BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
BÙI HUY TÙNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THÍ ĐIỂM SỬA ĐỔI PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN CHI PHÍ KHÁM CHỮA BỆNH BẢO HIỂM Y TẾ
THEO ĐỊNH SUẤT TẠI KHÁNH HÒA NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số chuyên ngành: 62.72.03.01
HÀ NỘI - 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Y TẾ CÔNG CỘNG
BÙI HUY TÙNG
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ THÍ ĐIỂM SỬA ĐỔI PHƯƠNG THỨC
THANH TOÁN CHI PHÍ KHÁM CHỮA BỆNH BẢO HIỂM Y TẾ
THEO ĐỊNH SUẤT TẠI KHÁNH HÒA NĂM 2014
LUẬN ÁN TIẾN SĨ Y TẾ CÔNG CỘNG
Mã số chuyên ngành: 62.72.03.01
Hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS. Vũ Thị Hoàng Lan
2. TS. Nguyễn Khánh Phương
HÀ NỘI - 2019
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin trân trọng bày tỏ lòng biết ơn tới:
PGS. TS. Vũ Thị Hoàng Lan và TS. Nguyễn Khánh Phương, hai giáo viên
hướng dẫn đã tận tình dạy dỗ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu, trực tiếp
hướng dẫn tôi thực hiện đề tài này.
Ban Giám hiệu trường Đại học Y tế công cộng, Phòng Đào tạo Sau đại học,
các cán bộ, giảng viên nhà trường đã luôn quan tâm, giúp đỡ tôi trong quá trình học
tập tại trường.
Lãnh đạo Bộ Y tế, Vụ Kế hoạch tài chính, Viện Chiến lược và Chính sách y
tế đã tạo điều kiện giúp tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và hoàn thành công trình
này.
Sở Y tế, Bảo hiểm xã hội hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Định đã giúp đỡ tôi
trong quá trình thu thập số liệu nghiên cứu; Ban Giám đốc, cán bộ, nhân viên 4 bệnh
viện (Diên Khánh, Khánh Vĩnh, Phù Cát, Vân Canh) và những người dân đã nhiệt
tình giúp đỡ tôi, tham gia nghiên cứu tích cực và có trách nhiệm.
Tôi xin chân thành cảm ơn các bạn bè, đồng nghiệp đã giúp đỡ, động viên tinh
thần để tôi hoàn thành luận án này.
Hà Nội, ngày 18 tháng 6 năm 2019
Bùi Huy Tùng
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết
quả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ một
công trình nào khác.
Tác giả luận án
Bùi Huy Tùng
i
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT.................................................................................. iv
DANH MỤC BẢNG ................................................................................................ vi
DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ ........................................................................ ix
ĐẶT VẤN ĐỀ ............................................................................................................ 1
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU ..................................................................................... 3
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU .................................................................. 4
1.1. Các khái niệm và định nghĩa ......................................................................... 4
1.2. Phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT ......................... 6
1.2.1. Vai trò của phương thức thanh toán .......................................................... 6
1.2.2. Thanh toán theo định suất: Nguyên tắc, ưu và nhược điểm ...................... 9
1.2.3. Thanh toán theo phí dịch vụ và theo nhóm chẩn đoán ............................ 13
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về thanh toán theo định suất và thực tế áp dụng tại
Việt Nam ............................................................................................................... 17
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về thanh toán theo định suất .................................. 17
1.3.2. Thực tế áp dụng thanh toán theo định suất tại Việt Nam ........................ 22
1.4. Thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất tại Khánh Hòa .................... 30
1.5. Sơ lược địa bàn nghiên cứu ......................................................................... 32
1.6. Khung lý thuyết nghiên cứu ........................................................................ 34
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ................... 37
2.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................... 37
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu định lượng ............................................................ 37
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu định tính ............................................................... 37
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu ............................................................... 37
2.2.1. Thời gian nghiên cứu ............................................................................... 37
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu ................................................................................ 38
2.3. Thiết kế nghiên cứu ...................................................................................... 38
2.4. Mẫu và chọn mẫu nghiên cứu ..................................................................... 40
2.4.1. Mẫu và chọn mẫu định lượng .................................................................. 40
ii
2.4.2. Mẫu và chọn mẫu định tính ..................................................................... 42
2.5. Phương pháp thu thập số liệu ..................................................................... 43
2.5.1. Phương pháp thu thập số liệu định lượng ................................................ 43
2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu định tính ................................................... 44
2.6. Biến số và nội dung nghiên cứu ................................................................... 44
2.7. Phương pháp phân tích số liệu .................................................................... 45
2.8. Đạo đức nghiên cứu ...................................................................................... 46
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .............................................................. 47
3.1. Một số thông tin chung ................................................................................ 47
3.2. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo
định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa .......................................... 56
3.2.1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT .................................. 56
3.2.2. So sánh sự thay đổi về sự hài lòng của người bệnh BHYT ..................... 67
3.3. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa
đổi phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh
Hòa ........................................................................................................................ 74
3.3.1. Chi phí KCB trung bình đầu thẻ .............................................................. 74
3.3.2. Chi phí KCB trung bình lượt ................................................................... 77
3.3.3. Chi phí KCB trung bình theo khoản mục ................................................ 81
3.3.4. Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ định suất .......................................................... 87
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN ....................................................................................... 92
4.1. Một số thông tin chung ................................................................................ 92
4.2. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo
định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa .......................................... 97
4.2.1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT .................................. 98
4.2.2. So sánh sự thay đổi về sự hài lòng của người bệnh BHYT ................... 108
iii
4.3. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa
đổi phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh
Hòa ...................................................................................................................... 111
4.3.1. Chi phí KCB trung bình đầu thẻ ............................................................ 111
4.3.2. Chi phí KCB trung bình lượt ................................................................. 113
4.3.3. Chi phí KCB trung bình theo khoản mục .............................................. 115
4.3.4. Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ định suất ........................................................ 119
4.4. Những hạn chế và giá trị của nghiên cứu ................................................. 122
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 126
KHUYẾN NGHỊ.................................................................................................... 128
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................................ 1
PHỤ LỤC 1. Nội dung thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất tại Khánh
Hòa ............................................................................................................................ 14
PHỤ LỤC 2. Biến số và nội dung nghiên cứu ...................................................... 22
PHỤ LỤC 3. Phiếu phỏng vấn người bệnh nội trú .............................................. 28
PHỤ LỤC 4. Hướng dẫn phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm .............................. 31
PHỤ LỤC 5. Một số kết quả nghiên cứu về phân bổ và sử dụng quỹ định suất
................................................................................................................................... 32
PHỤ LỤC 6. Một số kết quả nghiên cứu về sự hài lòng của người bệnh nội trú
trên 5 phương diện .................................................................................................. 38
iv
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Bảo hiểm xã hội BHXH
Bảo hiểm y tế BHYT
Bộ Tài chính BTC
Bệnh viện BV
Bệnh viện đa khoa BVĐK
Bộ Y tế BYT
Cán bộ y tế CBYT
Chuyên môn kỹ thuật CMKT
Chính phủ CP
Chẩn đoán hình ảnh CĐHA
Chăm sóc sức khỏe CSSK
Chăm sóc sức khỏe ban đầu CSSKBĐ
Cơ sở vật chất CSVC
Cơ sở y tế CSYT
Diagnostic Related Groups – Nhóm chẩn đoán tương đồng DRG
Dịch vụ kỹ thuật DVKT
Dịch vụ y tế DVYT
Định suất ĐS
Điều trị nội trú ĐTNT
Fee for service - Phí dịch vụ FFS
Gross Domestic Product - Tổng sản phẩm quốc nội GDP
Hội đồng bộ trưởng HĐBT
Health Strategy and Policy Institute – Viện Chiến lược và Chính sách Y HSPI
tế
Hệ thống y tế HTYT
Khám chữa bệnh KCB
Khám chữa bệnh ban đầu KCBBĐ
Kinh tế xã hội KTXH
v
Lao động – Thương binh xã hội LĐ-TBXH
Nghị định NĐ
Nghị quyết NQ
Ngân sách nhà nước NSNN
Nhân viên y tế NVYT
Phòng khám đa khoa PKĐK
Phương thức thanh toán PTTT
Phỏng vấn sâu PVS
Quyết định QĐ
Standard Deviation – Độ lệch chuẩn SD
Sức khỏe cộng đồng SKCĐ
Sở Y tế SYT
Thảo luận nhóm TLN
Thông tư TT
Trang thiết bị TTB
Thủ tướng TTg
Thông tư liên bộ TTLB
Thông tư liên tịch TTLT
Trung tâm y tế TTYT
Trạm y tế TYT
Trung ương TW
Ủy ban nhân dân UBND
Việt Nam đồng VNĐ
Vật tư y tế VTYT
Y tế công cộng YTCC
Y tế dự phòng YTDP
World Health Organization – Tổ chức Y tế thế giới WHO
vi
DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1. Cơ sở KCB thực hiện thanh toán theo định suất năm 2011 [2] ......... 23
Bảng 1.2. Tóm tắt nội dung thí điểm ..................................................................... 30
Bảng 2.1. Quy ước 3 nhóm chi phí để chọn người bệnh PVS ............................. 43
Bảng 3.1. Tổng quỹ định suất và tổng số thẻ BHYT ............................................ 47
Bảng 3.2. Suất phí trung bình theo nhóm thẻ ....................................................... 49
Bảng 3.3. Quỹ định suất tại các cơ sở KCB BHYT của Khánh Hòa .................. 50
Bảng 3.4. Quỹ định suất tại các cơ sở KCB BHYT của Bình Định .................... 50
Bảng 3.5. Tần suất KCB BHYT tại chỗ tỉnh Khánh Hòa ................................... 52
Bảng 3.6. Tần suất KCB BHYT tại chỗ tỉnh Bình Định ...................................... 52
Bảng 3.7. Tổng chi khám chữa bệnh BHYT tại chỗ ............................................ 53
Bảng 3.8. Tỷ lệ chuyển tuyến – BV đồng bằng ..................................................... 57
Bảng 3.9. Tỷ lệ chuyển tuyến – BV miền núi ........................................................ 57
Bảng 3.10. Tỷ lệ nhập viện – BV đồng bằng ......................................................... 58
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhập viện – BV miền núi ............................................................ 58
Bảng 3.12. Số xét nghiệm trung bình – BV đồng bằng ........................................ 60
Bảng 3.13. Số xét nghiệm trung bình – BV miền núi ........................................... 60
Bảng 3.14. Số chẩn đoán hình ảnh trung bình – BV đồng bằng ......................... 60
Bảng 3.15. Số chẩn đoán hình ảnh trung bình – BV miền núi ............................ 61
Bảng 3.16. Số đầu thuốc nội trú trung bình – BV đồng bằng ............................. 61
Bảng 3.17. Số đầu thuốc nội trú trung bình – BV miền núi ................................ 62
Bảng 3.18. Số đầu thuốc ngoại trú trung bình – BV đồng bằng ......................... 62
Bảng 3.19. Số đầu thuốc ngoại trú trung bình – BV miền núi ............................ 62
Bảng 3.20. Thời gian điều trị nội trú trung bình – BV đồng bằng ..................... 65
Bảng 3.21. Thời gian điều trị nội trú trung bình – BV miền núi ........................ 65
Bảng 3.22. Tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh – BV đồng bằng .......................................... 66
Bảng 3.23. Tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh – BV miền núi ............................................. 66
Bảng 3.24. Sự hài lòng của người bệnh – BV đồng bằng..................................... 68
Bảng 3.25. Sự hài lòng của người bệnh – BV miền núi ....................................... 69
vii
Bảng 3.26. Một số kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê về sự hài lòng của
người bệnh tại bệnh viện thí điểm ......................................................................... 71
Bảng 3.27. Chi phí KCB trung bình trên đầu thẻ BHYT .................................... 74
Bảng 3.28. Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV đồng bằng ............... 76
Bảng 3.29. Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV miền núi .................. 76
Bảng 3.30. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú BV đồng bằng ................................ 78
Bảng 3.31. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú BV miền núi ................................... 78
Bảng 3.32. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú BV đồng bằng ............................ 79
Bảng 3.33. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú BV miền núi ............................... 80
Bảng 3.34. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú theo khoản mục ở BV đồng bằng 82
Bảng 3.35. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú theo khoản mục ở BV miền núi ... 83
Bảng 3.36. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú theo khoản mục ở BV đồng bằng
................................................................................................................................... 85
Bảng 3.37. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú theo khoản mục ở BV miền núi
................................................................................................................................... 86
Bảng 3.38 . Tỷ lệ cơ sở khám chữa bệnh kết dư và bội chi quỹ định suất ......... 88
Bảng 3.39. Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ định suất ..................................................... 88
Bảng 4.1. Số thẻ BHYT theo 6 nhóm đối tượng ................................................... 32
Bảng 4.2. Tần suất KCB BHYT nội trú tỉnh Khánh Hòa ................................... 32
Bảng 4.3. Tần suất KCB BHYT nội trú tỉnh Bình Định ..................................... 33
Bảng 4.4. Tần suất KCB BHYT ngoại trú tỉnh Khánh Hòa ............................... 33
Bảng 4.5. Tần suất KCB BHYT ngoại trú tỉnh Bình Định ................................. 33
Bảng 4.6. Tần suất KCB BHYT tuyến xã của Khánh Hòa ................................. 34
Bảng 4.7. Tần suất KCB BHYT tuyến xã của Bình Định ................................... 34
Bảng 4.8. Tổng chi KCB BHYT tại chỗ các đơn vị của tỉnh Khánh Hòa .......... 35
Bảng 4.9. Tổng chi KCB BHYT tại chỗ các đơn vị của tỉnh Bình Định ............ 35
Bảng 4.10. Tổng chi KCB tại chỗ theo nhóm thẻ ................................................. 36
Bảng 4.11. Số kết dư/ bội chi quỹ tại các đơn vị nhận định suất tỉnh Khánh Hòa
................................................................................................................................... 37
viii
Bảng 4.12. Số kết dư/ bội chi quỹ tại các đơn vị nhận định suất tỉnh Bình Định
................................................................................................................................... 37
Bảng 4.13. Sự hài lòng về phương diện hữu hình - BV đồng bằng .................... 38
Bảng 4.14. Sự hài lòng về phương diện hữu hình - BV miền núi ....................... 39
Bảng 4.15. Sự hài lòng về phương diện tin cậy - BV đồng bằng ......................... 40
Bảng 4.16. Sự hài lòng về phương diện tin cậy - BV miền núi ............................ 40
Bảng 4.17. Sự hài lòng về phương diện đáp ứng - BV đồng bằng ...................... 41
Bảng 4.18. Sự hài lòng về phương diện đáp ứng - BV miền núi ......................... 41
Bảng 4.19. Sự hài lòng về phương diện đảm bảo - BV đồng bằng ..................... 42
Bảng 4.20. Sự hài lòng về phương diện đảm bảo - BV miền núi ........................ 42
Bảng 4.21. Sự hài lòng về phương diện cảm thông - BV đồng bằng .................. 43
Bảng 4.22. Sự hài lòng về phương diện cảm thông - BV miền núi ..................... 43
ix
DANH MỤC HÌNH VÀ BIỂU ĐỒ
Hình 1.1. Mô hình quan hệ 3 bên trong quy trình BHYT [93] ............................. 7
Hình 1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu .................................................................. 34
Hình 2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu ....................................................................... 39
Biểu đồ 3.1. Số thẻ BHYT tỉnh Khánh Hòa phân theo 6 nhóm đối tượng ........ 48
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ 6 nhóm thẻ BHYT tỉnh Khánh Hòa năm 2014 ...................... 48
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ phân bổ quỹ tới các cơ sở năm 2013 và 2014 của Khánh Hòa
................................................................................................................................... 51
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ chi nội trú và ngoại trú tại chỗ của Khánh Hòa năm 2013 và
2014 ........................................................................................................................... 53
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ chi ngoại trú tại TYT xã và BV huyện của Khánh Hòa năm
2013 và 2014 ............................................................................................................. 54
Biểu đồ 3.6. Tỷ trọng chi KCB đa tuyến và tại chỗ của Khánh Hòa năm 2013 54
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ chi KCB đa tuyến theo cơ sở năm 2013 .................................. 55
Biểu đồ 3.8. Số chi KCB đa tuyến theo nhóm thẻ năm 2013 ............................... 55
Biểu đồ 3.9. Chi phí KCB trung bình đầu thẻ tại 4 bệnh viện ............................ 75
Biểu đồ 3.10. Chi phí KCB trung bình lượt nội trú tại BV thí điểm .................. 77
Biểu đồ 3.11. Chi phí KCB trung bình lượt ngoại trú tại BV thí điểm .............. 79
Biểu đồ 3.12. Cơ cấu chi phí KCB nội trú BV đồng bằng trước thí điểm ......... 81
Biểu đồ 3.13. Cơ cấu chi phí KCB nội trú BV miền núi trước thí điểm ............ 83
Biểu đồ 3.14. Cơ cấu chi phí KCB ngoại trú BV đồng bằng trước thí điểm ..... 84
Biểu đồ 3.15. Cơ cấu chi phí KCB ngoại trú BV miền núi trước thí điểm ........ 85
1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Bảo hiểm y tế (BHYT) là một chính sách an sinh xã hội mang ý nghĩa nhân
đạo quan trọng. Sau hơn 20 năm thực hiện BHYT và 5 năm triển khai luật BHYT
2008, chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu như gia tăng số người tham gia BHYT,
góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ y tế và cung cấp nguồn tài chính công đáng kể
cho công tác khám chữa bệnh (KCB). Tính đến cuối năm 2013, 67% dân số Việt Nam
đã tham gia BHYT, trong đó có những nhóm đối tượng đạt tỉ lệ lên đến 100% như
nhóm hành chính, sự nghiệp, hưu trí; nhóm người nghèo và các nhóm đối tượng chính
sách khác đều duy trì tỉ lệ tham gia rất cao [73].
Để hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân vào 2020, đảm bảo tính công bằng,
hiệu quả trong cung cấp dịch vụ y tế (DVYT) thì nhu cầu xác định phương thức thanh
toán (PTTT) phù hợp đóng vai trò quan trọng. Phương thức thanh toán BHYT phổ
biến hiện nay ở nước ta là theo phí dịch vụ. Phương thức thanh toán này có đặc điểm
dễ dàng xây dựng và triển khai mà không cần nhiều nguồn lực, đồng thời khuyến
khích nhà cung cấp dịch vụ y tế cung ứng nhiều dịch vụ hơn, trong khi các dịch vụ
có mức chi phí hiệu quả cao hơn. Tuy nhiên, phương thức thanh toán theo phí dịch
vụ có rủi ro lớn. Đó là sự gia tăng tình trạng lạm dụng dịch vụ, leo thang chi phí y tế
và chi phí quản lý hành chính dẫn tới mất cân đối thu chi quỹ BHYT [15], [60].
Phương thức thanh toán theo định suất đã được áp dụng trên thế giới từ những
năm 1990 [83]. Đó là phương thức thanh toán một khoản tiền nhất định trên một đầu
thẻ đăng ký tại cơ sở cung ứng dịch vụ y tế trong một khoảng thời gian nhất định cho
một phạm vi dịch vụ được xác định trước [92]. Thanh toán theo định suất có thể làm
giảm chi phí tốn kém cho KCB, có thể giúp tăng cường các hoạt động dự phòng. Đến
thời điểm hiện nay, phương thức thanh toán này vẫn được Tổ chức Y tế Thế giới
(World Health Organization – WHO) đánh giá là một trong những phương thức thanh
toán tiên tiến và đã được nhiều nước áp dụng hiệu quả như: Thái Lan, Philippine, Hà
Lan, Đức… [93]. Vận dụng vào Việt Nam, Luật BHYT 2008 đã nêu rõ thanh toán
theo định suất là một trong ba PTTT được áp dụng để thanh toán chi phí khám chữa
bệnh BHYT tại nước ta [54]. Nghị định số 62/2009/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng
dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT đã khẳng định các cơ sở khám chữa bệnh
2
ban đầu sẽ áp dụng phương thức thanh toán theo định suất [32]. Thông tư số
09/2009/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện BHYT xác định lộ trình áp dụng
thanh toán theo định suất đến năm 2013 đạt 60% và đến năm 2015 đạt 100% [6].
Nhiều nghiên cứu khoa học đã kiểm chứng được ưu điểm của việc thực hiện phương
thức thanh toán theo định suất như nghiên cứu của Trần Quang Thông tại tỉnh Thanh
Hóa [64], Phạm Hùng Sơn tại tỉnh Đăk Lăk [59], Bùi Thị Cẩm Tú tại tỉnh Hải Dương
[61]...
Thực tế triển khai phương thức thanh toán theo định suất theo thông tư
09/2009/TTLT-BYT-BTC còn nhiều điểm bất cập về cả thiết kế cũng như quá trình
thực hiện và tác động [105]. Những bất cập chính của việc thực hiện thanh toán theo
định suất hiện nay được tổng kết là: Chưa kiểm soát được sự gia tăng chi phí KCB
BHYT, nguồn tài chính từ BHYT tập trung cho BV tuyến trên, mức chi trả chưa điều
chỉnh theo nhu cầu KCB, chưa có biện pháp kiểm soát chất lượng KCB BHYT, không
cân đối được quỹ định suất [2]. Từ nhu cầu giải quyết các điểm bất cập này, Bộ Y tế
đã lựa chọn tỉnh Khánh Hòa để thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất với những
nội dung chính là sửa đổi về đơn vị nhận định suất, phạm vi dịch vụ, cách thức xác
định quỹ định suất, nguyên tắc xử lý kết dư, bội chi [18]. Mục đích hướng tới của thí
điểm là đảm bảo nguồn lực và cơ chế tài chính phù hợp cho cung ứng dịch vụ y tế
chất lượng, gắn với kiểm soát chi phí dành cho y tế. Nghiên cứu “Đánh giá kết quả
thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo
định suất tại Khánh Hòa năm 2014” được thực hiện để góp phần đánh giá hiệu quả
sử dụng quỹ KCB BHYT thông qua việc kiểm soát chi phí, giảm tình trạng bội chi
và cải thiện chất lượng KCB ở bệnh viện tuyến huyện. Kết quả nghiên cứu có thể là
bằng chứng khoa học quan trọng giúp cho việc hoạch định chính sách phù hợp hơn,
từ đó nâng cao hiệu quả quản lý và sử dụng kinh phí của các cơ sở KCB và tăng
cường vai trò của y tế cơ sở và CSSK ban đầu.
3
MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU
1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán
theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa.
2. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa đổi
phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh
Hòa.
4
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN TÀI LIỆU
1.1. Các khái niệm và định nghĩa
Hệ thống y tế (HTYT) là một phức hợp bao gồm con người, các tổ chức và
nguồn lực được sắp xếp và liên kết với nhau bởi các chính sách nhằm thúc đẩy, phục
hồi và duy trì sức khỏe, đồng thời bao gồm các nỗ lực để tác động tới các yếu tố liên
quan tới sức khỏe và các hoạt động cải thiện sức khỏe [14].
Dịch vụ y tế (DVYT) bao gồm các dịch vụ liên quan đến chẩn đoán và điều trị
bệnh hay các dịch vụ KCB, phòng bệnh, phục hồi chức năng, bao gồm các dịch vụ
liên quan trực tiếp và gián tiếp đến con người [36].
Theo thông lệ quốc tế, mạng lưới cung ứng DVYT chia thành 3 cấp khác nhau
để đáp ứng nhu cầu khác nhau trong việc CSSK người dân [44]. Thứ nhất là CSSK
ban đầu, bao gồm cơ sở KCB và y tế dự phòng lồng ghép; thứ hai là DVYT chuyên
khoa; thứ ba là DVYT chuyên sâu tại các trung tâm chuyên sâu. Dịch vụ chuyên khoa
và chuyên sâu được chỉ định ở tuyến trên khi người bệnh được cơ sở CSSK ban đầu
chuyển đến [44].
Bảo hiểm y tế (BHYT) theo Tổ chức Y tế thế giới (World Health Organization
– WHO) là một hình thức bảo hiểm theo đó người mua bảo hiểm sẽ được cơ quan
bảo hiểm trả thay một phần hoặc toàn bộ chi phí khám chữa bệnh cũng như chi phí
mua thuốc men khám chữa bệnh. Bảo hiểm y tế dựa trên nguyên tắc chia sẻ rủi ro,
tạo điều kiện cho bệnh nhân được khám và điều trị dù không có đủ tiền trang trải số
chi phí khám chữa bệnh thực tế cho cơ quan y tế [89].
Quỹ BHYT là quỹ tài chính được hình thành từ nguồn đóng BHYT và các
nguồn thu hợp pháp khác, được sử dụng để chi trả chi phí KCB cho người tham gia
BHYT, chi phí quản lý bộ máy của tổ chức BHYT và những khoản chi phí hợp pháp
khác liên quan đến BHYT [136].
Phương thức thanh toán (Phương thức chi trả - Payment method) chi phí KCB
là cách phân bổ nguồn tài chính từ ngân sách của Chính phủ, từ quỹ bảo hiểm hoặc
từ những nguồn khác cho các cơ sở y tế Nhà nước và những cơ sở y tế tư nhân.
Phương thức thanh toán là công cụ quan trọng đối với bảo hiểm y tế (BHYT) để có
được những DVYT có chất lượng và hiệu quả từ nhà cung cấp [136].
5
Chi phí KCB là khoản tiền mà người dân hay Nhà nước phải bỏ ra để thanh
toán (chi trả) cho các cơ sở y tế (CSYT) khi họ đến khám bệnh và điều trị. Khoản chi
này được dùng để trả cho các DVYT, các kĩ thuật y tế, xét nghiệm, vật tư y tế [5],
[66].
Chi phí KCB BHYT là chi phí do các CSYT có ký hợp đồng KCB BHYT yêu
cầu thanh toán [1]. Chi phí KCB BHYT cùng thanh toán (cùng chi trả) là chi phí mà
BN BHYT phải thanh toán theo quy định cho từng nhóm đối tượng. Chi phí KCB
BHYT tự trả là chi phí mà BN BHYT phải tự thanh toán cho các DVYT ngoài phạm
vi thanh toán của BHYT (không bao gồm chi phí cùng thanh toán) [1].
Cơ sở KCB BHYT ban đầu là cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đầu tiên theo đăng
ký của người tham gia BHYT và được ghi trong thẻ BHYT [32]. Người tham gia
BHYT cư trú hoặc công tác tại huyện nào thì được đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở
KCB tuyến xã, tuyến huyện và tương đương trên địa bàn đó (họ cũng có thể thay đổi
nơi đăng ký KCB ban đầu mỗi quý) [13]. Ngoài ra, một số đối tượng tham gia BHYT
đặc biệt nếu có yêu cầu thì được lựa chọn nơi đăng ký KCB ban đầu khác [13], [54].
KCB BHYT tại chỗ là các dịch vụ KCB được thực hiện tại cơ sở đăng ký KCB
ban đầu của người có thẻ BHYT. KCB BHYT đa tuyến là các dịch vụ KCB được
thực hiện tại các tuyến trên tuyến KCB ban đầu [13]. Đa tuyến có thể là chuyển tuyến
hoặc vượt tuyến. Chuyển tuyến là việc thực hiện KCB BHYT ở tuyến trên theo chỉ
định chuyên môn đúng quy định của y bác sĩ. Vượt tuyến là tình trạng người bệnh tự
ý đến cơ sở KCB tuyến trên mà không có chỉ định chuyên môn của y bác sĩ [17].
Thanh toán theo định suất là phương thức thanh toán mà theo đó đơn vị cung
cấp dịch vụ y tế (DVYT) được trả một khoản tiền nhất định trên mỗi đầu thẻ đăng ký
tại đơn vị đó cho một phạm vi dịch vụ được xác định trước (khám bệnh, nằm viện…)
trong một thời gian xác định (thường là 12 tháng) để thanh toán cho toàn bộ các dịch
vụ theo gói dịch vụ đã thoả thuận trước cho người đăng ký KCB tại đó [7], [54], [92].
Suất phí là định mức chi phí KCB BHYT trung bình tính trên mỗi thẻ BHYT.
Suất phí cơ bản được tính toán dựa trên số thẻ BHYT đăng ký KCB ban đầu tại cơ sở
KCB (trừ các trường hợp thẻ BHYT do tỉnh khác phát hành đăng ký KCB ban đầu
tại cơ sở KCB đó) và suất phí theo 6 nhóm đối tượng [6].
6
Quỹ định suất là số tiền cơ sở KCB được BHXH thanh toán tính theo số thẻ
BHYT đăng ký và suất phí đã được xác định [18].
Tổng kết quỹ trong nghiên cứu này là tình trạng kết dư quỹ hoặc bội chi quỹ
của đơn vị nhận định suất sau khi thực hiện phương thức thanh toán. Kết dư quỹ là sự
chênh lệch thu – chi, trong đó tổng số thu lớn hơn tổng số chi của quỹ. Ngược lại với
kết dư là bội chi quỹ, xảy ra khi tổng số thu nhỏ hơn tổng số chi của quỹ.
Chất lượng KCB theo WHO là mức độ đạt được các mục tiêu của HTYT về
cải thiện sức khỏe và đáp ứng được sự mong đợi chính đáng của người dân [95].
Đánh giá chất lượng KCB có thể dựa trên các chỉ số đầu vào, chỉ số quá trình
hoặc chỉ số đầu ra. Chỉ số đầu vào bao gồm số giường bệnh, số lượng cán bộ, y bác
sĩ, chất lượng cán bộ, trang thiết bị, cơ sở vật chất… Chỉ số quá trình bao gồm các
chỉ số tổ chức KCB, thực hiện KCB, số xét nghiệm, số đầu thuốc, tư vấn của bác
sĩ… Chỉ số đầu ra bao gồm kết quả điều trị, thời gian điều trị nội trú, tỷ lệ chuyển
tuyến, sự hài lòng của người bệnh… [116], [95].
Sự hài lòng của người bệnh là đánh giá dựa trên cảm nhận của người bệnh đối
với việc chăm sóc y tế. Đây là khái niệm do Fitzpatric đưa ra và được sử dụng rộng
rãi trong nhiều nghiên cứu. Sự hài lòng của người bệnh chính là sự tích hợp giữa việc
cảm nhận về chất lượng dịch vụ mà họ thực sự được nhận và kinh nghiệm sẵn có hay
kỳ vọng của họ [102], [139].
1.2. Phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT
1.2.1. Vai trò của phương thức thanh toán
Các hoạt động bảo hiểm y tế có sự tham gia của ba bên bao gồm: (1) người sử
dụng dịch vụ CSSK (BN BHYT); (2) người mua dịch vụ CSSK (quỹ BHXH); (3)
người cung cấp dịch vụ CSSK (cơ sở KCB) [93]. Mô hình sau thể hiện mối quan hệ
giữa ba bên này:
7
Hình 1.1. Mô hình quan hệ 3 bên trong quy trình BHYT [93]
Ba bên này có mối quan hệ khăng khít, chặt chẽ với nhau nhằm đảm bảo hài
hòa lợi ích giữa các bên. Trong đó, người sử dụng dịch vụ CSSK chỉ trực tiếp thanh
toán (chi trả) một phần cho nhóm cung cấp dịch vụ CSSK mà quỹ BHXH sẽ đóng
vai trò là người mua và trực tiếp thanh toán cho các cơ sở KCB theo hợp đồng do hai
bên đã thỏa thuận. Người sử dụng BHYT có nhiệm vụ đóng phí, mua thẻ BHYT theo
quy định của cơ quan quản lý quỹ BHXH và được hưởng các quyền lợi KCB đã quy
định. Cơ quan quản lý quỹ BHXH không chỉ có nhiệm vụ xây dựng quỹ mà còn cần
xác định phạm vi, quyền lợi cho người sử dụng thẻ, đồng thời đảm bảo cung cấp các
DVYT cho người tham gia BHYT [93].
Việc lựa chọn một phương thức thanh toán hợp lí giữa cơ quan BHXH và cơ
sở KCB sẽ có ảnh hưởng rất lớn tới quyền lợi thực tế của người tham gia bảo hiểm,
và ảnh hưởng đến tính hấp dẫn của BHYT đối với cộng đồng. PTTT được các học
giả Harvard nhìn nhận như một trong 5 nút điều khiển hệ thống y tế (Tài chính, PTTT,
tổ chức, quy định pháp lý và truyền thông thay đổi hành vi) [122]. Thông qua tác
8
động khuyến khích về tài chính và phi tài chính, PTTT có thể làm thay đổi hành vi
của các tổ chức và cá nhân cung ứng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ [114]. Các ưu
đãi được tạo ra bởi PTTT và sự đáp ứng của cơ sở cung ứng dịch vụ đối với những
ưu đãi đó, hệ thống thông tin quản lý để hỗ trợ các PTTT và cơ chế trách nhiệm được
thiết lập giữa cơ sở cung ứng dịch vụ và người mua dịch vụ có thể có ảnh hưởng sâu
sắc đến cách thức phân bổ các nguồn lực CSSK và các dịch vụ được cung cấp. PTTT
sẽ giúp đạt được mục tiêu chính sách y tế bằng cách khuyến khích khai thác các
DVYT cần thiết cho người bệnh, các dịch vụ chăm sóc chất lượng cao và cải thiện sự
công bằng, đồng thời thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả và hiệu suất các nguồn lực một
cách thích hợp và tiết kiệm chi phí [115]. Ngược lại, các tác động khuyến khích có
thể dẫn đến những “rủi ro đạo đức” khi bên có ưu thế về thông tin có động cơ hành
động theo hướng làm lợi cho bản thân bất kể hành động đó có thể gây tổn hại cho bên
kém ưu thế thông tin [114].
Cải thiện chất lượng DVYT được coi là biện pháp tích cực để nâng cao hiệu
suất sử dụng nguồn lực tài chính và đem lại chi phí - hiệu quả cao. Mặt khác, các
công cụ tài chính, đặc biệt là PTTT cho cơ sở cung ứng dịch vụ có vai trò đặc biệt
quan trọng khuyến khích, thúc đẩy cải thiện chất lượng DVYT [133]. Để thực hiện
bao phủ CSSK toàn dân, cần áp dụng các PTTT với các yếu tố khuyến khích hợp lý,
nhằm sử dụng nguồn lực theo cách công bằng và với hiệu quả cao nhất, đồng thời tạo
động lực để hạn chế các “rủi ro đạo đức” (moral hazard), “hớt váng” (skimming), thu
phí không chính thức của người bệnh và hướng việc cung ứng dịch vụ tới các mục
tiêu bao phủ về chiều rộng, chiều sâu cũng như bảo vệ tài chính trong CSSK. Ngoài
ra, PTTT cần đáp ứng các yêu cầu kiềm chế gia tăng chi phí không hợp lý, trong đó
có sự kết hợp hài hòa các PTTT thích hợp cho các nhóm dịch vụ ưu tiên [35].
Việc lựa chọn, thiết kế PTTT phù hợp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện kinh
tế - xã hội của mỗi quốc gia cũng như phụ thuộc vào khả năng cung ứng DVYT, chất
lượng dịch vụ và năng lực quản lý của cơ quan BHXH và các cơ sở y tế. Theo kinh
nghiệm quốc tế, các nước thường kết hợp sử dụng hỗn hợp các PTTT khác nhau thay
vì chỉ sử dụng thuần túy một phương pháp. Việc kết hợp này giúp tận dụng những
mặt mạnh và hạn chế mặt tiêu cực của mỗi phương pháp.
9
1.2.2. Thanh toán theo định suất: Nguyên tắc, ưu và nhược điểm
Như đã trình bày trong phần 1.1, thanh toán theo định suất là phương thức
thanh toán mà theo đó đơn vị cung cấp dịch vụ y tế (DVYT) được trả một khoản tiền
nhất định trên mỗi đầu thẻ đăng ký tại đơn vị đó cho một phạm vi dịch vụ được xác
định trước (khám bệnh, nằm viện…) trong một thời gian xác định (thường là 12
tháng) để thanh toán cho toàn bộ các dịch vụ theo gói dịch vụ đã thoả thuận trước cho
người đăng ký KCB tại đó. Cơ sở KCB nhận định suất là đơn vị chịu rủi ro về mặt
tài chính khi đảm bảo cung ứng dịch vụ cho người tham gia bảo hiểm. Không có mối
liên hệ trực tiếp giữa mức khoán cho cơ sở KCB và chi phí KCB của từng cá nhân.
Như vậy, mục đích chính thanh toán theo định suất là tạo động cơ cho các nhà cung
cấp dịch vụ (cơ sở KCB) kiểm soát chi phí và thực hiện KCB có tính đến hiệu quả
chi phí [40].
Quỹ định suất là số tiền cơ sở KCB được cơ quan bảo hiểm xã hội giao tính
theo số thẻ BHYT đăng ký và suất phí xác định. Trong phương thức thanh toán theo
định suất, cơ sở KCB được trả một mức phí cố định, được thỏa thuận trước cho mỗi
đầu người đăng ký khám chữa bệnh tại cơ sở đó. Mức phí trả trước này được sử dụng
để trang trải chi phí cho một gói dịch vụ xác định trong một khoảng thời gian xác
định (thường là 1 năm) [7], [54], [92]. Mức phí thỏa thuận theo hợp đồng có thể đồng
nhất cho tất cả những người tham gia quỹ bảo hiểm y tế hoặc có thể khác nhau dựa
trên các yếu tố về tuổi, giới, bệnh tật và vùng miền [92].
Thanh toán theo định suất dựa vào giám sát đầu ra. Nguyên tắc thực hiện chính
của phương thức thanh toán này là tiền trả cho cơ sở khám chữa bệnh không phụ
thuộc vào số lượng dịch vụ cung cấp cũng như các đầu vào đã sử dụng. Do đó, rủi ro
tài chính và trách nhiệm đã chuyển từ cơ quan bảo hiểm y tế sang cơ sở khám chữa
bệnh. Nếu bệnh viện thực hiện việc khám chữa bệnh với chi phí lớn hơn số tiền đã
nhận được, bệnh viện phải chịu thiệt. Ngược lại, nếu hiệu quả hoạt động tốt, chi phí
nhỏ hơn số tiền đã nhận được, bệnh viện có thể giữ lại và tái đầu tư. Việc khoán quỹ
định suất hướng tới mục đích là tạo động cơ thay đổi hành vi của y bác sĩ để đạt được
các mục tiêu đề ra về kiểm soát chi phí, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực [77],
[92].
10
Ưu điểm của thanh toán theo định suất:
- Khả năng kiểm soát chi phí tốt
Thanh toán theo định suất mang yếu tố khuyến khích các cơ sở khám chữa
bệnh sử dụng hiệu quả, tiết kiệm các nguồn lực. Việc cung ứng dịch vụ với mức suất
phí xác định cho phép các bệnh viện chủ động hơn. Trách nhiệm về tài chính thúc
đẩy bệnh viện chỉ định dịch vụ hợp lý, tránh lãng phí. Đây là ưu điểm lớn nhất của
thanh toán theo định suất. Tình trạng gia tăng chi phí, lạm dụng dịch vụ tràn lan do
thanh toán theo phí dịch vụ sẽ không còn khi chuyển sang thanh toán theo định suất.
Xa hơn, việc nâng cao hiệu quả chi phí sẽ cho phép phục vụ được nhiều người hơn.
Điều này rất có lợi cho những quốc gia dân số đông, góp phần tích cực giải quyết tình
trạng quá tải bệnh viện [77], [96].
- Chi phí hành chính thấp
Mức chi phí hành chính, chi phí vận hành hệ thống thanh toán theo định suất
là không nhiều. So sánh với các phương thức thanh toán khác thì thanh toán theo định
suất cùng với thanh toán theo ngày điều trị có mức chi phí quản lý hành chính thấp
hơn so với thanh toán theo tổng ngân sách và thanh toán theo nhóm chẩn đoán. Trong
khi đó chi phí hành chính cho thanh toán theo phí dịch vụ là rất cao [96], [135].
- Giảm tải cho công tác kiểm tra, giám sát sử dụng quỹ bảo hiểm y tế
Trách nhiệm kiểm tra, giám sát được chuyển một phần từ cơ quan bảo hiểm
sang phía cơ sở cung ứng dịch vụ. Khả năng xảy ra lạm dụng quỹ sẽ được giảm tải
đáng kể khi bản thân cơ sở y tế và các y bác sĩ sẽ chủ động chỉ định, sử dụng dịch vụ
phù hợp nhằm tiết kiệm chi phí. Lãnh đạo cơ sở y tế sẽ trực tiếp quán triệt và kiểm
soát nhân viên của mình. Cơ quan bảo hiểm xã hội được giảm tải gánh nặng, và thực
tế sẽ tích cực hóa mối quan hệ với cơ sở y tế [77], [96], [99].
- Có thể làm tăng thu nhập cho y bác sĩ
Khi áp dụng nguyên tắc thanh toán: Được hưởng khi kết dư và tự bù khi bội
chi quỹ bảo hiểm y tế, cơ sở y tế có xu hướng làm tốt công việc để có kết dư quỹ.
Khoản tiền kết dư có thể sử dụng để tái đầu tư cho cơ sở. Thu nhập của cán bộ y tế
có thể được nâng cao thông qua việc sử dụng hiệu quả dịch vụ KCB, hạn chế các dịch
vụ không cần thiết [96], [99], [135].
11
- Tính công bằng được đảm bảo hơn
So với thanh toán theo phí dịch vụ, thanh toán theo định suất hướng tới tính
công bằng cao hơn. Khi trả trước phần phí dựa trên cơ sở số người đăng ký cho cơ sở
khám chữa bệnh, cơ sở yên tâm cung cấp dịch vụ. Tính công bằng được đảm bảo hơn,
người nghèo được tiếp cận dịch vụ một cách bình đẳng, không có sự phân biệt [99],
[135].
- Có lợi cho dự phòng và chăm sóc sức khỏe ban đầu
Thanh toán theo định suất tạo ra những yếu tố khuyến khích phối hợp các
chương trình, hoạt động chăm sóc sức khỏe ở các tuyến khác nhau trong những khu
vực dịch vụ phù hợp, ví dụ như dịch vụ chăm sóc nội trú tại bệnh viện với các chương
trình chăm sóc sức khỏe ban đầu ngay tại cộng đồng để giảm chi phí điều trị tại bệnh
viện (là dịch vụ có chi phí cao hơn). So với các phương thức thanh toán khác thì thanh
toán theo định suất đem lại tác động tốt nhất về mặt dự phòng [77], [96], [99], [135].
Nhược điểm của thanh toán theo định suất:
- Chất lượng dịch vụ có thể không đảm bảo
Do xu hướng tiết kiệm chi phí, bệnh viện thường hạn chế sử dụng dịch vụ, sử
dụng thuốc ít hơn hoặc dùng thuốc giá rẻ. Khi đó kết quả điều trị bị ảnh hưởng không
tốt, tỷ lệ khỏi bệnh sẽ giảm xuống. Xét trên góc độ người sử dụng dịch vụ thì quyền
lợi của người bệnh không đảm bảo. Mặt khác, thanh toán theo định suất thiếu yếu tố
khuyến khích cải tiến và cung cấp dịch vụ mới chất lượng cao vì nhà cung cấp đã
được thanh toán trước theo một mức cố định. Để hạn chế nhược điểm này có hai giải
pháp. Thứ nhất là tăng cường sử dụng hệ thống giám sát, kiểm soát chất lượng dịch
vụ. Thứ hai là cho phép khách hàng được thay đổi định kỳ nhà cung ứng dịch vụ, tức
là người bệnh được lựa chọn nhiều cơ sở khám chữa bệnh khác nhau tại địa phương
[49], [99], [135].
- Rủi ro về tài chính cho cơ sở khám chữa bệnh
Khi suất phí được tính toán không phù hợp, thấp hơn chi phí thực tế, rủi ro cho
bệnh viện là rất lớn vì không lường trước được số người mắc bệnh, số lần mắc bệnh
và độ trầm trọng của bệnh. Việc tính suất phí phải có đủ thông tin, đủ cơ sở khoa học
để suất phí tương đương với chi phí. Tính công bằng khi tính suất phí khó có thể đảm
12
bảo cho tất cả các bệnh viện, nhất là các bệnh viện đặc thù. Giải pháp cho vấn đề này
là sử dụng các hệ số điều chỉnh. Mặt khác việc sử dụng nguồn lực hợp lý trên cơ sở
thông tin chi phí và quỹ định suất không chỉ đơn thuần là cung cấp dịch vụ theo số
lượng quỹ có sẵn. Năng lực quản lý tài chính hạn chế của cơ sở y tế sẽ là rào cản đáng
kể khi thực hiện thanh toán theo định suất. Vấn đề này cần được quan tâm thấu đáo
[49], [99], [135].
- Tình trạng tăng chuyển tuyến
Khi thực hiện thanh toán theo định suất, cơ sở y tế tuyến dưới có thể chuyển
người bệnh lên tuyến trên quá nhiều. Có những trường hợp bệnh không nặng, không
nhất thiết phải chuyển tuyến nhưng để tiết kiệm chi, có khả năng cơ sở vẫn cho chuyển
lên tuyến trên. Điều này xét cho cùng cũng ảnh hưởng đến chất lượng khám chữa
bệnh và gây quá tải cho các bệnh viện lớn. Việc làm tốt công tác chuyên môn, quản
lý, giám sát các trường hợp chuyển tuyến tại cơ sở có thể giúp khắc phục tình trạng
này [49], [99].
- Yêu cầu cơ sở dữ liệu và thông tin về chi phí, về sử dụng dịch vụ.
Thanh toán theo định suất đặt ra yêu cầu về thông tin chi phí, dịch vụ với khả
năng dự báo, ước tính ngân sách một cách chính xác. Hiệu quả của thanh toán theo
định suất phụ thuộc rất nhiều vào việc tính suất phí. Để quỹ định suất được tính đúng,
tính đủ, ngoài vấn đề công thức và thiết kế, yêu cầu đặt ra là số liệu đầu vào phải
chính xác và đầy đủ. Những thông tin về chi phí, sử dụng dịch vụ phải được ghi chép
có hệ thống, và quản lý tốt để làm cơ sở phân tích, xác định quỹ và suất phí [49], [99],
[135].
- Hạn chế thực hành của bác sĩ
Vì thiếu yếu tố khuyến khích cải tiến và cung cấp dịch vụ mới chất lượng cao,
sự phát triển về chuyên môn của y bác sĩ, của cơ sở y tế vì vậy cũng sẽ bị ảnh hưởng.
Những dịch vụ mới, hiện đại hơn có thể cho kết quả điều trị cao hơn nhưng yêu cầu
chi phí đầu tư, chi phí vận hành, quản lý lớn sẽ không được bệnh viện ưu tiên lựa
chọn. Khi mà yêu cầu về giảm chi phí được đặt lên hàng đầu, tính sáng tạo, sự cải
tiến trong công tác khám chữa bệnh sẽ bị hạn chế. Để khắc phục điều này, những dịch
vụ kỹ thuật cao, chi phí lớn nên được tính ra ngoài phạm vi quỹ định suất. Thanh toán
13
theo phí dịch vụ có thể hữu dụng để khắc phục nhược điểm này của thanh toán theo
định suất [49], [135].
- Hạn chế về phạm vi áp dụng
Thanh toán theo định suất không thích hợp cho việc bao phủ các dịch vụ được
thanh toán trực tiếp ở mức cá thể người sử dụng, người sử dụng dịch vụ theo yêu cầu
hoặc những người không có bảo hiểm y tế. Hạn chế này cũng gặp ở thanh toán theo
tổng ngân sách, thường chỉ áp dụng cho dịch vụ được thanh toán từ các hệ thống quỹ
chung. Việc phối hợp các phương thức thanh toán khác nhau là cần thiết để bổ sung
cho thanh toán theo định suất [49], [99], [135].
1.2.3. Thanh toán theo phí dịch vụ và theo nhóm chẩn đoán
Bên cạnh thanh toán theo định suất thì thanh toán theo phí dịch vụ và thanh
toán theo nhóm chẩn đoán là hai PTTT được quy định áp dụng ở nước ta.
Thanh toán theo phí dịch vụ (Fee for service - FFS) là thanh toán theo thực tế
sử dụng dịch vụ cho người bệnh dựa trên giá của các dịch vụ được thỏa thuận. Cơ sở
cho phương thức thanh toán này là phí hoặc phần phí cung cấp dịch vụ được thanh
toán trực tiếp từ người sử dụng dịch vụ hoặc cơ quan đại diện cho họ (Bảo hiểm y tế)
theo từng dịch vụ đơn lẻ mà bệnh viện đã cung cấp theo mức phí ấn định được xác
lập bởi cơ quan quản lý việc cung cấp dịch vụ. Thanh toán theo phí dịch vụ tuân thủ
theo nguyên tắc của thị trường tự do. Người mua trả tiền cho mỗi thứ hàng hóa hoặc
dịch vụ mà anh ta mua, với giá theo quy luật cung cầu của thị trường tự do [30], [60].
Hình thức đơn giản của thanh toán theo phí dịch vụ là bảng giá viện phí, theo đó mỗi
dịch vụ được quy định bởi một khung giá. Giá cụ thể được quyết định và điều chỉnh
theo thời gian, theo tình hình kinh tế xã hội của từng vùng miền, địa phương trong
khung giá này.
Ưu điểm lớn nhất của thanh toán theo phí dịch vụ là thúc đẩy năng suất cung
cấp dịch vụ y tế của các cơ sở khám chữa bệnh và xa hơn là thúc đẩy công suất hoạt
động của cả hệ thống cung cấp dịch vụ y tế. Thanh toán theo phí dịch vụ cùng với
phương thức thanh toán theo nhóm chẩn đoán được đánh giá là nâng cao năng suất
sử dụng dịch vụ rõ rệt nhất, điều mà các phương thức thanh toán khác như thanh toán
theo định suất, thanh toán theo tổng ngân sách, thanh toán theo khoản mục không có
14
được. Thậm chí mức độ tăng năng suất của thanh toán theo phí dịch vụ được nghiên
cứu khẳng định là cao nhất [99]. Mặt khác, phương thức thanh toán này có thể được
các bệnh viện và người bệnh ủng hộ vì cả bệnh viện và người bệnh dễ được thỏa mãn
nhu cầu. Với thị trường dịch vụ y tế mà phần lớn người thanh toán bằng tiền túi cho
dịch vụ mình sử dụng thì thanh toán theo phí dịch vụ có thể được nhiều người cho là
hợp lý khi họ trả tiền cho những gì họ đã “mua”. Trong khi đó, các cơ sở khám chữa
bệnh có xu hướng cung cấp nhiều dịch vụ hơn, sử dụng nhiều dịch vụ đắt tiền, đặc
biệt là những dịch vụ mang lại nhiều lợi ích cho cơ sở. Do đặc điểm dễ dàng xây dựng
và triển khai mà không cần quá nhiều nguồn lực, các quốc gia trên thế giới trong đó
có Việt Nam đã áp dụng phương thức thanh toán này vào thời kỳ đầu triển khai khám
chữa bệnh bảo hiểm y tế [15], [60]. Hơn nữa, khả năng tiếp cận và cung ứng các dịch
vụ cũng được cải thiện hơn khi thanh toán theo phí dịch vụ.
Những nhược điểm chủ yếu của thanh toán theo phí dịch vụ là tình trạng lạm
dụng dịch vụ, leo thang chi phí y tế và chi phí quản lý hành chính dẫn tới mất cân đối
thu chi quỹ bảo hiểm y tế [15], [60]. Nhiều quốc gia trên thế giới đã từ bỏ thanh toán
theo phí dịch vụ vì lý do này. Bằng chứng ở nhiều nước khác nhau cho thấy rõ ràng
là phương thức thanh toán này khuyến khích nhà cung cấp dịch vụ cung cấp dịch vụ
quá mức cần thiết vì động cơ lợi nhuận [135]. Sự lạm dụng chủ yếu nhằm vào những
dịch vụ có mức phí cao hơn so với chi phí hoặc những dịch vụ mà mức phí chưa được
xác lập chính thức, nhất là những dịch vụ ứng dụng kỹ thuật cao. Việc sử dụng và
cung cấp dịch vụ quá mức cần thiết có thể làm hài lòng những người sử dụng dịch vụ
cho rằng dịch vụ đắt hơn và nhiều hơn đồng nghĩa với chất lượng và thái độ phục vụ
tốt hơn nhưng thực chất đây chính là tình trạng lãng phí nguồn lực. Phương thức này
được xem là nguyên nhân cơ bản, hàng đầu dẫn đến tình trạng bội chi quỹ bảo hiểm
y tế. Mặt khác, chi phí hành chính cho hệ thống thanh toán phí dịch vụ trực tiếp là rất
cao. Cả hai phía, cung cấp và thanh toán dịch vụ phải giải quyết những thủ tục tài
chính phức tạp với những định mức chi tiết không cần thiết của rất nhiều những dịch
vụ đơn lẻ [30].
Thanh toán theo nhóm chẩn đoán là phương thức thanh toán mà cơ sở khám
chữa bệnh được trả một khoản tiền cố định, được thỏa thuận trước, để điều trị một
15
trường hợp bệnh, được phân loại vào một “nhóm chẩn đoán” (Diagnosis Related
Group – DRG) [12], [7], [135]. Phương thức thanh toán này dựa trên cơ sở chi phí cả
gói để điều trị một trường hợp bệnh hay một nhóm chẩn đoán tương đồng. Các chi
phí được hạch toán bao gồm tất cả các dịch vụ được cung cấp cho một trường hợp
bệnh cụ thể trong suốt thời gian từ khi bệnh nhân được nhập viện tới khi ra viện. Mức
phí trung bình được xác định cho một gói dịch vụ với các trường hợp bệnh tương
đồng về chẩn đoán bệnh, dịch vụ cần sử dụng và chi phí cần thiết. Phía bệnh viện
được thanh toán một khoản phí xác định trước cho mỗi ca bệnh. Nếu chi phí thực tế
thấp hơn so với mức phí định trước thì phía bệnh viện được hưởng lợi nhuận. Ngược
lại, chi phí thực tế cao hơn thì bệnh viện phải bù chi phí [12], [97].
Thanh toán theo nhóm chẩn đoán phụ thuộc rất lớn vào hệ thống phân loại
nhóm chẩn đoán. Phương thức thanh toán có thể chỉ đơn giản là dựa trên một khung
giá định sẵn theo ca bệnh hay một hệ thống phức tạp gồm thông tin chi tiết các biểu
giá theo chẩn đoán, các quy trình và bảng kiểm. Năng lực kỹ thuật để vận hành
phương thức thanh toán cũng như những yêu cầu về thông tin chi phí, dịch vụ và kỹ
năng hạch toán chi phí dịch vụ là những điều kiện quan trọng để áp dụng thanh toán
theo nhóm chẩn đoán [12], [99], [135].
Ưu điểm của thanh toán theo nhóm chẩn đoán là dựa trên sự tối ưu hóa về hiệu
quả và chi phí. Trước tiên, phương thức thanh toán này khuyến khích cơ sở y tế cải
thiện năng suất và hiệu quả dịch vụ, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực. Thời gian
điều trị sẽ giảm, các chỉ định dịch vụ không cần thiết được giảm dần và loại bỏ. Thứ
hai, với mức thanh toán được xác định trước, phía cơ sở y tế sẽ chủ động hơn và dễ
dàng hơn khi lập kế hoạch ngân sách và kế hoạch hoạt động. Thứ ba, thanh toán theo
nhóm chẩn đoán không làm tăng thêm nguy cơ tài chính cho cơ sở y tế vì cơ sở luôn
được thanh toán theo lượng sản phẩm dịch vụ. Đây là một ưu điểm lớn nếu so với
thanh toán theo định suất. Công suất cung ứng dịch vụ khi áp dụng thanh toán theo
nhóm chẩn đoán sẽ tăng lên nhưng không tăng nhiều như thanh toán theo phí dịch vụ
(tăng do lạm dụng dịch vụ). Thứ tư, việc cập nhật và quản lý tốt cơ sở dữ liệu của
thanh toán theo nhóm chẩn đoán có tác động tích cực về chuyên môn y tế. Thông tin
về bệnh lý, chẩn đoán và điều trị là cơ sở cho các cải tiến kỹ thuật chuyên môn và
16
phác đồ điều trị có mức chi phí – hiệu quả cao nhất. Những quy trình chuẩn về chuyên
môn giúp ích cả cho phía y bác sĩ, cả cho phía người bệnh. Thứ năm, phương thức
thanh toán này tạo ra sự bình đẳng giữa cơ sở y tế công lập và ngoài công lập thông
qua việc xác định trước mức thanh toán với những điều khoản rõ ràng. Đây sẽ là yếu
tố khuyến khích sự phát triển của y tế tư nhân, nâng cao tính cạnh tranh trong môi
trường y tế. Cuối cùng, thanh toán theo nhóm chẩn đoán có khả năng áp dụng tốt cho
đối tượng người bệnh không có bảo hiểm y tế hoặc lựa chọn sử dụng dịch vụ theo
yêu cầu. Đây cũng là một ưu điểm lớn nếu so sánh với thanh toán theo định suất [12],
[97], [99], [135].
Thanh toán theo nhóm chẩn đoán cũng có nhiều nhược điểm. Như đã phân
tích ở trên, đây là phương thức thanh toán có yêu cầu cao về công tác xây dựng, chuẩn
bị về hệ thống. Việc phân chia nhóm chẩn đoán như thế nào, bao nhiêu nhóm, cần
phải được nghiên cứu kỹ lưỡng, cập nhật thường xuyên và chắc chắn sẽ tốn kém
nguồn lực. Việc xem xét mức thanh toán khác nhau theo mức độ kỹ thuật chuyên
môn của bệnh viện cũng cần được xem xét. Mức khác nhau có thể chỉ phù hợp với
một số trường hợp đặc biệt hoặc một số nhóm bệnh đặc thù, cần trình độ chuyên môn
sâu hơn. Ngược lại, một mức thanh toán chung có thể cũng không phù hợp nếu các
nhóm trường hợp bệnh cần mức chi phí cao chưa được tính với trọng số đầy đủ, khi
đó các bệnh viện chuyên khoa, tuyến trên có thể lại phải nhận mức thanh toán thấp
hơn chi phí thực tế. Thứ hai là yêu cầu về năng lực của cơ sở cung ứng dịch vụ trong
hạch toán chi phí và quản lý tài chính. Điều này cần có thời gian để từng bước xây
dựng năng lực cho các bệnh viện. Thứ ba, do hướng tới mục tiêu tăng lợi nhuận, nhà
cung cấp có thể cắt giảm các dịch vụ để giảm chi phí. Người bệnh có thể được cho ra
viện sớm, kết quả điều trị không đảm bảo trong khi đó số trường hợp nhập viện tăng
lên, tăng số lượt điều trị nội trú. Nhược điểm thứ tư là xuất hiện tình trạng “điều chỉnh
chẩn đoán”. Người bệnh có thể được chuyển sang nhóm chẩn đoán có mức thanh toán
cao hơn, hoặc cũng có thể xảy ra trường hợp cơ sở cung ứng dịch vụ từ chối các
trường hợp bệnh có chi phí điều trị vượt quá mức thanh toán. Thứ năm, việc thực
hiện phương thức này đòi hỏi yêu cầu cao hơn về công tác quản lý chi phí và chất
17
lượng dịch vụ. Chi phí giám sát sẽ lớn hơn so với thanh toán theo định suất [12], [97],
[99], [135].
1.3. Kinh nghiệm quốc tế về thanh toán theo định suất và thực tế áp dụng tại
Việt Nam
1.3.1. Kinh nghiệm quốc tế về thanh toán theo định suất
Thanh toán theo định suất có nguồn gốc ở California và được triển khai rộng
trên toàn nước Mỹ từ những năm 1990. Thanh toán theo định suất là một công cụ hữu
hiệu cho các nhà quản lý y tế kiểm soát chi phí cho chăm sóc sức khỏe [83], [103].
Theo đó, các tổ chức quản lý quỹ BHYT giao cho các nhà cung cấp dịch vụ một
khoản tiền trọn gói cố định cho mỗi BN hàng tháng hoặc hàng năm. Nếu nhà cung
cấp dịch vụ thực hiện KCB cho BN với chi phí thấp hơn số tiền đã nhận được thì tạo
ra lợi nhuận cho cơ sở đó. Còn ngược lại, nếu chi phí bỏ ra lớn hơn so với số tiền đã
nhận được thì nhà cung cấp dịch vụ phải chịu thiệt. Ý tưởng hình thành phương thức
thanh toán theo định suất là tạo ưu đãi cho CSYT “quyền cung cấp dịch vụ, vào đúng
thời điểm, đúng chỗ, với quyền sử dụng các nguồn lực” [90]. Câu chuyện về thanh
toán theo định suất là cuộc tranh luận kéo dài hàng thập kỷ giữa các bên liên quan
trong CSSK ở Mỹ để kiểm soát chi phí và chất lượng. Tuy nhiên thời điểm ngày nay
thì phương thức thanh toán theo định suất trở nên phổ biến và sử dụng ngày càng
rộng rãi, một phần là để hạn chế nguy cơ vỡ quỹ BHYT, một phần do cơ sở KCB
muốn có quyền tự chủ bằng cách thoát khỏi các công cụ kiểm soát chi phí khác [83].
Trên thế giới đã có một số nghiên cứu về triển khai thí điểm và đánh giá tác
động của thanh toán theo định suất. Tại Tây Ban Nha, một phần thu nhập tăng thêm
của các bác sĩ phụ thuộc vào kết dư quỹ định suất. Phần thu nhập này nhiều hay ít
được chứng minh rằng phụ thuộc vào tuổi của bệnh nhân khám chữa bệnh bảo hiểm
y tế tại cơ sở và đặc điểm dân số của địa phương. Thanh toán định suất có thành công
hay không phụ thuộc chặt chẽ vào trách nhiệm của địa phương, đặc biệt là công tác
quản lý quỹ bảo hiểm y tế [135]. Hầu hết các nghiên cứu đều sử dụng thiết kế nghiên
cứu trước – sau và có nhóm chứng để đánh giá tác động của phương thức thanh toán.
Nghiên cứu của Winnie Yip và Karen Eggleston (2004) tại Trung Quốc cho thấy
phương thức trả trước như thanh toán theo định suất và thanh toán theo nhóm chẩn
18
đoán (Diagnosis Related Group – DRG) dẫn đến sự giảm về chi phí do giảm lạm
dụng thuốc biệt dược đắt tiền và dịch vụ kỹ thuật cao so với thanh toán theo phí dịch
vụ. Nghiên cứu của Winnie Yip và các cộng sự về tác động của khoán quỹ tại Thái
Lan (2001) cũng cho thấy so với phương thức thanh toán theo phí dịch vụ thì thanh
toán theo định suất có thể là công cụ hữu hiệu để giảm sự gia tăng chi phí mà không
ảnh hưởng đến chất lượng KCB. Tuy nhiên, sự thành công của phương thức khoán
quỹ phụ thuộc vào nhiều yếu tố ví dụ như nguyên tắc/ cơ chế khoán quỹ, khả năng
quản lý và công tác kiểm tra, giám sát [137], [138].
Trong thanh toán theo định suất, không có mối liên hệ trực tiếp giữa mức
khoán cho cơ sở khám chữa bệnh và chi phí khám chữa bệnh của từng cá nhân. Nói
cách khác, cơ sở khám chữa bệnh sẽ không được thanh toán theo số lượng dịch vụ đã
cung cấp cho từng cá nhân. Mục đích chính của thanh toán theo định suất là tạo động
cơ cho các nhà cung cấp dịch vụ kiểm soát chi phí và thực hiện việc khám chữa bệnh
có tính đến hiệu quả chi phí. Một nghiên cứu ở Mỹ cho thấy thanh toán theo định suất
làm giảm 40% số bệnh nhân nội trú so với thanh toán theo phí dịch vụ và thời gian
điều trị trung bình cũng giảm từ 5,85 ngày xuống còn 3,97 ngày sau 8 năm. Thanh
toán theo định suất cũng cho phép cơ quan quản lý dễ dàng dự báo tổng chi phí cần
thiết cũng như kiểm soát hành vi của cơ sở khám chữa bệnh có hiệu quả hơn. Phương
thức thanh toán này có thể áp dụng được cả ở các nước có nền y tế cạnh tranh và nền
y tế phi cạnh tranh. Trong các hệ thống phi cạnh tranh thì thanh toán theo định suất
đòi hỏi các nhà quản lý phải chú trọng đến việc tính toán mức khoán cho phù hợp, có
tính đến các yếu tố dịch tễ học và dân số học. Đối với hệ thống y tế có cạnh tranh thì
việc tạo môi trường cho người tham gia bảo hiểm y tế tự do lựa chọn cơ sở khám
chữa bệnh là một trong những yếu tố rất quan trọng nhằm đảm bảo mặt bằng về chất
lượng khám chữa bệnh. Thí dụ tại Mỹ, thanh toán theo định suất khi được triển khai
đã làm cho Trung tâm y tế Kaiser, bang California trở thành trung tâm khám chữa
bệnh chất lượng cao và chi phí hợp lý nhất. Phương thức thanh toán đã tạo động cơ
cho các nhà cung cấp dịch vụ tối thiểu hóa chi phí để tối đa hóa sự chênh lệch giữa
mức nhận khoán và mức chi phí. Các bệnh viện phải nghĩ đến việc hợp lý hóa việc
sử dụng công nghệ cao, sử dụng các quy trình công nghệ và thủ thuật thay thế với chi
19
phí thấp hơn. Cơ sở khám chữa bệnh còn có thể quan tâm hơn đến công tác giáo dục
sức khỏe, lập phòng khám, tư vấn và chăm sóc sức khỏe ban đầu do chính họ quản
lý. Trung tâm Kaiser nói trên có 80% phụ nữ tham gia bảo hiểm y tế được tham gia
chương trình phát hiện sớm ung thư vú, trong khi tỷ lệ chung của cả nước Mỹ là 25%
[86], [111].
Một bài học khác từ khoán quỹ theo định suất tại Mỹ cho thấy: i) Không giao
khoán quỹ định suất cho 01 thầy thuốc tư nhân, mà phải giao cho cơ sở y tế có nhiều
thầy thuốc để tạo động cơ cùng chịu rủi ro nếu không cùng kiểm soát tốt chi phí; ii)
Không nên tạo rủi ro quá lớn cho cơ sở KCB bởi dễ làm méo mó đến các quyết định,
chỉ định của thầy thuốc; iii) Không giao khoán đối với các bệnh hoặc các thủ thuật
mà việc bố trí lại khoa phòng hoặc sự tác động của thầy thuốc không tạo ra sự thay
đổi về mặt tiết kiệm chi phí hoặc vượt quá năng lực thầy thuốc tại chỗ [86], [111].
Tổng kết kinh nghiệm về thanh toán định suất tại Mỹ cho thấy có ba nhóm
biến chính tác động đến định suất phí. Thứ nhất là các yếu tố dân số - xã hội như tuổi,
giới tính, nơi ở, thu nhập, trình độ văn hoá, độ lớn của số người trong một hộ gia đình
và tình trạng việc làm ảnh hưởng khoảng 20% đến sự biến thiên của quỹ. Thứ hai là
số liệu lịch sử về chi phí KCB, thường quyết định 60% mức quỹ định suất. Thứ ba là
các bệnh mãn tính gây ra sự khác biệt khoảng 15% [77].
Năm 2008, khi Bồ Đào Nha đứng trước những khó khăn to lớn về kinh tế, quỹ
bảo hiểm y tế bị thâm hụt nghiêm trọng. Nước này đã tiến hành thí điểm thay đổi
phương thức thanh toán từ phí dịch vụ sang thanh toán theo định suất. Thí điểm được
thực hiện trên 34 cơ sở y tế, nơi đang điều trị khoảng 4000 bệnh nhân. Việc kiểm soát
chi phí và chất lượng được thực hiện chặt chẽ. Số liệu về chi phí được tổng hợp và
báo cáo từng tháng. Việc điều chỉnh phương thức thanh toán cho thấy tác động làm
giảm chi phí rất rõ. Tuy nhiên nghiên cứu cho thấy mức giảm chi phí chỉ ở các khoản
xét nghiệm và thuốc, còn các chi phí khác ít thay đổi. Chi phí xét nghiệm giảm nhiều
còn chi phí thuốc giảm nhẹ. Tỷ trọng chi phí cho xét nghiệm giảm từ 49,6% xuống
30,3% trong năm 2011. Chi phí thuốc giảm gần 30% từ tháng 4 năm 2008 tới tháng
10 năm 2010 nhưng chi phí cho thủ thuật, máu và vật tư y tế tiêu hao hầu như không
giảm. Việc giảm chi phí xét nghiệm được đánh giá là do cắt giảm những chỉ định dịch
20
vụ không cần thiết. Chi phí thuốc giảm nhưng kết quả điều trị và tỷ lệ hài lòng của
người bệnh không bị ảnh hưởng [121].
Không phải quốc gia nào cũng thành công khi áp dụng thanh toán theo định
suất. Burkina Faso, một quốc gia ở Tây Phi thực hiện thanh toán theo định suất từ
năm 2004 với mục đích kiểm soát chi phí và tạo ra sự công bằng trong khám chữa
bệnh cho người dân. Tuy nhiên sau hơn một năm, tình trạng bội chi quỹ đã xảy ra và
ngày càng trở nên nghiêm trọng. Mức bội chi quỹ lên tới gần 20.000 đô la vào năm
2010. Một trong những nguyên nhân chính của tình trạng này là do Burkina Faso
không kiểm soát được giá thuốc. Do điều kiện kinh tế kém phát triển, hầu hết thuốc
điều trị của nước này đều là nhập khẩu. Giá thuốc tăng cao trong khi suất phí thấp
dẫn đến quỹ bảo hiểm y tế bị thâm hụt. Bên cạnh đó, công tác quản lý kém, y bác sĩ
thiếu động lực làm việc dẫn đến chất lượng dịch vụ không được kiểm soát [123].
Gần đây phương thức thanh toán theo định suất cũng được thí điểm ở Ghana
năm 2010, tại khu vực Ashanti. Khu vực này nằm ở vị trí trung tâm với cơ sở hạ tầng
đa dạng. Sau khi có kết quả đánh giá việc triển khai đề án vào cuối năm 2013, phương
thức này được triển khai rộng rãi các khu vực khác của Ghana [76]. Kết quả nghiên
cứu mô tả kiến thức, thái độ người cung cấp DVYT và bệnh nhân về phương thức
thanh toán theo định suất khu vực Ashanti của Ghana cho thấy 97,9% người bệnh
được phỏng vấn đã nghe nói về định suất. Khoảng 61,2% người bệnh cho rằng vai
trò của PTTT định suất là không quan trọng với họ. Khoảng 94% cán bộ y tế cũng tin
rằng người bệnh không thích hệ thống thanh toán theo định suất. Kết quả bước đầu
của nghiên cứu này đưa ra khuyến nghị cần tăng cường sự hiểu biết về phương thức
thanh toán theo định suất chính là chìa khoá để đảm bảo việc áp dụng và triển khai
thành công phương thức này [76].
Phần lớn các quốc gia lựa chọn phương án kết hợp phương thức thanh toán
theo định suất với các PTTT khác như phí dịch vụ và thanh toán theo nhóm chẩn đoán
để khắc phục những điểm yếu của từng loại phương thức [62]. Các nước áp dụng
thanh toán theo định suất kết hợp với phí dịch vụ có thể kể đến là: Séc, Đan Mạch,
Phần Lan, Ý, New Zealand, Na Uy, Bồ Đào Nha, Slovakia, Vương quốc Anh, Ấn Độ.
Các nước áp dụng cùng với khoán ngân sách và nhóm chẩn đoán như: Úc, Séc, Đan
21
Mạch, Đức, Na Uy, Hungary, Hà Lan, Ba Lan, Bồ Đào Nha. Một số nước Châu Á đã
áp dụng định suất cho các dịch vụ ngoại trú và cả nội trú như: Thái Lan, Philippines,
Mông Cổ, Lào [93].
Thái Lan là một trong những quốc gia áp dụng thành công phương thức thanh
toán theo định suất [93]. Ban đầu, “Chương trình chăm sóc sức khỏe toàn dân” áp
dụng định suất cho cả nội trú và ngoại trú, nhưng đã bắt đầu áp dụng thanh toán theo
nhóm chẩn đoán cho BN nội trú từ năm 2008. Cả hai phương thức thanh toán này đã
được chứng minh hiệu quả trong kiểm soát chi phí, cho phép dần dần mở rộng gói
dịch vụ được bao phủ [126]. Theo bài học của Thái Lan, cơ sở nhận định suất phải
đảm bảo cung ứng dịch vụ toàn diện cho người tham gia bảo hiểm y tế đăng ký tại
đó, có như vậy thì việc lạm dụng chuyển tuyến để tiết kiệm chi phí mới được giải
quyết. Suất phí được quy định không bao gồm các bệnh quá nặng chi phí cao như mổ
tim hở, chạy thận nhân tạo, cấy ghép tạng và tuỷ sống (các dịch vụ này được trả theo
phí dịch vụ). Đơn vị ký hợp đồng chính, sẽ ký hợp đồng phụ với tuyến trên hoặc
tuyến dưới nhằm đảm bảo thuận tiện cho người có thẻ đi khám chữa bệnh cũng như
đảm bảo công tác khám chữa bệnh cho các bệnh nhân cần điều trị tại tuyến cao hơn.
Đã có sự gia tăng cạnh tranh giữa khu vực tư nhân và công lập đối với các dịch vụ kỹ
thuật cao chi phí lớn thông qua việc áp dụng các quy chế đảm bảo chất lượng khám
chữa bệnh. Nội bộ cơ sở khám chữa bệnh đã có sự chuyển biến rõ rệt trong việc bố
trí thay đổi nhân lực cũng như vị trí khoa phòng làm việc nhằm đảm bảo hiệu quả chi
phí [137], [138].
Thái Lan tính toán suất phí được dựa trên số lần sử dụng dịch vụ bình quân
đầu người một năm và chi phí bình quân một đợt điều trị nội và ngoại trú. Để đảm
bảo dịch vụ được cung cấp với chất lượng tốt cần có quy trình giám sát tốt, phù hợp
đồng thời phải xây dựng một hạ tầng cơ sở dữ liệu tốt để phục vụ công tác phân tích,
đánh giá. Suất phí được điều chỉnh hằng năm dựa trên số liệu về những sự thay đổi
trong tần suất sử dụng DVYT và dự báo những thay đổi trong chi phí. Các BV không
nhận trợ cấp trực tiếp từ ngân sách Nhà nước để cung cấp DVYT và thu nhập chủ
yếu là từ các quỹ BHYT. Theo quy định áp dụng định suất, các BV phải chi dưới
tổng số kinh phí được cung cấp theo định suất và không có khoản bổ sung nếu bội
22
chi [137], [138]. Các yếu tố này khuyến khích cung cấp dịch vụ hiệu quả hơn, nhưng
cũng có thể dẫn đến BN nặng bị chuyển sang cơ sở y tế khác hoặc cơ sở y tế cung
cấp dịch vụ chất lượng kém hơn để tiết kiệm kinh phí.
Các nhà nghiên cứu Thái Lan đã thấy có bằng chứng là một số BV có nguy cơ
phải điều trị BN nặng hơn, với chi phí cao hơn. Vì vậy, khi thiết kế phương thức
khoán quỹ định suất, có những khoản bổ sung ngoài định suất với một số bệnh cụ thể,
ví dụ: mổ tim hở, mổ thần kinh, hóa trị đối với ung thư, v.v. Tai nạn có thể xảy ra ở
gần BV không phải là cơ sở mà nạn nhân đã đăng ký BHYT. Vì vậy, Thái Lan đã xây
dựng quy định các trường hợp tai nạn sẽ được thanh toán theo phương thức phí dịch
vụ nếu điều trị tại BV không phải nơi đăng ký ban đầu [137], [138]. Thái Lan cũng
yêu cầu các BV phải thành lập đơn vị CSSK ban đầu. BV cũng phải học cách quản
lý thuốc hiệu quả hơn, giảm sử dụng thuốc biệt dược mà sử dụng thuốc gốc.
Khi xảy ra tình trạng bội chi ở một số đơn vị nhận định suất ở Thái Lan, hai
nguyên nhân chính đã được chỉ ra. Thứ nhất là tần suất sử dụng dịch vụ của người
dân đăng ký ban đầu tại một số cơ sở cao hơn. Thứ hai là chi phí lao động ở vùng
thuận lợi cao hơn vì người dân có mức sống cao hơn. Giải pháp khắc phục nguyên
nhân thứ nhất là bổ sung kinh phí cho các đơn vị dựa trên chỉ số số lần sử dụng dịch
vụ/ đầu thẻ. Nguyên nhân thứ hai khó khắc phục hơn do sự khác biệt kinh tế xã hội
giữa các vùng miền. Những hệ số điều chỉnh cần thiết đang được nghiên cứu xác định
[137], [138].
1.3.2. Thực tế áp dụng thanh toán theo định suất tại Việt Nam
1.3.2.1. Thí điểm thanh toán theo định suất
Phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất đã được thí điểm
thực hiện ở nước ta từ năm 2001 tại BV Đa khoa huyện Vĩnh Tường, tỉnh Vĩnh Phúc
và được triển khai thí điểm trên nhiều BV từ năm 2005 đến 2008 [62]. Luật BHYT
được Quốc hội thông qua năm 2008 và chính thức có hiệu lực từ 01/07/2009 đã nêu
rõ thanh toán theo định suất là một trong ba phương thức thanh toán được áp dụng để
thanh toán chi phí KCB BHYT [43]. Nghị định 62/2009/NĐ – CP hướng dẫn thực
hiện luật BHYT đã khẳng định các cơ sở KCB BHYT ban đầu sẽ áp dụng phương
thức thanh toán theo định suất [32]. Sau đó Thông tư số 09/2009/TTLT – BYT – BTC
23
hướng dẫn thực hiện BHYT ngoài việc hướng dẫn chi tiết việc thực hiện khoán quỹ
theo định suất còn xác định lộ trình áp dụng thanh toán theo định suất [6]. Theo đó,
đến năm 2011 có ít nhất 30% cơ sở đăng ký KCB BHYT ban đầu thực hiện phương
thức này, đến năm 2013 tỉ lệ này tăng lên 60% và kì vọng đến năm 2015 đạt 100%.
Phương thức thanh toán theo định suất được triển khai rộng rãi tại các địa phương
theo lộ trình quy định. Từ quý I/2011, trừ thành phố Hồ Chí Minh còn lại tất cả các
địa phương đã triển khai thực hiện thanh toán theo định suất [2].
Bảng 1.1. Cơ sở KCB thực hiện thanh toán theo định suất năm 2011 [2]
Tỷ lệ trong số các Tỷ lệ trong số
Loại cơ sở KCB Số lượng cơ sở KCB cùng các cơ sở KCB
loại theo định suất
BV tuyến trung ương 7 13,0% 0,5%
BV tuyến tỉnh và tương 73 13,4% 5,4% đương
BV huyện và tương 755 55,8% 55,5% đương
Trạm y tế và tương đương 525 5,8% 38,6%
Tổng cộng* 1360 12,4% 100%
* Trong đó có 118 cơ sở y tế tư nhân (chiếm 31% tổng số các cơ sở y tế tư
nhân ký hợp đồng với cơ quan Bảo hiểm xã hội)
Tính đến thời điểm 2011 cả nước có 1.360 cơ sở KCB thực hiện thanh toán
theo định suất. Nhìn chung phương thức thanh toán theo định suất đã tạo sự chủ động
cho các BV trong điều hành kinh phí của BV, nâng cao trách nhiệm của các bên liên
quan trong việc quản lý, sử dụng hiệu quả nguồn kinh phí BHYT. Các cơ sở KCB đã
có sự cân nhắc trong việc chỉ định điều trị để giảm các chi phí không cần thiết mà
không ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Tuy nhiên thực tiễn quá trình triển khai thực
hiện thanh toán theo định suất trên các CSYT cũng bộc lộ những khó khăn cần phải
nghiên cứu và điều chỉnh kịp thời. Thiết kế định suất tại Việt Nam hiện nay không
bao gồm chăm sóc sức khỏe ban đầu, quỹ định suất bao gồm cả chi phí đa tuyến và
điều này sẽ làm nảy sinh nhiều hệ quả bất cập. Cụ thể là áp dụng một mức giá chi phí
24
dịch vụ cố định cho một dịch vụ cung cấp luôn thay đổi, tình trạng BN vượt tuyến
khó kiểm soát ở nước ta đã dẫn tới khả năng thừa quỹ hay vỡ quỹ định suất tại các
tuyến. Bên cạnh đó, những vấn đề liên quan đến phạm vi áp dụng, cách xác định
phạm vi thanh toán, cách tính quỹ định suất, việc xác định hệ số điều chỉnh cũng là
những vấn đề cần nghiên cứu giải quyết [105].
1.3.2.2. Quy định hiện nay về thanh toán theo định suất
Theo Thông tư 09/2009/TTLT – BYT – BTC [6], quỹ thanh toán cho BV theo
định suất là tổng quỹ định suất của sáu nhóm đối tượng: Nhóm làm công ăn lương;
Nhóm đối tượng chính sách; Nhóm người nghèo; Nhóm trẻ em dưới 6 tuổi; Nhóm
học sinh; Nhóm tự nguyện nhân dân. Quỹ này không vượt quá tổng quỹ KCB (90%
tổng thu).
Suất phí cơ bản được tính riêng rẽ theo 6 nhóm đối tượng và dựa trên chi phí
KCB được thanh toán năm trước của từng tỉnh.
Công thức tính quỹ định suất cho các cơ sở KCB như sau:
F = ∑ Mi × Ni × k
Trong đó:
F là quỹ định suất của cơ sở KCB
Mi là suất phí trung bình của nhóm đối tượng i được tính bằng cách chia tổng
chi phí KCB của nhóm đối tượng i năm trước trên địa bàn tỉnh cho tổng số thẻ BHYT
của nhóm i trong năm trước. Tổng chi phí này bao gồm cả chi phí chuyển tuyến và
chi phí thanh toán trực tiếp của nhóm đối tượng đăng ký tại cơ sở KCB đó nhưng lại
tự chọn điều trị tại nơi khác (gọi tắt là chi phí đa tuyến).
Ni là tổng số thẻ BHYT của nhóm đối tượng i đăng ký năm nay.
k là hệ số điều chỉnh do biến động về chi phí KCB và yếu tố liên quan khác
của năm sau so với năm trước (k tạm tính là 1,1).
Sử dụng quỹ định suất: Quỹ định suất được sử dụng để thanh toán chi phí KCB
theo chế độ BHYT cho người có thẻ BHYT đăng ký KCB tại cơ sở đó, kể cả chi phí
KCB tại trạm y tế xã, tại các CSYT khác và thanh toán trực tiếp theo quy định.
25
Thông tư liên tịch số 41/2014/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo hiểm
y tế [7] xác định quỹ định suất: Quỹ định suất giao cho cơ sở y tế hằng năm bằng suất
phí nhân với tổng số thẻ BHYT đăng ký khám bệnh, chữa bệnh BHYT ban đầu trong
năm và được điều chỉnh theo hệ số k.
Trong đó, suất phí được xác định theo tuyến chuyên môn kỹ thuật, bằng tổng
chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT theo tuyến chuyên môn kỹ thuật năm trước chia
cho tổng số thẻ BHYT đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu cùng tuyến chuyên
môn kỹ thuật năm trước.
Tổng chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT theo tuyến chuyên môn kỹ thuật
năm trước là chi phí khám bệnh, chữa bệnh của người có thẻ BHYT do tổ chức Bảo
hiểm xã hội địa phương phát hành, đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu tại các cơ
sở y tế thuộc tuyến đó, bao gồm: chi phí tại các cơ sở y tế cùng tuyến chuyên môn kỹ
thuật trong và ngoài tỉnh, chi phí khám bệnh, chữa bệnh tại cơ sở y tế khác ngoài nơi
người bệnh đăng ký ban đầu.
Hệ số k là hệ số điều chỉnh do biến động về chi phí khám bệnh, chữa bệnh và
các yếu tố liên quan khác của năm sau so với năm trước. Hệ số k áp dụng năm 2015
là 1,10; từ năm 2016 điều chỉnh theo chỉ số giá nhóm thuốc và dịch vụ y tế của năm
trước liền kề do Tổng cục Thống kê công bố. Chi phí vận chuyển, chạy thận nhân tạo,
ghép bộ phận cơ thể người, phẫu thuật tim, can thiệp tim mạch, điều trị bệnh ung thư,
bệnh hemophilia và phần chi phí cùng thanh toán của người bệnh không tính vào tổng
quỹ định suất.
Trường hợp quỹ định suất có kết dư thì cơ sở y tế được hạch toán phần kết dư
được để lại vào nguồn thu của đơn vị sự nghiệp. Số kết dư được để lại tối đa không
quá 20% quỹ định suất, phần còn lại chuyển vào quỹ khám bệnh, chữa bệnh chung
của tỉnh để quản lý, sử dụng.
Trường hợp quỹ định suất thiếu hụt:
- Do nguyên nhân khách quan như tăng tần suất khám bệnh, chữa bệnh, áp
dụng kỹ thuật mới có chi phí lớn thì tổ chức Bảo hiểm xã hội xem xét và thanh toán
tối thiểu 60% chi phí vượt quỹ.
26
- Do nguyên nhân bất khả kháng như dịch bệnh bùng phát, tỷ lệ người mắc
bệnh nặng, chi phí lớn quá cao so với dự kiến ban đầu thì Bảo hiểm xã hội cấp tỉnh
thống nhất với Sở Y tế xem xét, thanh toán bổ sung cho cơ sở y tế. Trường hợp quỹ
khám bệnh, chữa bệnh của tỉnh không đủ để bổ sung thì báo cáo Bảo hiểm xã hội
Việt Nam xem xét, giải quyết.
1.3.2.3. Một số nghiên cứu đánh giá về thực hiện thanh toán theo định suất
- Vấn đề phân bổ và sử dụng quỹ
Theo báo cáo của cơ quan BHXH Việt Nam, tình trạng bội chi quỹ định suất
trong năm 2010 là tương đối phổ biến (134/375 đơn vị, chiếm xấp xỉ 36% tổng số cơ
sở KCB thực hiện) [2]. Đến năm 2011 cả nước đã có 418 cơ sở KCB có kết dư quỹ
định suất với số tiền là 622 tỷ nhưng số cơ sở bội chi lên tới 272 cơ sở với số tiền bội
chi lên tới 864 tỉ đồng [16]. Một số nguyên nhân của tình trạng bội chi được xác định
là: Mức chi phí năm trước (căn cứ để tính suất phí) chưa được tính đầy đủ, nếu năm
sau cơ sở KCB triển khai dịch vụ hoặc kỹ thuật mới thì sẽ dẫn đến bội chi; Hệ số gia
tăng chi phí (k = 1,1) có thể là thấp so với thực tế; Phân bố nhóm đối tượng đăng ký
KCB ban đầu không đồng đều giữa các cơ sở KCB: Cơ sở nào có nhiều đối tượng
thuộc nhóm 1 (công nhân viên chức), nhóm 5 (học sinh, sinh viên) sẽ có nguy cơ bội
chi thấp hơn do các nhóm này mức đóng cao (nhóm 1) và tần suất KCB thấp [62].
Phương thức thanh toán theo định suất đã có tác động mạnh mẽ đến kiểm soát
gia tăng chi phí KCB BHYT. Tuy nhiên thực tế tình trạng bội chi vẫn còn phổ biến ở
nhiều bệnh viện tuyến huyện. Có thể lấy trường hợp BV Đa khoa huyện Hà Trung,
tỉnh Thanh Hóa làm ví dụ. Năm 2009, quỹ định suất bội chi trên 2 tỷ đồng (chiếm
36,1% quỹ khoán). Nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất cân đối quỹ tại BV Hà Trung
có thể do một số yếu tố trong khi tính suất phí như dữ liệu chi phí chưa bóc tách được
chi phí các bệnh nặng, chi phí lớn như các bệnh ung thư, chạy thận nhân tạo; chưa
tính suất phí theo nhóm đối tượng BHYT; số thẻ đăng ký ban đầu tại BV Hà Trung
không được ổn định. Ngoài ra việc bội chi quỹ định suất tại BV này có thể do quy
định về thanh toán theo định suất chưa thực sự buộc BV quan tâm đến hiệu quả chi
27
phí và còn có quan điểm nếu vượt quỹ vẫn sẽ được thanh toán vì vậy BV chưa thực
sự tính toán để có được chi phí hiệu quả.
Bên cạnh đó việc không kiểm soát được chi phí đa tuyến cũng là một lý do
chính dẫn đến tình trạng bội chi quỹ. Mặc dù ưu điểm của phương án thanh toán theo
định suất là tỷ lệ chuyển tuyến giảm do BV chủ động mở rộng phạm vi chuyên môn,
tăng cường KCB tại chỗ, hạn chế chuyển viện lên tuyến trên những trường hợp không
thực sự cần thiết, đồng thời các cơ sở KCB áp dụng thanh toán theo định suất đều
tăng cường kiểm soát chặt chẽ khâu chuyển tuyến vì nếu chuyển tuyến càng nhiều thì
chi phí càng lớn. Tuy nhiên thực tế thì các cơ sở tuyến huyện khi nhận KCB theo định
suất vẫn phụ thuộc rất nhiều vào các cơ sở KCB tuyến trên. Chi phí chuyển tuyến của
BN chuyển lên tuyến tỉnh hoặc trung ương lại thường lớn vì các cơ sở tuyến này áp
dụng phương thức thanh toán theo phí dịch vụ. Cụ thể như năm 2010 tại BV Đa khoa
huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương, chi phí chuyển tuyến chiếm đến 62,8% chi phí KCB,
còn tại BV huyện Tứ Kỳ là 56% [49]. Năm 2011 tại trung tâm y tế Vạn Ninh tỉnh
Khánh Hoà, tỉ lệ chuyển tuyến nội trú giảm từ 10,6% xuống 9,6% và ngoại trú giảm
từ 3,5% xuống 2,8% nhưng chi phí đa tuyến bao gồm cả nội trú và ngoại trú tăng gấp
đôi, khi thanh toán theo định suất là 227 triệu đồng so với 103 triệu đồng khi thanh
toán theo phí dịch vụ [47]. Với tình trạng mất cân đối quỹ do những nguyên nhân nói
trên thì một trong những mục tiêu quan trọng khi thực hiện phương thức thanh toán
theo định suất là mang lại an toàn quỹ vẫn chưa được đảm bảo.
- Đánh giá tác động đến chi phí KCB BHYT
Kinh nghiệm thực hiện PTTT theo định suất của các nước khác trên thế giới
đã cho thấy PTTT theo định suất đã khuyến khích cơ sở KCB tiết kiệm chi phí, tăng
cường hiệu quả cung cấp dịch vụ y tế. Đây cũng chính là mục tiêu mà chúng ta muốn
hướng tới khi áp dụng phương thức này. Các nghiên cứu về tác động của PTTT theo
định suất đến chi phí KCB cho thấy vẫn có sự gia tăng chi phí một đợt KCB nội trú
và chi phí trung bình đầu thẻ khi áp dụng thanh toán theo định suất so với khi thanh
toán theo dịch vụ. Kết quả nghiên cứu “Mô tả thực trạng khám chữa bệnh BHYT khi
thực hiện thanh toán theo định suất tại BV tuyến huyện tỉnh Hải Dương”chỉ ra rằng
28
số ngày điều trị nội trú (ĐTNT) trung bình lượt điều trị giảm qua các năm (2009 –
2011): BV Nam Sách số ngày ĐTNT giảm từ 6,2 xuống 5,9 ngày; BV Kinh Môn
giảm từ 4,7 xuống 3,1 ngày [61]. Tuy số ngày ĐTNT trung bình giảm nhưng chi phí
trung bình cho một lượt KCB BHYT nội trú lại tăng lên theo các năm. Nghiên cứu
của Bùi Thị Cẩm Tú tiến hành tại 4 BV huyện tỉnh Hải Dương minh chứng cho nhận
định này khi năm 2010 BV huyện Gia Lộc thanh toán BHYT theo phí dịch vụ có chi
phí trung bình lượt là 540.319 đồng, nhưng 6 tháng đầu năm 2011 khi BV triển khai
thanh toán theo định suất thì chi phí trung bình/lượt KCB là 620.278 đồng [61].
Nghiên cứu của Hoàng Thị Phượng và cộng sự tiến hành đánh giá việc thực hiện thí
điểm thanh toán theo định suất tại một số tỉnh tại Việt Nam cũng cho thấy chi phí
trung bình cho một lượt BN KCB nội và ngoại trú đều tăng so với năm chưa khoán
quỹ [53]. Tuy nhiên sự gia tăng này có thể là do lạm phát, tăng cường trang thiết bị y
tế vì cũng có sự gia tăng tương tự đối với nhóm chứng là BN không có thẻ BHYT
[62]. Những phân tích sâu hơn đã được thực hiện trong nghiên cứu của tác giả Trần
Quang Thông tại 4 BV huyện tỉnh Thanh Hóa năm 2009. Mặc dù có sự gia tăng chi
phí KCB nhưng phương thức thanh toán theo định suất làm giảm gia tăng chi phí
KCB BHYT so với phương thức thanh toán theo phí dịch vụ. Nghiên cứu được thực
hiện trên 2 BV huyện Hà Trung và Mường Lát triển khai thí điểm thanh toán theo
định suất năm 2009 và 2 BV huyện Đông Sơn, Quan Sơn thực hiện thanh toán phí
dịch vụ năm 2009. Hai BV thí điểm thanh toán theo định suất lần lượt có tỉ lệ gia tăng
chi phí trung bình cho một lượt KCB (12,9% và 0,4%) và tổng chi phí các tuyến
(24,3% và -1,5%) ít hơn so với BV thanh toán phí dịch vụ (tăng lần lượt là 30,2% và
35%; 39,1% và 45,1%) [62], [64]. Tỷ lệ gia tăng chi phí KCB ở BV thí điểm khoán
quỹ định suất ít hơn BV thanh toán theo phí dịch vụ là do tiết giảm chi phí xét nghiệm,
chẩn đoán hình ảnh không cần thiết và có kiểm soát việc chuyển người bệnh lên tuyến
trên. Điều này cho thấy tác động tích cực của PTTT theo định suất là khuyến khích
các cơ sở KCB kiểm soát chi phí, chống lạm dụng DVYT.
- Đánh giá tác động đến chất lượng KCB BHYT
Theo tổ chức y tế thế giới WHO (2000) chất lượng KCB là mức độ đạt được
mục tiêu cơ bản của hệ thống y tế và khả năng đáp ứng với kì vọng chính đáng của
29
người dân [134]. Việc thực hiện PTTT theo định suất hướng đến mục tiêu gắn liền
kiểm soát chi phí với nâng cao chất lượng. Về lý thuyết thì PTTT theo định suất sẽ
khuyến khích cơ sở KCB giảm chi phí thông qua việc giảm dịch vụ, đôi khi quá mức
làm ảnh hưởng đến chất lượng KCB [134]. Tuy nhiên theo kết quả “Nghiên cứu ảnh
hưởng của phương thức khoán định suất đến chi phí và một số chỉ số KCB BHYT
thuộc Bốn BV huyện, tỉnh Thanh Hóa” thì so với phí dịch vụ, phương thức khoán quỹ
định suất chưa thấy ảnh hưởng đến các chỉ số khám chữa bệnh BHYT. Điều này được
thể hiện qua tỉ lệ tuân thủ điều trị và kết quả điều trị các nhóm bệnh viêm phế quản
cấp, viêm dạ dày cấp, tăng huyết áp nguyên phát, viêm ruột thừa cấp, mổ lấy thai đều
đạt trên 85% và không thấy có sự khác biệt giữa hai phương thức khoán quỹ định
suất và phí dịch vụ [64]. Kết quả này cũng đồng nhất với kết quả nghiên cứu của
Nguyễn Thị Thuý Nga tại BV huyện Chí Linh và BV Tứ Kì tỉnh Hải Dương [49].
Kết quả của hai nghiên cứu này về cơ bản phù hợp với nghiên cứu của Winnie Yip
và cộng sự về tác động của khoán quỹ tại Thái Lan (2001) cho thấy so với phương
thức thanh toán theo dịch vụ thì phương thức khoán định suất có thể là công cụ hữu
hiệu để giảm sự gia tăng chi phí mà không ảnh hưởng đến chất lượng KCB [137].
Trong KCB, sự hài lòng của người bệnh cũng là một chỉ số rất quan trọng và
được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm. Sự hài lòng của người bệnh được xác định là
sự kì vọng của họ về cả số lượng và chất lượng dịch vụ cung ứng của cơ sở KCB. Sự
hài lòng ở đây có thể liên quan đến thời gian chờ đợi, thời gian khám bệnh, thái độ
phục vụ… [98]. Theo kết quả nghiên cứu của Bùi Thị Cẩm Tú tại 4 BV huyện tỉnh
Hải Dương trên 441 BN cho thấy 8% rất hài lòng, 52% hài lòng, 32% bình thường
và chỉ có 8% không hài lòng với dịch vụ KCB BHYT hiện nay [61]. Trong số những
người bệnh không hài lòng của nghiên cứu này, lí do được nhắc đến nhiều nhất là về
thủ tục hành chính, chiếm 9,3%. Người bệnh chủ yếu chưa hài lòng do thủ tục hành
chính rườm rà, nhiều khâu [61]. Kết luận từ Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện PTTT
chi phí KCB BHYT theo định suất cũng đã chỉ ra rằng thực tiễn quá trình triển khai
thực hiện thanh toán theo định suất gặp khó khăn trong việc xây dựng hệ thống theo
dõi đảm bảo chất lượng [16]. Do vậy, cũng cần nghiên cứu thêm về vấn đề này vì
30
hiện nay cơ quan BHXH cũng chưa có hệ thống chỉ số đánh giá giám sát chất lượng
khi áp dụng thanh toán theo định suất.
1.4. Thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất tại Khánh Hòa
Khánh Hòa cùng với Thừa Thiên Huế, Bắc Ninh và Ninh Bình 4 tỉnh được Bộ
Y tế lựa chọn thực hiện thí điểm sửa đổi thanh toán chi phí khám chữa bệnh BHYT
theo định suất [18].
Nội dung thí điểm được trình bày trong Phụ lục 1. Nội dung thí điểm sửa đổi
thanh toán theo định suất tại Khánh Hòa. Bảng sau đây tóm tắt những nội dung thí
điểm chính, so sánh với việc thực hiện thanh toán theo định suất theo thông tư
09/2009/TTLT-BTC-BYT.
Bảng 1.2. Tóm tắt nội dung thí điểm
Thanh toán Thực hiện theo thông tư Thực hiện thí điểm sửa
theo định suất 09/2009/TTLT-BTC-BYT đổi thanh toán theo định suất
Bình Định Khánh Hòa Tỉnh triển khai
Tất cả các đơn vị có đăng ký Tất cả các đơn vị có đăng ký Đơn vị nhận
KCBBĐ, bao gồm cả bệnh KCBBĐ ở tuyến huyện và định suất
viện tỉnh tương đương
Dịch vụ KCB ngoại trú và Dịch vụ KCB tại chỗ ngoại Phạm vi dịch
nội trú của người có thẻ BHYT trú và nội trú của người có thẻ vụ
đăng ký KCBBĐ, kể cả chi phí BHYT đăng ký KCBBĐ tại cơ
KCB đa tuyến, trừ một số dịch sở trừ một số dịch vụ chi phí
vụ chi phí lớn lớn
Tính tổng quỹ thanh toán Tính toán trực tiếp từ tổng Nguyên tắc xác
theo định suất của các nhóm quỹ KCB BHYT toàn tỉnh của định quỹ thanh
đối tượng (6 nhóm thẻ BHYT) năm sau và tỷ lệ chi năm trước toán theo định
toàn tỉnh cho dịch vụ thuộc phạm vi chi suất toàn tỉnh
trả theo định suất
31
Xác định quỹ định suất theo Xác định suất phí trung bình Vai trò của 6
6 nhóm đối tượng để tính tổng điều chỉnh theo hệ số chi phí nhóm đối
quỹ của 6 nhóm đối tượng để tính tượng
tổng quỹ
Tổng quỹ thanh toán theo Tổng quỹ thanh toán theo Quỹ thanh toán
định suất giao cho các cơ sở y định suất giao cho các cơ sở y theo định suất
tế thực hiện định suất trong tế thực hiện định suất được xác giao cho từng
tỉnh không vượt quá tổng quỹ định dựa trên suất phí trung cơ sở ký hợp
KCB của các cơ sở này. bình có điều chỉnh, hệ số chi đồng KCB
Trường hợp đặc biệt thì BHXH phí và tổng số thẻ theo 6 nhóm BHYT
tỉnh báo cáo BHXH Việt Nam đối tượng
để xem xét, điều chỉnh nhưng
suất phí điều chỉnh không vượt
quá mức chi trung bình chung
theo nhóm đối tượng trên
phạm vi cả nước do BHXH
Việt Nam xác định và thông
báo hàng năm.
Tính vào quỹ thanh toán Không tính vào quỹ thanh Chi phí đa
theo định suất toán theo định suất tuyến
Nếu kết dư, cơ sở KCB Cơ sở KCB được sử dụng Nguyên tắc xử
được sử dụng, nhưng không phần kết dư nếu có hoặc phải lý kết dư và bội
quá 20% quỹ thanh toán theo tự cân đối nếu xảy ra bội chi. chi
định suất, phần còn lại tính vào
quỹ KCB năm sau. Nếu bội chi
thì BHXH sẽ xem xét nguyên
nhân và thanh toán tối thiểu
60% chi phí vượt quỹ.
32
1.5. Sơ lược địa bàn nghiên cứu
Nghiên cứu được triển khai tại 2 tỉnh Khánh Hòa và Bình Định. Trong đó,
Khánh Hòa là tỉnh thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất, Bình Định được chọn
là tỉnh đối chứng trong nghiên cứu này.
Khánh Hòa là một tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt Nam, giáp với tỉnh Phú
Yên về hướng Bắc, tỉnh Đắk Lắk về hướng Tây Bắc, tỉnh Lâm Đồng về hướng Tây
Nam, tỉnh Ninh Thuận về hướng Nam và Biển Đông về hướng Đông. Khánh Hòa có
mũi Hòn Đôi trên bán đảo Hòn Gốm huyện Vạn Ninh là điểm cực Đông trên đất liền
của Việt Nam. Khánh Hòa có diện tích tự nhiên là 5.197 km2, chiều dài vào khoảng
150 km, chiều ngang khoảng 60 km, chỗ rộng nhất vào khoảng 90 km. Đa số diện
tích Khánh Hòa là núi non, miền đồng bằng rất hẹp, chiếm chưa đến 1/10 diện tích
toàn tỉnh và bị chia cắt bởi những dãy núi ăn ra biển [72].
Tỉnh Khánh Hòa nằm ở vị trí thuận tiện về giao thông đường bộ, đường sắt,
đường biển và đường hàng không. Việc giao lưu kinh tế, văn hóa giữa Khánh Hòa và
các tỉnh thuận lợi nhờ đường sắt, các cảng biển, cảng hàng không và Quốc lộ 1A
xuyên suốt chiều dài tỉnh. Dân số Khánh Hòa năm 2012 là 1.183.000 người với nhiều
dân tộc đang sinh sống. Các dân tộc Kinh, Raglai, Hoa, Ê-đê và Cơ-ho chiếm đa số
và một nhóm nhỏ các dân tộc Tày, Nùng, Mường, Thái, Chăm, Khmer, Thổ. Tính
đến thời điểm cuối tháng 10/2013, Khánh Hòa có 741,085 người tham gia BHYT
chiếm 63% dân số toàn tỉnh. Khánh Hòa hiện nay có 9 đơn vị hành chính trực thuộc
tỉnh. Trong đó, trừ huyện đảo Trường Sa, mỗi đơn vị hành chính còn lại đều có 1 cơ
sở khám chữa bệnh tuyến huyện ký hợp đồng KCB BHYT: 2 thành phố (Nha Trang
và Cam Ranh), 1 thị xã (Ninh Hòa), 5 huyện (Vạn Ninh, Cam Lâm, Diên Khánh,
Khánh Vĩnh và Khánh Sơn) [72], [57].
Giống như Khánh Hòa, Bình Định là 1 tỉnh duyên hải Nam Trung Bộ Việt
Nam. Bình Định có vị trí nằm trải dài 110 km theo hướng Bắc – Nam, bề ngang hẹp,
phía Bắc giáp tỉnh Quảng Ngãi, phía Nam giáp tỉnh Phú Yên, phía Tây giáp tỉnh Gia
Lai, phía Đông giáp biển Đông. Diện tích tự nhiên của Bình Định là 6.039 km2 với
phần lớn diện tích là núi non. Vùng đồng bằng nằm sát biển, hẹp và bị chia nhỏ [71].
33
Bình Định được đánh giá là có vị trí chiến lược hết sức quan trọng phát triển
kinh tế - xã hội của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, được xem là một trong
những cửa ngõ đổ ra biển của các tỉnh Tây Nguyên và vùng Nam Lào, Đông Bắc
Campuchia. Giống như Khánh Hòa, hệ thống giao thông của Bình Định rất thuận tiện
cả về đường bộ, đường sắt, đường thủy và đường hàng không. Dân số Bình Định năm
2012 là 1.051.800 người, bao gồm nhiều dân tộc đang sinh sống như Kinh, Chăm, Ba
Na, Hre... Tỷ lệ bao phủ BHYT năm 2013 là 64%. Bình Định hiện nay có 11 đơn vị
hành chính trực thuộc, gồm 1 thành phố (Quy Nhơn), 1 thị xã (An Nhơn) và 9 huyện
(Hoài Nhơn, Phù Cát, Phù Mỹ, Tuy Phước, Hoài Ân, Tây Sơn, An Lão, Vân Canh và
Vĩnh Thạnh) [71], [56].
Trong nghiên cứu có 4 cơ sở KCB BHYT tuyến huyện được lựa chọn. Các
huyện này bao gồm: Diên Khánh và Khánh Vĩnh (tỉnh Khánh Hòa); Phù Cát và Vân
Canh (tỉnh Bình Định).
Diên Khánh là một huyện đồng bằng ở vị trí trung tâm tỉnh Khánh Hòa, giáp
với thành phố Nha Trang về hướng Đông. Huyện Diên Khánh bao gồm 19 xã và thị
trấn với tổng diện tích 336 km2, dân số 132.547 người (2012), mật độ dân cư cao (394
người/km2). Dân tộc Kinh chiếm đa số và phần lớn dân cư hoạt động trong lĩnh vực
nông nghiệp [67], [72].
Phù Cát là một huyện đồng bằng năm ở vị trí trung tâm tỉnh Bình Định, có
diện tích 679 km2, dân số 203.674 người, mật độ dân cư cao (300 người/km2). Phù
Cát có 18 đơn vị hành chính gồm các xã và thị trấn. Dân tộc chủ yếu là người Kinh.
Nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của huyện [69], [71].
Huyện miền núi Khánh Vĩnh là một huyện nghèo nằm ở cực Tây tỉnh Khánh
Hòa, tiếp giáp với tỉnh Lâm Đồng. Khánh Vĩnh có diện tích lớn 1.165 km2 nhưng chỉ
có 34.374 dân (2012), mật độ dân cư thấp (33 người/km2). Dân cư Khánh Vĩnh chủ
yếu là các dân tộc thiểu số, chủ yếu làm lâm và nông nghiệp [68], [72].
Vân Canh là huyện nghèo, miền núi phía Tây Nam tỉnh Bình Định, tiếp giáp
với tỉnh Gia Lai. Diện tích đất tự nhiên 798 km2, dân số 22.476 người (năm 2012),
34
mật độ dân cư thấp chỉ khoảng 28 người/km2. Kinh tế của huyện chủ yếu dựa vào
lâm và nông nghiệp, đời sống nhân dân còn nhiều khó khăn [70], [71].
1.6. Khung lý thuyết nghiên cứu
Căn cứ vào nguyên tắc của thanh toán theo định suất, khung lý thuyết nghiên
cứu được xây dựng như sau:
Hình 1.2. Khung lý thuyết nghiên cứu
35
Nguyên tắc của thanh toán theo định suất có thể tác động đến hoạt động chuyên
môn KCB của đơn vị nhận định suất. Nghiên cứu lựa chọn đánh giá những chỉ số
KCB BHYT có thể chịu tác động từ phương thức thanh toán theo trình tự lần lượt từ
lúc tiếp nhận người bệnh (tỷ lệ chuyển tuyến, tỷ lệ nhập viện), chỉ định dịch vụ và kê
đơn thuốc (số xét nghiệm, CĐHA trung bình, số đầu thuốc trung bình), thời gian và
kết quả điều trị (thời gian điều trị nội trú, tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh).
Quyết định tiếp nhận bệnh nhân hay chỉ định chuyển tuyến, hoạt động kê đơn
và chỉ định dịch vụ chịu ảnh hưởng của phương thức thanh toán, qua đó gián tiếp tác
động đến kết quả KCB. Nghiên cứu đánh giá sự thay đổi về tỷ lệ chuyển tuyến, nhập
viện, số lượng dịch vụ song song với tìm hiểu sâu về hành vi của y bác sĩ trực tiếp
chỉ định dịch vụ cho người bệnh. Với quan điểm lấy người bệnh làm trung tâm, mang
lại hiệu quả CSSK tốt nhất cho người sử dụng dịch vụ, sự hài lòng của người bệnh là
một chỉ số quan trọng để đánh giá chất lượng dịch vụ. Nghiên cứu đánh giá sự hài
lòng của người bệnh dựa trên mô hình SERVQUAL với 5 phương diện:
- Phương diện hữu hình gồm những điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị,
trang phục và ứng xử của NVYT, môi trường khuôn viên bệnh viện.
- Phương diện tin cậy gồm những tiểu mục đánh giá khả năng thực hiện các
dịch vụ đã cam kết một cách đáng tin cậy và chính xác.
- Phương diện đáp ứng gồm các tiểu mục đánh giá sự sẵn sàng giúp đỡ người
bệnh và cung cấp các dịch vụ kịp thời.
- Phương diện đảm bảo gồm các tiểu mục đánh giá kiến thức và sự hòa nhã
của NVYT cũng như khả năng của họ trong việc tạo lòng tin, sự tín nhiệm cho người
bệnh.
- Phương diện cảm thông gồm các tiểu mục đánh giá mức độ quan tâm chăm
sóc của NVYT dành cho người bệnh.
Thanh toán theo định suất đặt ra yêu cầu về kiểm soát chi phí cho cơ sở KCB
BHYT. Khi thực hiện phương thức thanh toán, khả năng cao là sự gia tăng chi phí
được hạn chế, không hoặc ít xảy ra bội chi. Nhưng thực tế những năm trước thí điểm,
việc áp dụng thanh toán theo định suất theo quy định tại Thông tư liên tịch
36
09/2009/TTLT-BYT-BTC đã không cho kết quả như vậy. Thí điểm sửa đổi với kỳ
vọng tạo ra sự thay đổi rõ ràng về chi phí KCB BHYT, về tỷ lệ bội chi và kết dư quỹ
định suất. Sự thay đổi về chi phí được đánh giá thông qua chi phí KCB BHYT trung
bình, chi phí KCB nội, ngoại trú, chi phí KCB theo khoản mục (giường, xét nghiệm,
chẩn đoán hình ảnh, thuốc…). Đây là những chi phí trực tiếp tức là chi tiêu cho các
dịch vụ và các vật tư y tế. Những chi phí gián tiếp hoặc không liên quan trực tiếp đến
quá trình khám và điều trị như chi phí đi lại, mất thu nhập do đau ốm không được
đánh giá trong nghiên cứu. Sự thay đổi chi phí được xác định bằng chi phí năm sau
trừ đi chi phí năm trước, mang trị số dương là gia tăng chi phí, trị số âm là giảm chi
phí. Việc so sánh trước sau, có đối chứng làm hạn chế sai số, kiểm soát tốt hơn các
yếu tố nhiễu, giúp kết quả đánh giá là minh chứng tốt cho hiệu quả của thí điểm.
37
CHƯƠNG 2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
2.1.1. Đối tượng nghiên cứu định lượng
- Chi phí khám chữa bệnh BHYT;
- Hồ sơ khám chữa bệnh BHYT;
- Người bệnh có BHYT sử dụng dịch vụ y tế tại bệnh viện đa khoa tuyến
huyện.
2.1.2. Đối tượng nghiên cứu định tính
- Lãnh đạo và cán bộ quản lý:
o Lãnh đạo Sở Y tế;
o Lãnh đạo BHXH tỉnh;
o Cán bộ quản lý Phòng Nghiệp vụ Y, Phòng Kế hoạch tài chính tại Sở
Y tế;
o Cán bộ quản lý Phòng giám định BHYT tại BHXH tỉnh;
o Lãnh đạo bệnh viện đa khoa huyện;
o Cán bộ quản lý phòng chức năng tại bệnh viện đa khoa huyện (Phòng
Kế hoạch tổng hợp, Phòng Tài chính kế toán).
- Bác sĩ trực tiếp tham gia KCB BHYT;
- Người bệnh KCB BHYT tại bệnh viện đa khoa huyện.
2.2. Thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.2.1. Thời gian nghiên cứu
Thời gian nghiên cứu từ tháng 1 năm 2013 đến hết tháng 12 năm 2014. Trong
đó thời gian triển khai thí điểm kéo dài 1 năm, từ tháng 1 năm 2014 đến hết tháng 12
năm 2014.
Số liệu thứ cấp được đánh giá trong một năm trước thí điểm (năm 2013) và
một năm từ khi triển khai thí điểm (năm 2014). Số liệu sơ cấp được thu thập tại thời
điểm 1 tháng trước thí điểm và sau 1 năm triển khai thí điểm.
38
2.2.2. Địa điểm nghiên cứu
Khánh Hòa là tỉnh được Bộ Y tế lựa chọn triển khai thí điểm sửa đổi thanh
toán theo định suất. Tỉnh nghiên cứu đối chứng là Bình Định, có điều kiện địa lý,
kinh tế xã hội và độ bao phủ bảo hiểm y tế tương đối giống tỉnh thí điểm.
Nghiên cứu lựa chọn 4 bệnh viện đa khoa tuyến huyện để so sánh, đánh giá về
một số chỉ số KCB BHYT, sự hài lòng của người bệnh và chi phí KCB BHYT. Trong
4 bệnh viện được lựa chọn có 2 bệnh viện đại diện cho các bệnh viện huyện miền núi
và 2 bệnh viện đại diện cho các bệnh viện huyện đồng bằng. Cụ thể, tại tỉnh Khánh
Hòa, chọn Bệnh viện Đa khoa huyện Diên Khánh (đồng bằng) và Bệnh viện Đa khoa
huyện Khánh Vĩnh (miền núi). Tại tỉnh đối chứng là Bình Định, chọn Bệnh viện Đa
khoa huyện Phù Cát (đồng bằng) và Bệnh viện Đa khoa huyện Vân Canh (miền núi).
Bệnh viện nhóm chứng và nhóm thí điểm có sự giống nhau tương đối về quy mô
giường bệnh, nằm trên địa bàn các huyện có điều kiện địa lý, kinh tế xã hội tương
đương. Trước khi nghiên cứu được tiến hành, cả 4 bệnh viện nói trên đều áp dụng
phương thức thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất liên tục trong 3 năm liền
theo Thông tư 09/2009/TTLT-BYT-BTC.
2.3. Thiết kế nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu can thiệp - phỏng thực nghiệm, so
sánh trước và sau khi triển khai thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất, có đối
chứng. Nghiên cứu định lượng kết hợp với định tính. Nghiên cứu định lượng gồm thu
thập số liệu thứ cấp về chi phí khám chữa bệnh BHYT, hồ sơ khám chữa bệnh BHYT
và phỏng vấn bằng bộ công cụ tiến hành trên người sử dụng dịch vụ về sự hài lòng
với dịch vụ KCB BHYT. Nghiên cứu định tính với các cuộc phỏng vấn sâu và thảo
luận nhóm tập trung giúp giải thích và bổ sung cho số liệu định lượng, tìm hiểu sâu
hơn sự thay đổi một số chỉ số KCB BHYT, sự hài lòng của người bệnh, sự thay đổi
chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo định
suất.
Đối tượng nghiên cứu
Chọn ngẫu nhiên hoặc chọn chủ đích
Tỉnh can thiệp - Khánh Hòa
Tỉnh đối chứng - Bình Định
Các chỉ số/ nội dung đánh giá trước thí điểm
Các chỉ số/ nội dung đánh giá trước thí điểm
Thực hiện thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất
Thực hiện thanh toán theo thông tư 09/2009/TTLT-BYT-BTC
Các chỉ số/ nội dung đánh giá sau thí điểm
Các chỉ số/ nội dung đánh giá sau thí điểm
Sự thay đổi
39
Hình 2.1. Sơ đồ thiết kế nghiên cứu
40
2.4. Mẫu và chọn mẫu nghiên cứu
2.4.1. Mẫu và chọn mẫu định lượng
* Đối với số liệu thứ cấp:
- Chi phí khám chữa bệnh BHYT (Phục vụ mục tiêu 2):
Lấy mẫu toàn bộ số liệu chi phí KCB BHYT tại 4 bệnh viện đa khoa tuyến
huyện được chọn (BVĐK huyện Diên Khánh và BVĐK huyện Khánh Vĩnh của tỉnh
Khánh Hòa; BVĐK huyện Phù Cát và BVĐK huyện Vân Canh của tỉnh Bình Định).
Quá trình đánh giá được thực hiện trên cả chi phí KCB nội trú và ngoại trú trong 2
năm, gồm một năm trước thí điểm và một năm sau khi triển khai thí điểm. Toàn bộ
các chi phí theo khoản mục, chi phí tại chỗ và chi phí đa tuyến đều được thu thập cho
nghiên cứu.
- Hồ sơ khám chữa bệnh BHYT (Phục vụ mục tiêu 1):
Lấy bệnh án, đơn thuốc và phiếu thanh toán chi phí KCB BHYT tương ứng
của người bệnh để so sánh sự thay đổi về số xét nghiệm trung bình, số CĐHA trung
bình, số đầu thuốc trung bình (nội và ngoại trú), thời gian điều trị nội trú trung bình,
tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh. Trong nghiên cứu này, số xét nghiệm, số CĐHA hay số đầu
thuốc theo lượt KCB được quy ước là một lần xét nghiệm/ CĐHA và một đầu mục
thuốc trên phiếu thanh toán chi phí KCB BHYT (Phụ lục 2. Biến số và nội dung
nghiên cứu). Việc lấy số liệu thuốc, dịch vụ được chỉ định trên phiếu thanh toán chi
phí KCB BHYT để hạn chế những tranh luận, sai khác về chuyên môn trong khám
chữa bệnh.
Do điều kiện không thể đánh giá với tất cả các nhóm bệnh, nghiên cứu lựa
chọn chủ đích 1 bệnh nội trú để lấy bệnh án và phiếu thanh toán tương ứng, 1 bệnh
ngoại trú để lấy đơn thuốc và phiếu thanh toán tương ứng. Các bệnh được lựa chọn
là những bệnh thông thường, hay gặp trong nhóm các bệnh có tần suất mắc cao nhất
tại 4 bệnh viện, được BHYT thanh toán và có hướng dẫn chẩn đoán, điều trị đầy đủ.
Hai bệnh được lựa chọn nghiên cứu là Viêm phế quản cấp (nội trú) và Viêm dạ dày
cấp (ngoại trú). Để kiểm soát được tốt nhất những sai số và yếu tố nhiễu, lấy mẫu là
toàn bộ bệnh án và phiếu thanh toán với bệnh nội trú, toàn bộ đơn thuốc và phiếu
41
thanh toán với bệnh ngoại trú trong 2 năm (1 năm trước và 1 năm sau khi triển khai
thí điểm). Các bệnh án, đơn thuốc và phiếu thanh toán được chọn phải có chẩn đoán
ra viện đúng với 1 trong 2 bệnh nói trên và không có bệnh kèm theo. Tổng cộng, tại
2 bệnh viện đồng bằng có 1.132 bệnh án và 2.342 đơn thuốc được lựa chọn. Số lượng
ở 2 bệnh viện miền núi là 991 bệnh án và 1.429 đơn thuốc.
* Đối với số liệu sơ cấp:
- Người bệnh có BHYT sử dụng dịch vụ y tế tại bệnh viện đa khoa tuyến huyện
(Phục vụ mục tiêu 1):
Tại 4 BVĐK tuyến huyện nói trên, tiến hành chọn người bệnh để phỏng vấn,
đánh giá sự hài lòng của người bệnh. Cỡ mẫu được tính theo công thức tính cỡ mẫu
cho so sánh 2 tỷ lệ trong nghiên cứu can thiệp [45]:
Trong đó:
n là cỡ mẫu tối thiểu cho một nhóm
Z(1 - α/2) là hệ số tin cậy với mức tin cậy α = 0,05 (độ tin cậy 95%)
1- β là lực mẫu với mức ý nghĩa β = 80%
P1 là tỷ lệ hài lòng chung của người bệnh BHYT trước can thiệp, giả định tỷ
lệ này là 71% (tiến hành điều tra thử và tham khảo các nghiên cứu của Bùi Thị Cẩm
Tú và Trần Quang Thông trên BVĐK tuyến huyện thực hiện KCB BHYT theo định
suất [61], [64]), P1 = 0,71
P2 là tỷ lệ hài lòng chung của người bệnh BHYT sau can thiệp, giả định tỷ lệ
này đạt 86% (tăng 15%), P2 = 0,86
𝑃̅ là giá trị trung bình của P1 và P2
Sử dụng phần mềm Sample Size 2.0 của WHO để tính theo công thức trên
được cỡ mẫu tối thiểu cần thiết cho một nhóm được n = 114, cộng thêm 10% dự
phòng là 125. Sau khi tiến hành điều tra, cỡ mẫu thực tế là 120 người bệnh BHYT.
42
Tiêu chuẩn lựa chọn người bệnh là phải từ 18 tuổi trở lên, đã làm xong thủ tục
thanh toán chi phí KCB BHYT, đủ khả năng tự trả lời câu hỏi, không phải là nhân
viên bệnh viện hoặc người nhà nhân viên bệnh viện. Thời điểm tiến hành phỏng vấn
là 1 tháng trước thí điểm và sau 1 năm triển khai thí điểm.
Nghiên cứu sử dụng phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên hệ thống. Thời gian
điều tra với cỡ mẫu nói trên khoảng 1 tháng. Số lượt người bệnh nội trú BHYT làm
thủ tục ra viện ước tính trong thời gian điều tra là 800 lượt ở BV đồng bằng và 500
lượt ở BV miền núi. Bước nhảy k được tính bằng thương số của số lượt này với cỡ
mẫu (125) có các kết quả bằng 6 và 4 (tương ứng với BV đồng bằng và miền núi).
Danh sách người bệnh được cập nhật từ Phòng Tài chính kế toán để xác định người
cần phỏng vấn. Người bệnh đầu tiên được lựa chọn bằng bốc thăm (trong các số có
giá trị từ 1 đến k). Những người bệnh tiếp theo được xác định bằng cách cộng số ngẫu
nhiên đầu tiên với các bội số của k lần lượt từ nhỏ đến lớn. Việc phỏng vấn người
bệnh được thực hiện vào tất cả các ngày trong tuần cho đến khi đủ cỡ mẫu nói trên.
Số lượng người bệnh nội trú thực tế điều tra được một đợt là 120. Tổng số người bệnh
được phỏng vấn trước và sau thí điểm tại 1 bệnh viện là 240. Tổng số người bệnh
được phỏng vấn tại 4 bệnh viện trong nghiên cứu này là 960.
2.4.2. Mẫu và chọn mẫu định tính
Sau khi kết thúc thí điểm tại Khánh Hòa, nghiên cứu thực hiện 7 cuộc phỏng
vấn sâu (PVS) và 2 cuộc thảo luận nhóm (TLN) tập trung đối với lãnh đạo và cán bộ
quản lý, về các nội dung thực hiện thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất, các
tác động đến chi phí và chất lượng KCB BHYT. Cụ thể:
- Lãnh đạo Sở Y tế và lãnh đạo Bảo hiểm xã hội tỉnh: 2 cuộc PVS;
- Cán bộ quản lý Phòng Nghiệp vụ Y, Phòng Kế hoạch tài chính tại Sở Y tế: 2
cuộc PVS;
- Cán bộ quản lý Phòng giám định BHYT tại BHXH tỉnh: 1 cuộc PVS;
- Lãnh đạo bệnh viện đa khoa tuyến huyện: 2 cuộc PVS;
- Cán bộ quản lý khoa, phòng chức năng tại bệnh viện: 2 cuộc TLN.
Đối với bác sĩ trực tiếp tham gia KCB BHYT, nghiên cứu tiến hành 2 cuộc
TLN tại 2 BV thí điểm, mỗi cuộc TLN gồm 7 – 8 người. Các bác sĩ được chọn ở các
43
khoa khác nhau, không tham gia công tác quản lý, có thâm niên công tác ít nhất là 5
năm. Sau đó thực hiện tiếp các cuộc PVS với các bác sĩ, tổng cộng có 8 cuộc PVS
(mỗi BV có 4 cuộc PVS).
Đối với người bệnh BHYT: Chọn chủ đích trong số những người bệnh tham
gia nghiên cứu định lượng để phỏng vấn sâu. Dựa trên số liệu chi phí KCB nội trú
trung bình, nghiên cứu quy ước 3 nhóm chi phí để chọn người bệnh như trong Bảng
2.1. Cỡ mẫu được lấy đến khi bão hòa thông tin. Tổng cộng có 15 cuộc PVS với
người bệnh ở hai BV thí điểm (8 cuộc ở BV đồng bằng và 7 cuộc ở BV miền núi) để
tìm hiểu sâu về các nội dung hài lòng hoặc không hài lòng của người bệnh.
Phân nhóm Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3
Mức chi phi Dưới 600 nghìn VNĐ 600 nghìn – 1 triệu VNĐ Trên 1 triệu VNĐ
BV đồng bằng 3 2 3 Số người bệnh được chọn
Mức chi phi Dưới 250 nghìn VNĐ 250 nghìn – 550 nghìn VNĐ Trên 550 nghìn VNĐ
BV miền núi 2 3 2 Số người bệnh được chọn
Bảng 2.1. Quy ước 3 nhóm chi phí để chọn người bệnh PVS
2.5. Phương pháp thu thập số liệu
2.5.1. Phương pháp thu thập số liệu định lượng
Số liệu về chi phí KCB BHYT được lấy dưới dạng báo cáo thống kê, báo cáo
quyết toán theo quý, được tổng hợp tại Phòng Hành chính tổng hợp và đã được cán
bộ giám định BHXH kiểm tra, đối chiếu. Các số liệu này được thu thập tại 4 bệnh
viện đa khoa: BVĐK huyện Diên Khánh và BVĐK huyện Khánh Vĩnh của tỉnh
Khánh Hòa; BVĐK huyện Phù Cát và BVĐK huyện Vân Canh của tỉnh Bình Định.
Số liệu thanh toán chi phí KCB BHYT, bội chi/ kết dư quỹ, phân bổ quỹ được
thu thập dưới dạng các báo cáo theo từng quý của các cơ sở KCB BHYT. Các số liệu
này được lấy tại Phòng Giám định Bảo hiểm y tế của BHXH tỉnh Khánh Hòa và
BHXH tỉnh Bình Định.
44
Các bệnh án nội trú, đơn thuốc ngoại trú được lấy tại Phòng Kế hoạch tổng
hợp của mỗi bệnh viện. Các phiếu thanh toán chi phí KCB BHYT được lấy tại Phòng
Tài chính kế toán.
Điều tra viên tiến hành phỏng vấn người bệnh ngay sau khi họ làm xong các
thủ tục thanh toán chi phí KCB BHYT. Các cuộc phỏng vấn được thực hiện đảm bảo
tính riêng tư, không có sự có mặt của bác sĩ hoặc nhân viên bệnh viện. Công cụ phỏng
vấn được trình bày trong phần Phụ lục (Phụ lục 3. Phiếu phỏng vấn người bệnh nội
trú).
2.5.2. Phương pháp thu thập số liệu định tính
Các cuộc phỏng vấn sâu lãnh đạo và cán bộ quản lý được thực hiện tại phòng
riêng tại các Sở Y tế, cơ quan Bảo hiểm xã hội tỉnh và tại 4 bệnh viện. Các cuộc thảo
luận nhóm tập trung được thực hiện ở phòng họp/ phòng giao ban của bệnh viện, đảm
bảo tính riêng tư và thuận tiện. Các cuộc phỏng vấn sâu người bệnh được thực hiện
ngay sau khi hoàn thành phỏng vấn điều tra định lượng với người bệnh được chọn.
Mỗi cuộc phỏng vấn sâu được thực hiện trong khoảng 15 – 30 phút. Các cuộc
thảo luận nhóm thực hiện trong 30 – 60 phút. Quá trình thực hiện PVS và TLN được
ghi âm hoặc ghi chép thành biên bản. Hướng dẫn phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
tập trung được trình bày trong phần Phụ lục (Phụ lục 4. Hướng dẫn phỏng vấn sâu
và thảo luận nhóm).
2.6. Biến số và nội dung nghiên cứu
Các biến số và nội dung nghiên cứu được trình bày chi tiết trong Phụ lục 2.
Biến số và nội dung nghiên cứu. Sau đây là các nhóm biến số và nội dung nghiên cứu
chính:
* Một số thông tin chung
- Tổng quỹ định suất
- Tổng số thẻ BHYT
- Suất phí trung bình
- Phân bổ quỹ tới các cơ sở
- Sử dụng quỹ
45
* Mục tiêu 1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của
người bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán
theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
- Một số chỉ số KCB BHYT: Nghiên cứu lựa chọn đánh giá những chỉ số KCB
BHYT có thể chịu tác động từ phương thức thanh toán theo trình tự lần lượt từ lúc
tiếp nhận người bệnh (tỷ lệ chuyển tuyến, tỷ lệ nhập viện), chỉ định dịch vụ và kê đơn
thuốc (số xét nghiệm, CĐHA trung bình, số đầu thuốc trung bình), thời gian và kết
quả điều trị (thời gian điều trị nội trú, tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh).
- Sự hài lòng của người bệnh trên 5 phương diện: Hữu hình, tin cậy, đáp ứng,
đảm bảo và cảm thông. Những nội dung hài lòng, không hài lòng của người bệnh
KCB BHYT được tìm hiểu thông qua phỏng vấn sâu.
* Mục tiêu 2. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm
sửa đổi phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh
Hòa
- Sự thay đổi về chi phí được đánh giá thông qua chi phí KCB BHYT trung
bình, chi phí KCB nội, ngoại trú, chi phí KCB theo khoản mục (giường, xét nghiệm,
chẩn đoán hình ảnh, thuốc…). Nội dung nghiên cứu giải thích về sự thay đổi chi phí
KCB BHYT khi thực hiện thí điểm so với việc áp dụng thanh toán theo định suất theo
quy định tại Thông tư 09/2009/TTLT-BYT-BTC.
- Sự thay đổi về chi phí dẫn đến thay đổi về tỷ lệ bội chi và kết dư quỹ định
suất. Nghiên cứu đánh giá và tìm hiểu quan điểm của người lãnh đạo, quản lý cơ sở
KCB và cơ quan BHXH về sự thay đổi chi phí, thay đổi tỷ lệ kết dư (bội chi) quỹ
định suất khi thực hiện thí điểm.
2.7. Phương pháp phân tích số liệu
Số liệu định lượng được nhập bằng các phần mềm Microsoft Excel 2013 và
Epidata 3.1; chuyển đổi định dạng bằng phần mềm StatTransfer 9.0 và phân tích bằng
phần mềm SPSS 20.0. Số liệu định tính được phân tích và xử lý bằng phần mềm
Nvivo 10.0, được tổng hợp theo từng chủ đề phù hợp.
46
Tỷ lệ phần trăm, giá trị trung bình và phân bố tần suất được sử dụng mô tả các
biến số. Sử dụng test khi bình phương để so sánh 2 tỷ lệ. Sử dụng kiểm định T độc
lập để so sánh sự khác nhau giữa hai nhóm độc lập. Nghiên cứu quy ước sự khác biệt
với giá trị p<0,05 là có ý nghĩa thống kê.
2.8. Đạo đức nghiên cứu
Nghiên cứu được sự chấp thuận bằng văn bản (Số 014-244/2014/YTCC-HD3)
và tuân thủ đầy đủ các quy định của Hội đồng Đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
của Trường Đại học Y tế công cộng. Nội dung nghiên cứu thiết thực, nhận được sự
quan tâm, ủng hộ của lãnh đạo Sở Y tế, Bảo hiểm xã hội các tỉnh Khánh Hòa và Bình
Định.
Đối tượng nghiên cứu được thông tin rõ ràng về mục đích của nghiên cứu và
phạm vi sử dụng thông tin thu được trong nghiên cứu. Các cuộc phỏng vấn chỉ được
tiến hành khi có sự chấp thuận của đối tượng nghiên cứu. Việc ghi âm/ ghi chép thành
biên bản khi phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm tập trung phải được sự đồng ý, thống
nhất của đối tượng tham gia.
Những thông tin định tính được tổng hợp theo nhóm vấn đề và không nêu tên
người cung cấp thông tin. Nghiên cứu không làm ảnh hưởng đến đối tượng khi tham
gia nghiên cứu. Các số liệu về kết quả nghiên cứu chỉ sử dụng cho mục đích nghiên
cứu đã đề ra, không sử dụng cho các mục đích khác không liên quan đến nghiên cứu.
Các kết quả nghiên cứu được phản hồi và báo cáo đến lãnh đạo Sở Y tế, Bảo
hiểm xã hội các tỉnh Khánh Hòa và Bình Định, các bệnh viện đa khoa huyện sau khi
kết thúc nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu có thể là bằng chứng cho việc sửa đổi, hoàn
thiện phương thức thanh toán theo định suất, giúp nâng cao hiệu quả quản lý và sử
dụng kinh phí của các cơ sở KCB và tăng cường vai trò của y tế cơ sở và CSSK ban
đầu.
47
CHƯƠNG 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
3.1. Một số thông tin chung
Thông tin về tổng quỹ định suất và tổng số thẻ BHYT của 2 tỉnh Khánh Hòa
và Bình Định trong các năm 2013, 2014 được trình bày trong bảng 3.1. Các sự thay
đổi được quy ước là mức chênh lệch (tỷ lệ %) của số liệu năm sau với số liệu năm
trước. Sự thay đổi mang giá trị âm là giảm, giá trị dương là tăng.
Bảng 3.1. Tổng quỹ định suất và tổng số thẻ BHYT
Tỉnh Năm 2013 Năm 2014 Sự thay đổi (%)
Khánh Hòa 276,6 107,1 -61,3
Tổng quỹ định suất (Tỷ VNĐ) Bình Định 127,9 147,7 15,5
Khánh Hòa 578.827 597.406 3,2
Tổng số thẻ BHYT Bình Định 371.428 380.679 2,5
Thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất với việc đưa thanh toán đa tuyến
ra ngoài quỹ định suất đã tạo ra thay đổi lớn về tổng quỹ định suất (giảm 61,3%)
trong điều kiện tổng số thẻ BHYT ít thay đổi (tăng 3,2%). Tỉnh đối chứng là Bình
Định tiếp tục áp dụng thanh toán theo định suất như quy định tại thông tư liên tịch
09/2009/TTLT-BYT-BTC có tổng quỹ định suất tăng 15,5% và tổng số thẻ tăng 2,5%.
Số liệu thẻ trong năm 2013, 2014 theo 6 nhóm đối tượng của cả 2 tỉnh được trình bày
chi tiết tại bảng 4.1 (Phụ lục 5). Biểu đồ 3.1 mô tả sự thay đổi số thẻ các nhóm trong
2 năm của tỉnh Khánh Hòa.
107.535
Nhóm 6
126.018
Nhóm 5
143.970 144.494
82.298
Nhóm 4
87.963
151.817
Nhóm 3
133.116
37.203
Nhóm 2
47.101
56.004
Nhóm 1
58.714
0
20.000
40.000
60.000
80.000
100.000 120.000 140.000 160.000
2013
2014
48
Biểu đồ 3.1. Số thẻ BHYT tỉnh Khánh Hòa phân theo 6 nhóm đối tượng
Ngoại trừ nhóm 3 giảm, các nhóm khác đều có số thẻ tăng lên. Trong đó các
nhóm tăng nhiều là nhóm 2 (26,6%) và nhóm 6 (17,2%). Các nhóm 1, 4 và 5 tăng
nhẹ (dưới 7%). Các nhóm chiếm tỷ lệ thẻ lớn năm 2013 là nhóm 5 (24%), nhóm 3
10%
21%
8%
22%
24%
15%
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 6
(22%) và nhóm 6 (21%). Tỷ lệ thẻ năm 2014 được mô tả trong biểu đồ 3.2.
Biểu đồ 3.2. Tỷ lệ 6 nhóm thẻ BHYT tỉnh Khánh Hòa năm 2014
49
Các nhóm thẻ chiếm tỷ lệ lớn năm 2014 của Khánh Hòa là nhóm 3, 5 và 6
(22%, 24% và 21%). Nhóm thẻ chiếm tỷ lệ thấp là nhóm 1 và 2 (10%, 8%).
Số liệu suất phí trung bình theo nhóm thẻ được trình bày trong bảng 3.2. Có
thể thấy suất phí trung bình của hầu hết các nhóm thẻ của tỉnh thí điểm đều giảm
mạnh và tăng ở tỉnh đối chứng.
Bảng 3.2. Suất phí trung bình theo nhóm thẻ
Đơn vị: VNĐ
Tỉnh Năm 2013 Năm 2014 Sự thay đổi (%) Suất phí trung bình
Khánh Hòa 984.580 190.804 -80,6 Nhóm 1 Bình Định 867.259 1.046.782 20,7
Khánh Hòa 2.536.798 476.739 -81,2 Nhóm 2 Bình Định 1.997.402 2.324.976 16,4
Khánh Hòa 390.841 163.435 -58,2 Nhóm 3 Bình Định 370.732 408547 10,2
Khánh Hòa 397.795 130.342 -67,2 Nhóm 4 Bình Định 407.394 453.837 11,4
Khánh Hòa 70.610 45.445 -35,6 Nhóm 5 Bình Định 86.375 98.208 13,7
Khánh Hòa 230.631 329.271 42,8 Nhóm 6 Bình Định 217.870 253165 16,2
Suất phí trung bình các nhóm thẻ tăng từ 10,2% đến 20,7% ở tỉnh đối chứng
Bình Định. Ở tỉnh thí điểm Khánh Hòa, ngoại trừ nhóm 6 tăng 42,8%, suất phí các
nhóm khác đều giảm mạnh (giảm từ 35,6% đến 81,2%). Hai nhóm có suất phí cao
nhất năm 2013 là nhóm 2 và nhóm 1 (2.536.798 và 984.580 VNĐ) cũng là 2 nhóm
giảm nhiều nhất (81,2% và 80,6%). Nhóm 2 vẫn là nhóm có suất phí cao nhất trong
50
cả 2 năm (476.739 VNĐ năm 2014). Nhóm 5 là nhóm có suất phí thấp nhất (70.610
VNĐ năm 2013 và 45.445 VNĐ năm 2014).
Các cơ sở KCB BHYT tuyến huyện là các đơn vị nhận định suất. Khánh Hòa
có 8 cơ sở và Bình Định có 7 cơ sở. Quỹ định suất tại các cơ sở được trình bày trong
bảng 3.3 với các cột là các đơn vị nhận định suất được sắp xếp theo trình tự quỹ nhỏ
dần.
Bảng 3.3. Quỹ định suất tại các cơ sở KCB BHYT của Khánh Hòa
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm Tổng Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn
2013 104,23 36,59 36,49 31,69 30,69 15,98 12,81 8,08 276,56
2014 26,53 17,74 16,54 16,96 10,78 6,45 8,19 3,94 107,14
-74,5 -51,5 -54,7 -46,5 -64,9 -59,7 -36,1 -51,2 -61,3 Sự thay đổi (%)
Bảng 3.4. Quỹ định suất tại các cơ sở KCB BHYT của Bình Định
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm Phù Mỹ Phù Cát An Lão Tổng Hoài Nhơn Hoài Ân Vĩnh Thạnh Vân Canh
2013 30,88 30,02 27,09 16,26 9,30 8,17 6,18 127,89
2014 35,02 34,49 30,52 18,59 11,43 10,17 7,44 147,66
13,4% 14,9% 12,7% 14,3% 22,8% 24,6% 20,5% 15,5% Sự thay đổi (%)
Nhận xét chung khi so sánh số liệu 2 bảng trên là quỹ định suất tại các cơ sở
KCB BHYT của Bình Định đều tăng (mức tăng dao động từ 12,7% đến 24,6%) và
các cở KCB BHYT của Khánh Hòa đều giảm (mức giảm dao động từ 36,1% đến
74,5%). Cơ sở có quỹ lớn nhất là Nha Trang (104,23 tỷ VNĐ năm 2013 và 26,53 tỷ
VNĐ năm 2014) cũng là cơ sở có mức giảm lớn nhất. Tỷ trọng phân bổ quỹ của các
cơ sở của Khánh Hòa được trình bày trong biểu đồ 3.3.
51
Biểu đồ 3.3. Tỷ lệ phân bổ quỹ tới các cơ sở năm 2013 và 2014 của Khánh Hòa
Tỷ lệ phân bổ quỹ định suất tới các cơ sở KCB BHYT có một số thay đổi đáng
chú ý. Năm 2013, 37,7% tổng quỹ toàn tỉnh được phân bổ về Nha Trang. Cam Ranh,
Khánh Vĩnh và Khánh Sơn là 3 cơ sở có quỹ nhỏ nhất (chiếm tỷ lệ lần lượt 5,8%,
4,6% và 2,9%). Năm 2014 ngoài việc giảm mạnh về tổng quỹ, tỷ trọng quỹ của Nha
Trang cũng giảm nhiều (từ 37,7% xuống 24,8%). Trong khi đó, 6/7 cơ sở còn lại quỹ
nhỏ hơn đều có tỷ trọng quỹ tăng lên.
Tần suất KCB BHYT của tỉnh Khánh Hòa và tỉnh Bình Định được trình bày
trong bảng 3.5 và bảng 3.6 với đơn vị là lượt/ thẻ. Các số liệu chi tiết về tần suất KCB
BHYT nội trú, ngoại trú và ở tuyến xã được trình bày trong Phụ lục 5. (Các bảng từ
4.2 đến 4.7).
52
Bảng 3.5. Tần suất KCB BHYT tại chỗ tỉnh Khánh Hòa
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn Toàn tỉnh
2013 1,55 3,12 3,06 2,39 2,33 3,14 2,74 2,27 2,36
2014 1,51 3,13 3,36 2,17 2,41 3,40 2,65 2,22 2,43
-2,2 0,4 9,8 -9,1 3,3 8,2 -3,2 -2,0 3,1 Sự thay đổi (%)
Bảng 3.6. Tần suất KCB BHYT tại chỗ tỉnh Bình Định
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Phù Mỹ Phù Cát Hoài Nhơn Hoài Ân Vĩnh Thạnh An Lão Vân Canh Toàn tỉnh
2013 1,90 2,19 1,24 1,94 2,27 1,48 1,84 1,85
2014 1,92 2,37 1,32 2,26 2,38 1,56 1,82 1,97
0,9 8,2 6,0 16,8 4,5 5,9 -1,3 6,7
Sự thay đổi (%)
Tần suất KCB BHYT tại chỗ toàn tỉnh tăng nhẹ so với năm trước: Tăng 3,1%
ở Khánh Hòa và 6,7% ở Bình Định. Sự biến đổi về tần suất KCB tại chỗ khác nhau
giữa các đơn vị. Ở Khánh Hòa, cơ sở tăng nhiều nhất 9,8%, giảm nhiều nhất 9,1%. 2
bệnh viện được chọn để đánh giá chi phí là Diên Khánh và Khánh Vĩnh có sự thay
đổi nhỏ về tần suất KCB tại chỗ (tăng 0,4% và giảm 3,2%). Ở Bình Định, ngoại trừ
Vân Canh giảm 1,3%, các cơ sở khác đều tăng (từ 0,9% đến 16,8%).
Số liệu tổng chi KCB BHYT tại chỗ của 2 tỉnh được trình bày trong bảng 3.7.
Các số liệu tổng chi của từng cơ sở và tổng chi theo các nhóm thẻ được trình bày
trong Phụ lục 5 (các bảng 4.8, 4.9 và 4.10).
53
Bảng 3.7. Tổng chi khám chữa bệnh BHYT tại chỗ
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Tổng chi KCB tại chỗ Năm 2013 Năm 2014 Sự thay đổi (%)
Khánh Hòa 114,84 108,36 -5,6
Bình Định 75,14 87,31 16,2
Quỹ định suất của Khánh Hòa có số tổng chi KCB tại chỗ giảm 5,6% khi thực
hiện thí điểm. Trong khi đó tổng chi KCB tại chỗ của Bình Định tăng 16,2% khi vẫn
thực hiện thanh toán theo định suất như quy định tại Thông tư liên tịch
09/2009/TTLT-BYT-BTC. Nghiên cứu lựa chọn một số thông tin về các tỷ lệ chi tại
Khánh Hòa để xây dựng các biểu đồ từ 3.4 đến 4.8 giúp mô tả khái quát về quá trình
74,1%
75,8%
25,9%
24,2%
100% 90% 80% 70% 60% 50% 40% 30% 20% 10% 0%
2013
2014
Nội trú
Ngoại trú
sử dụng quỹ định suất khi thực hiện thí điểm.
Biểu đồ 3.4. Tỷ lệ chi nội trú và ngoại trú tại chỗ của Khánh Hòa năm 2013 và
2014
Biểu đồ 3.4 thể hiện sự thay đổi nhỏ trong tỷ lệ chi nội trú và ngoại trú sau 1
năm thí điểm. Mức chi ngoại trú vẫn rất cao (khoảng 3 lần) so với chi nội trú mặc dù
tổng chi thay đổi.
120,0%
100,0%
80,0%
66,6%
72,2%
60,0%
40,0%
20,0%
33,4%
27,8%
0,0%
2013
2014
TYT xã
BV huyện
54
Biểu đồ 3.5. Tỷ lệ chi ngoại trú tại TYT xã và BV huyện của Khánh Hòa năm
2013 và 2014
Biểu đồ 3.5 cho thấy tỷ lệ chi cho KCB BHYT tại TYT xã đã tăng lên khi thực
hiện thí điểm (tăng 5,6%).
Tỷ trọng chi đa tuyến và chi tại chỗ của Khánh Hòa năm 2013 được trình bày
trong biểu đồ 3.6.
32,2%
67,8%
Chi đa tuyến Chi tại chỗ
Biểu đồ 3.6. Tỷ trọng chi KCB đa tuyến và tại chỗ của Khánh Hòa năm 2013
Chi đa tuyến chiếm trọng số lớn, hơn 2 lần so với chi tại chỗ. Tổng chi đa
tuyến năm 2013 là 242,1 tỷ VNĐ, phân bổ theo các cơ sở KCB và theo nhóm thẻ như
trong biểu đồ 3.7 và 3.8.
55
Khánh Vĩnh; 2,7% Khánh Sơn; 1,1% Cam Ranh; 6,1%
Cam Lâm; 8,3%
Vạn Ninh; 7,7%
Nha Trang; 47,4%
Ninh Hòa; 17,1%
Diên Khánh; 9,7%
Biểu đồ 3.7. Tỷ lệ chi KCB đa tuyến theo cơ sở năm 2013
Biểu đồ 3.7 cho thấy số chi đa tuyến khác nhau nhiều giữa các cơ sở. Nha
Trang chiếm gần một nửa số chi đa tuyến toàn tỉnh (47,4%). Đây cũng là cơ sở có số
chi vượt quỹ lớn nhất trước khi thực hiện thí điểm. Ninh Hòa (17,1%), Diên Khánh
120,00
95,37
100,00
80,00
54,08
60,00
47,04
(9,7%) đứng tiếp theo về mức chi đa tuyến của Khánh Hòa.
Đ N V ỷ T
40,00
18,23
17,89
20,00
9,45
0,00
Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 Nhóm 4 Nhóm 5 Nhóm 6
Biểu đồ 3.8. Số chi KCB đa tuyến theo nhóm thẻ năm 2013
56
Mức chi đa tuyến khác nhau rõ rệt giữa các nhóm. Nhóm 6 có mức chi đa
tuyến cao nhất (95,37 tỷ, tương đương 39,4%). Nhóm 5 là nhóm có mức chi nhỏ nhất
là 9,45 tỷ VNĐ (chiếm 3,9%). Các nhóm còn lại mức chi tăng dần theo thứ tự nhóm
1, nhóm 4, nhóm 2 và nhóm 3.
3.2. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo
định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
3.2.1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT
Nghiên cứu này không nhằm đánh giá chất lượng KCB BHYT mà chỉ hướng
tới những chỉ số KCB BHYT có thể chịu tác động từ phương thức thanh toán. Căn
cứ vào nguyên tắc của thanh toán theo định suất, chúng tôi xác định thí điểm có thể
tác động đến quá trình KCB BHYT một cách trực tiếp thông qua việc tiếp nhận bệnh
nhân, chỉ định dịch vụ, kê đơn thuốc của y bác sĩ, qua đó gián tiếp ảnh hưởng đến kết
quả điều trị, sự hài lòng của người bệnh. Yêu cầu về tiết kiệm chi phí có thể tác động
đến những quyết định của người làm chuyên môn trực tiếp là bác sĩ như: Quyết định
tiếp nhận bệnh nhân hay chỉ định chuyển tuyến, quyết định cho người bệnh nhập viện
hay điều trị ngoại trú, chỉ định bao nhiêu xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, kê bao
nhiêu thuốc BHYT…
3.2.1.1. Tỷ lệ chuyển tuyến và tỷ lệ nhập viện
Số liệu chuyển tuyến được phân tích trong bảng 3.8 với BV đồng bằng và bảng
3.9 với BV miền núi.
57
Chuyển tuyến
Không chuyển tuyến
OR
Vùng đồng bằng
Kiểm định Khi bình phương
N
%
N
%
Bảng 3.8. Tỷ lệ chuyển tuyến – BV đồng bằng
BV thí điểm
Trước thí điểm
109.662
96,7%
3.742
3,3%
1,48
p<0,01
Sau thí điểm
113.739
95,2%
5.735
4,8%
BV đối chứng
Trước thí điểm
97.631
95,9%
4.174
4,1%
1,08
p<0,01
Sau thí điểm
111.281
95,6%
5.122
4,4%
Tỷ lệ chuyển tuyến ở BV thí điểm tăng từ 3,3% lên 4,8%, có ý nghĩa thống kê
với p<0,01. Tỷ lệ này cũng tăng ở BV đối chứng từ 4,1% lên 4,4%, cũng có ý nghĩa
thống kê với p<0,01. Tuy nhiên mức tăng ở BV thí điểm (OR=1,48) lớn hơn so với
BV đối chứng (OR =1,08).
Chuyển tuyến
Không chuyển tuyến
Vùng núi
OR
Kiểm định Khi bình phương
N
%
N
%
Bảng 3.9. Tỷ lệ chuyển tuyến – BV miền núi
BV thí điểm
Trước thí điểm
23.570
96,0%
982
4,0%
1,59
p<0,01
Sau thí điểm
23.147
93,8%
1.530
6,2%
BV đối chứng
Trước thí điểm
21.125
94,9%
1.135
5,1%
p>0,05
0,96
Sau thí điểm
21.389
95,1%
1.102
4,9%
Kết quả ở BV miền núi cũng có thay đổi tương tự. BV thí điểm có tỷ lệ chuyển
tuyến tăng từ 4,0% lên 6,2% (OR=1,59), có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Trong khi đó
kết quả giảm ở BV đối chứng (OR=0,96), không có ý nghĩa thống kê. Như vậy có thể
58
nhận thấy rõ tỷ lệ chuyển tuyến đều tăng và tăng nhiều các bệnh viện thí điểm khi so
sánh với các bệnh viện đối chứng.
Số liệu nhập viện được phân tích trong bảng 3.10 với BV đồng bằng và bảng
3.11 với BV miền núi.
Nhập viện
OR
Vùng đồng bằng
N
%
%
N
Không nhập viện Kiểm định Khi bình phương
Bảng 3.10. Tỷ lệ nhập viện – BV đồng bằng
BV thí điểm
Sau thí điểm
9.723
8,5%
104.016
91,5%
p>0,05
0,98
Trước thí điểm
9.505
8,7%
100.157
91,3%
BV đối chứng
Sau thí điểm
8.732
7,8%
102.549
92,2%
p<0,01
0,87
Trước thí điểm
8.673
8,9%
88.958
91,1%
Bảng 3.10 cho thấy tỷ lệ nhập viện giảm nhẹ ở BV thí điểm (giảm từ 8,7%
xuống 8,5%, OR=0,98) và giảm từ 8,9% xuống 7,8% (OR=0,87) ở BV đối chứng.
Tuy nhiên kết quả nghiên cứu ở BV thí điểm không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Nghiên cứu ở BV miền núi cũng cho kết quả không thay đổi nhiều về tỷ lệ này.
Nhập viện
OR
Vùng núi
N
%
%
N
Không nhập viện Kiểm định Khi bình phương
Bảng 3.11. Tỷ lệ nhập viện – BV miền núi
BV thí điểm
Sau thí điểm
5.960
25,7%
17.187
74,3%
p>0,05
1,01
Trước thí điểm
6.035
25,6%
17.535
74,4%
BV đối chứng
Sau thí điểm
3.107
14,5%
18.315
85,5%
p>0,05
1,01
Trước thí điểm
3.036
14,4%
18.089
85,6%
59
Nghiên cứu ở BV miền núi cũng cho kết quả về sự thay đổi hạn chế. Tỷ lệ
nhập viện ở BV thí điểm tăng 0,1%, không có ý nghĩa thống kê. Số liệu ở bệnh viện
đối chứng cũng tăng tương tự 0,1% và không có ý nghĩa thống kê.
Lý giải về nguyên nhân chuyển tuyến, kết quả định tính đã tìm được một số lý
do cả trong và ngoài vấn đề chuyên môn. Trước hết là những bệnh nặng vượt quá khả
năng điều trị của cơ sở:
“Các trường hợp chuyển lên bệnh viện tỉnh đều là những trường hợp bệnh
nặng vượt quá khả năng chuyên môn kỹ thuật của tuyến huyện.” (PVS - Ông X, Bệnh
viện A)
“Các bệnh cần phải chuyển vẫn tập trung chủ yếu là u bướu, tim mạch, cơ sở
chưa có xạ trị hay can thiệp chuyên sâu.” (PVS - Bác sĩ P, Bệnh viện B)
Bên cạnh đó có thể lý do là người nhà, người quen họ xin chuyển: “Anh em
làm bằng cái tâm của mình, không giữ bệnh nhân nặng, cứ theo lý mà mình làm đúng,
nhưng đôi khi có cái tình, người nhà, người quen họ xin chuyển.” (PVS - Bác sĩ Q,
Bệnh viện A)
Khi đề cập đến vấn đề tỉ lệ chuyển tuyến tăng, các đối tượng trong nghiên cứu
định tính hoặc là phủ định:
“Tăng chuyển tuyến hiện tại thì chưa ghi nhận báo cáo gì bất thường.” (PVS
- Ông C, Sở Y tế)
Hoặc đưa ra nguyên nhân khách quan là số bệnh nhân nặng tăng:
“Có thể là do số lượt bệnh nhân nặng đến viện tăng lên, nhu cầu khám chữa
bệnh cao nhưng bệnh viện chưa đáp ứng được.” (PVS - Ông X, Bệnh viện A)
Các đối tượng nghiên cứu định tính đều khẳng định bệnh viện làm hết mình
để giữ bệnh nhân và thực hiện chuyển tuyến đúng theo quy định:
“Chúng tôi thực hiện việc chuyển tuyến theo đúng quy định.” (PVS - Ông X,
Bệnh viện A)
“Bệnh viện làm hết mình để giữ bệnh nhân, không ai muốn chuyển đi làm gì.”
(PVS - Ông Y, Bệnh viện B)
60
3.2.1.2. Số xét nghiệm, CĐHA và đầu thuốc trung bình
Bảng 3.12 và 3.13 phân tích sự thay đổi số xét nghiệm trung bình theo lượt
KCB nội trú. Mức gia tăng được tính theo tỷ lệ % với trị số dương là tăng, âm là giảm.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
-5,7%
8
8
BV thí điểm
8,7 ± 4,2
8,2 ± 3,0
Bảng 3.12. Số xét nghiệm trung bình – BV đồng bằng
p=0,04
11,1%
7
7
BV đối chứng
7,2 ± 2,2
8,0 ± 4,6
p<0,01
Các sự thay đổi khác biệt rất lớn khi so sánh đối chứng. Số xét nghiệm trung
bình giảm 5,7% ở BV thí điểm và ngược lại, tăng tới 11,1% ở BV đối chứng. Các kết
quả có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
3
3
BV thí điểm
3,1 ± 1,9
2,8 ± 1,0
-9,7%
Bảng 3.13. Số xét nghiệm trung bình – BV miền núi
p<0,01
3
3
BV đối chứng
3,0 ± 1,1
3,4 ± 2,6
13,3%
p<0,01
Khác biệt ở các BV miền núi là lớn hơn với mức giảm 9,7% ở BV thí điểm và
tăng 13,3% ở BV đối chứng. Số liệu có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Số chẩn đoán hình ảnh trung bình theo lượt KCB nội trú được trình bày trong
các bảng 3.14 và 3.15 cũng cho kết quả tương tự khi phân tích.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
4,1 ± 2,6
4
3,8 ± 2,3
4
-7,3%
Bảng 3.14. Số chẩn đoán hình ảnh trung bình – BV đồng bằng
p<0,01
BV đối chứng
3,9 ± 3,0
4
4,2 ± 2,7
4
7,7%
p=0,12
61
Trung bình mỗi lượt KCB nội trú ở BV thí điểm có 4,1 lượt CĐHA. Số liệu
này giảm xuống 3,8 (giảm 7,3%) sau 1 năm, có ý nghĩa thống kê. Số CĐHA trung
bình ở BV đối chứng tăng 7,7% (từ 3,9 lên 4,2), không có ý nghĩa thống kê.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,4 ± 1,4
3
2,9 ± 1,5
3
-14,7%
Bảng 3.15. Số chẩn đoán hình ảnh trung bình – BV miền núi
p<0,01
BV đối chứng
3,2 ± 1,5
3
3,6 ± 2,2
3
12,5%
p<0,01
Thí điểm cũng làm giảm số chẩn đoán hình ảnh trung bình được thực hiện ở
người bệnh nội trú với mức 14,7% ở BV miền núi. Sự thay đổi này có ý nghĩa thống
kê (p<0,05). BV đối chứng có số liệu tăng 12,5%, có ý nghĩa thống kê.
Nghiên cứu tiến hành đánh giá số đầu thuốc trung bình theo lượt KCB nội trú
và ngoại trú. Mỗi đầu thuốc là một khoản chi thuộc phân loại thuốc có ghi tên và chi
phí rõ ràng trên phiếu thanh toán. Số đầu thuốc tăng hay giảm liên quan chặt chẽ đến
chi phí KCB đồng thời cũng là chỉ số quá trình khi đánh giá về chất lượng.
Kết quả phân tích số đầu thuốc nội trú trung bình được trình bày trong bảng
3.16 – BV đồng bằng và bảng 3.17 – BV miền núi.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
8,5 ± 2,4
8
8,3 ± 1,4
8
-2,4%
Bảng 3.16. Số đầu thuốc nội trú trung bình – BV đồng bằng
p<0,01
BV đối chứng
9,2 ±3,5
9
9,6 ± 2,7
9
4,3%
p<0,01
Mỗi lượt điều trị nội trú tại BV thí điểm sử dụng trung bình 8,5 đầu thuốc. Số
đầu thuốc giảm 2,4%, còn 8,3 sau khi thực hiện thí điểm, số liệu có ý nghĩa thống kê
với p<0,01. Bệnh viện đối chứng thay đổi theo chiều hướng ngược lại, tăng 4,3% (từ
9,2 lên 9,6), có ý nghĩa thống kê.
62
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
9,4 ± 3,3
9
8,6 ± 3,1
8
-8,5%
Bảng 3.17. Số đầu thuốc nội trú trung bình – BV miền núi
p<0,01
BV đối chứng
7,8 ± 2,0
8
8,2 ± 2,6
8
5,1%
p<0,01
Số đầu thuốc nội trú trung bình tiếp tục giảm ở BV thí điểm và tăng ở BV đối
chứng đối với khu vực miền núi. Mức giảm 8,5% và mức tăng 5,1% lớn hơn so với
các BV đồng bằng. Các sự thay đổi đều có ý nghĩa thống kê (p<0,05).
Nghiên cứu trên số đầu thuốc ngoại trú cũng cho kết quả tương tự trong các
bảng 3.18 và 3.19.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
4,4 ± 2,1
4
3,9 ± 1,9
4
-11,4%
Bảng 3.18. Số đầu thuốc ngoại trú trung bình – BV đồng bằng
p<0,01
BV đối chứng
3,8 ± 3,5
4
3,9 ± 2,8
4
2,6%
p=0,18
Đơn thuốc ngoại trú ở BV thí điểm có trung bình 4,4 đầu thuốc trước thí điểm.
Sau thí điểm số đầu thuốc trung bình là 3,9 (giảm 11,4%, có ý nghĩa thống kê). Kết
quả ở BV đối chứng tăng 2,6% từ 3,8 lên 3,9 đầu thuốc nhưng không có ý nghĩa.
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Thay đổi (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,9 ± 1,7
4
3,7 ± 2,0
4
-5,1%
Bảng 3.19. Số đầu thuốc ngoại trú trung bình – BV miền núi
p<0,01
BV đối chứng
3,4 ± 1,5
3
3,7 ± 2,8
4
8,8%
p<0,01
Sự thay đổi trái ngược nói trên cũng xảy ra ở các BV miền núi. Số đầu thuốc
ngoại trú trung bình giảm (5,1%) ở BV thí điểm và tăng 8,8% ở BV đối chứng. Số
63
liệu trung bình trước thí điểm là 3,9 và 3,4 tương ứng với BV thí điểm và đối chứng,
sau thí điểm cùng là 3,7. Các sự thay đổi có ý nghĩa thống kê với p<0,01.
Việc cắt giảm xét nghiệm, CĐHA và thuốc được chính các bác sĩ thừa nhận.
“Chúng tôi cẩn trọng khi chỉ định dịch vụ. Chỉ định phải phù hợp và cần thiết.
Chi phí dịch vụ cũng là yếu tố khiến anh em phải cân nhắc.” (TLN - Bác sĩ E, 51 tuổi,
Bệnh viện B)
“Mỗi bệnh nhân bác sĩ cần cân nhắc tình trạng… xem tiền sử lần khám trước,
không phải xét nghiệm gì mình cũng cho làm” (TLN - Bác sĩ N, 37 tuổi, Bệnh viện
B)
“X quang hay siêu âm bụng tổng quát trước cứ ghi thành quen, giờ thì cần
mới ghi” (PVS - Bác sĩ P, Bệnh viện A)
“Thuốc kê theo đúng bệnh, không kê nhiều, nếu cùng chữa được thì có ưu tiên
chọn thuốc rẻ hơn.” (PVS – Bác sĩ F, Bệnh viện A)
Tuy nhiên khi thảo luận nhóm, chính các bác sĩ cũng nêu nhiều khó khăn nếu
bị hạn chế về thực hành chuyên môn:
“Nhiều bệnh nhân ghi chẩn đoán 1 bệnh nhưng có vấn đề về thừa cân, tiền sử
uống rượu thì phải xét nghiệm mỡ máu, GOT, GPT… chứ bệnh nào chỉ định đúng
bệnh đó thì khó cho bác sĩ…” (TLN - Bác sĩ F, 38 tuổi, Bệnh viện A)
“Bây giờ trên một bệnh nhân, điều trị tốt anh cần đánh giá chức năng gan,
thận, có thể cần làm xét nghiệm cơ bản như ure, creatinin, men gan. Bỏ bớt đi mà kê
đơn thì thiếu thông tin.” (TLN - Bác sĩ G, 55 tuổi, Bệnh viện A)
“...viêm phế quản chụp X quang thẳng nghiêng… Nằm viện cần thiết cho chụp
lại để đánh giá điều trị. (TLN - Bác sĩ H, 44 tuổi, Bệnh viện A)
“Bệnh nặng mà nhiều thuốc, thuốc tốt thì vẫn khỏi thôi. Thuốc tốt nhất thì
thường phải nhiều tiền hơn.” (TLN - Bà L, Bệnh viện A)
Cắt giảm dịch vụ, giảm thuốc khi kê đơn có phải là chỉ đạo của bệnh viện
không và có hợp lý không. Kết quả phỏng vấn sâu đã giúp tìm hiểu được phần nào
câu trả lời:
64
“Ban Giám đốc không hạn chế thực hành của bác sĩ… Nhưng khoán định suất
thì phải khám chữa bệnh hiệu quả nhất, xét nghiệm hay X quang cái gì thật cần thì
làm” (PVS - Ông I, Bệnh viện A)
“Số thuốc còn, còn nhiều hoặc hết đều được khoa Dược thông báo trong giao
ban. Thuốc giá cao hay thấp bác sĩ bác sĩ cần biết mà kê” (PVS - Bà K, Bệnh viện
A)
“Chuyện tiết kiệm chi có thể là số thuốc giảm hay chỉ định giảm, nhưng là
giảm những cái không thực sự cần thiết, không ảnh hưởng đến kết quả điều trị.”
(PVS - Ông M, Bệnh viện B)
Số xét nghiệm, CĐHA và số đầu thuốc giảm có ý nghĩa khi thực hiện thí điểm.
Đại diện Sở Y tế và Bảo hiểm xã hội tỉnh có nêu quan điểm và giải pháp cho vấn đề
này:
“Tiết kiệm chi thì dịch vụ sẽ giảm, còn giảm như thế nào? Đầu tiên là trách
nhiệm của bác sĩ và của thủ trưởng đơn vị. Chúng tôi có kiểm tra thường xuyên và
đột xuất để đánh giá thực hiện quy chế chuyên môn, đảm bảo quyền lợi cho người
bệnh.” (PVS - Ông C, Sở Y tế)
“Bảo hiểm xã hội sẽ phối hợp chặt chẽ với Sở Y tế. Chúng tôi có cán bộ giám
định nhưng chuyên môn sâu về y thì khó đánh giá lắm. Thuốc trong danh mục BHYT,
không thể bảo người ta kê đơn sai, cho nhiều hay ít thuốc quá được.” (PVS - Bà D,
BHXH tỉnh)
3.2.1.3. Thời gian điều trị nội trú và tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh
Thời gian điều trị nội trú trung bình hay số ngày nằm viện trung bình được so
sánh đối chứng trong các bảng 3.20 với BV đồng bằng và bảng 3.21 với BV miền núi.
65
Bảng 3.20. Thời gian điều trị nội trú trung bình – BV đồng bằng
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Gia tăng (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
6,8 ± 2,6
7
6,9 ± 2,5
7
1,5%
p=0,11
BV đối chứng
7,0 ± 2,1
7
7,2 ± 2,8
7
2,9%
Đơn vị: Ngày
p<0,01
Trung bình mỗi bệnh nhân điều trị nội trú trong khoảng trên dưới 7 ngày. Thời
gian điều trị nội trú trung bình tăng nhẹ cả ở BV thí điểm và đối chứng vùng đồng
bằng với các mức gia tăng 1,5% và 2,9%. Sự thay đổi tại BV đối chứng có nghĩa
thống kê với p<0,05 nhưng BV thí điểm thì không.
Bảng 3.21. Thời gian điều trị nội trú trung bình – BV miền núi
Trước thí điểm
Sau thí điểm
Gia tăng (%)
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
7,1 ± 2,9
7
7,0 ± 3,2
7
-1,4%
p=0,31
BV đối chứng
6,3 ± 1,7
6
6,4 ± 2,1
6
1,6%
Đơn vị: Ngày
p<0,01
BV thí điểm có thời gian điều trị nội trú trung bình giảm 1,4%, số liệu không
có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Trong khi đó thời gian này tăng nhẹ ở BV đối chứng
(tăng 1,6%, có ý nghĩa thống kê) giống như các BV đồng bằng.
Các tác động của thanh toán theo định suất đến việc kê đơn, chỉ định dịch vụ
có thể gián tiếp ảnh hưởng đến kết quả điều trị. Nghiên cứu so sánh sự thay đổi tỷ lệ
bệnh án khỏi bệnh trong điều trị nội trú trước và sau thí điểm trong bảng 3.22 và 3.23.
66
Khỏi bệnh
Không khỏi bệnh
OR
Kiểm định Khi bình phương
N
%
N
%
Bảng 3.22. Tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh – BV đồng bằng
BV thí điểm
Trước thí điểm
16,9%
197
83,1%
40
p>0,05
1,13
Sau thí điểm
15,2%
251
84,8%
45
BV đối chứng
Trước thí điểm
12,1%
248
87,9%
34
p>0,05
0,95
Sau thí điểm
12,6%
277
87,4%
40
Tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh đều đạt trên 80% ở BV thí điểm và BV đối chứng. Tỷ
lệ này thay đổi không nhiều (OR=1,13; 0,95) và sự thay đổi không có ý nghĩa thống
kê (p>0,05). Số liệu nghiên cứu ở BV miền núi cũng không chỉ ra được sự thay đổi
có ý nghĩa trên tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh.
Khỏi bệnh
Không khỏi bệnh
OR
Kiểm định Khi bình phương
N
%
N
%
Bảng 3.23. Tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh – BV miền núi
BV thí điểm
Trước thí điểm
15,5%
191
84,5%
35
p>0,05
1,15
Sau thí điểm
13,8%
225
86,2%
36
BV đối chứng
Trước thí điểm
9,0%
223
91,0%
22
p>0,05
0,97
Sau thí điểm
9,3%
235
90,7%
24
67
BV thí điểm có tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh là 84,5% và 86,2% ở các thời điểm
trước và sau thí điểm, OR=1,15. Số liệu ở BV đối chứng là 91,0% và 90,7%, OR=0,97.
Các số liệu không có ý nghĩa thống kê với p>0,05.
Dữ liệu định tính từ các bác sĩ cũng thừa nhận kết quả điều trị chưa có chuyển
biến ở cả thời gian điều trị nội trú và tỷ lệ khỏi bệnh:
“Điều trị thì phải đủ liều. Thời gian nội trú nếu nói trung bình, ít thay đổi lắm.
Điều trị đủ liều thì mới khỏi được… Ra sớm cũng không được, chuyên môn không
đảm bảo thì không cho ra.” (PVS - Bác sĩ F, 38 tuổi, Bệnh viện A)
“Trước đây với bây giờ cũng vậy… Thực ra họ (bệnh nhân) đỡ, khỏi, hết sốt,
hết ho, ăn uống khá, thể trạng ổn định thì mình cho ra.” (PVS - Bác sĩ Q, 39 tuổi,
Bệnh viện B)
Kết quả điều trị nói chung vẫn thế… Khỏi hay không còn phụ thuộc vào thể
trạng bệnh nhân, không chỉ mỗi thuốc điều trị. (PVS - Bác sĩ R, 47 tuổi, Bệnh viện
B)
3.2.2. So sánh sự thay đổi về sự hài lòng của người bệnh BHYT
Nghiên cứu đã tiến hành đánh giá sự hài lòng của người bệnh nội trú trước và
sau thí điểm. Các kết quả chi tiết về sự hài lòng của người bệnh trên phương diện hữu
hình, phương diện tin cậy, phương diện đáp ứng, phương diện đảm bảo và phương
diện cảm thông được trình bày trong phần Phụ lục (Phụ lục 6. Một số kết quả nghiên
cứu về sự hài lòng của người bệnh nội trú trên 5 phương diện). Số liệu tổng hợp về
sự hài lòng của người bệnh được trình bày trong bảng 3.24 – BV đồng bằng và 3.25
– BV miền núi.
68
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,72 ± 0,51
3,69
3,75 ± 0,63
3,78
0,7%
0,19
Phương diện hữu hình
BV đối chứng
3,75 ± 0,42
3,81
3,72 ± 0,70
3,8
-0,7%
0,07
BV thí điểm
3,71 ± 0,88
3,7
3,69 ± 0,53
3,68
-0,6%
0,21
Phương diện tin cậy
BV đối chứng
3,72 ± 0,57
3,74
3,75 ± 0,49
3,79
0,7%
0,15
BV thí điểm
3,47 ± 0,51
3,53
3,69 ± 0,46
3,67
6,2%
Bảng 3.24. Sự hài lòng của người bệnh – BV đồng bằng
0,00
Phương diện đáp ứng
BV đối chứng
3,69 ± 0,56
3,65
3,66 ± 0,47
3,65
-0,9%
0,09
BV thí điểm
3,89 ± 0,52
3,88
3,86 ± 0,53
3,87
-0,7%
0,08
Phương diện đảm bảo
BV đối chứng
3,9 ± 0,61
3,89
3,92 ± 0,81
3,93
0,5%
0,13
BV thí điểm
3,67 ± 0,65
3,71
3,78 ± 0,69
3,79
3,1%
0,03
Phương diện cảm thông
BV đối chứng
3,77 ± 0,43
3,73
3,7 ± 0,64
3,71
-1,9%
0,20
BV thí điểm
3,69 ± 0,52
3,7
3,75 ± 0,57
3,74
1,6%
0,07
Tổng hợp sự hài lòng của người bệnh
BV đối chứng
3,77 ± 0,47
3,78
3,75 ± 0,65
3,75
-0,4%
0,12
Khi đánh giá sự hài lòng của người bệnh với thang điểm từ 1 đến 5, kết quả
nghiên cứu cho thấy mức độ hài lòng trung bình ở BV đồng bằng trên các phương
diện dao động trong khoảng từ 3,47 đến 3,92 điểm. Điểm tổng hợp sự hài lòng của
người bệnh ở BV thí điểm đạt mức trung bình 3,69 và 3,75 ở các thời điểm trước và
sau thí điểm. Mức gia tăng 1,6%, không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Điểm tổng
hợp trung bình ở BV đối chứng là 3,77 và 3,75. Thay đổi -0,4% (giảm), không có ý
nghĩa thống kê. Trên các phương diện cụ thể, sự thay đổi (ở BV thí điểm) lần lượt là
0,7%; -0,6%; 6,2%; -0,7% và 3,1% tương ứng với phương diện hữu hình, phương
diện tin cậy, phương diện đáp ứng, phương diện đảm bảo và phương diện cảm thông.
69
Kết quả phân tích cho thấy phần lớn các sự thay đổi về mức độ hài lòng của người
bệnh không có ý nghĩa thống kê. Sự hài lòng trên phương diện đáp ứng và cảm thông
tăng ở BV thí điểm (tăng lần lượt 6,2% và 3,1% điểm trung bình), số liệu này có ý
nghĩa thống kê (p<0,05).
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,72 ± 0,53
3,65
3,69 ± 0,55
3,68
0,8%
0,08
Phương diện hữu hình
BV đối chứng
3,62 ± 0,71
3,62
3,62 ± 0,62
3,6
-0,4%
0,12
BV thí điểm
3,85 ± 0,45
3,79
3,82 ± 0,52
3,79
-0,8%
0,09
Phương diện tin cậy
BV đối chứng
3,79 ± 0,65
3,75
3,78 ± 0,45
3,74
-0,3%
0,16
BV thí điểm
3,52 ± 0,39
3,51
3,69 ± 0,44
3,7
5,0%
Bảng 3.25. Sự hài lòng của người bệnh – BV miền núi
0,00
Phương diện đáp ứng
BV đối chứng
3,54 ± 0,61
3,59
3,54 ± 0,76
3,58
0,1%
0,20
BV thí điểm
3,76 ± 0,52
3,75
3,78 ± 0,70
3,81
0,4%
0,18
Phương diện đảm bảo
BV đối chứng
3,83 ± 0,35
3,83
3,82 ± 0,53
3,81
-0,3%
0,09
BV thí điểm
3,65 ± 0,54
3,7
3,72 ± 0,58
3,72
2,0%
0,06
Phương diện cảm thông
BV đối chứng
3,65 ± 0,59
3,66
3,66 ± 0,56
3,68
0,2%
0,05
BV thí điểm
3,70 ± 0,43
3,68
3,74 ± 0,66
3,72
1,4%
0,11
Tổng hợp sự hài lòng của người bệnh
BV đối chứng
3,68 ± 0,53
3,7
3,68 ± 0,49
3,67
-0,2%
0,09
Sự hài lòng của người bệnh ở BV miền núi có mức điểm dao động từ 3,52 đến
3,85 (thang điểm 5) ở 5 phương diện. BV thí điểm có điểm tổng hợp sự hài lòng của
người bệnh đạt mức trung bình 3,70 và 3,74 ở các thời điểm trước và sau thí điểm.
Mức gia tăng là 1,4%, không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Điểm tổng hợp trung
bình ở BV đối chứng ở 2 thời điểm đều xấp xỉ 3,68. Thay đổi -0,2% (giảm), không
70
có ý nghĩa thống kê. Trên các phương diện cụ thể, sự thay đổi (ở BV thí điểm) lần
lượt là 0,8%; -0,8%; 5%; 0,4% và 2,0% tương ứng với phương diện hữu hình, phương
diện tin cậy, phương diện đáp ứng, phương diện đảm bảo và phương diện cảm thông.
Tương tự như ở BV đồng bằng, kết quả phân tích cho thấy phần lớn các sự thay đổi
về mức độ hài lòng của người bệnh không có ý nghĩa thống kê. Điểm đáng chú ý nhất
là sự thay đổi mức độ hài lòng của người bệnh trên phương diện đáp ứng. Kết quả
tăng 5,0% và có ý nghĩa thống kê ở BV thí điểm với p<0,01.
Nhiều nội dung nghiên cứu về sự hài lòng của người bệnh chỉ ra sự thay đổi
không nhiều và không có ý nghĩa thống kê (Các bảng từ 4.13 đến 4.22, Phụ lục 6).
Trên phương diện hữu hình là sự hài lòng về: Khuôn viên bệnh viện xanh, sạch, đẹp;
buồng bệnh sạch sẽ, thông thoáng; nhà vệ sinh thuận tiện, sử dụng tốt; trang thiết bị,
máy móc đầy đủ và hoạt động tốt; được cung cấp quần áo đầy đủ, sạch sẽ; và căng
tin bệnh viện phục vụ ăn uống và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu. Trên phương diện tin
cậy là sự hài lòng về: Tin tưởng ở kết quả chẩn đoán và điều trị; chi phí KCB rõ ràng,
hợp lý; bình đẳng, công bằng trong đối xử với người bệnh; NVYT không có biểu hiện
gợi ý bồi dưỡng. Trên phương diện đảm bảo là sự hài lòng về: Bác sĩ có chuyên môn
giỏi; được tôn trọng và giữ kín bí mật riêng tư; đảm bảo an ninh, an toàn khi khám
chữa bệnh. Trên phương diện cảm thông là sự hài lòng về: Thời gian khám chữa bệnh
được bố trí phù hợp, thuận tiện; sự chăm sóc y tế của y bác sĩ phù hợp với tình trạng
bệnh tật và hoàn cảnh của người bệnh; nhân viên y tế luôn chú ý tới người bệnh.
Một số kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê về sự hài lòng của người bệnh
tại 2 bệnh viện thí điểm được hệ thống lại trong bảng 3.26.
71
Bảng 3.26. Một số kết quả nghiên cứu có ý nghĩa thống kê về sự hài lòng của
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
4
BV đồng bằng
3,37 ± 0,52
3,62 ± 0,39
7,4%
4
người bệnh tại bệnh viện thí điểm
0,00
bác
Được sĩ thăm khám, tư vấn, động viên
4
BV miền núi
3,44 ± 0,55
3,65 ± 0,51
6,1%
4
0,00
4
BV đồng bằng
3,51 ± 0,59
3,67 ± 0,37
4,6%
4
0,01
Được hướng dẫn trình về quy khám chữa bệnh
4
BV miền núi
3,66 ± 0,41
3,79 ± 0,49
3,6%
4
0,00
4
BV đồng bằng
3,42 ± 0,52
3,67 ± 0,47
7,3%
4
0,01
4
BV miền núi
3,37 ± 0,67
3,58 ± 0,55
6,2%
4
0,00
Được cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị
4
BV đồng bằng
3,59 ± 0,35
3,79 ± 0,51
5,6%
4
0,00
Hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết
4
BV miền núi
3,6 ± 0,52
3,75 ± 0,53
4,2%
4
0,01
4
BV đồng bằng
3,65 ± 0,33
3,81 ± 0,42
4,4%
4
0,00
Cán bộ, nhân viên BV vui vẻ, hòa nhã
4
BV miền núi
3,72 ± 0,53
3,89 ± 0,46
4,6%
4
0,00
4
BV đồng bằng
3,62 ± 0,56
3,79 ± 0,33
4,7%
4
0,04
Nhân viên y tế nhiệt tận tình, tụy
4
BV miền núi
3,72 ± 0,51
3,81 ± 0,37
2,4%
4
0,00
4
BV đồng bằng
3,62 ± 0,38
3,79 ± 0,61
4,7%
4
0,00
4
BV miền núi
3,52 ± 0,32
3,69 ± 0,43
4,8%
4
0,00
Y bác sĩ cảm thông, chia sẻ trạng tình với bệnh tật và sự lo lắng của người bệnh
Sự gia tăng mang các giá trị dương, dao động từ 2,4% đến 7,4%, thay đổi có
ý nghĩa thống kê. Những thay đổi có ý nghĩa được ghi nhận liên quan trực tiếp đến
hành vi, thái độ của nhân viên y tế. Mức độ hài lòng của người bệnh nội trú đều tăng
khi được hỏi về các nội dung: “Được bác sĩ thăm khám, tư vấn, động viên”; “được
hướng dẫn về quy trình khám chữa bệnh”; “được cung cấp đầy đủ thông tin về xét
72
nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị”; “hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết”.
Điểm trung bình hài lòng tăng nhiều nhất ở hai nội dung: “Được bác sĩ thăm khám,
tư vấn, động viên” và “được cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán,
thuốc điều trị”. Mức điểm tăng 7,4% và 7,3% ở BV đồng bằng, tăng 6,1% và 6,2% ở
BV miền núi. Số liệu có ý nghĩa thống kê với p<0,05.
Qua phỏng vấn sâu, nghiên cứu ghi nhận thêm những thông tin đánh giá sự
hài lòng của người bệnh nội trú. Những ý kiến hài lòng và không hài lòng được phân
thành 3 nhóm.
Nhóm thứ nhất về cơ sở vật chất và hạ tầng của bệnh viện. Nhìn chung những
đánh giá là tích cực (5/8 ý kiến) như:
“Viện sạch sẽ, căng tin thuận lợi, nằm khoa… này dễ chịu và yên tâm.” (PVS
- Nguyễn Thị B, 66 tuổi, Bệnh viện B)
“Phòng bệnh kín gió, rộng rãi, điện nước đầy đủ…” (PVS - Nguyễn Mai T,
22 tuổi, Bệnh viện A)
Tuy nhiên vẫn có những ý kiến chưa hài lòng cụ thể:
“Phòng bệnh thì sạch nhưng nhà vệ sinh bẩn lắm, bên kia mùi bay sang…
Hôm trước hình như không dọn.” (PVS - Nguyễn Thị M, 27 tuổi, Bệnh viện B)
Nhóm thứ hai về cán bộ, nhân viên y tế. Đa số ý kiến (10/11) rất hài lòng về
tinh thần, thái độ của y bác sĩ:
“Tôi thấy hài lòng lắm. Lần nào đến viện cũng tốt. Bác sĩ nhiệt tình lắm!”
(PVS - Trần Thị T, 50 tuổi, Bệnh viện A)
“Nhân viên bệnh viện vui vẻ, cần gì đều hỏi được.” (PVS - Trần Văn N, 43
tuổi, Bệnh viện B)
Có 1 ý kiến rất không hài lòng được ghi nhận:
“Có cô… tiêm đau lắm, mặt lạnh, không cười, nói vài câu cho có… chẳng hỏi
han gì.” (PVS - Đỗ Văn B, 71 tuổi, Bệnh viện B).
Nhóm thứ ba về hoạt động điều trị, có cả ý kiến đánh giá tốt (3/5) và không
tốt (2/5):
73
“Thuốc tốt, tiêm 3 hôm là rút sốt rồi, nói chung là nhanh và hiệu quả.” (PVS
- Hồ Anh T, 29 tuổi, Bệnh viện A)
“Thuốc thì nó chỉ dịu đi tí, nằm mấy hôm thấy vẫn mệt, được độ tuần thì bác
sĩ cho ra thôi.” (PVS - Nguyễn Thị Diệu T, 59 tuổi, Bệnh viện A)
Nghiên cứu cũng ghi nhận những quan điểm từ cán bộ lãnh đạo và quản lý đến
bác sĩ điều trị khẳng định sự quan tâm, ưu tiên cải thiện chất lượng phục vụ người
bệnh dù thừa nhận nhiều khó khăn.
Về cơ sở vật chất và hạ tầng của bệnh viện:
“Phấn đấu để bệnh viện xanh, sạch, đẹp. Sự hài lòng về cơ sở vật chất, trang
thiết bị thì chưa thể thay đổi ngay được, kinh tế chung của huyện còn nhiều khó khăn.”
(PVS - Ông I, Bệnh viện A)
Về cán bộ, nhân viên y tế:
“Thí điểm lần này, bệnh viện thực hiện chỉ đạo quyết liệt, cải thiện thái độ
phục vụ của cán bộ công nhân viên tất cả các khoa phòng.” (PVS - Ông M, Bệnh
viện B).
“Chúng tôi có đường dây nóng, đơn vị, cá nhân nào làm sai, có phản ánh
chúng tôi sẽ xác minh và chấn chỉnh ngay.” (PVS - Ông E, Sở Y tế)
Về hoạt động điều trị:
“Chúng tôi làm dịch vụ, bệnh nhân là khách hàng, chúng tôi phải làm họ hài
lòng.” (PVS - Bác sĩ N, 52 tuổi, Bệnh viện B).
“Sự hài lòng của bệnh nhân là một cơ sở quan trọng để đánh giá chất lượng
khám chữa bệnh. Tuy nhiều nội dung cũng chỉ tương đối, khó chính xác. Sự phối hợp
liên ngành giúp chúng tôi nắm tình hình sát hơn, cải thiện sự phục vụ bệnh nhân”
(PVS - Bà D, BHXH tỉnh).
74
3.3. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa đổi
phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
3.3.1. Chi phí KCB trung bình đầu thẻ
Sau 1 năm thí điểm, chi phí KCB trung bình đầu thẻ của tỉnh thí điểm (Khánh
Hòa) giảm 70,6%, từ 616,6 nghìn VNĐ xuống còn 181,4 nghìn VNĐ. Trong khi đó,
tỉnh đối chứng (Bình Định) tăng 18,5%, từ 417,5 nghìn VNĐ lên 494,8 nghìn VNĐ.
Bảng 3.27 cho biết sự thay đổi chi phí KCB trung bình đầu thẻ (có tính cả chi phí đa
tuyến) và chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ.
Bảng 3.27. Chi phí KCB trung bình trên đầu thẻ BHYT
Đơn vị: Nghìn VNĐ
Chi phí KCB trung bình đầu thẻ Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ
Khánh Hòa Bình Định Khánh Hòa Bình Định
417,5 202,3 2013 616,6 198,4
494,8 229,3 2014 181,4 181,4
77,3 27,0 Sự thay đổi -435,2 -17,0
18,5% 13,4% Tỷ lệ thay đổi -70,6% -8,6%
Chi phí KCB trung bình đầu thẻ của Khánh Hòa giảm nhiều do việc cắt bỏ chi
đa tuyến (đưa ra ngoài quỹ định suất). Chi phí KCB tại chỗ giảm nhẹ (8,6%) so với
mức tăng 13,4% ở tỉnh đối chứng. Nghiên cứu so sánh sự thay đổi chi phí KCB tại
chỗ tại các bệnh viện thí điểm và đối chứng trong biểu đồ 3.9.
700,0
600,0
573,8
500,0
480,8
458,4
440,3
436,4
403,6
400,0
75
Đ N V n
ì
300,0
266,5
h g N
225,0
200,0
100,0
0,0
2013 2014
2013 2014
2013 2014
2013 2014
Diên Khánh
Phù Cát
Khánh Vĩnh
Vân Canh
Biểu đồ 3.9. Chi phí KCB trung bình đầu thẻ tại 4 bệnh viện
Hai bệnh viện thí điểm (Diên Khánh và Khánh Vĩnh) đều có chi phí KCB
trung bình đầu thẻ giảm mạnh (giảm 53,6% và 48,4%). Hai bệnh viện đối chứng (Phù
Cát và Vân Canh) thì chi phí tăng nhẹ (tăng 9,2% và 13,6%). Nếu chỉ tính chi phí
KCB tại chỗ thì sự khác biệt này giảm đi đáng kể. Các bảng 3.28 và 3.29 so sánh chi
phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV đồng bằng và miền núi. Trong các bảng và
biểu đồ tiếp theo, để thuận tiện cho mục đích so sánh, các cơ sở khám chữa bệnh được
phân tích theo nhóm thí điểm (BV Diên Khánh – vùng đồng bằng, BV Khánh Vĩnh
– miền núi) và đối chứng (BV Phù Cát – vùng đồng bằng, BV Vân Canh – miền núi).
76
Bảng 3.28. Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV đồng bằng
BV thí điểm BV đối chứng
Số thẻ Số thẻ Chi phí (Nghìn VNĐ) Chi phí (Nghìn VNĐ)
248,8 95.810 205,6 72.284 2013
266,5 99.691 234,5 74.314 2014
17,6 3.881 28,9 Sự thay đổi 2.030
7,1% 4,1% 14,1% Tỷ lệ thay đổi 2,8%
Sự gia tăng chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV thí điểm thấp hơn so
với BV đối chứng (7,1% so với 14,1%). Thí điểm đã có tác động tích cực đối với việc
kiểm soát gia tăng chi phí KCB. Kết quả tương tự cũng thu được ở BV miền núi.
Bảng 3.29. Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV miền núi
BV thí điểm BV đối chứng
Số thẻ Số thẻ Chi phí (Nghìn VNĐ) Chi phí (Nghìn VNĐ)
240,0 18.737 220,2 32.376 2013
225,0 19.429 248,4 32.670 2014
-15,0 692 28,2 Sự thay đổi 249
-6,2% 3,7% 12,8% Tỷ lệ thay đổi 0,9%
Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ giảm 6,2% ở BV thí điểm trong khi
tăng 12,8% ở BV đối chứng. Như vậy đối với BV miền núi tác động kiểm soát gia
tăng chi phí lớn và rõ ràng hơn rất nhiều.
Kết quả phỏng vấn sâu cán bộ lãnh đạo và quản lý cho thấy các bên đều cùng
quan điểm là thanh toán theo định suất có khả năng kiểm soát tốt sự gia tăng chi phí.
“Làm định suất đúng với thông lệ quốc tế thì phải kiểm soát được chi phí. Kết
quả thí điểm với chi phí tại chỗ như vậy là đi đúng hướng. Các đơn vị kiểm soát được
chi phí thì giảm áp lực cho quỹ chung.” (PVS - Ông A, Sở Y tế)
“Có đơn vị chi phí giảm, có đơn vị chi phí tăng nhưng là tăng hợp lý và khống
chế được.” (PVS - Ông B, Sở Y tế)
77
“Chi phí vẫn tăng thôi, nhưng năm vừa rồi Khánh Hòa kiểm soát tốt hơn ở
tuyến huyện… Không lo vỡ quỹ, khoán là đúng nhưng khoán thế nào cho hợp lý.”
(PVS - Bà C, BHXH tỉnh)
“Tôi không biết đối chứng như thế nào… So với các tỉnh khác… chúng tôi
quản lý được tốt hơn chi phí theo đầu thẻ, ở đây là chi tại chỗ, không lệ thuộc tuyến
trên báo về nữa.” (PVS - Ông M, Bệnh viện A).
3.3.2. Chi phí KCB trung bình lượt
Với sự khác biệt về chi phí KCB trung bình đầu thẻ nói trên, khi phân tích
thống kê với chi phí KCB nội trú và ngoại trú, chúng tôi chọn cách trình bày theo sự
thay đổi chi phí (trước và sau khi thực hiện thí điểm). Chi phí KCB trung bình lượt
900,0
822,9
776,9
800,0
700,0
600,0
500,0
405,7
nội trú tại các bệnh viện thí điểm được trình bày trong biểu đồ 3.10.
Đ N V n
391,2
ì
400,0
h g N
300,0
200,0
100,0
0,0
2013
2014
2013
2014
BV đồng bằng
BV miền núi
Biểu đồ 3.10. Chi phí KCB trung bình lượt nội trú tại BV thí điểm
Dễ dàng nhận thấy mức chi phí ở BV đồng bằng cao hơn so với BV miền núi.
Khi so sánh trước – sau, chi phí KCB trung bình lượt nội trú ở BV đồng bằng tăng từ
776,9 lên 822,9 nghìn VNĐ (tăng 5,9%). Chi phí này ở BV miền núi tăng ít hơn với
mức 3,7% (tăng từ 391,2 lên 405,7 nghìn VNĐ).
Sự thay đổi chi phí KCB nội trú khi so sánh với BV đối chứng được trình bày
trong bảng 3.30 với BV đồng bằng và bảng 3.31 với bệnh viện miền núi.
78
Bảng 3.30. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú BV đồng bằng
BV thí điểm (n = 9.723)
BV đối chứng (n = 8.732)
Kiểm định T độc lập
Thay đổi chi phí
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
46,0 ± 126,7
42,7
195,8 ± 169,1
198,5
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,001
Theo lượt KCB nội trú
Nhìn chung, hai bệnh viện thí điểm và đối chứng đều có sự gia tăng về chi phí
KCB nội trú trung bình. Sự gia tăng ở BV thí điểm là nhỏ hơn nhiều, chỉ bằng 23,5%
so với BV đối chứng (46,0 so với 195,8 nghìn VNĐ). Sự khác biệt về thay đổi chi
phí theo lượt KCB nội trú có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Bảng 3.31. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú BV miền núi
BV thí điểm (n = 5.960)
BV đối chứng (n = 5.074)
Kiểm định T độc lập
Thay đổi chi phí
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
14,5 ± 48,8
18,9
115,0 ± 203,9
112,0
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,001
Theo lượt KCB nội trú
Tại hai bệnh viện miền núi, chi phí KCB nội trú trung bình theo đợt KCB đều
tăng lên. Mức tăng nhỏ ở BV thí điểm (chỉ 14,5 nghìn VNĐ) chỉ bằng 12,6% khi so
với mức tăng lớn ở BV đối chứng (115,0 nghìn VNĐ). Sự khác biệt tại hai bệnh viện
có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Chi phí KCB trung bình lượt ngoại trú tại các bệnh viện thí điểm được trình
bày trong biểu đồ 3.11. Sự thay đổi chi phí được trình bày trong bảng 3.32 và 3.33.
140,0
117,4
120,0
100,0
91,0
72,0
80,0
63,4
79
Đ N V n
ì
60,0
h g N
40,0
20,0
0,0
2013
2014
2013
2014
BV đồng bằng
BV miền núi
Biểu đồ 3.11. Chi phí KCB trung bình lượt ngoại trú tại BV thí điểm
Chi phí KCB trung bình lượt ngoại trú ở BV đồng bằng tăng từ 63,4 lên 72,0
nghìn VNĐ (tăng 13,6%). Chi phí này giảm 22,5% ở BV miền núi (giảm từ 117,4
xuống 91,0 nghìn VNĐ).
Bảng 3.32. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú BV đồng bằng
BV thí điểm (n = 104.016)
BV đối chứng (n = 102.549)
Kiểm định T độc lập
Thay đổi chi phí
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
8,6 ± 21,5
7,8
2,4 ± 13,3
6,6
p=0,153
Theo lượt KCB nội trú
Đơn vị: Nghìn VNĐ
Ở khu vực đồng bằng, BV thí điểm và đối chứng đều có sự gia tăng chi phí
KCB ngoại trú. Mức tăng ở BV thí điểm cao hơn BV đối chứng (8,6 so với 2,4 nghìn
VNĐ). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
80
Bảng 3.33. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú BV miền núi
BV thí điểm (n = 17.187)
BV đối chứng (18.315)
Kiểm định T độc lập
Thay đổi chi phí
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
-26,4 ± 48,1
-15,1
25,5 ± 41,8
30,2
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,001
Theo lượt KCB nội trú
Sự khác biệt về thay đổi chi phí trong bảng 3.33 là rất rõ ràng. Chi phí KCB
ngoại trú giảm ở BV thí điểm miền núi (giảm 26,4 nghìn VNĐ) và tăng ở BV đối
chứng (tăng 25,5 nghìn VNĐ). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001).
Kết quả nghiên cứu định tính khẳng định chi phí KCB trung bình lượt là chi
phí được quan tâm, theo dõi ở đơn vị:
“Chúng tôi quan tâm đến chi phí theo lượt khám, lượt điều trị. Tính trung bình
dễ so sánh và theo dõi.” (PVS - Ông T, Bệnh viện B)
“Phòng chức năng tổng hợp định kỳ và báo cáo lãnh đạo. Làm theo tháng thì
khó, anh em bận nhiều việc… không phải lúc nào cũng làm được. Theo quý cập nhật
thì được, lúc nào chi nhiều quá thì giao ban sẽ đề cập.” (PVS – Bà G, Bệnh viện A)
Ý kiến của ngành y tế và bảo hiểm xã hội đều khẳng định chi phí trung bình
lượt đã được kiểm soát và giảm bớt gánh nặng cho cơ quan quản lý:
“Chi phí theo lượt nói chung đã được kiểm soát. Làm định suất chính xác
phải kiểm soát được chi phí, kiểm soát được bội chi.” (PVS - Ông A, Sở Y tế);
“Chúng tôi sẽ nhàn hơn. Chi phí mỗi lượt tăng nhiều hay ít do đơn vị, họ phải
quản được.” (PVS - Ông D, BHXH tỉnh)
81
3.3.3. Chi phí KCB trung bình theo khoản mục
Chi phí KCB nội trú gồm các khoản mục: Xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh,
thuốc, phẫu thuật, thủ thuật, vật tư y tế tiêu hao, giường và vận chuyển. Với BV đồng
bằng, cơ cấu chi phí được trình bày trong biểu đồ 3.12, sự thay đổi chi phí khi so sánh
VTYT tiêu hao; 5,2%
Vận chuyển; 4,9%
Phẫu thuật, thủ thuật; 1,4%
CĐHA; 10,3%
Xét nghiệm; 26,6%
Thuốc; 25,5%
Giường; 26,1%
đối chứng được trình bày trong bảng 3.34.
Biểu đồ 3.12. Cơ cấu chi phí KCB nội trú BV đồng bằng trước thí điểm
Nghiên cứu tập trung đánh giá sự thay đổi của những khoản mục chi phí chiếm
tỷ lệ lớn trong cơ cấu chi phí KCB nội trú. Đó là chi phí xét nghiệm (26,6%), giường
(26,1%), thuốc (25,5%) và chẩn đoán hình ảnh (10,3%). Các chi phí trung bình này
đều gia tăng sau 1 năm cả ở BV thí điểm và đối chứng.
82
Bảng 3.34. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú theo khoản mục ở BV đồng bằng
BV thí điểm (n = 9.723)
BV đối chứng (n = 8.732)
Thay đổi chi phí
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
Xét nghiệm
36,3 ± 136,1
35,6
106,4 ± 37,3
108,5
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,001
Giường
-17,4 ± 170,0
-18,5
155,5 ± 226,1
156,4
p<0,001
Thuốc
73,3 ± 40,9
76,3
122,4 ± 66,1
126,3
p<0,001
15,3 ± 28,1
13,5
28,8 ± 75,8
28,2
p<0,001
-23,7 ± 37,4
-23,5
16,0 ± 4,0
15,9
p<0,001
Chẩn đoán hình ảnh Vật tư y tế tiêu hao
Vận chuyển
5,2 ± 18,9
5,1
5,1 ± 19,4
5,0
p=0,899
7,7 ± 95,7
0,5 ± 35,2
0,4
7,8
p<0,001
Phẫu thuật thủ thuật Hầu hết sự thay đổi chi phí đều mang trị số dương. Tuy nhiên mức gia tăng
chi phí lớn hơn ở BV đối chứng. Các số liệu đều có ý nghĩa thống kê (p<0,001) cho
thấy thí điểm có tác động tích cực đến kiểm soát gia tăng chi phí. Mức gia tăng chi
phí xét nghiệm và thuốc ở BV đồng bằng (36,3 và 73,3 nghìn VNĐ) chỉ bằng 34,1%
và 59,9% mức gia tăng đối chứng. Đặc biệt, chi phí giường giảm ở BV thí điểm (giảm
17,4 nghìn VNĐ) trong khi tăng nhiều ở BV đối chứng (tăng 155,5 nghìn VNĐ).
Kết quả nghiên cứu chi phí KCB nội trú theo khoản mục ở BV miền núi được
trình bày trong biểu đồ 3.13 (về cơ cấu chi phí) và bảng 3.35 (về đánh giá sự thay đổi
chi phí).
Vận chuyển; 2,2%
VTYT tiêu hao; 1,4%
Phẫu thuật, thủ thuật; 5,2%
CĐHA; 14,6%
Giường; 28,7%
Xét nghiệm; 19,5%
Thuốc; 28,4%
83
Biểu đồ 3.13. Cơ cấu chi phí KCB nội trú BV miền núi trước thí điểm
Bảng 3.35. Sự thay đổi chi phí KCB nội trú theo khoản mục ở BV miền núi
BV thí điểm (n = 5.960)
BV đối chứng (n = 5.074)
Thay đổi chi phí
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
Giường
0,6 ± 66,2
-0,7
79,1 ± 116,9
81,3
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,001
Thuốc
66,9 ± 128,3
65,8
50,8 ± 164,8
37,9
p=0,068
Xét nghiệm
-8,1 ± 36,7
-0,2 ± 60,0
-8,7
-8,7
p<0,001
-0,8 ± 27,2
8,4 ± 40,6
0,5
-0,8
p<0,001
-1,3 ± 31,6
-1,3
31,6 ± 235,6
0
p<0,001
Chẩn đoán hình ảnh Phẫu thuật thủ thuật
Vận chuyển
-1,9 ± 100,5
-1,3
6,9 ± 125,3
0
p<0,01
-19,9 ± 40,9
-2,0 ± 19,4
-2,1
-5,3
p<0,001
Vật tư y tế tiêu hao Tại BV miền núi, những khoản mục chiếm tỷ lệ lớn trong cơ cấu chi phí KCB
nội trú vẫn là chi phí giường, thuốc, xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh với các tỷ lệ
84
lần lượt là 28,7%; 28,4%; 19,5% và 14,6%. Các chi phí này có sự thay đổi khác nhau
sau 1 năm. Ở BV thí điểm, chi phí giường và xét nghiệm ít thay đổi (tăng 0,6 và giảm
8,1 nghìn VNĐ). Mức gia tăng chi phí (trị số âm là chi phí giảm) ở BV thí điểm thấp
hơn BV đối chứng đối với chi phí xét nghiệm, giường và chẩn đoán hình ảnh, có ý
nghĩa thống kê (p<0,001). Kết quả này cũng có ý nghĩa như trên, tức là thí điểm có
tác động kiểm soát gia tăng chi phí. Chi phí thuốc có mức gia tăng cao hơn ở BV thí
điểm nhưng kết quả không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Đối với KCB ngoại trú, các khoản mục gồm: Chi phí thuốc, chẩn đoán hình
ảnh, xét nghiệm và phẫu thuật, thủ thuật trong đó chi phí thuốc chiếm tỷ lệ lớn nhất.
Cơ cấu chi phí được trình bày trong biểu đồ 3.14 (BV đồng bằng) và 3.15 (BV miền
Phẫu thuật, thủ thuật; 3,7%
Xét nghiệm; 13,5%
Chẩn đoán hình ảnh; 16,9%
Thuốc; 65,9%
núi). Sự thay đổi chi phí được trình bày trong các bảng 3.36 và 3.37.
Biểu đồ 3.14. Cơ cấu chi phí KCB ngoại trú BV đồng bằng trước thí điểm
Chi phí thuốc chiếm 2/3 chi phí KCB ngoại trú ở BV thí điểm. Sau đó là các
chi phí chẩn đoán hình ảnh và xét nghiệm với tỷ lệ 16,9% và 13,5%. Chi phí phẫu
thuật, thủ thuật chỉ chiếm tỷ lệ rất nhỏ 3,7%.
85
Bảng 3.36. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú theo khoản mục ở BV đồng bằng
BV thí điểm (n = 104.016)
BV đối chứng (n = 102.549)
Thay đổi chi phí
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD
Median Mean ± SD Median
Thuốc
-6,1 ± 39,3
-5,9
-2,2 ± 55,4
-1,8
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,01
1,2 ± 30,7
1
4,0 ± 27,1
4,1
p<0,01
Chẩn đoán hình ảnh
Xét nghiệm
-0,1 ± 19,1
-0,2
5,3 ± 44,0
5,3
p<0,01
-0,1 ± 21,3
-0,2 ± 53,5
p=0,83
-0,01
0,15
Phẫu thuật thủ thuật Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú theo khoản mục ở bệnh viện đồng bằng là
rất nhỏ, không đáng kể. Các chi phí xét nghiệm và CĐHA thay đổi trung bình ở bệnh
viện thí điểm với mức -0,1 và 1,2 nghìn VNĐ. Chi phí thuốc có thay đổi nhiều nhất
với mức giảm 6,1 nghìn VNĐ. BV đối chứng cũng giảm nhưng với mức thấp hơn
(2,2 nghìn VNĐ), có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Số liệu ở bệnh viện miền núi được
Xét nghiệm; 7,6%
Phẫu thuật, thủ thuật; 0,0%
Chẩn đoán hình ảnh; 22,5%
Thuốc; 69,8%
trình bày trong biểu đồ 3.15 và bảng 3.37.
Biểu đồ 3.15. Cơ cấu chi phí KCB ngoại trú BV miền núi trước thí điểm
86
Tương tự như ở bệnh viện đồng bằng, chi phí thuốc chiếm phần lớn chi phí
KCB ngoại trú (69,8%). Chi phí chẩn đoán hình ảnh đứng thứ 2 với trọng số 22,5%.
Chi phí xét nghiệm chỉ chiếm 7,6%. Các chi phí khác không đáng kể (dưới 1%).
Bảng 3.37. Sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú theo khoản mục ở BV miền núi
BV thí điểm (n = 17.187)
BV đối chứng (18.315)
Thay đổi chi phí
Kiểm định T độc lập
Mean ± SD
Median Mean ± SD Median
Thuốc
-14,7 ± 79,3
-15,3
48,2 ± 153,4
8,9
Đơn vị: Nghìn VNĐ
p<0,001
-0,7 ± 21,7
0
2,4 ± 22,04
0
p<0,001
Chẩn đoán hình ảnh
Xét nghiệm
-0,2 ± 29,2
0
-0,6 ± 23,7
0
p=0,395
-0,02 ± 20,5
-0,2 ± 41,2
p=0,777
0
0
Phẫu thuật thủ thuật Kết quả phân tích cũng cho thấy sự thay đổi tương tự ở BV miền núi khi chi
phí thuốc là khoản mục thay đổi nhiều nhất. Thí điểm làm giảm đáng kể chi phí thuốc
khi so sánh với BV đối chứng, số liệu có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Chi phí xét
nghiệm, thuốc, phẫu thuật thủ thuật rất ít biến đổi (mức thay đổi trung bình dưới 1
nghìn VNĐ).
Ban Giám đốc bệnh viện thừa nhận có chỉ đạo cụ thể về kiểm soát chi phí của
đơn vị:
“Ban Giám đốc không yêu cầu giới hạn chi khi chỉ định và kê đơn. Tuy nhiên
cái gì cần chi thì chi, chi nhiều thâm hụt quỹ của bệnh viện” (PVS - Ông H, Bệnh
viện B)
Ý kiến từ lãnh đạo bệnh viện và cán bộ quản lý phòng chức năng cho thấy việc
kiểm soát chi phí, đặc biệt với các khoản mục thuốc, xét nghiệm và CĐHA:
“Bệnh viện chủ động kiểm soát chi phí, nhất là đối với thuốc, xét nghiệm,
chẩn đoán hình ảnh” (PVS - Bà E, Bệnh viện A)
87
“Chi phí thuốc giảm như anh nói có thể đúng. Cùng chữa được thì có ưu tiên
chọn thuốc rẻ hơn.” (PVS - Ông F, Bệnh viện B)
Ý kiến từ bác sĩ trực tiếp thực hiện KCB BHYT thu được qua thảo luận nhóm
và phỏng vấn sâu cho thấy bác sĩ chịu áp lực về kiểm soát chi phí khi kê đơn và chỉ
định dịch vụ :
“Chi phí đúng là không có quy định giới hạn nhưng đơn cao quá thì phải
được lãnh đạo duyệt.” (TLN - Bác sĩ I, 46 tuổi, Bệnh viện A)
“Cao quá là cao hơn, trội hơn các đơn khác. Không kê quá tay được.” (TLN
- Bác sĩ K, 50 tuổi, Bệnh viện A)
“Trước đây kê sai, sợ xuất toán. Giờ kê quá thì thâm hụt cho bệnh viện. Bệnh
viện tự chủ, tự chịu trách nhiệm nên bác sĩ phải nghĩ về chi phí khi chỉ định dịch vụ.”
(PVS - Bác sĩ L, 38 tuổi, Bệnh viện B)
“Yêu cầu tiết kiệm thì liệu cơm gắp mắm thôi!” (cười, vui) (TLN - Bác sĩ M,
52 tuổi, Bệnh viện B).
3.3.4. Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ định suất
Năm 2013, quỹ định suất của Khánh Hòa bội chi 80,35 tỷ VNĐ. Năm thí điểm
2014, tình trạng bội chi đã được cải thiện đáng kể. Số tiền bội chi quỹ định suất toàn
tỉnh chỉ còn 1,22 tỷ VNĐ (tương đương 1,52% năm trước). Tỉnh đối chứng là Bình
Định tiếp tục bội chi quỹ định suất: Năm 2013 là 27,18 tỷ; năm 2014 là 40,70 tỷ (tăng
xấp xỉ 1,5 lần). Số liệu chi tiết về bội chi/ kết dư quỹ tại các cơ sở KCB BHYT được
trình bày trong bảng 4.11 (Khánh Hòa) và bảng 4.12 (Bình Định), Phụ lục 5. Bảng
3.38 tổng kết tỷ lệ cơ sở KCB kết dư và bội chi quỹ của 2 tỉnh.
88
Bảng 3.38 . Tỷ lệ cơ sở khám chữa bệnh kết dư và bội chi quỹ định suất
Năm 2013 Năm 2014 Tỉnh Số cơ sở Tỷ lệ % Số cơ sở Tỷ lệ % Kết dư hoặc bội chi quỹ
Kết dư quỹ 1 12,5 3 37,5 Khánh Hòa Bội chi quỹ 7 87,5 5 62,5
Kết dư quỹ 1 85,7 1 85,7 Bình Định Bội chi quỹ 6 14,3 6 14,3
Số cơ sở KCB BHYT bội chi của Khánh Hòa giảm từ 7 xuống còn 5 cơ sở.
Trong khi đó số cơ sở kết dư tăng từ 1 lên 3 cơ sở. Tỷ lệ cơ sở KCB bội chi quỹ định
suất ở Bình Định không thay đổi, vẫn có 6/7 cơ sở bội chi quỹ.
Tỷ lệ phần trăm số tiền kết dư (bội chi) trong tổng quỹ định suất của các cơ sở
được lựa chọn đánh giá chi phí và của toàn tỉnh được trình bày trong bảng 3.39 với
quy ước trị số dương là kết dư quỹ, trị số âm là bội chi quỹ.
Bảng 3.39. Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ định suất
Năm 2013 Năm 2014 Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ Thí điểm/ đối chứng
Thí điểm -13,4% -11,6% BV đồng bằng Đối chứng -40,5% -46,8%
Thí điểm -11,3% 11,0% BV miền núi Đối chứng -22,5% -19,7%
Thí điểm -29,1% -1,1% Toàn tỉnh Đối chứng -21,3% -27,6%
Dễ nhận thấy sự khác biệt trong tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ: Các BV thí điểm có
tỷ lệ bội chi giảm bớt hoặc chuyển sang kết dư, các BV đối chứng duy trì tỷ lệ bội
chi ở mức cao. Tỷ lệ bội chi quỹ định suất của tỉnh thí điểm giảm từ 29,1% xuống chỉ
còn 1,1%. Tỷ lệ này ở tỉnh đối chứng tăng từ 21,3% lên 27,6%.
89
Thay đổi quan trọng nhất khi thực hiện thí điểm là sự chủ động của cơ sở KCB.
Nghiên cứu định tính đã ghi nhận sự thay đổi này. Với cách giao quỹ cũ, có những
nhược điểm sau:
Thứ nhất, không kiểm soát được dòng tiền:
“Trước đây gọi là có giao nhưng có phải tiền của mình đâu. Nó như cầm cái
ví của mình nhưng ai cũng thò tay vào lấy tiền ra tiêu vậy.” (Ông X, Bệnh viện A)
“Vì bội chi phần lớn là do đa tuyến. Mà chúng tôi có kiểm soát được đâu, cũng
chẳng biết (chi đa tuyến) là bao nhiêu tiền nữa. Hơn một năm sau họ báo về, báo vậy
thì biết thế thôi. Âm nhiều là đương nhiên.” (PVS - Ông Z, Bệnh viện B)
Thứ hai là gây ra tâm lý chán nản trong bệnh viện:
“Trước đây chúng tôi phải chờ đợi và nói thật là chán lắm, có lúc nói đến quỹ
là bất cần vì đằng nào chẳng bội chi, làm định suất có bệnh viện nào không vượt quỹ
đâu, vượt vài lần ấy chứ… Rồi lại chờ xét xem nguyên nhân chủ quan hay khách
quan.” (PVS - Bà N, Bệnh viện B)
Sau khi áp dụng cách giao quỹ mới, bệnh viện ghi nhận có nhiều ưu điểm.
Trước hết là sự chủ động quản lý dòng tiền:
“Chúng tôi chủ động hơn, biết được thực chi và theo dõi được….” (PVS - Bà
M, Bệnh viện B)
“Bệnh viện biết trước thông tin giao quỹ. Quan trọng nhất là biết cái quỹ thực
của mình, mình có bao nhiêu tiền để mà chi..” (PVS - Ông X, Bệnh viện A).
Sau đó là chủ động điều tiết hoạt động của đơn vị:
“Nếu thấy nguy cơ bội chi nhiều, sẽ có thể can thiệp chỉ đạo trong kê đơn kịp
thời.” (PVS - Bà M, Bệnh viện B)
“Giao đúng quỹ giúp chúng tôi chủ động hơn nhiều trong hoạt động tổ chức
KCB BHYT.” (PVS - Ông Y, Bệnh viện A)
“Sửa đổi thế này giúp chúng tôi tích cực hơn và tự đánh giá được nhiều chứ.”
(PVS - Bà N, Bệnh viện B)
Thứ ba là đã động viên khuyến khích tinh thần nhân viên:
“Giao đúng quỹ… tâm lý anh em y bác sĩ cũng yên tâm hơn.” (PVS - Ông Y,
Bệnh viện A)
90
“Phía bệnh viện phấn chấn hơn nhiều.” (PVS - Ông Z, Bệnh viện B)
Cơ quan BHXH tỉnh, Sở Y tế và bệnh viện nhận định tình trạng bội chi đã
giảm bớt, đặc biệt giảm nhiều là số bội chi toàn tỉnh. Đây là dấu hiệu tích cực.
“Tình trạng bội chi không còn nghiêm trọng như trước nữa. Cơ sở nào sử
dụng quỹ tốt thì vẫn có khả năng kết dư. Đối với tuyến huyện như vậy là tích cực hơn.”
(PVS - Ông A, Sở Y tế)
“Bội chi của thí điểm vậy là ít nhiều rồi. Bỏ đa tuyến đi thì tuyến dưới họ làm
tốt hơn.” (PVS - Ông B, BHXH tỉnh)
Dù có nhiều đánh giá tốt, tuy nhiên kết quả nghiên cứu định tính cho thấy
phương thức thanh toán theo định suất khi sửa đổi theo thí điểm vẫn tồn tại những
nhược điểm. Trước hết là ảnh hưởng đến tính xã hội của bảo hiểm y tế:
“Đúng là có khả năng kết dư nhưng kết dư nhiều thì không tốt. BHYT là nhân
đạo… lại làm để kết dư nhiều thì không ổn.” (PVS - Ông M, BHXH tỉnh)
Sau đó, phía đơn vị nhận định suất vẫn chịu nhiều áp lực về tài chính:
“Chúng tôi (bệnh viện) phải chịu trách nhiệm và tự cân đối thì thật ra đúng
là áp lực, vẫn rủi ro lắm...” (PVS - Ông P, bệnh viện A).
“Làm định suất thì những đơn vị nhỏ họ dễ rủi ro hơn. Xảy ra bội chi họ khó
cân đối, năng lực tài chính hạn chế.” (PVS - Ông C, Sở Y tế)
Hơn nữa, không phải cách giao quỹ mới như thí điểm có thể nhận được sự ủng
hộ của tất cả các bên liên quan:
“Nói thế nhưng chắc không phải ai cũng ủng hộ cách thức mới này vì có người
được lợi thì cũng có người bị thiệt đi. Quỹ nó như cái bánh ấy, ai cũng muốn chia
phần nhiều hơn cả. Bỏ đa tuyến ra khỏi định suất thì chắc là tuyến trên không thích
rồi!” (PVS - Ông D, BHXH tỉnh).
Một số phương thức thanh toán khác cũng được đề cập tới để giải quyết tình
trạng này:
“Tôi nghĩ làm theo phí dịch vụ như ngày trước thì cũng nhiều cái an tâm hơn,
làm bao nhiêu thanh toán bấy nhiêu, miễn là đúng quy định.” (PVS - Ông P, bệnh
viện A).
91
“Có lẽ cũng nên tham khảo những nghiên cứu khác, định suất có thể chỉ làm
ngoại trú, nội trú có thể làm DRG thì nó sát thực tế hơn.” (PVS - Bà C, Sở Y tế).
92
CHƯƠNG 4. BÀN LUẬN
4.1. Một số thông tin chung
Khánh Hòa là 1 trong 4 tỉnh được lựa chọn tham gia đề án thí điểm sửa đổi
thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất [18]. Trước khi thực hiện thí điểm,
Khánh Hòa là tỉnh nhiều năm liền bội chi quỹ. Năm 2013, số bội chi lên đến 80,35 tỷ
VNĐ. Kỳ vọng của các cấp quản lý là giải quyết được tình trạng bội chi này [18].
Trong cách xác định quỹ định suất mới, điểm thay đổi đáng chú ý là bỏ chi đa tuyến
khỏi quỹ định suất. Số chi đa tuyến vốn là số chi lớn so với chi tại chỗ, khi cắt bỏ đã
làm giảm 61,3% tổng quỹ (từ 276,6 tỷ VNĐ giảm xuống còn 107,1 tỷ VNĐ) trong
điều kiện tổng số thẻ BHYT ít thay đổi (Bảng 3.1). Tỉnh đối chứng là Bình Định có
tổng quỹ định suất tăng 15,5% khi vẫn áp dụng thanh toán theo định suất như quy
định tại Thông tư liên tịch 09/2009/TTLT-BYT-BTC.
Số thẻ BHYT tăng 3,2% so với năm trước (tăng từ 578.827 lên 597.406 thẻ)
cho thấy sự gia tăng nhu cầu KCB BHYT của Khánh Hòa trong lộ trình chung của cả
nước tiến tới BHYT toàn dân. Tỉnh đối chứng cũng có số liệu thẻ tăng nhẹ ở mức
2,5% cùng thời điểm. Cách tính quỹ khi thực hiện thí điểm vẫn căn cứ vào số liệu từ
6 nhóm đối tượng. Các nhóm chiếm tỷ lệ thẻ lớn năm 2013 của Khánh Hòa là nhóm
5 (24%), nhóm 3 (22%) và nhóm 6 (21%). Đây là các nhóm có số lượng nhiều trong
dân số, gồm các đối tượng học sinh, sinh viên (nhóm 5); hộ nghèo, cận nghèo, dân
tộc thiểu số (nhóm 3) và hộ gia đình nông, lâm, ngư nghiệp (nhóm 6) (Chi tiết tại Phụ
lục 1). Số thẻ nhóm 6 tăng 17,2%, nhóm 2 tăng 26,6%, nhóm 3 giảm 12,3% cho thấy
sự thay đổi về cơ cấu thẻ. Trong nỗ lực tăng cường độ bao phủ của BHYT, nhóm 6
là nhóm tăng số lượng nhiều vì phần lớn những người chưa có BHYT rơi vào nhóm
này. Nhóm 2 là nhóm gồm các đối tượng hưu trí, mất sức, được trợ cấp xã hội, cùng
với nhóm 6 được nhận định là những nhóm có nguy cơ sức khỏe cao hơn. Những
người già yếu và tình trạng “lựa chọn ngược” gặp nhiều hơn ở 2 nhóm thẻ này. Tỷ lệ
thẻ nhóm 2 và 6 tăng lên chắc chắn làm tăng áp lực cho cân đối quỹ định suất, giải
quyết tình trạng bội chi. Tỷ lệ thẻ nhóm 3 giảm có khả năng do giảm tỷ lệ hộ nghèo
trong dân số, nhờ sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và những nỗ lực xóa đói,
giảm nghèo.
93
Số liệu suất phí trung bình theo nhóm thẻ được trình bày trong bảng 3.2. Ở
tỉnh đối chứng, suất phí trung bình các nhóm thẻ đều tăng. Ở tỉnh thí điểm, nhóm 6
là nhóm thẻ duy nhất tăng suất phí (tăng 42,8%, từ 231 lên 329 nghìn VNĐ) khi thực
hiện thí điểm. Tuy vậy điểm đáng chú ý lại tập trung vào số liệu suất phí nhóm 1 và
nhóm 2. Nhóm 1 gồm các đối tượng người lao động, cán bộ, công chức, viên chức và
nhóm 2 là nhóm gồm các đối tượng hưu trí, mất sức, được trợ cấp xã hội, đã đề cập
ở trên. Trước thí điểm, đây là 2 nhóm thẻ có suất phí rất cao: Nhóm 1 gần 1 triệu
VNĐ, nhóm 2 hơn 2,5 triệu VNĐ, gấp 14 lần và 36 lần so với nhóm thấp nhất là
nhóm 5 (70 nghìn VNĐ). Sau thí điểm, hai nhóm thẻ này có suất phí giảm tới 80,6%
và 81,2%, mức chênh lệch chỉ còn 4,2 lần và 10 lần khi so sánh tương tự. Cách tính
quỹ theo đề án rõ ràng đã có cân nhắc đến tỷ lệ các nhóm thẻ, nguy cơ sức khỏe khác
nhau giữa các nhóm (thông qua chi phí năm trước). Cách làm như vậy là giống với
nhiều quốc gia trên thế giới [91], [84], [117], [131], [113], [130]. Tuy nhiên sự biến
đổi số thẻ và sự chênh lệch lớn giữa các nhóm thẻ đặt ra vấn đề là có phải chia lại
không, hay có cần tách nhóm nhỏ hơn không. Trong thời điểm thí điểm được thực
hiện tại 4 tỉnh năm 2014, liên tịch bộ y tế và bộ tài chính đã có 2 thông tư mới sửa
đổi, bổ sung và thay thế cho Thông tư liên tịch 09. Đó là Thông tư liên tịch số
24/2014/TTLT-BYT-BTC "Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư liên tịch số
09/2009/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế" và Thông tư liên tịch
41/2014/TTLT-BYT-BTC (gọi tắt là Thông tư liên tịch 41) “Hướng dẫn thực hiện
Bảo hiểm y tế” thay thế cho thông tư 09/2009 [8], [9]. Theo văn bản mới, cách tính
quỹ định suất theo 6 nhóm đã không còn được sử dụng. Theo chúng tôi, cách tính
quỹ dựa trên 6 nhóm thẻ vẫn có giá trị tham khảo và nên đề cập thêm đến yếu tố giới
và các nhóm tuổi như nhiều nước trên thế giới đang thực hiện. Ở Ireland, nhóm người
trên 70 tuổi được xác định là nhóm chi phí lớn, gấp 3 đến 5 lần mức chi phí cho các
nhóm khác gồm nhóm từ 18 đến 24 tuổi, nhóm từ 25 đến 34 tuổi, nhóm từ 35 đến 44
tuổi [117]. Ở Anh, thiết kế quỹ theo nhóm tuổi đã thực hiện vấp phải những yêu cầu
về cập nhật và điều chỉnh thường xuyên, và tiến tới xu hướng chia nhỏ hơn các nhóm
tuổi để việc giao quỹ được sát hơn [84]. Tại Australia, trong thiết kế định suất, nhóm
đối tượng dưới 18 tuổi được chia nhỏ thành 3 nhóm thẻ: Dưới 6 tuổi, từ 6 đến 11 tuổi,
94
và từ 12 đến dưới 18 tuổi [91]. Nhóm những người mắc bệnh mạn tính cũng được
nghiên cứu để thành những nhóm thẻ riêng tại Đài Loan [113]. Kinh nghiệm quốc tế
để tính quỹ hợp lý được đúc kết là phải có số liệu đầu vào tốt, có đủ thông tin đánh
giá rủi ro khi làm định suất [130], [91]. Ngày 21 tháng 10 năm 2016, Bộ Y tế đã có
Công văn số 7663/BYT-KHTC về việc xin ý kiến vào Dự thảo Thông tư hướng dẫn
thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất. Theo dự thảo này cách tính quỹ dựa
trên nhóm tuổi và giới lần đầu tiên được đề xuất sử dụng [23].
Quỹ định suất tại các cơ sở KCB BHYT (theo đề án thí điểm gọi là đơn vị
nhận định suất) được trình bày trong bảng 3.3 với đơn vị là tỷ VNĐ. Tất cả các sự
thay đổi được ghi nhận đều mang trị số âm và có tỷ lệ % lớn cho thấy sự chênh lệch
nhiều theo hướng giảm quỹ của năm sau so với năm trước, giống như quỹ định suất
toàn tỉnh. Mức giảm dao động từ 36,1% đến 74,5%. Cơ sở có quỹ lớn nhất là Nha
Trang (104,23 tỷ VNĐ - năm 2013 và 26,53 tỷ VNĐ - năm 2014) cũng là cơ sở có
mức giảm lớn nhất. Cơ sở có quỹ nhỏ nhất là Khánh Sơn (8,08 tỷ VNĐ - năm 2013
và 3,94 tỷ VNĐ - năm 2014). Nha Trang là một trong những thành phố du lịch phát
triển, tập trung đông dân hơn những huyện khác trong tỉnh Khánh Hòa. Năm 2013,
quỹ định suất của Nha Trang chiếm tới 37,7% toàn tỉnh, gấp hơn 3 lần đơn vị đứng
thứ hai là Diên Khánh (13,2%) (Biểu đồ 3.3). Các đơn vị có quỹ nhỏ nhất là Khánh
Sơn và Khánh Vĩnh. Đây là các bệnh viện miền núi, điều kiện tinh tế xã hội kém phát
triển. Sau khi phân bổ lại quỹ, quỹ định suất của Nha Trang giảm xuống còn 24,8%
tổng quỹ. Trong khi đó, 6 trong số 7 đơn vị còn lại có tỷ trọng quỹ tăng lên. Nhiều
nghiên cứu khoa học đã chỉ ra rằng, khi thực hiện thanh toán theo định suất, rủi ro
cao hơn rơi vào những đơn vị có quỹ nhỏ hơn [127], [142]. Chính vì vậy, sự thay đổi
phân bổ quỹ ở Khánh Hòa được đánh giá là tích cực, giảm chênh lệch giữa các đơn
vị nhận định suất. Trong khi đó, các số liệu của tỉnh đối chứng tại bảng 3.4 đều chỉ
ra sự thay đổi mang trị số dương, tức là tăng quỹ ở tất cả các đơn vị (mức tăng dao
động từ 12,7% đến 24,6%).
Thực hiện thanh toán theo định suất luôn tồn tại những tranh luận, thậm chí là
tranh cãi gay gắt, nhất là về tính công bằng [127], [80], [79], [117] . Đơn vị nhận định
suất nào cũng có mong muốn phần nhiều và có những khó khăn và đặc thù riêng.
95
Việc xếp hạng bệnh viện trước đây được thực hiện theo Thông tư số 23/2005/TT-
BYT "Hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế", và sau đó là Thông tư số
43/2013/TT-BYT "Quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật đối với hệ thống
cơ sở khám bệnh, chữa bệnh" [11], [19] . Tuy nhiên thực tế các dịch vụ KCB có thể
có nơi làm tốt, có nơi không. Sự khác biệt giữa các bệnh viện tuyến huyện cần được
xem xét kỹ hơn khi giao quỹ. Để làm định suất thành công có yêu cầu về dữ liệu, khả
năng đáp ứng về công nghệ thông tin để có thể đề xuất cách tính quỹ sát hơn và xây
dựng được các hệ số điều chỉnh phù hợp. Đây cũng là mong muốn của những người
làm lãnh đạo ngành y tế, bảo hiểm xã hội Việt Nam và các cấp quản lý [18], [25],
[27], [26], [3].
Tần suất KCB BHYT tăng ít, tổng chi tại chỗ giảm, những thay đổi về tỷ lệ
chi nội, ngoại trú, chi tuyến xã trong bối cảnh số chi đa tuyến lớn được cắt bỏ là
những điểm đang chú ý nhất trong vấn đề sử dụng quỹ khi thực hiện thí điểm sửa đổi
thanh toán theo định suất. Tần suất KCB BHYT tại chỗ toàn tỉnh tăng nhẹ so với năm
trước: Tăng 3,1% ở Khánh Hòa và 6,7% ở Bình Định (Bảng 3.5 và bảng 3.6). Quỹ
định suất của Khánh Hòa có số tổng chi KCB tại chỗ giảm 5,6% khi thực hiện thí
điểm. Trong khi đó tổng chi KCB tại chỗ của Bình Định tăng 16,2% khi vẫn thực
hiện thanh toán theo định suất như quy định tại Thông tư liên tịch 09/2009/TTLT-
BYT-BTC (Bảng 3.7).
Trong phần báo cáo này, chúng tôi chủ đích chọn một số thông tin giúp mô tả
khái quát về quá trình sử dụng quỹ định suất của Khánh Hòa khi thực hiện thí điểm.
Các kết quả về tần suất KCB BHYT bao gồm tần suất KCB tại chỗ, nội trú, ngoại trú
và ngoại trú tuyến xã. Nhu cầu KCB BHYT nhìn chung tăng nhẹ (tăng 3,1% toàn
tỉnh), tần suất KCB ngoại trú và tuyến xã tăng nhẹ, tần suất KCB nội trú ít thay đổi.
2 đơn vị được chọn nghiên cứu đánh giá là Diên Khánh (đồng bằng) và Khánh Vĩnh
(miền núi) có tần suất KCB BHYT không thay đổi nhiều. Tần suất KCB tại chỗ tăng
0,4% ở Diên Khánh và giảm 3,2% ở Khánh Vĩnh. Tần suất KCB nội trú đều giảm
nhẹ (0,5% và 0,3% tương ứng ở Diên Khánh và Khánh Vĩnh). Tần suất KCB ngoại
trú của Diên Khánh tăng 0,4% và của Khánh Vĩnh giảm 3,4%. Tần suất KCB tuyến
xã thay đổi khá giống với số liệu ngoại trú, tăng 0,4% ở Diên Khánh và giảm 3,3% ở
96
Khánh Vĩnh. Nghiên cứu chưa đề cập và phân tích được đầy đủ các sự khác biệt về
nhu cầu khám chữa bệnh liên quan đến điều kiện cơ sở vật chất, đặc thù vùng miền
giữa các địa phương trong tỉnh Khánh Hòa.
Các kết quả nghiên cứu quốc tế đều chỉ ra thanh toán theo định suất làm giảm
tổng chi KCB [79], [129], [85], [132], [128]. Mức giảm chi có thể lớn tới 50% ở Đài
Loan khi thực hiện thanh toán theo định suất [113]. Tại khu dân cư Pudong, miền
Đông Thượng Hải, Trung Quốc, thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất được thực
hiện vào năm 2012 khá giống với thí điểm này đã cho kết quả mức giảm tổng chi
KCB là 3,99%. Trở lại với Khánh Hòa, tổng chi KCB tại chỗ toàn tỉnh năm 2013 là
114,84 tỷ VNĐ. Khi thực hiện thí điểm, tổng chi là 108,36 tỷ VNĐ, giảm 5,6% (Bảng
3.7). Kết quả này gần với báo cáo của Ngân hàng Thế giới (World Bank) khi thí điểm
thanh toán theo định suất tại Việt Nam giai đoạn từ năm 2005 đến năm 2011 [118].
Mức giảm tổng chi trung bình ở 310 bệnh viện tuyến huyện được ghi nhận là 5%,
thấp hơn một chút so với thí điểm lần này. Xét từng đơn vị, tổng chi giảm ở 5/8 cơ
sở với mức giảm nhiều ở Nha Trang (19,0%) và Vạn Ninh (14,7%). Các cơ sở có
mức chi tại chỗ tăng là Diên Khánh, Cam Lâm và Cam Ranh. Tổng chi của Diên
Khánh tăng 10,1% và của Khánh Vĩnh giảm 7,1%. Tổng chi KCB tại chỗ theo nhóm
thẻ cho thấy có 4 nhóm thẻ có tổng chi giảm và 2 nhóm có tổng chi tăng. Trong đó,
nhóm 3 và nhóm 5 có số liệu giảm nhiều nhất (21,2% và 20,4%). Nhóm 5 là nhóm
đối tượng học sinh, sinh viên, phần lớn ở độ tuổi trẻ, nguy cơ bệnh tật ít hơn so với
các nhóm khác. Nhóm 3 là nhóm nghèo, cận nghèo, dân tộc thiểu số, được ưu tiên,
nhận được sự quan tâm của chính quyền, đoàn thể về đời sống nói chung và y tế nói
riêng. Khi thực hiện thanh toán theo định suất, do nhu cầu tiết kiệm chi, có khả năng
mức chi cho nhóm này đã giảm nhiều. Nhóm 1 và nhóm 4 có tổng chi giảm ít hơn
(13,8% và 4,4%). Hai nhóm tăng tổng chi là nhóm 2 và nhóm 6, tuy nhiên mức tăng
không nhiều (3,9% và 5,3%).
Tỷ lệ chi nội trú và ngoại trú (Biểu đồ 3.4) cho thấy mức chi ngoại trú chiếm
khoảng 3/4 tổng chi, chi nội trú chỉ chiếm trên dưới 1/4 (24,2% và 25,9%). Theo lý
thuyết về thanh toán theo định suất, yêu cầu tiết kiệm chi có thể làm tăng số liệu KCB
ngoại trú, giảm tỷ lệ nhập viện. Tỷ lệ chi ngoại trú/ nội trú có thể tăng như là một kết
97
quả từ tác động của thí điểm. Kết quả thực tế cho thấy số liệu thí điểm không thay
đổi nhiều ở các tỷ lệ chi này. Tuy nhiên có sự khác biệt đáng chú ý với tỷ lệ chi ngoại
trú tuyến xã và huyện tại biểu đồ 3.5. Tỷ lệ chi tuyến xã đã tăng từ 27,8% lên 33,4%
(tăng 5,6%). Kết quả này cũng phù hợp với nhiều nghiên cứu ở nội dung thanh toán
theo định suất tốt cho tuyến dưới. Tuyến y tế cấp cơ sở (hạt/ phường/ cụm dân cư)
trong các nghiên cứu ở Iran, Mỹ, Anh và Ghana tương đương với tuyến xã ở Việt
Nam đều có nguồn tài chính tốt hơn khi thực hiện thanh toán chi phí khám chữa bệnh
theo định suất [88], [124], [100], [85].
Chi đa tuyến được bỏ ra ngoài quỹ định suất khi thực hiện thí điểm. Trong
nghiên cứu này, số chi đa tuyến năm trước được mô tả để thấy rõ hơn tỷ trọng của
phần chi được đưa ra ngoài quỹ này. Biểu đồ 3.6 cho thấy chi đa tuyến chiếm 67,8%,
hơn 2 lần so với chi tại chỗ. Khi mô tả tỷ lệ chi KCB đa tuyến theo cơ sở (Biểu đồ
3.7), chúng ta thấy sự khác biệt lớn giữa các cơ sở. Nha Trang chiếm gần một nửa số
chi đa tuyến toàn tỉnh (47,4%). Đây cũng là cơ sở có số chi vượt quỹ lớn nhất trước
khi thực hiện thí điểm. Ninh Hòa (17,1%), Diên Khánh (9,7%) đứng tiếp theo về mức
chi đa tuyến của Khánh Hòa. Mức chi đa tuyến cũng khác nhau rõ rệt giữa các nhóm
thẻ. Nhóm 6 có mức chi đa tuyến cao nhất (95,37 tỷ, tương đương 39,4%). Điều này
có thể được lý giải bởi đây là nhóm đối tượng tham gia tự nguyện, có thể có tâm lý
“lựa chọn ngược”, đi khám muốn lên tuyến trên (xin chuyển tuyến hoặc vượt tuyến).
Nhóm 5 là nhóm có mức chi nhỏ nhất là 9,45 tỷ VNĐ (chiếm 3,9%). Các nhóm còn
lại mức chi tăng dần theo thứ tự nhóm 1, nhóm 4, nhóm 2 và nhóm 3.
4.2. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo
định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
Nhằm đánh giá kết quả thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo định
suất, nghiên cứu đã lựa chọn một số chỉ số KCB để so sánh giữa tỉnh can thiệp và
tỉnh đối chứng. Cụ thể, nghiên cứu đã lựa chọn tỷ lệ chuyển tuyến, tỷ lệ nhập viện,
số xét nghiệm trung bình, số CĐHA trung bình, số đầu thuốc trung bình, thời gian
điều trị nội trú, tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh. Các chỉ số này được lựa chọn dựa trên tổng
98
quan tài liệu đánh giá tác động của phương thức thanh toán: Thanh toán theo định
suất có thể tác động đến việc ra quyết định tiếp nhận người bệnh, chỉ định dịch vụ và
kê đơn thuốc, gián tiếp tác động đến thời gian và kết quả điều trị [79], [104], [106],
[109], [130], [140], [143]. Trong nhóm các chỉ số được lựa chọn, tỷ lệ chuyển tuyến
tăng rõ rệt, số xét nghiệm, số CĐHA trung bình giảm có ý nghĩa, số đầu thuốc trung
bình giảm khi so sánh đối chứng. Tỷ lệ nhập viện, số ngày điều trị nội trú và tỷ lệ
bệnh án khỏi bệnh ít thay đổi. Bên cạnh nhóm các chỉ số KCB, nghiên cứu cũng sử
dụng mô hình SERVQUAL để đánh giá sự hài lòng của người bệnh, một đầu ra quan
trọng của dịch vụ y tế. Các kết quả thu được về sự thay đổi mức độ hài lòng phần
nhiều không có ý nghĩa thống kê, ngoại trừ những nội dung liên quan trực tiếp đến
hành vi, thái độ của nhân viên y tế.
4.2.1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT
4.2.1.1. Tỷ lệ chuyển tuyến và tỷ lệ nhập viện
Thanh toán theo định suất có tác động tới việc tiếp nhận bệnh nhân, thể hiện
qua sự thay đổi tỷ lệ chuyển tuyến KCB BHYT. Khi có áp lực về chi phí, các cơ sở
y tế có xu hướng hạn chế tiếp nhận bệnh nhân, đặc biệt với bệnh nhân nặng, chi phí
lớn. Số liệu chuyển tuyến sẽ tăng như một hệ quả của thanh toán theo định suất [106],
[79], [82], [94], [143]. Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ chuyển tuyến ở bảng 3.8 và 3.9
cho thấy sự tăng có ý nghĩa thống kê của tỷ lệ này. Cụ thể, với BV đồng bằng, tỷ lệ
chuyển tuyến ở BV thí điểm tăng từ 3,3% lên 4,8%. Tỷ lệ này cũng tăng ở BV đối
chứng từ 4,1% lên 4,4%. Tuy nhiên mức tăng ở BV thí điểm (OR=1,48) lớn hơn so
với BV đối chứng (OR =1,08). Ở nhóm BV miền núi, BV thí điểm có tỷ lệ chuyển
tuyến tăng từ 4,0% lên 6,2% (OR=1,59), có ý nghĩa thống kê (p<0,01). Trong khi đó
kết quả giảm ở BV đối chứng (OR=0,96), không có ý nghĩa thống kê. Như vậy có thể
nhận thấy rõ tỷ lệ chuyển tuyến đều tăng và tăng nhiều các bệnh viện thí điểm khi so
sánh với các bệnh viện đối chứng. Kết quả này khá tương đồng với nhiều nghiên cứu
trên thế giới, trong đó có thí điểm thanh toán theo định suất ở Pudong, khu dân cư
Đông Thượng Hải, Trung Quốc. Sau 1 năm thí điểm thanh toán theo định suất, tỷ lệ
chuyển tuyến ở các bệnh viện tuyến huyện lên tuyến trên tăng đột biến, có đơn vị
tăng trên 70% [132], [128].
99
Khi chúng tôi thực hiện phỏng vấn sâu cán bộ ở BV huyện về số liệu chuyển
tuyến KCB BHYT, đại diện BV khẳng định đơn vị làm đúng, số liệu có thể thay đổi
không phải là ý muốn chủ quan từ bệnh viện: “Chúng tôi thực hiện việc chuyển tuyến
theo đúng quy định” và “bệnh viện làm hết mình để giữ bệnh nhân, không ai muốn
chuyển đi làm gì”. Tỷ lệ chuyển tuyến tăng nhiều có thể do nhu cầu KCB của người
bệnh có thẻ BHYT, khi những bệnh nặng, cần can thiệp chuyên sâu ở tuyến trên tăng
đột biến. Tuy nhiên, các số liệu về tần suất khám chữa bệnh không biến đổi nhiều và
hầu hết các số liệu chi phí giảm không hướng đến khả năng này. Dựa trên lý thuyết
về thanh toán theo định suất, có cơ sở để nghi ngờ về khả năng BV từ chối tiếp nhận
người bệnh nặng, chi phí lớn. Mặc dù vậy, phía bệnh viện phủ nhận điều này khi cho
rằng các trường hợp chuyển lên bệnh viện tỉnh đều là những trường hợp bệnh nặng
vượt quá khả năng chuyên môn kỹ thuật của tuyến huyện và “chủ yếu là u bướu, tim
mạch, cơ sở chưa có xạ trị hay can thiệp chuyên sâu”. Sự giải thích của cơ sở là: “Có
thể là do số lượt bệnh nhân nặng đến viện tăng lên, nhu cầu khám chữa bệnh cao
nhưng bệnh viện chưa đáp ứng được”.
Ở thời điểm bắt đầu thực hiện thí điểm, chuyển tuyến trong KCB BHYT được
hướng dẫn tại Thông tư số 10/2009/TT-BYT “Hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa
bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm Y tế” [13]. Trong
cùng năm 2014, Bộ Y tế đã 2 lần ra văn bản hướng dẫn và quy định về chuyển tuyến.
Đó là Thông tư số 14/2014/TT-BYT “Quy định việc chuyển tuyến giữa các cơ sở
khám bệnh, chữa bệnh” [21] và Thông tư số 37/2014/TT-BYT “Hướng dẫn đăng ký
khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y
tế” [20] thay thế cho Thông tư số 10/2009/TT-BYT. Cũng trong năm 2014, Bảo hiểm
xã hội Việt Nam đưa ra quy định về chuyển tuyến tại Điều 6, Quyết định số 1399/QĐ-
BHXH “Ban hành Quy định về tổ chức thực hiện bảo hiểm y tế trong khám bệnh,
chữa bệnh" [3]. Một năm sau, Bộ Y tế tiếp tục ban hành Thông tư số 40/2015/TT-
BYT "Quy định đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban đầu và chuyển
tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế" [22]. Việc các văn bản hướng dẫn, quy
định liên tiếp được ban hành trong thời gian ngắn một mặt cho thấy sự quan tâm của
Bộ Y tế và Bảo hiểm xã hội Việt Nam, mặt khác nói lên việc chuyển tuyến là một
100
vấn đề phức tạp trong KCB BHYT. Nghiên cứu này chưa đánh giá được tính hợp lý
trong các quyết định chuyển tuyến. Để kết luận bác sĩ làm đúng hay không đúng phải
có bằng chứng xác thực. Tuy nhiên, qua ý kiến của những người trong cuộc, có thể
thấy có những điều tác động đến quyết định chuyên môn trong việc tiếp nhận người
bệnh. Điều đó có thể đến từ các mối quan hệ “người nhà, người quen”, từ “chỉ đạo”
hay từ yêu cầu “tiết kiệm” chi khi thực hiện thanh toán theo định suất. Những khả
năng này đã được khẳng định là có thể xảy ra ở những mức độ khác nhau [106], [79],
[94], [143].
Đề xuất giải pháp với tình trạng tăng chuyển tuyến có thể là tăng cường giám
sát chặt chẽ hơn. Chúng tôi tán thành phương án phối hợp liên ngành như nhiều nước
trên thế giới đang làm trong giám sát quá trình KCB BHYT nói chung và công tác
chuyển tuyến nói riêng. Trong thí điểm này, Sở Y tế và Bảo hiểm xã hội đã phối hợp
chặt chẽ và thường xuyên hơn nhưng theo chúng tôi, sự phối hợp này cần thiết được
định hướng, có trọng tâm để đảm bảo hiệu quả dựa trên những bằng chứng khoa học.
Giám định tập trung theo tỷ lệ như đề xuất gần đây của Bảo hiểm xã hội Việt Nam
cũng là một phương án tốt, cần được thí điểm và nghiên cứu mở rộng [4]. Thanh toán
theo nhóm chẩn đoán tương đồng (Diagnostic Related Groups – DRG) cũng là một
giải pháp tốt cho vấn đề này. Mỗi ca bệnh, nhất là các ca bệnh nặng, chi phí lớn được
quy định một mức hoặc một khung chi phí phù hợp sẽ giúp cho cơ sở KCB yên tâm
hơn khi chẩn đoán, điều trị cho người bệnh, không còn phải băn khoăn về thâm hụt,
nghĩ tới khả năng chuyển người bệnh lên tuyến trên để tiết kiệm chi [109]. Tuy nhiên,
để triển khai được DRG thì cần sự chuẩn bị tốt, nhất là về dữ liệu chi phí và thống
nhất về chuyên môn của các nhóm nhóm bệnh, nhóm chẩn đoán. Chúng tôi tin tưởng
điều này sẽ sớm trở thành hiện thực với sự quyết tâm lớn và phương án chuẩn bị cụ
thể của Bộ Y tế Việt Nam [25], [24], [26], [27].
Theo nguyên tắc của thanh toán theo định suất, yêu cầu về tự chủ, tiết kiệm
chi phí có thể dẫn đến tác động làm giảm tỷ lệ nhập viện khi khám. Trước những
trường hợp bệnh không quá nặng, cân nhắc giữa điều trị nội trú hoặc ngoại trú, bệnh
viện sẽ có xu hướng chỉ định điều trị ngoại trú để mức chi phí thấp hơn. Trong nghiên
cứu này, tỷ lệ nhập viện ở BV thí điểm không thay đổi nhiều: Giảm 0,2% ở BV đồng
101
bằng và tăng 0,1% ở BV miền núi. Các sự thay đổi này không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Số liệu ở bệnh viện đối chứng có chênh lệch (giảm 1,1% ở BV đồng bằng
trong khi tăng 0,1% ở BV miền núi). Số liệu chưa đủ cơ sở để nhận định sự thay đổi
tỷ lệ nhập viện khi khám là do tác động của thí điểm. Khả năng được nghĩ tới trong
kết quả này là tác động không mong muốn của thanh toán theo định suất sẽ có biểu
hiện trong thời gian dài hơn so với thời gian thí điểm 1 năm. Những nghiên cứu tương
tự trên thế giới đã chỉ ra vấn đề này [81], [106], [132], [128].
Tác động cắt giảm chi phí có thể đánh giá được ngay trong thời gian ngắn
nhưng tác động không tốt đến chất lượng cần nhiều thời gian hơn để đánh giá. Sự cắt
giảm quyền lợi của người bệnh có xu hướng nghiêm trọng hơn khi áp dụng thanh
toán theo định suất trong thời gian dài. Đề xuất áp dụng luân phiên các phương thức
thanh toán có thể là giải pháp cho tình huống này. Khi đó tác động tích cực thu được
sớm, những sự “thích nghi” mang tính tiêu cực cho chất lượng khám chữa bệnh không
có nhiều thời gian để hình thành [81], [109].
4.2.1.2. Số xét nghiệm, CĐHA và đầu thuốc trung bình
Trong cơ cấu chi phí KCB BHYT, xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh là 2
trong số 4 khoản mục có tỷ trọng lớn, có tổng chi phí chiếm trên 30% chí phí nội trú.
Quỹ định suất kết dư hay bội chi thế nào phụ thuộc nhiều vào việc chỉ định xét nghiệm
và chẩn đoán hình ảnh trong khám và điều trị y tế. Nếu kết quả khám chữa bệnh được
đảm bảo tốt thì xét nghiệm và chẩn đoán hình ảnh ít hơn sẽ đem lại hiệu quả cao hơn.
Số xét nghiệm trung bình có sự tương phản giữa BV thí điểm và đối chứng ở
các bảng 3.12 và 3.13. Cụ thể với nhóm BV đồng bằng, số xét nghiệm trung bình
giảm 5,7% ở BV thí điểm và ngược lại, tăng tới 11,1% ở BV đối chứng. Các kết quả
có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Số liệu trung bình ở nhóm BV miền núi thấp hơn do
điều kiện cơ sở vật chất, trang thiết bị phòng xét nghiệm còn thiếu, hóa chất và sinh
phẩm không sẵn sàng như với BV đồng bằng. Tuy nhiên, nghiên cứu tập trung so
sánh trong mỗi nhóm giữa BV thí điểm và BV đối chứng. Khác biệt ở các BV miền
núi là lớn hơn với mức giảm 9,7% ở BV thí điểm và tăng 13,3% ở BV đối chứng. Số
liệu có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Kết quả nghiên cứu về số chẩn đoán hình ảnh
102
(CĐHA) trung bình cũng tương tự như số xét nghiệm trung bình. Giữa BV thí điểm
và đối chứng có sự thay đổi trái ngược nhau trong các bảng 3.14 và 3.15. Hai BV thí
điểm có số CĐHA giảm 7,3% (BV đồng bằng) và 14,7% (BV miền núi), số liệu có ý
nghĩa thống kê với p<0,01. Hai BV đối chứng đều có số liệu tăng (4,3% và 5,1%).
Đối với bệnh viêm phế quản cấp, theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị [110],
[10], [65], [108], các xét nghiệm và CĐHA thường được sử dụng là: X quang phổi
thẳng, nghiêng, siêu âm, siêu âm bụng tổng quát, xét nghiệm công thức máu, máu
lắng, Protein phản ứng C (CRP), glucose máu, protein, xét nghiệm đờm (nhuộm soi
và nuôi cấy)… Trên từng ca bệnh, căn cứ vào biểu hiện lâm sàng, bác sĩ có thể chỉ
định một, một vài hoặc nhiều dịch vụ. Để hạn chế những tranh luận, sai khác về
chuyên môn, nghiên cứu định nghĩa mỗi xét nghiệm được tính là một lần xét nghiệm
với một đầu mục xét nghiệm trên phiếu thanh toán. Số CĐHA cũng được quy ước
tương tự. Các kết quả thu được từ phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm cho thấy việc có
chỉ định mỗi xét nghiệm/ CĐHA hay không của bác sĩ là có sự cân nhắc và suy tính:
“Nhiều bệnh nhân ghi chẩn đoán 1 bệnh nhưng có vấn đề về thừa cân, tiền sử uống
rượu thì phải xét nghiệm mỡ máu, GOT, GPT”; “điều trị tốt anh cần đánh giá chức
năng gan, thận, có thể cần làm xét nghiệm cơ bản như ure, creatinin, men gan” và
“nằm viện cần thiết cho chụp lại để đánh giá điều trị”. Xét nghiệm và CĐHA giúp
ích cho bác sĩ lâm sàng và nếu số dịch vụ giảm quá mức chắc chắn sẽ khó cho bác sĩ
và “bỏ bớt đi mà kê đơn thì thiếu thông tin”. Sự thừa nhận tác động của việc kiểm
soát chi phí tới chỉ định dịch vụ có thể thấy rõ qua ý kiến của bác sĩ E: “Chúng tôi
cẩn trọng khi chỉ định dịch vụ. Chỉ định phải phù hợp và cần thiết. Chi phí dịch vụ
cũng là yếu tố khiến anh em phải cân nhắc”.
Định nghĩa biến của nghiên cứu cũng quy ước mỗi đầu thuốc được tính là một
đầu mục thuốc trên phiếu thanh toán. Nghiên cứu viên cũng tiến hành đối chiếu bệnh
án, đơn thuốc với phiếu thanh toán để tránh những sai sót, trùng lặp. Bệnh viêm phế
quản cấp và viêm dạ dày cấp là 2 trong số những bệnh có hướng dẫn điều trị nội khoa
rõ ràng [110], [10], [65], [108]. Theo đó với bệnh viêm phế quản cấp, nhóm thuốc
thiết yếu gồm 4 loại thuốc: Kháng sinh; thuốc hạ sốt, giảm đau; thuốc giãn cơ, chống
co thắt; và vitamin, thuốc bổ. Nhóm thuốc không thiết yếu gồm các thuốc long đờm,
103
khám viêm, thuốc an thần, hạ huyết áp… Với bệnh viêm dạ dày cấp, nhóm thuốc
thiết yếu gồm: Thuốc kháng sinh; thuốc trung hòa acid dạ dày; thuốc ức chế bơm
proton; thuốc bổ và vitamin. Nhóm thuốc không thiết yếu gồm các thuốc giảm đau,
điều trị tiêu chảy, chống nôn, giảm co thắt… Như vậy khi kê đơn, các bác sĩ có thể
có nhiều lựa chọn và chắc chắn số đầu thuốc sẽ có nhiều biến thiên. Số liệu đầu thuốc
trung bình được trình bày trong các bảng từ 3.16 đến 3.19. Số đầu thuốc nội trú trung
bình ở nhóm BV thí điểm là 8,5 ở BV đồng bằng và 9,4 ở BV miền núi. Sau thí điểm,
số liệu trung bình tương ứng là 8,3 và 8,6. Số đầu thuốc nội trú đã giảm 2,4% và 8,5%,
sự thay đổi có ý nghĩa thống kê với p<0.01. Trong khi đó sự thay đổi ở BV đối chứng
đều mang trị số dương, tức là tăng số đầu thuốc trung bình. Mức tăng lần lượt là 4,3%
và 5,1% ở BV đồng bằng và miền núi, có ý nghĩa thống kê. Số đầu thuốc ngoại trú
trung bình ở nhóm BV thí điểm là 4,4 và 3,9 (BV đồng bằng và BV miền núi), thấp
hơn nhiều so với số liệu nội trú. Sự thay đổi sau thí điểm mang trị số âm với mức
giảm có ý nghĩa thống kê tương ứng là 11,4% và 5,1%. Nhóm BV đối chứng có số
đầu thuốc ngoại trú trung bình tăng từ 2,6% đến 8,8%.
Các nghiên cứu trên thế giới cũng công bố nhiều kết quả tương đồng với chúng
tôi. Nghiên cứu của Yip W. năm 2014 chỉ ra việc thực hiện thanh toán chi phí KCB
BHYT theo định suất làm giảm trung bình 15% số thuốc kháng sinh [140]. Nghiên
cứu của Đại học Công nghệ Thượng Hải, Trung Quốc cho biết số thuốc và dịch vụ
giảm ít nhất 3% đến 5% thi thực hiện định suất [143]. Nhóm tác giả người Đức
Jeannette Brosig-Koch cũng nghiên cứu sự thay đổi số lượng xét nghiệm và dịch vụ
như chúng tôi khi áp dụng thanh toán theo định suất thay vì phí dịch vụ năm 2012-
2013. Kết quả cho thấy thanh toán theo định suất làm giảm số lượng trung bình từ
6,91 dịch vụ xuống còn 3,37 dịch vụ được chỉ định trong một lượt KCB BHYT.
Nghiên cứu này có ý nghĩa rất tốt khi tiến hành phân tích hành vi chỉ định dịch vụ
của bác sĩ. Theo đó, các bác sĩ nhiều kinh nghiệm thì 81% chỉ định dịch vụ ít hơn,
còn những bác sĩ mới ra trường, kinh nghiệm ít hơn thì có xu hướng chỉ định dịch vụ
nhiều hơn (từ 47% đến 58%). Điều này được giải thích do các bác sĩ nhiều kinh
nghiệm có thói quen lựa chọn phương án họ cho là tốt nhất, hiệu quả và tiết kiệm,
còn các bác sĩ trẻ muốn thử nghiệm nhiều hơn. Mặt khác nghiên cứu khẳng định một
104
lần nữa thanh toán theo định suất làm hạn chế thực hành của bác sĩ trên cả những
người trẻ hoặc nhiều kinh nghiệm [87].
Kết quả nghiên cứu định tính một lần nữa khẳng định số đầu thuốc và dịch vụ
trung bình giảm. Số lượng dịch vụ sẽ giảm bởi nguyên nhân “chuyện tiết kiệm chi”,
và cụ thể là số thuốc giảm hay chỉ định giảm. Nhưng việc giảm số thuốc và dịch vụ
được phía bệnh viện cho là giảm những cái không thực sự cần thiết, không ảnh hưởng
đến kết quả điều trị. Quan điểm của các đối tượng phỏng vấn cũng phần nào cho thấy
vai trò và trách nhiệm từ phía bệnh viện: “Đầu tiên là trách nhiệm của bác sĩ và của
thủ trưởng đơn vị” (Ông C, Sở Y tế); “Ban Giám đốc không hạn chế thực hành của
bác sĩ” (Ông I, Bệnh viện A); “số thuốc còn, còn nhiều hoặc hết đều được khoa Dược
thông báo trong giao ban” song song với việc “lúc nào chi nhiều quá thì giao ban sẽ
đề cập”. Và nếu việc cắt giảm này là quá mức, ảnh hưởng đến quyền lợi của người
bệnh thì có giải quyết được không. Theo ý kiến thu được từ phỏng vấn sâu thì Sở Y
tế có kiểm tra thường xuyên và đột xuất để đánh giá thực hiện quy chế chuyên môn,
đảm bảo quyền lợi cho người bệnh. Bảo hiểm xã hội tỉnh thì có cán bộ giám định và
phối hợp chặt chẽ với Sở Y tế. Tuy nhiên khó khăn cũng được thừa nhận là sự thiếu
hụt về nguồn lực, cơ sở chuyên môn và pháp lý: “Chuyên môn sâu về y thì khó đánh
giá lắm” và “thuốc trong danh mục BHYT, không thể bảo người ta kê đơn sai, cho
nhiều hay ít thuốc quá được”.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra những yếu tố ảnh hưởng đến quyết định kê đơn,
chị định dịch vụ có thể phân thành 2 nhóm. Nhóm yếu tố thứ nhất là những hướng
dẫn chuyên môn và tình trạng của người bệnh. Nhóm yếu tố thứ hai là những yếu tố
ngoài chuyên môn như sự sẵn có của thuốc, dịch vụ, quy định quản lý và chi phí. Sự
sẵn có của thuốc và dịch vụ có thể là những vấn đề cụ thể như thuốc còn hay hết, còn
nhiều hay ít, thuốc mới hay cũ, máy xét nghiệm có đủ hóa chất không, có người làm
không… Quy định quản lý và chi phí liên quan chặt chẽ đến phần kết quả nghiên cứu
đang được đề cập. Sự quản lý thoáng hay siết chặt, yêu cầu về chi phí, có phải tiết
kiệm hay không khi chỉ định…[79]. Nghiên cứu này chưa đánh giá được thu nhập
của bác sĩ khi điều chỉnh phương thức thanh toán trong khi đây là một trong những
yếu tố quan trọng tác động trực tiếp đến hành vi kê đơn, chỉ định dịch vụ [85].
105
Trở lại với những câu hỏi ban đầu chúng tôi đặt ra khi xây dựng khung lý
thuyết là tăng thì tốt hay giảm thì tốt. Với số dịch vụ và số thuốc trung bình, việc tăng
hay giảm không đồng nghĩa với chất lượng thay đổi tương ứng. Nếu số thuốc và dịch
vụ tăng do chỉ định cần thiết, nâng cao hiệu quả điều trị hay rút ngắn thời gian điều
trị thì tăng là tốt. Nhưng nếu số thuốc và dịch vụ giảm trong khi chất lượng KCB
được đảm bảo, không thay đổi hiệu quả điều trị thì cũng là tốt vì việc cắt giảm nằm
ở những chỗ không cần thiết. Trong nghiên cứu của Yip W., thanh toán theo định
suất giúp cắt giảm tỷ lệ kê đơn thuốc kháng sinh quá mức cần thiết. Việc cắt giảm
này được nhóm nghiên cứu cho là tốt và hợp lý [140]. Tuy vậy, trên quan điểm của
một bác sĩ tham gia nghiên cứu này, ranh giới giữa cắt giảm hợp lý hay không hợp lý
là rất mong manh: “Cùng chữa được thì có ưu tiên chọn thuốc rẻ hơn” nhưng “bệnh
nặng mà nhiều thuốc, thuốc tốt thì vẫn khỏi thôi” và “thuốc tốt nhất thì thường phải
nhiều tiền hơn”. Chúng tôi ủng hộ quan điểm của các tác giả người Mỹ rằng bác sĩ
cần được tập trung vào chuyên môn [81], [109]. Chắc chắn rằng Ban Giám đốc bệnh
viện đều hiểu rõ áp lực với đơn vị khi thực hiện thanh toán theo định suất cũng như
trách nhiệm đáp ứng chuyên môn KCB BHYT. Trong bối cảnh hiện nay, chất lượng
dịch vụ, chất lượng phục vụ người bệnh cần được coi trọng hơn nữa. Thanh toán theo
định suất, quỹ nhiều hay ít nói cho cùng vẫn dựa vào khách hàng là người sử dụng
thẻ BHYT. Nếu việc cung ứng dịch vụ không tốt về số lượng hay chất lượng, khách
hàng đăng ký giảm đi, tình hình tài chính của bệnh viện sẽ diễn biến không tốt. Do
vậy, đầu tư cho chất lượng sẽ là sự phát triển lâu dài và bền vững, trong đó có yếu tố
tài chính.
4.2.1.3. Thời gian điều trị nội trú và tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh
Cho người bệnh ra viện sớm hơn có thể là một hệ quả khi thực hiện thanh toán
theo định suất [79], [109]. Mặt khác, kết quả nghiên cứu về sự cắt giảm chi phí và số
lượng dịch vụ ở phần trước có thể dẫn đến tăng thời gian điều trị nội trú do điều trị
không hiệu quả hay không đúng do thiếu thông tin. 2 tác động trực tiếp và gián tiếp
theo 2 chiều hướng trái ngược nhau. Kết quả nghiên cứu trên thời gian điều trị nội trú
trung bình trước và sau thí điểm không biến đổi nhiều. Bảng 3.20 là kết quả đánh giá
ở nhóm BV đồng bằng. Trung bình mỗi bệnh nhân điều trị nội trú trong khoảng trên
106
dưới 7 ngày. Thời gian điều trị nội trú trung bình tăng nhẹ cả ở BV thí điểm và đối
chứng với các mức gia tăng 1,5% và 2,9%. Sự thay đổi tại BV thí điểm không có ý
nghĩa thống kê. Số liệu trung bình ở nhóm BV miền núi thấp hơn trong bảng 3.21 với
giá trị trước thí điểm là 7,1 và 6,3 ngày lần lượt tại BV thí điểm và BV đối chứng.
Tuy nhiên sự thay đổi cũng ở mức thấp, dưới 2%. Cụ thể, BV thí điểm có thời gian
điều trị nội trú trung bình giảm 1,4%, số liệu không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Trong khi đó thời gian này tăng nhẹ ở BV đối chứng (tăng 1,6%, có ý nghĩa thống
kê) giống như các BV đồng bằng. Điểm chung ở nhóm BV đối chứng là thời gian
điều trị nội trú tăng. Điều này liên quan đến việc tăng chi phí ở các BV đối chứng khi
so sánh đánh giá. Nhóm BV thí điểm có những thay đổi nhỏ ở mức tăng hoặc giảm
0,1 ngày điều trị nhưng không có ý nghĩa thống kê.
Tác động của thí điểm theo hướng cắt giảm chi phí, giảm dịch vụ chắc chắn
dẫn đến những thay đổi về kết quả khám chữa bệnh. Tuy nhiên những kết quả nghiên
cứu về thời gian điều trị nội trú ở BV thí điểm chưa ghi nhận được thay đổi này.
Nghiên cứu của Trần Quang Thông tại 4 BV huyện, tỉnh Thanh Hóa cho kết quả số
ngày điều trị nội trú trung bình giảm từ 0,5 đến 0,8 ngày khi thực hiện thí điểm thanh
toán theo định suất [64]. Mức thay đổi này nhiều hơn so với nghiên cứu của chúng
tôi. Nghiên cứu của Bùi Thị Cẩm Tú về thực trạng KCB BHYT của người bệnh nội
trú khi thực hiện thanh toán chi phí theo định suất tại BV tuyến huyện, tỉnh Hải Dương
năm 2011 cho thấy số ngày điều trị trung bình tăng hoặc giảm khác nhau ở các bệnh
viện. Số liệu trung bình tăng ở BV Nam Sách: Từ 5,5 ngày năm 2010 lên 5,9 ngày
năm 2011. Thời gian điều trị tăng nhiều hơn ở BV Bình Giang: Từ 6,0 lên 7,0 ngày
trong cùng thời gian. Số ngày điều trị nội trú không biến đổi ở BV Gia Lộc (5,0 ngày)
và giảm ở BV Kinh Môn (từ 5,4 xuống 3,1 ngày) [61]. Các tác giả cũng chia sẻ nhận
định: Đánh giá chất lượng KCB là nội dung khó, đặc biệt là sự thay đổi chất lượng
xuất phát từ phương thức thanh toán [64].
Giống như nghiên cứu của nhiều nhóm tác giả khác, nghiên cứu đánh giá tỷ lệ
bệnh án khỏi bệnh dựa trên hồ sơ bệnh án do đó giá trị tham khảo về kết quả điều trị
còn nhiều hạn chế [64], [140]. Số lượng bệnh án lớn, các kết quả được phân thành 2
loại: Bệnh án khỏi bệnh và không khỏi bệnh. Trong đó các bệnh án không khỏi bệnh
107
có thể có kết quả là đỡ/ không khỏi/ bệnh không thay đổi hoặc nặng hơn/ xảy ra biến
chứng. Trong nghiên cứu này, tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh chiếm trên 80% (Bảng 3.22 và
3.23), khá giống với kết quả của Trần Quang Thông trong nghiên cứu tương tự ở BV
tuyến huyện (BV đồng bằng và miền núi) đối với bệnh viêm phế quản cấp [64]. Tỷ
lệ bệnh án khỏi bệnh ở BV thí điểm đồng bằng là 83,1% và 84,8% ở các thời điểm
trước và sau thí điểm. Tỷ lệ này thay đổi không nhiều (OR=1,13; 0,95) và sự thay đổi
không có ý nghĩa thống kê (p>0,05). Nhóm BV miền núi có tỷ lệ khỏi bệnh cao hơn.
BV thí điểm có tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh là 84,5% và 86,2% ở các thời điểm trước và
sau thí điểm, OR=1,15. Số liệu nghiên cứu ở BV miền núi cũng không chỉ ra được sự
thay đổi có ý nghĩa trên tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh. Tỷ lệ ở BV đối chứng là 91,0% và
90,7%, OR=0,97. Các số liệu không có ý nghĩa thống kê với p>0,05. Ý kiến phỏng
vấn sâu bác sĩ điều trị cũng thừa nhận kết quả điều trị chưa có chuyển biến: Thời gian
điều trị nội trú trung bình “ít thay đổi lắm” hay “kết quả điều trị nói chung vẫn thế”.
Kết quả điều trị nói khái quát chịu tác động từ nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố từ phía
cơ sở y tế (thuốc, chất lượng dịch vụ), yếu tố từ phía người bệnh (thể trạng, tuân thủ
điều trị) [79], [109], [104], [130]. Các bác sĩ tham gia nghiên cứu cũng chia sẻ điều
này trong mong muốn kết quả tốt nhất cho người bệnh: “Điều trị đủ liều thì mới khỏi
được”; “thể trạng ổn định thì mình cho ra”; “khỏi hay không còn phụ thuộc vào thể
trạng bệnh nhân, không chỉ mỗi thuốc điều trị”.
Nhiều nghiên cứu trên thế giới khi đánh giá tác động của thanh toán theo định
suất nói chung và tỷ lệ khỏi bệnh nói riêng cũng không tìm ra được bằng chứng về
sự thay đổi có ý nghĩa. Trong một thí điểm thanh toán theo định suất ở Trung Quốc,
dù định suất làm giảm 15% thuốc kháng sinh nhưng không có sự thay đổi về kết quả
điều trị được ghi nhận [140]. Nghiên cứu của Cheng SH. trên 2 bệnh viện ở Đài Bắc,
Đài Loan năm 2011 cũng không tìm ra bằng chứng tác động đến kết quả điều trị của
thanh toán theo định suất [94]. Có thể cần thời gian nhiều hơn 1 năm thí điểm để
những tác động của phương thức thanh toán đủ mạnh hơn và đo lường được. Kết quả
nghiên cứu trong phần này có thể sẽ thay đổi rõ rệt nếu thời gian thực hiện thí điểm
kéo dài hơn [81], [109].
108
4.2.2. So sánh sự thay đổi về sự hài lòng của người bệnh BHYT
Có nhiều quan điểm và phương thức đánh giá về sự hài lòng. Mô hình
SERQUAL do Parasuraman A. công bố năm 1988 [120] được nghiên cứu lựa chọn
vì đánh giá chi tiết được nhiều mặt về sự hài lòng của người sử dụng dịch vụ, trong
đó có dịch vụ y tế [141], [125], [107], [119]. Các nghiên cứu trong lĩnh vực y tế công
cộng và quản lý bệnh viện ở nước ta gần đây thường sử dụng mô hình này để đánh
giá sự hài lòng của người bệnh [52], [39], [41], [50], [29], [75], [46], [38]. Tuy nhiên,
theo tìm hiểu của chúng tôi, chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam dùng mô hình này
để đánh giá tác động của phương thức thanh toán tới quá trình KCB BHYT.
Cắt giảm những dịch vụ không cần thiết, không lạm dụng dịch vụ, kê đơn và
chỉ định đúng, đủ làm hiệu quả điều trị tăng lên, cùng với sự quan tâm phục vụ toàn
diện sẽ làm tăng sự hài lòng của người bệnh BHYT. Tuy nhiên, cắt giảm dịch vụ quá
mức, ảnh hưởng đến quyền lợi của người có thẻ BHYT sẽ tác động xấu đến kết quả
điều trị và gián tiếp là sự hài lòng của người bệnh. Trong đó, kết quả điều trị không
đảm bảo cũng có thể do tiết kiệm quá mức chi phí thuốc BHYT, thiếu thuốc hoặc
thuốc giá thấp. Kết quả nghiên cứu về sự hài lòng của người bệnh nội trú khi thực
hiện thí điểm có giá trị tham khảo, nhất là cho các cấp quản lý để phục vụ người bệnh
tốt hơn, nhất là trong bối cảnh cải cách hành chính, đổi mới tinh thần phục vụ, tự chủ
và cạnh tranh trong y tế [24], [51].
Sự hài lòng với 5 mức độ (Rất không hài lòng, không hài lòng, bình thường,
hài lòng và rất hài lòng) được đánh giá bởi các mức điểm từ 1 đến 5. Nghiên cứu thu
được nhiều kết quả tại các bảng 3.24, 3.25 và các bảng từ 4.13 đến 4.22 của Phụ lục
6. Điều chúng tôi quan tâm nhất là sự thay đổi mức độ hài lòng của người bệnh ở mỗi
phương diện, từng nội dung và mức độ hài lòng chung. Kết quả nghiên cứu cho thấy
mức độ hài lòng trung bình ở BV đồng bằng trên các phương diện dao động trong
khoảng từ 3,47 đến 3,92 điểm. Trên các phương diện cụ thể, sự thay đổi (ở BV thí
điểm) lần lượt là 0,7%; -0,6%; 6,2%; -0,7% và 3,1% tương ứng với phương diện hữu
hình, phương diện tin cậy, phương diện đáp ứng, phương diện đảm bảo và phương
diện cảm thông. Kết quả phân tích cho thấy phần lớn các sự thay đổi về mức độ hài
lòng của người bệnh không có ý nghĩa thống kê. Điểm đáng chú ý nhất là sự hài lòng
109
trên phương diện đáp ứng và cảm thông tăng ở BV thí điểm (tăng lần lượt 6,2% và
3,1% điểm trung bình), số liệu này có ý nghĩa thống kê (p<0,05). Ở nhóm BV miền
núi, mức điểm trung bình dao động trong khoảng hẹp hơn, từ 3,52 đến 3,85 điểm. Sự
thay đổi ở BV thí điểm trên các phương diện cụ thể lần lượt là 0,8%; -0,8%; 5%;
0,4% và 2,0% tương ứng với phương diện hữu hình, phương diện tin cậy, phương
diện đáp ứng, phương diện đảm bảo và phương diện cảm thông. Kết quả phân tích
cho thấy phần lớn các sự thay đổi về mức độ hài lòng của người bệnh không có ý
nghĩa ngoại trừ phương diện đáp ứng (tăng 5,0% và có ý nghĩa thống kê ở BV thí
điểm với p<0,01).
Nhiều kết quả chi tiết về sự hài lòng của người bệnh nội trú, đa phần không có
ý nghĩa thống kê, được trình bày trong Phụ lục 6 (Các bảng từ 4.13 đến 4.22). Bảng
3.26 bao gồm những kết quả có ý nghĩa thống kê, được đánh giá là tích cực bởi sự
hài lòng của người bệnh được cải thiện ở những nội dung chi tiết. Sự gia tăng mang
các giá trị dương, dao động từ 2,4% đến 7,4%, thay đổi có ý nghĩa thống kê. Những
thay đổi có ý nghĩa được ghi nhận liên quan trực tiếp đến hành vi, thái độ của nhân
viên y tế. Mức độ hài lòng của người bệnh nội trú đều tăng khi được hỏi về các nội
dung “được bác sĩ thăm khám, tư vấn, động viên”; “được hướng dẫn về quy trình
khám chữa bệnh”; “được cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thuốc
điều trị”; “hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết”. Điểm trung bình hài lòng
tăng nhiều nhất ở hai nội dung “được bác sĩ thăm khám, tư vấn, động viên” và “được
cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị”: Tăng 7,4% và
7,3% ở BV đồng bằng, tăng 6,1% và 6,2% ở BV miền núi. Có thể thấy tất cả các nội
dung nói trên đều liên quan trực tiếp đến hành vi, thái độ và tương tác của nhân viên
y tế với người bệnh. Các nghiên cứu khác đồng thời khẳng định hành vi, thái độ và
tương tác của nhân viên y tế với người bệnh chính là yếu tố liên quan có ý nghĩa
thống kê tới mức độ hài lòng của người bệnh [50], [29], [38], [40].
Kết quả nghiên cứu định tính giúp tìm hiểu thêm một số nội dung hài lòng
hoặc không hài lòng theo quan điểm từ phía người bệnh cũng như quan điểm từ phía
bệnh viện, Sở Y tế và Bảo hiểm xã hội tỉnh trên 3 mặt là cơ sở vật chất, cán bộ công
nhân viên bệnh viện và hoạt động điều trị. Về cơ sở vật chất, đa số các ý kiến hài lòng
110
về cơ sở vật chất từ buồng bệnh, khuôn viên, căng tin, điều kiện điện nước. Phía bệnh
viện dù khẳng định quyết tâm phấn đấu để bệnh viện xanh, sạch, đẹp nhưng thừa
nhận những khó khăn về hạ tầng, trang thiết bị do điều kiện kinh tế chung. Ý kiến
chưa hài lòng trong đó có nội dung nhà vệ sinh có thể là cục bộ, chúng tôi có trao đổi
lại với đơn vị để làm tốt hơn. Về cán bộ công nhân viên, có nhiều đánh giá tích cực
và thông tin định tính từ cán bộ lãnh đạo, quản lý thể hiện sự quyết tâm và thay đổi
rõ rệt trong tinh thần phục vụ người bệnh. Những sự thay đổi về chất lượng dịch vụ
cần có tính toàn diện và cần có thêm thời gian bởi rất nhiều những khó khăn ở tuyến
huyện chưa thể giải quyết ngay được [58], [74].
Tuy có những nội dung biến đổi cụ thể song mức độ hài lòng chung của người
bệnh chưa được cải thiện khi thực hiện thí điểm. Điểm tổng hợp ở BV thí điểm đồng
bằng đạt mức trung bình 3,69 và 3,75 ở các thời điểm trước và sau thí điểm. Mức gia
tăng (không có ý nghĩa thống kê) là 1,6%. BV đối chứng có điểm tổng hợp trung bình
là 3,77 và 3,75. Sự thay đổi là giảm 0,4%, không có ý nghĩa thống kê. Ở nhóm BV
miền núi, BV thí điểm có điểm tổng hợp sự hài lòng của người bệnh đạt mức trung
bình 3,70 và 3,74 ở các thời điểm trước và sau thí điểm. Mức gia tăng là 1,4% (không
có ý nghĩa thống kê). BV đối chứng có điểm trung bình 3,68, thay đổi khoảng 0,2%
(giảm rất ít), không có ý nghĩa thống kê. Trong các nghiên cứu quốc tế cùng chủ đề
với chúng tôi, những ghi nhận tác động của phương thức thanh toán tới sự hài lòng
của người bệnh là không nhiều dù cùng chỉ ra xu hướng người bệnh sẽ chọn cơ sở
KCB BHYT thanh toán theo phí dịch vụ hơn là cơ sở thanh toán theo định suất [143],
[94], [80]. Điều này có thể do yếu tố tâm lý, khi thấy nhiều dịch vụ hơn, người bệnh
có thể nghĩ mình được quan tâm tốt và hài lòng hơn. Những nghiên cứu khác vẫn chỉ
ra rằng thanh toán theo định suất, khi triển khai tốt, hoàn toàn có thể thay đổi chất
lượng dịch vụ nói chung và sự hài lòng của người bệnh nói riêng theo chiều hướng
tích cực [104], [130]. Hiệu quả điều trị được đảm bảo thì việc cắt giảm những dịch
vụ không cần thiết giúp việc KCB BHYT nhanh gọn hơn, đơn giản và thuận tiện hơn
cũng như khiến cho người bệnh cảm thấy bệnh nhẹ hơn [104].
111
4.3. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa đổi
phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
Thí điểm sửa đổi với kỳ vọng tạo ra sự thay đổi rõ ràng về chi phí KCB BHYT
so với việc thực hiện thanh toán theo định suất như quy định tại Thông tư liên tịch
09/2009/TTLT-BYT-BTC. Sự thay đổi về chi phí được đánh giá thông qua chi phí
KCB BHYT trung bình, chi phí KCB nội, ngoại trú, chi phí KCB theo khoản mục
(giường, xét nghiệm, chẩn đoán hình ảnh, thuốc…). Kết quả nghiên cứu cho thấy gia
tăng chi phí đã được kiểm soát tốt hơn, tình trạng bội chi quỹ đã giảm đáng kể cũng
như những chuyển biến tích cực ở bệnh viện tuyến huyện khi thực hiện thí điểm.
4.3.1. Chi phí KCB trung bình đầu thẻ
Trước khi thực hiện thí điểm (năm 2013), chi phí KCB trung bình đầu thẻ của
Khánh Hòa là 616,6 nghìn VNĐ. Sau 1 năm thí điểm, chi phí giảm 70,6% xuống còn
181,4 nghìn VNĐ. Điều này được giải thích bởi thiết kế quỹ thay đổi, trong đó có
việc loại bỏ chi phí đa tuyến. Bình Định là tỉnh được chọn nghiên cứu đối chứng, có
chi phí KCB trung bình đầu thẻ tăng 18,5%, từ 417,5 nghìn VNĐ lên 494,8 nghìn
VNĐ. Sự so sánh sẽ mang ý nghĩa tốt hơn với chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ
tại bảng 3.27. Khi không tính chi phí đa tuyến, chi phí trung bình đầu thẻ ở tỉnh thí
điểm và đối chứng khá tương đồng (198,4 và 202,3 nghìn VNĐ). Sau 1 năm thí điểm,
số liệu tương ứng là 181,4 và 229,3 nghìn VNĐ. Thí điểm làm chi phí trung bình đầu
thẻ giảm 8,6% ở tỉnh thí điểm trong khi số liệu đối chứng tăng 13,4%. Phép so sánh
chi phí KCB trung bình đầu thẻ không đánh giá được ý nghĩa thống kê vì không có
dữ liệu chi phí từng đầu thẻ BHYT. Đây cũng là một phần trong những khó khăn khi
thu thập số liệu chi phí KCB BHYT của nghiên cứu. Dữ liệu có nhưng quản lý khác
nhau ở các cơ sở, giữa cơ quan BHXH và ở Sở Y tế. Các phần mềm quản lý chưa
được đồng bộ hóa, chưa trích xuất được thông tin, nhất là với bộ số liệu lớn, khó khăn
cho nghiên cứu thống kê. Thực trạng này đã được lãnh đạo ngành Y tế ghi nhận, có
quyết tâm và giải pháp cụ thể để thay đổi tình hình. Đó là việc ban hành 05 Bộ chỉ số
đánh giá mức độ sẵn sàng về ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Y tế [25];
ban hành bộ mã danh mục dùng chung áp dụng trong khám bệnh, chữa bệnh và thanh
toán bảo hiểm y tế [26], là Quyết định về việc quy định chuẩn và định dạng dữ liệu
112
đầu ra sử dụng trong quản lý, giám định và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh
bảo hiểm y tế [27].
So sánh chi phí KCB trung bình đầu thẻ ở BV tuyến huyện cũng cho kết quả
tương tự chi phí toàn tỉnh. Biểu đồ 3.9 mô tả chiều hướng thay đổi tương đồng của
chi phí trung bình của BV thí điểm (đồ thị dốc xuống nhiều) và BV đối chứng (đồ thị
đi lên). Hai bệnh viện thí điểm (Diên Khánh và Khánh Vĩnh) đều có chi phí KCB
trung bình đầu thẻ giảm mạnh (giảm 53,6% và 48,4%). Hai bệnh viện đối chứng (Phù
Cát và Vân Canh) thì chi phí tăng nhẹ (tăng 9,2% và 13,6%). Nếu chỉ tính chi phí
KCB tại chỗ thì sự khác biệt này giảm đi đáng kể. Bảng 3.28 so sánh chi phí KCB tại
chỗ trung bình đầu thẻ ở BV đồng bằng. Bệnh viện thí điểm có chi phí trung bình
trước và sau thí điểm lần lượt là 248,8 và 266,5 nghìn VNĐ. Số liệu ở BV đối chứng
là 205,6 và 234,5 nghìn VNĐ. Sự thay đổi đều mang giá trị dương tức là có gia tăng
chi phí trung bình. Tuy nhiên tỷ lệ thay đổi khác nhau: 7,1% ở BV thí điểm và 14,1%
ở BV đối chứng. Như vậy, mức tăng chi phí ở BV thí điểm chỉ bẳng một nửa so với
BV đối chứng. Sự gia tăng chi phí đã được kiểm soát tốt hơn. Bảng 3.29 thể hiện chi
phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ ở BV miền núi. Trước thí điểm, chi phí trung bình
ở BV thí điểm và đối chứng lần lượt là 240,0 và 220,2 nghìn VNĐ. Sau thí điểm, chi
phí này biến đổi khác nhau. Nếu như BV đối chứng gia tăng 12,8% thì BV thí điểm
có số liệu giảm 6,2%. Điều này cho thấy sự gia tăng chi phí cũng đã được kiểm soát
tốt, thậm chí là tốt hơn so với BV đồng bằng.
Sự thay đổi chi phí KCB trung bình đầu thẻ đều cho thấy chi phí đã được kiểm
soát tốt hơn ở BV thí điểm. Các kết quả định tính cũng củng cố cho nhận định này:
“Các đơn vị kiểm soát được chi phí”, “Khánh Hòa kiểm soát tốt hơn ở tuyến huyện”,
“chúng tôi quản lý được tốt hơn chi phí theo đầu thẻ”. Kết quả nhận được đánh giá
tích cực từ Sở Y tế và Bảo hiểm xã hội tỉnh: “Như vậy là đi đúng hướng”, “giảm áp
lực cho quỹ chung” và “không lo vỡ quỹ”. Tác động tương tự của thanh toán theo
định suất đến chi phí trung bình đầu thẻ cũng được ghi nhận ở nhiều nghiên cứu khác
trên thế giới như công trình của tác giả Hill H. (Anh) hay Andoh-Adjei (Ghana) [106],
[79]. Tại Dublin, Ireland, thí điểm thanh toán theo định suất làm giảm 9,6% chi phí
113
KCB BHYT trung bình đầu thẻ. Chi phí trung bình đầu thẻ trước thí điểm là 6.781
Euro và sau thí điểm giảm xuống còn 6.128 Euro [129].
Chi phí có thể giảm hoặc tăng nhưng đã được kiểm soát tốt hơn. Và nếu tăng
thì là “tăng hợp lý” như một ý kiến từ phía Sở Y tế. Khả năng kiểm soát chi phí theo
chúng tôi là khác nhau giữa các bệnh viện, dù là cùng phân tuyến, phân hạng như
Thông tư số 43/2013/TT-BYT. Tính “hợp lý” dù chỉ mang tính chất tương đối vẫn
luôn tồn tại những tranh luận, và các nghiên cứu về thanh toán theo định suất tại Việt
Nam và quốc tế đều mong muốn làm rõ sự thay đổi chi phí cụ thể ở đâu, có cần thiết
hay không và có làm ảnh hưởng đến chất lượng KCB hay không [64], [118], [109],
[130].
4.3.2. Chi phí KCB trung bình lượt
Kết quả đánh giá chi phí KCB trung bình theo lượt cho phép xác định ý nghĩa
thống kê khi phân tích sự thay đổi chi phí. Biểu đồ 3.10 mô tả chi phí KCB trung bình
lượt nội trú tại BV thí điểm. Điều dễ dàng nhận thấy là chi phí trung bình năm 2013
và 2014 ỏ BV đồng bằng (776,9 và 822,9 nghìn VNĐ) cao hơn rất nhiều so với BV
miền núi (391,2 và 405,7 nghìn VNĐ). Điều này có thể giải thích do cơ sở hạ tầng,
dịch vụ ở BV đồng bằng tốt hơn. Sau 1 năm thí điểm, chi phí KCB trung bình lượt
nội trú ở BV đồng bằng tăng 5,9%. Chi phí này ở BV miền núi tăng ít hơn với mức
3,7%. Với nghiên cứu đánh giá chi phí, so sánh trước sau, có đối chứng, có thể chọn
cách trình bày kết quả so sánh giá trị chi phí trung bình hoặc so sánh khác biệt về sự
thay đổi chi phí. Với sự chênh lệch chi phí trung bình đầu thẻ lớn đã đề cập ở phần
trên, chúng tôi chọn cách trình bày kết quả so sánh khác biệt về sự thay đổi chi phí.
Các sự thay đổi chi phí mang trị số dương là chi phí tăng, ngược lại, trị số âm là chi
phí giảm. Bảng 3.30 trình bày sự thay đổi chi phí KCB nội trú BV đồng bằng. Nhìn
chung, hai BV thí điểm và đối chứng đều có sự gia tăng chi phí. Chi phí ở BV thí
điểm tăng trung bình 46,0 nghìn VNĐ (Median = 42,7 nghìn VNĐ). Tuy nhiên, mức
tăng này nhỏ hơn, chỉ bằng 23,5% so với BV đối chứng (tăng trung bình 195,8 nghìn
VNĐ). Kết quả có ý nghĩa thống kê với p<0,001 cho phép nhận định sự gia tăng chi
phí đã được kiểm soát tốt. Kết quả nghiên cứu ở BV miền núi trong bảng 3.31 cũng
chỉ ra điều tương tự. Chi phí KCB nội trú trung bình theo đợt KCB đều tăng lên. Mức
114
tăng nhỏ ở BV thí điểm (chỉ 14,5 nghìn VNĐ) chỉ bằng 12,6% khi so với mức tăng
lớn ở BV đối chứng (115,0 nghìn VNĐ). Sự khác biệt tại hai bệnh viện có ý nghĩa
thống kê (p<0,001).
Biểu đồ 3.11 trình bày chi phí KCB trung bình lượt ngoại trú tại 2 BV thí điểm.
Có thể thấy chi phí trung bình ở BV đồng bằng tăng từ 63,4 lên 72,0 nghìn VNĐ
(tăng 13,6%). Chi phí này giảm 22,5% ở BV miền núi (giảm từ 117,4 xuống 91,0
nghìn VNĐ). Điểm đáng chú ý trong kết quả này là chi phí ngoại trú ở BV miền núi
cao hơn so với BV đồng bằng, ngược lại với chi phí nội trú. Với đặc thù về điều kiện
địa lý, việc đi lại đến BV ở miền núi khó khăn hơn, quãng đường xa hơn ở nhiều xã
nên khi người bệnh đến BV khám thường là có nhu cầu KCB rõ ràng, tình trạng bệnh
tật có khả năng nặng hơn. Do đó, dù không nhập viện, chi phí KCB ngoại trú có khả
năng cao hơn ở BV miền núi. Các phép so sánh sự thay đổi chi phí KCB ngoại trú
được trình bày trong bảng 3.32 với BV đồng bằng và bảng 3.33 với BV miền núi. Ở
khu vực đồng bằng, BV thí điểm và đối chứng đều có sự gia tăng chi phí KCB ngoại
trú nhưng mức gia tăng không nhiều. Mức tăng ở BV thí điểm cao hơn BV đối chứng
(8,6 so với 2,4 nghìn VNĐ). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê
(p>0,05). Sự khác biệt về thay đổi chi phí trong bảng 3.33 là rất rõ ràng. Chi phí KCB
ngoại trú giảm ở BV thí điểm miền núi (giảm 26,4 nghìn VNĐ) và tăng ở BV đối
chứng (tăng 25,5 nghìn VNĐ). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,001). Kết quả
này cũng cho thấy tác động làm giảm chi phí của thí điểm giống như với chi phí KCB
nội trú.
So với các nghiên cứu trong nước cùng chủ đề về thanh toán theo định suất thì
kết quả của chúng tôi có nhiều điểm tương đồng. Theo tác giả Trần Quang Thông,
thanh toán theo định suất giúp khống chế mức tăng chi phí trung bình lượt nội trú ở
BV Hà Trung (Thanh Hóa) ở mức 9,8%, so với mức 31,3% ở BV đối chứng (BV
Đông Sơn) [64]. Đối với BV miền núi, thanh toán theo định suất làm giảm chi phí
trung bình lượt ngoại trú ở BV thí điểm (BV Mường Lát) trong khi chi phí tăng ở BV
đối chứng (BV Quan Sơn). Nghiên cứu của Bùi Thị Cẩm Tú tại Hải Dương cho kết
quả chi phí trung bình lượt nội trú giảm ở các BV tuyến huyện: BV Nam Sách giảm
chi phí từ 420.708 đồng năm 2009 xuống còn 380.201 đồng năm 2010, BV Bình
115
Giang giảm chi phí từ 514.412 đồng xuống còn 455.049 đồng [61]. Nghiên cứu của
Phạm Hùng Sơn tại Đắk Lắk chỉ ra việc áp dụng thanh toán theo định suất làm giảm
chi phí trung bình lượt điều trị có ý nghĩa thống kê đối với nhóm bệnh nhân nội trú
BV thành phố Buôn Ma Thuột giai đoạn 2009-2011 [59].
Chi phí trung bình lượt cũng được sử dụng phổ biến để đánh giá tác động của
phương thức thanh toán, đặc biệt với thanh toán theo định suất. Tác giả Wang Y. chỉ
ra việc kiểm soát gia tăng chi phí trung bình lượt ngoại trú ở mức 6,34% giúp cho
quỹ định suất chuyển từ tình trạng bội chi sang kết dư trong vòng 20 tháng [132]. Thí
điểm thanh toán theo định suất ở Bắc Ireland giúp giảm chi phí trung bình 2,91 Euro
một lượt KCB BHYT. Việc theo dõi chi phí KCB trung bình theo lượt giúp ích rất
nhiều cho bệnh viện trong quản lý tài chính và các cơ sở KCB đều muốn kiểm soát
chặt chi phí này khi làm định suất [143], [84], [128], [79].
Kết quả nghiên cứu trong phần này nhận được đánh giá tốt từ quan điểm của
Sở Y tế: “Chi phí theo lượt nói chung đã được kiểm soát” khi so với trước đây làm
như Thông tư liên tịch 09/2009/TTLT-BYT-BTC. Phía Bảo hiểm xã hội nhìn nhận
bệnh viện phải có và đã có trách nhiệm nhiều hơn với kiểm soát gia tăng chi phí: “Chi
phí mỗi lượt tăng nhiều hay ít do đơn vị, họ phải quản được”. Và tất nhiên khi trách
nhiệm với gia tăng chi phí chuyển cho cơ sở KCB thì phía BHXH sẽ giảm bớt áp lực,
sẽ “nhàn hơn” vì “đáng chi thì họ chi, chi nhiều thâm hụt quỹ của họ”. Có thể nhận
thấy chi phí giảm là do chỉ đạo từ phía lãnh đạo đơn vị, do yêu cầu phải tiết kiệm, có
sự kiểm soát dựa trên quá trình theo dõi, tổng hợp định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý.
Kết quả nghiên cứu này cũng tương tự nhiều nghiên cứu khác khi thực hiện thanh
toán theo định suất [106], [85], [101], [143], [132], [128].
Chi phí trung bình được kiểm soát tốt, hạn chế gia tăng chi phí nhưng thành
phần chi phí nào thay đổi đáng kể và làm thế nào để có những thay đổi đó, chúng tôi
xin bàn luận kỹ hơn trong phần 4.3.3. Chi phí KCB trung bình theo khoản mục.
4.3.3. Chi phí KCB trung bình theo khoản mục
Nghiên cứu đánh giá từng cấu phần chi phí KCB nội trú và ngoại trú, ở cả BV
thí điểm đồng bằng và miền núi. So sánh đối chứng trong phần này một lần nữa khẳng
định tác động kiểm soát gia tăng chi phí của thí điểm.
116
Các biểu đồ 3.12 và 3.13 cho biết cơ cấu chi phí KCB nội trú của các BV thí
điểm. Đối với BV đồng bằng, chi phí trung bình lượt nội trú trước thí điểm là 776,9
nghìn VNĐ. Trong đó gồm chi phí xét nghiệm 26,6%, chi phí giường 26,1%, chi phí
thuốc 25,5%, chi phí CĐHA 10,3%, chi phí VTYT tiêu hao 5,2%, chi phí vận chuyển
4,9% và chi phí phẫu thuật, thủ thuật 1,4%. Đối với BV miền núi, chi phí trung bình
lượt nội trú trước thí điểm là 391,2 nghìn VNĐ. Trong đó gồm chi phí giường 28,7%,
chi phí thuốc 28,4%, chi phí xét nghiệm 19,5%, chi phí CĐHA 14,6%, chi phí phẫu
thuật, thủ thuật 5,2%, chi phí vận chuyển 2,2% và chi phí VTYT tiêu hao 1,4%. Khi
so sánh 2 biểu đồ cơ cấu chi phí KCB nội trú, chúng tôi nhận thấy 3 khoản chi lớn
nhất trong cơ cấu chi phí nội trú là xét nghiệm, giường và thuốc. Điều này đúng với
cả BV đồng bằng và miền núi. Tổng 3 khoản mục này đã chiếm hơn 3/4 chi phí nội
trú. Điểm giống nhau tiếp theo là khoản mục CĐHA, đều đứng thứ 4 trong cơ cấu chi
phí. 4 khoản mục chi phí lớn chiếm khoảng 90% tổng chi phí nội trú. Các khoản mục
chi phí khác chỉ chiếm tổng cộng 10% còn lại.
Sự thay đổi chi phí KCB nội trú trung bình theo khoản mục ở BV đồng bằng
được trình bày trong bảng 3.34. Các sự thay đổi chi phí mang trị số dương ở BV thí
điểm gồm: Xét nghiệm tăng (trung bình) 36,3 nghìn VNĐ; CĐHA tăng 15,3 nghìn
VNĐ; thuốc tăng 73,3 nghìn VNĐ (tăng nhiều nhất); phẫu thuật, thủ thuật tăng 0,5
nghìn VNĐ; vận chuyển tăng 5,2 nghìn VNĐ. Các sự thay đổi chi phí mang trị số âm
gồm: Vật tư y tế tiêu hao giảm 23,7 nghìn VNĐ; giường giảm 17,4 nghìn VNĐ. Khi
so sánh đối chứng, chúng ta thấy hầu hết các sự thay đổi chi phí tương ứng ở BV đối
chứng đều có trị số lớn hơn: Xét nghiệm tăng 106,4 nghìn VNĐ (gấp 2,9 lần); CĐHA
tăng 28,8 nghìn VNĐ (gấp 1,9 lần); thuốc tăng 122,4 nghìn VNĐ (gấp 1,7 lần); phẫu
thuật, thủ thuật tăng 7,7 nghìn VNĐ. Đặc biệt, chi phí giường ở BV đối chứng là
khoản mục tăng cao nhất (155,5 nghìn VNĐ) trong khi số liệu giảm ở BV thí điểm.
Các sự khác biệt nói trên đều mang ý nghĩa thống kê với p<0,001. Như vậy có thể
khẳng định tác động làm giảm chi phí của thí điểm xảy ra ở hầu hết các khoản mục
chi phí lớn là xét nghiệm, giường, thuốc và CĐHA.
Kết quả nghiên cứu trong bảng 3.35 với BV miền núi cũng có nhiều điểm
tương đồng. BV thí điểm chỉ có 2 sự thay đổi chi phí mang trị số dương gồm: Giường
117
tăng (trung bình) 0,6 nghìn VNĐ và thuốc tăng 66,9 nghìn VNĐ. Các sự thay đổi
mang trị số âm gồm: Xét nghiệm giảm 8,1 nghìn VNĐ; CĐHA giảm 0,8 nghìn VNĐ;
phẫu thuật thủ thuật giảm 1,3 nghìn VNĐ; vận chuyển giảm 1,9 nghìn VNĐ; VTYT
tiêu hao giảm 2,0 nghìn VNĐ. Sự thay đổi ở BV đối chứng có 5 giá trị dương, 2 giá
trị âm và phần lớn các giá trị lớn hơn so với BV thí điểm. Những so sánh đáng chú ý
là chi phí giường tăng (trung bình 79,1 nghìn VNĐ) ở BV đối chứng nhưng ít biến
đổi ở BV thí điểm; chi phí xét nghiệm giảm ít hơn ở BV đối chứng (0,2 so với 8,1
nghìn VNĐ); chi phí CĐHA tăng ở BV đối chứng trong khi giảm ở BV thí điểm. Các
sự khác biệt này đều có ý nghĩa thống kê với p<0,001. Kết quả này cũng có ý nghĩa
như trên, tức là thí điểm có tác động kiểm soát gia tăng chi phí. Chi phí thuốc có mức
gia tăng cao hơn ở BV thí điểm nhưng kết quả không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
Chi phí KCB trung bình theo lượt ngoại trú trước khi thực hiện thí điểm có sự
chênh lệch giữa BV đồng bằng (63,4 nghìn VNĐ) và BV miền núi (117,4 nghìn
VNĐ). Chúng tôi đã bàn luận về sự chênh lệch này ở trên. Cơ cấu chi phí KCB ngoại
trú được trình bày trong biểu đồ 3.14 (BV đồng bằng) và 3.15 (BV miền núi). Điểm
chung của 2 biểu đồ là chi phí thuốc chiếm phần lớn cơ cấu chi phí: 65,9% với BV
đồng bằng và 69,8% với BV miền núi. Hai khoản mục chi phí đáng kể tiếp theo là
CĐHA và xét nghiệm. Các khoản mục này chiếm tỷ lệ 16,9% và 13,5% ở BV đồng
bằng; 22,5% và 7,6% ở BV miền núi. Sự thay đổi chi phí với các khoản mục thuốc,
CĐHA và xét nghiệm trong các bảng 3.36 và 3.37 là ít hơn so với chi phí nội trú. Sự
thay đổi chi phí khoản mục ngoại trú lớn nhất ở BV thí điểm là chi phí thuốc: Giảm
(trung bình) 6,1 nghìn VNĐ ở BV đồng bằng và giảm 14,7 nghìn VNĐ ở BV miền
núi. Trong khi đó sự thay đổi tương ứng ở chi phí thuốc nội trú là 73,3 nghìn VNĐ
và 66,9 nghìn VNĐ. Khi so sánh đối chứng, chi phí thuốc trung bình giảm ở cả hai
BV đồng bằng nhưng giảm nhiều hơn ở BV thí điểm (6,1 nghìn VNĐ so với 2,2 nghìn
VNĐ) (Bảng 3.36). Chi phí CĐHA tăng ít ở BV thí điểm (1,2 nghìn VNĐ), tăng nhiều
hơn ở BV đối chứng (4,0 nghìn VNĐ). Chi phí xét nghiệm tăng ở BV đối chứng
nhưng giảm nhẹ ở BV thí điểm. Các sự khác biệt về chi phí thuốc, CĐHA và xét
nghiệm đều có ý nghĩa thống kê với p<0,01. Như vậy, dù thay đổi nhỏ nhưng kết quả
118
vẫn chỉ ra tác động của thí điểm với sự gia tăng chi phí. Các chi phí khoản mục đều
tăng ít hơn hoặc giảm nhiều hơn ở BV thí điểm so với BV đối chứng.
Kết quả ở bảng 3.37 cho thấy sự thay đổi khác biệt đáng chú ý: Chỉ có chi phí
thuốc là khoản mục thay đổi đáng kể. Các chi phí khoản mục khác gồm CĐHA, xét
nghiệm và phẫu thuật, thủ thuật biến đổi rất ít với Median có giá trị 0, trung bình sự
thay đổi ở BV thí điểm dưới 1 nghìn VNĐ. Một lần nữa kết quả khẳng định tác động
kiểm soát chi phí của thí điểm. Chi phí thuốc chiếm tới 69,8% cơ cấu chi phí ngoại
trú. Trong khi chi phí thuốc giảm 14,7 nghìn VNĐ ở BV thí điểm miền núi thì số liệu
lại tăng nhiều ở BV đối chứng (tăng 48,2 nghìn VNĐ). Sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê. Tóm lại, thay đổi về chi phí khoản mục ngoại trú đều ở chi phí thuốc, chiếm tỷ lệ
lớn trong cơ cấu chi phí. Những thay đổi đều cho thấy chi phí được kiểm soát tốt hơn
ở BV thí điểm: Gia tăng ít hơn hoặc giảm chi phí khi so sánh đối chứng.
Những kết quả của chúng tôi có nhiều điểm giống với nghiên cứu ảnh hưởng
của phương thức khoán quỹ định suất đến chi phí thuộc bốn bệnh viện huyện, tỉnh
Thanh Hóa của tác giả Trần Quang Thông. Những chi phí chịu ảnh hưởng lớn nhất
là thuốc, xét nghiệm, CĐHA và chi phí giường (nội trú). Những sự so sánh đều chỉ
ra sự khác biệt lớn và có ý nghĩa thống kê. Cụ thể, chi phí giường tăng 8% khi thanh
toán theo định suất (BV Hà Trung) và tăng tới 38,9% ở BV đối chứng (BV Đông
Sơn); chi phí thuốc chỉ tăng 5% ở BV thí điểm (BV Mường Lát) trong khi tăng 68,6%
ở BV đối chứng (BV Quan Sơn) [64]. Tại Đắk Lắk giai đoạn 2009-2011, những khoản
mục chi phí thay đổi nhiều khi thực hiện thanh toán theo định suất cũng là xét nghiệm,
thuốc, giường và CĐHA [59]. Trong một nghiên cứu về thanh toán theo định suất ở
Việt Nam được công bố quốc tế của nhóm tác giả Nguyễn Thị Hồng Hà thì chi phí
thuốc giảm tới 8,7% ở bệnh viện tuyến huyện trong khoảng thời gian 6 năm từ 2005
đến 2011 [118].
Khi so sánh với các nghiên cứu tại các quốc gia khác, chúng tôi nhận thấy tác
động tương tự của thanh toán theo định suất đến các chi phí khoản mục. Cơ cấu chi
phí khác nhau tùy thuộc vào điều kiện cơ sở hạ tầng, quản lý và nhu cầu KCB BHYT
của mỗi vùng hay khu vực. Tuy nhiên, điểm chung là chi phí đều có xu hướng giảm
hoặc hạn chế gia tăng và việc cắt giảm chi phí phụ thuộc vào mức giảm các chi phí
119
khoản mục chiếm tỷ trọng lớn, trong khi các khoản mục khác có thể ít biến đổi [79],
[109], [143], [132], [128].
Khi nghiên cứu quan điểm của lãnh đạo bệnh viện, cán bộ quản lý phòng chức
năng và bác sĩ trực tiếp KCB thì những ý kiến thu được đều khẳng định tác động của
thí điểm đến gia tăng chi phí. Nguyên nhân giảm chi phí chúng tôi đã đề cập ở phần
trước, do sự chỉ đạo của Ban Giám đốc và bác sĩ là những người thực hiện. Khi hỏi
ngược lại vai trò của đối tượng thì không có sự chỉ đạo này: “Ban giám đốc không
yêu cầu giới hạn chi khi chỉ định và kê đơn” và khẳng định thực hiện làm đúng và
hợp lý. Tuy nhiên, sau đó lại là sự thừa nhận đã chủ động kiểm soát chi phí để không
làm thâm hụt quỹ của bệnh viện. Quan điểm của bác sĩ về chi phí khi kê đơn và chỉ
định dịch vụ cũng thể hiện rõ vai trò này: “Chi phí đúng là không có quy định giới
hạn nhưng đơn cao quá thì phải được lãnh đạo duyệt”. Những sự cân nhắc của bác sĩ
khi kê đơn liên quan đến phương thức thanh toán cũng được thể hiện. Đó là được kê
quá tay, trước đây sợ xuất toán do kê sai, giờ thì sợ thâm hụt cho bệnh viện. Áp lực
chi phí với người làm chuyên môn trực tiếp là rất rõ ràng: “Bác sĩ phải nghĩ về chi
phí khi chỉ định dịch vụ” hay nói vui là “Liệu cơm gắp mắm thôi!”. Nghiên cứu chưa
khai thác được những thông tin về động lực làm việc của bác sĩ cũng như chưa đánh
giá định lượng được mức độ tác động, áp lực từ chỉ đạo của lãnh đạo đơn vị tới hành
vi chuyên môn của bác sĩ khám chữa bệnh. Tuy nhiên, tất cả những thay đổi về chi
phí khi thực hiện thí điểm là rất rõ ràng, khác biệt hoàn toàn so với việc thực hiện
thanh toán theo định suất như quy định tại Thông tư liên tịch 09/2009/TTLT-BYT-
BTC.
4.3.4. Tỷ lệ bội chi/ kết dư quỹ định suất
Tỷ lệ cơ sở kết dư và bội chi quỹ được trình bày trong bảng 3.38. Ở tỉnh đối
chứng, tỷ lệ này không có gì thay đổi, vẫn có 6/7 cơ sở bội chi quỹ. Ở tỉnh thí điểm,
tình trạng kết dư và bội chi quỹ có sự thay đổi nhiều. Số cơ sở KCB BHYT bội chi
giảm từ 7 xuống còn 5 cơ sở. Trong khi đó số cơ sở kết dư tăng từ 1 lên 3 cơ sở. Khả
năng xảy ra kết dư là có: “Cơ sở nào sử dụng quỹ tốt thì vẫn có khả năng kết dư”. Số
tiền bội chi toàn tỉnh Khánh Hòa năm trước là 80,35 tỷ VNĐ. Tình trạng bội chi phần
lớn đã được giải quyết. Số tiền bội chi quỹ định suất toàn tỉnh chỉ còn 1,22 tỷ VNĐ
120
(tương đương 1,52% năm trước). Bảng 3.39 cho thấy sự khác biệt rõ ràng trong tỷ lệ
bội chi/ kết dư quỹ: Các BV thí điểm có tỷ lệ bội chi giảm bớt hoặc chuyển sang kết
dư, các BV đối chứng duy trì tỷ lệ bội chi ở mức cao. Tỷ lệ bội chi quỹ định suất của
tỉnh thí điểm giảm từ 29,1% xuống chỉ còn 1,1%. Thí điểm sửa đổi thanh toán theo
định suất tại Pudong cũng cho kết quả chuyển đổi tương tự. Quỹ định suất từ chỗ bội
chi 4,71% năm 2012 đã chuyển thành kết dư 8,84% vào năm 2015. Thanh toán theo
định suất trở thành giải pháp khi nguy cơ vỡ quỹ BHYT tăng cao [132], [128].
Tính số chi đa tuyến vào quỹ định suất theo Thông tư liên tịch 09 [6] là điều
khá đặc biệt, không giống với nhiều nước khác trên thế giới theo đánh giá của chúng
tôi khi tổng quan tài liệu. Cách làm này có thể làm tăng rủi ro cho đơn vị nhận định
suất vì họ không thể biết trước được số chi này là bao nhiêu và hoàn toàn ko thể quản
lý được. Điều chỉnh của thí điểm đã tạo ra sự khác biệt lớn khi tìm hiểu phản ứng từ
phía bệnh viện tuyến huyện. Ý kiến thu được từ phỏng vấn sâu nói lên sự khác biệt
về động lực làm việc, “chủ động hơn”, “yên tâm hơn” và “phấn chấn hơn”. Tâm lý
trước đây từ phía cơ sở khám chữa bệnh có thể là “bất cần”, trái ngược hẳn với yêu
cầu trách nhiệm đáng ra phải có khi thực hiện thanh toán theo định suất. Giải thích
cho tâm lý này là việc giao quỹ nhưng bên nhận quỹ không biết thông tin, khoán
nhưng không rõ, phải “chờ đợi”, và thậm chí nói quá bằng hình ảnh là “ai cũng thò
tay vào” lấy tiền trong “cái ví của mình”. Ở đây chúng tôi chưa lấy ý kiến từ cơ sở
KCB tuyến tỉnh về nội dung liên quan nhưng BV tuyến trên rõ ràng không phải đối
diện với áp lực quản lý quỹ như ở tuyến dưới khi tiếp nhận người bệnh đa tuyến đến.
Tâm lý của người làm dịch vụ tuyến trên, ví dụ là bác sĩ ở BV tỉnh, sẽ có khác biệt
khi kê đơn chỉ định dịch vụ vì chi phí của người bệnh tính vào tuyến dưới. Các ý kiến
được ghi nhận cũng phần nào giúp dự đoán được sự ủng hộ của các bên với việc đưa
chi đa tuyến khỏi quỹ định suất. Khả năng ủng hộ sẽ cao hơn ở đơn vị “tuyến dưới”,
và khả năng là “tuyến trên không thích rồi!”
Kết quả nghiên cứu định tính thể hiện sự đánh giá tích cực từ phía Sở Y tế và
Bảo hiểm xã hội tỉnh về kết quả thí điểm: “Tình trạng bội chi không còn nghiêm trọng
như trước nữa”, số liệu bội chi “như vậy là ít rồi” và về sự cố gắng của các đơn vị
“tuyến dưới họ làm tốt hơn” khi bỏ đa tuyến. Khi có kết dư, hay chênh lệch dương
121
của tổng kết quỹ, câu hỏi được đặt ra là kết dư nhiều hay ít thì tốt. Chúng tôi chia sẻ
quan điểm “làm để kết dư nhiều thì không ổn” vì BHYT là nhân đạo, là hình thức
bảo hiểm đặc biệt, không thể để lợi ích kinh tế lên trên hết, trước hết. Giải pháp cho
vấn đề này có thể là đặt ra những giới hạn về kết dư khi thực hiện thanh toán chi phí
KCB theo định suất. Trong những văn bản mới ban hành, Bộ Y tế đã đề xuất mức
“trần kết dư”, tức là mức kết dư tối đa được giữ lại ở cơ sở là 20% [7], [9], [23].
Như đã đề cập ở phần trên, nghiên cứu chưa mô tả được những khác biệt đặc
thù ở các đơn vị nên không có thêm được những đánh giá đầy đủ hơn. 2 đơn vị được
chọn để đánh giá chi phí có kết quả sử dụng quỹ khác nhau. Diên Khánh bội chi quỹ
2,06 tỷ VNĐ và là đơn vị bội chi nhiều nhất sau 1 năm thí điểm. Khánh Vĩnh kết dư
0,90 tỷ VNĐ. Nguyên tắc xử lý bội chi/ kết dư của thí điểm là đơn vị phải “tự cân
đối” nếu xảy ra bội chi. Như vậy rủi ro vẫn còn với cơ sở khám chữa bệnh. Nhiều
nghiên cứu trên thế giới đã phân tích nguyên nhân rủi ro tài chính này gồm hai nhóm.
Nhóm nguyên nhân khách quan liên quan đến nhu cầu khám chữa bệnh của người có
thẻ BHYT. Nhóm nguyên nhân chủ quan là giao quỹ chưa phù hợp và năng lực quản
lý của cơ sở KCB [88], [84], [82], [131], [130]. Kết quả nghiên cứu định tính cũng
phản ánh sự lo lắng từ các đơn vị khi thực hiện thí điểm: “đúng là áp lực”, “vẫn rủi
ro lắm”; và sự so sánh, nghĩ đến những phương thức khác: phí dịch vụ “như ngày
trước” hoặc DRG. Có nhiều giải pháp được đề xuất trong những công bố quốc tế
nhưng theo chúng tôi chỉ có một số những giải pháp khả thi và phù hợp với bối cảnh
nước ta. Trước hết là tính quỹ sát hơn, có số liệu đầy đủ, khoa học và thuyết phục về
đánh giá rủi ro. Sau đó là xây dựng hợp đồng với cơ sở KCB với trách nhiệm hợp lý
và rõ ràng. Tái bảo hiểm cho cơ sở KCB cũng là một phương án tốt giúp những đơn
vị có năng lực quản lý tài chính hạn chế. Việc tái bảo hiểm này không nhất thiết phải
có một cơ quan nữa, có thể chỉ là việc giữ lại một phần tổng quỹ để dự phòng rủi ro.
Và cuối cùng, DRG có thể là phương án tốt cho nhiều trường hợp, nhất là khám chữa
bệnh nội trú [124], [127], [112], [100].
122
4.4. Những hạn chế và giá trị của nghiên cứu
Nghiên cứu sử dụng thiết kế nghiên cứu can thiệp - phỏng thực nghiệm, so
sánh trước - sau, có đối chứng nên hạn chế được những yếu tố nhiễu tiềm tàng. Tuy
nhiên, việc triển khai thí điểm được thực hiện trên 1 tỉnh nên không có phân bổ ngẫu
nhiên. Việc lựa chọn tỉnh và bệnh viện đối chứng đã được cân nhắc để có sự tương
đồng về vùng miền, nhưng vẫn có những sự khác biệt về điều kiện kinh tế xã hội nói
chung và hệ thống y tế nói riêng, chưa có đủ cơ sở về các đặc điểm tương đồng trong
các yếu tố liên quan đến chi phí KCB BHYT.
Phương thức thanh toán và tác động của nó là một chủ đề nghiên cứu phức tạp
của nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển và đang phát triển trong đó có
Việt Nam [64], [79], [143], [106]. Vấn đề phân bổ và sử dụng quỹ KCB BHYT mới
dừng ở nghiên cứu mô tả, chưa có đánh giá đầy đủ về sự thay đổi trong nghiên cứu
này. Việc sử dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng với định tính cho
phép bước đầu tìm hiểu được quan điểm của các bên liên quan về số liệu phân bổ, sử
dụng quỹ, những phiên giải và đề xuất để thiết kế và thực hiện tốt hơn phương thức
thanh toán theo định suất.
Số liệu về chi phí KCB BHYT được đánh giá trên 4 bệnh viện đa khoa tuyến
huyện, trong đó có 2 bệnh viện huyện miền núi và 2 bệnh viện huyện đồng bằng. Quá
trình đánh giá được thực hiện trên cả chi phí KCB nội trú và ngoại trú. Các chi phí
theo khoản mục đều được nghiên cứu, so sánh. Tuy nhiên, hạn chế đáng kể của nghiên
cứu là chưa đánh giá được việc KCB BHYT ở tuyến xã. Thanh toán theo định suất ở
tuyến xã là một nội dung quan trọng cần những nghiên cứu chuyên biệt như của tác
giả Lê Trí Khải [42]. Bên cạnh đó những bệnh viện chuyên khoa với những đặc thù
riêng về mô hình bệnh tật cũng cần có những nghiên cứu đánh giá phù hợp khi làm
định suất [131], [88], [129], [113].
Nghiên cứu này chưa đánh giá được tác động của PTTT theo định suất đối với
chất lượng khám chữa bệnh, chưa đánh giá được tính hợp lý trong kê đơn, chỉ định
dịch vụ. Những nghiên cứu sâu hơn về sự tuân thủ phác đồ điều trị, chỉ định chuyển
tuyến hợp lý cần được đề xuất thực hiện. Mặt khác, do nguồn lực có hạn nên nhiều
123
biến số về chất lượng khám chữa bệnh như thời gian điều trị nội trú, kết quả điều trị,
số xét nghiệm trung bình, số đầu thuốc trung bình chỉ được nghiên cứu trên những
bệnh được lựa chọn mà không phải tất cả các nhóm bệnh. Giá trị ngoại suy của kết
quả nghiên cứu vì vậy bị hạn chế. Ngoài ra, vì thời gian thí điểm và thời gian đánh
giá ngắn nên nghiên cứu chưa thể đánh giá được tác động lâu dài của thí điểm sửa
đổi thanh toán theo định suất [81], [82].
Hành vi và động lực của các bác sĩ chưa được đề cập nhiều trong nghiên cứu
này. Bác sĩ là người kê đơn, chỉ định dịch vụ, ra quyết định trực tiếp liên quan đến
chất lượng KCB BHYT. Kết quả của việc sử dụng quỹ, có thể là bội chi hoặc kết dư,
liên quan như thế nào đến túi tiền, thu nhập của bác sĩ là điều cần xem xét. Nghiên
cứu này chưa đánh giá được như nhiều công trình trên thế giới đã làm [85], [124].
Sự hài lòng của người bệnh đã được đánh giá trên 5 phương diện, so sánh
trước - sau và chỉ ra được những thay đổi có hoặc không có ý nghĩa. Tuy nhiên hạn
chế về phương pháp trong cấu phần này là chưa đánh giá đa biến, chưa xem xét nhiều
yếu tố ảnh hưởng đến sự hài lòng của người bệnh. Kết quả tính toán mới chỉ ở mức
tổng hợp (trung bình cộng) chứ chưa hiệu chỉnh cho các biến số liên quan. Các nhóm
tác giả Andoh-Adjei FX hay Hakeberg M đã làm tốt hơn dù cũng không chỉ ra được
nhiều điểm khác biệt từ tác động của thanh toán theo định suất [78], [104].
Trong mối quan hệ 3 bên, nghiên cứu chưa đánh giá được sự hài lòng từ phía
bảo hiểm xã hội và từ phía cơ sở khám chữa bệnh mà mới chỉ đánh giá được một
phần từ phía người bệnh BHYT. Vai trò quan trọng của cơ quan bảo hiểm trong thanh
toán định suất cần được nghiên cứu cụ thể như thí điểm ở Ghana [112], [76]. Sự hài
lòng của đơn vị cung ứng dịch vụ, đặc biệt của những người trực tiếp tham gia KCB
BHYT cũng liên quan chặt chẽ đến chất lượng dịch vụ. Tâm tư, nguyện vọng của cán
bộ nhân viên y tế cần được quan tâm nghiên cứu để có những kết quả đầy đủ và toàn
diện hơn. Những nghiên cứu của các tác giả Phạm Ngọc Thông [63], Phạm Xuân Anh
Đào [37] hay Vũ Duy Năng [48] sẽ là sự bổ sung tốt cho nghiên cứu này.
Dù còn rất nhiều hạn chế nhưng nghiên cứu có những giá trị quan trọng về
khoa học và thực tiễn. Kết quả nghiên cứu đánh giá đã giúp bổ sung những bằng
124
chứng khoa học mới cho việc xây dựng chính sách và hoàn thiện phương thức thanh
toán. Thanh toán theo định suất đã được triển khai ở nước ta từ năm 2001 và hiện vẫn
là một trong ba phương thức thanh toán được quy định tại Luật Bảo hiểm y tế năm
2008 và Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế năm 2014 [54],
[55]. Đã có một số nghiên cứu đánh giá PTTT này, song chủ yếu vẫn là so sánh với
thanh toán theo phí dịch vụ. Luận án này là công trình đầu tiên đánh giá một thí điểm
sửa đổi PTTT theo định suất tại Việt Nam.
Chủ đề nghiên cứu được sự quan tâm của lãnh đạo Bộ Y tế bởi những bất cập
mang tính thời sự trong thanh toán theo định suất vẫn chưa được giải quyết, tình trạng
bội chi quỹ xảy ra ở nhiều địa phương. Dự thảo Thông tư hướng dẫn thanh toán chi
phí KCB BHYT theo định suất đã được Bộ Y tế xin ý kiến đóng góp tại Công văn số
7663/BYT-KHTC ngày 21 tháng 10 năm 2016 [23]. Thời điểm hoàn thiện đề tài
nghiên cứu này, Dự thảo Thông tư một lần nữa được Bộ Y tế xin ý kiến đóng góp với
Công văn số 3367/BYT-KHTC ngày 14 tháng 6 năm 2018 [28]. Công trình nghiên
cứu của chúng tôi đã cung cấp những bằng chứng khoa học của kết quả thực hiện thí
điểm về một số chỉ số KCB và chi phí KCB BHYT. Trong đó, số liệu về chi phí được
đánh giá đầy đủ về chi phí KCB trung bình trên đầu thẻ, chi phí KCB nội trú và ngoại
trú, cũng như các chi phí khoản mục trong mỗi cấu phần. Từ việc đánh giá thí điểm,
chúng ta thấy thanh toán theo định suất với khả năng kiểm soát tốt sự gia tăng chi phí,
được khẳng định là phương thức hữu ích trong bối cảnh leo thang chi phí và nguy cơ
vỡ quỹ cao. Khi hoàn thiện về thiết kế và xây dựng, phương thức thanh toán theo định
suất hoàn toàn có thể triển khai trên phạm vi rộng.
Đối với những độc giả quan tâm đến vấn đề bội chi hay kết dư quỹ, những kết
quả định tính và định lượng giúp giải thích cho một câu hỏi: Tại sao một phương thức
thanh toán về mặt bản chất là giúp ích cho việc kiểm soát chi phí lại dẫn đến kết quả
bội chi nặng nề, kéo dài trong nhiều năm? Điều gì đã xảy ra ở cơ sở khám chữa bệnh
BHYT? Những câu chuyện ở BV tuyến huyện như cầm ví trong tay vẫn bị mất tiền
rồi không biết mất bao nhiêu cũng được làm sáng rõ. Việc đưa chi phí khám chữa
bệnh đa tuyến ra khỏi quỹ định suất đã tạo kết quả tích cực về phân bổ quỹ, tổng kết
quỹ và tăng tính chủ động cho cơ sở trong quản lý quỹ, phù hợp với cách làm của
125
nhiều nước trên thế giới. Nội dung này nên được quy định chính thức bởi các cơ quan
quản lý Nhà nước.
Trong bối cảnh chung của sự phát triển đất nước, các đơn vị sự nghiệp công
lập có quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên
chế và tài chính [31]. Ở bệnh viện tuyến huyện, cơ chế hoạt động và cơ chế tài chính
được quy định tại Nghị định số 85/2012/NĐ-CP của Chính phủ [33] đối với các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh công lập. Cơ chế tự chủ cũng được quy định mới nhất tại
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP [34]. Trước đây, bệnh viện công không phải lo lắng
quá nhiều về lỗ hay lãi vì có Nhà nước đứng sau lưng, được bao bọc, được bù đắp.
Nhưng bây giờ, áp lực tự chủ cộng với rất nhiều khó khăn và thách thức đặt ra. Với
các bệnh viện lớn, đông người bệnh, có nhiều dịch vụ thì khả năng giải quyết bài toán
dễ hơn. Với các bệnh viện nhỏ như những đơn vị trong nghiên cứu này, người bệnh
ít hơn, dịch vụ không nhiều, nguồn thu chủ yếu từ BHYT, dù chậm nhưng vẫn xin
được ngân sách Nhà nước. Khi tiến tới tự chủ, kinh phí cắt giảm, việc thiếu thông tin,
chậm thanh toán sẽ ảnh hưởng lớn đến hoạt động của đơn vị, thiếu nguồn vốn để xoay
vòng. Thực hiện thanh toán theo định suất, nếu giao quỹ hợp lý, biết trước thông tin,
bệnh viện sẽ có cơ sở để tính toán thu – chi, tiết kiệm, tránh lãng phí. Đây cũng chính
là mục đích hướng tới của thí điểm: Đảm bảo nguồn lực và cơ chế tài chính phù hợp
cho cung ứng dịch vụ y tế chất lượng, gắn với kiểm soát chi phí dành cho y tế.
Kết quả nghiên cứu thu được là cơ sở tốt để đưa ra những khuyến nghị thực
tiễn về thiết lập và thực hiện hệ thống các chỉ số theo dõi, đánh giá về cung ứng
DVYT khi thực hiện thanh toán theo định suất. Các BV tuyến huyện cần quan tâm
hơn tới sự hài lòng của người bệnh ở những nội dung có khả năng cải thiện tốt, liên
quan trực tiếp đến hành vi, thái độ của NVYT. Những nhược điểm của thanh toán
theo định suất cũng cần được quan tâm đầy đủ. Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ
chuyển tuyến tăng trong khi số xét nghiệm, CĐHA và đầu thuốc trung bình giảm.
Những nghiên cứu sâu hơn về tính hợp lý trong chỉ định chuyển tuyến, kê đơn, chỉ
định dịch vụ cần được thực hiện để đảm bảo quyền lợi cho người bệnh BHYT khi
thực hiện thanh toán theo định suất.
126
KẾT LUẬN
1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo
định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
- Tỷ lệ chuyển tuyến đều tăng ở các BV thí điểm khi so sánh đối chứng: Tăng
từ 3,3% lên 4,8% (OR=1,48) ở BV đồng bằng và từ 4,0% lên 6,2% (OR=1,59) ở BV
miền núi.
- Các BV thí điểm đều có số xét nghiệm, số CĐHA trung bình giảm từ 5,7%
đến 14,7%. Các BV đối chứng có số liệu tăng. Nghiên cứu trên số đầu thuốc nội trú
và ngoại trú cũng cho kết quả tương tự là giảm từ 2,4% đến 11,4% ở các BV thí điểm
và tăng ở các BV đối chứng.
- Nghiên cứu không có ghi nhận về việc cho người bệnh ra viện sớm hơn cũng
như kết quả điều trị thay đổi (thông qua số ngày điều trị nội trú và tỷ lệ bệnh án khỏi
bệnh) khi thực hiện thí điểm.
- Điểm trung bình hài lòng của người bệnh nội trú trước và sau thí điểm đạt
3,69 và 3,75 ở BV đồng bằng; 3,70 và 3,74 ở BV miền núi (trên thang điểm 5). Sự
hài lòng tăng có ý nghĩa chỉ ở phương diện đáp ứng. Các phương diện đánh giá sự
hài lòng của người bệnh liên quan đến thuốc, dịch vụ, kết quả điều trị không có nhiều
biến đổi. Người bệnh hài lòng hơn ở những nội dung liên quan trực tiếp đến hành vi,
thái độ của nhân viên y tế, đã được cải thiện khi thực hiện thí điểm.
2. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa đổi
phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
- Chi phí KCB trung bình đầu thẻ giảm nhiều (giảm 53,6% và 48,4% ở 2 BV
thí điểm) do bỏ chi phí đa tuyến. Chi phí KCB tại chỗ trung bình đầu thẻ tăng 7,1%
ở BV đồng bằng và giảm 6,2% ở BV miền núi trong khi tăng 14,1% và 12,8% tương
ứng ở các BV đối chứng.
- Chi phí KCB trung bình lượt nội trú ở các BV thí điểm tăng ít hơn BV đối
chứng (46,0 và 14,5 so với 198,5 và 112,0 nghìn VNĐ). Sự khác biệt rõ rệt và có ý
nghĩa cho thấy gia tăng chi phí đã được kiểm soát tốt. Chi phí KCB trung bình lượt
127
ngoại trú giảm 26,4 nghìn VNĐ ở BV thí điểm miền núi nhưng tăng 25,5 nghìn VNĐ
ở BV đối chứng. Chi phí này tăng nhẹ ở các BV đồng bằng (8,6 và 2,4 nghìn VNĐ).
- Khi phân tích chi phí KCB nội trú theo khoản mục, sự hạn chế gia tăng chi
phí được ghi nhận ở hầu hết các chi phí xét nghiệm, CĐHA và thuốc, chiếm trọng số
lớn trong cơ cấu chi phí. Đối với các khoản mục chi phí KCB ngoại trú, thí điểm có
tác động hạn chế gia tăng chi phí thuốc, chiếm trên 60% trong cơ cấu chi phí.
- Sự chủ động của cơ sở KCB là yếu tố quan trọng giúp kiểm soát chi phí. Số
chi đa tuyến lớn (hơn gấp 2 lần số chi tại chỗ) được đưa ra ngoài quỹ định suất giúp
cơ sở biết trước được quỹ thật của mình, điều này là phù hợp với cách làm của nhiều
nước trên thế giới.
- Tình trạng bội chi quỹ định suất đã giảm rõ rệt: Tỷ lệ bội chi quỹ giảm từ
29,1% xuống 1,1%; số bội chi chỉ bằng 1,52% năm trước. Số cơ sở KCB bội chi quỹ
giảm từ 7 xuống 5. Khả năng kết dư quỹ là rõ ràng hơn, kết quả nhận được đánh giá
tích cực từ cơ quan quản lý và của cơ sở KCB.
128
KHUYẾN NGHỊ
Chúng tôi xin đưa ra một số khuyến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước
và đơn vị nhận định suất là các cơ sở khám chữa bệnh BHYT tuyến huyện:
1. Với cơ quan quản lý Nhà nước (Bộ Y tế, Bảo hiểm xã hội Việt Nam, các Sở Y
tế và Bảo hiểm xã hội các tỉnh)
- Thanh toán theo định suất với khả năng kiểm soát tốt sự gia tăng chi phí,
được khẳng định là phương thức hữu ích trong bối cảnh leo thang chi phí và nguy cơ
vỡ quỹ cao. Do vậy cần đẩy nhanh việc hoàn thiện phương thức thanh toán theo định
suất để triển khai trên phạm vi rộng.
- Việc đưa chi phí khám chữa bệnh đa tuyến ra khỏi quỹ định suất đã tạo kết
quả tích cực về phân bổ quỹ, tổng kết quỹ và tăng tính chủ động cho cơ sở trong quản
lý quỹ, phù hợp với cách làm của nhiều nước trên thế giới. Quy định về phương thức
thanh toán theo định suất nên áp dụng nội dung này trong thiết kế.
2. Với đơn vị nhận định suất (Cơ sở khám chữa bệnh BHYT tuyến huyện)
- Cần thiết lập và thực hiện hệ thống các chỉ số theo dõi, đánh giá về cung ứng
dịch vụ y tế khi thực hiện thanh toán theo định suất. Các bệnh viện tuyến huyện cần
quan tâm hơn tới sự hài lòng của người bệnh ở những nội dung có khả năng cải thiện
tốt, liên quan trực tiếp đến hành vi, thái độ của nhân viên y tế.
3. Với các nhà nghiên cứu
- Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ chuyển tuyến tăng trong khi số xét nghiệm,
CĐHA và đầu thuốc trung bình giảm. Những nghiên cứu sâu hơn về tính hợp lý trong
chỉ định chuyển tuyến, kê đơn, chỉ định dịch vụ cần được thực hiện để đảm bảo quyền
lợi cho người bệnh BHYT khi thực hiện thanh toán theo định suất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2005), “Ban hành quy định về tổ chức thực hiện
chế độ khám chữa bệnh BHYT”, Quyết định số 2559/QĐ-BHXH ngày 27 tháng 9
năm 2005.
2. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2011), “Báo cáo tình hình thực hiện phương thức
thanh toán chi phí KCB BHYT theo định suất 2010-2011”, Hà Nội.
3. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2014), "Ban hành Quy định về tổ chức thực hiện
bảo hiểm y tế trong khám bệnh, chữa bệnh", Quyết định số 1399/QĐ-BHXH ngày 22
tháng 12 năm 2014.
4. Bảo hiểm xã hội Việt Nam (2014), "Thí điểm triển khai thực hiện phương pháp
giám định tập trung theo tỷ lệ", Công văn số 1544/BHXH-CSYT ngày 7 tháng 5 năm
2014.
5. Bộ Y tế - Bộ Tài chính - Bộ LĐTBXH (2006), “Hướng dẫn thu một phần viện
phí làm cơ sở để Bảo hiểm xã hội thanh toán chi phí KCB BHYT”, Thông tư liên tịch
số 03/2006/TTLT-BYT-BTC-BLĐTB&XH ngày 26 tháng 1 năm 2006 của liên Bộ
Y tế - Tài chính – Lao động Thương binh và Xã hội - Ban Vật giá Chính phủ.
6. Bộ Y tế - Bộ Tài chính (2009), "Hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm y tế", Thông
tư liên tịch 09/2009/TTLT-BYT-BTC ngày 14 tháng 8 năm 2009.
7. Bộ Y tế - Bộ Tài chính (2014), "Hướng dẫn thực hiện Bảo hiểm y tế", Thông
tư liên tịch 41/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 24 tháng 11 năm 2014.
8. Bộ Y tế - Bộ Tài chính (2014), "Sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư
liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế", Thông tư
liên tịch số 24/2014/TTLT-BYT-BTC ngày 14 tháng 07 năm 2014.
9. Bộ Y tế - Bộ Tài chính (2015), "Sửa đổi khoản 5 điều 13 Thông tư liên tịch số
41/2014/TTLT-BYT-BTC hướng dẫn thực hiện bảo hiểm y tế", Thông tư liên tịch số
16/2015/TTLT-BYT-BTC ngày 02 tháng 07 năm 2015.
10. Bộ Y tế (2002), Hướng dẫn chẩn đoán và điều trị bệnh nội khoa, Nhà xuất
bản Y học, Hà Nội.
11. Bộ Y tế (2005), "Hướng dẫn xếp hạng các đơn vị sự nghiệp y tế", Thông tư số
23/2005/TT-BYT ngày 25 tháng 08 năm 2005.
12. Bộ Y tế (2007), Phí dịch vụ bệnh viện, phương thức thanh toán trọn gói theo
trường hợp bệnh, Hà Nội.
13. Bộ Y tế (2009), "Hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và chuyển
tuyến khám bệnh, chữa bệnh Bảo hiểm Y tế", Thông tư số 10/2009/TT-BYT ngày 14
tháng 8 năm 2009.
14. Bộ Y tế (2010), Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế 2010 - Hệ thống Y tế
Việt Nam trước thềm kế hoạch 5 năm 2011 – 2015, Hà Nội.
15. Bộ Y tế (2011), Báo cáo chung tổng quan ngành Y tế năm 2011 - Nâng cao
năng lực quản lí, đổi mới tài chính y tế để thực hiện kế hoạch 5 năm ngành Y tế, 2011
– 2015, Hà Nội.
16. Bộ Y tế (2012), "Kết luận Hội nghị sơ kết 2 năm thực hiện phương thức thanh
toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất", Thông báo số 404/TB-
BYT, Hà Nội.
17. Bộ Y tế (2013), "Phê duyệt Đề án bệnh viện vệ tinh giai đoạn 2013 - 2020",
Quyết định số 774/QĐ-BYT ngày 11 tháng 3 năm 2013.
18. Bộ Y tế (2013), "Phê duyệt Đề án triển khai thí điểm sửa đổi thanh toán chi
phí khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế theo định suất", Quyết định số 5380/QĐ-BYT
ngày 30 tháng 12 năm 2013.
19. Bộ Y tế (2013), "Quy định chi tiết phân tuyến chuyên môn kỹ thuật đối với hệ
thống cơ sở khám bệnh, chữa bệnh", Thông tư số 43/2013/TT-BYT ngày 11 tháng
12 năm 2013.
20. Bộ Y tế (2014), "Hướng dẫn đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu và chuyển
tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế", Thông tư số 37/2014/TT-BYT ngày 17
tháng 11 năm 2014.
21. Bộ Y tế (2014), "Quy định việc chuyển tuyến giữa các cơ sở khám bệnh, chữa
bệnh", Thông tư số 14/2014/TT-BYT ngày 14 tháng 04 năm 2014.
22. Bộ Y tế (2015), "Quy định đăng ký khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế ban
đầu và chuyển tuyến khám bệnh, chữa bệnh bảo hiểm y tế", Thông tư số 40/2015/TT-
BYT.
23. Bộ Y tế (2016), Công văn số 7663/BYT-KHTC ngày 21 tháng 10 năm 2016
về việc xin ý kiến vào Dự thảo Thông tư hướng dẫn thanh toán chi phí KCB BHYT
theo định suất, Hà Nội.
24. Bộ Y tế (2016), "Chỉ thị về việc tăng cường bảo đảm chất lượng dịch vụ khám
bệnh, chữa bệnh khi thực hiện điều chỉnh, thống nhất giá dịch vụ khám bệnh, chữa
bệnh bảo hiểm y tế giữa các bệnh viện cùng hạng trên toàn quốc", Chỉ thị số 06/CT-
BYT ngày 29 tháng 03 năm 2016.
25. Bộ Y tế (2016), "Quyết định về việc ban hành 05 Bộ chỉ số đánh giá mức độ
sẵn sàng về ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành y tế", Quyết định số 7562/QĐ-
BYT ngày 29 tháng 12 năm 2016.
26. Bộ Y tế (2016), "Quyết định về việc ban hành bộ mã danh mục dùng chung áp
dụng trong khám bệnh, chữa bệnh và thanh toán bảo hiểm y tế", Quyết định số
1122/QĐ-BYT ngày 31 tháng 03 năm 2016.
27. Bộ Y tế (2017), "Quyết định về việc quy định chuẩn và định dạng dữ liệu đầu
ra sử dụng trong quản lý, giám định và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế", Quyết định số 2286/QĐ-BYT ngày 02 tháng 6 năm 2017.
28. Bộ Y tế (2018), Công văn số 3367/BYT-KHTC ngày 14 tháng 6 năm 2018 về
việc xin ý kiến vào Dự thảo Thông tư hướng dẫn thanh toán chi phí KCB BHYT theo
định suất, Hà Nội.
29. Chu Hùng Cường (2011), "Đánh giá sự hài lòng của người bệnh về dịch vụ
khám bệnh tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện đa khoa huyện Ninh Giang, tỉnh Hải
Dương năm 2011", Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công
cộng, Hà Nội.
30. Đàm Viết Cương và cộng sự (2008), "Tổng quan các phương thức thanh toán
KCB BHYT và kinh nghiệm các nước", Tạp chí Chính sách Y tế (4), tr. 25 - 29.
31. Chính phủ (2006), "Quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện
nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp công lập",
Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25 tháng 4 năm 2006.
32. Chính phủ (2009), “Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của
Luật Bảo hiểm y tế”, Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 của
Chính phủ.
33. Chính phủ (2012), "Nghị định về cơ chế hoạt động, cơ chế tài chính đối với
các đơn vị sự nghiệp y tế công lập và giá dịch vụ khám bệnh, chữa bệnh của các cơ
sở khám bệnh, chữa bệnh công lập", Nghị định số 85/2012/NĐ-CP ngày 15 tháng 10
năm 2012.
34. Chính phủ (2015), "Quy định cơ chế tự chủ của đơn vị sự nghiệp công lập",
Nghị định số 16/2015/NĐ-CP ngày 14 tháng 2 năm 2015.
35. Dự án hỗ trợ y tế các tỉnh Bắc Trung Bộ - Bộ Y tế (2013), Báo cáo tình hình
thực hiện dự án 2013, Hà Nội.
36. Đại học Y tế công cộng (2010), Tổng quan về cung cấp dịch vụ y tế, Hà Nội.
37. Phạm Xuân Anh Đào (2018), "Động lực làm việc của bác sĩ và một số yếu tố
ảnh hưởng tại bệnh viện quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh năm 2018", Luận
văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
38. Trần Thị Hà Giang (2011), "Đánh giá sự hài lòng của người bệnh về dịch vụ
khám bệnh tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện Da liễu trung ương năm 2011", Luận văn
Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
39. Lê Thị Thu Hà (2009), "Thực trạng công tác khám bệnh và sự hài lòng của
người bệnh đối với chất lượng khám bệnh tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện huyện
Thanh Miện, tỉnh Hải Dương năm 2009", Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường
Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
40. Phùng Thị Hồng Hà và Trần Thị Thu Hiền (2012), "Đánh giá sự hài lòng của
khách hàng sử dụng dịch vụ y tế tại BV Việt Nam - Cu Ba, Đồng Hới, Quảng Bình",
Tạp chí Khoa học, Đại học Huế 72B(3).
41. Bùi Thị Thu Hương (2009), "Đánh giá sự hài lòng của người bệnh về chất
lượng dịch vụ khám bệnh tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện Tiên Du, tỉnh Bắc Ninh năm
2009", Luận văn Thạc sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
42. Lê Trí Khải (2014), "Thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm y tế theo
định suất tại một số trạm y tế xã thuộc huyện Đăk Tô, tỉnh Kon Tum", Luận án Tiến
sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ sinh dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
43. Nguyễn Trọng Khoa (2010), Thẩm định chất lượng Bệnh viện (Hospital
Accreditation) - Một số mô hình và kinh nghiệm thẩm định chất lượng bệnh viện trên
thế giới, Hà Nội.
44. Lương Ngọc Khuê và cộng sự (2010), Chi phí và chất lượng dịch vụ bệnh viện,
Đổi mới cơ chế tài chính y tế - Thực trạng và giải pháp, Tài liệu Hội nghị khoa học
kinh tế y tế lần thứ nhất, Hà Nội, 12/2010, tr. 47 - 58.
45. Vũ Thị Hoàng Lan và Lã Ngọc Quang (2011), Dịch tễ học, Nhà xuất bản Y
học, Hà Nội.
46. Trịnh Thị Mến (2014), "Thực trạng khám bệnh và sự hài lòng của người bệnh
ngoại trú tại Bệnh viện đa khoa Đông Hưng, Thái Bình năm 2014", Luận văn Thạc
sĩ Y tế công cộng, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
47. Trần Văn Minh và cộng sự (2011), Đánh giá hiệu quả của phương thức thanh
toán chi phí KCB BHYT theo định suất tại Trung tâm y tế Vạn Ninh năm 2011, Vạn
Ninh, Khánh Hòa.
48. Vũ Duy Năng (2017), "Động lực làm việc của nhân viên y tế và một số yếu tố
ảnh hưởng tại bệnh viện đa khoa công an tỉnh Nam Định năm 2017", Luận văn Thạc
sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
49. Nguyễn Thúy Nga và Trần Quang Thông và cộng sự (2010 ), "Đánh giá hiệu
quả và khả thi của phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế
theo định suất tại bệnh viện huyện Chí Linh và Tứ Kỳ, Hải Dương", Tạp chí Y học
thực hành 9(732), tr. 91-96.
50. Nguyễn Thị Oanh (2013), "Đánh giá sự hài lòng của người bệnh ngoại trú về
dịch vụ khám bệnh tại khoa Khám bệnh của Bệnh viện Nông nghiệp năm 2013", Luận
văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
51. Báo điện tử Chính phủ (2015), Thủ tướng chỉ đạo đẩy mạnh lộ trình bao phủ
BHYT toàn dân, Hà Nội, truy cập ngày 12/12/2013, tại trang web
http://baochinhphu.vn/Suc-khoe/Thu-tuong-chu-tri-Hoi-nghi-truc-tuyen-toan-quoc-
ve-BHYT/279128.vgp.
52. Nguyễn Thị Kim Phượng (2016), "Thực trạng quy trình khám bệnh và sự hài
lòng của người bệnh tại khoa khám bệnh của bệnh viện đa khoa tỉnh Đắk Lắk năm
2016", Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
53. Hoàng Thị Phượng và cộng sự (2010), "Đánh giá việc thực hiện thí điểm
phương thức thanh toán chi phí khám chữa bệnh bảo hiểm Y tế theo định suất tại một
số tỉnh ở Việt Nam", Tạp chí Chính sách Y tế (số 6), tr. 48-49.
54. Quốc hội (2008 ), "Luật Bảo hiểm y tế", Luật số 25/2008/QH12 ngày 14 tháng
11 năm 2008.
55. Quốc hội (2014), "Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Bảo hiểm y tế",
Luật số 46/2014/QH13 ngày 13 tháng 06 năm 2014.
56. Sở Y tế tỉnh Bình Định (2014), Báo cáo Thống kê năm 2013, Quy Nhơn, Bình
Định.
57. Sở Y tế tỉnh Khánh Hòa (2014), Báo cáo Thống kê năm 2013, Nha Trang,
Khánh Hòa.
58. Huỳnh Hoàng Sơn (2014), "Thực trạng nguồn nhân lực điều dưỡng, hộ sinh,
kỹ thuật viên các bệnh viện đa khoa tuyến huyện của tỉnh Bến Tre năm 2014", Luận
văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
59. Phạm Hùng Sơn (2011), Đánh giá tác động của thanh toán theo định suất đến
chi phí khám chữa bệnh và cân đối quỹ BHYT tại Bệnh viện thành phố Buôn Ma
Thuột, tỉnh Đắk Lắk năm 2009-2011, Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường
Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
60. Trần Văn Tiến (2001), "Thanh toán chi phí khám chữa bệnh theo phí dịch vụ,
những nguy cơ tiềm ẩn", Tạp chí thông tin Y - Dược (10).
61. Bùi Thị Cẩm Tú (2011), Mô tả thực trạng khám chữa bệnh Bảo hiểm Y tế khi
thực hiện thanh toán theo định suất tại BV tuyến huyện tỉnh Hải Dương, Luận văn
Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
62. Phan Văn Tường và cộng sự (2012), Tổng quan về phương thức chi trả dịch
vụ y tế cho cơ sở KCB tại Việt Nam, Hà Nội.
63. Phạm Ngọc Thông (2013), "Thực trạng nhân lực và sự hài lòng đối với công
việc của nhân viên y tế khoa Huyết học truyền máu Bệnh viện Bạch Mai năm 2013",
Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
64. Trần Quang Thông (2013), "Nghiên cứu ảnh hưởng của phương thức khoán
quỹ định suất đến chi phí và một số chỉ số khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế thuộc bốn
bệnh viện huyện, tỉnh Thanh Hóa 2013", Luận án Tiến sĩ Y tế công cộng, Viện Vệ
sinh dịch tễ Trung ương, Hà Nội.
65. Trường Đại học Y Hà Nội (2004), Bệnh học Nội khoa, Nhà xuất bản Y học,
Hà Nội.
66. Trường Đại học Y tế Công cộng (2002), Những vấn đề cơ bản của kinh tế y
tế, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
67. Ủy ban nhân dân huyện Diên Khánh (2013), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014, Diên
Khánh, Khánh Hòa.
68. Ủy ban nhân dân huyện Khánh Vĩnh (2013), Báo cáo tình hình thực hiện
nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014,
Khánh Vĩnh, Khánh Hòa.
69. Ủy ban nhân dân huyện Phù Cát (2013), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm vụ
phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014, Phù Cát,
Bình Định.
70. Ủy ban nhân dân huyện Vân Canh (2013), Báo cáo tình hình thực hiện nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội năm 2013, phương hướng nhiệm vụ năm 2014, Vân
Canh, Bình Định.
71. Ủy ban nhân dân tỉnh Bình Định (2013), "Giới thiệu tổng quan tỉnh Bình
Định", Cổng thông tin điện tử, Quy Nhơn, Bình Định, truy cập ngày 12/12/2013, tại
web trang
https://www.binhdinh.gov.vn/inetcloud/portal/main/page/intro/donvihanhchinh.ivt?i
ntl=vi.
72. Ủy ban nhân dân tỉnh Khánh Hòa (2013), "Giới thiệu tổng quan tỉnh Khánh
Hòa", Cổng thông tin điện tử, Nha Trang, Khánh Hòa, truy cập ngày 12/12/2013, tại
trang web http://www.khanhhoa.gov.vn/vi/gioi-thieu-tong-quan-789/gioi-thieu-
tong-quan-huyen-thi-xa-thanh-pho.
73. Viện Nghiên cứu lập pháp - Ủy ban thường vụ Quốc hội (2013), Bảo hiểm Y
tế toàn dân - Thực trạng và khuyến nghị, Hà Nội.
74. Đỗ Quang Vịnh (2014), "Thực trạng nguồn nhân lực y tế tuyến cơ sở huyện
Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang giai đoạn 2009-2013 và một số yếu tố ảnh hưởng", Luận
văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
75. Nguyễn Thế Vinh (2012), "Thực trạng công tác khám bệnh ngoại trú và sự
hài lòng của người bệnh tại khoa Khám bệnh, Bệnh viện Đa khoa tỉnh Đắk Lắk năm
2012", Luận văn Thạc sĩ Quản lý bệnh viện, Trường Đại học Y tế công cộng, Hà Nội.
Tiếng Anh
76. Agyei-Baffour, et al. (2013), "Knowledge, perceptions and expectations of
capitation payment system in a health insurance setting: a repeated survey of clients
and health providers in Kumasi, Ghana", BMC Public Health. 13(1), p. 1220.
77. Alexander Telyukov (2001), Guide to Prospective Capitation with
Illustrations from Latin America.
78. Andoh-Adjei, F. X., et al. (2018), "Perception of quality health care delivery
under capitation payment: a cross-sectional survey of health insurance subscribers
and providers in Ghana", BMC Fam Pract. 19(1), p. 37.
79. Andoh-Adjei, F. X., et al. (2016), "A narrative synthesis of illustrative
evidence on effects of capitation payment for primary care: lessons for Ghana and
other low/middle-income countries", Ghana Med J. 50(4), pp. 207-219.
80. Andoh-Adjei, F. X., et al. (2018), "Does a provider payment method affect
membership retention in a health insurance scheme? a mixed method study of
Ghana's capitation payment for primary care", BMC Health Serv Res. 18(1), p. 52.
81. Angier, H., et al. (2017), "Evaluating community health centers' adoption of a
new global capitation payment (eCHANGE) study protocol", Contemp Clin Trials.
52, pp. 35-38.
82. Atuoye, K. N., et al. (2016), "Financial sustainability versus access and quality
in a challenged health system: an examination of the capitation policy debate in
Ghana", Health Policy Plan. 31(9), pp. 1240-9.
83. Austin B. Frakt and Rick Mayes (2012), "Beyond Capitation: How New
Payment Experiments Seek To Find The ‘Sweet Spot’ In Amount Of Risk Providers
And Payers Bear".
84. Bambra, C. L. and Copeland, A. (2013), "Deprived areas will lose out with
proposed new capitation formula", Bmj. 347, p. f6146.
85. Basu, S., et al. (2017), "High Levels Of Capitation Payments Needed To Shift
Primary Care Toward Proactive Team And Nonvisit Care", Health Aff (Millwood).
36(9), pp. 1599-1605.
86. Berwick, D. M. (1996), "Quality of health care. Part 5: Payment by capitation
and the quality of care", N Engl J Med. 335(16), pp. 1227-31.
87. Brosig-Koch, Jeannette, et al. (2016), "Using artefactual field and lab
experiments to investigate how fee-for-service and capitation affect medical service
provision", Journal of Economic Behavior & Organization. 131, pp. 17-23.
88. Busby, M., et al. (2014), "The relationship between oral health risk and disease
status and age, and the significance for general dental practice funding by capitation",
Br Dent J. 217(10), p. E19.
89. Carrin G. and James C. (2004), Reaching universal coverage via social health
insurance: key design features in the transition period, WHO Discussion Paper,
Editor^Editors, Geneva, Switzerland.
90. Casalino L (2001), "Canaries in a coal mine: California physician groups and
competition", Health Aff (Millwood)(20(4)), p. 98.
91. Conquest, J., et al. (2015), "Design of an innovative paediatric capitation
payment approach for public sector dentistry: an Australian experience", Int Dent J.
65(1), pp. 32-8.
92. Coyne, J. S and Simon, S. D (1996), "Capitation: selecting the method,
determining the rates. Can providers share risk without excessive financial
exposure?", Healthc Financ Manage. 50(8), pp. 50-3.
93. Charles Normand and Axel Weber (2004), "Social Health Insurance - A
guidebook for planning", ILO and WHO.
94. Cheng, S. H., et al. (2017), "Half-Managed Care: A Preliminary Assessment
of a Capitation Program in a Health Care System Without Gatekeepers", Int J Health
Serv. 47(3), pp. 519-531.
95. Daher, M. (2001), "Overview of the World Health Report 2000 Health
systems: improving performance", J Med Liban. 49(1), pp. 22-4.
96. Daniel Maceira (1998), "Provider Payment Mechanisms in Health care:
incentives, outcome and organizational impact in developing countries",
Partnerships for Health Reform Project. Major Applied Research 2, p. Working
Paper 2.
97. Don Hindle and Max, J Lenz (2001), "Using Australian DRGs in Germany: a
commentary", Australian Health review, pp. 22 - 24.
98. Donabedian (1980), "Explorations in quality assessment and monitoring. The
definition of quality and approaches to its assessment", Health Administration Press.
99. Ellis, R. P. and Miller, M. M. (2008), "Provider Payment Methods and
Incentives", in Heggenhougen, Harald Kristian, Editor, International Encyclopedia
of Public Health, Academic Press, Oxford, pp. 395-402.
100. Esmaeili, R., et al. (2016), "The Experience of Risk-Adjusted Capitation
Payment for Family Physicians in Iran: A Qualitative Study", Iran Red Crescent Med
J. 18(4), p. e23782.
101. Farias-Kovac, M., et al. (2014), "Effect of price capitation on implant selection
for primary total hip and knee arthroplasty", J Arthroplasty. 29(7), pp. 1345-9.
102. Fitzpatrick, R. (1991), "Surveys of patient satisfaction: II--Designing a
questionnaire and conducting a survey", Bmj. 302(6785), pp. 1129-32.
103. Guy Carrin and Chris James (2005), "Key Performance Indicators for the
Implementation of Social Health Insurance".
104. Hakeberg, M. and Wide Boman, U. (2016), "Patient characteristics in relation
to dental care payment model: capitation vs fee for service", Community Dent Health.
33(4), pp. 252-256.
105. Health Strategy and Policy Institute (2013), National assessment of provider
payment mechanism in Viet Nam.
106. Hill, H., et al. (2017), "Does capitation affect the delivery of oral healthcare
and access to services? Evidence from a pilot contact in Northern Ireland", BMC
Health Serv Res. 17(1), p. 175.
107. Iloh, G., et al. (2013), "Satisfaction with Quality of Care Received by Patients
without National Health Insurance Attending a Primary Care Clinic in a Resource-
Poor Environment of a Tertiary Hospital in Eastern Nigeria in the Era of Scaling up
the Nigerian Formal Sector Health Insurance Scheme", Ann Med Health Sci Res. 3(1),
pp. 31-7.
108. Kasper, Dennis, et al. (2015), Harrison's Principles of Internal Medicine,
McGraw-Hill Education, New York.
109. Kelley, T. (2015), "Capitation - The Once and Future King", Manag Care.
24(8), pp. 26-8.
110. Knutson, D. and Braun, C. (2002), "Diagnosis and management of acute
bronchitis", Am Fam Physician. 65(10), pp. 2039-44.
111. Koch, Marylane Wade (2011), "Chapter 7 - Paying for Health Care in
America: Rising Costs and Challenges", in Jacob, Barbara CherrySusan R., Editor,
Contemporary Nursing (Fifth Edition), Content Repository Only!, St. Louis, pp. 122-
139.
112. Koduah, A., van Dijk, H., and Agyepong, I. A. (2016), "Technical analysis,
contestation and politics in policy agenda setting and implementation: the rise and
fall of primary care maternal services from Ghana's capitation policy", BMC Health
Serv Res. 16, p. 323.
113. Ku, L. J., Chiou, M. J., and Liu, L. F. (2015), "Variations in the persistence of
health expenditures and the implications for the design of capitation payments in
Taiwan", J Health Serv Res Policy. 20(3), pp. 146-53.
114. Lagarde M., Powell-Jackson T., and Blaauw D. (2010), Managing incentives
for health providers and patients in the move towards universal coverage,
Background paper for the global symposium on health systems research,
Editor^Editors, 16-19 november 2010, Montreux, Switzerland.
115. Langenbrunner J., Cashin C., and O'Dougherty S. (2009), Designing and
Implementing Health Care Provider Payments Systems - How to Manuals, WB and
the USAID, Washington DC.
116. Maimunah A. Hamid, et al. (2007), Health care assessment and management,
Editor^Editors.
117. McElroy, B. (2017), "Empirically derived weights for GMS capitation
payments to General Practitioners", Ir J Med Sci. 186(2), pp. 471-476.
118. Nguyen, H. T., et al. (2017), "Getting Incentives Right? The Impact of
Hospital Capitation Payment in Vietnam", Health Econ. 26(2), pp. 263-272.
119. Olson, D. P. and Windish, D. M. (2010), "Communication discrepancies
between physicians and hospitalized patients", Arch Intern Med. 170(15), pp. 1302-
7.
120. Parasuraman, A., Zeithaml, V. A., & Berry, L. L. (1988), "SERVQUAL: A
multiple-item scale for measuring consumer perceptions of service quality", Journal
of Retailing. 64 (1), pp. 12-40.
121. Ponce, P., et al. (2012), "Converting to a capitation system for dialysis
payment--the Portuguese experience", Blood Purif. 34(3-4), pp. 313-24.
122. Roberts MJ, et al. (2008), Getting Health Reform Right, Oxford University
Press, New York.
123. Robyn, Paul Jacob, et al. (2014), "Provider payment methods and health
worker motivation in community-based health insurance: A mixed-methods study",
Social Science & Medicine. 108(0), pp. 223-236.
124. Sackey, F. G. and Amponsah, P. N. (2017), "Willingness to accept capitation
payment system under the Ghana National Health Insurance Policy: do income levels
matter?", Health Econ Rev. 7(1), p. 38.
125. Saila, T., et al. (2008), "Measuring patient assessments of the quality of
outpatient care: a systematic review", J Eval Clin Pract. 14(1), pp. 148-54.
126. Saral Bales (2005), Treatment costs for selected disease groups at provincial
general hospitals in VietNam.
127. Shepherd, D. (2017), "Capitation based funding of general practice is not fit
for purpose", Bmj. 358, p. j4075.
128. Shu, Zhiqun, et al. (2016), "Capitation reform in the Pudong New Area of
Shanghai: a retrospective time series analysis", The Lancet. 388, p. S45.
129. Slattery, E., et al. (2013), "Does the cost of care differ for patients with fee-
for-service vs. capitation of payment? A case-control study in gastroenterology", Ir J
Med Sci. 182(4), pp. 669-72.
130. Strand, J., et al. (2015), "A new capitation payment system in dentistry: the
patients' perspective", Community Dent Health. 32(2), pp. 83-8.
131. Volmink, H. C., et al. (2014), "Applying a private sector capitation model to
the management of type 2 diabetes in the South African public sector: a cost-
effectiveness analysis", BMC Health Serv Res. 14, p. 444.
132. Wang, Y., et al. (2017), "Evidence for capitation reform in a New Rural
Cooperative Medical Scheme in Pudong New Area, Shanghai: A longitudinal study",
Int J Health Plann Manage. 32(3), pp. 307-316.
133. WHO - Regional Office for Europe (2008), Guidance on developing quality
and safety strategies with a health system approach, WHO, Editor^Editors,
Copenhagen.
134. WHO (2000), The world health report health systems: improving
performance, Geneva, World Health Organization.
135. WHO (2007), Technical Briefs for policy-makers: Provider payments and
cost-containment lessons from OECD countries.
136. WHO (2010), Health Financing Strategy for the Asia Pacific Region (2010 -
2015).
137. Winnie C. Yip et all (2001), Impact of Capitation Payment: The Social
Security Scheme of Thailand.
138. Winnie C. Yip et all (2004), Addressing Government and Market Failure with
Payment Incentives: Hospital Reimbursement In Hainan’provinces, China, Social &
Science Medicine 58.
139. Wolosin, R. J. (2005), "The voice of the patient: a national, representative
study of satisfaction with family physicians", Qual Manag Health Care. 14(3), pp.
155-64.
140. Yip, W., et al. (2014), "Capitation combined with pay-for-performance
improves antibiotic prescribing practices in rural China", Health Aff (Millwood).
33(3), pp. 502-10.
141. Zarei, A., et al. (2012), "Service quality of private hospitals: the Iranian
patients' perspective", BMC Health Serv Res. 12, p. 31.
142. Zhang, G., et al. (2016), "The convergence of Chinese county government
health expenditures: capitation and contribution", BMC Health Serv Res. 16(1), p.
408.
143. Zhang, X. and Sweetman, A. (2018), "Blended capitation and incentives: Fee
codes inside and outside the capitated basket", J Health Econ. 60, pp. 16-29.
PHỤ LỤC 1. Nội dung thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất tại Khánh
Hòa
1. Quy định chung
Thanh toán theo định suất là thanh toán theo định mức chi phí khám bệnh,
chữa bệnh trung bình tính trên mỗi thẻ BHYT theo các nhóm đối tượng (sau đây gọi
là suất phí) trong thời gian đăng ký tại cơ sở y tế. Tổng quỹ định suất được thanh toán
là số tiền tính theo số thẻ BHYT đăng ký và suất phí đã được xác định.
Tổng quỹ thanh toán theo định suất = P * Tổng Quỹ KCB BHYT của năm sau.
Trong đó: P là tỷ lệ chi năm trước cho dịch vụ thuộc phạm vi chi trả theo định
suất
P = A/Q
A là tổng thanh toán BHYT cho KCB tại chỗ ngoại trú và nội trú từ tuyến
huyện trở xuống
Q là tổng chi phí KCB BHYT được thanh toán năm trước
2. Quy định 6 nhóm đối tượng giao quỹ định suất cho các cơ sở y tế (6 nhóm thẻ)
2.1. Nhóm 1 gồm:
a. Người lao động, người quản lý doanh nghiệp, cán bộ, công chức, viên chức
quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật bảo hiểm y tế (BHYT) bao gồm:
+ Người lao động, kể cả lao động là người nước ngoài, làm việc tại các cơ
quan, đơn vị, tổ chức, doanh nghiệp;
+ Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ, công chức;
+ Người hoạt động không chuyên trách ở xã, phường, thị trấn theo quy định
của pháp luật về cán bộ, công chức.
b. Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kỹ thuật,
hạ sỹ quan, chiến sỹ đang phục vụ có thời hạn trong lực lượng Công an nhân dân.
c. Người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp theo quy định của pháp luật về bảo
hiểm thất nghiệp.
d. Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp đương nhiệm.
2.2. Nhóm 2 gồm:
a. Người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động hàng tháng.
b. Người đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã hội hàng tháng do bị tai nạn lao
động, bệnh nghề nghiệp.
c. Người đã thôi hưởng trợ cấp mất sức lao động đang hưởng trợ cấp hàng
tháng từ ngân sách nhà nước; công nhân cao su nghỉ việc đang hưởng trợ cấp hàng
tháng.
d. Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp bảo hiểm xã
hội hàng tháng.
e. Cán bộ xã, phường, thị trấn đã nghỉ việc đang hưởng trợ cấp từ ngân sách
nhà nước hàng tháng.
g. Người có công với cách mạng theo quy định của pháp luật về ưu đãi người
có công với cách mạng.
h. Cựu chiến binh đã tham gia kháng chiến từ ngày 30/4/1975 trở về trước;
thanh niên xung phong thời kỳ kháng chiến chống Pháp.
i. Người trực tiếp tham gia kháng chiến chống Mỹ cứu nước nhưng chưa được
hưởng chính sách của Đảng và Nhà nước.
k. Người thuộc diện hưởng trợ cấp bảo trợ xã hội hàng tháng.
l. Thân nhân của người có công với cách mạng.
m. Thân nhân của các đối tượng quy định tại điểm a, b và c khoản 16 Điều 12
Luật BHYT.
n. Người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật về hiến,
lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác.
p. Người lao động nghỉ việc đang hưởng chế độ ốm đau theo quy định của
pháp luật về bảo hiểm xã hội do mắc bệnh thuộc danh mục bệnh cần chữa trị dài ngày
theo quy định của Bộ trưởng Bộ Y tế.
2.3. Nhóm 3 gồm:
a. Người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại
vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn theo quy định của Thủ
tướng Chính phủ.
b. Người thuộc hộ gia đình cận nghèo theo quy định của Thủ tướng Chính phủ.
2.4. Nhóm 4 gồm:
Tất cả trẻ em dưới 6 tuổi.
2.5. Nhóm 5 gồm:
a. Người nước ngoài đang học tập tại Việt Nam được cấp học bổng từ ngân
sách của Nhà nước Việt Nam.
b. Học sinh, sinh viên đang theo học tại các cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo
dục quốc dân.
2.6. Nhóm 6 gồm:
a. Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp và diêm
nghiệp.
b. Thân nhân của người lao động quy định tại khoản 1 Điều 12 Luật BHYT
bao gồm: bố, mẹ đẻ; bố, mẹ vợ hoặc chồng; bố, mẹ nuôi hoặc người nuôi dưỡng hợp
pháp; vợ hoặc chồng; con đẻ, con nuôi hợp pháp mà người lao động có trách nhiệm
nuôi dưỡng và sống trong cùng hộ gia đình.
c. Xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể.
3. Các công thức tính
3.1. Hệ số chi phí
Hệ số chi phí của từng nhóm thẻ phải được xác định làm căn cứ để tính suất
phí trung bình. Hệ số chi phí được tính dựa trên chi phí của nhóm thẻ ở năm trước và
số lượng thẻ của nhóm đó trong năm trước
TY : Hệ số chi phí một nhóm thẻ
TT : Tổng số thẻ (toàn tỉnh – tuyến huyện) từng nhóm thẻ năm trước
C : Chi phí khám chữa bệnh tại chỗ ngoại trú và nội trú tuyến
huyện năm trước cho từng nhóm thẻ
m, i : Là nhóm thẻ thứ m, i (từ 1 đến 6)
3.2. Xác định suất phí trung bình
Suất phí trung bình được xác định theo tổng quỹ thanh toán theo định suất và
tổng số thẻ đăng ký KCBBĐ từ BV huyện trở xuống được điều chỉnh theo hệ số chi
phí theo 6 nhóm thẻ BHYT.
BR : Suất phí trung bình có điều chỉnh
TQ : Tổng quỹ dành cho KCB tại chỗ ngoại trú và nội trú năm cần
tính
TY : Hệ số chi phí một nhóm thẻ
TT : Tổng số thẻ (toàn tỉnh – tuyến huyện) từng nhóm thẻ năm cần
tính
i : Là nhóm thẻ thứ i (từ 1 đến 6)
3.3. Quỹ định suất cho từng đơn vị
Quy : Là quỹ định suất cho từng đơn vị
BR : Suất phí trung bình có điều chỉnh
TY : Hệ số chi phí một nhóm thẻ
TT : Tổng số thẻ của một đơn vị nhận định suất theo từng nhóm thẻ
trong năm cần tính
i : Là nhóm thẻ thứ i (từ 1 đến 6)
m : Là đơn vị m (1 đến tổng các đơn vị nhận định suất)
3.4. Suất phí tại TYT xã
C = f x (S + M1 + M2 + V) = f x U
C
f : Suất phí/ người có thẻ BHYT : Tần suất KCB hàng năm tại TYT xã theo thố ng nhất tại mô
hình đi ̣nh suất U : (S + M1 + M2 + V) = Chi phí trung bình/lươ ̣t khám ta ̣i TYT xã
S
M1
M2
V : Tiền công khám (do UBND tỉnh phê duyệt) : Chi phí trung bình cho thuố c/ lươ ̣t khám : Chi phí trung bình cho các dịch vu ̣ khác/ lươ ̣t khám : Vâ ̣t tư tiêu hao
4. Sử dụng quỹ định suất
4.1. Đơn vị nhận định suất
Đơn vị nhận định suất bao gồm tất cả các đơn vị có đăng ký KCBBĐ ở tuyến
huyện và tương đương.
4.2. Phạm vi dịch vụ
a. Dịch vụ KCB tại chỗ ngoại trú và nội trú của người có thẻ BHYT đăng ký
KCBBĐ tại cơ sở trừ một số dịch vụ chi phí lớn bao gồm chi phí chạy thận nhân tạo,
ghép bộ phận cơ thể người, phẫu thuật tim, điều trị bệnh ung thư, bệnh hemophilia.
b. Chi phí vận chuyển và phần chi phí cùng chi trả của người bệnh không tính
vào tổng quỹ định suất.
c. Chi phí đa tuyến không tính vào tổng quỹ định suất.
4.3. Nguyên tắc xử trí kết dư/ bội chi quỹ định suất
Quỹ định suất kết dư thì cơ sở khám chữa bệnh BHYT được sử dụng. Quỹ
định suất bội chi thì cơ sở khám chữa bệnh BHYT phải tự cân đối.
5. Trách nhiệm của BHXH và cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT theo định suất
5.1. Trách nhiệm của BHXH
a. Cung cấp cho cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT danh sách người có thẻ BHYT
đăng ký KCB ban đầu (bằng file điện tử hoặc bản có ký tên đóng dấu) và thông báo
kinh phí để bảo đảm khám bệnh, chữa bệnh cho người tham gia BHYT;
b. Tạm ứng kinh phí và thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh hằng quý
cho cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT theo quy định;
c. Tổ chức công tác giám định khám bệnh, chữa bệnh BHYT tại cơ sở khám
bệnh, chữa bệnh; bảo đảm tuân thủ quy chế về hồ sơ bệnh án theo quy định của Bộ
Y tế khi xem xét hồ sơ bệnh án;
d. Phối hợp với cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT trong việc tiếp nhận, kiểm tra
thủ tục hành chính đối với người bệnh BHYT khi đến khám bệnh, chữa bệnh. Thu
hồi, tạm giữ thẻ BHYT và xử lý theo thẩm quyền đối với các trường hợp vi phạm;
đ. Phối hợp với cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT giải thích, phổ biến, tuyên
truyền về chế độ, chính sách BHYT;
e. Tiếp nhận ý kiến phản ánh từ người có thẻ BHYT và cơ sơ khám bệnh, chữa
bệnh liên quan đến quyền lợi của người tham gia BHYT để giải quyết theo thẩm
quyền.
5.2. Trách nhiệm của cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT
a. Tổ chức khám bệnh, chữa bệnh đúng phạm vi chuyên môn kỹ thuật, đảm
bảo chất lượng và quy chế chuyên môn với thủ tục đơn giản, thuận tiện cho người
bệnh có thẻ BHYT; quản lý thẻ BHYT trong thời gian điều trị nội trú tại bệnh viện;
b. Đảm bảo cung ứng đầy đủ thuốc, máu, dịch truyền, hoá chất xét nghiệm,
phim X-quang, vật tư y tế sử dụng trong khám bệnh, chữa bệnh theo danh mục do Bộ
Y tế ban hành. Chỉ định sử dụng thuốc, dịch vụ kỹ thuật hợp lý, an toàn, chống lãng
phí hay lạm dụng;
c. Tiếp nhận và chuyển người bệnh trong trường hợp vượt quá phạm vi chuyên
môn của bệnh viện theo đúng quy định của Bộ Y tế;
d. Cung cấp hồ sơ bệnh án, tài liệu liên quan đến khám bệnh, chữa bệnh và
thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh của người tham gia BHYT theo yêu cầu của
BHXH và cơ quan nhà nước có thẩm quyền;
đ. Bảo đảm điều kiện cần thiết cho BHXH thực hiện công tác giám định
BHYT; phối hợp với BHXH trong việc tuyên truyền, giải thích về chế độ bảo hiểm y
tế cho người tham gia bảo hiểm y tế;
e. Kiểm tra, phát hiện và thông báo cho BHXH những trường hợp vi phạm về
sử dụng thẻ BHYT; phối hợp với BHXH thu hồi, tạm giữ thẻ BHYT và xử lý theo
thẩm quyền đối với các trường hợp vi phạm theo quy định;
g. Quản lý và sử dụng kinh phí từ quỹ bảo hiểm y tế do BHXH tạm ứng, thanh
toán theo đúng quy định của pháp luật;
h. Thống kê đầy đủ, kịp thời, chính xác các chi phí khám bệnh, chữa bệnh bảo
hiểm y tế để thanh quyết toán với BHXH.
6. Tổ chức, thực hiện
6.1. Hợp đồng KCB BHYT và tạm ứng kinh phí
BHXH tỉnh và các bệnh viện tuyến huyện thực hiện ký kết hợp đồng KCB
BHYT theo đúng các quy định hiện hành để có căn cứ thực hiện KCB cho người có
thẻ BHYT.
Cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT phải cam kết bảo đảm khám bệnh, chữa bệnh
bảo hiểm y tế, cung cấp đầy đủ thuốc, dịch, vật tư y tế, các dịch vụ kỹ thuật trong
phạm vi chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện và phạm vi quyền lợi của người bệnh
bảo hiểm y tế cho những người có thẻ BHYT đăng ký khám bệnh, chữa bệnh ban đầu
theo quy định hiện hành về khám bệnh, chữa bệnh BHYT.
Hàng quý, cơ quan BHXH chuyển kinh phí tạm ứng cho bệnh viện bằng 80%
số tiền được cơ quan BHXH thanh toán chi phí KCB BHYT của quý trước liền kề.
6.2. Thanh toán, quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT
a) Trong tháng đầu của mỗi quý, cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT có trách
nhiệm gửi báo cáo quyết toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh BHYT của quý trước
cho BHXH.
b) Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo quyết toán chi phí
khám chữa bệnh của cơ sở ký hợp đồng KCB BHYT, BHXH có trách nhiệm xem xét
và thông báo kết quả quyết toán chi phí. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày thông
báo kết quả quyết toán, BHXH có trách nhiệm hoàn thành việc thanh toán với cơ sở
ký hợp đồng KCB BHYT.
6.3. Theo dõi, giám sát chất lượng
Liên ngành Sở Y tế - BHXH tỉnh có trách nhiệm chỉ đạo việc triển khai, thực hiện
phương thức thanh toán theo định suất. Định kỳ tổ chức kiểm tra, giám sát bảo đảm việc
thực hiện có hiệu quả.
Các bệnh viện ký hợp đồng KCB BHYT theo định suất có trách nhiệm tuyên
truyền để cán bộ hiểu rõ mục đích phương thức thanh toán theo định suất, đảm bảo
cung ứng thuốc, vật tư y tế theo đúng quy định, thực hiện thống nhất tiêu chí chẩn
đoán, phác đồ điều trị thực hành trong bệnh viện và thực hiện các giải pháp đảm bảo
chất lượng KCB và quyền lợi người bệnh có thẻ BHYT.
Giám định viên thuộc BHXH có trách nhiệm giám định đảm bảo việc tổ chức
thực hiện phương thức thanh toán theo định suất đúng với nội dung thí điểm và hợp
đồng đã ký.
Định kỳ hàng quý, cùng với thời gian quyết toán chi phí KCB BHYT theo quy
định, các cơ sở KCB và cơ quan BHXH có trách nhiệm báo cáo bằng văn bản với
liên ngành Sở Y tế - BHXH tỉnh về tình hình thực hiện và các đề xuất kiến nghị để
liên ngành xem xét, điều chỉnh.
PHỤ LỤC 2. Biến số và nội dung nghiên cứu
Biến số/ nội dung nghiên Phương pháp STT Định nghĩa cứu thu thập
1. Một số thông tin chung
Tổng quỹ định suất Là tổng quỹ KCB BHYT theo định suất Thu thập số liệu 1.1. của toàn tỉnh thứ cấp
Tổng số thẻ BHYT Là tổng số thẻ BHYT đăng ký KCB trên Thu thập số liệu 1.2. địa bàn (tỉnh hoặc huyện) thứ cấp
Suất phí trung bình trên đầu Là định mức chi phí KCB BHYT trung Thu thập số liệu 1.3. bình tính trên mỗi đầu thẻ thứ cấp thẻ
Suất phí trung bình theo 6 Là định mức chi phí KCB BHYT trung Thu thập số liệu 1.4. nhóm thẻ bình tính trên mỗi nhóm thẻ thứ cấp
Quỹ định suất tại các cơ sở Là quỹ định suất giao cho cơ sở KCB Thu thập số liệu 1.5. BHYT thứ cấp
Tỷ lệ phân bổ quỹ tới các cơ Là tỷ lệ phần trăm quỹ định suất giao cho Tính toán từ số 1.6. cơ sở trên tổng quỹ định suất toàn tỉnh liệu thứ cấp sở
Tần suất KCB BHYT Là tỷ lệ giữa tổng số lượt KCB BHYT Thu thập số liệu
trên tổng số thẻ đăng ký tại đơn vị nhận thứ cấp 1.7.
định suất
Tổng chi KCB tại chỗ của Là tổng số tiền chi cho tất cả các lượt Thu thập số liệu 1.8. các cơ sở KCB BHYT tại đơn vị nhận định suất thứ cấp
Tổng chi KCB tại chỗ theo Là tổng số tiền chi cho tất cả các lượt Thu thập số liệu
1.9. nhóm thẻ KCB BHYT theo nhóm thẻ tại đơn vị thứ cấp
nhận định suất
Tỷ lệ chi KCB nội và ngoại Là tỷ lệ giữa số chi KCB nội trú và ngoại Tính toán từ số 1.10. trú trú của đơn vị nhận định suất liệu thứ cấp
Tỷ lệ chi KCB ngoại trú Là tỷ lệ giữa số chi KCB ngoại trú tuyến Tính toán từ số 1.11. tuyến xã và huyện xã và tuyến huyện liệu thứ cấp
Tỷ lệ chi KCB đa tuyến và Là tỷ lệ phần trăm của tổng chi KCB đa Thu thập số liệu
1.12. tại chỗ của các cơ sở tuyến và tại chỗ của các đơn vị nhận định thứ cấp
suất
Mục tiêu 1. So sánh sự thay đổi về một số chỉ số KCB BHYT và sự hài lòng của người
2. bệnh trước và sau khi thực hiện thí điểm sửa đổi phương thức thanh toán theo định
suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
Tỷ lệ chuyển tuyến Là tỷ lệ phần trăm số lượt chuyển tuyến Tính toán từ số
2.1. đi trong tổng số lượt KCB BHYT (tại liệu thứ cấp
chỗ và chuyển tuyến)
Tỷ lệ nhập viện Là tỷ lệ phần trăm số lượt điều trị nội trú Tính toán từ số 2.2. trong tổng số lượt KCB BHYT tại chỗ liệu thứ cấp
Số xét nghiệm trung bình Là số xét nghiệm trung bình trên một Điều tra bệnh
theo lượt KCB nội trú lượt KCB với bệnh nội trú được chọn. án và phiếu
2.3. Mỗi xét nghiệm được tính là một lần xét thanh toán
nghiệm với một đầu mục xét nghiệm
trên phiếu thanh toán.
Số CĐHA trung bình theo Là số xét nghiệm trung bình trên một Điều tra bệnh
lượt KCB nội trú lượt KCB với bệnh nội trú được chọn. án và phiếu
2.4. Mỗi CĐHA được tính là một lần CĐHA thanh toán
với một đầu mục CĐHA trên phiếu
thanh toán.
Số đầu thuốc trung bình theo Là số đầu thuốc trung bình trên một lượt Điều tra bệnh
lượt KCB nội trú KCB với bệnh nội trú được chọn. Mỗi án và phiếu 2.5. đầu thuốc được tính là một đầu mục thanh toán
thuốc trên phiếu thanh toán.
Số đầu thuốc trung bình theo Là số đầu thuốc trung bình trên một lượt Điều tra đơn
lượt KCB ngoại trú KCB với bệnh ngoại trú được chọn. Mỗi thuốc và phiếu 2.6. đầu thuốc được tính là một đầu mục thanh toán
thuốc trên phiếu thanh toán.
Thời gian điều trị nội trú Là số ngày điều trị nội trú trung bình của Điều tra bệnh 2.7. trung bình bệnh nội trú lựa chọn án
Tỷ lệ bệnh án khỏi bệnh Là tỷ lệ phần trăm bệnh án khỏi bệnh Điều tra bệnh
2.8. trong tổng số bệnh án của bệnh nội trú án
được chọn
Sự hài lòng của người bệnh Là sự hài lòng với 5 mức độ (Rất không Phỏng vấn
về phương diện hữu hình: hài lòng, Không hài lòng, Bình thường, người bệnh,
Hài lòng và Rất hài lòng) về các nội tính điểm trung
dung: Khuôn viên bệnh viện xanh, sạch, bình dựa trên
đẹp; Buồng bệnh sạch sẽ, thông thoáng; thang điểm
2.9. Nhà vệ sinh thuận tiện, sử dụng tốt; Likert
Trang thiết bị, máy móc đầy đủ và hoạt
động tốt; Được cung cấp quần áo đầy đủ,
sạch sẽ; Căng tin bệnh viện phục vụ ăn
uống và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu; Cán
bộ, nhân viên BV vui vẻ, hòa nhã.
Sự hài lòng của người bệnh Là sự hài lòng với 5 mức độ về các nội Phỏng vấn
về phương diện tin cậy dung: Tin tưởng ở kết quả chẩn đoán và người bệnh,
điều trị; Chi phí KCB rõ ràng, hợp lý; tính điểm trung
2.10. Bình đẳng, công bằng trong đối xử với bình dựa trên
người bệnh; NVYT không có biểu hiện thang điểm
gợi ý bồi dưỡng. Likert
Sự hài lòng của người bệnh Là sự hài lòng với 5 mức độ về các nội Phỏng vấn
về phương diện đáp ứng dung: Được bác sĩ thăm khám, tư vấn, người bệnh,
động viên; Được hướng dẫn về quy trình tính điểm trung
2.11. khám chữa bệnh; Được cung cấp đầy đủ bình dựa trên
thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thang điểm
thuốc điều trị; Hỏi và gọi được nhân viên Likert
y tế khi cần thiết.
Sự hài lòng của người bệnh Là sự hài lòng với 5 mức độ về các nội Phỏng vấn
về phương diện đảm bảo dung: Bác sĩ có chuyên môn giỏi; Nhân người bệnh,
viên y tế nhiệt tình, tận tụy; Được tôn tính điểm trung 2.12. trọng và giữ kín bí mật riêng tư; Đảm bình dựa trên
bảo an ninh, an toàn khi khám chữa thang điểm
bệnh. Likert
Sự hài lòng của người bệnh Là sự hài lòng với 5 mức độ về các nội Phỏng vấn
về phương diện cảm thông dung: Y bác sĩ cảm thông, chia sẻ với người bệnh,
tình trạng bệnh tật và sự lo lắng của tính điểm trung
người bệnh; Sự chăm sóc y tế của y bác bình dựa trên
2.13. sĩ phù hợp với tình trạng bệnh tật và thang điểm
hoàn cảnh của người bệnh; Thời gian Likert
khám chữa bệnh được bố trí phù hợp,
thuận tiện; Nhân viên y tế luôn chú ý tới
người bệnh.
Tổng hợp sự hài lòng của Là sự hài lòng tổng hợp theo 5 mức độ Tính điểm
người bệnh 5 phương diện về 5 phương diện: Hữu hình, tin cậy, đáp trung bình cộng
2.14. ứng, đảm bảo và cảm thông. từ điểm hài
lòng trên 5
phương diện
Nội dung hài lòng, không Là những nội dung hài lòng, không hài Phỏng vấn sâu
2.15. hài lòng của người bệnh lòng của người bệnh KCB BHYT được
tìm hiểu thông qua phỏng vấn sâu
Quan điểm về sự thay đổi Là quan điểm của người lãnh đạo, quản Phỏng vấn sâu,
một số chỉ số KCB BHYT lý cơ sở KCB, y bác sĩ và cơ quan BHXH thảo luận nhóm 2.16. khi thực hiện thí điểm về sự thay đổi một số chỉ số KCB BHYT
khi thực hiện thí điểm
Mục tiêu 2. Đánh giá sự thay đổi về chi phí KCB BHYT khi thực hiện thí điểm sửa đổi 3. phương thức thanh toán theo định suất tại bệnh viện tuyến huyện ở Khánh Hòa
Chi phí KCB trung bình đầu Là tổng chi phí KCB BHYT chia cho Thu thập số liệu 3.1. thẻ toàn tỉnh tổng số thẻ BHYT thứ cấp
Chi phí KCB tại chỗ trung Là tổng chi phí KCB BHYT tại chỗ chia Thu thập số liệu 3.2. bình đầu thẻ toàn tỉnh cho tổng số thẻ BHYT thứ cấp
Chi phí KCB trung bình đầu Là tổng chi phí KCB BHYT của cơ sở Thu thập số liệu 3.3. thẻ của cơ sở chia cho tổng số thẻ BHYT của cơ sở đó thứ cấp
Chi phí KCB tại chỗ trung Là tổng chi phí KCB BHYT tại chỗ của Thu thập số liệu
3.4. bình đầu thẻ của cơ sở cơ sở chia cho tổng số thẻ BHYT của cơ thứ cấp
sở đó
Chi phí KCB trung bình lượt Là tổng chi phí KCB nội trú chia cho Thu thập số liệu 3.5. nội trú tổng số lượt KCB nội trú thứ cấp
Chi phí KCB trung bình lượt Là tổng chi phí KCB ngoại trú chia cho Thu thập số liệu 3.6. ngoại trú tổng số lượt KCB ngoại trú thứ cấp
Sự thay đổi chi phí KCB nội Là hiệu số của chi phí KCB nội trú/ Tính toán từ số
trú/ ngoại trú ngoại trú sau thí điểm trừ đi chi phí KCB liệu thứ cấp
nội trú/ ngoại trú trước thí điểm, mang 3.7.
trị số âm nếu chi phí giảm và dương nếu
chi phí tăng
Tỷ trọng tiền giường Là tỷ lệ phần trăm tiền giường trong tổng Tính toán từ số 3.8. chi phí KCB liệu thứ cấp
Tỷ trọng tiền thuốc Là tỷ lệ phần trăm tiền thuốc trong tổng Tính toán từ số 3.9. chi phí KCB liệu thứ cấp
Tỷ trọng chi phí xét nghiệm Là tỷ lệ phần trăm chi phí xét nghiệm Tính toán từ số 3.10. trong tổng chi phí KCB liệu thứ cấp
Tỷ trọng chi phí chẩn đoán Là tỷ lệ phần trăm chi phí chẩn đoán Tính toán từ số 3.11. hình ảnh hình ảnh trong tổng chi phí KCB liệu thứ cấp
Tỷ trọng chi phí phẫu thuật, Là tỷ lệ phần trăm chi phí phẫu thuật, thủ Tính toán từ số 3.12. thủ thuật thuật trong tổng chi phí KCB liệu thứ cấp
Tỷ trọng chi phí vật tư y tế Là tỷ lệ phần trăm chi phí vật tư y tế tiêu Tính toán từ số 3.13. tiêu hao hao trong tổng chi phí KCB liệu thứ cấp
Tỷ trọng chi phí vận chuyển Là tỷ lệ phần trăm chi phí vận chuyển Tính toán từ số 3.14. trong tổng chi phí KCB liệu thứ cấp
Là số tiền kết dư (bội chi) quỹ định suất Tính toán từ số 3.15. của đơn vị nhận định suất liệu thứ cấp
Là tỷ lệ phần trăm cơ sở KCB có kết dư Tính toán từ số Số kết dư (bội chi) quỹ định suất Tỷ lệ cơ sở KCB kết dư (bội chi) quỹ (bội chi) quỹ trong tổng số cơ sở nhận liệu thứ cấp 3.16.
định suất
Tỷ lệ kết dư (bội chi) quỹ Là tỷ lệ phần trăm số tiền kết dư (bội chi) Tính toán từ số 3.17. định suất trong tổng quỹ định suất liệu thứ cấp
Giải thích vế sự thay đổi chi Là những lý giải của người lãnh đạo, Phỏng vấn sâu,
phí KCB BHYT khi thực quản lý cơ sở KCB, y bác sĩ và cơ quan Thảo luận nhóm 3.18. hiện thí điểm BHXH về sự thay đổi chi phí KCB
BHYT khi thực hiện thí điểm
Quan điểm về sự thay đổi Là quan điểm của người lãnh đạo, quản Phỏng vấn sâu,
chi phí khi thực hiện thí lý cơ sở KCB, y bác sĩ và cơ quan BHXH Thảo luận nhóm 3.19. điểm về sự thay đổi chi phí khi thực hiện thí
điểm
Quan điểm về sự thay đổi tỷ Là quan điểm của người lãnh đạo, quản Phỏng vấn sâu
lệ kết dư (bội chi) quỹ định lý cơ sở KCB và cơ quan BHXH về sự 3.20. suất thay đổi tỷ lệ kết dư (bội chi) quỹ định
suất khi thực hiện thí điểm
PHỤ LỤC 3. Phiếu phỏng vấn người bệnh nội trú
Mã phiếu:
Tỉnh: ...................................................................... Tên bệnh viện: ............................................................................................................................... Người phỏng vấn ..................................................Ngày phỏng vấn: ......./......./………
PHẦN A. THÔNG TIN CHUNG
......................... (Tính theo tuổi dương lịch)
A.1 A.2 Tuổi Giới tính 1. Nam 2. Nữ
A.3 Dân tộc 1. Kinh 2. Khác (Ghi rõ): ....................................
A.4 Trình độ học vấn
2. Học hết cấp 1 4. Học hết cấp 3 6. Đại học/ Trên đại học
A.5 Nghề nghiệp
1. Không biết chữ 3. Học hết cấp 2 5. Cao đẳng/ Trung cấp 7. Khác (Ghi rõ) ................................................................... 1. Làm ruộng/ rừng 3. Buôn bán/ nghề tự do 5. Học sinh, sinh viên
2. Làm công ăn lương 4. Hưu trí/ già cả/ mất sức 6. Khác (Ghi rõ): ................. ..........................................
A.6 Mã thẻ BHYT A.7 ............................................................. 1. Công chức/ lao động 2. Hưu trí/ Chính sách/ Trợ
Loại thẻ BHYT thuộc nhóm nào (theo 6 nhóm) chính quy cấp xã hội
A.8 Nơi đăng ký KCBBĐ
4. Trẻ em dưới 6 tuổi 6. Tự nguyện 2. BV huyện/ TTYT huyện 4. Khác (Ghi rõ): ........................... 3. Chuyển tuyến 2. Đúng tuyến
A.9 Tuyến điều trị A.10 Thời gian nằm viện
3. Nghèo và cận nghèo 5. Học sinh, sinh viên 1. TYT xã 3. PKĐK khu vực 1. Cấp cứu ............. (ngày)
PHẦN B. THÔNG TIN VỀ SỰ HÀI LÒNG TRONG SỬ DỤNG DV KCB LẦN NÀY
Xin ông/ bà cho biết sự hài lòng của ông/ bà về:
B1 Khuôn viên bệnh viện xanh, sạch, đẹp
2. Không hài lòng 4. Hài lòng
B2 Buồng bệnh sạch sẽ, thông thoáng
1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng
B3 Nhà vệ sinh thuận tiện, sử dụng tốt
B4 Trang thiết bị, máy móc đầy đủ và hoạt động tốt
B5 Được cung cấp quần áo đầy đủ, sạch sẽ
B6 Căng tin bệnh viện phục vụ ăn uống và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
B7 Cán bộ, nhân viên BV vui vẻ, hòa nhã
B8 Tin tưởng ở kết quả chẩn đoán và điều trị
B9 Chi phí KCB rõ ràng, hợp lý
B10 Bình đẳng, công bằng trong đối xử với người bệnh
B11 NVYT không có biểu hiện gợi ý bồi dưỡng
B12 Được bác sĩ thăm khám, tư vấn, động viên
B13 Được hướng dẫn về quy trình khám chữa bệnh
B14 Được cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị
B15 Hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết
B16 Bác sĩ có chuyên môn giỏi
1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng
B17 Nhân viên y tế nhiệt tình, tận tụy
B18 Được tôn trọng và giữ kín bí mật riêng tư
B19 Đảm bảo an ninh, an toàn khi khám chữa bệnh
B20 Y bác sĩ cảm thông, chia sẻ với tình trạng bệnh tật và sự lo lắng của người bệnh
B21
Sự chăm sóc y tế của y bác sĩ phù hợp với tình trạng bệnh tật và hoàn cảnh của người bệnh
B22 Thời gian khám chữa bệnh được bố trí phù hợp, thuận tiện
B23 Nhân viên y tế luôn chú ý tới người bệnh
1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 1. Rất không hài lòng 3. Bình thường 5. Rất hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng 2. Không hài lòng 4. Hài lòng
PHỤ LỤC 4. Hướng dẫn phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
1. Đối tượng phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
- Lãnh đạo Sở Y tế và lãnh đạo Bảo hiểm xã hội tỉnh: 2 cuộc PVS
- Cán bộ quản lý Phòng Nghiệp vụ Y, Phòng Kế hoạch tài chính tại Sở Y tế: 2
cuộc PVS
- Cán bộ quản lý Phòng giám định BHYT tại BHXH tỉnh: 1 cuộc PVS
- Lãnh đạo bệnh viện đa khoa tuyến huyện: 2 cuộc PVS
- Cán bộ quản lý phòng chức năng tại bệnh viện: 2 cuộc TLN
- Bác sĩ trực tiếp tham gia KCB BHYT: 2 cuộc TLN.
2. Chủ điểm phỏng vấn sâu và thảo luận nhóm
- Sự thay đổi trong phân bổ và sử dụng quỹ định suất;
- Tác động của thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất đến một số chỉ số
KCB BHYT và sự hài lòng của người bệnh;
- Tác động của thí điểm sửa đổi thanh toán theo định suất đến chi phí KCB
BHYT.
3. Câu hỏi gợi ý
1. Xin ông/ bà cho biết những thay đổi/ tác động khi thực hiện thí điểm sửa đổi thanh
toán theo định suất?
2. Quan điểm/ đánh giá của ông/ bà về sự thay đổi này là như thế nào?
3. Tại sao lại có sự thay đổi như vậy?
4. Sự thay đổi này liên quan đến vai trò và vị trí công việc của ông/ bà như thế nào?
5. Ông/ bà thấy có thuận lợi hay khó khăn, bất cập gì khi thực hiện công việc?
6. Ông/ bà có ý kiến đề xuất gì liên quan đến nội dung này?
PHỤ LỤC 5. Một số kết quả nghiên cứu về phân bổ và sử dụng quỹ định suất
Bảng 4.1. Số thẻ BHYT theo 6 nhóm đối tượng
Tỉnh Năm 2013 Năm 2014 Sự thay đổi (%) Số thẻ theo nhóm
56.004 Khánh Hòa 58.714 4,8 Nhóm 1 Bình Định 2,2
35.438 37.203 Khánh Hòa 36.230 47.101 26,6 Nhóm 2 Bình Định 6,6
39.396 151.817 Khánh Hòa 42.011 133.116 -12,3 Nhóm 3 Bình Định -13,3
69.357 82.298 Khánh Hòa 60.118 87.963 6,9 Nhóm 4 Bình Định 5,2
57.792 143.970 Khánh Hòa 60.795 144.494 0,4 Nhóm 5 Bình Định 5,6
101.571 107.535 Khánh Hòa 107.309 126.018 17,2 Nhóm 6 Bình Định 9,3 67.873 74.216
Giữa tỉnh thí điểm và đối chứng có sự thay đổi tương đồng về số liệu thẻ theo
nhóm. Cụ thể, ngoại trừ nhóm 3 cùng giảm, các nhóm đối tượng khác đều có số thẻ
tăng. Nhóm thẻ tăng nhiều nhất là nhóm 2 và nhóm 6 với Khánh Hòa (tăng 26,6%
và17,2%), nhóm 6 với Bình Định (tăng 9,3%).
Bảng 4.2. Tần suất KCB BHYT nội trú tỉnh Khánh Hòa
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn Toàn tỉnh
2013 0,02 0,13 0,11 0,17 0,13 0,03 0,18 0,19 0,09
2014 0,02 0,13 0,11 0,17 0,14 0,03 0,18 0,21 0,09
-5,1 -0,5 -0,1 -0,6 6,9 8,1 -0,3 7,6 -0,1 Sự thay đổi (%)
Bảng 4.3. Tần suất KCB BHYT nội trú tỉnh Bình Định
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm
Phù Mỹ 0,11 0,12 Phù Cát 0,09 0,09 Hoài Nhơn 0,10 0,10 Hoài Ân 0,15 0,15 Vĩnh Thạnh 0,15 0,14 An Lão 0,11 0,09 Vân Canh 0,16 0,16 Toàn tỉnh 0,11 0,11
4,9 -3,2 1,3 1,0 -9,1 -17,7 -2,4 -1,2
2013 2014 Sự thay đổi (%)
Tần suất KCB BHYT nội trú chung của cả 2 tỉnh thay đổi theo xu hướng giảm
nhẹ (giảm 0,1% ở Khánh Hòa và 1,2% ở Bình Định). Tần suất giảm ở hầu hết các
đơn vị, mức giảm lớn nhất ở Khánh Hòa là 5,1% (Nha Trang), ở Bình Định là 17,7%
(An Lão). Tần suất KCB nội trú tăng ở Cam Lâm, Cam Ranh (6,9% và 8,1%) của
Khánh Hòa và ở Phù Mỹ, Hoài Nhơn, Hoài Ân (4,9%; 1,3% và 1,0%) của Bình Định.
Bảng 4.4. Tần suất KCB BHYT ngoại trú tỉnh Khánh Hòa
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn Toàn tỉnh
2013 1,53 2,99 2,95 2,22 2,19 3,11 2,55 2,08 2,27
2014 1,49 3,00 3,25 2,00 2,26 3,36 2,46 2,01 2,34
-2,2 0,4 10,1 -9,8 3,1 8,0 -3,4 -2,9 3,2 Sự thay đổi (%)
Bảng 4.5. Tần suất KCB BHYT ngoại trú tỉnh Bình Định
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Phù Mỹ Phù Cát Hoài Nhơn Vĩnh Thạnh An Lão Vân Canh Toàn tỉnh Hoài Ân
2013 1,79 2,10 1,14 2,12 1,37 1,68 1,74 1,79
2014 1,80 2,28 1,22 2,11 2,24 1,48 1,66 1,86
0,7 8,7 6,5 18,1 5,5 7,7 -1,2 7,3
Sự thay đổi (%)
Khác với tần suất KCB nội trú, tần suất KCB ngoại trú tăng (3,2% ở tỉnh thí
điểm và 7,3% ở tỉnh đối chứng). Mức tăng cao nhất ở cơ sở là 18,1% (Hoài Ân), mức
giảm nhiều nhất là 9,8% (Vạn Ninh).
KCB BHYT tuyến xã chỉ bao gồm ngoại trú với tần suất được trình bày trong
bảng 4.6 và 4.7. Kết quả cho thấy tần suất KCB tuyến xã tăng ở 5/8 đơn vị (Khánh
Hòa) và 4/7 đơn vị (Bình Định). Số liệu toàn tỉnh tăng 5,5% (Khánh Hòa) và 3,8%
(Bình Định).
Bảng 4.6. Tần suất KCB BHYT tuyến xã của Khánh Hòa
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn Toàn tỉnh
2013 1,47 3,07 3,01 2,32 2,27 3,13 2,66 2,19 2,81
2014 1,50 3,08 3,31 2,10 2,35 3,38 2,57 2,13 2,96
2,3 0,4 9,9 -9,4 3,2 7,9 -3,3 -2,4 5,5 Sự thay đổi (%)
Bảng 4.7. Tần suất KCB BHYT tuyến xã của Bình Định
Đơn vị: Lượt/ thẻ
Năm Phù Mỹ Phù Cát Hoài Nhơn Vĩnh Thạnh An Lão Vân Canh Toàn tỉnh Hoài Ân
2013 1,92 2,28 1,51 1,53 0,79 0,88 1,64 0,95
2014 1,89 2,60 1,77 1,36 1,56 0,31 0,86 1,71
-1,1 13,6 17,3 43,6 2,3 -61,2 -2,9 3,8
Sự thay đổi (%)
Những biến đổi tổng chi KCB BHYT xảy ra được trình bày trong bảng 4.8 và
bảng 4.9.
Bảng 4.8. Tổng chi KCB BHYT tại chỗ các đơn vị của tỉnh Khánh Hòa
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm Tổng Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn
2013 34,10 17,99 16,41 16,98 10,78 6,23 7,84 4,53 114,84
2014 27,62 19,80 15,92 14,48 10,90 7,88 7,29 4,47 108,36
-19,0 10,1 -3,0 -14,7 1,1 26,6 -7,1 -1,2 -5,6 Sự thay đổi (%)
Bảng 4.9. Tổng chi KCB BHYT tại chỗ các đơn vị của tỉnh Bình Định
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm Tổng Phù Mỹ Phù Cát Hoài Nhơn Hoài Ân Vĩnh Thạnh An Lão Vân Canh
2013 18,58 19,69 13,52 9,87 6,04 3,32 4,13 75,14
2014 21,37 23,38 14,09 12,72 6,81 4,11 4,83 87,31
15,0 18,7 4,2 28,9 12,9 24,0 17,0 16,2
Sự thay đổi (%)
Tổng chi KCB của Khánh Hòa giảm từ 114,84 tỷ xuống 108,36 tỷ (giảm 5,6%).
Tổng chi giảm ở 5/8 cơ sở với mức giảm nhiều ở Nha Trang (19,0%) và Vạn Ninh
(14,7%). Các cơ sở có mức chi tại chỗ tăng là Diên Khánh, Cam Lâm và Cam Ranh.
Các số liệu của tỉnh Bình Định đều mang trị số dương ở sự thay đổi, cho thấy tổng
chi tăng ở tất cả các cơ sở, mức tăng chung toàn tỉnh là 16,2%.
Bảng 4.10. Tổng chi KCB tại chỗ theo nhóm thẻ
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Nhóm thẻ Tỉnh Năm 2013 Năm 2014 Sự thay đổi (%)
9,98 -13,8 11,59 Khánh Hòa Nhóm 1 15,06 12,8 13,35 Bình Định
19,98 3,9 19,23 Khánh Hòa Nhóm 2 31,02 10,7 28,02 Bình Định
21,21 -21,2 26,90 Khánh Hòa Nhóm 3 11,68 19,8 Bình Định 9,75
11,12 -4,4 Khánh Hòa 11,63 Nhóm 4 9,56 26,1 7,58 Bình Định
5,65 -20,4 7,09 Khánh Hòa Nhóm 5 3,12 -5,6 3,31 Bình Định
40,41 5,3 38,39 Khánh Hòa Nhóm 6 16,87 28,5 13,13 Bình Định
Sự thay đổi tổng chi giữa các nhóm thẻ khác biệt đáng kể. Tổng chi cho nhóm
thẻ 2 và 6 cùng tăng ở cả 2 tỉnh. Các nhóm thẻ khác đều có mức chi KCB giảm ở
Khánh Hòa. Bình Định có tổng chi giảm ở nhóm 5 và tăng ở các nhóm thẻ khác.
Số kết dư/ bội chi quỹ tại các đơn vị nhận định suất của 2 tỉnh được trình bày
trong bảng 4.11 và 4.12 với quy ước trị số dương là kết dư quỹ, trị số âm là bội chi
quỹ.
Bảng 4.11. Số kết dư/ bội chi quỹ tại các đơn vị nhận định suất tỉnh Khánh
Hòa
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm Nha Trang Diên Khánh Ninh Hòa Vạn Ninh Cam Lâm Cam Ranh Khánh Vĩnh Khánh Sơn Toàn tỉnh
2013 -44,51 -4,89 -21,31 -3,87 -0,17 -5,01 -1,45 0,86 -80,35
2014 -1,09 -2,06 0,62 2,48 -0,12 -1,43 0,90 -0,53 -1,22
Bảng 4.12. Số kết dư/ bội chi quỹ tại các đơn vị nhận định suất tỉnh Bình Định
Đơn vị: Tỷ VNĐ
Năm Phù Mỹ Phù Cát Hoài Nhơn Hoài Ân Vĩnh Thạnh An Lão Vân Canh Toàn tỉnh
2013 -8,09 -12,16 -2,94 -2,91 -1,14 1,45 -1,39 -27,18
2014 -12,53 -16,14 -3,00 -7,28 -2,07 1,78 -1,47 -40,70
Điểm chung của năm 2013 là tình trạng bội chi ở cả 2 tỉnh. Khánh Hòa bội chi
80,35 tỷ, có 7/8 cơ sở bội chi. Bình Định bội chi 27,18 tỷ, có 6/7 cơ sở bội chi. Năm
2014, số bội chi giảm nhiều ở Khánh Hòa nhưng tăng ở Bình Định. Khánh Hòa có
thêm 2 cơ sở kết dư còn Bình Định vẫn giữ nguyên số cơ sở bội chi quỹ định suất.
PHỤ LỤC 6. Một số kết quả nghiên cứu về sự hài lòng của người bệnh nội trú
trên 5 phương diện
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,81 ± 0,55
3,95 ± 0,84
3,7%
0,13
4
4
Khuôn viên bệnh viện xanh, sạch, đẹp
BV đối chứng
3,62 ± 0,36
3,57 ± 0,51
-1,4%
0,06
4
4
BV thí điểm
3,41 ± 0,79
3,39 ± 0,5
-0,6%
0,27
4
4
Buồng bệnh sạch sẽ, thông thoáng
BV đối chứng
3,66 ± 0,59
3,72 ± 0,44
1,6%
0,16
4
4
BV thí điểm
3,16 ± 0,84
3,25 ± 0,65
2,8%
0,18
4
4
Nhà vệ sinh thuận tiện, sử dụng tốt
BV đối chứng
3,39 ± 0,72
3,31 ± 0,56
-2,4%
0,09
4
4
BV thí điểm
3,68 ± 0,35
3,59 ± 0,52
-2,4%
0,07
4
4
Trang thiết bị, máy móc đầy đủ và hoạt động tốt
BV đối chứng
3,52 ± 0,66
3,49 ± 0,48
-0,9%
0,16
4
4
BV thí điểm
4,15 ± 0,56
4,02 ± 0,73
-3,1%
0,15
4
4
Được cung cấp quần áo đầy đủ, sạch sẽ
BV đối chứng
4,23 ± 0,32
4,26 ± 0,52
0,7%
0,03
4
4
BV thí điểm
4,18 ± 0,55
4,21 ± 0,61
0,7%
0,11
4
4
BV đối chứng
4,07 ± 0,49
4,01 ± 0,37
-1,5%
0,08
4
4
Căng tin bệnh viện phục vụ ăn uống và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
BV thí điểm
3,65 ± 0,33
3,81 ± 0,42
4,4%
4
4
Bảng 4.13. Sự hài lòng về phương diện hữu hình - BV đồng bằng
0,00
Cán bộ, nhân viên BV vui vẻ, hòa nhã
BV đối chứng
3,77 ± 0,5
3,71 ± 0,61
-1,6%
0,08
4
4
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,92 ± 0,39
3,9 ± 0,44
-0,5%
0,08
4
4
Khuôn viên bệnh viện xanh, sạch, đẹp
BV đối chứng
3,81 ± 0,56
3,72 ± 0,72
-2,4%
0,11
4
4
BV thí điểm
3,55 ± 0,48
3,69 ± 0,53
3,9%
4
4
Bảng 4.14. Sự hài lòng về phương diện hữu hình - BV miền núi
0,00
Buồng bệnh sạch sẽ, thông thoáng
BV đối chứng
3,49 ± 0,4
3,47 ± 0,32
-0,6%
0,06
4
4
BV thí điểm
3,26 ± 0,55
3,3 ± 0,67
1,2%
0,15
4
4
Nhà vệ sinh thuận tiện, sử dụng tốt
BV đối chứng
3,42 ± 0,71
3,44 ± 0,52
0,6%
0,23
4
4
BV thí điểm
3,51 ± 0,65
3,47 ± 0,59
-1,1%
0,18
4
4
Trang thiết bị, máy móc đầy đủ và hoạt động tốt
BV đối chứng
3,33 ± 0,33
3,38 ± 0,49
1,5%
0,08
4
4
BV thí điểm
3,88 ± 0,45
3,76 ± 0,51
-3,1%
0,09
4
4
Được cung cấp quần áo đầy đủ, sạch sẽ
BV đối chứng
3,92 ± 0,57
3,85 ± 0,69
-1,8%
0,17
4
4
BV thí điểm
3,77 ± 0,55
3,81 ± 0,74
1,1%
0,12
4
4
BV đối chứng
3,85 ± 0,42
3,82 ± 0,54
-0,8%
0,06
4
4
Căng tin bệnh viện phục vụ ăn uống và nhu cầu sinh hoạt thiết yếu
BV thí điểm
3,72 ± 0,53
3,89 ± 0,46
4,6%
4
4
0,00
Cán bộ, nhân viên BV vui vẻ, hòa nhã
BV đối chứng
3,6 ± 0,72
3,63 ± 0,45
0,8%
0,10
4
4
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Gia tăng (%)
Sự hài lòng của người bệnh về
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
4
BV thí điểm
3,62 ± 0,58
3,58 ± 0,66
-1,1%
0,29
4
4
BV đối chứng
3,88 ± 0,43
3,75 ± 0,57
-3,4%
0,14
4
Tin tưởng ở kết quả chẩn đoán và điều trị
4
BV thí điểm
3,66 ± 0,51
3,72 ± 0,55
1,6%
0,13
4
Chi phí KCB rõ ràng, hợp lý
4
BV đối chứng
3,51 ± 0,42
3,7 ± 0,29
5,4%
0,05
4
4
BV thí điểm
3,95 ± 0,65
3,89 ± 0,44
-1,5%
0,06
4
4
BV đối chứng
3,76 ± 0,41
3,92 ± 0,56
4,3%
4
Bảng 4.15. Sự hài lòng về phương diện tin cậy - BV đồng bằng
0,04
4
BV thí điểm
3,6 ± 0,78
3,55 ± 0,61
-1,4%
0,12
4
4
BV đối chứng
3,74 ± 0,48
3,63 ± 0,56
-2,9%
0,06
4
Bình đẳng, công bằng trong đối xử với người bệnh NVYT không có biểu hiện gợi ý bồi dưỡng
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Gia tăng (%)
Sự hài lòng của người bệnh về
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
4
BV thí điểm
3,82 ± 0,38
3,75 ± 0,58
-1,8%
0,15
4
4
BV đối chứng
3,76 ± 0,47
3,71 ± 0,32
-1,3%
0,07
4
Tin tưởng ở kết quả chẩn đoán và điều trị
4
BV thí điểm
3,9 ± 0,55
3,91 ± 0,59
0,3%
0,06
4
Chi phí KCB rõ ràng, hợp lý
4
BV đối chứng
3,75 ± 0,48
3,72 ± 0,43
-0,8%
0,05
4
4
BV thí điểm
3,81 ± 0,52
3,79 ± 0,61
-0,5%
0,06
4
4
BV đối chứng
3,78 ± 0,49
3,82 ± 0,64
1,1%
0,14
4
4
BV thí điểm
3,86 ± 0,62
3,82 ± 0,57
-1,0%
0,11
4
4
BV đối chứng
3,85 ± 0,45
3,84 ± 0,32
-0,3%
0,08
4
Bình đẳng, công bằng trong đối xử với người bệnh NVYT không có biểu hiện gợi ý bồi dưỡng
Bảng 4.16. Sự hài lòng về phương diện tin cậy - BV miền núi
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,37 ± 0,52
3,62 ± 0,39
7,4%
4
4
Bảng 4.17. Sự hài lòng về phương diện đáp ứng - BV đồng bằng
0,00
Được bác sĩ thăm khám, tư vấn, động viên
BV đối chứng
3,45 ± 0,67
3,48 ± 0,54
0,9%
0,11
4
4
BV thí điểm
3,51 ± 0,59
3,67 ± 0,37
4,6%
4
4
0,01
Được hướng dẫn về quy trình khám chữa bệnh
BV đối chứng
3,85 ± 0,58
3,74 ± 0,32
-2,9%
0,06
4
4
BV thí điểm
3,42 ± 0,52
3,67 ± 0,47
7,3%
4
4
0,01
BV đối chứng
3,84 ± 0,49
3,77 ± 0,36
-1,8%
4
4
0,03
Được cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị
BV thí điểm
3,59 ± 0,35
3,79 ± 0,51
5,6%
4
4
0,00
Hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết
BV đối chứng
3,63 ± 0,47
3,65 ± 0,60
0,6%
4
4
0,04
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
BV thí điểm
3,44 ± 0,55
3,65 ± 0,51
6,1%
4
4
Bảng 4.18. Sự hài lòng về phương diện đáp ứng - BV miền núi
0,00
Được bác sĩ thăm khám, tư vấn, động viên
BV đối chứng
3,52 ± 0,59
3,5 ± 0,65
-0,6%
0,05
4
4
BV thí điểm
3,66 ± 0,41
3,79 ± 0,49
3,6%
4
4
0,00
Được hướng dẫn về quy trình khám chữa bệnh
BV đối chứng
3,61 ± 0,74
3,64 ± 0,48
0,8%
0,19
4
4
BV thí điểm
3,37 ± 0,67
3,58 ± 0,55
6,2%
4
4
0,00
BV đối chứng
3,49 ± 0,81
3,52 ± 0,38
0,9%
0,22
4
4
Được cung cấp đầy đủ thông tin về xét nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị
BV thí điểm
3,6 ± 0,52
3,75 ± 0,53
4,2%
4
4
0,01
Hỏi và gọi được nhân viên y tế khi cần thiết
BV đối chứng
3,52 ± 0,68
3,5 ± 0,47
-0,6%
0,08
4
4
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Gia tăng (%)
Sự hài lòng của người bệnh về
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
4
BV thí điểm
3,97 ± 0,87
3,84 ± 0,72
-3,3%
0,16
4
Bác sĩ có chuyên môn giỏi
4
BV đối chứng
3,76 ± 0,59
3,83 ± 0,49
1,9%
0,22
4
4
BV thí điểm
3,62 ± 0,56
3,79 ± 0,33
4,7%
4
Bảng 4.19. Sự hài lòng về phương diện đảm bảo - BV đồng bằng
0,04
Nhân viên y tế nhiệt tình, tận tụy
4
BV đối chứng
3,81 ± 0,52
3,75 ± 0,57
-1,6%
0,05
4
4
BV thí điểm
4,08 ± 0,62
3,89 ± 0,76
-4,7%
0,30
4
Được tôn trọng và giữ kín bí mật riêng tư
4
BV đối chứng
3,96 ± 0,71
4,13 ± 0,38
4,3%
0,17
4
4
BV thí điểm
3,88 ± 0,49
3,92 ± 0,55
1,0%
0,18
4
4
BV đối chứng
4,06 ± 0,41
3,96 ± 0,53
-2,5%
0,07
4
Đảm bảo an ninh, an toàn khi khám chữa bệnh
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Gia tăng (%)
Sự hài lòng của người bệnh về
Mean ± SD Median Mean ± sd Median
4
BV thí điểm
3,74 ± 0,61
3,71 ± 0,59
-0,8%
0,09
4
Bác sĩ có chuyên môn giỏi
4
BV đối chứng
3,82 ± 0,57
3,86 ± 0,49
1,0%
0,06
4
4
BV thí điểm
3,72 ± 0,51
3,81 ± 0,37
2,4%
4
Bảng 4.20. Sự hài lòng về phương diện đảm bảo - BV miền núi
0,00
Nhân viên y tế nhiệt tình, tận tụy
4
BV đối chứng
3,69 ± 0,85
3,72 ± 0,42
0,8%
0,17
4
4
BV thí điểm
3,85 ± 0,39
3,89 ± 0,72
1,0%
0,21
4
Được tôn trọng và giữ kín bí mật riêng tư
4
BV đối chứng
3,91 ± 0,47
3,84 ± 0,55
-1,8%
0,07
4
4
BV thí điểm
3,74 ± 0,52
3,7 ± 0,61
-1,1%
0,12
4
4
BV đối chứng
3,91 ± 0,73
3,86 ± 0,54
-1,3%
0,15
4
Đảm bảo an ninh, an toàn khi khám chữa bệnh
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
3,62 ± 0,38
3,79 ± 0,61
4,7%
4
4
Bảng 4.21. Sự hài lòng về phương diện cảm thông - BV đồng bằng
0,00
3,76 ± 0,57
3,62 ± 0,56
-3,7%
0,06
4
4
3,52 ± 0,54
3,71 ± 0,43
5,4%
4
4
0,01
3,67 ± 0,62
3,64 ± 0,84
-0,8%
0,12
4
4
Y bác sĩ cảm thông, chia sẻ với tình trạng bệnh tật và sự lo lắng của người bệnh Sự chăm sóc y tế của y bác sĩ phù hợp với tình trạng bệnh tật và hoàn cảnh của người bệnh
3,94 ± 0,66
3,89 ± 0,57
-1,3%
0,10
4
4
Thời gian khám chữa bệnh được bố trí phù hợp, thuận tiện
3,75 ± 0,79
3,71 ± 0,40
-1,1%
0,13
4
4
3,59 ± 0,62
3,73 ± 0,53
3,9%
0,06
4
4
Nhân viên y tế luôn chú ý tới người bệnh
3,88 ± 0,70
3,81 ± 0,59
-1,8%
4
4
0,02
BV thí điểm BV đối chứng BV thí điểm BV đối chứng BV thí điểm BV đối chứng BV thí điểm BV đối chứng
Trước thí điểm
Sau thí điểm
N = 120
p
Sự hài lòng của người bệnh về
Gia tăng (%)
Mean ± SD Median Mean ± SD Median
3,52 ± 0,32
3,69 ± 0,43
4,8%
4
4
Bảng 4.22. Sự hài lòng về phương diện cảm thông - BV miền núi
0,00
3,61 ± 0,46
3,58 ± 0,59
-0,8%
0,18
4
4
3,76 ± 0,57
3,72 ± 0,65
-1,1%
0,06
4
4
3,55 ± 0,51
3,63 ± 0,68
2,3%
0,10
4
4
Y bác sĩ cảm thông, chia sẻ với tình trạng bệnh tật và sự lo lắng của người bệnh Sự chăm sóc y tế của y bác sĩ phù hợp với tình trạng bệnh tật và hoàn cảnh của người bệnh
3,86 ± 0,42
3,85 ± 0,39
-0,3%
0,07
4
4
Thời gian khám chữa bệnh được bố trí phù hợp, thuận tiện
3,82 ± 0,59
3,85 ± 0,56
0,8%
0,13
4
4
3,45 ± 0,48
3,62 ± 0,54
4,9%
4
4
0,04
Nhân viên y tế luôn chú ý tới người bệnh
3,61 ± 0,51
3,56 ± 0,84
-1,4%
0,11
4
4
BV thí điểm BV đối chứng BV thí điểm BV đối chứng BV thí điểm BV đối chứng BV thí điểm BV đối chứng