VĂN MINH AI CẬP CỔ ĐẠI
I- Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, điều kiện xã hội.
1, Vị trí địa lý.
Ai Cập nằm ở vùng đông bắc châu Phi. Thời cổ đại, lãnh thổ của Ai Cập chỉ bao gồm vùng lưu vực sông Nin. Phía tây giáp với sa mạc Libi rộng lớn và khô cằn, phía đông giáp với sa mạc Arập và Biển Đỏ, phía bắc giáp Địa Trung Hải, phía nam giáp với vùng núi trùng điệp Nubi. Chỉ có ở vùng đông bắc, vùng kênh đào Xuy-ê sau này, người Ai Cập mới có thể qua lại với vùng Tây Á. Ai Cập nằm ở vị trí địa lý đặc biệt: là nơi giao nhau của 3 châu lục Á, Phi, Âu; tại đây, 3 châu lục hòa nhập quanh một biển trung gian Địa Trung Hải- nơi có thể nối liền hoặc chia cắt 3 đại dương Đại Tây Dương, Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương; vị trí đó thuận lợi cho việc đi lại, giao lưu với các châu lục khác.
Tuy nhiên, Ai Cập là một nước tương đối bị đóng kín, giống như một ốc đảo giữa sa mạc khô cằn. Vì vậy nên Ai Cập đã phát triển một nền văn minh cổ đại rực rỡ và độc đáo.
2, Điều kiện tư nhiên.
Ai Cập là vùng đồng bằng dài và hẹp, dọc theo hạ lưu của con sông Nin. Sông Nin là con sông dài nhất trên thế giới, với chiều dài khoảng 6700 km, bắt nguồn từ vùng xích đạo châu Phi, bảy nhánh đổ ra Địa Trung Hải. Con sông này mang lại cho Ai Cập nhiều thuận lợi về mặt điều kiện tự nhiên. Miền đất đai do sông Nin bồi đắp rộng khoảng 15-25 km, ở phía bắc có nơi rộng đến 50 km. Hằng năm, từ khoảng tháng 6 đến tháng 11, nước sông Nin dâng cao đem theo một lượng phù sa phong phú, bồi đắp cho đồng bằng hai bên bờ ngày càng màu mỡ. Chính vì thế, nguời dân Ai
Cập đã gọi đất nước của mình là Kemet, nghĩa là “miền đất đen”, vì đất ở đây có màu đen do phù sa sông Nin bồi đắp, khác với đất của sa mạc xung quanh. Mặt khác, con sông Nin còn cung cấp cho người Ai Cập nguồn nước tưới tiêu dồi dào, nguồn thủy hải sản vô vùng phong phú. Ngoài ra, sông Nin còn là một trong những con đường giao thông quan trọng nhất của vùng.
Con sông Nin đã giúp cho nền kinh tế Ai Cập cổ đại sớm phát triển về mọi mặt: nông nghiệp, ngư nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp. Từ đó, nó tạo điều kiện cho Ai Cập có thể hình thành thành và phát triển nền văn minh sớm nhất thế giới. Chính vì vậy, nhà sử học Hê-rô-đốt đã nói rằng “Sông Nin là tặng phẩm của Ai Cập”.
Theo dòng chảy của sông Nin từ nam lên bắc, Ai Cập đã hình thành 2 miền rõ rệt: Thượng Ai Cập ở phía nam (là một dải lưu vực nhỏ hẹp trải dọc theo sông Nin) và Hạ Ai Cập ở phía bắc (là đồng bằng rộng lớn hình tam giác). Hơn 90% đất đai ở Ai Cập là sa mạc. Khí hậu Ai Cập mùa đông ôn hòa, mùa hạ nóng và khô. Nhờ đất đai màu mỡ, các loài thực vật như đại mạch, tiểu mạch, sen, pa-py-nit…sinh sôi nảy nở quanh năm. Do điều kiện tự nhiên thuận lợi, động vật ở Ai Cập rất phong phú và đa dạng: trâu, bò, hươu cao cổ, tê giác, hà mã, các sấu, trâu, bò… và các loài thủy sản.
Ai Cập còn có nhiều loại đá quý như: đá vôi, đá badan, đá hoa cương, mã não. Kim loại gồm: đồng, vàng, còn sắt thì được đưa từ bên ngoài vào.
3, Điều kiện xã hội.
Cư dân chủ yếu của Ai Cập ngày nay là người Ả-rập; nhưng thời cổ đại, cư dân ở đây là người Libi, người da đen và có thể có cả người Xe-mit di cư từ châu Á tới. Con người đã xuất hiện và sinh sống ở lưu vực sông Nin từ thời đồ đá cũ. Những tài liệu khoa học hiện đại đã xác minh rằng người Ai Cập thời cổ là những thổ dân châu Phi, hình thành trên cơ sở hỗn hợp rất nhiều bộ lạc. Những người dân này đi săn bắn trên lục địa, khi đến vùng đồng bằng sông Nin, họ định cư ở đây và trông trọt, chăn nuôi từ rất sớm. Về sau chỉ có một bộ tộc Ha-mit từ Tây Á xâm nhập hạ
lưu sông Nin, chinh phục thổ dân châu Phi tại đây. Người Ai Cập chỉ có một ngôn ngữ chính là tiếng Ả-rập.
Cấu trúc làng theo chiều dọc. Các thành viên trong xã hội không được bình đẳng. Thức ăn của họ là lúa mì, lúa mạch, đậu, trái cây, thịt gia súc. Người Ai Cập rất cần cù và chăm chỉ. Sống bên cạnh sa mạc và sông Nin nên họ có tính cách chịu đựng, kiên nhẫn và dũng cảm, họ là những người tháo vát và lanh lợi.
II- Các thời kỳ lịch sử Ai Cập cổ đại.
Vào thời cổ đại, người dân Ai Cập sống thành bộ tộc. Của cải do con người tạo ra là tài sản chung không có tranh chấp, không có sở hữu riêng. Vào khoảng 4000 TCN, chế độ thị tộc ở Ai Cập bắt đầu tan rã, thời đó, các cư dân ở sông Nin sống theo các công xã nhỏ (là tổ chức kinh tế cơ sở của Ai Cập cổ đại). Bên cạnh đó hàng năm, người Ai Cập phải thường xuyên đối phó với các loạt thiên tai khắc nghiệt như hạn hán, lụt lội. Do đó, họ rất chú trọng công tác thủy lợi. Các công xã phân tán không đáp ứng được nhu cầu sản xuất nên nhiều công xã nông thôn đã hợp lại thành một liên minh công xã lớn hơn gọi là nôm. Mỗi nôm đều có thành thị và nông thôn riêng. Có khoảng 40 nôm ở Ai Cập, nằm dọc hai bên bờ sông.
Châu ở Ai Cập chính là hình thái nhà nước phôi thai. Đứng đầu mỗi châu là một chúa châu, đồng thời cũng là thủ lĩnh quân sự, thẩm phán và tăng lữ tối cao của châu. Do yêu cầu thống nhất việc quản lý công tác thủy lợi trên phạm vi ngày càng rộng lớn, cùng với nguyện vọng chấm dứt các cuộc chiến tranh chấp lâu dài và tàn khốc nhằm thôn tính đất đai của nhau, nên dần dần các châu hợp thành một quốc gia thống nhất. Các châu ở phía bắc thống nhất thành vương quốc Hạ Ai Cập, miền nam thống nhất thành Thượng Ai Cập. Vào khoảng 3200 TCN, Thượng và Hạ Ai Cập đã hợp lại thành một quốc gia, ông vua đầu tiên là Menes, kinh thành đầu tiên là Memphis.
1, Thời kỳ Tảo Vương Quốc (3200-3000 TCN).
Đứng đầu nhà nước là một ông vua chuyên chế, gọi là Pha-ra-ông. Thời kỳ này bao gồm vương triều I và II. Vị vua đầu tiên của vương triều I là Menes. Lúc đầu, Menes chọn đất Tebơ làm kinh đô nên vương triều do ông dựng nên còn được gọi là vương triều Tebơ. Sau đó ông xây dựng kinh đo mới ở Memphis.
Sự thống nhất của Ai Cập trong thời kỳ này đã tạo điều kiện cho Ai Cập phát triển về mọi mặt. Người Ai Cập đã biết sử dụng công cụ bằng đồng đỏ, biết dùng cày và dùng súc vật để kéo cày. Nông nghiệp và chăn nuôi đều phát triển do những điều kiện tự nhiên và kỹ thuật canh tác. Về văn hóa, văn tự đã hình thành và xuất hiện những mầm mống của tri thức.
Tuy nhiên, sự thống nhất của Ai Cập thời kỳ này vẫn chưa thực sự vũng chắc. Cuộc đấu tranh giữa người Hạ và Thượng Ai Cập vẫn thường xuyên diễn ra trong suốt thời kỳ này.
2, Thời kỳ Cổ Vương Quốc (3000-2300 TCN).
Thời kỳ này bao gồm 8 vương triều, từ vương triều III đến vương triều X. Đây là thời kỳ thịnh đạt đầu tiên của Ai Cập về chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Nhà nước Ai Cập được củng cố, hoàn thiện và trở thành một nhà nước quân chủ chuyên chế. Pha-ra-ông không chỉ là người nắm quyền lực nhà nước tối cao mà còn là tăng lữ tối cao và là người sở hữu tất cả đất đai và thần dân trong nước. Tập hợp xung quanh Pha-ra-ông là một bộ máy quan lại gồm các quan lại cấp cao và đông đảo các thư lại (scri-be). Bộ máy này giúp Pha-ra-ông lo việc thu thuế, xây dựng các công trình công cộng, xây dựng quân đội…
Kinh tế thời này có sự phát triển mạnh mẽ. Trong nông nghiệp, sử dụng cây gỗ có bò kéo để sới đất, những chiếc liềm có lưỡi bằng đồng hoặc đá được tra vào các gỗ để cắt lúa. Các nghề thủ công nghiệp như đục đá, gia công kim loại, làm giấy pa-py-rut…rất được chú trọng và đạt trình độ khá cao. Các hoạt động buôn bán trong nước cũng như với các vùng lân cận cũng được phát triển. Đặc biệt, thời kỳ này, các Pha-ra-ông đã huy động rất nhiều của cải và sức người để xây dựng cho mình những lăng mộ (kim tự tháp) khổng lồ, đền đài, cung điện. Đồng thời các
Pha-ra-ông còn tiến hành các cuộc xâm lược ra bên ngoài. Chính vì thế, nhân dân rơi vào cảnh bần cùng.
Từ vương triều V đến khi kết thúc thời kỳ Cổ Vương Quốc, thế lực của các quý tộc địa phương mạnh lên. Ai Cập bị chia cắt thành nhiều vùng độc lập, xã hội rối ren.
3, Thời kỳ Trung Vương Quốc (2300-1570 TCN).
Sau thời kỳ chia cắt, Ai Cập lại được thống nhất và bắt đầu một thời kỳ mới, kéo dài từ vương triều XI đến vương triều XVII. Trong thời kỳ này, Ai Cập củng cố và thi hành nhiều biện pháp để phát triển nền kinh tế của đất nước. Việc xây dựng và sử dụng một cách phổ biến những công cụ đồng thau đã làm thay đổi căn bản kỹ thuật sản xuất. Ngành chăn nuôi cũng được coi trọng. Các hoạt động buôn bán với bên ngoài được mở rộng với Xy-ri, Phê-ni-xi, Pa-lex-tin, Ba-by-lon…
Sự phát triển kinh tế gắn liền với sự bóc lột tàn khốc của giai cấp thống trị đối với người lao động, làm cho mâu thuẫn xã hội phát triển gay gắt. Nhiều cuộc đấu tranh của nô lệ và dân nghèo đã sảy ra. Tiêu biểu là cuộc khởi nghĩa vào năm 1750 TCN. Vào cuối thời kỳ Trung Vương Quốc, một số bộ lạc du mục người Hyksos từ Tây Á xâm nhập vào lãnh thổ Ai Cập rồi dần dần chiếm đóng Ai Cập và thiết lập sự thống trị ở đây trong khoảng hơn một thế kỷ.
4, Thời kỳ Tân Vương Quốc (1570-1085 TCN).
Thời kỳ Tân Vương Quốc được bắt đầu từ khi Ai Cập dưới triều vua Ac-mốt đánh đuổi được người Hyksos ra khỏi Ai Cập. Thời kỳ này bao gồm 3 vương triều, từ vương triều XVIII đến vương triều XX.
Chính những cuộc chiến tranh xâm lược tới các vùng Xy-ri, Pa-lex-tin, Li-bi, Na-bi và Ba-by-lon đã làm cho lãnh thổ Ai Cập được mở rộng, phía bắc tới giáp ranh Tiểu Á, phía nam tới thác ghềnh thứ tư của sông Nin. Ai Cập trở thành đế chế mạnh ở cùng Bắc Phi và Tây Á.
Chiến tranh mang lại cho Ai Cập nhiều của cải và nô lệ. Trong thời kỳ này, Ai Cập đem các mặt hàng nông nghiệp, thủ công, đồ mỹ nghệ bằng đá hay ngà voi đến bán ở các vùng lân cận như Nu-bi, Xy-ri, Lưỡng Hà…, rồi mua từ những vùng này về cá mặt hàng như gỗ, ngựa sắt… nhằm thỏa mãn nhu cầu trong nước.
Chiến tranh và sự phát triển kinh tế làm cho thế lực của tầng lớp quý tộc và tăng lữ tăng dần. Tầng lớp này một mặt tăng cường bóc lột nhân dân, mặt khác đấu tranh để chia sẻ quyền lực với Pha-ra-ông. Cuộc đấu tranh đó kéo dài làm cho chính quyền trung ương và đất nước Ai Cập bị suy yếu. Năm 1085, một tăng lữ đến thờ thần A-môn ở Te-bơ đã cướp được chính quyền, lập nên vương triều XXI, kết thúc thời kỳ Tân Vương Quốc.
5, Thời kỳ Hậu Vương Quốc (1085-30 TCN).
Bao gồm 11 vương triều, từ vương triều XXI đến vương triều XXXI. Từ thời kỳ này, quyền lực của chính quyền trung ương Ai Cập bị suy giảm, các Pha-ra-ông không còn đặt được sự cai trị của mình trên toàn quốc nữa. Trong khi đó, các địa phương tìm mọi cách tăng cường tiềm lực của mình. Quần chúng lao động bị bóc lột nặng nề. Nạn nô dịch nợ nần và nạn cho vay nặng lãi phát triển. Lợi dụng tình hình đó, các thế lực bên ngoài liên tiếp xâm lược và thống trị Ai Cập.
Vào thế kỷ X TCN, quân đội đánh thuê người Li-bi bành trướng thế lực của họ khắp vùng châu thổ sông Nin. Sau đó, thủ lĩnh quân đội đánh thuê Li-bi đã cướp ngôi Pha-ra-ông, lập ra vương triều XXII (vương triều Li-bi). Năm 671 TCN, Ai Cập bị quân đội Assyri đánh chiếm. Năm 525 TCN, Ai Cập bị Ba Tư xâm lược. Năm 332 TCN, Ai Cập bị A-lếch-xan-đơ xứ Mac-xê-đô-nia chinh phục. Sau khi đế quốc này bị tan rã, Ai Cập thuộc quyền thống trị của một vương triều Hy Lạp gọi là vương triều Pto-le-my. Năm 30 TCN, Ai Cập trở thành một tỉnh của đế quốc La Mã.
III-Thành tựu.
1, Thể chế chính trị.
Như mọi nhà nước cổ đại phương Đông khác, nhà nước Ai Cập cổ đại là nhà nước quân chủ chuyên chế trung ương tập quyền. Đứng đầu nhà nước Ai Cập là một ông vua chuyên chế mà người Ai Cập gọi là Pha-ra-ông, có nghĩa là “kẻ ngự trị trong cung điện”. Nhà vua có quyền thế tập và vô hạn. Ở Ai Cập cổ đại, người ta cho rằng, tất cả mọi thứ đều thuộc về Pha-ra-ông: đất, nước, con người. Tất cả mọi người đều phải nghe lời và phục tùng Pha-ra-ông. Là người đứng đầu nhà nước, Pha-ra-ông có quyền sở hữu tối cao đối với toàn bộ đất đai và thần dân trong nước. Pha-ra-ông là một vị thần sống, người Ai Cập gọi Pha-ra-ông là “con của thần Ra” (Thần Mặt Trời). Ngoài chức năng cai trị thần dân, các Pha-ra-ông còn kiêm chức tăng lữ tối cao, chỉ huy quân sự tối cao, đồng thời lại là thẩm phán tối cao. Thời Cổ Vương Quốc, Ai Cập chưa có luật pháp hoàn chỉnh, hàng ngày, vua tùy tiện đặt ra luật lệ, cái gì vua yêu là hợp pháp, cái gì vua ghét là bất hợp pháp. Để giúp Pha-ra-ông cai trị thần dân, ở trung ương có một triều đình gồm nhiều quan lại, tướng lĩnh quân đội, các tăng lữ cao cấp và đông đảo các thư lại (Scribơ) là tầng lớp có học thức thời bấy giờ. Đứng đầu bộ máy quan lại là viên Thừa tướng gọi là Vi-dia, vị đại thần thân tín nhất của nhà vua. Ở thời Tân Vương Quốc, do chính sách mở rộng chiến tranh xâm lược của các Pha-ra-ông vương triều thứ XVIII, Ai Cập trở thành một đế quốc rộng lớn. Trước đây, các Pha-ra-ông chỉ cần có một Vi-dia giúp việc, nay phải đặt hai Vi-dia, một cai quản ở miền Bắc, một cai quản ở miền Nam.
Mặc dù chưa có sự phân công rành mạch giữa các cơ quan trong chính quyền nhà nước, nhưng dưới vương triều nào cũng có ba bộ phận quan lại thực hiện ba chức năng của nhà nước chuyên chế cổ đại phương đông: quan phụ trách tài chính, coi sóc kho tàng, giữ quốc khố, lo việc trưng thu thuế má, giữ sổ sách địa bạ…; quan phụ trách các vấn đề kinh tế, xã hội, trông nom công việc sản xuất, đắp đường sá, đê điều, xây dựng các công trình công cộng và quan chăm lo việc binh bị.
Ở các địa phương, chính quyền nằm trong tay các chúa nôm. Chúa nôm giống như một ông vua con ở các địa phương, thay mặt vua để cai trị các nôm của mình. Chúa nôm cũng là thẩm phán, chỉ huy quân sự và tăng lữ cao nhất của địa phương. Tầng lớp tăng lữ ở Ai Cập có vai trò rất lớn trong đời sống xã hội và đối với vương quyền, nó là chỗ dựa tinh thần cho giai cấp quý tộc và nhà vua, nó thần thánh hóa nhà vua và chính quyền nhà nước.
Quân đội cũng là một chỗ dựa và là công cụ đắc lực bảo vệ chính quyền hoàng đế. Tuy nhiên, ở Ai Cập thời Cổ Vương Quốc vẫn chưa có quân đội thường trực. Khi có chiến tranh, nhà nước huy động nông dân công xã, quân địa phương của các chúa nôm tham gia. Quân đội Ai Cập thời Trung Vương Quốc được hình thành từ việc huy động của nhà nước khi cần và chủ yếu là lính bộ binh. Đến thời Tân Vương Quốc, do học tập được kỹ thuật dùng chiến xa của người Hyksos, trong quân đội Ai Cập, ngoài bộ binh ra còn có lính chiến xa.
Nhờ có bộ máy quan lại từ trung ương đến địa phương và lực lượng quân đội, các Pha-ra-ông đã tiến hành bóc lột nhân dân trong nước bằng tô thuế và lao dịch, đàn áp dã man mọi sự phản kháng của họ và đem quân đi xâm lược nước ngoài. Các Pha-ra-ông thời Trung Vương Quốc đã đem quân đi đánh chiếm Nu-bi và bán đảo Xi-nai. Ở thời Tân Vương Quốc, các Pha-ra-ông thuộc vương triều XVIII đã theo đuổi chính sách bành trướng bằng vũ lực, tiến hành nhiều cuộc chiến tranh cướp bóc các nước láng giềng như Xi-ri, Pa-lex-tin, Nu-bi. Do việc chiếm cứ được nhiều đất đai, cướp đoạt được nhiều nô lệ và vô số của cải, vàng bạc của các vùng bị chinh phục, Ai Cập trở nên giàu có. Dưới thời Tút-mét III, Ai Cập trở thành một đế quốc rộng lớn, có chiều dài biên giới Nam-Bắc là 3200 km, kéo từ Nu-bi đến Tiểu Á.
Chính sách bành trướng bằng vũ lực và chính sách cai trị chuyên chế hà khắc của các Pha-ra-ông Ai Cập là nguyên nhân dẫn đến các phong trào khởi nghĩa và binh biến ở trong nước và phong trào đấu tranh giải phóng của nhân dân các miền bị Ai Cập chinh phục. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự suy vong của quốc gia Ai Cập cổ đại.
**Quan hệ xã hội: cũng như mọi quốc gia cổ đại phương đông khác, xã hội Ai Cập cổ đại cũng bị phân hóa thành hai giai cấp đối kháng nhau: giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
a, Giai cấp thống trị gồm toàn bộ giai cấp quý tộc, đứng đầu là Pha-ra-ông, một ông vua chuyên chế, có quyền lực tuyệt đối và vô hạn. Dưới Pha-ra-ông là một đội ngũ đông đảo bọn quan lại quý tộc, chủ ruộng đất, các tướng lĩnh quân đội và tầng lớp quý tộc tăng lữ.
Các Pha-ra-ông sống trong những cung điện vô cùng nguy nga tráng lệ, giữa đông đảo những thân nhân trong hoàng tộc và đám đình thần thân tín nhất. Với ước vọng lưu lại đời đời tiếng tăm lừng lẫy và quyền uy bất diệt của mình, ngay từ khi còn sống, các Pha-ra-ông thuộc các vương triều Cổ Vương Quốc đã lo xây dựng cho mình những lăng mộ cực kỳ kiên cố và đồ sộ. Kim tự tháp, một mặt thể hiện quyền uy vô hạn, tính chất chuyên chế của các Pha-ra-ông Ai Cập; mặt khác, cũng phản ánh địa vị thấp kém và đời sống cơ cực của người dân cổ Ai Cập đã phải hi sinh biết bao mồ hôi, xương máu để bảo tồn xác chết của chính kẻ khi còn sống đã áp bức, bóc lột họ hết sức tàn nhẫn.
Bọn quý tộc, quan lại, chúa đất và tầng lớp tăng lữ cũng sống xa hoa. Cuộc sống đầy đủ, sung sướng của chúng dựa trên sự bóc lột tô thuế của nông dân và sự lao động của nô lệ, đồng thời chúng nhận bổng lộc của nhà nước dưới dạng quyền thu tô thuế hoặc ban thưởng của vua hay quan lại cấp trên.
b, Giai cấp bị trị bao gồm những người bình dân và nô lệ.
Bình dân gồm có nông dân công xã là tầng lớp đông đảo nhất trong cư dân Ai Cập cổ đại. Họ là những người làm ruộng, kết hợp làm một số nghề phụ như đánh cá, chăn nuôi, làm thêm nghề thủ công; họ sống theo từng gia đình, có tài sản riêng nhưng vẫn gắn bó với công xã, dựa vào công xã để làm thủy lợi và cày cấy. Thông qua công xã, họ đóng thuế cho nhà nước và một phần sản phẩm cho công xã để nuôi bộ máy quan lại địa phương. Ngoài nghĩa vụ nộp thuế, nông dân công xã còn phải làm nghĩa vụ lao dịch, chủ yếu là xây dựng các công trình thủy lợi và các công trình công cộng khác như: xây dựng đường sá, đền miếu, cung điện, lăng
mộ cho nhà vua và quý tộc. Họ còn phải thực hiện nghĩa vụ binh dịch như đi lính hoặc vận chuyển lương thực, vũ khí…mỗi khi có chiến tranh.
Thợ thủ công và thương nhân chủ yếu sống ở các thành thị là trung tâm chính trị của Pha-ra-ông và quý tộc địa phương. Đa số thợ thủ công là người tự do, họ có xưởng sản xuất riêng và phải nộp thuế sản phẩm cho nhà nước.
Nô lệ là tầng lớp thấp nhất trong xã hội Ai Cập cổ đại. Họ xuất thân từ nhiều nguồn gốc khác nhau, nhưng đã số là tù binh bị bắt trong chiến tranh, bị biến thành nô lệ, chủ yếu là người Xi-ri, Pa-lex-tin và Ê-ti-ô-pi. Những người dân nghèo của công xã (nông dân và thợ thủ công) vì mắc nợ của quý tộc không trả được phải gán thân làm nô lệ cho chủ nợ. Ngoài ra, nô lệ còn có nguồn gốc từ các vụ cướp biển hoặc do mua bán, di tặng. Số lượng nô lệ trong xã hội Ai Cập cổ đại cũng khá đông. Người Ai Cập cổ đại gọi nô lệ là “dét” (djet), có nghĩa là con vật. Nô lệ bị coi như súc vật, như một loại hàng hóa hay tài sản riêng của chủ, có thể mua bán hoặc trao đổi. Họ chủ yếu lao động, phục vụ trong cung đình, các gia đình quý tộc và các đền miếu. Họ cũng có thể bị điều động làm những công việc nặng nhọc như xây dựng các công trình thủy lợi, các cung điện hay lăng mộ…
**Quyền lợi của người phụ nữ trong xã hội Ai Cập cổ đại:
Nhiều người cho rằng phụ nữ cổ đại nắm giữ rất ít quyền lực. Nhưng phụ nữ Ai Cập thời xưa có thể trở thành thầy thuốc phục vụ gia đình hoàng gia, cố vấn chính trị, người viết lịch sử, hoặc thậm chí cai trị đất nước với tầm ảnh hưởng sâu rộng.
Người phụ nữ cai trị đầu tiên trong lịch sử Ai Cập cổ đại là Merneith, sống trong Vương triều thứ nhất. Bà là hoàng hậu nhiếp chính vào khoảng năm 2970 trước Công nguyên.
Sau hàng nghìn năm tồn tại quyền bình đẳng nam nữ trong xã hội, vua Ptolemy IV cố gắng ngăn chặn truyền thống lâu đời này bằng cách thay đổi luật pháp và hủy bỏ nhiều quyền lợi của phụ nữ.
Nhưng phụ nữ Ai Cập không muốn chấp nhận một xã hội gia trưởng, do nam giới kiểm soát. Họ tiếp tục đấu tranh dành quyền lợi, cho đến khi nền văn minh Ai Cập kết thúc. Các nhà khoa học cho rằng, vai trò của
người phụ nữ Ai Cập vẫn được giữ vững trong suốt hơn 3.000 năm và mất dần từ năm 415.
Hầu như tất cả phụ nữ Ai Cập cổ đại thuộc tầng lớp quý tộc và nhiều tầng lớp khác đều biết chữ, chẳng hạn như vợ của các công nhân, họa sĩ, thợ xây. Họ học viết chữ để trao đổi thư từ với chồng. Họ cũng viết về khó khăn trong đời sống hàng ngày, về cảm xúc và những gì quan trọng xung quanh.
Phụ nữ cũng có thể trở thành người ghi chép lịch sử hoàng gia, giống như nam giới. Các kỳ thi và cơ hội chia đều cho cả nam và nữ. Một số phụ nữ Ai Cập cổ đại làm tể tướng, chức quan cao nhất trong hệ thống chính trị phục vụ cho Pha-ra-ông. Nebet, vợ của nhà quý tộc Khui, giữ chức tể tướng dưới triều đại Pha-ra-ông Pepi I thuộc Vương triều thứ 6. Những người con của Nebet, bao gồm Ankhesenpepi I và Ankhesenpepi II trở thành vợ của Pepi I. Nebet là người phụ nữ mạnh mẽ. Khi lên nắm quyền, bà kiểm soát việc xây dựng các kim tự tháp và nhiều công trình tưởng niệm Pha-ra-ông.
2, Trình độ phát triển kinh tế.
Vào khoảng 5000 năm TCN, cư dân định cư ở vùng lưu vực sông Nin đã biết lợi dựng sự màu mỡ của đất đai để trồng trọt. Từ đây, công cụ lao động được ra đời như những công cụ lao động bằng đá và một số công cụ lao động bằng đồng để trông trọt. Ngoài ra, họ còn làm các nghề thủ công, chăn nuôi, bắt cá và săn thú. Thời kỳ đầu, việc trồng trọt được tiến hành rất đơn giản và thô sơ. Họ đã biết khai thác nguồn nước sông Nin dồi dào để canh tác. Từ đây, người Ai Cập đã chú trọng đến công tác thủy lợi để điều hòa lượng nước tưới tiêu.
Cùng với sự chuyển hướng sang sản xuất nông nghiệp định cư và sự phát sinh của hệ thống tưới nước thì sự phân hóa giàu nghèo cũng diễn ra trong xã hội. Đó chính là do sản xuất nông nghiệp đã đưa lại hiệu suất lao động cao dẫn tới nhiều của cải dư thừa tạo điều kiện cho tư hữu tài sản xuất hiện. Từ đó dẫn tới nhiều mâu thuẫn bất bình đẳng trong xã hội. Công xã nông thôn ra đời dần thay thế vị trí của chế độ thị tộc.
Vào đầu thiên niên kỷ IV TCN, sự phát triển của sản xuất nông nghiệp trên lưu vực sông Nin đòi hỏi các công xã nông thôn liên hiệp lại thành một liên minh công xã để cùng hợp tác sản xuất. Có khoảng 40 liên minh công xã (còn gọi là nôm) được hình thành. Mỗi nôm đều có lãnh thổ, chính quyền, quân đội, tài chính… riêng. Có thể coi các nôm là những hình thức nhà nước sơ khai đầu tiên của Ai Cập. Sau khi hình thành, giữa các nôm thường diễn ra những tranh chấp và xung đột. Đến giữa thiên niên kỷ IV TCN, các nôm ở miền nam hợp thành Thượng Ai Cập, các nôm ở miền bắc hợp thành Hạ Ai Cập. Giữa hai miền thường xuyên có nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc. Cuối cùng, vào năm 3200 TCN, Thượng Ai Cập đã giành thắng lợi, thống nhất hai miền nam-bắc, lập ra vương triều đầu tiên, mở đầu cho một thời kỳ văn minh rực rỡ của Ai Cập cổ đại.
Từ khi Ai Cập được thống nhất cho đến khi kết thúc lịch sư Ai Cập cổ đại kéo dài hơn 3000 năm (3200-30 TCN), kinh tế nông nghiệp vẫn tiếp tục được coi trọng hàng đầu và luôn đóng vai trò là bộ phận kinh tế nền tảng của Ai Cập cổ đại. Cùng với đó là sản xuất nông nghiệp cũng ngày càng đạt được nhiều tiến bộ, đặc biệt là sự phát triển của công cụ lao động trong nông nghiệp: những chiếc cày nguyên thủy, cuốc, cưa, dao, dùi, chiếc liềm có gắn lưỡi bằng đá lửa hoặc bằng đồng, những chiếc cối xay, chầy… Mặc dù chúng rất thô sơ và đơn giản nhưng chúng rất phù hợp và tiện lợi cho việc canh tác trên lưu vực sông Nin. Cây trồng thường là các loại cây lúa mỳ, lúa mạch, kê, bắp, gai…, trong đó cây trồng quan trọng nhất là loại lúa mỳ 2 hạt gọi là em-me-rơ.
Nhà nước Ai Cập cổ đại rất quan tâm đến công tác thủy lợi, do vậy, nhà nước thường xuyên tổ chức việc xây dựng và tu bổ các công trình thủy lợi. Trong đó, công trình cải tạo hồ Mơ-rít cổ đại thành một hệ thống tưới nước rộng lớn, đem lại nhiều hiệu quả lớn như có thể gieo trồng 2 vụ trong 1 năm.
Trong nông nghiệp, bên cạnh hình thức canh tác tư nhân của người nông dân và gia đình họ thì còn có hình thức nông trang của nhà vua, của quan lại, quý tộc và tăng lữ. Lực lượng lao đông chủ yếu là nô lệ và nông dân.
Chăn nuôi cũng giữ một vai trò quan trọng để cung cấp sức kéo, thịt và sữa. Người Ai Cập cổ đã biết thuần dưỡng nhiều loài hoang dã, biết nuôi nhiều loài gia súc, nghề nuôi ngựa phát triển với mục đích phục vụ cho quân sự và lấy sức kéo.
Trong điều kiện của nền kinh tế tự nhiên, bên cạnh nông nghiệp còn có thủ công nghiệp. Hai ngành sản xuất này kết hợp chặt chẽ và thúc đẩy nhau cùng phát triển. Nhưng nông nghiệp vẫn là ngành kinh tế chủ đạo. Cũng vì thế mà dấu ấn của nền văn hóa nông nghiệp in đậm trên mọi mặt đời sống văn hóa của người dân Ai Cập cổ đại.
3, Chữ viết.
Từ khi xã hội có giai cấp bắt đầu hình thành, chữ viết ở Ai Cập đã ra đời. Chữ viết đầu tiên của người Ai Cập cổ đại nói riêng và nhiều dân tộc khác trên thế giới nói chung là chữ tượng hình. Đối với các khái niệm trừu tượng thì phải dùng phương pháp mượn ý. Ví dụ: để biểu thị chữ khát thì vẽ hình con bò cạnh chữ nước; biểu hiện chữ đói thì vẽ hình một người chỉ tay vào nước. Tuy nhiên, khi cả 2 phương pháp trên vẫn không đủ để ghi mọi khái niệm, thì những hình vẽ biểu thị âm tiết dần dần xuất hiện. Ví dụ: con mắt tiếng Ai Cập ar, do đó, hình con mắt biểu thị âm tiết ar. Trên cơ sở đó, tổng số chữ tượng hình của Ai Cập có khoảng 1000 chữ, trong đó có 24 chữ cái chỉ phụ âm. Có thể viết toàn bộ các chữ cái Ai Cập cổ bằng những dấu hiệu này, nhưng người Ai Cập không bao giờ phát triển hệ thống chữ viết phức tạp thành hệ thống chữ cái thực sự.
Thời Cổ Vương Quốc, chữ viết phát triển và trở nên rộng rãi. Hình thành 2 loại chữ là chữ tăng lữ và chữ bình dân. Nhưng chữ tượng hình không hề mất đi mà luôn tồn tại song song với các chữ khác. Thậm trí trong thời kỳ Ai Cập bị người Ba Tư, người Ma-xê-đô-ni-a, người Hy Lạp, La Mã thống trị, người dân vẫn sử dụng chữ tượng hình.
Chữ tượng hình Ai Cập đươc viết trên đá, gỗ, đồ gốm…, nhưng phổ biến hơn cả là giấy pa-py-rus (được làm bằng cách chẻ thân cây pa-py-rus thành các thanh mỏng, sau đó ghép lại, ép chặt rồi phơi khô), đó là loại giấy sớm nhất trên thế giới. Để viết trên giấy đó, người Ai Cập dùng bút bằng thân cây sậy và mực được làm từ bồ hóng.
Loại chữ tượng hình được dùng trong hơn 3000 năm, sau đó không còn ai biết đọc loại chữ này nữa. Nhiều người đã nghiên cứu cách đọc loại chữ cổ này nhưng không thành công. Mãi đến năm 1822, Sam-pô-li-ông, một nhà ngôn ngữ học người Pháp mới tìm được cách
đọc thứ chữ này, sau đó đã ra đời môn Ai Cập học, nhiều cuốn sách về tiếng Ai Cập cổ đã được biên soạn, trong đó có cuốn “Từ điển chữ tượng hình Ai Cập”. Nhờ đọc được tiếng Ai Cập cổ, người ta mới biết được nhiều tư liệu quý giá thuộc các lĩnh vực như lịch sử, văn học, thiên văn, toán học...của Ai Cập cổ đại.
4, Văn học.
Trong suốt chiều dài lịch sử mấy nghìn năm, người Ai Cập cổ đại đã có một đời sống văn học vô cùng phong phú và đa dạng. Văn học Ai Cập cổ đại là một tập hợp các tác phẩm văn chương có giá tị thẩm mỹ và quan tâm đến cá nhân con người. Cũng như mọi nền văn học khác, văn học cổ đại Ai Cập gắn liền với đời sống xã hội và với hệ tư tưởng của xã hội, đặc biệt là tôn giáo. Ngoài ra còn có cả những tác phẩm mang nội dung triết học, những chuyện cổ dân gian, những bài thơ tình yêu và cả những tác phẩm mô tả hiện thực.
Thời Cổ Vương Quốc có các văn bản như: “Những văn bản kim tự tháp”, những văn bia có nội dung giáo huấn, “Lời khuyên dạy của Im-hô-tép”, “Lời khuyên dạy của Đơ-ra-đê-pho-rơ”, và đặc biệt là “Lời khuyên dạy của Pta-hô-tép”. Thời Trung Vương Quốc, văn học Ai Cập phát triển mạnh mẽ, các tác phẩm phản ánh được nhiều mặt của đời sống xã hội như: các vấn đề về tôn giáo, chính quyền và đời sống của các giai cấp, tầng lớp tỏng xã hội; tiêu biểu là các văn bản giáo huấn dưới dạng lời khuyên: “Lời khuyên dạy của vua thành Hê-ra-clê-ô-pô-lít”, “Lời khuyên dạy của A-men-em-khát I”. Ngoài ra còn có các tác phẩm cũng mang ý nghĩa giáo huấn liên quan đến đời sống văn hóa-xã hội của người Ai Cập cổ đại: “Truyện kể của I-pu-xe”, “Lời tiên đoán của Nê-phéc-ti”, “Thuyền bè gặp nạn”, “Một nông phu biết nói những điều hay”.......Tác phẩm tiêu biểu nhất, được coi là viên chân châu của văn học Ai Cập thời Trung Vương Quốc là “Truyện Si-nu-hê”. Ngoài ra, còn phổ biến một loại thi ca phản ánh đời sống của nhân dân lao động như: “Bài hát của mục đồng”, “Bài hát của anh gánh thuê”, “Hát đập lúa”....
Từ thời Tân Vương Quốc trở về sau, văn học Ai Cập phát triển với nhiều thể loại, phổ biến là thơ và truyện kể: “Bài thơ ca tụng thần A-tôn” là tác phẩm văn học nổi tiếng nhất. Ngoài ra còn có các tác phẩm văn
học phản ánh đời sống người lao động và khát vọng tự do của học: truyện “Hai anh em”, “Chân lý và giả dối”. Bên cạnh đó còn có nhiều tác phẩm đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau của đời sống xã hội, chẳng hạn: truyện “Bóng ma”, “Cuộc phiêu lưu của Un-Amôn và tác phẩm trường ca Pen-tau-xơ. Cũng từ thời Tân Vương Quốc trở đi, thể loại thơ ngày càng được thịnh hành, nhưng còn mang nặng tính chất tôn giáo. Đặc biệt, đã xuất hiện thơ mới, thơ tình yêu, đã đánh dấu sự mới mẻ của hơ ca Ai Cập.
Có thể khẳng định, văn học Ai Cập cổ đại là một trong những nền văn học đầu tiên trên thế giới, nền văn học đó đa dạng về thể loại và nội dung phong phú, thể hiện được giastrij nhân văn sâu sắc: quan tâm đối với con người, ước muốn vươn tới cái thiện và công lý, thái độ tôn kính lòng dũng cảm và tình yêu đối với cuộc sống với thiên nhiên. Vì vậy, nền văn học cổ đại còn có ảnh hưởng không nhỏ tới sự hình thành và phát triển của một số thể loại văn học cổ đại ở khu vực Địa Trung Hải như: Hy Lạp, La Mã, Do Thái, thậm trí cả nền văn học Ai Cập nữa.
5, Tôn giáo.
Tôn giáo có một vị trí quan trọng trong đời sống xã hội và chính trị của Ai Cập cổ đại. Giai cấp chủ nô Ai Cập đã sử dụng tôn giáo làm công cụ thống trị và tranh giành địa vị chính trị.
Người Ai Cập rất tin tưởng và sùng bái những tín ngưỡng của thời nguyên thủy, đặc biết là sùng bái động vật và sùng bái tự nhiên. Trước khi nhà nước ra đời, họ đã thờ nhiều loại cầm thú, chim muông như: bò, cừu, diều hâu, chim rừng... Ở thời kỳ các nôm thống nhất thành 2 vương quốc thì Thượng Ai Cập thờ thần Chim Ưng, còn Hạ Ai Cập thờ thần Ong, đến khi thống nhất dưới một chính quyền thì người dân Ai Cập đặc biệt tôn thờ thần Bò đực A-pi-xơ (một vị thần da đen, trán điểm dấu trắng, lưng mang chim ưng và đuôi có những sợi lông kép). Người Ai Cập cổ đại coi A-pi-xơ là một trong những biểu tượng của sông Nin và có quan hệ chặt chẽ với nước lũ của con sông đó.
Đối với người Ai Cập cổ đại, mọi hiện tượng tự nhiên có liên quan đến đời sống hàng ngày đều là các vị thần. Phổ biến nhất là thần Odirix;
mang nước tưới cho đồng ruộng, làm cho đất đai phì nhiêu, tượng trưng cho cái chết và sự phục sinh, đồng thời thần còn dạy cho con người cách làm ăn, xây dựng; sau khi Odirix bị em trai là thần Seth hại chết, đã được vợ là thần Isis ngâm trong nước sông Nin 40 ngày và đã được hồi sinh, chính vì thế mà da của thần Odirix có màu xanh. Thần Ra (hay còn gọi là thần mặt trời); mang ánh sáng đến cho còn người và là thần bảo trợ cho cả nước, là thần của vua. Thần A-môn mang ý nghĩa cho nhiều vị thần, cho sức mạnh quốc gia và quyền lực của Pha-ra-ông.
Ngoài những vị thần được thờ chung trên cả nước, mỗi địa phương hay thành phố đều có vị thần thành hoàng của mình. Người Ai Cập cổ đại yêu quý các vị thần cùng các truyền thuyết, huyền thoại và các nghi lễ thờ phụng các vị thần của họ, bởi họ không mong đạt tới sự thành thiện, thuần khiết và yên lành, mà mong cho mùa màng tươi tốt, mưa thuận gió hòa, giàu sang, hòa bình, hạnh phúc. Họ cũng có niềm tin vào sự bất tử của linh hồn và sự bất tử sau cái chết. Đức tin ấy theo dòng thời gian dã chở thành những lời khẩn cầu và làm cho nghệ thuật ướp xác được hình thành.
Như vậy, tôn giáo Ai Cập cổ đại được hình thành trên cơ sở rất nhiều những tín ngưỡng và sự thờ cúng của các địa phương ở Ai Cập. Từ khi hình thành, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã mang dấu ấn của tư tưởng tôn giáo và duy trì dấu ấn đó trong suốt mấy nghìn năm lịch sử của mình.
**Truyền thuyết về một số vị thần khác của Ai Cập:
Thần Amun: đây là một trong những vị thần quyền lực nhất của thế giới Ai Cập cổ đại, với ngoại hình là một người đàn ông cầm búa và đội mũ miện dài. Vào thời kỳ nền văn minh sông Nile phát triển rực rỡ nhất, Amun được xưng tụng là “Vua của các vị thần”, đem lại may mắn, công bằng và bảo vệ những người đi đường. Khi kết hợp với thần mặt trời Ra thành Amun-Ra, vị thần này còn trở nên mạnh mẽ hơn nhiều.
Thần Anubis: vị thần có thân nam giới và đầu chó rừng này hẳn không xa lạ với nhiều người, khi thường có trên các văn bản chữ tượng hình được khắc trên các lăng mộ, đền đài. Thần Anubis tượng trưng cho sự ướp xác và cái chết. Chó rừng hay xuất hiện ở các nghĩa địa, do đó người Ai Cập cổ tin rằng thần Anubis trông nom người chết.
Thần Atum: người dân Ai Cập cổ tin rằng Atum là vị thần đầu tiên tồn tại trên trái đất, với hình dáng một người đàn ông đội vương miện kép. Họ cho rằng thần Atum đã trỗi dậy từ làn nước hỗn loạn, tạo ra hai vị thần đầu tiên, Shu và Tefnut - cặp đôi sinh ra các vị thần khác. Atum cũng được coi là cha của các Pha-ra-ong.
Nữ thần Bastet: thường có hình dạng một người phụ nữ đầu mèo, Bastet là thần bảo vệ, đôi khi xuất hiện với đầu sư tử để bảo vệ vua trên chiến trường. Bastet là một trong những người con gái của thần mặt trời Ra.
Thần Bes: vị thần lùn này có các đặc điểm kết hợp của người và sư tử. Bes vừa là thần chiến tranh, vừa là người bảo vệ phụ nữ có mang và các ngôi nhà. Người Ai Cập cổ còn tin rằng thần bảo vệ họ khỏi bò cạp và rắn độc.
Thần Horus: thần bầu trời của người Ai Cập cổ có dạng mình người đầu chim ưng, hoặc dạng chim ưng. Horus được biết đến nhiều nhất với vai trò bảo vệ người trị vì Ai Cập. Nhiều người tin rằng thần là con của Isis và Odirix. Sau khi Odirix bị Seth giết chết, Horus đã chiến đấu với Seth để giành quyền cai quản Ai Cập. Trong trận chiến, Horus mất một mắt và sau đó được phục hồi, con mắt trở thành biểu tượng của sự bảo vệ. Sau đó, Horus được chọn là vị thần cai quản thế giới người sống.
Thần Seth: tượng trưng cho sự hỗn loạn, thần Seth có thân người, đầu là một loại thú đặc biệt có mỏ như chim, là biểu tượng của mọi yếu tố gây ảnh hưởng tới hòa bình ở Ai Cập. Đây là anh em của Odirix và Isis, từng giết chết Odirix và chiến đấu với Horus để giành quyền trị vì trần gian, nhưng bất thành.
6, Nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc.
Một trong những thành tựu quan trọng nhất, có giá trị nhất trong nền văn minh Ai Cập cổ đại là nghệ thuật kiến trúc, một nền nghệ thuật kiến trúc “vô tiền khoáng hậu” và nổi tiếng trong thế giới cổ kim. Những đền đài, những cung điện, những kim tự tháp hùng vĩ khiến người đời phải kinh ngạc và cúi đầu khâm phục trước những công trình đồ sộ, biểu hiện quyền lực của thần linh cũng như các Pha-ra-ông.
a, Kim tự tháp.
Trong những công trình kiến trúc của Ai Cập cổ đại, nổi bật nhất vẫn là các kim tự tháp – lăng mộ của các Pha-ra-ông, số kim tự tháp có tới hơn 70 cái, phần lớn được xây ở vùng sa mạc ở Tây Nam Cairô ngày nay.
Kim tự tháp được bắt đầu xây dựng từ thời vua Giê-de, vị vua đầu tiên của vương triều III, vương triều đầu tiên của thời Cổ Vương Quốc. Đây là một ngôi tháp có bậc, cao 60 m, đáy là một hình chữ nhật dài 120 m, rộng 106 m; xung quanh tháp có đền thờ và mộ những thành viên trong gia đình và những người thân cận; toàn bộ khu lăng này được bao bọc bởi một vòng tường xây bằng đá vôi.
Trong số các kim tự tháp ở Ai Cập, nổi tiếng nhất là quần thể kim tự tháp ở Giza. Quần thể kiến trúc này gồm 3 kim tự tháp lớn (Kê-ốp, Kê-phơ-ren và Mi-kê-ri-nốt), 6 kim tự tháp nhỏ và một số đền đài. Ba kim tự tháp lớn là lăng mộ của các Pha-ra-ông thuộc vương triều IV, các kim tự tháp nhỏ là các lăng mộ của các hoàng hậu cùng thời. Kim tự tháp Kê-ốp là kim tự tháp lớn nhất với chiều cao 146,6 m, đáy hình vuông, mỗi cạnh dài 232 m, được xây dựng với 230 vạn tảng đá, mỗi tảng nặng trung bình 2,5 tấn. Vật liệu dùng để xây dựng kim tự tháp Kê-ốp là đá vôi vàng, mặt ngoài được ốp bằng những tấm đá vôi trắng nhẵn bóng có kích thước thống nhất. Kim tự tháp Kê-phơ-ren là kim tự tháp lớn thứ hai trong quần thể kim tự tháp ở Giza, kim tự tháp này cao 143,3 m, đáy hình vuông, mỗi cạnh đáy dài 215,25 m; tuy nhỏ hơn kim tự tháp Kê-ốp, nhưng cách kết cấu và trang trí lại bề thế và tráng lệ hơn, khiến cho nó có một vẻ đẹp vĩ đại, nghiêm trang, đồ sộ. Kim tự tháp Mi-kê-ri-nốt là kim tự tháp nhỏ nhất trong 3 kim tự tháp, cao 66 m, đáy hình vuông, mỗi cạnh dài 108 m. Phương pháp xây dựng kim tự tháp là ghép các tảng đá được mài nhẵn với nhau chứ không dùng vữa, thế mà các mạch khép kín đến mức một lá kim loại mỏng cũng không thể lách qua được.
Khối lượng đá và chiều cao của tháp khiến chúng ta ngạc nhiên về sự tính toán và sức lao động của cư dân Ai Cập phải đóng góp vào đó. Công viejc xây dựng được tổ chức khá chu đáo. Những thợ chuyên môn làm trên công trường họp thành đội, chi đội. Có những “người thợ trên cao” là những người chuyên xây dựng. Việc khai thác, vận chuyển đá và đưa
đá lên cao đòi hỏi một số lượng người làm khá lớn. Hơn 2000 năm sau, một nhà sử học người Hy Lạp đã đến Ai Cập và được nghe người dân kể về quá trình xây dựng kim tự tháp Kê-ốp. Vua Kê-ốp đã huy động toàn thể nhân dân lao động trong nước đến công trường làm việc. Họ được tổ chức thành từng đội gần 100000 người, cứ 3 tháng thì thay phiên nhau 1 lần. Kim tự tháp được xây ở tả ngạn sông Nin, nhưng lại khai thác đá ở hữu ngạn, chính vì vậy, người ta phải dùng thuyền chở đá từ nơi khai thác đến nơi xây dựng, trên tuyến đường chở đá đó, người ta phải xây dựng một con đường bằng những tảng đá mài nhẵn, dài hơn 900 m, rộng 18 m, và chỗ cao nhất là 15 m. Riêng việc xây con đường này đã mất tới 10 năm. Người ta để đá lên xe trượt rồi cho người hoặc bò kéo để chở đá đến công trường. Không kể thời gian làm đường và đào hầm mộ dưới đất, việc xây kim tự tháp kéo dài 20 năm mới hoàn thành.
Những kim tự tháp đã thể hiện uy quyền và sự chuyên chế của nhà vua đối với cư dân, nó cũng là bằng chứng của sự áp bức, bóc lột tàn khốc của nhà nước chiếm hữu nô lệ và giai cấp chủ nô với quần chúng lao động. Tuy nhiên, không thể phủ nhận rằng việc xây dựng những kim tự tháp đã để lại cho nền văn minh nhân loại những công trình kiến trúc vô giá. Trải qua gần 5000 năm, các kim tự tháp hùng vĩ vẫn đứng sừng sững ở sa mạc bất chấp thời gian và mưa nắng. Chính vì vậy, từ thời cổ đại, kim tự tháp Kê-ốp đã được xếp là một trong bảy kì quan thế giới.
b, Tượng Xpanh (Nhân sư).
Nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại cũng có những thành tựu rất lớn. Từ thời Cổ Vương Quốc về sau, các vua Ai Cập thường sai tạc tượng của mình và những người trong vương thất. Tượng thường tạc trên đá, gỗ hoặc đúc bằng đồng. Trong số các tượng của Ai Cập cổ đại, đẹp nhất là tượng bán thân hoàng hậu Nê-féc-ti-ti. Tuy nhiên, độc đáo nhất trong nghệ thuật điêu khắc của Ai Cập cổ đại là tượng Xpanh.
Xpanh, được dịch là nhân sư, là bức tượng mình sư tử đầu người hoặc dê. Những tượng này thường được đặt trước cổng đền miếu. Trong số các tượng Xpanh của Ai Cập cổ đại, tiêu biểu nhất là tượng Xpanh gần kim tự tháp Kê-phren ở Ghidê, dài 55 m, cao 20 m, chỉ riêng cái tai đã dài 2 m. Đó chính là tượng của vua Kê-phren. Việc thể hiện vua
dưới hình tượng đầu người mình sư tử là muốn ca ngợi vua không những có trí tuệ mà còn có sức mạnh như sư tử. Tượng này được tạc vào thế kỷ XXIX TCN. Dân du mục ở sa mạc gọi bức tượng khổng lồ này là “vị thần khủng khiếp”, mỗi lần đi qua vùng này họ phải đi đường vòng chứ không giám đến gần. Hàng ngàn năm nay, người ta cứ thắc mắc mãi không dõ phía trong tượng Xpanh có gì không. Chính vì muốn tìm hiểu Xpanh mà Bô-na-pác đã cho nã pháo vào đầu tượng này làm cho tượng Xpanh bị hỏng một phần.
c, Nghệ thuật tạo hình thời Trung Vương Quốc và Tân Vương Quốc khá phát triển. Thời Trung Vương Quốc có rất nhiều tượng nổi khắc trên tường đá và những bức tranh vẽ trên tường mộ. Nổi bật nhất là bức tranh vẽ cảnh luyện tập của quân đội. Thời Tân Vương Quốc đã để lại một tác phẩm điêu khắc xuất sắc nhất của nghệ thuật Ai Cập là nữ thần Nê-féc-ti. Nội dung của những bức vẽ thời Tân Vương Quoosckhas phong phú trong đó miêu tả những cảnh sống của vua, tù binh và cả các loài động vật, thực vật….
7, Khoa học tự nhiên.
Ngay từ thời Tảo Vương Quốc và Cổ Vương Quốc, người Ai Cập đã tích lũy được nhiều tri thức về khoa học kỹ thuật. Ngành toán học của Ai Cập phát triển rất sớm. Đó là do sự đòi hỏi của việc đo đạc ruộng đất, xây dựng nhà cửa, đền miếu, nhất là kim tự tháp, tính toán về thu nhập sản vật của nhà nước và tư nhân. Việc xây dựng những kim tự tháp đồ sộ, vững chắc, có góc độ nhất định xác nhận những tri thức số học và hình học của người Ai Cập thời Cổ Vương Quốc. Những tài liệu của thời Trung Vương Quốc còn giữ lại đến ngày nay cho chúng ta biết rằng, thời bấy giờ người Ai Cập đã biết dùng số pi (xấp xỉ 3,14) để tính thể tích khối chóp và diện tích bán cầu.
Ngành thiên văn học đã tích lũy được nhiều thành tựu, từ thời Tảo Vương Quốc và Cổ Vương Quốc, người Ai Cập đã tính toán khá chính xác mực nước sông Nin hàng năm khi dâng lên. Lịch năm của Ai Cập được tính như sau: mỗi năm chia thành 3 mùa, mỗi mùa 4 tháng, mỗi tháng 30
ngày; mỗi năm có 365 ngày 1/4 (5 ngày không xếp vào tháng), vì vậy cứ 4 năm lịch lại hơn năm thiên nhiên 1 ngày. Việc tính toán vị trí các ngôi sao trên trời và việc phát minh đồng hồ nước, đồng hồ mặt trời là những thành tựu của thiên văn học thời Tân Vương Quốc.
Về y học, từ thời Cổ Vương Quốc, người Ai Cập đã biết chữa bệnh đau răng. Những sách thuốc thời Trung Vương Quốc đã viết về cách chữa bệnh phụ nữ, chữa bệnh cho súc vật. Đặc biệt đến thời Tân Vương Quốc, các thầy thuốc đã biết chữa các vết thương xương đầu, xương hốc mũi, họ cũng đã biết khá nhiều về máu, về mối quan hệ giữa các bộ phận trong cơ thể với nhau, nhất là vai trò của bộ óc với toàn bộ cơ thể. Thuật ướp xác và kỹ thuật chế tạo thủy tinh mầu, nước men trên bát đĩa là biểu hiện của trình độ hiểu biết về hóa học của người Ai Cập cổ đại.
Người Ai Cập cổ đại rất chú ý đến sử học. Thời Tảo Vương Quốc, mỗi năm thống trị của một vua nào đó đều được ghi lại theo tên sự kiện lớn nhất xảy ra trong năm đó. Tên gọi các năm được ghi lại có hệ thống trong bảng niên đại chung bằng xương hoặc bằng gỗ. Hiện nay còn giữ được một tài liệu rất quý viết trên giấy từ triều vua XIX, đã bị rách nát nhiều. Những triều vua và tên năm của các vua được ghi lại rất kỹ. Trong tập sử viết theo năm ấy có đoạn viết về cuộc đánh chiếm các nước châu Á của Tút-mét III thuộc triều vua XVIII, tiếc rằng đoạn văn ấy không còn giữ lại đến nay trọn vẹn nữa.
**Thuật ướp xác của người Ai Cập cổ đại:
Người Ai Cập cổ đại là những người đầu tiên tiến hành ướp xác từ những năm 4000 TCN. Họ bọc thi hài người chết vào trong quần áo rồi thiêu trong hỗn hợp than charcoal và cát lấy từ Sông Nile. Đối với người Ai Cập, ướp xác là công việc chuẩn bị trước khi mai táng người chết mang tính lễ nghi tôn giáo và chuẩn bị cho cuộc sống sau khi về với thế giới bên kia.
Người Ai Cập tin vào sự bất từ và hồi sinh sau khi chết. Vì thế thi hài người chết cần được bảo quản trong tình trạng tươi mới nhất, để có thể hấp thu lại linh hồn, trái tim và lý trí. Dĩ nhiên là ngày nay mọi người đều đã quá quen thuộc với những xác ướp Ai Cập xuất hiện trong phim ảnh vì kỹ thuật tinh vi hiệu quả của người Ai Cập khiến họ trở nên quá nổi tiếng. Theo ước tính của các nhà khoa học, tính đến thời điểm người Ai Cập
dừng việc ướp xác vào những năm 700 SCN thì họ đã ướp xác được 730 triệu người.
Ngày nay chúng ta đã hiểu rõ hơn về quy trình ướp xác của người Ai cập, thông qua sự miêu tả của sử gia Hy Lạp Herodotus ở thế kỉ thứ 5 sau CN:
(1) Não và các cơ quan nội tạng phải được tách khỏi xác và ngâm rửa trong rượu cọ. Sau đó các bộ phận đó được cất giữ trong các bình thảo dược đặc biệt.
(2) Cơ thể còn lại sau đó được bỏ thêm vào bột nhựa thơm và các chất nhựa khác cùng nước hoa trước khi được khâu lại.
(3) Tiếp theo, cơ thể được bảo quản trong kali nitrat trong 70 ngày.
(4) Sau 70 ngày, thi hài được rửa sạch lại một lần nữa và bọc lại trong cuộn băng mà ta vẫn thường thấy ở các xác ướp trong phim ảnh, game rồi được nhúng qua chất keo dính.
(5) Khi xử lý xong, xác ướp sẽ được đặt vào trong quan tài và đem đi chôn cất.
Tuy nhiên, quy trình qua các bước ở trên chỉ được thực hiện đối với các thành viên của gia đình quý tộc, còn đối với những tầng lớp khác trong xã hội thì quy trình này đơn giản hơn. Ví dụ như, thi hài sẽ được tiêm chất dầu chiết xuất từ cây tuyết tùng và ngâm trong kali nitrat trong 70 ngày. Sau đó, dầu tuyết tùng sẽ được hút ra cùng với các phần thịt của thi hài, trong khi da và xương đều được giữ lại. Đối với các gia đình nghèo khổ nhất trong xã hội, ruột được rút sạch và cái xác được ngâm trong kali nitrat trong khoảng thời gian ngắn hơn.
Tóm lại, nền văn minh Ai Cập cổ đại đã để lại cho nhân loại nhiều thành tựu tuyệt vời và đã có nhiều đóng góp trực tiếp đối với sự phát triển của nhiều lĩnh vực trong nền văn minh thế giới.