intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Kiến thức quy trình và kiến thức khái niệm về hàm số ở trung học phổ thông

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

52
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu hai dạng kiến thức quy trình và kiến thức khái niệm về hàm số của học sinh trung học phổ thông, qua đó làm rõ mối quan hệ và đề xuất một phương pháp đo hai dạng kiến thức này. Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng 113 học sinh lớp 12 trên địa bàn tỉnh Quảng Trị.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Kiến thức quy trình và kiến thức khái niệm về hàm số ở trung học phổ thông

KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM<br /> VỀ HÀM SỐ Ở TRUNG HỌC PHỔ THÔNG<br /> PHẠM XUÂN THẾ<br /> Trường Đại học Sư phạm – Đại học Huế<br /> Tóm tắt: Nghiên cứu này nhằm mục đích tìm hiểu hai dạng kiến thức quy<br /> trình và kiến thức khái niệm về hàm số của học sinh trung học phổ thông,<br /> qua đó làm rõ mối quan hệ và đề xuất một phương pháp đo hai dạng kiến<br /> thức này. Nghiên cứu được thực hiện trên đối tượng 113 học sinh lớp 12 trên<br /> địa bàn tỉnh Quảng Trị. Phương pháp mô hình phương trình cấu trúc (SEM)<br /> được sử dụng để kiểm định các mối quan hệ giả thiết nghiên cứu. Kết quả<br /> cho thấy kiến thức quy trình là điều kiện cần để phát triển kiến thức khái<br /> niệm của học sinh, hơn nữa, kiến thức khái niệm cũng ảnh hưởng đến khả<br /> năng áp dụng hàm số vào giải quyết các bài toán của học sinh.<br /> Từ khóa: Kiến thức quy trình, kiến thức khái niệm, hàm số, mô hình<br /> phương trình cấu trúc.<br /> <br /> 1. GIỚI THIỆU<br /> Theo một nghiên cứu của Trung tâm Quốc gia về Đánh giá Tiến triển Giáo dục, Hoa Kỳ<br /> (National Assessment of Educational Progress: NAEP), chín trong số mười học sinh<br /> đồng ý với câu phát biểu “luôn luôn có một quy tắc để làm theo trong việc giải quyết<br /> các bài toán”. Lý do cho suy nghĩ này có thể là do học sinh được tiếp xúc với cách giải<br /> các bài toán theo thuật toán hướng dẫn của giáo viên trong quá trình học.<br /> Trong các kì thi, hầu như các bài toán về hàm số thường tập trung vào các kỹ năng, nên<br /> có thể che dấu sự vắng mặt của kiến thức khái niệm. Thông thường, nếu học sinh nắm<br /> vững các phương pháp thì có thể tìm đúng đáp án. Điều này vô tình tạo ra một lý do để<br /> giáo viên tin rằng học sinh hiểu được khái niệm toán học, nhưng có lẽ điều này không<br /> đúng. Vậy nếu có một sự quan tâm nhiều hơn cho việc giảng dạy kiến thức khái niệm<br /> (KTKN) trong trường học, thì liệu rằng kiến thức quy trình (KTQT) có bị bỏ qua, hay là<br /> ít được quan tâm hơn? Điều này có thể không xảy ra, nhiều lập luận chỉ ra rằng, KTQT<br /> là một điều kiện cần thiết cho KTKN. Hơn nữa, việc đo hai loại kiến thức này như thế<br /> nào cũng rất quan trọng để giải thích bằng chứng về mối liên hệ giữa chúng.<br /> Trong bài báo này, chúng tôi cố gắng tìm kiếm câu trả lời cho các câu hỏi: Thứ nhất,<br /> chúng ta sẽ đo KTKN và KTQT của học sinh về hàm số ở bậc học THPT như thế nào?<br /> Thứ hai, các kiến thức có tính quy trình và kiến thức có tính khái niệm về hàm số của<br /> học sinh ở bậc học THPT có quan hệ với nhau như thế nào? Thứ ba, khả năng để giáo<br /> viên có thể vận dụng kiến thức khái niệm trong việc định hướng cho học sinh giải quyết<br /> các bài toán về hàm số như thế nào?<br /> <br /> Tạp chí Khoa học và Giáo dục, Trường Đại học Sư phạm Huế<br /> ISSN 1859-1612, Số 03(35)/2015: tr. 15-21<br /> <br /> 16<br /> <br /> PHẠM XUÂN THẾ<br /> <br /> 2. KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KHÁI NIỆM<br /> Thuật ngữ quy trình và khái niệm của toán học xuất hiện và trở nên phổ biến giữa<br /> những năm 1980, đặc biệt sau khi Hiebert (1986, [6]) biên tập cuốn sách “Kiến thức<br /> khái niệm và quy trình: Trường hợp của toán học”, các thuật ngữ này được phổ biến và<br /> nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà giáo dục toán. Sự phân biệt giữa kiến thức<br /> quy trình và khái niệm đóng một vai trò quan trọng trong việc xác định những kiến thức<br /> mà học sinh thu nhận được. Piaget (1978, [5]) phân biệt giữa sự hiểu biết về khái niệm<br /> và hoạt động thành công; Schefller (1965, [5]) phân biệt giữa "biết tại sao" và "biết làm<br /> thế nào"; Tulving (1983, [5]) phân biệt giữa bộ nhớ ngữ nghĩa và bộ nhớ phân đoạn;<br /> Anderson (1983, [5]) phân biệt giữa kiến thức mô tả và quy trình; Nesher (1986, [5])<br /> phân biệt giữa học thuật toán và học để hiểu; Hiebert (1986, [6]) nhấn mạnh rằng,<br /> KTQT có hầu hết trong các thuật toán, nhưng còn thiếu các mối quan hệ, trong khi<br /> KTKN rất giàu các mối quan hệ nhưng còn thiếu trong các thuật toán; Sfard (1994,<br /> [10]) phân biệt giữa “tư duy hoạt động” và “tư duy cấu trúc”. Haapasalo và Kadijevich<br /> (2000, [4]) đã đưa ra những đặc trưng cho hai loại kiến thức:<br /> - Kiến thức quy trình biểu thị cách thức thực hiện các thuật toán, quy trình cụ thể.<br /> Điều này thường đòi hỏi không chỉ kiến thức của các đối tượng toán học được sử<br /> dụng, mà còn kiến thức về định dạng và cú pháp cần thiết để biểu diễn chúng.<br /> - Kiến thức khái niệm biểu thị kiến thức về khả năng kết nối và vận dụng khéo léo<br /> các yếu tố trong các mạng lưới riêng biệt, các yếu tố trong mạng này có thể là các<br /> khái niệm, quy tắc (thuật toán, quy trình…), và thậm chí cả các vấn đề được đưa<br /> ra với những hình thức biểu diễn khác nhau.<br /> Mối quan hệ giữa KTQT và KTKN hiện nay vẫn còn khá nhiều ý kiến khác nhau, xoay<br /> quanh bốn quan điểm. Quan điểm kế thừa cho rằng KTQT là điều kiện cần nhưng chưa<br /> đủ cho KTKN (Kline (1980, [9]), Kitcher (1983, [9]),Vergnaud (1990, [9]), Gray & Tall<br /> (1993, [9]) và Sfard (1994, [10])). Quan điểm tương tác động cho rằng KTKN là điều<br /> kiện cần nhưng chưa đủ cho KTQT (Byrnes & Wasik (1991, [9])). Quan điểm đồng<br /> hoạt hóa ủng hộ việc xem KTQT là điều kiện cần và đủ cho KTKN (Byrnes & Wasik<br /> (1991, [9]) và Haapasalo (1993, [9])). Quan điểm bất hoạt hóa lại cho rằng KTQT và<br /> KTKN không liên quan (Nesher (1986, [9]) và Resnick & Omanson (1987, [9])).<br /> Hiebert và Lefevre (1986, [6]) kết luận rằng, trong mối quan hệ giữa kiến thức quy trình<br /> và khái niệm thì quy trình "giữ chìa khóa" để cải thiện sự hiểu biết toán học:<br /> “... mặc dù có thể xem xét các quy trình mà không có các khái niệm, tuy nhiên không<br /> phải là dễ dàng như vậy để hình dung kiến thức khái niệm mà không được liên kết với<br /> một số quy trình. Điều này một phần là do thực tế rằng các quy trình biến kiến thức khái<br /> niệm thành một cái gì đó quan sát được. Nếu không có các quy trình để tiếp cận và tác<br /> động lên những kiến thức khái niệm, chúng ta sẽ không biết nó đã có”.<br /> Caroline Long (2005, [2]) cho thấy rằng, không phải luôn luôn phân biệt được các khái<br /> niệm từ các quy trình bởi vì việc hiểu và thực hiện được kết nối theo những cách phức<br /> tạp. Nghiên cứu của Isleyen và Işik (2003, [7]) chỉ ra sự khác biệt rất lớn về điểm số của<br /> <br /> KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM...<br /> <br /> 17<br /> <br /> học sinh trong các bài kiểm tra về kiến thức quy trình và khái niệm. Tuy nhiên, nghiên<br /> cứu này cũng như một số khác của Rittle-Johnson và cộng sự (2012, [1]), Tseng (2012,<br /> [3]) đã không đề cập đến một mô hình đo lường cụ thể và có độ tin cậy cao về hai loại<br /> kiến thức này. Lauritzen (2012, [9]) đã khám phá cách đo kiến thức quy trình và khái<br /> niệm, mối quan hệ giữa chúng là gì và khả năng áp dụng hàm số trong phạm vi các bài<br /> toán kinh tế.<br /> 3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br /> Đồ thị (QT1)<br /> <br /> Đại số (QT2)<br /> <br /> Quy trình<br /> <br /> Giải tích (QT3)<br /> <br /> Mối liên hệ<br /> …(*) (KN1)<br /> Giải thích đồ thị<br /> (KN2)<br /> <br /> Bài toán thực<br /> tế (AD1)<br /> Khái niệm<br /> <br /> Áp dụng<br /> <br /> Giải thích đại số<br /> (KN3)<br /> <br /> Đạo hàm<br /> (AD2)<br /> Đồ thị đạo hàm<br /> (AD3)<br /> <br /> Giải thích giải<br /> tích (KN4)<br /> (*): Mối liên hệ giữa đồ thị và biểu thức đại số<br /> Hình 1. Mô hình nghiên cứu đề xuất<br /> <br /> Đối tượng thực nghiệm: nghiên cứu này được thực hiện trên đối tượng là 113 học sinh<br /> lớp 12 ở trường THPT Thị xã Quảng Trị, THPT Vĩnh Định và THPT Bùi Dục Tài, tỉnh<br /> Quảng Trị. Phân tích tiên nghiệm được thực hiện vào tháng 1và bài kiểm tra chính được<br /> thực hiện từ tháng 2 đến tháng 3 năm 2015, sau khi học sinh đã học xong các phần về<br /> hàm số. Các lớp được lựa chọn một cách ngẫu nhiên, bao gồm cả ban Cơ bản và Nâng<br /> cao.<br /> Bài kiểm tra chính: bao gồm tổng cộng 24 nhiệm vụ, các nhiệm vụ được đánh giá theo<br /> thang điểm 10, đo lường ba biến tiềm ẩn là KTQT, KTKN và khả năng áp dụng hàm số,<br /> số lượng nhiệm vụ để đo các biến được thể hiện trên bảng 1. Bài kiểm tra chính được<br /> chia nhỏ vì lý do nhiều câu hỏi. Học sinh làm bài trong giờ học rãnh, hoặc ở lại làm tại<br /> <br /> 18<br /> <br /> PHẠM XUÂN THẾ<br /> <br /> lớp sau giờ học với sự giúp đỡ của giáo viên đứng lớp. Các bài kiểm tra được thu thập<br /> sau đó loại bỏ các bài không đạt yêu cầu.<br /> Phân tích kết quả: Kiểm định độ tin cậy Cronbach’s Alpha được sử dụng để đánh giá độ<br /> tin cậy của thang đo. Các biến có hệ số tương quan biến - tổng nhỏ hơn 0.3 sẽ bị loại.<br /> Nếu Cronbach’s Alpha tổng lớn hơn hoặc bằng 0,60 là thang đo có thể chấp nhận được<br /> về mặt tin cậy (Nunnally, J. và Berstein, I.H., 1994, [8]). Mô hình phương trình cấu trúc<br /> (Tiếng Anh: SEM) cho phép tích hợp các yếu tố phân tích và phân tích hồi quy thành<br /> một mô hình thống kê để nghiên cứu các mối quan hệ đề xuất trong mô hình. Phần mềm<br /> SPSS 21 và AMOS 22 được sử dụng trong nghiên cứu này như một công cụ cho việc xử<br /> lý và phân tích số liệu.<br /> 4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU<br /> Có tất cả 24 nhiệm vụ được sử dụng trong nghiên cứu để đo các mục KTQT, KTKN và<br /> khả năng áp dụng hàm số. Điểm trung bình và độ lệch chuẩn của các mục đo thể hiện<br /> qua bảng sau:<br /> Bảng 1. Kết quả cho các nhiệm vụ đo<br /> Thành<br /> phần<br /> Số<br /> nhiệm<br /> vụ<br /> Trung<br /> bình<br /> Độ<br /> lệch<br /> chuẩn<br /> <br /> QT1<br /> <br /> QT2<br /> <br /> QT3<br /> <br /> KN1<br /> <br /> KN2<br /> <br /> KN3<br /> <br /> KN4<br /> <br /> AD1<br /> <br /> AD2<br /> <br /> AD3<br /> <br /> 2<br /> <br /> 2<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4<br /> <br /> 3<br /> <br /> 2<br /> <br /> 2<br /> <br /> 4<br /> <br /> 1<br /> <br /> 2<br /> <br /> 8.07<br /> <br /> 7.12<br /> <br /> 7.98<br /> <br /> 6.82<br /> <br /> 6.74<br /> <br /> 6.47<br /> <br /> 4.91<br /> <br /> 5.90<br /> <br /> 6.10<br /> <br /> 5.49<br /> <br /> 1.89<br /> <br /> 1.88<br /> <br /> 1.89<br /> <br /> 1.80<br /> <br /> 2.22<br /> <br /> 2.59<br /> <br /> 2.58<br /> <br /> 1.72<br /> <br /> 3.67<br /> <br /> 2.11<br /> <br /> Đánh giá thang đo bằng hệ<br /> số tin cậy Cronbach’s<br /> Alpha: kết quả kiểm định<br /> độ tin cậy thang đo với hệ<br /> số Cronbach’s Alpha, các<br /> thành phần của thang đo<br /> kiến thức quy trình, khái<br /> niệm và khả năng áp dụng<br /> hàm số đều đạt yêu cầu<br /> (lớn hơn mức yêu cầu 0.6),<br /> các hệ số tương quan biến tổng đều đạt yêu cầu lớn<br /> hơn 0.3.<br /> Hình 2. Biểu đồ phân tán tổng điểm khái niệm và quy trình<br /> <br /> KIẾN THỨC QUY TRÌNH VÀ KIẾN THỨC KHÁI NIỆM...<br /> <br /> 19<br /> <br /> Kết quả phân tích mô hình SEM: Kết quả ước lượng của mô hình đề xuất được thể hiện<br /> trên hình 3. Giá trị Chi-square/df = 1.571 và p=0.024 có ý nghĩa thống kê (nhỏ hơn<br /> 0.05); các chỉ tiêu CFI=0.951, GFI=0.932 đều đạt yêu cầu (lớn hơn 0.9) cho thấy mô<br /> hình xây dựng phù hợp với dữ liệu nghiên cứu. Dựa vào kết quả trọng số hồi quy giữa<br /> các nhân tố ta thấy KTQT có tác động mạnh, cùng chiều đến KTQT về hàm số của học<br /> sinh với trọng số 0.92, đồng thời KTKN cũng tác động mạnh đến khả năng áp dụng hàm<br /> số với trọng số 0.78. Tuy nhiên, trọng số hồi quy giữa KTQT và khả năng áp dụng hàm<br /> số chỉ 0.06, như vậy KTQT không ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng áp dụng hàm số<br /> của học sinh mà tác động gián tiếp thông qua KTKN.<br /> 5. THẢO LUẬN VÀ KẾT LUẬN<br /> <br /> Hình 3. Kết quả mô hình SEM đề xuất ban đầu<br /> <br /> Nghiên cứu này được tiến hành để xem xét ba câu hỏi nghiên cứu đề ra ban đầu. Liên<br /> quan đến câu hỏi đầu tiên, chúng tôi có thể nói rằng, kiến thức quy trình và khái niệm<br /> về hàm số trong nhóm đối tượng học sinh thực nghiệm có thể được đo bởi mô hình<br /> nghiên cứu đề xuất. Các thành phần của thang đo đều đạt được giá trị hội tụ với trọng số<br /> hồi quy từ 0.56-0.72, các tham số ước lượng đều có ý nghĩa thống kê (p
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2