
BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
34
LỊCH SỬ RA ĐỜI VÀ PHÁT TRIỂN CỦA TRUYỀN
HÌNH
Có thể nói, hiện nay truyền hình là phương tiện truyền thông phổ biến
nhất thế giới. Hầu hết mọi người không có cơ hội trực tiếp gặp mặt các nguyên
thủ quốc gia, du hành tới mặt trăng, chứng kiến một cuộc chiến hay xem một
trận thi đấu thể thao…với truyền hình, họ có được cơ hội làm những việc đó.
Không chỉ là một phương tiện truyền thông, phương tiện giải trí thuần tuý, ngày
nay truyền hình còn được ứng dụng trong rất nhiều lĩnh vực của cuộc sống hiện
đại. Bộ phận an ninh sử dụng truyền hình như một công cụ bảo vệ, giám sát.
Ngành tàu điện ngầm dùng truyền hình để quản lý hệ thống đường tàu điện hay
ngầm hay để điều khiển con tàu từ xa. Các bác sĩ khám nội tạng bệnh nhân
bằng camera hiển vi thay vì mổ. Ngành giáo dục tiến hành đào tạo từ xa cũng
thông qua truyền hình.
Truyền hình là loại hình phương tiện thông tin đại chúng mới xuất hiện
từ khoảng giữa thế kỷ XX, nhưng đã phát triển rất nhanh chóng, mạnh mẽ và
được phổ biến hết sức rộng rãi trong vòng vài ba thập niên trở lại đây. Thế
mạnh đặc trưng của truyền hình là cung cấp thông tin dưới dạng hình ảnh (Kết
hợp âm thanh và ở mức độ nhất định cả với chữ viết) mang tính hẫp dẫn sinh
động, trực tiếp và tổng hợp. Từ đó, loại hình phương tiện truyền thông độc đáo,
đặc biệt này tạo nên được ở người tiếp nhận thông tin hiệu quả tổng hợp tức
thời về nhận thức và thẩm mỹ, trước hết là ở trình độ trực quan, trực cảm.
Bằng sự kết hợp các chức năng phản ánh- nhận thức thẩm mỹ- giải trí với
nhau, truyền hình ngày càng thu hút được nhiều khán giả. Vai trò, vị trí, ảnh
hưởng và tác động của truyền hình đối với công chúng nói chung, quá trình
hình thành và định hướng dư luận xã hội nói riêng đã và đang tăng lên nhanh
chóng.

BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
35
1.Truyền hình thế giới.
Truyền hình là hệ thống phát và thu hình ảnh và âm thành bằng những
thiết bị truyền dẫn tín hiệu từ qua cáp, sợi quang và quan trọng nhất là sóng
điện từ.
Những hệ thống truyền hình thật sự đầu tiên bắt đầu đi vào hoạt động
chính thức trong thập niên 40 của thế kỷ này, không lâu sau khi khái niệm
"truyền hình" được sử dụng với nghĩa như chúng ta vẫn hiểu ngày nay. Ngành
truyền hình thế giới đã phải trải qua một thời gian dài phát triển mới có được
thành tựu đó.
Năm 1873, nhà khoa học người Scotland James Cleck Maxwell tiên đoán
sự tồn tại của sóng điện từ, phương tiện chuyền tải tín hiệu truyền hình.
Cùng năm này, nhà khoa học người Anh Willoughby Smith và trợ lý
Joseph May chứng minh rằng điện trở suất cảu nguyên tố Selen thay đổi khi
được chiếu sáng. Phát minh này đã đưa ra khái niệm "suất quang dẫn", nguyên
lý hoạt động của ống vidicon truyền ảnh. 15 năm sau, năm 1888, nhà vật lý
người Đức Wihelm Hallwachs tìm ra khả năng phóng thích điện tử của một số
vật liệu. Hiện tượng này được gọi là "phóng tia điện tử", nguyên lý của ống
orthicon truyền ảnh.
Mặc dù nhiều phương thức chuyển đổi ánh sáng thành dòng điện tử đã
được phát minh và hoàn thiện nhưng hệ thống truyền hình đầu tiên vẫn chưa đủ
điều kiện để ra đời. Vấn đề cốt yếu là dòng điện tạo ra còn yếu và chưa tìm
sđược một phương pháp khuyếch đại hiệu quả. Mãi cho tới năm 1906, khi Lee
De Forest, một kỹ sư người Mỹ đăng ký sáng chế ống triode chân không thì vấn
đề mới được giải quyết.
1.1, Đĩa Nipkow

BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
36
Năm 1884, kỹ sư Paul Nipkow chế tạo thành công thiết bị thực nghiệm
truyền hình đầu tiên, đĩa Nipkow. Ông đặt chiếc đĩa có đục lỗ theo hình xoáy ốc
phía trước một bức tranh được chiếu sáng. Khi quay đĩa, lỗ thủng đầu tiên quét
qua điểm cao nhất của bức tranh, lỗ thứ hai quét thấp hơn lỗ đầu tiên một chút,
lỗ thứ 3 lại thấp hơn chút nữa,… và cứ như vậy cho tới tâm bức tranh. Để thu
được hình ảnh, Nipkow quay chiếc đĩa, sau mỗi vòng quay, tất cả các điểm của
bức tranh lần lượt hiện lên. Những chiếc đĩa tương tự quay ở điểm nhận. Khi
tốc độ quay đạt 15 vòng/'giây, ánh sáng đi qua hệ thống đĩa tái tạo được hình
ảnh tĩnh của bức tranh.
Thiết bị của Nipkow được sử dụng mãi tới thập kỷ 20 của thế kỷ này. Sau
đó kỹ thuật truyền ảnh tĩnh dựa trên hệ thống đĩa Nipkow được Jenkins và
Baird tiếp tục hoàn thiện. Những hình ảnh thu được tuy còn thô nhưng đã có thể
nhận ra. Thiết bị thu vẫn sử dụng đĩa Nipkow đặt phía trước một ngọn đèn được
điểu khiển độ sáng bằng tin hiệu từ bộ phận cảm quang phía sau đĩa ở thiết bị
phát. Năm 1926 Baird công bố một hệ thống truyền ảnh tĩnh sử dụng đĩa
Nipkow 30 lỗ.
Kỹ thuật này được gọi là phương pháp quét cơ học, hay phương pháp
phân tích cơ học.
1.2, Truyền hình điện tử.
Đồng thời với sự phát triển của phương pháp phân tích cơ học, năm 1908
nhà sáng chế người Anh Campbell Swinton đưa ra phương pháp phân hình điện
tử. Ông sử dụng một màn ảnh để thu nhận một điện tích thay đổi tương ứng với
hình ảnh, và một súng điện tử trung hoà điện tích này, tạo ra dòng biến tử biến
thiên. Nguyên lý này được Zworykin áp dụng trong ống ghi hình iconoscope,
bộ phận quan trọng nhất của camera. Về sau, chiếc đèn orthicon hiện đại hơn
cũng sử dụng một thiết bị tương tự như vậy.

BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
37
Năm 1878, nhà vật lý và hoá học người Anh, William Crookes phát minh
ra tia âm cực. Tới năm 1908, Campbell Swinton và Boris Rosing, người Nga,
độc lập nghiên cứu những kết qủa thu được của hai ông lại tương đồng. Theo
đó, hình ảnh được tái tạo bằng cách dùng một ống phóng tia âm cực (cathode-
rays, tube-CRT) bắn phá màn hình phủ phóphor. Trong suốt những năm 30,
công nghệ CRT được kỹ sư điện tử người Mỹ tên là Allen DuMont tập trung
nghiên cứu. Phương pháp tái hiện hình ảnh của DuMont về cơ bản giống
phương pháp chúng ta đang sử dụng ngày nay.
Ngày 13/1/1928, nhà phát minh Emst Alexanderson cho ra đời chiếc máy
thu hình áp dụng phương pháp phân hình điện tử đầu tiên trên thế giới tại
Schenectady, New York, Mỹ. Hình ảnh trên màn hình 76 mm (3 inch) xấu và
không ổn định nhưng máy thu hình vẫn phổ biến ở nhiều gia đình. Nhiều máy
thu kiểu này đã được sản xuất và bán tại Schenectady. Cũng tại đây, ngày 10/5/
1928, đài WGY bắt đầu phát sóng đều đặn.
1.3, Phát hình công cộng.
Trong khi đó chương trình truyền hình công cộng đầu tiên lại xuất hiện ở
London năm 1936. Những buổi phát hình này do 2 công ty cạnh tranh với nhau
thực hiện. Marconi- EMI phát bằng hình ảnh 405 dòng quét ngang với 25 mành
hình/ giây (25 frame/s) và hãng truyền hình Baird phát bằng hình ảnh 240 dòng
quét ngang cũng với 25 frame/s. Đầu năm 1937, hệ Marconi với chất lượng
hình ảnh tốt được chọn làm chuẩn. Năm 1941, Mỹ chấp nhận chuẩn 525 dòng
quét với 30 frame/s cho bộ phận giải của mình. Thánh 11/1937, BBC thực hiện
buổi phát hình ngoài trời đáng chú ý đầu tiên. Đó là buổi phát hình lễ đăng
quang của vua George VI tại công viên Hyde, London. BBC đã sử dụng một
máy phát xách tay đặt trên chiếc xe đặc biệt. Vài ngàn khán giả đã chứng kiến
buổi phát hình này.

BÁO CHÍ TRUYỀN HÌNH www.svbaochi.net
38
1.4, Truyền hình màu.
Ngay từ năm 1904 người ta đã biết rằng có thể chế tạo thiết bị truyền
hình màu bằng cách sử dụng 3 màu cơ bản là đỏ, lục và xanh. Năm 1928, Baird
cho ra mắt truyền hình màu dùng 3 bộ đĩa Nipkow quét hình ảnh. 12 năm sau,
Peter Goldmark chế tạo được hệ thống truyển hình màu với khả năng lọc tốt
hơn. Năm 1951 buổi phát hình màu đầu tiên đã sử dụng hệ thống của
Goldmark. Tuy nhiên, hệ thống này không thích hợp với truyền hình đơn sắc
nên cuối năm đó thí nghiệm bị hủy bỏ. Cuối cùng thì hệ thống truyển hình màu
thích hợp với truyền hình đơn sắc cũng ra đời năm 1953. Một năm sau, phát
hình màu công cộng lại xuất hiện.
Những bước phát triển tiếp theo của nghành truyền hình thế giới chỉ là
hoàn thiệt chất lượng truyền hình bằng những màn hình lớn hơn, công nghệ
phát và truyền dẫn tín hiệu truyền hình tốt hơn mà thôi. Những màn hình đầu
tiên chỉ đạt 18 hoặc 25 cách mạng (7 hoặc 10 inch) kích thước đường chéo.
Màn hình ngày nay có kích thước lớn hơn rất nhiều. Với sự ra đời của máy
chiếu, mán ảnh truyền hình có thể phục vụ những mán hình có kích thước
đường chéo lên tới 2m. Nhưng các nhà sản xuất cũng không quên phát triển
máy thu hình để nhỏ gọn, chẳng hạn một máy thu hình cỡ 3 inch (7,6 cm)
Ngày nay, ngành truyền hình thế giới đang từng bước chuyển dần từ công
nghệ tương tự (hay tuần tự- analog) sang truyền hình kỹ thuật số (digital). Từ
thập kỷ 80, hệ truyền hình độ nét cao (high-definition television - HDTV) sử
dụng kỹ thuật số bắt đầu được nghiên cứu.
1.5, Các giai đoạn phát triển của truyền hình thế giới
Truyền hình có mối liên hệ mất thiết với một số loại hình truyền thống
hay nghệ thuật khác như phát thanh, điện ảnh…Tuy nhiên, chỉ sau một vài thập
kỷ sơ khai, truyền hình đã tiến hành những bước dài và thực sự tách ra khỏi các
loại hình khác, trở thành phương tiện truyền thông độc lập và có sức mạnh to