BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
--------------
ĐẶNG ĐÌNH TIẾN
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH (2004-2014)
LUẬN ÁN TIẾN SĨ CHUYÊN NGÀNH QUAN HỆ QUỐC TẾ
MÃ SỐ: 9 31 02 06
HÀ NỘI – 2021
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NGOẠI GIAO
HỌC VIỆN NGOẠI GIAO
--------------
ĐẶNG ĐÌNH TIẾN
CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH (2004-2014)
Chuyên ngành: Quan hệ quốc tế
Mã số: 9 31 02 06
LUẬN ÁN TIẾN SĨ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. TS. Nguyễn Thị Bích Ngọc
2. PGS. TS. Nguyễn Thị Quế
HÀ NỘI – 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
đã nêu trong luận án có nguồn gốc rõ ràng, kết quả của luận án là trung thực
và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả luận án
Đặng Đình Tiến
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành luận án này, bên cạnh sự nỗ lực của bản thân, tôi đã
nhận được rất nhiều sự giúp đỡ, động viên và hướng dẫn của các thầy cô
giáo, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình trong thời gian học tập và nghiên cứu.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới TS Nguyễn Thị Bích Ngọc
và PGS.TS Nguyễn Thị Quế - những người đã tận tình hướng dẫn, hết lòng
giúp đỡ và tạo mọi điều kiện tốt nhất cho tôi hoàn thành luận án. Xin gửi lời
tri ân nhất của tôi đối với những điều mà các Cô đã dành cho tôi.
Tôi xin trân trọng cảm ơn các thầy cô trong Hội đồng đã cho tôi những
lời nhận xét cũng như những ý kiến đóng góp quý báu, giúp tôi hoàn thiện
bản luận án.
Tôi xin cảm ơn các thầy cô giáo Phòng Sau đại học, Học viện Ngoại
giao về những bài giảng hữu ích, cảm ơn đồng nghiệp trong khoa Khoa học
chính trị về sự giúp đỡ và quan tâm dành cho tôi trong quá trình học tập.
Cuối cùng tôi gửi lời cảm ơn chân thành và lòng biết ơn sâu sắc tới
những người thân trong gia đình, những người luôn động viên, cổ vũ và sát
cánh bên tôi trong suốt thời gian qua.
Đây là một đề tài rộng và còn chưa được nghiên cứu nhiều ở Việt Nam.
Vì vậy, luận án không thể tránh khỏi thiếu sót và hạn chế nhất định. Tôi rất
mong nhận được ý kiến đóng góp của mọi cá nhân, tổ chức quan tâm đến đề
tài để luận án được hoàn thiện hơn nữa.
Xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, tháng năm 2021
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
LỜI CẢM ƠN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH
SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ DƯỜI THỜI THỦ TƯỚNG
MANMOHAN SINGH (2004-2014) ................................................................. 17
1.1. Một số vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách đối ngoại ...................... 17
1.1.1. Khái niệm và lý thuyết chính sách đối ngoại ................................... 17
1.1.2. Cách tiếp cận phân tích chính sách đối ngoại ................................. 21
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới thời
thủ tướng Manmohan Singh .......................................................................... 25
1.2.1. Cơ sở lý luận ...................................................................................... 25
1.2.1.1. Những triết lý truyền thống của Ấn Độ ......................................... 25
1.2.1.2. Tư tưởng bất bạo động của Mahatma Gandhi ............................. 28
1.2.1.3. Quan điểm của Thủ tướng Manmohan Singh về chính sách đối
ngoại ........................................................................................................... 30
1.2.2. Cơ sở thực tiễn .................................................................................. 34
1.2.2.1. Tình hình thế giới trong thập niên đầu thế kỷ XXI ....................... 34
1.2.2.2. Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương những năm đầu thế
kỷ XXI ......................................................................................................... 36
1.2.2.3. Tình hình Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI ...................... 39
1.2.2.4. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước năm 2004 ....................... 44
Tiểu kết chương 1 ............................................................................................... 50
Chương 2: NỘI DUNG VÀ THỰC TIỄN TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH
(2004-2014) ........................................................................................................... 51
2.1. Nội dung chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh (2004-2014) ....................................................................... 51
2.1.1. Mục tiêu và các hướng ưu tiên chính sách đối ngoại ..................... 51
2.1.1.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại ............................................... 51
2.1.1.2. Các hướng ưu tiên của chính sách đối ngoại ............................... 53
2.1.2. Nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ chính sách đối ngoại........... 55
2.1.2.1. Nguyên tắc của chính sách đối ngoại ........................................... 55
2.1.2.2. Phương châm của chính sách đối ngoại ....................................... 57
2.1.2.3. Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại .............................................. 60
2.2. Thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ
tướng Manmohan Singh (2004-2014) ............................................................ 63
2.2.1. Đối với một số nước láng giềng (Pakistan, Bangladesh, Trung
Quốc) ............................................................................................................ 63
2.2.1.1. Đối với Pakistan ............................................................................ 63
2.2.1.2. Đối với Bangladesh ....................................................................... 66
2.2.1.3. Đối với Trung Quốc ...................................................................... 69
2.2.2. Đối với một số nước lớn (Mỹ và Nga) .............................................. 73
2.2.2.1. Đối với Mỹ..................................................................................... 74
2.2.2.2. Đối với Liên bang Nga .................................................................. 79
2.2.3. Đối với một số khu vực chủ yếu ....................................................... 84
2.2.3.1. Đối với khu vực Trung Đông ........................................................ 84
2.2.3.2. Đối với khu vực Trung Á ............................................................... 87
2.2.4. Đối với ngoại giao đa phương .......................................................... 91
2.2.4.1. Đối với một số tổ chức quốc tế (Liên hợp quốc, Tổ chức thương
mại thế giới (WTO), Phong trào Không liên kết) ...................................... 91
2.2.4.2. Đối với một số tổ chức khu vực chủ yếu ....................................... 98
Tiểu kết chương 2 ............................................................................................. 107
Chương 3: NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ
DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH (2004-2014) .............. 109
3.1. Đánh giá về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh .......................................................................................... 109
3.1.1. Thành tựu ........................................................................................ 109
3.1.2. Hạn chế ............................................................................................ 122
3.2. Tác động chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh đối với quan hệ quốc tế và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ .... 129
3.2.1. Tác động đối với quan hệ quốc tế ................................................... 129
3.2.1.1. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại với Ấn Độ ......... 130
3.2.1.2. Góp phần củng cố cấu trúc đa phương của trật tự thế giới, chuyển
dịch trọng tâm địa - chính trị thế giới sang châu Á - Thái Bình Dương . 131
3.2.1.3. Góp phần đảm bảo nền hòa bình, an ninh thế giới, giải quyết các
vấn đề toàn cầu ........................................................................................ 133
3.2.2. Tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ ...................................... 134
3.2.2.1. Thúc đẩy quan hệ song phương với Việt Nam phát triển lên tầm
cao mới ..................................................................................................... 134
3.2.2.2. Thúc đẩy hợp tác, cạnh tranh thương mại giữa Ấn Độ với
Việt Nam ................................................................................................... 139
3.2.2.3. Tác động đến an ninh chính trị của Việt Nam ............................ 141
3.2.2.4. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đem lại những bài học kinh
nghiệm cho Việt Nam ............................................................................... 144
Tiểu kết chương 3 ............................................................................................. 145
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 147
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦ A TÁ C GIẢ .............................................. 151
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 152
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 166
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
STT Chữ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt
Khu vực mậu dịch tự do 1. ASEAN Free Trade Area AFTA ASEAN
Asia-Pacific Economic Diễn đàn Hợp tác Kinh tế 2. APEC Cooperation châu Á Thái Bình Dương
3. ASEAN Regional Forum Diễn đàn khu vực ASEAN ARF
The Association of Hiệp hội các nước Đông 4. ASEAN Southeast Asian Nations Nam Á
Brazil, South Africa, India Tên gọi của các nước công 5. BASIC and China nghiệp mới nổi
Bay of Bengal Initiative for Tổ chức Hợp tác kinh tế và
6. MultiSectoral Technical and công nghiệp các nước ven BIMSTEC
Economic Cooperation Vịnh Bengal
Tên gọi của một khối bao Brasil, Russia, India, China, 7. gồm các nền kinh tế lớn mới BRICS South Africa nổi
Các nước Cộng hòa Trung 8. Central Asian Republics CAR Á
9. Châu Á Thái Bình Dương CA - TBD
The Community of Latin Cộng đồng các nước Mỹ 10. American and Caribbean CELAC Latinh và Caribe States
11. Chief Executive Officer Tổng giám đốc điều hành CEO
The Comprehensive Hiệp định Hợp tác kinh tế 12. Economic Partnership CEPA toàn diện Ấn Độ - Nhật Bản Agreement
he Conference on Hội nghị về phối hợp hành
13. Interaction and Confidence- động và các biện pháp củng CICA
Building Measures in Asia cố lòng tin ở Châu Á
Commonwealth of Cộng đồng các Quốc gia 14. CIS Independent States độc lập
15. Chủ nghĩa hiện thực CNHT
16. Chủ nghĩa tự do CNTD
Western corridor of the Vành đai vận chuyển hàng 17. DFC Dedicated Freight corridor hóa phía tây
Delhi Mumbai Industrial Vành đai công nghiệp Delhi 18. DMIC Corridor – Mumbai
The Defence Research and Tổ chức Nghiên cứu và Phát 19. DRDO Development Organisation triển Quốc phòng
Hội nghị Thượng đỉnh 20. The East Asia Summit EAS Đông Á
Economic Partnership Hiệp định Đối tác Kinh tế 21. EPA Agreement
22. European Union Liên minh Châu Âu EU
23. Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài FDI
24. Free-Trade Agreement Hiệp định thương mại tự do FTA
Free Trade Area of the Asia Khu vực thương mại tự do 25. FTAAP Pacific châu Á-Thái Bình Dương
General Agreement on Hiệp ước chung về thuế 26. GATT Tariffs and Trade quan và mậu dịch
27. Gross Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội GDP
28. Greater Mekong Subregion Tiểu vùng Mêkông mở rộng GMS
The International Atomic Cơ quan năng lượng nguyên 29. IAEA Energy Agency tử quốc tế
Institute of Cost Hội đồng Ấn Độ về Sự vụ 30. ICWA Accountants of India thế giới
Indian Space Research Tổ chức Nghiên cứu Vũ trụ 31. ISRO Organisation của Ấn Độ
Indian Technical and Chương trình trợ giúp kinh 32. ITEC Economic Cooperation tế - kỹ thuật Ấn Độ
Japan Overseas Tổ chức hợp tác Nhật Bản ở 33. JOCV Cooperation Volunteers nước ngoài
Dự án hợp tác các khu vực Mekong–Ganga 34. châu thổ sông Hằng với khu MGC Cooperation vực sông Mekong
35. NAM
National Disaster Ủy ban Quản lý thiên tai 36. NDMA Management Authority Quốc gia
non-governmental Tổ chức phi chính phủ 37. N NGO organization
North–South Transport Hành lang Giao thông Bắc- 38. NSTC Corridor Nam
Official Development Viện trợ phát triển chính 39. ODA Assistance thức
Regional Comprehensive Hiệp định Đối tác Kinh tế 40. RCEP Economic Partnership Toàn diện Khu vực
The Regional Cooperation Hiệp định hợp tác khu vực Agreement on Combating 41. về chống cướp biển ở châu ReCAAP Piracy and Armed Robbery Á against Ships in Asia
South Asian Association for Hiệp hội Hợp tác khu vực 42. SAARC Regional Cooperation Nam Á
The South Asian Free Trade 43. Khu vực thương mại ưu đãi SAFTA Area
Shanghai Cooperation Tổ chức Hợp tác Thượng 44. SCO Organisation Hải
Treaty of Amity and Hiệp ước hợp tác và hữu 45. Cooperation in Southeast TAC nghị Đông Nam Á Asia
Đường ống dẫn dầu Turkmenistan–Afghanistan– 46. Tuốcmênixtan-Ápganixtan- TAPI Pakistan–India Pipeline Pakixtan-Ấn Độ
Trans-Pacific Strategic Hiệp định đối tác xuyên 47. Economic Partnership TPP Thái Bình Dương Agreement
United Nations Conference Hội nghị Liên hợp quốc về 48. UNCTAD on Trade and Development Thương mại và Phát triển
49. World Economic Forum Diễn đàn Kinh tế thế giới WEF
Worrld Trade Tổ chức Thương mại thế 50. WTO Organnization giới.
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ấn Độ là một quốc gia lớn và có ảnh hưởng ở khu vực Nam Á. Là một xã hội đa nguyên, đa ngôn ngữ và đa dân tộc, Ấn Độ cũng là nơi bắt nguồn của nhiều tôn
giáo lớn, chính những yếu tố này đã hình thành nên một Ấn Độ với nền văn hóa đa dạng và phong phú. Sau các cải cách kinh tế dựa trên cơ sở thị trường vào năm 1991, Ấn Độ trở thành một trong số các nền kinh tế lớn có mức tăng trưởng nhanh,
được nhận định là một nước công nghiệp mới. Ấn Độ là một quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và là một cường quốc trong khu vực, có quân đội thường trực mạnh, được đánh giá là một cường quốc toàn cầu tiềm năng.
Sau Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đã linh hoạt điều chỉnh chính sách phát triển đất nước
theo hướng thực dụng hơn, lấy lợi ích quốc gia làm cơ sở để phát triển quan hệ với các
nước lớn và nổi lên như một hiện tượng đáng chú ý của khu vực trong thập kỷ đầu của
thế kỷ XXI. Khu vực Châu Á Thái Bình Dương là khu vực có vai trò quan trọng về kinh
tế, chính trị và địa chiến lược đối với các khu vực khác và toàn cầu. Trong điều kiện đó,
Ấn Độ sẽ hưởng nhiều lợi ích từ khu vực và có nhiều cơ hội để hội nhập kinh tế sâu,
rộng hơn thông qua các hiệp định tự do thương mại, hiệp định hợp tác kinh tế với các
nước, nhất là với các đối tác chiến lược. Không gian chiến lược của Ấn Độ không ngừng được mở rộng. Ấn Độ tăng cường triển khai đối ngoại trên các lĩnh vực với các
nước láng giềng, các nước lớn và các nước trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương
nhằm tăng lợi thế cho mình trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng với Trung Quốc. Với xu hướng trở thành nước có nền kinh tế lớn, nắm bắt được công nghệ tiên tiến, cải thiện và tăng cường sức mạnh quân sự,… Ấ n Độ được dự báo sẽ trở thành nhân tố quan trọng trong cuộc cạnh tranh ảnh hưởng giữa các nước lớn, các trung tâm quyền lực trong vài
thập kỷ tới, cũng như thể hiện vai trò lớn hơn của mình đối với việc định hình một cấu
trúc an ninh ở khu vực Nam Á.
Ấn Độ trong thế kỷ XXI có vị trí, vai trò quan trọng trong chiến lược của các
nước lớn, các trung tâm quyền lực tranh giành ảnh hưởng tại nước này trong thế kỷ
XXI. Có thể nói, với những đường lối, chủ trương đúng đắn của Đảng cầm quyền,
đặc biệt là Đảng Quốc Đại, sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; giữa chủ nghĩa dân tộc chân chính với chủ nghĩa lý tưởng, sự quyết
tâm cao của các lãnh tụ và các nhà lãnh đạo đất nước qua các thời kỳ đã đưa Ấn Độ
trở thành cường quốc, có vị thế xứng đáng trên trường quốc tế.
2
Bước sang thế kỷ XXI, Ấn Độ không chỉ mở rộng tầm ảnh hưởng mạnh mẽ ở
khu vực Nam Á, Ấn Độ Dương mà còn gia tăng sức mạnh ở khu vực Đông Nam Á,
Châu Á - Thái Bình Dương, thể hiện năng lực cạnh tranh với các nước lớn. Ấn Độ đã triển khai mạnh mẽ chính sách hướng Đông chuyển sang hành động phía Đông để
khẳng định sự xuất hiện của nước này tại khu vực trên cả phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn; bảo vệ lợi ích quốc gia luôn song hành gắn kết với an ninh chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, bản sắc dân tộc và luật pháp quốc tế.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ đã điều chỉnh chiến lược đối ngoại một cách toàn diện, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là đảm bảo hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực và trên thế giới, tạo môi trường thuận lợi cho phát
triển, tăng cường thực lực đồng thời mở rộng không gian chiến lược nhằm tạo dựng
ảnh hưởng tương xứng với vị thế của cường quốc khu vực và toàn cầu. Ấn Độ đã
thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược với tất cả các nước lớn như Nga, Mỹ,
Trung Quốc, Nhật, Đức, EU, ASEAN… Qua đó, Ấn Độ có những điều chỉnh linh
hoạt, mềm dẻo trong chính sách đối ngoại của mình để tiếp tục xây dựng những
mối quan hệ tốt đẹp, góp phần ổn định và tiếp tục phát triển đất nước. Trong suốt
hai nhiệm kỳ Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ như một nước lớn đang trỗi dậy,
phấn đấu trở thành một cường quốc khu vực, có ảnh hưởng đến thế giới. Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ không chỉ ảnh hưởng đến khu vực và thế
giới mà còn ảnh hưởng rất lớn đến Việt Nam.
Ấn Độ đã phát huy sức mạnh truyền thống văn hóa, tinh thần dân tộc bằng nội lực, sự đoàn kết thống nhất ý chí của cả dân tộc để ghi đậm thêm dấu ấn lịch sử vĩ
đại đầy tự hào, kiêu hãnh và phát triển. Đây là di sản nổi bật, đặc điểm riêng biệt của nhân dân Ấn Độ đã đứng dậy từ thuộc địa đến độc lập, từ phụ thuộc đến tự do;
để có thể tham dự hoặc can dự và có ảnh hưởng lớn đến mọi hoạt động của đời
sống quốc tế; chủ động xử lý tốt mối quan hệ với các quốc gia láng giềng mâu
thuẫn và các quốc gia láng giềng trong khu vực. Đây là một số bài học kinh nghiệm
quý báu và mang tính cấp thiết đối với các nước đang phát triển để có thể tham
chiếu, áp dụng, nhằm xử lý những vấn đề trong nước và quốc tế một cách hiệu quả.
Trong bối cảnh hòa bình hợp tác tiếp tục là xu thế chủ đạo ở khu vực và trên thế
giới, Việt Nam đang thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa
phương hóa các mối quan hệ quốc tế nhằm đưa đất nước ngày càng phát triển ổn
định, hòa bình. Trong giai đoạn mới, Ấn Độ tiếp tục là đối tác chân thành và lâu dài
3
của Việt Nam, mối quan hệ sâu sắc giữa hai nước được đặt nền móng bởi các vị lãnh
tụ giữa hai nước trong chiều dài lịch sử. Mối quan hệ đối tác được thể hiện phong
phú trên nhiều lĩnh vực như: Quốc phòng an ninh, thương mại, giao lưu nhân dân... Chính vì vậy, việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong giai đoạn Ấn Độ
có những sự điều chỉnh chiến lược là hết sức cần thiết, có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc góp phần vào công tác hoạch định chính sách đối ngoại ở Việt Nam.
Với những lý do trên, tác giả lựa chọn đề tài: “Chính sách đối ngoại của Ấn
Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004 - 2014)” làm luận án tiến sĩ chuyên ngành quan hệ quốc tế.
2. Lịch sử nghiên cứu liên quan đến đề tài 2.1. Nhóm công trình nghiên cứu về kinh tế, chính trị, xã hội Ấn Độ
Nghiên cứu về Ấn Độ được nhiều tác giả trong nước, nước ngoài và Ấn Độ
thực hiện, đây là những công trình cơ bản về Ấn Độ.
* Công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam:
Vũ Dương Ninh (chủ biên 1995), Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội, cuốn
sách cung cấp những thông tin cơ bản và hệ thống về những nền văn minh thời cổ
trung đại ở Ấn Độ và nền văn minh Ấn Độ thời cận hiện đại. Đáng chú ý, trong nội
dung tác phẩm có đề cập đến mối quan hệ của Ấn Độ với các nước lớn được tương đối khái quát, qua đó mô tả được những nét cơ bản trong việc thực hiện chính sách
đối ngoại của Ấn Độ trong thời kỳ mới; Hồ Anh Thái (2008), Namaskar! Xin chào
Ấn Độ, Nxb. Trẻ, Hà Nội. Cuốn sách trình bày những đặc điểm cơ bản về đất nước - văn hóa - con người Ấn Độ có ảnh hưởng lớn trong việc hình thành và xác định
nội dung triển khai Chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong suốt chiều dài lịch sử; Ngô Xuân Bình (2013), Một số vấn đề kinh tế và chính trị cơ bản của Ấn Độ thập
niên đầu thế kỷ XXI và dự báo xu hướng phát triển đến năm 2020, Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội. Nội dung cuốn sách làm rõ quá trình phát triển thành một
cường quốc mới của Ấn Độ cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, sự gia
tăng mạnh mẽ của thương mại, đầu tư trong thập niên đầu thế kỷ XXI của quốc gia
này. Những biến động trong tình hình kinh tế, chính trị và nhất là chính sách đối
ngoại của Ấn Độ ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển của các quốc gia trên thế
giới nói chung và Việt Nam nói riêng; Ngô Minh Oanh (2018), Những người làm
nên lịch sử Ấn Độ, Nxb Văn hóa văn nghệ TP HCM. Thông qua cuốn sách, tác giả
làm rõ lịch sử Ấn Độ từ khởi thủy cho đến nay. Đồng thời, cuốn sách giới thiệu bảy
4
nhân vật mà cuộc đời, sự nghiệp và những đóng góp to lớn của họ vào công cuộc
đấu tranh cho nền độc lập, tự do của nhân dân Ấn Độ. Đó là Rammohun Roy,
Ramakrishna, Vivekananda, Ban Gaggada Tilak, Mohandat Karamsan Gandhi, Jawaharlal Nehru và nhiều người khác… Tác giả giới thiệu một cách ngắn gọn và
dễ hiểu về cuộc đời, sự nghiệp chính trị, những nét lớn về quan điểm trong chính sách đối ngoại của các nhân vật; Nguyễn Văn Dương (2018), Quá trình củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc của Cộng hoà Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2015 (The
process of strengthening and defending for national independence of the Republic of India from 1991 to 2015): LATS Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Tác giả đã phân tích quá trình củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc của Cộng
hoà Ấn Độ giai đoạn 1991 - 2005 trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị - ngoại giao,
an ninh - quốc phòng, văn hoá - xã hội.
* Công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài:
Albert Schweitzer (1957), Indian thought and its development, Nxb The
Beacon Press; First Edition edition. Tác giả đưa ra những nội dung khái quát về hệ
tư tưởng triết học, chính trị Ấn Độ qua các thời kỳ, đồng thời tác giả chỉ ra những
ảnh hưởng sâu rộng đến đời sống tinh thần, đạo đức của con người và những biến
đổi trong đời sống chính trị ngoại giao của Ấn Độ; Amartya Sen (2005), The Argumentative Indian, Nxb Allen Lane, Cuốn sách cho rằng: “Ấn Độ là một dân
tộc mộ đạo bậc nhất trên thế giới… là một dân tộc trọng triết học bậc nhất trên thế
giới”, tác giả tập trung phân tích những nét nổi bật trong chủ nghĩa đa nguyên ở Ấn Độ, về đối thoại và biện chứng trong việc theo đuổi công bằng xã hội và về bản
chất của bản sắc Ấn Độ; Jurgen Richter, Tarun Das Colette Mathur Frank (2006), India Rising, Nxb HÄftad Engelska. Nội dung cuốn sách trình bày ý kiến của các
tác giả khác nhau về các bước đi cần thiết để Ấn Độ có thể đạt được mức tăng
trưởng 8% hàng năm vào thập kỷ tới, trong đó có những bước đi quan trọng trên
lĩnh vực đối ngoại và quan hệ quốc tế.
* Công trình nghiên cứu của các tác giả Ấn Độ:
Anjana Mothar Chandra (2005), 5,000 Years of History & Culture, Nxb Times
Editions-Marshall Cavendish. Cuốn sách còn cung cấp các thông tin cơ bản về mỗi
giai đoạn lịch sử phức tạp theo những bước thăng trầm kỳ lạ của Ấn Độ, từ thời kỳ
hình thành những nền văn minh Ấn Độ cổ đại đầu tiên đến sự trỗi dậy của Ấn Độ
trong thế kỷ XXI. Ấn Độ trong thế kỷ XXI đang cuồn cuộn chuyển mình với một nền
5
kinh tế tăng tốc, chính sách đối ngoại thực tế hơn. Sự chuyển đổi của Ấn Độ đã thực
sự gây ấn tượng với cộng đồng các quốc gia trên thế giới; Pavank Varma (2006),
Being Indian: The Truth about Why the Twenty-First Century Will Be India's”, Nxb Penguin Books. Tác giả đã tập trung tìm hiểu, làm rõ một vấn đề lớn: Là một người
Ấn Độ có nghĩa gì, đất nước Ấn Độ sẽ ra sao trong thế kỷ XXI? Tác giả đã phân tích sâu nhiều bình diện: chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, văn hóa xã hội và các lĩnh vực khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, đặc biệt là quan hệ ngoại giao của Ấn Độ
với các quốc gia trên trường quốc tế… để dự kiến có tính khoa học rằng: Thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Ấn Độ; Shrikant Paranjpe (2012), India’s Strategic Culture: The Making of National Security Policy”, Nxb Routledge (India). Cuốn sách làm rõ các nội dung từ
văn hóa chiến lược nói chung đến văn hóa chiến lược của Ấn Độ trong xây dựng chính
sách an ninh quốc gia qua các thời kỳ lịch sử từ 1947 đến nay. Cuốn sách đề cập đến
nhiều nội dung mới như: Nguồn gốc tư duy Ấn Độ, tư duy chiến lược Ấn Độ giúp gì
cho việc xây dựng chính sách đối ngoại quốc gia, giúp gì cho việc xác định vai trò Ấn
Độ trong trật tự thế giới cận đại và đương đại.
Các tác giả Ấn Độ cũng có nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử Ấn Độ cận,
hiện đại như: cựu Tổng thống Ấn Độ APJ Abdul Kalam (2014), India 2020: A
Vision for the new Millenium, Nxb Penguin. Tác giả đã chỉ ra và phân tích các điểm mạnh, yếu của Ấn Độ để đưa ra một quan điểm giải quyết vấn đề: Làm thế nào để
Ấn Độ có thể trở thành một trong 5 cường quốc kinh tế hàng đầu thế giới trong năm
2020. Việc đề ra những mục tiêu ý nghĩa đó có thể đưa Ấn Độ đến thành công trong nhiều lĩnh vực đối ngoại và quan hệ quốc tế, đây là cơ sở quan trọng để Ấn Độ trở
thành một quốc gia thịnh vượng, vững mạnh; Bipan Chandra (2016), Cuộc đấu tranh giành độc lập của Ấn Độ, Nxb Penguin, Reprint edition. Đây là một nghiên cứu về
phong trào độc lập của Ấn Độ, từ một cuộc nổi dậy thất bại chống lại người Anh vào
năm 1857, trải qua thời gian và cuối cùng Ấn Độ đã giành được độc lập vào năm
1947, xét từ quan điểm của người Ấn Độ. Cuốn sách cũng nghiên cứu tính cách và
ảnh hưởng của các nhà lãnh đạo trong các thời kỳ và sự phát triển của một tầm nhìn
mới và sâu sắc về lịch sử thời kỳ này; Pavan K. Varma (2017), Người Ấn Độ - Sự
thật về lý do tại sao thế kỷ XXI sẽ là thế kỷ Ấn Độ, Nxb. Thông tin và Truyền thông.
Trong cuốn sách chuyên khảo tác giả đã nghiên cứu các yếu tố về văn hoá, xã hội,
phát triển ảnh hưởng đến hình ảnh người Ấn Độ trong thời gian tiếp theo của thế kỷ
XXI bao gồm: quyền lực, sự thịnh vượng, công nghệ và sự thoả hiệp
6
2.2. Nhóm công trình nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ
* Công trình nghiên cứu của các tác giả Việt Nam.
Trần Thị Lý (2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991 đến 2000, NXB Khoa học xã hội, 2002. Cuốn sách đề cập đến những thành tựu mà
Ấn Độ đạt được trên hai lĩnh vực chủ yếu: Kinh tế và Đối ngoại, trong đó tác giả chỉ ra những nguyên nhân trực tiếp dẫn đến sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ, bao gồm những nhân tố chủ quan và khách quan; Cải cách kinh tế, quá
trình thực hiện các chính sách đổi mới và cải cách kinh tế; Điều chỉnh chính sách đối ngoại, quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với các nước láng giềng, các nước lớn, các khu vực chủ yếu trên thế giới; Những
thành tựu sau 10 năm điều chỉnh chính sách, bao gồm chính sách kinh tế và chính
sách đối ngoại của Ấn Độ giai đoạn 1991 – 2000; Lê Nguyễn Hương Trinh (2005),
Chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kỳ cải cách, Nxb Chính trị Quốc gia. Nội
dung cuốn sách đề cập những cơ sở lý luận, thực tiễn về vai trò của ngoại thương
trong phát triển kinh tế, sự chuyển hướng chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kì
cải cách, những kinh nghiệm và bài học được rút ra từ quá trình cải cách ngoại
thương Ấn Độ; Võ Xuân Vinh (2013), ASEAN trong chính sách hướng đông của
Ấn Độ NXB Khoa học xã hội. Cuốn sách tập trung vào việc tìm hiểu chính sách đối ngoại của Ấn Độ - một cường quốc đang lên - đối với khu vực châu Á - Thái Bình
Dương và vai trò của ASEAN trong chính sách đó đồng thời đánh giá tác động của
chính sách hướng đông của Ấn Độ đối với ASEAN và tìm hiểu quan hệ Việt Nam - Ấn Độ; Ngô Xuân Bình (2013), Việt Nam - Ấn Độ và Tây Nam Á: Những mối liên hệ
trong lịch sử và hiện tại, Nxb Từ điển bách khoa. Cuốn sách tập trung ở ba nội dung chính, đó là quan hệ Việt Nam - Ấn Độ, quan hệ Việt Nam - Tây Nam Á và quan hệ
Ấn Độ - Tây Nam Á. Trong đó các học giả chú ý đến những vấn đề như quan hệ đối
ngoại trên các lĩnh vực văn hóa, tôn giáo, ngôn ngữ và các mối quan hệ giữa các
nước lẫn nhau trong đó có Việt Nam và Ấn Độ với các nước Tây Nam Á; Nguyễn
Trường Sơn (2015), Hướng về phía Đông - Một chiến lược lớn của Ấn Độ, NXB
Chính trị Quốc gia. Nội dung cuốn sách tập trung trình bày khái quát các khái cạnh
của chiến lược hướng Đông của Ấn Độ, những mối quan hệ truyền thống giữa Ấn
Độ và Đông Á, trong đó phân tích đặc trưng, bản chất của mối quan hệ Ấn Độ –
Đông Á cũng như diễn tiến của mối quan hệ đa dạng, phức tạp của khu vực trong
thời kỳ sau Chiến tranh lạnh; Trần Nam Tiến (2016), Ấn Độ với Đông Nam Á trong
7
bối cảnh quốc tế mới, NXB Văn hóa Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. Cuốn sách đề cập
đến nội dung chính sách hướng Đông của Ấn Độ. Chính sách này không chỉ nhằm
vào lợi ích kinh tế đơn thuần mà còn hướng đến lợi ích chính trị, an ninh nhằm khẳng định vị thế cường quốc Châu Á - Thái Bình Dương của Ấn Độ. Trung tâm
nghiên cứu Ấn Độ (2016), Việt Nam - Ấn Độ: bối cảnh mới, tầm nhìn mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Nxb Lý luận chính trị. Đây là công trình tập hợp nhiều bài viết nghiên cứu của nhiều tác giả về mối quan hệ hai nước trước những thay đổi
lớn của tình hình khu vực và thế giới. Các bài viết phân tích sâu sắc bối cảnh mới tác động đến Việt Nam, Ấn Độ và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trên nhiều bình diện; thực trạng, những thành tựu trong hợp tác, những rào cản ảnh hưởng đến quan hệ Việt
Nam - Ấn Độ và triển vọng phát triển quan hệ Việt - Ấn trong tình hình mới; Trung
tâm nghiên cứu Ấn Độ (2017), Sức mạnh mềm Ấn Độ, sức mạnh mềm Việt Nam
trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Nxb
Lý luận chính trị. Với 98 bài tham luận của các nhà lãnh đạo, quản lý, các học giả
Việt Nam và Ấn Độ đã làm sâu sắc hơn nữa giá trị, vai trò, tác động của sức mạnh
mềm; lợi thế, mối tương quan giữa sức mạnh cứng, sức mạnh mềm và sức mạnh
thông minh trong đời sống chính trị, văn hóa – xã hội, ngoại giao của các quốc gia
dân tộc, tập trung vào Việt Nam và Ấn Độ trong bối cảnh khu vực hóa và toàn cầu hóa; Phùng Thị Thảo (2017), Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Đông Nam Á
giai đoạn 1947 đến 1964, Luận án tiến sĩ Đông Nam Á học, Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận án nghiên cứu chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Đông Nam Á trong giai đoạn 1947-1964 theo các vấn đề
trọng tâm như cơ sở và lý thuyết hình thành chính sách, nội dung, quá trình triển khai chính sách và phản ứng chính sách, kết quả và tác động, đặc trưng và mối liên hệ
chính sách ở giai đoạn 1991-2017. Đồng thời, luận án vận dụng cả hai hướng tiếp
cận của chủ nghĩa lý tưởng và chủ nghĩa hiện thực để lý giải chính sách đối ngoại
của Ấn Độ với Đông Nam Á trong giai đoạn 1947-1964; Tôn Sinh Thành (2018),
Hợp tác khu vực châu Á: Nhân tố ASEAN và Ấn Độ, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật.
Nội dung cuốn sách đi sâu tìm hiểu, phân tích một cách tổng thể và liên tục bản chất
của quá trình hình thành, vận hành các cơ chế hợp tác khu vực châu Á, thông qua
việc nghiên cứu về lịch sử và lý thuyết hợp tác khu vực, đánh giá khoa học về tác
động của các nhân tố kinh tế, chính trị, an ninh, bản sắc văn hóa, thể chế đối với quá
trình hợp tác khu vực cũng như sự ra đời, phát triển và mở rộng các cơ chế hợp tác.
8
Trong tất cả quá trình này, nổi lên vai trò của ASEAN và Ấn Độ; Lê Thị Hằng Nga
(2018), Quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ 1947 – 1991, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật. Tác
giả đã phân tích những nhân tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ thời kỳ 1947 – 1991, từ đó tác giả đi vào mối quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ trên lĩnh vực chính trị -
ngoại giao và quốc phòng; các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, giáo dục và hợp tác khoa học kỹ thuật thời kỳ 1947-1991. Tác giả cũng đã đưa ra một số nhận xét về quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ (1947-1991) và tác động của mối quan hệ này đối với tình hình
quốc tế, khu vực và sự phát triển của mỗi nước; một số gợi ý cho Việt Nam; Đặng Cẩm Tú (2018), Xu hướng phát triển và chính sách của Ấn Độ đối với châu Á - Thái Bình Dương đến năm 2030, Nxb. Chính trị Quốc gia. Tác giả đã tập trung giới thiệu
quan điểm và hoạt động đối ngoại của Ấn Độ từ sau chiến tranh lạnh đến nay; phân
tích những đặc điểm khách quan, chủ quan ở các mặt của đất nước này để đưa ra
những dự báo về chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với khu vực châu Á - Thái
Bình Dương trong tương lai.
Ngoài ra, quan hệ của Ấn Độ với các quốc gia lớn và một số quốc gia khu vực
còn được đề cập đến trong các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành của các tác
giả như:
* Trên thế giới và Ấn Độ: Sudhir Devare (2005), India and Southeast Asia: Towards Security
Convergence, Nxb ISEAS/Capital. Tác giả đưa ra nội dung cốt lõi trong quan hệ
đối tác giữa Ấn Độ và các quốc gia Đông Nam Á đồng thời tác giả cũng làm rõ sự phát triển của mối quan hệ này qua các thời kỳ trong lịch sử. Trong nội dung cuốn
sách, tác giả cũng đề xuất những kế hoạch hành động, tầm nhìn trong tương lai để thực hiện quan hệ đối tác chiến lược giữa ASEAN – Ấn Độ vì hòa bình, phát triển
và thịnh vượng chung; Rajiv Sikri (2009), Challenge and Strategy: Rethinking
India's Foreign Policy, Nxb SAGE Publications India. Cuốn sách này xem xét
những thách thức chính sách đối ngoại hiện nay của Ấn Độ từ quan điểm chiến lược
và định hướng chính sách. Cuốn sách tập trung vào đánh giá vị trí và vai trò các quốc
gia láng giềng gần gũi và có tính chiến lược của Ấn Độ. Tác giả cũng xem xét các
vấn đề quan trọng như an ninh năng lượng, ngoại giao kinh tế, sự tương tác giữa
quốc phòng và ngoại giao, các tổ chức và chính sách đối ngoại; J.N.Dixit (2010),
India's Foreign Policy And Its Neighbours, Nxb Gyan Publishing House. Cuốn
sách phân tích về sự tan rã của Liên bang xô viết, Ấn Độ mất đi những thế mạnh và
9
những sự lựa chọn mang tính chiến lược trên trường quốc tế, bởi thế, làm thế nào
để có được những thế cân bằng quyền lực mới, để có được sự đa dang hóa kinh tế,
làm sao để có được các mối quan hệ kỹ thuật và chính trị và tìm kiếm được quan hệ với các trung tâm quyền lực mới nổi trên thế giới… là những thách thức gay gắt đối
in
với chính sách đối ngoại của Ấn Độ; Jakub Zajączkowski, Jivanta SchÖttli, Manish Thapa (2014), India the Contemporary World: Polity, Economy and International Relations, Nxb Routledge Ấn Độ. Đây là công trình nghiên cứu sâu
về Ấn Độ đương đại trên các bình diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quan hệ quốc tế. Cuốn sách đã tiếp cận trên các bình diện: địa chính trị, địa kinh tế, lịch sử, chính trị, văn hóa, ngoại giao, an ninh truyền thống và phi truyền thống để đi sâu
nghiên cứu, minh giải nhiều vấn đề trọng tâm xoay quanh trục đối ngoại của Ấn
Độ; Rajiv K. Bhatia (2014), India-Vietnam: Agenda for Strengthening Partnership, Nxb
Shipra Publications. Trong công trình nghiên cứu, tác giả khẳng định rằng, lịch sử cho
thấy, Ấn Độ và Việt Nam là hai người bạn thực sự của nhau với mối quan hệ chung thủy,
hàng thế kỷ. Tác giả khảo lược, phân tích bốn thập kỷ kinh tế - thương mại Việt Nam - Ấn
Độ. Nhiều số liệu trong công trình nghiên cứu là những tư liệu quý giúp các nhà khoa học
có cứ liệu phân tích, đánh giá về quan hệ hai nước; Pankaj Jha, Smita Tiwari, Smita
Tiwari (2015), Transitions and Interdependence: India and its Neighbours, Nxb KW Publishers. Cuốn sách này giải quyết những vấn đề cốt lõi của quá trình
chuyển biến chính trị, những thách thức kinh tế - xã hội và hợp tác khu vực trong
bối cảnh rộng lớn hơn của sự hòa bình, thịnh vượng và phát triển ở Nam Á nói chung và sự phụ thuộc lẫn nhau trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn
Độ với các quốc gia trong khu vực. Những phát triển trong khu vực có ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại của Ấn Độ và cũng hun đúc chính trị trong nước và ngược
lại. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với từng quốc gia cũng có tác động quyết
định đến tốc độ chuyển đổi chính trị đang diễn ra ở một số lĩnh vực: quan hệ quân
sự-dân sự, chính sách đối ngoại của từng quốc gia, động lực chính trị xã hội và kinh
tế và bản chất quản trị.
Chính sách đối ngoại của Ấn Độ là vấn đề đã được nhiều học giả trong và ngoài
Ấn Độ nghiên cứu, có nhiều bài nghiên cứu đã được dịch ra tiếng Việt và các công
trình nghiên cứu bằng tiếng Anh, phải kể đến một số công trình tiêu biểu như:
Frédéric Grare, Amitabh Mattoo (2001), India and ASEAN - The politics of
India’s Look East Policy”, Nxb. Center de Sciences Humaines, New Delhi. Cuốn
10
sách là một trong những công trình đầu tiên tìm hiểu về mối quan hệ giữa Ấn Độ -
ASEAN trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ và vị trí của Ấn Độ đối với khu
vực Đông Nam Á. Kanwal Sibal (2003), Challenges and Prosoects, India Foreign Policy, Speech presented at Gerneva Forum, tác giả đã chỉ ra những vấn đề cơ bản
của tình hình thế giới và khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong thế kỷ XXI, từ đó chỉ ra những cơ hội và thách thức đối với chính sách đối ngoại của Ấn Độ, đồng thời tác giả cũng dự báo những triển vọng mới trong chính sách đối ngoại của Ấn
Độ; Dipanka Banedi (2005), “India and Southeast Asia in the XXI Century”, Publisher: Ma Gien Dipanka, New delhi; Tác giả đã tập trung phân tích vai trò của mối quan hệ Ấn Độ và Đông Nam Á trong thế kỷ XXI, Ấn Độ đang phấn đấu trở
thành một cường quốc khu vực, một cực có vai trò chi phối thế giới nên việc tăng
cường quan hệ toàn diện với các nước ASEAN mà với Việt Nam là một ưu tiên
hàng đầu; bên cạnh đó, quan hệ toàn diện với Ấn Độ cũng là một trọng điểm của
các nước ASEAN; Shillong, (2008) “India - ASEAN Relations - Analysing
Regional Implications”, Mohit Anand, IPCS Special Report, Institute of Peace and
Conflict Studies, New Delhi, 5/2009. Tác giả đã tập trung làm rõ những nội dung
trong quan hệ hợp tác Ấn Độ - ASEAN kể từ khi Ấn Độ thực hiện chính sách
hướng Đông, mối quan hệ này đang có những bước phát triển quan trọng, đóng góp thực chất cho hòa bình, ổn định và phát triển trong khu vực; Mohammed Khalid
(2010), Southeast Asia in India’s Post Cold War Foreign Policy, Department of
Evening Studies, Panjab University, Chandigarh. Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Đông Nam Á đã dần lấy lại được vị trí và tầm quan trọng của mình trong
Chính sách Hướng Đông của Ấn Độ. Tác giả đi vào tìm hiểu vị trí của Đông Nam Á trong chương trình nghị sự chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
2.3. Nhận xét các công trình đã công bố và những vấn đề đặt ra luận án tiếp tục
giải quyết 2.3.1. Khái quát kết quả chủ yếu của các công trình đã công bố có liên quan đến đề
tài luận án
Nghiên cứu về Ấn Độ được nhiều tác giả, tổ chức trong và ngoài nước quan
tâm nghiên cứu, đặt được nhiều kết quả tích cực, đặc biệt là nghiên cứu về mối
quan hệ của Ấn Độ - Việt Nam, quan hệ của Ấn Độ với các nước lớn, tình hình văn
hóa, kinh tế, chính trị Ấn Độ. Các công trình đã tập trung tìm hiểu phân tích và làm
rõ nhiều vấn đề liên quan đến quá trình hình thành, phát triển và trỗi dậy của nước
11
Cộng hòa Ấn Độ, đặc điểm hệ thống chính trị, tinh hính kinh tế, văn hóa, xã hội
của Ấn Độ từ khi giành độc lập đến nay. Nhiều tác phẩm đã đưa ra những đánh giá
sâu sắc về quan hệ đối ngoại của Ấn Độ trên nhiều lĩnh vực. Ngoài ra, với sự hiểu biết về văn hóa, con người Ấn Độ, các tác giả Ấn Độ đã có quan điểm tiếp cận vấn
đề tương đồng với chính sách của chính quyền cựu Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh trên rất nhiều nội dung. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trong/ngoài nước đã làm rõ một số vấn đề chính:
- Các công trình đã đề cập đến một cách khái quát về quá trình hình thành, phát
triển và những tư tưởng đối ngoại của Ấn Độ từ khi giành được độc lập đến nay. - Khái quát được một số vấn đề về chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
- Gợi mở ra những vấn đề cần đi sâu nghiên cứu để tìm ra bản chất, quy luật
vận động và sự điều chỉnh chiến lược trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ với các
chủ thể quan hệ quốc tế trong những năm đầu thế kỷ XXI.
2.3.2. Những vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
Một là, Luận án tập trung phân tích và làm rõ những vấn đề mà các công trình
nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004 đến 2014 chưa được làm
rõ đó là phân tích, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn hình thành của chính sách đối
ngoại Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004 - 2014). Về cơ sở lý luận, luận án tập trung làm rõ: (i) Tác động của những triết lý truyền thống đến chính sách
đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh; (ii) Chủ nghĩa hiện thực
bất bạo động của Mahatma Gandhi; (iii) Tư tưởng của Thủ tướng Manmohan Singh về chính sách đối ngoại. Về cơ sở thực tiễn, luận án phân tích những nhân tố tác động
đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ như: (i) Tình hình thế giới, khu vực và những tác động ảnh hưởng tới Ấn Độ. (ii) Tình hình Ấn Độ
trong những năm đầu thế kỷ XXI tác động đến quá trình hoạch định và triển khai
chính sách đối ngoại; (iii) Chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước năm 2004 để làm rõ
sự kế thừa, phát huy và điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời
Thủ tướng Manmohan Singh;.
Hai là, luận án phân tích nội dung và quá trình triển khai chính sách đối ngoại
của Ấn Độ qua các trường hợp nghiên cứu điển hình; trong đó tập trung vào chính
sách đối ngoại đối với các nước lớn (Trung Quốc, Mỹ); các nước láng giềng
(Pakistan, Bangladesh); các tổ chức khu vực, quốc tế (SAARC, ASEAN, UN,
WTO); Phong trào Không liên kết. Qua việc phân tích các trường hợp cụ thể này,
12
luận án phân tích, làm rõ quá trình vận động, phát triển chính sách đối ngoại của
Ấn Độ từ năm 2004 đến 2014
Ba là, qua việc phân tích, luận án rút ra nhận xét, đánh giá về thành tựu, hạn
chế trong chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh đồng
thời luận án chỉ ra tác động của chính sách đối ngoại Ấn Độ đến thế giới, đến sự
phát triển của Ấn Độ và đến Việt Nam. Rút ra đánh giá và nhận xét để thấy rõ mục
tiêu trong chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh là
nhất quán, biện pháp triển khai linh hoạt theo từng giai đoạn trên cơ sở tình hình
trong nước và thế giới.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục tiêu
Luận án làm rõ nội dung và thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ
dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh từ năm 2004 đến năm 2014.
3.2. Nhiệm vụ
Để đạt được những mục đích nêu trên, luận án cần thực hiện những nhiệm vụ
nghiên cứu sau:
- Phân tích cơ sở hình thành chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004 đến
năm 2014.
- Phân tích nội dung chính sách đối ngoại của Ấn Độ bao gồm mục tiêu, các
hướng ưu tiên, nguyên tắc, phương châm và nhiệm vụ đối ngoại của Ấn Độ thời kỳ
Thủ tướng Manmohan Singh (2004-2014).
- Phân tích thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004
đến năm 2014 đối với một số đối tác điển hình.
- Nhận xét về chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004 đến năm 2014.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng đề tài nghiên cứu là Chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ
tướng Manmohan Singh trên bình diện song phương và đa phương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian nghiên cứu: Luận án nghiên cứu chính sách đối ngoại của Ấn
Độ được triển khai tại một số không gian chủ yếu: với các nước láng giềng
(Bangladesh, Pakistan, Trung Quốc); với các nước lớn (Mỹ, Nga); với một số khu
13
chủ yếu (Trung Đông, Trung Á); với một số tổ chức quốc tế và khu vực (Liên hợp
quốc, WTO Phong trào Không liên kết, SAARC, ASEAN)
- Về thời gian nghiên cứu: từ năm 2004 đến năm 2014. Đây là giai đoạn Thủ
tướng Manmohan Singh cầm quyền ở Ấn Độ.
- Về nội dung nghiên cứu: Luận án nghiên cứu về mục tiêu và các hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh,
nguyên tắc, phương châm và nhiệm vụ đối ngoại của Ấn Độ.
5. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp luận:
Là luận án nghiên cứu về chính sách đối ngoại, về mối quan hệ song phương và đa phương giữa nhà nước và các chủ thể trong quan hệ quốc tế, luận án sử dụng phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin là phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
Bên cạnh đó, luận án còn dựa trên một số lý thuyết quan hệ quốc tế tiêu biểu như: chủ nghĩa hiện thực để làm rõ những mục tiêu và lợi ích trong chính sách đối
ngoại, chủ nghĩa tự do làm rõ những nhân tố tác động, chủ nghĩa Kiến tạo làm rõ vai
trò của Thủ tướng Manmohan Singh trong thực tiễn hoạch định và quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
- Phương pháp nghiên cứu: Một là, phương pháp phân tích chính sách được áp dụng để làm rõ việc triển khai
chính sách đối ngoại ở các cấp độ toàn cầu, khu vực, quốc gia; đồng thời phân tích,
đánh giá các điểm mạnh, điểm yếu và tác động ảnh hưởng của chính sách.
Hai là, phương pháp lịch sử - logic được sử dụng để phân tích, làm rõ sự giống
nhau, khác nhau và chỉ ra nguyên nhân tạo ra sự khác biệt cũng như nội dung có tính kế thừa giữa các nhiệm kỳ thủ tướng Ấn Độ, từ đó rút ra những điểm chung có tính
chất ổn định trong chính sách hợp tác về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội của Ấn Độ.
Ba là, phương pháp nghiên cứu trường hợp được sử dụng để làm rõ thực tiễn
triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ với một số quốc gia, khu vực, tổ chức
quốc tế tiêu biểu, thông qua đó làm nổi bật lên những hướng ưu tiên của Ấn Độ và
nội dung chính trong quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ
Bốn là, bên cạnh các phương pháp chủ yếu như trên, luận án sử dụng cách tiếp
cận hệ thống, được sử dụng để xem xét mối quan hệ giữa chính sách hợp tác quốc
tế về kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội với chính sách đối ngoại của Ấn Độ, qua đó
làm rõ sự tương thích, thống nhất trong xác định mục tiêu, đối tượng ưu tiên, giải
14
pháp thực hiện, tìm ra những tác động hai chiều đồng thời đưa ra những nhận xét
đánh giá trong quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
Ngoài ra để thực hiện luận án tác giả còn sử dụng các phương pháp liên ngành,
đa ngành của khoa học xã hội và nhân văn như: chính trị học, quan hệ quốc tế,... tác
giả luận án còn vận dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: tổng hợp, thống kê,
phân tích, đối chiếu, đa ngành liên ngành, tiếp cận 3 cấp độ: quốc tế, quốc gia, cá
nhân… để giải quyết những vấn đề khoa học đặt ra.
Đồng thời luận án còn sử dụng quan điểm của Đảng ta, quan điểm của Ấn Độ để
có cái nhìn toàn diện, khách quan về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ
tướng Manmohan Singh.
6. Nguồn tài liệu
Các nguồn tư liệu mà nghiên cứu sinh sử dụng trong luận án là các tài liệu sơ
cấp (Primary sources) và tài liệu thứ cấp (Secondary sources), trong đó tập trung
vào tài liệu sơ cấp, cụ thể: Tài liệu sơ cấp gồm: Các tư liệu gốc cung cấp những
thông tin chính thức và độ tin cậy cao như các bài phát biểu, diễn văn, thông điệp
thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh; hiệp ước ký kết giữa Ấn Độ với các nước như
Các nước láng giềng, Mỹ, Trung Quốc, ASEAN, các khu vực trên thế giới; các
công điện, thư từ của quan chức ngoại giao. Nguồn tư liệu này bao gồm các tư liệu
gốc do Bộ Ngoại giao Ấn Độ công bố, trong các công trình tuyển chọn tư liệu về
chính sách đối ngoại của Ấn Độ, trên các website của Chính phủ, bộ Ngoại giao Ấn
Độ,… Tài liệu thứ cấp gồm: Các công trình chuyên khảo của một số quan chức trực
tiếp tham gia vào quá trình hoạch định chính sách và thực thi chính sách đối ngoại
Ấn Độ như Dipanka Banedi Frédéric Grare, Amitabh Mattoo…, Các công trình
nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước có giá trị tham khảo về nội dung
thông tin, quan điểm đánh giá và cách tiếp cận nhiều chiều liên quan đến chủ đề
nghiên cứu của luận án. Các công trình, bài viết nghiên cứu khoa học của các học
giả Ấn Độ về chính sách đối ngoại quốc gia. Ngoài ra tác giả còn sử dụng các tài
liệu, công trình nghiên cứu của các học giả Việt Nam về Ấn Độ và chính sách đối
ngoại của Ấn Độ, đây là những tư liệu quan trọng, góp phần hình thành nên góc
nhìn khách quan, đầy đủ và toàn diện về chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
Các nguồn tài liệu để thực hiện luận án chủ yếu bằng tiếng Việt hoặc tiếng
Anh; được thể hiện dưới dạng bài viết hay sách của các tác giả người Việt hoặc
15
người Ấn Độ. Các công trình của các tác giả Nhật Bản, Trung Quốc, Thái Lan,…
chủ yếu được khai thác qua bản dịch bằng tiếng Việt hoặc tiếng Anh.
7. Đóng góp của luận án
Trên cơ sở kế thừa thành quả nghiên cứu của các công trình trong và ngoài
nước, đóng góp của luận án chủ yếu ở những mặt sau đây:
7.1. Về mặt khoa học
Thứ nhất, đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về chính sách đối ngoại
của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004 – 2014) một cách khách
quan và khoa học dưới góc nhìn của Việt Nam.
Thứ hai, luận án đưa ra những nhìn nhận khách quan, đa chiều về cơ sở hình thành và quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh. Từ đó, luận án rút ra những đánh giá cơ bản trong chính sách
đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, góp phần nhận thức, đánh giá một cách chính xác, sâu sắc hơn về nền ngoại giao của Ấn Độ trong một
giai đoạn lịch sử.
Thứ ba, kết quả luận án làm sáng tỏ thêm nội dung chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong giai đoạn nắm quyền của Thủ tướng Manmohan Singh, góp phần vào
việc nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ nói chung, lịch sử quan hệ quốc tế của Ấn Độ nói riêng.
7.2. Về mặt thực tiễn
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời
Thủ tướng Manmohan Singh (2004 – 2014), luận án nêu lên một số nhận thức mới,
cần thiết cho quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại củaViệt Nam trong giai đoạn mới.
Thứ hai, từ những kinh nghiệm lịch sử trong quá trình thực hiện chính sách
đối ngoại Ấn Độ với các nước đối tác, luận án sẽ là những hàm ý cần thiết cho việc
hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Ấn Độ. Điều này thực sự có
ý nghĩa trong bối cảnh Việt Nam và Ấn Độ đã xây dựng được mối quan hệ đối tác
chiến lược toàn diện.
Do vậy, luận án sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng
dạy và học tập của sinh viên, học viên cùng những ai quan tâm đến chính sách đối
ngoại của Ấn Độ.
16
8. Bố cục của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận án bao gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn hoạch định chính sách đối ngoại của
Ấn Độ dưới thời thủ tướng Manmohan Singh
Về những vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách đối ngoại, luận án làm rõ một số khái niệm cơ bản và các lý thuyết quan hệ quốc tế, các cấp độ trong phân tích chính sách đối ngoại. Luận án phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn chính sách đối ngoại của
Ấn Độ dưới thời thủ tướng Manmohan Singh. Đồng thời, luận án khái quát một số nội dung cơ bản trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ thời kỳ trước năm 2004 để thấy rõ được những nội dung kế thừa và sự điều chỉnh trong chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới
thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004 – 2014).
Chương 2: Nội dung và thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Ấn
Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh
Chương 2 tập trung vào nội dung chính sách đối ngoại của Ấn Độ và sự triển
khai chính sách này đối với các nước các nước láng giềng (Pakistan, Bangladesh,
Trung Quốc); lớn (Mỹ, Nga); các tổ chức quốc tế (SAARC, ASEAN, UN, WTO);
các khu vực (Trung Đông, Nam Á, Đông Nam Á). Qua việc phân tích các trường
hợp cụ thể này, luận án phân tích quá trình vận động, phát triển trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ năm 2004 đến năm 2014.
Chương 3: Nhận xét về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ
tướng Manmohan Singh (2004 - 2014)
Qua việc tìm hiểu cơ sở hình thành và thực tiễn nội dung triển khai chính sách
đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh ở chương 1 và chương 2 luận án đưa ra đánh giá về những thành tựu, hạn chế đồng thời chỉ ra tác động của
chính sách đối ngoại Ấn Độ đến quan hệ quốc tế và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
17
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HOẠCH ĐỊNH CHÍNH SÁCH
ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ DƯỜI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH (2004-2014)
1.1. Một số vấn đề lý thuyết cơ bản về chính sách đối ngoại 1.1.1. Khái niệm và lý thuyết chính sách đối ngoại
* Khái niệm về chính sách đối ngoại Chính sách đối ngoại là vấn đề được bàn đến khá nhiều trong các công trình nghiên cứu của các học giả phương Tây. Giáo sư Chính trị học Marijke Breuning,
Đại học North Texas (Mỹ) cho rằng, chính sách đối ngoại là “tổng thể các chính
sách và các mối tương tác với môi trường bên ngoài biên giới quốc gia. Chính sách
đối ngoại của một quốc gia bao quát nhiều lĩnh vực khác nhau, từ an ninh và kinh
tế tới những vấn đề về môi trường, năng lượng, viện trợ nước ngoài, di cư và quyền
con người. Các chủ thể cho những hành động liên quan tới chính sách đối ngoại và
những chủ thể là mục tiêu của các hành động đó thường là các quốc gia, nhưng
không phải lúc nào cũng vậy[114; tr.336]. Giáo sư George Modelski (Đại học
Washington) thì cho rằng “chính sách đối ngoại là hệ thống những hoạt động do các cộng đồng thực hiện nhằm thay đổi hành vi của các quốc gia khác và điều
chỉnh hành động của bản thân nhà nước mình với môi trường quốc tế”[123], giảm
tác động bất lợi và tăng cường hợp tác. Chính sách đối ngoại có thể được hiểu thông qua (i) Mối quan hệ giữa đầu vào và đầu ra trong quá trình ra quyết định; (ii)
Quá trình hoạch định chính sách; (iii) Mục tiêu của chính sách đối ngoại. Giáo sư Kal J. Holsti (Đại học British Columbia) cho rằng, chính sách đối ngoại là những
hành động chính phủ tiến hành hoặc cam kết nhằm duy trì hoặc thay đổi những đặc
điểm mong muốn hoặc không mong muốn trong môi trường quốc tế với mục tiêu
được cân nhắc kỹ lưỡng. Đó là sự kết hợp giữa định hướng, vai trò quốc gia, mục
tiêu và hành động; những chiến lược cơ bản để đạt được các mục tiêu trong nước
và ngoài nước, đặc biệt trong việc ứng phó với các đe dọa thường trực[138].
Ở Việt Nam, cũng đã có nhiều tác giả viết về chính sách đối ngoại, song những
công trình liên quan đến khía cạnh lý luận của vấn đề thì chưa nhiều, Theo từ điển Bách
khoa thư Việt Nam: “Chính sách là những chuẩn tắc cụ thể để thực hiện đường lối,
nhiệm vụ; được thực hiện trong một thời gian nhất định, trên những lĩnh vực cụ thể nào
18
đó. Bản chất, nội dung và phương hướng của chính sách tùy thuộc vào tính chất của
đường lối, nhiệm vụ chính trị, kinh tế,văn hóa, xã hội…”[20; tr.475]. Chính sách đối
ngoại là “Chủ trương, chiến lược, kế hoạch và biện pháp thực hiện cụ thể do một quốc gia đề ra liên quan đến các mối quan hệ quốc tế mà quốc gia đó thiết lập với các quốc
gia và các chủ thể khác nhằm tăng cường và bảo vệ lợi ích quốc gia của mình”[55], “Chính sách đối ngoại của một quốc gia là tập hợp các chiến lược mà quốc gia đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế, trên cách
lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa – xã hội, nhằm đạt được những mục tiêu khác nhau phù hợp với lợi ích của quốc gia đó”[17; tr.80], “Chính sách đối ngoại của bất kỳ một quốc gia nào dù lớn hay nhỏ bao giờ cũng nhằm phục vụ ba mục tiêu cơ bản là
mục tiêu an ninh; mục tiêu phát triển; và mục tiêu ảnh hướng”[36; tr.3]. Như vậy, theo
định nghĩa này thì chính sách đối ngoại là một bộ phận trong chính sách chung của một
quốc gia, chính phủ. Để đạt được mục tiêu chung, nhà cầm quyền phải hoạch định chính
sách đối ngoại trong sự tương tác với các quốc gia khác.
Ở Ấn Độ, có nhiều khái niệm về chính sách đối ngoại được đưa ra, các học
giả Ấn Độ cho rằng: “chính sách đối ngoại là nỗ lực của một quốc gia nhằm tối đa
hóa lợi ích quốc gia của mình trong môi trường bên ngoài hoặc quốc tế”[155]
Chính sách đối ngoại của một quốc gia hướng đến những mục tiêu như: an ninh (độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ); phát triển (phát triển về kinh tế,
sự thịnh vượng và đảm bảo các giá trị cho con người); ảnh hưởng (nâng cao vị thế và
vai trò của quốc gia trong khu vực và trên trường quốc tế. Chính sách đối ngoại của từng quốc gia là vấn đề trọng tâm của quan hệ chính trị quốc tế. Chính sách đối ngoại
gồm các mục tiêu, biện pháp là một quốc gia theo đuổi thực hiện trong quan hệ với quốc gia hoặc chủ thể khác trong cộng đồng quốc tế, nhằm mục đích thực hiện những
lợi ích quốc gia được xác định trong từng thời kỳ lịch sử.
Chính sách đối ngoại của một quốc gia là tập hợp các chiến lược mà quốc gia
đó sử dụng trong quá trình tương tác với các quốc gia khác và các tổ chức quốc tế,
trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, quân sự, văn hóa - xã hội, nhằm đạt được những
mục tiêu khác nhau phù hợp với lợi ích của quốc gia đó. Chính sách đối ngoại
thường được coi là cánh tay nối dài của chính sách đối nội, góp phần bảo vệ an
ninh quốc gia, đạt được sự thịnh vượng về kinh tế, hay bảo vệ và tối đa hóa lợi ích
quốc gia nói chung, thông qua các con đường như hợp tác, cạnh tranh, xung đột,
hoặc thậm chí chiến tranh[56; tr.98].
19
Như vậy theo tác giả, Chính sách đối ngoại là những quyết định của nhà nước
được xây dựng trên cơ sở lợi ích quốc gia, dân tộc; được thực hiện bằng nhiều biện
pháp, trên nhiều lĩnh vực nhằm tác động vào các chủ thể bên ngoài phạm vi quốc gia để đạt được các mục tiêu về an ninh, phát triển và ảnh hưởng.
Không có một lý thuyết đơn lẻ hay riêng biệt nào về chính sách đối ngoại, thay vào đó, những lý thuyết về chính sách đối ngoại xuất phát từ các lý thuyết trong quan hệ quốc tế như chủ nghĩa hiện thực và chủ nghĩa tự do, cũng như nhiều
cách tiếp cận khác nhau nhằm giải thích nguồn gốc bên trong của việc hoạch định chính sách đối ngoại, như các nhà lãnh đạo, bộ máy hành chính và văn hóa. Sự khác biệt về trọng tâm này tương ứng với việc xem xét hai khía cạnh: một là các
nhân tố bên ngoài và mang tính hệ thống; hai là nguồn gốc bên trong và mang tính
xã hội trong chính sách đối ngoại.
* Các lý thuyết Quan hệ quốc tế
Các lý thuyết Quan hệ quốc tế giải thích các quốc gia có quan hệ với nhau như
thế nào trong nền chính trị quốc tế. Trọng tâm này do đó bao gồm việc giải thích
hành vi chính sách đối ngoại trong nhiều lý thuyết Quan hệ quốc tế. Theo Smith
(1987): “Mọi nỗ lực làm rõ các mối Quan hệ quốc tế hầu hết đều liên quan tới việc
giải thích chính sách đối ngoại”. Đa số các lý thuyết Quan hệ quốc tế, đều tập trung vào tác động của hệ thống quốc tế tới chính sách đối ngoại và làm rõ hơn vị trí của
chính sách đối ngoại trong bối cảnh của lĩnh vực nghiên cứu Quan hệ quốc tế.[108;
tr.689-718]
Chủ nghĩa hiện thực: Các lý thuyết hiện thực về Quan hệ quốc tế có đặc trưng
là dựa vào các giả định về tình trạng vô chính phủ và tự cứu, và nhận thức về các quốc gia như là những chủ thể đơn nhất và duy lý. CNHT cho rằng để tồn tại, quốc
gia cần phải nỗ lực tối đa hóa sức mạnh của mình. Đối với các nhà hiện thực, chính
sách đối ngoại của một quốc gia được định hình bởi vị trí của quốc gia ấy trong hệ
thống quốc tế và sự phân bổ quyền lực trong hệ thống đó.
Chủ nghĩa tự do: Các nhà tự do khác với các nhà hiện thực ở chỗ đối với họ,
hệ thống quốc tế về bản chất là thuận lợi cho sự hợp tác. Theo các lý thuyết tự do
về Quan hệ quốc tế, hợp tác với nhau bản thân nó chính là lợi ích của các quốc gia.
Các tổ chức quốc tế đóng một vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác giữa
các quốc gia, vì chúng giúp các nước vượt qua sự ngờ vực thông qua các quy định
được thiết lập. Trái ngược với CNHT, CNTD thừa nhận rằng ở trong nước, các
20
quốc gia có những lợi ích và chủ thể đa dạng. Như vậy, lý thuyết tự do về Quan hệ
quốc tế cũng xét tới chính trị trong nước vì nó giúp giải thích hành vi của các nhà
nước. Kết luận quan trọng nhất của CNTD đối với chính sách đối ngoại đó là: với sự chia sẻ chủ nghĩa tự do và tác động của nó tới các thể chế trong nước, các chính
phủ cùng theo tư tưởng tự do sẽ có mối quan hệ hòa bình với nhau, đây chính là lập luận “hòa bình nhờ dân chủ”.
Chủ nghĩa kiến tạo: được xem là một cách tiếp cận hơn là một lý thuyết về
Quan hệ quốc tế. Phương pháp tiếp cận kiến tạo đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong việc nghiên cứu Quan hệ quốc tế và do đó có tác động đáng kể tới việc nghiên cứu chính sách đối ngoại. Thuyết kiến tạo bênh vực quan điểm cho rằng những chuẩn
mực và giá trị xã hội được tạo ra qua tương tác giữa các chủ thể giúp giải thích hành
vi của các tác nhân trong hệ thống quốc tế. Như vậy, các nhà kiến tạo đặt câu hỏi về
sự tồn tại của các khái niệm như vô chính phủ, và lập luận rằng các khái niệm này
phản ánh nhận thức của chúng ta về Quan hệ quốc tế.
Các lý thuyết khác về Quan hệ quốc tế:
Hiện nay, các biến thể của lý thuyết hiện thực, tự do, và kiến tạo đang là
những lý thuyết Quan hệ quốc tế chính. Những lý thuyết thay thế bao gồm không
chỉ những cách tiếp cận của thuyết vị nữ và chủ nghĩa Mác-xit. Tương tự như các lý thuyết chủ đạo đã thảo luận ở trên, những lý thuyết thay thế đó cũng không phải
là các lý thuyết về chính sách đối ngoại, nhưng một lần nữa chúng ta vẫn có thể dựa
vào chủ nghĩa vị nữ và chủ nghĩa Mác-xít khi nghiên cứu chính sách đối ngoại.
Thuyết vị nữ về Quan hệ quốc tế tập trung vào các vấn đề liên quan đến các
mối quan hệ về giới và đặt ra câu hỏi những mối quan hệ này ảnh hưởng tới việc nghiên cứu và thực hành Quan hệ quốc tế như thế nào. Cách tiếp cận này thường
bao gồm việc tìm hiểu vấn đề sự loại trừ phụ nữ khỏi chính trị và các khái niệm chi
phối của nam giới ảnh hưởng như thế nào đến chính trị quốc tế.
Học thuyết Mác-xit về Quan hệ quốc tế nhấn mạnh vai trò quan trọng của mối
quan hệ giai cấp trong chính trị quốc tế. Nói rộng ra, chính sách đối ngoại nhìn qua
lăng kính của chủ nghĩa Mác sẽ giải thích những quyết định về chính sách đối ngoại
thông qua lợi ích và xung đột kinh tế bên trong và giữa các quốc gia với nhau.
Hiện nay, các học giả vẫn chưa hoàn toàn thống nhất về sự tồn tại của một “lý
thuyết chính sách đối ngoại” như các lý thuyết về quan hệ quốc tế[91; tr.27], vẫn
còn nhiều cách hiểu khác nhau về khái niệm chính sách đối ngoại. Trên cơ sở thực
21
lực quốc gia và các nhân tố tác động, mục tiêu chính sách đối ngoại của quốc gia có
sự khác nhau. Theo đó, việc áp dụng lý thuyết trong phân tích chính sách đối ngoại
của một quốc gia chủ yếu tập trung vào phương pháp, khung phân tích và các công cụ có thể áp dụng trong quá trình nghiên cứu chính sách. Việc vận dụng lý thuyết
trong phân tích chính sách đối ngoại cũng đã được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện, một số tác giả cho rằng phân tích chính chính sách đối ngoại của một quốc gia như là một quá trình hoạch định và triển khai chính sách. Trong khi đó, một số tác giả
lại xem chính sách đối ngoại của một quốc gia là một hàm số bất định, còn các tác nhân bên ngoài chỉ đóng vai trò thứ yếu.
Nhìn chung, các nhân tố chủ yếu quyết định chính sách đối ngoại của một
quốc gia bao gồm: i) Thế và lực của quốc gia trên trường quốc tế; ii) Tình hình
chính trị và an ninh thế giới; iii) Lợi ích và mục tiêu quốc gia mong muốn đạt được;
iv) Ảnh hưởng của bộ máy hoạch định chính sách đối ngoại; v) Các nhân tố chính
trị nội bộ (các nhóm lợi ích, giới truyền thông, công luận,…)
1.1.2. Cách tiếp cận phân tích chính sách đối ngoại
Những cách tiếp cận đương thời đối với lĩnh vực nghiên cứu học thuật về
chính sách đối ngoại có thể được chia ra thành ba dòng văn liệu tập trung vào: a/ cá
nhân; b/ nhóm cá nhân; và, c/ đặc điểm xã hội của các chủ thể chính sách đối ngoại. Theo đó, cách tiếp cận được vận dụng trong phân tích chính sách đối ngoại Ấn Độ
dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004-2014) được sử dựng trong luận án là
tiếp cận phân tích chính sách đối ngoại theo cấp độ. Ba cấp độ phân tích phổ biến gồm: (i) cấp độ cá nhân, nhấn mạnh vai trò của Thủ tướng Manmohan Singh; (ii)
cấp độ quốc gia - vai trò của văn phòng thủ tướng, Hội đồng An ninh Quốc gia Ấn Độ và Bộ Ngoại giao; (iii) cấp độ hệ thống quốc tế - nhân tố quốc tế và khu vực.
* Cấp độ hệ thống quốc tế
Cấp độ phân tích hệ thống quốc tế là môi trường toàn cầu trong đó Ấn Độ
tham gia vào môi trường quốc tế, tương tác với các chủ thể khác trong môi trường
quốc tế. Bằng cách tạo thuận lợi hay kiềm chế hành động của Ấn Độ, hệ thống
quốc tế góp phần hình thành nên hành vi của Ấn Độ trong quan hệ quốc tế hay nói
cách khác là phản ứng chính sách của Ấn Độ đối với tình hình quốc tế. Phân tích
theo hệ thống quốc tế cho rằng bất cứ hệ thống nào cũng vận hành theo những cách
thức có thể dự đoán được ở một mức độ nhất định, với những xu hướng hành vi mà
Ấn Độ tuân theo. Lựa chọn chính sách của Ấn Độ cũng sẽ phụ thuộc vào môi
22
trường địa chính trị và địa kinh tế của Ấn Độ. Vì vậy, mục tiêu bất biến của chính
sách đổi ngoại Ấn Độ là bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ
trong quá trình hội nhập quốc tế, không đánh đổi chủ quyền quốc gia để lấy lợi ích kinh tế từ nước ngoài. Hội nhập và sự phụ thuộc lẫn nhau ở cấp độ khu vực cũng tạo
thêm một lớp nhân tố bên ngoài tác động lên chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Các tổ chức quốc tế và khu vực ở những mức độ khác nhau sẽ có những tác động sâu sắc, tạo ra cả cơ hội và thách thức cho chính sách đối ngoại của Ấn Độ, đặc biệt là các tổ
chức khu vực và quốc tế có vai trò quan trọng về chính trị, quân sự, kinh tế, văn hóa xã hội như SAARC, WTO, LHQ... Qua đó, Ấn Độ có thể xây dựng được bản sắc riêng, tăng cường quốc lực trong quan hệ quốc tế, tăng cường khả năng tham gia
nhiều hơn, sâu rộng hơn vào các tổ chức quốc tế và khu vực. Phân tích hệ thống quốc
tế là cấp độ phân tích tổng hợp nhất, bao gồm toàn bộ các tương tác xảy ra trong hệ
thống. Trong đó, các lý thuyết theo CNHT sẽ tập trung vào các giả định về lợi ích
riêng của một quốc gia trong hệ thống quốc tế vô chính phủ, như việc theo đuổi sức
mạnh quân sự, tạo lập các liên minh và sự phục tùng của các quốc gia đối với những
chủ thể mạnh hơn. CNTD cho rằng một hệ thống quốc tế phụ thuộc lẫn nhau sẽ dẫn
đến tăng cường sự hợp tác và vai trò các tổ chức khu vực và quốc tế[17; tr.190].
* Cấp độ quốc gia Theo GS. TS Vũ Dương Huân: “Quốc gia là chủ thể hoạch định chính sách đối
ngoại. Quốc gia là chủ thể duy lý cho nên quốc gia phải tính đến mọi nhân tố trong quá
trình hoạch định chính sách đối ngoại. Có thể nói đây là cấp độ quan trọng nhất, quyết định nhất trong hoạch định chính sách đối ngoại. Chính sách đối ngoại có đúng không,
khoa học không trước hết dựa vào cấp độ này.”[24; tr.168-186]
Quy trình chính trị nội bộ Ấn Độ đóng vai trò quan trọng trong hoạch định
chính sách đối ngoại. Trên thực tế, nền chính trị dân chủ của Ấn Độ được xây dựng
trên nền tảng kết hợp giữa chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ và nền chính trị dân chủ phương
Tây. Biểu hiện nổi bật là thể chế chính trị thực hiện sự cân bằng “tam quyền phân
lập”, Tổng thống là nguyên thủ quốc gia nhưng thực quyền lại nằm trong tay nội các
do Thủ tướng đứng đầu. Thủ tướng Ấn Độ là nhân vật trung tâm của đời sống chính
trị. Cách tiếp cận này phân tích sự tương tác giữa các chủ thể chính trị trong nước
như các cơ quan như văn phòng thủ tướng, Hội đồng An ninh Quốc gia, và Bộ Ngoại
giao trong quá trình hình thành và triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Ba cơ
quan trong chính phủ Ấn Độ làm việc với nhau để tạo lập chính sách đối ngoại: Văn
23
phòng thủ tướng là cơ quan có vai trò quyết định, Hội đồng An ninh Quốc gia, được
chỉ đạo bởi một cố vấn an ninh quốc gia đầy quyền lực, và bộ Ngoại giao. Bên cạnh
đó, các yếu tố như văn hóa chính trị, tổ chức chính quyền, vai trò nhà lãnh đạo... cũng ảnh hưởng tới chính sách đối ngoại của Ấn Độ theo những hướng khác nhau.
Đặc điểm văn hóa chính trị của Ấn Độ, các giá trị, chuẩn mực và truyền thống được thừa nhận có tác động tới quá trình hoạch định và nội dung chính sách đối ngoại. Các tổ chức NGO và xã hội dân sự tại Ấn Độ cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến
quy trình hình thành chính sách đối ngoại trong việc chịu trách nhiệm tập hợp thông tin, xây dựng đề xuất, kiến nghị và thực thi chính sách. Hệ thống ra quyết định có vai trò đặc biệt quan trọng, trong đó, chính sách đối ngoại có thể được phân tích qua các
nhân tố tác động tới quá trình hoạch định.
Chính sách đối ngoại chịu sự tác động của các yếu tố như: Đặc điểm địa lý,
dân tộc; cấu trúc chính quyền, hệ tư tưởng, quan điểm công chúng; các nhóm lợi
ích và đảng phái, bộ máy hành chính; quan điểm, thái độ và hình anh của các nhà
lãnh đạo. Các yếu tố này được phân loại theo tác động ở các mưc độ khác nhau
trong việc quyết định vai trò quốc gia trong cộng đồng quốc tế, gồm: (i) Yếu tố vật
chất dài hạn (vị trí địa chính trị chiến lược, các nguồn lực quốc gia); (ii) Yếu tố vật
chất ngắn hạn (quy mô công nghiệp, quân sự); (iii) Các yếu tố định tính và định lượng về nhân lực (dân số, đội ngũ lãnh đạo, hệ tư tưởng, vị thế quốc gia). Việc phân
tích những yếu tố này sẽ đánh giá được lựa chọn các quốc gia có thể tiến hành ở mỗi
thời điểm. Trong đó, vị trí địa lý khiến Ấn Độ không thể phủ nhận hay thay đổi láng giềng của mình và không có lựa chọn nào khác ngoài việc phải hết sức quan tâm
đến chính sách với các nước láng giềng trực tiếp và kề cận. Nếu được tận dụng tốt, vị trí địa chiến lược của Ấn Độ cũng tạo ra lợi thế so sánh trong quá trình hoạch
định chính sách đổi ngoại của nước này với không chỉ các nước láng giềng mà cả
các nước lớn khác (Mỹ, Nga). Ngoài ra, chính sách đối ngoại của một quốc gia còn
chịu tác động của yếu tố lịch sử. Truyền thống lịch sử đóng vai trò quan trọng trong
việc lựa chọn cách ứng xử với các nước khác từ những kinh nghiệm và diễn biến
trong quá khứ.[24; tr.168-186]. Điều này được thể hiện rõ nét trong quá trình phân
tích yếu tố lịch sử tác động đến quá trình hoạch định chính sách đối ngoại Ấn Độ.
* Cấp độ cá nhân
Cấp độ phân tích cá nhân tập trung vào vai trò của các chủ thể cá nhân trong
quan hệ quốc tế. Có hai loại cá nhân ảnh hưởng đến chính sách đối ngoại. Đó là các
24
cá nhân lãnh đạo, đương chức, đương quyền như tổng thống, thủ tướng, bộ trưởng
ngoại giao… có vai trò quyết định trong việc hoạch định và triển khai chính sách
đối ngoại. Ngoài ra còn những nhân vật không đương chức song có ảnh hưởng không nhỏ đến chính sách đối ngoại như các cựu lãnh đạo có tiếng nói, ảnh hưởng
trong chính sách đối ngoại, các cá nhân có ảnh hưởng trong xã hội.[24; tr.168-186]. Cách tiếp cận này phân tích đặc điểm quy trình hoạch định chính sách của con người, vốn hết sức phức tạp và bao gồm nhiều công đoạn như: Thu thập, xử lý
thông tin, thiết lập các mục tiêu chính sách, xem xét các khả năng và đưa ra lựa chọn chính sách, cấp độ này cũng tìm hiểu tác động của các yếu tố như dân tộc, tôn giáo, sắc tộc, hệ tư tưởng... đến việc hoạch định chính sách đối ngoại. Yếu tố đầu
tiên và quan trọng nhất là hệ thống quan điểm, niềm tin và nhận thức của các nhà
lãnh đạo Ấn Độ. Trong đó, nhận thức của các nhà cầm quyền, đặc biệt là của Thủ
tướng Manmohan Singh, có ảnh hưởng sâu sắc lên chính sách đối ngoại của Ấn
Độ. Nhận thức và tầm nhìn quốc gia tác động đến việc cân nhắc lợi ích - nguy cơ
của các nhà lãnh đạo trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại. Quyết định
của các nhà lãnh đạo được định hình bởi kiên thức, kinh nghiệm, niềm tin và thế
giới quan. Tâm lý con người cũng có xu hướng duy trì sự nhất quán trong hệ thống
những niềm tin chủ yếu, dẫn tới khả năng bỏ qua hoặc diễn giải sai những thông tin trái ngược với niềm tin sẵn có. Điều này đặc biệt dễ xảy ra khi chủ thể nhận thức đã
có một định kiến mạnh mẽ về hình ảnh của các quốc gia khác[185; tr77].
Với Ấn Độ, có hai loại cá nhân ảnh hưởng đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại. Một là, cá nhân lãnh đạo đương chức, đương quyền mà
cụ thể trong giai đoạn này là Thủ tướng Manmohan Singh, người có vai trò quyết định trong việc hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại Ấn Độ. Hai là, những
nhân vật tuy không còn đương chức, đương quyền, hoặc đã mất, song có ảnh hưởng
không nhỏ đến chính sách đối ngoại Ấn Độ như Anh hùng dân tộc Mahatma
Gandhi, cựu Thủ tướng Ấn Độ Jawaharlal Nehru; hoặc một số nhân vật đang
đương chức nhưng có ảnh hưởng ít hơn như Chủ tịch Hạ viện Ấn Độ (Lok Sabha)
Somnath Chatterjee, Meira Kumar. Bên cạnh đó, có một số nhân vật không phải là
lãnh đạo quốc gia nhưng cũng có những tác động quan trọng đến quá trình hoạch
định chính sách đối ngoại của Ấn Độ thuộc các phe đối lập tại Hạ viện (Lok
Sabha), Thượng viện (Rajya Sabha), điển hình trường hợp này như: Sushma Swaraj,
Arun Jaitley, P. Chidambaram.
25
Như vậy, việc phân tích các yếu tố tác động ở ba cấp độ này sẽ cho thấy quá
trình hình thành chính sách đối ngoại để bảo đảm lợi ích của Ấn Độ là an ninh, phát
triển và vị thế trong tương quan với môi trường quốc tế và trong nước tại mỗi giai đoạn lịch sử.
1.2. Cơ sở lý luận và thực tiễn của chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới thời thủ tướng Manmohan Singh 1.2.1. Cơ sở lý luận 1.2.1.1. Những triết lý truyền thống của Ấn Độ
Ấn Độ là cái nôi của nền văn minh phương Đông cổ đại, nơi đây đã từng tồn tại rất nhiều những tư tưởng triết học phong phú đa dạng. Trong đó có những tư
tưởng, triết lý về thế giới nói chung và về vị trí của Ấn Độ trong thế giới ấy. Trên
cơ sở đó, các tư tưởng đối ngoại của Ấn Độ dần dần được định hình trong tiến trình
lịch sử dân tộc.
Chủ nghĩa đa nguyên của Ấn Độ: Ấn Độ là một xã hội của nhiều tôn giáo, ngôn
ngữ và văn hóa khác nhau. Ấn Độ là một đất nước có lịch sử từ lâu đời, đây cũng là
cái nôi của nhiều tôn giáo lớn trên thế giới. Do sự đa dạng về tôn giáo và ngôn ngữ,
xuyên suốt nền tảng quốc gia, yếu tố đa nguyên là biểu hiện thống nhất căn bản đặc
trưng của Ấn Độ và để lại dấu ấn trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Thế giới nhìn nhận Ấn Độ là một trong những nền văn hóa phát triển rực rỡ nhất của văn minh nhân
loại. Vì lẽ đó, ảnh hưởng tôn giáo nói riêng và văn hóa nói chung của Ấn Độ ra bên
ngoài cũng mạnh mẽ hơn.
Chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ: Ấn Độ có hơn 500 dân tộc lớn nhỏ, các dân tộc
đều tham gia đấu tranh chính trị, đấu tranh giải phóng dân tộc, trường phái tư tưởng chủ nghĩa dân tộc tương đối mạnh mẽ. Sau khi giành độc lập, Ấn Độ tuyên bố đi theo
“Con đường thứ ba”, tức con đường chủ nghĩa dân tộc. Chủ nghĩa dân tộc bảo vệ sự
độc lập của quốc gia dân tộc và truyền thống dân tộc, hình thành nên con đường phát
triển mang đặc sắc Ấn Độ. Trong quá trình phát triển, chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ đặt
những mục tiêu vào phát triển kinh tế cho xã hội.
Ấn Độ là một cường quốc khu vực, họ tạo lập quốc gia và dựng nước và xây
dựng chính sách đối ngoại trên cơ sở chủ nghĩa dân tộc, bao gồm các yếu tố là: (i) chủ
nghĩa dân tộc thế tục, (ii) chủ nghĩa dân tộc tôn giáo Ấn Độ và (iii) phong trào Hồi
giáo. Ba trường phái này lần lượt có đặc trưng mang tính chính trị, đặc trưng mang
tính chủ đề và đặc trưng mang tính không hài hòa tương đối lớn. Sự mâu thuẫn và đấu
26
tranh lẫn nhau giữa các trường phái này không chỉ mang đến tính không xác định cho
sự trỗi dậy và phát triển của Ấn Độ, mà còn gây ảnh hưởng phức tạp và sâu sắc đến
tiến trình toàn cầu hóa kinh tế và đa cực hóa thế giới.
- Đặc trưng chủ nghĩa dân tộc thế tục của Ấn Độ, Ấn Độ là một quốc gia đa
tôn giáo, nhưng về nguyên tắc lập quốc lại thi hành chủ nghĩa thế tục. Chủ nghĩa thế tục cho rằng, cùng với sự phát triển của xã hội công nghiệp, tôn giáo sẽ mất dần vai trò quan trọng của nó trong đời sống xã hội loài người và đến một lúc nào đó nó
sẽ không còn ý nghĩa như nó đã từng có trong lịch sử. Sự kết hợp giữa chủ nghĩa thế tục và chủ nghĩa dân tộc là tư tưởng trị quốc cơ bản của Ấn Độ. Trước khi độc lập, chủ nghĩa dân tộc chủ yếu biểu hiện ở tư tưởng phong trào bất bạo động của
Gandhi lật đổ sự thống trị thực dân của người Anh. Sau khi giành độc lập, tư tưởng
chủ nghĩa dân tộc nhanh chóng ảnh hưởng đến quần chúng nhân dân, đồng thời
nâng tư tưởng đó trở thành chủ nghĩa yêu nước, nhân dân Ấn Độ vô cùng xem
trọng tính độc lập của quốc gia. Khuynh hướng chính trị hóa chủ nghĩa dân tộc thế
tục trở thành động lực quan trọng khiến Ấn Độ trỗi dậy một cách nhanh chóng, đóng
vai trò thống trị và chi phối trong đời sống kinh tế, chính trị và đối ngoại. Hiện nay, ý
thức cường quốc chủ nghĩa dân tộc của Ấn Độ đang dẫn dắt quốc gia này. Karl
Deutsch cho rằng, Ấn Độ là một trong những quốc gia có nền chính trị ổn định, dân chủ và tuân thủ pháp luật. Tuy nhìn từ phương diện thực lực chính trị và kinh tế, Ấn
Độ là quốc gia đang phát triển, nhưng nước này “có phương thức đặc biệt về tổ chức
xã hội, phương thức này không những ảnh hưởng đến sự nhìn nhận của Ấn Độ đối với thế giới, mà cũng ảnh hưởng đến cách nhìn nhận của thế giới đối với Ấn
Độ”[208]. Đây là đặc trưng điển hình của sự chính trị hóa chủ nghĩa thế tục Ấn Độ.
- Đặc trưng của chủ nghĩa dân tộc tôn giáo của Ấn Độ, đây là chủ nghĩa dân
tộc của giai cấp tư sản dân tộc Ấn Độ, mang màu sắc tôn giáo mạnh mẽ. Tư tưởng
của chủ nghĩa dân tộc tôn giáo Ấn Độ cho rằng, chính trị phải lấy giá trị tôn giáo
làm nền tảng. Từ sau thập niên 90 của thế kỷ XX, Ấn Độ trỗi dậy trường phái tư
tưởng chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo. Đảng Bharatiya Janata tìm cách
tập hợp sự đồng thuận dân tộc thông qua việc tăng cường ý thức Ấn Độ giáo, điều
này thể hiện ý đồ tăng cường tinh thần chủ nghĩa yêu nước, thực hiện chấn hưng
dân tộc và cường thịnh đất nước thông qua sự phục hưng văn hóa Ấn Độ giáo. Nó
biểu đạt lợi ích và nguyện vọng của các cá nhân bằng con đường bạo lực, từ đó tạo
nên tính bất ổn của xã hội.
27
Chủ nghĩa dân tộc thế tục đã điều hòa sự bất ổn này trong quá trình phát triển
của Ấn Độ, chủ nghĩa thế tục nhấn mạnh vào lợi ích quốc gia, biến chủ nghĩa dân
tộc tôn giáo Ấn Độ phát triển theo hướng chủ nghĩa dân tộc kinh tế và văn hóa
khoa học kỹ thuật. Sự tồn tại đồng thời giữa văn hóa thế tục và văn hóa tôn giáo
khiến sức mạnh xung đột tạo ra từ sự biến động các mâu thuẫn bị phân tán, bảo
đảm sự ổn định cơ bản về kết cấu xã hội và tính bền vững của đời sống xã hội về
quan niệm giá trị văn hóa
Chủ nghĩa phục hưng dân tộc Ấn Độ giáo nhấn mạnh đến nhân tố Ấn Độ giáo
trong chủ nghĩa dân tộc, hướng “ý thức cường quốc” của Ấn Độ đến chỗ cực đoan. Để
theo đuổi “địa vị cường quốc”, chủ nghĩa này nhấn mạnh việc theo đuổi “địa vị trung
tâm” ở Nam Á và Ấn Độ Dương là bước đầu tiên của chiến lược cường quốc, mưu cầu
“địa vị trung tâm” ở Nam Á là bước thứ hai của chiến lược cường quốc, mưu cầu “địa
vị trung tâm” thế giới là mục tiêu cuối cùng của chiến lược này. Việc giành một ghế
ủy viên Thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc là mục tiêu hiện thực của chiến
lược cường quốc của nước này. Đây là ý nguyện của đại đa số tín đồ Ấn Độ giáo, nó là
đặc trưng mang tính chủ thể điển hình.
- Đặc trưng của phong trào Hồi giáo Ấn Độ, tín đồ Hồi giáo chỉ chiếm thiểu
số, đa phần người Hồi giáo sống ở đáy xã hội, thường chịu sự bài trừ của tầng lớp
chủ lưu trong xã hội và sự kỳ thị về ý thức. Người Hồi giáo rất khó hòa nhập vào
xã hội chủ lưu Ấn Độ, dẫn đến sự bất mãn về chính sách bên trong và bên ngoài
của Ấn Độ về mặt giá trị quan. Ví dụ: Họ đồng tình với Pakistan, phản đối chủ
nghĩa bá quyền và chính trị cường quyền của Mỹ, không đồng ý việc chính phủ
thân Mỹ, không tán thành quan hệ Ấn Độ - Israel… Đó đều là đặc trưng điển hình
của tính không hài hòa của chủ nghĩa dân tộc Hồi giáo Ấn Độ.
Cho dù là chủ nghĩa dân tộc thế tục hay chủ nghĩa dân tộc tôn giáo, nền tảng triết
học của nó đều thấm nhuần tinh thần tôn giáo và đặc trưng thế tục mạnh mẽ. Những tư
tưởng lập quốc và sự kết hợp của ba hình thái chủ nghĩa dân tộc không chỉ thể hiện hạt
nhân tư duy của “thuyết Ấn Độ là trung tâm”, mà còn là trụ cột tinh thần và động lực
của sự trỗi dậy Ấn Độ. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới tư duy đối ngoại và việc
xác định vị trí, vai trò của Ấn Độ trong quá trình toàn cầu hóa và đa cực hóa hiện nay. Các trường phái chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ thúc đẩy chính phủ tích cực thực hiện
cải cách kinh tế, biến thập niên đầu tiên của thế kỷ XXI trở thành “thập niên Ấn Độ”.
28
Chủ nghĩa dân tộc là cỗ máy phục dịch và trợ lực giúp kinh tế Ấn Độ cất cánh. Từ
khi nước này thúc đẩy cải cách kinh tế cho đến nay, nền kinh tế cơ bản giữ được con
số tăng trưởng tương đối cao, trở thành một trong mười thị trường mới nổi trên thế giới. Chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ với nền tảng là “Thuyết Ấn Độ là trung tâm” gây ảnh
hưởng tới quyền lợi phát triển bình đẳng của các quốc gia trong khu vực và các nước đang phát triển, nó có phần áp chế sự phát triển và hợp tác của khu vực Nam Á. Đây là tình hình thực tế của chủ nghĩa dân tộc Ấn Độ gây trở ngại cho toàn cầu hóa về
kinh tế và hợp tác kinh tế khu vực.
Người Ấn Độ có bản tính ôn hòa, nhẫn nại nhưng lại rất kiên định và độc lập. Họ rất tự hào với bản sắc văn hóa và nền độc lập riêng của mình[197; tr.103]. Họ
có bản tính tự lực, tự cường và không chấp nhận sự núp bóng người khác. Điều này
thể hiện ở việc họ luôn khao khát và quyết tâm giành độc lập từ thực dân Anh cũng
như độc lập với Mỹ trong việc củng cố và bảo vệ độc lập của mình. Với bản tính ôn
hòa, bất bạo động mà họ học được từ Mahatma Gandhi, họ luôn muốn giải quyết
mọi vấn đề bằng phương pháp hòa bình. Bên cạnh đó, người Ấn không chỉ tin rằng
đất nước của họ tạo ra một nền văn minh cổ xưa vĩ đại mà nó còn là một cường
quốc lớn thời hiện đại, xứng đáng được tôn trọng và đối xử như những cường quốc
khác. Họ luôn có niềm tin rằng đất nước của mình có sứ mệnh phải đóng vai trò nổi bật trên thế giới[130; tr350]. Chính đặc điểm tính cách trên đã tạo cho Ấn Độ một
truyền thống văn hóa đối ngoại, đó là dựa trên những nguyên tắc cùng tồn tại hòa
bình và bình đẳng kinh tế trên thế giới. Ấn Độ luôn quảng bá cho triết lý không liên kết trong quan hệ quốc tế và nỗ lực thể hiện là một quốc gia châu Á “trung lập tích
cực” có trách nhiệm. Lý tưởng của Ấn Độ là xây dựng một trật tự thế giới hòa bình, nơi các quốc gia có thể chung sống hòa bình và thân thiện với nhau. Ấn Độ không
chỉ có khát vọng giành độc lập dân tộc cho nước nhà mà luôn mong muốn tất cả
các quốc gia thuộc địa trên thế giới được tự do, độc lập. Đây chính là nét văn hóa,
tư tưởng đặc trưng riêng của Ấn Độ.
1.2.1.2. Tư tưởng bất bạo động của Mahatma Gandhi
Tư tưởng bất bạo động là một tư tưởng nhằm biến đổi xã hội mà không dùng
đến bạo lực, đấu tranh bất bạo động là chấp nhận một cách thụ động sự đàn áp của
phía đối lập kể cả bằng vũ trang. Trong khoảng 40 năm hoạt động chính trị,
M.Gandhi và những người đồng chí của ông trong Đảng Quốc Đại đã lãnh đạo
nhân dân Ấn Độ đấu tranh đòi quyền tự trị từ tay thực dân Anh theo một đường lối
29
đấu tranh bất bạo động, cuộc đấu tranh bất bạo động kéo dài hàng thập kỷ để chống
lại sự đô hộ của Anh ở Ấn Độ và cuối cùng giúp Ấn Độ giành độc lập vào năm
1947. Sau khi Ấn Độ giành được độc lập, M.Gandhi tiếp tục thực hiện triết lý sống của mình, đấu tranh bất bạo động vì hòa bình, khi nỗ lực đoàn kết cộng đồng người
theo đạo Hindu và cộng đồng người Hồi giáo của đất nước trong khi tìm mọi cách tránh để xảy ra nội chiến dưới mọi hình thức.
M.Gandhi chủ trương bất bạo động cho rằng sự đồng thuận và hợp tác là
nguồn gốc của quyền lực chính trị: tất cả chế độ chính trị đều phụ thuộc vào sự ủng hộ của người dân[191; tr12]. Trên phương diện quốc gia, chiến lược bất bạo động làm suy giảm quyền lực của nhà cầm quyền bằng cách làm cho người dân giảm sút
sự đồng thuận và hợp tác. Các dạng bất bạo động dựa trên niềm tin trong tôn giáo
hoặc đạo đức và những phân tích chính trị. Bất bạo động dựa trên tôn giáo hoặc đạo
đức đôi khi gọi là bất bạo động cơ bản, triết học hoặc đạo đức trong khi đó bất bạo
động dựa trên phân tích chính trị thường được gọi là bất bạo động chiến thuật,
chiến lược hoặc thực tiễn[116].
Khi trở thành lãnh tụ cao nhất của Đảng Quốc Đại, M.Gandhi cho rằng, trong
hoàn cảnh lịch sử đương thời thì đấu tranh bất bạo động là phương thức có khả
năng duy nhất để đạt được nền tự trị cho Ấn Độ. Do vậy, M.Gandhi đã được Đảng Quốc Đại giao cho trọng trách trực tiếp chỉ huy các phong trào đấu tranh của quần
chúng nhân dân Ấn Độ theo đường lối bất bạo động. Mahatma Gandhi luôn giữ
niềm tin mạnh mẽ vào thuyết bất bạo động kể cả khi đối diện với tình cảnh đàn áp nặng nề và những thách thức tưởng chừng như không thể vượt qua nổi. Nhờ niềm
tin và sự kiên định của mình ông đã xóa bỏ sự đô hộ của đế chế Anh quốc hùng mạnh thời bấy giờ để giành độc lập cho Ấn Độ. Tinh thần phản kháng bất bạo động
của M.Gandhi có ảnh hưởng mạnh mẽ tới những phong trào đòi quyền công dân và
tự do trên khắp thế giới. Ý chí bền bỉ và đức tin của M.Gandhi đã lãnh đạo nhân
dân Ấn Độ giành được độc lập mà không phải đổ máu, trở thành nguồn khích lệ
tinh thần cho nhân dân thế giới đứng lên đấu tranh vì tự do, hòa bình. Tư tưởng
“bất bạo động” của M.Gandhi là tư tưởng quý báu không chỉ cho Ấn Độ mà cho cả
lịch sử loài người. M.Gandhi là một trong những biểu tượng ngoại giao công chúng
tiêu biểu của Ấn Độ.
Hệ tư tưởng của chân lý, tính bất bạo động, nhân phẩm và tự do của M.Grandi
đã tạo nên những ảnh hưởng sâu sắc cho việc hình thành những nguyên tắc cơ bản
30
trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là hòa bình trung lập, không liên minh, liên
kết. Theo đó, Ấn Độ thi hành chính sách đối ngoại hòa bình, không liên kết, hữu
nghị với các nước, chủ trương xây dựng phát triển đất nước theo con đường độc lập dân tộc và tự lực tự cường. Những tư tưởng trong triết lý bất bạo động của M.Grandi
và những nguyên tắc hòa bình trung lập, không liên minh, liên kết trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ sau này là cơ sở khách quan thúc đẩy Ấn Độ trở thành thành viên tích cực góp phần vào quá trình ra đời của “Phong trào không liên kết”. Ở Ấn
Độ, năm nguyên tắc chung sống hòa bình được biết dưới cái tên Panchsheel trở thành những nguyên tắc nền tảng cho Phong trào Không liên kết. Phong trào Không liên kết với Năm nguyên tắc chung sống hòa bình và mục tiêu nhất quán: “độc lập và
chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh của các quốc gia không liên kết” đã
có vai trò và đóng góp quan trọng vào đời sống chính trị quốc tế nói chung và việc
bảo vệ lợi ích đối với các nước đang phát triển nói riêng. Ấn Độ luôn quảng bá cho
triết lý không liên kết trong quan hệ quốc tế và nỗ lực thể hiện là một quốc gia châu
Á “trung lập tích cực” có trách nhiệm. Lý tưởng của Ấn Độ là xây dựng một trật tự
thế giới hòa bình, nơi các quốc gia có thể chung sống hòa bình và thân thiện với
nhau. Đây chính là nét văn hóa đặc trưng riêng của Ấn Độ.
1.2.1.3. Quan điểm của Thủ tướng Manmohan Singh về chính sách đối ngoại
Trước khi trở thành Thủ tướng, Manmohan Singh là chuyên gia kinh tế hàng
đầu và là nhà kiến trúc sư trưởng trong cải cách kinh tế của Ấn Độ. Sau khi lên nắm
quyền, Thủ tướng Manmohan Singh ưu tiên tập trung phát triển các mục tiêu kinh tế. Nền kinh tế của Ấn Độ giai đoạn này đã phát triển nhanh chóng dưới sự lãnh đạo của
chính phủ UPA, tuy nhiên trên phương diện an ninh, Ấn Độ bị đe dọa bởi các lực lượng khủng bố trong nước, điển hình như các cuộc tấn công Mumbai năm 2008, các
cuộc nổi dậy của nhóm phiến quân Chiến tranh nhân dân và trung tâm cộng sản
Maoist. Trong suốt hai nhiệm kỳ, Thủ tướng Manmohan Singh đã thực hiện chính
sách đối ngoại thực dụng, hòa bình, trung lập, không liên minh liên kết, mục tiêu
hướng tới là những lợi ích kinh tế phục vụ cho sự phát triển thịnh vượng của Ấn Độ.
Thủ tướng Manmohan Singh xác định Ấn Độ là quốc gia lớn với sự đa dạng
về văn hóa, ngôn ngữ và tôn giáo, ông chủ trương hiện đại hóa xã hội và chuyển
đổi nền kinh tế trong khuôn khổ của một nền dân chủ tiến bộ. Đây là quá trình đảm
bảo tính bền vững cho xã hội và không thể thay thế hay sửa đổi. Trong cạnh tranh
toàn cầu, Ấn Độ có những lợi thế nhất định về kinh doanh, thương mại và ông cũng
31
khuyến khích cạnh tranh với những quốc gia đi đầu. Hơn nữa, Thủ tướng
Manmohan Singh nhận định thế kỷ XXI là thế kỷ sản xuất dựa trên tri thức và Ấn
Độ là quốc gia có thế mạnh trên lĩnh vực nhiều tiềm năng này, Ấn Độ có một dân số lớn và tương đối trẻ với truyền thống xã hội coi trọng giáo dục. Đây là những
tiền đề quan trọng đối với Ấn Độ trong việc triển khai một chính sách đối ngoại rộng mở, hội nhập và thực dụng hơn.
Thủ tướng Manmohan Singh chủ trương “thiết lập lại cơ bản” những mục tiêu
và nội dung trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, ông nhận thức được Ấn Độ có vị thế quan trọng đối với quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI, và theo đuổi những gì ông mô tả là “định mệnh của Ấn Độ trong các vấn đề thế giới”. Trong chính sách
đối ngoại, Manmohan Singh ưu tiên các mục tiêu kinh tế với tư cách là động lực và
cũng là lợi ích quốc gia Ấn Độ.
Thủ tướng Manmohan Singh cho rằng, Sự phát triển của Ấn Độ phải chiếm vị
trí trung tâm trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Mục tiêu quan trọng nhất của
chính sách đối ngoại của Ấn Độ là phải tạo ra một môi trường toàn cầu có lợi cho sự
phát triển thịnh vượng của Ấn Độ.. Thủ tướng Manmohan Singh cũng đặt ra bốn
nguyên tắc trong đối ngoại của Ấn Độ: hội nhập lớn hơn với nền kinh tế thế giới, xây
dựng mối quan hệ ổn định với các cường quốc, hợp tác khu vực lớn hơn và tuyên truyền các giá trị Ấn Độ. Ấn Độ sẽ bắt đầu theo đuổi sự phát triển kinh tế trong
khuôn khổ của một nền dân chủ đa nguyên, thế tục và tự do. Đồng thời xây dựng
niềm tin lẫn nhau trong hợp tác kinh tế với các quốc gia khác. Chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh, đã xây dựng trên cơ sở nền tảng là tư tưởng đối
ngoại từ các nhà lãnh đạo thời kỳ đấu tranh giành độc lập, đó là quan hệ tương tác giữa chính sách đối ngoại và khát vọng kinh tế của người dân Ấn Độ.
Phát triển kinh tế tăng tốc, cân bằng, bao trùm là nhiệm vụ chính của Ấn Độ.
Chính sách đối ngoại là công cụ quan trọng đảm bảo thực hiện thành công nhiệm vụ
này. Điều đó được thực hiện bằng cách đảm bảo môi trường hòa bình và an ninh ở
trong nước cũng như cộng đồng quốc tế và bằng cách tận dụng các mối quan hệ đối
tác quốc tế của Ấn Độ để có được tất cả những điều kiện cần thiết có thể thúc đẩy
phát triển kinh tế như: thị trường, đầu tư, công nghệ, liên kết, di chuyển nhân sự,
quản trị toàn cầu công bằng, và một môi trường ổn định, thuận lợi cho phát triển. Với
việc thực thi chính sách đối ngoại hòa bình trung lập, hướng tới những mục tiêu phát
triển đất nước, Thủ tướng Manmohan Singh đã tiến hành nỗ lực tăng cường quan hệ
32
với Mỹ và các cường quốc phương Tây khác, đồng thời theo đuổi chính sách duy trì
mối quan hệ cân bằng với Nga và Trung Quốc. Ấn Độ chủ trương xây dựng các mối
quan hệ đối tác dựa trên những lợi ích chung, đồng thời Ấn Độ cũng tìm kiếm mối
quan hệ tốt đẹp với tất cả các trung tâm quyền lực lớn trong quan hệ quốc tế. Ấn Độ
ủng hộ một thế giới đa cực, đa trung tâm, điều này có lợi hơn cho Ấn Độ trong việc
theo đuổi lợi ích của mình.
Những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới đang bước vào những giai đoạn phát triển
mới, bối cảnh quốc tế đã có những tác động mạnh mẽ tới chính sách đối nội, quan hệ
đối ngoại của các nước trên thế giới. Thế giới trong thế kỷ XXI đã dần chuyển dịch
trọng tâm từ Tây sang Đông, không chỉ bởi những bất ổn của phương Tây mà còn là
sự hồi sinh của châu Á. Trật tự thế giới đang thay đổi mau lẹ, rất khó đoán định, đặt
ra hàng loạt thách thức đối với chiến lược đối ngoại của các quốc gia. Tuy nhiên,
chính trong bối cảnh đó, trước những khó khăn, thách thức đặt ra trong nước, với vai
trò của kiến trúc sư kinh tế, Thủ tướng Manmohan Singh đã lựa chọn chính sách đối
ngoại hòa bình, không liên minh, liên kết, phản đối chiến tranh, tôn trọng độc lập chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau nhằm đáp ứng những đòi hỏi của đất nước. Đây
là là kim chỉ nam để chính phủ Ấn Độ triển khai quan hệ chính trị - ngoại giao với
các quốc gia, khu vực trên thế giới. Những diễn biến đa dạng trong trong chính sách
đối ngoại của Ấn Độ với các quốc gia, khu vực trên thế giới giai đoạn 2004-2014
mang đậm dấu ấn cá nhân của Thủ tướng Manmohan Singh.
Chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh bao gồm hai nội dung
chính: Thứ nhất, kinh tế là trung tâm trong chính sách đối ngoại của Thủ tướng
Manmohan Singh. Theo đó, mối quan hệ của Ấn Độ với các cường quốc trên thế giới
cũng như các nước láng giềng được định hình bởi các mục tiêu phát triển của Ấn Độ.
Chính vì vậy, sự hội nhập lớn hơn của Ấn Độ với nền kinh tế thế giới sẽ có lợi hơn
đối với Ấn Độ. Thứ hai, Ấn Độ tăng cường kết nối và hội nhập quốc tế để tạo ra một
môi trường kinh tế và an ninh toàn cầu vì lợi ích của tất cả các quốc gia. Vì vậy, Ấn
Độ cần tập trung nhiều hơn vào năng lực thể chế khu vực và kết nối khu vực[190].
Thủ tướng Manmohan Singh đặt kỳ vọng rất cao vào sự phát triển cũng như
ảnh hưởng của Ấn Độ trên trường quốc tế. Thủ tướng Manmohan Singh tăng cường
mở rộng phạm vi quan hệ với các quốc gia, khu vực và các tổ chức quốc tế, áp
dụng chính sách thực dụng mà hai người tiền nhiệm theo đuổi. Chính sách đối
33
ngoại của Manmohan Singh chịu ảnh hưởng từ các nhà lãnh đạo thời kỳ đấu tranh
tự do, những người theo đuổi mục tiêu liên kết giữa chính sách đối ngoại của Ấn
Độ và khát vọng kinh tế của người dân Ấn Độ. Thủ tướng Manmohan Singh là
nhân vật được chú ý trong lịch sử Ấn Độ vì đã đưa Ấn Độ ra khỏi sự cô lập về kinh
tế và hạt nhân.
Thủ tướng Manmohan Singh đã tiếp tục chính sách đối ngoại thực dụng được bắt
đầu bởi PV Narasimha Rao và tiếp tục bởi Atal Bihari Vajpayee của Đảng Bharatiya
Janata. Trong bài phát biểu trước 120 người đứng đầu cơ quan đại diện ngoại giao của
Ấn Độ tại New Delhi năm 2013, Thủ tướng Manmohan Singh đã nhấn mạnh những
nguyên tắc hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ:
- Đầu tiên, Chính sách đối ngoại của Ấn Độ được xác định dựa trên các ưu
tiên phát triển của đất nước Ấn Độ. Mục tiêu quan trọng của chính sách đối ngoại
Ấn Độ là tạo ra một môi trường toàn cầu có lợi cho sự phát triển toàn diện của Ấn
Độ[161].
- Thứ hai, Ấn Độ chủ động, tăng cường hội nhập lớn hơn với nền kinh tế thế
giới và phát huy tiềm năng sáng tạo người dân của Ấn Độ[161].
- Thứ ba, Ấn Độ tìm kiếm mối quan hệ ổn định, lâu dài và cùng có lợi với tất
cả các cường quốc. Ấn Độ sẵn sàng hợp tác với cộng đồng quốc tế để tạo ra một
môi trường kinh tế và an ninh toàn cầu có lợi cho tất cả các quốc gia[161].
- Thứ tư, Tăng cường hợp tác và kết nối khu vực lớn hơn nhằm hướng tới sự
phát triển của tiểu lục địa Ấn Độ [161].
- Thứ năm, chính sách đối ngoại của Ấn Độ được xác định bởi lợi ích của
quốc gia và các giá trị có lợi nhất đối với người dân Ấn Độ. Ấn Độ theo đuổi phát
triển kinh tế trong khuôn khổ của một nền dân chủ đa nguyên, thế tục và tự do xây
dựng một thế giới hòa bình, hợp tác và phát triển.[161]
Thủ tướng Manmohan Singh cho rằng, mô hình chính sách đối ngoại của Ấn
Độ được xây dựng dựa trên quyền tự chủ chiến lược, không liên kết và giải quyết
các vấn đề thông qua ngoại giao, phát triển kinh tế của đất nước phải tuân thủ
khuôn khổ các nguyên tắc đã xác định. Thủ tướng Manmohan Singh nhấn mạnh
rằng chính phủ UPA đã tìm cách thiết lập lại cơ bản những nội dung chính sách đối
ngoại của Ấn Độ, dựa trên các ưu tiên quốc gia cũng như vai trò và vận mệnh của
Ấn Độ đối với các vấn đề thế giới.
34
Những nội dung và nguyên tắc chính sách đối ngoại của Ấn Độ mà Thủ tướng
Manmohan Singh được đưa ra phù hợp với xu thế vận động của tình hình quốc tế,
khu vực, với bối cảnh và lợi ích quốc gia của Ấn Độ trong tình hình mới, góp phần định hình chính sách đối ngoại Ấn Độ trong thế kỷ XXI. Kinh tế là mục tiêu trung
tâm trong chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh, đó là quá trình chuyển đổi của Ấn Độ sang nền kinh tế tự do hơn vào thế kỷ XXI.
1.2.2. Cơ sở thực tiễn 1.2.2.1. Tình hình thế giới trong thập niên đầu thế kỷ XXI
Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI diễn ra trong bối cảnh tình hình thế giới đang có những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp.
Do đó nhận thức một cách đúng đắn đặc điểm, xu thế phát triển của thế giới và khu
vực là cơ sở quan trọng trong việc điều chỉnh chiến lược chính sách đối ngoại của đất
nước Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI.
Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn. Kinh tế thế giới và khu vực
tiếp tục phục hồi và phát triển nhưng vẫn tiềm ẩn những yếu tố bất trắc khó
lường[11; tr.21]. Xu thế hòa bình, hợp tác phát triển trở thành nhân tố chủ đạo cho
các nước lớn điều chỉnh chiến lược của mình từ đối đầu sang đối tác chiến lược.
Nhiều mâu thuẫn, tranh chấp đang diễn ra được giải quyết theo chiều hướng hiệp thương, tránh các xung đột đối đầu. Các nước lớn với tư cách là người khởi xướng và
dẫn dắt các quá trình liên kết khu vực, liên kết quốc tế đã thúc đẩy tiến trình này.
Hợp tác phát triển diễn ra ở nhiều cấp độ: quốc gia, khu vực, trong từng ngành…đã và sẽ tiếp tục làm cho bầu không khí chính trị thế giới lắng dịu, môi trường ổn định
đảm bảo cho nhịp độ tăng trưởng kinh tế tiếp tục duy trì. Thế giới từ hai cực chuyển thành đa cực, chính yếu tố đa cực đã hạn chế khả năng can thiệp quân sự của các
nước lớn vào các quốc gia khác. Tuy nhiên, những nguy cơ bất ổn vẫn còn tồn tại, đó
là chủ nghĩa ly khai, khủng bố quốc tế diễn ra rất phức tạp.
Một xu hướng lớn khác tiếp tục diễn ra và có xu hướng phát triển mạnh mẽ
trong thập niên đầu thế kỷ XXI là toàn cầu hóa, đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế nhờ
những phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Toàn cầu hóa mang lại rất nhiều
lợi ích cho nhân loại như tạo ra hàng triệu cơ hội việc làm ở các quốc gia đang phát
triển, buôn bán giữa các nước gia tăng, những công nghệ mới và FDI chảy vào các
nước đang phát triển kích thích tốc độ tăng trưởng của các nước này. Toàn cầu hóa
khiến Nam Á giảm mâu thuẫn nội bộ (giữa Ấn Độ và Pakistan) để tạo điều kiện
35
phát triển, tương tự các mối quan hệ giữa Ấn Độ và các nước láng giềng nói chung
(Ấn Độ- Trung Quốc, Ấn Độ- Nga…) đều giảm mâu thuẫn, đối đầu để tăng hợp
tác. Xu hướng tự do hóa thương mại sẽ tiếp tục phát triển ở mọi mức độ khác nhau như hợp tác song phương, đa phương. Chính các hiệp định hợp tác đó sẽ có vai trò
tích cực trong việc liên kết kinh tế giữa các khu vực. Các hiệp định đa phương không chỉ trên phương diện tự do hóa thương mại mà còn cả tác động tới việc xúc tiến đầu tư, chuyển giao công nghệ và nâng cao hoạt động của các dịch vụ.
Bước sang thế kỷ XXI, nhân loại chứng kiến cuộc cách mạng khoa học công nghệ và nền kinh tế tri thức phát triển nhanh chóng. Dưới tác động của cách mạng công nghệ, cùng với quá trình tự do hóa thương mại, cơ cấu thương mại cũng có
nhiều thay đổi. Sự thay đổi biểu hiện ở chỗ các sản phẩm có hàm lượng vốn và công
nghệ cao chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng giá trị xuất khẩu. Đặc biệt với sự
phát triển của công nghệ thông tin và truyền thông đã làm cho nhịp độ trao đổi tiền tệ
tăng 20 lần so với trao đổi thương mại[83; tr.43]. Điều đó đã thúc đẩy quá trình tự do
hóa hóa tài chính phát triển.Quốc tế hóa tài chính thúc đẩy trở lại quốc tế hóa thương
mại và quốc tế hóa nền sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Biểu hiện của tự do hóa tài
chính là sự chuyển vốn FDI tới các khu vực khác nhau trên thế giới, đặc biệt là vào
các nước đang phát triển tiếp tục tăng lên. Trong số các nước đang phát triển thì Ấn Độ cũng là một trong những nước thu hút nhiều FDI.
Cục diện quốc tế thay đổi sau khi chiến tranh lạnh kết thúc đã tạo ra bối cảnh
mới vừa thuận lợi vừa khó khăn cho tất cả các quốc gia trên thế giới trong đó có
Ấn Độ. Bên cạnh một môi trường quốc tế ổn định, đối thoại là chủ yếu, tạo điều
kiện thu hút các nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, buôn bán thương mại giữa các
quốc gia gia tăng, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, tăng tiếp nhận nguồn công nghệ
mới, mở rộng các ngành nghề mới… thì đó còn là sự cạnh tranh gay gắt về thị
trường tiêu thụ cũng như nguồn nguyên liệu đối với các quốc gia, sự nổi lên của
các vấn đề an ninh truyền thống và phi truyền thống.
Những năm đầu thế kỷ XXI, thế giới đang chứng kiến sự thay đổi có tính chất
bước ngoặt của chủ nghĩa ly khai và khủng bố. Cùng với chủ nghĩa ly khai dân tộc,
chủ nghĩa khủng bố đã có những thay đổi và bước vào thời kỳ phát triển mới. Đặc
điểm nổi bật của thời kỳ này chính là có sự kết hợp giữa tôn giáo và chính trị. Yếu
tố tôn giáo chi phối chính trị là hiện tượng phổ biến trong thế giới Hồi giáo. Ngay
từ những thập niên 1980, vấn đề đạo Hồi đã nổi lên cùng với vấn đề ý thức hệ dân
36
tộc và trở thành nguyên nhân đưa đến phong trào đấu tranh mang màu sắc khủng
bố. Tôn giáo đang dần trở thành vấn đề quan tâm của đời sống quốc tế, là động cơ
chính của chủ nghĩa khủng bố. Sau sự kiện khủng bố 11/9/2001 ở Mỹ, cuộc chiến
tranh chống khủng bố do Mỹ đứng đầu đã nhận được sự đồng tình ủng hộ của cả
Ấn Độ. Cũng chính điều này góp phần quan hệ Mỹ- Ấn cũng như Ấn Độ với các
quốc gia khác trên thế giới xích lại gần nhau hơn trong công cuộc chống khủng bố.
Kể từ đây, Mỹ luôn là đối tác chiến lược của Ấn Độ mặc dù mối quan hệ này phần
nào bị ảnh hưởng bởi nhân tố Pakistan- một đồng minh của Mỹ. Việc xích lại gần
hơn với Mỹ, ngoài mục tiêu hợp tác còn hướng vào mục tiêu làm giảm ảnh hưởng
của Trung Quốc tại khu vực Nam Á. Xích lại gần hơn với Mỹ, Ấn Độ cũng được
lợi nhờ mở rộng khả năng tiếp cận nguồn vốn, công nghệ và thị trường. Điều này
rất quan trọng cho sự phát triển của Ấn Độ. Vì vậy, cuộc chiến tranh Iraq năm 2003
dù không tác động trực tiếp đến Ấn Độ nhưng cũng khiến giới lãnh đạo Ấn Độ phải
nhìn nhận lại chính sách đối ngoại của mình. Đã đến lúc phải từ bỏ chính sách đối
ngoại truyền thống mà thay bằng một định hướng quan hệ hợp tác với các nước
Đông Á giàu tiềm năng và giữ vị trị chiến lược.
Muôn vàn khó khăn chồng chất đối với Ấn Độ. Trong bối cảnh ấy, Ấn Độ nhận ra rằng cần phải có một định hướng mới trong chính sách đối ngoại của mình.
Trên cơ sở đó, việc mở rộng quan hệ hợp tác là lựa chọn số một của Ấn Độ. Ấn Độ
sẽ từng bước lấy lại vị thế của mình trên trường quốc tế. Kỷ nguyên XXI được đánh giá là kỷ nguyên của Châu Á, kỷ nguyên này không chỉ là sự trỗi dậy mạnh
mẽ của các nền kinh tế hàng đầu khu vực như Nhật Bản, Trung Quốc mà còn ghi nhận sự tiến bộ rõ rệt từ các nền kinh tế khác trong đó có Ấn Độ.
1.2.2.2. Tình hình khu vực châu Á - Thái Bình Dương những năm đầu thế kỷ XXI
Là nơi có sự hiện diện của hầu hết các nước lớn, châu Á - Thái Bình Dương
thể hiện đầy đủ những đặc điểm, xu thế của tình hình thế giới nhưng ở mức độ
khác nhau:
Thứ nhất, bất chấp khủng hoảng tài chính - tiền tệ, khu vực châu Á - Thái
Bình Dương tiếp tục phát triển nhanh và năng động nhất thế giới, hợp tác và liên
kết kinh tế trong nội bộ khu vực và với bên ngoài đạt nhiều kết quả ấn tượng.
So với toàn cầu, năm 2010 châu Á - Thái Bình Dương đứng đầu về tăng trưởng
GDP, 30% xuất khẩu, 36% tỷ trọng kinh tế, 25% thương mại. Nhiều nền kinh tế tiếp tục
37
duy trì tốc độ phát triển cao, đặc biệt là Trung Quốc và Ấn Độ... Diễn đàn Hợp tác kinh
tế châu Á - Thái Bình Dương vẫn là liên kết kinh tế tiêu biểu của khu vực (chiếm 50%
thương mại, 60% GDP toàn cầu)[56; tr.74]. Dù còn nhiều trở ngại, Diễn đàn cấp cao Đông Á góp phần thúc đẩy liên kết kinh tế trong khu vực. Tuy nhiên, liên kết khu vực
còn nhiều hạn chế do thiếu một tổ chức có đủ khả năng lãnh đạo, sự khác nhau trong toan tính của các nước lớn, sự “chồng chéo” các FTA...
Thứ hai, xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục gia tăng, nhưng luôn
tiềm ẩn những nhân tố gây mất ổn định[11; tr.21-22]. Một số điểm nóng có chiều hướng phức tạp lên, khiến các nước trong khu vực chạy đua vũ trang. Các vấn đề an ninh phi truyền thống có chiều hướng gia tăng và có tác động không nhỏ đến các
nước, mà chưa có giải pháp hữu hiệu.
Thứ ba, các nước lớn có xu hướng chuyển trọng tâm chiến lược sang châu Á -
Thái Bình Dương. Trong thế kỷ XXI, Trung Quốc có dấu hiệu trỗi dậy và trở thành
ứng cử viên sáng giá trong trật tự thế giới đa cực với những toan tính để tranh giành
ảnh hưởng và tìm kiếm lợi ích của mình. Sau hơn 40 năm cải cách và mở cửa,
Trung Quốc đã thành công phát triển kinh tế, nâng cao sức mạnh tổng hợp, trở
thành một cường quốc mới nổi hàng đầu thế giới về kinh tế. Sự trỗi dậy của Trung
Quốc và tham vọng bá chủ ở châu Á đã thách thức vị trí của các cường quốc trên thế giới. Trung Quốc trở thành nhân tố thu hút và hình thành nên sự chuyển hướng
chiến lược sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương của các nước lớn. Trước bối
cảnh đó, Ấn Độ và Mỹ tăng cường quan hệ để kiềm chế sự bành trướng của Trung Quốc. Mỹ coi trọng hơn khu vực châu Á - Thái Bình Dương, vừa hợp tác vừa kiềm
chế Trung Quốc vừa củng cố đồng minh với Nhật Bản, nâng cấp liên minh quân sự với Hàn Quốc, thiết lập cơ chế đồng minh Mỹ - Nhật Bản - Australia, đẩy mạnh
quan hệ với Ấn Độ, thúc đẩy quan hệ với các nước ASEAN. Trung Quốc có ảnh
hưởng lớn nhất tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương, chủ động tham gia các vấn
đề của khu vực, hạn chế ảnh hưởng của Mỹ, vừa kiềm chế và vừa thúc đẩy quan hệ
với Ấn Độ, không để Ấn Độ ngả nhiều về phía Mỹ.
Liên kết nội khối ASEAN đạt nhiều kết quả tích cực, thu hút sự quan tâm ngày
càng cao của các nước lớn. ASEAN có một vị trí ngày càng quan trọng hơn trong chính
sách của các nước, Đông Nam Á trở thành một trong tâm quan trọng trong chính sách
đối ngoại của Ấn Độ. Ấn Độ tăng cường thực hiện chiến lược chính sách hướng Đông
một cách sâu rộng và toàn diện hơn. Ấn Độ tích cực gia tăng các hoạt động về kinh tế và
38
hợp tác quân sự với các nước khu vực ASEAN. Đồng thời, các vấn đề lãnh thổ, biển
đảo khiến cho khu vực này ngày càng quan trọng với Ấn Độ.
* Riêng tại khu vực Nam Á vẫn tiềm ẩn nhiều xung đột, mặc dù Ấn Độ vẫn giữ
vai trò vượt trội về kinh tế, quân sự và ảnh hưởng tại khu vực.
Khu vực Nam Á tình hình chính trị luôn bất ổn định do quan hệ căng thẳng giữa Ấn Độ và nước láng giềng Pakistan. Thêm vào đó, tình hình càng trở nên phức tạp do Pakistan có sự hậu thuẫn của Trung Quốc, một đối thủ cạnh tranh và luôn tìm
cách kiềm chế Ấn Độ tại khu vực Châu Á- Thái Bình Dương. Trung Quốc không chỉ hậu thuẫn cho Pakistan mà còn có ảnh hưởng lớn đối với ba nước láng giềng của Ấn Độ là Nepal, Bangladesh và Myanmar. Giữa Ấn Độ và Trung Quốc vẫn mâu thuẫn
với nhau về nhiều vấn để trong đó nổi lên là vấn đề Tây Tạng, Đạt lai Lạt ma, vấn đề
biên giới Kashmir…Nhìn chung, quan hệ ở khu vực Nam Á này phụ thuộc nhiều vào
nhân tố Trung Quốc. Ấn Độ đã có những động thái để làm dịu tình hình căng thẳng ở
Nam Á, một mặt Ấn Độ thay đổi lập trường về vấn đề Tây Tạng bằng cách không
chấp nhận Đạt lai Lạt ma và những người Tây Tạng chống đối Trung Quốc sinh sống
tại Ấn Độ. Mặt khác Ấn Độ cải thiện quan hệ với Pakistan, giải quyết tranh chấp khu
vực Kashmir đồng thời yêu cầu Trung Quốc có thái độ dứt khoát đối với việc giải
quyết vấn đề này. Cụ thể, loại bỏ các thế lực bên ngoài đang cung cấp tài chính và vũ khí cho phiến quân tại Kashmir. Nhượng bộ từ hai phía đã làm cho không khí chính
trị tại khu vực Nam Á được cải thiện phần nào. Như vậy, nếu không có một chính
sách đối ngoại khôn khéo và hợp lý thì trong tương lai gần, Ấn Độ sẽ bị cô lập giữa các quốc gia láng giềng chịu ảnh hưởng của Trung Quốc. Hơn nữa, nội bộ hầu hết
các nước Nam Á mất ổn định do khủng bố, khủng hoảng chính trị, chênh lệnh giàu nghèo. Sự phát triển của khu vực còn nhiều cản trở, đặc biệt là sản xuất trong nước
được bảo hộ cao, tham nhũng, độc quyền, thương mại nội khối rất thấp...
Mặt khác, Hiệp hội hợp tác khu vực SAARC tỏ ra không hiệu quả, không giải
quyết được những bất đồng giữa Ấn Độ và Pakistan về vấn đề Kashmir, giữa Ấn Độ và
Bangladesh về vấn đề phân chia nguồn nước của một số dòng sông. Đó là trở ngại rất lớn
cho sự phát triển của Ấn Độ. Đấy là chưa kể đến việc hầu hết các nước Nam Á đều là
những nước nghèo hoặc đang phát triển, rất hạn chế vốn và khoa học công nghệ. Ấn Độ
khó có thể dựa vào những nước này để làm bàn đạp cho sự phát triển kinh tế của mình.
Các nước lớn tiếp tục tăng cường ảnh hưởng tại khu vực này. Mỹ thúc đẩy
quan hệ gần gũi hơn với Ấn Độ để kiềm chế Trung Quốc, hạn chế hợp tác Ấn - Nga
39
- Trung, giúp Mỹ chống khủng bố tại Nam Á. Mỹ cũng tăng cường quan hệ hợp tác
chiến lược với Pakistan để chống khủng bố; duy trì lực lượng quân sự tại
Afghanistan; tăng cường ảnh hưởng tại Sri Lanka, Bangladesh, Nepal. Trung Quốc tiếp tục củng cố quan hệ truyền thống với Pakistan; gần gũi hơn với Sri Lanka,
Bhutan, Nepal; tăng cường hiện diện tại Mandives, Mauritius; tham gia nhiều hơn vào SAARC; thực hiện chiến lược “chuỗi ngọc trai” tại Ấn Độ Dương để bao vây Ấn Độ. Nga chú trọng thúc đẩy quan hệ với Ấn Độ về chiến lược và quốc phòng,
khiến Mỹ và Trung Quốc lo ngại. Nhật Bản lặng lẽ gia tăng ảnh hưởng tại khu vực thông qua viện trợ và hợp tác kinh tế. 1.2.2.3. Tình hình Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI
* Tình hình chính trị
Ấn Độ là quốc gia dân chủ, tổ chức nhà nước theo thể chế Cộng hòa đại nghị,
trong đó chính quyền trung ương có quyền lực lớn hơn trong mối quan hệ với các
bang, theo khuôn mẫu của hệ thống Nghị viện Anh. Là quốc gia đa nguyên, đa
đảng, Ấn Độ có gần 10 chính đảng chính trị cấp quốc gia, trong đó Đảng Quốc đại
(INC) và Đảng Bhartiya Janata (BJP) là hai chính đảng tham gia cầm quyền chủ
yếu từ khi Ấn Độ giành độc lập.
Ấn Độ là một nước liên bang gồm 29 bang và 7 vùng lãnh thổ. Theo thuyết “Tam quyền phân lập”, quyền lực nhà nước được chia làm ba nhánh và giao cho mỗi
hệ thống cơ quan khác nhau đảm trách: quyền lập pháp giao cho Quốc hội liên bang;
quyền hành pháp giao cho Chính phủ; quyền tư pháp giao cho Tòa án. Tại Ấn Độ, Tổng thống là người đứng đầu nhà nước liên bang và đứng đầu cơ quan hành pháp,
tổng chưởng lý lãnh đạo tòa án tối cao (cơ quan tư pháp). Tuy nhiên, quyền lực thực sự của quốc gia thuộc về Thủ tướng chính phủ và Hội đồng Bộ trưởng.
Chính trị nội bộ Ấn Độ được duy trì tương đối ổn định. Mặc dù còn nhiều vụ
khủng bố, mâu thuẫn tôn giáo và đấu tranh gay gắt vốn tồn tại từ bên trong Ấn Độ,
như là: giữa cộng đồng người Ấn Độ giáo và người Hồi giáo; vụ đụng độ đổ máu
giữa những người theo Ấn Độ giáo và Hồi giáo trong việc tranh chấp ngôi đền
Babri Masjid ở thành phố Ayodhya, bang Uttar Pradesh, miền Bắc Ấn Độ; các vụ
bạo loạn đòi li khai ở các bang Punjab, Kashmir (ở miền Bắc), bang Assam (ở miền
Đông Bắc)… hay nạn tham nhũng cũng đang là vấn đề thách thức lớn đối với chính
phủ Ấn Độ nhưng chính phủ Ấn Độ luôn có cách xử lý khéo léo, đảm bảo an ninh
quốc gia
40
Đảng Quốc đại đã duy trì được một đường lối phát triển đúng đắn, trong đó đã
đưa nền kinh tế nước này tăng trưởng nhanh trong suốt nhiều năm. Trong cuộc bầu
cử Hạ viện lần thứ 14, tháng 5/2004, Quốc Đại (I) liên minh với 19 đảng giành đa số ghế (219/545, trong đó Quốc Đại có 142 ghế) và đứng ra lập Chính phủ Liên minh
Tiến bộ thống nhất (UPA). Năm 2009, cử tri Ấn Độ tiếp tục tín nhiệm Thủ tướng Manmohan Singh, tạo ra một giai đoạn ổn định hơn cho chính trường đất nước lớn nhất khu vực Nam Á này. Giai đoạn 2004 - 2014, Đảng Quốc đại liên tục cầm quyền
do đó việc thực thi chính sách của Chính phủ Ấn Độ được ổn định, liên tục. Với những chính sách ngoại giao linh hoạt và năng động hơn đã khiến Ấn Độ nổi lên trong nhận thức chiến lược toàn cầu. Tất cả điều này đã khiến Mỹ, Nga, Nhật Bản,
Trung Quốc và Australia điều chỉnh ưu tiên chính sách đối ngoại với Ấn Độ. Hiện
nay, Ấn Độ đóng vai trò nòng cốt trong tổ chức thương mại thế giới WTO, Hiệp hội
Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC); là thành viên tích cực trong nhóm G20, BRICS
và các tổ chức khu vực, tiểu khu vực như RCEP, BCIM-EC, IORA (Hiệp hội các
nước bao quanh Ấn Độ Dương); Ấn Độ thiết lập các mối quan hệ đối tác chiến lược,
đối tác toàn cầu với các nước lớn trên thế giới, đặc biệt là các nước châu Á - Thái
Bình Dương: quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ, quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt
với Nga, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung Quốc, quan hệ đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn cầu với các nước Đông Á..; Vị thế và ảnh hưởng của Ấn Độ
ngày càng gia tăng tại các khu vực và các diễn đàn đa phương trên thế giới.
Cùng với những vấn đề về chính trị nội bộ, Ấn Độ luôn phải đối phó với những thách thức từ bên ngoài, đặc biệt là từ các nước láng giềng. Mặc dù các nhà lãnh đạo
qua các thời kỳ đã nỗ lực bằng nhiều biện pháp ngoại giao nhưng Ấn Độ và Pakistan vẫn chưa tìm được tiếng nói chung trong vấn đề Kashmir. Ngoài ra, những tồn tại
trong quan hệ lịch sử cùng với sự trỗi dậy về kinh tế, quốc phòng và những sách lược
muốn cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực với Trung Quốc là một thách thức lớn đối
với Ấn Độ. Trung Quốc và Ấn Độ đều mong muốn cải thiện quan hệ hai nước nhưng
những “chấn thương của lịch sử” và những mục tiêu củng cố sức mạnh của mỗi quốc
gia đều có ảnh hưởng nhất định đến mối quan hệ này.
* Về Quốc phòng - An ninh:
Từ năm 1998, Ấn Độ trở thành nước có vũ khí hạt nhân là nền tảng cơ bản
cho sức mạnh quân sự của Ấn Độ nhằm chống lại sự răn đe quân sự của các lực
lượng đối phương khi có xung đột. Ấn Độ đang mở rộng quan hệ quốc phòng ra
41
ngoài khu vực, tạo vị thế cho vai trò ngày càng tăng của Ấn Độ ở châu Á. Ngoài
quan hệ thân thiện vốn co với Nga, Ấn Độ đang gia tăng mạnh mẽ quan hệ quốc
phòng với các nước ASEAN, Trung Quốc và với các đối tác khác ở châu Á.
Lực lượng vũ trang chính quy của Ấn Độ có khoảng 2,4 triệu người và hơn 1
triệu người trong lực lượng bán vũ trang. Hàng năm Ấn Độ còn được bổ sung thêm
một lược lượng quân nhân lớn, tất cả các quân nhân phục vụ trong quân đội của Ấn
Độ đều là những người tình nguyện, Ấn Độ chưa bao giờ thực thi chế độ nhập ngũ
cưỡng bức, ngay cả trong các cuộc chiến tranh lớn trước đây. Có thể thấy rằng tiềm
năng quân sự của Ấn Độ còn rất lớn.
Lực lượng hải quân Ấn Độ, đứng thứ 5 trên thế giới về số nhân lực, hải quân
Ấn Độ có khả năng hoạt động ở vùng nước sâu. Lực lượng hải quân tương đối phát
triển về mặt kỹ thuật và đã có tàu sân bay. Lực lượng Không quân Ấn Độ là xếp thứ
4 trên thế giới, lực lượng không quân phát triển dựa vào kỹ thuật của Liên Xô trước
đây. Ấn Độ đã thiết kế các máy bay riêng, bao gồm là những máy bay chiến đấu thế
hệ thứ tư. Ấn Độ và Nga hiện đang lên kế hoạch thiết kế máy bay thế hệ thứ 5. Lục
quân Ấn Độ đang nỗ lực hiện đại hóa và huấn luyện bộ binh sử dụng các vũ khí công
nghệ cao cũng như tác chiến ở tất cả các điều kiện địa hình và thời tiết, trong điều
kiện chiến tranh thành phố và môi trường chiến tranh điện tử. Về tiềm lực sức mạnh
hạt nhân: Trong năm 2012, Ấn Độ chính thức trở thành quốc gia thứ 6 trên thế giới
sở hữu tàu ngầm hạt nhân khi thuê lại tàu ngầm hạt nhân thuộc lớp Akula của Nga.
Quân đội Ấn Độ sở hữu một số loại vũ khí hạt nhân và chủ yếu được trang bị cho các
tên lửa và các máy bay chiến đấu[101].
Ấn Độ xác định quân sự giữ vai trò vô cùng quan trọng để trở thành một
cường quốc thực sự. Tiềm lực quốc phòng của Ấn Độ có sự gia tăng mạnh mẽ,
trong đó tăng cường ngân sách chính là tiền đề căn bản. Ấn Độ có tiềm lực mạnh
thứ tư thế giới (sau Mỹ, Trung Quốc, Nga). Việc sở hữu vũ khí hạt nhân giúp Ấn
Độ có vai trò răn đe chiến lược ở Nam Á và toàn cầu[101].
* Tình hình kinh tế:
Thủ tướng Manmohan Singh lên cầm quyền trong điều kiện Ấn Độ đã đạt
được những kết quả cơ bản sau một thời dài thực hiện cải cách kinh tế, trong hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ tiếp tục đạt được nhiều thành
tựu to lớn trên lĩnh vực kinh tế. Ấn Độ đã vươn lên trở thành một trong những quốc
42
gia có ảnh hưởng tới kinh tế, chính trị thế giới trong thập kỷ 2000. Trong suốt giai
đoạn 2000-2010 GDP Ấn Độ tăng 6,9%/năm. Năm 2010, GDP danh nghĩa đạt
1.530 tỷ USD, đứng thứ 10 thế giới, tính theo đầu người đạt 1.265 USD; GDP theo sức mua đạt 4.046 tỷ USD, đứng thứ 5 thế giới, tăng 60% so với năm 2001, bình
quân đầu người đạt 3.400 USD/năm; dự trữ ngoại tệ 310 tỷ USD. GDP của Ấn Độ năm 2011 đạt 2.965 tỷ USD, đứng thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Cơ cấu kinh tế thế mạnh nổi trội của Ấn Độ là dịch vụ chiếm 60,7% GDP[33], đặc
biệt dịch vụ phần mềm và tài chính rất phát triển, Ấn Độ đã chuyển dần sang nền kinh tế tri thức. Mặc dù tăng trưởng kinh tế ấn tượng nhưng, Ấn Độ tiếp tục phải đối mặt với các thách thức về kinh tế - xã hội. Ấn Độ là nơi có số lượng người
nhiều nhất sống dưới chuẩn nghèo quốc tế (1,25 đô la Mỹ/ngày) của Ngân hàng
Thế giới. Kể từ năm 1991, bất bình đẳng kinh tế giữa các bang của Ấn Độ liên tục
phát triển. Thu nhập bình quân đầu người của Ấn Độ năm 2017 là 1.574 USD xếp
hạng 140 trên thế giới[205]. Đây là mức thấp không tương xứng với tiềm năng của
Ấn Độ nên quốc gia này được xem là người khổng lồ ngủ quên.
Dù còn nhiều khó khăn thách thức, nhưng nền kinh tế phát triển là cơ sở quan
trọng để Ấn Độ xây dựng chính sách đối ngoại tích cực, chủ động. Kinh tế Ấn Độ đang
trên đà tăng trưởng mạnh mẽ và trở thành đối thủ cạnh tranh lớn của Mỹ và các cường quốc. Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ nỗ lực để giảm sự phụ thuộc kinh
tế vào Trung Quốc, tạo ra những cơ hội cho các đối tác khác ở khu vực châu và thế giới.
Sự thay đổi này tạo ra nhiều ảnh hưởng đối với tương lai kinh tế đa cực.
* Tình hình văn hóa – xã hội:
Ấn Độ có nền văn hóa đồ sộ, có sức hấp dẫn và ảnh hưởng tới nhiều nền văn hóa khác trong khu vực cũng như trên thế giới, đây là cơ sở, nguồn lực quan trọng
để xây dựng sức mạnh mềm. Ấn Độ có 29 bang có nền văn hóa và văn minh khác
nhau và là một trong những quốc gia đông dân nhất thế giới[139]. Văn hóa Ấn Độ
được coi là sự pha trộn của một số nền văn hóa khác nhau, trải dài khắp tiểu lục địa
Ấn Độ, có ảnh hưởng và lịch sử phát triển lâu đời[131]. Ấn Độ là một trong những
quốc gia đa dạng về tôn giáo và dân tộc nhất trên thế giới, với một số xã hội và văn
hóa mang tính tôn giáo sâu sắc nhất thế giới. Tôn giáo đóng một vai trò trung tâm
và cơ bản trong cuộc sống của nhiều người dân.
Nền di sản văn hóa của Ấn Độ rất phong phú, tiêu biểu. Ấn Độ luôn giữ gìn
những nét truyền thống đặc trưng của dân tộc dù trải qua nhiều biến động lịch sử.
43
Đồng thời Ấn Độ vẫn tiếp thu những giá trị văn hóa mới từ phía những quốc gia
xâm lược và những người dân nhập cư. Nhiều hoạt động văn hoá, ngôn ngữ, phong
tục và các công trình là những ví dụ cho sự đan xen văn hóa qua hàng thế kỷ đó. Văn hóa đương đại của Ấn Độ cũng đã được chú ý trong ngoại giao quyền lực mềm
của Ấn Độ. Các nhà lãnh đạo Ấn Độ đã ký kết nhiều biên bản ghi nhớ, hợp tác với các quốc gia trên lĩnh vực văn hóa - xã hội làm nổi bật bản sắc dân chủ của Ấn Độ. Thông qua những giá trị văn hóa truyền thống và hiện đại, Ấn Độ tăng cường tham
dự vào cuộc chiến mở rộng quyền lực mềm trên thế giới trong bối cảnh thế kỷ XXI chứng kiến sự cạnh tranh về sức mạnh mềm của các quốc gia. Và thực tế là văn hóa Ấn Độ đã có một mức độ ảnh hưởng rộng lớn trên khắp thế giới một cách chủ động
thông qua chính sách ngoại giao văn hóa đa dạng của Ấn Độ.
Tuy nhiên với dân số khoảng 1,2 tỷ người, Ấn Độ là một quốc gia đông dân
thứ hai thế giới sau Trung Quốc, hệ lụy sinh ra từ vấn đề gia tăng dân số này là rất
lớn. Nhiều vấn đề đặt ra như: giải quyết việc làm, nâng cao mức sống, tăng thu
nhập cho người dân... đòi hỏi chính phủ Ấn Độ phải có các phương án giải quyết.
Ấn Độ là quốc gia có sự phân hóa bất bình đẳng giàu nghèo trong xã hội lớn, có
hơn 269 triệu người dân chiếm 21,9% toàn bộ dân số Ấn Độ sống trong tình trạng
đói nghèo cùng cực. Đây cũng chính là nhân tố gây ra áp lực không nhỏ với chính phủ Ấn Độ, yếu tố này ảnh hưởng lớn tới việc xác định các mục tiêu chính sách
quốc gia của Ấn Độ, trong đó có chính sách đối ngoại.
* Tình hình khoa học giáo dục Ấn Độ được xếp vào một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao
nhất thế giới với GDP đạt trung bình 8.8% mỗi năm[205]. Ấn Độ luôn quan tâm đẩy mạnh hợp tác khoa học và công nghệ như là hai công cụ giúp đem lại công bằng xã
hội và phát triển kinh tế hiện thực hóa ước mơ trở thành nước có nền khoa học giáo
dục tiến bộ. Khoa học giáo dục đang trở thành một lợi thế cạnh tranh của Ấn Độ trong
quá trình hội nhập. Đồng thời nền khoa học giáo dục phát triển cũng là điểm hấp dẫn
trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với nhiều quốc gia, khu vực trên thế giới.
Một số ngành khoa học và công nghệ của Ấn Độ (hạt nhân, nghiên cứu vũ trụ,
công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, hóa chất, dược phẩm, hải dương học, thủy
tinh lỏng, siêu dẫn, công nghệ nano, năng lượng mới...) ở trình độ ngang với các
nước phát triển. Tháng 10-2008, Ấn Độ là nước thứ 3 ở châu Á phóng tàu vũ trụ
không người lái lên mặt trăng. “Cách mạng xám” trong gần 20 năm qua đưa Ấn Độ
44
là một trong mười siêu cường thế giới về công nghệ thông tin, với tốc độ tăng 30-
50%/năm, doanh thu năm 2010 đạt khoảng 100 tỷ USD, xuất khẩu phần mềm đi 75
nước, Bangalore là “Thung lũng Silicon” thứ 2 của thế giới. Lĩnh vực thương mại điện tử ở Ấn Độ đã có những bước phát triển nhảy vọt. Trong năm 2014, Ấn Độ đã
đầu tư 3 tỷ USD vào lĩnh vực này[51].
Những chương trình và chính sách nhằm gia tăng khả năng khoa học công nghệ của Ấn Độ được thực hiện thông qua 5 bước: Xây dựng cơ sở hạ tầng; Định hướng lại;
Thúc đẩy công nghệ trong nước; Hướng tới sự tự do kinh tế; Khoa học và công nghệ trong tự do kinh tế. Để tạo mọi điều kiện cho phát triển khoa học và công nghệ, các thủ tục hành chính, quy định của Chính phủ được nới lỏng và trở nên linh động với
mục đích mở ra một lộ trình mới cho nền khoa học của đất nước này đi lên, hỗ trợ một
cách tối ưu nhất cho các nhà khoa học để họ có thể phát triển ở ngay tại đất nước thay
vì theo đuổi sự nghiệp ở nước ngoài. Nhiều sinh viên giỏi các nước đang theo học ở
những trường đại học hàng đầu thế giới cũng đều muốn chọn Ấn Độ như là một nơi lý
tưởng để thực tập và tích lũy kinh nghiệm.
Chính phủ Ấn Độ đang ưu tiên và gia tăng tiềm lực tập trung vào những mũi
nhọn chiến lược như công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, nghiên cứu không gian,
năng lượng hạt nhân để phát triển kinh tế xã hội, đảm bảo an ninh, thực hiện hóa ước mơ trở thành một trong những cường quốc kinh tế lớn nhất thế giới vào thế kỷ XXI.
1.2.2.4. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước năm 2004
* Giai đoạn trong Chiến tranh Lạnh Ngay từ khi mới giành được quyền tự trị năm 1947, Thủ tướng đầu tiên của Ấn Độ
Jawaharlal Nehru đã đề ra những phương hướng chính trong chính sách đối ngoại là “chung sống hòa bình, tự lực tự cường và hợp tác, không can thiệp vào công việc nội bộ
của nhau, không liên kết, ủng hộ phi thực dân hóa, giải trừ vũ khí, xây dựng trật tự kinh
tế quốc tế công bằng và đấu tranh trên toàn cầu chống phân biệt chủng tộc”[22]
Ấn Độ đã có nhiều sáng kiến, đóng góp trên các diễn đàn đa phương đồng
thời tham gia tích cực vào giữ gìn hòa bình khu vực và quốc tế. Uy tín quốc tế của
Ấn Độ được đề cao, đến đầu năm 1950 đã có 39 nước thiết lập quan hệ ngoại giao.
Ngoài việc thiết lập quan hệ với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác, Ấn
Độ là nước đầu tiên công nhận Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Ấn Độ còn đóng vai
trò nòng cốt trong việc thành lập Mặt trận các nước châu Á chống chủ nghĩa đế
quốc thực dân, tạo thành lực lượng mới trỗi dậy tại diễn đàn Liên hợp quốc.
45
Tháng 6-1954, Thủ tướng Ấn Độ J.Nehru đã cùng Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân
Lai đề ra “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” (Panch Sheel) nổi tiếng: (1) tôn trọng
toàn vẹn lãnh thổ và chủ quyền của nhau; (2) không tấn công nhau; (3) không can thiệp
vào công việc nội bộ của nhau; (4) bình đẳng và cùng có lợi; (5) cùng tồn tại hòa
bình[18]. Năm nguyên tắc này không chỉ đặt cơ sở cho quan hệ Ấn - Trung mà còn cho
quan hệ quốc tế của các nước châu Á - Phi và trở thành nền tảng của chính sách đối
ngoại Ấn Độ. “Năm nguyên tắc” đã được phát triển thành “Mười nguyên tắc Bandung“
tại Hội nghị Á - Phi ở Indonesia tháng 4-1955. Tại đây, Ấn Độ đã khẳng định lập trường
chống chủ nghĩa thực dân và góp phần gìn giữ Hội nghị không đi chệch khỏi vấn đề cốt
lõi đó. Những nguyên tắc Bangdung đã trở thành cơ sở cho tư tưởng không liên kết.
Ấn Độ cùng Inđônêxia, Nam Tư, Ai Cập và Ghana sáng lập Phong trào không liên
kết tại khóa họp XV Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1960. Hoạt động này đã dẫn đến
việc triệu tập Hội nghị cấp cao các nước không liên kết lần thứ nhất ở Bengrat (Nam
Tư) vào năm 1961. Tiêu chuẩn cơ bản của một nước không liên kết, theo Ấn Độ là thực
hiện chính sách độc lập trên những nguyên tắc chung sống hòa bình và không liên kết,
luôn ủng hộ phong trào độc lập dân tộc, không tham gia liên minh quân sự. Sau khi
J.Nehru qua đời, các nhà lãnh đạo Ấn Độ vẫn tiếp tục thực hiện đường lối không liên kết
đó. Ấn Độ luôn đóng vai trò quan trọng trong Phong trào không liên kết.
Vào đầu những năm 80 của thế kỷ XX, khi tình hình thế giới và khu vực gặp
phải những thử thách phức tạp, Ấn Độ sẵn sàng nhận trách nhiệm đăng cai Hội nghị
cấp cao Phong trào không liên kết lần thứ bảy ở New Delhi. Từ diễn đàn này, Thủ
tướng Ấn Độ Indira Gandhi xác định rõ nội dung tư tưởng không liên kết: “Không liên
kết không có nghĩa là mơ hồ, trung lập; không liên kết có nghĩa là độc lập dân tộc và
tự do. Chúng ta chủ trương hòa bình, bình đẳng giữa các dân tộc, đòi dân chủ hóa các
quan hệ kinh tế về kinh tế cũng như chính trị”[53; tr.26].
* Giai đoạn sau Chiến tranh Lạnh
Sau Chiến tranh Lạnh, Ấn Độ đã có sự điều chỉnh chiến lược chính sách đối
ngoại của mình do tác động của khủng hoảng trong nước và những biến động vô cùng
to lớn trên thế giới tác động manh mẽ. Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở các
nước Đông Âu và Liên Xô đã có ảnh hưởng to lớn đến vai trò của Phong trào không
liên kết. Vị thế của Ấn Độ với tư cách là một trong những nước lãnh đạo của Phong
trào không liên kết cũng bị suy giảm trên trường quốc tế.
46
Sau khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Ấn Độ rơi vào khủng hoảng trầm trọng khi mất
đi nguồn viện trợ và thị trường xuất khẩu chính là Liên Xô. Cùng với đó, những tranh
chấp và mâu thuẫn trong lịch sử về biên giới, dân tộc, tôn giáo ở khu vực Nam Á làm
cho mối quan hệ giữa các quốc gia trong khu vực luôn trong tình trạng căng thẳng, đặc
biệt là quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan, mối quan hệ chi phối các quan hệ và hợp tác
trong khu vực. Trước tình hình đó, Ấn Độ đã quyết định điều chỉnh chính sách đối ngoại
của mình trên cơ sở thực hiện ngoại giao toàn diện. Nội dung chính của chính sách này
là coi trọng quan hệ với các nước đang phát triển, các nước lớn, lấy “ngoại giao kinh tế”
làm trọng tâm để phục vụ mục tiêu phát triển đất nước. Nói cách khác, đây có thể coi là
sự điều chỉnh mang tính đồng bộ nhưng không phải là sự thay đổi chính sách đối ngoại.
Đường lối đối ngoại hòa bình, kiên trì không liên kết vẫn được giữ vững nhưng hướng
chính sách đối ngoại phục vụ nhiệm vụ chiến lược phát triển kinh tế. Thủ tướng
Narasimha Rao đã xác định các mục tiêu của chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong thời
kỳ này là: (i) Bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia; (ii) Tạo môi trường hoà bình,
ổn định cho phát triển kinh tế; (iii) Tăng cường và mở rộng quan hệ với các nước lớn,
các trung tâm kinh tế thế giới nhằm tranh thủ vốn đầu tư và kỹ thuật cao; (iv) Đẩy mạnh
quá trình hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu; (v) Nâng cao vai trò và vị thế của Ấn
Độ trong khu vực và thế giới, đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc ở châu Á và thế giới
vào đầu thế kỷ XXI, giành vị trí xứng đáng trong trật tự thế giới mới[40; tr.114].
Ngay sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Ấn Độ đã đưa ra và triển khai chính
sách “ngoại giao kinh tế” đã chứng tỏ một sự nhận thức mới trong các nhà hoạch
định chính sách ngoại giao ở Ấn Độ. Nó trở thành một trong những nhiệm vụ quan
trọng đầu tiên của chính sách đối ngoại Ấn Độ trong thời kỳ này. Trong những bài
phát biểu của Thủ tướng N.Rao trong cuộc họp Quốc hội ngày 3-9-1992: “Thế giới
đã thay đổi, các nước đều đã thay đổi và không có gì có thể biện minh nếu Ấn Độ
không thay đổi. Chúng ta phải điều chỉnh và có cách đề cập thực tế, nhưng chúng ta
không bao giờ thay đổi nguyên tắc và mục tiêu”[40; tr121].
Một điểm nổi bật trong những điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ giai
đoạn này là sự ra đời của chính sách hướng Đông vào năm 1992. Việc ra đời chính
sách hướng Đông nằm trong tính toán chiến lược lâu dài của Ấn Độ là vươn ra khu
vực châu Á – Thái Bình Dương. Trọng tâm của chính sách này là khu vực Đông Á,
đặc biệt là các nước Đông Nam Á. Ấn Độ triển khai chính sách hướng Đông một
47
cách toàn diện, bao gồm cả lĩnh vực chính trị - ngoại giao, an ninh - quân sự, kinh
tế, văn hóa và hợp tác tiểu khu vực. Về cơ bản, mục tiêu chính yếu Ấn Độ muốn
đạt được qua chính sách này là đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở cấp khu vực mà trên phạm vi toàn cầu. Có thể nói chính sách
hướng Đông đã và đang có một tác động xuyên suốt và quyết định đến chính sách đối ngoại của Ấn Độ với từng đối tác cụ thể.
Tháng 3-1998, Thủ tướng Atal Bihari Vajpayee lên cầm quyền đã có nhận
thức rõ ràng: Ấn Độ muốn bảo vệ một lý tưởng, cần phải có sức mạnh, năng động, đưa ra những chính sách cứng rắn để xây dựng sức mạnh trên mọi lĩnh vực, lấy lại vị thế mới. Do vậy, Ấn Độ đã điều chỉnh chính sách đối ngoại vượt ngoài truyền
thống, bỏ nhân nhượng một chiều, nhấn mạnh có đi có lại.
Mặc dù đã có những chuyển hướng tích cực, nhưng cho tới nửa đầu thập niên
90 của thế kỷ XX, chính sách đối ngoại Ấn Độ vẫn chưa theo kịp những chuyển
biến nhanh chóng của tình hình thế giới. Ví dụ điển hình nhất là sự thất bại của Ấn
Độ trong cuộc bầu cử một đại diện châu Á vào chiếc ghế Ủy viên không thường
trực tại Hội đồng bảo an Liên hợp quốc vào năm 1996. Điều này đã tác động không
nhỏ đối với các nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Và Ấn Độ xác
định rằng, trong quan hệ quốc tế ngày nay, có tiếng nói một quốc gia trong các vấn đề quốc tế chỉ có trọng lượng khi quốc gia đó hội đủ sức mạnh tổng hợp của hai
yếu tố kinh tế và quân sự, nếu không thì cũng phải có được một trong hai yếu tố.
Ấn Độ đã không có cả sức mạnh kinh tế lẫn quân sự. Vì vậy, dù có thái độ đối xử sự đúng mực trong quan hệ quốc tế, Ấn Độ cũng không thể gặt hái được những
thành công như sự mong đợi, việc hoạch định chiến lược ngoại giao của Ấn Độ phải xuất phát từ thực tế trên. Sau khi tiến hành các vụ thử nghiệm năm 1998, Ấn
Độ tự xưng là có năng lực vũ khí hạt nhân. Ấn Độ đề cao năng lực của vũ khí hạt
nhân là một phần không thể thiếu trên con đường trở thành một cường quốc của
mình và vì thế chương trình phát triển vũ khí hạt nhân cũng trở thành tâm điểm
chính trong học thuyết phát triển, đối ngoại và an ninh của Ấn Độ.
Với đường lối độc lập tự chủ, khôn khéo, linh hoạt, theo đuổi chính sách
ngoại giao thực dụng, năm 1999 Chính phủ Ấn Độ đã phá thế bế tắc trong đối thoại
hạt nhân với Mỹ và các nước chủ chốt, phá vỡ được thế bị cô lập và từng bước
nâng cao vị thế Ấn Độ trên trường quốc tế. Thủ tướng Ấn Độ B.Vajpayee khẳng
định rằng: “Mục đích thử vũ khí hạt nhân của chúng ta là để tự vệ, chúng ta sẽ
48
không bao giờ là người đầu tiên sử dụng vũ khí hạt nhân, không bao giờ sử dụng
vũ khí hạt nhân để tấn công nước khác. Một số quốc gia thực hiện cấm vận về kinh
tế với chúng ta, nhưng tình hình sẽ dần thay đổi. Chúng ta có trách nhiệm làm cho thế giới hiểu về mục đích thực sự của chúng ta và chúng ta sẽ chào đón những thay
đổi toàn cầu ấy.”[153]
Mặc dù có những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại trước những thay đổi của tình hình thế giới, song Ấn Độ vẫn không từ bỏ những quy tắc, mục đích mà
Ấn Độ đã đề ra trước đó. Trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, để tránh khỏi bị lôi cuốn vào quỹ đạo của Mỹ hoặc Liên Xô, Ấn Độ đã chọn con đường đi giữa cho chính sách đối ngoại của mình và xuất hiện trên vũ đài quốc tế như một nước lãnh đạo
của các nước thuộc thế hệ thứ ba, đứng giữa hai hệ thống đế quốc chủ nghĩa và xã
hội chủ nghĩa. Sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, để phục vụ công cuộc cải cách
kinh tế ở trong nước và để thích ứng với sự thay đổi của tình hình quốc tế, Ấn Độ
đã thực hiện chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ ngoại giao.
Tuy nhiên, với ý thức độc lập tự cường mạnh mẽ, tuy điều chỉnh nhưng Ấn
Độ không từ bỏ những nguyên tắc của mình. Trong thực tế, Ấn Độ đã tỏ ra kiên
quyết trong một số vấn đề như thử nghiệm vũ khí hạt nhân, vấn đề Kashmir, đặc
biệt là vấn đề thử nghiệm vũ khí hạt nhân - một vấn đề trái với chiến lược toàn cầu của Mỹ. Nếu như Ấn Độ nhượng bộ vấn đề này, Ấn Độ có thể nhận được sự trợ
giúp nhiều hơn về mặt kinh tế từ phía Mỹ và những nước đồng minh của Mỹ để
phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế của mình, nhưng dù điều chỉnh chính sách, Ấn Độ vẫn không thay đổi điều này.
Sau Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đẩy mạnh chiến lược ngoại giao đa dạng, đa phương, tạo những bước đột phá trong quan hệ quốc tế. Theo đó, Ấn Độ tăng
cường tiến hành một loạt các cuộc gặp thượng đỉnh trải rộng từ châu Âu sang châu
Á, xích lại gần hơn với Mỹ, Nhật Bản và các nước lớn chủ chốt còn lại như Nga,
Trung Quốc, tiếp tục đẩy mạnh chính sách hướng Đông, tăng cường quan hệ với
các nước láng giềng ở khu vực Nam Á và Đông Nam Á.
Ấn Độ chủ trương tiếp tục củng cố và phát huy vai trò nước lớn ở khu vực
Nam Á, hạn chế thấp nhất ảnh hưởng của các nước lớn tại đây, tăng cường hợp tác
kinh tế thông qua các chương trình viện trợ, đầu tư và buôn bán song phương với
các nước trong khu vực Nam Á. Chủ động giải quyết các bất đồng, tranh chấp giữa
các nước trong khu vực, Ấn Độ cũng khẳng định không có tham vọng về bành
49
trướng lãnh thổ, sẵn sàng chia sẻ, giúp đỡ về khoa học - công nghệ với các nước
láng giềng thân thiện.
Ấn Độ coi trọng quan hệ với khu vực Đông Nam Á nhằm mở rộng phạm vi ảnh hưởng của Ấn Độ và hạn chế vai trò ảnh hưởng của các nước lớn khác tại đây
như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản. Ấn Độ đánh giá khu vực Đông Nam Á là một thị trường rộng lớn, quan trọng đối với chính sách hướng Đông của Ấn Độ. Quan hệ Ấn Độ - ASEAN đã có truyền thống lâu đời, năm 1992 Ấn Độ trở thành đối tác đối
thoại của ASEAN. Trong điều kiện khi Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC) chưa có hiệu quả ở khu vực thì sự hợp tác Ấn Độ với các nước Đông Nam Á là rất quan trọng.
Ấn Độ là một cường quốc có vũ khí hạt nhân, có nhiều thế mạnh về phát triển
kinh tế, có thế mạnh trong lĩnh vực công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật và quân
sự. Hơn một thập niên qua, Ấn Độ đã vươn lên khẳng định vị thế của mình trên bàn
cờ chiến lược thế giới và đang có những bước đi phù hợp với những xu thế mới. Ấn
Độ có đầy đủ điều kiện thực hiện tham vọng đóng vai trò là một cường quốc ở khu
vực và trên thế giới trong thế kỷ XXI. Ấn Độ ngày càng chú trọng đến khu vực
châu Á - Thái Bình Dương, xác định vị trí quan trọng của khu vực này trong chiến
lược phát triển và vươn lên khẳng định vai trò cường quốc thế giới của Ấn Độ.
Tóm lại, mục tiêu chính sách đối ngoại xuyên suốt của Ấn Độ trong thời kỳ này
là bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia; tạo môi trường hòa bình, ổn định cho
phát triển kinh tế đưa Ấn Độ trở thành cường quốc ở châu Á và thế giới vào những thập niên đầu của thế kỷ XXI, giành vị trí xứng đáng trong trật tự thế giới mới. Ấn Độ
xúc tiến cải cách kinh tế, mở cửa mạnh mẽ cho đầu tư nước ngoài, thực hiện chính sách ngoại giao cân bằng với tất cả các nước lớn. Nỗ lực phát triển quan hệ với tất cả
các trung tâm quyền lực, không để bị lôi kéo vào các liên minh chống đối nhau. Tách
khỏi xu hướng thân Liên Xô trước đây nhưng vẫn coi trọng Nga, coi đây là nguồn
cung cấp kỹ thuật quân sự chủ yếu và là chỗ dựa làm đối trọng trong quan hệ với Mỹ,
Trung Quốc. Coi Mỹ là đối tượng số một cần tranh thủ về vốn và kỹ thuật cao nhưng
vẫn đề cao cảnh giác. Coi Trung Quốc là thách thức số một về an ninh và toàn vẹn
lãnh thổ, là địch thủ cạnh tranh lớn trên thương trường, nhưng để có môi trường hòa
bình và phát triển, Ấn Độ xác định cần chung sống hòa bình, tăng cường hợp tác kinh
tế - thương mại với nhau. Ấn Độ nhấn mạnh tăng cường quan hệ với EU, Nhật Bản,
ASEAN là những đối tác có những lợi ích chiến lược đối với Ấn Độ.
50
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, chính sách đối ngoại của Ấn Độ vẫn là
không liên kết, nhưng ngày càng mang tính thực dụng hơn. Ấn Độ tiếp tục xích lại
gần Mỹ, thắt chặt quan hệ với Nga, tranh giành ảnh hưởng với Trung Quốc quyết liệt hơn, đặc biệt là ở khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, vì mục tiêu duy trì hòa
bình, ổn định, tập trung phát triển kinh tế, Ấn Độ tiếp tục duy trì chính sách hòa bình, cân bằng với tất cả các nước lớn.
Tiểu kết chương 1
Cơ sở hoạch định chính sách đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích và làm rõ quá trình vận động, phát triển chính sách đối ngoại của một quốc gia trong quan hệ quốc tế. Để hiểu được chính sách đối ngoại của một quốc gia, trước hết
phải nghiên cứu cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn quá trình hoạch định chính sách đối
ngoại của quốc gia đó. Phân tích cơ sở lý luận của chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới
thời Thủ tướng Manmohan Singh phải được đặt trong tổng thể chính sách đối ngoại và
phân tích chính sách đối ngoại, trên cơ sở đó, phân tích và làm rõ những vấn đề lý luận
được áp dụng trong phân tích chính sách đối ngoại bài Ấn Độ. Luận án sử dụng tổng
hợp các lý thuyết quan hệ quốc tế và cách tiếp cận phân tích chính sách đối ngoại theo
cấp độ trong đó nhấn mạnh vai trò của cá nhân thủ tướng Manmohan Singh để làm
làm phân tích và làm rõ cơ sở hoạch định, nội dung, quá trình triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
Luận án đã phân tích đặc trưng cơ bản trong những triết lý truyền thống Ấn
Độ, tư tưởng bất bạo động của Mahatma Gandhi, chính sách đối ngoại của Ấn Độ bộ trong và sau thời kỳ chiến tranh lạnh, quan điểm chủ trương của Thủ tướng
Manmohan Singh về đối ngoại và hội nhập quốc tế để làm nền tảng lý luận trong việc nhận diện phân tích và đánh giá chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ
tướng Manmohan Singh. Bối cảnh tình hình trong nước, khu vực và thế giới sau
chiến tranh lạnh là cơ sở thực tiễn quan trọng đặt ra cho chính phủ Thủ tướng
Manmohan Singh yêu cầu cấp thiết phải đẩy mạnh hội nhập, tận dụng hội nhập để
phát triển kinh tế, đẩy mạnh và tận dụng tối đa các mối quan hệ đối ngoại vừa đảm
bảo an ninh chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ vừa có điều kiện thuận lợi phát triển, đảm
bảo vị thế của Ấn Độ ở Nam Á, vị thế là một nước lớn khu vực, xác định vị trí của
Ấn Độ trên trường quốc tế trong giai đoạn mới. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ
hướng tới mục tiêu duy nhất cuối cùng là phục vụ sự phát triển kinh tế Ấn Độ.
51
Chương 2
NỘI DUNG VÀ THỰC TIỄN TRIỂN KHAI CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI
CỦA ẤN ĐỘ DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH (2004-2014)
2.1. Nội dung chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004-2014) 2.1.1. Mục tiêu và các hướng ưu tiên chính sách đối ngoại 2.1.1.1. Mục tiêu của chính sách đối ngoại
Các quốc gia trên thế giới, trong quá trình hoạch định và thực thi chính sách đối ngoại đều phải hướng tới ba mục tiêu cơ bản là: “An ninh, phát triển và ảnh hưởng”[36;
tr.3]. Trong bối cảnh thế giới và khu vực có nhiều biến động và thay đổi to lớn, với sự
chi phối của các nước lớn ngày càng thể hiện rõ rệt, Thủ tướng Manmohan Singh đã
định ra mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ trong thời kỳ mới nhằm bảo đảm
ổn định an ninh trong nước; tăng cường hợp tác đầu tư nước ngoài phục vụ cho chương
trình cải cách kinh tế; phát huy vai trò, củng cố vị thế của Ấn Độ trong khu vực và trên
toàn thế giới. Ngày 4/11/2013, phát biểu tại Hội nghị Thường niên với trưởng các cơ
quan đại diện ngoại giao, Thủ tướng Manmohan Singh đã nhấn mạnh định hướng lớn
trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, nhằm đảm bảo “vận mệnh của Ấn Độ trong các vấn đề thế giới”, trong đó mục tiêu quan trọng nhất là phải tạo được môi trường toàn cầu
thuận lợi cho sự phát triển của Ấn Độ, quan hệ ổn định với các cường quốc, thúc đẩy
hợp tác khu vực và tuyên truyền về các giá trị của Ấn Độ. Những mục tiêu cụ thể của chính sách đối ngoại Ấn Độ duy trì dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh là:
Về an ninh, Chính phủ UPA đặt ra mục tiêu: Hoạt động đối ngoại của Ấn Độ phải góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia, ổn định chính trị và
lãnh thổ Ấn Độ[152; tr.7-8]. Việc duy trì toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ biên giới
quốc gia khỏi sự xâm lược của nước ngoài là lợi ích cốt lõi của một quốc gia. Cũng
như Việt Nam, Ấn Độ đã trải qua một thời kỳ dài là thuộc địa của chủ nghĩa thực
dân. Tuy nhiên, với tinh thần đấu tranh bất khuất, Ấn Độ đã được giải phóng khỏi
chế độ thực dân Anh và giành được độc lập vào năm 1947. Do đó, cũng giống như
Việt Nam, Ấn Độ rất trân trọng nền độc lập mà phải trải qua rất nhiều khó khăn
nhân dân Ấn Độ mới giành lại được trong cuộc chiến chống chủ nghĩa thực dân và
chống thuộc địa. Và do vậy, bảo vệ độc lập, chủ quyền và an ninh quốc gia là mục
tiêu đối ngoại quan trọng hàng đầu của Ấn Độ.
52
Về phát triển, Chính phủ UPA chủ trương “Tăng cường và mở rộng quan hệ
với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, các nước vừa và nhỏ trong
khu vực nhằm tranh thủ nguồn vốn đầu tư và khoa học công nghệ từ các nước này để phát triển kinh tế”[156]. Thủ tướng Manmohan Singh đặt ưu tiên hàng đầu là
phát triển kinh tế toàn diện, thúc đẩy tăng trưởng và tạo môi trường thân thiện, điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp. Ấn Độ chủ trương tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó chú trọng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm
kinh tế thế giới, các nước láng giềng phía Đông và các nước vừa và nhỏ trong khu vực nhằm tận dụng các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh tế. Đồng thời, Ấn Độ cũng đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới. Để đẩy nhanh quá trình
hội nhập, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp chính, như: tích cực tham gia vào
các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế, tích cực phát huy vai trò lãnh đạo các
quốc gia đang phát triển trên nhiều diễn đàn.
Về ảnh hưởng, Chính sách đối ngoại của Ấn Độ hướng đến mục tiêu nâng cao vai
trò, vị thế của Ấn Độ trong khu vực và trên trường quốc tế, đưa Ấn Độ trở thành một
trong những nước đóng vai trò quan trọng của thế kỷ XXI[157]. Bước sang thế kỷ thứ
XXI, một trong những mục tiêu đối ngoại khá nổi bật của Ẩn Độ là phấn đấu trở thành
một cường quốc khu vực và thế giới tương xứng với tiềm năng và nguồn lực của đất nước. Là quốc gia có diện tích lớn thứ hai ở khu vực châu Á với dân số hơn 1,2 tỷ
người, GDP của Ấn Độ năm 2013 là 1.875 tỷ USD và là nền kinh tế lớn thứ 7 của thế
giới. Để nâng cao vai trò, vị thế của Ấn Độ trong khu vực và thế giới thì một trong những biện pháp được Ấn Độ quan tâm thực hiện đó là, tích cực tham gia vào các diễn
đàn hợp tác khu vực và quốc tế như đóng vai trò lãnh đạo trong phong trào Không liên kết, tích cực phát huy vai trò lãnh đạo các quốc gia đang phát triển trên nhiều diễn đàn,
tích cực tham gia vào nhiều cơ chế hợp tác khác. Ấn Độ luôn tìm cách mở rộng ảnh
hưởng ra toàn thế giới và trước mắt là các quốc gia ở khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Để mở rộng ảnh hưởng và tạo lập được vị trí của một cường quốc tại khu vực
này, trong hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ đã tích cực thực hiện
Chính sách hướng Đông. Trên trường quốc tế, Ấn Độ cố gắng xác lập vị trí, vai trò
cường quốc thế giới thông qua việc phấn đấu trở thành thành viên thường trực của Hội
đồng Bảo an Liên hợp quốc[133; tr.260-261].
Ngoài mục tiêu đầu tiên là bảo vệ độc lập, chủ quyền, an ninh và toàn vẹn
lãnh thổ vẫn được giữ nguyên như thời kỳ Chiến tranh lạnh, các mục tiêu khác đã
53
được chuyển đổi hoặc cụ thể hóa hơn. Có thể nói rằng, so với thời kỳ trước, những
mục tiêu của chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan
Singh thiên về nội dung kinh tế, mang tính chất thực tiễn hơn. Cùng với quá trình cải cách kinh tế của Ấn Độ, những mục tiêu này càng được nhận thức rõ rệt hơn.
2.1.1.2. Các hướng ưu tiên của chính sách đối ngoại
Để thực hiện các mục tiêu trên, Ấn Độ xác định các hướng ưu tiên sau: Ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là phát triển quan hệ với
các nước láng giềng thuộc khu vực Nam Á. Đây là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ bởi lẽ việc phát triển quan hệ tốt đẹp với các nước này sẽ góp phần đảm bảo hòa bình, ổn định và đặc biệt là an ninh quốc gia của Ấn Độ, tăng cường hợp
tác với các quốc gia Nam Á không chỉ giúp Ấn Độ phát triển kinh tế đối ngoại và
thương mại với khu vực, mà còn góp phần thúc đẩy việc giải quyết các bất đồng, tranh
chấp với các nước khu vực như vấn đề Kashmir và đối phó với chủ nghĩa khủng bố
xuyên quốc gia. Tại khu vực, Ấn Độ đã thiết lập cơ chế quan hệ đa phương với các nước
Nam Á thông qua Hiệp hội Nam Á vì hợp tác khu vực (SAARC).
Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ, S.M.Krishna, đã khẳng định chính sách đối ngoại
của Ấn Độ với các nước Nam Á là: “Ấn Độ cam kết thực hiện chính sách đối ngoại
mật thiết và thân thiện với tất cả các nước Nam Á, với những quốc gia mà chúng ta cùng chung vận mệnh. Do đó, mục tiêu cốt lõi trong chính sách láng giềng của chúng
ta là góp phần tạo lập khu vực Nam Á hòa bình và thịnh vượng được thực hiện thông
qua việc hội nhập và liên kết kinh tế, tương tác giữa nhân dân các nước, củng cố đối tác song phương, tiểu vùng và khu vực”[144].
Ưu tiên thứ hai trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là quan hệ với các nước lớn. Việc nâng cấp quan hệ chiến lược với các nước lớn lên mức cao hơn tạo điều kiện
cho Ấn Độ củng cố lại vị trí của mình trên bản đồ chính trị thế giới, củng cố sự thừa
nhận Ấn Độ như một nước lớn khu vực. Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn
Độ đã có sự thay đổi mạnh mẽ trong chính sách đối ngoại với các nước lớn.
Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ và là một trong những
cường quốc quan trọng có tầm ảnh hưởng lớn đối với khu vực châu Á - Thái Bình
Dương. Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng là đối thủ cạnh tranh vị trí lãnh đạo khu
vực lớn nhất của Ấn Độ. Ngoài ra, trong quan hệ giữa hai nước vẫn còn những bất
đồng trong tranh chấp biên giới vẫn chưa được giải quyết. Trong khi đó, những
năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc ngày càng có nhiều biểu hiện, hành động quyết
54
đoán thậm chí có xu hướng bạo lực trong việc giải quyết tranh chấp biên giới, lãnh
thổ với các nước trong khu vực. Trong quan hệ với Trung Quốc, một mặt Ấn Độ coi
trọng hợp tác kinh tế nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế của chính Ấn Độ. Mặt khác, Ấn Độ tiếp tục giữ thái độ cảnh giác và kiên quyết trong việc xử lý tranh chấp với Trung
Quốc để đảm bảo an ninh quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Quan hệ Ấn - Trung là mối quan hệ tương đối phức tạp, trong đó, Ấn Độ vừa thúc đẩy hợp tác vừa thực hiện chiến lược kiềm chế đối với cường quốc đầy tham vọng này.
Đối với Mỹ, trong bối cảnh cục diện thế giới đang thay đổi nhanh chóng và đặt ra nhiều thách thức mới đối với cả Mỹ và Ấn Độ, bất kể những khác biệt và bất đồng còn tồn tại, Ấn Độ ngày càng tìm thấy nhiều điểm tương đồng để phát huy quan hệ đối tác
chiến lược hiện nay với Mỹ và hướng tới sự đồng thuận chiến lược vì lợi ích chung của
cả hai bên cũng như lợi ích riêng của Ấn Độ. Ấn Độ muốn tranh thủ sự hỗ trợ của Mỹ
trong nhiều lĩnh vực, như thương mại, năng lượng, khoa học - công nghệ, công nghiệp
quốc phòng, qua đó hiện đại hóa lực lượng quốc phòng. Đồng thời, Ấn Độ muốn tranh
thủ vai trò, ảnh hưởng của Mỹ trong cộng đồng quốc tế để nâng cao uy tín, vị thế quốc
tế của mình nhằm xác lập vị thế nước lớn, hướng tới mục tiêu trở thành Ủy viên thường
trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
Đối với Liên Bang Nga, Ấn Độ cũng sẽ ưu tiên cho mối quan hệ truyền thống này vì Nga nắm giữ quyền phủ quyết trong Hội đồng Bản an Liên hợp quốc. Tuy nhiên, Ấn
Độ cũng có những điều chỉnh để thích ứng với hoàn cảnh mới. Dựa vào kinh nghiệm
lịch sử trong mối quan hệ với Liên Xô trước đây, trong mối quan hệ với Liên bang Nga, Ấn Độ sẽ thể hiện tính chất năng động hơn, ít bị phụ thuộc hơn.
Ưu tiên thứ ba của Ấn Độ đó chính là khu vực Trung Đông, vì đây là khu vực có ý nghĩa quyết định đối với an ninh năng lượng và sự phát triển kinh tế nhờ một
lượng lớn kiều hối từ khu vực và sự gia tăng thương mại giữa Ấn Độ với các nước
trong khu vực. Ấn Độ có lợi ích quan trọng trong sự ổn định của Vùng Vịnh. Trung
Đông là nơi khởi nguồn và là trung tâm tôn giáo của Do Thái giáo, Kitô giáo và
Hồi giáo. Vùng này từng trải qua các giai đoạn bạo lực, các cuộc nội chiến, xung
đột vũ trang giữa các phe cánh, sự trỗi dậy của chủ nghĩa khủng bố, tội phạm từ
Trung Đông sang Trung Á và Nam Á… trở thành khu vực tiềm ẩn nhiều nguy cơ
đe dọa đến an ninh và sự phát triển chung của Ấn Độ.
Ưu tiên chiến lược thứ tư và cũng là đặc điếm nối bật trong chính sách đối
ngoại của Ấn Độ sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc đến nay, đó là khu vực Đông Á,
55
trong đó có Đông Nam Á. Vị trí của khu vực Đông Nam Á và Đông Á được thể hiện
rõ nét trong Chính sách hướng Đông của Ấn Độ. Trong chính sách này, Ấn Độ đặt
trọng tâm quan hệ với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á và Nhật Bản.
2.1.2. Nguyên tắc, phương châm, nhiệm vụ chính sách đối ngoại 2.1.2.1. Nguyên tắc của chính sách đối ngoại
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, bên cạnh việc bổ sung, hoàn thiện và
phát triển thì chính sách đối ngoại ngày càng được điều chỉnh phù hợp với thực tiễn
thế giới và yêu cầu của nhiệm vụ quốc gia. Xuất phát từ lợi ích và mục tiêu đối
ngoại, chính sách đối ngoại của Ấn Độ được xây dựng trên nguyên tắc bao trùm là:
Chính phủ quyết tâm duy trì chính sách đối ngoại độc lập của Ấn Độ, được xây
dựng trên sự đồng thuận của quốc gia và dựa trên lợi ích quốc gia tối cao. Vì vậy,
Ấn Độ dành ưu tiên cao cho các mối quan hệ chính trị, kinh tế và văn hóa chặt chẽ
hơn với các nước láng giềng; mở rộng mạng lưới các mối quan hệ quốc tế - giữ gìn
tình đoàn kết với các đồng minh truyền thống và tăng cường quan hệ đối tác mới.
Ấn Độ phát triển quan hệ với các quốc gia có cùng quan điểm vì một trật tự thế
giới bình đẳng, đa cực, có tính đến nguyện vọng chính đáng của các nước đang
phát triển[143]. Trong tình hình mới của thế giới và khu vực, Ấn Độ nhấn mạnh
quan điểm tăng cường sự chủ động, tích cực của Ấn Độ đối với quá trình hội nhập
quốc tế ngày càng đầy đủ và toàn diện, không chỉ hội nhập trong lĩnh vực kinh tế
mà còn trong lĩnh vực khác. Ấn Độ cũng thể hiện tinh thần trách nhiệm cao trong
việc tham gia giải quyết các vấn đề khu vực và quốc tế, đóng vai trò là thành viên
tích cực của cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình hợp tác và phát triển.
Chính sách đối ngoại của Ấn Độ luôn dựa trên sự kiên trì giữ vững nguyên tắc
đối ngoại cơ bản, bao trùm là hòa bình, độc lập, thống nhất và bảo đảm lợi ích tối
cao của quốc gia, đặt lợi ích tối cao của quốc gia lên hàng đầu. Những nguyên tắc
bao trùm trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Mamohan
Singh là sự tiếp tục và phát triển “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình” và “Mười
nguyên tắc Bangdung”. Manmohan Singh đã đưa ra năm nguyên tắc xác định chính
sách đối ngoại của Ấn Độ và ông cho rằng việc thực hiện chính sách đối ngoại của
Ấn Độ trong giai đoạn mới cần phải dựa trên những nguyên tắc này.
Thứ nhất, chính sách đối ngoại của Ấn Độ với các nước láng giềng, các nước
lớn, các quốc gia và khu vực khác trên thế giới khác phải dựa trên những ưu tiên
56
phát triển của Ấn Độ. Mục tiêu của chính sách đối ngoại là tạo ra môi trường quốc
tế hòa bình, thuận lợi cho sự phát triển của Ấn Độ [133].
Thứ hai, tích cực chủ động hội nhập với nền kinh tế khu vực và thế giới, qua
đó phát huy những thế mạnh vốn có của Ấn Độ[133].
Thứ ba, Ấn Độ tìm kiếm mối quan hệ ổn định, lâu dài và cùng có lợi với tất cả các cường quốc. Ấn Độ sẵn sàng hợp tác cộng đồng quốc tế để tạo ra một môi
trường kinh tế và an ninh toàn cầu có lợi cho tất cả các quốc gia[133].
Thứ tư, sự phát triển chung của Nam Á đòi hỏi phải có sự hợp tác và kết nối
nhiều hơn giữa các quốc gia trong khu vực. Ấn Độ cần tăng cường năng lực hợp tác
và nâng cao năng lực thể chế ở khu vực Nam Á[133].
Thứ năm, việc hoạch định chính sách đối ngoại của Ấn Độ không chỉ xây
dựng dựa trên lợi ích của quốc gia và người dân Ấn Độ mà còn phải phù hợp những
giá trị văn hóa – xã hội truyền thống của Ấn Độ[133].
Thủ tướng Manmohan Singh cho rằng việc xây dựng các mô hình chính sách
đối ngoại của Ấn Độ cần phải dựa trên các nền tảng cơ bản là: quyền tự chủ chiến
lược, không liên kết và giải quyết xung đột, tranh chấp thông qua ngoại giao. Ông chủ trương phát triển kinh tế Ấn Độ trong khuôn khổ một nền dân chủ tự do, thế
tục và đa nguyên. Ấn Độ tin tưởng và ủng hộ việc thực thi dân chủ. Tuy nhiên, Ấn Độ không ủng hộ sự can thiệp từ các quốc gia bên ngoài vì mục đích này. Do đó,
Ấn Độ đã nỗ lực xây dựng một xã hội dân tộc thế tục, tiến bộ, không chủ trương
xây dựng chế độ quân chủ hoặc độc tài quân sự. Ấn Độ tin rằng, dân chủ tốt nhất là
để người dân nước này có quyền lựa chọn hoặc thay thế các nhà lãnh đạo của Ấn
Độ, quyền ủng hộ hoặc thay đổi cách thức quản lý xã hội. Bằng cách mở rộng nguyên tắc trên, Ấn Độ phản đối ý tưởng thay đổi chế độ hoặc vi phạm toàn vẹn
lãnh thổ của một quốc gia bằng sử dụng vũ lực hoặc phương tiện khác của một
quốc gia khác hoặc một nhóm quốc gia. Ví dụ như Ấn Độ lên tiếng về sự can thiệp
của Mỹ vào Iraq, Libya, sự can thiệp của Nga vào Syria, Georgia, Ukraine,... Đồng
thời, Ấn Độ sẵn sàng thúc đẩy dân chủ ở bất cứ nơi nào nếu có khả năng; điều này
được thực hiện bằng cách chủ động hỗ trợ nâng cao năng lực và củng cố các thể
chế dân chủ, trên cơ sở có sự đồng ý chính thức của Chính phủ nhà nước liên quan.
Ấn Độ không tán thành ý tưởng áp đặt các biện pháp trừng phạt hay bất cứ
hành động quân sự đối với bất kỳ quốc gia riêng lẻ nào bởi một quốc gia hoặc một
nhóm quốc gia, trừ khi các biện pháp trừng phạt hoặc hành động quân sự này đã
57
được Liên Hợp Quốc phê chuẩn và là kết quả của sự đồng thuận quốc tế. Do đó, Ấn
Độ tích cực tham gia đóng góp cho các hoạt động quân sự gìn giữ hòa bình như:
tham gia Lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Đến năm 2008, Ấn Độ đã đóng góp gần 195.000 binh sĩ, tham gia hơn 49 nhiệm vụ, 68 nhân viên gìn giữ hòa
bình Ấn Độ đã hy sinh khi phục vụ trong các nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc. Ấn Độ cũng đã cung cấp và hỗ trợ Lực lượng Chỉ huy các nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc…
Ấn Độ phản đối sự can thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác. Tuy
nhiên, bất kỳ quốc gia nào có hành động ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia của Ấn Độ, Ấn Độ sẽ không ngần ngại can thiệp kịp thời. Ấn Độ cam kết ủng hộ chính sách mang tính xây dựng thay cho những hành động xâm lược vũ trang. Có thể kể đến như trường
hợp xung đột của Pakistan – Ấn Độ, Ấn Độ cho rằng chủ nghĩa khủng bố được Nhà
nước Pakistan tài trợ với các mục tiêu nhắm vào Ấn Độ.
Chính sách không liên minh, liên kết, độc lập trong việc ra quyết định và tự
chủ chiến lược là một nguyên tắc quan trọng khác của chính sách đối ngoại của Ấn
Độ. Do đó, Ấn Độ tin tưởng vào Quan hệ đối tác và không tham gia vào các Liên
minh, đặc biệt là các liên minh quân sự. Ấn Độ xác định rõ cơ sở của sự hợp tác là
hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ
bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Thủ tướng Manmohan Singh nhấn mạnh rằng, chính phủ UPA đã tìm cách thiết lập lại nền tảng cơ bản
cho chính sách đối ngoại của Ấn Độ, dựa trên các ưu tiên quốc gia, vai trò và vận
mệnh của quốc gia trong các vấn đề quốc tế. 2.1.2.2. Phương châm của chính sách đối ngoại
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ tiếp tục đề ra và duy trì thực hiện các phương châm đối ngoại đúng đắn, làm cơ sở để hoạch định nội dung cơ
bản trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ:
Một là, đối ngoại phục vụ phát triển kinh tế, hướng mạnh vào những lĩnh vực
giàu tiềm năng thế mạnh của Ấn Độ[157]. Quan hệ đối ngoại của Ấn Độ với thế giới,
các cường quốc và các nước láng giềng ngày càng được định hình bởi các ưu tiên
phát triển kinh tế, trong đó tập trung vào thiết lập một môi trường toàn cầu thuận lợi
cho sự phát triển toàn diện của Ấn Độ. Thực chất của phương châm này là đảm bảo
lợi ích quốc gia trong hoạt động đối ngoại của Ấn Độ. Đối ngoại phục vụ lợi ích
chính đáng của quốc gia và đó cũng là cách thực hiện tốt nhất nghĩa vụ quốc tế, là sự
đóng góp đối với quá trình phát triển chung của thế giới. Lợi ích quốc gia mà Ấn Độ
58
hướng tới là phát triển toàn diện đời sống kinh tế - xã hội, ổn định chính trị, nâng cao
chất lượng cuộc sống nhân dân, bảo đảm độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia.
Trong khi nỗ lực tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội, Ấn Độ cũng coi trọng phát triển quan hệ hợp tác với các nước, các tổ chức, khu vực trên
thế giới, theo khả năng thực tế của đất nước, phù hợp với sự chuyển biến của tình hình thế giới. Cùng với chủ trương tự do hoá và mở cửa kinh tế, Chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh đã có những đầu tư chiến lược nhằm phát huy được những
thế mạnh vốn có của mình như: Công nghệ thông tin, công nghệ vũ trụ để đạt được mục tiêu của mình.
Hai là, mở cửa hội nhập, đảm bảo độc lập tự chủ, hướng vào phát triển kinh tế
dịch vụ trong nước[154]. Ấn Độ chủ trương mở rộng hội nhập quốc tế và kết nối khu
vực, nhất là các nước láng giềng nhằm tạo môi trường hòa bình, ổn định lâu dài,
thông qua đó thể hiện tính chủ động trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của
Ấn Độ. Những thay đổi mạnh mẽ của môi trường khu vực, quốc tế đem lại nhiều cơ
hội cho các quốc gia trong đó có Ấn Độ và thông qua các chính sách đúng đắn, Ấn
Độ có thể phát huy tốt hơn các thế mạnh của mình, trở thành người tiên phong dẫn
dắt và định hình cho các khuôn khổ, cấu trúc hợp tác quốc tế mới.
Trong tiến trình mở cửa hội nhập quốc tế, Ấn Độ chủ trương xóa bỏ các rào cản về thuế quan, tạo mọi điều kiện để thu hút đầu tư nước ngoài. Ấn Độ mở cửa
với một môi trường đầu tư thông thoáng nhưng trong các chính sách cải cách vẫn
thể hiện tính hướng nội nhất định thể hiện tính độc lập trong định hướng phát triển đất nước. Nền kinh tế Ấn Độ được mở cửa từng bước, không vội vàng du nhập tất
cả những mô hình mở cửa và phát triển thành công của các nước châu Á khác. Với phương châm này, công tác hội nhập quốc tế được chủ động triển khai mạnh mẽ
trên lĩnh vực kinh tế, đồng thời mở rộng trên các lĩnh vực khác, tăng cường hợp tác
quốc tế về quốc phòng, an ninh..., ở các cấp độ song phương và đa phương, khu
vực và toàn cầu. Đây là điều kiện để Ấn Độ đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ giữ
vững môi trường hòa bình, thuận lợi cho đẩy mạnh phát triển kinh tế; bảo vệ vững
chắc độc lập, chủ quyền, quốc gia; nâng cao vị thế của đất nước; góp phần tích cực
vào cuộc đấu tranh vì hòa bình dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới. Qua
đó, phát huy sức mạnh bên trong, là nền tảng của sự nghiệp xây dựng và phát triển
kinh tế - xã hội, đây cũng là điều kiện để mở rộng quan hệ đối ngoại, nâng cao uy
tín của quốc gia.
59
Ấn Độ mở cửa hội nhập nhằm tăng cường hợp tác quốc tế, tranh thủ tối đa các
điều kiện bên ngoài thuận lợi cho việc phát triển mọi mặt đời sống kinh tế, văn hóa,
xã hội của quốc gia. Thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ là yếu tố có tính nguyên tắc để mở rộng quan hệ quốc tế theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa,
tránh được những tình huống bất lợi về đối ngoại, củng cố và nâng cao vị thế của đất nước ở khu vực cũng như trên thế giới.
Ba là, kết hợp sức mạnh quốc gia với thời cơ quốc tế, thực hiện chính sách đối
ngoại linh hoạt mềm dẻo và phát huy vai trò cá nhân của các lãnh đạo[154]. Để đáp ứng được tình hình mới, một mặt Ấn Độ thực hiện cải cách kinh tế, ổn định chính trị nội bộ, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa đặc thù của Ấn Độ, mặt khác các nhà hoạch
định chính sách đã đưa ra những sách lược mới, thực hiện chính sách đa dạng hóa, đa
phương hóa quan hệ đối ngoại nhằm phục vụ cho công cuộc cải cách kinh tế toàn diện,
phát huy tối đa vai trò của Ấn Độ trong khu vực và trên thế giới.
Để đạt được mục tiêu cụ thể của chính sách đối ngoại thời kỳ này, Ấn Độ đã
triển khai một số hướng lớn trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao: Thứ nhất, chính
sách với các nước láng giềng: Mặc dù do lịch sử để lại, Ấn Độ và các nước Nam Á,
đặc biệt là Pakistan luôn có quan hệ và nghi ngờ lẫn nhau, nhưng Ấn Độ đã có những
hướng thay đổi linh hoạt, muốn cải thiện mối quan hệ các nước Nam Á bằng một hình ảnh thân thiện và xây dựng. Thứ hai, là điều chỉnh chính sách đối ngoại với các
nước lớn. Trong bối cảnh “nhất siêu đa cường”, việc cải thiện quan hệ với các nước
lớn, đặc biệt là Mỹ, là nhân tố quan trọng để một quốc gia đẩy nhanh hội nhập quốc tế và cất cánh. Nhờ cải thiện được mối quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác mà Ấn
Độ đã có được bước phát triển nhanh chóng. Thứ ba, là Chính sách hướng Đông. Nắm bắt thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á – Thái Bình Dương, Ấn Độ đã triển khai
Chính sách hướng Đông và Đông Nam Á là khu vực trọng tâm của chính sách này.
Thông qua đó, Ấn Độ đã gặt hái được những thành công nhất định. Chính sách các
nước láng giềng là ưu tiên quan trọng, Chính sách ngoại giao Phật giáo... là sự linh
hoạt trong chính sách ngoại giao đã giúp Ấn Độ có những bước phát triển vượt bậc
về mọi mặt trong những năm qua.
Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ đã thực hiện chính
sách ngoại giao toàn diện “liên kết với phương Tây và hướng về phía Đông”, đã
mở cửa nhanh chóng và coi trọng quan hệ với các nước lớn, trong đó có Mỹ, và chủ
trương “ngoại giao kinh tế” là trọng tâm, lấy ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế.
60
Đồng thời, lãnh đạo các nước lớn như Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản, Pakistan...
đã thường xuyên có các chuyến thăm chính thức đến Ấn Độ, qua đó đã thể hiện sự
quan tâm của các nước này đến Ấn Độ trên bình diện chính trị, từ đó tạo cơ sở để Ấn Độ hợp tác phát triển kinh tế.
Sự tổng hòa các mối quan hệ của Ấn Độ với các nước láng giềng, khu vực, nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị, phong trào chính trị quốc tế, kết hợp giữa đa dạng hóa với xác lập và củng cố quan hệ với các đối tác tin cậy, các thị
trường chiến lược, đã tạo cho Ấn Độ thế đối ngoại cân bằng, ổn định và vững chắc, tạo môi trường quốc tế thuận lợi cho phát triển và ổn định kinh tế - xã hội của đất nước. Ấn Độ ngày càng chứng tỏ vai trò quan trọng và tầm ảnh hưởng của mình
trong khu vực và trên thế giới. Đồng thời, Ấn Độ cũng gắn kết mật thiết với thế
giới trong các vấn đề an ninh quốc gia và phát triển kinh tế.
Như vậy, có thể nói sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời
Thủ tướng Manmohan Singh xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của nhiều nhân tố, đó là
cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn và tác động của bối cảnh quốc tế. Sự sụp đổ của trật
tự hai cực Ianta kéo theo nó là sự sụp đổ của Liên Xô đã làm cho Ấn Độ mất đi một
chỗ dựa vững chắc; đồng thời đó là những tác động của xu thế toàn cầu hóa, khu
vực hóa, làm thay đổi mối quan hệ giữa các quốc gia. Cùng với những nhân tố quốc tế thì tình hình trong nước của Ấn Độ cũng đã tác động mạnh mẽ đến sự điều chỉnh
phương hướng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Để tiếp tục duy trì sự phát
triển kinh tế và xã hội của quốc gia trong tình hình mới, Ấn Độ buộc phải có những điều chỉnh thích hợp trong đường lối chính sách của mình. Những nguyên tắc đối
ngoại và vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế cũng có tác động sâu sắc đến việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ.
2.1.2.3. Nhiệm vụ của chính sách đối ngoại
Một là, tăng cường mở rộng quan hệ với tất cả các nước, trong đó chú trọng
quan hệ với các nước láng giềng, các nước lớn, các trung tâm kinh tế thế giới, các
nước phía Đông nhằm tận dụng các nguồn lực bên ngoài cho phát triển kinh
tế[198; tr.35]. Ấn Độ chủ trương thay đổi trọng tâm trong chính sách đối ngoại của
Ấn Độ với các cường quốc trong khu vực và trên thế giới. Nền tảng chiến lược của
cách tiếp cận hiện tại của Ấn Độ về khu vực láng giềng được thúc đẩy bởi cả hai
yêu cầu về đối ngoại và đối nội. Trong bối cảnh địa chính trị khu vực đang thay đổi
nhanh chóng, mục tiêu chiến lược của Ấn Độ là tăng cường các mối quan hệ với
61
các nước láng giềng nhỏ hơn bằng cách khôi phục các mối liên kết cũ và xây dựng
các mối liên kết mới
Thời kỳ Chiến tranh lạnh, Ấn Độ có quan hệ gắn bó và là đồng minh thân cận của Liên Xô, trong khi mối quan hệ với các nước lớn khác như Mỹ, Tây Âu, Trung
Quốc hay Nhật Bản lại có phần mờ nhạt. Tuy nhiên, từ tình trạng “hai nền dân chủ xa lạ” - vốn dùng để chỉ mối quan hệ giữa Ấn Độ và Mỹ thời gian trước, trong thời kỳ này, mối quan hệ giữa hai nước đã có những bước phát triển mạnh mẽ với nhiều
sự đồng thuận trong các vấn đề quốc tế. Mối quan hệ song phương giữa Ấn Độ và Trung Quốc sau một thời gian dài “lạnh lẽo” cũng được thúc đẩy, đưa Trung Quốc trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ.
Ấn Độ xác định nhiệm vụ xây dựng môi trường hòa bình, ổn định qua đó có
thể tập trung cho phát triển kinh tế[158]. Năm 2004, sau khi nắm quyền Manmohan
Singh tiếp tục xác định phải tập trung mọi nguồn lực trong và ngoài nước cũng như
tạo lập môi trường trong nước và khu vực hòa bình, ổn định có lợi cho sự phát triển
kinh tế của Ấn Độ.
Hai là, đẩy mạnh quá trình hội nhập khu vực và thế giới[198; tr.35]. Để đẩy
nhanh quá trình hội nhập, Ấn Độ đã thực hiện một số biện pháp chính, như: tích
cực tham gia vào các diễn đàn hợp tác khu vực và quốc tế, tích cực phát huy vai trò lãnh đạo các quốc gia đang phát triển trên nhiều diễn đàn. Để hỗ trợ đắc lực cho
phát triển kinh tế, Ấn Độ đã đổi mới tư duy đối ngoại, điều chỉnh chiến lược đối
ngoại của mình.
Ấn Độ cũng thể hiện quyết tâm dẫn dắt tiểu vùng Nam Á theo một định
hướng phát triển tích cực thông qua thảo luận với các nước trong khu vực nhằm thúc đẩy kết nối. Ngoài ra, Ấn Độ đã đơn phương mở cửa thị trường với các quốc
gia láng giềng trên tiểu vùng Nam Á, đóng góp vào sự phát triển và ổn định của
Bangladesh, Nepal, Sri Lanka, Bhutan và quần đảo Maldives.
Nhiệm vụ tiếp theo của Ấn Độ là góp phần hiệu quả vào việc xây dựng và
kiến thiết một nền tảng ổn định cho hòa bình và hợp tác trong khu vực châu Á. Ý
tưởng về một châu Á thống nhất khởi nguồn từ phong trào phát triển dân tộc của
Ấn Độ trong những thập niên đầu tiên của thế kỷ XX, châu Á chưa bao giờ hội
nhập mạnh mẽ và sâu rộng với thế giới như thời điểm này. Điều này mang lại sự
thịnh vượng chưa từng có trong châu lục và châu Á đang trở thành một động lực
quan trọng trong nền kinh tế thế giới. Dù vậy, những thành tựu đạt được tại khu
62
vực châu Á trong vài thập kỷ gần đây sẽ có thể bị phá hoại khi cuộc chiến tranh
giành ảnh hưởng giữa các nước lớn và chạy đua vũ trang xảy ra. Hơn bao giờ hết,
Thủ tướng Manmohan Singh ý thức được vai trò của Ấn Độ trong ngăn chặn nguy cơ xung đột bằng việc kết nối các nước trong khu vực, tăng cường hợp tác và tìm
kiếm giải pháp cho sự cân bằng lợi ích giữa các cường quốc. Ấn Độ là một cường quốc khu vực, một cường quốc hạt nhân, Ấn Độ có ảnh hưởng quốc tế ngày càng tăng và tiếng nói nổi bật trong các vấn đề toàn cầu
Ba là, nâng cao vị thế và vai trò của Ấn Độ ở khu vực và thế giới, đưa Ấn Độ trở thành một cường quốc ở châu Á và trên thế giới trong quan trong thế kỷ XXI[198; tr.37].
Để thực hiện nhiệm vụ này, Ấn Độ đang tìm cách mở rộng ảnh hưởng của
mình trên toàn thế giới mà trước mắt là ra các quốc gia châu Á - Thái Bình Dương.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ tăng cường hợp tác Nam - Nam,
đẩy mạnh chính sách hướng Đông và Ấn Độ có nhiều cố gắng trong xác lập vị trí,
vai trò cường quốc trên trường quốc tế thông qua việc phấn đấu trở thành ủy viên
thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc.
Mỹ và châu Âu đều rất quan tâm đến vai trò quốc tế của Ấn Độ trong thế kỷ
XXI, những đóng góp của cường quốc này trong việc giải quyết những thách thức toàn cầu. Ngay tại Ấn Độ cũng có những quan điểm khác nhau về sự trỗi dậy của
Ấn Độ cũng như vai trò của một cường quốc có trách nhiệm trong thế kỷ mới.
Hướng tới mục tiêu trở thành một cường quốc đáng tin cậy và hành động hiệu quả, Ấn Độ khẳng định, quá trình đa phương hóa các mối quan hệ phải trở thành tiêu
biểu trong giai đoạn ngày nay và cần phải tính đến những thay đổi trong việc phân chia lại các vị thế quyền lực trên toàn cầu.
Nhiều xu hướng tiêu cực đang nổi lên ở châu Á, tiêu biểu là trong lĩnh vực hàng
hải. Sự gia tăng các tranh chấp lãnh thổ trên các đảo nhỏ đang đe dọa an ninh biển
châu Á. Chính sách của Trung Quốc và quyết định chuyển trọng tâm sang châu Á -
Thái Bình Dương của Mỹ dự báo một giai đoạn không êm ả trong mối quan hệ giữa
các nước trong thời gian tới. Trước tình hình đó, Ấn Độ đã hợp tác với Mỹ cùng giải
quyết các vấn đề an ninh hàng hải. Ấn Độ đã lên kế hoạch cho một cuộc đối thoại
với Trung Quốc và có những bước đầu tiên trong cuộc chiến phối hợp chống cướp
biển ở Vịnh Aden. Ấn Độ cũng ủng hộ ý tưởng của cựu Ngoại trưởng Mỹ Hilary
Clinton về hợp tác ba bên giữa Mỹ - Trung Quốc và Ấn Độ. Nhiều chuyên gia đánh
63
giá, sự hợp tác mạnh mẽ và bền vững giữa Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ sẽ là chìa
khóa để giải quyết một cách hòa bình trong khai thác các nguồn tài nguyên biển và
tự do hàng hải của châu Á. Và sự hợp tác giữa ba cường quốc này sẽ dẫn dắt, duy trì sự ổn định và an ninh khu vực châu Á.
Quá trình hình thành, triển khai và thực hiện chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh là do nhiều nhân tố tác động. Cho dù vậy, sự điều chỉnh thay đổi thì đều phải thực hiện nhiệm vụ xuyên suốt và quan trọng
nhất đó là bảo vệ độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia và tạo dựng môi trường hòa bình, ổn định để phục vụ sự phát triển kinh tế Ấn Độ.
2.2. Thực tiễn triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh (2004-2014)
2.2.1. Đối với một số nước láng giềng (Pakistan, Bangladesh, Trung Quốc) 2.2.1.1. Đối với Pakistan
Ấn Độ và Pakistan là hai nước lớn ở Nam Á, là láng giềng của nhau, nhưng kể
từ khi hai nước giành được độc lập đến nay, quan hệ hai nước chưa bao giờ được
suôn sẻ, thậm chí có lúc còn đối đầu căng thẳng. Mối quan hệ căng thẳng này là
một trong những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình củng cố và bảo vệ độc
lập của Cộng hòa Ấn Độ. Thủ tướng Manmohan Singh cho rằng mối quan hệ căng thẳng giữa Ấn Độ và Pakistan là nhân tố chính cản trở các chiến lược phát triển và
hợp tác trong khu vực. Quan điểm của Thủ tướng Manmohan Singh là cải thiện
mối quan hệ với Pakistan, giải quyết các xung đột bằng các phương pháp hòa bình. Mục tiêu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ với Pakistan là kiềm chế mối quan
hệ thù địch với Pakistan và không cho phép mối quan hệ đó dẫn đến xung đột về quân sự”[132; tr.111]. Chính vì thế, Ấn Độ đã có những bước điều chỉnh chiến
lược, giảm bớt căng thẳng, cải thiện quan hệ song phương, từng bước gạt bỏ những
trở ngại do lịch sử để lại, hướng tới mối quan hệ hòa bình và hợp tác, vì lợi ích và
sự phát triển của mỗi nước và khu vực. Mục tiêu của Ấn Độ là thúc đẩy hợp tác
kinh tế với Pakistan, quan hệ giữa nhân dân hai nước, vận dụng khung đối thoại
toàn diện trong nhiều lĩnh vực.
* Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao
Với Pakistan, một đối thủ khu vực, Ấn Độ thực hiện chính sách vừa tranh thủ
hợp tác, vừa kiềm chế. Vấn đề Kashmir tiếp tục là một trong những thử thách đối
ngoại lớn nhất đối với Ấn Độ trong thời kỳ sau Chiến tranh lạnh, đây là một vùng đất
64
có vị trí chiến lược quan trọng mà cả Ấn Độ và Pakistan đều kiên quyết không từ bỏ
chủ quyền của mình ở đó. Trong nhiều năm, tranh chấp Kashmir là nguyên nhân
chính của nhiều căng thẳng và bất hòa trong mối quan hệ song phương giữa Ấn Độ - Pakistan. Sự căng thẳng và bất hòa giữa Ấn Độ - Pakistan không chỉ xoay quanh các
vụ vi phạm thỏa thuận ngừng bắn mà chính sự thiếu tin cậy và nghi ngờ lẫn nhau vẫn là những “mầm họa” trong quan hệ song phương. Để giải quyết vấn đề này, sau khi lên nắm quyền Thủ tướng Manmohan Singh đã thực hiện nhiều biện pháp nhằm xây
dựng lại lòng tin trong quan hệ hai nước, hướng tới việc xây dựng khu vưc Nam Á hòa bình, ổn định để phát triển kinh tế.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ mong muốn có một môi
trường hòa bình và ổn định để phát triển, Ấn Độ đã có nhiều hoạt động thúc đẩy hai
bên ngồi vào bàn thảo luận trên tinh thần xây dựng. Tuy nhiên, cơ hội hết sức thuận
lợi này đã không được khai thác, tận dụng một cách triệt để. Ngoài nguyên nhân là
cả hai nước đều có thái độ kiên quyết trong vấn đề chủ quyền ở Kashmir thì có một
nguyên nhân quan trọng khác là sự thiếu thiện chí ở Pakistan.
Thủ tướng tiền nhiệm Atal Bihari Vajpayee có tư tưởng khá cứng rắn trong
quan hệ với Pakistan, nên trong giai đoạn này quan hệ giữa hai nước còn khá nhiều
bất đồng và căng thẳng. Sau một thời gian chiến tranh và xung đột, kể từ đầu nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, quan hệ Ấn Độ - Pakistan có những dấu hiệu
tích cực thể hiện bước đầu tiến trình hòa giải giữa hai nước. Triển vọng mới trong
quan hệ Ấn Độ - Pakistan được bắt đầu từ bên lề kỳ họp thường niên Đại hội đồng Liên hợp quốc lần thứ 59. Ngay sau khi nắm quyền, Thủ tướng Manmohan Singh
đã quan tâm tới việc giải quyết những bất đồng giữa hai nước đã tồn tại nhiều năm nhằm củng cố hòa bình tại Nam Á.
Với vấn đề Kashmir, Thủ tướng Manmohan Singh đã khẳng định Chính phủ Ấn
Độ sẵn sàng đối thoại vô điều kiện, hòa bình với bất kỳ nhân vật và phe nhóm nào nhằm
hướng tới giải quyết những căng thẳng vốn đã tồn tại nhiều năm tại đây. Ấn Độ bày tỏ
nỗ lực nhằm chấm dứt thời kỳ thù địch Ấn Độ - Pakistan, ngày 8-8-2005 hai bên đã nhất
trí 7 biện pháp nhằm giảm bớt tình trạng căng thẳng quân sự, trong đó có lệnh cấm xây
dựng các vị trí đóng quân mới dọc theo biên giới giữa hai nước tại khu vực
Kashmir[164; tr.2]. Tuy nhiên, quan hệ Ấn Độ và Pakistan tiếp tục trở nên căng thẳng
sau khi xảy ra vụ tấn công khủng bố tại thành phố Mumbai ngày 26-11-2008 làm hơn
160 người thiệt mạng, mà nghi can là nhóm vũ trang Hồi giáo Lashkar-e-Taiba có căn
65
cứ tại Pakistan. Sau sự kiện này, các nhà lãnh đạo Ấn Độ cũng như Pakistan đã có nhiều
nỗ lực để duy trì mối quan hệ hòa bình ổn định giữa hai nước.
Với tinh thần “xây dựng và hữu nghị”, hai bên đã tiếp tục tăng cường thúc đẩy hợp tác trên nhiều nội dung, những vấn đề chung mà cả Ấn Độ và Pakistan quan
tâm. Hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh đã để lại nhiều dấu ấn đặc biệt quan trọng trong quan hệ hai nước. Trong những vấn đề mà hai bên cùng chú ý, nhất là chủ nghĩa khủng bố và sự hiện diện của những kẻ tham gia hoạt động chống
Ấn Độ tại Pakistan. Năm 2012, Thủ tướng Manmohan Singh và Tổng thống A.Zardari đã thảo luận các vấn đề song phương trên tinh thần hữu nghị hợp tác, hai bên đã có các cuộc hội đàm song phương rất hiệu quả. Pakistan muốn có các mối
quan hệ tốt hơn với Ấn Độ và hy vọng cải thiện, tăng cường lòng tin lẫn nhau.
* Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại
Thủ tướng Manmohan Singh đặt ra nhiều mục tiêu chủ trương cải thiện quan hệ
với Pakistan thông qua cơ chế đối thoại, thúc đẩy thương mại, nới lỏng thị thực và trao
đổi các cuộc gặp cấp cao. Ấn Độ thường xuyên cử các phái đoàn cao cấp đến Pakistan
tiến hành các cuộc thăm viếng hợp tác. Đồng thời Ấn Độ cũng có nhiều lời mời chính
thức tới chính phủ Pakistan đến Ấn Độ tham dự các sự kiện kinh tế lớn tại Ấn Độ. Qua
đó, Ấn Độ mong muốn thúc đẩy tiến trình bình thường hóa quan hệ giữa hai nước.
Trong năm 2012, quan hệ thương mại song phương Ấn Độ - Pakistan được
bình thường hóa sau một thời gian đóng băng. Đây là một phần trong các nỗ lực cải
thiện quan hệ giữa hai quốc gia láng giềng này. Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Ấn Độ và Pakistan năm tài khóa 2012-2013 đạt 2,6 tỷ USD[164; tr.2-3]. Việc
bình thường hóa quan hệ thương mại với Ấn Độ là lợi ích của Pakistan và điều này không chỉ góp phần củng cố kinh tế quốc gia mà còn có tác dụng cải thiện phần nào
mối quan hệ chính trị vốn căng thẳng giữa hai quốc gia trong suốt nhiều năm qua.
Trong các lĩnh vực đầu tư, Ấn Độ thúc đẩy dỡ bỏ những rào cản hạn chế đầu tư với
Pakistan. Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ cũng đã loại bỏ những hạn chế về đầu tư tại
Pakistan từ Ấn Độ[164; tr.2]. Trong bối cảnh hợp tác, phát triển, Ấn Độ đề ra nhiều
biện pháp xúc tiến thiết lập quan hệ thương mại bình thường và cam kết tạo điều kiện
thuận lợi cho cả hai bên. Có thể nói, trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan
Singh quan hệ hợp tác trên lĩnh vực thương mai đầu tư với Pakistan có những bước
phát triển đáng kể so với những giai đoạn trước đây. Điều này thể hiện sự nỗ lực của
hai quốc gia láng giềng vốn tồn tại nhiều nghi ngờ, đề phòng lẫn nhau suốt thời gian
66
dài trong việc hướng tới cải thiện và xây dựng lòng tin, tạo lập môi trường hòa bình,
ổn định để phát triển kinh tế.
* Các vấn đề nhân đạo và giải quyết tranh chấp lãnh thổ Tiếp tục tinh thần hữu nghị và nhân đạo, Ấn Độ cũng có nhiều hành động tích
cực trong tăng cường hợp tác đối với các vấn đề nhân đạo và giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Pakistan. Thủ tướng Manmohan Singh có nhiều hành động hướng tới việc cùng nhau giải quyết vấn đề các tù nhân và ngư dân của hai nước bị bắt, giam
giữ trong nhà tù của nhau. Ấn Độ đã thúc đẩy thành lập Ủy ban tư pháp về tù nhân bao gồm thẩm phán đã về hưu từ các cơ quan tư pháp cấp cao của cả hai nước để giải quyết vấn đề tù binh và ngư dân hai nước. Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng
Manmohan Singh, các cuộc họp của Ủy ban tư pháp về tù nhân được tiến hành
thường xuyên diễn ra tại Ấn Độ. Ủy ban đề nghị về việc các tù nhân có quyền tiếp
cận lãnh sự, xét xử nhanh hơn, được thực hiện trợ giúp pháp lý, chữa bệnh nhân
đạo, hồi hương sau khi hoàn thành thi hành án và ngư dân được trở về nước cùng
với thuyền của họ, được hỗ trợ bởi chính phủ ở cả hai bên. Kết quả gần 2.000 ngư
dân Ấn Độ và 100 tù nhân đã được an toàn rời khỏi các nhà tù Pakistan từ năm
2008 đến năm 2014[164; tr.5].
2.2.1.2. Đối với Bangladesh
Với xu thế hòa bình, hợp tác và phát triển cũng tạo thuận lợi cho Ấn Độ và
Bangladesh nối lại quan hệ. Ấn Độ là quốc gia đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao
với Bangladesh ngay sau khi độc lập vào tháng 12-1971, công nhận Bangladesh là một quốc gia riêng biệt và độc lập. Ấn Độ và Bangladesh có nhiều nét tương đồng
về văn minh, văn hóa, xã hội và kinh tế. Là hai quốc gia có khá nhiều điểm chung về lịch sử, ngôn ngữ, văn hóa và nghệ thuật, hai nước có nhiều thuận lợi hơn trong
quá trình liên kết, hợp tác, mở rộng triển khai chính sách đối ngoại trên nhiều lĩnh
vực. Ấn Độ và Bangladesh có vị trí địa lý tương đối thuận lợi trong việc khai thác
các thế mạnh của mỗi nước, qua đó giúp cả hai mở rộng và phát triển nền kinh tế
mỗi quốc gia. Với Bangladesh, Ấn Độ mong muốn sớm hoàn thành việc điều chỉnh
biên giới và những Hiệp định về vùng biển chung của hai nước để loại bỏ căng
thẳng có thể xảy ra trong quan hệ hai bên. Ấn Độ chủ trương thực hiện chính sách
thân thiện, thuyết phục Bangladesh rằng Ấn Độ là một cơ hội không phải là mối đe
dọa, và Ấn Độ sẽ giúp Bangladesh có cơ hội phát triển tốt hơn, khẳng định tư cách
là một quốc gia lớn nhất và nền kinh tế mạnh nhất trong khu vực.
67
* Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao
Một thời gian dài trong lịch sử, quan hệ hai nước trải qua nhiều thăng trầm. Sau
cuộc đảo chính quân sự của tướng Ziaur Rahman năm 1975 với lý do chính phủ Liên
đoàn nhân dân bán hết lợi ích của đất nước cho Ấn Độ, Bangladesh thiết lập chế độ
quân sự do Tướng Ziaur Rahman lãnh đạo. Từ năm 1975 đến năm 2008, mối quan hệ
Bangladesh-Ấn Độ luôn có sự nghi ngờ và thù địch lẫn nhau thay vì hợp tác, phát triển.
Thủ tướng Manmohan Singh chủ trương xây dựng lại mối quan hệ tốt đẹp với
Bangladesh trên tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên phải đến tháng 12 - 2008 Ấn Độ mới
tranh thủ được những điều kiện thuận lợi để gây dựng lại mối quan hệ với nước láng
giềng này khi mà liên minh của đảng Liên đoàn nhân dân đã giành chiến thắng trong
tổng tuyển cử tại Bangladesh. Sau lên nắm quyền, Thủ tướng Bangladesh Sheikh
Hasina của đảng Liên đoàn nhân dân cùng với Thủ tướng Manmohan Singh đã xây
dựng lại chính sách hợp tác thân thiện, xóa bỏ những nghi ngờ và thù địch lẫn nhau tồn
tại suốt thời gian dài trong quan hệ Ấn Độ - Bangladesh. Hai nước thường có các cuộc
viếng thăm, trao đổi và các cuộc họp cấp cao giữa nguyên thủ hai quốc gia với nhau trên
nhiều lĩnh vực. Chuyến thăm Bangladesh của Thủ tướng Manmohan Singh vào tháng 9-
2011 đã mở ra một thời kỳ mới trong quan hệ song phương giữa Ấn Độ với Bangladesh,
qua đó phản ánh tầm quan trọng trong quan hệ với quốc gia Bangladesh của Ấn Độ,
quan hệ ngoại giao với Bangladesh được xây dựng trên các nguyên tắc bình đẳng, hợp
tác và cùng phát triển. Bangladesh và Ấn Độ đã củng cố thêm động lực để thúc đẩy mối
quan hệ trở nên gần gũi và thân thiện hơn.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, hai nước đã tiếp tục củng cố quan hệ trên nhiều
mặt như: chính trị, kinh tế, thương mại và văn hóa. Trên cơ sở đó, hai nước đã thúc đẩy
xây dựng nhiều khuôn khổ hợp tác toàn diện. Cả hai quốc gia hợp tác, khai thác và sử
dụng tài nguyên trên 54 sông đi qua lãnh thổ hai nước; ngoài ra Ấn Độ còn cho
Bangladesh thuê vùng đất Tin Ghira mà dân Bangladesh có truyền thống làm ăn ở đó...
Ấn Độ và Bangladesh đã tham gia vào nhiều chương trình hợp tác khu vực
thông qua các diễn đàn đa phương như SAARC, BIMSTEC và Hiệp hội hợp tác khu
vực vành đai Ấn Độ Dương (IORA)... Ấn Độ và Bangladesh đã có nhiều sáng kiến
trong hợp tác khu vực trên nhiều lĩnh vực như kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội,
đồng thời kêu gọi được sự đồng thuận hưởng ứng của Bhutan và Nepal.
68
* Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại
Trong giai đoạn mối quan hệ với Bangladesh đang dần trở nên tốt đẹp hơn,
Ấn Độ xác định Bangladesh là đối tác thương mại quan trọng. Ấn Độ nỗ lực không
ngừng thúc đẩy quan hệ với quốc gia này thông qua việc ký kết một loạt các văn
kiện quan trọng trên lĩnh vực kinh tế. Thương mại hai chiều trong năm tài chính
2014-2015 đạt 5,34 tỷ USD[165; tr.1]. Ấn Độ chủ trương thúc đẩy nhiều chính sách
trong khu vực thương mại tự do chung với Bangladesh, theo đó Ấn Độ thực hiện
xóa bỏ hầu hết các hàng rào thương mại, thuế quan và phi thuế quan với
Bangladesh tăng cường các hoạt động thương mại, và có nhiều chính sách mở của,
thuận lợi cho giao thương, trao đổi hàng hóa dọc biên giới Ấn Độ -
Bangladesh. Các Hiệp định song phương xúc tiến đầu tư của với Bangladesh ngày
càng được tăng cường và phát triển, nhiều công ty xuyên quốc gia, tập đoàn kinh tế
của Ấn Độ như: Airtel, CEAT, Marico... đã tích cực tham gia đầu tư, thương mại
tại Bangladesh với nguồn vốn lớn. Ấn Độ đã thiết lập mạng lưới liên kết điện lưới
quốc gia với Bangladesh, qua đó xuất khẩu 500 MW điện mỗi năm tới Bangladesh.
Đề củng cố lòng tin với Bangladesh, Ấn Độ đã thường xuyên tiến hành các hoạt động viện trợ và hỗ trợ kinh tế để giúp Bangladesh đối phó với thiên tai và lũ
lụt thường xuyên xảy ra. Hỗ trợ khắc phục hậu quả của cơn bão Sird đã đổ bộ vào vùng duyên hải Bangladesh, Ấn Độ đã có nhiều biện pháp hỗ trợ về kinh tế - xã hội
đối với Bangladesh. Tháng 3-2009 Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ đã có chuyến
thăm tới các vùng bị thiệt hại nặng nề do lốc xoáy gây ra tại Bangladesh, thể hiện sự quan tâm sâu sắc của Ấn Độ đối với Bangladesh và trước khi có cuộc viếng
thăm, Ấn Độ đã hỗ trợ gói cứu trợ nhân đạo trị giá hơn 37 triệu USD cho Bangladesh. Chính phủ Ấn Độ cũng làm việc với Chính phủ Bangladesh nhằm hỗ
trợ xây dựng lại 10 ngôi làng bị tàn phá nặng nề trong đợt thiên tai ở phía nam của
Bangladesh, qua đó Ấn Độ đã tái xây dựng được 2.800 ngôi nhà bị tán phá ở khu
vực trên và cung cấp 2.800 đèn năng lượng mặt trời cho các hộ gia đình. Ấn Độ
cũng đã cung cấp một nguồn vốn đầu tư lên đến 800 triệu USD để Bangladesh xây
dựng một loạt các dự án, bao gồm cơ sở hạ tầng đường sắt, cung cấp các phương
tiện giao thông đường sắt hiện đại và đầu tư đào tạo đội ngũ quản lý, kỹ sư lành
nghề, đầu tư mua mới hàng loạt xe buýt công cộng, xây dựng và cải tạo giao thông
đường bộ [165; tr.2].
69
2.2.1.3. Đối với Trung Quốc
* Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao
Để củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc một cách toàn vẹn, Ấn Độ xác định cần phải xây dựng được môi trường hòa bình và ổn định với các nước láng giềng và các
quốc gia trong khu vực. Việc điều chỉnh mối quan hệ với Trung Quốc là một vấn đề rất quan trọng đối với quá trình này, Ấn Độ hy vọng sẽ tạo ra những điều kiện về lâu dài để giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới giữa hai nước, trung lập hóa Trung Quốc
trong mối quan hệ giữa Ấn Độ và Pakistan, hạn chế bớt sự chống đối từ các phần tử ly khai được cả Pakistan và Trung Quốc hậu thuẫn. Mặt khác, xây dựng không khí hòa bình trong quan hệ với Trung Quốc giúp Ấn độ phát triển buôn bán thương mại với thị
trường quy mô rất lớn này.
Vượt lên những nghi ngại về an ninh - quốc phòng và tranh chấp biên giới,
quan hệ chính trị trị ngoại giáo Ấn - Trung được cải thiện nhưng sự khác biệt chiến
lược ngày càng tăng. Ấn Độ chủ trương tăng cường quan hệ với Trung Quốc trên
nhiều nội dung mà hai bên có chung lợi ích. Với những nỗ lực của Ấn Độ, mối
quan hệ với Trung Quốc dần vượt qua những rào cản trong lịch sử, hướng tới một
tương lai tốt đẹp hơn. Năm hữu nghị Trung Quốc - Ấn Độ và chuyến thăm của Chủ
tịch nước Hồ Cẩm Đào đến Ấn Độ năm 2006 đánh dấu một mốc mới trong lịch sử quan hệ hữu nghị giữa hai nước. Đây là chuyến viếng thăm đầu tiên của người
đứng đầu Nhà nước Trung Quốc đến Ấn Độ trong một thập niên đầu thế kỷ XXI. Ấn Độ đã thúc đẩy Trung Quốc thông qua một kế hoạch 10 điểm1 nhằm củng cố quan hệ, và duy trì các mối quan tâm nhạy cảm đối với nhau.
Ấn Độ có nhiều nỗ lực trong việc phát triển hợp tác và giải quyết những bất đồng trong vấn đề biên giới với Trung Quốc. Thủ tướng Manmohan Singh tái khẳng định
tầm quan trọng của nỗ lực sớm tìm ra giải pháp cho bất đồng biên giới giữa hai nước
trong chuyến thăm Trung Quốc năm 2008, và khẳng định rằng Ấn Độ sẽ không chấp
nhận bất cứ sự thỏa hiệp nào về vấn đề biên giới. Đồng thời, Thủ tướng Manmohan
1 Kế hoạch 10 điểm của Ấn Độ và Trung Quốc bao gồm: (1) đảm bảo sự phát triển toàn diện của mối quan hệ song phương; (2) đẩy mạnh các mối liên hệ mang tính nhà nước và các cơ chế đối thoại; (3) thúc đẩy các trao đổi kinh tế và thương mại; (4) mở rộng hợp tác có lợi cho cả hai bên trên tất cả các lĩnh vực; (5) xây dựng lòng tin thông qua hợp tác quân sự; (6) sớm tìm kiếm các giải pháp cho các vấn đề nổi cộm; (7) thúc đẩy các hoạt động hợp tác và các mối quan hệ xuyên biên giới; (8) thúc đẩy hợp tác khoa học và công nghệ; (9) tăng cường các mối quan hệ văn hóa tạo điều kiện thuận lợi cho mối quan hệ giữa người dân hai nước; (10) mở rộng quan hệ hợp tác ở các cấp độ khu vực và quốc tế.
Singh đồng ý với Trung Quốc thúc đẩy mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước.
70
Hai nước ký 5 bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực đường sắt, xây dựng nhà ở, khoa
học địa chất, quản lý nguồn đất đai và y học cổ truyền.
Với quyết tâm phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược tới hòa bình và phồn vinh, thúc đẩy xây dựng thế giới hài hòa, hòa bình lâu bền, Ấn Độ tin rằng,
quan hệ hữu nghị và sự cùng phát triển của Trung Quốc và Ấn Độ sẽ có ảnh hưởng tích cực đối với tương lai của hệ thống quốc tế. Trong thế kỷ mới, năm nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình cần phải tiếp tục trở thành nguyên tắc chỉ đạo cơ bản để các
nước phát triển quan hệ hữu nghị, tạo điều kiện cho loài người thực hiện hòa bình và phát triển. Việc không ngừng thúc đẩy dân chủ hóa và đa phương hóa quan hệ quốc tế là mục tiêu quan trọng của thế kỷ mới. Theo Thủ tướng Manmohan Singh,
quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ sẽ có tầm ảnh hưởng khu vực và toàn cầu quan trọng
trong thế kỷ này. Bởi vậy, Ấn Độ sẽ tiếp tục tích cực phát triển quan hệ đối tác hợp
tác chiến lược với Trung Quốc[87].
Ấn Độ chủ trương xích lại gần hơn với Trung Quốc, Trong cuộc gặp với Chủ
tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào ở thành phố Uran (Nga) bên lề hội nghị BRIC năm
2009, Thủ tướng Manmohan Singh cho biết, Ấn Độ sẽ xem quan hệ với Trung
Quốc là ưu tiên hàng đầu và mong muốn tăng cường hợp tác hai nước trên nhiều
lĩnh vực. Năm 2010, Ấn Độ đã đạt được hai thỏa thuận với Trung Quốc, nhưng chưa tạo bứt phá chiến lược. Hai vấn đề Ấn Độ quan tâm là giải quyết tranh chấp
biên giới và chiếc ghế Hội đồng bảo an vẫn chưa được giải quyết. Thủ tướng Ấn
Độ Manmohan Singh cũng đã nhiều lần hội kiến song phương với các lãnh đạo nhà nước Trung Quốc tại các diễn đàn quốc tế. Nhiều hoạt động giao lưu và hợp tác
quan hệ giữa hai nước đã phát huy vai trò quan trọng trong việc kéo quan hệ với Trung Quốc ngày càng xích lại gần hơn[41].
Tuy nhiên, trong quan hệ với Trung Quốc trong năm 2011 vẫn xuất hiện những
nổi cộm về vấn đề biên giới và đặc biệt là Biển Đông. Trung Quốc phản đối sự xuất
hiện của Ấn Độ tại Biển Đông. Ấn Độ bác bỏ và nhấn mạnh đây là vùng biển quốc tế,
mọi việc phải dựa trên pháp luật và thông lệ quốc tế, cụ thể là phải dựa trên Công ước
Liên Hợp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) 1982. Cách tiếp cận của Ấn Độ trong vấn đề
này thể hiện tư tưởng trung lập tích cực và xuất phát từ lợi ích kinh tế của Ấn Độ. Ấn
Độ là một nước đang phát triển mạnh mẽ và có nhu cầu rất lớn về vận chuyển hàng
hóa và dầu mỏ qua đường biển. Khu vực Biển Đông là tuyến hàng hải quan trọng của
Ấn Độ bên cạnh Eo biển Malacca. Ấn Độ khẳng định đây là các tuyến hàng hải quốc
71
tế chứ không phải của riêng một nước nào. Thủ tướng Manmohan Singh nhiều lần
nhắc lại tại EAS tháng 11-2011 rằng, “thế giới có đủ không gian cho cả Ấn Độ và
Trung Quốc” cùng phát triển một cách hòa bình. Điều này cho thấy quan hệ giữa Trung Quốc và Ấn Độ là rất phức tạp, khó có thể thiết lập được một mối quan hệ ổn
định, hữu nghị.
Năm 2013 quan hệ ngoại giao với Trung Quốc bước vào giai đoạn hợp tác mới, là giai đoạn hợp tác trên cơ sở đặt lợi ích chung giữa hai nước lên trên các bất đồng. Ấn
Độ đã đạt được đột phá quan trọng đối với Trung Quốc đối với hai vấn đề then chốt nhất là giải quyết tranh chấp biên giới và thúc đẩy quan hệ kinh tế, thương mại. Ấn Độ đã thúc đẩy thiết lập một thỏa thuận hợp tác phòng thủ trên khu vực biên giới, sau khi
quân đội hai phía đã xảy ra một cuộc đối đầu tại vùng lãnh thổ Himalaya vào đầu năm
2013. Thủ tướng Manmohan Singh cho rằng, thỏa thuận này “sẽ thêm vào các công cụ
hiện có nhằm đảm bảo hòa bình, ổn định và tính dễ dự đoán trên khu vực biên giới của
hai bên”[162]. Thủ tướng Manmohan Singh khẳng định hòa bình và ổn định tại biên
giới hai nước là một yếu tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển và thúc đẩy hợp tác
song phương. Có thể thấy rằng, Ấn Độ luôn có cách tiếp cận rất có trách nhiệm trong
việc quản lý biên giới nhưng đồng thời cũng đầy quyết tâm bảo vệ chủ quyền và lãnh
thổ của đất nước. Tiếp đó, hai bên đưa ra Tuyên bố chung “Tầm nhìn tương lai phát triển đối tác hợp tác và chiến lược Trung Quốc-Ấn Độ” trong bối cảnh Thủ tướng
Manmohan Singh đang ở thăm Trung Quốc nhằm tìm đường vào thị trường Trung
Quốc và thu hút đầu tư vào Ấn Độ, tuyên bố xác định những biện pháp xây dựng hòa bình và ổn định tại biên giới Trung Quốc - Ấn Độ nhằm bảo đảm cho sự phát triển và
thúc đẩy hợp tác hai nước.
* Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh Chính, Ấn Độ đã chủ động mở rộng quan
hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc nhằm chấn hưng nền kinh tế, “tận dụng tối đa
sức mạnh mềm”, tăng cường thương mại, đầu tư của Trung Quốc vào Ấn Độ. Thông
qua hợp tác trên lĩnh vực kinh tế thương mại giải quyết vấn đề tranh chấp biên giới giữa
hai nước. Hợp tác kinh tế thương mại song phương đã trở thành nền tảng của mối quan
hệ Ấn Độ với Trung Quốc, Trung Quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ. Đây
là yếu tố quan trọng trong chiến lược quan hệ đối tác, hợp tác giữa hai nước. Ấn Độ
được xem Trung Quốc là đối thủ chiến lược kể từ giữa thế kỷ XX, tuy nhiên trong
những năm đầu thế kỷ XXI, Trung Quốc đã trở thành đối tác thương mại lớn nhất của
72
Ấn Độ và Chính phủ Ấn Độ đã thành công khi nhận được sự hỗ trợ đầu tư nhiều hơn
của Trung Quốc. Tuy vẫn còn những hạn chế song quan hệ thương mại với Trung
Quốc đã có nhiều thay đổi tích cực. Ấn Độ chủ động thiết lập nhiều cơ chế để nâng cao và tăng cường mối quan hệ hợp tác kinh tế với Trung Quốc. Mối quan hệ kinh tế và
đầu tư thương mại với Trung Quốc đã có những bước phát triển nhanh chóng trong suốt hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh.
Có thể thấy rằng, cùng với những nỗ lực thúc đẩy quan hệ trên lĩnh vực chính trị,
chính phủ Ấn Độ không ngừng thúc đẩy đàm phán hợp tác với Trung Quốc về kinh tế - thương mại, đầu tư với nhiều hiệp định được ký kết. Điều này xuất phát từ mục tiêu của Ấn Độ là mong muốn tạo dựng môi trường quốc tế tốt đẹp, đặc biệt là môi trường xung
quanh, tập trung sức lực phát triển kinh tế, xác lập chiến lược lấy hợp tác kinh tế
thương mại làm “nòng cốt”, thúc đẩy quan hệ với Trung Quốc tiến vào con đường phát
triển toàn diện nhanh chóng. Chính vì thế, thương mại song phương giai đoạn này luôn
tăng trưởng với tốc độ cao. Năm 2000, thương mại giữa Ấn Độ và Trung Quốc chưa
đạt mức 3 tỷ USD và đến năm tài khóa 2013-2014 tổng kim ngạch thương mại của hai
nước tăng lên đạt 78,5 tỷ USD[189; tr.131-149]. Quan hệ kinh tế thương mại hai nước
phát triển và đạt được những kết quả đáng kể, tuy nhiên Ấn Độ vẫn phải đối mặt với
thâm hụt thương mại xuất nhập khẩu với Trung Quốc ngày càng tăng, đến cuối năm 2012, thâm hụt thương mại của Ấn Độ là 29 tỷ USD[163].
Trong lĩnh vực đầu tư, Ấn Độ trở thành thị trường thu hút lớn nhất cho các dự
án từ phía Trung Quốc. Tổng số dự án được thực hiện dưới thời thời Thủ tướng Manmohan Singh lên tới hơn 55 tỷ USD. Theo số liệu của Trung Quốc, tích lũy đầu
tư của Trung Quốc vào Ấn Độ cho đến tháng 12-2011 đạt mức 575,70 triệu USD, trong khi đầu tư của Ấn Độ vào Trung Quốc là 441,70 triệu USD. [182].
* Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội
Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc đã mở rộng đáng kể cả về phạm vi và cường độ
trong thập kỷ qua. Kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung
Quốc, Ấn Độ đã quyết định chọn năm 2010 là “Năm hữu nghị và hợp tác” hai nước
đã ký một chương trình trao đổi văn hóa cho phép nhân dân hai nước hợp tác, phối
hợp trong lĩnh vực trao đổi và phát triển văn hóa. Trong năm 2012, hai nước tiếp
tục ký kết một thỏa thuận cũng được ký kết giữa hai nước, Ấn Độ cho phép việc
giảng dạy tiếng Trung trong các trường học của Ấn Độ. Đồng thời, để phổ biến
và giảng dạy tiếng Hinddi ở Trung Quốc, hai trung tâm phụ trách việc phát triển
73
tiếng Hindi ở Trung Quốc đã được thành lập trong các trường đại học nổi tiếng là
Quảng Châu và Thượng Hải. Để tăng cường quan hệ hợp tác văn hóa, Ấn Độ đã
xuất bản cuốn sách Ấn Độ và Trung Quốc -một nghìn năm quan hệ văn hóa ra cả hai ngôn ngữ. Để tạo điều kiện cho các trí thức hai nước có thể tìm hiểu, giao lưu
và nghiên cứu nền văn hóa của nhau, hai bên đã tổ chức nhiều chuyến thăm viếng hữu nghị giữa các đoàn ngoại giao hai nước. Tờ nhật báo Ấn Độ ngày nay còn có ấn bản tiếng Trung với lượng độc giả hơn 20.000 người. Ấn Độ tăng cường sử
dụng sức mạnh mềm thông qua nền văn hóa đa dạng của mình tại Trung Quốc, có một lượng lớn số người trẻ tuổi Trung Quốc mong muốn tìm hiểu về văn hóa và tôn giáo Ấn Độ. Trong các cuộc gặp gỡ với lãnh đạo nhà nước Trung Quốc, Ấn Độ đã
đề xuất nhiều dự án hợp tác mới trên các lĩnh vực văn hóa – xã hội…
Mặc dù hợp tác song phương với Trung Quốc ngày càng phát triển, song các
yếu tố gây ra căng thẳng trong mối quan hệ hai nước vẫn còn tồn tại và trên một số
phương diện lại đang trở nên rõ ràng hơn. Trong lĩnh vực an ninh, tiếp tục xuất hiện
của quân đội Trung Quốc vào khu vực tranh chấp biên giới Trung Quốc - Ấn Độ và
sự hiện diện ngày càng nhiều của Trung Quốc tại Ấn Độ Dương trở thành lực cản
trong quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ. Trong lĩnh vực kinh tế, Ấn Độ có sự mất cân
bằng lớn trong thương mại với Trung Quốc, do sự tác động từ các chính sách kinh tế của Trung Quốc, Trung Quốc đẩy mạnh khả năng cạnh tranh trên nhiều mặt
trong ngành công nghiệp xuất khẩu của Ấn Độ. Mặc dù Ấn Độ đang cố gắng giảm
căng thẳng trên một số lĩnh vực trong mối quan hệ hai nước, song khả năng cạnh tranh thương mại, chính sách không phù hợp và xung đột giữa hai nước vẫn chưa
thể giải quyết triệt để.
2.2.2. Đối với một số nước lớn (Mỹ và Nga)
Đối với quan hệ của Ấn Độ với các nước lớn, luận án đi vào tìm hiểu mối quan
hệ giữa Mỹ và Liên bang Nga. Bởi vì, Mỹ là một siêu cường trên thế giới, trong lịch
sử Ấn Độ lại có quan hệ gắn bó với Liên Xô - đối thủ của Mỹ trong thời kỳ chiến
tranh lạnh. Liên Xô sụp đổ sau chiến tranh lạnh, Ấn Độ không thể không tính đến vị
trí của Mỹ trong chính sách đối ngoại của mình. Thủ tướng Manmohan Singh hiểu rõ
lợi ích kinh tế và những tiềm năng to lớn đến từ mối quan hệ đối tác mạnh mẽ với
Mỹ. Ấn Độ nhận thấy rằng, sự can dự tích cực của Mỹ là yếu tố quan trọng để Ấn
Độ sớm đạt được mục tiêu trở thành trụ cột trong cấu trúc an ninh và ngoại giao toàn
cầu. Còn Nga là nước lớn có quan hệ truyền thống lâu đời với Ấn Độ, Ấn Độ cũng sẽ
74
ưu tiên cho mối quan hệ truyền thống này vì Nga nắm giữ quyền phủ quyết trong
Hội đồng Bản an Liên hợp quốc. Tuy nhiên, Ấn Độ cũng có những điều chỉnh để
thích ứng với hoàn cảnh mới. Dựa vào kinh nghiệm lịch sử trong mối quan hệ với Liên Xô trước đây, trong mối quan hệ với Liên bang Nga, Ấn Độ sẽ thể hiện tính
chất năng động hơn, ít bị phụ thuộc hơn. 2.2.2.1. Đối với Mỹ
* Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao
Quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Mỹ bắt đầu được thiết lập từ năm 2000, trải qua nhiều năm phát triển, đã có được những thành quả khá lớn. Mặc dù tháng 5-2005, chuyến thăm Mỹ của Ngoại trưởng Ấn Độ nhằm thuyết phục Ngoại trưởng Mỹ công
khai bày tỏ ủng hộ Ấn Độ trở thành nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc
không có kết quả, nhưng chuyến thăm Mỹ tiếp sau của Bộ trưởng Quốc phòng Ấn Độ
đã nâng quan hệ ngoại giao Ấn Độ - Mỹ lên tầm cao mới. Hiệp định hợp tác quốc
phòng Ấn Độ - Mỹ được ký kết đã đặt nền móng cho quan hệ đối tác chiến lược giữa
hai nước, hiệp định đã đánh dấu việc thừa nhận Ấn Độ là đối tác trong chiến lược toàn
cầu của Mỹ. Hơn thế, hiệp định này đã quy định cụ thể Ấn Độ có được nhiều lợi ích từ
Mỹ thông qua việc Ấn Độ có thể mua nhiều hệ thống vũ khí thông thường tiên tiến mà
Mỹ thường chỉ bán cho các nước đồng minh. Ngoài ra, Ấn Độ và Mỹ còn triển khai diễn tập quân sự liên hợp tại những khu vực chiến lược trên phạm vi toàn cầu, bao
gồm cả cuộc diễn tập quân sự liên hợp của lực lượng không quân Ấn Độ - Mỹ lần thứ
hai tại Ấn Độ Dương[81].
Việc coi trọng Mỹ cũng là phù hợp với những tính toán chiến lược của Ấn Độ,
bởi khu vực Nam Á đã dần thu hút sự chú ý của chủ nghĩa khủng bố quốc tế, các lực lượng khủng bố có xu thế ngày càng khó kiểm soát. Ấn Độ vừa là nước lớn số
một ở khu vực này, vừa là nạn nhân của thế lực khủng bố, xác định Mỹ là đối tác
trên mặt trận chống khủng bố là hoàn toàn phù hợp.
Năm 2005, Thủ tướng Manmohan Singh thăm Mỹ, hai bên ra Tuyên bố chung, ký
“Hiệp định xác định lộ trình hợp tác Ấn - Mỹ”. Khi Tổng thống Barack Obama lên nắm
quyền, Ấn Độ càng nỗ lực thúc đẩy mối quan hệ Ấn - Mỹ phát triển lên tầm cao mới.
Đặc biệt Ấn Độ cam kết cho Mỹ độc quyền xây các nhà máy điện hạt nhân, đổi lại Mỹ
ủng hộ Ấn Độ trở thành Ủy viên Thường trực Hội đồng bảo an Liên hợp quốc, thành
viên đầy đủ trong hệ thống kiểm soát xuất khẩu đa phương. Thủ tướng Manmohan
Singh cho rằng, Mỹ và Ấn Độ gắn kết với nhau bởi những giá trị chung, hợp tác với Mỹ
75
giúp Ấn Độ duy trì và đảm bảo sự phát triển bền vững. Mỹ là đối tác thương mại lớn
nhất của Ấn Độ và việc mở rộng quan hệ thương mại sẽ giúp tạo nhiều việc làm cần
thiết cho cả hai nước. Năm 2010, Ấn Độ bắt đầu đối thoại chiến lược về khu vực châu Á - Thái Bình Dương với Mỹ nhằm đảm bảo hai nền dân chủ lớn nhất thế giới theo đuổi
chiến lược tăng cường hỗ trợ nhau. Hai nước đã có nhiều cuộc gặp gỡ song phương và đa phương, Ấn Độ đã tập trung đề cập đến một số vấn đề phát triển quan hệ thương mại song phương và các vấn đề chống khủng bố, hợp tác hạt nhân dân sự, tình hình an ninh
tại Afghanistan và Pakistan, đặc biệt nhấn mạnh vai trò của Ấn Độ trong hình thành một cơ cấu mới tại khu vực giữa Ấn Độ Dương và Thái Bình Dương.
Ấn Độ chủ động mở rộng và thắt chặt quan hệ chính trị, quân sự và kinh tế
Mỹ trong khi vẫn giữ vững quyền tự chủ khi đưa ra các quyết định về những vấn đề
chiến lược như phát triển tên lửa tầm xa, duy trì vũ khí hạt nhân ở mức tối đa có
thể. Đồng thời, Ấn Độ cần Mỹ để tiếp cận nguồn vốn, công nghệ, đặc biệt là công
nghệ hạt nhân cũng như vũ trụ và một thị trường đầu ra cho các sản phẩm có lợi thế
cạnh tranh của Ấn Độ.... Trong chuyến thăm Mỹ năm 2013, Thủ tướng Ấn Độ
Manmohan Singh đã tập trung vào các lĩnh vực được coi là trụ cột trong quan hệ Mỹ-
Ấn Độ như hợp tác an ninh, quân sự, hạt nhân, kinh tế và khẳng định, Mỹ là đối tác
“không thể thiếu” của Ấn Độ. Thủ tướng Manmohan Singh muốn Ấn Độ và Mỹ hợp tác nhiều hơn trong lĩnh vực quân sự. Ấn Độ cam kết tăng cường hợp tác với Mỹ trong
cuộc chiến chống khủng bố. Cuộc gặp gỡ này được nhận định: “Quan hệ Mỹ và Ấn Độ
đã tiến một bước rất dài. Nếu nhìn về tương lai, tiến trình xây dựng quan hệ vững chắc này sẽ tiếp tục phát triển”[97]...
Con đường mà hai nước sẽ phải trải qua để trở thành những đối tác tốt nhất của nhau còn dài. Quan hệ Mỹ - Ấn Độ còn không ít trở ngại, Ấn Độ không phải là đồng
minh và cũng không cử binh sĩ tham gia cùng quân đội Mỹ trong các liên minh quân
sự. Về phía Ấn Độ, các nhà hoạch định chính sách cũng nhận thấy Mỹ đã gạt Ấn Độ
sang một bên khi thực hiện con đường hòa bình ở Afghanistan. Thế nhưng, lợi ích
quốc gia sẽ là trên hết. Một Ấn Độ đang vươn lên tại châu Á và toàn cầu, một nước
Mỹ đang củng cố và gia tăng vai trò và vị thế tại châu Á - Thái Bình Dương, cả hai
hẳn sẽ không ngần ngại vượt lên thách thức để xích lại gần nhau hơn nữa. Có thể nhận
thấy rằng, những chuyến thăm của nguyên thủ hai nước đã đáp ứng kỳ vọng của cả hai
quốc gia, tạo sự gắn kết vững chắc đồng thời góp phần làm nổi bật chiều sâu của mối
quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Ấn Độ.
76
* Trên lĩnh vực kinh tế - thương mại
Cũng như các mối quan hệ song phương khác, Ấn Độ chủ trương tăng cường
quan hệ với Mỹ dựa trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Lợi ích căn bản và cốt lõi nhất trong quan hệ với nền kinh tế số một thế giới này mà Ấn Độ hướng tới là lợi ích về
kinh tế. Chính phủ Thủ tướng Manmohan Singh đặc biệt coi trọng quan hệ với Mỹ trên lĩnh vực kinh tế cũng như các lĩnh vực khác.
Giá trị của tổng thương mại song phương hai nước đã tăng gấp đôi lần từ năm
2004 đến 2008 và tăng từ 5,6 tỷ USD năm 1990 lên 43 tỷ USD trong năm 2008, trong khi đầu tư hai chiều đáng kể cũng phát triển và khởi sắc, Mỹ ngày càng trở thành đối tác quan trọng trên lĩnh vực thương mại song phương của Ấn Độ. Thủ
tướng Manmohan Singh cho rằng, hợp tác với Mỹ giúp Ấn Độ duy trì và đảm bảo
sự phát triển bền vững của quốc gia. Mỹ là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ
và việc mở rộng quan hệ thương mại sẽ giúp tạo nhiều việc làm cần thiết cho người
dân Ấn Độ. Manmohan Singh cho rằng, đặc trưng của mối quan hệ kinh tế song
phương là “dòng chảy hai chiều”, trong các chuyến thăm chính thức đến Mỹ, Thủ
tướng Manmohan Singh thường xuyên mời các doanh nghiệp Mỹ đầu tư vào những
dự án cơ sở hạ tầng Ấn Độ.
Trong hai nhiệm kỳ Thủ tướng Manmohan Singh, Mỹ là đối tác hàng đầu trên lĩnh vực kinh tế - thương mại, tổng thương mại dịch vụ của Ấn Độ trong năm 2010 đạt
45,9 tỷ USD và đạt 62,8 tỷ USD trong năm 2012, năm 2013 tổng kim ngạch thương
mại xuất nhập khẩu hai nước là 67 tỷ USD, sang năm 2014, tổng kim ngạch thương mại hai nước đã đạt mức 86 tỷ USD, Mỹ là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Ấn Độ,
chiếm 32,44 tỷ USD trong tổng kim ngạch xuất khẩu 253,97 tỷ USD của Ấn Độ năm 2014[166; tr.3]. Ấn Độ đã đặt ra kế hoạch tăng tổng thương mại lên gấp 5 lần từ hơn
100 tỷ USD lên 500 tỷ USD trong 10 năm tiếp theo với Mỹ. Hai nước đã tổ chức
nhiều cuộc hội đàm và cơ chế đối thoại để tăng cường quá trình hợp tác song phương
về các vấn đề kinh tế và thương mại.
Trong đầu tư, Mỹ là quốc gia lớn thứ ba có nguồn vốn đầu tư trực tiếp vào Ấn
Độ. Tổng số vốn FDI của Mỹ vào Ấn Độ đến tháng 3-2014 lên tới 11,1 tỷ USD, chiếm
gần 6% tổng số vốn FDI nước ngoài đầu tư vào Ấn Độ. Số vốn FDI Ấn Độ đầu tư vào
Mỹ cũng tăng mạnh, khoảng 26,5 tỷ USD từ giữa năm 2004 đến năm 2009. Trong
năm tài chính 2013-2014, nguồn vốn FDI mà Mỹ đầu tư vào Ấn Độ đã đạt 557 triệu
USD, chiếm 6% tổng số FDI của cả Ấn Độ[166; tr.3]. Ấn Độ đã thúc đẩy xây dựng
77
hàng loạt biện pháp giúp tháo gỡ các rào cản thương mại và đầu tư song phương nhằm
khai thác tốt hơn lợi thế và tiềm năng của mỗi nước.
Mỹ được xem là đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ về hàng hóa và dịch vụ. Ấn Độ đã có nhiều chính sách lớn, thiết thực, góp phần thúc đẩy xây dựng “mối
quan hệ định hình thế kỷ XXI” giữa Mỹ - Ấn Độ. Với sự gắn kết và hợp tác song phương trên nhiều lĩnh vực, mà trước hết là hợp tác về kinh tế, thương mại - đầu tư, cả hai quốc gia Ấn Độ và Mỹ đã có một tầm nhìn chung chiến lược. Tăng cường
hợp tác trên lĩnh vực kinh tế - thương mại là nội dung quan trọng mà Ấn Độ hướng đến trong quan hệ với Mỹ, điều này góp phần củng cố vị thế quan trọng của Ấn Độ trên bản đồ kinh tế và chính trị toàn cầu.
* Hợp tác an ninh – quốc phòng
Thủ tướng Manmohan Singh đặt trọng tâm vào các sáng kiến thực chất nhằm tăng
cường hợp tác trong bối cảnh những thay đổi địa chính trị nhanh chóng. Hợp tác quốc
phòng và an ninh với Mỹ ngày càng tăng là một khía cạnh rất quan trọng trong quan hệ
đối tác chiến lược song phương. Hợp tác về các thiết bị và nền tảng quốc phòng hiện đại
sẽ tăng cường khả năng phòng thủ cũng như tiềm lực quân sự của Ấn Độ. Mối quan hệ
với Mỹ ngày càng trở nên thực chất hơn. Ấn Độ xác định vai trò và trọng tâm là hợp tác
về quốc phòng - an ninh, tình báo và chống khủng bố. Ấn Độ đã ký kết nhiều thỏa thuận quân sự mang tính nền tảng và khả thi với Mỹ. Thông qua các viếng thăm chính trị giữa
lãnh đạo cấp cao hai nước, Ấn Độ đã đưa ra nhiều sáng kiến, hiệp định, thỏa thuận hợp
tác nhằm tranh thủ sự hỗ trợ của Mỹ tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng cho Ấn Độ, đáng chú ý nhất là “Hiệp định khung về hợp tác quốc phòng Ấn - Mỹ” giai đoạn
2005 - 2015 đã đề cập đến các vấn đề nhạy cảm như phối hợp tác chiến đa quốc gia, mở rộng mua bán và hợp tác phát triển vũ khí trang bị, hợp tác trong lĩnh vực phòng thủ tên
lửa. Đặc biệt, ngày 25/01/2011, thông qua quá trình đàm phán và vận động của Ấn Độ,
Mỹ đã chính thức dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí đối với Ấn Độ. Mỹ cam kết giúp Ấn Độ
phát triển vũ khí công nghệ cao và vũ trụ, thám hiểm không gian, xây dựng trạm không
gian quốc tế, đưa người lên vũ trụ… Hợp tác nghiên cứu, sản xuất, mua bán vũ khí trang
bị và chuyển giao kỹ thuật công nghệ phát triển mạnh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Đầu thế kỷ XXI, khu vực Nam Á trở thành trận tuyến của Mỹ tấn công các thế
lực khủng bố như Taliban và Al Qaeda. Điều đó khiến cho Ấn Độ ngày càng coi trọng
hợp tác với Mỹ trong vấn đề chống khủng bố. Ấn Độ tích cực tham gia các hoạt động
diễn tập quân sự chung với Mỹ. Những hoạt động này được mở rộng cả về qui mô lẫn
78
tần suất, nội dung diễn tập rộng và phong phú như Diễn tập Hải quân chung Malabar
tháng 10/2007, tháng 10/2008 tại vùng biển Ả rập. Vấn đề chia sẻ thông tin, chống
khủng bố cũng là nội dung được Ấn Độ quan tâm nhằm tránh những nguy cơ khủng bố và an ninh tại khu vực Nam Á.
Trong quan hệ với Mỹ, vấn đề hạt nhân cũng là nội dung thường xuyên được Ấn Độ đề cập đến. Năm 2004, Ấn Độ đã có những cuộc hội bàn về vấn đề trao đổi công nghệ và việc phát triển công nghệ hạt nhân với Mỹ. Thủ tướng Manmohan Singh
mong muốn tìm được tiếng nói chung và giải quyết những bất đồng trong vấn đề hạt nhân giữa hai nước[81]. Cuối tháng 12-2005, Ấn Độ đã đạt được những thỏa thuận quan trọng về việc nhận cung cấp công nghệ hạt nhân từ Mỹ, trong đó phải kể tới thỏa
thuận về hợp tác hạt nhân dân sự tháng 3-2006 và thỏa thuận hợp tác hạt nhân Mỹ -
Ấn Độ tháng 10 - 2008. Thỏa thuận hạt nhân lịch sử Mỹ - Ấn Độ đã chấm dứt lệnh
cấm giao dịch hạt nhân với Ấn Độ kéo dài ba thập kỷ qua của Mỹ. Theo thỏa thuận
hợp tác hạt nhân với Mỹ, Ấn Độ sẽ được tiếp cận khoảng 27 tỷ USD tiền đầu tư của
Mỹ vào các nhà máy hạt nhân ở Ấn Độ trong vòng 15 năm[137; tr.33].
Ấn Độ được Mỹ đã công khai ủng hộ trở thành một cường quốc trong thế kỷ
XXI, công khai thiết lập “quan hệ đối tác toàn cầu kiểu mới” và coi Ấn Độ là một
ứng cử viên hàng đầu cho chiếc ghế thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Ấn Độ cũng khẳng định coi Mỹ là “đối tác không thể thiếu cho sự phát triển
bền vững”. Cùng với những bước tiến đáng chú ý trong quan hệ với Mỹ, kết quả
này cho thấy vị thế của Ấn Độ đã và đang gia tăng mạnh mẽ trong cái nhìn của Mỹ. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng chủ trương tiếp tục phát triển các hợp tác về quân sự,
mở đường cho các nhà sản xuất vũ khí của Mỹ bán nhiều khí tài hiện đại cho Ấn Độ. Ấn Độ đang là một trong các đối tác hàng đầu của Mỹ trên thị trường mua bán vũ khí.
Ấn Độ đã mua của Mỹ số lượng vũ khí lên tới 8 tỷ USD và đây được coi là bước
chuyển lớn bởi 80% nguồn cung cấp vũ khí cho Ấn Độ là từ Nga[97]. Ấn Độ cũng
nhận được sự hỗ trợ từ Mỹ trong lĩnh vực an ninh hàng hải và chống cướp biển. Trong
khu vực Nam Á, Mỹ tiến hành tập trận chung với Ấn Độ nhiều hơn bất cứ quốc gia
nào khác. Ấn Độ cũng tích cực ủng hộ cuộc chiến chống khủng bố ở Afghanistan khi
là nhà viện trợ lớn thứ 6 tại đây, với mức viện trợ 750 triệu USD[118; tr.308]. Ấn Độ
cũng muốn đi trước một bước thúc đẩy tham vọng nước lớn bằng tuyên bố muốn cùng
Mỹ tìm kiếm một trật tự thế giới mới cân bằng và hợp lý. Trong quan hệ đối tác chiến
lược với Mỹ, Ấn Độ thu lại không ít lợi ích từ mối quan hệ này.
79
Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, trước những yêu cầu đặt ra
đối với sự phát triển của hai nước, quan hệ giữa Ấn Độ đã có nhiều hành động xây
dựng lòng tin với Mỹ và và có được bước tiến lớn hơn so với những giai đoạn trước đây, xuất phát từ nhiều mối quan tâm chung như: chủ nghĩa Hồi giáo cực đoan, an
ninh năng lượng và biến đổi khí hậu. Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh và sự lãnh đạo của chính phủ UPA, Ấn Độ đã chứng kiến “sự chuyển đổi trong quan hệ song phương với Mỹ”, mối quan hệ này được phát triển khá toàn
diện trên các lĩnh vực như: chính trị, ngoại giao, kinh tế, quân sự, hợp tác công nghệ cao, không gian, giáo dục, nông nghiệp, thương mại, năng lượng sạch, chống khủng bố… Có thể thấy, Ấn Độ và Mỹ đi từ trạng thái vô cùng lạnh nhạt với nhau
tới việc hợp tác vô cùng chặt chẽ trên nhiều vấn đề chiến lược. Mối quan hệ này
được sinh ra từ ý thức chung về các giá trị, mối quan tâm chung về sự trỗi dậy của
Trung Quốc và một nhận thức chung rằng Ấn Độ cần phải hợp tác với các nước lớn
trong đó có Mỹ để giải quyết những thách thức lớn như biến đổi khí hậu và khủng
bố xuyên quốc gia.
2.2.2.2. Đối với Liên bang Nga
Nếu trước kia trong trật tự hai cực Ianta, Ấn Độ đã nghiêng hẳn về phương
Đông, đối lập với phương Tây thì hiện nay Ấn Độ đã khéo léo hơn trong chính sách ngoại giao mềm dẻo của mình. Ấn Độ thực hiện cân bằng với các nước lớn. Bên
cạnh những người bạn mới như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản… Ấn Độ vẫn muốn
giữ lại bên mình một đối tác cũ đó là Nga. Quan hệ với Nga, Ấn Độ vẫn tiếp tục có lợi về nhiều mặt như quân sự, vũ khí, dầu mỏ.
* Trên lĩnh vực chính trị - ngoại giao Ấn Độ còn khẳng định Nga là một thành viên chủ chốt và hoàn toàn tích cực
trong cộng đồng quốc tế, là một nước có tiếng nói trọng lượng đối với tất cả các vấn đề
toàn cầu. Năm 2004, Ấn Độ và Nga đã ký một tuyên bố chung, trong đó nhấn mạnh
tăng cường hợp tác giữa hai nước và hơn 10 văn kiện khác về hợp tác trên các lĩnh vực
quan hệ song phương... Ngoài ra, phía Ấn Độ cũng ủng hộ mạnh mẽ Nga gia nhập Tổ
chức Thương mại thế giới (WTO); ngược lại, phía Nga khẳng định: Ấn Độ là một
thành viên chủ yếu và có ảnh hưởng tới cộng đồng quốc tế. Nga tuyên bố và coi Ấn
Độ là một ứng cử viên sáng giá cho chiếc ghế thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc mở rộng. Ấn Độ và Nga cũng cam kết phối hợp hành động để tiến tới mục tiêu
một thế giới đa cực.
80
Trong năm 2005, Thủ tướng Manmohan Singh và các quan chức nhà nước Ấn
Độ đã có nhiều chuyến thăm tới Liên bang Nga, mục đích nhằm xây dựng các biện
pháp tăng cường quan hệ đối tác chiến lược song phương, tạo động lực phát triển trong lĩnh vực kinh tế - thương mại, năng lượng quốc phòng và chinh phục vũ trụ.
Trong các vấn đề quốc tế, hai bên cho rằng cần phát triển đối thoại vì một nền hòa bình, an ninh, ổn định và phồn vinh tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ấn Độ cũng đã chủ động đề cập đến các về vấn đề tăng cường hợp tác chống chủ nghĩa
khủng bố. Tổng thống Nga V.Putin đánh giá quan hệ giữa Nga và Ấn Độ mang tầm chiến lược và cần tiếp tục phát triển mối quan hệ này.
Tại Hội nghị thượng đỉnh G8 năm 2006, lãnh đạo ba nước Nga - Trung - Ấn lần
đầu tiên tổ chức cuộc gặp ba bên để thảo luận việc thành lập liên minh chiến lược. Hợp
tác chiến lược này hình thành sẽ thúc đẩy quan hệ ba nước phát triển, tăng cường hiểu
biết và phối hợp lẫn nhau trong các vấn đề lớn mang tầm quốc tế và khu vực. Điều này
có lợi cho việc khơi dậy chủ nghĩa đa phương, duy trì hòa bình, ổn định trong khu vực
và quốc tế. Sau Hội nghị, liên minh chiến lược Nga - Trung - Ấn đã bước đầu đi vào
thực chất. Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh nêu rõ: “một trong sự phát triển nổi bật
của thế kỷ XXI là ba nước Nga - Trung - Ấn cùng lúc trở thành các nền kinh tế quan
trọng châu Á”[133; tr.81]. Ba nước đã nhấn mạnh sự cần thiết nhanh chóng khởi động các dự án hợp tác cụ thể. Đối với cả ba nước thì viễn cảnh của liên minh chiến lược
Nga- Trung - Ấn là hết sức hấp dẫn và thu hút, đưa lại lợi ích cho cả ba bên trên các
lĩnh vực chính trị và kinh tế. Thông qua hợp tác trong liên minh, mối quan hệ Ấn - Nga càng được củng cố và phát triển.
Bên cạnh các cuộc họp thượng đỉnh hàng năm, hợp tác chính trị, ngoại giao giữa Ấn Độ và Nga ngày càng được tăng cường nhiều hơn dưới hình thức tổ chức các cuộc
hội đàm cấp bộ trưởng cũng như cấp chuyên gia về chống khủng bố, ủng hộ nhau các
vấn đề Kashimir, Chechnya, giải quyết vấn đề Afghanistan, Trung Á, hợp tác liên thể
chế... Cả hai nước đều có các quan điểm chung về các vấn đề khu vực và quốc tế, phối
hợp với nhau trên các diễn đàn khu vực, thế giới. Hai nước đã ký được hàng loạt thỏa
thuận quan trọng trong các lĩnh vực như: hợp tác thăm dò Mặt trăng, sản xuất máy bay
chiến đấu mới, trấn áp buôn lậu ma túy, xây dựng các lò phản ứng hạt nhân...
Sự hợp tác giữa Ấn Độ và Nga hiện mang tính chất đối tác chiến lược, đóng một
vai trò nhất định trong đường lối đối ngoại của cả hai nướcvà đây là một trong những
phương hướng ưu tiên trong chính sách đối ngoại của hai nước. Hai nước có thái độ
81
trùng hợp về hầu như tất cả các vấn đề quốc tế. Tuy nhiên, tiềm năng quan hệ kinh tế
Nga - Ấn Độ vẫn chưa được tận dụng triệt để. “Năm Ấn Độ tại Liên bang Nga” 2009
là một dấu ấn trong quan hệ hai nước, sự. Thủ tướng Manmohan Singh có chuyến công du tới Nga, đây là chuyến đi mang nhiều ý nghĩa. Thủ tướng Manmohan Singh
đã đề cập đến nhiều triển vọng trong quan hệ hai nước. Ông đã ví Nga là người bạn lớn của Ấn Độ, qua đó minh chứng vị trí của Nga trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ và mong muốn quan hệ đối tác chiến lược giữa Nga và Ấn Độ tiến lên tầm cao
hơn. Còn đối với Nga, Tổng thống V.Putin đã nhấn mạnh rằng quan hệ hữu nghị và hợp tác với Ấn Độ là những ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Nga.
Mối quan hệ Nga - Ấn càng được củng cố hơn sau chuyến thăm Nga vào cuối
tháng 10-2013 của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh. Vượt qua những khó khăn
của tình hình chính trị và kinh tế trên thế giới, tình hữu nghị, sự tin tưởng lẫn nhau,
hợp tác cùng có lợi là những nhân tố chính giúp quan hệ đối tác chiến lược đặc biệt
giữa Nga và Ấn Độ không ngừng được củng cố và phát triển sâu rộng. Hai bên nhất
trí mở rộng hợp tác trong lĩnh vực công nghệ tên lửa, hải quân và các hệ thống vũ
khí, mở rộng quan hệ hợp tác năng lượng. Quan hệ hợp tác hữu nghị truyền thống
giữa Nga và Ấn Độ không chỉ phát triển trong lĩnh vực quốc phòng và năng lượng,
mà còn được mở rộng sang nhiều lĩnh vực khác. Năm 2014, Nga và Ấn Độ đã ký kết 20 thỏa thuận hợp tác có trị giá hàng tỷ USD trong các lĩnh vực công nghệ, năng lượng
hạt nhân, dầu khí, hợp tác quốc phòng. Có thể thấy rằng, quan hệ giữa hai nước ngày
càng được củng cố bền vững và sâu sắc hơn. Ấn Độ khẳng định, mặc dù tính chất quan hệ chính trị và quốc tế toàn cầu đang thay đổi, nhưng quan hệ Nga - Ấn và vị trí
của Nga trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ vẫn không thay đổi, tầm quan trọng của mối quan hệ này đối với cả hai nước sẽ tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa.
* Trên lĩnh vực kinh tế
Ấn Độ thấy được những tiềm năng lớn trong việc hoạch định phát triển trên lĩnh
vực thương mại song phương và đầu tư với nền kinh tế Nga. Chính phủ Ấn Độ đã thực
hiện các sáng kiến để thúc đẩy đầu tư song phương, chủ yếu thông qua quá trình chính
phủ tạo điều kiện cho doanh nghiệp và kinh doanh đầu tư trong các lĩnh vực chiến
lược trong cả nước. Những nỗ lực đặc biệt nhằm thúc đẩy thương mại song phương
đang được Ấn Độ tập trung vào các lĩnh vực: năng lượng, dược phẩm, thép,
hydrocarbon, sản phẩm hàng không, phân bón và thực phẩm. Quan hệ thương mại
song phương hai nước duy trì tốc độ phát triển đều đặn từ 2,18 tỷ USD năm 2004 lên
82
11,04 tỷ USD năm 2012, tuy nhiên trong hai năm 2013-2014 do biến động của nền
kinh tế thế giới đã ảnh hưởng không nhỏ tới quan hệ thương mại giữa hai nước, tổng
kinh ngạch xuất nhập khẩu hai nước trong hai năm lần lượt là 10,1 tỷ USD năm 2013 và 9,5 tỷ USD năm 2014[167; tr.2]. Các khoản đầu tư của Ấn Độ tích lũy ở Nga trong
giai đoạn 2004-2014 được ước tính khoảng 8 tỷ USD, các khoản đầu tư của Nga tại Ấn Độ tổng số khoảng 4 tỷ USD[167; tr.2].
Hai quốc gia thường xuyên tiến hành hội đàm trên các lĩnh vực thương mại giữa
hai nước, nhằm thúc đẩy hơn nữa hiệu quả quá trình hợp tác kinh tế, đầu tư thương mại. Ngày 29-4-2013, tại Moscow đã diễn ra cuộc họp giữa Bộ trưởng Ngoại giao Ấn Độ và Phó Thủ tướng Nga bàn về những vấn đề cơ bản trong diễn đàn thương mại và
đầu tư Ấn Độ - Nga, hai bên đã thống nhất đưa ra các cơ chế để thúc đẩy kinh doanh
trực tiếp song phương giữa Ấn Độ và Nga. Trong chuyến thăm Ấn Độ ngày 11-12-
2014, Tổng thống V.Putin khẳng định: Ấn Độ là một trong những nền kinh tế hàng
đầu của châu Á và khu vực này đang phát triển nhộn nhịp và bền vững. Nga muốn
củng cố hợp tác với Ấn Độ và sẽ trở thành nhà cung cấp năng lượng số một của Ấn
Độ, cũng như châu Á.
* Hợp tác phát triển trên lĩnh vực an ninh - quốc phòng
Theo Thủ tướng Manmohan Singh, mối quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Nga không ngừng được củng cố và phát triển nhờ mối quan hệ hữu nghị, chân thành cũng
như tin tưởng lẫn nhau giữa nhân dân, lãnh đạo cấp cao hai nước. Thủ tướng cho rằng,
mối quan hệ đối tác chiến lược sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ, phù hợp với những thay đổi của thế giới. Đồng thời, Nga sẽ vẫn là một đối tác không thể thiếu đối với nhu cầu
quốc phòng của Ấn Độ và quan hệ hợp tác quốc phòng trong tương lai của hai nước phải dựa trên sự tăng cường các hoạt động chuyển giao công nghệ, liên doanh và hợp
tác phát triển cũng như hợp tác sản xuất.
Đây là những tuyên bố thật sự có ý nghĩa đối với quan hệ Nga - Ấn sau một thời
gian Ấn Độ hướng tới các nhà cung cấp mới như Mỹ và Israel cho “phần cứng” của
quân sự nước này, tạo nên mối e ngại đối với Nga, quốc gia được xem là nhà cung cấp
chính, truyền thống về các thiết bị quốc phòng cho Ấn Độ.
Tháng 12-2009, Thủ tướng Manmohan Singh đã có chuyến thăm Nga và nhất trí
với bản phác thảo hợp đồng mua bán vũ khí trị giá 10 tỷ USD giữa hai nước, đồng
thời, ký kết các hợp đồng mua vũ khí của Nga, gồm máy bay chiến đấu và lắp đặt tên
lửa. Thủ tướng Manmohan Singh phát biểu: “Hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng là
83
một lĩnh vực hợp tác quan trọng giữa Nga và Ấn Độ. Chúng tôi có thể mua những
thiết bị và công nghệ từ Nga - những thứ mà chúng tôi không thể mua được từ các
nước khác”[52]. Tổng thống Nga D.Medvedev và Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh cũng đã thông qua Tuyên bố chung về tăng cường quan hệ đối tác chiến lược
toàn diện nhằm đối phó với những thách thức toàn cầu. Tuyên bố chung nêu rõ, Nga và Ấn Độ sẽ củng cố và mở rộng một cách toàn diện mối quan hệ hữu nghị, truyền thống và tin cậy giữa hai nước, trên cơ sở coi đây là nhân tố bảo đảm hòa bình, an ninh
trong khu vực và thế giới, đáp ứng lợi ích của cả hai bên. Nga và Ấn Độ có chung đánh giá về những thay đổi cơ bản diễn ra trên thế giới, mang lại không chỉ những thách thức và nguy cơ mới, mà còn tạo ra khả năng để xây dựng một trật tự thế giới
mới dân chủ và công bằng, dựa trên các nguyên tắc tập thể và luật pháp quốc tế, phù
hợp với những mục tiêu và nguyên tắc do Hiến chương Liên hợp quốc quy định.
Tuyên bố chung khẳng định, Ấn Độ ủng hộ những nỗ lực của Nga trong cuộc đấu
tranh chống khủng bố, và trong việc duy trì hòa bình và ổn định tại khu vực.
Ngày 24-12-2012, là chuyến công du đầu tiên của ông V.Putin đến Ấn Độ đã
nhấn mạnh mối quan tâm của Nga với Ấn Độ, đồng minh lâu năm trong khu vực và
hiện tại là một đối tác quan trọng trong BRICS - nhóm những quốc gia mới nổi, hoạt
động như lực lượng đối trọng với các nền kinh tế phát triển phương Tây. Sau chuyến thăm, Ấn Độ và Nga đã ký những thỏa thuận trị giá hàng tỷ USD. Thủ tướng Ấn Độ
Manmohan Singh thông báo, Nga sẽ bán cho Ấn Độ 71 chiếc máy bay quân sự MI-17
V-5, trị giá 1,3 tỷ USD, bộ thiết bị lắp ráp cho 42 chiến đấu cơ phản lực Sukhoi SU- 30MKI trị giá 1,9 tỷ USD[15]. Những thỏa thuận này đã phá tan những lo ngại về việc
Nga đang mất dần ảnh hưởng trên thị trường Ấn Độ. Thủ tướng Manmohan Singh khẳng định, Nga là đối tác chính của Ấn Độ trong nỗ lực nhằm hiện đại hóa lực lượng
quân sự, cũng như tăng cường khả năng phòng thủ của quân đội nước này. Thủ tướng
Manmohan Singh gọi Nga là một “người bạn giá trị” và mối quan hệ hữu nghị với
Nga luôn chiếm một phần đặc biệt trong trái tim và tâm hồn của người dân Ấn Độ.
Từ sau Chiến tranh lạnh, trong xu thế hội nhập quốc tế cũng như xuất phát từ
những lợi ích chung giữa hai nước, Ấn Độ và Nga đã chủ động bắt tay nhau để xây dựng
đất nước của mình thành những quốc gia giàu mạnh, có vị thế và uy tín đối với thế giới.
Một phương thức mới trong quan hệ giữa hai nước đã được thiết lập, mối quan hệ đối tác
chiến lược Ấn- Nga đã khác với mối quan hệ đồng minh thời kỳ trước. Nếu Ấn Độ muốn
tăng cường tiềm năng quân sự và hiện đại hóa quân đội thì không thể không trông cậy
84
vào Nga. Nếu Nga muốn tập hợp lực lượng để ngăn chặn vị thế độc tôn của Mỹ thì
không thể không tìm đến Ấn Độ. Cả hai nước không chỉ trở thành đối tác chiến lược của
nhau mà còn liên tục nâng tầm hợp tác lên một bước cao hơn.
Ấn Độ và Nga đang trong quá trình thể chế hoá các quan hệ giữa hai nước.
Việc hình thành các nhóm công tác khác nhau để điều chỉnh các tiến trình trên các mặt chính trị, kinh tế, khoa học, kỹ thuật và văn hoá sẽ góp phần tăng cường các mối quan hệ song phương giữa hai nước. Sự bền vững cũng như mức độ của quan
hệ Nga - Ấn phụ thuộc vào việc Ấn Độ sẽ cân bằng chính nó như thế nào trong khi luôn muốn tăng cường quan hệ gần gũi với Mỹ và phương Tây, đồng thời cũng muốn duy trì quan hệ truyền thống với Nga.
2.2.3. Đối với một số khu vực chủ yếu 2.2.3.1. Đối với khu vực Trung Đông
Trong bối cảnh các cường quốc đang tìm cách gia tăng ảnh hưởng tại Trung
Đông, Ấn Độ chắc chắn không muốn đứng ngoài “cuộc chơi” này. Nếu Mỹ và Nga
vốn có những đồng minh truyền thống ở khu vực này thì Ấn Độ có lợi thế ở mối quan
hệ tốt đẹp và chuyến thăm UAE của Thủ tướng Ấn Độ Narendra Modi không nằm
ngoài mục tiêu tạo “chỗ đứng” vững chắc hơn cho Ấn Độ ở khu vực giàu dầu khí này.
Xét về vị trí địa lý, Ấn Độ nằm gần các quốc gia khu vực Trung Đông hơn các cường quốc khác như Mỹ, Nga, Trung Quốc, Nhật Bản và cả khối EU. Do đó, Ấn
Độ có nhiều thuận lợi trong việc phát triển kinh tế thương mại với các nước giàu
giàu mỏ ở khu vực này. Là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới với thị trường hơn 1,2 tỷ dân, Ấn Độ nổi lên như một đối tác tiềm năng nằm
cạnh các quốc gia Arab Trung Đông.
Về kinh tế - thương mại, mối quan hệ đã được thiết lập từ lâu giữa Ấn Độ và
các nước Arab vùng Vịnh không ngừng phát triển trong những năm gần đây. Năm
ngoái, các nước thuộc Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh đã trở thành đối tác thương mại
lớn thứ hai của Ấn Độ. Riêng các tiểu vương quốc Arab Thống nhất (UAE) là đối
tác thương mại lớn thứ ba của Ấn Độ, sau Mỹ và Trung Quốc, với tổng kim ngạch
thương mại lên tới 60 tỷ USD. Tính riêng về dầu khí, các nước thuộc Hội đồng hợp
tác vùng Vịnh cung cấp 45% lượng dầu khí cho Ấn Độ, trong đó Các tiểu vương
quốc Arab thống nhất (UAE) là nguồn cung dầu khí lớn thứ 6 của Ấn Độ.
Về quan hệ chính trị, Ấn Độ có chính sách trung lập rõ ràng. Khác với Mỹ là
đồng minh của Israel, Nga là đồng minh của Iran, Ấn Độ không ủng hộ bên nào
85
trong mối quan hệ phức tạp giữa các nước Arab với Iran hay Israel. Do đó, mối
quan hệ giữa Ấn Độ với các nước Trung Đông được duy trì tương đối tốt đẹp trong
nhiều năm qua.
Về quân sự, hiện nay, hải quân Ấn Độ đang có mối quan hệ chặt chẽ với hải
quân các nước Trung Đông thông qua việc tiến hành các cuộc tuần tra chung chống cướp biển tại Vịnh Aden, Ấn Độ Dương.
Bên cạnh đó, cộng đồng người Ấn Độ đang là cộng đồng người nước ngoài
đông nhất tại các nước thuộc Hội đồng hợp tác vùng Vịnh với khoảng 7 triệu người. Tính riêng ở UAE, có khoảng 2,6 triệu lao động người Ấn Độ và chiếm khoảng 30% dân số nước này. Ngoài ra, lao động Ấn Độ cũng có mặt tương đối
nhiều ở Bahrain, Oman và Qatar. Hàng năm, kiều hối từ các nước nước Trung
Đông chuyển về Ấn Độ lên tới 6 tỷ USD.
Đối với các nước Trung Đông, trong đó có UAE, việc tăng cường mối quan hệ
với Ấn Độ sẽ mang lại rất nhiều lợi ích. Thứ nhất, UAE và các nước Arab vùng Vịnh
sẽ củng cố mối quan hệ với một thị trường tiêu thụ dầu khí lớn khi Ấn Độ đã và đang
trên đường trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất thế giới, đặc biệt là khi
Iran đang dần trở lại sân chơi thương mại toàn cầu sau thỏa thuận hạt nhân lịch sử
hồi giữa tháng 6 vừa qua. Thứ hai, Ấn Độ cũng là quốc gia có công nghệ khai thác dầu khí phát triển, hợp tác với Ấn Độ có thể giúp các nước Arab vùng Vịnh tăng
cường việc khai thác dầu khí ở những vùng khó khăn, địa chất phức tạp. Thứ ba, các
nước vùng Vịnh trong đó có UAE rất quan tâm tới nguồn nhân lực dồi dào của Ấn Độ để phát triển các ngành như công nghệ thông tin, xây dựng, giao thông vận tải và
dịch vụ. Quan trọng hơn nữa, khi trở thành đối tác với Ấn Độ, các nước vùng Vịnh không phải lo ngại về những ràng buộc chính trị như trong mối quan hệ làm ăn với
Mỹ. Bước vào thế kỷ XXI, Ấn Độ tiếp tục chủ trương thúc đẩy mạnh quan hệ hữu
nghị hợp tác với các nước ở khu vực Trung Đông, nội dung hợp tác trên các lĩnh vực
ngày càng được chú trọng, mở rộng phong phú và nhộn nhịp hơn.
Đối với Iran: Ấ n Đô ̣ có mố i quan hê ̣ tương đố i ổ n đi ̣nh vớ i Iran kể cả trướ c và sau Cách ma ̣ng Hồ i giáo. Lãnh đạo hai nước xác định rõ vai trò quan trọng của Iran và Ấn Độ trong quan hệ quốc tế, kêu gọi cả hai quốc gia tận dụng mọi tiềm năng để tăng
cường hợp tác song phương và quốc tế; cùng phấn đấu xây dựng một hệ thống và trật tự
thế giới tương lai trong đó sự công bằng và tình hữu nghị giữ vai trò chủ đạo. Quan hệ
giữa Ấn Độ và Iran đang phát triển trong nhiều lĩnh vực, như năng lượng, thương mại và
86
giao thông vận tải. Ấn Độ hiện đang tìm cách tăng gấp đôi lượng dầu nhập khẩu từ Iran.
Thông qua Iran, Ấn Độ xây dựng một kết nối chiến lược với khu vực Trung Á.
Đối với Iraq, quan hệ Ấn Độ - Iraq được xây dựng trên một nền móng vững chắc; hai nước có mối quan hệ gần gũi về thương mại, văn hóa... Iraq là một trong những đối
tác quan trọng nhất của Ấn Độ tại Trung Đông và đang trở thành nước cung cấp dầu mỏ lớn thứ hai cho Ấn Độ. Mối quan hệ thương mại năng lượng giữa hai nước được Ấn Độ xác định phải trở thành một đối tác chiến lược, trong đó có hợp tác thông qua các liên
doanh thăm dò, khai thác dầu mỏ, xây dựng các nhà máy hóa dầu, chế biến phân bón và mở rộng và đa dạng hóa hợp tác kinh tế.
Đối với Israel, quan hệ ngoại giao giữa hai nước được thiết lập vào năm 1992,
song kim ngạch thương mại hai chiều có nhiều bước tiến nhảy vọt, tăng lên mức 6 tỷ
USD năm 2014 so với mức 200 triệu USD của năm 1992. Israel là nhà cung cấp công
nghiệp quốc phòng tiềm năng cho Ấn Độ. Israel đã có mối quan hệ an ninh rộng rãi
với Ấn Độ. Số lượng các văn phòng đại diện của các công ty quốc phòng Israel tại Ấn
Độ chỉ đứng thứ hai sau Mỹ.
Đối với Palestine, chủ trương ủng hộ Palestine là một phần quan trọng trong chính
sách đối ngoại của Ấn Độ. Thủ tướng Manmohan Singh từng nhấn mạnh: Ủng hộ sự
nghiệp của Palestine là một phần quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Ấn Độ ủng hộ mạnh mẽ đối với cuộc đấu tranh giành độc lập, chủ quyền và thống nhất dân
tộc của nhân dân Palestine, với Đông Jerusalem là thủ đô. Ấn Độ cũng mong muốn
Palestine và Israel sớm nối lại các cuộc đàm phán hòa bình để đi tới một giải pháp toàn diện. Bên cạnh đó, Ấn Độ đã dành cho Palestine khoản viện trợ 10 triệu USD và thúc
đẩy sự hợp tác về công nghệ thông tin, giáo dục và đào tạo.
Đối với Syria, Ấn Độ có mối quan hệ hữu nghị lâu đời dựa trên các yếu tố tương
đồng về lịch sử và nền văn minh. Sự hợp tác về thương mại, đầu tư và năng lượng
cũng là trọng tâm trong quan hệ hai nước thế kỷ XXI. Ấn Độ - đất nước đang tìm kiếm
các nguồn năng lượng mới - đang vươn tới các nước như Syria và Iran bất chấp mối
quan hệ nồng ấm của mình với Mỹ.
Có thể thấy quan hệ giữa Ấn Độ và Trung Đông những năm đầu thế kỷ XXI có
nhiều sự điều chỉnh cơ bản, nhất là trong lĩnh vực chính trị - ngoại giao và quân sự. Sự
trao đổi thường xuyên các đoàn cấp cao giữa Ấn Độ và các nước Trung Đông là cơ sở
cho quá trình củng cố tăng cường phát triển quan hệ giữa Ấn Độ và các nước Trung
Đông trong bối cảnh quốc tế mới.
87
2.2.3.2. Đối với khu vực Trung Á
Trung Á là khu vực lân cận Ấn Độ, là một trong những khu vực trong chiến
lược trỗi dậy của Ấn Độ. Thêm vào đó, sự phát triển kinh tế của Ấn Độ khiến nhu cầu về năng lượng ngày càng tăng, cùng với tình trạng bất ổn ở Trung Đông, làm
cho Ấn Độ ngày càng dành nhiều sự chú ý đến các nguồn năng lượng thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hết ở Trung Á và khu vực Caspian. Từ năm 2004, mục tiêu chính của Ấn Độ khi tham gia vào các vấn đề Trung Á là: tiếp tục
củng cố mối quan hệ thân thiện với các nước Trung Á; ngăn chặn các nước Trung Á chuyển hướng sang các thế lực thù địch chống Ấn Độ; tăng cường hơn nữa hợp tác với các nước Trung Á trong lĩnh vực năng lượng và thương mại; tăng cường
hợp tác với các nước Trung Á trong lĩnh vực an ninh, bao gồm cả an ninh phi
truyền thống; dựa vào cơ chế song phương và đa phương, tiến hành tham vấn và
phối hợp tích cực với các nước Trung Á về các vấn đề quốc tế và các vấn đề khu
vực quan trọng, để thúc đẩy lợi ích quốc gia của Ấn Độ; mở rộng giao lưu, thúc đẩy
phát triển củng cố chính thể và dân chủ quốc gia Trung Á, một mặt tăng cường ảnh
hưởng của Ấn Độ, mặt khác để duy trì sự ổn định ở Trung Á, ngăn chặn khu vực
Trung Á rơi vào tình trạng hỗn loạn chính trị. Đối với hai giai đoạn trước, giai đoạn
này lợi ích mà Ấn Độ theo đuổi ở Trung Á rộng hơn, tâm lý theo đuổi cũng cấp bách hơn, nên nguồn lực đầu tư cũng dồi dào hơn. Chính sách Trung Á tích cực
này, phản ánh sức mạnh quốc gia của Ấn Độ đang ngày càng phát triển, cùng với
đó là tham vọng quyền lực ngày càng hiện rõ.
Để thực hiện những mục tiêu trên, Ấn Độ đã sử dụng những biện pháp sau ở
khu vực Trung Á:
Về chính trị, Ấn Độ đưa ra chính sách ngoại giao hòa thuận, láng giềng, hữu
nghị, cùng phát triển, không ngừng thúc đẩy mối quan hệ chính trị với các nước
Trung Á. Trong thời kỳ này, các cuộc họp cấp cao giữa Ấn Độ và các quốc gia
Trung Á diễn ra thường xuyên, quan hệ hai bên phát triển đều đặn. Ngoài các chuyến
thăm song phương cấp cao, Ấn Độ còn tổ chức một số cuộc họp cấp cao với lãnh đạo
các nước Trung Á trong khuôn khổ đa phương như SCO, CICA, những tương tác
cấp cao này đã củng cố và làm sâu sắc hơn quan hệ hữu nghị về chính trị giữa Ấn Độ
và giữa các quốc gia Trung Á, cộng với việc hai bên không có các tranh chấp lịch sử
và lãnh thổ, có thể dự đoán, lập trường trung lập của Ấn Độ ở Trung Á giúp Ấn Độ
giành tình cảm tốt của các nhà lãnh đạo và người dân các quốc gia Trung Á.
88
Về kinh tế, Để thúc đẩy tăng trưởng và phục vụ nhu cầu trong nước, Ấn Độ chủ
trương đấy mạnh các cơ hội kinh tế ở nước ngoài. Thương mại song phương Ấn Độ
và các nước Cộng hòa Trung Á mới chỉ đạt mức 500 triệu USD năm 2011, đến năm 2014 kim ngạch thương mại giữa Ấn Độ với các nước Cộng hòa Trung Á đạt mức
1,4 tỷ USD, mắc dù còn thấp hơn so với tiềm năng[186; tr.176]. Ấn Độ tập trung vào hợp tác trong lĩnh vực năng lượng, tăng cường đầu tư, sử dụng các biện pháp thiết thực thực hiện hợp tác kinh tế. Tiêu biểu nhất là Ấn Độ rất nỗ lực để nhập các nguồn
tài nguyên dầu khí ở Trung Á và khu vực Caspian, các đối tác chính là những nước giàu tài nguyên dầu khí Kazakhstan, Uzbekistan và Turkmenistan. Ấn Độ đã coi việc khai thác nguồn năng lượng ở Trung Á và Caspian là một phần quan trọng của chiến
lược kinh tế nước ngoài.
Ngoài hợp tác về lĩnh vực năng lượng, quan hệ thương mại của Ấn Độ và các
nước Trung Á cũng có những bước tiến dài. Ấn Độ coi việc cải thiện thương mại với
các nước Trung Á là một trong những hướng ưu tiên hàng đầu trong chính sách
Trung Á. Từ đầu thế kỷ XXI đến nay, sức mạnh kinh tế của Ấn Độ được nâng cao,
quy mô hợp tác kinh tế giữa Ấn Độ và các nước Trung Á cũng không ngừng mở
rộng, khối lượng thương mại tăng lên theo từng năm. Để duy trì sự ổn định và giành
được thiện chí của các nước ở Trung Á, Ấn Độ đã cung cấp cho các quốc gia Trung Á một số khoản vay viện trợ và lãi suất thấp.
Ấn Độ tăng cường hợp tác với các nước Trung Á về lĩnh vực an ninh, chủ yếu
thể hiện ở sự hợp tác về chống lại 3 thế lực thù địch và an ninh phi truyền thống. Từ năm 2004, Ấn Độ lần lượt ký một số thỏa thuận hợp tác chống khủng bố, xây
dựng nhóm liên minh chống khủng bố và tiến hành những hành động chống khủng bố, đồng thời tăng cường hợp tác về phương diện cấm buôn bán vận chuyển trái
phép chất ma túy. Điều này phản ánh Ấn Độ luôn coi trọng lập trường tăng cường
mối quan hệ với Tajikistan ở Trung Á. Sau đó, Ấn Độ lần lượt ký kết thỏa thuận
xây dựng tổ công tác liên minh chống chủ nghĩa khủng bố quốc tế với Kazakhstan,
Uzbekistan và Tajikistan. Về lực lượng an ninh truyền thống, Ấn Độ tích cực triển
khai hợp tác với các nước Trung Á về đối thoại quốc phòng song phương và quân
sự khoa học kỹ thuật, cung cấp nhân lực đào tạo quân sự, tăng cường hoạt động
liên hợp và năng lực hài hòa về vấn đề chống khủng bố. Việc chống khủng bố và
cấm ma túy, là lĩnh vực tương đối dễ triển khai hợp tác, vì nó đem lại kết quả có lợi
cho cả hai bên: Ấn Độ có thể mượn cơ hội này để tăng cường sức ảnh hưởng ở khu
89
vực Trung Á, còn các nước Trung Á có được sự ủng hộ của Ấn Độ, lấy Ấn Độ để
cân bằng lực lượng của Nga, Mỹ, Trung Quốc.
Tháng 6-2012 tại Bishkek, Kyrgyzstan, Ấn Độ đã công bố chính sách “Kết nối Trung Á” nhằm thúc đẩy quan hệ giữa Ấn Độ với các nước Cộng hòa Trung Á gồm
Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Turkmenistan, Uzbekistan. Chính sách mới của Ấn Độ taaph chung vào các lĩnh vực như: giáo dục, y tế, khoa học, vấn đề an ninh và quốc phòng... Chính sách “Kết nối Trung Á” được xây dựng nhằm cạnh tranh ảnh hưởng ở
Trung Á với các cường quốc như Mỹ, Nga, Trung Quốc và EU…
Đối với Tajikistan, đây là trụ cột trong chính sách kết nối Trung Á của Ấn Độ do vị trí chiến lược của nước này. Ấn Độ và Tajikistan tăng cường hợp tác về quốc phòng,
an ninh để đối phó với các mối đe dọa của chủ nghĩa khủng bố và buôn bán ma túy. Ấn
Độ cũng đã tăng cường quan hệ với các lực lượng an ninh nước này, hỗ trợ tài chính để
nâng cấp các căn cứ không quân, xây dựng một bệnh viện quân đội và kho hậu cần. Bên
cạnh đó, Tajikistan có tiềm năng rất lớn về thủy điện và đây là mối quan tâm lớn cúa
ngành công nghiệp Ấn Độ. Dù quan hệ chính trị tốt đẹp nhưng kim ngạch thương mại
giữa Ấn Độ và Tajikistan vẫn thấp do khó khăn trong khâu vận chuyển. Thương mại
Ấn Độ - Tajikistan ở mức 32,5 triệu USD trong năm 2009-2010[95], trong năm 2012-
2013, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt khoảng 48,02 triệu USD và tăng lên 55,53 triệu USD năm 2013-2014[169; tr,3].
Đối với Kazakhstan, Ấn Độ rất coi trọng quan hệ vì 4 lý do chủ yếu: (1) vị trí
chiến lược của Kazakhstan; (2) các nguồn năng lượng và tài nguyên khoáng sản chưa được khai thác; (3) các giá trị thế tục và (4) các khu đất rộng lớn dành cho
nông nghiệp thương mại quy mô lớn. Chuyến thăm Astana năm 2011 của Thủ tướng Manmohan Singh giúp Ấn Độ thâm nhập khu vực phía Bắc biển Caspi - một
khu vực nổi tiếng chứa nhiều dầu khí và urani của Kazakhstan. Hai bên cũng đã ký
một thỏa thuận hành động chung trên các lĩnh vực như năng lượng hạt nhân, công
nghệ thông tin, an ninh mạng, dược phẩm, y tế, nông nghiệp, giao lưu văn hóa, khai
thác mỏ và phân bón.
Đối với Turkmenistan, chuyến thăm năm 2008 của Phó Thủ tướng Ấn Độ
Hamid Ansari đã mở ra triển vọng mới cho Ấn Độ can dự vào nước này. Nhu cầu
cung cấp năng lượng của Ấn Độ và nhiệm vụ đa dạng hóa xuất khẩu năng lượng
của Turkmenistan đã gắn kết hai bên vào một chiến lược. Đường ống dẫn dầu
Turkmenistan - Afghanistan - Pakistan - Ấn Độ được coi là xương sống của mối
90
quan hệ mới nổi. Turkmenistan là nước nằm ven biển Caspi, có sức hấp dẫn đặc
biệt đối với Ấn Độ.
Đối với Uzbekistan, Ấn Độ có chung các mối quan hệ lịch sử và văn hóa. Phật giáo đến Trung Quốc thông qua Uzbekistan trong khi Sufi giáo đến Ấn Độ chủ yếu
từ Uzbekistan. Trung tâm Văn hóa Ấn Độ Shastri được ca ngợi do đã thúc đẩy các mối quan hệ văn hóa giữa hai nước. Tasken đã cho phép Ấn Độ tham gia phát triển khu vực năng lượng, đặc biệt các khu vực dự trữ khí đốt Karakal. Hai nước đã tổ
chức nhiều cuộc diễn tập quân sự chung trong nhiều năm qua. Việc Ấn Độ xây dựng tuyến đường dây truyền tải điện Pul-e-Khumri để đưa điện từ Baghlan và Uzbekistan đến Cabun, là một biểu tượng của việc ngày càng tăng cường hợp tác
giúp đỡ lẫn nhau[95].
Đối với Kyrgyzstan, Ấn Độ dường như đóng vai trò lớn trong việc phát triển
khai thác mỏ, nông nghiệp, công nghệ thông tin, thủy điện và các lĩnh vực dược
phẩm của Kyrgyzstan ngoài việc thúc đẩy các mối quan hệ văn hóa và giáo dục với
nước này. Trung tâm nghiên cứu sinh học trên núi của Tổ chức nghiên cứu và phát
triển quốc phòng Ấn Độ (DRDO) là một dự án hợp tác đầy tham vọng của Ấn Độ
tại Kyrgyzstan. Ấn Độ tỏ ra rất quan tâm phối hợp quản lý mỏ vàng Kumtor của
Kyrgyzstan. Lực lượng vũ trang hai nước đã tiến hành nhiều cuộc diễn tập quân sự, huấn luyện tác chiến trong rừng rậm và chống khủng bố. Quân đội Ấn Độ cũng sẵn
sàng huấn luyện cho lực lượng Kyrgyzstan trong các phái bộ gìn giữ hòa bình của
Liên hợp quốc.
Tóm lại, trong giai đoạn này, Ấn Độ bắt đầu phát triển toàn diện mối quan hệ hợp
tác với các nước Trung Á. Về lực lượng chính trị, kinh tế và quân sự, Ấn Độ đều có những nỗ lực thúc đẩy phát triển củng cố mối quan hệ hữu nghĩ song phương. Về
phương pháp, Ấn Độ một mặt dựa vào sức mạnh của mình ngày càng lớn, tăng cường
đầu tư vào các nước Trung Á; mặt khác, Ấn Độ thông qua việc duy trì mối quan hệ
thân thiện truyền thống với Nga, cải thiện mối quan hệ với Mỹ, mượn sức ảnh hưởng
lớn của hai quốc gia này ở Trung Á, gia tăng ảnh hưởng của mình trong các vấn đề
Trung Á. Về trọng điểm trong chính sách Trung Á của Ấn Độ, dựa vào tình hình phát
triển của các nước Trung Á và mục tiêu chính trị của mình, Ấn Độ coi Tajikistan, một
nước nhỏ ở khu vực Trung Á là đối tượng viện trợ chủ yếu của mình, coi hai nước
giàu tài nguyên Kazakhstan và Turkmenistan là đối tượng ngoại giao năng lượng
chính, Kazakhstan và Uzbekistan do kinh tế phát triển nhanh chóng nên trở thành đối
91
tượng chủ yếu trong khai thác kinh tế, về phương diện lịch sử tôn giáo và nhân tố khu
vực, Uzbekistan và Tajikistan là đối tượng hợp tác an ninh chủ yếu của Ấn Độ. Chính
sách Trung Á của Ấn Độ giai đoạn này mang tính tích cực, chủ động, thậm chí còn có tham vọng xây dựng môi trường địa chính trị ở khu vực này.
2.2.4. Đối với ngoại giao đa phương 2.2.4.1. Đối với một số tổ chức quốc tế (Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Phong trào Không liên kết)
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ duy trì chủ trương tăng cường hoạt động ở các tổ chức quốc tế lớn đặc biệt phải kể tới đó là Liên hợp quốc, các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế, phong trào không liên kết và các tổ chức quốc tế
khác. Trong quan hệ với các tổ chức quốc tế, Ấn Độ đồng thời vừa tranh thủ cơ hội
thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội và văn hóa, tăng cường giao thương học hỏi
quốc tế, mặt khác tích cực tham gia vào việc giải quyết các vấn đề quốc tế, các vấn
đề toàn cầu, nâng cao uy tín và vị thế của Ấn Độ trên trường quốc tế. Trong triển
khai chính sách đa phương của Ấn Độ, luận án phân tích chính sách của Ấn Độ đối
với Liên hợp quốc và WTO.
* Đối với Liên hợp quốc:
Kể từ khi trở thành thành viên của Liên hợp quốc ngày 30-10-1945 đến nay, Ấn Độ ngày càng chủ động, tích cực tham gia các hoạt động của tổ chức này. Trong
thế kỷ XXI, Ấn Độ thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa phương hóa, đa dạng
hóa, Ấn Độ xác định rõ cơ sở của sự hợp tác là hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và
luật pháp quốc tế. Ấn Độ tham gia ngày càng tích cực và chủ động trên nhiều lĩnh vực hoạt động của Liên hợp quốc như duy trì hòa bình, an ninh, giải trừ quân bị, phát
triển kinh tế - xã hội, kiểm soát dân số và bảo vệ môi trường, thúc đẩy quyền con
người. Ấn Độ đã là thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc trong tám nhiệm kỳ liên tục. Sự tham gia, đóng góp và vị thế của Ấn Độ tại
Liên hợp quốc từng bước được cải thiện và nâng cao cả về bề rộng và bề sâu trên
nhiều lĩnh vực.
Trong lĩnh vực hòa bình và an ninh quốc tế, Ấn Độ tích cực và chủ động trong
việc tham gia vào nhiệm vụ giữ gìn hòa bình và an ninh toàn cầu. Năm 2008 Ấn Độ
đã cung cấp 100.000 nhân viên quân sự và cảnh sát để phục vụ trong 35 hoạt động
gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc[202]. Ấn Độ cam kết kiên định hỗ trợ Liên hợp
92
quốc trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, Ấn Độ nhấn mạnh rằng sự an
toàn và an ninh của lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên hợp Quốc là điều tối quan
trọng. Năm 2012, Ấn Độ đã tham gia vào 43 nhiệm vụ gìn giữ hòa bình với tổng đóng góp vượt quá 160.000 binh sĩ và một số lượng đáng kể nhân viên cảnh sát đã
được triển khai. Năm 2014, Ấn Độ là nước đóng góp quân đội lớn thứ ba với 7.860 nhân viên được triển khai với mười nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc, trong đó 995 là nhân viên cảnh sát, bao gồm cả đơn vị cảnh sát nữ đầu tiên thuộc
Liên hợp quốc[200]. Quân đội Ấn Độ đã thực hiện nhiều nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên Hợp Quốc[125]. Quân đội Ấn Độ cũng đã cung cấp các đơn vị y tế để tạo điều kiện thuận lợi cho việc rút người bệnh và bị thương. Theo ước tính của Liên
Hợp Quốc, Ấn Độ là quốc gia đóng góp cảnh sát lớn thứ tư với 1.009 sĩ quan và là
người đóng góp lớn thứ ba trong số các nữ cảnh sát[125]. Ngoài ra, Ấn Độ là thành
viên tích cực của Hội nghị giải trừ quân bị Liên hợp quốc, của Công ước cấm vũ
khí hóa học. Hàng năm, Ấn Độ tham gia đều đặn vào Cơ chế đăng kiểm vũ khí
thông thường của Liên hợp quốc nhằm thực hiện một trong các biện pháp xây dựng
lòng tin với các nước và làm tốt nghĩa vụ thành viên của Liên hợp quốc. Ấn Độ tiếp
tục gắn ưu tiên cao nhất cho mục tiêu giải trừ hạt nhân. Ấn Độ cho rằng vũ khí hạt
nhân có thể được loại bỏ thông qua một công ước phổ quát và không phân biệt đối xử theo các quy định của Công ước quốc tế về vũ khí hóa học và sinh học. Ấn Độ
cam kết tạm hoãn tự nguyện và đơn phương về thử nghiệm chất nổ hạt nhân. Ấn
Độ khẳng định chính sách không sử dụng lần đầu và không sử dụng đối với các quốc gia không sử dụng vũ khí hạt nhân. Là một quốc gia có vũ khí hạt nhân và là
một thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế, Ấn Độ sẵn sàng đàm phán về Hiệp ước cắt đứt vật liệu phân hạch đa phương và có thể chịu sự giám sát của
Hội nghị giải trừ quân bị.
Đối với lĩnh vực hợp tác và phát triển, dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh,
Ấn Độ tăng cường các hoạt động tại Liên hợp quốc đồng nghĩa với việc Ấn Độ thể
hiện được vai trò của mình với các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế với tư cách
là một nước lớn đang trỗi dậy. Qua đó, Ấn Độ có nhiều điều kiện thuận lợi để thúc
đẩy hợp tác đầu tư với các đối tác trong diễn đàn, góp phần thu hút đầu tư, nâng
cao năng lực sản xuất, kim ngạch thương mại hai chiều, đặc biệt là tham gia vào
nhiều diễn đàn đa phương, song phương lớn về kinh tế với nhiều điều kiện thuận
lợi. Ấn Độ là nước đi đầu trong các nước đang phát triển về sự trỗi dậy mạnh mẽ
93
của nền kinh tế trong nước và thu hút đầu tư, thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ.
Ấn Độ tham gia nhiều diễn đàn đa phương, song phương lớn về kinh tế - xã hội của
Liên hợp quốc như WEF, CII, UNCTAD...
Ấn Độ là một quốc gia thành viên ngày càng có nhiều đóng góp vào việc thực
hiện các chức năng, nhiệm vụ cũng như thực hiện mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc, đó là: đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành hệ thống quan hệ quốc tế trong thế kỷ XXI, phát triển một hệ thống quốc tế nhân đạo, không sử dụng
bạo lực và thúc đẩy để tiến tới một mô hình phát triển quốc tế bền vững, công bằng. Ấn Độ là một trong những thành viên hoạt động tích cực của Liên hợp quốc, tham gia vào các nhóm nước có cùng lợi ích chung của mình. Tại kỳ họp lần thứ 50 Đại
hội đồng Liên hợp quốc tháng 10-2013, Ấn Độ chính thức trở thành Ủy viên không
thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Bên cạnh sự đổi thay của thế giới,
Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc đang đứng trước yêu cầu phải “tiến hành cải tổ”,
trong đó quy mô của số thành viên thường trực cần được mở rộng, theo một kế
hoạch cải tổ được đề xuất, số thành viên thường trực có thể sẽ tăng thêm 5 quốc gia
nữa, trong đó các ứng cử viên được đề cập nhiều nhất là nhóm G4 gồm Ấn Độ,
Nhật Bản, Đức và Brazil là những “ứng cử viên hợp pháp” để trở thành ủy viên
thường trực tổ Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Các ủy viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc Liên hợp quốc như Pháp, Mỹ, Anh và Nga cũng ủng
hộ ứng cử viên Ấn Độ trở thành Ủy viên thường trực Hội đồng Bảo an mở rộng.
Ấn Độ đã nỗ lực để đạt được kết quả cụ thể trong việc tìm kiếm một vị trí thường trực trong Hội đồng Bảo an ngay tại phiên họp của Đại hội đồng Liên hợp quốc lần
thứ 70[115]. Ấn Độ đưa ra nhiều lập luận để vận động các nước, trước hết là Ấn Độ có dân số lớn thứ hai thế giới và là nền dân chủ tự do lớn nhất thế giới. Ấn Độ
là nước đóng góp quân đội lớn nhất cho các nhiệm vụ gìn giữ hòa bình của Liên
Hợp Quốc với 7.860 nhân viên được triển khai với mười nhiệm vụ gìn giữ hòa bình
của Liên Hợp Quốc vào năm 2014 sau Bangladesh và Pakistan[200] cả ba quốc gia
đang ở Nam Á. Ấn Độ đã đóng góp hơn 180.000 binh sĩ, số lượng lớn nhất từ bất
kỳ quốc gia nào, tham gia vào hơn 43 nhiệm vụ và 156 nhân viên gìn giữ hòa bình
Ấn Độ đã hy sinh khi thực hiện các nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc. Ấn Độ đã và sẽ
tiếp tục cung cấp các sĩ quan chỉ huy cho các nhiệm vụ của Liên Hợp Quốc[200].
Việc Đại hội đồng Liên hợp quốc thông qua nghị quyết tiếp tục xem xét việc
cải cách và mở rộng Hội đồng Bảo an trong phiên thứ 70 của Đại hội đồng cho thấy
94
rằng nỗ lực của Ấn Độ có thể thành công trong tương lai. Trong các chuyến thăm
nước ngoài và các cuộc đàm phán với đại diện của các quốc gia khác, Thủ tướng
Manmohan Singh đã nhiều lần nhấn mạnh rằng Ấn Độ trông đợi sự hỗ trợ từ các nước khác để trở thành thành viên thường trực trong Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc”[200].
* Đối với Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO): Ấn Độ là một trong những nền kinh tế mới nổi lớn vào đầu thế kỷ XXI. Sự
phát triển năng động của GDP, xuất nhập khẩu và thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng nhanh là một số đặc điểm về sự trỗi dậy của Ấn Độ trong nền kinh tế toàn cầu. Quá trình này được thực hiện và khuyến khích bởi chính sách kinh tế,
thương mại tích cực thúc đẩy sự phát triển kinh tế nội bộ và hội nhập quốc tế của
Ấn Độ. Trong bối cảnh đó, Ấn Độ cũng đang giành được ảnh hưởng trong khuôn
khổ các cuộc đàm phán thương mại tại WTO.
Với chính sách ngoại giao thực dụng, chú trọng vào các mục tiêu kinh tế,
chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh trong giai đoạn 2004-2014 tiếp tục
khẳng định một trong những mục tiêu trọng tâm và ưu tiên hàng đầu trong chính
sách đối ngoại của Ấn Độ là thu hút nguồn vốn FDI nhằm hướng tới mục tiêu phát
triển kinh tế trong nước. Là thành viên quan trọng của WTO, bước vào giai đoạn mới, Ấn Độ xác định một cách rõ ràng những cơ hội thuận lợi. Với việc hoàn thiện
hệ thống pháp luật kinh tế, thực thi các thiết chế quản lý theo quy định của WTO,
môi trường kinh doanh của Ấn Độ ngày càng được mở rộng. Ấn Độ có vị thế bình đẳng như các nước thành viên khác trong hoạch định chính sách thương mại toàn
cầu, có cơ hội để đấu tranh nhằm thiết lập một trật tự kinh tế quốc tế mới công bằng, hợp lý hơn, có điều kiện bảo vệ lợi ích của đất nước và doanh nghiệp. Tuy
nhiên, trong tình hình thế giới có nhiều thách thức đặt ra: cạnh tranh diễn ra gay gắt
hơn, với nhiều “đối thủ” hơn, trên bình diện rộng hơn, sâu hơn, nguy cơ các doanh
nghiệp đầu tư kém hiệu quả hơn và nguy cơ thất nghiệp tăng lên, sự biến động thị
trường mạnh và nhạy cảm hơn... Tình hình đó cũng đặt ra vấn đề mới về bảo vệ
môi trường, an ninh quốc gia, giữ gìn những giá trị văn hóa, tín ngưỡng, tôn giáo
tốt đẹp lâu đời của Ấn Độ.
Đối với các hiệp định thương mại, Ấn Độ cho rằng, việc tuân thủ các quy tắc
phức tạp để có được ưu đãi thuế quan theo thỏa thuận ưu đãi thương mại (PTA)
hoặc các thỏa thuận thương mại tự do (FTA) làm tăng chi phí giao dịch thương
95
mạivà hiệu quả rất thấp. Hình thức hợp tác thương mại đa phương dựa trên sự đồng
thuận trong khuôn khổ WTO sẽ hiệu quả hơn cho Ấn Độ.
Tuy nhiên điều khó khăn Ấn Độ gặp phải là tự do hóa thương mại đa phương lại tiến triển khá chậm chạp, việc nhận được sự thống nhất của 159 nước thành viên
WTO là không dễ dàng. Bên cạnh đó, sự thờ ơ ngày càng tăng của các nền kinh tế lớn như Trung Quốc và Mỹ lên WTO khiến Ấn Độ có rất ít lựa chọn ngoài việc tìm kiếm các thỏa thuận thương mại song phương theo các điều khoản của GATS. Hơn
nữa, các nước thành viên WTO bao gồm cả Ấn Độ thường bị buộc phải đăng ký các PTA/FTA đã ký để bảo vệ thị trường hiện có của họ. Ví dụ, việc ký hiệp định FTA ASEAN - Trung Quốc đã thúc đẩy FTA ASEAN-Ấn Độ. Đôi khi, cân nhắc về địa
chính trị có thể thuyết phục một quốc gia tham gia vào một thỏa thuận thương mại
đặc biệt, chẳng hạn như Khu vực Thương mại Tự do Nam Á (SAFTA). Trong các
FTA của Ấn Độ, Hợp tác khu vực cộng đồng các nước Nam Á (SAARC), ASEAN,
Nhật Bản và Hàn Quốc là những khu vực có nhiều triển vọng nhất. Nhiều hiệp ước
thương mại hiện có của Ấn Độ còn hời hợt và phạm vi tương đối hạn chế, ví dụ như
PTA với Mercosur hoặc Chile có nhiều nội dung không cụ thể, hoặc chỉ bao gồm
thương mại hàng hoá như SAFTA và FTA Ấn Độ - ASEAN; hoặc hợp tác thương
mại của Ấn Độ với SAARC bị cản trở bởi sự thù địch giữa Ấn Độ và Pakistan.
Ấn Độ chủ trương tiếp tục phát triển hợp tác thương mại với các quốc gia và
khu vực trên thế giới, nhất là các đối tác lớn như Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, EU...
Cơ cấu mặt hàng và thị trường xuất khẩu có những chuyển biến tích cực, tỷ trọng những ngành công nghệ và kỹ thuật cao và nhóm hàng công nghiệp tăng nhanh, tỷ
trọng các nhóm sản phẩm thô giảm. Nhiều mặt hàng xuất khẩu đã đạt được thứ hạng cao có ảnh hưởng đến thị trường thế giới, Ấn Độ là một trong những quốc gia xuất
khẩu gạo lớn trên thế giới. Xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài của Ấn Độ cũng
được đẩy mạnh. Những kết quả mà Ấn Độ thu được từ hiệp định thương mại song
phương khá rõ ràng như sự mở rộng của thỏa thuận ưu đãi thương mại Ấn Độ -
Mercosur thành một CEPA chính thức, hoặc cải thiện quan hệ thương mại với Nam
Á, đặc biệt là Pakistan, Châu Phi và Cộng đồng các Quốc gia độc lập (CIS). Một
hiệp định thương mại quá cảnh (trong khuôn khổ quy định của WTO) sẽ thúc đẩy
thương mại và xuất khẩu nội khối SAARC. Châu Phi và CIS là hai thị trường nhập
khẩu phát triển nhanh nhất. Trong năm 2012, nhập khẩu tăng 11,3% ở Châu Phi và
tăng 6,8% ở CIS; so với Châu Á là (3,7%), Bắc Mỹ (3,1%) và châu Âu (-1,9%)[202].
96
Trước mắt, đây là những thị trường cần được chú trọng và đẩy mạnh các hoạt động
hợp tác thương mại.
Chính sách thương mại của Ấn Độ có sự kết hợp khéo léo giữa song phương và đa phương. Có được lợi thế so sánh trong lĩnh vực dịch vụ và tiềm lực về tài chính
ngày càng tăng, Ấn Độ xác định mục tiêu đến các hiệp định thương mại toàn diện duy nhất, bao gồm hàng hóa, dịch vụ và đầu tư trong các lĩnh vực. Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các tập đoàn đa quốc gia vẫn là nguồn quan trọng của xuất khẩu. Ấn Độ tiếp
tục mở rộng thị trường xuất khẩu, đa dạng hóa, duy trì, có nhiều bước đột phá khi xuất khẩu vào nhiều thị trường mới, đẩy mạnh thị phần ở thị trường châu Á, củng cố thị trường EU, mở rộng thị trường Nga, Đông Âu và thị trường châu Đại Dương, khai phá
mạnh thị trường Trung Đông, châu Phi và Mỹ Latinh...
Là một nước lớn trên bàn cờ chính trị thế giới, Ấn Độ đã xác định những điểm
mạnh, yếu, những thuận lợi và thách thức về kinh tế, nhằm định vị lại vị trí nền kinh tế
quốc gia trên bản đồ kinh tế thế giới. Với sự triển khai rộng khắp các hoạt động kinh tế
đối ngoại trên khắp các châu lục, Ấn Độ xử lý các vấn đề hội nhập trên phạm vi rộng
lớn hơn, đặc biệt là thực thi đầy đủ các cam kết ngày càng đa dạng của WTO. Chính
sách hội nhập và là một thành viên tích cực trong các cuộc đàm phán thương mại tại
WTO đã mang lại nhiều lợi ích cho Ấn Độ trong bối cảnh không ít khó khăn, thách thức. Nhưng các lợi ích, cơ hội, thách thức này không phải lúc nào cũng giống nhau
mà luôn có sự thay đổi, phụ thuộc vào sự vận động và phát triển không ngừng của các
điều kiện kinh tế - chính trị của Ấn Độ, của bản thân tổ chức WTO và các điều kiện quốc tế khác. Do vậy, để hội nhập một cách có hiệu quả nhất chính quyền của Thủ
tướng Manmohan Singh luôn nhìn nhận, phân tích và đánh giá kịp thời các vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện chính sách đối ngoại của mình với các tổ chức quốc tế
nói chung và với WTO nói riêng để điều chỉnh, tận dụng và thích nghi một cách phù
hợp và hiệu quả nhất.
* Đối với Phong trào Không liên kết:
Chính sách đối ngoại truyền thống của Ấn Độ dựa trên hai trụ cột chính: không
liên kết và tham vọng trở thành một cường quốc. Dưới thời Thủ tướng Manmohanh
Singh, Ấn Độ tiếp tục thi hành chính sách không liên kết, chính sách này cho phép Ấn
Độ đảm bảo được chủ quyền quốc gia trong khi vẫn có thể tìm kiếm những hợp tác
kinh tế và quân sự với các quốc gia khác khi cần thiết. Không liên kết đã giúp Ấn Độ
đạt được một trong những mục tiêu chiến lược chính của mình đó là: không phụ thuộc.
97
Dưới thời Thủ tướng Manmohanh Singh, Ấn Độ đã sử dụng chính sách này để thực
hiện những lợi ích quốc gia cần thiết, trong khi vẫn đảm bảo theo đuổi các mục tiêu
chính sách đối ngoại của riêng Ấn Độ.
Phong trào Không liên kết ra đời với mục đích đấu tranh cho quyền tự quyết
của các dân tộc, chống chủ nghĩa đế quốc, thủ tiêu chủ nghĩa thực dân cũ và thực dân mới, theo năm nguyên tắc chỉ đạo: hoà bình, độc lập, phát triển, không liên kết và không tham gia khối, nhóm quân sự, chính trị nào. Phong trào Không liên kết là
một tổ chức liên minh các quốc gia và các quốc gia thanh viên đều bình đẳng với nhau. Khi Chiến tranh Lạnh kết thúc, Ấn Độ chỉ rõ những thách thức to lớn mà Phong trào Không liên kết phải đối mặt, đặc biệt là cạnh tranh giữa các nước lớn,
chủ nghĩa đơn phương, chính trị cường quyền, cũng như những khó khăn nội tại
như hạn chế chung về nguồn lực, sự gia tăng khác biệt về lợi ích giữa một số nước
thành viên và sự can thiệp từ bên ngoài. Ấn Độ kêu gọi tăng cường tinh thần đoàn
kết giữa các nước Không liên kết, với nền tảng là các nguyên tắc Bangdung, để
Phong trào có thể tiếp tục là ngọn cờ đầu thúc đẩy thượng tôn pháp luật, dân chủ
hóa quan hệ quốc tế, bảo vệ lợi ích chính đáng của các nước Không liên kết. Phong
trào không liên kết đã buộc phải tự điều chỉnh mình và đề ra mục tiêu mới trong hệ
thống thế giới hiện tại
Tại các Hội nghị cấp cao Không liên kết, Thủ tướng Manmohan Singh thường
xuyên kêu gọi các nước thành viên phát huy những nguyên tắc cơ bản của Phong
trào, đó là các nguyên tắc tôn trọng bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ, tăng cường hữu nghị, không sử dụng và đe dọa sử dụng vũ lực trong
quan hệ giữa các quốc gia, giải quyết hòa bình các tranh chấp quốc tế. Các quốc gia thành viên cần tăng cường thực hiện các mục tiêu, tuyên bố và sáng kiến của Phong
trào một cách rõ ràng, nỗ lực cao nhất để thúc đẩy lợi ích chung, hợp tác với tất cả
các nước thành viên, hỗ trợ nâng cao vai trò và vị thế của NAM trên trường quốc
tế. Là một tập hợp của các nước đang phát triển, Phong trào cần thúc đẩy hơn nữa
hợp tác trong các lĩnh vực như kinh tế, năng lượng, môi trường, phát triển bền
vững, tăng cường hợp tác theo các trục Đông-Tây và Bắc-Nam, dành ưu tiên cho
các quốc gia đang phát triển.
Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ tiếp tục đóng vai trò
quan trọng trong các hoạt động của Phong trào Không liên kết nhằm nỗ lực duy trì
chủ quyền và chống lại chủ nghĩa đế quốc. Kể từ khi thành lập, phong trào đã cố
98
gắng tạo ra một con đường độc lập trong chính trị thế giới, điều đó sẽ không dẫn
đến việc các quốc gia nhỏ hơn trở thành những con tốt trong các cuộc đấu tranh
giữa các cường quốc thế giới. Mặc dù Ấn Độ là đối tác an ninh quân sự quan trọng của Mỹ nhưng Ấn Độ không bao giờ thiết lập một liên minh chính thức với Mỹ. Ấn
Độ tiếp tục đóng vai trò là một ví dụ về một quốc gia đang vượt qua khoảng cách liên tục và thúc đẩy các chính sách của mình để phù hợp hơn với một cường quốc thế giới mới nổi. Chính sách không liên kết của Ấn Độ đã thúc đẩy phát triển tiến
bộ kinh tế - xã hội và tự do cá nhân của các quốc gia trên thế giới thông qua việc xác định mục tiêu chiến lược của mỗi quốc gia. Chiến lược này kết hợp các mục tiêu hòa bình và phát triển kinh tế trong nước với sự giải phóng các dân tộc từ mọi
hình thức phụ thuộc và bóc lột. Do đó, lập trường không liên kết của Ấn Độ có
chức năng như một chuẩn mực cho sự phát triển tích cực của quan hệ quốc tế trên
phạm vi toàn cầu.
Phong trào Không liên kết đã có nhiều tiếng nói ủng hộ mạnh mẽ, toàn diện
đối với Ấn Độ trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trước đây và trong công
cuộc cải cách, hội nhập quốc tế và nâng cao vị thế của Ấn Độ trên trường quốc tế.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ luôn tích cực phối hợp chặt chẽ các
nỗ lực tăng cường đoàn kết của Phong trào, đóng góp vào cuộc đấu tranh chung của Phong trào vì các mục tiêu hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
2.2.4.2. Đối với một số tổ chức khu vực chủ yếu
Trong bối cảnh khu vực và quốc tế diễn ra những chuyển biến nhanh chóng và phức tạp của thế kỷ mới, Ấn Độ đã có sự điều chỉnh mạnh mẽ chính sách đối ngoại,
trong đó đặt ưu tiên với các nước láng giềng và khu vực Nam Á thông qua SAARC. Nằm ở phía đông của Ấn Độ và có mối liên hệ chặt chẽ về văn hóa, Đông
Nam Á được xác định là trọng tâm chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với toàn bộ
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
* Đối với Hiệp hội hợp tác khu vực Nam Á (SAARC):
Có thể thấy, trước sự thay đổi của tình hình thế giới và trước ảnh hưởng của
Trung Quốc với khu vực trong thế kỷ XXI, Thủ tướng Manmohan Singh đã có
những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại của mình. Đồng thời ông cũng xác
định những ưu tiên quan trọng trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ là tăng cường
ảnh hưởng và khẳng định vị thế của Ấn Độ tại Nam Á, thông qua SAARC. Theo
đó, Ấn Độ đã đặt mối quan hệ với các nước láng giềng lân cận là ưu tiên hàng đầu
99
trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ. Trong nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan
Singh, quan hệ của Ấn Độ với các nước thành viên SAARC được củng cố mạnh mẽ
hơn so với các giai đoạn trước đây.
SAARC là một liên minh kinh tế và địa chính trị của tám quốc gia thành viên
chủ yếu ở lục địa Nam Á. Tổ chức này được thành lập vào ngày 8 tháng 12 năm 1985 dưới sự lãnh đạo của ZiaurRahaman Tổng thống Bangladesh nhằm thúc đẩy tiến bộ kinh tế và xã hội, phát triển văn hóa, hữu nghị và hợp tác với các nước đang
phát triển nhấn mạnh sự tự lực về văn hóa. Các thành viên sáng lập là Srilanka, Bhutan, Ấn Độ, Nepal, Pakistan, Maldives và Bangladesh. Afghanistan đã tham gia với tổ chức này vào năm 2007. Ấn Độ là quốc gia lớn nhất và phát triển mạnh trong
khu vực SAARC. Cả về mặt địa lý và kinh tế, Ấn Độ chiếm 70% khu vực SAARC.
Ấn Độ được nhìn nhận là thành viên có ảnh hưởng nhất và có trách nhiệm nâng cao
quan hệ hợp tác kinh tế khu vực ở Nam Á. dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh,
Ấn Độ có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác và phát triển ở SAARC.
Ấn Độ có nhiều đóng góp hơn cho Quỹ phát triển SAARC. Hiệp định thương mại
ưu đãi SAARC là bước đầu tiên trong tự do hóa thương mại ở khu vực này.
Ở Nam Á, SAARC là thể chế đa phương có cơ chế ảnh hưởng nhất ở khu vực.
Trong những năm đầu mới thành lập, thương mại và đầu tư không phải là những chủ đề chính trong hợp tác khu vực. Các mục tiêu tổng quát mà SAARC đề ra khi mới
thành lập là: Thúc đẩy sự phát triển của tất cả các dân tộc tại Nam Á và nhằm nâng
cao chất lượng cuộc sống của họ cùng với sự phát triển toàn diện kinh tế - văn hóa - xã hội; Tăng cường sự hợp tác, tin cậy lẫn nhau giữa các nước Nam Á; Để tăng
cường sự hiểu biết lẫn nhau và đánh giá đúng đắn một vấn đề nào đó; Thúc đẩy, tăng cường sự hợp tác lẫn nhau trong các lĩnh vực Kinh tế, Văn hóa, Xã hội, Công nghệ
và Khoa học kĩ thuật; Tăng cường sự hợp tác với các nước đang phát triển; Tăng
cường sự hợp tác với các tổ chức quốc tế khác và những vấn đề trọng đại; Hợp tác
với các tổ chức khu vực có mục đích giống nhau.
Trong khuôn khổ Khu vực thương mại ưu đãi SAFTA của SAARC, một chính
sách bao gồm 4 mục tiêu có thể giúp thúc đẩy thương mại và đầu tư trong khu vực:
Mục tiêu đầu tiên và có vai trò quan trọng là tập trung vào thương mại Ấn Độ -
Pakistan, dựa vào sự phát triển một số lĩnh vực chủ chốt như cải thiện các đường
bay. Một hiệp định giữa Ấn Độ và Pakistan nhằm nối lại thương mại qua biên giới
sẽ thúc đẩy sự hòa nhập khu vực, tăng cường và đặt nền móng cho những tiến bộ
100
của SAFTA. Mục tiêu thứ hai là cải thiện quy định về hải quan, hải cảng. Mục tiêu
thứ ba là ký kết các hiệp định thương mại song phương và đa phương với các nước
ngoài khu vực Nam Á nhằm hỗ trợ cho các mục tiêu trên. Mục tiêu thứ tư là tập trung vào thương mại dịch vụ và đầu tư.
Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao, Ấn Độ chia sẻ nhiều điểm tương đồng và lợi ích chung với các quốc gia khu vực Nam Á, như lịch sử quan hệ truyền thống tốt đẹp, chung mục tiêu đấu tranh vì một trật tự thế giới đa cực, chung mối đe dọa từ chủ
nghĩa ly khai, khủng bố, tôn giáo cực đoan. Tại hội nghị thượng đỉnh SAARC lần thứ 14, Thủ tướng Manmohan Singh nhấn mạnh rằng hòa bình là một yêu cầu tiên quyết cho sự thịnh vượng ở Nam Á. Mục tiêu chiến lược của Ấn Độ là củng cố vị trí
cường quốc khu vực và hướng tới trở thành trung tâm quyền lực của thế giới. Do đó,
Ấn Độ tiếp tục nâng cao nội lực, củng cố quan hệ láng giềng và khu vực Nam Á,
thực hiện chính sách can dự tích cực và ngoại giao kinh tế nhằm duy trì ảnh hưởng
tại khu vực. Ấn Độ thắt chặt quan hệ với Nepan, Butan, Maldives; giải quyết bất
đồng, tranh chấp với Bangladesh; thúc đẩy tiến trình đàm phán hoà bình với
Pakistan; tích cực thúc đẩy hợp tác với các nước trong khu vực thông qua các cơ chế
hợp tác như: “Sáng kiến hợp tác kinh tế và kỹ thuật đa ngành ở vịnh Bengan”, “Hiệp
hội hợp tác các nước khu vực Nam Á”, Hiệp định khu vực thương mại tự do...
Trên lĩnh vực thương mại, chính phủ của Thủ tướng Manmohan Singh chủ
trương thúc đẩy quan hệ hữu nghị hợp tác với các nước Nam Á và SAARC, vì ổn
định và phát triển chung của khu vực cũng như lợi ích mỗi quốc gia thành viên. Dấu ấn quan trọng là Hội nghị lần thứ 14 của SAARC năm 2007 trong bối cảnh nền kinh
tế các nước trong khu vực có sự khởi sắc, đặc biệt là Ấn Độ đạt tốc độ tăng trưởng kinh tế cao 9,2% trong năm 2005-2006[144]. Ấn Độ cũng đã cam kết xây dựng một
hệ thống thương mại tự do, thống nhất để tạo ra cơ hội mới và tăng trưởng kinh tế
cho các nước thành viên. Không chỉ chú ý đến liên kết, hợp tác trong khu vực, Ấn
Độ còn kêu gọi các nước thành viên khôi phục lại Vòng đàm phán Doha, tập trung
vào vấn đề phát triển, kêu gọi các nước thành viên WTO thực hiện cam kết của họ để
có thể sớm kết thúc vòng đàm phán này. Đồng thời, Ấn Độ cũng tham gia tích cực
vào quá trình thúc đẩy sự hoạt động của SAFTA. Mặc dù, SAFTA vẫn chưa đem lại
nhiều kết quả như mong muốn của các nước thành viên, song Ấn Độ muốn thông
qua SAARC nhấn mạnh sự cần thiết của việc mở cửa thị trường, thông qua thực hiện
chương trình tự do hóa và tin tưởng rằng SAFTA sẽ tác động đến các lĩnh vực khác
101
trong hợp tác khu vực, bao gồm cả thương mại, dịch vụ... và một hiệp định về hợp
tác trong lĩnh vực dịch vụ sẽ được đưa ra trong thời gian sớm nhất.
Ấn Độ cũng tích cực thực hiện các giải pháp thuận lợi hóa thương mại, đặc biệt trong việc tiêu chuẩn hóa các tên hiệu, tài liệu, các thủ tục cho việc thông
thương hàng hóa... Hệ thống viễn thông khu vực cần được nâng cấp để mở rộng khả năng kết nối mọi người trong khu vực, đồng thời, thực hiện các biện pháp tự do hóa thuế quan trong ngành viễn thông, trên cơ sở có đi có lại.
Ấn Độ mở rộng hợp tác kinh tế sang cả lĩnh vực đầu tư nội khối, đối với các nước thành viên của SAARC, kêu gọi các nước cần đi đến ký kết hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư một cách sớm nhất. Đây là vấn đề quan trọng của
SAARC, khi mà khả năng đầu tư nội khối còn hạn chế, khả năng thu hút FDI từ
bên ngoài chưa được nhiều. Do vậy, Ấn Độ đã tuyên bố đơn phương miễn thuế
nhập khẩu cho các nước SAARC, giảm danh mục hàng hóa loại trừ cho các nước
Nam Á từ 45% xuống 10%. Ấn Độ cũng đơn phương tự do hóa thị thực cho giáo
viên, sinh viên, nhà nghiên cứu từ các nước thuộc SAARC, tự nguyện đóng góp 25
triệu USD cho việc nâng cấp Ban Thư ký SAARC tại Kathmandu[144]. Cũng chính
Ấn Độ đã đề nghị nối tất cả thủ đô các nước bằng các đường bay trực tiếp, coi đó là
bước đi đầu tiên của sự liên kết. Theo số liệu chính thức, giao dịch thương mại giữa các quốc gia thuộc SAARC đã tăng từ dưới 140 triệu USD vào năm 2008 lên tới
878 triệu USD vào năm 2012. Tuy nhiên, con số này chưa bằng 5% tổng giá trị
thương mại của cả khu vực[110]. Do vậy có thể thấy rằng, Ấn Độ ngày càng có những gia tăng ảnh hưởng đối với các nước trong khu vực
Việc chính quyền Thủ tướng Manmohan Singh thúc đẩy hội nhập sâu rộng với SAARC tạo cho Ấn Độ nhiều thuận lợi để phát triển kinh tế, kích thích tăng
trưởng và mở rộng thị trường, thu hút đầu tư. Thương mại và đầu tư là một trong
những vấn đề có ý nghĩa quyết định đối với bất kỳ một nền kinh tế nào và lại càng
quan trọng hơn đối với một nền kinh tế dịch vụ như Ấn Độ. Tham gia vào nền kinh
tế thế giới và khu vực, các nhà hoạch định chính sách và chính phủ Ấn Độ có điều
kiện tiếp cận các thị trường khu vực, thế giới một cách bình đẳng. Cũng chính sức
ép cạnh tranh, thương mại đầu tư về một hệ thống thương mại tự do đòi hỏi Ấn Độ
phải tiến hành cải cách sâu rộng, đổi mới cách thức quản lý, hoàn thiện các giải
pháp thuận lợi hóa thương mại để không ngừng nâng cao sức cạnh tranh trong
thương mại đầu tư khi hội nhập khu vực.
102
Trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, Ấn Độ tăng cường sử dụng sức mạnh mềm thông
qua ngoại giao văn hóa, một lợi thế của Ấn Độ để liên kết các quốc gia trong khu vực
Nam Á. Ấn Độ và các nước thuộc SAARC có những điểm tương đồng về nền tảng lịch sử và địa lý, và văn hóa, các quốc gia trong cộng đồng SAARC cùng đặt mục tiêu
hướng tới xây dựng cộng đồng văn hóa đa dạng, tiên tiến, củng cố liên kết khu vực Nam Á thông qua các cơ chế hợp tác trên lĩnh vực văn hóa - xã hội. Xuất phát từ thực tế về giáo dục của khu vực, Ấn Độ đã quyết định thành lập trường Đại học Nam Á
nhằm liên kết văn hóa, xã hội, đồng thời tăng cường hợp tác và đối thoại về giáo dục, thông qua việc trao đổi giữa các viện khoa học, các nhà hoạch định chính sách, các sinh viên và giáo viên... Việc thành lập trường đại học có trình độ quốc tế này là biểu
tượng quan trọng của ý tưởng liên kết. Thông qua SAARC, Ấn Độ đẩy mạnh các
hoạt động giao lưu, trao đổi, coi đó là yếu tố cơ bản trong thúc đẩy liên kết, hội
nhập khu vực. Mở rộng các hoạt động của ngành du lịch và tăng cường trao đổi các
hoạt động của tuổi trẻ, các hiệp hội, quốc hội; đề xuất chương trình hoạt động văn
hóa và tiến hành tổ chức các Festival SAARC.
SAARC được thành lập với hy vọng có thể thông qua hợp tác sẽ mở đường cho
một cuộc đối thoại giải quyết các vấn đề an ninh còn bất ổn trong khu vực. Sau hơn
30 năm là thành viên của SAARC, Ấn Độ đã khẳng định được vị trí, vai trò và có những đóng góp có ý nghĩa của mình trong SAARC. Những kết quả mà Ấn Độ làm
được trong gần 30 năm là thành viên không chỉ góp phần đưa SAARC thành một tổ
chức thành công, ngày càng có vị thế trên thế giới mà còn góp phần tạo ra cho Ấn Độ nhiều cơ hội thuận lợi để xây dựng và phát triển đất nước.
* Đối với Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN): Bước sang thế kỷ XXI, tình hình thế giới và khu vực có nhiều thay đổi tác
động sâu sắc đến quan hệ quốc tế, trong đó hợp tác để phát triển kinh tế là xu thế
nổi trội. Với thế và lực mới giành được sau một thập niên cải cách, Ấn Độ tiến
hành cải cách kinh tế lần hai, điều chỉnh chính sách đối ngoại với các nước lớn,
trong đó triển khai mạnh mẽ Chính sách hướng Đông, việc điều chỉnh này mang lại
cho Ấn Độ nhiều lợi ích chiến lược, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Đông
Nam Á được xác định là trọng tâm chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với toàn bộ
khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Chính sách hướng Đông chú trọng tăng cường quan hệ mọi mặt với các nước
ASEAN, trong đó chủ yếu là các mối liên hệ về thương mại và đầu tư; tích cực hội
103
nhập kinh tế quốc tế và chủ động mở chiến dịch ngoại giao với khu vực Đông Nam
Á và châu Á - Thái Bình Dương; vận động để tham gia các tổ chức an ninh, kinh tế
và chính trị đa phương tại khu vực này như APEC, WTO, ARF...; lấy chính sách
ngoại giao kinh tế làm trụ cột. Ấn Độ coi trọng Đông Nam Á và coi Đông Nam Á
là cầu nối tiến vào thị trường khu vực[105; tr.60]. Ngoài ra, Chính sách hướng
Đông còn nhằm tạo dựng các mối liên hệ hữu nghị như việc đẩy mạnh hợp tác
trong lĩnh vực giao thông vận tải; cho phép Ấn Độ phá bỏ những hàng rào chắn về
chính trị giữa Ấn Độ và Đông Nam Á.
Trên lĩnh vực an ninh - chính trị, đây là một trụ cột chính của quan hệ hai bên.
Ấn Độ hướng tới xây dựng, mở rộng và cạnh tranh ảnh hưởng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Ấ n Đô ̣ khẳng đi ̣nh ASEAN là mô ̣t trong những tro ̣ng tâm trong chính sách đối ngoa ̣i củ a Ấn Đô ̣, là điểm nố i quan tro ̣ng giữa hai khu vực Ấ n Đô ̣ Dương và Thái Bình Dương; cam kết tiếp tu ̣c đẩy ma ̣nh quan hê ̣ hợp tác chă ̣t chẽ vớ i ASEAN, tích cực hỗ trợ ASEAN xây dựng cô ̣ng đồng, tăng cườ ng kết nối khu vực. Ấn Độ nhất trí sẽ tăng cường hợp tác toàn diện trên cả 3 trụ cô ̣t, tâ ̣p trung vào các lĩnh vực hợp tác biển (đảm bảo an ninh, an toàn hàng hải, bảo tồ n môi trườ ng biển, phát triển kinh tế biển v.v.); thuận lợi hó a thương ma ̣i, đầu tư.
Kể từ khi Ấn Độ trở thành bên đối thoại đầy đủ của ASEAN, hợp tác giữa Ấn Độ
và ASEAN có những bước đột phá mạnh mẽ trên cả mặt chính trị và ngoại giao. Ấn
Độ đã tham gia vào hàng loạt các cuộc họp tham vấn với ASEAN theo quan hệ đối
thoại ASEAN - Ấn Độ, trong đó bao gồm hội nghị cấp cao, hội nghị bộ trưởng, các
cuộc họp giữa các quan chức cao cấp và các cuộc họp ở cấp chuyên gia. Thể hiện cam
kết của mình và mối quan tâm chung để đảm bảo hòa bình, an ninh, ổn định và phát
triển ở Đông Nam Á, Ấn Độ còn tham gia Hiệp ước thân thiện và hợp tác ở Đông
Nam Á nhằm thúc đẩy nền hoà bình vĩnh viễn, sự thân thiện và hợp tác lâu bền giữa
nhân dân, đặc biệt là tăng cường hợp tác trên lĩnh vực kinh tế giữa các quốc gia thành
viên. Đồng thời, Ấn Độ và ASEAN cũng đã ký Tuyên bố chung về hợp tác chống
khủng bố quốc tế, tượng trưng cho các sáng kiến cụ thể để đẩy mạnh hợp tác trong cuộc chiến chống khủng bố. Ấ n Đô ̣ xác định ASEAN là đố i tác hơ ̣p tác ma ̣nh mẽ để mở rộng sự hiện diện của mình tại khu vư ̣c Ấ n Đô ̣ Dương-Thái Bình Dương, qua đó thể hiện vai trò của mình trong việc bảo đảm hòa bình, ổn định khu vực, đồng
thời đối phó với các thách thức chung.
104
Trên lĩnh vực hợp tác kinh tế, bên cạnh các mục tiêu chính trị - chiến lược,
Chính sách Hướng Đông còn được kỳ vọng đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội
không kém phần quan trọng.
Một là, Chính sách Hướng Đông hướng tới việc duy trì mức tăng trưởng cao
và ổn định của nền kinh tế Ấn Độ thông qua các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với
Đông Á, đặc biệt là thương mại. “Ấn Độ tin rằng, Đông Á nắm giữ chiếc chìa khóa
cho tăng trưởng kinh tế ổn định của Ấn Độ, đặc biệt khi các hoạt động kinh tế quốc
tế ngày càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng của Ấn Độ trong bối cảnh các
khu vực khác đang có xu hướng tăng trưởng chậm lại cũng như gia tăng chính sách
bảo hộ”[207; tr.17].
Hai là, hội nhập kinh tế với khu vực Đông Nam Á là một mục tiêu quan trọng
trong Chính sách Hướng Đông. Mục tiêu này nhấn mạnh đến việc xây dựng Hiệp
định Thương mại tự do (FTA), Hiệp định Hợp tác kinh tế toàn diện/Hiệp định Đối
tác kinh tế toàn diện (CECA/CEPA) giữa Ấn Độ với khu vực.
Ba là, thúc đẩy sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội ở tám bang vùng Đông
Bắc của Ấn Độ, những bang kém phát triển về kinh tế - xã hội và bất ổn an ninh,
cũng là một mục tiêu quan trọng của Chính sách Hướng Đông. Ủy ban Đông Bắc
(NEC) xác định rằng, một trong những lợi thế của khu vực là “gần kề với một trong
những khu vực tăng trưởng nhanh nhất thế giới, là các nền kinh tế mới nổi ở Đông
Nam Á”[173; tr.5].
Mục tiêu lớn nhất của Chính sách hướng Đông là góp phần đưa Ấn Độ trở
thành một cường quốc kinh tế và quân sự không chỉ ở khu vực châu Á mà còn trên
phạm vi toàn thế giới. Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ và ASEAN đã
thành lập nhiều cơ chế khác nhau, thông qua đó các cuộc thương lượng được thực thi,
hai bên vượt qua các rào cản, làm sâu sắc hơn mối quan hệ hợp tác. Tại Hội nghị
thượng đỉnh kinh doanh Ấn Độ - ASEAN tháng 10-2004, Thủ tướng Manmohan
Singh mong muốn: “có một cộng đồng kinh tế châu Á giữ vai trò là động lực cho sự
tăng trưởng và hòa nhập kinh tế trong toàn khu vực”[47]. Hợp tác kinh tế Ấn Độ -
ASEAN đang được thực thi thông qua: Hội nghị thượng đinh kinh doanh Ấn Độ -
ASEAN; Hội đồng kinh doanh Ấn Độ - ASEAN; Các cuộc họp của Bộ trưởng kinh tế
Ấn Độ - ASEAN; ủy ban đàm phán thương mại Ấn Độ - ASEAN; Nhóm công tác về
đầu tư và thương mại Ấn Độ - ASEAN.
105
Ấn Độ - ASEAN đã thông qua những mục tiêu dài hạn về trao đổi kinh tế. Ấn
Độ xuất khẩu vào ASEAN chủ yếu là các mặt hàng thế mạnh, giúp phát huy tiềm
năng sẵn có của mình. Thương mại hai chiều giữa Ấn Độ - ASEAN trong năm
2004, đạt khoảng 13 tỷ USD và tăng lên 30 tỷ USD vào năm 2007[105]. Thương
mại với ASEAN là một nguồn FDI quan trọng đối với cơ sở hạ tầng của Ấn Độ. Từ
một khối lượng không đáng kể năm 1991, đến tháng 5-2005, FDI từ ASEAN vào
Ấn Độ đạt 4 tỷ USD, chiếm 6,1% tổng lượng FDI Ấn Độ [98].
Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh đã đưa ra đề nghị thành lập Cộng đồng kinh tế châu Á tại Hội nghị thượng đỉnh kinh doanh Ấn Độ - ASEAN lần thứ 3 tháng 10-2004 bao gồm các nước ASEAN, Trung Quốc, Nhật Bản và Ấn Độ. Việc thành
lập Cộng đồng kinh tế châu Á sẽ giúp Ấn Độ phát triển quan hệ thương mại với các
quốc gia Đông Á và hướng Ấn Độ đến việc hội nhập kinh tế với khu vực Châu Á - Thái Bình Dương, đây là một hình thức liên kết châu Á, một hình thức liên kết kinh
tế nhằm đối trọng với khối EU và khu vực thương mại tự do Bắc Mỹ nhưng quan trọng hơn là để Ấn Độ không bị đứng ngoài các khối kinh tế chủ đạo của thế giới và
khẳng định vị thế cường quốc của mình ở khu vực châu Á. Thủ tướng Manmohan
Singh tiếp tục khẳng định trong hội nghị thưởng đỉnh cấp cao Đông Á lần thứ nhất: “mong muốn chủ quan trong việc xây dựng một Cộng đồng Đông Á gồm ASEAN,
Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và cả Australia cùng New Zealand là đương
nhiên. Cũng giống như NAFTA và EU mở rộng, một FTA liên Á (pan-Asia) sẽ là một
hiệp hội những quốc gia năng động, mở và đặc thù ở khu vực rộng lớn của chúng ta… Tôi tin chắc rằng đây là con đường duy nhất để hướng tới phía trước và Ấn Độ
mong muốn được kết hợp với các nước khác cùng chí hướng để thực hiện điều
này”[178].Mới quan hệ Ấn Độ - ASEAN là mối quan hệ cùng có lợi, không mang
tính áp đặt kiểu nước lớn với các nước nhỏ. Thông qua AIFTA, Ấn Độ muốn phát
triển các mối quan hệ kinh tế chặt chẽ với khu vực Đông Nam Á nơi có các các mô
hình liên kết kinh tế mà Ấn Độ có lợi thế cạnh tranh như: thị trường, lao động, vị trí
địa lý, tài chính, công nghệ thông tin... Tổng khối lượng thương mại ASEAN - Ấn
Độ đạt 47,5 tỷ USD, tăng 40,2% so với năm 2006. FDI của Ấn Độ vào các thành
viên ASEAN đạt 476,8 triệu USD năm 2008[47]. AIFTA thúc đẩy các mặt hàng
buôn bán giữa hai bên thông qua miễn trừ thuế, bao gồm cả những mặt hàng đặc biệt.
Ấn Độ cũng chủ động tăng cường hợp tác trong lĩnh vự tư nhân với ASEAN,
cụ thể là việc khởi động lại Hội đồng kinh doanh ASEAN - Ấn Độ, tổ chức Hội
106
nghị thượng đỉnh về kinh tế và Hội chợ thương mại được xúc tiến bởi các quan
chức cao cấp của hai bên. Ngoài ra, ASEAN và Ấn Độ đều có nhiều cơ hội để hợp
tác phát triển ngành công nghiệp du lịch của mình. Tận dụng ưu thế là khu vực có nhiều tiềm năng về du lịch tự nhiên và nhân văn, Ấn Độ đã khai thác triệt để ưu thế
này. Bên cạnh đó, Ấn Độ cũng tăng cường mở rộng tiềm năng hợp tác kinh tế biển, hỗ trợ phát triển doanh nghiệp (MSMEs) và các lĩnh vực có thế mạnh khác như công nghệ thông tin, vũ trụ, sinh học, vật liệu mới, môi trường…
Trong chính sách hướng Đông, tăng cường hợp tác văn hóa ít được nhắc đến, nhưng trên thực tế ngoại giao văn hóa là một phương thức được áp dụng trong chính sách này và được thể hiện trên các lĩnh vực như phát triển nguồn nhân lực,
phát triển công nghệ thông tin, du lịch, khoa học kỹ thuật, trao đổi học giả và các
bài diễn thuyết về ASEAN, giao lưu nhân dân giữa Ấn Độ và các nước ASEAN...
Chính sách văn hóa là sức mạnh mềm của Ấn Độ còn được thể hiện ở việc Ấn Độ
triển khai những chương trình học bổng và hợp tác giáo dục - kỹ thuật cho các
nước khu vực ASEAN tập trung vào các lĩnh vực hợp tác như du lịch, văn hóa, giáo
dục và vận tải, y tế công, giảm nghèo, môi trường và quản lý thảm họa..., Ấn Độ
còn đề xuất thành lập các trung tâm đào tạo, trung tâm phát triển nguồn nhân lực và
trung tâm nâng cao trình độ công nghệ thông tin ở các quốc gia ASEAN...
Ngoài ra, hai bên cũng tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực như khẩn cấp y
tế, tội phạm xuyên quốc gia, thương mại và đầu tư, môi trường, giáo dục, phát triển
bền vững, năng lượng, thành phố thông minh, kết nối, giao lưu nhân dân và thu hẹp khoảng cách phát triển trong ASEAN. Trong quan hệ song phương với các quốc
gia ASEAN, Ấn Độ xác định những nền kinh lớn trong khu vực như Singapore, Malaysia và Thái Lan là những đối tác thương mại quan trọng của Ấn Độ. Quan hệ
Ấn Độ - ASEAN đã đạt được những bước phát triển ấn tượng trong suốt những
năm đầu thế kỷ XXI.
Sang thế kỷ XXI, trước những thay đổi của tình hình thế giới và khu vực, nhu
cầu cải cách để phát triển, nhiệm vụ của nền ngoại giao Ấn Độ là phải tìm kiếm các
đối tác kinh tế để phục vụ cho công cuộc cải cách này. Đồng thời, thông qua những
nỗ lực kinh tế, Ấn Độ muốn xây dựng và mở rộng hình ảnh của mình ra khỏi khu
vực Nam Á. Chính vì thế, cùng với những điều chỉnh chính sách đối ngoại với các
nước lớn, các nước láng giềng khu vực, chính sách hướng Đông tiếp tục được điều
chỉnh, thay đổi để Ấn Độ vươn mình ra khu vực năng động và đầy tiềm năng mang
107
lại cho Ấn Độ nhiều lợi ích chiến lược, khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong
đó ASEAN là trụ cột cho chính sách này.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, chính sách hướng Đông được điều chỉnh, bổ sung những yếu tố mới cho phù hợp với bối cảnh quốc tế, khu vực và
trong nước của Ấn Độ. Ấn Độ tập trung vào tăng cường quan hệ trên mọi lĩnh vực với khu vực Đông Nam Á, chú trọng đến việc thiết lập các mối quan hệ trên mọi lĩnh vực theo chiều sâu với các nước ASEAN, trong đó chủ yếu là các mối quan hệ
về thương mại, đầu tư, hội nhập kinh tế quốc tế, lấy chính sách ngoại giao kinh tế làm trụ cột. Chính sách hướng Đông ngày càng hoàn thiện và đạt được nhiều thành tựu trên nhiều mặt, đánh dấu một sự thay đổi tầm nhìn chiến lược của Ấn Độ trên
thế giới và vị trí của Ấn Độ trong cục diện khu vực mới.
Tiểu kết chương 2
Trong suốt hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh Ấn Độ đã chuyển
dần từ chủ nghĩa ngoại giao lý tưởng từ thời J.Nehru sang ngoại giao thực dụng phục
vụ lợi ích dân tộc hướng tới các mục tiêu chính là: bảo vệ độc lập, chủ quyền và an
ninh quốc gia, xây dựng môi trường hòa bình ổn định, tăng cường và mở rộng quan
hệ với các nướcláng giềng, các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn của thế giới để phát triển kinh tế và nâng cao vai trò, vị thế của Ấn Độ trong khu vực và trên trường
quốc tế. Ấn Độ đã có những chuyển hướng trong chính sách đối ngoại của mình:
thực hiện chính sách ngoại giao toàn diện “Ưu tiên láng giềng”, “Liên kết với phương Tây” và “hướng về phía Đông”, đã mở cửa nhanh chóng và coi trọng quan
hệ với các nước lớn, trong đó có Mỹ, coi “ngoại giao kinh tế” là trọng tâm, lấy ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế. Các chuyến thăm chính thức của lãnh đạo các nước
lớn như Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản, Pakistan…đến Ấn Độ trước hết thể hiện
chính sách ngoại giao mới của Ấn Độ, đồng thời cũng thể hiện sự quan tâm của các
nước này đến Ấn Độ trên bình diện chính trị, từ đó tạo cơ sở để Ấn Độ hợp tác phát
triển kinh tế. Có thể nói chưa bao giờ tương lai của Ấn Độ lại trở thành chủ đề quan
tâm như hiện nay và khẩu hiệu “Ấn Độ tỏa sáng” không chỉ còn đơn thuần là câu nói
mà thể hiện rõ ràng quy mô nền kinh tế, quy mô thị trường và sức mạnh của khoa
học kỹ thuật…khiến mọi quốc gia phải thay đổi cách nhìn về đất nước này.
Có thể thấy, dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ đã điều chỉnh chiến
lược đối ngoại một cách toàn diện, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược là đảm bảo
108
hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực và trên thế giới, qua đó tạo môi trường
thuận lợi cho phát triển, tăng cường thực lực đồng thời mở rộng không gian chiến
lược nhằm tạo dựng ảnh hưởng tương xứng với vị thế của cường quốc khu vực và toàn cầu. Từ những điều chỉnh trong chính sách đối ngoại, Ấn Độ đã chuyển dần từ
chủ nghĩa ngoại giao lý tưởng từ thời J.Nehru, sự khẳng định vị thế quốc tế trên cơ sở đường lối không liên kết, tìm kiếm chỗ đứng trong Chiến tranh lạnh sang thời kỳ ngoại giao toàn diện, trong đó ưu tiên cho ngoại giao thực dụng phục vụ lợi ích dân
tộc những năm đầu thế kỷ XXI. Mọi vấn đề quốc tế như vấn đề hạt nhân, chủ nghĩa khủng bố,... đều được đặt dưới lăng kính lợi ích dân tộc, đặt trong mối quan hệ qua lại với các nước lớn. Với những điều chỉnh trong đối ngoại hợp lý, uyển chuyển,
Chính phủ Ấn Độ đã thu được nhiều thành tựu to lớn. Ấn Độ ngày càng có tiếng nói
quan trọng trên trường quốc tế, buộc các nước lớn phải nhìn nhận lại Ấn Độ, xem xét
lại các chính sách đối ngoại với Ấn Độ trong thời gian tới.
Như vậy, từ năm 2004 – 2014 bối cảnh quốc tế có nhiều biến động lớn, quan
hệ Ấn Độ với nhiều nước và khu vực trên thế giới đã biến chuyển tốt đẹp, tạo điều
kiện để Ấn Độ có điều kiện để tiếp tục phát triển về mọi mặt, nâng cao vị thế của
mình trên trường quốc tế, khẳng định được vai trò lãnh tụ trong phong trào không
liên kết. Mối quan hệ này sẽ ngày càng có triển vọng hơn trong tương lai và tiến tới những mối quan hệ lâu dài, bền vững, hai bên hợp tác cùng có lợi.
109
Chương 3
NHẬN XÉT VỀ CHÍNH SÁCH ĐỐI NGOẠI CỦA ẤN ĐỘ
DƯỚI THỜI THỦ TƯỚNG MANMOHAN SINGH (2004-2014)
3.1. Đánh giá về chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh 3.1.1. Thành tựu
Một là, chính sách đối ngoại của Ấn Độ góp phần bảo đảm độc lập, chủ quyền, tăng cường an ninh quốc gia, có thể nói, đây là ưu tiên hàng đầu của tất cả các nhà lãnh đạo Ấn Độ qua mỗi thời kỳ kể từ khi Ấn Độ giành được độc lập dân
tộc. Thực tế cho thấy, các xu hướng chia rẽ về mặt sắc tộc, tôn giáo và ngôn ngữ
trong nội bộ Ấn Độ cộng với những tuyên bố về chủ quyền lãnh thổ của Trung
Quốc và Pakistan luôn đe dọa sự thống nhất của Ấn Độ. Mặc dù Ấn Độ đã giữ
vững được chủ quyền và thiết lập các mối quan hệ với những quốc gia này để ngăn
chặn những xung đột về lãnh thổ nhưng việc các lực lượng ly khai hình thành và
phát triển là một vấn đề vẫn tồn tại ở quốc gia này. Các lực lượng đã tìm kiếm sự
giúp đỡ từ các nước khác. Ấn Độ ý thức được rằng mối đe dọa không chỉ đến từ
các nước láng giềng nêu trên mà còn từ các nước lớn nắm quyền chi phối quan hệ quốc tế như Mỹ và các tổ chức khu vực. Chính vì thế, trong chính sách đối ngoại,
Ấn Độ đã xác định rõ nhiệm vụ là phải kiên trì tạo ra một môi trường khu vực
thuận lợi và thiết lập mối quan hệ với các nước lớn để ngăn chặn sự tiếp tay từ bên ngoài cho các nhóm ly khai trong nước. Để thực hiện được điều này, Ấn Độ đã nỗ
lực thực hiện các chính sách ngoại giao mềm dẻo với các nước lớn, kiên trì đối thoại với các nước trong khu vực Nam Á để đáp ứng nguyện vọng của cộng đồng
người Ấn và xây dựng mối quan hệ hữu nghị với các nước láng giềng, cũng như
các cường quốc. Ấn Độ muốn được coi là một quốc gia có tầm quan trọng trong
việc đảm bảo các lợi ích về kinh tế và chiến lược của họ. Đồng thời, Ấn Độ luôn
kiên định và cứng rắn trong việc chống lại những phe nhóm nước ngoài gây chia rẽ
Ấn Độ và luôn cảnh giác đối với những lực lượng ngầm chi phối cán cân quyền lực
của chính trường quốc tế.
Để bảo vệ độc lập dân tộc, duy trì sự thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, Ấn Độ
không ngừng gia tăng tiềm lực an ninh - quốc phòng, xây dựng và phát triển khả
năng phòng vệ dựa trên những thành quả khoa học - kỹ thuật trong nước. Để thực
110
hiện được điều này, Ấn Độ đã xây dựng các chính sách về phát triển vũ khí hạt nhân,
hệ thống tên lửa, các thiết bị quân sự hiện đại và đặc biệt là lực lượng vũ trang hùng
mạnh đứng thứ 4 thế giới. Thành công của Ấn Độ là sự khéo léo linh hoạt trong chính sách đối ngoại để nuôi dưỡng và phát huy các thế mạnh mà không dẫn đến
việc bị cô lập hay sự đối đầu với các quốc gia khác. Điều này giúp cho Ấn Độ tạo được một môi trường hòa bình, ổn định cho phát triển kinh tế.
Bước sang thế kỷ XXI, Ấn Độ đang nỗ lực từng bước khẳng định sức mạnh của
mình trên lĩnh vực quân sự quốc phòng. Ấn Độ có một tiềm năng quân sự rất lớn khiến các quốc gia khác phải lo lắng, chủ động đề phòng trước sự gia tăng cả về số lượng và năng lực chiến đấu, phòng thủ của các lực lượng này. Dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh, Ấn độ chủ động tăng cường hợp tác với các nước trong khu vực
và trên thế giới nhằm ứng phó với các thách thức an ninh, tiêu biểu phải kể đến việc
thành lập mạng lưới hợp tác chống khủng bố và tội phạm quốc tế thông qua trao đổi
thông tin và xây dựng các kênh thông tin chung với mục tiêu nhằm tăng cường khả
năng chống khủng bố và tội phạm quốc tế. Đặc biệt sau sự kiện khủng bố tại Mỹ
11/9, Ấn Độ tăng cường tham gia vào các diễn đàn đa phương về vấn đề phòng
chống khủng bố, cực đoan. Ấn Độ và Mỹ đã thúc đẩy nhiều chương trình hợp tác
quốc phòng, mua bán vũ khí, chống khủng bố và diễn tập quân sự chống khủng bố. Ngoài ra đối với các vấn đề an ninh phi truyền thống, Ấn Độ cũng có nhiều hợp tác
với các quốc gia khác như Pháp, New Zealand, Canada trong việc đối phó với chủ
nghĩa cực đoan trực tuyến, an ninh mạng… góp phần đảm bảo an ninh quốc tế, bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia.
Trong vấn đề đảm bảo an ninh hàng hải của Ấn Độ, nhiều xu hướng tiêu cực trong lĩnh vực hàng hải đang nổi lên ở châu Á trong bối cảnh mới. Các tranh chấp
lãnh thổ trên các đảo nhỏ đang gia tăng, đe dọa an ninh biển châu Á. Chính sách
của Trung Quốc và sự can dự của Mỹ tại châu Á - Thái Bình Dương buộc Ấn Độ
phải có điều chỉnh chiến lược trong chính sách đối ngoại của mình. Ấn Độ đã tăng
cường hợp tác với Mỹ cùng giải quyết các vấn đề an ninh hàng hải. Đồng thời xây
dựng đối thoại song phương với Trung Quốc và có những bước đầu tiên trong cuộc
chiến phối hợp chống cướp biển ở Vịnh Aden. Ấn Độ cũng ủng hộ ý tưởng của
Cựu Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton về hợp tác ba bên Mỹ, Trung Quốc và Ấn
Độ. Sự hợp tác mạnh mẽ và bền vững giữa Mỹ, Trung Quốc và Ấn Độ được nhận
định sẽ là chìa khóa để giải quyết một cách hòa bình trong khai thác các nguồn tài
111
nguyên biển và tự do hàng hải của châu Á. Và sự hợp tác giữa 3 cường quốc này sẽ
dẫn dắt, duy trì sự ổn định và an ninh khu vực.
Đồng thời để bảo đảm an ninh quốc phòng, chủ quyền quốc gia, Ấn Độ tăng cường hợp tác an ninh quốc phòng với các nước lớn, các quốc gia có tiềm lực quốc
phòng. Nhờ vào những chương trình hợp tác phát triển, Ấn Độ đang từng bước sở hữu những công nghệ quốc phòng hiện đại nhất trên thế giới. Đây chính là cơ sở để quân sự Ấn Độ đạt được bước phát triển bền vững lâu dài nhằm mục đích tăng
cường an ninh quốc gia, đảm bảo chủ quyền lãnh thổ. Quan điểm của Ấn Độ là xây dựng tiềm lực quốc phòng đủ mạnh để đảm bảo an ninh quốc gia, chứ không dùng sức mạnh đó để chiến tranh với bất kỳ một quốc gia nào trên thế giới, nhưng sẽ sẵn
sàng phản kháng trước bất kỳ một thế lực nào xâm chiếm đến sự toàn vẹn lãnh thổ
của Ấn Độ. Mặt khác, mục tiêu chiến lược chính của chính phủ là củng cố và khẳng
định vị thế của một nước lớn tại Nam Á, đạt được thế thượng phong về mặt quân sự
trong khu vực Ấn Độ Dương và đạt được sức mạnh quân sự đủ để gây áp lực lên
cộng đồng quốc tế nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao vị thế của mình. Đồng thời, quốc
phòng - an ninh phát triển còn phục vụ cho công cuộc củng cố và bảo vệ độc lập về
kinh tế của quốc gia. Cụ thể hóa mục tiêu chiến lược này, Ấn Độ tiến hành chính
sách “Răn đe hạt nhân tối thiểu”, củng cố và hiện đại hóa thiết bị quân sự, xây dựng lực lượng quân đội hùng hậu để tiến tới thực hiện mục tiêu trở thành cường quốc
quân sự khu vực và thế giới.
Như vậy, bên cạnh những tiềm năng to lớn về quốc phòng sẵn có, thì Ấn Độ cũng đang nỗ lực phát triển sức mạnh quân sự quốc phòng của mình thông qua các
dự án hợp tác với các nước trên thế giới, cũng như thông qua các chương trình mua sắm vũ khí, hiện đại nền quốc phòng của mình. Thông qua những nỗ lực đó mà Ấn
Độ được đánh giá như là một cường quốc quân sự trên thế giới. Và với sức mạnh
quân sự như trên mà vị thế quốc gia của Ấn Độ ngày càng được củng cố hơn nữa,
góp phần vào công cuộc giữ vững độc lập, hòa bình ổn định trong nước cũng như
góp phần vào giữ gìn nền hòa bình trên thế giới.
Hai là, chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh
thúc đẩy xây dựng môi trường hòa bình, ổn định để Ấn Độ có thể tập trung cho phát
triển kinh tế, trong thế kỷ XXI, bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như tình hình trong
nước có nhiều diễn biến phức tạp, tác động không nhỏ đến quá trình thực hiện các mục
tiêu quốc gia của Cộng hòa Ấn Độ. Để đáp ứng được tình hình mới, một mặt trong
112
nước Ấn Độ thực hiện cải cách kinh tế, ổn định chính trị nội bộ, bảo tồn và phát huy
các giá trị văn hóa đặc thù của Ấn Độ, mặt khác các nhà hoạch định chính sách đã đưa
ra những sách lược mới, thực hiện chính sách đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ đối ngoại tạo lập môi trường hòa bình, ổn định nhằm phục vụ cho công cuộc cải cách kinh
tế toàn diện, phát huy tối đa vai trò của Ấn Độ trong khu vực và trên thế giới. Ngay từ những ngày đầu, Thủ tướng Manmohan Singh đã điều hành chính phủ của mình thực hiện nhiều chính sách tiến bộ hướng tới mục tiêu thúc đẩy kinh tế Ấn Độ trong môi
trường hòa bình, ổn định. Tình hình kinh tế xã hội và chính trị đã được thay đổi đáng kế, Thủ tướng Manmohan Singh cũng chấp nhận sự hỗ trợ từ các đảng chính trị khác nhau ở các đảng khu vực và quốc gia, đồng thời Thủ tướng Manmohan Singh đã duy
trì nguyên tắc phi bạo lực trong chính sách đối ngoại. Manmohan Singh đã đưa ra
những tuyên bố và hành động cụ thể về những mục tiêu quốc gia của Ấn Độ. Thủ
tướng Manmohan Singh tiếp tục theo đuổi chính sách không liên kết, tạo lập môi
trường hòa bình và tập trung vào các mục tiêu kinh tế trong đối nội cũng như đối
ngoại. Kinh tế là trung tâm trong chính sách đối ngoại của Manmohan Singh.
Chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh thay
đổi theo hướng chủ nghĩa thực dụng, hướng về các mục tiêu kinh tế. Năm 1949,
tổng thương mại của Ấn Độ có giá trị 2,3 tỷ USD đến năm 2012 tăng lên là 568 tỷ USD. Qua đó cho thấy, Ấn Độ hội nhập ngày càng sâu rộng hơn vào thị trường thế
giới[121]. Chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh đã sớm đạt được
những mục tiêu kinh tế cơ bản. Nhiệm kỳ đầu tiên của chính phủ Liên minh Tiến bộ Thống nhất (UPA), đứng đầu là Thủ tướng Manmohan Singh và Đảng Quốc đại
đã chủ trương chính sách đúng đắn để đưa Ấn Độ vào thế kỷ XXI với nhiều thành công. Thành công lớn nhất là trên phương diện kinh tế, nền kinh tế Ấn Độ đã có
những bước chuyển mình mạnh mẽ thông qua các chính sách kinh tế mới, đặc biệt
là ngoại thương và đầu tư nước ngoài.
Việc đưa vào các mục tiêu kinh tế đã làm tăng thêm sự đa dạng cho danh mục
đầu tư của Ấn Độ, sức mạnh kinh tế của Ấn Độ ngày càng được tăng cường khiến
cho tiếng nói trong các vấn đề thế giới có sức nặng hơn, đặc biệt là trong các diễn
đàn như WTO và diễn đàn G-20 nhằm phục hồi kinh tế toàn cầu. Do đó, Ấn Độ đã
phát triển một danh mục đối tác kinh tế đa dạng và mô hình gắn kết ổn định hơn
với thế giới. Trong Chiến tranh Lạnh Ấn Độ bị chi phối bởi ý thức hệ đối với một
số vấn đề như chiến tranh Ả Rập-Israel và phân biệt chủng tộc ở Nam Phi, các yêu
113
cầu của kinh tế trong quỹ đạo tăng trưởng đã khiến các yêu tố hệ tư tưởng bị thay đổi
phần nào. Trong bối cảnh mới, Ấn Độ nhận thấy giá trị trong việc kinh doanh với
nhiều quốc gia không phân biệt loại chế độ. Năm 2012, Ấn Độ đã sẵn sàng ký hiệp định thương mại tự do với Israel, một quốc gia mà nước này đã nhiều lần chỉ trích và
tẩy chay tại Mỹ trong Chiến tranh Lạnh. Thương mại cũng nằm trong chương trình đàm phán Ấn Độ-Pakistan năm 2012, với một khu vực ngày càng tăng ở Ấn Độ coi dòng hàng hóa và dịch vụ xuyên biên giới là một phương tiện có lợi để thúc đẩy lợi
ích chung giữa hai nước và thậm chí có thể làm giảm nguy cơ khủng bố biên giới từ Pakistan đến Ấn Độ. Trong WTO, Ấn Độ đã nỗ lực củng cố thông tin thương mại đa phương của mình trong khi cũng tin tưởng vào một số khu vực và song phương Các
hiệp định thương mại tự do. Nhìn chung, Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan
Singh đã có trách nhiệm hơn trong việc quản lý nền kinh tế quốc tế đồng thời xây
dựng quan hệ đối tác kinh tế trên cơ sở phi ý thức hệ, bao gồm các nước như Mỹ,
Trung Quốc, Nhật Bản, Iran, Israel, Pakistan, Bangladesh, và các quốc gia khác.
Thông qua chính sách đối ngoại trung lập, không liên kết, Ấn Độ tăng cường và
mở rộng quan hệ với các nước lớn, các trung tâm kinh tế lớn của thế giới, Ấn Độ
tuân thủ những nguyên tắc đối ngoại truyền thống, lấy hòa bình, trung lập, không
liên kết làm cơ sở, đồng thời không ngừng mở rộng quan hệ với các nước trên thế giới, thực hiện đa dạng hóa và đa phương hóa quan hệ. Quan hệ Mỹ - Ấn không
ngừng được cải thiện kể từ sau sự kiện 11 - 9 - 2001, đánh dấu bằng thỏa thuận hạt
nhân dân sự Mỹ - Ấn. Quan hệ Trung - Ấn cũng phát triển mạnh mẽ theo xu hướng vừa hợp tác, vừa cạnh tranh. Trong xu thế đó, dù đầy trắc trở nhưng quan hệ giữa Ấn
Độ với Pakistan cũng có những tiến bộ đáng kể trong việc giải quyết tranh chấp xoay quanh vấn đề Kashmir. Ngoài ra, quan hệ Ấn Độ với EU, ASEAN cũng được nâng
lên tầm cao mới.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI này, Ấn Độ đã có những chuyển hướng
trong chính sách đối ngoại của mình: thực hiện chính sách ngoại giao toàn diện
“Liên kết với phương Tây và hướng về phía Đông”, đã mở cửa nhanh chóng và coi
trọng quan hệ với các nước lớn, trong đó có Mỹ, coi “ngoại giao kinh tế” là trọng
tâm, lấy ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế. Các chuyến thăm chính thức của
lãnh đạo các nước lớn như Mỹ, Anh, Trung Quốc, Nhật Bản, Pakistan…đến Ấn Độ
trước hết thể hiện chính sách ngoại giao mới của Ấn Độ, đồng thời cũng thể hiện sự
quan tâm của các nước này đến Ấn Độ trên bình diện chính trị, từ đó tạo cơ sở để
114
Ấn Độ hợp tác phát triển kinh tế. Có thể nói chưa bao giờ tương lai của Ấn Độ lại
trở thành chủ đề quan tâm trong thế kỷ XXI, và khẩu hiệu “Ấn Độ tỏa sáng” không
chỉ còn đơn thuần là câu nói mà thể hiện rõ ràng quy mô nền kinh tế, quy mô thị trường và sức mạnh của khoa học kỹ thuật…khiến mọi quốc gia phải thay đổi cách
nhìn về Ấn Độ:
- Tăng cường quan hệ với các nước láng giềng Nam Á: ngưng chiến với Pakistan. Quan hệ Ấn Độ - Pakistan vẫn là trung tâm trong vị trí địa chính trị của
Ấn Độ. Một trong những dấu mốc quan trọng của chính sách đối ngoại mới của Ấn Độ là xu hướng giữ nguyên biên giới truyền thống với các nước láng giềng Nam Á. Do đó, việc xung đột tiếp diễn giữa Pakistan và Ấn Độ vẫn là vấn đề trung tâm.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, quan hệ hai nước Ấn Độ - Pakistan được
xác lập tương đối tốt. Hiệp định ngừng bắn năm 2003 và việc các quan chức, lãnh
đạo hai nước tiếp tục đối thoại về vấn đề này đã thúc đẩy quan hệ hai nước tốt đẹp
hơn. Vấn đề nổi tiếng và cũng là gai góc nhất chia cắt hai nước chính là xung đột ở
Kashmir là chủ đề làm việc của nhóm công tác... Ấn Độ không chỉ là một quốc gia
rộng lớn và hùng cường hơn, mà nước này còn là nước có vùng đất thuộc Kashmir
gây tranh cãi lớn nhất.
Trong quá khứ, hai nước đã từng nhiều lần nỗ lực tìm hướng giải quyết nhưng không thành công. Nhưng cam kết của các nhà lãnh đạo tiếp tục đối thoại hòa bình
và sự sẵn sàng ngồi lại đàm phán của hai bên tạo cơ hội thuận lợi cho tiến trình này
trong tương lai. Hai chính phủ đã có trao đổi đoàn cấp cao, mở rộng quan hệ giữa nhân dân với nhân dân, được đánh dấu bằng những quy định về visa và việc khánh
thành dịch vụ xe bus giữa hai bên của Kashmir. Hai bên cũng mở rộng giao thương. Người ta đang trông mong vào sự sẵn sàng trong việc đưa ra một giải pháp cho vấn
đề khó khăn này, để đạt một nền hòa bình vĩnh viễn.
Chính sách của Ấn Độ với phần còn lại của khu vực cũng chuyển đổi theo
hướng kinh tế. Vị trí ưu tiên của Ấn Độ ở khu vực luôn là nhân tố quan trọng trong
tiếp cận của nước này ở khu vực. Ấn Độ đang đối mặt với một số vấn đề từ tình
hình an ninh khu vực cũng như cách tiếp cận ở khu vực này, ưu tiên khu vực đang
bắt đầu thay đổi theo hướng vì lợi ích kinh tế. Một lần nữa, vị trí chiến lược trong
của nhu cầu năng lượng và quan hệ thương mại được khẳng định.
- Cải thiện được quan hệ với các nước lớn, trong những năm đầu thế kỷ XXI, Ấn
Độ đã có sự cải thiện về cơ bản trong quan hệ với nhiều nước lớn. Chính điều này đã
115
góp phần vào sự phát triển nhanh chóng của Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Thủ tướng Manmohan Singh giữ được mối quan hệ cân bằng và ổn định với các nước,
nhất là các cường quốc Mỹ, Trung Quốc và với các nước láng giềng ở Nam Á. Song song với quan hệ truyền thống với Nga, xu hướng chủ đạo trong đối ngoại là ngả về
phía Mỹ. “Thủ tướng Manmohan Singh được đánh giá là lãnh đạo Ấn Độ thân Mỹ nhất kể từ khi Ấn Độ giành được độc lập cách đây 67 năm”. Đối với Trung Quốc, dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh nói riêng và Đảng Quốc Đại nói chung, Ấn Độ luôn ở thế
phòng thủ, bị động đối phó các hành động của Trung Quốc.
Ấn Độ đã thành công trong việc cải thiện và phát triển mối quan hệ với Mỹ. Bước sang thế kỷ XXI, bên cạnh quan hệ kinh tế song phương hai nước được cải
thiện thì trên lĩnh vực chính trị ngoại giao giữa 2 nước cũng có nhiều khởi sắc.
Chính quyền Tổng thống G. Bush coi trọng mối quan hệ với Ấn Độ. Trong giai
đoạn này hai nước tiếp tục thực hiện những nội dung trong văn kiện khung “Quan
hệ Mỹ- Ấn: triển vọng thế kỷ XXI” được xác lập trước đó. Hai bên nhất trí thiết lập
“quan hệ đối tác kiểu mới, lâu dài, mang tính xây dựng về chính trị và hiệu quả về
kinh tế”. Về cơ bản Mỹ thừa nhận địa vị nước lớn hạt nhân của Ấn Độ và ủng hộ
Ấn Độ trở thành nước thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc. Trong một
chuyến thăm tới Ấn Độ, Tổng thống Bush tuyên bố coi Ấn Độ là đồng minh dân chủ lớn của Mỹ. Đáp lại, Ấn Độ công khai ủng hộ “ Kế hoạch phòng thủ tên lửa
quốc gia của Mỹ” (NMD). Đặc biệt sau sự kiện 11/9 quan hệ Ấn Độ -Mỹ càng trở
nên nồng ấm hơn. Cụ thể, là trong chuyến công du đến Ấn Độ, khi nhận xét về mối quan hệ giữa 2 nước, Tổng thống Barack Obama khẳng định: “Là 2 nền dân chủ
lớn nhất thế giới, 2 nền kinh tế thị trường lớn và đang nổi, 2 xã hội đa dạng và đa sắc tộc, chúng ta không chỉ có cơ hội mà còn có trách nhiệm đi đầu. Và đó là lý do
tại sao tôi tin rằng mối quan hệ Mỹ-Ấn sẽ là một trong những quan hệ định hình thế
kỷ 21”[118]. Đồng thời, Thủ tướng Singh cũng nhấn mạnh mối quan hệ giữa 2
nước là mối quan hệ định hình và không thể thiếu trong những thập niên tới. Có thể
thấy rằng đây là nhân tố rất quan trọng để khai thông, mở rộng quan hệ hợp tác
kinh tế đối ngoại của Ấn Độ, tạo điều kiện để có những thành công lớn hơn cho sự
tăng trưởng nhanh của Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Tăng cường “Chính sách hướng Đông”, một trọng tâm khác trong chính sách đối
ngoại của Ấn Độ là củng cố, tăng cường quan hệ với các nước châu Á, nhất là các
nước láng giềng. Với các nước Đông Á (gồm Đông Bắc Á và Đông Nam Á), Ấn Độ
116
triển khai “Chính sách Hướng đông” nhằm không ngừng tăng cường quan hệ với các
nước trong khu vực, trong đó chọn ASEAN là một trọng tâm. Một Ấn Độ hướng
Đông thể hiện trong những mối liên hệ với Trung Quốc, các nước Đông Nam Á và Nhật Bản, những ưu tiên chính sách của nước Ấn Độ trong khu vực.
Quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc tuy trải qua những bước thăng trầm, đặc biệt là sau khi Ấn Độ tiến hành thử hạt nhân (năm 1998), nhưng đã được cải thiện căn bản sau chuyến viếng thăm Ấn Độ của Chủ tịch Quốc hội Trung Quốc Lý Bằng vào đầu năm
2001. Tháng 4/2005, quan hệ Ấn Độ - Trung Quốc đã bước sang trang mới khi hai bên đã ký hiệp định về thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Và vào tháng 12 năm 2010, Ấn Độ đánh dấu một mốc son ngoại giao khi ông Ôn Gia Bảo là Thủ tướng Trung Quốc
đầu tiên tới thăm Ấn Độ trong bốn năm qua để mở đầu cho xu hướng hữu nghị mới
giữa hai nước. Ông dẫn đầu một trong những đoàn đại biểu lớn nhất từ trước đến nay
tới Ấn Độ, gồm 400 giám đốc và doanh nghiệp với hy vọng chuyến thăm nay sẽ thúc
đẩy tình hữu nghị hợp tác giữa Trung Quốc và Ấn Độ và làm sâu sắc thêm quan hệ hai
nước. Với quan điểm “Thế giới có đủ chỗ cho cả Trung Quốc và Ấn Độ phát triển và
có đủ lĩnh vực cho chúng ta hợp tác”, hai nước đã ký hàng loạt hợp đồng. Trung Quốc
trở thành đối tác thương mại lớn nhất của Ấn Độ, khối lượng thương mại hai chiều
trong năm 2014 đạt đến 71 tỷ USD.
Kể từ khi Ấn Độ trở thành đối tác đối thoại đầy đủ của ASEAN, những năm
đầu thế kỷ XXI hợp tác giữa Ấn Độ và ASEAN có những bước đột phá mạnh mẽ
trên cả mặt chính trị và ngoại giao. Ấn Độ đã tham gia vào hàng loạt các cuộc họp tham vấn với ASEAN theo quan hệ đối thoại ASEAN-Ấn Độ, trong đó bao gồm
Hội nghị cấp cao, Hội nghị Bộ trưởng, các cuộc họp giữa các quan chức cao cấp và các cuộc họp ở cấp chuyên gia. Đồng thời thông qua các khuôn khổ đối thoại và
hợp tác do ASEAN khởi xướng như: Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF); Hội nghị
sau Bộ trưởng (PMCs)10+1; Cấp cao Đông Á (EAS), hộp tác sông Mekong- Sông
Hằng; Sáng kiến vùng Vịnh Bengal về hợp tác kinh tế và Kỹ thuật đa khu vực
(BIMSTIC),…đã góp phần tăng cường hợp tác đối thoại trong khu vực và xúc tiến
quá trình hội nhập khu vực. Đến nay Ấn Độ đã trở thành một đối tác quan trọng của
ASEAN trên rất nhiều lĩnh vực.
Có thể thấy trong những năm đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ có nhiều thay đổi trong tư
duy đối ngoại, đã và đang điều chỉnh chiến lược đối ngoại một cách toàn diện, nhằm
thực hiện mục tiêu chiến lược là đảm bảo hòa bình, ổn định và hợp tác trong khu vực
117
và trên thế giới, qua đó tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế đất nước, tăng
cường thực lực đồng thời mở rộng không gian chiến lược nhằm tạo dựng ảnh hưởng
tương xứng với vị thế của cường quốc khu vực và toàn cầu.
Như vậy, với những thay đổi trong các chính sách đối nội, đối ngoại hợp lý,
đủ uyển chuyển mà Chính phủ Ấn Độ đã thu được nhiều thành tựu trên lĩnh vực này. Trên cơ sở những thành tựu đó mà tình hình trong nội bộ đất nước được cải thiện nhiều như trên các lĩnh vực giáo dục, kinh tế…Không chỉ trong nước mà đối
với thế giới, Ấn Độ ngày càng có tiếng nói quan trọng trên trường quốc tế, buộc các nước lớn phải nhìn nhận lại Ấn Độ, xem xét lại các chính sách ngoại giao của mình với Ấn Độ trong thời gian tới.
Ba là, Ấn Độ tích cực tham gia hội nhập khu vực, hội nhập thế giới, mở rộng
quan hệ với các đối tác bên ngoài, trở thành một đối tác quan trọng của các nước
lớn trong và ngoài khu vực. Ngay sau khi thực hiện cải cách dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh, Ấn Độ thực hiện xóa bỏ các rào cản về thuế quan, tạo mọi điều
kiện để thu hút đầu tư nước ngoài. Ấn Độ đã chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp
sang nền kinh tế mở cửa thân thiện với một môi trường đầu tư thông thoáng nhưng
vẫn đảm bảo tính độc lập trong định hướng phát triển của đất nước. Điều này thể
hiện ở chỗ nền kinh tế Ấn Độ được mở cửa từng bước, quan sát, không vội vàng sao chép tất cả những mô hình mở cửa và phát triển thành công của các nước châu
Á khác. Ngay trong giai đoạn đầu, những cải cách của Ấn Độ chỉ tập trung vào giải
quyết khủng hoảng kinh tế, tiếp đó là từng bước xoá bỏ những kiểm soát quan liêu kìm hãm các ngành công nghiệp và hoạt động xuất nhập khẩu, bước đầu giảm bớt
rào cản đối với đầu tư nước ngoài. Tất cả những biện pháp này vừa là sự giải thoát nền kinh tế khỏi một mô hình quản lý không còn phù hợp, vừa để tranh thủ nguồn
lực phát triển từ bên ngoài. Nhưng khác với Trung Quốc và các nước Đông Nam Á,
Ấn Độ không lựa chọn mô hình tận dụng nguồn lực bên ngoài thông qua hàng loạt
công xưởng sử dụng nhiều lực lượng lao động để sản xuất các sản phẩm nông -
công nghiệp hướng vào xuất khẩu. Ấn Độ cho rằng như thế sẽ bị mất tính độc lập
nhất định và sẽ trở nên bị phụ thuộc vào các tập đoàn tư bản xuyên quốc gia. Mục
đích mở cửa của Ấn Độ là để tranh thủ nguồn vốn tư bản, nguồn vốn về quản lý và
khoa học kỹ thuật để nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế độc lập. Vì thế, Ấn
Độ lựa chọn cho mình một mô hình phát triển riêng, độc đáo. Theo Gurcharan Das:
“Điều đáng để ý trong sự trỗi dậy của Ấn Độ chính là do tính độc đáo của con
118
đường mà họ đã đi. Thay vì đi theo sách lược cổ điển thường thấy ở châu Á là tập
trung lao động phục vụ xuất khẩu, sản xuất hàng hóa rẻ mạt cho phương Tây, bên
cạnh các thị trường xuất khẩu, đầu tư nước ngoài Ấn Độ đã hướng đến thị trường nội địa, tiêu dùng trong nước, chú ý đến dịch vụ nhiều hơn là công nghiệp, đến công
nghệ cao nhiều hơn sản xuất gia công với tay nghề thấp”[136]. Tính đến năm 2015, tiêu dùng chiếm 69,57% GDP; dịch vụ chiếm trên 60% GDP[111]. Mô hình kinh tế hướng tới dịch vụ nội địa này “thân thiện” với người dân hơn các chiến lược phát
triển kinh tế khác. Nhờ đó, nền kinh tế Ấn Độ hầu như thoát khỏi những chao đảo của nền kinh tế toàn cầu, mức ổn định kinh tế cũng đáng nể như tỷ lệ tăng trưởng. Ngoài ra, Ấn Độ tập trung vào phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs) cho
phép các nhà doanh nghiệp chủ động và linh hoạt, tránh rủi ro trong vận hành mọi
hoạt động sản xuất, kinh doanh. Hiệu quả kinh tế do SMEs mang lại rất cao, trở
thành xương sống cho nền kinh tế Ấn Độ..
Việc cải thiện quan hệ với các nước lớn, đặc biệt là Mỹ là nhân tố quan trọng
không thể thiếu để một quốc gia đẩy nhanh hội nhập quốc tế và cất cánh. Chính
nhờ cải thiện được mối quan hệ với Mỹ và các nước lớn khác mà Ấn Độ đã có
được bước phát triển nhanh chóng. Thứ hai là, chính sách với các nước láng giềng:
mặc dù do những mâu thuẫn lịch sử để lại, Ấn Độ và các nước Nam Á, đặc biệt là Pakistan luôn có quan hệ và nghi ngờ lẫn nhau, những dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh đã có những hướng thay đổi linh hoạt, Ấn Độ muốn đi vào lòng
các nước Nam Á bằng một hình ảnh thân thiện và xây dựng chứ không phải là một nước theo “Chủ nghĩa sôvanh Đại Ấn”. Thứ ba là, việc triển khai “Chính sách
hướng Đông”, nắm bắt thế kỷ XXI là thế kỷ của châu Á - Thái Bình Dương, vì vậy sau Chiến tranh lạnh, Ấn Độ đã triển khai “Chính sách hướng Đông” và Đông Nam
Á là khu vực trọng tâm của chính sách này. Chính tại khu vực này, Ấn Độ đã gặt
hái được những thành công đáng kể, hơn thế nữa, hội nhập với ASEAN, Ấn Độ sẽ
có điều kiện tốt hơn để gia nhập các tổ chức kinh tế rộng lớn hơn như Diễn đàn hợp
tác Á - Âu (ASEM), APEC cũng như nền kinh tế toàn cầu - một yêu cầu cấp bách
của Ấn Độ từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay. Mỗi thời kỳ khác nhau, mỗi
đối tác khác nhau, Ấn Độ đều có sự điều chỉnh linh hoạt trên tinh thần hợp tác,
cạnh tranh, tránh đối đầu. Điều này thể hiện rất rõ qua việc chuyển “Chính sách
hướng Đông” thành “Hành động ở phía Đông”, chính sách “Láng giềng là ưu tiên
số một”, “Chính sách ngoại giao Phật giáo”... Chính sự linh hoạt trong chính sách
119
ngoại giao đã giúp Ấn Độ có những bước phát triển vượt bậc về mọi mặt trong
những năm qua.
Đối với Ấn Độ, việc tập trung vào mối quan hệ với các nước láng giềng mang ý nghĩa địa chính trị vô cùng quan trọng. Khi Trung Quốc đang ngày càng tăng
cường ảnh hưởng của mình trong khu vực, Ấn Độ cần phải chứng minh rằng mình không phải là một nước lớn đang áp đặt quan điểm của mình lên các nước nhỏ hơn. Nước này cũng cần thay đổi hình ảnh của mình, từ chỗ chỉ hứa hẹn đến chỗ đem lại
nhiều lợi ích cho các nước láng giềng nhỏ ở khu vực. Ấn Độ cũng ký một thỏa thuận về trao đổi đất đai với Bangladesh nhằm giải quyết vấn đề tranh chấp lãnh thổ kéo dài suốt 70 năm với nước láng giềng này. Thỏa thuận này đã giải thoát cho
hàng nghìn người bị mắc kẹt tại các vùng tranh chấp, khi mà vùng đất mà họ cư trú
tuy thuộc quyền sở hữu của nước này nhưng lại nằm gọn trong lãnh thổ của nước
kia. Cùng thời điểm đó, “Chính sách hướng Đông” và chính sách “ngoại giao văn
hóa” bước đầu đã mang lại hình ảnh cho Manmohan Singh và vị thế của Ấn Độ
trên trường quốc tế, đẩy nhanh quá trình hội nhập quốc tế và khu vực.
Như vậy, kinh nghiệm của Ấn Độ cho thấy rằng, muốn nhận được sự hưởng
ứng mạnh mẽ của khu vực và quốc tế, một chủ trương, chính sách lớn phải có tầm
nhìn bao quát, xuyên suốt, phải mang tính thời đại.
Bốn là, chính sách đối ngoại đa phương, rộng mở góp phần nâng cao vai trò, vị
thế của Ấn Độ trong khu vực và trên trường quốc tế. Với chính sách đối ngoại mềm
dẻo, linh hoạt Ấn Độ từng bước củng cố hình ảnh và vị thế của mình ở các khu vực và cộng đồng quốc tế. Với chính sách ngoại giao đa phương hóa, đa dạng hóa, Ấn
Độ tham gia vào hầu hết các khu vực, các trung tâm kinh tế, tiêu biểu như “Chính sách hướng Đông” sau này chuyển thành chính sách “Hành động ở phía Đông”,
“Chính sách văn hóa mềm”... đã giúp Ấn Độ có một vị thế và tầm ảnh hưởng lớn
trên thế giới và đặc biệt là khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Chính sách ngoại
giao năng động đã khiến Ấn Độ mạnh mẽ nổi lên trong nhận thức chiến lược toàn
cầu. Tất cả điều này đã khiến Mỹ, Trung Quốc và các nước lớn điều chỉnh ưu tiên
chính sách đối ngoại với Ấn Độ. Ấn Độ đóng vai trò nòng cốt trong tổ chức thương
mại thế giới WTO, Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC); là thành viên tích
cực trong nhóm G20, BRICS và các tổ chức khu vực, tiểu khu vực như RCEP,
BCIM-EC, IORA (Hiệp hội các nước bao quanh Ấn Độ Dương); Ấn Độ thiết lập các
mối quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn cầu với các nước lớn trên thế giới, đặc
120
biệt là các nước châu Á - Thái Bình Dương: quan hệ đối tác chiến lược với Mỹ, quan
hệ đối tác chiến lược đặc biệt với Nga, quan hệ đối tác hợp tác chiến lược với Trung
Quốc, quan hệ đối tác chiến lược hoặc đối tác toàn cầu với các nước Đông Á..; Vị thế và ảnh hưởng của Ấn Độ ngày càng gia tăng tại các khu vực và các diễn đàn đa
phương trên thế giới.
Ngoài kinh tế, nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh đã đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao vị thế của Ấn Độ trên trường quốc tế thông qua việc
thúc đẩy các quan hệ hợp tác trên lĩnh vực an ninh quốc phòng. Một trong những thành công lớn nhất trên mặt trận này là vấn đề hạt nhân đã được đặt sang một bên vào năm 2005, khi ông Bush và Thủ tướng Manmohan Singh, ký Sáng kiến Hợp
tác Hạt nhân Dân sự, một khuôn khổ dỡ bỏ lệnh cấm của Mỹ kéo dài ba thập kỷ về
thương mại năng lượng hạt nhân với Ấn Độ, là tiền đề cho thỏa thuận hạt nhân dân
sự Mỹ - Ấn năm 2008.
Mặc dù Ấn Độ là quốc gia sở hữu vũ khí hạt nhân và không tham gia vào Hiệp
ước không phổ biến vũ khí hạt nhân, song Ấn Độ nhận được miễn trừ từ Cơ quan
Năng lượng Nguyên tử Quốc tế và Nhóm các nhà cung cấp hạt nhân, Ấn Độ do vậy
thoát khỏi các hạn chế trước đây đối với công nghệ và thương mại hạt nhân. Như vậy,
Ấn Độ trở thành quốc gia thứ sáu sở hữu vũ khí hạt nhân trên thực tế. Ấn Độ sau đó ký kết các thỏa thuận hợp tác liên quan đến năng lượng hạt nhân dân sự với Nga, Pháp,
Anh và Canada. Qua đó, việc Ấn Độ trở thành hàng ngũ của các quốc gia có vũ khí hạt
nhân được chấp nhận trên toàn cầu. Với uy tín của Thủ tướng Manmohan Singh, ông đã thuyết phục được các phe đối lập trong quốc hội với việc phản đổi ký kết thỏa thuận
hạt nhân dân sự với Mỹ và nhận ra tầm quan trọng của thỏa thuận đối với vị thế toàn cầu và nhu cầu năng lượng của Ấn Độ.
Được Mỹ đẩy mạnh quan hệ song phương giữa hai nước trong bối cảnh Trung
Quốc đang trỗi dậy cũng đã tạo điều kiện thuận lợi cho Ấn Độ tiếp tục theo đuổi và
thực hiện các mục tiêu của tư tưởng không liên kết. Thủ tướng Manmohan Singh
và chính phủ của mình cũng rất thận trọng với những thay đổi đáng kể và nhanh
chóng trong quan hệ với Mỹ. Quan hệ đối tác Mỹ-Ấn được xây dựng dựa trên
những tính toán cẩn trọng của mỗi bên: Mỹ, bất an trước viễn cảnh về một Trung
Quốc đang nổi lên, đã tìm cách xây dựng các trung tâm quyền lực mới ở châu Á.
Trong khi đó, Đối với Ấn Độ, việc vô hiệu hóa những hiểm họa do một Trung
Quốc đang lớn mạnh gây ra đòi hỏi nước này phải tăng cường sức mạnh quốc gia
121
của chính mình, với Mỹ đóng vai trò vừa là nguồn hỗ trợ, và nói một cách rộng
hơn, vừa là người bảo vệ cho trật tự quốc tế tự do. Theo những điều kiện này, quan
hệ đối tác giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ.
Bên cạnh đó, ngoại giao văn hóa cũng góp phần không nhỏ vào việc xác định
vị thế của Ấn Độ trong khu vực và trên trường quốc tế, trong quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại của mình, Ấn Độ luôn sử dụng yếu tố văn hóa để củng cố cho sức mạnh tổng hợp quốc gia. Với “Chính sách văn hóa mềm” và “Ngoại giao Phật
giáo”, Ấn Độ đã thành công trong việc quảng bá hình ảnh của một đất nước đa sắc tộc, đa văn hóa với thế giới và trở thành một điểm du lịch hành hương với hệ thống dày đặc các viện bảo tàng, các danh lam thắng cảnh mang đậm nét văn hóa của Ấn
Độ đối với các tín đồ Phật giáo trên toàn cầu. Ấn Độ còn đẩy mạnh phát triển
ngành điện ảnh Bollyhood và môn thể thao tâm linh Yoga. Ấn Độ đã đề xuất thành
công Liên hợp quốc công nhận ngày Quốc tế Yoga (ngày 21/6 hàng năm). Xuất
khẩu ngành điện ảnh Bollyhood và môn thể thao tâm linh Yoga cũng góp phần lớn
vào sự tăng trưởng kinh tế của quốc gia mới nổi này. Giao lưu nhân dân giữa Ấn
Độ và các quốc gia tại khu vực châu Á được đẩy mạnh; công tác trao đổi lưu học
sinh về văn hóa, giáo dục được tăng cường... Ở Ấn Độ, các tôn giáo luôn tồn tại
song hành cùng lịch sử dân tộc, tôn giáo đã có những đóng góp tích cực nhất định cho nền văn hóa dân tộc, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc Ấn
Độ. Tôn giáo còn được biết đến như là một trong những công cụ tỏ ra hiệu quả mà
Chính phủ Ấn Độ ngày càng chú trọng sử dụng để tạo ảnh hưởng cũng như khẳng định vị thế của mình trong những năm đầu thế kỷ XXI thông qua sức mạnh mềm.
Ấn Độ đang tăng cường việc ảnh hưởng bằng tôn giáo ở châu Á thông qua các hoạt động như tài trợ cho các cuộc hội thảo, các website tôn giáo, trưng bày thánh vật,
xây dựng chùa, tượng… Trong thế kỷ XXI, việc tạo ảnh hưởng và đạt được lợi ích
quốc gia thông qua sức mạnh mềm, qua con đường phi bạo lực là điều mà tất cả các
quốc gia trên thế giới đang hướng tới trong chiến lược phát triển của mình trong đó
có Ấn Độ. Và đặc biệt hơn nữa đối với quốc gia Ấn Độ là tinh thần hòa bình, phi
bạo lực của thánh Mahatma Gandi được quốc tế đề cao, năm 2007, Đại hội đồng
Liên hợp quốc chính thức chọn ngày sinh của Mahatma Gandi - với tư tưởng “Phi
bạo lực là sức mạnh vĩ đại nhất của con người” đã có ảnh hưởng to lớn tới thế giới
là Ngày Quốc tế phi bạo lực. Với sự kiện này người dân Ấn Độ có quyền tự hào về
dân tộc mình. Ngày lễ kỉ niệm của một vị lãnh đạo quốc gia trở thành ngày kỷ niệm
122
chung của toàn nhân loại. Như vậy có thể thấy rằng thông qua việc sử dụng khéo
léo sức mạnh mềm của mình, Ấn Độ đã ngày càng khẳng định được vị trí của quốc
gia trên trường quốc tế.
Trong những năm đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ cũng thường xuyên tổ chức các
Tuần lễ phim, các dự án điện ảnh, tổ chức các cuộc triển lãm phim ảnh…để tạo điều kiện cho các nước hiểu hơn về điện ảnh Ấn Độ và cũng qua đó Ấn Độ có cơ hội giới thiệu đến với công chúng khắp nơi. Đó là phương thức hiệu quả để quảng
bá hình ảnh đất nước Ấn Độ đang trỗi dậy, có tiềm năng thu hút các nhà đầu tư trên thế giới đến với Ấn Độ.
Nhìn chung, mục đích trong chính sách ngoại giao văn hóa của Thủ tướng
Manmohan Singh là trở thành thủ lĩnh tinh thần toàn cầu đang có những thành công
nhất định trong suốt hai nhiệm kỳ của mình.
3.1.2. Hạn chế
Ngoài những thành tựu đã đạt được, trong quá trình triển khai thực hiện chính
sách đối ngoại của Ấn Độ, hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh cũng
phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát
triển của Ấn Độ, nhiều hạn chế trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ được đặt ra
cần phải lưu ý:
Một là, chính sách đối ngoại của Ấn Độ chưa thực sự quyết liệt, triệt để còn
nhiều chần chừ, do dự
Chính sách đối ngoại đa liên kết dưới thời thủ tướng Manmohan Singh được xem như một công cụ để phát triển kinh tế của Ấn Độ và đối phó với các thách thức về an
ninh, đặc biệt là những thách thức đến từ Trung Quốc, đưa Ấn Độ vào các tổ chức, diễn đàn khu vực và quốc tế, đồng thời cho phép nước này phát huy những giá trị dân
chủ riêng của mình mà không chịu sự chi phối của các nước phương Tây. Tuy nhiên,
chính phủ Ấn Độ chưa thực sự thành công trong việc đạt được những mục tiêu này.
Ấn Độ chưa thể đóng vai trò lãnh đạo trong các tổ chức khu vực mà mình tham gia,
không thu được lợi ích từ quan hệ với một số đối tác và không tỏ rõ thái độ rõ ràng
trong một số vấn đề quan trọng mà nước này có thể và đáng lẽ nên làm. Các nội dung
quan trọng trong chiến lược đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh như: tham gia
các tổ chức diễn đàn khu vực và quốc tế; xây dựng các mối quan hệ đối tác chiến lược;
theo đuổi những nguyên tắc và hệ giá trị riêng… trong thực tế triển khai chưa thực sự
triệt để, còn nhiều chần chừ và do dự.
123
Đối với vấn đề tham gia các tổ chức diễn đàn khu vực và quốc tế, Thủ tướng
Manmohan Singh đặc biệt quan tâm đến các diễn đàn đa phương – những nơi mà Ấn
Độ có thể đóng một vai trò nhất định. Tuy nhiên, chính phủ Ấn Độ giai đoạn này dành sự quan tâm nhiều hơn đến các mối quan hệ theo “chiều dọc”, các tổ chức mà
Ấn Độ đóng vai trò đặc biệt quan trọng như BRICS, G-20 không hề có sự liên quan hay ràng buộc nao về địa lý, trong khi vai trò của Ấn Độ tại các tổ chức khu vực như SAARC, ASEAN lại chưa thực sự nổi bật
Đối với việc xây dựng các mối quan hệ đối tác chiến lược, Thủ tướng Manmohan Singh đã thúc đẩy việc xây dựng các mối quan hệ đối tác chiến lược với các nước. Tuy nhiên, trong quan hệ với các nước lớn, Ấn Độ chỉ giữ vai trò như một
lực lượng cân bằng trong cuộc tranh giành ảnh hưởng của các nước lớn như Mỹ,
Nga, Trung Quốc. Ấn Độ chưa thực sự giành được quyền chủ động trong các mối
quan hệ này, còn nhiều lúng túng bị động, mục tiêu trở thành “nước lãnh đạo” của
Ấn Độ chưa rõ ràng. Trong quan hệ với các nước lớn, Ấn Độ vẫn chưa thực sự theo
kịp được những thay đổi trong chính sách của các nước này, đồng thời chưa tạo dựng
được các yếu tố bền vững, ổn định.
Đối với các nước láng giềng, Ấn Độ chưa xây dựng được quan hệ lợi ích đan
xen, tùy thuộc lẫn nhau; chưa tạo được niềm tin chính trị với các nước láng giềng lân cận. Trong quan hệ với các nước láng giềng, Ấn Độ thường xuyên chọn cách xây
dựng các cuộc đàm phán song phương thay vì tham gia vào các khuôn khổ khu vực.
Việc này khiến các nước láng giềng nhận định rằng, Ấn Độ sử dụng chủ nghĩa song phương như một công cụ ngoại giao cưỡng chế. Lẽ ra Ấn Độ cần ưu tiên phát triển
một thiết chế khu vực vững chắc trong đó bao hàm cả các quan hệ song phương và đa phương đồng thời tạo nên sự cân bằng về quyền lực nhưng tổ chức SAARC ở khu
vực lại tỏ ra chưa thực sự hiệu quả.
Ấn Độ chủ trương thúc đẩy hợp tác khu vực bằng cách nỗ lực giải quyết các
tranh chấp và mở rộng các mối liên kết kinh tế và an ninh với các nước láng giềng,
tạo ra một môi trường chiến lược mới. Với quan điểm là quốc gia có vai trò dẫn dắt
khu vực Nam Á, Ấn Độ đã cố gắng hỗ trợ cho nhiều nước láng giềng mà không đòi
hỏi một sự nhượng bộ hay trao đổi nào. Tuy nhiên, những nỗ lực này đã không được
công nhận một cách xứng đáng do mâu thuẫn trong quan hệ song phương giữa Ấn
Độ với một số nước láng giềng, khiên cho các nước này không thực hiện các cam kết
đối với Ấn Độ. Trên thực tế, Thủ tướng Manmohan Singh cũng có tầm nhìn rõ ràng
124
về sự liên kết cùa Ấn Độ với các nước láng giềng, song ông đã không thể vượt qua
những ý kiến phản đối trong nội bộ Đảng Quốc đại để ký bất kỳ hiệp định quan trọng
nào liên quan đến chia sẻ nguồn nước với Bangladesh, hay hòa bình với Pakistan. Trong suốt 10 năm làm Thủ tướng Ấn Độ, ông Singh chưa từng đến thăm các quốc
gia láng giềng như Bangladesh, Sri Lanka, Bhutan, Maldives. Đặc biệt, ông không có lần thăm chính thức nào đến Pakistan - một nước có nhiều hiềm khích trong quan hệ với Ấn Độ. Tình trạng đó tạo điều kiện cho Trung Quốc - nước có đường biên giới
chung với 4 quốc gia láng giềng của Ấn Độ - lôi kéo họ về phía mình. Trong bối cảnh Trung Quốc đẩy mạnh đầu tư vào các nước xung quanh, Sri Lanka và Maldives đã dịch chuyển xa hơn khỏi phạm vi ảnh hưởng của Ấn Độ. Ngay cả Bangladesh,
nước từng giữ được nên độc lập nhờ sự can thiệp của Ấn Độ, cũng muốn Trung
Quốc giúp họ xây một cảng mới. Anh hưởng ngày càng tăng của Trung Quốc ở Nam
Á càng làm gia tăng khoảng cách giữa Ấn Độ và các nước láng giềng.
Theo Behuria, Pattanaik và Gupta (2012), Ấn Độ chưa đạt được nhiều thành
tựu trong quan hệ với các nước láng giềng Nam Á do nhiều nguyên nhân khách quan
và chủ quan. Nguyên nhân khách quan là tình hình chính trị nội bộ đầy phức tạp của
các nước Nam Á và sự can thiệp của các nước lớn ngoài khu vực như Mỹ, Trung
Quốc, còn nguyên nhân chủ quan là Ấn Độ chưa xác định được một chính sách khu vực rõ ràng, cụ thể và không dành cho các nước này vị trí xứng đáng trong chính
sách đối ngoại của mình.
Hai là, tư duy đối ngoại của Ấn Độ còn nặng về các mục tiêu ngoại giao kinh
tế, chưa thực sự hiệu quả
Có thể thấy rằng, chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh chú trọng vào các mục tiêu kinh tế, ông cho rằng trọng tâm chính
trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ phải nằm trong lĩnh vực ngoại giao kinh tế.
Tuy nhiên quá trình thực hiện chính sách ngoại giao kinh tế của ông lại thiếu hiệu
quả so với những mục tiêu ban đầu. Trong giai đoạn này, Ấn Độ - nền kinh tế lớn
đang lên ở châu Á phải đối mặt với tình trạng nợ công nặng nề. Cuộc khủng hoảng
tài chính toàn cầu năm 2008 đã buộc chính phủ nhiều nước phải chủ động can thiệp
thông qua các gói kích cầu để vực dậy nền kinh tế. Ấn Độ cũng như vậy, gói kích
cầu của Ấn Độ vào khoảng 36 tỷ USD (tương đương 3,5% GDP). Trong việc thu hút
vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong nhiệm kỳ thứ hai của Thủ tướng Manmohan
Singh lại tỏ ra chưa hiệu quả, các nhà đầu tư nước ngoài rút một lượng lớn vốn ra
125
khỏi các sàn chứng khoán Ấn Độ, chuyển sang giữ đồng USD, dẫn đến đồng rupee
(đồng tiền của Ấn Độ) giảm giá, xuống tới 57,4 rupee/USD và năm 2014 ở mức 55
rupee/USD, mất giá 18- 20% so với đồng USD kể từ tháng 8/2011. Đồng rupee mất giá mạnh đã phần nào hạn chế tham vọng quốc tế của Ấn Độ, trong khi đó Ấn Độ
vẫn tăng cường chi tiêu cho hợp tác quốc phòng tăng cũng góp phần dẫn đến mức nợ công gia tăng.
Theo Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI), nợ nước ngoài của Ấn Độ ở mức 305,9
tỷ USD, tương đương 17,3% GDP - gần bằng dự trữ quốc gia 319 tỷ USD (tính đến tháng 7/2012). Năm 2011, nợ nước ngoài tăng 17,2% (khoảng 45 tỷ USD) do hoạt động thương mại, tín dụng mậu dịch ngắn hạn, vay mượn song phương, đa phương
tăng mạnh. Hơn 60% nợ nước ngoài của Ấn Độ bằng USD. Chi phí nợ của Ấn Độ
(gồm cả vốn và lãi) đã lên gần 85 tỷ USD trong quý 2/2012[168]. Các nhà đầu tư
nước ngoài có xu hướng rút vốn ra khỏi Ấn Độ, Ấn Độ đã chịu tổn thất lớn khi
dòng vốn trong các quỹ chủ chốt bị chảy ra khỏi nước này là 455 triệu USD[168].
Ấn Độ bị xếp hạng tín dụng quốc gia ở mức nợ đầu tư thấp nhất (BBB) - giống như Hy Lạp, và trở thành quốc gia đầu tiên trong nhóm các nền kinh tế mới
nổi BRICS bị đánh tụt hạng BBB cho xếp hạng nợ dài hạn. Xếp hạng nợ công BBB
của Ấn Độ đang trên mức không nên đầu tư.
Nguyên nhân chính là do Chính phủ UPA chưa tìm kiếm được sự đồng thuận
rộng rãi, để đưa ra các quyết sách thúc đẩy cải cách và các chính sách của Chính
phủ trong đó có chính sách đối ngoại chưa tạo thành mối liên kết chặt chẽ để thúc đẩy tăng trưởng.
Có thể thấy rằng, trong suốt hai nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn độ đã kiên trì và mạnh mẽ theo đuổi các mục tiêu kinh tế trong chính sách đối
ngoại của mình, tuy nhiên, điều này cũng làm ảnh hưởng không nhỏ tới chính sách
an ninh và đối ngoại của Ấn Độ. Có thể thấy rõ những kinh nghiệm trong chính
sách an ninh và đối ngoại của Ấn Độ là tăng cường chú trọng vào quan hệ với các
nước láng giềng Nam Á nói chung và Pakistan nói riêng. Mặc dù vậy, chính phủ
UPA dường như chưa có cố gắng khi bỏ qua Nam Á, điều này làm ảnh hưởng
không nhỏ tới uy tín và lòng tin của các nước Nam Á với Ấn Độ. Tiến trình hòa
bình với Pakistan còn thiếu nhất quán và liên tục, các chính sách xây dựng lòng tin
và giảm thiểu nguy cơ xung đột hạt nhân và tên lửa với Pakistan chưa thực sự được
chú trọng. Ấn Độ chưa xây dựng được các chính sách về vấn đề đối phó với các tổ
126
chức khủng bố có nguồn gốc từ Pakistan và khu vực Kashmir, hay việc tìm kiếm một
giải pháp cho vấn đề xung đột sắc tộc trong khuôn khổ một Sri Lanka thống nhất
cũng chưa được thực hiện, điều này chính là nguyên nhân dẫn tới sự xuất hiện của các nước như Na Uy, Mỹ, Nhật Bản,và EU ở Sri Lanka. Ở Bangladesh, Ấn Độ chú
trọng vào hàn gắn các quan hệ kinh tế trong khi các chính sách kiềm chế quân nổi dậy ở Đông Bắc Ấn Độ từ lãnh thổ Bangladesh còn mờ nhạt. Tương tự, các hoạt động của chủ nghĩa Mao ở Nepal và mối liên hệ của họ với các lực lượng phản động
ở Ấn Độ đe dọa an ninh nội bộ trong nước. Ấn Độ cũng phải đối mặt với sự lo lắng về quá trình gia tăng hoạt động của Mỹ ở cả Bangladesh và Nepal. Đối với Trung Quốc, Ấn Độ dành ưu tiên trong việc xây dựng lòng tin và phát triển kinh tế, tuy
nhiên Ấn Độ cũng phải đối diện với thâm hụt thương mại lớn từ quốc gia này, và các
vấn đề giải quyết tranh chấp lãnh thổ với Trung Quốc và sự can dự của Trung Quốc
tại Nam Á vẫn có nguy cơ đe dọa đến an ninh Ấn Độ, Trung Quốc tiếp tục là đối thủ
chiến lược lâu dài của Ấn Độ. Mối quan hệ giữa Ấn Độ và Mỹ trong giai đoạn này
có nhiều chuyển biến tích cực, tập trung trên lĩnh vực quân sự, qua đó Ấn Độ mong
muốn khẳng định vị thế quan trọng trên bản đồ kinh tế và chính trị toàn cầu, tuy
nhiên Ấn Độ cũng chưa đạt được mục tiêu trở thành trụ cột trong cấu trúc an ninh và
ngoại giao toàn cầu. Ấn Độ vẫn chưa khai thác được những quan hệ thương mại xứng đáng với nền kinh tế lớn nhất thế giới này. Đồng thời, quan hệ Mỹ - Ấn nồng
ấm lên trong giai đoạn này cũng khó tránh khỏi những hệ lụy trong cuộc đấu tranh
chiến lược giữa các nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh đạt trọng tâm và các động lục về kinh tế. Khi nhấn
mạnh vào các nội dung kinh tế trong chính sách đối ngoại, Ấn Độ cũng gặp phải nhiều thách thức về quản lý an ninh, những nguy cơ tiểm ẩn trong nước và khu vực.
Động lực cơ bản của chính sách an ninh và đối ngoại của Ấn Độ là “quyền tự chủ
chiến lược” và xu hướng này sẽ không thay đổi dưới thời chính phủ mới.
Chính sách đối ngoại của Ấn Độ được đánh giá là sự phản ứng có phần chậm
chạp trước những chuyển biến mang tính kiến tạo trong nền chính trị toàn cầu.
Trong toàn bộ quá trình triển khai và nội dung chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới
thời Thủ tướng Manmohan Singh, kinh tế là vấn đề trung tâm, điều này được thể hiện
bằng nguyên tắc đầu tiên trong năm nguyên tắc chính sách đối ngoại của Thủ tướng
Manmohan Singh. Tuy nhiên, sự sụt giảm tăng trưởng kinh tế trong nhiệm kỳ thứ hai
của chính phủ Liên minh Tiến bộ Thống nhất đã làm thay đổi phần nào các mục tiêu
127
kinh tế ban đầu trong chính sách đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh. Ba
nguyên tắc sau cho thấy sự tin tưởng của Thủ tướng Manmohan Singh cho rằng một
chính sách đối ngoại của Ấn Độ được thúc đẩy bởi các giá trị dân chủ sẽ mang lại nhiều lợi ích tích cực cho an ninh khu vực và toàn cầu. Tuy nhiên, những thách thức
an ninh và quyền tự chủ chiến lược của Ấn Độ dường như bị ảnh hưởng nhiều hơn và cần được quan tâm một cách cẩn thận hơn. Những giá trị này vừa là động lực vừa là mục tiêu còn thiếu trong chính sách đối ngoại của Ấn Độ, và nó sẽ tiếp tục được thực
hiện bởi người kế nhiệm Thủ tướng Manmohan Singh để biến nó thành hiện thực.
Ba là, chính sách đối ngoại của Ấn Độ thể hiện rõ tính thực dụng, tạo ra nghi
ngại và thiếu lòng tin chiến lược với các nước
Đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ vẫn duy trì tầm ảnh hưởng lớn ở khu vực Nam Á.
Tuy nhiên, Ấn Độ đã có sự suy giảm ảnh hưởng của mình ngay tại các nước sân
sau như Nepal, Sri Lanka, Maldives và luôn phải đối phó với những thách thức từ
bên ngoài, đặc biệt là từ các nước láng giềng.
Kể từ khi thông qua chính sách mới đối với Mỹ và thiết lập mối quan hệ quốc
phòng đặc biệt, Ấn Độ dường như lúng túng trong việc mong muốn đồng thời phát
triển mối quan hệ với Trung Quốc và Nga. Bằng cách từ bỏ xu hướng hướng nội,
Ấn Độ tăng cường hợp tác với Mỹ nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, trở thành cường quốc về chính trị và kinh tế. Tuy nhiên, khoảng cách giữa vị thế của Ấn Độ
và Mỹ khá rộng. Liên kết ngoại giao giữa Ấn Độ và Mỹ không thể che đậy tất cả
những khác biệt hiện tại giữa hai nước.
Ngoài ra, những tồn tại trong quan hệ lịch sử cùng với sự trỗi dậy về kinh tế,
quốc phòng và những sách lược muốn cạnh tranh ảnh hưởng tại khu vực với Trung Quốc đang là một thách thức lớn đối với Ấn Độ. Mặc dù Trung Quốc và Ấn Độ
đều mong muốn cải thiện quan hệ hai nước nhưng những “chấn thương của lịch sử”
và những mục tiêu củng cố sức mạnh của mỗi quốc gia đều có ảnh hưởng nhất định
đến mối quan hệ này. Trung Quốc ngày càng gia tăng ảnh hưởng ở khu vực và trên
thế giới. Sự hiện diện của Trung Quốc tại các quốc gia ven Ấn Độ Dương không
ngừng tăng lên thông qua các chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng, sân bay,
thành phố kinh tế và thương mại ở Maurtius; xây dựng sân bay quốc tế và cảng
thương mại Hambantota, mở rộng và hiện đại hóa cảng Colombo, sửa chữa và xây
dựng đường bộ và đường sắt ở Sri Lanka; xây dựng hải cảng mới tại Kyaukryu tới
tỉnh Vân Nam để có thể chuyển khí đốt và dầu mỏ sản xuất tại Myanmar. Trung
128
Quốc cũng đang thương lượng với Bangladesh về hiện đại hóa cảng Chitagong và
kết nối hệ thống đường sắt của Bangladesh với hệ thống đường sắt của Myanmar.
Ngoài ra, Trung Quốc còn thông qua các dự án cung cấp vũ khí và thiết bị quân sự để tăng cường quan hệ với Pakistan, Sri Lanka và Myanmar. Những năm đầu thế
kỷ XXI, Trung Quốc không ngừng gia tăng đầu tư về kinh tế bao vây Ấn Độ, hay như việc chưa đồng ý với nguyện vọng của Ấn Độ muốn trở thành thành viên thường trực HĐBA - một địa vị ngang bằng với Trung Quốc cho thấy chính sách
kiềm chế, bao vây Ấn Độ trên mọi mặt trận. Đối với Ấn Độ, Trung Quốc vừa là nước lớn, vừa là nước láng giềng cùng chung biên giới. Do vậy, Trung Quốc vẫn là ưu tiên đối ngoại của Ấn Độ, Ấn Độ hiểu rõ cơ hội kinh tế mà Trung Quốc có thể
mang lại và để tạo thế trong quan hệ với Mỹ.
Mặc dù các nhà lãnh đạo qua các thời kỳ đã nỗ lực bằng nhiều biện pháp ngoại
giao nhưng Ấn Độ và Pakistan vẫn chưa tìm được tiếng nói chung trong vấn đề
Kashmir. Mối quan hệ chưa thật sự tốt đẹp giữa Pakistan và Ấn Độ không chỉ xoay
quanh các vụ vi phạm thỏa thuận ngừng bắn mà còn phản ánh sự thiếu tin cậy giữa
hai quốc gia láng giềng. Điều này sẽ là một cản trở khi cả hai cường quốc hạt nhân
tại Nam Á vẫn cần có sự hợp tác trong nhiều lĩnh vực từ kinh tế đến an ninh. Tuy
nhiên, để xây dựng được một cơ chế đối thoại song phương thật sự hiệu quả còn là một hai bên phải cùng nhau xây dựng lòng tin và nhiều nỗ lực.
Dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ và Pakistan đã nhiều lần cùng
nhau ngồi vào bàn đàm phán về vấn đề Kashmir, tuy nhiên vẫn đề giữa hai quốc gia
dường như chưa tìm ra những giải pháp ổn định lâu dài. Kashmir là vùng đất tranh
chấp từ lâu chủ yếu giữa Ấn Độ và Pakistan. Tôn giáo đóng vai trò quan trọng trong
vấn đề Kashmir. Pakistan luôn đòi chủ quyền đối với Kashmir bởi vì dân số ở vùng
đất này phần lớn là người Hồi giáo, 60% dân số của bang Jammu và Kashmir thuộc
Ấn Độ là người Hồi giáo. Đây là bang duy nhất của Ấn Độ có người Hồi giáo chiếm
đa số. Hơn 50 năm qua, Ấn Độ và Pakistan luôn ở trong quan hệ thù địch. Sự thù
địch này bắt nguồn từ nguyên nhân tôn giáo, lịch sử, và leo thang thành một cuộc
chạy đua vũ trang nguy hiểm. Cuộc tranh chấp này ngày càng phức tạp hơn vì có
thêm những thế lực bên ngoài tham gia, việc Trung Quốc đã giúp đỡ xây dựng cho
Pakistan hai lò phản ứng plutonium từ những năm 70, điều này tạo điều kiện thu nhỏ
các đầu đạn hạt nhân và việc triển khai các vũ khí hạt nhân chiến thuật, những loại
vũ khí được quân đội Pakistan sử dụng trên chiến trường mà sẽ đặt ra cho Ấn Độ
129
nhiều vấn đề nghiêm trọng trong việc trả đũa nếu Delhi sở hữu những vũ khí nguy
hiểm nhưng không cân xứng với Pakistan. Sự lo lắng ngày một tăng khi mối quan hệ
giữa Trung Quốc và Pakistan đang ngày càng phát triển, trở thành những đồng minh
“trong mọi thời tiết” của nhau. Sự hậu thuẫn này là một trong những nguyên nhân
khiến cho vấn đề Kashmir trở nên phức tạp. Ngoài ra, quan hệ Mỹ- Pakistan cũng
đang tiến triển tốt đẹp. Pakistan là đồng minh của Mỹ trong cuộc chiến chống khủng
bố, đặc biệt là cuộc chiến ở Afghanistan. Hiện nay, Pakistan chính là con bài để
Trung Quốc và Mỹ mặc cả với Ấn Độ. Như vậy, có thế thấy nhân tố Pakistan,
Kashmir chính là những nhân tố không nhỏ mà Ấn Độ đang phải đối mặt.
Có thể thấy, trong quan hệ song phương Ấn Độ vẫn chưa thực sự chủ động nắm
bắt thời cơ và tạo ra những thay đổi lớn trong nền chính trị toàn cầu, Ấn Độ còn thiếu
tự tin và thúc đẩy quan hệ mạnh mẽ với Mỹ, chưa công khai quan hệ với Israel, quan
hệ với Pakistan vẫn còn nhiều nghi kỵ và vẫn phải đối mặt với nhiều thách thức từ
phía Trung Quốc…
3.2. Tác động chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh đối với quan hệ quốc tế và quan hệ Việt Nam - Ấn Độ
3.2.1. Tác động đối với quan hệ quốc tế
Trong những năm đầu thế kỷ XXI này với những thành tựu to lớn về ngoại giao,
kinh tế, chính trị, quân sự quốc phòng…đặc biệt trên lĩnh vực ngoại giao thì vị trí của
đất nước có hơn một tỉ dân này đang ngày càng được nhắc đến nhiều hơn trên các diễn
đàn đa phương khu vực và thế giới, đặc biệt trong thảo luận về các vấn đề toàn cầu nổi
cộm, từ khủng hoảng kinh tế - tài chính đến an ninh quốc tế bởi những tác động của nó
trên quy mô khu vực và thế giới ngày càng nhiều.
Có thể nói, Ấn Độ đã tự vươn mình trở thành một quốc gia quan trọng trong
đời sống quốc tế, có tiếng nói ngày càng to lớn trong các vấn đề khu vực và toàn
cầu, có nền kinh tế ngày càng phát triển và giành được những thành tựu quan trọng
về khoa học công nghệ. Mặc dù có những giai đoạn phải tập trung vào các vấn đề
đối nội phức tạp, Ấn Độ đã dần giành được vị trí ngày càng to lớn trong cộng đồng
các nước phát triển ở Á - Phi - Mỹ Latinh và đến nay đã thu hút được sự chú ý cũng
như tranh thủ của tất cả các nước lớn và các trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng
của thế giới. Những thành tựu này đã tạo cho Ấn Độ một vị thế mới để bước vào
thế kỉ XXI.
130
3.2.1.1. Các nước lớn điều chỉnh chính sách đối ngoại với Ấn Độ
Trước hết, với sức mạnh của một nền kinh tế lớn thứ 4 thế giới sau Mỹ, Trung
Quốc, Nhật Bản; cùng với lực lượng quân đội lớn thứ hai trên thế giới được trang bị cả vũ khí hạt nhân; một nền ngoại giao đang ra sức phục vụ phát triển kinh tế đã giúp cho Ấn Độ “tỏa sáng” trong những năm gần đây. Chính nhờ những vị thế này mà có
thể nói “không ai có thể bỏ qua Ấn Độ”, một “Ấn Độ tỏa sáng” buộc các quốc gia trong khu vực và trên thế giới phải thay đổi cách nhìn về vai trò của Ấn Độ và xem
xét lại các chính sách ngoại giao của mình với Ấn Độ trên các phương diện kinh tế,
chính trị, ngoại giao. Các chuyến thăm chính thức của Tổng thống Pakistan, Thủ tướng Trung Quốc,Thủ tướng Nhật Bản, Tổng thư ký Liên hợp quốc, Tổng thống Mỹ… trong hai nhiệm kỳ thủ tướng Manmohan Singh đã thể hiện sự quan tâm của
các nước này đến Ấn Độ trên bình diện chính trị, từ đó tạo cơ sở để hợp tác phát triển kinh tế giữa các nước với nhau.
Có thế nói dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ đã xích lại gần hơn với Mỹ trong mối quan hệ mà cả hai bên cùng cần nhau. Mỹ coi Ấn Độ
là một trong những đồng minh tự nhiên gần gũi của Mỹ, Mỹ đã có nhiều hoạt động
nhằmở thúc đẩy quan hệ kinh tế hai nước. Trong chuyến thăm Mỹ năm 2009 của Thủ tướng Ấn Độ Manmohan Singh, Tổng thống Mỹ Barack Obama tuyên bố:
“Mỹ - Ấn sẽ trở thành một trong những quan hệ định hình thế kỷ XXI”. Những năm đầu thế kỷ XXI, Mỹ là đối tác trao đổi thương mại và là nguồn đầu tư lớn nhất
của Ấn Độ. Số liệu thống kê của chính phủ Mỹ cho thấy, quan hệ thương mại Mỹ -
Ấn chỉ đạt 14 tỷ USD vào năm 2000 nhưng đến năm 2008, kim ngạch thương mại
hai chiều lên tới gần 50 tỷ USD. Mỹ là đối tác xuất khẩu lớn nhất của Ấn Độ[102].
Một lý do quan trọng nữa khiến cả Mỹ và Ấn Độ đều muốn liên kết với nhau là
nhằm tạo ra một đối trọng với Trung Quốc ở châu Á, bảo đảm một “sự cân bằng
chiến lược” cần thiết tại khu vực này.
Trong thế kỷ XXI, Ấn Độ vươn mình trỗi dậy với tư cách là một nền kinh tế lớn ở
khu vực Nam Á, việc hợp tác với quốc gia đông dân và nền kinh tế đang phát triển
mạnh mẽ này sẽ đem lại nhiều hứa hẹn với các quốc gia trên thế giới. Nhận thức được
điều đó, EU và các quốc gia thành viên cũng bắt đầu điều chỉnh những quan hệ hợp tác
với Ấn Độ, trước hết là chú trọng vào những hợp tác trênh lĩnh vực kinh tế. Tháng
12/2010, Tổng thống Pháp Nicolas Sarkozy dẫn đầu một đoàn đại biểu hơn 60 người tới
Ấn Độ để mở đường cho những “dự án thỏa hiệp” với tổng số trị giá các hợp đồng lên
131
đến 15 tỷ Euro, trong đó có 10 tỷ Euro về lĩnh vực dân sự và 5 tỷ Euro về lĩnh vực quốc
phòng. Năm 2010 đến 2013, Thủ tướng Anh David Cameron đã có ba lần tới thăm Ấn
Độ, trong khuôn khổ các chuyến thăm, ông Cameron đã trao đổi với Thủ tướng nước chủ nhà Ấn Độ Manmohan Singh về thúc đẩy quan hệ thương mại, chia sẻ quan điểm
về Sri Lanka, trao đổi các vấn đề song phương và khu vực, đồng thời củng cố quan hệ với các đồng minh chính trị mới. Xuất khẩu của Anh tới Ấn Độ tăng 25% trong năm 2013, trong khi xuất khẩu của Ấn Độ sang Anh tăng 10%. Anh là nhà đầu tư châu Âu
lớn nhất của Ấn Độ[96].
Trung Quốc điều chỉnh chiến lược theo hướng giữ cân bằng quan hệ, một mặt tăng cường hợp tác hữu nghị với Ấn Độ. Nếu xảy ra tranh chấp biên giới, Trung Quốc
cũng cố gắng tìm kiếm giải pháp đàm phán hòa bình, tránh biến Ấn Độ trở thành kẻ
thù, gây thiệt hại cho Trung Quốc trong quan hệ quốc tế. Trong khi chính sách xoay
trục sang châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ ngày càng rõ ràng, sự can dự của Mỹ ở
khu vực này ngày càng nhiều hơn, Trung Quốc thực hiện chính sách tăng cường quan
hệ với Ấn Độ để tạo thế đối trọng và kiềm chế vai trò, ảnh hưởng của Mỹ. Vào tháng
12 năm 2010, Ấn Độ đánh dấu một mốc son ngoại giao khi ông Ôn Gia Bảo là Thủ
tướng Trung Quốc đầu tiên tới thăm Ấn Độ trong nửa thập kỷ trước đây để mở đầu
cho làn gió hữu nghị mới giữa hai nước. Ông dẫn đầu một trong những đoàn đại biểu lớn nhất từ trước đến nay tới Ấn Độ, gồm 400 giám đốc và doanh nghiệp với hy vọng
chuyến thăm nay sẽ thúc đẩy tình hữu nghị hợp tác giữa Trung Quốc và Ấn Độ và làm
sâu sắc thêm quan hệ hai nước.
Đánh giá hoạt động ngoại giao của Ấn Độ có thể nhận thấy rằng, trong những
năm đầu thế kỷ XXI, hàng loạt chuyến thăm của các nguyên thủ quốc gia tới Ấn Độ cho thấy Ấn Độ đang là điểm đến hấp dẫn của quốc tế. Và điều này càng trở
nên chắc chắn khi Mỹ và phương Tây cam kết toàn tâm toàn ý ủng hộ Ấn Độ trở
thành thành viên thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
3.2.1.2. Góp phần củng cố cấu trúc đa phương của trật tự thế giới, chuyển dịch
trọng tâm địa - chính trị thế giới sang châu Á - Thái Bình Dương
Quá trình điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ cùng với sự phát triển các
nền kinh tế lớn khác ở châu Á - Thái Bình Dương góp phần làm chuyển dịch trọng
địa chính trị thế giới từ Tây Âu chuyển sang khu vực châu Á - Thái Bình Dương.
Các chiến lược gia quốc tế dự báo, châu Á - Thái Bình Dương sẽ là khu vực phát
triển năng động nhất thế giới trong thế kỷ XXI và đang trở thành động lực chính của
132
nền chính trị toàn cầu. Sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc, Ấn Độ cùng với Mỹ
được xem là những nhân tố quan trọng hàng đầu để nói đến điều đó. Sau cuộc khủng
hoảng tài chính toàn cầu, châu Á - Thái Bình Dương được Liên hợp quốc đánh giá là khu vực dẫn đầu thế giới về phục hồi kinh tế. Hiện dân số ở khu vực châu Á - Thái
Bình Dương chiếm khoảng 1/2 dân số thế giới; châu Á - Thái Bình Dương là khu vực có trữ lượng dầu mỏ, khí đốt rất lớn và tập trung sự trỗi dậy kinh tế của nhiều nước (Trung Quốc, Ấn Độ…). Đây là hai quốc gia có số dân đông nhất thế giới và là
những nền kinh tế lớn nhất toàn cầu, tất yếu có vị thế chính trị lớn trong việc giải quyết các vấn đề cấp thiết của cộng đồng quốc tế. Trong “Chiến lược quốc gia cho thế kỷ XXI”, Mỹ xác định khu vực châu Á - Thái Bình Dương là một địa bàn quan
trọng đối với an ninh quốc gia của nước Mỹ. Thực tế ở khu vực này đang tập trung
sự chú ý của nhiều nước lớn và nhiều tổ chức quốc tế quan trọng do ở đây là nơi
đang tập trung nhiều mâu thuẫn về lợi ích có tính chiến lược của một số nước lớn đối
trọng với lợi ích quốc gia Mỹ, đặc biệt những nước đang cạnh tranh với Mỹ để giành
quyền khống chế khu vực này về chính trị và kinh tế.
Ấn Độ đã tự vươn mình trở thành một quốc gia quan trọng trong đời sống quốc tế,
có tiếng nói ngày càng to lớn trong các vấn đề khu vực và toàn cầu. Ấn Độ đã thu hút
được sự chú ý cũng như tranh thủ của tất cả các nước lớn và các trung tâm chính trị, kinh tế quan trọng của thế giới. Những thành tựu này đã tạo cho Ấn Độ một vị thế mới
để bước vào thế kỷ XXI. Với tầm vóc của mình, với tiềm năng vốn có, trong thế kỷ XXI
chắc chắn Ấn Độ sẽ có một vai trò to lớn trong đời sống quốc tế, nhất là ở châu Á- Thái Bình Dương. Với những gì Ấn Độ đã và đang thể hiện, vị trí quốc tế của Ấn Độ sẽ ngày
càng được nâng cao hơn trong tương lai, Ấn Độ sẽ khẳng định được vai trò cường quốc của mình trên trường quốc tế trong nhiều lĩnh vực như tài chính - ngân hàng, công
nghiệp, công nghệ tin học, công nghệ vũ trụ, an ninh năng lượng. Tuy nhiên, vị thế về
đối ngoại của nước này đối với các vấn đề quốc tế vẫn tiếp tục được khẳng định với tư
cách là một nước lớn của thế giới thứ ba.
Là cường quốc đang trên đà vươn lên, Ấn Độ mong muốn trong một thời gian
ngắn trở thành một trong những cực của thế giới mới. Nhưng đồng thời, Ấn Độ
cũng tìm cách cùng với một số nước đang phát triển khác xác định lại cấu trúc đa
phương của trật tự thế giới. Có nhiều ví dụ cho thấy rõ điều đó như vấn đề cải tổ
Liên hợp quốc, cốt lõi của hệ thống Liên hợp quốc là Hội đồng Bảo an và 5 thành
viên thường trực. Ấn Độ từ lâu đã phê phán sự bá quyền có từ năm 1945 đó. Năm
133
2004, cùng với Nhật Bản, Brazil và Đức, Ấn Độ đề nghị mở rộng thành phần thành
viên thường trực của Hội đồng Bảo an tại diễn đàn Liên hợp quốc. Pháp, Anh và
Nga ủng hộ vấn đề mà Ấn Độ đưa ra. Trung Quốc và Mỹ thì còn nhiều toan tính và do dự trước vấn đề đó, tuy nhiên, trong bài phát biểu trước Nghị viện Ấn Độ ngày
8/11/2004, Tổng thống Barack Obama cũng lên tiếng ủng hộ triển vọng mở rộng thành phần thành viên thường trực của Hộ đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Mặt trận thứ hai: vấn đề tái cân bằng cũng được đặt ra trong Quỹ tiền tệ quốc tế. Vai trò của
Ấn Độ và một số nước mới trỗi dậy khác (trong đó có Trung Quốc) bắt đầu tăng lên so với một số nước châu Âu. Mặt trận thứ ba: tại Tổ chức thương mại thế giới, ngay từ đầu nhiệm kỳ của Thủ tướng Manmohan Singh, Ấn Độ đi đầu cùng với
nhiều nước khu vực Nam Á khác đã yêu cầu Liên minh châu Âu và Mỹ giảm trợ
giá nhiều mặt hàng cho nông dân vì tình trạng này làm rối loạn các quy định về
cạnh tranh, không có lợi cho nông dân các nước khu vực Nam Á.
3.2.1.3. Góp phần đảm bảo nền hòa bình, an ninh thế giới, giải quyết các vấn đề
toàn cầu
Quá trình điều chỉnh chiến lược trong chính sách đối ngoại dưới thời Thủ tướng
Manmohan Singh và sự trỗi dậy của Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI trở
thành một nhân tố quan trọng, tác động mạnh mẽ đến việc duy trì hòa bình khu vực, giải quyết các vấn đề toàn cầu thông qua các cơ chế hợp tác song phương, đa phương,
và các sáng kiến khu vực.
Trong cuộc đấu tranh chống hiệu ứng biến đổi khí hậu, tại Hội nghị thượng đỉnh Côpenhaghen năm 2009, Ấn Độ và Trung Quốc từ chối xác định chính sách
môi trường dưới sự thúc ép của quốc tế vì cho rằng các nước tiên tiến thực hiện quá trình công nghiệp hóa từ thế kỷ XIX phải chịu trách nhiệm chính về lượng khí thải
gây hiệu ứng nhà kính, và các nước này không thể ngăn cản các nước đang phát
triển khác tham gia cuộc chạy đua tăng trưởng. Hai nước cũng hoạch định các
chương trình nhằm thúc đẩy một nền “kinh tế xanh”. Cùng với Nam Phi và Brazil,
Ấn Độ góp phần thiết lập trục xuyên lục địa giữa các nước mới nổi lớn: đó là tổ
chức IBSA bao gồm Ấn Độ, Brazil, Nam Phi, và sau đó là nhóm BASIC với sự
tham gia của Brazil, Nam Phi, Ấn Độ và Trung Quốc.
Trong thập niên tới, có thể dự đoán rằng Ấn Độ sẽ tham gia tích cực hơn trong
các tổ chức khu vực và thế giới cũng như khả năng về một chỗ đứng của Ấn Độ
trong Tổ chức năng lượng quốc tế (IEA), hay tận dụng vai trò lãnh đạo của mình
134
trong tổ chức toàn cầu nhằm chống lại AIDS và các dịch bệnh khác; tham gia các
cuộc tập trận chung trên mức độ đa phương nhằm bảo vệ tự do an ninh hàng hải,
chống chủ nghĩa khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, thông qua các sáng kiến khu vực như Hiệp hội Hợp tác khu vực Nam Á (SAARC), Tổ chức Hợp tác kinh tế và
công nghiệp các nước ven Vịnh Bengal (BIMSTEC), Dự án hợp tác các khu vực châu thổ sông Hằng với khu vực sông Mekong (MGC)… để đẩy nhanh hợp tác giữa Ấn Độ với các nước trong khu vực thúc đẩy tin tưởng hiểu biết lẫn nhau để
góp phần duy trì hòa bình, an ninh khu vực và thế giới.
Với tầm vóc của mình, với tiềm năng vốn có, trong những năm tiếp theo của thế kỉ XXI chắc chắn Ấn Độ sẽ có một vai trò to lớn trong đời sống quốc tế, nhất là ở
khu vực CA-TBD. Với những gì Ấn Độ đã và đang thể hiện, vị trí quốc tế của Ấn Độ
sẽ ngày càng được nâng cao hơn trong tương lai, Ấn Độ sẽ khẳng định được vai trò
cường quốc của mình trên trường quốc tế trong nhiều lĩnh vực như tài chính - ngân
hàng, công nghiệp, công nghệ tin học, công nghệ vũ trụ, an ninh năng lượng. Tuy
nhiên, vị thế về đối ngoại của Ấn Độ đối với các vấn đề quốc tế vẫn tiếp tục được
khẳng định với tư cách là một nước lớn của thế giới thứ ba.
3.2.2. Tác động đến quan hệ Việt Nam - Ấn Độ 3.2.2.1. Thúc đẩy quan hệ song phương với Việt Nam phát triển lên tầm cao mới Trên lĩnh vực chính trị- ngoại giao: xác lập mối quan hệ chiến lược
Việt Nam và Ấn Độ thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức vào ngày
07/01/1972. Hai nước đều có lập trường kiên quyết trong vấn đề độc lập dân tộc và chống chủ nghĩa đế quốc. Giai đoạn những năm 90 của thế kỷ XX, sau khi Liên Xô
tan rã, chiến tranh lạnh kết thúc, để phù hợp với tình hình mới, cả hai nước đều tiến hành đổi mới, cải cách kinh tế; đa dạng hoá đa phương hoá các quan hệ nhằm tạo
môi trường thuận lợi để phát triển.
Trong “chính sách hướng Đông” của mình, Ấn Độ coi trọng và ưu tiên phát
triển quan hệ truyền thống và đã qua thử thách với Việt Nam. Ấn Độ cho rằng một
Việt Nam lớn mạnh, đóng vai trò quan trọng ở Đông Nam Á, cân bằng lực lượng
lành mạnh ở khu vực là có lợi cho Ấn Độ.
Ấn Độ coi Việt Nam là một trụ cột trong chính sách “ Hướng Đông” của nước
này, Việt Nam cũng ủng hộ chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ - chính sách đối
ngoại mà Ấn Độ đã theo đuổi từ lâu nhằm củng cố vị thế trong một môi trường
quốc tế có nhiều biến động phức tạp từ sau Chiến tranh Lạnh. Trong tình hình hiện
135
tại, Việt Nam và Ấn Độ đều là các nước trong khu vực CA-TBD đang phải đối mặt
với sự trỗi dậy, những hành động và thái độ gây bất ổn khu vực của Trung Quốc.
Vì thế để xây dựng khu vực hòa bình, ổn định nên Việt Nam cần tranh thủ sự
ủng hộ và hợp tác của các nước này để đảm bảo lợi ích chung và đảm bảo an ninh
quốc gia, an ninh khu vực trong bối cảnh hiện nay. Tuy nhiên, Việt Nam cũng cần
linh hoạt, mềm dẻo, khôn khéo, thực hiện cân bằng lợi ích trong quan hệ với các
nước lớn nói chung, tranh thủ sự ủng hộ và hợp tác dựa trên nguyên tắc nền tảng là
tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi.
Năm 2007 đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quan hệ hai nước. Ngày 6-7-
2007 tại New Dehli, hai bên ký Tuyên bố chung về quan hệ đối tác chiến lược Việt
Nam - Ấn Độ, đánh dấu bước đột phá mới cho quan hệ song phương trên các lĩnh
vực về chính trị - đối ngoại, kinh tế, an ninh, quốc phòng, văn hóa, khoa học - công
nghệ, giáo dục[84]. Quan hệ hai nước tiếp tục được duy trì và tăng cường thông
qua các chuyến thăm và tiếp xúc cấp cao khẳng định quyết tâm của hai nước trong
việc thúc đẩy hơn nữa quan hệ đối tác chiến lược theo chiều rộng và chiều sâu. Thủ
tướng Ấn Độ khẳng định: Ấn Độ rất coi trọng và mong muốn đẩy mạnh quan hệ
đối tác chiến lược với Việt Nam, Ấn Độ sẵn sàng hợp tác bất cứ lĩnh vực nào mà
Việt Nam cần.
Tăng cường hợp tác trên lĩnh vực kinh tế
Để tương xứng với quan hệ chính trị rất tốt đẹp, với tiềm năng, mong muốn,
nỗ lực của hai bên và nhất là với mối quan hệ chiến lược mà hai nước đã thiết lập,
quan hệ kinh tế, trước hết là trên lĩnh vực thương mại, đầu tư Việt Nam-Ấn Độ có
bước chuyển biến mới trong những năm đầu thế kỷ XXI.
Về thương mại, kim ngạch thương mại hai nước tăng khá nhanh trong những
năm đầu thế kỷ XXI: nếu như năm năm 2000 là 224,3 triệu USD thì đến năm 2004
lên tới 667 triệu USD và đạt tới hơn 1 tỷ USD năm 2007. Năm 2014, kim ngạch xuất
khẩu của Việt Nam sang Ấn Độ tăng trưởng chậm hơn hai năm 2012 và 2013, đạt
trên 2,4 tỷ USD, tăng 4,4%[94]. Các mặt hàng xuất khẩu tăng mạnh gồm: Hạt điều
tăng 454,8%; sản phẩm từ sắt thép tăng 517,7%; sản phẩm từ gốm, sứ tăng 237,2%;
chất dẻo nguyên liệu tăng 205,6%; kim loại thường và sản phẩm từ kim loại tăng
124,3%; gỗ và sản phẩm từ gỗ tăng 60,8%,... [94].
136
Về đầu tư, tính đến 2014, tổng số vốn đầu tư đăng ký là 19,35 triệu USD và đứng
thứ 22 trong tổng số 55 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam[6]. Nếu tính lũy
kế các dự án đầu tư của Ấn Độ còn hiệu lực đến hết năm 2020, thì tổng vốn đầu tư của Ấn Độ vào Việt Nam đặt khoảng 252,35 triệu USD, đứng thứ 30 trong tổng số 98
nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam[6]. Các dự án của Ấn Độ tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực công nghiệp chế biến, khai khoáng và lĩnh vực bán buôn bán lẻ còn lại là các lĩnh vực khác. Đa số vốn đầu tư của Ấn Độ theo hình thức 100% vốn nước
ngoài có 77 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 269.264 triệu USD, chiếm 71% về tổng vốn đầu tư. Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh đứng tứ 2 với 4 dự án, tổng vốn đầu tư đạt 86,28 triệu USD chiếm 22,7% về tống vốn đầu tư. Hình thức liên doanh và hợp
đồng hợp tác kinh doanh có 18 dự án với tổng vốn đầu tư đạt 23,67 triệu USD, chiếm
6,3% tổng vốn đầu tư…[6]
Hiện nay, Việt Nam có 5 dự án đầu tư sang Ấn Độ với tổng vốn đầu tư 1,81 triệu
USD. Các lĩnh vực mà các nhà đầu tư Việt Nam quan tâm gồm phân phối các sản
phẩm thức ăn gia súc, phân phối, buôn bán vật liệu xây dựng, buôn bán xuất nhập
khẩu mỹ phẩm, các sản phẩm tin học.
Ấn Độ có tiềm lực mạnh trong lĩnh vực công nghệ thông tin như chính phủ điện
tử, phát triển phần mềm,… Nhiều công ty của Ấn Độ đã bắt đầu kinh doanh tại Việt Nam trong lĩnh vực phát triển phần mềm và đào tạo công nghệ thông tin, dệt may,
ngân hàng tài chính, phầm mềm, thức ăn gia súc,…Thời gian gần đây, có nhiều tập
đoàn tiêu biểu Ấn Độ hoạt động trong các lĩnh vực sản xuất thép, khai thác dầu khí, công nghệ thông tin, viễn thông, các ngành công nghệ cao và dược phẩm,.. bày tỏ ý
định đầu tư mở rộng hoạt động tại Việt Nam.
Mặc dù có nhiều tiềm năng, đầu tư của Ấn Độ mới chỉ đứng thứ 30 trong 101
nước và vùng lãnh thổ đã đầu tư vào Việt Nam, chưa tương xứng với tiềm năng của
hai nước. Có nhiều lĩnh vực mà Ấn Độ có thế mạnh, Việt Nam có nhu cầu nhưng chưa
được các doanh nghiệp Ấn Độ đầu tư. Có thể nói, so với các mối quan hệ khác của
Việt Nam, quan hệ kinh tế Việt Nam-Ấn Độ còn hạn chế, nhưng những con số trên
cho thấy, quan hệ kinh tế Việt Nam-Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI đã có bước
phát triển mới so với năm 90 trở về trước. Đạt được kết quả đó là có sự nỗ lực to lớn
của Chính phủ, chính quyền các cấp, các doanh nghiệp…hai nước.
Về du lịch hàng không, Việt Nam và Ấn Độ có rất nhiều tiềm năng để hợp tác
phát triển du lịch vì hai nước đều có nhiều phong cảnh đẹp, văn hóa giàu bản sắc,
137
khoảng cách địa lý gần, có 27 di sản văn hóa thế giới... Các di tích Phật giáo tại Ấn Độ
là hấp dẫn lớn nhất đối với du khách Việt Nam. Văn hóa, các bãi biển đẹp, các thành
phố sôi động, các di sản văn hóa Tháp Chàm ở Việt Nam... cũng là yếu tố hàng đầu thu hút du khách Ấn Độ. Hai bên đã ký Hiệp nhiều định và kế hoạch hợp tác du lịch.
Du lịch cũng là lĩnh vực quan trọng trong khuôn khổ ASEAN, Hợp tác sông Mêkông - sông Hằng và hợp tác hành lang Đông - Tây. Hai bên đã tổ chức nhiều hoạt động quảng bá du lịch hai nước qua các chương trình văn hóa, trao đổi đoàn cấp cao, xúc
tiến thương mại và đầu tư, phương tiện thông tin đại chúng... Từ ngày 1-1-2011, Ấn Độ áp dụng cấp thị thực nhập cảnh tại cửa khẩu cho công dân Việt Nam mang hộ chiếu phổ thông cư trú tại Ấn Độ trong vòng 30 ngày.
So với tổng số khoảng 3 triệu lượt khách Ấn Độ đến các nước ASEAN hàng
năm, số lượt công dân Ấn Độ nhập cảnh Việt Nam còn khiêm tốn. Cụ thể có 7.600
khách năm 2004, 13.300 khách năm 2005, 14.630 khách năm 2006, 18.000 khách
năm 2007, 20.379 khách năm 2009, năm 2010 có 33.408 lượt khách đến Việt Nam
(tăng 39% so với năm 2009), trong đó khách đi kinh doanh chiếm 40%, mục đích du
lịch chiếm 35%[93]. Trong vài năm gần đây, du khách Việt Nam đến Ấn Độ có tăng,
nhưng số lượng còn khiêm tốn, do chất lượng cơ sở du lịch của Ấn Độ hạn chế trong
khi giá dịch vụ cao, ẩm thực Ấn Độ không phù hợp, thiếu đường bay trực tiếp, việc quảng bá du lịch Ấn Độ tại Việt Nam còn hạn chế. Thời gian qua, mặc dù lượng
khách trao đổi giữa hai nước còn khiêm tốn nhưng tốc độ tăng trưởng cao. Trong
những năm gần đây, khách Ấn Độ đến Việt Nam tăng 344%, từ trên 16.000 lượt năm 2010 lên gần 55.000 lượt năm 2014[49]; khách Việt Nam đi du lịch Ấn Độ cũng tăng
nhanh.
Về cơ hội đầu tư hợp tác khoa học công nghệ, Ấn Độ là quốc gia có nhiều
ngành khoa học và công nghệ đạt trình độ ngang bằng với các nước công nghiệp
phát triển trong các lĩnh vực nghiên cứu vũ trụ, năng lượng hạt nhân, công nghệ
sinh học, công nghệ thông tin…Đây là điều kiện thuận lợi lớn thúc đẩy quan hệ
Việt Nam- Ấn Độ trên lĩnh vực hợp tác khoa học và công nghệ. Nhiều năm qua,
hợp tác khoa học và công nghệ giữa hai nước cũng là lĩnh vực đạt hiệu quả cao,
góp phần thiết thực vào sự nghiệp đổi mới của Việt Nam và công cuộc cải cách
kinh tế của Ấn Độ. Lĩnh vực hợp tác khoa học công nghệ được phía Ấn Độ xác
định là một trọng tâm, trọng điểm trong quan hệ hợp tác với Việt Nam những năm
đầu thế kỷ XXI. Ấn Độ ngày nay là một cường quốc khoa học- công nghệ, đặc biệt
138
là công nghệ phần mềm máy tính. Ở Việt Nam, đã có các trung tâm phần mềm
được thành lập với sự giúp đỡ của Ấn Độ không chỉ về nguồn vốn còn là hợp tác
đào tạo nguồn nhân lực. Ấn Độ khẳng định tiếp tục sẽ viện trợ không hoàn lại để đào tạo cán bộ thông tin, phần mềm cho Việt Nam.
Về hợp tác giáo dục- đào tạo và văn hóa, Ấn Độ và Việt Nam vốn có quan hệ lịch sử, văn minh từ nhiều thế kỷ trước. Qua nhiều năm, từ khi giành được độc lập, hai nước luôn không ngừng tôi rèn các mối quan hệ chính trị, kinh tế và quốc
phòng; đồng thời đẩy mạnh mối quan hệ hợp tác về văn hóa và nhân dân thông qua văn hóa và giáo dục.
Ấn Độ là nước có nhiều kinh nghiệm phát triển giáo dục- đào tạo và từ nhiều
năm nay đã dành cho Việt Nam nhiều học bổng đại học và sau đại học ở các lĩnh vực
như kinh tế, thương mại, công nghệ sinh học, nông nghiệp, công nghệ thông tin…[93].
Mặt khác, để đào tạo chuyên gia về Ấn Độ, Việt Nam đã thành lập Bộ môn Ấn Độ học
và Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ tại một số trường đại học, năm 2012 thành lập Viện
Nghiên cứu Ấn Độ và Tây Nam Á. Tại Ấn Độ Trung tâm nghiên cứu Việt Nam học
cũng được thành lập ở NewDeli…Hai nước thường xuyên cử chuyên gia sang giảng
dạy và làm việc tại các trường đại học, các trung tâm nghiên cứu, đào tạo của nhau
nhằm tăng cường trên lĩnh vực giáo dục đào tạo.
Về văn hóa, Ấn Độ và Việt Nam thường xuyên tổ chức các Tuần lễ phim, cử
nhiều đoàn nghệ thuật sang biểu diễn, tổ chức các triển lãm, tìm hiểu văn hóa các
dân tộc… qua đó nhân dân hai nước có dịp tìm hiểu văn hóa của nhau góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau và tinh thần đoàn kết; gắn bó giữa hai dân tộc.
Tuyên bố chung Việt Nam- Ấn Độ năm 2003, đã tạo ra những cơ sở pháp lý quan trọng giúp tăng cường hợp tác giáo dục- đào tạo và văn hóa giữa hai nước. Ấn Độ
cam kết duy trì học bổng dài hạn và ngắn hạn cho sinh viên Việt Nam.
Cùng với sự phát triển hợp tác trên nhiều mặt, quan hệ hợp tác về an ninh
quốc phòng giữa hai nước cũng có bước khởi sắc nhất định. Các quan chức cấp cao
và cán bộ quốc phòng của hai bên thường xuyên gặp gỡ, trao đổi kinh nghiệm lẫn
nhau. Bộ Công an Việt Nam đã thiết lập quan hệ với Bộ Nội vụ Ấn Độ, hai bên
chia sẻ thông tin về chống tội phạm, bảo đảm an ninh quốc gia. Năm 2003, hai bên
thỏa thuận “mở rộng hợp tác trong các lĩnh vực an ninh và quốc phòng, các biện
pháp chống cướp biển, ngăn chặn các hành động khủng bố nhằm vào mỗi nước và
sớm ký Hiệp định song phương về chống tội phạm.
139
Như vậy, có thể thấy, bước sang thế kỷ XXI với sự trỗi dậy của Ấn Độ trên tất
cả các phương diện đặc biệt trên lĩnh vực kinh tế, và cùng với những nỗ lực của
Chính phủ hai bên mà quan hệ song phương hai nước ngày càng được cải thiện và tạo được nhiều thành tựu đáng kể. Không những thế trên các diễn đàn đa phương
và quốc tế như UN, Diễn đàn an ninh khu vực (ARF), Cấp cao Đông Á, WTO, hợp tác sông Hằng-sông Mê Kông, phong trào không liên kết, hai bên ngày càng có tiếng nói chung, có sự đồng thuận nhất trí cao trong giải quyết nhiều vấn đề chung
của thế giới như an ninh toàn cầu, khủng bố… 3.2.2.2. Thúc đẩy hợp tác, cạnh tranh thương mại giữa Ấn Độ với Việt Nam
Trước hết, tạo ra làn sóng cạnh tranh trong lĩnh vực thương mại giữa Ấn Độ với
các nước có trình độ phát triển kinh tế xấp xỉ nhau, cơ cấu ngành nghề khá giống
nhau, hàng hóa gần như nhau, mà thị trường xuất khẩu lại hầu như tập trung ở Mỹ,
Nhật Bản, Châu Âu. Hiện tại, cả Việt Nam và Ấn Độ đều có một số mặt hàng xuất
khẩu chủ chốt được tiêu thụ tại các thị trường Mỹ, EU, Hàn Quốc, Nhật Bản…Đây
đều là những mặt hàng Ấn Độ đều đang chiếm ưu thế về số lượng, chất lượng do áp
dụng hiệu quả thành tựu công nghệ cao, còn hàng Việt Nam có điểm yếu là giá thành
đầu vào cao. Những mặt hàng cùng chủng loại của Việt Nam, do vậy hàng của Việt
Nam sẽ càng khó cạnh tranh hơn. Đó là chưa tính, đồng Rupee được tự do chuyển đổi, tỷ giá hối đoái của chúng sẽ thường xuyên giao động, làm cho sức cạnh tranh
của hàng hóa Ấn Độ càng được nâng cao. Đối với các ngành mà các nước đang phát
triển khác trong đó có Việt Nam đang mong muốn tập trung phát triển như các sản phẩm công nghệ cao thì Ấn Độ đều đã và đang phát triển với năng lực cạnh tranh
cao. Các doanh nghiệp Việt Nam do vậy sẽ rất vất vả để có thể đứng vững ngay chính trên thị trường nội đia.
Ngoài ra, còn gây ra sự cạnh tranh trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư nước
ngoài vào các nước. Ấn Độ có nhiều lợi thế cạnh tranh về nguồn nhân lực dồi dào,
giá rẻ do vậy, đây là một điểm hấp dẫn các nhà đầu tư trên thế giới. Chính vì vậy,
đã đang và sẽ còn diễn ra quyết liệt cuộc cạnh tranh về phân công lao động giữa Ấn
Độ và các nước trong đó có Việt Nam.
Triển vọng hợp tác giữa hai quốc gia Việt Nam - Ấn Độ là rất lớn. Bên cạnh
sự phát triển về thương mại ngày càng tăng - các dự án đầu tư của Ấn Độ vào Việt
Nam ngày càng phát huy có hiệu quả. Hiện tại Ấn Độ là cường quốc hàng đầu về
công nghệ thông tin và với Việt Nam đây là mảng tương đối mới. Sự hợp tác giữa
140
hai bên trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực là một tiềm năng lớn. Trong tương
lai, chắc chắn những dự án đầu tư sẽ được triển khai ở Việt Nam, trong các lĩnh vực
như hóa dầu; chế biến chè; dệt may; y dược và dầu khí sẽ phát triển hơn nữa. Việc khai thác những dự án này sẽ đưa Ấn Độ trở thành một đối tác quan trọng, tạo dựng
hành trang mới trong quan hệ giữa hai nước.
Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ sẽ không tránh khỏi khó khăn, thách thức từ bên trong lẫn bên ngoài, nhưng mối quan hệ ấy cũng có nhiều thuận lợi và cơ hội để phát
triển. Bề dày mối quan hệ, những khó khăn, thách thức đã vượt qua cũng như những thành tựu đã đạt được, chúng ta có cơ sở vững chắc để tin rằng mối quan hệ Việt Nam và Ấn Độ sẽ tận dụng mọi cơ hội và vượt qua thử thách để ngày càng khăng khít hơn,
tốt đẹp hơn. Chính vì vậy mà chúng ta có thế rút ra những dự báo:
Thứ nhất, với quan hệ truyền thống hữu nghị lâu đời, với những thành tựu to
lớn mà hai nước đạt được, nhất là trong gần 20 năm trở lại đây, triển vọng về sự
hợp tác giữa Việt Nam - Ấn Độ, hứa hẹn nhiều thành công hơn nữa.
Thứ hai, hai nước có những điểm tương đồng về lịch sử văn hóa, quan điểm trong
nhiều vấn đề quan trọng của khu vực và thế giới như hòa bình, an ninh, hợp tác phát
triển, do đó có thể vượt qua nhiều thách thức trong một thế giới đầy biến động.
Thứ ba, hai nước Việt Nam - Ấn Độ, có nhiều tiềm năng để phát triển quan hệ họp tác. Hai nước đều là thị trường lớn về thương mại và đầu tư, có nguồn nhân lực
dồi dào và tài nguyên phong phú, khoảng cách địa lý không xa giữa hai nước. Việt
Nam là nước có vị trí trọng yếu trong chính sách “Hướng Đông” của Ấn Độ, là bàn đạp để Ấn Độ vươn xa, mở rộng với các nước trong khu vực và Việt Nam cũng là
nước mà Ấn Độ sẽ chuyến giao công nghệ hiện đại, như lĩnh vực nguyên tử, công nghệ thông tin và trong lĩnh vực nông nghiệp.
Thứ tư, quyết tâm mạnh mẽ của lãnh đạo và nhân dân hai nước trong việc tăng
cường trên tất cả lĩnh vực, thể hiện sinh động nhất là thành lập mối quan hệ chiến
lược toàn diện Việt - Ấn.
Thứ năm, những thuận lợi và khó khăn, thời cơ và thách thức từ tình hình khu
vực và thế giới cũng góp phần thúc đẩy quan hệ Việt - Ân tiếp tục phát triển. Đó là
sự phát triển mạnh mẽ của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, thương mại và
đầu tư quốc tế... Mặt khác, việc củng cố, thắt chặt quan hệ hai nước nhằm giúp mỗi
nước đối phó một cách hiệu quả hơn với những thách thức, nguy cơ từ bên ngoài
như chống tội phạm, khủng bố quốc tế, buôn lậu ma túy, thiên tai, biến thái khí hậu,
141
an ninh, HIV/AIDS... góp phần giữ vững an ninh khu vực và trên thế giới. Với
những cơ sở trên, quan hệ việt Nam - Ấn Độ sẽ ngày càng được củng cố và phát
triến mạnh hơn trên một bình diện rộng. 3.2.2.3. Tác động đến an ninh chính trị của Việt Nam
Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ chính trị, ngoại giao rất tốt đẹp. Hai nước luôn tin tưởng, sẵn sàng chia sẻ lẫn nhau trên hầu hết các vấn đề song phương cũng như đa phương, kể cả vấn đề luôn nóng và gay cấn như vấn đề Biển Đông.
Những chuyến thăm cấp cao của Đảng, Nhà nước, Quốc hội, Chính phủ của hai nước không những đặt nền tảng, tạo động lực cho việc triển khai các thỏa thuận hợp tác đã được ký kết mà còn thắt chặt thêm độ tin cậy chính trị giữa hai nước.
Lãnh đạo hai nước đều thống nhất khẳng định, việc phát triển quan hệ song
phương giữa hai nước là ưu tiên cao trong chính sách đối ngoại của từng nước, là
nhân tố quan trọng để hai nước cùng phát triển thịnh vượng, bảo đảm hòa bình, ổn
định ở khu vực và thế giới. Hai bên nhất trí tăng cường và mở rộng hơn nữa nội
hàm của mối quan hệ đối tác chiến lược toàn diện trên năm trụ cột chính là: chính
trị; ngoại giao; quốc phòng - an ninh; kinh tế - thương mại; năng lượng và văn hóa,
khoa học, kỹ thuật, giáo dục, đào tạo, ngoại giao nhân dân.
Trên bình diện an ninh chính trị, Việt Nam và Ấn Độ có những lợi ích tương đồng trong khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có việc đối phó với mối
đe dọa từ các nước lớn. Hợp tác quốc phòng, an ninh là một trong những trụ cột
quan trọng nhất của quan hệ đối tác chiến lược toàn diện giữa Việt Nam và Ấn Độ. Thực hiện tốt hợp tác quốc phòng, an ninh sẽ góp phần thúc đẩy quan hệ giữa hai
nước, giúp hai nước có cơ hội tăng cường sức mạnh, tạo nên thế cân bằng ở châu Á, thích ứng với cơ chế hợp tác an ninh - chính trị khu vực châu Á - Thái Bình
Dương, đặc biệt là làm thay đổi cán cân quân sự trên Biển Đông.
Hợp tác quốc phòng, an ninh giữa Việt Nam và Ấn Độ sẽ mang lại lợi ích cho cả
hai bên. Bên cạnh lợi ích kinh tế từ các hợp đồng mua bán vũ khí, trang thiết bị, công
nghệ quân sự và các dịch vụ cho Việt Nam, Ấn Độ có được sự ủng hộ của Việt Nam
trong lĩnh vực chính trị, trong đó bao gồm đối tác đối thoại của Ấn Độ với ASEAN,
tạo cơ sở cho Ấn Độ giữ vai trò lớn hơn trong khu vực Đông Á, đặc biệt là trong lĩnh
vực hàng hải. Ngược lại, giúp Việt Nam tăng cường khả năng hiện đại hóa lực lượng
vũ trang, nâng cao sức mạnh quốc phòng, an ninh, tăng cường năng lực phòng thủ để
bảo vệ độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia.
142
Từ khi Ấn Độ điều chỉnh chính sách đối ngoại đến nay, cơ chế, hình thức, nội
dung hợp tác quốc phòng Việt Nam - Ấn Độ đã có nhiều khởi sắc. Từ năm 2009,
Việt Nam và Ấn Độ đã thống nhất thiết lập cơ chế đối thoại quốc phòng cấp thứ
trưởng, trước hết nhằm trao đổi các vấn đề an ninh mà hai bên cùng quan tâm. Cơ
chế đối thoại này luân phiên tổ chức tại Hà Nội và New Delhi. Cho đến nay, hai
bên đã tổ chức được 9 phiên đối thoại quốc phòng. Nội dung chính của cơ chế Diễn
đàn đối thoại quốc phòng chủ yếu xoay quanh các chủ đề về công tác đào tạo, trong
đó chú trọng đào tạo tiếng Anh, kỹ thuật quân sự; hợp tác giữa các quân, binh
chủng, đẩy mạnh hợp tác về hải quân, không quân; huấn luyện lực lượng gìn giữ
hòa bình; bàn thảo các chương trình cụ thể nhằm thúc đẩy hợp tác quốc phòng, an
ninh ngày càng thiết thực hơn, hiệu quả hơn.
Hai thống nhất quan điểm thúc đẩy hợp tác quốc phòng ngày càng đi vào
chiều sâu và thiết thực hơn nhằm tăng cường sức mạnh quốc phòng của hai nước,
đưa quan hệ quốc phòng tương xứng với quan hệ Đối tác chiến lược mà hai nước
đã xác định, vì sự phát triển của hai quốc gia, dân tộc, góp phần duy trì hòa bình,
ổn định và phát triển ở khu vực và thế giới. Hai nước đã thống nhất tổ chức giao
lưu quân đội như giao lưu sỹ quan trẻ, trao đổi kinh nghiệm, đào tạo cán bộ, hợp
tác giữa các quân binh chủng và công nghiệp quốc phòng, tổ chức tuần tra chung
trên biển, tập trận chung giữa hải quân hai nước và tổ chức các chuyến tàu quân sự
ghé thăm cảng biển của nhau.
Hai bên đã hoàn tất quá trình chuẩn bị và bắt đầu tổ chức thực hiện gói tín dụng
100 triệu USD (năm 2014) mà Ấn Độ dành cho Việt Nam để tăng cường sức mạnh và
năng lực quốc phòng, bao gồm nhiều hạng mục như: đóng tàu cho lực lượng thực thi
pháp luật trên biển; xây dựng, thành lập Trung tâm Công nghệ thông tin và ngoại ngữ,
tin học cho Bộ Quốc phòng Việt Nam; đào tạo thủy thủ tàu ngầm, đào tạo phi công
điều khiển máy bay Su30, đào tạo, huấn luyện tác chiến trên các địa bàn phức tạp,
huấn luyện lực lượng tham gia gìn giữ hòa bình cho sỹ quan Việt Nam, sửa chữa và
bảo trì tàu hải quân, tìm kiếm cứu nạn trên biển,v.v..
Trong tầm nhìn của Ấn Độ khi điều chỉnh chính sách đối ngoại ở Đông Á thì
Biển Đông luôn là mắt xích quan trọng. Vấn đề Biển Đông được đề cập trực tiếp trong
chính sách Hành động phía Đông, điều này cho thấy sự gia tăng can dự của Ấn Độ ở
khu vực Đông Á và Đông Nam Á, nhằm thực hiện mục tiêu chiến lược kép của Ấn
143
Độ: vừa trở thành cường quốc nổi bật ở Đông Bắc Ấn Độ Dương, vừa đảm nhiệm vai
trò chiến lược lớn hơn trong khu vực Đông Nam Á và Thái Bình Dương. Sự gia tăng
như vậy thể hiện rõ trên những quyết tâm và hành động sau:
Một là, Ấn Độ luôn khẳng định rõ lập trường nguyên tắc của mình về tự do
hàng hải, an ninh hàng hải và giải quyết các tranh chấp ở Biển Đông theo quy định
của luật pháp quốc tế, phát triển một bộ quy tắc ứng xử và giải quyết tranh chấp
thông qua đối thoại và các biện pháp hòa bình.
Hai là, Ấn Độ vẫn kiên định, tiếp tục các hoạt động thăm dò, khai thác dầu
khí ở Biển Đông mặc dù có những sự đe dọa, tranh chấp, lấn chiếm làm cho tình
hình trên vùng biển này ngày càng căng thẳng. Hành động này ngoài bảo vệ lợi ích
của Ấn Độ ở Biển Đông còn góp phần vào việc giúp Việt Nam củng cố chủ quyền
quốc gia trên vùng biển này.
Ba là, Ấn Độ phản đối ý định của Trung Quốc lập vùng nhận dạng phòng
không (ADIZ) trên Biển Đông. Ấn Độ cho rằng, động thái của Trung Quốc như
tuyên bố chủ quyền ở những khu vực tranh chấp trên biển Đông, tiến hành xây đảo
nhân tạo trái phép ở quần đảo thuộc chủ quyền của Việt Nam và có khả năng sẽ áp
đặt áp đặt Vùng nhận dạng phòng không trong khu vực... không chỉ trái với lợi ích
chiến lược, thương mại của Ấn Độ mà còn chống lại các chuẩn mực quốc tế về tự
do hàng hải, hàng không. Vùng nhận dạng phòng không của Trung Quốc không chỉ
ảnh hưởng đến các lợi ích thương mại và chiến lược của Ấn Độ mà còn vi phạm
các nguyên tắc quốc tế về tự do hàng hải và hàng không.
Bốn là, Ấn Độ ủng hộ phán quyết của Tòa Trọng tài quốc tế về Biển Đông.
Năm là, Ấn Độ luôn coi Đông Nam Á là trung tâm, trong đó Việt Nam luôn là
nhân tố quan trọng của khu vực này.
Sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ từ chính sách Hướng Đông
thành Hành động phía Đông, tạo điều kiện cho Việt Nam có lợi thế quan trọng
trong việc thực thi chính sách đối ngoại, “đa phương hóa”, “đa dạng hóa” của mình
để phát triển đất nước, giúp Việt Nam “cân bằng chiến lược” trong quan hệ với các
nước lớn, tăng sức đề kháng trong việc bảo vệ chủ quyền biên giới, biển đảo, an
ninh chính trị, kinh tế, phát triển quan hệ nhiều mặt với các nước trong khu vực,
đặc biệt là với các cường quốc khu vực và thế giới.
144
3.2.2.4. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đem lại những bài học kinh nghiệm cho
Việt Nam
Trước hết là trong điều kiện thiên niên kỷ mới, thế giới bước vào giai đoạn
nhiều biến động, đổi thay, việc điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ đem lại
nhiều giá trị và bài học quý báu đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay,
nhất là quan hệ với các nước lớn trên thế giới và các tổ chức quốc tế chủ yếu. Đặc
biệt trên lĩnh vực kinh tế, đứng trước tình hình gia tăng tự do hóa, quốc tế hóa và hội
nhập quốc tế, việc từ bỏ, hoặc dần dần từ bỏ mô hình tăng trưởng do Chính phủ kiểm
soát quá chặt và điều hành trực tiếp quá nhiều là rất cần thiết. Chính phủ chỉ nên tập
trung vào các vấn đề kinh tế vĩ mô, giải quyết các vấn đề xã hội… Hơn nữa, trong
điều kiện nhất siêu đa cường của thế giới, việc cải thiện quan hệ với Mỹ và đa số các
nước lớn là nhân tố quan trọng, không thể thiếu để một quốc gia đẩy nhanh hội nhập
quốc tế và cất cánh. Chính nhờ cải thiện được mối quan hệ với Mỹ, (cùng với một số
nước lớn khác) mà Ấn Độ đã có được bước phát triển nhanh chóng như vậy. Thực tế
cũng cho thấy, từ sau khi bình thường quan hệ với Mỹ, và sau đó là sự tiến triển của
mối quan hệ Việt- Mỹ, kinh tế nước ta ngày càng có nhiều thuận lợi trong quá trình
phát triển và hội nhập quốc tế.
Tiếp đến là bài học thành công từ Ấn Độ đạt được là sự kết hợp của các yếu tố: dân tộc, thời cơ quốc tế, chính sách đối ngoại đúng đắn, và sự chỉ đạo sát sao
của các cơ quan Chính phủ. Muốn nhận được sự hưởng ứng mạnh mẽ của khu vực,
của quốc tế, một chủ trương, chính sách lớn phải có tầm nhìn bao quát, phải mang tính thời đại. Đây cũng là điểm quan trọng lý giải tại sao cũng là những nước đang
phát triển lớn như Brazil, Indonesia lại kém thành công hơn.
Cuối cùng, là một nước có dân số đông nên việc giải quyết vấn đề việc làm,
ổn định đời sống, nâng cao thu nhập của đại đa số nhân dân là việc cần phải được
ưu tiên, sau đó mới phát triển các lĩnh vực khác. Ấn Độ luôn quan tâm tới vấn đề
an ninh lương thực, đảm bảo đủ lương thực thiết yếu cho người dân trong nước, tuy
nhiên, Ấn Độ xác định không thể dựa quá nhiều, quá lâu vào nông nghiệp để tạo ra
mức phát triển nhanh cho nền kinh tế. Chính vì vậy, phải xây dựng cho mình một
chính sách ngành nghề hợp lý bên cạnh ưu tiên thu hút đầu tư nước ngoài, các
chính sách phát triển bền vững như ưu tiên giáo dục, bảo vệ môi trường, xây dựng
cơ sở hạ tầng, khoa học công nghệ và tri thức
145
Tiểu kết chương 3
Trước sự chuyển biến sâu sắc của tình hình thế giới, khu vực và mỗi nước, Ấn
Độ đã nhận thức cần phải có sự điều chỉnh chính sách đối nội và đối ngoại cho phù hợp với tình hình, nhằm tạo môi trường hòa bình, tranh thủ nguồn lực bên ngoài
một cách tốt nhất phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Chính sách đối ngoại của Ấn Độ tập trung đẩy mạnh cải cách và mở cửa kinh tế, đồng thời điều chỉnh chính sách đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ phù
hợp với biến động chung của thế giới. Thông qua chính sách đối ngoại của mình, Ấn Độ đã có ảnh hưởng không nhỏ tới nền chính trị thế giới, quá trình triển khai sâu rộng các chính sách ngoại giao mới trên nhiều bình diện đã buộc các nước lớn,
các khu vực chủ yếu và các tổ chức quốc tế phải có những thay đổi hợp lý để cùng
hợp tác và phát triển.
Chính sách đối ngoại của Ấn độ thời kỳ Thủ tướng Manmohan Singh là chính
sách đối ngoại toàn diện, trong đó tập trung vào phát triển kinh tế, hợp tác đầu tư
trong và ngoài quốc gia, do vậy nó có tầm ảnh hưởng không nhỏ, góp phần thúc
đẩy phát triển kinh tế khu vực và thế giới. Sự trỗi dậy của Ấn Độ cùng nhiều nước
Châu Á khác trong đó có Trung Quốc buộc các nước phương tây chuyển dịch trọng
tâm bàn cờ địa- chính trị thế giới từ Tây Âu chuyển sang sang khu vực CA-TBD. Đồng thời vị thế và vai trò của Ấn Độ trong các tổ chức quốc tế và khu vực ngày
càng được nâng cao, thông qua tất cả các yếu tố đó Ấn Độ đã góp phần tích cực
vào việc giữ gìn hòa bình, an ninh thế giới, giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Đặc biệt bước vào thế kỷ XXI, Ấn Độ xác định Việt Nam là trọng tâm trong
chính sách hướng đông của mình, từ những mối quan hệ chính trị, ngoại giao, kinh tế, khoa học - kỹ thuật, văn hóa - giáo dục trong những năm đầu thế kỷ XXI ngày một
toàn diện và đi vào chiều sâu. Quan hệ kinh tế, thương mại ngày càng phát triển. Quan
hệ văn hóa - giáo dục phát triển phong phú, đa dạng. Việc triển khai chính sách đối
ngoại của Ấn Độ trong giai đoạn này đã có ảnh hưởng không nhỏ tới Việt Nam, trước
tiên phải nói tới là việc tăng cường hơn mối quan hệ song phương hai nước, sau đó là
quá trình tác động lên nhiều mặt từ văn hóa, kinh tế - xã hội đến an ninh quốc phòng
và đời sống chính trị ngoại giao Việt Nam.
Bước vào thế kỷ mới, thế giới vận động với những chuyển biến mạnh mẽ
trong quan hệ quốc tế. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật - công nghệ đã mang lại
những thời cơ nhưng cũng không ít những khó khăn thách thức đối với cả Việt
146
Nam và Ấn Độ. Xu thế khu vực hóa và toàn cầu hóa đã thúc đẩy mối quan hệ hợp
tác kinh tế - chính trị giữa hai nước Việt - Ấn. quan hệ Việt Nam - Ấn Độ đặt ra
yêu cầu bức thiết phải đẩy mạnh hơn nữa mối quan hệ hợp tác giữa hai nước, nhất là bước vào thế kỷ XXI này, một thế kỷ mới với nhiều tiềm năng và hứa hẹn. Chính
vì vây mà lãnh đạo hai nước đã sớm nhận thức rõ yêu cầu của lịch sử, cũng như của thời đại đã xác định đúng khuynh hướng phát triển và con đường phát triển của mối quan hệ đầy hứa hẹn.
Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ thời kỳ Thủ tướng Manmohan Singh (2004 - 2014) là mối quan hệ bình đẳng, tự nguyện, cả hai cùng có lợi, tôn trọng đường lối phát triển của nhau và không ngừng phát triển ngày càng bền chặt. Mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp
giữa Việt Nam - Ấn đã đang và sẽ góp phần quan trọng vào sự nghiệp giữ gìn hòa
bình, ổn định hợp tác và phát triển trong khu vực và thế giới.
147
KẾT LUẬN
Bằng việc vận dụng tổng hợp các lý thuyết quan hệ quốc tế, phân tích chính sách đối ngoại, phương pháp phân tích theo cấp độ và các phương pháp phân tích
chính sách khác, luận án đã làm rõ cơ sở hoạch định; quá trình triển khai chính sách đối ngoại Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh. Về cơ sở lý luận, luận án đã phân tích và làm rõ nền tảng lý luận của chính sách đối ngoại Ấn Độ là: Những
triết lý truyền thống của Ấn Độ, Chủ nghĩa hiện thực bất bạo động của Mahatma Gandhi, quan điểm của Manmohan Singh về chính sách đối ngoại. Về cơ sở thực tiễn, luận án tập trung phân tích và làm rõ tác động của tình hình thế giới, khu vực,
tình hình trong nước và những ảnh hưởng chính sách đối ngoại của Ấn Độ trước
năm 2004 đến quá trình hoạch định và triển khai chính sách đối ngoại của Ấn Độ
dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh.
Trên cơ sở kế thừa di sản đối ngoại của các chính phủ tiền nhiệm, chính quyền
Thủ tướng Manmohan Singh đã có những điều chỉnh quan trọng, được thể hiện ở
một số khía cạnh sau:
Một là, mục tiêu kinh tế được đưa lên hàng đầu, nếu như trước đây, phát triển
kinh tế là ưu tiên thứ ba sau các mục tiêu bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, độc lập chính sách và bảo vệ hòa bình và an ninh quốc tế thì đến thời Thủ
tướng Manmohan Singh mục tiêu kinh tế là ưu tiên số một. Mục tiêu này đã được
cụ thể hóa trong cách thức thể hiện, Ấn Độ xác định rõ khu vực ưu tiên là các nước láng giềng, đồng thời thúc đẩy quan hệ Ấn Độ với các nước lớn, các khu vực, các
trung tâm kinh tế thế giới, xây dựng môi trường hòa bình ổn định để phát triển kinh tế, củng cố vị thế của Ấn Độ trên trường quốc tế. Đây là những lợi ích cốt lõi của
Ấn Độ. Chính phủ Ấn Độ chủ trương xây dựng chính sách đối ngoại hòa bình,
trung lập, không liên minh, liên kết, sẵn sàng thiết lập quan hệ đối ngoại ưu tiên với
các nước láng giềng, các nước lớn, các tổ chức khu vực và quốc tế, nhằm tranh thủ
và tận dụng mọi nguồn lực phát triển kinh tế đất nước đồng thời nâng cao vai trò, vị
thế của Ấn Độ trong khu vực và trên trường quốc tế, đưa Ấn Độ trở thành một
trong những nước đóng vai trò quan trọng của thế kỷ XXI. Để đạt được các mục
tiêu đối ngoại đó, chính phủ Ấn Độ chủ trương tăng cường quan hệ mọi mặt với
các nước láng giềng, các nước lớn và các tổ chức khu vực, quốc tế. Chính sách đối
ngoại của Ấn Độ trong giai đoạn 2004-2014 phản ánh tư duy thực dụng, chú trọng
148
vào các mục tiêu kinh tế, mang nhiều dấu ấn của Thủ tướng Manmohan Singh. Tư
duy đối ngoại của Thủ tướng Manmohan Singh đã giúp Ấn Độ có những tiền đề
thuận lợi để tiếp tục chính sách hội nhập với nền kinh tế quốc tế sâu rộng hơn ở những giai đoạn tiếp theo.
Hai là, Ấn Độ xây dựng đường lối, chính sách đối ngoại linh hoạt, thực dụng kết hợp sức mạnh quốc gia và các nguồn lực từ bên ngoài. Chính phủ Ấn Độ đã đưa đất nước thoát khỏi tình trạng khó khăn sau cuộc khủng hoảng kinh tế nghiêm
trọng, đạt được những kết quả đối ngoại có ý nghĩa lịch sử như củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc một cách toàn vẹn, duy trì ổn định chính trị, an ninh, trật tự xã hội; khôi phục và phát triển kinh tế, liên tục đạt tăng trưởng cao, khắc phục nhanh
chóng ảnh hưởng cuộc khủng hoảng kinh tế - tài chính quốc tế đối với kinh tế đất
nước, đời sống của người dân ngày càng tốt hơn; xây dựng mối quan hệ thân thiện
hơn với các nước láng giềng, tạo lập môi trường hoà bình, hữu nghị, hợp tác và
phát triển với Pakistan, Bangladesh; tăng cường quan hệ nhiều mặt với các nước
lớn, đặc biệt là tranh thủ được sự hỗ trợ của Mỹ, phát triển quan hệ kinh tế với
Trung Quốc góp phần nâng cao tăng trưởng kinh tế, củng cố tiềm lực an ninh -
quốc phòng; tăng cường đẩy mạnh hội nhập Ấn Độ với cộng đồng quốc tế cả trong
khuôn khổ khu vực và quốc tế, có quan hệ ngoại giao với nhiều nước trong cộng đồng quốc tế.
Đối với những cường quốc khu vực đang khao khát nổi lên nắm vai trò lãnh
đạo một thế giới đa cực như Ấn Độ cần phải đáp ứng các yêu cầu cụ thể gồm: (i) Nguồn lực bên trong của đất nước cho phép Ấn Độ có thể đóng vai trò dẫn đầu khu
vực; (ii) Ấn Độ phải thể hiện thiện chí và năng lực của người có thể đảm đương vai trò lãnh đạo; (iii) Ấn Độ phải được chấp nhận như một nước lãnh đạo bởi sự công
nhận của các nước láng giềng. Mặc dù là một nước lớn ở khu vực Nam Á tuy nhiên
Ấn Độ vẫn chưa đáp ứng được đầy đủ các yêu cầu này. Hai yêu cầu đầu tiên được
thể hiện khá rõ ràng khi Ấn Độ đã xác định nội dung ưu tiên trong chính sách đối
ngoại là tập trung cho mục tiêu phát triển kinh tế và những cuộc gặp gỡ, hội đàm
song phương của Thủ tướng Manmohan Singh nhằm thể hiện thiện chí và năng lực
của người có thể đảm đương vai trò lãnh đạo. Tuy nhiên yêu cầu cuối cùng là Ấn
Độ phải được chấp nhận như một nước lãnh đạo bởi sự công nhận của các nước
láng giềng thì vẫn chưa được thực hiện bởi một số nước trong khu vực Nam
Á,Pakistan vẫn từ chối thẳng thừng vai trò lãnh đạo của Ấn Độ khi từ chối tham gia
149
vào những sáng kiến khu vực do Ấn Độ đề xuất đồng thời đẩy mạnh quan hệ với
Trung Quốc trong mọi hoàn cảnh. Các quốc gia khác trong khu vực cũng đặt ra
nhiều thách thức khác để Ấn Độ có thể khẳng định vai trò lãnh đạo của mình.
Ấn Độ dưới thời Thủ tướng Manmohan Singh thể hiện sự hội nhập tốt hơn
vào các tổ chức tài chính và thương mại quốc tế, ủng hộ các liên minh có lợi, có tiếng nói mạnh mẽ hơn trong các vấn đề toàn cầu như: khủng bố quốc tế, vũ khí hủy diệt… Ấn Độ cũng sẵn sàng tham gia hợp tác trên các diễn đàn đa phương thể
hiện thái độ tích cực và xây dựng của Ấn Độ trên các diễn đàn quốc tế.
Trong quá trình Ấn Độ đang điều chỉnh chiến lược chính sách đối ngoại của mình, Việt Nam luôn đóng vai trò quan trọng, là trọng tâm trong chính sách hướng
Đông của Ấn Độ. Quan hệ Việt Nam - Ấn Độ với những bước tiến bền vững qua
nhiều giai đoạn lịch sử đã và đang chứng tỏ một thực tế rằng hai quốc gia đều có
những điểm tương đồng về lợi ích quốc gia và chia sẻ với nhau quan điểm chung về
nhiều vấn đề song phương lẫn đa phương, khu vực và quốc tế. Có thể nhận thấy
rằng “những lợi ích hội tụ về kinh tế và an ninh” là cơ sở thuyết phục hai đối tác
thúc đẩy quan hệ chặt chẽ. Quan hệ Ấn Độ - Việt Nam giúp Ấn Độ trở thành một
cường quốc, chiếm ưu thế ở khu vực Đông Á, đặc biệt là Đông Nam Á. Việc thắt
chặt quan hệ Ấn Độ - Việt Nam cũng mở đường cho Ấn Độ đóng một vai trò lớn hơn trong việc định hình cấu trúc an ninh khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Bên
cạnh đó, một qua hệ đối tác bền vững Việt Nam - Ấn Độ có vai trò rất quan trọng
trong việc hiện thực hóa những lợi ích chiến lược của Ấn Độ trong lĩnh vực hàng hải và giúp ích cho nỗ lực của Việt Nam nhằm tăng cường sự hiện diện của các đối
tác đáng tin cậy trong khu vực[180; tr.1-8]. Trong bối cảnh mà chính sách hướng Đông đã có những kết quả tích cực và chuyển sang giai đoạn mới thì Việt Nam
càng đóng vai trò quan trọng trong ưu tiên chiến lược của Ấn Độ tại Đông Nam Á.
Khi lựa chọn Việt Nam, Ấn Độ cho thấy mình đang là một nhân tố quan trọng tại
châu Á - Thái Bình Dương.
Việt Nam đang bước vào thời kỳ mới với thế và lực mới, vì vậy cần phải tiếp
tục nhìn nhận và xây dựng một chiến lược đối ngoại phù hợp với bối cảnh tình hình
hiện nay và thời gian tới nhằm đảm bảo tối đa lợi ích của Việt Nam trong quan hệ
với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới từ kinh nghiệm của Ấn Độ, góp phần
định hướng, giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quan hệ giữa Việt Nam với một số
nước, nhất là các nước láng giềng. Chính sách đối ngoại của Việt Nam trong những
150
năm qua, mặc dù đã đạt được những kết quả tích cực, vị thế và vai trò của Việt Nam
ở khu vực và trên trường quốc tế ngày càng nâng cao, góp phần quan trọng tạo môi
trường hòa bình phục vụ thắng lợi mục tiêu xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Tuy nhiên, công tác đối ngoại với một số chủ thể vẫn chưa thật sự hiệu quả,
chỉ mang tính chất bề nổi mà chưa có chiều sâu và thực chất, chưa phát huy hết nội hàm của các khái niệm đối ngoại, đặc biệt là với các nước nước có mối quan hệ truyền thống đặc biệt trong bối cảnh tình hình đất nước đứng trước những thách thức
an ninh nghiêm trọng liên quan đến vấn đề Biển Đông, sông Mê Công, và các thách thức an ninh phi truyền thống khác. Từ kinh nghiệm của Ấn Độ cho thấy, việc đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ với các đối tác, nhất là các đối tác chiến lược và
các nước lớn có vai trò quan trọng đối với phát triển và an ninh của đất nước. Đã đến
lúc chúng ta cần nhìn rõ vấn đề, xây dựng một chiến lược đối ngoại phù hợp với tình
hình mới nhằm làm thực chất và đạt hiệu quả tối đa trong các mối quan hệ đối ngoại
trên cơ sở độc lập, tự chủ, tôn trọng lẫn nhau và cùng có lợi./.
151
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦ A TÁ C GIẢ
1. Đặng Đình Tiến (2020), “Quan hệ hợp tác chiến lược Ấn Độ - Mỹ những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông, chuyên đề số 01 (5-2020).
2. Đặng Đình Tiến (2020), “Quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Trung Quốc những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Kinh tế châu Á – Thái Bình Dương, Số Cuối tháng – Tháng 6 năm 2020.
3. Đặng Đình Tiến (2020), “Đông Nam Á trong chính sách hướng Đông của Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Số
11/2020
4. Đặng Đình Tiến, Nguyễn Thị Thúy (2020), “Chính sách đối ngoại của Ấn Độ
những năm đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 11-2020
5. Đặng Đình Tiến (2020), “Sự điều chỉnh chiến lược của các nước lớn đối với tiểu vùng sông Mêkông mở rộng những năm đầu thế kỷ XXI và đối sách của
Việt Nam”, (thành viên biên soạn), Nxb. Lý luận chính trị.
6. Đặng Đình Tiến (2020), “Giáo trình Chính sách đối ngoại của Việt Nam”,
(thành viên biên soạn), trường Đại học Nội vụ Hà Nội.
152
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt 1. Ngô Xuân Bình (2013), Những vấn đề kinh tế - chính trị cơ bản của Ấn Độ
thập niên đầu thế kỷ XXI và dự báo xu hướng đến năm 2020, Nxb. Từ điển
bách khoa.
2. Ngô Xuân Bình (2013), Việt Nam - Ấn Độ và Tây Nam Á: Những mối liên hệ
trong lịch sử và hiện tại, Nxb Từ điển bách khoa
3. Ngô Xuân Bình (2019), Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Ấn Độ dưới thời
Thủ tướng Modi, Nxb. Khoa học xã hội.
4. Bộ Công thương Việt Nam, Xuất khẩu từ Việt Nam sang Ấn Độ tăng mạnh
trong 4 tháng đầu năm 2015, 04/06/2015.
5. Ngô Chuyên (2006), Trung Quốc - Ấn Độ đưa ra chiến lược 10 điểm, Trang
điện tử Viet Nam Net.
6. Cục đầu tư nước ngoài (2015), Quan hệ hợp tác đầu tư Việt Nam - Ấn Độ,
Trang thông tin điện tử Đầu tư nước ngoài, 21/05/2015.
7. Nguyễn Mạnh Cường (2013), Chính sách đối ngoại và hội nhập quốc tế, Học
viện Ngoại giao.
8. Trịnh Thị Dung (2008), Vị trí của Trung Quốc trong “chính sách hướng
Đông” của Ấn Độ, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2.
9. Nguyễn Văn Dương (2014), Vai trò của Ấn độ trong phong trào không liên
kết, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 05 (18).
10. Nguyễn Văn Dương (2018), Quá trình củng cố và bảo vệ độc lập dân tộc của
Cộng hoà Ấn Độ từ năm 1991 đến năm 2015 (The process of strengthening
and defending for national independence of the Republic of India from 1991
to 2015): LATS Lịch sử, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2006
12. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2011
13. Thăng Điệp (2016), Trung Quốc “đuối” trong cuộc đua GDP với Mỹ, Thời
báo Kinh tế Việt Nam, Hà Nội, Số ra ngày 31/01/2016
153
14. Đào Xuân Hải Giang: Quan hệ Liên bang Nga - Ấn Độ trong những năm đầu thế
kỷ XXI, Luận văn Thạc sĩ, Chuyên ngành Quan hệ quốc tế, Học viện Quan hệ
quốc tế, H.2013
15. Phạm Hà: Ấn Độ - Nga củng cố quan hệ đồng minh truyền thống, http://vov.vn
16. Đỗ Thanh Hà (2013), Quan hệ Việt - Ấn trong chính sách hướng đông của Ấn Độ
những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 09 (10).
17. Đào Minh Hồng, Lê Hồng Hiệp (2018), Thuật ngữ Quan hệ Quốc tế, Nxb.
Chính trị Quốc gia Sự thật.
18. Hoàng Thị Minh Hoa (2014), Chính sách của Ấn Độ với Đông Bắc Á đầu thế
kỷ XXI – Những thành tựu và một số vấn đề gay cấn, Tạp chí nghiên cứu Ấn
Độ và Châu Á, số 01 (14).
19. Học viện Ngoại giao (2012), Cục diện thế giới đến 2020, Nxb. Chính trị Quốc
gia, H. 2012
20. Hội đồng chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển Bách khoa
thư Việt Nam, Nxb. Trung tâm biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, HN -
1995, t.1
21. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam, Từ điển
Bách khoa thư Việt Nam, Nxb. Từ điển bách khoa, H. 2011
22. Nguyễn Cảnh Huệ (2007), Tìm hiểu tư tưởng hoà bình trong chính sách đối
ngoại của nước Cộng hoà Ấn Độ, Nghiên cứu Lịch sử, số 3.
23. Vũ Dương Huân (2009), Một số vấn đề quan hệ quốc tế, chính sách đối ngoại
và ngoại giao Việt Nam, Nxb. Chính trị-Hành chính, H. 2009
24. Vũ Dương Huân (2016), Một số vấn đề QHQT, CSĐN và ngoại giao Việt
Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2018, t1
25. Vũ Dương Huân (2016), Một số vấn đề QHQT, CSĐN và ngoại giao Việt
Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2018, t2
26. Vũ Dương Huân (2016), Một số vấn đề QHQT, CSĐN và ngoại giao Việt
Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2018, t3
27. Vũ Dương Huân (2016), Một số vấn đề QHQT, CSĐN và ngoại giao Việt
Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2018, t4
28. Vũ Dương Huân (2016), Một số vấn đề QHQT, CSĐN và ngoại giao Việt
Nam, Nxb. Lý luận chính trị, Hà Nội 2018, t5
154
29. Vũ Dương Huân (2015), Ngoại giao và công tác ngoại giao, Nxb. Chính trị
Quốc gia, H. 2015
30. Nguyễn Cảnh Huệ (2007), Tìm hiểu tư tưởng hoà bình trong chính sách đối
31.
ngoại của nước Cộng hoà Ấn Độ, Nghiên cứu Lịch sử, số 3. Nguyễn Cảnh Huệ (2008), Bước phát triển mới của mối quan hệ Việt Nam - Ấn Độ trong những năm đầu thế kỷ XXI, http//www.hids.hochiminh
city.gov.vn.
32. Nguyễn Cảnh Huệ (5/2009), Quan hệ Ấn Độ - ASEAN thời kỳ sau chiến tranh
lạnh, Hội thảo khoa học quốc tế về “Quan hệ giữa Ấn Độ và Đông Nam Á -
sự cam kết chiến lược hay sự hội nhập khu vực”, Nxb. Đại Học Khoa học xã hội&NV Hồ Chí Minh
33. Đình Hùng (2014), Ấn Độ tìm kiếm “mùa xuân mới” cho nền kinh tế, Tạp chí
Cộng sản ngày 24/12/2014. Nguyễn Thu Hương (2001), Vị trí của Ấn Độ trên trường quốc tế (thời kỳ 34.
1947- 1997), Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6.
35.
Nguyễn Quốc Khánh (2001), Vị trí và vai trò quốc tế của Ấn Độ ở Châu Á- Thái Bình Dương trong những năm đầu thế kỉ XXI, Đề tài khoa học cấp bộ,
Bộ Ngoại giao, Vụ Châu Á.
36. Vũ Khoan (1993), An ninh, phát triển và ảnh hưởng trong hoạt động đối
ngoại, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 2/1993
37. Huỳnh Thanh Loan (2014), Triển vọng quan hệ Ấn Độ - Pakixtan dưới thời Thủ
tướng Narendra Modi, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 07(20).
38.
Nguyễn Văn Lịch (2013), Quá trình hình thành và phát triển quan hệ đối tác chiến lược Ấn Độ - Nhật Bản, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 12 (13).
39. Trần Thị Lý (2001), 10 năm điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ
(1991- 2000): Những thành tựu, Nghiên cứu Đông Nam Á, số 6.
40. Trần Thị Lý (2002), Sự điều chỉnh chính sách của Cộng hoà Ấn Độ từ 1991-
2000, Nxb. Khoa học xã hội.
41. Lê Văn Mỹ (2012), Ngoại giao Trung Quốc năm 2011, Tạp chí nghiên cứu
Trung Quốc, Số 3.
42. Hoàng Khắc Nam (2014), Một số vấn đề lý luân quan hệ quốc tế dưới góc
nhìn lịch sử, Nxb. Chính trị Quốc gia, H.2014.
43. Vũ Dương Ninh (chủ biên 1995), Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội
155
44. Dương Thị Thanh Nga (2012), Quan hệ Liên minh Châu Âu- Ấn Độ từ 1993
đến 2010, Tạp chí Khoa học, Đại học Huế, tập 72A, số 3, năm 2012.
45.
Lê Thị Hằng Nga (2014), Những yếu tố tác động đến quan hệ Ấn Độ - Mỹ, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 03 (16).
46. Lê Thị Hằng Nga (2018), Quan hệ Ấn Độ - Hoa Kỳ 1947 – 1991, Nxb Chính
trị quốc gia Sự thật. Nguyễn Tăng Nghị, Huỳnh Hồ Đại Nghĩa (2013), Chính sách hướng Đông 47.
của Ấn Độ những năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 08 (09). Nguyễn Nhâm (2014), Hội nghị thượng đỉnh BRICS lần thứ VI: Tăng cường 48.
cơ chế hợp tác tài chính nội khối, Tạp chí Tài chính số 16 kỳ 2, 8/2014.
49. Hồng Nhung (2015), Việt Nam tăng cường xúc tiến thị trường du lịch Ấn Độ,
Tạp chí du lịch Việt Nam, bài viết ngày 21/05/2015.
50. Vũ Dương Ninh, Phan Văn Ban, Nguyễn Công Khanh, Đinh Trung Kiên
(1995), Lịch sử Ấn Độ, Nxb. Giáo dục.
51. Nguyễn Xuân Trung, Nguyễn Thị Oanh (2014), Xu hướng chính sách của tân tổng thống Nerendra Modi, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 07 (20) 52. Lang Trung: Chuyến thăm chiến lược của Thủ tướng Ấn Độ tới Nga,
http://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 11-12-2009
53. Ngô Minh Oanh (2005), Tư tưởng không liên kết ở Ấn Độ từ Jawaharlal
Nehru đến Indira Gandhi, Nghiên cứu Lịch sử, số 2.
54. Ngô Minh Oanh (2018), Những người làm nên lịch sử Ấn Độ, Nxb Văn hóa
văn nghệ TP HCM
55. Dương Văn Quảng (2002), Từ điển thuật ngữ ngoại giao, Nxb. Thế giới, Hà
Nội
56. Nguyễn Thị Quế (2015), Chính sách đối ngoại của các nước lớn, Nxb. Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn Trường Sơn (2015), Hướng về phía Đông - Một chiến lược lớn của
Ấn Độ, NXB Chính trị Quốc gia
58. Tôn Sinh Thành (2001), Vài suy nghĩ về tư duy đối ngoại của Ấn Độ, Nghiên
cứu Đông Nam Á, số 6.
59. Tôn Sinh Thành (2018), Hợp tác khu vực châu Á: Nhân tố ASEAN và Ấn Độ,
Nxb Chính trị Quốc gia sự thật.
156
60. Nguyễn Xuân Thắng (chủ biên) (2015), Kinh tế thế giới và Việt Nam 2014-
2015: nỗ lực phục hồi để chuyển sang quỹ đạo tăng trưởng mới, Nxb. Khoa
học xã hội, Hà Nội.
61. Dương Văn Quảng, Nguyễn Thị Thìn (2010), Bàn về vấn đề phân tích chính
sách đối ngoại, Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 4(83),12/2010
62. Phùng Thị Thảo (2017), Chính sách đối ngoại của Ấn Độ đối với Đông Nam Á
giai đoạn 1947 đến 1964, Luận án tiến sĩ Đông Nam Á học, Trường Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội
63. Thông tấn xã Việt Nam, Chuyến đi thăm Liên Xô của Rajiv Gandhi, Tài liệu
tham khảo đặc biệt ngày 17/8/1985.
64. Thông tấn xã Việt Nam, Quan hệ với Mỹ: Ý tưởng và hiện thực của quan hệ
đối tác chiến lược, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 22/2/2006.
65. Thông tấn xã Việt Nam, Quan hệ Trung Quốc - Ấn Độ, Tài liệu tham khảo
đặc biệt ngày 30/12/2006.
66. Thông tấn xã Việt Nam, Những xu hướng mới trong chính sách đối ngoại của
Ấn Độ, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 15 /06/ 2007.
67. Thông tấn xã Việt Nam, Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ Việt Nam -
Ấn Độ, ngày 7-7-2007.
68. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ với chính sách hướng Đông, Tài liệu tham
khảo đặc biệt ngày 20/7/ 2007.
69. Thông tấn xã Việt Nam, Triển vọng lớn cho mối quan hệ Ấn Độ - Trung
Quốc, Tin tức ngày 12/1/2008.
70. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ trấn an Trung Quốc về mối quan hệ nồng ấm
với Mỹ, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 17/1/2008.
71. Thông tấn xã Việt Nam, “Đầu xuôi đuôi lọt”, Thế giới và Việt Nam ngày 12-
18/1/2008.
72. Thông tấn xã Việt Nam, Văn kiện “Tầm nhìn Trung Quốc - Ấn Độ thế kỷ
XXI”, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 21/1/2008.
73. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ khẳng định tiếp tục theo đuổi chính sách đối
ngoại độc lập, Tài liệu tham khảo đặc biệt ngày 11/8/2008.
74. Thông tấn xã Việt Nam, Vai trò của Ấn Độ trong trật tự thế giới mới, Tài liệu
tham khảo đặc biệt ngày 16/10/2008.
157
75. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ đẩy mạnh hoạt động ngoại giao năng lượng,
Tin tham khảo thế giới ngày 24/11/2008.
76.
77.
Thông tấn xã Việt Nam, Thúc đẩy quan hệ Việt Nam-Ấn Độ trong bối cảnh mới, Bài viết ngày 7/1/2012. Thông tấn xã Việt Nam, Dấu ấn đặc biệt cải thiện quan hệ Ấn Độ - Pakistan, Tin tham khảo ngày 9/4/2012.
78. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ đẩy mạnh “Chính sách kết nối Trung Á”, Tài
liệu tham khảo đặc biệt ngày 31/12/2012.
79. Thông tấn xã Việt Nam, Hai thủ tướng Ấn Độ và Anh thảo luận thúc đẩy
quan hệ, tin tức ngày 14/11/2013. Thông tấn xã Việt Nam, Mỹ, Ấn Độ nhất trí tăng cường quan hệ song phương 80.
trên nhiều lĩnh vực, bài viết ngày 01/10/2014.
81.
Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ đưa ra chiến lược “Hành động phía Đông” nhằm thúc đẩy quan hệ với ASEAN, bài viết ngày 05/10/2014.
82. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ nỗ lực đẩy mạnh quan hệ chiến lược và kinh
tế với ASEAN, bài viết ngày 05/10/2014. Thông tấn xã Việt Nam, FDI của Ấn Độ tăng lên mức cao nhất trong vòng 29 83.
tháng, Tin tham khảo ngày 18/03/2015. Thông tấn xã Việt Nam, Ấn Độ đặt mua 56 máy bay vận tải quân sự của 84.
hãng Airbus, tin tức ngày 14/05/2015.
85. Thông tấn xã Việt Nam, Kim ngạch thương mại Ấn-Mỹ sẽ tăng lên 500 tỷ
USD vài năm tới, Tin tức ngày 4/6/2015.
86.
Phạm Tiến (2010), Nhận diện nền chính trị thế giới 10 năm đầu thế kỷ XXI, Tạp chí những vấn đề Kinh tế- Chính trị Thế giới.
87. Phạm Xuân Tiến (2009), Quan hệ Ấn Độ- Mỹ từ 1950 đến 2008, Luận án tiến
sĩ, Chuyên ngành Lịch sử thế giới, Trường ĐH Vinh.
88. Trần Nam Tiến (2016), Ấn Độ với Đông Nam Á trong bối cảnh quốc tế mới,
NXB Văn hóa Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh
89. Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ (2016), Việt Nam - Ấn Độ: bối cảnh mới, tầm
nhìn mới, Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế, Nxb Lý luận chính trị
90. Trung tâm nghiên cứu Ấn Độ (2017), Sức mạnh mềm Ấn Độ, sức mạnh mềm
Việt Nam trong bối cảnh khu vực hóa, toàn cầu hóa, Kỷ yếu Hội thảo khoa
học quốc tế, Nxb Lý luận chính trị.
158
91. Lê Đình Tĩnh (2013), Chính sách đối ngoại Mỹ từ góc nhìn Hiện thực mới:
Trường hợp đối với Việt Nam kể từ sau bình thường hóa quan hệ, luận án Tiến sĩ
chuyên ngành Quan hệ quốc tế, lưu trữ tại Học viện Ngoại giao Việt Nam
92. Hồ Anh Thái (2008), Namaskar! Xin chào Ấn Độ, Nxb. Trẻ, Hà Nội
93. Tổng Công ty Hàng không Việt Nam: Công văn số 270/TCTHK-KHPT, ngày
1-3-2011.
94. Tổng Cục Hải quan Việt Nam (2015), Số liệu xuất nhập khẩu của Việt Nam
với Ấn Độ từ 2010 – 2014, H. 2015.
95. Tổng cục Hải quan Việt Nam (2014), Quan hệ thương mại Việt Nam - Ấn Độ
năm 2014 và triển vọng năm 2015, Theo số liệu công bố.
96. Đặng Cẩm Tú (2018), Xu hướng phát triển và chính sách của Ấn Độ đối với
châu Á - Thái Bình Dương đến năm 2030, Nxb. Chính trị Quốc gia
97. Lại Anh Tú (2013), Động lực mới cho quan hệ Mỹ - Ấn, Tạp chí Thế giới và
Việt Nam, số 10.
98. Phan Minh Tuấn (2006), Quan hệ Ấn Độ- ASEAN: Tiến tới mối quan hệ lâu
dài và bền vững, Nghiên cứu quốc tế, số 1 (64).
99. Võ Thị Trang (2016), Quan hệ đối tác chiến lược Việt Nam - Ấn Độ triển
vọng phát triển, in trong Việt Nam - Ấn Độ: Bối cảnh mới, tầm nhìn mới, Nxb.
Lý luận chính trị, H.2016
100. Lê Nguyễn Hương Trinh (2005), Chính sách ngoại thương Ấn Độ thời kỳ cải
cách, Nxb Chính trị Quốc gia
101. Nguyễn Xuân Trung, Nguyễn Thị Oanh (2014), Xu hướng chính sách của tân
tổng thống Nerendra Modi, Tạp chí nghiên cứu Ấn Độ và Châu Á, số 07 (20).
102. Quốc Trung (2010), Sự nổi lên của Ấn Độ, Tạp chí Cộng sản Điện tử,
www.tapchicongsan.org.vn, ngày 23/8/2010.
103. Viện Ngôn ngữ học, Từ điển Tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng, 1997, tr.157.
104. Trần Thị Vinh (2011), Giáo trình Lịch sử thế giới hiện đại (quyển 2), Nxb.
Đại học Sư phạm.
105. Võ Xuân Vinh (2013), ASEAN trong chính sách hướng đông của Ấn Độ,
Nxb. Khoa học xã hội.
106. Phong Vũ (2015), Ấn Độ đẩy mạnh hợp tác kinh tế với các nước ASEAN, Báo
Nhân dân 21/4/2015
159
Tiếng Anh
107. Albert Schweitzer (1957), Indian thought and its development, Nxb The
Beacon Press; First Edition edition
108. Allison, G. (1969). Conceptual models and the Cuban missile crisis. American
Political Science Review, 63(3), 689 718.
111. Amb Achal Malhotra (2019),
109. Amartya Sen (2005), The Argumentative Indian, Nxb Allen Lane, 110. Amita Batra (2015), IPCS Forecast: South Asian Regional Integration, Centre for South Asian Studies, School of International Studies, JNU, New Delhi, 2015. India's Foreign Policy: Landmarks, achievements and challenges ahead, New Dehli, Central University of
Rajasthan
112. Anjana Mothar Chandra (2005), 5,000 Years of History & Culture, Nxb Times
Editions-Marshall Cavendish
113. APJ Abdul Kalam (2014), India 2020: A Vision for the new Millenium, Nxb
Penguin
114. Baris Kesgin (2011), “Foreign Policy Analysis”, in John T. Ishiyama and Marijke Breuning (eds), 21st Century Political Science: A Reference
Handbook (Thousand Oaks, CA: SAGE Publications, 2011), pp. 336- 343. 115. British Prime Minister’s Office (2008), Joint UK-France Summit Declaration. 27 the original on 9 September 2008. March 2008. Archived from
http://www.number10.gov.uk/Page15144 Retrieved 15 December 2008.
116. Bruce Hartford (2004), Two Kinds of Nonviolent Resistance, Civil Rights
Movement Veterans
117. Chas. W. Freeman (1994), Jr The Diplomat’s Dictionary. Nxb., National
Defence University Press. Washinton, D C 1994,tr.18
118. David J. Karl (2012), U.S.-India Relations: The Way Forward, Washington
DC, 2012
119. Dipanka Banedi (1995), India and Southeast Asia in the twenty-first century,
Nxb. Ma Gien Dipanka, New Delhi.
120. Dipanka Banedi (2005), “India and Southeast Asia in the XXI Century”,
Publisher: Ma Gien Dipanka, New delhi
121. Economist Group (2011), India's Economy: Not Just Rubies and Polyester
Shirts, The Economist, 8/10/2011.
160
122. Frédéric Grare, Amitabh Mattoo (2001), India and ASEAN - The politics of India’s Look East Policy”, Nxb. Center de Sciences Humaines, New Delhi 123. George Modelski (1962), A Theory of Foreign Policy, Princeton Studies in
World Politics, No. 2. New York: Frederick A. Praeger, 1962
124. Government of India (2004- 2005), Economic Survey, Government of India
Express.
125. Huma Siddiqui (2016), UN seeks Indian women military observers, The
Indian Express, Published: April 16, 2016
126. Kanwal Sibal (2003), Challenges and Prosoects, India Foreign Policy, Speech
presented at Gerneva Forum
127. IMF (2017), International Monetary Fund Annual Report 2017: Promoting
Inclusive Growth, IMF Annual Report 2017
128. Indian IT-BPO Industry, NASSCOM, 2011-2012, 22 /6/2012
129. Jack Snyder (1991), Myths of Empire: Domestics Politics and International
Ambition, Ithaca, NY…: Cornell University Press, tr.11-12
130. Jakub Zaiaczkowski, Jivanta Schottli, Manish Thapa (2014), India in the
Comtemporary World: Policy, Economy and International Relations,
Routledge – Taylor & Francis Group, New Delhi
131. John Keay (2011), India: A History, 2nd Ed – Revised and Updated, Grove
Press / Harper Collins
132. J.N.Dixit (2010), India's Foreign Policy And Its Neighbours, Nxb Gyan
Publishing House
133. JNU Campus (2008), India’s Foreign Policy - Continuity and Change, New
Delhi.
134. Jurgen Richter, Tarun Das Colette Mathur Frank (2006), India Rising, Nxb
HÄftad Engelska
135. George Modelski (1962), A Theory of Foreign Policy, Princeton Studies in
World Politics, No. 2. New York: Frederick A. Praeger, 1962.
136. Gurcharan Das (2006), The India Model, Foreign Affair.
137. K.A.Kronstadt (2009), India - U.S. Relations, Washington DC, 2009.
138. Kal J. Holsti, National Role Conceptions in the Study of Foreign Policy,
International Studies Quarterly, Vol. 14, No. 3 (Sep., 1970)
161
139. Kenoyer, Jonathan Mark; Heuston, Kimberley (2005), The Ancient South
Asian World, Oxford University Press.
140. Kronstadt (2009), India-U.S. Relations, K. A, Washington, 2009 141. K.R. Gupta & Vatsala Shukla (2009), Foreign Policy of India, Atlantic
Publishers & Dist
142. Kronstadt (2009), India-U.S. Relations, K.A, Washington. 143. Lok Sabha, Government of India (2006), Q. 26 New Foreign Policy, https://www.mea.gov.in/lok-sabha.htm?dtl/11752/q+26+new+foreign+policy, 21/6/2018
144. Manish Chand (2014), India and SAARC: Interlinked Dreams,Ministry of
External Affairs, Government of India.
145. Manjari Chatterjee Miller (2013), India’s Feeble Foreign Policy, Foreign
Affairs, May/June 2013, pp. 14-19.
146. Manmohan Singh (2004), PM’s address at meeting of PM’s council on Trade
and Industry, New Delhi.
147. Marijke Breuning (2007), Foreign Policy Analysis, A Comparative
Introduction, published by Palgrave Macmillia, New York, tr 164.
148. Manish Chand (2014), India and SAARC: Interlinked Dreams, Ministry of
External Affairs, Government of India
149. Mary Somers Heidhues (2007), Lịch sử phát triển Đông Nam Á, Nxb. Văn
Hoá Thông Tin (Đã dịch).
150. Melkulangara Bhadrakumar (2014), Manmohan Singh’s Foreign Policy
Legacy, Strategic Culture Foundation, New Dehli, January 30, 2014
151. Ministry Of Agriculture, Government of India (2015) Report of Working
Group of Sub-Commmittee of National Development Council.
152. Ministry of Defense, Government of India (2004), Defence White paper 2004: Indian Army Doctrine, Headquarters Army Training Command, October 2004, Shimla, tr7-8.
153. Ministry of External Affairs, Government of India (1998), Prime Minister Shri Atal Bihari Vajpayee’s Independence Day Address, on page http://archivepmo.nic.in/abv/speech- details.php?nodeid=9238, [accessed 20 July 2017]
154. Ministry of External Affairs, Government of India (2007), The Challenges Ahead for India’s Foreign Policy, Speech by Foreign Secretary, Shri Shivshankar
Menon at the Observer Research Foundation, New Delhi, 2007.
162
155. Ministry of External Affairs, Government of India (2009), Address by Foreign Secretary on India's Foreign Policy, Talk by Foreign Secretary Mr. Shivshankar Menon at Delhi University, 2009
156. Ministry of External Affairs, Government of India (2005), Prime Minister Dr. Manmohan Singh’s Interview to Thai Newspapers - The Nation (English language) and Khao Sod (Thai language), New Dehli 2005.
157. Ministry of External Affairs, Government of India (2006), Indian Foreign Policy: A Road Map for the Decade Ahead, Speech by External Affairs Minister Shri Pranab Mukherjee at the 46th National Defence College Course, 2006. 158. Ministry of External Affairs, Government of India (2006), Present Dimensions of the Indian Foreign Policy, Address by Foreign Secretary Mr. Shyam Saran at Shanghai Institute of International Studies, Shanghai, 2006.
159. Ministry of External Affairs, Government of India (2010), Address by Foreign Secretary on “India-China relations” at ORF Conference on China, New Delhi, December 3, 2010
160. Ministry of External Affairs, Government of India (2013), India-American
relations, New delhi, 2013
161. Ministry of External Affairs, Government of India (2013), A Free and
Prosperous India: Five Principles of Foreign Policy, New delhi, 2013
162. Ministry of External Affairs, Government of India (2013), Prime Minister's statement to media after delegation level talks with the Chinese Premier, New Dehli 2013
163. Ministry of External Affairs, Government of India (2013), India-China
bilateral relations, New Dehli 2013
164. Ministry of External Affairs, Government of India (2014), India-Pakistan
relations, New delhi, 2014
165. Ministry of External Affairs, Government of India (2014), India-Bangladesh
relations, New delhi, 2014
166. Ministry of External Affairs, Government of India (2015), India-American
relations, New Delhi, 4/2015.
167. Ministry of External Affairs, Government of India: India - Russia relations, New
Delhi, 1/2014
168. Ministry of Finance, Government of India (2014), Economic Survey, New
delhi, 2014
163
169. Ministry of Industry and Trade India, According to the Ministry of Industry
and Trade India, New delhi, 2015.
170. Mohammed Khalid (2010), Southeast Asia in India’s Post Cold War Foreign Policy, Department of Evening Studies, Panjab University, Chandigarh. 171. Mohit Anand (2009), India - ASEAN Relations - Analysing Regional Implications, IPCS Special Report, Institute of Peace and Conflict Studies, New Delhi.
172. Natasha Lomas (2013), India Passes Japan To Become Third Largest Global
Smartphone Market, After China & U.S, TechCrunch. AOL Inc
173. North Eastern Council Secretariat (2008), Annual Pland 2007 - 2008 North
Eastern Council, Shillong
174. Pankaj Jha, Smita Tiwari, Smita Tiwari (2015), Transitions and
Interdependence: India and its Neighbours, Nxb KW Publishers
175. Parakash Nanda (2003), Rediscovering Asia - Evolution of India’s Look East
Policy, New Delhi: Lancer Publishers & Distributiors
176. Pavank Varma (2006), Being Indian: The Truth about Why the Twenty-First
Century Will Be India's”, Nxb Penguin Books.
177. Pete Engardio (2009), Rồng Hoa Hổ Ấn, Nxb. Thời đại, Hà Nội, 2009, tr. 60
(đã dịch).
178. PM (Manmohan Singh)’s adress at the 1st East Asia Summit, Kuala Lumpur,
Malaysia 2005.
179. Prakash Nanda (2003), Rediscovering Asia - Evolution of India’s look-East
Policy, Green Park Main, New Delhi
180. Rahul Mishra (2014), India-Vietnam: New Waves of Strategic Engagement,
India Council of World Affairs, Issue Brief, 20-01-2014.
181. Rajiv Sikri (2009), Challenge and Strategy: Rethinking India's Foreign Policy,
Nxb SAGE Publications India
182. Ram Kumar Jha, Saurabh Kumar (2015), The cas -for stronger india china
economic relations, The diplomat.
183. Reddy, K.R (2006), Sub-Regional Economic Cooperation between India and ASEAN in Kumar N.Sen R and Asher M (eds), India - ASEAN Economic
Relations: Meeting the Challenges of Globalization published by Research
and Information System for Developing (RIS) Delhi, India and Institute of
Southeast Asian Stueies (ISEAS), Singapore
164
184. Robyn Meredith (2009), Voi và Rồng – Sự nổi lên của Ấn Độ, Trung Quốc và ý
nghĩa của điều đó đối với tất cả chúng ta, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009. 185. Robert Jervis, Các giả thuyết về nhận thức sai, Lý thuyết quan hệ quốc tế, Học
viện Quan hệ quốc tế, Hà Nội 2007, quyển 1
186. Roman Muzalevsky: India’s “Connect Central Asia” Policy Seeks to
Compensate for Lost Time, Eurasia Daily Monitor, Washington D.C, 2014
187. Rose, Gideon (1998), Neoclassical Realism and Theories of Foreign Policy,
World Politics, Vol.51.1, Octorber 1998, tr144-172
188. Rosenau, James (1980), The Scientific Study of Foreign Policy, Pinter, Lodon,
tr 56.
189. Saman Kelegama (2014), China–Sri Lanka Economic Relations An
Overview, China Report.
190. Sanjaya Baru (2008), India and the World - Economics and Politics of the
Manmohan Singh Doctrine in Foreign Policy, Institute of South Asian Studies
Working Paper, No. 53 - Date: 14 November 2008, Singapore
191. Sharp, Gene (1973), The Politics of Nonviolent Action. Porter Sargen. tr. 12.
ISBN 9780875580685.
192. Shillong, (2008) “India - ASEAN Relations - Analysing Regional
Implications”, Mohit Anand, IPCS Special Report, Institute of Peace and
Conflict Studies, New Delhi, 5/2009
193. Shrikant Paranjpe (2012), India’s Strategic Culture: The Making of National
Security Policy”, Nxb Routledge (India)
194. Steve Smith, Amelia Hadfield, Tim Dunne (2008), Foreign Policy: Theories-
Actors-Cases, Oxford University Press 2008
195. Subhash Kapila (2014), India’s Strategic Pivot to the Indo Pacific, South Asia
Analysis Group.
196. Sudhir Devare (2005), India and Southeast Asia: Towards Security
Convergence, Nxb ISEAS/Capital
197. Tarun Das (Cb), Colette Mathur, Frank - Jurggen Richter (2013), Ấn Độ sự
trỗi dậy của một cường quốc, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
198. Tarun Das, Colette Mathur, Frank - Jurggen Richter (2013), India Rising:
Emergence of a New World Power, Marshall Cavendish Business, New Delhi.
165
199. Tharoor, Shashi (2006), India: From Midnight to the Millennium and Beyond,
Arcade Publishing, 2006
200. United Nations (2014),
India and United nations peacekeeping and peacebuilding, Archived from the original (PDF) on 21 February 2014. Retrieved 2 January 2019. http://www.un.int/india/india & un/peacekeeping.pdf
201. United Nations (2016), United Nations Peacekeeping : Fatalities by Nationality and Mission up to 31 Aug 2016(PDF). Un.org. Retrieved 22
October 2016
202. Vishal Dutta, ET Bureau (2012), Indian biotech industry at critical juncture,
global biotech stabilises: Report, Economic Times.
203. William P. Alford (2008), G8 Plus 5 Equals Power Shift, The Australian. 204. Will Durant (2006), Lịch sử văn minh Ấn Độ, Nxb. Văn Hóa Thông Tin (Đã
dịch)
205. World Bank, GDP per capita 2017 206. World Economic Outlook Database (2017), Report for Selected Countries and
Subjects, International Monetary Fund (IMF).
207. Zhang Dong (2006), India Looks East: Stratagies and Impacts, Ausaid
Working Paper.
208. Zheng Shan (2010), Đặc trưng và ảnh hưởng mang tính toàn cầu của chủ
nghĩa dân tộc Ấn Độ, Tạp chí Hòa bình và Phát triển, số 118/2010 (bản dịch)
166
PHỤ LỤC Phụ lục 1: Tỉ lệ tăng trưởng GDP của toàn ngành kinh tế và GDP ngành
nông nghiệp trong các kế hoạch 5 năm
(Nguồn: http://planningcommission.nic.in/ [100)
167
Phụ lục2: Sản lượng sữa, trứng, sợi len, thịt, cá
Sữa
Trứng
Sợi len
Thịt
Cá
Năm
tài
(Triệu
(Triệu
(Triệu tấn)
(Triệu tấn)
(Triệu tấn)
khóa
quả)
Kilogam)
92.5
45201
44.6
2.2
6305
2004-2005
97.1
46235
44.9
2.3
6572
2005-2006
102.6
50663
45.1
2.3
6869
2006-2007
107.9
53583
43.9
4.0
7127
2007-2008
112.2
55562
42.8
4.3
7616
2008-2009
116.4
60267
43.1
4.6
7998
2009-2010
121.8
63024
43.0
4.8
8231
2010-2011
127.9
66450
44.7
5.5
8666
2011-2012
132.4
69731
46.1
5.9
9040
2012-2013
137.7
74752
47.9
6.2
9574
2013-2014
146.3
78484
48.1
6.7
10072
2014-2015(P)
(Nguồn: http://eands.dacnet.nic.in/PDF/State_of_Indian_Agriculture,2015-16.pdf [156])
168
Phụ lục 3: Top 10 nền kinh tế lớn nhất thế giới
(Nguồn:The biggest economies,
https://www.weforum.org/agenda/2017/03/worlds-biggest-economies-in-2017, [180])
169
Phụ lục 4: Thâm hụt ngân sách Ấn Độ
Nguồn: https://tradingeconomics.com/india/government-budget,
170
Phụ lục 5: Tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và tỷ trọng ngành công nghiệp
trong tổng GDP của cả nước
Giá trị
Tỉ lệ tăng trưởng hàng năm Năm tài Tỷ trọng ngành tổng trong GDP sản lượng: vạn Rupee (theo giá cố chính (%) (%)
định 2004-2005)
27.63 372,360 1990-91 7.33
27.33 373,634 1991-92 0.34
26.77 385,647 1992-93 3.22
26.73 406,848 1993-94 5.50
27.42 444,122 1994-95 9.16
28.44 494,262 1995-96 11.29
28.03 525,864 1996-97 6.39
27.95 546,966 1997-98 4.01
27.28 569,656 1998-99 4.15
26.87 603,631 1999-2K 5.96
27.32 640,043 2000-01 6.03
26.57 656,737 2001-02 2.61
27.39 704,095 2002-03 7.21
27.20 755,625 2003-04 7.32
27.93 829,783 2004-05 9.81
27.99 910,413 2005-06 9.72
28.65 1,021,204 2006-07 12.17
28.74 1,119,995 2007-08 9.67
28.13 1,169,736 2008-09 4.44
28.27 1,276,919 2009-10 9.16
28.23 1,393,879 2010-11 9.16
27.51 1,442,498 2011-12 3.49
(Nguồn: Chính phủ Ấn Độ: https://data.gov.in)
27.03 1,487,533 2012-13 3.12
171
Phụ lục 6:
Tỷ trọng ngành IT trong tổng GDP (đv: tỷ đô la Mỹ)
(Nguồn: http://granthaalayah.com/Articles/Vol5Iss6/01_IJRG17_A06_327.pdf[126])
172
Phụ lục 7: Tốc độ tăng trưởng ngành dịch vụ và tỷ trọng ngành dịch vụ
trong tổng GDP của cả nước
Tỉ lệ tăng trưởng hàng năm (%) Tỷ trọng ngành tổng trong GDP (%) Năm tài khóa
1990-91 Giá trị sản lượng: vạn Rupee (theo giá cố định 2004-2005 573,465 42.55 5.19
1991-92 600,366 43.91 4.69
1992-93 634,549 44.05 5.69
1993-94 681,351 44.76 7.38
1994-95 721,140 44.52 5.84
1995-96 794,041 45.69 10.11
1996-97 853,843 45.51 7.53
1997-98 930,089 47.53 8.93
1998-99 1,007,138 48.24 8.28
1999-2K 1,119,850 49.85 11.19
2000-01 1,179,976 50.37 5.37
2001-02 1,261,158 51.02 6.88
2002-03 1,349,035 52.48 6.97
2003-04 1,457,797 52.48 8.06
2004-05 1,576,255 53.05 8.13
2005-06 1,748,173 53.74 10.91
2006-07 1,923,970 53.98 10.06
2007-08 2,121,561 54.45 10.27
2008-09 2,333,251 56.11 9.98
2009-10 2,578,165 57.09 10.50
2010-11 2,829,650 57.32 9.75
2011-12 3,061,589 58.39 8.20
2012-13 3,263,196 59.29 6.59
(Nguồn: Chính phủ Ấn Độ, https://data.gov.in/catalog/annual-growth-rate- gdp- industry-origin-constant-prices,)
173
Phụ lục 8: United Nations In India
Asian and Pacific Centre for Transfer of Technology (APCTT) 1.
Food and Agriculture Organization (FAO) 2.
International Fund for Agricultural Development (IFAD) 3.
International Labour Organization (ILO) 4.
International Monetary Fund (IMF) 5.
International Organization for Migration (IOM) 6.
Joint United Nations Programme on HIV/AIDS (UNAIDS) 7.
8. Mahatma Gandhi Institute of Education for Peace and Sustainable
Development (MGIEP)
United Nations Development Programme (UNDP) 9.
United Nations Department of Safety and Security (UNDSS) 10.
United Nations Environment Programme (UNEP) 11.
United Nations Office for Project Services (UNOPS) 12.
United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific 13.
(UNESCAP)
14.
United Nations Organization for Education, Science and Culture (UNESCO)
United Nations Population Fund (UNFPA) 15.
United Nations Human Settlements Programme (UN-HABITAT) 16.
Office of the United Nations High Commissioner for Refugees (UNHCR) 17.
United Nations Information Centre (UNIC) 18.
United Nations Children’s Fund (UNICEF) 19.
United Nations Industrial Development Organization (UNIDO) 20.
United Nations Office on Drugs and Crime (UNODC) 21.
22. UN Women
23. UN Volunteers (UNV)
24. World Food Programme (WFP)
25. World Health Organization (WHO)
26. The World Bank (WB)
174
175
176
177
178
179
Phụ lục 9: Các đời thủ tướng và Đảng cầm quyền của Cộng hòa Ấn Độ từ 1991 đến nay
STT
Tên các Thủ tướng
Nhiệm kỳ
Đảng cầm quyền
Ghi chú
1
P. V. Narasimha Rao 1991-1996 Đảng Quốc đại Ấn Độ
1996
Đảng Bharatiya Janata
16/5/1996-
Atal Bihari Vajpayee
2
01/7/1996
1996-1997
Janata Dal
01/7/1996-
H. D. Deve Gowda
3
Mặt trận thống nhất
21/4/1997
1997-1998
Janata Dal
21/4/1997 -
Inder Ku Gujral
4
Mặt trận thống nhất
19/3/1998
5
Đảng Bharatiya Janata Liên minh Dân chủ
1998-2004
Atal Bihari Vajpayee
Dân tộc
Đảng Quốc đại Ấn Độ
6
Liên minh Tiến bộ
2004-2014
Dr. Manmohan Singh
Thống nhất
7
2014 - nay Đảng Bharatiya Janata
Narendra Modi
180
Phụ lục 10: Prime Minister Dr. Manmohan Singh's Independence Day
My dear countrymen, brothers, sisters and dear children, I greet you all on this anniversary of our Independence. “The leaders of our freedom movement, under the stewardship of Mahatma Gandhi, had dreamt of an independent and prosperous India. On this day in 1947, Pandit Jawaharlal Nehru took the first step towards the realization of that dream by hoisting the Tricolour at the Red Fort. The journey we began on 15 August, 1947 is now 65 years old. We have achieved much in these 65 years.
Today is certainly a day to celebrate the success of our democracy. However, on this occasion we should also introspect about what remains to be done. We would achieve independence in the true sense only when we are able to banish poverty, illiteracy, hunger and backwardness from our country. This would be possible only when we learn from our failures and build on our successes.
You are aware that these days the global economy is passing through a difficult phase. The pace of economic growth has come down in all countries of the world. Seen together, the European countries are estimated to grow at 0 percent this year. Our country has also been affected by these adverse external conditions. Also, there have been domestic developments which are hindering our economic growth. Last year our GDP grew by 6.5 percent. This year we hope to do a little better.
We cannot do much about the conditions that prevail outside our country. But we must make every effort to resolve the problems inside our country so that our economic growth and the creation of employment opportunities in the country are again speeded up.
While doing this, we must also control inflation. This would pose some difficulty because of a bad monsoon this year. However, we have taken many measures to deal with the situation. In districts where there has been a deficit of 50 percent or more in the rainfall, diesel subsidy is being provided to farmers by the Government. Seed subsidy has been enhanced. Funds available under the Central scheme for fodder have been increased. Our effort is to ensure that people do not face difficulty due to shortage of seeds, fodder or water in any part of the country. It is good that we have a big stock of foodgrains because of the hard work of our farmer brothers and sisters, and availability of foodgrains is not a problem for us.
As far as creating an environment within the country for rapid economic growth is concerned, I believe that we are not being able to achieve this because of a lack of political consensus on many issues. Time has now come to view the issues which affect our development processes as matters of national security.
If we do not increase the pace of the country’s economic growth, take steps to encourage new investment in the economy, improve the management of Government finances and work for the livelihood security of the common man and energy security of the country, then it most certainly affects our national security.
Speech, 2012
I promise to you today that our Government will work hard for India’s rapid economic growth and for shielding the country from the effects of the global economic slowdown. I promise
that we will work hard for creation of new employment opportunities for our young men and women living in villages and cities. We will make every possible effort to secure the livelihood of our poor brothers and sister, our workers and our farmers. We will leave no stone unturned to encourage investment in our country so that our entrepreneurs can make a substantial contribution to our economy.
I believe that this period of difficulties will not last long. Even as we face these problems, we should be encouraged by the fact that we have achieved extraordinary successes in many areas in the last 8 years. We now need to replicate these successes in newer areas.
It has been our endeavour in the last 8 years to empower our citizens socially and economically so that they can contribute to the sacred task of nation building. Today, one out of every 5 households in the country has become eligible to benefit from the Mahatma Gandhi Rural
Employment Act through a job card. In only the last one year we have provided employment to more than 8 crore people under this scheme.
When the UPA Government came to power in 2004, we had promised that we would provide electricity to all villages. To fulfill this promise, we launched the Rajiv Gandhi Rural
Electrification Scheme. More than 1 lakh new villages have been provided with electricity
connections under this scheme and now almost all the villages in the country have been electrified. Our next target is to provide electricity to each and every household in our country in
the next 5 years and to also improve the supply of electricity.
No praise is high enough for our hard working farmers. They have produced a record output of crops successively in the last 2 years. Because of our Government's efforts for development of
agriculture and for protecting the interests of farmers, agriculture has grown at an average rate of 3.3 per cent in the 11th Plan which is substantially higher than the 2.4 per cent we achieved in the
10th Plan. In the last 8 years, we have doubled the support prices of crops. We are providing loans
at low interest rates to lakhs of farmers.
Our children are the biggest strength of our country. If our children are provided with good
education and are healthy, then our future would be bright.
This is the reason why we have paid special attention to the needs of children in our policies and programmes. The education of children has been made mandatory by law. In the year 2006-
07, only 93 per cent of children in the age group 6-14 years were getting admission in schools.
Today almost all children in this age group are being admitted to schools. More than 51,000 new schools have been opened in the country and about 7 lakh teachers appointed in them in just the
last 2 years. Now we will focus on improving the quality of education. In the next few months we will put in place a system of continuous assessment of the benefit our children are getting from
teaching. Participation of the community and parents would be ensured so that they can be
satisfied with the quality of teaching.
181
The Mid-day-meal Scheme provides nutritious meals in schools for about 12 crore children
everyday. This is the biggest scheme of its kind in the world.
In the last one and half years no new case of polio has come to light and now India does not
figure in the list of countries affected by this disease.
Malnutrition in children is a big challenge for us. We have taken steps in many dimensions to deal with this problem. In the last 8 years, the number of mothers and children benefitting from the ICDS has doubled. The process of making the ICDS more effective is in its last stages and will be completed in the next 1 or 2 months.
We had launched the National Rural Health Mission in 2005 so that health services can be extended to each village in the country. Today this Mission is being implemented with the help of 10 lakh health personnel including 8.5 lakh Asha workers. After the success of the National Rural health Mission, we now want to expand the scope of health services in our towns also. The National Rural Health Mission will be converted into a National Health Mission which would
cover all villages and towns in the country. We are also formulating a scheme for distribution of free medicines through Government hospitals and health centres.
We want to create many new job opportunities for our youth in the coming years. To achieve this it is necessary that we train them in skills which our economy needs. It is our
endeavour to put in place a system in which training facilities are available in many new skills.
We also wish to provide short duration training courses of 6 weeks to 6 months for our young brothers and sisters. The National Skill Development Council has formulated a major scheme for
skill development in which 8 crore people will be trained in the next 5 years. This is an ambitious
scheme which can be implemented only through a specialized agency of the Central Government. Therefore, we are considering the establishment of a National Skill Development Authority so
that skill development programmes all over the country can be implemented in a coordinated manner. We would also need contribution from the private sector and non-Governmental
organizations in this work.
Creation of new employment opportunities is possible only when we encourage industry and trade. For this we need to speedily improve our infrastructure. Recently we have taken new
measures to accelerate infrastructure development. Ambitious targets have been fixed in roads,
airports, railways, electricity generation and coal production. The Government will take steps to increase investment for infrastructure development with the help of the private sector. To attract
foreign capital, we will have to create confidence at the international level that there are no
barriers to investment in India.
Just 10 years back only 3 out of every 10 households in our villages were benefitting from
banking services. Today more than half of the rural households get the benefit of bank accounts. It will be our endeavour to ensure that all households benefit from bank accounts in the next 2 years.
We want to create a system in which money from Government schemes - pension for old
people, scholarship for students and wages for labourers - can be credited directly into people’s bank accounts. This would reduce inconvenience to the beneficiaries, make it easy for them to
182
receive payment and increase transparency. For this work, we will take help from the Aadhar scheme under which about 20 crore people have been registered so far.
To provide housing for our poor brothers and sisters residing in urban areas of our country we will soon launch the Rajiv Housing Loan Scheme. Under this scheme, people belonging to the economically weaker sections would be given relief on interest for housing loans of less than Rs. 5 lakh.
This year we will present the Twelfth Five Year Plan for consideration of the National Development Council. The Plan would determine the future course of action on all important matters relating to the country's development. It would lay down measures for increasing our present rate of economic growth from 6.5 to 9 per cent in the last year of the Plan. The Plan would focus special attention on areas important from the point of view of reaching the fruits of development to each citizen of our country and specially to the weaker sections of our society. I have full confidence that the Centre and the States will act together to implement the Twelfth Plan
in an effective manner.
The incidents of violence which occurred in Assam recently are very unfortunate. I know
that these incidents have resulted in the disruption of the lives of a large number of people. We fully sympathize with those families which have been affected by the violence. We are doing
everything possible to provide relief to them. I also promise to you that our Government will
make every effort to understand the reasons behind the violence and work hard with the State Governments to ensure that such incidents are not repeated in any part of the country.
We have achieved success in many areas of internal security. In Jammu and Kashmir,
people participated in large numbers in the Panchayat elections. There has been a reduction in violence in the North Eastern States and we are engaged in dialogue with many groups there so
that they can join the mainstream of development. We have initiated new schemes of development in areas affected by naxal violence to ensure that the grievances of the people residing there,
especially our brothers and sisters belonging to Scheduled Tribes, can be removed and their lot
can be improved. However, we need to be constantly vigilant as far as internal security is concerned. Communal harmony has to be maintained at all costs. Naxalism is still a serious
problem. The incidents which occurred in Pune in the beginning of this month point to the need
for much more work to be done in the area of national security. We will continue to do this work with sincerity in the future also.
I would like to congratulate our scientists and technologists who have enhanced our prestige
by successfully testing the Agni V Missile and launching the RISAT- I Satellite in space this year. Recently the Cabinet has approved the Mars Orbiter Mission. Under this Mission, our spaceship
will go near Mars and collect important scientific information. This spaceship to Mars will be a huge step for us in the area of science and technology.
We have seen a lot of discussion in the recent months about the role of our armed forces
and their preparedness. I would like to emphasise here that our armed forces and paramilitary forces have defended the security of our country both during war and peace with valour and
183
honour. Our soldiers have made the biggest of sacrifices, whenever needed. Today I would like to reassure our countrymen that our armed forces and paramilitary forces are prepared to face any
challenge. The Government will continue to work for modernizing these forces and providing them with the necessary technology and equipment. Today, I would like to thank our security forces, who are guarding our frontiers bravely, from the bottom of my heart. We will continue to make efforts for their welfare.
Our Government has set up a committee to examine issues relating to pay and pension of armed forces personnel. This committee will also look into matters concerning pension of retired men and officers and family pension being paid to their families. We will take prompt action on the recommendations of the committee, once they are received.
Our Government has paid special attention to the welfare of Scheduled Castes, Scheduled Tribes, minorities, women and other weaker sections. The special needs of our tribal and backward districts are being met through programmes such as the Integrated Action Plan,
Backward Regions Grant Fund and Tribal Sub Plan. Through the Forest Rights Act, we have given proprietary rights to lakhs of our brothers and sisters belonging to Scheduled Tribes on land
on which they have been living for generations. We are formulating a scheme to ensure that people belonging to Scheduled Tribes can get fair and remunerative prices for the forest produce
they collect. The Government wants to speedily convert the Mines and Minerals (Development
and Regulation) Bill into a legislation. Through this law we want to provide funds for the benefit of our tribal brothers and sisters in the mining areas.
We will make the 15 points programme for minorities more effective. The Multi-Sectoral
Development Programme being implemented in districts with large minority populations will be expanded.
We have enhanced the amount of post-matric scholarship available to children belonging to Scheduled Castes, Scheduled Tribes, Other Backward Classes and minorities. Our efforts to make
these scholarship schemes more effective will continue.We are considering a new and effective
law to put an end to the repulsive practice of manual scavenging and to provide opportunities to those engaged in this practice to begin their lives afresh.
Our commitment to make the work of the Government and administration transparent and
accountable stands. On the last Independence Day, I promised you that we would take many steps for this purpose. I am happy to state that during the last 1 year we have achieved good progress in this
area. The Lok Sabha has cleared the Lokpal and Lokayukta Bill. We hope that all political parties will
help us in passing this Bill in the Rajya Sabha. A number of other Bills have also been presented before the Parliament. The Cabinet has cleared a Public Procurement Bill. We will continue our efforts
to bring more transparency and accountability in the work of public servants and to reduce corruption. But we will also take care that these measures do not result in a situation in which the morale of public
functionaries taking decisions in public interest gets affected because of baseless allegations and
unnecessary litigation.
184
In my first message to the country after assuming the office of Prime Minister I had appealed to you to contribute to the sacred work of nation building. I am very happy that today
more of our citizens than ever before, and specially the youth, are taking interest in issues related to the progress of our society and country. Our Government believes that the difficult problems which India faces can be resolved only with the cooperation of the common man. It will be our endeavour that in the coming time, still more people help us in tasks like removal of poverty, illiteracy and inequality.
I believe that no power in the world can stop our country from achieving new heights of progress and development. What is needed is that we work together as one people for the success of our country. Let us once more resolve that we will continue to work for a progressive, modern and prosperous India.”
Dear children join me in saying Jai Hind,
185