
Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
131
Nội dung
• Phân tích và xây dựng đường IS
• Phân tích và xây dựng đường LM
• Đánh giá cơ chế tác động của sự phối hợp
giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
Mục tiêu Hướng dẫn học
• Giúp học viên hiểu bản chất và đánh giá
được cơ chế tác động của sự phối hợp
giữa chính sách tài khóa và chính sách
tiền tệ trong nền kinh tế đóng
Thời lượng học
• 8 tiết học
• Học viên nên đọc kỹ nguồn tài liệu tham khảo
để chọn ra những tài liệu tham khảo hữu ích
nhất cho mình
• Xem các nguồn tài liệu và thứ tự tài liệu được
cung cấp cho môn học này để biết được trình
tự học tập
BÀI 5: MÔ HÌNH IS – LM VÀ SỰ PHỐI HỢP GIỮA
CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ CHÍNH SÁCH TIỀN TỆ

Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
132
Mô hình IS – LM nắm bắt được nhiều tư tưởng của Keynes hơn mô hình số nhân chi tiêu vì
nó đưa thêm thị trường tiền tệ và thị trường hàng hóa hay thị trường sản phẩm vào và coi
đầu tư là biến nội sinh. Thuật ngữ IS – LM được phổ thông hóa bởi Hansen (1949), nhưng
kỹ thuật mà chúng ta sử dụng hiện nay xuất phát từ một bài báo do Hicks (1937) xuất bản
vài tháng sau khi xuất bản cuốn “Lý thuyết tổng quát” và ngày nay đã trở thành một bản
tóm tắt chuẩn của nó. Dĩ nhiên, chính Keynes đã viết cho Hicks rằng ông “cảm thấy nó rất
thú vị và thực sự không có gì đáng phê phán cả”.
Để hiểu hết vai trò của mô hình IS – LM trước hết chúng ta hãy xem xét thị trường hàng
hóa, hay bộ phận IS của mô hình, sau đó sẽ xem xét thị trường tiền tệ hay bộ phận LM và
cuối cùng ghép hai bộ phận lại với nhau để hoàn chỉnh mô hình.
5.1. Đường IS và các yếu tố tác động đến đường IS
5.1.1. Thiết lập đường IS và độ dốc của đường IS
Thị trường hàng hoá cân bằng khi tổng cầu bằng thu nhập tương ứng với một mức lãi suất
cho trước. Khi lãi suất thay đổi đường tổng cầu sẽ dịch chuyển và cho một mức thu nhập
mới. Như vậy, nếu tập hợp những tổ hợp khác nhau giữa lãi
suất và thu nhập phù hợp với sự cân bằng của thị trường
hàng hoá sẽ được một đường gọi là đường IS. Trạng thái cân
bằng trên thị trường hàng hóa có nghĩa là, nếu một mức sản
lượng nhất định, ví dụ Y1, được sản xuất ra, thì khi đó lãi suất
cũng cần phải được duy trì ở một mức nhất định, ví dụ mức lãi
suất là r1. Như vậy, khái niệm cân bằng của thị trường hàng
hóa không hoàn toàn giống khái niệm thông thường của kinh
tế vi mô về sự cắt nhau của đường cung và cầu.
Trong điều kiện có giả định đơn giản hóa là chi tiêu của
Chính phủ và các khoản thu về thuế độc lập với mức thu
nhập, chúng ta dễ dàng chỉ ra rằng, vị trí của đường IS tùy
thuộc vào mức chi tiêu của chính phủ và thuế. Sự tăng lên
(hay giảm xuống) của G đẩy đường IS về phía phải so với đường gốc (hay phía trái, hướng
tới điểm gốc), vì nó làm tăng (hay giảm) các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu tại bất kỳ
mức lãi suất nào và do đó, đòi hỏi mức thu nhập cao hơn (hay thấp hơn) để duy trì sự cân
bằng giữa các khoản rút ra dự kiến chuyển thành nhu cầu.
Cách dựng đường IS:
Ở mức lãi suất r1 tổng chi tiêu là AE1 sản lượng cân bằng là
Y1, điểm cân bằng trên thị trường hàng hóa là E1. Từ đó ta
xác định được điểm E1’ có toạ độ (r1,Y1).
Lãi suất là r1 ta xác định được điểm E1’ có toạ độ (r1, Y1); lãi
suất giảm xuống r2 ta xác định được điểm E2’. Đường đi qua
hai điểm E1’ và E2’ là đường IS.
Giả sử lãi suất giảm xuống mức r2 khi đó đầu tư tăng thêm
một lượng là ∆I, tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1
đến AE2, sản lượng cân bằng của nền kinh tế tăng từ Y1 đến
Y2. Từ đó ta xác định được E2’ có toạ độ (r2,Y2). Đường đi
qua hai điểm E1’ và E2’ chính là đường IS.
Lãi suất

Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
133
Mức
lãi suất
Sản lượng
Sản lượng
IS
r
1
r
2
Y
1
Y
1
Y
2
Y
2
E’
1
E
1
E’
2
E
2
Tổng
chi tiêu AE =C+I(r )+G
22
AE =C+I(r )+G
11
ΔI
Hình 5.1.
Xây dựng đường IS
Đường IS có độ dốc xuống. Đối với sự cân bằng của thị trường hàng hoá, lãi suất cao hơn sẽ
kéo theo mức thu nhập thấp hơn do đường cầu phải thấp hơn. Độ dốc của đường IS sẽ phụ
thuộc vào độ nhạy cảm của nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định đối với lãi suất.
Nhu cầu đầu tư và nhu cầu tiêu dùng tự định càng bị giảm xuống do lãi suất tăng, khi lãi
suất tăng sẽ càng làm giảm mức thu nhập cân bằng và độ dốc của đường IS càng thoải.
Ngược lại, nếu những thay đổi trong lãi suất chỉ đưa đến những dịch chuyển nhỏ của đường
tổng cầu, mức thu nhập cân bằng sẽ hầu như không bị ảnh hưởng gì, và đường IS sẽ rất dốc.
Hàm số của đường IS: A1
rY
dd.m'
=− ⋅
Trong đó: ACIG=++ là khoản chi tiêu tự định, không phụ thuộc vào thu nhập.
1
m' 1MPC(1t)
=−−
là số nhân chi tiêu.
d là hệ số phản ánh mức độ nhạy cảm của đầu tư so với lãi suất i.
Nếu d tăng thì đường IS thoải hơn.
Nhìn vào phương trình của đường IS chúng ta thấy rằng, 1
d.m'
− chính là độ dốc của đường
IS. Nếu giá trị của d hoặc m’ càng lớn thì đường IS càng thoải và nếu chúng càng nhỏ thì
đường IS càng dốc. Như vậy, nếu tỷ suất thuế tăng lên hoặc MPC giảm xuống đều làm cho
giá trị của m’ giảm xuống và đường IS trở nên dốc hơn và ngược lại.
Phân tích độ dốc của đường IS cho chúng ta biết được mức độ tác động của chính sách tài
khóa hoặc chính sách tiền tệ đến thu nhập, lãi suất, thất nghiệp, lạm phát trong nền kinh tế
như thế nào.
Như vậy, đường IS là quỹ tích của các kết hợp giữa mức sản lượng Y và mức lãi suất r, và
bất kỳ điểm nào trên đó cũng làm cho thị trường hàng hóa cân bằng, nhưng nó không chỉ ra
điểm nào trong những kết hợp trên tạo ra trạng thái cân bằng chung của nền kinh tế. Để tìm
được mức sản lượng và lãi suất cho trạng thái cân bằng chung, chúng ta còn phải xem xét
thị trường tiền tệ. Khác với mô hình cổ điển thuần túy, ở đây không có sự phân đôi giữa thị
trường hàng hóa và thị trường tiền tệ. Trong mô hình IS – LM của Keynes, giá trị của các
biến số thực tế, ví dụ thu nhập, phụ thuộc vào cung ứng tiền tệ.

Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
134
5.1.2. Các điểm nằm ngoài đường IS
Chúng ta sẽ dễ dàng hiểu được tại sao biện pháp cắt giảm
(hay tăng) thuế đẩy đường IS sang phải (hay sang trái) và
rằng các điểm nằm ngoài đường IS về bên phải là điểm biểu
thị tình trạng dư cung về hàng hóa (các khoản rút ra dự kiến
vượt quá các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu), còn các
điểm nằm ngoài đường IS về phía trái biểu thị tình trạng dư
cầu về hàng hóa (các khoản dự kiến chuyển thành nhu cầu
vượt quá các khoản rút ra dự kiến). Khi hiểu được điều này,
chúng ta cũng dễ dàng hiểu được những ảnh hưởng của mức
thuế thu nhập đối với đường IS.
Sản lượng
Sản lượng
Mức
lãi suất
Tổng
chi tiêu
45o
r2
r1
E1
E1
E2
E2
E4
E4
E3
E3
AE2
AE1
Y1
Y1
Y2
Y2
Hình 5.2.
Các điểm nằm ngoài đường IS
Dựa vào đồ thị chúng ta nhận thấy, điểm E3 trên thị trường hàng hóa biểu thị chi tiêu vượt
quá thu nhập. Đối với thị trường hàng hóa, đây là hiện tượng thiếu hàng. Như vậy, các điểm
nằm dưới đường IS biểu thị tình trạng thiếu hàng (dư cầu), các điểm nằm phía trên (bên
ngoài) đường IS biểu thị tình trạng thừa hàng (dư cung).
5.1.3. Sự trượt dọc và dịch chuyển đường IS
Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết kiệm
dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Chúng ta xuất phát từ trạng thái cân bằng ban đầu của nền kinh
tế, thị trường các khoản vay cân bằng (đầu tư bằng tiết kiệm), xác định mức lãi suất cân
bằng là r1 và mức thu nhập của nền kinh tế là Y1. Nếu tiết kiệm dự kiến giảm xuống cùng
với thu nhập, chắc chắn lãi suất sẽ tăng lên và làm mức đầu tư dự kiến nhỏ hơn, nhằm duy
trì trạng thái cân bằng, tại đó tiết kiệm dự kiến bằng đầu tư dự kiến. Mức lãi suất cân bằng
mới là r2 và mức thu nhập cân bằng mới là Y2, xảy ra hiện tượng di chuyển từ điểm E1 đến
điểm E2 trên đường IS. Ngược lại, nếu lãi suất là r2 và mức thu nhập là Y2, thì khi đó đầu tư
dự kiến sẽ bằng tiết kiệm dự kiến; lãi suất giảm xuống r1 thì mức thu nhập sẽ tăng lên Y1,
xảy ra hiện tượng di chuyển các điểm trên đường IS (hay còn gọi là trượt dọc theo đường
IS) từ E2 xuống E1.
Thuế suất

Bài 5: Mô hình IS – LM và sự phối hợp giữa chính sách tài khóa và chính sách tiền tệ
135
Mức
lãi suất Mức
lãi suất
Mức đầu tư Sản lượng
r2
r2
r1
r1
S
1
S
2
I
2
I
1
I(r)
E
1
E
2
IS
00
Y
1
Y
2
Hình 5.3.
Sự di chuyển các điểm trên đường IS
Đường IS là quỹ tích của tất cả các kết hợp giá trị thu nhập và lãi suất mà tại đó, tiết kiệm
dự kiến bằng đầu tư dự kiến.
Sự dịch chuyển của đường IS: Mục đích của đường IS là để minh hoạ tác động của chỉ riêng
lãi suất trong việc dịch chuyển đường tổng cầu và thay đổi mức thu nhập cân bằng. Bất cứ
một nhân tố nào làm đường tổng cầu dịch chuyển cũng sẽ làm dịch chuyển đường IS. Với
một mức lãi suất nhất định, sự gia tăng niềm lạc quan của các hãng về những khoản lợi
nhuận trong tương lai sẽ dịch chuyển đường nhu cầu đầu tư đi lên, làm tăng nhu cầu đầu tư
tự định; sự gia tăng trong ước tính của các hộ gia đình về thu nhập trong tương lai sẽ dịch
chuyển hàm tiêu dùng lên trên, làm tăng nhu cầu tự định; hay sự gia tăng trong chi tiêu của
Chính phủ có thể trực tiếp làm tăng cấu phần của Chính phủ trong nhu cầu tự định. Bất kỳ
sự gia tăng nào như thế này cũng sẽ dịch chuyển đường tổng cầu lên trên tại một mức
lãi suất nhất định. Do đó khoản thu nhập cân bằng sẽ tăng thêm ở bất kỳ lãi suất nào.
Mức
lãi suất
Sản lượng
Sản lượng
IS
1
IS
2
r
1
Y
1
Y
1
Y
2
Y
2
Tổng
chi tiêu AE =C+I(r )+G
222
AE =C+I(r )+G
111
AE=Y
0
0
DY
Hình 5.4.
Sự dịch chuyển đường IS khi chi tiêu của Chính phủ tăng lên
Sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không đổi r1. Tổng chi
tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng lên từ Y1 đến
Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
Đồ thị 5.4 chỉ rõ sự gia tăng chi tiêu của Chính phủ G1 đến G2 trong điều kiện lãi suất không
đổi r1. Tổng chi tiêu của nền kinh tế tăng lên từ AE1 đến AE2, thu nhập của nền kinh tế tăng
lên từ Y1 đến Y2, dẫn tới đường IS dịch chuyển từ IS1 đến IS2.
Chúng ta có thể phân tích sự dịch chuyển của đường IS qua phương trình đường IS. Hàm
tổng chi tiêu của nền kinh tế là:

