ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT
NGUYỄN THỊ NHẬT HUỆ
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT TRONG LĨNH VỰC
MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH: LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
HÀ NỘI – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và
được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Nguyễn Thị Nhật Huệ
2
LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới TS. Phan Thị Lan Phương, người đã
tận tình giúp đỡ, hướng dẫn tôi trong suốt thời gian tôi hoàn thành luận văn này.
Tôi cũng sinh gửi lời càm ơn chân thành tới các thầy cô giáo tại Khoa Luật –
ĐHQG Hà Nội đã nhiệt tình giảng dạy, cảm ơn gia đình và bạn bè đã bên cạnh
động viên tôi trong quá trình tôi thực hiện luận văn tốt nghiệp
Mặc dù đã cố gắng nghiên cứu hoàn thiện nhưng luận văn vẫn không tránh khỏi
những thiếu sót. Do vậy, tôi rất mong nhận được sự chỉ bảo, góp ý của các thầy
cô giáo để luận văn được hoàn thiện hơn.
Tác giả
Nguyễn Thị Nhật Huệ
3
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .................................................................................................. 1
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................ 3
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 6
Tính cấp thiết của đề tài: .................................................................................................................... 6 I.
Tình hình nghiên cứu đề tài:.............................................................................................................. 7 II.
Đối tượng nghiên cứu: ....................................................................................................................... 8 III.
IV. Mục đích nghiên cứu: ......................................................................................................................... 8
Phương pháp nghiên cứu .................................................................................................................. 8 V.
Ý nghĩa khoa học của đề tài: ............................................................................................................. 9 VI.
VII. Kết cấu khóa luận: ............................................................................................................................... 9
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT
VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ............................................. 10
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ .................................................................. 10
1.1.1. Khái niệm mang thai hộ ................................................................................................................. 10
1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ ................................................................................................ 12
1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ .................................................................................... 16
1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan trong
việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ ...................................................................................................... 16
1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia quan hệ mang thai hộ .... 16
1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ............. 17
1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống ................................................................................. 17
1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội.................................................................................................................. 18
1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật ............................................................................................. 18
1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới............................................................ 19
1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ ........................................................................ 20
1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ ................................................................... 21
1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ ......................................................................... 22
1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ ......................................................................................... 22
1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ ....................................................................................... 25
1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..... 26
1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia ....................................... 26
1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức ................................... 29
4
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ
MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM ........................................................................ 33
2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ .................................................................................................. 33
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam ............. 33
2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam .... 50
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ ............................................................................... 56
2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ .................................................................. 56
2.1. Nguyên nhân của những hạn chế ................................................................................................. 60
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT
NAM..................................................................................................................... 64
3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mang thai hộ ......................................................................... 64
3.1.1. Hoàn thiện một số các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình về mang thai hộ ............. 64
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ .................................................. 69
3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ ................................................ 69
3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật
về mang thai hộ ................................................................................................................................................. 70
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 72
TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 73
5
MỞ ĐẦU
I. Tính cấp thiết của đề tài:
Tổ chức Y tế thế giới (WTO) dự báo: Vô sinh và hiếm muộn là vấn đề nguy
hiểm thứ 3, chỉ đứng sau ung thư và bệnh tim mạch ở thế kỷ 21 và căn bệnh này
dần trở nên phổ biến ở các nước Châu Á trong đó có Việt Nam. Ước muốn có
được những đứa con là nguyện vọng rất chính đáng của những cặp vợ chồng
hiếm muộn. Vì thế, đã có nhiều biện pháp hỗ trợ cho quá trình mang thai ra đời,
từ phương pháp thụ tinh ống nghiệm cho đến việc mang thai hộ hay đẻ thuê đã
gây ra những tranh cãi phức tạp.
Ở Việt Nam, hằng năm có khoảng 500-700 cặp vợ chồng cần sử dụng các biện
pháp y tế hỗ trợ để có con, tỷ lệ vô sinh hiếm muộn ngày càng nhiều. Trước khi
Luật hôn nhân và gia đình 2014 sửa đổi và bổ sung có hiệu lực thì mang thai hộ
là vấn đề bị pháp luật cấm. Tuy nhiên, do nhu cầu của các cặp vợ chồng khao
khát có con nên đã xuất hiện những bên “cung”, là những đường dây cung cấp
dịch vụ mang thai hộ ngầm ngoài thị trường nhằm mang mục đích thương mại.
Vì thế, đi kèm theo đó là phát sinh rất nhiều vấn đề liên quan đến cả 2 bên về
pháp lý và hợp đồng, gây khó khăn cho cơ quan chức năng có trách nhiệm xử lý.
Trước tình hình đó, những quy định pháp luật điều chỉnh về mang thai hộ đã
được Quốc Hội thông qua, điều chỉnh và bổ sung trong Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014 .Đi kèm đó là những văn bản, nghị định hướng dẫn thi hành để
đảm bảo quyền và lợi ích của các chủ thể có liên quan. Việc quy định về mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo là 1 bước tiến rất mạnh và tiến bộ của pháp luật
Việt Nam, đáp ứng vấn đề chính đáng của các cặp vợ chồng hiếm muộn, giúp
duy trì hạnh phúc gia đình bởi đã có nhiều trường hợp “ngang trái” với những
hành vi “ông ăn chả, bà ăn nem” bên ngoài quan hệ hôn nhân hợp pháp để có con
nối dõi. Việc quy định pháp luật như vậy đã tránh sự lạm dụng của các trường
hợp vì mục đích thương mại như “đẻ thuê” hay lạm dụng tình dục, lợi dụng việc
“đẻ thuê” để cưỡng đoạt tài sản,… Với những đổi mới về pháp luật cho thấy sự
thay đổi nhận thức của các nhà làm luật Việt Nam khi quan tâm nhiều hơn đến
vấn đề gia đình, thể hiện xu hướng hòa nhập quốc tế về khía cạnh mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo. Việc xác định quan hệ trong gia đình có ý nghĩa rất lớn
đối với duy trì xã hội ổn định.
Tuy vậy, vẫn còn rất nhiều vấn đề pháp lý liên quan khá phức tạp về việc áp
dụng pháp luật vào thực tiễn khi mà đi sâu vào cuộc sống, pháp luật đã thể hiện 6
nhiều sự bất cập, gây khó khăn cho những cặp vợ chồng vô sinh muốn có con với
lí do chính đáng như việc quy định về điều kiện về người mang thai hộ và người
nhận mang thai hộ, xác định quan hệ cha mẹ con,…và hơn nữa là dù đã quy định
nhưng vấn đề mang thai hộ vì mục đích thương mại vẫn còn tồn tại do chế tài xử
lý chưa thật sự thắt chặt. Điều đó thể hiện những quy định pháp luật chưa đi sát
và giải quyết gốc rễ các vấn đề liên quan trong khi tình hình xã hội càng ngày
càng phát triển và nảy sinh nhiều trường hợp “khó xử lý”. Do đó luôn cần hoàn
thiện pháp luật để có thể theo kịp được sự phát triển của xã hội trong vấn đề về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Em nhận thấy việc nghiên cứu tổng quan về
quản lý thực hiện cũng như thực trạng và thực thi pháp luật để tìm ra và đề xuất
những giải pháp để hoàn thiện pháp luật trong thời gian tới là rất cần thiết.Chính
vì thế, em đã lựa chọn đề tài “Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực mang thai hộ ở
Việt Nam hiện nay” nhằm nghiên cứu cụ thể và rõ ràng hơn về vấn đề này.
II. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Mang thai hộ là một vấn đề rất mới trong quy định pháp luật Việt Nam, cụ thể
hơn là pháp luật về Hôn nhân và Gia đình. Sở dĩ như vậy là do trước đây, pháp
luật nước ta nghiêm cấm hành vi này vì cho rằng đó là vi phạm đạo đức và xâm
phạm quan hệ giữa cha mẹ con, làm ảnh hưởng đến việc thực hiện thiên chức của
mỗi người. Tuy vậy, trước tình hình xã hội, chúng ta đã có cái nhìn khác và đã đề
cập đến vấn đề dưới hình thức các văn bản quy phạm pháp luật, thể hiện sự kiểm
soát của Nhà nước và cũng là mở ra con đường sang hơn cho các cặp vợ chồng
vô sinh, hiếm muộn.
Qua tìm hiểu thực tế, em thấy đây là 1 vấn đề có tính lý luận và áp dụng thực
tiễn cao. Sau khi luật Hôn nhân và gia đình 2014 được Quốc Hội thông qua và có
hiệu lực, đã có nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả đề cập đến vấn đề này
như: Nguyễn Thị Hương, “Một số vấn đề pháp luật về mang thai hộ”, khoa dân
sự, trường ĐH Luật TP Hồ Chí Minh; Nguyễn Văn Cừ (2016), “Pháp luật về
MTH ở Việt Nam” , Tạp chí Luật học số 06/2016; Nguyễn Văn Lâm, “Bàn về
mang thai hộ theo quy định pháp luật Việt Nam, tạp chí Kiểm sát 04/2016;
Nguyễn Thị Lan, “Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh”, tạp chí Luật học số
04/2015….Hay là những luận văn nghiên cứu như: Luận văn thạc sĩ “Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ” - Bùi Thị Hoa, 2014; Luận văn thạc sĩ
“Pháp luật kiểm soát mang thai hộ ở Việt Nam” – Trần Thị Thu Hằng, 2018;
Luận văn thạc sĩ “Hợp đồng mang thai hộ theo pháp luật Việt Nam” – Nguyễn 7
Thị Phượng, 2019,… Cùng nhiều tác phẩm nghiên cứu, bài viết của các tác giả
khác có liên quan đến vấn đề này.
Những công trình nghiên cứu nêu bên trên đã phân thích, đánh giá và có những
kiến nghị để nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý và thực hiện quy
định pháp luật về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo nhiều khía cạnh. Mặc
dù vậy, đề tài về mang thai hộ vẫn không mất đi tính thời sự của nó và còn ẩn
chứa nhiều bất cập khi đưa vào áp dụng thực tiễn. Chính vì thế bài khóa luận này
em sẽ cố gắng nghiên cứu một cách hệ thống về thực trạng của vấn đề mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam. Để từ đó có cái
nhìn khách quan hơn, chỉ ra những ưu điểm và những điểm còn hạn chế của pháp
luật. Dựa theo đó kiến nghị sửa đổi những bất cập và đóng góp xây dựng hoàn
thiện pháp luật để các chủ thể trong quan hệ mang thai hộ được đảm bảo tuyệt
đối về quyền và nghĩa vụ, ngăn chặn hành vi mang thai hộ vì mục đích thương
mại xảy ra gây rào cản về pháp luật.
III. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn “Hoàn thiện pháp luật mang thai hộ ở Việt
Nam” tập trung nghiên cứu một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật
Việt Nam về vấn đề mang thai hộ để từ đó chỉ ra các điểm bất cập và hoàn thiện
pháp luật.
Nội dung nghiên cứu đề tài bao gồm nhiều vấn đề khac nhau, song do giới hạn
của luận văn, tác giả xin phép chỉ đi sâu vào những vấn đề cơ bản nhất thuộc nội
dung đề tài như khái niệm, đặc điểm, vai trò, ý nghĩa, các tiêu chí hoàn thiện, các
yếu tố ảnh hưởng đến việc điều chỉnh pháp luật quốc gia về mang thai hộ đến
việc tìm hiểu pháp luật mang thai hộ ở một số quốc gia; thực trạng pháp luật và
những nguyên nhân, hạn chế đề từ đó đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện
pháp luật về mang thai hộ.
IV. Mục đích nghiên cứu:
Khóa luận nghiên cứu những khía cạnh pháp lý cơ bản về lý luận của mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo, những quy định của pháp luật hiện hành đối với vấn đề
này nhằm tiếp cận cụ thể và rõ ràng hơn. Đồng thời, có sự khái quát, khách quan,
toàn diện hơn, góp phần hoàn thiện quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo nói riêng và Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 nói chung.
V. Phương pháp nghiên cứu
8
Để đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, trong quá trình nghiên
cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp tổng hợp, bình luận: sử dụng trong chương 1 khi
nghiên cứu vấn đề chung về khái niệm, nội dung, vai trò, ý nghĩa của việc mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo; pháp luật một số nước trên thế giới và các tiêu chí
hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ.
- Phương pháp phân tích, thống kê: sử dụng ở chương 2 khi phân
tích từ pháp luật những hạn chế, vướng mắc về quyền và nghĩa vụ của các bên;
chế tài áp dụng xử lý khi xảy ra vi phạm khi thực hiện mang thai hộ; đưa ra
những trường hợp xảy ra khi áp dụng pháp luật về mang thai hộ diễn ra trong
thực tiễn cuộc sống để từ đó đưa ra kiến nghị về hoàn thiện pháp luật trong lĩnh
vực này ở chương 3.
VI. Ý nghĩa khoa học của đề tài:
Có cái nhìn khái quát và toàn diện hơn về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật để từ đó các cặp vợ
chồng rơi vào trường hợp hiếm muộn có nhu cầu có con hợp pháp có thể yên tâm
áp dụng, đồng thời, bảo đảm quyền và nghĩa vụ cho các chủ thể tham gia vào
quan hệ pháp luật này.
VII. Kết cấu khóa luận:
Khóa luận được chia làm 3 chương:
- Chương I: Một số vấn đề lý luận của hoàn thiện pháp luật về mang
thai hộ ở Việt Nam hiện nay
- Chương II: Thực trạng pháp luạt và thực hiện pháp luật trong lĩnh
vực mang thai hộ ở Việt Nam
- Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ
9
CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm và đặc điểm pháp luật về mang thai hộ
1.1.1. Khái niệm mang thai hộ
Vô sinh là điều không mong muốn ở các cặp vợ chồng hiện nay. Tuy nhiên,
bằng công nghệ hỗ trợ sinh sản, không ít cặp vợ chồng đã có thể chào đón em bé
ra đời. Hiểu đơn giản, đó là những biện pháp kỹ thuật y học hiện đại để can thiệp
vào quá trình thụ thai của người phụ nữ với mục đích cao cả là giúp những người
hiếm muộn, vô sinh có thể mang thai và được thực hiện thiên chức của mình.
Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã thể hiện sự phát triển vượt bậc của
khoa học kỹ thuật, giải quyết được tình trạng vô sinh của cả nam và nữ do ảnh
hướng của nhiều yếu tố bên ngoài như môi trường, hóa chất,… hoặc đến từ sự
cấu tạo cơ địa của mỗi người gây khó khăn cho quá trình mang thai. Sự phát triển
tích cực từ y học này đã đem lại rất nhiều hi vọng và hạnh phúc cho các cặp vợ
chồng hiếm muộn có nhu cầu có con trên Thế giới nói chung và ở Việt Nam nói
riêng. Vì vậy, vô sinh là nguyên do dẫn đến sự hình thành các phương pháp hỗ
trợ sinh sản, trong đó có phương pháp mang thai hộ.
Ở Việt Nam, trước khi Luật hôn nhân và Gia đình năm 2014 được ban hành, các
khái niệm “mang thai hộ” và “chửa hộ”, “đẻ thuê” đã được sử dụng rộng rãi và phổ
biến.Tuy nhiên, nội dung và ý nghĩa của các khái niệm này chưa có sự đồng nhất,
thậm chí có sự đánh đồng giữa các khái niệm.
Có người hiểu rằng “mang thai hộ” là việc người đàn ông (người chồng) quan
hệ (sinh lý) trực tiếp, không sử dụng biện pháp hỗ trợ sinh sản với một người phụ
nữ (không phải là vợ), cho đến khi người phụ nữ này thụ thai, mang thai và sinh
con. Trong trường hợp này, đứa trẻ được sinh ra từ tinh trùng của người đàn ông
(người chồng) kết hợp với noãn của người phụ nữ (không phải vợ). Thực tế ở
Việt Nam hiện nay, có nhiều cặp vợ chồng vì lí do nào đó mà không thể có con
chung tự nhiên (như người vợ bị dị tật mà không thể thụ thai và sinh con; hoặc
người vợ không có tử cung do bệnh tật đã phải cắt bỏ,…) nên hai vợ chồng đã
bàn bạc, thỏa thuận để cho người chồng có quan hệ (sinh lí) trực tiếp với một
người phụ nữ khác (đã đồng ý) để thụ thai, mang thai và sinh con cho cặp vợ
chồng vô sinh và người phu nữ nhận “mang thai hộ” có thỏa thuận với nhau về
thù lao (tiền hoặc tài sản) cho việc mang thai hộ này. [1, tr11,12]
10
“Đẻ thuê” hiểu một cách đơn giản là việc bên thuê đẻ và bên để thuê có thỏa
thuận với nhau theo đó bên thuê đẻ sẽ trả cho bên đẻ thuê tiền hoặc tài sản, còn
bên đẻ thuê sẽ mang thai, sinh con và trao con cho bên đẻ thuê.
Với thực tế hiện nay cho thấy, việc đánh đồng khái niệm mang thai hộ với đẻ thuê,
đẻ mướn không còn phù hợp, nó khiến vấn đề trở nên phức tạp và nhạy cảm hơn,
không còn phù hợp với thuần phong mỹ tục cũng như luật pháp của người Việt Nam.
Đã đến lúc phải hiểu mang thai hộ theo đúng ý nghĩa của nó, phù hợp với chế độ nhà
nước và hệ thống pháp luật mỗi quốc gia.
Ngày nay, với sự phát triển của kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, những việc làm trên không
được luật pháp bảo hộ và xã hội lên án. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ra đời, cụ thể là
thụ tinh ống nghiệm cho phép lấy tinh trùng và noãn của một cặp vợ chồng ra khỏi cơ
thể, cho tinh trùng và noãn thụ tinh để tạo phôi, nuôi cấy phôi và cho đưa phôi vào tử
cung một phụ nữ khác để mang thai. Nhờ đó, kỹ thuật mang thai hộ chính danh mới
có thể được thực hiện. Với thụ tinh ống nghiệm, chúng ta mới có kỹ thuật mang thai
hộ đúng nghĩa.
Mang thai hộ có thể hiểu đơn giản là trường hợp sau khi thụ thai trong ống
nghiệm, nếu người mẹ vì lý do sức khỏe hay vì điều kiện nào đó không thể mang
thai, phải nhờ đến người phụ nữ khác mang thai và sinh đẻ. Có nhiều khái niệm
và cách hiểu khác nhau về vấn đề này nhưng theo tác giả, để hiểu chuẩn về mặt
pháp lý thì trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã có định nghĩa rất rõ
ràng tại khoản 22 điều 3: “Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một người
phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ
chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người
chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự
nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con”.
Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải được thực hiện trên nguyên tắc tự
nguyện của cả 2 bên và đáp ứng các điều kiện và yêu cầu của pháp luật là “người
phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại”. Có nghĩa, người mang thai hộ
sẽ không vì mục đích kinh tế hay bất kỳ mục đích nào khác để mang thai giúp
cặp vợ chồng không thể sinh con. Việc quy định như vậy giúp phân biệt giữa
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại –
điều bị pháp luật Việt Nam nghiêm cấm, được quy định rõ trong Bộ luật hình sự.
11
Pháp luật cũng quy định rất rõ điều kiện để nhờ người mang thai hộ ở đây là
người vợ ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác mà vẫn không
thể có con, thì mới được tìm đến biện pháp này như một cách “mượn tử cung”
của người phụ nữ khác.
Không chỉ thế, khái niệm trên đã đưa ra và quy định phương thức thực hiện
mang thai hộ phải được thực hiện bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm,
tức là “lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong
ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ được nhờ mang thai và
sinh con”.Như vậy, về mặt khoa học, noãn của người phụ nữ, tinh trùng của
người đàn ông không phải là kết quả của sự kết hợp tự nhiên, trực tiếp giữa vợ và
chồng mà phải nhờ vào biện pháp hỗ trợ y tế của các bác sỹ chuyên ngành. Từ
noãn và tinh trùng lấy từ cơ thể vợ và chồng, bác sỹ thụ tinh trong ống nghiệm để
tạo thành phôi và cấy phôi thai vào tử cung người mang thai hộ. Qua đó có thể
thấy, việc mang thai hộ phải trải qua các trình tự nghiêm ngặt, không được “giúp
đỡ trực tiếp” giữa người chồng bên nhờ mang thai hộ và người mang thai hộ [4,
tr18]. Điều đó có nghĩa con sinh ra sẽ có đặc điểm sinh học của cả vợ và chồng
nhờ mang thai hộ. Khác với cách trước khi có biện pháp này là người chồng phải
quan hệ trực tiếp hoặc bơm tinh trùng vào tử cung của người nhận mang thai hộ.
Như vậy không đảm bảo về tính sinh học và bản chất thì hành vi này không thể
được coi là mang thai hộ.
1.1.2. Đặc điểm pháp luật về mang thai hộ
1.1.2.1. Mang tính hợp đồng
Theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa
các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ dân sự”. Yếu
tố thỏa thuận chính là yếu tố quyết định tạo nên hợp đồng. Đối với trường hợp
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, để được công nhận và đảm bảo thì các bên
tham gia vào quan hệ này phải tuân thủ theo các điều kiện quy định, phải có đầy
đủ giấy tờ chứng thực chứng minh giữa người nhờ mang thai, người mang thai
trước bên thứ 3 là pháp luật để được Nhà nước bảo hộ.
Ta có thể định nghĩa về hợp đồng mang thai hộ như sau:“Hợp đồng mang thai
hộ là sự thỏa thuận, thống nhất ý chí của bên nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng
vô sinh với bên mang thai hộ là người phụ nữ tự nguyện mang thai vì mục đích
nhân đạo, nhằm thực hiện các quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan hệ pháp
luật về mang thai hộ”.[5, tr12]
12
Trong mang thai hộ, trước khi các chủ thể tiến hành hoạt động mang thai hộ thì
việc đầu tiên đó là các bên phải thỏa thuận với nhau những nội dung trong suốt
quá trình mang thai hộ. Nói nôm na, đó chính là sự bàn thảo để tạo nên một hợp
đồng dân sự mang tên hợp đồng mang thai hộ.
Hợp đồng mang thai hộ là một loại hợp đồng đặc biệt bởi đối tượng ở đây là
con người – đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp thụ tinh ống nghiệm. Với loại
hợp đồng này, pháp luật phải có những quy định rất sát sao để có thể đảm bảo
được các quyền lợi của trẻ em. Với tính chất này, mục đích nhân đạo là cái cốt
lõi xuyên suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng. Trường hợp vì mục đích
thương mại hay có tính chất miễn cưỡng do bị đe dọa buộc phải chấp nhận hoặc
khi giao dịch người xác lập không nhận thức và làm chủ được hành vi của mình
thì không được chấp nhận. Vì vậy, hợp đồng đương nhiên bị vô hiệu bởi trẻ em
không phải là món hàng trao tay, điều đó là vi phạm đạo đức con người và thuần
phong mỹ tục.
Quy định nội dung hợp đồng chặt chẽ là điều vô cùng quan trọng nhằm đảm
bảo tính pháp lý cho hợp đồng mang thai hộ đồng thời là căn cứ để giải quyết các
tranh chấp phát sinh trước tòa.
Hiện tại, pháp luật Việt Nam đã ban hành Mẫu số 06 thỏa thuận mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo, ban hành kèm theo Nghị định Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh ống nghiệm và mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo.Thỏa thuận mang thai hộ này cũng được xem như một hợp đồng
mang thai hộ mẫu được pháp luật ban hành sẵn để các bên chủ thể dựa vào đó, có
căn cứ cũng như các điều khoản mẫu tiếp tục hoàn thiện những thỏa thuận của
mình. Trong hợp đồng này có đầy đủ thông tin của các chủ thể tham gia vào quan
hệ này.
Nguyên tắc giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ là tự nguyện, bình
đẳng và thỏa thuận, đặt lợi ích của đứa trẻ sinh ra từ mang thai hộ lên hàng đầu.
Mang thai hộ luôn đi kèm theo là những vấn đề pháp lý phức tạp và nhiều
trường hợp dễ dẫn đến tranh chấp. Vì vậy hợp đồng mang thai hộ cần rõ ràng chi
tiết bởi trong trường hợp xảy ra mâu thuẫn thì các bên chủ thể trong quan hệ này
là những người có quyết định cao nhất trong việc đưa ra các phương án hành
động. Do vậy, thỏa thuận của các bên trong hợp đồng ban đầu là căn cứ sát sao
và rõ ràng nhất để giải quyết tranh chấp.
13
1.1.2.2. Mang tính kiểm soát
Theo từ điển Tiếng Việt, “kiểm soát” được hiểu là xem xét để phát hiện, ngăn
chặn những gì trái với quy định, được đặt trong phạm vi, quyền hành của một đối
tượng nào đó.
Từ khái niệm trên có thể hiểu kiểm soát pháp luật về mang thai hộ là cá nhân,
một nhóm người, một tổ chức theo dõi, xem xét, đánh giá, đối chiếu với những quy
định đã được đặt ra xem những cá nhân, nhóm người hay tổ chức nào đó có tuân
thủ đúng với những quy định đó hay không. Nếu phát hiện ra có những hành vi
trái với quy định đã được đặt ra thì phải kịp thời ngăn chặn, tránh để xảy ra hậu
quả xấu [4, tr18]
Có nghĩa, Nhà nước sẽ ban hành các văn bản pháp luật, quy định các điều kiện
về mang thai hộ, các quy định sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, việc thỏa
thuận của các bên, việc xác định cha mẹ con và giải quyết các tranh chấp pháp
sinh. Tính kiểm soát của pháp luật ở đây bao quát cả tính hợp đồng thỏa thuận
giữa các bên để đảm bảo được các vấn đề pháp lý liên quan trong trường hợp có
phát sinh tranh chấp và đồng thời kiểm soát bằng các biện pháp y tế cụ thể, các
cách thức để thực hiện mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của
các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp
lý. Cụ thể để thực hiện mang thai hộ, các bên phải gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ
thuật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám chữa bệnh được phép
thực hiện kỹ thuật này, gồm:1. Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ
theo mẫu; 2. Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo
mẫu; 3. Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần
nào; 4. Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp
xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận; 5. Bản xác nhận của
cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về việc
người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe,
tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ không thể mang thai và sinh con
ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sả; 6. Bản xác nhận của cơ sở khám
chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người
mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp ứng quy định đối với người nhận phôi
theo quy định sau: người nhận tinh trùng, nhận noãn, nhận phôi phải có đủ sức
khỏe để thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm, mang thai và sinh con;
không đang mắc các bệnh lây truyền qua đường tình dục, nhiễm HIV, bệnh 14
truyền nhiễm thuộc nhóm A, B; không bị bệnh di truyền ảnh hưởng đến thế hệ
sau, không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình và đã từng sinh con; 7. Bản xác nhận của UBND
cấp xã hoặc người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về
mối quan hệ thân thích cùng hàng trên cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và
chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính xác thực của các giấy tờ này; 8. Bản xác
nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có
chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ; 9. Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế
của bác sỹ sản khoa; 10.Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có
trình độ đại học chuyên khoa tâm lý trở lên; 11.Bản xác nhận nội dung tư vấn về
pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc người trợ giúp pháp lý; 12. Bản thỏa
thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ mang thai hộ và
bên mang thai hộ theo quy định. [4, tr20]
Để ràng buộc trách nhiệm của các bên với sự thỏa thuận của mình và để pháp
luật dễ kiểm soát, theo dõi thỏa thuận của hai bên, việc thỏa thuận giữa hai bên
tham gia vào thỏa thuận mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công
chứng theo quy định của pháp luật. Luật HN&GĐ năm 2014 thể hiện rõ tinh thần
tự nguyện của các bên tham gia thỏa thuận mang thai hộ với quy định hai vợ
chồng bên nhờ mang thai hộ và nhận mang thai hộ đều phải tham gia ký kết thỏa
thuận, trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc
vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy
quyền phải lập thành văn bản có công chứng và việc ủy quyền cho người thứ ba
không có giá trị pháp lý. Việc quy định rõ về sự tự nguyện của các bên phải được
lập thành văn bản và có công chứng là điều kiện để pháp luật dễ dàng kiểm soát .
Hiện nay trên Thế giới có thể chia thành 4 nhóm: nhóm nước chưa có quy định,
nhóm nước phản đối, nhóm nước cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
và nhóm nước chấp thuận thương mại hóa. Dù tình hình xã hội và quan điểm
pháp luật của các quốc gia về mang thai hộ có khác nhau thì việc ban hành các
quy định để kiểm soát cũng đều hướng chung một mục đích là bảo vệ quyền lợi
của các bên tham gia vào quan hệ và đảm bảo ý chí của Nhà nước về vấn đề này
nhằm thỏa mãn các điều kiện và mục tiêu được đặt ra trước đó.
1.1.2.3. Mang thai hộ mang tính đạo đức
Có thể nói, cho phép “mang thai hộ” không phải là cho phép “đẻ thuê”. Cho
phép “mang thai hộ” đối với một số đối tượng có chỉ định để bảo đảm quyền làm 15
mẹ chính đáng của mọi phụ nữ và người mang thai hộ không vì mục đích lợi
nhuận. Mang thai hộ là một thành tựu của y học, có thể nói là một tiến bộ vượt
bậc để biến mơ ước không thể làm mẹ của rất nhiều phụ nữ được trở thành hiện
thực. Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một
người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc
mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết
và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình
1.2. Nội dung của pháp luật về mang thai hộ
1.2.1. Pháp luật về mang thai hộ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của các cơ quan trong việc thực hành, kiểm soát mang thai hộ
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã quy định rõ các cơ sở y tế khám bệnh,
chữa bệnh được phép thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm; điều kiện
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và thẩm quyền cung cấp giấy xác nhận tình
trạng sinh sản cho các trường hợp vô sinh muốn thực hiện biện pháp mang thai
hộ. Ủy ban Nhân dân cấp xã là nơi đảm nhận việc xác nhận tình trạng quan hệ
hôn nhân, quan hệ giữa bên nhờ mang thai hộ và bên nhận mang thai hộ, tình
trạng đã có hoặc chưa có con chung,…Trong trường hợp xảy ra tranh chấp thì
các bên có quyền yêu cầu Tòa án giải quyết, cụ thể là Tòa án nhân dân cấp
Huyện. Mọi vi phạm sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình
và các văn bản pháp luật khác có liên quan.
1.2.2. Pháp luật quy định quyền và nghĩa vụ của mỗi bên khi tham gia
quan hệ mang thai hộ
Hai bên khi tham gia vào quan hệ này sẽ phải xác lập các quyền và nghĩa vụ lẫn
nhau. Điều này không chỉ được thể hiện dưới dạng thỏa thuận theo ý chí của bên
nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ mà còn phải dựa vào yêu cầu của pháp
luật về các nội dung thực hiện quyền. Pháp luật quy định rõ việc giải quyết hậu
quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để đảm bảo sức khỏe sinh sản
cho người mang thai hộ trong thơi gian mang thai và sinh con, việc nhận con của
bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối với con trong trường
hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các quyền, nghĩa vụ khác
có liên quan.
Có thể nhận thấy, quy định về thời điểm phát sinh chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của các bên trong quan hệ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là hợp lý, một mặt
bảo đảm tốt nhất cho sức khỏe của đứa trẻ từ khi còn là bào thai cho đến khi sinh 16
ra, bảo đảm đứa trẻ nhận được sự chăm sóc tốt nhất từ hai bên trong quan hệ
mang thai hộ, mặt khác bảo vệ quyền lợi, sức khỏe sinh sản cho người phụ nữa
mang thai hộ.
1.3. Các yếu tố tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật
về mang thai hộ
1.3.1. Phong tục tập quán, đạo đức truyền thống
Phong tục tập quán trở thành một bộ phận cấu thành căn bản của truyền thống
văn hóa và giá trị đạo đức, việc duy trì và phát triển phong tục tập quán là việc
làm cần thiết để bảo vệ bản sắc văn hóa và chuẩn mực đạo đức truyền thống của
dân tộc. Pháp luật là hệ thống các quy tắc xử sự do nhà nước ban hành và bảo
đảm thực hiện, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị trong xã hội, là nhân tố điều
chỉnh các quan hệ xã hôi. Pháp luật chỉ thực sự phát huy được hiệu quả của nó
khi được nhân dân tiếp nhận và thi hành một cách tự giác. Các nhà làm luật phải
căn cứ dựa theo các giá trị truyền thống để ban hành các quy định pháp luật phù
hợp với đặc điểm của dân tộc. Cơ sở đó là điều kiện khách quan giúp cho pháp
luật gần với đời sống của người dân, dễ dàng được người dân chấp nhận và thực
thi.
Thiên chức làm mẹ là vinh dự mà tất cả phụ nữ trên Thế giới đều hạnh phúc
mong đón nhận. Sự gắn kết giữa mẹ và con trong quá trình mang thai 9 tháng 10
ngày là sự thiêng liêng và đáng trân trọng. Trong cuộc sống, không có gì đáng
quý và cảm động hơn tình mẫu tử. Chính vì vậy mà trước đây, việc một người
mang thai và sinh con hộ người khác là điều không thể chấp nhận.
Đã có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo
đức, đi ngược lại phong tục, tập quán và truyền thống của dân tộc. Nó không chỉ
là hành vi đáng lên án mà còn bị phản đối kịch liệt bởi quan niệm mang thai, sinh
con là công việc của người mẹ mà không thể trao thiên chức này cho một người
phụ nữ khác. Sự phản đối này là hoàn toàn hợp lý bởi lẽ mang thai và sinh con là
đặc điểm riêng có ở người phụ nữ, thể hiện 21 tính đặc trưng của giống loài,
trong quá trình hình thành và nuôi dưỡng thai, với tất cả tình yêu thương của
người phụ nữ giành cho đứa trẻ đã hình thành nên sợi dây liên kết vô hình giữa
mẹ và con. Sự liên kết này tuy vô hình nhưng thiêng liêng và ý nghĩa.Tuy vậy
nhưng tạo hóa không phải lúc nào cũng công bằng với tất cả. Có những người
phụ nữ không có khả năng làm mang thai và sinh con, họ chỉ có thể trông cậy
vào các biện pháp hỗ trợ sinh sản và bước cuối là nhờ tới sự giúp đỡ của người 17
phụ nữ khác (ở đây không bàn tới trường hợp người phụ nữ vô sinh nhưng không
có nhu cầu nhờ mang thai hộ). Dù rằng nhờ người khác mang thai hộ đi ngược lại
với những thói quen và quan niệm văn hóa của người Việt nhưng trong trường
hợp này là vì mục đích nhân đạo cao cả nên dễ dàng được người dân chấp nhận.
Nhưng không đồng nghĩa với việc tất cả các quốc gia đều đồng thuận.Nhiều dân
tộc trên Thế giới coi đây là việc làm trái đạo đức và đáng bị lên án.
Như vậy, sự chấp nhận, ủng hộ hay phản đối của người dân về vấn đề mang thai
hộ là cơ sở để pháp luật hoàn thiện. Nếu pháp luật hợp lòng dân, đem lại lợi ích và
thỏa mãn tư duy của nhân dân thì việc thực hiện pháp luật sẽ được diễn ra một
cách tự giác. Vì vậy, trong việc xây dựng pháp luật về mang thai hộ cần phải nắm
bắt được tinh thần và quan điểm chung của xã hội khi ban hành các quy định.
1.3.2. Điều kiện kinh tế, xã hội
Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng, pháp luật là một bộ phận
của kiến trúc thượng tầng.Các điều kiện kinh tế là cơ sở hạ tầng. Trong mối quan
hệ biện chứng thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng, do 22 vậy, nội
dung của pháp luật là do các quan hệ kinh tế - xã hội quyết định. “Sự thay đổi
của điều kiện kinh tế - xã hội sớm hay muộn cũng sẽ dẫn đến sự thay đổi của
pháp luật để phù hợp. Pháp luật luôn phản ánh trình độ phát triển kinh tế, nó
không thể thấp hơn hay cao hơn trình độ phát triển của kinh tế”[7]
Muốn pháp luật phát huy được hiệu quả, pháp luật phải phù hợp với những điều
kiện cụ thể của xã hội ở thời điểm tồn tại của nó, nghĩa là pháp luật phải phản
ánh đúng những nhu cầu khách quan của xã hội. Trong bối cảnh Việt Nam hiện
nay, kinh tế và xã hội phát triển làm xuất hiện ngày càng nhiều hơn các các nhu
cầu mới trong đó có nhu cầu về mang thai hộ. Sở dĩ nhu cầu mang thai hộ nhiều
do tỷ lệ vô sinh của người phụ nữ ở nước ta ngày càng cao. Bên cạnh đó, xã hội
ngày càng hiện đại, kinh tế ngày càng phát triển đã góp phần làm tăng mức sống,
mức thu nhập của người dân, nhiều người có cơ hội tiếp cận với kỹ thuật mang thai
hộ vì chi phí của việc mang thai hộ là rất cao. Như vậy, chính sự đặc trưng và phổ
biến của việc mang thai hộ đã đòi hỏi pháp luật cần nhanh chóng xây dựng các quy
định về mang thai hộ để điều chỉnh quan hệ xã hội liên quan đến vấn đề này nhằm
hạn chế những hiện tượng tiêu cực xảy ra trong thực tiễn cuộc sống.
1.3.3. Sự phát triển của khoa học kỹ thuật
Sau khi Luật được ban hành, Luật phải được thi hành. Pháp luật muốn thi hành
được đòi hỏi phải có các yếu tố đảm bảo "hiện thực hóa" các quy định đó trong 18
cuộc sống. Việc xây dựng pháp luật mang thai hộ trong giai đoạn hiện nay là phù
hợp nhờ vào những thành tựu phát triển của khoa học kỹ thuật đặc biệt trong lĩnh
vực y học. Quá trình mang thai hộ buộc phải có sự tham gia của các cơ sở y tế để
tiến hành các kỹ thuật đối với người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ, đây
là những kỹ thuật khó, đòi hỏi trình độ cao. Do đó, dù pháp luật cho phép mang
thai hộ nhưng nếu khoa học học kỹ thuật về lĩnh vực y học không phát triển cũng
không đủ điều kiện để thực hiện việc mang thai hộ trong thực tế.
Với những thành tựu kỹ thuật y tế về mang thai hộ của Việt Nam hiện nay được
giới chuyên gia nước ngoài đánh giá cao về sự tiến bộ và phát triển, đáp ứng
được các yêu cầu khoa học và chuyên môn. Đây là điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng những quy định pháp luật về mang thai hộ tại Việt Nam. Nó không chỉ
là nền tảng khoa học để đưa ra khái niệm pháp lý liên quan mang thai hộ mà còn
là cơ sở thực tiễn để đưa ra những quy định về mang thai hộ có tính khả thi, hiệu
quả cao khi áp dụng vào thực tế. Do vậy, khi xây dựng các quy định pháp luật về
mang thai hộ, chúng ta không chỉ dựa trên nền tảng yếu tố phong tục tập quán,
tinh thần nhân đạo, điều kiện kinh tế xã hội mà còn dựa trên những thành tựu
cũng như định hướng phát triển của khoa học kỹ thuật để nâng cao tính thực tiễn,
tính khả thi cũng như hiệu quả lâu dài của quy định pháp luật. [6, tr20-23]
1.4. Pháp luật về mang thai hộ ở một số nước trên thế giới
Theo phân tích điều tra về mang thai hộ thì trong tổng số 105 quốc gia
được thăm dò chỉ 71(68%) quốc gia trả lời câu hỏi về mang thai hộ. Hầu hết các
quốc gia không trả lời về thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ là vì lý do
tôn giáo. Trong số 71 quốc gia trả lời thì 15 (21%) quốc gia cho phép thụ tinh
trong ống nghiệm để mang thai hộ và được quy định trong luật, 13 (23%) quốc
gia có chủ trương, 30 (42%) quốc gia không cho phép và 10 (14%) quốc gia
không đề cập đến thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ. 17 trong tổng số 71
quốc gia (24%) việc thụ tinh trong ống nghiệm để mang thai hộ được thực hiện,
nhưng trong đó có 9 quốc gia không có quy chế hoặc hướng dẫn về vấn đề này.
(LV KSoat MTH)
Các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn đề mang thai
hộ. Có quốc gia thừa nhận, và đã luật hóa mang thai hộ nhưng có quy định điều
kiện chặt chẽ, có quốc gia không thừa nhận nhưng cũng không cho phép; có
nhiều quốc gia cấm hoàn toàn… Sở dĩ có sự khác nhau này là do: truyền thống,
19
phong tục, tập quán, chế độ xã hội cũng như vấn đề quản lý công dân, dư luận xã
hội, trình độ khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau.
1.4.1. Nhóm các nước đã hợp thức hóa mang thai hộ
Các quốc gia đã hợp pháp hóa việc mang thai hộ được chia ra làm hai nhóm
nước: Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương
mại. Đối với các quốc gia thuộc nhóm vì mục đích nhân đạo, chẳng hạn như
Anh, Hy Lạp, Hunggari, Hà Lan, Bỉ, Canada, Australia, Nam Phi,… các thỏa
thuận mang thai hộ chủ yếu được tiến hành trên cơ sở tự nguyện. Ở những quốc
gia này, mang thai hộ được người dân quan tâm và ủng hộ bởi mang thai hộ
ngoài việc giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn thỏa mong ước có con còn góp
phần đảm bảo quyền làm mẹ chính đáng của phụ nữ.
Ở Anh, việc mang thai hộ bằng phương pháp hỗ trợ sinh sản và cả việc quảng
cáo đề tìm người mang thai hộ đều được phép theo luật về thụ tinh nhân đạo từ
năm 1994. Theo đó, Luât thừa nhận tính hợp pháp của việc hcuyeenr quyền làm
cha mẹ từ người nhận đẻ thuê sang người thuê đẻ và việc xác định quan hệ cha
mẹ con được thiết lập dựa trên quyết định của tòa án sau khi đứa trẻ ra đời theo
yêu cầu của cặp vợ chồng đã thuê đẻ. Luật này cũng quy định cho người mẹ đẻ
thuê có quyền phản đối việc xác định quan hệ cha mẹ con này trong thời hạn 6
tuần. Luật Hình sự Anh nghiêm cấm việc trả tiền cho người môi giới đối với việc
mang thai hộ. [1, tr14]. Tại Anh, trừ phi được tòa án yêu cầu, người nhờ mang
thai hộ không được phép chi trả bất kỳ khoản tiền nào đối với người mang thai
vượt quá “các chi phí hợp lý” trong quá trình thai kỳ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn
chưa có cách giải thích cụ thể nào về “các khoản chi phí hợp lý” này có tính xác
thực như thế nào. Theo luật pháp Anh, mọi khoản chi trả của người mẹ phục vụ
cho quá trình mang thai đều được xem là “chi phí hợp lý”.
Pháp luật Hungari quy định biện pháp mang thai hộ chỉ được thực hiện giữa các
thành viên trong gia đình.
Tại Israel, Luật về mang thai hộ quy định biện pháp hỗ trợ sinh sản chỉ dành
cho các cặp vợ chồng đã đăng ký kết hôn. Người phụ nữ nhận mang thai hộ có
thể là người độc thân hoặc đã li hôn hay góa phụ và không thể là nguồ mẹ sinh
học của đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ. [1, tr14]
Nhìn chung, quy định pháp luật về mang thai hộ của các quốc gia này cũng có
những nội dung tương đồng và phù hợp với thực tế của xã hội.
20
Chính phủ các nước này phải lập ra các ủy ban đạo đức độc lập để xét duyệt các
đơn xin mang thai hộ trên nguyên tắc thẩm tra từng trường hợp một. Pháp luật
các nước nói trên không thừa nhận tính hợp pháp của các thỏa thuận mang thai
hộ có trả tiền công. Các đối tượng được phép mang thai cũng chỉ được giới hạn
trong những tiêu chuẩn nhất định, trong đó người mang thai hộ phải được xét lý
lịch. [14]
Hiện đã có một số quốc gia cho phép công dân nước mình mang thai hộ vì mục
đích thương mại. Những quốc gia nổi bật trong danh sách này có thể kể đến Ấn
Độ, Ukraine hay Thái Lan. Luật pháp các nước này thường không bắt buộc cặp
vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là công dân của nước đó. Thậm chí một số nước
chỉ đơn giản hợp pháp hóa mang thai hộ vì mục đích lợi nhuận chứ không xây
dựng hoặc chưa hoàn thiện các văn bản luật để kiểm soát và hướng dẫn hoạt
động này. Đối với nhóm nước này, thị trường chợ đen và nạn lạm dụng cơ thể
phụ nữ để sinh lời vẫn là một mối lo ngại lớn.
1.4.2. Nhóm các nước chưa hợp thức hóa mang thai hộ
Việc hợp pháp hóa mang thai hộ hay không tùy thuộc vào bản chất của nhà
nước và các điều kiện kinh tế - văn hóa - xã hội của mỗi quốc gia. Các quốc gia
hiện nay chưa cho phép mang thai hộ chủ yếu do những lý do sau đây: vì vấn đề
nhân đạo liên quan đến tình cảm mẹ con giữa người mang thai và cháu bé, vì sự
bóc lột tàn nhẫn sức khỏe của người mang thai hộ nhất là những phụ nữ nghèo
khó ở các quốc gia nghèo, đang phát triển; lo ngại về vấn nạn buôn bán trẻ
em…Đặc biệt các nước này lo ngại với việc cho phép mang thai hộ sẽ dẫn đến
việc khuyến khích người dân thực hiện việc mang thai hộ vì những lý do như
nghề nghiệp, thẩm mỹ…
Tại một số quốc gia có nền y tế và pháp luật tiến bộ như Thụy Điển, Tây Ban
Nha, Pháp hay Đức,… việc mang thai hộ là bất hợp pháp. Năm 1991, tòa án tối
cao Pháp tuyên bố: “Cơ thể con người là không phải để cho mượn, cho mướn hay
để bán đi”. Quyết định này cấm tuyệt đối mọi hình thức mang thai hộ dẫu là tự
nguyện hay được thương mại hóa. Mọi trường hợp bị phát hiện sẽ phải hầu tòa,
thậm chí bị buộc tội hình sự.
Tại tỉnh Quebec, Canada cấm tất cả các thỏa thuận "mang thai hộ". Bộ luật Dân
sự Quebec làm cho tất cả các hợp đồng "mang thai hộ", cho dù thương mại hay
nhân đạo, đều không thể thực thi. Điều 541, Bộ luật dân sự của Quebec năm
21
1991 quy định: "bất kỳ thỏa thuận nào, theo đó một người phụ nữ cam kết sinh
sản hoặc mang theo một đứa trẻ cho một người khác là hoàn toàn vô giá trị"
Tại Cộng hòa Liên bang Đức, pháp luật quy định cấm việc mang thai hộ dưới
mọi hình thức với quan điểm, việc làm này vi phạm nhân phẩm con người. Vì
vậy, để phù hợp với Hiến pháp, Cộng hòa Liên Bang Đức đã ban hành Đạo luật
về bảo vệ phôi thai và thích ứng Đạo luật môi giới con nuôi. Việc mang thai hộ
vi phạm nhân phẩm của cả đứa trẻ và người mẹ. Đứa trẻ bị coi là đối tượng của
hợp đồng và bị biến thành hàng hóa; còn người mẹ “mang thai hộ” được coi là dã
tự biến mình trở thành người “cho thuê tử cung”. Qua thực tiễn xét xử ở đây,
quyền được có cong không được công nhận là quyền cơ bản vì cho rằng không ai
có thể đòi quyền có con. Trong trường hợp vi phạm các quy định cấm của pháp
luật, các bác sĩ và người môi giới tham gia vào việc này sẽ phải chịu trách nhiệm
hình sự.
Hiện nay, ở Cộng hòa Liên bang Đức đang diên ra tranh luận nên vẫn tiếp tục
cấm các việc liên quan đến mang thai hộ hay cần phải thay đổi quan điểm, nhận
thức về mang thai hộ và trong chừng mực nhất định, pháp luật phải quy định cho
phép mang thai hộ để phù hợp với thực tiễn của xã hội như nhiều quốc gia đã ghi
nhận. [1, tr13]
Như vậy, có thể thấy, các nước khác nhau có những quy định khác nhau về vấn
đề mang thai hộ. Có quốc gia thừa nhận, đã luật hóa mang thai hộ theo cả mục
đích nhân đạo hay vì mục đích thương mại, có quốc gia không thừa nhận nhưng
cũng không cho phép; có nhiều quốc gia cấm hoàn toàn,… Sở dĩ có sự khác nhau
này là do: truyền thống, phong tục tục quán; chế độ xã hội cũng như trình độ
khoa học kỹ thuật ở các nước là khác nhau. Việc thừa nhận mang thai hộ cũng
như quy định như thế nào về pháp luật mang thai hộ tại Việt Nam không chỉ dựa
trên những yếu tố “nội địa” của quốc gia cũng cần dựa trên những kinh nghiệm
của các quốc gia trên thế giới, nhằm nâng cao tính khả thi, hiệu quả của pháp luật
về mang thai hộ tại Việt Nam.
1.5. Vai trò, ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ
1.5.1. Vai trò của pháp luật về mang thai hộ
Trong cuộc sống hôn nhân hiện nay, có rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm
muộn. Theo các chuyên gia y tế và dân số, với nhiều lí do khác nhau mà tỉ lệ các
cặp vợ chồng (đang ở độ tuổi sinh đẻ) bị vô sinh (không thể có con tự nhiên với
nhau) ngày càng gia tăng trong số các cặp vợ chồng ở độ tuổi sinh đẻ. Nguyên do 22
là do cơ địa mỗi người hoặc cũng có thể do các yếu tố bên ngoài như điều kiện
sinh hoạt, thực phẩm ăn hàng ngày,… Sự khao khát có một đứa con huyết thống
để chăm sóc và nuôi dưỡng của họ rất lớn, chính vì thế mà các phương pháp hỗ
trợ sinh sản xuất hiện, trong đó có cả mang thai hộ. Tuy nhiên, đi theo đó là vô
vàn các hệ quả pháp lý, những rắc rối cho cả bên nhờ mang thai và bên mang thai
cũng như cho cả chính quyền. Sự tham gia của pháp luật điều chỉnh vấn đề này
đã mở ra những cơ hội cho các cặp vợ chồng vô sinh được hiện thực hóa ước mơ
làm cha, làm mẹ - một trong những nhu cầu chính đáng của con người.
Trên thế giới, không phải quốc gia nào cũng pháp luật hóa vấn đề này. Tuy
nhiên điều đó vẫn diễn ra dù có được pháp luật công nhận hay không do “có cầu
thì sẽ có cung” và mục đích hướng tới cuối cùng là một bên có con và một bên có
tiền. Nếu pháp luật không có quy định thì do nhu cầu, một số cặp vợ chồng vẫn
thực hiện việc này, dẫn đến quyền lợi, sức khỏe và kể cả tính mạng của phụ nữ,
trẻ em không được bảo đảm, tranh chấp có thể phát sinh. Việc quy định về quyền
mang thai hộ (dù là vì mục đích thương mại hay vì mục đích nhân đạo) thì vẫn
đảm bảo sự kiểm soát của pháp luật. Cụ thể, pháp luật quy định về điều kiện mà
các bên phải đáp ứng, nếu không thực hiện đủ các điều kiện đó thì sẽ không được
phép mang thai hộ, hoặc các bên vi phạm sẽ không được thực hiện tiếp các bước
tiếp theo để tiến hành mang thai hộ. Các điều kiện này cần có sự tham gia của
các cơ sở y tế, các cơ quan quản lý Nhà nước, đảm bảo chặt chẽ về thủ tục pháp
lý và quyền lợi cho các bên. Về cơ chế, nội dung mà pháp luật kiểm soát là
quyền và nghĩa vụ của các bên khi tham gia vào mang thai hộ và chế tài xử lý khi
xảy ra vi phạm hoặc tranh chấp.
Như vậy, pháp luật sẽ bảo hộ cho các bên để thực hiện quyền mang thai hộ. Và
dựa vào pháp luật, các chủ thể trong quan hệ này được đảm bảo về quyền và lợi
ích trong khi mang thai hộ “chui” không có căn cứ gì để bảo vệ cho tương lai của
họ và đứa trẻ khi sinh ra.
Thực tế, đã có nhiều trường hợp thỏa thuận mang thai hộ được thực hiện qua
trung gian môi giới hoặc giữa 2 bên với nhau mà không theo thủ tục pháp luật đã
dẫn đến việc bên nhờ mang thai bỏ rơi không nhận con, hoặc bên mang thai hộ
không giao con,… Câu chuyện về bé trai mắc bện Down bị cha mẹ người Úc bỏ
rơi khi nhờ mang thai hộ đã lên tiếng chuông cảnh tỉnh cho pháp luật các nước về
sự cần thiết của quy định về mang thai hộ.
23
Câu chuyện thương tâm này xảy ra ở Thái Lan và đang là để tài được cả thế giới
nói đến. Một cặp vợ chồng người Australia đã phải sử dụng phương pháp mang thai
hộ bởi họ không thể thụ thai một cách tự nhiên. Họ nhờ một phụ nữ Thái có thể là
Pattaramon Chanbua mang thai hộ với giá 15,000 đô la Mỹ. Người phụ nữ này sinh
đôi, một trai một gái, bé gái khỏe mạnh thì được cha mẹ Úc đem về nuôi, bé trai
mang bệnh Down thì bị bỏ lại.
Không những bị bệnh down, cậu bé không may hiện đã được 6 tháng tuổi có tên
là Gammy này còn bị các chứng bệnh hiểm nghèo khác, như bệnh tim bẩm sinh,
nhiễm trùng phổi, và đang điều trị ở một bệnh viện, bà mẹ không có tiền để lo
cho con. Gia đình người mẹ “đẻ thuê” này đang liên tiếng nhờ đến các nhà hảo
tâm trên Thế giới giúp đỡ mình về kinh tế để có thể tiếp tục cưu mang đứa trẻ tội
nghiệp này.[12]
Sau vụ việc xảy ra này, Thái Lan cũng đã phải xem xét và sửa đổi lại quy định
về mang thai hộ nghiêm ngặt hơn.
Trên đây chỉ là 1 ví dụ điển hình cho việc mang thai hộ “chui” và những hậu
quả pháp lý khó lường trước trong thực tiễn xã hội. Có rất nhiều trường hợp mà
các bên chủ thể tham gia phải “đau đầu” do chính vòng luẩn quẩn mà mình tạo
ra. Sở dĩ xảy ra như vậy là do không có sự kiểm soát của pháp luật cùng những
hợp đồng không rõ ràng, minh bạch, có nhiều điều khoản gây bất lợi cho bên nhờ
mang thai hộ hoặc bên mang thai hộ (Chủ yếu là bên mang thai hộ vì đối tượng ở
đây là những người nghèo, dân trí thấp, cần tiền). Bên nhờ mang thai hộ dễ rũ bỏ
trách nhiệm của mình và bên mang thai hộ có thể không được nhận thù lao và sự
chăm sóc thai sản cần có,…Tất cả những điều đó đều khiến cho các bên luôn có
thể ở trong trạng thái bị động, yếu thế nếu bên còn lại làm gì đó đi ngược lại với
thỏa thuận ban đầu; và thiệt thòi nhất ở đây có lẽ là đứa trẻ được sinh ra từ
phương pháp này. Một số nước không công nhận mang thai hộ nên những đứa trẻ
sinh ra dưới dạng “đẻ thuê” không được “minh bạch” về khai sinh, kéo theo đó là
những hệ quả pháp lý về chăm sóc, sự bảo vệ, quyền và nghĩa vụ của chúng sau
này.
Vì vậy, việc ban hành các quy định pháp luật về mang thai hộ có ý nghĩa rất
lớn. Sự tham gia của pháp luật vào quan hệ này là phương tiện cần thiết để các
bên chủ thể thực hiện nhu cầu và quyền được mang thai hộ của mình dưới sự
kiểm soát của Nhà nước; là hành lang pháp lý, bảo vệ được quyền của bên nhờ
mang thai hộ, bên mang thai hộ và thai nhi; đảm bảo xác định được quan hệ cha, 24
mẹ, con hợp pháp, bảo vệ quyền và lợi ích của đứa trẻ khi sinh ra. Hơn nữa cũng
giúp Nhà nước kiểm soát tốt tình hình dân số và tỉ lệ tội phạm xảy ra.
1.5.2. Ý nghĩa của pháp luật về mang thai hộ
a) Mang thai hộ mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc
Mang thai hộ mà cụ thể là mang thai hộ vì mục đích nhân đạo mang ý nghĩa
nhân văn sâu sắc. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được hiểu cơ bản là việc
người phụ nữ mang thai và sinh con cho người phụ nữ khác không có khả năng
sinh sản mà không đòi hỏi các yêu cầu về vật chất hay lợi ích khác. Yếu tố huyết
thống của một con người dù thế nào cũng không thể thay đổi nên điều khiến một
người phu nữ khác sẵn sang giúp đỡ để sinh con cho một cặp vợ chồng qua
phương pháp thụ tinh ống nghiệm và có sự hỗ trợ của y học được nhìn nhận như
một hành vi nhân đạo cao cả. Nhìn rộng hơn nhữa đó còn là tình đồng loại cũng
tương tự như việc hiến máu nhân đạo, hiến bộ phận cơ thể để cứu giúp những
người khác đang trong hoàn cảnh khó khăn hiểm nghèo. Pháp luật cần thiết phải
cho phép việc mang thai hộ vì ý nghĩa nhân văn của nó, chúng ta chỉ đặt vấn đề
mang thai hộ không gì khác ngoài mục đích nhân đạo để tạo cơ hội cho những
cặp vợ chồng không thể thực hiện được hết quá trình thụ thai, sinh nở.
b) Đảm bảo hoàn thiện gia đình trong xã hội
Mang thai hộ giúp đảm bảo khả năng thực hiện chức năng cơ bản của gia đình là
chức năng tái sản xuất con người. Là một trong những thiết chế cơ bản của xã hội,
gia đình đảm nhận chức năng tái sản xuất con người; tái tạo, bảo dưỡng sức lao
động cho xã hội. Tái sản xuất con người là một chức năng cơ bản và riêng có của
gia đình. Hoạt động sinh con đẻ cái trước hết xuất phát từ nhu cầu tồn tại của chính
con người, của xã hội, trong xã hội hiện đại đứa con trong gia đình vẫn là một biểu
hiện của giá trị hạnh phúc gia đình, chức năng cơ bản này khiến các cá nhân gắn
kết lại với nhau tạo thành gia đình có tính truyền thống và toàn cầu. Việc thực hiện
chức năng này không chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu, mong ước của người vợ, người
chồng mà còn là vấn đề của xã hội, vấn đề duy trì tính liên tục của xã hội.
Nhờ có mang thai hộ mà chức năng duy trì nói giống của ác cặp vợ chồng hiếm
muộn được đảm bảo đồng thời đáp ứng được nhu cầu sinh con cùng huyết thống
cùng mã gen với bố mẹ. Yếu tố huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha,
mẹ, con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị
văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống của dòng họ gắn với mỗi con người
cụ thể. Đó cũng là lý do để những cặp vợ chồng hiếm muộn vẫn luôn khao khát 25
có đứa con mang dòng máu của mình và cách duy nhất sau khi sử dụng các
phương pháp hỗ trợ sinh sản thất bại chỉ có thể là mang thai hộ. Như vậy, mang
thai hộ giúp đảm bảo sự hoàn thiện của gia đình trong xã hội và thực hiện chức
năng cơ bản của gia đình là chức năng tái sản xuất con người.
1.6. Các tiêu chí hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo
Pháp luật về mang thai hộ được xây dựng dựa trên nhu cầu xã hội và tình hình
thực tiễn. Phục vụ cho những đối tượng và trường hợp cụ thể dưới sự kiểm soát
của Nhà nước.
1.6.1. Hoàn thiện pháp luật để bảo đảm về quyền cho các bên tham gia
Việc quy định mang thai hộ dựa trên yếu tố nhân đạo của pháp luật Việt Nam
đã thể hiện tinh thần đạo đức của dân tộc, đảm bảo quyền và nghĩa vụ của công
dân được quy định trong Hiến pháp 2013.
Bản chất “mang thai hộ” là hết sức nhân văn vì là một sự giúp đỡ của một
người phụ nữ này đối với người phụ nữ khác để sinh ra những đứa trẻ. Việc
mang thai và sinh nở cũng là việc làm có ý nghĩa nhằm duy trì nòi giống, gắn kết
và giữ gìn hạnh phúc mỗi gia đình, bởi vì con cái là động lực để cha mẹ chúng
làm việc tốt hơn, sống có trách nhiệm hơn, góp phần vào sự ổn định, phồn vinh
của xã hội.
Một hệ thống pháp luật hoàn thiện là một hệt thống đảm bảo được quyền và lợi
ích của mọi đối tượng có trong xã hội.
a) Đối tượng mang thai hộ
Với mang thai hộ, đối tượng ở đây cần được đặt trong pháp luật là những cặp
vợ chồng vô sinh, hiếm muộn, những bà mẹ đơn thân vô sinh khó có con và
nhóm người đồng tính chuyển giới có nhu cầu có con chính đáng. Đó là những
nhóm người yếu thế, cần được bảo vệ và yêu cầu được đối xử bình đẳng.Những
cặp vợ chồng vô sinh mặc nhiên là đối tượng đầu tiên được xem xét tham gia vào
quan hệ này nhưng chúng ta cũng không thể bỏ qua trường hợp khác khiếm
khuyết hơn về hôn nhân.
Pháp luật không nên “đóng khung” các trường hợp cụ thể được phép nhờ mang
thai hộ và các đối tượng mang thai hộ. Điều này tuy đảm bảo được sự kiềm soát
của nhà nước nhưng lại bó hẹp lại cơ hội cho các trường hợp khác có nhu cầu có
con chính đáng nhưng không đáp ứng đủ các điều kiện theo luật định.
26
b) Điều kiện mang thai hộ
Cần thiết phải có những điều kiện cơ bản để thực hiện quá trình mang thai hộ
đối với bên nhờ mang thai và bên nhận mang thai hộ như:
- Yêu cầu xác nhận của cơ quan y tế có thẩm quyển về việc người nhờ mang
thai hộ không thể có con (đã trải qua các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác hoặc
vướng các vấn đề về bệnh lí khiến quá trình có con khó khăn)
- Tình trạng có/chưa có con trước khi yêu cầu thực hiện mang thai hộ: cho thấy
khả năng mang thai bình thường hoặc không bình thường của người nhờ mang
thai hộ. Quy định này để ngăn chặn sự biến tướng về mục đích mang thai hộ
chính đáng.
Trường hợp sau khi sinh con mà đứa con bị mắc những bệnh như down hay một
số bệnh lí khác khiến chúng không thể phát triển được bình thường hoặc không
còn sống thì những trường hợp này vẫn nằm trong dạng được nhờ mang thai hộ,
miễn việc đảm bảo rằng việc thêm một đứa con nữa không vi phạm đến chính
sách dân số của quốc gia.
- Quy định về người nhận mang thai hộ: độ tuổi phù hợp nhận mang thai hộ,
sức khỏe, khả năng mang thai và những điều kiện cần có khác tương thích với
tình hình xã hội, phù hợp với chuẩn mực đạo đức và yêu cầu của pháp luật như
người thân trong gia đình hoặc bạn bè – những người tự nguyện nhận mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo chứ không phải vì các yêu cầu về kinh tế hay vật chất
khác. Việc tìm người mang thai hộ cần phải được dễ dàng để tạo điều kiện cho
những người vô sinh, muốn có con qua phương pháp này.
- Điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ: Điều kiện về ý chí của các bên trong
việc mang thai hộ là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện.
Theo đó, phải đảm bảo sự tự nguyện giữa 2 bên. Đây là điều kiện quan trọng để
các bên có tâm lí thoải mái nhất, sẵn sàng đón nhận việc mang thai hộ. Trường
hợp người mang thai hộ độc thân thì phải có giấy cam kết mang thai hộ hoàn
toàn tự nguyện, không do ép buộc. Còn nếu trường hợp bên mang thai hộ đang
tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp thì phải có sự đồng ý bằng văn bản của người
chồng; trong trường hợp người chồng bị mất năng lực hành vi dân sự thì người
phụ nữ nhận mang thai hộ lúc này được quyền đơn phương quyết định nhận hay
không nhận mang thai hộ. Chính điều này là yếu tố quan trọng để ràng buộc trách
nhiệm của các bên đối với việc mang thai hộ và là cơ sở pháp lí để giải quyết các
vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện mang thai hộ [2].
27
c) Quyền và nghĩa vụ của mỗi bên
Khi tham gia vào quan hệ mang thai hộ, đồng nghĩa với việc các bên tham gia
ràng buộc mình vào những thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của bản thân đối với
bên kia và ngược lại. Điều này để đảm bảo quá trình mang thai hộ diễn ra thuận
lợi và tình trạng đứa trẻ được ổn định.
- Đối với bên nhờ mang thai hộ: cần thanh toán đầy đủ các khoản chi phí để
thực hiện mang thai hộ theo đúng yêu cầu và quy định; giải quyết hậu quả trong
trường hợp tai biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai
hộ; không được từ chối nhận con và đảm bảo hoàn thành trách nhiệm với đứa trẻ
từ khi nhận con cho đến khi trưởng thành.
- Đối với bên nhận mang thai hộ: Có nghĩa vụ yêu thương, chăm sóc, nuôi dạy
đứa trẻ trong suốt thời kỳ mang thai để đảm bảo sự phát triển toàn diện của trẻ;
không được từ chối giao con.
Những yêu cầu về quyền và nghĩa vụ giữa hai bên với nhau không chỉ căn cứ trên
thỏa thuận ban đầu mà còn phải dựa trên những quy định cụ thể của pháp luật.
d) Quy định về thỏa thuận mang thai hộ trong bộ Luật Dân sự
Về bản chất, thỏa thuận mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự, do đó cũng
giống như các thỏa thuận dân sự khác, thỏa thuận mang thai hộ cũng cần được
pháp luật ghi nhận nguyên tắc thỏa thuận chung là: tự nguyện. Đó phải là sự thỏa
thuận mà có sự thống nhất giữa tự do ý chí và bày tỏ ý chí, là sự ngang bằng về
địa vị và quyền lợi, không có sự lừa dối, ép buộc giữa người mang thai hộ và
người nhờ mang thai hộ. Việc ghi nhận nguyên tắc của thỏa thuận mang thai hộ
là cần thiết bởi nó là cơ sở quan trọng để đánh giá tính hợp pháp của việc phát
sinh sự kiện mang thai hộ [6, tr50]. Việc quy định về thỏa thuận mang thai hộ
cần được quy định cụ thể thành một mục riêng trong Bộ luật Dân sự.
Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật có những quy định rõ ràng những
điều khoản về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự
nguyện nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các
bên thể hiện được ý chí của mình; thỏa thuận với nhau trách nhiệm dân sự trong
trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng. Do quan hệ mang
thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó phân xử, nên hợp
đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của bên kia và là cơ sở
cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5, tr77]
28
e) Quy định về chế tài xử lý vi phạm
Trên tinh thần thực hiện pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, cần có
những quy định chặt chẽ, cụ thể về chế tài xử lý vi phạm để những quy định về
mang thai hộ được thực thi một cách nghiêm túc. Không chỉ quy định trong luật
Hôn nhân và Gia đình hoặc Luật Dân sự mà cần thiết phải được đưa vào trong
luật Hình sự với tội danh tội phạm xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình với
cách xác định các tội phạm cụ thể cùng với khung hình phạt áp dụng cho loại tội
phạm này. Để hạn chế tính thương mại của hành vi mang thai hộ đòi hỏi mức xử
phạt phải đủ mạnh, tương xứng với hành vi vi phạm và có sức răn đe. Sở dĩ cần
như vậy là bởi đây là quan hệ pháp luật đặc biệt, yếu tố con người cần được bảo
vệ tuyệt đối để không đi ngược lại với quan điểm đáo đức của nhân dân và tinh
thần của pháp luật.
1.6.2. Hoàn thiện pháp luật để phù hợp với truyền thống đạo đức
Quan điểm về “cha sinh, mẹ đẻ” luôn sâu trong tư tưởng của người dân Việt
Nam. Con phải là do mẹ mang nặng đẻ đau 9 tháng 10 ngày, “dứt ruột đẻ ra”.
Đứa trẻ ấy được nuôi lớn trong sự yêu thương của cha mẹ chúng. Việc nhờ một
người “đẻ hộ”, mang thai hộ hay phụ nữ “không chồng mà chửa” luôn bị dị nghi.
Theo sự phát triển của nhịp sống hiện đại, người dân đã nâng cao nhận thức và có
cái nhìn bao dung hơn với những trường hợp này. Vì thế pháp luật cũng thay đổi
để phù hợp với xã hội, trao cho những người vô sinh có cơ hội để được làm cha
mẹ bằng các biện pháp hỗ trợ sinh sản khác với sinh sản theo hướng “tự nhiên”,
truyền thống như trước đây, đồng thời cũng là đề cao vai trò của sự hoàn thiện
gia đình trong cuộc sống. Tuy nhiên, xã hội chúng ta chỉ cho phép thực hiện vì
mục đích nhân đạo, có nghĩa là giống như một sự hỗ trợ, giúp đỡ để những người
kém may mắn có thể hưởng trọn niềm vui được làm mẹ chứ không đồng thuận
với những hành vi thương mại hóa, xem con người là vật mua bán, trao đổi.
Pháp luật cần quy định theo hướng: “Việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện của các bên và nghiêm cấm mang thai
hộ vì mục đích thương mại hay vì các lợi ích vật chất khác”. Pháp luật cần làm rõ
hơn như thế nào là “nhân đạo”, cần phải hiểu “nhân đạo” nghĩa là không gắn với
mục đích kinh tế, thương mại mà đơn thuần chỉ là sự giúp đỡ hoàn toàn tự
nguyện của bên mang thai hộ đối với bên nhờ mang thai hộ.
Mặc dù đề xuất pháp luật mở rộng đối tượng chủ thể tham gia vào mang thai hộ
không chỉ bó hẹp trong cặp vợ chồng vô sinh được quyền nhờ mang thai hộ hay 29
điều kiện của người mang thai hộ là người thân thích cùng hàng nhưng để đảm
bảo không trái với thuần phong mỹ tục của người Việt (mẹ ruột mang thai hộ cho
con đẻ, mẹ chồng mai thai hộ cho con dâu hay phụ nữ độc thân muốn có con xin
tinh trùng của họ hàng thân thích trong gia đình,…) pháp luật cũng cần quy định
cấm một số trường hợp cụ thể (như trên) tham gia vào xây dựng mối quan hệ này
để không xảy ra tranh chấp hoặc vi phạm đến tư tưởng đạo đức của nhân dân.
1.6.3. Hoàn thiện pháp luật để tương thích với pháp luật Quốc tế
Trên phương diện quốc tế, quan hệ pháp luật mang thai hộ được xếp vào khía
cạnh thuộc luật nhân quyền Quốc tế nhằm bảo vệ, thúc đẩy các quyền tự do cơ
bản cho mọi thành viên của cộng đồng nhân loại. [25, tr113]. Những chủ thể
tham gia vào quan hệ này thuộc nhóm người dễ bị tổn thương (phụ nữ, trẻ em,
nhóm người đồng tính chuyển giới,..), là những người cần được chú ý bảo vệ đặc
biệt so với những nhóm người, cộng đồng khác. Do vị thế yếu hơn nên những
nhóm người này rất dễ bị vi phạm các quyền hoặc gặp khó khăn trong việc
hưởng thụ các quyền.
Việt Nam hiện nay đã tham gia vào hầu hết các Công ước quốc tế cơ bản về
quyền con người. Trong đó có Công ước về Xoá bỏ mọi hình thức phân biệt đối
xử với phụ nữ 1979, ký kết ngày 29-7-1980, phê chuẩn ngày 17-2-1982; Công
ước về Quyền Trẻ em 1989, ký kết ngày 26-1-1990, phê chuẩn ngày 28-2-1990
và hai Nghị định thư bổ sung về trẻ em trong xung đột vũ trang (ký kết ngày 8-9-
2000, phê chuẩn ngày 20-12-2001) và chống sử dụng trẻ em trong các hoạt động
mại dâm và tranh ảnh khiêu dâm (ký kết ngày 8-9-2000, phê chuẩn ngày 20-12-
2001); Công ước về Quyền của Người khuyết tật 2006, ký ngày 22-11-2007 và
phê chuẩn ngày 5-2-2015;…. [25] vì thế việc đảm bảo thực hiện quyền cho
những nhóm người này là cần thiết.
Theo đó, phụ nữ có quyền bình đẳng trong quan hệ hôn nhân gia đình như
quyền quản lý tài sản, quyền được nghỉ ngơi, quyền được quyết định về con
cái,… Chính vì vậy mà không chỉ có những người phụ nữ vô sinh có quan hệ hôn
nhân hợp pháp mới được nhờ mang thai hộ mà cả những người phụ nữ vô sinh
độc thân cũng cần được đảm bảo quyền này. Đó là quyền mưu cầu hạnh phúc và
quyền yêu cầu con cái cơ bản của họ.
Trong luật quốc tế, trẻ em được coi là một trong các nhóm xã hội dễ bị tổn
thương nhất.Trẻ em có quyền được hưởng sự chăm sóc, bảo vệ một cách đặc biệt
không chỉ ở mức độ gia đình mà còn mở rộng đến trách nhiệm của quốc gia. Vì 30
thế, pháp luật cần phải có những quy định tương thích với những quyền cơ bản
mà trẻ em cần cótheo pháp luật Quốc tế về quyền trẻ em để bảo vệ cho lợi ích và
sự phát triển chung. Hơn nữa, những trẻ em sinh ra từ biện pháp mang thai hộ lại
là những trường hợp nhạy cảm hơn, dễ bị tác động ảnh hưởng đến tâm lý. Trách
nhiệm đặt ra cho các nhà làm luật là cần phải quy định quyền và nghĩa vụ của các
bên tham gia vào quan hệ này gồm bên nhờ mang thai hộ, bên nhận mang thai
hộ; trách nhiệm của xã hội trong việc bảo đảm sự phát triển và lợi ích của trẻ em
được sinh ra từ biện pháp này.
Thực tế, không phải quốc gia nào trên thế giới cũng cho phép mang thai hộ
hoặc có thể cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hay thương mại, tùy
vào quan điểm về đạo đức và pháp luật riêng. Tuy vậy, trên cơ sở là tính nhân
đạo của pháp luật Việt Nam, một số quốc gia có tư tưởng về nhân đạo trong vấn
đề mang thai hộ rất “mở” nhưng vẫn đảm bảo hạn chế sự thương mại hóa mà cơ
hội trao cho những cặp vợ chồng vô sinh lại nhiều hơn. Vì thế, chúng ta cần điều
chỉnh pháp luật trong nước để tương thích với pháp luật quốc tế, học tập và kế
thừa những tư tưởng tiến bộ về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để xây dựng
và áp dụng pháp luật toàn diện hơn, bảo vệ được tối đa quyền của phụ nữ và trẻ
em; đồng thời tăng sự kiểm soát của pháp luật về các vấn đề xã hội liên quan,
đảm bảo được quyền con người triệt để.
31
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ở chương 1, tác giả đã nêu ra những vấn đề lý luận chung về mang thai hộ và
việc cần thiết hoàn thiện pháp luật mang thai hộ vì mục đích nhân đạo bao gồm
các nội dung sau:
Thứ nhất, tác giả đưa ra cách hiểu mang thai hộ, từ đó đưa ra khái niệm mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo theo luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cùng với
những đặc điểm của pháp luật về mang thai hộ.
Thứ hai, tác giả trình bày nội dung của pháp luật về mang thai hộ và các yếu tố
tác động đến việc quy định và hoàn thiện pháp luật.
Thứ ba, tác giả nêu quy định về mang thai hộ trong pháp luật một số nước trên
thế giới để qua đó Việt Nam có thể học tập kinh nghiệm về quản lý và thực hiện
pháp luật về mang thai hộ.
Thứ tư, tác giả nêu vai trò, tầm quan trọng, ý nghĩa của pháp luật về mang thai
hộ và các tiêu chí hoàn thiện pháp luật.
Từ những lý luận chung này có thể hiểu rõ về mang thai hộ và sự cần thiết phải
hoàn thiện pháp luật đối với mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
32
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VÀ THỰC HIỆN PHÁP
LUẬT VỀ MANG THAI HỘ Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng pháp luật về mang thai hộ
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam
2.1.1.1. Pháp luật Việt Nam trước khi có quy định về mang thai hộ
Tại Việt Nam, mang thai hộ từ lâu đã tồn tại trong thực tiễn cuộc sống. Xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn là vì các lí do khác nhau mà có nhiều cặp vợ chồng vô
sinh do người vợ không thể thụ thai hoặc sinh con ngay cả khi đã thử qua các
biện pháp hỗ trợ sinh sản khác. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 không quy
định về cho phép mang thai hộ, Nghị định số 12/2003/NĐ-CP nghiêm cấm mang
thai hộ xong hoạt động này vẫn diễn ra lén lút dưới dạng “chửa thuê”, “đẻ thuê”
bởi nhu cầu có con của các cặp vợ chồng hiếm muộn. Bằng nhiều hình thức, từ
việc cấy phôi mang gen của cả 2 vợ chồng vào tử cung của người đẻ thuê hoặc
thực hiện “trực tiếp” giữa người chồng và người nhận mang thai hộ, những đứa
trẻ có được bằng phương pháp này lần lượt ra đời. Nhà nước mặc dù cấm nhưng
vẫn phải áp dụng các biện pháp hành chính và pháp lí để bảo vệ quyền, lợi ích
cho những trẻ em được sinh ra từ việc mang thai hộ trái pháp luật này.
Sở dĩ pháp luật thời kỳ này không cho phép mang thai hộ bởi nhiều lý do:
Thứ nhất: nhìn dưới góc độ pháp lý, cấm mang thai hộ là bởi mang thai hộ vốn
là một vấn đề vô cùng nhạy cảm trong xã hội cũng như trong nền khoa học pháp
lý. Nếu thừa nhận mang thai hộ sẽ dẫn đến sự gia tăng tình trạng mua bán trẻ sơ
sinh bất hợp pháp, lách luật để sinh con thứ ba…cũng như ảnh hưởng tới nhiều
chế định trong Luật HN&GĐ 2000, trong đó có chế định xác định quan hệ cha,
mẹ, con, gây khó khăn, phức tạp trong quá trình giải quyết quyền và nghĩa vụ của
các chủ thể có liên quan.
Theo Luật HN&GĐ 2000 nguyên tắc xác định cha, mẹ, con là dựa vào sự kiện
sinh đẻ, theo đó, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ là mẹ của đứa trẻ (dù nó cùng hay
không cùng huyết thống với người đã sinh ra nó). Vì vậy, nếu quy định về mang
thai hộ sẽ làm đảo lộn phương pháp xác định cha, mẹ, con theo truyền thống bởi
lúc này, người phụ nữ sinh ra đứa trẻ không phải là mẹ của đứa trẻ nữa, thay vào
đó, người được xác định là mẹ của đứa trẻ lại là một người phụ nữ khác không
trực tiếp sinh ra nó. Như vậy, nguyên tắc xác định cha, mẹ, con trong trường hợp
mang thai hộ là một ngoại lệ.
33
Thứ hai, nhìn dưới góc độ đạo đức, có ý kiến cho rằng mang thai hộ là một
hành vi vi phạm các chuẩn mực đạo đức, đi ngược lại truyền thống dân tộc, vì
vậy khi nói đến mang thai hộ đã vấp phải sự phản đối kịch liệt của nhiều người.
Đến năm 2000-2001, với những thành tựu của khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực y
học, người dân đã biết đến và dần chấp nhận một hình thức sinh sản mới đó là
sinh sản bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm. Vì pháp luật nghiêm cấm
mang thai hộ nên trong trường hợp mang thai hộ bị phát hiện thì sẽ bị xử phạt hành
chính. Cụ thể, khoản 3 Điều 10 Nghị định số 96/2011/NĐ-CP quy định xử phạt vi
phạm hành chính về khám, chữa bệnh như sau:“phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến
40.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây: mang thai hộ; sinh sản vô
tính; cấy tinh trùng, noãn, phôi giữa những người cùng dòng máu về trực hệ và giữa
những người khác giới có họ trong phạm vi ba đời”. Dù pháp luật nghiêm cấm
mang thaihộ nhằm hạn chế những tiêu cực xảy ra nhưng khi quy định này được áp
dụngvào thực tiễn đã nảy sinh nhiều vướng mắc, bất cập. Cụ thể:
Một là: NĐ 12/2003/NĐ-CP chỉ quy định nghiêm cấm mang thai hộ và sinh sản
vô tính trong khi chưa có bất cứ sự giải thích nào của pháp luật về phương pháp
mang thai hộ, gây khó khăn cho công tác thực thi pháp luật.
Hai là: Phạm vi đối tượng mà NĐ 12/2003/NĐ-CP đưa ra quá rộng, nghiêm
cấm mang thai hộ dưới mọi hình thức. Đối với những cặp vợ chồng trong đó
người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tự nhiên thì quy định này vô
hình chung đã hạn chế quyền quyền được làm cha, làm mẹ của họ.
Ba là: Các vấn đề pháp lý có liên quan như xác định cha, mẹ cho đứa trẻ được
sinh ra, các quyền nhân thân và tài sản của đứa trẻ với những người có liên quan
như: người mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ… cũng không được pháp luật
đề cập tới [6, tr30-33].
Với nhu cầu của các cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn muốn có con hoặc vì các
mục đích khác thì mặc dù pháp luật không quy định nhưng vẫn có rất nhiều các
trường hợp vẫn “lén lút” mang thai hộ “chui” bằng nhiều hình thức khác nhau,
thậm chí là ra nước ngoài, nơi cung cấp dịch vụ mang thai hộ dẫn đến nhiều rủi
ro như: người nhận mang thai hộ không giao đứa bé cho bên nhờ mang thai hộ
như đã thỏa thuận, trong quá trình mang thai hộ không thực hiện đúng thỏa thuận
như thăm khám, phát sinh những rắc rối về mặt giấy tờ pháp lý… đặc biệt khi có
tranh chấp phát sinh giữa người nhờ mang thai hộ và người nhận mang thai hộ về
việc xác định cha, mẹ, con; quyền nhân thân và quyền tài sản của đứa trẻ, quyền 34
và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ sẽ không có cơ sở pháp lý để
giải quyết; do đó gây ra nhiều thiệt thòi, ảnh hưởng đến quyền lợi của đứa trẻ
cũng như của các bên liên quan.
Theo xu hướng này, Dự thảo Luật Hôn nhân và Gia đình (sửa đổi) đã được
Quốc hội khóa XIII thông qua tại kỳ hợp thứ 7 (Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014), quy định chính thức về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, thể hiện tính
nhân văn sâu sắc của pháp luật nước ta.
2.1.1.2. Các quy định của pháp luật hiện hành về mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo
A. Quy định về mang thai hộ trong luật Hôn nhân và Gia đình 2014
Hơn 10 năm sau, luật Hôn nhân và Gia đình 2014 căn cứ theo điều kiện thực
tiễn phát triển xã hội đã có sửa đổi và quy định về việc mang thai hộ. Bổ sung hai
khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích
thương mại cùng các văn bản pháp luật hướng dẫn thi hành. Trong đó, tại điểm g
khoản 2 điều 5 về “Bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình” cũng có quy định
“nghiêm cấm mang thai hộ vì mục đích thương mại” cùng với các hành vi lựa
chọn giới tính thai nhi, sinh sản vô tính.
Theo đó, mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là việc một phụ nữ tự nguyện,
không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản,
bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong
ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để
người này mang thai và sinh con. Còn mang thai hộ vì mục đích thương mại là
việc một người phụ nữ mang thai cho người khác bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản để được hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. Như vậy, việc mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo và mang thai hộ vì mục đích thương mại được phân
định bởi việc giữa hai bên có thỏa thuận về việc bên mang thai hộ được hưởng
lợi về kinh tế hay các lợi ích khác hay không.
Điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Nghị định số 10/2015/NĐ-CP đã quy
định cụ thể và chặt chẽ các điều kiện cho việc mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo; buộc các bên tham gia vào quá trình mang thai hộ phải tuân thủ. Đây là cơ
chế kiểm soát cho việc mang thai hộ không bị chệch hướng và là cơ sở pháp lý
để việc mang thai hộ có hiệu lực; chi phối quyền và nghĩa vụ của các bên và 35
được bảo đảm thực hiện trong quá trình mang thai hộ. Việc mang thai hộ phải
bảo đảm các nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo.
a) Đối với người nhờ mang thai hộ
Thứ nhất, cặp vợ chồng vô sinh muốn nhờ mang thai hộ là phải tồn tại quan hệ
hôn nhân hợp pháp, nghĩa là quan hệ hôn nhân phải được pháp luật thừa nhận và
bảo hộ. Đây là quy định nhằm ràng buộc quyền và nghĩa vụ giữa vợ và chồng
với nhau cũng như đối với đứa trẻ được sinh ra từ việc mang thai hộ [2, tr13].
Quy định này khác với trường hợp các đối tượng thực hiện kỹ thuật hỗ trợ sinh
sản, được áp dụng cho cả người phụ nữ độc thân và cặp vợ chồng vô sinh ( Điều
93 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 ; Khoản 1 điều 3 NGHỊ ĐỊNH SỐ
10/2015/NĐ-CP /2015/NĐ-CP).
Điều 3. Nguyên tắc áp dụng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo
1. Cặp vợ chồng vô sinh và phụ nữ độc thân có quyền sinh con bằng kỹ thuật
thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa; cặp vợ chồng vô
sinh có quyền nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
Theo quy định trên thì việc mang thai hộ chỉ được đặt ra đối với trường hợp là cặp
vợ chồng vô sinh, còn đối với trường hợp là phụ nữ độc thân chỉ có quyền sinh con
bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm theo chỉ định của bác sĩ chuyên khoa.
Đối với nhóm người đồng tính, song tính và chuyển giới (gọi tắt là LGBT), do
pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính
nên với tư cách là cá nhân đơn lẻ, họ cũng không được phép nhờ mang thai hộ.
Đặc biệt là các cặp đồng tính nam muốn có đứa con ruột thịt của mình bằng việc
nhờ người phụ nữ khác mang thai hộ cũng không được chấp thuận.
Thứ hai, cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ phải là cặp vợ chồng vô sinh. Vô sinh là
tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình từ 2 – 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà người vợ vẫn không có thai. 1
Đối với cặp vợ chồng vô sinh, nguyên nhân có thể do vợ hoặc chồng và người
vợ cũng không thể mang thai được ngay cả khi có sự can thiệp của các biện pháp
hỗ trợ sinh sản. Song vẫn phải đảm bảo điều kiện là người chồng có tinh trùng,
người vợ có noãn được xác định là đảm bảo chất lượng để kết hợp thụ tinh. Đây
1 Xem: Khoản 2 điều 2 luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
36
là điều kiện nhằm đảm bảo cho quá trình mang thai hộ cũng như việc giao nhận
con sinh ra từ việc mang thai hộ được thực hiện một cách tốt nhất.
Thứ ba, vợ chồng đang không có con chung. Với điều kiện này, do chưa có quy
định và hướng dẫn cụ thể từ các cơ quan có thẩm quyền nên có thể suy đoán theo
các trường hợp sau:
-Vợ chồng vô sinh, chưa có con chung với nhau nên được quyền nhờ mang thai hộ
- Vợ chồng tuy đã có con chung nhưng con sau khi sinh đã chết vẫn được quyền
nhờ mang thai họ (vì hiện tại vợ chồng chưa có con chung và pháp luật không
hạn định về số lần nhờ mang thai hộ của cặp vợ chồng vô sinh)
- Vợ chồng dù đã có con chung nhưng con bị mắc các chứng bệnh tâm thần,
bênh down….thì về nguyên tắc không được nhờ mang thai hộ. Tuy vậy, nếu
không được nhờ mang thai hộ thì không phù hợp với thực tế khi nguyện vọng
chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể chất và trí tuê. Trong
trường hợp này, pháp luật cần xem xét nguyện vọng chính đáng để cho phép các
vợ chồng vô sinh được nhờ mang thai hộ [1, tr17].
Thứ tư, vợ chồng nhờ mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý.
Thông qua việc tư vấn, người nhờ mang thai hộ được cung cấp thông tin cần thiết
về mặt y tế, mặt pháp lý cũng như mặt tâm lý. Điều kiện này là rất cần thiết để
cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ hình dung được toàn bộ quá trình mang thai hộ,
những vấn đề phát sinh xung quanh việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của
mình trong việc nhờ mang thai hộ. Từ đó, họ quyết định có thực hiện nhờ mang
thai hộ hay không. Điều này cũng là tiền đề đảm bảo cho trẻ em sinh ra từ việc
mang thai hộ được hưởng các quyền lợi của mình và được pháp luật bảo vệ.
b) Đối với người mang thai hộ:
Khoản 3 điều 95 Luật hôn nhân và gia đình 214 quy định điều kiện đối với
người được nhờ mang thai hộ như sau:
a) Phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ
mang thai hộ;
b) Đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một lần;
c) Ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về
khả năng mang thai hộ;
d) Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng
ý bằng văn bản của người chồng;
e) Đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý;
37
Trước hết, người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng của bên vợ
hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ. Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo xác định: “Người thân thích cùng hàng của bên vợ
hoặc chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị,em cùng cha mẹ, cùng cha khác
mẹ, cùng mẹ khác nha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì
của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ, hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ” 2. Điểm a Khoản 3 Điều 95 Luật HN&GĐ
năm 2014 cũng đã quy định người được nhờ mang thai hộ phải là người thân
thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.
Việc pháp luật quy định như vậy nhằm tránh các hành vi trục lợi, lợi dụng điều
này để thương mai hóa hành vi mang thai hộ. Việt Nam hiện nay về trình độ y
học hoàn toàn đủ khả năng để thực hiện được kỹ thuật y tế liên quan đến thụ tinh
ống nghiệm để phục vụ cho mang thai hộ. Nhưng vấn đề ở đây liên quan đến mặt
đạo đức xã hội. Sự lo ngại về mang thai hộ sẽ bị thương mại hóa trong khi bản
chất của nó là phải vì nhân đạo bởi lẽ pháp luật cấm việc buôn bán người và trẻ
em không phải một dạng hàng hóa để mua bán đổi chác. Việc quy định người
nhờ mang thai hộ phải là người thân thích trong gia đình sẽ làm giảm bớt lợi ích
mà bên được nhờ mang thai hộ đòi hỏi các điều kiện, đảm bảo hạn chế những
biến tướng của việc mang thai hộ đồng thời cũng ngăn chặn những nguy cơ có
thể phá vỡ kết cấu và hạnh phúc gia đình. Hơn nữa nếu là người trong gia đình
thì sẽ đảm bảo được dòng máu, gen di truyền và phù hợp với thuần phong mỹ tục
của Việt Nam.
Thứ hai, người mang thai hộ đã từng sinh con và chỉ được mang thai hộ một
lần. Điều kiện này nhằm đảm bảo có sự trải nghiệm, kinh nghiệm của người
mang thai hộ với thiên chức làm mẹ; bảo đảm sự hòa hợp về tình cảm, tâm lí của
cả hai bên nhờ và bên nhận mang thai hộ trong quá trình mang thai hộ. Mang thai
và sinh con là cả một quá trình mà người phụ nữ phải trải qua nhiều gia đoạn
khác nhau của thai kỳ, phải có chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, chăm sóc đặc biệt để
đảm bảo sự phát triển của thai nhi trong bụng. Người đã mang thai và sinh con
một lần sẽ có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc chăm sóc và giữ gìn sự an toàn,
sức khỏe của thai nhi hơn cũng như biết cách phòng ngữa những biến chứng,
2 Xem: Khoản 2 điều 7 Nghị định của Chính phủ số 10/2015/NĐ-CP
38
những tác động không tốt đến sức khỏe của thai nhi. Mặt khác, điều kiện này bảo
đảm sức khỏe cho bên mang thai hộ cũng như các quy định khác liên quan, ví dụ
như chính sách kế hoạch hóa gia đình của Nhà Nước.
Thứ ba, người mang thai hộ phải ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức
y tế có thẩm quyền về khả năng mang thai hộ. Mặc dù hiện nay pháp luật chưa có
quy định cụ thể về độ tuổi phù hợp để mang thai hộ nhưng cũng có thể khẳng
định người mang thai hộ phải đang ở trong độ tuổi sinh sản tốt nhất. Nếu dưới 18
tuổi là độ tuổi pháp luật chưa cho phép mang thai và cơ thể của người phụ nữ lúc
đó được cho là chưa hoàn thiện về mặt sinh học, chưa phù hợp để sinh con. Còn
sau tuổi 30, khả năng sinh nở của người phụ nữ bắt đầu giảm dần và đó là lý do
vì sao các cặp vợ chồng khó có con hơn và cũng phải đối mặt với nhiều vấn đề
sinh sản hơn. Qua tuổi 40, khả năng sinh sản của nữ giới bắt đầu giảm, trứng
rụng thưa dần, mỗi năm có thể có vài chu kỳ kinh nguyệt không có trứng rụng.
Đến một lúc nào đó, người phụ nữ sẽ bước vào thời kỳ mãn kinh, kết thúc tuổi
sinh sản. Vì thế theo tác giả, có thể suy ra độ tuổi sinh sản phù hợp nhất với quy
định này là từ trên 18 đến dưới 35 tuổi. Sự xác nhận của tổ chức y tế có thẩm
quyền về khả năng mang thai hộ đảm vảo cho sự an toàn về điều kiện sức khỏe
của người mang thai hộ và của thai nhi, đảm bảo cho việc mang thai hộ đạt được
kết quả như mong muốn.
Thứ tư, người phụ nữ mang thai hộ phải được sự đồng ý bằng văn bản của
người chồng nếu đang có chồng.Đây là điều kiện về ý chí của bên mang thai hộ
và bên nhờ mang thai hộ. Điều kiện về ý chí của các bên trong việc mang thai hộ
là điều kiện tiên quyết để việc mang thai hộ được thực hiện. Việc yêu cầu sự
đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ là sự cần thiết. Bởi
việc mang thai hộ lúc này không phải là chuyện riêng của người vơ mang thai hộ
mà là việc chung của cả hai vợ chồng và của gia đình riêng của họ. Ý chí thỏa
thuận đồng ý của người chồng của người phụ nữ nhận mang thai hộ còn là cơ sở
pháp lý quan trọng làm phát sinh và thực thi các quyền, nghĩa vụ của hai bên
trong quá trình mang thai hộ cũng như giải quyết các hệ quả pháp lý liên quan
đến việc mang thai hộ. Trường hợp chồng của người phụ nữ mang thai hộ không
đồng ý thì không thể thực hiện quá trình mang thai hộ.
Thứ năm, người mang thai hộ đã được tư vấn về y tế, pháp lý, tâm lý. Đây là
điều kiện bắt buộc để việc mang thai hộ được thực hiện. Điều kiện này cũng
tương tự như đối với người nhờ mang thai hộ, giúp cho người mang thai hộ cân 39
nhắc về việc có nên thực hiện mang thai hộ người khác hay không. Người mang
thai hộ phải được biết các vấn đề liên quan đến việc mang thai hộ như: vấn đề về
sức khỏe, sự an toàn, sự rủi ro có thể xảy ra của quá trình mang thai hộ, quyền và
nghĩa vụ của 2 bên,… để từ đó có quyết đúng đắn và thỏa mãn nguyện vọng của
mình đồng thời chuẩn bị tâm lý ổn định cho việc mang thai hộ chuẩn bị được
thực hiện.
c) Về điều kiện của cơ sở khám, chữa bệnh phải đáp ứng các điều
kiện về máy móc, thiết bị y tế, nhân sự.
Hiện có 3 cơ sở khám bệnh được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo đó là:
– Bệnh viện Phụ sản trung ương;
– Bệnh viện Đa khoa trung ương Huế;
– Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ thành phố Hồ Chí Minh
d) Về thủ tục thực hiện việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo
Thực hiện việc thỏa thuận bằng văn bản với người mang thai hộ, bao gồm
những nội dung sau đây:
– Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các
điều kiện có liên quan
– Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ theo quy định của Luật hôn nhân
và gia đình.
– Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa; hỗ trợ để
bảo đảm sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và
sinh con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên
đối với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và
các quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
– Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam
kết theo thỏa thuận.
Văn bản mang thai hộ cần thực hiện công chứng theo quy định của pháp luật.
Cặp vợ chồng chuẩn bị hồ sơ, gửi hồ sơ đề nghị thực hiện kỹ thuật mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo đến cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được phép thực
hiện kỹ thuật này, gồm:
- Đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu số 04 ban
hành kèm theo Nghị định này;
40
- Bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 05
ban hành kèm theo Nghị định này;
- Bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào;
- Bản xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do Ủy ban nhân dân
cấp xã nơi thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận;
- Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm về việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều
nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe, tính mạng của người mẹ, thai nhi và người mẹ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản;
- Bản xác nhận của cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm đối với người mang thai hộ về khả năng mang thai, đáp
ứng quy định đối với người nhận phôi theo quy định tại Khoản 4 Điều 5 Nghị
định này và đã từng sinh con;
- Bản xác nhận của Ủy Ban Nhân Dân cấp xã hoặc người mang thai hộ, người
nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân thích cùng hàng trên
cơ sở các giấy tờ hộ tịch có liên quan và chịu trách nhiệm trước pháp luật về tính
xác thực của các giấy tờ này;
- Bản xác nhận của chồng người mang thai hộ (trường hợp người phụ nữ mang
thai hộ có chồng) về việc đồng ý cho mang thai hộ.
- Bản xác nhận nội dung tư vấn về y tế của bác sỹ sản khoa;
- Bản xác nhận nội dung tư vấn về tâm lý của người có trình độ đại học chuyên
khoa tâm lý trở lên;
- Bản xác nhận nội dung tư vấn về pháp luật của luật sư hoặc luật gia hoặc
người trợ giúp pháp lý;
- Bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo giữa vợ chồng nhờ
mang thai hộ và bên mang thai hộ theo quy định.
Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, cơ sở được cho phép thực
hiện kỹ thuật mang thai hộ phải có kế hoạch điều trị để thực hiện kỹ thuật mang
thai hộ. Trường hợp không thể thực hiện được kỹ thuật này thì phải trả lời bằng
văn bản, đồng thời nêu rõ lý do.
41
Nội dung của thỏa thuận mang thai hộ:
Theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, việc mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo phải được thực hiện trên cơ sở tự nguyện của các bên, được thành lập thành văn bản và phải được công chứng theo quy định của pháp luật3.
Nội dung cơ bản của văn bản thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đao,
bảo gồm:
-Thông tin đầy đủ về bên nhờ mang thai hộ và bên mang thai hộ theo các điều
kiện có liên quan quy định tại Điều 95 Luật HNGĐ ( các điều kiện mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo);
- Cam kết thực hiện các quyền, nghĩa vụ quy định tại Điều 97 (Đối với người
mang thai hộ) và Điều 98 (Đối với người nhờ mang thai hộ) của Luật HNGĐ;
- Việc giải quyết hậu quả trong trường hợp có tai biến sản khoa, hỗ trợ để đảm
bảo sức khỏe sinh sản cho người mang thai hộ trong thời gian mang thai và sinh
con, việc nhận con của bên nhờ mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của hai bên đối
với con trong trường hợp con chưa được giao cho bên nhờ mang thai hộ và các
quyền, nghĩa vụ khác có liên quan;
- Trách nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết
theo thỏa thuận4. [4, tr58]
Quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ
Luật HNGĐ quy định quyền và nghĩa vụ của các bên trong việc mang thai hộ
bao gồm các quyền và nghĩa vụ giữa họ đối với nhau, quyền và nghĩa vụ của họ
đối với đứa con sinh ra từ việc mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của đứa con sinh
ra từ việc mang thai hộ với các thành viên trong gia đình người nhờ mang thai
hộ, quyền được hưởng chính sách phúc lợi xã hội của các bên, quyền được khởi
kiện giải quyết tranh chấp về mang thai hộ,..
a) Quyền, nghĩa vụ của bên mang thai hộ:
Trước hết, người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền và
nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ
mang thai hộ và phải giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ.
Thứ hai, người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm khám, các quy
trình sang lọc để phát hiện, điều trị các bấ thường, dị tật của bào thai theo quy
định của Bộ y tế. 3 Xem: Khoản 1 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 4Xem: Khoản 1 điều 96 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
42
Thứ ba, người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp
luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ
mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến thời điểm giao đứa trẻ mà
thời gian hưởng chế độ thai sản chưa đủ 60 ngày thì người mang thai hộ vẫn
được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày. Việc sinh con do mang thai
hộ không tính vào số con theo chính sách dân số và kế hoạch hóa gia đình.
Thứ tư, bên mang thai hộ có quyền yêu cầu bên nhờ mang thai hộ, thực hiện hỗ
trợ, chăm sóc sức khỏe sinh sản. Trong trường hợp vì lí do tính mạng, sức khỏe
của mình hoặc sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định
về số lượng bào thai và việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai phù hơp với
quy định của pháp luật về chăm sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản.
Thứ năm, trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ từ chối nhận con thì bên
mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con5.
b) Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ:
Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ phải chi trả các chi phí thưc tế để bảo đảm
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ y tế.
Quyền, nghĩa vụ của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con
phát sinh kể từ thời điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được
hưởng chế độ thai sản theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã
hội từ thời điểm nhận con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi.
Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối nhận con. Trong trường hợp bên nhờ
mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm nghĩa vụ về nuôi dưỡng cho con theo
quy định về cấp dưỡng của Luật HNGĐ và bị xử lí theo quy định của pháp luật
có liên quan; nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì cần phải bồi dưỡng kịp
thời và đầy đủ. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chết thì con được hưởng
thừa kế theo quy định của pháp luật Dân sự về thừa kế đối với di sản của bên nhờ
mang thai hộ.
Giữa con sinh ra từ việc mang thai hộ với các thành viên khác của bên nhờ
mang thai hộ có các quyền, nghĩa vu theo quy định của Luật HNGĐ, Bộ luật Dân
sự và các luật khác có liên quan.
43
Người mang thai hộ có nghĩa vụ phải giao con cho cặp vợ chồng nhờ mang thai
hộ theo đúng như cam kết giữa hai bên ghi nhận trong thỏa thuận. Trong trường
hợp bên mang thai hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hộ có quyền yêu cầu tòa án buộc bên mang thai hộ giao con6.
c) Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo:
Trong cuộc sống, việc người phụ nữ sinh con làm cơ sở phát sinh mối quan hệ
giữa cha mẹ và con. Quan hệ cha mẹ con không phụ thuộc vào hôn nhân của cha
mẹ có hợp pháp hay không mà phụ thuộc vào sự kết hợp giữa trứng của người
phụ nữ và tinh trùng của người đàn ông tạo ra phôi là đứa con mang gen di
truyền của cả hai người. Nhà nước và pháp luật quy định nguyên tắc suy đoán
pháp lý xác định cha, mẹ, con vì đó là cơ sở nhằm xác thực mối quan hệ cha mẹ
con, từ đó mới phát sinh các quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài sản trong mối
quan hệ này theo quy định của pháp luật.
Xét về mặt y học, mang thai hộ được hiểu là dùng biện pháp kỹ thuật lấy trứng
của vợ và tinh trùng của chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử
cung của một người phụ nữ khác để nhờ người này mang thai hộ do tử cung của
người vợ không thể mang thai. Với các tiến bộ trong lĩnh vực sinh sản, chức năng
làm mẹ sinh học hoàn toàn có thể được phối hợp giữa người mẹ chính thức - là
người cung cấp trứng và người mẹ mang thai hộ - là người phụ nữ mang phôi
thai từ trứng của người vợ đã được thụ tinh với tinh trùng của người chồng. Vì
thế, xét về mặt sinh học thì người mang thai hộ hoàn toàn không phải là mẹ của
đứa bé, mà chỉ là người giúp cho phôi thai phát triển rồi khi đủ ngày đủ tháng,
đứa trẻ đó ra đời mà thôi.
Hiện nay, để xác định được mối quan hệ cha, mẹ và con, người ta thường sử
dụng kỹ thuật khoa học mới nhất là xét nghiệm ADN xem có sự trung khớp hay
không, đây là biện pháp xét nghiệm trên bộ gen di truyền cho kết quả chính xác
đến 99,9% và biện pháp này cũng đã được áp dụng rộng rãi ở Việt Nam. Trong
trường hợp mang thai hộ, nếu như áp dụng kỹ thuật xét nghiệm ADN để xác định
mẹ đứa trẻ được sinh ra thì kết quả ADN của đứa trẻ sẽ trùng khớp với kết quả
ADN của người mẹ nhờ mang thai hộ, do đứa trẻ được hình thành từ trứng đã
chứa bộ gen của người [4, tr55,56]
6 Điều 97, Luật HNGĐ
44
Xét về góc độ pháp lý, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã khẳng định:
con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là con chung của vợ chồng nhờ mang thai hộ kể từ thời điểm con được sinh ra 7. Vì vậy, vợ
chồng nhờ mang thai hộ sẽ có quyền và nghĩa vụ nhận trẻ ngay khi trẻ vừa được
sinh ra.
Như vậy, xét cả trên phương diện sinh học, đạo đức và pháp luật, con sinh ra
trong trường hợp mang thai hộ vì mục đích nhân đạo phải là con chung của vợ
chồng nhờ mang thai hộ. Nguyên tắc suy đoán pháp lý xác định cha mẹ cho con
theo quy định tại khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 được
áp dụng: Con sinh ra trong thời kì hôn nhân hoặc do người vợ có thai trong thời kì hôn nhân là con chung của vợ chồng8. Quyền và nghĩa vụ về nhân thân và tài
sản giữa cha mẹ và con sinh ra trong trường hợp mang thai hộ, giữa con với các
thành viên của gia đình bên nhờ mang thai hộ được pháp luật thừa nhận và bảo
hộ. Trường hợp có tranh chấp từ xác định cha, mẹ, con sẽ do tòa án giải quyết
khi có yêu cầu [1, tr21].
B. Quy định về mang thai hộ trong các văn bản pháp luật khác
Quy định về mang thai hộ theo luật dân sự năm 2015
Như đã nêu bên trên, trong luật Dân sự hiện nay không có quy định cụ thể về
mang thai hộ. Tuy nhiên, thỏa thuận giữa 2 bên về mang thai hộ cũng được coi
có tính chất như một hợp đồng thỏa thuận dân sự. Vì thế, có thể áp dụng tính chất
của luật hợp đồng trong Bộ Luật Dân sự năm 2015 vào vấn đề này.
Cụ thể trách nhiệm dân sự căn cứ theo quy định tại luật Hôn nhân và Gia đình
trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết theo thỏa thuận như sau:
-Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có công chứng.
Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ
chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền
phải lập thành văn bản có công chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba không có
giá trị pháp lý.
- Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên
nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện
việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận
của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này. 7Xem: Khoản 4 điều 93, Điều 94 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 8 Xem: Khoản 1 điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014
45
Trong thỏa thuận về mang thai hộ pháp luật đã quy định rõ những điều khoản
về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia. Thỏa thuận theo ý chí tự nguyện
nhưng vẫn phải căn cứ theo luật định. Hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thể
hiện được ý chí của mình bao gồm việc giải quyết hậu quả trong trường hợp tai
biến sản khoa, hỗ trợ để bảo đảm sức khỏe của người mang thai hộ, trong thời
gian mang thai, việc giao nhận con của các bên trong quan hệ mang thai
hộ...Cuối cùng, hợp đồng mang thai hộ giúp các bên thỏa thuận với nhau trách
nhiệm dân sự trong trường hợp một hoặc cả hai bên vi phạm cam kết hợp đồng.
Do quan hệ mang thai hộ là một quan hệ đặc biệt, dễ phát sinh tranh chấp và khó
phân xử, nên hợp đồng mang thai hộ giúp bảo vệ các bên khỏi sự xâm phạm của
bên kia và là cơ sở cho tòa án phân xử đúng sai nếu có tranh chấp xảy ra. [5,
tr77]
Quy định về mang thai hộ theo Bộ luật Hình sự năm 2015
Việc mang thai hộ phải quy định tại các điều Luật hôn nhân và gia đình 2014 và
Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Tuy nhiên, không ít
trường hợp lợi dụng việc mang thai hộ để hưởng lợi về kinh tế, trái mục đích mà
Nhà nước hướng tới khi cho phép mang thai hộ.
Theo xu hướng đó, nhằm điều chỉnh hiện tượng lạm dụng việc mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo đi ngược với bản chất nhân văn của việc mang thai hộ, Bộ
luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) đã bổ sung tội “Tổ chức
mang thai hộ vì mục đích thương mại” (Điều 187), nằm trong Chương XVII. Các
tội xâm phạm chế độ hôn nhân và gia đình (BLHS). Đây là một điều luật mới
nhằm đấu tranh, ngăn ngừa các hành vi lợi dụng quy định của Luật hôn nhân và
gia đình 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo để trục lợi.
Theo quy định tại điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015 thì Tội tổ chức mang thai
hộ vì mục đích thương mại là hành vi thành lập, chủ trì, dụ dỗ, lôi kéo, lên kế
hoạch để các bên mang thai hộ gặp nhau của một người hoặc một nhóm người có
năng lực trách nhiệm hình sự, được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp vì mục đích
hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác. [13]
Điều 187 về Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích nhân đạo quy định:
1.Người nào tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
46
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm
đến 05 năm:
a) Đối với 02 người trở lên;
b) Phạm tội 02 lần trở lên;
c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức;
d) Tái phạm nguy hiểm.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000
đồng, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ
01 năm đến 05 năm [9].
Dấu hiệu pháp lý:
Khách thể: Hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại xâm hại đến
chế độ quản lý nhà nước về sinh sản bằng phương pháp kỹ thuật và tính nhân đạo
của hành vi mang thai hộ trong trường hợp vợ chồng gặp khó khăn về vấn đề
sinh sản.
Mặt khách quan: Tổ chức mang thai hộ là hành vi bao gồm tổng hợp của nhiều
hành vi khác nhau từ việc tạo điều kiện cho các bên có nhu cầu mang thai hộ gặp
gỡ, trao đổi, bàn bạc, sắp xếp, tạo điều kiện và hỗ trợ về các phương tiện để các
bên tiến hành việc mang thai hộ bằng việc áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Mục
đích cuối cùng của người thực hiện hành vi là vì mục đích thương mại, nếu có
hành vi “tổ chức” nhưng không “vì mục đích thương mại” thì không cấu thành
tội này
Chủ thể: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại là bất
kỳ người nào có đầy đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo
quy định của BLHS là từ đủ 16 tuổi trở lên
Mặt chủ quan: Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại
thực hiện hành vi của mình với lỗi cố ý trực tiếp, tức là “người tổ chức hiểu rõ
được hành vi phạm tội của mình là gây nguy hiểm cho xã hội, hoj thực hiện một
cách chủ động và mong muốn việc mang thai hộ diễn ra”; không có trường hợp
người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện tội phạm do vô ý,
vì người phạm tội này bao giờ cũng mong muốn thực hiện hành vi phạm tội.
Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi
của mình với động cơ vụ lợi (nhằm hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác).
Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thực hiện hành vi
của mình với mục đích thương mại [13]. 47
Đường lối xử lý
Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo cấu
thành cơ bản (Điều 187 khoản 1 BLHS)
Khoản 1 Điều 187 BLHS là cấu thành cơ bản của Tội tổ chức mang thai hộ vì
mục đích thương mại, (không có những tình tiết định khung tăng nặng tại khoản
2 của Điều luật này) thì bị phạt một trong ba hình phạt sau: Phạt tiền từ
50.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm
hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm Tội tổ chức mang thai hộ vì mục
đích thương mại theo Khoản 1 Điều 187 BLHS, Tòa án cần căn cứ vào các quy
định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS (từ Điều 50 đến Điều 59)
Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1
Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng hoặc chuyển sang
một hình phạt khác nhẹ hơn là hình phạt cảnh cáo. Lý do của việc giảm nhẹ phải
ghi vào bản án.
Nếu có đủ điều kiện quy định tại Điều 65 Bộ luật Hình Sự thì người phạm tội tổ
chức mang thai hộ vì mục đích thương mại được hưởng án treo. Nếu người phạm
tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 Bộ luật Hình Sự, không có
tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 02 năm tù.
Nếu các tình tiết của vụ án như nhau, thì người phạm tội này có nhiều tình tiết
giảm nhẹ được quy định tại Điều 51 BLHS sẽ được áp dụng hình phạt thấp hơn
người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết giảm nhẹ hơn; người phạm tội này
có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS sẽ được áp dụng hình
phạt nặng hơn người phạm tội không có hoặc có ít tình tiết tăng nặn hơn.
Đường lối xử lý Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo cấu thành tội phạm tăng nặng 9.
Người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một trong
các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Đối với 02 người trở lên: Là trường hợp tổ chức mang thai hộ vì mục
đích thương mại đối với 02 người trở lên. Nghĩa là cùng một khoảng thời gian
9 Xem: khoản 2 điều 187 Bộ luật Hình sự năm 2015
48
một hoặc một nhóm người đã tổ chức cùng một lúc cho 02 người mang thai hộ để
hưởng lợi về kinh tế hoặc lợi ích khác.
b) Phạm tội 02 lần trở lên: Là trường hợp tổ chức mang thai hộ vì mục
đích thương mại từ 02 lần trở lên. Đây cũng có thể được xem là phạm tội 02 lần
nhưng chỉ đối với 01 người (để phân biệt với trường hợp “Đối với 02 người trở
lên”).
Phạm tội 02 lần trở lên là trường hợp có từ 02 lần tổ chức mang thai hộ vì mục
đích thương mại trở lên, mỗi lần tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại
đều đã cấu thành tội phạm và nay bị đưa ra xét xử cùng một lúc, không phụ thuộc
vào khoảng cách thời gian từ lần phạm tội trước đến lần phạm tội sau.
Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội 02 lần trở lên nếu tất cả những lần phạm tội đó
chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu trong các lần phạm tội đó, chỉ có 01
lần phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại, còn các lần phạm tội
khác chỉ là vi phạm kỹ luật hoặc đã bị xét xử hoặc đã hết thời hiệu truy cứu trách
nhiệm hình sự thì không được tính để xác định là phạm tội tổ chức mang thai hộ
vì mục đích thương mại 02 lần trở lên.
c) Lợi dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức: Là trường hợp người phạm
tội lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức mà mình là thành viên, ví dụ như lợi
dụng danh nghĩa bệnh viện, cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức nhân đạo…để đứng
ra tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên, chỉ coi là phạm tội với tình tiết định khung tăng nặng là lợi
dụng danh nghĩa của cơ quan, tổ chức khi mà chính người tổ chức đang làm việc
trong cơ quan, tổ chức. Nếu người phạm tội giả mạo là thành viên của bệnh viện,
cơ sở khám chữa bệnh, tổ chức nhân đạo…để đứng ra tổ chức mang thai hộ vì
mục đích thương mại thì không áp dụng tình tiết này.
d) Tái phạm nguy hiểm: Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm
nguy hiểm:
Là trường hợp người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đã
bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý,
chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội rất nghiêm trọng,
tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý.
Là trường hợp người phạm tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đã
tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.
49
Người phạm tội Tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại thuộc một
trong các trường hợp nêu trên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
Khi quyết định hình phạt đối với người phạm Tội tổ chức mang thai hộ vì mục
đích thương mại theo Khoản 2 Điều 187 BLHS, Tòa án cần căn cứ vào các quy
định về quyết định hình phạt tại Chương VIII BLHS (từ Điều 50 đến Điều 59).
Nếu người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ được quy định tại Khoản 1
Điều 51 BLHS, không có tình tiết tăng nặng, thì Tòa án có thể áp dụng một hình
phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong
khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật (từ 03 tháng đến 01 năm).
Nếu người phạm tội có nhiều tình tiết tăng nặng quy định tại Điều 52 BLHS,
không có tình tiết giảm nhẹ thì có thể bị phạt đến 05 năm. Đường lối xử lý Tội tổ
chức mang thai hộ vì mục đích thương mại theo hình phạt bổ sung (Khoản 3 điều
187 Bộ luật Hình sự).
Ngoài hình phạt chính, người phạm tội Tổ chức mang thai hộ vì mục đích
thương mại có thể bị phạt một trong các hình phạt bổ sung sau đây: Phạt tiền từ
10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề
hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm/.
Như vậy,có thể thấy, pháp luật đã có những dự liệu về các tình huống và
trường hợp xảy ra quanh vấn đề mang thai hộ nên đã có những quy định rất cụ
thể về các điều kiện áp dụng cũng như chế tài xử lý nếu xảy ra vi phạm. Điều này
cho thấy sự quan tâm của Nhà nước đến đời sống xã hội. Những quy định của
pháp luật trên cả phương diện Hôn nhân gia đình, dân sự, hình sự nhằm bảo đảm
sự phát triển lành mạnh của xã hội và phát huy giá trị nhân văn của hình thức
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
2.2.2. Những hạn chế của các quy định pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam
Hạn chế về mặt nội dung của các điều kiện áp dụng mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo
Tiếp cận các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo hiện nay cho thấy,
mặc dù hệ thống pháp luật đã xây dựng hành lang pháp lý tạo cơ sở cho việc thực
hiện quyền làm cha mẹ cho bất kỳ các nhân nào, song những quy định của pháp
luật hiện nay vẫn còn bộc lộ những “rào cản” nhất định khiến cho nhiều cặp vợ
chồng không thể tiếp cận được với mang thai hộ. Cụ thể:
Thứ nhất, điều kiện để được phép mang thai hộ ở nước ta còn khá khắt khe.
Theo quy định của pháp luật hiện hành, để có thể tiến hành việc mang thai hộ 50
một cách hợp pháp, các bên phải đáp ứng khá nhiều các quy định của pháp luật
về yếu tố chủ thể, độ tuổi, tình trạng hôn nhân,… Những ràng buộc quá kín kẽ
này đã khiến không ít bệnh nhân phải “đỏ mắt” để tìm người nhờ mang thai hộ,
dập tắt nhiều hi vọng của họ.
Gian nan tìm người mang thai hộ
Đã 4 năm nay, một gia đình hiếm muộn đã rời Hà Nội vào TP.HCM sinh sống.
Căn phòng nhỏ là nơi vợ chồng chị tá túc trong thời gian điều trị bệnh. Theo chỉ
định của bác sĩ, vợ chồng này phải tìm người mang thai hộ. Sau đó, anh chị đã
tìm được người bà con bên chồng và người này cũng đồng ý giúp. Tuy nhiên, khi
làm thủ tục bệnh viện thông báo người mang thai hộ không "cùng hàng" mà là
"cháu" của chị, theo quy định pháp luật sẽ không được.
Còn một trường hợp bệnh nhân khác từ Quảng Ngãi vào TP.HCM. Ngay khi
vừa có nghị định 10/2015 cho phép mang thai hộ chị rất mừng. Thế nhưng chị
rất ngỡ ngàng khi bị từ chối vì người này là "cô", cũng không "cùng hàng" với
chị. Chị bị từ chối điều trị mang thai hộ [15].
Có thể thấy, những niềm hy vọng có con lần lượt bị dập tắt bởi vướng quy định
điều kiện về “người thân thích cùng hàng” dẫn đến quyền được làm cha mẹ của
các cặp vợ chồng vô sinh bị bó hẹp. Khoản 7 Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP
giải thích người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai
hộ. Có thể nói mục đích của quy định này là nhằm hạn chế tình trạng thương mại
hóa việc mang thai hộ. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, song sự ràng buộc về
mặt văn hóa truyền thống khiến quy định “thân thích cùng hàng” của Việt Nam
(hiểu đơn giản là người ngang vai trong mối quan hệ gia đình, dòng họ) đã triệt
tiêu một số lượng không nhỏ những người sẵn sàng mang thai cho cặp vợ chồng
vô sinh vì không phải ai cũng tìm được người đủ điều kiện để thực hiện thủ tục
mang thai hộ.
Từ quy định này đặt ra câu hỏi rằng điều này có mang lại hiệu quả hay không
khi nhu cầu của việc mang thai hộ ngày càng lớn và tính thương mại chưa hẳn
chỉ tồn tại ở những mối quan hệ không thân thích. Mặt khác, dưới góc độ đáp
ứng nhu cầu và nguyện vọng của các cặp vợ chồng vô sinh, quy định này cũng
phần nào hạn chế đối tượng được nhờ mang thai hộ. Thực tế cho thấy, sẽ có
không ít các cặp vợ chồng là người con duy nhất trong gia đình và trong phạm vi
thân thích như Nghị định 10/2015/NĐ - CP đã nêu trên đều không có chị em gái,
hoặc có chị em gái nhưng những người này là người chưa thành niên, hay đã 51
thành niên nhưng chưa kết hôn và mang thai lần nào. Như vậy, việc mang thai hộ
sẽ không thể được tiến hành dù không phải là vì mục đích thương mại. Chính vì
vậy, quy định này tiềm ẩn khả năng các cặp vợ chồng vô sinh sẽ nhờ người mang
thai hộ một cách lén lút, gây ra nhiều hậu quả pháp lý khó kiểm soát.
Thứ hai, pháp luật quy định trong trường hợp nhờ mang thai hộ, vợ chồng phải
không có con chung.
Trên thực tế chúng ta đều có thể nhận thấy tỷ lệ rủi ro của các biện pháp kỹ
thuật hỗ trợ sinh sản là không hề nhỏ.Có những cặp vợ chồng thực hiện thụ tinh
nhân tạo đến lần thứ 3, thứ 4 vẫn không thành, nhưng người vợ vẫn không mất đi
khả năng sinh con. Nhưng nếu tình trạng này kéo dài lâu sẽ rất dễ xảy ra tình
trạng người vợ lớn tuổi mới bắt đầu mang thai, khi đó sự đảm bảo về sức khỏe
của người mẹ và thai nhi đều thấp hơn rất nhiều so với thông thường. Chưa kể
những rủi ro về mặt dị tật đối với đứa trẻ cũng là rất lớn. Vậy phải chăng khi này,
họ nên được áp dụng biện pháp mang thai hộ?
Trong trường hợp nếu vợ chồng đã có con chung nhưng con chung mắc những
bệnh như down hay một số bệnh lí khác làm cho đứa con không thể phát triển
được bình thường, hoặc không còn sống mà muốn có thêm con nhưng khả năng
sinh đẻ không còn do không thể thụ thai được nữa thì trong trường hợp này cũng
không được pháp luật cho phép. Tác giả nhận thấy quy định này hoàn toàn không
hợp lý do nguyện vọng chính đáng của vợ chồng là có con “lành lặn” cả về thể
chất và trí tuệ. Pháp luật hiện hành cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo,
vì thế việc cần thiết cho phép các trường hợp này được thực hiện mang thai hộ
thì tính chất nhân văn càng được thể hiện rõ rệt.
Thứ ba, quy định về người ký thỏa thuận mang thai hộ (hợp đồng). Quy định
“Trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý bằng
văn bản của người chồng” và phần ký kết trong hợp đồng cũng ghi rõ là bốn
người cùng ký. Đây là một quy định còn khá cứng nhắc bởi lẽ trong trường hợp
người chồng của người phụ nữ mang thai hộ là người mất năng lực hành vi dân
sự, là người mắc các chứng bệnh như thiểu năng, liệt toàn thân, hoặc các chứng
bệnh về thần kinh khác... thì rất khó để cho ý kiến và đồng ý bằng văn bản trong
trường hợp này. Thậm chí, việc ký vào hợp đồng của họ cũng còn là một điều
khó khăn. Chính vì thế cần có sự điều chỉnh từ pháp luật trong vấn đề này.
Thứ tư, quy định về quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không
tiếp tục mang thai. Cụ thể tại khoản 4 Điều 97 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 52
2014 quy định: “Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc
sự phát triển của thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng
bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai”. Trong trường hợp thai nhi
trong bụng phát triển không bình thường, có dấu hiệu của dị tật, bệnh hiểm nghèo
thì bên mang thai hộ có quyền quyết định việc tiếp tục hay không tiếp tục mang
thai. Quy định này nếu xét theo khía cạnh của người nhận mang thai hộ thì rất
nhân đạo bởi điều này ảnh hưởng trực tiếp đến cơ thể và sức khỏe của họ. Hơn
nữa theo quy định, phụ nữ được quyền nạo thai, phá thai theo nguyện vọng và
được theo dõi sức khỏe trong thời kì thai nghén.Đứng dưới góc độ bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp của người được nhờ mang thai hộ thì đây là một quy định
hợp lý. Tuy nhiên, nếu xét dược góc độ bảo vệ quyền và lợi ích của bên nhờ
mang thai hộ quy định này còn một vấn đề như sau: Theo quy định của Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 bên nhờ mang thai hộ sẽ là người chịu trách nhiệm
chăm sóc đứa trẻ đó từ thời điểm trẻ được sinh ra cho đến khi trưởng thành và
được công nhận là cha mẹ của trẻ. Chính vì vậy, nếu trong quá trình mang thai,
bào thai phát triển không tốt do các khuyết tật bẩm sinh thì chính cha mẹ của thai
nhi sẽ là người quyết định tiếp tục duy trì thai kỳ hay chấm dứt theo lời khuyên
của bác sĩ. Việc cho đơn phương cho phép bên nhận mang thai hộ quyết định là
không hợp lý vì như thế rất có thể xảy ra trường hợp bên mang thai hộ vì một lý
do nào đó dùng đứa trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ để đáp ứng
những yêu cầu khác không theo thỏa thuận ban đầu.
Thứ năm, pháp luật không cho phép trường hợp mẹ đơn thân vô sinh và nhóm
người đồng tính, chuyển giới nhờ mang thai hộ. Với những người không kết hôn
mà không có khả năng mang thai, pháp luật hạn chế quyền này của họ. Điều này
đặt ra câu hỏi tại sao cùng là phụ nữ trong trường hợp đặc biệt nhưng người được
trao quyền còn người thì bị hạn chế? Liệu quyền con người, quyền bảo vệ nhóm
người yếu thế ở đây có được đảm bảo? Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 đã
cho phép phụ nữ độc thân được phép sinh con bằng phương pháp thụ tinh trong
ống nghiệm. Họ được phép xin tinh trùng, sau đó lấy trứng của bản thân minh
thụ tinh thành phôi và cấy trở lại dạ con của mình. Họ được phép có con, có
quyền có con như mình mong muốn. Tuy nhiên, nếu bản thân những người phụ
nữ độc thân này có noãn nhưng noãn của họ không thể phát triển thành phôi hoặc
họ mắc một số bệnh bẩm sinh, bệnh di truyền, dị tật, bản thân họ không thể mang
53
thai bình thường được thì họ vẫn không được phép nhờ mang thai hộ vì pháp luật
hiện hành không cho phép họ mang thai hộ.
Bên cạnh đó, nhóm người đồng tính, song tính, chuyển giới nếu có nhu cầu có
con bằng phương pháp mang thai hộ thì không được pháp luật cho phép do pháp
luật không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Bộ luật Dân sự
năm 2015 đã cho phép cá nhân chuyển đổi giới tính. Như vậy, người chuyển đổi
giới tính sẽ được quyền kết hôn theo quy định của pháp luật về HNGĐ. Đương
nhiên, họ có quyền nhớ mang thai hộ. Tuy vậy, theo quy định thì cặp vợ chồng
nhờ mang thai hộ phải có noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để
kết hợp thụ thai, vì vậy trường hợp này nếu không đảm bảo điều kiện trên thì
không được nhờ mang thai hộ. Có nghĩa, pháp luật HNGĐ đã công nhận và bảo
vệ quyền của họ nhưng lại hạn chế quyền mang thai hộ. Đây cũng là 1 điểm bất
cập lớn của pháp luật.
Thứ sáu, có rất nhiều loại thủ tục phải thực hiện để hoàn tất hồ sơ mang thai
hộ. Mặc dù tất cả giấy tờ cần thiết đểu được quy định rõ ràng trong các văn bản
pháp luật nhưng việc đảm bảo các thủ tục hành chính rất khó khăn vì rườm rà.
Hồ sơ đó phải gồm đơn đề nghị được thực hiện kỹ thuật mang thai hộ theo Mẫu
số 4 ban hành kèm theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP có hiệu lực từ ngày 15-3-
2015, bản cam kết tự nguyện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo theo Mẫu số 5,
bản cam đoan của người đồng ý mang thai hộ là chưa mang thai hộ lần nào, bản
xác nhận tình trạng chưa có con chung của vợ chồng do UBND cấp xã nơi
thường trú của vợ chồng nhờ mang thai hộ xác nhận. Cần có bản xác nhận của cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm về
việc người vợ có bệnh lý, nếu mang thai sẽ có nhiều nguy cơ ảnh hưởng đến sức
khỏe. Ngoài ra còn cần 6 văn bản xác nhận nữa, là xác nhận của cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đối với người
mang thai hộ về khả năng mang thai, xác nhận của UBND cấp xã hoặc người
mang thai hộ, người nhờ mang thai hộ tự mình chứng minh về mối quan hệ thân
thích, xác nhận của chồng người mang thai hộ, trường hợp người phụ nữ mang
thai hộ có chồng thì phải có sự đồng ý của chồng về việc cho mang thai
hộ…Chính vì những khó khăn về khâu giấy tờ khiến các cặp vợ chồng hiếm
muộn e ngại, thời gian chờ đợi để duyệt hồ sơ lâu. Điều đó cũng gián tiếp tạo ra
điều kiện để họ tìm đến các cơ sở mang thai hộ “chui” gây khó kiểm soát trong
mang thai hộ ở nước ta hiện nay.
54
Thứ bảy, chi phí để thực hiện mang thai hộ hiện nay còn khá cao mà không
được hỗ trợ Bảo hiểm y tế. Ngoài các quy định về điều kiện chủ thể, thì nếu
muốn thực hiện việc sinh con bằng mang thai hộ thì người vợ phải là người mà
kết quả khám bệnh chỉ ra rằng không thể sinh con dù đã áp dụng các biện pháp
hỗ trợ sinh sản. Chi phí để thực hiện các thủ thuật thụ tinh trong ống nghiệm đã
có giá hàng chục triệu đồng, thêm vào đó chi phí để thực hiện việc mang thai hộ
có thể lên đến hàng trăm triệu đồng.
Luật BHYT năm 2015 sửa đổi ban hành có thêm một số hạng mục thuốc điều trị
mới được thanh toán, nhưng người điều trị hiếm muộn vẫn phải tự chi trả chi phí
điều trị.Vì sao ở nước ta, điều trị hiếm muộn chưa được đưa vào danh sách
BHYT chi trả? Ông Hà Văn Thúy - Phó Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm y tế (Bộ Y tế)
cho biết: Nguyên nhân gây hiếm muộn rất khó xác định; đồng thời chi phí cho
chẩn đoán và điều trị cũng rất lớn. Trong khi đó, hiện nay quỹ BHYT chỉ bảo
đảm chi trả cho khám, chữa bệnh, phục hồi chức năng, khám thai định kỳ và sinh
con. Tuy nhiên, có một thực tế là điều trị hiếm muộn có nhiều phương pháp,
trong đó các biện pháp trị hiếm muộn ít phức tạp như điều trị bằng hoóc môn,
thụ tinh nhân tạo… có xác suất thành công 20-30% tùy vào mức độ bệnh lý.Giá
mỗi đợt điều trị này chỉ dao động từ 5 triệu đến 20 triệu đồng.Số tiền không quá
lớn, vì sao BHYT vẫn không chi trả?
Theo BS Hoàng Thị Diễm Tuyết, hiếm muộn, vô sinh không phải là căn bệnh
hiếm gặp, 10% dân số nước ta có nhu cầu điều trị vô sinh, hiếm muộn. Với các
phương pháp hỗ trợ sinh sản, những cặp vợ chồng hiếm muộn phải chi trả mức
phí từ vài chục triệu đồng đến hàng trăm triệu đồng. BS Hoàng Thị Diễm Tuyết
nói: "Đây là rào cản khiến không ít gia đình ngậm ngùi chấp nhận cảnh không
có con vì không có tiền điều trị". Mấy chục năm gắn bó với nghề điều trị vô sinh,
GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng đã xót xa với không ít trường hợp: "Nhiều cặp
điều trị 5-6 lần, cầm cố nhà cửa, đến khi thành công thì không còn nhà để con ở.
Có khi vì quá tội với đứa trẻ, sinh ra phải khổ sở nên tôi đã tự mình bỏ tiền túi
cho bệnh nhân về chuộc lại nhà, chuộc lại sổ đỏ". Việc điều trị hiếm muộn tốn
phí tiền bạc, công sức, làm nhiều gia đình nghèo trở nên khốn khó hơn."Khi chữa
trị thành công cho những cặp vợ chồng hiếm muộn, tôi vừa mừng và giật mình lo
lắng vì không ít đứa trẻ được sinh ra phải chịu cảnh nghèo khó.Bản thân tôi cũng
phân vân, không biết làm thế nào?" - GS. BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng nói [16]
55
Như vậy, có thể nói điều này là không thể đối với những cặp vợ chồng nghèo.
Vậy nên, mang thai hộ hiện nay vẫn còn là cơ hội dành cho những người có điều
kiện. Còn người nghèo hiếm muộn chỉ biết…đợi chờ.
Bất cập về chế tài xử lý vi phạm:
Về chủ thể tội phạm, Điều 187 BLHS năm 2015 quy định đối với cá nhân có
hành vi tổ chức mang thai hộ vì mục thương mại là những cá nhân từ đủ 16 tuổi
trở lên có năng lực trách nhiệm hình sự.
Xét trong mối tương quan giữa tên tội danh “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích
thương mại” với chủ thể tội phạm theo tinh thần điều luật thì đối tượng chủ thể
của điều luật này không chỉ hướng tới cá nhân trực tiếp mang thai hộ mà còn cả
những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên, cả tên điều luật và chủ thể phạm tội quy định tại khoản 1 điều này
đang tạo ra các cách hiểu khác nhau theo chiều hướng thu hẹp đối tượng phạm
tội chỉ đối với “người tổ chức”, còn người mang thai hộ đơn thuần (không có yếu
tố tổ chức) thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội danh này. Vì thế, trong
trường hợp người mang thai hộ không qua khâu “trung gian” mà trực tiếp làm
việc với bên nhờ mang thai hộ theo hình thức thỏa thuận thương mại thì rất dễ bị
tội phạm lợi dụng sơ hở của pháp luật mà thực hiện hành vi phạm tội. Phần này
viết nagwns quá không tương xứng với phần trên
2.2. Thực trạng thực hiện pháp luật về mang thai hộ
2.2.1. Những kết quả đạt được trong lĩnh vực mang thai hộ
Theo báo cáo của Tổ chức Y tế, Thế giới có khoảng 8-12% các cặp vợ chồng bị
vô sinh, còn theo thống kê của Bộ Y tế ở Việt Nam tại hội thảo quốc gia về sức
khỏe sinh sản và tình dục tổ chức ngày 12/12/2012 tại Hà Nội, thứ trưởng Bộ Y
tế, Giám đốc Bệnh viện Phụ sản trung ương, T.S Nguyễn Viết Tiến cho biết kết
quả điều tra gần 14.400 cặp vợ 35 chồng đại diện cho tại 8 vùng sinh thái tại Việt
Nam cho thấy tỉ lệ vô sinh chung trên phạm vi toàn quốc là 7,7% trong độ tuổi từ
15-49 tuổi trong đó vô sinh nguyên phát là 3,9% và vô sinh thứ phát là 3,8%. Từ
những số liệu trên cho thấy, tỉ lệ vô sinh của nước ta liên tục tăng cao, năm 1982
là 13%, năm 1998 là 13,4%, năm 2000 là 15%. Trong vòng 15 năm (1982 -
2000), tỉ lệ vô sinh tăng 2%, trung bình 0,13% /năm. Trong những năm về sau,
dù Việt Nam đã ứng dụng nhiều dịch vụ y tế trong chẩn đoán và điều trị vô sinh
tăng cả về số lượng và chất lượng nhưng tỉ lệ vô sinh vẫn rất cao. Tỉ lệ thành
công của những cặp vợ chồng vô sinh áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản chiếm rất 56
ít (chỉ khoảng 20- 30%), những cặp vợ chồng còn lại (70 - 80%) dù đã tiến hành
các biện pháp hỗ trợ sinh sản vẫn không thể mang thai và sinh con, chính vì vậy
đã dẫn đến hiện tượng mang thai hộ diễn ra ngày càng nhiều trong thực tế cuộc
sống [6]. Nguyên nhân này 1 phần xuất phát cũng bởi các kỹ thuật y tế nước ta
thời kỳ này phát triển chưa mạnh nên việc chữa trị vô sinh hiếm muộn còn gặp
nhiều khó khăn.
Luật Hôn nhân và gia đình (sửa đổi) có hiệu lực từ 01/01/2015 và Nghị định
10/2015 có hiệu lực từ 15/03/2015 giống như “phao cứu sinh” hạnh phúc cho
nhiều đôi vợ chồng hiếm muộn, bởi cho phép mang thai hộ. Và chỉ sau đó 1 năm,
ngày 22-1-2016, Việt Nam đã lần đầu tiên đón nhận em bé chào đời từ mang
thaihộ, đánh dấu một nét son mới của ngành y tế và cũng là bước tiến bộ đầy
nhân văn đáng ghi nhận.
Ngày 22-1-2016, Bệnh viện Phụ sản Trung ương đã đón chào công dân đầu tiên
ra đời bằng kỹ thuật mang thai hộ .Bé gái được đặt tên Đinh Quỳnh Anh ra khỏi
bụng mẹ ở tuần thai thứ 38, nặng 3,6kg, là con của chị Nguyễn Thị Hà (ngụ tại
Hà Nam). Vợ chồng chị Hà lấy nhau đã 18 năm, không có con do chị bị tử cung
nhỏ bẩm sinh. Vợ chồng chị cố gắng chạy chữa vẫn không có kết quả. Ngay khi
biết luật cho phép, vợ chồng chị liền nhờ người cô họ mang thai hộ. Bác sĩ đã
tiến hành lấy noãn của chị và tinh trùng của chồng, sau đó cấy phôi vào người
MTH và bắt đầu thụ thai từ tháng 3-2015…Hiện đã có hơn 10 ca mang thai hộ
thành công (trong số hàng trăm hồ sơ chờ xin được duyệt), thực hiện tại Bệnh
viện Phụ sản Trung ương. Tương tự, ngày 28-7-2016, Bệnh viện Trung ương
Huế (đại diện cho khu vực miền Trung được phép triển khai kỹ thuật mang thai
hộ) cũng đón chào bé gái đầu tiên từ kỹ thuật Mang thai hộ khỏe mạnh, nặng
3,5kg; là con của đôi vợ chồng (ngụ thị xã Hương Trà, Thừa Thiên - Huế) đã kết
hôn được 8 năm nhưng không thể tự mang thai do người vợ bị cắt tử cung… Đến
nay, Bệnh viện Trung ương Huế cũng đã tiếp nhận hồ sơ, thực hiện thụ tinh trong
ống nghiệm thành công cho gần 10 trường hợp. Trong khi đó, dù “quả ngọt” đến
sau, nhưng Bệnh viện Phụ sản Từ Dũ TPHCM (đại diện được phép thực hiện
mang thai hộ tại khu vực phía Nam) từ khi triển khai thực hiện đến nay, đã có 9
trường hợp mang thai hộ được thụ thai thành công tại Bệnh viện Từ Dũ
(TP.HCM) [18] và đặc biệt hơn vì đón nhận một ca sinh đôi thành công nhờ
mang thai hộ. Đó là ngày 17-9-2015, BV thông báo đã thực hiện thành công
trường hợp mang thai hộ song thai của 1 phụ nữ quê ở Khánh Hòa, 28 tuổi, bị 57
khiếm khuyết ở hệ sinh dục (mắc chứng tử cung nhi hóa, không có cổ tử cung).
Người mang thai hộ là người chị họ, 33 tuổi…
Theo Bộ Y tế, tính đến nay cả nước đã có hơn 30 trường hợp sinh con nhờ
mang thai hộ thành công. Cùng với đó là có khoảng gần 500 hồ sơ mang thai hộ
được duyệt trong số hàng ngàn hồ sơ đăng ký [19]. Bên cạnh đó, nền y học về
lĩnh vực thụ tinh trong ống nghiệm của nước ra cũng gặt hái được rất nhiều thành
quả đáng mừng, khi các nguyên cứu liên tục được đăng trên các tạp chí y khoa uy
tín thế giới [17]
Có thể thấy rằng, từ lúc được hợp pháp hóa đến nay, đã có rất nhiều cặp vợ
chồng được tận hưởng niềm vui làm cha mẹ, điều mà trước đây họ không thể tự
mình làm được. Đây quả thật là điều đáng mừng cho nền y học nước nhà và cũng
là niềm hy vọng lớn lao cho những cặp vợ chồng kém may mắn khác.
2.2.2. Thực trạng vi phạm pháp luật về mang thai hộ
Tuy luật mang thai hộ đã được áp dụng vào thực tiễn, mở ra cơ hội với nhiều
cặp vợ chồng hiếm muộn. Tuy vậy, không phải trường hợp nào cũng nhận được
những “quả ngọt”.Bởi hiện nay, do những khắt khe trong việc quy định về điều
kiện được phép mang thai hộ mà nhiều cặp vợ chồng dù có mong muốn nhưng
không đáp ứng được vẫn phải tìm đến những cánh cửa khác. Cũng từ đó, mang
thai hộ “chui” lại trở thành một mảnh đất màu mỡ để những kẻ môi giới kiếm lời
trên khát khao mong mỏi của người khác. Những người nhờ mang thai hộ là
những trường hợp đặc biệt nhưng không đủ điều kiện mang thai hộ theo quy định
của pháp luật, hoặc cũng có thể là những người phụ nữ “sợ đẻ”, sợ ảnh hưởng sự
nghiệp nhưng vẫn muốn có con huyết thống,…Còn những người nhận mang thai
hộ đa phần có hoàn cảnh khó khăn về kinh tế, cần tiền để trang trải cuộc sống, bù
đắp nợ nần. Theo tìm hiểu, mỗi lần giao dịch mang thai hộ, tùy vào giá mà các
bên “cò mồi” ra khác nhau, nhưng trung bình người nhờ mang thai hộ sẽ tốn
khoản 300 – 500 triệu đồng, chưa tính các chi phí bồi dưỡng ngoài cho bà bầu;
bên trung gian nhận 1/3 số tiền, số còn lại trao cho người “đẻ thuê”. Ngoài ra mỗi
tháng, người nhờ mang thai hộ còn phải cung cấp cho người mang thai hộ tiền ăn
uống, thuốc men, khám thai... và khá nhiều những khoản chi phí khác. Vì là dịch
vụ chui, nên gần như họ chỉ thỏa thuận một cách sơ sài chứ ít ai lập thành hợp
đồng hay công chứng chứng thực thỏa thuận của mình. Chính vì thế, kể từ khi
thỏa thuận được hình thành cho đến lúc sinh em bé luôn chứa đựng rất nhiều rủi
58
ro bởi tính pháp lý khi hợp đồng của họ chỉ được bảo chứng bằng chữ “tín” của
những người không quen biết [20]
Có trường hợp người mang thai hộ sau thời gian mang thai ít nhiều cũng có tình
cảm máu mủ với đứa trẻ bị sinh ra. Vì vậy, cũng có thể xảy ra tình trạng “phá
hợp đồng”, không giao con cho bên thuê hoặc bỏ trốn… Lúc này thì người nhờ
mang thai hộ bị đứng trước hoàn cảnh trớ trêu, không thể kiện đối tác vì rõ ràng
trên luật pháp, đứa trẻ sinh ra là con của người mang thai hộ; những cũng không
thể bỏ đi vì đứa con đó trên thực tế lại là máu mủ của mình. Hoặc cũng có trường
hợp đối tượng mang thai hộ khi đã trở thành chuyên nghiệp có thể nghĩ ra nhiều
chiêu vòi vĩnh người thuê như đòi thêm tiền, ra nhiều điều kiện “trời ơi đất hỡi”.
Hoặc quá đáng hơn là sau khi nhận tiền thì tìm cách bỏ trốn, người đẻ thuê sẽ phá
thai và tiếp tục hành trình lừa đảo của mình,…v….v…. Tất nhiên trong những
tình huống này thì người đi nhờ mang thai hộ cũng không biết kêu ai vì họ không
được pháp luật bảo vệ.
Ngược lại, người mang thai hộ cũng có nguy cơ gặp không ít rủi ro khi thực
hiện dịch vụ “chui” này. Có trường hợp trong quá trình mang thai gia đình người
nhờ mang thai hộ có trục trặc trong hôn nhân không muốn nhận con nữa. Hoặc
khi đứa bé sinh ra gặp rặc rối về sức khỏe như sinh non, ốm yếu, dị tật,… bên
thuê không muốn đón con về, trốn tránh. Khi đó người mang thai hộ sẽ găp rất
nhiều khó khăn.
Những người nhận mang thai hộ “chui” không chỉ đáp ứng riêng nhu cầu nhờ
mang thai hộ trong nước mà còn cả ở nước ngoài. Vì thế, những đường dây buôn
người sang Trung Quốc, Campuchia để cấy phôi, thụ thai rồi về Việt Nam dưỡng
thai xuất hiện rất nhiều, lẩn trốn trong xã hội. Nên những “lò” nuôi bà bầu vẫn
hoạt động nhộn nhịp.
Mới đây, tháng 12/2018, Phòng Cảnh sát hình sự (Công an TPHCM) triệt phá
đường dây mang thai hộ vì mục đích thương mại xuyên quốc gia. Theo tin báo,
lực lượng chức năng phát hiện và bắt giữ nhóm người chuẩn bị sang Campuchia
mang thai hộ. Cơ quan công an đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can và thi hành lệnh
tạm giam với 5 đối tượng trong đường dây này.
Với từ khoá cho và nhận con nuôi trên mạng xã hội, hàng loạt nhóm cho và
nhận con nuôi hiện lên xoay quanh câu chuyện những người phụ nữ nhỡ mang
thai, không có khả năng nuôi con và người hiếm muộn muốn tìm nhận con nuôi.
Mỗi ngày, có cả chục trường hợp bà bầu muốn cho con đăng trên nhóm.Với 59
những thông tin rất công khai và đề cập trực tiếp nhu cầu, hoạt động này diễn ra
nhộn nhịp như một cái chợ buôn bán trẻ sơ sinh.có rất nhiều người môi giới chờ
sẵn trên các trang mạng để tìm bà bầu. Các hình ảnh siêu âm, ảnh bà bầu sinh
hoạt được đưa lên trang cá nhân trên mạng xã hội để tạo sự tin tưởng. Không chỉ
hoạt động trong nước, ngoài tuyển người sang Trung Quốc mang thai hộ, nhiều
“cò mồi” còn tuyển người mang thai hộ sang Campuchia cấy phôi, trở về dưỡng
thai ở Việt Nam. Với đủ chiêu trò, lời dụ dỗ ngon ngọt, chăm sóc tận tình, “cò
mồi” “buông câu” những phụ nữ nhẹ dạ cả tin từ Hà Nội lên Lạng Sơn rồi vượt
biên sang Trung Quốc. Không có gì bảo đảm, nhiều phụ nữ phó mặc tính mạng
vào những lời cam kết qua mạng xã hội.
Như vậy có thể thấy, mặc dù pháp luật đã có những hướng đi cởi mở hơn nhưng
chỉ quy định “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” và đóng khung những trường
hợp cụ thể là chưa đủ đáp ứng nhu cầu, do đó khó có thể ngăn những giao dịch
ngầm này xảy ra trong thực tế. Điều này gây khó kiểm soát cho Nhà nước, vô
hình biến chủ thể của mang thai hộ thành “công cụ” đẻ thuê và trẻ em thành mặt
hàng để mua bán, đi ngược lại với đạo đức, thuần phong mỹ tục Việt Nam.
2.1. Nguyên nhân của những hạn chế
Thứ nhất là do nhận thức của xã hội tác động đến nhận thức của nhà làm luật
- Hiện nay pháp luật quy định về điều kiện đối với người mang thai hộ phải là
“người thân thích cùng hàng với bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ” nhằm
ngăn chặn nguy cơ thương mại hóa. Tuy nhiên, không phải ai cũng tìm được
người đủ điều kiệntheo quy định để thực hiện thủ tục mang thai hộ. Có người thì
không có chị, em cùng hàng đáp ứng phù hợp (về độ tuổi, khả năng sinh con, sức
khỏe,…). Hoặc tìm được thì không đồng ý nhận vì sợ “lời ra tiếng vào” hoặc ảnh
hưởng đến vóc dáng, công việc.Điều này là một trong những nguyên nhân chính
dẫn đến mang thai hộ “chui” vì mục đích thương mại.
Quan niệm của người dân Việt Nam có vẻ rất “dị ứng” với những mối quan hệ
gia đình, những mối quan hệ truyền thống mà lại dính dáng đến kinh doanh, đến
tiền bạc. Song thực tế, những thỏa thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những
thỏa thuận dễ điều chỉnh nhất, dưới góc độ pháp lý.
- Việc bỏ qua quyền nhờ mang thai hộ của phụ nữ độc thân vô sinh có thể coi là
khoảng trống của nhà làm luật khi chưa quan tâm đến quyền làm mẹ của người
phụ nữ trong trường hợp này. Điều này có lẽ xuất phát từ định kiến xã hội Việt Nam
về người phụ nữ làm mẹ đơn thân. Quan niệm “không chồng mà chửa” đã ăn sâu 60
vào tư tưởng của người dân Việt Nam với những cái nhìn không mấy thiện cảm, gây
ảnh hưởng tới tư duy của nhà làm luật. Mặc dù quy định về mẹ đơn thân đã được
luật hóa nhưng thực tế khó thay đổi được quan niệm truyền thống.
- Đối với những trường hợp chuyển giới hoặc đồng tính, pháp luật hiện hành
không công nhận hôn nhân đồng tính nên họ không được coi là vợ chồng và vì
thế không được nhờ mang thai hộ. Bởi những người này không đảm bảo về điều
kiện kết hôn theo quan điểm thuần phong mỹ tục của Việt Nam và điều kiện thụ
thai nên pháp luật không công nhận trường hợp của họ, vì thế gián tiếp không
trao cơ hội mang thai hộ cho những người này mà chỉ cho phép nhận nuôi con
nuôi. Mặc dù hiện nay, xã hội Việt Nam đã có cái nhìn thoáng hơn về những
người thuộc giới tính thứ 3. Tuy vậy, tư tưởng đậm tính truyền thống vẫn ăn sâu
vào tiềm thức nên pháp luật cũng chưa có những quy định rộng hơn.
Thứ hai, nhận thức pháp luật còn hạn chế
- Những người nhận mang thai hộ thực tế thường là những người có hoàn cảnh
khó khăn, ở các vùng nông thôn, sự tiếp cận và hiểu biết pháp luật còn hạn chế.
Các thỏa thuận nhiều khi lại không có hợp đồng, khi trao con cho người khác lại
bị “bùng” tiền không được thanh toán.Lúc đó câu hỏi đặt ra ở đây là ai sẽ bảo vệ
họ?hay họ chỉ còn cách ôm nỗi uất ức chấp nhận?
- Sự phổ cập pháp luật không phải chỉ hạn chế với những người ở vùng sâu
vùng xa, khó khăn với tiếp cận pháp luật mà còn là với những người có tiền, kinh
tế vững nhưng không chịu tìm hiểu pháp luật hoặc khinh thường, coi rẻ luật pháp
mà vẫn tiếp tục thực hiện các hành vi bị cấm. Hoặc chỉ vì họ khao khát có một
đứa con huyết thống mà không tìm được cách nào khác ngoài việc nhờ mang thai
hộ “chui”
Việc kém hiểu biết về pháp luật tạo nên một lỗ hổng kiến thức, dễ dẫn đến tình
trạng tranh chấp xảy ra.
Thứ ba, các thủ tục yêu cầu mang thai hộ rườm rà
Để đảm bảo kiểm soát chặt chẽ việc mang thai hộ không bị biến tướng, pháp
luật yêu cầu rất nhiều thủ tục để hoàn thiện hồ sơ mang thai hộ gồm xác nhận của
nhiều cấp chính quyền và cơ quan chức năng khác nhau. Tuy nhiên chính điều
này cũng gây khó khăn cho các cặp vợ chồng đi xin giấy tờ khi bỏ nhiều thời
gian ra để đi làm thủ tục hành chính rất rườm rà.Chính vì thế nên điều này cũng
khiến các cặp vợ chồng e ngại.Hơn nữa, thời gian đợi duyệt hồ sơ lâu. Đây cũng
61
có thể coi là nguyên nhân gián tiếp khiến các cặp vợ chồng tìm những dịch vụ
“đẻ thuê” bên ngoài vì tính chất “nhanh, gọn, tiện”.
Thứ tư, về điều kiện kinh tế
Chi phí cho các lần chữa trị vô sinh hiện nay rất lớn mà không được bảo hiểm y
tế chi trả. Bên cạnh đó lại tốn kém về thời gian nên không ít cặp vợ chồng chọn
cách tìm “thị trường ngoài” để rút ngắn lại thời gian và đảm bảo được chi phí
mình có thể chi trả, mặc dù biết đứa trẻ sinh ra có thể bị hạn chế nhiều quyền lợi
hợp pháp mà đáng lẽ nó phải được nhận.
Mang thai hộ không nhằm mục đích thương mại nhưng có thể sẽ là một lý do để
sau khi mang thai người mang thai hộ đòi hỏi tiền hoặc lợi ích vật chất từ người
nhờ mang thai hộ. Vì thế mà nguyên nhân về kinh tế là một trong những nguyên
nhân chính gây ra hoạt động mang thai hộ vì mục đích thương mại hoặc lợi ích
kinh tế khác.
62
KẾT LUẬN CHƯƠNG II
Ở chương II, tác giả đã nêu và phân tích cụ thể các quy định về mang thai hộ
theo Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và Luật Hình sự năm 2015. Từ nội
dung quy định của pháp luật đến việc đưa pháp luật áp dụng vào thực tiễn cuộc
sống, bên cạnh những kết quả đạt được đáng mừng của việc thực hiện pháp luật
về mang thai hộ thì cũng còn nhiều hạn chế và bất cập. Sự va chạm đến quyền và
lợi ích của các nhóm chủ thế; đến nhu cầu thực tế của xã hội đã vượt qua những
dự liệu của pháp luật, dẫn đến tình trạng mang thai hộ vì mục đích thương mại
vẫn tiếp tục diễn ra, gây sự mất cân bằng xã hội và hạn chế tầm kiểm soát của
Nhà nước. Vì lợi nhuận và vì khó khăn kinh tế có thể sẽ có trường hợp phụ nữ
Việt Nam trở thành công cụ sản xuất những đứa trẻ. Hơn nữa, đây còn là nguy cơ
cho việc bóc lột và thương mại hóa người đẻ thuê.
Từ những nhận định khách quan về nguyên nhân và sự hạn chế của pháp luật đã
phân tích tại chương II sẽ là cơ sở thực tiễn quan trọng để đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam tại chương III.
63
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ
NÂNG CAO HIỆU QUẢ THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ MANG THAI HỘ
Ở VIỆT NAM
3.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật về mang thai hộ
3.1.1. Hoàn thiện một số các quy định pháp luật Hôn nhân và Gia đình về
mang thai hộ
Thứ nhất, điều chỉnh về điều kiện “có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền
về việc người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản”
Với quy định này, yêu cầu người phụ n ữ trước đó phải thực hiện kỹ thuật hỗ
trợ sinh sản và nếu không thành công thì mới có đủ điều kiện để cơ sở y tế có
thẩm quyền xác nhận thực hiện nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Như
vậy, sau khi đã bỏ ra một khoản tiền rất lớn để thực hiện thụ tinh nhân tạo hoặc
thụ tinh trong ống nghiệm không thành, họ phải bỏ ra một khoản chi phí tương
đương và thậm chí cao hơn để sử dụng kỹ thuật mang thai hộ. Điều đó sẽ gây
khó khăn đối với các cặp vợ chồng có thu nhập thấp. Do đó, theo tác giả, Điểm a
khoản 2 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 có thể sửa lại về quy định
điều kiện của người nhờ mang thai hộ là “Có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm
quyền về việc người vợ không thể mang thai và sinh con đối với những trường
hợp có bệnh lí cụ thể về sinh sản mà không thể khắc phục được bằng các phương
pháp khác” sẽ hợp lý và mở rộng cánh cửa pháp lý hơn cho các cặp vợ chồng vô
sinh muốn thực hiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. đi kèm theo đó là Chính
phủ phải ban hành thêm hướng dẫn chi tiết hơn điều kiện này để xác định rõ cách
thức thực hiện việc xác nhận cũng như trách nhiệm của cơ sở khám chữa bệnh có
thẩm quyền để tránh sự tùy tiện và tốn kém trong thực hiện, áp dụng triệt để
pháp luật trong thực tiễn.
Thứ hai, về quy định tại điểm b khoản 2 điều 95 Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 quy định “vợ chồng đang không có con chung”
Theo tác giả, pháp luật cần mở rộng đối tượng thực hiên trong trường hợp này
để đáp ứng sự cần thiết và phản ánh đúng tinh thần nhân đạo trong việc xây dựng
và thực thi pháp luật của Nhà nước.
Cụ thể nên có thêm trường hợp các cặp vợ chồng đã có 01 con chung nhưng bị
mắc các bệnh dẫn đến không nhận thức và điều chỉnh được nhận thức và hành vi
64
của mình, người vợ không có khả năng mang thai và sinh con tiếp dù đã áp dụng
các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng nên thêm trường hợp các cặp vợ chồng đã áp dụng
các biện pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản từ 3 lần trở lên mà không có con thì cũng
có thể được áp dụng biện pháp mang thai hộ.
Thứ ba, về quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng hàng
của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ.
Để hài hòa được lợi ích chính đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và lợi ích của
Nhà nước, của xã hội trong công tác này cần phải xem xét về lâu dài nên cho
phép việc mang thai hộ được thực hiện bởi người thân thích không cùng hàng
hoặc cả những người không thân thích nhưng phải đảm bảo thực hiện đúng các
quy định pháp luật về điều kiện xác lập cũng như quyền và nghĩa vụ của các bên.
Điểm cần lưu ý nữa là giải thích về khái niệm “người thân thích” theo Luật Hôn
nhân và Gia đình năm 2014 và “người thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên
chồng nhờ mang thai hộ” theo Nghị định số 10/2015/NĐ-CP không có sự thống nhất10. NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP bao gồm: “Anh, chị, em cùng cha mẹ,
cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con
cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của người cùng cha mẹ hoặc
cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Trong khi đó Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 2014 quy định: “Người thân thích là người có quan hệ hôn nhân, nuôi
dưỡng, người cùng có dòng máu về trực hệ và người có họ trong phạm vi ba
đời”. Theo quy định này, người thân thích không bao gồm chị dâu, em dâu của
bên vợ hoặc chồng nhờ mang thai hộ. Theo tác giả, cần có sự thống nhất giữa
Nghị định và luật để phù hợp với quy định và dễ dàng hơn cho những người thực
hiện.
Thứ tư, mở rộng đối tượng tham gia vào quan hệ mang thai hộ vì mục đích
nhân đạo
Pháp luật cần xem xét mở rộng và trao thêm cơ hội được mang thai hộ cho
trường hợp phụ nữ đơn thân muốn có con nhưng bị vô sinh và những người đồng
tính chuyển giới (Gọi chung là LGBT) để đảm bảo quyền con người, quyền mưu
cầu hạnh phúc theo đúng tinh thần của Hiến pháp.
10 Xem khoản 7 điều 2 NGHỊ ĐỊNH SỐ 10/2015/NĐ-CP 65
Do vậy, xét ở khía cạnh xã hội, những vấn đề nhân văn và nhân đạo, những
người độc thân phải được quan tâm hơn hết. Cho phép đối tượng này được phép
có con bằng phương pháp mang thai hộ sẽ góp phần giảm bớt những gánh nặng
cho xã hội, đặc biệt khi họ ốm đau, bệnh tật hay khi về già có người chăm sóc.
Chúng ta cho phép những người độc thân, những người thuộc thế giới LGBT
được quyền có con bằng phương pháp mang thai hộ cũng là thừa nhận và phù
hợp với pháp luật của các nước trên thế giới, cũng chính là chúng ta đang tôn
trọng, bảo vệ và thực thi các quyền cơ bản của con người trong đời sống thực
tiễn. Trong một thế giới xu thế hòa nhập trên nhiều lĩnh vực thì pháp luật cũng
không nằm ngoài quỹ đạo đó
Cách làm này cũng thể hiện tính nhân đạo theo đúng bản chất của pháp luật về
mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Bởi lẽ dù pháp luật có hạn chế quyền của họ
thì vì khao khát muốn có con huyết thống, họ vẫn lén lút thực hiện. Điều này sẽ
gây ra nhiều vấn đề pháp lý và đứa trẻ sẽ không được đảm bảo đầy đủ quyền và
lợi ích của mình, cũng sẽ để lại vết đen tâm lý cho chúng khi lớn lên.Việc mang
thai hộ chui gây ra rất nhiều rủi ro cho cả 2 phía, người nhờ mang thai hộ và
người được nhờ. Và người được hưởng lợi duy nhất đó là những người môi giới,
những người tổ chức dắt mối mang thai hộ. Để hạn chế những rủi ro và những
hậu quả phức tạp khó lường này, theo tác giả, quy định đối tượng được nhờ mang
thai hộ phải mở rộng hơn nữa.
Thứ năm, điều kiện “trường hợp người phụ nữ mang thai hộ có chồng thì phải
có sự đồng ý bằng văn bản của người chồng”
Tuy nhiên, trên thực tế không phải người chồng nào cũng chấp nhận, vượt qua
rào cản định kiến xã hội để cho vợ của mình mang thai đứa con không phải là
con chung của vợ chồng dẫn đến việc không đồng ý. Cũng có những trường hợp
do vợ chồng ở cách xa nhau về mặt địa lý, người vợ cố tình giấu và giả chữ ký
của chồng để thực hiện việc mang thai hộ. Hoặc có trường hợp hai vợ chồng
đang trong giai đoạn rạn nứt tình cảm, ly thân thì việc nhận được sự đồng ý của
người chồng là một việc khó khan.Có nhiều trường hợp người phụ nữ mang thai
hộ có chồng nhưng chồng của họ lại mắc các chứng bệnh về tâm thần, hạn chế
trong khả năng nhận thức và điều khiển hành vi, các chứng bệnh khác như bại
liệt... Đối với những trường hợp này nên có quy định mở rộng về việc nếu thuộc
các trường hợp nêu trêu, người phụ nữ có thể tự mình quyết định việc mang thai
hộ vì mục đích nhân đạo hộ người khác. Đồng thời, được phép bỏ trống mục chữ 66
ký của người chồng trong hợp đồng mang thai hộ trong trường hợp người chồng
không có khả năng ký vào văn bản do hạn chế về khả năng nhận thức và điều
khiển hành vi hoặc các trường hợp khác tương tự.
Thứ sáu, về độ tuổi của người mang thai hộ
Pháp luật hiện hành chưa quy định cụ thể về độ tuổi để mang thai hộ mà chỉ quy
định “ở độ tuổi phù hợp và có xác nhận của tổ chức y tế có thẩm quyền về khả
năng mang thai hộ”. Theo nghiên cứu, người phụ nữ ở độ tuổi từ trên 18 đến
dưới 35 tuổi có sức khỏe sinh sản tốt nhất vì cơ thể đã phát triển toàn diện, chất
lượng trứng cũng ở thời kỳ tốt nhất. Ở độ tuổi này người phụ nữ đã phát triển đầy
đủ về cả tâm - sinh lý cho việc mang thai và làm mẹ. Từ độ tuổi 24-35, các điều
kiện về nghề nghiệp, kinh tế gia đình sẽ thuận lợi cho việc chăm sóc sức khỏe khi
mang thai cũng như chăm sóc em bé khi ra đời để trẻ được phát triển toàn diện.
Từ những phân tích dưới góc độ y học, thiết nghĩ khi ban hành các văn bản
hướng dẫn cho Luật Hôn nhân và gia đình về vấn đề mang thai hộ, Bộ Y tế nên
ghi nhận độ tuổi thích hợp cho người phụ nữ mang thai hộ để đảm bảo chất
lượng của việc mang thai hộ cũng như tránh được các nguy cơ rủi ro cho người
phụ nữ mang thai và bào thai mang thai hộ để tránh những trường hợp không
mong muốn xảy ra trong quá trình mang thai.
Thứ bảy, về quyền quyết định số lượng bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục
mang thai
Pháp luật hiện tại cho phép người mang thai hộ có quyền quyết định số lượng
bào thai, việc tiếp tục hay không tiếp tục mang thai. Điều này gây tranh cãi về
bên có quyền định đoạt số phận thai nhi. Từ quy định pháp luật và thực tiễn về
vấn đề này, cần phải có văn bản hướng dẫn thật chặt chẽ để tránh các trường hợp
người được nhờ mang thai hộ không đồng ý chấm dứt thai kỳ theo yêu cầu của
bên nhờ mang thai hộ để rồi cuối cùng sinh ra những đứa trẻ bị dị tật, bệnh hiểm
nghèo. Điều này không những chỉ là nỗi đau của những trẻ mắc bệnh mà còn là
nỗi đau, là gánh nặng cho gia đình và toàn xã hội.Ở một giả định khác trong
trường hợp này là việc do có quyền quyết định đến số phận bào thai nên không
thể loại trừ trường hợp người phụ nữ mang thai hộ vì một lý do nào đó dùng đứa
trẻ uy hiếp cặp vợ chồng nhờ mang thai hộ đáp ứng những yêu cầu của mình. Mà
yêu cầu đó có thể liên quan đến lợi ích kinh tế hoặc một lợi ích khác trái với ý
muốn của người nhờ mang thai hộ. Nhưng vì muốn đảm bảo cho sự an toàn của
con mình, họ buộc phải đáp ứng. Vì vậy, thiết nghĩ, văn bản hướng dẫn cần phải 67
xác định rõ hai trường hợp, nếu việc mang thai ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe,
tính mạng của người được nhờ mang thai hộ thì việc quyết định tiếp tục hay
chấm dứt thai kỳ là do người được nhờ mang thai hộ quyết định. Đối với trường
hợp thai nhi phát triển không bình thường, ví dụ như trong thời gian mang thai
hộ, trẻ bị khuyết tật bẩm sinh và được phát hiện bởi các kỹ thuật y tế thì cần có
sự thỏa thuận giữa bên nhờ mang thai hộ và bên được nhờ mang thai hộ để đi đến
quyết định tiếp tục hay chấm dứt thai kỳ. Nếu họ không thỏa thuận được thì nhờ
Tòa án giải quyết và Tòa án sẽ ra quyết định trên cơ sở tham vấn ý kiến của tổ
chức y tế. Được như vậy, sẽ phần nào hạn chế được tình trạng như đã nêu trên.
Thứ 8 tám, về các thủ tục quy định để hoàn thiện hồ sơ mang thai hộ
Với những trường hợp có mong muốn nhờ mang thai hộ thì cần đáp ứng rất
nhiều giấy tờ để đảm bảo hoàn thiện hồ sơ theo đúng như quy định của pháp luật.
Điều này nhiều khi gây khó khăn cho các cặp vợ chồng đi xin các giấy tờ hành
chính.Điều đó có thể là trở ngại khiến họ e dè.Vướng thủ tục thì thời gian sẽ bị trì
hoãn lại lâu, rồi lại đợi thời gian được phê duyệt. Vô hình sẽ xảy ra nhiều trường
hợp tìm đến dịch vụ mang thai hộ “chui”. Vì thế, Chính phủ cần xem xét giảm tải
một số giấy tờ không cần thiết và thủ tục rườm rà để tạo điều kiện hơn cho các
cặp vợ chồng vô sinh mong muốn có con chính đáng.
Thứ chin, Nhà nước hỗ trợ chi phí mang thai hộ
Hiện nay, chưa tính đến chi phí để chu cấp cho người mang thai hộ theo đúng
như thỏa thuận và yêu cầu của pháp luật thì riêng chi phí thực hiện cho các hoạt
động chữa trị vô sinh và thụ kinh ống nghiệm trước đó là rất tốn kém. Mỗi lần
thực hiện như vậy bệnh nhận sẽ phải bỏ ra từ 5 triệu đến 20 triệu đồng cho một
lần chữa trị với tỷ lệ 20-30% thành công. Có nghĩa nhiều khả năng sẽ phải tiếp
tục làm thêm nhiều lần để nâng tỷ lệ có thai. Tuy nhiên, Bảo hiểm y tế chưa có
mục chi trả cho những trường hợp này. Vì thế, thiết nghĩ Chính phủ nên xem xét
bổ sung các mục được bảo hiểm y tế chi trả, trong đó các phương pháp hỗ trợ
sinh sản để giảm bớt nỗi lo kinh tế cho các bệnh nhân không có điều kiện.
Thứ mười, về chi phí tự nguyện hỗ trợ mang thai hộ
Theo pháp luật, việc quy định người mang thai hộ phải là người thân thích cùng
hàng để hạn chế thương mại hóa. Tuy nhiên vấn đề thương mại không chỉ tồn tại
đối với những người không cận huyết thống. Việc thuyết phục một người trong
gia đình mang thai hộ không phải việc đơn giản vì kéo theo nhiều vấn đề. Nếu
người nhờ mang thai hộ có hoàn cảnh khó khăn và cũng muốn giúp đỡ cặp vợ 68
chồng vô sinh hiếm muộn thì thiết nghĩ pháp luật nên cho phép bổ sung điều
khoản về Chi phí hỗ trợ nhờ mang thai hộ. Chi phí này không bao gồm cả các chi
phí khám chữa bệnh hay chi phí theo luật quy định hiện nay. Thực tế dù có nhờ
được người mang thai hộ đủ điều kiện đi chăng nữa thì chắc chắn 2 bên vẫn có
thỏa thuận ngầm về tiền bạc. Điều khoản này nếu đi vào hợp đồng thỏa thuận
giữa các bên thì sẽ tường minh và rõ ràng hơn, đảm bảo không có tranh chấp
ngầm xảy ra. Những thỏa thuận rõ ràng, sòng phẳng thường lại là những thỏa
thuận dễ điều chỉnh nhất, dưới góc độ pháp lý. Vì thế nhà nước có thể tối đa hóa
sự kiểm soát của mình.
Trong trường hợp này, nếu lo lắng về vấn đề thươn mại hóa mà vi phạm giá trị
đạo đức truyền thống thì pháp luật có thể quy định thêm về mức chi phí hỗ trợ
mang thai hộ này trong khoảng hạn chế từ 100-200 triệu đồng nếu bên mang thai
hộ yêu cầu.
3.1.2. Hoàn thiện các quy định pháp luật Dân sự về mang thai hộ
Thỏa thuận về mang thai hộ có những đặc điểm giống với giao kết hợp đồng
dân sự được quy định tại Bộ luật Dân sự năm 2015. Tuy nhiên, pháp luật hiện
nay chưa có quy định rõ ràng về vấn đề này. Theo tác giả, cần thiết phải sửa đổi
bổ sung các quy định pháp luật về Hợp đồng mang thai hộ để dựa vào đây, các
bên tham gia có hành lang pháp lý an toàn và cơ sở pháp luật cần thiết để thiết
lập hợp đồng chặt chẽ, đồng thời cũng là để đảm bảo sự kiểm soát tối đa của
pháp luật về việc thực hiện hợp đồng trong vấn đề nhạy cảm này.
3.1.3. Hoàn thiện các quy định pháp luật Hình sự về mang thai hộ
Về chủ thể tội phạm, Điều 187 BLHS quy định đối với cá nhân có hành vi tổ
chức mang thai hộ vì mục thương mại là những cá nhân từ đủ 16 tuổi trở lên có
năng lực trách nhiệm hình sự.
Xét trong mối tương quan giữa tên tội danh “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích
thương mại” với chủ thể tội phạm theo tinh thần điều luật thì đối tượng chủ thể
của điều luật này không chỉ hướng tới cá nhân trực tiếp mang thai hộ mà còn cả
những người tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại.
Tuy nhiên, cả tên điều luật và chủ thể phạm tội quy định tại khoản 1 điều này
đang tạo ra các cách hiểu khác nhau theo chiều hướng thu hẹp đối tượng phạm
tội chỉ đối với “người tổ chức”, còn người mang thai hộ đơn thuần (không có yếu
tố tổ chức) thì không thuộc đối tượng điều chỉnh của tội danh này.
69
Để có cách hiểu và áp dụng thống nhất, cần khắc phục hạn chế này bằng cách
sửa lại tên điều luật theo hướng mở rộng tối đa chủ thể phạm tội như “Tội mang
thai hộ vì mục đích thương mại”, đồng thời quy định dấu hiệu “tổ chức” trong
tên tội danh thành tình tiết định khung tăng nặng trong cùng điều luật.
Tình tiết định khung tăng nặng theo quy định tại khoản 2, Điều 187 quy định
“Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 1 năm đến 5
năm: a) Đối với 2 người trở lên; Phạm tội 2 lần trở lên; Lợi dụng danh nghĩa của
cơ quan, tổ chức; Tái phạm nguy hiểm”.
Nếu giữ nguyên tên tội danh thì tại điểm a của khoản này cần bổ sung thêm
cụm từ “Tổ chức mang thai hộ vì mục đích thương mại đối với 2 người trở lên”
bởi quy định như hiện tại chưa rõ ý trong vấn đề xác định đối tượng là người trực
tiếp mang thai hộ hay người có nhu cầu mang thai hộ.
Đồng thời, để xử lý các hành vi của một số đối tượng đặc biệt trong tội danh
này cần bổ sung các tình tiết tăng nặng mới tại khoản 2 như “Lợi dụng chức vụ,
quyền hạn”, “cưỡng ép người mang thai hộ”, “gây hậu quả nghiêm trọng”.
3.2. Một số giải pháp khác để hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu
quả thực hiện pháp luật về mang thai hộ
Thứ nhất, quy định rõ hơn trách nhiệm của Tòa án, Ủy ban Nhân Dân các cấp,
các cơ sở Y tế có thẩm quyền trong việc xác nhận những văn bản, giấy tờ liên
quan để thỏa mãn điều kiện về mang thai hộ
Đối với các cơ quan chuyên môn về lĩnh vực y tế cần có cơ chế kiểm soát chặt
chẽ từng khâu, gắn với trách nhiệm của từng cá nhân.
Chế tài dân sự hiện nay trên thực tế chưa đủ sức để kiểm soát mang thai hộ, vì
vậy cần có các chế tài liên quan về hành chính và hình sự để đảm bảo việc kiểm
soát mang thai hộ chặt chẽ và hiệu quả; cung cấp cho các cơ quan hành pháp, tư
pháp có cơ sở pháp lý đầy đủ để thực hiện giải quyết nếu có tranh chấp xảy ra.
Nâng cao yêu cầu nghiệp vụ để hỗ trợ người dân trong quá trình thực hiện các
quy định về mang thai hộ một cách thuận tiện và dễ dàng.
Thứ hai, tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân về pháp luật và thực
hiện pháp luật về mang thai hộ
Xét về mặt bằng chung thì hiện tại trình độ dân trí của Việt Nam chưa có sự
đồng đều. Nhiều người dân còn mang nặng khá nhiều các định kiến còn tồn tại từ
xa xưa, nhất là ở vùng nông thôn. Vì thế họ cổ hủ với những biện pháp hỗ trợ
sinh sản tiên tiến; xấu hổ với tình trạng vô sinh của mình; có cái nhìn dị nghị đến 70
những trường hợp vô sinh, mẹ đơn thân hay cộng đồng người đồng tính, chuyển
giới,… gây khó khăn và tác động đến ý chí của nhà làm luật. Do vậy, trong thời
gian đầu triển khai quy định này, Nhà nước cần phải tăng cường việc tuyên
truyền, phổ biến pháp luật; phải phân tích rõ để người dân hiểu được bản chất
của mang thai hộ, tính khoa học của biện pháp, về cha mẹ của đứa trẻ được sinh
ra và tính chất nhân đạo của mang thai hộ.
Các hoạt động tuyên truyền, tư vấn này cũng sẽ giúp cho người dân cởi mở hơn
trong nhận thức và tâm lý, từ đó pháp luật cũng sẽ được đảm bảo và phát triển
hơn.
Thứ ba, tăng cường hợp tác quốc tế về để chia sẻ kinh nghiệm về xây dựng
pháp luật và thực hiện pháp luật về mang thai hộ
Trên thế giới, mỗi nước có một quan điểm pháp luật khác nhau, tuy nhiên, đều
căn cứ trên tình hình thực tiễn xã hội và quan niệm đạo đức. Mục đích của pháp
luật đều là hướng đến bảo vệ và phát triển con người. Vì thế, để đảm bảo hoàn
thiện được pháp luật mang thai hộ ở mức tốt nhất, cung cấp cho người dân môi
trường pháp luật phù hợp nhất, cần tăng cường hợp tác quốc tế về áp dụng khoa
học kỹ thuật tiên tiến, hợp tác trao đổi công nghệ y tế,… để có những cái nhìn đa
chiều hơn với các vấn đề phát sinh trong xã hội; chia sẻ những kinh nghiệm về
xây dựng pháp luật và quá trình kiểm soát thực thi pháp luật.
71
KẾT LUẬN
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo là một bước tiến bộ tích cực về tư duy của các nhà làm luật Việt Nam căn cứ
trên tình hình thực tiễn và nhu cầu của xã hội, đảm bảo quyền con người, quyền
và nghĩa vụ của công dân. Quy định đã đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng chính
đáng của các cặp vợ chồng vô sinh và giúp hoàn thiện xã hội theo hướng nhân
đạo. Bởi suy cho cùng, pháp luật không phải lúc nào cũng phục vụ cho số đông
mà còn là công cụ bảo vệ cho số ít người yếu thế trong cộng đồng. Pháp luật cho
phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo cũng giúp ổn định được các quan hệ
trong HNGĐ, giảm tải hạn chế, tiêu cực từ hiện tượng “chửa thuê, đẻ thuê”, ngăn
chặn việc thương mại hóa, coi con người là hàng hóa.
Nội dung các quy định về mang thai hộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm
2014 đã tương đối cụ thể, chặt chẽ, cơ bản bảo đảm được tính khả thi trong quá
trình thi hành và áp dụng luật vào thực tế. Tuy nhiên, trong thời gian vận hành áp
dụng, pháp luật về mang thai hộ đã bộc lộ những điểm còn hạn chế, vướng mắc
như việc thu hẹp phạm vi chủ thể trong quan hệ mang thai hộ, thủ tục còn rườm
rà, chưa thật sự đáp ứng rộng rãi với người dân; còn thiếu tính đồng bộ giữa các
quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo trong Luật Hôn nhân và Gia đình
năm 2014 và các văn bản pháp luật liên quan, vẫn còn nhiều lỗ hổng để các hành
vi thương mại hóa mang thai hộ xảy ra. Vì thế, các nhà làm luật cần nghiên cứu
để chỉnh sửa và hoàn thiện pháp luật cụ thể, chặt chẽ hơn nữa, hạn chế tối đa các
trường hợp phi nhân đạo trong mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.
72
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Nguyễn Văn Cừ (2016), Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam;
Tạp chí luật học số 06 (Tháng 06/2016), trang 11-12, 13, 14.
2. Nguyễn Thị Lan (2015), Mang thai hộ và những vấn đề phát sinh;
Tạp chí luật học số 04 (tháng 04/2015)
3. Huỳnh Thị Trúc Giang (2015), Vài suy nghĩ về quy định mang thai
hộ trong Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, Tạp chí Khoa học Trường Đại
học Cần Thơ (2015)
4. Trần Thị Thu Hằng (2018), Pháp luật kiểm soát mang thai hộ ở
Việt Nam, trang 18; 58, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội
5. Nguyễn Thị Phượng (2019), Hợp đồng mang thai hộ theo pháp luật
Việt Nam, trang 12; 77, Luận văn thạc sĩ, Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội
6. Bùi Quỳnh Hoa (2014), Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mang
thai hộ, trang 50, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Luật Hà Nội
7. Quốc Hội (2014), Luật Hôn nhân và Gia Đình, NXB Chính trị
Quốc Gia – Sự thật, Hà Nội 2015.
8. Quốc Hội (2015), Bộ luật Dân sự, NXB Chính trị Quốc Gia – Sự
thật, Hà Nội 2016.
9. Quốc Hội (2015), Bộ luật Hình sự, NXB Chính trị Quốc Gia – Sự
thật, Hà Nội 2017.
10. Quốc hội (2014), Luật Bảo hiểm xã hội, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội
11. Chính phủ (2015), Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015
quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang
thai hộ vì mục đích nhân đạo.
12. Báo đài châu á tự do (2014) “Bé trai mắc bệnh down bị cha mẹ
người Úc bỏ rơi” https://www.rfa.org/vietnamese/news/internationalnews/austr-
paren-leav-child-08032014103148.html
13. Trần Xuân Thiên An (2018), “Bình luận điều 187 Bộ luật hình sự
năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 về tội tổ chức mang thai hộ vì mục đích
thương mại” http://tkshcm.edu.vn/tin-tuc/binh-luan-dieu-187-bo-luat-hinh-su-
nam-2015-sua-doi-bo-sung-nam-2017-ve-toi-to-chuc-mang-thai-ho-vi-muc-dich-
thuong-mai-3386.html
14. Trung Nhân (2014), “Mang thai hộ: Được, không?
https://plo.vn/van-hoa/ho-so-phong-su/mang-thai-ho-duoc-khong-503705.html
73
15. Chuyển động 24h (2019), “Mang thai hộ: từ mục đích nhân đạo trở
thành dịch vụ kiếm tiền” https://vtv.vn/chuyen-dong-24h/mang-thai-ho-tu-muc-
dich-nhan-dao-tro-thanh-dich-vu-kiem-tien-20190109145255791.htm
16. http://hanoimoi.com.vn/tin-tuc/Phong-su-Ky-su/781961/bai-3-
canh-cua-nao-cho-nguoi-ngheo-hiem-muon
17. Lê Na – Nguyễn Thảo (2018), “Nghiên cứu về thụ tinh ống nghiệm
của VN gây xôn xao y khoa thế giới” http://vietnamnet.vn/vn/giao-duc/khoa-
hoc/nghien-cuu-ve-thu-tinh-ong-nghiem-cua-viet-nam-gay-xon-xao-gioi-y-khoa-
quoc-te-423108.html
18. Nguyên Mi (2016), “TP.HCM có 9 ca mang thai hộ thành công”
https://thanhnien.vn/doi-song/tphcm-co-9-ca-mang-thai-ho-thanh-cong-
669037.html
19. Tường Lâm (2017), “Quả ngọt” mang thai hộ”
http://www.sggp.org.vn/qua-ngot-mang-thai-ho-366798.html
20. (Thanh Huyền (2014), “Gái quê chào giá mang thai hộ
200triệu/lần” http://vietnamnet.vn/vn/th 25 oi-su/ga-i-que-cha-o-gia-mang-thai-
ho-200-trie-u-la-n-203503.html
21. Ngọc Linh (2019), “Thâm nhập đường dây mang thai hộ - Kỳ cuối:
vào “lò: nuôi bà bầu” https://www.24h.com.vn/tin-tuc-trong-ngay/tham-nhap-
duong-day-mang-thai-ho-ky-cuoi-vao-lo-nuoi-ba-bau-c46a1044274.html
22. https://dantri.com.vn/suc-khoe/ti-le-vo-sinh-o-viet-nam-dang-vao-
muc-canh-bao-20180405120937326.htm
23. Báo biên phòng (2018), “Việt nam đã tham gia hầu hết các Công
ước quốc tế cơ bản về quyền con người” http://www.bienphong.com.vn/viet-
nam-da-tham-gia-hau-het-cac-cong-uoc-quoc-te-co-ban-ve-quyen-con-nguoi/
24. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014), “Mang thai hộ - Sự cần thiết
phải điều chỉnh bằng pháp luật ở Việt Nam hiện nay”, Đề tài nghiên cứu khoa
học cấp trường.
25. Trịnh Thị Lê Trâm (2014), Bình luận khoa học vấn đề quyền lợi
của phụ nữ và trẻ em trong mang thai hộ
26. Bộ Tư pháp (2014), Báo cáo tổng kết thi hành Luật Hôn nhân và
Gia đình năm 2000.
27. Bộ Tư pháp, Báo cáo số 153/BC-BTP ngày 15/7/2013 về tổng kết
thi hành Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000.
74
28. Bộ Y tế, Báo cáo tổng kết 8 năm thi hành Nghị định của Chính phủ số
12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 về sinh con theo phương pháp khoa học.
29. Bộ Y tế, Thông tư số 12/2012/TT-BYT, ngày 05/7/2012 của Bộ Y tế
ban hành quy trình kỹ thuật thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm.
30. Bộ Y tế, Thông tư số 57/2015/TT-BYT, ngày 30/12/2015 của Bộ Y
tế quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày
28/1/2015 của Chính phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống
nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo.
31. Nội san Y học sinh sản số tháng 8/2014 (2014), “Mang thai hộ -
Những điều cần biết”, tác giả. Hồ Mạnh Tường
32. Tạp chí Kiểm sát (2016), Bàn về mang thai hộ trong pháp luật Việt
Nam, tác giả Nguyễn Văn Lâm.
33. Tạp chí Nghề luật (2016), một số vấn đề về thực hiện quy định của
pháp luật hiện hành về mang thai hộ ở Việt Nam, tác giả Trần Đức Thắng.