TƯ LIỆU FOLKLORE



Ô” Nguyễn Đình Câm giữ chức vụ Kiểm học'” tỉnh Phú Yên những năm cuối thập niên 30 thế kỉ 20. Những tư liệu hiện còn chứng tỏ ông là người có nhiều

đóng góp vào công việc của ngành giáo dục và văn hóa tỉnh nhà.
Trong thời gian này nhiều trường cấp xã (công hương) và cấp liên xã (công liên hương) được phát triển khắp nơi, kể cả vùng núi, cao nguyên, nhiều lớp sư phạm cấp tốc được mở để đào tạo giáo viên được tuyển dụng từ những người có bằng Tiểu học Pháp Việt (Primarre), đương thơi gọi là “giáo sư”, vì lúc ấy giáo viên ngạch “tư học” có bằng Cao đăng Tiểu học (Điplôme) rất hiếm.
Ông đã cùng ông Trần Sĩ biên soạn sách Địa dư tính Phú Yên (Monographle du Phu Yen) dùng làm tài liệu giảng dạy cho lớp Nhì (năm thứ nhất) và lớp Ba“. Sách có 3 chương: Địa dư hình thế, địa dư kinh tế, địa dư chánh trị và sử lược, súc tích nhưng khá đầy đủ, ngoài ra còn có những bài đọc thêm. Trong phần "Tiểu dẫn" bản in năm 1938 các tác giả viết: “Địa dư là một môn
học rất cần ích cho trẻ con... Khi từ giã.
chốn học đường, chúng nó phải hiểu những điều cốt yếu trong tỉnh chúng nó ở, những con sông nào rộng, những ngọn núi nào cao, nơi cô tích nào đáng nhớ v.v... Biết như vậy
KIỂM HỌC NGUYỄN ĐÌNH CẦM VỚI VIỆC SƯU TÂM FOLKLORE TẠI PHÙ YÊN NỬA ĐẦU THÊ KỈ XX
ĐÍ


TRẤN SĨ HUỆT)
không phải là vô ích, vì có biết rõ tỉnh mình, mình mới đem lòng yêu mến nơi mình sinh trưởng”.
Năm 1937 ông đã giao cho Hiệu trưởng các trường Tiểu học, trường Công liên hương và Công hương... tìm hiểu cung cấp cho “Société du folklore Indochinois'°” những điều về phong tục tập quán tỉnh Phú Yên. Rất tiếc chúng tôi chưa biết rõ toàn bộ vấn đề, chỉ có được phần câu hỏi khá chỉ tiết về việc thờ cúng các vị thần ở từng nơi. Nguyên văn tiếng Pháp, xin tạm dịch:
Những tìm hiểu tình hình cung cấp cho "Hội nghiên cứu phong tục tập quán Đông Dương" (Renseignements Íournis pour la socété du folklore IndochinoIs)
L - Tên làng:
- Tên hành chúnh
- Tôn thông tục
Tổng: Huyện: Tỉnh:
IL - Vị thần:
a) Danh hiệu ui thần:
- Thông tục danh (nom popularre)
- Nhân danh (nom personnel)
b) Nhân thần hay thiên thần
e) Tóm tắt truyền thuyết, tiếu sử u¡ thần
d) Truyền bhẩu hay có uăn tự? Có sốc phong bhông? Có gia phong hhông?
`! Hổi Văn nghệ dân gian và Văn hoá các dân tộc tỉnh Phú Yên. 58
TRẦN SĨ HUỆ


e) Hãy kê, nếu có, những u¡ cộng sự đồng thời được nổi tiếng của uị thần hay những đối thủ của u¡ thần.
Ð Lúc sinh thời của uị thần, trong lùng hay một số những làng bhác có thờ phụng ngài bhông?
Ø) Trước khi thờ phụng ngòi, làng có thờ phụng những ut thần nào bhúc hông?
h) Có những làng nào hhúc cùng thờ 0t thần này? Có những liên hệ nào tôn tại trong những lòng này bhông? (như sự sở hữu uê nghỉ thức, lê hội, tiệc tùng, sự cấm đoán hôn phối giữa những trui gói các làng hhúc nhau).
¡) Vị thần được biểu dương tượng trưng bằng những gì? (tượng cốt, long u¡ [bài ULỶ, ngơi |bhúm] thờ, hay những uật bhúc). Có còn những mũ mão, úo lê, giày hia, đai lưng, gqươm hiếm, thẻ ngài... không?
HII- Những nơi dâng hiến thờ thần la những nơi nào?
aq) Những nơi ấy có đặc điểm thiên nhiên thế nào?
b) Những uiệc xây dựng do con người: hương án (bệ thờ), các công trình biến trúc, đình.
cọ Những sự cấm đoán chỉ định ở những 0¡ trí ấy: cấm canh tác, cấm giết súc Uuật, cấm xúc phạm?
d) Những địa điểm ấy ngoài uiệc sung dụng để thờ cúng thường lệ, từng nơi có còn sung dụng uào Uuiệc nào bhúc bhông?
IƯ.- Những ngày thực hàrth tế nghị, lễ hội là những ngày nào?
œ) Cúng tế theo quan hệ đời u¡ thần?
b) Cúng tế thích hợp theo mùa (thời tiết), canh tác thu hoạch uà những uiệc làm theo thiên nhiên ?
c) Cúng tế quan hệ uới những uiệc thuộc bê đời người (như dịch bệnh, sinh hoạt xã
hội, thị đậu, được bổ dụng, thưởng phẩm hàm quan chức).
V. - Những lê uật cúng tế:
œ) Những lê uật cúng tế trong cúc ngày lễ là gù bhúc nhau thế nào? (Dùng: cơm (xôi), gò, heo, cơm gạo lúa mới, hoa qua... ?)
b) Đề chuẩn bị mua săm lê Uật: người nàòo mua, tiền bạc của di, ơi đài thọ phí tôn?
e) Sau bhi cúng tế xong, những lê uật ấy được phân phối thế nào?
VI. - Tổng số thành uiên trong ban cúng tế? Bao nhiêu người. Xác định uai trò trách nhiệm được giao cho môi người.
VII - Nhưng thành uiên trong ban cúng tế có phải tuân thủ một số quy tắc (phép tắc) biêng cữ uà thanh bhiết thời gian trước 0uà trong bhi hành lê? Ngoại trừ những người góa bụa, suốt trong thời gian hành lê, có những uai trò nào trong ban cúng tế bắt buộc là chỉ do những nam nữ thanh niên trình tân hay những người đu đôi mới được đđm nhận?
VIII. - Cho biết uề lễ phục uà những Uuật dụng trong lúc cúng tế của môi thành uiên trong ban tế lễ theo sự phân nhiệm?
IX. - Những điều cấm đoán:
a) Những điều cấm đoán dân chúng phơi tuân thủ:
- Trong dịp (kù) tế lễ
- Trong đời sống thường ngày (hùnh động uùàò ngôn ngữ)
b) Trường hợp uL phạm những điều cấm đoán, những người phạm tội bị bắt nộp phạt như thế nào?
- Ai có quyền phán xét? Phún xét lúc nào uà như thế nào?
- Thời gian xét xử để thực hành phún quyết? TƯ LIỆU FOLKLORE
D9


- Ai phán xét chung thẩm (cuối cùng)?
- Các quan chức (huyện, phủ, tỉnh) có quyền tham gia can thiệp bhông? Tham gia can thiệp thế nào?
- Trường hợp không chấp hành phán quyết thì làng phút làm gì?
- Khi người phạm tội đã nộp tiên phạt xong thì có còn điều øì đối uới người ấy nữa không?
X. - Những điều củi lương (cdi cách) trong uiêc cúng tế:
Trong thời gian những năm cuối trước đây có thực hiện sự cdi lương nào trong Uiệc cúng tế? Sự cải lương ấy có biểu hiện:
1) Về thứ, hạng, loại lê uật uà số lượng lê uật
2) Trong cách thức phân phối lê uật U.U...
3) Trong sự củi chuyển những địa điểm cúng tế
4) Trong nhân số thành uiên ban cúng tế
5) Trong những điều biêng cữ
6) Trong những điều cấm đoáún.
Số người được Nha Kiểm học phân công tìm hiểu để trả lời là 33 Hiệu trưởng: huyện Đồng Xuân (gồm hai huyện Sông Cầu và Đồng Xuân hiện nay) 10 vị, phủ Tuy An 11 vị, phủ Tuy Hòa (gồm thị xã Tuy Hòa và 2 huyện Tuy Hòa, Phú Hòa hiện nay) 9 vị, huyện Sơn Hòa (gồm 2 huyện Sơn Hòa và Sông Hinh hiện nay) ö vị. [rong 3ð vị này có 3 Tư học, 1 Trợ giáo và 29 giáo sư. Đó là các ông:
- Cao Hữu Hoành, Tư học, Hiệu trưởng trường Tiểu học Sông Cầu
- Ngô Hưởng, Tư học, Hiệu trưởng trường Tiểu học Ngân Sơn
- Trần Sĩ, Tư học, Hiệu trưởng trường Tiểu học Tuy Hòa
- Huỳnh Tấn Khoa, Trợ giáo, Trường Cùng Sơn
- Lê Trọng Khản, Giáo sư, Khoan Hậu
trường
- Nguyễn Đình Tiếu, Giáo sư, trường Trung Trinh?
- Cao Quang Minh, Cáo sư, Triêm đức
trường
- Nguyễn Như, Giáo sư, trường Long Phước
- Trinh Ốc, Giáo sư, trường Hà Bình
- Cao Khắc Cần, Giáo sư, trường Bình Thạnh
- Phạm Đình Thức, Giáo sư, trưởng Phú Xuân
- Trần Quang Đức, Giáo sư, trường Thạch Khê
- Trần Huy Hà, giáo sư, trường Phước Long
- Nguyễn Thế Mại, Giáo sư, trường Phong Phú
- Võ Kiệm, G1áo sư, trương Phú Sơn
- Nguyễn Châu, Giáo sư, trường Tiên Châu
- Phạm Thung, Giáo sư, trường An Thổ
- Lê Đào Lý, Giáo sư, trưởng Định Phong
- Phạm Xuân Quý, Giáo sư, trường Phong Hậu
- Phan Tú Sum, G1áo sư, trương Phú Thạnh
- Nguyễn Nhâm, Giáo sư, trường Hòa Ủa
- Huỳnh Đình Tư, Giáo sư, trương Phong Nhiêu
- Lê Nghĩa,
Trung
Giáo sư, trưởng Định
- Lê Cụ, Giáo sư, trường Phước Khánh 60
TRẦN SĨ HUỆ


- Quách Đình Liên, Giáo sư, trường Hạnh Lâm
- Lê Đức Thuần, Giáo sư, trường Lương Phước
- Huỳnh Ảnh, Giáo sư, trương Phú Thứ
- Đỗ Như Bảng, Giáo sư, trường Vĩnh Xuân
- Lê Nguyên Thâm, Giáo sư, trường Phong Niên
- Trương Sinh, Giáo sư, trường Đông Mi
- Võ Khắc Văn, Giáo sư, trường Phú Lâm
- Võ Duy Chương, Giáo sư, trường Lạc Mi
- Nguyễn Hữu Nhọn, Giáo sư, trường Trung Trinh”)
Các câu hỏi bằng Pháp văn, phần trả lời 1/3 trả lời bằng Pháp văn, 2/3 trả lời bằng quốc ngữ. Trong các bảng trả lời, tên tuổi và chức vụ những người cung cấp tư liệu cũng được nêu rõ như các ông:
- Phạm Khắc Hoàng, 71 tuổi Hương lễ làng Thạch Khê
- Võ Trưng, 55 tuổi Cửu phẩm làng Ngân Sơn
- Đào Bội Toại, 52 tuổi Cửu phẩm làng Đình Phong
- Bùi Trần Hoàn, 49 tuổi Lí trưởng làng Long Bình
- Huỳnh Quế, 48 tuổi Lí trưởng làng Đình Trung
- Nguyễn Xước, 40 tuổi, Tộc biểu làng Phong Nhiêu
- Phạm Quế, Cựu Hương bộ làng Phong Hậu
- Hồ Vy, 26 tuổi Lí trưởng làng Bình Thanh...
Điểm qua phần sưu tầm có thể biết được một số nét khái quát:
Vào thời ấy nhiều nơi ở Phú Yên thơ Thượng đắng thần Lương Văn Chánh, Thương đẳng thần Thiên Y A cùng với Bổn canh Thành hoàng. Một số nơi thờ Thượng đẳng thần Cao Các, Thượng đẳng thần Bạch Mã Thái Giám. Làng Ngân Sơn thở Minh Ủy Hoa Đường phu nhân đời Minh Mạng gia phong Tú Sảng chỉ thần. Làng Vĩnh Cửu có miếu Biểu Trung thờ 516 tướng sĩ nhà Nguyễn Gia Long. Có nơi thờ thần Thổ Địa (Đương Cảnh Thổ Địa Hạ đẳng thần).
Về những tục lệ thờ cúng tại các đền miếu: Trước đó (tức là trước xa năm 1937) tất cả đều cúng mỗi năm hai lần vào mùa xuân và mùa thu (xuân kì thu tế), từ gần năm 1937 có nơi chỉ còn cúng mỗi năm một lần vào mùa xuân. Phẩm vật dâng cúng có: hương đèn, hoa qua, kim ngân (vàng mãi), thịt heo gà, cơm, xôi... Tiền mua sắm là tiền công bổn của làng.
Ông Trần Quang Đức (Trương Thạch Khê) cho biết: “Ngày xưa cúng nhiều heo bò, nên cúng xong, làng và dân làng ăn uống rồi, còn phải chia phần kính biếu các ông làng và các người có phâm hàm trong làng. Ngày nay chỉ ăn uống tại đình mà thôi, vì đồ cúng chỉ có một heo và hương hoa, trà quả, vàng bạc giá 5$ cả thây”. (Có thể so sánh với số tiền cúng ở miếu Biều Trung vào năm 1941 theo bài của ông Định Bá Kha đăng trên tập san “Đô thành hiếu cổ” là 228). :
Thành phần ban tế lễ có 12 người: 1 Chánh tế, 1 Bồi tế, 1 Đông hiến, 1 Tây hiến, 2 LỄ sanh, 1 Thông xướng, 1 Tán xướng, 1 Hương lễ, 1 người đánh chinh (chiêng), 1 người đánh cổ (trống), 1 người điều khiển ban nhạc. Người đứng Chánh tế phải không có tang chế. Hai Lễ sanh phải là con trai và là học trò mới được.
Y phục: Chánh tế, Bồi tế, Hương lễ mặc áo rộng xanh, Đông hiến, Tây hiến TƯ LIỆU FOLKLORE
G1
—=====ẽẼẽÔ ......££ee Ễễ--Ồ Ồ —
mặc áo dài den, khăn đen, Lễ sanh và Thông xướng, Tán xướng áo mão màu xanh. Những người đánh chinh cổ mặc áo kẹp nẹp đỏ (áo lính ta), ban nhạc cũng mặc ao đài đen, khăn đen.
Theo lệ làng, ngươi nào vi phạm những điều cấm kị trong việc tôn kính thần linh sẽ bị phạt phải nộp trầu, cau, rượu thú lỗi và ba quan tiền.
Ông Ngô Hưởng (Trường Ngân Sơn) kể truyền thuyết về Minh Ủy Hoa Đường phu nhân: Bà là người có công giúp Nguyễn Ánh thoát nạn khi bị quân Tây Sơn truy kích. Trong cuộc truy kích, quân Tây Sơn đã giận dữ đốt cháy một khu rừng. Do đó cánh đồng rộng rất phì nhiêu này hiện giờ mang tên “Đồng Cháy” ở làng Hà Yến, phủ Tuy An").
Ông Lê Cụ (Trường Phước Khánh) viết về việc thờ cúng Lương Văn Chánh: “Thường năm nhà nước phát tiền cúng tế ngài tại miếu. Sau giảm sự phát tiền, lại cấp bốn mươi mâu ruộng của ngài khai phá ở làng Phụng Các để cúng tế ngài. Ruộng này miễn thuế. Còn con cháu ngài được miễn binh sưu mười lăm người”. Và về sự linh ứng: “Sau nầy xin kể một truyện tục truyền: _
Lúc lập miếu thờ xong (miếu ở làng Phụng Nguyên) thưởng có một đạo hào quang ở trong miếu bay ra đằng không mà lên. Có lúc trời đang nắng tạnh, thoạt có mây mưa gió chớp nổi lên, đạo hào quang ấy bay vào miếu. Mỗi lần nhơn dân có việc sì hoặc năm nào bị hạn, lạo ? đến miếu cầu yên, cầu nắng, cầu mưa quả có hiệu nghiệm. _
Ngài linh hiển như vậy nên lúc ấy mỗi quan tri huyện nào để lị đến Tuy Hòa cũng phải đến miếu bái yết ngài trước, sau mới đám làm việc.
Về triều vua Tự Đức có một quan tri huyện đến miếu cầu mưa không thấy có
hiệu nghiệm, quan huyện giận, cho là không linh, sức nha thuộc và tổng lí đến đo đạc những ruộng cấp cúng tế ấy để làm thuế. Lúc ấy trời nắng mà thoạt có một trận gió to ở miếu thổi ra, giây lát mây mù sấm chớp nổi lên làm cho tối trời; những người đo đạc sợ hãi, quan huyện cũng hối ngộ, đến miếu mật niệm rồi về, không dám đo đạc nữa”.
Ông Lê Nguyên Thẩm (Trưởng Phong Niên) sao kèm sắc gia phong Cao Các Quảng Độ tôn thần là “Hoằng Mô Vĩ Lược Đôn Hậu Phu Hựu Trạc Dương Trác Vĩ thượng đẳng thần” giúp chúng ta hiện nay xác định Cao Các là vị “nhiên thần” chứ không phải “nhân thần” (tướng Cao Các tử trận ở Thành Hồ) như kể trong dân gian. Ông cũng nói rõ địa điểm miếu thờ: “Từ trước cho đến năm 1922 ngôi đền thờ thần được xây cất trên một hòn núi cạnh bờ sông Ba (thuộc làng An Nghiệp). Trong năm này công trình dẫn thủy nhập điền” tiến hành khảo sát thì kênh chính chạy trúng vị trí ngôi đền. Lúc bấy giờ phải di chuyển ngôi đền đến một khoảnh đất của làng sạch sẽ và khoáng đãng”. (Dịch theo nguyên bản Pháp văn). Ngôi đền (miếu) tại khoảnh đất sạch sẽ và khoáng đãng ấy nay lại gặp con đường đông - tây của thị trấn huyện lị Phú Hòa nên mới đây (2008) được dời trở lại sườn núi phía bắc đèo Dinh Ông.
Chúng tôi những người sưu tâm nghiên cứu văn hóa dân gian Phú Yên hôm nay, chân thành ghi ơn ông Kiểm học Nguyên Đình Cầm và 33 nhà giáo tiền bối, có vị riêng tôi được may mắn làm cậu trò nhỏ (thầy Trần Sĩ, thầy Ngô Hưởng) hoặc được tiếp xúc học hỏi trên đường đời; đồng thời rất mong trong khi tìm kiếm tư liệu lại may mắn gặp những “trang vàng” quý vị còn để lại.
T.S5.H (Xem tiếp trang 75)