
Bài 8 : KIẾN TRÚC CẬN ĐẠI
A. GIAI ĐOẠN 1: 176O-1880
* Lịch sử-Xã hội:
-Chủ nghĩa TB phát triển mạnh ở Châu Au → đô thị hóa → đưa ra nhu cầu lớn về
nhà ở và quy hoạch đô thị.
-Nhiều phát minh khoa học kỹ thuật ra đời, xuất hiện những dòng tư tưởng xã hội
mới ảnh hưởng lớn tới sự phát triển thế giới.
-Xuất hiện nhiều loại hình kiến trúc mới, quy mô lớn:
+Nhà hành chính: quốc hội, tòa án, nhà tù…
+Các quy hoạch đô thị: quy hoạch cải tạo trung tâm Paris của nam tước
Haussman.
+Trung tâm triển lãm, hội chợ: cung thủy tinh (Crystal Palace), tháp Eiffel,
…
Chương I: TRÀO LƯU PHỤC CỔ:
-Chủ yếu tại Pháp (Phục cổ La Mã) và Anh (phục cổ Hy Lạp).
-Nhấn mạnh đối xứng, to lớn uy nghi.
*Công trình tiêu biểu:
a. Pháp:

-Quy hoạch lại Paris của thị trưởng, nam tước Haussman: TT Paris được chia làm
4 phần, trục chính Đ-T đi qua các quảng trường lớn, theo lối hướng tâm, mở rộng
mặt đường, cải tạo mạng lưới giao thông, tạo các quảng trường lớn để tạo vĩ đại
cho tp.
Cho đến đầu tk 19, Paris vẫn cn là một tp thời Trung Cổ (nôi tập trung quyền lực,
có tường lũy bao bọc) và có kích thước 1/3 so với ngày nay.
Napolon I luôn tự hào về Paris. Ông muốn biến Paris thành thủ đô cả Châu Âu, theo kiểu
La Mă. Dự án không được han thành nhưng ông đă dự kiến sự phá hủy tp cũ và cải thiện
vấn đề giao thông. Đồng thời, ông xây dựng các quảng trường và khải han môn để thể
hiện ư tưởng của mnh: Khải Han Môn Carrousel xây trước sân điện Louvre, chiếc trụ
Vendơme dựng lên theo kiểu trụ Trajan ở Roma, và Khải han môn ở đại lộ Champs-
Elyses được bắt đầu xd.
Sau thời kỳ Napoleon I, Paris biến đổi nhanh chóng. Cách mạng Công nghiệp 1789 làm
biến đổi đô thị, công với sự xuất hiện ht đường sắt thu hút lượng lớn dân nhập cư, khiến
Paris tạo ảnh hưởng lên cả nước.
Có 175 con đường được xây dựng tại Paris trong khỏang thời gian từ 1815 tới 1853.
Nhưng chính phủ quân chủ lúc đó không đủ ư chí để tiếp tục thay đổi Paris trong sự chống
đối của giới quư tộc bảo thủ.
Năm 1851, Napoleon III lên ngôi và Paris bắt đầu thời đại của Haussmann.
Haussmann đem lại cho Paris một bản quy hoạch chặt chẽ (những đầu mối giao thơng,
mạng lưới hạ tầng, giao thơng), vốn được rt ra từ tất cả những thnh phố lớn của Php như
Marseille, Lyon, Lille, Bordeaux, Le Havre, Toulon, Montpellier, Toulouse, Rouen, Brest.
Đó l sự đổi mới đầu tin trong đô thị hĩa tại Php ở thời kỳ ny: đô thị hĩa một thị trấn, tức l
đô thị hĩa chính Paris.
Đặc trưng thứ hai của tc phẩm của Haussmann l sự xuất sắc của chương trình hon hảo của
ơng, đem lại cho ơng sự thn phục của thế giới, v cc quy hoạch của ơng về sau được p dụng
tại Brussels, Milan, Rome, Barcelona, Antwerp, Dresden, Chicago v Vienna... Mặc d

Trong suốt một thời gian di, tc phẩm của ơng bị xem l một sự tn st. Như theo nh văn
Emile Zola, Paris như bị đem ra chặt xẻ bằng một chiếc rìu. Ơng nhắc lại lời chỉ trích của
những người Cộng hịa v những người theo phi tự do vốn luơn ph phn Đệ nhị Đế chế. Cu
cửa miệng vẫn thường được dng để nĩi về bản quy hoạch của Haussmann l: ơng cứ tưởng
mở rộng đường tại những quận chính l để ngăn chặn việc dựng ln cc chiến luỹ v sự tiến vo
của lực lượng Cộng hịa. Trn tờ la Curee, Emile Zola xem sự đổi mới của Paris l một trị
đầu cơ khổng lồ, với sự tính ton lm giu bất chính. Trong cuốn sch nhỏ cĩ tựa đề “Les
Comptes Fantastiques d`Haussmann” (Tạm dịch: B tước hoang tưởng Haussmann) in năm
1867, Đảng vin X hội Jules Ferry mơ tả việc ti trợ cho bản quy hoạch l một xì căng đan
phạm php, đem lại những lợi nhuận qu mức.
Nhờ bản luận n của L. Girard, giờ đây chng ta biết được rằng những tố co về sự hỗ trợ của
vơ số nh ti phiệt l khơng đúng sự thật. Rất nhiều cơng ty ti chính đ mất trắng tiền, v nếu
Caisse des Travaux de Paris (vốn cấp tiền cho những cơng trình cơng cộng) được thnh lập
năm 1858, vay được một khoản tiền lớn thoe đúng thủ tục v hợp php, người ta đ cĩ thể hon
tất được việc thực hiện bản quy hoạch. Bản thn Haussmann l một người rất lim chính.
Ngy nay cc nh sử học hồn tồn nhất trí trong việc ca ngợi tc phẩm của Haussmann.
F.Loyer, trong tc phẩm của mình về cc đường phố của Parsi thế kỷ 19 (in năm 1987) đ mơ
tả đây l “một thnh cơng vĩ đại trong lịch sử đô thị”. Tc phẩm của ơng được xem xt những
khi người ta định lập ra những quy định để quy hoạch cc thnh phố cĩ những phần đô thị
cũ, hay để lập sự căn bằng giữa những cơng trình xy theo kiểu Haussmann với những
đường phố, hay để lập sự căn bằng giữa việc điều hnh của chính quyền với sự đầu cơ tư
nhn.
Xt trn gĩc độ thẩm mỹ, những đại lộ rộng được cắt xẻ theo một lơgic kiểu mới. Chng rộng
ri v thẳng tắp để thuận tin di chuyển thật nhanh. Chng được xem l qu hiện đại so với thời
điểm đó bởi những con đường thời Trung cổ rất nhỏ hẹp v quanh co. Tuy nhin chng cĩ thể
trở nn phi nhn tính nếu cĩ qu nhiều con đường như vậy được xy dựng. Ở Paris, với hầu hết
những khu vực của thnh phố, việc xy dựng ny diễn ra đúng chừng mực.

Yếu tố quan trọng dẫn dắt những vị tai to mặt lớn đưa ra quyết định l như sau: Napolon III
đ suy nghĩ từ lu về những yếu tố cần thiết của bản quy hoạch tổng thể. Ơng muốn nối liền
những cơng trình quan trọng, mở rộng những khu ở cũ kỹ, xy dựng một chữ thập khổng lồ
Bắc-Nam/Đông Ty ở trung tm Paris v tổ chức những khu vườn giống như ơng từng thấy ở
London, nơi ơng từng sống khi đi lưu đày. Ơng đ dựng ln một đế chế mạnh mẽ - vốn đ trở
nn linh hoạt hơn kể từ sau năm 1860. Biến dự n của mình thnh hiện thực, ơng muốn nhắm
tới việc xy dựng uy thế của mình trn khắp Chu u.
Haussmann, trong hồi ký của mình, đ khơng hề mơ tả bản thn như l tc giả của bản luận n
về đô thị hĩa, m l người đ nhận ra được điều gì đó bắt nguồn từ những nguyn tắc đ được
thơng qua. Ơng muốn bứt tung tri tim ra khỏi trung tm của Paris để giảm bớt mật độ dn cư
v chia ra những khu ở tốt hơn trn ton khu vực thủ đô.
Đó l lý do tại sao năm 1860 Paris đ sp nhập những khu “La Petite Banlieue” (tiểu ngoại ơ)
the sector situated between the ancient enclosure of the Fermiers Gnraux and the new
military enceinte. Paris gained 400,000 inhabitants and the surface area doubled. Twenty
arrondissements were created (see plan) thus the twenty districts of present-day Paris were
born.
He wanted to organise a general traffic network around the renovated centre. Starting at
Les Halles and Le Chtelet, arteries of communication spread out like the spokes of a
wheel.
He envisaged a network of large squares and crossroads around the centre: l`Etoile, la
Bastille, la Nation, le Chtelet…At the same time as all that, he constructed the network of
drains and water supply and also parks and gardens.
He relied on new legislative and financial methods. The Order in Council of 25th March
1852 allowed the expropriation of the area of the new streets. He could also demolish part
of the Ile de la Cit. After 1860, the Empire became more liberal: property owners often
appealed to the Council of State, which frequently found in their favour. Haussmann had
thus more problems.

Standards were adopted so that the constructions were not too disparate. When the city
sold a plot, in the contract of sale precise rules for cornices, mouldings, balconies etc were
laid down. From the financial point of view, the city no longer financed the works solely
from its revenues, but had recourse to borrowing, which Rambuteau hadn`t dared to do.
The transformation of Paris by Haussmann:
He established three networks for the circulation of traffic: the first (1854-58) and best-
known was the great North-South/East West crossing: rue Sebastopol-boulevard St
Michel crossed the rue de Rivoli at the place du Chtelet. The centre of the crossing freed
the Ile de la Cit (above all to the East) as well as les Halles.
The second network(1858-60) allowed the extension of traffic from the centre: work
around the future place de la Rpublique, la rue de Rome, and around l`Etoile, Chaillot,
l`Ecole Militaire and la Montagne Sainte-Genevieve.
The third network was made with the aim of linking the “Petite Banlieue” annexed in
1860, with the rest of Paris. It was the beginning of work at the place de l`Opra (finished
in 1878); Belleville was linked to Bercy; the southern routes of the 16th arrondissement
were created. Finally, the rue de Rivoli was copied on the left bank by the creation of the
boulevard St. Germain.
The aesthetic and monumental aspects were also taken into consideration with the
construction of churches (St Augustin and la Trinit), public facilities were decided
(l`Opra, the Bibliothque Nationale (library) and les Halles Baltard (markets)). Town Halls
for each arrondissement were constructed.
He wanted to mark crossroads with a monument, for example the St. Michel fountain. In
the interests of hygiene, a network for water supply was constructed. The Roman aqueduct
method was chosen, which allowed spring water to be brought from afar and distributed to
homes. 560 kilometres of drains were also installed.
Finally, green spaces were planned and put in place. The engineer Jean-Charles Alphand
(who succeeded Haussmann in 1870) created the Bois de Boulogne and Vincennes; the