ 66

ký của người chồng trong hợp đồng mang thai hộ trong trường hợp người chồng

không có khả năng ký vào văn bản do hạn chế về khả năng nhận thức và điều

khiển hành vi hoặc các trường hợp khác tương tự.

Thứ sáu, về độ tuổi của người mang thai hộ

Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về độ tuổi để mang thai hộ mà chỉ quy

định “ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả

năng mang thai hộ”. Theo nghiên cứu, người phụ nữ ở độ tuổi từ trên 18 đến

dưới 35 tuổi có sức khỏe sinh sản tốt nhất vì cơ thể đã phát triển toàn diện, chất

lượng trứng cũng ở thời kỳ tốt nhất. Ở độ tuổi này người phụ nữ đã phát triển đầy

đủ về cả tâm - sinh lý cho việc mang thai và làm mẹ. Từ độ tuổi 24-35, các điều

kiện về nghề nghiệp, kinh tế gia đình sẽ thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe khi

mang thai cũng như chăm sóc em bé khi ra đời để trẻ được phát triển toàn diện.

Từ những phân tích dưới góc độ y học, thiết nghĩ khi ban hành các văn bản

hướng dẫn cho Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề mang thai hộ, Bộ Y tế nên

ghi nhận độ tuổi thích hợp cho người phụ nữ mang thai hộ để đảm bảo chất

lượng của việc mang thai hộ cũng như tránh được các nguy cơ rủi ro cho người

phụ nữ mang thai và bào thai mang thai hộ để tránh những trường hợp không

mong muốn xảy ra trong quá trình mang thai.

Thứ bảy, về quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục

mang thai

Pháp luật hiện tại cho phép người mang thai hộ có quyền quyết định số lượng

bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai. Điều này gây tranh cãi về

bên có quyền định đoạt số phận thai nhi. Từ quy định pháp luật và thực tiễn về

vấn đề này, cần phải có văn bản hướng dẫn thật chặt chẽ để tránh các trường hợp

người được nhờ mang thai hộ không đồng ý chấm dứt thai kỳ theo yêu cầu của

bên nhờ mang thai hộ để rồi cuối cùng sinh ra những đứa trẻ bị dị tật, bệnh hiểm

nghèo. Điều này không những chỉ là nỗi đau của những trẻ mắc bệnh mà còn là

nỗi đau, là gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội.Ở một giả định khác trong

trường hợp này là việc do có quyền quyết định đến số phận bào thai nên không

thể loại trừ trường hợp người phụ nữ mang thai hộ vì một lý do nào đó dùng đứa

trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đáp ứng những yêu cầu của mình. Mà

yêu cầu đó có thể liên quan đến lợi ích kinh tế hoặc một lợi ích khác trái với ý

muốn của người nhờ mang thai hộ. Nhưng vì muốn đảm bảo cho sự an toàn của

con mình, họ buộc phải đáp ứng. Vì vậy, thiết nghĩ, văn bản hướng dẫn cần phải 67

xác định rõ hai trường hợp, nếu việc mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe,

tính mạng của người được nhờ mang thai hộ thì việc quyết định tiếp tục hay

chấm dứt thai kỳ là do người được nhờ mang thai hộ quyết định. Đối với trường

hợp thai nhi phát triển không bình thường, ví dụ như trong thời gian mang thai

hộ, trẻ bị khuyết tật bẩm sinh và được phát hiện bởi các kỹ thuật y tế thì cần có

sự thỏa thuận giữa bên nhờ mang thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ để đi đến

quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ. Nếu họ không thỏa thuận được thì nhờ

Tòa án giải quyết và Tòa án sẽ ra quyết định trên cơ sở tham vấn ý kiến của tổ

chức y tế. Được như vậy, sẽ phần nào hạn chế được tình trạng như đã nêu trên.

Thứ 8 tám, về các thủ tục quy định để hoàn thiện hồ sơ mang thai hộ

Với những trường hợp có mong muốn nhờ mang thai hộ thì cần đáp ứng rất

nhiều giấy tờ để đảm bảo hoàn thiện hồ sơ theo đúng như quy định của pháp luật.

Điều này nhiều khi gây khó khăn cho các cặp vợ chồng đi xin các giấy tờ hành

chính.Điều đó có thể là trở ngại khiến họ e dè.Vướng thủ tục thì thời gian sẽ bị trì

hoãn lại lâu, rồi lại đợi thời gian được phê duyệt. Vô hình sẽ xảy ra nhiều trường

hợp tìm đến dịch vụ mang thai hộ “chui”. Vì thế, Chính phủ cần xem xét giảm tải

một số giấy tờ không cần thiết và thủ tục rườm rà để tạo điều kiện hơn cho các

cặp vợ chồng vô sinh mong muốn có con chính đáng.

Thứ chin, Nhà nước hỗ trợ chi phí mang thai hộ

Hiện nay, chưa tính đến chi phí để chu cấp cho người mang thai hộ theo đúng

như thỏa thuận và yêu cầu của pháp luật thì riêng chi phí thực hiện cho các hoạt

động chữa trị vô sinh và thụ kinh ống nghiệm trước đó là rất tốn kém. Mỗi lần

thực hiện như vậy bệnh nhận sẽ phải bỏ ra từ 5 triệu đến 20 triệu đồng cho một

lần chữa trị với tỷ lệ 20-30% thành công. Có nghĩa nhiều khả năng sẽ phải tiếp

tục làm thêm nhiều lần để nâng tỷ lệ có thai. Tuy nhiên, Bảo hiểm y tế chưa có

mục chi trả cho những trường hợp này. Vì thế, thiết nghĩ Chính phủ nên xem xét

bổ sung các mục được bảo hiểm y tế chi trả, trong đó các phương pháp hỗ trợ

sinh sản để giảm bớt nỗi lo kinh tế cho các bệnh nhân không có điều kiện.

Thứ mười, về chi phí tự nguyện hỗ trợ mang thai hộ

Theo pháp luật, việc quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng

hàng để hạn chế thương mại hóa. Tuy nhiên vấn đề thương mại không chỉ tồn tại

đối với những người không cận huyết thống. Việc thuyết phục một người trong

gia đình mang thai hộ không phải việc đơn giản vì kéo theo nhiều vấn đề. Nếu

người nhờ mang thai hộ có hoàn cảnh khó khăn và cũng muốn giúp đỡ cặp vợ 68

chồng vô sinh hiếm muộn thì thiết nghĩ pháp luật nên cho phép bổ sung điều

khoản về Chi phí hỗ trợ nhờ mang thai hộ. Chi phí này không bao gồm cả các chi

phí khám chữa bệnh hay chi phí theo luật quy định hiện nay. Thực tế dù có nhờ

được người mang thai hộ đủ điều kiện đi chăng nữa thì chắc chắn 2 bên vẫn có

thỏa thuận ngầm về tiền bạc. Điều khoản này nếu đi vào hợp đồng thỏa thuận

giữa các bên thì sẽ tường minh và rõ ràng hơn, đảm bảo không có tranh chấp

ngầm xảy ra. Những thỏa thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những thỏa

thuận dễ điều chỉnh nhất, dưới góc độ pháp lý. Vì thế nhà nước có thể tối đa hóa

sự kiểm soát của mình.

Trong trường hợp này, nếu lo lắng về vấn đề thươn mại hóa mà vi phạm giá trị

đạo đức truyền thống thì pháp luật có thể quy định thêm về mức chi phí hỗ trợ

mang thai hộ này trong khoảng hạn chế từ 100-200 triệu đồng nếu bên mang thai

hộ yêu cầu.

3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ

Thỏa thuận về mang thai hộ có những đặc điểm giống với giao kết hợp đồng

dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, pháp luật hiện

nay chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này. Theo tác giả, cần thiết phải sửa đổi

bổ sung các quy định pháp luật về Hợp đồng mang thai hộ để dựa vào đây, các

bên tham gia có hành lang pháp lý an toàn và cơ sở pháp luật cần thiết để thiết

lập hợp đồng chặt chẽ, đồng thời cũng là để đảm bảo sự kiểm soát tối đa của

pháp luật về việc thực hiện hợp đồng trong vấn đề nhạy cảm này.

3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ

Về chủ thể tội phạm, Điều 187 BLHS quy định đối với cá nhân có hành vi tổ

chức mang thai hộ vì mục thương mại là những cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên có

năng lực trách nhiệm hình sự.

Xét trong mối tương quan giữa tên tội danh “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích

thương mại” với chủ thể tội phạm theo tinh thần điều luật thì đối tượng chủ thể

của điều luật này không chỉ hướng tới cá nhân trực tiếp mang thai hộ mà còn cả

những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.

Tuy nhiên, cả tên điều luật và chủ thể phạm tội quy định tại khoản 1 điều này

đang tạo ra các cách hiểu khác nhau theo chiều hướng thu hẹp đối tượng phạm

tội chỉ đối với “người tổ chức”, còn người mang thai hộ đơn thuần (không có yếu

tố tổ chức) thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội danh này.

69

Để có cách hiểu và áp dụng thống nhất, cần khắc phục hạn chế này bằng cách

sửa lại tên điều luật theo hướng mở rộng tối đa chủ thể phạm tội như “Tội mang

thai hộ vì mục đích thương mại”, đồng thời quy định dấu hiệu “tổ chức” trong

tên tội danh thành tình tiết định khung tăng nặng trong cùng điều luật.

Tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại khoản 2, Điều 187 quy định

“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5

năm: a) Đối với 2 người trở lên; Phạm tội 2 lần trở lên; Lợi dụng danh nghĩa của

cơ quan, tổ chức; Tái phạm nguy hiểm”.

Nếu giữ nguyên tên tội danh thì tại điểm a của khoản này cần bổ sung thêm

cụm từ “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đối với 2 người trở lên”

bởi quy định như hiện tại chưa rõ ý trong vấn đề xác định đối tượng là người trực

tiếp mang thai hộ hay người có nhu cầu mang thai hộ.

Đồng thời, để xử lý các hành vi của một số đối tượng đặc biệt trong tội danh

này cần bổ sung các tình tiết tăng nặng mới tại khoản 2 như “Lợi dụng chức vụ,

quyền hạn”, “cưỡng ép người mang thai hộ”, “gây hậu quả nghiêm trọng”.

3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu

quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ

Thứ nhất, quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban Nhân Dân các cấp,

các cơ sở Y tế có thẩm quyền trong việc xác nhận những văn bản, giấy tờ liên

quan để thỏa mãn điều kiện về mang thai hộ

Đối với các cơ quan chuyên môn về lĩnh vực y tế cần có cơ chế kiểm soát chặt

chẽ từng khâu, gắn với trách nhiệm của từng cá nhân.

Chế tài dân sự hiện nay trên thực tế chưa đủ sức để kiểm soát mang thai hộ, vì

vậy cần có các chế tài liên quan về hành chính và hình sự để đảm bảo việc kiểm

soát mang thai hộ chặt chẽ và hiệu quả; cung cấp cho các cơ quan hành pháp, tư

pháp có cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra.

Nâng cao yêu cầu nghiệp vụ để hỗ trợ người dân trong quá trình thực hiện các

quy định về mang thai hộ một cách thuận tiện và dễ dàng.

Thứ hai, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và thực

hiện pháp luật về mang thai hộ

Xét về mặt bằng chung thì hiện tại trình độ dân trí của Việt Nam chưa có sự

đồng đều. Nhiều người dân còn mang nặng khá nhiều các định kiến còn tồn tại từ

xa xưa, nhất là ở vùng nông thôn. Vì thế họ cổ hủ với những biện pháp hỗ trợ

sinh sản tiên tiến; xấu hổ với tình trạng vô sinh của mình; có cái nhìn dị nghị đến 70

những trường hợp vô sinh, mẹ đơn thân hay cộng đồng người đồng tính, chuyển

giới,… gây khó khăn và tác động đến ý chí của nhà làm luật. Do vậy, trong thời

gian đầu triển khai quy định này, Nhà nước cần phải tăng cường việc tuyên

truyền, phổ biến pháp luật; phải phân tích rõ để người dân hiểu được bản chất

của mang thai hộ, tính khoa học của biện pháp, về cha mẹ của đứa trẻ được sinh

ra và tính chất nhân đạo của mang thai hộ.

Các hoạt động tuyên truyền, tư vấn này cũng sẽ giúp cho người dân cởi mở hơn

trong nhận thức và tâm lý, từ đó pháp luật cũng sẽ được đảm bảo và phát triển

hơn.

Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế về để chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng

pháp luật và thực hiện pháp luật về mang thai hộ

Trên thế giới, mỗi nước có một quan điểm pháp luật khác nhau, tuy nhiên, đều

căn cứ trên tình hình thực tiễn xã hội và quan niệm đạo đức. Mục đích của pháp

luật đều là hướng đến bảo vệ và phát triển con người. Vì thế, để đảm bảo hoàn

thiện được pháp luật mang thai hộ ở mức tốt nhất, cung cấp cho người dân môi

trường pháp luật phù hợp nhất, cần tăng cường hợp tác quốc tế về áp dụng khoa

học kỹ thuật tiên tiến, hợp tác trao đổi công nghệ y tế,… để có những cái nhìn đa

chiều hơn với các vấn đề phát sinh trong xã hội; chia sẻ những kinh nghiệm về

xây dựng pháp luật và quá trình kiểm soát thực thi pháp luật.

71

KẾT LUẬN

Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân

đạo là một bước tiến bộ tích cực về tư duy của các nhà làm luật Việt Nam căn cứ

trên tình hình thực tiễn và nhu cầu của xã hội, đảm bảo quyền con người, quyền

và nghĩa vụ của công dân. Quy định đã đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính

đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và giúp hoàn thiện xã hội theo hướng nhân

đạo. Bởi suy cho cùng, pháp luật không phải lúc nào cũng phục vụ cho số đông

mà còn là công cụ bảo vệ cho số ít người yếu thế trong cộng đồng. Pháp luật cho

phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng giúp ổn định được các quan hệ

trong HNGĐ, giảm tải hạn chế, tiêu cực từ hiện tượng “chửa thuê, đẻ thuê”, ngăn

chặn việc thương mại hóa, coi con người là hàng hóa.

Nội dung các quy định về mang thai hộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2014 đã tương đối cụ thể, chặt chẽ, cơ bản bảo đảm được tính khả thi trong quá

trình thi hành và áp dụng luật vào thực tế. Tuy nhiên, trong thời gian vận hành áp

dụng, pháp luật về mang thai hộ đã bộc lộ những điểm còn hạn chế, vướng mắc

như việc thu hẹp phạm vi chủ thể trong quan hệ mang thai hộ, thủ tục còn rườm

rà, chưa thật sự đáp ứng rộng rãi với người dân; còn thiếu tính đồng bộ giữa các

quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong Luật Hôn nhân và Gia đình

năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan, vẫn còn nhiều lỗ hổng để các hành

vi thương mại hóa mang thai hộ xảy ra. Vì thế, các nhà làm luật cần nghiên cứu

để chỉnh sửa và hoàn thiện pháp luật cụ thể, chặt chẽ hơn nữa, hạn chế tối đa các

trường hợp phi nhân đạo trong mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.

72

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Văn Cừ (2016), Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam;

Tạp chí luật học số 06 (Tháng 06/2016), trang 11-12, 13, 14.

2. Nguyễn Thị Lan (2015), Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh;

Tạp chí luật học số 04 (tháng 04/2015)

3. Huỳnh Thị Trúc Giang (2015), Vài suy nghĩ về quy định mang thai

hộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tạp chí Khoa học Trường Đại

học Cần Thơ (2015)

4. Trần Thị Thu Hằng (2018), Pháp luật kiểm soát mang thai hộ ở

Việt Nam, trang 18; 58, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội

5. Nguyễn Thị Phượng (2019), Hợp đồng mang thai hộ theo pháp luật

Việt Nam, trang 12; 77, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội

6. Bùi Quỳnh Hoa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang

thai hộ, trang 50, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội

7. Quốc Hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia Đình, NXB Chính trị

Quốc Gia – Sự thật, Hà Nội 2015.

8. Quốc Hội (2015), Bộ luật Dân sự, NXB Chính trị Quốc Gia – Sự

thật, Hà Nội 2016.

9. Quốc Hội (2015), Bộ luật Hình sự, NXB Chính trị Quốc Gia – Sự

thật, Hà Nội 2017.

10. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội

11. Chính phủ (2015), Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015

quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang

thai hộ vì mục đích nhân đạo.

12. Báo đài châu á tự do (2014) “Bé trai mắc bệnh down bị cha mẹ

người Úc bỏ rơi” https://www.rfa.org/vietnamese/news/internationalnews/austr-

paren-leav-child-08032014103148.html

13. Trần Xuân Thiên An (2018), “Bình luận điều 187 Bộ luật hình sự

năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích

thương mại” http://tkshcm.edu.vn/tin-tuc/binh-luan-dieu-187-bo-luat-hinh-su-

nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017-ve-toi-to-chuc-mang-thai-ho-vi-muc-dich-

thuong-mai-3386.html

14. Trung Nhân (2014), “Mang thai hộ: Được, không?

https://plo.vn/van-hoa/ho-so-phong-su/mang-thai-ho-duoc-khong-503705.html

73

15. Chuyển động 24h (2019), “Mang thai hộ: từ mục đích nhân đạo trở

thành dịch vụ kiếm tiền” https://vtv.vn/chuyen-dong-24h/mang-thai-ho-tu-muc-

dich-nhan-dao-tro-thanh-dich-vu-kiem-tien-20190109145255791.htm

16. http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Phong-su-Ky-su/781961/bai-3-

canh-cua-nao-cho-nguoi-ngheo-hiem-muon

17. Lê Na – Nguyễn Thảo (2018), “Nghiên cứu về thụ tinh ống nghiệm

của VN gây xôn xao y khoa thế giới” http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-

hoc/nghien-cuu-ve-thu-tinh-ong-nghiem-cua-viet-nam-gay-xon-xao-gioi-y-khoa-

quoc-te-423108.html

18. Nguyên Mi (2016), “TP.HCM có 9 ca mang thai hộ thành công”

https://thanhnien.vn/doi-song/tphcm-co-9-ca-mang-thai-ho-thanh-cong-

669037.html

19. Tường Lâm (2017), “Quả ngọt” mang thai hộ”

http://www.sggp.org.vn/qua-ngot-mang-thai-ho-366798.html

20. (Thanh Huyền (2014), “Gái quê chào giá mang thai hộ

200triệu/lần” http://vietnamnet.vn/vn/th 25 oi-su/ga-i-que-cha-o-gia-mang-thai-

ho-200-trie-u-la-n-203503.html

21. Ngọc Linh (2019), “Thâm nhập đường dây mang thai hộ - Kỳ cuối:

vào “lò: nuôi bà bầu” https://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/tham-nhap-

duong-day-mang-thai-ho-ky-cuoi-vao-lo-nuoi-ba-bau-c46a1044274.html

22. https://dantri.com.vn/suc-khoe/ti-le-vo-sinh-o-viet-nam-dang-vao-

muc-canh-bao-20180405120937326.htm

23. Báo biên phòng (2018), “Việt nam đã tham gia hầu hết các Công

ước quốc tế cơ bản về quyền con người” http://www.bienphong.com.vn/viet-

nam-da-tham-gia-hau-het-cac-cong-uoc-quoc-te-co-ban-ve-quyen-con-nguoi/

24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), “Mang thai hộ - Sự cần thiết

phải điều chỉnh bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài nghiên cứu khoa

học cấp trường.

25. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi

của phụ nữ và trẻ em trong mang thai hộ

26. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và

Gia đình năm 2000.

27. Bộ Tư pháp, Báo cáo số 153/BC-BTP ngày 15/7/2013 về tổng kết

thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.

74

28. Bộ Y tế, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Nghị định của Chính phủ số

12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 về sinh con theo phương pháp khoa học.

29. Bộ Y tế, Thông tư số 12/2012/TT-BYT, ngày 05/7/2012 của Bộ Y tế

ban hành quy trình kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm.

30. Bộ Y tế, Thông tư số 57/2015/TT-BYT, ngày 30/12/2015 của Bộ Y

tế quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày

28/1/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống

nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.

31. Nội san Y học sinh sản số tháng 8/2014 (2014), “Mang thai hộ -

Những điều cần biết”, tác giả. Hồ Mạnh Tường

32. Tạp chí Kiểm sát (2016), Bàn về mang thai hộ trong pháp luật Việt

Nam, tác giả Nguyễn Văn Lâm.

33. Tạp chí Nghề luật (2016), một số vấn đề về thực hiện quy định của

pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam, tác giả Trần Đức Thắng.

75