ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
NGUYỄN KHÁNH LINH
LỊCH SỬ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP
CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
HÀ NỘI, 2019
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT
-----------------------
NGUYỄN KHÁNH LINH
LỊCH SỬ VÀ XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP
CÁC NƯỚC HỒI GIÁO TRONG KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
NGÀNH LUẬT HỌC
BỘ MÔN LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Hệ đào tạo: Chính quy
Khóa học: QH-2015-L
NGƯỜI HƯỚNG DẪN:
TS. MAI VĂN THẮNG
HÀ NỘI, 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu độc lập của riêng tôi dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Mai Văn Thắng. Các kết quả nghiên cứu trong khóa luận là
trung thực và chưa được công bố trong các công trình khoa học khác.
TÁC GIẢ KHÓA LUẬN
Nguyễn Khánh Linh
MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................3
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT ....................................................................................6
MỞ ĐẦU ..............................................................................................................................7
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ......................................................................7
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu .........................................................9
2.1. Mục đích nghiên cứu ............................................................................................9
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................9
3. Những điểm mới của nghiên cứu ..........................................................................10
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án ..........................................................10
5. Bố cục của khóa luận .............................................................................................11
CHƯƠNG 1. HỒI GIÁO VÀ PHÁP LUẬT Ở ĐÔNG NAM Á: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN .....................................................12
1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Hồi giáo ở Đông Nam Á và những đặc điểm cơ bản .............................................................................................................................12
1.1.1. Khái quát về lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á ..........................12
1.1.2. Ảnh hưởng của Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á ...................................14
1.1.3. Khái quát những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo tại Đông Nam Á ............17
1.1.4. Đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á .........19
1.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Đông Nam Á .........................................22
1.3. Các yếu tố có thể tác động đến pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á .................................................................................24
1.4.Tiểu kết chương 1 ...................................................................................................26
Chương 2. LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á .........................................................................27
2.1. Khái quát chung về Hiến pháp và ảnh hưởng Hồi giáo tại các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á ...................................................................................................27
2.2. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp tại Indonesia ...............................................28
2.2.1. Khái quát chung ...........................................................................................28
2.2.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia ..................................30
2.2.3. Lịch sử của Hiến pháp Indonesia ...............................................................33
2.2.4. Nội dung Hiến pháp Indonesia hiện hành .................................................44
2.2.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp .....................................................................48
2.2.6. Đánh giá và lý giải .......................................................................................54
2.3. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Malaysia .....................................................57
2.3.1. Khái quát chung ...........................................................................................57
2.3.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia ...................................59
2.3.3. Lịch sử Hiến pháp Malaysia .......................................................................61
2.3.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành Malaysia ..................................................69
2.3.5. Thực tiễn thi hành .......................................................................................74
2.3.6. Đánh giá và lý giải .......................................................................................79
2.4. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Brunei .........................................................82
2.4.1. Khái quát chung ..............................................................................................82
2.4.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia ..................................83
2.4.3. Lịch sử Hiến pháp Brunei ...........................................................................84
2.4.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành ...................................................................89
2.4.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp .....................................................................93
2.4.6. Đánh giá và lý giải .......................................................................................96
2.5. Tiểu kết chương 2 ..................................................................................................98
Chương 3. XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ GỢI MỞ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á ........................................................................................................99
3.1. Về xu hướng phát triển .........................................................................................99
3.1.1. Xu hướng phát triển chung .............................................................................99
3.1.2. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức độ nhất định .....................................................................................................100
3.1.3. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng trong Hiến pháp và thực tế .........102
3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi ..............................................................................103
3.2.1. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức độ nhất định .....................................................................................................103
3.2.2. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng với trường hợp Indonesia và Brunei .......................................................................................................................106
3.3. Những gợi mở cho quá trình cải cách Hiến pháp Việt Nam ............................108
3.4. Các vấn đề đặt ra .................................................................................................111
3.5. Tiểu kết chương 3 ................................................................................................114
KẾT LUẬN ......................................................................................................................115
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................118
PHỤ LỤC .........................................................................................................................129
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Xã hội chủ nghĩa XHCN:
Hiến pháp liên bang Indonesia giai đoạn 1949 – 1950 RIS:
Hội nghị bàn tròn lập hiến Indonesia diễn ra từ 23/8/1949 – KMB:
2/11/1949 tại Hà Lan
Hội đồng Đại diện Nhân dân còn được gọi là Hạ viện. Là một trong DPR
2 cơ quan lập pháp của Indonesia
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Hiến pháp được biết đến là luật gốc, điều chỉnh những vấn đề quan trọng của một
quốc gia. Từ bộ máy nhà nước đến quyền con người, từ hệ thống tư pháp đến cơ chế bảo
hiến,… là những nội dung được hiến pháp quy định. Quá trình “phôi thai” của một bản
hiến pháp, nội dung hiến pháp hay thực tiễn áp dụng hiến pháp luôn là điều hấp dẫn với
bất kỳ học giả hay nghiên cứu sinh nào nghiên cứu về pháp luật nói chung và lĩnh vực
hiến pháp nói riêng. Hiến pháp trong xã hội hiện đại có vị trí tối thượng. Nhưng đó chưa
phải là tất cả với các nhà nước lấy Hồi giáo làm tư tưởng chính thống hoặc chịu ảnh hưởng
sâu sắc giáo lý đạo Hồi. Bởi lẽ, Hồi giáo có một vị trí đặc biệt với đời sống xã hội quốc
gia, bao gồm cả nhà nước và pháp luật. Trong những xã hội ấy, Kinh Koran, Sunni luôn
có vị trí đặc biệt, là nguồn luật quan trọng nhất. Tuy vậy, trước xu hướng phát triển của
thế giới hiện đại, mà hiến pháp luôn là hiện thân của một xã hội dân chủ, pháp quyền, văn
minh thì việc nghiên cứu vị trí của hiến pháp trong hệ thống pháp luật các quốc gia ảnh
hưởng Hồi giáo, mối quan hệ của hiến pháp với các nguồn luật khác, vai trò của hiến
pháp trong bối cảnh hiện đại,… luôn có ý nghĩa lớn về mặt khoa học và nhận thức. Đồng
thời, nghiên cứu về lịch sử và xu hướng phát triển của hiến pháp các quốc gia Hồi giáo,
kinh nghiệm xử lý mối quan hệ giữa hiến pháp và nguồn luật Hồi giáo cũng sẽ gợi mở
một số vấn đề giữa bối cảnh cải cách pháp luật, nâng cao vị trí vai trò của hiến pháp trong
hệ thống pháp luật ở Việt Nam hiện nay.
Do đó, tác giả lựa chọn đề tài còn dựa trên năm (5) lý do sau:
Thứ nhất, diện mạo và “nhịp đập” một quốc gia được phản chiếu qua hiến pháp của
quốc gia đó. Để có thể hiểu và lý giải được các hoạt động, các sự kiện nảy sinh trên thực
tế tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực (Indonesia, Malaysia, Brunei), nghiên cứu hiến
pháp là một phương thức hữu hiệu nhằm thực hiện điều đó.
Thứ hai, mỗi một bản hiến pháp thuộc về một bối cảnh cụ thể. Trải qua những trầm
tích thời gian, hiến pháp các nước Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á có chiều dài lịch sử
và những điểm riêng biệt so với Hiến pháp các quốc gia khác trên thế giới. Việc nghiên
cứu lịch sử và xu hướng phát triển tạo ra cái nhìn đa chiều và sâu sắc cho việc đánh giá
và xem xét hiến pháp. Từ đó, có thể đưa ra những luận giải cho các sự kiện pháp lý nảy
sinh trên thực tiễn.
Thứ ba, làn sóng dân chủ hóa thứ ba (1974–2000), bắt đầu từ Nam Âu, lan sang Mỹ
Latinh, châu Phi, rồi đến Đông Á, đã mang lại cho khu vực 7 nền dân chủ mới, đó là
Philippines, Hàn Quốc, Đài Loan, Thái Lan, Mông Cổ, Campuchia, và Indonesia [2].
Nghiên cứu hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á là dữ liệu cần
thiết nhằm định vị sự phát triển và vị trí của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực trên bản
đồ dân chủ thế giới.
Thứ tư, Đông Nam Á là khu vực có nhiều điểm đặc biệt so với các khu vực khác trên
thế giới. Trải dọc chiều dài lịch sử, các đế chế và vương quốc đã đến và đi trên mảnh đất
nhiệt đới: Đế chế Sri Vijaya trong thế kỷ thứ VIII đến XII, đế quốc Khmer vào thế kỷ IX
đến XV, đế chế Majapahit trong thế kỷ XII đến XIV, đế quốc Malacca vào thế kỷ XV.
Ngay cả trong những năm cai trị thuộc địa, khu vực này đã bị chia cắt giữa Anh, Pháp,
Hà Lan, Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha,...[2] Trong bối cảnh đó, hơi thở Hồi giáo đã lan
tỏa và bám rễ vào đời sống sinh hoạt cũng như tư tưởng của con người tại các quốc gia.
Nhìn nhận hiến pháp trong chiều dài lịch sử và độ rộng của sự thay đổi góp phần tạo nên
bức tranh toàn diện của các quốc gia trên thế giới, sự cựa mình của các quốc gia có đông
đảo các tín đồ tôn sùng tôn giáo lớn thứ hai thế giới.
Thứ năm, “mối quan hệ giữa các thiết chế tôn giáo và nhà nước đi theo một dòng
chảy liên tục ở mỗi nước” [3], những hệ thống tôn giáo – nhà nước khác nhau ra đời sau
những cuộc “hôn phối” đầy lịch sử. “Tôn giáo – Hiến pháp”, “Nhà thờ - Nhà nước” trong
bối cảnh đó cũng đan xen và ảnh hưởng lẫn nhau. Nghiên cứu về hiến pháp các quốc gia
Hồi giáo trong khu vực giúp người nghiên cứu nhận ra mối liên hệ giữa tôn giáo và pháp
luật nói chung, hiến pháp nói riêng.
Từ những lý do trên, việc nghiên cứu lịch sử và sự phát triển của hiến pháp các quốc
gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á sẽ đưa ra những minh chứng trong lịch sử lập
hiến của từng quốc gia Hồi giáo, từ quá khứ đến hiện tại và tương lai, từ lý thuyết đến
thực tiễn, từ đánh giá đến dự báo về sự phát triển Hiến pháp các quốc gia Hồi giáo khu
vực Đông Nam Á.
2. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu về lịch sử và xu hướng hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo trong khu
vực nhằm hai (2) mục đích chính sau:
Thứ nhất, nghiên cứu nhằm là rõ lịch sử ra đời, sự thay đổi và phát triển của hiến
pháp qua thời gian tại các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Đồng thời xác định vị
trí, vai trò của hiến pháp các quốc gia trong hệ thống pháp luật dưới sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của Hồi giáo. Mối quan hệ giữa Hiến pháp và pháp luật Hồi giáo cũng là một trong
những mục đích nghiên cứu không thể bỏ qua.
Thứ hai, qua những vấn đề được làm rõ ở trên, nghiên cứu nhằm nhận diện xu hướng
phát triển hiến pháp ở các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Trên cơ sở đó,
phân tích cùng bối cảnh các quốc gia Hồi giáo trên thế giới để đánh giá được xu thế vận
động chung. Ngoài ra, gợi mở và đưa ra những khuyến nghị nâng cao vai trò, hiệu lực
của hiến pháp trong bối cảnh hiện nay của Việt Nam.
2.2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của khóa luận là các bản hiến pháp của các quốc gia chịu ảnh
hưởng Hồi giáo trong khu vực, lịch sử lập hiến của từng quốc gia, các dấu vết của Hồi
giáo trong hiến pháp và đời sống xã hội trên thực tế, các yếu tố tác động đến việc hình
thành hiến pháp và Hồi giáo. Ngoài ra, nghiên cứu cũng tìm hiểu các công trình khoa học
đã có liên quan đến hiến pháp và Hồi giáo, mối quan hệ giữa hiến pháp và các nguồn tôn
giáo,… của các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á.
Phạm vi nghiên cứu, về không gian, là khu vực Đông Nam Á, với sự tập trung vào
ba trường hợp Indonesia, Malaysia, Brunei. Đây là ba quốc gia mà dấu vết Hồi giáo ảnh
hưởng rõ rệt nhất trong đời sống sinh hoạt pháp luật và xã hội. Vị trí của Hồi giáo được
khẳng định và nhấn mạnh ngay từ Lời nói đầu của hiến pháp và được điều chỉnh, ghi nhận
trong rất nhiều điều, nhiều chương của các bản hiến pháp từng thời kỳ. Về thời gian, đề
tài xem xét từ những bản hiến pháp đầu tiên được coi là viên gạch nền tảng cho sự phát
triển và thay đổi của hiến pháp về sau tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.
3. Những điểm mới của nghiên cứu
Nghiên cứu có một số điểm mới sau:
Nghiên cứu đánh giá sự tác động của lịch sử, văn hóa và đặc biệt là tôn giáo tới lịch
sử và sự phát triển hiến pháp các quốc gia Hồi giáo Đông Nam Á. Đồng thời, đưa ra cái
nhìn tổng thể về tiến trình lập hiến và điểm mới của từng bản hiến pháp của Indonesia,
Malaysia, Brunei trong sự so sánh đánh giá lẫn nhau. Đây là các quốc gia có hiến pháp ít
được nghiên cứu đề cập đến trong các công trình khoa học đánh giá về sự thay đổi của
hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới. Đồng thời, hầu hết các nghiên cứu về hiến
pháp ba quốc gia đều đang nghiên cứu ở mức độ riêng lẻ từng giai đoạn, từng quốc gia.
Với khóa luận, hiến pháp ba quốc gia sẽ được nghiên cứu đồng thời cùng nhau và xuyên
suốt trong quá trình lịch sử.
Khóa luận cũng đưa ra lý do và cơ sở cho sự thay đổi hiến pháp các quốc gia trong
từng giai đoạn, cũng như sự thực thi ở hiện tại với một số dẫn chứng thực tế tiêu biểu.
Nghiên cứu đồng thời chỉ ra khuynh hướng phát triển và quy luật của hiến pháp các quốc
gia Hồi giáo trong bối cảnh xã hội hiện nay với sự đan xen và ảnh hưởng của nhiều yếu
tố. Đồng thời, kết hợp với những thay đổi trong lịch sử để đẩy ra những bản sắc pháp lý
riêng, hệ tư tưởng pháp lý riêng của Indonesia, Malaysia và Brunei.
Cuối cùng, từ những ghi nhận trong hiến pháp và thực tiễn thi hành tại từng quốc gia,
cách xử lý mối quan hệ giữa tôn giáo và hiến pháp, kinh nghiệm xử lý của từng quốc gia
trong bối cảnh khu vực và thế giới,… khóa luận đưa ra những kiến giải và gợi mở bài học
cho Việt Nam trong quá trình cải cách hiến pháp nước ta nhằm phù hợp với thay đổi trong
nước và hội nhập quốc tế.
4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận án
Nghiên cứu mang chứa ý nghĩa khoa học, bởi nghiên cứu là tài liệu cho việc nghiên
cứu về các quốc gia khu vực Đông Nam Á, nhìn nhận một phần pháp luật và nhà nước
các quốc gia ASEAN. Không chỉ vậy, nghiên cứu còn đưa ra cái nhìn tổng quát về lịch
sử nhà nước và pháp luật, lịch sử lập hiến các nước,… Đây cũng là nghiên cứu có tính hệ
thống về các bản hiến pháp cũng như thay đổi hiến pháp các quốc gia dành cho những
người muốn nghiên cứu sâu về hiến pháp và Hồi giáo.
Ý nghĩa thực tiễn của khóa luận thể hiện đưa ra những bài học và kinh nghiệm xử lý
trên thực tiễn của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, đưa đến bài học giải
quyết mối quan hệ Hồi giáo và pháp luật tại các quốc gia Hồi giáo trên thế giới nói chung.
Không chỉ vậy, khóa luận còn đưa đến gợi mở liên quan đến cải cách hiến pháp tại Việt
Nam, về quyền tự do tôn giáo, các vấn đề Hồi giáo và tôn giáo được hiến định, việc giải
quyết mối quan hệ giữa luật pháp và các yếu tố khác chi phối trong xã hội để thực sự đem
lại một xã hội “thượng tôn pháp luật”.
5. Bố cục của khóa luận
Khóa luận bao gồm phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Phụ lục và
ba (3) chương:
Chương 1: Hồi giáo và pháp luật ở Đông Nam Á: Lịch sử phát triển và những vấn đề
lý luận cơ bản
Chương 2: Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo trong khu
vực Đông Nam Á.
Chương 3: Xu hướng phát triển, những gợi mở và vấn đề đặt ra.
CHƯƠNG 1.
HỒI GIÁO VÀ PHÁP LUẬT Ở ĐÔNG NAM Á: LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN
Thuật ngữ “Hồi giáo” (Islam, Musulman) có nghĩa là “sự khuất phục”, sự “hiến dâng”
[19]. Những người theo Hồi giáo sống và thực hiện công việc dựa trên những lời răn dạy
của thánh Allah được nhà tiên tri Mohammed truyền lại. Những hạt giống đầu tiên về đạo
Hồi được nảy mầm từ thế kỷ VII, khi thương gia thành phố Mécca – Mohammed đi truyền
bá thông điệp đến từ đấng Allah tối cao. Ngày mà Mohammed rời gót chân khỏi Mécca
được coi là ngày bắt đầu lịch Hồi giáo – ngày hijra. Trong khi châu Âu còn đang chìm
đắm trong đêm trường Trung cổ thì nền văn hoá Hồi giáo đã phát triển mạnh mẽ [19].
Theo Th. Van Baaren, trong khoảng thời gian từ thế kỷ IX đến XIV, ảnh hưởng của nền
văn minh Hồi giáo với thế giới lớn hơn bất kỳ một đế quốc nào khác trong lịch sử bấy giờ
[70, 137]. Đạo Hồi và luật Hồi giáo đã tồn tại hơn 1.300 năm và phát triển ảnh hưởng của
mình từ bán đảo Ả rập đến châu Phi, châu Á. Sự phát triển của Hồi giáo ngày càng mạnh
mẽ, màu sắc Hồi giáo len lỏi vào nếp suy nghĩ và lối sống của nhiều cộng đồng, nhiều
dân tộc khác nhau. Nghiên cứu đầu năm 2011 về Tương lai của dân số Islam giáo toàn
cầu của Trung tâm nghiên cứu PEW đã đưa ra nhận định rằng, số lượng tín đồ Islam giáo
sẽ tăng khoảng 35% trong vòng 20 năm tới và đạt khoảng 2,2 tỷ người vào năm 2030.
Trên bản đồ Hồi giáo, khu vực Đông Nam Á là một khu vực có sự du nhập và ảnh hưởng
của Hồi giáo rất mạnh mẽ, tiêu biểu là ba (3) quốc gia: Indonesia, Malaysia, Brunei.
1.1. Lịch sử hình thành, phát triển của Hồi giáo ở Đông Nam Á và những đặc điểm
cơ bản
1.1.1. Khái quát về lịch sử các quốc gia khu vực Đông Nam Á
Đông Nam Á là khu vực nằm giữa hai đại dương lớn là Ấn Độ Dương và Thái Bình
Dương. Khu vực này rộng 4.494.047 km² (chiếm 10.5% diện tích Châu Á và 3% diện tích
đất trên Trái Đất). Phần lớn khu vực nằm ở bán cầu Bắc và nằm một chút tại bán cầu
Nam. Nó bao gồm 11 quốc gia được chia thành 2 nhóm: Nhóm đất liền (Bán đảo Trung -
Ấn): Việt Nam, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanmar và phía tây Malaysia; Nhóm hải
đảo (Quần đảo Mã Lai): Indonesia, phía đông Malaysia, Singapore, Philipines, Đông
Timor, Brunei [7].
Hầu hết các quốc gia ở khu vực Đông Nam Á đều có những biến động và giai đoạn
thăng trầm phức tạp. Lịch sử khu vực Đông Nam Á có thể chia làm bốn (4) giai đoạn như
sau:
Giai đoạn 1: Từ thời nguyên thủy đến xã hội có giai cấp và nhà nước. Trong thời kỳ
đồ đá, kỹ thuật chế tác công cụ Đông Nam Á, vừa mang đặc trưng của trình độ kỹ thuật
đá cũ trên thế giới, vừa có biểu hiện thể hiện tính trội của khu vực: văn hóa đá cuội (Pebble
culture) và những công cụ chặt có dáng thô sơ (Chopper và Chopping-tool) [13].
Giai đoạn 2: Giai đoạn xác lập và phát triển thịnh đạt của các vương quốc Đông
Nam Á. Sau sự tan rã của Vương quốc Phù Nam (thế kỷ VII), các quốc gia sơ kỳ như
Srivijaya, Kalinga ở Indonesia, quốc gia của người Khmer, người Môn, người Mianma,
người Thái,… bắt đầu xuất hiện cùng với những kỳ tích văn hóa, điển hình như tổng thể
kiến trúc Bôrôbuađua (Borobudur) ở Java [13]. Trong khi Ấn Độ thường xuyên có những
biến động bên trong, Trung Quốc rơi vào sự khủng hoảng, suy thoái liên mien hay Châu
Âu chìm trong “đêm trường trung cổ” thì ở giai đoạn này, Đông Nam Á đã đạt đỉnh cao
phát triển.
Giai đoạn 3: Giai đoạn suy thoái của các quốc gia phong kiến và phong trào đấu
tranh chống ách thống trị của chủ nghĩa thực dân phương Tây. Sau sự phát triển huy
hoàng, biểu đồ của khu vực Đông Nam Á có sự suy thoái. Từ thế kỷ XVI trở đi, các quốc
gia Đông Nam Á đã không còn đủ sức thực hiện mục tiêu phát triển và tự bảo vệ mình
[13]. Hầu hết các quốc gia Đông Nam Á đều phải chịu ách đô hộ thực dân trong một thời
gian dài. Việt Nam, Lào, Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa
của các nước thuộc lục địa Châu Âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha [24]. Còn Malaysia,
Singapore, Brunei, Myanmar, giống như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ khác trên thế
giới, gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ [24].
Giai đoạn 4: Giai đoạn từ năm 1945 đến nay. Sau những nỗ lực bền bỉ và cuộc đấu
tranh quả cảm, phần lớn các quốc gia Đông Nam Á khôi phục lại được sự độc lập và tự
chủ. Đây cũng là thời điểm nhiều bản hiến pháp trong khu vực được ra đời. Các quốc gia
Đông Nam Á vực dậy từ trong tro tàn chiến tranh và từng bước gây dựng lại đất nước,
phát triển kinh tế. Cho đến nay, Đông Nam Á có sự khởi sắc nhất định và trở thành một
trong những khu vực kinh tế, dân chủ đáng chú ý trên thế giới.
Có thể thấy, các quốc gia Đông Nam Á đều chịu sự biến động lịch sử và có tiến trình
phát triển với sự ảnh hưởng của nhiều nền văn hóa trên thế giới. Điều đó cũng là một
trong những lý do khiến Đông Nam Á được coi là “ngã tư đường thế giới” ở cả mặt địa
lý và văn hóa, tôn giáo, pháp luật.
1.1.2. Ảnh hưởng của Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á
Thứ nhất, về quá trình lịch sử Hồi giáo du nhập vào khu vực Đông Nam Á
Tuy là một tôn giáo lớn và phổ biến trên thế giới nhưng Hồi giáo ảnh hướng tới khu
vực Đông Nam Á khá muộn. Cho đến nay vẫn còn nhiều điều tranh cãi về thời điểm chính
xác đạo Hồi du nhập vào khu vực Đông Nam Á. Ý kiến nhận định Hồi giáo du nhập vào
đây thông qua các thương gia Ả rập và Ấn Độ vào khoảng thế kỉ VII-XIII [13] là ý kiến
nhận được nhiều sự ủng hộ nhất. Do sự du nhập muộn nên "lưỡi gươm tàn bạo của Hồi
giáo" không còn thoả sức hoành hành để mở rộng lãnh thổ và áp đặt tôn giáo cho các cư
dân các vùng đất bị người Ả rập Hồi giáo chiếm đóng nữa” [14]. Đó cũng là một phần lý
giải cho việc Hồi giáo tại Đông Nam Á có phần ôn hòa hơn các khu vực khác. Đạo Hồi
bén rễ tại khu vực Đông Nam Á thông qua con đường buôn bán đường thủy nối Tây Ấn
Độ và Đông Á. Dần dần, lan tỏa đến Malaysia, Indonesia, sau đó qua con đường Malaysia
lan ra các đảo miền Nam Philippines. Thông qua những lần giao thương, buôn bán và trao
đổi với thương nhân các quốc gia khác, “một cơn gió mới thổi vào vùng Đông Nam Á
hải đảo làm chao đảo kỉ nguyên Ấn Độ hóa của cư dân nơi đây. Cơn gió mới đó chính là
Hồi giáo do những thương nhân Hồi giáo (Ả rập, Ấn Độ, Trung Quốc, Ba Tư) mang đến
khi những hoạt động thương mại ngày càng gia tăng với Đông Nam Á hải đảo” [1].
Nơi đặt chân đầu tiên của Hồi giáo là vùng Bắc Sumatơ của người Ache. Do con
đường ảnh hưởng chính là thông qua buôn bán, giao thương nên điểm chung là những nơi
phát triển giao lưu buôn bán ở khu vực Đông Nam Á là những nơi có sự xâm nhập đầu
tiên và phát triển lớn mạnh về Hồi giáo [16]. Những Hồi quốc (Sultanate) đầu tiên ở Đông
Nam Á được thành lập vào thế kỷ XIII. Teranate (1257), là một trong những Hồi quốc
lâu đời nhất ở Indonesia, được thành lập bởi Baab Mashur Malamo (1257 - 1277).
Samudera Pasai (1267), Hồi quốc nằm ở phía Bắc đảo Sumatra đã chuyển sang Hồi giáo
dưới thời trị vì của Malik ul Salih [17]. Sự có mặt của Hồi giáo khá thuận lợi, không có
sự ghi nhận nào về chiến tranh tôn giáo lớn bùng nổ ngoài những cuộc đụng độ nhỏ ở
Philippines. Có lẽ vì vậy mà Hồi giáo rất nhanh hòa mình và sống cuộc sống của chính
nó tại mảnh đất Đông Nam Á hải đảo với ba quốc gia tiêu biểu là Malaysia, Indonesia và
Brunei. Khi sang đến Đông Nam Á lục địa, Phật giáo và nền văn hóa Phật giáo là một rào
cản lớn với đạo Hồi. Vì thế, đạo Hồi ở Myanmar, Thái Lan, Việt Nam hay Campuchia
không mạnh mẽ và bền sâu như ở khu vực Đông Nam hải đảo mà thu lại thành những
cộng đồng dân cư thiểu số. Đến thế kỉ XV, XVI, Hồi giáo lan tỏa một cách mạnh mẽ và
sâu rộng ở hầu hết Đông Nam Á hải đảo. Nhiều Hồi quốc hình thành và trở thành những
trung tâm Hồi giáo và thương mại quan trọng trong khu vực. Sự hình thành các Hồi quốc
ở Đông Nam Á hải đảo diễn ra theo “hiệu ứng dây chuyền”. Thế kỷ XV, nhà nước Hồi
giáo đầu tiên được thành lập trên đất liền Malaysia là Malacca (1400), Cirebon (1445),
Demak (1475)…[1] đây là thời kì mà hoạt động thương mại của những thương nhân Hồi
giáo vẫn đang diễn ra nhộn nhịp với các trung tâm thương mại trọng yếu ở Đông Nam Á
hải đảo.
Như vậy, có thể thấy quá trình du nhập Hồi giáo tới các quốc gia Đông Nam Á thông
qua đường thủy gắn liền với sự giao thương buôn bán. Cùng với sự du nhập của Hồi giáo,
diện mạo đời sống khu vực Đông Nam Á đã có sự thay đổi đáng kể. Cho đến nay, dù có
nhiều biến động chính trị và đời sống xã hội thay đổi, song, tầm ảnh hưởng và dấu ấn Hồi
giáo vẫn hiện hữu rất rõ nét ở các quốc gia Đông Nam Á, tiêu biểu là ba quốc gia:
Indonesia, Malaysia, Brunei.
Thứ hai, về nguyên nhân Hồi giáo ảnh hưởng mạnh mẽ ở khu vực
Hồi giáo là tôn giáo đến sau ở mảnh đất Đông Nam Á. Trước khi làn gió Hồi giáo
thổi vào, Đông Nam Á đang tồn tại sự ảnh hưởng của đạo Thiên Chúa và Phật giáo. Vậy
nguyên nhân nào mà ảnh hưởng Hồi giáo có thể lan tỏa nhanh chóng và đâm sâu, bám
chắc trong tư tưởng và đời sống cộng đồng người dân khu vực đến vậy?
Đầu tiên, thời kỳ Hồi giáo hóa Đông Nam Á trùng với thời kỳ khủng hoảng các vương
quốc cổ đại (Ví dụ ở Chămpa lục địa). Sự suy yếu của quốc gia Ấn Độ - Phật giáo
Majapahit hùng mạnh khiến Hồi giáo dễ dàng chen chân vào đời sống của người dân
trong khu vực. “Nếu như trước đây, Hồi giáo ra đời góp phần thống nhất các bộ lạc trên
bán đảo Ả rập thành một đế quốc Hồi giáo vững mạnh, thì lúc này Hồi giáo trở thành
ngọn cờ của các tiểu quốc trên quần đảo Indonesia đấu tranh giành độc lập, phát triển
kinh tế” [19]. Hồi giáo trở thành vũ khí sắc bén tạo dựng cộng đồng đoàn kết, thực hiện
ý đồ mở rộng lãnh thổ và truyền bá văn hóa ra ngoài lãnh thổ của các tiểu quốc ở khu vực
Đông Nam Á.
Tiếp đó, sự phát triển của kinh tế, giao thương buôn bán ở các quốc gia hải đảo cũng
mở cửa chào đón các giáo lý đạo Hồi. Sự bình đẳng, phóng khoáng và đơn giản trong lễ
nghi Hồi giáo phù hợp với tầng lớp thương nhân được giới quý tộc tại Indonesia và
Malaysia rất chào đón.
Cùng với sự phát triển của kinh tế, những cuộc hôn nhân mang màu sắc chính trị,
kinh tế giữa người bản địa cùng thương nhân định cư ở khu vực diễn ra khá phổ biến.
Con đường cải giáo phù hợp với sự phát triển tự nhiên và tâm lý của người dân các quốc
gia Hồi giáo trong khu vực [20]. Ví dụ như vua Pasai đã cải sang Hồi giáo khi cưới một
công chúa Hồi giáo lúc ông đã 72 tuổi [21].
Một trong những điểm nổi bật của các quốc gia khu vực Đông Nam Á nói chung và
các quốc gia Hồi giáo nói riêng là sự mềm dẻo, dễ thích nghi với những sự du nhập từ
bên ngoài. Và Hồi giáo qua một chặng đường dài cùng thời gian lâu để từ Trung Đông
đến cửa ngõ Đông Nam Á, tính khắc nghiệt đã giảm bớt, sự linh hoạt được nâng cao hơn.
Hồi giáo dễ chung sống với các tôn giáo có mặt sẵn có ở Đông Nam Á. Kết hợp với các
truyền thống địa phương, vương quyền càng giúp Hồi giáo nhanh chóng chiếm lĩnh vị trí
của mình. Nếu nhà vua Indonesia theo đạo Hồi, thì theo quan điểm lòng trung thành, rất
cả dân chúng cũng cải đạo theo – đây là một trong những minh chứng tiêu biểu rằng chế
độ vương quyền và truyền thống, tập tục vốn có ở các quốc gia Hồi giáo trong khu vực
tạo đà cho sự phát triển Hồi giáo.
Không chỉ vậy, Đông Nam Á là xứ sở hiếm hoi mà Hồi giáo không cần dùng đến bạo
lực để giành lấy sự ảnh hưởng. Vốn mang tồn tại màu sắc của chủ nghĩa thần bí có sẵn
trong truyền thông văn hóa của các cư dân vùng bán đảo Ả rập, Hồi giáo vì thế đi lại rất
tự nhiên trong cuộc sống tâm linh và thần bí phương Đông [22].
Trong thế kỉ XV, Malacca được xem là điểm dừng chân, nơi án ngữ tuyến đường
chính trong giao thương hàng hóa từ phương Tây đến Đông Nam Á [1]. Để có thể giao
tiếp và buôn bán với nhau, những thương nhân đến từ những vùng đất khác nhau cần một
ngôn ngữ chung. Ngôn ngữ duy nhất đáp ứng được yêu cầu lúc bấy giờ chính là tiếng
Melayu của người Malaya ở Malacca. Việc sử dụng rộng rãi và chung một ngôn ngữ cũng
khiến Hồi giáo phát triển mạnh mẽ hơn. Hầu hết người dân ở Malacca đều theo Hồi giáo.
Bên cạnh việc khuyến khích làm giàu, quan niệm về con người bình đẳng với nhau
trước thánh Allah của Hồi giáo khiến người dân khu vực các quốc gia Hồi giáo Đông
Nam Á nhìn nhận tôn giáo này hoàn toàn khác so với sự phân chia đẳng cấp trong xã hội
vốn chịu ảnh hưởng sâu sắc Hinđu giáo. Cảm thấy bản thân được tôn trọng, điều mà chưa
bao giờ cảm nhận có lẽ là một trong những lý do khiến người dân không chống đối mà
đón nhận Hồi giáo trong sự hân hoan [1].
1.1.3. Khái quát những đặc điểm cơ bản của Hồi giáo tại Đông Nam Á
Với những đặc điểm riêng, Hồi giáo tại các nước trong Đông Nam Á vừa mang đặc
điểm chung của Hồi giáo truyền thống, vừa mang đặc điểm riêng.
Thứ nhất, quá trình Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á diễn ra muộn hơn so với các
khu vực khác trên thế giới nhưng lại mạnh mẽ và có sức lan tỏa, đặc biệt là trong giai
đoạn XV – XVI. Để có được quá trình Hồi giáo hóa như vậy, Hồi giáo đã từng bước thâm
nhập và đời sống con người. Sau cả một quá trình giao thương và chuẩn bị trước đó, kết
quả là Hồi giáo đã nhẹ nhàng thâm nhập vào đời sống xã hội và pháp luật các nước Đông
Nam Á.
Thứ hai, trong quá trình hòa nhập và truyền bá ở khu vực Đông Nam Á, Hồi giáo
cũng gặp những rào cản không thể tránh khỏi. Nhưng khác với khu vực Bắc Phi hay bán
đảo Ibrique (Bồ Đào Nha, Tây Ba Nha), Hồi giáo không cưỡng bức tôn giáo bằng bạo
lực, mà thâm nhập rất tự nhiên, với phương thức hòa bình, “không súng ống, giáo mác”
tại khu vực Đông Nam Á.
Thứ ba, nếu như Thiên Chúa lan tỏa ánh sáng giáo lý theo chiều “từ dưới lên” thì Hồi
giáo khu vực Đông Nam Á truyền bá đức tin theo chiều “từ trên xuống” [1]. Do vậy,
người đứng đầu chính quyền thường là người chấp nhận thánh Allah. Những người khác
cũng cải đạo theo. Một phần nguyên nhân xuất phát từ nguồn gốc sâu xa của Hồi giáo
nguyên thủy trong ý tưởng của Mohammed về việc xây dựng một nhà nước Hồi giáo do
mình đứng đầu. Hồi giáo ăn sâu vào chính quyền vừa là đặc điểm nổi bật vừa là nguyên
nhân lý giải tại sao Hồi giáo thường có ảnh hưởng mạnh mẽ tại các chính thể quân chủ.
Ví dụ tại Brunei, tôn giáo cũng ăn sâu trong hệ thống nhà nước. Điều 3 (3) của Hiến pháp
Brunei Brunei năm 1959 sắp xếp để Hội đồng tôn giáo hoạt động với tư cách là Cố vấn
tôn giáo cho Quốc vương. Sự độc quyền về mặt xác định quyền lợi này không có gì đáng
ngạc nhiên khi Brunei thực sự là một chế độ quân chủ tuyệt đối, điều đó có nghĩa là các
quyết định liên quan đến chính trị, tư pháp và hành pháp nào đều thuộc quyền quyết định
của Quốc vương. Theo điều 38 của Hội đồng tôn giáo và Đạo luật Tòa án Kadis (Brunei),
vai trò của Hội đồng tôn giáo Hồi giáo là: “Thay mặt và dưới quyền của Hoàng thượng
với tư cách là người đứng đầu Tôn giáo Brunei Darussalam, giúp đỡ và tư vấn cho Quốc
vương về tất cả các vấn đề liên quan đến tôn giáo của Brunei Darussalam…” [26].
Thứ tư, Hồi giáo của những quốc gia khác nhau lại có những điểm riêng, nhưng điểm
chung của các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á là Hồi giáo đã có nhiều
điểm khác biệt với Hồi giáo chính thống. Với việc pha trộn tín ngưỡng, sự đa dạng sắc
tộc và thông qua “máy lọc” đầy tính nhân bản của nền văn minh bản địa khi tiếp nhận
Hồi giáo [27]. Đồng thời sau một quá trình dài di chuyển và thay đổi cho phù hợp với con
người và lối sống khu vực, Hồi giáo ở Đông Nam Á đã bay bớt màu sắc khắc nghiệt và
dã man. Hồi giáo Đông Nam Á có sự ôn hòa, mềm dẻo hơn.
Thứ năm, mặc dù xâm nhập và chung sống khá tốt với các tôn giáo cùng tín ngưỡng
bản địa, xong Hồi giáo vẫn vấp phải sự thời ơ, lạnh nhạt đến từ một số quốc gia trong
Đông Nam Á. Bali là ví dụ điển hình về việc đối đầu với sự phát triển của Hồi giáo trong
thế kỉ XVI bằng sự lớn mạnh về chính trị và sự phát triển mạnh mẽ của Bà la môn giáo
[1]. Việc ảnh hưởng của Hồi giáo cũng bị chững lại do quá trình thuộc địa cùng các chính
sách thực dân nhằm làm xói mòn pháp luật Hồi giáo, đặt ách thống trị thực dân dễ dàng
hơn [29].
Thứ sáu, quá trình Hồi giáo hóa vẫn đang tiếp diễn ở các quốc gia Đông Nam Á hải
đảo khi tại nhiều cộng đồng, tín ngưỡng bản địa vẫn chiếm địa vị thống trị. Hệ quả của
quá trình là sự ra đời của các Hồi quốc ở vùng bán đảo nay thuộc Indonesia và Malaysia.
Với số lượng tín đồ Hồi giáo là 87,2% dân số theo Hồi giáo [30], dù không thừa nhận
chính thức nhưng Indonesia là quốc gia có số lượng tín đồ Hồi giáo đông nhất trên thế
giới. Malaysia và Brunei khẳng định rõ ràng Hồi giáo là quốc giáo. Sự xuất hiện của Hồi
giáo vẽ thêm màu sắc cho bức tranh tôn giáo, bản sắc vốn đa dạng của Đông Nam Á.
Thứ bảy, Hồi giáo có xu hướng gia tăng ảnh hưởng của mình tại các quốc gia. Tuy
nhiên, khác với những quốc gia Hồi giáo ở Trung cận Đông, Hồi giáo mặc dù có khả năng
chi phối, ảnh hưởng tực tiếp đến hoà bình và ồn định của khu vực nhưng sự chi phối của
Hồi giáo ở Đông Nam Á vẫn mềm mại và ít căng thẳng hơn khi đóng vai trò quốc đạo và
hệ tư tưởng điều hành đất nước tại một số quốc gia. Sức cải biến, sự linh hoạt tác động
ngược trở lại để hoà nhập văn minh bên ngoài vào mình của nền văn hoá bản địa Đông
Nam Á là lý do giải thích cho điều đó [31].
1.1.4. Đặc điểm cơ bản của pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á
Với sự mở rộng của Hồi giáo, luật Hồi giáo (Moslem law hay Islamic law) trong tiếng
Ảrập gọi là Shari'ah (con đường đúng đắn) bao gồm một hệ thống các quy định tôn giáo
[55, 174] ngày càng có ảnh hưởng tại các quốc gia theo Hồi giáo trong khu vực Đông
Nam Á. Luật Shari’ah dựa trên triết lý đạo Hồi nhằm lập ra khuôn vàng thước ngọc cho
các hành vi con người, hoạt động của cơ quan, tổ chức, những điều diễn ra xung quanh
đời sống cá nhân: ăn kiêng, nuôi dạy con cái, nguyên tắc tu hành, bố thí cho người
nghèo,… Ở phạm vi rộng hơn, nó cũng được dùng để giải quyết tranh chấp, xung đột
quốc tế và vấn đề chiến tranh [5]. Giống như các dòng họ pháp luật khác trên thế giới,
pháp luật Hồi giáo cũng có những đặc điểm riêng và khi du nhập sang Đông Nam Á, pháp
luật Hồi giáo cũng có những đặc điểm riêng biệt như vậy.
Thứ nhất, về nguồn pháp luật. Hệ thống pháp luật Hồi giáo thừa nhận bốn (4) nguồn
luật, cụ thể:
(1) Kinh Coran: là cuốn thánh kinh với 6.237 câu thơ chia thành 30 tiết, 114 chương.
Các chương dài ngắn khác nhau, chương dài nhất có 286 tiết, ngắn nhất là 3 tiết.
Chiếm 2/3 kinh thánh là chương Mecca (do ban hành ở Mecca) và chiếm 1/3 kinh
thánh là chương Madina (do ban hành ở Madina). Nội dung của kinh Coran bao
gồm các nguyên tắc pháp luật, các quy định điều chỉnh các quan hệ dân sự và hôn
nhân gia đình, các quan hệ hình sự, các quan hệ tố tụng, thương mại, tài chính và
quan hệ quốc tế [19].
(2) Sunna: Các phong tục tập quán truyền thống.
(3) Ijam: Sự thỏa thuận, nhất trí của người có thẩm quyền.
(4) Quiyas: Suy đoán tương tự pháp luật.
Pháp luật Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á sử dụng cả bốn (4) nguồn trên, song trên
thực tế, Coran và Sunna là hai nguồn phổ biến hơn cả. So với Coran và Sunna, Ijam và
Quiyas được đánh giá là hai (2) nguồn phụ [51, 92]. Việc áp dụng các điều khoản trong
Coran và Sunna ở khu vực Đông Nam Á có phần bớt khắc nghiệt hơn so với các khu vực
khác trên thế giới. Và việc áp dụng các nguồn pháp luật Hồi giáo dần thu hẹp trong phạm
vi hôn nhân, gia đình và thừa kế [84].
Thứ hai, về hình thức pháp luật, pháp luật Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á vừa là
các điều khoản thành văn được Nhà nước ghi nhận trong Hiến pháp và các bản Kinh thánh
được tòa án Shari’ah sử dụng. Trong thực tiễn tại Malaysia hay Indonesia và Brunei, ranh
giới phân biệt giữa Kinh Thánh của Hồi giáo và pháp luật của nhà nước thường không rõ
ràng. Việc xâm hại đến một “câu thơ” trong Kinh Thánh cũng đồng thời với việc vi phạm
quy định của nhà nước: vi phạm pháp luật [37] (biểu hiện của "Tôn giáo pháp"). Việc đưa
ra phán quyết và lập luận của cơ quan tư pháp cũng là nguồn pháp luật quan trọng để
đánh giá việc thực thi Hiến pháp và luật Hồi giáo trên thực tiễn. Điều này được đánh giá
là việc chuyển hóa những quan điểm, ý kiến pháp bởi các học giả pháp lý đạo Hồi vào
văn bản pháp luật [8, 57].
Thứ ba, vai trò lập pháp của cơ quan tư pháp. Những tín đồ trung thành với đạo
Hồi luôn sùng bái luật Hồi giáo trong sự bất diệt và không bao giờ đổi thay. Bởi vậy, ở
một số “thánh đường Hồi giáo”, trong bộ máy Nhà nước chỉ có nhánh hành pháp và tư
pháp mà không có lập pháp. Quan niệm thánh Allah mới có quyền làm ra luật, dẫn đến
tư duy Nhà nước chỉ là sự hỗ trợ, thứ cấp bên cạnh giáo lý đạo Hồi. Các điều luật do Nhà
nước ban hành chủ yếu nhằm “điền vào chỗ trống” trong luật Hồi giáo. Tuy vậy, ở
Malaysia, Indonesia và Brunei, đều có cơ quan lập pháp để thực hiện quá trình thành lập
Hiến pháp và pháp luật. Dù rằng theo dòng thời gian, Brunei có sự bất ổn, thậm chí có
thời gian cơ quan lập pháp đã bị xóa bỏ theo lệnh của Sultan, nhưng không thể phủ nhận
trong quá khứ và hiện tại, các quốc gia Hồi giáo ở Đông Nam Á đều có cơ quan lập pháp
riêng biệt.
Thứ tư, trong mối tương quan giữa luật nội dung và luật hình thức, pháp luật Hồi
giáo khu vực Đông Nam Á cũng chịu chi phối chung của luật Hồi giáo trên thế giới. Rất
khó để phân biệt giữa quy định pháp luật và các quy định về tôn giáo vì người Hồi giáo
cho rằng pháp luật và tôn giáo là một [4, 134]. Tại Đông Nam Á, sự phân biệt giữa luật
Hồi giáo và luật do Nhà nước ban hành khá rõ ràng trong Hiến pháp. Trên thực tế, việc
quy định và ghi nhận luật Hồi giáo thường được chia riêng thành một chương, do đó, có
thể thấy Nhà nước cũng có ý thức trong việc phân biệt luật Hồi giáo và luật do Nhà nước
ban hành.
Thứ năm, dù không phân chia rõ ràng các vấn đề nào thuộc luật công, các vấn đề
nào thuộc luật tư, song pháp luật Hồi giáo ở Đông Nam Á điều chỉnh gần như toàn bộ các
vấn đề trong đời sống xã hội của người theo Hồi giáo trong khu vực. Chỉ khác ở chỗ điều
khoản nào còn được sử dụng, điều khoản nào không còn được sử dụng. Việc nâng từ tôn
giáo và đạo đức thành quy phạm đã khiến pháp luật Hồi giáo Đông Nam Á mang màu
sắc chính trị thần quyền đặc trưng bao trùm các vấn đề mang tính chất công – tư. Đạo Hồi
còn can thiệp cả những vấn đề mà pháp luật không quy định: giờ cầu nguyện, giờ đánh
răng, ngày phải đi lễ, cách ăn mặc,…[55, 174].
Thứ sáu, về mức độ và trình độ pháp điển hóa. Cùng với xu thế hội nhập và sự linh
hoạt chuyển mình theo thế giới, pháp luật Hồi giáo Đông Nam Á đã có những điểm mới
trong việc pháp điển hóa. Các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á có xu hướng
phương Tây hóa pháp luật, tiếp nhận những điều tiên tiến trên thế giới: xây dựng bộ máy
nhà nước theo nguyên tắc phân quyền (được ghi nhận trong Hiến pháp Malaysia và
Indonesia), tổ chức hệ thống tòa án thường phi tôn giáo bên cạnh tòa Shari’ah và xét xử
các tội hình sự, tội nghiêm trọng theo quy định của hiến pháp,… Đồng thời, dần tiếp cận
quyền con người và sự bình đẳng trong các giới của xã hội. Điển hình như việc tăng số
lượng các điều khoản và đẩy chương Quyền con người lên chương II của Hiến pháp
Malaysia
1.2. Những đặc điểm cơ bản của pháp luật Đông Nam Á
Để nghiên cứu và tìm hiểu về hiến pháp một quốc gia hay đặc điểm chung hiến pháp
của một khu vực, người nghiên cứu không thể bỏ qua những đặc điểm cơ bản của pháp
luật Đông Nam Á. Việc “bắt mạch” những đặc điểm chung cho pháp luật Đông Nam Á
vừa là cơ sở vừa có thể lý giải nguyên nhân của các điều khoản trong hiến pháp, về những
điều trong nội dung của hiến pháp. Giống như bất kỳ khu vực nào trên thế giới, pháp luật
Đông Nam Á có những đặc điểm không trộn lẫn.
Đầu tiên, hệ thống pháp luật Đông Nam Á có nguồn luật đa dạng và phong phú.
Từ nguồn thành văn và bất thành văn, có thể kể đến như: các văn bản quy phạm pháp luật
do Nhà nước ban hành, án lệ của tòa án, lẽ công bằng, tập quán pháp, các học thuyết pháp
lý,… Không chỉ vậy pháp luật Đông Nam Á còn chịu ảnh hưởng từ các dòng họ pháp luật
lớn trên thế giới: dòng họ pháp luật Common law, Civil law, Hồi giáo hay dòng họ pháp
luật Xã hội chủ nghĩa,… Với dòng họ Civil law được tiếp nhận ở nhiều nước trong khu
vực chủ yếu gắn liền với quá trình xâm chiếm thuộc địa của các nước châu Âu lục địa
Trừ Thái Lan, luật chịu ảnh hưởng của dòng họ Civil law có thể kể đến là Việt Nam, Lào,
Campuchia, Indonesia và Philippines đều đã từng là thuộc địa của các nước thuộc lục địa
châu Âu là Pháp, Hà Lan, Tây Ban Nha [24]. Giống như nhiều quốc gia và vùng lãnh thổ
khác trên thế giới, sự ảnh hưởng của Common law ở các quốc gia Đông Nam Á chủ yếu
gắn liền với quá trình thuộc địa hoá của Anh hoặc sự ảnh hưởng của Mỹ. Có thể kể đến
như: Malaysia, Singapore, Brunei, Myanmar, Philippines [24]. Dòng họ pháp luật XHCN
cũng hiện diện trong các nước khu vực Đông Nam Á ngay sau Đại chiến thế giới lần thứ
II. Ngoài Việt Nam và Lào, hai hệ thống pháp luật khác là Myanmar và Indonesia cũng
đã có những nhân tố nhất định của dòng họ pháp luật XHCN trong lịch sử phát triển của
mình [24]. Và như những phân tích ở trên, có thể thấy một trong những dòng họ pháp luật
ảnh hưởng sâu rộng ở khu vực Đông Nam Á là dòng họ pháp luật Hồi giáo với những đại
diện tiêu biểu là Indonesia Malaysia, Brunei [24]. Từng có nhận định cho rằng: “hầu hết
các hệ thống pháp luật, thậm chí, Thái Lan, Philippines, Singapore - những nước không
có đa số người Hồi giáo, vẫn coi luật Hồi giáo như là hệ thống pháp luật tách biệt” [78,
177].
Như vậy, có thể nhận thấy, pháp luật các quốc gia khu vực Đông Nam Á có nguồn
luật vô cùng phong phú, đa dạng, có cả nguồn luật nội sinh và ngoại sinh. Tuy vậy, việc
áp dụng thực tiễn các nguồn luật trong từng quốc gia với các mức độ lại khác nhau. Ví
dụ, ở Singapore, thẩm phán thường hay dẫn chiếu đến án lệ của Anh quốc trong khi xét
xử. Còn với Malaysia, nguồn luật Hồi giáo, luật thành văn và án lệ lại nổi trội hơn. Thái
Lan lại đề cao luật thành văn và án lệ.
Mặt khác, về quan điểm tư tưởng pháp lý, hệ thống pháp luật khu vực Đông Nam Á
cũng có nhiều điểm thú vị. Quan niệm pháp luật khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng
bởi các truyền thống pháp luật: truyền thống pháp luật Common law, Civil law, Hồi giáo,
Trung Quốc, Ấn Độ,… Do vị trí địa lý rất thuận lời, tiếp giáp với nhiều nền văn minh lớn
trên thế giới, là nơi giao thoa của các hệ thống pháp luật khác nhau dẫn đến sự ảnh hưởng
đan xen lên pháp luật khu vực.
Đồng thời, quan niệm pháp luật khu vực Đông Nam Á có điểm khác biệt khá rõ rệt
với các quốc gia phương Tây khi vẫn còn không ít quốc gia quan niệm rằng pháp luật là
một bộ phận của Nhà nước. Điều đó dẫn đến việc thực thi pháp luật trên thực tế, cụ thể là
hiến pháp có nhiều điểm bất cập so với lý thuyết.
Không những vậy, nhận thức về pháp luật, nhân quyền, pháp quyền khu vực Đông
Nam Á còn phát triển chậm. Sự kéo dài của chế độ vương quyền phong kiến và chế độ
chính trị hiện tại, đã khiến con người Đông Nam Á trở nên xa lạ với sự bình đẳng và đa
dạng. Tiếp cận và đảm bảo nhân quyền vẫn là vấn đề khó khăn và nhạy cảm với các quốc
gia trong khu vực. Do vậy, so với các khu vực khác trên thế giới, pháp luật về quyền con
người ở Đông Nam Á chưa thực sự đảm bảo.
Cuối cùng, pháp luật khu vực Đông Nam Á còn có sự ảnh hưởng đan xen của các
yếu tố khác nhau. Hiến pháp có sự ảnh hưởng của các quốc gia bên ngoài, chủ yếu là do
quá trình thực dân đã nói trên. So với các bản hiến pháp mẫu mực trên thế giới (Hiến pháp
Mỹ 1787, Hiến pháp Anh 1890), hiến pháp khu vực Đông Nam Á ra đời muộn hơn và
chịu nhiều biến động do hoàn cảnh lịch sử. Ra đời năm 1945 và trải qua ít nhất 7 lần “đại
trùng tu” để có diện mạo của hiến pháp hiện hành chính là một hành trình dài của Hiến
pháp Indonesia minh chứng cho sự “sinh sau đẻ muộn” của hiến pháp trong khu vực Đông
Nam Á. Không chỉ vậy, văn hóa pháp luật khu vực còn mềm dẻo, dễ tiếp nhận các yếu tố
khác nhau, dễ chung sống với các tư tưởng pháp luật ngoại lai,…
1.3. Các yếu tố có thể tác động đến pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia
Hồi giáo ở khu vực Đông Nam Á
Pháp luật không tồn tại một mình đơn lẻ mà luôn chịu sự tác động đến từ các yếu tố
khác. Có thể kể đến như: yếu tố vị trí, địa lý; yếu tố con người; yếu tố thời đại; yếu tố lịch
sử,…
Thứ nhất, các quốc gia Hồi giáo khu vực Đông Nam Á nằm trong khu vực rất thuận
lợi cho việc giao thương buôn bán, hầu hết là Đông Nam Á hải đảo. Việc giao thương
phát triển từ sớm, các dòng chảy văn hóa và pháp luật dễ tiếp cận và tư duy pháp lý cởi
mở, nhanh chóng cập nhật điểm mới hơn đến từ phương Tây. “Điểm chung của các quốc
gia Đông Nam Á là tất cả đều có kinh nghiệm, trực tiếp hoặc gián tiếp, chủ nghĩa đế quốc
phương Tây và chủ nghĩa thực dân trong lịch sử hiện đại của họ, đã có tác động đáng kể
đến sự phát triển chính trị và hiến pháp của các quốc gia.” [30, 32].
Thứ hai, đi cùng với yếu tố vị trí địa lý, yếu tố lịch sử có ảnh hưởng nhất định đến
pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo. Những yếu tố lịch sử sẵn có của
nội tại quốc gia cùng với bản sắc văn hóa truyền thông được gây dựng qua hàng ngàn
năm là rào cản không nhỏ với các quốc gia Hồi giáo khi chịu những tác động đến từ các
yếu tố khác. Cũng từng có nghiên cứu cho rằng các hiến pháp và tư tưởng lập hiến bắt
nguồn từ nền văn minh phương Tây, sau đó được cấy ghép vào các xã hội và văn hóa ở
các nơi khác trên thế giới như Trung Đông, Châu Á và Châu Phi. Do đó, các hiến pháp ở
các quốc gia phương Tây có thể được gọi là hiến pháp nguyên sơ và những hiến pháp ở
các quốc gia nằm ngoài quỹ đạo của phương Tây được gọi là hiến pháp thứ cấp [78, 177].
Yếu tố lịch sử đóng vai trò quan trọng trong sự ảnh hưởng của những bản hiến pháp
nguyên sơ đến hiến pháp ngoài quỹ đạo phương Tây.
Thứ ba, con người là một trong những nhân tố quan trọng trong mọi vấn đề. Yếu tố
con người có ảnh hưởng rất lớn đến pháp luật và hiến pháp các quốc gia. Tính cách và sự
dễ thích nghi khiến việc tiếp nhận các luồng ý kiến, tư tưởng, học thuyết về pháp luật
nhanh nhạy hơn. Như đã lý giải ở trên, một trong những yếu tố khiến Hồi giáo ảnh hưởng
mạnh mẽ ở khu vực Đông Nam Á là do việc giao thương giữa con người với nhau. Không
chỉ vậy chính những cuộc hôn nhân chính trị cũng là nhân tố thúc đẩy việc ảnh hưởng của
Hồi giáo vào lối sống và pháp luật khu vực Đông Nam Á.
Thứ tư, bối cảnh thời đại cùng xu hướng thế giới là nhân tố có tầm ảnh hưởng đến
pháp luật nói chung và hiến pháp của các quốc gia Hồi giáo. “Thế giới phẳng” với sự san
bằng mọi ranh giới khiến việc thông tin, trao đổi ngày càng trở nên dễ dàng. Những biến
đổi không ngừng của thế giới, bản thân các quốc gia Hồi giáo muốn hội nhập trên cơ sở
sự tự nguyện và chủ động tham gia ký kết các điều ước quốc tế. Đó là một hệ quả tất yếu
của xu hướng toàn cầu hóa như hiện nay, nó không chỉ thúc đẩy cho nền kinh tế của các
quốc gia Hồi giáo phát triển mà còn làm tăng cơ hội cho các doanh nghiệp trong nước
tiếp cận thi trường quốc tế, nguồn tín dụng và các đối tác quốc tế. Không chỉ vậy, các
quốc gia bên ngoài luôn gây sức ép buộc bản thân các quốc gia Hồi giáo phải thay đổi.
Các quốc gia Hồi giáo nhất là ở khu vực Trung Đông - khu vực có khoảng 90% dân số
theo đạo Hồi, được mệnh danh là “kho vàng đen” khổng lồ của thế giới, do đó các quốc
gia này cần phải hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật của mình để có được một nền kinh tế
phát triển vững mạnh hơn.
Cuối cùng, xu hướng hội nhập khu vực, sự phát triển mạnh mẽ của pháp quyền, dân
chủ và nhân quyền,… trên thế giới đã có “gõ cửa” mạnh mẽ và ảnh hưởng không nhỏ đến
pháp luật nói chung và hiến pháp các quốc gia Hồi giáo nói riêng. Sự ra đời của các tổ
chức khu vực, các công ước quốc tế, cùng với đó là các yêu cầu đảm bảo giá trị pháp
quyền, dân chủ, nhân quyền,… phổ quát trên toàn thế giới tạo thành sức ép và luồng gió
mới tác động dến sụ đổi thay của các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo tại Đông Nam Á.
1.4.Tiểu kết chương 1
Có thể thấy, vấn đề quyền con người ngày càng phát triển và Tôn giáo thêm một bước
ngoặt khác biệt cho bức tranh nhân quyền ở châu Á. Luật tôn giáo có thể thách thức các
chuẩn mực nhân quyền thế tục và đặt ra một thách thức đặc biệt khó khăn đối với các tổ
chức nhân quyền [49]. Câu trả lời nào sẽ là thích hợp cho việc cân bằng luật Hồi giáo,
Hiến pháp và Nhân quyền cũng là thách thức đặt ra trong bối cảnh thời đại.
Qua việc tìm hiểu lịch sử khu vực Đông Nam Á, cùng những đặc điểm cơ bản của
pháp luật các quốc gia trong khu vực nói chung và các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo
nói riêng, khóa luận đã phần nào làm rõ những yếu tố tác động đan xen cùng những đặc
điểm cơ bản khác biệt của Hồi giáo và pháp luật Hồi giáo tại khu vực. Đây sẽ là tiền đề
để đi sâu vào nghiên cứu lịch sử và sự phát triển của các quốc gia Hồi giáo ở khu vực
Đông Nam Á.
Chương 2.
LỊCH SỬ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP
CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
2.1. Khái quát chung về Hiến pháp và ảnh hưởng Hồi giáo tại các quốc gia trong
khu vực Đông Nam Á
Theo dòng lịch sử, dù Hồi giáo đến với Đông Nam Á muộn hơn song đã nhanh chóng
có được vị trí vững vàng trong tư tưởng và đời sống pháp luật của khu vực. Hồi giáo ở
khu vực Đông Nam Á là cuộc “hôn phối” tự nguyện giữa nền văn hóa Á Đông và tư tưởng
giáo lý đạo Hồi. Đó hoàn toàn không phải là một cuộc “ép gả” truyền thống cho đức tin
một cách khiên cưỡng. Các văn bản luật tiền hiện đại Hồi giáo ở Indonesia, Malaysia và
miền nam Philippines ngày nay có từ thế kỷ 15 [50]. Dấu ấn Hồi giáo để lại trong cả khối
óc và trái tim của cư dân Đông Nam Á hải đảo. Ngoài “trái tim Ả rập”, Đông Nam Á dần
trở thành một vùng đất thịnh vượng khác của giáo lý đạo Hồi [51]. Ba quốc gia tiêu biểu
chịu ảnh hưởng sâu sắc của Hồi giáo là Indonesia, Malaysia và Brunei [71]. Nghiên cứu
tập trung đi sâu vào ba (3) quốc gia Hồi giáo tại khu vực Đông Nam Á dựa trên ba (3) cơ
sở chính. Thứ nhất, như đã khẳng định, Indonesia, Malaysia, Brunei là các quốc gia chịu
ảnh hưởng và chi phối sâu sắc Hồi giáo trong hệ thống pháp lý của mình, cụ thể là trong
hiến pháp. Thứ hai, do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ Hồi giáo, những biểu hiện Hồi giáo và
hiến pháp các quốc gia khá rõ rệt và điển hình. Cũng tùy vào môi trường và nhân sinh
quan mà hình ảnh Hồi giáo được khúc xạ trong hiến pháp từng quốc gia lại có sự khác
biệt. Thứ ba, khi nghiên cứu một vấn đề, rất khó và hạn hẹp về thời gian cũng như nhân
lực để có thể nghiên cứu kỹ càng toàn bộ các quốc gia ở Đông Nam Á về vấn đề Hồi giáo
do dấu vết của giáo lý đạo Hồi tại mỗi quốc gia đậm nhạt khác nhau. Với phương pháp
chọn lọc điển hình, việc nghiên cứu Indonesia, Malaysia, Brunei sẽ đem đến cái nhìn rõ
rệt và bao quát nhất về vấn đề lịch sử và sự phát triển của các quốc gia Hồi giáo trong
khu vực Đông Nam Á nói chung.
Các quốc gia khu vực Đông Nam Á đều có hiến pháp thành văn với nội dung tương
đấy đầy đủ: lời nói đầu, thể chế chính trị, bộ máy nhà nước, quyền con người, hệ thống
tư pháp, chế độ bảo hiến,… 7/10 quốc gia ở khu vực Đông Nam Á có sự ghi nhận rõ ràng
quyền con người và bộ máy chính quyền trong hiến pháp. Các nước cũng thừa nhận quyền
tự do tôn giáo và vị trí nhất định của Hồi giáo trong hiến pháp. Điều 3 của Hiến pháp liên
bang Malaysia tuyên bố: "Hồi giáo là tôn giáo của Liên đoàn, nhưng các tôn giáo khác
có thể được thực hành trong hòa bình và hòa hợp trong bất kỳ phần nào của Liên đoàn."
Tương tự như vậy, Hiến pháp của Brunei tuyên bố rằng: "Các tôn giáo chính thức của
Brunei Darussalam sẽ là đạo Hồi. Đồng thời vấn đề quyền con người trong Hiến pháp
các quốc gia Hồi giáo khu vực Đông Nam Á cũng rất được quan tâm” [7]. Sau chiến
thắng của phe Đồng minh trước các thế lực đối chọi năm 1945, các giá trị phổ quát về
nhân quyền trên thế giới trở nên rộng rãi và phổ biến. Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền
(UDHR) đã chính thức đánh dấu mốc quan trọng về chủ nghĩa nhân quyền trên thế giới,
con lắc giữa chủ nghĩa phổ quát và chỉ nghĩa đặc biệt trở nên rõ ràng hơn. Sự ra đời của
UDHR cùng với việc lần đầu tiên cộng đồng quốc tế của người Hồi giáo xác định khái
niệm về quyền con người và nêu rõ các mục tiêu cần đạt được của các chính phủ ảnh
hưởng Hồi giáo trên thế giới về lĩnh vực này [46]. Điều này dẫn tới sự thay đổi và đảm
bảo quyền con người không chỉ trong tư tưởng mà trong ghi nhận của hiến pháp tại các
quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á.
Lịch sử và xu hướng phát triển của Hiến pháp của các quốc gia khu vực Đông Nam
Á cụ thể ra sao sẽ được làm rõ trong từng phần dưới đây.
2.2. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp tại Indonesia
2.2.1. Khái quát chung
Indonesia có tên gọi đầy đủ là Cộng hòa Indonesia (tiếng Indonesia: Republik
Indonesia), là một quốc gia nằm giữa Đông Nam Á và Châu Đại Dương. Indonesia được
mệnh danh là "Xứ sở vạn đảo", lãnh thổ của nó bao gồm 13.487 hòn đảo [95] và với dân
số khoảng 255 triệu người, đứng thứ tư thế giới về dân số và đứng thứ ba châu Á về dân
số. Tổng thống Joko Widodo là Tổng thống hiện tại của Indonesia. Thủ đô của Indonesia
là Jakarta, và ngôn ngữ chính thức tại Indonesia là tiếng Indonesia [58]. Cách đây gần
mười năm, Indonesia đứng thứ 3 thế giới sau Ả rập Saudi và Thổ Nhĩ Kỳ về số lượng Hồi
giáo. Nhưng cùng với gia tăng nhanh chóng của các tín đồ Hồi giáo, Indonesia hiện nay
đã trở thành quốc gia dẫn đầu thế giới về lượng người theo đạo Hồi (87,2% dân số
Indonesia xác nhận là người Hồi giáo. Số lượng người Hồi giáo ở quốc gia Đông Nam Á
này lớn nhất thế giới với khoảng 225 triệu) [52, 1]. Cùng với thời gian, tín đồ Hồi giáo ở
Indonesia ngày càng tăng với số lượng lớn và là một trong những “thánh đường” Hồi giáo
lớn nhất Đông Nam Á.
Lịch sử Indonesia trải dài từ thời Cổ đại khoảng 1,7 triệu năm dựa trên sự phát hiện
về Hôm arectus Java. Có thể chia các giai đoạn lịch sử của Indonesia thành bốn (4) giai
đoạn:
Giai đoạn 1: Giai đoạn tiền thực dân với sự xuất hiện và hình thành của các vương
quốc theo đạo Hinđu, đạo Phật, đạo Hồi tại đảo Java và Sumatra. Khi Châu Âu tiến tới
thời kỳ phục hưng thì tại Indonesia hai quốc gia lớn là Srivijaya tại Sumatra, và Majapahit
tại Java trở nên lớn mạnh và phát triển buôn bán thương mại. Di sản để lại các bộ luật
được biên soạn ra đời, và được xem như thiên sử thi Ramayana [27].
Giai đoạn 2: Giai đoạn thuộc địa do chịu sự kiểm soát của người Hà Lan. Bắt đầu từ
thế kỷ XVII đến giữa thế kỷ XX, Indonesia chịu sự chi phối của thực dân Hà Lan. Từ
khoảng 1250 trở đi, Islam (Hồi giáo) ngày càng có đông tín đồ trên quần đảo. Đến khoảng
1550 thì trở thành tôn giáo có đông tín đồ nhất trong vùng. Năm 1619 người Hà Lan đổi
tên thành Jayakarta (có nghĩa là Chiến thắng huy hoàng, tức Jakarta, đọc rút ngắn) thành
Batavia, tên của chủng tộc tổ tiên họ, và đặt trung tâm hành chính của họ ở đấy. Họ đô
hộ phần lớn quần đảo Indonesia đến năm 1945 [27].
Giai đoạn 3: Giai đoạn mới giành độc lập. Sau sự nỗ lực đấu tranh không ngừng nghỉ
của người dân Indonesia, cuộc cách mạng chính thức thành công, Tuyên bố độc lập
Indonesia 1945 là dấu mốc quan trọng của đất nước. Nhưng ngay sau đó Indonesia rơi
vào chế độ Sukarno với 22 năm độc tài [62][63].
Giai đoạn 4: Giai đoạn khôi phục sau sự sụp đổ của Suharno [64] Trải qua những
giai đoạn lịch sử khác nhau, Hiến pháp Indonesia có sự thay đổi khác nhau. Cùng với
những biến động chính trị và chính sách, Hiến pháp Indonesia cũng trải qua nhiều lần sửa
đổi với các điều khoản thay đổi. Tuy vậy, lịch sử chung khái quát của quốc gia là chưa
đủ để có cái nhìn toàn diện về vấn đề Hiến pháp, bởi lẽ Indonesia là quốc gia chịu ảnh
hưởng sâu sắc từ Hồi giáo. Hồi giáo và pháp luật Hồi giáo cũng là một trong những thành
tố quan trọng tác động đến quá trình hình thành và thay đổi của Hiến pháp. Và giống như
lịch sử chính trị Indonesia, lịch sử Hồi giáo Indonesia cũng trải qua nhiều giai đoạn với
những đặc điểm khác nhau.
2.2.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia
Thứ nhất, về dấu vết Hồi giáo trong lịch sử Indonesia
Mặc dù rất khó để biết chính xác sự phát triển ban đầu của Hồi giáo ở những hòn đảo
Indonesia (do thiếu nguồn thông tin), nhưng rõ ràng thương mại quốc tế là một yếu tố rất
quan trọng. Nhiều khả năng thương nhân Hồi giáo từ các quốc gia khác nhau đã tồn tại
trong khu vực hàng hải của Đông Nam Á kể từ thời kỳ đầu của đạo Hồi. Các nguồn tin
sớm nhất cho biết một số người bản địa đã theo đạo Hồi từ đầu thế kỷ 13, bia mộ mới cho
thấy sự tồn tại của một vương quốc Hồi giáo ở Bắc Sumatra vào năm 1211. Và từ thế kỷ
15 trở về sau, các vương quốc và vương quốc Hồi giáo đã trở thành lực lượng chính trị
thống trị ở những hòn đảo Indonesia, mặc dù sau đó họ đã bị đánh bại bởi những người
mới đến từ châu Âu (Bồ Đào Nha và Hà Lan) trong thế kỷ 16 và 17 [89]. Con đường du
nhập vào Indonesia của đạo Hồi không hề dễ dàng. Trước Hồi giáo, nhiều loại tôn giáo
và tín ngưỡng đã phát triển ở Indonesia, ít nhất có hai tôn giáo lớn nhất đã được hầu hết
người dân Indonesia chấp nhận trước khi đạo Hồi, cụ thể là Ấn Độ giáo và Phật giáo [92].
Và việc truyền bá đạo Hồi ở Indonesia không phải là một quá trình nhanh chóng và dễ
dàng, mà là quá trình của nhiều làn sóng Hồi giáo liên quan đến sự phát triển quốc tế
trong thế giới Hồi giáo, những làn sóng đan xen ảnh hưởng và vẫn còn tiếp tục cho đến
ngày nay. Các thương nhân Hồi giáo đến quần đảo này trong các thế kỷ đầu tiên của kỷ
nguyên Hồi giáo có thể được coi là làn sóng đầu tiên [89]. Làn sóng thứ hai là phong trào
Wahabi và phong trào Salafi, cũng có tác động mạnh mẽ đến quá trình truyền bá đạo Hồi
chính thống ở quần đảo [92]. Hai làn sóng này này nhằm khôi phục sự thuần khiết của
đạo Hồi. Phong trào Wahhabi đến từ Ả Rập và có ảnh hưởng đến quần đảo này từ đầu thế
kỷ 19, trong khi phong trào Salafi đến từ Ai Cập vào cuối thế kỷ 19 [92]. Cho đến nay,
sự ảnh hưởng và vai trò của hai làn sóng Hồi giáo vẫn được tiếp tục duy trì ở Indonesia
ảnh hưởng đến giáo lý và tư tưởng Hồi giáo được truyền bá ở đây [92].
Trong ba quốc gia thuộc phạm vi nghiên cứu của đề tài, Indonesia là quốc gia duy
nhất không khẳng định rõ ràng mình là nhà nước Hồi giáo trong Hiến pháp dẫn đến nhiều
tranh cãi kịch liệt trong vấn đề quốc giáo và mô hình nhà nước. Song không thể phủ nhận
trên thực tế Hồi giáo thấm rất sâu vào con người và không khí sinh hoạt của Indonesia.
Lý giải cho nguyên nhân sự ảnh hưởng mạnh mẽ của Hồi giáo ở khu vực Indonesia, ngoài
những nguyên nhân chung giải thích ảnh hưởng Hồi giáo nói chung đến khu vực Đông
Nam Á đã được trình bày ở trên thì Indonesia còn chứa đựng những nguyên do riêng
trong nội tại đất nước. Thứ nhất, ngay từ đầu, Indonesia đã có vị trí địa lý rất thuận lợi
trong việc giao thương buôn bán, không chỉ vậy, việc mở kênh đào Suez vào năm 1869
khiến việc đi đến Trung Đông dễ dàng hơn. Điều này dẫn đến việc liên lạc ngày càng
chuyên sâu giữa người dân Indonesia và các quốc gia Ả Rập ở Trung Đông [92]. Thứ hai,
Hồi giáo là một tôn giáo đã vào Indonesia, đặc biệt là Java, vào cuối vinh quang của
vương quốc Phật giáo Hindu. Vào thời điểm đó, rất nhiều thậm chí phần lớn dân số Java
chấp nhận Hồi giáo vì Hồi giáo không phân biệt đối xử với con người với các diễn viên
như nhiều vương quốc Hindu thời đó [92]. Thứ ba, trong thời cổ đại việc truyền bá đạo
Hồi trên đảo Java do Wali Songo - là một tập hợp những người truyền bá Java tồn tại
trong thế kỷ 14 [73] thực hiện. Đảo Java là trung tâm của nền văn minh thời đó đã có dân
số đông. Cho đến khi vinh quang của các vương quốc Hồi giáo trên đảo Java, phần lớn
dân số đã theo đạo Hồi. Điều này tiếp tục cho đến khi chính phủ của Tổng thống Soeharto
thúc đẩy phong trào di cư tìm đến ngay cả dân số bằng cách chuyển một phần dân số Java
sang các khu vực khác ngoài Java. Một cách gián tiếp, điều này có ảnh hưởng đến lịch sử
Hồi giáo ở Indonesia và quá trình phân phối của nó trên khắp đất nước [92]. Do đó, dù
diễn ra chậm và gặp phải rào cản nhưng sự mở rộng ảnh hưởng của Hồi giáo tại Indonesia
diễn ra rất chắc chắn và quy mô.
Thứ hai, những biến thể của Hồi giáo tại Indonesia
Cùng chịu ảnh hưởng của giáo lý Hồi giáo giống như Malaysia và Brunei, song, Hồi
giáo ở Indonesia cũng có những đặc điểm riêng khác biệt. Sự biến thể của Hồi giáo ở
Indonesia thể hiện ở các điểm sau. Thứ nhất, Hồi giáo được truyền bá và phổ biến ở nhiều
khu vực chủ yếu là các quần đảo, các thành phố được xây dựng nhờ các thương nhân Hồi
giáo hoặc nơi các thương nhân Hồi giáo định cư đông đảo và lâu dài. Một số khu vực
khác của Indonesia, Hồi giáo chưa bao giờ là đa số, như miền Đông Indonesia vì nó nằm
xa các tuyến đường thủy, giao lưu thương mại ít ỏi. Đồng thời, sức hút mạnh mẽ từ văn
hóa vật linh hoặc Ấn Độ giáo – Phật giáo khiến con đường truyền bá đạo Hồi trở nên
chông gai và dễ bị ngăn chặn bởi các nền văn hóa truyền thống. Điều này dẫn đến hay xu
hướng: (1) Hồi giáo hoàn toàn bị ngăn chặn như ở khu vực Bali do văn hóa Hindu thống
trị đến nay hoặc (2) là việc trộn lẫn các hệ thống tín ngưỡng với nhau, có thể kể đến khu
vực Trung Java [89].
Có lẽ bởi vậy, cộng đồng Hồi giáo lớn nhất Indonesia – Cộng đồng Java được chia
làm hai nhóm theo những xu hướng các nhau. (1) Nhóm 1 được gọi là “Abangan”. Họ là
những người Hồi giáo truyền thống có nghĩa là họ vẫn áp dụng tín điều tôn giáo truyền
thống của người Java, kết hợp các giáo lý Hồi giáo với Ấn Độ giáo, Phật giáo và vật linh.
Các thành viên của nhóm này thường cư trú hoặc đến từ các vùng nông thôn. (2) Nhóm
thứ hai có tên là “Santri”. Nhóm này có thể được gọi là người Hồi giáo chính thống. Họ
thường sống hoặc đến từ các khu vực đô thị và có định hướng nhiều hơn về nhà thờ Hồi
giáo và kinh Koran. Trên thực tế, có sự tuyên bố độc lập của những người theo một xu
hướng khác, được coi là nhóm thứ ba - Priyayi (nhóm quý tộc truyền thống), nhưng vì
đây là một nhóm các tầng lớp xã hội chứ không phải là một nhóm tôn giáo, nên nhóm
Priyayi không được đưa vào sự phân chia xã hội ở trên [37].
Ở thời điểm hiện tại, Hồi giáo và pháp luật Hồi giáo có xu hướng gia tăng trong đời
sống xã hội của Indonesia. Trong hai thập kỷ qua, ảnh hưởng của Hồi giáo ngày càng trở
nên rõ ràng trên đường phố Indonesia và bắt đầu đóng một vai trò quan trọng hơn trong
cuộc sống hàng ngày của người Hồi giáo. Ví dụ, số phụ nữ Indonesia đeo khăn trùm đầu
đã tăng đáng kể và việc thờ cúng trong nhà thờ Hồi giáo ngày càng trở thành một phần
của cuộc sống hàng ngày. Tuy nhiên, điều quan trọng là phải hiểu rằng sự phát triển của
Hồi giáo không giống như chủ nghĩa cấp tiến Hồi giáo. Hầu hết người Hồi giáo ở
Indonesia có lòng khoan dung cao đối với các tôn giáo khác và các giáo phái khác trong
Hồi giáo [77]. Dẫu vậy, thế giới vẫn luôn quan ngại trước tình trạng Hồi giáo cực đoan
gia tăng ở Indonesia.
2.2.3. Lịch sử của Hiến pháp Indonesia
Để có thể đánh giá được lịch sử và sự thay đổi của hiến pháp một quốc gia, cần phải
nghiên cứu và đánh giá các bản Hiến pháp đã qua của quốc gia đó gắn với bối cảnh lịch
sử và các yếu tố ảnh hưởng đến pháp luật để có cái nhìn toàn diện. Giống như lịch sử
chính trị của đất nước, lịch sử Hiến pháp Indonesia trải qua vô vàn thăng trầm. Trong quá
trình nhìn lại lịch sử Hiến pháp Indonesia, tác giả sẽ đưa ra đánh giá khái quát nhất về sự
thay đổi của Hiến pháp Indonesia qua từng giai đoạn.
Kể từ bản Hiến pháp đầu tiên được thông qua ngày 18/08/1945, Indonesia đã trải qua
nhiều lần sửa đổi Hiến pháp trên cơ sở nền tảng Hiến pháp 1945. Cụ thể là:
(1) Hiến pháp năm 1945 (18/8/1945 - 27/12/1949).
(2) Hiến pháp RIS (27/12/1949 – 17/8/1950).
(3) Hiến pháp Cộng hòa Indonesia năm 1945 (17/8/1950 – 5/7/1959).
(4) Hiến pháp năm 1945 của chính quyền trật tự cũ (5/7/1959 – 5/71965).
(5) Hiến pháp năm 1945 của chính quyền trật tự mới (21/5/1998).
(6) Hiến pháp năm 1945 cải cách (1998 – 1999)
(7) Hiến pháp năm 1945 và sửa đổi lần 1, lần 2, lần 3, lần 4 (1999, 2000, 2001, 2002)
Nội dung chính và các điểm đáng lưu ý của các bản Hiến pháp Indonesia sẽ được
phân tích dưới đây nhằm đưa ra một cái nhìn bao quát nhất về xu hướng lập hiến tại một
trong những quốc gia đông tín đồ Hồi giáo nhất thế giới.
2.2.3.1. Hiến pháp Indonesia 1945 (18/8/1945 - 27/12/1949)
Về hoàn cảnh lịch sử:
Đây là bản Hiến pháp đầu tiên của Indonesia được ban hành ngay sau khi giành
độc lập. Theo các nhà nghiên cứu, đây được xem là bản Hiến pháp ngắn nhất trên thế
giới. Nó ngắn hơn nhiều so với Hiến pháp Hoa Kỳ và được một số học giả Mỹ tuyên bố
là ngắn nhất. Trong khi Hiến pháp Hoa Kỳ có 1608 từ thì Hiến pháp 1945 của Indonesia
chỉ có 1393 từ [48]. Hiến pháp năm 1945 lần đầu tiên được ban hành trong phiên họp Nhà
nước Indonesia của Ủy ban trù bị độc lập Indonesia ngày 18/8/1945, một ngày sau khi
nền độc lập của Cộng hòa Indonesia được tuyên bố bởi Sukarno và Mohammad Hatta vào
ngày 17/8/1945. Văn bản của Hiến pháp năm 1945 được chuẩn bị bởi một cơ quan chính
phủ Nhật Bản được thành lập có tên là "Dokuritsu Zyunbi Tyoosakai" (tiếng Indonesia
có tên là "Cơ quan điều tra nỗ lực chuẩn bị độc lập của Indonesia" (BPUPKI). Các thành
viên của các cơ quan này được Chính phủ nước chủ nhà lập nên vào ngày 28/5/1945 nhằm
thực hiện lời hứa của Chính phủ Nhật Bản trước quốc hội (Diet) để trao độc lập cho
Indonesia. Tuy nhiên, sau khi thành lập, cơ quan này không chỉ nỗ lực chuẩn bị cho độc
lập theo mục đích hình thành mà thay vào đó, chuẩn bị bản thảo của Hiến pháp làm cơ sở
để thành lập Indonesia độc lập [58].
Về cơ cấu:
Hiến pháp Indonesia 1945 gồm: Lời nói đầu, 16 chương với 37 điều, 194 câu và 3
chương cho quy tắc chuyển tiếp và quy tắc bổ sung. Nội dung cụ thể của từng chương:
Chương 1 - Hình thức của Nhà nước và chủ quyền, Chương 2 - Hội đồng tư vấn nhân dân
(Majelis Permusyawaratan Rakyat hoặc MPR), Chương 3- Quyền hành pháp, Chương 4
- Hội đồng tư vấn tối cao, Chương 5 - Bộ trưởng nhà nước, Chương 6 - Hội đồng đại diện
nhân dân (Dewan Perwakilan Rakyat hoặc DPR), Chương 7 - Hội đồng đại diện các khu
vực (Dewan Perwakilan Daerah hoặc DPD), Chương 8 – Bầu cử, Chương 9 – Ngân sách,
Chương 10 - Ủy ban Kiểm toán Nhà nước, Chương 11 – Công dân và cư dân, Chương 12
– Quyền con người, Chương 13 – Quốc phòng và an ninh, Chương 14 – Kinh tế quốc gia
và phúc lợi xã hội, Chương 15 - Quốc kỳ, quốc ngữ, quốc huy và quốc ca, Chương 16 -
Sửa đổi hiến pháp. Trong Điều khoản chuyển tiếp, đáng chú ý là Điều 3 nhắc đến việc
thành lập Tòa án Hiến pháp trên thực tế [44].
Như vậy, Hiến pháp Indonesia có các chương liên quan đến bộ máy nhà nước và
quyền con người được sắp xếp một cách thứ tự và khá rõ ràng. Hiến pháp 1945 đã xác
lập căn bản các yếu tố nền tảng để xây dựng và phát triển nhà nước. Điều này là phù hợp
trong bối cảnh Indonesia vừa giành được độc lập.
Về thời gian có hiệu lực:
Đáng tiếc, Hiến pháp 1945 của nhà nước vừa giành được độc lập Indonesia không
phải là một Hiến pháp được áp dụng lâu dài bởi lẽ Hiến pháp năm 1945 không được sử
dụng trực tiếp làm tài liệu tham khảo trong bất kỳ quyết định nào của nhà nước và chính
phủ. Về bản chất, năm 1945 thực sự chỉ được sử dụng như một công cụ để lập tức thành
lập một quốc gia độc lập gọi là Cộng hòa Indonesia. Năm 1945 được dự định là một hiến
pháp tạm thời, theo các điều khoản của Bung Karno, một 'revolutie-grondwet' hoặc Hiến
pháp của sét, phải được thay thế bằng một hiến pháp mới khi nhà nước độc lập được thành
lập và tình hình phù hợp [58]. Do đó, ngay trong các quy định của Hiến pháp khi đó đã
có các điều khoản liên quan đến việc sửa đổi Hiến pháp: Các quy định tại Điều III của
Quy tắc bổ sung cũng khẳng định rằng Hiến pháp của Cộng hòa Indonesia đã được sửa
đổi sau đó sẽ có sau khi MPR chính thức thiết lập chúng. Tuy nhiên, cho đến khi Hiến
pháp năm 1945 được sửa đổi lần đầu tiên vào năm 1999, MPR hiện tại vào năm 1945 vẫn
chưa thành lập năm 1945 với tư cách là Hiến pháp của Cộng hòa Indonesia [44].
Về lời nói đầu:
Ngay ở Lời nói đầu Indonesia đã khẳng định nền tảng niềm tin dựa trên tôn giáo.
Hiến pháp viết: “…By the grace of God Almighty and motivated by the noble desire to
live a free national life, the people of Indonesia hereby declare their independence.” [44]
(Dịch: theo ân sủng của Thiên Chúa Toàn năng và thúc đẩy bởi mong muốn cao cả để
sống một cuộc sống của một dân tộc tự do, người dân Indonesia nay tuyên bố sự độc lập
của mình), “…therefore the independence of Indonesia shall be formulated into a
constitution of the Republic of Indonesia which shall be built into a sovereign state based
on a belief in the One and Only God, just and civilised humanity, the unity of Indonesia,
and democratic life led by wisdom of thoughts in deliberation amongst representatives
of the people, and achieving social justice for all the people of Indonesia.” [44] (Dịch: Do
đó, hình thành một nhà nước có chủ quyền dựa trên niềm tin vào một và chỉ một Thiên
Chúa, vào nhân loại văn minh và công chính, vào sự thống nhất của Indonesia, và đời
sống dân chủ dẫn dắt bởi sự khôn ngoan của những suy tư được thảo luận giữa những đại
biểu nhân dân, hướng đến công bằng xã hội cho tất cả người dân Indonesia.) Không chỉ
vậy, tại khoản 1 Điều 29 chương XI. Tôn giáo, Hiến pháp Indonesia cũng ghi nhận “(1)
The State shall be based upon the belief in the One and Only God” (Dịch: Nhà nước sẽ
dựa trên một niềm tin và duy nhất vào Chúa”). Như vậy, có thể thấy dù không tuyên bố
quốc giáo, song, Hiến pháp Indonesia 1945 đã khẳng định nền tảng đức tin và tầm ảnh
hưởng của tôn giáo tới Hiến pháp Indonesia.
Về nguyên tắc:
Hiến pháp Indonesia đã nhấn mạnh đến một trong những nguyên tắc rất quan trọng
của nhà nước Indonesia - Pancasila với năm (5) nội dung chính, trong đó nội dung được
nhắc đến ngay đầu tiên đó là nền tảng Hồi giáo đang mở rộng và có tầm vóc ở Indonesia
[82]. Nội dung cụ thể của nguyên lý Pancasila sẽ được phân tích rõ ở phần Hiến pháp
hiện tại của Indonesia (phần 2.2.4) bởi đó nguyên lý được gìn giữ và coi là “linh hồn” của
việc xây dựng và làm nên Nhà nước Cộng hòa Indonesia.
Về các nội dung chính:
Thứ nhất, Hiến pháp đã tuyên bố, nhà nước Indonesia là nhà nước đơn nhất với
hình thức chính thể cộng hòa [87], chủ quyền trong tay người dân và sẽ được thực hiện
theo Hiến pháp [88], đồng thời khẳng định Indonesia là nhà nước vận hành trên cơ sở luật
pháp [89].
Thứ hai, do tại thời điểm Hiến pháp ra đời, Indonesia mới chỉ tuyên bố độc lập, và
trong thời kỳ chính phủ chuyển đổi. Vì vậy, không phải tất cả các UDD năm 1945 đã
được thực hiện và đã có những sự khác biệt trên thực tế. Cụ thể:
(1) Quyền lực của tổng thống với tư cách là người nắm giữ quyền lực hành
pháp cao nhất và các nhà tổ chức chính phủ là rất rộng. Vào thời điểm đó, quyền
lực của tổng thống cũng bao gồm cơ quan lập pháp. Điều này tiếp tục cho đến khi
cuối cùng Ủy ban Quốc gia Indonesia (KNIP) được giao nhiệm vụ quyền lực lập
pháp thông qua Tuyên bố của Tổng thống số. X, ngày 16/10/1945.
(2) Sự hình thành của một nội các nghị viện với các bộ trưởng chịu trách nhiệm
trước Hạ viện và do Thủ tướng Sutan Syahrir chủ trì. Dự thảo hiến pháp bao gồm
việc mở Luật cơ bản (trong đó có tuyên bố độc lập, mục tiêu nhà nước và cơ sở
nhà nước), nội dung hoặc nội dung của hiến pháp bao gồm 16 Chương, 37 điều, 4
điều chuyển tiếp, và 2 quy tắc bổ sung và giải thích về Hiến pháp [82].
Thứ ba, các nội dung liên quan đến quyền con người còn ở mức độ hạn chế. Các
điều khoản về nhân quyền trong Hiến pháp, từ Điều 28A đến Điều 28J (gồm 10 quyền)
thuộc chương 10 – Quyền con người của Hiến pháp. Có thể thấy, số lượng quyền được
hiến định còn khá ít ỏi và còn nhiều chỗ trống.
Thứ tư, về cơ chế bảo hiến, Hiến pháp có quy định về Tòa án Hiến pháp ở Điều
24C, nhưng các vấn đề liên quan đến Tòa án Hiến pháp chưa được tách riêng mà chúng
được xếp vào chương 8A – Ban Kiểm toán Nhà nước. Các quy định về Tòa án Hiến pháp
và cơ cấu tòa án (với 9 Thẩm phán) đã được quy định, song trên thực tế, Tòa án Hiến
pháp năm 1945 chưa được thực hiện nhiệm vụ bảo hiến của mình trên thực tế do tính lịch
sử chỉ tồn tại trong thời gian ngắn của Hiến pháp Indonesia 1945.
Qua những nội dung sơ lược trên, có thể thấy, Hiến pháp 1945 đã đưa ra các nền tảng
căn bản về đức tin, bộ máy nhà nước, tòa án, quyền con người,… Dù còn tồn tại những
điểm hạn chế, song có thể lý giải bởi hoàn cảnh lịch sử và tính chất đặc biệt của Hiến
pháp 1945. Những điểm hạn chế đó sẽ được sửa đổi dần trong những bản Hiến pháp của
Indonesia về sau.
2.2.3.2. Hiến pháp RIS (27/12/1949 – 17/8/1950)
Về hoàn cảnh lịch sử:
Quốc gia Indonesia độc lập tiếp tục bị phá hoại bởi những người Hà Lan muốn
giành lại Indonesia. Trận chiến bảo vệ nền độc lập của Indonesia xảy ra ở hầu hết các khu
vực. Đỉnh cao của cuộc xâm lược Milter đầu tiên của Hà Lan vào năm 1947 và Cuộc xâm
lược quân sự II của Hà Lan vào năm 1948. Hai thỏa thuận tiếp theo, đó là Thỏa thuận
Linggarjati và Thỏa thuận Renville, tiếp tục bị vi phạm. Liên Hợp Quốc bước vào và cuối
cùng đã tổ chức Hội nghị Bàn tròn (KMB) vào ngày 23 tháng 8 năm 1949 cho đến ngày
2 tháng 11 năm 1949 tại Den Hag, Hà Lan. KMB có sự tham dự của đại diện đến từ
Indonesia do Mohammad Hatta, đại diện của Nhà nước bù nhìn Hà Lan, Sultan Hamid II,
một đại diện từ Hà Lan do Mr. Van Brussven và từ Liên Hợp Quốc do Crittchlay lãnh
đạo.
Các kết quả KMB chính là:
(1) Thành lập Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ (RIS)
(2) Đệ trình chủ quyền cho Nhà nước Cộng hòa Indonesia Hoa Kỳ
(3) Thành lập Liên minh giữa Vương quốc Hà Lan và Cộng hòa Indonesia Hoa
Kỳ.
Với việc thành lập RIS, điều đó có nghĩa là Hiến pháp năm 1945 sẽ tự động vô
hiệu. Vì vậy, nhân dịp này, Hiến pháp RIS cũng được soạn thảo. Hiến pháp RIS được
thực hiện bởi đại diện của phái đoàn Indonesia và đại diện của các nước bù nhìn được
thực hiện ở Hà Lan. Hiến pháp RIS này đã chính thức được ban hành kể từ khi chuyển
giao chủ quyền cho RIS, ngày 27 tháng 12 năm 1949 [82].
Về nội dung, Hiến pháp RIS đã có những thay đổi so với Hiến pháp 1945 ở các
điểm:
Thứ nhất, Indonesia biến thành một quốc gia liên bang (thay vì đơn nhất như Hiến
pháp 1945), có quyền lực ở các bang. Các bang là Cộng hòa Indonesia (bao gồm Java và
Sumatra), Đông Indonesia, Pasundan, Đông Java, Madura, Đông Sumatra và Nam
Sumatra.
Thứ hai, việc giải thể RIS vẫn được lãnh đạo bởi một tổng thống, cụ thể là Tổng
thống Soekarno. Nhưng tổng thống chỉ đóng vai trò là người đứng đầu nhà nước, không
phải là người đứng đầu chính phủ. Người đứng đầu chính phủ được lãnh đạo bởi thủ
tướng chịu trách nhiệm trước Hạ viện. Nó có nghĩa là tại thời điểm này nội các nghị viện
cũng được áp dụng [92].
Tóm lại, do yếu tố lịch sử, Hiến pháp RIS đã ra đời và dựa trên phần lớn nội dung
của Hiến pháp 1945 của Indonesia. Tuy nhiên, Hiến pháp RIS đã thu hẹp quyền của Tổng
thống, Nghị viện đã hoạt động chính thức, hình thức nhà nước Indonesia đã không còn là
nhà nước đơn nhất, đó là những điểm mới đáng chú ý của Hiến pháp Indonesia. Nhưng
Hiến pháp RIS vẫn chưa thể giải quyết được hết vấn đề liên quan đến quyền con người
và cơ chế bảo hiến từ Hiến pháp 1945.
2.2.3.3. Hiến pháp 1950 (17/8/1950 – 5/7/1959)
Về bối cảnh lịch sử:
Sau khi Hiến pháp RIS được ban hành và áp dụng, người ta nhận ra người dân
Indonesia yêu thích Cộng hòa Thống nhất Indonesia (NKRI) hơn là nhà nước liên bang
như RIS tuyên bố. Việc áp dụng Hiến pháp 1949 trở nên mờ nhạt, cuối cùng, đến đến
năm 1950, tất cả các tiểu bang đã đồng ý quay trở lại NKRI. Vào ngày 17 tháng 8 năm
1950, đất nước liên bang theo Hiến pháp RIS không còn tồn tại trên bản đồ thế giới.
Về nội dung:
Thứ nhất, hiến pháp năm 1950 đã được soạn thảo và áp dụng tạm thời theo tên của
nó. Một hiến pháp mới sẽ được soạn thảo và soạn thảo càng sớm càng tốt bởi Quốc hội
lập hiến được hình thành dựa trên kết quả của cuộc tổng tuyển cử năm 1955 [88].
Thứ hai, trong Hiến pháp năm 1950, nhà nước đã trở lại hình thức của một nhà
nước đơn nhất. Tổng thống đóng vai trò là nguyên thủ quốc gia có nhiệm vụ không thể
tranh cãi. Tổng thống không chịu trách nhiệm cho bất cứ ai và bất kỳ tổ chức nào. Người
đứng đầu chính phủ vẫn do thủ tướng nắm giữ với hệ thống nội các nghị viện [99].
2.2.3.4. Hiến pháp năm 1945 của hệ thống chính quyền trật tự cũ (ngày 5
tháng 7 năm 1959 - 1965)
Về bối cảnh lịch sử:
Xuất phát từ sự phát triển có phần chững lại và thụt lùi. Với áp lực từ các bên khác
nhau, Tổng thống Indonesia lúc bấy giờ đã ban hành Nghị định của Tổng thống ngày 5
tháng 7 năm 1959. Cốt lõi của sắc lệnh là 3, cụ thể là:
(1) Quốc hội lập hiến bị giải tán
(2) Quay trở lại Hiến pháp năm 1945 cho tất cả người Indonesia và tuyên bố rằng
Hiến pháp năm 1945 không còn hiệu lực
(3) Thành lập Hội đồng tư vấn nhân dân lâm thời, có các thành viên bao gồm các
thành viên của DPRS cộng với các đại biểu khu vực và nhóm. Ngoài ra, Hội
đồng tư vấn tối cao tạm thời cũng được thành lập.
(4) Mặc dù nhà nước đã trở lại Hiến pháp năm 1945, nhưng trong quá trình thực
thi, nó vẫn còn xa hiến pháp. Nhiều sai lệch so với Hiến pháp năm 1945. Trong
số những sai lệch so với hiến pháp , những sai lệch này là:
(5) Sự hình thành của MPR, DPR và DPA vẫn chưa được thiết lập theo Hiến pháp
năm 1945. Tất cả các tổ chức được thành lập vẫn chỉ là tạm thời. Vì vậy, nhiệm
vụ vẫn chưa rõ ràng.
(6) Tổng thống với tư cách là người nắm quyền hành pháp và lập pháp (với DPR)
có thể đưa ra luật mà không cần sự chấp thuận của DPR.
(7) MPRS đã có bài phát biểu của tổng thống vào ngày 17 tháng 8 năm 1959 với
tựa đề "Tái khám phá cuộc cách mạng của chúng ta" được biết đến như là
Tuyên ngôn chính trị của Cộng hòa Indonesia (Manipol), trở thành Nguyên tắc
chính sách nhà nước vĩnh viễn (GBHN).
Về nội dung:
Thứ nhất, các chỉ đạo của Tổng thống đã được thực thi làm thay đổi diện mạo Hiến
pháp, bởi dù đã thu hẹp quyền của Tổng thống trong Hiến pháp RIS và Hiến pháp 1950,
nhưng Tổng thống vẫn còn quyền rất lớn với lập pháp và các cơ quan Nhà nước. Cụ thể,
năm 1960, do DPRS không phê duyệt dự thảo ngân sách do chính phủ đề xuất, Tổng
thống đã giải tán nó và thay thế bằng Dân chủ Hội đồng Nhân dân Gotong Royong (DPR-
GR)
Thứ hai, ngay lập tức, MPRS đã đưa ra quyết định biến Tổng thống Sukarno trở
thành tổng thống trọn đời. Các nhà lãnh đạo của các tổ chức nhà nước được làm bộ trưởng
và tổng thống trong khi làm chủ tịch của DPAS.
Thứ ba, hệ quả của việc Tổng thống nắm trong tay quá nhiều quyền dẫn đến tình
trạng độc quyền của Tổng thống. Tình trạng của đất nước ngày càng tồi tệ và lên đến đỉnh
điểm với cuộc nổi loạn PKI G30S năm 1965 [99].
2.2.3.5. Hiến pháp năm 1945 của Chính phủ trật tự mới (21/5/1998)
Về bối cảnh lịch sử:
Nhờ sự cảnh giác của Lực lượng Vũ trang Indonesia (ABRI) và người dân, cuộc
nổi dậy G30S PKI đã bị hủy hoại. Tổng thống Sukarno đã ban hành Thư Chính phủ Mười
một tháng ba (Supersemar) cho Trung tướng Suharto. Với việc phát hành Supersemar,
chính phủ Trật tự cũ đã kết thúc. Chính phủ Trật tự mới đã quyết tâm thực hiện nguyên
tắc Pancasila và Hiến pháp năm 1945 một cách triệt để
Về nội dung:
Ban đầu, chính phủ trật tự mới đã thực thi một chính phủ định hướng phát triển
dựa trên nguyên tắc Pancasila và Hiến pháp năm 1945. Ngay sau đó, GBHN được thành
lập bởi chức năng MPR làm cơ sở để thực hiện phát triển. Sau một thời gian, thực tiễn
nảy sinh những điểm mới so với Hiến pháp năm 1945. Cụ thể là:
(1) Sự tập trung quyền lực nằm trong tay tổng thống, do đó tham nhũng, thông
đồng và Nepotism (KKN) lan tràn rộng rãi, bất bình đẳng xã hội ngày càng lan
rộng, nợ nước ngoài ngày càng phình to và khủng hoảng đa chiều xảy ra ở
khắp mọi nơi. Các thể chế nhà nước hiện có được kiểm soát bởi Tổng thống.
(2) Hạn chế quyền chính trị của nhân dân. Điều này có thể được nhìn thấy bởi số
lượng chức năng hạn chế của các đảng chính trị (PPP, Golkar, PDIP) và tự do
báo chí bị xiềng xích.
Sau cùng, thời kỳ trật tự mới kết thúc với sự từ chức của Tổng thống Soeharto vào
ngày 21 tháng 5 năm 1998 sau một cuộc biểu tình lớn được các sinh viên tiên phong và
yêu cầu cải cách trong tất cả các lĩnh vực [53].
2.2.3.6. Hiến pháp cải cách năm 1945 (1998 - 1999)
Về bối cảnh lịch sử:
Hiến pháp từng có hiệu lực ở Indonesia bước vào thời kỳ cải cách trong tất cả các
lĩnh vực với sự chấm dứt của sự cai trị của Tổng thống Soeharto. Trong thời gian này, có
nhiều yêu cầu thay đổi Hiến pháp năm 1945. Hiến pháp năm 1945 được coi là có nhiều
điểm yếu, bao gồm:
(1) Cơ cấu quyền lực trong Hiến pháp năm 1945 đặt quyền lực của Tổng thống rất
lớn. Quyền lực của Tổng thống bao gồm quyền hành pháp, lập pháp và
CHDCND Triều Tiên, và có các quyền theo hiến pháp đặc biệt, như đưa ra sự
khoan hồng , ân xá , bãi bỏ và cải tạo . Ngoài ra, giới hạn thời gian của Tổng
thống cũng trở nên không rõ ràng với dòng chữ "năm năm và có thể được bầu
lại".
(2) Chức năng và nhiệm vụ giữa các tổ chức nhà nước không cân bằng. Ví dụ,
không có bài viết nào đề cập đến luật sẽ như thế nào nếu Tổng thống từ chối
phê chuẩn Dự thảo Luật do DPR đề xuất.
(3) Quyền của công dân trong Hiến pháp năm 1945 không rõ ràng. Chẳng hạn như
liên quan đến quyền tự do lập hội, thu thập và đưa ra ý kiến cả bằng miệng và
bằng văn bản được coi là không khả thi vì Luật chưa được hình thành. Kết quả
là, những hạn chế về tự do báo chí đã từng xảy ra.
Trước khi sửa đổi Hiến pháp năm 1945 các bên đã thống nhất một số điều:
(1) Không thay đổi Lời nói đầu của Hiến pháp năm 1945
(2) Nhà nước Indonesia vẫn ở dạng một nhà nước đơn nhất với nội các tổng thống
(3) Hiến pháp sửa đổi năm 1945 sẽ không còn sử dụng giải thích của Hiến pháp
năm 1945
(4) Cấu trúc của tổ chức nhà nước trước và sau khi sửa đổi được thực hiện bằng
phụ lục [88].
2.2.3.7. Hiến pháp năm 1945 sửa đổi 1999, 2000,
Lần sửa đổi đầu tiên của Hiến pháp năm 1945 (1999): là lần đầu tiên trong Phiên
họp chung của MPR vào ngày 19/10/1999. Sửa đổi này bao gồm 9 điều và 16 câu. Chín
(9) điều được sửa đổi so với Hiến pháp năm 1945 là: Điều 5, Điều 7, Điều 9, Điều 13,
Điều 14, Điều 15, Điều 17, Điều 20, và Điều 21. Bản chất của sửa đổi đầu tiên là để hạn
chế lại thẩm quyền điều hành quá lớn trước đây của Tổng thống và Phó Tổng thống nhằm
tránh rơi lại vào giai đoạn độc tài Sukarno. Điều này được thấy trong việc sửa đổi Điều
7, điều chỉnh nhiệm kỳ của Tổng thống và Phó Tổng thống bị giới hạn ngắn lại. Không
chỉ vậy, trong Điều 5, trong đó tổng thống không còn quyền quy định pháp luật một cách
hợp pháp bởi và thay vào đó là thẩm quyền của Hạ Viện [98].
Bản sửa đổi thứ hai của Hiến pháp năm 1945 (2000): được thành lập tại Phiên họp
chung của MPR, ngày 18/8/2000. Có 27 điều được sửa đổi trong 7 chương. Các chương
sửa đổi, cụ thể là Chương của Chính phủ khu vực, Hội đồng đại diện khu vực, Lãnh thổ
nhà nước, Vị trí của công dân trong nước và dân số, Cơ sở của quyền con người, Luật
quốc phòng và an ninh, và Cờ, Ngôn ngữ, Quốc gia và Quốc ca [88]. Hiến pháp đã đưa
vào Điều 18, Điều 18A, Điều 18B, Điều 19, Điều 20, Điều 20A, Điều 22A, Điều 22B,
Điều 25E, Điều 26, Điều 27, Điều 28A, Điều 28B, Điều 28C, Điều 28D, Điều 28E, 28F,
Điều 28G, Điều 28H, Điều 28I, Điều 28J, Điều 30, Điều 36B, và Điều 36C. Một trong
những điểm nhấn ở bộ máy chính quyền là việc phê chuẩn Điều 18 với sự công nhận
quyền tự trị khu vực và chính quyền khu vực sẽ được bầu thông qua cuộc bầu cử khu vực
(pilkada) và được tham gia cuộc bầu cử quốc hội. Ngoài ra, lần sửa đổi này cũng tạo thành
một cột mốc quan trọng cho định nghĩa về quyền con người trong cơ sở pháp lý của
Indonesia, cụ thể là việc mở rộng Điều 28 [100].
Hiến pháp năm 1945 sửa đổi lần ba (2001): Bản sửa đổi sửa đổi thứ ba năm 1945
được quy định vào ngày 9/11/2001. Các sửa đổi bao gồm 23 điều trong 7 chương. Các
chương được sửa đổi là: Chương 1 - Hình thức và Chủ quyền, Chương 2 - MPR, Chương
3 - Quyền lực của Chính phủ Nhà nước, Chương 5 - Bộ Ngoại giao, Chương 7A - DPR,
Chương 6 - Tổng tuyển cử, và Chương 8A BPK [53]. Thay đổi chính trong sửa đổi thứ
ba là cuộc bầu cử tổng thống không còn thông qua MPR, mà trực tiếp thông qua người
dân (Điều 1, Điều 6A). Điều khiến MPR không còn là tổ chức cao nhất. Hiến pháp cũng
quy định thủ tục “đàn hạch” tổng thống. Thủ tục “đàn hạch” được quan tâm đặc biệt sau
vụ việc Tổng thống Abdurrahman Wahid vào ngày 23/7/2001 đã bị phế truất với một cơ
chế khá dễ dàng, người ta bắt đầu sợ hãi điều đó có thể gây ra sự bất ổn chính trị. Việc
sửa đổi dẫn đến Điều 24 cũng bắt buộc phải thành lập Tòa án Hiến pháp và Ủy ban Tư
pháp [83].
Sửa đổi Hiến pháp năm 1945 lần thứ tư (2002): Bản sửa đổi thứ tư của Hiến pháp
năm 1945 đã được quy định tại Phiên họp chung của MPR, ngày 10/8/2002. Trong lần
sửa đổi thứ tư này, nó quy định một số điều, cụ thể là:
(1) Sửa đổi Hiến pháp năm 1945 là Hiến pháp năm 1945 được thành lập vào ngày
18/8/1945.
(2) Việc sửa đổi đã được quyết định tại Hội nghị toàn thể MPR RI lần thứ 9, ngày
18/8/2000 và có hiệu lực vào ngày quy định.
(3) DPA có trong Chương IV đã bị bãi bỏ và sửa đổi tại Điều 16, sau đó được đưa
vào Chương III liên quan đến Quyền lực của Chính phủ Nhà nước.
(4) Chủ quyền bên ngoài và bên trong được nhà nước cấp cho nhà nước liên bang.
Trao chủ quyền hoặc đầu hàng quyền lực đó với giới hạn hạn. Điều này cũng
xác nhận rằng nhà nước không có chủ quyền, nhưng quyền lực thực sự vẫn
thuộc sở hữu của nhà nước [88].
Các điều: Điều 2, Điều 6A, Điều 8, Điều 11, Điều 16, Điều 23B, Điều 23D, Điều
24, Điều 31, Điều 32 của Hiến pháp được sửa đổi, đồng thời bổ sung bổ sung Điều 33,
Điều 34 và Điều 37. Thay đổi chính trong sửa đổi lần này là thành lập Hội đồng đại diện
khu vực (DPD) với tư cách là một thành phần trong MPR và được bầu thông qua bầu cử.
Việc sửa đổi đã bãi bỏ tổ chức DPA. Ngoài ra, cũng có những điều khoản quy định việc
thực hiện nhiệm vụ đã được ghi trong Hiến pháp năm 1945 liên quan đến phúc lợi của
mọi người như giáo dục, văn hóa và y tế [83].
Trải qua những thay đổi lịch sử, Hiến pháp Indonesia nhiều lần được sửa đổi với
những nội dung mới khác nhau. Dù có những mục tiêu khác nhau và cách thức khác nhau,
nhưng mỗi giai đoạn Hiến pháp đều dựa trên nền tảng Hiến pháp 1945 và thay đổi theo
hướng tăng cường Nhân quyền và sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong Hiến pháp. Bộ máy
Nhà nước có sự phân chia và giới hạn quyền lực rõ ràng hơn.
2.2.4. Nội dung Hiến pháp Indonesia hiện hành
Hiến pháp Indonesia hiện hành là Hiến pháp 1945 sửa đổi lần thứ tư năm 2002.
Cũng giống như các bản Hiến pháp sửa đổi trước đó, Hiến pháp 1945 (sửa đổi 2002) vừa
có điểm kế thừa Hiến pháp 1945 (18/8/1945) vừa có những điểm mới khác biệt. Việc nhìn
nhận, đánh giá Hiến pháp hiện hành sẽ giúp bức tranh về lịch sử và xu hướng thay đổi
Hiến pháp tại Indonesia trở nên rõ ràng hơn.
2.2.4.1. Khái quát chung
Về hình thức:
Hiến pháp Indonesia là bản Hiến pháp thành văn. So với Hiến pháp được ban hành
1945, Hiến pháp sửa đổi 2002 đã có sự phong phú, đa dạng hơn trong các lĩnh vực quy
định.
Về cấu trúc:
Mức độ chi tiết và kỹ thuật hợp hất các điều khoản. Hiến pháp Indonesia hiện hành
có cấu trúc khá rõ ràng chia ra làm các chương với 16 chương cơ bản theo Hiến pháp
được ban hành 1945. Hiến pháp Indonesia thuộc nhóm Hiến pháp có mức độ chi tiết hóa
thấp (bên cạnh Lào và Campuchia) [11]. Sau quá trình sửa đổi, từ Hiến pháp ngắn nhất
thế giới, Hiến pháp hiện hành của Indonesia trở thành Hiến pháp có độ dài vừa phải.
Về tính có hiệu lực:
Trong Hiến pháp Indonesia không có dòng nào quy định rõ ràng về hiệu lực của
Hiến pháp. Tuy vậy, có những điều khoản gián tiếp khẳng định tầm quan trọng của Hiến
pháp. Đồng thời, có quy định không cho phép các văn bản pháp luật do các cơ quan Nhà
nước ban hành hoặc công nhận không được trái với Hiến pháp. Ví dụ, Điều 24C của Hiến
pháp Indonesia hiện hành: “Tòa án Hiến pháp có thẩm quyền ra phán quyết cuối cùng
đối với các vụ việc sơ thẩm đồng thời chung thẩm liên quan đến việc kiểm tra sự phù hợp
của các đạo luật Hiến pháp.” Quy định tính hiệu lực Hiến pháp Indonesia vẫn chưa tương
xứng với tầm quan trọng và vai trò của Hiến pháp trong Nhà nước và xã hội [96].
2.2.4.2. Lời nói đầu
Về cơ bản Lời nói đầu của Hiến pháp hiện hành so với Hiến pháp ban hành 1945
không có quá nhiều điểm khác biệt. Nội dung đầu tiên lời nói đầu nhắc đến là nền tảng
phát triển đất nước Indonesia độc lập , tự do, thống nhất, chủ quyền, bình đẳng; đó là dựa
trên giá trị độc lập, dân chủ và cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Nội dung thứ hai
được nhắc đến là mục đích ban hành Hiến pháp Indonesia với việc thiết lập Chính phủ,
bảo vệ Nhà nước, quyền con người. Đồng thời nhấn mạnh “niềm tin vào thánh Allah”
[11]. Lời nói đầu ngắn gọn đã nêu được những mục tiêu và mục đích của Hiến pháp. Có
bốn giá trị triết học được coi là đáng chú ý trong Lời nói đầu, đó là giá trị của (1) sự bình
đẳng về mức độ giữa tất cả các quốc gia trên thế giới và (2) nguyên tắc nhân đạo, giá trị
(3) công lý (công lý) dựa trên (4) giá trị của Thiên Chúa toàn năng, đó là niềm tin rằng
thông minh như con người, không phải lúc nào cũng như mọi thứ họ có thể làm, mà không
cần sự ban phước của thánh Allah toàn năng [107].
2.2.4.3. Chế độ Nhà nước
Theo Hiến pháp hiện hành, Indonesia là “Nhà nước đơn nhất với hình thức chính
thể Cộng hòa. Chủ quyền thuộc về nhân dân và được thực hiện căn cứ vào Hiến pháp.”
(Điều 1). Có thể thấy, trong lịch sử Hiến pháp Indonesia, chỉ có Hiến pháp RIS là nêu
hình thức Nhà nước liên bang. Hiến pháp có nhắc tới chế độ Nhà nước, nhưng còn mức
độ đơn giản, không hề nêu rõ nhiệm vụ của Nhà nước. Các quy định không chi tiết và cụ
thể [11].
2.2.4.4. Các quy định về nhân quyền
So với bản Hiến pháp 1945, số lượng các quy định về Quyền con người trong Hiến
pháp hiện hành đã tăng lên. Ngoài việc quy định riêng tại một chương (như Hiến pháp
1945), Hiến pháp Indonesia còn đưa quyền con người vào một số điều khoản thuộc
chương 10 – Công dân và cư trú [11]. Từ những quyền ban đầu trong Hiến pháp 1945,
Indonesia gần như đã đưa toàn bộ các quyền được công nhận trong Công ước về Quyền
con người vào bản Hiến pháp hiện hành. Đây là một trong những xu hướng nổi bật của
quá trình thay đổi của Hiến pháp Indonesia để cập nhật và bắt kịp xu thế thời đại. Xu
hướng này sẽ được phân tích kỹ ở Chương 3 – Xu hướng và những vấn đề đặt ra của khóa
luận.
2.2.4.5. Chính thể và bộ máy tổ chức nhà nước
Về chính thể, Hiến pháp quy định Indonesia là Nhà nước theo chính thể Cộng hòa
Tổng thống. Đây là hình thức chính thể được Indonesia xác định phát triển theo ngay từ
thời điểm mới giành độc lập. Đáng tiếc, Tổng thống đầu tiên của Indonesia vì lạm dụng
quyền lực đã khiến đất nước lâm vào cảnh độc tài suốt 22 năm. Các Hiến pháp về sau đã
có sự thay đổi, giới hạn lại quyền lực của Tổng thống, điều này cũng được thể hiện trong
Hiến pháp hiện hành.
Về bộ máy Nhà nước,
(1) Tổng thống là nguyên thủ quốc gia, vừa là người trực tiếp thi hành quyền hành
pháp. Tổng thống do người dân trực tiếp bầu ra, có nhiệm kỳ 5 năm và có thể
giữ chức vụ tối đa 2 nhiệm kỳ. Tổng thống và Phó Tổng thống phải tranh cử
theo đảng phái và theo cặp, và sẽ trúng cử nếu đạt tỷ lệ phiếu từ 20% ở bất kỳ
tỉnh nào. Tổng thống ngoài các quyền mang tính nghi lễ, ngoại giao, Tổng
thống còn có quyền phủ quyết với các đạo luật do cơ quan lập pháp thông qua.
Đối với lập pháp, Hiến pháp Indonesia quy định Tổng thống không được phép
giải tán cơ quan lập pháp. Đồng thời, Hiến pháp cũng quy định rõ ràng thủ tục
đàn hạch với Tổng thống.
(2) Cơ quan lập pháp của Indonesia là Hội đồng đại diện nhân dân. Trên thực tế,
công việc lập pháp là phép cộng giữa Tổng thống và Hội đồng đại diện nhân
dân. Đôi khi Tổng thống còn co vẻ “mạnh” hơn vì có thể trình dự án Luật và
nắm trong tay quyền lập quy [11]. Hội đồng đại diện nhân dân được thành lập
qua con đường bầu cử, họp ít nhất 1 lần mỗi năm. Hội đồng đại diện nhân dân
kết hợp với Hội đồng tư vấn nhân dân trở thành một cơ quan đặc biệt trong bộ
máy nhà nước Indonesia.
(3) Cơ quan tư pháp của Indonesia theo Hiến pháp hiện hành gồm Tòa án Tối cao
và Tòa cấp dưới. Đặc biệt, Indonesia còn có Tòa Hiến pháp trong cơ cấu của
mình. Hiến pháp hầu như chỉ quy định cụ thể các vấn đề thuộc Tòa án Tối cao,
Tòa Hiến pháp, còn Tòa án cấp dưới được quy định và điều chỉnh trong các
văn bản có liên quan. Không chỉ vậy, Indonesia còn có Tòa án Nhân quyền
được thành lập theo Đạo luật số 26 năm 2000 về Tòa án Nhân quyền. Đạo luật
công nhận Tòa án Nhân quyền Ad Hoc có thẩm quyền đặc biệt để xử lý vi
phạm thô bạo về quyền con người diễn ra trước khi ban hành Đạo luật số 26
năm 2000. Việc thành lập Tòa án này phải được tiến hành theo khuyến nghị
đặc biêt của quốc hội và được thành lập theo Nghị định của Tổng thống [44].
2.2.4.6. Cơ chế sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và các thiết chế hiến định độc lập
Việc sửa đổi bổ sung được quy định trong Hiến pháp Indonesia khá bó hẹp, được
ví như “công việc riêng” của Hội đồng tư vấn nhân dân (bao gồm Hội đồng đại diện nhân
dân và Hội đồng đại diện địa phương đã nhắc đến ở trên). Nhóm ít nhất 1/3 người đến từ
Hội đồng tư vấn nhân dân có thể bắt đầu chu trình sửa đổi Hiến pháp. Hiến pháp có thể
sửa đổi các nội dung, tuy nhiên, khoản 5 điều 37 Hiến pháp hiện hành với tuyên bố về:
Hình thức nhà nước Cộng hòa đơn nhất là không được thay đổi.
Hiến pháp Indonesia trao quyền bảo hiến cho cơ quan độc lập – Tòa án Hiến pháp.
Theo Hiến pháp, Tòa án Hiến pháp tại Indonesia có các thẩm quyền sau: xét xử các vụ
việc liên quan đến tính hợp hiến của các luật với Hiến pháp, tranh chấp vụ việc về nhiệm
vụ các cơ quan, về vấn đề bầu cử, đưa ra phán quyết về các quyết định vi hiến của Hội
đồng đại diện nhân dân, hành vi vi hiến của Tổng thống hoặc Phó Tổng thống [44]. Hiến
pháp cũng ghi nhận rất rõ ràng các quy định nhằm đảm bảo Tòa án Hiến pháp hoạt động
một các độc lập với việc tuyển chọn 9 Thẩm phán có tiêu chuẩn gắt gao. Điểm trừ của
Hiến pháp hiện hành là chưa quy định rõ ràng quy trình và nói rõ ai là người khởi động
mà chỉ nói sẽ do Hội đồng đại diện Nhân dân quy định.
Ngoài các cơ quan bộ máy Nhà nước đã được Hiến pháp kể tên, Indonesia còn tổ chức và
thành lập các cơ quan kiểm toán độc lập nhằm hỗ trợ và thực hiện hiệu quả các công việc
được quy định trong Hiến pháp [44].
2.2.4.7. Chính quyền địa phương
Hiến pháp Indonesia không có quy định chi tiết về chính quyền địa phương. Cộng
hòa Indonesia chia thành các tỉnh, huyện, thành phố [97]. Và mỗi tỉnh, huyện, thành phố
có Hội đồng đại diện địa phương của riêng mình. Tuy vậy, Hiến pháp Indonesia chỉ có 4
điều liên quan đến chính quyền địa phương (Điều 1, 3, 4, 18) nhưng không nói rõ đến
mối quan hệ giữa các cơ quan đại diện dẫn đến những cách lý giải khác nhau trên thực tế.
Như vậy, có thể thấy từ Hiến pháp ban đầu năm 1945 đến Hiến pháp hiện hành,
Indonesia đã có nhiều thay đổi, nổi bật là quy định rõ ràng về bộ máy nhà nước theo
hướng phân quyền hơn, hạn chế quyền Tổng thống, nâng cao quyền con người, và tăng
cường cơ chế bảo hiến.
2.2.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp
Việc quy định của Hiến pháp hiện hành Indonesia trên lý thuyết có nhiều thay đổi
như vậy, nhưng từ lý thuyết đến thực tiễn luôn có một khoảng cách nhất định. Thực tiễn
thi hành Hiến pháp Indonesia ra sao chính là thước đo việc áp dụng và tôn trọng Hiến
pháp, cũng như vai trò của Hiến pháp với các nguồn pháp luật khác cùng tồn tại. Thực
tiễn thi hành Hiến pháp Indonesia sẽ được nhìn nhận chủ yếu thông qua các vụ việc thực
tiêu biểu và phán quyết của Tòa án.
2.2.5.1. Thực tiễn thi hành quyền con người
Tờ báo Anh quốc The Economist từng có bài viết về Indonesia với tựa đề ''Niềm
ngạc nhiên đến từ Indonesia'', để nói tới nền dân chủ Indonesia trong không khí bầu cử
theo Hiến pháp. Vào lúc Indonesia tổ chức cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội lần thứ ba,
báo chí tại Indonesia hiện rất sôi động và tự do, không bị ảnh hưởng của loại luật giống
như luật cấm như Thái Lan, hay bị rào cản trong cách lý giải gò bó về tội phỉ báng như
tại Singapore hay Malaysia. Không giống như quân đội Thái Lan đã trở lại chính trường
với cuộc đảo chính vào năm 2006, quân đội Indonesia vẫn ở yên trong doanh trại của
mình. Và cũng không giống như Philippines, nơi mà các cuộc bầu cử bị súng đạn, những
kẻ giết mướn hay vàng bạc chi phối, với hàng chục vụ ám sát, Indonesia được hưởng một
bầu không khí an lành hơn rất nhiều [25]. Quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí được
được thực hiện và tôn trọng.
Một dẫn chứng khác về việc đảm bảo quyền con người theo Hiến pháp là việc
Quốc hội đã chấp nhận một số yêu cầu của người dân trong lần sửa đổi Hiến pháp sau
một cuộc biểu tình quy mô ngàn người yêu cầu thay đổi hiến pháp cho phép người dân
trực tiếp bầu ra tổng thống và bỏ đi 38 ghế dành cho các đại diện của lực lượng an ninh
nước này [17]. Và chỉ 4 ngày sau, Quốc hội Indonesia (MPR) đã thông qua đạo luật sửa
đổi hiến pháp quan trọng, theo đó người dân Indonesia lần đầu tiên sẽ được trực tiếp bầu
chọn tổng thống và phó tổng thống nước này kể từ năm 2004. Đồng thời, trong phiên họp
thường niên kéo dài 10 ngày này, MPR cũng thông qua thay đổi rằng giới quân sự và
cảnh sát sẽ không còn có ghế đại diện nào trong Quốc hội từ năm 2004 [18]. Không chỉ
quyền tự do ngôn luận, quyền biểu tình được đảm bảo, thông qua cuộc biểu tình cùng
quyết định thay đổi Hiến pháp, quyền bầu cử của người dân và sự công bằng trong Quốc
hội được đảm bảo hơn. Nó cho thấy sự tôn trọng và lắng nghe người dân đến từ cơ quan
lập pháp cao nhất Indonesia.
Trường hợp thứ ba đáng kể, Toà án Hiến pháp của Indonesia đã bác bỏ một luật
từ chối sự công nhận và quyền hợp pháp của các tín đồ tôn giáo bản địa, đây được đánh
giá là sự tiến bộ bất ngờ đối với tự do tôn giáo ở quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế
giới. Phán quyết được đưa ra vào 7/11 với sự nhất trí của toàn bộ 9 Thẩm phán với lý do:
"Các điều luật này sẽ không có hiệu lực về mặt pháp lý vì chúng mâu thuẫn với Hiến
pháp" (Thẩm phán phiên tòa Arief Hidayat) và trái với quyền công bằng được Hiến pháp
Indonesia ghi nhận. Theo đó, đạo luật yêu cầu tín đồ tôn giáo không nằm trong sáu tôn
giáo được chính quyền Indonesia công nhận (Hồi giáo, Tin lành, Công giáo, Phật giáo,
Ấn Độ giáo và Khổng giáo) sẽ không được thực hiện một số quyền: quyền kết hôn, quyền
sở hữu đất, nhà ở, không được điền đầy đủ thông tin trên giấy tờ,… sẽ hoàn toàn được
xóa bỏ. Quyết định này là một chiến thắng bất ngờ cho những người ôn hòa. Phán quyết
của Tòa án vừa thực hiện nhiệm vụ bảo hiến, vừa đem lại công bằng và sự bình đẳng cho
người tôn giáo thiểu số tại Indonesia [90].
Indonesia cũng từng có cuộc thảo luận gay gắt về “Dự thảo Luật về xóa bỏ bạo lực
tình dục” nhằm mục đích ngăn chặn và ngăn chặn sự xuất hiện của bạo lực tình dục trong
đó bao gồm cưỡng hiếp, mại dâm cưỡng bức, nô lệ và lạm dụng tình dục trong các hộ gia
đình, tại nơi làm việc và trong không gian công cộng vào năm 2016 để phản ứng với vụ
cưỡng hiếp cũng như vụ ám sát một học sinh trung học cơ sở 13 tuổi tên là Yuyun bởi 14
thanh niên ở Bengkulu. Dù có nhiều ý kiến trái chiều và tranh luận đến từ các phe đối lập,
song, không thể phụ nhận điều này cho thấy động thái của Chính phủ và Tòa án trong
việc đảm bảo và nâng cao quyền con người, bảo vệ phụ nữ, tại Indonesia [93].
Trong những năm gần đây, trong xu thế phát triển về quyền con người, Indonesia
cũng thể hiện nỗ lực thực hiện và đảm bảo quyền con người được ghi nhận trong Hiến
pháp. Bằng chứng là Ủy ban Quốc gia về Nhân quyền của Cộng hòa Indonesia (Komnas
HAM) đã được thành lập và biết đến như một trong những địa chỉ đáng tin cậy để người
dân tự bảo vệ chính mình trước những hành vi xâm hại đến quyền và lợi ích chính đáng.
2.2.5.2. Hoạt động của tòa án và cơ chế bảo hiến
Thứ nhất, Hiến pháp Indonesia dành một khoảng không gian nhất định cho việc
quy định về Tòa án và điều khoản để đảm bảo Tòa án hoạt động độc lập. Trên thực tế,
quy trình tuyển chọn Thẩm phán của Tòa án rất gắt gao với các tiêu chuẩn cơ bản như:
ứng viên phải có bằng cử nhân luật và phải thi đỗ khoá đào tạo tư pháp kéo dài khoảng
vài tháng,… Indonesia cũng thành lập Ủy ban Tư pháp giám sát hoạt động và hành vi của
các Thẩm phán ở tất cả các Tòa án Indonesia, kể cả Tòa án tối cao và Tòa án Hiến pháp,
như một phần của chức năng “bảo vệ danh dự, phẩm giá, và bảo đảm tư cách (tốt) của
Thẩm phán” [77]. Nỗ lực đảm bảo thực hiện các quy định trong Hiến pháp nhằm đảm bảo
Tòa án hoạt động độc lập được minh chứng bằng vụ việc Thẩm phán bị bắt hay xét xử
bởi những tội danh vi hiến, điển hình như vụ Thẩm phán Moechar với tội tham nhũng đã
bị sa thải.
Dù còn gặp nhiều khó khăn trong việc minh bạch hệ thống pháp lý, Tòa án Tối cao
mất thời gian nhiều hơn để công bố quyết định của mình so với Tòa án Hiến pháp, nhưng
Tòa án Tối cao cũng có vai trò và tầm quan trọng trong thi hành Hiến pháp và pháp luật
tại Indonesia [42, 208]. Thẩm quyền Tòa án Tối cao được quy định rõ ràng trong Hiến
pháp hiện hành (Điều 24C), Tòa án Tối cao đã vận hành trơn tru và thuận lợi hơn trên
thực tế các nhiệm vụ của mình so với các giai đoạn lịch sử trước đó của Indonesia.
Điểm đáng lưu tâm nhất là cơ quan độc lập thực thi nhiệm vụ bảo hiến theo Hiến
pháp Indonesia – Tòa án Hiến pháp. Có rất nhiều vụ việc cho thấy Tòa án Hiến pháp đã
thực hiện và đảm bảo khá tốt nhiệm vụ của mình.
(1) Tòa án Hiến pháp cũng từng tuyên bố rằng Luật số 27 năm 2004 liên quan đến
Ủy ban Sự thật và Hòa giải đã mâu thuẫn với Hiến pháp và đi đến quyết định
bãi bỏ Luật này. Trong quá trình thúc đẩy thành lập Ủy ban Sự thật và Hòa
giải (TRC) để xử lý các vi phạm nhân quyền trong quá khứ, dựa trên các Ủy
ban Sự thật và Hòa giải của Nam Phi, Argentina và Chile, Tòa án Hiến pháp
nhận được đơn yêu cầu xem xét lại tư pháp từ các nhóm NGO. Rõ ràng, Tòa
án Hiến pháp Indonesia đã dựa trên luật tối cao nhất của quốc gia – Luật Hiến
pháp để xem xét và đưa ra quyết định [91].
(2) Ngay khi vừa thành lập, Tòa án Hiến pháp đã thực hiện nhiệm vụ giải thích
Hiến pháp của mình, thông qua giải thích về khái niệm: “Hiến pháp” của Giáo
sư Jimly Asshiddiqie, Chánh án đầu tiên của Tòa Hiến pháp. Ông cho rằng
Hiến pháp thực hiện việc: “đảm bảo hoạt động các cơ quan Nhà nước là dân
chủ và hạn chế lạm quyền”, đồng thời “bảo vệ công dân khỏi sự lạm quyền
của các tổ chức nhà nước vi phạm các quyền cơ bản được bảo đảm bởi hiến
pháp” [42, 208]. Việc giải thích khái niệm cơ bản về Hiến pháp của Chánh án
đầu tiên cho thấy Tòa án Hiến pháp đã ý thức được tầm quan trọng xứng đáng
của mình, nó giúp các Thẩm phán có cái nhìn rõ ràng về công lý và thực thi
nhiệm vụ bảo hiến một cách tốt nhất sau những giai đoạn bất ổn, phát triển trồi
sụt của cơ quan hiến định độc lập này [72, 21].
(3) Tòa án Hiến pháp cũng từng ra quyết định về cuộc bầu cử tổng thống trực tiếp
thứ ba của Indonesia theo đúng Hiến pháp. Khi cả hai ứng cử viên Joko
Widodo và Prabowo Subianto cùng tuyên bố thắng cử sau khi kết quả kiểm
phiếu sơ bộ được công bố, người ta quan ngại về nguy cơ bất ổn chính trị tại
quốc gia Hồi giáo đông dân nhất thế giới và cũng là nền kinh tế lớn nhất Đông
Nam Á [23]. Tuy vậy, người dân vẫn tin tưởng vào sự làm việc sáng suốt của
Tòa án Hiến pháp, Thứ trưởng Bộ Luật pháp và Nhân quyền - Denny
Indrayana, nói: "Xét tới những tuyên bố thắng cử của cả hai ứng cử viên,
dường như khó tránh khỏi một trận chiến pháp lý tại Tòa án Hiến pháp... Uy
tín của Tòa án Hiến pháp, với tư cách là cơ quan quyết định cuối cùng đối với
kết của bầu cử tổng thống Indonesia, đang bị thách thức". Và phán quyết sau
đó của Tòa án Hiến pháp đã chứng tỏ Tòa án Hiến pháp vượt qua thách thức
và giành được sự tin tưởng của người dân. Chánh án tòa án Hiến pháp
Indonesia Hamdan Zoelva tuyên bố toàn bộ chín thẩm phán của Tòa bác bỏ
mọi khiếu nại của ứng cử viên Subianto và phán quyết của tòa là không thể
kháng cáo. Tòa án Hiến pháp Indonesia đã nhất trí ủng hộ kết quả cuộc bầu cử
tổng thống diễn ra tháng 7 vừa qua, điều này đồng nghĩa với việc ứng viên
Joko Widodo trở thành nhà lãnh đạo tiếp theo của nước này. Ứng viên về thứ
hai trong cuộc chạy đua này Prabowo Subianto tuyên bố chấp nhận kết luận
của Tòa án Hiến pháp. [22]
2.2.5.3. Ảnh hưởng của Hồi giáo với Hiến pháp
Như phần phân tích ở trước, qua các giai đoạn lịch sử khác nhau, dù có nhiều thay
đổi, song, ảnh hưởng Hồi giáo tại Indonesia không hề giảm sút, sự ảnh hưởng đó được
thể hiện ngay trong Hiến pháp. Với lời mở đầu của Hiến pháp cũng như Điều 29, Hiến
pháp Indonesia dù không tuyên bố quốc giáo, song đã cho thấy dấu vết lớn mạnh của Hồi
giáo tại quốc gia này.
(1) Ngược lại lịch sử, sẽ thấy Hồi giáo ảnh hưởng ngay trong quá trình thành lập Hiến
pháp. Hiến pháp đầu tiên 1945 của Indonesia được tạo thành do Ủy ban gồm 9
người, trong đó 8 người thuộc Hồi giáo [88]. Điều đó, thể hiện sự ảnh hưởng mạnh
mẽ của Hồi giáo tại Indonesia với lượng lớn người tham gia. Đồng thời cũng là
một trong số các nguyên nhân lý giải Hiến pháp Indonesia ngay từ bản đầu tiên đã
chịu ảnh hưởng tư tưởng Hồi giáo. Và tư tưởng đó tiếp tục được khẳng định qua
từng bản Hiến pháp.
(2) Lời nói đầu của Hiến pháp qua các thời kỳ cũng cho thấy rõ vị thế của Hồi giáo và
các tôn giáo khác trong Hiến pháp. Triết lý Pancasila phù hợp đức tin về tín ngưỡng
và sự sùng bái về các bậc tối cao [65, 16]. Điều này hoàn toàn phù hợp với giáo lý
Hồi giáo. Nó cho thấy có một mạch đập Hồi giáo chảy trong Hiến pháp Indonesia.
(3) Trong điều 29 đoạn (1), người ta giải thích rằng Nhà nước dựa trên thiên tính tối
cao. Điều này phù hợp với học thuyết của kinh Koran: "Hãy nói:" Ngài là Allah,
Đấng toàn năng ". Các quy định trong việc thực hiện các tôn giáo và tín ngưỡng
tương ứng của họ có trong Hiến pháp năm 1945 đề cập đến sự công nhận sự tồn
tại của một Thiên Chúa tối thượng. Do đó, công dân Indonesia có thể tự do xác
định cách sống của mình với mối quan hệ với Thiên Chúa, theo tôn giáo hoặc tín
ngưỡng của họ, đó là niềm tin của họ trong khi duy trì sự cân bằng cho việc tạo ra
sự khoan dung giữa người tin và người tin (Setiardja, 1993: 121) [65, 16].
(4) Triết lý của Thiên Chúa tối thượng trong bài viết này có thể được hiểu là đồng
nghĩa với tauhid, vốn là cốt lõi của giáo lý Hồi giáo, với sự hiểu rằng giáo lý Hồi
giáo dung túng cho tự do và cơ hội rộng lớn nhất cho những người theo các tôn
giáo khác để thực hiện giáo lý tôn giáo tương ứng của họ.
(5) Cũng theo tinh thần công lý, Nhà nước có nghĩa vụ bảo đảm không có sự phỉ báng
nhân danh tôn giáo hoặc tín ngưỡng của những người theo các tôn giáo khác. Hãy
để tất cả mọi người tin vào tôn giáo của họ là chính nghĩa, thậm chí là quyền duy
nhất, mà không phải phỉ báng tôn giáo hoặc niềm tin của người khác là sai lầm
hoặc sai lầm. Chuẩn mực là như nhau: nếu bạn không thích tôn giáo của mình bị
xúc phạm, thì đừng xúc phạm tôn giáo của người khác. Ngược lại, nếu bạn thích
người khác tôn trọng tôn giáo của bạn, thì hãy tôn trọng tôn giáo của người khác.
Kinh Koran dạy: "Và đừng nguyền rủa sự thờ phượng mà họ tôn thờ ngoại trừ
Allah, vì họ sẽ nguyền rủa Allah bằng cách vi phạm mà không có kiến thức. Vì
vậy, chúng tôi làm cho mọi ummah xem xét công việc của họ tốt. Sau đó, họ trở
lại với Chúa, và họ nói với họ những gì họ đã làm trước đây [65, 16].
2.2.6. Đánh giá và lý giải
Về các nội dung trong Hiến pháp
Như vậy, có thể thấy, trải qua thời gian, từ bản Hiến pháp đầu tiên 1945 đến bản
Hiến pháp hiện hành, bộ mặt đất nước Indonesia có nhiều đổi thay. Từ Hiến pháp ngày
đầu thành lập, sau đó được phục hồi vào năm 1959. Hiến pháp 1945 đã quy định về
Pancasila - triết lý quản lý nhà nước ở Indonesia; phân chia quyền lực một cách hạn chế
giữa lập pháp, hành pháp, tư pháp, theo đó Indonesia được coi là chính thể tổng thống
pha trộn một số nét của chính thể nghị viện. Tuy nhiên, sau khi chế độ Suharto bị lật đổ,
một loạt điểm sửa đổi được đưa vào Hiến pháp dẫn đến những thay đổi quan trọng trong
hệ thống chính quyền. Hiến pháp được sửa đổi qua 4 lần vào các năm 1999, 2000, 2001
và 2002, tăng từ 37 điều lên 73 điều, trong đó chỉ 11% tổng số điều được giữ nguyên so
với bản Hiến pháp 1945. Những điểm thay đổi quan trọng nhất của Hiến pháp Indonesia
bao gồm: Quy định Tổng thống chỉ được giữ chức hai nhiệm kỳ; thiết lập Hội đồng Đại
diện vùng (DPD) cùng với Hội đồng Đại diện nhân dân (DPR) tạo thành Đại hội đồng tư
vấn nhân dân (MPR)-cơ quan lập pháp tối cao của Indonesia; thay thế chính thể tổng
thống hỗn hợp bằng chính thể tổng thống đơn thuần; bầu cử Tổng thống trực tiếp thay vì
được bầu bởi MPR; thay đổi mối quan hệ theo chiều dọc giữa các cơ quan nhà nước thay
vì trao cho MPR vị thế hiến định tối cao; quy định bầu cử trực tiếp, tự do và bí mật đối
với DPR và các cơ quan lập pháp vùng; thiết lập Tòa án Hiến pháp nhằm bảo vệ Hiến
pháp; thiết lập Ủy ban Tư pháp; bổ sung 10 điều mới về quyền con người [76, 188]. Hiến
pháp Indonesia đã có những quy định rõ ràng hơn về các bộ máy nhà nước, tránh làm
quyền, bổ sung quyền con người.
Có thể lý giải những vấn đề nội dung của Hiến pháp Indonesia cụ thể:
Thứ nhất, Indonesia sở dĩ chấp nhận triết lý Pacasila bởi trên thực tế công dân
Indonesia là đa nguyên, do đó sự thống nhất trong đa dạng trở thành một điều cần thiết.
Sự thất bại của các nước châu Âu như Đức vì đã biến văn hóa Đức thành thánh địa của
tất cả các nền văn hóa khác sống ở Đức. Sự kiêu ngạo này đã khiến Đức thất bại trong
quá trình hội nhập được thực hiện bởi chính sách của Bộ Nội vụ Đức. Thực tế này khác
với các điều kiện ở Mỹ mà ngay từ đầu đã xây dựng văn hóa của họ dựa trên nguyên tắc
“nấu chảy” hoặc lò luyện kim từ các nền văn hóa khác nhau của người khác. Do đó, tỷ lệ
làm cho văn hóa địa phương và trí tuệ địa phương trong cuộc sống Indonesia là lựa chọn
đúng đắn [94, 16]
Thứ hai, sự thay đổi của Hiến pháp Indonesia dựa trên sự học hỏi các quốc gia tiến
bộ. Trong thời đại toàn cầu hóa, không một quốc gia nào có thể không học, mượn hay
chấp nhận một số ý tưởng hiến pháp từ những nước khác hay người khác. Mặc dù
Indonesia đã phát triển hơn hàng trăm là một xã hội rất đa nguyên với các nền văn hóa
chính trị địa phương, nhưng ngay từ Hiến pháp thành văn đầu tiên của Nhà nước,
Indonesia đã xây dựng theo xu hướng hiện đại. Một số khía cạnh của hệ thống tổng thống
Mỹ, cân bằng với sự tồn tại của cơ quan cao nhất của hội đồng người dân như thường
thấy ở Liên Xô và Đông Âu các nước. Một số thể chế nhà nước đã được điều chỉnh từ
những cái cũ dưới thời thuộc địa Hà Lan. Một số thuật ngữ pháp lý được sử dụng trong
phần giải thích chính thức của Hiến pháp năm 1945 phản ánh các từ tiếng Đức, cho thấy
các tài liệu tham khảo về các nhà soạn thảo về tiếng Đức hệ thống hiến pháp. Ý tưởng
của hệ thống ba đại diện trong Hội đồng nhân dân bao gồm đại diện chính trị (Hạ viện),
đại diện khu vực (từ các tỉnh) và đại diện chức năng (từ các nhóm bộ lạc và các đảng phi
chính trị khác Các tổ chức phi chính phủ và các tổ chức chuyên nghiệp khác) đã được cấy
ghép một cách sáng tạo từ một số lưỡng viện hệ thống nghị viện bao gồm Anh, Hoa Kỳ
và các nước châu Âu khác.
Thứ ba, Tòa án Hiến pháp Indonesia phát triển trong sự tin tưởng và kỳ vọng của
người dân bởi lẽ mong muốn có một Tòa án trong sạch và dễ tiếp cận là niềm khao khát
và mơ ước của nhiều người Indonesia. Tòa án cũng có thể hiểu được khoảng cách và kỳ
vọng của công chúng từ một cơ quan tư pháp, hoạt động trên thực tiễn của Tòa án Hiến
pháp cũng ngày càng được đảm bảo. Do đó, sự ủng hộ của công chúng đối với tòa án
ngày càng tăng. Bằng cách thành lập Tòa án, chính phủ thực hiện nguyện vọng công cộng.
Việc tạo ra Tòa án được thực hiện vào đúng thời điểm khi mọi người đang mất niềm tin
vào hệ thống tư pháp. Do đó, khi Tòa án được thành lập, có nhiều kỳ vọng từ công chúng
sang một tòa án mới [42, 237].
Thứ tư, tình hình chính trị ủng hộ cũng ủng hộ cho sự lớn mạnh của Tòa án Hiến
pháp. Theo quan điểm của Horowitz, những gì mà các đảng thống trị đã làm trong 13 năm
qua là soạn thảo luật mới cho mỗi cuộc bầu cử khác xa với thông lệ tiêu chuẩn ở các nền
dân chủ trên toàn thế giới. Nó không chỉ tạo ra luật bất ổn từ bầu cử này sang bầu cử khác
mà còn tạo ra cuộc chiến giữa các đảng chính trị lớn và nhỏ. Những cấu hình đó tạo ra sự
cân bằng phe phái trong đó Tòa án Hiến pháp có chỗ để hoạt động độc lập, tuyên bố chính
sách của chính phủ là vi hiến, và không ai xem xét việc không tuân theo quyết định của
Tòa án. Dường như bầu không khí cạnh tranh chính trị mới này đã giải phóng không gian
cho Tòa án xây dựng tính hợp pháp về thể chế của họ [42, 237].
Và mặc dù Tòa án được tạo ra thông qua sửa đổi hiến pháp, các đảng chính trị đã
ủng hộ việc tạo ra Tòa án. Tuy nhiên, khi thành lập Tòa án, Tòa án quay lưng lại và bắt
đầu xem xét những gì các đảng chính trị đã tạo ra. Nghị viện không có đòn bẩy để tấn
công hoặc sửa đổi Tòa án thông qua các cơ chế khác. Người ta nhận ra rằng Tòa án có sự
hỗ trợ của công chúng, đó là điều mà Nghị viện không có [42, 237].
Về sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong Hiến pháp
Lý giải cho sự ảnh hưởng của Hồi giáo mạnh mẽ ở Indonesia với xu hướng ngày
càng tăng, có thể đưa ra một số lý do sau: tư tưởng nhà nước trong Hồi giáo vẫn duy trì
sự hội nhập giữa tôn giáo và nhà nước vì Hồi giáo có những quy định điều chỉnh hệ thống
xã hội, bao gồm các vấn đề chính trị. Trong mô hình tích phân, tôn giáo và nhà nước được
thống nhất. Do đó, người đứng đầu nhà nước là người nắm giữ quyền lực tôn giáo và
quyền lực chính trị. Chính phủ của ông được tổ chức trên cơ sở “chủ quyền thiêng liêng”,
bởi vì chủ quyền bắt nguồn và nằm trong “bàn tay của Chúa”.
Quan hệ Hồi giáo và Nhà nước trong hệ thống hiến pháp, tôn giáo và nhà nước
Indonesia vận hành một cách linh hoạt - biện chứng, do đó việc thể chế hóa các quy tắc
tôn giáo Hồi giáo trong cuộc sống của quốc gia và nhà nước không thể được thực hiện
theo cách lập hiến, nhưng phải thông qua một quá trình lập hiến, dựa trên hiến pháp NRI
1945. Bản chất của các chuẩn mực tôn giáo Hồi giáo chỉ có thể được áp dụng trong hệ
thống pháp luật quốc gia nếu được ban hành theo cách lập hiến và phù hợp với Hiến pháp
Pancasila và Hiến pháp năm 1945 [136].
Ngoài ra, do sự phát triển của quyền con người trên thế giới, bản thân Hồi giáo khi
du nhập vào Indonesia cũng có những điểm tiến bộ về công bằng và bình đẳng.
2.3. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Malaysia
2.3.1. Khái quát chung
“Malay” theo tiếng Mã Lai là “hoàng kim”. Được gọi bằng cái tên “Châu Á thu nhỏ”,
Malaysia là một quốc gia đa dân tộc và đa văn hóa với dân số hơn 28 triệu dân bao gồm
người Malaysia, người Hoa, người Ấn và các dân tộc khác sinh sống hòa hợp với nhau,
đặc điểm này đóng một vai trò lớn trong chính trị quốc gia [53]. Malaysia là một quốc gia
quân chủ lập hiến liên bang tại Đông Nam Á. Quốc gia bao gồm 13 bang và 3 lãnh thổ
liên bang, là quốc gia lớn thứ 67 trên thế giới về diện tích đất liền với tổng diện tích
khoảng 329.847 km2. Malaysia bị tách làm hai phần qua biển Đông: Malaysia bán đảo
và Borneo thuộc Malaysia. Bán đảo chiếm 40% diện tích đất liền của Malaysia, trải dài
740 km từ Bắc xuống Nam, và có chiều rộng tối đa là 322 km.
Quá trình lịch sử tại Malaysia có thể chia làm bảy (7) giai đoạn. Cụ thể:
Giai đoạn 1: Thời cổ đại. Những người Mã Lai nguyên thủy có nguồn gốc đa dạng
hơn và đã định cư tại Malaysia vào khoảng 1000 TCN. Khoảng 300 TCN, họ bị người
Mã Lai thứ đẩy và nội lục, người Mã Lai thứ là một dân tộc thời đại đồ sắt hoặc đồ đồng
và có nguồn gốc một phần từ người Chăm [53].
Giai đoạn 2: Các vương quốc đầu tiên. Một số vương quốc Mã Lai tồn tại trong thế
kỷ II và III, số lượng đến 30, chủ yếu tập trung tại bờ phía Đông của bán đảo Mã Lai. Từ
thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, phần lớn bán đảo Mã Lai nằm dưới quyền cai trị của Đế quốc
Srivijaya theo Phật giáo [53]. Đế quốc dựa vào mậu dịch, với các vương tại địa phương
(dhatu hay thủ lĩnh cộng đồng) tuyên thệ trung thành với quân chủ trung ương nhằm cùng
hưởng lợi.
Giai đoạn 3: Vương quốc Malacca. Trong vòng vài năm sau khi thành lập, Malacca
chính thức chấp nhận Hồi giáo, việc cải biến tôn giáo của người Mã Lai sang Hồi giáo
được tăng tốc trong thế kỷ XV. Quyền lực chính trị của Malacca giúp truyền bá nhanh
chóng Hồi giáo trên khắp quần đảo. Đến đầu thế kỷ XVI, cùng với Malacca trên bản đảo
Mã Lai và nhiều bộ phận của Sumatra, vương quốc Demak tại Java, và các vương quốc
khác trên khắp quần đảo Mã Lai ngày càng cải sang Hồi giáo, nó trở thành tôn giáo chi
phối đối với người Mã Lai, và tiến xa đến Philippines ngày nay. Vương triều Malacca tồn
tại trong hơn một thế kỷ, song trong thời gian này nó trở thành trung tâm của văn hóa Mã
Lai [53].
Giai đoạn 4: Johor và người Hà Lan. Sau khi Malacca sụp đổ trước người Bồ Đào
Nha, Vương quốc Johor và Vương quốc Aceh tại miền bắc Sumatra lấp đầy khoảng trống
quyền lực [53]. Ba thế lực đấu tranh nhằm thống trị bán đảo Mã Lai và các đảo xung
quanh.
Giai đoạn 5: Chủ nghĩa thực dân Anh tại Malaysia. Từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ
XIX, Malacca thuộc về người Hà Lan. Trong suốt cuộc chiến Napoleon từ năm 1811 đến
năm 1815, Malacca cùng chung số phận với những thuộc địa khác của Hà Lan tại Đông
Nam Á, đã bị người Anh chiếm đóng. Vào năm 1824, Anh và Hà Lan kí kết Hiệp ước
Anh - Hà Lan. Thông qua Hiệp ước, Malacca được chuyển giao hợp pháp cho chính
quyền Anh. Hiệp ước đồng thời phân chia Malaysia thành hai thực thể riêng biệt cũng
như đặt nền móng cho ranh giới Malaysia và Indonesia ngày nay. Đến năm 1910, mô hình
cai trị của Anh tại các lãnh thổ Mã Lai được thiết lập [53].
Giai đoạn 6: Giai đoạn Chiến tranh thế giới II. Trong Chiến tranh thế giới II, quân
đội Nhật Bản tấn công, đánh bại quân Anh và chiếm đóng Malaya, Bắc Borneo, Sarawak,
và Singapore trong ba năm. Người Malaya tiếp tục chứng kiến người Anh trở lại vào năm
1945, song mọi thứ không thể được duy trì như thời tiền chiến [53]. Nhiều cuộc đấu tranh
giành lại chính quyền đã nổ ra. Vào ngày 31 tháng 8 năm 1975, nền độc lập cho liên minh
trong khối thịnh vượng chung đã được trao trả.
Giai đoạn 7: Thời kỳ độc lập, thống nhất cho đến nay. Năm 1963, Liên bang được
đổi tên thành Malaysia với sự chấp nhận của các thuộc địa của Anh là Singapore, Sabah
và Sarawak. Từ đó đến nay, Malaysia tiến hành ổn định tình hình quốc gia và phát triển
kinh tế.
Có thể thấy, cũng giống như hầu hết các quốc gia Đông Nam Á khác, đất nước
Malaysia đã trải qua sự hình thành và phát triển của các vương triều, cùng với đó là những
biến cố thăng trầm của lịch sử. Từ các thế lực thực dân châu Âu như Bồ Đào Nha, Hà
Lan và Anh quốc, cho đến các thế lực trong khu vực như Xiêm, Nhật Bản. Điều này làm
cho Malaysia trở thành một đất nước đa dạng về chủng tộc, văn hóa và tôn giáo. Điều này
ảnh hưởng không nhỏ đến Hiến pháp và tình hình pháp luật của Indonesia.
2.3.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia
Là một quốc gia đa dạng sắc tộc và tôn giáo, trong đó Hồi giáo có số lượng tín đồ lớn
nhất (khoảng 60,4%), con đường du nhập và Hồi giáo tại Malaysia có nhiều điểm đặc biệt
so với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới.
Thứ nhất, con đường xâm nhập của Hồi giáo vào Malaysia
Đã có rất nhiều tranh cãi, giả thuyết đã nổ ra nhằm xác định quá trình hình thành và du
nhập của Hồi giáo vào Malaysia. Qua nghiên cứu các tài liệu và giả thuyết, khóa luận có
thể tạm chia ảnh hưởng của Hồi giáo tại Malaysia thành ba (3) giai đoạn. Cụ thể:
Giai đoạn 1: Giai đoạn thích ứng và thay đổi (khoảng từ những năm 1200 – 1400
năm) [125]. Hồi giáo ở Malaysia là bán đảo Ả rập, một số thì cho là từ Ai Cập thông qua
các thương gia Hồi giáo và Ấn Độ truyền sang trong thế kỷ VII – XIII [41, 4]. Đến thế
kỷ XIII – XV, các thương gia Hồi giáo đã đến quần đảo Malaya – Indonesia buôn bán,
định cư, lấy vợ người bản xứ…nhiều đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho các tu sĩ Hồi giáo
xâm nhập vào vùng đất này truyền đạo. Giới quý tộc bản xứ, từ lâu đã thèm khát của cải
của người Hồi nên đã vui vẻ chào đón, kết thân và tiếp nhận tôn giáo của họ. Kết quả là
vào thế kỷ XIII – XV, đã có một số nước ở Đông Nam Á như Pasai (Indonesia) đã trở
thành quốc gia Hồi giáo.
Giai đoạn 2: Giai đoạn thích ứng của Malaysia về mặt tinh thần, tư tưởng của giáo
lý đạo Hồi (khoảng 1400 – 1700) [125]. Malaysia được cải giáo muộn hơn, thể kỷ XIV –
XV [147]. Đầu thế kỷ XV, vua nước Melaka là Parameswara (1403 – 1424) đã cải theo
Hồi giáo, lấy tên Hồi giáo là Iskandar Shah. Từ đây, Melaka không những là trung tâm
buôn bán quốc tế mà còn là trung tâm truyền bá tôn giáo lớn nhất thời bấy giờ. Lần lượt
các tiểu quốc khác ở phía bắc Demak, Terengganu, Kelantan… đã lần lượt thiết lạp quan
hệ buôn bán, giao thương và đối ngoại với Melaka và du nhập Hồi giáo. Thời kỳ kỷ
nguyên vinh quang Hồi giáo ở Malaya và đồng thời là sự sụp đổ của vương quốc Hindu
ở Java là thời kỳ của Sultan Mansor Shah năm 1459 - 1477 [125] Trong suốt hơn một thế
kỷ từ năm 1403 cho đến khi bị Bồ Đào Nha xâm lược (1511), Melaka là một nước giàu
có, một trung tâm buôn bán quốc tế năng động và là trung tâm Hồi giáo lớn nhất Đông
Nam Á và từ đây, Hồi giáo lan sang hầu hết ở miền Tây Malaysia và có ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống tinh thần, xã hội Malaysia.
Giai đoạn 3: Giai đoạn bắt đầu đi vào phát triển ổn định và cho đến nay của Hồi
giáo tại Malaysia. Hồi giáo bước chân vào cuộc sống tại Malaysia trong tư tưởng và cả
hệ thống vương quyền của Malaysia, vì thế, giống như Indonesia, Hồi giáo dần lớn mạnh
và trở thành một phần không thể thiếu của đời sống tại Malaysia.
Sở dĩ Hồi giáo có thể du nhập và có tầm ảnh hưởng quan trọng ở Malaysia do một
vài điều kiện thuận lợi có thể kể đến như: Thứ nhất, Hồi giáo đến Malaysia vào lúc đế
quốc Ấn Độ giáo Majapahit đang rơi vào khủng hoảng và tan rã. Sự khủng hoảng của hệ
tư tưởng Ấn Độ giáo đã tạo sự trống rỗng niềm tin, một lỗ hổng lớn cho Hồi giáo len vào
và phát triển [12]. Thứ hai, ở khu vực Đông Nam Á khi đó đang có sự chuyển hướng kinh
tế từ nền nông nghiệp sang kinh tế buôn bán. Và rất thuận lợi khi Hồi giáo xâm nhập vào
Malaysia qua con đường buôn bán. Hồi giáo trở thành ngọn cờ của các tiểu quốc đấu
tranh chống đế chế Majapahit và giành độc lập, tiêu biểu là Melaka. Từ một làng chài
nghèo nàn, Melaka đã dần vươn lên thành quốc gia hùng mạnh về quân sự và có tiềm lực
kinh tế lớn. Chính sự thành công của Melaka đã cổ vũ các nước thuộc Majapahit cải theo
Hồi giáo và tham gia vào thương trường quốc tế. Thứ ba, Hồi giáo ảnh hưởng vào
Malaysia cũng có những điều kiện thuận lợi như khi du nhập vào Đông Nam Á nói chung
và Indonesia nói riêng: du nhập hòa bình, sử dụng chung tiếng Malay, tư tưởng bình đẳng
được đón nhận, nhà vua cải đạo,… Một ví dụ cụ thể ở Melaka, là “nhà vua sau khi cải
giáo theo Hồi giáo đã ra lệnh cho các quan chức và thần dân của mình ở Melaka, dù có
địa vị cao hay thấp, đều phải trở thành tín đồ Hồi giáo” [56, 27].
Thứ hai, về đặc điểm của Hồi giáo tại Malaysia. Ngoài những đặc điểm chung của
Hồi giáo khu vực và Hồi giáo Indonesia, Hồi giáo ở Malaysia chia làm hai (2) phái hệ
Islam: Sunni Islam và Islam Hadhari. Sunni Islam là hệ phái chiếm đa số ở Malaysia. Hệ
phái này có một đặc điểm rất nổi bật là vẫn còn mang trong nó những yếu tố của Shaman
giáo (sùng bái tự nhiên) vẫn còn phổ biến ở các vùng nông thôn ngày nay của Malaysia.
Mặc dù như thế, nhưng hệ phái Sunni Islam vẫn có điểm tương đồng với Islam toàn thế
giới, đó là cầu nguyện năm lần trong một ngày. Và các cấp chính quyền của Malaysia có
chính sách nghiêm ngặt trong việc duy trì đóng cửa hai giờ mỗi chiều thứ sáu ở các cơ
quan chính phủ, các cơ sở giáo dục cũng như các công ty, ngân hàng đều phải đóng cửa
trong hai giờ vào mỗi chiều để công nhân có thể tiến hành cầu nguyện. Islam Hadhari là
một hệ phái tiến bộ do Thủ tướng Malaysia AbdullahAhmad Badawi khởi xướng nhằm
để nhấn mạnh vai trò của niềm tin và trung thực trong công việc khó khăn. Tuy nhiên có
những tín đồ Islam ở Malaysia rằng không đồng ý với khái niệm này vì những lời dạy của
Hồi giáo đã và đang hoàn tất và vì vậy, họ cảm thấy rằng Hồi giáo không cần có một tên
mới và nội dung mới [9].
2.3.3. Lịch sử Hiến pháp Malaysia
Hiến pháp Malaysia cũng có nhiều điểm tương đồng với Hiến pháp Indonesia khi trải
qua nhiều lần sửa đổi với những biến động chính trị không ngừng. Từ bản Hiến pháp liên
bang đầu tiên được thông qua ngày 31/8/1957 đến bản Hiến pháp hiện hành có hiệu lực
ngày 1/11/2010, Malaysia đã trải qua sáu (6) lần sửa đổi Hiến pháp chính với những khác
biệt trong nội dung từng lần để phù hợp với hoàn cảnh lịch sử thay đổi.
(1) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 (31/8/1957).
(2) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 và hai lần sửa đổi 1960 và 1962.
(3) Hiến pháp Liên bang Malaysia trong giai đoạn 1963 – 1964.
(4) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 sửa đổi 1973 – 1985.
(5) Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 sửa đổi 2003.
(6) Hiến pháp Liên bang Malaysia sửa đổi 2010.
2.3.3.1. Hiến pháp Liên bang Malaysia 1957 (31/8/1957)
Về hoàn cảnh lịch sử:
Hiến pháp Malaysia ( Văn bản Jawi : ڤرلمباڬأن مليسيا), còn được gọi là Hiến
pháp Liên bang năm 1948 có 183 trường hợp, là luật tối cao ở Malaysia . Đây là một văn
bản pháp luật tài liệu đã được định hình bởi hai văn bản trước đây của Liên đoàn các Hiệp
định Malaya năm 1948 và Hiến pháp độc lập trong năm 1957. Hiến pháp này được soạn
thảo theo lời khuyên của Ủy ban Reid đã thực hiện một nghiên cứu vào năm 1956. Hiến
pháp có hiệu lực ngay sau khi giành độc lập vào ngày 31 tháng 8 năm 1957. Nó bắt đầu
từ một hội nghị lập hiến được tổ chức tại London vào ngày 18 tháng 1 đến ngày 6 tháng
2 năm 1956, với sự tham dự của một phái đoàn từ Liên bang Malaya , bao gồm bốn đại
diện chính phủ, người đứng đầu Bộ trưởng Liên bang ( Tunku Abdul Rahman ) và ba bộ
trưởng khác, cũng như Cao ủy Anh tại Malaya và các cố vấn của ông [53].
Về cơ cấu:
Hiến pháp gồm 15 phần và 13 bảng với những nội dung cơ bản như: chế độ chính
trị, tôn giáo, quyền công dân, mối liên hệ giữa liêng bang và tiểu ban, bầu cử, tư pháp,…
Ủy ban đã nhận được 131 bản ghi nhớ từ một loạt các tổ chức chính trị và kinh tế xã hội
và được tổ chức nhiều hơn 100 phiên điều trần trên khắp Malaya trong khoảng thời gian
từ tháng 6 đến tháng 11 năm 1956. Dự thảo hiến pháp đã được xem xét bởi một Ban công
tác ở Kuala Lumpur bao gồm Cao ủy Anh, đại diện của đảng Liên minh và chín nhà cầm
quyền Malay từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1957. Hiến pháp sửa đổi sau đó tranh luận tại
quốc hội Anh và Hội đồng lập pháp liên bang ở Malaya và có hiệu lực vào ngày 31 tháng
8 năm 1957 khi Malaya độc lập [50].
Về thời gian có hiệu lực
Khác với Hiến pháp Indonesia thời kỳ đầu độc lập được sửa đổi ngay sau đó, Hiến
pháp Malaysia có đời sống dài lâu hơn khi không có một điều khoản nào trong Hiến pháp
hay một tuyên bố nào của người đứng đầu Nhà nươc về việc sẽ ngay lập tức sửa đổi Hiến
pháp khi vừa giành được độc lập.
Về nguyên tắc và những nội dung chính
Trong quá trình Ủy ban thảo luận để thống nhất các nội dung sẽ đưa vào Hiến pháp
Malaysia 1957, các bên đã đi đến thống nhất các điều sau:
(1) Bảo vệ vị trí và uy tín của Hoàng thân với tư cách là những người cai trị hiến
pháp của các quốc gia tương ứng.
(2) Một hiến pháp Yang di-Pertuan Besar (Nguyên thủ quốc gia) để Liên bang
được lựa chọn trong số các Hoàng thân của họ.
(3) Quốc tịch chung cho toàn Liên bang.
(4) Bảo vệ vị trí đặc biệt của người Mã Lai và lợi ích hợp pháp của các cộng đồng
khác [66] (Lý do, tại thời điểm đó, người Malaysia không muốn chấp nhận sự hiện diện
của người Ấn Độ và Trung Quốc ở Malaya như một người thường trú. Họ muốn đảm bảo
quyền lợi cho người Malay gốc trước những luồng nhập cư.)
Đây là những điểm được xem là “bất di bất dịch” trong Hiến pháp Malaysia và nó
được truyền tải nguyên vẹn trong bản Hiến pháp độc lập của quốc gia này. Đây cũng là
những nội dung đáng chú ý nhất của Hiến pháp lịch sử Malaysia. Thậm chí, trong những
lần sửa đổi Hiến pháp về sau, những điều này cũng ít khi bị thay đổi. Hiến pháp cũng đã
xây dựng một hệ thống để phân phối quyền lực lập pháp và nguồn lực tài chính, phù hợp
với điều kiện chính trị và kinh tế [49]. Tất cả hướng đến mục đích xây dựng một chính
quyền trung ương mạnh, có quyền lập pháp, xác định chính sách và xử lý thuế. Trong khi
đó, các bang được trao quyền ở một số khu vực nhất định. Họ cũng có một biện pháp tự
chủ tài chính và được đảm bảo thu nhập ổn định thông qua các khoản viện trợ.
Hiến pháp, cũng công nhận rằng có một tiền lệ hiến pháp cho vị trí đặc biệt của
Malay trong Hiệp định Malaya năm 1948 và đồng ý rằng các điều khoản nên tiếp tục
trong một thời gian để hỗ trợ người Malay, về mặt xã hội và kinh tế [49]. Các điều khoản
ưu đãi đó không phải được duy trì vĩnh viễn mà sẽ được xem xét 15 năm sau khi độc lập.
Mặc dù Hội nghị đã đề nghị Hồi giáo trở thành tôn giáo chính thức, nhưng ủy ban
đã từ chối. Ủy ban lo sợ về sự mâu thuẫn tôn giáo nảy sinh, nên đã nhất trí Malaya sẽ là
một quốc gia thế tục. Tuy nhiên, những điều này đã thay đổi sau các cuộc biểu tình từ
một số người Malaysia. Khi Ban công tác xem xét bản dự thảo hiến pháp, quyết định cuối
cùng là Hồi giáo trở thành tôn giáo liên bang [49].
Ngoài ra, quyền công dân được trao cho những người sinh ra trong liên đoàn từ
ngày Merdeka. Những người được sinh ra trước đó và có quốc tịch nước ngoài có thể có
được quyền công dân thông qua đăng ký hoặc nhập tịch bằng cách tuyên thệ. Những
người có quốc tịch kép sẽ phải chọn quốc gia nào họ muốn cam kết trung thành [49]. Việc
chèn một phần về các quyền tự do cơ bản trong dự thảo hiến pháp Malaysia của Ủy ban
Reid đã gây tranh cãi. Ban đầu, các thành viên hàng đầu của đảng Liên minh cầm quyền,
Tổ chức Quốc gia Mã Lai (UMNO) và Hiệp hội người Trung Quốc tại Malaysia (MCA),
không nghĩ rằng cần có một phần độc quyền trong hiến pháp để bảo đảm các quyền tự do
cơ bản. Họ cảm thấy rằng luật pháp thông thường hiện hành đã cung cấp các biện pháp
bảo vệ đầy đủ để bảo vệ các quyền tự do dân sự và chính trị của cá nhân. Tuy nhiên, đối
tác cơ sở trong Liên minh, Đại hội người Ấn Độ - Malaysia (MIC) cho rằng một phần đặc
biệt đảm bảo các quyền cơ bản của các cá nhân nên được đưa vào hiến pháp. Các đại diện
của MIC liên quan đến các cuộc đàm phán trong nội bộ Liên minh và trong phiên điều
trần với Ủy ban Reid là các luật sư rõ ràng quen thuộc với các điều khoản phức tạp trong
hiến pháp Ấn Độ về các quyền cơ bản. MIC đã thuyết phục các đối tác của mình, UMNO
và MCA, rằng một phần về tự do cơ bản là rất cần thiết. Do đó, bản ghi nhớ của đảng
Liên minh với Ủy ban Reid đã liệt kê một danh sách dài các quyền cơ bản mà họ cảm
thấy có thể được đưa vào hiến pháp để bảo vệ các quyền cơ bản của công dân [50].
2.3.3.2. Hiến pháp Malaysia 1957 sửa đổi lần 1 vào 1960 và lần 2 vào 1962
Về bối cảnh lịch sử:
Lần sửa đổi Hiến pháp lớn đầu tiên là 3 năm sau khi Hiến pháp đầu tiên ra đời. Đó
cũng là điều tất yếu với một quốc gia non trẻ và đang trong quá trình xây dựng, phát triển
đất nước. Bối cảnh lịch sử lần sửa đổi đầu tiên trong không khí đấu tranh ngột ngạt của
các lực lượng chính trị khi. Đến năm 1960, chiến tranh đã nổ ra giữa các thế lực khác
nhau [81]. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp Malaysia cần sửa đổi để lập lại trật tự quốc gia.
Đến 1962, khi đã bình ổn được cuộc hỗn chiến giữa các bên, Hiến pháp được sửa đổi lần
nữa nhằm hợp nhất quyền lực.
Về cơ cấu:
Cơ cấu của Hiến pháp Malaysia 1957 về cơ bản vẫn được giữ lại trong lần sửa đổi
1960. Lần sửa đổi đầu tiên, Hiến pháp đã sửa 33 điều và bổ sung thêm 2 điều mới nhằm
chấm dứt vấn đề xung đột trong nội tại đất nước [81]. Lần sửa đổi lớn thứ hai của Hiến
pháp diễn ra chỉ hai năm sau lần đầu tiên. Hiến pháp đã được sửa đổi 29 điều, thêm ba
điều nữa trong khi bãi bỏ ba điều khác, và thay đổi quy tắc bầu cử trong lần sửa thứ hai.
Về nội dung:
Thay vì tận dụng kết thúc chiến tranh để mở ra kỷ nguyên hòa bình và tự do mới,
Chính phủ Malaysia muốn chấm dứt chiến tranh mà không mất đi quyền lực vì tình huống
khẩn cấp nên đã đi đến sửa đổi Hiến pháp lần thứ nhất. Điều này có thể thấy rõ từ các sửa
đổi được thực hiện cho Phần XI của Hiến pháp, bao gồm các Điều từ 149 đến 151, liên
quan đến pháp luật chống lật đổ và hành động gây phương hại đến trật tự công cộng. Điều
149 quy định về việc tạo ra đạo luật của Nghị viện, trước các mối đe dọa lật đổ Liên bang,
điều này đã gây trở ngại cho việc thực hiện quyền con người được liệt kê trong Điều 5,
9, 10 và 13 liên quan đến quyền tự do ngôn luận, lập hội, biểu tình, tài sản, và được tự do
khỏi sự giam giữ bất hợp pháp. Những quyền con người quan trọng này bị hạn chế và
tước bỏ, điều đó mở đường cho việc tạo ra Đạo luật An ninh Nội bộ khét tiếng năm 1960,
vẫn còn hiệu lực cho đến 52 năm sau đó, khi nó được thay thế bởi luật Vi phạm An ninh
(Các biện pháp đặc biệt), Đạo luật 2012 và Đạo luật chống khủng bố năm 2015.
Trước đây trong quy định Điều 150, để tuyên bố khẩn cấp, cần đưa ra hai viện
Quốc hội để quyết định nhằm đảm bảo tính nhanh chóng và thuận tiện. Sau khi được triệu
tập, Nghị viện phải phê chuẩn nghị quyết cho trường hợp khẩn cấp, nghị quyết sẽ không
thể tự động hết hiệu lực sau hai tháng kể từ ngày ban hành. Trong trường hợp Quốc hội
không họp bàn thời điểm đó, thì Yang di-Pertuan Agong có thể ban hành các sắc lệnh
khẩn cấp sẽ hết hiệu lực sau 15 ngày. Tuy nhiên, các điều khoản đã được sửa đổi để loại
bỏ sự cần thiết phải có sự chấp thuận của quốc hội. Thay vào đó, bất kỳ tuyên bố hoặc
sắc lệnh khẩn cấp nào bây giờ sẽ có hiệu lực cho đến khi Quốc hội bãi bỏ nó. Từ chỗ cần
phải có sự chấp thuận của Quốc hội để duy trì tình trạng khẩn cấp, giờ Quốc hội chỉ còn
quyền kết thúc lệnh khẩn cấp. Chính sự thay đổi này đã dẫn đến hệ quả về sau là đình chỉ
hoạt động Nghị viện năm 1969.
Trong khi hầu hết các sửa đổi hiến pháp khác được thực hiện vào năm 1960 chủ
yếu mang tính chất hành chính. Ví dụ, sửa đổi các Điều 122, 125 và 138, dẫn đến việc
bãi bỏ Ủy ban Dịch vụ Pháp lý và Tư pháp (JLSC), cho đến nay, chịu trách nhiệm về việc
đưa ra tất cả các khuyến nghị liên quan đến các vấn đề tư pháp.
Ngoài ra, quyền khởi xướng các thủ tục tố tụng đối với các thẩm phán đã được
chuyển từ JLSC sang Agong theo lời khuyên của thủ tướng, điều đó làm suy giảm nghiêm
trọng sự độc lập của tư pháp. Những hậu quả từ động thái này tạo điều kiện cho việc sa
thải Chủ tịch Tòa án liên bang Salleh Abbas và hai thẩm phán khác của Tòa án Tối cao,
gây ra một cuộc khủng hoảng tư pháp quốc gia chưa từng có.
Ngoài tư pháp, việc sửa đổi Điều 145 cũng có tác dụng thay đổi vị trí của luật sư
từ một người làm việc độc lập trở thành thành viên của chính phủ và họ phải trả lời trực
tiếp trước Nghị viện. Các luật sư có thể dễ dàng bị sa thải bất cứ lúc nào và gặp nhiều áp
lực khi thực hiện công việc của mình [81].
Quyền con người trong thời điểm này tại Malaysia trở nên rất khó khăn và hạn
chế, đặc biệt là bầu cử. Dân chúng suy giảm niềm tin, và để làm dịu đi tình hình cử tri,
Chính phủ đã đầu tư vào một chương trình phát triển nông thôn quy mô lớn. Mặt khác,
họ tìm cách kiềm chế việc thực hiện quyền con người của những ai không phải là người
Malay bằng hai cách: thứ nhất, quyền con người bị hạn chế ở mức tối thiểu với những ai
không phải người Malay; thứ hai, thay đổi hệ thống bầu cử nhằm hạn chế những ai không
phải người Malay đi bầu cử bằng mọi cách.
2.3.3.3. Hiến pháp sửa đổi giai đoạn 1963 – 1969
Về bối cảnh lịch sử:
Hiến pháp đã trải qua một cuộc đại tu lớn khác. Đạo luật Malaysia 1963 được đưa
ra để phù hợp với những thay đổi về cấu trúc của đất nước với việc bổ sung Sabah,
Sarawak và Singapore. Liên bang Malaysia được mở rộng và đổi tên. Nhưng việc sát
nhập chưa được bao lâu, vào ngày 9/8/1965, Singapore đã tách khỏi Liên bang. Trong
giai đoạn đó, giữa Malaysia và Indonesia cũng có những mâu thuẫn nhất định do ảnh
hưởng của hai cực “chiến tranh lạnh”. Bên cạnh áp lực mâu thuẫn chủng tộc đến từ những
người Malaysia theo chủ nghĩa dân tộc cũng như các phần tử cánh tả thân cộng sản.
Những bối cảnh ngặt nghèo đó đã thúc ép Malaysia cần thay đổi Hiến pháp cho phù hợp
với tình hình.
Về cơ cấu và nội dung:
Điều chỉnh 45 điều và 4 mục nhỏ. Nội dung chủ yếu là các vấn đề liên quan đến
chính quyền địa phương, bộ máy tổ chức khi Singapore ra khỏi liên bang [81]
2.3.3.4. Hiến pháp sửa đổi giai đoạn 1969 – 1973
Về bối cảnh lịch sử:
Mở đầu cho bối cảnh lịch sử đầy bão táp là cuộc bạo loạn chủng tộc ngày
13/5/1969. Căng thẳng đã gia tăng trong những năm 1969 trước cuộc tổng tuyển cử, dẫn
đến bùng phát bạo lực giáo phái. Những gì diễn ra vào ngày 13/5 sẽ mãi mãi được khắc
ghi trong lịch sử là ngày “ô nhục” của Malaysia, được Tunku mô tả là một vụ phun trào
chính trị và xã hội của độ lớn đầu tiên, một khoảnh khắc đen tối khi máu chảy trên đường
phố, hàng trăm người thiệt mạng trong cuộc bạo loạn giáo phái. Hiến pháp Malaysia được
sửa đổi ngay lập tức nhằm cải thiện tình hình.
Về cơ cấu và nội dung:
Hiến pháp tập trung sửa đổi các vấn đề nhạy cảm của phe Hồi giáo, 7 điều đã được
thay đổi bao gồm tự do ngôn luận, hội họp và hiệp hội, đặc quyền của Quốc hội, ngôn
ngữ quốc gia, và việc mở rộng phạm vi của Điều 153 liên quan đến việc bảo vệ vị trí đặc
biệt của người Hồi giáo là người Mã Lai. Những sửa đổi này đã được tăng cường hơn nữa
bởi các đạo luật khác, chẳng hạn như Đạo luật Đại học 1971, cấm sinh viên đại học tham
gia các hoạt động chính trị, và Đạo luật Bí mật 1972, đưa ra một hệ thống các vấn đề bị
coi là bí mật và không được phép phổ biến công khai.
Năm 1973, một dự luật sửa đổi Hiến pháp lớn khác đã được thực hiện chủ yếu ở
lĩnh vực bầu cử. Giới hạn Hiến pháp đối với ty lệ người từ nông thôn đã được nới lỏng từ
15% lên 33%, sau đó, quy định đã bị bãi bỏ hoàn toàn.
2.3.3.5. Hiến pháp giai đoạn 1973 – 1994
Về bối cảnh lịch sử:
Những sửa đổi được thực hiện vào năm 1983 và 1984 liên quan đến vai trò lập
pháp của những người cai trị. Năm 1981, Mahathir Mohamad nhậm chức Thủ tướng, ông
bắt đầu cuộc đối đầu đầu tiên với hoàng gia Malay năm 1983 về các cuộc bạo loạn trước
đây. Cuộc đối thoại đã đưa ra nhiều vấn đề còn bỏ ngỏ trong Hiến pháp cần được sửa đổi.
Về cơ cấu:
Từ năm 1973 đến 1985, Hiến pháp đã được sửa đổi thêm 11 lần, bao gồm nhiều
sửa đổi đối với các khoản trợ cấp cho các tiểu bang, thắt chặt hơn nữa luật bầu cử, cho
phép chính phủ có thêm quyền lực và giới thiệu đồng ringgit là tiền tệ quốc gia.
Về nội dung:
Trước đó, những người cai trị được hưởng quyền miễn trừ pháp lý, một điều khoản
đã bị lạm dụng để trốn tránh trách nhiệm hiệu quả. Đến đầu những năm 1980, hành vi của
những người cầm quyền ngày càng bị nghi ngờ trong các diễn ngôn công khai, đặc biệt
là liên quan đến sai lầm tài chính, lãng phí quỹ công, tham gia vào kinh doanh bất hợp
pháp. Trước bối cảnh đó, Mahathir quyết định làm sáng tỏ tình hình bằng cách đưa ra Dự
luật Hiến pháp (Sửa đổi) năm 1983.
Trong số 43 điều được sửa đổi, quyền lực của những người đứng đầu đã bị giới
hạn lại. Ngoài ra, Mahathir cũng đề xuất chuyển quyền lực để tuyên bố tình trạng khẩn
cấp từ Agong sang tay Thủ tướng. Điều 121 cũng là một trong điểm sửa đổi đáng chú ý
trong Hiến pháp 1988. Những sửa đổi bao gồm loại bỏ quyền lực chung của Tòa án tối
cao để tiến hành đánh giá tư pháp, trao quyền cho Tổng chưởng lý để xác định tòa án cho
các vụ án được xét xử, và tạo ra một ranh giới giữa tòa án dân sự và tòa án Shari’ah, đồng
thời nâng vị trí của tòa Shari’ah ngang bằng với tòa dân sự thường, dẫn đến hai hệ thống
tòa án song song, điều đặc biệt khó khăn khi xét xử các vụ án vừa có yếu tố Hồi giáo, vừa
có yếu tố hình sự và những người không liên quan đến Hồi giáo. Đặc biệt Điều 121 (1A)
với điều kiện Tòa án tối cao “sẽ không có thẩm quyền đối với bất kỳ vấn đề nào thuộc
thẩm quyền của tòa án Shari’ah” [32, 356] đã gây ra một cuộc tranh cãi lớn về thẩm quyền
hai tòa.
Năm 1994, Hiến pháp đã được sửa đổi lần nữa để bãi bỏ quyền lực của Agong trì
hoãn một dự luật bằng cách trả lại cho Quốc hội. Các điều khoản tương tự cũng được mở
rộng cho các cơ quan lập pháp tiểu bang, khiến vai trò của hoàng gia Malay như một cơ
chế kiểm tra và cân bằng bị loại bỏ. Đồng thời, thay đổi những yếu tố mang tính biểu
tượng trong tư pháp như đổi gọi chính thức thành Chánh án và Tòa án tối cao là Tòa án
Liên bang, cũng như đưa ra bộ quy tắc đạo đức chuẩn cho các Thẩm phán.
Hiến pháp được sửa đổi thêm 16 lần nữa, lần cuối cùng là vào năm 2009. Hầu hết
các thay đổi trong giai đoạn này là vấn đề hành chính.
2.3.3.6. Hiến pháp năm 2003 và Hiến pháp 2010
Về bối cảnh lịch sử:
Với những thay đổi không ngừng của thế giới: quyền con người, chủ nghĩa hiến
pháp,… cùng những thay đổi trong nội bộ quốc gia, Hiến pháp Malaysia đã được thay
đổi để bắt kịp với xu thế chung của thời đại và những biến trong trong đời sống tình hình
chính trị trong nước.
Về cơ cấu:
Hiến pháp vẫn giữ nguyên 183 điều và 15 chương với nội dung bao quát các lĩnh
vực: thể chế nhà nước, quyền con người, tài chính, liên bang và tiểu bang,…
Về nội dung:
Hiến pháp đã tăng cường quyền con người và quy định rõ hơn các chức năng,
quyền hạn của bộ máy nhà nước. Điều này sẽ được phân tích kỹ dưới đây.
2.3.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành Malaysia
2.3.4.1. Khái quát chung
Hiến pháp hiện hành của Malaysia là Hiến pháp sửa đổi năm 2010 với các điểm
đáng chú ý. Hiến pháp Liên bang có 183 Điều cùng với 13 phụ lục. Mỗi phụ lục là sự cụ
thể hóa các điều khoản nhằm hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan thi hành cũng như người
dân về các vấn đề được nêu trong Hiến pháp.
Cơ cấu gồm Lời nói đầu và các chương: Chương 1 - Các tiểu bang, tôn giáo và
luật liên bang, Chương 2 - Tự do cơ bản, Chương 3 - Quyền công dân, Chương 4 - Liên
bang, Chương 5 – Liên bang, Chương 6 - Mối quan hệ giữa liên bang và tiểu bang,
Chương 7 - Điều khoản tài chính, Chương 8 - Bầu cử, Chương 9 - Tư pháp, Chương 10 -
Dịch vụ công cộng, Chương 11 - Quyền hạn đặc biệt chống lại sức mạnh lật đổ và khẩn
cấp, Chương 12 – Các quy định riêng biệt, Chương 13 – Các trường hợp tạm thời, Chương
14 - Ngoại lệ đối với quyền của các vị vua và Chương 15 - Thủ tục tố tụng của Yang di-
Pertuan Agong và những người cai trị.
Về dung lượng và mức độ chi tiết: Hiến pháp Malaysia được đánh giá là bản Hiến
pháp có độ dài đáng kể, các điều khoản quy định khá chi tiết và có bảng phụ lục chi tiết
để tham khảo. Khi thay đổi hay bổ sung thêm điều khoản, Hiến pháp Malaysia vẫn giữ
nguyên số thứ tự của điều khoản trước đó, cho dù nó đã bị bãi bỏ. Điều đó khiến Hiến
pháp trở nên dễ cập nhật, tra cứu hơn.
2.3.4.2. Lời nói đầu
Hiến pháp Malaysia không có lời mở đầu giống như Hiến pháp Indonesia. Ngay
từ những trang đầu tiên Hiến pháp Malaysia đã đi vào Chương 1 và những điều khoản
đầu tiên. Điều này có thể lý giải được bởi lẽ Malaysia từng chịu ảnh hưởng của pháp luật
Anh, có thể việc không có Lời mở đầu của Hiến pháp là do ảnh hưởng của phong cách
Hiến pháp bất thành văn của Anh. Ngoài ra, các quy định của Hiến pháp Malaysia về sau
rất chi tiết và cụ thể, các vấn đề như tôn giáo hay mục tiêu Nhà nước, được đề cập ngay
trong lời nói đầu trong Hiến pháp Indonesia đều được các điều khoản sau đó trong các
chương của Hiến pháp Malaysia. Do đó, việc Hiến pháp Malaysia không có Lời nói đầu
không phải là vấn đề gì quá nghiêm trọng gây ảnh hưởng đến ý nghĩa và giá trị của Hiến
pháp Malaysia hiện hành.
2.3.4.3. Chế độ nhà nước
Giống như đã phân tích ở trên, có thể do ảnh hưởng của Hiến pháp bất thành văn
và phong cách Hiến pháp các quốc gia tư sản, Hiến pháp hiện hành Malaysia tập trung
làm rõ hai mảng: tổ chức quyền lực Nhà nước và quyền cơ bản của công dân. Hiến pháp
Malaysia có quy định chung về vấn đề tôn giáo. Theo đó, Hiến pháp ghi nhận “Hồi giáo
là tôn giáo liên bang”, và các tôn giáo khác vẫn được tự do thực hành cũng như phát triển.
(Khoản 3, Điều 1). Tuy vậy, cách giải thích và nhìn nhận vấn đề “tôn giáo liên bang” này
có nhiều mâu thuẫn và đánh giá khác nhau về vị trí, vai trò của Hồi giáo trong Hiến pháp.
Chủ yếu là hai luồng ý kiến trái ngược nhau: (1) Hồi giáo mang tính chất nghi lễ, hình
thức; và (2) Hồi giáo là cả lối sống, cách thực hiện, triển khai trên thực tế. Cụ thể hai
luồng ý kiến này sẽ được phân tích kỹ trong mục thực tiễn thi hành Hiến pháp Malaysia
dưới đây.
2.3.4.4. Nhân quyền
Nhìn lại hầu hết các bản Hiến pháp đã qua trong lịch sử Malaysia, có thể thấy, gần
như quyền con người trong bất kỳ bản Hiến pháp nào cũng đều bị hạn chế ở một mức độ
nào đó. Do nhiều lý do, chủ yếu là do những biến động chính trị, sự bạo loạn và những
cuộc chiến đẫm máu. Nguyên nhân chính là bởi xung đột sắc tộc và đối nghịch tư tưởng
của những nhóm người khác nhau, điều dễ xảy ra ở các quốc gia đã sắc tộc và tôn giáo
như Malaysia. Quyền tự do ngôn luận, tự do biểu tình,… được xem là những quyền dễ bị
can thiệp bởi nhà nước Malaysia nhất trong số các quyền cơ bản của con người. Nhưng
cùng với thời gian, sự đi lên và trỗi dậy mạnh mẽ của vấn đề nhân quyền trên thế gới,
Hiến pháp Malaysia đã có xu hướng tôn trọng và đề cao quyền con người hơn. Cụ thể có
thể thấy qua một số biểu hiện:
(1) Ngay ở khoản 1, Điều 8, Hiến pháp Malaysia quy định: “Mọi người đều bỉnh
đẳng trước pháp luật, và được pháp luật bảo vệ như nhau.” Việc công nhân sự
bình đẳng và không phân biệt đối xử với bất kỳ ai trước pháp luật trong Hiến
pháp là điều quan trọng và là cơ sở để công dân được bảo vệ và tôn trọng quyền
của mình một cách đúng nghĩa.
(2) Không chỉ vậy, số lượng quyền con người có xu hướng tăng trong từng lần thay
đổi Hiến pháp và được quy định riêng trong một chương (Chương 2), được đẩy
lên vị trí những chương đầu tiên trong Hiến pháp cho thấy sự quan tâm và nhìn
nhận của cơ quan lập pháp và Nhà nước đối với một trong những giá trị nhân
bản của nhân loại.
(3) Như đã đề cập trước đó, Hiến pháp liên bang quy định rất rõ quy trình sửa đổi
các quy định trong Hiến pháp. Và việc sửa đổi các vấn đề liên quan đến quyền
con người được xếp vào các vấn đề đặc biệt, cần có sự tham khảo và điều trần
ngặt nghèo, nghiêm khắc hơn. Cụ thể là ngoài tỷ lệ 2/3 nghị sĩ đồng ý trong
phiên điều trần thứ 2 và thứ 3, thì việc điều chỉnh quyền con người được ghi
nhận trong Hiến pháp còn phải được sự đồng ý của Hội đồng tiểu vương hoặc
hai bang quan trọng nhất của Malaysia là Tiểu vương bang Sabah và Sarawak
[110].
2.3.4.5. Chính thể và bộ máy nhà nước
Về chính thể, Hiến pháp quy định chính thể của nhà nước Malaysia là quân chủ
liên bang. Điều này được thể hiện thông qua sự hiện diện của Quốc vương Malaysia và
sự thừa nhận Hồi giáo là tôn giáo liên bang của Malaysia.
Tuy nhiên, không giống như các quốc gia theo hình thức chính thể quân chủ trong
khu vực (Brunei, Campuchia, Thái Lan), bên cạnh Quốc vương Malaysia còn có thiết chế
đặc biệt mang tên “Majlis Raja – Raja” (tạm dịch là Hội đồng tiểu vương). Hội đồng tiểu
vương bao gồm những người đứng đầu về tôn giáo và tiếp quản chức vụ theo việc kế
truyền. Đồng thời, khi so sánh Quốc vương của Malaysia và Quốc vương của Brunei, có
thể thấy Quốc vương Malaysia thẩm quyền bị hạn chế hơn Brunei. Việc chọn lựa Quốc
vương dựa trên sự nhất trí của Hội đồng tiểu vương. Về mặt thế quyền, Quốc vương
Malaysia là nguyên thủ tối cao có Phó Quốc Vương giúp việc và hỗ trợ.
Quyền hành pháp theo Hiến pháp là được “trao cho Quốc vương” nhưng trên thực
tế thì nằm trong tay của Chính phủ. Bất cứ quyết định nào của Quốc vương đều phải dựa
trên sự tư ván và đồng ý của Chính phủ.
Quyền lập pháp được trao cho Nghị viện. Hạ nghị viện có nhiệm kỳ 5 năm và
Thượng viện có nhiệm kỳ 3 năm. Quốc Vương đứng đầu trên danh nghĩa Nghị viện, còn
thẩm quyền thực sự thuộc về hai viện.
Quyền tư pháp của Nhà nước quân chủ Malaysia được trao cho hệ thống tòa án.
Tòa cấp cao nhất là Tòa án liên bang có thẩm quyền xem xét các vấn đè liên quan đến các
bang, các quyết định trong vụ án của tòa cấp dưới, tính hợp hiến của các dự luật do Nghị
viện trình lên,…Như vậy, khác với Indonesia, Malaysia không có Tòa Hiến pháp riêng,
nhưng bù lại Tòa án tối cao liên bang có quyền xem xét tính hợp hiến. Ngoài ra, ở
Malaysia còn tồn tại Tòa Shari’ah chuyên xét xử các vấn đề liên quan đến đạo Hồi. Và
tòa án thường không được nhúng tay vào (kể cả Tòa tối cao liên bang).
Về vấn đề tam quyền phân lập, trong Hiến pháp Malaysia, không nhắc đến cụ thể
vấn đề “tam quyền phân lập”, nhưng thông qua việc nhìn nhận tổ chức bộ máy nhà nước
có thể thấy, việc phân chia quyền lực quyền lực của ba nhánh lập pháp – hành pháp – tư
pháp khá rõ ràng và cụ thể.
2.3.4.6. Sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và các thiết chế hiến định độc lập
Về sửa đổi Hiến pháp:
Trong Hiến pháp hiện hành của Malaysia, không có điều khoản nào quy định
những nội dung “bất di bất dịch” không được thay đổi hay hạn chế thay đổi như Hiến
pháp của Indonesia. Đồng thời, Hiến pháp cũng không chỉ rõ, những đối tượng nào được
quyền sáng kiến sửa đổi. Như vậy, có thể hiểu bất cứ nghị sĩ hay nhóm nghị sĩ nào đều
có thể đề xuất sáng kiến sửa đổi Hiến pháp và có thể đề xuất ở bất kỳ Nội dung nào. Thủ
tục và quy trình của việc sửa đổi sẽ qua ba (3) lần điều trần và được quyết định bởi cả hai
(2) viện. Tỷ lệ để được thông qua tại phiên thứ hai và phiên thứ ba là 2/3 số thành viên
trong Nghị viện. Hiến pháp cũng quy định chặt chẽ hơn với các điều khoản liên quan đến
việc sửa đổi địa vị Quốc vương, Hội đồng tiểu vương, các vấn đề liên quan đến vùng
Sabah và Sarawak,…
Về các thiết chế hiến định độc lập:
Ủy ban bầu cử quốc gia. Ủy ban công vụ, Ủy ban nhân quyền là những thiết chế
hiến định độc lập được thành lập để thực hiện nhiệm vụ hỗ trợ. Đáng chú ý nhất là Ủy
ban nhân quyền mới được thành lập để tăng cường đảm bảo vấn đề quyền con người theo
quy định của Hiến pháp.
2.3.4.7. Chính quyền địa phương
Trong Hiến pháp của Malaysia hiện hành không có quy định cụ thể về cấu trúc các
cấp chính quyền địa phương cho các cấp ở các bang mà các vấn đề liên quan đến quyền
lập pháp của các cấp chính quyền của Liên bang và cấp bang trong phụ lục 9 trong Hiến
pháp. Thông qua đây có thể thấy căn cứ phân định phạm vi thẩm quyền hành pháp của
chính quyền cấp bang và các việc chính quyền cấp bang không có quyền thực hiện.
2.3.4.8. Hiệu lực
Khác với Hiến pháp Indonesia, Hiến pháp Malaysia quy định rất rõ ràng về hiệu
lực của Hiến pháp: “Hiến pháp này là hiến pháp chính của Liên bang và bất kỳ luật nào
được thông qua sau ngày Merdeka không phù hợp với Hiến pháp này đều vô hiệu cho
đến khi không thống nhất.” (Khoản 1 – Điều 4). Nếu như Hiến pháp Indonesia chỉ nói
chung chung “tuân theo Hiến pháp” mà không xác định rõ ràng vị trí tối cao của Hiến
pháp trong hệ thống pháp lý quốc gia thì Hiến pháp Malaysia lại tỏ ra trân trọng và tôn
vinh Hiến pháp đúng vị trí của nó. Qua khoản 1, điều 4, có thể thấy, Hiến pháp Malaysia
được khẳng định là đạo luật cao nhất, buộc các cơ quan, người dân phải tuân theo. Đồng
thời cũng chỉ rõ mọi luật hay đạo luật được ban hành có nội dung trái với Hiến pháp đều
bị hủy bỏ. Nội dung cũng như vị trí về quy định có hiệu lực của Hiến pháp được đặt ngay
đầu vừa nhấn mạnh tầm quan trọng của Hiến pháp, vừa cho thấy điểm đáng lưu ý và cần
thiết của nó trong sự vận động và phát triển của quốc gia.
2.3.5. Thực tiễn thi hành
2.3.5.1. Quyền con người
Sự nâng cao của quyền con người không chỉ thể hiện trong các điều khoản của
Hiến pháp mà còn thể hiện ở các quyết định của tòa án bảo vệ quyền con người.
Hiến pháp đã ghi nhận một số điều khoản quan trọng về quyền con người, cụ thể:
(1) Tự do của bản thân: Điều về tự do của bản thân đã được quy định tại Khoản
1, Điều 5 của Hiến pháp Liên bang quy định rằng không ai có thể lấy mạng sống
của mình và bị tước quyền tự do ngoại trừ theo luật. Một người bị bắt phải được
thông báo ngay khi biết lý do bị bắt và anh ta được phép tự bào chữa bởi một luật
sư do chính anh ta chọn. Ngoài ra, một người bị bắt và được thả nếu không bị đưa
ra xét xử sau 24 giờ.
(2) Bình đẳng trong pháp luật: Hiến pháp Liên bang Malaysia quy định rằng
mọi người đều có quyền được bảo vệ như nhau. Khoản 2 quy định rằng một công
dân không thể được phân biệt chỉ vì tôn giáo, chủng tộc, tổ tiên hoặc nơi sinh. Tuy
nhiên, các trường hợp ngoại lệ được quy định tại Điều 153 cung cấp các dịch vụ
đặc biệt cho người Malaysia và các “bumiputeras” khác ở Sabah và Sarawak trong
các lĩnh vực khác nhau như giữ chức vụ dịch vụ công cộng, cấp học bổng và cấp
giấy phép.
(3) Tự do ngôn luận, hội họp và lập hội: Điều 10 của Hiến pháp Liên bang
Malaysia quy định quyền tự do của mọi công dân được nói, tập hợp và thành lập
các hiệp hội. Tuy nhiên, quốc hội có thể áp đặt một số biện pháp trừng phạt nhất
định nếu họ gây ảnh hưởng đối với an ninh, trật tự công cộng hoặc đạo đức.
Trong thực tế, Tòa án từng có phán quyết để bảo vệ quyền tự do ngôn luận, tự do
thể hiện quan điểm, tư tưởng của công dân. Bộ trưởng Bộ Nội vụ, sử dụng quyền hạn của
mình theo Đạo luật Xuất bản và In ấn 1984, đã cấm xuất bản một số sách báo. Các nhà
xuất bản của NXB Herald sau đó đã nộp đơn kiện lên Tòa án, và vào tháng 12/2009, Tòa
án Tối cao đã đưa ra một bản án mạnh mẽ giáng xuống lệnh cấm của Bộ trưởng với lý do
vi phạm quyền thực hành tôn giáo trong hòa bình và hòa hợp theo Điều 3 (1) và quyền tự
do ngôn luận.
Không chỉ có vậy, chính kỳ bầu cử 2018 mới làm nổi bật hẳn tinh thần tự do bầu
cử và làm chủ đất nước của người dân Malaysia. Chiến thắng của Liên minh PH với 47%
số phiếu phổ thông đã cho thấy rằng, sức mạnh của người dân có thể đẩy lùi cả một liên
minh BN hùng mạnh, vốn đã quá nổi tiếng với những chiêu trò gian lận bầu cử và thao
túng truyền thông. Với tinh thần tích cực tham chính của cả người dân lẫn các tổ chức xã
hội dân sự như vậy, chắc chắn nền dân chủ Malaysia sẽ còn tiến xa hơn nữa [28].
Một minh chứng nữa cho việc đảm bảo quyền con người là quy định và sửa đổi
Hiến pháp nhằm đảm bảo cho quyền con người kể cả với những người bị xét xử trong
Tòa án Shari’ah với những tội liên quan đến Hồi giáo. Với sửa đổi này, một người phạm
tội có thể bị xét xử tại Tòa án Syariah sẽ có các quyền tương tự được cấp cho anh ta trong
trường hợp anh ta bị xét xử tại Tòa án của Thẩm phán. Hiệu quả là nếu anh ta bị giam giữ
vì mục đích này, anh ta sẽ được đưa ra trước một thẩm phán Tòa án Syariah trong vòng
24 giờ kể từ thời điểm bị bắt mà không có sự chậm trễ vô lý [126].
Không chỉ vậy, sự ra đời của Ủy ban Nhân quyền Malaysia (SUHAKAM) được
thành lập bởi Nghị viện theo Đạo luật Ủy ban Nhân quyền Malaysia năm 1999, Đạo luật
597 nhằm thực hiện tốt và hiệu quả hơn quyền con người tại Malaysia đã được tiến hành
một cách nhanh chóng. Với những mục đích và mục tiêu:
+ Để nâng cao nhận thức và cung cấp giáo dục nhân quyền.
+ Tư vấn và hỗ trợ Chính phủ xây dựng các hướng dẫn và thủ tục lập pháp và hành
chính và đề xuất các biện pháp được thực hiện.
+ Đề xuất với Chính phủ về việc ký kết hoặc tham gia các điều ước và công cụ
quốc tế khác trong lĩnh vực nhân quyền.
+ Để điều tra các khiếu nại liên quan đến vi phạm nhân quyền.
Ủy ban Nhân quyền được hy vọng sẽ là chỗ dựa vững chắc đảm bảo về nhân
quyền tại Malaysia.
2.3.5.2. Hoạt động của Tòa án và cơ chế bảo hiến
Bên cạnh việc nâng cao quyền con người, trên thực tiễn cũng cần nhìn nhận những
phán quyết của Tòa án về các vấn đề liên quan đến quyền con người, về các đạo luật vi
hiến để xem xét khả năng thực thi trên thực tế của Hiến pháp.
Từng có một thời gian Malaysia hạn chế quyền của những người theo tôn giáo cải
đạo với lý do an ninh quốc gia và tránh xung đột tôn giáo sắc tộc. Nhưng đã có một vụ án
nổi tiếng làm thay đổi điều đó. Trong vụ Bộ trưởng Bộ Nội với Jamaluddin bin Othman,
Tòa án tối cao đã bãi bỏ lệnh giam giữ phòng ngừa được ban hành theo Đạo luật An ninh
Nội bộ năm 1960 chống lại một người Malay chuyển đổi sang Cơ đốc giáo, người đã
chuyển đổi một số người Hồi giáo sang Kitô giáo, theo một quyết định tiên tiến, rằng
ngay cả an ninh quốc gia cũng không thể thắng thế đối với tự do tôn giáo [32, 356] và
nhằm đảm bảo quyền thực hiện tự do tín ngưỡng không bị ngăn cản bởi những lý do phi
lý của người dân.
Các phán quyết trước đó về quyền con người kể trên của Tòa án cũng được xem
là minh chứng rõ ràng trong nỗ lực thực hiện của Nhà nước trong việc đảm bảo quyền
con người trên thực tiễn của Malaysia.
2.3.5.3. Ảnh hưởng của Hồi giáo
Việc quy định về vị trí của Hồi giáo trong Hiến pháp cho đến nay vẫn là một cuộc
tranh cãi giữa các luồng ý kiến. Việc ghi nhận “Hồi giáo là tôn giáo liên bang, nhưng các
tôn giáo khác vẫn được tự do phát triển trong hòa bình” tạo ra hai luồng quan điểm khác
nhau về vị trí của đạo Hồi trong Hiến pháp. Có hai ý kiến khác nhau về vị trí của đạo Hồi
trong Hiến pháp Liên bang. L.A Sheridan và H.E Groves đưa ra quan điểm của họ rằng
quy định về Hồi giáo nhằm mục đích cho thấy Malaysia có những đặc điểm và đặc điểm
Hồi giáo cũng như các nghi lễ chính thức quốc gia (Sheridan L.A và Groves H.E). Đọc
kinh tại các nghi lễ chính thức như Yang di-Pertuan Agong và Ngày quốc khánh là một
trong những ví dụ về mục đích của điều khoản về đạo Hồi. Tuy nhiên cũng có quan điểm
cho rằng với quy định tôn giáo “liên bang” và quy định Yang di-Pertuan Agong được trao
quyền lực là người đứng đầu tôn giáo Hồi giáo đối với các quốc gia đã cho thấy vị trí của
Hồi giáo nổi bật của Hiến pháp so với các tôn giáo khác. Trong cuộc tranh luận đầy căng
thẳng đó, vai trò của Tòa án thu hút được chú ý với việc giải thích vị trí của Hồi giáo
trong Hiến pháp. Trong vụ Che Omar v. Public Prosecutor, Tòa khi đó tuyên bố rằng địa
vị của Hồi giáo trong Điều 3 chỉ giới hạn vào những “hoạt động liên quan đến nghi thức
và lễ nghi” (rituals and ceremonies), và rằng luật pháp của đất nước là luật pháp thế tục
[106, 56]. Hai năm sau, Tòa Tối cao tái khẳng định cơ sở thế tục của Hiến pháp, căn cứ
trên những tuyên bố của các nhà lập pháp rằng thừa nhận đạo Hồi là tôn giáo nhà nước
“không ảnh hưởng theo bất cứ cách thức nào đến các quyền dân sự của những người
không Hồi giáo” [79]. Nhưng dù theo cách giải thích của Tòa án, Hồi giáo chỉ mang tính
nghi lễ thì không thể phủ nhận đạo Hồi và pháp luật Hồi giáo có ảnh hưởng lớn và ngày
càng mạnh mẽ trên thực tế.
Mặc dù chỉ mang tính hình thức, song trong tuyên thệ nhậm chức của Vua
Malaysia, ông tuyên thệ nhậm chức trước tuyên thệ cụm từ “wabillahi, watallahi” và thề
rằng: “Và chúng tôi thề sẽ tôn trong và thực sự duy trì Hồi giáo và chính phủ sẽ dựa trên
công bằng và hòa bình trong nước.” Tuyên lời thề đó là cần thiết trong tôn giáo Islam và
nó biểu thị sự ảnh hưởng của Hồi giáo trong các nghi lễ vương quyền tại Malaysia [112].
Năm 2016, lãnh đạo đảng đối lập Đảng Hồi giáo liên Malaysia (Pan-Malaysian
Islamic Party, PAS) đề xuất một dự luật nhằm mở rộng quyền lực của Tòa án Syariah ở
Malaysia để áp đặt các án phạt hà khắc hơn nữa. Dự luật gây ra phản đối mạnh mẽ từ xã
hội dân sự và các nhóm đối lập, nhưng cũng nhận được ủng hộ từ những thành phần khác
trong xã hội Malaysia thể hiện bằng một cuộc biểu tình lớn ủng hộ dự luật diễn ra ở Kuala
Lumpur tháng 2/ 2017. Điều đó cũng cho thấy sự gia tăng ảnh hưởng của Hồi giáo trong
đời sống pháp luật và xã hội tại Malaysia.
Việc duy trì pháp luật Hồi giáo cũng gây ra những rào cản nhất định trong quá
trình thực hiện quyền tự do của người dân trong nhiều trường hợp, đặc biệt là vấn đề cải
đạo – một trong những tội được xem là nặng nề nhất trong giáo lý đạo Hồi. Điều đó càng
đặc biệt khó khăn khi hệ thống tòa án thường không có quyền can thiệp vấn đề thuộc Hồi
giáo hay công việc của Shari’ah. 750 người Hồi giáo (chủ yếu tự chuyển sang đạo Hồi)
đã nộp đơn lên Cục Đăng ký quốc gia để đổi tên thành tên không theo đạo Hồi; chỉ 220
trong số này đã thành công. Chỉ có 100 người nộp đơn lên tòa án tổng hợp để từ bỏ Hồi
giáo từ năm 1994 đến 2003. Trong số những người nộp đơn này, chỉ có 16 người đã thành
công. Năm bang đã thông qua luật phạt một người Hồi giáo từ bỏ Hồi giáo, với hình phạt
tối đa là ba năm tù tù [32, 382]. Điều đó khiến việc cải đạo trở nên khắc nghiệp và gần
như là không tưởng với những ai theo đạo Hồi và cũng ngăn cản người dân thực hiện
quyền tự do tôn giáo của mình.
Một ví dụ nổi tiếng cho vấn đề cải đạo, đó là vụ kiện của Lina Joy. Sinh ra trong
một gia đình Hồi giáo Malay, Lina Joy sau đó cải sang Thiên chúa giáo và định kết hôn
với một vị hôn phu theo đạo Thiên chúa. Theo Luật Gia đình Hồi giáo năm 1984 (trong
lãnh thổ Liên bang), Lina sẽ không được kết hôn và cải đạo khác với Hồi giáo. Cô buộc
phải có được giáy chứng nhận từ Tòa án Shari’ah nhưng bị từ chối. Lina Joy kháng cáo
lên tòa dân sự trên căn cứ rằng sự cải đạo của mình được bảo hộ dưới Điều 11 về quyền
tự do tôn giáo. Năm 2007, Tòa Phúc thẩm Tối cao Malaysia ra phán quyết chống lại cô,
viện dẫn việc cô rời bỏ đạo Hồi không được bảo vệ bởi Hiến pháp bảo đảm quyền “tuyên
xưng và thực hành” tôn giáo; mà đây là vấn đề do tòa Syariah quyết định. Đa số Toà Liên
bang xem việc bỏ đạo là việc liên quan đến Luật Hồi giáo, do đó nằm trong thẩm quyền
của Tòa Shariah. Tổng Chưởng lý sau đó đã trả lời rằng “người ta không thể từ bỏ hay
chấp nhận một tôn giáo theo ý thích và sở thích bất chợt riêng của mình được”. Điều đó
khiến Lina gần như phải trốn chạy khỏi Malaysia và luật sư Nhân quyền của cô sau đó bị
đe dọa giết hại nhiều lần.
Nhưng điều đó không có nghĩa lúc nào Hồi giáo hay tòa Shari’ah cũng lấn lướt
trước Tòa án thường hay Tòa án thường bất lực trước việc bảo vệ quyền công dân. Trong
Hiến pháp cũng quy định những giới hạn nhất định cho việc thực hiện giáo lý đạo Hồi.
Theo đó, Chính phủ tiểu bang không thể thực thi hoặc thi hành luật Hồi giáo ngoài những
gì đã được đề cập trong Danh sách Nhà nước vì nó trái với Điều 74 (2) của Hiến pháp
Liên bang, hay ngoài vấn đề được liệt kê trong Danh sách Nhà nước (nghĩa là Danh sách
thứ hai được nêu trong Thứ chín Lịch trình) hoặc Danh sách đồng thời [43].
Luật Hồi giáo chỉ có thể được trao quyền cho người Hồi giáo và không cho người
Hồi giáo. Ví dụ, trong các trường hợp quyền nuôi con, nếu một người là cha hoặc mẹ
không theo đạo Hồi thì vụ việc sẽ được giải quyết tại tòa án dân sự chứ không phải tại tòa
án. Trong trường hợp bắt giữ liên quan đến nhóm người trong đó có người không theo
Hồi giáo liên quan đến vấn đề Hồi giáo, cáo buộc chỉ áp dụng đối với người Hồi giáo
[120].
Cũng theo Điều 121 (1A) Hiến pháp, Tòa án Syariah không có quyền miễn trừ đối
với bất kỳ bên nào liên quan nếu một trong số họ không phải là người Hồi giáo. Chẳng
hạn, Tòa án Syariah đã không thành công trong việc bảo vệ một người cải đạo Re Susie
Teoh vì người cha không theo đạo Hồi. Và ông có quyền cao hơn đối với tôn giáo của
người con chưa đầy 18 tuổi. Điều này đúng bởi vì theo Điều 11 và 12, một người cha
hoặc người giám hộ có quyền quyết định về tôn giáo và giáo dục con cái của họ. Trong
trường hợp này, Tòa án Tối cao Dân sự đã phê chuẩn yêu cầu của người cha đối với Re
Susie Teoh để hủy bỏ việc nhận con trai của mình vào đạo Hồi. Tóm lại, trong trường
hợp này, vị trí của luật Hồi giáo tại Tòa án Syariah bị hạn chế.
Theo một thông cáo báo chí, vào tháng Tư, Cục Đăng ký Quốc gia đã kháng cáo
quyết định của Tòa án Tối cao Liên bang về một người đàn ông Sarawakian sinh ra trong
một gia đình Kitô giáo chuyển sang đạo Hồi khi anh ta còn nhỏ có quyền trở lại Kitô giáo
khi trưởng thành và có chứng minh thư trong đó cho thấy tôn giáo của mình là Kitô hữu.
Có thông tin rằng cho rằng chỉ có tòa án Shari’ah mới có thể đưa ra quyết định này, nhưng
thẩm phán Tòa án tối cao không đồng ý với câu nói: “... tự do tôn giáo là quyền lập hiến
và chỉ anh ta (ám chỉ vị Thẩm phán đó) mới có thể thực hiện quyền đó” [115].
2.3.6. Đánh giá và lý giải
Về các nội dung của Hiến pháp
Dù còn nhiều vấn đề trong việc giải quyết mối quan hệ giữa pháp luật thường và luật
Hồi giáo, nhưng không thể phủ nhận vấn đề quyền con người tại Malaysia ngày càng
được quan tâm và nỗ lực nâng cao nó của Hiến pháp. Việc nâng cao quyền con người
trong Hiến pháp Malaysia có thể lý giải qua sự lớn mạnh, xu hướng của quyền con người
trên thế giới, cũng như sự học hỏi của Malaysia với các điều khoản Hiến pháp trên thế
giới. Ví dụ, Điều 3 quy định về “quyền tự do của con người” và bảo vệ cá nhân khỏi bị
bắt hoặc giam giữ bất hợp pháp. Dự thảo ban đầu có nội dung: “Không ai bị tước đoạt
mạng sống hoặc quyền tự do cá nhân theo luật pháp.” Điều khoản này về tự do cá nhân
là một đặc điểm cơ bản của các hiến pháp hiện đại lấy cảm hứng từ Dự luật Nhân quyền
trong hiến pháp Hoa Kỳ. Phần này được rút ra từ Điều 5 (2) của hiến pháp Pakistan, Sửa
đổi thứ năm của hiến pháp Hoa Kỳ, Điều 21 của hiến pháp Ấn Độ cũng như Điều 16 của
hiến pháp Miến Điện.
Hay Điều 4 (1) về quyền bình đẳng của công dân trong hiến pháp liên bang đã rút ra
từ Sửa đổi thứ 14 của Hiến pháp Mỹ, Điều 14 từ Ấn Độ và Điều 5 từ Pakistan. Khoản 4
(2), mặt khác, được rút ra từ Đạo luật Chính phủ Ấn Độ 1935.
Điều 5 quy định về quyền tự do đi lại của công dân trong bất kỳ lãnh thổ nào của liên
bang. Bài viết này nhấn mạnh rằng không có công dân nào bị loại trừ khỏi bất kỳ phần
nào của đất nước chỉ dựa trên tôn giáo, chủng tộc, nơi cư trú, ngôn ngữ hoặc nơi sinh.Điều
khoản tương tự được tìm thấy trong hiến pháp của Miến Điện, Điều 17 (iv), Ấn Độ, Điều
19 (1) (d) và (e) và Pakistan.
Như vậy cùng với xu hướng thế giới, Indonesia hay Malaysia đều thể hiện sự hiện
đại hóa trong Hiến pháp của mình, và phần dễ dàng nhận ra nhất chính là nhân quyền.
Về ảnh hưởng của Hồi giáo
Thứ hai, cũng giống như các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo, có thể lý giải sự phát
triển và lớn mạnh của pháp luật Hồi giáo tại Malaysia qua các cơ sở sau:
Từ đầu thập kỷ 70, Islam ngày càng chiếm được vị trí quan trọng trong đời sống tinh
thần với nhiều lý do: (1) Islam ở Malaysia đã chịu ảnh hưởng của phong trào phục hưng
Islam quốc tế bắt đầu từ cuộc chiến tranh Ả rập – Israel năm 1973 và cuộc khủng hoảng
dầu lửa xảy ra sau đó, đặc biệt là từ cuộc cách mạng Islam ở Iran năm 1979. Các sự kiện
trên góp phần đẩy mạnh phong trào phục hưng Islam phát triển như một lực lượng chính
trị trên trường quốc tế, tác động mạnh mẽ đến tinh thần Islam ở Malaysia. (2) tinh thần
phục hưng Islam ở Malaysia đã được hun nóng từ chính tình hình nội bộ phức tạp của
một nước đa dân tộc, đa tôn giáo, đặc biệt là từ sau cuộc khủng hoảng chính trị năm 1969.
Mối quan hệ giữa Islam và Malayu (người Malayu và bản sắc Malayu) là mối quan hệ
tương hỗ. Khi tinh thần dân tộc Malayu lên cao, thì Islam trở thành sợi dây liên kết cộng
đồng Malayu chống lại các cộng đồng cư dân khác. Islam cùng với nền văn hoá của nó
được người Malayu coi là đặc trưng văn hoá dân tộc của họ, là giải pháp cho mọi vấn đề
của đất nước. Vì thế Islam ngày càng được đề cao, càng có vị trí quan trọng trong xã hội.
Trong bối cảnh Malaysia vào những năm 70 – 80, phong trào phục hưng Islam đã tác
động mạnh mẽ đến sự phát triển tình hình chính trị trong nước Malaysia, phong trào này
đã gay áp lực lớn đối với sự tồn tại và phát triển của các đảng phái chính trị ở Malaysia,
đặc biệt là sự đấu tranh giữa PAS và UMNO. Điều này giải thích tại sao từ những năm
70 – 80 đến nay, chính phủ Malaysia hết sức coi trọng vai trò của Islam, nâng cao địa vị
của Islam trong đời sống chính trị, xã hội của Malysia. Cũng chính Islam đã khiến
Malaysia thay đổi chính sách đối ngoại, thiên về thế giới Islam.
Đồng thời, những chính sách trong lịch sử Malaysia như “Chính sách kinh tế Mới”
với đối tượng bumiputra - “những đứa con của đất” – người Malaysia theo Hồi giáo được
thụ hưởng tài sản quốc gia, kinh doanh, giáo dục với lập luận bản sắc Malaysia nằm ở
Islam, vì trong Islam chứa đựng ngôn ngữ, lịch sử cũng như truyền thống văn hóa lâu đời
của cư dân bản địa trên bán đảo Malay. Điều này đã thúc đẩy công dân của Malaysia cải
đạo theo Islam một thời gian dài. Và cho đến nay số lượng người Malaysia duy trì và tiếp
tục bởi hoặc họ truyền bá cho gia đình, cộng đồng; hoặc chính bản thân họ cũng khó thay
đổi được khi vấn đề cải đạo cực kỳ khó khăn như đã phân tích trên.
Tuy vậy, trong quá trình thực hiện pháp luật Hồi giáo cũng gặp các rào cản, trên thực
tế, Hồi giáo không còn toàn quyền trong mọi vấn đề đời sống chính trị nữa, thậm chí nó
còn bị Hiến pháp giới hạn lại, và sự tác động chủ yếu nằm ở vấn đề gia đình, hôn nhân,
thừa kế so với Hồi giáo nguyên thủy. Bởi lẽ, vào cuối thế kỷ 19, tất cả các bang ở Malaya
đều nhận được các cố vấn người Anh. Sự xuất hiện của cố vấn người Anh ở Mã Lai này
đã dẫn đến việc áp dụng luật Hồi giáo đã bị xói mòn theo cách người Anh. Theo M.B.
Hooker, nói rằng mục đích thực sự của người Anh đã đưa ra Luật dân sự ở vùng đất Malay
và do đó làm giảm tình trạng của luật Hồi giáo không phải vì luật dân sự bất hợp pháp
hay Luật Hồi giáo không phải là hệ thống mà là các yếu tố kinh tế. Họ cũng cho rằng Hồi
giáo là một yếu tố rào cản trong sứ mệnh phát triển Malaya của họ [126].
2.4. Lịch sử và sự phát triển Hiến pháp Brunei
2.4.1. Khái quát chung
Brunei trong tiếng gốc là chữ "Varunai". Nó được bắt nguồn từ "varunadvipa" có
nghĩa là đảo Kalimantan. Lý do đây là tên của quốc gia Brunei là bởi vì Brunei nằm ở
đảo Borneo. Brunei Darussalam, hay còn gọi là Brunei là một quốc gia nhỏ với diện tích
5.765 km. Dân số Brunei là 301.000 người, bao gồm 70,5% người Mã Lai thường làm
việc trong chính phủ, 16% người Hoa, trong đó 80% không được làm công dân chính
thức và một số nhóm dân cư địa phương như Iban, Kedayan, Kayan, Kenyah, Kiput, Muru
và Tutung. Người nhập cư tại Brunei chiếm 8.2% và chủ yếu sinh sống với nghề nghiệp
công nhân. Tiếng Mã Lai trở thành ngôn ngữ chính tại Brunei, cùng với tiếng Anh, tiếng
Trung, tiếng Iban và hàng chục phương ngữ khu vực với số lượng lên đến 17 ngôn ngữ.
Đây là một trong những quốc gia giàu nhất với số lượng dầu mỏ khủng lồ tại khu vực
Đông Nam Á. Quá trình lịch sử tại Brunei trải qua nhiều giai đoạn, thời kỳ phát triển thịnh
vượng nhất của Brunei là vào đầu thế kỳ 16. Vương quốc Brunei khi đó, là một quốc gia
mạnh mẽ và có thẩm quyền không chỉ bao trùm toàn bộ đảo Borneo mà còn một số phần
của các đảo Sulu và Philippines. Nhưng vào thế kỷ 17 cho đến thế kỷ 18, sức mạnh của
Vương quốc Brunei bắt đầu giảm dần do sự nhượng bộ trước Hà Lan, Anh của Vua
Serawak. Chính sách nhượng bộ gây bất lợi lớn cho chính Brunei. Và cuối cùng vào thế
kỷ 19, lãnh thổ của Brunei Darussalam đã bị thu hẹp đến các ranh giới cuối cùng. Với sự
xuất hiện của người nước ngoài đến Brunei, đặc biệt của Vương quốc Anh, đã tác động
đến thay đổi hệ thống luật gia đình Hồi giáo trong một hành trình dài để giành độc lập
cho đến bây giờ. Đồng thời, sự ngự trị của Anh cũng làm xói mòn dần hệ thống luật Hồi
giáo tại Brunei. Điều đó dẫn đến một số điểm cải cách trong luật Hồi giáo ở Brunei sẽ
được phân tích trong những phần tiếp theo. Năm 1847, Vương quốc Brunei đã có một
thỏa ước cùng với Anh. Hiệp ước được thực hiện vào năm 1856, trao quyền cho Vương
quốc Anh kiểm soát các trường hợp phát sinh từ tranh chấp giữa người dân Anh hoặc
giữa người Anh và người nước ngoài ở Nhà nước Brunei. Đồng thời, bên cạnh các thẩm
phán của Brunei, còn có các thẩm phán Anh cùng thực hiện quyền tư pháp. Trong thời
gian đó, người Anh bắt đầu can thiệp vào các vấn đề của Vương quốc Hồi giáo Brunei và
can thiệp vào vấn đề công lý xã hội. Vào năm 1888, một hiệp ước trao toàn quyền cho
các thẩm phán Anh trong việc thực hiện nhiệm vụ của mình đã được xác lập giữa Anh và
Brunei. Bản chất của thỏa thuận là trao toàn bộ quyền lực cho các thẩm phán Anh trong
việc thực hiện nhiệm vụ của họ tại Vương quốc Brunei Darussalam. Với các thỏa thuận
đã đề cập ở trên, nó sẽ dẫn đến những thay đổi trong các lĩnh vực khác nhau, đặc biệt là
việc thực thi luật Hồi giáo ở Brunei.
2.4.2. Ảnh hưởng và đặc điểm của Hồi giáo tại Indonesia
Về ảnh hưởng
Một số nhà sử học châu Âu cho rằng Brunei vẫn không phải là một quốc gia Hồi giáo
cho đến thế kỷ 15. Trong một cuốn sách tham khảo Trung Quốc có tên “Ming Shih”, lưu
ý rằng vị Quốc vương Hồi giáo đầu tiên tại Brunei là Mahmud Shah. Robert Nicholl, một
người phụ trách Bảo tàng Brunei trước đây đã lập luận trong một bài báo khác có tên là
“Ghi chú về một số vấn đề gây tranh cãi trong Lịch sử Brunei năm 1980”, rằng cái tên
Ma-ho-mo-sa có thể được phát âm là Maha Moksha có nghĩa là Vĩnh cửu vĩ đại. Đồng
thời, Nicholl tiếp tục lập luận rằng Quốc vương Muhammad Shah cải đạo sang Hồi giáo
vào cuối thế kỷ 16 chứ không phải trong thế kỷ 14 như được biết đến rộng rãi. Tuy nhiên,
theo các nhà sử học Brunei, Quốc vương Muhammad Shah đã chuyển sang đạo Hồi vào
năm 1376 và ông đã cai trị cho đến năm 1402. Sau đó, đó là Quốc vương Abdul Majid
Hassan, người đã chết ở Trung Quốc, lên ngôi. Dù có nhiều đồn đoán về thời điểm chính
xác và vị Quốc vương đầu tiên của đất nước Brunei, song đa phần các nghiên cứu khoa
học đều cho rằng, có hai làn sóng giáo lý đạo Hồi đã du nhập đến Brunei. Làn sóng đầu
tiên được mang đến bởi các thương nhân từ Ả Rập, Ba Tư, Ấn Độ và Trung Quốc. Làn
sóng thứ hai được tạo ra bởi sự cải đạo của Sultan Muhammad Shah. Sự ảnh hưởng của
Hồi giáo dù theo con đường thứ nhất hay con đường thức hai đều có tầm ảnh hưởng ngày
càng mạnh mẽ và rộng mở. Theo Thomas Stamford Raffles trong cuốn sách “Lịch sử của
Java”, các hoạt động Hồi giáo của vị Quốc vương Brunei có tên Syarif Ali đã khiến Hồi
giáo được lan truyền mạnh mẽ không chỉ giới hạn ở Brunei. Ông được cho rằng đã đến
Java để tuyên truyền đạo Hồi - nơi ông được gọi là Raja Chermin. Những nỗ lực của
người Brunei trong việc truyền bá đạo Hồi đã giúp truyền bá đạo Hồi không chỉ ở Borneo
mà còn ở tận phía bắc tới các đảo phía nam Philippines. Khi Malacca rơi vào tay người
Bồ Đào Nha vào năm 1511, chính Brunei đã đóng vai trò chính trong sự truyền bá đạo
Hồi trong khu vực. Đến thế kỷ 16, Brunei đã xây dựng một trong những nhà thờ Hồi giáo
lớn nhất của mình. Năm 1578, Alonso Beltran, một du khách người Tây Ban Nha mô tả
nhà thờ với năm tầng cao vút được dựng xây trên mặt nước. Nhiều khả năng nó có năm
lớp mái để đại diện cho năm trụ cột của đạo Hồi. Hồi giáo đã bắt nguồn vững chắc ở
Brunei vào thế kỷ 16. Nhưng đáng tiếc, nhà thờ Hồi giáo này không may bị người Tây
Ban Nha phá hủy vào tháng 6 cùng năm. Như vậy, có thể thấy ngay từ thời kỳ xa xưa
trong lịch sử, Hồi giáo đã ảnh hưởng rất mạnh mẽ và bền vững tại Brunei, điều đó sẽ lý
giải tại sao cho đến nay, Brunei vẫn ảnh hưởng sâu sắc của Hồi giáo và kiên quyết theo
con đường trở thành quốc gia Hồi giáo theo đức tin về thánh Allah.
Về đặc điểm
Giống như các quốc gia khác, Hồi giáo ở Brunei mang những đặc điểm chung của
Hồi giáo trên thế giới và các quốc gia trong khu vực. Tuy vậy, việc ảnh hưởng Hồi giáo
tới Brunei không phải lúc nào cũng thuận lợi, Hồi giáo cũng gặp nhiều rào cản đặc biệt
là vào giai đoạn thực dân, pháp luật Hồi giáo bị thu hẹp. Giai đoạn đầu của sự thay đổi
dẫn đến việc thu hẹp thẩm quyền của Bộ luật Hồi giáo Hồi giáo bị giới hạn trong Bộ luật
Dân sự. Sau đó, các sửa đổi liên tiếp là từ năm 1957, 1960, 1961 và 1967, vấn đề luật gia
đình Hồi giáo chỉ được quy định 29 điều, cụ thể theo các quy tắc: Hôn nhân và ly hôn
trong phần VI bắt đầu từ điều 134 đến 157, và Người phụ thuộc trong phần VII bắt đầu
bằng Điều 157 đến 163. Vì vậy, vấn đề luật gia đình Hồi giáo ở Brunei, chỉ quy định vấn
đề hôn nhân, ly hôn và tài chính sinh kế. Dường như các hạn chế đối với thẩm quyền thực
thi pháp luật Hồi giáo ở Brunei Darussalam bắt đầu từ thời thuộc địa Anh.
2.4.3. Lịch sử Hiến pháp Brunei
Hiến pháp Brunei trải qua nhiều giai đoạn cùng với những sửa đổi qua từng thời kỳ,
song, so với Malaysia hay Indonesia, Hiến pháp Brunei ít thay đổi và sửa đổi hơn. Kể từ
bản Hiến pháp đầu tiên 1959 cho đến bản Hiến pháp hiện hành sửa đổi năm 2004, Hiến
pháp Brunei trải qua lần lượt các mốc lịch sử nổi bật sau:
2.4.3.1. Hiến pháp Brunei 1959
Về hoàn cảnh lịch sử:
Đây là Hiến pháp thành văn đầu tiên của Brunei. Khác với Indonesia, bản Hiến
pháp đầu tiên của Indonesia ra đời sau khi Indonesia vừa giành được độc lập, còn Hiến
pháp Brunei ra đời khi Brunei vẫn còn chịu ảnh hưởng của Anh. Mục đích ra đời bản
Hiến pháp là Quốc vương Brunei thời điểm đó, muốn Brunei dần tự lập và tự chủ, không
còn lệ thuộc vào Anh nữa. Ông cho rằng, sự ra đời của một bản Hiến pháp sẽ giúp Brunei
thực hiện được điều đó.
Về nội dung:
Hiến pháp năm 1959 quy định Quốc vương là Nguyên thủ quốc gia có toàn quyền
hành pháp. Quốc vương được hỗ trợ và tư vấn bởi năm hội đồng - Hội đồng tôn giáo, Hội
đồng Cơ mật, Hội đồng Bộ trưởng (Nội các), Hội đồng Lập pháp và Hội đồng Kế vị. Hiến
pháp năm 1959 đã thiết lập Thủ tướng là một quan chức cao nhất, với Cao ủy Anh là cố
vấn cho Chính phủ về tất cả các vấn đề ngoại trừ những vấn đề liên quan đến tôn giáo
Hồi giáo và phong tục Malay.
Gần như trong Hiến pháp 1959, toàn bộ các quy định chủ yếu xoay quanh vị trí và
quyền lực vô biên của Sultan. Mọi thẩm quyền điều hành đất nước đều tập trung trong
tay Quốc vương. Trên thực tế, Quốc vương đã nhậm chức Thủ tướng, Bộ trưởng Bộ Tài
chính và Bộ trưởng Bộ Nội vụ vào năm 1984, sau khi nối lại độc lập chính trị hoàn toàn.
Vào tháng 10 năm 1986, ông từ bỏ Bộ Tài chính và Nội vụ và tiếp quản Bộ Quốc phòng.
Quốc vương cũng là Tư lệnh tối cao của Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Brunei. Nội các
có 13 thành viên và mỗi báo cáo cho Quốc vương. Hiến pháp năm 1959 quy định rằng
quyền bổ nhiệm vào các Hội đồng được thực hiện bởi Quốc vương. Quốc vương có thể
tuyên bố tình trạng khẩn cấp, bất chấp mọi điều không phù hợp với Hiến pháp.
Hội đồng tôn giáo chịu trách nhiệm tư vấn cho Quốc vương về các vấn đề liên
quan đến Hồi giáo. Điều này được giải quyết trong Phần II của Hiến pháp, trong đó nói
rằng tôn giáo của Brunei sẽ là Hồi giáo theo giáo phái Shafeite. Người đứng đầu đức tin
là Quốc vương. Tự do tôn giáo được Hiến pháp bảo vệ. Hội đồng Cơ mật khuyên Quốc
vương liên quan đến việc thực thi quyền ưu tiên, sửa đổi hoặc hủy bỏ bất kỳ điều khoản
nào của Hiến pháp và trao tặng danh hiệu.
Hội đồng Lập pháp được quy định trong Hiến pháp để thực hiện vai trò xem xét
kỹ lưỡng về pháp luật. Tuy nhiên, vì lý do của Nhà nước, Hội đồng Lập pháp đã không
được đáp ứng trong những năm gần đây và luật pháp được ban hành thông qua tuyên bố
của Hoàng gia.
Hội đồng kế vị quyết định sự kế vị ngai vàng trong trường hợp nhu cầu đó phát
sinh. Thứ tự kế vị được xác định bởi Hiến pháp và các thỏa thuận của Hội đồng cũng
được đặt ra tương tự.
Tư pháp hình thành một nhánh chính phủ riêng biệt trong Brunei và sự độc lập của
tư pháp được đảm bảo. Chính phủ quy định việc bảo vệ quyền tự do tôn giáo trong nước
bằng cách đảm bảo rằng Tòa án Hồi giáo chỉ có quyền tài phán đối với người Hồi giáo.
Tuy vậy, không phải lúc nào Quốc vương cũng tự quyết các vấn đề liên quan đến
đất nước. Việc tham vấn các cố vấn người Anh truyền thống đã dần trở thành một công
việc quen thuộc và thường niên dù không có điều khoản nào cho thấy việc này là bắt buộc
với các Sultan. Trong lịch sử, Quốc vương Brunei luôn hành động tham khảo ý kiến với
các cố vấn truyền thống của mình. Do đó, sự xuất hiện trên các tài liệu quan trọng của
Nhà nước và hiến pháp, chữ ký và con dấu của cố vấn người Anh, cho thấy thỏa thuận
của họ, cũng như chữ ký và con dấu của Quốc vương. Truyền thống tham vấn đã được
chính thức hóa sau khi thành lập hệ thống cố vấn thường trú của Anh tại Brunei do Sultan
chủ trì. Hệ thống này tồn tại cho đến khi có Hiến pháp thành văn đầu tiên vào năm 1959
khi một Hội đồng Hành pháp (sau này gọi là Hội đồng Bộ trưởng) và Hội đồng Lập pháp
thay thế Hội đồng Nhà nước cũ. Các cố vấn truyền thống tiếp tục đóng một vai trò quan
trọng theo Hiến pháp năm 1959. Mặc dù họ không còn tham gia trực tiếp vào quá trình
của chính phủ, nhưng phần lớn trong số họ bao gồm tư cách thành viên của Hội đồng Cơ
mật và Hội đồng Kế vị.
2.4.3.2. Hiến pháp sửa đổi năm 1971, 1984
Về bối cảnh lịch sử:
Năm 1971, Hiệp ước giữa Anh và Brunei sửa đổi đã làm giảm thêm quyền lực của
Chính phủ Vương quốc Anh chỉ giữ lại ảnh hưởng đối với các vấn đề đối ngoại khi quốc
phòng trở thành trách nhiệm chung của cả hai nước. Năm 1984, Brunei đã giành lại độc
lập chính trị hoàn toàn và nhận trách nhiệm về quốc phòng cũng như quan hệ đối ngoại
của chính mình. Trước tình hình đó, Brunei tiến hành việc sửa đổi Hiến pháp cho phù hợp
với các biến đổi chính trị, xã hội trong nước. Hiến pháp Brunei đã lần lượt trải qua lần
sửa đổi vào 1971, 1984.
Về nội dung:
Hệ thống chính phủ, được thực hiện theo cách tư vấn truyền thống của người Malay
thông qua một Bộ trưởng và các quan chức cấp cao, đã được thay thế vào năm 1984 với
Nội các kiểu mới. Điều đó phản ánh cam kết của Hoàng thượng đối với một chính quyền
hiệu quả và tiến bộ.
Một số quy định của Hiến pháp, liên quan đến bầu cử và Hội đồng Lập pháp, đã
được sửa đổi. Hội đồng lập pháp thỉnh thoảng được thành lập lại cho đến khi một Chính
phủ kiểu Nội các được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1984. Các văn phòng cũ của Bộ
trưởng, Bộ trưởng Ngoại giao và Cán bộ Tài chính Nhà nước đã bị bãi bỏ và thay thế bởi
Thủ tướng và các Bộ trưởng khác.
Theo Hiến pháp, Quốc vương thực thi quyền hạn ban hành luật trong trường hợp
không có Hội đồng Lập pháp. Các thỏa thuận tài chính theo Hiến pháp năm 1959 vẫn
không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi địa vị vào năm 1984 ngoại trừ trong trường hợp các
điều khoản đó đề cập đến Hội đồng Lập pháp. Vị trí của Tổng Kiểm toán vẫn giữ nguyên
như trước năm 1984, Tổng kiểm toán chịu trách nhiệm báo cáo với Quốc vương. Không
có thay đổi nào được thực hiện đối với vị trí của các dịch vụ công cộng. Chúng tiếp tục
được kiểm soát và giám sát bởi Ủy ban Dịch vụ Công cộng.
Liên quan đến Tư pháp, Quốc vương có quyền bổ nhiệm các Thẩm phán trở thành
ủy viên tư pháp của Tòa án Tối cao Brunei. Vào tháng 7/1991, hai người Brunei được bổ
nhiệm làm Thẩm phán Tòa án Trung cấp. Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Cơ mật hoạt
động như Tòa án phúc thẩm cuối cùng. Tòa án tối cao nhận được kháng cáo từ các Tòa
án sơ thẩm cho các vụ án hình sự và dân sự cấp quận. Kháng cáo của Tòa án cấp cao được
đệ trình lên Tòa án phúc thẩm. Ủy ban Tư pháp của Hội đồng Cơ mật tại London là tòa
phúc thẩm cuối cùng chỉ dành cho các vụ án dân sự. Tòa án Shari’ah cùng tồn tại với Tòa
án tối cao và liên quan đến luật Hồi giáo. Năm 1991, Tòa án Trung cấp được thành lập,
với thẩm quyền xét xử dân sự và hình sự rộng lớn; mặc dù nó không giải quyết các vi
phạm về kinh tế.
Theo Hiến pháp Brunei năm 1959, Quốc hội nước này có 33 ghế, trong đó 16 ghế
do bầu cử trực tiếp. Cơ chế bỏ phiếu đã bị cha của Hồi vương Bolkiah là Omar Ali
Saifuddin giải thể năm 1962, sau khi đại đa số cử tri hậu thuẫn cho đảng cánh tả Nhân
dân Brunei. Do tình trạng bất ổn sau đó, Hồi vương Omar đã ban bố tình trạng khẩn cấp
và đến nay quyết định này về mặt hình thức vẫn còn hiệu lực. Những sửa đổi về hiến pháp
trong những năm 1970 và 1980 đã dẫn đến việc hình thành Quốc hội Brunei có 21 thành
viên hoàn toàn do chỉ định mà không qua bầu cử. Nhưng cơ quan lập pháp này cũng bị
giải tán vào năm 1984, sau khi Brunei được Anh trao trả độc lập hoàn toàn. Hồi vương
Bolkiah trở thành người có quyền lực tối thượng tại Brunei. Hiện ông vừa là nguyên thủ
quốc gia kiêm thủ tướng, Bộ trưởng Quốc phòng và Bộ trưởng Tài chính.
2.4.3.3. Hiến pháp Brunei sửa đổi 2004
Về hoàn cảnh lịch sử:
Khi Brunei bước vào thế kỷ XXI và cùng với sự thay đổi của đất nước và thế giới,
nhiều người dân ở Brunei mong đợi việc tái thể chế hóa các cuộc bầu cử và cơ hội tham
gia vào chính phủ. Người ta mong chờ nhiều hơn về một bản Hiến pháp hoàn thiện và
đáp ứng nhu cầu của người dân ở mức độ nhất định.
Về nội dung:
Thực tế, một loạt các sửa đổi hiến pháp được công bố vào năm 2004 đã mang lại
cho Sultan nhiều quyền lực hơn. Mặc dù Hội đồng Lập pháp với tư cách thành viên một
phần dựa trên các cuộc bầu cử đã được tái hoạt động vào năm 2004, tất cả các thành viên
đã được bầu bởi Sultan và các thành viên của nó bao gồm chính Sultan, anh trai của
Sultan, hoàng tử Mohamed Bolkiah, Bộ trưởng Nội các, đại diện từ các khu vực khác
nhau. Nội các hoạt động lại và được giao nhiệm vụ phê chuẩn các sửa đổi Hiến pháp năm
2004 bao gồm các quy định mới được về việc Sultan là người cai trị tuyệt đối. Sửa đổi
mới này đã làm rõ thẩm quyền của Sultan, trao cho Quốc vương thẩm quyền phi thường
và đặt mình lên trên pháp luật, cả về năng lực chính thức và cá nhân. Trong sửa đổi hiến
pháp mới này, vị trí của Hội đồng Lập pháp ngày càng yếu đi.
Ban cố vấn chỉ bao gồm các thành viên được bầu hàng năm họp vào tháng 3 để
thảo luận về ngân sách và các vấn đề liên quan đến chính phủ đang được công chúng quan
tâm. Theo hiến pháp năm 1959, Ban cố vấn có chức năng giám sát và mọi luật phải được
Hội đồng tư vấn phê duyệt trước khi được phê chuẩn. Tuy nhiên, sửa đổi năm 2004 đã
phủ nhận điều kiện này, và làm cho Hội đồng Lập pháp thực sự trở thành một cơ quan
đóng dấu vô nghĩa. Việc bầu cử trực tiếp các thành viên của Hội đồng Lập pháp khó có
thể xảy ra trong tương lai gần. Việc sửa đổi hiến pháp năm 2004 đã biến Sultan thành nền
tảng (hay Grundnorm) của hệ thống luật pháp ở Brunei. Horton từng nhận định rằng các
sửa đổi Hiến pháp năm 2004 tại Brunei cho thấy mong muốn bao bọc vương quốc dưới
hình thức dân chủ tự do mà không thực sự trở thành một nền dân chủ tự do đúng nghĩa.
2.4.4. Nội dung Hiến pháp hiện hành
2.4.4.1. Khái quát
Hiến pháp sửa đổi 2004 là lần sửa đổi gần đây nhất của Hiến pháp Brunei nhân
dịp 45 năm ban hành Hiến pháp 1959. Tuy vậy, việc sửa đổi chỉ nhằm củng cố thêm
quyền lực của Quốc vương ở cả ba nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp. Đồng thời bãi bỏ
cơ chế tư pháp giám sát. Nội dung cụ thể của Hiến pháp Brunei hiện hành sẽ được phân
tích kỹ dưới đây.
2.4.4.2. Lời nói đầu
Hiến pháp Brunei có lời mở đầu khá ngắn gọn, với nội dung chính tuyên bố về
mục đích ban hành Hiến pháp Brunei chủ yếu về áp dụng pháp luật và chính trị. Hiến
pháp Brunei chưa được nhìn nhận đúng đắn với giá trị một bản Hiến pháp quốc gia. Nó
giống như một công cụ để Quốc vương thực hiện quyền lực của mình hơn là pháp luật tối
cao của một Nhà nước mà bất cứ ai cũng phải tuân theo.
2.4.4.3. Về hiệu lực
Cần lưu ý rằng trong Hiến pháp Brunei không có điều khoản nào nói rằng Hiến
pháp là luật chính của đất nước và bất kỳ luật nào không phù hợp với nó đều vô hiệu.
Cũng không có yêu cầu về các quyền tự do cơ bản, bầu cử, Tòa án Tư pháp hoặc Shari'ah.
Nếu xem xét kỹ trong Hiến pháp Brunei hiện hành, chỉ có khoản 1 Điều 84 có nhắc đến
hiệu lực Hiến pháp một cách rất sơ sài: “Chính quyền sẽ phải bị điều chỉnh theo quy định
của Hiến pháp này…” nhưng ngay sau đó lại khẳng định: “Hiến pháp này không được
làm ảnh hưởng đến đặc quyền của Quốc vương[…]Quốc vương có toàn quyền làm luật
và sửa luật, bổ sung Hiến pháp nếu thấy điều này là cần thiết.” Có thể thấy hiệu lực của
Hiến pháp là thứ yếu so với quyền lực của Nhà vua. Bất cứ khi nào, và bất cứ lúc nào,
Hiến pháp cũng có thể bị thay đổi theo “ý thích” và mong muốn của Quốc vương. Nó cho
thấy sự chưa tương xứng với vị trí và tầm quan trọng của Hiến pháp với một quốc gia trên
thực tế. Nhưng điều này có thể lý giải được ở một chế độ quân chủ chuyên chế lại ảnh
hưởng sâu sắc Hồi gáo với sự tín nhiệm và trung thành tuyệt đối với người đứng đầu.
2.4.4.4. Chế độ Nhà nước
Khác biệt so với Hiến pháp Indonesia hay Malaysia, Hiến pháp hiện hành của
Brunei không quy định về chế độ nhà nước. Hiến pháp chủ yếu tập trung khẳng định các
điều sau: (1) Hồi giáo là tôn giáo chính thức, nhưng các tôn giáo khác vẫn được phép tồn
tại và hoạt động một cách hòa bình, (2) Quốc vương là người đứng đầu về tôn giáo và
chính trị tại Brunei. Điều này đã được lý giải ở trên bởi vị trí Hiến pháp vẫn đang ở thứ
yếu so với quyền lực Quốc vương.
2.4.4.5. Nhân quyền
Hiến pháp Brunei không có ghi nhận riêng về nhân quyền. Trong lần sửa đổi Hiến
pháp vào năm 2004, khoản 3 Điều 83 mới được bổ sung quy định về hành vi “Mua bán
và buôn lậu người”, coi đó là hành vi bị cấm, nếu vi phạm sẽ phải chịu chế tài hình sự.
Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là ở Brunei luật pháp không quy định về quyền con
người. Mặc dù không được ghi nhận trong Hiến pháp những những quy định về quyền
con người nằm rải rác trong các luật thành văn do Nhả nước ban hành và trong luật Hồi
giáo.
2.4.4.6. Chính thể và Bộ máy Nhà nước
Hiến pháp Brunei ghi nhận Brunei là quốc gia theo chính thể quân chủ chuyên chế
Hồi giáo. Không có chương nào trong Hiến pháp quy định về Quốc vương bởi lẽ Quốc
vương chi phối tất cả và Quốc vương còn “đứng trên” cả Hiến pháp. Do đó, Sultan Brunei
có toàn quyền trong lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhưng trong bản thân Hiến pháp cũng
ghi nhận việc thành lập riêng biệt và hoạt động của ba nhánh quyền lực này. Có thể nói,
việc ghi nhận nguyên tắc “tam quyền phân lập” ở Hiến pháp Brunei hiện hành là có,
nhưng mang tính hình thức. Thực tế, Quốc vương vẫn chi phối tất cả dù trực tiếp hay gián
tiếp.
Brunei là một quốc gia được cai trị bởi một vị vua (Quốc vương) với quyền lực
tuyệt đối. Quyền lực cai trị cao nhất của Brunei nằm trong tay Ngài. Ông là Thủ tướng.
Ông là Tư lệnh tối cao của Lực lượng Vũ trang Hoàng gia Brunei. Cơ quan cầm quyền sẽ
được thực thi bởi ông. Hiến pháp Brunei trao quyền cho Quốc vương đưa ra tuyên bố
khẩn cấp. Việc công bố tình trạng khẩn cấp được thực hiện vào năm 1962 vẫn còn hiệu
lực cho đến bây giờ. Trong khi tuyên bố tình trạng khẩn cấp, trong số những người khác,
Quốc vương có thể “đưa ra bất kỳ Lệnh nào mà Quốc vương thấy cần thiết cho lợi ích
của công chúng.” Các lệnh bao gồm: “... sửa đổi, thay thế hoặc đình chỉ tất cả hoặc bất
kỳ điều khoản nào của pháp luật được viết bằng văn bản…” Và việc sửa đổi Bộ luật hình
sự Jeyah Shari’ah 2013 là một trong những lệnh như vậy.
Quốc vương không thể bị truy tố dưới bất kỳ hình thức nào, kể cả xem xét tư pháp
trong khả năng cá nhân hoặc chính thức. Ngay cả các quan chức chính phủ thực hiện
nhiệm vụ của họ được miễn truy tố trong một số trường hợp. Điều 85 cho phép Quốc
vương, “với Tuyên bố, sửa đổi, bổ sung hoặc thu hồi bất kỳ điều khoản nào của Hiến
pháp này”. Thông thường việc giải thích Hiến pháp là nhiệm vụ của Tòa án. Tuy nhiên,
theo Hiến pháp Brunei, nhiệm vụ được giao cho Toà án giải thích có ba thành viên do
Quốc vương bổ nhiệm.
Điều 84 khoản (2) quy định rõ ràng về quyền của Quốc vương: “(2) Không có gì
trong Hiến pháp này được coi là làm giảm quyền của Quốc vương” và, “Quốc vương có
quyền lập luật, công bố Hiến pháp hoặc một phần của Hiến pháp này nếu xét thấy cần
thiết…” Tiếp theo là quy định của Điều 84A: “84B. (1) Quốc vương Yang di-Pertuan
không có khả năng làm sai trong bản chất cá nhân hoặc chính thức của mình. Quốc vương
và Yang di-Pertuan sẽ không bị xét xử tại bất kỳ tòa án nào liên quan đến bất kỳ điều gì
được thực hiện hoặc bỏ qua trong thời gian làm việc hoặc sau khi trị vì cho dù là bản chất
cá nhân hay chính thức.”
Giúp việc cho Quốc vương là Hội đồng Cơ mật và Hội đồng Ân xá. Hội đồng Cơ
mật hỗ trợ vấn đề sửa đổi, bổ sung Hiến pháp, phong hàm, tước quý tộc và các việc được
Quốc vương giao. Hội đồng Ân xá góp ý các trường hợp phạm tội xin ân xá. Cả hai hội
đồng hoạt động dựa trên sự “hài lòng” của Quốc Vương.
Về lập pháp, Hiến pháp có quy định Hội đồng lập pháp giống các chính thể Cộng
hòa. Tuy nhiên, thẩm quyền thực tế lại thuộc về Quốc vương. Mọi đề xuất từ Hội đồng
lập pháp dù được thông qua hay không thông qua đều được trình lên Quốc vương. Quốc
vương sẽ xem xét và là chốt cuối quyết định có sửa đổi, bổ sung hay không. Trong trường
hợp, Quốc vương quyết định không theo Hội đồng lập pháp, Quốc vương cũng không cần
thông báo lại cho Hội đồng lập pháp.
Về hành pháp, Hiến pháp có quy định liên quan đến các Bộ trưởng giúp việc cho
Nhà vua. Nhưng việc bổ nhiệm Bộ trưởng phụ thuộc hoàn toàn vào Quốc vương. Cũng
giống như các bộ phận giúp việc khác, Quốc vương không nhất thiết phải tham khảo ý
kiến đến từ các Bộ trưởng mà có toàn quyền vận hành hành pháp theo ý định riêng của
mình.
2.4.4.7. Sửa đổi Hiến pháp, bảo hiến và thiết chế hiến định độc lập
Như đã phân tích ở phần hiệu lực, trên thực tế, Hiến pháp Brunei không có quy
định chặt chẽ về việc sửa đổi Hiến pháp. Việc sửa đổi Hiến pháp ra sao phụ thuộc hoàn
toàn vào Quốc vương. Hiến pháp có ghi nhận Quốc vương cần tham khảo ý kiến của Hội
đồng Cơ mật, nhưng ý kiến chỉ mang tính chất tham khảo. Hiến pháp không hề quy định
thêm ý kiến Hội đồng có vai trò ra sao với quyết định của Quốc vương. Có thể hiểu, Quốc
vương có thể đồng ý có thể không tùy theo ý chí của mình.
Hiến pháp có ghi nhận sự có mặt của Ủy ban công vụ trong việc giúp đỡ Quốc
vương. Số lượng, nhiệm vụ, tiền lương hay công việc đều do Quốc vương chỉ định.
2.4.4.8. Chính quyền địa phương
Hiến pháp Brunei không hề quy định về chính quyền địa phương.
2.4.5. Thực tiễn thi hành Hiến pháp
2.4.5.1. Quyền con người
Trong Hiến pháp Brunei không có quy định nào rõ ràng về quyền con người. Tuy
vậy, Brunei cũng có những động thái nhất định nhằm bảo vệ quyền con người ở mức độ
nhất định thông qua việc ký kết và tham gia các Công ước quốc tế về quyền con người và
ban hành các đạo luật chuyên ngành để bảo vệ các đối tượng riêng biệt: Đạo luật Trẻ em
và Người trẻ tuổi (tại Chương 219), Bộ luật Tố tụng Hình sự (tại Chương 22), Đạo luật
Việc làm (tại Chương 93) và Đạo luật gia đình Hồi giáo (tại Chương 217). Cụ thể như,
Đạo luật Luật Gia đình Hồi giáo, tại Chương 217 quy định về quyền sinh kế và chăm sóc
của trẻ em.
Luật Hồi giáo thường đặt phụ nữ vào thế bất lợi trong các lĩnh vực như ly hôn,
nhưng ngày càng có nhiều phụ nữ tham gia lực lượng lao động trong những năm gần đây
tại Brunei. Điều này có được là do Brunei đã bãi bỏ bớt một số điều khoản bất lợi cho
phụ nữ vào những khoảng thời gian gần đây, đồng thời thay đổi những điều khoản bất
công trong Hồi giáo liên quan đến phụ nữ, sự thay đổi pháp luật Hồi giáo sẽ được phân
tích dưới đây. Vào tháng 8 năm đó, Brunei đã bổ nhiệm nữ luật sư đầu tiên của mình,
Hayati Salleh, người trước đây là nữ thẩm phán Tòa án tối cao đầu tiên của đất nước. Đây
được coi là một biểu hiện cho sự vận động bình đẳng dần quyền nam nữ tại đất nước
Brunei. Trong một cuộc cải tổ nội các hiếm hoi vào tháng 5/2010, vị Sultan đã bổ nhiệm
Adina Othman thành Thứ trưởng văn hóa, thanh niên và thể thao. Đây là lần đầu tiên suốt
một thời gian dài từ khi lập quốc, Brunei có phụ nữ giữ chức vụ cao cấp như Thứ trưởng
trong Nội các.
Theo Kinh Koran, phụ nữ không được quyền bình đẳng với nam giới trong một
số lĩnh vực quan trọng như hôn nhân, gia đình, thừa kế. Vì thế, ở Brunei trước đây, con
mới sinh ra bắt buộc phải mang quốc tịch người bố. Mãi đến năm 2002, Luật quốc tịch
sửa đổi mới cho phép con được theo quốc tịch bố hoặc mẹ.
Ở Brunei trước đây, phụ nữ không có quyền li dị chồng và không được chia tài
sản khi li hôn. Theo luật Hồi giáo, chỉ người chồng mới có quyền quyết định kết thúc
cuộc hôn nhân. Bằng cách nói 3 lần câu "Tôi li dị cô", người chồng có thể chấm dứt mối
quan hệ hôn nhân và người vợ không được nhận bất cứ tài sản nào hình thành trong thời
kì hôn nhân đó. Đến năm 1999, bằng việc sửa đổi Luật gia đình Hồi giáo, vai trò và vị
trí của người phụ nữ trong hôn nhân mới bước đầu được khẳng định. Tới năm 2003, phụ
nữ Hồi giáo Brunei li hôn mới có quyền được kiện chồng cũ ra Toà án Hồi giáo để chia
nửa khối tài sản của cuộc hôn nhân. Có thể thấy, dù tiến độ khá chậm, nhưng Brunei
cũng đã có những thay đổi nhất định thu hẹp khoảng cách bất công giữa phụ nữ và nam
giới theo giáo lý đạo Hồi.
2.4.5.2. Hoạt động của Tòa án và cơ chế bảo hiến
Do toàn bộ hoạt động của các nhánh lập pháp, hành pháp, tư pháp phụ thuộc rất
lớn vào Sultan, nên quá trình hoạt động của các cơ quan nhà nước chủ yếu theo ý muốn
và chỉ đạo của Quốc vương. Các cơ quan nhà nước hoạt động không được đều đặn mà
bất cứ khi nào cũng có thể bị bãi bỏ một cách bất chợt mà không có lý do chính đáng.
Điển hình như Quốc hội bị hủy bỏ vào 1984 sau đó được phục hồi vào năm 2004.
2.4.5.3. Ảnh hưởng của Hồi giáo
Như đã nói ở trên, Brunei có sự thay đổi luật Hồi giáo theo xu hướng mềm mại và
phù hợp thời đại hơn. Mặc dù là nước áp dụng khắc nghiệt nhất luật Shari’ah vào đời
sống, nhưng không thể phủ nhận những thay đổi tích cực của Brunei trong việc áp dụng
luật Hồi giáo tại đất nước mình.
Thứ nhất, Brunei có sự thay đổi trong luật Hôn nhân và gia đình, theo pháp luật
Brunei, kết hôn cần sự chứng giám của Nhà nước chứ không chỉ đơn thuần là linh mục
hay sự thừa nhận của Hồi giáo. Nếu là các linh mục, đó cũng phải là là các luật sư được
ủy quyền (tauliyah) bởi Quốc vương hoặc được pháp luật ủy quyền cho người Hồi giáo.
Do đó, sự tồn tại của họ trở nên quan trọng như một hình thức quản lý đám cưới có trật
tự tại quốc gia. Trong thực tế, đôi khi cuộc hôn nhân đã được thực hiện không được đăng
ký. Tuy nhiên, những cuộc hôn nhân không đăng ký này vẫn còn hiệu lực. Hôn nhân chỉ
được coi là không hợp lệ nếu không tuân thủ luật pháp của cả hai bên. Đăng ký kết hôn
là một hình thức của isthe istana nhằm bảo tồn hai hình thức lợi ích của năm lợi ích, đó
là lợi ích của con cái (al-Nasl) và lợi ích của tài sản (al-mal).
Ở Brunei, cũng có một quy tắc quy định rằng nếu người chồng không đồng ý ly
hôn, cả hai bên có thể chấp thuận ly hôn với tiền chuộc. Cả hai bên có thể thỏa thuận số
tiền và đưa ra thống nhất ly hôn bằng cách bên nữ “đưa tiền chuộc” nếu muốn đơn phương
ly hôn. Điều này vừa đem đến lối thoát cho phụ nữ khi có thể ly hôn chồng nếu muốn,
nhưng cũng đẩy họ vào thế bị động, đôi khi bế tắc khi vẫn phải chờ sự thỏa thuận nhất trí
của chồng.
Đồng thời, Brunei cũng thay đổi luật Hồi giáo khi cho phép phụ nữ tái hôn nếu có
giấy “chứng tử”. Một người vợ có lý do để tái hôn nếu chồng cô ta đã chết hoặc được cho
là đã chết hoặc đã không nghe tin tức trong một thời gian dài. Các quy tắc nghiêm ngặt
là thái độ thận trọng của chính phủ Brunei để không đưa ra tuyên bố có thể gây tổn hại
cho một bên và không hối tiếc trong tương lai. Đây là một hình thức cải cách của luật
pháp của chính phủ Brunei nhằm cố gắng đưa "người mất" phù hợp với thời đại thay đổi
[85].
Tuy nhiên, Hồi giáo tại Brunei vẫn được ưu ái hơn so với các tôn giáo khác. Và
việc áp dụng luật Hồi giáo một cách toàn diện trong mọi mặt đời sống khiến quyền con
người bị hạn chế. Bất chấp các điều khoản hiến pháp quy định cho tự do tôn giáo, chính
phủ đã hạn chế, ở các mức độ khác nhau, các hoạt động tôn giáo của tất cả các nhóm tôn
giáo khác ngoài trường phái Hồi giáo Sunni của Shafi'i. Sự thịnh vượng của bất kỳ nhóm
nào khác ngoài giáo phái Shafi'i chính thức đều bị cấm. Chính phủ duy trì các biện pháp
kiểm soát hải quan nghiêm ngặt đối với việc nhập khẩu các văn bản tôn giáo phi Hồi giáo
như Kinh thánh, cũng như các tài liệu giảng dạy tôn giáo Hồi giáo hoặc kinh sách dự định
bán hoặc phân phối. Bất cứ ai dạy hoặc khuyến khích bất kỳ niềm tin hoặc thực hành
“lệch lạc” nào ở nơi công cộng đều có thể bị buộc tội theo Đạo luật của Hội đồng Tôn
giáo Hồi giáo và bị phạt tù ba tháng và phạt 2.000 BND (1.550 đô la).
Ngoài ra, Chính phủ định kỳ cảnh báo người dân về "những người ngoài cuộc" rao
giảng những tín ngưỡng cơ bản cực đoan hoặc không chính thống và cũng cảnh báo người
Hồi giáo chống lại các nhà truyền giáo Kitô giáo [180]. Chính phủ thường xuyên kiểm
duyệt các bài báo trên tạp chí về các tín ngưỡng khác, bôi đen hoặc xóa các bức ảnh về
thánh giá và các biểu tượng tôn giáo Kitô giáo khác. Các quan chức chính phủ cũng hạn
chế việc phân phối và bán các mặt hàng có hình ảnh của các biểu tượng tôn giáo [181].
Vào tháng 1/2010, Sultan ra lệnh rằng giáo dục tôn giáo sẽ là bắt buộc đối với sinh viên
Hồi giáo. Do đó, các trường tư thục được yêu cầu dạy Hồi giáo và bắt buộc giảng dạy
tiếng Ugama trên cơ sở ngoại khóa, ngoài giờ cho học sinh Hồi giáo của họ. Ugama là
một khóa học giáo dục sáu năm dạy Hồi giáo Sunni theo trường phái Shafi'i. Các trường
học, bao gồm các trường tư, có thể bị phạt hoặc các quan chức nhà trường bị cầm tù vì
dạy các môn tôn giáo phi Hồi giáo.
Như tuyên bố của Quốc vương ngay từ khi giành được độc lập, Brunei sẽ dần áp
dụng toàn bộ luật Shari’ah tại đất nước mình nhằm tiến tới hình ảnh một Brunei “thánh
đường của Hồi giáo” trong khu vực và trên thế giới. Brunei Darussalam bắt đầu áp dụng
luật Shari’ah hình sự trong các giai đoạn, bắt đầu từ ngày 1/5/2014, biến Brunei trở thành
quốc gia đầu tiên ở Đông Nam Á thực hiện đầy đủ luật Hồi giáo. Hồi giáo Shari’ah được
thực hiện ở Brunei trong ba giai đoạn. Giai đoạn đầu tiên bao gồm án tù hoặc phạt tiền
đối với các vi phạm như không thực hiện những lời cầu nguyện vào thứ Sáu và mang thai
ngoài giá thú. Trước khi kết thúc năm, giai đoạn thứ hai được lên kế hoạch thực hiện bao
gồm các hình phạt nghiêm khắc hơn bao gồm cắt tay và đóng hộp. Và theo đúng tiến
trình, Brunei hiện đang ở giai đoạn 3 với việc thông qua luật ném đá đến chết người ngoại
tình vào đầu tháng 4 vừa qua. Giai đoạn thứ ba được lên kế hoạch để thực hiện với các
hình phạt thậm chí còn nghiêm khắc hơn, bao gồm cả án tử hình bằng cách ném đá cho
các hành vi tội phạm dưới hình thức sodomy và ngoại tình. Giải thích cho việc áp dụng
bộ luật hà khắc này, quốc vương 67 tuổi nói: “Chúng ta cần đấng Allah tối cao, với tất cả
sự rộng lượng của Ngài, tạo cho chúng ta những điều luật để chúng ta sử dụng mà đạt
được công lý” [15].
2.4.6. Đánh giá và lý giải
Những vấn đề được quy định trong Hiến pháp và thay đổi trên thực tế
Dù ảnh hưởng luật Hồi giáo lớn và là một nước theo chính thể quân chủ, song, Brunei
vẫn có những thay đổi tích cực trong việc áp dụng luật Shari’ah. Điều này có thể lý giải
bởi xu thế thế giới, áp lực từ cộng đồng quốc tế. Đồng thời, như đã nhắc đến ở trên là sự
xuất hiện của Vương quốc Anh làm xói mòn phần nào luật Hồi giáo ở Brunei. Vai trò của
Anh thể hiện rất rõ trong Hiến pháp Brunei ngay từ những ngày đầu thành lập. Từ đề nghị
ban đầu của Ngài Cecil Clementi, Thống đốc Định cư và Cao ủy của các quốc gia Mã Lai
năm 1930, Sir Anthony Abell sau đó đề xuất Hiến pháp cho Brunei, Sarawak và North
Borneo thành lập một nhà nước. Khi nghe lời đề nghị, Quốc vương Omar Ali Saifuddien
đã từ chối. Tuy nhiên, Hoàng thân muốn có một hiến pháp để chuẩn bị cho Brunei giành
độc lập và cho các quyền của chủ quyền Brunei. Với lời khuyên của Ngài Anthony Abell,
Quốc vương Omar Ali Saifuddien đã ra lệnh cho R.H. Hickling đề xuất một dự thảo để
chuẩn bị Hiến pháp năm 1959. Quốc vương Omar Ali Saifuddien sau đó đã thành lập
‘Tujuh Serangkai, một ủy ban cố vấn vào tháng 4 năm 1953 để tìm hiểu ý kiến của người
Brunei về việc chuẩn bị nền độc lập. Cố vấn người Anh - R.H. Hickling được mời đến
Brunei để soạn thảo các bản thảo cho Hiến pháp. Bản ghi nhớ của Hickling đã làm sáng
tỏ Chính phủ Anh để tôn trọng lịch sử và truyền thống của các hoạt động hành chính của
Brunei. Vai trò của R.H. Hickling và Bản ghi nhớ của ông sau đó đóng vai trò quan trọng
trong việc hỗ trợ cho việc tạo ra Hiến pháp Brunei. Sau khi bản dự thảo được hoàn thiện
và sửa đổi, Quốc vương Omar Ali Saifuddien đã cùng với các thành viên của 'Tujuh
Serangkai' dẫn đầu một phái đoàn đến Luân Đôn vào ngày 11 tháng 9 năm 1957. Dù
không đạt được thỏa thuận ngay trong lần gặp đầu tiên, nhưng với quyết tâm sửa đổi Hiến
pháp, Brunei đã có những thay đổi và đạt được thỏa thuận với Anh vào ngày 29 tháng 9
năm 1959. Vai trò của Hồi giáo: Văn hóa Brunei chính thức xuất phát từ Thế Giới Mã
Lai cổ đại bao trùm quần đảo Mã Lai và văn hóa này bắt nguồn từ thực tế hình thành lịch
sử xã hội là nền Văn Minh Mã Lai.
Đồng thời, những chính sách của Anh thi hành tại Brunei về sau cũng ít nhiều hạn
chế lại sự ảnh hưởng của pháp luật Hồi giáo. Thỏa thuận 1888M của cơ quan tài phán của
Tòa án địa phương sử dụng Đạo luật Brunei đã bị giới hạn bởi quyền lực của nó. Nói cách
khác, một lần nữa Luật Hồi giáo đã bị giảm sức mạnh. Người Anh đã cố gắng kiểm soát
hoàn toàn lĩnh vực pháp lý và tư pháp ở Brunei. Hiệp định 1905M được ký ngày
3/12/1905 và Hiệp định 1906M ngày 2/1/1906 giữa Vương quốc Anh và Brunei đã mở ra
cơ hội của Anh để tiếp tục loại bỏ Đạo luật Brunei. Người Anh không chỉ nắm vững luật
pháp và tư pháp mà còn kiểm soát chính quyền và hành chính của Nhà nước Brunei. Họ
đã thay thế Luật Hồi giáo bằng Luật Anh. Từ các hiệp định 1905 và 1906M, Chính phủ
Brunei phải chấp nhận và hành động theo lời khuyên của cư dân Anh ngoại trừ những
thỏa thuận liên quan đến Hồi giáo.
Về ảnh hưởng của Hồi giáo
Sự ảnh hưởng của Hồi giáo như đã lý giải ở phần chung tại các quốc gia khu vực
Đông Nam Á, Hồi giáo “ăn sâu” vào bộ máy vương quyền, kết hợp với chính thể quân
chủ của Brunei khiến Hồi giáo càng có đất để lan tỏa mạnh mẽ. Căn cứ trên các sự kiện
lịch sử, nhiều yếu tố văn hóa khác nhau, có bốn thời kỳ văn hóa lớn tại Brunei là Hồn
Linh Giáo, Ấn Giáo, Hồi Giáo và Kitô giáo Phương Tây. Trong số đó Hồi giáo đã làm
thành nền văn hóa Brunei, và từ đó Brunei dần có một cung cách sống và chấp nhận Hồi
Giáo làm ý thức hệ và triết lý của quốc gia. Bởi vậy, văn hóa Brunei tương tự với văn hóa
Malay, bị ảnh hưởng nhiều từ đạo Hindu và Hồi giáo. Điều đó lý giải tại sao Brunei muốn
đạt được tầm nhìn và sự phát triển cho đến 2035 là “Quốc gia Luôn Nhớ về Đức Allah”.
2.5. Tiểu kết chương 2
Như vậy, có thể thấy cùng chịu ảnh hưởng của giáo lý đạo Hồi, nhưng trên thực tế các
quốc gia trong khu vực vẫn có những ghi nhận liên quan đến quyền con người trên lý
thuyết và sự bảo vệ quyền con người ở thực tiễn. Không chỉ vậy, vị trí vai trò của hiến
pháp trong các quốc gia kể trên ngày càng được nâng cao. So với Indonesia và Malaysia,
Hiến pháp Brunei có sự yếu thế hơn. Song, quá trình xây dựng hiến pháp và thi hành hiến
pháp đang ngày càng được quan tâm hơn tại quốc gia Hồi giáo này.
Chương 3.
XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ GỢI MỞ VÀ CÁC VẤN ĐỀ ĐẶT RA
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HIẾN PHÁP CÁC QUỐC GIA HỒI GIÁO
KHU VỰC ĐÔNG NAM Á
3.1. Về xu hướng phát triển
3.1.1. Xu hướng phát triển chung
Qua việc nghiên cứu bản hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam
Á, có thể thấy các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo có hai xu hướng vận động, thay đổi chính
qua thời gian. Những xu hướng vận động thay đổi này đã được phân tích và làm rõ phần
nào qua từng mục phân tích lịch sử và hiến pháp hiện hành của các quốc gia.
Xu hướng đầu tiên và cũng rất dễ nhận ra đó là sự ghi nhận và phát triển quyền con
người tại các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực. Cả Hiến pháp của Malaysia
và Indonesia đều chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức
độ nhất định. Không chỉ qua việc số lượng quyền con người được ghi nhận trong hiến
pháp tăng dần lên, có sự phổ cập và bắt kịp các Công ước về quyền con người trên thế
giới mà còn có sự mở rộng theo bối cảnh đất nước. Các vụ việc trên thực tế đảm bảo
quyền con người nói chung và đảm bảo quyền con người trước giáo lý khắc nghiệt của
đạo Hồi là minh chứng cho điều này. Đối với Brunei, vốn là trường hợp đặc biệt trong
khu vực khi theo định hướng trở thành nhà nước Hồi giáo, song cũng có những biến
chuyển dù chậm về việc tôn trọng ý kiến người dân và xây dựng lập hiến. So với Hiến
pháp Indonesia và Malaysia, Hiến pháp Brunei còn yếu kém về việc ghi nhận các quyền
cơ bản của con người và phổ cập với xu hướng quyền con người đang trỗi dậy rất mạnh
mẽ tại khu vực và trên thế giới.
Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng, nhất là với trường hợp Indonesia và Brunei
là xu hướng vận động thứ hai của hiến pháp các quốc gia khu vực Đông Nam Á. Vị trí
của Hồi giáo được quy định rõ ràng trong hiến pháp, được ghi nhận là “tôn giáo quốc
gia”, có những điều khoản dành riêng để quy định về Hồi giáo, cũng như đặc quyền trong
việc truyền bá và thực hiện giáo lý đạo Hồi trong hiện thực cuộc sống. Ở Indonesia và
Brunei cũng tồn tại song song rất rõ ràng hai hệ thống tòa án, tòa thường và tòa Shari’ah.
Tòa án thường rất khó để xét xử các vụ việc có liên quan đến Hồi giáo, các vụ việc liên
quan đến Hồi giáo được chuyển toàn bộ sang tòa Shari’ah. Và theo đúng quy định của
hiến pháp, tòa thường “không được can thiệp” vào công việc của tòa Shari’ah. Tại
Malaysia các vụ việc tôn giáo cũng gặp phải rào cản tương tự, tuy nhiên, mức độ ảnh
hưởng và sự gia tăng ảnh hưởng Hồi giáo không mạnh mẽ và nhanh chóng như Indonesia
và Brunei. Điều này có thể lý giải bởi các yếu tố ảnh hưởng truyền thống trong lịch sử và
mục tiêu phát triển đất nước trong tương lai của từng quốc gia khác nhau.
Cũng giống như bất kỳ bản hiến pháp nào, hiến pháp tại các quốc gia Hồi giáo trong
khu vực Đông Nam Á chịu ảnh hưởng và chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau, điều đó
dẫn đến sự thay đổi và vận động của hiến pháp từng quốc gia. Tùy vào mức độ ảnh hưởng
các yếu tố mà xu hướng vận động mỗi quốc gia mỗi khác. Hai xu hướng vận động trong
hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á cũng là hai trong số các xu
hướng vận động rất đa dạng của các quốc gia chịu ảnh hưởng bởi Hồi giáo khác trên thế
giới: Hiến pháp Pakistan, Hiến pháp Bangladesh, Hiến pháp Iraq, Hiến pháp Thổ Nhĩ
Kỳ,…
3.1.2. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một
mức độ nhất định
Về mặt lý thuyết, tất cả các bản hiến pháp trong lịch sử từ trước đến nay của Indonesia
hay Malaysia đều ghi nhận quyền con người. Với nền tảng triết lý Pancasila, Hiến pháp
Indonesia đã xác định một trong các mục tiêu hướng đến là quyền con người, đảm bảo sự
bình đẳng và lợi ích cho người dân trong đất nước. Từ mười lăm (15) hình thức quyền
con người được ghi nhận trong Hiến pháp đầu tiên năm 1945: quyền tự quyết (Lời mở
đầu Hiến pháp năm 1945 và điều 1), quyền công dân (điều 26), quyền bình đẳng trong
luật (điều 27), quyền có việc làm (điều 27), quyền sinh kế đàng hoàng (điều 28), quyền
tổ chức (điều 28), quyền thực thi tôn giáo (điều 29), quyền an ninh (điều 30), quyền giáo
dục (điều 31), quyền giáo dục nhận phúc lợi xã hội (điều 33), quyền có được an sinh xã
hội (điều 34), quyền được dùng thử miễn phí (điều 24 - 25), quyền nâng cao văn hóa (điều
32) và quyền nâng cao ngôn ngữ khu vực (điều 31), Hiến pháp Indonesia đã tăng lên hơn
năm mươi lăm (55) đầu mục về quyền con người trong Hiến pháp giai đoạn 1949 – 1950.
Từ việc dựa trên những lời Thánh truyền, niềm tin vào “God head”, cho rằng quyền con
người là các vị thần linh trao cho, Hiến pháp Indonesia đã đi đến ký kết các bản Hiệp ước
quốc tế liên quan đến quyền con người trên thế giới và có các động thái thể hiện sự quan
tâm và nỗ lực của quốc gia mình trong việc đảm bảo quyền con người cho công dân.
Trong khi soạn thảo Hiến pháp 1945, Indonesia đã có hai luồng ý kiến tranh cãi nhau về
việc có nên đưa quyền con người trở thành một phần trong Hiến pháp đầu tiên của Nhà
nước này không. Ý kiến đầu tiên đánh giá, quyền con người là một yếu tố tất yếu và cần
đưa vào trong Hiến pháp. Ý kiến thứ hai, chủ yếu những người theo Hồi giáo đánh giá
quyền con người không cần thiết phải có mặt trong Hiến pháp, chỉ cần ghi nhận các điều
khoản về chế độ chính trị và nhà nước là đủ. Dù còn tranh cãi nhau, nhưng Hiến pháp
1945 đã đi đến sự thỏa hiệp và nhượng bộ của các bên rằng quyền con người vẫn được
quy định trong Hiến pháp một cách đan xen và không phải nội dung quan trọng khi ấy.
Quyền con người đã có mặt trong Hiến pháp 1945 một cách khó khăn và có phần miễn
cưỡng. Nhưng sang đến năm 1957, Hội nghị lập hiếp Indonesia đã đạt được thành công
khi có thể đưa thêm 24 quy định cơ bản về quyền con người và 18 quyền công dân vào
Hiến pháp và các nhà lập pháp dần dần nhận thức nó tách biệt với các vấn đề khác. Nhận
thức và quan điểm của Indonesia về quyền con người đã thay đổi theo thời gian. Cho đến
hiện tại, Hiến pháp Indonesia đã phổ cập gần như toàn bộ các quy định về quyền con
người trong Công ước về quyền con người. Sự ra đời và hoạt động của Ủy ban Nhân
quyền trong nước nhằm đảm bảo quyền con người là biểu hiện cho thấy Indonesia rất nỗ
lực đảm bảo quyền hiến định trong Hiến pháp hiện hành.
Giống như Indonesia, Malaysia là một quốc gia có lịch sử đa dạng và tồn tại cả những
giao lý đạo Hồi lẫn các giá trị thế tục. Nếu Indonesia hướng đến một xã hội với tất cả sự
đa dạng thì Malaysia có chính sách thúc đẩy một nhóm dân tộc nhằm xây dựng xã hội
toàn diện và tất cả bình đẳng. Nếu Indonesia muốn phản ánh sự đa dạng vốn có trong đất
nước thì Malaysia lại muốn “kiểm soát” sự đa dạng và khác biệt để tạo ra một quốc gia
kính tế phát triển tốt hơn, và có xu hướng chống Trung Quốc. Nhưng dù khác nhau trong
mục tiêu cũng như cách thức, Hiến pháp Malaysia có sự vận động tôn trọng quyền con
người hơn. Không chỉ tăng số lượng ghi nhận quyền con người trong hiến pháp, chương
quyền con người còn được đẩy lên chương 2 trong hiến pháp ngay sau chương nói về chế
độ chính trị và hình thức nhà nước, cho thấy sự tôn trọng và quan tâm của Malaysia với
vấn đề quyền con người. Dù từng có thời kỳ bị mỉa mai như “con hổ không có răng”,
nhưng việc ra đời của Cơ quan Nhân quyền Malaysia cũng là biểu hiện tích cực cho việc
hiện thực hóa các quyền con người, quyền công dân đã được ghi nhận trong Hiến pháp
hiện hành.
Hiến pháp một số nước như Indonesia, Brunei lại không đề cập trực tiếp tới quyền tự
do kinh doanh của công dân với tư cách là quyền cơ bản của con người. Thế nhưng trên
thực tế, phụ nữ những nước này có thể tham gia tích cực vào các hoạt động kinh tế, ví dụ
ở Brunei, hơn nửa số doanh nghiệp vừa và nhỏ do phụ nữ sở hữu [114].
3.1.3. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng trong Hiến pháp và thực tế
Trong Hiến pháp, Indonesia và Brunei đều có những điều khoản nhất định để quy
định về Hồi giáo và các vấn đề liên quan đến giáo lý đạo Hồi, đời sống Hồi giáo. Sự ghi
nhận của Hiến pháp đã cho thấy vai trò không hề nhỏ của Hồi giáo tại các quốc gia ảnh
hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Dấu vết Hồi giáo mạnh mẽ đến mức ngay
cả trong đạo luật tối cao của một quốc gia cũng thừa nhận và có các điều khoản ghi nhận,
điều chỉnh nó. Đặc biệt, cả Hiến pháp Indonesia và Brunei đều thừa nhận thẩm quyền
“không thể can thiệp” của tòa Shari’ah trên thực tế. Nếu chỉ nghiên cứu ở mặt lý thuyết
sẽ thấy, tòa Shari’ah dường như có xu hướng bó hẹp dần trong phạm vi hôn nhân, gia
đình và thừa kế. Nhưng trên thực tiễn xét xử, do các hình phạt đều đi theo hướng hình sự
hóa, tòa Shari’ah xét xử cả các tội mà hình phạt có tính hình sự, nặng nề và khắc nghiệt.
Điều 8 Hiến pháp Malaysia năm 1957 trong lần sửa đổi năm 2001 đã bổ sung quy
định mọi công dân được bình đẳng không phân biệt giới tính, nhưng vẫn nhấn mạnh điều
này không làm mất hiệu lực của những quy định Hồi giáo vốn trọng nam khinh nữ. Thậm
chí những quy định Hồi giáo còn áp dụng đối với cả những người không phải là tín đồ
Hồi giáo. Ví dụ: ở các trường quốc lập của Brunei, sinh viên nữ bắt buộc phải mặc trang
phục đạo Hồi bao gồm cả khăn trùm đầu, cho dù họ có phải là người theo đạo Hồi hay
không, bởi vì trang phục này được quy định là đồng phục nhà trường. Mặc dù pháp luật
chính thức không thừa nhận chế độ đa thê nhưng do luật Hồi giáo cho phép người đàn
ông lấy 4 vợ với điều kiện phải đối xử công bằng và chu cấp tài chính đầy đủ cho họ nên
ở Malaysia chính quyền xem xét cho phép lấy nhiều vợ nếu thấy cần thiết. Tuy không
phải là các quốc gia Hồi giáo những Singapore, Thailand đều công nhận sự tồn tại của
luật Hồi giáo và nó được áp dụng đối với cộng đồng tín đồ Hồi giáo ở những nước này.
Vì thế, việc đảm bảo quyền bình đẳng của phụ nữ trở thành vấn đề nổi cộm ở mốt số nước
thuộc khu vực ASEAN, nhất là ở những nước chịu ảnh hường của luật Hồi giáo.
3.2. Nguyên nhân của sự thay đổi
Để hiểu được nội dung cũng như những thay đổi, cần đặt Hiến pháp vào bối cảnh lịch
sử và tình hình khu vực cũng như thế giới. Qua đó, có thể hiểu rõ và cụ thể hơn sự thay
đổi Hiến pháp trong từng giai đoạn, đồng thời có những lý giải hợp lý cho những thay đổi
đó.
3.2.1. Xu hướng chế định hóa quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một
mức độ nhất định
Từng có không ít người lầm tưởng rằng với các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo, không
có khái niệm quyền con người tồn tại. Trên thực tế, bản thân các quốc gia chịu ảnh hưởng
Hồi giáo nói chung có những yếu tố nền tảng, thích nghi với quyền con người và dân chủ,
tự do.
Thứ nhất, trong giáo lý đạo Hồi cũng có những yếu tố công bằng và bình đẳng. Ngay
từ những dòng đầu của Kinh Koran đã nhắc đến việc “phải tôn trọng và yêu thương lẫn
nhau”, và không có “ai kém hơn ai” dưới sự chở che của thánh Allah. Do vậy, khi thành
lập hiến pháp hay thực hiện hiến pháp trên thực tế, các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo
dễ dàng tiếp thu và cải thiện.
Thứ hai, trong lịch sử lập hiến các quốc gia, luôn có sự cạnh tranh của các hệ tư tưởng
khác nhau, các lực lượng chính trị đối nghịch nhau. Chính sự cạnh tranh này tạo nên bầu
không khí sôi nổi để thúc đẩy hiến pháp nhằm mở rộng phạm vi và cập nhật với xu thế
hiện đại hơn. Từ đó Hiến pháp Malaysia, Indonesia hay Brunei có cơ hội được trao đổi,
phản biện, dễ dàng nhận ra điểm còn thiếu sót để bổ sung hay bắt kịp thời đại.
Thứ ba, sự ra đời các Hội, nhóm tại ba quốc gia cùng là một cách thúc đẩy hiến pháp
chuyển mình. Sự hình thành và tiếng nói của các nhóm hội tại Malaysia hay Indonesia là
một kênh thông tin thiết thực và gần gũi để nhà nước có thể tham khảo ý kiến người dân
khi xây dựng hiến pháp nhằm đảm bảo sự duy trì nhà nước bền vững và đáp ứng được
những nhu cầu của xã hội.
Thứ tư, sự ảnh hưởng của các đế quốc thực dân tiêu biểu như Anh, đều ảnh hưởng
tại ba quốc gia Malaysia, Indonesia và Brunei trong lịch sử và quá trình lập hiến đã thổi
vào tư duy pháp lý các quốc gia phần nào nhận thức mới mẻ về quyền con người. Dù tự
nguyện hay miễn cưỡng thông qua những trao đổi lợi ích chính trị và những bản hiệp ước
ký kết, xong Hiến pháp Indonesia, Malaysia đều có nhìn nhận cơ bản về quyền con người.
Dù Brunei vẫn chưa có được sự thay đổi rõ rệt và thực sự được đánh giá cao, song việc
thay đổi luật Hồi giáo theo xu hướng vì con người hơn cũng được xem là một trong những
dấu hiệu tích cực. Bởi lẽ, không dễ dàng gì đưa ra những quyết định “khác với kinh
Koran” hay “trái ngược với lời thánh Allah”. Khiếm khuyết vẫn còn đó và cần sửa chữa
nhưng không vì thế mà sự thay đổi tích cực bị phủ nhận.
Thứ năm, xu hướng nâng cao quyền con người là xu hướng chung của hiến pháp các
quốc gia trong khu vực và trên thế giới. Sự ra đời của các tổ chức liên minh khu vực trong
đó có chương trình riêng về quyền con người như ASEAN hay EU, hay các tổ chức quốc
tế mang tính toàn cầu như Liên Hiệp Quốc nhằm lan tỏa vấn đề nhân quyền một cách
mạnh mẽ nhất. Khái niệm quyền con người trở nên phổ biến và được nhắc đến nhiều
trong hàng chục năm trở lại đây. Không chỉ Hiến pháp Malaysia, Indonesia hay Brunei,
mà hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới cũng có sự gia tăng rõ rệt về quyền con
người trong suốt tiến trình lịch sử của mình. Có thể kể đến như Afghanistan (từ 15 lên 37
điều), Iran (từ 1 lên 45 điều), Pakistan (từ 26 lên 45 điều),… Điều đó cho thấy sự phát
triển của quyền con người và xu thế thay đổi chung của hiến pháp các quốc gia ảnh hưởng
Hồi giáo (Tham khảo thêm bảng thống kê ở Phụ lục).
Thứ sáu, việc gia nhập và ký kết liên quốc gia, liên khu vực và toàn cầu cũng là sức
ép nhất định buộc các quốc gia phải thay đổi. Các điều ước quốc tế kinh tế, thương mại
giờ đây đều có những điều khoản liên quan đến quyền con người, môi trường,… Với các
quốc gia trong khu vực đang phát triển, việc ký kết các công ước và hiệp định là điều cần
thiết để phát triển. Nhưng trước khi bước vào “sân chơi chung”, các quốc gia phải cam
kết thực hiện được các giá trị phổ quát của nhân loại, tiêu biểu nhất là quyền con người.
Nếu không thực hiện, hoặc thực hiện không đầy đủ, quốc gia hoàn toàn có khả năng bị
loại khỏi sân chơi chung hay chịu những bó buộc về kinh tế. Đó là áp lực mạnh mẽ buộc
các quốc gia phải đổi mình. Việc nội luật hóa điển hình nhất là ghi nhận các giá trị đó
trong hiến pháp của mình. Dần dần, việc thay đổi và thừa nhận những giá trị đó trở nên
gần gũi, quen thuộc và cần thiết hơn.
Cuối cùng, sự tiến triển mạnh mẽ của chủ nghĩa hiến pháp trên thế giới và trong khu
vực cũng ảnh hưởng mạnh mẽ đến các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo. Đã mười bốn
năm kể từ sau bài báo nổi tiếng của Bruce Ackermann, chủ nghĩa hợp hiến dường như
vẫn đang gia tăng. Hơn chín mươi bản hiến pháp mới đã được thông qua trong hai mươi
năm qua. Việc xây dựng hiến pháp và thúc đẩy chủ nghĩa hợp hiến đã trở thành nền tảng
của xây dựng nhà nước và quốc gia cũng như hợp tác phát triển. Mặc dù có những thất
bại và tiến bộ đôi khi chậm, nhưng dường như không thể phủ nhận rằng chủ nghĩa hợp
hiến đang phát triển ở Đông Nam Á. Hiến chương ASEAN không chỉ bao gồm các nguyên
tắc dân chủ, nhân quyền, pháp trị, quản trị tốt và chủ nghĩa hợp hiến là một chỉ số cho sự
thay đổi này, mà còn có một số tiến bộ thực tế. Trong bài báo chuyên đề về sự trỗi dậy
của chủ nghĩa lập hiến thế giới, Bruce Ackermann đề nghị nhìn lại sáu mươi năm để nhận
ra đầy đủ số lượng tiến bộ đã đạt được. Ở Đông Nam Á ngày nay, người ta chỉ cần nhìn
lại hai mươi lăm năm để thấy sự khác biệt. Năm 1985, các nhà độc tài Marcos
(Philippines) và Suharto (Indonesia) vẫn nắm quyền và Thái Lan ít nhất một phần nằm
dưới sự cai trị của quân đội. Tất cả các bang này vẫn có những vấn đề và khủng hoảng,
nhưng tất cả đều có các bản hiến pháp chứa đựng một số yếu tố dân chủ và tự do và các
cơ chế xem xét tư pháp. Một quãng thời gian trước, Lào và Việt Nam vẫn chưa bắt tay
vào quá trình cải cách hiến pháp bắt đầu tự do hóa nền kinh tế của họ và thúc đẩy sự cai
trị của pháp luật bằng cách hiện đại hóa pháp luật, hành chính công và tòa án. Nhưng bây
giờ mọi chuyện đã khác. Tất cả các quốc gia trong khu vực đều có hiến pháp. Các điều
khoản quy định trong hiến pháp đều mang chứa những nội dung tích cực về quyền, về
chế độ chính trị và bộ máy nhà nước. Việc đảm bảo hiến pháp không còn là điều gì đó
quá mới mẻ và khó tiếp nhận tại khu vực dù còn nhiều rào cản.
Có thể thấy, mặc dù chủ nghĩa hợp hiến là một lý thuyết và thực tiễn của chính phủ
và pháp luật có nguồn gốc đầu tiên ở Tây Âu và Bắc Mỹ, nhưng hiện nay có bằng chứng
đáng kể về sự tiếp nhận tích cực của nó trong việc cấy ghép thành công vào một số quốc
gia châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Về góc nhìn vĩ mô, bao trùm sự phát
triển ở châu Á từ cuối thế kỷ XIX, cho thấy chủ nghĩa hợp hiến đã mở rộng và tăng cường
phạm vi của nó, đáng kể theo thời gian. Đó có thể xem là thành tựu của chủ nghĩa hợp
hiến. Các tòa án hiến pháp hiện đang tồn tại ở Đài Loan, Hàn Quốc, Thái Lan, Campuchia
và Indonesia đã đạt được những mức độ thành công khác nhau. Chính điều này đã ảnh
hưởng không nhỏ đến hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực, buộc chúng phải
chuyển mình theo xu thế thời đại.
3.2.2. Xu hướng ảnh hưởng Hồi giáo gia tăng với trường hợp Indonesia và Brunei
Thứ nhất, tiền thân trong lý tưởng của nhà tiên tri Mohammed là xây dựng một nhà
nước theo Hồi giáo do một người tối cao làm chủ, tức là tôn giáo gắn với nhà nước. Dễ
nhận thấy, Hồi giáo rất mau chóng phát triển ở các quốc gia theo chế độ quân chủ với nhà
vua đứng đầu. Do đó, dù đến sau, nhưng Hồi giáo dần đánh bại các tôn giáo khác tồn tại
ở Malaysia, Brunei hay thậm chí là Indonesia nơi được mệnh danh là “Thung lũng các
Vua” (Valley of Kings) để trở thành tôn giáo chiếm đa số tín đồ tại các quốc gia này. Kể
cả sau này, khi hiến pháp thừa nhận các nước kể trên theo chính thể quân chủ với sự hiện
diện của một người đại diện cho Vương quyền và tôn giáo, việc gạt bỏ hoàn toàn hay mờ
nhạt Hồi giáo và giáo lý đạo Hồi tiêu cực trở nên khó khăn hơn.
Thứ hai, có một đặc điểm chung của các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo là bài
xích hiến pháp. Dù bối cảnh quốc tế có sự thay đổi mạnh mẽ, các quốc gia chịu ảnh hưởng
Hồi giáo vẫn chịu sự chi phối của giáo lý đạo Hồi, những lời Thánh truyền “God head”.
Lời của Allah là luật, do đó việc xuất hiện một đạo luật tối cao để các công dân trong
quốc gia tuân theo là không cần thiết. Bản thân các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo
luôn luôn phải chịu sự đấu tranh mãnh liệt của một bên ủng hộ tuyệt đối đạo Hồi, bài xích
và không quan tâm Hiến pháp; với một bên ủng hộ việc xây dựng và tuân thủ hiến pháp
tối cao. Để có thể giải quyết vấn đề một cách êm đẹp, cách tốt nhất là dung hòa được cả
hai. Đây là một phần những gì đã xảy ra ở Ai Cập trong quá trình soạn thảo hiến pháp
năm 1971. Đó là lý do vì sao cả Malaysia, Indonesia thừa nhận quyền con người, có biểu
hiện về thay đổi Hiến pháp theo hướng hoàn thiện hơn, song vẫn rất khó khăn trong giải
quyết các vấn đề liên quan đến Hồi giáo, tòa Shari’ah tồn tại song song bên cạnh tòa án
thường. Các vấn đề liên quan đến Hồi giáo được xem là điều gì “bất khả xâm phạm” mà
chỉ người Hồi giáo với nhau có thể thực hiện được.
Thứ ba, truyền thống pháp luật khu vực Châu Á còn có những điểm riêng biệt. Giá
trị Châu Á hay chủ nghĩa tương đối là những lý do dẫn đến việc hiến pháp các quốc gia
trong khu vực nói chung và Hồi giáo nói riêng chậm chạp để có thể hấp thụ và cải tạo
theo những bản Hiến pháp tiên tiến, mẫu mực trên thế giới. Trong những năm 1990, người
ta đã chú ý đến khái niệm “giá trị châu Á”, với sự tham khảo cụ thể về quyền tự chủ của
các quốc gia châu Á để phát triển luật riêng của họ mà không nhất thiết phải tuân thủ luật
pháp phương Tây hoặc các quy tắc quốc tế (Bell 2000). Có ý kiến cho rằng những khái
niệm về tự do, quyền con người hoàn toàn có thể hiểu và biểu hiện theo “cách của khu
vực châu Á”, chứ không nhất thiết phải giống như những gì phương Tây đưa ra. Lập luận
này chủ yếu được đưa ra bởi các nhà lãnh đạo chính trị ở Singapore, Malaysia và
Indonesia, và đã gây được tiếng vang ở các nước Đông Nam Á khác. Điều này được xem
là một phản ứng trực tiếp đối với những tiến bộ trong nhân quyền quốc tế, được thể hiện
trong Tuyên bố Bangkok về Nhân quyền năm 1993 (Thio 1999). Lập luận về giá trị châu
Á đã không bác bỏ quyền con người (thực ra tất cả các hiến pháp Đông Nam đều thừa
nhận quyền con người dưới một hình thức nào đó) và một số quốc gia Đông Nam Á
(Indonesia, Malaysia, Myanmar, Philippines và Thái Lan) thậm chí còn có một tổ chức
nhân quyền quốc gia. Tuy nhiên, những người ủng hộ lập luận giá trị châu Á đã từ chối
chấp nhận rằng tất cả các quyền con người theo định nghĩa của các cường quốc phương
Tây trong hệ thống quốc tế đang phát triển là hoàn toàn có thể áp dụng trong các xã hội
châu Á. Đơn giản vì châu Á có những đặc thù riêng, có những “giá trị châu Á” riêng, cho
nên dù không phủ nhận những cũng rất khó khăn để đạt được mong muốn về quyền con
người hay các giá trị dân chủ như phương Tây. Chính quan niệm này đã hạn chế lại khả
năng thay đổi hiến pháp các quốc gia, nó khiến hiến pháp dễ trở nên lửng lơ trong việc
thừa nhận quyền con người và phấn đấu cho các giá trị dân chủ một cách “nửa vời”.
Ngoài ra, không thể không nhắc tới sự phản ứng trước xu hướng văn hóa xã hội mang
ảnh hưởng dân chủ phương Tây. Đây là một vấn đề trong thời kỳ hiện đại. Sự phản ứng
lại của tư tưởng Hồi giáo trước ảnh hưởng của phương Tây khiến mong muốn áp dụng
Hồi giáo để lặp lại trật tự vốn có trở nên mạnh mẽ trong tư tưởng những người Hồi giáo.
Sự áp dụng rộng rãi đạo Hồi trong thực tế và ghi nhận trong hiến pháp ngày càng trở nên
mạnh mẽ và khắc nghiệt bên cạnh những ghi nhận tiến bộ về quyền con người là một bài
toán đầy mâu thuẫn và khó giải quyết. Minh chứng là việc Brunei ngay trong đầu tháng
4 vừa qua đã thông qua luật ném đá đến chết người đồng tính mặc cho dư luận thế giới
bất bình và lên án gay gắt trước hành động đó, nhưng Sultan vẫn tin tưởng rằng đó là
“điều cần” với Brunei hiện tại.
3.3. Những gợi mở cho quá trình cải cách Hiến pháp Việt Nam
Từ những nghiên cứu trong lịch sử và xu hướng hiến pháp các quốc gia Hồi giáo
trong khu vực, có thể gợi mở những bài học cho Việt Nam trong quá trình cải cách hiến
pháp. Cũng giống như các quốc gia trong khu vực, Việt Nam tiếp cận với các giá trị quyền
con người, pháp quyền, dân chủ muộn và có phần khó khăn. Không chỉ vậy, tâm lý e ngại,
đề cao “giá trị Châu Á”, đề cao lợi ích tập thể của cộng đồng và xã hội, tôn trọng gia đình,
cộng đồng và quốc gia, đề cao giá trị của lao động nặng nhọc, đặt lợi ích gia đình trên
những mong muốn cá nhân,… là những rào cản không nhỏ trong quá trình thay đổi và
hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia. Trong bối cảnh tình hình khu vực và trên thế giới
có những biến động, sự thay đổi trong nhận thức của từng người dân, các yếu tố nội tại
chuyển mình, cải cách hệ thống pháp luật là quy luật tất yếu và tự nhiên. Trung tâm của
quá trình cải cách đó chính là hiến pháp. Khắc phục những lỗ hổng trong lý thuyết và
thực tiễn hiến pháp là điều khó khăn nhưng cần thiết. Thông qua việc nghiên cứu hiến
pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực, có thể gợi mở ra những đường hướng cho Hiến
pháp Việt Nam.
Thứ nhất, hiến pháp phải được đặt ở vị trí xứng đáng là đạo luật tối cao của một quốc
gia. So với hai quốc gia còn lại là Malaysia và Indonesia, rõ ràng, Hiến pháp Brunei chưa
được tôn trọng tương xứng với tầm quan trọng nói chung của hiến pháp. Hệ quả của điều
đó là mức độ vi phạm quyền con người và các hành vi trái pháp luật cao hơn và nghiêm
trọng hơn hẳn các quốc gia khác. Một bản hiến pháp đảm bảo sẽ giúp bộ máy nhà nước
vận hành quy củ và quyền con người được đảm bảo tối đa. Hòa cùng dòng chảy pháp
quyền, dân chủ cùng những yêu cầu của nền kinh tế thị trường, xu hướng toàn cầu hóa,
Việt Nam đã ghi nhận vai trò hiến pháp, vấn đề bảo hiến đã và đang được thảo luận mạnh
mẽ trên các diễn đàn với mục đích thiết lập mô hình tài phán hiến pháp trong tương lai
không xa. Điều 119 Hiến pháp 2013 hiện hành có ghi nhận: “Hiến pháp là luật cơ bản của
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất. Mọi văn bản
pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp. Mọi hành vi vi phạm Hiến pháp đều bị xử
lý.” Nhưng trên thực tế vẫn tồn tại không ít các văn bản vi hiến, điều đó đặt ra yêu cầu
cần phải thực hiện rõ ràng và mạnh mẽ hơn việc đảm bảo vị trí “pháp lý cao nhất” của
hiến pháp.
Thứ hai, đặc điểm chung của các quốc gia Hồi giáo trong khu vực là dù ghi nhận cụ
thể hay không ghi nhận nguyên tắc “tam quyền phân lập” nhưng vẫn có sự rạch ròi khi
quy định các nhánh lập pháp – hành pháp – tư pháp. Đây là điều cần làm rõ và quan tâm
trong Hiến pháp Việt Nam. Theo Hiến pháp hiện hành, “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực
hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.” (Khoản 3, Điều 2); và trong các chương
về sau, Hiến pháp cũng ghi nhận rõ ràng, chi tiết các cơ quan thực hiện quyền lập pháp,
hành pháp, tư pháp. Dẫu vậy, vẫn có những điểm cần quan tâm lưu ý. Cách ghi nhận
“quyền lực nhà nước là thống nhất” cùng với Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất có
thể dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau. Đồng thời, việc tổ chức quyền lực nhà nước còn
bị ảnh hưởng nhiều bởi nguyên tắc tập quyền XHCN khiến việc phân chia ba nhánh lập
pháp – hành pháp – tư pháp chưa được đảm bảo tối đa. Quốc hội vẫn có thể quyết định
những vấn đề quan trọng của đất nước, Ủy ban thường vụ Quốc hội có quyền yêu cầu
xem xét quyết định của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hay việc giám sát
của Quốc hội với nhánh tư pháp có xu hướng can thiệp và hoạt động xét xử là những vấn
đề còn tồn đọng. Trong bối cảnh chung, Hiến pháp Việt Nam cần có sự rõ ràng và chặt
chẽ hơn nữa về tính độc lập và đối trọng, kìm chế lẫn nhau của các cơ quan nhà nước thực
hiện quyền lập pháp – hành pháp – tư pháp. Trong đó, đặc biệt là nhánh quyền tư pháp
để đảm bảo sự minh bạch trong xét xử, đem lại niềm tin cho người dân vào công lý, pháp
quyền.
Thứ ba, từ bản hiến pháp đầu tiên khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa
cho đến Hiến pháp 2013, sự ghi nhận quyền con người, quyền công dân đã tăng lên đáng
kể. Nhưng cũng giống như Malaysia, Indonesia hay Brunei, việc thực thi và đảm bảo
quyền con người tại Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế. Trong đó, quyền tự do lập hội,
quyền biểu tình là một trong số những quyền vẫn đang được thảo luận sôi nổi trên các
diễn đàn, các cuộc hội thảo nhằm hướng đến một xã hội thực sự dân chủ, nơi mà người
dân được thực hiện quyền cơ bản của mình. Đảm bảo thực hiện quyền con người, quyền
công dân là một trong số những gợi mở dành cho Việt Nam từ kinh nghiệm các quốc gia
Hồi giáo trong khu vực.
Thứ tư, việc tăng cường hiệu lực thi hành của hiến pháp cũng là một điều đáng lưu
tâm. Trên thực tế, tại Việt Nam, Quốc hội vừa là cơ quan lập pháp, vừa là cơ quan lập
hiến. Và chỉ Quốc hội có quyền duy nhất trong việc sửa đổi, bổ sung hiến pháp thông qua
tỷ lệ 2/3 đại biểu Quốc hội là một quy định khá đơn giản. Ngoài việc cần đảm bảo tính
chặt chẽ của việc sửa đổi, bổ sung hiến pháp như có những quy định nghiêm ngặt hơn về
sửa đổi các điều khoản đặc biệt quan trọng liên quan đến quyền con người, tình trạng
khẩn cấp quốc gia, hay bộ máy nhà nước,… như bổ sung thêm các yêu cầu phụ giống
Hiến pháp Indonesia và Malaysia, Việt Nam cũng nên mở rộng sự tham gia của người
dân trong quá trình xây dựng hiến pháp. Điều đó không chỉ đảm bảo quyền làm chủ của
người dân, quyền lập hiến – chủ quyền nhân dân là quyền nguyên thủy, mà còn giúp hiến
pháp có tính thực tiễn cao hơn. Bởi xét cho đến cùng, hiến pháp không nằm ngoài mục
đích bảo vệ quyền lợi của người dân, lắng nghe ý kiến từ chính người dân giúp hiến pháp
dễ dàng đi vào thực tiễn hơn. Những cuộc biểu tình tại Malaysia và sự thừa nhận của Nghị
viện với những yêu cầu của người dân trong Hiến pháp hiện hành là minh chứng cho kết
quả tốt đẹp của việc mở rộng sự tham gia của xã hội trong quá trình xây dựng, sửa đổi
Hiến pháp.
Thứ năm, thiếu vắng đi một cơ chế bảo hiến đồng nghĩa với sự mong manh về hiệu
lực tối cao của hiến pháp. Dù trải qua nhiều thăng trầm với sự trồi sụt nhất định, nhưng
rõ ràng, Tòa án Hiến pháp Indonesia đã có không ít những quyết định nhằm bảo vệ quyền
con người và đảm bảo việc thi hành hiến pháp một cách nghiêm túc, đúng đắn. Điều đó
mang lại cho xã hội sự bình đẳng, an toàn và kỳ vọng của nhân dân vào công lý. Việt
Nam hiện nay vẫn đang trên hành trình thảo luận để đi đến một cơ chế bảo hiến thực sự.
Trong Hiến pháp Việt Nam, cụm từ “…theo quy định của pháp luật” không còn là xa lạ.
Điều này dẫn tới hệ quả là hiến pháp trở nên yếu thế so với các văn bản dưới hiến pháp.
Rõ ràng, nếu không có văn bản cụ thể hóa, thì nhiều quyền hiến định khó mà thực hiện
được. Việc có một cơ chế bảo hiến như Indonesia sẽ không chỉ đảm bảo quyền con người,
xử lý ngay các hành vi vi hiến mà còn thực hiện chức năng giải thích pháp luật, đảm bảo
vị trí tối cao của hiến pháp một cách thực tế chứ không phải chỉ tồn tại trên giấy.
Thứ sáu, sự ra đời của các cơ chế hiến định độc lập trong các quốc gia Hồi giáo cũng
là một điều thú vị. Có thể kể đến: Toà án Hiến pháp, Uỷ ban phòng chống tham nhũng,
Ủy ban Nhân quyền, Hội đồng bầu cử quốc gia,… là những cơ quan hiến định độc lập
nổi bật được ghi nhận trong hiến pháp các quốc gia ASEAN nói chung. Sự có mặt của
các cơ quan này giúp ngăn chặn các hành vi lạm quyền góp phần đảm bảo việc thực thi
hiến pháp. Hội đồng bầu cử quốc gia và Kiểm toán nhà nước trong Hiến pháp Việt Nam
2013 là kết quả tất yếu của ảnh hưởng xu thế chung khu vực và trên thế giới, cũng đáp
ứng nhu cầu của quốc gia. Điều đó đưa ra yêu cầu nên quan tâm đến việc thực hiện các
cơ chế hiện định độc lập như một cách hữu hiệu duy trì trật tự xã hội và vai trò của hiến
pháp tại Việt Nam.
3.4. Các vấn đề đặt ra
Nghiên cứu về Hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á cho thấy
sự biến động lịch sử không ngừng cùng sự thay đổi đa dạng của Hiến pháp trải qua lịch
sử và bối cảnh khu vực cũng như thế giới. Cùng với hai xu thế phát triển chính của Hiến
pháp các quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo là rất nhiều vấn đề cần được đặt ra.
Thứ nhất, vì vị trí của hiến pháp trong đời sống một quốc gia. Hiến pháp quan trọng
và có ý nghĩa với sự phát triển của đất nước là điều không thể phủ nhận. Nó là nền tảng
để đất nước phát triển và xã hội vận hành có quy luật, đồng thời là thanh kiếm sắc bén
đảm bảo quyền con người. Nhưng trên thực tế, Hiến pháp các quốc gia Malaysia,
Indonesia và đặc biệt là Brunei vẫn chưa thực sự chắc chắn. So với Hiến pháp Malaysia
và Indonesia, Hiến pháp Brunei là hiến pháp có sự ảnh hưởng mong manh và thiếu được
coi trọng đúng mức nhất. Gần như bất cứ lúc nào, khi nào, hiến pháp cũng có thể bị thay
đổi một cách vô lý do. Và điều quan trọng nhất là có một chủ thể còn đứng trên cả hiến
pháp. Tất nhiên không thể loại trừ chính thể quân chủ mà Brunei theo đuổi là điều kiện
để tôn vinh cá nhân, song đặt hiến pháp ở vị trí thứ yếu khiến hiệu lực của nó không còn
tác dụng. Sự lạm quyền, xâm hại thô bạo quyền con người sẽ dễ dàng diễn ra hơn bao giờ
hết. Điều đó đặt ra những yêu cầu cần phải trả lại vị trí xứng đáng cho hiến pháp trong sự
tôn trọng và tuân thủ nghiêm túc đạo luật tối cao này.
Thứ hai, trong cả ba bản Hiến pháp Malaysia, Brunei hay Indonesia đều không ghi
nhận nguyên tắc “tam quyền phân lập” một cách rõ ràng, thay vào đó là minh chứng quy
định ba nhánh lập pháp – hành pháp – tư pháp một cách riêng biệt. Nhưng thực tế, việc
hoạt động của bộ máy nhà nước lại chưa được rạch ròi và đảm bảo sự kìm chế, đối trọng
lẫn nhau. Dù ghi nhận hay không ghi nhận, các điều khoản về ba nhánh quyền lực trong
một đất nước vẫn cần được phân tách và làm rõ nhất có thể trong Hiến pháp. Bởi sự vận
hành của bộ máy nhà nước cũng là sự vận hành của đất nước và là cách thức để đảm bảo
quyền con người.
Thứ ba, vấn đề có lẽ trở nên khó khăn nhất là việc đảm bảo quyền con người trước
những hành vi xâm hại thô bạo quyền con người trong Hiến pháp và trên thực tiễn tại các
quốc gia chịu ảnh hưởng của Hồi giáo. Dù có xu hướng vận động tích cực trong việc thừa
nhận quyền con người và thực tiễn thi hành Hiến pháp cũng có những dấu hiệu đáng
mừng. Nhưng chừng đó là chưa đủ bảo vệ con người trước những điều luật khắt khe và
còn bất công theo giáo lý đạo Hồi. Những báo cáo về thực hiện nhân quyền tại Malaysia,
Indonesia hay Brunei vẫn còn ở con số thấp. Quyền tự do ngôn luận, tự do thân thể, quyền
sống, quyền mưu cầu hạnh phúc,… vẫn bị kìm chế bởi các giáo lý đạo Hồi. Kể cả với
những người không phải là tín đồ Hồi giáo vẫn chịu ảnh hưởng. Nữ giới ra ngoài vẫn phải
đeo khăn trùm đầu, học sinh dù muốn hay không vẫn phải gọc chương trình bắt buộc về
Hồi giáo tại trường, việc có quan hệ đồng tính trở thành nỗi ô nhục kỳ thị,… là những vi
phạm quyền con người vẫn hiện hữu rất rõ ràng ở các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo.
Ví dụ như ở vùng Aceh, Indonesia hay Brunei, hai địa điểm nổi tiếng khu vực Đông Nam
Á về việc thừa nhận và áp dụng gần như toàn bộ luật Shari’ah với những hình phạt tàn
khốc nhất. Ước tính có hơn 100 người đã bị kết tội và xử phạt ở nơi công cộng vào năm
2015 vì vi phạm Shariah bằng cách bán rượu, cờ bạc và quan hệ tình dục ngoài hôn nhân
tại Aceh (Indonesia). Theo báo cáo của ABC News , người phụ nữ trẻ, Kiranti, đã bị buộc
phải quỳ trên sân khấu trước một đám đông lớn và nhận được 9 nét gậy từ một người đàn
ông đội mũ trùm đầu tên là Algojo - "đao phủ". Mặc dù Hiến pháp vẫn ghi rất rõ ràng,
“các tôn giáo khác có quyền hoạt động và tồn tại bình đẳng”, và Hiến pháp Indonesia vẫn
thừa nhận các quyền cơ bản của con người. Nhưng thực tế đã trả lời, vẫn có những hành
vi xâm hại thô bạo quyền tuyệt đối của con người mà nhà nước gần như bất lực để can
thiệp. Việc ghi nhận và bảo đảm ra sao về quyền con người tại các quốc gia Hồi giáo vẫn
luôn là vấn đề nhức nhối và đáng được quan tâm.
Thứ tư, trong các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo khu vực Đông Nam Á, hiến pháp
đều quy định có nhánh tư pháp, tồn tại song song bên cạnh hệ thống tư pháp thường là hệ
thống tòa án Shari’ah. Câu hỏi đặt ra là thẩm quyền của các tòa án đến đâu khi xét xử và
làm thế nào để kiểm soát được việc xét xử tại tòa Shari’ah? Dù đã có những quy định
trong hiến pháp nhưng dường như đó là chưa đủ, vẫn có sự tranh chấp và bối rối nhất
định khi xét xử các vụ án tại Brunei hay Malaysia, Indonesia. Khi cải đạo dựa trên quyền
tự do tôn giáo được hiến pháp ghi nhận thì nên xử ở tòa thường hay tòa Shari’ah để vừa
đảm bảo quyền con người, vừa phù hợp giáo lý đạo Hồi là điều không hề dễ dàng.
Thứ năm, Hiến pháp tồn tại sẽ không còn ý nghĩa nếu không có cơ chế đảm bảo nó
được thực hiện một cách hoàn chỉnh và đúng đắn. Có thể thấy Tòa án Hiến pháp ở
Indonesia hay Tòa án Tối cao ở Malaysia vẫn còn những hạn chế trong đảm bảo cơ chế
bảo hiến. Brunei thậm chí còn hoàn toàn không có cơ chế bảo hiến. Một cơ chế bảo hiến
vững chắc giúp Hiến pháp phát huy hết tác dụng và ở đúng vai trò của nó trong hành trình
phát triển của một quốc gia.
3.5. Tiểu kết chương 3
Qua nghiên cứu, có thể thấy xu thế thay đổi của hiến pháp các quốc gia chịu ảnh
hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á. Đồng thời, cũng thấy rõ, dù cùng chịu ảnh
hưởng Hồi giáo, có những điểm chung tương đồng về mặt lịch sử, song, sự thay đổi và
thực tiễn thi hành hiến pháp ở mỗi quốc gia có những điểm đáng lưu ý riêng. Điều đó vừa
gợi mở bài học kinh nghiệm cho Việt Nam, vừa đặt ra những vấn đề nhằm nâng cao hơn
nữa vị trí, vai trò của hiến pháp và việc đảm bảo thực thi hiến pháp nghiêm túc, có hiệu
quả tại các quốc gia Hồi giáo trong khu vực.
KẾT LUẬN
Cũng giống như bất cứ một vấn đề pháp lý nào, Hiến pháp tồn tại bên cạnh những
yếu tố ảnh hưởng và tác động đan xen. Quan việc nghiên cứu lịch sử và xu hướng Hiến
pháp các quốc gia ảnh hưởng Hồi giáo trong khu vực Đông Nam Á, có thể thấy được một
phần sự phong phú và đa dạng của Hiến pháp trong đời sống. Hiến pháp không “bất biến”
mà luôn có sự thay đổi, thích ứng với thời gian và bối cảnh xã hội. Qua nghiên cứu, tác
giả cũng đi đến kết luận về hai xu hướng chính của Hiến pháp của các quốc gia chịu ảnh
hưởng của Hồi giáo.
Một là, chế định hóa các quyền con người và đảm bảo thể chế dân chủ ở một mức độ
nhất định.
Hai là, gia tăng ảnh hưởng Hồi giáo trong Hiến pháp và thực tiễn thi hành.
Đồng thời, nghiên cứu cũng đi đến lý giải nguyên nhân của hai xu hướng và đặt ra
các vấn đề quan trọng cần giải quyết trong khi nghiên cứu Hiến pháp ba quốc gia
Indonesia, Malaysia, Brunei. Điều đó không chỉ có ý nghĩa với các quốc gia Hồi giáo
trong khu vực mà còn có ý nghĩa với các quốc gia Hồi giáo khác trên thế giới và các quốc
gia còn lại trong Đông Nam Á.
Thế giới đổi thay và phát triển không ngừng. Trong bối cảnh đó, Hiến pháp và Hồi
giáo cũng có nhiều điểm đổi mới thú vị. Trong một bối cảnh quyền con người trở thành
giá trị toàn cầu và vị trí Hiến pháp ngày càng được coi trọng tại mỗi quốc gia, chủ nghĩa
Hiến pháp gia tăng, các quốc gia Hồi giáo cũng cần nhạy bén theo kịp sự đi lên của thời
đại. Song những vấn đề nảy sinh của Hồi giáo thời kỳ mới cũng là những điều đáng lưu
ý. Tâm lý bài xích dân chủ, “quay lưng” với phương Tây và “ghét” Mỹ sẽ là rào cản
không nhỏ với các quốc gia chịu ảnh hưởng Hồi giáo. Trong danh sách 9 quốc gia “ghét”
nước Mỹ nhất thế giới được tờ 24/7 Wall St. liệt kê, thì có tới 8 quốc gia thuộc thế giới
Islam giáo. Trong đó Palestine, Pakistan, Lebanon, Yemen là bốn nước chiếm vị trí cao
nhất. Cụ thể, tỷ lệ “ghét” Mỹ ở Palestine là 80%; Pakistan là 73%; Lebanon là 71%;
Yemen là 69%. Còn theo khảo sát của trung tâm nghiên cứu PEW, cả người Islam giáo
và người Phương Tây tiếp tục xem mối quan hệ của họ nhìn chung là tồi tệ. Điều đó
không chỉ đơn giản là tâm lý kháng cự trước một cường quốc có sự can thiệp về quân sự
và đối ngoại với các quốc gia Hồi giáo, mà nó còn phản ánh “tâm trạng” của các quốc gia
Hồi giáo trên thế giới trong bối cảnh hiện đại. Có thể lý giải bởi ba (3) lý do sau: Thứ
nhất, là cảm giác mất mát địa vị thống trị của Islam giáo trên thế giới trước sức mạnh tiến
công của Nga và Phương Tây, thứ hai là sự phá hoại uy quyền của Islam giáo trong chính
đất nước của họ, thông qua cuộc xâm lược của các hệ tư tưởng ngoại bang, kết hợp với
việc truyền bá lối sống không phù hợp với văn hóa Islam giáo bản địa, thứ ba, là sự thách
thức vị thế làm chủ của Islam giáo trên chính mảnh đất Thiên Chúa đến từ phía Israel.
Việc gia tăng tâm lý chống Phương Tây cho thấy sự mất phương hướng, khủng hoảng và
trở nên tiêu cực trong một bộ phận không nhỏ của thế giới Islam giáo. Mối quan hệ căng
thẳng giữa Islam giáo và Phương Tây trở thành một trong những vấn đề trung tâm của
thế giới đương đại. Càng gia tăng tâm lý chống Mỹ thì người Islam giáo càng trở nên cực
đoan, khủng bố và như vậy càng gây mất ổn định, an ninh đối với không chỉ Islam giáo
và Phương Tây mà cả phần còn lại của thế giới. Sự xuất hiện của các phần tử khủng bố
cực đoan ngày càng nhiều, cùng với việc áp dụng rộng rãi bộ luật Shari’ah trên thực tế tại
các quốc gia Hồi giáo nói chung và gia tăng ảnh hưởng Hồi giáo tại Malaysia, Indonesia
và Brunei nói riêng chính là biểu hiện cho tâm lý kháng cự như vậy.
Trong một bối cảnh phức tạp và ngày càng ngột ngạt như vậy, mọi sự chú ý và gánh
nặng đổ dồn vào Hiến pháp của các quốc gia. Sự quan trọng và cần thiết của một bản
Hiến pháp dân chủ, tôn trọng quyền con người càng trở nên ý nghĩa để bảo vệ công dân
của các quốc gia, dù có phải là tín đồ Hồi giáo hay không cũng không thể bị xâm hại thô
bạo quyền con người tại chính đất nước mình mang dòng máu. Hiến pháp sẽ là sự ghi
nhận tốt nhất về sự bình đẳng và quyền của mỗi người, cùng là sự đấu tranh tốt nhất cho
những phản ứng cực đoan chống lại chính con người nảy sinh từ những xung đột tôn giáo
và niềm tin.
Hiến pháp nước nào cũng vậy, được xây dựng trên những nền tảng nguyên lý nhất
định quyết định bản chất hiến pháp đó. Ở các quốc gia Hồi giáo như Afghanistan, Iran,
Mauretanien, Sudan, Pakistan…, hiến pháp đều dựa trên nền tảng kinh Koran. Điển hình
như Hiến pháp Iran năm 1979, sửa toàn diện lần cuối năm 1989, gồm 177 điều, mở đầu:
“Hiến pháp Cộng hoà Hồi giáo Iran phấn đấu tạo dựng các định chế văn hoá, xã hội,
chính trị và kinh tế Iran theo các nguyên tắc cơ bản và quy ước đạo Hồi; nó phù hợp với
tâm nguyện của cộng đồng Hồi giáo”. Bản chất hiến pháp chính là bản chất mối quan hệ
qua lại giữa nhà nước và người dân do nó điều chỉnh; ở các quốc gia Hồi giáo trên, mối
quan hệ đó thừa nhận ba chủ thể, với vai trò lãnh đạo tinh thần của giáo chủ, nhà nước
nhân danh Hồi giáo quyết định trực tiếp mọi hoạt động văn hoá xã hội chính trị kinh tế,
và người dân có bổn phận chấp hành, được bảo đảm bằng tín điều Hồi giáo, kinh Koran.
Với một nền tảng như vậy và bối cảnh bức bối, rối ren của thế giới Hồi giáo hiện đại, sự
quan tâm và đầu tư cho Hiến pháp càng cần thiết và mang chứa nhiều ý nghĩa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT
1. Lê Văn Trường An (2016), “Những nhân tố thúc đẩy quá trình Hồi Giáo hóa
Đông Nam Á ở hải đảo thế kỷ XV-XVI”, Nghiên cứu lịch sử,
https://nghiencuulichsu.com.
2. Minh Anh (2017), “7 nền dân chủ mới trong “làn sóng dân chủ hóa thứ ba” ở
Đông Á”, Luật Khoa tạp chí, https://www.luatkhoa.org.
3. Ngô Cường (2018), “Sơ lược về chế định Thẩm phán của Indonesia, Thái Lan,
Hoa Kỳ, Canada, Úc, Trung Quốc và Nga”, https://tapchitoaan.vn/.
4. Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật So sánh (2012), NXB Công an Nhân dân,
tr.134.
5. Dân luật, Thư viện pháp luật, “Khái quát về hệ thống pháp luật Hồi giáo”,
https://danluat.thuvienphapluat.vn/
6. Nguyễn Đăng Dung (2011), “Chức năng của Hiến pháp”, Tạp chí Khoa hcọ
ĐHQGHN, Luật học 27 (2011), tr.95 – 100.
7. Nguyễn Thùy Dương, “Tôn giáo trong Hiến pháp các nước ASEAN”.
8. Đỗ Thị Mai Hạnh (2006), “Bản chất và nguồn của Luật Hồi giáo”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, Số 03, tr.57.
9. Văn Trung Hiếu, “Islam trong nền chính trị Malaysia”, Trường Đại học Khoa
học xã hội và Nhân văn.
10. Nguyễn Thị Mai Hoa, “Hồi giáo ở Đông Nam Á”, Trung tâm Đào tạo, Bồi dưỡng
giảng viên Lý luận chính trị - Đại học Quốc gia Hà Nội.
11. Tô Văn Hòa (2012), Nghiên cứu so sánh Hiến pháp các quốc gia Asean, Đại học
Luật Hà Nội, NXB Chính trị quốc gia – Sự thật.
12. “Hồi giáo với Malaysia”, Phần 2, http://quankhoasu.blogspot.com/.
13. Bùi Văn Hùng, Trường Đại học Đà Lạt, “Giáo trình Lịch sử Đông Nam Á”,
https://tailieu.vn/doc/giao-trinh-lich-su-dong-nam-a-tai-ban-lan-thu-nhat-co-
sua-chua-va-bo-sung-phan-1-1818981.html.
14. Trần Thị Hương (2015), “Một số đặc điểm của thế giới Islam giáo hiện này”, Tạp
chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 06 (144), 2015, tr.109 – 124.
15. Thục Minh (2019), “Brunei ra luật ném đá đến chết người ngoại tình”, Văn phòng
Singapore, https://thanhnien.vn/.
16. An Nam, “Tòa án Hiến pháp Indonesia bác bỏ luật định phân biệt đối xử về tôn
giáo”, http://btgcp.gov.vn/.
17. Hoàng Phương, “Người Indonesia biểu tình đòi trực tiếp bầu cử tổng thống”,
https://nld.com.vn/.
18. Hoàng Phương, “Quốc hội Indonesia sửa đổi hiến pháp”, https://nld.com.vn/.
19. Thái Vĩnh Thắng (2008), “Về hệ thống pháp luật Hồi giáo”, Tạp chí Nghiên cứu
lập pháp điện tử, http://www.nclp.org.vn/.
20. Nguyễn Thị Minh Thu (2014), “Vai trò của Hiến pháp trong việc kiểm soát quyền
lực Nhà nước”, Luận văn Thạc sĩ ngành: Lý luận và lịch sử nhà nước và pháp
luật, Đại học Quốc gia Hà Nội.
21. Minh Thy, “Nghị viện Indonesia: Sửa đổi Hiến pháp hướng tới cân bằng quyền
lực”, http://daibieunhandan.vn/.
22. Tòa án Hiến pháp công nhận kết quả bầu cử tổng thống Indonesia,
http://nhandan.com.vn/.
23. “Tòa Hiến pháp Indonesia có thể quyết định kết quả bầu cử tổng thống”,
https://baotintuc.vn/.
24. Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội , “Tổng quan về hệ thống pháp luật các nước
Asean”, http://tks.edu.vn/, 17/4/2019, 5:00 pm.
25. Mai Vân (2009), “Nền dân chủ duy nhất đang vận hành tốt tại Đông Nam Á”,
http://www1.rfi.fr/.
26. Báo Vnexpress, “Số người Indonesia theo Hồi giáo lớn nhất thế giới”,
https://vnexpress.net/.
27. “Lịch sử Indonesia”, https://vi.wikipedia.org/.
28. Vi Yên, “Dân chủ ở Malaysia vừa thắng lớn: Xem xét ba triển vọng”.
TIẾNG ANH 29. Albert H.Y. Chen (2016), “Constitutions and Constitutional Practice in East
Asia”, http://hdl.handle.net/10722/207595.
30. Albert H.Y. Chen (2014), “The Achievement of Constitutionalism in Asia:
Moving Beyond “Constitutions without Constitutionalism”, Constitutionalism in
Asia in the Early Twenty-First Century, Cambridge: Cambridge University
Press, tr.1-32.
31. A.b. kusuma and r.e. elson (2011), “A note on the sources for the 1945
constitutional debates in Indonesia”, Tạp chí ngôn ngữ học, đất đai và dân tộc
học, tập 167, số 2-3 (2011), tr.196-209, http://www.kitlv-
journals.nl/index.php/btlv.
32. Andrew Harding (2012), “Malaysia: Religious Pluralism and the Constitution in
a Contested Polity, Andrew Harding”, Trung tâm nghiên cứu pháp lý châu Á,
Đại học Quốc gia Singapore, tạp chí Middle East Law and Governance 4 (2012)
356–385.
33. Anver Emon (2008), “The Limits of Constitutionalism in the Muslim World:
History and Identity in Islamic Law”, Đại học Toronto. 11. Chen, AHY
(2014), “The achievement of constitutionalism in Asia: moving beyond
'constitutions without constitutionalism'”, Đại học Hồng Kông,
http://hdl.handle.net/10722/201920.
34. Chen, AHY (2014), “The achievement of constitutionalism in Asia: moving
beyond 'constitutions without constitutionalism'”, Đại học Hồng Kông,
http://hdl.handle.net/10722/201920.
35. Chen, AHY (2016), “Constitutions and Constitutional Practice in East Asia”, Đại
học Hồng Kông, http://hdl.handle.net/10722/207595.
36. Clauspeter Hill & Jörg Menzel (2009), “Constitutionalism in Southeast Asia”,
tập 3, Konrad-Adenauer-Stiftung, Singapore.
37. Clifford Geertz (1960), “The Religion of Java”, University Of Chicago Press.
38. Dawoo I. Ahmed & Tom Ginssburg (2014), “Constitutional Islamization and
Human Rights: The Surprising Origin and Spread of Islamic Supremacy in
Constitutions”.
39. Denny indrayana, ph.d (2008), “Indonesian constitutional reform 1999 - 2002.
An evaluation of constitution-making in transition”, Jakarta.
40. Ergun (2015), “Constitutional Design in Islamic Countries: Comparative Notes
on Turkey, Egypt, and Tunisia”, Working Paper – submitted by the author to
ISMC’s Dialogues Series 2015-6.
41. Fatimi, S.Q. (1963), Islam comes to Malaysia, Malaysian Sociological Research
Intitute LTD, Singapore, tr.4.
42. Fritz Edward Siregar (2015), “the political context of judicial review in
Indonesia”, Tạp chí Indonesia Law Review, số 2, tr.208 – 237.
43. “From Undang-undang Melaka to federal constitution: the dynamics of
multicultural Malaysia”, https://www.ncbi.nlm.nih.gov/.
44. Indonesia Constitution 1945
45. Iur Adnan Buyung Naszing (2011), “Towards Constitutional Democracy in
Indonesia”, Đại học Luật Melbourne.
46. Jean-Pierre Cabestan (2009), “Constitutionalism and Western Legal Traditions
in Human Rights in Asian Legal Systems: With a Special Focus on Chinese Legal
Systems”.
47. Jerg Gutmann & Stefan Voigt (2014), “The Rule of Law and Constitutionalism
in Muslim Countries”.
48. Jimly Asshidique (2017), “Indonesia post – crisis constitutional reform: An
incremental bing – bang constitutional change between 1999 and 2002”, Diễn
đàn Melbourne thứ hai về Xây dựng Hiến pháp ở Châu Á và Thái Bình Dương
Manila, Philippines.
49. Joseph Fernando, “Sự hình thành Hiến pháp Malaysia”; Tunku Abdul Rahman,
“Malaysia - Con đường giành độc lập”, Tun Mohamed Suffian, HP Lee và FA
Trindade biên tập, “Hiến pháp Malaysia - Sự phát triển của nó: 1957-1977”,
http://www.malaysianbar.org.my.
50. Joseph M. Fernando & Shanthiah Rajagopal (2017), “Fundamental liberties in
the Malayan. Constitution and the search for a balance, 1956 – 1957”.
51. Karolyn Hotchkiss (1994), Dịch: Võ Hưng Thanh, “International law for
business”, NXB Thống kê 1996, tr. 92.
52. Kerstin Steiner (2018), “Branding Islam: Islam, Law, and Bureaucracies in
Southeast Asia”, tạp chí Journal of Current Southeast Asian Affairs, tr.1–2.
53. Malaysia Constitution Mark Cammack (2006), “Changing Indonesia’s
constitution: A review essay”.
54. MB Hooker (2002), “Introduction: Islamic Law in South-east Asia”, Tạp chí
Australian Journal of Asian Law, tập 4, số 3 (2002).
55. Michael Bogdan (1994), Dịch: Lê Hồng Hạnh và Dương Thị Hiền, “Comparative
Law”, Kluwer Norstedts Juridik Tano, tr. 174.
56. Milner, A. C. (1985), “Islam in Malay Kingship”, in Ahmad Ibrahim Sharon
Siddique and Yasmin Hussain, (compiled), Reading or Islam in Southest Asia,
Institute of Southest Asia Studies, Singapore, tr.27.
57. Moamen Gouda (2013), “Islamic Constitutionalism and Rule of Law: A
Constitutional Economics perspective”.
58. Murdian Murdian, “History of the birth of constitution in Indonesia”,
https://www.academia.edu/.
59. Nadirsyah Hosen (2015), “In Search of Islamic Constitutionalism”, Đại học
Monash, Australia.
60. Naimah S. Talib Adjunct Fellow (2012), “Brunei Darussalam: Royal Absolutism
and the Modern State”, Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Canterbury.
61. Nhóm tác giả: Nazri Bin Muslim, Abdul Latif Samian & Mohd Azmir Mohd
Nizah, “The Discrimination of Protection In The Federal Constitution From The
Perspective of Ethnic Relations in Malaysia”, Tạp chí Advances in Natural and
Applied Sciences, số 6, tr.447-451.
62. Nimer Sultany (2014), “Religion and constitutionalism: lessons from American
and Islamic constitutionalism”, Đại học Harvard.
63. Patricia Horvatich (1993), “Islam and muslims in southeast Asia. A bibliography
of English - language publications 1945 – 1993”, Tạp chí Southeast Asia, Trung
tâm Nghiên cứu Đông Nam Á, Đại học Hawaii.
64. Rabiqah Natasha Halim Binti Mohamed Yusof (2017), “Brunei: Building and
Enshrining an Absolute”, Luận văn Thạc sĩ Triết học, Đại học Oxford.
65. Rahman Mantu (2018), “Islam and constitution: Analysis between al-quran text
with article 29 uud 1945”, Tạp chí khoa học Al-Syir'ah số 16.
66. “Report of the Federation of Malaya Constitutional Commission, 1957”,
https://en.wikisource.org/
67. Southeast Asia, in: Journal of Current Southeast Asian Affairs, 37, 1, tr.27 – 56.
68. Steiner, Kerstin (2018), Branding Islam: Islam, Law, and Bureaucracies
69. Tahir Mahmood (2013), “Overview the legalframewwork of religion-state
relations in Southeast Asia”, ạp chí Pluto ICR.plutojournals.org.
70. Th.Van Baaren; Dịch: Trịnh Duy Hoà biên dịch (2002), “Hồi giáo”, NXB Nhà
xuất bản trẻ, tr.137.
71. “The World’s Muslims: Religion” (2013), Politics and Society,
https://www.pewforum.org/.
72. Theunis Roux & Fritz Siregar (2016), “Trajectories of Curial Power: The Rise,
Fall and Partial Rehabilitation of the Indonesian Constitutional Court”, Đại học
New South Wales, Úc; Australian Journal of Asian Law, tr. 1 – 21.
73. Dawood I. Ahmed & Tom Ginsburg (2014), “Constitutional Islamization and
Human Rights: The Surprising Origin and Spread of Islamic Supremacy in
Constitutions”.
74. Tom Ginsburg (2014), “Comparative constitutionalism in Asia”, International
Journal of Constitutional Law.
75. Totok Sarsito (2007), “The Indonesian Constitution 1945: Why was it
amended?”, Đại học Sebelas Maret.
76. Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, “The Cambridge History of Southeast Asia”, Tài
liệu dịch, Tập 2, Từ 1500 đến 1800. tr. 188.
77. W. Cole Durham, Brett G. Scharffs; Dịch: Đặng Hoàng Nam (2016), “Luật pháp
và tôn giáo: Tiếp cận so sánh quốc gia, quốc tế”, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
78. Wu Min Aun (2007), “The Malaysian Legal System, Pearson Longman”, tr.177.
79. Yvonne Tew, “Thể chế hóa và Chính trị hóa Tôn giáo ở Malaysia Hiện nay”, Đại
học Georgetown Associate Professor of Law, Georgetown University Law
Center, https://kyotoreview.org/.
80. Yvonne Tew (2012), “Beyond “Asian Values”: Rethinking Rights”, University
of Cambridge Centre of Governance and Human Rights.
81. Zairil Khir Johari, “The story of Malaysia through its constitution”,
https://www.newmandala.org/.
TIẾNG INDONESIA
82. “10 Konstitusi Yang Pernah Berlaku di Indonesia Secara Berurutan”,
https://guruppkn.com/
83. “20 Tahun Reformasi, Catatan Perubahan Indonesia di Bidang Politik”,
https://nasional.kompas.com/.
“3 Kiprah Wali Songo”, https://khazanah.republika.co.id/. 84.
A. Intan Cahyani, “Luang negara Islam di Brunei”. 85.
86. A. Intan Cahyani (2015), “Hukum Keluarga Islam di Brunei Darussalam”,
http://journal.uin-alauddin.ac.id/.
87. A. Ubaedillah (2015), “Perubahan Konstitusi di Indonesia”, Pendidikan
Kewarganegaraan (Civic Education) Pancasila, Demokrasi Dan Pencegahan
Korupsi. Yang Menerbitkan Prenada Media Group : Jakarta,
http://www.informasiahli.com.
88. Báo cáo về Tòa Shari’ah: “Perintah kanun hukuman jenayah syariah, 2013”
(2013), Brunei Darussalam
89. D Dávíd Fung (2015), “Pengenalan kepada sistem perundangan Malaysia”.
90. Dy. Zainab binti awg haji tuah (2009), “Perkembangan pentadbiran mahkamah
syariah di negara brunei darussalam”.
91. Datin Dr. Hajah Saadiah & Tamit Akedemi Pengajian (2006), “Pentadbiran
undang-undang islam di negara brunei darussalam pada zaman british1”, Đại
học Brunei Daussalam.
92. Fabian Fadhly, “Islam dan konstitusi Indonesia 1945”, Đại học Hồi giáo Nhà
nước Sunan Gunung Djati, Bandung.
93. “Islam di Indonesia”, https://www.indonesia-investments.com.
94. “Islam Radikal di Indonesia”, https://www.indonesia-investments.com.
95. Iur Adnan Buyung Nasestion, “Towards Constitutional Democracy in
Indonesia”, Trường Luật Melbourne.
96. “Kenapa orang Indonesia banyak yang Muslim?”, https://www.galena.co.id/.
97. “Mengapa penolakan kubu Islam konservatif terhadap RUU PKS salah
kaprah?”, https://theconversation.com/.
98. Moh. Dahlan (2014), “Quan hệ tôn giáo và nhà nước ở Indonesia”, Tạp chí
Nghiên cứu Hồi giáo, Tập 14, Số 1, tr.16.
99. Mohamad Daeng (2011), “Indonesia Daftarkan 13.487 Pulau ke PBB”.
100. Pan Mohamad Faiz (2007), S.H., M.C.L., “Sistem Ketatanegaraan Indonesia
Pasca Amandemen”, Khoa Luật Hiến pháp, Nhân quyền và Dân chủ,
https://panmohamadfaiz.com/.
101. Satya Arinanto, “Decentralization and the constitutional system of government
in Indonesia”, Constitutionalism in Southeast Asia, Quyển 3 - Cross-Cutting
Issues.
102. Sinh viên Khoa Luật, “Hukum Tata Negara: Sejarah Ketatanegaraan Republik
Indonesia Periode 17 Agustus 1950-5 Juli 1959”, Đại học Lampung, http://rm-
maryanto.blogspot.com/.
103. Sinh viên Khoa Luật, “Hukum Tata Negara: Sejarah Ketatanegaraan Republik
Indonesia Periode 17 Agustus 1950-5 Juli 1959”, Đại học Lampung, http://rm-
maryanto.blogspot.com/.
TIẾNG MÃ LAI 104. A. Intan Cahyani (2015), “Hukum Keluarga Islam di Brunei Darussalam”,
http://journal.uin-alauddin.ac.id/.
105. Awang Haji Mohd Serudin bin Haji Timbang (2015), “Hak asasi manusia dari
perspektif islam”.
106. Che Omar bin Che Soh v. Public Prosecutor (1988), 2 Malayan L.J. 55, tr.56-
57.
107. D Dávíd Fung (2015), “Pengenalan kepada sistem perundangan Malaysia”.
108. Datin Dr. Hajah Saadiah & Tamit Akedemi Pengajian (2006), “Pentadbiran
undang-undang islam di negara brunei darussalam pada zaman british1”, Đại
học Brunei Daussalam.
109. Dy. Zainab binti awg haji tuah (2009), “Perkembangan pentadbiran
mahkamah syariah di negara brunei darussalam”.
110. Falli Hashim, “Persidangan Islam dan kebangsaan dalam keadaan yang
berkaitan”, https://independent.academia.edu/.
111. Haji Mahamad & Naser bin Disa (2017), “ISLAM AGAMA NEGARA:
Undang-Undang Tertinggi Negara”, http://www.arkib.gov.my/.
112. Haji Zainul Rijal Abu Bakar, “ALQURAN dan masyarakat: Undang-undang”.
113. Kristen Stilt (2015), “Contextualizing constitutional Islam: The Malayan
experience”, Tạp chí International Journal of Constitutional Law, số 13, tập 2,
tr.407 – 433, https://doi.org/10.1093/icon/mov031.
114. “Laporan hak asasi manusia Brunei” (Brunei human rights report),
http://www.mulabi.org/.
115. “Laporan Kebebasan Beragama Malaysia 2016 - Malaysia” (Báo cáo Tự do
Tôn giáo Malaysia 2016 – Malaysia), https://my.usembassy.gov/.
116. Mohd Khalilullah Bin Mohd Zaiddy (2016), “Kedudukan agama islam dalam
perlembagaan persekutuan”, Đại học Quốc gia Malaysia.
117. Naimah S Talib (2013), “Brunei Darussalam: Kesultanan Absolut dan Negara
Modern”, Khoa Khoa học Chính trị, Đại học Canterbury, Tạp chí Kyoto về
Đông Nam Á, số 13.
118. Nazri Muslim (2012), “Islam dalam perlembagaan persekutuan dari perspektif
hubungan etnik di Malaysia”, https://jurnalkemanusiaan.utm.my/.
119. Noraini Zulkifli (2010), “Perlembagaan Persekutuan”, Đại học Quốc phòng
Malaysia.
120. “Pengenalan sistem undang-undang Malaysia”, Đại học Tunku Abdul
Rahman, https://utar.academia.edu/.
121. Báo cáo về Tòa Shari’ah: “Perintah kanun hukuman jenayah syariah, 2013”
(2013), Brunei Darussalam
122. Teoh Eng Huat v. Kadhi Pasir Mas (1990), 2 Malayan L.J. 300, tr.301-02.
123. Tun Abdul Hamid Mohamad, (2014), “Penggubalan undang-undang hudud di
brunei dan Malaysia: Masalah yang berlainan”, Tòa án Tối cao Malaysia,
https://tunabdulhamid.me/.
124. Wan Zailan Kamaruddin Bin Wan Ali & Ahmad Zuhdi Bin (2017),
“Masyarakat Muslim Di Negara Brunei Darussalam: Kajian Mengenai Isu dan
Cabaran Dalam Pemikiran Islam Era Globalisasi”.
125. Zulkifli Mohamed, “Pembangunan Mahkamah di Malaysia sebelum dan
selepas kebebasan”, https://independent.academia.edu/.
126. Zulkifli Mohamed, “Membangun mahkamah di Malaysia sebelum dan selepas
kebebasan”, https://www.academia.edu/.
CÁC TRANG THÔNG TIN ĐIỆN TỬ
127. Trang thông tin của Bộ ngoại giao Hoa Kỳ: https://www.state.gov/
128. Trang thông tin điện tử của Bộ Tư pháp Brunei:
http://www.judiciary.gov.bn/Theme/Home.aspx.
129. Trang thông tin điện tử của Quốc hội Malaysia:
https://www.parlimen.gov.my/index.php?&lang=en.
130. Trang thông tin điện tử của tổ chức ASEAN: https://asean.org/.
131. Trang thông tin điện tử của Tòa án Tối cao Indonesia:
https://www.mahkamahagung.go.id/id.
132. Trang thông tin điện tử của Viện Nghiên cứu lập pháp: http://vnclp.gov.vn/.
133. Trang tra cứu các bản Hiến pháp trên thế giới:
https://www.constituteproject.org/.
PHỤ LỤC
Bảng số liệu thống kê điều khoản ghi nhận quyền con người
trong hiến pháp các quốc gia Hồi giáo trên thế giới
Quốc gia Hiến pháp năm Số lượng điều khoản
Afghanistan
Bahrain
1923 1931 1933 1964 1977 1980 1987 1990 2004 1973 2002 1923 1930 1953 1956 15 11 13 28 26 36 50 60 37 45 45 28 24 3 33
1958 (UAE) 10 Egypt 1964 31
1971 43
1980 43
2011 46
1906 1
Iran 1907 48
1979 45
1925 23
1964 28
1970 34 Iraq 1990 33
2004 44
2005 52
1968 15
Maldives 1998 18
2008 72
1961 9
1978 19 Mauritania 1985 0
1991 28
1956 26
1962 29
Pakistan 1973 41
2002 37
2010 45
1970 0 Qatar 2003 33
1955 10
1964 10
1971 7
Sudan 1973 46
1985 29
1998 41
2005 49
1962 22
Yemen 1970 31
1991 33