BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐẶNG HẢI YẾN

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

VÀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ – NGHIÊN CỨU TẠI CÁC

NƯỚC ASEAN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2023

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP. HỒ CHÍ MINH

NGUYỄN ĐẶNG HẢI YẾN

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

VÀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ – NGHIÊN CỨU TẠI CÁC

NƯỚC ASEAN

LUẬN ÁN TIẾN SĨ

BẢO VỆ CẤP TRƯỜNG

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng

Mã số: 9.34.02.01

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS HẠ THỊ THIỀU DAO

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2023

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi tên Nguyễn Đặng Hải Yến, nghiên cứu sinh Khóa 24, niên khóa 2020 - 2023,

Trường Đại Học Ngân Hàng TP. Hồ Chí Minh. Tôi cam đoan rằng luận án này chưa từng

được trình nộp để lấy học vị tại bất cứ một cơ sở đào tạo nào. Luận án này là công trình nghiên

cứu riêng của tác giả với sự hướng dẫn của người hướng dẫn khoa học. Kết quả nghiên cứu

trong luận án này là trung thực, trong đó không có các nội dung đã được công bố trước đây

hoặc các nội dung do người khác thực hiện ngoại trừ các trích dẫn được dẫn nguồn đầy đủ

trong luận án.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 2 năm 2023

Người cam đoan

ii

LỜI CẢM ƠN

Lời đầu tiên, tôi xin kính gửi lời tri ân sâu sắc đến người hướng dẫn khoa học của tôi là

PGS. TS Hạ Thị Thiều Dao. Cô đã hướng dẫn rất tận tình, đóng góp nhiều ý kiến hữu ích đối

với các nội dung nghiên cứu của luận án và thường xuyên động viên tôi hoàn thành luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí

Minh đã giảng dạy và trang bị những kiến thức cần thiết trong quá trình học tập, nghiên cứu.

Tôi cũng xin gửi lời cảm ơn đến các Thầy, Cô phòng Sau đại học và các phòng ban liên quan

đã hỗ trợ nhiệt tình cho tôi trong việc hoàn thành các thủ tục trong quá trình nghiên cứu tại

Trường.

Lời cuối cùng, tôi xin gửi lời tri ân đến Trường Đại học Ngân hàng Thành phố Hồ Chí

Minh đã hỗ trợ về kinh phí cũng như các Anh, Chị đồng nghiệp đã tạo điều kiện tốt nhất cho

tôi hoàn thành công việc và học tập như mong muốn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự chia sẻ

và động viên của Gia đình, là nguồn động lực to lớn để tôi cố gắng thực hiện và hoàn thành

luận án.

TP. Hồ Chí Minh, ngày 10 tháng 2 năm 2023

Tác giả luận án

iii

TÓM TẮT LUẬN ÁN

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG VÀ CHẤT

LƯỢNG THỂ CHẾ - NGHIÊN CỨU TẠI CÁC NƯỚC ASEAN

Từ sau khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008, thúc đẩy tài chính toàn diện với mục tiêu

tăng khả năng tiếp cận các dịch vụ tài chính cho người dân – được coi là nhiệm vụ ưu tiên

hàng đầu của nhiều quốc gia, trong đó có các nước ASEAN (Rahman, 2015; Tambunlertchai,

2015). Các nghiên cứu trên thế giới đã đưa ra các khái niệm khác nhau về tài chính toàn diện,

xây dựng cách đo lường tài chính toàn diện, phân tích và cung cấp các bằng chứng cho thấy

vai trò của tài chính toàn diện đối với tăng trưởng kinh tế và phát triển bền vững (García,

2016; Sarma, 2012; Sarma & Pais, 2011).

Cũng từ sau năm 2008, ngoài vấn đề tài chính toàn diện, ổn định ngân hàng cũng là vấn

đề được đề cập, quan tâm nhiều (Ovi & ctg., 2014). Bàn về tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng, các nghiên cứu trên thế giới có các quan điểm khác nhau (Hannig &

Jansen, 2010; Neaime & Gaysset, 2018). Một số nghiên cứu cho rằng tài chính toàn diện tác

động thuận chiều đến ổn định ngân hàng trong khi đó một số nghiên cứu chỉ ra tác động ngược

chiều của tài chính toàn diện. Hơn nữa, tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân

hàng lại phụ thuộc vào các yếu tố khác bên ngoài như chất lượng thể chế. Theo đó, chất lượng

thể chế của các quốc gia khác nhau thì ảnh hưởng của tài chính toàn diện đến ổn định ngân

hàng cũng khác nhau (Ahamed & Mallick, 2019). Song, ở các nước ASEAN, chưa có nghiên

cứu nào thật sự chú ý đến việc điều tra xem ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động

của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng như thế nào. Trong khi đó chất lượng thể chế

là một nhân tố quan trọng, đảm bảo và định hướng các hoạt động trong nền kinh tế, được thực

hiện một cách có quy tắc, trật tự, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Do vậy, nghiên cứu về

ảnh hưởng của chất lượng thể chế là thật sự cần thiết, không chỉ mang lại ý nghĩa hết sức to

lớn cho các nhà hoạch định chính sách ở các quốc gia này, mà còn có ý nghĩa đối với những

quốc gia có hệ thống tài chính và chất lượng thể chế tương tự.

Từ sự thiếu hụt này, luận án thực hiện đề tài nghiên cứu “Tài chính toàn diện, ổn định

ngân hàng và chất lượng thể chế - Nghiên cứu ở các nước ASEAN” nhằm bổ sung thêm cơ

sở lý luận cũng như bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện, của chất

lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của

tài chính toàn diện đến sự ổn định của hệ thống ngân hàng. Nghiên cứu được thực hiện với

iv

mẫu 157 ngân hàng ở tám quốc gia khu vực ASEAN (Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia,

Philippines, Singapore, Thái Lan, Việt Nam) trong thời gian 2010 – 2020.

Đầu tiên, luận án trình bày các cơ sở lý luận về ổn định ngân hàng, tài chính toàn diện và

chất lượng thể chế. Với ổn định ngân hàng, luận án xem nó là ổn định của từng ngân hàng, từ

đó luận án sử dụng chỉ số Z-Score để đo lường. Ngoài ra, luận án còn quan sát sự ổn định của

các ngân hàng ở các nước có ảnh hưởng qua lại thông qua chỉ số Z-Score hiệu chỉnh và tỷ lệ

nợ xấu. Với tài chính toàn diện, luận án xác định khái niệm của thuật ngữ này trên ba khía

cạnh: thâm nhập, sẵn có và sử dụng, do vậy luận án cũng sẽ đo lường tài chính toàn diện trên

ba phương diện này. Với chất lượng thể chế, luận án xác định nó trên khía cạnh thể chế quản

trị, vì vậy để đo lường chất lượng thể chế, luận án sử dụng bộ chỉ số quản trị công toàn cầu

của Ngân hàng Thế giới. Tiếp theo, luận án đưa ra các lý thuyết làm cơ sở để giải thích tác

động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của

chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Tiếp theo, luận

án tiến hành lược khảo các nghiên cứu liên quan để xác định khe hở mà nghiên cứu có thể lấp

đầy.

Sau khi xác định khe hở nghiên cứu, dựa trên các lý thuyết, luận án sử dụng phương pháp

SGMM, để đánh giá tác động của tài chính toàn diện, chất lượng thể chế đến ổn định ngân

hàng và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định

ngân hàng. Kết quả nghiên cứu cho thấy tài chính toàn diện có tác động làm giảm ổn định,

trong khi đó chất lượng thể chế có tác động làm gia tăng mức độ ổn định của hệ thống ngân

hàng ở các nước ASEAN. Kết quả này đồng nhất với một số nghiên cứu thực nghiệm khác

đã được thực hiện trước đó. Ngoài ra, chất lượng thể chế có ảnh hưởng lớn, điều chỉnh tác

động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN theo hướng có lợi cho

ngân hàng. Đây là kết luận trọng yếu nhất của luận án. Bên cạnh đó, ngoài việc đánh giá ảnh

hưởng chất lượng thể chế dựa trên biến chất lượng thể chế tổng hợp, luận án còn đánh giá

riêng lẻ từng khía cạnh. Kết quả cho thấy các khía cạnh như kiểm soát tham nhũng, ổn định

chính trị, hiệu quả chính phủ và quy tắc luật pháp có ảnh hưởng thuận chiều đến tác động của

tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Khía cạnh còn lại chất lượng quy định có ảnh hưởng

ngược chiều và khía cạnh tiếng nói và trách nhiệm giải trình không có ý nghĩa trong mô hình.

Ngoài ra, luận án cũng đã chỉ ra các biến kiểm soát khác như quy mô ngân hàng, quy mô tín

dụng, đa dạng hóa thu nhập, hay tỷ lệ lạm phát có tác động đến ổn định ngân hàng. Kết quả

này của nghiên cứu đã có đóng góp cả về lý luận, và thực tiễn.

v

Cuối cùng, thúc đẩy tài chính toàn diện không phải là việc đơn giản, vì khi thực hiện nó

sẽ làm thay đổi cấu trúc hệ thống tài chính, dẫn đến ảnh hưởng đến sự ổn định hệ thống tài

chính nói chung và ổn định ngân hàng nói riêng. Để đạt được mục tiêu khi thực hiện tài chính

toàn diện mà vẫn gia tăng mức ổn định ngân hàng, luận án đưa ra hàm ý chính sách dành cho

chính phủ, ngân hàng ở các nước ASEAN. Ngoài ra việc duy trì một nền kinh tế tăng trưởng,

ổn định cũng rất quan trọng cho cả việc thúc đẩy tài chính toàn diện và ổn định hệ thống ngân

hàng.

Từ khóa: Tài chính toàn diện, ổn định ngân hàng, rủi ro ngân hàng, chất lượng thể chế,

ASEAN.

vi

SUMMARY OF THESIS

Since the world economic crisis in 2008, promoting financial inclusion to increase access

to financial services for people - is considered a top priority task of many countries in which

there are ASEAN countries (Rahman, 2015; Tambunlertchai, 2015). Researchers worldwide

have introduced different concepts of financial inclusion, built a way to measure financial

inclusion, and analyzed and provided evidence showing the positive role of financial inclusion

in economic growth and sustainable development (García, 2016; Sarma, 2012; Sarma & Pais,

2011).

Also, after 2008, in addition to the issue of financial inclusion, banking stability is a matter

of great concern in countries (Ovi & ctg., 2014). Regarding the impact of financial inclusion

on banking stability, researchers worldwide have different views (Hannig & Jansen, 2010;

Neaime & Gaysset, 2018). Some studies suggest that financial inclusion positively impacts

bank stability, while some studies indicate a negative impact of financial inclusion.

Furthermore, the effect of financial inclusion on bank stability depends on other external

factors, such as institutional quality. Accordingly, the institutional quality of different

countries and the impact of financial inclusion on banking stability are also various (Ahamed

& Mallick, 2019). However, in ASEAN countries, no research has paid attention to

investigating the effect of institutional quality on the impact of financial inclusion on banking

stability. Meanwhile, institutional quality is an essential factor that ensures activities in the

economy are carried out in an orderly and orderly manner to achieve the set objectives.

Therefore, research on the influence of institutional quality is necessary, not only of great

significance for policymakers in these countries but also for countries with similar financial

systems and institutional quality.

Of this lack of research, the thesis implements the research topic "Financial inclusion,

banking stability, and institutional quality - Research in ASEAN countries" to add theoretical

basis and empirical evidence on the impact of financial inclusion, the impact of institutional

quality on banking stability, and the influence of institutional quality of the effects of financial

inclusion on the strength of the banking system. The study was conducted within 157 banks

in eight ASEAN countries (Cambodia, Indonesia, Laos, Malaysia, Philippines, Singapore,

Thailand, and Vietnam) during 2010-2020.

vii

Firstly, the thesis has presented the theoretical bases on banking stability, financial

inclusion, and institutional quality in this study. With bank stability, the theory considers the

stability of each bank, from which the author uses the Z-Score index to measure. In addition,

the thesis also observes that the stability of banks in different countries is interrelated through

the adjusted Z-Score index and the non-performing loan. Regarding financial inclusion, the

thesis defines the concept of this term in three aspects: penetration, availability, and use, so

the thesis will also measure financial inclusion in these three aspects. With institutional

quality, the thesis identifies the element of governance institutions, so to measure institutional

quality, the theory uses the World Bank's global public governance index. The thesis provides

theories to explain the impact of financial inclusion, institutional quality on bank stability,

and the influence of institutional quality on financial inclusion to stabilize the bank. Next, the

thesis reviews related studies to identify gaps that research can fill.

After identifying the research gap, based on the theories, the thesis uses the SGMM

method to assess the impact of financial inclusion, institutional quality on bank stability, and

the influence of institutional quality on the effect of financial inclusion on bank stability.

Research results show that financial inclusion hurts stability, while institutional quality

impacts increase the strength of the banking system in ASEAN countries. This result is

consistent with some other experimental studies that have been done before. In addition,

institutional quality has a significant influence, reducing the negative impact of financial

inclusion on banking stability in ASEAN countries. This is the most important conclusion of

the thesis. In addition to assessing the influence of institutional quality based on the aggregate

institutional quality variable, the thesis also evaluates each aspect individually. The results

show that factors such as corruption control, political stability, government efficiency, and

the rule of law positively influence financial inclusion's impact on bank stability. The

remaining aspect of regulatory quality has a negative influence, and the voice and

accountability aspect are not significant in the model. Besides, the thesis has also shown that

other control variables, such as bank size, loan, income diversification, or the inflation rate,

impact bank stability. The results of this study have contributed both theoretically and

practically.

Finally, promoting financial inclusion is not easy because, when implemented, it will

change the structure of the financial system, which will affect the stability of the financial

system in general and the stability of banks. To achieve the goal of implementing financial

viii

inclusion while still increasing banking stability, the thesis proposes several implications for

the governments of ASEAN countries with an emphasis on improving financial inclusion and

institutional quality. In addition, maintaining a growing, stable economy is also essential for

promoting financial inclusion and stabilizing the banking system.

Keywords: Financial inclusion, banking stability, banking risk, institutional quality,

ASEAN.

ix

DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

Từ viết tắt Tên tiếng Anh Tên tiếng việt

ADB Asian Development Bank Ngân hàng Phát triển Châu Á

AFI Alliance for Financial Inclusion Liên minh tài chính toàn diện

ASEAN Association of South- East Asian Hiệp hội các quốc gia Đông

Nations Nam Á

ATM Automatic Teller Machine Máy rút tiền tự động

BNM Bank Negara Malaysia Ngân hàng Trung ương

Malaysia

DIV Diversification income Đa dạng hóa thu nhập

DVTC Dịch vụ tài chính

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

IFI Index of Financial Inclusion Chỉ số tài chính toàn diện

IMF International Monetary Fund Quỹ Tiền tệ Thế giới

ETA The equity to assets ratio Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng

tài sản

INF Inflation Lạm phát

FAS Financial Access Survey Khảo sát Tiếp cận tài chính

FSIs Financial Soundness Indicators Chỉ số lành mạnh tài chính

GDP Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội

IFI Index of Financial inclusion Tài chính toàn diện

IMF International Monetary Fund Quỹ tiền tệ thế giới

LTA Loan to assets Tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản

MAQ The ratio of total earning assets to Tỷ lệ tài sản sinh lời trên tổng

total assets tài sản

NHTW Ngân hàng trung ương

NHTM Ngân hàng thương mại

NPL Non - performing loan Nợ xấu

ROA Return on assets Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên

tổng tài sản

x

ROE Return on equity Tỷ lệ lợi nhuận sau thuế trên

vốn chủ sở hữu

SGMM System Generalized Method of

Moments

UNCDF United Nations Capital Quỹ phát triển vốn Liên Hiệp

Development Fund Quốc

Tổ chức tài chính TCTC

Thông tin bất cân xứng TTBCX

Worldwide Governance Indicators Chỉ số quản trị công toàn cầu WGI

World Bank Ngân hàng Thế giới World

Bank

xi

MỤC LỤC

Lời cam đoan ........................................................................................................................... i

Lời cảm ơn ............................................................................................................................. ii

Tóm tắt luận án ..................................................................................................................... iii

Danh mục từ viết tắt .............................................................................................................. ix

Danh mục bảng ................................................................................................................... xiv

Danh mục hình .................................................................................................................... xvi

ĐANH MỤC BẢNG ............................................................................................................ xiv

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU ....................................................................... 1

1.1.SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU ........................................................................ 1

1.2.MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU .................................................................. 5 1.2.1. Mục tiêu tổng quát ................................................................................................ 5

1.2.2. Mục tiêu cụ thể ..................................................................................................... 5

1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................... 5 1.3.ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU .............................................................. 5

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................... 5

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu .............................................................................................. 6

1.4.PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ......................................................... 7

1.4.1. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................... 7

1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu ............................................................................................... 9

1.5.ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN ...................................................................................... 9

1.6.KẾT CẤU LUẬN ÁN ................................................................................................. 10

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1..................................................................................................... 12

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM

................................................................................................................................................ 13

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG ......................... 13 2.1.1. Khái niệm về ổn định ngân hàng ......................................................................... 13 2.1.2. Đo lường ổn định ngân hàng ............................................................................... 16

2.1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống ngân hàng .............................. 20 2.1.3.1. Các nhân tố bên trong ................................................................................. 20

2.1.3.2. Các nhân tố bên ngoài ................................................................................. 24

2.1.4. Lý thuyết về ổn định ngân hàng ......................................................................... 25 2.2.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ..................................................... 26 2.2.1. Khái niệm tài chính toàn diện ............................................................................. 26 2.2.2. Đo lường tài chính toàn diện ............................................................................... 29

xii

2.2.3. Lý thuyết về tài chính toàn diện ......................................................................... 33

2.3.CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ .................................................... 34

2.3.1. Khái niệm chất lượng thể chế .............................................................................. 34 2.3.1.1. Khái niệm thể chế ......................................................................................... 34

2.3.1.2. Khái niệm chất lượng thể chế ...................................................................... 38

2.3.2. Đo lường chất lượng thể chế ............................................................................... 38

2.3.3. Lý thuyết về thể chế ............................................................................................ 42

2.4.TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG ........... ..................................................................................................................................... 45

2.4.1. Tài chính toàn diện tác động thuận chiều với ổn định ngân hàng ....................... 45

2.4.2. Tài chính toàn diện tác động ngược chiều ổn định ngân hàng ............................ 48

2.5.TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG ...... 49 2.6.ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA TÀI

CHÍNH TOÀN DIỆN LÊN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG .................................................... 52

2.7.LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG,

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ............................................ 54

2.7.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng....................................................................................................................... 54

2.7.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của chất lượng thể chế đến ổn định

ngân hàng....................................................................................................................... 60

2.7.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác

động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng .................................................... 66

2.7.4. Khoảng trống nghiên cứu ................................................................................... 67

2.8.KHUNG PHÂN TÍCH ................................................................................................. 69

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2..................................................................................................... 70

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ............................................................... 71

3.1. GIẢ THUYẾT ............................................................................................................ 71 3.2. MÔ HÌNH, CÁC BIẾN VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU ............................................ 74 3.2.1. Mô hình nghiên cứu ............................................................................................ 74

3.2.2. Các biến ............................................................................................................... 75 3.2.2.1. Ổn định ngân hàng ....................................................................................... 75

3.2.2.2. Tài chính toàn diện ...................................................................................... 76

3.2.2.3. Chất lượng thể chế ....................................................................................... 80

3.2.2.4. Biến sức mạnh thị trường ............................................................................. 82

3.2.2.5. Các biến kiểm soát khác............................................................................... 83

3.2.3. Dữ liệu nghiên cứu .............................................................................................. 89

xiii

3.3. PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG ............................................................................... 90

3.4. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH ............................................................................................. 91

3.4.1. Kiểm tra đa cộng tuyến ....................................................................................... 91

3.4.2. Kiểm định tự tương quan..................................................................................... 91 3.4.3. Kiểm định phương sai thay đổi ........................................................................... 92

3.4.4. Kiểm định tính hợp lý của biến công cụ ............................................................. 92 KẾT LUẬN CHƯƠNG 3..................................................................................................... 94

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN .......................................... 95

4.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG, TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ

CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ Ở CÁC NƯỚC ASEAN ....................................................... 95

4.1.1. Mức độ ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN ................................................. 95 4.1.2. Mức độ tài chính toàn diện ở các nước ASEAN ................................................. 97

4.1.3. Mức độ chất lượng thể chế ở các nước ASEAN ............................................... 109

4.2. TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ VÀ ỔN ĐỊNH NGÂN

HÀNG Ở CÁC NƯỚC ASEAN ...................................................................................... 115

4.2.1. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu ................................................................... 115

4.2.2. Kiểm định tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định

ngân hàng tại các nước ASEAN .................................................................................. 117

4.2.3. Kiểm định ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn

diện đến ổn định ngân hàng ......................................................................................... 121

4.2.4. Thảo luận kết quả nghiên cứu .......................................................................... 127

4.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN KIỂM SOÁT ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG TẠI

CÁC NƯỚC ASEAN ...................................................................................................... 133

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4................................................................................................... 137

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH ................................................. 138 5.1. KẾT QUẢ CỦA LUẬN ÁN .................................................................................... 138

5.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH .................................................................................. 139

5.2.1. Tài chính toàn diện ............................................................................................ 139 5.2.2. Chất lượng thể chế ............................................................................................. 141 5.2.3. Vấn đề nội tại của các ngân hàng ở khu vực ASEAN ...................................... 142

5.3. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO .............. 146 KẾT LUẬN CHƯƠNG 5................................................................................................... 149

xiv

ĐANH MỤC BẢNG

Bảng 2. 1.Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đến ổn

định ngân hàng ....................................................................................................................... 57

Bảng 2. 2.Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng ....................................................................................................................... 63

Bảng 3. 1. Hệ số tương quan giữa các khía cạnh của chỉ số tài chính toàn diện ................... 77

Bảng 3. 2. Kết quả tính chỉ số tài chính toàn diện theo phương pháp PCA .......................... 78

Bảng 3. 3. Ma trận mối tương quan giữa các chỉ số tài chính toàn diện thay thế và chỉ số tài

chính toàn diện mới được xây dựng ....................................................................................... 79

Bảng 3. 4. Xác minh sức mạnh của chỉ số tài chính toàn diện mới được xây dựng trong việc

dự đoán các chỉ số tài chính toàn diện khác nhau .................................................................. 80

Bảng 3. 5. Ma trận tương quan giữa các chỉ số chất lượng thể chế ....................................... 81

Bảng 3. 6. Chỉ số chất lượng thể chế theo phương pháp PCA .............................................. 81

Bảng 3. 7. Bảng tổng hợp mô tả các biến .............................................................................. 86

Bảng 4. 1. Chỉ số Z-Score trung bình của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung

của khu vực ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020 ................................................................ 95

Bảng 4. 2. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung của khu vực

ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020 ..................................................................................... 96

Bảng 4. 3. Tốc độ tăng trưởng số lượng chi nhánh ngân hàng trong 100.000 người trưởng

thành ....................................................................................................................................... 98

Bảng 4. 4. Tốc độ tăng trưởng số lượng ATM trên 100.000 người trưởng thành ................. 99

Bảng 4. 5.Tốc độ tăng trưởng chi nhánh ngân hàng trên 1.000 km2 ................................... 101

Bảng 4. 6. Tốc độ tăng trưởng ATM trên 1.000 km2 của các nước ASEAN ...................... 102

Bảng 4. 7. Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP của các nước ASEAN . 103

Bảng 4. 8. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện ................................. 104

Bảng 4. 9. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện ................................. 105

Bảng 4. 10. Chỉ số IFI của các nước ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020 ........................ 108

Bảng 4. 11. Số liệu thống kê về các chỉ số phụ của chất lượng thể chế .............................. 113

xv

Bảng 4. 12. Số liệu thống kê về các chỉ số phụ của chất lượng thể chế .............................. 114

Bảng 4. 13.Thống kê mô tả các biến .................................................................................... 116

Bảng 4. 14. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ước lượng Z-score .... 117

Bảng 4. 15. Nhân tử phóng đại của các biến trong mô hình ................................................ 118

Bảng 4. 16. Tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng

.............................................................................................................................................. 119

Bảng 4. 17. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ước lượng Z-score .... 122

Bảng 4. 18. Nhân tử phóng đại của các biến trong mô hình ................................................ 122

Bảng 4. 19. Ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện đến

ổn định ngân hàng ................................................................................................................ 123

Bảng 4. 20. Kiểm định tính vững chắc của kết quả nghiên cứu .......................................... 125

Bảng 4. 21.Tương tác giữa các khía cạnh của chất lượng thể chế và tài chính toàn diện ... 127

Bảng 4. 22.Tổng hợp kết quả chính của nghiên cứu ............................................................ 129

xvi

DANH MỤC HÌNH

Hình 1.1 Chỉ số Z-Score trung bình của các nước ASEAN .................................................... 4

Hình 1.2. Quy trình nghiên cứu ............................................................................................... 8

Hình 2.1. Các cấp độ của thể chế ........................................................................................... 37

Hình 2.2. Khung phân tích vấn đề nghiên cứu ...................................................................... 69

Hình 4.1. Các chỉ số phản ánh chất lượng thể chế của các nước ASEAN năm 2020 ......... 110

Hình 4.2. Xếp hạng thứ bậc chất lượng thể chế ở các nước ASEAN năm 2020 ................. 112

Hình 4.3. Chất lượng thể chế của khu vực ASEAN giai đoạn 2010 - 2020 ........................ 112

1

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU NGHIÊN CỨU

Chương 1 của luận án trình bày tổng quát về nghiên cứu từ lý do chọn đề tài, mục tiêu,

câu hỏi, đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu và ý nghĩa của luận án, trong đó, luận

án làm rõ lý do chọn đề tài nhằm nhấn mạnh tính cấp thiết của đề tài. Ý nghĩa của luận án về

mặt khoa học, thực tiễn cũng được trình bày trong Chương 1. Cuối cùng, bố cục của luận án

được đưa ra nhằm giúp người đọc có thể hình dung cấu trúc của luận án.

1.1. SỰ CẦN THIẾT CỦA NGHIÊN CỨU

Hệ thống ngân hàng đóng vai trò là huyết mạch của nền kinh tế (Baum & ctg., 2021;

Davies & ctg., 2010), sự ổn định ngân hàng đảm bảo cho sự ổn định của nền kinh tế vì vậy

các nghiên cứu trên thế giới rất quan tâm đến các yếu tố tác động đến sự ổn định ngân hàng

để tìm ra các giải pháp gia tăng mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng. Các yếu tố ảnh

hưởng đến ổn định ngân hàng đến từ đặc điểm của ngân hàng như quy mô tài sản, quy mô

vốn chủ sở hữu, cạnh tranh, đa dạng hóa thu nhập, hiệu quả quản lý (Ahamed & Mallick,

2017; Albaity & ctg., 2019; Beck & ctg., 2013; Bermpei & ctg., 2018; Goetz, 2018); các yếu

tố kinh tế vĩ mô như lạm phát, tốc độ tăng trưởng kinh tế, thất nghiệp (Albaity & ctg.,

2019; .Asli Demirgüç-Kunt & Detragiache, 1997). Tuy nhiên, các nghiên cứu về ổn định

ngân hàng ở các nước hiện nay tập trung chủ yếu vào các yếu tố nội tại ngân hàng, các yếu tố

vĩ mô và ít quan tâm đến chất lượng thể chế, tài chính toàn diện và còn nhiều tranh cãi về

hướng tác động.

Tài chính toàn diện được hiểu một cách tổng quát là việc tiếp cận các DVTC một cách dễ

dàng, sẵn có và thuận lợi cho tất cả các thành viên trong nền kinh tế, đặc biệt là những người

yếu thế, người có thu nhập thấp. Vậy mục đích chủ yếu khi thực hiện tài chính toàn diện là

tăng khả năng tiếp cận tài chính cho người dân, đặc biệt đối với những người có thu nhập

thấp. Việc thực hiện tài chính toàn diện sẽ thay đổi cấu trúc hệ thống tài chính, từ đó ảnh

hưởng đến sự ổn định của hệ thống tài chính nói chung và ổn định ngân hàng nói riêng. Thúc

đẩy tài chính toàn diện, ít nhiều sẽ thay đổi cấu trúc của hệ thống tài chính và ảnh hưởng đến

sự ổn định ngân hàng (Ozili, 2020).

Lược khảo các nghiên cứu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, luận án nhận thấy: Thứ nhất,

về tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, các nhà nghiên cứu đã đưa ra nhiều

bằng chứng cho thấy mối quan hệ tuyến tính giữa tài chính toàn diện và ổn định ngân hàng.

Theo đó, tài chính toàn diện có tác động thuận chiều hoặc ngược chiều đến ổn định ngân hàng.

Tác động thuận chiều của tài chính toàn diện đến sự ổn định của ngân hàng được lý giải theo

2

hướng tài chính toàn diện cải thiện cơ sở tiền gửi tiết kiệm (Cull & ctg., 2012; Han & Melecky,

2013; Hannig & Jansen, 2010; Hawkins, 2006) và đa dạng hóa các khoản vay ngân hàng

(Khan, 2011), từ đó giảm xác suất vỡ nợ tín dụng và bảo vệ hệ thống khỏi nguy cơ phá sản.

Ở góc độ khác, ổn định ngân hàng cũng có tác động thúc đẩy tài chính toàn diện cao hơn. Tuy

nhiên, (García, 2016) cho rằng nếu không có cơ chế kiểm soát chặt chẽ, các ngân hàng sẽ thúc

đẩy tài chính toàn diện bằng cách bỏ qua các quy định, hạ thấp tiêu chuẩn cho vay, cho vay

các dự án để bù đắp chi phí giao dịch cao và làm cho giảm tính ổn định của ngân hàng. Ngoài

ra, do các vấn đề về xếp hạng tín dụng và chi phí giao dịch cao, việc cung cấp dịch vụ ngân

hàng cho nhiều người chưa từng sử dụng dịch vụ ngân hàng, dẫn đến tính ổn định của ngân

hàng cũng có thể bị ảnh hưởng (Khan, 2011). Ở khía cạnh khác, nghiên cứu của Vo & ctg.

(2019) lại tìm thấy mối quan hệ phi tuyến giữa hai yếu tố trên. Tài chính toàn diện tác động

thuận chiều đến ổn định ngân hàng ở một ngưỡng giá trị nhất định, và khi tài chính toàn diện

vượt qua giá trị ngưỡng đó thì tác động thuận chiều có thể biến mất, thậm chí ảnh hưởng

ngược lại đối với ổn định ngân hàng.

Thứ hai, Chất lượng thể chế phản ánh năng lực của chính phủ trong việc xây dựng và thực

hiện các chính sách nhằm định hướng cho các hoạt động trong nền kinh tế. Một số nghiên cứu

gần đây đã nhấn mạnh tác động của chất lượng thể chế trong việc cải thiện sự ổn định của

ngân hàng (Bermpei & ctg., 2018; Dutta & Saha, 2019; Fang & ctg., 2014; Uddin & ctg.,

2020). Tác động này được lý giải bởi chất lượng thể chế tốt phản ánh chính phủ đã xây dựng

và thực thi các chính sách hướng dẫn các hoạt động kinh tế phù hợp, dẫn đến giảm tác động

bất lợi từ các cú sốc kinh tế và đảm bảo cho các hoạt động kinh tế diễn ra bình thường và hiệu

quả Fazio & ctg. (2018) và Klomp & De Haan (2014).

Thứ ba, về ảnh hưởng của chất lượng đến các mối quan hệ giữa các biến số trong nền kinh

tế, một số nghiên cứu cho thấy chất lượng thể chế có ảnh hưởng rất lớn. Chẳng hạn, chất

lượng thể chế là nhân tố làm giảm thiểu tác động ngược chiều của cạnh tranh đến ổn định

ngân hàng hay giảm tác động bất lợi của việc thị trường hóa ngân hàng đến ổn định ngân hàng

(Tandelilin & Hanafi, 2021).

Tính đến thời điểm này có khá ít các nghiên cứu về tài chính toàn diện, chất lượng thể chế

và ổn định ngân hàng. Ahamed & Mallick (2019) và Saha & Dutta (2022) là hai nghiên cứu

khá toàn diện về vấn đề này. Với bộ dữ liệu lớn 2635 ngân hàng, 86 quốc gia trong giai đoạn

2004 – 2012, Ahamed & Mallick (2019) đã chỉ ra được tác động thuận chiều của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng và nhấn mạnh rằng tác động này sẽ được củng cố hơn nữa

3

khi nó được thực hiện trong môi trường có chất lượng thể chế tốt. Đồng quan điểm với

Ahamed & Mallick (2019), Saha & Dutta (2022) cho kết quả tương tự khi nghiên cứu vấn đề

này với bộ dữ liệu cấp quốc gia. Tuy nhiên, ổn định ngân hàng trong hai nghiên cứu của các

tác giả này mới chỉ đo lường bằng một cách, để phản ánh chính xác hơn và đầy đủ hơn ổn

định ngân hàng, luận án đã sử dụng nhiều cách đo lường và so sánh kết quả các cách đo lường

với nhau.

ASEAN (Association of Southeast Asian Nations) là một hình mẫu cho tăng trưởng kinh

tế nhanh, với tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm hơn 5% (Scherpf, 2015). Trong những

năm gần đây, các nước ASEAN đã có sự phát triển kinh tế vượt bậc, tuy sự tăng trưởng nhanh

đó lại tiềm ẩn nhiều rủi ro do ASEAN có độ mở khá lớn, độ mở thương mại hiện tại đã

107,65 %và độ mở tài chính 0,16447% kèm theo tính ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN

tương đối thấp và khá biến động (Hình 1.1). Ngoài ra, kể từ sau cuộc khủng hoảng tài chính

toàn cầu 2008-2009, tài chính toàn diện đã trở thành chính sách ưu tiên của các nước ASEAN.

Năm 2009, Đạo luật Ngân hàng Trung ương của Malaysia quy định chức năng chính của

BankNegara Malaysia (BNM) là phát triển và thúc đẩy tài chính toàn diện; năm 2012,

Indonesia công bố chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện (Rahman, 2015); Năm 2011,

Thái Lan cũng đưa ra kế hoạch quốc gia về tài chính toàn diện (Tambunlertchai, 2015) với

mục tiêu không bỏ sót đối tượng nào ở phía sau, điều đó có nghĩa với tài chính toàn diện tất

cả người dẫn đều dễ dàng tiếp cận và sử dụng các DVTC với mức chi phí hợp lý và thủ tục

dễ dàng. Hơn nữa, ASEAN là khu vực khá đa dạng, có nền kinh tế phụ thuộc vào ngân hàng

và được dự báo sớm sẽ trở thành khu vực thương mại lớn thứ năm trên toàn cầu và vai trò của

khu vực này trong hệ thống tài chính toàn cầu ngày càng tăng (Nguyen, 2022a). Do đó, bất

kỳ cú sốc bất lợi nào đối với khu vực tài chính ở các quốc gia này đều có thể có tác động lây

lan sang các quốc gia khác, ảnh hưởng đến mức ổn định của hệ thống tài chính toàn cầu (Dang

& Nguyen, 2021; Moudud-Ul-Huq & ctg., 2018).

1.00

4

0,93

0,92

0,92

0,91

0.90

0,87

0,86

0.80

0,79

0,77

0.70

0,62

0.60

0,59

0,57

0.50

0.40

0.30

0.20

0.10

0.00

2010

2011

2012

2013

2014

2015

2016

2017

2018

2019

2020

Hình 1.1 Chỉ số Z-Score trung bình của các nước ASEAN

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ dữ liệu của Oris Bank Focus, 2022

Trong bối cảnh tác động của tài chính toàn diện tới ổn định ngân hàng còn là một câu hỏi

chưa được trả lời thống nhất, việc một khu vực kinh tế có tính ổn định ngân hàng không cao,

có độ mở thương mại và tài chính lớn và có khả năng lây lan đến các nền kinh tế khác chuyển

sang chú trọng thúc đẩy tài chính toàn diện đặt ra các câu hỏi cần trả lời: (1) Thúc đẩy tài

chính toàn diện có làm tăng ổn định ngân hàng ở các quốc gia này hay không? (2) Tác động

này có thay đổi với chất lượng thể chế khác nhau hay không? (3) Và với từng khía cạnh riêng

lẻ, ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động đó ra sao. Trả lời các câu hỏi này cũng góp

phần đưa ra được các gợi ý cho ASEAN trong điều chỉnh chính sách phù hợp. Đó chính là lý

do luận án thực hiện đề tài “Tài chính toàn diện, ổn định ngân hàng và chất lượng thể chế -

Nghiên cứu ở các nước ASEAN” với mục đích kiểm tra tác động của tài chính toàn diện đến

ổn định ngân hàng và đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động này.

Nghiên cứu có nhiều điểm kế thừa hai nghiên cứu đã đề cập ở trên và có các điểm khác

biệt: (1) bổ sung thêm hai khía cạnh trong xây dựng chỉ số tài chính toàn diện; (2) đo lường

ổn định ngân hàng bằng nhiều thước đo thay vì chỉ bằng Zscore vốn bị đánh giá là chỉ số

không hoàn hảo vì nó có thể che giấu rủi ro của các quốc gia (Wu & ctg., 2020); (3) đánh giá

riêng lẻ ảnh hưởng của từng khía cạnh của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng; (4) kiểm tra tính chắc chắn của kết quả bằng cách sử dụng phương

pháp khác (gắn biến giả ở biến chất lượng thể chế) (5) chọn ASEAN để kể một câu chuyện

về tài chính toàn diện, ổn định ngân hàng và chất lượng thể chế ở một vùng có nền kinh tế

phụ thuộc ngân hàng bằng cách đưa thêm các biến đặc trưng.

5

1.2. MỤC TIÊU VÀ CÂU HỎI NGHIÊN CỨU

1.2.1. Mục tiêu tổng quát

Mục tiêu tổng quát của luận án là nghiên cứu tác động của tài chính toàn diện, của chất

lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, và đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với

tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN. Từ đó, luận án

đưa ra hàm ý chính sách liên quan đến tài chính toàn diện, chất lượng thể chế nhằm làm gia

tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN.

1.2.2. Mục tiêu cụ thể

Trên cơ sở mục tiêu tổng quát, các mục tiêu cụ thể được đặt ra như sau:

- Đánh giá tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng tại các nước ASEAN.

- Đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng tại các nước ASEAN.

- Đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng tại các nước ASEAN.

- Đề xuất các hàm ý chính sách liên quan đến chất lượng thể chế, tài chính toàn diện

nhằm góp phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN.

1.2.3. Câu hỏi nghiên cứu

Để thực hiện các mục tiêu nghiên cứu cụ thể trên, luận án tập trung trả lời các câu hỏi

nghiên cứu sau:

- Tài chính toàn diện tác động đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN như thế nào?

- Chất lượng thể chế tác động như thế nào đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN?

- Chất lượng thể chế có ảnh hưởng như thế nào đến tác động của tài chính toàn diện lên

ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN?

- Những hàm ý chính sách nào liên quan đến chất lượng thể chế, tài chính toàn diện được

gợi ý nhằm góp phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN?

1.3. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU

1.3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân

hàng, tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của chất lượng

thể chế đến tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN.

6

1.3.2. Phạm vi nghiên cứu

- Phạm vi không gian

Phạm vi nghiên cứu của luận án gồm 157 ngân hàng ở 8 nước ASEAN, bao gồm:

Singapore, Malaysia, Indonesia, Philippines, Thái Lan, Việt Nam, Lào, Campuchia. Luận án

chọn nghiên cứu ở ASEAN, bởi vì những lý do sau:

Thứ nhất, các nước ASEAN được đánh giá là có thành tựu về ổn định chính trị và an ninh

khu vực, có nền kinh tế phát triển của Châu Á, tuy nhiên mức độ ổn định ngân hàng khá thấp

so với các nước trên thế giới.

Thứ hai, các nước ASEAN đều có đặc điểm chung là hệ thống tài chính dựa vào ngân

hàng chủ yếu. Điều này được thể hiện thông qua tỷ lệ tín dụng tư nhân được thực hiện bởi các

ngân hàng lớn hơn so với tỷ lệ giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán. Hai chỉ số này

được gợi ý bởi Ash Demirgüç-Kunt & Huizinga (1999), Demirgruc-Kunt & Levine (1999)

và Levine (2002). Vì vậy, hệ thống tài chính của các nước ASEAN cần được đảm bảo hoạt

động an toàn và ổn định.

Thứ ba, ở giai đoạn nghiên cứu tiền khả thi, luận án đã thu thập dữ liệu cho tổng cộng 10

quốc gia với hơn 400 ngân hàng. Tuy nhiên, sau giai đoạn sàng lọc, với các tiêu chí tối ưu

hóa quy mô mẫu nghiên cứu nhưng vẫn đảm bảo tính đồng bộ của dữ liệu, luận án đã loại các

quốc gia có dữ liệu không đầy đủ và không thống nhất (Myanmar và Brunei). Phạm vi nghiên

cứu sau sàng lọc chỉ còn lại 8 quốc gia với 157 ngân hàng.

- Phạm vi thời gian

Luận án thực hiện nghiên cứu trong khoảng thời gian từ năm 2010 đến 2020, vì những lý

do sau:

Thứ nhất, khoảng thời gian này nền kinh tế các nước ASEAN bắt đầu phục hồi sau cuộc

khủng hoảng, và ổn định ngân hàng trở thành mối quan tâm hàng đầu của các quốc gia trên

thế giới.

Thứ hai, sau năm 2008, các nước ASEAN bắt đầu có những chiến lược để thúc đẩy, phát

triển tài chính toàn diện (Ahamed & Mallick, 2019; Čihák & ctg., 2016), trong đó có các nước

ASEAN. Chẳng hạn ở Malaysia, năm 2009, Đạo luật Ngân hàng Trung ương Malaysia được

ban hành và quy định rõ ràng rằng chức năng chính của Ngân hàng Negara Malaysia (BNM)

là phát triển và thúc đẩy một hệ thống tài chính toàn diện (Rahman, 2015). Ở Thái Lan, kế

hoạch tổng thể về lĩnh vực tài chính giai đoạn thứ hai (2010- 2014) được triển khai, đã khuyến

khích các ngân hàng thương mại mở rộng phạm vi tiếp cận của họ đến các phân khúc có thu

nhập thấp hơn với nhiều ưu đãi hơn. Năm 2011, Bộ Tài chính cùng với sự hỗ trợ từ Ngân

7

hàng Phát triển Châu Á (ADB) nhằm phát triển tài chính vi mô và thúc đẩy tài chính toàn diện

cho các cá nhân và hộ gia đình, đã thông qua Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện ở

Thái Lan (Tambunlertchai, 2015). Ở Việt Nam, những quy định đầu tiên làm nền tảng cho sự

thúc đẩy tài chính toàn diện được thể hiện ở Luật các Tổ chức tín dụng năm 2010; Luật bảo

vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010 và sau đó là hàng loạt các quy định, nghị định, luật

sửa đổi bổ sung, đề án…được ban hành nhằm làm rõ, hướng dẫn thực hiện tài chính toàn diện.

- Phạm vi về nội dung

Luận án nghiên cứu đề tài với các giới hạn về nội dung như sau:

Thứ nhất, chỉ nghiên cứu tác động một chiều của tài chính toàn diện đến sự ổn định ngân

hàng của các nước ASEAN.

Thứ hai, chỉ nghiên cứu tác động một chiều của chất lượng thể chế đến sự ổn định ngân

hàng của các nước ASEAN.

Thứ ba, tài chính toàn diện được nghiên cứu trên góc độ các ngân hàng (tức là các tổ chức

tài chính cung cấp DVTC chính thức). Bởi vì theo (Sarma, 2008a, 2012) ngân hàng toàn diện

(banking inclusion) cũng được xem như tài chính toàn diện (financial inclusion), mà thông

qua các ngân hàng, các nhà hoạch định có thể điều chỉnh chính sách tài chính toàn diện một

cách thuận lợi hơn. Hơn nữa các nước ASEAN có hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng là

chủ yếu, vì thế việc tìm hiểu về tài chính toàn diện dưới góc độ ngân hàng (nhà cung cấp tài

chính chính thống) là cần thiết và giới hạn về phạm vi nội dung là hoàn toàn phù hợp.

Thứ tư, về ổn định hệ thống ngân hàng, luận án chỉ nghiên cứu về ổn định của các ngân

hàng một cách riêng lẻ. Bởi hệ thống ngân hàng trở nên ổn định chỉ khi từng ngân hàng trong

hệ thống ổn định. Điều này được giải thích bởi hiện tượng lây lan tài chính (Financial

contagion) tức là rủi ro được truyền từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác, từ

ngân hàng này sang ngân hàng khác trong hệ thống (Brown & ctg., 2017). Như vậy, chỉ cần

một ngân hàng trong hệ thống xảy ra bất ổn có thể dẫn đến sự bất ổn cho hệ thống ngân hàng.

1.4. PHƯƠNG PHÁP VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

1.4.1. Phương pháp nghiên cứu

Nhằm đạt được mục tiêu nghiên cứu tổng quát, luận án thực hiện kết hợp phương pháp

nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, cụ thể như sau:

- Luận án sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp nhằm hình thành cơ sở

lý thuyết về ổn định ngân hàng, tài chính toàn diện, chất lượng thể chế.

8

- Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu 1,2,3 (ở mục 1.2.3), luận án sử dụng lần lượt các

phương pháp: thống kê mô tả, hồi quy mô hình theo phương pháp System Generalized

Method of Moments (SGMM). Các phương pháp kinh tế lượng được thực hiện bằng

phần mềm Stata 16.0.

- Để trả lời câu hỏi thứ tư, luận án sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp nhằm thảo

luận các kết quả nghiên cứu định lượng; từ đó, đề xuất các hàm ý chính sách nhằm góp

phần gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN.

Các bước nghiên cứu được thực hiện như Hình 1.1

Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu. Ở bước này, dựa trên bối cảnh nghiên cứu cả lý

thuyết và thực tiễn để xác định mục tiêu nghiên cứu.

Bước 2: Luận án tổng hợp các lý thuyết liên quan đến tài chính toàn diện, ổn định ngân

hàng, chất lượng thể chế và các nghiên cứu thực nghiệm, làm cơ sở để giải thích tác động của

tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, và ảnh hưởng của chất

lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng

Xác định vấn đề nghiên cứu

Tổng quan cơ sở lý thuyết

Xây dựng mô hình và phương pháp nghiên cứu

Kiểm định mô hình và thảo luận kết quả nghiên cứu

Kết luận và hàm ý chính sách

Hình 1.2. Quy trình nghiên cứu

9

Bước 3: Dựa trên cơ sở lý thuyết đã tổng hợp ở bước 2, luận án xây dựng giả thuyết, mô

hình và phương pháp nghiên cứu. Các biến sử dụng trong mô hình và quá trình thu thập dữ

liệu cũng được mô tả, thực hiện ở bước này.

Bước 4: Luận án sử dụng phương pháp SGMM và các kiểm định để đánh giá vấn đề nghiên

cứu, được thực hiện bằng phần mềm Stata 16.0. Kết quả đưa ra, luận án tiến hành thảo luận

nhằm làm rõ hơn vấn đề nghiên cứu.

Bước 5: Kết luận và đưa ra hàm ý chính sách. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa

ra kết luận và hàm ý chính sách để gia tăng mức độ tài chính toàn diện và ổn định hệ thống

ngân hàng ở các nước ASEAN.

1.4.2. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu của luận án gồm 157 ngân hàng thuộc 8 nước ASEAN gồm:

Campuchia, Indonesia, Lào, Malaysia, Singapore, Philippines, Thái Lan và Việt Nam trong

giai đoạn 2010-2020, được thu thập từ 3 nguồn chính, đó là:

- Cơ sở dữ liệu về ngân hàng Oris Bank Focus.

- Cơ sở dữ liệu tài chính toàn diện toàn cầu (Financial Survey Access - FAS) của Quỹ

- Cơ sở dữ liệu chỉ số quản trị toàn cầu WGI (Worldwide Governance Indicators) của

tiền tệ quốc tế IMF (International Monetary Fund).

Ngân hàng thế giới (World Bank - WB).

1.5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN

- Về mặt khoa học

Luận án bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đến

ổn định ngân hàng, tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của

chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng ở các nước

ASEAN, mà các nghiên cứu trước đây chưa chú trọng nhiều.

Hơn nữa, ngoài chỉ số Z-Score được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trước đây, luận

án còn quan sát sự ổn định thông qua chỉ số Z-Score hiệu chỉnh và tỷ lệ nợ xấu (phản ánh rủi

ro tín dụng). Việc xem xét ổn định ngân hàng thông qua các chỉ số đo lường khác nhau, sẽ

- Về mặt thực tiễn

tăng thêm tính vững cho kết quả nghiên cứu.

Ở ASEAN, các nghiên cứu chủ yếu tập trung vào đánh giá thực trạng tài chính toàn diện,

các yếu tố ảnh hưởng đến tài chính toàn diện, các yếu tố ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng

mà ít nghiên cứu xem xét đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài

10

chính toàn diện đến ổn định ngân hàng. Trong khi đó chất lượng thể chế là yếu tố quan trọng,

góp phần định hướng, đảm bảo cho các hoạt động trong nền kinh tế được thực hiện có hiệu

quả. Do đó, việc nghiên cứu về ảnh hưởng của chất lượng thể chế là vô vùng cần thiết và cung

cấp thêm bằng chứng thực nghiệm ở các quốc gia này. Đóng góp của luận án không chỉ có ý

nghĩa đối với các nước ASEAN mà còn có ý nghĩa đối với những quốc gia có hệ thống tài

chính tương tự.

Ngoài ra, từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm, luận án đề xuất các hàm ý chính sách liên

quan đến tài chính toàn diện, chất lượng thể chế nhằm gia tăng sự ổn định ngân hàng ở các

nước ASEAN. Các hàm ý được thể hiện một cách rõ ràng theo từng chủ thể có liên quan:

chính phủ và các nhà quản trị ngân hàng.

1.6. KẾT CẤU LUẬN ÁN

Luận án có năm nội dung chính sau:

Chương 1: Giới thiệu nghiên cứu

Giới thiệu tổng quan về luận án bao gồm: lý do lựa chọn đề tài, mục tiêu tổng quát, mục

tiêu cụ thể, câu hỏi nghiên cứu, phạm vi, đối tượng nghiên cứu, và phương pháp nghiên cứu.

Trong đó trọng tâm của luận án là làm rõ khoảng trống nghiên cứu nhằm khẳng định sự cần

thiết của việc thực hiện nghiên cứu này, chỉ rõ giá trị khoa học và giá thực thực tiễn của kết

quả nghiên cứu.

Chương 2: Tổng quan lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm

Giới thiệu các vấn đề nền tảng, từ khái niệm đến lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm

liên quan đến tác động của tài chính toàn diện/chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, cũng

như vai trò của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện với ổn định ngân hàng.

Đây là nền tảng khoa học, là cơ sở tham chiếu quan trọng cho việc thiết kế mô hình nghiên

cứu, xác định các giả thuyết nghiên cứu ở chương tiếp theo.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu

Dựa trên mục tiêu nghiên cứu ở Chương 1 và cơ sở lý thuyết ở Chương 2, nội dung Chương

3 trình bày phương pháp nghiên cứu phù hợp để đánh giá tác động của tài chính toàn diện,

của chất lượng thế chế lên ổn định ngân hàng và xem xét ảnh hưởng của chất lượng thể chế

đối với tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng. Cụ thể luận án xây dựng các

giả thuyết nghiên cứu, từ đó xây dựng mô hình nghiên cứu. Dựa vào mô hình nghiên cứu,

luận án thu thập, xử lý dữ liệu, lựa chọn các biến và phương pháp ước lượng phù hợp.

11

Chương 4: Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Trình bày tổng hợp các kết quả nghiên cứu gồm: kết quả kiểm định tác động của tài chính

toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, và kết quả kiểm định vai trò của chất

lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng. Bên cạnh đó,

luận án tập trung thảo luận các kết quả nghiên cứu, làm cơ sở để đưa ra hàm ý chính sách

trong Chương 5.

Chương 5: Kết luận - Hàm ý chính sách

Hàm ý về mặt chính sách của luận án liên quan đến mức độ ổn định ngân hàng được đưa

ra nhằm giúp cho các nhà hoạch định chính sách/quản trị ngân hàng xây dựng những chiến

lược phù hợp nhằm thúc đẩy hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN phát triển bền vững và

ổn định hơn. Ngoài ra, luận án nêu một số hạn chế, định hướng cho hướng nghiên cứu trong

tương lai.

12

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Chương 1 giới thiệu khái quát những nội dung cơ bản của luận án để người đọc có thể

bước đầu hình dung về nghiên cứu. Đầu tiên, Chương 1 nêu lên sự cần thiết nghiên cứu ảnh

hưởng chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng của

các ngân hàng ở các nước ASEAN. Tiếp theo, sơ lược quá trình nghiên cứu, thông qua đó các

khe hở nghiên cứu được tìm thấy. Chương 1 cũng nêu lên mục tiêu nghiên cứu của luận án là

nghiên cứu tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng,

và đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện đến ổn

định ngân hàng ở các nước ASEAN. Từ đó, luận án đưa ra hàm ý chính sách liên quan đến

tài chính toàn diện, chất lượng thể chế nhằm làm gia tăng sự ổn định của hệ thống ngân hàng

ở các nước ASEAN. Đồng thời, làm rõ đối tượng nghiên cứu của luận án là tác động của tài

chính toàn diện đến ổn định ngân hàng, tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân

hàng và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện đến ổn định

ngân hàng, cùng với phạm vi nghiên cứu là 157 ngân hàng ở ASEAN trong giai đoạn 2010 -

2020. Thêm vào đó, Chương 1 cũng trình bày tóm tắt phương pháp nghiên được sử dụng trong

luận án: phương pháp định tính và phương pháp định lượng, nhằm đạt mục tiêu tổng quát luận

án đưa ra. Song song đó, Chương 1 nêu rõ các đóng góp của luận án ở hai khía cạnh học thuật

và thực tiễn. Cuối cùng, bố cục luận án gồm 5 chương và nội dung khái quát của từng chương

cũng được luận án trình bày.

13

CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN

CỨU THỰC NGHIỆM

Chương 2 của luận án trình bày cơ sở lý thuyết về vấn đề nghiên cứu, trong đó, tập trung

vào các lý thuyết giải thích tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng, tác động

của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, cũng như ảnh hưởng của chất lượng thể chế

đối với tác động trên. Qua đó, nội dung của chương sẽ là nền tảng cho việc xây dựng mô hình

và hàm ý chính sách được đưa ra ở các phần sau.

Cấu trúc chương hai bao gồm bốn phần nội dung như sau: phần 1 trình bày về các cơ sở

lý luận liên quan đến ổn định ngân hàng, tài chính toàn diện và chất lượng thể chế, trong đó,

luận án đưa ra các khái niệm, cách thức đo lường, và các lý thuyết liên quan. Phần 2 trình bày

các lý thuyết làm cơ sở để giải thích các tác động trong nghiên cứu: tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng, tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng và

ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân

hàng. Phần 3 là khái lược các nghiên cứu thực nghiệm, từ đó đưa ra khoảng trống nghiên cứu

và phần cuối cùng là khung phân tích vấn đề nghiên cứu.

2.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ SỰ ỔN ĐỊNH HỆ THỐNG NGÂN HÀNG

2.1.1. Khái niệm về ổn định ngân hàng

Sự ổn định của hệ thống ngân hàng gắn liền với sự ổn định của hệ thống tài chính, do vậy

trước khi tìm hiểu về ổn định hệ thống ngân hàng, cần hiểu rõ về ổn định hệ thống tài chính

(gọi tắt là ổn định tài chính).

Ổn định tài chính là một khái niệm khá mới trong hoạt động quản lý vĩ mô của các ngân

hàng trung ương (NHTW). Trong gần một thập kỷ trở lại đây, với những dấu hiệu sớm của

cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, cùng với xu hướng phát triển của công nghệ và kỹ

thuật tài chính, vấn đề này đặc biệt được quan tâm nhiều bởi các nhà kinh tế học cũng như

NHTW ở các nước. Theo đó, NHTW các nước đã thành lập Ủy ban về ổn định tài chính, thực

hiện các báo cáo về ổn định tài chính hàng năm để đánh giá những rủi ro tác động đến nền

kinh tế. Định nghĩa về ổn định tài chính ngày càng được phát triển và cụ thể thể hóa.

Ổn định tài chính (Financial stability) là vấn đề được đề cập đến đầu tiên bởi NHTW Anh

(The Bank of England) vào năm 1994. Theo đó, ổn định tài chính hàm ý việc xác định rủi ro

trong hệ thống tài chính và hành động của NHTW để giảm thiểu chúng. NHTW Anh đã chỉ

ra ngoài mục tiêu ổn định giá cả, ngân hàng này còn phải đảm bảo cho hệ thống tài chính của

14

Anh hoạt động một cách có hiệu quả và ổn định (Allen & Wood, 2006). Sau đó, các định

nghĩa về ổn định tài chính cũng bắt đầu được NHTW các đưa ra. Chẳng hạn, NHTW Đức

định nghĩa ổn định tài chính là khả năng vận hành tốt các chức năng chính của hệ thống tài

chính, kể cả trong thời kỳ kinh tế căng thẳng và thời kỳ điều chỉnh cơ cấu nhằm giúp phân bổ

một cách có hiệu quả các nguồn lực và rủi ro tài chính cũng như tạo nền tảng hạ tầng tài chính

hiệu quả. Hay NHTW Châu Âu cho rằng ổn định tài chính là một trạng thái trong đó hệ thống

tài chính gồm các trung gian tài chính, thị trường và hạ tầng tài chính có khả năng chống đỡ

được các cú sốc và những rủi ro do sự mất cân đối tài chính gây ra, từ đó làm giảm bớt khả

năng sụp đổ của các trung gian tài chính vốn có tác động xấu đối với việc phân bổ tiết kiệm

và đầu tư. Hoặc theo NHNN Việt Nam, một hệ thống tài chính ổn định và an toàn là một hệ

thống có thể trụ vững được trước những biến động bất thường của nền kinh tế và trước các cú

sốc tài chính nảy sinh từ bên trong hoặc bên ngoài hệ thống tài chính.

Đó là các quan điểm về ổn định tài chính đứng theo góc độ của NHTW các nước. Trong

các tài liệu nghiên cứu, Alawode & Al Sadek (2008) cho rằng định nghĩa ổn định tài chính có

thể được tiếp cận từ hai hướng khác nhau: định nghĩa trực tiếp về ổn định tài chính và gián

tiếp qua định nghĩa về bất ổn tài chính, cụ thể:

Đối với trường phái trực tiếp, định nghĩa ổn định tài chính thể hiện qua khả năng hấp thụ,

chịu đựng và vượt qua các biến động trên thị trường tài chính của hệ thống tài chính. Theo

đó, ngay cả khi những biến động xảy ra, hệ thống tài chính vẫn luôn đảm bảo được việc thực

hiện thanh toán một cách trơn tru, an toàn; các nhu cầu về vốn của các chủ thể được cung ứng

thỏa mãn; đồng thời thực hiện đầy đủ các chức năng điều tiết vĩ mô cho nền kinh tế. Các định

nghĩa này được lựa chọn bởi nhiều NHTW các nước như NHTW châu Âu, NHTW Argentia,

Áo, Phần lan, Nauy, Thụy Sỹ, Úc, Nhật Bản (Alawode & Al Sadek, 2008).

Trường phái gián tiếp định nghĩa bất ổn tài chính là khi những biến động trên thị trường

tài chính có nhiều khả năng gây nguy hại đến nền kinh tế thông qua những tác động ngược

chiều của nó đến hoạt động của hệ thống tài chính. Hay nói cách khác, bất ổn tài chính là rủi

ro xảy ra khủng hoảng tài chính có khả năng xuất hiện cao. Trong đó, khủng hoảng tài chính

được miêu tả bởi ba đặc điểm: sự sụp đổ hàng loạt của các định chế tài chính, không có khả

năng thực hiện, cung cấp các dịch vụ thanh toán và không có khả năng cấp tín dụng cho những

cơ hội đầu tư tiềm năng (Allen & Wood, 2006; Mishkin, 1999).

15

Mặc dù có nhiều định nghĩa về ổn định tài chính nhưng những điều kiện cần thiết để duy

trì sự ổn định tài chính đều được thống nhất. Những điều kiện này bao gồm: (i) Sự ổn định

của các định chế tài chính then chốt, tiêu biểu là hệ thống ngân hàng (Crockett 1997; De Bandt

& Hartmann, 2000); (ii) Sự tham gia đông đảo của những cá nhân, tổ chức riêng lẻ như những

doanh nghiệp vừa và nhỏ (Allen & Wood, 2006); (iii) Việc đảm bảo khả năng hoạt động liên

tục, trơn tru của hệ thống thanh toán (De Bandt & Hartmann, 2000), (iv) Niềm tin của công

chúng vào hệ thống tài chính (Crockett 1997; Large, 2003; Nier, 2005).

Từ nhận định trên, có thể thấy rằng ổn định ngân hàng là điều kiện quan trọng để đảm bảo

ổn định tài chính. Bàn về ổn định ngân hàng, nhiều nghiên cứu đưa ra những khái niệm khác

nhau. Crockett (1997) đã cân nhắc sự ổn định trong các ngân hàng liên quan đến việc không

có sự căng thẳng tài chính (financial stress), thứ có thể dẫn đến tổn thất ở các ngân hàng lớn

hơn thậm chí là sự phá sản ở các ngân hàng nhỏ hơn. Do đó, các ngân hàng có tình hình tài

chính ổn định nhất có thể đáp ứng các nghĩa vụ của họ mà không cần hỗ trợ từ bên ngoài.

Ngoài ra, sự ổn định tài chính có thể liên hệ đến việc không có biến động giá (price volatility)

mạnh gây thiệt hại cho hệ thống.

Lai (2002) cho rằng, nguyên nhân cơ bản dẫn đến tình trạng bất ổn tài chính của ngân

hàng là khủng hoảng thanh khoản do nhu cầu về thanh toán ngắn hạn vượt quá dự trữ tài sản

thanh khoản cao. Đồng quan điểm với Lai (2002), Ngalawa & ctg. (2016) chỉ ra sự bất ổn hệ

thống ngân hàng cũng có thể thể hiện qua việc các ngân hàng mất khả năng thanh toán, thường

được đặc trưng bởi một lượng lớn các khoản nợ xấu không lường trước được. Và đặc biệt tình

trạng này dễ xảy ra hơn trong thời kỳ suy thoái kinh tế và sau thời kỳ “bùng nổ” cho vay tư

nhân (Allen & Gale, 1998).

Hơn nữa, một sự thắt chặt tín dụng đột ngột cũng có thể là nguyên nhân gây ra sự bất ổn

cho ngân hàng. Các ngân hàng thắt chặt, thu hẹp tín dụng một cách đột ngột bởi vì họ lo ngại

rằng ngân hàng không đủ tiền để cho vay hoặc do phải đáp ứng các yêu cầu của ngân hàng

trung ương, đặc biệt việc làm này diễn ra ở bất kỳ một mức lãi suất nào, và nó trở thành tác

nhân của cuộc khủng hoảng tài chính (Fratianni & Marchionne, 2009).

Ở góc nhìn khác, các cuộc tháo chạy khỏi ngân hàng (bank run) được cho là một trong

những nguyên nhân gây bất ổn ngân hàng và nó có thể đặt ngân hàng vào tình trạng phá sản

(Diamond & Dybvig, 1983; Ngalawa & ctg., 2016). Ngalawa & ctg. (2016) cho rằng sự bất

ổn này xảy ra khi ngân hàng bị rút tiền một cách bất thường hay khi xuất hiện vấn đề mất khả

năng thanh toán. Đây được cho là một trong những nguyên nhân gây mất ổn định ngân hàng

16

(Bonin & ctg., 2014). Vấn đề này xảy ra khi người gửi tiền vội vàng rút tiền gửi của họ sau

khi dự đoán ngân hàng sắp thất bại hoặc khi sự kỳ vọng về sự phát triển của ngân hàng không

còn, hoặc khi giá trị tổng tài sản của ngân hàng giảm xuống so với lượng tiền gửi của ngân

hàng. Sự tháo chạy này có thể xảy ra ngay cả khi không xuất hiện bất cứ thông tin bất lợi nào

về ngân hàng mà nó xuất phát từ yếu tố tâm lý đám đông, chẳng hạn việc những người gửi

tiền xếp hàng dài tại một ngân hàng cũng làm dấy lên lo ngại về khả năng tồn tại của ngân

hàng và từ đó xảy ra sự tháo chạy (Chari & Jagannathan, 1988). Rất nhiều ví dụ về sự tháo

chạy ngân hàng đã diễn ra, chẳng hạn sự tháo chạy khỏi các ngân hàng Mỹ những năm 1930,

sự sụp đổ của Bear Stearns năm 2008 và hiện tượng rút tiền ở NHTM cổ phần Á Châu ở Việt

Nam năm 2003 (Đỗ Thiên Anh Tuấn, 2016).

Ngoài ra, khi nhắc đến sự bất ổn của hệ thống, không thể không nhắc đến hiện tượng lây

lan tài chính (Financial contagion) – là hiện tượng rủi ro thanh khoản hoặc mất khả năng thanh

toán được truyền từ tổ chức tài chính này sang tổ chức tài chính khác. Các tác giả đã chỉ ra

rằng có nhiều kênh khác nhau dẫn dắt hiện tượng lây lan trong lĩnh vực ngân hàng, từ đó dẫn

đến rủi ro hệ thống ngân hàng và cả hệ thống tài chính (Acharya, 2009; Allen & Gale, 2000;

Brunnermeier & Pedersen, 2009; Freixas & Parigi, 1998; Ibragimov & ctg., 2011). Chính vì

thế chỉ cần một ngân hàng trong hệ thống xảy ra bất ổn có thể dẫn đến sự bất ổn cho cả hệ

thống ngân hàng.

Tóm lại, luận án có thể khái quát khái niệm về ổn định ngân hàng như sau: “Ổn định ngân

hàng là việc ngân hàng hoạt động có hiệu quả, có khả năng ứng phó tốt đối với những tác

động bên trong và bên ngoài, trong hiện tại và cả tương lai, đặc biệt là các cú sốc của nền kinh

tế mà vẫn duy trì được khả năng thanh toán cho các khoản nợ đến hạn, duy trì hoạt động một

cách bình thường, tránh nguy cơ bị phá sản”.

2.1.2. Đo lường ổn định ngân hàng

Ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng được xác định từ các phương pháp đo lường ổn

định của các doanh nghiệp ra đời vào những năm 1930. Đây là giai đoạn chủ nghĩa tư bản bắt

đầu bộc lộ những khiếm khuyết trong HTTC ở nền kinh tế các nước. Hầu hết các nhà kinh tế

lúc này tập trung vào việc nghiên cứu để đo lường độ bất ổn tài chính của các doanh nghiệp

trong nền kinh tế bằng chỉ số dự báo phá sản của công ty, từ đó đánh giá độ ổn định tài chính

của công ty cũng như của nền kinh tế.

17

Ban đầu, các nghiên cứu tập trung theo phương pháp phân tích tỷ lệ (ratio analysis), sau

đó là phương pháp phân tích đơn biến, cuối cùng là đến năm 1968, phương pháp phân tích

kết hợp các chỉ số được nhà kinh tế học Edward I. Altman đưa ra để dự báo xác suất phá sản

của doanh nghiệp. Kế thừa chỉ số Z-Score của Edward I. Altman, hàng loạt các nghiên cứu

thực nghiệm còn sử dụng thêm các chỉ số khác để đo lường toàn diện hơn ổn định ngân hàng

như: ROA, ROE, 𝑅𝐴𝑅𝑅𝑂𝐴, 𝑅𝐴𝑅𝑅𝑂𝐸, cụ thể:

Phương pháp phân tích tỷ lệ: Phương pháp này tập trung vào từng công ty cụ thể bằng

cách so sánh các chỉ số giữa các công ty thành công và các công ty thất bại. Mở đầu là bảng

công bố thông tin của The Bureau of Business Research nghiên cứu về các 24 chỉ số của 29

công ty công nghiệp thành công. Từ đó rút ra tỷ lệ trung bình của từng chỉ số. Các tỷ lệ này

sau đó được dùng để so sánh, đánh giá để kết luận sự thành công hay thất bại cho các công ty

có những điểm tương đồng còn lại trong nền kinh tế. Tuy nhiên, nhiều kết quả nghiên cứu sau

này của các nhà kinh tế cũng cho thấy các mô hình được phát triển cho các công ty công

nghiệp trước kia không phù hợp với các ngành cụ thể khác, đặc biệt là đối với các công ty tài

chính.

Phương pháp phân tích đơn biến: được phát triển từ năm 1965 trở đi. Phương pháp này

tiến hành dự báo khả năng phá sản công ty tập trung vào một số các chỉ số tài chính. Tiêu biểu

là nghiên cứu của (Beaver, 1966) đưa ra nguyên nhân khiến cho công ty lâm vào tình trạng

bất ổn tài chính là do lượng tiền mặt và hàng tồn kho quá ít trong khi nợ phải thu nhiều. Từ

đó Beaver cho rằng tỷ lệ lưu chuyển tiền thuần/tổng nợ phải trả là chỉ tiêu được dùng để dự

báo hay đánh giá xác suất phá sản của công ty. Ngoài ra, Beaver còn sử dụng chỉ số tỷ suất

sinh lợi của tài sản (thu nhập thuần/tổng tài sản) để phản ánh hiệu quả hoạt động kinh doanh

và chỉ số hệ số nợ (tổng nợ phải trả/tổng tài sản) để đánh giá mức độ rủi ro tài chính. Các chỉ

số này được ứng dụng để so sánh với các chỉ số tài chính của bất kỳ công ty cụ thể nào đó

nhằm phát hiện các dấu hiệu hay nguy cơ phá sản của chính công ty đó. Ưu điểm của các chỉ

số Beaver là việc áp dụng khá đơn giản, dễ thực hiện với độ tin cậy tương đối cao. Tuy nhiên,

nhược điểm lớn nhất là khi các chỉ số này trong một số tình huống nào đó lại trở nên mâu

thuẫn với nhau, vì vậy khó có thể đánh giá một cách toàn diện và chính xác.

Phương pháp phân tích kết hợp các chỉ số: Để khắc phục những sai sót trong chỉ số

Beaver, nhà kinh tế học người Mỹ Edward I. Altman vào năm 1968 đã đưa ra phương pháp

phân tích kết hợp các chỉ số (phương pháp phân tích đa biến) để dự báo nguy cơ phá sản thông

qua chỉ số Z-Score. Lý giải cho việc thay đổi từ phương pháp đánh giá mức độ thất bại

(phương pháp phân tích tỷ lệ) sang dự báo khả năng phá sản (phương pháp phân tích đơn biến

18

và đa biến) là do cách nhìn nhận từ các nhà kinh tế học khác nhau. Một số nghiên cứu định

nghĩa “thất bại” là khi công ty nộp đơn xin phá sản, thanh lý. Số khác cho rằng thất bại là tình

trạng căng thẳng về tài chính hay mất khả năng thanh toán các nghĩa vụ tài chính. Tuy nhiên

càng về sau hầu như các nghiên cứu đều thống nhất phá sản là “thất bại” cuối cùng của các

công ty. Kể từ nghiên cứu của Altman, để đánh giá mức độ ổn định của một công ty nào đó,

các nghiên cứu đều sử dụng chỉ số Z-Score.

Bàn về chỉ số Z-Score, Chỉ số Z-score được phát triển bởi Altman vào năm 1968 và được

chú ý nhiều hơn vào những năm 1990. Boyd & Runkle (1993) đưa ra cách đo lường Z-Score

𝑘+𝜇

𝑍 − 𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒 =

(2.1)

𝜎

theo công thức 2.1 sau:

Trong đó:

- k: (tổng vốn chủ sở hữu và các khoản dự trữ)/ tổng tài sản.

- 𝜇: là lợi nhuận trung bình/ tổng tài sản.

- 𝜎 là độ lệch chuẩn của lợi nhuận trên tổng tài sản.

Về sau, các tác giả phát triển công thức 2.1 bằng công thức 2.2 sau:

(2.2)

𝑍 − 𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒𝑖𝑡 =

𝑅𝑂𝐴𝑖𝑡+(𝐸/𝑇𝐴)𝑖𝑡 𝜎𝑅𝑂𝐴𝑖𝑡

Trong đó:

- ROA là tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản.

- E/TA (Equity/Total Asset) là tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản, đo lường mức sử

dụng đòn bẩy tài chính của ngân hàng.

- 𝜎ROA là độ lệch chuẩn của ROA, thể hiện sự biến động thu nhập, phản ánh chiến lược

chấp nhận rủi ro của các ngân hàng

- i, t: ngân hàng thứ i và năm t.

Z-Score càng cao hàm ý xác suất bị mất khả năng thanh toán càng thấp, tính ổn định của

ngân hàng càng cao. Mức vốn của ngân hàng được đánh giá qua hệ số E/TA, là vốn chủ sở

hữu trên tổng tài sản đo lường mức sử dụng đòn bẩy tài chính.

Các phiên bản khác nhau của Z-Score cũng đã xuất hiện khá nhiều, thậm chí còn xa rời

khỏi khái niệm ban đầu. Một số nghiên cứu ước tính giá trị độ lệch chuẩn của ROA chỉ căn

cứ trên một phần của mẫu thời gian và tiếp tục nguyên tắc này trên phần còn lại của mẫu để

làm cho chỉ số Z-Score trở nên nhạy hơn và do đó biến động nhiều hơn (Ahamed & Mallick

2015; Anginer & ctg., 2014). Các tác giả cho rằng bằng cách này, họ có thể nắm bắt tốt hơn

19

những thay đổi tức thời phù hợp với từng bối cảnh của ngân hàng. Thậm chí, để chỉ số Z-

Score nhạy hơn, nhiều tác giả ước tính thước đo rủi ro hàng năm thông qua độ lệch chuẩn

trung bình hàng quý (Anolli & ctg., 2014). Tuy nhiên, ý nghĩa của chỉ số Z-score hoàn toàn

biến mất khi một số tác giả sử dụng ROE (lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu) thay vì sử dụng

ROA. Do đó, để đảm bảo được tiêu chí tăng số lượng quan sát nhiều nhất có thể, chỉ số Z-

Score được tính toán với độ lệch chuẩn của ROA nên được ưu tiên áp dụng (Djatche, 2019;

Niu, 2012).

Sự phổ biến của Z-Score xuất phát từ những ưu điểm của nó. Ưu điểm đầu tiên của Z-

Score là nó cho phép so sánh nguy cơ vỡ nợ trong nhiều nhóm tổ chức tài chính ngân hàng có

quyền sở hữu hoặc mục tiêu hoạt động khác nhau. Ưu điểm thứ hai của chỉ số này là dữ liệu

dễ thu thập, dễ tính toán, lại phản ánh khá chính xác mức độ ổn định của ngân hàng

(Chiaramonte & ctg., 2016). Do đó, chỉ số này được sử dụng khá phổ biến trong nhiều nghiên

cứu thực nghiệm về ổn định ngân hàng (Bai & Elyasiani, 2013; Diaconu & Oanea, 2014;

Hosono, 2005; Laeven & Levine, 2009; Lepetit & ctg., 2008; Mercieca & ctg., 2007; Roy,

1952). Tuy nhiên, nó cũng có một số hạn chế khi sử dụng để đo lường sự ổn định tài chính là

Z-Score được dựa hoàn toàn vào dữ liệu kế toán. Vì vậy, nếu các tổ chức tài chính cố tình

thay đổi các dữ liệu trên báo cáo, Z-Score có thể cung cấp một đánh giá không chính xác về

sự ổn định của các tổ chức.

- Chỉ số khác

Ngoài chỉ số Z-score, một số nghiên cứu sử dụng các chỉ số khác như 𝑅𝐴𝑅𝑅𝑂𝐴, 𝑅𝐴𝑅𝑅𝑂𝐸

(Amidu & Wolfe, 2013), nợ xấu (đây được xem là thước đo truyền thống cho rủi ro tín dụng

ngân hàng) (Fernández & ctg., 2016; Guy & Lowe, 2011; Kasman & Kasman, 2015; Martinez

Peria & Schmukler, 2001); độ lệch chuẩn của ROA để đo lường rủi ro từ các ngân hàng

(Ahamed & Mallick, 2019; Fang & Lelyveld, 2014), hay chỉ số tháo chạy khỏi ngân hàng của

(Neaime & Gaysset, 2018; Ngalawa & ctg., 2016).

Tóm lại, mặc dù có nhiều phương pháp đo lường mức độ ổn định ngân hàng khác nhau,

nhưng trong nghiên cứu này, luận án quyết định sử dụng Z-Score làm đại diện cho sự ổn định

của các ngân trong hệ thống ngân hàng bởi những ưu điểm vượt trội của nó so với các chỉ số

khác. Chỉ số Z-Score không chỉ phản ánh rủi ro mất khả năng thanh toán (Bai & Elyasiani,

2013; Roy, 1952) mà còn có thể phản ánh được rủi ro tổng thể của một ngân hàng bất kỳ

(Ashraf & ctg., 2010).

20

Tuy nhiên, việc sử dụng điểm số Z-Score để so sánh có thể dẫn đến kết quả sai lệch vì các

ngân hàng có thể che giấu mức độ rủi ro tương đối trên thị trường của họ (Wu & ctg., 2020).

Do đó, ngoài chỉ số Z-Score, luận án sử dụng thêm chỉ số Z-Score hiệu chỉnh. Ngoài ra, để

kiểm tra độ bền vững của kết quả nghiên cứu, luận án còn sử dụng thêm chỉ số đo lường mức

ổn định thứ 3 là chỉ số NPL (nợ xấu) theo đề xuất của các nghiên cứu (Al-Shboul & ctg.,

2020; Louhichi & ctg., 2020; Smaoui & ctg., 2020).

2.1.3. Một số nhân tố ảnh hưởng đến ổn định hệ thống ngân hàng

Trong rất nhiều nghiên cứu, các yếu tố ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng thường được

phân tích dựa trên khung phân tích Camels và bộ chỉ số lành mạnh tài chính (Financial

Soundness Indicators: FSIs) theo chuẩn IMF. Khung phân tích Camels được áp dụng từ năm

1970, đây là hệ thống xếp hạng, giám sát tình hình ngân hàng của Mỹ, bao gồm sáu yếu tố:

mức độ an toàn vốn (capital adequacy), chất lượng tài sản có (asset quality), quản lý

(management), khả năng sinh lợi (earnings), thanh khoản (liquidity) và mức độ nhạy cảm với

rủi ro thị trường (sensitivity to market risk).

Bộ chỉ số lành mạnh tài chính FSIs là các thước đo tổng hợp về sức khỏe tài chính hiện tại

và sự lành mạnh của các tổ chức tài chính trong một quốc gia và của các đối tác doanh nghiệp

và hộ gia đình của quốc gia đó. Bộ chỉ số này bao gồm 40 chỉ số tài chính, được chia thành 6

nhóm chỉ số khác nhau bao gồm: 25 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của các tổ chức nhận

tiền gửi, 5 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của tổ chức phi tài chính, 2 chỉ số phản ánh tình

hình tài chính của hộ gia đình, 2 chỉ số phản ánh tính thanh khoản của thị trường, 4 chỉ số

phản ánh tình hình của thị trường bất động sản, và 2 chỉ số phản ánh tình hình tài chính của

tổ chức tài chính khác. Các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy các nhà kinh tế học luôn vận

dụng linh hoạt các chỉ tiêu trong hai bộ chỉ tiêu trên nhằm thực hiện mục đích nghiên cứu của

mình. Trong nội dung này, luận án trình bày một số nhân tố chủ yếu, thường xuất hiện nhiều

trong các nghiên cứu, cụ thể:

2.1.3.1. Các nhân tố bên trong

- Quy mô ngân hàng

Năng lực tài chính đóng vai trò hết sức quan trọng trong hoạt động của các NHTM, là tiền

đề để phát triển thị trường, là cơ sở để các ngân hàng quyết định có nâng cao chất lượng và

phát triển dịch vụ hay không.

Trong phần lớn các nghiên cứu, năng lực tài chính của một NHTM được đánh giá thông

qua quy mô tổng tài sản của ngân hàng. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có minh chứng rõ ràng

nào về việc ngân hàng có quy mô tài sản lớn sẽ làm tăng hay giảm mức độ ổn định ngân hàng.

21

Các nghiên cứu trên thế giới cho thấy có mối tương quan hai chiều của hai yếu tố này. Mối

tương quan thuận chỉ ra rằng các ngân hàng có quy mô về tổng tài sản lớn sẽ có lợi thế về thị

phần, khả năng chi phối thị trường và tạo ra doanh thu cao hơn, và vì thế mức độ ổn định của

các ngân hàng này cũng cao hơn (Čihák & ctg., 2016). Các ngân hàng lớn có thể ít rủi ro hơn

do khả năng đa dạng hóa rủi ro của họ trên các dòng sản phẩm lớn hơn hoặc có thể rủi ro hơn

do tâm lý “quá lớn để thất bại” (Brown & Dinç, 2011; Demirgruc-Kunt & Huizinga, 2013).

Hơn nữa, các NHTM lớn thường có số lượng chi nhánh ngân hàng nhiều, giành được nhiều

niềm tin từ khách hàng so với ngân hàng có quy mô nhỏ, do đó hoạt động kinh doanh của

ngân hàng lớn thường an toàn và ổn định hơn.

Trong khi đó, các nghiên cứu khác lại đưa ra kết quả rằng các ngân hàng lớn thường mạo

hiểm vào nhiều lĩnh vực, bao gồm các lĩnh vực có rủi ro cao, đe dọa đến ổn định ngân hàng.

Bên cạnh đó ngân hàng có tổng tài sản lớn có thể do sự góp vốn đầu tư của nhiều đối tượng

sở hữu, trong đó có sự tham gia của các tổ chức tài chính nước ngoài, điều này cũng có thể là

yếu tố làm suy giảm mức độ ổn định của ngân hàng nội địa (Athanasoglou & ctg., 2006).

- Quy mô vốn chủ sở hữu

Vốn chủ sở hữu được xem là thước đo thứ hai phản ánh năng lực tài chính của các ngân

hàng. Ngoài chức năng là cơ sở hình thành, nguồn vốn chủ sở hữu còn là một mắt xích quan

trọng trong suốt quá trình duy trì và mở rộng hoạt động của các ngân hàng. Đặc biệt, vốn chủ

sở hữu được coi là tấm đệm chống đỡ những rủi ro, đảm bảo an toàn hoạt động kinh doanh.

Vốn chủ sở hữu lớn sẽ tạo được uy tín lớn cho ngân hàng trên thị trường, tạo điều kiện mở

rộng quy mô, đảm bảo ổn định và phát triển. Ngược lại, nếu tỷ lệ này không đảm bảo, các

NHTM sẽ không đủ khả năng mở rộng hoạt động kinh doanh, thậm chí còn đứng trước nguy

cơ phá sản. Nghiên cứu của Altunbas & ctg. (2007) và Goddard & ctg. (2011) đã chỉ ra khi tỷ

lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản thấp chứng tỏ ngân hàng sử dụng đòn bẩy tài chính cao,

điều này chứa đựng rất nhiều rủi ro và có thể làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm khi chi

phí vốn vay cao, từ đó ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng. Ngược lại, nghiên cứu của Dietrich

& Wanzenried (2011) và Lee & Hsieh (2013) chỉ ra tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản cao

sẽ cung cấp bộ đệm vững chắc cho ngân hàng, gia tăng sự thận trọng trong cho vay và ít có

nhu cầu tài trợ bên ngoài, điều này giúp ngân hàng duy trì mức ổn định trong hoạt động.

22

- Đa dạng hóa thu nhập

Đa dạng hóa được xem xét trên nhiều góc độ như: (i), Đa dạng hóa các sản phẩm hiện có

– là việc ngân hàng mở rộng phát triển thêm các sản phẩm mới, tạo thêm nhiều tiện ích đối

với các sản phẩm dịch vụ hiện tại, nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ đáp ứng kịp

thời nhu cầu, thị hiếu của khách hàng (Galbraith, 2004); (ii), Đa dạng hóa về mặt địa lý – cho

phép thành lập các chi nhánh của mình ở các khu vực mới, bao gồm thành lập mới hoặc mua

bán, sáp nhập với các ngân hàng khác (Carlson & Mitchener, 2005; Fang & Lelyveld, 2014;

Mercieca & ctg., 2007); (iii), Đa dạng hóa về thu nhập – các ngân hàng ngoài việc mở rộng

phạm vi địa lý hoạt động còn cung cấp thêm nhiều sản phẩm và dịch vụ cho từng thị trường,

khu vực, đáp ứng ngày càng nhiều hơn nhu cầu gửi tiền, cho vay và các dịch vụ khác cho

khách hàng, từ đó gia tăng doanh thu, đảm bảo cho ngân hàng tồn tại, phát triển ổn định và

bền vững (Brighi & Venturelli, 2016; Cai & ctg., 2016; Fang & Lelyveld, 2014; Türkmen &

Yiğit, 2012). Trong đó, đa dạng hóa thu nhập được xem là chỉ tiêu tốt nhất phản ánh kết quả

của các chiến lược đa dạng hóa. Tác động của đa dạng hóa thu nhập đến ổn định ngân hàng

vẫn chưa được thống nhất. Nhiều nghiên cứu cho thấy rằng các ngân hàng theo đuổi chiến

lược đa dạng hóa thu nhập sẽ làm giảm rủi ro ngân hàng và tăng lợi nhuận của ngân hàng

(Chiorazzo & ctg., 2008). Tuy nhiên, một số nghiên cứu cho rằng, khi ngân hàng mở rộng

hoạt động thu nhập ngoài lãi, chi phí cố định tăng dẫn đến tăng đòn bẩy hoạt động của ngân

hàng và tăng rủi ro, ảnh hưởng đến sự ổn định của các ngân hàng (Ashraf & ctg., 2010; Baele

& ctg., 2007; Demirguc-Kunt & Huizinga, 2010; Lepetit & ctg., 2008).

- Cạnh tranh

Có hai quan điểm đối lập trong các nghiên cứu trước về tác động của cạnh tranh đến ổn

định ngân hàng. Quan điểm cạnh tranh – bất ổn theo mô hình của Keeley (1990) và Marcus

(1984) cho rằng, cạnh tranh làm suy yếu ổn định hệ thống ngân hàng. Mối quan hệ này được

thể hiện thông qua kênh truyền dẫn về giá trị thương hiệu. Mức độ cạnh tranh tăng lên sẽ làm

quyền lực ảnh hưởng thị trường của ngân hàng giảm đi (Berger & ctg., 2017), qua đó làm

giảm giá trị thương hiệu của ngân hàng. Giá trị thương hiệu của ngân hàng thấp thì chi phí

phá sản của ngân hàng càng thấp. Do đó, các ngân hàng có động cơ chấp nhận rủi ro cao hơn,

làm tăng nguy cơ phá sản. Ngoài ra, Allen & Gale (2004) phát hiện ra rằng, cạnh tranh với sự

tham gia của nhiều ngân hàng là điều kiện lý tưởng cho sự lan truyền các cú sốc tài chính.

Bên cạnh những ảnh hưởng trực tiếp, cạnh tranh trong ngân hàng và cấu trúc thị trường còn

có thể gián tiếp gia tăng hành vi chấp nhận rủi ro của các ngân hàng. Cạnh tranh ngân hàng

có thể tạo ra bất ổn và hệ quả là sự tháo chạy của người gửi tiền/nhà đầu tư. Nó có thể mang

23

lại lợi ích cho khách hàng, tuy nhiên lại khiến các ngân hàng đối mặt với nguy cơ rủi ro.

Tuy nhiên, theo quan điểm cạnh tranh- ổn định, cạnh tranh không phải là yếu tố gây tổn

thương cho hệ thống ngân hàng. Xét về một mặt nào đó, nếu ngân hàng gặp phải những vấn

đề liên quan đến rủi ro đạo đức, đối mặt với rủi ro thanh khoản thì việc ngân hàng đó đứng

trước nguy cơ phá sản trong môi trường cạnh tranh là điều cần thiết để ngân hàng điều chỉnh

và lựa chọn cách thức hoạt động phù hợp hơn. Do đó cạnh tranh là cần thiết để tăng cường ổn

định tài chính do khắc phục được những hạn chế của thị trường độc quyền (Caminal &

Matutes, 2002). Ngoài ra, khi hệ thống ngân hàng có mức độ tập trung thấp, sẽ hạn chế nguy

cơ xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính (Boyd & Runkle, 1993).

Mặt khác, khi xảy ra bất cân xứng thông tin, cạnh tranh càng cao làm giảm khả năng tiếp

cận vốn cho doanh nghiệp, làm các ngân hàng mất động lực xây dựng mối quan hệ tín dụng

(Petersen & Rajan, 1994) và thu thập thông tin (Hauswald & Marquez, 2006). Ngược lại, khi

cạnh tranh thấp, các ngân hàng có vị thế cao có xu hướng đầu tư tìm hiểu, tạo lập quan hệ cho

vay thân thiết với các doanh nghiệp vì khi đó các ngân hàng dễ khai thác các lợi ích từ việc

hỗ trợ các doanh nghiệp. Môi trường cạnh tranh cũng làm cho các ngân hàng nhận được ít

thông tin hơn về các khách hàng vay vốn, vì thế sẽ gặp khó khăn khi kiểm tra hồ sơ tín dụng

của khách hàng. Kết quả là gia tăng rủi ro tín dụng hơn cho ngân hàng và tiềm ẩn rủi ro bất

ổn cao (Allen & Gale, 2004; Boot & Thakor, 1993). Ngược lại trong môi trường ít cạnh tranh,

ngân hàng cung cấp tín dụng dễ dàng hơn cho các khoản vay lớn, điều này làm giảm việc gia

tăng xác suất ngân hàng bị sụp đổ (Caminal & Matutes, 2002). Nguyên nhân có thể lý giải

rằng hệ thống ngân hàng độc quyền cao hơn cho phép các ngân hàng áp dụng lãi suất vay cao,

đồng nghĩa khuyến khích người dân chấp nhận rủi ro lớn hơn, làm cho nợ xấu có thể gia tăng.

Tuy nhiên, lãi vay cao cũng mang lại thu nhập từ lãi cao cho các ngân hàng (Martinez-Miera

& Repullo, 2010). Chính mối tương quan bù trừ này có thể tạo ra mối quan hệ phi tuyến giữa

cạnh tranh và ổn định ngân hàng.

Ngoài ra, một số yếu tố khác như tỷ suất lợi nhuận ròng trên tài sản (ROA), chất lượng

quản lý, giám sát cũng có ảnh hưởng nhất định đến ổn định ngân hàng. Theo đó, khi lợi nhuận

ròng trên tài sản càng tăng, lợi nhuận nhiều, khả năng quản trị tốt thì rủi ro tín dụng của các

ngân hàng này càng thấp thì mức ổn định của nó càng cao (Messai & Jouini, 2013). Tuy nhiên,

với ROA cao, càng có nhiều động lực để ngân hàng đa dạng hóa danh mục để gia tăng lợi

nhuận. Điều này sẽ gây ảnh hưởng đến mức ổn định của ngân hàng bởi vì nó làm cho rủi ro

tín dụng của ngân hàng tăng lên trong tương lai (Moussa, 2015). Ngoài ra, Berger & DeYoung

24

(1997) cho rằng các ngân hàng có chất lượng quản lý tốt (được xác định bằng tỷ lệ chi phí

hoạt động trên tổng thu nhập), sẽ giảm thiểu các khoản nợ xấu, từ đó có thể cải thiện sự ổn

định cho ngân hàng. Cùng với chất lượng quản lý thì yếu tố giám sát cũng được xem xét trong

nghiên cứu của (Carretta & ctg., 2015), hay sự tham gia vốn đầu tư của nước ngoài sẽ làm gia

tăng rủi ro tín dụng, ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng (Ayaydin & Karakaya,

2014).

2.1.3.2. Các nhân tố bên ngoài

Mối quan hệ giữa các yếu tố vĩ mô và ổn định ngân hàng được xem xét liên quan đến chu

kỳ kinh tế và sự ổn định của hệ thống tài chính (Messai & Jouini, 2013). Hệ thống ngân hàng,

trước hết là một thành phần trong nền kinh tế, vậy nên nó cũng chịu những ảnh hưởng nhất

định từ môi trường vĩ mô, điển hình là các yếu tố như tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ thất nghiệp,

lạm phát, lãi suất… (Messai & Jouini, 2013). Khi các yếu tố vĩ mô đi theo chiều hướng thuận

lợi, tức điều kiện môi trường vĩ mô tốt thì nó cũng sẽ tạo ra những ảnh hưởng và tác động làm

tăng mức độ ổn định tài chính của ngân hàng và ngược lại, nó sẽ cản trở và tạo ra những rủi

ro nhất định cho ngân hàng, cụ thể:

- Lạm phát

Lạm phát là một trong các yếu tố vĩ mô có tác động đến mức độ ổn định tài chính ngân

hàng. Trong điều kiện lạm phát tăng cao dẫn đến mức giá chung bị thay đổi, điều này sẽ tác

động trực tiếp đến hoạt động huy động vốn và cho vay của NHTM. Kết quả khiến cho doanh

thu, chi phí và lợi nhuận của ngân hàng bị biến động, ảnh hưởng đến mức độ ổn định của ngân

hàng. Nhiều nghiên cứu chỉ ra các quan điểm khác nhau về tác động của lạm phát lên sự ổn

định. Nghiên cứu của Ayaydin & Karakaya (2014) phát hiện mối tương quan ngược chiều

giữa lạm phát và rủi ro tín dụng. Theo đó, khi lạm phát tăng cao, Chính phủ sẽ sử dụng chính

sách tiền tệ thắt chặt, dẫn đến khả năng cho vay của ngân hàng giảm, từ đó sẽ giảm rủi ro tín

dụng, đồng nghĩa làm gia tăng mức độ ổn định của ngân hàng. Tuy nhiên, Perry (1992) cho

rằng nếu tỷ lệ lạm phát được dự đoán đầy đủ và chính xác thì lạm phát tạo cơ hội cho các

ngân hàng điều chỉnh lãi suất phù hợp (Ash Demirgüç-Kunt & Huizinga, 1999) với hoạt động

kinh doanh, góp phần giữ vững ổn định. Ngoài ra, Jokipii & ctg. (2013) quan sát thấy không

có mối liên hệ rõ ràng giữa sự ổn định của khu vực ngân hàng và lạm phát ở 18 quốc gia

OECD trong giai đoạn 1980-2008.

25

- Tăng trưởng kinh tế

Tăng trưởng kinh tế phản ánh khả năng cũng như thu nhập của người đi vay tăng lên, đủ

trang trải các khoản nợ, rủi ro tín dụng của ngân hàng sẽ giảm từ đó ngân hàng sẽ ổn định hơn

(Dash & Kabra, 2010; Flamini & ctg., 2009; Khemraj & Pasha, 2009; Kosmidou, 2008; Salas

& Saurina, 2002). Nhưng cũng có một số nghiên cứu lại cho thấy khi GDP tăng, các ngân

hàng cạnh tranh nhau để gia tăng thị phần, điều này dẫn dến đến rủi ro cho ngân hàng xuất

phát từ việc dễ dàng cung cấp các khoản tín dụng với điều kiện được nới lỏng và không được

giám sát chặt chẽ. Chính lý do này làm cho rủi ro ngân hàng tăng lên, ảnh hưởng đến mức ổn

định của ngân hàng. Ngược lại, khi nền kinh tế đi xuống, GDP giảm, sẽ ảnh hưởng tiêu cực

đến rủi ro tín dụng từ đó làm giảm mức ổn định của ngân hàng (Demirguc-Kunt & ctg., 2003;

Liu & Wilson, 2010; Sufian, 2009).

Ngoài yếu tố lạm phát, một số yếu tố vĩ mô khác cũng ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng

như tỷ lệ thất nghiệp, văn hóa, xã hội. Đặc biệt còn có một số nhân tố mới như tài chính toàn

diện, chất lượng thể chế (sẽ được đánh giá trong nội dung của luận án)

2.1.4. Lý thuyết về ổn định ngân hàng

Xuất phát từ quá trình hình thành, diễn biến và phát triển các lý thuyết về bất ổn tài chính

và ổn định tài chính, lý thuyết ổn định ngân hàng được xem xét trên khía cạnh ổn định tài

chính trong hoạt động ngân hàng với nỗ lực đưa ngân hàng thoát khỏi tình trạng bất ổn tài

chính.

Hầu hết các nghiên cứu về ổn định tài chính ngân hàng được tìm thấy đều đánh giá “bất

ổn tài chính” như là một cách tiếp cận để đánh giá “ổn định tài chính”. Từ đó, nghiên cứu tập

trung vào bất ổn tài chính là trạng thái ngược với ổn định. Các lý thuyết về bất ổn tài chính

được nghiên cứu và phát triển như: Lý thuyết bất ổn tài chính của trường phái Trọng tiền, Lý

thuyết bất ổn tài chính của trường phái Hậu Keynes, Lý thuyết về bất ổn tài chính của Minsky,

Lý thuyết về bất ổn tài chính của Koo…

Theo Keynes (1936), những biến động tức thời trong ngắn hạn biểu hiện bằng các hiện

tượng như lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng kinh tế là nguyên nhân gây ra những biến

động trong HTTC. Do đó, trong thời gian ngắn để can thiệp vào nền kinh tế, chính phủ các

nước cần phối hợp hài hòa giữa hai công cụ tài khóa và tiền tệ. Ủng hộ tư tưởng của Keynes,

phát triển theo quan điểm Minsky, giai đoạn 2 là thời điểm dễ xảy ra rủi ro vì các nhà đầu tư

gia tăng đòn bẩy nợ thông qua hoạt động vay vốn từ các trung gian tài chính. Khi đòn bẩy nợ

vượt quá khả năng chịu đựng rủi ro sẽ dẫn đến bong bóng tài chính bị vỡ kéo theo khủng

hoảng nợ vay. Các nhà đầu tư mất đi khả năng trả nợ làm tổn hại đến nguồn vốn của nền kinh

26

tế. Do đó, vai trò của trung gian tài chính ở giai đoạn này vô cùng quan trọng. Các NHTM bắt

đầu điều tiết lượng vốn cho vay, dựa trên nhận định và phân tích cung cầu tiền tệ trong nền

kinh tế. Chính phủ cũng cần cấp tín dụng của quy định hạn mức cấp tín dụng của các NHTM

bằng các công cụ tiền tệ thích hợp nhằm giảm sức ép lên bong bóng tài chính trong tương lai,

có như vậy mới duy trì được khả năng sinh lời cho các nhà đầu tư, vừa đảm bảo ổn định cho

HTTC.

Với sự phát triển ngày càng lớn mạnh và đa dạng của mình, các định chế tài chính, đặc

biệt là ngân hàng, luôn được xem là kênh cung cấp nguồn vốn dồi dào cho các nhà đầu tư

trong nền kinh tế. Trong giai đoạn 2 của “Khoảnh khắc Minsky”, khi muốn gia tăng đòn bẩy

nợ, các nhà đầu tư có xu hướng gia tăng các món vay ngân hàng nhiều hơn để tài trợ vốn cho

các cơ hội đầu tư. Tuy nhiên, khi nền kinh tế bất ổn, lãi suất kỳ vọng của các cơ hội đầu tư

không còn, các nhà đầu tư có xu hướng bán hàng loạt tài sản để trả nợ. Lúc này, giá cả các tài

sản tài chính cũng giảm sút do mức định giá của NHTM cũng giảm trước biến động của nền

kinh tế. Sự suy giảm đột ngột giá trị tài sản tài chính ảnh hưởng nghiêm trọng đến tính ổn

định và khả năng trả nợ của nhà đầu tư. Khi khủng hoảng tài chính xảy ra (giai đoạn 3 “Khoảnh

khắc Minsky”) kéo theo sự bất ổn trong hệ thống ngân hàng do khách hàng bị suy giảm khả

năng trả nợ. Lúc này bong bóng tài chính vỡ kéo theo tình trạng khó khăn cho các NHTM,

thậm chí ngân hàng có nguy cơ phá sản vì không thu hồi các khoản nợ cho vay đầu tư quá rủi

ro. Bất ổn ngân hàng lan rộng và có thể làm trầm trọng hơn bất ổn của nền kinh tế.

Các nhà kinh tế học hiện đại đã cung cấp nhiều bằng chứng thực nghiệm về bất ổn ngân

hàng. Ở đó, ngân hàng được xem là một bộ phận của thị trường tài chính, do đó luôn phải

chịu ảnh hưởng trực tiếp và sâu sắc nhất từ các biến động của hệ thống tài chính quốc gia nói

riêng và nền kinh tế nói chung, bởi theo Davis (2003) có ba loại bất ổn tài chính: sự thất bại

của thị trường, giá cả thị trường bất ổn và sự sụp đổ kéo theo thanh khoản thị trường. Do đó,

ổn định ngân hàng đóng vai trò chủ chốt trong vấn đề ổn định tài chính. Khi hoạt động ngân

hàng được khôi phục, kéo theo sự phục hồi của hệ thống tài chính, lúc đó dòng vốn của nền

kinh tế sẽ được khơi thông, hoạt động kinh doanh cũng sẽ dần đi vào ổn định.

2.2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2.2.1. Khái niệm tài chính toàn diện

Các định nghĩa hiện có về tài chính toàn diện không phải lúc nào cũng rõ ràng, thống nhất,

mặc dù đều được xây dựng trên cùng nền lý thuyết. Thực tế hiện nay vẫn chưa có một định

nghĩa thống nhất về tài chính toàn diện. Tài chính toàn diện được nhìn nhận khác nhau dưới

27

các bối cảnh khác nhau. Tài chính toàn diện có thể được xem như một quá trình cho phép mọi

người dân tiếp cận các sản phẩm DVTC như tín dụng, thanh toán, hoặc tiết kiệm… Ở một

khía cạnh khác, tài chính toàn diện còn được xem là một quá trình phát triển cơ sở hạ tầng

kinh tế, xã hội, đáp ứng nhu cầu tài chính của mọi đối tượng khách hàng. Từ đó, khi thực hiện

tài chính toàn diện có thể trực tiếp xóa bỏ tình trạng loại trừ xã hội đang tồn tại trong nền kinh

tế (Rangarajan, 2008).

Khái niệm về tài chính toàn diện có từ những năm 1990. Ban đầu, tài chính toàn diện được

nhìn nhận từ góc độ của loại trừ tài chính. Theo đó, loại trừ tài chính là việc một bộ phận

người yếu thế như người nghèo bị hạn chế tiếp cận các kênh tín dụng chính thức, do khoảng

cách về địa lý hoặc khác nhau về chủng tộc, mặc dù họ đã có tài sản thế chấp và có các dòng

thu nhập thường xuyên. Từ đó, các TCTC tập trung phát triển các sản phẩm tín dụng phù hợp

cho người nghèo, dựa trên nền của thị trường tín dụng dài hạn và các ngân hàng hoạt động

cho phân khúc người nghèo, hoạt động vì mục tiêu phát triển cộng đồng. Nhờ vậy, người

nghèo mới có thể tham gia vào các hoạt động trong thị trường tài chính để cải thiện thu nhập

(Dymski & Veitch, 1996; Leyshon & Thrift, 1995; Pollard, 1996). Theo thời gian, phạm vi

của tài chính toàn diện càng được mở rộng, không chỉ giới hạn ở mức độ bao phủ của các dịch

vụ, sản phẩm tín dụng đến người nghèo mà còn xét đến các DVTC khác tương ứng với nhiều

đơn vị cung cấp DVTC, cụ thể:

Kim (2016) định nghĩa tài chính toàn diện là việc tất cả những người trưởng thành đều

được tiếp cận các DVTC, gồm mở tài khoản giao dịch, tiết kiệm, vay vốn ở mức phí hợp lý,

tham gia bảo hiểm nhân thọ và các sản phẩm bảo hiểm khác do các tổ chức tài chính chính

thức cung cấp. Akileng & ctg. (2018) cùng quan điểm với Kim (2016), tuy nhiên, nhóm tác

giả mở rộng thêm các sản phẩm, DVTC, và đơn vị cung cấp trong đó không chỉ xét đến các

sản phẩm và dịch vụ do ngân hàng cung cấp mà còn xem xét cả các DVTC khác như bảo

hiểm, hưu trí, chuyển tiền do các định chế tài chính phi ngân hàng cung cấp.

Theo Rangarajan (2008), tài chính toàn diện được định nghĩa là quá trình đảm bảo khả

năng tiếp cận kịp thời, đầy đủ các DVTC với chi phí hợp lý, với khả năng chi trả đáp ứng nhu

cầu của các nhóm dân số dễ bị tổn thương như nhóm thu nhập thấp. Aduda & Kalunda (2012)

định nghĩa tài chính toàn diện là quá trình cung cấp một loạt các DVTC, với giá cả hợp lý,

đúng địa điểm, với hình thức và thời gian phù hợp và không có bất kỳ sự phân biệt đối xử nào

đối với tất cả các thành viên trong xã hội". Atkinson & Messy (2013) định nghĩa tài chính

toàn diện là quá trình thúc đẩy khả năng tiếp cận và sử dụng hợp lý, kịp thời và đầy đủ đối

28

với một loạt các sản phẩm và DVTC cho tất cả các phân khúc khách hàng trong xã hội. Quá

trình này được thực hiện phải kết hợp với các giải pháp đổi mới đi kèm như giáo dục tài chính

nhằm nâng cao nhận thức của người dân về tài chính. Từ đó, có thể loại bỏ các rào cản và

khắc phục tình trạng thiếu điều kiện tiếp cận, để đảm bảo việc tiếp cận tài chính của những

người nghèo, người thiệt thòi, một cách công bằng, an toàn với chi phí thấp (Chakravarty &

Pal, 2013). Arun & Kamath (2015) định nghĩa tài chính toàn diện là trạng thái trong đó tất cả

mọi người đều có quyền tiếp cận và sử dụng mọi DVTC chất lượng, được cung cấp với giá

cả hợp lý, một cách thuận tiện và được tôn trọng. Mialou & ctg. (2014) định nghĩa tài chính

toàn diện ở một phạm vi bao quát hơn, là một trạng thái kinh tế trong đó các cá nhân và doanh

nghiệp không bị từ chối khi tiếp cận các DVTC cơ bản. Naceur & ctg. (2017) định nghĩa tài

chính toàn diện là trạng thái trong đó phần lớn dân số được tiếp cận rộng rãi với danh mục

các sản phẩm và DVTC có chất lượng.

Mặt khác, một số tổ chức quốc tế đưa ra khái niệm về tài chính toàn diện như: Ngân hàng

Thế giới (World Bank – WB) cho rằng tài chính toàn diện có nghĩa là các cá nhân và doanh

nghiệp có thể tiếp cận và sử dụng các sản phẩm và DVTC - các giao dịch, thanh toán, tiết

kiệm, tín dụng và bảo hiểm - đáp ứng nhu cầu của họ với mức chi phí hợp lý, được cung cấp

một cách có trách nhiệm và bền vững; Liên minh Tài chính toàn diện (Alliance for Financial

Inclusion - AFI) định nghĩa về tài chính toàn diện rộng hơn và đa chiều hơn, nhấn mạnh đến

cả khía cạnh chất lượng sử dụng dịch vụ. Theo đó, tài chính toàn diện là việc cung cấp cho

người sử dụng các DVTC sẵn có với mức chi phí hợp lý; làm cho khách hàng sử dụng các

DVTC một cách thường xuyên; đưa ra những DVTC được thiết kế phù hợp với nhu cầu của

người sử dụng. Thuật ngữ tài chính toàn diện do Ủy ban Basel định nghĩa tài chính toàn diện

là một tình trạng/hiện trạng mà trong đó tất cả người trưởng thành trong độ tuổi lao động, bao

gồm cả những người hiện đang bị loại trừ bởi hệ thống tài chính, có khả năng tiếp cận các

DVTC một cách có hiệu quả.

Dựa trên định nghĩa về tài chính toàn diện của các tổ chức quốc tế, khi triển khai tài chính

toàn diện mỗi quốc gia đều xây dựng một khái niệm riêng cho mình phù hợp với điều kiện,

quá trình phát triển tài chính toàn diện của quốc gia đó. Chẳng hạn, đối với Chính phủ Việt

Nam, tài chính toàn diện được định nghĩa là việc mọi người dân và doanh nghiệp được tiếp

cận và sử dụng các sản phẩm, DVTC một cách thuận tiện, phù hợp nhu cầu, với chi phí hợp

lý. Các doanh nghiệp được cung cấp một cách có trách nhiệm và bền vững, trong đó chú trọng

đến nhóm người nghèo, người thu nhập thấp, người yếu thế, doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh

29

nghiệp siêu nhỏ (Quyết định 149/QĐ-TTg Chiến lược tài chính toàn diện 2030, 2020).

Tóm lại, tài chính toàn diện được hiểu là tất cả các sáng kiến, biện pháp để cung cấp các

DVTC chính thức một cách thuận tiện, với chi phí hợp lý và phù hợp với nhu cầu của tất cả

người dân.

Thực hiện tài chính toàn diện mang lại những lợi ích đáng kể cho bản thân các doanh

nghiệp, cho mọi người trong xã hội, cho xã hội và nền kinh tế. Đầu tiên tài chính toàn diện

giúp các cá nhân và doanh nghiệp tìm được nguồn lực để đáp ứng những nhu cầu như vay

vốn cho các cơ hội kinh doanh, đầu tư cho con cái học hành, hoặc dành tiền tiết kiệm khi về

hưu... Vay vốn ngân hàng còn giúp người nông dân, người nghèo bảo vệ mình trước những

cú sốc hay rủi ro trong cuộc sống như ốm đau, bệnh tật, mất mùa, thiên tai. Người nghèo sẽ

tránh được vòng luẩn quẩn khi phải đi vay ở khu vực không chính thức với lãi suất cao, khiến

cho gánh nặng trả nợ càng cao để rồi nghèo sẽ càng nghèo hơn. Thứ hai, đối với các tổ chức

tài chính, tài chính toàn diện đồng nghĩa với việc mở rộng đối tượng phục vụ tới tất cả nhóm

người trong xã hội, tạo cơ hội cho họ phát triển đa dạng sản phẩm dịch vụ, mở rộng cơ sở

khách hàng và theo đó là lợi nhuận tăng lên. Cuối cùng, tài chính toàn diện còn giúp Chính

phủ giảm bớt chi phí cho các chương trình trợ cấp an sinh xã hội, quản lý xã hội tốt hơn nhờ

làm tăng sự minh bạch, phòng chống tham nhũng tốt hơn. Một xã hội với cơ hội tiếp cận

DVTC mở rộng cho tất cả mọi người sẽ tăng cường sự tham gia của họ vào cuộc sống cộng

đồng nói chung, cải thiện công bằng và bình đẳng, năng lực của toàn xã hội theo đó cũng

được nâng lên.

2.2.2. Đo lường tài chính toàn diện

Từ khái niệm về tài chính toàn diện, mỗi tác giả đưa các chỉ số khác nhau để đo lường tài

chính toàn diện của một quốc gia, trong đó, có hai phương pháp chính được áp dụng: các chỉ

số đơn lẻ và chỉ số tổng hợp về tài chính toàn diện, cụ thể:

- Phương pháp chỉ số đơn lẻ

Đầu tiên là các chỉ số đo lường tài chính toàn diện nằm trong cơ sở dữ liệu Global Findex

do World Bank thực hiện. Đây là cơ sở dữ liệu toàn cầu lớn nhất về tài chính toàn diện, cung

cấp dữ liệu về cách thức các cá nhân tiết kiệm, vay mượn, thanh toán và bảo hiểm. Dữ liệu

được thu thập bằng cách khảo sát 150.000 người trưởng thành tại 148 quốc gia khác nhau trên

thế giới, bao gồm các chỉ số về tiếp cận và sử dụng các DVTC chính thức và không chính

thức. Bộ dữ liệu bắt đầu được công bố vào năm 2011, và được cập nhật 3 năm một lần. Dữ

30

liệu cho thấy các cơ hội để mở rộng khả năng tiếp cận các DVTC cho những người không có

tài khoản (underbanked) cũng như thúc đẩy việc sử dụng nhiều hơn các DVTC kỹ thuật số ở

những người có tài khoản. Cơ sở dữ liệu Findex toàn cầu đã trở thành trụ cột trong các nỗ lực

toàn cầu nhằm thúc đẩy tài chính toàn diện.

Ngoài ra, vào năm 2004, Quỹ tiền tệ thế giới (IMF) cũng xây dựng bộ dữ liệu về tiếp cận

tài chính (Financial Access Survey – FAS). Đây là bộ dữ liệu từ phía cung, gồm 189 quốc gia

trong thời gian hơn 10 năm (kể từ năm 2004), chứa 121 chuỗi thời gian về tiếp cận tài chính

và sử dụng các DVTC. Năm 2014, FAS bổ sung thêm dữ liệu về tiền di động (Mobile Money)

và năm 2017 FAS phân tách dữ liệu theo giới tính. Bộ dữ liệu của FAS được công khai và

cập nhật hàng năm, khá đầy đủ và tương đối dễ tiếp cận.

Các chỉ số đơn lẻ được các nhà nghiên cứu trên thế giới sử dụng phổ biến gồm:

▪ Tỷ lệ chi nhánh ngân hàng trên đầu người (Mookerjee & Kalipioni, 2010).

▪ Tỷ lệ người dân sở hữu tài khoản tại ngân hàng hoặc tổ chức tài chính vi mô

(Honohan, 2008).

▪ Số lượng máy rút tiền tự động và chi nhánh NHTM trên 100.000 người trưởng thành

(Park & Mercado, 2018).

▪ Số lượng người đi vay từ các NHTM trên 1.000 người trưởng thành (Park &

Mercado, 2018).

▪ Số lượng người gửi tiền ở các NHTM trên 1.000 người trưởng thành (Park &

Mercado, 2018).

▪ Tỷ lệ tín dụng trong nước trên GDP phản ánh 'mức độ sử dụng' của các DVTC (Park

& Mercado, 2018).

▪ Tỷ lệ cá nhân có tài khoản tại một tổ chức tài chính (Aslan & ctg., 2017).

▪ Tỷ lệ cá nhân có tiết kiệm từ một tổ chức tài chính (Aslan & ctg., 2017).

▪ Tỷ lệ cá nhân có vay từ một tổ chức tài chính (Aslan & ctg., 2017).

▪ Tỷ lệ cá nhân có sử dụng tiền kỹ thuật số để thanh toán (Aslan & ctg., 2017).

▪ Tỷ lệ cá nhân có nhận tiền kỹ thuật số trong thanh toán (Aslan & ctg., 2017).

Tuy nhiên nếu chỉ sử dụng riêng lẻ các chỉ số này, chúng có thể cung cấp thông tin không

hoàn chỉnh về tài chính toàn diện và có những nhược điểm nhất định. Ví dụ như một số nghiên

cứu đo lường tài chính toàn diện đơn giản bằng số lượng tài khoản ngân hàng trên 100.000

người trưởng thành. Cách đo lường này lại có một nhược điểm là bỏ qua một số đặc điểm

quan trọng của tài chính toàn diện đó là chất lượng và việc sử dụng các DVTC. Do đó, việc

31

xây dựng một chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp, phản ánh đầy đủ các khía cạnh của tài chính

toàn diện là việc làm cần thiết.

- Phương pháp tổng hợp

Hai phương pháp tổng hợp chủ yếu được nhiều tác giả sử dụng là phương pháp bình quân

giản đơn Eculidean và phương pháp phân tích thành tố cơ bản.

+ Phương pháp bình quân giản đơn Euclidean

Do tài chính toàn diện là quá trình đa chiều nên phương pháp tiếp cận đa chiều sẽ phù hợp

để xây dựng chỉ số tổng hợp nhằm mục đích đo lường. Phương pháp này được lấy ý tưởng

theo cách tiếp cận của UNDP về tính toán chỉ số phát triển con người (HDI), chỉ số đói nghèo

(HPI) và chỉ số phát triển giới (GDI). Tương tự cách xây dựng các chỉ số này của UNDP, chỉ

số tài chính toàn diện được tính bằng cách xây dựng từng chỉ số riêng lẻ cho mỗi khía cạnh

(2.3) 𝑑𝑖 = 𝑊𝑖 của tài chính toàn diện (được gọi là chỉ số thành phần 𝑑𝑖), được xác định bằng công thức 2.3. 𝐴𝑖 − 𝑚𝑖 𝑀𝑖 − 𝑚𝑖

Trong đó:

- 𝑤𝑖 là trọng số của chỉ tiêu thứ i, 0 ≤ 𝑤𝑖 ≤ 1

- 𝐴𝑖 là giá trị thực của chi tiêu thứ i

- 𝑚𝑖 là giới hạn dưới của chỉ tiêu thứ i, được cố định bởi quy ước cho trước

- 𝑀𝑖 là giới hạn trên của chỉ tiêu thứ i, được cố định bởi quy ước cho trước 𝑑𝑖 có giá trị ∈ [0; 𝑤𝑖], giá trị 𝑑𝑖 càng cao, mức độ tài chính toàn diện theo khía cạnh đó

càng tốt. Nếu có nhiều khía cạnh của tài chính toàn diện được xem xét, quốc gia nào đó được

đại diện bởi điểm X trong không gian Cartesian đa chiều. Giả sử, trong không gian n chiều (n

khía cạnh của tài chính toàn diện), điểm O (0,0,0…0) là điểm xấu nhất, và điểm w

(𝑤1, 𝑤2, 𝑤3 … 𝑤𝑛) là điểm tốt nhất. Khoảng cách giữa 𝑑𝑖 với O càng lớn, và khoảng cách giữa

𝑑𝑖 với w càng nhỏ, mức độ tài chính toàn diện càng cao.

Tuy nhiên, trong không gian đa chiều, có thể có 2 điểm có cùng khoảng cách với w nhưng

lại có khoảng cách với O khác nhau, thì lúc này quốc gia nào có khoảng cách từ O cao hơn

thì tài chính toàn diện cao hơn và ngược lại. Chính vì vậy, việc phát triển chỉ số đo lường tài

chính toàn diện cần chú ý đến cả hai khoảng cách này. Từ đó, Sarma (2012) tính chỉ số tài

chính toàn diện bằng cách trung bình đơn giản Euclidean khoảng cách giữa X-O và khoảng

cách Euclidean nghịch đảo giữa giữa X-W.

32

Như vậy để tính chỉ số tài chính toàn diện, trước tiên cần tính 𝑋1 (khoảng cách giữa X và

O) và tính 𝑋2(khoảng cách nghịch đảo giữa X và W); sau đó lấy trung bình đơn giản của 𝑋1và

𝑋2. Kết quả của phép tính này chính là chỉ số tài chính toàn diện tổng quát cuối cùng mà

chúng ta cần quan sát. Chỉ số tài chính toàn diện được xác định qua từng bước, thể hiện lần

lượt ở các công thức (2.4), (2.5), (2.6):

2 + ⋯ + 𝑑𝑛 2 2 + ⋯ + 𝑤𝑛 2

2 + 𝑑2 2 + 𝑤2

2 + 𝑑3 2 + 𝑤3

(2.4) 𝑋1 = √𝑑1 √𝑤1

2 + ⋯ + 𝑤𝑛 2

2 + 𝑤2

(2.5) 𝑋2 = 1 − √(𝑤1 − 𝑑1)2 + (𝑤2 − 𝑑2)2 + (𝑤3 − 𝑑3)2 + ⋯ (𝑤𝑛 − 𝑑𝑛)2 2 + 𝑤3 √𝑤1

Chỉ số IFI của quốc gia cụ thể được tính bởi công thức tổng quát sau:

𝐼𝐹𝐼 = (2.6) 𝑋1 + 𝑋2 2

Chỉ số tài chính toàn diện bất kỳ tính được sẽ có giá trị ∈ [0; 1] và chỉ số này càng cao thì

mức độ tài chính toàn diện càng lớn.

Phương pháp này được Sarma (2012) áp dụng để tính toán chỉ số tài chính toàn diện dựa

trên 3 khía cạnh cơ bản: thâm nhập ngân hàng (khả năng tiếp cận DVTC) (banking

penetration), tính khả dụng (sẵn có) của DVTC (availability of the banking service) và mức

độ sử dụng hệ thống ngân hàng (usage of the banking system).

Phương pháp này tương đối đơn giản, về sau được nhiều tác giả áp dụng như (Park &

Mercado, 2015; Williams & ctg., 2017). Tuy nhiên, chỉ số này có một nhược điểm lớn là

trọng số của các khía cạnh dùng để tính chỉ số được Sarma (2012) đề xuất theo ý kiến chủ

quan của tác giả, do đó nó chỉ có thể đúng cho trường hợp các nước mà tác giả nghiên cứu.

Vì thế, một số tác giả như Ahamed & Mallick (2019) bày tỏ mối quan ngại về tính chính xác

của phương pháp này. Do đó Ahamed & Mallick (2019) đề xuất phương pháp phân tích thành

phần cơ bản nhằm khắc phục những nhược điểm trên.

+ Phân tích thành phần cơ bản (Principal Component Analysis – PCA)

Phân tích thành phần chính (PCA) là một kỹ thuật thống kê phân tích đa biến được sử

dụng rộng rãi để giảm số lượng lớn các biến có tương quan với nhau thành tập ít các biến sao

cho các biến mới tạo ra là tổ hợp tuyến tính của những biến cũ không có tương quan lẫn nhau.

Biến mới tạo ra không bị ảnh hưởng chất lượng, độ chính xác, được xác định theo phương

trình 2.7:

𝐹𝐼𝑖 = 𝜔1𝑌𝑎 + 𝜔2𝑌𝑏 + … . . +𝜔𝑛𝑌𝑛 (2.7)

33

Trong đó 𝑌𝑎, 𝑌𝑏, 𝑌𝑛 là những khía cạnh của chỉ số cần tìm, được xác định từ những chỉ số thành phần tương ứng. 𝜔1, 𝜔2, 𝜔𝑛 là trọng số gắn với các khía cạnh, được xác định thông qua

các phần mềm như STATA.

Như vậy, ở bước đầu tiên, phương pháp tham số đã được sử dụng để xác định vai trò của

từng nhân tố trong chỉ số tài chính toàn diện. Cách làm này có lợi thế là không sử dụng bất kì

thông tin ngoại sinh, chủ quan và nó có thể bao quát hết các khía cạnh của tài chính toàn diện.

PCA là phương pháp biến đổi giúp giảm số lượng lớn các chỉ số có tương quan với nhau

thành tập ít các chỉ số sao cho các chỉ số mới tạo ra là tổ hợp tuyến tính của những chỉ số cũ

không có tương quan lẫn nhau, mà vẫn giữ được nhiều nhất lượng thông tin từ các nhóm chỉ

số ban đầu. Ngoài ra, trong không gian mới, có thể giúp chúng ta khám phá thêm những thông

tin quý giá mới mà tại các chiều thông tin cũ mà những thông tin này bị che mất. Theo OECD

(2008), phương pháp PCA có ưu điểm là có thể tổng hợp một tập hợp các chỉ số riêng lẻ lại

với nhau trong khi vẫn bảo tồn tỷ lệ tối đa có thể của tổng biến động trong tập dữ liệu ban

đầu. Phương pháp này được thực hiện bằng cách nhóm các chỉ số riêng lẻ có các hệ số tải

nhân tố cao nhất thành các chỉ số tổng hợp trung gian, khi đó trọng số được xây dựng từ ma

trận các hệ số tải nhân tố, bình phương các hệ số tải nhân tố thể hiện tỷ lệ của tổng phương

sai đơn vị của chỉ tiêu được giải thích bởi các nhân tố. Camara & ctg. (2014) cho rằng một

chỉ số tổng hợp tốt phải bao gồm thông tin quan trọng từ tất cả các chỉ số, nhưng không được

thiên vị mạnh về một hoặc nhiều chỉ số.

Từ việc xem xét ưu nhược điểm của các phương pháp, luận án quyết định sử dụng phương

pháp PCA để xác định chỉ số tài chính toàn diện dựa trên ba khía cạnh: thâm nhập, khả dụng

và sử dụng, được đề xuất bởi (Sarma, 2012; Siddik & ctg., 2018).

2.2.3. Lý thuyết về tài chính toàn diện

Thực tế, theo tìm hiểu của luận án, hiện nay chưa có một lý thuyết rõ ràng về tài chính

toàn diện, nhưng gần đây Ozili (2020) đưa ra một lý thuyết nhằm chỉ ra đối tượng được hưởng

lợi khi thực hiện tài chính toàn diện. Theo Ozili (2020) một quốc gia khi thực hiện tài chính

toàn diện nên nhắm mục đến các thành phần dễ bị tổn thương của xã hội như người có thu

nhập thấp, thanh niên và người cao tuổi…những người phải chịu nhiều khó khăn trong cuộc

sống. Bởi lẽ, thành phần này bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các cuộc khủng hoảng tài chính và

suy thoái kinh tế, do đó, việc đưa những người này vào khu vực tài chính chính thức là cần

thiết. Như vậy, theo lý thuyết này có thể dễ dàng xác định các thành viên bị loại trừ về tài

chính bởi mức thu nhập, giới tính, tuổi tác và các đặc điểm nhân khẩu học của họ là trọng tâm

34

mà tài chính toàn diện hướng đến. Ngoài ra theo Ozili (2020) cho rằng khi thực hiện tài chính

toàn diện sẽ cải thiện hoạt động của các hệ thống tài chính, các thành phần trong hệ thống tài

chính như NHTM sẽ được lợi. Đồng quan điểm với Ozili (2020), Bhandari (2018) cho rằng

những người có thu nhập thấp là đối tượng được hưởng lợi cuối cùng khi thực hiện tài chính

toàn diện, những người khác lại nghĩ rằng phụ nữ là những người được hưởng lợi từ kết quả

thực hiện tài chính toàn diện (Ghosh & Ghosh 2014; Swamy, 2014) trong khi một số người

cho rằng nền kinh tế và hệ thống tài chính là những thành phần được hưởng lợi từ tài chính

toàn diện (Kim & ctg., 2018; Mehrotra & Yetman 2015).

Do chưa có một lý thuyết nào rõ ràng về tài chính toàn diện, nên luận án dựa vào quan

điểm của Ozili (2020) để lý giải việc khi thực hiện tài chính toàn diện rõ ràng làm thay đổi

cấu trúc khách hàng trong hệ thống tài chính, đặc biệt là một lượng lớn khách hàng là người

có thu nhập thấp, điều này có thể đem lại lợi ích/ hoặc gây hại đến hoạt động của ngân hàng

(Cohen & Nelson, 2011).

2.3. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ

2.3.1. Khái niệm chất lượng thể chế

2.3.1.1. Khái niệm thể chế

Trước khi trình bày khái niệm về chất lượng thể chế, luận án trình bày khái niệm về thể

chế.

Tính đến nay vẫn chưa có khái niệm nào về thể chế nhận được sự đồng thuận rộng rãi. Sở

dĩ như vậy là vì mỗi tác giả tiếp cận thể chế trên các góc độ khác nhau, mục tiêu phân tích

cũng như phạm vi phân tích cũng khác nhau. Thể chế hiện diện ở mọi lĩnh vực trong đời sống

con người, xuyên suốt và kết nối các lĩnh vực với nhau để hình thành một chỉnh thể có tổ chức

các cộng đồng.

Hầu hết các khái niệm về thể chế đều đặt trọng tâm vào các nhân tố mang tính xã hội mà

ít nhiều ảnh hưởng đến hành vi của con người. Thorstein (1912) được xem là một trong những

nhà nghiên cứu đầu tiên đặt nền móng về thể chế, theo đó thể chế là tính quy chuẩn của hành

vi hoặc các quy tắc xác định hành vi trong những tình huống cụ thể, được các thành viên của

một nhóm xã hội chấp nhận về cơ bản và sự tuân thủ các quy tắc đó là do bản thân tự kiểm

soát hoặc do quyền lực bên ngoài khống chế. John Commons, một trong những nhà kinh tế

học thể chế thời kỳ đầu, đã xem xét thể chế như một dạng hành động tập thể nhằm đạt được

sự kiểm soát, giải phóng và mở rộng hành động cá nhân (Commons, 1931). Các mục tiêu

35

hướng tới đây của thể chế vừa đối lập vừa thống nhất với nhau. Các thỏa thuận của xã hội

trong kiểm soát hành động cá nhân, trong những phạm vi nhất định, chính là điều kiện để đảm

bảo và mở rộng sự tự do của mọi thành viên trong xã hội.

Connolly & James (2006) cho rằng một thể chế tốt sẽ tạo ra môi trường thuận lợi thúc đẩy

các hoạt động kinh tế, sự sáng tạo, tăng trưởng và phát triển. Ngược lại, thể chế kém gây ra

các đình trệ cho nền kinh tế. Hai đặc điểm điển hình ở các nền kinh tế phát triển đó là dân chủ

và tình trạng của các quy định pháp luật, và chúng không chắc chắn tồn tại đồng thời. Tuy

nhiên, hai đặc tính này lại tương quan chặt chẽ với nhau.

Định nghĩa về thể chế hiện được dẫn nhiều nhất hiện nay là của Douglas North, nhà kinh

tế học thể chế đi tiên phong trong việc xây dựng khung khổ phân tích, tích hợp các vấn đề thể

chế vào mổ xẻ các vấn đề kinh tế. Cách tiếp của North không chỉ được các nhà kinh tế sử

dụng, mà còn được nhiều nhà khoa học ở các lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau bổ sung,

chỉnh sửa nhằm đặt nền móng cho các phân tích của họ về thể chế. North (1993) cho rằng thể

chế là những ràng buộc do con người đặt ra để tạo khuôn khổ cho các mối quan hệ tương tác

của mình. Thể chế bao gồm các ràng buộc chính thức (quy tắc, luật, hiến pháp…) và phi chính

thức (chuẩn mực hành vi, tục lệ, quy tắc ứng xử…), và các đặc trưng thực thi của chúng. Thể

chế chính là “luật chơi” còn tổ chức và cá nhân là “người chơi”. Ở khía cạnh khác, North

(1990) khẳng định rằng khi kết hợp với nhau, các thể chế xác định cấu trúc động cơ của xã

hội và nền kinh tế. Chúng có thể được tạo ra hoặc tiến triển theo thời gian, và được con người

thay đổi. Quan niệm của North trước hết xuất phát từ cá nhân, tiếp theo cách phân tích sự kết

hợp giữa các lựa chọn cá nhân với các ràng buộc thể chế lên các tập hợp lựa chọn đó. Do đó,

thể chế có ba đặc điểm: thứ nhất, thể chế do con người tạo ra; thứ hai, xác định cấu trúc động

cơ và hình thành quan hệ tương tác và thứ ba có các ràng buộc chính thức và phi chính thức,

có các đặc trưng về mặt thực thi.

Cũng tương tự như trên, Greif (2000) cho rằng thể chế là một hệ thống các nhân tố xã hội

liên kết với nhau tạo nên quy cách ứng xử, trong đó các nhân tố này mang tính phi vật chất,

do con người tạo ra nhưng nằm ngoài mỗi cá nhân mà chúng ảnh hưởng, bao gồm cả quy tắc,

niềm tin, chuẩn mực và tổ chức. Hay Glaeser & ctg. (2004) chỉ đơn giản cho rằng thể chế là

những ràng buộc tương đối lâu dài và ổn định.

Ostrom (1990) đưa ra định nghĩa quan trọng về thể chế “thể chế được định nghĩa là tập

hợp các quy định mang tính thực thi được sử dụng để lựa chọn ai là người phù hợp ra các

quyết định tại một số vũ đài, những hành động nào được cho phép hoặc bị hạn chế, những

36

quy định chung nào sẽ được thực hiện, thủ tục nào phải tuân thủ, những thông tin gì phải được

cung cấp hoặc không được phép cung cấp, những khoản chi trả nào được phân chia cho các

cá nhân tùy thuộc vào các hành động của họ”. Theo định nghĩa này, thuật ngữ “vũ đài” (arena)

được hiểu là tương tự như thuật ngữ về “trò chơi” (game) của North (1993).

Theo báo cáo của Diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2010 (WEF), thể chế được xem là việc

tạo ra các khuôn khổ trật tự, giới hạn và định vị cơ chế thực thi các quan hệ của con người; là

sự đồng thuận chung của con người trong việc xác lập những quy tắc, khuôn khổ trật tự, những

chuẩn mực và các ràng buộc được cộng đồng xã hội chia sẻ và đồng thuận. Acemoglu & ctg.

(2012) mở rộng khái niệm thể chế trong việc thể hiện quyền lực và khả năng điều hành của

nhà nước nhằm kiểm soát các hành vi xấu như tham nhũng với mục đích tăng trưởng kinh tế

và quản lý xã hội tốt hơn. Thể chế được phân biệt thành thể chế kinh tế và thể chế chính trị

và chúng có mối quan hệ sâu sắc, chặt chẽ với nhau. Kasper & Streit (1999) định nghĩa thể

chế là những quy tắc ràng buộc hành vi của từng cá nhân (vốn mang tính cơ hội chủ nghĩa và

thất thường, không nhất quán), từ đó dễ dàng dự đoán hành vi của con người và góp phần đẩy

nhanh sự phân công lao động, tạo ra hàng hóa vật chất. Thể chế chỉ phát huy tác dụng khi và

chỉ khi có những chế tài đi kèm để xử lý những vi phạm. Ngoài ra, thể chế cũng được định

nghĩa là một cấu trúc gồm các đặc điểm của xã hội, như tổ chức, quy tắc, tín ngưỡng. Những

cấu trúc này hướng dẫn, chỉ đạo và hạn chế các hoạt động của con người (Blundell & ctg.,

2004; Greif, 2000) hoặc là sự đồng nhất trong cách cư xử, ứng xử xã hội mà mọi thành phần

trong cộng đồng đều chấp nhận (Schotter, 2008) và hành vi này được kiểm soát bởi bản thân

cá nhân hoặc do sự điều chỉnh bên ngoài. Thể chế cũng được xem như là chính sách do con

người lựa chọn (Blundell & ctg., 2004), và nó có các cấp độ với các mục đích khác nhau

(Williamson, 1998)(Hình 2.1).

Vai trò của thể chế thể hiện ở chỗ chúng tạo nên một khuôn khổ mà ở đó hành động của

các chủ thể trở nên dễ đoán trước hơn, từ đó cho phép các chủ thể thiết lập các kỳ vọng và

giảm thiểu các rủi ro trong quá trình tương tác với nhau. Vì vậy, thể chế là nhân tố quan trọng

là giảm thiểu chi phí giao dịch của nền kinh tế, khuyến khích doanh nghiệp đầu tư vào công

nghệ, người dân đầu tư vào vốn, nhân lực, nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, nhờ

đó đảm bảo tăng trưởng kinh tế bền vững. Còn ngược lại, môi trường có chất lượng thể chế

thấp làm giảm năng lực cạnh tranh, không chỉ kìm hãm mà còn gây bất ổn cho tăng trưởng

kinh tế. Qua đó cho thấy, môi trường chất lượng thể chế cao hay thấp sẽ ảnh hưởng nhiều đến

37

hoạt động của các doanh nghiệp nói riêng và cho nền kinh tế nói chung.

Vấn đề mà nhiều học giả nhấn mạnh trong quan niệm về thể chế chính là các yếu tố xã hội

ảnh hưởng tới hành vi, chứ không phải các yếu tố thuộc về môi trường tự nhiên hay năng lực

và sở thích của cá nhân. Tuy nhiên, bản thân điều này cũng tương đối trừu tượng và khó định

hình một cách rạch ròi. Thể chế có thể đôi khi tạo ra các động về vật chất, lúc khác lại tác

động đến cảm xúc, có khi lại kích thích tình cảm đạo đức, có lúc định hình mong muốn về địa

vị xã hội, thi thoảng điều khiển khả năng nhận thức của con người trong lựa chọn hành động

(Davies & ctg., 2010).

Chu kỳ Cấp độ Mục đích (năm)

Sự kết nối: những thể chế không Thường mang tính 102 đến 103 chính thức, phong tục, truyền tự phát thống và quy tắc tôn giáo

Môi trường thể chế: những luật Chuẩn hóa môi 10 đến 102 lệ chính thức của cuộc chơi – trường thể chế đặc biệt về vấn đề tài sản

trúc quản trị thông qua giao dịch

Thể chế quản trị: sự vận hành Chuẩn hóa những 1 đến 10 của cuộc chơi- đặc biệt về vấn cấu trúc quản trị, đề hợp đồng (sắp xếp những cấu

Việc làm và sự phân bổ nguồn Diễn ra liên Chuẩn hóa những lực (giá cả và sản lượng; sự sắp tục điều kiện cận biên đặt có động cơ)

Hình 2.1. Các cấp độ của thể chế

38

Nguồn: Williamson (1998)

Tóm lại, thể chế là một hệ thống quy tắc do con người đặt ra và thực hiện nhằm điều tiết

và phối hợp hành vi của chính họ; và do đó, bao gồm cả khía cạnh luật chơi và tổ chức thực

thi, gồm cả các luật lệ, quy định và chính sách, chúng có vai trò thiết yếu đối với phát triển

bền vững, ổn định và công bằng.

2.3.1.2. Khái niệm chất lượng thể chế

Vai trò chính của thể chế là giảm sự không chắc chắn trong hoạt động kinh tế và khuyến

khích phát triển kinh tế (Samadi, 2019). Tuy nhiên, tác động của thể chế đối với hoạt động

của các tổ chức, doanh nghiệp hay của nền kinh tế phụ thuộc vào chất lượng thể chế. Theo

Kaufmann & ctg. (2011) định nghĩa chất lượng thể chế là các giá trị truyền thống và thể chế

mà qua đó thẩm quyền của một quốc gia được thi, phản ánh năng lực của Chính phủ trong

việc xây dựng và thực hiện các chính sách của mình (Schneider, 1999). Hơn nữa, chất lượng

thể chế phản ánh nỗ lực của pháp quyền trong việc thực thi quyền lực chính trị, kinh tế của

Chính phủ nhằm đảm bảo tính công bằng, minh bạch, và hiệu quả (UNDP, 1997). Tóm lại,

có nhiều cách định nghĩa khác nhau về chất lượng thể chế, nhưng nhìn chung để đánh giá chất

lượng thể chế, các nghiên cứu dựa trên các yếu tố: quyền lực, tính nhất quán, sự mạnh mẽ, và

biểu hiện cụ thể qua các nội dung về tham nhũng, chất lượng bộ máy chính quyền, quy tắc

luật pháp…(ADB, 2013).

2.3.2. Đo lường chất lượng thể chế

Đo lường chất lượng thể chế không chỉ là một trở ngại, thách thức cho các nhà kinh tế mà

còn cho các nhà quản lý công, bởi vì khái niệm thể chế rộng và không dễ dàng định lượng

được. Đối với thể chế, có thể hiểu trên nhiều khía cạnh khác nhau và mỗi khía cạnh có thể

được đo bằng một hoặc một số chỉ số. Tuy nhiên, không có sự đồng thuận giữa các học giả,

nhà nghiên cứu về việc sử dụng chỉ tiêu cụ thể hoặc cách kết hợp nào đó để đo lường chất

lượng thể chế. Vì vậy, một vấn đề quan trọng khi điều tra ảnh hưởng của thể chế và chất lượng

thể chế đến hoạt động kinh tế trong các nghiên cứu thực nghiệm là lựa chọn một chỉ số thích

hợp. Gần đây, các cá nhân và tổ chức quốc tế đã đề xuất nhiều chỉ số, gồm: chỉ số tự do kinh

tế (the Index of Economic Freedom – IEF) của tổ chức Heritage Foundation, chỉ số năng lực

cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index – GCI) của diễn đàn kinh tế thế giới, chỉ

số thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh (Ease of Doing Business Index – EBDI) của ngân

hàng thế giới, chỉ số tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI) của Tổ chức Minh

bạch quốc tế, và chỉ số quản trị toàn cầu (Worldwide Governance Indicator – WGI) của Ngân

39

hàng thế giới. Các chỉ số được trình bày cụ thể như sau:

- Chỉ số Quản trị Toàn cầu (Worldwide Governance Indicator – WGI)

Bộ chỉ số Thể chế Quản trị Toàn cầu do World Bank đưa ra, xuất phát từ các công trình

của (Kaufmann & ctg., 1999), đo lường chất lượng thể chế quản trị ở trên 200 quốc gia trong

giai đoạn 1996 – 2015. WGI được cấu thành trên sáu khía cạnh liên quan đến một số đặc điểm

chất lượng thể chế quản trị chính của một hệ thống quốc gia. Mỗi khía cạnh này là kết quả tập

hợp từ nhiều chỉ số đơn, được thu thập từ khoảng 30 cuộc điều tra dựa trên ý kiến/nhận thức

về các khía cạnh thể chế quản trị khác nhau, từ điều tra doanh nghiệp, nhà đầu tư, dân cư đến

các đánh giá chuyên gia và tổ chức quốc tế. Sáu khía cạnh bao gồm:

+ Tiếng nói và trách nhiệm giải trình (Voice and Accountability): đo lường cảm nhận

của người dân về sự tham gia vào quản trị công cũng như thái độ, ý kiến của người dân

về chính quyền, chính sách trên các phương tiện thông tin đại chúng.

+ Ổn định chính trị và không có bạo lực (Political Instability and Absence of Violence):

đo lường cảm nhận về sự ổn định của chính phủ hay bị các lực lượng đối lập chống

đối, phản kháng bằng bạo lực (bao gồm khủng bố).

+ Hiệu quả của chính phủ (Government Effectiveness): đo lường cảm nhận về khả năng,

năng lực của chính phủ trong việc cung cấp dịch vụ công cũng như chất lượng của dịch

vụ công và quá trình triển khai thực hiện các chính sách quản lý đúng theo cam kết.

+ Chất lượng các quy định (Regulatory quality): đo lường cảm nhận về khả năng của

chính phủ trong ban hành các quy định của pháp luật, chính sách đảm bảo quyền tư

hữu, sự phát triển của khu vực tư nhân.

+ Quy tắc luật pháp (Rule of law): Khía cạnh này còn được gọi là nhà nước pháp quyền,

được đo bằng mức độ mà những người đại diện tin tưởng và tuân thủ các quy tắc của

xã hội, bao gồm chất lượng của thực thi hợp đồng, quyền sở hữu, lực lượng cảnh sát,

các hoạt động của bộ máy pháp luật, cũng như nguy cơ tội phạm.

+ Kiểm soát tham nhũng (Control of Corruption): đo lường cảm nhận về mức độ trừng

phạt, chế tài của hệ thống pháp luật đối với các hành vi tham nhũng khác nhau.

- Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu (Global Competitiveness Index – GCI)

Chỉ số Năng lực cạnh tranh toàn cầu do Diễn đàn kinh tế thế giới (World Economic Forum

-WEF) xây dựng và công bố cho 134 quốc gia. Được đưa ra lần đầu tiên vào năm 2004, chỉ

số này đo tính cạnh tranh quốc gia, có tính đến các cơ sở vĩ mô và vi mô về khả năng cạnh

40

tranh của quốc gia. Tổng 113 biến số được tổng hợp thành trung bình gia quyền gồm 12 trụ

cột, bao gồm các thể chế, kinh tế vĩ mô, cơ sở hạ tầng, y tế và giáo dục tiểu học, giáo dục đại

học và đào tạo nghề, hiệu quả thị trường lao động, hiệu quả của thị trường hàng hóa, quy mô

thị trường, sự phức hợp của thị trường tài chính, sự phức hợp về kinh doanh và đổi mới, sự

sẵn sàng về công nghệ.

- Chỉ số tự do Kinh tế thế giới của Viện Fraser, bao gồm 141 quốc gia, lần đầu tiên

được đưa ra vào năm 1986 và được tổng hợp từ 42 biến số thu thập dựa trên các nguồn bên

ngoài như IMF, World Bank và WEF. Chỉ số này đánh giá mức độ chính sách và thể chế của

một quốc gia ủng hộ tự do kinh tế trong các lĩnh vực sau: quy mô của chính phủ, cơ cấu pháp

lý và bảo đảm quyền sở hữu; tiếp cận với đồng tiền lành mạnh; quy định về tín dụng, lao động

và kinh doanh, và tự do thương mại quốc tế.

- Chỉ số tự do kinh tế (Index of Economic Freedom – IEF)

Chỉ số tự do kinh tế đo lường chính sách tự do kinh doanh ở các quốc gia trên thế giới.

IEF đánh giá 10 yếu tố cơ bản của mỗi nền kinh tế, được công bố thường niên bởi tạp chí The

Wall Street Journal và Quỹ Di sản (The Heritage Foundation).

Thước đo Heritage Foundation của tạp chí The Wall Street Journal, được công bố, và cập

nhật hàng năm. Chỉ số này tập trung vào bốn khía cạnh (10 yếu tố) quan trọng của môi trường

kinh tế: quy định pháp luật (quyền tư hữu, tự do không bị tham nhũng), vai trò hạn chế của

chính quyền (tự do tài khóa, độ lớn của nhà nước); chất lượng quản lý (tự do kinh doanh, tự

do lao động, tự do tiền tệ) và sự mở cửa thị trường (tự do thương mại, tự do đầu tư, tự do tài

chính).

- Chỉ số thuận lợi kinh doanh (Ease of Doing Business Index – EBDI)

Chỉ số thuận lợi kinh doanh là chỉ số được đề ra bởi ngân hàng thế giới. Thứ hạng cao chỉ

ra rằng các quy tắc cho kinh doanh tốt hơn, đơn giản hơn và bảo vệ quyền sở hữu mạnh hơn.

Chỉ số này được đưa ra dựa trên những nghiên cứu của luật pháp, quy tắc bằng việc phỏng

vấn và xác minh bởi 3.500 viên chức nhà nước, các luật sư, cố vấn doanh nghiệp, kế toán viên

và các nhà chuyên môn có hoạt động trong lĩnh vực cố vấn quản lý chung thực thi luật pháp.

Chỉ số này gồm 10 chỉ số sau: Khởi sự doanh nghiệp, đăng ký giấy phép kinh doanh, chi phí

thuê nhân công và tình trạng khan hiếm lao động, đăng ký quyền sở hữu, mức khấu trừ tín

dụng, mức độ bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, gánh nặng thuế phải trả, hoạt động thương mại và

xuyên biên giới, mức thực thi các hợp đồng và chấm dứt kinh doanh.

41

- Chỉ số cảm nhận tham nhũng (Corruption Perceptions Index – CPI)

Chỉ số cảm nhận tham nhũng ra đời năm 1995 như là một chỉ số tổng hợp dùng để đo

lường mức độ tham nhũng của khu vực công ở một quốc gia được các chuyên gia và nhà điều

hành doanh nghiệp đánh giá. Đây là chỉ số về tham nhũng được sử dụng rộng rãi nhất trên

toàn thế giới được Tổ chức Minh bạch quốc tế thực hiện hàng năm. Thang đo của chỉ số này

dao động từ 0 đến 100 điểm, theo đó, quốc gia có điểm càng cao thì mức độ minh bạch, trong

sạch càng cao.

Chỉ số cảm nhận tham nhũng được xây dựng dựa trên nhiều nguồn dữ liệu của các tổ chức

có uy tín. Đã có sự thay đổi về cách tính vào năm 2012 làm cho việc so sánh điểm giữa các

năm của các quốc gia sẽ khả thi.

- Chỉ số Liêm chính Toàn cầu của Tập đoàn Thách thức Thiên niên kỷ của Hoa Kỳ và

World Bank, phản ánh tính hiệu quả của các cơ chế quản trị và chống tham nhũng chủ chốt,

cũng như sự tiếp cận công dân đối với các cơ chế này. Chỉ số này tổng hợp từ hơn 300 chỉ số

phụ về tính liêm chính, được tổ chức thành sáu loại thể chế quản trị chính: xã hội dân chủ,

thông tin và phương tiện truyền thông đại chúng; bầu cử; trách nhiệm giải trình của chính

phủ; hành chính và dịch vụ công; giám sát và điều chỉnh; chống tham nhũng và pháp quyền.

Mỗi bộ chỉ số có những ưu, nhược điểm khác nhau như: Bộ chỉ số tự do kinh tế hay bộ

chỉ số báo cáo cạnh tranh toàn cầu đánh giá nhiều nhân tố ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế

như lạm phát, cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, những nhân tố này có thể chủ quan và không trọng

điểm bởi nó đòi hỏi những khảo sát đều đặn và khó có những đánh giá kịp thời thay đổi so

với những điều chỉnh về môi trường kinh doanh. Bên cạnh đó, bộ chỉ số thuận lợi kinh doanh,

mối liên kết giữa 10 chỉ số này khá thấp nên khi xem xét có thể chỉ có những điểm tốt hoặc

luôn có những điểm xấu, điều này không phản ánh đúng môi trường kinh doanh trong từng

thời kỳ.

Tóm lại, khái niệm chất lượng thể chế là một khái niệm đa chiều và việc đo lường nó còn

phụ thuộc vào cách tiếp cận cũng như quan điểm của nhà nghiên cứu. Trong nghiên cứu này,

dựa vào nghiên cứu của (Saha & Dutta, 2022) và (Ahamed & Mallick, 2019), luận án sử dụng

bộ chỉ số Quản trị công toàn cầu để đo lường chất lượng thể chế. Hơn nữa, trong số các chỉ

số đo lường chất lượng thể chế được liệt kê ở trên, bộ chỉ số quản trị toàn cầu WGI có ảnh

hưởng lớn nhất và được sử dụng rộng rãi nhất, bởi nó thể hiện độ tin cậy hợp lý so với các chỉ

số khác, do đó sẽ tránh các vấn đề lựa chọn mẫu ở cấp quốc gia (Kurtz & Schrank, 2007). Bộ

chỉ số chất lượng thể chế do World Bank ban hành, tập trung vào các thành phần của thể chế

42

như kiểm soát tham nhũng, chất lượng bộ máy hành chính, quy tắc luật pháp, hiệu quả chính

phủ, tiếng nói của người dân và trách nhiệm giải trình của chính quyền…đây là những thành

phần có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Mặt khác, số

liệu của chỉ số này được đánh giá đầy đủ cho các nước trong nghiên cứu. Thêm nữa, theo lược

khảo của tác giả, nhiều nghiên cứu sử dụng chỉ số quản trị do World Bank để đo lường chất

lượng thể chế nhằm đánh giá mức độ thể chế của mỗi quốc gia, hoặc để phân tích mối quan

hệ giữa thể chế với các biến số vĩ mô kinh tế như tăng trưởng, nghèo đói như (Ali & ctg.,

2016; Nkoa & Song, 2020; Sun & ctg., 2019). Hơn nữa, để đảm bảo tính đại diện, luận án sử

dụng phương pháp PCA để xây dựng chỉ số chất lượng thể chế tổng hợp từ 6 chỉ số phụ trong

bộ dữ liệu về chỉ số quản trị công toàn cầu của World Bank.

2.3.3. Lý thuyết về thể chế

Lý thuyết về thể chế được trình bày chủ yếu xoay quanh quan điểm của ba trường phái

chính, đó là: kinh tế học thể chế cổ điển, kinh tế học thể chế mới và xã hội học thể chế mới.

Theo đó:

Kinh tế học thể chế cổ điển (Old institutional economics) tập trung vào giải thích sản xuất

và phân bổ, đại diện cho trường phái này có thể kể đến John Stuart Mill 1806 -1873. Mill

(1994) nhấn mạnh vai trò của thể chế và công nghệ như những yếu tố chiến lược thúc đẩy quá

trình sản xuất và phân phối đúng thời gian và địa điểm. Trường phái Mác-xít cũng nhấn mạnh:

thể chế phụ thuộc vào công nghệ. Trường phái này giải thích các vấn đề trong mô hình sản

xuất khi tăng vốn, tăng lao động, sẽ không tăng thêm được lợi nhuận, thay vào đó thay đổi,

thúc đẩy tiến bộ công nghệ là điều kiện kiên quyết để tạo điều kiện phát triển. Có thể thấy

rằng, trường phái cổ điển đã biết tập trung xem xét các yếu tố quyết định năng suất và tài sản,

cũng như xem xét nguồn gốc và nguyên nhân tạo ra của cải trong hệ thống riêng rẽ và những

thay đổi trong thể chế sẽ tạo ra sự phát triển kinh tế.

Kinh tế học thể chế mới (New institutional economics) là một trào lưu kinh tế học hiện

đại có đối tượng nghiên cứu là những quy ước xã hội, những quy định pháp lý ảnh hưởng đến

hành vi của các chủ thể kinh tế. Nổi bật trong kinh tế học thể chế mới phải kể đến các tác giả

(Coase, 1998; North 1990) với phương pháp nghiên cứu và tiếp cận khác biệt so với kinh tế

chính trị là sử dụng các lý thuyết về chi phí giao dịch, ủy thác và đại lý, quyền sở hữu, thông

tin bất cân xứng, hành vi chiến lược, và rủi ro đạo đức…làm cơ sở để phân tích hành vi của

các doanh nghiệp và cá nhân trong hoạt động của mình.

43

Xã hội học thể chế mới (new institutional sociology), trong đó các nhà thể chế mới đã

quan tâm đến các thể chế trong lý thuyết tổ chức và xã hội học kinh tế bằng cách chuyển trọng

tâm từ các nghiên cứu giải thích về các hành vi kinh tế như là kết quả của các tác nhân kinh

tế mang tính quy ước, hành pháp sang mối quan hệ kết nối công ty với môi trường thể chế

của nó. Kết quả là một mô hình kết hợp mối liên hệ giữa lĩnh vực hành vi kinh tế với hành vi

xã hội, xem xét tất cả các yếu tố trung lập, vi mô và vĩ mô, trong đó công ước, luật pháp, tổ

chức xã hội, hệ tư tưởng…là những yếu tố chính giải thích sự vận hành và phát triển của các

tổ chức. Trong mô hình này, các hành vi của các cá nhân/thể chế vi mô, nhóm xã hội riêng lẻ

được đặt trong môi trường thể chế rộng lớn hơn.

Trong ba quan điểm này, luận án tập trung trình bày lý thuyết thể chế của trường phái kinh

tế học thể chế mới bởi những nội dung đề cập về thể chế của trường phái này phù hợp để giải

thích vấn đề nghiên cứu của luận án.

Khởi điểm từ công trình của (North 1990; North, 1993) “Kinh tế học thể chế mới” được

coi là một nhánh phát triển kinh tế học hiện đại, với mục tiêu tìm hiểu thể chế xã hội bên trong

các hoạt động kinh tế mà kinh tế học tân cổ điển đã xây dựng. Mặc dù kinh tế học thể chế cũ

đặt mục tiêu thay thế hoặc phủ định các lý thuyết kinh tế học tân cổ điển, nhưng sự hình thành

và phát triển của kinh tế học thể chế mới dựa trên cơ sở mở rộng các lý thuyết này, với kỳ

vọng giải đáp cho những bài toàn được đặt đặt ra trong kinh tế học nói chung và trong các lý

thuyết tăng trưởng kinh tế, lý thuyết ổn định nói riêng. Dưới góc độ kinh tế học thể chế mới,

thể chế đóng vai trò hỗ trợ trật tự, thúc đẩy tìm kiếm thông tin, tiết kiệm chi phí. Trật tự là

một mô thức có tính hệ thống, phi ngẫu nhiên và vì thế dễ nắm bắt, dễ tiên đoán về các hành

vi và biến cố. Trong khuôn khổ trật tự, các chủ thể dễ dàng lập kế hoạch và dự đoán được kết

quả, yên tâm hoạt động và đầu tư vì ít rủi ro và không bị chiếm đoạt một cách tùy tiện. North

(1991) cho rằng, trong suốt chiều dài của lịch sử, thể chế do con người thiết lập nhằm duy trì

trật tự và giảm thiểu sự bất ổn trong giao dịch. Con người phải hoạt động trong những thể chế

xác định. Hiệu quả hoạt động không chỉ phụ thuộc vào các điều kiện vật chất và công nghệ

hiện có mà còn phụ thuộc vào hiểu biết các thể chế. Urpelainen (2011) chỉ ra lựa chọn và hoạt

động của con người nói chung và cá nhân nói riêng không những bị hạn chế bởi những yếu

tố công nghệ, vật lý mà còn bị quy định bởi thể chế. Thể chế cung cấp thông tin về những

hành vi thích hợp, được khuyến khích trong những tình huống nhất định. Thông qua tìm kiếm

thông tin, thể chế góp phần quan trọng trong việc giảm chi phí. Chi phí giao dịch được xác

định bởi tính quý giá và chân thực của thông tin. North (1993) cho rằng chi phí giao dịch phản

ánh sự phức tạp của thể chế, các quy tắc vận hành kinh tế, điều tiết xã hội. Sự thiếu thông tin

44

sẽ tạo cơ hội cho những hành vi cơ hội và lũng đoạn. Để ngăn ngừa điều này, các thể chế ở

các quốc gia khác nhau cần phải phát triển một hệ thống thông tin pháp lý tin cậy và luôn luôn

cập nhật đối với các bên có liên quan, điều này sẽ giảm đi chi phí giao dịch. Tuy nhiên, con

người có xu hướng vị kỷ và do đó, có thể tạo ra những hệ lụy tai hại cho sự phồn vinh vật

chất, tự do và các giá trị của người khác, và sự xuống cấp của hệ thống quy tắc có thể dẫn tới

hiện tượng suy thoái kinh tế - xã hội. Các thể chế - và đặc biệt là hình phạt gắn với chúng –

cho phép con người đưa ra những cam kết đáng tin cậy. Sự hợp tác giữa mọi người thường

đòi hỏi một khuôn khổ thể chế nhằm ngăn ngừa chủ nghĩa cơ hội, củng cố thói quen hợp tác

vì lợi ích lẫn nhau.

Hơn nữa, một trong những đặc điểm có tính bản chất của thể chế là sự tuân thủ. Bản chất

này cho thấy nếu không có thể chế và hoặc thể chế yếu, các hành vi sẽ trở nên tự do, tùy tiện.

Và, không một tổ chức nào có thể ổn định khi các chủ thể luôn hoạt động tự do và tùy ý. Do

đó, sự tác động của thể chế đến sự phát triển của các tổ chức, của xã hội cũng có thể là thuận

lợi hoặc bất lợi. North (1991) khẳng định thể chế cung cấp cấu trúc khuyến khích trong nền

kinh tế. Khi cấu trúc này được triển khai, nó sẽ làm cho các tổ chức ổn định, từ đó kinh tế

thay đổi theo hướng tăng trưởng hoặc trì trệ, suy giảm. Bên cạnh đó, các thể chế - và đặc biệt

là hình phạt gắn với chúng – cho phép con người đưa ra những cam kết đáng tin cậy rằng lời

hứa đã đưa ra sẽ được thực thi một cách trật tự. Bản chất con người nằm ở chỗ, những cá nhân

ích kỷ vẫn thường hứa hẹn nhưng rồi lại quên hoặc không giữ lời hứa. Bản năng của con

người đóng vai trò lớn trong những hành vi cơ hội chủ nghĩa như thế, và thể chế giúp kiểm

soát bản năng bẩm sinh của chúng ta vì lợi ích của sự phối hợp hiệu quả trong dài hạn (Hayek,

2011). Vì thế, sự hợp tác giữa mọi người thường đòi hỏi một khuôn khổ thể chế nhằm ngăn

ngừa chủ nghĩa cơ hội bản thân, đồng thời củng cố thói quen hợp tác vì lợi ích tương hỗ.

Ngoài ra, thể chế là những quy tắc ứng xử, và theo đúng nghĩa, là phương tiện giúp định

hướng hành vi con người, và thu hẹp phạm vi của phản ứng khả dĩ. Qua đó, chúng khiến cho

hành vi của con người trở nên dễ tiên đoán hơn, chúng tạo ra một cấu trúc nhất định cho sự

tương tác. Drobak & Nye (1997) cho rằng bằng cách góp phần điều chỉnh hành vi, các thể chế

thiết lập nên sự tin tưởng và cho phép con người tiết kiệm chi phí tìm kiếm thông tin, dẫn đến

sự tương tác giữa các bên sẽ hiệu quả hơn. Chẳng hạn, các quy định trong việc sử dụng các

dịch vụ ngân hàng. Mỗi ngân hàng sẽ đặt ra các quy định, mức phí và các hình phạt trong các

trường hợp khách hàng vi phạm để chi phối cách ứng xử của khách hàng. Các quy định thì

đơn giản và chắc chắn, do đó chúng dễ hiểu và trừu tượng ở chỗ, chúng không chỉ áp dụng

45

cho một giao dịch hay một khách hàng cụ thể mà chúng được áp dụng cho vô số các giao dịch

trong tương lai. Nhờ những quy tắc này mà nó định hình được hành vi của khách hàng, hay –

như các nhà kinh tế học thể chế thường nói- có tính “quy chuẩn” về hành vi con người, khiến

chúng trở nên dễ tiên đoán hơn.

Theo Zhuang & ctg. (2010) nhấn mạnh thêm rằng việc bảo vệ quyền sở hữu cho người

dân trong các hợp đồng là điều kiện để các doanh nghiệp có thể mở rộng, trao đổi thị trường,

đầu tư và đổi mới trên các lĩnh vực kinh tế và khu vực địa lý rộng hơn với chi phí thấp vừa

phải. Việc thực thi hợp đồng và bảo vệ quyền sở hữu có thể dự đoán được là đặc biệt quan

trọng đối với các giao dịch, nếu không thì các giao dịch sẽ gặp đầy bất trắc, và chủ nghĩa cơ

hội có thể xảy ra bởi sự ngăn cách về không gian hoặc thời gian có thể gây ra chi phí giao

dịch đáng kể. Vì lý do này, việc thực thi hiệu quả các quy tắc và trừng phạt đối với vi phạm

là cần thiết, và chỉ với những chế tài xử phạt thì các thể chế mới có thể khiến các hành động

của các cá nhân có thể dự đoán trước được (Kasper & Streit, 1999).

Do đó, theo khuôn khổ này, trách nhiệm giải trình, pháp quyền, ổn định chính trị, năng

lực hành chính, bảo vệ quyền sở hữu và thực thi hợp đồng, và kiểm soát tham nhũng là những

khía cạnh tăng cường lẫn nhau của các thể chế thúc đẩy tăng trưởng, gia tăng ổn định. Lập

luận này dẫn đến một giả thuyết cho rằng nếu không thiết lập được các thể chế chính thức

một cách có hiệu quả thì xã hội sẽ phải đối mặt với chi phí rất cao trong các giao dịch của thị

trường và không thể kiểm soát được “bàn tay chiếm đoạt của nhà nước” (grabbing hand of

the state), và do đó, không thể hỗ trợ các sáng kiến tư nhân, trao đổi thị trường, đầu tư và phát

triển kinh tế.

2.4. TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

Tài chính toàn diện đóng vai trò quan trọng đối với các vấn đề trong nền kinh tế, trong đó

có sự ổn định. Tuy nhiên, ở góc độ lý thuyết, vẫn còn nhiều tranh cãi về tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng (Ahamed & Mallick, 2019). Nội dung phần này, trình bày

các quan điểm trái chiều và lý thuyết liên quan đến tác động của tài chính toàn diện đến ổn

định ngân hàng.

2.4.1. Tài chính toàn diện tác động thuận chiều với ổn định ngân hàng

Cơ sở lý thuyết có thể vận dụng để luận giải sự vấn đề này là lý thuyết bất cân xứng thông

tin của Akerlof công bố vào năm 1970 (Akerlof, 1970) và Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại

của Harry Markowitz công bố vào năm 1959 (Markowitz, 1976).

46

Thuật ngữ thông tin bất cân xứng (Asymmetric Information) xuất hiện vào năm 1970, khai

sinh ra lý thuyết thông tin bất cân xứng (TTBCX) có thể kể đến Akerlof. Theo đó, TTBCX

xảy ra khi người mua hay người bán có các thông tin khác nhau. Sự bất cân xứng thông tin

khiến thị trường trở nên kém hiệu quả hơn, vì tất cả những người tham gia thị trường không

có quyền truy cập thông tin họ cần cho quá trình ra quyết định của họ. Pindyck & ctg. (2013)

đã cho thấy hệ quả tất yếu của TTBCX là gây ra lựa chọn ngược (sản phẩm tốt bị đẩy bật ra

ngoài bởi sản phẩm xấu), rủi ro đạo đức (cậy quyền thế làm sai trái), và chi phí đại diện (xung

đột lợi ích giữa chủ thể với người đại diện). Do đó, TTBCX là một dạng thất bại của thị trường

ảnh hưởng không nhỏ đến các quyết định đầu tư, gây cung cầu ảo dẫn đến thị trường bong

bóng và tiềm ẩn nhiều nguy cơ sụp đổ. Nguyên nhân của thông tin tin bất cân xứng là do đặc

điểm của hàng hóa ẩn hoặc hành động ẩn, không kiểm soát được. Thông tin bất đối xứng do

đặc điểm ẩn sẽ gây ra hiện tượng lựa chọn ngược. Lựa chọn ngược là hiện tượng mà người

mua không biết được đặc điểm hoặc chất lượng của hàng hóa dịch vụ nên họ chỉ sẵn lòng chi

trả ở mức giá thấp hơn giá trị thực của hàng hóa dịch vụ đó để giảm tính rủi ro trong giao

dịch, tránh mua phải trái chanh (lemon- car) khi mua xe hơi cũ. Vì chỉ bán được giá thấp thì

người bán lại càng bán hàng hóa có chất lượng kém (Pindyck & Rubinfeld, 2005). Nên lựa

chọn ngược sẽ dẫn đến thị trường có những hàng hóa dịch vụ có chất lượng thấp. Thông tin

bất đối xứng do hành động không thể kiểm soát được sẽ gây ra hiện tượng rủi ro đạo đức. Rủi

ro đạo đức là hiện tượng mà người có nhiều thông tin có những ứng xử phi đạo đức nhằm đạt

được lợi ích cá nhân của mình và như vậy gây ra thiệt hại cho người thiếu thông tin. Để hạn

chế thông tin bất đối xứng, có nhiều giải pháp, chẳng hạn nếu là người có nhiều thông tin thì

họ sẽ phát tín hiệu (signaling) cho bên kia hiểu được nhiều thông tin hơn. Ngược lại, người

thiếu thông tin cố gắng tìm hiểu thông tin trước khi quyết định giao dịch, được gọi là sàng lọc

(screening) (Rothschild & Stiglitz, 1978). Các nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng khoảng cách

lớn giữa người cho vay và người đi vay, làm giảm hiệu quả các dịch vụ ngân hàng, chính là

do sự gia tăng về vấn đề thông tin bất cân xứng (Deng & Elyasiani, 2008; Hauswald &

Marquez, 2006). Vận dụng lý thuyết bất cân xứng thông tin để giải thích tác động của tài

chính toàn diện đến ổn định ngân hàng thông qua việc giảm khoảng cách với người đi vay,

ngân hàng có thể thu thập được nhiều thông tin của khách hàng, từ đó thiết kế các sản phẩm,

đưa ra các quy định cho vay phù hợp để khuyến khích người dân sử dụng các sản phẩm,

DVTC của khách hàng. Hauswald & Marquez (2006) trong nghiên cứu của mình cũng đã chỉ

ra người cho vay có thể nhận được tín hiệu chính xác về chất lượng của người đi vay nếu họ

giảm khoảng cách với người đi vay thông qua tài chính toàn diện. Khi ngân hàng và khách

47

hàng đã hiểu rõ nhau, thì khoảng cách giữa khách hàng và ngân hàng sẽ được giảm bớt, cải

thiện khả năng tiếp cận DVTC của khách hàng hơn nữa. Từ đó, ngân hàng có thể huy động

được nhiều nguồn vốn bản lẻ, tăng mức độ ổn định cho ngân hàng.

Ở một khía cạnh khác, tác động ngược chiều của tài chính toàn diện lên ổn định ngân

hàng được giải thích thông qua lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại của Harry Markowitz năm

1976. Markowitz (1976) nhấn mạnh tính đa dạng hóa của danh mục so với việc lựa chọn các

chứng khoán riêng lẻ, bởi vì nếu tập trung đầu tư vào một kênh nào đó, nhà đầu tư sẽ rơi vào

tình trạng “bỏ hết trứng vào một rổ” rủi ro có thể xảy ra khi thị trường phát triển theo hướng

không như kỳ vọng của nhà đầu tư. Vận dụng lý thuyết này để giải thích tác động của tài

chính toàn diện đến ổn định ngân hàng thông qua việc gia tăng tiền gửi bán lẻ ổn định và mở

rộng cho vay an toàn. Mục tiêu khi Chính phủ thực hiện tài chính toàn diện là làm tăng khả

năng tiếp cận tài chính cho những người yếm thế (người nghèo, thu nhập thấp). Do đó, nếu

quá trình này thành công, ngân hàng sẽ có một lượng khách hàng mới, làm tăng quy mô tiền

bán lẻ, và đa dạng hóa danh mục tiền gửi và cho vay. Điều này sẽ đem lại nhiều lợi thế cho

ngan hàng là vì nguồn tiền bán lẻ được cho là ổn định hơn, rẻ hơn, ít nhạy cảm với rủi ro hơn

(Ahamed & Mallick, 2019; Calomiris & Kahn, 1991; Song & Thakor, 2007), đặc biệt trong

các thời kỳ khủng hoảng tài chính (Demirguc-Kunt & Huizinga, 2010; Poghosyan & Martin,

2011) do nguồn vốn bán buôn dễ bị tác động bởi những thông tin hoặc tin đồn thất thiệt

(Rajan, 1992). Demirguc-Kunt & Huizinga (2010) sử dụng mẫu các ngân hàng niêm yết ở

101 quốc gia trong giai đoạn 1995-2007, cũng nhận thấy rằng tỷ lệ tài trợ không phải là tiền

gửi (non-deposit) cao hơn, làm tăng tính mong manh của ngân hàng. Ratnovski and Huang

(2009) chỉ ra rằng nguồn tiền gửi bán lẻ dồi dào là yếu tố then chốt cho khả năng phục hồi

tương đối của các ngân hàng Canada trong thời kỳ hỗn loạn năm 2008. Hơn nữa, trong cuộc

khủng hoảng tín dụng gần đây khi nguồn vốn bán buôn cạn kiệt, cơ sở tiền gửi bán lẻ đa dạng

đã làm đệm các tổ chức tài chính thoát khỏi sự mong manh (Hannig & Jansen, 2010). Hơn

nữa, khi các ngân hàng mở rộng cơ sở tiền gửi cho một nhóm lớn khách hàng, họ có thể thu

hút một số lượng lớn các khoản tiền gửi nhỏ lẻ thường rẻ hơn nguồn vốn bán buôn. Do đó,

việc đa dạng hóa hơn nữa trong chiến lược tài trợ gắn với tài chính toàn diện trong huy động

tiền gửi sẽ giảm thiểu rủi ro và chi phí tài trợ cho ngân hàng, tăng cường sự ổn định của ngân

hàng (Diamond & Dybvig, 1983; Shin, 2009). Gần đây, Han & Melecky (2013) chỉ ra tài

chính toàn diện thể tăng cường khả năng phục hồi cơ sở huy động vốn của ngành ngân hàng

48

trong thời điểm căng thẳng tài chính, từ đó giúp hệ thống ngân hàng ổn định hơn.

Ngoài ra, các ngân hàng có thể đa dạng hóa các danh mục nhằm giảm sự biến động, giảm

sự chấp nhận rủi ro bất lợi thông qua trợ cấp chéo (Boot & Schmeits, 2000). Với việc gia tăng

các khoản cho vay cho một nhóm khách hàng bán bẻ với khoản tín dụng nhỏ, có liên quan

đến việc dự phòng rủi ro thấp hơn, các ngân hàng có thể giảm chi phí giám sát tiềm ẩn và tổn

thất so với các khoản vay lớn, từ đó cải thiện sự ổn định của ngân hàng (Rossi & ctg., 2009;

Shaban & ctg., 2014). Đồng thời, người đi vay sẽ có thuận lợi hơn trong việc đi vay, điều này

cần thiết để người vay thoát khỏi vấn đề tài sản thay thế (asset substitution), khiến xác suất

vỡ nợ của người đi vay giảm, điều này làm ngân hàng ổn định hơn (Ahamed & Mallick, 2019).

Mặt khác, vì tài chính toàn diện nhiều hơn làm tăng cung cấp tín dụng ngân hàng – một nguồn

tài chính bên ngoài quan trọng và rẻ, cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ (Berger & Udell, 1998;

Petersen & Rajan, 1994), từ đó cũng hỗ trợ sự tăng trưởng của các công ty nhỏ và các công

ty cần nguồn tài trợ bên ngoài. Hơn nữa, với nguồn cung cấp tín dụng ngày càng tăng, người

đi vay sẽ có được các hợp đồng cho vay thuận lợi, điều này rất cần thiết để người vay thoát

khỏi vấn đề tài sản thay thế, asset substitution – tức là người vay sử dụng tiền để đầu tư vào

các dự án rủi ro hơn. Và từ đó sẽ tăng cường sự ổn định của ngân hàng khi xác suất vỡ nợ của

người đi vay giảm (Ahamed & Mallick, 2019).

Ngoài việc gia tăng tiền gửi và mở rộng cho vay, tác động của tài chính toàn diện lên ổn

định ngân hàng còn thông qua các vấn đề kinh tế xã hội. Đây là điều không thể thiếu đối với

tăng trưởng kinh tế toàn diện và ổn định, do đó nó có thể dẫn đến hiệu quả cao hơn trong các

trung gian tài chính và sự lành mạnh của các ngân hàng (Ahamed & Mallick, 2019; Cull &

ctg., 2012; Hannig & Jansen, 2010).

2.4.2. Tài chính toàn diện tác động ngược chiều ổn định ngân hàng

Ở quan điểm này, các tác giả cho rằng để thực hiện mục tiêu tài chính toàn diện là tăng

khả năng tiếp cận DVTC cho khách hàng, các ngân hàng thu hút một lượng lớn những người

đi vay có mức tín dụng thấp, hay hạ thấp những tiêu chuẩn trong hoạt động cho vay, điều này

có thể làm mất ổn định hệ thống ngân hàng. Rajan (2011) phân tích rằng từ cuộc khủng hoảng

dưới chuẩn gần đây, “tín dụng dễ dàng” (easy credit) như một cơ chế để giảm bất bình đẳng

thu nhập, nhưng lại có thể tạo ra một “đường đứt gãy” (fault line) dọc theo hệ thống tài chính

làm xói mòn sự ổn định tài chính do những căng thẳng lớn. Đây được xem như là sự đánh đổi

giữa các mục tiêu duy trì sự ổn định của hệ thống và thúc đẩy tài chính toàn diện (Hannig &

Jansen, 2010). Các tác giả cho rằng những khó khăn mà các ngân hàng phải vượt qua khi thực

49

hiện và quản lý các khoản vay cho các hộ gia đình cá nhân (individual households) và các

doanh nghiệp nhỏ và vừa chính là thiếu các thông tin yêu cầu, thiếu tài sản đảm bảo và lịch

sử tín dụng, chẳng hạn như (Conning, 1999; Demirgüç-Kunt & ctg., 2008; Hermes & ctg.,

2011). Do vậy, việc mở rộng khả năng tiếp cận DVTC của các nhóm khách hàng này có thể

làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng cũng như sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Trong khía cạnh thâm nhập của tài chính toàn diện, có trường hợp các ngân hàng mở rộng

tiếp cận, đa dạng hóa theo địa lý mang lại mất ổn định hệ thống ngân hàng do sự bất cân xứng

về thông tin ràng buộc với các hộ nghèo hoặc doanh nghiệp nhỏ. Điều này có thể xảy ra do

thiếu chuyên môn về quản lý và kỹ thuật, các vấn đề về đại diện (agency problems) liên quan

đến sự phức tạp của cơ cấu tổ chức và cấu trúc sản phẩm (Acharya & ctg., 2006). Về vấn đề

này, các cuộc điều tra được thực hiện ở Italia (Acharya & ctg., 2006) và ở Hoa Kỳ (Goetz &

ctg., 2013), lại không tìm thấy bất kỳ sự cải thiện nào trong việc đánh đổi giữa lợi nhuận - rủi

ro và định giá thị trường khi ngân hàng thâm nhập sâu rộng về mặt địa lý. Neaime & Gaysset

(2018) nghi ngờ tác động thuận chiều của tài chính toàn diện bởi có quan điểm cho rằng khả

năng tiếp cận tài chính dễ dàng (tài chính toàn diện) ảnh hưởng xấu đến tăng trưởng kinh tế

và xóa đói giảm nghèo, do người nghèo khó tích lũy tiền tiết kiệm, khó xây dựng tài sản để

phòng ngừa rủi ro cũng như đầu tư vào các dự án mang lại thu nhập. Hơn nữa, việc giám sát,

quản lý hoạt động ngân hàng trong quá trình mở rộng hoạt động cho vay là điều quan trọng.

Nó có thể ảnh hưởng đến mức độ ổn định ngân hàng. Bởi vì một số ngân hàng để đạt được

mục tiêu khi thực hiện tài chính toàn diện có thể theo đuổi các chính sách mở rộng cho vay

mà bỏ qua các quy định hoặc hạ thấp tiêu chuẩn cho vay, điều này sẽ ảnh hưởng đến hoạt

động của ngân hàng. Do đó, Ahamed & Mallick (2019) đặc biệt nhấn mạnh chất lượng quản

lý trong quá trình thực hiện tài chính toàn diện.

2.5. TÁC ĐỘNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

Thể chế với những quy tắc, luật lệ, ràng buộc được ban hành, sẽ điều tiết các hoạt động

của nền kinh tế, tác động đến nền kinh tế và ổn định của các tổ chức trong xã hội theo các

hướng khác nhau (Aron, 2000; Kaufmann & ctg., 1999). Ở nội dung này, luận án sử dụng lý

thuyết trò chơi của John Von Neumann xuất bản năm 1928 (Von Neumann, 1959), lý thuyết

các bên liên quan của Freeman năm 1984, kết hợp với lý thuyết bất cân xứng thông tin của

của Akerlof công bố vào năm 1970, cùng các nghiên cứu thực nghiệm trước đây làm cơ sở

giải thích cho tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng.

50

Đầu tiên là lý thuyết về trò chơi, trong khuôn khổ lý thuyết trò chơi, các cá nhân mong

muốn tối đa hóa lợi ích sẽ luôn thấy có lợi trong việc hợp tác với những người chơi khác, khi

trò chơi được lặp lại với một số lượng rất ít người chơi và họ đã sở hữu đầy đủ thông tin về

biểu hiện của những người khác trong quá khứ. Nhưng việc hợp tác sẽ rất khó duy trì khi trò

chơi không được lặp lại, khi có một số lượng lớn những người chơi nhưng thông tin giữa

những người chơi không đầy đủ. Khi đó những quy tắc, luật chơi (thể chế) tốt và hữu hiệu sẽ

làm tăng lợi ích cho các giải pháp hợp tác hay làm giảm bất lợi cho các hành vi bất hợp tác.

Do đó, trong bối cảnh nền kinh tế được chuyên môn hóa đòi hỏi các bên phải tiến hành hợp

tác với nhau thì các quy tắc, luật lệ ràng buộc lợi ích và đảm bảo về quyền sở hữu trở nên hữu

hiệu để khuyến khích các bên hợp tác tham gia hiệu quả vào “trò chơi kinh tế”. Từ đó nền

kinh tế trở nên sôi động và hiệu quả hơn. Với ý nghĩa đó, thể chế đóng vai trò quan trọng đối

với hoạt động của ngân hàng. Kết hợp lý thuyết trò chơi và lý thuyết bất cân xứng thông tin

(đã trình bày ở mục 2.4.1) rõ ràng, thể chế sẽ làm giảm bớt khoảng cách giữa người đi vay và

người cho vay. Người cho vay hiểu được người đi vay mong muốn điều gì, dự đoán được

hành vi của người đi vay, để từ đó có thể thiết kế các sản phẩm phù hợp, hình thức giám sát,

quản lý để có thể huy động vốn nhiều và quản lý vốn tốt hơn, kéo theo hoạt động ngân hàng

sẽ hiệu quả và ổn định hơn.

Thứ hai, lý thuyết các bên liên quan được khởi đầu từ nghiên cứu của (Freeman, 1984)

về quản trị tổ chức và đạo đức kinh doanh. Lý thuyết các bên liên quan cho rằng tổ chức có

nghĩa vụ phải đối xử công bằng giữa các bên liên quan, trong trường hợp các bên liên quan

có xung đột lợi ích, doanh nghiệp phải có nghĩa vụ đạt được sự cân bằng tối ưu giữa chúng.

Sự phù hợp của lý thuyết các bên liên quan trong mối quan hệ giữa quản trị và khu vực tài

chính được thể hiện qua việc các chính phủ khác nhau sử dụng các giải pháp khác nhau để hỗ

trợ hoặc cứu các ngân hàng khỏi nguy cơ phá sản. Ví dụ, chính phủ Mỹ đã công bố gói cứu

trợ trị giá 2,7 nghìn tỷ USD vào năm 2008, chiếm 18% tổng sản phẩm quốc nội của Mỹ trong

năm đó, trong khi chính phủ Anh công bố gói cứu trợ 1,5 nghìn tỷ USD, chiếm 69% tổng sản

phẩm quốc nội của đất nước (GDP) trong cùng năm (King, 2019). Một số nghiên cứu sử dụng

lý thuyết các bên liên quan trong các nghiên cứu về chính phủ và các tổ chức tài chính (Flak

& Rose, 2005; Lam & Yap, 2019; Nie & ctg., 2019). Bởi vì, ngành tài chính, đặc biệt là ngành

ngân hàng, trong bất kỳ chế độ nào cũng được quản lý rất chặt chẽ. Bất kỳ chính sách, luật và

quy định nào của chính phủ đều ảnh hưởng trực tiếp đến ngành ngân hàng. Hơn nữa, các chính

phủ cố gắng duy trì ổn định hoạt động ngân hàng, vì bất kỳ sự bất ổn nào trong lĩnh vực tài

51

chính có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của kinh tế.

Thứ hai, lược khảo các nghiên cứu cho thấy chất lượng thể chế đóng một vai trò ý nghĩa

trong nền kinh tế thị trường: Chất lượng thể chế tốt hỗ trợ hiệu quả cho các hoạt động của cơ

chế thị trường, các chủ thể trong nền kinh tế như doanh nghiệp, cá nhân có thể tham gia vào

các giao dịch thị trường mà không phải chịu các chi phí hoặc rủi ro không đáng có (Estrin &

ctg., 2009; North 1990). Chất lượng thể chế có thể đóng góp vào một thị trường cho vay hoạt

động tốt bằng cách cải thiện các điều khoản cho vay, giảm lựa chọn bất lợi và rủi ro đạo đức

của người đi vay và tăng khả năng hoàn trả khoản vay, từ đó giúp ngân hàng gia tăng mức độ

ổn định. Điều này có thể được giải thích trên ba khía cạnh sau:

- Sự ổn định chính trị có thể cải thiện các điều khoản cho vay và do đó làm giảm rủi ro

đạo đức của người đi vay và giảm các khoản vỡ nợ. Francis & ctg. (2014) cung cấp bằng

chứng từ thị trường cho vay hợp vốn rằng sự không chắc chắn về chính trị làm tăng chi phí

cho các khoản vay ngân hàng. Tương tự, Bradley & ctg. (2016) nhận thấy rằng rủi ro chính

sách làm tăng chi phí nợ của các doanh nghiệp. Hơn nữa, các thể chế chính trị mạnh mẽ có

thể có tác động tăng cường tính minh bạch của doanh nghiệp (Bushman & Piotroski, 2006).

Điều này có thể cải thiện số lượng và độ chính xác của thông tin mà ngân hàng có về khách

hàng vay. Do đó, các ngân hàng có thể giảm bớt sự lựa chọn bất lợi và định giá các khoản vay

hiệu quả hơn. Hơn nữa, ổn định chính trị là yếu tố cần thiết để đảm bảo cho hoạt động của

các doanh nghiệp được diễn ra bình thường, có hiệu quả và ổn định (Baker & Ricciardi, 2015)

- Kiểm soát tham nhũng cũng có thể thúc đẩy hoạt động cho vay hiệu quả và tăng khả

năng hoàn trả khoản vay. Một kênh mà thông qua đó, việc kiểm soát tham nhũng có thể đạt

được điều này là giảm tham nhũng cho vay, vốn là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến thất

thoát cho vay ở nhiều quốc gia (Akins & ctg., 2017; Beck & ctg., 2006). Ngoài ra, Bae &

Goyal (2009) cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng mức độ ổn định ngân hàng sẽ giảm sút

các quốc gia có mức độ tham nhũng cao hơn. Hơn nữa, tham nhũng có thể hạn chế hoạt động

tài chính của các công ty bên vay (Hanousek & ctg., 2019), làm cho các quy định trong việc

đảm bảo thực thi các hợp đồng cho vay bị lu mờ và do đó làm tăng rủi ro đạo đức của người

đi vay (Weill, 2011a), ảnh hưởng đến hoạt động và sự ổn định của bên cho vay. Do đó, kiểm

soát tham nhũng là một hoạt động quan trọng nhằm đảm bảo cho các quy định được thực thi

một cách nghiêm túc và có hiệu quả, từ đó làm cho hoạt động của ngân hàng ổn định hơn.

52

- Khía cạnh tiếp theo là luật pháp, đặc biệt là liên quan đến cơ quan tư pháp có thẩm

quyền, đối với hoạt động hiệu quả của thị trường cho vay. Laeven & Majnoni (2005) chỉ ra

rằng sự thiếu hiệu quả trong tư pháp làm tăng chênh lệch cho vay và do đó khiến việc trả nợ

khó khăn hơn. Hơn nữa, Bae & Goyal (2009) nhận thấy rằng trong trường hợp vỡ nợ, hệ thống

tư pháp kém hiệu quả làm giảm tỷ lệ thu hồi và tăng thời gian cần thiết để thu hồi tài sản thế

chấp. Điều này có thể làm tăng rủi ro đạo đức của người đi vay. Trong bối cảnh quy trình xét

xử chậm và kém hiệu quả, những người đi vay cơ hội có thể chọn vỡ nợ vì chi phí thu hồi

khoản vay có thể không có ý nghĩa kinh tế đối với người cho vay (Jappelli & ctg., 2005;

Schiantarelli & ctg., 2016).

2.6. ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA

TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN LÊN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

Như đã phân tích ở trên, thể chế là nhân tố quan trọng giúp giảm thiểu chi phí giao dịch

trong hoạt động của các doanh nghiệp, từ đó khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vốn vào

công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh, giúp doanh nghiệp hoạt động ổn định và hiệu quả.

Do đó, trong nội dung phần này, luận án sử dụng lý thuyết chi phí giao dịch do Williamson

phát triển năm 1975, kết hợp các nghiên cứu thực nghiệm trước đây làm cơ sở để lý giải ảnh

hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, cụ

thể:

Williamson (1974) định nghĩa chi phí giao dịch là những chi phí mà người dân phải bỏ ra

để thực hiện các hợp đồng, bao gồm chi phí tìm kiếm thông tin, chi phí đàm phán, ký kết, chi

phí giám sát và chi phí xử lý bồi hoàn các vi phạm hợp đồng. Như vậy với mong muốn tối đa

hóa lợi ích, tiết giảm chi phí trở thành yếu tố then chốt, quyết định khả năng tham gia hoạt

động kinh tế của các chủ thể trên thị trường (Kasper & Streit, 1999). Nghiên cứu của Camara

& ctg. (2014) chỉ ra rằng chi phí giao dịch là một trong những rào cản, khiến cho việc tiếp

cận các DVTC của người dân bị hạn chế, làm giảm mức độ tài chính toàn diện. Vậy rõ ràng

nếu giải quyết được rào cản này thì việc tiếp cận DVTC của người dân sẽ tăng lên, tài chính

toàn diện vì thế mà được gia tăng. Lúc này, thể chế đóng vai trò làm điều đó, có nghĩa là giảm

thiểu chi phí trong các giao dịch. Thể chế đảm bảo quyền sở hữu, và thiết lập một môi trường

ổn định, giảm thiểu chi phí, tạo điều kiện để các chủ thể tương tác với nhau (Hoskisson &

ctg., 2000). Và các quy phạm pháp luật sẽ là nền tảng ảnh hưởng đến mức độ ổn định và hoạt

động của các doanh nghiệp (Oliver, 1997; Peng, 2000).

53

Một ví dụ về chi phí giao dịch là chi phí để có thông tin. Phải mất những nguồn tài nguyên

của cả hai bên mua và bán để đánh giá những thuộc tính của một sản phẩm hàng hóa hay dịch

vụ. Vấn đề bất cân xứng thông tin nảy sinh khi người bán biết rõ hơn người mua về chất lượng

hàng hóa đang được trao đổi, nhân viên ngân hàng sẽ biết rõ về sản phẩm, dịch vụ mà mình

cung cấp hơn người đăng ký dịch vụ. Bên nào có nhiều thông tin hơn sẽ có ưu thế nhờ che

dấu đi những thông tin đó. Theo giả định về hành vi tối đa hóa lợi nhuận, một bên đối tác sẽ

đánh lừa, ăn cắp, hay nói dối nếu như kết quả thu được từ hành vi này vượt quá giá trị của

những cơ hội khác sẵn có với đối tác. Vì chúng ta phải tốn chi phí cho việc đánh giá và giám

sát những giao dịch kiểu thế này nên vấn đề thực thi mới nổi lên, và thể chế đóng vai trò quan

trọng trong các giao dịch hoàn thành.

Hơn nữa, ở các quốc gia nơi thực thi pháp luật mạnh mẽ (có nghĩa là chất lượng thể chế

tốt), các hợp đồng giữa chủ nợ và con nợ được tuân thủ chặt chẽ hơn, sẽ khuyến khích người

dân gia tăng sử dụng các DVTC của ngân hàng. Theo đó, ngân hàng có thể gia tăng lượng

tiền gửi, mở rộng khả năng cho vay, tăng thu nhập, dẫn đến hoạt động của ngân hàng sẽ ổn

định hơn (Huang, 2010). Bên cạnh đó, các quy định đặt ra không quá khắt khe, phù hợp với

từng đối tượng, nhưng vẫn đảm bảo các giao dịch diễn ra an toàn và thuận lợi, chẳng hạn như

quy định về duy trì số dư tối thiểu khi sử dụng các DVTC, hay là các quy định liên quan đến

tài sản đảm bảo, đến việc mở rộng chi nhánh, áp dụng ngân hàng di động…(đây cũng được

cho là những rào cản khiến người dân hạn chế sử dụng các DVTC (Shankar, 2013) điều này

sẽ tăng khả năng thâm nhập của các tổ chức tài chính đến với mọi người, giảm chi phí phát

sinh, từ đó cũng tăng cường khả năng tiếp cận DVTC của người dân (Beck, 2016). Như vậy

rõ ràng, chất lượng thể chế ảnh hưởng đến tài chính toàn diện, từ đó ảnh hưởng đến ổn định

ngân hàng. Theo đó, chất lượng thể chế sẽ làm tăng tài chính toàn diện, với những lợi ích tài

chính toàn diện mang lại sẽ làm cho ngân hàng ổn định hơn. Nhiều nghiên cứu thực nghiệm

đã chỉ ra chất lượng thể chế tốt sẽ thúc đẩy tài chính toàn diện phát triển như nghiên cứu của

(Dwumfour & Ntow-Gyamfi, 2018), (Bongomin & ctg., 2018), (Anthony-Orji & ctg., 2019).

Tóm lại, chất lượng thể chế tốt với những quy định rõ ràng, quy tắc được thực hiện nghiêm

túc, quyền lợi và tài sản của người dân được bảo vệ giúp ngân hàng củng cố được niềm tin

của người dân. Rõ ràng, khi niềm tin được củng cố thì việc sử dụng các dịch vụ tài chính

(DVTC) của ngân hàng sẽ gia tăng, ngân hàng sẽ huy động được một nguồn lớn nguồn vốn

bán lẻ, từ đó giúp ngân hàng đảm bảo tính ổn định hơn. Bên cạnh đó, khi các chi phí liên quan

đến các giao dịch tài chính được xác định rõ ràng và ở mức thấp nhất, sẽ khuyến khích người

dân, đặc biệt người có thu nhập thấp sử dụng các DVTC của ngân hàng nhiều hơn, điều này

54

cũng sẽ làm cho ngân hàng gia tăng mức ổn định hơn. Đây chính là cơ sở để luận án xem xét

vai trò của chất lượng thể chế trong việc thực hiện tài chính toàn diện để đạt mục tiêu đảm

bảo tính ổn định cho hệ thống ngân hàng.

2.7. LƯỢC KHẢO CÁC NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN

HÀNG, TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN VÀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ

2.7.1. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện đến ổn

định ngân hàng

Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của

ngân hàng theo hai hướng: thuận chiều và ngược chiều. Một mặt, tài chính toàn diện có tác

dụng làm tăng tính ổn định của các ngân hàng. Với mục đích tăng khả năng tiếp cận tài chính

cho các khách hàng khó khăn như doanh nghiệp nhỏ, hộ nghèo ..., ngân hàng sẽ gia tăng được

nguồn vốn bán lẻ, đây được cho là nguồn vốn ổn định hơn so với nguồn vốn bán buôn trong

thời kỳ khủng hoảng tài chính (Demirguc-Kunt & Huizinga, 2010; Poghosyan & Martin,

2011). Ratnovski & Huang (2009) chỉ ra rằng vốn bán lẻ dồi dào là yếu tố chính đằng sau khả

năng phục hồi tương đối của các ngân hàng Canada trong thời kỳ hỗn loạn năm 2008. Hơn

nữa, gần đây, khi nguồn vốn bán buôn cạn kiệt trong cuộc khủng hoảng, tiền gửi bán lẻ đa

dạng đã giúp các tổ chức tài chính đứng vững trong hoạt động của mình (Hannig & Jansen,

2010). Ngoài ra, với các chính sách áp dụng như lãi suất hấp dẫn, các ngân hàng khuyến khích

doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư vào các dự án tạo thu nhập, góp phần thúc đẩy tăng trưởng

kinh tế cũng như sự lành mạnh của hệ thống ngân hàng (Allen & ctg., 2021; Kereta, 2007;

Morgan & Pontines, 2014; Neaime & Gaysset, 2017; Siddik & ctg., 2018; Vo & ctg., 2021).

Ngoài ra, khi thúc đẩy tài chính toàn diện cũng có thể giảm bớt sự bất cân xứng thông tin

bằng cách thu thập thông tin độc quyền về người đi vay khi tiếp cận các DVTC (Black, 1975;

Fama & Jensen, 1983; Rajan, 1992). Thông qua việc mở rộng chi nhánh và lắp đặt thêm máy

ATM, ngân hàng có thể tiếp cận các khu vực chưa có ngân hàng / khu vực thiếu ngân hàng,

từ đó giảm khoảng cách và xây dựng mối quan hệ lâu dài với khách hàng, tăng hiệu quả trong

giao dịch. Deng & Elyasiani (2008) và Hauswald & Marquez (2006) chỉ ra rằng khoảng cách

giữa người cho vay và người đi vay làm suy yếu hiệu quả của các dịch vụ ngân hàng do tăng

cường vấn đề thông tin bất cân xứng. Điều này có nghĩa là khoảng cách giữa người cho vay

và người đi vay được cải thiện; nó có thể làm tăng hiệu quả của các khoản cho vay, từ đó nâng

55

cao mức độ ổn định cho ngân hàng.

Hơn nữa, theo lý thuyết danh mục đầu tư, bằng cách đa dạng hóa các khoản cho vay đối

với các doanh nghiệp nhỏ, các ngân hàng ở Áo sẽ có dự phòng thấp hơn, dẫn đến giảm rủi ro

và tăng tính ổn định cho các ngân hàng (Rossi & ctg., 2009). Shaban & ctg. (2014) cho kết

quả tương tự khi nghiên cứu ở các ngân hàng Hồi giáo ở Indonesia trong giai đoạn 2002 -

2010. Do đó, có thể thấy rằng bằng cách mở rộng khả năng tiếp cận các nhóm khách hàng lớn

với các khoản vay nhỏ, ngân hàng có thể giảm chi phí giám sát và các khoản lỗ tiềm ẩn so với

các khoản vay lớn, giúp cải thiện tính lành mạnh của ngân hàng.

Ahamed & Mallick (2019) xem xét tác động của tài chính toàn diện đối với sự ổn định của

ngân hàng ở 86 quốc gia từ năm 2004 đến năm 2012. Một mặt, họ tin rằng mở rộng vốn làm

tăng tiền gửi và giảm chi phí cận biên của việc cung cấp dịch vụ ngân hàng. Mặt khác, việc

thực hiện một hệ thống tài chính bao trùm có thể đi kèm với nợ xấu do thông tin không cân

xứng về những người đi vay rủi ro. Ahamed & Mallick (2019) nhận thấy tài chính toàn diện

là một công cụ hỗ trợ hữu ích cho các ngân hàng trong việc ổn định cơ chế tài chính của mình.

López & Winkler (2019) đã sử dụng một mẫu của 189 nền kinh tế trong giai đoạn 2004–2017,

với phát hiện quan trọng là các quốc gia có mức độ tài chính toàn diện cao hơn ít có khả năng

bị tổn hại do giảm tín dụng và đi vay. Phát hiện này củng cố về mặt kinh nghiệm cho quan

điểm rằng quá trình mở rộng có tương quan thuận với thị trường tài chính linh hoạt hơn trong

thời kỳ khủng hoảng. Các nghiên cứu của Alvi & ctg. (2020), Sakarombe (2018), và Siddik

& ctg. (2018) cũng cho kết quả tương tự ở các vùng khác nhau trong các giai đoạn khác nhau.

Neaime & Gaysset (2018) đã điều tra tài chính toàn diện ảnh hưởng như thế nào đến sự ổn

định tài chính, bất bình đẳng thu nhập và nghèo đói ở Tunisia, Libya, Ai Cập, Yemen và Syria.

Các phát hiện trong nghiên cứu chỉ ra rằng tài chính toàn diện có ảnh hưởng xấu đến bất bình

đẳng thu nhập nhưng lại tốt cho sự ổn định tài chính.

Hầu hết các nghiên cứu trên đều cho thấy mối quan hệ tuyến tính giữa tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng, tuy nhiên trong nghiên cứu của Vo & ctg. (2019) tại 22 nước có nền

kinh tế mới nổi và cận biên trong giai đoạn 2008 đến 2015 lại tìm lấy mối quan hệ phi tuyến

giữa hai yếu tố trên. Theo đó, tài chính toàn diện sẽ gia tăng ổn định ngân hàng ở một điểm

nhất định (điểm ngưỡng), nếu giá trị tài chính toàn diện vượt qua điểm ngưỡng đó, các lợi ích

có thể biến mất hoặc biến thành bất lợi.

56

Tuy nhiên, ở khía cạnh khác tài chính toàn diện có thể làm giảm mức ổn định ngân hàng,

chủ yếu xuất phát từ việc mở rộng tín dụng quá mức cho các cá nhân mà không có sự giám

sát thích hợp, chặt chẽ. Với mục đích mở rộng đối tượng khách hàng, các ngân hàng có thể

bỏ qua các tiêu chuẩn hoặc hạ thấp các tiêu chuẩn cho vay, bỏ qua các quy định chặt trong

cho vay cũng có thể khiến ngân hàng rơi vào tình trạng gia tăng nợ xấu, làm giảm sự ổn định

của ngân hàng (Dienillah & ctg., 2018; Mehrotra & Yetman 2015). Mặt khác, với sự tham

gia nhiều tổ chức khác, nằm ngoài tầm kiểm soát cũng có thể khiến rủi ro ngân hàng gia tăng.

Ví dụ: các tổ chức chuyên biệt mới có thể cung cấp các dịch vụ giống như tiền gửi và các sản

phẩm bảo hiểm hoặc tài chính đơn giản mà không bị giám sát. Hơn nữa, sự mở rộng nhanh

chóng của các bộ phận không được kiểm soát của hệ thống tài chính có thể làm giảm sự ổn

định của các trung gian tài chính được quản lý. Lợi ích của việc thực hiện tài chính toàn diện

có thể trở thành tác nhân ảnh hưởng đến mức độ ổn định của ngân hàng (Fungáčová & Weill,

2015). Tác động ngược chiều của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng cũng được tìm

thấy trong các nghiên cứu ở các quốc gia khác nhau với các giai đoạn khác nhau như nghiên

cứu của Amatus & Alireza (2015) ở 35 quốc gia trong khu vực Châu Phi cận Sahara và nghiên

cứu của Kouki & ctg. (2020) ở African trong giai đoạn 2005 – 2014. Trong một nghiên cứu

khác ở African trong giai đoạn 2005-2014, Kouki & ctg. (2020) cũng xác nhận việc thực hiện

tài chính toàn diện làm giảm mức độ ổn định ngân hàng. Tuy nhiên, kết quả không thống nhất

khi các tác giả sử dụng các phép đo lường về tài chính toàn diện khác nhau. Nghiên cứu của

Amatus & Alireza (2015) ở 35 quốc gia trong khu vực sub-Saharan Africa trong giai đoạn

2004 – 2012 cũng đưa ra nhận định tương tự. Theo đó, tài chính toàn diện được đo bằng chỉ

tiêu tiền gửi của các NHTM có ảnh hưởng ngược chiều đến sự ổn định tài chính. Trong khi

đó, dư nợ cho vay của các NHTM có vai trò làm tăng sự ổn định tài chính. Feghali & ctg.

(2021) sử dụng dữ liệu khảo sát năm 2011 ở 140 quốc gia chỉ ra rằng nếu tài chính toàn diện

được đo bằng các khoản thanh toán và tài khoản tiết kiệm có tác động trung lập hoặc thuận

chiều đến sự ổn định tài chính, trong khi tiếp cận tín dụng có thể làm suy yếu sự ổn định tài

chính nếu tăng trưởng tín dụng xảy ra mà không liên quan đến khả năng trả nợ của người đi

vay.

Ngoài ra, Danisman & Tarazi (2020) nhấn mạnh vai trò của hạ tầng tài chính như: thanh

toán kỹ thuật số trong quá trình thúc đẩy tài chính toàn diện. Allen & ctg. (2014) chỉ ra rằng

việc nâng cao cơ sở hạ tầng tài chính và sự ra đời của ngân hàng di động có thể bù đắp những

thiếu sót về khoảng cách, làm cho việc tiếp cận các DVTC trở nên dễ dàng hơn. Những đổi

mới công nghệ này giúp các quốc gia có cơ sở hạ tầng vật chất và tài chính hạn chế tăng

57

cường phổ biến kiến thức tài chính cho những người tiêu dùng chưa được phục vụ. Ngoài ra,

khi nghiên cứu sự tiến bộ trong các chương trình hiểu biết về tài chính ở Ấn Độ, Rajesh &

Rao (2019) kết luận rằng mức độ thấp của cơ sở hạ tầng tài chính, cùng với trình độ tài chính

thấp, thu nhập thấp và không đủ việc làm chính thức, đã ngăn cản những khách hàng ở khu

vực nông thôn sử dụng kỹ thuật số và hơn thế nữa DVTC tiên tiến. Do đó, ngân hàng trực

tuyến dần dần đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy người dân sử dụng các dịch vụ

thanh toán của ngân hàng. Các ngân hàng trực tuyến ra đời, được sử dụng như một phương

thức thanh toán không chính thức nhằm tiết giảm các khoản chi phí khi thực hiện các giao

dịch tài chính.

Bảng 2. 1.Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng

Tác giả Phương pháp/biến phụ Quốc gia/giai Kết quả

thuộc/ biến độc lập đoạn

Morgan & OLS/Nợ xấu -Z-Score/ tài Các ngân Tài chính toàn diện (đo

Pontines chính toàn diện, GDP bình hàng ở lường bằng tỷ lệ cho vay

(2014) quân đầu người, dòng tiền, tỷ Amermi/2005 doanh nghiệp nhỏ và vừa

lệ tín dụng tư nhân của các - 2011 (SME) tác động tăng ổn

ngân hàng và các tổ chức tài định ngân hàng bằng cách

chính khác trên GDP và tỷ lệ giảm các khoản nợ xấu

tài sản lưu động trên tiền gửi. (NPL).

Siddik & GMM/ Z-Score/ tài chính Ngân hàng ở Tài chính toàn diện (được

ctg. (2018) toàn diện, sức mạnh thị 217 quốc gia/ đo lường bằng tỷ lệ dư nợ

trường, GDP bình quân đầu 2001 - 2013 cho vay doanh nghiệp vừa

người, tài sản lưu động đối và nhỏ trên tổng số khoản

với tiền gửi và tỷ lệ tài trợ vay) có đóng góp gia tăng

ngắn hạn, tỷ trọng tín dụng mức ổn định tài chính cho

trong nước cung cấp cho khu hệ thống ngân hàng.

vực tư nhân so với GDP, tỷ

trọng của khu vực tư nhân

58

trên GDP, tiền rộng M2 /

GDP, lãi suất thực tế.

Sakarombe GMM/Z-Score/ đa dạng hóa Ngân hàng ở Tài chính toàn diện làm

(2018) thu nhập, quy mô cho vay, Zimbabwe/ tăng sự ổn định ngân hàng.

chất lượng quản lý, quy mô 2009 - 2017

ngân hàng, tốc độ tăng

trưởng GDP, lạm phát và thất

nghiệp.

Ahamed & GMM/Z-Score/ Quy mô 2635 ngân Tài chính toàn diện làm

Mallick ngân hàng, đa dạng hóa thu hàng ở 86 tăng sự ổn định ngân hàng.

(2019) nhập, cạnh tranh, GDP bình quốc gia

quân đầu người và tăng /2004- 2012

trưởng kinh tế.

Vo & ctg. GMM/Z-Score/ tài chính 3071 ngân Tài chính toàn diện làm

(2021) toàn diện, cho vay, quy mô hàng ở các tăng sự ổn định ngân hàng.

ngân hàng, doanh thu hoạt nước Châu Á/

động, chỉ số K, ROA và sức 2008 - 2017

mạnh thị trường, tốc độ tăng

GDP bình quân đầu người và

tăng trưởng kinh tế.

Alvi & ctg. GMM/Z-Score/ tài chính 88 ngân hàng Tài chính toàn diện sẽ tăng

(2020) toàn diện, tỷ lệ chi phí trên ở 4 quốc gia cường sự ổn định của ngân

thu nhập, tỷ suất lợi nhuận trong khu vực hàng trên các nền kinh tế

ròng, tỷ lệ vốn vay trên tài Nam Á /2012 của khu vực Nam Á.

sản, tỷ lệ dự phòng rủi ro cho - 2018

vay, tổng tài sản, tăng trưởng

kinh tế, lạm phát, lãi suất

thực.

Neaime & GMM - GLS/Z-Score/ tài Các ngân Tài chính toàn diện làm

Gaysset chính toàn diện, GDP, lạm hàng ở 8 nước tăng sự ổn định ngân hàng.

(2018)

59

phát, bất bình đẳng thu nhập, Mena/2002 -

độ mở thương mại 2015

Al-Smadi FMOLS/Z-Score, tài chính Các ngân Tài chính toàn diện ảnh

(2018) toàn diện, tín dụng, Bất bình hàng ở hưởng xấu đến ổn định

đẳng thu nhập, hội nhập tài Jordan/2006- ngân hàng.

chính, khủng hoảng tài chính 2017

Amatus & GMM/Z-Score/ tài chính ngân hàng ở Tài chính toàn diện được đo

Alireza toàn diện, Tiền gửi, cho vay, 35 quốc gia bằng chỉ tiêu tiền gửi của

(2015) lạm phát, tăng trưởng GDP trong khu vực các NHTM làm giảm ổn

bình quân đầu người, khủng sub-Saharan định tài chính. Trong khi

hoảng tài chính. Africa/2004 - đó, dư nợ cho vay của các

2012 NHTM có vai trò làm tăng

ổn định tài chính.

Danisman GMM/Z-Score/ tài chính 4168 ngân Áp dụng kỹ thuật số trong

& Tarazi toàn diện, quy mô ngân hàng, hàng ở 28 hoạt động thanh toán có tác

(2020) tỷ lệ cho vay, tỷ lệ tiền gửi, nước EU/ động gia tăng mức ổn định

lạm phát, tăng trưởng kinh tế. 2010-2017 đối với ngành ngân hàng

khi thực hiện tài chính toàn

diện.

Kouki & GMM/ tài chính toàn diện, 38 ngân hàng Tài chính toàn diện có tác

ctg. (2020) quy mô ngân hàng, sức mạnh ở African động làm giảm ổn định

vốn, mức độ thanh khoản, /2005-2014 ngân hàng.

chất lượng quy định, môi

trường kinh doanh, đa dạng

hóa thu nhập, pháp quyền,

cạnh tranh, GDP bình quân

đầu người, lạm phát.

Feghali & GMM/Z-Score, NPL, 140 quốc gia/ Tài chính toàn diện được đo

ctg. (2021) ROA/cạnh tranh, tốc độ tăng 2011 bằng các khoản thanh toán

trưởng GDP, lạm phát, chỉ số và tài khoản tiết kiệm có tác

quản trị, độ mở tài chính, động trung lập hoặc thuận

60

tổng dân số, tập trung ngân chiều đến sự ổn định tài

hàng, biến động giá thị chính, trong khi tiếp cận tín

trường chứng khoán… dụng có thể làm giảm sự ổn

định tài chính.

2.7.2. Các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của chất lượng thể chế đến ổn định

ngân hàng

Một số nghiên cứu gần đây cung cấp bằng chứng cho thấy chất lượng thể chế ảnh hưởng

đến sự ổn định của ngân hàng. Ảnh hưởng này được giải thích bởi những lý giải nhau. Thứ

nhất, một môi trường có chất lượng thể chế tốt làm giảm các vấn đề liên quan đến bất cân

xứng thông tin (Cohen & ctg., 1983; Ho & Michaely, 1988) và chi phí giao dịch (Jude &

Levieuge, 2015), vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động tín dụng (Qu & ctg., 2018).

Vấn đề thông tin bất cân xứng thường được coi là một trở ngại đáng kể trong việc chuyển tiền

từ người tiết kiệm sang người vay (Lindset & ctg., 2014; Miller, 2015; Neyer, 2004). Ví dụ,

Nguyen & ctg. (2018) đã ghi nhận rằng chất lượng thể chế tốt hơn dẫn đến mức tín dụng cao

hơn trong hệ thống ngân hàng ở các nền kinh tế mới nổi từ năm 2002 đến năm 2013, nhờ

giảm bớt các hạn chế từ thông tin bất cân xứng và chi phí giao dịch. Trong bối cảnh này, nếu

vấn đề thông tin bất cân xứng trở nên ít trầm trọng hơn, các NHTM sẽ ít có khả năng cung

cấp các khoản vay cho những người đi vay có uy tín tín dụng kém, và những người đi vay

cũng sẽ ít tham gia vào các dự án rủi ro hơn. Do đó, giảm bất cân xứng thông tin thông qua

cải thiện chất lượng thể chế có thể hạn chế rủi ro đạo đức và giảm hành vi rủi ro của các

NHTM, từ đó ổn định ngân hàng (Cohen & ctg., 1983; Ho & ctg., 2019). Thứ hai, các tài liệu

cụ thể chỉ ra rằng chất lượng thể chế tốt hơn tạo ra một chính sách kinh tế vĩ mô hiệu quả hơn,

bao gồm cả các quy định về ngân hàng (Nguyen & ctg., 2018; Su & ctg., 2019). Do đó, các

nhà quản lý ngân hàng sẽ cẩn thận hơn trong việc cung cấp tín dụng cho những người đi vay

có mức độ tín nhiệm tốt hơn để đáp ứng các quy định. Thứ ba, chất lượng thể chế tốt hơn

được tranh luận với ít bất ổn hơn trong các hệ thống kinh tế vĩ mô như các chính sách kinh tế

vĩ mô thận trọng (Strobel & ctg., 2018). Ngoài ra, sự ổn định chính trị có thể cải thiện các

điều khoản cho vay và do đó làm giảm rủi ro đạo đức của người đi vay và giảm các vụ vỡ nợ.

Francis & ctg. (2014) cung cấp bằng chứng từ thị trường cho vay hợp vốn, cho thấy sự không

chắc chắn về chính trị làm tăng chi phí cho các khoản vay ngân hàng.

61

Hơn nữa, thể chế chính trị vững chắc có thể ảnh hưởng làm tăng tính minh bạch và cởi mở

của doanh nghiệp (Bushman & Piotroski, 2006). Điều này có thể cải thiện số lượng và độ

chính xác của thông tin người vay. Kết quả là, các ngân hàng có thể giảm bớt sự lựa chọn bất

lợi và định giá các khoản vay hiệu quả hơn. Tóm lại, bất kỳ sự cải thiện chất lượng thể chế

nào cũng sẽ làm giảm đáng kể rủi ro tín dụng và rủi ro vỡ nợ, giúp ngân hàng hoạt động ổn

định hơn. Tuy nhiên, chất lượng thể chế ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng còn phụ thuộc vào

các khía cạnh của nó. Chẳng hạn trong nghiên cứu của Boulanouar & ctg. (2021) ở 76 ngân

hàng trên các thị trường GCC trong giai đoạn từ năm 2000 đến năm 2013 cho thấy ngoại trừ

biến quy tắc, ba biến thể chế khác (chất lượng quy định, hiệu quả chính phủ và chỉ số cảm

nhận tham nhũng CPI) được phát hiện làm giảm mức độ ổn định tài chính của khu vực ngân

hàng GCC. Bektas & ctg. (2022) điều tra mối quan hệ của chất lượng thể chế, tôn giáo và chu

kỳ kinh tế với sự ổn định của 254 ngân hàng, bao gồm các ngân hàng hồi giáo, ngân hàng

thông thường ở chín quốc gia QISMUT +3. Kết quả cho thấy các biến số về chất lượng thể

chế bao gồm tự do tài chính, tiếng nói và trách nhiệm giải trình, nhà nước pháp quyền và sự

ổn định chính trị gia tăng mức độ ổn định của ngân hàng, trong khi đó các biến chất lượng thể

chế khác như tự do kinh tế, hiệu quả của chính phủ và tham nhũng làm giảm mức độ ổn định

của ngân hàng.

Ở khía cạnh khác, nghiên cứu của Essid & ctg. (2014) ở 52 quốc gia mới nổi và /hoặc

đang phát triển từ năm 1996 đến năm 2009 cho thấy sự bất ổn định của ngân hàng có liên

quan rộng rãi với nhiều yếu tố kinh tế vĩ mô, tài chính và đặc biệt là thể chế. Việc tăng cường

chất lượng thể chế là điều kiện thiết yếu để đảm bảo sự ổn định của hoạt động ngân hàng. Ổn

định chính trị, tiếng nói và trách nhiệm giải trình, tôn trọng quy định và luật pháp là những

đặc điểm thể chế được tìm thấy có liên quan đến ổn định ngân hàng. Demirgüç-Kunt &

Detragiache (2005) giải thích sự xuất hiện của các cuộc khủng hoảng ngân hàng có thể được

giải thích bằng sự lan rộng của tham nhũng, chất lượng thực thi pháp luật kém hoặc những

điểm yếu của hệ thống pháp luật. Các yếu tố này có tương quan nghịch với hiệu quả của việc

giám sát an toàn hệ thống ngân hàng. Do đó, chất lượng giám sát an toàn kém sẽ tạo cơ hội

lớn hơn cho rủi ro đạo đức và hậu quả là nhiều rủi ro hơn cho các cuộc khủng hoảng ngân

hàng. Các yếu tố thể chế đóng một vai trò quan trọng trong việc giải thích các cuộc khủng

hoảng ngân hàng.

Một khía cạnh của thể chế, phản ánh chất lượng thể chế được các nghiên cứu trên thế giới

đặc biệt quan tâm: tham nhũng. Tham nhũng thường gắn liền với quản lý kém và chất lượng

thể chế (Asiedu, 2003; Diaby & Sylwester, 2015; Méndez & Sepúlveda, 2006). Tham nhũng

62

là "lạm dụng cơ quan công quyền hoặc công ty để trục lợi" (Bhargava, 2005). Mức độ tham

nhũng cao hơn làm gián đoạn các quyết định đầu tư và cho vay của ngân hàng, làm giảm khả

năng sinh lời và sự ổn định của ngân hàng, và cuối cùng là gây bất ổn cho ngành ngân hàng

(Toader & ctg., 2018). North (1990) cho thấy hạn chế tham nhũng là cách đảm bảo ổn định

trong các hoạt động của các doanh nghiệp, và thúc đẩy phát triển kinh tế hiệu quả. Với tư cách

là một chủ thể xã hội, một hành vi xã hội, chủ thể - chính quyền và hành vi tham nhũng cũng

được duy trì sự vận hành, hoạt động bởi khung khổ chung do các thực thể của thể chế tạo

thành. Nhiều nghiên cứu cho thấy tham nhũng ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng,

như: Toader & ctg. (2018) thực hiện nghiên cứu về 144 ngân hàng tại 40 nền kinh tế đang

phát triển cho thấy mức độ tham nhũng thấp hơn tác động xấu đến sự ổn định của ngân hàng

và có liên quan đến giảm tổn thất và tăng trưởng tín dụng. Demirgüç-Kunt & Detragiache

(1998) và Demirgüç-Kunt & Detragiache (2005) cho rằng sự xuất hiện của các cuộc khủng

hoảng ngân hàng có thể được giải thích bởi sự yếu kém trong hệ thống pháp luật, làm xuất

hiện tình trạng tham nhũng tràn lan. Đồng quan điểm trên, Mongid (2007) cũng chỉ ra rằng

các yếu tố thể chế đóng một vai trò thiết yếu trong việc giải thích các cuộc khủng hoảng ngân

hàng. Wei (1999) cho rằng tham nhũng có thể ảnh hưởng xấu đến việc phân bổ tín dụng bằng

cách làm tăng bất cân xứng thông tin giữa người đi vay và người cho vay, dẫn đến lãi suất

cho vay cao hơn bình thường. Park (2012) đã đánh giá tác động của tham nhũng đối với sức

khỏe của ngành ngân hàng bằng cách sử dụng bộ dữ liệu quốc tế của 70 quốc gia trong giai

đoạn 2002-2004. Kết quả cho thấy tham nhũng có thể liên quan đến tỷ lệ nợ xấu cao hơn trong

lĩnh vực ngân hàng, đồng nghĩa với lợi nhuận thấp hơn và rủi ro lớn hơn đối với lĩnh vực ngân

hàng. Tương tự, Chen & ctg. (2015) đã đánh giá tác động của tham nhũng đối với việc chấp

nhận rủi ro của ngân hàng. Họ đã thu thập dữ liệu từ 1200 ngân hàng từ 35 quốc gia mới nổi

trong giai đoạn 2000-2012. Họ nhận thấy rằng hành vi chấp nhận rủi ro của ngân hàng có liên

quan đến tham nhũng, một quốc gia có mức độ tham nhũng càng cao thì mức độ rủi ro của

các ngân hàng càng cao. Cùng quan điểm trên, Canh & ctg. (2021) khi nghiên cứu ở 56 quốc

gia trong giai đoạn 2002 – 2015 cũng cho thấy việc nâng cao chất lượng thể chế có tác động

làm giảm rủi ro hệ thống một cách đáng kể. Do đó, trong nghiên cứu của mình tại 730 ngân

hàng ở 19 quốc gia mới nổi trong giai đoạn 2011 – 2016, Uddin & ctg. (2020) đã khuyến nghị

nâng cao chất lượng thể chế thông qua việc tăng cường hiệu lực của chính phủ, kiểm soát

tham nhũng và cải thiện lòng tin của các đại lý cũng như quy tắc luật pháp sẽ rủi ro ngân hàng

và cải thiện sự ổn định của ngân hàng. Ngoài ra, tình trạng tham nhũng làm tăng phân bổ vốn

63

ngân hàng từ các dự án tiêu chuẩn sang các dự án phá hoại và làm suy yếu tính lành mạnh của

các ngân hàng cũng ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế. Các kết luận tương tự cũng được tìm

thấy trong (Weill, 2011b; Zheng & ctg., 2013). Tuy nhiên, Lalountas & ctg. (2011) chỉ ra rằng

tham nhũng cũng có thể làm tăng lợi nhuận cho ngân hàng trong ngắn hạn, trong khi về lâu

dài, cần phải xem xét một số yếu tố khác như khả năng trả nợ. Mauro (1995) chỉ ra rằng tham

nhũng không nhất thiết làm gia tăng các khoản nợ xấu vì ngay cả những người đi vay giỏi

cũng có thể hối lộ các nhân viên cho vay để đẩy nhanh các khoản vay và bỏ qua quy trình phê

duyệt khoản vay. Ngoài tham nhũng là một khía cạnh của chất lượng thể chế, các quy định

đối với hoạt động ngân hàng cũng ảnh hưởng đến tính ổn định của ngân hàng (Bermpei &

ctg., 2018). Nghiên cứu của Asteriou & ctg. (2021) ở 326 ngân hàng từ 19 quốc gia Eurozone

trong giai đoạn 2005 – 2018 chỉ ra các quy định có ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng nhưng

mức độ ảnh hưởng nhiều hay ít còn phụ thuộc vào từng loại hình quy định khác nhau. Do đó,

trong nghiên cứu của mình North (1990) đã nhấn mạnh việc kiểm soát tham nhũng để đạt

được chất lượng thể chế tốt, có như thế mới đảm bảo được các hoạt động kinh tế diễn ra bình

thường.

Tổng hợp các lược khảo các nghiên cứu (bảng 2.2) cho thấy chất lượng thể chế đóng vai

trò quan trọng trong hoạt động của ngân hàng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung. Theo

đó, nâng cao chất lượng thể chế góp phần tăng tính ổn định cho hệ thống ngân hàng.

Bảng 2. 2. Tổng hợp các nghiên cứu thực nghiệm về tác động của chất lượng thể chế

đến ổn định ngân hàng

Tác giả Phương pháp/biến phụ Quốc gia/giai Kết quả

thuộc/ biến độc lập đoạn

Canh & ctg. OLS/Zscoe, Nợ xấu/chất lượng Các ngân hàng của Chất lượng thể chế

(2021) thể chế, thanh khoản, vốn ngân 56 quốc gia/2002 - làm giảm rủi ro hệ

hàng, đa dạng hóa thu thập, tập 2015. thống ngân hàng.

trung ngân hàng, tín dụng, tốc

độ tăng trưởng GDP, đầu tư trực

tiếp, độ mở thương mại, cạnh

tranh.

64

Boulanouar GMM/ DD (distance-to default) 76 ngân hàng trên Biến chất lượng quy

& ctg. và PD (Probability of default)/ các thị trường định, hiệu quả chính

(2021) dự phòng, tổng chi phí hoạt GCC/2000 - 2013 phủ và chỉ số CPI có

động/tổng thu nhập hoạt động, ảnh hưởng thuận

thanh khoản, cho vay, đa dạng chiều đến sự ổn định

hóa thu nhập, quy mô, ROA, tài chính của khu

ROE, vốn chủ sở hữu trên tổng vực ngân hàng

tài sản, tỷ lệ vốn, chất lượng thể GCC.

chế, tăng trưởng kinh tế và lạm Biến quy tắc ảnh

phát. hưởng ngược chiều

đến sự ổn định các

ngân hàng GCC.

Asteriou & GMM/ Tỷ suất lợi nhuận trên 326 ngân hàng từ Tham nhũng và sự

ctg. (2021) tài sản trung bình, (ROAA), Tỷ 19 quốc gia minh bạch có ảnh

suất lợi nhuận trên vốn chủ sở Eurozone/2005 - hưởng ngược chiều

hữu trung bình (ROAE) và Biên 2018 đến sự ổn định của

lãi ròng (NIM), Z-score/ chỉ số ngân hàng.

Quy định có liên tự do kinh tế, Tham nhũng, Quy

quan đến ổn định. định ngân hàng và giám sát

ngân hàng, tăng trưởng GDP

bình quân đầu người, lạm phát

và thất nghiệp

Uddin & GMM/Z-Score/ tổng tài sản, dự 730 ngân hàng từ Hiệu lực của chính

ctg. (2020) phòng rủi ro, đa dạng hóa thu 19 quốc gia mới phủ, kiểm soát tham

nhập, thu nhập cá nhân, lạm nổi/2011 - 2016 nhũng cải thiện sự

phát ổn định của ngân

hàng.

Balutel GMM/xác suất xảy ra khủng 48 nước/ 2003 - Tham nhũng cao,

(2020) hoảng ngân hàng/ chất lượng 2013 bất ổn chính trị và

thể chế, lạm phát, tăng trưởng chất lượng quản lý

thấp là nguyên nhân

65

GDP bình quân đầu người, tự dẫn đến các cuộc

do hóa tài chính và cạnh tranh. khủng hoảng ngân

hàng

Chen & GMM/Z-Score/ Tham nhũng, 1200 ngân hàng Mức độ tham nhũng

Chen (2018) trưởng kinh tế, lạm phát, CSTT, tại 35 nền kinh tế cao hơn làm gia tăng

bảo hiểm tiền gửi, quy mô ngân Central và Eastern hành vi chấp nhận

hàng, thanh khoản, tốc độ tăng Europe, Latin rủi ro của các ngân

trưởng tài sản, quy định… America, và Asia hàng

mới nổi/2000 -

2012

Toader & GMM/Z-Score/quy mô ngân 144 ngân hàng tại Mức độ tham nhũng

ctg. (2018) hàng (tổng tài sản), cấu trúc 40 nền kinh thấp hơn có tác động

vốn, cấu trúc tài sản, tăng tế/2005 - 2012 làm tăng sự ổn định

trưởng kinh tế và lạm phát. của ngân hàng.

Bermpei & GMM/Z-Score, Quy định về 1052 NHTM hoạt Ổn định ngân hàng

ctg. (2018) vốn (CS), Quyền giám sát chính động tại 69 nền phụ thuộc vào chất

thức, Giám sát tư nhân, Hạn chế kinh tế mới nổi và lượng thể chế và các

hoạt động, chất lượng thể chế, đang phát quy định ngân hàng.

banksize, dự phòng rủi ro cho triển/2004-2013 Theo đó, chất lượng

vay, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên thể chế có tác động

tổng tài sản, cho vay, cạnh gia tăng mức độ ổn

tranh, tốc độ tăng trưởng kinh tế định của hệ thống

và lạm phát. ngân hàng

Bektas & Phương pháp luận/Z-Score, tự 254 ngân hàng ở 9 Chất lượng thể chế

ctg. (2022) do tài chính, tự do kinh tế, quốc gia bao gồm tự do tài

khuôn khổ pháp lý, tôn giáo, QISMUT+ 3, chính, tiếng nói và

lòng tin con người và các chỉ số trách nhiệm giải

trong bộ chỉ số quản trị toàn trình, nhà nước pháp

cầu. quyền và sự ổn định

chính trị làm tăng sự

ổn định của ngân

66

hàng, trong khi đó

các biến chất lượng

thể chế khác như tự

do kinh tế, hiệu quả

của chính phủ và

tham nhũng làm

giảm sự ổn định của

ngân hàng.

2.7.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với

tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng

Một số nghiên cứu gần đây bắt đầu chú ý đến ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến mối

quan hệ giữa ổn định ngân hàng và các yếu tố khác như cạnh tranh, hiệu quả ủy ban kiểm

toán, hay hiệu quả quản trị rủi ro. Chẳng hạn, nghiên cứu của Nguyen (2022a) ở 96 ngân hàng

thương mại ASEAN giai đoạn 2002 - 2018 chỉ ra mối quan hệ giữa sự ổn định của ngân hàng

và hiệu quả của ủy ban kiểm toán phụ thuộc rất nhiều vào chất lượng thể chế của mỗi quốc

gia. Điều này có nghĩa là việc cải thiện chất lượng thể chế thông qua các kênh như nâng cao

hiệu lực của chính phủ, ổn định chính trị và không có bạo lực, chất lượng quản lý và pháp

quyền sẽ giúp gia tăng vai trò của ủy ban kiểm toán trong việc duy trì sự ổn định của ngân

hàng. Nghiên cứu của Tandelilin & Hanafi (2021) lại chỉ ra vai trò của chất lượng thể chế

trong việc giảm thiểu tác động ngược chiều của cạnh tranh đến ổn định ngân hàng khi nghiên

cứu 427 NHTM ở Châu Á trong giai đoạn 2011 – 2017. Nguyen & Dang (2022) chỉ ra rằng

hiệu quả quản trị rủi ro ảnh hưởng ngược chiều đến rủi ro ngân hàng và mối quan hệ này

mạnh mẽ hơn ở các quốc gia có chất lượng thể chế cao hơn. Điều này chỉ ra rằng quản trị rủi

ro có thể ngăn ngừa rủi ro ngân hàng hiệu quả hơn ở các quốc gia có chất lượng thể chế tốt

hơn. Hou & Wang (2016) khám phá tác động của chất lượng thể chế đối với sự đánh đổi giữa

thị trường hóa và sự ổn định của ngân hàng. Theo đó, nâng cao chất lượng thể chế có thể làm

giảm ảnh hưởng bất lợi của thị trường hóa ngân hàng đối với sự ổn định của ngân hàng.Van

Duuren & ctg. (2020) sử dụng mô hình bảng tác động cố định trên dữ liệu của 110 quốc gia

trong giai đoạn 2011 cho thấy tính minh bạch của ổn định tài chính làm tăng mức độ ổn định

tài chính ở các quốc gia có chất lượng thể chế tốt.

67

Tuy nhiên, lược khảo nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động

của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, có rất ít nghiên cứu xem xét. Gần đây nhất là

nghiên cứu của Saha & Dutta (2022) điều tra ảnh hưởng của chất lượng quản trị trong tác

động qua lại giữa tài chính toàn diện và ổn định tài chính ở 84 nền kinh tế trong thời gian từ

2004 – 2017, cho thấy chất lượng quản trị đóng một vai trò rất quan trọng trong việc loại bỏ

sự đánh đổi và tăng cường sức mạnh tổng hợp giữa tài chính toàn diện và ổn định ngân hàng.

Một nghiên cứu khác của Ahamed và Mallick (2019) cũng cho thấy chất lượng thể chế có vai

trò lớn trong mối quan hệ giữa tài chính toàn diện và ổn định ngân hàng ở 87 quốc gia trên

thế giới trong giai đoạn 2004 - 2012. Theo đó, quốc gia nào có chất lượng thể chế tốt, mức độ

ổn định ngân hàng càng được giữ vững và gia tăng khi quốc gia đó thực hiện chiến lược tài

chính toàn diện.

2.7.4. Khoảng trống nghiên cứu

Qua lược khảo các nghiên cứu, luận án rút ra một số nhận xét sau:

Thứ nhất, qua việc tổng hợp các tài liệu nghiên cứu thực nghiệm trước đây về tác động

của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng, có thể thấy rằng vấn đề này chưa thực sự được

nghiên cứu đúng mức và đầy đủ ở các nước ASEAN, mặc dù nơi đây trong thời gian qua đã

có sự phát triển đáng kể, thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu trên thế giới. Mẫu nghiên

cứu của các học giả tập trung nhiều vào các nền kinh tế mới nổi, Châu Âu với đặc thù văn

bao phủ tài chính giống nhau với co cấu độ tuổi tương đồng, nền kinh tế dựa vào ngân

hàng là chủ yếu, chứ không phải dựa vào hệ thống tài chính. Do đó, các kết luận tìm thấy

hóa – xã hội, kinh tế, chính trị không giống như các nước Đông Nam Á. Ở ASEAN mức độ

từ mẫu các nước trên có thể không phù hợp để áp dụng tại ASEAN. Bên cạnh đó, quan điểm

của các nhà kinh tế học lẫn các chuyên gia tài chính thế giới về tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng lại không thống nhất với nhau, trái chiều nhau. Do đó, sự mở rộng

tài chính toàn diện trong nền kinh tế có gia tăng hay giảm đi mức độ ổn định ngân hàng là vấn

đề cần phải được kiểm định ở lại các nước ASEAN để có câu trả lời xác đáng hơn. Điều này

dẫn đến nhu cầu cần đánh giá lại tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng trong

bối cảnh hiện tại, cũng chính là một trong các khoảng trống nghiên cứu của luận án.

Thứ hai, luận án bổ sung vào các tài liệu hiện tại về tác động của chất lượng thể chế bằng

cách tìm hiểu xem liệu chất lượng thể chế tốt có làm gia tăng mức độ ổn định của ngân hàng

hay không. Cùng với bằng chứng thực nghiệm về tác động của chất lượng thể chế đến nền

kinh tế của Uddin & ctg. (2020), kết quả của luận án đóng góp bằng cách giải thích rằng chất

68

lượng thể chế có tác động làm tăng mức độ ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN.

Thứ ba, cùng với nghiên cứu của Ahamed & Mallick (2019) và Saha & Dutta (2022), luận

án bổ sung thêm bằng chứng thực nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động

của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Kết quả cho thấy chất lượng thể chế có ảnh

hưởng quan trọng trong việc cải thiện tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng

theo hướng thuận chiều. Mặc dù, luận án có nhiều điểm tương đồng với nghiên cứu của

Ahamed & Mallick (2019) và (Saha & Dutta, 2022), nhưng trong nghiên cứu này luận án có

một số điểm khác sau:

- Về các biến sử dụng trong mô hình: luận án sử dụng nhiều chỉ số đo lường ổn định

ngân hàng để làm tăng thêm tính vững cho kết quả nghiên cứu. Hơn nữa, về mặt xây

dựng các biến trong mô hình, nghiên cứu này mở rộng thêm tài liệu của Ahamed &

Mallick (2019) và Saha & Dutta (2022) ở biến tài chính toàn diện bằng cách bổ sung

thêm hai khía cạnh: tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP và tỷ lệ tiền gửi cá nhân trên GDP,

điều này giúp phản ánh đúng và đầy đủ hơn về tài chính toàn diện.

- Về mặt phương pháp, để kiểm tra tính vững của kết quả nghiên cứu, luận án bổ sung

thêm một phương pháp khác là gắn giá trị bằng 1 với quốc gia có chất lượng thể chế

trên mức trung bình và giá trị bằng 0 đối với quốc gia có chất lượng thể chế dưới mức

trung bình khi xây dựng biến tương tác giữa tài chính toàn diện và chất lượng thể chế.

Bên cạnh đó, luận án có bước phát triển mới so với Ahamed & Mallick (2019) và Saha

& Dutta (2022) là luận án còn đánh giá ảnh hưởng của từng khía cạnh của chất lượng

thể chế: kiểm soát tham nhũng, ổn định chính trị, nhà nước pháp quyền, chất lượng

quy định, hiệu quả chính phủ, và tiếng nói và trách nhiệm giải trình lên tác động của

tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Đây là cơ sở để luận án hàm ý các chính

sách cụ thể và chính xác hơn.

Cuối cùng, qua lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm, luận án nhận thấy các nghiên cứu

về tài chính toàn diện, chất lượng thể chế, và ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN còn

tương đối hạn chế, trong khi đó các nước ASEAN có tầm ảnh hưởng quan trọng đến các nước

trên thế giới.

69

2.8. KHUNG PHÂN TÍCH

Dựa vào cơ sở lý thuyết nền và các nghiên cứu trước đã thực hiện trên thế giới, luận án

tóm tắt khung phân tích như hình 2.2.

Với mục tiêu tổng quát là đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể đối với tác động của tài

chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, đầu tiên luận án sẽ kiểm định tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng (mũi tên 1).

Kinh tế vĩ mô - Tốc độ tăng trưởng kinh tế - Lạm phát 4

3 1

Ổn định ngân hàng Tài chính toàn diện 5 Chất lượng Thể chế

5 2

Đặc điểm ngân hàng Quy mô, đa dạng hóa thu nhập, tỷ lệ cho vay, cạnh tranh, chất lượng quản lý, quy mô vốn.

Hình 2.2. Khung phân tích vấn đề nghiên cứu

Tài chính toàn diện tác động đến ổn định ngân hàng có thể theo hai hướng khác nhau,

thuận chiều hoặc ngược chiều. Tuy nhiên, trong nghiên cứu này, chiều hướng thuận chiều

được kỳ vọng. Thứ hai, luận án tiếp tục kiểm định tác động của chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng, theo đó chiều hướng thuận chiều được kỳ vọng (mũi tên số 2). Cuối cùng,

luận án tiến hành kiểm định ảnh hưởng của chất lượng thể đối với tác động của tài chính toàn

diện đến ổn định ngân hàng (mũi tên 3) với kỳ vọng chất lượng thể chế có ảnh hưởng tốt, điều

chỉnh tác động trên. Ngoài ra, các biến kinh tế vĩ mô, đặc điểm ngân hàng cũng được xem xét

(mũi tên 4,5) trong mô hình.

70

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Ở nội dung chương 2, luận án lần lượt trình bày các lý thuyết về ổn định ngân hàng, tài

chính toàn diện, chất lượng thể chế, tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế

lên ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính

toàn diện lên ổn định ngân hàng. Lược khảo các nghiên cứu thực nghiệm liên quan các vấn

đề trên cũng được luận án thực hiện trong chương này, nhằm tìm ra các khe hở mà luận án có

thể lấp đầy. Các lược khảo được trình bày tương ứng theo từng mục tiêu cụ thể. Từ đó, khung

phân tích được thiết lập, thể hiện khái quát hướng nghiên cứu của luận án.

71

CHƯƠNG 3: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Từ cơ sở lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm, chương 3 thiết lập các giả thuyết nghiên

cứu và xây dựng các mô hình nghiên cứu thực nghiệm. Phương pháp SGMM và các kiểm

định AR2, Hansen được đề xuất để đánh giá tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng

thể chế lên ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài

chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

Dữ liệu nghiên cứu của luận án là các dữ liệu thứ cấp được trích xuất từ các nguồn dữ liệu

tin cậy như nguồn dữ liệu của Ngân hàng thế giới (World Bank), Quỹ tiền tệ quốc tế

(International Monetary Fund – IMF). Nghiên cứu đã trích xuất dữ liệu của 8 nước ASEAN

trong giai đoạn 2010 - 2020.

Cấu trúc chương 3 gồm ba phần: Phần 1 là giả thuyết nghiên cứu, phần 2 là mô hình nghiên

cứu, các biến và dữ liệu nghiên cứu; phần 3 trình bày phương pháp ước lượng, và các kiểm

định đề xuất, cụ thể:

3.1. GIẢ THUYẾT

Từ góc độ lý thuyết cho thấy tài chính toàn diện hơn làm tăng nguồn cung tín dụng ngân

hàng nhờ nó có thể giảm thiểu các thông tin không rõ ràng, tiết kiệm chi phí giao dịch, do đó

khả năng tiếp cận tín dụng của các chủ thể trong nền kinh tế sẽ tương đối dễ dàng hơn. Nhờ

đó, với nguồn cung cấp tín dụng ngày càng tăng, người đi vay sẽ có được các hợp đồng cho

vay thuận lợi, điều này rất quan trọng để hạn chế các trường hợp vay nóng ở các tổ chức bên

ngoài, từ đó nâng cao sự ổn định của ngân hàng vì xác suất vỡ nợ của người đi vay giảm

xuống. Lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, cùng các nghiên cứu thực nghiệm của (Ahamed

& Mallick, 2019; Alam Siddik & Kabiraj, 2018; Sakarombe, 2018; Vo & ctg., 2021) cũng chỉ

ra rằng, thực hiện tài chính toàn diện sẽ giúp ngân hàng tăng cơ sở tiền gửi tiết kiệm và đa

dạng hóa danh mục cho vay của mình, từ đó giúp ngân hàng gia tăng mức độ ổn định. Hơn

nữa, một số nghiên cứu gần đây cho thấy tài chính toàn diện còn có nhiều lợi ích đối với sự

phát triển của nền kinh tế như: giảm bất bình đẳng thu nhập và nghèo đói (Beck & ctg., 2007;

Burgess & Pande, 2005); tăng việc làm (Prasad, 2010); cải thiện sức khỏe của nền kinh tế

(Angelucci & ctg., 2013; Karlan & Zinman, 2010). Ví dụ: sử dụng dữ liệu cấp nhà nước ở Ấn

Độ, Burgess & Pande (2005) nhận thấy rằng việc mở rộng chi nhánh ngân hàng ở khu vực

nông thôn có tác động đáng kể đến công cuộc xóa đói giảm nghèo. Tương tự, nghiên cứu của

Bruhn & Love (2014) cung cấp bằng chứng từ Mexico cho thấy rằng việc tạo điều kiện tiếp

cận tài chính tốt làm cho người nghèo có cuộc sống tốt hơn, đóng góp vào công cuộc xóa đói

72

giảm nghèo của quốc gia. Prasad (2010) quan sát thấy rằng hạn chế về tài chính đối với các

doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ làm giảm việc làm, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Vậy rõ

ràng nếu các doanh nghiệp tiếp cận được nguồn vốn chính thức từ ngân hàng với mức chi phí

hợp lý, các doanh nghiệp sẽ mạnh dạn đầu tư, mở rộng sản xuất kinh doanh, dẫn đến gia tăng

việc làm cho người dân. Hay trong một nghiên cứu về những người đi vay của Compartamos

ở Mexico, Angelucci & ctg. (2013) nhận thấy rằng khả năng tiếp cận tín dụng có tác động

làm tăng sức khỏe của nền kinh tế, biểu hiện qua tác động thuận chiều của tài chính toàn diện

đối với đối với tăng trưởng kinh tế toàn diện và ổn định chính trị xã hội, từ đó có thể dẫn đến

hiệu quả cao hơn trong các trung gian tài chính và sự lành mạnh của các ngân hàng (Cull &

ctg., 2012; Hannig & Jansen, 2010; Khan, 2011).

Nhìn chung, việc cung cấp khả năng tiếp cận tài chính cho người dân được gia tăng, đẩy

mạnh dường như có nhiều tác động thuận lợi đến nhiều khía cạnh của nền kinh tế bao gồm cả

hoạt động ngân hàng. Do đó, để trả lời câu hỏi thứ nhất, luận án đặt giả thuyết như sau:

Giả thuyết 1: Tài chính toàn diện gia tăng mức độ ổn định ngân hàng tại các nước

ASEAN.

Về chất lượng thể chế, tầm quan trọng của chất lượng thể chế đối với ổn định ngân hàng

gần đây đã được thừa nhận và nhận được nhiều quan tâm của một số học giả trong lĩnh vực

này (Ash Demirgüç-Kunt & Huizinga, 1999; La Porta & ctg., 2000; Shleifer & Vishny,

1997). Porta & ctg. (1998) xác nhận rằng các yếu tố thể chế, cụ thể là các quy tắc pháp lý chi

phối, bảo vệ lợi ích của các cổ đông và mức độ thực thi của họ. Thể chế và chất lượng thể chế

tốt sẽ giúp giảm thiểu chi phí giao dịch và các vấn đề về thông tin bất cân xứng, cả hai đều

ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi và hiệu quả kinh tế của các công ty (Gugler & ctg., 2013).

Schiantarelli & ctg. (2016) khẳng định rằng hệ thống chính trị ổn định, pháp quyền và ít tham

nhũng hơn có thể giảm thiểu việc lựa chọn người đi vay sai trái và rủi ro đạo đức cũng như

đảm bảo khả năng trả nợ. Ngược lại, một khuôn khổ pháp lý mong manh với tình trạng trật tự

và luật pháp yếu kém phần lớn là nguyên nhân dẫn đến tình trạng mất an toàn của hệ thống

tài chính (Demirgüç-Kunt & Detragiache, 1998). Bên cạnh đó, việc thực thi pháp luật kém

hoặc sự kém hiệu quả của hệ thống tư pháp, dẫn đến việc mở rộng cho vay mà không có sự

kiểm soát chặt chẽ, có thể dẫn đến những rủi ro lớn trong tài chính, ảnh hưởng đến ổn định

của các ngân hàng (Bae & Goyal, 2009; Jappelli & ctg., 2005; Laeven & Majnoni, 2005).

Ngược lại, sự cởi mở và chia sẻ thông tin doanh nghiệp giúp giảm thiểu chi phí tài chính và

giúp gia tăng ổn định (Bushman & Piotroski, 2006). Hơn nữa, tham nhũng có thể góp phần

73

gây ra sự không chắc chắn về tài chính bằng cách làm suy yếu kết quả tài chính của chủ nợ

(Hanousek & ctg., 2019), vi phạm các tiêu chuẩn tín dụng (Bermpei & ctg., 2018), mở rộng

chênh lệch cho vay (Bae & Goyal, 2009) và gia tăng gian lận cho vay cũng có thể dẫn đến

sụp đổ tài chính (Akins & ctg., 2017). Tương tự, Chortareas & ctg. (2012) và Chortareas &

ctg. (2013) cho rằng môi trường chính trị ổn định và không có tham nhũng, sẽ làm gia tăng

hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Do đó, giảm thiểu tham nhũng giúp duy trì chất lượng tín

dụng, khả năng trả nợ và cuối cùng là giảm tỷ lệ vỡ nợ, điều này không thể thiếu để đạt giúp

ngân hàng gia tăng mức độ ổn định (Bermpei & ctg., 2018).

Các nghiên cứu trước đây nhấn mạnh tầm quan trọng của chất lượng của các thể chế trong

việc đảm bảo quyền sở hữu đối với phát triển tài chính và ổn định ngân hàng. Về vấn đề này,

Demirgüç-Kunt & Detragiache (1998) và Bouheni (2014) nhấn mạnh rằng việc tăng cường

khung pháp lý và giám sát cũng như tuân thủ sẽ dẫn đến tăng cường ổn định tài chính ở các

ngân hàng tại châu Âu. Tương tự như vậy, Fang & ctg. (2014) cho rằng sự ổn định của ngân

hàng đã được cải thiện sau những cải cách tài chính và luật pháp, và tái cơ cấu quản trị doanh

nghiệp cho các quốc gia đang chuyển đổi. Ngoài ra, Toader & ctg. (2018) nhận thấy rằng

tham nhũng có thể ảnh hưởng đến sự ổn định của ngân hàng ở một quốc gia chưa áp dụng bộ

quy tắc quản trị doanh nghiệp hoặc không phải là thành viên của Liên minh Châu Âu. Ngược

lại, Pasiouras & ctg. (2009) lập luận rằng quyền lực của cơ quan giám sát có thể dẫn đến cản

trở hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu cao có thể là do hoạt động giám sát ngân

hàng kém và có thể gây hại cho sự phát triển, ổn định của ngân hàng, và có thể ảnh hưởng

đến tất cả các khía cạnh của hoạt động ngân hàng (Barth & ctg., 2013). Và sự khác biệt về

luật pháp và thể chế (Ash Demirgüç-Kunt & Huizinga, 1999), và thông qua các yếu tố pháp

lý, kiểm soát tham nhũng, quy định và quản trị (Demirgüç-Kunt & Levine, 2001; Dietrich &

Wanzenried, 2011) hoặc hiệu quả tư pháp, và pháp quyền (Naceur & Omran, 2011) có thể

ảnh hưởng đến việc giảm lợi nhuận của các ngân hàng, và mức độ ổn định của các ngân hàng

đó. Như vậy, từ những lập luận trên, để đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến ổn định

ngân hàng giả thuyết hai đã được tạo ra như sau:

Giả thuyết 2: Chất lượng thể chế có tác động làm cho mức độ ổn định của các ngân hàng

ASEAN tăng lên.

Bàn về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định

ngân hàng, hiện nay các nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này là khá ít. Tuy nhiên, rõ ràng

với ý nghĩa lý thuyết giao dịch và các nghiên cứu thực nghiệm, cho thấy, chất lượng thể chế

74

tốt với những quy định rõ ràng, quy tắc được thực hiện nghiêm túc, quyền lợi và tài sản của

người dân được bảo vệ giúp ngân hàng củng cố được niềm tin của người dân. Và, khi niềm

tin được củng cố thì việc sử dụng các DVTC của ngân hàng sẽ gia tăng, ngân hàng sẽ huy

động được một nguồn lớn nguồn vốn bán lẻ, từ đó giúp ngân hàng đảm bảo tính ổn định hơn.

Từ cơ sở lập luận này, và dựa vào nghiên cứu của Ahamed & Mallick (2019) và Saha & Dutta

(2022) để đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên

ổn định ngân hàng, luận án đưa ra giả thuyết thứ ba như sau:

Giả thuyết 3: Chất lượng thể chế cải thiện tác động của tài chính toàn diện đến ổn định

hệ thống ngân hàng tại các nước ASEAN.

3.2. MÔ HÌNH, CÁC BIẾN VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU

3.2.1. Mô hình nghiên cứu

Để thực hiện các mục tiêu đặt ra, luận án thực hiện ước lượng lần lượt 2 mô hình sau, cụ

thể:

Để đánh giá tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng

ở các nước ASEAN (câu hỏi 1, 2), luận án xây dựng mô hình 3.1 cụ thể như sau:

Mô hình 1: Đánh giá tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng.

Phù hợp với các nghiên cứu trước đây về các yếu tố ảnh hưởng sự ổn định của ngân hàng

như Keeley (1990), Boyd & ctg. (2006), Jiménez & ctg. (2013), và dựa trên nghiên cứu đề

xuất của Ahamed & Mallick (2019) luận án thực hiện ước tính mô hình hồi quy sau đây để

xem xét ảnh hưởng của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định của ngân hàng

(3.1)

𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡 = 𝛼1𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡−1+ 𝜃1𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 + 𝛽1𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 + 𝛾1 ∑ 𝐵𝑖𝑗𝑡 + 𝛿1 ∑ 𝑀𝑗𝑡 + 𝜀𝑖𝑡(3. 1) Trong đó, i, j, t, lần lượt là chỉ mục về ngân hàng, quốc gia, và thời gian.

- 𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡 là biến phụ thuộc (sự ổn định của ngân hàng) cho ngân hàng i ở quốc gia j tại

thời điểm t.

- 𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡−1 là biến trễ của biến phụ thuộc.

- 𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 là biến độc lập thể hiện tài chính toàn diện của quốc gia j tại thời điểm t.

- 𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 là biến độc lập thể hiện chất lượng thể chế của quốc gia j tại thời điểm t

75

- ∑ 𝐵𝑖𝑗𝑡 chứa các biến kiểm soát liên quan đến đặc điểm của ngân hàng i của quốc gia j

trong thời gian t, gồm: quy mô tổng tài sản (SIZE), quy mô vốn vay (LTA), quy mô

vốn chủ sở hữu (ETA), dự phòng rủi ro cho vay (LLPL) đa dạng hóa thu nhập (DIV),

chất lượng quản lý (MAQ) và sức mạnh thị trường (LERN).

- ∑ 𝑀𝑗𝑡 là các biến kiểm soát về kinh tế vĩ mô cấp quốc gia j trong thời gian t, gồm: biến

lạm phát (INF), và tăng trưởng kinh tế (GDP).

- 𝛼, β, γ, và, δ là các tham số ước tính của mô hình, và 𝜀𝑖𝑡 là thuật ngữ sai số còn lại.

Mô hình 2: Đánh giá ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn

diện đến ổn định ngân hàng tại các nước ASEAN

Tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng còn phụ thuộc vào chất lượng thế

chế của mỗi quốc gia. Bởi vì các yếu tố như ổn định chính trị, chất lượng quản lý hay quy

định luật phát có thể hạn chế mức độ mà các ngân hàng có thể tham gia vào các hoạt động rủi

ro khi mở rộng tài chính toàn diện. Trong phần này, để đánh giá ảnh hưởng của chất lượng

thể chế đến tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng (câu hỏi thứ 3), Luận án

sử dụng cách tiếp cận tương tác của (Herrera-Echeverri & ctg., 2014) bằng cách đưa thêm

biến tương tác giữa tài chính toàn diện và chất lượng thể chế của mỗi quốc gia vào mô hình

thứ 3.1, lúc này mô hình thứ 3.1 được viết lại như sau:

𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡 = 𝛼1𝐵𝑆𝑖𝑗𝑡−1+ 𝜃1𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 + 𝛽1𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 + 𝛿1𝐼𝐹𝐼𝑗𝑡 ∗ 𝐼𝑁𝑆𝑗𝑡 + 𝛾1 ∑ 𝐵𝑖𝑗𝑡 + 𝛿1 ∑ 𝑀𝑗𝑡

+ 𝜀𝑖𝑡(3. 2)

3.2.2. Các biến

3.2.2.1. Ổn định ngân hàng

Chỉ số đầu tiên, theo gợi ý các nghiên cứu trước (mục 2.1.2), được luận án lựa chọn làm

biến đại diện cho sự ổn định ngân hàng là Z-Score. Chỉ số này được sử dụng rộng rãi trong

các nghiên cứu của Čihák & Hesse (2010), Čihák & ctg. (2016), Delis (2012), Goetz (2018)

và Jiménez & ctg. (2013). Chỉ số Z-Score được tính theo công thức 3.3, cụ thể:

𝑅𝑂𝐴𝑖𝑡 + 𝐸𝑖𝑡 𝑇𝐴𝑖𝑡 (3.3) 𝑍 − 𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒𝑖𝑡 = 𝜎𝑅𝑂𝐴𝑖𝑡

Trong đó, tỷ suất sinh lợi trên tài sản bình quân của ngân hàng tại thời điểm i được chỉ ra

bởi ROA. Ngoài ra, 𝐸𝑖𝑡/𝑇𝐴𝑖𝑡 được giải thích là tỷ lệ tổng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản của

ngân hàng i tại thời điểm t. Cuối cùng, biến động thu nhập phản ánh chiến lược chấp nhận rủi

ro của ngân hàng được đo lường bằng độ lệch chuẩn của ROA, được tính bằng độ lệch chuẩn

76

của lợi nhuận trên tổng tài sản bình quân trong một thời kỳ. Z-Score càng cao được hiểu là

rủi ro giảm, mức ổn định càng cao. ngân hàng càng ổn định (Beck & ctg., 2013; Louhichi &

ctg., 2020). Hơn nữa, chỉ số này có độ lệch khá cao, do vậy theo gợi ý của Beck & ctg. (2013),

Houston & ctg. (2010) và Laeven & Levine (2009) luận án sử dụng logarit tự nhiên của chỉ

số Z-Score.

Tuy nhiên, việc sử dụng điểm số Z-Score để so sánh có thể dẫn đến kết quả sai lệch vì các

ngân hàng có thể che giấu mức độ rủi ro tương đối trên thị trường của họ (Wu & ctg., 2020).

Do đó, không thể so sánh tuyệt đối mức độ ổn định của các ngân hàng nếu chỉ dựa vào chỉ số

Z-Score. Dựa trên nghiên cứu của Wu & ctg. (2020), luận án sử dụng chỉ số Z-Score hiệu

chỉnh (Z-Score_n) để làm thước đo thứ hai về ổn định ngân hàng. Chỉ số Z-Score_n của các

ngân hàng ở mỗi quốc gia theo công thức (công thức 3.4).

(3.4) 𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒_𝑛𝑖𝑗𝑡 = 𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒𝑖𝑗𝑡 − 𝑚𝑖𝑛 (𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒𝑗) 𝑚𝑎𝑥 (𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒𝑗) − 𝑚𝑖𝑛 (𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒𝑗)

Trong đó max (𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒𝑗) và min (𝑍 − 𝑆𝑐𝑜𝑟𝑒𝑗) cho biết giá trị điểm Z-Score tối đa và

tối thiểu cho tất cả các ngân hàng ở quốc gia j trong khoảng thời gian lấy mẫu. Giá trị

𝑍𝑠𝑐𝑜𝑟𝑒_𝑛𝑖𝑗𝑡 cao hơn cho thấy rằng ngân hàng tương đối ổn định hơn / ít rủi ro hơn so với các

đối tác từ các quốc gia khác nhau.

Ngoài ra, luận án sử dụng chỉ số nợ xấu (được xác định bằng tỷ lệ giữa nợ xấu so với tổng

tài sản, ký hiệu NPL), phản ánh rủi ro tín dụng của ngân hàng để đo lường mức độ ổn định

ngân hàng. Theo Richard & ctg. (2008) rủi ro tín dụng là một trong những rủi ro quan trọng

nhất trong lĩnh vực ngân hàng, đề cập đến rủi ro mà người cho vay có thể không nhận được

tiền gốc và tiền lãi còn nợ, dẫn đến dòng tiền bị gián đoạn và tăng chi phí thu nợ. Tỷ lệ thấp

hơn cho thấy rằng người đi vay của ngân hàng ít có khả năng vỡ nợ đối với các khoản vay

của họ, do đó ngân hàng sẽ hoạt động ổn định hơn (Nguyen, 2022b) Các tài liệu trước đây đã

đồng ý rằng sự đổ vỡ của ngân hàng nói chung và trong cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008

nói riêng chủ yếu là hậu quả của việc quản lý rủi ro tín dụng yếu kém (Hennie, 2003). Đây là

thước đo truyền thống cho rủi ro tín dụng ngân hàng, được nhiều tác giả sử dụng (Fernández

& ctg., 2016; Guy & Lowe, 2011; Martinez Peria & Schmukler, 2001; Nguyen, 2022b).

3.2.2.2. Tài chính toàn diện

Đối với biến tài chính toàn diện, luận án theo dõi nghiên cứu của Ahamed & Mallick

(2019) sử dụng 3 khía cạnh (gồm 6 chỉ số phụ), cụ thể: Khía cạnh thâm nhập của ngân hàng

được xác định bằng tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành (BBPoP)

77

và tỷ lệ số ATM trên 100.000 người trưởng thành (ATMPoP ); khía cạnh khả dụng được đo

lường bằng tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng trên số 1.000 km2 (BBKM) và tỷ lệ số ATM trên

1.000 km2 (ATMKM)và tỷ lệ tiền gửi trên GDP (ODC) và tỷ lệ tín dụng tư nhân trên GDP

(OLC) được sử dụng để đo lường khía cạnh sử dụng các DVTC của người dân. Các chỉ số

này được sử dụng nhiều trong các nghiên cứu trước đây (Ahamed & Mallick, 2019; Amidžic

& ctg., 2014; Gupte & ctg., 2012; Lenka & ctg., 2016; Sarma, 2016).

Tuy nhiên, các chỉ số thành phần của tài chính toàn diện, hệ số tương quan của các chỉ số

này khá lớn. Chẳng hạn hệ số tương quan giữa tỷ lệ chi nhánh ngân hàng trên 1.000 km2 và

tỷ lệ ATM trên 1.000 km2 là 0,993 (bảng 3.1). Do đó, nếu đưa tất cả các chỉ số này sử dụng

trong một mô hình có thể sẽ gây ra hiện tượng đa cộng tuyến. Vì vậy, để đánh giá tác động

của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, luận án sử dụng kỹ thuật phân tích thành phần

chính (Principal Component Analysis – PCA) để đưa ra chỉ số tổng hợp về tài chính toàn diện.

Bảng 3. 1. Hệ số tương quan giữa các khía cạnh của chỉ số tài chính toàn diện

𝐁𝐁𝐊𝐌𝐣𝐭 𝐀𝐓𝐌𝐊𝐌𝐣𝐭 𝐁𝐁𝐏𝐨𝐏𝐣𝐭 𝐀𝐓𝐌𝐏𝐨𝐏𝐣𝐭 𝐎𝐃𝐂𝐣𝐭 𝐎𝐋𝐂𝐣𝐭

1,000 𝐁𝐁𝐊𝐌𝐣𝐭

0,9923* 1,000 𝐀𝐓𝐌𝐊𝐌𝐣𝐭

0,0454 0,0247 1,000 𝐁𝐁𝐏𝐨𝐏𝐣𝐭

0,0154 0,0206 0,2176* 1,000 𝐀𝐓𝐌𝐏𝐨𝐏𝐣𝐭

0,5535* 0,5617* -0,1088 0,0381 1,000 𝐎𝐃𝐂𝐣𝐭

0,5565* 0,5701* -0,0591 0,0596 0,9706* 1,000 𝐎𝐋𝐂𝐣𝐭

Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata.16

Các bước thực hiện xác định chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp như sau:

Bước 1: Mỗi một chuỗi dữ liệu ban đầu được winsorize để ngăn chặn các giá trị outlier

làm biến dạng chỉ số giữa 0 -1.

Bước 2: Các chỉ số sau khi được winsorize ở bước 1, tiếp tục được chuẩn hóa bằng phương

pháp min – max theo công thức 3.5:

𝑥𝑗𝑘𝑡 =

𝑥𝑗𝑘𝑡−𝑚𝑖𝑛 (𝑥𝑘𝑡) 𝑚𝑎𝑥(𝑥𝑘𝑡) −𝑚𝑖𝑛 (𝑥𝑘𝑡)

(3.5)

78

𝑥𝑗𝑘𝑡 đại diện cho giá trị chỉ số k của nước j trong năm t, là giá trị sau khi 𝑥𝑗𝑘𝑡 trải qua quá

trình xử lý chuẩn hóa, 𝑚𝑎𝑥(𝑥𝑘𝑡) là giá trị lớn nhất của chỉ số k trong năm t và 𝑚𝑖𝑛 (𝑥𝑘𝑡) là

giá trị nhỏ nhất giá trị của chỉ số k trong năm t.

Bước 3: luận án ước tính trọng số của từng chỉ số phụ theo phần mềm Stata 16.

Ước tính trọng số của các chỉ số sau khi được chuẩn hóa từ phương pháp phân tích thành

phần chính (Principal components analysis – PCA).

Bước 4: tạo ra chỉ số tổng hợp tài chính toàn diện bằng công thức sau:

6 𝑖=1

(3.6) Financial inclusion (IFI) = ∑ 𝑤𝑖𝑗 ∗ 𝑋𝑖

Trong đó:

- 𝑋𝑖 thành phần

- 𝑤𝑖𝑗 gọi là trọng số

Về xử lý dữ liệu bị thiếu, Svirydzenka (2016) đề xuất xử lý bằng một số cách như: nếu dữ

liệu năm sau bị thiếu thì sẽ sử dụng dữ liệu của năm trước đó thay thế, coi dữ liệu là thực sự

bị thiếu, loại trừ chuỗi khỏi chỉ số trung bình khi dữ liệu không có sẵn; coi dữ liệu là 0, giả

định rằng việc không có dữ liệu có nghĩa là thị trường này không tồn tại hoặc khả năng tiếp

cận và tính hiệu quả.

Về nguyên tắc, yếu tố chính có giá trị riêng (Eigenvalue) lớn hơn 1 sẽ được giữ lại để phân

tích với vai trò là biến mới được tạo ra. Kết quả bảng 3.2. cho thấy có yếu tố thứ nhất và yếu

tố thứ hai có giá trị riêng lớn hơn 1 (3,105 và 1,230). Tuy nhiên, yếu tố thứ nhất được giữ lại

với vai trò là biến số tổng hợp chất lượng thể chế với tỷ lệ giải thích là 51,76% (Phụ lục A1).

IFI = 0,499*BBKM + 0,503*ATMKM + (-0,019*BBPoP) + 0,029*ATMPoP + 0,497*ODC +

0.498*OLC

Theo đó, chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp được xác định theo công thức:

Bảng 3. 2. Kết quả tính chỉ số tài chính toàn diện theo phương pháp PCA

TP1

TP 2

TP 3

TP 4

TP 5

TP 6

Giá trị thực

3,105

1,230

0,925

0,704

0,028

0,006

Tỷ lệ

0,517

0,205

0,154

0,117

0,004

0,001

Biến

Ký hiệu

ATMKM

0,499

0,092

-0,416

-0,268

0,104

-0,696

Số lượng ATMs trên km2

Số lượng chi nhánh NH trên

BBKM

0,503

0,081

-0,397

-0,281

-0,103

0,701

1.000 km2

79

Số lượng ATM trên 100.000

BBPoP

-0,019

0,726

-0,289

0,622

0,031

0,020

người trưởng thành

Số lượng chi nhánh ngân

hàng 100.000 người trưởng

ATMPoP

0,029

0,663

0,532

-0,525

0,008

-0,005

thành

Tỷ lệ tín dụng tư nhân trên

ODC

0,497

-0,113

0,392

0,292

0,700

0,099

GDP.

Tỷ lệ tiền gửi tư nhân trên

OLC

0,4989

-0,0710 0,3839

0,3169

-0,6976

-0,108

GDP

Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata.16

Bên cạnh đó, trong phần này, dựa vào ý tưởng từ BDM (2007), luận án sử dụng hai chỉ số

đo lường tài chính toàn diện khác: chỉ số của những người trưởng thành có tài khoản tại một

quan chức tổ chức tài chính trên tổng số người trưởng thành (%) (tức là tỷ trọng tài khoản hộ

gia đình) và người lớn tiết kiệm tại một tổ chức tài chính trong năm qua trên tổng số người

trưởng thành (%) (tức là tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình), được trích xuất trong cơ sở dữ liệu Findex

toàn cầu, để kiểm tra tính hợp lệ của chỉ số tài chính toàn diện mới vừa được xây dựng. Hai

chỉ số này được sử dụng trong các nghiên cứu của Allen & ctg. (2014) và Demirgruc-Kunt &

Klapper (2013). Bảng 3.3 cho thấy chỉ số tài chính toàn diện mới có tương quan thuận chiều,

có ý nghĩa thống kê với các chỉ số tài chính toàn diện thay thế ở mức ý nghĩa 1%.

Bảng 3. 3. Ma trận mối tương quan giữa các chỉ số tài chính toàn diện thay thế và chỉ

số tài chính toàn diện mới được xây dựng

Tỷ trọng tài Tỷ lệ tiết kiệm IFI khoản hộ gia hộ gia đình đình

IFI 1,0000

Tỷ trọng tài khoản 0,2928* 1,0000 hộ gia đình

Tỷ lệ tiết kiệm hộ 0,2398* 0,9404* 1,0000 gia đình

* tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 10%

Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata.16

80

Sau đó, luận án cũng đánh giá sức mạnh của chỉ số tài chính toàn diện mới bằng cách hồi

quy các chỉ số tỷ trọng tài khoản hộ gia đình, và tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình với IFI mới (bảng

3.4). Kết quả cho thấy chỉ số tài chính toàn diện mới có liên quan đến tỷ lệ tài khoản hộ gia

đình và tiền tiết kiệm của hộ gia đình.

Bảng 3. 4. Xác minh sức mạnh của chỉ số tài chính toàn diện mới được xây dựng trong

việc dự đoán các chỉ số tài chính toàn diện khác nhau

Biến Tỷ trọng tài khoản hộ gia Tỷ lệ tiết kiệm hộ gia đình

đình

IFI 0,1732*** 0,3829***

Hằng số 0,1706*** 0,1603***

Số quan sát 604 604

R-square 0,836 0,575

*** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 1%

Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata.16

Từ các kiểm định trên cho thấy chỉ số tài chính toàn diện, mà luận án xây dựng, có thể

phản ánh đầy đủ mức độ tài chính toàn diện của một quốc gia. Do đó, luận án tiếp tục sử dụng

chỉ số này để tiến hành các kiểm định sau này.

3.2.2.3. Chất lượng thể chế

Đối với biến chất lượng thể chế, luận án sử dụng bộ chỉ số quản trị toàn cầu World

Governance Indicators của Ngân hàng Thế giới. Bộ chỉ số bao gồm 6 chỉ số thành phần với

thang đo từ - 2,5 (xấu nhất) đến 2,5 (tốt nhất), phản ánh các khía cạnh chất lượng thể chế của

các quốc gia. Đối với các chỉ số thành phần của chất lượng thể chế, hệ số tương quan của các

chỉ số này khá lớn.

Ví dụ, hệ số tương quan giữa hiệu quả chính phủ (Government Effectiveness - GE) với

chất lượng quy định (Regulatory quality - RQ) là 0,96; hoặc hệ số tương quan giữa kiểm soát

tham nhũng (Control of Corruption - CC) với hiệu quả chính phủ là 0,95 (Bảng 3.5).

Nếu đưa tất cả các chỉ số này sử dụng trong cùng một mô hình có thể sẽ gây hiện tượng

đa cộng tuyến. Do đó, để đánh giá tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng,

tương tự chỉ số tài chính toàn diện, luận án tiếp tục sử dụng kỹ thuật phân tích thành phần

chính (PCA) để đưa ra biến số tổng hợp của chất lượng thể chế. Kỹ thuật này đã được nhiều

nghiên cứu áp dụng nhằm phần tích tác động của chất lượng thể chế đến các biến số khác,

chẳng hạn FDI, như nghiên cứu của Ajide & Raheem (2016), Guo & ctg. (2014) và Kurul

81

(2017).

Bảng 3. 5. Ma trận tương quan giữa các chỉ số chất lượng thể chế

𝐏𝐒𝐣𝐭 𝐑𝐐𝐣𝐭 𝐑𝐋𝐣𝐭 𝐕𝐀𝐣𝐭 𝐂𝐂𝐣𝐭 𝐆𝐄𝐣𝐭

1,000 𝐂𝐂𝐣𝐭

0,947* 1,000 𝐆𝐄𝐣𝐭

0,676* 0,616 1,000 𝐏𝐒𝐣𝐭

0,920* 0,957* 0,582* 1,000 𝐑𝐐𝐣𝐭

0,966* 0,984* 0,663* 0,950* 1,000 𝐑𝐋𝐣𝐭

0,548* 0,630* 0,008 0,719* 0,596* 1,000 𝐕𝐀𝐣𝐭

* tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 5%

Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata.16

Về nguyên tắc, yếu tố chính có giá trị riêng (Eigenvalue) lớn hơn 1 sẽ được giữ lại để phân

tích với vai trò là biến mới được tạo ra. Kết quả bảng 3.6 cho thấy có yếu tố thứ nhất và yếu

tố thứ hai có giá trị riêng lớn hơn 1 (4,5469 và 1,1978). Tuy nhiên, yếu tố thứ nhất được giữa

lại với vai trò là biến số tổng hợp chất lượng thể chế với tỷ lệ giải thích là 75,78% (Phụ lục

INS = 0,464*CC + 0,462*GE + 0,284*PS + 0,460*RQ + 0,461*RL + 0,245*VA

A2). Theo đó, chỉ số chất lượng thể chế tổng hợp được xác định theo công thức:

Bảng 3. 6. Chỉ số chất lượng thể chế theo phương pháp PCA

TP1

TP2

TP3

TP4

TP5

TP6

Giá trị thực

4,546

1,197

0,188

0,034

0,021

0,010

0,757

0,199

0,031

0,005

0,003

0,001

Tỷ lệ

Ký hiệu

Biến

Kiểm soát tham

CC

0,464

-0,046

-0,044

0,268

-0,825

-0,164

nhũng

Hiệu quả chính phủ

GE

0,462

0,038

-0,278

0,231

0,478

-0,652

Tính ổn định chính

PS

0,284

-0,677

0,658

0,002

0,162

0,001

trị và không bạo lực

Chất lượng quy định

0,460

0,068

-0,117

-0,875

-0,032

0,046

RQ

Quy tắc luật pháp

0,461

-0,042

-0,303

0,311

0,233

0,735

RL

82

Tiếng nói và trách

VA

0,253

0,728

0,617

0,107

0,090

0,063

nhiệm giải trình

Nguồn: Trích xuất từ phần mềm Stata.16

3.2.2.4. Biến sức mạnh thị trường

Luận án sử dụng chỉ số Lerner để đo lường sức mạnh thị trường (mức độ cạnh tranh của

ngân hàng). Bản chất của sức mạnh phản ánh thông qua chỉ số Lerner vì nó đo lường khoảng

cách giữa giá cả và chi phí cận biên được biểu thị bằng phần trăm giá cả. Hay nói cách khác,

chỉ số này cho thấy mức độ mà ngân hàng có thể tăng giá vượt quá chi phí cận biên của nó

(Ahamed & Mallick, 2019).

Theo Berger & ctg. (2017) chỉ số Lerner là thước đo sức mạnh thị trường duy nhất được

tính ở cấp ngân hàng. Chỉ số Lerner được hiểu là nghịch đảo của cạnh tranh. Chỉ số này càng

cao thì sức mạnh định giá càng lớn, ngụ ý là các điều kiện thị trường kém cạnh tranh hơn. Chỉ

số này được tính theo công thức 3.7 sau:

(3.7) Lernerit = (Pit – MCit)/Pit

Trong đó:

- Pit là giá của tổng tài sản tính theo tỷ lệ giữa tổng doanh thu trên tổng tài sản của ngân

hàng i tại thời điểm t.

- MCit là chi phí biên của việc sản xuất thêm một đơn vị sản lượng.

Để xác định ra MCit luận án thu thập các dữ liệu về tổng chi phí (tổng chi phí lãi và chi

phí phi lãi), chi phí lao động, chi phí hoạt động và quản lý, chi phí lãi của các ngân hàng và

sử dụng hồi quy Fixed-Effects để hỗ trợ tính các hệ số. Công thức tính chi phí biên chính là

3

3

hàm logarit chuyển đổi chi phí, có công thức 3.8:

𝑗=1

𝑗=1

3

𝑙𝑛𝐶𝑖𝑡 = 𝛽0 + 𝛽1𝑙𝑛𝑇𝐴𝑖𝑡 + 𝛽2(𝑙𝑛𝑇𝐴𝑖)2 + ∑ 𝛾𝑘𝑡 + 𝑙𝑛𝑊𝑘,𝑖𝑡 + ∑ ∅𝑘 + 𝑙𝑛𝑇𝐴𝑖𝑊𝑘,𝑖𝑡 1 2

3 + ∑ ∑ 𝑙𝑛𝑊𝑘,𝑖𝑡 𝑗=1

𝑘=1

Trong đó

𝑙𝑛𝑊𝑗,𝑖𝑡 + 𝜀𝑖𝑡 (3.8)

- Cit: Tổng chi phí của ngân hàng (chi phí lãi và chi phí phi lãi).

- TAit: Tổng tài sản của ngân hàng i tại thời điểm t.

83

- Wk,it: giá đầu vào của ba loại chi phí, gồm: giá cả sức lao động (price of labor) được

xác định bằng tỷ lệ giữa chi phí nhân sự và tổng tài sản; giá vốn (price of capital) được

xác định bằng tỷ lệ giữa chi phí hoạt động (trừ chi phí nhân sự) và tài sản cố định; giá

tiền gửi (price of funds) được xác định bằng tỷ lệ giữa chi phí lãi trên tổng số vốn tiền

gửi.

Sau khi chạy hồi quy FEM theo phương trình trên, ước lượng được các hệ số hồi quy, luận

3

án tính toán chi phí biên (MCit) theo công thức 3.9 như sau:

𝑗=1

𝑀𝐶𝑖𝑡 = [𝛽1 + 𝛽2𝑙𝑛𝑇𝐴𝑖 + ∑ ∅𝑘 𝑊𝑘,𝑖𝑡] (3.9) 1 2

Sau khi có được chi phí biên MCit, thay kết quả này vào công thức tính Lerner (3.7), xác

định được chỉ số Lerner cần tìm. Giá trị của chỉ số này càng thấp, mức độ cạnh tranh càng cao

và ngược lại nếu giá trị của chỉ số này càng cao và ngược lại, chỉ số này càng cao thì mức độ

cạnh tranh càng thấp.

3.2.2.5. Các biến kiểm soát khác

Từ phân tích nội dung các nhân tố ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng (mục 2.1.3), luận án

sử dụng một số biến kiểm soát, cụ thể như sau:

Thứ nhất, nhóm các biến kiểm soát về đặc điểm ngân hàng:

- Quy mô ngân hàng được xem là một nhân tố rủi ro của ngân hàng (Haq & Heaney,

2012), do đó quy mô ngân hàng có ảnh hưởng lớn đến chỉ tiêu hoạt động và khả năng sinh lời

của ngân hàng. Những ngân hàng lớn có khuynh hướng thiên về hoạt động phi truyền thống

hơn là các ngân hàng nhỏ. Cụ thể, ngoài hoạt động huy động và cho vay các ngân hàng lớn

còn phát triển các mảng dịch vụ khác, đa dạng hóa trong hoạt động cũng đem lại thu nhập đa

dạng hơn cho các ngân hàng lớn, và vì vậy ngân hàng lớn có ít đặc tính rủi ro hơn. Bên cạnh

đó, ngân hàng lớn cũng được bảo vệ bởi một số luật lệ, được nhiều đặc quyền hơn, chẳng hạn

được hỗ trợ từ chính phủ khi gặp khó khăn, dẫn đến việc các ngân hàng lớn trở thành nhóm

ngân hàng quá lớn để đổ vỡ (too big to fail) (De Haan & Poghosyan, 2012). Vì vậy dường

như ngân hàng lớn có động cơ để thực hiện những hoạt động rủi ro hơn so với ngân hàng nhỏ.

Ngân hàng lớn được kỳ vọng ổn định hơn bởi vì có nhiều cơ hội đa dạng hóa, lợi thế kinh tế

nhờ quy mô trong chi phí thông tin sản phẩm, vận hành và giao dịch, do vậy ngân hàng lớn

sẽ có ít nguy cơ phá sản hơn (Adusei, 2015; Boot & Schmeits, 2000; Morgan & Pontines,

2014). Trong phạm vi nghiên cứu, tác động của quy mô ngân hàng đến ổn định ngân hàng

84

được kỳ vọng làm tăng mức độ ổn định ngân hàng.

- Quy mô tín dụng (ký hiệu LTA) được tính bằng tỷ lệ giữa dư nợ cho vay trên tổng tài

sản. Biến này đại diện cho quy mô giao dịch của NHTM. Quy mô tín dụng tăng cũng là yếu

tố phản ánh chuyên môn cao trong chiến lược cạnh tranh và xây dựng thương hiệu ngân hàng

(Manlagñit, 2011). Diaconu & Oane (2014) khi nghiên cứu về các yếu tố quyết định sự ổn

định ngân hàng, nhận xét rằng tín dụng là hoạt động đem lại lợi nhuận chính cho ngân hàng,

hoạt động cho vay làm gia tăng lợi nhuận của ngân hàng, tuy nhiên cũng phải thừa nhận nó

sẽ mang lại nhiều rủi ro, sự ổn định tài chính của ngân hàng có thể bị ảnh hưởng do sự gia

tăng này. Mặt khác, quy mô tín dụng cũng thể hiện năng lực đáp ứng được nhu cầu tín dụng

cho nhiều phân khúc khách hàng khác nhau, góp phần đẩy mạnh vị thế của ngân hàng trong

thị trường chung. Hoạt động tín dụng được xem là nguồn thu quan trọng trong doanh thu của

ngân hàng. Khi dư nợ tín dụng càng cao đóng góp rất lớn vào thu nhập. Vì vậy, yếu tố này

phản ánh năng lực quản trị tốt của các nhà quản lý ngân hàng (Sadikoglu & Zehir, 2010). Do

đó, luận án kỳ vọng biến quy mô tín dụng tác động làm tăng mức độ ổn định ngân hàng.

- Dự phòng rủi ro tín dụng (ký hiệu LLPL) được xác định bằng tỷ lệ giữa dự phòng nợ

xấu và tổng dư nợ. Dự phòng rủi ro tín dụng được sử dụng để xử lý các danh mục khoản vay

có thể bị mất trong tương lai (Ahamed & Mallick, 2019; Ul Mustafa & ctg., 2012), và nó là

thước đo rủi ro về vốn, cũng như chất lượng tín dụng của ngân hàng. Do vậy, những ngân

hàng nào có mức độ mất vốn càng cao thì cần phải trích lập dự phòng rủi ro tín dụng cao hơn,

việc trích lập rủi ro tín dụng cao càng làm cho thu nhập của ngân hàng giảm, gây bất ổn cho

ngân hàng. Do đó, luận án dự kiến tỷ lệ này sẽ ảnh hưởng thuan đến sự ổn định của hệ thống

ngân hàng.

- Đa dạng hóa thu nhập (ký hiệu DIV), được xác định bằng tỷ lệ giữa thu nhập ngoài lãi

trên tổng thu nhập hoạt động. DeYoung & Roland (2001) chỉ ra đa dạng hóa thu nhập có tác

động làm gia tăng sự biến động của lợi nhuận, hay nói cách khác là có ảnh hưởng làm tăng

ổn định ngân hàng. Quan điểm này cùng được ủng hộ bởi nhiều tác giả như Abuzayed & ctg.

(2018) và Ashraf & ctg. (2016). Mối quan hệ ngược chiều giữa đa dạng hóa và ổn định hệ

thống ngân hàng được Abuzayed & ctg. (2018) gọi là mặt tối của đa dạng hóa. Chính vì vậy,

trong nghiên cứu này, luận án dự kiến biến đa dạng hóa thu nhập tác động ngược chiều đến

ổn định ngân hàng.

85

- Chất lượng quản lý (ký hiệu MAQ) được xác định bằng tỷ lệ giữa tài sản sinh lời trên

tổng tài sản. Bằng chứng thực nghiệm về tác động của giám sát chặt chẽ đối với sự ổn định

của ngân hàng vẫn còn nhiều tranh cãi. Chẳng hạn, Barth & ctg. (2013) lập luận rằng sự bất

ổn định của ngân hàng có thể do quy định không đầy đủ hoặc giám sát các hoạt động ngân

hàng không hiệu quả. Delis & Staikouras (2011) chỉ ra rằng giám sát chặt chẽ hoạt động ngân

hàng có thể hạn chế rủi ro cho các ngân hàng và cải thiện thời gian can thiệp giám sát trong

thời kỳ bất ổn. Tương tự Ahamed & Mallick (2019) và Poghosyan & Martin (2011) cũng cho

rằng giám sát ngân hàng sẽ giúp ngân hàng gia tăng sự ổn định. Trong khi đó, nghiên cứu của

Barth & ctg. (2004) và Barth & ctg. (2013) chỉ ra rằng giám sát ngân hàng chặt chẽ không

liên quan đến việc cải thiện sự ổn định của ngân hàng; và Čihák & Tieman (2007) cho rằng

những kết quả không thống nhất là do sự khác biệt về chất lượng giám sát giữa các quốc gia.

Mặc dù kết quả còn nhiều tranh cãi, nhưng luận án kỳ vọng nó có tác động làm tăng mức độ

ổn định ngân hàng.

- Quy mô vốn chủ sở hữu (ký hiệu ETA) được xác định bằng tỷ lệ giữa vốn chủ sở hữu

trên tổng tài sản, dùng để kiểm soát rủi ro vốn, bởi lẽ các ngân hàng quy mô vốn chủ sở hữu

cao được cho là ít rủi ro hơn (Berger & ctg., 2010; Delis & Staikouras, 2011). Với lập luận

này, luận án kỳ vọng biến ETA sẽ tác động tăng mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng.

Thứ hai nhóm biến kiểm soát về kinh tế vĩ mô:

- Tăng trưởng kinh tế (ký hiệu GDP). Môi trường kinh tế vĩ mô tăng trưởng ổn định là

điều cần thiết cho ổn định kinh tế, và cũng cần thiết cho sự ổn định ngân hàng. Kinh tế tăng

trưởng cần đi đôi với chất lượng nền kinh tế, nền kinh tế tăng trưởng hay lạm phát giúp ngân

hàng đánh giá được rủi ro một cách chính xác. Khi nền kinh tế tăng trưởng mạnh, sẽ thúc đẩy

tăng trưởng tín dụng, tín dụng tăng trưởng ở mức vừa phải góp phần gia tăng lợi nhuận ngân

hàng, tuy nhiên nếu tăng trưởng quá nóng sẽ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Ngược lại, khi nền

kinh tế kém tăng trưởng, hoạt động kinh doanh của khách hàng trở nên khó khăn hơn, điều

này có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của khách hàng, khả năng trả nợ của khách

hàng giảm, hoạt động tín dụng của ngân hàng sẽ bất ổn, ngân hàng dễ rơi vào tình trạng mất

thanh khoản, ngân hàng bất ổn. Diaconu & Oane (2014) nhận thấy rằng GDP là một yếu tố

quan trọng ảnh hưởng, làm tăng mức độ ổn định tài chính của các ngân hàng hợp tác, nhưng

đối với các ngân hàng thương mại thì không có tác động. Ngược lại, Nasserinia & ctg. (2017)

cho thấy quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và hoạt động kinh doanh ngân hàng là ngược chiều.

Mặc dù có quan điểm trái chiều khi đánh giá tác động của tăng trưởng kinh tế đến ổn định

ngân hàng, nhưng với nghiên cứu này luận án kỳ vọng tăng trưởng kinh tế sẽ giúp các NHTM

86

ở các nước ASEAN hoạt động có hiệu quả và ổn định hơn.

- Lạm phát (ký hiệu INF) được xác định bằng chỉ số giá tiêu dùng (Consumer price

index). Hoạt động của các NHTM hiện nay phải đối mặt với nhiều rủi ro, bên cạnh những rủi

ro nội tại ngân hàng như rủi ro thanh khoản, rủi ro thu nhập, nó còn chịu rủi ro từ môi trường

kinh tế vĩ mô như rủi ro lạm phát. Tình hình lạm phát của nền kinh tế ảnh hưởng trực tiếp đến

hoạt động của các NHTM, khi lạm phát tăng cao, giá trị đồng tiền giảm, buộc các ngân hàng

phải tăng lãi suất để ngăn dòng tiền chuyển từ ngân hàng qua kênh đầu tư khác, điều này làm

tăng chi phí của ngân hàng, lợi nhuận giảm, và nếu lạm phát kéo dài, hoạt động của ngân hàng

sẽ trở nên bất ổn. Bên cạnh đó, khi lạm phát tăng, giá cả hàng hóa dịch vụ tăng, làm giảm thu

nhập thực tế của ngân hàng. Lạm phát cao có ảnh hưởng làm giảm ổn định ngân hàng

(Khrawish & Al-Sa’di, 2011). Đông quan điểm với Khrawish & Al-Sa’di (2011), Al-Khouri

& Arouri (2016) cho kết luận tương tự. Với các lập luận trên, luận án kỳ vọng tỷ lệ lạm phát

tăng sẽ làm giảm sự ổn định tài chính của ngân hàng.

Để có cái nhìn tổng quát về các biến đo lường trong nghiên cứu, bảng 3.7 dưới đây sẽ trình

bày cách đo lường và dấu kỳ vọng về sự tác động của các biến độc lập và biến kiểm soát đến

biến phụ thuộc.

Bảng 3. 7. Bảng tổng hợp mô tả các biến

Tên Mã biến Các tính Nghiên cứu Nguồn Kỳ vọng dấu biến

Z-Score Z-Score_n NPL

Biến phụ thuộc

Chỉ số Ahamed &

đo Mallick

lường (2019); Alvi Trình bày mức độ & ctg. (2020); Oris chi tiết ở Z-Score ổn định Houston & bank mục hệ ctg. (2010); Focus 3.2.2.1 thống Beck & ctg.

ngân (2013); Goetz

hàng (2018)

87

Z-Score_n

Trình bày Chỉ số chi tiết ở Oris Z-Score Wu & ctg. mục bank hiệu (2020) 3.2.2.1 Focus chỉnh

Fernández &

ctg. (2016);

Kasman &

Rủi ro Nợ xấu Kasman Oris NPL tín trên tổng (2015); Guy & bank

dụng nợ Lowe (2011); Focus

Martinez Peria

& Schmukler

(2001)

Biến độc lập

Tương tác

giữa chất

lượng thể Ahamed & INS*INF + + - chế và tài Mallick (2019)

chính toàn

diện

Tài Trình bày ở

chính mục (Sarma, IFI FAS + + - 3.2.2.2 2008b, 2012) toàn

diện

Trình bày ở Chất mục Shabir & ctg. INS lượng WGI + + - 3.2.2.3 (2021) thể chế

Biến kiểm soát

88

Uhde &

Heimeshoff

(2009); Shabir Quy mô Logarit tự Oris & ctg. (2021); SIZE ngân nhiên tổng bank + + - Fernández & hàng tài sản Focus ctg. (2016)

Ahamed &

Mallick (2019)

Ahamed &

Quy mô Mallick Oris Dư nợ trên LTA tín bank + + - (2019); tổng tài sản dụng Maudos Focus

(2012)

Uhde &

Heimeshoff Sức (2009); Shabir mạnh & ctg. (2021); thị Trình bày Fernández & Oris trường LER ở mục ctg. (2016) bank - - + (đo 3.2.2.4 Ahamed & Focus lường Mallick (2019) cạnh Caminal & tranh) Matutes

(2002);

Dự Ahamed & Dự phòng Oris phòng Mallick nợ xấu trên LLPL bank - - + rủi ro (2019); Fu & tổng nợ Focus cho vay ctg. (2014)

Hiệu Oris Tổng tài Ahamed & quả MQA bank + + - sản sinh lời Mallick (2019) quản lý Focus

89

trên tổng

tài sản

Ahamed &

Mallick Kiểm Vốn chủ sở Oris (2019); Kolari ETA soát rủi hữu trên bank + + - & ctg. (2002); ro vốn tổng tài sản Focus Shabir & ctg.

(2021)

Ahamed &

Mallick Thu nhập Đa (2019); Ashraf ngoài lãi Oris dạng & ctg. (2016); DIV bank - - + trên tổng hóa thu Demirguc- thu nhập Focus nhập Kunt & hoạt động Huizinga

(2010)

Ahamed &

Mallick Tăng (2019); GDP trưởng IMF + + - Kosmidou kinh tế (2008); Delis

(2012)

Lạm

INF phát Chỉ số CPI Delis (2012) IMF - - +

Nguồn: Luận án tổng hợp

3.2.3. Dữ liệu nghiên cứu

Dữ liệu nghiên cứu của luận án là các dữ liệu ở dạng thứ cấp được tổng hợp từ các nguồn

dữ liệu đáng tin cây. Cụ thể, luận án thu nhập dữ liệu của 157 ngân hàng ở 8 quốc gia từ nguồn

dữ liệu Focus Oris Bank. Mẫu cuối cùng chứa 1727 quan sát trong giai đoạn 2010 - 2020.

Tiếp đến, các chỉ số được sử dụng để xác định chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp được lấy từ

nguồn khảo sát dữ liệu tài chính (Financial Access Survey – FAS) của IMF (International

Monetary Fund). Chỉ số về chất lượng thể chế (nhà nước pháp quyền, hiệu quả của chính phủ,

90

ổn định chính trị, kiểm soát tham nhũng và chất lượng quy định) được thu thập từ bộ chỉ số

quản trị công toàn cầu (Worldwide Governance Indicators – WGI) của Ngân hàng Thế giới

(Worldbank). Cuối cùng, các biến số liên quan đến đặc điểm kinh tế vĩ mô như tốc độ tăng

trưởng kinh tế, lạm phát, được thu thập từ nguồn dữ liệu của IMF.

Luận án chỉnh sửa bộ dữ liệu này bằng cách: loại bỏ các ngân hàng có quan sát không nhất

quán dưới ba năm liên tiếp; loại bỏ các ngân hàng có giá trị bất thường, điều này có thể gây

bảng và không cân bằng.

ra sai số đo lường và do đó ảnh hưởng đến rủi ro của ngân hàng. Dữ liệu có cấu trúc dạng

3.3. PHƯƠNG PHÁP ƯỚC LƯỢNG

Luận án sử dụng phương pháp SGMM ( System GMM) hai bước của Arellano & Bover

(1995), Blundell & Bond (1998) để có những ước tính hoàn hảo. Các ước lượng của phương

pháp GMM sẽ thích hợp sử dụng trong các trường hợp sau, cụ thể:

- Dữ liệu bảng có T nhỏ, N lớn (rất nhiều quan sát với ít mốc thời gian).

- Tồn tại mối quan hệ tuyến tính giữa biến phụ thuộc với các biến giải thích.

- Mô hình động với một hoặc hai vế của phương trình có chứa biến trễ.

- Các biến độc lập không phải là một biến ngoại sinh ngặt (strictly exogenous), nghĩa là

chúng có thể tương quan với các phần dư (hiện tại hoặc trước đó) hoặc tồn tại biến nội

sinh (endogenous variables) trong mô hình.

- Tồn tại các tác động cố định riêng lẻ.

- Tồn tại phương sai thay đổi và tự tương quan trong mỗi đối tượng (nhưng không tồn

tại giữa các đối tượng).

Công cụ ước lượng khoảnh khắc theo phương pháp tổng quát hóa hệ thống hai bước

(GMM), được cải tiến bởi (Arellano & Bover, 1995) và (Blundell & Bond, 1998), với sai số

chuẩn mạnh (Windmeijer, 2005), được sử dụng trong luận án này vì tiềm năng nội sinh. Tính

nội sinh bắt nguồn từ tiềm năng bền vững của sự ổn định ngân hàng (Agoraki & ctg., 2011)

và mối quan hệ giữa sự ổn định của ngân hàng với các biến cụ thể và kiểm soát của ngân hàng

như quy mô, tỷ lệ cho vay trên tài sản, tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tài sản, tỷ lệ dự phòng rủi ro

cho vay trên tài sản và đa dạng hóa thu nhập (Delis, 2012; Delis & Staikouras, 2011). Hơn

nữa, mẫu dữ liệu có T nhỏ (T=11) và N lớn (N=157) phù hợp để sử dụng mô hình ước lượng

S-GMM (Blundell & Bond, 1998). GMM chủ yếu được sử dụng để điều tra các yếu tố quyết

định sự ổn định của ngân hàng (Dietrich & Wanzenried, 2011; Liu & Wilson, 2010) và được

91

coi là một phương pháp ước tính phù hợp để khám phá bản chất động của các mối quan hệ

(Flannery & Hankins, 2013). Bên cạnh đó, các biến phụ thuộc phụ thuộc và độ trễ (L. Z-

Score) cũng được xem là tiêu chuẩn nội sinh trong y văn. Độ trễ thứ hai hoặc dài hơn của

chúng được coi là biến công cụ trong mô hình (Blundell & Bond, 1998). Cuối cùng, kết quả

của công cụ ước lượng GMM hệ thống hai bước được xác minh bằng kiểm định J của Hansen

về tính hợp lệ của công cụ và tự tương quan bậc hai của kiểm định thuật ngữ lỗi, AR2

(Arellano & Bond, 1991).

Kiểm định Sargan hoặc kiểm định Hansen đối với tính chất xác định quá mức (over-

identifying) cho phép kiểm tra sự phù hợp của các biến công cụ. Về lý thuyết, kiểm định

Hansen trong ước lượng hai bước được xem hiệu quả hơn kiểm định Sargan trong ước lượng

một bước (Roodman 2006). Do đó, kiểm định Hansen được sử dụng để kiểm định tính over-

identifying của các biến công cụ. Kiểm định này xác định liệu có sự tương quan giữa biến

công cụ và phần dư trong mô hình hay không thông qua kiểm tra giả thuyết H0: các biến công

cụ là phù hợp (thỏa tính over-identifying). Khi chấp nhận giả thuyết H0 (p-value > alpha)

nghĩa là các biến công cụ được sử dụng trong mô hình là phù hợp. Bên cạnh đó, kiểm định tự

tương quan bậc hai (AR2) cũng là một kiểm định quan trọng về sự tương quan bậc hai của

phần dư trong mô hình. Trong kiểm định AR2, kiểm định giả thuyết H0: không có sự tương

quan bậc hai của phần dư. Khi p-value lớn hơn 0,05, ta chấp nhận H0: phần dư của mô hình

không tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 2, nghĩa là mô hình đạt yêu cầu.

3.4. KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH

3.4.1. Kiểm tra đa cộng tuyến

Xem xét đến hiện tượng đa cộng tuyến có thể xảy ra giữa các biến trong mô hình, nghiên

cứu kiểm tra hệ số tương quan (r) giữa các biến. Hệ số tương quan giữa các biến dao động

trong biên độ - 1 (tương quan âm tuyệt đối) đến +1 (tương quan dương tuyệt đối). Theo Evans

& Karras (1996) gợi ý về mức độ tương quan giữa các biến theo độ lớn tuyệt đối của r như

sau: 0 - 0,19: rất yếu; 0,2 - 0,39: yếu; 0,4 - 0,59: trung bình; 0,6 - 0,79: mạnh; 0,8 - 1,0: rất

mạnh.

3.4.2. Kiểm định tự tương quan

Tự tương quan có thể hiểu là sự tương quan giữa các thành phần của chuỗi quan sát được

sắp xếp theo thứ tự thời gian hoặc không gian.

92

Có 3 nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng tự tương quan: Bỏ sót biến quan trọng, lỗi sai

dạng hàm và lỗi sai sót hệ thống trong việc đo lường. Hậu quả của tự tương quan: các ước

lượng OLS sẽ không còn là những ước lượng hiệu quả nữa, các giá trị ước lượng của sai số

chuẩn theo OLS có xu hướng nhỏ hơn các sai số của tổng thể, dẫn đến, khả năng kết luận

nhầm lẫn rằng các giá trị ước lượng có độ chính xác cao, việc kiểm định thống kê sẽ không

còn đáng tin cậy nữa…

Để kiểm tra xem mô hình có xảy ra hiện tượng tự tương quan hay không, luận án sử dụng

kiểm định được đề xuất bởi (Wooldridge, 2010)với:

Giả thiết: 𝐻0: Mô hình có hiện tượng tự tương

𝐻1: Mô hình không có hiện tượng tự tương quan.

3.4.3. Kiểm định phương sai thay đổi

Hiện tượng phương sai thay đổi là hiện tượng phương sai của phần dư không phải là hằng

số mà tăng hoặc giảm khi biến giải thích tăng. Nguyên nhân là do bỏ sót biến quan trọng, lỗi

sai dạng hàm, lỗi sai sót hệ thống trong việc đo lường. Phương sai thay đổi làm cho các ước

lượng OLS tuy vẫn là các ước lượng tuyến tính không chệch nhưng không còn là ước lượng

hiệu quả, khoảng tin cậy và kiểm định giả thuyết về các hệ số không còn giá trị sử dụng…

Có nhiều cách để phát hiện hiện tượng phương sai sai số thay đổi trong mô hình hồi quy.

Trong luận án, sử dụng các kiểm định sau:

- Mô hình Pooled OLS sử dụng kiểm định White.

- Mô hình FE (Fixed Effect) sử dụng kiểm định Wald.

- Mô hình RE (Random Effect) sử dụng kiểm định Breusch – Pagan (1979).

Giả thiết: 𝐻0: Phương sai của mô hình không đổi

𝐻1: Phương sai của mô hình thay đổi

3.4.4. Kiểm định tính hợp lý của biến công cụ

- Kiểm định Arellano – Bond (AR2) về hiện tượng tự tương quan:

Giả thiết: 𝐻0: Không tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 2

𝐻1: Tồn tại hiện tượng tự tương quan bậc 2

- Kiểm định Hansen về giới hạn xác định quá mức tức là độ mạnh của biến công cụ:

Giả thiết: 𝐻0: Biến công cụ không tương quan với phần dư của mô hình

𝐻1: Biến công cụ tương quan với phần dư của mô hình

93

Kỳ vọng giá trị p -value của hai kiểm định đều lớn hơn mức ý nghĩa thống kê nên không

thể bác bỏ giả thiết 𝐻0:, tức là kết quả hồi quy GMM đáng tin cậy, có thể dùng để phân tích.

94

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3

Từ mục tiêu nghiên cứu ở chương 1, cơ sở lý thuyết chương 2, luận án xây dựng ba giả

thuyết và hai mô hình thực nghiệm tương ứng, để kiểm định tác động của tài chính toàn diện,

của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác

động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Dữ liệu phục vụ cho nghiên cứu được thu

thập từ các nguồn dữ liệu tin cậy gồm: Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế. Ngoài ra, các

biến sử dụng trong mô hình được luận án giải thích, trình bày cụ thể. Cuối cùng, phù hợp với

đặc điểm của bộ dữ liệu, phù hợp với mô hình đề xuất, luận án sử dụng phương pháp SGMM

và các kiểm định AR2, Hansen để giải quyết các vấn đề nghiên cứu đặt ra.

95

CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN

Đầu tiên, luận án đánh giá khái quát mức độ ổn định ngân hàng, tài chính toàn diện và

chất lượng thể chế của các nước ASEAN. Sau đó, luận án lần lượt kiểm định hai mô hình đã

đề xuất ở chương 3. Từ kết quả kiểm định, đối chiếu với giả thuyết, luận án tiến hành thảo

luận. Theo đó, nội dung chương 4 gồm các phần chính sau:

- Đánh giá mức độ ổn định ngân hàng, tài chính toàn diện và chất lượng thể chế ở các

nước ASEAN.

- Tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng.

- Ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân

hàng.

- Thảo luận các kết quả nghiên cứu.

Thông qua từng phần, luận án cũng trả lời các giả thuyết đặt ra tương ứng.

4.1. ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG, TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

VÀ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ Ở CÁC NƯỚC ASEAN

4.1.1. Mức độ ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN

So với mặt bằng chung các nước trong khối ASEAN, hệ thống ngân hàng ở các nước

Singapore, Malaysia, Thailand và Philippines có mức độ ổn định cao hơn (bảng 4.1).

Bảng 4. 1. Chỉ số Z-Score trung bình của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân

chung của khu vực ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020

Năm

ASEAN

Campuchia

Indonesia

Lao

Malaysia

Philippines

Singapore

Thailand

Vietnam

2010

0,59

0,42

0,53

0,44

0,67

0,74

0,78

0,57

0,66

2011

0,56

0,49

0,52

0,23

0,61

0,69

0,68

0,51

0,54

2012

0,86

0,72

0,89

0,59

1,15

1,01

0,70

0,93

0,44

2013

0,92

0,96

0,99

0,73

1,18

0,93

0,79

0,91

0,44

2014

0,79

0,87

0,64

0,34

1,09

0,64

1,06

0,98

0,54

2015

0,77

0,71

0,54

0,43

1,05

0,78

1,39

0,91

0,64

2016

0,87

0,58

0,76

1,24

1,11

1,08

1,12

0,85

0,83

2017

0,93

0,64

0,77

1,25

1,25

1,13

1,12

0,92

0,91

2018

0,92

0,74

0,72

0,57

1,22

1,17

1,04

1,14

0,75

2019

0,91

0,70

0,66

0,85

1,22

1,01

1,24

1,07

0,89

2020

0,62

0,54

0,45

0,69

0,59

0,64

0,82

0,66

0,96

96

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ dữ liệu của Oris Bank Focus, 2022

Xét từng quốc gia, cụ thể là Việt Nam, có thể thấy, các ngân hàng ở Việt Nam có mức độ

ổn định không đồng đều qua các năm. Trong thời gian nghiên cứu, chỉ có hai năm 2010 và

2020, hệ thống ngân hàng có sự ổn định cao hơn so với bình quân chung của cả khu vực

ASEAN, những năm còn lại chỉ số này đều thấp. Cụ thể, trong hai năm này, Z-Score của hệ

thống ngân hàng ở Việt Nam lần lượt là 0,66; 0,96, bình quân của cả khu vực ASEAN lần

lượt đạt 0,59 và 0,62.

Các quốc gia còn lại, bao gồm Malaysia, Philippines, Singapore, và Thái Lan có mức ổn

định cao so với các nước trong khu vực và so với bình quân chung của khu vực. Chỉ số Z-

Score của các nước này luôn dao động từ 0,7 cho đến 1,2, trong khi đó Z-Score chung cả khu

vực dao động từ 0,6 đến 0,9.

Nhìn chung năm 2020 mức độ ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN có xu hướng giảm,

điều này được lý giải do ảnh hưởng của dịch Covid – 19. Những khó khăn do dịch bệnh mang

lại như vòng quay vốn chậm, dòng tiền đứt gãy, doanh nghiệp bị sụt giảm doanh thu, mất khả

năng thanh toán các khoản nợ đến hạn, nợ xấu tăng cao (bảng 4.2), ảnh hưởng đến mức độ ổn

định của các ngân hàng.

Về tỷ lệ nợ xấu (so với tổng tài sản), chỉ số này biến động khác nhau ở các quốc gia trong

khu vực (bảng 4.2) nhưng nhìn chung toàn khu vực cho xu hướng giảm.

Bảng 4. 2. Tỷ lệ nợ xấu của hệ thống ngân hàng các nước và bình quân chung của khu

vực ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020

Năm

Campuchia

Indonesia

Lào

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

2010

0,42

0,53

0,44

0,68

0,74

0,77

0,57

0,66

2011

0,49

0,52

0,23

0,61

0,69

0,68

0,51

0,54

2012

0,72

0,89

0,59

1,15

1,00

0,70

0,93

0,44

2013

0,96

0,9

0,73

1,18

0,93

0,79

0,91

0,44

2014

0,87

0,64

0,34

1,09

0,64

1,06

0,99

0,54

2015

0,71

0,54

0,43

1,05

0,79

1,39

0,91

0,64

2016

0,58

0,76

1,24

1,11

1,08

1,12

0,86

0,84

2017

0,64

0,77

1,25

1,25

1,13

1,12

0,92

0,91

2018

0,74

0,72

0,58

1,22

1,17

1,04

1,15

0,75

2019

0,70

0,66

0,85

1,22

1,01

1,24

1,08

0,89

2020

0,76

0,71

1,02

1,24

1,32

1,48

1,35

0,97

97

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ dữ liệu của Oris Bank Focus, 2022

Trong các nước, quốc gia có tỷ lệ nợ xấu thấp nhất hơn so với bình quân cả khu vực là

Singapore và Việt Nam. Ở Singapore, năm có kết quả thấp nhất là năm 2019 chỉ 0,69% so

với tổng tài sản của hệ thống ngân hàng của nước này. Ở Việt Nam, con số này thấp nhất ở

mức 0,67% vào năm 2010.

Philippines và Malaysia những năm đầu có tỷ lệ nợ xấu cao, nhưng những năm sau cải

thiện tốt hơn. Cụ thể, ở Malaysia từ năm 2012 trở đi, hệ thống ngân hàng ở quốc gia này có

tỷ lệ nợ xấu duy trì ở mức thấp hơn so với toàn khu vực. Tình trạng này ở Philippines bắt

đầu từ năm 2014 cho đến năm 2019. Hai quốc gia còn lại, Thái Lan và Indonesia là hai quốc

gia có tỷ lệ nợ xấu trong hệ thống ngân hàng khá cao, cao hơn so với khu vực; với Indonesia

có xu hướng giảm tỷ lệ này trong những năm gần đây từ năm 2016 đến năm 2019.

Phần phân tích này cho thấy, mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia có

sự khác biệt nhau, và có sự biến động qua các năm ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, xu hướng

chung, nhất là những năm gần đây, hệ thống ngân hàng các nước có sự cải thiện về ổn định,

với chỉ số Z-Score được nâng lên, tỷ lệ nợ xấu được giảm xuống (ngoại trừ năm 2020). Sự ổn

định hệ thống ngân hàng, như đã được trình bày trước, chịu sự tác động của nhiều nhân tố,

trong đó phải kể đến mức độ tài chính toàn diện ở các quốc gia.

4.1.2. Mức độ tài chính toàn diện ở các nước ASEAN

Mỗi quốc gia sẽ có chính sách thúc đẩy tài chính toàn diện khác nhau, phù hợp với bối

cảnh của quốc gia đó. Do vậy mức độ tài chính toàn diện của các quốc gia cũng không đồng

nhất với nhau. Ở nội dung này, luận án tập trung đánh giá mức độ tài chính toàn diện thông

qua từng khía cạnh. Cụ thể:

Khía cạnh thứ nhất: sự thâm nhập của ngân hàng. Hai chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá

mức độ thâm nhập của ngân hàng là tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng

thành và tỷ lệ số ATM trên 100.000 người trưởng thành. Kết quả cho thấy bình quân qua các

năm của tám nước khối ASEAN, cứ 100.000 người trưởng thành sẽ có 9,27 chi nhánh ngân

hàng, cứ 100.000 người trưởng thành sẽ có 43,72 ATM phục vụ. Đồng thời các quốc gia có

98

mức độ thâm nhập ngân hàng là rất khác nhau.

Về số lượng chi nhánh ngân hàng

Ba quốc gia Indonesia, Thái Lan và Malaysia là nhóm ba quốc gia có số lượng chi nhánh

ngân hàng cao vượt trội so với khu vực, bình quân mỗi năm cứ 100.000 người dân ở nước

này có 15,80; 11,72; 10,52 chi nhánh ngân hàng phục vụ. Những con số này đều cao hơn so

với trung bình khu vực. Các quốc gia còn lại có số lượng chi nhánh ngân hàng thấp hơn so

với bình quân chung của cả khối ASEAN (9,27). Quốc gia có số chi nhánh bình quân mỗi

năm thấp nhất trong khu vực là Việt Nam với con số là 3,66. Như vậy nếu so với các nước có

số lượng chi nhánh cao ở trên, có thể nhận thấy trung bình ở Indonesia gấp hơn bốn lần so

với Việt Nam, từ đó chứng minh tồn tại sự chênh lệch giữa các quốc gia.

Bảng 4. 3. Tốc độ tăng trưởng số lượng chi nhánh ngân hàng trong 100.000 người

trưởng thành

Năm

Campuchia

Indonesia

Lào

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

2010

3,95

6,17

7,98

-1,88

0,81

-0,50

1,94

-1,95

2011

3,80

81,34

0,37

3,01

1,47

-2,34

3,02

10,06

2012

5,03

14,72

5,98

-0,87

3,61

-1,79

3,07

-12,18

2013

6,32

4,56

1,08

-1,66

3,87

-3,29

3,47

17,34

2014

19,26

1,07

5,25

-1,43

4,56

-1,19

3,52

5,14

2015

7,54

-1,07

0,96

-1,11

1,71

-0,58

0,10

-1,98

2016

18,22

-2,17

3,14

-2,36

0,84

-3,04

-1,40

2,09

2017

3,84

-2,96

2,99

-2,00

1,77

-5,32

-3,98

-10,01

2018

4,25

-3,64

2,82

0,12

0,29

-1,13

-1,35

13,53

2019

5,95

-3,05

1,3

-1,59

1,98

-3,78

-3,95

1,72

2020

39,77

-2,68

-0,09

-10,98

-0,33

-10,24

-5,78

0,62

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ FAS, 2022

Bảng 4.3. cho thấy tốc độ tăng trưởng số chi nhánh ngân hàng ở các nước ASEAN trong

những năm gần đây có xu hướng giảm, đặc biệt trong hai năm 2019, 2020, tốc độ giảm mạnh.

Xu hướng cắt giảm chi nhánh là do người dân sử dụng các dịch vụ “mobile banking” ngày

càng phổ biến trong thời kỳ dịch Covid-19 và các ngân hàng đang tiếp tục nỗ lực giảm chi

phí bằng cách đóng cửa các văn phòng, chi nhánh. Bên cạnh đó, sự nổi lên của các ngân hàng

chỉ hoạt động trực tuyến cũng góp phần khiến các ngân hàng cắt giảm chi nhánh, và đẩy mạnh

mở rộng cách dịch vụ trực tuyến. Và xu hướng cắt giảm này cũng được dự đoán sẽ được đẩy

99

mạnh hơn trong thời gian tới. Chẳng hạn, trong một nghiên cứu vừa công bố, Tập đoàn Tư

vấn chiến lược hàng đầu thế giới Roland Berger ước tính số lượng các chi nhánh ngân hàng

hoạt động kiểu truyền thống tại Đông Nam Á sẽ giảm khoảng 18% trong thập kỷ tới. Tỷ lệ

này tương đương với 11.000 chi nhánh ngân hàng sẽ đóng cửa, trong đó có khoảng 7.000 chi

nhánh ngân hàng đặt tại Indonesia. Sau Indonesia, xu hướng sẽ diễn ra mạnh mẽ ở Thái Lan,

Malaysia, Philippines. Nghiên cứu cũng dự báo sẽ có tới hơn 2/3 khách hàng mong muốn sử

dụng các dịch vụ số hơn là dịch vụ truyền thống. Một thực tế hiện nay, các ngân hàng không

còn đua nhau mở chi nhánh như giai đoạn trước một phần cũng là do những quy định về mở

mạng lưới của NHTM chặt chẽ hơn và NHNN chỉ khuyến khích mở điểm giao dịch ở khu

vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa, nhằm tiếp cận với một bộ phận khách hàng yếm thế, làm

tăng khả năng tiếp cận tài chính của bộ phần đó. Bên cạnh đó, tiến trình chuyển đổi số đang

được các ngân hàng đẩy mạnh, ngân hàng số sẽ giúp các ngân hàng thay thế dẫn các điểm

giao dịch truyền thống hiện nay. Như vậy việc số chi nhánh ngân hàng ở các nước ASEAN

có tốc độ giảm qua các năm cũng là điều tất nhiên trong bối cảnh xu hướng công nghệ số hiện

nay.

Về số lượng ATM

Về số lượng ATM, trong giai đoạn từ 2010 – 2020, bình quân mỗi năm ở các nước

ASEAN, cứ 100.000 người trưởng thành có 43,72 máy ATM. Quốc gia có nhiều ATM là Thái

Lan, với năm 2016 có 117,62 máy ATM phục vụ cho 100.000 người dân; bình quân mỗi năm

quốc gia này có 107,07 ATM. Tiếp theo là Singapore và Malaysia, với con số bình quân mỗi

năm đạt được 58,92 và 54,13.

Xét về tốc độ tăng trưởng, bảng 4.4. dưới đây đã cho thấy cụ thể tốc độ thay đổi qua từng

năm ở mỗi quốc gia trong khối ASEAN trong khoảng thời gian từ năm 2010 – 2020.

Bảng 4. 4. Tốc độ tăng trưởng số lượng ATM trên 100.000 người trưởng thành

Năm

Campuchia

Indonesia

Lào

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

2010

20,44

-7,62

80,01

9,11

7,84

11,84

11,63

15,57

2011

14,82

26,14

24,52

9,37

11,24

0,99

6,63

15,11

2012

19,05

117,22

18,94

1,52

12,18

-0,80

8,56

5,52

2013

18,16

17,60

38,37

0,55

16,31

-1,72

7,98

5,74

2014

28,74

17,11

10,66

-2,12

5,74

-1,21

11,59

3,80

2015

22,18

7,64

16,29

-3,21

8,02

0,95

2,76

4,65

2016

8,61

2,59

4,25

-6,74

7,98

-3,85

0,22

2,11

2017

15,44

1,48

7,47

0,49

4,04

13,06

0,14

1,43

2018

16,28

-1,39

0,02

-1,21

2,71

2,36

-0,24

2,98

2019

19,69

-1,78

4,46

11,63

0,27

-9,00

-2,05

2,30

2020

13,20

-3,28

1,86

-0,94

2,56

-8,12

-2,82

1,39

100

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ FAS, 2022

Các quốc gia ở khu vực có sự tăng trưởng khác nhau giữa các nước và giữa các năm. Các

nước luôn có sự tăng trưởng cao về số lượng máy ATM bao gồm Indonesia và Campuchia

với bình quân mỗi năm lần lượt là 18,33% và 17,62%. Đặc biệt Singapore có tốc độ khá khác

biệt, với tốc độ bình quân -0,73% và có xu hướng biến động giảm trong suốt 5 năm liên tục;

kết quả đến cuối năm 2020 chỉ có 54,01 máy ATM phục vụ cho 100.000 người trưởng thành.

Riêng Việt Nam, trong năm năm gần nhất có số lượng ATM tăng trưởng khá ổn định qua

các năm, với tốc độ tăng bình quân trong quãng thời gian này là 4,51%. Nếu so với tốc độ

tăng trưởng của những năm trước đó thì con số này đã chậm lại. Năm 2020 là năm có số lượng

ATM cao nhất trong các năm, đạt 26,26 máy trên 100.000 người trưởng thành, song con số

này vẫn thấp hơn so với trung bình chung của cả khối ASEAN. Nhìn chung, xu hướng lắp đặt

máy ATM trong những năm gần đây ở các nước ASEAN có xu hướng giảm dần, số lượng lắp

đặt thêm ngày càng ít, điều này cũng được lý giải tương tự như tốc độ giảm chi nhánh ngân

hàng, do các dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động mở rộng và xu hướng hợp nhất trong

ngành tài chính. Và rõ ràng, trong xu thế phát triển thanh toán không dùng tiền mặt là định

hướng lớn của Chính phủ, xã hội cùng hướng tới, do đó việc rút tiền mặt để chi tiêu thông

qua ATM cần tiến tới giảm dần. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận rằng, việc sử dụng ATM

được một bộ phận người dân, đặc biệt là người trung và cao tuổi, người dân vùng nông thôn

vẫn được ưa chuộng. Vì vậy, dù xu thế thu hẹp dần mạng lưới cây ATM là tất yếu, tuy nhiên

việc thu hẹp như thế nào còn là bài toán của mỗi ngân hàng.

Tóm lại, ở khía cạnh đầu tiên về tính thâm nhập của ngân hàng, với đại diện chính là số

lượng chi nhánh ngân hàng trên 100.000 người trưởng thành và số lượng ATM trên 100.000

người trưởng thành, các nước trong khối ASEAN có sự khác biệt nhau khá rõ, cụ thể là có sự

chênh lệch về số lượng; đồng thời, xu hướng tăng trưởng ở một số quốc gia trái chiều với

nhau.

101

Khía cạnh thứ hai: khía cạnh khả dụng được đo lường bằng tỷ lệ số chi nhánh ngân hàng

trên 1.000 km2 và tỷ lệ số ATM trên 1.000 km2. Kết quả cho thấy bình quân qua các năm của

tám nước khối ASEAN, cứ 1.000km2 sẽ có 67,46 chi nhánh ngân hàng, cứ 1.000km2 sẽ có

446,81 ATM phục vụ. Đồng thời các quốc gia có mức độ khả dụng cũng khác nhau.

Về số lượng chi nhánh ngân hàng trên 1.000 km2

Ba quốc gia Singapore, Indonesia, và Philippines là nhóm ba quốc gia có số lượng chi

nhánh ngân hàng cao, đặc biệt Singapore cao hơn hẳn khu vực, bình quân mỗi năm cứ 1.000

km2 ở nước này có 585,38; 19,92; 16,40 chi nhánh ngân hàng thành lập. Các quốc gia còn lại

có số lượng chi nhánh ngân hàng thấp hơn so với bình quân chung của cả khối ASEAN

(67,46). Quốc gia có số chi nhánh bình quân mỗi năm thấp nhất trong khu vực là Lào với con

số là 0,57, trong khi đó ở Việt nam con số này là 8,42. Với số liệu này rõ ràng có sự chênh

lệch khá lớn giữa các quốc gia.

Bảng 4.5 cho thấy, mặc dù Singapore có số lượng chi nhánh ngân hàng nhiều nhất tính

trên 1.000 km2, nhưng xét về tốc độ thì Campuchia là quốc gia có tốc độ tăng trưởng số chi

nhánh ngân hàng cao nhất, với tốc độ bình quân 13,54% năm trong suốt 11 năm, tiếp theo là

Indonesia với tốc độ bình quân 10,41%. Tuy nhiên trong những năm gần đây, quốc gia này

lại có xu hướng giảm số chi nhánh. Các quốc gia khác như Malaysia, Singapore tương tự, đặc

biệt Singapore có số lượng chi nhánh bình quân thấp hơn và có xu hướng giảm dần qua các

năm.

Bảng 4. 5.Tốc độ tăng trưởng chi nhánh ngân hàng trên 1.000 km2

Năm

Campuchia

Indonesia

Lào

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Viet Nam

2010

6,50

7,72

10,99

0,59

3,56

1,85

2,93

-0,32

2011

6,11

84,58

2,97

5,59

3,76

-0,28

3,77

11,63

2012

7,43

16,68

8,65

1,41

5,93

0,65

3,85

-11,04

2013

8,71

6,33

3,54

0,46

6,14

-1,53

4,27

18,71

2014

21,77

2,79

7,69

0,63

6,81

0,18

4,30

6,29

2015

9,61

0,64

3,17

0,92

3,89

0,93

0,81

-0,96

2016

20,46

-0,67

5,38

-0,54

2,92

-1,39

-0,64

3,14

2017

5,62

-1,39

5,11

-0,17

3,94

-5,15

-3,31

-9,16

2018

5,93

-2,06

4,86

1,95

2,45

-0,74

-0,72

14,55

2019

7,65

-1,54

3,31

0,12

4,11

-2,74

-3,37

2,64

2020

42,10

-1,26

1,92

-9,52

1,65

-10,49

-5,24

1,56

102

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ FAS, 2022

Về số lượng ATM

Về số lượng ATM, trong giai đoạn 2010 - 2020, bình quân mỗi năm ở các nước ASEAN,

cứ 1.000 km2 có 446,81 máy ATM được lắp đặt. Quốc gia có nhiều ATM là Singapore, với

năm 2018 có 4.506,35 máy ATM; bình quân mỗi năm quốc gia này có 3.973,45 ATM. Tiếp

theo là Thái Lan và Philippines, với con số bình quân mỗi năm đạt được 118,34 và 56,4 ATM.

Xét về tốc độ tăng trưởng, bảng 4.6 dưới đây đã cho thấy cụ thể tốc độ thay đổi qua từng

năm ở mỗi quốc gia trong khối ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020.

Bảng 4. 6. Tốc độ tăng trưởng ATM trên 1.000 km2 của các nước ASEAN

Năm Campuchia

Indonesia

Lào

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Viet Nam

2010

23,4

-6,26

85,03

11,85

14,49

12,71

17,49

10,78

2011

17,37

28,4

27,75

12,11

13,76

3,12

7,40

16,76

2012

21,77

120,95

21,95

3,85

14,69

1,66

9,39

6,89

2013

20,81

19,58

41,74

2,72

18,85

0,08

8,82

6,98

2014

31,45

19,10

13,22

-0,08

8,02

0,16

12,43

4,93

2015

24,54

9,49

18,84

-1,23

10,33

2,48

3,50

5,74

2016

10,66

6,52

-4,99

4,16

10,20

-2,21

0,99

3,16

2017

17,42

9,68

2,37

3,13

6,26

13,26

0,84

0,49

2018

18,15

2,00

0,59

0,23

4,93

2,77

0,39

5,86

2019

21,62

-0,24

6,53

13,57

2,36

-8,01

-1,46

3,23

2020

15,09

-1,87

3,91

0,68

4,60

-8,37

-2,26

2,34

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ FAS, 2022

Các nước luôn có sự tăng trưởng cao về số lượng máy ATM bao gồm Indonesia và

Campuchia với bình quân mỗi năm lần lượt là 20,29% và 19,89%. Đặc biệt Singapore có tốc

độ tăng trưởng ATM thấp nhất trong khu vực chỉ 0.49% và có xu hướng biến động giảm trong

suốt 5 năm liên tục.

Riêng Việt Nam, trong năm năm gần nhất có số lượng ATM tăng trưởng khá ổn định qua

các năm, với tốc độ tăng bình quân trong quãng thời gian này là 5,64%, cao hơn mức tăng

trung bình chung của cả khối ASEAN.

103

Tóm lại, ở khía cạnh thứ hai về tính khả dụng, với đại diện chính là số lượng chi nhánh

ngân hàng trên 1.000 km2 và số lượng ATM trên 1.000 km2, các nước trong khối ASEAN có

sự khác biệt nhau khá rõ, cụ thể là có sự chênh lệch về số lượng; đồng thời, xu hướng tăng

trưởng ở một số quốc gia trái chiều với nhau.

Khía cạnh thứ ba: mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Chỉ tiêu này được sử dụng để

đánh giá mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng chính là tổng tiền gửi và cho vay so với GDP.

Số liệu thu thập cho thấy bình quân qua các năm của cả khối ASEAN có số tiền gửi và cho

vay chiếm 132,41% GDP. Mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng ở các quốc gia có sự khác nhau

khá lớn. Những quốc gia như Singapore, Malaysia, và Việt Nam có tỷ lệ bình quân qua các

năm khá cao, lần lượt đạt 289,88%; 214,21%; 196,43% so với GDP; trong đó Singapore có

tỷ lệ cao nhất đạt vào năm 2014, ở mức 288,89%. Việt Nam năm 2020 có tỷ lệ cao nhất đạt

259,95% và Malaysia có tỷ lệ cao nhất, đạt 224,46% vào năm 2019; vượt trội hơn hẳn so với

bình quân của cả khối.

Các quốc gia có tỷ lệ thấp hơn như Indonesia, Philippines, lần lượt bình quân mỗi năm đạt

71,16% và 72,33%. Mặc dù vậy, các quốc gia này có sự tăng trưởng tương đối ổn định (bảng

4.7).

Như vậy, những quốc gia có mức độ thâm nhập hay có dịch vụ ngân hàng tốt chưa hẳn là

quốc gia có mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng cao và ngược lại. Minh chứng là ở Việt

Nam, số lượng chi nhánh ngân hàng hay số máy ATM bình quân thấp, song tỷ lệ tiền gửi và

cho vay so với GDP lại là cao nhất trong các nước thuộc khu vực ASEAN, điều này cho thấy,

mức độ sử dụng dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam tương đối cao.

Bảng 4. 7. Tốc độ tăng trưởng tỷ lệ tiền gửi và cho vay trên GDP của các nước ASEAN

Năm Campuchia

Indonesia

Lào

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

2010

13,94

-1,72

20,05

- 4,91

-0,19

-4,34

-11,04

-2,89

2011

14,26

6,44

15,68

3,06

11,15

1,63

5,83

-12,37

2012

20,44

8,19

14,61

2,62

6,46

0,46

9,58

-1,62

2013

4,53

5,83

11,29

1,43

14,54

5,53

4,96

7,28

2014

21,44

1,12

7,25

-1,06

0,44

4,74

1,57

4,66

2015

11,78

-0,27

8,09

-0,69

-5,61

4,99

1,24

11,45

2016

13,59

1,09

6,94

-2,78

0,63

8,84

-2,34

9,08

2017

10,09

-0,67

2,68

-4,86

-3,66

4,75

-1,83

3,98

2018

13,02

-0,22

-2,35

1,72

-0,59

-3,75

0,14

1,70

2019

9,20

-0,37

6,48

-0,98

3,49

5,11

-0,28

4,55

2020

25,32

7,25

5,58

10,29

14,87

12,73

15,74

8,4

104

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ Quỹ Tiền tệ Thế giới, (2022)

Ngoài ra, như đã phân tích ở trên, luận án nhận thấy có sự tồn tại sự khác biệt giữa các

nước ASEAN. Tuy nhiên, để nhìn rõ hơn vấn đề này, luận án thực hiện thêm các thống kê

đơn giản (Bảng 4.8 và 4.9) các khía cạnh của chỉ số tài chính toàn diện từ giai đoạn 2010 -

2020 với các số liệu về giá trị thấp nhất, giá trị cao nhất, trung bình, độ lệch chuẩn và hệ số

biến thiên.

Bảng 4. 8. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện

Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng – Số chi nhánh ngân hàng

trên 100.000 người trưởng thành

Cao nhất 611,11 609,37 613,31 603,96 605,08 610,72

Thấp nhất 0,44 0,45 0.49 0,51 0,55 0,56

Trung bình 82,82 83,72 84,62 83,98 84,55 85,42

Độ lệch chuẩn 199,72 198,75 199.91 196,63 196,84 198,65

Hệ số biến thiên 2,41 2,37 2,36 2,34 2,33 2,33

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng – Số ATM trên 100.000

người trưởng thành

Thấp nhất 11,00 14,71 16,87 17,64 17,83 17,64

Cao nhất 2,54 2,55 2,70 2,73 2,88 2,90

Trung bình 7,16 8,11 8,42 8,65 8,90 8,92

Độ lệch chuẩn 3,23 4,07 4,57 4,66 4,59 4,51

Hệ số biến thiên 0,45 0,50 0,54 0,54 0,52 0,51

Khía cạnh 2: Tính khả dụng của cách dịch vụ ngân hàng – Số chi nhánh

ngân hàng trên 1.000 km2

Cao nhất 3676,64 3791.19 3854.11 3857.14 3863.19 3959.10

Thấp nhất 1,50 1.92 2.34 3.31 3.75 4.45

Trung bình 485,05 502.53 515.23 519.32 523.85 538.25

Độ lệch chuẩn 1206,57 1243.30 1262.30 1261.96 1262.64 1293.46

105

Hệ số biến thiên 2,49 2.47 2.45 2.43 2.41 2.40

Khía cạnh 2: Tính khả dụng của cách dịch vụ ngân hàng – Số ATM trên 1.000 km2

Cao nhất 81,89 87,31 102,35 114,21 117,37 94,79

Thấp nhất 5,25 6,03 7,18 8,48 10,92 13,34

Trung bình 31,43 34,11 38,29 41,25 44,19 45,97

Độ lệch chuẩn 26,74 27,66 28,03 28,83 31,33 31,40

Hệ số biến thiên 0,85 0,81 0,73 0,70 0,71 0,68

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng: Tỷ lệ tiền gửi so với GDP

Cao nhất 132,66 137,49 140,69 139,68 137,95 132,25

Thấp nhất 29,37 31,87 36,37 37,60 38,93 38,29

Trung bình 65,56 66,13 69,48 71,82 73,93 75,05

Độ lệch chuẩn 36,44 36,95 36,82 35,46 33,44 31,87

Hệ số biến thiên 0,56 0,56 0,53 0,49 0,45 0,42

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng: Tỷ lệ cho vay so với GDP

Cao nhất 101,03 119,66 133,07 149,21 152,20 141,64

Thấp nhất 15,94 18,98 20,01 21,56 23,83 26,00

Trung bình 54,47 58,80 62,98 68,12 70,63 72,72

Độ lệch chuẩn 34,11 35,79 37,59 41,04 40,89 37,75

Hệ số biến thiên 0,63 0,61 0,60 0,60 0,58 0,52

Bảng 4. 9. Số liệu thống kê về các khía cạnh của tài chính toàn diện

Năm 2016 2017 2018 2019 2020

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng – Số chi nhánh ngân hàng

trên 100.000 người trưởng thành

Cao nhất 602,26 571,23 567,00 551,48 493,65

Thấp nhất 0,59 0,62 0,65 0,68 0,69

Trung bình 84,54 80,61 80,29 78,46 71,38

Độ lệch chuẩn 195,78 185,55 184,07 178,91 159,74

Hệ số biến thiên 2,32 2,30 2,29 2,28 2,24

106

Khía cạnh 1: Tính thâm nhập của ngân hàng – Số ATM

trên 100.000 người trưởng thành

Cao nhất 17,26 16,75 16,14 15,64 15,22

Thấp nhất 3,00 3,09 3,17 3,21 3,21

Trung bình 8,95 8,76 8,77 8,68 8,72

Độ lệch chuẩn 4,29 4,15 3,89 3,71 3,71

Hệ số biến thiên 0,48 0,47 0,44 0,43 0,42

Khía cạnh 2: Tính khả dụng của cách dịch vụ ngân hàng – Số chi nhánh

ngân hàng trên 1.000 km2

Cao nhất 3871,65 4385,05 4506,35 4145,27 3798,31

Thấp nhất 4,74 5,20 5,31 5,65 5,88

Trung bình 528,63 594,06 610,42 566,47 523,54

Độ lệch chuẩn 1264,07 1433,33 1472,99 1353,14 1238,24

Hệ số biến thiên 2,39 2,41 2,41 2,39 2,37

Khía cạnh 2: Tính khả dụng của cách dịch vụ ngân hàng –

Số ATM trên 1.000 km2

117,62 117,79 117,50 115,09 111,85 Cao nhất

Thấp nhất 14,49 16,72 19,45 23,28 26,26

Trung bình 46,01 47,70 48,27 48,55 47,85

Độ lệch chuẩn 30,88 30,81 30,29 28,76 27,12

Hệ số biến thiên 0,67 0,65 0,63 0,59 0,57

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng: Tỷ lệ tiền gửi so với GDP

Cao nhất 135,45 127,95 123,46 133,44 160,34

Thấp nhất 39,00 38,92 37,94 37,89 43,18

Trung bình 77,73 77,80 78,72 82,15 94,95

Độ lệch chuẩn 31,89 30,00 30,10 32,26 37,89

Hệ số biến thiên 0,41 0,39 0,38 0,39 0,40

Khía cạnh 3: Mức độ sử dụng các dịch vụ ngân hàng: Tỷ lệ cho vay so với GDP

Cao nhất 140,16 137,56 132,10 135,18 142,47

Thấp nhất 28,59 31,66 32,86 33,99 35,51

Trung bình 74,86 75,34 76,17 78,32 86,38

107

Độ lệch chuẩn 36,67 35,14 34,33 35,33 39,74

Hệ số biến thiên 0,49 0,47 0,45 0,45 0,46

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ FAS, 2022

Nhìn chung, các khía cạnh cơ bản của tài chính toàn diện đã cho thấy mức độ tài chính

toàn diện khác nhau giữa các quốc gia, và mỗi quốc gia có sự thay đổi nhất định qua các năm,

tuy nhiên mức chênh lệch giữa các quốc gia là thấp. Nhưng để đánh giá một cách tổng quát

hơn về mức độ tài chính toàn diện của các quốc gia, ngoài việc phân tích các khía cạnh, luận

án tiếp tục phân tích dựa trên chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp. Việc triển khai thực hiện

các chính sách thúc đẩy tài chính toàn diện ở mỗi quốc gia đều có đặc thù riêng bởi bối cảnh

và điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau.

Bảng 4.10 cho thấy IFI bình quân các nước dao động từ 0,0825 – 0,9144, trong đó,

Philippines. Singapore, Malaysia và Việt Nam là nhóm quốc gia có IFI cao (>0,6) và tương

đối ổn định qua các năm; các nước Lào, Campuchia là các quốc gia có chỉ số tài chính toàn

diện tổng hợp thấp trong khu vực. Nhưng nhìn chung, chỉ số tài chính toàn diện của các quốc

gia có xu hướng cải thiện qua các năm. Có được điều đó là vì bắt đầu từ năm 2010, các nước

ASEAN đã chú trọng xây dựng các chiến lược để thúc đẩy tài chính toàn diện, đặc biệt coi tài

chính toàn diện là một trong ba trụ cột của tầm nhìn ASEAN 2025 về hội nhập tài chính và

thành lập nhóm công tác về tài chính bao trùm để thúc đẩy lĩnh vực này trong khu vực. Ngoài

ra, các nước ASEAN cũng đã thảo luận nhằm rút ra bài học kinh nghiệm từ các quốc gia về

thách thức cụ thể phải đối mặt và các biện pháp theo đuổi để tăng cường sự toàn diện tài

chính. Mỗi quốc gia đều có các biện pháp chiến lược riêng như:

- Chính phủ Việt Nam đã xây dựng các Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt

tại Việt Nam được triển khai từ 2006 và đến nay đã bước sang giai đoạn thứ 3 (2016 –

2020) thông qua Quyết định số 2545/2016/QĐ-TTg ngày 30/12/2016 của Thủ tướng

Chính phủ; Đề án xây dựng và phát triển hệ thống vi mô tại Việt Nam đến năm 2020;

Đề án Nâng cao khả năng tiếp cận dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế với mục tiêu đến

năm 2020, nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ ngân hàng cơ bản phù hợp với nhu

cầu, có chất lượng, có mức chi phí hợp lý đối với đại bộ phận dân cư ở độ tuổi trưởng

thành và doanh nghiệp, nhất là dân cư ở vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa…

-

108

Bảng 4. 10. Chỉ số IFI của các nước ASEAN trong giai đoạn 2010 - 2020

Năm Campuchia

Indonesia

Malaysia

Philippines

Singapore

Thái Lan

Việt Nam

Lào

2010

0,17

0,14

0,64

0,17

0,16

1,62

0,37

0,69

2011

0,19

0,16

0,66

0,18

0,16

1,71

0,39

0,61

2012

0,24

0,19

0,68

0,20

0,17

1,77

0,53

0,59

2013

0,26

0,22

0,69

0,21

0,19

1,82

0,46

0,63

2014

0,32

0,23

0,68

0,22

0,21

1,82

0,50

0,66

2015

0,36

0,25

0,68

0,22

0,22

1,79

0,48

0,31

2016

0,41

0,27

0,66

0,22

0,24

1,78

0,47

0,81`

2017

0,46

0,28

0,63

0,22

0,25

1,78

0,46

0,84

2018

0,52

0,27

0,64

0,22

0,25

1,76

0,46

0,86

2019

0,57

0,08

0,63

0,21

0,26

1,75

0,45

0,89

2020

0,73

0,08

0,70

0,23

0,31

1,78

0,52

0,98

Nguồn: Tác giả tự tính toán và tổng hợp từ FAS, 2022

- Hay ở Malaysia, chính phủ Malaysia đã đưa nhiệm vụ về tổ chức tín dụng trong Luật

Ngân hàng Trung ương 2009 và Chiến lược tổng thể phát triển khu vực tài chính năm

2011 và 2020 (Master Plan/Blueprint). Trên cơ sở văn bản pháp luật này, khuôn khổ tổ

chức tín dụng đã được xây dựng với một tầm nhìn rõ ràng và đặt ra các mục tiêu cụ thể.

Việc có được một cơ sở pháp luật và sự cam kết của Chính phủ là nhân tố quan trọng

quyết định sự thành công của chiến lược tổ chức tín dụng ở quốc gia này. Và cũng từ

chiến lược đó, Chính phủ Malaysia cũng triển khai mạnh mẽ các giải pháp như: thường

xuyên mở khóa tập huấn về các lợi ích được chia sẻ cho tất cả các bên liên quan.

Malaysia xác định 6 bước cần thiết để thiết kế chiến lược mạnh mẽ: Xác định cụ thể

tầm nhìn thể chế và kết quả mong muốn của Chiến lược quốc gia về tài chính toàn diện;

Xây dựng cơ sở hạ tầng và các hệ thống mạnh mẽ để thu thập dữ liệu cho Chiến lược

quốc gia về tài chính toàn diện; Phổ biến kiến thức tài chính chứng khoán và thực hiện

phân tích khoảng trống để xác định các khu vực can thiệp; Xây dựng chiến lược dự thảo

và thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với các bên liên quan để đánh giá phản hồi; Thực

hiện các chiến lược và truyền đạt những kỳ vọng cho các bên liên quan; Tiến hành giám

sát và đánh giá tác động đối với các mục tiêu đo lường. Với Indonesia, chính phủ tập

trung vào 5 trụ cột gồm giáo dục tài chính, quyền sở hữu công, cơ sở trung gian tài

chính và kênh phân phối, DVTC trong các lĩnh vực công và bảo vệ người tiêu dùng.

109

- Với Indonesia, chính phủ tập trung vào 5 trụ cột gồm giáo dục tài chính, quyền sở hữu

công, cơ sở trung gian tài chính và kênh phân phối, DVTC trong các lĩnh vực công và

bảo vệ người tiêu dùng.

- Singapore và Thái Lan đề ra định hướng chính là ứng dụng ngân hàng số. Còn đối với

Lào, do cơ sở hạ tầng chưa thật sự phát triển nên đã lựa chọn phương thức là thông qua

các quốc gia đã phát triển mạnh về tài chính toàn diện để phát triển mô hình này.

- Lào đã đề nghị các tổ chức như Tổ chức hợp tác quốc tế Đức hỗ trợ để triển khai dự án

tiếp cận tài chính cho người nghèo, hay như Ngân hàng Phát triển châu Á đã giúp Lào

phát triển chính sách và thể chế trong lĩnh vực ngân hàng và tổ chức tài chính vi mô.

Tóm lại, các nước ASEAN có mức tài chính toàn diện rất khác nhau, những nước có mức

độ tài chính toàn diện cao nhất gồm Singapore, Malaysia…những nước có chỉ số tài chính

toàn diện thấp là Campuchia và Lào. Nhưng nhìn chung các nước đều nỗ lực để phát triển tài

chính toàn diện do đó chỉ số tài chính toàn diện đều có sự cải thiện qua các năm.

4.1.3. Mức độ chất lượng thể chế ở các nước ASEAN

Chất lượng thể chế của các nước ASEAN được phản ánh qua 6 chỉ số trong bội chỉ số

quản trị công toàn cầu của Ngân hàng thế giới (World Bank) gồm: Tiếng nói và trách nhiệm

giải trình (Voice and Accountability); ổn định chính trị và an ninh xã hội (Political stability

and absence of violence/terrorism); hiệu quả chính phủ (Government Effectiveness); chất

lượng quy định (Regulatory quality); tuân thủ luật pháp (Rule of law); và kiểm soát tham

nhũng (Control of Corruption). Thang đo của các chiều nay là từ -2,5 đến 2,5. Giá trị càng

cao của thang đo này cho biết chất lượng thể chế cao hơn.

Hình 4.1 thể hiện chất lượng thể chế của các nước ASEAN trong năm 2020, trong đó

Singapore là nước có chất lượng thể chế cao nhất ở tất cả các khía cạnh, trong khi đó Lào và

Campuchia có chất lượng thể chế thấp nhất trong khu vực.

110

2.5

2.5

2

2

1.5

1.5

1

1

0.5

0.5

0

0

-0.5

-0.5

-1

-1

-1.5

Quy tắc luật pháp Kiểm soát tham nhũng

2.5

2

2

1.5

1.5

1

1

0.5

0.5

0

0

-0.5

-0.5

-1

-1

Hiệu quả chính phủ Ổn định chính trị

2.5

0.5

2

1.5

0

1

-0.5

0.5

0

-1

-0.5

-1.5

-1

-1.5

-2

Chất lượng quy định Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

Hình 4.1. Các chỉ số phản ánh chất lượng thể chế của các nước ASEAN năm 2020

Nguồn: Chỉ số quản trị công toàn cầu (WGI) (2022)

111

Về thứ tự bậc xếp hạng chất lượng thể chế của các nước ASEAN. Hình 4.2 thể hiện thứ

bậc xếp hạng về các tiêu chí phản ánh chất lượng thể chế của các nước thành viên ASEAN

vào năm 2020 dựa trên cơ sở dữ liệu của World Governance Indicators – WGI của Ngân hàng

Thế giới (World Bank); trong đó: giá trị 0 tương ứng mức xếp hạng chất lượng thấp nhất và

giá trị 100 tương ứng mức xếp hạng chất lượng cao chất. Có thể nhận thấy Singapore có chất

lượng thể chế tốt nhất trong khối này với hầu hết các chỉ số đều đạt mức gần tối đa, như: Chỉ

số về kiểm soát tham nhũng (99%), hiệu quả chính phủ (100%), chất lượng quy định (97%),

tính ổn định chính trị và không bạo lực (97%). Trong khi đó, Campuchia, Lào, và Việt Nam

thường xếp thứ hạng cuối trong hiệp hội này. Chẳng hạn, chỉ số kiểm soát tham nhũng của

Campuchia đạt 11%, chỉ số hiệu quả chính phủ của Việt Nam đạt 62%; Tiếng nói và trách

nhiệm giải trình của Lào chỉ đạt 3%.

120

120

100

100

Quy tắc luật pháp Kiểm soát tham nhũng

99

99

80

80

70

60

60

63

57

40

40

49

43

42

38

37

34

30

20

20

21

17

15

11

0

0

120

120

100

100

Hiệu quả chính phủ Ổn định chính trị

100

97

80

80

83

60

60

68

65

63

62

57

51

40

40

45

41

38

30

20

20

26

23

21

0

0

112

120

60

100

50

Chất lượng quy định Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

97

52

80

40

73

41

40

60

38

30

59

58

56

40

26

20

43

31

20

10

13

21

12

3

0

0

Hình 4.2. Xếp hạng thứ bậc chất lượng thể chế ở các nước ASEAN năm 2020

Nguồn: Chỉ số quản trị công toàn cầu (WGI) (2022)

Xét chung cho cả 8 nước ASEAN trong giai đoạn 2010 – 2020, rõ ràng các khía cạnh của

chất lượng thể chế đều thấp, trong đó nhóm chỉ số yếu kém nhất là tiếng nói và trách nhiệm

giải trình, kiểm soát tham nhũng và quy tắc luật pháp; chỉ số ở mức trung bình cao nhất lần

0.6

0.4

0.2

0

-0.2

-0.4

-0.6

-0.8

2020

2019

2018

2017

2016

2015

2014

2013

2012

2011

2010

Kiểm soát tham nhũng

Hiệu quả chính phủ

Chất lượng quy định

Ổn định chính trị

Tuân phủ pháp luật

Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

lượt là hiệu quả chính phủ và chất lượng quy định (hình 4.3).

Hình 4.3. Chất lượng thể chế của khu vực ASEAN giai đoạn 2010 - 2020

Nguồn: Chỉ số quản trị công toàn cầu (WGI) (2022)

Luận án nhận thấy có sự tồn tại sự khác biệt về chất lượng thể chế giữa các nước

ASEAN, sự khác biệt này khá lớn. Tuy nhiên để nhìn nhận rõ hơn, luận án thực hiện thêm

các thống kê đơn giản (Bảng 4.11 và bảng 4.12) các chỉ số phụ của chất lượng thể chế từ

giai đoạn 2010 - 2020 với các số liệu về giá trị thấp nhất, giá trị cao nhất, trung bình, độ lệch

113

chuẩn, và hệ số biến thiên.

Bảng 4. 11. Số liệu thống kê về các chỉ số phụ của chất lượng thể chế

Năm 2010 2011 2012 2013 2014 2015

Chỉ số 1: Kiểm soát tham nhũng

Cao nhất 2,18 2,11 2,12 2,08 2,07 2,09

Thấp nhất -1,24 -1,24 -1,07 -1,05 -1,14 -1,12

Trung bình -0,33 -0,32 -0,23 -0,17 -0,17 -0,19

Độ lệch chuẩn 1,03 1,00 0,97 0,94 0,94 0,94

Hệ số biến thiên -3,13 -3,10 -4,24 -5,47 -5,44 -4,91

Chỉ số 2: Hiệu quả chính phủ

Thấp nhất 2,24 2,15 2,17 2,09 2,18 2,24

Cao nhất -0,94 -0,86 -0,84 -0,91 -0,69 -0,70

Trung bình 0,16 0,16 0,15 0,17 0,33 0,28

Độ lệch chuẩn 0,99 0,94 0,93 0,91 0,86 0,88

Hệ số biến thiên 6,22 5,87 6,09 5,40 2,64 3,12

Chỉ số 3: Ổn định chính trị

Cao nhất 1,17 1,19 1,37 1,38 1,19 1,31

Thấp nhất -1,65 -1,39 -1,22 -1,31 -0,91 -0,99

Trung bình -0,41 -0,28 -0,18 -0,16 -0,01 -0,03

Độ lệch chuẩn 0,86 0,77 0,79 0,79 0,64 0,72

Hệ số biến thiên -2,11 -2,81 -4,37 -4,82 -60,09 -26,16

Chỉ số 4: Chất lượng quy định

Cao nhất 1,79 1,79 1,97 1,97 2,23 2,26

Thấp nhất -1,02 -0,98 -0,82 -0,84 -0,85 -0,81

Trung bình -0,03 -0,02 0,08 0,09 0,17 0,15

Độ lệch chuẩn 0,82 0,82 0,83 0,83 0,92 0,92

8,92 Hệ số biến thiên -31,64 -39,54 10,89 5,51 5,99

Chỉ số 5: Quy tắc luật pháp

1,73 1,71 Cao nhất 1,63 1,67 1,82 1,81

-0,98 -1,00 Thấp nhất -1,12 -1,04 -0,96 -0,98

114

Trung bình -0,25 -0,22 -0,18 -0,15 -0,06 -0,09

Độ lệch chuẩn 0,84 0,84 0,83 0,81 0,83 0,83

Hệ số biến thiên -3,41 -3,85 -4,65 -5,27 -13,14 -9,29

Chỉ số 6: Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

Cao nhất -0,04 -0,01 0,07 0,04 0,16 0,18

Thấp nhất -1,68 -1,68 -1,64 -1,65 -1,73 -1,75

Trung bình -0,67 -0,63 -0,58 -0,59 -0,65 -0,68

Độ lệch chuẩn 0,60 0,61 0,64 0,62 0,68 0,68

Hệ số biến thiên -0,88 -0,96 -1,10 -1,06 -1,03 -1,00

Bảng 4. 12. Số liệu thống kê về các chỉ số phụ của chất lượng thể chế

Năm 2016 2017 2018 2019 2020

Chỉ số 1: Kiểm soát tham nhũng

Cao nhất 2,09 2,14 2,17 2,16 2,15

Thấp nhất -1,27 -1,29 -1,31 -1,28 -1,23

Trung bình -0,22 -0,22 -0,18 -0,23 -0,19

Độ lệch chuẩn 0,95 0,97 1,00 1,00 0,98

Hệ số biến thiên -4,31 -4,47 -5,45 -4,34 -5,07

Chỉ số 2: Hiệu quả chính phủ

Cao nhất 2,21 2,22 2,23 2,22 2,34

Thấp nhất -0,69 -0,66 -0,67 -0,79 -0,77

Trung bình 0,29 0,30 0,33 0,31 0,39

Độ lệch chuẩn 0,84 0,84 0,88 0,89 0,89

Hệ số biến thiên 2,89 2,82 2,64 2,85 2,28

Chỉ số 3: Ổn định chính trị

Cao nhất 1,50 1,62 1,49 1,50 1,47

Thấp nhất -1,38 -1,19 -1,09 -0,92 -0,79

Trung bình -0,02 0,00 -0,02 0,03 0,01

Độ lệch chuẩn 0,84 0,80 0,76 0,69 0,70

Hệ số biến thiên -51,02 442,97 -47,15 27,13 153,06

Chỉ số 4: Chất lượng quy định

115

Cao nhất 2,18 2,12 2,13 2,16 2,21

Thấp nhất -0,72 -0,72 -0,77 -0,71 -0,80

Trung bình 0,16 0,16 0,14 0,17 0,21

Độ lệch chuẩn 0,87 0,85 0,86 0,85 0,88

Hệ số biến thiên 5,39 5,31 6,26 5,17 4,13

Chỉ số 5: Quy tắc luật pháp

Cao nhất 1,83 1,83 1,84 1,88 1,88

Thấp nhất -1,06 -1,05 -1,11 -0,94 -0,95

Trung bình -0,02 -0,03 -0,03 -0,02 -0,02

Độ lệch chuẩn 0,84 0,85 0,87 0,87 0,87

Hệ số biến thiên -40,54 -24,50 -27,37 -49,87 -43,55

Chỉ số 6: Tiếng nói và trách nhiệm giải trình

Cao nhất 0,17 0,13 0.15 0,13 0,10

Thấp nhất -1,76 -1,75 -1.75 -1,82 -1,80

Trung bình -0,69 -0,71 -0.69 -0,68 -0,71

Độ lệch chuẩn 0,68 0,67 0.71 0,70 0,68

Hệ số biến thiên -0,99 -0,94 -1.04 -1,03 -0,95

Nguồn: Tác giả tự tính toán từ nguồn dữ liệu WGI (2020)

Với bảng 4.11 và 4.12 cho thấy các nước ASEAN có chất lượng thể chế khá là khác biệt

nhau, hệ số biến thiên và độ lệch chuẩn giữa các nước khá cao, đặc biệt ở chỉ số ổn định

chính trị và quy tắc luật pháp. Tuy nhiên, theo thời gian thì chất lượng thể chế của các nước

có cải thiện.

4.2. TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ VÀ ỔN ĐỊNH NGÂN

HÀNG Ở CÁC NƯỚC ASEAN

4.2.1. Thống kê mô tả dữ liệu nghiên cứu

Đầu tiên, luận án phân tích thống kê mô tả, hệ số tương quan của các biến trong mô hình

nghiên cứu để đánh giá chung nhất về quan hệ giữa các biến.

116

Bảng 4. 13.Thống kê mô tả các biến

Giá trị nhỏ

Giá trị lớn

Biến

Số quan sát

Trung bình

Độ lệch chuẩn

nhất

nhất

Z-SCORE

1,727

0,7943

-2,9666

3,0506

0,5429

LZ-SCORE

1.571

0,8131

-2,9666

3,0506

0,5546

Z-SCORE_n

1,727

0,5916

0

1

0,1767

LZ-SCORE_n

1570

0,6973

0

1

0,1781

NPL

1.727

0,1308

0,0036

0,1967

1,6767

LNPL

1.569

0,1366

0,0036

0,1967

1,7514

IFI

1.727

0,2289

0,0825

0,9144

0,1834

INS

1.727

-0,1093

-1,7655

1,1336

0,6821

SIZE

1.727

6,7578

3,6636

8,6921

0,8091

LTA

1.727

0,6106

0,0684

0,9344

0,1331

LER

1.727

0,0860

0,0001

1,5022

0,1123

LLPL

1.727

0,0096

-0,0757

0,2867

0,0153

MQA

1.727

0,1324

0,0078

0,9919

0,0882

ETA

1.727

0,2031

0,0034

1,4712

0,1369

DIV

1.727

0,3524

-4,6927

3,6915

0,4481

INF

1.727

3,2254

-1,1387

18,6773

2,1759

GDP

1.727

4,7521

-9,5731

14,5256

3,1756

Nguồn: Kết quả từ phần mềm Stata 16.

Bảng 4.13 cho thấy các biến trong mô hình một cách tổng quát nhất, từ mẫu quan sát là

157 ngân hàng ở các nước trong khu vực ASEAN. Giá trị trung bình của Z-Score xấp xỉ

0,7943 với độ lệch chuẩn là 0,5429, ngụ ý rằng ROA trung bình sẽ phải giảm 0,5429 mới làm

vốn chủ sở hữu ngân hàng bằng 0. Giá trị nhỏ nhất của Z-Score là – 2,9666 và giá trị lớn nhất

là 3,0506 cho thấy sự khác biệt về mức độ ổn định giữa các ngân hàng ở nước ASEAN, nhưng

từ giá trị trung bình và độ lệch chuẩn cho thấy sự khác biệt này không quá lớn. Tương tự, giá

trị trung bình của NPL xấp xỉ 0,1308 với độ lệch chuẩn 1,6767, giá trị nhỏ nhất là 0,0036 và

giá trị lớn nhất là 0,1967; giá trị trung bình của Z-Score_n là 0,5917, độ lệch chuẩn 0,1767.

Đối với biến tài chính toàn diện, giá trị lớn nhất của IFI là 0,9114 và giá trị nhỏ nhất là

0,0825 cho thấy sự không đồng nhất về mức độ tài chính toàn diện của hệ thống tài chính ở

các quốc gia trong ASEAN. Tuy nhiên, giá trị trung bình của IFI là 0,2289, độ lệch chuẩn

0,1834 lại cho thấy sự không đồng nhất này không quá lớn.

117

Đối với biến chất lượng thể chế, giá trị lớn nhất của IFI là 1,1336 và giá trị nhỏ nhất là -

1,7655 cho thấy sự không đồng nhất về chất lượng thể chế ở các quốc gia trong ASEAN. Giá

trị trung bình của INS là -0,1093, độ lệch chuẩn 0,6821 cho thấy sự chênh lệch về chất lượng

thể chế ở các nước ASEAN tương đối lớn.

Các biến còn lại trong mô hình có độ chênh lệch cũng không quá cao.

4.2.2. Kiểm định tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng tại các nước ASEAN

Đầu tiên, luận án tiến hành kiểm định ma trận phương sai của các biến trong mô hình 3.1

với biến phụ thuộc chủ yếu là Z-Score, để xác định các biến trong mô hình có đa cộng tuyến

hay không?

Bảng 4.14. trình bày hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình. Các hệ số tương quan

giữa các biến được dùng để kiểm tra khả năng xuất hiện hiện tượng đa cộng tuyến giữa các

biến.

INS

IFI

SIZE

LER

LTA

Z- SCORE 1,000

L.Z- SCORE

0,5709*

1,000

Z-SCORE L.Z- SCORE INS IFI SIZE LER LTA LLPL MQA ETA DIV INF GDP

0,1944* -0,1968* 0,3321* -0,0516* 0,1237* 0,0163 -0,1460* -0,0586* 0,0698* -0,1649* 0,0468*

0,1909* -0,1931* 0,3437* -0,0557* 0,0987* 0,0062 -0,1797* -0,0563* 0,1033* -0,1977* -0,0928*

1,000 -0,1512* 0,5343* -0,0394 0,1807* 0,1699* -0,1888* -0,2607* 0,0144 -0,3490* -0,1984*

1,000 -0,0714* 0,0621* -0,0208 0,1037* 0,0895* -0,0283 -0,0480* 0,0192 -0,1122*

1,000 -0,2178* 0,1062* 0,0426* -0,5124* -0,2830* 0,0639* -0,2498* -0,2120*

1,000 0,1313* 0,1056* 0,2548* -0,0439* -0,0095 -0,0079 0,0036

1,000 0,2706* -0,0670* -0,4221* 0,0935* -0,1496* -0,0639*

LLPL MQA ETA DIV INF GDP

LLPL 1,000 0,0907* -0,1913* 0,0351 -0,0831* -0,2069*

MQA 1,000 0,2443* 0,0270 -0,0044 0,0178

ETA 1,000 -0,0298 0,0589* 0,0553*

DIV 1,000 -0,0616* 0,0270

INF 1,000 0,3198*

GDP 1,000

Bảng 4. 14. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ước lượng Z-score

* tương ứng với mức ý nghĩa thống kê 0,1

Nguồn: Kết quả từ phần mềm Stata 16.

118

Kết quả bảng 4.14 cho thấy các biến chính theo mô hình 3.1 có hệ số tương quan thấp hơn

0,59, tức mức độ tương quan là ở mức yếu và mức trung bình. Tương tự, các biến kiểm soát

cũng có độ tương quan khá thấp với biến ổn định ngân hàng. Đồng thời chúng cũng tương

quan với nhau ở mức trung bình. Điều này cho thấy phần lớn các biến trong mô hình có quan

hệ mật thiết với ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN. Bên cạnh đó, dấu của hệ số tương

quan cũng cho biết chiều hướng tác động giữa các biến. Trong mô hình nghiên cứu, các biến

độc lập chính như tài chính có diện có tương quan âm với ổn định, chất lượng thể chế có

tương âm dương với ổn định.

- Kiểm tra đa cộng tuyến

Tiếp theo, luận án sử dụng hệ số nhân tử phóng đại phương sai VIF (Variance Inflation

Factor – VIF) để kiểm tra hiện tượng đa cộng tuyến có xảy ra hay không giữa một biến độc

lập với tất cả các biến độc lập khác trong mô hình nghiên cứu (bảng 4.15). Theo Field (2013)

các biến trong mô hình không đa cộng tuyến khi giá trị VIF < 10 hay sai số cho phép (tolerance

- dung sai) > 0,10.

Bảng 4. 15. Nhân tử phóng đại của các biến trong mô hình

Dung sai = 1/VIF Biến VIF

SIZE 2,16 0,4623

INS 1,64 0,6084

MQA 1,51 0,6637

GDP 1,40 0,7139

LLPL 1,39 0,7174

ETA 1,38 0,7244

LTA 1,35 0,7429

L.ZSOCRE 1,20 0,8308

INF 1,20 0,8311

LER 1,13 0,8830

IFI 1,10 0,9096

DIV 1,06 0,9432

1,38 Mean VIF

Nguồn: Tính toán của tác giả

119

Kết quả từ bảng 4.15 cho thấy hệ số VIF của mô hình 1,38 chứng tỏ các biến độc lập trong

mô hình nghiên cứu không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Sau khi kiểm tra đa cộng tuyến, luận án thực hiện hồi quy mô hình 3.1 bằng phương pháp

SGMM để đánh giá tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế lên ổn định ngân

hàng, với với biến chỉ số tài chính toàn diện tổng hợp IFI và chỉ số chất lượng thể chế tổng

hợp INS và ba biến đại diện cho sự ổn định ngân hàng là Z-Score, Z-Score_n và NPL. Kết

quả được trình bày ở bảng 4.16.

Bảng 4.16 cho thấy biến IFI và INS đều có tác động đến cả ba biến phụ thuộc Z-Score, Z-

Score_n và NPL. Trong đó IFI có tác động nghịch chiều đến Z-Score, Z-Score hiệu chỉnh và

thuận chiều đối với NPL ở mức độ tin cậy 99% với hệ số hồi quy lần lượt -1,288; -0,330;

0,206. Điều này có nghĩa, thực hiện tài chính toàn diện sẽ tác động làm tăng nợ xấu của ngân

hàng, từ đó làm giảm mức độ ổn định của ngân hàng. Trong khi đó, INS có tác động thuận

chiều đến Z-Score, Z-Score hiệu chỉnh và NPL với hệ số hồi quy lần lượt là 0,617; 0,307; và

-0,166, có nghĩa INS tác động làm giảm nợ xấu, gia tăng mức độ ổn định ngân hàng.

Bảng 4. 16. Tác động của tài chính toàn diện và chất lượng thể chế đến ổn định ngân

hàng

Z-Score

Z-Score_n

NPL

LZ-Score

0,357***

(0,000)

LZ-Score_n

0,326***

(0,000)

LNPL

1,497***

(0,000)

INS

0,617***

0,307***

-0,166***

(0,000)

(0,000)

(0,000)

IFI

-1,288***

-0,330***

0,206***

(0,000)

(0.000)

(0,000)

LTA

1,590***

0,523***

-0,150***

(0,000)

(0,000)

(0,002)

SIZE

0,334***

0,052**

0,024*

(0,003)

(0,010)

(0,096)

LER

0,489***

0,651**

0,198***

(0,000)

(0,010)

(0,000)

LLPL

0,001

-0,007***

0,020***

(0,920)

(0,000)

(0,000)

-0,085*

MQA

0,534***

0,290***

(0,099)

(0,000)

(0,000)

-0,033

ETA

1,664***

0,647***

(0.000)

(0,000)

(0,158)

0.028

DIV

-0,038***

-0,011**

(0.200)

(0,000)

(0,037)

INF

0.051***

0,016***

-0,015***

(0.000)

(0,000)

(0,000)

GDP

-0.084***

-0,023***

-0,013***

(0.000)

(0,000)

(0,000)

_cons

-3.059***

-0,557***

0,203***

(0.000)

(0,000)

(0,004)

Số lượng nhóm

157

157

157

66

57

77

Số lượng các biến công cụ

AR (2)

0,113

0,276

0,318

Sargan

0,491

0,347

1,000

Hansen

0,577

0,895

0,432

120

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

Ngoài ra, các kiểm định Hansen và AR2 có hệ số p-value đều lớn hơn 0,05, thể hiện các

biến công cụ trong mô hình thỏa tính over-identifying và phần dư của mô hình không tồn tại

hiện tượng tự tương quan bậc 2, thỏa điều kiện đặt ra, nên các kết quả tìm thấy được trong mô

hình là vững và hoàn toàn có thể dùng để phân tích.

121

Tóm lại, thông qua kết quả kiểm định, luận án đã trả lời câu hỏi nghiên cứu thứ nhất, và

thứ hai và hai giả thuyết đầu tiên như sau:

Giả thuyết nghiên cứu Kết quả kiểm định và phân tích tại các nước ASEAN Câu hỏi nghiên cứu

(1) Tài chính toàn

diện tác động đến Giả thuyết 1: Tài chính toàn Tài chính toàn diện làm giảm ổn định ngân hàng diện gia tăng mức độ ổn định mức độ ổn định ngân hàng tại ở các nước ngân hàng tại các nước ASEAN. các nước ASEAN. ASEAN như thế

nào

(2) Chất lượng thể Giả thuyết 2: Chất lượng thể chế chế tác động như Chất lượng thể chế tác động có tác động làm cho mức độ ổn thế nào đến ổn định làm tăng ổn định ngân hàng ở định của các ngân hàng ASEAN ngân hàng ở các các nước ASEAN tăng lên. nước ASEAN

4.2.3. Kiểm định ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng

Tương tự các bước kiểm định tác động của tài chính toàn diện, chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng, ở nội dung này, luận án lần lượt trình bày ma trận hệ số tương quan, và

kiểm tra đa cộng tuyến của các biến trong mô hình.

Bảng 4.17 cho thấy các biến chính theo mô hình (3.2) có hệ số tương quan thấp hơn 0,59,

tức mức độ tương quan là ở mức yếu và mức trung bình. Tương tự, các biến kiểm soát cũng

có độ tương quan khá thấp với biến ổn định ngân hàng. Đồng thời chúng cũng tương quan với

nhau ở mức trung bình. Điều này cho thấy phần lớn các biến trong mô hình có quan hệ mật

thiết với ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN. Bên cạnh đó, dấu của hệ số tương quan cũng

cho biết chiều hướng tác động giữa các biến. Trong mô hình nghiên cứu, biến độc lập chính

cần xem xét là tương tác giữa tài chính toàn diện và ổn định ngân hàng có tương quan dương

với ổn định ngân hàng.

122

INS

IFI

INSIFI

SIZE

LER

Z- SCORE 1,000

L.Z- SCORE

0,5709*

1,000

Z-SCORE L.Z- SCORE INS IFI INSIFI SIZE LER LTA LLPL MQA ETA DIV INF GDP

0,1944* -0,1968* 0,1213** 0,3321* -0,0516* 0,1237* 0,0163 -0,1460* -0,0586* 0,0698* -0,1649* 0,0468*

0,1909* -0,1931* 0,1146* 0,3437* -0,0557* 0,0987* 0,0062 -0,1797* -0,0563* 0,1033* -0,1977* -0,0928*

1,000 -0,1512* 0,7784* 0,5343* -0,0394 0,1807* 0,1699* -0,1888* -0,2607* 0,0144 -0,3490* -0,1984*

1,000 -0,1701* -0,0714* 0,0621* -0,0208 0,1037* 0,0895* -0,0283 -0,0480* 0,0192 -0,1122*

1,000 0,3626* -0,0758* -0,0197 -0,4024* -0,1579* -0,0677* -0,0128 -0,1810* 0,0130

1,000 -0,2178* 0,1062* 0,0426* -0,5124* -0,2830* 0,0639* -0,2498* -0,2120*

1,000 0,1313** 0,1056* 0,2548* -0,0439* -0,0095 -0,0079 0,0036

LTA LLPL MQA ETA DIV INF GDP

LTA 1,000 0,2706* -0,0670* -0,4221* 0,0935* -0,1496* -0,0639*

LLPL 1,000 0,0907* -0,1913* 0,0351 -0,0831* -0,2069*

MQA 1,000 0,2443* 0,0270 -0,0044 0,0178

ETA 1,000 -0,0298 0,0589* 0,0553*

DIV 1,000 -0,0616* 0,0270

INF 1,000 0,3198*

GDP 1.000

Bảng 4. 17. Ma trận hệ số tương quan giữa các biến trong mô hình ước lượng Z-score

Chú ý: * đại diện cho ý nghĩa thống kê 0.1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm Stata 16.

Kiểm tra đa cộng tuyến

Kết quả từ bảng 4.18 cho thấy hệ số VIF cao nhất là 3,50 chứng tỏ các biến độc lập trong

mô hình nghiên cứu không có hiện tượng đa cộng tuyến.

Bảng 4. 18. Nhân tử phóng đại của các biến trong mô hình

Dung sai = 1/VIF Biến VIF

INFINS 14,04 0,0673

LLPL 14,00 0,0720

SIZE 2,13 0,1768

INS 1,73 0,4460

MQA 1,51 0,6602

ETA 1,41 0,7075

123

LTA 1,35 0,7415

IFI 1,23 0,8135

L.Z-SCORE 1,21 0,8258

INF 1,20 0,8365

LER 1,13 0,8838

DIV 1,06 0,9455

Mean VIF 3,50

Nguồn: Tính toán của tác giả

Tiếp theo luận án tiến hành hồi quy mô hình 3.2 với biến độc lập chính là tương tác giữa

tài chính toàn diện và ổn định ngân hàng, và ba biến phụ thuộc lần lượt là Z-Score, Z-Score_n

và NPL, kết quả thể hiện ở bảng 4.19. Bảng 4.19 cho thấy, tương tác giữa IFI và INS có ý

0,567; 0,089 và - 0,057. Điều này có nghĩa rằng IFI*INS tác động thuận chiều đến Z-Score, Z-

nghĩa thống kê với cả 3 biến phụ thuộc ở mức độ tin cậy 99% với hệ số hồi quy lần lượt là

Score_n và ngược chiều đến NPL.

Bảng 4. 19. Ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng

Z-Score_n

NPL

Z-Score

LZ-Score

0,309***

(0,000)

LZ-Score_n

0,202***

(0,000)

LNPL

0,473***

(0,000)

IFI

0,084**

-1,052***

- 0,187***

(0,000)

(0,001)

(0,011)

INS

0,401*

0,107**

-0,064*

(0,065)

(0,035)

(0,066)

IFI*INS

0,567***

0,089*

- 0,057**

(0,004)

(0,074)

(0,016)

- 0,046

LTA

2,836***

0,397***

(0,000)

(0,001)

(0,119)

0,300**

SIZE

0,161***

-0,005**

(0,032)

(0,000)

(0,038)

LER

-0,537***

-0,091**

0,050*

(0,000)

(0,011)

(0,058)

LLPL

-1,050

0,207

0,061***

(0,248)

(0,314)

(0,003)

MQA

-0,181

0,513**

-0,030

(0,813)

(0,024)

(0,119)

ETA

3,106***

0,457***

- 0,045***

(0,000)

(0,000)

(0,000)

DIV

- 0,166***

- 0,071***

0,542***

(0,004)

(0,000)

(0,000)

INF

-0,055

- 0,015

0,048**

(0,119)

(0,109)

(0,038)

GDP

0,061***

0,013***

- 0,010***

(0,000)

(0,000)

(0,000)

_cons

-3,591***

-1,005***

-0,290***

(0,000)

(0,000)

(0,006)

Số lượng nhóm

157

157

157

Số biến công cụ

39

37

94

AR (2)

0,213

0,100

0,318

Sargan

0,523

0,332

1,000

Hansen

0,612

0,409

1,000

124

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

Các kiểm định Hansen ở hai mô hình có hệ số p-value và kiểm định tự tương quan bậc hai

(AR2) cho kết quả p-value đều lớn hơn 0,05. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng bằng

SGMM đều thỏa điều kiện nên các kết quả tìm thấy được trong mô hình này cũng có tính

vững và hoàn toàn có thể phân tích được.

Tóm lại, thông qua kết quả kiểm định, luận án trả lời câu hỏi nghiên cứu và giả thuyết

nghiên cứu thứ ba như sau:

125

Giả thuyết nghiên cứu

(3) Chất lượng thể

Kết quả kiểm định và phân tích tại các nước ASEAN Câu hỏi nghiên cứu

chế có ảnh hưởng Giả thuyết 3: Chất lượng thể chế Chất lượng thể chế có ảnh như thế nào đến tác cải thiện tác động của tài chính hưởng quan trọng, cải thiện tác động của tài chính toàn diện đến ổn định hệ thống động của tài chính toàn diện lên toàn diện lên ổn ngân hàng tại các nước ASEAN. ổn định ngân hàng định ngân hàng ở

các nước ASEAN?

Để kiểm tra tính vững của kết quả, luận án sử dụng thêm một phương pháp khác. Bằng

cách thay giá trị liên tục của biến chất lượng thể chế trong biến tương tác giữa tài chính toàn

diện và chất lượng thể chế bằng biến dummy vào mô hình 3.2. Lúc này, các quốc gia có chất

lượng thể chế tốt (lớn hơn mức trung bình) thì chất lượng thể chế nhận giá trị 1, ngược lại

nhận giá trị 0. Kết quả được trình bày ở bảng 4.20.

Bảng 4. 20. Kiểm định tính vững chắc của kết quả nghiên cứu

Z-Score_n

NPL

Z-Score

LZ-Score

0,366***

(0,000)

LZ-Score_n

0,381***

(0,000)

LNPL

0,712***

(0,000)

IFI

- 4,286**

- 2,058***

0,459***

(0,000)

(0,018)

(0,001)

INS

-0,036*

0,471***

0,258***

(0,054)

(0,000)

(0,009)

IFI*INS

4,271**

2,076***

- 0,568***

(0,015)

(0,001)

(0,002)

LTA

2,156***

0,593***

- 0,142***

(0,000)

(0,000)

(0,000)

SIZE

0,293***

0,033

0.049***

(0,000)

(0,313)

(0,000)

LER

0,386***

0,001

0,070***

(0,006)

(0,982)

(0,000)

LLPL

- 0,001

-0,009*

0,011***

(0,978)

(0,087)

(0,000)

MQA

0,432***

0,227***

0,010

(0,009)

(0,000)

(0,521)

ETA

3,154***

0,655***

- 0,125***

(0,000)

(0,058)

(0,000)

DIV

- 0,098***

- 0,033**

0,001

(0,005)

(0,027)

(0,653)

INF

- 0,045***

- 0,009*

- 0,005 ***

(0,002)

(0,074)

(0,000)

GDP

0,009

- 0,006

-0,012***

(0,717)

(0,509)

(0,000)

_cons

-3,289***

-0,247***

-0,116*

(0,000)

(0,273)

(0,057)

157

Số lượng nhóm

157

157

30

Số biến công cụ

67

82

0,074

AR (2)

0.131

0,319

0,145

Sargan

0,449

1,000

0,298

Hansen

0,328

0,530

126

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

Các kiểm định Hansen ở hai mô hình có hệ số p-value và kiểm định tự tương quan bậc hai

(AR2) cho kết quả p-value đều lớn hơn 0,05. Như vậy, các kiểm định đối với ước lượng bằng

SGMM đều thỏa điều kiện nên các kết quả tìm thấy được trong mô hình này cũng có tính

vững và hoàn toàn có thể phân tích được.

Bảng 4.16, 4.19 và 4.20, dấu của các biến chính: tài chính toàn diện, chất lượng thể chế

và tương tác giữa chất lượng thể chế và tài chính thay đổi vẫn không thay đổi khi luận án sử

dụng các phương pháp khác nhau và có ý nghĩa thống kê với 3 biến phụ thuộc. Điều này có

thể khẳng định, kết quả của luận án đưa ra đáng tin cậy, và có thể sử dụng làm cơ sở đưa ra

các giải pháp ở chương 5.

127

Ngoài ra, để đánh giá chính xác về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài

chính toàn diện lên ổn định ngân hàng, luận án tiếp tục xem xét ảnh hưởng của chất lượng thể

chế trên các khía cạnh riêng lẻ, gồm: kiểm soát tham nhũng (CC), ổn định chính trị (PS), quy

tắc luật pháp (RL), chất lượng quy định (RQ), hiệu quả chính phủ (GE) và tiếng nói và trách

nhiệm giải trình (VA). Bằng cách, lần lượt thay biến chất lượng thể chế tổng hợp bằng từng

biến trên vào mô hình 3.2, luận án nhận thấy ngoại trừ khía cạnh tiếng nói và trách nhiệm giải

trình, các khía cạnh còn lại đều có ảnh hưởng đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định

ngân hàng, nhưng kết quả không thống nhất (bảng 4.21). Đây cũng là cơ sở để luận án đưa ra

các hàm ý chính sách trong chương 5.

Bảng 4. 21.Tương tác giữa các khía cạnh của chất lượng thể chế và tài chính toàn diện

Biến

Z-Socre

Z-Score_n

NPL

CCIFI

0,688***

0,388***

-0,217*

PSIFI

2,232*

1,028***

-0,834***

RLIFI

2,122**

0,598**

-0,182***

RQIFI

- 5,313***

-5,393**

1,078**

GEIFI

0,646**

0,138**

-0,087***

VAIFI

1,311

-1,592

-0,089

***, **, và * tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01; 0,05 và 0,1

Nguồn: Kết quả trích xuất từ phần mềm STATA 16.

4.2.4. Thảo luận kết quả nghiên cứu

Như phân tích trong phần 4.1.1 mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng ở các quốc gia

ASEAN có sự khác biệt nhau, và có sự biến động qua các năm ở mỗi quốc gia. Tuy nhiên, xu

hướng chung, nhất là những năm gần đây, hệ thống ngân hàng các nước có sự cải thiện về ổn

định, với chỉ số Z-Score được nâng lên, tỷ lệ nợ xấu được giảm xuống (ngoại trừ năm 2020).

Sự bùng phát của đại dịch COVID-19 trên thế giới từ năm 2020 đã khiến số ca bệnh tăng

nhanh tại nhiều quốc gia, buộc chính phủ nhiều nước phải áp dụng các lệnh phong tỏa kéo dài

nhằm ngăn ngừa sự phát triển của virus trong cộng đồng. Động thái này và các biện pháp giãn

cách đã tác động nặng nề đến nền kinh tế nhiều quốc gia trên thế giới nói chung và các nền

kinh tế tại Đông Nam Á nói riêng. Tăng trưởng GDP trong năm 2020 tại 10 quốc gia thành

128

viên tại ASEAN chỉ có Việt Nam (+2,9%), Myanmar (+1,7%), Brunei (+1,2%) và

Lào )% 0,4 +( là tăng trưởng dương, các quốc gia còn lại đều tăng trưởng âm (World Bank,

2021). Ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 khiến ngành Ngân hàng ở các nước trong khu vực

gặp nhiều khó khăn, lợi nhuận sụt giảm, nợ xấu gia tăng. Theo Nikkei Asia (2021) lợi nhuận

ròng của 16 ngân hàng thương mại (NHTM) lớn tại Indonesia, Malaysia, Philippines,

Singapore và Thái Lan trong năm 2020 chỉ đạt 19,4 tỉ USD, giảm 34% so với năm 2019 và là

mức lợi nhuận thấp nhất trong một thập kỷ qua (2011-2020). Tổng lượng nợ xấu tại các ngân

hàng này đã tăng lên 39,6 tỉ USD, tăng 17% so năm 2019, trong đó các ngân hàng Philippines

có tốc độ gia tăng nợ xấu nhanh nhất do hàng ngàn doanh nghiệp, công ty đóng cửa do lệnh

phong tỏa kéo dài. Philippines vẫn là quốc gia được đánh giá có khả năng phục hồi kinh tế

thấp nhất khi có tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2020 là -9,6%. Tại Thái Lan, khi ngành du

lịch và xuất khẩu bị trì trệ, không phát triển, các doanh nghiệp không có khả năng trả nợ dẫn

tới tỷ lệ nợ xấu của các ngân hàng tăng cao, riêng bốn ngân hàng lớn nhất của Thái Lan có tỷ

lệ nợ xấu từ 3,68% đến 3,93% tính đến cuối năm 2020.

Tình trạng tương tự tại Indonesia khi tăng tưởng kinh tế năm 2020 là -2,1%. Tỷ lệ nợ xấu

của bốn ngân hàng lớn tăng 33% so với năm 2019. Riêng tại Singapore, tình hình nợ xấu của

các ngân hàng lớn có phần khả quan hơn khi phần lớn đối tượng cho vay là các tập đoàn lớn,

khả năng trả nợ và trang trải các khoản chi phí tốt hơn so các doanh nghiệp nhỏ, do đó tỷ lệ

nợ xấu chỉ tăng nhẹ so với năm 2019, duy trì ở mức 1,5-1,6%. Trường hợp của Malaysia, tuy

tỷ lệ tăng trưởng kinh tế năm 2020 giảm 5,6% nhưng tỷ lệ nợ xấu của ba ngân hàng lớn nhất

Malaysia chỉ giảm 1,5% so năm 2019 (Nikkei Asia, 2021).

Rõ ràng, dịch Covid ảnh hưởng lớn đến sự ổn định của ngân hàng, do đó việc đánh giá

các nhân tố ảnh hưởng đến ổn định trở nên cấp thiết hơn, đặc biệt trong thời gian thực hiện

chiến lược tài chính toàn diện.

Với mục đích đánh giá vai trò của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện

lên ổn định ngân hàng, luận án đã thực hiện hồi quy hai mô hình 3.1, 3.2 và tiến hành kiểm

định các kết quả đưa ra. Kết quả chính của luận án được trình bày tổng quát ở bảng 4.22. Bảng

4.22 cho thấy:

129

Bảng 4. 22.Tổng hợp kết quả chính của nghiên cứu

Ổn định hệ thống ngân hàng Biến

-1,052***

- 0,187***

0,084**

Z-Score Z-Score_n NPL

0,401*

0,107**

-0,064*

IFI

0,567***

0,089*

- 0,057**

INS

IFI*INS

*** tương ứng với mức ý nghĩa thống kê lần lượt là 0,01

Thứ nhất, tài chính toàn diện với biến đại diện là chỉ số IFI tổng hợp, tồn tại mối mối quan

hệ nghịch chiều với sự ổn định ngân hàng, biến đại diện là Z-Score và Z-Score_n với độ tin

cậy cao 99%. Hệ số hồi quy của biến IFI lần lượt là -1,052 và -0,187 cho thấy khi các yếu tố

khác không đổi, IFI của quốc gia tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score và Z-Score_n giảm

(tăng) 1,052 và 0,187 đơn vị. Với biến phụ thuộc là NPL, IFI có tác động thuận chiều, tức là

càng gia tăng mức độ tài chính toàn diện thì nợ xấu của ngân hàng càng tăng; với hệ số hồi

quy là 0,084 cho biết IFI tăng/giảm 0,01 đơn vị thì tỷ lệ nợ xấu sẽ tăng/giảm 0,084 đơn vị.

Kết quả nghiên cứu không đúng với kỳ vọng luận án và lý thuyết danh mục đầu tư hiện

đại. Theo lý thuyết danh mục đầu tư hiện đại, khi thực hiện tài chính toàn diện có thể giúp

ngân hàng tiếp cận các nguồn bán lẻ từ đó đa dạng hóa danh mục tiền gửi và cho vay, từ đó

tăng tính ổn định cho ngân hàng. Tuy nhiên, nếu mở rộng quá mức mà không có biện pháp

kiểm soát tốt thì gây hại đến ổn định ngân hàng. Do đó, kết quả của luận án mặc dù không

đúng như kỳ vọng, nhưng điều này vẫn có thể giải thích như sau: Việc tăng cường khả năng

tiếp cận tài chính cho người dân, đặc biệt là người nghèo, dẫn đến ngân hàng thường xuyên

phải nới lỏng các tiêu chuẩn trong cho vay, trong khi hoạt động tín dụng cần được thắt chặt

các quy định, do đó các khoản nợ xấu tăng lên cùng với sự gia tăng tín dụng, điều này làm

giảm mức độ ổn định của ngân hàng. Kết quả nghiên cứu của Amatus & Alireza (2015), Kouki

& ctg. (2020) và Sahay & ctg. (2015) cũng đồng quan điểm trên. Hơn nữa, biến tài chính toàn

diện trong luận án được xác định dựa trên 3 khía cạnh, trong đó có khía cạnh tỷ lệ dự nợ và

tỷ lệ tiền gửi, 2 khía cạnh này được tìm thấy có ảnh hưởng xấu đến ổn định ngân hàng lần

lượt trong các nghiên cứu của Feghali & ctg. (2021) và Amatus & Alireza (2015).

Thứ hai, chất lượng thể chế với biến đại diện là chỉ số INS tổng hợp, tồn tại mối mối quan

hệ thuận chiều với sự ổn định ngân hàng, biến đại diện là Z-Score và Z-Score_n với độ tin

cậy cao 99%. Hệ số hồi quy của biến INS lần lượt là 0,401 và 0,107 cho thấy khi các yếu tố

khác không đổi, INS tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score và Z-Score_n tăng (giảm) 0,401 và

0,107 đơn vị. Với biến phụ thuộc là NPL, INS có tác động ngược chiều, tức là chất lượng thể

130

chế càng cao thì nợ xấu của ngân hàng càng giảm; với hệ số hồi quy là -0,064 cho biết INS

tăng/giảm 0,01 đơn vị thì tỷ lệ nợ xấu sẽ giảm/tăng 0,064. Điều đó có nghĩa, chất lượng thể

chế sẽ cải thiện vấn đề nợ xấu ở các ngân hàng và từ đó làm tăng mức ổn định cho ngân hàng.

Kết quả này đúng với kỳ vọng của luận án và phù hợp với lý thuyết trò chơi, lý thuyết bất cân

xứng thông tin và lý thuyết các bên liên quan. Chất lượng thể chế tốt hơn sẽ làm giảm rủi ro

tín dụng ngân hàng một cách nhất quán nhờ giảm sự bất đối xứng thông tin, điều này trực tiếp

cải thiện chất lượng tín dụng. Như vậy, nâng cao chất lượng thể chế là một trong những tác

nhân quan trọng nâng cao mức độ ổn định tại các quốc gia này. Kết quả này cũng phù hợp

với kết quả của Naceur & Goaied (2001), các tác giả này đã phát hiện ra rằng hiệu quả hoạt

động và ổn định của các NHTM bị ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố về thể chế, quy định,

kinh tế vĩ mô và luật pháp. Họ lập luận rằng việc ngân hàng tăng tỷ lệ tổng tiền gửi trên tổng

tài sản có nghĩa là tăng nguồn vốn sẵn có để ngân hàng sử dụng vào những mục đích khác

nhau như đầu tư và cho vay để sinh lợi, nâng cao hiệu quả và ổn định của ngân hàng. Tương

tự, nghiên cứu Uddin & ctg. (2020) cũng chứng minh rằng việc tăng cường hiệu lực của chính

phủ, kiểm soát tham nhũng và cải thiện lòng tin của các đại lý cũng như quy tắc luật pháp sẽ

giảm rủi ro ngân hàng và cải thiện sự ổn định của ngân hàng.

Thứ ba, đối với biến tương tác giữa tài chính toàn diện và chất lượng thể (thể hiện ảnh

hưởng của chất lượng thể chế đến tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng),

tồn tại mối mối quan hệ thuận chiều với sự ổn định ngân hàng (biến đại diện là Z-Score và Z-

Score_n) với độ tin cậy cao 99%, và ngược chiều với ổn định ngân hàng (biến đại diện NPL).

Bảng 4.22 cho thấy hệ số hồi quy của biến tương tác IFI*INS với Z-Score và Z-Score_n lần

lượt là 0,567 và 0,089, có nghĩa khi các yếu tố khác không đổi, IFI*INS tăng (giảm) 0,01 đơn

vị thì Z-Score và Z-Score_n tăng (giảm) 0,567 và 0,089 đơn vị. Ngược lại, hệ số hồi quy của

biến tương tác IFI*INS với NPL là -0,057, có nghĩa khi các yếu tố khác không đổi, IFI*INS

tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì NPL giảm (tăng) 0,057 đơn vị. Kết quả này cho thấy chất lượng

thể chế có thể cải thiện tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Điều này

khẳng định ý tưởng rằng một chính sách thực hiện tài chính toàn diện thành công phải được

thực hiện trong một môi trường thể chế tốt, lành mạnh, được đặc trưng bởi những yếu tố: mức

độ ổn định chính trị cao, kiểm soát tham nhũng tốt, có tiếng nói trách nhiệm và quyền công

dân, các quy tắc luật pháp được thực thi chặt chẽ. Rõ ràng, khi chất lượng thể chế tăng lên,

các chính sách và quy định của chính phủ liên quan đến việc thực hiện hợp đồng, các ràng

buộc trong các giao dịch trở nên chặt chẽ hơn, hướng đến việc các chủ thể phải thực hiện đúng

131

các quy định đã đưa ra. Chẳng hạn, trong cho vay phải thẩm định kỹ khách hàng để đảm bảo

khả năng thu hồi vốn sau này. Vì vậy, tương tác của chất lượng thể chế và tài chính toàn diện

có tác động làm tăng ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN. Do đó, tác động của tài chính

toàn diện lên ổn định ngân hàng sẽ được cải thiện nếu thể chế của các quốc gia được thiết lập

tốt. Kết quả này hỗ trợ cho nghiên cứu của Ahamed & Mallick (2019) và Saha & Dutta (2022)

người đã phát hiện ra rằng chất lượng thể chế có ảnh hưởng lớn đến tác động của tài chính

toàn diện lên ổn định ngân hàng.

Xét riêng từng khía cạnh của chất lượng thể chế, bảng 4.21 cho thấy các khía cạnh: kiểm

soát tham nhũng, ổn định chính trị, quy tắc luật pháp và hiệu quả chính trị có ảnh hưởng thuận

chiều đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Điều này thể hiện qua dấu

của các biến tương tác CCIFI, PSIFI, RLIFI, và GEIFI lần lượt mang dấu dương đối với Z-

Score, Z-Score_n và mang dấu âm với NPL. Trong đó:

- Đầu tiên là kiểm soát tham nhũng. Ở cấp độ kinh tế vi mô, tham nhũng đi kèm với chất

lượng thể chế thấp, các thể chế kém hiệu quả xét về hiệu suất và tính ổn định, và chi

phí kinh doanh cao hơn (Asiedu, 2003; Diaby & Sylwester, 2015; Méndez & Sepúlveda,

2006). Do đó, mức độ tham nhũng có khả năng làm suy giảm lợi nhuận và sự ổn định

của ngân hàng. Mongid (2007) chỉ ra rằng các cuộc khủng hoảng ngân hàng có liên

quan đến mức độ tham nhũng cao hơn và thực thi pháp luật yếu kém. Ngoài ra, tình

trạng tham nhũng dẫn đến những hành vi xấu, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng, làm

cho người dân không còn tin tưởng vào hệ thống tài chính. Đây cũng là một trong những

rào cản khiến người dân không sử dụng các dịch vụ tài chính chính thức (Camara &

ctg., 2014). Do đó, kiểm soát tham nhũng là yếu tố quan trọng để gia tăng niềm tin của

người dân vào hệ thống tài chính, khuyến khích người dân sử dụng DVTC, từ đó gia

tăng mức độ ổn định cho ngân hàng.

- Thứ hai là ổn định chính trị. Bất ổn chính trị có thể dẫn đến việc hủy bỏ hoặc trì hoãn

các khoản đầu tư của các doanh nghiệp trong nước. Những cú sốc đó có khả năng làm

gia tăng nỗi sợ hãi và niềm tin của người tiêu dùng. Điều này sẽ làm giảm nhu cầu đầu

tư, vốn chủ yếu được tài trợ bằng các khoản vay tiêu dùng và thế chấp. Điều này ảnh

hơn. Kết quả ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ đổ vỡ và mất khả năng thanh toán cao

hưởng đáng kể đến hoạt động sinh lời của ngân hàng, dẫn đến sự biến động thu nhập cao

hơn, ảnh hưởng đến mức độ ổn định ngân hàng (Brandt & Gao, 2019; Demir & ctg.,

132

2021). Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra sự ổn định tài chính của hệ thống ngân hàng đòi hỏi

sự ổn định của thể chế, ổn định của thị trường, không có căng thẳng và ít biến động

chính trị giữa các quốc gia hay trong chính quốc gia đó (Akadiri & ctg., 2020; Alsagr,

2020; Cheng & Chiu, 2018; Das & ctg., 2019).

- Thứ ba là quy tắc luật pháp. Một số nghiên cứu cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng

các cấp độ cao hơn của pháp quyền và hiệu quả tư pháp sẽ tăng cường thực thi quy định

(Caballero & ctg., 2004; Daher, 2017). Các kênh thông qua đó thượng tôn pháp luật và

hiệu quả xét xử cao hơn có thể dẫn đến thực thi pháp luật mạnh mẽ hơn, tăng khả năng

phát hiện ra những sai phạm Olken (2007) và tăng khả năng truy tố và kết án (Alt &

ctg., 2012). Điều đó có nghĩa, khi các hợp đồng được thực thi một cách nghiêm túc, hạn

chế các sai phạm, điều này cũng là cách làm cho người dân tin tưởng vào hệ thống tài

chính, từ đó gia tăng mức độ sử dụng các dịch vụ tài chính, và nâng cao ổn định cho

ngân hàng.

- Thứ tư là hiệu quả chính phủ. Hiệu quả chính phủ thể hiện vai trò điều hành, quản lý

của Chính phủ đối với các hoạt động kinh tế. Bằng các chính sách, giải pháp, Chính

phủ sẽ điều hành, kiểm soát hoạt động của các ngân hàng một cách có hiệu quả, làm cơ

sở để gia tăng niềm tin của người dân vào các ngân hàng, từ đó sẽ gia tăng sử dụng

DVTC, giúp ngân hàng gia tăng mức độ ổn định.

Ngoài ra, khía cạnh chất lượng quy định có ảnh hưởng làm cho mức độ ổn định ngân hàng

sẽ giảm nhiều hơn khi thực hiện tài chính toàn diện. Các hệ thống văn bản pháp luật quy định

hoạt động ngân hàng hiện nay ở nước ta được xem là môi trường chính trị, pháp lý liên quan

đến hoạt động của ngân hàng. Chúng ta đều hiểu rằng môi trường chính trị, pháp lý ổn định

là cơ sở nền tảng cho ngân hàng phát triển ổn định và bền vững. Rõ ràng, chất lượng các quy

định càng cao bao nhiêu thì sẽ tốt cho hoạt động ngân hàng bấy nhiêu. Tuy nhiên, kết quả

nghiên cứu lại chỉ ra chất lượng các quy định có ảnh hưởng ngược chiều đến tác động của tài

chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Kết quả này có thể được giải thích như sau: Một trong

những rào cản khiến người dân không tiếp cận các DVTC chính thức là do các thủ tục các

quy định quá khắt khe như tài sản đảm bảo, duy trì số dư tối thiểu (Camara & ctg., 2014).

Nhưng ngược lại, các quy định trên là yêu cầu cần thiết để đảm bảo khách hàng trả nợ, có như

thế mới đảm bảo hoạt động ngân hàng có hiệu quả và ổn định. Do đó, nếu các quy định được

thực thi một cách nghiêm chỉnh, thì rất khó để người dân có thể tiếp cận các DVTC, điều này

một phần ảnh hưởng đến nguồn vốn của NHTM, từ đó ảnh hưởng đến mức độ ổn định của

133

ngân hàng.

Cuối cùng khía cạnh tiếng nói và trách nhiệm giải trình được tìm thấy không có ảnh hưởng

đến tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

4.3. TÁC ĐỘNG CỦA CÁC BIẾN KIỂM SOÁT ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

TẠI CÁC NƯỚC ASEAN

Ngoài các biến chính là tài chính toàn diện, chất lượng thể chế và biến tương tác giữa chất

lượng thể chế và tài chính toàn diện, các biến đặc điểm ngân hàng và vĩ mô có ảnh hưởng

nhất định đến ổn định ngân hàng. Luận án sử dụng kết quả ở bảng 4.19.

Về quy mô vốn tín dụng (LTA), kết quả hồi quy cho thấy, quy mô vốn tín dụng càng cao

thì tính ổn định càng cao. Với biến phụ thuộc Z-Score và Z-score_n, cùng độ tin cậy 99%, hệ

số hồi quy lần lượt 2,836 và 0,397, cho thấy sự mở rộng tín dụng sẽ làm tăng tính ổn định cho

hệ thống ngân hàng. Chỉ cần quy mô tín dụng tăng 0,01 đơn vị thì Z-score và Z-Score lần lượt

tăng 2,836 và 0,397 đơn vị. Hoạt động tín dụng được xem là nguồn thu quan trọng trong

doanh thu của ngân hàng. Khi quy mô tín dụng tăng, hiệu quả mang lại trong hoạt động kinh

doanh sẽ đủ bù đắp cho những tổn thất mà các rủi ro gây ra do đó cũng làm tăng tính ổn định

của ngân hàng (Sadikoglu & Zehir, 2010). Tuy nhiên, với biến phụ thuộc NPL, luận án chưa

tìm thấy tác động của LTA đến NPL.

Về quy mô của ngân hàng (SIZE), kết quả hồi quy cho thấy, quy mô ngân hàng càng lớn,

tính ổn định của hệ thống ngân hàng càng cao. Cụ thể, với mức độ tin cậy 95% và 99%, với

biến phụ thuộc Z-Score, Z-Score_n có hệ số hồi quy lần lượt là 0,300 và 0,161, cho biết khi

tài sản của ngân hàng tăng 0,01 đơn vị thì Z-Score tăng (giảm) 2,836 và Z-Score_n tăng (giảm)

0,161 đơn vị; với biến phụ thuộc NPL, hệ số hồi quy của SIZE bằng -0,005, cho thấy sự gia

tăng về quy mô có thể dẫn đến sự sụt giảm các khoản nợ xấu ở mức độ tin cậy 95%. Kết quả

này đúng như kỳ vọng của luận án. Rõ ràng, các ngân hàng có quy mô lớn có thể hưởng lợi

nhờ tính kinh tế theo quy mô, khả năng đầu tư, khả năng quản lý hoạt động tốt hơn, sức mạnh

uy tín thương hiệu tốt hơn, tạo được niềm tin và tin cậy từ khách hàng. Chính vì vậy, các ngân

hàng lớn có thể huy động được nguồn vốn ổn định với giá rẻ từ các thành phần kinh tế, đặc

biệt là các tập đoàn, tổng công ty lớn. Với thương hiệu và uy tín của mình, các ngân hàng lớn

còn có thể dễ dàng huy động vốn trực tiếp từ các định chế tài chính nước ngoài thông qua các

chương trình cấp tín dụng...Vì vậy ngân hàng có quy mô tài sản lớn sẽ tăng vị thế, cơ hội thu

hút nhiều vốn, từ đó có thể làm tăng tính ổn định cho ngân hàng (Čihák & Hesse, 2010;

Dinger, 2009). Hơn nữa, khi quy mô tài sản của các ngân hàng càng lớn thì tỷ lệ an toàn vốn

134

của ngân hàng càng tăng, dẫn đến ngân hàng hoạt động sẽ ổn định hơn (Mekonnen, 2015;

Shingjergji & Hyseni, 2015).

Về sức mạnh thị trường (LER) đo lường khả năng cạnh tranh, kết quả hồi quy cho thấy,

cạnh tranh càng lớn, tính ổn định của hệ thống ngân hàng càng giảm. Cụ thể, với mức độ tin

cậy 99% và 95%, với biến phụ thuộc Z-Score, Z-Score_n có hệ số hồi quy lần lượt là -0,537

và -0,091, cho biết khi cạnh tranh tăng(giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score (giảm) tăng 0,537; 0,091

đơn vị; với biến phụ thuộc NPL, hệ số hồi quy của LER bằng 0,050, cho thấy sự gia tăng về

cạnh tranh có thể làm tăng các khoản nợ xấu ở mức độ tin cậy 90%. Kết quả này đúng như kỳ

vọng của luận án. Chỉ số Lerner càng cao tức là tính cạnh tranh càng ít thì hệ thống ngân

hàngcàng vững mạnh, tức là cạnh tranh có tác động làm tăng mức độ ổn định ngân hàng. Để

cạnh tranh, các ngân hàng có xu hướng hạ lãi suất cho vay, hướng tới khoản vay với biên lợi

nhuận thấp nên duy trì hoạt động ổn định, hiệu quả. Kết quả này tương tự quan điểm của Ariss

(2010), Fu & ctg. (2014) và Soedarmono & Tarazi (2016). Điều này có thể giải thích là trong

thị trường cạnh tranh cao, các ngân hàng giành thị phần bằng cách tăng lãi suất huy động và

cắt giảm lãi suất cho vay. Chênh lệch lãi suất hẹp có thể làm tăng chi phí ngân hàng và giảm

lợi nhuận ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng thường nới lỏng các tiêu chí cho vay dẫn đến

chất lượng các khoản vay giảm đi. Do đó, các ngân hàng phải đối mặt với các khoản nợ xấu

làm tăng rủi ro giảm ổn định ngân hàng. Điều này phù hợp với nhận định chung về tình hình

các nền kinh tế có hệ thống tài chính đang phát triển có hệ thống thể chế chính sách vẫn trong

quá trình hoàn thiện, chưa điều chỉnh triệt để hạn chế tình trạng cạnh tranh quá mức, cạnh

tranh không lành mạnh. Đây cũng là nguyên nhân hợp lý dẫn đến làn sóng mua bán và sáp

nhập (M&A) đang diễn ra mạnh mẽ tại hệ thống ngân hàng khu vực Đông Nam Á. Hoạt động

M&A có thể làm giảm cạnh tranh trong hệ thống ngân hàng, tăng quy mô và sức mạnh thị

trường. Kết quả này trùng khớp với quan điểm của tác giả Boyd & De Nicolo (2005); Uhde

& Heimeshoff (2009); Goetz (2018).

Về biến chất lượng quản lý (MQA), với 3 biến phụ thuộc, kết quả chỉ ghi nhận MQA có

tác động thuận chiều với Z-score_n, với hệ số hồi quy 0,513 ở mức ý nghĩa 5%. Điều này có

nghĩa, trong quá trình hoạt động nếu các ngân hàng có chính sách quản lý tốt thì sẽ làm tăng

mức độ ổn định giữa các ngân hàng. Kết quả này củng cố cho quan điểm của Al-Humairi &

ctg. (2020), Berger & DeYoung (1997) và Shim (2019) về vai trò của chất lượng quản lý trong

việc đảm bảo mức độ ổn định ngân hàng.

135

Về biến quy mô vốn chủ sở hữu (ETA) kết quả hồi quy cho thấy, quy mô vốn chủ sở hữu

càng lớn, tính ổn định của hệ thống ngân hàng càng cao. Cụ thể, với mức độ tin cậy 99, với

biến phụ thuộc Z-Score, Z-Score_n, ETA có hệ số hồi quy lần lượt là 3,106 và 0,457, cho biết

khi quy mô vốn chủ sở hữu tăng(giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score , Z-score_n tăng(giảm) 3,106

và 0,457 đơn vị; với biến phụ thuộc NPL, hệ số hồi quy của ETA bằng -0,045, cho thấy sự

gia tăng/giảm về vốn chủ sở hữu 0,01 đơn vị có thể làm giảm/tăng các khoản nợ xấu 0,045

đơn vị. Kết quả này phù hợp với lý thuyết kinh tế và cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm

cho thấy ngân hàng có vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản càng cao thì mức độ ổn định tài chính

cũng cao hơn, tương đồng với các kết quả của Diaconu & Oanea (2014). Ngoài ra, vốn chủ

sở hữu là một thành phần quan trọng của vốn tự có, đồng thời trong tổng tài sản có rủi ro quy

đổi, ngoài các loại tài sản có mức quy đổi là 0% và tài sản ngoại bảng, chủ yếu là các loại tài

sản sinh lời nội bảng của ngân hàng chiếm phần lớn trong bảng cân đối kế toán. Vì thế, khi

các ngân hàng gia tăng tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản sẽ làm tăng tỷ lệ an toàn vốn tối

thiểu cho chính ngân hàng, từ đó ngân hàng sẽ ổn định hơn (Bateni & ctg., 2014).

Về biến đa dạng hóa thu nhập (DIV) kết quả hồi quy cho thấy với biến Z-Score, Z-Score_n

hệ số hồi quy của DIV lần lượt là - 0,166; -0,071 có ý nghĩa thống kê (độ tin cậy 99%). Hệ số

hồi quy của biến này cho biết khi đa dạng thu nhập tăng (giảm) 0,01 đơn vị thì Z-Score, Z-

Score_n giảm (tăng) 0,166 và 0,071 đơn vị. Ngược lại, DIV sẽ có tác động thuận chiều với

NPL, có nghĩa là khi DIV tăng (giảm) 0,01 đơn vị sẽ làm cho nợ xấu ngân hàng tăng (giảm)

0,542 đơn vị. Điều này cho thấy, khi các ngân hàng tập trung vào mở rộng đa dạng hóa thu

nhập của mình, áp lực tạo ra nhiều thu nhập ngoài lãi đã khiến các ngân hàng lấn sân quá sâu

vào các mảng không thuộc thế mạnh của ngân hàng, từ đó ảnh hưởng làm giảm mức ổn định

ngân hàng. Kết quả này đúng như kỳ vọng của luận án và đồng quan điểm với các nghiên cứu

của Ashraf & ctg. (2010), Baele & ctg. (2007), Demirguc-Kunt & Huizinga (2010) và Lepetit

& ctg. (2008).

Về biến lạm phát (INF) kết quả hồi quy chỉ ghi nhận INF có ý nghĩa thống kê với biến phụ

thuộc NPL ở độ tin cậy 99%, INF có tác động làm giảm tăng nợ xấu của ngân hàng. Rõ ràng,

khi lạm phát xảy ra, ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi của người dân, trong đó việc rút tiền ồ

ạt hay khả năng trả nợ vay của khách hàng cũng bị ảnh hưởng, dẫn đến nợ xấu tăng lên. Điều

này gián tiếp làm giảm mức độ ổn định ngân hàng.

Về tốc độ tăng trưởng GDP, với độ tin cậy 99%, GDP có hệ số hồi quy với 3 biến phụ

thuộc Z-Score, Z-Score_n và NPL lần lượt là 0,061; 0,013; - 0,010. Kết quả này cho thấy tác

động thuận chiều của tôc độ tăng trưởng GDP với ổn định ngân hàng và ngược chiều với nợ

136

xấu. Kết quả này hoàn toàn trùng khớp với Ahamed & Mallick (2019), Honohan (2008) với

quan điểm rằng một nền kinh tế phát triển sẽ thúc đẩy sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

137

KẾT LUẬN CHƯƠNG 4

Nhằm giải quyết các câu hỏi nghiên cứu của luận án, nội dung của chương lần lượt kiểm

định ba mô hình thực nghiệm được trình bày ở chương ba, bao gồm: Kiểm định tác động của

tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng, kiểm định tác động của chất lượng thể chế đến ổn

định ngân hàng và kiểm định vai trò của chất lượng thể chế đối với tác động giữa tài chính

toàn diện và ổn định ngân hàng. Thông qua từng phần, luận án cũng trả lời các giả thuyết đặt

ra tương ứng.

Thứ nhất, để trả lời câu hỏi về tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế đến

ổn định ngân hàng tại trường hợp nghiên cứu ở các nước ASEAN, kết quả cho thấy trong khi

tài chính toàn diện tài chính toàn diện tác động làm giảm mức độ ổn định ngân hàng, chất

lượng thể chế có tác động gia tăng ổn định ngân hàng

Thứ hai, từ cơ sở kết quả kiểm định trên, luận án làm rõ hơn vai trò của chất lượng thể chế

đối với tác động của tài chính toàn diện và ổn định ngân hàng. Kết quả cho thấy chất lượng

thể chế có vai trò lớn đối với tác động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng. Điều đó

có nghĩa thấy chất lượng thể chế tốt sẽ giúp các chủ thể trong các giao dịch thực hiện đúng

các quy định khi mở rộng tài chính toàn diện, giúp giảm bớt tác động âm của tài chính toàn

diện đến ổn định ngân hàng. Ngoài ra, luận án còn đánh giá từng khía cạnh cụ thể của chất

lượng thể chế, trong đó kiểm soát tham nhũng, hiệu quả chính phủ, ổn định chính trị và quy

tắc luật pháp có tác động thuận chiều, chất lượng quy định có tác động ngược lại đối với tác

động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

138

CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ HÀM Ý CHÍNH SÁCH

Trong chương 5, luận án trình bày tóm tắt các kết quả nghiên cứu tại 157 ngân hàng ở các

nước ASEAN trong chương 4. Dựa trên kết quả nghiên cứu, luận án đưa ra những khuyến

nghị chính sách cho Chính phủ, các nhà quản lý ngân hàng nói chung và các NHTM Việt

Nam nói riêng. Cuối cùng, luận án trình bày một số hạn chế của luận án cùng với hướng

nghiên cứu mở rộng tiếp theo.

5.1. KẾT QUẢ CỦA LUẬN ÁN

Tài chính toàn diện có ý nghĩa lớn đối với kinh tế xã hội của một quốc gia, là giải pháp

quan trọng trong việc xóa đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Nghiên cứu tập trung vào

việc phân tích tác động của tài chính toàn diện, của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng,

cũng như ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động tài chính toàn diện đến ổn định

ngân hàng ở các nước ASEAN, từ đó gợi ra các hàm ý chính sách. Mặc dù không đúng như

kỳ vọng ban đầu, kết quả hồi quy cho thấy tài chính toàn diện làm giảm mức độ ổn định ngân

hàng, nhưng thành công lớn nhất của luận án đã chỉ ra được chất lượng thể chế có tác động

gia tăng mức độ ổn định ổn định ngân hàng và ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác động

của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN. Theo đó, chất lượng thể

chế sẽ có ảnh hưởng lớn, nó sẽ điều chỉnh, giảm bớt tác động bất lợi của tài chính toàn diện

đến ổn định ngân hàng. Kết quả hồi quy của luận án đã cung cấp thêm bằng chứng thực

nghiệm về ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến các biến số trong nền kinh tế.

Luận án đã tóm lược các cơ sở lý luận về ổn định ngân hàng, tài chính toàn diện cũng như

chất lượng thể chế, xác định và lựa chọn các cách đo lường phù hợp. Cụ thể, luận án lựa chọn

cách đo lường tài chính toàn diện, chất lượng thể chế thông qua phương pháp phân tích thành

phần cơ bản (PCA). Đồng thời chọn chỉ số Z-Score, Z-Score hiệu chỉnh và tỷ lệ nợ xấu (NPL)

làm đại diện cho sự ổn định của hệ thống ngân hàng.

Trong quá trình thu thập dữ liệu, luận án đã tiến hành chọn lọc và xử lý bộ dữ liệu của 157

ngân hàng ở ASEAN trong suốt giai đoạn 2010 - 2020. Với dữ liệu thu nhập được, luận án

thực hiện hồi quy SGMM, và kết quả của luận án đã cung cấp bằng chứng thực nghiệm rằng

tài chính toàn diện làm giảm mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN.

Tuy nhiên, tác động này sẽ được cải thiện, điều chỉnh trong môi trường chất lượng thể chế

cao. Kết quả này có ý nghĩa chính sách vô cùng quan trọng, cho thấy các nhà hoạch định chính

sách của các nước ASEAN phải xây dựng một nhóm giải pháp liên quan đến tài chính toàn

diện và chất lượng thể chế có tính đồng bộ để vừa đảm bảo được mục tiêu thúc đẩy tài chính

139

toàn diện vừa đảm bảo mục tiêu gia tăng mức độ ổn định của hệ thống ngân hàng. Ngoài ra,

kết quả của luận án cũng cho thấy chất lượng thể chế có tác động thuận chiều đến ổn định

ngân hàng.

Bên cạnh kết luận quan trọng về ảnh hưởng của chất lượng thể chế được đề cập ở trên, các

biến kiểm soát còn lại trong mô hình có kết quả và ý nghĩa thống kê. Nâng cao quy mô tổng

tài sản của ngân hàng, quy mô cho vay, quy mô vốn chủ sở hữu cao, gia tăng các tài sản sinh

lời, nâng cao tính cạnh tranh ở các ngân hàng là những yếu tố góp phần gia tăng mức độ ổn

định của hệ thống ngân hàng.

Như vậy đến đây có thể thấy nghiên cứu đã thực hiện đầy đủ các mục tiêu mà nghiên cứu

đặt ra: (i) Đã xác định được chiều hướng tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân

hàng ở các nước ASEAN; (ii) Đã đánh giá được tác động của chất lượng thể chế đến ổn định

ngân hàng ở các nước ASEAN (iii) Đã đánh giá được ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến

tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN.

Nội dung tiếp theo, sau khi phân tích kết quả nghiên cứu, luận án kết hợp phần phân tích

thực trạng tài chính toàn diện, chất lượng thể chế và ổn định ngân hàng (ở mục 4.1) và kết

quả hồi quy của luận án để gợi ý các hàm ý chính sách dành cho chính phủ và các ngân hàng

ở các nước ASEAN.

5.2. CÁC HÀM Ý CHÍNH SÁCH

5.2.1. Tài chính toàn diện

Thực tế, hiện nay các nước ASEAN đang có xu hướng tăng trưởng về tỷ lệ tiền gửi và cho

vay so với GDP qua các năm và thậm chí, so với bình quân các quốc gia trên thế giới. Điều

này cho thấy lượng tài khoản được mở và sử dụng nhiều. Và rõ ràng khi người dân mở tài

khoản và sử dụng các dịch vụ về tiết kiệm, sẽ giúp duy trì một lượng tiền gửi ổn định, ngân

hàng tránh được rủi ro tháo chạy khỏi ngân hàng và sẽ tạo ra sự ổn định cho hệ thống ngân

hàng. Như thảo luận ở mục 4.2.4, mặc dù tài chính toàn diện có ảnh hưởng xấu đến ổn định

ngân hàng ở các nước ASEAN trong giai đoạn 2010 – 2020, nhưng rõ ràng nếu cải thiện chất

lượng thể chế thì tác động này sẽ được điều chỉnh theo hướng có lợi. Do đó, ở phần hàm ý

chính sách, luận án vẫn đưa ra một số hàm ý về phát triển tài chính toàn diện, tuy nhiên, chính

phủ các nước ASEAN cần có chiến lược rõ ràng, phối hợp đồng bộ và nhịp nhàng với nhiều

yếu tố khác nhằm tạo điều kiện gia tăng mức độ ổn định ngân hàng.

140

- Về phía chính phủ các nước

Chính phủ các nước ASEAN cần có cơ chế và khung pháp lý cần hoàn thiện nhằm tạo cơ

sở nền tảng cũng như môi trường để phát triển tài chính toàn diện. Để thực hiện nội dung này,

luận án nhấn mạnh các lưu ý sau đây:

Thứ nhất, nhiệm vụ xây dựng và triển khai tài chính toàn diện được pháp lý hóa dưới hình

thức quyết định của người đứng đầu chính phủ hoặc quy định trong luật. Điều này không chỉ

thể hiện sự cam kết của chính phủ đối với thúc đẩy tài chính toàn diện mà còn tạo dựng một

cơ sở pháp luật để xây dựng và triển khai khuôn khổ tài chính toàn diện một tầm nhìn rõ ràng

và các mục tiêu cụ thể.

Thứ hai, NHTW phải là đơn vị đầu mối thực hiện nhiệm vụ, triển khai Chiến lược Tài

chính toàn diện. Tuy nhiên, tài chính toàn diện là một vấn đề lớn, trong quá trình thực hiện

cần có sự phối hợp giữa các bộ ngành liên quan. Để sự phối hợp được thực hiện đồng bộ, cần

có sự giám sát chặt chẽ và có chế tài tuân thủ đối với các tổ chức tài chính về các hoạt động

mà NHTW đưa ra. Đồng thời khuyến khích các hoạt động như cung cấp thông tin đầy đủ,

minh bạch và kịp thời lên các cơ quan đại diện giám sát.

Thứ ba, có sự tham gia của tất cả các tác nhân trong nền kinh tế, bao gồm từ khu vực nhà

nước, khu vực tư nhân, khu vực dân sự/phi chính phủ để đảm bảo cho sự thành công của tài

chính toàn diện. Sự tham gia này cần thiết ngay trong quá trình soạn thảo xây dựng chiến lược

để đảm bảo hài hòa lợi ích của tất cả các bên. Đặc biệt, sự can thiệp của nhà nước nếu có cần

dựa trên những nguyên tắc thị trường để các kết quả đạt được có tính chất bền vững.

Thứ tư, chiến lược phát triển tài chính toàn diện đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ và nhịp ngàng

của bốn yếu tố, bao gồm: Tạo lập một môi trường và hệ thống các chính sách hỗ trợ; kết hợp

với việc củng cố các định chế tài chính một cách toàn diện; cải tiến các sản phẩm DVTC, các

kênh phân phối; đồng thời nâng cao nhận thức và kiến thức tài chính cho các tầng lớp người

dân.

- Về phía các ngân hàng

Với mục tiêu, tăng khả năng tiếp cận DVTC cho khách hàng, ngân hàng cần cải tiến sản

phẩm DVTC, mở rộng thêm các kênh phân phối. Rõ ràng khi mạng lưới tài chính càng phát

triển, rào cản về khoảng cách địa lý được khắc phục, khiến cho việc tiếp cận các sản phẩm,

dịch vụ của người dân sẽ dễ dàng, thuận tiện hơn, từ đó khuyến khích người dân sử dụng

DVTC. Tuy nhiên, một điểm cần lưu ý, trong quá trình triển khai cần thực hiện theo đúng các

quy định đã đưa ra, chẳng hạn các tiêu chuẩn xét duyệt trong cho vay; đồng thời, cần có sự

141

kiểm soát, giám sát chặt chẽ để quá trình mở rộng cung ứng DVTC cho người dân, đặc biệt

là người có thu nhập thấp không ảnh hưởng đến mức độ ổn định của ngân hàng.

- Về phía người dân

Người dân (là khách hàng) cần nâng cao nhận thức và kiến thức tài chính. Bởi nhận thức

yếu kém của người dân về các sản phẩm tài chính, về các quy định trong hợp đồng, về cách

thức thực hiện là một trong những yếu tố cốt lõi khiến họ không tìm đến các sản phẩm tài

chính phù hợp. Khi nhận thức cùng với trình độ học vấn tăng cao, họ sẽ lựa chọn sản phẩm

đúng và thực hiện đúng theo các điều khoản trong hợp đồng. Như vậy phần nào cũng giảm

rủi ro cho hoạt động của ngân hàng. Do vậy, phổ cập kiến thức tài chính là điều cần thiết khi

thúc đẩy tài chính toàn diện.

5.2.2. Chất lượng thể chế

Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm được trình bày trong bảng 4.3, luận án cho rằng khi

thực hiện các đề án thúc đẩy tài chính toàn diện trong giai đoạn hiện nay và cả tương lai,

Chính phủ cần cải thiện nâng cao chất lượng thể chế và các yếu tố vĩ mô để đạt được mục tiêu

đề ra. Các giải pháp thực hiện cần được rà soát và kiểm tra thường xuyên, tránh các trường

hợp xấu xảy ra như cho vay dưới chuẩn, làm ảnh hưởng đến mức độ ổn định của ngân hàng.

Đối với chất lượng thể chế. Chất lượng thể chế tốt là nền tảng cho tăng trưởng, phát triển

kinh tế và ổn định hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Do đó, các

khuôn khổ thể chế được xác định rõ ràng có liên quan đến cả tăng trưởng kinh tế và ổn định

bởi vì chúng hoạt động như một ảnh hưởng trung gian. Hơn nữa, chính phủ phải có hành động

để bảo vệ khách hàng, những chủ thể sử dụng DVTC với các giải pháp như hệ thống luật pháp

chặt chẽ về các quy định liên quan đến hoạt động ngân hàng, cũng như các chế tài phải rõ

ràng trong các giao dịch có dấu hiệu vi phạm… Từ đó, tạo niềm tin cho khách hàng vào hệ

thống tài chính chính thức. Đối với các nước ASEAN cần phải thực hiện cải cách thể chế một

cách có hệ thống bài bản theo hướng:

Một là giải pháp đối với tham nhũng. Tham nhũng là một trong những nguyên nhân làm

suy giảm chất lượng thể chế, và nó ảnh hưởng nhiều đến hoạt động của các tổ chức, doanh

nghiệp trong nền kinh tế. Ðể kiểm soát tham nhũng có hiệu quả, một biện pháp quan trọng là

phải công khai, minh bạch các thông tin về hoạt động của doanh nghiệp, người dân để ngăn

ngừa tham nhũng từ phía người thực thi pháp luật. Ðồng thời, minh bạch hóa thông tin về cơ

chế hoạt động của bộ máy chính quyền, các thủ tục hành chính phải công khai, rõ ràng, dễ

hiểu, dễ thực hiện. Khuyến khích người dân thực hiện quyền giám sát để góp phần phòng

142

ngừa và đấu tranh hiệu quả với tham nhũng. Đặc biệt các biện pháp trong chiến lược chống

tham nhũng phải bao gồm cả phòng ngừa lẫn chữa trị, nhằm tạo ra môi trường hoạt động lành

mạnh, hiệu quả.

Hai là, ổn định chính trị. Sự ổn định chính trị và nhất quán trong điều hành chính sách vĩ

mô cần tiếp tục giữ vững để giảm bớt sự e ngại về môi trường kinh doanh rủi ro và bất định.

Ba là, quy tắc luật pháp. Tiếp tục tăng cường cải thiện các quy tắc luật pháp, tạo hành lang

pháp lý rõ ràng cho những hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các quy định về quyền tài

sản, quyền được bảo vệ một cách rõ ràng.

Bốn là, hiệu quả chính phủ. Chính phủ cần đánh giá quá trình triển khai tài chính toàn diện

trong thời gian qua, để đề ra những giải pháp kịp thời và tối ưu để hạn chế những ảnh hưởng

không tốt của tài chính toàn diện mang lại, giúp ngân hàng giữ vững và gia tăng mức độ ổn

định.

Việc cải thiện chất lượng thể chế ở các khía cạnh này sẽ góp phần tạo dựng niềm tin của

các tổ chức tài chính với khách hàng, từ đó tăng khả năng tiếp cận DVTC của khách hàng,

giúp khách hàng đa dạng hóa thu nhập, tăng cường ổn định.

Đối với các yếu tố vĩ mô. Chính phủ các nước cần đảm bảo nền kinh tế tăng trưởng ổn

định, kiểm soát lạm phát. Môi trường kinh tế vĩ mô thuận lợi, kinh tế phát triển, kiểm soát

lạm phát, giúp cho cuộc sống người dân được cải thiện, nhu cầu gửi tiền, vay mượn cũng như

nhu cầu sử dụng các sản phẩm tài chính của người sẽ tăng cao. Hơn nữa khi nền kinh tế phát

triển kéo theo sự năng động, phát triển các hoạt động dịch vụ ngân hàng và các tổ chức tài

chính, điều này khiến cho người dân nhạy cảm hơn với các sản phẩm, dịch vụ này.

5.2.3. Vấn đề nội tại của các ngân hàng ở khu vực ASEAN

Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm được trình bày trong bảng 4.19, luận án đưa ra một số

hàm ý chính sách cho ngân hàng liên quan đến các chỉ tiêu: tổng tài sản, vốn vay, kiểm soát

rủi ro vốn, cạnh tranh, đa dạng hóa thu nhập và chất lượng quản lý nhằm nâng cao mức độ ổn

định ngân hàng. Cụ thể:

Thứ nhất, về quy mô tổng tài sản. Quy mô ngân hàng có tác động làm gia tăng mức độ ổn

định ngân hàng, do đó các nhà quản trị ngân hàng nên có chính sách quản lý quy mô hoạt

động ngân hàng để tận dụng lợi thế nhờ quy mô nhằm nâng cao sức mạnh thị trường của

mình, từ đó giúp ổn định ngân hàng. Các NHTM ở ASEAN cần có các biện pháp thích hợp

để mở rộng quy mô, tăng tài sản nhằm cải thiện ổn định như thu hút và tìm kiếm vốn đầu tư

của các nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước nhằm gia tăng nguồn vốn, tài sản cũng như gia

143

tăng uy tín, phát triển thương hiệu ngân hàng và học hỏi kinh nghiệm quản lý từ các nhà đầu

tư và đối tác chuyên nghiệp. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng tiến hành mở rộng mạng lưới

giao dịch, các chi nhánh, phòng giao dịch tại các địa bàn tiềm năng, phù hợp với chiến lược

và lợi thế cạnh tranh của từng ngân hàng. Đối với các ngân hàng có quy mô nhỏ, hiệu quả

hoạt động kém thì cần xem xét phương án mua bán, sáp nhập để giúp ngân hàng cải thiện quy

mô của mình và gia tăng năng lực tài chính.

Thứ hai, về quy mô tín dụng. Quy mô tín dụng có tác động tăng mức độ ổn định của các

ngân hàng ở các nước ASEAN. Chính vì vậy vấn đề cần thiết mở rộng quy mô tín dụng có

tầm quan trọng rất lớn trong việc gia tăng năng lực cạnh tranh và gia tăng ổn định ngân hàng.

Trong bối cảnh thị trường ngày càng mở rộng, cạnh tranh ngày càng cao và bất ổn tài chính

có thể diễn ra trong tình hình mới, để mở rộng quy mô tín dụng các ngân hàng ở ASEAN cần

tuân thủ các nguyên tắc:

- Mở rộng tín dụng phải đôi với tăng cường nguồn vốn huy động. Thông qua các biện

pháp như tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mãi, áp dụng các ứng dụng công nghệ thông

tin trong thanh toán… ngân hàng có thể nhằm tận dụng nguồn vốn giá rẻ đó cho hoạt

động kinh doanh ngân hàng.

- Mở rộng tín dụng phải gắn liền với nâng cao chất lượng, giảm thiểu rủi ro trong hoạt

động tín dụng. Để làm được điều đó, ở mỗi khâu, ví dụ như: đánh giá khách hàng, thẩm

định hồ sơ vay, giám sát quá trình khách hàng sử dụng vốn vay…các ngân hàng cần thực

hiện đúng theo các quy định đã đưa ra. Đặc biệt, công tác quản lý rủi ro và kiểm tra kiểm

soát nội bộ rất quan trọng. Nó đảm bảo hoạt động tín dụng được theo dõi chặt chẽ, hạn

chế các tình huống xấu có thể xảy ra, từ đó nâng cao chất lượng hoạt động này.

- Mở rộng tín dụng phải tuân thủ đúng các văn bản quy định của ngành và pháp luật của

nhà nước. Các quy định về trích lập dự phòng, phân loại nợ…các ngân hàng phải thực

hiện đúng, nghiêm chỉnh.

Thứ ba, về quy mô vốn chủ sở hữu. Quy mô vốn chủ sở hữu tác động làm tăng mức ổn

định cho các ngân hàng. Rõ ràng, đảm bảo an toàn vốn là một trong ba trụ cột cốt lõi quyết

định sự an toàn, lành mạnh của hệ thống ngân hàng. Các ngân hàng cần thực hiện các chiến

lược tăng vốn một cách bền vững, giảm thiểu các nguồn vốn rủi ro cao, tránh tình trạng sở

hữu chéo và đa phương giữa các ngân hàng với doanh nghiệp, ngân hàng với ngân hàng nhằm

giảm rủi ro mang tính hệ thống hay phát sinh các vấn đề nợ xấu. Việc gia tăng nguồn vốn sở

hữu có thể được thực hiện thông qua các chiến lược như: trả cổ tức bằng cổ phiếu, bán cổ

144

phần cho nhà đầu tư nước ngoài chiến lược, hay giảm tỷ lệ sở hữu nhà nước đối với các ngân

hàng có vốn nhà nước tham gia. Rõ ràng khi tăng vốn điều lệ thì ngân hàng mới có đủ tiềm

lực tài chính để đầu tư công nghệ, phát triển sản phẩm mới, hiện đại cũng như đầu tư vào các

lĩnh vực khác mà ngân hàng có thế mạnh. Từ đó, quy mô của ngân hàng cũng tăng nhanh và

tạo sự cộng hưởng để hiệu quả kinh doanh ngân hàng ngày càng tốt hơn, mức ổn định ngân

hàng ngày càng được gia tăng.

Thứ tư, về sức mạnh thị trường (cạnh tranh). Cạnh tranh có quan hệ ngược chiều với ổn

định ngân hàng. Vấn đề cạnh tranh trong lĩnh vực ngân hàng thu hút nhiều sự quan tâm trong

thời gian dài một phần vì cuộc khủng hoảng tài chính xảy ra gây tổn thương nặng nề cho nền

kinh tế. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra hậu quả của cạnh tranh đối với tín dụng, ảnh hưởng đến

sự ổn định của hệ thống ngân hàng, và phát triển kinh tế. Để cải thiện sự ổn định tài chính,

một số quốc gia trong khu vực Đông Nam Á đã thực hiện một số tái cấu trúc quan trọng trong

ngành ngân hàng kể từ sau cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008 - 2009. Tuy nhiên, quá

trình tái cấu trúc này cần thực hiện công khai minh bạch, diễn ra liên tục phù hợp với phát

triển không ngừng của nền kinh tế. Sau quá trình tái cấu trúc thì năng lực quản trị rủi ro của

các ngân hàng ngày càng nâng lên đáng kể. Môi trường kinh doanh ngân hàng ngành càng

được lành mạnh hóa. Hơn nữa theo nghiên cứu của Liu & ctg. (2013) cho thấy các khu vực

kinh tế khác nhau đóng vai trò quan trọng việc xác định ổn định ngân hàng, do đó các biện

pháp cạnh tranh vừa phải phù hợp đặc điểm riêng của các khu vực kinh tế, theo từng đặc điểm

vùng miền để đảm bảo sự ổn định chung. Bên cạnh đó, các quốc gia trong khu vực ASEAN

hệ thống pháp luật, môi trường thể chế hoạt động còn nhiều bất cập chưa hoàn thiện, các thành

phần tham gia vào thị trường nói chung hay hoạt động kinh doanh ngân hàng nói riêng dễ

chịu tổn thương do các hoạt động cạnh tranh quá mức gây ra. Vì vậy, cần phải có cơ chế quản

lý giám sát nhằm ổn định hệ thống ngân hàng. Cần khuyến khích và tạo môi trường cạnh tranh

lành mạnh, thúc đẩy các bên gia nhập vào thị trường trên tinh thần cùng hợp tác phát triển.

Xây dựng và hoàn thiện hành lang pháp lý, nghiêm khắc xử phạt các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh nhằm mục tiêu an toàn hệ thống.

Thứ năm, về đa dạng hóa thu nhập. Đa dạng hóa thu nhập làm giảm ổn định ngân hàng ở

các nước ASEAN trong thời gian nghiên cứu. Điều này đặt ra câu hỏi cho các nhà quản trị

ngân hàng rằng liệu việc mở rộng các dịch vụ phi truyền thống có thật sự mang lại hiệu quả

và tăng ổn định ngân hàng không? Mặc dù mở rộng hoạt động sang các lĩnh vực phi truyền

thống khác đang là xu thế phát triển tất yếu khi mà hầu hết các nguồn thu của ngân hàng trên

145

thế giới đều từ các sản phẩm dịch vụ ngoài lãi mang lại. Ở đây, luận án vẫn khuyến khích các

NHTM chủ động khai thác và mở rộng phạm vi hoạt động nhưng để giảm tác động ngược

chiều của nó, các NHTM phải có sự chuẩn bị tốt nhằm ứng phó với những rủi ro có thể xảy

ra. Sự chuẩn bị này phải bao gồm cả cơ sở hạ tầng, nhân lực, công nghệ và quản trị tốt. Ngân

hàng phải hoạch định tốt kế hoạch kinh doanh, dự báo những nguy cơ tiềm ẩn có thể xảy ra

và các phương án tài trợ thích hợp, đặc biệt, kế hoạch này phải mang tính chất dài hạn. Có

như vậy, NHTM mới không bị sốc trước những tổn thất do rủi ro mang lại, đủ sức giữ vững

vị thế thế cạnh tranh trước các đối thủ mạnh, đồng thời đảm bảo ổn định bền vững. Ngoài ra,

khi mở rộng sang các dịch vụ phi truyền thống, các ngân hàng cần có sự chọn lựa, các mảng

mà ngân hàng có lợi thế. Tập trung vào những sản phẩm dịch vụ có hàm lượng công nghệ

cao, có đặc điểm nổi trội trên thị trường để tạo sự khác biệt trong cạnh tranh. Có như vậy đa

dạng hóa thu nhập mới đem lại nguồn thu cao cho ngân hàng và ngân hàng vẫn giữ mức ổn

định của mình. Bên cạnh đó, yếu tố kỹ thuật công nghệ dù không được đề cập trong mô hình

nghiên cứu nhưng cũng là một trong những yếu tố giúp các ngân hàng trong việc đa dạng hóa

thu nhập. Do đó, các ngân hàng cũng cần chú trọng xây dựng chiến lược phát triển về trình

độ công nghệ, kỹ thuật, khả năng cải tiến, nghiên cứu và phát triển sản phẩm dịch vụ, ứng

dụng, khai thác công nghệ thông tin, kỹ thuật số, điện tử và viễn thông đi đối với phát triển

các nguồn lực hiện có và đảm bảo tính an toàn trong vận hành công nghệ.

Thứ sáu, về hiệu quả quản lý và giám sát. Hiệu quả quản lý tốt cũng góp phần nâng cao

mức độ ổn định của các ngân hàng. Chất lượng quản lý được xác định bằng tỷ lệ giữa tổng tài

sản sinh lời trên tổng tài sản. Do đó, để nâng cao chất lượng quản lý, các NHTM cần nâng

cao chất lượng các tài sản sinh lời. Hoạt động chủ yếu của một ngân hàng thể hiện ở phía tài

sản có trên bảng cân đối kế toán. Chất lượng tài sản có là chỉ tiêu tổng hợp nói lên chất lượng

quản lý, khả năng thanh toán, và triển vọng bền vững của một ngân hàng. Phần lớn rủi ro

trong hoạt động ngân hàng đều tập trung ở phía tài sản có, nên cùng với việc đảm bảo có đủ

vốn thì vấn đề nâng cao chất lượng tài sản có là yếu tố quan trọng đảm bảo cho ngân hàng

hoạt động an toàn. Trong tài sản có thì tài sản sinh lời chiếm chủ yếu. Tài sản sinh lời là những

tài sản đem lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng đồng thời cũng là những tài sản chứa

đựng nhiều rủi ro, bao gồm các khoản cho vay, cho thuê tài chính, các khoản đầu tư vào chứng

khoán, góp vốn liên doanh, liên kết…trong đó chiếm tỷ trọng cao nhất là các khoản cho vay.

Nói đến chất lượng tài sản sinh lời, mà trước hết được phản ánh ở chất lượng hoạt động tín

dụng. Do đó, muốn nâng cao chất lượng quản lý thì ngân hàng phải có các giải pháp nâng cao

146

chất lượng tài sản sinh lời, trước hết là nâng cao chất lượng hoạt động tín dụng. Nếu một ngân

hàng có chất lượng hoạt động tín dụng cao, thể hiện qua việc thu nợ gốc và lãi đúng hạn, bảo

toàn được vốn cho vay, tỷ lệ nợ quá hạn thấp, vòng quay vốn tín dụng nhanh, thì ngân hàng

đó được đánh giá về cơ bản là hoạt động an toàn và hiệu quả. Để làm được điều đó, các ngân

hàng cần tăng cường huy động vốn để cho vay, nâng cao chất lượng thẩm định và tăng cường

công tác giám sát tiền vay.

Bên cạnh chất lượng hoạt động tín dụng, chất lượng tài sản của ngân hàng còn thể hiện ở

các tài sản có khác như danh mục đầu tư chứng khoán, tài sản bằng ngoại tệ, vàng bạc, đá

quý. Chất lượng những tài sản này thường thể hiện ở cơ cấu và trạng thái ngoại hối, chất lượng

và trạng thái của danh mục đầu tư. Những khoản mục này cũng có ảnh hưởng rất lớn đến mức

độ ổn định của một ngân hàng. Do đó, để đánh giá chất lượng tài sản và mức độ hoạt động

của ngân hàng một cách đầy đủ và chính xác, một mặt phải xem xét toàn diện cơ cấu, tính

chất tài sản mà ngân hàng đang nắm giữ, mặt khác phải nghiên cứu mối tương quan giữa cơ

cấu tài sản có và tài sản nợ. Mối tương quan này giúp đánh giá tính tối ưu trong cơ cấu tài

sản, khả năng phản ứng của ngân hàng trước những biến động của thị trường, khả năng đứng

vững trước những hiện tượng bất thường của môi trường kinh doanh và đáp ứng yêu cầu rút

tiền của công chúng.

Cuối cùng, ổn định của ngân hàng nó còn phụ thuộc vào điều kiện vĩ mô. Tuy nhiên, các

yếu tố vĩ mô thường nằm ngoài tầm kiểm soát của các ngân hàng, do đó, các ngân hàng cần

chủ động đối phó trước những thay đổi của nền kinh tế nhằm bảo toàn tài sản của ngân hàng

mình. Trong các thuật toán đánh giá sức chịu đựng (stress test), các ngân hàng cần quan tâm

hơn các biến số vĩ mô. Điều này không những giúp ngân hàng chủ động ứng phó với các cú

sốc của nền kinh tế mà còn giúp ngân hàng dự báo được các rủi ro. Từ đó, các ngân hàng có

thể đưa ra chiến lược phát triển tài chính toàn diện hợp lý, vừa bảo toàn được tài sản vừa đảm

bảo ngân hàng ổn định.

5.3. HẠN CHẾ CỦA LUẬN ÁN VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU TIẾP THEO

Luận án đã có những đóng góp nhất định về cả khoa học lẫn thực tiễn về tài chính toàn

diện, chất lượng thể chế và ổn định hệ thống ngân hàng ở các nước ASEAN. Tuy nhiên, luận

án cũng còn tồn tại những hạn chế sau:

Thứ nhất, giới hạn nghiên cứu của luận án là ở các nước ASEAN, chưa có sự mở rộng về

phạm vi, chẳng hạn là các nước Châu Á hay rộng hơn là các nước trên thế giới. Đồng thời,

luận án nghiên cứu với dữ liệu bảng nên mặc dù chỉ ra xu hướng tác động, song các khuyến

147

nghị chính sách còn mang định hướng chung, chưa cụ thể cho từng quốc gia.

- Thứ hai, các chỉ số liên quan đến tài chính toàn diện mà luận án thu thập chủ yếu là các

số liệu từ ngân hàng, chưa xét đến các doanh nghiệp. Đặc biệt đối với Việt Nam trong những

năm gần đây, các chính sách tài chính toàn diện hướng đến việc tiếp cận vốn vay để phát triển

hoạt động sản xuất kinh doanh dành cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã có những thay đổi

lớn. Do vậy, trong tương lai luận án sẽ tiếp tục nghiên cứu về tài chính toàn diện một cách

đầy đủ hơn với các tiêu chí này. Hơn nữa, luận án chưa xem xét các yếu tố liên quan đến công

nghệ tài chính trong quá trình thực hiện tài chính toàn diện. Hiện nay, thời kỳ công nghệ 4.0

việc sử dụng các dịch vụ ngân hàng thông qua ATM hay chi nhánh ngân hàng dần dần được

thay thế bởi các hình thức khác, do đó, đo lường tài chính toàn diện theo các khía cạnh mà

luận án thực hiện, có thể chưa phản ánh đúng thực trạng tài chính toàn diện hiện nay. Tuy

nhiên, do thiếu hụt về dữ liệu nên trong nghiên cứu này, luận án vẫn sử dụng các khía cạnh:

thâm nhập được đo lường bằng tỷ lệ chi nhánh ngân hàng trên tỷ lệ 100.000 người trưởng

thành và tỷ lệ số ATM trên 100.000 người trưởng thành.Trong tương lai, luận án sẽ cố gắng

cập nhật dữ liệu và xây dựng bộ chỉ số tài chính toàn diện mới, bổ sung các yếu tố công nghệ

để đánh giá đầy đủ hơn về thực trạng của tài chính toàn diện ở các nước, cũng như tác động

của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng.

- Thứ ba, thể chế có nhiều loại: thể chế kinh tế, thể chế chính trị. Luận án mới chỉ xem

xét góc độ thể chế chính trị ảnh hưởng đến ổn định ngân hàng, cũng như ảnh hưởng đến tác

động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng. Do đó trong tương lai, luận án sẽ tiếp tục

xem xét thể chế trên góc độ thể chế kinh tế, để tăng thêm tính vững cho các kết luận đưa ra.

Tóm lại, từ những hạn chế trên, luận án nhận thấy các hướng nghiên cứu có thể phát triển

trong tương lai: (1) xem xét vai trò của chất lượng thể chế trong tác động của tài chính toàn

diện lên ổn định ngân hàng cho từng nước riêng lẻ để đảm bảo các khuyến nghị và đề xuất

chính sách thiết thực hơn cho mỗi nước; (2) Kiểm tra ảnh hưởng của chất lượng thể chế về

thay đổi công nghệ tài chính liên quan đến ổn định ngân hàng; (3) Sử dụng thêm nhiều chỉ số

liên quan đến chất lượng thể chế chẳng hạn thể chế kinh tế để đánh giá tác động của chất

lượng thể chế đến ổn định ngân hàng, cũng như ảnh hưởng của chất lượng thể chế đến tác

động của tài chính toàn diện lên ổn định ngân hàng.

Đồng thời, sự thiếu hụt về nguồn dữ liệu thứ cấp nói chung là một trở ngại lớn cho các

nghiên cứu tại trường hợp các nước. Thực tế, có hơn 400 ngân hàng tại các nước ASEAN,

tuy nhiên quá trình thu thập dữ liệu để đảm bảo đủ dữ liệu và dữ liệu chính xác thì luận án chỉ

148

thu thập được 157 ngân hàng trong giai đoạn nghiên cứu. Vì vậy. việc xây dựng, thu thập các

dữ liệu thứ cấp về ngân hàng tại các nước ASEAN cần được hoàn thiện hơn.

149

KẾT LUẬN CHƯƠNG 5

Dựa vào kết quả hồi quy ở chương 4, luận án đưa ra những kết luận trọng yếu nhất của

nghiên cứu, rằng chất lượng thể chế có vai trò quan trọng trong việc điều chỉnh tác động của

tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng của hệ thống ngân hàng các nước ASEAN. Luận

án còn chỉ ra các biến phụ khác có tác động thuận chiều đến ổn định ngân hàng bao gồm quy

mô tài sản, quy mô tín dụng, quy mô vốn chủ sở hữu, canh tranh, tăng trưởng kinh tế; đồng

thời cũng lưu ý việc gia tăng, mở rộng các hoạt động phi lãi nhằm đa dạng hóa thu nhập sẽ

ảnh hưởng xấu đến sự ổn định.

Thúc đẩy tài chính toàn diện, hiện nay vẫn luôn là ưu tiên hàng đầu của chính phủ các

nước ASEAN. Song, đó không phải là việc đơn giản. Để quá trình thực hiện tài chính toàn

diện đạt hiệu quả cao, luận án đưa ra một số hàm ý chính sách dành cho chính phủ các nước

ASEAN. Theo đó, khi thực hiện tài chính toàn diện, Chính phủ các nước ASEAN cần hoàn

thiện thể chế nhằm nâng cao chất lượng thể chế, có như thế mới đảm bảo các mục tiêu đặt ra.

Ngoài ra, việc duy trì một nền kinh tế lành mạnh cũng rất quan trọng cho cả việc thúc đẩy tài

chính toàn diện và ổn định ngân hàng.

Ở cấp độ các ngân hàng, cần tiếp tục gia tăng quy mô tổng tài sản, nâng cao vốn chủ sở

hữu, mở rộng khả năng cho vay, nâng cao năng lực cạnh tranh và quản lý giám sát, bởi những

nhân tố này làm gia tăng tính ổn định cho hệ thống ngân hàng. Đồng thời, các ngân hàng cần

điều chỉnh các hoạt động thu nhập phi lãi vì nó có tác động làm giảm mức độ ổn định ngân

hàng.

Tóm lại nghiên cứu đã hoàn thiện các khoảng trống sau đây:

- Thứ nhất, kiểm định tác động của tài chính toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước

ASEAN.

- Thứ hai, kiểm định tác động của chất lượng thể chế đến ổn định ngân hàng ở các nước

ASEAN

- Thứ hai, xác định rõ ảnh hưởng của chất lượng thể chế đối với tác động của tài chính

toàn diện đến ổn định ngân hàng ở các nước ASEAN.

- Thứ ba, bên cạnh sử dụng biến Z-Score đại điện cho rủi ro tổng thể của ngân hàng,

luận án còn sử dụng thêm biến Z-Score hiệu chỉnh và biến nợ xấu (NPL) để làm tăng

tính vững cho kết quả đưa ra.

150

Tuy nhiên, luận án còn một số hạn chế như đề cập trên, do đó, trong tương lai, luận án sẽ

tiếp tục hoàn thiện theo những hướng nghiên cứu đã đưa ra.

i

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Abuzayed, B., Al-Fayoumi, N., & Molyneux, P. (2018). Diversification and bank stability in

the GCC. Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 57, 17-

43. doi:https://doi.org/10.1016/j.intfin.2018.04.005

Acemoglu, D., Johnson, S., & Robinson, J. A. (2012). The colonial origins of comparative

development: An empirical investigation: Reply. American Economic Review, 102(6),

3077-3110. doi:DOI: 10.1257/aer.91.5.1369

Acharya, V. V. (2009). A theory of systemic risk and design of prudential bank regulation.

Journal of Financial Stability, 5(3), 224-255.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2009.02.001

Acharya, V. V., Hasan, I., & Saunders, A. (2006). Should banks be diversified? Evidence

from individual bank loan portfolios. the Journal of Business, 79(3), 1355-1412.

ADB. (2013). Supporting Good Governance: A Thematic Evaluation Study of ADB.

Retrieved from https://www.adb.org/sites/default/files/evaluation-

document/36108/files/eap-tes-governance.pdf

Aduda, J., & Kalunda, E. (2012). Financial inclusion and financial sector stability with

reference to Kenya: A review of literature. Journal of Applied Finance and Banking,

2(6), 95.

Adusei, M. (2015). The impact of bank size and funding risk on bank stability. Cogent

Economics & Finance, 3(1), 1111489.

Agoraki, M.-E. K., Delis, M. D., & Pasiouras, F. (2011). Regulations, competition and bank

risk-taking in transition countries. Journal of Financial Stability, 7(1), 38-48.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2009.08.002

Ahamed , M., & Mallick , S. (2015). Corporate debt restructuring, bank competition and

stability: Evidence from India.

Ahamed, M. M., & Mallick, S. (2017). Does regulatory forbearance matter for bank stability?

Evidence from creditors’ perspective. Journal of Financial Stability, 28, 163-180.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2017.01.001

Ahamed, M. M., & Mallick, S. K. (2019). Is financial inclusion good for bank stability?

International evidence. 157, 403-427. doi:https://doi.org/10.1016/j.jebo.2017.07.027

ii

Ajide, K. B., & Raheem, I. D. (2016). Institutions-FDI nexus in ECOWAS countries. Journal

of African Business, 17(3), 319-341.

doi:https://doi.org/10.1080/15228916.2016.1180778

Akadiri, S., Eluwole, K. K., Akadiri, A. C., Avci, T. J. J. o. H., & Management, T. (2020).

Does causality between geopolitical risk, tourism and economic growth matter?

Evidence from Turkey. 43, 273-277.

Akerlof, G. A. (1970). Quality uncertainty and the market mechanism. The quarterly journal

of economics, 84(3), 488-500.

Akileng, G., Lawino, G. M., & Nzibonera, E. (2018). Evaluation of determinants of financial

inclusion in Uganda. Journal of Applied Finance and Banking, 8(4), 47-66.

Akins, B., Dou, Y., & Ng, J. (2017). Corruption in bank lending: The role of timely loan loss

recognition. Journal of accounting and economics, 63(2-3), 454-478.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jacceco.2016.08.003

Al-Humairi, G. T. M., Al-Jubouri, A. D. A., & Mahmood, E. A. (2020). The effect of financial

inclusion on enhancing financial stability in Iraq for the period (2004-2018). Journal

of Archaeology of Egypt/Egyptology, 17(6), 10189-10203.

Al-Khouri, R., & Arouri, H. (2016). The simultaneous estimation of credit growth, valuation,

and stability of the Gulf Cooperation Council banking industry. Economic Systems,

40(3), 499-518. doi:https://doi.org/10.1016/j.ecosys.2015.12.005

Al-Shboul, M., Maghyereh, A., Hassan, A., & Molyneux, P. (2020). Political risk and bank

stability in the Middle East and North Africa region. Pacific-Basin Finance Journal,

60, 101291. doi:https://doi.org/10.1016/j.pacfin.2020.101291

Al-Smadi, M. (2018). The role of financial inclusion in financial stability: lesson from Jordan.

Banks Bank Systems, 13(4), 31-39.

Alam Siddik, M. N., & Kabiraj, S. (2018). Does Financial Inclusion Induce Financial

Stability? Evidence from Cross-country Analysis. Australasian Accounting, Business

and Finance Journal, 12(1), 33-46. doi:10.14453/aabfj.v12i1.3

Alawode, A. A., & Al Sadek, M. (2008). What is financial stability. Financial Stability Paper

Series, 1.

Albaity, M., Mallek, R. S., & Noman, A. H. M. (2019). Competition and bank stability in the

MENA region: The moderating effect of Islamic versus conventional banks. Emerging

Markets Review, 38, 310-325. doi:https://doi.org/10.1016/j.ememar.2019.01.003

iii

Ali, H. S., Law, S. H., Yusop, Z., & Chin, L. (2016). Institutional Quality and Financial

Inclusion Nexus in Developing Countries: A Dynamic Panel GMM Estimation

Analysis. Paper presented at the 18th Malaysian Finance Association Annual

Conference (MFAC).

Allen, F., Carletti, E., Cull, R., Qian, J. Q., Senbet, L., & Valenzuela, P. (2014). The African

financial development and financial inclusion gaps. Journal of African Economies,

23(5), 614-642. doi:https://doi.org/10.1093/jae/eju015

Allen, F., Carletti, E., Cull, R., Qian, J. Q., Senbet, L., & Valenzuela, P. (2021). Improving

access to banking: Evidence from Kenya. Review of Finance, 25(2), 403-447.

doi:https://doi.org/10.1093/rof/rfaa024

Allen, F., & Gale, D. (1998). Optimal financial crises. The journal of finance, 53(4), 1245-

1284. doi:https://doi.org/10.1111/0022-1082.00052

Allen, F., & Gale, D. (2000). Financial contagion. Journal of political economy, 108(1), 1-33.

Allen, F., & Gale, D. (2004). Competition and financial stability. Journal of money, credit

banking, 453-480. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfi.2015.12.003

Allen , W. A., & Wood, G. (2006). Defining and achieving financial stability. Journal of

Financial Stability, 2(2), 152-172. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2005.10.001

Alsagr, N. J. (2020). Oil rent, geopolitical risk and banking sector performance.

Alt, J. E., Lassen, D. D. J. T. J. o. L., Economics,, & Organization. (2012). Enforcement and

public corruption: Evidence from the American states. 30(2), 306-338.

Altunbas, Y., Carbo, S., Gardener, E. P., & Molyneux, P. (2007). Examining the relationships

between capital, risk and efficiency in European banking. European Financial

Management, 13(1), 49-70. doi:https://doi.org/10.1111/j.1468-036X.2006.00285.x

Alvi , M. A., Rafique , A., & Shehzad , K. (2020). Financial inclusion and bank stability

controversy: Evidence from South Asian region. International Journal of Financial

Engineering, 07(04), 2050038. doi:https://doi.org/10.1142/S2424786320500383

Amatus, H., & Alireza, N. (2015). Financial inclusion and financial stability in Sub-Saharan

Africa (Ssa). International journal of social sciences, 36(1), 2305-4557.

Amidu, M., & Wolfe, S. (2013). Does bank competition and diversification lead to greater

stability? Evidence from emerging markets. Review of Development Finance, 3(3),

152-166. doi:10.1016/j.rdf.2013.08.002

iv

Amidžic, G., Massara, M. A., & Mialou, A. (2014). Assessing countries’ financial inclusion

standing-A new composite index: International Monetary Fund.

Angelucci, M., Karlan, D., & Zinman, J. (2013). Win some lose some? Evidence from a

randomized microcredit program placement experiment by Compartamos Banco.

Retrieved from

Anginer, D., Demirguc-Kunt, A., & Zhu, M. (2014). How does competition affect bank

systemic risk? Journal of financial Intermediation, 23(1), 1-26.

Anolli, M., Beccalli, E., & Molyneux, P. (2014). Bank earnings forecasts, risk and the crisis.

Journal of International Financial Markets, Institutions and Money, 29, 309-335.

doi:https://doi.org/10.1016/j.intfin.2014.01.003

Anthony-Orji, O. I., Orji, A., Ogbuabor, J. E., & Nwosu, E. O. (2019). Do financial stability

and institutional quality have impact on financial inclusion in developing economies?

A new evidence from Nigeria. International Journal of Sustainable Economy, 11(1),

18-40. doi:https://doi.org/10.1504/IJSE.2019.096541

Arellano, M., & Bover, O. (1995). Another look at the instrumental variable estimation of

error-components models. Journal of econometrics, 68(1), 29-51.

doi:https://doi.org/10.1016/0304-4076(94)01642-D

Ariss, R. T. (2010). Competitive conditions in Islamic and conventional banking: A global

perspective. Review of Financial Economics, 19(3), 101-108.

doi:10.1016/j.rfe.2010.03.002

Aron, J. (2000). Growth and institutions: a review of the evidence. The World Bank Research

Observer, 15(1), 99-135.

Arun, T., & Kamath, R. (2015). Financial inclusion: Policies and practices. IIMB Management

Review, 27(4), 267-287. doi:https://doi.org/10.1016/j.iimb.2015.09.004

Ashraf , B. N., Zheng, C., & Arshad, S. (2016). Effects of national culture on bank risk-taking

behavior. Research in International Business and Finance, 37, 309-326.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2016.01.015

Ashraf, N., Karlan, D., & Yin, W. (2010). Female empowerment: Impact of a commitment

savings product in the Philippines. World Development, 38(3), 333-344.

Asiedu, E. (2003). Foreign direct investment to Africa: The role of government policy,

governance and political instability. Department of Economics, University of Kansas.

v

Aslan, G., Deléchat, C., Newiak, M. M., & Yang, M. F. (2017). Inequality in financial

inclusion and income inequality: International Monetary Fund.

Asteriou, D., Pilbeam, K., & Tomuleasa, I. (2021). The impact of corruption, economic

freedom, regulation and transparency on bank profitability and bank stability:

Evidence from the Eurozone area. Journal of Economic Behavior & Organization,

184, 150-177.

Athanasoglou, P., Delis, M., & Staikouras, C. (2006). Determinants of bank profitability in

the South Eastern European region.

Atkinson, A., & Messy, F.-A. (2013). Promoting financial inclusion through financial

education: OECD/INFE evidence, policies and practice.

doi:https://doi.org/10.1787/20797117

Ayaydin, H., & Karakaya, A. (2014). The effect of bank capital on profitability and risk in

Turkish banking. International Journal of Business and Social Science, 5(1).

Bae, K. H., & Goyal, V. K. (2009). Creditor rights, enforcement, and bank loans. The journal

of finance, 64(2), 823-860. doi:https://doi.org/10.1111/j.1540-6261.2009.01450.x

Baele, L., Jonghe, O., & Vander Vennet, R. (2007). Does the stock market value bank

diversification? Journal of banking & Finance, 31(7), 1999-2023.

Bai, G., & Elyasiani, E. (2013). Bank stability and managerial compensation. Journal of

banking & Finance, 37(3), 799-813.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2012.10.026

Baker, H. K., & Ricciardi, V. (2015). Understanding behavioral aspects of financial planning

and investing. Journal of financial Planning, 28(3), 22-26.

Balutel, D. (2020). Institutional quality and financial instability. Journal of Public

Administration, Finance and Law(17), 154-162.

Barth, J. R., Caprio Jr, G., & Levine, R. (2004). Bank regulation and supervision: what works

best? Journal of financial Intermediation, 13(2), 205-248.

Barth, J. R., Lin, C., Ma, Y., Seade, J., & Song, F. M. (2013). Do bank regulation, supervision

and monitoring enhance or impede bank efficiency? Journal of banking & Finance,

37(8), 2879-2892.

Bateni, L., Vakilifard, H., & Asghari, F. (2014). The influential factors on capital adequacy

ratio in Iranian banks. International Journal of Economics and Finance, 6(11), 108-

116.

vi

Baum, C. F., Caglayan, M., & Xu, B. (2021). The impact of uncertainty on financial

institutions: A cross‐country study. International Journal of Finance & Economics,

26(3), 3719-3739. doi:https://doi.org/10.1002/ijfe.1983

Beaver, W. H. (1966). Financial ratios as predictors of failure. Journal of accounting

research, 71-111.

Beck, T. (2016). Financial Inclusion–Measuring progress and progress in measuring. Paper

presented at the This paper was written for the Fourth IMF Statistical Forum “Lifting

the Small Boats: Statistics for Inclusive Growth. Cass Business School, City,

University of London, CEPR, and CESifo.

Beck, T., De Jonghe, O., & Schepens, G. (2013). Bank competition and stability: Cross-

country heterogeneity. Journal of financial Intermediation, 22(2), 218-244.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfi.2012.07.001

Beck, T., Demirgüç-Kunt, A., & Levine, R. (2006). Bank supervision and corruption in

lending. Journal of monetary economics, 53(8), 2131-2163.

Beck, T., Demirgüç-Kunt, A., & Levine, R. (2007). Finance, inequality and the poor. Journal

of economic growth, 12(1), 27-49.

Bektas, E., Elbadri, M., & Molyneux, P. (2022). Do institutions, religion and the economic

cycle impact bank stability in dual banking systems? Journal of International

Financial Management & Accounting. doi:https://doi.org/10.1111/jifm.12146

Berger, A. N., & DeYoung, R. (1997). Problem loans and cost efficiency in commercial

banks. Journal of banking & Finance, 21(6), 849-870.

doi:https://doi.org/10.1016/S0378-4266(97)00003-4

Berger, A. N., Hasan, I., & Zhou, M. (2010). The effects of focus versus diversification on

bank performance: Evidence from Chinese banks. Journal of banking & Finance,

34(7), 1417-1435.

Berger, A. N., Klapper, L. F., & Turk-Ariss, R. (2017). Bank competition and financial

stability Handbook of Competition in Banking and Finance: Edward Elgar Publishing.

Berger, A. N., & Udell, G. F. (1998). The economics of small business finance: The roles of

private equity and debt markets in the financial growth cycle. Journal of banking &

Finance, 22(6-8), 613-673. doi:https://doi.org/10.1016/S0378-4266(98)00038-7

Bermpei, T., Kalyvas, A., & Nguyen, T. C. (2018). Does institutional quality condition the

effect of bank regulations and supervision on bank stability? Evidence from emerging

vii

and developing economies. International Review of Financial Analysis, 59, 255-275.

doi:https://doi.org/10.1016/j.irfa.2018.06.002

Bhandari, B. S. (2018). Life insurance-social security & financial inclusion. Bimaquest, 18(2).

Bhargava, V. (2005). The cancer of corruption. Paper presented at the World bank global

issues seminar series.

Black, F. (1975). Bank funds management in an efficient market. Journal of financial

economics, 2(4), 323-339. doi:https://doi.org/10.1016/0304-405X(75)90008-2

Blundell, R., & Bond, S. (1998). Initial conditions and moment restrictions in dynamic panel

data models. Journal of econometrics, 87(1), 115-143.

doi:https://doi.org/10.1016/S0304-4076(98)00009-8

Blundell, R., Dixit, A. K., & Sherrerd, J. J. (2004). Lawlessness and economics: Alternative

modes of governance (Vol. 5): Princeton University Press.

Bongomin, G. O. C., Munene, J. C., Ntayi, J. M., & Malinga, C. A. (2018). Analyzing the

relationship between institutional framework and financial inclusion in rural Uganda.

International Journal of Emerging Markets, 13(4), 606-630. doi:10.1108/IJoEM-02-

2017-0057

Bonin, J., Hasan, I., & Wachtel, P. (2014). Banking in transition countries.

Boot, A. W., & Schmeits, A. (2000). Market discipline and incentive problems in

conglomerate firms with applications to banking. Journal of financial Intermediation,

9(3), 240-273. doi:https://doi.org/10.1006/jfin.2000.0287

Boot, A. W., & Thakor, A. V. (1993). Self-interested bank regulation. The American

economic review, 206-212.

Bouheni, F. B. (2014). Banking regulation and supervision: can it enhance stability in Europe?

Journal of Financial Economic Policy.

Boulanouar, Z., Alqahtani, F., & Hamdi, B. (2021). Bank ownership, institutional quality and

financial stability: evidence from the GCC region. Pacific-Basin Finance Journal, 66,

101510.

Boyd, J. H., & De Nicolo, G. (2005). The theory of bank risk taking and competition revisited.

The journal of finance, 60(3), 1329-1343.

Boyd, J. H., De Nicolò, G., & Jalal, A. M. (2006). Bank risk-taking and competition revisited:

New theory and new evidence.

viii

Boyd, J. H., & Runkle, D. E. (1993). Size and performance of banking firms: Testing the

predictions of theory. Journal of monetary economics, 31(1), 47-67.

Bradley, D., Pantzalis, C., & Yuan, X. (2016). Policy risk, corporate political strategies, and

the cost of debt. Journal of Corporate Finance, 40, 254-275.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2016.08.001

Brandt, M. W., & Gao, L. J. J. o. E. F. (2019). Macro fundamentals or geopolitical events? A

textual analysis of news events for crude oil. 51, 64-94.

Brighi, P., & Venturelli, V. (2016). How functional and geographic diversification affect bank

profitability during the crisis. Finance Research Letters, 16, 1-10.

doi:https://doi.org/10.1016/j.frl.2015.10.020

Brown, C. O., & Dinç, I. S. (2011). Too many to fail? Evidence of regulatory forbearance

when the banking sector is weak. The Review of Financial Studies, 24(4), 1378-1405.

doi:https://doi.org/10.1093/rfs/hhp039

Brown , M., Trautmann, S. T., & Vlahu, R. (2017). Understanding bank-run contagion.

Management Science, 63(7), 2272-2282.

Bruhn, M., & Love, I. (2014). The real impact of improved access to finance: Evidence from

Mexico. The journal of finance, 69(3), 1347-1376.

doi:https://doi.org/10.1111/jofi.12091

Brunnermeier, M. K., & Pedersen, L. H. (2009). Market liquidity and funding liquidity. The

Review of Financial Studies, 22(6), 2201-2238. doi:https://doi.org/10.1093/rfs/hhn098

Burgess, R., & Pande, R. (2005). Do rural banks matter? Evidence from the Indian social

banking experiment. American Economic Review, 95(3), 780-795.

Bushman, R. M., & Piotroski, J. D. (2006). Financial reporting incentives for conservative

accounting: The influence of legal and political institutions. Journal of accounting and

economics, 42(1-2), 107-148. doi:https://doi.org/10.1016/j.jacceco.2005.10.005

Caballero, R. J., Cowan, K., Engel, E., & Micco, A. (2004). Effective labor regulation and

microeconomic flexibility: National Bureau of Economic Research Cambridge, Mass.,

USA.

Cai, W., Xu, F., & Zeng, C. (2016). Geographical diversification and bank performance:

Evidence from China. Economics Letters, 147, 96-98.

doi:https://doi.org/10.1016/j.econlet.2016.08.022

ix

Calomiris, C. W., & Kahn, C. M. (1991). The role of demandable debt in structuring optimal

banking arrangements. The American economic review, 497-513.

Camara, N., Pena, X., & Tuesta, D. (2014). Factors that matter for financial inclusion:

Evidence from Peru (No. 1409).

Caminal, R., & Matutes, C. (2002). Market power and banking failures. International Journal

of Industrial Organization, 20(9), 1341-1361.

Canh, N. P., Schinckus, C., Su, T. D., & Chong, F. H. L. (2021). Institutional quality and risk

in the banking system. Journal of Economics, Finance and Administrative Science.

Carlson, M., & Mitchener, K. J. (2005). Branch banking, bank competition, and financial

stability: National Bureau of Economic Research Cambridge, Mass., USA.

Carretta, A., Farina, V., Fiordelisi, F., Schwizer, P., & Lopes, F. S. S. (2015). Don’t stand so

close to me: The role of supervisory style in banking stability. Journal of banking &

Finance, 52, 180-188. doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2014.09.015

Chakravarty, S. R., & Pal, R. (2013). Financial inclusion in India: An axiomatic approach.

Journal of Policy Modeling, 35(5), 813-837.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jpolmod.2012.12.007

Chari, V. V., & Jagannathan, R. (1988). Banking panics, information, and rational

expectations equilibrium. The journal of finance, 43(3), 749-761.

Chen , H.-Y., & Chen, S.-S. (2018). Quality of government institutions and spreads on

sovereign credit default swaps. Journal of International Money and Finance, 87, 82-

95. doi:Quality of government institutions and spreads on sovereign credit default

swaps

Chen, M., Jeon, B. N., Wang, R., & Wu, J. (2015). Corruption and bank risk-taking: Evidence

from emerging economies. Emerging Markets Review, 24, 122-148.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ememar.2015.05.009

Cheng, C. H. J., & Chiu, C.-W. J. J. I. e. (2018). How important are global geopolitical risks

to emerging countries? , 156, 305-325.

doi:https://doi.org/10.1016/j.inteco.2018.05.002

Chiaramonte, L., Liu, H., Poli, F., & Zhou, M. (2016). How Accurately Can Z‐score Predict

Bank Failure? Financial markets, institutions & instruments, 25(5), 333-360.

doi:https://doi.org/10.1111/fmii.12077

x

Chiorazzo, V., Milani, C., & Salvini, F. (2008). Income diversification and bank performance:

Evidence from Italian banks. Journal of Financial Services Research, 33(3), 181-203.

Chortareas, G. E., Girardone, C., & Ventouri, A. (2012). Bank supervision, regulation, and

efficiency: Evidence from the European Union. Journal of Financial Stability, 8(4),

292-302.

Chortareas, G. E., Girardone, C., & Ventouri, A. (2013). Financial freedom and bank

efficiency: Evidence from the European Union. Journal of banking & Finance, 37(4),

1223-1231.

Čihák, M., & Hesse, H. (2010). Islamic banks and financial stability: An empirical analysis.

Journal of Financial Services Research, 38(2), 95-113.

Čihák, M., Mare, D. S., & Melecky, M. (2016). The nexus of financial inclusion and financial

stability: A study of trade-offs and synergies. World Bank Policy Research Working

Paper(7722).

Čihák, M., & Tieman, A. (2007). Assessing current prudential arrangements. Integrating

Europe’s Financial Markets, 171-198.

Coase, R. (1998). The new institutional economics. The American economic review, 88(2),

72-74.

Cohen , K. J., Hawawini, G. A., Maier, S. F., Schwartz, R. A., & Whitcomb, D. K. (1983).

Friction in the trading process and the estimation of systematic risk. Journal of

financial economics, 12(2), 263-278. doi:https://doi.org/10.1016/0304-

405X(83)90038-7

Cohen, M., & Nelson, C. (2011). Financial literacy: A step for clients towards financial

inclusion. Global Microcredit Summit, 14-17.

Commons, J. R. (1931). Institutional economics. The American economic review, 648-657.

Conning, J. (1999). Outreach, sustainability and leverage in monitored and peer-monitored

lending. Journal of Development Economics, 60(1), 51-77.

doi:https://doi.org/10.1016/S0304-3878(99)00036-X

Connolly, M., & James, C. (2006). Collaboration for school improvement: A resource

dependency and institutional framework of analysis. Educational Management

Administration & Leadership, 34(1), 69-87.

doi:https://doi.org/10.1177/1741143206059540

xi

Crockett , A. (1997). Why is financial stability a goal of public policy? Economic Review, 82,

5-22.

Cull, R., Demirgüç-Kunt, A., & Lyman, T. (2012). Financial inclusion and stability: What

does research show?

Daher, M. J. J. o. C. F. (2017). Creditor control rights, capital structure, and legal enforcement.

44, 308-330. doi:https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2017.04.002

Dang, V. C., & Nguyen, Q. K. (2021). Determinants of FDI attractiveness: Evidence from

ASEAN-7 countries. Cogent Social Sciences, 7(1), 2004676.

doi:https://doi.org/10.1080/23311886.2021.2004676

Danisman, G. O., & Tarazi, A. (2020). Financial inclusion and bank stability: evidence from

Europe. The European Journal of Finance, 26(18), 1842-1855.

doi:https://doi.org/10.1080/1351847X.2020.1782958

Das, D., Kannadhasan, M., Bhattacharyya, M. J. T. N. A. J. o. E., & Finance. (2019). Do the

emerging stock markets react to international economic policy uncertainty,

geopolitical risk and financial stress alike? , 48, 1-19.

doi:https://doi.org/10.1016/j.najef.2019.01.008

Dash, M. K., & Kabra, G. (2010). The determinants of non-performing assets in Indian

commercial bank: An econometric study. Middle Eastern Finance and Economics,

7(2), 94-106.

Davies, R., Richardson, P., Katinaite, V., & Manning, M. J. (2010). Evolution of the UK

banking system. Bank of England Quarterly Bulletin, Q4.

Davis, E. P. (2003). Towards a typology for systemic financial instability.

De Bandt, O., & Hartmann, P. (2000). Systemic risk: a survey. Available at SSRN 258430.

De Haan, J., & Poghosyan, T. (2012). Bank size, market concentration, and bank earnings

volatility in the US. Journal of International Financial Markets, Institutions and

Money, 22(1), 35-54. doi:https://doi.org/10.1016/j.intfin.2011.07.002

Delis, M. D. (2012). Bank competition, financial reform, and institutions: The importance of

being developed. Journal of Development Economics, 97(2), 450-465.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jdeveco.2011.05.012

Delis, M. D., & Staikouras, P. K. (2011). Supervisory effectiveness and bank risk. Review of

Finance, 15(3), 511-543. doi:https://doi.org/10.1093/rof/rfq035

xii

Demir, E., Danisman, G. O. J. T. N. A. J. o. E., & Finance. (2021). The impact of economic

uncertainty and geopolitical risks on bank credit. 57, 101444.

Demirgruc-Kunt, A., & Huizinga, H. (2013). Are banks too big to fail or too big to save?

International evidence from equity prices and CDS spreads. Journal of banking &

Finance, 37(3), 875-894. doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2012.10.010

Demirgruc-Kunt, A., & Klapper, L. (2013). Measuring financial inclusion: Explaining

variation in use of financial services across and within countries. Brookings Papers on

Economic Activity, 2013(1), 279-340.

Demirgruc-Kunt , A., & Levine, R. (1999). Bank-based and market-based financial systems:

Cross-country comparisons. Available at SSRN 569255.

Demirgüç-Kunt , A., & Detragiache, E. (1997). The determinants of banking crises-evidence

from developing and developed countries (Vol. 106): World Bank Publications.

Demirgüç-Kunt, A., & Detragiache, E. (1998). The determinants of banking crises in

developing and developed countries. Staff Papers, 45(1), 81-109.

doi:https://doi.org/10.2307/3867330

Demirgüç-Kunt, A., & Detragiache, E. (2005). Cross-country empirical studies of systemic

bank distress: a survey. National Institute Economic Review, 192, 68-83.

doi:https://doi.org/10.1177/002795010519200108

Demirgüç-Kunt, A., Honohan, P., & Beck, T. (2008). Finance for all?: Policies and Pitfalls

in Expanding Access: World bank.

Demirguc-Kunt, A., & Huizinga, H. (2010). Are banks too big to fail or too big to save?

International evidence from equity prices and CDS spreads: The World Bank.

Demirgüç-Kunt , A., & Huizinga, H. (1999). Determinants of commercial bank interest

margins and profitability: some international evidence. The world bank economic

review, 13(2), 379-408. doi:https://doi.org/10.1093/wber/13.2.379

Demirguc-Kunt, A., Laeven, L., & Levine, R. (2003). Regulations, market structure,

institutions, and the cost of financial intermediation: National Bureau of Economic

Research Cambridge, Mass., USA.

Demirgüç-Kunt, A., & Levine, R. (2001). Financial structure and economic growth:

Perspectives and lessons. Financial Structure and Economic Growth, 1.

xiii

Deng, S., & Elyasiani, E. (2008). Geographic diversification, bank holding company value,

and risk. Journal of Money, Credit and Banking, 40(6), 1217-1238.

doi:https://doi.org/10.1111/j.1538-4616.2008.00154.x

DeYoung, R., & Roland, K. P. (2001). Product mix and earnings volatility at commercial

banks: Evidence from a degree of total leverage model. Journal of financial

Intermediation, 10(1), 54-84.

Diaby, A., & Sylwester, K. (2015). Corruption and market competition: Evidence from post-

communist countries. World Development, 66, 487-499.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2014.09.003

Diaconu, R.-I., & Oanea, D.-C. (2014). The main determinants of bank's stability. Evidence

from Romanian banking sector. Procedia Economics Finance, 16, 329-335.

Diaconu , R., & Oane, D. (2014). The Main Determinants of Bank's Stability. Evidence from

Romanian Banking Sector. Procedia Economics and Finance, 16, 329-335.

doi:http://doi.org/10.1016/s2212-5671(14)00810-7

Diamond, D. W., & Dybvig, P. H. (1983). Bank runs, deposit insurance, and liquidity. Journal

of political economy, 91(3), 401-419.

Dienillah, A. A., Anggraeni, L., & Sahara, S. (2018). Impact of financial inclusion on

financial stability based on income group countries. 20(4), 429-442.

doi:https://doi.org/10.21098/bemp.v20i4.859

Dietrich, A., & Wanzenried, G. (2011). Determinants of bank profitability before and during

the crisis: Evidence from Switzerland. Journal of International Financial Markets,

Institutions and Money, 21(3), 307-327.

doi:https://doi.org/10.1016/j.intfin.2010.11.002

Dinger, V. (2009). Do foreign-owned banks affect banking system liquidity risk? Journal of

Comparative Economics, 37(4), 647-657.

Djatche, M. J. N. (2019). Re-exploring the nexus between monetary policy and banks' risk-

taking. Economic modelling, 82, 294-307.

doi:https://doi.org/10.1016/j.econmod.2019.01.016

Drobak, J., & Nye, J. (1997). The frontiers of the new institutional economics.

Dutta, K. D., & Saha, M. (2019). Nexus of Competition, Concentration, Financial Inclusion

and Financial stability in banking industry of Asian Emerging economies.

xiv

Dwumfour, R. A., & Ntow-Gyamfi, M. (2018). Natural resources, financial development and

institutional quality in Africa: is there a resource curse? Resources Policy, 59, 411-

426. doi:https://doi.org/10.1016/j.resourpol.2018.08.012

Dymski, G. A., & Veitch, J. M. (1996). Financial transformation and the metropolis: booms,

busts, and banking in Los Angeles. Environment and Planning A, 28(7), 1233-1260.

doi:https://doi.org/10.1068%2Fa281233

Essid, Z., Boujelbene, Y., & Plihon, D. (2014). Institutional quality and bank instability:

cross-countries evidence in emerging countries.

Estrin, S., Baghdasaryan, D., & Meyer, K. E. (2009). The impact of institutional and human

resource distance on international entry strategies. Journal of Management Studies,

46(7), 1171-1196. doi:https://doi.org/10.1111/j.1467-6486.2009.00838.x

Evans, P., & Karras, G. (1996). Convergence revisited. Journal of monetary economics, 37(2),

249-265.

Fama, E. F., & Jensen, M. C. (1983). Agency problems and residual claims. The journal of

law and Economics, 26(2), 327-349.

Fang, Y., Hasan, I., & Marton, K. (2014). Institutional development and bank stability:

Evidence from transition countries. Journal of banking & Finance, 39, 160-176.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.11.003

Fang, Y., & Lelyveld, I. (2014). Geographic diversification in banking. Journal of Financial

Stability, 15, 172-181. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2014.08.009

Fazio, D. M., Silva, T. C., Tabak, B. M., & Cajueiro, D. O. (2018). Inflation targeting and

financial stability: Does the quality of institutions matter? Economic modelling, 71, 1-

15. doi:https://doi.org/10.1016/j.econmod.2017.09.011

Feghali, K., Mora, N., & Nassif, P. (2021). Financial inclusion, bank market structure, and

financial stability: International evidence. The Quarterly Review of Economics and

Finance, 80, 236-257. doi:https://doi.org/10.1016/j.qref.2021.01.007

Fernández, A. I., González, F., & Suárez, N. (2016). Banking stability, competition, and

economic volatility. Journal of Financial Stability, 22, 101-120.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2016.01.005

Field, A. (2013). Discovering statistics using IBM SPSS statistics: sage.

Flak, L. S., & Rose, J. (2005). Stakeholder governance: Adapting stakeholder theory to e-

government. Communications of the Association for Information Systems, 16(1), 31.

xv

Flamini, V., McDonald, C. A., & Schumacher, L. B. (2009). The determinants of commercial

bank profitability in Sub-Saharan Africa. IMF Working Papers, 2009(015).

Flannery, M. J., & Hankins, K. W. (2013). Estimating dynamic panel models in corporate

finance. Journal of Corporate Finance, 19, 1-19.

Francis, E., Matar, N., Khoueir, N., Nassif, C., Farah, C., & Haddad, A. (2014). T4a laryngeal

cancer survival: retrospective institutional analysis and systematic review. The

Laryngoscope, 124(7), 1618-1623. doi:https://doi.org/10.1002/lary.24557

Fratianni, M. U., & Marchionne, F. (2009). The role of banks in the subprime financial crisis.

Review of Economic Conditions in Italy, 1.

Freeman, R. E. (1984). Strategic Management: A Stakeholder Approach, Boston, Pitman.

Lukas, Janina (2017): Ethik als Standard in der Beschaffung. Werte und Normen als

Gestaltungsausgangspunkt von Nicht-Regierungs-Organisationen. Wiesbaden:

Springer Gabler.

Freixas, X., & Parigi, B. (1998). Contagion and efficiency in gross and net interbank payment

systems. Journal of financial Intermediation, 7(1), 3-31.

doi:https://doi.org/10.1006/jfin.1998.0230

Fu, X. M., Lin, Y. R., & Molyneux, P. (2014). Bank competition and financial stability in

Asia Pacific. Journal of banking Finance, 38, 64-77.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2013.09.012

Fungáčová, Z., & Weill, L. (2015). Understanding financial inclusion in China. China

Economic Review, 34, 196-206.

Galbraith, J. K. (2004). The economics of innocent fraud: Truth for our time: Houghton

Mifflin Harcourt.

García, M. J. R. (2016). Can financial inclusion and financial stability go hand in hand.

Economic Issues, 21(2), 81-103.

Ghosh , M. M., & Ghosh , A. (2014). Financial inclusion Strategies of banks: study of Indian

states. International Journal of Applied Financial Management Perspectives, 3(2),

990-996.

Glaeser, E. L., La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., & Shleifer, A. (2004). Do institutions cause

growth? Journal of economic growth, 9(3), 271-303.

xvi

Goddard, J., Liu, H., Molyneux, P., & Wilson, J. O. (2011). The persistence of bank profit.

Journal of banking & Finance, 35(11), 2881-2890.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2011.03.015

Goetz, M. R. (2018). Competition and bank stability. Journal of financial Intermediation, 35,

57-69. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfi.2017.06.001

Goetz, M. R., Laeven, L., & Levine, R. (2013). Identifying the valuation effects and agency

costs of corporate diversification: Evidence from the geographic diversification of US

banks. The Review of Financial Studies, 26(7), 1787-1823.

doi:https://doi.org/10.1093/rfs/hht021

Greif, A. (2000). The fundamental problem of exchange: a research agenda in historical

institutional analysis. European Review of Economic History, 4(3), 251-284.

doi:https://doi.org/10.1017/S1361491600000071

Gugler, K., Mueller, D. C., Peev, E., & Segalla, E. (2013). Institutional determinants of

domestic and foreign subsidiaries’ performance. International Review of Law and

Economics, 34, 88-96. doi:https://doi.org/10.1016/j.irle.2013.01.003

Guo, J. j., Wang, G. c., & Tung, C. h. (2014). Do China's outward direct investors prefer

countries with high political risk? An international and empirical comparison. China

& World Economy, 22(6), 22-43. doi:https://doi.org/10.1111/cwe.12090

Gupte, R., Venkataramani, B., & Gupta, D. (2012). Computation of financial inclusion index

for India. Procedia-Social Behavioral Sciences, 37, 133-149.

doi:https://doi.org/10.1016/j.sbspro.2012.03.281

Guy, K., & Lowe, S. (2011). Non-performing loans and bank stability in Barbados. Economic

Review, 37(1), 77-99. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfi.2006.03.001

Han, R., & Melecky, M. (2013). Financial inclusion for financial stability: Access to bank

deposits and the growth of deposits in the global financial crisis: The World Bank

Policy Reaserch Working Paper No.6577.

Hannig, A., & Jansen, S. (2010). Financial inclusion and financial stability: Current policy

issues. ADBI Working Paper No.259. doi:https://dx.doi.org/10.2139/ssrn.1729122

Hanousek, J., Shamshur, A., & Tresl, J. (2019). Firm efficiency, foreign ownership and CEO

gender in corrupt environments. Journal of Corporate Finance, 59, 344-360.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jcorpfin.2017.06.008

xvii

Haq, M., & Heaney, R. (2012). Factors determining European bank risk. Journal of

International Financial Markets, Institutions and Money, 22(4), 696-718.

doi:https://doi.org/10.1016/j.intfin.2012.04.003

Hauswald, R., & Marquez, R. (2006). Competition and strategic information acquisition in

credit markets. The Review of Financial Studies, 19(3), 967-1000.

Hawkins, P. (2006). Financial access and financial stability. Policy Research Working

Paper;No. 6577. World Bank, Washington, DC.

Hayek, F. A. (2011). Law, legislation and liberty, volume 3: The political order of a free

people (Vol. 3): University of Chicago Press.

Hennie, V. G. (2003). Analyzing and managing banking risk: A framework for assessing

corporate governance and financial risk. Washington DC: World Bank Publication.

Hermes, N., Lensink, R., & Meesters, A. (2011). Outreach and efficiency of microfinance

institutions. World Development, 39(6), 938-948.

doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2009.10.018

Herrera-Echeverri, H., Haar, J., & Estévez-Bretón, J. B. (2014). Foreign direct investment,

institutional quality, economic freedom and entrepreneurship in emerging markets.

Journal of Business Research, 67(9), 1921-1932.

Ho, K.-C., Ma, J. Z., Yang, L., & Shi, L. (2019). Do anticorruption efforts affect banking

system stability? The Journal of International Trade & Economic Development, 28(3),

277-298. doi:https://doi.org/10.1080/09638199.2018.1522661

Ho , T. S., & Michaely, R. (1988). Information quality and market efficiency. Journal of

Financial and Quantitative Analysis, 23(1), 53-70.

Honohan, P. (2008). Cross-country variation in household access to financial services.

Journal of Banking

Finance Center Münster, University of Münster, 32(11), 2493-2500.

Hoskisson, R. E., Eden, L., Lau, C. M., & Wright, M. (2000). Strategy in emerging

economies. Academy of management journal, 43(3), 249-267.

doi:https://doi.org/10.5465/1556394

Hosono, K. (2005). Market discipline to banks in Indonesia, the Republic of Korea, Malaysia

and Thailand. Paper presented at the Proceeding ADBI Conference.

xviii

Hou, X., & Wang, Q. (2016). Institutional quality, banking marketization, and bank stability:

Evidence from China. Economic Systems, 40(4), 539-551.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ecosys.2016.01.003

Houston, J. F., Lin, C., Lin, P., & Ma, Y. (2010). Creditor rights, information sharing, and

bank risk taking. Journal of financial economics, 96(3), 485-512.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2010.02.008

Huang, Y. (2010). Political institutions and financial development: an empirical study. World

Development, 38(12), 1667-1677. doi:https://doi.org/10.1016/j.worlddev.2010.04.001

Ibragimov, R., Jaffee, D., & Walden, J. (2011). Diversification disasters. Journal of financial

economics, 99(2), 333-348. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfineco.2010.08.015

Jappelli, T., Pagano, M., & Bianco, M. (2005). Courts and banks: Effects of judicial

enforcement on credit markets. Journal of Money, Credit and Banking, 223-244.

Jiménez, G., Lopez, J. A., & Saurina, J. (2013). How does competition affect bank risk-

taking? Journal of Financial Stability, 9(2), 185-195.

Jokipii, T., Monnin, P., & Finance. (2013). The impact of banking sector stability on the real

economy. Journal of International Money Finance

32, 1-16.

Jude, C., & Levieuge, G. (2015). Growth effect of FDI in developing economies: the role of

institutional quality. doi:https://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2620698

Karlan, D., & Zinman, J. (2010). Expanding credit access: Using randomized supply decisions

to estimate the impacts. The Review of Financial Studies, 23(1), 433-464.

doi:https://doi.org/10.1093/rfs/hhp092

Kasman, S., & Kasman, A. (2015). Bank competition, concentration and financial stability in

the Turkish banking industry. Economic Systems, 39(3), 502-517.

Kasper, W., & Streit, M. E. (1999). Institutional economics. Books.

Kaufmann, D., Kraay, A., & Mastruzzi, M. (2011). The Worldwide Governance Indicators:

Methodology and Analytical Issues1. Hague journal on the rule of law, 3(2), 220-246.

doi:https://doi.org/10.1017/S1876404511200046

Kaufmann, D., Kraay, A., & Zoido-Lobatón, P. (1999). Aggregating governance indicators

(Vol. 2195): world Bank publications.

Keeley, M. C. (1990). Deposit insurance, risk, and market power in banking. The American

economic review, 1183-1200.

xix

Kereta, B. B. (2007). Outreach and financial performance analysis of microfinance

institutions in Ethiopia. Paper presented at the African Economic Conference, Addis

Ababa.

Keynes, J. (1936). The General Theory of Employment, Interest, and Money, edition 1997

from Prometheus Books. New York, originally published by Harcourt, Brace & World,

New York.

Khan, H. (2011). Financial inclusion and financial stability: are they two sides of the same

coin. Deputy Governor of the Reserve Bank of India, at BANCON.

Khemraj, T., & Pasha, S. (2009). The determinants of non-performing loans: an econometric

case study of Guyana.

Khrawish, H. A., & Al-Sa’di, N. M. (2011). The impact of e-banking on bank profitability:

Evidence from Jordan. Middle Eastern Finance Economics Bulletin, 13(1), 142-158.

Kim , D.-W., Yu , J.-S., & Hassan , M. K. (2018). Financial inclusion and economic growth

in OIC countries. Research in International Business and Finance, 43, 1-14.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2017.07.178

Kim, J.-H. (2016). A study on the effect of financial inclusion on the relationship between

income inequality and economic growth. Emerging Markets Finance Trade, 52(2),

498-512. doi:https://doi.org/10.1080/1540496X.2016.1110467

King, M. R. (2019). Time to buy or just buying time? Lessons from October 2008 for the

cross-border bailout of banks. Journal of Financial Stability, 41, 55-72.

Klomp, J., & De Haan, J. (2014). Bank regulation, the quality of institutions, and banking risk

in emerging and developing countries: an empirical analysis. Emerging Markets

Finance and Trade, 50(6), 19-40.

doi:https://doi.org/10.1080/1540496X.2014.1013874

Kolari, J., Glennon, D., Shin, H., & Caputo, M. (2002). Predicting large US commercial bank

failures. Journal of Economics and Business, 54(4), 361-387.

doi:https://doi.org/10.1016/S0148-6195(02)00089-9

Kosmidou, K. (2008). The determinants of banks' profits in Greece during the period of EU

financial integration. Managerial finance.

doi:https://doi.org/10.1108/03074350810848036

Kouki, I., Abid, I., Guesmi, K., & Goutte, S. (2020). Does Financial inclusion affect the

African banking stability? Economics Bulletin, 40(1), 863-879.

xx

Kurtz, M. J., & Schrank, A. (2007). Growth and governance: Models, measures, and

mechanisms. The Journal of Politics, 69(2), 538-554.

Kurul, Z. (2017). Nonlinear relationship between institutional factors and FDI flows:

Dynamic panel threshold analysis. International Review of Economics & Finance, 48,

148-160. doi:https://doi.org/10.1016/j.iref.2016.12.002

La Porta, R., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. (2000). Investor protection and

corporate governance. Journal of financial economics, 58(1-2), 3-27.

doi:https://doi.org/10.1016/S0304-405X(00)00065-9

Laeven, L., & Levine, R. (2009). Bank governance, regulation and risk taking. Journal of

financial economics, 93(2), 259-275.

Laeven, L., & Majnoni, G. (2005). Does judicial efficiency lower the cost of credit? Journal

of banking & Finance, 29(7), 1791-1812.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2004.06.036

Lai, A. (2002). Modelling financial instability: a survey of the literature.

Lalountas, D. A., Manolas, G. A., & Vavouras, I. S. (2011). Corruption, globalization and

development: How are these three phenomena related? Journal of Policy Modeling,

33(4), 636-648. doi:https://doi.org/10.1016/j.jpolmod.2011.02.001

Lam, J. S. L., & Yap, W. Y. (2019). A stakeholder perspective of port city sustainable

development. Sustainability, 11(2), 447. doi:https://doi.org/10.3390/su11020447

Large, A. (2003). Financial stability: maintaining confidence in a complex world. Financial

Stability Review, 170, 174.

Lee, C.-C., & Hsieh, M.-F. (2013). The impact of bank capital on profitability and risk in

Asian banking. Journal of International Money and Finance, 32, 251-281.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2012.04.013

Lenka, S. K., Bairwa, A. K., & McMillan, D. (2016). Does financial inclusion affect monetary

policy in SAARC countries? Cogent Economics & Finance, 4(1), 1127011.

doi:10.1080/23322039.2015.1127011

Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., & Tarazi, A. (2008). Bank income structure and risk: An

empirical analysis of European banks. Journal of banking & Finance, 32(8), 1452-

1467.

Levine, R. (2002). Bank-based or market-based financial systems: which is better? Journal of

financial Intermediation, 11(4), 398-428.

xxi

Leyshon, A., & Thrift, N. (1995). Geographies of financial exclusion: financial abandonment

in Britain and the United States. Transactions of the Institute of British Geographers,

312-341.

Lindset, S., Lund, A.-C., & Persson, S.-A. (2014). Credit risk and asymmetric information: A

simplified approach. Journal of Economic Dynamics and Control, 39, 98-112.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jedc.2013.11.006

Liu, H., Molyneux, P., & Wilson, J. O. S. (2013). Competition and Stability in European

Banking: A Regional Analysis*. The Manchester School, 81(2), 176-201.

doi:10.1111/j.1467-9957.2011.02285.x

Liu, H., & Wilson, J. O. (2010). The profitability of banks in Japan. Applied Financial

Economics, 20(24), 1851-1866. doi:https://doi.org/10.1080/09603107.2010.526577

López, T., & Winkler, A. (2019). Does financial inclusion mitigate credit boom-bust cycles?

Journal of Financial Stability, 43, 116-129.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2019.06.001

Louhichi, A., Louati, S., & Boujelbene, Y. (2020). The regulations–risk taking nexus under

competitive pressure: What about the islamic banking system? Research in

International Business and Finance, 51, 101074.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2019.101074

Manlagñit, M. C. V. (2011). Cost efficiency, determinants, and risk preferences in banking:

A case of stochastic frontier analysis in the Philippines. Journal of Asian Economics,

22(1), 23-35. doi:https://doi.org/10.1016/j.asieco.2010.10.001

Marcus, A. J. (1984). Deregulation and bank financial policy. Journal of banking Finance,

8(4), 557-565.

Markowitz, H. M. (1976). Markowitz revisited. Financial Analysts Journal, 32(5), 47-52.

doi:https://doi.org/10.2469/faj.v32.n5.47

Martinez-Miera, D., & Repullo, R. (2010). Does competition reduce the risk of bank failure?

The Review of Financial Studies, 23(10), 3638-3664.

Martinez Peria, M. S., & Schmukler, S. L. (2001). Do depositors punish banks for bad

behavior? Market discipline, deposit insurance, and banking crises. The journal of

finance, 56(3), 1029-1051.

xxii

Maudos, J. (2012). Financial soundness indicators for the Spanish banking sector: an

international comparison. SEFO-Spanish Economic and Financial Outlook, 1(4), 24-

32.

Mauro, P. (1995). Corruption and growth. The quarterly journal of economics, 110(3), 681-

712. doi:https://doi.org/10.2307/2946696

Mehrotra , A., & Yetman , J. (2015). Financial inclusion-issues for central banks. BIS

Quarterly Review, 83-96.

Mekonnen, Y. (2015). Determinants of capital adequacy of Ethiopia commercial banks.

European Scientific Journal, 11(25).

Méndez, F., & Sepúlveda, F. (2006). Corruption, growth and political regimes: Cross country

evidence. European journal of political economy, 22(1), 82-98.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ejpoleco.2005.04.005

Mercieca, S., Schaeck, K., & Wolfe, S. (2007). Small European banks: Benefits from

diversification? Journal of banking & Finance, 31(7), 1975-1998.

doi:10.1016/j.jbankfin.2007.01.004

Messai, A. S., & Jouini, F. (2013). Micro and macro determinants of non-performing loans.

International Journal of Economics and Financial Issues, 3(4), 852.

Mialou, A., Massara, A., & Amidic, G. (2014). Assessing Countries’ Financial Inclusion

Standing: A New Composite Index. IMF Working Papers, 14(36), 1.

doi:10.5089/9781475569681.001

Mill, J. S. (1994). On the definition and method of political economy. The philosophy of

economics: An anthology, 2, 52-68.

Miller, S. (2015). Information and default in consumer credit markets: Evidence from a

natural experiment. Journal of financial Intermediation, 24(1), 45-70.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jfi.2014.06.003

Mishkin, F. S. (1999). Financial consolidation: Dangers and opportunities. Journal of banking

& Finance(23(2-4)), 675-691. doi:https://doi.org/10.1016/S0378-4266(98)00084-3

Mongid, A. (2007). The political openness of banking system, political governance, law

enforcement and cost of banking crisis: Indonesia in the international perspective.

Paper presented at the 32nd Annual Conference of the Federation of ASEAN

Economist Association FAEA, Bangkok.

xxiii

Mookerjee, R., & Kalipioni, P. (2010). Availability of financial services and income

inequality: The evidence from many countries. Emerging Markets Review, 11(4), 404-

408. doi:https://doi.org/10.1016/j.ememar.2010.07.001

Morgan, P., & Pontines, V. (2014). Financial stability and financial inclusion. ADBI Working

Paper No.488. doi:https://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2464018

Moudud-Ul-Huq, S., Ashraf, B. N., Gupta, A. D., & Zheng, C. (2018). Does bank

diversification heterogeneously affect performance and risk-taking in ASEAN

emerging economies? Research in International Business and Finance, 46, 342-362.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2018.04.007

Moussa, M. A. B. (2015). The relationship between capital and bank risk: Evidence from

Tunisia. International Journal of Economics and Finance, 7(4), 223-232.

Naceur, S. B., Barajas, A., & Massara, A. (2017). Can Islamic banking increase financial

inclusion? Handbook of empirical research on Islam and economic life: Edward Elgar

Publishing.

Naceur , S. B., & Goaied, M. (2001). The determinants of the Tunisian deposit banks'

performance. Applied Financial Economics, 11(3), 317-319.

doi:https://doi.org/10.1080/096031001300138717

Naceur, S. B., & Omran, M. (2011). The effects of bank regulations, competition, and

financial reforms on banks' performance. Emerging Markets Review, 12(1), 1-20.

Nasserinia, A., Ariff, M., & Fan-Fah, C. (2017). Relationship between Participation Bank

Performance and Its Determinants. Pertanika Journal of Social Sciences &

Humanities, 25(2).

Neaime, S., & Gaysset, I. (2017). Sustainability of macroeconomic policies in selected

MENA countries: Post financial and debt crises. Research in International Business

and Finance, 40, 129-140. doi:https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2017.01.001

Neaime, S., & Gaysset, I. (2018). Financial inclusion and stability in MENA: Evidence from

poverty and inequality. Finance Research Letters, 24, 230-237.

doi:https://doi.org/10.1016/j.frl.2017.09.007

Neyer, U. (2004). Asymmetric information in credit markets—implications for the transition

in Eastern Germany. Economic Systems, 28(1), 61-78.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ecosys.2003.11.004

xxiv

Ngalawa, H., Tchana, F. T., & Viegi, N. (2016). Banking instability and deposit insurance:

The role of moral hazard. Journal of Applied Economics, 19(2), 323-350.

doi:https://doi.org/10.1016/S1514-0326(16)30013-7

Nguyen , C. P., Su, T. D., & Nguyen, T. V. H. (2018). Institutional quality and economic

growth: the case of emerging economies. Theoretical Economics Letters, 8(11), 1943.

Nguyen, Q. K. (2022a). Audit committee structure, institutional quality, and bank stability:

evidence from ASEAN countries. Finance Research Letters, 46, 102369.

Nguyen, Q. K. (2022b). The impact of risk governance structure on bank risk management

effectiveness: evidence from ASEAN countries. Heliyon, e11192.

doi:https://doi.org/10.1016/j.heliyon.2022.e11192

Nguyen, Q. K., & Dang, V. C. (2022). Does the country’s institutional quality enhance the

role of risk governance in preventing bank risk? Applied Economics Letters, 1-4.

doi:https://doi.org/10.1080/13504851.2022.2026868

Nie, K. S., Ibrahim, F., Mustapha, S. M., Mokhtar, A., & Shah, S. (2019). A reflection on the

stakeholder theory: Impact of government policies. Search Journal of Media and

Communication Research, 11(3), 111-126.

Nier, E. W. (2005). Bank stability and transparency. Journal of Financial Stability, 1(3), 342-

354. doi:https://doi.org/10.1016/j.jfs.2005.02.007

NikkeiAsia (2021). Nợ xấu Đông Nam Á phình to vì COVID-19-19. Truy cập

tại https://tuoitre.vn/nikkei-asia-no-xau-dong-nam-a-p...

Niu, J. (2012). An empirical analysis of the relation between bank charter value and risk

taking. The Quarterly Review of Economics and Finance, 52(3), 298-304.

doi:https://doi.org/10.1016/j.qref.2012.05.001.

Nkoa, B. E. O., & Song, J. S. (2020). Does institutional quality affect financial inclusion in

Africa? A panel data analysis. Economic Systems, 44(4), 100836.

doi:https://doi.org/10.1016/j.ecosys.2020.100836

North , D. C. (1990). Institutions, institutional change and economic performance: Cambridge

university press.

North, D. C. (1991). Institutions. Journal of economic Perspectives, 5(1), 97-112.

North, D. C. (1993). The new institutional economics and development. Economic History,

9309002, 1-8.

xxv

Oliver, C. (1997). Sustainable competitive advantage: combining institutional and resource‐

based views. Strategic management journal, 18(9), 697-713.

Olken, B. A. J. J. o. p. E. (2007). Monitoring corruption: evidence from a field experiment in

Indonesia. 115(2), 200-249.

Ostrom, E. (1990). Governing the commons: The evolution of institutions for collective action:

Cambridge university press.

Ovi, N. Z., Perera, S., & Colombage, S. (2014). Market power, credit risk, revenue

diversification and bank stability in selected ASEAN countries. South East Asia

Research, 22(3), 399-416. doi:https://doi.org/10.5367%2Fsear.2014.0221

Ozili, P. K. (2020). Theories of financial inclusion Uncertainty and Challenges in

Contemporary Economic Behaviour: Emerald Publishing Limited.

Park, C.-Y., & Mercado, R. (2015). Financial inclusion, poverty, and income inequality in

developing Asia. Asian Development Bank Economics Working Paper Series(426).

doi:https://dx.doi.org/10.2139/ssrn.2558936

Park, C.-Y., & Mercado, R. (2018). Financial inclusion, poverty, and income inequality. The

Singapore Economic Review, 63(01), 185-206.

Park , J. (2012). Corruption, soundness of the banking sector, and economic growth: A cross-

country study. Journal of International Money and Finance, 31(5), 907-929.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jimonfin.2011.07.007

Pasiouras, F., Tanna, S., & Zopounidis, C. (2009). The impact of banking regulations on

banks' cost and profit efficiency: Cross-country evidence. International Review of

Financial Analysis, 18(5), 294-302. doi:https://doi.org/10.1016/j.irfa.2009.07.003

Peng, M. W. (2000). Business strategies in transition economies: Sage.

Perry, P. (1992). Do banks gain or lose from inflation? Journal of retail banking, 14(2), 25-

31.

Petersen, M. A., & Rajan, R. G. (1994). The effect of credit market competition on lending

relationships. Retrieved from

Pindyck, R. S., & Rubinfeld, D. (2005). Microeconomics (6th edn). Upper Saddle River, NJ.

Pindyck, R. S., Rubinfeld, D. L., & Rabasco, E. (2013). Microeconomia: Pearson Educación.

Poghosyan, T., & Martin, Č. (2011). Determinants of Bank Distress in Europe: Evidence form

a New Data Set. Journal of Financial Services Research. doi:doi: 10.1007/s10693-

011-0103-1.

xxvi

Pollard, J. S. (1996). Banking at the margins: a geography of financial exclusion in Los

Angeles. Environment and Planning A, 28(7), 1209-1232.

doi:https://doi.org/10.1068%2Fa281209

Porta, R. L., Lopez-de-Silanes, F., Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1998). Law and finance.

Journal of political economy, 106(6), 1113-1155. doi:https://doi.org/10.1086/250042

Prasad, E. S. (2010). Financial sector regulation and reforms in emerging markets: An

overview. doi:http://doi.org/10.3386/w16428

Qu, W., Wongchoti, U., Wu, F., & Chen, Y. (2018). Does information asymmetry lead to

higher debt financing? Evidence from China during the NTS Reform period. Journal

of Asian Business and Economic Studies.

Rahman, W. (2015). Advancing inclusive financial system in the next decade. . The South

East Asian Central Banks (SEACEN) Research and Training Centre.

Rajan, R. G. (1992). Insiders and outsiders: The choice between informed and arm's‐length

debt. The journal of finance, 47(4), 1367-1400. doi:https://doi.org/10.1111/j.1540-

6261.1992.tb04662.x

Rajan, R. G. (2011). Fault lines Fault Lines: princeton University press.

Rajesh, D., & Rao, V. S. (2019). THE ROLE OF FINANCIAL LITERACY IN THE

DIVERSIFYING OF HOUSEHOLD SAVINGS INTO FINANCIAL ASSETS AND

PHYSICAL ASSETS IN INDIA: AN ASSESSMENT OF LITERATURE.

Rangarajan, C. (2008). Report of the committee on financial inclusion. Ministry of Finance,

Government of India.

Ratnovski, L., & Huang, R. (2009). Why are Canadian banks more resilient?

Richard, E., Chijoriga, M., Kaijage, E., Peterson, C., & Bohman, H. (2008). Credit risk

management system of a commercial bank in Tanzania. International Journal of

Emerging Markets. doi:https://doi.org/10.1108/17468800810883729

Roodman , D. (2006). How to do xtabond2: An introduction to difference and system GMM

in Stata. The stata journal, 9(1), 86-136.

doi:https://doi.org/10.1177%2F1536867X0900900106

Rossi, S. P., Schwaiger, M. S., & Winkler, G. (2009). How loan portfolio diversification

affects risk, efficiency and capitalization: A managerial behavior model for Austrian

banks. Journal of banking & Finance, 33(12), 2218-2226.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.05.022

xxvii

Rothschild, M., & Stiglitz, J. (1978). Equilibrium in competitive insurance markets: An essay

on the economics of imperfect information Uncertainty in economics (pp. 257-280):

Elsevier.

Roy, A. D. (1952). Safety first and the holding of assets. Econometrica: Journal of the

econometric society, 431-449. doi:https://doi.org/10.2307/1907413

Sadikoglu, E., & Zehir, C. (2010). Investigating the effects of innovation and employee

performance on the relationship between total quality management practices and firm

performance: An empirical study of Turkish firms. International journal of production

economics, 127(1), 13-26.

Saha, M., & Dutta, K. D. (2022). Does governance quality matter in the nexus of inclusive

finance and stability? China Finance Review International.

doi:https://doi.org/10.1108/CFRI-08-2021-0166

Sahay, R., Čihák, M., N'Diaye, P. M. B. P., Barajas, A., Mitra, S., Kyobe, A. và ctg. (2015).

Financial inclusion: can it meet multiple macroeconomic goals?

Sakarombe, U. (2018). Financial Inclusion and Bank Stability in Zimbabwe. International

Journal of Academic Research in Economics and Management Sciences, 7(4).

doi:http://doi.org/10.6007/IJAREMS/v7-i4/5193

Salas, V., & Saurina, J. (2002). Credit risk in two institutional regimes: Spanish commercial

and savings banks. Journal of Financial Services Research, 22(3), 203-224.

doi:https://doi.org/10.1023/A:1019781109676

Samadi, A. H. (2019). Institutions and entrepreneurship: unidirectional or bidirectional

causality? Journal of Global Entrepreneurship Research, 9(1), 1-16.

Sarma, M. (2008a). Financial inclusion and development: A cross country analysis.

Sarma, M. (2008b). Index of financial inclusion. Retrieved from

Sarma, M. (2012). Index of Financial Inclusion–A measure of financial sector inclusiveness.

Centre for International Trade and Development, School of International Studies

Working Paper Jawaharlal Nehru University. Delhi, India.

Sarma, M. (2016). Measuring Financial Inclusion for Asian Economies. 3-34.

doi:10.1057/978-1-137-58337-6_1

Sarma, M., & Pais, J. (2011). Financial inclusion and development. Journal of international

development, 23(5), 613-628. doi:https://doi.org/10.1002/jid.1698

xxviii

Scherpf, A. (2015). Asian Demographic Trends: A Threat to Growth. Global Risks Insight,

22.

Schiantarelli, F., Stacchini, M., & Strahan, P. E. (2016). Bank quality, judicial efficiency and

borrower runs: Loan repayment delays in Italy. Retrieved from

Schneider, A. L. J. A. B. S. (1999). Public-private partnerships in the US prison system. 43(1),

192-208.

Schotter, A. (2008). The economic theory of social institutions. Cambridge Books.

Shaban, M., Duygun, M., Anwar, M., & Akbar, B. (2014). Diversification and banks’

willingness to lend to small businesses: Evidence from Islamic and conventional banks

in Indonesia. Journal of Economic Behavior & Organization, 103, S39-S55.

Shabir, M., Jiang, P., Bakhsh, S., & Zhao, Z. (2021). Economic policy uncertainty and bank

stability: Threshold effect of institutional quality and competition. Pacific-Basin

Finance Journal, 101610. doi:https://doi.org/10.1016/j.pacfin.2021.101610

Shankar, S. (2013). Financial inclusion in India: Do microfinance institutions address access

barriers. ACRN Journal of Entrepreneurship Perspectives, 2(1), 60-74.

Shim, J. (2019). Loan portfolio diversification, market structure and bank stability. Journal

of banking & Finance, 104, 103-115.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2019.04.006

Shin, H. S. (2009). Reflections on Northern Rock: The bank run that heralded the global

financial crisis. Journal of economic Perspectives, 23(1), 101-119. doi:DOI:

10.1257/jep.23.1.101

Shingjergji, A., & Hyseni, M. (2015). The determinants of the capital adequacy ratio in the

Albanian banking system during 2007-2014. International Journal of Economics,

Commerce and Management, 3(1), 1-10.

Shleifer, A., & Vishny, R. W. (1997). A survey of corporate governance. The journal of

finance, 52(2), 737-783. doi:https://doi.org/10.1111/j.1540-6261.1997.tb04820.x

Siddik , M., Alam , N., & Kabiraj , S. (2018). Does financial inclusion induce financial

stability? Evidence from cross-country analysis. Australasian Accounting, Business

Finance Journal, 12(1), 34-46.

Smaoui, H., Mimouni, K., Miniaoui, H., & Temimi, A. (2020). Funding liquidity risk and

banks' risk-taking: Evidence from Islamic and conventional banks. Pacific-Basin

Finance Journal, 64, 101436. doi:https://doi.org/10.1016/j.pacfin.2020.101436

xxix

Soedarmono, W., & Tarazi, A. (2016). Competition, financial intermediation, and riskiness

of banks: evidence from the Asia-Pacific region. Emerging Markets Finance Trade,

52(4), 961-974.

Song, F., & Thakor, A. V. (2007). Relationship banking, fragility, and the asset-liability

matching problem. The Review of Financial Studies, 20(6), 2129-2177.

doi:https://doi.org/10.1093/rfs/hhm015

Strobel, J., Salyer, K. D., & Lee, G. S. (2018). Uncertainty, agency costs and investment

behavior in the Euro area and in the USA. Journal of Asian Business and Economic

Studies. doi:https://doi.org/10.1108/JABES-04-2018-0007

Su, D. T., Nguyen, P. C., & Christophe, S. (2019). Impact of foreign direct investment, trade

openness and economic institutions on growth in emerging countries: The case of

Vietnam. Journal of International Studies Vol, 12(3), 243-264.

doi:doi:10.14254/2071-8330.2019/12-3/20

Sufian, F. (2009). Determinants of bank efficiency during unstable macroeconomic

environment: Empirical evidence from Malaysia. Research in International Business

and Finance, 23(1), 54-77. doi:https://doi.org/10.1016/j.ribaf.2008.07.002

Sun, H., Edziah, B. K., Sun, C., & Kporsu, A. K. (2019). Institutional quality, green

innovation and energy efficiency. Energy policy, 135, 111002.

Svirydzenka, K. (2016). Introducing a new broad-based index of financial development:

International Monetary Fund.

Swamy, V. (2014). Testing the interrelatedness of banking stability measures. Journal of

Financial Economic Policy.

Tambunlertchai, K. (2015). Financial inclusion, financial regulation, and financial education

in Thailand.

Tandelilin, E., & Hanafi, M. M. (2021). DOES INSTITUTIONAL QUALITY MATTER IN

THE RELATIONSHIP BETWEEN COMPETITION AND BANK STABILITY?

EVIDENCE FROM ASIA. Journal of Indonesian Economy & Business, 36(3).

Thorstein, V. (1912). The theory of the leisure class: An economic study of institutions: BW

Huebsch.

Toader, T., Onofrei, M., Popescu, A.-I., & Andrieș, A. M. (2018). Corruption and banking

stability: Evidence from emerging economies. Emerging Markets Finance and Trade,

54(3), 591-617. doi:https://doi.org/10.1080/1540496X.2017.1411257

xxx

Türkmen, S., & Yiğit, İ. (2012). Diversification in banking and its effect on banks’

performance: Evidence from Turkey.

Uddin, A., Chowdhury, M. A. F., Sajib, S. D., & Masih, M. (2020). Revisiting the impact of

institutional quality on post-GFC bank risk-taking: Evidence from emerging countries.

Emerging Markets Review, 42, 100659. doi:doi:10.1016/j.ememar.2019.100659

Uhde, A., & Heimeshoff, U. (2009). Consolidation in banking and financial stability in

Europe: Empirical evidence. Journal of banking & Finance, 33(7), 1299-1311.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jbankfin.2009.01.006

Ul Mustafa, A. R., Ansari, R. H., & Younis, M. U. (2012). Does the loan loss provision affect

the banking profitability in case of Pakistan? Asian Economic and Financial Review,

2(7), 772-783.

UNDP. (1997). Governance for sustainable human development: UNDP.

Urpelainen, J. (2011). The origins of social institutions. Journal of Theoretical Politics, 23(2),

215-240. doi:https://doi.org/10.1177/0951629811400473

Van Duuren, T., De Haan, J., & Van Kerkhoff, H. (2020). Does institutional quality condition

the impact of financial stability transparency on financial stability? Applied Economics

Letters, 27(20), 1635-1638.

Vo , A. T., Van, L. T.-H., Vo, D. H., & McAleer, M. (2019). Financial inclusion and

macroeconomic stability in emerging and frontier markets. Annals of Financial

Economics, 14(02), 1950008. doi:https://doi.org/10.1142/S2010495219500088

Vo, D. H., Nguyen, N. T., & Van, T. H. L. (2021). Financial inclusion and stability in the

Asian region using bank-level data. Borsa Istanbul Review, 21(1), 36-43.

doi:https://doi.org/10.1016/j.bir.2020.06.003

Von Neumann, J. J. C. t. t. T. o. G. (1959). On the theory of games of strategy. 4, 13-42.

Wei, S.-J. (1999). Corruption in economic development: Beneficial grease, minor annoyance,

or major obstacle? Minor Annoyance, or Major Obstacle.

Weill, L. (2011a). Does corruption hamper bank lending? Macro and micro evidence.

Empirical Economics, 41(1), 25-42.

Weill, L. (2011b). How corruption affects bank lending in Russia. Economic Systems, 35(2),

230-243. doi:https://doi.org/10.1016/j.ecosys.2010.05.005

xxxi

Williams , H. T., Adegoke , A. J., & Dare , A. (2017). Role of financial inclusion in economic

growth and poverty reduction in a developing economy. Internal Journal of Research

in Economics and Social Sciences (IJRESS), 7(5), 265-271.

Williamson, O. E. (1974). The economics of antitrust: Transaction cost considerations.

University of Pennsylvania Law Review, 122(6), 1439-1496.

doi:https://doi.org/10.2307/3311505

Williamson, O. E. (1998). The institutions of governance. The American economic review,

88(2), 75-79.

Windmeijer, F. (2005). A finite sample correction for the variance of linear efficient two-step

GMM estimators. Journal of econometrics, 126(1), 25-51.

doi:https://doi.org/10.1016/j.jeconom.2004.02.005

Wooldridge, J. M. (2010). Econometric analysis of cross section and panel data: MIT press.

Wu, J., Yao, Y., Chen, M., & Jeon, B. N. (2020). Economic uncertainty and bank risk:

Evidence from emerging economies. Journal of International Financial Markets,

Institutions and Money, 68, 101242. doi:https://doi.org/10.1016/j.intfin.2020.101242

Zheng, X., Ghoul, S., Guedhami, O., & Kwok, C. C. (2013). Collectivism and corruption in

bank lending. Journal of International Business Studies, 44(4), 363-390.

Zhuang , J., Dios , E., & Lagman-Martin , A. (2010). Governance and institutional quality

and the links with growth and inequality: How Asia fares. Poverty, inequality, and

inclusive growth in Asia: Measurement, policy issues, and country studies, 268-320.

xxxii

PHỤ LỤC A1. PCA CHỈ SỐ TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

THÀNH PHẦN

TỶ LỆ

THÀNH PHẦN 1 THÀNH PHẦN 2 THÀNH PHẦN 3 THÀNH PHẦN 4 THÀNH PHẦN 5 THÀNH PHẦN 6

GIÁ TRỊ THỰC 3,185 1,238 0,925 0,704 0,028 0,006

0,517 0,205 0,154 0,117 0,004 0,001

BIẾN CC GE PS RQ RL VA

TP1 0,499 0,530 -0,019 0,029 0,497 0,498

TP2 0,092 0,081 0,726 0,663 -0,113 -0,071

TP3 -0,416 -0,397 -0,289 0,532 0,392 0,383

TP4 -0,268 -0,281 0,622 -0,525 0,292 0,316

TP5 0,104 -0,103 0,031 0,008 0,700 -0,697

TP6 -0,696 0,701 0,020 -0,005 0,099 -0,108

- PHỤ LỤC A2. PCA CHỈ SỐ CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ

xxxiii

THÀNH PHẦN

TỶ LỆ

THÀNH PHẦN 1 THÀNH PHẦN 2 THÀNH PHẦN 3 THÀNH PHẦN 4 THÀNH PHẦN 5 THÀNH PHẦN 6

GIÁ TRỊ THỰC 4,546 1,197 0,181 0,034 0,021 0,010

0,757 0,199 0,031 0,005 0,003 0,005

TP5 -0,825 0,478 0,162 -0,032 0,233 0,090

BIẾN CC GE PS RQ RL VA

TP1 0,464 0,462 0,284 0,460 0,461 0,253

TP2 -0,046 0,038 -0,677 0,068 -0,042 0,728

TP3 -0,044 -0,278 0,658 -0,117 -0,303 0,617

TP4 0,268 0,231 0,002 -0,875 0,311 0,107

TP6 -0,164 -0,652 0,001 0,046 0,735 0,063

PHỤ LỤC B1: HỒI QUY MÔ HÌNH TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN, CHẤT

LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG VỚI CÁC BIẾN PHỤ THUỘC LẦN

BIẾN LZSCORE INS IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF

(1) ZSCORE 0,357*** (0,000) 0,617*** (0,000) -1,288*** (0,000) 1,590*** (0,000) 0,334*** (0,003) 0,489*** (0,000) 0,001 (0,920) 0,534*** (0,000) 1,664*** (0.000) 0.028 (0.200) 0.051*** (0.000)

LƯỢT LÀ Z-SCORE, Z-SCORE_n, và NPL

xxxiv

GDP Constant Số nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

-0.084*** (0.000) -3.059*** (0.000) 157 66 0.113 0.491 0.577 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZSCORE_n INS IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số nhóm Số lượng biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(2) ZSCORE_n 0,326*** (0,000) 0,307*** (0,000) -0,330*** (0,000) 0,523*** (0,000) 0,052*** (0.000) 0,651** (0,010) -0,007*** (0,000) 0,290*** (0,002) 0,647*** (0,000) -0,038*** (0,000) 0,016*** (0,000) -0,023*** (0.000) -1.557*** (0.000) 157 57 0.276 0.347 0.895

xxxv

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LNPL INS IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(3) NPL 1,497*** (0,000) -0.166*** (0.000) 0,206*** (0,000) -0,150*** (0,002) 0,024* (0,096) 0,198*** (0,000) 0,020*** (0,000) -0,085* (0,099) -0,033 (0,158) -0,011** (0,037) -0,015*** (0,000) -0,013*** (0,000) 0,203*** (0,004) 157 57 0,318 1,000 0,432 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1 PHỤ LỤC B2: HỒI QUY MÔ HÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN

TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG (VỚI BIẾN

BIẾN LZ-SCORE

(1) Z-SCORE 0,309***

CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ LÀ BIẾN LIÊN TỤC)

xxxvi

INS IFI INS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,000) 0,401* (0,065) -1,052*** (0,000) 0,567*** (0,004) 2,836*** (0,000) 0,300** (0,032) -0,537*** (0,000) -1,050 (0,248) -0,181 (0,813) 3,106*** (0,000) - 0,166*** (0,004) -0,055 (0,119) 0,061*** (0,000) -3,591*** (0,000) 157 39 0,213 0,523 0,612 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n INS IFI INS*IFI LTA SIZE

(2) Z-SCORE_n 0,202*** (0,000) 0,107** (0,035) - 0,187*** (0,001) 0,089* (0,074) 0,397*** (0,001) 0,161***

xxxvii

LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,000) -0,091** (0,011) 0,207 (0,314) 0,513** (0,024) 0,457*** (0,000) - -0,071*** (0,000) - 0,015 (0,109) 0,013*** (0,000) -1,005*** (0,000) 157 37 0,100 0,332 0,409

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LNPL INS IFI INS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA

(3) NPL 0,473*** (0,000) -0,064* (0,066) 0,084** (0,011) - 0,057** (0,016) - 0,046 (0,119) -0,005** (0,038) 0,050* (0,058) 0,061*** (0,003) -0,030 (0,119) - 0,045*** (0,000)

xxxviii

DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,542*** (0,000) 0,048** (0,038) - 0,010*** (0,000) -0,290*** (0,006) 157 94 0,318 1,000 1,000 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

HỒI QUY MÔ HÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN TÁC ĐỘNG

CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN ĐẾN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG (VỚI BIẾN CHẤT

BIẾN LZ-SCORE INS IFI INS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF

(1) Z-SCORE 0,366*** (0,000) 0,471*** (0,009) - 4,286** (0,018) 4,271*** (0,002) 2,156*** (0,000) 0,293*** (0,000) 0,386*** (0,006) - 0,001 (0,978) 0,432*** (0,009) 3,154*** (0,000) - 0,098*** (0,005) - 0,045*** (0,002)

LƯỢNG THỂ CHẾ LÀ BIẾN DUMMY)

xxxix

GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,009 (0,717) -3,289*** (0,000) 157 67 0,131 0,449 0,328 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n INS IFI INS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test

(2) Z-SCORE_n 0,381*** (0,000) 0,258*** (0,000) - 2,058*** (0,001) 2,076*** (0,001) 0,593*** (0,000) 0,033 (0,313) 0,001 (0,982) -0,009* (0,087) 0,227*** (0,000) 0,655*** (0,058) - 0,033** (0,027) - 0,009* (0,074) - 0,006 (0,509) -0,247*** (0,273) 157 30 0,074 0,145

xl

Hansen test

0,298

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LNPL INS IFI INS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(3) NPL 0,712*** (0,000) -0,036* (0,054) 0,459*** (0,000) - 0,568*** (0,002) -0,142*** (0,000) 0,049*** (0,000) 0,070*** (0,000) 0,011*** (0,000) 0,010 (0,521) - 0,125*** (0,000) 0,001 (0,653) - 0,005 *** (0,000) -0,013*** (0,000) -0,012*** (0,000) 157 82 0,319 1,000 0,530 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1 APPENDIX B3: HỒI QUY MÔ HÌNH ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC KHÍA CẠNH CHẤT LƯỢNG THỂ CHẾ ĐẾN TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN LÊN ỔN ĐỊNH NGÂN HÀNG

- KIỂM SOÁT THAM NHŨNG (CC)

xli

- BIẾN LZ-SCORE CC IFI CC*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(1) Z-SCORE 0,303*** (0,000) 1,136*** (0,002) - 0,234*** (0,008) 0,688* (0,063) 2,769*** (0,000) 0,274*** (0,000) 0,417*** (0,000) -0,879*** (0,000) 0,243 (0,216) 2,545*** (0,000) - 0,125*** (0,000) 0,047*** (0,000) -0,076*** (0,000) -3,289*** (0,000) 157 59 0,119 0,538 0,850 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n CC IFI CC*IFI

(2) Z-SCORE_n 0,265*** (0,000) 0,207** (0,026) - 0,095*** (0,000) 0,388***

xlii

LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,000) 0,248*** (0,001) 0,073*** (0,000) 0,082* (0,069) 0,028 (0,607) 0,157** (0,023) 0,392*** (0,000) -0,007 (0,501) -0,001 (0,661) - 0,021*** (0,004) -0,245* (0,078) 157 53 0,071 0,654 0,354

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LNPL CC IFI CC*IFI LTA SIZE LER LLPL

(3) NPL 0,557*** (0,000) 0,207 (0,258) 0,052* (0,083) - 0,217* (0,084) -0,180** (0,023) -0.033 (0,366) -0,008 (0,837) 0,010 (0,217)

xliii

MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,091 (0,273) -0,056 (0,478) 0,021 (0,571) -0,004 (0,151) -0,006 (0,170) 0,333 (0,231) 157 82 0,318 0,320 1,000 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

- ỔN ĐỊNH CHÍNH TRỊ (PS)

- BIẾN LZ-SCORE PS IFI PS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF

(1) Z-SCORE 0,334*** (0,000) 0,676*** (0,000) - 0,048** (0,017) 2,232* (0,088) 1,526*** (0,000) 0,452*** (0,000) 0,829*** (0,001) -0,945*** (0,001) 0,277 (0,156) 2,088*** (0,000) - 0,161*** (0,000) -0,013* (0,074)

xliv

GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,035*** (0,000) -3,289*** (0,000) 157 50 0,113 0,417 0,941 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n PS IFI PS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test

(2) Z-SCORE_n 0,290*** (0,000) 0,385*** (0,000) - 0,024*** (0,000) 1,028*** (0,008) 0,118 (0,131) 0,146*** (0,000) 0,249*** (0,000) -0,165 (0,236) 0,207*** (0,001) 0,231*** (0,000) -0,052*** (0,000) -0,014*** (0,000) 0,003 (0,623) -0,886*** (0,000) 157 53 0,051 0,438

xlv

Hansen test

0,648

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LNPL PS IFI PS*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(3) NPL 0,573*** (0,000) 0,026 (0,302) 0,009*** (0,000) - 0,834*** (0,000) -1,483*** (0,000) -0,020*** (0,000) -0,039*** (0,000) 0,210*** (0,000) -0,073*** (0,000) -0,065** (0,018) -0,023*** (0,000) -0,012*** (0,000) -0,011*** (0,000) 0,401*** (0,000) 157 82 0,318 1,000 1,000 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

- QUY TẮC LUẬT PHÁP (RL)

- BIẾN

(1) Z-SCORE

xlvi

LZ-SCORE RL IFI RL *IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,338*** (0,000) 0,202* (0,055) - 0,038*** (0,003) 2,232* (0,088) 1,852*** (0,000) 0,446*** (0,000) 0,561*** (0,000) -0,904*** (0,000) 0,515*** (0,000) 2,151*** (0,000) - 0,151*** (0,000) 0,029*** (0,000) -0,034 (0,109) -3,854*** (0,000) 157 66 0,083 0,461 0,840 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n RL IFI RL *IFI LTA

(2) Z-SCORE_n 0,134*** (0,003) 0,271** (0,023) - 0,001 (0,819) 0,598** (0,031) 0,278*** (0,000)

xlvii

SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,188*** (0,000) 0,499*** (0,000) -0,629*** (0,000) 0,285*** (0,004) 0,485*** (0,000) -0,053*** (0,000) 0,012*** (0,000) 0,001 (0,936) -1,257*** (0,000) 157 57 0,052 0,136 0,426

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LNPL RL IFI RL *IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA

(3) NPL 0,176*** (0,000) -0,081*** (0,000) 0,002*** (0,000) - 0,182*** (0,000) -0,367*** (0,000) -0,046*** (0,000) -0,245*** (0,000) 0,349*** (0,000) -0,409*** (0,000) -0,206***

xlviii

DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,000) 0,008*** (0,001) -0,014*** (0,000) -0,007*** (0,000) 0,826*** (0,000) 157 118 0,319 1,000 0,959 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

- HIỆU QUẢ CHÍNH PHỦ (GE)

-

VARIABLES LZ-SCORE GE IFI GE *IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant

(1) Z-SCORE 0,295*** (0,000) 0,058 (0,888) - 0,0190*** (0,004) 0,646** (0,010) 1,902*** (0,000) 0,348*** (0,000) 0,368*** (0,004) -0,649*** (0,000) 0,696*** (0,000) 1,834*** (0,000) - 0,096 (0,116) 0,039*** (0,000) -0,0326 (0,174) -3,210***

xlix

Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,000) 157 56 0,110 0,680 0,975 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n GE IFI GE *IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(2) Z-SCORE_n 0,239*** (0,003) 0,354*** (0,003) -0,028* (0,062) 0,138** (0,025) 0,275*** (0,000) 0,058*** (0,009) 0,112*** (0,001) -0,073 (0,112) 0,347*** (0,000) 0,307*** (0,000) -0,026 (0,124) 0,004* (0,093) -0,003 (0,558) -1,257*** (0,000) 157 54 0,050 0,181 0,954

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

l

VARIABLES LNPL GE IFI GE *IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(3) NPL 0,259*** (0,000) -0,131** (0,037) 0,027*** (0,001) - 0,087*** (0,005) 0,077** (0,012) -0,002*** (0,000) 0,245 (0,857) 0,097*** (0,001) 0,017 (0,0571) -0,006 (0,689) -0,013 *** (0,000) -0,015** (0,004) -0,002 (0,352) 0,037 (0,552) 157 107 0,317 1,000 1,000 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

-

VARIABLES LZ-SCORE RQ

(1) Z-SCORE -0,043 (0,595) 0,058**

- CHẤT LƯỢNG QUY ĐỊNH (RQ)

li

IFI RQ *IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,012) - 0,080** (0,042) -5,313*** (0,000) 1,351** (0,041) 0,458*** (0,000) -0,039 (0,969) 2,235*** (0,000) -0,065 (0,945) 0,173 (0,182) - 1,120*** (0,001) -0,021** (0,014) 0,056*** (0,000) -3,361*** (0,000) 157 48 0,550 1,000 0,116 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

BIẾN LZ-SCORE_n RQ IFI RQ *IFI LTA SIZE LER

(2) Z-SCORE_n 0,350** (0,020) 1,200** (0,046) -0,014 (0,631) -5,393** (0,010) 0,246 (0,708) 0,029 (0,796) 0,273**

lii

LLPL MQA ETA DIV INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

(0,033) 1,467*** (0,007) 0,254 (0,276) 0,637 (0,261) 0,139 (0,931) 0,030 (0,196) -0,367* (0,097) 0,014 (0,988) 157 21 0,063 0,504 0,782

Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

VARIABLES LNPL RQ IFI RQ*IFI LTA SIZE LER LLPL MQA ETA DIV

(3) NPL 0,491*** (0,000) 0,030 (0,854) 0,011** (0,014) 2,078** (0,014) 0,173*** (0,001) -0,074 (0,127) -0,124 (0,218) 0,097*** (0,001) 0,107 (0,202) -0,017 (0,844) -0,005 (0,732)

liii

INF GDP Constant Số lượng nhóm Số lượng các biến công cụ AR (2) Sargan test Hansen test

0,002 (0,773) -0,004* (0,083) 0,405 (0,201) 157 113 0,318 1,000 1,000 Sai số chuẩn trong ngoặc đơn *** p<0.01, ** p<0.05, * p<0.1

PHỤ LỤC C: CÁC KHÍA CẠNH TÀI CHÍNH TOÀN DIỆN

2010

2011

2012

2013

2014

2015

Campuchia

2,23

2,36

2,54

2,76

3,36

3,68

Indonesia

7,71

14,22

16,60

17,65

18,14

18,25

Lào

0,44

0,45

0,49

0,51

0,55

0,56

Malaysia

6,75

7,13

7,23

7,27

7,31

7,38

Philippines

15,70

16,29

17,26

18,32

19,56

20,32

Số lượng chi nhánh ngân hàng trên 1,000 km2

Singapore

611,11

609,37

613,31

603,96

605,08

610,72

Thái Lan

11,70

12,14

12,61

13,14

13,71

13,82

Việt Nam

6,96

7,77

6,91

8,20

8,72

8,64

Campuchia

4,12

4,28

4,49

4,77

5,69

6,12

Indonesia

8,11

14,71

16,87

17,64

17,83

17,64

Số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100,000

Lào

2,54

2,55

2,70

2,73

2,88

2,90

liv

Malaysia

10,92

11,25

11,15

10,97

10,81

10,69

người trưởng thành

Philippines

7,55

7,66

7,93

8,24

8,62

8,76

Singapore

9,83

9,60

9,42

9,11

9,01

8,95

Thái Lan

11,00

11,34

11,68

12,09

12,52

12,53

Việt Nam

3,21

3,54

3,10

3,64

3,83

3,75

Campuchia

2,84

3,33

4,06

4,90

6,44

8,02

Indonesia

12,39

15,91

35,15

42,03

50,05

54,81

Lào

1,50

1,92

2,34

3,31

3,75

4,45

Malaysia

31,73

35,58

36,95

37,95

37,92

37,46

Philippines

31,43

35,75

41,00

48,73

52,64

58,08

Số lượng ATMs trên 1,000 km2

Singapore

3.676,64 3.791,19 3.854,11 3.857,14 3.863,19 3.959,10

Thái Lan

87,04

93,48

102,26

111,28

125,11

129,49

Việt Nam

36,87

43,05

46,02

49,23

51,66

54,62

Campuchia

5,25

6,03

7,18

8,48

10,92

13,34

Indonesia

13,04

16,45

35,73

42,02

49,21

52,97

Lào

8,71

10,85

12,90

17,85

19,75

22,97

Malaysia

51,31

56,12

56,97

57,28

56,07

54,27

Philippines

15,11

16,80

18,85

21,93

23,18

25,04

Số lượng ATMs trên 100,000 người trưởng thành

Singapore

59,11

59,70

59,22

58,21

57,50

58,05

Thái Lan

81,89

87,31

94,79

102,35

114,21

117,37

Việt Nam

17,02

19,59

20,67

21,86

22,69

23,74

Campuchia

34,56

38,04

43,62

45,91

54,30

58,05

Indonesia

34,07

35,56

37,43

38,38

38,93

38,29

Lào

29,37

31,87

36,37

37,60

43,07

46,15

Malaysia

106,24

110,60

112,12

110,19

107,09

104,24

Philippines

39,36

37,22

36,45

43,10

43,90

45,11

Dư nợ tiền gửi tại NHTM trên GDP

Singapore

132,66

137,49

140,69

139,68

137,95

132,25

Thái Lan

60,49

61,94

71,38

74,05

75,43

76,18

Việt Nam

87,77

76,31

77,81

85,67

90,74

100,11

Campuchia

26,75

32,01

40,74

42,28

52,80

61,66

Indonesia

25,73

28,09

31,43

34,49

34,76

35,21

Lào

21,69

27,20

31,33

37,74

37,73

41,19

Malaysia

101,03

103,01

107,08

112,16

112,90

114,23

Dư nợ tín dụng tại NHTM trên GDP

Philippines

15,94

18,98

20,01

21,56

23,83

26,00

Singapore

98,70

119,66

133,07

149,21

152,20

141,64

Thái Lan

59,79

65,36

68,12

72,36

73,29

74,37

lv

Việt Nam

86,12

76,06

72,10

75,15

77,58

87,49

,

2016

2017

2018

2019

2020

Campuchia

4,44

4,69

4.96

5,34

7.59

Indonesia

18,13

17,88

17.51

17,24

17.03

0,68

Lào

0,59

0,62

0.65

0.69

7,48

Malaysia

7,34

7,33

7.47

6.77

Philippines

20,92

21,74

22.28

23,19

23.57

Số lượng chi nhánh ngân hàng trên 1,000 km2

Singapore

602,26

571,23

567.00

551,48

493.65

Thái Lan

13,73

13,28

13.18

12,74

12.07

Việt Nam

8,91

8,09

9.27

9,51

9.66

Campuchia

7,24

7,52

7.84

8,30

11.60

Indonesia

17,26

16,75

16.14

15,64

15.22

Lào

3,00

3,09

3.17

3,21

3.21

Malaysia

10,44

10,23

10.24

10,08

8.97

Philippines

8,84

8,99

9.02

9,20

9.17

Singapore

8,68

8,22

8.13

7,82

7.02

Số lượng chi nhánh ngân hàng trên 100,000 người trưởng thành

Thái Lan

12,35

11,86

11.70

11,24

10.59

Việt Nam

3,83

3,45

3.92

3,98

4.01

Campuchia

8,88

10,42

12.32

14,98

17.24

Indonesia

57,09

58,87

59.01

58,87

57.77

Lao P.D.R.

4,74

5,20

5.31

5,65

5.88

Malaysia

35,59

36,43

36.65

41,62

41.90

Philippines

64,00

68,01

71.36

73,05

76.40

Số lượng ATMs trên 1,000 km2

Singapore

3.871,65 4,385,05 4,506.35 4145,27 3,798.31

Thailand

130,78

131,88

132.40

130,46

127.52

Vietnam

56,35

56,63

59.94

61,88

63.33

Campuchia

14,49

16,72

19.45

23,28

26.35

Indonesia

54,34

55,14

54.37

53,41

51.66

Lào

23,95

25,74

25.74

26,89

27.39

Malaysia

50,61

50,86

50.24

56,09

55.56

Philippines

27,04

28,14

28.90

28,98

29.72

Singapore

55,81

63,10

64.59

58,78

54.01

Số lượng ATMs trên 100,000 người trưởng thành

Thái Lan

117,62

117,79

117.50

115,09

111.85

Việt Nam

24,24

24,13

25.32

25,90

26.26

lvi

Campuchia

68,55

77,56

89.07

94,12

114.50

Indonesia

39,00

38,92

37.94

37,89

43.18

Lào

47,18

48,34

48.34

53,83

59.71

Malaysia

99,12

94,62

95.85

94,25

103.80

Philippines

48,80

49,41

47.73

49,41

58.26

Dư nợ tiền gửi tại NHTM trên GDP

Singapore

135,45

127,95

123.46

133,44

160.34

Thái Lan

74,66

73,27

73.05

73,39

87.17

Việt Nam

109,07

112,35

114.33

120,83

132.64

Campuchia

67,43

72,14

80.12

90,63

117.03

Indonesia

35,30

34,86

35.68

35,48

35.51

Lào

46,21

47,56

45.31

45,88

45.57

Malaysia

113,28

107,46

109.70

109,27

120.66

Philippines

28,59

31,66

32.86

33,99

37.55

Dư nợ tín dụng tại NHTM trên GDP

Singapore

140,16

137,56

132.10

135,18

142.47

Thái Lan

72,37

71,07

71.50

70,75

79.65

Việt Nam

95,56

100,42

102.07

105,42

112.60

lvii

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC LIÊN QUAN ĐẾN TÀI NGHIÊN CỨU

Thời gian Tạp chí/ hội thảo/ giáo Cấp độ STT Tên bài nghiên cứu hoàn trình/đề tài tham gia thành

The effect of institutional Journal of Asian Đồng tác 1 quality on financial inclusion Finance, Economics and 2021 giả in ASEAN countries Business

Tài chính toàn diện – Nhận Tạp chí Thị trường tài 2 diện vị trí Việt Nam trong khu Tác giả 2021 chính tiền tệ vực ASEAN

Định vị hệ thống NHTM Việt

Nam trong khối CPTPP qua Tạp chí Thị trường tài Đồng Tác 2021 3 chỉ số tài chính toàn diện và hệ chính tiền tệ giả

thống xếp hạng CAMELS

Thúc đẩy tài chính toàn diện Tài chính doanh nghiệp Tác giả 2021 4 tại Việt Nam

Thể chế các nước ASEAN – Tạp chí Kinh tế Châu Á Tác giả 2022 5 nhìn nhận ở góc độ lý thuyết – Thái Bình Dương

Impact of financial inclusion Macroeconomics and on banking stability in Đồng tác Finance in Emerging 2022 6 ASEAN countries – threshold giả Market Economies financial inclusion