ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

NGUYỄN KHÁNH LINH

LỊCH SỬ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP

CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-L

HÀ NỘI, 2019

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

KHOA LUẬT

-----------------------

NGUYỄN KHÁNH LINH

LỊCH SỬ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP

CÁC NƯỚC HỒI GIÁO TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC

NGÀNH LUẬT HỌC

BỘ MÔN LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

Hệ đào tạo: Chính quy

Khóa học: QH-2015-L

NGƯỜI HƯỚNG DẪN:

TS. MAI VĂN THẮNG

HÀ NỘI, 2019

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dưới sự hướng

dẫn khoa học của TS. Mai Văn Thắng. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là

trung thực và chưa được công bố trong các công trình khoa học khác.

TÁC GIẢ KHÓA LUẬN

Nguyễn Khánh Linh

MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................3

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................6

MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................7

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ......................................................................7

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................9

2.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................9

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................9

3. Những điểm mới của nghiên cứu ..........................................................................10

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ..........................................................10

5. Bố cục của khóa luận .............................................................................................11

CHƯƠNG 1. HỒI GIÁO VÀ PHÁP LUẬT Ở ĐÔNG NAM Á: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN .....................................................12

1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Hồi giáo ở Đông Nam Á và những đặc điểm cơ bản .............................................................................................................................12

1.1.1. Khái quát về lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á ..........................12

1.1.2. Ảnh hưởng của Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á ...................................14

1.1.3. Khái quát những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo tại Đông Nam Á ............17

1.1.4. Đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á .........19

1.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Đông Nam Á .........................................22

1.3. Các yếu tố có thể tác động đến pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á .................................................................................24

1.4.Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................26

Chương 2. LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á .........................................................................27

2.1. Khái quát chung về Hiến pháp và ảnh hưởng Hồi giáo tại các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á ...................................................................................................27

2.2. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp tại Indonesia ...............................................28

2.2.1. Khái quát chung ...........................................................................................28

2.2.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia ..................................30

2.2.3. Lịch sử của Hiến pháp Indonesia ...............................................................33

2.2.4. Nội dung Hiến pháp Indonesia hiện hành .................................................44

2.2.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp .....................................................................48

2.2.6. Đánh giá và lý giải .......................................................................................54

2.3. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Malaysia .....................................................57

2.3.1. Khái quát chung ...........................................................................................57

2.3.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia ...................................59

2.3.3. Lịch sử Hiến pháp Malaysia .......................................................................61

2.3.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành Malaysia ..................................................69

2.3.5. Thực tiễn thi hành .......................................................................................74

2.3.6. Đánh giá và lý giải .......................................................................................79

2.4. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Brunei .........................................................82

2.4.1. Khái quát chung ..............................................................................................82

2.4.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia ..................................83

2.4.3. Lịch sử Hiến pháp Brunei ...........................................................................84

2.4.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành ...................................................................89

2.4.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp .....................................................................93

2.4.6. Đánh giá và lý giải .......................................................................................96

2.5. Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................98

Chương 3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ GỢI MỞ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á ........................................................................................................99

3.1. Về xu hướng phát triển .........................................................................................99

3.1.1. Xu hướng phát triển chung .............................................................................99

3.1.2. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức độ nhất định .....................................................................................................100

3.1.3. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng trong Hiến pháp và thực tế .........102

3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi ..............................................................................103

3.2.1. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức độ nhất định .....................................................................................................103

3.2.2. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng với trường hợp Indonesia và Brunei .......................................................................................................................106

3.3. Những gợi mở cho quá trình cải cách Hiến pháp Việt Nam ............................108

3.4. Các vấn đề đặt ra .................................................................................................111

3.5. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................114

KẾT LUẬN ......................................................................................................................115

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................118

PHỤ LỤC .........................................................................................................................129

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

Xã hội chủ nghĩa XHCN:

Hiến pháp liên bang Indonesia giai đoạn 1949 – 1950 RIS:

Hội nghị bàn tròn lập hiến Indonesia diễn ra từ 23/8/1949 – KMB:

2/11/1949 tại Hà Lan

Hội đồng Đại diện Nhân dân còn được gọi là Hạ viện. Là một trong DPR

2 cơ quan lập pháp của Indonesia

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Hiến pháp được biết đến là luật gốc, điều chỉnh những vấn đề quan trọng của một

quốc gia. Từ bộ máy nhà nước đến quyền con người, từ hệ thống tư pháp đến cơ chế bảo

hiến,… là những nội dung được hiến pháp quy định. Quá trình “phôi thai” của một bản

hiến pháp, nội dung hiến pháp hay thực tiễn áp dụng hiến pháp luôn là điều hấp dẫn với

bất kỳ học giả hay nghiên cứu sinh nào nghiên cứu về pháp luật nói chung và lĩnh vực

hiến pháp nói riêng. Hiến pháp trong xã hội hiện đại có vị trí tối thượng. Nhưng đó chưa

phải là tất cả với các nhà nước lấy Hồi giáo làm tư tưởng chính thống hoặc chịu ảnh hưởng

sâu sắc giáo lý đạo Hồi. Bởi lẽ, Hồi giáo có một vị trí đặc biệt với đời sống xã hội quốc

gia, bao gồm cả nhà nước và pháp luật. Trong những xã hội ấy, Kinh Koran, Sunni luôn

có vị trí đặc biệt, là nguồn luật quan trọng nhất. Tuy vậy, trước xu hướng phát triển của

thế giới hiện đại, mà hiến pháp luôn là hiện thân của một xã hội dân chủ, pháp quyền, văn

minh thì việc nghiên cứu vị trí của hiến pháp trong hệ thống pháp luật các quốc gia ảnh

hưởng Hồi giáo, mối quan hệ của hiến pháp với các nguồn luật khác, vai trò của hiến

pháp trong bối cảnh hiện đại,… luôn có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và nhận thức. Đồng

thời, nghiên cứu về lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các quốc gia Hồi giáo,

kinh nghiệm xử lý mối quan hệ giữa hiến pháp và nguồn luật Hồi giáo cũng sẽ gợi mở

một số vấn đề giữa bối cảnh cải cách pháp luật, nâng cao vị trí vai trò của hiến pháp trong

hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay.

Do đó, tác giả lựa chọn đề tài còn dựa trên năm (5) lý do sau:

Thứ nhất, diện mạo và “nhịp đập” một quốc gia được phản chiếu qua hiến pháp của

quốc gia đó. Để có thể hiểu và lý giải được các hoạt động, các sự kiện nảy sinh trên thực

tế tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực (Indonesia, Malaysia, Brunei), nghiên cứu hiến

pháp là một phương thức hữu hiệu nhằm thực hiện điều đó.

Thứ hai, mỗi một bản hiến pháp thuộc về một bối cảnh cụ thể. Trải qua những trầm

tích thời gian, hiến pháp các nước Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á có chiều dài lịch sử

và những điểm riêng biệt so với Hiến pháp các quốc gia khác trên thế giới. Việc nghiên

cứu lịch sử và xu hướng phát triển tạo ra cái nhìn đa chiều và sâu sắc cho việc đánh giá

và xem xét hiến pháp. Từ đó, có thể đưa ra những luận giải cho các sự kiện pháp lý nảy

sinh trên thực tiễn.

Thứ ba, làn sóng dân chủ hóa thứ ba (1974–2000), bắt đầu từ Nam Âu, lan sang Mỹ

Latinh, châu Phi, rồi đến Đông Á, đã mang lại cho khu vực 7 nền dân chủ mới, đó là

Philippines, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Mông Cổ, Campuchia, và Indonesia [2].

Nghiên cứu hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á là dữ liệu cần

thiết nhằm định vị sự phát triển và vị trí của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực trên bản

đồ dân chủ thế giới.

Thứ tư, Đông Nam Á là khu vực có nhiều điểm đặc biệt so với các khu vực khác trên

thế giới. Trải dọc chiều dài lịch sử, các đế chế và vương quốc đã đến và đi trên mảnh đất

nhiệt đới: Đế chế Sri Vijaya trong thế kỷ thứ VIII đến XII, đế quốc Khmer vào thế kỷ IX

đến XV, đế chế Majapahit trong thế kỷ XII đến XIV, đế quốc Malacca vào thế kỷ XV.

Ngay cả trong những năm cai trị thuộc địa, khu vực này đã bị chia cắt giữa Anh, Pháp,

Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,...[2] Trong bối cảnh đó, hơi thở Hồi giáo đã lan

tỏa và bám rễ vào đời sống sinh hoạt cũng như tư tưởng của con người tại các quốc gia.

Nhìn nhận hiến pháp trong chiều dài lịch sử và độ rộng của sự thay đổi góp phần tạo nên

bức tranh toàn diện của các quốc gia trên thế giới, sự cựa mình của các quốc gia có đông

đảo các tín đồ tôn sùng tôn giáo lớn thứ hai thế giới.

Thứ năm, “mối quan hệ giữa các thiết chế tôn giáo và nhà nước đi theo một dòng

chảy liên tục ở mỗi nước” [3], những hệ thống tôn giáo – nhà nước khác nhau ra đời sau

những cuộc “hôn phối” đầy lịch sử. “Tôn giáo – Hiến pháp”, “Nhà thờ - Nhà nước” trong

bối cảnh đó cũng đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nghiên cứu về hiến pháp các quốc gia

Hồi giáo trong khu vực giúp người nghiên cứu nhận ra mối liên hệ giữa tôn giáo và pháp

luật nói chung, hiến pháp nói riêng.

Từ những lý do trên, việc nghiên cứu lịch sử và sự phát triển của hiến pháp các quốc

gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á sẽ đưa ra những minh chứng trong lịch sử lập

hiến của từng quốc gia Hồi giáo, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, từ lý thuyết đến

thực tiễn, từ đánh giá đến dự báo về sự phát triển Hiến pháp các quốc gia Hồi giáo khu

vực Đông Nam Á.

2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Nghiên cứu về lịch sử và xu hướng hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo trong khu

vực nhằm hai (2) mục đích chính sau:

Thứ nhất, nghiên cứu nhằm là rõ lịch sử ra đời, sự thay đổi và phát triển của hiến

pháp qua thời gian tại các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Đồng thời xác định vị

trí, vai trò của hiến pháp các quốc gia trong hệ thống pháp luật dưới sự ảnh hưởng mạnh

mẽ của Hồi giáo. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và pháp luật Hồi giáo cũng là một trong

những mục đích nghiên cứu không thể bỏ qua.

Thứ hai, qua những vấn đề được làm rõ ở trên, nghiên cứu nhằm nhận diện xu hướng

phát triển hiến pháp ở các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Trên cơ sở đó,

phân tích cùng bối cảnh các quốc gia Hồi giáo trên thế giới để đánh giá được xu thế vận

động chung. Ngoài ra, gợi mở và đưa ra những khuyến nghị nâng cao vai trò, hiệu lực

của hiến pháp trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.

2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các bản hiến pháp của các quốc gia chịu ảnh

hưởng Hồi giáo trong khu vực, lịch sử lập hiến của từng quốc gia, các dấu vết của Hồi

giáo trong hiến pháp và đời sống xã hội trên thực tế, các yếu tố tác động đến việc hình

thành hiến pháp và Hồi giáo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm hiểu các công trình khoa học

đã có liên quan đến hiến pháp và Hồi giáo, mối quan hệ giữa hiến pháp và các nguồn tôn

giáo,… của các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á.

Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là khu vực Đông Nam Á, với sự tập trung vào

ba trường hợp Indonesia, Malaysia, Brunei. Đây là ba quốc gia mà dấu vết Hồi giáo ảnh

hưởng rõ rệt nhất trong đời sống sinh hoạt pháp luật và xã hội. Vị trí của Hồi giáo được

khẳng định và nhấn mạnh ngay từ Lời nói đầu của hiến pháp và được điều chỉnh, ghi nhận

trong rất nhiều điều, nhiều chương của các bản hiến pháp từng thời kỳ. Về thời gian, đề

tài xem xét từ những bản hiến pháp đầu tiên được coi là viên gạch nền tảng cho sự phát

triển và thay đổi của hiến pháp về sau tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.

3. Những điểm mới của nghiên cứu

Nghiên cứu có một số điểm mới sau:

Nghiên cứu đánh giá sự tác động của lịch sử, văn hóa và đặc biệt là tôn giáo tới lịch

sử và sự phát triển hiến pháp các quốc gia Hồi giáo Đông Nam Á. Đồng thời, đưa ra cái

nhìn tổng thể về tiến trình lập hiến và điểm mới của từng bản hiến pháp của Indonesia,

Malaysia, Brunei trong sự so sánh đánh giá lẫn nhau. Đây là các quốc gia có hiến pháp ít

được nghiên cứu đề cập đến trong các công trình khoa học đánh giá về sự thay đổi của

hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới. Đồng thời, hầu hết các nghiên cứu về hiến

pháp ba quốc gia đều đang nghiên cứu ở mức độ riêng lẻ từng giai đoạn, từng quốc gia.

Với khóa luận, hiến pháp ba quốc gia sẽ được nghiên cứu đồng thời cùng nhau và xuyên

suốt trong quá trình lịch sử.

Khóa luận cũng đưa ra lý do và cơ sở cho sự thay đổi hiến pháp các quốc gia trong

từng giai đoạn, cũng như sự thực thi ở hiện tại với một số dẫn chứng thực tế tiêu biểu.

Nghiên cứu đồng thời chỉ ra khuynh hướng phát triển và quy luật của hiến pháp các quốc

gia Hồi giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay với sự đan xen và ảnh hưởng của nhiều yếu

tố. Đồng thời, kết hợp với những thay đổi trong lịch sử để đẩy ra những bản sắc pháp lý

riêng, hệ tư tưởng pháp lý riêng của Indonesia, Malaysia và Brunei.

Cuối cùng, từ những ghi nhận trong hiến pháp và thực tiễn thi hành tại từng quốc gia,

cách xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và hiến pháp, kinh nghiệm xử lý của từng quốc gia

trong bối cảnh khu vực và thế giới,… khóa luận đưa ra những kiến giải và gợi mở bài học

cho Việt Nam trong quá trình cải cách hiến pháp nước ta nhằm phù hợp với thay đổi trong

nước và hội nhập quốc tế.

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án

Nghiên cứu mang chứa ý nghĩa khoa học, bởi nghiên cứu là tài liệu cho việc nghiên

cứu về các quốc gia khu vực Đông Nam Á, nhìn nhận một phần pháp luật và nhà nước

các quốc gia ASEAN. Không chỉ vậy, nghiên cứu còn đưa ra cái nhìn tổng quát về lịch

sử nhà nước và pháp luật, lịch sử lập hiến các nước,… Đây cũng là nghiên cứu có tính hệ

thống về các bản hiến pháp cũng như thay đổi hiến pháp các quốc gia dành cho những

người muốn nghiên cứu sâu về hiến pháp và Hồi giáo.

Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận thể hiện đưa ra những bài học và kinh nghiệm xử lý

trên thực tiễn của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, đưa đến bài học giải

quyết mối quan hệ Hồi giáo và pháp luật tại các quốc gia Hồi giáo trên thế giới nói chung.

Không chỉ vậy, khóa luận còn đưa đến gợi mở liên quan đến cải cách hiến pháp tại Việt

Nam, về quyền tự do tôn giáo, các vấn đề Hồi giáo và tôn giáo được hiến định, việc giải

quyết mối quan hệ giữa luật pháp và các yếu tố khác chi phối trong xã hội để thực sự đem

lại một xã hội “thượng tôn pháp luật”.

5. Bố cục của khóa luận

Khóa luận bao gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục và

ba (3) chương:

Chương 1: Hồi giáo và pháp luật ở Đông Nam Á: Lịch sử phát triển và những vấn đề

lý luận cơ bản

Chương 2: Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo trong khu

vực Đông Nam Á.

Chương 3: Xu hướng phát triển, những gợi mở và vấn đề đặt ra.

CHƯƠNG 1.

HỒI GIÁO VÀ PHÁP LUẬT Ở ĐÔNG NAM Á: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN

VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN

Thuật ngữ “Hồi giáo” (Islam, Musulman) có nghĩa là “sự khuất phục”, sự “hiến dâng”

[19]. Những người theo Hồi giáo sống và thực hiện công việc dựa trên những lời răn dạy

của thánh Allah được nhà tiên tri Mohammed truyền lại. Những hạt giống đầu tiên về đạo

Hồi được nảy mầm từ thế kỷ VII, khi thương gia thành phố Mécca – Mohammed đi truyền

bá thông điệp đến từ đấng Allah tối cao. Ngày mà Mohammed rời gót chân khỏi Mécca

được coi là ngày bắt đầu lịch Hồi giáo – ngày hijra. Trong khi châu Âu còn đang chìm

đắm trong đêm trường Trung cổ thì nền văn hoá Hồi giáo đã phát triển mạnh mẽ [19].

Theo Th. Van Baaren, trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến XIV, ảnh hưởng của nền

văn minh Hồi giáo với thế giới lớn hơn bất kỳ một đế quốc nào khác trong lịch sử bấy giờ

[70, 137]. Đạo Hồi và luật Hồi giáo đã tồn tại hơn 1.300 năm và phát triển ảnh hưởng của

mình từ bán đảo Ả rập đến châu Phi, châu Á. Sự phát triển của Hồi giáo ngày càng mạnh

mẽ, màu sắc Hồi giáo len lỏi vào nếp suy nghĩ và lối sống của nhiều cộng đồng, nhiều

dân tộc khác nhau. Nghiên cứu đầu năm 2011 về Tương lai của dân số Islam giáo toàn

cầu của Trung tâm nghiên cứu PEW đã đưa ra nhận định rằng, số lượng tín đồ Islam giáo

sẽ tăng khoảng 35% trong vòng 20 năm tới và đạt khoảng 2,2 tỷ người vào năm 2030.

Trên bản đồ Hồi giáo, khu vực Đông Nam Á là một khu vực có sự du nhập và ảnh hưởng

của Hồi giáo rất mạnh mẽ, tiêu biểu là ba (3) quốc gia: Indonesia, Malaysia, Brunei.

1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Hồi giáo ở Đông Nam Á và những đặc điểm

cơ bản

1.1.1. Khái quát về lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á

Đông Nam Á là khu vực nằm giữa hai đại dương lớn là Ấn Độ Dương và Thái Bình

Dương. Khu vực này rộng 4.494.047 km² (chiếm 10.5% diện tích Châu Á và 3% diện tích

đất trên Trái Đất). Phần lớn khu vực nằm ở bán cầu Bắc và nằm một chút tại bán cầu

Nam. Nó bao gồm 11 quốc gia được chia thành 2 nhóm: Nhóm đất liền (Bán đảo Trung -

Ấn): Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và phía tây Malaysia; Nhóm hải

đảo (Quần đảo Mã Lai): Indonesia, phía đông Malaysia, Singapore, Philipines, Đông

Timor, Brunei [7].

Hầu hết các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đều có những biến động và giai đoạn

thăng trầm phức tạp. Lịch sử khu vực Đông Nam Á có thể chia làm bốn (4) giai đoạn như

sau:

Giai đoạn 1: Từ thời nguyên thủy đến xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong thời kỳ

đồ đá, kỹ thuật chế tác công cụ Đông Nam Á, vừa mang đặc trưng của trình độ kỹ thuật

đá cũ trên thế giới, vừa có biểu hiện thể hiện tính trội của khu vực: văn hóa đá cuội (Pebble

culture) và những công cụ chặt có dáng thô sơ (Chopper và Chopping-tool) [13].

Giai đoạn 2: Giai đoạn xác lập và phát triển thịnh đạt của các vương quốc Đông

Nam Á. Sau sự tan rã của Vương quốc Phù Nam (thế kỷ VII), các quốc gia sơ kỳ như

Srivijaya, Kalinga ở Indonesia, quốc gia của người Khmer, người Môn, người Mianma,

người Thái,… bắt đầu xuất hiện cùng với những kỳ tích văn hóa, điển hình như tổng thể

kiến trúc Bôrôbuađua (Borobudur) ở Java [13]. Trong khi Ấn Độ thường xuyên có những

biến động bên trong, Trung Quốc rơi vào sự khủng hoảng, suy thoái liên mien hay Châu

Âu chìm trong “đêm trường trung cổ” thì ở giai đoạn này, Đông Nam Á đã đạt đỉnh cao

phát triển.

Giai đoạn 3: Giai đoạn suy thoái của các quốc gia phong kiến và phong trào đấu

tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Sau sự phát triển huy

hoàng, biểu đồ của khu vực Đông Nam Á có sự suy thoái. Từ thế kỷ XVI trở đi, các quốc

gia Đông Nam Á đã không còn đủ sức thực hiện mục tiêu phát triển và tự bảo vệ mình

[13]. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều phải chịu ách đô hộ thực dân trong một thời

gian dài. Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa

của các nước thuộc lục địa Châu Âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha [24]. Còn Malaysia,

Singapore, Brunei, Myanmar, giống như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế

giới, gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ [24].

Giai đoạn 4: Giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Sau những nỗ lực bền bỉ và cuộc đấu

tranh quả cảm, phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khôi phục lại được sự độc lập và tự

chủ. Đây cũng là thời điểm nhiều bản hiến pháp trong khu vực được ra đời. Các quốc gia

Đông Nam Á vực dậy từ trong tro tàn chiến tranh và từng bước gây dựng lại đất nước,

phát triển kinh tế. Cho đến nay, Đông Nam Á có sự khởi sắc nhất định và trở thành một

trong những khu vực kinh tế, dân chủ đáng chú ý trên thế giới.

Có thể thấy, các quốc gia Đông Nam Á đều chịu sự biến động lịch sử và có tiến trình

phát triển với sự ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Điều đó cũng là một

trong những lý do khiến Đông Nam Á được coi là “ngã tư đường thế giới” ở cả mặt địa

lý và văn hóa, tôn giáo, pháp luật.

1.1.2. Ảnh hưởng của Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á

Thứ nhất, về quá trình lịch sử Hồi giáo du nhập vào khu vực Đông Nam Á

Tuy là một tôn giáo lớn và phổ biến trên thế giới nhưng Hồi giáo ảnh hướng tới khu

vực Đông Nam Á khá muộn. Cho đến nay vẫn còn nhiều điều tranh cãi về thời điểm chính

xác đạo Hồi du nhập vào khu vực Đông Nam Á. Ý kiến nhận định Hồi giáo du nhập vào

đây thông qua các thương gia Ả rập và Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VII-XIII [13] là ý kiến

nhận được nhiều sự ủng hộ nhất. Do sự du nhập muộn nên "lưỡi gươm tàn bạo của Hồi

giáo" không còn thoả sức hoành hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn giáo cho các cư

dân các vùng đất bị người Ả rập Hồi giáo chiếm đóng nữa” [14]. Đó cũng là một phần lý

giải cho việc Hồi giáo tại Đông Nam Á có phần ôn hòa hơn các khu vực khác. Đạo Hồi

bén rễ tại khu vực Đông Nam Á thông qua con đường buôn bán đường thủy nối Tây Ấn

Độ và Đông Á. Dần dần, lan tỏa đến Malaysia, Indonesia, sau đó qua con đường Malaysia

lan ra các đảo miền Nam Philippines. Thông qua những lần giao thương, buôn bán và trao

đổi với thương nhân các quốc gia khác, “một cơn gió mới thổi vào vùng Đông Nam Á

hải đảo làm chao đảo kỉ nguyên Ấn Độ hóa của cư dân nơi đây. Cơn gió mới đó chính là

Hồi giáo do những thương nhân Hồi giáo (Ả rập, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư) mang đến

khi những hoạt động thương mại ngày càng gia tăng với Đông Nam Á hải đảo” [1].

Nơi đặt chân đầu tiên của Hồi giáo là vùng Bắc Sumatơ của người Ache. Do con

đường ảnh hưởng chính là thông qua buôn bán, giao thương nên điểm chung là những nơi

phát triển giao lưu buôn bán ở khu vực Đông Nam Á là những nơi có sự xâm nhập đầu

tiên và phát triển lớn mạnh về Hồi giáo [16]. Những Hồi quốc (Sultanate) đầu tiên ở Đông

Nam Á được thành lập vào thế kỷ XIII. Teranate (1257), là một trong những Hồi quốc

lâu đời nhất ở Indonesia, được thành lập bởi Baab Mashur Malamo (1257 - 1277).

Samudera Pasai (1267), Hồi quốc nằm ở phía Bắc đảo Sumatra đã chuyển sang Hồi giáo

dưới thời trị vì của Malik ul Salih [17]. Sự có mặt của Hồi giáo khá thuận lợi, không có

sự ghi nhận nào về chiến tranh tôn giáo lớn bùng nổ ngoài những cuộc đụng độ nhỏ ở

Philippines. Có lẽ vì vậy mà Hồi giáo rất nhanh hòa mình và sống cuộc sống của chính

nó tại mảnh đất Đông Nam Á hải đảo với ba quốc gia tiêu biểu là Malaysia, Indonesia và

Brunei. Khi sang đến Đông Nam Á lục địa, Phật giáo và nền văn hóa Phật giáo là một rào

cản lớn với đạo Hồi. Vì thế, đạo Hồi ở Myanmar, Thái Lan, Việt Nam hay Campuchia

không mạnh mẽ và bền sâu như ở khu vực Đông Nam hải đảo mà thu lại thành những

cộng đồng dân cư thiểu số. Đến thế kỉ XV, XVI, Hồi giáo lan tỏa một cách mạnh mẽ và

sâu rộng ở hầu hết Đông Nam Á hải đảo. Nhiều Hồi quốc hình thành và trở thành những

trung tâm Hồi giáo và thương mại quan trọng trong khu vực. Sự hình thành các Hồi quốc

ở Đông Nam Á hải đảo diễn ra theo “hiệu ứng dây chuyền”. Thế kỷ XV, nhà nước Hồi

giáo đầu tiên được thành lập trên đất liền Malaysia là Malacca (1400), Cirebon (1445),

Demak (1475)…[1] đây là thời kì mà hoạt động thương mại của những thương nhân Hồi

giáo vẫn đang diễn ra nhộn nhịp với các trung tâm thương mại trọng yếu ở Đông Nam Á

hải đảo.

Như vậy, có thể thấy quá trình du nhập Hồi giáo tới các quốc gia Đông Nam Á thông

qua đường thủy gắn liền với sự giao thương buôn bán. Cùng với sự du nhập của Hồi giáo,

diện mạo đời sống khu vực Đông Nam Á đã có sự thay đổi đáng kể. Cho đến nay, dù có

nhiều biến động chính trị và đời sống xã hội thay đổi, song, tầm ảnh hưởng và dấu ấn Hồi

giáo vẫn hiện hữu rất rõ nét ở các quốc gia Đông Nam Á, tiêu biểu là ba quốc gia:

Indonesia, Malaysia, Brunei.

Thứ hai, về nguyên nhân Hồi giáo ảnh hưởng mạnh mẽ ở khu vực

Hồi giáo là tôn giáo đến sau ở mảnh đất Đông Nam Á. Trước khi làn gió Hồi giáo

thổi vào, Đông Nam Á đang tồn tại sự ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa và Phật giáo. Vậy

nguyên nhân nào mà ảnh hưởng Hồi giáo có thể lan tỏa nhanh chóng và đâm sâu, bám

chắc trong tư tưởng và đời sống cộng đồng người dân khu vực đến vậy?

Đầu tiên, thời kỳ Hồi giáo hóa Đông Nam Á trùng với thời kỳ khủng hoảng các vương

quốc cổ đại (Ví dụ ở Chămpa lục địa). Sự suy yếu của quốc gia Ấn Độ - Phật giáo

Majapahit hùng mạnh khiến Hồi giáo dễ dàng chen chân vào đời sống của người dân

trong khu vực. “Nếu như trước đây, Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên

bán đảo Ả rập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc này Hồi giáo trở thành

ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Indonesia đấu tranh giành độc lập, phát triển

kinh tế” [19]. Hồi giáo trở thành vũ khí sắc bén tạo dựng cộng đồng đoàn kết, thực hiện

ý đồ mở rộng lãnh thổ và truyền bá văn hóa ra ngoài lãnh thổ của các tiểu quốc ở khu vực

Đông Nam Á.

Tiếp đó, sự phát triển của kinh tế, giao thương buôn bán ở các quốc gia hải đảo cũng

mở cửa chào đón các giáo lý đạo Hồi. Sự bình đẳng, phóng khoáng và đơn giản trong lễ

nghi Hồi giáo phù hợp với tầng lớp thương nhân được giới quý tộc tại Indonesia và

Malaysia rất chào đón.

Cùng với sự phát triển của kinh tế, những cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị,

kinh tế giữa người bản địa cùng thương nhân định cư ở khu vực diễn ra khá phổ biến.

Con đường cải giáo phù hợp với sự phát triển tự nhiên và tâm lý của người dân các quốc

gia Hồi giáo trong khu vực [20]. Ví dụ như vua Pasai đã cải sang Hồi giáo khi cưới một

công chúa Hồi giáo lúc ông đã 72 tuổi [21].

Một trong những điểm nổi bật của các quốc gia khu vực Đông Nam Á nói chung và

các quốc gia Hồi giáo nói riêng là sự mềm dẻo, dễ thích nghi với những sự du nhập từ

bên ngoài. Và Hồi giáo qua một chặng đường dài cùng thời gian lâu để từ Trung Đông

đến cửa ngõ Đông Nam Á, tính khắc nghiệt đã giảm bớt, sự linh hoạt được nâng cao hơn.

Hồi giáo dễ chung sống với các tôn giáo có mặt sẵn có ở Đông Nam Á. Kết hợp với các

truyền thống địa phương, vương quyền càng giúp Hồi giáo nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí

của mình. Nếu nhà vua Indonesia theo đạo Hồi, thì theo quan điểm lòng trung thành, rất

cả dân chúng cũng cải đạo theo – đây là một trong những minh chứng tiêu biểu rằng chế

độ vương quyền và truyền thống, tập tục vốn có ở các quốc gia Hồi giáo trong khu vực

tạo đà cho sự phát triển Hồi giáo.

Không chỉ vậy, Đông Nam Á là xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo không cần dùng đến bạo

lực để giành lấy sự ảnh hưởng. Vốn mang tồn tại màu sắc của chủ nghĩa thần bí có sẵn

trong truyền thông văn hóa của các cư dân vùng bán đảo Ả rập, Hồi giáo vì thế đi lại rất

tự nhiên trong cuộc sống tâm linh và thần bí phương Đông [22].

Trong thế kỉ XV, Malacca được xem là điểm dừng chân, nơi án ngữ tuyến đường

chính trong giao thương hàng hóa từ phương Tây đến Đông Nam Á [1]. Để có thể giao

tiếp và buôn bán với nhau, những thương nhân đến từ những vùng đất khác nhau cần một

ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ duy nhất đáp ứng được yêu cầu lúc bấy giờ chính là tiếng

Melayu của người Malaya ở Malacca. Việc sử dụng rộng rãi và chung một ngôn ngữ cũng

khiến Hồi giáo phát triển mạnh mẽ hơn. Hầu hết người dân ở Malacca đều theo Hồi giáo.

Bên cạnh việc khuyến khích làm giàu, quan niệm về con người bình đẳng với nhau

trước thánh Allah của Hồi giáo khiến người dân khu vực các quốc gia Hồi giáo Đông

Nam Á nhìn nhận tôn giáo này hoàn toàn khác so với sự phân chia đẳng cấp trong xã hội

vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc Hinđu giáo. Cảm thấy bản thân được tôn trọng, điều mà chưa

bao giờ cảm nhận có lẽ là một trong những lý do khiến người dân không chống đối mà

đón nhận Hồi giáo trong sự hân hoan [1].

1.1.3. Khái quát những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo tại Đông Nam Á

Với những đặc điểm riêng, Hồi giáo tại các nước trong Đông Nam Á vừa mang đặc

điểm chung của Hồi giáo truyền thống, vừa mang đặc điểm riêng.

Thứ nhất, quá trình Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á diễn ra muộn hơn so với các

khu vực khác trên thế giới nhưng lại mạnh mẽ và có sức lan tỏa, đặc biệt là trong giai

đoạn XV – XVI. Để có được quá trình Hồi giáo hóa như vậy, Hồi giáo đã từng bước thâm

nhập và đời sống con người. Sau cả một quá trình giao thương và chuẩn bị trước đó, kết

quả là Hồi giáo đã nhẹ nhàng thâm nhập vào đời sống xã hội và pháp luật các nước Đông

Nam Á.

Thứ hai, trong quá trình hòa nhập và truyền bá ở khu vực Đông Nam Á, Hồi giáo

cũng gặp những rào cản không thể tránh khỏi. Nhưng khác với khu vực Bắc Phi hay bán

đảo Ibrique (Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha), Hồi giáo không cưỡng bức tôn giáo bằng bạo

lực, mà thâm nhập rất tự nhiên, với phương thức hòa bình, “không súng ống, giáo mác”

tại khu vực Đông Nam Á.

Thứ ba, nếu như Thiên Chúa lan tỏa ánh sáng giáo lý theo chiều “từ dưới lên” thì Hồi

giáo khu vực Đông Nam Á truyền bá đức tin theo chiều “từ trên xuống” [1]. Do vậy,

người đứng đầu chính quyền thường là người chấp nhận thánh Allah. Những người khác

cũng cải đạo theo. Một phần nguyên nhân xuất phát từ nguồn gốc sâu xa của Hồi giáo

nguyên thủy trong ý tưởng của Mohammed về việc xây dựng một nhà nước Hồi giáo do

mình đứng đầu. Hồi giáo ăn sâu vào chính quyền vừa là đặc điểm nổi bật vừa là nguyên

nhân lý giải tại sao Hồi giáo thường có ảnh hưởng mạnh mẽ tại các chính thể quân chủ.

Ví dụ tại Brunei, tôn giáo cũng ăn sâu trong hệ thống nhà nước. Điều 3 (3) của Hiến pháp

Brunei Brunei năm 1959 sắp xếp để Hội đồng tôn giáo hoạt động với tư cách là Cố vấn

tôn giáo cho Quốc vương. Sự độc quyền về mặt xác định quyền lợi này không có gì đáng

ngạc nhiên khi Brunei thực sự là một chế độ quân chủ tuyệt đối, điều đó có nghĩa là các

quyết định liên quan đến chính trị, tư pháp và hành pháp nào đều thuộc quyền quyết định

của Quốc vương. Theo điều 38 của Hội đồng tôn giáo và Đạo luật Tòa án Kadis (Brunei),

vai trò của Hội đồng tôn giáo Hồi giáo là: “Thay mặt và dưới quyền của Hoàng thượng

với tư cách là người đứng đầu Tôn giáo Brunei Darussalam, giúp đỡ và tư vấn cho Quốc

vương về tất cả các vấn đề liên quan đến tôn giáo của Brunei Darussalam…” [26].

Thứ tư, Hồi giáo của những quốc gia khác nhau lại có những điểm riêng, nhưng điểm

chung của các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á là Hồi giáo đã có nhiều

điểm khác biệt với Hồi giáo chính thống. Với việc pha trộn tín ngưỡng, sự đa dạng sắc

tộc và thông qua “máy lọc” đầy tính nhân bản của nền văn minh bản địa khi tiếp nhận

Hồi giáo [27]. Đồng thời sau một quá trình dài di chuyển và thay đổi cho phù hợp với con

người và lối sống khu vực, Hồi giáo ở Đông Nam Á đã bay bớt màu sắc khắc nghiệt và

dã man. Hồi giáo Đông Nam Á có sự ôn hòa, mềm dẻo hơn.

Thứ năm, mặc dù xâm nhập và chung sống khá tốt với các tôn giáo cùng tín ngưỡng

bản địa, xong Hồi giáo vẫn vấp phải sự thời ơ, lạnh nhạt đến từ một số quốc gia trong

Đông Nam Á. Bali là ví dụ điển hình về việc đối đầu với sự phát triển của Hồi giáo trong

thế kỉ XVI bằng sự lớn mạnh về chính trị và sự phát triển mạnh mẽ của Bà la môn giáo

[1]. Việc ảnh hưởng của Hồi giáo cũng bị chững lại do quá trình thuộc địa cùng các chính

sách thực dân nhằm làm xói mòn pháp luật Hồi giáo, đặt ách thống trị thực dân dễ dàng

hơn [29].

Thứ sáu, quá trình Hồi giáo hóa vẫn đang tiếp diễn ở các quốc gia Đông Nam Á hải

đảo khi tại nhiều cộng đồng, tín ngưỡng bản địa vẫn chiếm địa vị thống trị. Hệ quả của

quá trình là sự ra đời của các Hồi quốc ở vùng bán đảo nay thuộc Indonesia và Malaysia.

Với số lượng tín đồ Hồi giáo là 87,2% dân số theo Hồi giáo [30], dù không thừa nhận

chính thức nhưng Indonesia là quốc gia có số lượng tín đồ Hồi giáo đông nhất trên thế

giới. Malaysia và Brunei khẳng định rõ ràng Hồi giáo là quốc giáo. Sự xuất hiện của Hồi

giáo vẽ thêm màu sắc cho bức tranh tôn giáo, bản sắc vốn đa dạng của Đông Nam Á.

Thứ bảy, Hồi giáo có xu hướng gia tăng ảnh hưởng của mình tại các quốc gia. Tuy

nhiên, khác với những quốc gia Hồi giáo ở Trung cận Đông, Hồi giáo mặc dù có khả năng

chi phối, ảnh hưởng tực tiếp đến hoà bình và ồn định của khu vực nhưng sự chi phối của

Hồi giáo ở Đông Nam Á vẫn mềm mại và ít căng thẳng hơn khi đóng vai trò quốc đạo và

hệ tư tưởng điều hành đất nước tại một số quốc gia. Sức cải biến, sự linh hoạt tác động

ngược trở lại để hoà nhập văn minh bên ngoài vào mình của nền văn hoá bản địa Đông

Nam Á là lý do giải thích cho điều đó [31].

1.1.4. Đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á

Với sự mở rộng của Hồi giáo, luật Hồi giáo (Moslem law hay Islamic law) trong tiếng

Ảrập gọi là Shari'ah (con đường đúng đắn) bao gồm một hệ thống các quy định tôn giáo

[55, 174] ngày càng có ảnh hưởng tại các quốc gia theo Hồi giáo trong khu vực Đông

Nam Á. Luật Shari’ah dựa trên triết lý đạo Hồi nhằm lập ra khuôn vàng thước ngọc cho

các hành vi con người, hoạt động của cơ quan, tổ chức, những điều diễn ra xung quanh

đời sống cá nhân: ăn kiêng, nuôi dạy con cái, nguyên tắc tu hành, bố thí cho người

nghèo,… Ở phạm vi rộng hơn, nó cũng được dùng để giải quyết tranh chấp, xung đột

quốc tế và vấn đề chiến tranh [5]. Giống như các dòng họ pháp luật khác trên thế giới,

pháp luật Hồi giáo cũng có những đặc điểm riêng và khi du nhập sang Đông Nam Á, pháp

luật Hồi giáo cũng có những đặc điểm riêng biệt như vậy.

Thứ nhất, về nguồn pháp luật. Hệ thống pháp luật Hồi giáo thừa nhận bốn (4) nguồn

luật, cụ thể:

(1) Kinh Coran: là cuốn thánh kinh với 6.237 câu thơ chia thành 30 tiết, 114 chương.

Các chương dài ngắn khác nhau, chương dài nhất có 286 tiết, ngắn nhất là 3 tiết.

Chiếm 2/3 kinh thánh là chương Mecca (do ban hành ở Mecca) và chiếm 1/3 kinh

thánh là chương Madina (do ban hành ở Madina). Nội dung của kinh Coran bao

gồm các nguyên tắc pháp luật, các quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự và hôn

nhân gia đình, các quan hệ hình sự, các quan hệ tố tụng, thương mại, tài chính và

quan hệ quốc tế [19].

(2) Sunna: Các phong tục tập quán truyền thống.

(3) Ijam: Sự thỏa thuận, nhất trí của người có thẩm quyền.

(4) Quiyas: Suy đoán tương tự pháp luật.

Pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á sử dụng cả bốn (4) nguồn trên, song trên

thực tế, Coran và Sunna là hai nguồn phổ biến hơn cả. So với Coran và Sunna, Ijam và

Quiyas được đánh giá là hai (2) nguồn phụ [51, 92]. Việc áp dụng các điều khoản trong

Coran và Sunna ở khu vực Đông Nam Á có phần bớt khắc nghiệt hơn so với các khu vực

khác trên thế giới. Và việc áp dụng các nguồn pháp luật Hồi giáo dần thu hẹp trong phạm

vi hôn nhân, gia đình và thừa kế [84].

Thứ hai, về hình thức pháp luật, pháp luật Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á vừa là

các điều khoản thành văn được Nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp và các bản Kinh thánh

được tòa án Shari’ah sử dụng. Trong thực tiễn tại Malaysia hay Indonesia và Brunei, ranh

giới phân biệt giữa Kinh Thánh của Hồi giáo và pháp luật của nhà nước thường không rõ

ràng. Việc xâm hại đến một “câu thơ” trong Kinh Thánh cũng đồng thời với việc vi phạm

quy định của nhà nước: vi phạm pháp luật [37] (biểu hiện của "Tôn giáo pháp"). Việc đưa

ra phán quyết và lập luận của cơ quan tư pháp cũng là nguồn pháp luật quan trọng để

đánh giá việc thực thi Hiến pháp và luật Hồi giáo trên thực tiễn. Điều này được đánh giá

là việc chuyển hóa những quan điểm, ý kiến pháp bởi các học giả pháp lý đạo Hồi vào

văn bản pháp luật [8, 57].

Thứ ba, vai trò lập pháp của cơ quan tư pháp. Những tín đồ trung thành với đạo

Hồi luôn sùng bái luật Hồi giáo trong sự bất diệt và không bao giờ đổi thay. Bởi vậy, ở

một số “thánh đường Hồi giáo”, trong bộ máy Nhà nước chỉ có nhánh hành pháp và tư

pháp mà không có lập pháp. Quan niệm thánh Allah mới có quyền làm ra luật, dẫn đến

tư duy Nhà nước chỉ là sự hỗ trợ, thứ cấp bên cạnh giáo lý đạo Hồi. Các điều luật do Nhà

nước ban hành chủ yếu nhằm “điền vào chỗ trống” trong luật Hồi giáo. Tuy vậy, ở

Malaysia, Indonesia và Brunei, đều có cơ quan lập pháp để thực hiện quá trình thành lập

Hiến pháp và pháp luật. Dù rằng theo dòng thời gian, Brunei có sự bất ổn, thậm chí có

thời gian cơ quan lập pháp đã bị xóa bỏ theo lệnh của Sultan, nhưng không thể phủ nhận

trong quá khứ và hiện tại, các quốc gia Hồi giáo ở Đông Nam Á đều có cơ quan lập pháp

riêng biệt.

Thứ tư, trong mối tương quan giữa luật nội dung và luật hình thức, pháp luật Hồi

giáo khu vực Đông Nam Á cũng chịu chi phối chung của luật Hồi giáo trên thế giới. Rất

khó để phân biệt giữa quy định pháp luật và các quy định về tôn giáo vì người Hồi giáo

cho rằng pháp luật và tôn giáo là một [4, 134]. Tại Đông Nam Á, sự phân biệt giữa luật

Hồi giáo và luật do Nhà nước ban hành khá rõ ràng trong Hiến pháp. Trên thực tế, việc

quy định và ghi nhận luật Hồi giáo thường được chia riêng thành một chương, do đó, có

thể thấy Nhà nước cũng có ý thức trong việc phân biệt luật Hồi giáo và luật do Nhà nước

ban hành.

Thứ năm, dù không phân chia rõ ràng các vấn đề nào thuộc luật công, các vấn đề

nào thuộc luật tư, song pháp luật Hồi giáo ở Đông Nam Á điều chỉnh gần như toàn bộ các

vấn đề trong đời sống xã hội của người theo Hồi giáo trong khu vực. Chỉ khác ở chỗ điều

khoản nào còn được sử dụng, điều khoản nào không còn được sử dụng. Việc nâng từ tôn

giáo và đạo đức thành quy phạm đã khiến pháp luật Hồi giáo Đông Nam Á mang màu

sắc chính trị thần quyền đặc trưng bao trùm các vấn đề mang tính chất công – tư. Đạo Hồi

còn can thiệp cả những vấn đề mà pháp luật không quy định: giờ cầu nguyện, giờ đánh

răng, ngày phải đi lễ, cách ăn mặc,…[55, 174].

Thứ sáu, về mức độ và trình độ pháp điển hóa. Cùng với xu thế hội nhập và sự linh

hoạt chuyển mình theo thế giới, pháp luật Hồi giáo Đông Nam Á đã có những điểm mới

trong việc pháp điển hóa. Các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á có xu hướng

phương Tây hóa pháp luật, tiếp nhận những điều tiên tiến trên thế giới: xây dựng bộ máy

nhà nước theo nguyên tắc phân quyền (được ghi nhận trong Hiến pháp Malaysia và

Indonesia), tổ chức hệ thống tòa án thường phi tôn giáo bên cạnh tòa Shari’ah và xét xử

các tội hình sự, tội nghiêm trọng theo quy định của hiến pháp,… Đồng thời, dần tiếp cận

quyền con người và sự bình đẳng trong các giới của xã hội. Điển hình như việc tăng số

lượng các điều khoản và đẩy chương Quyền con người lên chương II của Hiến pháp

Malaysia

1.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Đông Nam Á

Để nghiên cứu và tìm hiểu về hiến pháp một quốc gia hay đặc điểm chung hiến pháp

của một khu vực, người nghiên cứu không thể bỏ qua những đặc điểm cơ bản của pháp

luật Đông Nam Á. Việc “bắt mạch” những đặc điểm chung cho pháp luật Đông Nam Á

vừa là cơ sở vừa có thể lý giải nguyên nhân của các điều khoản trong hiến pháp, về những

điều trong nội dung của hiến pháp. Giống như bất kỳ khu vực nào trên thế giới, pháp luật

Đông Nam Á có những đặc điểm không trộn lẫn.

Đầu tiên, hệ thống pháp luật Đông Nam Á có nguồn luật đa dạng và phong phú.

Từ nguồn thành văn và bất thành văn, có thể kể đến như: các văn bản quy phạm pháp luật

do Nhà nước ban hành, án lệ của tòa án, lẽ công bằng, tập quán pháp, các học thuyết pháp

lý,… Không chỉ vậy pháp luật Đông Nam Á còn chịu ảnh hưởng từ các dòng họ pháp luật

lớn trên thế giới: dòng họ pháp luật Common law, Civil law, Hồi giáo hay dòng họ pháp

luật Xã hội chủ nghĩa,… Với dòng họ Civil law được tiếp nhận ở nhiều nước trong khu

vực chủ yếu gắn liền với quá trình xâm chiếm thuộc địa của các nước châu Âu lục địa

Trừ Thái Lan, luật chịu ảnh hưởng của dòng họ Civil law có thể kể đến là Việt Nam, Lào,

Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa của các nước thuộc lục địa

châu Âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha [24]. Giống như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ

khác trên thế giới, sự ảnh hưởng của Common law ở các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu

gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ. Có thể kể đến

như: Malaysia, Singapore, Brunei, Myanmar, Philippines [24]. Dòng họ pháp luật XHCN

cũng hiện diện trong các nước khu vực Đông Nam Á ngay sau Đại chiến thế giới lần thứ

II. Ngoài Việt Nam và Lào, hai hệ thống pháp luật khác là Myanmar và Indonesia cũng

đã có những nhân tố nhất định của dòng họ pháp luật XHCN trong lịch sử phát triển của

mình [24]. Và như những phân tích ở trên, có thể thấy một trong những dòng họ pháp luật

ảnh hưởng sâu rộng ở khu vực Đông Nam Á là dòng họ pháp luật Hồi giáo với những đại

diện tiêu biểu là Indonesia Malaysia, Brunei [24]. Từng có nhận định cho rằng: “hầu hết

các hệ thống pháp luật, thậm chí, Thái Lan, Philippines, Singapore - những nước không

có đa số người Hồi giáo, vẫn coi luật Hồi giáo như là hệ thống pháp luật tách biệt” [78,

177].

Như vậy, có thể nhận thấy, pháp luật các quốc gia khu vực Đông Nam Á có nguồn

luật vô cùng phong phú, đa dạng, có cả nguồn luật nội sinh và ngoại sinh. Tuy vậy, việc

áp dụng thực tiễn các nguồn luật trong từng quốc gia với các mức độ lại khác nhau. Ví

dụ, ở Singapore, thẩm phán thường hay dẫn chiếu đến án lệ của Anh quốc trong khi xét

xử. Còn với Malaysia, nguồn luật Hồi giáo, luật thành văn và án lệ lại nổi trội hơn. Thái

Lan lại đề cao luật thành văn và án lệ.

Mặt khác, về quan điểm tư tưởng pháp lý, hệ thống pháp luật khu vực Đông Nam Á

cũng có nhiều điểm thú vị. Quan niệm pháp luật khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng

bởi các truyền thống pháp luật: truyền thống pháp luật Common law, Civil law, Hồi giáo,

Trung Quốc, Ấn Độ,… Do vị trí địa lý rất thuận lời, tiếp giáp với nhiều nền văn minh lớn

trên thế giới, là nơi giao thoa của các hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến sự ảnh hưởng

đan xen lên pháp luật khu vực.

Đồng thời, quan niệm pháp luật khu vực Đông Nam Á có điểm khác biệt khá rõ rệt

với các quốc gia phương Tây khi vẫn còn không ít quốc gia quan niệm rằng pháp luật là

một bộ phận của Nhà nước. Điều đó dẫn đến việc thực thi pháp luật trên thực tế, cụ thể là

hiến pháp có nhiều điểm bất cập so với lý thuyết.

Không những vậy, nhận thức về pháp luật, nhân quyền, pháp quyền khu vực Đông

Nam Á còn phát triển chậm. Sự kéo dài của chế độ vương quyền phong kiến và chế độ

chính trị hiện tại, đã khiến con người Đông Nam Á trở nên xa lạ với sự bình đẳng và đa

dạng. Tiếp cận và đảm bảo nhân quyền vẫn là vấn đề khó khăn và nhạy cảm với các quốc

gia trong khu vực. Do vậy, so với các khu vực khác trên thế giới, pháp luật về quyền con

người ở Đông Nam Á chưa thực sự đảm bảo.

Cuối cùng, pháp luật khu vực Đông Nam Á còn có sự ảnh hưởng đan xen của các

yếu tố khác nhau. Hiến pháp có sự ảnh hưởng của các quốc gia bên ngoài, chủ yếu là do

quá trình thực dân đã nói trên. So với các bản hiến pháp mẫu mực trên thế giới (Hiến pháp

Mỹ 1787, Hiến pháp Anh 1890), hiến pháp khu vực Đông Nam Á ra đời muộn hơn và

chịu nhiều biến động do hoàn cảnh lịch sử. Ra đời năm 1945 và trải qua ít nhất 7 lần “đại

trùng tu” để có diện mạo của hiến pháp hiện hành chính là một hành trình dài của Hiến

pháp Indonesia minh chứng cho sự “sinh sau đẻ muộn” của hiến pháp trong khu vực Đông

Nam Á. Không chỉ vậy, văn hóa pháp luật khu vực còn mềm dẻo, dễ tiếp nhận các yếu tố

khác nhau, dễ chung sống với các tư tưởng pháp luật ngoại lai,…

1.3. Các yếu tố có thể tác động đến pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia

Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á

Pháp luật không tồn tại một mình đơn lẻ mà luôn chịu sự tác động đến từ các yếu tố

khác. Có thể kể đến như: yếu tố vị trí, địa lý; yếu tố con người; yếu tố thời đại; yếu tố lịch

sử,…

Thứ nhất, các quốc gia Hồi giáo khu vực Đông Nam Á nằm trong khu vực rất thuận

lợi cho việc giao thương buôn bán, hầu hết là Đông Nam Á hải đảo. Việc giao thương

phát triển từ sớm, các dòng chảy văn hóa và pháp luật dễ tiếp cận và tư duy pháp lý cởi

mở, nhanh chóng cập nhật điểm mới hơn đến từ phương Tây. “Điểm chung của các quốc

gia Đông Nam Á là tất cả đều có kinh nghiệm, trực tiếp hoặc gián tiếp, chủ nghĩa đế quốc

phương Tây và chủ nghĩa thực dân trong lịch sử hiện đại của họ, đã có tác động đáng kể

đến sự phát triển chính trị và hiến pháp của các quốc gia.” [30, 32].

Thứ hai, đi cùng với yếu tố vị trí địa lý, yếu tố lịch sử có ảnh hưởng nhất định đến

pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo. Những yếu tố lịch sử sẵn có của

nội tại quốc gia cùng với bản sắc văn hóa truyền thông được gây dựng qua hàng ngàn

năm là rào cản không nhỏ với các quốc gia Hồi giáo khi chịu những tác động đến từ các

yếu tố khác. Cũng từng có nghiên cứu cho rằng các hiến pháp và tư tưởng lập hiến bắt

nguồn từ nền văn minh phương Tây, sau đó được cấy ghép vào các xã hội và văn hóa ở

các nơi khác trên thế giới như Trung Đông, Châu Á và Châu Phi. Do đó, các hiến pháp ở

các quốc gia phương Tây có thể được gọi là hiến pháp nguyên sơ và những hiến pháp ở

các quốc gia nằm ngoài quỹ đạo của phương Tây được gọi là hiến pháp thứ cấp [78, 177].

Yếu tố lịch sử đóng vai trò quan trọng trong sự ảnh hưởng của những bản hiến pháp

nguyên sơ đến hiến pháp ngoài quỹ đạo phương Tây.

Thứ ba, con người là một trong những nhân tố quan trọng trong mọi vấn đề. Yếu tố

con người có ảnh hưởng rất lớn đến pháp luật và hiến pháp các quốc gia. Tính cách và sự

dễ thích nghi khiến việc tiếp nhận các luồng ý kiến, tư tưởng, học thuyết về pháp luật

nhanh nhạy hơn. Như đã lý giải ở trên, một trong những yếu tố khiến Hồi giáo ảnh hưởng

mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á là do việc giao thương giữa con người với nhau. Không

chỉ vậy chính những cuộc hôn nhân chính trị cũng là nhân tố thúc đẩy việc ảnh hưởng của

Hồi giáo vào lối sống và pháp luật khu vực Đông Nam Á.

Thứ tư, bối cảnh thời đại cùng xu hướng thế giới là nhân tố có tầm ảnh hưởng đến

pháp luật nói chung và hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo. “Thế giới phẳng” với sự san

bằng mọi ranh giới khiến việc thông tin, trao đổi ngày càng trở nên dễ dàng. Những biến

đổi không ngừng của thế giới, bản thân các quốc gia Hồi giáo muốn hội nhập trên cơ sở

sự tự nguyện và chủ động tham gia ký kết các điều ước quốc tế. Đó là một hệ quả tất yếu

của xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, nó không chỉ thúc đẩy cho nền kinh tế của các

quốc gia Hồi giáo phát triển mà còn làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước

tiếp cận thi trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế. Không chỉ vậy, các

quốc gia bên ngoài luôn gây sức ép buộc bản thân các quốc gia Hồi giáo phải thay đổi.

Các quốc gia Hồi giáo nhất là ở khu vực Trung Đông - khu vực có khoảng 90% dân số

theo đạo Hồi, được mệnh danh là “kho vàng đen” khổng lồ của thế giới, do đó các quốc

gia này cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của mình để có được một nền kinh tế

phát triển vững mạnh hơn.

Cuối cùng, xu hướng hội nhập khu vực, sự phát triển mạnh mẽ của pháp quyền, dân

chủ và nhân quyền,… trên thế giới đã có “gõ cửa” mạnh mẽ và ảnh hưởng không nhỏ đến

pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo nói riêng. Sự ra đời của các tổ

chức khu vực, các công ước quốc tế, cùng với đó là các yêu cầu đảm bảo giá trị pháp

quyền, dân chủ, nhân quyền,… phổ quát trên toàn thế giới tạo thành sức ép và luồng gió

mới tác động dến sụ đổi thay của các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á.

1.4.Tiểu kết chương 1

Có thể thấy, vấn đề quyền con người ngày càng phát triển và Tôn giáo thêm một bước

ngoặt khác biệt cho bức tranh nhân quyền ở châu Á. Luật tôn giáo có thể thách thức các

chuẩn mực nhân quyền thế tục và đặt ra một thách thức đặc biệt khó khăn đối với các tổ

chức nhân quyền [49]. Câu trả lời nào sẽ là thích hợp cho việc cân bằng luật Hồi giáo,

Hiến pháp và Nhân quyền cũng là thách thức đặt ra trong bối cảnh thời đại.

Qua việc tìm hiểu lịch sử khu vực Đông Nam Á, cùng những đặc điểm cơ bản của

pháp luật các quốc gia trong khu vực nói chung và các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo

nói riêng, khóa luận đã phần nào làm rõ những yếu tố tác động đan xen cùng những đặc

điểm cơ bản khác biệt của Hồi giáo và pháp luật Hồi giáo tại khu vực. Đây sẽ là tiền đề

để đi sâu vào nghiên cứu lịch sử và sự phát triển của các quốc gia Hồi giáo ở khu vực

Đông Nam Á.

Chương 2.

LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP

CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

2.1. Khái quát chung về Hiến pháp và ảnh hưởng Hồi giáo tại các quốc gia trong

khu vực Đông Nam Á

Theo dòng lịch sử, dù Hồi giáo đến với Đông Nam Á muộn hơn song đã nhanh chóng

có được vị trí vững vàng trong tư tưởng và đời sống pháp luật của khu vực. Hồi giáo ở

khu vực Đông Nam Á là cuộc “hôn phối” tự nguyện giữa nền văn hóa Á Đông và tư tưởng

giáo lý đạo Hồi. Đó hoàn toàn không phải là một cuộc “ép gả” truyền thống cho đức tin

một cách khiên cưỡng. Các văn bản luật tiền hiện đại Hồi giáo ở Indonesia, Malaysia và

miền nam Philippines ngày nay có từ thế kỷ 15 [50]. Dấu ấn Hồi giáo để lại trong cả khối

óc và trái tim của cư dân Đông Nam Á hải đảo. Ngoài “trái tim Ả rập”, Đông Nam Á dần

trở thành một vùng đất thịnh vượng khác của giáo lý đạo Hồi [51]. Ba quốc gia tiêu biểu

chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hồi giáo là Indonesia, Malaysia và Brunei [71]. Nghiên cứu

tập trung đi sâu vào ba (3) quốc gia Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á dựa trên ba (3) cơ

sở chính. Thứ nhất, như đã khẳng định, Indonesia, Malaysia, Brunei là các quốc gia chịu

ảnh hưởng và chi phối sâu sắc Hồi giáo trong hệ thống pháp lý của mình, cụ thể là trong

hiến pháp. Thứ hai, do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hồi giáo, những biểu hiện Hồi giáo và

hiến pháp các quốc gia khá rõ rệt và điển hình. Cũng tùy vào môi trường và nhân sinh

quan mà hình ảnh Hồi giáo được khúc xạ trong hiến pháp từng quốc gia lại có sự khác

biệt. Thứ ba, khi nghiên cứu một vấn đề, rất khó và hạn hẹp về thời gian cũng như nhân

lực để có thể nghiên cứu kỹ càng toàn bộ các quốc gia ở Đông Nam Á về vấn đề Hồi giáo

do dấu vết của giáo lý đạo Hồi tại mỗi quốc gia đậm nhạt khác nhau. Với phương pháp

chọn lọc điển hình, việc nghiên cứu Indonesia, Malaysia, Brunei sẽ đem đến cái nhìn rõ

rệt và bao quát nhất về vấn đề lịch sử và sự phát triển của các quốc gia Hồi giáo trong

khu vực Đông Nam Á nói chung.

Các quốc gia khu vực Đông Nam Á đều có hiến pháp thành văn với nội dung tương

đấy đầy đủ: lời nói đầu, thể chế chính trị, bộ máy nhà nước, quyền con người, hệ thống

tư pháp, chế độ bảo hiến,… 7/10 quốc gia ở khu vực Đông Nam Á có sự ghi nhận rõ ràng

quyền con người và bộ máy chính quyền trong hiến pháp. Các nước cũng thừa nhận quyền

tự do tôn giáo và vị trí nhất định của Hồi giáo trong hiến pháp. Điều 3 của Hiến pháp liên

bang Malaysia tuyên bố: "Hồi giáo là tôn giáo của Liên đoàn, nhưng các tôn giáo khác

có thể được thực hành trong hòa bình và hòa hợp trong bất kỳ phần nào của Liên đoàn."

Tương tự như vậy, Hiến pháp của Brunei tuyên bố rằng: "Các tôn giáo chính thức của

Brunei Darussalam sẽ là đạo Hồi. Đồng thời vấn đề quyền con người trong Hiến pháp

các quốc gia Hồi giáo khu vực Đông Nam Á cũng rất được quan tâm” [7]. Sau chiến

thắng của phe Đồng minh trước các thế lực đối chọi năm 1945, các giá trị phổ quát về

nhân quyền trên thế giới trở nên rộng rãi và phổ biến. Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền

(UDHR) đã chính thức đánh dấu mốc quan trọng về chủ nghĩa nhân quyền trên thế giới,

con lắc giữa chủ nghĩa phổ quát và chỉ nghĩa đặc biệt trở nên rõ ràng hơn. Sự ra đời của

UDHR cùng với việc lần đầu tiên cộng đồng quốc tế của người Hồi giáo xác định khái

niệm về quyền con người và nêu rõ các mục tiêu cần đạt được của các chính phủ ảnh

hưởng Hồi giáo trên thế giới về lĩnh vực này [46]. Điều này dẫn tới sự thay đổi và đảm

bảo quyền con người không chỉ trong tư tưởng mà trong ghi nhận của hiến pháp tại các

quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á.

Lịch sử và xu hướng phát triển của Hiến pháp của các quốc gia khu vực Đông Nam

Á cụ thể ra sao sẽ được làm rõ trong từng phần dưới đây.

2.2. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp tại Indonesia

2.2.1. Khái quát chung

Indonesia có tên gọi đầy đủ là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik

Indonesia), là một quốc gia nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được

mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo", lãnh thổ của nó bao gồm 13.487 hòn đảo [95] và với dân

số khoảng 255 triệu người, đứng thứ tư thế giới về dân số và đứng thứ ba châu Á về dân

số. Tổng thống Joko Widodo là Tổng thống hiện tại của Indonesia. Thủ đô của Indonesia

là Jakarta, và ngôn ngữ chính thức tại Indonesia là tiếng Indonesia [58]. Cách đây gần

mười năm, Indonesia đứng thứ 3 thế giới sau Ả rập Saudi và Thổ Nhĩ Kỳ về số lượng Hồi

giáo. Nhưng cùng với gia tăng nhanh chóng của các tín đồ Hồi giáo, Indonesia hiện nay

đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về lượng người theo đạo Hồi (87,2% dân số

Indonesia xác nhận là người Hồi giáo. Số lượng người Hồi giáo ở quốc gia Đông Nam Á

này lớn nhất thế giới với khoảng 225 triệu) [52, 1]. Cùng với thời gian, tín đồ Hồi giáo ở

Indonesia ngày càng tăng với số lượng lớn và là một trong những “thánh đường” Hồi giáo

lớn nhất Đông Nam Á.

Lịch sử Indonesia trải dài từ thời Cổ đại khoảng 1,7 triệu năm dựa trên sự phát hiện

về Hôm arectus Java. Có thể chia các giai đoạn lịch sử của Indonesia thành bốn (4) giai

đoạn:

Giai đoạn 1: Giai đoạn tiền thực dân với sự xuất hiện và hình thành của các vương

quốc theo đạo Hinđu, đạo Phật, đạo Hồi tại đảo Java và Sumatra. Khi Châu Âu tiến tới

thời kỳ phục hưng thì tại Indonesia hai quốc gia lớn là Srivijaya tại Sumatra, và Majapahit

tại Java trở nên lớn mạnh và phát triển buôn bán thương mại. Di sản để lại các bộ luật

được biên soạn ra đời, và được xem như thiên sử thi Ramayana [27].

Giai đoạn 2: Giai đoạn thuộc địa do chịu sự kiểm soát của người Hà Lan. Bắt đầu từ

thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, Indonesia chịu sự chi phối của thực dân Hà Lan. Từ

khoảng 1250 trở đi, Islam (Hồi giáo) ngày càng có đông tín đồ trên quần đảo. Đến khoảng

1550 thì trở thành tôn giáo có đông tín đồ nhất trong vùng. Năm 1619 người Hà Lan đổi

tên thành Jayakarta (có nghĩa là Chiến thắng huy hoàng, tức Jakarta, đọc rút ngắn) thành

Batavia, tên của chủng tộc tổ tiên họ, và đặt trung tâm hành chính của họ ở đấy. Họ đô

hộ phần lớn quần đảo Indonesia đến năm 1945 [27].

Giai đoạn 3: Giai đoạn mới giành độc lập. Sau sự nỗ lực đấu tranh không ngừng nghỉ

của người dân Indonesia, cuộc cách mạng chính thức thành công, Tuyên bố độc lập

Indonesia 1945 là dấu mốc quan trọng của đất nước. Nhưng ngay sau đó Indonesia rơi

vào chế độ Sukarno với 22 năm độc tài [62][63].

Giai đoạn 4: Giai đoạn khôi phục sau sự sụp đổ của Suharno [64] Trải qua những

giai đoạn lịch sử khác nhau, Hiến pháp Indonesia có sự thay đổi khác nhau. Cùng với

những biến động chính trị và chính sách, Hiến pháp Indonesia cũng trải qua nhiều lần sửa

đổi với các điều khoản thay đổi. Tuy vậy, lịch sử chung khái quát của quốc gia là chưa

đủ để có cái nhìn toàn diện về vấn đề Hiến pháp, bởi lẽ Indonesia là quốc gia chịu ảnh

hưởng sâu sắc từ Hồi giáo. Hồi giáo và pháp luật Hồi giáo cũng là một trong những thành

tố quan trọng tác động đến quá trình hình thành và thay đổi của Hiến pháp. Và giống như

lịch sử chính trị Indonesia, lịch sử Hồi giáo Indonesia cũng trải qua nhiều giai đoạn với

những đặc điểm khác nhau.

2.2.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia

Thứ nhất, về dấu vết Hồi giáo trong lịch sử Indonesia

Mặc dù rất khó để biết chính xác sự phát triển ban đầu của Hồi giáo ở những hòn đảo

Indonesia (do thiếu nguồn thông tin), nhưng rõ ràng thương mại quốc tế là một yếu tố rất

quan trọng. Nhiều khả năng thương nhân Hồi giáo từ các quốc gia khác nhau đã tồn tại

trong khu vực hàng hải của Đông Nam Á kể từ thời kỳ đầu của đạo Hồi. Các nguồn tin

sớm nhất cho biết một số người bản địa đã theo đạo Hồi từ đầu thế kỷ 13, bia mộ mới cho

thấy sự tồn tại của một vương quốc Hồi giáo ở Bắc Sumatra vào năm 1211. Và từ thế kỷ

15 trở về sau, các vương quốc và vương quốc Hồi giáo đã trở thành lực lượng chính trị

thống trị ở những hòn đảo Indonesia, mặc dù sau đó họ đã bị đánh bại bởi những người

mới đến từ châu Âu (Bồ Đào Nha và Hà Lan) trong thế kỷ 16 và 17 [89]. Con đường du

nhập vào Indonesia của đạo Hồi không hề dễ dàng. Trước Hồi giáo, nhiều loại tôn giáo

và tín ngưỡng đã phát triển ở Indonesia, ít nhất có hai tôn giáo lớn nhất đã được hầu hết

người dân Indonesia chấp nhận trước khi đạo Hồi, cụ thể là Ấn Độ giáo và Phật giáo [92].

Và việc truyền bá đạo Hồi ở Indonesia không phải là một quá trình nhanh chóng và dễ

dàng, mà là quá trình của nhiều làn sóng Hồi giáo liên quan đến sự phát triển quốc tế

trong thế giới Hồi giáo, những làn sóng đan xen ảnh hưởng và vẫn còn tiếp tục cho đến

ngày nay. Các thương nhân Hồi giáo đến quần đảo này trong các thế kỷ đầu tiên của kỷ

nguyên Hồi giáo có thể được coi là làn sóng đầu tiên [89]. Làn sóng thứ hai là phong trào

Wahabi và phong trào Salafi, cũng có tác động mạnh mẽ đến quá trình truyền bá đạo Hồi

chính thống ở quần đảo [92]. Hai làn sóng này này nhằm khôi phục sự thuần khiết của

đạo Hồi. Phong trào Wahhabi đến từ Ả Rập và có ảnh hưởng đến quần đảo này từ đầu thế

kỷ 19, trong khi phong trào Salafi đến từ Ai Cập vào cuối thế kỷ 19 [92]. Cho đến nay,

sự ảnh hưởng và vai trò của hai làn sóng Hồi giáo vẫn được tiếp tục duy trì ở Indonesia

ảnh hưởng đến giáo lý và tư tưởng Hồi giáo được truyền bá ở đây [92].

Trong ba quốc gia thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, Indonesia là quốc gia duy

nhất không khẳng định rõ ràng mình là nhà nước Hồi giáo trong Hiến pháp dẫn đến nhiều

tranh cãi kịch liệt trong vấn đề quốc giáo và mô hình nhà nước. Song không thể phủ nhận

trên thực tế Hồi giáo thấm rất sâu vào con người và không khí sinh hoạt của Indonesia.

Lý giải cho nguyên nhân sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Hồi giáo ở khu vực Indonesia, ngoài

những nguyên nhân chung giải thích ảnh hưởng Hồi giáo nói chung đến khu vực Đông

Nam Á đã được trình bày ở trên thì Indonesia còn chứa đựng những nguyên do riêng

trong nội tại đất nước. Thứ nhất, ngay từ đầu, Indonesia đã có vị trí địa lý rất thuận lợi

trong việc giao thương buôn bán, không chỉ vậy, việc mở kênh đào Suez vào năm 1869

khiến việc đi đến Trung Đông dễ dàng hơn. Điều này dẫn đến việc liên lạc ngày càng

chuyên sâu giữa người dân Indonesia và các quốc gia Ả Rập ở Trung Đông [92]. Thứ hai,

Hồi giáo là một tôn giáo đã vào Indonesia, đặc biệt là Java, vào cuối vinh quang của

vương quốc Phật giáo Hindu. Vào thời điểm đó, rất nhiều thậm chí phần lớn dân số Java

chấp nhận Hồi giáo vì Hồi giáo không phân biệt đối xử với con người với các diễn viên

như nhiều vương quốc Hindu thời đó [92]. Thứ ba, trong thời cổ đại việc truyền bá đạo

Hồi trên đảo Java do Wali Songo - là một tập hợp những người truyền bá Java tồn tại

trong thế kỷ 14 [73] thực hiện. Đảo Java là trung tâm của nền văn minh thời đó đã có dân

số đông. Cho đến khi vinh quang của các vương quốc Hồi giáo trên đảo Java, phần lớn

dân số đã theo đạo Hồi. Điều này tiếp tục cho đến khi chính phủ của Tổng thống Soeharto

thúc đẩy phong trào di cư tìm đến ngay cả dân số bằng cách chuyển một phần dân số Java

sang các khu vực khác ngoài Java. Một cách gián tiếp, điều này có ảnh hưởng đến lịch sử

Hồi giáo ở Indonesia và quá trình phân phối của nó trên khắp đất nước [92]. Do đó, dù

diễn ra chậm và gặp phải rào cản nhưng sự mở rộng ảnh hưởng của Hồi giáo tại Indonesia

diễn ra rất chắc chắn và quy mô.

Thứ hai, những biến thể của Hồi giáo tại Indonesia

Cùng chịu ảnh hưởng của giáo lý Hồi giáo giống như Malaysia và Brunei, song, Hồi

giáo ở Indonesia cũng có những đặc điểm riêng khác biệt. Sự biến thể của Hồi giáo ở

Indonesia thể hiện ở các điểm sau. Thứ nhất, Hồi giáo được truyền bá và phổ biến ở nhiều

khu vực chủ yếu là các quần đảo, các thành phố được xây dựng nhờ các thương nhân Hồi

giáo hoặc nơi các thương nhân Hồi giáo định cư đông đảo và lâu dài. Một số khu vực

khác của Indonesia, Hồi giáo chưa bao giờ là đa số, như miền Đông Indonesia vì nó nằm

xa các tuyến đường thủy, giao lưu thương mại ít ỏi. Đồng thời, sức hút mạnh mẽ từ văn

hóa vật linh hoặc Ấn Độ giáo – Phật giáo khiến con đường truyền bá đạo Hồi trở nên

chông gai và dễ bị ngăn chặn bởi các nền văn hóa truyền thống. Điều này dẫn đến hay xu

hướng: (1) Hồi giáo hoàn toàn bị ngăn chặn như ở khu vực Bali do văn hóa Hindu thống

trị đến nay hoặc (2) là việc trộn lẫn các hệ thống tín ngưỡng với nhau, có thể kể đến khu

vực Trung Java [89].

Có lẽ bởi vậy, cộng đồng Hồi giáo lớn nhất Indonesia – Cộng đồng Java được chia

làm hai nhóm theo những xu hướng các nhau. (1) Nhóm 1 được gọi là “Abangan”. Họ là

những người Hồi giáo truyền thống có nghĩa là họ vẫn áp dụng tín điều tôn giáo truyền

thống của người Java, kết hợp các giáo lý Hồi giáo với Ấn Độ giáo, Phật giáo và vật linh.

Các thành viên của nhóm này thường cư trú hoặc đến từ các vùng nông thôn. (2) Nhóm

thứ hai có tên là “Santri”. Nhóm này có thể được gọi là người Hồi giáo chính thống. Họ

thường sống hoặc đến từ các khu vực đô thị và có định hướng nhiều hơn về nhà thờ Hồi

giáo và kinh Koran. Trên thực tế, có sự tuyên bố độc lập của những người theo một xu

hướng khác, được coi là nhóm thứ ba - Priyayi (nhóm quý tộc truyền thống), nhưng vì

đây là một nhóm các tầng lớp xã hội chứ không phải là một nhóm tôn giáo, nên nhóm

Priyayi không được đưa vào sự phân chia xã hội ở trên [37].

Ở thời điểm hiện tại, Hồi giáo và pháp luật Hồi giáo có xu hướng gia tăng trong đời

sống xã hội của Indonesia. Trong hai thập kỷ qua, ảnh hưởng của Hồi giáo ngày càng trở

nên rõ ràng trên đường phố Indonesia và bắt đầu đóng một vai trò quan trọng hơn trong

cuộc sống hàng ngày của người Hồi giáo. Ví dụ, số phụ nữ Indonesia đeo khăn trùm đầu

đã tăng đáng kể và việc thờ cúng trong nhà thờ Hồi giáo ngày càng trở thành một phần

của cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng sự phát triển của

Hồi giáo không giống như chủ nghĩa cấp tiến Hồi giáo. Hầu hết người Hồi giáo ở

Indonesia có lòng khoan dung cao đối với các tôn giáo khác và các giáo phái khác trong

Hồi giáo [77]. Dẫu vậy, thế giới vẫn luôn quan ngại trước tình trạng Hồi giáo cực đoan

gia tăng ở Indonesia.

2.2.3. Lịch sử của Hiến pháp Indonesia

Để có thể đánh giá được lịch sử và sự thay đổi của hiến pháp một quốc gia, cần phải

nghiên cứu và đánh giá các bản Hiến pháp đã qua của quốc gia đó gắn với bối cảnh lịch

sử và các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật để có cái nhìn toàn diện. Giống như lịch sử

chính trị của đất nước, lịch sử Hiến pháp Indonesia trải qua vô vàn thăng trầm. Trong quá

trình nhìn lại lịch sử Hiến pháp Indonesia, tác giả sẽ đưa ra đánh giá khái quát nhất về sự

thay đổi của Hiến pháp Indonesia qua từng giai đoạn.

Kể từ bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua ngày 18/08/1945, Indonesia đã trải qua

nhiều lần sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở nền tảng Hiến pháp 1945. Cụ thể là:

(1) Hiến pháp năm 1945 (18/8/1945 - 27/12/1949).

(2) Hiến pháp RIS (27/12/1949 – 17/8/1950).

(3) Hiến pháp Cộng hòa Indonesia năm 1945 (17/8/1950 – 5/7/1959).

(4) Hiến pháp năm 1945 của chính quyền trật tự cũ (5/7/1959 – 5/71965).

(5) Hiến pháp năm 1945 của chính quyền trật tự mới (21/5/1998).

(6) Hiến pháp năm 1945 cải cách (1998 – 1999)

(7) Hiến pháp năm 1945 và sửa đổi lần 1, lần 2, lần 3, lần 4 (1999, 2000, 2001, 2002)

Nội dung chính và các điểm đáng lưu ý của các bản Hiến pháp Indonesia sẽ được

phân tích dưới đây nhằm đưa ra một cái nhìn bao quát nhất về xu hướng lập hiến tại một

trong những quốc gia đông tín đồ Hồi giáo nhất thế giới.

2.2.3.1. Hiến pháp Indonesia 1945 (18/8/1945 - 27/12/1949)

Về hoàn cảnh lịch sử:

Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Indonesia được ban hành ngay sau khi giành

độc lập. Theo các nhà nghiên cứu, đây được xem là bản Hiến pháp ngắn nhất trên thế

giới. Nó ngắn hơn nhiều so với Hiến pháp Hoa Kỳ và được một số học giả Mỹ tuyên bố

là ngắn nhất. Trong khi Hiến pháp Hoa Kỳ có 1608 từ thì Hiến pháp 1945 của Indonesia

chỉ có 1393 từ [48]. Hiến pháp năm 1945 lần đầu tiên được ban hành trong phiên họp Nhà

nước Indonesia của Ủy ban trù bị độc lập Indonesia ngày 18/8/1945, một ngày sau khi

nền độc lập của Cộng hòa Indonesia được tuyên bố bởi Sukarno và Mohammad Hatta vào

ngày 17/8/1945. Văn bản của Hiến pháp năm 1945 được chuẩn bị bởi một cơ quan chính

phủ Nhật Bản được thành lập có tên là "Dokuritsu Zyunbi Tyoosakai" (tiếng Indonesia

có tên là "Cơ quan điều tra nỗ lực chuẩn bị độc lập của Indonesia" (BPUPKI). Các thành

viên của các cơ quan này được Chính phủ nước chủ nhà lập nên vào ngày 28/5/1945 nhằm

thực hiện lời hứa của Chính phủ Nhật Bản trước quốc hội (Diet) để trao độc lập cho

Indonesia. Tuy nhiên, sau khi thành lập, cơ quan này không chỉ nỗ lực chuẩn bị cho độc

lập theo mục đích hình thành mà thay vào đó, chuẩn bị bản thảo của Hiến pháp làm cơ sở

để thành lập Indonesia độc lập [58].

Về cơ cấu:

Hiến pháp Indonesia 1945 gồm: Lời nói đầu, 16 chương với 37 điều, 194 câu và 3

chương cho quy tắc chuyển tiếp và quy tắc bổ sung. Nội dung cụ thể của từng chương:

Chương 1 - Hình thức của Nhà nước và chủ quyền, Chương 2 - Hội đồng tư vấn nhân dân

(Majelis Permusyawaratan Rakyat hoặc MPR), Chương 3- Quyền hành pháp, Chương 4

- Hội đồng tư vấn tối cao, Chương 5 - Bộ trưởng nhà nước, Chương 6 - Hội đồng đại diện

nhân dân (Dewan Perwakilan Rakyat hoặc DPR), Chương 7 - Hội đồng đại diện các khu

vực (Dewan Perwakilan Daerah hoặc DPD), Chương 8 – Bầu cử, Chương 9 – Ngân sách,

Chương 10 - Ủy ban Kiểm toán Nhà nước, Chương 11 – Công dân và cư dân, Chương 12

– Quyền con người, Chương 13 – Quốc phòng và an ninh, Chương 14 – Kinh tế quốc gia

và phúc lợi xã hội, Chương 15 - Quốc kỳ, quốc ngữ, quốc huy và quốc ca, Chương 16 -

Sửa đổi hiến pháp. Trong Điều khoản chuyển tiếp, đáng chú ý là Điều 3 nhắc đến việc

thành lập Tòa án Hiến pháp trên thực tế [44].

Như vậy, Hiến pháp Indonesia có các chương liên quan đến bộ máy nhà nước và

quyền con người được sắp xếp một cách thứ tự và khá rõ ràng. Hiến pháp 1945 đã xác

lập căn bản các yếu tố nền tảng để xây dựng và phát triển nhà nước. Điều này là phù hợp

trong bối cảnh Indonesia vừa giành được độc lập.

Về thời gian có hiệu lực:

Đáng tiếc, Hiến pháp 1945 của nhà nước vừa giành được độc lập Indonesia không

phải là một Hiến pháp được áp dụng lâu dài bởi lẽ Hiến pháp năm 1945 không được sử

dụng trực tiếp làm tài liệu tham khảo trong bất kỳ quyết định nào của nhà nước và chính

phủ. Về bản chất, năm 1945 thực sự chỉ được sử dụng như một công cụ để lập tức thành

lập một quốc gia độc lập gọi là Cộng hòa Indonesia. Năm 1945 được dự định là một hiến

pháp tạm thời, theo các điều khoản của Bung Karno, một 'revolutie-grondwet' hoặc Hiến

pháp của sét, phải được thay thế bằng một hiến pháp mới khi nhà nước độc lập được thành

lập và tình hình phù hợp [58]. Do đó, ngay trong các quy định của Hiến pháp khi đó đã

có các điều khoản liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp: Các quy định tại Điều III của

Quy tắc bổ sung cũng khẳng định rằng Hiến pháp của Cộng hòa Indonesia đã được sửa

đổi sau đó sẽ có sau khi MPR chính thức thiết lập chúng. Tuy nhiên, cho đến khi Hiến

pháp năm 1945 được sửa đổi lần đầu tiên vào năm 1999, MPR hiện tại vào năm 1945 vẫn

chưa thành lập năm 1945 với tư cách là Hiến pháp của Cộng hòa Indonesia [44].

Về lời nói đầu:

Ngay ở Lời nói đầu Indonesia đã khẳng định nền tảng niềm tin dựa trên tôn giáo.

Hiến pháp viết: “…By the grace of God Almighty and motivated by the noble desire to

live a free national life, the people of Indonesia hereby declare their independence.” [44]

(Dịch: theo ân sủng của Thiên Chúa Toàn năng và thúc đẩy bởi mong muốn cao cả để

sống một cuộc sống của một dân tộc tự do, người dân Indonesia nay tuyên bố sự độc lập

của mình), “…therefore the independence of Indonesia shall be formulated into a

constitution of the Republic of Indonesia which shall be built into a sovereign state based

on a belief in the One and Only God, just and civilised humanity, the unity of Indonesia,

and democratic life led by wisdom of thoughts in deliberation amongst representatives

of the people, and achieving social justice for all the people of Indonesia.” [44] (Dịch: Do

đó, hình thành một nhà nước có chủ quyền dựa trên niềm tin vào một và chỉ một Thiên

Chúa, vào nhân loại văn minh và công chính, vào sự thống nhất của Indonesia, và đời

sống dân chủ dẫn dắt bởi sự khôn ngoan của những suy tư được thảo luận giữa những đại

biểu nhân dân, hướng đến công bằng xã hội cho tất cả người dân Indonesia.) Không chỉ

vậy, tại khoản 1 Điều 29 chương XI. Tôn giáo, Hiến pháp Indonesia cũng ghi nhận “(1)

The State shall be based upon the belief in the One and Only God” (Dịch: Nhà nước sẽ

dựa trên một niềm tin và duy nhất vào Chúa”). Như vậy, có thể thấy dù không tuyên bố

quốc giáo, song, Hiến pháp Indonesia 1945 đã khẳng định nền tảng đức tin và tầm ảnh

hưởng của tôn giáo tới Hiến pháp Indonesia.

Về nguyên tắc:

Hiến pháp Indonesia đã nhấn mạnh đến một trong những nguyên tắc rất quan trọng

của nhà nước Indonesia - Pancasila với năm (5) nội dung chính, trong đó nội dung được

nhắc đến ngay đầu tiên đó là nền tảng Hồi giáo đang mở rộng và có tầm vóc ở Indonesia

[82]. Nội dung cụ thể của nguyên lý Pancasila sẽ được phân tích rõ ở phần Hiến pháp

hiện tại của Indonesia (phần 2.2.4) bởi đó nguyên lý được gìn giữ và coi là “linh hồn” của

việc xây dựng và làm nên Nhà nước Cộng hòa Indonesia.

Về các nội dung chính:

Thứ nhất, Hiến pháp đã tuyên bố, nhà nước Indonesia là nhà nước đơn nhất với

hình thức chính thể cộng hòa [87], chủ quyền trong tay người dân và sẽ được thực hiện

theo Hiến pháp [88], đồng thời khẳng định Indonesia là nhà nước vận hành trên cơ sở luật

pháp [89].

Thứ hai, do tại thời điểm Hiến pháp ra đời, Indonesia mới chỉ tuyên bố độc lập, và

trong thời kỳ chính phủ chuyển đổi. Vì vậy, không phải tất cả các UDD năm 1945 đã

được thực hiện và đã có những sự khác biệt trên thực tế. Cụ thể:

(1) Quyền lực của tổng thống với tư cách là người nắm giữ quyền lực hành

pháp cao nhất và các nhà tổ chức chính phủ là rất rộng. Vào thời điểm đó, quyền

lực của tổng thống cũng bao gồm cơ quan lập pháp. Điều này tiếp tục cho đến khi

cuối cùng Ủy ban Quốc gia Indonesia (KNIP) được giao nhiệm vụ quyền lực lập

pháp thông qua Tuyên bố của Tổng thống số. X, ngày 16/10/1945.

(2) Sự hình thành của một nội các nghị viện với các bộ trưởng chịu trách nhiệm

trước Hạ viện và do Thủ tướng Sutan Syahrir chủ trì. Dự thảo hiến pháp bao gồm

việc mở Luật cơ bản (trong đó có tuyên bố độc lập, mục tiêu nhà nước và cơ sở

nhà nước), nội dung hoặc nội dung của hiến pháp bao gồm 16 Chương, 37 điều, 4

điều chuyển tiếp, và 2 quy tắc bổ sung và giải thích về Hiến pháp [82].

Thứ ba, các nội dung liên quan đến quyền con người còn ở mức độ hạn chế. Các

điều khoản về nhân quyền trong Hiến pháp, từ Điều 28A đến Điều 28J (gồm 10 quyền)

thuộc chương 10 – Quyền con người của Hiến pháp. Có thể thấy, số lượng quyền được

hiến định còn khá ít ỏi và còn nhiều chỗ trống.

Thứ tư, về cơ chế bảo hiến, Hiến pháp có quy định về Tòa án Hiến pháp ở Điều

24C, nhưng các vấn đề liên quan đến Tòa án Hiến pháp chưa được tách riêng mà chúng

được xếp vào chương 8A – Ban Kiểm toán Nhà nước. Các quy định về Tòa án Hiến pháp

và cơ cấu tòa án (với 9 Thẩm phán) đã được quy định, song trên thực tế, Tòa án Hiến

pháp năm 1945 chưa được thực hiện nhiệm vụ bảo hiến của mình trên thực tế do tính lịch

sử chỉ tồn tại trong thời gian ngắn của Hiến pháp Indonesia 1945.

Qua những nội dung sơ lược trên, có thể thấy, Hiến pháp 1945 đã đưa ra các nền tảng

căn bản về đức tin, bộ máy nhà nước, tòa án, quyền con người,… Dù còn tồn tại những

điểm hạn chế, song có thể lý giải bởi hoàn cảnh lịch sử và tính chất đặc biệt của Hiến

pháp 1945. Những điểm hạn chế đó sẽ được sửa đổi dần trong những bản Hiến pháp của

Indonesia về sau.

2.2.3.2. Hiến pháp RIS (27/12/1949 – 17/8/1950)

Về hoàn cảnh lịch sử:

Quốc gia Indonesia độc lập tiếp tục bị phá hoại bởi những người Hà Lan muốn

giành lại Indonesia. Trận chiến bảo vệ nền độc lập của Indonesia xảy ra ở hầu hết các khu

vực. Đỉnh cao của cuộc xâm lược Milter đầu tiên của Hà Lan vào năm 1947 và Cuộc xâm

lược quân sự II của Hà Lan vào năm 1948. Hai thỏa thuận tiếp theo, đó là Thỏa thuận

Linggarjati và Thỏa thuận Renville, tiếp tục bị vi phạm. Liên Hợp Quốc bước vào và cuối

cùng đã tổ chức Hội nghị Bàn tròn (KMB) vào ngày 23 tháng 8 năm 1949 cho đến ngày

2 tháng 11 năm 1949 tại Den Hag, Hà Lan. KMB có sự tham dự của đại diện đến từ

Indonesia do Mohammad Hatta, đại diện của Nhà nước bù nhìn Hà Lan, Sultan Hamid II,

một đại diện từ Hà Lan do Mr. Van Brussven và từ Liên Hợp Quốc do Crittchlay lãnh

đạo.

Các kết quả KMB chính là:

(1) Thành lập Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ (RIS)

(2) Đệ trình chủ quyền cho Nhà nước Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ

(3) Thành lập Liên minh giữa Vương quốc Hà Lan và Cộng hòa Indonesia Hoa

Kỳ.

Với việc thành lập RIS, điều đó có nghĩa là Hiến pháp năm 1945 sẽ tự động vô

hiệu. Vì vậy, nhân dịp này, Hiến pháp RIS cũng được soạn thảo. Hiến pháp RIS được

thực hiện bởi đại diện của phái đoàn Indonesia và đại diện của các nước bù nhìn được

thực hiện ở Hà Lan. Hiến pháp RIS này đã chính thức được ban hành kể từ khi chuyển

giao chủ quyền cho RIS, ngày 27 tháng 12 năm 1949 [82].

Về nội dung, Hiến pháp RIS đã có những thay đổi so với Hiến pháp 1945 ở các

điểm:

Thứ nhất, Indonesia biến thành một quốc gia liên bang (thay vì đơn nhất như Hiến

pháp 1945), có quyền lực ở các bang. Các bang là Cộng hòa Indonesia (bao gồm Java và

Sumatra), Đông Indonesia, Pasundan, Đông Java, Madura, Đông Sumatra và Nam

Sumatra.

Thứ hai, việc giải thể RIS vẫn được lãnh đạo bởi một tổng thống, cụ thể là Tổng

thống Soekarno. Nhưng tổng thống chỉ đóng vai trò là người đứng đầu nhà nước, không

phải là người đứng đầu chính phủ. Người đứng đầu chính phủ được lãnh đạo bởi thủ

tướng chịu trách nhiệm trước Hạ viện. Nó có nghĩa là tại thời điểm này nội các nghị viện

cũng được áp dụng [92].

Tóm lại, do yếu tố lịch sử, Hiến pháp RIS đã ra đời và dựa trên phần lớn nội dung

của Hiến pháp 1945 của Indonesia. Tuy nhiên, Hiến pháp RIS đã thu hẹp quyền của Tổng

thống, Nghị viện đã hoạt động chính thức, hình thức nhà nước Indonesia đã không còn là

nhà nước đơn nhất, đó là những điểm mới đáng chú ý của Hiến pháp Indonesia. Nhưng

Hiến pháp RIS vẫn chưa thể giải quyết được hết vấn đề liên quan đến quyền con người

và cơ chế bảo hiến từ Hiến pháp 1945.

2.2.3.3. Hiến pháp 1950 (17/8/1950 – 5/7/1959)

Về bối cảnh lịch sử:

Sau khi Hiến pháp RIS được ban hành và áp dụng, người ta nhận ra người dân

Indonesia yêu thích Cộng hòa Thống nhất Indonesia (NKRI) hơn là nhà nước liên bang

như RIS tuyên bố. Việc áp dụng Hiến pháp 1949 trở nên mờ nhạt, cuối cùng, đến đến

năm 1950, tất cả các tiểu bang đã đồng ý quay trở lại NKRI. Vào ngày 17 tháng 8 năm

1950, đất nước liên bang theo Hiến pháp RIS không còn tồn tại trên bản đồ thế giới.

Về nội dung:

Thứ nhất, hiến pháp năm 1950 đã được soạn thảo và áp dụng tạm thời theo tên của

nó. Một hiến pháp mới sẽ được soạn thảo và soạn thảo càng sớm càng tốt bởi Quốc hội

lập hiến được hình thành dựa trên kết quả của cuộc tổng tuyển cử năm 1955 [88].

Thứ hai, trong Hiến pháp năm 1950, nhà nước đã trở lại hình thức của một nhà

nước đơn nhất. Tổng thống đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia có nhiệm vụ không thể

tranh cãi. Tổng thống không chịu trách nhiệm cho bất cứ ai và bất kỳ tổ chức nào. Người

đứng đầu chính phủ vẫn do thủ tướng nắm giữ với hệ thống nội các nghị viện [99].

2.2.3.4. Hiến pháp năm 1945 của hệ thống chính quyền trật tự cũ (ngày 5

tháng 7 năm 1959 - 1965)

Về bối cảnh lịch sử:

Xuất phát từ sự phát triển có phần chững lại và thụt lùi. Với áp lực từ các bên khác

nhau, Tổng thống Indonesia lúc bấy giờ đã ban hành Nghị định của Tổng thống ngày 5

tháng 7 năm 1959. Cốt lõi của sắc lệnh là 3, cụ thể là:

(1) Quốc hội lập hiến bị giải tán

(2) Quay trở lại Hiến pháp năm 1945 cho tất cả người Indonesia và tuyên bố rằng

Hiến pháp năm 1945 không còn hiệu lực

(3) Thành lập Hội đồng tư vấn nhân dân lâm thời, có các thành viên bao gồm các

thành viên của DPRS cộng với các đại biểu khu vực và nhóm. Ngoài ra, Hội

đồng tư vấn tối cao tạm thời cũng được thành lập.

(4) Mặc dù nhà nước đã trở lại Hiến pháp năm 1945, nhưng trong quá trình thực

thi, nó vẫn còn xa hiến pháp. Nhiều sai lệch so với Hiến pháp năm 1945. Trong

số những sai lệch so với hiến pháp , những sai lệch này là:

(5) Sự hình thành của MPR, DPR và DPA vẫn chưa được thiết lập theo Hiến pháp

năm 1945. Tất cả các tổ chức được thành lập vẫn chỉ là tạm thời. Vì vậy, nhiệm

vụ vẫn chưa rõ ràng.

(6) Tổng thống với tư cách là người nắm quyền hành pháp và lập pháp (với DPR)

có thể đưa ra luật mà không cần sự chấp thuận của DPR.

(7) MPRS đã có bài phát biểu của tổng thống vào ngày 17 tháng 8 năm 1959 với

tựa đề "Tái khám phá cuộc cách mạng của chúng ta" được biết đến như là

Tuyên ngôn chính trị của Cộng hòa Indonesia (Manipol), trở thành Nguyên tắc

chính sách nhà nước vĩnh viễn (GBHN).

Về nội dung:

Thứ nhất, các chỉ đạo của Tổng thống đã được thực thi làm thay đổi diện mạo Hiến

pháp, bởi dù đã thu hẹp quyền của Tổng thống trong Hiến pháp RIS và Hiến pháp 1950,

nhưng Tổng thống vẫn còn quyền rất lớn với lập pháp và các cơ quan Nhà nước. Cụ thể,

năm 1960, do DPRS không phê duyệt dự thảo ngân sách do chính phủ đề xuất, Tổng

thống đã giải tán nó và thay thế bằng Dân chủ Hội đồng Nhân dân Gotong Royong (DPR-

GR)

Thứ hai, ngay lập tức, MPRS đã đưa ra quyết định biến Tổng thống Sukarno trở

thành tổng thống trọn đời. Các nhà lãnh đạo của các tổ chức nhà nước được làm bộ trưởng

và tổng thống trong khi làm chủ tịch của DPAS.

Thứ ba, hệ quả của việc Tổng thống nắm trong tay quá nhiều quyền dẫn đến tình

trạng độc quyền của Tổng thống. Tình trạng của đất nước ngày càng tồi tệ và lên đến đỉnh

điểm với cuộc nổi loạn PKI G30S năm 1965 [99].

2.2.3.5. Hiến pháp năm 1945 của Chính phủ trật tự mới (21/5/1998)

Về bối cảnh lịch sử:

Nhờ sự cảnh giác của Lực lượng Vũ trang Indonesia (ABRI) và người dân, cuộc

nổi dậy G30S PKI đã bị hủy hoại. Tổng thống Sukarno đã ban hành Thư Chính phủ Mười

một tháng ba (Supersemar) cho Trung tướng Suharto. Với việc phát hành Supersemar,

chính phủ Trật tự cũ đã kết thúc. Chính phủ Trật tự mới đã quyết tâm thực hiện nguyên

tắc Pancasila và Hiến pháp năm 1945 một cách triệt để

Về nội dung:

Ban đầu, chính phủ trật tự mới đã thực thi một chính phủ định hướng phát triển

dựa trên nguyên tắc Pancasila và Hiến pháp năm 1945. Ngay sau đó, GBHN được thành

lập bởi chức năng MPR làm cơ sở để thực hiện phát triển. Sau một thời gian, thực tiễn

nảy sinh những điểm mới so với Hiến pháp năm 1945. Cụ thể là:

(1) Sự tập trung quyền lực nằm trong tay tổng thống, do đó tham nhũng, thông

đồng và Nepotism (KKN) lan tràn rộng rãi, bất bình đẳng xã hội ngày càng lan

rộng, nợ nước ngoài ngày càng phình to và khủng hoảng đa chiều xảy ra ở

khắp mọi nơi. Các thể chế nhà nước hiện có được kiểm soát bởi Tổng thống.

(2) Hạn chế quyền chính trị của nhân dân. Điều này có thể được nhìn thấy bởi số

lượng chức năng hạn chế của các đảng chính trị (PPP, Golkar, PDIP) và tự do

báo chí bị xiềng xích.

Sau cùng, thời kỳ trật tự mới kết thúc với sự từ chức của Tổng thống Soeharto vào

ngày 21 tháng 5 năm 1998 sau một cuộc biểu tình lớn được các sinh viên tiên phong và

yêu cầu cải cách trong tất cả các lĩnh vực [53].

2.2.3.6. Hiến pháp cải cách năm 1945 (1998 - 1999)

Về bối cảnh lịch sử:

Hiến pháp từng có hiệu lực ở Indonesia bước vào thời kỳ cải cách trong tất cả các

lĩnh vực với sự chấm dứt của sự cai trị của Tổng thống Soeharto. Trong thời gian này, có

nhiều yêu cầu thay đổi Hiến pháp năm 1945. Hiến pháp năm 1945 được coi là có nhiều

điểm yếu, bao gồm:

(1) Cơ cấu quyền lực trong Hiến pháp năm 1945 đặt quyền lực của Tổng thống rất

lớn. Quyền lực của Tổng thống bao gồm quyền hành pháp, lập pháp và

CHDCND Triều Tiên, và có các quyền theo hiến pháp đặc biệt, như đưa ra sự

khoan hồng , ân xá , bãi bỏ và cải tạo . Ngoài ra, giới hạn thời gian của Tổng

thống cũng trở nên không rõ ràng với dòng chữ "năm năm và có thể được bầu

lại".

(2) Chức năng và nhiệm vụ giữa các tổ chức nhà nước không cân bằng. Ví dụ,

không có bài viết nào đề cập đến luật sẽ như thế nào nếu Tổng thống từ chối

phê chuẩn Dự thảo Luật do DPR đề xuất.

(3) Quyền của công dân trong Hiến pháp năm 1945 không rõ ràng. Chẳng hạn như

liên quan đến quyền tự do lập hội, thu thập và đưa ra ý kiến cả bằng miệng và

bằng văn bản được coi là không khả thi vì Luật chưa được hình thành. Kết quả

là, những hạn chế về tự do báo chí đã từng xảy ra.

Trước khi sửa đổi Hiến pháp năm 1945 các bên đã thống nhất một số điều:

(1) Không thay đổi Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1945

(2) Nhà nước Indonesia vẫn ở dạng một nhà nước đơn nhất với nội các tổng thống

(3) Hiến pháp sửa đổi năm 1945 sẽ không còn sử dụng giải thích của Hiến pháp

năm 1945

(4) Cấu trúc của tổ chức nhà nước trước và sau khi sửa đổi được thực hiện bằng

phụ lục [88].

2.2.3.7. Hiến pháp năm 1945 sửa đổi 1999, 2000,

Lần sửa đổi đầu tiên của Hiến pháp năm 1945 (1999): là lần đầu tiên trong Phiên

họp chung của MPR vào ngày 19/10/1999. Sửa đổi này bao gồm 9 điều và 16 câu. Chín

(9) điều được sửa đổi so với Hiến pháp năm 1945 là: Điều 5, Điều 7, Điều 9, Điều 13,

Điều 14, Điều 15, Điều 17, Điều 20, và Điều 21. Bản chất của sửa đổi đầu tiên là để hạn

chế lại thẩm quyền điều hành quá lớn trước đây của Tổng thống và Phó Tổng thống nhằm

tránh rơi lại vào giai đoạn độc tài Sukarno. Điều này được thấy trong việc sửa đổi Điều

7, điều chỉnh nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng thống bị giới hạn ngắn lại. Không

chỉ vậy, trong Điều 5, trong đó tổng thống không còn quyền quy định pháp luật một cách

hợp pháp bởi và thay vào đó là thẩm quyền của Hạ Viện [98].

Bản sửa đổi thứ hai của Hiến pháp năm 1945 (2000): được thành lập tại Phiên họp

chung của MPR, ngày 18/8/2000. Có 27 điều được sửa đổi trong 7 chương. Các chương

sửa đổi, cụ thể là Chương của Chính phủ khu vực, Hội đồng đại diện khu vực, Lãnh thổ

nhà nước, Vị trí của công dân trong nước và dân số, Cơ sở của quyền con người, Luật

quốc phòng và an ninh, và Cờ, Ngôn ngữ, Quốc gia và Quốc ca [88]. Hiến pháp đã đưa

vào Điều 18, Điều 18A, Điều 18B, Điều 19, Điều 20, Điều 20A, Điều 22A, Điều 22B,

Điều 25E, Điều 26, Điều 27, Điều 28A, Điều 28B, Điều 28C, Điều 28D, Điều 28E, 28F,

Điều 28G, Điều 28H, Điều 28I, Điều 28J, Điều 30, Điều 36B, và Điều 36C. Một trong

những điểm nhấn ở bộ máy chính quyền là việc phê chuẩn Điều 18 với sự công nhận

quyền tự trị khu vực và chính quyền khu vực sẽ được bầu thông qua cuộc bầu cử khu vực

(pilkada) và được tham gia cuộc bầu cử quốc hội. Ngoài ra, lần sửa đổi này cũng tạo thành

một cột mốc quan trọng cho định nghĩa về quyền con người trong cơ sở pháp lý của

Indonesia, cụ thể là việc mở rộng Điều 28 [100].

Hiến pháp năm 1945 sửa đổi lần ba (2001): Bản sửa đổi sửa đổi thứ ba năm 1945

được quy định vào ngày 9/11/2001. Các sửa đổi bao gồm 23 điều trong 7 chương. Các

chương được sửa đổi là: Chương 1 - Hình thức và Chủ quyền, Chương 2 - MPR, Chương

3 - Quyền lực của Chính phủ Nhà nước, Chương 5 - Bộ Ngoại giao, Chương 7A - DPR,

Chương 6 - Tổng tuyển cử, và Chương 8A BPK [53]. Thay đổi chính trong sửa đổi thứ

ba là cuộc bầu cử tổng thống không còn thông qua MPR, mà trực tiếp thông qua người

dân (Điều 1, Điều 6A). Điều khiến MPR không còn là tổ chức cao nhất. Hiến pháp cũng

quy định thủ tục “đàn hạch” tổng thống. Thủ tục “đàn hạch” được quan tâm đặc biệt sau

vụ việc Tổng thống Abdurrahman Wahid vào ngày 23/7/2001 đã bị phế truất với một cơ

chế khá dễ dàng, người ta bắt đầu sợ hãi điều đó có thể gây ra sự bất ổn chính trị. Việc

sửa đổi dẫn đến Điều 24 cũng bắt buộc phải thành lập Tòa án Hiến pháp và Ủy ban Tư

pháp [83].

Sửa đổi Hiến pháp năm 1945 lần thứ tư (2002): Bản sửa đổi thứ tư của Hiến pháp

năm 1945 đã được quy định tại Phiên họp chung của MPR, ngày 10/8/2002. Trong lần

sửa đổi thứ tư này, nó quy định một số điều, cụ thể là:

(1) Sửa đổi Hiến pháp năm 1945 là Hiến pháp năm 1945 được thành lập vào ngày

18/8/1945.

(2) Việc sửa đổi đã được quyết định tại Hội nghị toàn thể MPR RI lần thứ 9, ngày

18/8/2000 và có hiệu lực vào ngày quy định.

(3) DPA có trong Chương IV đã bị bãi bỏ và sửa đổi tại Điều 16, sau đó được đưa

vào Chương III liên quan đến Quyền lực của Chính phủ Nhà nước.

(4) Chủ quyền bên ngoài và bên trong được nhà nước cấp cho nhà nước liên bang.

Trao chủ quyền hoặc đầu hàng quyền lực đó với giới hạn hạn. Điều này cũng

xác nhận rằng nhà nước không có chủ quyền, nhưng quyền lực thực sự vẫn

thuộc sở hữu của nhà nước [88].

Các điều: Điều 2, Điều 6A, Điều 8, Điều 11, Điều 16, Điều 23B, Điều 23D, Điều

24, Điều 31, Điều 32 của Hiến pháp được sửa đổi, đồng thời bổ sung bổ sung Điều 33,

Điều 34 và Điều 37. Thay đổi chính trong sửa đổi lần này là thành lập Hội đồng đại diện

khu vực (DPD) với tư cách là một thành phần trong MPR và được bầu thông qua bầu cử.

Việc sửa đổi đã bãi bỏ tổ chức DPA. Ngoài ra, cũng có những điều khoản quy định việc

thực hiện nhiệm vụ đã được ghi trong Hiến pháp năm 1945 liên quan đến phúc lợi của

mọi người như giáo dục, văn hóa và y tế [83].

Trải qua những thay đổi lịch sử, Hiến pháp Indonesia nhiều lần được sửa đổi với

những nội dung mới khác nhau. Dù có những mục tiêu khác nhau và cách thức khác nhau,

nhưng mỗi giai đoạn Hiến pháp đều dựa trên nền tảng Hiến pháp 1945 và thay đổi theo

hướng tăng cường Nhân quyền và sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong Hiến pháp. Bộ máy

Nhà nước có sự phân chia và giới hạn quyền lực rõ ràng hơn.

2.2.4. Nội dung Hiến pháp Indonesia hiện hành

Hiến pháp Indonesia hiện hành là Hiến pháp 1945 sửa đổi lần thứ tư năm 2002.

Cũng giống như các bản Hiến pháp sửa đổi trước đó, Hiến pháp 1945 (sửa đổi 2002) vừa

có điểm kế thừa Hiến pháp 1945 (18/8/1945) vừa có những điểm mới khác biệt. Việc nhìn

nhận, đánh giá Hiến pháp hiện hành sẽ giúp bức tranh về lịch sử và xu hướng thay đổi

Hiến pháp tại Indonesia trở nên rõ ràng hơn.

2.2.4.1. Khái quát chung

Về hình thức:

Hiến pháp Indonesia là bản Hiến pháp thành văn. So với Hiến pháp được ban hành

1945, Hiến pháp sửa đổi 2002 đã có sự phong phú, đa dạng hơn trong các lĩnh vực quy

định.

Về cấu trúc:

Mức độ chi tiết và kỹ thuật hợp hất các điều khoản. Hiến pháp Indonesia hiện hành

có cấu trúc khá rõ ràng chia ra làm các chương với 16 chương cơ bản theo Hiến pháp

được ban hành 1945. Hiến pháp Indonesia thuộc nhóm Hiến pháp có mức độ chi tiết hóa

thấp (bên cạnh Lào và Campuchia) [11]. Sau quá trình sửa đổi, từ Hiến pháp ngắn nhất

thế giới, Hiến pháp hiện hành của Indonesia trở thành Hiến pháp có độ dài vừa phải.

Về tính có hiệu lực:

Trong Hiến pháp Indonesia không có dòng nào quy định rõ ràng về hiệu lực của

Hiến pháp. Tuy vậy, có những điều khoản gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của Hiến

pháp. Đồng thời, có quy định không cho phép các văn bản pháp luật do các cơ quan Nhà

nước ban hành hoặc công nhận không được trái với Hiến pháp. Ví dụ, Điều 24C của Hiến

pháp Indonesia hiện hành: “Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền ra phán quyết cuối cùng

đối với các vụ việc sơ thẩm đồng thời chung thẩm liên quan đến việc kiểm tra sự phù hợp

của các đạo luật Hiến pháp.” Quy định tính hiệu lực Hiến pháp Indonesia vẫn chưa tương

xứng với tầm quan trọng và vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước và xã hội [96].

2.2.4.2. Lời nói đầu

Về cơ bản Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành so với Hiến pháp ban hành 1945

không có quá nhiều điểm khác biệt. Nội dung đầu tiên lời nói đầu nhắc đến là nền tảng

phát triển đất nước Indonesia độc lập , tự do, thống nhất, chủ quyền, bình đẳng; đó là dựa

trên giá trị độc lập, dân chủ và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nội dung thứ hai

được nhắc đến là mục đích ban hành Hiến pháp Indonesia với việc thiết lập Chính phủ,

bảo vệ Nhà nước, quyền con người. Đồng thời nhấn mạnh “niềm tin vào thánh Allah”

[11]. Lời nói đầu ngắn gọn đã nêu được những mục tiêu và mục đích của Hiến pháp. Có

bốn giá trị triết học được coi là đáng chú ý trong Lời nói đầu, đó là giá trị của (1) sự bình

đẳng về mức độ giữa tất cả các quốc gia trên thế giới và (2) nguyên tắc nhân đạo, giá trị

(3) công lý (công lý) dựa trên (4) giá trị của Thiên Chúa toàn năng, đó là niềm tin rằng

thông minh như con người, không phải lúc nào cũng như mọi thứ họ có thể làm, mà không

cần sự ban phước của thánh Allah toàn năng [107].

2.2.4.3. Chế độ Nhà nước

Theo Hiến pháp hiện hành, Indonesia là “Nhà nước đơn nhất với hình thức chính

thể Cộng hòa. Chủ quyền thuộc về nhân dân và được thực hiện căn cứ vào Hiến pháp.”

(Điều 1). Có thể thấy, trong lịch sử Hiến pháp Indonesia, chỉ có Hiến pháp RIS là nêu

hình thức Nhà nước liên bang. Hiến pháp có nhắc tới chế độ Nhà nước, nhưng còn mức

độ đơn giản, không hề nêu rõ nhiệm vụ của Nhà nước. Các quy định không chi tiết và cụ

thể [11].

2.2.4.4. Các quy định về nhân quyền

So với bản Hiến pháp 1945, số lượng các quy định về Quyền con người trong Hiến

pháp hiện hành đã tăng lên. Ngoài việc quy định riêng tại một chương (như Hiến pháp

1945), Hiến pháp Indonesia còn đưa quyền con người vào một số điều khoản thuộc

chương 10 – Công dân và cư trú [11]. Từ những quyền ban đầu trong Hiến pháp 1945,

Indonesia gần như đã đưa toàn bộ các quyền được công nhận trong Công ước về Quyền

con người vào bản Hiến pháp hiện hành. Đây là một trong những xu hướng nổi bật của

quá trình thay đổi của Hiến pháp Indonesia để cập nhật và bắt kịp xu thế thời đại. Xu

hướng này sẽ được phân tích kỹ ở Chương 3 – Xu hướng và những vấn đề đặt ra của khóa

luận.

2.2.4.5. Chính thể và bộ máy tổ chức nhà nước

Về chính thể, Hiến pháp quy định Indonesia là Nhà nước theo chính thể Cộng hòa

Tổng thống. Đây là hình thức chính thể được Indonesia xác định phát triển theo ngay từ

thời điểm mới giành độc lập. Đáng tiếc, Tổng thống đầu tiên của Indonesia vì lạm dụng

quyền lực đã khiến đất nước lâm vào cảnh độc tài suốt 22 năm. Các Hiến pháp về sau đã

có sự thay đổi, giới hạn lại quyền lực của Tổng thống, điều này cũng được thể hiện trong

Hiến pháp hiện hành.

Về bộ máy Nhà nước,

(1) Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, vừa là người trực tiếp thi hành quyền hành

pháp. Tổng thống do người dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm kỳ 5 năm và có thể

giữ chức vụ tối đa 2 nhiệm kỳ. Tổng thống và Phó Tổng thống phải tranh cử

theo đảng phái và theo cặp, và sẽ trúng cử nếu đạt tỷ lệ phiếu từ 20% ở bất kỳ

tỉnh nào. Tổng thống ngoài các quyền mang tính nghi lễ, ngoại giao, Tổng

thống còn có quyền phủ quyết với các đạo luật do cơ quan lập pháp thông qua.

Đối với lập pháp, Hiến pháp Indonesia quy định Tổng thống không được phép

giải tán cơ quan lập pháp. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định rõ ràng thủ tục

đàn hạch với Tổng thống.

(2) Cơ quan lập pháp của Indonesia là Hội đồng đại diện nhân dân. Trên thực tế,

công việc lập pháp là phép cộng giữa Tổng thống và Hội đồng đại diện nhân

dân. Đôi khi Tổng thống còn co vẻ “mạnh” hơn vì có thể trình dự án Luật và

nắm trong tay quyền lập quy [11]. Hội đồng đại diện nhân dân được thành lập

qua con đường bầu cử, họp ít nhất 1 lần mỗi năm. Hội đồng đại diện nhân dân

kết hợp với Hội đồng tư vấn nhân dân trở thành một cơ quan đặc biệt trong bộ

máy nhà nước Indonesia.

(3) Cơ quan tư pháp của Indonesia theo Hiến pháp hiện hành gồm Tòa án Tối cao

và Tòa cấp dưới. Đặc biệt, Indonesia còn có Tòa Hiến pháp trong cơ cấu của

mình. Hiến pháp hầu như chỉ quy định cụ thể các vấn đề thuộc Tòa án Tối cao,

Tòa Hiến pháp, còn Tòa án cấp dưới được quy định và điều chỉnh trong các

văn bản có liên quan. Không chỉ vậy, Indonesia còn có Tòa án Nhân quyền

được thành lập theo Đạo luật số 26 năm 2000 về Tòa án Nhân quyền. Đạo luật

công nhận Tòa án Nhân quyền Ad Hoc có thẩm quyền đặc biệt để xử lý vi

phạm thô bạo về quyền con người diễn ra trước khi ban hành Đạo luật số 26

năm 2000. Việc thành lập Tòa án này phải được tiến hành theo khuyến nghị

đặc biêt của quốc hội và được thành lập theo Nghị định của Tổng thống [44].

2.2.4.6. Cơ chế sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và các thiết chế hiến định độc lập

Việc sửa đổi bổ sung được quy định trong Hiến pháp Indonesia khá bó hẹp, được

ví như “công việc riêng” của Hội đồng tư vấn nhân dân (bao gồm Hội đồng đại diện nhân

dân và Hội đồng đại diện địa phương đã nhắc đến ở trên). Nhóm ít nhất 1/3 người đến từ

Hội đồng tư vấn nhân dân có thể bắt đầu chu trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp có thể

sửa đổi các nội dung, tuy nhiên, khoản 5 điều 37 Hiến pháp hiện hành với tuyên bố về:

Hình thức nhà nước Cộng hòa đơn nhất là không được thay đổi.

Hiến pháp Indonesia trao quyền bảo hiến cho cơ quan độc lập – Tòa án Hiến pháp.

Theo Hiến pháp, Tòa án Hiến pháp tại Indonesia có các thẩm quyền sau: xét xử các vụ

việc liên quan đến tính hợp hiến của các luật với Hiến pháp, tranh chấp vụ việc về nhiệm

vụ các cơ quan, về vấn đề bầu cử, đưa ra phán quyết về các quyết định vi hiến của Hội

đồng đại diện nhân dân, hành vi vi hiến của Tổng thống hoặc Phó Tổng thống [44]. Hiến

pháp cũng ghi nhận rất rõ ràng các quy định nhằm đảm bảo Tòa án Hiến pháp hoạt động

một các độc lập với việc tuyển chọn 9 Thẩm phán có tiêu chuẩn gắt gao. Điểm trừ của

Hiến pháp hiện hành là chưa quy định rõ ràng quy trình và nói rõ ai là người khởi động

mà chỉ nói sẽ do Hội đồng đại diện Nhân dân quy định.

Ngoài các cơ quan bộ máy Nhà nước đã được Hiến pháp kể tên, Indonesia còn tổ chức và

thành lập các cơ quan kiểm toán độc lập nhằm hỗ trợ và thực hiện hiệu quả các công việc

được quy định trong Hiến pháp [44].

2.2.4.7. Chính quyền địa phương

Hiến pháp Indonesia không có quy định chi tiết về chính quyền địa phương. Cộng

hòa Indonesia chia thành các tỉnh, huyện, thành phố [97]. Và mỗi tỉnh, huyện, thành phố

có Hội đồng đại diện địa phương của riêng mình. Tuy vậy, Hiến pháp Indonesia chỉ có 4

điều liên quan đến chính quyền địa phương (Điều 1, 3, 4, 18) nhưng không nói rõ đến

mối quan hệ giữa các cơ quan đại diện dẫn đến những cách lý giải khác nhau trên thực tế.

Như vậy, có thể thấy từ Hiến pháp ban đầu năm 1945 đến Hiến pháp hiện hành,

Indonesia đã có nhiều thay đổi, nổi bật là quy định rõ ràng về bộ máy nhà nước theo

hướng phân quyền hơn, hạn chế quyền Tổng thống, nâng cao quyền con người, và tăng

cường cơ chế bảo hiến.

2.2.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp

Việc quy định của Hiến pháp hiện hành Indonesia trên lý thuyết có nhiều thay đổi

như vậy, nhưng từ lý thuyết đến thực tiễn luôn có một khoảng cách nhất định. Thực tiễn

thi hành Hiến pháp Indonesia ra sao chính là thước đo việc áp dụng và tôn trọng Hiến

pháp, cũng như vai trò của Hiến pháp với các nguồn pháp luật khác cùng tồn tại. Thực

tiễn thi hành Hiến pháp Indonesia sẽ được nhìn nhận chủ yếu thông qua các vụ việc thực

tiêu biểu và phán quyết của Tòa án.

2.2.5.1. Thực tiễn thi hành quyền con người

Tờ báo Anh quốc The Economist từng có bài viết về Indonesia với tựa đề ''Niềm

ngạc nhiên đến từ Indonesia'', để nói tới nền dân chủ Indonesia trong không khí bầu cử

theo Hiến pháp. Vào lúc Indonesia tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội lần thứ ba,

báo chí tại Indonesia hiện rất sôi động và tự do, không bị ảnh hưởng của loại luật giống

như luật cấm như Thái Lan, hay bị rào cản trong cách lý giải gò bó về tội phỉ báng như

tại Singapore hay Malaysia. Không giống như quân đội Thái Lan đã trở lại chính trường

với cuộc đảo chính vào năm 2006, quân đội Indonesia vẫn ở yên trong doanh trại của

mình. Và cũng không giống như Philippines, nơi mà các cuộc bầu cử bị súng đạn, những

kẻ giết mướn hay vàng bạc chi phối, với hàng chục vụ ám sát, Indonesia được hưởng một

bầu không khí an lành hơn rất nhiều [25]. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được

được thực hiện và tôn trọng.

Một dẫn chứng khác về việc đảm bảo quyền con người theo Hiến pháp là việc

Quốc hội đã chấp nhận một số yêu cầu của người dân trong lần sửa đổi Hiến pháp sau

một cuộc biểu tình quy mô ngàn người yêu cầu thay đổi hiến pháp cho phép người dân

trực tiếp bầu ra tổng thống và bỏ đi 38 ghế dành cho các đại diện của lực lượng an ninh

nước này [17]. Và chỉ 4 ngày sau, Quốc hội Indonesia (MPR) đã thông qua đạo luật sửa

đổi hiến pháp quan trọng, theo đó người dân Indonesia lần đầu tiên sẽ được trực tiếp bầu

chọn tổng thống và phó tổng thống nước này kể từ năm 2004. Đồng thời, trong phiên họp

thường niên kéo dài 10 ngày này, MPR cũng thông qua thay đổi rằng giới quân sự và

cảnh sát sẽ không còn có ghế đại diện nào trong Quốc hội từ năm 2004 [18]. Không chỉ

quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình được đảm bảo, thông qua cuộc biểu tình cùng

quyết định thay đổi Hiến pháp, quyền bầu cử của người dân và sự công bằng trong Quốc

hội được đảm bảo hơn. Nó cho thấy sự tôn trọng và lắng nghe người dân đến từ cơ quan

lập pháp cao nhất Indonesia.

Trường hợp thứ ba đáng kể, Toà án Hiến pháp của Indonesia đã bác bỏ một luật

từ chối sự công nhận và quyền hợp pháp của các tín đồ tôn giáo bản địa, đây được đánh

giá là sự tiến bộ bất ngờ đối với tự do tôn giáo ở quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế

giới. Phán quyết được đưa ra vào 7/11 với sự nhất trí của toàn bộ 9 Thẩm phán với lý do:

"Các điều luật này sẽ không có hiệu lực về mặt pháp lý vì chúng mâu thuẫn với Hiến

pháp" (Thẩm phán phiên tòa Arief Hidayat) và trái với quyền công bằng được Hiến pháp

Indonesia ghi nhận. Theo đó, đạo luật yêu cầu tín đồ tôn giáo không nằm trong sáu tôn

giáo được chính quyền Indonesia công nhận (Hồi giáo, Tin lành, Công giáo, Phật giáo,

Ấn Độ giáo và Khổng giáo) sẽ không được thực hiện một số quyền: quyền kết hôn, quyền

sở hữu đất, nhà ở, không được điền đầy đủ thông tin trên giấy tờ,… sẽ hoàn toàn được

xóa bỏ. Quyết định này là một chiến thắng bất ngờ cho những người ôn hòa. Phán quyết

của Tòa án vừa thực hiện nhiệm vụ bảo hiến, vừa đem lại công bằng và sự bình đẳng cho

người tôn giáo thiểu số tại Indonesia [90].

Indonesia cũng từng có cuộc thảo luận gay gắt về “Dự thảo Luật về xóa bỏ bạo lực

tình dục” nhằm mục đích ngăn chặn và ngăn chặn sự xuất hiện của bạo lực tình dục trong

đó bao gồm cưỡng hiếp, mại dâm cưỡng bức, nô lệ và lạm dụng tình dục trong các hộ gia

đình, tại nơi làm việc và trong không gian công cộng vào năm 2016 để phản ứng với vụ

cưỡng hiếp cũng như vụ ám sát một học sinh trung học cơ sở 13 tuổi tên là Yuyun bởi 14

thanh niên ở Bengkulu. Dù có nhiều ý kiến trái chiều và tranh luận đến từ các phe đối lập,

song, không thể phụ nhận điều này cho thấy động thái của Chính phủ và Tòa án trong

việc đảm bảo và nâng cao quyền con người, bảo vệ phụ nữ, tại Indonesia [93].

Trong những năm gần đây, trong xu thế phát triển về quyền con người, Indonesia

cũng thể hiện nỗ lực thực hiện và đảm bảo quyền con người được ghi nhận trong Hiến

pháp. Bằng chứng là Ủy ban Quốc gia về Nhân quyền của Cộng hòa Indonesia (Komnas

HAM) đã được thành lập và biết đến như một trong những địa chỉ đáng tin cậy để người

dân tự bảo vệ chính mình trước những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng.

2.2.5.2. Hoạt động của tòa án và cơ chế bảo hiến

Thứ nhất, Hiến pháp Indonesia dành một khoảng không gian nhất định cho việc

quy định về Tòa án và điều khoản để đảm bảo Tòa án hoạt động độc lập. Trên thực tế,

quy trình tuyển chọn Thẩm phán của Tòa án rất gắt gao với các tiêu chuẩn cơ bản như:

ứng viên phải có bằng cử nhân luật và phải thi đỗ khoá đào tạo tư pháp kéo dài khoảng

vài tháng,… Indonesia cũng thành lập Ủy ban Tư pháp giám sát hoạt động và hành vi của

các Thẩm phán ở tất cả các Tòa án Indonesia, kể cả Tòa án tối cao và Tòa án Hiến pháp,

như một phần của chức năng “bảo vệ danh dự, phẩm giá, và bảo đảm tư cách (tốt) của

Thẩm phán” [77]. Nỗ lực đảm bảo thực hiện các quy định trong Hiến pháp nhằm đảm bảo

Tòa án hoạt động độc lập được minh chứng bằng vụ việc Thẩm phán bị bắt hay xét xử

bởi những tội danh vi hiến, điển hình như vụ Thẩm phán Moechar với tội tham nhũng đã

bị sa thải.

Dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc minh bạch hệ thống pháp lý, Tòa án Tối cao

mất thời gian nhiều hơn để công bố quyết định của mình so với Tòa án Hiến pháp, nhưng

Tòa án Tối cao cũng có vai trò và tầm quan trọng trong thi hành Hiến pháp và pháp luật

tại Indonesia [42, 208]. Thẩm quyền Tòa án Tối cao được quy định rõ ràng trong Hiến

pháp hiện hành (Điều 24C), Tòa án Tối cao đã vận hành trơn tru và thuận lợi hơn trên

thực tế các nhiệm vụ của mình so với các giai đoạn lịch sử trước đó của Indonesia.

Điểm đáng lưu tâm nhất là cơ quan độc lập thực thi nhiệm vụ bảo hiến theo Hiến

pháp Indonesia – Tòa án Hiến pháp. Có rất nhiều vụ việc cho thấy Tòa án Hiến pháp đã

thực hiện và đảm bảo khá tốt nhiệm vụ của mình.

(1) Tòa án Hiến pháp cũng từng tuyên bố rằng Luật số 27 năm 2004 liên quan đến

Ủy ban Sự thật và Hòa giải đã mâu thuẫn với Hiến pháp và đi đến quyết định

bãi bỏ Luật này. Trong quá trình thúc đẩy thành lập Ủy ban Sự thật và Hòa

giải (TRC) để xử lý các vi phạm nhân quyền trong quá khứ, dựa trên các Ủy

ban Sự thật và Hòa giải của Nam Phi, Argentina và Chile, Tòa án Hiến pháp

nhận được đơn yêu cầu xem xét lại tư pháp từ các nhóm NGO. Rõ ràng, Tòa

án Hiến pháp Indonesia đã dựa trên luật tối cao nhất của quốc gia – Luật Hiến

pháp để xem xét và đưa ra quyết định [91].

(2) Ngay khi vừa thành lập, Tòa án Hiến pháp đã thực hiện nhiệm vụ giải thích

Hiến pháp của mình, thông qua giải thích về khái niệm: “Hiến pháp” của Giáo

sư Jimly Asshiddiqie, Chánh án đầu tiên của Tòa Hiến pháp. Ông cho rằng

Hiến pháp thực hiện việc: “đảm bảo hoạt động các cơ quan Nhà nước là dân

chủ và hạn chế lạm quyền”, đồng thời “bảo vệ công dân khỏi sự lạm quyền

của các tổ chức nhà nước vi phạm các quyền cơ bản được bảo đảm bởi hiến

pháp” [42, 208]. Việc giải thích khái niệm cơ bản về Hiến pháp của Chánh án

đầu tiên cho thấy Tòa án Hiến pháp đã ý thức được tầm quan trọng xứng đáng

của mình, nó giúp các Thẩm phán có cái nhìn rõ ràng về công lý và thực thi

nhiệm vụ bảo hiến một cách tốt nhất sau những giai đoạn bất ổn, phát triển trồi

sụt của cơ quan hiến định độc lập này [72, 21].

(3) Tòa án Hiến pháp cũng từng ra quyết định về cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp

thứ ba của Indonesia theo đúng Hiến pháp. Khi cả hai ứng cử viên Joko

Widodo và Prabowo Subianto cùng tuyên bố thắng cử sau khi kết quả kiểm

phiếu sơ bộ được công bố, người ta quan ngại về nguy cơ bất ổn chính trị tại

quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới và cũng là nền kinh tế lớn nhất Đông

Nam Á [23]. Tuy vậy, người dân vẫn tin tưởng vào sự làm việc sáng suốt của

Tòa án Hiến pháp, Thứ trưởng Bộ Luật pháp và Nhân quyền - Denny

Indrayana, nói: "Xét tới những tuyên bố thắng cử của cả hai ứng cử viên,

dường như khó tránh khỏi một trận chiến pháp lý tại Tòa án Hiến pháp... Uy

tín của Tòa án Hiến pháp, với tư cách là cơ quan quyết định cuối cùng đối với

kết của bầu cử tổng thống Indonesia, đang bị thách thức". Và phán quyết sau

đó của Tòa án Hiến pháp đã chứng tỏ Tòa án Hiến pháp vượt qua thách thức

và giành được sự tin tưởng của người dân. Chánh án tòa án Hiến pháp

Indonesia Hamdan Zoelva tuyên bố toàn bộ chín thẩm phán của Tòa bác bỏ

mọi khiếu nại của ứng cử viên Subianto và phán quyết của tòa là không thể

kháng cáo. Tòa án Hiến pháp Indonesia đã nhất trí ủng hộ kết quả cuộc bầu cử

tổng thống diễn ra tháng 7 vừa qua, điều này đồng nghĩa với việc ứng viên

Joko Widodo trở thành nhà lãnh đạo tiếp theo của nước này. Ứng viên về thứ

hai trong cuộc chạy đua này Prabowo Subianto tuyên bố chấp nhận kết luận

của Tòa án Hiến pháp. [22]

2.2.5.3. Ảnh hưởng của Hồi giáo với Hiến pháp

Như phần phân tích ở trước, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, dù có nhiều thay

đổi, song, ảnh hưởng Hồi giáo tại Indonesia không hề giảm sút, sự ảnh hưởng đó được

thể hiện ngay trong Hiến pháp. Với lời mở đầu của Hiến pháp cũng như Điều 29, Hiến

pháp Indonesia dù không tuyên bố quốc giáo, song đã cho thấy dấu vết lớn mạnh của Hồi

giáo tại quốc gia này.

(1) Ngược lại lịch sử, sẽ thấy Hồi giáo ảnh hưởng ngay trong quá trình thành lập Hiến

pháp. Hiến pháp đầu tiên 1945 của Indonesia được tạo thành do Ủy ban gồm 9

người, trong đó 8 người thuộc Hồi giáo [88]. Điều đó, thể hiện sự ảnh hưởng mạnh

mẽ của Hồi giáo tại Indonesia với lượng lớn người tham gia. Đồng thời cũng là

một trong số các nguyên nhân lý giải Hiến pháp Indonesia ngay từ bản đầu tiên đã

chịu ảnh hưởng tư tưởng Hồi giáo. Và tư tưởng đó tiếp tục được khẳng định qua

từng bản Hiến pháp.

(2) Lời nói đầu của Hiến pháp qua các thời kỳ cũng cho thấy rõ vị thế của Hồi giáo và

các tôn giáo khác trong Hiến pháp. Triết lý Pancasila phù hợp đức tin về tín ngưỡng

và sự sùng bái về các bậc tối cao [65, 16]. Điều này hoàn toàn phù hợp với giáo lý

Hồi giáo. Nó cho thấy có một mạch đập Hồi giáo chảy trong Hiến pháp Indonesia.

(3) Trong điều 29 đoạn (1), người ta giải thích rằng Nhà nước dựa trên thiên tính tối

cao. Điều này phù hợp với học thuyết của kinh Koran: "Hãy nói:" Ngài là Allah,

Đấng toàn năng ". Các quy định trong việc thực hiện các tôn giáo và tín ngưỡng

tương ứng của họ có trong Hiến pháp năm 1945 đề cập đến sự công nhận sự tồn

tại của một Thiên Chúa tối thượng. Do đó, công dân Indonesia có thể tự do xác

định cách sống của mình với mối quan hệ với Thiên Chúa, theo tôn giáo hoặc tín

ngưỡng của họ, đó là niềm tin của họ trong khi duy trì sự cân bằng cho việc tạo ra

sự khoan dung giữa người tin và người tin (Setiardja, 1993: 121) [65, 16].

(4) Triết lý của Thiên Chúa tối thượng trong bài viết này có thể được hiểu là đồng

nghĩa với tauhid, vốn là cốt lõi của giáo lý Hồi giáo, với sự hiểu rằng giáo lý Hồi

giáo dung túng cho tự do và cơ hội rộng lớn nhất cho những người theo các tôn

giáo khác để thực hiện giáo lý tôn giáo tương ứng của họ.

(5) Cũng theo tinh thần công lý, Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm không có sự phỉ báng

nhân danh tôn giáo hoặc tín ngưỡng của những người theo các tôn giáo khác. Hãy

để tất cả mọi người tin vào tôn giáo của họ là chính nghĩa, thậm chí là quyền duy

nhất, mà không phải phỉ báng tôn giáo hoặc niềm tin của người khác là sai lầm

hoặc sai lầm. Chuẩn mực là như nhau: nếu bạn không thích tôn giáo của mình bị

xúc phạm, thì đừng xúc phạm tôn giáo của người khác. Ngược lại, nếu bạn thích

người khác tôn trọng tôn giáo của bạn, thì hãy tôn trọng tôn giáo của người khác.

Kinh Koran dạy: "Và đừng nguyền rủa sự thờ phượng mà họ tôn thờ ngoại trừ

Allah, vì họ sẽ nguyền rủa Allah bằng cách vi phạm mà không có kiến thức. Vì

vậy, chúng tôi làm cho mọi ummah xem xét công việc của họ tốt. Sau đó, họ trở

lại với Chúa, và họ nói với họ những gì họ đã làm trước đây [65, 16].

2.2.6. Đánh giá và lý giải

Về các nội dung trong Hiến pháp

Như vậy, có thể thấy, trải qua thời gian, từ bản Hiến pháp đầu tiên 1945 đến bản

Hiến pháp hiện hành, bộ mặt đất nước Indonesia có nhiều đổi thay. Từ Hiến pháp ngày

đầu thành lập, sau đó được phục hồi vào năm 1959. Hiến pháp 1945 đã quy định về

Pancasila - triết lý quản lý nhà nước ở Indonesia; phân chia quyền lực một cách hạn chế

giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp, theo đó Indonesia được coi là chính thể tổng thống

pha trộn một số nét của chính thể nghị viện. Tuy nhiên, sau khi chế độ Suharto bị lật đổ,

một loạt điểm sửa đổi được đưa vào Hiến pháp dẫn đến những thay đổi quan trọng trong

hệ thống chính quyền. Hiến pháp được sửa đổi qua 4 lần vào các năm 1999, 2000, 2001

và 2002, tăng từ 37 điều lên 73 điều, trong đó chỉ 11% tổng số điều được giữ nguyên so

với bản Hiến pháp 1945. Những điểm thay đổi quan trọng nhất của Hiến pháp Indonesia

bao gồm: Quy định Tổng thống chỉ được giữ chức hai nhiệm kỳ; thiết lập Hội đồng Đại

diện vùng (DPD) cùng với Hội đồng Đại diện nhân dân (DPR) tạo thành Đại hội đồng tư

vấn nhân dân (MPR)-cơ quan lập pháp tối cao của Indonesia; thay thế chính thể tổng

thống hỗn hợp bằng chính thể tổng thống đơn thuần; bầu cử Tổng thống trực tiếp thay vì

được bầu bởi MPR; thay đổi mối quan hệ theo chiều dọc giữa các cơ quan nhà nước thay

vì trao cho MPR vị thế hiến định tối cao; quy định bầu cử trực tiếp, tự do và bí mật đối

với DPR và các cơ quan lập pháp vùng; thiết lập Tòa án Hiến pháp nhằm bảo vệ Hiến

pháp; thiết lập Ủy ban Tư pháp; bổ sung 10 điều mới về quyền con người [76, 188]. Hiến

pháp Indonesia đã có những quy định rõ ràng hơn về các bộ máy nhà nước, tránh làm

quyền, bổ sung quyền con người.

Có thể lý giải những vấn đề nội dung của Hiến pháp Indonesia cụ thể:

Thứ nhất, Indonesia sở dĩ chấp nhận triết lý Pacasila bởi trên thực tế công dân

Indonesia là đa nguyên, do đó sự thống nhất trong đa dạng trở thành một điều cần thiết.

Sự thất bại của các nước châu Âu như Đức vì đã biến văn hóa Đức thành thánh địa của

tất cả các nền văn hóa khác sống ở Đức. Sự kiêu ngạo này đã khiến Đức thất bại trong

quá trình hội nhập được thực hiện bởi chính sách của Bộ Nội vụ Đức. Thực tế này khác

với các điều kiện ở Mỹ mà ngay từ đầu đã xây dựng văn hóa của họ dựa trên nguyên tắc

“nấu chảy” hoặc lò luyện kim từ các nền văn hóa khác nhau của người khác. Do đó, tỷ lệ

làm cho văn hóa địa phương và trí tuệ địa phương trong cuộc sống Indonesia là lựa chọn

đúng đắn [94, 16]

Thứ hai, sự thay đổi của Hiến pháp Indonesia dựa trên sự học hỏi các quốc gia tiến

bộ. Trong thời đại toàn cầu hóa, không một quốc gia nào có thể không học, mượn hay

chấp nhận một số ý tưởng hiến pháp từ những nước khác hay người khác. Mặc dù

Indonesia đã phát triển hơn hàng trăm là một xã hội rất đa nguyên với các nền văn hóa

chính trị địa phương, nhưng ngay từ Hiến pháp thành văn đầu tiên của Nhà nước,

Indonesia đã xây dựng theo xu hướng hiện đại. Một số khía cạnh của hệ thống tổng thống

Mỹ, cân bằng với sự tồn tại của cơ quan cao nhất của hội đồng người dân như thường

thấy ở Liên Xô và Đông Âu các nước. Một số thể chế nhà nước đã được điều chỉnh từ

những cái cũ dưới thời thuộc địa Hà Lan. Một số thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong

phần giải thích chính thức của Hiến pháp năm 1945 phản ánh các từ tiếng Đức, cho thấy

các tài liệu tham khảo về các nhà soạn thảo về tiếng Đức hệ thống hiến pháp. Ý tưởng

của hệ thống ba đại diện trong Hội đồng nhân dân bao gồm đại diện chính trị (Hạ viện),

đại diện khu vực (từ các tỉnh) và đại diện chức năng (từ các nhóm bộ lạc và các đảng phi

chính trị khác Các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức chuyên nghiệp khác) đã được cấy

ghép một cách sáng tạo từ một số lưỡng viện hệ thống nghị viện bao gồm Anh, Hoa Kỳ

và các nước châu Âu khác.

Thứ ba, Tòa án Hiến pháp Indonesia phát triển trong sự tin tưởng và kỳ vọng của

người dân bởi lẽ mong muốn có một Tòa án trong sạch và dễ tiếp cận là niềm khao khát

và mơ ước của nhiều người Indonesia. Tòa án cũng có thể hiểu được khoảng cách và kỳ

vọng của công chúng từ một cơ quan tư pháp, hoạt động trên thực tiễn của Tòa án Hiến

pháp cũng ngày càng được đảm bảo. Do đó, sự ủng hộ của công chúng đối với tòa án

ngày càng tăng. Bằng cách thành lập Tòa án, chính phủ thực hiện nguyện vọng công cộng.

Việc tạo ra Tòa án được thực hiện vào đúng thời điểm khi mọi người đang mất niềm tin

vào hệ thống tư pháp. Do đó, khi Tòa án được thành lập, có nhiều kỳ vọng từ công chúng

sang một tòa án mới [42, 237].

Thứ tư, tình hình chính trị ủng hộ cũng ủng hộ cho sự lớn mạnh của Tòa án Hiến

pháp. Theo quan điểm của Horowitz, những gì mà các đảng thống trị đã làm trong 13 năm

qua là soạn thảo luật mới cho mỗi cuộc bầu cử khác xa với thông lệ tiêu chuẩn ở các nền

dân chủ trên toàn thế giới. Nó không chỉ tạo ra luật bất ổn từ bầu cử này sang bầu cử khác

mà còn tạo ra cuộc chiến giữa các đảng chính trị lớn và nhỏ. Những cấu hình đó tạo ra sự

cân bằng phe phái trong đó Tòa án Hiến pháp có chỗ để hoạt động độc lập, tuyên bố chính

sách của chính phủ là vi hiến, và không ai xem xét việc không tuân theo quyết định của

Tòa án. Dường như bầu không khí cạnh tranh chính trị mới này đã giải phóng không gian

cho Tòa án xây dựng tính hợp pháp về thể chế của họ [42, 237].

Và mặc dù Tòa án được tạo ra thông qua sửa đổi hiến pháp, các đảng chính trị đã

ủng hộ việc tạo ra Tòa án. Tuy nhiên, khi thành lập Tòa án, Tòa án quay lưng lại và bắt

đầu xem xét những gì các đảng chính trị đã tạo ra. Nghị viện không có đòn bẩy để tấn

công hoặc sửa đổi Tòa án thông qua các cơ chế khác. Người ta nhận ra rằng Tòa án có sự

hỗ trợ của công chúng, đó là điều mà Nghị viện không có [42, 237].

Về sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong Hiến pháp

Lý giải cho sự ảnh hưởng của Hồi giáo mạnh mẽ ở Indonesia với xu hướng ngày

càng tăng, có thể đưa ra một số lý do sau: tư tưởng nhà nước trong Hồi giáo vẫn duy trì

sự hội nhập giữa tôn giáo và nhà nước vì Hồi giáo có những quy định điều chỉnh hệ thống

xã hội, bao gồm các vấn đề chính trị. Trong mô hình tích phân, tôn giáo và nhà nước được

thống nhất. Do đó, người đứng đầu nhà nước là người nắm giữ quyền lực tôn giáo và

quyền lực chính trị. Chính phủ của ông được tổ chức trên cơ sở “chủ quyền thiêng liêng”,

bởi vì chủ quyền bắt nguồn và nằm trong “bàn tay của Chúa”.

Quan hệ Hồi giáo và Nhà nước trong hệ thống hiến pháp, tôn giáo và nhà nước

Indonesia vận hành một cách linh hoạt - biện chứng, do đó việc thể chế hóa các quy tắc

tôn giáo Hồi giáo trong cuộc sống của quốc gia và nhà nước không thể được thực hiện

theo cách lập hiến, nhưng phải thông qua một quá trình lập hiến, dựa trên hiến pháp NRI

1945. Bản chất của các chuẩn mực tôn giáo Hồi giáo chỉ có thể được áp dụng trong hệ

thống pháp luật quốc gia nếu được ban hành theo cách lập hiến và phù hợp với Hiến pháp

Pancasila và Hiến pháp năm 1945 [136].

Ngoài ra, do sự phát triển của quyền con người trên thế giới, bản thân Hồi giáo khi

du nhập vào Indonesia cũng có những điểm tiến bộ về công bằng và bình đẳng.

2.3. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Malaysia

2.3.1. Khái quát chung

“Malay” theo tiếng Mã Lai là “hoàng kim”. Được gọi bằng cái tên “Châu Á thu nhỏ”,

Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và đa văn hóa với dân số hơn 28 triệu dân bao gồm

người Malaysia, người Hoa, người Ấn và các dân tộc khác sinh sống hòa hợp với nhau,

đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong chính trị quốc gia [53]. Malaysia là một quốc gia

quân chủ lập hiến liên bang tại Đông Nam Á. Quốc gia bao gồm 13 bang và 3 lãnh thổ

liên bang, là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền với tổng diện tích

khoảng 329.847 km2. Malaysia bị tách làm hai phần qua biển Đông: Malaysia bán đảo

và Borneo thuộc Malaysia. Bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài

740 km từ Bắc xuống Nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km.

Quá trình lịch sử tại Malaysia có thể chia làm bảy (7) giai đoạn. Cụ thể:

Giai đoạn 1: Thời cổ đại. Những người Mã Lai nguyên thủy có nguồn gốc đa dạng

hơn và đã định cư tại Malaysia vào khoảng 1000 TCN. Khoảng 300 TCN, họ bị người

Mã Lai thứ đẩy và nội lục, người Mã Lai thứ là một dân tộc thời đại đồ sắt hoặc đồ đồng

và có nguồn gốc một phần từ người Chăm [53].

Giai đoạn 2: Các vương quốc đầu tiên. Một số vương quốc Mã Lai tồn tại trong thế

kỷ II và III, số lượng đến 30, chủ yếu tập trung tại bờ phía Đông của bán đảo Mã Lai. Từ

thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, phần lớn bán đảo Mã Lai nằm dưới quyền cai trị của Đế quốc

Srivijaya theo Phật giáo [53]. Đế quốc dựa vào mậu dịch, với các vương tại địa phương

(dhatu hay thủ lĩnh cộng đồng) tuyên thệ trung thành với quân chủ trung ương nhằm cùng

hưởng lợi.

Giai đoạn 3: Vương quốc Malacca. Trong vòng vài năm sau khi thành lập, Malacca

chính thức chấp nhận Hồi giáo, việc cải biến tôn giáo của người Mã Lai sang Hồi giáo

được tăng tốc trong thế kỷ XV. Quyền lực chính trị của Malacca giúp truyền bá nhanh

chóng Hồi giáo trên khắp quần đảo. Đến đầu thế kỷ XVI, cùng với Malacca trên bản đảo

Mã Lai và nhiều bộ phận của Sumatra, vương quốc Demak tại Java, và các vương quốc

khác trên khắp quần đảo Mã Lai ngày càng cải sang Hồi giáo, nó trở thành tôn giáo chi

phối đối với người Mã Lai, và tiến xa đến Philippines ngày nay. Vương triều Malacca tồn

tại trong hơn một thế kỷ, song trong thời gian này nó trở thành trung tâm của văn hóa Mã

Lai [53].

Giai đoạn 4: Johor và người Hà Lan. Sau khi Malacca sụp đổ trước người Bồ Đào

Nha, Vương quốc Johor và Vương quốc Aceh tại miền bắc Sumatra lấp đầy khoảng trống

quyền lực [53]. Ba thế lực đấu tranh nhằm thống trị bán đảo Mã Lai và các đảo xung

quanh.

Giai đoạn 5: Chủ nghĩa thực dân Anh tại Malaysia. Từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ

XIX, Malacca thuộc về người Hà Lan. Trong suốt cuộc chiến Napoleon từ năm 1811 đến

năm 1815, Malacca cùng chung số phận với những thuộc địa khác của Hà Lan tại Đông

Nam Á, đã bị người Anh chiếm đóng. Vào năm 1824, Anh và Hà Lan kí kết Hiệp ước

Anh - Hà Lan. Thông qua Hiệp ước, Malacca được chuyển giao hợp pháp cho chính

quyền Anh. Hiệp ước đồng thời phân chia Malaysia thành hai thực thể riêng biệt cũng

như đặt nền móng cho ranh giới Malaysia và Indonesia ngày nay. Đến năm 1910, mô hình

cai trị của Anh tại các lãnh thổ Mã Lai được thiết lập [53].

Giai đoạn 6: Giai đoạn Chiến tranh thế giới II. Trong Chiến tranh thế giới II, quân

đội Nhật Bản tấn công, đánh bại quân Anh và chiếm đóng Malaya, Bắc Borneo, Sarawak,

và Singapore trong ba năm. Người Malaya tiếp tục chứng kiến người Anh trở lại vào năm

1945, song mọi thứ không thể được duy trì như thời tiền chiến [53]. Nhiều cuộc đấu tranh

giành lại chính quyền đã nổ ra. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1975, nền độc lập cho liên minh

trong khối thịnh vượng chung đã được trao trả.

Giai đoạn 7: Thời kỳ độc lập, thống nhất cho đến nay. Năm 1963, Liên bang được

đổi tên thành Malaysia với sự chấp nhận của các thuộc địa của Anh là Singapore, Sabah

và Sarawak. Từ đó đến nay, Malaysia tiến hành ổn định tình hình quốc gia và phát triển

kinh tế.

Có thể thấy, cũng giống như hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, đất nước

Malaysia đã trải qua sự hình thành và phát triển của các vương triều, cùng với đó là những

biến cố thăng trầm của lịch sử. Từ các thế lực thực dân châu Âu như Bồ Đào Nha, Hà

Lan và Anh quốc, cho đến các thế lực trong khu vực như Xiêm, Nhật Bản. Điều này làm

cho Malaysia trở thành một đất nước đa dạng về chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Điều này

ảnh hưởng không nhỏ đến Hiến pháp và tình hình pháp luật của Indonesia.

2.3.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia

Là một quốc gia đa dạng sắc tộc và tôn giáo, trong đó Hồi giáo có số lượng tín đồ lớn

nhất (khoảng 60,4%), con đường du nhập và Hồi giáo tại Malaysia có nhiều điểm đặc biệt

so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.

Thứ nhất, con đường xâm nhập của Hồi giáo vào Malaysia

Đã có rất nhiều tranh cãi, giả thuyết đã nổ ra nhằm xác định quá trình hình thành và du

nhập của Hồi giáo vào Malaysia. Qua nghiên cứu các tài liệu và giả thuyết, khóa luận có

thể tạm chia ảnh hưởng của Hồi giáo tại Malaysia thành ba (3) giai đoạn. Cụ thể:

Giai đoạn 1: Giai đoạn thích ứng và thay đổi (khoảng từ những năm 1200 – 1400

năm) [125]. Hồi giáo ở Malaysia là bán đảo Ả rập, một số thì cho là từ Ai Cập thông qua

các thương gia Hồi giáo và Ấn Độ truyền sang trong thế kỷ VII – XIII [41, 4]. Đến thế

kỷ XIII – XV, các thương gia Hồi giáo đã đến quần đảo Malaya – Indonesia buôn bán,

định cư, lấy vợ người bản xứ…nhiều đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các tu sĩ Hồi giáo

xâm nhập vào vùng đất này truyền đạo. Giới quý tộc bản xứ, từ lâu đã thèm khát của cải

của người Hồi nên đã vui vẻ chào đón, kết thân và tiếp nhận tôn giáo của họ. Kết quả là

vào thế kỷ XIII – XV, đã có một số nước ở Đông Nam Á như Pasai (Indonesia) đã trở

thành quốc gia Hồi giáo.

Giai đoạn 2: Giai đoạn thích ứng của Malaysia về mặt tinh thần, tư tưởng của giáo

lý đạo Hồi (khoảng 1400 – 1700) [125]. Malaysia được cải giáo muộn hơn, thể kỷ XIV –

XV [147]. Đầu thế kỷ XV, vua nước Melaka là Parameswara (1403 – 1424) đã cải theo

Hồi giáo, lấy tên Hồi giáo là Iskandar Shah. Từ đây, Melaka không những là trung tâm

buôn bán quốc tế mà còn là trung tâm truyền bá tôn giáo lớn nhất thời bấy giờ. Lần lượt

các tiểu quốc khác ở phía bắc Demak, Terengganu, Kelantan… đã lần lượt thiết lạp quan

hệ buôn bán, giao thương và đối ngoại với Melaka và du nhập Hồi giáo. Thời kỳ kỷ

nguyên vinh quang Hồi giáo ở Malaya và đồng thời là sự sụp đổ của vương quốc Hindu

ở Java là thời kỳ của Sultan Mansor Shah năm 1459 - 1477 [125] Trong suốt hơn một thế

kỷ từ năm 1403 cho đến khi bị Bồ Đào Nha xâm lược (1511), Melaka là một nước giàu

có, một trung tâm buôn bán quốc tế năng động và là trung tâm Hồi giáo lớn nhất Đông

Nam Á và từ đây, Hồi giáo lan sang hầu hết ở miền Tây Malaysia và có ảnh hưởng sâu

sắc đến đời sống tinh thần, xã hội Malaysia.

Giai đoạn 3: Giai đoạn bắt đầu đi vào phát triển ổn định và cho đến nay của Hồi

giáo tại Malaysia. Hồi giáo bước chân vào cuộc sống tại Malaysia trong tư tưởng và cả

hệ thống vương quyền của Malaysia, vì thế, giống như Indonesia, Hồi giáo dần lớn mạnh

và trở thành một phần không thể thiếu của đời sống tại Malaysia.

Sở dĩ Hồi giáo có thể du nhập và có tầm ảnh hưởng quan trọng ở Malaysia do một

vài điều kiện thuận lợi có thể kể đến như: Thứ nhất, Hồi giáo đến Malaysia vào lúc đế

quốc Ấn Độ giáo Majapahit đang rơi vào khủng hoảng và tan rã. Sự khủng hoảng của hệ

tư tưởng Ấn Độ giáo đã tạo sự trống rỗng niềm tin, một lỗ hổng lớn cho Hồi giáo len vào

và phát triển [12]. Thứ hai, ở khu vực Đông Nam Á khi đó đang có sự chuyển hướng kinh

tế từ nền nông nghiệp sang kinh tế buôn bán. Và rất thuận lợi khi Hồi giáo xâm nhập vào

Malaysia qua con đường buôn bán. Hồi giáo trở thành ngọn cờ của các tiểu quốc đấu

tranh chống đế chế Majapahit và giành độc lập, tiêu biểu là Melaka. Từ một làng chài

nghèo nàn, Melaka đã dần vươn lên thành quốc gia hùng mạnh về quân sự và có tiềm lực

kinh tế lớn. Chính sự thành công của Melaka đã cổ vũ các nước thuộc Majapahit cải theo

Hồi giáo và tham gia vào thương trường quốc tế. Thứ ba, Hồi giáo ảnh hưởng vào

Malaysia cũng có những điều kiện thuận lợi như khi du nhập vào Đông Nam Á nói chung

và Indonesia nói riêng: du nhập hòa bình, sử dụng chung tiếng Malay, tư tưởng bình đẳng

được đón nhận, nhà vua cải đạo,… Một ví dụ cụ thể ở Melaka, là “nhà vua sau khi cải

giáo theo Hồi giáo đã ra lệnh cho các quan chức và thần dân của mình ở Melaka, dù có

địa vị cao hay thấp, đều phải trở thành tín đồ Hồi giáo” [56, 27].

Thứ hai, về đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia. Ngoài những đặc điểm chung của

Hồi giáo khu vực và Hồi giáo Indonesia, Hồi giáo ở Malaysia chia làm hai (2) phái hệ

Islam: Sunni Islam và Islam Hadhari. Sunni Islam là hệ phái chiếm đa số ở Malaysia. Hệ

phái này có một đặc điểm rất nổi bật là vẫn còn mang trong nó những yếu tố của Shaman

giáo (sùng bái tự nhiên) vẫn còn phổ biến ở các vùng nông thôn ngày nay của Malaysia.

Mặc dù như thế, nhưng hệ phái Sunni Islam vẫn có điểm tương đồng với Islam toàn thế

giới, đó là cầu nguyện năm lần trong một ngày. Và các cấp chính quyền của Malaysia có

chính sách nghiêm ngặt trong việc duy trì đóng cửa hai giờ mỗi chiều thứ sáu ở các cơ

quan chính phủ, các cơ sở giáo dục cũng như các công ty, ngân hàng đều phải đóng cửa

trong hai giờ vào mỗi chiều để công nhân có thể tiến hành cầu nguyện. Islam Hadhari là

một hệ phái tiến bộ do Thủ tướng Malaysia AbdullahAhmad Badawi khởi xướng nhằm

để nhấn mạnh vai trò của niềm tin và trung thực trong công việc khó khăn. Tuy nhiên có

những tín đồ Islam ở Malaysia rằng không đồng ý với khái niệm này vì những lời dạy của

Hồi giáo đã và đang hoàn tất và vì vậy, họ cảm thấy rằng Hồi giáo không cần có một tên

mới và nội dung mới [9].

2.3.3. Lịch sử Hiến pháp Malaysia

Hiến pháp Malaysia cũng có nhiều điểm tương đồng với Hiến pháp Indonesia khi trải

qua nhiều lần sửa đổi với những biến động chính trị không ngừng. Từ bản Hiến pháp liên

bang đầu tiên được thông qua ngày 31/8/1957 đến bản Hiến pháp hiện hành có hiệu lực

ngày 1/11/2010, Malaysia đã trải qua sáu (6) lần sửa đổi Hiến pháp chính với những khác

biệt trong nội dung từng lần để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử thay đổi.

(1) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 (31/8/1957).

(2) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 và hai lần sửa đổi 1960 và 1962.

(3) Hiến pháp Liên bang Malaysia trong giai đoạn 1963 – 1964.

(4) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 sửa đổi 1973 – 1985.

(5) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 sửa đổi 2003.

(6) Hiến pháp Liên bang Malaysia sửa đổi 2010.

2.3.3.1. Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 (31/8/1957)

Về hoàn cảnh lịch sử:

Hiến pháp Malaysia ( Văn bản Jawi : ڤرلمباڬأن مليسيا), còn được gọi là Hiến

pháp Liên bang năm 1948 có 183 trường hợp, là luật tối cao ở Malaysia . Đây là một văn

bản pháp luật tài liệu đã được định hình bởi hai văn bản trước đây của Liên đoàn các Hiệp

định Malaya năm 1948 và Hiến pháp độc lập trong năm 1957. Hiến pháp này được soạn

thảo theo lời khuyên của Ủy ban Reid đã thực hiện một nghiên cứu vào năm 1956. Hiến

pháp có hiệu lực ngay sau khi giành độc lập vào ngày 31 tháng 8 năm 1957. Nó bắt đầu

từ một hội nghị lập hiến được tổ chức tại London vào ngày 18 tháng 1 đến ngày 6 tháng

2 năm 1956, với sự tham dự của một phái đoàn từ Liên bang Malaya , bao gồm bốn đại

diện chính phủ, người đứng đầu Bộ trưởng Liên bang ( Tunku Abdul Rahman ) và ba bộ

trưởng khác, cũng như Cao ủy Anh tại Malaya và các cố vấn của ông [53].

Về cơ cấu:

Hiến pháp gồm 15 phần và 13 bảng với những nội dung cơ bản như: chế độ chính

trị, tôn giáo, quyền công dân, mối liên hệ giữa liêng bang và tiểu ban, bầu cử, tư pháp,…

Ủy ban đã nhận được 131 bản ghi nhớ từ một loạt các tổ chức chính trị và kinh tế xã hội

và được tổ chức nhiều hơn 100 phiên điều trần trên khắp Malaya trong khoảng thời gian

từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1956. Dự thảo hiến pháp đã được xem xét bởi một Ban công

tác ở Kuala Lumpur bao gồm Cao ủy Anh, đại diện của đảng Liên minh và chín nhà cầm

quyền Malay từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1957. Hiến pháp sửa đổi sau đó tranh luận tại

quốc hội Anh và Hội đồng lập pháp liên bang ở Malaya và có hiệu lực vào ngày 31 tháng

8 năm 1957 khi Malaya độc lập [50].

Về thời gian có hiệu lực

Khác với Hiến pháp Indonesia thời kỳ đầu độc lập được sửa đổi ngay sau đó, Hiến

pháp Malaysia có đời sống dài lâu hơn khi không có một điều khoản nào trong Hiến pháp

hay một tuyên bố nào của người đứng đầu Nhà nươc về việc sẽ ngay lập tức sửa đổi Hiến

pháp khi vừa giành được độc lập.

Về nguyên tắc và những nội dung chính

Trong quá trình Ủy ban thảo luận để thống nhất các nội dung sẽ đưa vào Hiến pháp

Malaysia 1957, các bên đã đi đến thống nhất các điều sau:

(1) Bảo vệ vị trí và uy tín của Hoàng thân với tư cách là những người cai trị hiến

pháp của các quốc gia tương ứng.

(2) Một hiến pháp Yang di-Pertuan Besar (Nguyên thủ quốc gia) để Liên bang

được lựa chọn trong số các Hoàng thân của họ.

(3) Quốc tịch chung cho toàn Liên bang.

(4) Bảo vệ vị trí đặc biệt của người Mã Lai và lợi ích hợp pháp của các cộng đồng

khác [66] (Lý do, tại thời điểm đó, người Malaysia không muốn chấp nhận sự hiện diện

của người Ấn Độ và Trung Quốc ở Malaya như một người thường trú. Họ muốn đảm bảo

quyền lợi cho người Malay gốc trước những luồng nhập cư.)

Đây là những điểm được xem là “bất di bất dịch” trong Hiến pháp Malaysia và nó

được truyền tải nguyên vẹn trong bản Hiến pháp độc lập của quốc gia này. Đây cũng là

những nội dung đáng chú ý nhất của Hiến pháp lịch sử Malaysia. Thậm chí, trong những

lần sửa đổi Hiến pháp về sau, những điều này cũng ít khi bị thay đổi. Hiến pháp cũng đã

xây dựng một hệ thống để phân phối quyền lực lập pháp và nguồn lực tài chính, phù hợp

với điều kiện chính trị và kinh tế [49]. Tất cả hướng đến mục đích xây dựng một chính

quyền trung ương mạnh, có quyền lập pháp, xác định chính sách và xử lý thuế. Trong khi

đó, các bang được trao quyền ở một số khu vực nhất định. Họ cũng có một biện pháp tự

chủ tài chính và được đảm bảo thu nhập ổn định thông qua các khoản viện trợ.

Hiến pháp, cũng công nhận rằng có một tiền lệ hiến pháp cho vị trí đặc biệt của

Malay trong Hiệp định Malaya năm 1948 và đồng ý rằng các điều khoản nên tiếp tục

trong một thời gian để hỗ trợ người Malay, về mặt xã hội và kinh tế [49]. Các điều khoản

ưu đãi đó không phải được duy trì vĩnh viễn mà sẽ được xem xét 15 năm sau khi độc lập.

Mặc dù Hội nghị đã đề nghị Hồi giáo trở thành tôn giáo chính thức, nhưng ủy ban

đã từ chối. Ủy ban lo sợ về sự mâu thuẫn tôn giáo nảy sinh, nên đã nhất trí Malaya sẽ là

một quốc gia thế tục. Tuy nhiên, những điều này đã thay đổi sau các cuộc biểu tình từ

một số người Malaysia. Khi Ban công tác xem xét bản dự thảo hiến pháp, quyết định cuối

cùng là Hồi giáo trở thành tôn giáo liên bang [49].

Ngoài ra, quyền công dân được trao cho những người sinh ra trong liên đoàn từ

ngày Merdeka. Những người được sinh ra trước đó và có quốc tịch nước ngoài có thể có

được quyền công dân thông qua đăng ký hoặc nhập tịch bằng cách tuyên thệ. Những

người có quốc tịch kép sẽ phải chọn quốc gia nào họ muốn cam kết trung thành [49]. Việc

chèn một phần về các quyền tự do cơ bản trong dự thảo hiến pháp Malaysia của Ủy ban

Reid đã gây tranh cãi. Ban đầu, các thành viên hàng đầu của đảng Liên minh cầm quyền,

Tổ chức Quốc gia Mã Lai (UMNO) và Hiệp hội người Trung Quốc tại Malaysia (MCA),

không nghĩ rằng cần có một phần độc quyền trong hiến pháp để bảo đảm các quyền tự do

cơ bản. Họ cảm thấy rằng luật pháp thông thường hiện hành đã cung cấp các biện pháp

bảo vệ đầy đủ để bảo vệ các quyền tự do dân sự và chính trị của cá nhân. Tuy nhiên, đối

tác cơ sở trong Liên minh, Đại hội người Ấn Độ - Malaysia (MIC) cho rằng một phần đặc

biệt đảm bảo các quyền cơ bản của các cá nhân nên được đưa vào hiến pháp. Các đại diện

của MIC liên quan đến các cuộc đàm phán trong nội bộ Liên minh và trong phiên điều

trần với Ủy ban Reid là các luật sư rõ ràng quen thuộc với các điều khoản phức tạp trong

hiến pháp Ấn Độ về các quyền cơ bản. MIC đã thuyết phục các đối tác của mình, UMNO

và MCA, rằng một phần về tự do cơ bản là rất cần thiết. Do đó, bản ghi nhớ của đảng

Liên minh với Ủy ban Reid đã liệt kê một danh sách dài các quyền cơ bản mà họ cảm

thấy có thể được đưa vào hiến pháp để bảo vệ các quyền cơ bản của công dân [50].

2.3.3.2. Hiến pháp Malaysia 1957 sửa đổi lần 1 vào 1960 và lần 2 vào 1962

Về bối cảnh lịch sử:

Lần sửa đổi Hiến pháp lớn đầu tiên là 3 năm sau khi Hiến pháp đầu tiên ra đời. Đó

cũng là điều tất yếu với một quốc gia non trẻ và đang trong quá trình xây dựng, phát triển

đất nước. Bối cảnh lịch sử lần sửa đổi đầu tiên trong không khí đấu tranh ngột ngạt của

các lực lượng chính trị khi. Đến năm 1960, chiến tranh đã nổ ra giữa các thế lực khác

nhau [81]. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp Malaysia cần sửa đổi để lập lại trật tự quốc gia.

Đến 1962, khi đã bình ổn được cuộc hỗn chiến giữa các bên, Hiến pháp được sửa đổi lần

nữa nhằm hợp nhất quyền lực.

Về cơ cấu:

Cơ cấu của Hiến pháp Malaysia 1957 về cơ bản vẫn được giữ lại trong lần sửa đổi

1960. Lần sửa đổi đầu tiên, Hiến pháp đã sửa 33 điều và bổ sung thêm 2 điều mới nhằm

chấm dứt vấn đề xung đột trong nội tại đất nước [81]. Lần sửa đổi lớn thứ hai của Hiến

pháp diễn ra chỉ hai năm sau lần đầu tiên. Hiến pháp đã được sửa đổi 29 điều, thêm ba

điều nữa trong khi bãi bỏ ba điều khác, và thay đổi quy tắc bầu cử trong lần sửa thứ hai.

Về nội dung:

Thay vì tận dụng kết thúc chiến tranh để mở ra kỷ nguyên hòa bình và tự do mới,

Chính phủ Malaysia muốn chấm dứt chiến tranh mà không mất đi quyền lực vì tình huống

khẩn cấp nên đã đi đến sửa đổi Hiến pháp lần thứ nhất. Điều này có thể thấy rõ từ các sửa

đổi được thực hiện cho Phần XI của Hiến pháp, bao gồm các Điều từ 149 đến 151, liên

quan đến pháp luật chống lật đổ và hành động gây phương hại đến trật tự công cộng. Điều

149 quy định về việc tạo ra đạo luật của Nghị viện, trước các mối đe dọa lật đổ Liên bang,

điều này đã gây trở ngại cho việc thực hiện quyền con người được liệt kê trong Điều 5,

9, 10 và 13 liên quan đến quyền tự do ngôn luận, lập hội, biểu tình, tài sản, và được tự do

khỏi sự giam giữ bất hợp pháp. Những quyền con người quan trọng này bị hạn chế và

tước bỏ, điều đó mở đường cho việc tạo ra Đạo luật An ninh Nội bộ khét tiếng năm 1960,

vẫn còn hiệu lực cho đến 52 năm sau đó, khi nó được thay thế bởi luật Vi phạm An ninh

(Các biện pháp đặc biệt), Đạo luật 2012 và Đạo luật chống khủng bố năm 2015.

Trước đây trong quy định Điều 150, để tuyên bố khẩn cấp, cần đưa ra hai viện

Quốc hội để quyết định nhằm đảm bảo tính nhanh chóng và thuận tiện. Sau khi được triệu

tập, Nghị viện phải phê chuẩn nghị quyết cho trường hợp khẩn cấp, nghị quyết sẽ không

thể tự động hết hiệu lực sau hai tháng kể từ ngày ban hành. Trong trường hợp Quốc hội

không họp bàn thời điểm đó, thì Yang di-Pertuan Agong có thể ban hành các sắc lệnh

khẩn cấp sẽ hết hiệu lực sau 15 ngày. Tuy nhiên, các điều khoản đã được sửa đổi để loại

bỏ sự cần thiết phải có sự chấp thuận của quốc hội. Thay vào đó, bất kỳ tuyên bố hoặc

sắc lệnh khẩn cấp nào bây giờ sẽ có hiệu lực cho đến khi Quốc hội bãi bỏ nó. Từ chỗ cần

phải có sự chấp thuận của Quốc hội để duy trì tình trạng khẩn cấp, giờ Quốc hội chỉ còn

quyền kết thúc lệnh khẩn cấp. Chính sự thay đổi này đã dẫn đến hệ quả về sau là đình chỉ

hoạt động Nghị viện năm 1969.

Trong khi hầu hết các sửa đổi hiến pháp khác được thực hiện vào năm 1960 chủ

yếu mang tính chất hành chính. Ví dụ, sửa đổi các Điều 122, 125 và 138, dẫn đến việc

bãi bỏ Ủy ban Dịch vụ Pháp lý và Tư pháp (JLSC), cho đến nay, chịu trách nhiệm về việc

đưa ra tất cả các khuyến nghị liên quan đến các vấn đề tư pháp.

Ngoài ra, quyền khởi xướng các thủ tục tố tụng đối với các thẩm phán đã được

chuyển từ JLSC sang Agong theo lời khuyên của thủ tướng, điều đó làm suy giảm nghiêm

trọng sự độc lập của tư pháp. Những hậu quả từ động thái này tạo điều kiện cho việc sa

thải Chủ tịch Tòa án liên bang Salleh Abbas và hai thẩm phán khác của Tòa án Tối cao,

gây ra một cuộc khủng hoảng tư pháp quốc gia chưa từng có.

Ngoài tư pháp, việc sửa đổi Điều 145 cũng có tác dụng thay đổi vị trí của luật sư

từ một người làm việc độc lập trở thành thành viên của chính phủ và họ phải trả lời trực

tiếp trước Nghị viện. Các luật sư có thể dễ dàng bị sa thải bất cứ lúc nào và gặp nhiều áp

lực khi thực hiện công việc của mình [81].

Quyền con người trong thời điểm này tại Malaysia trở nên rất khó khăn và hạn

chế, đặc biệt là bầu cử. Dân chúng suy giảm niềm tin, và để làm dịu đi tình hình cử tri,

Chính phủ đã đầu tư vào một chương trình phát triển nông thôn quy mô lớn. Mặt khác,

họ tìm cách kiềm chế việc thực hiện quyền con người của những ai không phải là người

Malay bằng hai cách: thứ nhất, quyền con người bị hạn chế ở mức tối thiểu với những ai

không phải người Malay; thứ hai, thay đổi hệ thống bầu cử nhằm hạn chế những ai không

phải người Malay đi bầu cử bằng mọi cách.

2.3.3.3. Hiến pháp sửa đổi giai đoạn 1963 – 1969

Về bối cảnh lịch sử:

Hiến pháp đã trải qua một cuộc đại tu lớn khác. Đạo luật Malaysia 1963 được đưa

ra để phù hợp với những thay đổi về cấu trúc của đất nước với việc bổ sung Sabah,

Sarawak và Singapore. Liên bang Malaysia được mở rộng và đổi tên. Nhưng việc sát

nhập chưa được bao lâu, vào ngày 9/8/1965, Singapore đã tách khỏi Liên bang. Trong

giai đoạn đó, giữa Malaysia và Indonesia cũng có những mâu thuẫn nhất định do ảnh

hưởng của hai cực “chiến tranh lạnh”. Bên cạnh áp lực mâu thuẫn chủng tộc đến từ những

người Malaysia theo chủ nghĩa dân tộc cũng như các phần tử cánh tả thân cộng sản.

Những bối cảnh ngặt nghèo đó đã thúc ép Malaysia cần thay đổi Hiến pháp cho phù hợp

với tình hình.

Về cơ cấu và nội dung:

Điều chỉnh 45 điều và 4 mục nhỏ. Nội dung chủ yếu là các vấn đề liên quan đến

chính quyền địa phương, bộ máy tổ chức khi Singapore ra khỏi liên bang [81]

2.3.3.4. Hiến pháp sửa đổi giai đoạn 1969 – 1973

Về bối cảnh lịch sử:

Mở đầu cho bối cảnh lịch sử đầy bão táp là cuộc bạo loạn chủng tộc ngày

13/5/1969. Căng thẳng đã gia tăng trong những năm 1969 trước cuộc tổng tuyển cử, dẫn

đến bùng phát bạo lực giáo phái. Những gì diễn ra vào ngày 13/5 sẽ mãi mãi được khắc

ghi trong lịch sử là ngày “ô nhục” của Malaysia, được Tunku mô tả là một vụ phun trào

chính trị và xã hội của độ lớn đầu tiên, một khoảnh khắc đen tối khi máu chảy trên đường

phố, hàng trăm người thiệt mạng trong cuộc bạo loạn giáo phái. Hiến pháp Malaysia được

sửa đổi ngay lập tức nhằm cải thiện tình hình.

Về cơ cấu và nội dung:

Hiến pháp tập trung sửa đổi các vấn đề nhạy cảm của phe Hồi giáo, 7 điều đã được

thay đổi bao gồm tự do ngôn luận, hội họp và hiệp hội, đặc quyền của Quốc hội, ngôn

ngữ quốc gia, và việc mở rộng phạm vi của Điều 153 liên quan đến việc bảo vệ vị trí đặc

biệt của người Hồi giáo là người Mã Lai. Những sửa đổi này đã được tăng cường hơn nữa

bởi các đạo luật khác, chẳng hạn như Đạo luật Đại học 1971, cấm sinh viên đại học tham

gia các hoạt động chính trị, và Đạo luật Bí mật 1972, đưa ra một hệ thống các vấn đề bị

coi là bí mật và không được phép phổ biến công khai.

Năm 1973, một dự luật sửa đổi Hiến pháp lớn khác đã được thực hiện chủ yếu ở

lĩnh vực bầu cử. Giới hạn Hiến pháp đối với ty lệ người từ nông thôn đã được nới lỏng từ

15% lên 33%, sau đó, quy định đã bị bãi bỏ hoàn toàn.

2.3.3.5. Hiến pháp giai đoạn 1973 – 1994

Về bối cảnh lịch sử:

Những sửa đổi được thực hiện vào năm 1983 và 1984 liên quan đến vai trò lập

pháp của những người cai trị. Năm 1981, Mahathir Mohamad nhậm chức Thủ tướng, ông

bắt đầu cuộc đối đầu đầu tiên với hoàng gia Malay năm 1983 về các cuộc bạo loạn trước

đây. Cuộc đối thoại đã đưa ra nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ trong Hiến pháp cần được sửa đổi.

Về cơ cấu:

Từ năm 1973 đến 1985, Hiến pháp đã được sửa đổi thêm 11 lần, bao gồm nhiều

sửa đổi đối với các khoản trợ cấp cho các tiểu bang, thắt chặt hơn nữa luật bầu cử, cho

phép chính phủ có thêm quyền lực và giới thiệu đồng ringgit là tiền tệ quốc gia.

Về nội dung:

Trước đó, những người cai trị được hưởng quyền miễn trừ pháp lý, một điều khoản

đã bị lạm dụng để trốn tránh trách nhiệm hiệu quả. Đến đầu những năm 1980, hành vi của

những người cầm quyền ngày càng bị nghi ngờ trong các diễn ngôn công khai, đặc biệt

là liên quan đến sai lầm tài chính, lãng phí quỹ công, tham gia vào kinh doanh bất hợp

pháp. Trước bối cảnh đó, Mahathir quyết định làm sáng tỏ tình hình bằng cách đưa ra Dự

luật Hiến pháp (Sửa đổi) năm 1983.

Trong số 43 điều được sửa đổi, quyền lực của những người đứng đầu đã bị giới

hạn lại. Ngoài ra, Mahathir cũng đề xuất chuyển quyền lực để tuyên bố tình trạng khẩn

cấp từ Agong sang tay Thủ tướng. Điều 121 cũng là một trong điểm sửa đổi đáng chú ý

trong Hiến pháp 1988. Những sửa đổi bao gồm loại bỏ quyền lực chung của Tòa án tối

cao để tiến hành đánh giá tư pháp, trao quyền cho Tổng chưởng lý để xác định tòa án cho

các vụ án được xét xử, và tạo ra một ranh giới giữa tòa án dân sự và tòa án Shari’ah, đồng

thời nâng vị trí của tòa Shari’ah ngang bằng với tòa dân sự thường, dẫn đến hai hệ thống

tòa án song song, điều đặc biệt khó khăn khi xét xử các vụ án vừa có yếu tố Hồi giáo, vừa

có yếu tố hình sự và những người không liên quan đến Hồi giáo. Đặc biệt Điều 121 (1A)

với điều kiện Tòa án tối cao “sẽ không có thẩm quyền đối với bất kỳ vấn đề nào thuộc

thẩm quyền của tòa án Shari’ah” [32, 356] đã gây ra một cuộc tranh cãi lớn về thẩm quyền

hai tòa.

Năm 1994, Hiến pháp đã được sửa đổi lần nữa để bãi bỏ quyền lực của Agong trì

hoãn một dự luật bằng cách trả lại cho Quốc hội. Các điều khoản tương tự cũng được mở

rộng cho các cơ quan lập pháp tiểu bang, khiến vai trò của hoàng gia Malay như một cơ

chế kiểm tra và cân bằng bị loại bỏ. Đồng thời, thay đổi những yếu tố mang tính biểu

tượng trong tư pháp như đổi gọi chính thức thành Chánh án và Tòa án tối cao là Tòa án

Liên bang, cũng như đưa ra bộ quy tắc đạo đức chuẩn cho các Thẩm phán.

Hiến pháp được sửa đổi thêm 16 lần nữa, lần cuối cùng là vào năm 2009. Hầu hết

các thay đổi trong giai đoạn này là vấn đề hành chính.

2.3.3.6. Hiến pháp năm 2003 và Hiến pháp 2010

Về bối cảnh lịch sử:

Với những thay đổi không ngừng của thế giới: quyền con người, chủ nghĩa hiến

pháp,… cùng những thay đổi trong nội bộ quốc gia, Hiến pháp Malaysia đã được thay

đổi để bắt kịp với xu thế chung của thời đại và những biến trong trong đời sống tình hình

chính trị trong nước.

Về cơ cấu:

Hiến pháp vẫn giữ nguyên 183 điều và 15 chương với nội dung bao quát các lĩnh

vực: thể chế nhà nước, quyền con người, tài chính, liên bang và tiểu bang,…

Về nội dung:

Hiến pháp đã tăng cường quyền con người và quy định rõ hơn các chức năng,

quyền hạn của bộ máy nhà nước. Điều này sẽ được phân tích kỹ dưới đây.

2.3.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành Malaysia

2.3.4.1. Khái quát chung

Hiến pháp hiện hành của Malaysia là Hiến pháp sửa đổi năm 2010 với các điểm

đáng chú ý. Hiến pháp Liên bang có 183 Điều cùng với 13 phụ lục. Mỗi phụ lục là sự cụ

thể hóa các điều khoản nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan thi hành cũng như người

dân về các vấn đề được nêu trong Hiến pháp.

Cơ cấu gồm Lời nói đầu và các chương: Chương 1 - Các tiểu bang, tôn giáo và

luật liên bang, Chương 2 - Tự do cơ bản, Chương 3 - Quyền công dân, Chương 4 - Liên

bang, Chương 5 – Liên bang, Chương 6 - Mối quan hệ giữa liên bang và tiểu bang,

Chương 7 - Điều khoản tài chính, Chương 8 - Bầu cử, Chương 9 - Tư pháp, Chương 10 -

Dịch vụ công cộng, Chương 11 - Quyền hạn đặc biệt chống lại sức mạnh lật đổ và khẩn

cấp, Chương 12 – Các quy định riêng biệt, Chương 13 – Các trường hợp tạm thời, Chương

14 - Ngoại lệ đối với quyền của các vị vua và Chương 15 - Thủ tục tố tụng của Yang di-

Pertuan Agong và những người cai trị.

Về dung lượng và mức độ chi tiết: Hiến pháp Malaysia được đánh giá là bản Hiến

pháp có độ dài đáng kể, các điều khoản quy định khá chi tiết và có bảng phụ lục chi tiết

để tham khảo. Khi thay đổi hay bổ sung thêm điều khoản, Hiến pháp Malaysia vẫn giữ

nguyên số thứ tự của điều khoản trước đó, cho dù nó đã bị bãi bỏ. Điều đó khiến Hiến

pháp trở nên dễ cập nhật, tra cứu hơn.

2.3.4.2. Lời nói đầu

Hiến pháp Malaysia không có lời mở đầu giống như Hiến pháp Indonesia. Ngay

từ những trang đầu tiên Hiến pháp Malaysia đã đi vào Chương 1 và những điều khoản

đầu tiên. Điều này có thể lý giải được bởi lẽ Malaysia từng chịu ảnh hưởng của pháp luật

Anh, có thể việc không có Lời mở đầu của Hiến pháp là do ảnh hưởng của phong cách

Hiến pháp bất thành văn của Anh. Ngoài ra, các quy định của Hiến pháp Malaysia về sau

rất chi tiết và cụ thể, các vấn đề như tôn giáo hay mục tiêu Nhà nước, được đề cập ngay

trong lời nói đầu trong Hiến pháp Indonesia đều được các điều khoản sau đó trong các

chương của Hiến pháp Malaysia. Do đó, việc Hiến pháp Malaysia không có Lời nói đầu

không phải là vấn đề gì quá nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến ý nghĩa và giá trị của Hiến

pháp Malaysia hiện hành.

2.3.4.3. Chế độ nhà nước

Giống như đã phân tích ở trên, có thể do ảnh hưởng của Hiến pháp bất thành văn

và phong cách Hiến pháp các quốc gia tư sản, Hiến pháp hiện hành Malaysia tập trung

làm rõ hai mảng: tổ chức quyền lực Nhà nước và quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp

Malaysia có quy định chung về vấn đề tôn giáo. Theo đó, Hiến pháp ghi nhận “Hồi giáo

là tôn giáo liên bang”, và các tôn giáo khác vẫn được tự do thực hành cũng như phát triển.

(Khoản 3, Điều 1). Tuy vậy, cách giải thích và nhìn nhận vấn đề “tôn giáo liên bang” này

có nhiều mâu thuẫn và đánh giá khác nhau về vị trí, vai trò của Hồi giáo trong Hiến pháp.

Chủ yếu là hai luồng ý kiến trái ngược nhau: (1) Hồi giáo mang tính chất nghi lễ, hình

thức; và (2) Hồi giáo là cả lối sống, cách thực hiện, triển khai trên thực tế. Cụ thể hai

luồng ý kiến này sẽ được phân tích kỹ trong mục thực tiễn thi hành Hiến pháp Malaysia

dưới đây.

2.3.4.4. Nhân quyền

Nhìn lại hầu hết các bản Hiến pháp đã qua trong lịch sử Malaysia, có thể thấy, gần

như quyền con người trong bất kỳ bản Hiến pháp nào cũng đều bị hạn chế ở một mức độ

nào đó. Do nhiều lý do, chủ yếu là do những biến động chính trị, sự bạo loạn và những

cuộc chiến đẫm máu. Nguyên nhân chính là bởi xung đột sắc tộc và đối nghịch tư tưởng

của những nhóm người khác nhau, điều dễ xảy ra ở các quốc gia đã sắc tộc và tôn giáo

như Malaysia. Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu tình,… được xem là những quyền dễ bị

can thiệp bởi nhà nước Malaysia nhất trong số các quyền cơ bản của con người. Nhưng

cùng với thời gian, sự đi lên và trỗi dậy mạnh mẽ của vấn đề nhân quyền trên thế gới,

Hiến pháp Malaysia đã có xu hướng tôn trọng và đề cao quyền con người hơn. Cụ thể có

thể thấy qua một số biểu hiện:

(1) Ngay ở khoản 1, Điều 8, Hiến pháp Malaysia quy định: “Mọi người đều bỉnh

đẳng trước pháp luật, và được pháp luật bảo vệ như nhau.” Việc công nhân sự

bình đẳng và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai trước pháp luật trong Hiến

pháp là điều quan trọng và là cơ sở để công dân được bảo vệ và tôn trọng quyền

của mình một cách đúng nghĩa.

(2) Không chỉ vậy, số lượng quyền con người có xu hướng tăng trong từng lần thay

đổi Hiến pháp và được quy định riêng trong một chương (Chương 2), được đẩy

lên vị trí những chương đầu tiên trong Hiến pháp cho thấy sự quan tâm và nhìn

nhận của cơ quan lập pháp và Nhà nước đối với một trong những giá trị nhân

bản của nhân loại.

(3) Như đã đề cập trước đó, Hiến pháp liên bang quy định rất rõ quy trình sửa đổi

các quy định trong Hiến pháp. Và việc sửa đổi các vấn đề liên quan đến quyền

con người được xếp vào các vấn đề đặc biệt, cần có sự tham khảo và điều trần

ngặt nghèo, nghiêm khắc hơn. Cụ thể là ngoài tỷ lệ 2/3 nghị sĩ đồng ý trong

phiên điều trần thứ 2 và thứ 3, thì việc điều chỉnh quyền con người được ghi

nhận trong Hiến pháp còn phải được sự đồng ý của Hội đồng tiểu vương hoặc

hai bang quan trọng nhất của Malaysia là Tiểu vương bang Sabah và Sarawak

[110].

2.3.4.5. Chính thể và bộ máy nhà nước

Về chính thể, Hiến pháp quy định chính thể của nhà nước Malaysia là quân chủ

liên bang. Điều này được thể hiện thông qua sự hiện diện của Quốc vương Malaysia và

sự thừa nhận Hồi giáo là tôn giáo liên bang của Malaysia.

Tuy nhiên, không giống như các quốc gia theo hình thức chính thể quân chủ trong

khu vực (Brunei, Campuchia, Thái Lan), bên cạnh Quốc vương Malaysia còn có thiết chế

đặc biệt mang tên “Majlis Raja – Raja” (tạm dịch là Hội đồng tiểu vương). Hội đồng tiểu

vương bao gồm những người đứng đầu về tôn giáo và tiếp quản chức vụ theo việc kế

truyền. Đồng thời, khi so sánh Quốc vương của Malaysia và Quốc vương của Brunei, có

thể thấy Quốc vương Malaysia thẩm quyền bị hạn chế hơn Brunei. Việc chọn lựa Quốc

vương dựa trên sự nhất trí của Hội đồng tiểu vương. Về mặt thế quyền, Quốc vương

Malaysia là nguyên thủ tối cao có Phó Quốc Vương giúp việc và hỗ trợ.

Quyền hành pháp theo Hiến pháp là được “trao cho Quốc vương” nhưng trên thực

tế thì nằm trong tay của Chính phủ. Bất cứ quyết định nào của Quốc vương đều phải dựa

trên sự tư ván và đồng ý của Chính phủ.

Quyền lập pháp được trao cho Nghị viện. Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 5 năm và

Thượng viện có nhiệm kỳ 3 năm. Quốc Vương đứng đầu trên danh nghĩa Nghị viện, còn

thẩm quyền thực sự thuộc về hai viện.

Quyền tư pháp của Nhà nước quân chủ Malaysia được trao cho hệ thống tòa án.

Tòa cấp cao nhất là Tòa án liên bang có thẩm quyền xem xét các vấn đè liên quan đến các

bang, các quyết định trong vụ án của tòa cấp dưới, tính hợp hiến của các dự luật do Nghị

viện trình lên,…Như vậy, khác với Indonesia, Malaysia không có Tòa Hiến pháp riêng,

nhưng bù lại Tòa án tối cao liên bang có quyền xem xét tính hợp hiến. Ngoài ra, ở

Malaysia còn tồn tại Tòa Shari’ah chuyên xét xử các vấn đề liên quan đến đạo Hồi. Và

tòa án thường không được nhúng tay vào (kể cả Tòa tối cao liên bang).

Về vấn đề tam quyền phân lập, trong Hiến pháp Malaysia, không nhắc đến cụ thể

vấn đề “tam quyền phân lập”, nhưng thông qua việc nhìn nhận tổ chức bộ máy nhà nước

có thể thấy, việc phân chia quyền lực quyền lực của ba nhánh lập pháp – hành pháp – tư

pháp khá rõ ràng và cụ thể.

2.3.4.6. Sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và các thiết chế hiến định độc lập

Về sửa đổi Hiến pháp:

Trong Hiến pháp hiện hành của Malaysia, không có điều khoản nào quy định

những nội dung “bất di bất dịch” không được thay đổi hay hạn chế thay đổi như Hiến

pháp của Indonesia. Đồng thời, Hiến pháp cũng không chỉ rõ, những đối tượng nào được

quyền sáng kiến sửa đổi. Như vậy, có thể hiểu bất cứ nghị sĩ hay nhóm nghị sĩ nào đều

có thể đề xuất sáng kiến sửa đổi Hiến pháp và có thể đề xuất ở bất kỳ Nội dung nào. Thủ

tục và quy trình của việc sửa đổi sẽ qua ba (3) lần điều trần và được quyết định bởi cả hai

(2) viện. Tỷ lệ để được thông qua tại phiên thứ hai và phiên thứ ba là 2/3 số thành viên

trong Nghị viện. Hiến pháp cũng quy định chặt chẽ hơn với các điều khoản liên quan đến

việc sửa đổi địa vị Quốc vương, Hội đồng tiểu vương, các vấn đề liên quan đến vùng

Sabah và Sarawak,…

Về các thiết chế hiến định độc lập:

Ủy ban bầu cử quốc gia. Ủy ban công vụ, Ủy ban nhân quyền là những thiết chế

hiến định độc lập được thành lập để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ. Đáng chú ý nhất là Ủy

ban nhân quyền mới được thành lập để tăng cường đảm bảo vấn đề quyền con người theo

quy định của Hiến pháp.

2.3.4.7. Chính quyền địa phương

Trong Hiến pháp của Malaysia hiện hành không có quy định cụ thể về cấu trúc các

cấp chính quyền địa phương cho các cấp ở các bang mà các vấn đề liên quan đến quyền

lập pháp của các cấp chính quyền của Liên bang và cấp bang trong phụ lục 9 trong Hiến

pháp. Thông qua đây có thể thấy căn cứ phân định phạm vi thẩm quyền hành pháp của

chính quyền cấp bang và các việc chính quyền cấp bang không có quyền thực hiện.

2.3.4.8. Hiệu lực

Khác với Hiến pháp Indonesia, Hiến pháp Malaysia quy định rất rõ ràng về hiệu

lực của Hiến pháp: “Hiến pháp này là hiến pháp chính của Liên bang và bất kỳ luật nào

được thông qua sau ngày Merdeka không phù hợp với Hiến pháp này đều vô hiệu cho

đến khi không thống nhất.” (Khoản 1 – Điều 4). Nếu như Hiến pháp Indonesia chỉ nói

chung chung “tuân theo Hiến pháp” mà không xác định rõ ràng vị trí tối cao của Hiến

pháp trong hệ thống pháp lý quốc gia thì Hiến pháp Malaysia lại tỏ ra trân trọng và tôn

vinh Hiến pháp đúng vị trí của nó. Qua khoản 1, điều 4, có thể thấy, Hiến pháp Malaysia

được khẳng định là đạo luật cao nhất, buộc các cơ quan, người dân phải tuân theo. Đồng

thời cũng chỉ rõ mọi luật hay đạo luật được ban hành có nội dung trái với Hiến pháp đều

bị hủy bỏ. Nội dung cũng như vị trí về quy định có hiệu lực của Hiến pháp được đặt ngay

đầu vừa nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp, vừa cho thấy điểm đáng lưu ý và cần

thiết của nó trong sự vận động và phát triển của quốc gia.

2.3.5. Thực tiễn thi hành

2.3.5.1. Quyền con người

Sự nâng cao của quyền con người không chỉ thể hiện trong các điều khoản của

Hiến pháp mà còn thể hiện ở các quyết định của tòa án bảo vệ quyền con người.

Hiến pháp đã ghi nhận một số điều khoản quan trọng về quyền con người, cụ thể:

(1) Tự do của bản thân: Điều về tự do của bản thân đã được quy định tại Khoản

1, Điều 5 của Hiến pháp Liên bang quy định rằng không ai có thể lấy mạng sống

của mình và bị tước quyền tự do ngoại trừ theo luật. Một người bị bắt phải được

thông báo ngay khi biết lý do bị bắt và anh ta được phép tự bào chữa bởi một luật

sư do chính anh ta chọn. Ngoài ra, một người bị bắt và được thả nếu không bị đưa

ra xét xử sau 24 giờ.

(2) Bình đẳng trong pháp luật: Hiến pháp Liên bang Malaysia quy định rằng

mọi người đều có quyền được bảo vệ như nhau. Khoản 2 quy định rằng một công

dân không thể được phân biệt chỉ vì tôn giáo, chủng tộc, tổ tiên hoặc nơi sinh. Tuy

nhiên, các trường hợp ngoại lệ được quy định tại Điều 153 cung cấp các dịch vụ

đặc biệt cho người Malaysia và các “bumiputeras” khác ở Sabah và Sarawak trong

các lĩnh vực khác nhau như giữ chức vụ dịch vụ công cộng, cấp học bổng và cấp

giấy phép.

(3) Tự do ngôn luận, hội họp và lập hội: Điều 10 của Hiến pháp Liên bang

Malaysia quy định quyền tự do của mọi công dân được nói, tập hợp và thành lập

các hiệp hội. Tuy nhiên, quốc hội có thể áp đặt một số biện pháp trừng phạt nhất

định nếu họ gây ảnh hưởng đối với an ninh, trật tự công cộng hoặc đạo đức.

Trong thực tế, Tòa án từng có phán quyết để bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do

thể hiện quan điểm, tư tưởng của công dân. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sử dụng quyền hạn của

mình theo Đạo luật Xuất bản và In ấn 1984, đã cấm xuất bản một số sách báo. Các nhà

xuất bản của NXB Herald sau đó đã nộp đơn kiện lên Tòa án, và vào tháng 12/2009, Tòa

án Tối cao đã đưa ra một bản án mạnh mẽ giáng xuống lệnh cấm của Bộ trưởng với lý do

vi phạm quyền thực hành tôn giáo trong hòa bình và hòa hợp theo Điều 3 (1) và quyền tự

do ngôn luận.

Không chỉ có vậy, chính kỳ bầu cử 2018 mới làm nổi bật hẳn tinh thần tự do bầu

cử và làm chủ đất nước của người dân Malaysia. Chiến thắng của Liên minh PH với 47%

số phiếu phổ thông đã cho thấy rằng, sức mạnh của người dân có thể đẩy lùi cả một liên

minh BN hùng mạnh, vốn đã quá nổi tiếng với những chiêu trò gian lận bầu cử và thao

túng truyền thông. Với tinh thần tích cực tham chính của cả người dân lẫn các tổ chức xã

hội dân sự như vậy, chắc chắn nền dân chủ Malaysia sẽ còn tiến xa hơn nữa [28].

Một minh chứng nữa cho việc đảm bảo quyền con người là quy định và sửa đổi

Hiến pháp nhằm đảm bảo cho quyền con người kể cả với những người bị xét xử trong

Tòa án Shari’ah với những tội liên quan đến Hồi giáo. Với sửa đổi này, một người phạm

tội có thể bị xét xử tại Tòa án Syariah sẽ có các quyền tương tự được cấp cho anh ta trong

trường hợp anh ta bị xét xử tại Tòa án của Thẩm phán. Hiệu quả là nếu anh ta bị giam giữ

vì mục đích này, anh ta sẽ được đưa ra trước một thẩm phán Tòa án Syariah trong vòng

24 giờ kể từ thời điểm bị bắt mà không có sự chậm trễ vô lý [126].

Không chỉ vậy, sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền Malaysia (SUHAKAM) được

thành lập bởi Nghị viện theo Đạo luật Ủy ban Nhân quyền Malaysia năm 1999, Đạo luật

597 nhằm thực hiện tốt và hiệu quả hơn quyền con người tại Malaysia đã được tiến hành

một cách nhanh chóng. Với những mục đích và mục tiêu:

+ Để nâng cao nhận thức và cung cấp giáo dục nhân quyền.

+ Tư vấn và hỗ trợ Chính phủ xây dựng các hướng dẫn và thủ tục lập pháp và hành

chính và đề xuất các biện pháp được thực hiện.

+ Đề xuất với Chính phủ về việc ký kết hoặc tham gia các điều ước và công cụ

quốc tế khác trong lĩnh vực nhân quyền.

+ Để điều tra các khiếu nại liên quan đến vi phạm nhân quyền.

Ủy ban Nhân quyền được hy vọng sẽ là chỗ dựa vững chắc đảm bảo về nhân

quyền tại Malaysia.

2.3.5.2. Hoạt động của Tòa án và cơ chế bảo hiến

Bên cạnh việc nâng cao quyền con người, trên thực tiễn cũng cần nhìn nhận những

phán quyết của Tòa án về các vấn đề liên quan đến quyền con người, về các đạo luật vi

hiến để xem xét khả năng thực thi trên thực tế của Hiến pháp.

Từng có một thời gian Malaysia hạn chế quyền của những người theo tôn giáo cải

đạo với lý do an ninh quốc gia và tránh xung đột tôn giáo sắc tộc. Nhưng đã có một vụ án

nổi tiếng làm thay đổi điều đó. Trong vụ Bộ trưởng Bộ Nội với Jamaluddin bin Othman,

Tòa án tối cao đã bãi bỏ lệnh giam giữ phòng ngừa được ban hành theo Đạo luật An ninh

Nội bộ năm 1960 chống lại một người Malay chuyển đổi sang Cơ đốc giáo, người đã

chuyển đổi một số người Hồi giáo sang Kitô giáo, theo một quyết định tiên tiến, rằng

ngay cả an ninh quốc gia cũng không thể thắng thế đối với tự do tôn giáo [32, 356] và

nhằm đảm bảo quyền thực hiện tự do tín ngưỡng không bị ngăn cản bởi những lý do phi

lý của người dân.

Các phán quyết trước đó về quyền con người kể trên của Tòa án cũng được xem

là minh chứng rõ ràng trong nỗ lực thực hiện của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền

con người trên thực tiễn của Malaysia.

2.3.5.3. Ảnh hưởng của Hồi giáo

Việc quy định về vị trí của Hồi giáo trong Hiến pháp cho đến nay vẫn là một cuộc

tranh cãi giữa các luồng ý kiến. Việc ghi nhận “Hồi giáo là tôn giáo liên bang, nhưng các

tôn giáo khác vẫn được tự do phát triển trong hòa bình” tạo ra hai luồng quan điểm khác

nhau về vị trí của đạo Hồi trong Hiến pháp. Có hai ý kiến khác nhau về vị trí của đạo Hồi

trong Hiến pháp Liên bang. L.A Sheridan và H.E Groves đưa ra quan điểm của họ rằng

quy định về Hồi giáo nhằm mục đích cho thấy Malaysia có những đặc điểm và đặc điểm

Hồi giáo cũng như các nghi lễ chính thức quốc gia (Sheridan L.A và Groves H.E). Đọc

kinh tại các nghi lễ chính thức như Yang di-Pertuan Agong và Ngày quốc khánh là một

trong những ví dụ về mục đích của điều khoản về đạo Hồi. Tuy nhiên cũng có quan điểm

cho rằng với quy định tôn giáo “liên bang” và quy định Yang di-Pertuan Agong được trao

quyền lực là người đứng đầu tôn giáo Hồi giáo đối với các quốc gia đã cho thấy vị trí của

Hồi giáo nổi bật của Hiến pháp so với các tôn giáo khác. Trong cuộc tranh luận đầy căng

thẳng đó, vai trò của Tòa án thu hút được chú ý với việc giải thích vị trí của Hồi giáo

trong Hiến pháp. Trong vụ Che Omar v. Public Prosecutor, Tòa khi đó tuyên bố rằng địa

vị của Hồi giáo trong Điều 3 chỉ giới hạn vào những “hoạt động liên quan đến nghi thức

và lễ nghi” (rituals and ceremonies), và rằng luật pháp của đất nước là luật pháp thế tục

[106, 56]. Hai năm sau, Tòa Tối cao tái khẳng định cơ sở thế tục của Hiến pháp, căn cứ

trên những tuyên bố của các nhà lập pháp rằng thừa nhận đạo Hồi là tôn giáo nhà nước

“không ảnh hưởng theo bất cứ cách thức nào đến các quyền dân sự của những người

không Hồi giáo” [79]. Nhưng dù theo cách giải thích của Tòa án, Hồi giáo chỉ mang tính

nghi lễ thì không thể phủ nhận đạo Hồi và pháp luật Hồi giáo có ảnh hưởng lớn và ngày

càng mạnh mẽ trên thực tế.

Mặc dù chỉ mang tính hình thức, song trong tuyên thệ nhậm chức của Vua

Malaysia, ông tuyên thệ nhậm chức trước tuyên thệ cụm từ “wabillahi, watallahi” và thề

rằng: “Và chúng tôi thề sẽ tôn trong và thực sự duy trì Hồi giáo và chính phủ sẽ dựa trên

công bằng và hòa bình trong nước.” Tuyên lời thề đó là cần thiết trong tôn giáo Islam và

nó biểu thị sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong các nghi lễ vương quyền tại Malaysia [112].

Năm 2016, lãnh đạo đảng đối lập Đảng Hồi giáo liên Malaysia (Pan-Malaysian

Islamic Party, PAS) đề xuất một dự luật nhằm mở rộng quyền lực của Tòa án Syariah ở

Malaysia để áp đặt các án phạt hà khắc hơn nữa. Dự luật gây ra phản đối mạnh mẽ từ xã

hội dân sự và các nhóm đối lập, nhưng cũng nhận được ủng hộ từ những thành phần khác

trong xã hội Malaysia thể hiện bằng một cuộc biểu tình lớn ủng hộ dự luật diễn ra ở Kuala

Lumpur tháng 2/ 2017. Điều đó cũng cho thấy sự gia tăng ảnh hưởng của Hồi giáo trong

đời sống pháp luật và xã hội tại Malaysia.

Việc duy trì pháp luật Hồi giáo cũng gây ra những rào cản nhất định trong quá

trình thực hiện quyền tự do của người dân trong nhiều trường hợp, đặc biệt là vấn đề cải

đạo – một trong những tội được xem là nặng nề nhất trong giáo lý đạo Hồi. Điều đó càng

đặc biệt khó khăn khi hệ thống tòa án thường không có quyền can thiệp vấn đề thuộc Hồi

giáo hay công việc của Shari’ah. 750 người Hồi giáo (chủ yếu tự chuyển sang đạo Hồi)

đã nộp đơn lên Cục Đăng ký quốc gia để đổi tên thành tên không theo đạo Hồi; chỉ 220

trong số này đã thành công. Chỉ có 100 người nộp đơn lên tòa án tổng hợp để từ bỏ Hồi

giáo từ năm 1994 đến 2003. Trong số những người nộp đơn này, chỉ có 16 người đã thành

công. Năm bang đã thông qua luật phạt một người Hồi giáo từ bỏ Hồi giáo, với hình phạt

tối đa là ba năm tù tù [32, 382]. Điều đó khiến việc cải đạo trở nên khắc nghiệp và gần

như là không tưởng với những ai theo đạo Hồi và cũng ngăn cản người dân thực hiện

quyền tự do tôn giáo của mình.

Một ví dụ nổi tiếng cho vấn đề cải đạo, đó là vụ kiện của Lina Joy. Sinh ra trong

một gia đình Hồi giáo Malay, Lina Joy sau đó cải sang Thiên chúa giáo và định kết hôn

với một vị hôn phu theo đạo Thiên chúa. Theo Luật Gia đình Hồi giáo năm 1984 (trong

lãnh thổ Liên bang), Lina sẽ không được kết hôn và cải đạo khác với Hồi giáo. Cô buộc

phải có được giáy chứng nhận từ Tòa án Shari’ah nhưng bị từ chối. Lina Joy kháng cáo

lên tòa dân sự trên căn cứ rằng sự cải đạo của mình được bảo hộ dưới Điều 11 về quyền

tự do tôn giáo. Năm 2007, Tòa Phúc thẩm Tối cao Malaysia ra phán quyết chống lại cô,

viện dẫn việc cô rời bỏ đạo Hồi không được bảo vệ bởi Hiến pháp bảo đảm quyền “tuyên

xưng và thực hành” tôn giáo; mà đây là vấn đề do tòa Syariah quyết định. Đa số Toà Liên

bang xem việc bỏ đạo là việc liên quan đến Luật Hồi giáo, do đó nằm trong thẩm quyền

của Tòa Shariah. Tổng Chưởng lý sau đó đã trả lời rằng “người ta không thể từ bỏ hay

chấp nhận một tôn giáo theo ý thích và sở thích bất chợt riêng của mình được”. Điều đó

khiến Lina gần như phải trốn chạy khỏi Malaysia và luật sư Nhân quyền của cô sau đó bị

đe dọa giết hại nhiều lần.

Nhưng điều đó không có nghĩa lúc nào Hồi giáo hay tòa Shari’ah cũng lấn lướt

trước Tòa án thường hay Tòa án thường bất lực trước việc bảo vệ quyền công dân. Trong

Hiến pháp cũng quy định những giới hạn nhất định cho việc thực hiện giáo lý đạo Hồi.

Theo đó, Chính phủ tiểu bang không thể thực thi hoặc thi hành luật Hồi giáo ngoài những

gì đã được đề cập trong Danh sách Nhà nước vì nó trái với Điều 74 (2) của Hiến pháp

Liên bang, hay ngoài vấn đề được liệt kê trong Danh sách Nhà nước (nghĩa là Danh sách

thứ hai được nêu trong Thứ chín Lịch trình) hoặc Danh sách đồng thời [43].

Luật Hồi giáo chỉ có thể được trao quyền cho người Hồi giáo và không cho người

Hồi giáo. Ví dụ, trong các trường hợp quyền nuôi con, nếu một người là cha hoặc mẹ

không theo đạo Hồi thì vụ việc sẽ được giải quyết tại tòa án dân sự chứ không phải tại tòa

án. Trong trường hợp bắt giữ liên quan đến nhóm người trong đó có người không theo

Hồi giáo liên quan đến vấn đề Hồi giáo, cáo buộc chỉ áp dụng đối với người Hồi giáo

[120].

Cũng theo Điều 121 (1A) Hiến pháp, Tòa án Syariah không có quyền miễn trừ đối

với bất kỳ bên nào liên quan nếu một trong số họ không phải là người Hồi giáo. Chẳng

hạn, Tòa án Syariah đã không thành công trong việc bảo vệ một người cải đạo Re Susie

Teoh vì người cha không theo đạo Hồi. Và ông có quyền cao hơn đối với tôn giáo của

người con chưa đầy 18 tuổi. Điều này đúng bởi vì theo Điều 11 và 12, một người cha

hoặc người giám hộ có quyền quyết định về tôn giáo và giáo dục con cái của họ. Trong

trường hợp này, Tòa án Tối cao Dân sự đã phê chuẩn yêu cầu của người cha đối với Re

Susie Teoh để hủy bỏ việc nhận con trai của mình vào đạo Hồi. Tóm lại, trong trường

hợp này, vị trí của luật Hồi giáo tại Tòa án Syariah bị hạn chế.

Theo một thông cáo báo chí, vào tháng Tư, Cục Đăng ký Quốc gia đã kháng cáo

quyết định của Tòa án Tối cao Liên bang về một người đàn ông Sarawakian sinh ra trong

một gia đình Kitô giáo chuyển sang đạo Hồi khi anh ta còn nhỏ có quyền trở lại Kitô giáo

khi trưởng thành và có chứng minh thư trong đó cho thấy tôn giáo của mình là Kitô hữu.

Có thông tin rằng cho rằng chỉ có tòa án Shari’ah mới có thể đưa ra quyết định này, nhưng

thẩm phán Tòa án tối cao không đồng ý với câu nói: “... tự do tôn giáo là quyền lập hiến

và chỉ anh ta (ám chỉ vị Thẩm phán đó) mới có thể thực hiện quyền đó” [115].

2.3.6. Đánh giá và lý giải

Về các nội dung của Hiến pháp

Dù còn nhiều vấn đề trong việc giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật thường và luật

Hồi giáo, nhưng không thể phủ nhận vấn đề quyền con người tại Malaysia ngày càng

được quan tâm và nỗ lực nâng cao nó của Hiến pháp. Việc nâng cao quyền con người

trong Hiến pháp Malaysia có thể lý giải qua sự lớn mạnh, xu hướng của quyền con người

trên thế giới, cũng như sự học hỏi của Malaysia với các điều khoản Hiến pháp trên thế

giới. Ví dụ, Điều 3 quy định về “quyền tự do của con người” và bảo vệ cá nhân khỏi bị

bắt hoặc giam giữ bất hợp pháp. Dự thảo ban đầu có nội dung: “Không ai bị tước đoạt

mạng sống hoặc quyền tự do cá nhân theo luật pháp.” Điều khoản này về tự do cá nhân

là một đặc điểm cơ bản của các hiến pháp hiện đại lấy cảm hứng từ Dự luật Nhân quyền

trong hiến pháp Hoa Kỳ. Phần này được rút ra từ Điều 5 (2) của hiến pháp Pakistan, Sửa

đổi thứ năm của hiến pháp Hoa Kỳ, Điều 21 của hiến pháp Ấn Độ cũng như Điều 16 của

hiến pháp Miến Điện.

Hay Điều 4 (1) về quyền bình đẳng của công dân trong hiến pháp liên bang đã rút ra

từ Sửa đổi thứ 14 của Hiến pháp Mỹ, Điều 14 từ Ấn Độ và Điều 5 từ Pakistan. Khoản 4

(2), mặt khác, được rút ra từ Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935.

Điều 5 quy định về quyền tự do đi lại của công dân trong bất kỳ lãnh thổ nào của liên

bang. Bài viết này nhấn mạnh rằng không có công dân nào bị loại trừ khỏi bất kỳ phần

nào của đất nước chỉ dựa trên tôn giáo, chủng tộc, nơi cư trú, ngôn ngữ hoặc nơi sinh.Điều

khoản tương tự được tìm thấy trong hiến pháp của Miến Điện, Điều 17 (iv), Ấn Độ, Điều

19 (1) (d) và (e) và Pakistan.

Như vậy cùng với xu hướng thế giới, Indonesia hay Malaysia đều thể hiện sự hiện

đại hóa trong Hiến pháp của mình, và phần dễ dàng nhận ra nhất chính là nhân quyền.

Về ảnh hưởng của Hồi giáo

Thứ hai, cũng giống như các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo, có thể lý giải sự phát

triển và lớn mạnh của pháp luật Hồi giáo tại Malaysia qua các cơ sở sau:

Từ đầu thập kỷ 70, Islam ngày càng chiếm được vị trí quan trọng trong đời sống tinh

thần với nhiều lý do: (1) Islam ở Malaysia đã chịu ảnh hưởng của phong trào phục hưng

Islam quốc tế bắt đầu từ cuộc chiến tranh Ả rập – Israel năm 1973 và cuộc khủng hoảng

dầu lửa xảy ra sau đó, đặc biệt là từ cuộc cách mạng Islam ở Iran năm 1979. Các sự kiện

trên góp phần đẩy mạnh phong trào phục hưng Islam phát triển như một lực lượng chính

trị trên trường quốc tế, tác động mạnh mẽ đến tinh thần Islam ở Malaysia. (2) tinh thần

phục hưng Islam ở Malaysia đã được hun nóng từ chính tình hình nội bộ phức tạp của

một nước đa dân tộc, đa tôn giáo, đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoảng chính trị năm 1969.

Mối quan hệ giữa Islam và Malayu (người Malayu và bản sắc Malayu) là mối quan hệ

tương hỗ. Khi tinh thần dân tộc Malayu lên cao, thì Islam trở thành sợi dây liên kết cộng

đồng Malayu chống lại các cộng đồng cư dân khác. Islam cùng với nền văn hoá của nó

được người Malayu coi là đặc trưng văn hoá dân tộc của họ, là giải pháp cho mọi vấn đề

của đất nước. Vì thế Islam ngày càng được đề cao, càng có vị trí quan trọng trong xã hội.

Trong bối cảnh Malaysia vào những năm 70 – 80, phong trào phục hưng Islam đã tác

động mạnh mẽ đến sự phát triển tình hình chính trị trong nước Malaysia, phong trào này

đã gay áp lực lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các đảng phái chính trị ở Malaysia,

đặc biệt là sự đấu tranh giữa PAS và UMNO. Điều này giải thích tại sao từ những năm

70 – 80 đến nay, chính phủ Malaysia hết sức coi trọng vai trò của Islam, nâng cao địa vị

của Islam trong đời sống chính trị, xã hội của Malysia. Cũng chính Islam đã khiến

Malaysia thay đổi chính sách đối ngoại, thiên về thế giới Islam.

Đồng thời, những chính sách trong lịch sử Malaysia như “Chính sách kinh tế Mới”

với đối tượng bumiputra - “những đứa con của đất” – người Malaysia theo Hồi giáo được

thụ hưởng tài sản quốc gia, kinh doanh, giáo dục với lập luận bản sắc Malaysia nằm ở

Islam, vì trong Islam chứa đựng ngôn ngữ, lịch sử cũng như truyền thống văn hóa lâu đời

của cư dân bản địa trên bán đảo Malay. Điều này đã thúc đẩy công dân của Malaysia cải

đạo theo Islam một thời gian dài. Và cho đến nay số lượng người Malaysia duy trì và tiếp

tục bởi hoặc họ truyền bá cho gia đình, cộng đồng; hoặc chính bản thân họ cũng khó thay

đổi được khi vấn đề cải đạo cực kỳ khó khăn như đã phân tích trên.

Tuy vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật Hồi giáo cũng gặp các rào cản, trên thực

tế, Hồi giáo không còn toàn quyền trong mọi vấn đề đời sống chính trị nữa, thậm chí nó

còn bị Hiến pháp giới hạn lại, và sự tác động chủ yếu nằm ở vấn đề gia đình, hôn nhân,

thừa kế so với Hồi giáo nguyên thủy. Bởi lẽ, vào cuối thế kỷ 19, tất cả các bang ở Malaya

đều nhận được các cố vấn người Anh. Sự xuất hiện của cố vấn người Anh ở Mã Lai này

đã dẫn đến việc áp dụng luật Hồi giáo đã bị xói mòn theo cách người Anh. Theo M.B.

Hooker, nói rằng mục đích thực sự của người Anh đã đưa ra Luật dân sự ở vùng đất Malay

và do đó làm giảm tình trạng của luật Hồi giáo không phải vì luật dân sự bất hợp pháp

hay Luật Hồi giáo không phải là hệ thống mà là các yếu tố kinh tế. Họ cũng cho rằng Hồi

giáo là một yếu tố rào cản trong sứ mệnh phát triển Malaya của họ [126].

2.4. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Brunei

2.4.1. Khái quát chung

Brunei trong tiếng gốc là chữ "Varunai". Nó được bắt nguồn từ "varunadvipa" có

nghĩa là đảo Kalimantan. Lý do đây là tên của quốc gia Brunei là bởi vì Brunei nằm ở

đảo Borneo. Brunei Darussalam, hay còn gọi là Brunei là một quốc gia nhỏ với diện tích

5.765 km. Dân số Brunei là 301.000 người, bao gồm 70,5% người Mã Lai thường làm

việc trong chính phủ, 16% người Hoa, trong đó 80% không được làm công dân chính

thức và một số nhóm dân cư địa phương như Iban, Kedayan, Kayan, Kenyah, Kiput, Muru

và Tutung. Người nhập cư tại Brunei chiếm 8.2% và chủ yếu sinh sống với nghề nghiệp

công nhân. Tiếng Mã Lai trở thành ngôn ngữ chính tại Brunei, cùng với tiếng Anh, tiếng

Trung, tiếng Iban và hàng chục phương ngữ khu vực với số lượng lên đến 17 ngôn ngữ.

Đây là một trong những quốc gia giàu nhất với số lượng dầu mỏ khủng lồ tại khu vực

Đông Nam Á. Quá trình lịch sử tại Brunei trải qua nhiều giai đoạn, thời kỳ phát triển thịnh

vượng nhất của Brunei là vào đầu thế kỳ 16. Vương quốc Brunei khi đó, là một quốc gia

mạnh mẽ và có thẩm quyền không chỉ bao trùm toàn bộ đảo Borneo mà còn một số phần

của các đảo Sulu và Philippines. Nhưng vào thế kỷ 17 cho đến thế kỷ 18, sức mạnh của

Vương quốc Brunei bắt đầu giảm dần do sự nhượng bộ trước Hà Lan, Anh của Vua

Serawak. Chính sách nhượng bộ gây bất lợi lớn cho chính Brunei. Và cuối cùng vào thế

kỷ 19, lãnh thổ của Brunei Darussalam đã bị thu hẹp đến các ranh giới cuối cùng. Với sự

xuất hiện của người nước ngoài đến Brunei, đặc biệt của Vương quốc Anh, đã tác động

đến thay đổi hệ thống luật gia đình Hồi giáo trong một hành trình dài để giành độc lập

cho đến bây giờ. Đồng thời, sự ngự trị của Anh cũng làm xói mòn dần hệ thống luật Hồi

giáo tại Brunei. Điều đó dẫn đến một số điểm cải cách trong luật Hồi giáo ở Brunei sẽ

được phân tích trong những phần tiếp theo. Năm 1847, Vương quốc Brunei đã có một

thỏa ước cùng với Anh. Hiệp ước được thực hiện vào năm 1856, trao quyền cho Vương

quốc Anh kiểm soát các trường hợp phát sinh từ tranh chấp giữa người dân Anh hoặc

giữa người Anh và người nước ngoài ở Nhà nước Brunei. Đồng thời, bên cạnh các thẩm

phán của Brunei, còn có các thẩm phán Anh cùng thực hiện quyền tư pháp. Trong thời

gian đó, người Anh bắt đầu can thiệp vào các vấn đề của Vương quốc Hồi giáo Brunei và

can thiệp vào vấn đề công lý xã hội. Vào năm 1888, một hiệp ước trao toàn quyền cho

các thẩm phán Anh trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình đã được xác lập giữa Anh và

Brunei. Bản chất của thỏa thuận là trao toàn bộ quyền lực cho các thẩm phán Anh trong

việc thực hiện nhiệm vụ của họ tại Vương quốc Brunei Darussalam. Với các thỏa thuận

đã đề cập ở trên, nó sẽ dẫn đến những thay đổi trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là

việc thực thi luật Hồi giáo ở Brunei.

2.4.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia

Về ảnh hưởng

Một số nhà sử học châu Âu cho rằng Brunei vẫn không phải là một quốc gia Hồi giáo

cho đến thế kỷ 15. Trong một cuốn sách tham khảo Trung Quốc có tên “Ming Shih”, lưu

ý rằng vị Quốc vương Hồi giáo đầu tiên tại Brunei là Mahmud Shah. Robert Nicholl, một

người phụ trách Bảo tàng Brunei trước đây đã lập luận trong một bài báo khác có tên là

“Ghi chú về một số vấn đề gây tranh cãi trong Lịch sử Brunei năm 1980”, rằng cái tên

Ma-ho-mo-sa có thể được phát âm là Maha Moksha có nghĩa là Vĩnh cửu vĩ đại. Đồng

thời, Nicholl tiếp tục lập luận rằng Quốc vương Muhammad Shah cải đạo sang Hồi giáo

vào cuối thế kỷ 16 chứ không phải trong thế kỷ 14 như được biết đến rộng rãi. Tuy nhiên,

theo các nhà sử học Brunei, Quốc vương Muhammad Shah đã chuyển sang đạo Hồi vào

năm 1376 và ông đã cai trị cho đến năm 1402. Sau đó, đó là Quốc vương Abdul Majid

Hassan, người đã chết ở Trung Quốc, lên ngôi. Dù có nhiều đồn đoán về thời điểm chính

xác và vị Quốc vương đầu tiên của đất nước Brunei, song đa phần các nghiên cứu khoa

học đều cho rằng, có hai làn sóng giáo lý đạo Hồi đã du nhập đến Brunei. Làn sóng đầu

tiên được mang đến bởi các thương nhân từ Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ và Trung Quốc. Làn

sóng thứ hai được tạo ra bởi sự cải đạo của Sultan Muhammad Shah. Sự ảnh hưởng của

Hồi giáo dù theo con đường thứ nhất hay con đường thức hai đều có tầm ảnh hưởng ngày

càng mạnh mẽ và rộng mở. Theo Thomas Stamford Raffles trong cuốn sách “Lịch sử của

Java”, các hoạt động Hồi giáo của vị Quốc vương Brunei có tên Syarif Ali đã khiến Hồi

giáo được lan truyền mạnh mẽ không chỉ giới hạn ở Brunei. Ông được cho rằng đã đến

Java để tuyên truyền đạo Hồi - nơi ông được gọi là Raja Chermin. Những nỗ lực của

người Brunei trong việc truyền bá đạo Hồi đã giúp truyền bá đạo Hồi không chỉ ở Borneo

mà còn ở tận phía bắc tới các đảo phía nam Philippines. Khi Malacca rơi vào tay người

Bồ Đào Nha vào năm 1511, chính Brunei đã đóng vai trò chính trong sự truyền bá đạo

Hồi trong khu vực. Đến thế kỷ 16, Brunei đã xây dựng một trong những nhà thờ Hồi giáo

lớn nhất của mình. Năm 1578, Alonso Beltran, một du khách người Tây Ban Nha mô tả

nhà thờ với năm tầng cao vút được dựng xây trên mặt nước. Nhiều khả năng nó có năm

lớp mái để đại diện cho năm trụ cột của đạo Hồi. Hồi giáo đã bắt nguồn vững chắc ở

Brunei vào thế kỷ 16. Nhưng đáng tiếc, nhà thờ Hồi giáo này không may bị người Tây

Ban Nha phá hủy vào tháng 6 cùng năm. Như vậy, có thể thấy ngay từ thời kỳ xa xưa

trong lịch sử, Hồi giáo đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ và bền vững tại Brunei, điều đó sẽ lý

giải tại sao cho đến nay, Brunei vẫn ảnh hưởng sâu sắc của Hồi giáo và kiên quyết theo

con đường trở thành quốc gia Hồi giáo theo đức tin về thánh Allah.

Về đặc điểm

Giống như các quốc gia khác, Hồi giáo ở Brunei mang những đặc điểm chung của

Hồi giáo trên thế giới và các quốc gia trong khu vực. Tuy vậy, việc ảnh hưởng Hồi giáo

tới Brunei không phải lúc nào cũng thuận lợi, Hồi giáo cũng gặp nhiều rào cản đặc biệt

là vào giai đoạn thực dân, pháp luật Hồi giáo bị thu hẹp. Giai đoạn đầu của sự thay đổi

dẫn đến việc thu hẹp thẩm quyền của Bộ luật Hồi giáo Hồi giáo bị giới hạn trong Bộ luật

Dân sự. Sau đó, các sửa đổi liên tiếp là từ năm 1957, 1960, 1961 và 1967, vấn đề luật gia

đình Hồi giáo chỉ được quy định 29 điều, cụ thể theo các quy tắc: Hôn nhân và ly hôn

trong phần VI bắt đầu từ điều 134 đến 157, và Người phụ thuộc trong phần VII bắt đầu

bằng Điều 157 đến 163. Vì vậy, vấn đề luật gia đình Hồi giáo ở Brunei, chỉ quy định vấn

đề hôn nhân, ly hôn và tài chính sinh kế. Dường như các hạn chế đối với thẩm quyền thực

thi pháp luật Hồi giáo ở Brunei Darussalam bắt đầu từ thời thuộc địa Anh.

2.4.3. Lịch sử Hiến pháp Brunei

Hiến pháp Brunei trải qua nhiều giai đoạn cùng với những sửa đổi qua từng thời kỳ,

song, so với Malaysia hay Indonesia, Hiến pháp Brunei ít thay đổi và sửa đổi hơn. Kể từ

bản Hiến pháp đầu tiên 1959 cho đến bản Hiến pháp hiện hành sửa đổi năm 2004, Hiến

pháp Brunei trải qua lần lượt các mốc lịch sử nổi bật sau:

2.4.3.1. Hiến pháp Brunei 1959

Về hoàn cảnh lịch sử:

Đây là Hiến pháp thành văn đầu tiên của Brunei. Khác với Indonesia, bản Hiến

pháp đầu tiên của Indonesia ra đời sau khi Indonesia vừa giành được độc lập, còn Hiến

pháp Brunei ra đời khi Brunei vẫn còn chịu ảnh hưởng của Anh. Mục đích ra đời bản

Hiến pháp là Quốc vương Brunei thời điểm đó, muốn Brunei dần tự lập và tự chủ, không

còn lệ thuộc vào Anh nữa. Ông cho rằng, sự ra đời của một bản Hiến pháp sẽ giúp Brunei

thực hiện được điều đó.

Về nội dung:

Hiến pháp năm 1959 quy định Quốc vương là Nguyên thủ quốc gia có toàn quyền

hành pháp. Quốc vương được hỗ trợ và tư vấn bởi năm hội đồng - Hội đồng tôn giáo, Hội

đồng Cơ mật, Hội đồng Bộ trưởng (Nội các), Hội đồng Lập pháp và Hội đồng Kế vị. Hiến

pháp năm 1959 đã thiết lập Thủ tướng là một quan chức cao nhất, với Cao ủy Anh là cố

vấn cho Chính phủ về tất cả các vấn đề ngoại trừ những vấn đề liên quan đến tôn giáo

Hồi giáo và phong tục Malay.

Gần như trong Hiến pháp 1959, toàn bộ các quy định chủ yếu xoay quanh vị trí và

quyền lực vô biên của Sultan. Mọi thẩm quyền điều hành đất nước đều tập trung trong

tay Quốc vương. Trên thực tế, Quốc vương đã nhậm chức Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tài

chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ vào năm 1984, sau khi nối lại độc lập chính trị hoàn toàn.

Vào tháng 10 năm 1986, ông từ bỏ Bộ Tài chính và Nội vụ và tiếp quản Bộ Quốc phòng.

Quốc vương cũng là Tư lệnh tối cao của Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Brunei. Nội các

có 13 thành viên và mỗi báo cáo cho Quốc vương. Hiến pháp năm 1959 quy định rằng

quyền bổ nhiệm vào các Hội đồng được thực hiện bởi Quốc vương. Quốc vương có thể

tuyên bố tình trạng khẩn cấp, bất chấp mọi điều không phù hợp với Hiến pháp.

Hội đồng tôn giáo chịu trách nhiệm tư vấn cho Quốc vương về các vấn đề liên

quan đến Hồi giáo. Điều này được giải quyết trong Phần II của Hiến pháp, trong đó nói

rằng tôn giáo của Brunei sẽ là Hồi giáo theo giáo phái Shafeite. Người đứng đầu đức tin

là Quốc vương. Tự do tôn giáo được Hiến pháp bảo vệ. Hội đồng Cơ mật khuyên Quốc

vương liên quan đến việc thực thi quyền ưu tiên, sửa đổi hoặc hủy bỏ bất kỳ điều khoản

nào của Hiến pháp và trao tặng danh hiệu.

Hội đồng Lập pháp được quy định trong Hiến pháp để thực hiện vai trò xem xét

kỹ lưỡng về pháp luật. Tuy nhiên, vì lý do của Nhà nước, Hội đồng Lập pháp đã không

được đáp ứng trong những năm gần đây và luật pháp được ban hành thông qua tuyên bố

của Hoàng gia.

Hội đồng kế vị quyết định sự kế vị ngai vàng trong trường hợp nhu cầu đó phát

sinh. Thứ tự kế vị được xác định bởi Hiến pháp và các thỏa thuận của Hội đồng cũng

được đặt ra tương tự.

Tư pháp hình thành một nhánh chính phủ riêng biệt trong Brunei và sự độc lập của

tư pháp được đảm bảo. Chính phủ quy định việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo trong nước

bằng cách đảm bảo rằng Tòa án Hồi giáo chỉ có quyền tài phán đối với người Hồi giáo.

Tuy vậy, không phải lúc nào Quốc vương cũng tự quyết các vấn đề liên quan đến

đất nước. Việc tham vấn các cố vấn người Anh truyền thống đã dần trở thành một công

việc quen thuộc và thường niên dù không có điều khoản nào cho thấy việc này là bắt buộc

với các Sultan. Trong lịch sử, Quốc vương Brunei luôn hành động tham khảo ý kiến với

các cố vấn truyền thống của mình. Do đó, sự xuất hiện trên các tài liệu quan trọng của

Nhà nước và hiến pháp, chữ ký và con dấu của cố vấn người Anh, cho thấy thỏa thuận

của họ, cũng như chữ ký và con dấu của Quốc vương. Truyền thống tham vấn đã được

chính thức hóa sau khi thành lập hệ thống cố vấn thường trú của Anh tại Brunei do Sultan

chủ trì. Hệ thống này tồn tại cho đến khi có Hiến pháp thành văn đầu tiên vào năm 1959

khi một Hội đồng Hành pháp (sau này gọi là Hội đồng Bộ trưởng) và Hội đồng Lập pháp

thay thế Hội đồng Nhà nước cũ. Các cố vấn truyền thống tiếp tục đóng một vai trò quan

trọng theo Hiến pháp năm 1959. Mặc dù họ không còn tham gia trực tiếp vào quá trình

của chính phủ, nhưng phần lớn trong số họ bao gồm tư cách thành viên của Hội đồng Cơ

mật và Hội đồng Kế vị.

2.4.3.2. Hiến pháp sửa đổi năm 1971, 1984

Về bối cảnh lịch sử:

Năm 1971, Hiệp ước giữa Anh và Brunei sửa đổi đã làm giảm thêm quyền lực của

Chính phủ Vương quốc Anh chỉ giữ lại ảnh hưởng đối với các vấn đề đối ngoại khi quốc

phòng trở thành trách nhiệm chung của cả hai nước. Năm 1984, Brunei đã giành lại độc

lập chính trị hoàn toàn và nhận trách nhiệm về quốc phòng cũng như quan hệ đối ngoại

của chính mình. Trước tình hình đó, Brunei tiến hành việc sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp

với các biến đổi chính trị, xã hội trong nước. Hiến pháp Brunei đã lần lượt trải qua lần

sửa đổi vào 1971, 1984.

Về nội dung:

Hệ thống chính phủ, được thực hiện theo cách tư vấn truyền thống của người Malay

thông qua một Bộ trưởng và các quan chức cấp cao, đã được thay thế vào năm 1984 với

Nội các kiểu mới. Điều đó phản ánh cam kết của Hoàng thượng đối với một chính quyền

hiệu quả và tiến bộ.

Một số quy định của Hiến pháp, liên quan đến bầu cử và Hội đồng Lập pháp, đã

được sửa đổi. Hội đồng lập pháp thỉnh thoảng được thành lập lại cho đến khi một Chính

phủ kiểu Nội các được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1984. Các văn phòng cũ của Bộ

trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao và Cán bộ Tài chính Nhà nước đã bị bãi bỏ và thay thế bởi

Thủ tướng và các Bộ trưởng khác.

Theo Hiến pháp, Quốc vương thực thi quyền hạn ban hành luật trong trường hợp

không có Hội đồng Lập pháp. Các thỏa thuận tài chính theo Hiến pháp năm 1959 vẫn

không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi địa vị vào năm 1984 ngoại trừ trong trường hợp các

điều khoản đó đề cập đến Hội đồng Lập pháp. Vị trí của Tổng Kiểm toán vẫn giữ nguyên

như trước năm 1984, Tổng kiểm toán chịu trách nhiệm báo cáo với Quốc vương. Không

có thay đổi nào được thực hiện đối với vị trí của các dịch vụ công cộng. Chúng tiếp tục

được kiểm soát và giám sát bởi Ủy ban Dịch vụ Công cộng.

Liên quan đến Tư pháp, Quốc vương có quyền bổ nhiệm các Thẩm phán trở thành

ủy viên tư pháp của Tòa án Tối cao Brunei. Vào tháng 7/1991, hai người Brunei được bổ

nhiệm làm Thẩm phán Tòa án Trung cấp. Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Cơ mật hoạt

động như Tòa án phúc thẩm cuối cùng. Tòa án tối cao nhận được kháng cáo từ các Tòa

án sơ thẩm cho các vụ án hình sự và dân sự cấp quận. Kháng cáo của Tòa án cấp cao được

đệ trình lên Tòa án phúc thẩm. Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Cơ mật tại London là tòa

phúc thẩm cuối cùng chỉ dành cho các vụ án dân sự. Tòa án Shari’ah cùng tồn tại với Tòa

án tối cao và liên quan đến luật Hồi giáo. Năm 1991, Tòa án Trung cấp được thành lập,

với thẩm quyền xét xử dân sự và hình sự rộng lớn; mặc dù nó không giải quyết các vi

phạm về kinh tế.

Theo Hiến pháp Brunei năm 1959, Quốc hội nước này có 33 ghế, trong đó 16 ghế

do bầu cử trực tiếp. Cơ chế bỏ phiếu đã bị cha của Hồi vương Bolkiah là Omar Ali

Saifuddin giải thể năm 1962, sau khi đại đa số cử tri hậu thuẫn cho đảng cánh tả Nhân

dân Brunei. Do tình trạng bất ổn sau đó, Hồi vương Omar đã ban bố tình trạng khẩn cấp

và đến nay quyết định này về mặt hình thức vẫn còn hiệu lực. Những sửa đổi về hiến pháp

trong những năm 1970 và 1980 đã dẫn đến việc hình thành Quốc hội Brunei có 21 thành

viên hoàn toàn do chỉ định mà không qua bầu cử. Nhưng cơ quan lập pháp này cũng bị

giải tán vào năm 1984, sau khi Brunei được Anh trao trả độc lập hoàn toàn. Hồi vương

Bolkiah trở thành người có quyền lực tối thượng tại Brunei. Hiện ông vừa là nguyên thủ

quốc gia kiêm thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Tài chính.

2.4.3.3. Hiến pháp Brunei sửa đổi 2004

Về hoàn cảnh lịch sử:

Khi Brunei bước vào thế kỷ XXI và cùng với sự thay đổi của đất nước và thế giới,

nhiều người dân ở Brunei mong đợi việc tái thể chế hóa các cuộc bầu cử và cơ hội tham

gia vào chính phủ. Người ta mong chờ nhiều hơn về một bản Hiến pháp hoàn thiện và

đáp ứng nhu cầu của người dân ở mức độ nhất định.

Về nội dung:

Thực tế, một loạt các sửa đổi hiến pháp được công bố vào năm 2004 đã mang lại

cho Sultan nhiều quyền lực hơn. Mặc dù Hội đồng Lập pháp với tư cách thành viên một

phần dựa trên các cuộc bầu cử đã được tái hoạt động vào năm 2004, tất cả các thành viên

đã được bầu bởi Sultan và các thành viên của nó bao gồm chính Sultan, anh trai của

Sultan, hoàng tử Mohamed Bolkiah, Bộ trưởng Nội các, đại diện từ các khu vực khác

nhau. Nội các hoạt động lại và được giao nhiệm vụ phê chuẩn các sửa đổi Hiến pháp năm

2004 bao gồm các quy định mới được về việc Sultan là người cai trị tuyệt đối. Sửa đổi

mới này đã làm rõ thẩm quyền của Sultan, trao cho Quốc vương thẩm quyền phi thường

và đặt mình lên trên pháp luật, cả về năng lực chính thức và cá nhân. Trong sửa đổi hiến

pháp mới này, vị trí của Hội đồng Lập pháp ngày càng yếu đi.

Ban cố vấn chỉ bao gồm các thành viên được bầu hàng năm họp vào tháng 3 để

thảo luận về ngân sách và các vấn đề liên quan đến chính phủ đang được công chúng quan

tâm. Theo hiến pháp năm 1959, Ban cố vấn có chức năng giám sát và mọi luật phải được

Hội đồng tư vấn phê duyệt trước khi được phê chuẩn. Tuy nhiên, sửa đổi năm 2004 đã

phủ nhận điều kiện này, và làm cho Hội đồng Lập pháp thực sự trở thành một cơ quan

đóng dấu vô nghĩa. Việc bầu cử trực tiếp các thành viên của Hội đồng Lập pháp khó có

thể xảy ra trong tương lai gần. Việc sửa đổi hiến pháp năm 2004 đã biến Sultan thành nền

tảng (hay Grundnorm) của hệ thống luật pháp ở Brunei. Horton từng nhận định rằng các

sửa đổi Hiến pháp năm 2004 tại Brunei cho thấy mong muốn bao bọc vương quốc dưới

hình thức dân chủ tự do mà không thực sự trở thành một nền dân chủ tự do đúng nghĩa.

2.4.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành

2.4.4.1. Khái quát

Hiến pháp sửa đổi 2004 là lần sửa đổi gần đây nhất của Hiến pháp Brunei nhân

dịp 45 năm ban hành Hiến pháp 1959. Tuy vậy, việc sửa đổi chỉ nhằm củng cố thêm

quyền lực của Quốc vương ở cả ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời bãi bỏ

cơ chế tư pháp giám sát. Nội dung cụ thể của Hiến pháp Brunei hiện hành sẽ được phân

tích kỹ dưới đây.

2.4.4.2. Lời nói đầu

Hiến pháp Brunei có lời mở đầu khá ngắn gọn, với nội dung chính tuyên bố về

mục đích ban hành Hiến pháp Brunei chủ yếu về áp dụng pháp luật và chính trị. Hiến

pháp Brunei chưa được nhìn nhận đúng đắn với giá trị một bản Hiến pháp quốc gia. Nó

giống như một công cụ để Quốc vương thực hiện quyền lực của mình hơn là pháp luật tối

cao của một Nhà nước mà bất cứ ai cũng phải tuân theo.

2.4.4.3. Về hiệu lực

Cần lưu ý rằng trong Hiến pháp Brunei không có điều khoản nào nói rằng Hiến

pháp là luật chính của đất nước và bất kỳ luật nào không phù hợp với nó đều vô hiệu.

Cũng không có yêu cầu về các quyền tự do cơ bản, bầu cử, Tòa án Tư pháp hoặc Shari'ah.

Nếu xem xét kỹ trong Hiến pháp Brunei hiện hành, chỉ có khoản 1 Điều 84 có nhắc đến

hiệu lực Hiến pháp một cách rất sơ sài: “Chính quyền sẽ phải bị điều chỉnh theo quy định

của Hiến pháp này…” nhưng ngay sau đó lại khẳng định: “Hiến pháp này không được

làm ảnh hưởng đến đặc quyền của Quốc vương[…]Quốc vương có toàn quyền làm luật

và sửa luật, bổ sung Hiến pháp nếu thấy điều này là cần thiết.” Có thể thấy hiệu lực của

Hiến pháp là thứ yếu so với quyền lực của Nhà vua. Bất cứ khi nào, và bất cứ lúc nào,

Hiến pháp cũng có thể bị thay đổi theo “ý thích” và mong muốn của Quốc vương. Nó cho

thấy sự chưa tương xứng với vị trí và tầm quan trọng của Hiến pháp với một quốc gia trên

thực tế. Nhưng điều này có thể lý giải được ở một chế độ quân chủ chuyên chế lại ảnh

hưởng sâu sắc Hồi gáo với sự tín nhiệm và trung thành tuyệt đối với người đứng đầu.

2.4.4.4. Chế độ Nhà nước

Khác biệt so với Hiến pháp Indonesia hay Malaysia, Hiến pháp hiện hành của

Brunei không quy định về chế độ nhà nước. Hiến pháp chủ yếu tập trung khẳng định các

điều sau: (1) Hồi giáo là tôn giáo chính thức, nhưng các tôn giáo khác vẫn được phép tồn

tại và hoạt động một cách hòa bình, (2) Quốc vương là người đứng đầu về tôn giáo và

chính trị tại Brunei. Điều này đã được lý giải ở trên bởi vị trí Hiến pháp vẫn đang ở thứ

yếu so với quyền lực Quốc vương.

2.4.4.5. Nhân quyền

Hiến pháp Brunei không có ghi nhận riêng về nhân quyền. Trong lần sửa đổi Hiến

pháp vào năm 2004, khoản 3 Điều 83 mới được bổ sung quy định về hành vi “Mua bán

và buôn lậu người”, coi đó là hành vi bị cấm, nếu vi phạm sẽ phải chịu chế tài hình sự.

Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ở Brunei luật pháp không quy định về quyền con

người. Mặc dù không được ghi nhận trong Hiến pháp những những quy định về quyền

con người nằm rải rác trong các luật thành văn do Nhả nước ban hành và trong luật Hồi

giáo.

2.4.4.6. Chính thể và Bộ máy Nhà nước

Hiến pháp Brunei ghi nhận Brunei là quốc gia theo chính thể quân chủ chuyên chế

Hồi giáo. Không có chương nào trong Hiến pháp quy định về Quốc vương bởi lẽ Quốc

vương chi phối tất cả và Quốc vương còn “đứng trên” cả Hiến pháp. Do đó, Sultan Brunei

có toàn quyền trong lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhưng trong bản thân Hiến pháp cũng

ghi nhận việc thành lập riêng biệt và hoạt động của ba nhánh quyền lực này. Có thể nói,

việc ghi nhận nguyên tắc “tam quyền phân lập” ở Hiến pháp Brunei hiện hành là có,

nhưng mang tính hình thức. Thực tế, Quốc vương vẫn chi phối tất cả dù trực tiếp hay gián

tiếp.

Brunei là một quốc gia được cai trị bởi một vị vua (Quốc vương) với quyền lực

tuyệt đối. Quyền lực cai trị cao nhất của Brunei nằm trong tay Ngài. Ông là Thủ tướng.

Ông là Tư lệnh tối cao của Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Brunei. Cơ quan cầm quyền sẽ

được thực thi bởi ông. Hiến pháp Brunei trao quyền cho Quốc vương đưa ra tuyên bố

khẩn cấp. Việc công bố tình trạng khẩn cấp được thực hiện vào năm 1962 vẫn còn hiệu

lực cho đến bây giờ. Trong khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp, trong số những người khác,

Quốc vương có thể “đưa ra bất kỳ Lệnh nào mà Quốc vương thấy cần thiết cho lợi ích

của công chúng.” Các lệnh bao gồm: “... sửa đổi, thay thế hoặc đình chỉ tất cả hoặc bất

kỳ điều khoản nào của pháp luật được viết bằng văn bản…” Và việc sửa đổi Bộ luật hình

sự Jeyah Shari’ah 2013 là một trong những lệnh như vậy.

Quốc vương không thể bị truy tố dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả xem xét tư pháp

trong khả năng cá nhân hoặc chính thức. Ngay cả các quan chức chính phủ thực hiện

nhiệm vụ của họ được miễn truy tố trong một số trường hợp. Điều 85 cho phép Quốc

vương, “với Tuyên bố, sửa đổi, bổ sung hoặc thu hồi bất kỳ điều khoản nào của Hiến

pháp này”. Thông thường việc giải thích Hiến pháp là nhiệm vụ của Tòa án. Tuy nhiên,

theo Hiến pháp Brunei, nhiệm vụ được giao cho Toà án giải thích có ba thành viên do

Quốc vương bổ nhiệm.

Điều 84 khoản (2) quy định rõ ràng về quyền của Quốc vương: “(2) Không có gì

trong Hiến pháp này được coi là làm giảm quyền của Quốc vương” và, “Quốc vương có

quyền lập luật, công bố Hiến pháp hoặc một phần của Hiến pháp này nếu xét thấy cần

thiết…” Tiếp theo là quy định của Điều 84A: “84B. (1) Quốc vương Yang di-Pertuan

không có khả năng làm sai trong bản chất cá nhân hoặc chính thức của mình. Quốc vương

và Yang di-Pertuan sẽ không bị xét xử tại bất kỳ tòa án nào liên quan đến bất kỳ điều gì

được thực hiện hoặc bỏ qua trong thời gian làm việc hoặc sau khi trị vì cho dù là bản chất

cá nhân hay chính thức.”

Giúp việc cho Quốc vương là Hội đồng Cơ mật và Hội đồng Ân xá. Hội đồng Cơ

mật hỗ trợ vấn đề sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, phong hàm, tước quý tộc và các việc được

Quốc vương giao. Hội đồng Ân xá góp ý các trường hợp phạm tội xin ân xá. Cả hai hội

đồng hoạt động dựa trên sự “hài lòng” của Quốc Vương.

Về lập pháp, Hiến pháp có quy định Hội đồng lập pháp giống các chính thể Cộng

hòa. Tuy nhiên, thẩm quyền thực tế lại thuộc về Quốc vương. Mọi đề xuất từ Hội đồng

lập pháp dù được thông qua hay không thông qua đều được trình lên Quốc vương. Quốc

vương sẽ xem xét và là chốt cuối quyết định có sửa đổi, bổ sung hay không. Trong trường

hợp, Quốc vương quyết định không theo Hội đồng lập pháp, Quốc vương cũng không cần

thông báo lại cho Hội đồng lập pháp.

Về hành pháp, Hiến pháp có quy định liên quan đến các Bộ trưởng giúp việc cho

Nhà vua. Nhưng việc bổ nhiệm Bộ trưởng phụ thuộc hoàn toàn vào Quốc vương. Cũng

giống như các bộ phận giúp việc khác, Quốc vương không nhất thiết phải tham khảo ý

kiến đến từ các Bộ trưởng mà có toàn quyền vận hành hành pháp theo ý định riêng của

mình.

2.4.4.7. Sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và thiết chế hiến định độc lập

Như đã phân tích ở phần hiệu lực, trên thực tế, Hiến pháp Brunei không có quy

định chặt chẽ về việc sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp ra sao phụ thuộc hoàn

toàn vào Quốc vương. Hiến pháp có ghi nhận Quốc vương cần tham khảo ý kiến của Hội

đồng Cơ mật, nhưng ý kiến chỉ mang tính chất tham khảo. Hiến pháp không hề quy định

thêm ý kiến Hội đồng có vai trò ra sao với quyết định của Quốc vương. Có thể hiểu, Quốc

vương có thể đồng ý có thể không tùy theo ý chí của mình.

Hiến pháp có ghi nhận sự có mặt của Ủy ban công vụ trong việc giúp đỡ Quốc

vương. Số lượng, nhiệm vụ, tiền lương hay công việc đều do Quốc vương chỉ định.

2.4.4.8. Chính quyền địa phương

Hiến pháp Brunei không hề quy định về chính quyền địa phương.

2.4.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp

2.4.5.1. Quyền con người

Trong Hiến pháp Brunei không có quy định nào rõ ràng về quyền con người. Tuy

vậy, Brunei cũng có những động thái nhất định nhằm bảo vệ quyền con người ở mức độ

nhất định thông qua việc ký kết và tham gia các Công ước quốc tế về quyền con người và

ban hành các đạo luật chuyên ngành để bảo vệ các đối tượng riêng biệt: Đạo luật Trẻ em

và Người trẻ tuổi (tại Chương 219), Bộ luật Tố tụng Hình sự (tại Chương 22), Đạo luật

Việc làm (tại Chương 93) và Đạo luật gia đình Hồi giáo (tại Chương 217). Cụ thể như,

Đạo luật Luật Gia đình Hồi giáo, tại Chương 217 quy định về quyền sinh kế và chăm sóc

của trẻ em.

Luật Hồi giáo thường đặt phụ nữ vào thế bất lợi trong các lĩnh vực như ly hôn,

nhưng ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia lực lượng lao động trong những năm gần đây

tại Brunei. Điều này có được là do Brunei đã bãi bỏ bớt một số điều khoản bất lợi cho

phụ nữ vào những khoảng thời gian gần đây, đồng thời thay đổi những điều khoản bất

công trong Hồi giáo liên quan đến phụ nữ, sự thay đổi pháp luật Hồi giáo sẽ được phân

tích dưới đây. Vào tháng 8 năm đó, Brunei đã bổ nhiệm nữ luật sư đầu tiên của mình,

Hayati Salleh, người trước đây là nữ thẩm phán Tòa án tối cao đầu tiên của đất nước. Đây

được coi là một biểu hiện cho sự vận động bình đẳng dần quyền nam nữ tại đất nước

Brunei. Trong một cuộc cải tổ nội các hiếm hoi vào tháng 5/2010, vị Sultan đã bổ nhiệm

Adina Othman thành Thứ trưởng văn hóa, thanh niên và thể thao. Đây là lần đầu tiên suốt

một thời gian dài từ khi lập quốc, Brunei có phụ nữ giữ chức vụ cao cấp như Thứ trưởng

trong Nội các.

Theo Kinh Koran, phụ nữ không được quyền bình đẳng với nam giới trong một

số lĩnh vực quan trọng như hôn nhân, gia đình, thừa kế. Vì thế, ở Brunei trước đây, con

mới sinh ra bắt buộc phải mang quốc tịch người bố. Mãi đến năm 2002, Luật quốc tịch

sửa đổi mới cho phép con được theo quốc tịch bố hoặc mẹ.

Ở Brunei trước đây, phụ nữ không có quyền li dị chồng và không được chia tài

sản khi li hôn. Theo luật Hồi giáo, chỉ người chồng mới có quyền quyết định kết thúc

cuộc hôn nhân. Bằng cách nói 3 lần câu "Tôi li dị cô", người chồng có thể chấm dứt mối

quan hệ hôn nhân và người vợ không được nhận bất cứ tài sản nào hình thành trong thời

kì hôn nhân đó. Đến năm 1999, bằng việc sửa đổi Luật gia đình Hồi giáo, vai trò và vị

trí của người phụ nữ trong hôn nhân mới bước đầu được khẳng định. Tới năm 2003, phụ

nữ Hồi giáo Brunei li hôn mới có quyền được kiện chồng cũ ra Toà án Hồi giáo để chia

nửa khối tài sản của cuộc hôn nhân. Có thể thấy, dù tiến độ khá chậm, nhưng Brunei

cũng đã có những thay đổi nhất định thu hẹp khoảng cách bất công giữa phụ nữ và nam

giới theo giáo lý đạo Hồi.

2.4.5.2. Hoạt động của Tòa án và cơ chế bảo hiến

Do toàn bộ hoạt động của các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp phụ thuộc rất

lớn vào Sultan, nên quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ yếu theo ý muốn

và chỉ đạo của Quốc vương. Các cơ quan nhà nước hoạt động không được đều đặn mà

bất cứ khi nào cũng có thể bị bãi bỏ một cách bất chợt mà không có lý do chính đáng.

Điển hình như Quốc hội bị hủy bỏ vào 1984 sau đó được phục hồi vào năm 2004.

2.4.5.3. Ảnh hưởng của Hồi giáo

Như đã nói ở trên, Brunei có sự thay đổi luật Hồi giáo theo xu hướng mềm mại và

phù hợp thời đại hơn. Mặc dù là nước áp dụng khắc nghiệt nhất luật Shari’ah vào đời

sống, nhưng không thể phủ nhận những thay đổi tích cực của Brunei trong việc áp dụng

luật Hồi giáo tại đất nước mình.

Thứ nhất, Brunei có sự thay đổi trong luật Hôn nhân và gia đình, theo pháp luật

Brunei, kết hôn cần sự chứng giám của Nhà nước chứ không chỉ đơn thuần là linh mục

hay sự thừa nhận của Hồi giáo. Nếu là các linh mục, đó cũng phải là là các luật sư được

ủy quyền (tauliyah) bởi Quốc vương hoặc được pháp luật ủy quyền cho người Hồi giáo.

Do đó, sự tồn tại của họ trở nên quan trọng như một hình thức quản lý đám cưới có trật

tự tại quốc gia. Trong thực tế, đôi khi cuộc hôn nhân đã được thực hiện không được đăng

ký. Tuy nhiên, những cuộc hôn nhân không đăng ký này vẫn còn hiệu lực. Hôn nhân chỉ

được coi là không hợp lệ nếu không tuân thủ luật pháp của cả hai bên. Đăng ký kết hôn

là một hình thức của isthe istana nhằm bảo tồn hai hình thức lợi ích của năm lợi ích, đó

là lợi ích của con cái (al-Nasl) và lợi ích của tài sản (al-mal).

Ở Brunei, cũng có một quy tắc quy định rằng nếu người chồng không đồng ý ly

hôn, cả hai bên có thể chấp thuận ly hôn với tiền chuộc. Cả hai bên có thể thỏa thuận số

tiền và đưa ra thống nhất ly hôn bằng cách bên nữ “đưa tiền chuộc” nếu muốn đơn phương

ly hôn. Điều này vừa đem đến lối thoát cho phụ nữ khi có thể ly hôn chồng nếu muốn,

nhưng cũng đẩy họ vào thế bị động, đôi khi bế tắc khi vẫn phải chờ sự thỏa thuận nhất trí

của chồng.

Đồng thời, Brunei cũng thay đổi luật Hồi giáo khi cho phép phụ nữ tái hôn nếu có

giấy “chứng tử”. Một người vợ có lý do để tái hôn nếu chồng cô ta đã chết hoặc được cho

là đã chết hoặc đã không nghe tin tức trong một thời gian dài. Các quy tắc nghiêm ngặt

là thái độ thận trọng của chính phủ Brunei để không đưa ra tuyên bố có thể gây tổn hại

cho một bên và không hối tiếc trong tương lai. Đây là một hình thức cải cách của luật

pháp của chính phủ Brunei nhằm cố gắng đưa "người mất" phù hợp với thời đại thay đổi

[85].

Tuy nhiên, Hồi giáo tại Brunei vẫn được ưu ái hơn so với các tôn giáo khác. Và

việc áp dụng luật Hồi giáo một cách toàn diện trong mọi mặt đời sống khiến quyền con

người bị hạn chế. Bất chấp các điều khoản hiến pháp quy định cho tự do tôn giáo, chính

phủ đã hạn chế, ở các mức độ khác nhau, các hoạt động tôn giáo của tất cả các nhóm tôn

giáo khác ngoài trường phái Hồi giáo Sunni của Shafi'i. Sự thịnh vượng của bất kỳ nhóm

nào khác ngoài giáo phái Shafi'i chính thức đều bị cấm. Chính phủ duy trì các biện pháp

kiểm soát hải quan nghiêm ngặt đối với việc nhập khẩu các văn bản tôn giáo phi Hồi giáo

như Kinh thánh, cũng như các tài liệu giảng dạy tôn giáo Hồi giáo hoặc kinh sách dự định

bán hoặc phân phối. Bất cứ ai dạy hoặc khuyến khích bất kỳ niềm tin hoặc thực hành

“lệch lạc” nào ở nơi công cộng đều có thể bị buộc tội theo Đạo luật của Hội đồng Tôn

giáo Hồi giáo và bị phạt tù ba tháng và phạt 2.000 BND (1.550 đô la).

Ngoài ra, Chính phủ định kỳ cảnh báo người dân về "những người ngoài cuộc" rao

giảng những tín ngưỡng cơ bản cực đoan hoặc không chính thống và cũng cảnh báo người

Hồi giáo chống lại các nhà truyền giáo Kitô giáo [180]. Chính phủ thường xuyên kiểm

duyệt các bài báo trên tạp chí về các tín ngưỡng khác, bôi đen hoặc xóa các bức ảnh về

thánh giá và các biểu tượng tôn giáo Kitô giáo khác. Các quan chức chính phủ cũng hạn

chế việc phân phối và bán các mặt hàng có hình ảnh của các biểu tượng tôn giáo [181].

Vào tháng 1/2010, Sultan ra lệnh rằng giáo dục tôn giáo sẽ là bắt buộc đối với sinh viên

Hồi giáo. Do đó, các trường tư thục được yêu cầu dạy Hồi giáo và bắt buộc giảng dạy

tiếng Ugama trên cơ sở ngoại khóa, ngoài giờ cho học sinh Hồi giáo của họ. Ugama là

một khóa học giáo dục sáu năm dạy Hồi giáo Sunni theo trường phái Shafi'i. Các trường

học, bao gồm các trường tư, có thể bị phạt hoặc các quan chức nhà trường bị cầm tù vì

dạy các môn tôn giáo phi Hồi giáo.

Như tuyên bố của Quốc vương ngay từ khi giành được độc lập, Brunei sẽ dần áp

dụng toàn bộ luật Shari’ah tại đất nước mình nhằm tiến tới hình ảnh một Brunei “thánh

đường của Hồi giáo” trong khu vực và trên thế giới. Brunei Darussalam bắt đầu áp dụng

luật Shari’ah hình sự trong các giai đoạn, bắt đầu từ ngày 1/5/2014, biến Brunei trở thành

quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á thực hiện đầy đủ luật Hồi giáo. Hồi giáo Shari’ah được

thực hiện ở Brunei trong ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên bao gồm án tù hoặc phạt tiền

đối với các vi phạm như không thực hiện những lời cầu nguyện vào thứ Sáu và mang thai

ngoài giá thú. Trước khi kết thúc năm, giai đoạn thứ hai được lên kế hoạch thực hiện bao

gồm các hình phạt nghiêm khắc hơn bao gồm cắt tay và đóng hộp. Và theo đúng tiến

trình, Brunei hiện đang ở giai đoạn 3 với việc thông qua luật ném đá đến chết người ngoại

tình vào đầu tháng 4 vừa qua. Giai đoạn thứ ba được lên kế hoạch để thực hiện với các

hình phạt thậm chí còn nghiêm khắc hơn, bao gồm cả án tử hình bằng cách ném đá cho

các hành vi tội phạm dưới hình thức sodomy và ngoại tình. Giải thích cho việc áp dụng

bộ luật hà khắc này, quốc vương 67 tuổi nói: “Chúng ta cần đấng Allah tối cao, với tất cả

sự rộng lượng của Ngài, tạo cho chúng ta những điều luật để chúng ta sử dụng mà đạt

được công lý” [15].

2.4.6. Đánh giá và lý giải

Những vấn đề được quy định trong Hiến pháp và thay đổi trên thực tế

Dù ảnh hưởng luật Hồi giáo lớn và là một nước theo chính thể quân chủ, song, Brunei

vẫn có những thay đổi tích cực trong việc áp dụng luật Shari’ah. Điều này có thể lý giải

bởi xu thế thế giới, áp lực từ cộng đồng quốc tế. Đồng thời, như đã nhắc đến ở trên là sự

xuất hiện của Vương quốc Anh làm xói mòn phần nào luật Hồi giáo ở Brunei. Vai trò của

Anh thể hiện rất rõ trong Hiến pháp Brunei ngay từ những ngày đầu thành lập. Từ đề nghị

ban đầu của Ngài Cecil Clementi, Thống đốc Định cư và Cao ủy của các quốc gia Mã Lai

năm 1930, Sir Anthony Abell sau đó đề xuất Hiến pháp cho Brunei, Sarawak và North

Borneo thành lập một nhà nước. Khi nghe lời đề nghị, Quốc vương Omar Ali Saifuddien

đã từ chối. Tuy nhiên, Hoàng thân muốn có một hiến pháp để chuẩn bị cho Brunei giành

độc lập và cho các quyền của chủ quyền Brunei. Với lời khuyên của Ngài Anthony Abell,

Quốc vương Omar Ali Saifuddien đã ra lệnh cho R.H. Hickling đề xuất một dự thảo để

chuẩn bị Hiến pháp năm 1959. Quốc vương Omar Ali Saifuddien sau đó đã thành lập

‘Tujuh Serangkai, một ủy ban cố vấn vào tháng 4 năm 1953 để tìm hiểu ý kiến của người

Brunei về việc chuẩn bị nền độc lập. Cố vấn người Anh - R.H. Hickling được mời đến

Brunei để soạn thảo các bản thảo cho Hiến pháp. Bản ghi nhớ của Hickling đã làm sáng

tỏ Chính phủ Anh để tôn trọng lịch sử và truyền thống của các hoạt động hành chính của

Brunei. Vai trò của R.H. Hickling và Bản ghi nhớ của ông sau đó đóng vai trò quan trọng

trong việc hỗ trợ cho việc tạo ra Hiến pháp Brunei. Sau khi bản dự thảo được hoàn thiện

và sửa đổi, Quốc vương Omar Ali Saifuddien đã cùng với các thành viên của 'Tujuh

Serangkai' dẫn đầu một phái đoàn đến Luân Đôn vào ngày 11 tháng 9 năm 1957. Dù

không đạt được thỏa thuận ngay trong lần gặp đầu tiên, nhưng với quyết tâm sửa đổi Hiến

pháp, Brunei đã có những thay đổi và đạt được thỏa thuận với Anh vào ngày 29 tháng 9

năm 1959. Vai trò của Hồi giáo: Văn hóa Brunei chính thức xuất phát từ Thế Giới Mã

Lai cổ đại bao trùm quần đảo Mã Lai và văn hóa này bắt nguồn từ thực tế hình thành lịch

sử xã hội là nền Văn Minh Mã Lai.

Đồng thời, những chính sách của Anh thi hành tại Brunei về sau cũng ít nhiều hạn

chế lại sự ảnh hưởng của pháp luật Hồi giáo. Thỏa thuận 1888M của cơ quan tài phán của

Tòa án địa phương sử dụng Đạo luật Brunei đã bị giới hạn bởi quyền lực của nó. Nói cách

khác, một lần nữa Luật Hồi giáo đã bị giảm sức mạnh. Người Anh đã cố gắng kiểm soát

hoàn toàn lĩnh vực pháp lý và tư pháp ở Brunei. Hiệp định 1905M được ký ngày

3/12/1905 và Hiệp định 1906M ngày 2/1/1906 giữa Vương quốc Anh và Brunei đã mở ra

cơ hội của Anh để tiếp tục loại bỏ Đạo luật Brunei. Người Anh không chỉ nắm vững luật

pháp và tư pháp mà còn kiểm soát chính quyền và hành chính của Nhà nước Brunei. Họ

đã thay thế Luật Hồi giáo bằng Luật Anh. Từ các hiệp định 1905 và 1906M, Chính phủ

Brunei phải chấp nhận và hành động theo lời khuyên của cư dân Anh ngoại trừ những

thỏa thuận liên quan đến Hồi giáo.

Về ảnh hưởng của Hồi giáo

Sự ảnh hưởng của Hồi giáo như đã lý giải ở phần chung tại các quốc gia khu vực

Đông Nam Á, Hồi giáo “ăn sâu” vào bộ máy vương quyền, kết hợp với chính thể quân

chủ của Brunei khiến Hồi giáo càng có đất để lan tỏa mạnh mẽ. Căn cứ trên các sự kiện

lịch sử, nhiều yếu tố văn hóa khác nhau, có bốn thời kỳ văn hóa lớn tại Brunei là Hồn

Linh Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo và Kitô giáo Phương Tây. Trong số đó Hồi giáo đã làm

thành nền văn hóa Brunei, và từ đó Brunei dần có một cung cách sống và chấp nhận Hồi

Giáo làm ý thức hệ và triết lý của quốc gia. Bởi vậy, văn hóa Brunei tương tự với văn hóa

Malay, bị ảnh hưởng nhiều từ đạo Hindu và Hồi giáo. Điều đó lý giải tại sao Brunei muốn

đạt được tầm nhìn và sự phát triển cho đến 2035 là “Quốc gia Luôn Nhớ về Đức Allah”.

2.5. Tiểu kết chương 2

Như vậy, có thể thấy cùng chịu ảnh hưởng của giáo lý đạo Hồi, nhưng trên thực tế các

quốc gia trong khu vực vẫn có những ghi nhận liên quan đến quyền con người trên lý

thuyết và sự bảo vệ quyền con người ở thực tiễn. Không chỉ vậy, vị trí vai trò của hiến

pháp trong các quốc gia kể trên ngày càng được nâng cao. So với Indonesia và Malaysia,

Hiến pháp Brunei có sự yếu thế hơn. Song, quá trình xây dựng hiến pháp và thi hành hiến

pháp đang ngày càng được quan tâm hơn tại quốc gia Hồi giáo này.

Chương 3.

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ GỢI MỞ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA

VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO

KHU VỰC ĐÔNG NAM Á

3.1. Về xu hướng phát triển

3.1.1. Xu hướng phát triển chung

Qua việc nghiên cứu bản hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam

Á, có thể thấy các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo có hai xu hướng vận động, thay đổi chính

qua thời gian. Những xu hướng vận động thay đổi này đã được phân tích và làm rõ phần

nào qua từng mục phân tích lịch sử và hiến pháp hiện hành của các quốc gia.

Xu hướng đầu tiên và cũng rất dễ nhận ra đó là sự ghi nhận và phát triển quyền con

người tại các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực. Cả Hiến pháp của Malaysia

và Indonesia đều chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức

độ nhất định. Không chỉ qua việc số lượng quyền con người được ghi nhận trong hiến

pháp tăng dần lên, có sự phổ cập và bắt kịp các Công ước về quyền con người trên thế

giới mà còn có sự mở rộng theo bối cảnh đất nước. Các vụ việc trên thực tế đảm bảo

quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con người trước giáo lý khắc nghiệt của

đạo Hồi là minh chứng cho điều này. Đối với Brunei, vốn là trường hợp đặc biệt trong

khu vực khi theo định hướng trở thành nhà nước Hồi giáo, song cũng có những biến

chuyển dù chậm về việc tôn trọng ý kiến người dân và xây dựng lập hiến. So với Hiến

pháp Indonesia và Malaysia, Hiến pháp Brunei còn yếu kém về việc ghi nhận các quyền

cơ bản của con người và phổ cập với xu hướng quyền con người đang trỗi dậy rất mạnh

mẽ tại khu vực và trên thế giới.

Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng, nhất là với trường hợp Indonesia và Brunei

là xu hướng vận động thứ hai của hiến pháp các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Vị trí

của Hồi giáo được quy định rõ ràng trong hiến pháp, được ghi nhận là “tôn giáo quốc

gia”, có những điều khoản dành riêng để quy định về Hồi giáo, cũng như đặc quyền trong

việc truyền bá và thực hiện giáo lý đạo Hồi trong hiện thực cuộc sống. Ở Indonesia và

Brunei cũng tồn tại song song rất rõ ràng hai hệ thống tòa án, tòa thường và tòa Shari’ah.

Tòa án thường rất khó để xét xử các vụ việc có liên quan đến Hồi giáo, các vụ việc liên

quan đến Hồi giáo được chuyển toàn bộ sang tòa Shari’ah. Và theo đúng quy định của

hiến pháp, tòa thường “không được can thiệp” vào công việc của tòa Shari’ah. Tại

Malaysia các vụ việc tôn giáo cũng gặp phải rào cản tương tự, tuy nhiên, mức độ ảnh

hưởng và sự gia tăng ảnh hưởng Hồi giáo không mạnh mẽ và nhanh chóng như Indonesia

và Brunei. Điều này có thể lý giải bởi các yếu tố ảnh hưởng truyền thống trong lịch sử và

mục tiêu phát triển đất nước trong tương lai của từng quốc gia khác nhau.

Cũng giống như bất kỳ bản hiến pháp nào, hiến pháp tại các quốc gia Hồi giáo trong

khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, điều đó

dẫn đến sự thay đổi và vận động của hiến pháp từng quốc gia. Tùy vào mức độ ảnh hưởng

các yếu tố mà xu hướng vận động mỗi quốc gia mỗi khác. Hai xu hướng vận động trong

hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á cũng là hai trong số các xu

hướng vận động rất đa dạng của các quốc gia chịu ảnh hưởng bởi Hồi giáo khác trên thế

giới: Hiến pháp Pakistan, Hiến pháp Bangladesh, Hiến pháp Iraq, Hiến pháp Thổ Nhĩ

Kỳ,…

3.1.2. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một

mức độ nhất định

Về mặt lý thuyết, tất cả các bản hiến pháp trong lịch sử từ trước đến nay của Indonesia

hay Malaysia đều ghi nhận quyền con người. Với nền tảng triết lý Pancasila, Hiến pháp

Indonesia đã xác định một trong các mục tiêu hướng đến là quyền con người, đảm bảo sự

bình đẳng và lợi ích cho người dân trong đất nước. Từ mười lăm (15) hình thức quyền

con người được ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên năm 1945: quyền tự quyết (Lời mở

đầu Hiến pháp năm 1945 và điều 1), quyền công dân (điều 26), quyền bình đẳng trong

luật (điều 27), quyền có việc làm (điều 27), quyền sinh kế đàng hoàng (điều 28), quyền

tổ chức (điều 28), quyền thực thi tôn giáo (điều 29), quyền an ninh (điều 30), quyền giáo

dục (điều 31), quyền giáo dục nhận phúc lợi xã hội (điều 33), quyền có được an sinh xã

hội (điều 34), quyền được dùng thử miễn phí (điều 24 - 25), quyền nâng cao văn hóa (điều

32) và quyền nâng cao ngôn ngữ khu vực (điều 31), Hiến pháp Indonesia đã tăng lên hơn

năm mươi lăm (55) đầu mục về quyền con người trong Hiến pháp giai đoạn 1949 – 1950.

Từ việc dựa trên những lời Thánh truyền, niềm tin vào “God head”, cho rằng quyền con

người là các vị thần linh trao cho, Hiến pháp Indonesia đã đi đến ký kết các bản Hiệp ước

quốc tế liên quan đến quyền con người trên thế giới và có các động thái thể hiện sự quan

tâm và nỗ lực của quốc gia mình trong việc đảm bảo quyền con người cho công dân.

Trong khi soạn thảo Hiến pháp 1945, Indonesia đã có hai luồng ý kiến tranh cãi nhau về

việc có nên đưa quyền con người trở thành một phần trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà

nước này không. Ý kiến đầu tiên đánh giá, quyền con người là một yếu tố tất yếu và cần

đưa vào trong Hiến pháp. Ý kiến thứ hai, chủ yếu những người theo Hồi giáo đánh giá

quyền con người không cần thiết phải có mặt trong Hiến pháp, chỉ cần ghi nhận các điều

khoản về chế độ chính trị và nhà nước là đủ. Dù còn tranh cãi nhau, nhưng Hiến pháp

1945 đã đi đến sự thỏa hiệp và nhượng bộ của các bên rằng quyền con người vẫn được

quy định trong Hiến pháp một cách đan xen và không phải nội dung quan trọng khi ấy.

Quyền con người đã có mặt trong Hiến pháp 1945 một cách khó khăn và có phần miễn

cưỡng. Nhưng sang đến năm 1957, Hội nghị lập hiếp Indonesia đã đạt được thành công

khi có thể đưa thêm 24 quy định cơ bản về quyền con người và 18 quyền công dân vào

Hiến pháp và các nhà lập pháp dần dần nhận thức nó tách biệt với các vấn đề khác. Nhận

thức và quan điểm của Indonesia về quyền con người đã thay đổi theo thời gian. Cho đến

hiện tại, Hiến pháp Indonesia đã phổ cập gần như toàn bộ các quy định về quyền con

người trong Công ước về quyền con người. Sự ra đời và hoạt động của Ủy ban Nhân

quyền trong nước nhằm đảm bảo quyền con người là biểu hiện cho thấy Indonesia rất nỗ

lực đảm bảo quyền hiến định trong Hiến pháp hiện hành.

Giống như Indonesia, Malaysia là một quốc gia có lịch sử đa dạng và tồn tại cả những

giao lý đạo Hồi lẫn các giá trị thế tục. Nếu Indonesia hướng đến một xã hội với tất cả sự

đa dạng thì Malaysia có chính sách thúc đẩy một nhóm dân tộc nhằm xây dựng xã hội

toàn diện và tất cả bình đẳng. Nếu Indonesia muốn phản ánh sự đa dạng vốn có trong đất

nước thì Malaysia lại muốn “kiểm soát” sự đa dạng và khác biệt để tạo ra một quốc gia

kính tế phát triển tốt hơn, và có xu hướng chống Trung Quốc. Nhưng dù khác nhau trong

mục tiêu cũng như cách thức, Hiến pháp Malaysia có sự vận động tôn trọng quyền con

người hơn. Không chỉ tăng số lượng ghi nhận quyền con người trong hiến pháp, chương

quyền con người còn được đẩy lên chương 2 trong hiến pháp ngay sau chương nói về chế

độ chính trị và hình thức nhà nước, cho thấy sự tôn trọng và quan tâm của Malaysia với

vấn đề quyền con người. Dù từng có thời kỳ bị mỉa mai như “con hổ không có răng”,

nhưng việc ra đời của Cơ quan Nhân quyền Malaysia cũng là biểu hiện tích cực cho việc

hiện thực hóa các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp

hiện hành.

Hiến pháp một số nước như Indonesia, Brunei lại không đề cập trực tiếp tới quyền tự

do kinh doanh của công dân với tư cách là quyền cơ bản của con người. Thế nhưng trên

thực tế, phụ nữ những nước này có thể tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, ví dụ

ở Brunei, hơn nửa số doanh nghiệp vừa và nhỏ do phụ nữ sở hữu [114].

3.1.3. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng trong Hiến pháp và thực tế

Trong Hiến pháp, Indonesia và Brunei đều có những điều khoản nhất định để quy

định về Hồi giáo và các vấn đề liên quan đến giáo lý đạo Hồi, đời sống Hồi giáo. Sự ghi

nhận của Hiến pháp đã cho thấy vai trò không hề nhỏ của Hồi giáo tại các quốc gia ảnh

hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Dấu vết Hồi giáo mạnh mẽ đến mức ngay

cả trong đạo luật tối cao của một quốc gia cũng thừa nhận và có các điều khoản ghi nhận,

điều chỉnh nó. Đặc biệt, cả Hiến pháp Indonesia và Brunei đều thừa nhận thẩm quyền

“không thể can thiệp” của tòa Shari’ah trên thực tế. Nếu chỉ nghiên cứu ở mặt lý thuyết

sẽ thấy, tòa Shari’ah dường như có xu hướng bó hẹp dần trong phạm vi hôn nhân, gia

đình và thừa kế. Nhưng trên thực tiễn xét xử, do các hình phạt đều đi theo hướng hình sự

hóa, tòa Shari’ah xét xử cả các tội mà hình phạt có tính hình sự, nặng nề và khắc nghiệt.

Điều 8 Hiến pháp Malaysia năm 1957 trong lần sửa đổi năm 2001 đã bổ sung quy

định mọi công dân được bình đẳng không phân biệt giới tính, nhưng vẫn nhấn mạnh điều

này không làm mất hiệu lực của những quy định Hồi giáo vốn trọng nam khinh nữ. Thậm

chí những quy định Hồi giáo còn áp dụng đối với cả những người không phải là tín đồ

Hồi giáo. Ví dụ: ở các trường quốc lập của Brunei, sinh viên nữ bắt buộc phải mặc trang

phục đạo Hồi bao gồm cả khăn trùm đầu, cho dù họ có phải là người theo đạo Hồi hay

không, bởi vì trang phục này được quy định là đồng phục nhà trường. Mặc dù pháp luật

chính thức không thừa nhận chế độ đa thê nhưng do luật Hồi giáo cho phép người đàn

ông lấy 4 vợ với điều kiện phải đối xử công bằng và chu cấp tài chính đầy đủ cho họ nên

ở Malaysia chính quyền xem xét cho phép lấy nhiều vợ nếu thấy cần thiết. Tuy không

phải là các quốc gia Hồi giáo những Singapore, Thailand đều công nhận sự tồn tại của

luật Hồi giáo và nó được áp dụng đối với cộng đồng tín đồ Hồi giáo ở những nước này.

Vì thế, việc đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trở thành vấn đề nổi cộm ở mốt số nước

thuộc khu vực ASEAN, nhất là ở những nước chịu ảnh hường của luật Hồi giáo.

3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi

Để hiểu được nội dung cũng như những thay đổi, cần đặt Hiến pháp vào bối cảnh lịch

sử và tình hình khu vực cũng như thế giới. Qua đó, có thể hiểu rõ và cụ thể hơn sự thay

đổi Hiến pháp trong từng giai đoạn, đồng thời có những lý giải hợp lý cho những thay đổi

đó.

3.2.1. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một

mức độ nhất định

Từng có không ít người lầm tưởng rằng với các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo, không

có khái niệm quyền con người tồn tại. Trên thực tế, bản thân các quốc gia chịu ảnh hưởng

Hồi giáo nói chung có những yếu tố nền tảng, thích nghi với quyền con người và dân chủ,

tự do.

Thứ nhất, trong giáo lý đạo Hồi cũng có những yếu tố công bằng và bình đẳng. Ngay

từ những dòng đầu của Kinh Koran đã nhắc đến việc “phải tôn trọng và yêu thương lẫn

nhau”, và không có “ai kém hơn ai” dưới sự chở che của thánh Allah. Do vậy, khi thành

lập hiến pháp hay thực hiện hiến pháp trên thực tế, các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo

dễ dàng tiếp thu và cải thiện.

Thứ hai, trong lịch sử lập hiến các quốc gia, luôn có sự cạnh tranh của các hệ tư tưởng

khác nhau, các lực lượng chính trị đối nghịch nhau. Chính sự cạnh tranh này tạo nên bầu

không khí sôi nổi để thúc đẩy hiến pháp nhằm mở rộng phạm vi và cập nhật với xu thế

hiện đại hơn. Từ đó Hiến pháp Malaysia, Indonesia hay Brunei có cơ hội được trao đổi,

phản biện, dễ dàng nhận ra điểm còn thiếu sót để bổ sung hay bắt kịp thời đại.

Thứ ba, sự ra đời các Hội, nhóm tại ba quốc gia cùng là một cách thúc đẩy hiến pháp

chuyển mình. Sự hình thành và tiếng nói của các nhóm hội tại Malaysia hay Indonesia là

một kênh thông tin thiết thực và gần gũi để nhà nước có thể tham khảo ý kiến người dân

khi xây dựng hiến pháp nhằm đảm bảo sự duy trì nhà nước bền vững và đáp ứng được

những nhu cầu của xã hội.

Thứ tư, sự ảnh hưởng của các đế quốc thực dân tiêu biểu như Anh, đều ảnh hưởng

tại ba quốc gia Malaysia, Indonesia và Brunei trong lịch sử và quá trình lập hiến đã thổi

vào tư duy pháp lý các quốc gia phần nào nhận thức mới mẻ về quyền con người. Dù tự

nguyện hay miễn cưỡng thông qua những trao đổi lợi ích chính trị và những bản hiệp ước

ký kết, xong Hiến pháp Indonesia, Malaysia đều có nhìn nhận cơ bản về quyền con người.

Dù Brunei vẫn chưa có được sự thay đổi rõ rệt và thực sự được đánh giá cao, song việc

thay đổi luật Hồi giáo theo xu hướng vì con người hơn cũng được xem là một trong những

dấu hiệu tích cực. Bởi lẽ, không dễ dàng gì đưa ra những quyết định “khác với kinh

Koran” hay “trái ngược với lời thánh Allah”. Khiếm khuyết vẫn còn đó và cần sửa chữa

nhưng không vì thế mà sự thay đổi tích cực bị phủ nhận.

Thứ năm, xu hướng nâng cao quyền con người là xu hướng chung của hiến pháp các

quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Sự ra đời của các tổ chức liên minh khu vực trong

đó có chương trình riêng về quyền con người như ASEAN hay EU, hay các tổ chức quốc

tế mang tính toàn cầu như Liên Hiệp Quốc nhằm lan tỏa vấn đề nhân quyền một cách

mạnh mẽ nhất. Khái niệm quyền con người trở nên phổ biến và được nhắc đến nhiều

trong hàng chục năm trở lại đây. Không chỉ Hiến pháp Malaysia, Indonesia hay Brunei,

mà hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới cũng có sự gia tăng rõ rệt về quyền con

người trong suốt tiến trình lịch sử của mình. Có thể kể đến như Afghanistan (từ 15 lên 37

điều), Iran (từ 1 lên 45 điều), Pakistan (từ 26 lên 45 điều),… Điều đó cho thấy sự phát

triển của quyền con người và xu thế thay đổi chung của hiến pháp các quốc gia ảnh hưởng

Hồi giáo (Tham khảo thêm bảng thống kê ở Phụ lục).

Thứ sáu, việc gia nhập và ký kết liên quốc gia, liên khu vực và toàn cầu cũng là sức

ép nhất định buộc các quốc gia phải thay đổi. Các điều ước quốc tế kinh tế, thương mại

giờ đây đều có những điều khoản liên quan đến quyền con người, môi trường,… Với các

quốc gia trong khu vực đang phát triển, việc ký kết các công ước và hiệp định là điều cần

thiết để phát triển. Nhưng trước khi bước vào “sân chơi chung”, các quốc gia phải cam

kết thực hiện được các giá trị phổ quát của nhân loại, tiêu biểu nhất là quyền con người.

Nếu không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ, quốc gia hoàn toàn có khả năng bị

loại khỏi sân chơi chung hay chịu những bó buộc về kinh tế. Đó là áp lực mạnh mẽ buộc

các quốc gia phải đổi mình. Việc nội luật hóa điển hình nhất là ghi nhận các giá trị đó

trong hiến pháp của mình. Dần dần, việc thay đổi và thừa nhận những giá trị đó trở nên

gần gũi, quen thuộc và cần thiết hơn.

Cuối cùng, sự tiến triển mạnh mẽ của chủ nghĩa hiến pháp trên thế giới và trong khu

vực cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo. Đã mười bốn

năm kể từ sau bài báo nổi tiếng của Bruce Ackermann, chủ nghĩa hợp hiến dường như

vẫn đang gia tăng. Hơn chín mươi bản hiến pháp mới đã được thông qua trong hai mươi

năm qua. Việc xây dựng hiến pháp và thúc đẩy chủ nghĩa hợp hiến đã trở thành nền tảng

của xây dựng nhà nước và quốc gia cũng như hợp tác phát triển. Mặc dù có những thất

bại và tiến bộ đôi khi chậm, nhưng dường như không thể phủ nhận rằng chủ nghĩa hợp

hiến đang phát triển ở Đông Nam Á. Hiến chương ASEAN không chỉ bao gồm các nguyên

tắc dân chủ, nhân quyền, pháp trị, quản trị tốt và chủ nghĩa hợp hiến là một chỉ số cho sự

thay đổi này, mà còn có một số tiến bộ thực tế. Trong bài báo chuyên đề về sự trỗi dậy

của chủ nghĩa lập hiến thế giới, Bruce Ackermann đề nghị nhìn lại sáu mươi năm để nhận

ra đầy đủ số lượng tiến bộ đã đạt được. Ở Đông Nam Á ngày nay, người ta chỉ cần nhìn

lại hai mươi lăm năm để thấy sự khác biệt. Năm 1985, các nhà độc tài Marcos

(Philippines) và Suharto (Indonesia) vẫn nắm quyền và Thái Lan ít nhất một phần nằm

dưới sự cai trị của quân đội. Tất cả các bang này vẫn có những vấn đề và khủng hoảng,

nhưng tất cả đều có các bản hiến pháp chứa đựng một số yếu tố dân chủ và tự do và các

cơ chế xem xét tư pháp. Một quãng thời gian trước, Lào và Việt Nam vẫn chưa bắt tay

vào quá trình cải cách hiến pháp bắt đầu tự do hóa nền kinh tế của họ và thúc đẩy sự cai

trị của pháp luật bằng cách hiện đại hóa pháp luật, hành chính công và tòa án. Nhưng bây

giờ mọi chuyện đã khác. Tất cả các quốc gia trong khu vực đều có hiến pháp. Các điều

khoản quy định trong hiến pháp đều mang chứa những nội dung tích cực về quyền, về

chế độ chính trị và bộ máy nhà nước. Việc đảm bảo hiến pháp không còn là điều gì đó

quá mới mẻ và khó tiếp nhận tại khu vực dù còn nhiều rào cản.

Có thể thấy, mặc dù chủ nghĩa hợp hiến là một lý thuyết và thực tiễn của chính phủ

và pháp luật có nguồn gốc đầu tiên ở Tây Âu và Bắc Mỹ, nhưng hiện nay có bằng chứng

đáng kể về sự tiếp nhận tích cực của nó trong việc cấy ghép thành công vào một số quốc

gia châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Về góc nhìn vĩ mô, bao trùm sự phát

triển ở châu Á từ cuối thế kỷ XIX, cho thấy chủ nghĩa hợp hiến đã mở rộng và tăng cường

phạm vi của nó, đáng kể theo thời gian. Đó có thể xem là thành tựu của chủ nghĩa hợp

hiến. Các tòa án hiến pháp hiện đang tồn tại ở Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia

và Indonesia đã đạt được những mức độ thành công khác nhau. Chính điều này đã ảnh

hưởng không nhỏ đến hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực, buộc chúng phải

chuyển mình theo xu thế thời đại.

3.2.2. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng với trường hợp Indonesia và Brunei

Thứ nhất, tiền thân trong lý tưởng của nhà tiên tri Mohammed là xây dựng một nhà

nước theo Hồi giáo do một người tối cao làm chủ, tức là tôn giáo gắn với nhà nước. Dễ

nhận thấy, Hồi giáo rất mau chóng phát triển ở các quốc gia theo chế độ quân chủ với nhà

vua đứng đầu. Do đó, dù đến sau, nhưng Hồi giáo dần đánh bại các tôn giáo khác tồn tại

ở Malaysia, Brunei hay thậm chí là Indonesia nơi được mệnh danh là “Thung lũng các

Vua” (Valley of Kings) để trở thành tôn giáo chiếm đa số tín đồ tại các quốc gia này. Kể

cả sau này, khi hiến pháp thừa nhận các nước kể trên theo chính thể quân chủ với sự hiện

diện của một người đại diện cho Vương quyền và tôn giáo, việc gạt bỏ hoàn toàn hay mờ

nhạt Hồi giáo và giáo lý đạo Hồi tiêu cực trở nên khó khăn hơn.

Thứ hai, có một đặc điểm chung của các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo là bài

xích hiến pháp. Dù bối cảnh quốc tế có sự thay đổi mạnh mẽ, các quốc gia chịu ảnh hưởng

Hồi giáo vẫn chịu sự chi phối của giáo lý đạo Hồi, những lời Thánh truyền “God head”.

Lời của Allah là luật, do đó việc xuất hiện một đạo luật tối cao để các công dân trong

quốc gia tuân theo là không cần thiết. Bản thân các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo

luôn luôn phải chịu sự đấu tranh mãnh liệt của một bên ủng hộ tuyệt đối đạo Hồi, bài xích

và không quan tâm Hiến pháp; với một bên ủng hộ việc xây dựng và tuân thủ hiến pháp

tối cao. Để có thể giải quyết vấn đề một cách êm đẹp, cách tốt nhất là dung hòa được cả

hai. Đây là một phần những gì đã xảy ra ở Ai Cập trong quá trình soạn thảo hiến pháp

năm 1971. Đó là lý do vì sao cả Malaysia, Indonesia thừa nhận quyền con người, có biểu

hiện về thay đổi Hiến pháp theo hướng hoàn thiện hơn, song vẫn rất khó khăn trong giải

quyết các vấn đề liên quan đến Hồi giáo, tòa Shari’ah tồn tại song song bên cạnh tòa án

thường. Các vấn đề liên quan đến Hồi giáo được xem là điều gì “bất khả xâm phạm” mà

chỉ người Hồi giáo với nhau có thể thực hiện được.

Thứ ba, truyền thống pháp luật khu vực Châu Á còn có những điểm riêng biệt. Giá

trị Châu Á hay chủ nghĩa tương đối là những lý do dẫn đến việc hiến pháp các quốc gia

trong khu vực nói chung và Hồi giáo nói riêng chậm chạp để có thể hấp thụ và cải tạo

theo những bản Hiến pháp tiên tiến, mẫu mực trên thế giới. Trong những năm 1990, người

ta đã chú ý đến khái niệm “giá trị châu Á”, với sự tham khảo cụ thể về quyền tự chủ của

các quốc gia châu Á để phát triển luật riêng của họ mà không nhất thiết phải tuân thủ luật

pháp phương Tây hoặc các quy tắc quốc tế (Bell 2000). Có ý kiến cho rằng những khái

niệm về tự do, quyền con người hoàn toàn có thể hiểu và biểu hiện theo “cách của khu

vực châu Á”, chứ không nhất thiết phải giống như những gì phương Tây đưa ra. Lập luận

này chủ yếu được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo chính trị ở Singapore, Malaysia và

Indonesia, và đã gây được tiếng vang ở các nước Đông Nam Á khác. Điều này được xem

là một phản ứng trực tiếp đối với những tiến bộ trong nhân quyền quốc tế, được thể hiện

trong Tuyên bố Bangkok về Nhân quyền năm 1993 (Thio 1999). Lập luận về giá trị châu

Á đã không bác bỏ quyền con người (thực ra tất cả các hiến pháp Đông Nam đều thừa

nhận quyền con người dưới một hình thức nào đó) và một số quốc gia Đông Nam Á

(Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines và Thái Lan) thậm chí còn có một tổ chức

nhân quyền quốc gia. Tuy nhiên, những người ủng hộ lập luận giá trị châu Á đã từ chối

chấp nhận rằng tất cả các quyền con người theo định nghĩa của các cường quốc phương

Tây trong hệ thống quốc tế đang phát triển là hoàn toàn có thể áp dụng trong các xã hội

châu Á. Đơn giản vì châu Á có những đặc thù riêng, có những “giá trị châu Á” riêng, cho

nên dù không phủ nhận những cũng rất khó khăn để đạt được mong muốn về quyền con

người hay các giá trị dân chủ như phương Tây. Chính quan niệm này đã hạn chế lại khả

năng thay đổi hiến pháp các quốc gia, nó khiến hiến pháp dễ trở nên lửng lơ trong việc

thừa nhận quyền con người và phấn đấu cho các giá trị dân chủ một cách “nửa vời”.

Ngoài ra, không thể không nhắc tới sự phản ứng trước xu hướng văn hóa xã hội mang

ảnh hưởng dân chủ phương Tây. Đây là một vấn đề trong thời kỳ hiện đại. Sự phản ứng

lại của tư tưởng Hồi giáo trước ảnh hưởng của phương Tây khiến mong muốn áp dụng

Hồi giáo để lặp lại trật tự vốn có trở nên mạnh mẽ trong tư tưởng những người Hồi giáo.

Sự áp dụng rộng rãi đạo Hồi trong thực tế và ghi nhận trong hiến pháp ngày càng trở nên

mạnh mẽ và khắc nghiệt bên cạnh những ghi nhận tiến bộ về quyền con người là một bài

toán đầy mâu thuẫn và khó giải quyết. Minh chứng là việc Brunei ngay trong đầu tháng

4 vừa qua đã thông qua luật ném đá đến chết người đồng tính mặc cho dư luận thế giới

bất bình và lên án gay gắt trước hành động đó, nhưng Sultan vẫn tin tưởng rằng đó là

“điều cần” với Brunei hiện tại.

3.3. Những gợi mở cho quá trình cải cách Hiến pháp Việt Nam

Từ những nghiên cứu trong lịch sử và xu hướng hiến pháp các quốc gia Hồi giáo

trong khu vực, có thể gợi mở những bài học cho Việt Nam trong quá trình cải cách hiến

pháp. Cũng giống như các quốc gia trong khu vực, Việt Nam tiếp cận với các giá trị quyền

con người, pháp quyền, dân chủ muộn và có phần khó khăn. Không chỉ vậy, tâm lý e ngại,

đề cao “giá trị Châu Á”, đề cao lợi ích tập thể của cộng đồng và xã hội, tôn trọng gia đình,

cộng đồng và quốc gia, đề cao giá trị của lao động nặng nhọc, đặt lợi ích gia đình trên

những mong muốn cá nhân,… là những rào cản không nhỏ trong quá trình thay đổi và

hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Trong bối cảnh tình hình khu vực và trên thế giới

có những biến động, sự thay đổi trong nhận thức của từng người dân, các yếu tố nội tại

chuyển mình, cải cách hệ thống pháp luật là quy luật tất yếu và tự nhiên. Trung tâm của

quá trình cải cách đó chính là hiến pháp. Khắc phục những lỗ hổng trong lý thuyết và

thực tiễn hiến pháp là điều khó khăn nhưng cần thiết. Thông qua việc nghiên cứu hiến

pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực, có thể gợi mở ra những đường hướng cho Hiến

pháp Việt Nam.

Thứ nhất, hiến pháp phải được đặt ở vị trí xứng đáng là đạo luật tối cao của một quốc

gia. So với hai quốc gia còn lại là Malaysia và Indonesia, rõ ràng, Hiến pháp Brunei chưa

được tôn trọng tương xứng với tầm quan trọng nói chung của hiến pháp. Hệ quả của điều

đó là mức độ vi phạm quyền con người và các hành vi trái pháp luật cao hơn và nghiêm

trọng hơn hẳn các quốc gia khác. Một bản hiến pháp đảm bảo sẽ giúp bộ máy nhà nước

vận hành quy củ và quyền con người được đảm bảo tối đa. Hòa cùng dòng chảy pháp

quyền, dân chủ cùng những yêu cầu của nền kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hóa,

Việt Nam đã ghi nhận vai trò hiến pháp, vấn đề bảo hiến đã và đang được thảo luận mạnh

mẽ trên các diễn đàn với mục đích thiết lập mô hình tài phán hiến pháp trong tương lai

không xa. Điều 119 Hiến pháp 2013 hiện hành có ghi nhận: “Hiến pháp là luật cơ bản của

nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản

pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử

lý.” Nhưng trên thực tế vẫn tồn tại không ít các văn bản vi hiến, điều đó đặt ra yêu cầu

cần phải thực hiện rõ ràng và mạnh mẽ hơn việc đảm bảo vị trí “pháp lý cao nhất” của

hiến pháp.

Thứ hai, đặc điểm chung của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực là dù ghi nhận cụ

thể hay không ghi nhận nguyên tắc “tam quyền phân lập” nhưng vẫn có sự rạch ròi khi

quy định các nhánh lập pháp – hành pháp – tư pháp. Đây là điều cần làm rõ và quan tâm

trong Hiến pháp Việt Nam. Theo Hiến pháp hiện hành, “Quyền lực nhà nước là thống

nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực

hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.” (Khoản 3, Điều 2); và trong các chương

về sau, Hiến pháp cũng ghi nhận rõ ràng, chi tiết các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,

hành pháp, tư pháp. Dẫu vậy, vẫn có những điểm cần quan tâm lưu ý. Cách ghi nhận

“quyền lực nhà nước là thống nhất” cùng với Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất có

thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Đồng thời, việc tổ chức quyền lực nhà nước còn

bị ảnh hưởng nhiều bởi nguyên tắc tập quyền XHCN khiến việc phân chia ba nhánh lập

pháp – hành pháp – tư pháp chưa được đảm bảo tối đa. Quốc hội vẫn có thể quyết định

những vấn đề quan trọng của đất nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu

xem xét quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hay việc giám sát

của Quốc hội với nhánh tư pháp có xu hướng can thiệp và hoạt động xét xử là những vấn

đề còn tồn đọng. Trong bối cảnh chung, Hiến pháp Việt Nam cần có sự rõ ràng và chặt

chẽ hơn nữa về tính độc lập và đối trọng, kìm chế lẫn nhau của các cơ quan nhà nước thực

hiện quyền lập pháp – hành pháp – tư pháp. Trong đó, đặc biệt là nhánh quyền tư pháp

để đảm bảo sự minh bạch trong xét xử, đem lại niềm tin cho người dân vào công lý, pháp

quyền.

Thứ ba, từ bản hiến pháp đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

cho đến Hiến pháp 2013, sự ghi nhận quyền con người, quyền công dân đã tăng lên đáng

kể. Nhưng cũng giống như Malaysia, Indonesia hay Brunei, việc thực thi và đảm bảo

quyền con người tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Trong đó, quyền tự do lập hội,

quyền biểu tình là một trong số những quyền vẫn đang được thảo luận sôi nổi trên các

diễn đàn, các cuộc hội thảo nhằm hướng đến một xã hội thực sự dân chủ, nơi mà người

dân được thực hiện quyền cơ bản của mình. Đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền

công dân là một trong số những gợi mở dành cho Việt Nam từ kinh nghiệm các quốc gia

Hồi giáo trong khu vực.

Thứ tư, việc tăng cường hiệu lực thi hành của hiến pháp cũng là một điều đáng lưu

tâm. Trên thực tế, tại Việt Nam, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan lập

hiến. Và chỉ Quốc hội có quyền duy nhất trong việc sửa đổi, bổ sung hiến pháp thông qua

tỷ lệ 2/3 đại biểu Quốc hội là một quy định khá đơn giản. Ngoài việc cần đảm bảo tính

chặt chẽ của việc sửa đổi, bổ sung hiến pháp như có những quy định nghiêm ngặt hơn về

sửa đổi các điều khoản đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền con người, tình trạng

khẩn cấp quốc gia, hay bộ máy nhà nước,… như bổ sung thêm các yêu cầu phụ giống

Hiến pháp Indonesia và Malaysia, Việt Nam cũng nên mở rộng sự tham gia của người

dân trong quá trình xây dựng hiến pháp. Điều đó không chỉ đảm bảo quyền làm chủ của

người dân, quyền lập hiến – chủ quyền nhân dân là quyền nguyên thủy, mà còn giúp hiến

pháp có tính thực tiễn cao hơn. Bởi xét cho đến cùng, hiến pháp không nằm ngoài mục

đích bảo vệ quyền lợi của người dân, lắng nghe ý kiến từ chính người dân giúp hiến pháp

dễ dàng đi vào thực tiễn hơn. Những cuộc biểu tình tại Malaysia và sự thừa nhận của Nghị

viện với những yêu cầu của người dân trong Hiến pháp hiện hành là minh chứng cho kết

quả tốt đẹp của việc mở rộng sự tham gia của xã hội trong quá trình xây dựng, sửa đổi

Hiến pháp.

Thứ năm, thiếu vắng đi một cơ chế bảo hiến đồng nghĩa với sự mong manh về hiệu

lực tối cao của hiến pháp. Dù trải qua nhiều thăng trầm với sự trồi sụt nhất định, nhưng

rõ ràng, Tòa án Hiến pháp Indonesia đã có không ít những quyết định nhằm bảo vệ quyền

con người và đảm bảo việc thi hành hiến pháp một cách nghiêm túc, đúng đắn. Điều đó

mang lại cho xã hội sự bình đẳng, an toàn và kỳ vọng của nhân dân vào công lý. Việt

Nam hiện nay vẫn đang trên hành trình thảo luận để đi đến một cơ chế bảo hiến thực sự.

Trong Hiến pháp Việt Nam, cụm từ “…theo quy định của pháp luật” không còn là xa lạ.

Điều này dẫn tới hệ quả là hiến pháp trở nên yếu thế so với các văn bản dưới hiến pháp.

Rõ ràng, nếu không có văn bản cụ thể hóa, thì nhiều quyền hiến định khó mà thực hiện

được. Việc có một cơ chế bảo hiến như Indonesia sẽ không chỉ đảm bảo quyền con người,

xử lý ngay các hành vi vi hiến mà còn thực hiện chức năng giải thích pháp luật, đảm bảo

vị trí tối cao của hiến pháp một cách thực tế chứ không phải chỉ tồn tại trên giấy.

Thứ sáu, sự ra đời của các cơ chế hiến định độc lập trong các quốc gia Hồi giáo cũng

là một điều thú vị. Có thể kể đến: Toà án Hiến pháp, Uỷ ban phòng chống tham nhũng,

Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng bầu cử quốc gia,… là những cơ quan hiến định độc lập

nổi bật được ghi nhận trong hiến pháp các quốc gia ASEAN nói chung. Sự có mặt của

các cơ quan này giúp ngăn chặn các hành vi lạm quyền góp phần đảm bảo việc thực thi

hiến pháp. Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp Việt Nam

2013 là kết quả tất yếu của ảnh hưởng xu thế chung khu vực và trên thế giới, cũng đáp

ứng nhu cầu của quốc gia. Điều đó đưa ra yêu cầu nên quan tâm đến việc thực hiện các

cơ chế hiện định độc lập như một cách hữu hiệu duy trì trật tự xã hội và vai trò của hiến

pháp tại Việt Nam.

3.4. Các vấn đề đặt ra

Nghiên cứu về Hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á cho thấy

sự biến động lịch sử không ngừng cùng sự thay đổi đa dạng của Hiến pháp trải qua lịch

sử và bối cảnh khu vực cũng như thế giới. Cùng với hai xu thế phát triển chính của Hiến

pháp các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo là rất nhiều vấn đề cần được đặt ra.

Thứ nhất, vì vị trí của hiến pháp trong đời sống một quốc gia. Hiến pháp quan trọng

và có ý nghĩa với sự phát triển của đất nước là điều không thể phủ nhận. Nó là nền tảng

để đất nước phát triển và xã hội vận hành có quy luật, đồng thời là thanh kiếm sắc bén

đảm bảo quyền con người. Nhưng trên thực tế, Hiến pháp các quốc gia Malaysia,

Indonesia và đặc biệt là Brunei vẫn chưa thực sự chắc chắn. So với Hiến pháp Malaysia

và Indonesia, Hiến pháp Brunei là hiến pháp có sự ảnh hưởng mong manh và thiếu được

coi trọng đúng mức nhất. Gần như bất cứ lúc nào, khi nào, hiến pháp cũng có thể bị thay

đổi một cách vô lý do. Và điều quan trọng nhất là có một chủ thể còn đứng trên cả hiến

pháp. Tất nhiên không thể loại trừ chính thể quân chủ mà Brunei theo đuổi là điều kiện

để tôn vinh cá nhân, song đặt hiến pháp ở vị trí thứ yếu khiến hiệu lực của nó không còn

tác dụng. Sự lạm quyền, xâm hại thô bạo quyền con người sẽ dễ dàng diễn ra hơn bao giờ

hết. Điều đó đặt ra những yêu cầu cần phải trả lại vị trí xứng đáng cho hiến pháp trong sự

tôn trọng và tuân thủ nghiêm túc đạo luật tối cao này.

Thứ hai, trong cả ba bản Hiến pháp Malaysia, Brunei hay Indonesia đều không ghi

nhận nguyên tắc “tam quyền phân lập” một cách rõ ràng, thay vào đó là minh chứng quy

định ba nhánh lập pháp – hành pháp – tư pháp một cách riêng biệt. Nhưng thực tế, việc

hoạt động của bộ máy nhà nước lại chưa được rạch ròi và đảm bảo sự kìm chế, đối trọng

lẫn nhau. Dù ghi nhận hay không ghi nhận, các điều khoản về ba nhánh quyền lực trong

một đất nước vẫn cần được phân tách và làm rõ nhất có thể trong Hiến pháp. Bởi sự vận

hành của bộ máy nhà nước cũng là sự vận hành của đất nước và là cách thức để đảm bảo

quyền con người.

Thứ ba, vấn đề có lẽ trở nên khó khăn nhất là việc đảm bảo quyền con người trước

những hành vi xâm hại thô bạo quyền con người trong Hiến pháp và trên thực tiễn tại các

quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Dù có xu hướng vận động tích cực trong việc thừa

nhận quyền con người và thực tiễn thi hành Hiến pháp cũng có những dấu hiệu đáng

mừng. Nhưng chừng đó là chưa đủ bảo vệ con người trước những điều luật khắt khe và

còn bất công theo giáo lý đạo Hồi. Những báo cáo về thực hiện nhân quyền tại Malaysia,

Indonesia hay Brunei vẫn còn ở con số thấp. Quyền tự do ngôn luận, tự do thân thể, quyền

sống, quyền mưu cầu hạnh phúc,… vẫn bị kìm chế bởi các giáo lý đạo Hồi. Kể cả với

những người không phải là tín đồ Hồi giáo vẫn chịu ảnh hưởng. Nữ giới ra ngoài vẫn phải

đeo khăn trùm đầu, học sinh dù muốn hay không vẫn phải gọc chương trình bắt buộc về

Hồi giáo tại trường, việc có quan hệ đồng tính trở thành nỗi ô nhục kỳ thị,… là những vi

phạm quyền con người vẫn hiện hữu rất rõ ràng ở các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo.

Ví dụ như ở vùng Aceh, Indonesia hay Brunei, hai địa điểm nổi tiếng khu vực Đông Nam

Á về việc thừa nhận và áp dụng gần như toàn bộ luật Shari’ah với những hình phạt tàn

khốc nhất. Ước tính có hơn 100 người đã bị kết tội và xử phạt ở nơi công cộng vào năm

2015 vì vi phạm Shariah bằng cách bán rượu, cờ bạc và quan hệ tình dục ngoài hôn nhân

tại Aceh (Indonesia). Theo báo cáo của ABC News , người phụ nữ trẻ, Kiranti, đã bị buộc

phải quỳ trên sân khấu trước một đám đông lớn và nhận được 9 nét gậy từ một người đàn

ông đội mũ trùm đầu tên là Algojo - "đao phủ". Mặc dù Hiến pháp vẫn ghi rất rõ ràng,

“các tôn giáo khác có quyền hoạt động và tồn tại bình đẳng”, và Hiến pháp Indonesia vẫn

thừa nhận các quyền cơ bản của con người. Nhưng thực tế đã trả lời, vẫn có những hành

vi xâm hại thô bạo quyền tuyệt đối của con người mà nhà nước gần như bất lực để can

thiệp. Việc ghi nhận và bảo đảm ra sao về quyền con người tại các quốc gia Hồi giáo vẫn

luôn là vấn đề nhức nhối và đáng được quan tâm.

Thứ tư, trong các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo khu vực Đông Nam Á, hiến pháp

đều quy định có nhánh tư pháp, tồn tại song song bên cạnh hệ thống tư pháp thường là hệ

thống tòa án Shari’ah. Câu hỏi đặt ra là thẩm quyền của các tòa án đến đâu khi xét xử và

làm thế nào để kiểm soát được việc xét xử tại tòa Shari’ah? Dù đã có những quy định

trong hiến pháp nhưng dường như đó là chưa đủ, vẫn có sự tranh chấp và bối rối nhất

định khi xét xử các vụ án tại Brunei hay Malaysia, Indonesia. Khi cải đạo dựa trên quyền

tự do tôn giáo được hiến pháp ghi nhận thì nên xử ở tòa thường hay tòa Shari’ah để vừa

đảm bảo quyền con người, vừa phù hợp giáo lý đạo Hồi là điều không hề dễ dàng.

Thứ năm, Hiến pháp tồn tại sẽ không còn ý nghĩa nếu không có cơ chế đảm bảo nó

được thực hiện một cách hoàn chỉnh và đúng đắn. Có thể thấy Tòa án Hiến pháp ở

Indonesia hay Tòa án Tối cao ở Malaysia vẫn còn những hạn chế trong đảm bảo cơ chế

bảo hiến. Brunei thậm chí còn hoàn toàn không có cơ chế bảo hiến. Một cơ chế bảo hiến

vững chắc giúp Hiến pháp phát huy hết tác dụng và ở đúng vai trò của nó trong hành trình

phát triển của một quốc gia.

3.5. Tiểu kết chương 3

Qua nghiên cứu, có thể thấy xu thế thay đổi của hiến pháp các quốc gia chịu ảnh

hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, cũng thấy rõ, dù cùng chịu ảnh

hưởng Hồi giáo, có những điểm chung tương đồng về mặt lịch sử, song, sự thay đổi và

thực tiễn thi hành hiến pháp ở mỗi quốc gia có những điểm đáng lưu ý riêng. Điều đó vừa

gợi mở bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, vừa đặt ra những vấn đề nhằm nâng cao hơn

nữa vị trí, vai trò của hiến pháp và việc đảm bảo thực thi hiến pháp nghiêm túc, có hiệu

quả tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.

KẾT LUẬN

Cũng giống như bất cứ một vấn đề pháp lý nào, Hiến pháp tồn tại bên cạnh những

yếu tố ảnh hưởng và tác động đan xen. Quan việc nghiên cứu lịch sử và xu hướng Hiến

pháp các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, có thể thấy được một

phần sự phong phú và đa dạng của Hiến pháp trong đời sống. Hiến pháp không “bất biến”

mà luôn có sự thay đổi, thích ứng với thời gian và bối cảnh xã hội. Qua nghiên cứu, tác

giả cũng đi đến kết luận về hai xu hướng chính của Hiến pháp của các quốc gia chịu ảnh

hưởng của Hồi giáo.

Một là, chế định hóa các quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức độ

nhất định.

Hai là, gia tăng ảnh hưởng Hồi giáo trong Hiến pháp và thực tiễn thi hành.

Đồng thời, nghiên cứu cũng đi đến lý giải nguyên nhân của hai xu hướng và đặt ra

các vấn đề quan trọng cần giải quyết trong khi nghiên cứu Hiến pháp ba quốc gia

Indonesia, Malaysia, Brunei. Điều đó không chỉ có ý nghĩa với các quốc gia Hồi giáo

trong khu vực mà còn có ý nghĩa với các quốc gia Hồi giáo khác trên thế giới và các quốc

gia còn lại trong Đông Nam Á.

Thế giới đổi thay và phát triển không ngừng. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp và Hồi

giáo cũng có nhiều điểm đổi mới thú vị. Trong một bối cảnh quyền con người trở thành

giá trị toàn cầu và vị trí Hiến pháp ngày càng được coi trọng tại mỗi quốc gia, chủ nghĩa

Hiến pháp gia tăng, các quốc gia Hồi giáo cũng cần nhạy bén theo kịp sự đi lên của thời

đại. Song những vấn đề nảy sinh của Hồi giáo thời kỳ mới cũng là những điều đáng lưu

ý. Tâm lý bài xích dân chủ, “quay lưng” với phương Tây và “ghét” Mỹ sẽ là rào cản

không nhỏ với các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo. Trong danh sách 9 quốc gia “ghét”

nước Mỹ nhất thế giới được tờ 24/7 Wall St. liệt kê, thì có tới 8 quốc gia thuộc thế giới

Islam giáo. Trong đó Palestine, Pakistan, Lebanon, Yemen là bốn nước chiếm vị trí cao

nhất. Cụ thể, tỷ lệ “ghét” Mỹ ở Palestine là 80%; Pakistan là 73%; Lebanon là 71%;

Yemen là 69%. Còn theo khảo sát của trung tâm nghiên cứu PEW, cả người Islam giáo

và người Phương Tây tiếp tục xem mối quan hệ của họ nhìn chung là tồi tệ. Điều đó

không chỉ đơn giản là tâm lý kháng cự trước một cường quốc có sự can thiệp về quân sự

và đối ngoại với các quốc gia Hồi giáo, mà nó còn phản ánh “tâm trạng” của các quốc gia

Hồi giáo trên thế giới trong bối cảnh hiện đại. Có thể lý giải bởi ba (3) lý do sau: Thứ

nhất, là cảm giác mất mát địa vị thống trị của Islam giáo trên thế giới trước sức mạnh tiến

công của Nga và Phương Tây, thứ hai là sự phá hoại uy quyền của Islam giáo trong chính

đất nước của họ, thông qua cuộc xâm lược của các hệ tư tưởng ngoại bang, kết hợp với

việc truyền bá lối sống không phù hợp với văn hóa Islam giáo bản địa, thứ ba, là sự thách

thức vị thế làm chủ của Islam giáo trên chính mảnh đất Thiên Chúa đến từ phía Israel.

Việc gia tăng tâm lý chống Phương Tây cho thấy sự mất phương hướng, khủng hoảng và

trở nên tiêu cực trong một bộ phận không nhỏ của thế giới Islam giáo. Mối quan hệ căng

thẳng giữa Islam giáo và Phương Tây trở thành một trong những vấn đề trung tâm của

thế giới đương đại. Càng gia tăng tâm lý chống Mỹ thì người Islam giáo càng trở nên cực

đoan, khủng bố và như vậy càng gây mất ổn định, an ninh đối với không chỉ Islam giáo

và Phương Tây mà cả phần còn lại của thế giới. Sự xuất hiện của các phần tử khủng bố

cực đoan ngày càng nhiều, cùng với việc áp dụng rộng rãi bộ luật Shari’ah trên thực tế tại

các quốc gia Hồi giáo nói chung và gia tăng ảnh hưởng Hồi giáo tại Malaysia, Indonesia

và Brunei nói riêng chính là biểu hiện cho tâm lý kháng cự như vậy.

Trong một bối cảnh phức tạp và ngày càng ngột ngạt như vậy, mọi sự chú ý và gánh

nặng đổ dồn vào Hiến pháp của các quốc gia. Sự quan trọng và cần thiết của một bản

Hiến pháp dân chủ, tôn trọng quyền con người càng trở nên ý nghĩa để bảo vệ công dân

của các quốc gia, dù có phải là tín đồ Hồi giáo hay không cũng không thể bị xâm hại thô

bạo quyền con người tại chính đất nước mình mang dòng máu. Hiến pháp sẽ là sự ghi

nhận tốt nhất về sự bình đẳng và quyền của mỗi người, cùng là sự đấu tranh tốt nhất cho

những phản ứng cực đoan chống lại chính con người nảy sinh từ những xung đột tôn giáo

và niềm tin.

Hiến pháp nước nào cũng vậy, được xây dựng trên những nền tảng nguyên lý nhất

định quyết định bản chất hiến pháp đó. Ở các quốc gia Hồi giáo như Afghanistan, Iran,

Mauretanien, Sudan, Pakistan…, hiến pháp đều dựa trên nền tảng kinh Koran. Điển hình

như Hiến pháp Iran năm 1979, sửa toàn diện lần cuối năm 1989, gồm 177 điều, mở đầu:

“Hiến pháp Cộng hoà Hồi giáo Iran phấn đấu tạo dựng các định chế văn hoá, xã hội,

chính trị và kinh tế Iran theo các nguyên tắc cơ bản và quy ước đạo Hồi; nó phù hợp với

tâm nguyện của cộng đồng Hồi giáo”. Bản chất hiến pháp chính là bản chất mối quan hệ

qua lại giữa nhà nước và người dân do nó điều chỉnh; ở các quốc gia Hồi giáo trên, mối

quan hệ đó thừa nhận ba chủ thể, với vai trò lãnh đạo tinh thần của giáo chủ, nhà nước

nhân danh Hồi giáo quyết định trực tiếp mọi hoạt động văn hoá xã hội chính trị kinh tế,

và người dân có bổn phận chấp hành, được bảo đảm bằng tín điều Hồi giáo, kinh Koran.

Với một nền tảng như vậy và bối cảnh bức bối, rối ren của thế giới Hồi giáo hiện đại, sự

quan tâm và đầu tư cho Hiến pháp càng cần thiết và mang chứa nhiều ý nghĩa.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Lê Văn Trường An (2016), “Những nhân tố thúc đẩy quá trình Hồi Giáo hóa

Đông Nam Á ở hải đảo thế kỷ XV-XVI”, Nghiên cứu lịch sử,

https://nghiencuulichsu.com.

2. Minh Anh (2017), “7 nền dân chủ mới trong “làn sóng dân chủ hóa thứ ba” ở

Đông Á”, Luật Khoa tạp chí, https://www.luatkhoa.org.

3. Ngô Cường (2018), “Sơ lược về chế định Thẩm phán của Indonesia, Thái Lan,

Hoa Kỳ, Canada, Úc, Trung Quốc và Nga”, https://tapchitoaan.vn/.

4. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật So sánh (2012), NXB Công an Nhân dân,

tr.134.

5. Dân luật, Thư viện pháp luật, “Khái quát về hệ thống pháp luật Hồi giáo”,

https://danluat.thuvienphapluat.vn/

6. Nguyễn Đăng Dung (2011), “Chức năng của Hiến pháp”, Tạp chí Khoa hcọ

ĐHQGHN, Luật học 27 (2011), tr.95 – 100.

7. Nguyễn Thùy Dương, “Tôn giáo trong Hiến pháp các nước ASEAN”.

8. Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa

học pháp lý, Số 03, tr.57.

9. Văn Trung Hiếu, “Islam trong nền chính trị Malaysia”, Trường Đại học Khoa

học xã hội và Nhân văn.

10. Nguyễn Thị Mai Hoa, “Hồi giáo ở Đông Nam Á”, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng

giảng viên Lý luận chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nội.

11. Tô Văn Hòa (2012), Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các quốc gia Asean, Đại học

Luật Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.

12. “Hồi giáo với Malaysia”, Phần 2, http://quankhoasu.blogspot.com/.

13. Bùi Văn Hùng, Trường Đại học Đà Lạt, “Giáo trình Lịch sử Đông Nam Á”,

https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-lich-su-dong-nam-a-tai-ban-lan-thu-nhat-co-

sua-chua-va-bo-sung-phan-1-1818981.html.

14. Trần Thị Hương (2015), “Một số đặc điểm của thế giới Islam giáo hiện này”, Tạp

chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 06 (144), 2015, tr.109 – 124.

15. Thục Minh (2019), “Brunei ra luật ném đá đến chết người ngoại tình”, Văn phòng

Singapore, https://thanhnien.vn/.

16. An Nam, “Tòa án Hiến pháp Indonesia bác bỏ luật định phân biệt đối xử về tôn

giáo”, http://btgcp.gov.vn/.

17. Hoàng Phương, “Người Indonesia biểu tình đòi trực tiếp bầu cử tổng thống”,

https://nld.com.vn/.

18. Hoàng Phương, “Quốc hội Indonesia sửa đổi hiến pháp”, https://nld.com.vn/.

19. Thái Vĩnh Thắng (2008), “Về hệ thống pháp luật Hồi giáo”, Tạp chí Nghiên cứu

lập pháp điện tử, http://www.nclp.org.vn/.

20. Nguyễn Thị Minh Thu (2014), “Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền

lực Nhà nước”, Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp

luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.

21. Minh Thy, “Nghị viện Indonesia: Sửa đổi Hiến pháp hướng tới cân bằng quyền

lực”, http://daibieunhandan.vn/.

22. Tòa án Hiến pháp công nhận kết quả bầu cử tổng thống Indonesia,

http://nhandan.com.vn/.

23. “Tòa Hiến pháp Indonesia có thể quyết định kết quả bầu cử tổng thống”,

https://baotintuc.vn/.

24. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội , “Tổng quan về hệ thống pháp luật các nước

Asean”, http://tks.edu.vn/, 17/4/2019, 5:00 pm.

25. Mai Vân (2009), “Nền dân chủ duy nhất đang vận hành tốt tại Đông Nam Á”,

http://www1.rfi.fr/.

26. Báo Vnexpress, “Số người Indonesia theo Hồi giáo lớn nhất thế giới”,

https://vnexpress.net/.

27. “Lịch sử Indonesia”, https://vi.wikipedia.org/.

28. Vi Yên, “Dân chủ ở Malaysia vừa thắng lớn: Xem xét ba triển vọng”.

TIẾNG ANH 29. Albert H.Y. Chen (2016), “Constitutions and Constitutional Practice in East

Asia”, http://hdl.handle.net/10722/207595.

30. Albert H.Y. Chen (2014), “The Achievement of Constitutionalism in Asia:

Moving Beyond “Constitutions without Constitutionalism”, Constitutionalism in

Asia in the Early Twenty-First Century, Cambridge: Cambridge University

Press, tr.1-32.

31. A.b. kusuma and r.e. elson (2011), “A note on the sources for the 1945

constitutional debates in Indonesia”, Tạp chí ngôn ngữ học, đất đai và dân tộc

học, tập 167, số 2-3 (2011), tr.196-209, http://www.kitlv-

journals.nl/index.php/btlv.

32. Andrew Harding (2012), “Malaysia: Religious Pluralism and the Constitution in

a Contested Polity, Andrew Harding”, Trung tâm nghiên cứu pháp lý châu Á,

Đại học Quốc gia Singapore, tạp chí Middle East Law and Governance 4 (2012)

356–385.

33. Anver Emon (2008), “The Limits of Constitutionalism in the Muslim World:

History and Identity in Islamic Law”, Đại học Toronto. 11. Chen, AHY

(2014), “The achievement of constitutionalism in Asia: moving beyond

'constitutions without constitutionalism'”, Đại học Hồng Kông,

http://hdl.handle.net/10722/201920.

34. Chen, AHY (2014), “The achievement of constitutionalism in Asia: moving

beyond 'constitutions without constitutionalism'”, Đại học Hồng Kông,

http://hdl.handle.net/10722/201920.

35. Chen, AHY (2016), “Constitutions and Constitutional Practice in East Asia”, Đại

học Hồng Kông, http://hdl.handle.net/10722/207595.

36. Clauspeter Hill & Jörg Menzel (2009), “Constitutionalism in Southeast Asia”,

tập 3, Konrad-Adenauer-Stiftung, Singapore.

37. Clifford Geertz (1960), “The Religion of Java”, University Of Chicago Press.

38. Dawoo I. Ahmed & Tom Ginssburg (2014), “Constitutional Islamization and

Human Rights: The Surprising Origin and Spread of Islamic Supremacy in

Constitutions”.

39. Denny indrayana, ph.d (2008), “Indonesian constitutional reform 1999 - 2002.

An evaluation of constitution-making in transition”, Jakarta.

40. Ergun (2015), “Constitutional Design in Islamic Countries: Comparative Notes

on Turkey, Egypt, and Tunisia”, Working Paper – submitted by the author to

ISMC’s Dialogues Series 2015-6.

41. Fatimi, S.Q. (1963), Islam comes to Malaysia, Malaysian Sociological Research

Intitute LTD, Singapore, tr.4.

42. Fritz Edward Siregar (2015), “the political context of judicial review in

Indonesia”, Tạp chí Indonesia Law Review, số 2, tr.208 – 237.

43. “From Undang-undang Melaka to federal constitution: the dynamics of

multicultural Malaysia”, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/.

44. Indonesia Constitution 1945

45. Iur Adnan Buyung Naszing (2011), “Towards Constitutional Democracy in

Indonesia”, Đại học Luật Melbourne.

46. Jean-Pierre Cabestan (2009), “Constitutionalism and Western Legal Traditions

in Human Rights in Asian Legal Systems: With a Special Focus on Chinese Legal

Systems”.

47. Jerg Gutmann & Stefan Voigt (2014), “The Rule of Law and Constitutionalism

in Muslim Countries”.

48. Jimly Asshidique (2017), “Indonesia post – crisis constitutional reform: An

incremental bing – bang constitutional change between 1999 and 2002”, Diễn

đàn Melbourne thứ hai về Xây dựng Hiến pháp ở Châu Á và Thái Bình Dương

Manila, Philippines.

49. Joseph Fernando, “Sự hình thành Hiến pháp Malaysia”; Tunku Abdul Rahman,

“Malaysia - Con đường giành độc lập”, Tun Mohamed Suffian, HP Lee và FA

Trindade biên tập, “Hiến pháp Malaysia - Sự phát triển của nó: 1957-1977”,

http://www.malaysianbar.org.my.

50. Joseph M. Fernando & Shanthiah Rajagopal (2017), “Fundamental liberties in

the Malayan. Constitution and the search for a balance, 1956 – 1957”.

51. Karolyn Hotchkiss (1994), Dịch: Võ Hưng Thanh, “International law for

business”, NXB Thống kê 1996, tr. 92.

52. Kerstin Steiner (2018), “Branding Islam: Islam, Law, and Bureaucracies in

Southeast Asia”, tạp chí Journal of Current Southeast Asian Affairs, tr.1–2.

53. Malaysia Constitution Mark Cammack (2006), “Changing Indonesia’s

constitution: A review essay”.

54. MB Hooker (2002), “Introduction: Islamic Law in South-east Asia”, Tạp chí

Australian Journal of Asian Law, tập 4, số 3 (2002).

55. Michael Bogdan (1994), Dịch: Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền, “Comparative

Law”, Kluwer Norstedts Juridik Tano, tr. 174.

56. Milner, A. C. (1985), “Islam in Malay Kingship”, in Ahmad Ibrahim Sharon

Siddique and Yasmin Hussain, (compiled), Reading or Islam in Southest Asia,

Institute of Southest Asia Studies, Singapore, tr.27.

57. Moamen Gouda (2013), “Islamic Constitutionalism and Rule of Law: A

Constitutional Economics perspective”.

58. Murdian Murdian, “History of the birth of constitution in Indonesia”,

https://www.academia.edu/.

59. Nadirsyah Hosen (2015), “In Search of Islamic Constitutionalism”, Đại học

Monash, Australia.

60. Naimah S. Talib Adjunct Fellow (2012), “Brunei Darussalam: Royal Absolutism

and the Modern State”, Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Canterbury.

61. Nhóm tác giả: Nazri Bin Muslim, Abdul Latif Samian & Mohd Azmir Mohd

Nizah, “The Discrimination of Protection In The Federal Constitution From The

Perspective of Ethnic Relations in Malaysia”, Tạp chí Advances in Natural and

Applied Sciences, số 6, tr.447-451.

62. Nimer Sultany (2014), “Religion and constitutionalism: lessons from American

and Islamic constitutionalism”, Đại học Harvard.

63. Patricia Horvatich (1993), “Islam and muslims in southeast Asia. A bibliography

of English - language publications 1945 – 1993”, Tạp chí Southeast Asia, Trung

tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Hawaii.

64. Rabiqah Natasha Halim Binti Mohamed Yusof (2017), “Brunei: Building and

Enshrining an Absolute”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Oxford.

65. Rahman Mantu (2018), “Islam and constitution: Analysis between al-quran text

with article 29 uud 1945”, Tạp chí khoa học Al-Syir'ah số 16.

66. “Report of the Federation of Malaya Constitutional Commission, 1957”,

https://en.wikisource.org/

67. Southeast Asia, in: Journal of Current Southeast Asian Affairs, 37, 1, tr.27 – 56.

68. Steiner, Kerstin (2018), Branding Islam: Islam, Law, and Bureaucracies

69. Tahir Mahmood (2013), “Overview the legalframewwork of religion-state

relations in Southeast Asia”, ạp chí Pluto ICR.plutojournals.org.

70. Th.Van Baaren; Dịch: Trịnh Duy Hoà biên dịch (2002), “Hồi giáo”, NXB Nhà

xuất bản trẻ, tr.137.

71. “The World’s Muslims: Religion” (2013), Politics and Society,

https://www.pewforum.org/.

72. Theunis Roux & Fritz Siregar (2016), “Trajectories of Curial Power: The Rise,

Fall and Partial Rehabilitation of the Indonesian Constitutional Court”, Đại học

New South Wales, Úc; Australian Journal of Asian Law, tr. 1 – 21.

73. Dawood I. Ahmed & Tom Ginsburg (2014), “Constitutional Islamization and

Human Rights: The Surprising Origin and Spread of Islamic Supremacy in

Constitutions”.

74. Tom Ginsburg (2014), “Comparative constitutionalism in Asia”, International

Journal of Constitutional Law.

75. Totok Sarsito (2007), “The Indonesian Constitution 1945: Why was it

amended?”, Đại học Sebelas Maret.

76. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, “The Cambridge History of Southeast Asia”, Tài

liệu dịch, Tập 2, Từ 1500 đến 1800. tr. 188.

77. W. Cole Durham, Brett G. Scharffs; Dịch: Đặng Hoàng Nam (2016), “Luật pháp

và tôn giáo: Tiếp cận so sánh quốc gia, quốc tế”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.

78. Wu Min Aun (2007), “The Malaysian Legal System, Pearson Longman”, tr.177.

79. Yvonne Tew, “Thể chế hóa và Chính trị hóa Tôn giáo ở Malaysia Hiện nay”, Đại

học Georgetown Associate Professor of Law, Georgetown University Law

Center, https://kyotoreview.org/.

80. Yvonne Tew (2012), “Beyond “Asian Values”: Rethinking Rights”, University

of Cambridge Centre of Governance and Human Rights.

81. Zairil Khir Johari, “The story of Malaysia through its constitution”,

https://www.newmandala.org/.

TIẾNG INDONESIA

82. “10 Konstitusi Yang Pernah Berlaku di Indonesia Secara Berurutan”,

https://guruppkn.com/

83. “20 Tahun Reformasi, Catatan Perubahan Indonesia di Bidang Politik”,

https://nasional.kompas.com/.

“3 Kiprah Wali Songo”, https://khazanah.republika.co.id/. 84.

A. Intan Cahyani, “Luang negara Islam di Brunei”. 85.

86. A. Intan Cahyani (2015), “Hukum Keluarga Islam di Brunei Darussalam”,

http://journal.uin-alauddin.ac.id/.

87. A. Ubaedillah (2015), “Perubahan Konstitusi di Indonesia”, Pendidikan

Kewarganegaraan (Civic Education) Pancasila, Demokrasi Dan Pencegahan

Korupsi. Yang Menerbitkan Prenada Media Group : Jakarta,

http://www.informasiahli.com.

88. Báo cáo về Tòa Shari’ah: “Perintah kanun hukuman jenayah syariah, 2013”

(2013), Brunei Darussalam

89. D Dávíd Fung (2015), “Pengenalan kepada sistem perundangan Malaysia”.

90. Dy. Zainab binti awg haji tuah (2009), “Perkembangan pentadbiran mahkamah

syariah di negara brunei darussalam”.

91. Datin Dr. Hajah Saadiah & Tamit Akedemi Pengajian (2006), “Pentadbiran

undang-undang islam di negara brunei darussalam pada zaman british1”, Đại

học Brunei Daussalam.

92. Fabian Fadhly, “Islam dan konstitusi Indonesia 1945”, Đại học Hồi giáo Nhà

nước Sunan Gunung Djati, Bandung.

93. “Islam di Indonesia”, https://www.indonesia-investments.com.

94. “Islam Radikal di Indonesia”, https://www.indonesia-investments.com.

95. Iur Adnan Buyung Nasestion, “Towards Constitutional Democracy in

Indonesia”, Trường Luật Melbourne.

96. “Kenapa orang Indonesia banyak yang Muslim?”, https://www.galena.co.id/.

97. “Mengapa penolakan kubu Islam konservatif terhadap RUU PKS salah

kaprah?”, https://theconversation.com/.

98. Moh. Dahlan (2014), “Quan hệ tôn giáo và nhà nước ở Indonesia”, Tạp chí

Nghiên cứu Hồi giáo, Tập 14, Số 1, tr.16.

99. Mohamad Daeng (2011), “Indonesia Daftarkan 13.487 Pulau ke PBB”.

100. Pan Mohamad Faiz (2007), S.H., M.C.L., “Sistem Ketatanegaraan Indonesia

Pasca Amandemen”, Khoa Luật Hiến pháp, Nhân quyền và Dân chủ,

https://panmohamadfaiz.com/.

101. Satya Arinanto, “Decentralization and the constitutional system of government

in Indonesia”, Constitutionalism in Southeast Asia, Quyển 3 - Cross-Cutting

Issues.

102. Sinh viên Khoa Luật, “Hukum Tata Negara: Sejarah Ketatanegaraan Republik

Indonesia Periode 17 Agustus 1950-5 Juli 1959”, Đại học Lampung, http://rm-

maryanto.blogspot.com/.

103. Sinh viên Khoa Luật, “Hukum Tata Negara: Sejarah Ketatanegaraan Republik

Indonesia Periode 17 Agustus 1950-5 Juli 1959”, Đại học Lampung, http://rm-

maryanto.blogspot.com/.

TIẾNG MÃ LAI 104. A. Intan Cahyani (2015), “Hukum Keluarga Islam di Brunei Darussalam”,

http://journal.uin-alauddin.ac.id/.

105. Awang Haji Mohd Serudin bin Haji Timbang (2015), “Hak asasi manusia dari

perspektif islam”.

106. Che Omar bin Che Soh v. Public Prosecutor (1988), 2 Malayan L.J. 55, tr.56-

57.

107. D Dávíd Fung (2015), “Pengenalan kepada sistem perundangan Malaysia”.

108. Datin Dr. Hajah Saadiah & Tamit Akedemi Pengajian (2006), “Pentadbiran

undang-undang islam di negara brunei darussalam pada zaman british1”, Đại

học Brunei Daussalam.

109. Dy. Zainab binti awg haji tuah (2009), “Perkembangan pentadbiran

mahkamah syariah di negara brunei darussalam”.

110. Falli Hashim, “Persidangan Islam dan kebangsaan dalam keadaan yang

berkaitan”, https://independent.academia.edu/.

111. Haji Mahamad & Naser bin Disa (2017), “ISLAM AGAMA NEGARA:

Undang-Undang Tertinggi Negara”, http://www.arkib.gov.my/.

112. Haji Zainul Rijal Abu Bakar, “ALQURAN dan masyarakat: Undang-undang”.

113. Kristen Stilt (2015), “Contextualizing constitutional Islam: The Malayan

experience”, Tạp chí International Journal of Constitutional Law, số 13, tập 2,

tr.407 – 433, https://doi.org/10.1093/icon/mov031.

114. “Laporan hak asasi manusia Brunei” (Brunei human rights report),

http://www.mulabi.org/.

115. “Laporan Kebebasan Beragama Malaysia 2016 - Malaysia” (Báo cáo Tự do

Tôn giáo Malaysia 2016 – Malaysia), https://my.usembassy.gov/.

116. Mohd Khalilullah Bin Mohd Zaiddy (2016), “Kedudukan agama islam dalam

perlembagaan persekutuan”, Đại học Quốc gia Malaysia.

117. Naimah S Talib (2013), “Brunei Darussalam: Kesultanan Absolut dan Negara

Modern”, Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Canterbury, Tạp chí Kyoto về

Đông Nam Á, số 13.

118. Nazri Muslim (2012), “Islam dalam perlembagaan persekutuan dari perspektif

hubungan etnik di Malaysia”, https://jurnalkemanusiaan.utm.my/.

119. Noraini Zulkifli (2010), “Perlembagaan Persekutuan”, Đại học Quốc phòng

Malaysia.

120. “Pengenalan sistem undang-undang Malaysia”, Đại học Tunku Abdul

Rahman, https://utar.academia.edu/.

121. Báo cáo về Tòa Shari’ah: “Perintah kanun hukuman jenayah syariah, 2013”

(2013), Brunei Darussalam

122. Teoh Eng Huat v. Kadhi Pasir Mas (1990), 2 Malayan L.J. 300, tr.301-02.

123. Tun Abdul Hamid Mohamad, (2014), “Penggubalan undang-undang hudud di

brunei dan Malaysia: Masalah yang berlainan”, Tòa án Tối cao Malaysia,

https://tunabdulhamid.me/.

124. Wan Zailan Kamaruddin Bin Wan Ali & Ahmad Zuhdi Bin (2017),

“Masyarakat Muslim Di Negara Brunei Darussalam: Kajian Mengenai Isu dan

Cabaran Dalam Pemikiran Islam Era Globalisasi”.

125. Zulkifli Mohamed, “Pembangunan Mahkamah di Malaysia sebelum dan

selepas kebebasan”, https://independent.academia.edu/.

126. Zulkifli Mohamed, “Membangun mahkamah di Malaysia sebelum dan selepas

kebebasan”, https://www.academia.edu/.

CÁC TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ

127. Trang thông tin của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ: https://www.state.gov/

128. Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp Brunei:

http://www.judiciary.gov.bn/Theme/Home.aspx.

129. Trang thông tin điện tử của Quốc hội Malaysia:

https://www.parlimen.gov.my/index.php?&lang=en.

130. Trang thông tin điện tử của tổ chức ASEAN: https://asean.org/.

131. Trang thông tin điện tử của Tòa án Tối cao Indonesia:

https://www.mahkamahagung.go.id/id.

132. Trang thông tin điện tử của Viện Nghiên cứu lập pháp: http://vnclp.gov.vn/.

133. Trang tra cứu các bản Hiến pháp trên thế giới:

https://www.constituteproject.org/.

PHỤ LỤC

Bảng số liệu thống kê điều khoản ghi nhận quyền con người

trong hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới

Quốc gia Hiến pháp năm Số lượng điều khoản

Afghanistan

Bahrain

1923 1931 1933 1964 1977 1980 1987 1990 2004 1973 2002 1923 1930 1953 1956 15 11 13 28 26 36 50 60 37 45 45 28 24 3 33

1958 (UAE) 10 Egypt 1964 31

1971 43

1980 43

2011 46

1906 1

Iran 1907 48

1979 45

1925 23

1964 28

1970 34 Iraq 1990 33

2004 44

2005 52

1968 15

Maldives 1998 18

2008 72

1961 9

1978 19 Mauritania 1985 0

1991 28

1956 26

1962 29

Pakistan 1973 41

2002 37

2010 45

1970 0 Qatar 2003 33

1955 10

1964 10

1971 7

Sudan 1973 46

1985 29

1998 41

2005 49

1962 22

Yemen 1970 31

1991 33