
Nguyễn Hiến Lê
Sử Trung Quốc
Tựa
NĂM 1979, viết xong cuốn “Kinh Dịch, một tổng hợp Trung triết thời Tiên Tần”,
tôi tính chấm dứt công việc biên khảo để viết hồi ký, rồi nghỉ ngơi: đã gần thất tuần
rồi.
Năm 1981, bộ Hồi ký viết xong, tôi sắp đặt lại các tủ sách ở Sài Gòn và Long
Xuyên, không ngờ có tới non năm chục cuốn về lịch sử, văn minh Trung Hoa. Tôi
lấy ra đọc lại hết, mượn thêm được của bạn 6 -7 cuốn nữa; và cũng như trên ba
chục năm trước khi tìm hiểu văn học Trung Quốc, tôi vừa đọc vừa ghi chép, và rốt
cuộc viết thành bộ sử này, ngoài dự định của tôi.
Trung Hoa ngày nay lớn gần bằng cả châu Âu, dân số trên một tỉ (1 phần 5 dân số
thế giới), có truyền thống trọng sử, từ thế kỷ thứ VIII trước Tây Lịch (đời Tuyên
Vương nhà Chu) đã có tín sử, và từ đó đời nào cũng có những sử quan chép sử kỹ
lưỡng, có công tâm, cho nên tài liệu về sử của họ nhiều vô cùng, rất có giá trị. Bốn
năm chục cuốn tôi được đọc, chỉ như một bụi cây trong một khu rừng rộng, có
thấm gì đâu, cho nên tôi phải hạn chế sự tìm hiểu của tôi.
Tôi cho lịch sử Trung Hoa là lịch sử của một nền văn minh vô cùng độc đặc
(infiniment originale: Guillermaz), tuy ra đời sau vài nền văn minh khác: Ai Cập,
Lưỡng Hà... nhưng tồn tại lâu nhất. Khoảng 3.000 năm trước, nó xuất hiện từ miền
trung du sông Hoàng Hà. Trong khi các bộ lạc chung quanh đều bán khai thì nhà
Ân (cuối nhà Thương) và nhà Chu đã giỏi về nông tang, đồ đồng, có một tổ chức
1

xã hội chặt chẽ, một tôn giáo có tính cách xã hội (thờ Thượng đế, thần xã tắc, cha
mẹ...), rất ít mê tín, một vũ trụ quan duy vật (thuyết âm dương) và một lối chữ
tượng hình, hội ý mà một số nhà ngôn ngữ học hiện nay khen là có thể dùng làm lối
chữ quốc tế được; mà sự thực trong non 3.000 năm, nó đã đóng vai trò ngôn ngữ
quốc tế trong “thế giới” của Trung Hoa gồm cả chục dân tộc ở Đông Á.
Văn minh đó truyền bá lần lần ra các miền chung quanh mà không phải dùng tới võ
lực; nó thu phục rồi khai hóa, đồng hóa nhiều bộ lạc dã man, và cuối thời Chiến
Quốc nó đã lan rộng ra gần hết lưu vực hai con sông lớn nhất của Trung Quốc:
Hoàng Hà và Dương Tử giang. Rồi nhà Tần thống nhất Trung Quốc, chấm dứt chế
độ phong kiến, lại mở mang thêm đất đai tới hạ lưu sông Tây Giang (Quảng Đông
ngày nay).
Phía đông là biển. Phía tây và phía bắc là những cánh đồng cỏ, những sa mạc mênh
mông, bạt ngàn, từ đó, các dân tộc du mục hết lớp này tới lớp khác, đột nhập vào
đất Trung Hoa, cướp phá mùa màng, súc vật..., người Trung Hoa phải xây trường
thành để chặn họ; từ nhà hán phải chiến đấu với họ, dồn họ về các cánh đồng cỏ,
mới đầu có lẽ chỉ là để tự vệ, sau nhân đó mà mở mang thêm bờ cõi, thành một
cuộc tranh dành đất đai suốt hai ngàn năm, tới cuối nhà Thanh. Hễ Hán (Trung
Hoa) thịnh thì Hồ (du mục) lùi về phương Bắc để đợi thời Hán suy để vượt trường
thành vào chiếm đất: mới đầu họ chiếm được một phần miền Hoa bắc (các tỉnh
Thiểm Tây, Sơn Tây...), lần lần họ mạnh lên, chiếm trọn được Hoa bắc, tới bờ sông
Dương Tử, sau cùng, đời Nguyên, Thanh, có thời họ làm chủ hoàn toàn non sông
của người Hán hai lần: lần đầu một thế kỷ (Nguyên), lần sau hai thế kỷ rưỡi
(Thanh). Họ chiếm đất, cai trị dân tộc Hán, dùng văn tự, ngôn ngữ Hán, chỉ trong
vài thế hệ Hán hóa, thành người Hán, và khi người Hán dành lại được chủ quyền,
thì đất đai của Hồ thành đất đai của Hán, con dân Hồ cũng thành con dân Hán, nhờ
vậy mà sau thời Nam Bắc triều dân tộc Hán thêm được dòng máu Tiên Ti, Tây
Tạng, Thác Bạt, sau thời Ngũ Đại, thêm được dòng máu Sa Đà; sau thời Thanh
thêm được dòng máu Mãn, Mông, Hồi Hột và đế quốc của họ rộng hơn tất cả các
2

đời trước, trừ đời Nguyên. Hiện tượng đó có thể nói là độc nhất trong lịch sử nhân
loại.
Hơn nữa, họ tiếp thu các văn minh khác, một cách có “sáng tác” - theo ngôn ngữ
ngày nay - như tiếp thu đạo Phật của Ấn mà làm giàu cho triết học của họ, cho cả
triết học Ấn nữa. Ngày nay họ đương tiếp thu văn minh phương Tây và đã có ý
muốn sửa đổi chính sách của Nga: họ còn dò dẫm, ta chờ xem họ có thành công
hay không.
Một điểm nữa tôi muốn nhấn mạnh: ảnh hưởng của Khổng Tử tới lịch sử Trung
Hoa.
Ông chủ trương vua phải là người có tài, đức; ngôi vua không truyền cho con mà
truyền cho người hiền như Nghiêu truyền cho Thuấn, Thuấn cho Vũ; nhưng thời
ông, sự truyền tử đã có từ lâu đời, không thể bỏ được; ông chỉ có thể cải thiện chế
độ, đào tạo những kẻ sĩ có tài, để giúp bọn quý tộc và lần lần thay họ mà trị nước.
Những kẻ sĩ đó đều được tuyển trong dân chúng, và từ Hán, Đường trở đi, chế độ
quân chủ Trung Hoa có tính cách sĩ trị, không còn giai cấp quý tộc cha truyền con
nối nắm hết các chức vụ lớn ở trong triều, ngoài quận nữa. Đó là một tiến bộ rất
lớn, người phương Tây phải khen.
Ông lại giảm bớt quyền chuyên chế của vua bằng cách đề cao nhiệm vụ, tư cách
của sử quan, gián quan; dạy cho vua, quan, kẻ sĩ và thường dân rằng vua phải
thương dân như con, phải tôn trọng nguyện vọng của dân ...; phải chăm lo cho dân
đủ ăn, tài sản trong nước phải quân bình, đừng có kẻ nghèo quá, kẻ giàu quá. Suốt
thời quân chủ, ông vua sáng lập một triều đại nào cũng nghĩ ngay đến vấn đề quân
điền, chia đất cho dân cày trước hết. Ngày nay Tôn Văn và Mao Trạch Đông cũng
theo chính sách đó.
Sau cùng Khổng Tử có tinh thần nhân bản rất cao. Ông hiếu hoàn trọng trung dung,
rất ghét sự tàn bạo, và đa số các vua chúa Trung Hoa theo ông. Học thuyết của
Thương Ưởng, Hàn Phi làm cho Tần mạnh lên, thống nhất được Trung Quốc,
nhưng khi thống nhất rồi, dân tộc Trung Hoa không dùng nó nữa, từ Hán tới Tống,
3

trên 1.500 năm, không có một bạo chúa nào như Tần Thủy Hoàng. Khi đạo Khổng
suy rồi, nhà Minh mới theo nhà Nguyên (Mông Cổ) dùng chính sách độc tài; nhà
Thanh (Mãn Châu) cũng vậy, và gần đây, còn tệ hơn nữa, Mao Trạch Đông đã tự
hào rằng đã giết kẻ sĩ gấp trăm lần Tần Thủy Hoàng! Nhưng ông ta chưa chết thì
“cách mạng văn hóa” của ông ta đã phải dẹp bỏ.
Về việc phân chia thời đại, tôi không theo cách của đa số học giả phương Tây (và
học giả Trung Hoa bắt chước họ), chia thành thời Thượng Cổ, Trung Cổ, Cận Cổ,
Cận Đại, Hiện Đại. Những danh từ đó mượn của phương Tây, không áp dụng vào
lịch sử Trung Hoa được, trừ hai danh từ Thượng Cổ và hiện đại. Vì lịch sử Trung
Hoa từ Hán cho tới cuối Thanh, tiến đều đều, không thay đổi gì nhiều như lịch sử
phương Tây, không làm sao phân biệt được tới đau là hết thời Trung Cổ, tới đâu hết
thời Cận cổ, rồi Cận cổ với Cận đại khác nhau ra sao. Vả lại những danh từ đó
không cho ta một ý niệm gì rõ rệt, mỗi người một khác. Chẳng hạn danh từ thời
Cận đại (Temps moderne), người thì cho bắt đầu từ thời Nguyên (Eberhard), người
lại cho từ cách mạng 1911 (Dubarbier) khác nhau 632 năm, còn gì vô lý bằng!
Tôi chỉ chia làm ba thời đại thôi:
- Thời Nguyên thủy và thời Phong kiến tôi gom làm một (phần 1) vì không biết
chắc tới đâu hết thời phong kiến; vả lại thời nguyên thủy không có gì đáng chép,
chỉ có 8 - 9 trang, không tiện đặt riêng vào một phần.
- Thời Quân chủ từ nhà Hán tới cách mạng Tân Hợi (1911). Thời này dài nhất -
trên 21 thế kỷ - tôi tách làm hai:
+ Từ Hán tới cuối Nam Tống, thời thịnh nhất của văn hóa (Phần II).
+ Từ Nguyên tới cuối Thanh, thời suy cỷa dân tộc Hán (Phần III).
- Thời Dân chủ từ cách mạng 1911 tới ngày nay (Phần IV)
Tôi nghĩ như vậy vừa gọn vừa sáng, chỉ đọc tên thời đại chúng ta cũng hiểu ngay
đặc điểm của nó và biết nó bắt đầu từ thế kỷ nào, chấm dứt ở thế kỷ nào.
4

Sử Trung Quốc
Thời nguyên thủy và thời phong kiến
Phần 1 Chương I
Khối Trung Hoa
1. Một khối biệt lập
Nhìn bản đồ thế giới chúng ta thấy trong các nước thời thượng cổ có một nền văn
minh rực rỡ thì Trung Hoa sống cách biệt hơn cả, gần như không tiếp xúc với các
nền văn minh khác. Ai Cập, Lưỡng Hà (Mésopotamie), Ba Tư ở gần nhau, thường
qua lại với nhau; nhất là Hy Lạp, La Mã ở trên bờ Địa Trung Hải, là nơi các thương
thuyền của Crète, Tiểu Á, Phécinie, Ai Cập... lui tới hàng ngày, trao đổi hàng hóa
và văn minh, ngay đến Ấn Độ, một bán đảo mênh mông hình tam giác hai cạnh là
bở biển, nhưng về phía tây sát với Ba Tư, rồi từ Ba Tư qua Lưỡng Hà, Địa Trung
Hải để tiếp xúc với Hy Lạp, Ai Cập; còn về phía đông thì qua Miến Điện, xuống
Mã Lai rất dễ dàng. Chỉ có Trung Hoa là một khối gần tròn, ba phía Bắc, Tây, Nam
là núi cao, đồng cỏ và sa mạc, phía đông nhìn ra Thái Bình Dương mênh mông; nó
như quay lưng lại với các nước văn minh ở Trung Á, Tây Á, sống một đời sống
riêng biệt. Nó tuy có bờ biển dài đấy, nhưng ở miền Bắc, bờ biển thấp, lầy, lại thiếu
đảo ở gần, nên người Trung Hoa thời cổ không muốn mạo hiểm ra khơi; còn ở
miền Nam (sau này lần lần mới thuộc về Trung Hoa) thì bờ biển lại không bằng
phẳng, khí hậu xấu, dông tố nhiều, không có gì là khuyến khích họ cả. Tóm lại núi
và biển gần như ngăn chặn ảnh hưởng của các nền văn minh Tây Á, không cho ảnh
hưởng tới Trung Hoa, và trong thời thượng cổ, ít nhất là tới đầu kỷ nguyên Tây
lịch, dân tộc Trung Hoa sống cách biệt với các dân tộc văn minh khác. Có người
5

