VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THỎA

QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ

LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2016

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THỎA

QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ

Chuyên ngành: Triết học

Mã số : 62 22 03 01

LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐẶNG HỮU TOÀN

HÀ NỘI - 2016

LỜI CAM ĐOAN

Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng

dẫn của PGS.TS Đặng Hữu Toàn. Những trích dẫn, số liệu, tài liệu tham khảo

là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận đƣợc rút ra từ kết quả

nghiên cứu của luận án là khách quan, khoa học.

Tác giả luận án

Nguyễn Văn Thỏa

LỜI CẢM ƠN

Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện

Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đến nay tôi đã hoàn thành chƣơng trình học

tập và Luận án.

Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc, Phòng Quản lý Đào

tạo Sau đại học, Khoa Triết học Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ, tạo điều

kiện cho tôi đƣợc học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án Tiến sĩ triết học này.

Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của Đảng ủy,

Ban Giám hiệu Trƣờng ĐHSP Hà Nội, Chi ủy, Ban Chủ nhiệm Khoa Triết học

Trƣờng ĐHSP Hà Nội, Đoàn thanh niên Trƣờng ĐHSP Hà Nội trong suốt quá

trình nghiên cứu, học tập và thực hiện luận án.

Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn

chân thành tới PGS.TS Đặng Hữu Toàn, ngƣời Thầy - Nhà khoa học đã dành

nhiều thời gian và tâm huyết, luôn động viên, chỉ bảo, giúp đỡ và hƣớng dẫn tận

tình để em có thể hoàn thành đƣợc luận án này.

Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ, nhân viên Viện

Thông tin Khoa học Xã hội Nhân Văn - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt

Nam, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Thƣ viện

Quân đội, Thƣ viện Viện Triết học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã

giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể thực hiện đề tài luận án.

Tôi vô cùng biết ơn sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận

lợi của gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp trong quá trình học tập, nghiên

cứu và hoàn thiện bản luận án này.

Tôi xin trân trọng cảm ơn!

Tác giả luận án

Nguyễn Văn Thỏa

MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ ........... 6 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 17 1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về giá trị và hạn chế của quan niệm chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................... 27 1.4. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án ........................................... 30 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 32 Chƣơng 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ........................................................................... 34 2.1. Khái quát về triết học thực dụng Mỹ và vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 34 2.2. Điều kiện khách quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 44 2.3. Nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ .................................................................................................................... 72 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 81 Chƣơng 3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ........................................................................... 84 3.1. Về khái niệm chân lý .......................................................................................... 84 3.2. Về tiêu chuẩn của chân lý .................................................................................. 99 3.3. Về phƣơng pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý .................................... 108 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 118 Chƣơng 4. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ......................................................... 121 4.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ...................... 121 4.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ................... 136 TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 .......................................................................................... 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152

1

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Lịch sử phát triển của triết học cho thấy nhân loại không ngừng khát khao

chinh phục những đỉnh cao trong nhận thức, nhằm mục đích tối hậu là đạt đến

chân lý; thậm chí, nhà triết học lỗi lạc thời cổ đại Hy Lạp là Aristote còn cho

rằng triết học là “khoa học về chân lý”. Các trƣờng phái triết học, các nhà triết

học cuối cùng đều hƣớng mục đích của mình vào việc luận giải vấn đề chân lý.

Vì vậy, có thể nói, chân lý là một trong những vấn đề trung tâm, xuyên suốt của

các trƣờng phái triết học và các nhà triết học. Mỗi trào lƣu triết học đều đƣa ra

quan điểm riêng của mình về vấn đề chân lý. Trong triết học phƣơng Tây hiện

đại, chúng ta không thể không kể đến quan niệm về chân lý trong triết học thực

dụng Mỹ, bởi đây là quan niệm độc đáo, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đồng

thời cũng gây nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này. Do vậy, làm rõ vấn đề chân

lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc xem là yêu cầu cần thiết đối với các nhà

nghiên cứu.

Trong các trào lƣu triết học Mỹ, triết học thực dụng là trƣờng phái điển

hình nhất. Triết học thực dụng Mỹ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ

XX, với các đại diện tiêu biểu là Charles Sanders Peirce, William James và John

Dewey. Triết học thực dụng Mỹ không chỉ ảnh hƣởng ngay trên quê hƣơng của

nó, mà còn ảnh hƣởng đến các nƣớc phƣơng Tây và cả Việt Nam. Triết học thực

dụng đƣợc coi là nét đặc trƣng của văn hóa Mỹ, là “đặc sản tinh thần” của ngƣời

Mỹ. Nó ra đời cùng với sự phát triển của nƣớc Mỹ, có tác động không nhỏ tới sự

phát triển hùng mạnh của nƣớc Mỹ. Ngƣời Mỹ xem triết học thực dụng nhƣ là

công cụ hữu hiệu bậc nhất để phát huy nguồn lực con ngƣời trong sự phát triển

của đất nƣớc.

Nƣớc Mỹ nói chung, văn hóa Mỹ nói riêng là một phần của châu Âu, của

văn hóa phƣơng Tây, nền văn hóa Mỹ tiếp thu và chịu ảnh hƣởng rất lớn của văn

hóa Tây Âu, trong đó có triết học. Nhƣng trong bối cảnh nƣớc Mỹ, điều kiện Mỹ

rất đặc thù, với yếu tố tự nhiên, bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, nhất

là mặt nhân chủng học, văn hóa phƣơng Tây đi vào nƣớc Mỹ đã tự chuyển hóa,

2

triết học phƣơng Tây đƣợc thâm nhập vào nƣớc Mỹ với thuyết Hegel mới - một

trƣờng phái triết học duy tâm tuyệt đối. Bối cảnh nƣớc Mỹ cuối thế kỷ XIX đang

bƣớc vào giai đoạn xã hội công nghiệp hậu kỳ, rất năng động, rất cần phát triển,

muốn biến khoa học công nghệ thành động lực để phát triển. Nƣớc Mỹ muốn tạo

dựng niềm tin vào hiệu quả của khoa học, dựa vào công nghệ để phát triển xã

hội. Nhƣng khoa học nào mới là khoa học đích thực? Đây chính là vấn đề chân

lý. Tính chất tƣ biện, trừu tƣợng, giáo điều của triết học phƣơng Tây vào nƣớc

Mỹ nhân danh khoa học bị chống phá quyết liệt. Rõ ràng, tính chất tƣ biện, giáo

điều của thuyết Hegel mới từ Anh vào Mỹ bị ngƣời Mỹ phê phán, cái mà nƣớc

Mỹ và ngƣời Mỹ chống không phải là chống thuyết Hegel mà chống chủ nghĩa

duy tâm tuyệt đối của thuyết Hegel mới. Trong bối cảnh đó, văn hóa Mỹ dựa vào

Tin lành giáo để tồn tại và phát triển. Tin lành giáo có nhiều điểm chống thuyết

tƣ biện, trừu tƣợng, đối lập với chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Có thể nói, vấn đề

chân lý trong triết học thực dụng Mỹ để phân biệt rõ ràng chân khoa học với giả

khoa học, biến chân khoa học thành động cơ, động lực cho sự phát triển xã hội,

đã đáp ứng và hoàn thành đƣợc vai trò đó. Hiện nay, chúng ta đang tiếp thu bài

học của phƣơng Tây, trong đó có văn hóa Mỹ, chính là tiếp thu tinh thần chống

tƣ biện, trừu tƣợng, hƣớng tới hiệu quả, thiết thực mà vấn đề chân lý trong triết

học thực dụng đã đặt ra và giải quyết.

Sở dĩ triết học thực dụng có ảnh hƣởng lớn đến mọi mặt trong đời sống xã

hội nƣớc Mỹ nói riêng và các nƣớc phƣơng Tây nói chung là do nó hƣớng tới

giải quyết nhiều vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ở đây, quan niệm về chân lý không

còn thuần túy mang ý nghĩa lý luận, mà gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho hoạt

động cải tạo thực tiễn. Nghiên cứu quan niệm về chân lý của triết học thực dụng

giúp chúng ta làm rõ những giá trị này.

Trong suốt một thời gian dài, từ sau năm 1975, quan hệ giữa Việt Nam và

Mỹ luôn trong trạng thái “đóng băng”. Do đó, việc tìm hiểu về văn hóa Mỹ nói

chung, triết học Mỹ nói riêng còn hết sức hạn chế. Việc bình thƣờng hóa quan hệ

Việt - Mỹ từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho hai nƣớc hợp

tác trên nhiều phƣơng diện, trong đó có văn hóa. Tuy nhiên, so với đòi hỏi khách

3

quan, việc tìm hiểu về văn hóa Mỹ nói chung và triết học Mỹ nói riêng, có thể

nói là chƣa nhiều. Trong khi đó, hiện nay, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra

ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Để góp phần khắc phục những hạn chế

trong quá trình hội nhập của Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh nghiên cứu

các trào lƣu triết học phƣơng Tây hiện đại, trong đó có triết học thực dụng Mỹ.

Thêm vào đó, với chủ trƣơng phát triển kinh tế tri thức, khi mà tiêu chuẩn của

mọi hoạt động phải căn cứ vào hiệu quả thì việc nghiên cứu quan niệm về chân

lý trong triết học thực dụng Mỹ, với nội dung cốt yếu là lấy tính hữu dụng làm

thƣớc đo của chân lý, càng trở nên cần thiết.

Hơn nữa, trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nƣớc ta hiện nay, mà trƣớc

hết là đổi mới tƣ duy đã diễn ra 30 năm qua, song vấn đề đổi mới tƣ duy hiện

vẫn đƣợc Đảng ta xác định là vấn đề căn bản của công cuộc đổi mới, là điểm

then chốt cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt

Nam. Theo tinh thần đó, việc tiếp thu không chỉ những thành tựu về kinh tế,

khoa học, công nghệ, mà cả những thành tựu về tƣ tƣởng tiến bộ của phƣơng

Tây cho sự phát triển của đất nƣớc lại càng trở nên cấp thiết.

Trong các văn kiện của Đảng, các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban chấp

hành Trung ƣơng Đảng đã đặt ra yêu cầu đối với công tác lý luận nói chung và

đội ngũ giảng viên lý luận chính trị nói riêng. Chẳng hạn, trong Nghị quyết 01,

Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam, Khóa VII

ban hành ngày 28 tháng 03 năm 1992 khẳng định rằng: Trong nhiều năm qua nội

dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa

học Mác - Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp thu

những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cán bộ lý luận thiếu

hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả năng phát triển

bị hạn chế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với ngƣời làm công tác nghiên cứu và

giảng dạy trong các trƣờng đại học, học viện, viện nghiên cứu là cần đẩy mạnh

công việc nghiên cứu và giảng dạy triết học phƣơng Tây hiện đại cho ngƣời học,

giúp ngƣời học tiếp thu tinh hoa tƣ tƣởng của ngƣời phƣơng Tây, hạn chế mặt

tiêu cực, nhằm phục vụ có hiệu quả cho quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.

4

Thêm vào đó, nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng

Mỹ còn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận nhận thức của nhân loại

và có thể coi là một cơ sở để chúng ta so sánh, đối chiếu vấn đề này với các trào

lƣu triết học khác. Đồng thời, nó là sự đối chứng, cho phép chúng ta khẳng định

tính đúng đắn, giá trị khoa học của lý luận nhận thức, trong đó có quan niệm về

chân lý của triết học Mác - Lênin.

Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn “Quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng Mỹ” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án

2.1. Mục đích nghiên cứu

Làm rõ những điều kiện, tiền đề, nội dung cơ bản của quan niệm về chân

lý trong triết học thực dụng Mỹ (qua các nhà triết học thực dụng là C. Peirce, W.

James và J. Dewey), luận án chỉ ra những giá trị và hạn chế của nó.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau:

Một là, làm rõ khái niệm triết học thực dụng và vị trí của vấn đề chân lý

trong triết học thực dụng Mỹ; các đại diện tiêu biểu của triết học thực dụng Mỹ.

Hai là, luận giải cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ.

Ba là, phân tích những nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý trong

triết học thực dụng Mỹ.

Bốn là, chỉ ra và luận giải những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân

lý trong triết học thực dụng Mỹ.

3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án

3.1. Cơ sở lý luận

Đề tài dựa trên cở sở lý luận của triết học Mác - Lênin, cụ thể là những

nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.

3.2. Phương pháp nghiên cứu

Đó là hệ thống các nguyên tắc phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật

biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhƣ: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc

toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể. Trên cơ sở đó, luận án sử dụng các phƣơng

5

pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử; diễn dịch - quy

nạp; so sánh, hệ thống hóa; phƣơng pháp văn bản học, v.v…

4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Luận án nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

Luận án làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ với các nhà

triết học tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey.

- Luận án góp phần làm rõ khái niệm triết học thực dụng, cơ sở hình

thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

- Luận án góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về

chân lý trong triết học thực dụng Mỹ thông qua các đại diện tiêu biểu là C.

Peirce, W. James và J. Dewey.

- Luận án bƣớc đầu đánh giá những giá trị cũng nhƣ hạn chế của quan

niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, trên cơ sở so sánh, đối chiếu

với quan niệm về chân lý trong triết học Mác - Lênin; từ đó có những đánh

giá khách quan để góp phần hiểu đúng về triết học thực dụng Mỹ - một trƣờng

phái triết học có tính chất đặc thù, điển hình cho văn hóa Mỹ và có tác động

sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nƣớc Mỹ.

5. Đóng góp mới của luận án

6. Ý nghĩa của luận án

- Luận án góp phần nghiên cứu chuyên sâu quan niệm về chân lý của một

trƣờng phái triết học điển hình - triết học thực dụng Mỹ.

- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,

giảng dạy triết học thực dụng nói riêng, triết học Mỹ nói chung; lý luận nhận

thức; về văn hóa Mỹ, v.v… Đồng thời là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học

viên cao học chuyên ngành triết học.

7. Kết cấu của luận án

Để đảm bảo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết

luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến

6

đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chƣơng, 12 tiết.

NỘI DUNG

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN

ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đƣợc thành lập vào cuối thế kỷ XVIII, tạo điều

kiện cho sự phát triển của một nền văn hóa đặc thù - nền văn hóa Mỹ. Thế

nhƣng, phải mất hơn một thế kỷ sau, khi triết học thực dụng ra đời vào cuối thế

kỷ XIX, triết học Mỹ mới khẳng định đƣợc vị trí và ảnh hƣởng của mình. Kể từ

đó, triết học thực dụng đã trở thành nét đặc trƣng trong văn hóa Mỹ. Triết học

thực dụng Mỹ ra đời và phát triển gắn liền với tên tuổi của các “triết gia thực

dụng” tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Từ khi xuất hiện đến nay,

đã có nhiều học giả nghiên cứu về triết học thực dụng ở nhiều nội dung, khía

cạnh của trào lƣu triết học này, cũng nhƣ nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng của các

triết gia thực dụng.

1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

Chủ nghĩa thực dụng thâm nhập vào Việt Nam trong thời kỳ Mỹ -

Ngụy. Giai đoạn này, ở nƣớc ta chịu ảnh hƣởng khá sâu sắc của tƣ tƣởng

chính trị, văn hóa và lối sống Mỹ. Ngoài việc nghiên cứu chủ nghĩa thực dụng

để đáp ứng nhu cầu học thuật, việc nghiên cứu trƣờng phái triết học này còn

nhằm phục vụ cho nhu cầu thực tiễn xã hội, nhất là phục vụ cho mục đích

chính trị nhằm tuyên truyền, cổ vũ cho lối sống Mỹ. Ở miền Bắc, tính đến

trƣớc năm 1986, việc nghiên cứu về triết học thực dụng dƣới góc độ học thuật

còn hết sức hạn chế, các nghiên cứu về triết học thực dụng đƣợc thể hiện hiện

trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây, các nhà nghiên cứu

chủ yếu đều tập trung vào việc phê phán triết học phi mácxít nói chung và

triết học thực dụng nói riêng. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến nhƣ:

Viện Mác - Lênin (1982), “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện tại

7

của nó” trong tác phẩm Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ; Phạm Minh Lăng

(1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội.

Từ sau Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, với chủ trƣơng đổi

mới toàn diện đất nƣớc, trong đó có công tác tƣ tƣởng lý luận, đã tạo điều kiện

thuận lợi và động lực mạnh mẽ cho việc nghiên cứu về triết học phƣơng Tây ngoài

mác-xít nói chung và triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Các công trình nghiên cứu

liên quan trực tiếp và gián tiếp đến chủ nghĩa thực dụng đƣợc thể hiện ở các tài

liệu là sách, các bài báo khoa học, các luận án, luận văn tiêu biểu nhƣ:

Ấn phẩm dưới dạng sách, tài liệu chuyên khảo:

Thời kỳ này, ở nƣớc ta phải kể đến các tác giả nhƣ: Đỗ Minh Hợp (1997),

Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Ngọc

Long (1998), Triết học phương Tây hiện đại ngoài mácxít và ảnh hưởng của nó

đến Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Khoa Triết học, Học viện

Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong đó có hai bài viết về chủ nghĩa thực dụng

là: “Chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam” của tác giả

Đào Hữu Hải và “Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng” của tác giả

Trần Thành; Phạm Minh Lăng (2001), Những chủ đề cơ bản của triết học

phương Tây, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

Gần đây, có nhiều nhà nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng, với sự xuất

hiện của nhiều công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện đại nhƣ: Bùi

Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng với các tác phẩm: Lược khảo triết học phương

Tây hiện đại (2003), Nxb Chính trị Quốc gia; Lịch sử triết học phương Tây hiện

đại (2005), Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh và Triết học Mỹ (2006), Nxb Tổng

hợp TP Hồ Chí Minh; Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo của triết học phương Tây

hiện đại, Nxb Hà Nội; Mai Sơn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức; Trƣờng Đại

học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Những

vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, trong đó

có một số bài viết về chủ nghĩa thực dụng và đánh giá về ảnh hƣởng của chủ

nghĩa thực dụng đến Việt Nam nhƣ “Chủ nghĩa thực dụng” của tác giả Nguyễn

Hùng Hậu; “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ - Những tìm hiểu bước đầu” của tác giả

8

Trần Văn Phòng; “Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng ở Việt Nam” của tác

giả Đặng Quang Định; “Bàn về lối sống thực dụng và lối sống xã hội chủ nghĩa”

của tác giả Trần Sĩ Phán; Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ

thế kỷ XX, Nxb Văn học; Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương

triết học phương Tây hiện đại (nửa sau thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX), Nxb

Tổng hợp TP Hồ Chí Minh; Đỗ Kiên Trung (2010), Triết học tân thực dụng,

Nxb Tri thức; Lƣơng Văn Kế (2011), Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Nxb

Giáo dục Việt Nam; Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn

đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt Nam; Trịnh Sơn Hoan (2012),

William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia,v.v…

Có thể thấy trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều hơn các công

trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện đại nói chung và triết học thực

dụng Mỹ nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ ở nƣớc ta

còn chƣa nhiều, chƣa mang tính hệ thống, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên

biệt về triết học thực dụng. Trong số đó, chúng ta thấy tập trung vào một số nhà

nghiên cứu nhƣ Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Minh Hợp. Trong các

công trình này, tiêu biểu nhƣ cuốn Triết học Mỹ, có thể nói đây là công trình đầu

tiên ở Việt Nam nghiên cứu toàn diện về triết học Mỹ. Các tác giả đã trình bày từ

điều kiện ra đời, các trƣờng phái triết học Mỹ, trong đó triết học thực dụng đƣợc

dành dung lƣợng trình bày nhiều nhất. Công trình này giúp chúng ta có đƣợc cái

nhìn tƣơng đối toàn diện về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói

riêng. Ba nhà triết học thực dụng tiêu biểu đƣợc nghiên cứu phân tích. Trong đó,

C. Peirce đƣợc khẳng định là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng, W. James là

ngƣời mở rộng ảnh hƣởng của chủ nghĩa thực dụng và J. Dewey đã đƣa chủ nghĩa

thực dụng vào đời sống thực tiễn. Thành công của tác giả là đã giúp ngƣời đọc có

cái nhìn bao quát về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói riêng. Tuy

nhiên, đây là một cuốn sách với nội dung viết về triết học Mỹ là rất rộng, nên sẽ là

rất khó để phân tích sâu sắc về trƣờng phái triết học thực dụng và các nhà triết học

thực dụng Mỹ, điều này cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.

Gần đây, ở nƣớc ta, việc nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ tiếp tục

9

thu hút đƣợc sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Một số công trình tiêu biểu

nhƣ: Triết học tân thực dụng của Đỗ Kiên Trung (2010); William James và chủ

nghĩa thực dụng Mỹ của Trịnh Sơn Hoan (2012). Ở các công trình này, các tác

giả đã khái quát về quá trình hình thành, các đại diện tiêu biểu, đặc điểm cơ bản

của chủ nghĩa thực dụng và một số ảnh hƣởng của trào lƣu triết học này đối với

nƣớc ta. Trong cuốn “Triết học tân thực dụng”, tác giả đã bàn đến một vấn đề

mới trong dòng chảy của triết học thực dụng, đó là các nhà triết học tân thực

dụng. Cuốn sách đƣợc kết cấu thành hai phần, một phần bàn về những điều kiện,

tiền đề cho sự hình thành chủ nghĩa thực dụng, những đặc điểm cơ bản của nó

thông qua ba nhà triết học tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Trên cơ

sở đó, tác giả hƣớng đến mục đích là chỉ ra dòng chảy của triết học thực dụng

thông qua sự phát triển của các nhà triết học tân thực dụng, từ đó khái quát

những đặc điểm, nội dung mới của triết học tân thực dụng. Có thể nói, đóng góp

cơ bản của tác giả ở công trình này là bƣớc đầu chỉ ra sự phát triển của triết học

thực dụng thông qua các nhà triết học tân thực dụng. Công trình William James

và chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Trịnh Sơn Hoan đƣợc xem là một trong những

công trình nghiên cứu mới nhất về chủ nghĩa thực dụng ở nƣớc ta. Cuốn sách thể

hiện sự cố gắng của tác giả trong việc giới thiệu về chủ nghĩa thực dụng và tƣ

tƣởng triết học thực dụng của W. James. Tác giả đã mạnh dạn đƣa ra một số

nhận định mang tính khách quan về trƣờng phái triết học này. Tuy nhiên, với

tiêu đề của công trình, tác giả đã dành phần lớn dung lƣợng trình bày về nội

dung tƣ tƣởng triết học thực dụng của W.James mà chƣa thể trình bày một cách

hệ thống về các nhà triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ vấn đề chân lý.

Ấn phẩm là các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành:

Ngoài những công trình, tài liệu trên, ở nƣớc ta đã xuất hiện một số bài

viết của các tác giả có tên tuổi đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập khái

quát về chủ nghĩa thực dụng và các đại diện tiêu biểu của nó nhƣ: Phong Hiền

(1972), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện đại của nó trong

“Thông báo Triết học số 23”; Trần Tuấn Phong (1996), Về khái niệm “kinh

nghiệm” trong hệ thống triết học của William James, Tạp chí Triết học, số 2; Đỗ

10

Minh Hợp (1996), Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện đại,

Tạp chí Triết học, số 1; Nguyễn Hào Hải (1997), Chủ nghĩa thực dụng qua một

số đại biểu của nó, Tạp chí Triết học số 4 (98); Nguyễn Tiến Dũng (1997), Chủ

nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1 và Một số khía cạnh về

văn hóa và con người trong triết học phương Tây hiện đại (1999), Tạp chí Triết

học, số 1; Nguyễn Văn Dũng (1999), William James với quan niệm về đạo đức,

Tạp chí Triết học, số 3; Nguyễn Tiến Dũng (2002), Triết học Mỹ với việc thiết

lập nền tảng cho khoa học, Tạp chí Triết học, số 2; Trịnh Sơn Hoan (2008), Vài

nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà

Nẵng, số 5 và Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ (2012), Tạp

chí Triết học, số 6 (253); Trần Sĩ Phán (2012), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng

đến lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, v.v…

Trong bài viết Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, tác giả Nguyễn Tiến Dũng đã

làm rõ điều kiện hình thành của chủ nghĩa thực dụng, một số nội dung chủ yếu

và giá trị cơ bản của chủ nghĩa thực dụng, nhƣ lý luận về kinh nghiệm, vấn đề

niềm tin, vấn đề ý nghĩa, những kiến giải về đạo đức, tôn giáo và chính trị, xã

hội. Từ đó, tác giả bàn tới sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dụng vào Việt Nam.

Nội dung của bài báo đề cập là rất phong phú, nhƣng để làm rõ những nội dung

cũng nhƣ giá trị của chủ nghĩa thực dụng trong khuôn khổ của một bài báo là rất

khó. Mặc dù vậy, đó là tƣ liệu tham khảo giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về

triết học thực dụng, để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội dung của trƣờng

phái triết học này.

Bài viết Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, tác giả

Trịnh Sơn Hoan đã trình bày một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng

nhƣ vấn đề kinh nghiệm, niềm tin và hiệu quả trong thực tiễn, phân biệt hai khái

niệm thực dụng thƣờng ngày và thực dụng trong chủ nghĩa thực dụng…, từ đó đi

đến những đánh giá về chủ nghĩa thực dụng.

Nhƣ vậy, các bài viết trên đã đề cập một cách khái quát về điều kiện, tiền

đề, quá trình hình thành, nội dung, đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dụng và

tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ những

11

bài viết về chủ nghĩa thực dụng còn dừng ở mức độ giới thiệu và những nhận

định cần đƣợc luận chứng thêm, nhất là việc làm rõ những cơ sở hình thành quan

niệm về chân lý và nội dung của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng

Mỹ. Đây là nội dung tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu trong luận án.

Ở cấp độ luận văn, luận án:

Ở cấp độ luận án, luận văn có những công trình nghiên cứu về chủ nghĩa

thực dụng Mỹ nhƣ: Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực

dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội; Trần Hải Yến (2003), Chủ

nghĩa thực dụng Mỹ và sự biểu hiện của nó ở Việt Nam; Trần Thị Hoa (2006),

Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey; Phan Thị Thùy Dƣơng (2009), Quan

niệm của William James về chân lý; Phan Văn Thám (2011), Vấn đề kinh nghiệm

trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ; Nguyễn Hải Hoàng (2015), Vấn đề niềm tin

trong triết học thực dụng của Peirce; Trịnh Sơn Hoan (2015), Vấn đề nhân sinh

trong triết học Mỹ... Các tác giả đã khai thác trên nhiều phƣơng diện của chủ

nghĩa thực dụng. Tiêu biểu là luận án của tác giả Nguyễn Hải Hoàng khai thác

vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng của C. Peirce. Để đi đến quan niệm về

niềm tin của Peirce, tác giả đã phân tích điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm

về niềm tin thực dụng. Thành công của tác giả là đã luận giải đƣợc nội dung cơ

bản của quan niệm về niềm tin trong triết học thực dụng của Peirce, từ đó chỉ ra

đƣợc những giá trị, hạn chế và ảnh hƣởng nó. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả

luận án tiếp tục tìm hiểu mối liên hệ giữa “niềm tin thực dụng” với vấn đề chân

lý trong triết học thực dụng của Peirce. Trong khi đó, luận án của tác giả Trịnh

Sơn Hoan nghiên cứu về vấn đề nhân sinh thông qua các trƣờng phái triết học

Mỹ, trong đó có triết học thực dụng. Thành công của luận án là đã đƣa ra bức

tranh khái quát về triết học nhân sinh Mỹ thông qua các trƣờng phái triết học,

đây là những tƣ liệu tham khảo để tác giả tiếp tục đi sâu tìm hiểu về triết học thực

dụng nói chung và quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này nói riêng.

1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài

Mặc dù triết học thực dụng là trào lƣu có ảnh hƣởng lớn trong đời sống xã

hội nhƣng chƣa đƣợc giới nghiên cứu quan tâm một cách tƣơng xứng. Chúng ta

12

thấy không có nhiều công trình nghiên cứu về triết học thực dụng, có thể điểm

một số công trình nhƣ: Konvitz M.R., Kennedy G. (1960), The Amercan

Pragmatists, The Publishing Company perss, New York; Thayer H.S. (1968),

Meaning and Action A Critical History of Pragmatism, The Bobbs - Merrill

Company press, New York; White M. (1978), The Philosophy of the American

Revolution, Oxford Universty press, New York. Trong các công trình nghiên cứu

trên, các tác giả đã phân tích sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa thực dụng

Mỹ, các nhà triết học thực dụng tiêu biểu, những đặc điểm và ảnh hƣởng của

trƣờng phái triết học này. Qua đó, các tác giả nhấn mạnh nhân tố thực tiễn trong

triết học thực dụng, triết học thực dụng với tƣ cách là nguyên tắc phƣơng pháp

luận nhận thức của triết học. Thông qua các công trình nghiên cứu của các tác

giả, những nội dung của triết học thực dụng phần nào đƣợc đề cập và đƣợc làm

sáng tỏ. Tuy nhiên, có thể thấy, tất cả những công trình nghiên cứu đó chƣa phân

tích đƣợc một cách sâu sắc điều kiện thực tiễn và những tiền đề lý luận cho sự

xuất hiện của triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng nói riêng.

Ở các nƣớc trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trƣớc kia và Việt Nam thời kỳ

trƣớc đổi mới (năm 1986), việc nghiên cứu về triết học phƣơng Tây nói chung,

nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ nói riêng nhằm mục đích phê phán là chủ

yếu. Trong thời kỳ này xuất hiện một số tác phầm dịch từ tài liệu của các nhà

nghiên cứu Liên Xô cũ tiêu biểu nhƣ: J.K. Melvil (1959), Phê phán chủ nghĩa

thực dụng, Nxb Sự thật, Hà Nội. Tác giả Melvil đã đứng trên lập trƣờng giai cấp

để phê phán những mặt phản tiến bộ và ảnh hƣởng tiêu cực của chủ nghĩa thực

dụng do các thế lực phản động lợi dụng chủ nghĩa thực dụng, núp dƣới những

chiêu bài chính trị để bảo vệ lợi ích của giai cấp tƣ sản. Cuốn sách đề cập đến

nhiều nội dung của chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, do chịu ảnh hƣởng của ý thức

hệ và nhãn quan chính trị đã dẫn tới hạn chế, phiến diện khi đánh giá về chủ nghĩa

thực dụng là một trƣờng phái triết học tầm thƣờng, duy tâm, phản động.

Trong bối cảnh mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là sau khi bình thƣờng hóa

quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đồng thời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn (sau một

13

thời gian dài chúng ta ít bàn về văn hóa Mỹ nói chung và triết học Mỹ nói riêng)

đã xuất hiện nhiều hơn các tài liệu đƣợc dịch và xuất bản tại Việt Nam liên quan

đến chủ nghĩa thực dụng nhƣ: Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây

hiện đại, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia; Lƣu Phóng Đồng (2004), Giáo trình

hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà

Nội; Viện Triết học (1996), Triết học phương Tây hiện đại từ điển; J.K.Melvil

(1997), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục;

W.S.Sahakan (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ đại, Nxb Thành phố Hồ Chí

Minh; R.B.Downs (2003), Những tác phẩm làm biến đổi thế giới, Nxb Lao động,

Hà Nội; Bryan Magee (2003), Câu chuyện triết học, Nxb Thống kê; Vƣơng

Ngọc Bình (2004), Uyliam Giêmxơ, Nxb Thuận Hóa; M.J.Adler (2004), Những

tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội;

S.E.Stumpf và D.C.Abel (2004), Nhập môn triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh; D.E.Cooper (2005), Các trường phái triết học trên thế

giới, NXb Văn hóa thông tin; Ted Honderich (2006), Hành trình cùng triết học,

Nxb Văn hóa thông tin; Jean Wall (2006), Lược sử triết học phương Tây, Nxb

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh; S.E.Stumpf (2007), Lịch sử triết học và các

luận đề, Nxb Lao động; Alexis De Tocqueville (2008), Nền dân trị Mỹ, Nxb Tri

thức, Hà Nội; Stuart Brown, Diane Collinson, Robert Wilkinson (2010), 100

triết gia tiêu biểu thế kỷ XX, Nxb Lao động; Bernard Morichere và nhóm giáo sƣ

triết học các trƣờng đại học Pháp (2010), Triết học Tây phương từ khởi thủy đến

đương đại, Nxb Văn hóa thông tin; Max Weber (2010), Nền đạo đức tin lành và

tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb Tri thức; Peter Jenning - Todd Brewster (2010),

Nghiên cứu về nước Mỹ, Nxb Thời đại; Remo Bodei (2011), Triết học thế kỷ XX,

Nxb Thời đại; Catherine L.Albanese (2012), Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ,

Nxb Thời đại; William F.Lawhead (2012), Hành trình khám phá thế giới triết

học phương Tây, Nxb Từ điển Bách khoa.

Trong các công trình của các tác giả nƣớc ngoài đƣợc dịch ra tiếng Việt

phải kể đến cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại của

J.K.Melvil đƣợc hai tác giả Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch, Nxb

14

Giáo dục (1997); tác giả Lƣu Phóng Đồng với cuốn Triết học phương Tây hiện

đại, tập 2 (1994). Có thể nói, đây là những tác phẩm nƣớc ngoài đƣợc dịch sớm

nhất ở Việt Nam, trở thành tài liệu quan trọng hàng đầu để nghiên cứu về triết

học thực dụng Mỹ, thậm chí chúng ta chủ yếu biết đến triết học thực dụng thông

qua những cuốn sách này. Những công trình này đã ảnh hƣởng rất nhiều đến giới

nghiên cứu nƣớc nhà trong việc đánh giá về trƣờng phái triết học này. Cuốn Các

con đường của triết học phương Tây hiện đại, khi dành mục II, phần 1 nói về

chủ nghĩa thực dụng, tác giả đã có cái nhìn khách quan hơn về chủ nghĩa thực

dụng. Điểm mạnh của cuốn sách là đã nhấn mạnh những nội dung cốt lõi của

triết học thực dụng thông qua những đại biểu của trƣờng phái triết học này là C.

Peirce, W. James và J. Dewey, song tác giả vẫn chƣa làm rõ đƣợc những nội

dung cơ bản của triết học thực dụng, nhất là vấn đề chân lý.

Có thể thấy, trong những công trình dịch ra tiếng Việt, thì cuốn Triết học

phương Tây hiện đại, tập 2 (1994) của tác giả Lƣu Phóng Đồng có nội dung

tƣơng đối toàn diện về chủ nghĩa thực dụng, tác giả dành chƣơng 7 nói về điều

kiện ra đời, nội dung của triết học thực dụng thông qua các đại biểu tiêu biểu là

C. Peirce, W. James và J. Dewey. Mặc dù vậy, cuốn sách chƣa chỉ ra đƣợc

những nội dung đặc trƣng của trƣờng phái triết học này. Sau đó, cuốn sách đƣợc

tác giả tái bản, bổ sung với tên gọi Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học

phương Tây hiện đại (2004). Công trình gồm 20 chƣơng, toàn bộ chƣơng 7 phân

tích về sự ra đời, phát triển và ảnh hƣởng của triết học thực dụng thông qua ba

nhà triết học tiêu biểu là Peirce, James và Dewey. Hai cuốn sách của cùng một

tác giả, có sự chỉnh lý, bổ sung và đƣợc dịch ra tiếng Việt, đƣợc viết với tinh

thần tƣơng đối khách quan, khoa học. Đây là những tài liệu quan trọng để chúng

ta đi vào nghiên cứu triết học phƣơng Tây nói chung và nghiên cứu về triết học

thực dụng Mỹ nói riêng; Công trình Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển

(đƣợc hai tác giả Đặng Hữu Toàn, Đỗ Minh Hợp dịch năm 1996), đã dành một

số mục trình bày về chủ nghĩa thực dụng cũng nhƣ các nhà triết học thực dụng.

Có thể nói đây là công trình có giá trị về trƣờng phái triết học này, tuy nhiên, kết

quả của công trình này chƣa giúp chúng ta có cái nhìn một cách hệ thống về

15

trƣờng phái triết học này; Cuốn Uyliam Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình (Quang

Lâm dịch, Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây phát hành năm 2004), tác

giả dành toàn bộ nội dung để nói về quá trình hình thành, phát triển tƣ tƣởng triết

học của W. James - nhà triết học thực dụng tiêu biểu và có tầm ảnh hƣởng lớn

nhất nƣớc Mỹ. Tài liệu này là cơ sở để chúng ta nghiên cứu về triết học thực

dụng Mỹ, thông qua triết gia James. Tác giả đã phân tích hết sức chi tiết điều

kiện cho sự ra đời, quá trình phát triển tƣ tƣởng triết học, trong đó, đặc biệt nhấn

mạnh về tƣ tƣởng triết học thực dụng của James, thông qua sự kế thừa và phát

triển tƣ tƣởng triết học của Peirce; cuốn Lịch sử triết học và các luận đề của tác

giả Samuel Enoch Stumpe (Đỗ Văn Thuấn, Lƣu Văn Hy dịch, năm 2004), dành

mục 20 chƣơng 4 để bàn về chủ nghĩa thực dụng, ƣu điểm thấy rõ trong cuốn

sách này là tác giả đã dịch nguyên bản tác phẩm gốc của những nhà sáng lập triết

học thực dụng trong phần các luận đề triết học. Tuy nhiên, những nội dung của

triết học thực dụng chƣa đƣợc phân tích một cách sâu sắc và hệ thống. Cuốn

Nhập môn triết học phương Tây của tác giả Samuel Enoch Stumpe và Donald

C.Abel (Lƣu Văn Hy biên dịch và đƣợc xuất bản năm 2004), kết quả của công

trình này thể hiện sự trình bày hệ thống các chủ đề triết học, đƣợc chứng minh

bằng những tác phẩm gốc của các nhà triết học, trong đó chƣơng 5, chƣơng 9 và

chƣơng 15, tác giả bàn về triết học thực dụng của W. James, nhƣng hạn chế của

nó là không trình bày đƣợc nội dung của các trƣờng phái triết học, trong đó có

triết học thực dụng; Cuốn Hành trình cùng triết học của tác giả Ted Honderich

đƣợc viết dƣới dạng từ điển. Những nội dung của triết học thực dụng đƣợc trình

bày thông qua các nhà triết học thực dụng, nên việc nắm bắt và khái quát những

nội dung của trƣờng phái triết học này thành hệ thống là rất khó khăn. Nhƣng

đây cũng là một cuốn sách có nhiều nội dung phong phú giúp ích cho việc

nghiên cứu về triết học thực dụng; Tác phẩm 100 triết gia tiêu biểu thế kỷ XX

của tập thể tác giả Stuart Brown, Diane Collinson, Robert Wilkinson đã dành

một dung lƣợng ngắn để trình bày một cách khái quát dƣới dạng tiểu sử về các

nhà triết học thực dụng C. Peirce (tr. 304 - 308), W. James (tr. 188 - 193) và J.

Dewey (tr. 84 - 89). Với tài liệu này, chúng ta có thêm tƣ liệu để tìm hiểu về triết

16

học thực dụng; Cuốn Hành trình khám phá thế giới triết học phương Tây của tác

giả William F.Lawhead (Phạm Phi Hoành biên dịch, xuất bản năm 2012), đƣợc

trình bày theo tiến trình phát triển của lịch sử triết học từ thời cổ đại đến thời kỳ

đƣơng đại, trong đó tác giả dành chƣơng 30 phần 4 bàn về “Chủ nghĩa thực

dụng: Thống nhất tư tưởng và hành động”. Từ việc giới thiệu căn nguyên của

chủ nghĩa thực dụng, tác giả đi đến phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản

của các nhà triết học thực dụng là Peirce, James và Dewey.

Các tác phẩm nhƣ Nền dân trị Mỹ của Alexis De Tocqueville; Nền đạo

đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản của Max Weber; Nghiên cứu về nước

Mỹ của các tác giả là Peter Jenning, - Todd Brewster; Các tôn giáo và tín

ngưỡng ở Mỹ của Catherine L.Albanese giúp chúng ta có cơ sở để lý giải điều

kiện hình thành, những ảnh hƣởng của triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ quan

niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này.

Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu trên, dƣới những góc độ

tiếp cận khác nhau, có thể thấy, những nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết

quả sau:

Thứ nhất, khái quát về quá trình ra đời, sự phát triển của triết học thực

dụng Mỹ.

Thứ hai, phân tích một cách khái quát điều kiện, tiền đề ra đời triết học

thực dụng Mỹ.

Thứ ba, phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của các nhà triết học

thực dụng Mỹ.

Thứ tư, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng triết học thực

dụng là một trào lƣu triết học duy tâm chủ quan, gắn với lập trƣờng của giai cấp

tƣ sản.

Thứ năm, về cơ bản, các tác giả đều cho rằng điểm đặc sắc của triết học

thực dụng là nhấn mạnh kinh nghiệm, hiệu quả trong nhận thức và hành động,

coi đây là tiêu chuẩn của chân lý. Từ đó, khẳng định triết học thực dụng đã tuyệt

đối hóa lợi ích cá nhân, chạy theo lợi ích vật chất bất chấp mục đích.

Tuy nhiên, ở mỗi công trình nghiên cứu, tùy vào góc độ nghiên cứu mà

các tác giả nhấn mạnh nội dung nào đó của triết học thực dụng, do đó việc

17

nghiên cứu còn thiếu tính hệ thống, khách quan, toàn diện về triết học thực dụng

Mỹ, nhất là quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Mặc dù vậy,

những kết quả nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng để tác giả lý giải khái niệm về

triết học thực dụng Mỹ; về cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ. Đó là vấn đề tác giả sẽ giải quyết trong chƣơng 2 của luận án,

trên cơ sở đó giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong chƣơng 3 và

chƣơng 4 của luận án là làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý

trong triết học thực dụng Mỹ và chỉ ra những giá trị và hạn chế của quan niệm này.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về vấn đề chân lý trong

triết học thực dụng Mỹ

Cách tiếp cận chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cho thấy đây là quan

niệm hết sức mới mẻ, độc đáo, phản ánh đời sống xã hội và con ngƣời Mỹ. Điều

đó lý giải vì sao triết học thực dụng lại có sức ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển

của nƣớc Mỹ. Một xã hội hữu dụng, chú trọng hiệu quả thực tế và mỗi con ngƣời

hữu dụng trong từng hành động của mình đã góp phần tạo nên một xã hội năng

độc lập về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng hầu nhƣ chƣa có, chỉ tìm thấy

một số quan điểm thiếu tính hệ thống về vấn đề chân lý trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây nói chung và triết học thực dụng nói riêng.

Chúng ta có thể thấy các công trình nghiên cứu độc lập về vấn đề chân lý trong

triết học thực dụng hầu nhƣ chƣa có, chỉ tìm thấy một số quan điểm thiếu tính hệ

thống trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây nói chung và triết

học thực dụng nói riêng.

động, hiệu quả và thành công. Chúng ta có thể thấy các công trình nghiên cứu

1.2.1. Về khái niệm chân lý

Bàn về khái niệm chân lý, có thể kể đến một số tác giả và công trình tiêu

biểu ở trong nƣớc và nƣớc ngoài.

Ở nƣớc ta xuất hiện các công trình nghiên cứu của một số tác giả nhƣ:

Cuốn Lịch sử triết học phương Tây hiện đại (2005) và Triết học Mỹ (2006) của

hai tác giả Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Các tác giả có cách triển khai

vấn đề khá mới lạ, phù hợp với tƣ duy phƣơng Tây. Trong quan niệm về chân lý,

18

các tác giả đã khái quát một định nghĩa về chân lý của J.Dewey: “Chân lý là ý

tƣởng hay giả thiết đã đƣợc kiểm chứng (Verified), có tác dụng (Working) hay

hữu hiệu vì đem lại thỏa mãn (Satisfactory)” [31, tr.133]. Mặc dù vậy, các nghiên

cứu trên chƣa chỉ ra đƣợc hệ thống những luận điểm về khái niệm chân lý.

Một số bài viết của các tác giả có tên tuổi đăng trên các tạp chí chuyên ngành

đề cập khái quát về chủ nghĩa thực dụng và các đại biểu tiêu biểu nhƣ “Chủ nghĩa

thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện đại của nó” của tác giả Phong Hiền trong

“Thông báo Triết học số 23”, 1972; bài viết “Chủ nghĩa thực dụng qua một số đại

biểu của nó” của tác giả Nguyễn Hào Hải, trong Tạp chí Triết học số 4 (98),

1997,… Các bài viết này đề cập một cách khái quát về chủ nghĩa thực dụng, hầu

nhƣ rất ít đề cập đến vấn đề chân lý trong triết học thực dụng.

Một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ lấy chủ nghĩa thực dụng làm đề

tài nghiên cứu của mình, nhƣ luận án tiến sỹ Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực

dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội (2004). Trong luận án, tác

giả Nguyễn Ngọc Ba bàn nhiều đến nội dung của chủ nghĩa thực dụng, từ đó chỉ

ra ảnh hƣởng của nó đến nhân cách ngƣời cán bộ hậu cần, tuy nhiên nếu làm rõ

đƣợc quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng, tác giả sẽ thấy đƣợc rõ hơn

những ảnh hƣởng tích cực của chủ nghĩa thực dụng.

Luận văn Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey của Trần Thị Hoa (2006),

tác giả khai thác nội dung triết học thực dụng của J. Dewey. Thành công của tác

giả là đã chỉ ra đƣợc những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng thực dụng của Dewey,

từ đó khẳng định tầm ảnh hƣởng to lớn của triết học thực dụng Dewey đối với xã

hội Mỹ. Tuy vậy, nếu làm rõ quan điểm nền tảng của triết học thực dụng về khái

niệm chân lý - chân lý chính là công cụ hữu dụng giúp con ngƣời đạt đến thành

công, luận văn sẽ thành công hơn khi viết về chủ nghĩa thực dụng của Dewey.

Luận văn Quan niệm của William James về chân lý (2009) của tác giả

Phan Thị Thùy Dƣơng. Đây là luận văn đầu tiên bàn về khái niệm chân lý của

một nhà triết học tiêu biểu nhất trong triết học thực dụng Mỹ. Điều mà tác giả đã

làm đƣợc là xây dựng hệ thống các luận điểm về vấn đề chân lý trong triết học

của W.James, đồng thời đƣa ra khái niệm chân lý hết sức điển hình của triết học

19

thực dụng Mỹ khi khẳng định James đồng nhất chân lý với tính hữu dụng. Tuy

nhiên, nếu chỉ bàn quan niệm về chân lý của James để khẳng định đó là quan

niệm của triết học thực dụng Mỹ về chân lý sẽ là phiến diện. Vì vậy, nghiên cứu

quá trình hình thành phát triển của khái niệm chân lý qua các nhà triết học thực

dụng Mỹ là vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ, để đảm bảo tính hệ thống và toàn

diện về khái niệm chân lý của trƣờng phái triết học này.

Luận án tiến sỹ Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng của Peirce

(2015) của Nguyễn Hải Hoàng. Tác giả nghiên cứu, luận giải sâu về vấn đề niềm

tin trong triết học thực dụng của Peirce - ngƣời sáng lập triết học thực dụng Mỹ.

Tác giả cũng thấy đƣợc mối liên hệ giữa vấn đề niềm tin và vấn đề chân lý trong

triết học thực dụng của Peirce. Đây là tƣ liệu cần thiết để tác giả luận án tiếp tục

làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ..

Trong bối cảnh những tài liệu nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện

đại nói chung và triết học thực dụng nói riêng còn rất hạn chế, chỉ có một số sách

nguyên bản hoặc sách dịch, là một khó khăn lớn cho ngƣời nghiên cứu về vấn đề

này. Trong những tác giả nƣớc ngoài nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng Mỹ phải kể đến tác giả Lƣu Phóng Đồng. Các tài liệu này đã đƣợc

dịch ra tiếng Việt nhƣ: cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị

quốc gia, năm 1994), trong đó quan niệm về chân lý đƣợc tác giả bàn đến ở một

số nội dung khái quát nhất. Tác giả trình bày nguyên lý thực dụng của C. Peirce

làm nền tảng cho quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Hay quan niệm

của J. Dewey khi đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ. Mặc dù quan niệm về

chân lý chƣa đƣợc tác giả nghiên cứu một cách tƣơng xứng, nhƣng đây là những

tƣ liệu quan trọng để tác giả luận án tiếp tục làm rõ quan niệm về chân lý trong

triết học thực dụng Mỹ.

Cuốn Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học phương Tây hiện đại

(Nxb Lý luận Chính trị, năm 2001) của tác giả Lƣu Phóng Đồng là một trong

những công trình quan trọng nghiên cứu triết học phƣơng Tây nói chung và

nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Mặc dù vấn đề chân lý mới chỉ

đƣợc bàn đến thông qua tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng mà chƣa trở

20

thành một nội dung cơ bản xuyên suốt của triết học thực dụng, nhƣng quan niệm

về chân lý bƣớc đầu đã đƣợc chỉ ra ở một số nội dung cơ bản. Chẳng hạn, quan

niệm của C. Peirce coi mục đích của nhận thức chân lý là đạt tới niềm tin; W.

James quan niệm chân lý lấy kinh nghiệm làm căn cứ tồn tại, đồng nhất chân lý

với tính hữu dụng trở thành đặc trƣng cơ bản trong quan niệm về chân lý của

triết học thực dụng.

Cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (1997) của J.K.

Melvil, khi phân tích quan niệm của từng nhà triết học thực dụng Mỹ, từ C.

Peirce, W. James đến J. Dewey, tác giả giúp ngƣời đọc hình dung ra tƣ tƣởng

chủ đạo của triết học thực dụng Mỹ. Trong đó, vấn đề chân lý đƣợc bàn đến

thông qua nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Khi trình bày

về “nguyên lý thực dụng”, Peirce đã đƣa ra một quan niệm điển hình về chân lý

thực dụng. James khẳng định: Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân

lý, cái đó tất phải hữu dụng. Dewey thay thuật ngữ “chân lý” bằng diễn đạt “sự

khẳng định có cơ sở”. Tuy nhiên, khái niệm chân lý trong công trình này mới chỉ

đƣợc đề cập một cách sơ lƣợc thông qua nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học

thực dụng.

Cuốn Lịch sử triết học và các luận đề của S.E. Stumpe, tác giả chỉ dành

một nội dung nhỏ nói về lý thuyết chân lý của W. James, nên quan niệm về chân

lý đƣợc trình bày là không nhiều. Tác giả có thể tham khảo một số tƣ liệu đƣợc

dịch từ các tác phẩm của các nhà triết học thực dụng Mỹ, phục vụ cho quá trình

nghiên cứu quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này.

Toàn bộ tƣ tƣởng triết học của W. James đƣợc trình bày trong cuốn

Uylian Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình, đây là cơ sở để chúng ta nghiên cứu về

triết học thực dụng Mỹ thông qua triết gia James. Trong đó, công trình đã nêu ra

quan niệm cơ bản của James về chân lý, chân lý là cái đem lại lợi ích, hiệu quả,

sự thành công cho con ngƣời. Tuy nhiên, quan niệm về chân lý của James chƣa

thể là tất cả quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Đây là tƣ liệu cần thiết

để tác giả tiếp tục khai thác quan niệm về chân lý của các nhà triết học thực dụng

khác là C. Peirce, J. Dewey, từ đó, chỉ ra một cách hệ thống quan niệm về chân

lý trong triết học thực dụng Mỹ.

21

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết quả sau:

Thứ nhất, về phƣơng pháp tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã bàn đến khái

niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học thực dụng Mỹ là C.

Peirce, W. James và J. Dewey.

Thứ hai, các tác giả đều thống nhất cho rằng, triết học thực dụng khẳng

định chân lý là cái đem lại hiệu quả trong hành động của con ngƣời. Đồng nhất

chân lý với hiệu quả là đặc trƣng trong quan niệm về chân lý của triết học thực

dụng Mỹ.

Thứ ba, hầu hết các tác giả đều trình bày khái niệm chân lý của từng nhà

triết học thực dụng Mỹ, chƣa có một công trình nào nghiên cứu về khái niệm

chân lý của hệ thống triết học thực dụng.

Có thể nói, các kết quả nghiên cứu về khái niệm chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ còn tản mạn, chƣa khái quát thành hệ thống, thiếu tính toàn diện.

Vì vậy, cần phải đƣa ra một khái niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ,

trên cơ sở quan niệm của các nhà triết học thực dụng. Đây là một nhiệm vụ cơ

bản tác giả cần giải quyết trong luận án.

1.2.2. Về tiêu chuẩn của chân lý

Các công trình nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng nói

chung là chƣa nhiều, nghiên cứu về tiêu chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng

lại càng ít. Chúng ta có thể kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu nhƣ:

Cuốn sách Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 của Lƣu Phóng Đồng, tác

giả nhấn mạnh quan niệm của C. Peirce về tiêu chuẩn của chân lý là “những hệ

quả thực hành có thể xảy ra”, hay những hiệu quả thực tế cấu thành toàn bộ

nghĩa của khái niệm. Theo Peirce: “Người ta cần xác định chân lý của khái niệm

ấy sẽ có được hiệu quả thực tế gì trong quá trình thực hành chúng; và tổng số

những hiệu quả đó sẽ cấu thành toàn bộ nghĩa của khái niệm” [135, T.V, đoạn 9].

Cuốn Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện đại (Nxb

Lý luận Chính trị), Lƣu Phóng Đồng đã chỉ ra sự thống nhất trong quan niệm về

chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ khi coi tính hiệu quả, thành công, có

lợi là tiêu chuẩn của một quan niệm, tƣ tƣởng. Hiệu quả của quan niệm hoặc giả

22

thuyết trở thành thƣớc đo chân lý của quan niệm hoặc giả thuyết đó. J.Dewey đã

phát triển quan niệm về tiêu chuẩn chân lý trong chủ nghĩa công cụ, khi coi chân

lý là công cụ mà tiêu chuẩn của nó là hiệu quả hay không hiệu quả, thành công

hay không thành công.

Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (Đinh

Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch), J.K. Melvil đã dẫn ra quan điểm của

C. Peirce khi đồng nhất chân lý với tính hiệu quả, tiêu chuẩn để phân biệt chân

lý với giả tạo là hành động dựa trên cơ sở, cơ sở đó là những hiệu quả thực tế. Ở

một khía cạnh khác, tác giả lại dẫn ra quan điểm của Peirce về tiêu chuẩn của

chân lý: “Chân lý là ý kiến đạt đƣợc niềm tin tuyệt đối giữa những ngƣời cùng

nghiên cứu một vấn đề. Đối tƣợng đƣợc trình bày trong ý kiến tập thể ấy là hiện

thực” [135, T.V, đoạn 507]. Theo ông, chân lý là cụ thể nên niềm tin nhất quán,

tuyệt đối của các nhà nghiên cứu trong một lĩnh vực nào đó đƣợc coi là tiêu

chuẩn của chân lý trong lĩnh vực đó. W. James đã phát triển quan điểm của C.

Peirce và đi đến khẳng định tính hiệu quả, hữu dụng, thành công là tiêu chuẩn

của chân lý. Đặc trƣng trong thuyết chân lý của James là đồng nhất chân lý với

tính hữu dụng, cái có ích.

Trong cuốn Lịch sử triết học và các luận đề (Đỗ Văn Thuấn và Lƣu Văn

Hy dịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2004), S.E. Stumpf khẳng định quan điểm của

W. James khi lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn của chân lý. James trình bày phạm trù

“thực tại”, xem chân lý là sự phù hợp với thực tại, phạm trù “thực tại” và “phù

hợp với thực tại” có ý nghĩa đặc biệt trong lý thuyết chân lý của W.James, nó

đƣợc xem là tiêu chuẩn để phân biệt chân lý và sai lầm.

Vƣơng Ngọc Bình với cuốn Uyliam Giêmxơ là công trình đƣợc tác giả

dành toàn bộ dung lƣợng bàn về nhà triết học thực dụng W. James. Khi bàn về

tiêu chuẩn của chân lý, tác giả đƣa ra cách hiểu của James về phạm trù “thực

tại”, thực tại không phải là hiện thực khách quan với sự sống động của vạn vật

mà là quan hệ tƣơng đối với đời sống tình cảm của cá nhân con ngƣời, mang ý

nghĩa chủ quan.

Trong cuốn 101 triết gia (Nxb Tri thức, năm 2007), tác giả Mai Sơn đã

23

đƣa ra châm ngôn thực dụng của C. Peirce, ở đây ông nói đến tiêu chuẩn về

nghĩa, thực chất cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Tác giả cũng trình bày “thuyết

khả sai” của Peirce, làm cơ sở phƣơng pháp luận của khoa học để nhận thức

chân lý: “Sự hợp lý của phƣơng pháp khoa học không tùy thuộc vào tính chắc

chắn của những kết luận của nó, nhƣng tùy thuộc vào đặc điểm tự hiệu chỉnh của

nó: bằng cách áp dụng liên tục phƣơng pháp này, khoa học có thể phát hiện ra và

hiệu chỉnh những sai lầm của chính nó, và nhờ vậy cuối cùng đi tới khám phá

chân lý” [105, tr. 498]. Peirce dừng lại ở quan điểm nền tảng khi coi hiệu quả

thực tế do khái niệm tạo ra là tiêu chuẩn của chân lý.

Tóm lại, thông qua những nghiên cứu về tiêu chuẩn của chân lý trong triết

học thực dụng Mỹ, các công trình đã đề cập đến những vấn đề sau:

Thứ nhất, quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lý có

sự thống nhất với khái niệm chân lý, đồng nhất chân lý với hiệu quả, cái có ích,

sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn chân lý của triết học thực

dụng Mỹ.

Thứ hai, về cơ bản các nhà triết học thực dụng Mỹ có quan niệm thống

nhất về tiêu chuẩn của chân lý, đồng thời cũng có sự kế thừa, phát triển, C.Peirce

cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý, W. James và J.Dewey khẳng

định tính hiệu quả có ích, sự thành công là tiêu chuẩn của chân lý.

Thứ ba, thông qua quan niệm về tiêu chuẩn của chân lý, các nhà nghiên cứu

đã chỉ ra một số khía cạnh tích cực, thể hiện quan điểm đề cao thực tiễn, coi hiệu

quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý, đồng thời cũng thấy sai lầm của các nhà triết

học thực dụng là đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Chân lý là sự thỏa

mãn cá nhân, giúp con ngƣời đạt đƣợc thành công, do đó, mỗi ngƣời dựa trên mục

đích lợi ích của mình đều có thể theo đuổi tiêu chuẩn chân lý khác nhau.

Tuy nhiên, ở những công trình nghiên cứu trên, vấn đề về tiêu chuẩn của

chân lý vẫn chƣa đƣợc đặt ra thành một nội dung riêng, chúng ta chỉ tìm thấy

trong tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ một cách thiếu hệ thống. Do

đó, luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ tính hệ thống của quan niệm về tiêu chuẩn

24

của chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

1.2.3. Về phương pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý

Theo quan điểm của chủ nghĩa thực dụng, chân lý là một quá trình không

phải tĩnh tại, cho nên nhận thức chân lý cũng là một quá trình, đó là quá trình

phát sinh, phát triển, đƣợc chứng thực và có hiệu quả trong đời sống thực tiễn.

Các nhà triết học thực dụng đã chỉ ra phƣơng pháp luận nhằm đạt đến chân lý.

Nghiên cứu về phƣơng pháp luận nhận thức chân lý, chúng ta có thể kể đến một

số công trình tiêu biểu.

Trong cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, năm 1994), tác giả đã bàn đến phƣơng pháp của C. Peirce, đó là phƣơng

pháp khoa học để đạt tới niềm tin vững chắc. Peirce đƣa ra bốn phƣơng pháp

trong lịch sử để củng cố niềm tin và cũng là phƣơng pháp để đạt đến chân lý, bao

gồm: phƣơng pháp cố chấp; phƣơng pháp quyền uy; phƣơng pháp tiên nghiệm;

phƣơng pháp khoa học. Trong đó, Peirce khẳng định để niềm tin nhất trí với thực

tế thì các phƣơng pháp cố chấp, phƣơng pháp quyền uy và phƣơng pháp tiên

nghiệm đều không thể đáp ứng đƣợc đòi hỏi này, chỉ có phƣơng pháp khoa học

mới tạo đƣợc sự nhất trí giữa niềm tin và thực tế. Sự nhất trí này đƣợc đảm bảo

bằng chính tri thức khoa học về thế giới, về những sự vật, hiện tƣợng tồn tại

khách quan.

C. Peirce gọi phƣơng pháp củng cố niềm tin đồng thời cũng là phƣơng

pháp để đạt đến chân lý. Ông chủ trƣơng dùng phƣơng pháp khoa học lấy thực

tại làm căn cứ để loại bỏ hoài nghi, coi trọng phƣơng pháp khoa học để củng cố

niềm tin với tính cách là chân lý.

Trong cuốn Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện

đại (Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2004), Lƣu Phóng Đồng chỉ ra quan điểm

của C. Peirce về tính tƣơng đối của chân lý và lý thuyết có thể sai trong phƣơng

pháp khoa học để nhận thức chân lý. Tác giả đƣa ra quan điểm của W. James về

con đƣờng nhận thức chân lý nhƣ một quá trình biện chứng, đƣợc thực tiễn kiểm

nghiệm. Chân lý là một quá trình phát sinh, là một quá trình chứng thực và kiểm

nghiệm tính hiệu quả trong thực tiễn. James đối lập thuyết chân lý của mình với

25

quan niệm của trƣờng phái duy lý, thông qua việc chỉ ra sự đối lập của thuyết

chân lý thực dụng với chủ nghĩa duy lý, ông khẳng định chân lý mang tính cụ

thể, là hữu dụng trong những tình huống cụ thể. Đồng thời, ông nhấn mạnh hạn

chế của chủ nghĩa duy lý là đã trừu tƣợng hóa và tuyệt đối hóa chân lý.

Tác giả Vƣơng Ngọc Bình trong cuốn Uyliam Giêmxơ (Trung tâm Văn hóa

Ngôn ngữ Đông Tây dịch) cũng thống nhất với quan niệm cho rằng, chân lý là một

quá trình, không phải tĩnh tại, bất biến mà mang tính cụ thể, tƣơng đối, đƣợc sinh ra

từ quan niệm: “Tính chân thực của chân lý trên thực tế là một sự kiện hoặc quá

trình, nó chứng thực quá trình bản thân nó, là quá trình chứng thực của nó, tính hữu

hiệu của nó là quá trình làm cho nó sinh ra hiệu quả” [9, tr. 103].

Trong cuốn Lịch sử triết học và các luận đề của S.E. Stumpf (Đỗ Văn

Thuấn và Lƣu Văn Hy dịch, Nxb Lao động, Hà Nội), tác giả cho rằng, chân lý là

quá trình, chân lý do chân lý trƣớc đây tạo nên. Do đó, chân lý tồn tại dựa vào sự

tin tƣởng, tính chân thực đƣợc tạo ra từ tính hiệu quả, tính hiệu quả tạo nên sự

tồn tại của chân lý.

W. James phân tích về sự chứng thực trực tiếp và gián tiếp chân lý. Vì

chân lý tồn tại phần lớn dựa vào niềm tin nên tất cả đều cần có một sự chứng

thực nào đó, nếu không có nó, hệ thống chân lý sẽ sụp đổ giống nhƣ một hệ

thống tài chính mà không đƣợc bảo chứng tiền mặt. Tiếp tục quan điểm của

W.James, J. Dewey phê phán thuyết chân lý của chủ nghĩa duy lý và thuyết phản

ánh của chủ nghĩa duy vật siêu hình.

Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (Đinh

Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch, Nxb Giáo dục), J.K. Melvil đã phân

tích quan điểm của J. Dewey, nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò,

nên phƣơng pháp của ông thƣờng đƣợc gọi là phƣơng pháp thăm dò. Phƣơng

pháp thăm dò của ông xuất phát từ việc giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình

nhận thức. Ông cho rằng, thực tại “đi trƣớc” nhận thức, thực tại cũng chỉ là kết

quả của quá trình nhận thức, từ đó ông đƣa ra phƣơng pháp nghiên cứu chung để

tìm ra chân lý gồm 5 bƣớc. Toàn bộ quá trình này đều dựa trên phƣơng pháp thử

sai, đó là khả năng tự điều chỉnh của nó, một giả thuyết nào đó đƣợc coi là chân

lý nếu nó cho phép giải quyết thành công trong những tình huống có vấn đề. Qua

26

việc khảo sát những công trình nghiên cứu liên quan đến phƣơng pháp luận

nhằm nhận thức chân lý, chúng ta nhận thấy, các kết quả nghiên cứu đã giải

quyết đƣợc một số nội dung sau:

Thứ nhất, các tác giả khẳng định rằng, các nhà triết học thực dụng đều

nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý.

Thứ hai, các tác giả cho rằng, nhận thức chân lý là một quá trình không

phải tĩnh tại, bất biến, mà cần phải đƣợc chứng thực thƣờng xuyên.

Thứ ba, đƣa ra các phƣơng pháp để nhận thức chân lý của các nhà triết

học thực dụng.

Thứ tư, các nhà triết học thực dụng đều tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của

chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý, chân lý là cụ thể, tƣơng đối, không có

chân lý tuyệt đối.

Tuy nhiên, một đặc điểm chung trong việc nghiên cứu về phƣơng pháp

khoa học nhằm đạt đến chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ là chƣa khái

quát đƣợc thành quan niệm mang tính hệ thống mà mới chủ yếu dừng lại ở quan

một nhiệm vụ cơ bản phải giải quyết trong luận án của mình.

Nhìn chung, thông qua các công trình nghiên cứu trên, các nhà nghiên

cứu đã bàn đến khái niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học

thực dụng Mỹ là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Các tác giả đều thống nhất

cho rằng, triết học thực dụng khẳng định chân lý là cái đem lại hiệu quả trong

hành động của con ngƣời. Peirce cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của

chân lý, James và Dewey khẳng định tính hiệu quả có ích, sự thành công là

tiêu chuẩn của chân lý. Các nhà triết học thực dụng đều nhấn mạnh vai trò

của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý, đồng thời tuyệt đối hóa vai

trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý.

Có thể nói, các kết quả nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ còn chƣa nhiều, chƣa thành hệ thống. Vì vậy, luận án sẽ tập

niệm riêng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Nội dung này tác giả xác định là

27

trung làm sáng tỏ tính hệ thống của quan niệm về về chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ.

1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về giá trị và hạn chế

của quan niệm chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

Nhìn chung, ở nƣớc ta, nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ chƣa nhiều,

nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ chƣa đầy đủ. Đặc

biệt, việc nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong

triết học thực dụng Mỹ hầu nhƣ rất ít đƣợc bàn đến.

1.3.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

Trong cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc gia,

Hà Nội, năm 1994), Lƣu Phóng Đồng đã đƣa ra một số đánh giá về giá trị của

quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ông cho rằng, triết học thực

dụng đề cao tác dụng của con ngƣời sáng tạo thế giới, sáng tạo chân lý. Chân lý

tồn tại trong quá trình kiểm chứng của thực tiễn, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm

nghiệm của chân lý.

Công trình Các con đường của triết học phương Tây hiện đại của

J.K.Melvil (Nxb Giáo dục, năm 1997), khi bàn về vấn đề chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ, đã đƣa ra một số nhận định về giá trị của nó nhƣ nhấn mạnh vai

trò của các nhà khoa học, các chuyên gia trong việc đánh giá một lý thuyết khoa

học, đó là sự phù hợp với thời đại chuyên môn hóa ngày càng cao hiện nay.

Trong cuốn Uyliam Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình đã có những nhận

định về quan niệm chân lý của nhà triết học thực dụng W. James, tác giả chỉ ra

sự phê phán và bác bỏ của James đối với quan niệm máy móc siêu hình về chân

lý. Từ đó, tác giả khẳng định chân lý là một quá trình luôn ở trạng thái động.

Trong cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người

Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1997), nhóm tác giả do

GS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên cho rằng, “Thực dụng cũng là một lý thuyết có

công trong việc nâng những điều còn là kinh nghiệm, là những cảm nhận đó lên

trình độ triết lý” [114, tr. 114 - 115]. Các tác giả còn nhấn mạnh, trong mọi hoạt

động của xã hội, việc quan tâm đến hiệu quả cụ thể là điều cần thiết, phù hợp với

28

cuộc sống hàng ngày của con ngƣời.

Tác giả Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng với công trình Triết học Mỹ

(Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006), đã trình bày quan niệm của triết

học thực dụng Mỹ về chân lý. Theo các tác giả, W. James coi: “Chân lý tồn tại

cùng với con ngƣời… chân lý là do con ngƣời dựa vào nhu cầu của mình mà

sáng tạo nên… ngƣời ta bảo đây là chủ nghĩa nhân bản của chủ nghĩa thực dụng”

[31, tr.119]. Một quan điểm khác, các tác giả cho rằng: “James thƣờng phê phán

chủ nghĩa duy lý vì nó không phù hợp với chân lý, lợi ích. Chủ nghĩa duy lý đƣa

ra một chân lý có sẵn, chân lý trừu tƣợng. Còn chân lý của chủ nghĩa thực dụng

là cụ thể” [31, tr. 119 - 120]. Ở chỗ khác, khi phân tích quan điểm của J.Dewey

về chân lý, tác giả khẳng định: “Dewey chống lại chủ nghĩa duy lý cho rằng chân

lý là khái niệm, là lý tính có sẵn” [31, tr. 136].

Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bƣớc đầu đƣa ra một số

nhận định về giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cho nên

tác giả xem đây là một nội dung quan trọng cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ.

1.3.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

Cuốn Phê phán chủ nghĩa thực dụng của J.K. Melvil là công trình phê phán

gay gắt, toàn diện về chủ nghĩa thực dụng. Ngay trong bài viết đầu tiên, tác giả đã

phê phán chủ nghĩa thực dụng bằng tiêu đề “Chủ nghĩa thực dụng là triết học của

chủ nghĩa duy tâm chủ quan”. Trong bài viết này, tác giả đã lập luận thông qua

những luận điểm của triết học thực dụng và chứng minh bằng quan điểm của các

nhà triết học thực dụng nhƣ C. Peirce, W. James và J. Dewey. Tác giả đƣa ra khẳng

định về chủ nghĩa thực dụng: “coi chân lý có tính chủ quan” [91, tr. 100], họ phủ

nhận chân lý khách quan. Tác giả thừa nhận quan điểm của chủ nghĩa thực dụng về

chân lý là có căn cứ, căn cứ đó là sự “khuếch đại và tuyệt đối hóa sự có ích của

chân lý” [91, tr. 103]. Tuy nhiên, những nhận định của tác giả đƣa ra về chủ nghĩa

thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý nói riêng còn chịu ảnh hƣởng của lập

trƣờng giai cấp và mang tính phiến diện, chủ quan.

Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đai (Nxb Giáo

dục, năm 1997), J.K. Melvil khi bàn về quan niệm chân lý trong triết học thực

29

dụng Mỹ, đã đƣa ra một số nhận định về hạn chế của nó nhƣ tính tùy tiện chủ

quan, chân lý “chỉ đáng xem là đối tƣợng của ý kiến tập thể” [92, tr. 28]. Theo

tác giả, với quan niệm chân lý nhƣ niềm tin, C. Peirce đã tạo ra “một loại thế

phẩm cho quan niệm về chân lý khách quan khoa học” [92, tr. 29]. Còn đối với

W. James, tác giả cho rằng, quan niệm về chân lý của nhà triết học này là “để

bảo vệ tín ngưỡng tôn giáo” [92, tr. 31]. Vì vậy, theo tác giả “khuyết tật cơ bản

của chủ nghĩa thực dụng là đem quy tính hữu dụng là cái tạo nên nội dung của tri

thức chân lý” [92, tr. 37]. Có thể thấy, đánh giá của tác giả về quan niệm chân lý

trong triết học thực dụng có một số điểm đã phản ánh đƣợc hạn chế của triết học

thực dụng Mỹ, biểu hiện rõ nhất là lập trƣờng duy tâm chủ quan của trƣờng phái

này. Tuy nhiên, những đánh giá của tác giả về hạn chế trong quan niệm về chân

lý của triết học thực dụng Mỹ còn mang tính chủ quan, chịu ảnh hƣởng của lập

trƣờng giai cấp.

Trong cuốn Mấy trào lưu triết học phương Tây (Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, năm 1984), tác giả Phạm Minh Lăng đã thể hiện sự phê phán sâu

sắc triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng

nói riêng. Tác giả nhận định: “Chủ nghĩa thực dụng là hệ tư tưởng của tập đoàn tư

bản độc quyền Mỹ”. Tác giả đã phân tích trên các nội dung của trƣờng phái triết

học thực dụng, trong đó đặc biệt chú ý chỉ ra hạn chế của trƣờng phái triết học này

khi bàn về chân lý. Ông khái quát “Châm ngôn hành động của chủ nghĩa thực

dụng là “có lợi”, “có lợi” và “có lợi” [78, tr. 278] và khẳng định: “James đã

trắng trợn coi “cái đúng lý” tức cái mà ông gọi là “hậu quả thực tiễn” bằng ngôn

ngữ của nhà kinh doanh… coi đó là “giá trị tiền mặt”” [78, tr. 285]. Có thể thấy,

những đánh giá của tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, chịu ảnh hƣởng của lập

trƣờng giai cấp, chủ yếu nhằm phê phán triết học thực dụng.

Trong tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc

gia, năm 1994), Lƣu Phóng Đồng đã đƣa ra một số đánh giá về hạn chế của quan

niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ông cho rằng, quan niệm về chân

lý của triết học thực dụng Mỹ đã phủ nhận tính khách quan của chân lý: “Mọi

quan niệm với tính cách là chân lý chỉ lấy bản thân quan niệm làm căn cứ” [39,

30

tr. 144]. Hạn chế tiếp theo của triết học thực dụng là tuyệt đối hóa một chiều về

tác dụng của con ngƣời, quy toàn bộ chân lý là kết quả sáng tạo chủ quan của

con ngƣời. Tiếp nữa, trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ là

sự đồng nhất chân lý với hiệu quả và sự thành công, sai lầm đó là “phủ nhận tính

khách quan của chân lý, coi có ích, có hiệu quả là tiêu chuẩn duy nhất của chân

lý” [39, tr. 146]. Đồng thời, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng phủ

nhận tính tuyệt đối của chân lý, cho rằng chân lý chỉ mang tính tƣơng đối.

Trong cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người

Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội) của nhóm tác giả do GS

Nguyễn Tài Thƣ chủ biên, đã đƣa ra nhiều đánh giá cụ thể về hạn chế của triết

học thực dụng. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhận định này của nhóm tác giả còn thể

hiện quan điểm cũ, mang tính chủ quan, phiến diện, một chiều, không thấy đƣợc

mặt tích cực của triết học thực dụng Mỹ.

Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc, tác giả nhận thấy cần

phải có quan điểm khách quan, toàn diện hơn để tiếp tục làm rõ hạn chế trong

quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Đó là một nhiệm vụ quan trọng mà

luận án phải giải quyết.

Nhƣ vậy, qua các nhận định về giá trị và hạn chế của triết học thực dụng

nói chung, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ nói riêng còn chịu

sự chi phối của lập trƣờng giai cấp, nên nhiều nhận định thiếu tính khách quan.

Do đó, để đƣa ra một cái nhìn đúng đắn, khách quan về những giá trị cũng nhƣ

hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, chúng ta phải

căn cứ vào nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng, đồng thời có sự so

sánh, đối chiếu với quan niệm này của một số trƣờng phái triết học, nhất là quan

điểm khoa học của triết học Mác - Lênin. Trên cơ sở phân tích nội dung quan

niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, thông qua ba đại diện tiêu biểu là

C. Peirce, W. James và J. Dewey, tác giả sẽ giải quyết vấn đề này. Có thể nói, đây

là điểm mới và đóng góp của luận án khi giải quyết đƣợc những vấn đề đặt ra.

1.4. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã

31

công bố và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án

Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan về triết học thực

dụng Mỹ, về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, dƣới những góc độ tiếp cận

khác nhau, có thể thấy, những nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết quả sau:

Thứ nhất, khái quát điều kiện, tiền đề, quá trình ra đời, phát triển của triết

học thực dụng Mỹ.

Thứ hai, phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của các nhà triết học

thực dụng Mỹ. Từ đó, đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng triết

học thực dụng là một trào lƣu triết học duy tâm chủ quan, gắn với lập trƣờng của

giai cấp tƣ sản.

Thứ ba, các tác giả đều cho rằng, điểm đặc sắc của triết học thực dụng là

nhấn mạnh kinh nghiệm, hiệu quả trong nhận thức và hành động, coi đây là tiêu

chuẩn của chân lý. Triết học thực dụng khẳng định chân lý là cái đem lại hiệu

quả trong hành động của con ngƣời. Đồng nhất chân lý với hiệu quả là đặc trƣng

của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

Thứ tư, về phƣơng pháp tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã bƣớc đầu bàn đến

khái niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học thực dụng Mỹ là

C.Peirce, W. James và J. Dewey. Quan niệm của triết học thực dụng về tiêu

chuẩn của chân lý có sự thống nhất với khái niệm chân lý, đồng nhất chân lý với

hiệu quả, cái có ích, sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn chân lý

của triết học thực dụng Mỹ. Từ đó, các tác giả khẳng định rằng, các nhà triết học

thực dụng đều nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức

chân lý và đƣa ra các phƣơng pháp để nhận thức chân lý. Tuy nhiên, chƣa có một

công trình nào nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

một cách hệ thống.

Thứ năm, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bƣớc đầu đƣa ra một số

nhận định về giá trị và hạn chế của triết học thực dụng Mỹ nói chung. Tuy nhiên,

những đánh giá của các tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, chịu ảnh hƣởng của

lập trƣờng giai cấp, chủ yếu nhằm phê phán triết học thực dụng. Có thể nói, việc

32

nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ hầu nhƣ rất ít đƣợc bàn đến.

Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc về triết

học thực dụng Mỹ nói chung, về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ nói

riêng, tác giả nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu, tập trung giải quyết một số nội

dung sau:

Thứ nhất, chƣa có một công trình nào nghiên cứu cơ sở hình thành quan

niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, do đó, luận án cần làm rõ cơ sở hình

thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đó là cơ sở để luận án lý

giải những nội dung của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cũng

nhƣ những giá trị và hạn chế của nó.

Thứ hai, luận án cần tiếp tục làm rõ khái niệm triết học thực dụng và vị trí

của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

Thứ ba, các công trình nghiên cứu mới chỉ bƣớc đầu chỉ ra quan niệm về

chân lý của từng triết gia thực dụng, chủ yếu là quan niệm về chân lý của W. James.

Vì vậy, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một cách hệ thống, toàn diện, mang

tính đặc trƣng của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở

quan niệm về chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ.

Thứ tư, luận án cần tập trung làm sáng tỏ khái niệm chân lý, tiêu chuẩn của

chân lý, phƣơng pháp luận khoa học để đạt đến chân lý của triết học thực dụng Mỹ

trên cơ sở quan niệm về chân lý của C. Peirce, W. James và J. Dewey.

Thứ năm, các công trình nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học thực

dụng nói chung là chƣa nhiều, nghiên cứu về giá trị và hạn chế của quan niệm về

chân lý trong triết học thực dụng lại càng ít. Do đó, luận án cần chỉ ra những giá trị

và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở nội

dung quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Tác giả xem đây là điểm

mới và đóng góp cơ bản của luận án.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 1

Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu, của các học giả trong

nƣớc và nƣớc ngoài về triết học thực dụng Mỹ nói chung, quan niệm về chân lý

33

của trƣờng phái triết học này nói riêng, dƣới những góc độ tiếp cận khác nhau, ở

những khía cạnh khác nhau, có thể thấy các nghiên cứu đã đạt đƣợc một số kết

quả trong việc làm rõ điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của triết học thực dụng Mỹ,

những nội dung cơ bản của triết học thực dụng và tƣ tƣởng của các nhà triết học

thực dụng Mỹ. Những kết quả này là hết sức cần thiết cho những ngƣời nghiên

cứu kế thừa và tiếp tục nghiên cứu.

Ở nƣớc ta, có nhiều công trình nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ ở mức

độ khái quát, trên cơ sở đó, các tác giả chủ yếu làm rõ tƣ tƣởng triết học của các đại

diện tiêu biểu của trƣờng phái triết học này là C. Peirce, W. James, J. Dewey. Vì vậy,

có rất ít công trình nghiên cứu chuyên sâu về đặc trƣng của triết học thực dụng Mỹ.

Các công trình nghiên cứu quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ còn chƣa

tƣơng xứng với vị trí quan trọng của vấn đề này trong triết học thực dụng Mỹ. Thậm

chí, ở nƣớc ta hầu nhƣ chƣa có một công trình nào đƣợc công bố về vấn đề này. Mặt

khác, việc đƣa ra những nhận định về giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý

trong triết học thực dụng Mỹ còn chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp, vì vậy,

trong nhiều nhận định còn thể hiện cách nhìn phiến diện, chủ quan, chƣa phản ánh

đúng bản chất của trƣờng phái triết học này.

Căn cứ vào tình hình nghiên cứu có liên quan đến nội dung của đề tài luận án,

có thể khẳng định, cho đến thời điểm hiện nay, chƣa có một công trình khoa học nào

trực tiếp đề cập đến quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ để từ đó, chỉ

ra giá trị và hạn chế của nó ở cấp độ một luận án. Dựa trên quá trình nghiên cứu và

những kết quả nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ của các nhà nghiên

cứu, chúng tôi nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ quan niệm nền

tảng của triết học thực dụng - quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần làm rõ bản chất của

triết học thực dụng một cách khách quan - vấn đề mà bấy lâu nay chúng ta vẫn còn

nhiều tranh luận trái chiều. Tất nhiên, để làm rõ vấn đề này, việc kế thừa những kết

quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đó là rất cần thiết.

34

Chƣơng 2

CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ

TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ

2.1. Khái quát về triết học thực dụng Mỹ và vị trí của vấn đề chân lý trong

triết học thực dụng Mỹ

2.1.1. Khái niệm triết học thực dụng

Triết học thực dụng là một trào lƣu triết học ra đời ở Mỹ vào những năm

70 của thế kỷ XIX, là đóng góp độc đáo nhất của tƣ tƣởng Mỹ cho kho tàng triết

học nhân loại. Triết học thực dụng đƣợc hình thành với tƣ tƣởng nền tảng của

C.Peirce, đƣợc truyền bá rộng rãi bởi W. James và đƣợc đƣa vào đời sống hàng

ngày một cách có phƣơng pháp nhờ J. Dewey, trong đó, “ngƣời độc đáo nhất là

Charles Peirce, ngƣời thú vị nhất để đọc là William James và ngƣời gây ảnh

hƣởng sâu rộng nhất là John Dewey” [89, tr. 237].

Triết học thực dụng Mỹ bắt nguồn từ “Câu lạc bộ siêu hình học” do

C.Peirce đứng đầu, thành lập tại Đại học Harvard. Năm 1872, lần đầu tiên ông

đƣa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tƣ tƣởng cơ bản,

quan niệm chủ yếu của mình về triết học thực dụng trong báo cáo khoa học đọc

tại “Câu lạc bộ siêu hình”. Sau đó, báo cáo khoa học này đã đƣợc ông chỉnh lý,

bổ sung thành hai bài viết với tên gọi Củng cố niềm tin (The Fixation of Belief)

và Làm thế nào để cho tư tưởng của chúng ta được sáng tỏ (How to Make Our

Ideas Clear), lần lƣợt đăng trên Nguyệt san khoa học phổ thông (số 11 - 1877 và

số 1 - 1878). Hai bài viết này đƣợc coi là những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tƣ

tƣởng triết học thực dụng của Peirce.

Về nguồn gốc của khái niệm triết học thực dụng (Pragmatism). Khái niệm

triết học thực dụng xuất phát từ học thuyết về nghĩa của C. Peirce, đây là học

thuyết trung tâm trong triết học của ông, mục đích nhằm làm sáng tỏ nghĩa của

khái niệm, tƣ tƣởng. Ở đây, ông đã đƣa ra một cách giải thích mới về cách thức

để tạo lập nghĩa của khái niệm, từ đó, tạo lập thuật ngữ “pragmatism”. Thuật ngữ

chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) có nguồn gốc từ chữ “pragma” trong tiếng Hy

35

Lạp (nghĩa là “hành vi”, “thực tiễn”). Ông rút ra kết luận: nội dung tƣ tƣởng nào

cũng là tổng số những hiệu quả thực tế, kết quả của những hành động bắt nguồn

từ những tƣ tƣởng ấy. Muốn biết đƣợc nghĩa của một tƣ tƣởng và phân biệt đƣợc

tƣ tƣởng này với tƣ tƣởng khác, chỉ cần căn cứ vào hiệu quả thực tế của chúng.

C.Peirce đã trình bày châm ngôn về chủ nghĩa thực dụng nhƣ sau: “Ngƣời ta cần

suy nghĩ từ chân lý của khái niệm tất nhiên sẽ có đƣợc hiệu quả thực tế mong đợi.

Tổng hòa các hiệu quả này sẽ tạo nên toàn bộ nghĩa của khái niệm đó” [135, T.V,

đoạn 9]. Châm ngôn này của C. Peirce đã thể hiện nội hàm của khái niệm triết học

thực dụng: nghĩa của khái niệm là toàn bộ hiệu quả thực tế do khái niệm, tư tưởng

đó tạo ra.

Thực ra, khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism) là do W. James

nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát biểu đọc tại California vào năm 1898 với

tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả thực tế. Trong bài phát biểu này, James

đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và “nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ

nghĩa thực dụng” của C.Peirce. Bản thân Peirce, trong báo cáo khoa học đọc tại

“Câu lạc bộ siêu hình” và cả trong hai bài viết đƣợc chỉnh lý từ báo cáo này, ông

vẫn chƣa sử dụng danh từ “chủ nghĩa thực dụng”. Sau này, ông đã nhiều lần định

sử dụng danh từ này, nhƣng cảm thấy nghĩa của nó chƣa đƣợc rõ ràng nên chƣa

dùng. Đến năm 1902, khi viết đề mục Từ điển triết học tâm lý của Boune, ông

mới sử dụng danh từ này. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này, ông nhận thấy

quan điểm của mình về chủ nghĩa thực dụng đã bị James giải thích một cách sai

lệch. Do vậy, để phân biệt với quan điểm của James và các nhà thực dụng chủ

nghĩa khác, ông đã sửa đổi danh từ “chủ nghĩa thực dụng” thành “chủ nghĩa thực

hiệu” (pragmaticism) và cho rằng, việc sử dụng danh từ “xấu xí” này sẽ không bị

ngƣời khác giải thích sai lệch [135, T.VI, đoạn 482]. Ở đây, chúng ta thấy, khi

C.Peirce dùng khái niệm “chủ nghĩa thực hiệu” ông muốn giải thích khái niệm

này bằng hiệu quả thực tế, bởi theo ông khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” đang

bị ngƣời ta hiểu bằng cách giải thích điển hình của James là cái “có lợi”, “có

ích” bằng “giá trị tiền mặt” mà Peirce không đồng ý.

Triết học thực dụng giải quyết mối quan hệ giữa tƣ duy và hành động, thể

hiện cách tƣ duy đặc thù. Bản thân khái niệm “thực dụng” đã thể hiện cách thức

36

tƣ duy trong hành động, thƣớc đo của tƣ duy là kết quả của hành động. Phƣơng

thức tƣ duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm, mà đi sâu

nghiên cứu xem khi sử dụng chúng thì sẽ tạo ra những hiệu quả thực tế nào. Điều

quan trọng không phải là vấn đề nhận thức đúng về thế giới, mà nhận thức đó giúp

ích gì cho hành động của con ngƣời. Giá trị của tƣ tƣởng, khái niệm thể hiện ở

hiệu quả có thể kiểm nghiệm đƣợc của nó khi áp dụng vào hoạt động thực tiễn.

Về vị trí và đóng góp của C. Peirce, W. James, J. Dewey đối với sự hình

thành và phát triển của triết học thực dụng, có thể khẳng định, “đóng góp của

Pierce là đã hệ thống hóa phƣơng pháp và khái quát hóa về lý luận đƣợc nêu lên

trong “câu lạc bộ siêu hình học”, đặt nền tảng cho sự sinh ra và phát triển của

chủ nghĩa thực dụng” [9, tr. 77], còn W. James là “nhà thực dụng lỗi lạc nhất, thì

J. Dewey là nhà thực dụng ảnh hƣởng nhất” [106, tr. 315]. Về cơ bản, những tƣ

tƣởng của Dewey có sự kế thừa khá trung thành quan điểm thực dụng của các vị

tiền bối, từ chủ nghĩa duy nghiệm tự nhiên, quan điểm thực tiễn, phƣơng pháp

thăm dò đến chủ nghĩa công cụ. Ông đã đƣa tƣ tƣởng thực dụng một cách có

phƣơng pháp vào sinh hoạt hàng ngày trong đời sống xã hội Mỹ.

Nhƣ vậy, đặc điểm chung của triết học thực dụng là nhấn mạnh triết học

cần đi sâu và giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn, coi chân lý là niềm

tin vững chắc, là xuất phát điểm của hành động, thực dụng là phương thức tư

duy trong hành động, hành động là phương tiện chủ yếu, mục đích của hành

động là hiệu quả thực tế.

2.1.2. Triết học thực dụng Mỹ với việc xác định đối tượng, nhiệm vụ nghiên

cứu của triết học

Từ khi triết học thực dụng xuất hiện trên diễn đàn triết học, với các đại

diện tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey, đã đặt ra vấn đề thực hiện một

cuộc cách mạng trong triết học, đó là việc xác định lại đối tượng và nhiệm vụ

nghiên cứu của triết học. Các nhà triết học thực dụng cho rằng, nhiệm vụ của

triết học chỉ là vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận khoa học, chứ không

phải là vấn đề thế giới quan. Triết học phƣơng Tây phân ra thành hai khuynh

hƣớng là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, xoay quanh việc giải quyết

37

các nội dung cơ bản là bản thể luận, nhận thức luận, thế giới quan, phƣơng pháp

luận. Đó là xuất phát điểm để xây dựng nên hầu hết các trƣờng phái triết học Tây

Âu truyền thống. Với việc các trƣờng phái triết học phân ra hai khuynh hƣớng

duy tâm và duy vật này đã tạo ra cuộc đấu tranh một cách liên tục giữa chúng

trong lịch sử triết học. Các nhà triết học thực dụng Mỹ không đặt ra việc giải

quyết vấn đề cơ bản của triết học, né tránh đề cập đến các phạm trù vật chất và ý

thức, họ muốn đi theo con đƣờng điều hòa, trung lập các trƣờng phái triết học.

Họ phê phán mạnh mẽ toàn bộ nền triết học trƣớc đây vì chỉ nghiên cứu những

vấn đề mà theo họ không liên quan gì đến con ngƣời, đến hoạt động và cuộc

sống của con ngƣời, vì thế nó không cần thiết. Với triết học thực dụng, vấn đề

đƣợc đặt ra và giải quyết không phải là vấn đề về bản nguyên của thế giới hay

nhận thức thế giới nhƣ thế nào, đúng đắn hay sai lầm mà là hành động hiệu quả

hay không hiệu quả. Mệnh đề triết học thực dụng đƣa ra là: Tư tưởng, quan niệm

có thể trở thành niềm tin của con người hay không, tùy thuộc vào việc nó có tạo

cơ sở cho con người hành động đạt được hiệu quả, mục đích và thành công như

dự tính hay không. Theo C. Peirce, “chỉ cần đạt tới niềm tin vững chắc, chúng ta

hoàn toàn thoả mãn, bất cứ niềm tin đó là đúng hay sai” [135, T.V, đoạn 375].

Do đó, các quan niệm khác nhau nếu đƣa đến hành động và đạt tới hiệu quả, mục

đích mong muốn thì đều đƣợc thừa nhận.

Bắt đầu từ C. Peirce, ngƣời sáng lập ra triết học thực dụng, thì sứ mệnh

của triết học không phải là nhận thức thế giới, mà là củng cố niềm tin. Theo

ông, mọi vấn đề cần phải liên quan đến củng cố niềm tin, tác động đến hành

động của con ngƣời thì mới nên tồn tại trong triết học chân chính, đã là niềm tin

thì không cần thiết phải là sự phản ánh đúng thực tại khách quan, không cần phải

nhận thức đúng đắn, nó có thể chỉ là giả thuyết chủ quan. Ông đƣa ra quan điểm

này với mong muốn vƣợt ra ngoài giới hạn đối lập chủ quan và khách quan, tuy

nhiên, nó vẫn thể hiện khuynh hƣớng chủ quan.

C. Peirce cho rằng, học thuyết của ông không phải là học thuyết siêu hình,

không có ý định đạt đến bất kỳ tính chân thực nào, mà chủ yếu nhằm mục đích

làm cho tƣ tƣởng, quan điểm của con ngƣời trở nên rõ ràng. Ông muốn biến triết

38

học thực dụng trở thành “một loại lôgíc khoa học hoặc phương pháp luận khoa

học” dùng để phân tích nghĩa của khái niệm: “Triết học về phƣơng pháp cần bắt

chƣớc khoa học thành công, chỉ lấy việc nghiên cứu tỉ mỉ, rõ ràng làm tiền đề

xuất phát, dựa vào các nghiệm chứng đa dạng khác nhau, chứ không nên dựa vào

quyết định của cá nhân” [40, tr. 322]. Từ việc coi nhiệm vụ của triết học là củng

cố niềm tin, định ra phƣơng pháp luận khoa học, ông đã đi đến xây dựng phương

pháp luận trên cơ sở “lý thuyết thăm dò - hoài nghi - niềm tin”. Ông quan tâm

chủ yếu đến phƣơng pháp làm cho tƣ tƣởng, khái niệm của con ngƣời trở nên

sáng tỏ. Ông muốn làm cho triết học thực dụng trở thành một loại lôgíc khoa học

hoặc phƣơng pháp luận khoa học, để làm rõ nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng, để

đạt đƣợc niềm tin vững chắc, làm công cụ hành động, đạt tới mục đích đặt ra.

Ông đặt ra nhiệm vụ cải tạo triết học nhằm biến triết học với từ “P” viết hoa

(Philosophy: một lý thuyết hàn lâm, trừu tƣợng, phổ quát) thành chữ “p” viết

thƣờng (philosophy: một lý thuyết thiết thực, hiệu quả).

Triết học thực dụng thể hiện cách thức tƣ duy trong hành động. Theo đó,

cách thức tƣ duy của triết học thực dụng có thể trở thành chìa khóa để giải quyết

các cuộc tranh luận triết học, dựa trên cách thức đó thì các cuộc đấu tranh giữa

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học truyền thống đƣợc coi là

cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, vô nghĩa. Bởi vì, theo cách nhìn của triết

học thực dụng thì kinh nghiệm thực tế của con ngƣời về thế giới cơ bản đều

giống nhau. Theo C. Peirce, nếu dựa trên hiệu quả thực tế mà xem xét thì thế

giới, dù là vật chất hay tinh thần cũng không khác biệt gì, mà khác biệt nằm ở

chỗ hiệu quả thực tế do nó tạo ra, đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của

triết học thực dụng.

W. James đã tiếp tục công cuộc cải tạo triết học đƣợc C. Peirce đặt ra,

trọng tâm vẫn là việc làm rõ đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học. Triết học thực

dụng của ông với mong muốn vƣợt lên sự đối lập nhị nguyên duy vật và duy

tâm, không bàn đến vấn đề thế giới quan mà chỉ là vấn đề nhận thức luận và

phƣơng pháp luận thuần túy. Ngay từ đầu, James đã nhấn mạnh triết học thực

dụng trƣớc hết là một phƣơng pháp. Thuyết thực dụng là một phƣơng pháp dựa

39

vào đời sống thực tế, nhằm bác bỏ tính chất giáo điều của các thuyết duy lý. Hơn

nữa, với tƣ cách một phƣơng pháp, thuyết thực dụng không định trƣớc các kết

quả cụ thể, không có một công thức nào chung cho mọi vấn đề, ý nghĩa của mọi

lý thuyết là khả năng giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Điều đó có nghĩa là

James đã khái quát chủ nghĩa thực dụng của mình vào công thức: “Nó có tác

dụng gì không?” [106, tr. 310].

Từ việc coi triết học thực dụng là một loại phƣơng pháp, W. James đã đi

đến nghiên cứu sâu sắc cái gọi là “chủ nghĩa kinh nghiệm triệt để”, làm cơ sở lý

luận để chống lại siêu hình học truyền thống, từ đó, ông chủ trƣơng xây dựng

siêu hình học mới. Theo ông, kinh nghiệm luôn là đối tƣợng của triết học và

khoa học, mà bản thân kinh nghiệm lại chính là thực tại, do đó, triết học chỉ nên

nghiên cứu kinh nghiệm.

Ngƣời đã phát triển triết học thực dụng và có những đóng góp to lớn trong

việc cải tạo triết học của chủ nghĩa thực dụng phải kể đến tên tuổi của J. Dewey.

Nội dung cải tạo triết học của ông chủ yếu là vƣợt qua “sự đối lập nhị nguyên”

giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học trƣớc đây. Dewey

xác định mục đích của ông là xây dựng lý luận về vũ trụ lấy kinh nghiệm làm

trung tâm, đó là chủ nghĩa kinh nghiệm tự nhiên. Theo ông, nhiệm vụ của triết

học là phải khắc phục sự đối lập “nhị nguyên”, bởi cái có trƣớc vũ trụ không

phải là vật chất, cũng không phải là tinh thần, mà là kinh nghiệm. Ông cho rằng,

nhờ có kinh nghiệm mà chủ nghĩa thực dụng đã khắc phục đƣợc sự đối lập giữa

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của

triết học. Tuy nhiên, hạn chế của ông là tính cực đoan trong việc bác bỏ “thuyết

nhị nguyên”. Ông chủ trƣơng cấm sử dụng những từ nhƣ “vật chất” và “tinh

thần”, mà thay thế nó bằng những từ có ý nghĩa hình dung hoặc các phó từ có ý

nghĩa chức năng. Dewey quả quyết: “Nếu mấy chục năm cấm dùng những từ

nhƣ “tâm linh”, “vật chất”, “ý thức”, chúng ta không thể không dùng hình dung

từ và các phó từ nhƣ “có ý thức” và “một cách ý thức”, “tâm lý” và “về tâm lý”,

“vật chất” và “về vật chất” thế thì chúng ta phát hiện rất nhiều vấn đề đã giản

đơn hóa nhiều” [dẫn theo: 39, tr. 160]. Có thể nói, ông giải quyết sự đối lập nhị

40

nguyên không phải từ gốc vấn đề cơ bản của triết học mà là sự từ chối và muốn

xóa nhòa vấn đề cơ bản đó.

Nhƣ vậy, các nhà triết học thực dụng đã đặt ra vấn đề cần phải xác định

lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết hoc, với tham vọng thực hiện một cuộc cải tạo

triết học. Nhận thấy hạn chế của các trƣờng phái triết học trƣớc đó với quan

niệm siêu hình, máy móc, tách rời thực tiễn cuộc sống, từ đó, họ muốn cải tạo

triết học với từ “P” viết hoa (Philosophy: một lý thuyết hàn lâm, trừu tƣợng, phổ

quát) thành chữ “p” viết thƣờng (philosophy: một lý thuyết thiết thực, hiệu quả).

Bản thân khái niệm “thực dụng” đã thể hiện cách thức tƣ duy trong hành động,

phƣơng thức tƣ duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm, mà

đi sâu nghiên cứu xem khi sử dụng chúng thì sẽ tạo ra những hiệu quả thực tế

nào, nhận thức giúp ích gì cho hành động của con ngƣời. Tuy nhiên, hạn chế của

các nhà triết học thực dụng thể hiện ở quan điểm chủ quan, né tránh việc giải

quyết vấn đề cơ bản của triết học.

2.1.3. Vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

Triết học thực dụng là một trƣờng phái triết học khá đặc biệt khi xác định

đối tƣợng và nhiệm vụ của triết học là vấn đề nhận thức luận và phƣơng pháp

luận khoa học chứ không liên quan gì đến thế giới quan. Vấn đề chân lý không

chỉ là một nội dung trọng tâm của triết học thực dụng, mà còn là vấn đề xuyên

suốt trong hệ thống lý luận của trƣờng phái triết học này. Các nhà triết học thực

dụng Mỹ, xuất phát từ C. Peirce đến W. James và J. Dewey đã xác định vị trí của

vấn đề chân lý ở những góc độ khác nhau, làm cơ sở cho việc triển khai những

nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý.

Triết học thực dụng của C. Peirce gồm làm hai phần cơ bản là lý luận hoài

nghi - niềm tin và lý luận về nghĩa. Có thể nói, với hai nội dung trên, Peirce đã đặt

nền móng cho lý luận nhận thức nói riêng và toàn bộ hệ thống lý luận của triết học

thực dụng nói chung. Vấn đề chân lý không đƣợc ông nêu ra thành một nội dung

chính mà đƣợc thể hiện trong lý luận nhận thức của ông. Trên cơ sở lý luận nhận

thức, ông đã xây dựng “nguyên lý thực dụng” điển hình, theo đó, việc làm rõ vấn

đề chân lý đã trở thành nền tảng cho tƣ tƣởng của W. James và J. Dewey sau này.

41

C. Peirce nhấn mạnh “lý luận về nghĩa” hơn cả thuyết chân lý. Theo ông,

điều đó xuất phát từ căn nguyên là ông không nhất trí với thuyết chân lý theo

cách hiểu của W. James là đồng nhất chân lý với cái có lợi. Cũng vì lý do trên,

ông không đặt riêng vấn đề chân lý thành một nội dung, nhƣng trên thực tế

không có nghĩa là ông xem nhẹ vấn đề chân lý. Xây dựng “niềm tin thực dụng”,

C. Peirce đi vào triết học từ phƣơng pháp. Ông khẳng định rằng, chủ nghĩa thực

dụng: “bản thân nó không phải là học thuyết siêu hình học, không định xác định

tính chân lý của sự vật. Nó chỉ là một phƣơng pháp phát hiện nghĩa của từ ngữ

và khái niệm trừu tƣợng” [135, T.V, đoạn 464]. Ông cho rằng, vấn đề quan tâm

chủ yếu là phƣơng pháp làm cho tƣ tƣởng, khái niệm trở nên rõ ràng. Peirce

mong muốn đƣa chủ nghĩa thực dụng trở thành một loại lôgíc khoa học hoặc

phƣơng pháp luận khoa học, để phân tích nghĩa của từ ngữ, khái niệm trừu

tƣợng, của tƣ tƣởng, làm cho nó trở thành niềm tin vững chắc của mọi ngƣời, trở

thành công cụ hành động, giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích. Do đó, vấn đề làm

thế nào để củng cố niềm tin và làm sáng tỏ nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm đã trở

thành bộ phận hợp thành chủ yếu của triết học thực dụng Peirce. Lý luận về

nghĩa của ông có liên quan chặt chẽ tới thuyết chân lý, thậm chí có thể nói nó là

một khâu trong toàn bộ lý thuyết về chân lý, có nhiệm vụ làm trong sạch nghĩa

của khái niệm với tính cách là chân lý.

Chúng ta đều biết rằng, vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, thế giới quan,

phƣơng pháp luận là những nội dung cơ bản của triết học phƣơng Tây truyền

thống, là xuất phát điểm để xây dựng nên hầu hết các trƣờng phái triết học

phƣơng Tây từ thời cổ đại đến cận đại, sự phân biệt đó đƣợc thể hiện ở cuộc đấu

tranh liên tục, không có hồi kết giữa hai khuynh hƣớng duy vật và duy tâm. Tuy

nhiên, triết học thực dụng với C. Peirce là ngƣời khởi xƣớng, mong muốn thực

hiện cuộc cách mạng trong triết học, thực chất là xác định lại đối tƣợng, nhiệm

vụ của triết học, theo đó triết học thực dụng không quan tâm, thậm chí họ “lảng

tránh” vấn đề cơ bản của triết học. Với triết học thực dụng, vấn đề đƣợc đặt ra và

giải quyết không phải là vấn đề về bản nguyên của thế giới hay nhận thức thế

42

giới nhƣ thế nào, cũng không phải là cuộc tranh cãi duy vật, duy tâm tồn tại

không có hồi kết mà là hành động dựa vào niềm tin, không phụ thuộc vào nhận

thức đúng đắn hay không về thế giới. Điều quan trọng đƣợc triết học thực dụng

xác định là: tƣ tƣởng, quan niệm có thể trở thành niềm tin của con ngƣời hay

không, có tạo cơ sở cho con ngƣời hành động đạt đƣợc hiệu quả, mục đích đặt ra

hay không. Theo C. Peirce, “chỉ cần đạt tới niềm tin xác định, thế là ta thoả mãn,

còn chuyện niềm tin đúng hay sai, thì không liên quan” [135, T.V, đoạn 375].

Các quan niệm khác nhau, nếu đều thúc đẩy hành động và đạt đƣợc hiệu quả

mong đợi thì chúng đều đƣợc chấp nhận và khẳng định.

Theo C. Peirce, mục tiêu của phƣơng pháp khoa học là nhận thức thực tại,

đạt tới chân lý: “lôgic là học thuyết về chân lý, bản chất chân lý và phƣơng pháp

phát hiện chân lý” [135, T.VII, đoạn 321]. Việc xác định vị trí của vấn đề chân lý là

mục tiêu của phƣơng pháp khoa học không đƣợc ông trình bày thành một nội dung

riêng, mà thông qua hệ thống lý luận về nghĩa và lý luận về hoài nghi - niềm tin,

đây là hai nội dung cơ bản trong toàn bộ triết học thực dụng của ông. Do đó, có thể

nói, vấn đề chân lý là một nội dung xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống triết học thực

dụng của Peirce; đồng thời, muốn nghiên cứu về vấn đề chân lý, chúng ta phải tìm

hiểu thông qua toàn bộ hệ thống triết học của ông.

Nếu nhƣ trong triết học C. Peirce, vấn đề chân lý không đƣợc đặt thành

một nội dung riêng, mà đƣợc thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết học của ông,

thì đến W. James, nó trở thành một nội dung cơ bản, đƣợc ông cụ thể hóa và

phân tích sâu sắc. James khẳng định triết học thực dụng thực chất là một phƣơng

pháp: “Nó không thay thế cho bất kỳ kết quả đặc biệt nào. Nó chỉ là một phƣơng

pháp” [139, tr. 213]. Phƣơng pháp của triết học thực dụng là phƣơng pháp đạt

hiệu quả thực tế, các loại lý thuyết khác nhau có thể đạt đƣợc hiệu quả thì đều có

ý nghĩa chân lý: “Không có kết quả đặc thù nào, ngoài một thái độ định hƣớng

chính là những gì phƣơng pháp thực dụng này mang lại. Thái độ tránh nhìn vào

những điều đầu tiên (những nguyên lý đầu tiên, những phạm trù đầu tiên, những

điều kiện đầu tiên); để hướng về những điều cuối cùng (những kết quả, hiệu quả,

sự kiện cuối cùng)” [139, tr. 214]. Do vậy, triết học thực dụng là một loại

43

phƣơng pháp luận, đồng thời là lý thuyết về chân lý: “Phạm vi của chủ nghĩa

thực dụng nhƣ sau: trƣớc hết là một phƣơng pháp, thứ nữa là lý luận về vấn đề

chân lý phát sinh nhƣ thế nào” [dẫn theo: 40, tr. 342].

Triết học thực dụng của W. James với hai nội dung cơ bản là phƣơng

pháp luận và lý thuyết về chân lý, phƣơng pháp luận để đạt đƣợc hiệu quả thực

tế, tức là chân lý. Nghiên cứu triết học thực dụng của James, chúng ta thấy rõ vị

trí quan trọng của vấn đề chân lý, ông dựa trên nguyên tắc phƣơng pháp luận của

triết học thực dụng để xây dựng thuyết chân lý. Thuyết chân lý trở thành một bộ

phận cấu thành chủ yếu nhất trong hệ thống lý luận chủ nghĩa thực dụng của

ông. Do đó, làm rõ vấn đề chân lý giúp chúng ta hiểu đƣợc nội dung, phƣơng

pháp luận triết học thực dụng của James tập trung vào việc giải quyết vấn đề

này. Chân lý là quá trình không phải tĩnh tại, bất biến mà liên tục đƣợc hiệu

chỉnh, tiêu chuẩn của nó là hiệu quả có ích đối với con ngƣời.

Nếu nhƣ C. Peirce và W. James là ngƣời sáng lập triết học thực dụng, thì

J. Dewey là ngƣời phát triển trƣờng phái triết học này thông qua chủ nghĩa công

cụ. Chủ nghĩa công cụ thực chất là cách gọi khác của chủ nghĩa thực dụng với

nội dung cơ bản là lý luận về nhận thức và chân lý. Do đó, khi tìm hiểu quan

niệm về chân lý trong triết học thực dụng của ông, chúng ta phải thông qua

nghiên cứu chủ nghĩa công cụ. Trong chủ nghĩa công cụ, Dewey xuất phát từ

quan điểm cho rằng tƣ tƣởng, lý luận của con ngƣời là những công cụ giúp con

ngƣời hành động, hành động nào đƣa con ngƣời đạt đƣợc sự thành công thì đó là

chân lý. Nghiên cứu vấn đề chân lý trong triết học của Dewey, chúng ta thấy có

nhiều điểm ông kế thừa quan điểm của James, đồng thời có sự phát triển ở một

số nội dung nhất định.

Nhƣ vậy, có thể nói, cả ba nhà triết học thực dụng Mỹ đều nhất quán trong

việc xác định vị trí quan trọng của vấn đề chân lý trong lý luận nhận thức nói

riêng và trong triết học thực dụng nói chung. Với quan niệm về chân lý, triết học

thực dụng đã tạo ra đặc trƣng và sự khác biệt của nó so với các trào lƣu triết học

khác, tìm hiểu vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng là cơ sở để

44

chúng ta nghiên cứu những nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý của triết

học thực dụng Mỹ.

2.2. Điều kiện khách quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng Mỹ

2.2.1. Bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội nước Mỹ cuối thế

kỷ XIX - đầu thế kỷ XX

Chủ nhân của châu Mỹ là những ngƣời thổ dân da đỏ, các tài liệu thƣờng gọi

là ngƣời Anh điêng, sự xuất hiện của ngƣời châu Âu trên lãnh thổ của nƣớc Mỹ đã

làm cho vị trí và vai trò chủ nhân của cƣ dân bản địa bị suy giảm nghiêm trọng.

Khi chế độ phong kiến đã phát triển mạnh mẽ ở châu Âu, thì châu Mỹ vẫn

là một vùng đất chƣa đƣợc biết đến. Năm 1492, Christopher Columbus phát hiện

ra châu Mỹ, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại đối với nhân loại trên nhiều

phƣơng diện. Trƣớc đó, châu Mỹ là một vùng đất chƣa từng có tên trên bản đồ

thế giới, cũng nhƣ trong tiềm thức của con ngƣời, điều này đã tạo cho những

ngƣời châu Âu sự hiếu kỳ về nó. Không chỉ có vậy, với những gì đƣợc mô tả thì

đây là một vùng đất giàu có về tài nguyên, vàng bạc, điều này đã kích thích

những ngƣời châu Âu bắt đầu di cƣ để chinh phục vùng đất này.

Từ cuối thế kỷ XV, sau những cuộc phát kiến địa lý, lục địa châu Mỹ

đƣợc phát hiện, mở đầu cho những cuộc di dân của ngƣời châu Âu đến đây, họ

mang theo hy vọng về một cuộc sống giàu có, tốt đẹp ở vùng đất mới. Ngƣời

châu Âu bắt đầu sự chinh phục của mình, cùng với nó là sự du nhập phƣơng thức

sản xuất tƣ bản chủ nghĩa ở châu Âu vào vùng đất hoang sơ và đầy hứa hẹn này.

Kể từ khi những ngƣời châu Âu có mặt ở vùng đất này cho đến nay, lịch sử nƣớc

Mỹ đã kéo dài hơn bốn thế kỷ.

Nguyên nhân những ngƣời châu Âu di cƣ của đến Mỹ thì có nhiều, nhƣng

chúng ta có thể thấy đánh giá của cố Tổng thống Mỹ Kennedy là có cơ sở: “Do ba

áp lực chính: Sự khắc nghiệt của tôn giáo, áp lực chính trị, khó khăn về kinh tế là

những nguyên nhân chính” [115, tr. 239]. Đến thế kỷ XVII, những ngƣời Tây Ban

Nha, rồi những ngƣời Pháp, Anh, Hà Lan, Italia,… đã tạo nên làn sóng di dân ồ ạt

kéo đến vùng đất mới này, đẩy những thổ dân ngƣời Anh điêng về phía Tây rồi tàn

sát họ. Trong số các nƣớc thực dân châu Âu, thì ngƣời Anh ngày càng chiếm vị thế

45

vững vàng hơn cả. Chúng ta đều biết, nƣớc Anh là “công xƣởng lớn nhất của thế

giới”, là nƣớc tiên phong trong cuộc cách mạng công nghiệp, điều đó đã tạo nên

một nền sản xuất hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp của

ngƣời Anh hơn hẳn ở các nƣớc châu Âu khác. Nƣớc Anh đã sớm trở thành một

cƣờng quốc lớn nhất thế giới. Sự phát triển vƣợt bậc về kinh tế của nƣớc Anh so với

các nƣớc khác là nguyên nhân chính làm cho ngƣời Anh giành đƣợc thắng lợi trong

công cuộc chinh phục thuộc địa ở Bắc Mỹ, mặc dù họ là những ngƣời châu Âu đặt

chân đến Mỹ muộn hơn các nƣớc khác. Từ đầu thế kỷ XVIII đã hình thành 12 trong

số 13 vùng di dân sau này trở thành Liên bang Mỹ. Nƣớc Mỹ đƣợc tạo thành từ

những ngƣời nhập cƣ, đây là đặc trƣng cơ bản của dân tộc Mỹ. Trong quá trình hình

thành và phát triển của mình, đặc trƣng này luôn đƣợc thể hiện. Vì vậy, tên gọi Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ hay “một quốc gia của các quốc gia” là rất phù hợp với đặc

trƣng này. Nhà nghiên cứu M. Frei đã nhận định: “Hoa kỳ không phải tự nhiên mà

có. Đó là đứa con của châu Âu, con ghẻ của một hệ thống hậu phong kiến thối nát”

[72, tr. 7 - 8]. Do đó, có thể nói “lịch sử nước Mỹ là tiếp tục của lịch sử châu Âu ở

một lục địa khác” [31, tr. 8].

Năm 1775, nhân dân 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tiến hành cuộc đấu

tranh vũ trang chống lại sự xâm lƣợc của thực dân Anh dƣới hình thức một cuộc

chiến tranh giành độc lập và đã giành đƣợc thắng lợi. Thắng lợi đó đã lật đổ sự

thống trị của thực dân Anh ở Bắc Mỹ, xây dựng nƣớc Cộng hòa tƣ sản Mỹ, dọn

đƣờng cho chủ nghĩa tƣ bản phát triển ở Mỹ. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập

của nƣớc Mỹ là một kết quả tất yếu. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, Thomas

Jefferson khởi thảo “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố nền độc lập, đánh dấu sự ra

đời của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trên cơ sở 13 bang thuộc địa của Anh ở Bắc

Mỹ. Đồng thời, bản Tuyên ngôn độc lập đã xác lập cơ sở lý luận cho chế độ

chính trị - xã hội Mỹ, từ đây một thể chế kinh tế tƣ bản của nghĩa và một nền dân

chủ tƣ sản đƣợc xây dựng độc lập so với châu Âu.

Sau chiến tranh giành độc lập, năm 1783, nƣớc Mỹ và nƣớc Anh đã kí

hiệp ƣớc Versailles, nƣớc Mỹ trở thành nƣớc cộng hòa độc lập tƣ sản đầu tiên ở

châu Mỹ. Đi lên con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa, Mỹ không trải qua lịch sử lâu dài

của chế độ phong kiến nên cũng không phải chịu những hậu quả nặng nề của chế

46

độ phong kiến. Do đó, giai cấp tƣ sản Mỹ đã dễ dàng khẳng định đƣợc địa vị

thống trị trong đời sống kinh tế và chính trị nƣớc Mỹ.

Nhƣ vậy, lịch sử nƣớc Mỹ rất đặc biệt, nó chỉ mất khoảng 300 năm từ khi

đƣợc phát hiện đến khi giành đƣợc độc lập cùng với bản Tuyên ngôn độc lập

năm 1776, để vƣợt qua quá trình hàng ngàn năm các nƣớc đại lục châu Âu đã đi

qua, trở thành một nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Những cƣ dân di cƣ chủ yếu từ châu

Âu đến nƣớc Mỹ, họ mang theo nền văn hóa truyền thống, thể chế chính trị - xã

hội và quan hệ sản xuất tiên tiến, làm cho nƣớc Mỹ từ xã hội công xã nguyên

thủy nhảy vọt qua xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, trải qua giai

đoạn thuộc địa ngắn để phát triển lên xã hội tƣ bản chủ nghĩa. Có thể nói, lịch sử

nƣớc Mỹ gắn với các cuộc di dân, cũng chính những cƣ dân di cƣ đã tạo ra sự

thay đổi và phát triển của nƣớc Mỹ: “Những ngƣời nhập cƣ đã đem lại cho nƣớc

Mỹ một sự đóng góp về nhân khẩu và kinh tế đặc biệt quan trọng. Bằng cách cƣ

trú ở biên giới, lập nghiệp ở các thành phố, cung cấp nhân lực chủ yếu cho công

nghiệp, họ đã đến Mỹ với nền văn hóa gốc của họ và đƣợc trang bị một tinh thần

thực dụng cao. Lịch sử di cƣ của nƣớc Mỹ không phải là một bản anh hùng ca

cũng chẳng phải là một cổ tích dân gian, đó là một lịch sử trƣớc hết in đậm chủ

nghĩa thực tế trƣớc cuộc sống hàng ngày” [80, tr. 174]. Cũng do điều kiện lịch sử

nhƣ vậy, ngƣời Mỹ cần một tƣ duy triết học phù hợp với tính đa quốc gia của

dân tộc Mỹ. Triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng nói riêng, hạt nhân của nó là đồng nhất chân lý với tính hiệu quả

ra đời ở nƣớc Mỹ không ngoài đòi hỏi khách quan đó của lịch sử.

Nƣớc Mỹ có điều kiện lịch sử rất đặc thù, điều đó đòi hỏi một tƣ duy triết

học phù hợp. Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội là mảnh đất hiện thực

cho sự hình thành triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong

triết học thực dụng nói riêng.

Chúng ta đều biết lịch sử nƣớc Mỹ không trải qua chế độ phong kiến, do

vậy so với các nƣớc châu Âu, chủ nghĩa tƣ bản ở Mỹ không gặp sự cản trở của

các thế lực phong kiến hùng mạnh nên phát triển rất thuận lợi, đồng thời giai cấp

47

tƣ sản ở Mỹ cũng có điều kiện phát triển hết khả năng của mình. Do đó, nƣớc

Mỹ đã sớm xây dựng đƣợc một thể chế kinh tế thị trƣờng tƣ bản chủ nghĩa một

cách thuần nhất và triệt để nhất.

Về kinh tế, nƣớc Mỹ đƣợc du nhập quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa từ

châu Âu thông qua những ngƣời di cƣ, chủ yếu là ngƣời Anh, đó là quan hệ sản

xuất tiến bộ nhất lúc đó. Do vậy, nƣớc Mỹ có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế

chính là sự thừa hƣởng trọn vẹn thành tựu của phƣơng thức sản xuất tiến bộ

đƣơng thời ở châu Âu. Trong khi ở châu Âu, mặc dù phƣơng thức sản xuất

phong kiến đã lỗi thời, đã bị vƣợt qua nhƣng vẫn còn có những ảnh hƣởng, là rào

cản ở nhiều phƣơng diện trên con đƣờng phát triển, thì nƣớc Mỹ hầu nhƣ không

chịu bất cứ ảnh hƣởng nào từ phƣơng thức sản xuất này nên có điều kiện thuận

lợi để phát triển về kinh tế.

Đặc biệt, ở Mỹ, sau chiến tranh Nam - Bắc (1861 - 1865), đã xóa bỏ chế

độ nô lệ ở miền Nam, quét sạch rào cản, mở đƣờng cho chủ nghĩa tƣ bản phát

triển, giai cấp tƣ sản giành lấy chính quyền trong toàn liên bang. Những ngƣời

dân di cƣ đến Mỹ không chỉ mang theo thể chế kinh tế tiến bộ, mà còn mang đến

Mỹ khát vọng tự do, dân chủ đƣợc thể hiện bằng thể chế chính trị dân chủ tƣ sản.

Trên cơ sở kinh tế phát triển, nƣớc Mỹ không phải chịu bất cứ rào cản nào

của chế độ phong kiến làm cho chế độ dân chủ tƣ bản chủ nghĩa ở Mỹ cũng đƣợc

xây dựng hoàn bị nhất. Những nguyên tắc của thể chế đó đề cao chủ nghĩa tự do,

quyền tự do cá nhân, tinh thần độc lập, cho nên quan niệm về giá trị của chủ

nghĩa cá nhân ở đây đƣợc thể hiện một cách trực tiếp, phổ biến và sâu rộng. Một

nền dân chủ mà quyền lực thuộc về số đông đƣợc xây dựng, nhƣng không có

nghĩa là thủ tiêu yếu tố cá nhân mà có sự dung hòa, thậm chí tạo động lực cho sự

phát triển cá nhân. Khi con ngƣời không phải suy nghĩ đến quốc gia, quân chủ và

sự bó buộc của những lực lƣợng siêu nhiên khác, thì họ có thể tự do, năng động,

sáng tạo trong công việc để theo đuổi giá trị là sự hiệu quả, lợi ích và thành

công. Do đó, đặc trƣng của nền dân chủ theo đa số ở Mỹ là đề cao quyền tự do,

chủ nghĩa cá nhân và tinh thần độc lập.

Ở Mỹ, thể chế chính trị tƣ bản chủ nghĩa đƣợc xây dựng vững chắc,

ngày càng hoàn thiện, đồng thời với việc giai cấp tƣ sản coi trọng các tiến bộ

48

khoa học kỹ thuật đã tác dụng to lớn đến nền kinh tế - xã hội, nó thúc đẩy sự

phát triển kinh tế và sự phồn vinh của xã hội. Cùng với đó là nguồn tài

nguyên thiên nhiên phong phú, làm cho nền kinh tế Mỹ tăng trƣởng rất nhanh

chóng. Đến thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, Mỹ đã trở thành một trong những

cƣờng quốc kinh tế trên thế giới.

Trong xã hội Mỹ, quan hệ xã hội giữa con ngƣời với con ngƣời, cá nhân

và xã hội, thậm chí quan hệ giữa con ngƣời và thƣợng đế ở mức độ nhất định

đều bị coi là hợp đồng mua bán, dựa trên cơ sở lợi ích. Ở đó, mỗi cá nhân dựa

trên nguyên tắc, có thể căn cứ vào niềm tin của mình mà hành động. Tƣ duy hiệu

quả của ngƣời Mỹ đƣợc hình thành từ chính lịch sử sinh tồn của ngƣời Mỹ ở lục

địa mới. Họ ý thức sâu sắc rằng mọi hành động đều tạo ra một hiệu quả nào đó,

đều phải có “giá trị tiền mặt”, chỉ hiệu quả mới có thể giúp ích cho sự tồn tại của

họ. Mục đích rõ ràng và xác định tính mục đích của mọi hành động là hiệu quả

đã trở thành thƣớc đo giá trị, sự thành công hay đó chính là chân lý. Với người

Mỹ, hiệu quả, cái có lợi, sự thành công, sự thỏa mãn là tiêu chuẩn của chân lý.

Nhà sử học ngƣời Mỹ là Comnager, một ngƣời sùng bái chủ nghĩa thực dụng

đã viết: “Chủ nghĩa thực dụng thực tiễn, dân chủ, cá nhân chủ nghĩa chan chứa

hy vọng, thật là thích hợp với tình hình ngƣời Mỹ hạng trung. Trên thực tế

ngƣời Mỹ bao giờ cũng là ngƣời theo chủ nghĩa công cụ… không lấy gì làm lạ

rằng mặc dù nhiều nhà triết học chửi bới và trách móc, chủ nghĩa thực dụng

vẫn đạt tới chỗ trở thành triết học hầu nhƣ chính thức của châu Mỹ” [78, tr.

277]. Nhận định này phần nào thể hiện sự khái quát về mối quan hệ giữa điều

kiện kinh tế xã hội với sự hình thành triết học thực dụng Mỹ nói chung và quan

niệm về chân lý nói riêng.

Chủ nghĩa tƣ bản đƣợc xác lập ở Mỹ mang đầy đủ bản chất xã hội đƣợc

cho là dân chủ và tự do, một thể chế chính trị về quyền con ngƣời cũng đƣợc

phát triển thuận lợi thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngƣời Mỹ, gốc là những di

dân chủ yếu từ châu Âu lạc quan, cầu tiến, hơn hết có một nền văn hóa phong

phú đƣợc tổng hợp và hội tụ từ nhiều nền văn hóa truyền thống khác nhau.

Trong bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội thuận lợi, với những điều kiện “mở”

cho sự tiếp thu và phát triển, chủ nghĩa tƣ bản phát triển mạnh mẽ, làm cho

49

ngƣời Mỹ khao khát có một hệ tƣ tƣởng riêng, mới và tất nhiên là phù hợp để

thay thế cho mỗi cái riêng của từng dân tộc trong một quốc gia đƣợc gọi là Hợp

chủng quốc Hoa Kỳ.

Nhƣ vậy, hoàn cảnh sinh tồn và sự khao khát tự do của con ngƣời đã thai

nghén và sinh thành nền văn hóa Mỹ, triết học Mỹ, hệ thống lý luận đậm chất

Mỹ, trong đó triết học thực dụng là cốt lõi. Với ngƣời Mỹ, tƣ duy hiệu quả đƣợc

đặt lên hàng đầu, mọi hành động đều phải tạo ra hiệu quả nào đó, bởi chỉ có hiệu

quả mới giúp ích cho họ. Hiệu quả trở thành mục tiêu của hành động, là thƣớc đo

giá trị, cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Cái gì hữu dụng cái đó là chân lý, cái gì

là chân lý cái đó tất phải hữu dụng. Đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của

triết học thực dụng Mỹ.

2.2.2. Nền văn hóa Mỹ với sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học

thực dụng Mỹ

Nƣớc Mỹ là một quốc gia đƣợc gọi là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tên gọi

Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho chúng ta cái nhìn về một quốc gia đa sắc tộc, đa

tôn giáo, quy định một nền văn hóa đa dạng mang đậm chất Mỹ. Nền văn hóa đó

đòi hỏi con ngƣời phải hƣớng về một giá trị cốt lõi. Trên cơ sở nền văn hóa Mỹ

đã hình thành triết học Mỹ, trong đó, triết học thực dụng với nền tảng là quan

niệm về chân lý đã đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời Mỹ về giá trị cốt lõi đó.

Chúng ta đều biết rằng, nƣớc Mỹ là một dân tộc đƣợc hình thành do

những dòng ngƣời di cƣ từ các nƣớc trên thế giới, chủ yếu vẫn là ngƣời châu Âu.

Ở nƣớc Mỹ, chúng ta có thể bắt gặp bất kỳ một dân tộc nào, thành phần cƣ dân

đến Mỹ rất đa dạng, phong phú, tạo nên một quốc gia đa chủng tộc nhất thế giới.

Những ngƣời di cƣ đến Mỹ, họ bỏ lại đằng sau quá khứ, họ muốn nhìn về hiện

tại và tƣơng lai. Giải quyết những vấn đề nảy sinh của hiện tại, đồng thời là niềm

tin và khát vọng vào tƣơng lai đã thôi thúc những cƣ dân này nhận thức và hành

động. Câu hỏi đặt ra cho họ là cần cái gì và hành động dựa trên cơ sở nào? Họ

cần có niềm tin vững chắc và hành động theo niềm tin đó, tiêu chuẩn của hành

động chính là hiệu quả, lợi ích, sự thành công trong hành động thực tiễn. Đó cũng

là vấn đề đƣợc trả lời trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ.

Khi đến Mỹ, những cƣ dân di cƣ này mang theo văn hóa truyền thống từ

50

bản địa, do vậy, ngƣời ta thƣờng ví nƣớc Mỹ là một thế giới văn hóa thu nhỏ. Ở

một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa thì các loại văn hóa truyền thống đã hòa hợp

thành một nền văn hóa mới, đồng thời phủ định chính văn hóa truyền thống. Câu

hỏi lớn đặt ra là vì đâu một đất nƣớc với sự đa dạng của các nền văn hóa đƣợc

tạo nên từ cƣ dân “tứ chiếng” của nhiều dân tộc lại có đƣợc sự hòa hợp, tạo ra

động lực cho xã hội phát triển hƣng thịnh nhƣ vậy? Trả lời câu hỏi lớn đó cần

đƣợc nghiên cứu toàn diện với các góc độ về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị,

xã hội, … Trong bối cảnh đó, chỉ nền văn hóa nào phát huy tính hữu dụng với

đại lục mới thì mới đƣợc khẳng định, hiệu quả hay không hiệu quả, thành công

hay không thành công, có tác dụng hay không đƣợc coi là tiêu chuẩn của tƣ

tƣởng và hành động cho mọi ngƣời, bất kể họ thuộc về nền văn hóa truyền thống

nào. Đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của triết học thực dụng Mỹ.

Một đất nƣớc đa sắc tộc, đa tôn giáo, thế nhƣng chúng ta có thể nhận thấy

nền văn hóa chủ đạo, có ảnh hƣởng lớn đến nƣớc Mỹ bắt nguồn từ những cƣ dân

di cƣ thuộc tầng lớp trung lƣu từ Tây Âu, theo đạo Tin lành, nói tiếng Anh.

Chính sự đàn áp khắc nghiệt đối với Thanh giáo (một biến thể của đạo Tin lành),

đã dẫn đến sự di cƣ ồ ạt của các tín đồ Thanh giáo từ Anh đến nƣớc Mỹ. Đồng

thời, cuộc khủng hoảng chính trị ở nƣớc Anh, làm cho phe quý tộc thất thế, phải

bỏ trốn khỏi quê hƣơng, họ là những ngƣời thuộc tầng lớp quý tộc giàu có về vật

chất. Mảnh đất mà họ đặt niềm tin là nƣớc Mỹ. Với tâm thế của kẻ trốn chạy,

một mặt họ phải đối mặt với những gian khổ, thách thức chƣa từng có ở một

vùng đất mới đầy hoang sơ, mặt khác họ không còn con đƣờng nào khác là phải

tiến về phía trƣớc. Với họ, vấn đề quan trọng không phải là những ƣớc muốn

viển vông, cái họ cần là giải quyết những nan đề của cuộc sống họ đang phải đối

mặt. Bởi thế, với họ, những triết lý trừu tƣợng, cao siêu là món ăn xa lạ, không

có điều gì quan tâm hơn là hiện tại và cách thức vƣợt qua nó để tiến lên phía

trƣớc. Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng đã đáp ứng nhu cầu của

ngƣời Mỹ và phù hợp với nền văn hóa Mỹ.

Có thể nói, nƣớc Mỹ đƣợc hình thành từ những cuộc di dân, chủ yếu từ

các nƣớc Tây Âu. Họ đã mang theo những giá trị của văn hóa truyền thống và

niềm tin của những ngƣời theo đạo Tin lành, với khát vọng tự do, bình đẳng, với

51

mong muốn thành công và thỏa mãn đời sống vật chất ngày càng cao. Chính

điều đó đã tạo nên một nền văn hóa rất đặc trƣng - văn hóa Mỹ. Hoàn cảnh lịch

sử đặc biệt của nƣớc Mỹ đã hun đúc nên tinh thần và tâm lý dân tộc Mỹ với nét

đặc thù là lạc quan và cầu tiến, tự lực, tự do hoạt động và hƣớng về phía trƣớc.

Tính cách dân tộc nổi bật của ngƣời Mỹ là chú ý đến thực tế, không ƣa lý luận tƣ

biện trừu tƣợng, do đó, triết học mà họ xây dựng là chủ nghĩa công cụ, coi cái gì

có tác dụng, có lợi là chân lý.

2.2.3. Tư tưởng triết học của bản Tuyên ngôn độc lập (Mỹ năm 1776) và ảnh

hưởng của nó đến quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

Có thể nói, tiền đề trƣớc tiên và quan trọng cho sự hình thành triết học

thực dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng chính là tƣ tƣởng

triết học của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ.

Thật vậy, lịch sử nƣớc Mỹ có tính chất đặc thù. Với sự ra đời của Tuyên

ngôn độc lập năm 1776, nƣớc Mỹ đã tiến thẳng lên xã hội tƣ bản chủ nghĩa và

thừa hƣởng toàn bộ những thành tựu của nền văn minh nhân loại có đƣợc của

chế độ tƣ bản chủ nghĩa mà không phải trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ và chế

độ phong kiến. Do đó, bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 có giá trị lớn về nhiều

mặt đối với nƣớc Mỹ và thế giới.

Cùng với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nƣớc Pháp năm 1789,

bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ đƣợc đánh giá là bản tuyên

ngôn tiến bộ nhất thế giới. Đây là một văn kiện lịch sử quan trọng bậc nhất của

nƣớc Mỹ và cũng là văn kiện thể hiện đậm nét tƣ tƣởng tiến bộ đƣơng thời. Sau

này, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhắc đến những tƣ tƣởng đó trong bản Tuyên

ngôn độc lập năm 1945 của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trƣờng

Ba Đình lịch sử. Trong bối cảnh quyền tự do, dân chủ đƣợc đề cao hơn bao giờ

hết ở Mỹ thì Tuyên ngôn độc lập năm 1776 là vũ khí lý luận soi đƣờng cho cuộc

cách mạng ở các thuộc địa Bắc Mỹ. Từ cơ sở lý luận của bản tuyên ngôn, đã trở

thành ngọn cờ tƣ tƣởng thúc đẩy sự hình thành và phát triển của triết học thực

dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng.

Thomas Jefferson (1743 - 1826) là ngƣời soạn thảo Tuyên ngôn độc lập

năm 1776 của nƣớc Mỹ, xác lập nền độc lập của 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ.

52

Bản thân Jefferson sau này là Tổng thống thứ ba của Mỹ từ năm 1801 đến 1809,

là ngƣời chủ trƣơng đề cao tự do chính trị và tự do tôn giáo. Trong Tuyên ngôn

độc lập năm 1776, các quyền con ngƣời đƣợc dành cho vị trí hàng đầu: ““Tuyên

ngôn độc lập”” lần đầu tiên đã lấy cƣơng lĩnh chính trị đó xác lập nguyên tắc

cách mạng cho giai cấp tƣ sản - nguyên tắc nhân quyền” [121, tr. 16 - 17]. Nội

dung cơ bản của Tuyên ngôn khẳng định những quyền của con ngƣời, quyền tự

do, dân chủ, quyền thiết lập và bãi bỏ chính quyền khi nó đi ngƣợc lại với lợi ích

của quần chúng: “Chúng tôi cho rằng những sự thật sau đây là hiển nhiên, rằng

tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa cho ta những quyền không

ai có thể xâm phạm đƣợc; trong những quyền không ai có thể xâm phạm đƣợc,

có quyền đƣợc sống, quyền đƣợc tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc. Để đảm

bảo cho các quyền này, chính phủ nào cử lên đối nghịch với các mục đích trên

thì nhân dân có quyền thay đổi, hay phế bỏ rồi thiết lập một chính phủ mới, dựa

trên nền tảng những nguyên tắc nhƣ vậy. Tổ chức các quyền lực của mình theo

hình thức nào đó để cho các quyền lực đó có khả năng đảm bảo an ninh và hạnh

phúc cho họ nhiều nhất” [121, tr. 17 - 18]. Tƣ tƣởng về tự do, bình đẳng và vấn

đề bảo vệ các quyền, lợi ích của cá nhân đƣợc cho là chân lý hiển nhiên trong

bản Tuyên ngôn độc lập là cơ sở lý luận định hƣớng cho các trào lƣu triết học

Mỹ, đặc biệt là sự hình thành triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ quan niệm về

chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

Tuyên ngôn độc lập năm 1776 là văn kiện đánh dấu quá trình ra đời nhà

nƣớc, hơn thế nữa, Tuyên ngôn này “chính là chỗ dựa lớn về ý thức hệ của dân

tộc Mỹ” [31, tr. 23]. Với ngƣời Mỹ, bản Tuyên ngôn này là “chân lý tuyệt đối”.

Ở Mỹ, ngƣời ta tìm đến điểm tựa tinh thần bền vững trong những tƣ tƣởng của

Tuyên ngôn độc lập năm 1776, mà theo đó, những bộ môn khoa học nhƣ đạo

đức học, triết học xã hội, nhân học,… đều đƣợc khai thác từ đây, lấy nền tảng từ

đây. Tuyên ngôn độc lập này có giá trị trƣờng tồn, một sức sống lâu dài ở Mỹ.

Niềm tin của ngƣời Mỹ đặt vào những luận cƣơng trong bản Tuyên ngôn độc lập

này là niềm tin không hề lay chuyển. Tính cách và tôn chỉ sống của ngƣời Mỹ

đƣợc thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 với giá trị cốt lõi là:

Chúng tôi tin tƣởng chắc chắn những sự thật sau đây tự nó đã là điều hiển nhiên,

53

rằng tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng; rằng Chúa đã cho họ những quyền

không ai có thể chối bỏ đƣợc; trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền

mƣu cầu hạnh phúc. Một khía cạnh khác có thể thấy, những giá trị triết học trong

bản Tuyên ngôn này đã đi vào đời sống của các thế hệ ngƣời Mỹ một cách

không thể chối bỏ đƣợc rằng, quyền sống, quyền tự do của con ngƣời là tất yếu,

nó luôn vận động cùng với sự phát triển của xã hội, vì thế cũng sẽ không có một

nhà nƣớc nào đƣợc xây dựng theo hình ảnh của Chúa tồn tại mãi mãi - tất cả đều

phải đƣợc cải tạo và phát triển. Giá trị triết học căn bản của bản Tuyên ngôn độc

lập năm 1776 chính là tuyên ngôn về giá trị tự do của con ngƣời, sự tự do trong

quá trình cải tạo và phát triển theo xu hƣớng tiến bộ. Giá trị đó là sự phản ánh

đặc trƣng văn hóa, tính cách con ngƣời Mỹ và trở thành động lực kích thích

ngƣời Mỹ không ngừng hoàn thiện và tiến lên phía trƣớc. Trên cơ sở những luận

cƣơng trong bản Tuyên ngôn độc lập này, quan niệm về chân lý của triết học

thực dụng đƣợc hình thành và cụ thể hóa khi khẳng định rằng, mỗi ngƣời đều

bình đẳng về cơ hội và có quyền tự do theo đuổi chân lý của mình, miễn là điều

đó giúp con ngƣời có lợi, đƣợc thỏa mãn, thành công và hạnh phúc.

Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, mà nội dung cốt lõi là tƣ

tƣởng về tự do là kết quả của quá trình tìm kiến tự do của ngƣời châu Âu ở lục địa

mới, nhất là tự do về chính trị và tôn giáo. Nguyên tắc tự do, bình đẳng đã đƣợc

khẳng định ngay ở phần đầu của bản Tuyên ngôn độc lập này. Song, tƣ tƣởng tự

do, bình đẳng của ngƣời Mỹ khác nhiều so với tƣ tƣởng tự do, bình đẳng trong tƣ

tƣởng khai sáng của các nhà triết học châu Âu nhƣ Voltaire, Rousseau,... Ngƣời

châu Âu chú trọng sự bình đẳng về địa vị, tài sản, hƣởng thụ, còn ngƣời Mỹ chủ

yếu hiểu bình đẳng là bình đẳng về cơ hội. Bởi theo họ, ai cũng đƣợc xã hội tạo

cho cơ hội nhƣ nhau, song do khác về mức độ phấn đấu, năng lực, sở trƣờng nên

kết quả tất sẽ khác nhau. Đó là sự bình đẳng về điểm xuất phát chứ không phải

bình đẳng về kết quả; cho nên tất yếu họ chấp nhận bình đẳng có hàm chứa bất

bình đẳng. Ngƣời Mỹ không sợ phân hóa giàu nghèo, họ chấp nhận thực tế đó nhƣ

điều tất nhiên của cuộc sống; tài sản cá nhân đƣợc luật pháp bảo vệ. Đó là sự

khẳng định về quyền tự do, bình đẳng khác với ở nƣớc Anh nói riêng và ở châu

Âu lúc đó nói chung, khi họ nói về quyền tự do không có đẳng cấp. Bản Tuyên

54

ngôn độc lập đã xác định nguyên tắc lập nƣớc của chủ nghĩa tự do, đồng thời Hiến

pháp nƣớc Mỹ cũng quy định các quan hệ xã hội là tự do, dân chủ, nhân quyền và

bình đẳng của giai cấp tƣ sản. Tuyên ngôn độc lập năm 1776 là sự kết hợp giữa

triết học và chính trị, nội dung cốt lõi của bản Tuyên ngôn này cũng nhƣ Hiến

pháp nƣớc Mỹ là xác lập nền dân chủ, mà giá trị nền tảng là tƣ tƣởng tự do. Tôn

trọng quyền tự do - quyền thiêng liêng nhất và bất khả xâm phạm của con ngƣời là

điểm nổi bật trong bản Tuyên ngôn độc lập của nƣớc Mỹ, theo đó, trong quan

niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ khẳng định rằng, mỗi ngƣời đều có

chân lý của riêng mình, đều có quyền theo đuổi chân lý của mình nhƣ một mục

đích tự thân. Đó là cơ sở lý luận cho sự hình thành triết học thực dụng Mỹ nói

chung và quan niệm về chân lý của triết học thực dụng nói riêng.

Nhƣ vậy, đƣợc soi sáng từ cơ sở lý luận là tƣ tƣởng triết học của bản

Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, từ cuối thế kỷ XIX, ở nƣớc Mỹ đã

xuất hiện một cuộc vận động triết học đầy sáng tạo, có ý nghĩa sâu sắc, kết quả

của nó là sự ra đời của triết học thực dụng. Thời đại hoàng kim của triết học Mỹ

cũng bắt đầu từ đây và ghi dấu bằng sự phát triển của triết học thực dụng. Niềm

tin của ngƣời Mỹ vào những chân lý hiển nhiên trong bản Tuyên ngôn độc lập

này đã đƣợc cụ thể hóa trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ.

Quan niệm đó trở thành triết lý hành động thúc đẩy ngƣời Mỹ không ngừng lao

động, sáng tạo để ngày càng tạo ra nhiều hơn những giá trị vật chất và tinh thần,

bởi họ tin vào giá trị cốt lõi và hành động theo nó - hiệu quả thực tế, lợi ích trở

thành tiêu chuẩn của chân lý.

2.2.4. Tư tưởng đạo đức của Tin lành giáo và ảnh hưởng của nó đến quan

niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

Cùng với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, tƣ tƣởng đạo

đức của đạo Tin lành hay còn gọi là Tin lành giáo là tiền đề lý luận tiếp theo cho

sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

Ở Mỹ, tôn giáo phát triển khá đặc biệt, tôn giáo của ngƣời Mỹ cũng nhằm

một mục đích là đem lại hiệu quả và lợi ích cho con ngƣời, nhằm chống lại thế

giới quan máy móc, siêu hình đang ngự trị ở trời Âu. Giữa tôn giáo và nhà nƣớc

dù có sự tách biệt nhƣng chƣa bao giờ triệt để bởi lợi ích và giá trị của nó là

55

không xung đột. Nhà triết học tên tuổi, ngƣời đƣợc xem là “hiểu nƣớc Mỹ hơn

cả ngƣời Mỹ ” là Tocqueville (1805 - 1859) đã nhận định: “Ở Hoa Kỳ, tôn giáo

hòa vào với mọi thói quen mang tính dân tộc và mọi tình cảm đƣợc tổ quốc làm

nảy sinh ra; điều này đem lại cho tôn giáo một sức mạnh đặc biệt” [116, tr. 571].

Ông đi đến kết luận về tôn giáo ở Mỹ: “Đạo Ki Tô đã duy trì đƣợc một uy quyền

to lớn đối với đời sống tinh thần ngƣời Mỹ,… đạo Ki Tô không chỉ ngự trị nhƣ

một triết học đƣợc con ngƣời tiếp nhận sau khi đã xem xét nó kỹ lƣỡng, mà còn

nhƣ một tôn giáo đƣợc mọi ngƣời tin theo không bàn cãi gì hết” [116, tr. 571].

Nhận định này khẳng định tôn giáo giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống

tinh thần ở Mỹ. Vì vậy, triết học gắn kết với tôn giáo để luận giải cho sự tồn tại

của các giáo lý tôn giáo; ngƣợc lại, tôn giáo có vai trò chi phối triết học. Ở Mỹ,

đạo Tin lành là tôn giáo phát triển mạnh nhất, giữ vai trò quan trọng nhất và có

ảnh hƣởng to lớn đến mọi mặt đời sống xã hội nƣớc Mỹ.

Nhìn lại lịch sử phát triển tôn giáo ở Mỹ, chúng ta thấy đặc trƣng của cƣ dân

Mỹ chủ yếu là ngƣời châu Âu, họ là những tín đồ của các tôn giáo, tín ngƣỡng khác

nhau và họ mang theo cả tôn giáo, tín ngƣỡng của mình khi di cƣ đến Mỹ. Có nhiều

nguyên nhân dẫn tới sự di cƣ đến Mỹ, một trong những nguyên nhân quan trọng đó

là vấn đề tôn giáo: “Đƣợc thúc đẩy bởi những mơ ƣớc gồm hai mặt: Cuộc săn đuổi,

đi tìm vàng và ý muốn truyền đạo cho những “kẻ man rợ” và tìm nơi ẩn náu cho tự

do tôn giáo” [30, tr. 8 - 9]. Vào thế kỷ XVII, phần lớn ngƣời dân di cƣ đến Mỹ là

ngƣời gốc Anh, theo đạo Tin lành thuộc tầng lớp trung lƣu. Tìm kiếm quyền tự do,

nhất là tự do tôn giáo đã bị bóp nghẹt ở châu Âu lúc đó đã trở thành động lực mạnh

mẽ cho làn sóng di cƣ của ngƣời Anh sang Mỹ. Cội nguồn của văn hóa Mỹ, đạo

đức và tính cách ngƣời Mỹ chịu sự chi phối của tầng lớp này và thứ văn hóa đặc

trƣng mà họ mang theo. Thậm chí, ngay cả những ngƣời không phải là tín đồ của

đạo Tin lành cũng bằng cách này hay cách khác tiếp cận và chịu ảnh hƣởng bởi

những giá trị của đạo Tin lành. Tôn giáo chủ đạo ở Mỹ cũng là đạo Tin lành, có thể

nói, xã hội Mỹ là một xã hội Tin lành. Vì vậy, không nói quá khi khẳng định những

giá trị đạo đức của đạo Tin lành là một trong số những thành tố cốt lõi của nền văn

hóa Mỹ, một nền văn hóa không ngừng đƣợc bổ sung, hoàn thiện và định hƣớng,

tạo thành tính cách của ngƣời Mỹ.

56

Có thể nói, đạo Tin lành và chủ nghĩa tƣ bản có mối liên hệ mật thiết với

nhau: “Đạo Tin lành và chủ nghĩa tƣ bản là đồng minh với nhau ngay từ đầu.

Những ƣu điểm và nhƣợc điểm của đạo Tin lành cũng giống nhƣ những đức tính

tốt và tật xấu của giai cấp trung lƣu… Với đạo Tin lành, sự giầu có, thịnh vƣợng

là điều mà Chúa mong đợi” [72, tr. 60 - 61]. Chính đạo Tin lành là một trong

những tiền đề quan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tƣ

bản ở Mỹ. Một phần là vì nó đoạn tuyệt với xã hội và giáo hội thời trung cổ vốn

thiên về lối sống khắc kỉ. Đây là một phong trào chủ yếu thuộc về những tầng

lớp trung lƣu, coi hành động và hiệu quả của hành động là phƣơng tiện chắc

chắn đem lại sự thành công.

Triết học thực dụng nêu lên nguyên tắc “mở” với tất cả các trƣờng phái

triết học, với tất cả các nền văn hóa và cả tín ngƣỡng tôn giáo. Giai cấp tƣ sản

Mỹ có tín ngƣỡng tôn giáo, nhƣng họ cố gắng làm cho tôn giáo phù hợp với yêu

cầu lợi ích, với thành công của con ngƣời và tôn giáo cũng đồng hành với chủ

nghĩa thực dụng. Thậm chí, có quan điểm cho rằng, triết học thực dụng là sự

luận chứng cho đạo Tin lành với tƣ cách quốc giáo của Mỹ. Đó chính là nguyên

nhân quan trọng dẫn tới sự ra đời triết học thực dụng và làm cho nó chiếm vị trí

quan trọng ở Mỹ.

Đạo Tin lành xuất hiện gắn với tên tuổi của Martin Luther (1483 - 1546)

và John Calvin (1509 - 1564). Cuộc vận động tôn giáo của các ông với chủ

trƣơng kêu gọi mọi ngƣời chỉ nên tuân theo Kinh thánh. Các ông ra sức đấu

tranh chống lại Giáo hội Thiên chúa giáo, Luther nói: “Tôi không có lòng tin ở

Giáo hoàng, cũng chẳng tin ở duy nhất các Hội đồng giám mục… Tôi gắn bó

chặt chẽ với các văn bản Kinh thánh mà tôi đã trích dẫn, và lƣơng tâm tôi đã bị

những lời của Chúa thu giữ. Tôi không thể và cũng không muốn rút lại một lời

nào đã tuyên bố cả, vì cho rằng làm thế là không chín chắn và thiếu trung thực,

là hành động trái với lƣơng tâm” [dẫn theo: 7, tr. 9]. Cuộc vận động tôn giáo này

nhằm mục đích kêu gọi: Mọi tín đồ Tin lành đều là Giáo hoàng với Kinh thánh

cầm tay. Trên thực tế đạo Tin lành là sự kết hợp giữa tôn giáo và chính trị, ở Mỹ,

đạo Tin lành có nhiều giáo phái, nhƣng đều có chung một hệ giá trị và niềm tin

của ngƣời Mỹ. Giá trị nổi bật của nó là tinh thần tự lập, tự chịu trách nhiệm, ý

57

thức tự hoàn thiện mình của mỗi cá nhân, tiết kiệm, tự do cá nhân, thành công,

làm giàu bằng lao động sáng tạo. Do đó, ngƣời Mỹ luôn tích cực làm việc và

hoạt động để khẳng định và hoàn thiện mình. Có thể nói, đạo Tin lành ở Mỹ có

vai trò quan trọng cho sự hòa hợp sắc tộc, sự đồng thuận xã hội ở Mỹ, dựa trên

một niềm tin, một hệ giá trị chung. Chính niềm tin và hệ giá trị do Tin lành giáo

mang lại đã có tác dụng quy tụ những con ngƣời với những nền tảng văn hóa

truyền thống khác nhau lại thành một nền văn hóa mới - văn hóa Mỹ.

Tƣ tƣởng nổi bật của “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư

bản” là khẳng định vai trò của nhân tố tinh thần đối với sự phát triển của chủ

nghĩa tƣ bản. Nhân tố tinh thần đó chính là tƣ tƣởng đạo đức của Tin lành giáo.

M.Weber muốn chứng minh rằng, những quan niệm tôn giáo (ở đây là đạo Tin

lành) thực sự là một nhân tố có ảnh hƣởng quan trọng đối với kinh tế và do đó, là

một trong những nguyên nhân của những chuyển biến kinh tế của các xã hội.

Ông viết: “Nhƣ vậy công trình nghiên này có lẽ là một đóng góp khiêm tốn vào

việc cho thấy bằng cách nào các “ý tƣởng” trở thành những sức mạnh hữu hiệu

trong lịch sử. Để tránh mọi hiểu lầm về ý nghĩa mà ở đây chúng tôi gán cho một

sự hiện hữu nhƣ vậy từ các động lực thuần túy tƣ tƣởng” [131, tr. 159].

Một trong những giá trị đạo đức cơ bản của đạo Tin lành đƣợc thể hiện ở

tính cách ngƣời Mỹ, đó là sự đề cao con ngƣời cá nhân, hay chủ nghĩa cá nhân

của ngƣời Mỹ. Chúng ta đều biết, cuộc cải cách Giáo hội diễn ra ở châu Âu,

ngƣời châu Âu hoặc chấp nhận, hoặc bác bỏ “Sự cải cách của Đạo Tin lành”, thì

ở Mỹ, tinh thần cải cách đó đƣợc đón nhận một cách nồng nhiệt với những con

ngƣời mang trong mình tinh thần của sự cải cách. Tinh thần cải cách của đạo Tin

lành có sự phù hợp với tinh thần tự do, đề cao vai trò cá nhân của ngƣời Mỹ:

“Đạo Tin lành đã góp phần làm cho ngƣời Mỹ trở thành những ngƣời cá nhân

chủ nghĩa. Niềm tin của ngƣời Tin lành Mỹ đã kiến tạo niềm tin về thành công

và con ngƣời tự lập (self - made)” [72, tr. 18]. Tính cách nổi bật của ngƣời Mỹ,

hay có thể gọi là tính cách Mỹ là giá trị cá nhân, lấy con ngƣời cá nhân làm trung

tâm, hay chủ nghĩa cá nhân, tự do cá nhân. Từ con ngƣời cá nhân mà mỗi ngƣời

Mỹ đều hình thành những giá trị trong đời sống của mình. Tự do cá nhân đƣợc

coi là giá trị cơ bản nhất trong tất cả các giá trị của ngƣời Mỹ, chủ nghĩa cá nhân

58

đƣợc tôn thờ và dƣờng nhƣ với ngƣời Mỹ, nó là cái hiển nhiên. Hầu hết ngƣời

Mỹ đều mang hình ảnh sự độc lập, sự thành đạt không dựa vào ai ngoài cá nhân

mình, không ai có thể giúp đƣợc, cho nên con ngƣời phải theo lối đi do chính

mình đã lựa chọn. Mỗi cá nhân cần phải làm việc để đƣợc khẳng định bản thân:

“[tƣ duy khổ hạnh] lại đánh giá rất cao về mặt đạo đức đối với self - made man

[con ngƣời tự thành đạt] biết tiết độ, thuộc tầng lớp trung lƣu tƣ sản” [131, tr.

292]. Ở Mỹ, ngƣời ta phải nghĩ đến cá nhân nhƣ khởi đầu hiển nhiên của mọi

hoạt động, ở đó, sự cố gắng, nỗ lực, tinh thần cần cù, tiết kiệm của cá nhân là cái

quyết định sự thành công của con ngƣời: “Ngƣời Mỹ tin là việc một ngƣời thành

hay bại trong đời phụ thuộc rất nhiều vào tài năng và tính cách riêng của mình.

Ngƣời Mỹ tin rằng khi không có những tôn ti xã hội cứng nhắc, con ngƣời chính

là những gì họ đạt đƣợc” [72, tr. 18].

Đề cao chủ nghĩa cá nhân, đạo Tin lành đã hun đúc nên tính cách tự lập

của ngƣời Mỹ, họ là những “con ngƣời tự lập”. Giá trị nổi bật của con ngƣời tự

thân lập thân là ý thức tự chịu trách nhiệm, không ngừng hoàn thiện, tinh thần

vƣơn vƣợt của từng cá nhân. Tinh thần lạc quan, phấn đấu vƣơn lên không

ngừng là đặc điểm tính cách đƣợc bắt nguồn từ tinh thần thế tục hóa của đạo Tin

lành (nhằm vƣợt bỏ tinh thần giáo điều bằng sống chỉ dựa vào và tuân thủ các

giáo lý của Công giáo trung cổ). Những ngƣời di cƣ sang Mỹ mang theo “giấc

mơ Mỹ”, đó là niềm tin về sự giàu có. Trong khi các tôn giáo lớn khác đều đặt

niềm tin vào thế giới bên kia sau khi con ngƣời chết đi, không coi trọng đời sống

vật chất hiện tại thì đạo Tin lành ở Mỹ lại coi việc làm giàu chính đáng ở thế giới

hiện thực là con đƣờng dẫn lên Thiên Đàng: “Chúng ta không được cấm cản mọi

ngƣời chăm chỉ và tiết kiệm. Chúng ta phải khuyến khích mọi tín đồ Kitô giáo ra

sức kiếm tiền và ra sức tiết kiệm, nói khác đi, làm giàu” [131, tr. 319]. Chính

giáo lý của Tin lành giáo đã tạo cho ngƣời Mỹ niềm tin về một cuộc sống vật

chất sung túc ở trần thế, không có cách nào khác họ phải khẳng định mình bằng

hoạt động thực tiễn, bằng chính sức lao động của cá nhân. Ngƣời Mỹ không

ngừng lao động, họ thấy hạnh phúc, đƣợc thỏa mãn và đƣợc khẳng định, đƣợc

thừa nhận thông qua lao động. M. Weber cho rằng, chính thái độ đặc trƣng đối

59

với lao động chỉ có ở tinh thần của chủ nghĩa tƣ bản, một thái độ vốn chịu ảnh

hƣởng quyết định bởi nền đạo đức Tin lành. Thiên Chúa dạy: “Hãy lao động cần

cù trong nghề nghiệp của ngƣơi [Beruf]. Tuy nhiên, lao động còn là một cái gì

khác nữa và nhất là: lao động chính là mục đích tự thân của cuộc sống nói

chung, nhƣ Thiên Chúa đã định” [131, tr. 282]. Hình ảnh ngƣời Mỹ chăm chỉ,

tiết kiệm, cẩn thận, chú trọng đầu tƣ làm cho đồng tiền tiếp tục sinh lời đã trở

thành phổ biến ở Mỹ, đó cũng là giá trị truyền thống của đạo Tin lành: “Cái cốt

lõi của thứ “triết lý hà tiện” này … quan trọng hơn hết là ý tƣởng theo đó nghĩa

vụ của mỗi ngƣời là làm gia tăng số vốn của mình, và điều này đƣợc giả định

nhƣ là một mục đích tự thân” [131, tr. 91].

Theo giáo lý của đạo Tin Lành, những tín đồ không thể biết đƣợc là họ sẽ

đƣợc cứu độ hay bị kết án, điều đó làm cho họ lo âu và luôn cảm thấy tội lỗi

trong cuộc sống. Để giải thoát khỏi nỗi lo âu này, họ sẽ đi tìm trong thế giới hiện

thực những dấu hiệu chứng tỏ mình đƣợc tuyển. Weber cho rằng, đạo Tin lành

đã tìm ra chứng cứ đó là thành quả và sự nghiệp của con ngƣời trong thế giới

hiện thực, trong đó có sự thành công về mặt kinh tế: “Cách duy nhất để có một

cuộc sống đẹp lòng Thiên Chúa không phải là vƣợt lên trên nền luân lý thế

gian… mà chỉ là chu toàn bổn phận ngay trong thế gian tƣơng ứng với chức

phận mà cuộc sống dành cho mỗi ngƣời trong xã hội - chính vì thế mà các bổn

phận trở thành thiên chức [Beruf] của mỗi ngƣời [131, tr. 142 - 143]. Vì thế,

ngƣời Mỹ rất coi trọng giá trị của lao động, vị thế xã hội đƣợc quyết định bằng

hiệu quả của lao động.

Ngƣời Mỹ đƣợc coi là những ngƣời thực dụng, trong đó đạo Tin lành có

tác động lớn với việc hình thành tính thực dụng của ngƣời Mỹ. Một tôn giáo chú

trọng đời sống thế tục, chú trọng giá trị vật chất, xem đó là thƣớc đo của sự cứu

rỗi, không gì khác là sự cứu rỗi của Thƣợng đế về vật chất, càng giàu có càng

đƣợc cứu rỗi. Giáo lý của đạo Tin lành đề cao sự giàu có bằng sức lao động của

bản thân cá nhân, theo đuổi sự giàu có cũng chính là thực hiện ý Chúa: “Việc

đuổi theo sự giàu có nhƣ là cứu cánh tự thân, mà còn đồng thời xem sự giàu có

(thành quả của lao động nghề nghiệp) nhƣ là sự chúc phúc của Thiên Chúa”

60

[131, tr. 312]. Ngƣợc lại, nghèo đói là sự trừng phạt của Thƣợng đế dành cho kẻ

lƣời biếng. Ngƣời theo đạo Tin lành tin rằng chỉ cần chăm chỉ làm việc, đầu tƣ

để kiếm nhiều tiền một cách chính đáng thì sẽ đƣợc Thƣợng đế cứu độ: “Cái

thực sự đáng lên án, xét theo quan niệm đạo đức, chính là sự nghỉ ngơi trong

việc chiếm hữu, là việc hưởng thụ sự giàu sang cùng với các hậu quả của nó là:

sự ăn không ngồi dồi, các cám dỗ của xác thịt, nhất là nguy cơ không dùng hết

nghị lực để tìm cuộc sống “thánh thiện”… Không phải sự ăn không ngồi rồi lẫn

sự hƣởng thụ, mà chỉ có duy nhất sự hoạt động mới làm tăng thêm vinh quang

của Thiên Chúa, dựa theo các biểu lộ rõ ràng về ý muốn của Ngƣời. Do đó,

phung phí thời gian là tội đầu tiên, và về nguyên tắc, là tội nghiêm trọng nhất

trong các tội.” [131, tr. 275 - 276]. Nếu nhƣ đạo Công giáo cho rằng, Thƣợng đế

chỉ cứu rỗi con ngƣời thuần túy về tâm linh, thì đạo Tin lành lại tin rằng đó là cả

sự cứu rỗi về đời sống vật chất. Tính thực dụng của đạo Tin lành còn đƣợc thể

hiện là việc nhấn mạnh đời sống thực tế, chú trọng hành động thực tế, tạo ra hiệu

quả, sự thành công. Niềm tin không chỉ nằm ở ý thức con ngƣời, mà chủ yếu

đƣợc thể hiện trong hành động thực tế, kết quả của nó là thƣớc đo chính xác

nhất. Đó cũng là quan điểm cốt lõi về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ khi

đồng nhất chân lý với niềm tin thực dụng, với hiệu quả thực tế.

Nhƣ vậy, sự hình thành triết học thực dụng Mỹ nói chung, quan niệm về

chân lý nói riêng chịu ảnh hƣởng từ những tƣ tƣởng đạo đức, giáo lý của đạo Tin

lành. Đổi lại, triết học thực dụng Mỹ và quan niệm về chân lý nhằm luận chứng

trực tiếp cho tôn giáo này. Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ có

sự phù hợp một cách tự nhiên với những giá trị đạo đức của đạo Tin lành. Qua

đó, chúng ta thấy đƣợc vai trò, ảnh hƣởng của những giá trị đạo đức Tin lành

giáo tới sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Tin

lành giáo sở dĩ phù hợp với xã hội Mỹ, bởi vì đó chính là một xã hội đề cao tự

do, đề cao chủ nghĩa cá nhân, coi trọng hiệu quả thực tế, những ràng buộc xã hội

dựa trên mục đích là lợi ích cá nhân, con ngƣời tự do theo đuổi mục đích và hành

động theo mục đích đặt ra. Do đó, quan niệm về chân lý trong triết học thực

dụng kết hợp với đạo Tin lành trong xã hội Mỹ đã tạo nên sức sống bền vững,

đáp ứng nhu cầu của con ngƣời trong xã hội đƣơng thời đó.

61

2.2.5. Tiền đề triết học

Đối với bất cứ trào lƣu triết học nào, trong quá trình hình thành và phát

triển không thể không tiếp thu những giá trị tƣ tƣởng triết học của quá khứ.

Ngoài tiền đề lý luận là những tƣ tƣởng triết học trong bản Tuyên ngôn độc lập

năm 1776 của nƣớc Mỹ và tƣ tƣởng đạo đức của Tin lành giáo, triết học thực

dụng nói chung, quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này nói riêng,

đƣợc hình thành còn là sự kế thừa và chịu ảnh hƣởng trực tiếp của tiền đề triết

học. Các nhà triết học thực dụng đã viện dẫn từ tƣ tƣởng của những nhà triết học

cổ đại nhƣ Socrate, Protagoras, Plato đến những nhà triết học cận hiện đại nhƣ

F.Bacon, R. Descartes, B. Spinoza, J. Locke, G. Berkeley, D. Hume, I. Kant,

G.Hegel,… để xây dựng hệ thống triết học của mình.

Trƣớc hết, sự ra đời của triết học thực dụng nói chung và quan niệm về

chân lý nói riêng là sự kế thừa trên cơ sở phê phán truyền thống triết học duy lý

phƣơng Tây cận hiện đại - với tính cách nhƣ một phản đề. Tiêu biểu là sự phê

phán của C. Peirce đối với thuyết hoài nghi - một phƣơng pháp của chủ nghĩa

duy lý mà R. Descartes là ngƣời đặt nền móng xây dựng. Từ sự bác bỏ nguyên

tắc hoài nghi phổ biến của Descartes, ông đã xây dựng phƣơng pháp củng cố

niềm tin, chân lý với tính cách là niềm tin thực dụng.

Để khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa tƣ bản với chế độ phong kiến,

giai cấp tƣ sản đã đẩy mạnh phát triển các ngành khoa học tự nhiên, cùng với nó

là những phát minh đƣợc ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất. Điều đó cũng ảnh

hƣởng không nhỏ đến chủ nghĩa duy lý thời cận hiện đại, với các đại biểu tiêu

biểu nhƣ Descartes, Spinoza và Leibniz. Với việc đề cao tƣ duy lý tính, đề cao tri

thức khoa học, coi đó là cội nguồn của chân lý, các nhà triết học duy lý đã có vai

trò to lớn trong việc xây dựng một hệ thống triết học duy lý nói riêng và phát

triển tƣ duy lý luận của nhân loại nói chung.

Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy lý cận đại thế kỷ

XVII - XVIII có sự ảnh hƣởng bởi triết học truyền thống. Họ có tham vọng xây

dựng triết học thành “khoa học của các khoa học”, là nền tảng của khoa học tự

nhiên, với cốt lõi là siêu hình học và nhận thức luận. Điều này làm cho nó không

tránh khỏi tính chất tƣ biện, siêu hình. Mặt khác, với việc quá đề cao lý tính, coi

62

đó có sức mạnh chi phối thực tiễn lại là một sự giáo điều, cực đoan. Mặc dù chủ

nghĩa duy lý cận đại thế kỷ XVII - XVIII có vai trò to lớn trong việc đấu tranh

chống lại triết học kinh viện, tƣ duy giáo điều, nhƣng cũng có những hạn chế

nhất định nhƣ chƣa thoát khỏi ảnh hƣởng của tôn giáo và triết học kinh viện, đặc

biệt là tính chất tƣ biện của nó khi giải thích thế giới.

Các nhà triết học thực dụng Mỹ đã nhận thấy những hạn chế của triết học

duy lý nói riêng và triết học Tây Âu truyền thống nói chung, mong muốn cải tạo

triết học, xây dựng một hệ thống triết học khác biệt với triết học truyền thống.

Trong khi hai lý thuyết nhận thức duy lý và duy nghiệm đối lập giữa tƣ duy với

hành động thì triết học thực dụng chủ trƣơng rằng, tƣ duy tham dự vào việc biến

đổi một tình huống thực tiễn. Bản thân C. Peirce, sau này là W. James đều khẳng

định triết học thực dụng với tƣ cách là một phƣơng pháp bác bỏ thuyết duy lý chủ

yếu vì “nó có tính chất giáo điều và tự phụ rằng nó có câu trả lời cuối cùng về thế

giới bằng những kết luận thƣờng không đả động gì tới các vấn đề đời sống. Ngƣợc

lại, thuyết thực dụng bám vào đời sống, từ chối cắt đứt tiến trình tƣ duy quá sớm,

lấy các gợi ý từ các sự kiện đã chứng minh của đời sống, sẵn sàng đi tiếp tới các

khái niệm mới về mục đích mỗi khi nó phát hiện những khía cạnh sâu xa hơn của

cảm xúc và sự mong đợi của con ngƣời” [38, tr. 264]. Các khái niệm duy lý chỉ có

giá trị khi nó đem lại hiệu quả thực tế, có tác dụng, có ích lợi, giúp con ngƣời hành

động cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả, thành công. Hiệu quả thực tế, hiệu quả có ích

đƣợc xem là tiêu chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng.

Chủ nghĩa duy lý phƣơng Tây thế kỷ XVII - XVIII là một xu hƣớng tích cực

đấu tranh chống lại triết học kinh viện, giáo điều, phản khoa học, hậu thuẫn cho sự

phát triển của nền khoa học mới đƣợc xây dựng trên một tƣ duy lý luận có tính phê

phán. Triết học duy lý thể hiện thế giới quan của giai cấp tƣ sản đang lên, gắn với

sự phát triển và khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa tƣ bản thế kỷ XVII - XVIII.

R.Descartes là ngƣời đặt nền móng cho chủ nghĩa duy lý phƣơng Tây cận hiện đại.

Cuộc cách mạng về tƣ tƣởng đƣợc ông thực hiện với nhiệm vụ phải phá bỏ những

định kiến vô căn cứ để có thể xây dựng nền tảng triết học và khoa học vững chắc

bắt nguồn từ lý trí, từ tri thức khoa học. Chủ nghĩa duy lý cận đại của Decartes đã

đề cao lý tính của con ngƣời, coi đó là cái để thay thế thực thể tinh thần siêu nhiên

63

trong triết học kinh viện thời Trung cổ. Với việc đề cao lý tính, đề cao vai trò tích

cực của con ngƣời, coi con ngƣời là trung tâm, mọi hoạt động của con ngƣời đƣợc

chỉ đạo bởi lý tính, ông xác lập luận đề Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại: “Tóm lại nghi

ngờ rằng tất cả chỉ là ảo tƣởng hay sai lạc, nhƣng còn một điều mà tôi không thể có

chút nghi ngờ, đó là Tôi suy nghĩ (tư duy). Nghi ngờ chính là suy nghĩ, và tất yếu tôi

[ngƣời suy nghĩ] phải là cái gì đó; và nhận ra rằng chân lý này, tôi suy nghĩ, vậy thì

tôi tồn tại [cogito ergo sum]… kết luận này, tôi suy nghĩ, vậy thì tôi tồn tại, là điều

đầu tiên và chắc chắn nhất trong mọi điều nảy sinh cho ai làm triết học một cách có

trật tự” [106, tr. 196]. Xuất phát điểm của luận đề đó là sự nghi ngờ tất cả và tất

nhiên ta thấy Thƣợng đế với tƣ cách tồn tại tối cao tuyệt đối bị nghi ngờ từ phƣơng

diện triết học, bởi một tồn tại khác vốn chƣa bao giờ có đƣợc vị trí xứng đáng - tồn

tại “tôi tƣ duy”. Theo Descartes, chính những hoài nghi là phƣơng tiện để đạt tới

chân lý. Tồn tại đó hay lý tính của con ngƣời chính là chân lý tối cao, tiêu chuẩn của

nó chính là bản thân sự rõ ràng và phân biệt của trí khôn, ông khẳng định: “Lý do

để mệnh đề tôi suy nghĩ, vậy thì tôi tồn tại đúng chỉ đơn giản là vì nó rõ ràng và

phân biệt trong trí khôn tôi” [106, tr. 198]. Quan niệm của ông thực sự tạo ra cuộc

cách mạng về tƣ tƣởng, mở ra sự phát triển của chủ nghĩa duy lý cận hiện đại, giải

phóng lý tính con ngƣời khỏi những rào cản của chủ nghĩa kinh viện thời Trung cổ.

R. Descartes đƣợc coi là “ngƣời cha của chủ nghĩa duy lý cận đại” [106,

tr. 192]. Hầu hết các nhà triết học phƣơng Tây cận hiện đại đều xuất phát từ

Descartes để đƣa ra lý luận riêng của mình, khi họ cần xây dựng một hệ thống tri

thức tuyệt đối, hoàn chỉnh, xác định, đáng tin cậy thì đa phần đều đi theo con

đƣờng, phƣơng pháp mà Descartes đã đƣa ra. Vì vậy, các nhà triết học thực

dụng, nhất là C. Peirce - ngƣời sáng lập triết học thực dụng, lấy việc phê phán

triết học truyền thống Descartes làm điểm xuất phát cho việc nghiên cứu triết

học của mình. Sự phê phán của Peirce đối với Descartes tập trung vào sự phê

phán thuyết hoài nghi tuyệt đối của Descartes, từ đó ông khẳng định trong nhận

thức không chỉ có hoài nghi mà cần có niềm tin, chân lý với tính cách là niềm tin

vững chắc. Đồng thời, ông cũng phủ nhận tri thức tuyệt đối, đáng tin cậy, không

thể hoài nghi theo quan niệm của Descartes, bởi suy cho cùng tri thức đó vẫn

thuộc về bản thân con ngƣời, không thể lấy cái chủ quan làm thƣớc đo cho tính

64

đúng đắn của chính nó. Peirce muốn từ đây cải biến triết học truyền thống thành

triết học thực tiễn, nhấn mạnh thực tiễn: “Peirce thay thế sự hoài nghi kiểu

Descartes bằng sự hoài nghi thực tế của nhà bác học, thay thế trực giác chủ quan,

riêng đối với những tƣ tƣởng rõ ràng và rành mạch, bằng sự thực nghiệm khách

quan công khai đối với những tƣ tƣởng giả định” [113, tr. 6]. Vì thế, sự phê phán

của Peirce đối với Descartes cũng có ý nghĩa nhƣ là sự phê phán đối với toàn bộ

truyền thống triết học duy lý tây Âu Cận đại.

C. Peirce xây dựng lý thuyết có thể sai (faillibilism), cho rằng mọi kết luận,

niềm tin rút ra từ việc sử dụng phƣơng pháp khoa học đều có thể phát sinh sai lầm,

cho nên luôn trong quá trình không ngừng xem xét lại và hiệu chỉnh thƣờng

xuyên. Theo đó, ông nhấn mạnh, một số chân lý đã xác định thƣờng đƣợc thay đổi

đáng kể, mọi giả thuyết đƣợc gọi là chân lý đều phải đƣợc hiệu chỉnh liên tục, mọi

niềm tin xác định đều mang tính tƣơng đối so với chứng cứ, với việc phát hiện ra

chứng cứ mới thì niềm tin cũng phải thay đổi. Ông đƣa ra thuyết có thể sai để

khẳng định không có chân lý tuyệt đối, mọi chân lý đều mang tính tƣơng đối.

Đồng thời, Peirce cũng phê phán tính tƣ biện, giáo điều của triết học Descartes nói

riêng và triết học duy lý phƣơng Tây Cận đại nói chung.

Bắt đầu từ thời Cận đại, trong triết học phƣơng Tây xuất hiện hai khuynh

hƣớng đối lập nhau và thống trị trong thời kỳ này, đó là chủ nghĩa duy lý và chủ

nghĩa duy nghiệm. Đại biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa duy lý là Descartes,

ông coi trọng sức mạnh của lý tính và coi lý tính là tiêu chuẩn của chân lý. Chủ

nghĩa duy lý tách lý tính khỏi kinh nghiệm, cảm giác, tuyệt đối hóa những khái

niệm trừu tƣợng, làm cho những khái niệm trở nên trừu tƣợng, trống rỗng, mang

tính chất tƣ biện, giáo điều. Trong khi đó, chủ nghĩa duy nghiệm cho rằng kinh

nghiệm cảm tính là nguồn gốc duy nhất của tri thức mà không thấy đƣợc vai trò

của lý luận, tƣ tƣởng, khái niệm khoa học. Chủ nghĩa duy lý đặt ra cho mình

nhiệm vụ đạt tới tri thức tuyệt đối, tới các chân lý phổ biến. Thực tế, khoa học và

kinh nghiệm hiện thực lại thƣờng chỉ ra tính chất giáo điều và ảo tƣởng trong

những luận điểm của chủ nghĩa duy lý. Cùng với sự phát triển của khoa học, đã

làm phá sản tính chất tƣ biện và mong muốn xây dựng triết học thành “khoa học

của mọi khoa học" của chủ nghĩa duy lý.

65

Triết học thực dụng xuất hiện cuối thế kỷ XIX, trong bối cảnh cuộc đấu

tranh giữa hai khuynh hƣớng tƣ tƣởng diễn ra gay gắt. Một bên là thuyết duy

nghiệm, với sự luận chứng bằng thuyết Tiến hóa của Darwin, từ đó ảnh hƣởng

đến quan niệm triết học với cách nhìn thế giới một cách máy móc và sinh học.

Còn một bên đối lập là thuyết duy lý của Descartes, là chủ nghĩa duy tâm siêu

nghiệm của Kant, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel, chủ nghĩa duy tâm của

phái Hegel mới. Giữa hai khuynh hƣớng đối lập này là sự phê phán lẫn nhau.

Trên quan điểm khoa học thì triết học duy lý và duy tâm là không đáng tin cậy,

thiếu chứng cứ khoa học. Ngƣợc lại, với thuyết duy lý và duy tâm thì khoa học

dƣờng nhƣ là mối đe dọa các khía cạnh nhân tính của con ngƣời, các đức tin đạo

đức, tôn giáo. Trong bối cảnh đó, các nhà triết học thực dụng đặt ra mục tiêu là

xác định lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học, đó thực chất chính là cách để hòa

giải và kết hợp những giá trị của hai khuynh hƣớng duy nghiệm và duy lý. Triết

học thực dụng khẳng định, chấp nhận một lý thuyết này hay một lý thuyết khác

sẽ tạo ra sự khác biệt nào? Trả lời câu hỏi này, triết học thực dụng đi đến lý giải

quan niệm thực dụng về chân lý đƣợc biểu hiện ở cách thức mà tƣ duy thể hiện

trong hành động. Với các nhà triết học thực dụng, cái quan trọng là tƣ duy kết

thúc bằng hành động, đạt đƣợc mục đích là hiệu quả.

Hơn thế nữa, trong bối cảnh xã hội nƣớc Mỹ lúc bấy giờ, những con

ngƣời đã rời bỏ châu Âu đến Mỹ đều mang theo tính cách đặc trƣng là ghét tính

bảo thủ, giáo điều và không thích chủ nghĩa sùng bái. Họ đến vùng đất mới với

mong muốn đổi thay và đều hiểu rằng ai ai cũng có cơ hội nhƣ nhau, nên chỉ có

thể sống bằng những nghị lực, năng lực, phẩm chất của chính bản thân chứ

không thể trông chờ vào một phép màu nào cả. Niềm tin vào sự thành công là cơ

sở cho hoạt động thực tiễn, nhƣng quan trọng là phải biết xác định mục tiêu và

động lực của hành động thực tế, đó là hiệu quả mà họ thu đƣợc. Vì lẽ đó mà tính

chất siêu hình, trừu tƣợng, tƣ biện, tính tuyệt đối vốn là đặc trƣng cơ bản của

triết học duy lý phƣơng Tây Cận đại là cái gì đó hết sức xa lạ, không thiết thực,

không hữu dụng đối với ngƣời Mỹ và xã hội Mỹ.

Ngay từ đầu, các nhà triết học thực dụng Mỹ đã xác định mục đích của triết

học là trung gian hóa, hòa giải và kết hợp giữa hai truyền thống, hai khuynh

66

hƣớng tƣ tƣởng đối lập của thế kỷ XIX. Giữa hai truyền thống này có một vực

thẳm ngày càng rộng. Nhƣng các nhà triết học thực dụng đƣa ra kết luận rằng, các

tranh luận về Thƣợng đế, cái thiện, ý chí tự do và các vấn đề tƣơng tự phải đƣợc

tiếp cận bằng một quan điểm khác với quan điểm duy lý. Quan điểm này đƣợc các

nhà thực dụng trả lời bằng việc đặt ra câu hỏi: Chấp nhận một lý thuyết này thay

vì một lý thuyết khác sẽ tạo ra sự khác biệt nào, có đem lại hiệu quả, lợi ích, sự

thành công nhƣ dự tính hay không? Với câu hỏi này, triết học thực dụng cố gắng

điều hòa những mâu thuẫn, sự đối lập của các khuynh hƣớng triết học, thậm chí

điều hòa cả những mâu thuẫn giữa thế giới quan khoa học và thế giới quan tôn

giáo, đƣa mọi ngƣời đến một phƣơng châm trong suy nghĩ và hành động mà đích

đến là hiệu quả thực tế. Sự phê phán triết học duy lý phƣơng Tây Cận đại có thể lý

giải từ chính bối cảnh xã hội nƣớc Mỹ lúc bấy giờ, một xã hội “ít quan tâm đến

triết học”, đó là triết học kinh viện, siêu hình, không giải quyết đƣợc những vấn đề

của cuộc sống. Ngƣời Mỹ không chấp nhận những lý thuyết suông, có tính chất tƣ

biện, giáo điều, theo đó tƣ tƣởng, khái niệm chỉ có ý nghĩa khi nó đem lại những

hiệu quả có ích cho con ngƣời, đó mới là chân lý.

Sự hình thành triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý còn

là sự kế thừa triết học I. Kant (1724 - 1804) - ngƣời đƣợc đánh giá là một trong

những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tƣ tƣởng phƣơng Tây. Triết học

Kant là nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức nói riêng và triết học

phƣơng Tây hiện đại nói chung. Trong đó đạo đức học của Kant có ảnh hƣởng

lớn tới các nhà triết học thực dụng.

Theo Kant, để xác định bản chất con ngƣời, nhiệm vụ trung tâm của triết

học là giải quyết các vấn đề: Tôi có thể biết cái gì? Tôi cần phải làm gì? Tôi có

thể hi vọng cái gì? Ba vấn đề mà con ngƣời trăn trở đó, trong đó mục đích cuối

cùng là thuộc về đạo đức. Vì vậy, theo ông, cần có sự phân biệt giữa con ngƣời

đạo đức tự do và con ngƣời lệ thuộc, bởi dẫn dắt con ngƣời có hai loại lý tính.

Nếu con ngƣời hoạt động theo lý tính thuần túy sẽ dẫn con ngƣời đến những suy

tính lạnh lùng, trong đó sự tính toán, vụ lợi có thể dẫn con ngƣời tới hành động

phi đạo đức, hành động theo sự ràng buộc duy lý làm con ngƣời bị lệ thuộc. Còn

hành động đƣợc dẫn dắt bằng lý tính thực tiễn sẽ không có sự tính toán, hành

67

động là do sự mách bảo của lƣơng tâm, của bản tính thiện, cho nên là hành động

có đạo đức.

Theo Kant, nguyên tắc cơ bản của các hoạt động đạo đức là tuân theo

“mệnh lệnh tuyệt đối”, mỗi con ngƣời cần hành động tới mức tối đa sao cho điều

đó đƣợc đƣa vào cơ sở lập pháp phổ biến: “Nguyên tắc duy nhất của luân lý là ở

trong sự độc lập đối với mọi chất liệu của quy luật (tức với một đối tƣợng của

ham muốn), và ở trong việc quy định sự tự do lựa chọn bằng hình thức đơn

thuần của sự ban bố quy luật phổ biến, nhờ đó châm ngôn của nó phải có đƣợc

năng lực ấy. Sự độc lập này chính là Tự do theo nghĩa tiêu cực; còn sự tự ban bố

quy luật của lý tính thuần túy, và, với tƣ cách ấy, của lý tính thực hành là sự Tự

do theo nghĩa tích cực” [71, tr. 60]. Các nguyên tắc đạo đức là cơ sở để con

ngƣời nhận thức về tự do, nhờ các nguyên tắc đạo đức dẫn dắt chúng ta hoàn

toàn có thể nhận thức về tự do của chính bản thân mình: “chính quy luật luân lý

đƣợc ta ý thức một cách trực tiếp (khi ta đề ra cho ta các châm ngôn của ý chí)

mới là cái đầu tiên xuất hiện ra cho ta và trực tiếp dẫn ta đi đến khái niệm về tự

do” [71, tr. 55]; “sự Tự do và quy luật thực hành vô - điều kiện hàm ngụ lẫn

nhau một cách tƣơng hỗ” [71, tr. 54].

Vấn đề mục đích của hành động mà Kant nêu ra có ảnh hƣởng lớn tới

quan điểm của các nhà triết học thực dụng. Các nguyên tắc đạo đức mà ông nêu

ra có ý nghĩa quan trọng đối với quan điểm của triết học thực dụng, cũng nhƣ

quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Trong đó kết quả của hành

động trở thành thƣớc đo của chân lý.

Phạm trù trung tâm trong đạo đức học Kant là “Tự do”, phạm trù này

đƣợc hiểu trên một số khía cạnh sau:

Thứ nhất, tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính hoạt

động độc lập với quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tƣợng luận: “Khái

niệm về tính nhân quả xét nhƣ là sự tất yếu tự nhiên đối lập lại với tính nhân quả xét

nhƣ là sự Tự do chỉ liên quan đến sự hiện hữu của những sự vật trong chừng mực

sự hiện hữu ấy là có thể xác định đƣợc ở trong thời gian” [71, tr. 168].

Thứ hai, tự do tồn tại tƣơng đối trong lĩnh vực hiện tƣợng luận, nơi mà

mọi cái đều diễn ra một cách tất yếu: “Sự tất yếu của Tự nhiên vốn không thể

68

cộng tồn với sự Tự do của chủ thể chỉ thuộc về những thuộc tính của sự vật phục

tùng những điều kiện thời gian, do đó, chỉ thuộc về những thuộc tính của chủ thể

hành động xét nhƣ một hiện tƣợng” [71, tr. 172].

Thứ ba, tự do thuộc lĩnh vực “Vật tự thân”. Nếu nhƣ trong lĩnh vực hiện

tƣợng luận, tự do chỉ là tƣơng đối thì trong lĩnh vực “vật tự thân” là thế giới của

tự do: “Xem sự hiện hữu của sự vật, trong chừng mực nó có thể đƣợc xác định ở

trong thời gian và vì thế, cá tính nhân quả dựa theo quy luật của sự tất yếu tự

nhiên nhƣ là chỉ thuộc về hiện tƣợng, còn gán cho sự Tự do cho cùng một hữu

thể ấy nhƣng với tƣ cách là một Vật - tự thân” [71, tr. 169].

Đối với Kant, trong thế giới “Vật tự thân” con ngƣời hoàn toàn tự do đối

với các quy luật tự nhiên, tự coi mình là mục đích của chính mình, tự do của

mình là cao quý nhất trên thế gian. Quan điểm này đƣợc các nhà triết học thực

dụng vận dụng một cách có chọn lọc. Nếu nhƣ Kant xem tự do là lý tƣởng đạo

đức của nhân loại, thì triết học thực dụng coi tự do là lý tƣởng đạo đức cao nhất

của bản thân, phục vụ lợi ích của bản thân và gạt bỏ khỏi con đƣờng mình đi tất

cả những yếu tố có thể ảnh hƣởng đến mục đích của họ. Sự phát triển quan điểm

về tự do của triết học thực dụng còn thể hiện ở chỗ cần phải làm cho quyền dân

chủ tự do của cá nhân phục tùng sự điều khiển của xã hội, chống lại sự tuyệt đối

hóa tự do cá nhân, đặt cá nhân lên trên xã hội. Trên cơ sở kế thừa tƣ tƣởng triết

học của Kant, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng đƣợc hình thành ở

Mỹ, một quốc gia rất xem trọng biểu tƣợng “tự do” và đã trở thành ánh hào

quang trong triết học Mỹ. Khẩu hiệu tự do đƣợc đƣa vào triết học thực dụng nhƣ

là sự khuyến khích con ngƣời dấn thân hành động nhằm đạt hiệu quả, lợi ích,

thành công. Đó cũng là quan niệm cốt lõi về chân lý của triết học thực dụng.

Có thể nói, trong các trào lƣu triết học phƣơng Tây hiện đại, triết học thực

dụng chịu ảnh hƣởng nhiều nhất từ triết học I. Kant, trong đó C. Peirce là nhà

triết học thực dụng chịu ảnh hƣởng lớn nhất. Ông cố gắng xây dựng hệ thống lý

luận thống nhất, rộng rãi trên cơ sở kế thừa truyền thống của chủ nghĩa kinh

nghiệm Anh từ Hume, nhƣng lại tiếp thu triết học cổ điển Đức, đặc biệt là chủ

nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Kant. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần

túy”, Kant nêu ra vấn đề về mối quan hệ giữa ý kiến, tri thức và tín ngƣỡng

69

(niềm tin). Ông cho rằng, con ngƣời nhìn chung căn cứ vào niềm tin mà hành

động, nhƣng thƣờng xảy ra tình trạng là chúng ta không có đƣợc tri thức thật sự,

trong khi vấn đề lại khá quan trọng, không thể dựa vào ý kiến để giải quyết, khi

đó cần xác định niềm tin. Ông gọi niềm tin ngẫu nhiên tạo nên phƣơng pháp sử

dụng trong hành động thực tế là niềm tin thực dụng, ở triết học Kant, “thực

dụng” đồng nghĩa với “kinh nghiệm”. Ông phân biệt “thực dụng” và “thực tiễn”,

thực dụng biểu hiện quy tắc kỹ xảo và kỹ thuật, những quy tắc này thích hợp với

kinh nghiệm, cần thiết hành động và kiểm nghiệm thực nghiệm; thực tiễn đƣợc

hiểu là luật đạo đức tiên nghiệm, ngƣời ta không thể dựa vào bất kỳ thực nghiệm

và hành động nào để biểu thị niềm tin. C. Pierce đã xuất phát từ “niềm tin thực

dụng” và sự phân biệt “thực dụng” với “thực tiễn” của Kant để xây dựng lý

thuyết triết học thực dụng, đặc biệt là “lý luận thăm dò - hoài nghi - niềm tin”.

Còn W. James dựa vào sự phản bác một cách kiên quyết chủ nghĩa duy

tâm trong triết học Kant và chủ nghĩa Kant mới để xây dựng lý thuyết thực dụng

của mình: “Khƣớc từ bóng ma của cái tuyệt đối, theo James, chủ nghĩa đa

nguyên “xua đuổi kẻ đại phá hủy thực tại”, thuyết chủ trí của triết học tuyệt đối

hậu Kant” [65, tr. 189]. Trong khi đó, sự ảnh hƣởng của triết học Kant đến

J.Dewey là sự tiếp nhận có sửa chữa và mang dấu ấn riêng, đặc biệt là tƣ tƣởng

tự do, dân chủ. Ngay trong luận án tiến sĩ của ông mang tên “Tâm lý học Kant”,

cũng đủ thấy J.Dewey nghiên cứu rất sâu về triết học Kant, do đó, ảnh hƣởng

của triết học Kant đến ông là rất lớn.

Đồng thời, chúng ta cũng phải kể tới sự kế thừa chủ nghĩa Hegel mới

trong triết học thực dụng. Bắt nguồn từ G.W.F. Hegel (1770 - 1831), nhà biện

chứng lỗi lạc ngƣời Đức, chủ nghĩa Hegel mới là một trào lƣu triết học duy tâm

xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX ở Anh và Mỹ, đến nửa đầu thế kỷ XX, phong trào

“Phục hƣng Hegel” đã ảnh hƣởng mạnh đến các nƣớc Đức và Italia. Những

ngƣời theo chủ nghĩa Hegel mới, thông qua nghiên cứu một số mặt trong tƣ

tƣởng của Hegel để chứng minh cho lý luận của mình.

Chủ nghĩa Hegel mới núp dƣới phong trào “phục hƣng Hegel” đã nhấn

mạnh quyền tự do cá nhân, coi đây là điểm xuất phát để xây dựng bộ máy nhà

nƣớc. Vì thế, nó đã đáp ứng đƣợc nhu cầu của giai cấp tƣ sản cầm quyền. Với tƣ

70

tƣởng cốt lõi nhƣ trên, chủ nghĩa Hegel mới có ảnh hƣởng rất lớn tới sự ra đời

của triết học thực dụng, cũng nhƣ những tƣ tƣởng cơ bản về dân chủ, tự do, về

nhà nƣớc, về mối quan hệ xã hội, về chân lý,… Do đó, chủ nghĩa Hegel mới

đƣợc xem là nhân tố triết học cơ bản cho sự hình thành quan niệm về chân lý

trong triết học thực dụng.

Học thuyết Hegel mới ảnh hƣởng lớn tới sự hình thành và phát triển của

triết học thực dụng Mỹ. Phong trào làm sống lại Hegel ở Mỹ đƣợc bắt đầu với

tên tuổi của William Torrey Harris (1835 -1909) và H.C. Brochmeyer (1826 -

1906). Họ là những ngƣời sáng lập ra “Trƣờng phái Saint Louis”. Ngoài ra, còn

phải kể đến nhiều ngƣời dân di cƣ từ Đức đến Mỹ. Họ chú trọng nghiên cứu,

dịch và giới thiệu các tác phẩm chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Đức, nhất là

triết học của Hegel. W.T. Harris là ngƣời sáng lập “Tạp chí triết học tƣ biện”,

ông cho rằng: “Hegel là ngƣời thầy lớn làm cho ngƣời Mỹ am hiểu một số nhà

triết học vĩ đại” [9, tr. 75]. Ở đây đã diễn ra các cuộc tranh luận gay gắt để tán

thành chủ trƣơng “triết học trừu tƣợng” và phƣơng pháp tƣ biện, chống lại chủ

nghĩa duy nghiệm, chủ nghĩa thực chứng và thuyết bất khả tri. Họ cho rằng:

“Thông qua lý tính, ngƣời ta có thể nhận đƣợc tri thức rất chuẩn và tuyên truyền

cho chủ nghĩa Hegel đã nêu lên một thế giới quan toàn diện, trƣớc sau đều thống

nhất và thích hợp cho luân lý học, tôn giáo học, nghệ thuật, chính trị, luật pháp

và giáo dục” [9, tr. 75]. Có thể thấy, thông qua “trƣờng phái Saint Louis” mà ở

Mỹ, ngƣời ta biết đến triết học Hegel và không lấy gì làm lạ khi ở Mỹ, một đất

nƣớc ít bận tâm đến triết học thì triết học Hegel lại có ảnh hƣởng rất lớn đối với

các trƣờng phái triết học ở Mỹ sau này, trong đó có chủ nghĩa thực dụng.

Hình thức điển hình của chủ nghĩa Hegel mới ở Mỹ do Josiah Roiyce và

James Edwim Creighton nêu lên vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Đến

những năm 70 của thế kỷ XIX, C. Peirce và W. James cùng một số ngƣời khác

đã sáng lập ra “Câu lạc bộ siêu hình học”. Sở dĩ có tên nhƣ vậy, theo Peirce, là

để “xa lánh mọi ngƣời mà nó cần tránh xa”, về thực chất là nhằm diễn tả vấn đề

quan trọng là chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hegel vốn một thời đã thống trị

trong triết học thì đến nay đã hết vai trò lịch sử, cần phải nhƣờng chỗ cho những

71

học thuyết triết học mới. Chính nhờ nghiên cứu những tài liệu của chủ nghĩa

Hegel mới, các nhà triết học thực dụng đã rút ra những kết luận mang tính bƣớc

ngoặt, là cơ sở để xây dựng học thuyết triết học của mình.

Ảnh hƣởng của Hegel tới C.Peirce rõ nhất ở những phạm trù lôgíc đƣợc

ông xây dựng giống nhƣ chính đề, phản đề và hợp đề trong triết học của Hegel:

“Chúng là ba “vƣơng quốc thực tại” khác nhau, hay “vũ trụ kinh nghiệm” [31, tr.

103]. Còn W. James thấy mình phải chống lại Hegel: “Sự tiêu khiển lớn nhất của

tôi là chống lại sự thâm nhập của Hegel vào Harvard” [31, tr. 110]. Trong quan

niệm về tôn giáo của ông cũng tỏ rõ lập trƣờng chống Hegel ở chủ nghĩa vô thần,

chủ nghĩa vô thần đƣợc James trình bày nhƣ là phi duy lý chống lại cái lý trí là cái

A priori (cái tiên thiên). J. Dewey bắt đầu đến với triết học qua đọc và chịu ảnh

hƣởng rất nhiều từ sách báo của “Trƣờng phái Saint Louis”. Năm 1884, Dewey

dạy triết học ở Trƣờng đại học Michigan, tƣ tƣởng của Hegel đã ảnh hƣởng nhiều

đến ông: “Ông muốn vứt bỏ toàn bộ lôgíc hình thức. Chỉ có Hegel với phép biện

chứng mới thỏa mãn đƣợc điều đó. Ông ghét cay ghét đắng mọi quan niệm thuần

túy hình thức và tĩnh tại, bởi vậy ảnh hƣởng của Hegel đã làm ông thích thú tính

hữu cơ và năng động của tƣ duy” [31, tr. 127 - 128]. Sau này, trên cơ sở kế thừa

và tiếp thu những tƣ tƣởng trong hệ thống triết học của Hegel, đặc biệt là lý luận

về nhà nƣớc pháp quyền, Dewey đã xây dựng hệ thống triết học của mình.

Có thể nói, triết học thực dụng là một trƣờng phái triết học thể hiện sự cố

gắng đi tìm giải pháp cho những cuộc tranh luận triết học. Họ muốn vƣợt lên sự

đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học và tôn giáo,

giữa tƣ tƣởng và hành động, nhằm biện minh hay cung cấp nền tảng cho tƣ duy

lý thuyết, chỉ cần tƣ duy kết thúc bằng hành động đạt đƣợc hiệu quả nào đó. Trên

cơ sở kế thừa truyền thống của triết học phƣơng Tây, tiêu biểu là tƣ tƣởng triết

học của Descartes, Kant, chủ nghĩa Hegel mới, coi đây nhƣ những phản tiền đề,

bằng việc phê phán tƣ tƣởng của các nhà triết học truyền thống, các nhà triết học

thực dụng đã xây dựng hệ thống quan điểm triết học của mình. Họ khẳng định,

thực dụng chính là phương thức tư duy trong hành động, đích đến của tư duy là

hiệu quả thực tế, tính có ích và sự thành công trong hành động. Đây cũng là

quan điểm nền tảng của lý thuyết về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

72

Nhƣ vậy, chính điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của

nƣớc Mỹ đã trở thành mảnh đất hiện thực cho sự hình thành, phát triển triết học

thực dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói

riêng. Nƣớc Mỹ với điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi, cùng với nó là những thay

đổi xã hội từ khi hình thành đến khi mang tên gọi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, đã tạo

nên con đƣờng phát triển không giống bất kỳ quốc gia nào trên thế giới mà đi theo

hƣớng dân chủ hóa, tự do hóa đời sống xã hội. Sự khác biệt về tự nhiên, cùng với sự

khác biệt xã hội phần nào dự báo cho sự ra đời của một trƣờng phái triết học mang

đặc trƣng của nƣớc Mỹ, khác biệt so với triết học của lục địa già. Trân mảnh đất

hiện thực đó, các nhà triết học thực dụng đã kế thừa, tiếp thu những tiền đề lý luận

để xây dựng hệ thống triết học thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý nói

riêng. Nền triết học đó chủ trƣơng xác định lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học là

không đi vào những vấn đề của triết học truyền thống, mang tính trừu tƣợng mà chú

trọng đến những vấn đề cụ thể, mang lại lợi ích, hiệu quả thiết thực cho con ngƣời.

Với điều kiện và hoàn cảnh nhƣ trên, đặt ra nhiệm vụ chủ yếu cho triết học Mỹ là

phải luận giải, chứng minh lợi ích cá nhân của con ngƣời, triết học thực dụng dựa

trên tôn chỉ đó đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Mỹ. Trong hệ thống các

trƣờng phái triết học có mặt tại Mỹ nhƣ: triết học phân tích, triết học khoa học,

trƣờng phái lịch sử, chủ nghĩa Freud mới, chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa nhân

vị, chủ nghĩa tự do, v.v… thì triết học thực dụng đƣợc xem là nét đặc trƣng của văn

hóa Mỹ, tính cách ngƣời Mỹ. Trong bối cảnh đó, triết học thực dụng trở thành món

ăn tinh thần phổ biến và đƣợc ƣa chuộng của ngƣời Mỹ. Do vậy, khi nhắc đến triết

học thực dụng là chúng ta nghĩ ngay đến nƣớc Mỹ và khi nói đến nƣớc Mỹ là chúng

ta cũng nghĩ ngay đến triết học thực dụng. Sở dĩ triết học thực dụng có ảnh hƣởng

sâu rộng đến nƣớc Mỹ chính là việc nó giải quyết vấn đề chân lý phù hợp với quốc

gia đa văn hóa đậm chất Mỹ, khi coi chân lý là cái đem lại hiệu quả, lợi ích và sự

thành công của con ngƣời.

2.3. Nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng Mỹ

Để thấu hiểu vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, chúng ta cần

phải nắm bắt khái quát lịch sử của trào lƣu triết học này qua các đại diện tiêu

73

biểu của nó, tƣ tƣởng của họ về chân lý, với tính cách là những nhân tố chủ quan

cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

2.3.1. Charles Sanders Peirce

Charles Sanders Peirce (1839 - 1914) là nhà triết học, lôgíc học, toán học

và tự nhiên học. Nhƣng trên hết, ông đƣợc thừa nhận là người sáng lập triết học

thực dụng Mỹ. Theo bộ Encyclopae Britannica, C. Peirce “đƣợc thừa nhận là một

trí tuệ độc đáo nhất và đa năng nhất mà nƣớc Mỹ sản sinh đƣợc cho đến giờ”

[89, tr. 237].

C. Peirce sinh ra và lớn lên ở bang Massachusetts nƣớc Mỹ trong một gia

đình trí thức, cha ông là một giáo sƣ toán học có tên tuổi ở Đại học Harvard.

Năm 1855, ông học tại Đại học Harvard, năm 1858 tốt nghiệp ngành toán học và

khoa học của trƣờng. Từ năm 1861, ông làm việc tại Cục Quản lý Bờ biển và

Trắc địa Mỹ. Cũng trong thời gian này, ông kiêm nhiệm công tác giảng dạy về

lôgíc học, về lịch sử khoa học tại Đại học Harvard (1864 - 1865, 1869 - 1871) và

Đại học Johns Hopkins (1879 - 1884). Từ năm 1877, ông đƣợc bầu làm thành

viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Mỹ, sau đó là Viện sỹ Viện Hàn

lâm Khoa học Quốc gia.

Trong suốt thời gian hơn năm mƣơi năm say mê với công việc nghiên cứu

khoa học và giảng dạy, C. Peirce đã có đƣợc nhiều thành tựu xuất sắc không chỉ

trên lĩnh vực triết học, lôgíc học, tôn giáo học mà cả trên các lĩnh vực khoa học

tự nhiên, nhƣ toán học, vật lý học, hóa học, trắc địa học và lịch sử khoa học. Ông

còn có những cống hiến nhất định trong lĩnh vực tâm lý học, tội phạm học, Ai

Cập học, lịch sử cổ đại,... Tuy có nhiều cống hiến nhƣ vậy nhƣng khi còn sống,

tài năng trên nhiều lĩnh vực của ông lại chƣa đƣợc giới học thuật thừa nhận, mọi

cố gắng và nỗ lực nghiên cứu khoa học của ông cũng chỉ giúp ông xuất bản đƣợc

một tác phẩm khi còn sống - Về vật lý học vũ trụ. Ngay cả yêu cầu chính đáng

của ông là đƣợc giảng dạy chính thức tại các trƣờng đại học cũng không đƣợc

chấp nhận. Khó khăn trong tìm kiếm việc làm để đáp ứng nhu cầu cuộc sống đã

không thể ngăn cản nổi việc ông say sƣa với sáng tạo lý luận. Những ngƣời láng

giềng sống cạnh ông xem ông nhƣ một con ngƣời kỳ quặc, khác thƣờng và gọi

74

ông là “Giáo sƣ Peirce”, mặc dù chƣa bao giờ ông là giáo sƣ. Ông mất năm 1914

vì căn bệnh ung thƣ.

Sau khi C. Peirce qua đời, đầu những năm 20 của thế kỷ XX, di sản lý

luận của ông, bao gồm các bản thảo và bản nháp viết tay, mới lần lƣợt đƣợc xuất

bản. Năm 1923, Tuyển tập triết học của ông đƣợc xuất bản, tập thứ nhất của

tuyển tập này có tên gọi Cơ hội, tình yêu và logic, từ năm 1931 đến năm 1935,

Đại học Harvard cho xuất bản Tập luận văn của Peirce gồm 6 tập và vào năm

1958 xuất bản tiếp tập 7 và tập 8.

Ngay sau khi đƣợc xuất bản, các công trình của C. Peirce đã thu hút sự quan

tâm của đông đảo ngƣời đọc trong giới học thuật Mỹ. Nhờ đó uy tín của ông ở Mỹ

ngày càng tăng và bản thân ông cũng đã đƣợc tôn vinh là ngƣời sáng lập chủ nghĩa

thực dụng Mỹ. Những luận giải, phân tích của ông về lôgíc quan hệ, ký hiệu học, về

chân lý, về nghĩa đã đƣợc các nhà chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc, triết học phân tích,

ngữ nghĩa học, những ngƣời theo chủ nghĩa thực tại và thậm chí cả những nhà hiện

tƣợng học đề cao và coi ông là ngƣời đi tiên phong trong lĩnh vực của mình. Những

thành tựu của ông về khoa học tự nhiên đƣợc giới khoa học tán đồng. Sự công nhận

đó của giới học thuật Mỹ đã làm cho Peirce trở thành một trong những ngƣời nổi

tiếng nhất của giới học thuật Mỹ, thậm chí có ngƣời còn gọi ông là nhà triết học lớn

nhất, độc đáo nhất của nƣớc Mỹ. W. James đã coi ông là nhà tƣ tƣởng Mỹ độc đáo

của thời đại và cùng với những ngƣời đƣơng thời nhƣ Emerson, Royce, Dewey,

Santayana,… Peirce đƣợc coi là ngƣời đã mang lại vinh quang cho nƣớc Mỹ trên

lĩnh vực tƣ tƣởng, lý luận.

C. Peirce là nhà tƣ tƣởng lớn trên nhiều lĩnh vực, song trong tƣ tƣởng của

ông cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, điều này đã tạo nên những cuộc tranh luận

sôi nổi trong giới học thuật Mỹ, mà ở đó, nhiều ý kiến đánh giá khác nhau đã đƣợc

đƣa ra. Bản thân Ông cũng nhận ra điều này và đã cố gắng tìm cách giải quyết mâu

thuẫn đó trong quá trình phân tích và luận giải thực tiễn nhận thức của chủ thể, mà

với việc phóng đại, đề cao quá mức yếu tố chủ quan trong nhận thức đã đƣa ông tới

chỗ sáng lập một trào lƣu triết học mới - triết học thực dụng. Ông cũng nhận thấy

những mâu thuẫn trong tƣ tƣởng của mình và do vậy, trong những năm cuối đời,

75

ông đã cố gắng để xây dựng một hệ thống lý luận thống nhất, rộng rãi nhƣng bệnh

tật đã không cho phép ông hoàn thành mục tiêu này.

Về cống hiến của C. Peirce trong lịch sử tƣ tƣởng triết học nhân loại.

Peirce đƣợc thừa nhận là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng nhƣng chính ông

lại không phải là ngƣời thực dụng chủ nghĩa một cách triệt để. Trƣớc thập niên

70 của thế kỷ XIX, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu về lôgíc quan hệ. Khi đó, tƣ

tƣởng của ông thể hiện rõ khuynh hƣớng chống chủ nghĩa duy lý và bản thân

ông cũng chƣa trở thành nhà thực dụng chủ nghĩa. Tƣ tƣởng triết học thực dụng

chỉ đƣợc ông đƣa ra vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX. Năm

1872, ông đƣa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tƣ tƣởng

cơ bản, chủ yếu của mình về chủ nghĩa thực dụng trong báo cáo khoa học đọc tại

“Câu lạc bộ siêu hình” thuộc Đại học Harvard. Ông là ngƣời đầu tiên đƣa ra

châm ngôn của chủ nghĩa thực dụng khi giải thích nghĩa của khái niệm là toàn bộ

những hiệu quả thực tế, nguyên tắc Peirce hay nguyên tắc của triết học thực

dụng là cơ sở để xây dựng quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này.

Theo đó, nghĩa của khái niệm đƣợc thể hiện ở những kết quả thực tế thông qua

hành động của con ngƣời. Do đó, chân lý là toàn bộ hiệu quả thực tế đối với mục

đích của con ngƣời. Chân lý là hiệu quả thực tế, là thành công trong hành động,

giúp con người đạt đến mục đích đặt ra.

Từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XIX, ông chủ yếu dồn sức cho

việc xây dựng một hệ thống triết học rộng rãi với dự định đƣa vào đó cả vấn đề bản

thể luận, nhƣng ông đã không hoàn thành. Cho nên, về cơ bản, sự phát triển thêm

này không thống nhất với tƣ tƣởng triết học thực dụng mà ông đã đƣa ra từ những

năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX và nó cũng không hoàn toàn đồng nhất với tƣ

tƣởng của các nhà triết học thực dụng sau ông. Chính vì thế, vào những năm đầu thế

kỷ XX, ông nhận thấy việc cần phải tách riêng chủ nghĩa thực dụng của mình với

chủ nghĩa thực dụng của W. James, của F.C. Schiller - đại diện cho trào lƣu của triết

học thực dụng Anh, thậm chí với cả J. Dewey. Do vậy, khi nghiên cứu tƣ tƣởng triết

học của Peirce, cần phải có sự luận giải chuyên biệt về những tƣ tƣởng này chứ

không nên quy giản một cách đơn thuần về chủ nghĩa thực dụng.

76

C. Peirce thừa nhận rằng, triết học thực dụng của ông chỉ là một phƣơng

pháp phát hiện nghĩa của từ ngữ và khái niệm trừu tƣợng. Ông còn nhiều lần khẳng

định rằng, cái quan tâm chủ yếu của ông là làm cho tƣ tƣởng và khái niệm mà con

ngƣời đƣa ra có đƣợc kỹ xảo và phƣơng pháp rõ ràng. Vì thế, ông muốn xây dựng

triết học thực dụng của mình thành một loại lôgíc khoa học hay phƣơng pháp luận

khoa học để phân tích nghĩa của từ, của khái niệm, tƣ tƣởng hay nghĩa của ký hiệu

và biến chúng thành phƣơng tiện để củng cố niềm tin, phƣơng thức sử dụng hành

động để đạt đến mục đích. Phƣơng thức để củng cố niềm tin và vấn đề đạt đƣợc

niềm tin vững chắc trên cơ sở làm cho khái niệm, tƣ tƣởng trở nên rõ ràng đã trở

thành bộ phận cấu thành chủ yếu trong triết học thực dụng của Peirce. Do đó, chân

lý đạt đƣợc là sự loại bỏ hoài nghi đạt tới niềm tin; hay chân lý là niềm tin vững

chắc. Việc củng cố niềm tin cũng tức là giúp con ngƣời hành động một cách hiệu

quả, thành công, đạt mục đích đặt ra, đó là niềm tin thực dụng.

Triết học thực dụng của C. Peirce tuy không phải là một hệ thống triết học

hoàn chỉnh, nhƣng những tƣ tƣởng thực dụng chủ nghĩa mà ông đƣa ra vào

những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX đã thực sự trở thành cơ sở lý luận

cho sự ra đời của triết học thực dụng Mỹ và do đó, ông xứng đáng đƣợc tôn vinh

là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng Mỹ - một trào lƣu triết học có ảnh hƣởng

lớn không chỉ trong thế kỷ XX, mà còn cho đến cả hiện nay. Đồng thời, Peirce

cũng là người đặt nền móng cho quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng

Mỹ. Nói tới triết học thực dụng chúng ta không thể không nói tới quan niệm về

chân lý của trƣờng phái triết học này, làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học

thực dụng cũng tức là làm rõ bản chất của triết học thực dụng mà Peirce là ngƣời

đặt nền móng.

2.3.2. William James

William James (1842 - 1910) là nhà triết học và nhà tâm lý học ngƣời Mỹ.

Ông học ở Ðại học New York và ở châu Âu, ông tốt nghiệp Y khoa tại Ðại học

Harvard (1869), ở đây ông bắt đầu dạy về khoa giải phẫu và sinh lý học (1873). Từ

năm 1875, ông giảng dạy tâm lý học, năm 1876 làm phó giáo sƣ sinh lý học, năm

77

1879 bắt đầu giảng dạy triết học, năm 1880 làm phó giáo sƣ triết học, năm 1885

đƣợc đề bạt là giáo sƣ triết học. Các tác phẩm chính của ông gồm có The Principles

of Psychology (Những nguyên lý của tâm lý học, 1890), The Will to Believe (Ý chí

để tin, 1897), The Varieties of Religious Experience (Tính đa dạng của kinh nghiệm

tôn giáo, 1902), Pragmatism (Chủ nghĩa thực dụng, 1907), v.v…

Trên cơ sở những tƣ tƣởng của C. Peirce, W. James đã kế thừa, hệ thống hóa

triết học thực dụng, ông chính là ngƣời truyền bá triết học thực dụng của Peirce vào

đời sống, làm cho nƣớc Mỹ biết đến Peirce với tƣ cách là ngƣời sáng lập triết học

thực dụng. Công lao của W. James là phát triển những nguyên tắc phƣơng pháp

luận triết học thực dụng của Peirce thành hệ thống, đồng thời dùng nó để phân tích

những vấn đề cụ thể. Ông đã biến tƣ tƣởng triết học thực dụng của Peirce thành

khái niệm mang tính cơ sở, nền tảng của triết học thực dụng.

Từ năm 1889, trong những bài giảng của mình, W. James đã trình bày tƣ

tƣởng của C. Peirce, trong bài “Khái niệm triết học với hiệu quả thực tế”, ông

nhấn mạnh: “Đều có thể tiếp tục đƣa nghĩa thực tế của bất kỳ mệnh đề triết học

nào đến kết quả đặc biệt nhất định nào đó trong kinh nghiệm thực tế tƣơng lai

của chúng ta - bất kỳ nó là tích cực hay tiêu cực. Vấn đề là, nói trên sự thực cần

phải tích cực không bằng nói kinh nghiệm cần phải dựa trên thực tế đặc biệt nhất

định” [dẫn theo: 9, tr. 82]. Sau đó, lần lƣợt trong các công trình: “Từ điển triết

học tâm lý học của Baonơ”, “Chủ nghĩa thực dụng”, “Một số vấn đề của triết

học”, W. James đã tiến hành chú giải, trình bày, bình luận về học thuyết triết học

thực dụng của C. Peirce. Về luận thuyết của chủ nghĩa thực dụng đƣợc ông

khẳng định: “Toàn bộ “nghĩa” của một khái niệm đƣợc thể hiện qua hiệu quả

thực tế, hoặc là kết quả đƣợc biểu hiện trong hình thức hành động cần đƣợc chấp

nhận, hoặc là kết quả đƣợc biểu hiện trong hình thức kinh nghiệm có thể chờ đợi,

nếu khái niệm này là chân thật” [dẫn theo: 9, tr. 83]. Hay, “Khi chúng ta suy nghĩ

về sự vật, nếu muốn hiểu nó hoàn toàn rõ ràng, chỉ cần suy nghĩ nó có thể hàm

chứa hiệu quả thực tế gì, tức chúng ta sẽ có đƣợc cảm giác gì từ sự vật ấy, chúng

ta cần phải chuẩn bị những phản ứng gì. Chúng ta có đầy đủ khái niệm về những

hiệu quả bất kỳ trƣớc mắt hay xa vời” [dẫn theo: 9, tr. 83]. Vấn đề về nghĩa đƣợc

78

khẳng định trong triết học thực dụng: “Quy tắc của chủ nghĩa thực dụng là: Về

nghĩa của một khái niệm, nếu không tìm đƣợc từ trong sự việc có thể cảm giác

đƣợc nào đó do khái niệm ấy trực tiếp chỉ ra, đều có thể tìm đƣợc trong sự khác

biệt của một loại đặc thù do tính chân thật của khái niệm tạo nên trong quá trình

kinh nghiệm của con ngƣời” [dẫn theo: 9, tr. 84]. (Toàn bộ từ “ý nghĩa” trong bản

dịch của tác giả dùng, theo nghiên cứu sinh nên dịch và thay là từ “nghĩa”).

Từ các tƣ tƣởng của C. Peirce, ngƣời cho rằng nghĩa của khái niệm, tƣ

tƣởng thể hiện ở tổng số hiệu quả thực tế mà quan niệm đó tạo ra, W. James xây

dựng chủ nghĩa thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng. Theo

James, chúng ta phải xác định chân lý của mệnh đề trong bất cứ hệ thống triết học

nào tƣơng ứng với các kết quả thực nghiệm và qua các hiệu quả thực tế của nó. Do

đó, chủ nghĩa thực dụng bác bỏ bất cứ nghĩa biểu tƣợng siêu hình nào của tƣ

tƣởng và cũng bác bỏ mọi phƣơng pháp đƣợc giả định là sẽ dẫn tới chân lý qua

phép loại suy từ những cơ sở tiên nghiệm. Triết học thực dụng khẳng định rằng,

chân lý bị hiệu chỉnh khi nó vừa đƣợc phát hiện và chân lý thì thay đổi nên nó chỉ

có giá trị tƣơng đối theo thời gian, nơi chốn và mục đích.

Lý luận của triết học thực dụng đƣợc W. James triển khai tổng quát và cụ

thể hóa từ tƣ tƣởng của C. Peirce. Tuy vậy, về nguyên tắc, tƣ tƣởng triết học

thực dụng của Peirce và James cũng có sự phân biệt: Peirce nhấn mạnh cái

chung, trong khi đó James coi trọng cái cá biệt. Peirce nhấn mạnh các khái niệm

trong kinh nghiệm của con ngƣời đem lại “hiệu quả” thực tế, là “hiện tƣợng thực

nghiệm có thể tƣởng tƣợng đƣợc”, ở đây là kinh nghiệm thông qua thực nghiệm

và khái quát khoa học. Khía cạnh ông quan tâm là mối quan hệ giữa kinh nghiệm

của một chủng loại nhất định chứ không phải là phản ứng của cá nhân, còn

James nhấn mạnh kinh nghiệm của con ngƣời, kinh nghiệm trong đời sống cá

nhân. Sự khác nhau trong cách trình bày về triết học thực dụng giữa Peirce và

James phản ánh sự kế thừa và phát triển của James, vai trò của ông là đã phát

triển triết học thực dụng từ những nguyên tắc phƣơng pháp luận còn mang tính

trừu tƣợng của Peirce thành một hệ thống lý luận tƣơng đối hệ thống của triết

học thực dụng. Theo đó, trong quan niệm về chân lý, James đã cụ thể hóa quan

79

niệm của Peirce khi khẳng định tư tưởng là hữu ích, vì nó chân thực hay tư

tưởng chân thực, vì nó hữu ích.

2.3.3. John Dewey

John Dewey (1859 - 1952) là nhà triết học, nhà giáo dục lớn, nhà xã hội

học ngƣời Mỹ. Về phƣơng diện triết học, ông đƣợc xem là “nhà thực dụng ảnh

hƣởng nhất” [106, tr. 315]. J. Dewey sinh tại Burlington, năm 1879, ông tốt

nghiệp Ðại học Vermont, sau đó lấy bằng tiến sĩ của Ðại học Johns Hopkins năm

1884. Từ đó, ông dạy học tại nhiều nơi nhƣ Đại học bang Michigan, Đại học

Chicago. Tại đây, ông nổi tiếng với các khái niệm thực dụng về giáo dục. Từ

năm 1904 tới năm 1929, ông là thành viên của phân khoa tại Đại học tổng hợp

Columbia. Ông viết ra một khối lƣợng tác phẩm đồ sộ. Ông là một trong những

triết gia sáng tác nhiều nhất, ngay cả lúc về hƣu. Các vấn đề ông nghiên cứu bao

trùm một phạm vi rộng lớn về lôgíc học, siêu hình học, các lý thuyết về nhận

thức. Ông để lại cho nhân loại khoảng 30 tác phẩm và hàng nghìn luận văn, các

tác phẩm ảnh hƣởng lớn nhất của ông bàn về giáo dục, dân chủ, đạo đức học, tôn

giáo và nghệ thuật, ngay cả triết học thực dụng của ông cũng thuộc về lĩnh vực

xã hội hơn là cá nhân.

Vào hai thập niên đầu thế kỷ XX, J. Dewey đã trình bày một số tƣ tƣởng

triết học, nhƣng chƣa gây đƣợc tiếng vang nào, chỉ đến thập niên thứ ba, ông đã

đứng vào hàng ngũ triết gia số một của nƣớc Mỹ. Trong hàng loạt tác phẩm đƣợc

công bố, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, ông vẫn tiếp tục truyền thống triết học

thực dụng của C. Peirce và W. James, nhƣng không còn nguyên vẹn nữa. Có thể

nói, đóng góp của ông là sự tổng kết, hệ thống hóa và đƣa triết học thực dụng

thành một học thuyết phổ biến trong đời sống xã hội.

Tên tuổi của J. Dewey gắn liền với sự phát triển triết học thực dụng trong

chủ nghĩa công cụ (instrumentalism). Chủ nghĩa công cụ của ông có liên quan

rất mật thiết với triết học thực dụng của W. James. Triết học thực dụng của ông

đề cao kinh nghiệm, hiệu quả, giới hạn triết học của ông trong phạm vi kinh

nghiệm, “kinh nghiệm” là khái niệm trung tâm trong triết học của ông. Ông coi

tri thức là công cụ để thích ứng với hoàn cảnh, chân lý là cái có ích, có lợi.

Dewey cho rằng, chân lý có tính tiến hóa, không cố định hoặc vĩnh hằng và rằng

80

các kiểu mẫu và các hình thức đa dạng của hoạt động con ngƣời là công cụ cho

con ngƣời phát triển để giải quyết vô số vấn đề của xã hội và của tâm lý cá nhân.

Vì các vấn đề đó liên tục biến đổi, nên các công cụ dùng để giải quyết chúng

cũng phải biến đổi theo. Chân lý biến đổi trong tự nhiên, hợp thành một thực tại

không vĩnh hằng cũng không siêu nghiệm và được đặt trên kinh nghiệm, cái có

thể kiểm nghiệm và chia sẻ bởi tất cả những ai tiến hành thẩm tra.

Với chủ trƣơng gắn triết học với đời sống thực tiễn, J. Dewey đặc biệt

thành công trong triết lý giáo dục. Việc tìm kiếm một triết lý giáo dục để có thể

sửa chữa những khuyết tật của xã hội là mối quan tâm hàng đầu của ông, chủ

trƣơng dùng quan điểm tâm lý học để giảng dạy; lấy thực nghiệm giáo dục làm

nội dung quan trọng; vận dụng triết học nhằm cải tạo đời sống xã hội. Ở lĩnh vực

này, ảnh hƣởng của Dewey là ngƣời đi đầu trong quá trình loại bỏ các phƣơng

pháp truyền thống, cũ kĩ và nhấn mạnh sự học hỏi thông qua thực nghiệm và

thực hành, chống lại lối học trừu tƣợng. Dewey xem giáo dục nhƣ một công cụ

giúp cá nhân có khả năng hợp nhất lối sống, văn hóa và thiên hƣớng của mình

một cách hiệu quả và thực dụng. Sự đóng góp của ông vào cuộc vận động cho

một học đƣờng cấp tiến đã đƣợc công nhận trên khắp thế giới.

Trong quan niệm về dân chủ, J. Dewey xem dân chủ là giá trị đạo đức số

một và vì thế, ông nỗ lực đề ra các nguyên tắc nhằm xây dựng một xã hội dân chủ

và kỹ nghệ. Ông còn tham gia tích cực vào phong trào đẩy mạnh trợ cấp an sinh xã

hội, bảo vệ quyền tự do học thuật, cải thiện năng lực và hiệu quả chính trị.

J. Dewey có đóng góp lớn về mặt triết học, ông là ngƣời đã hoàn thiện và

đƣa triết học thực dụng vào đời sống thực tiễn một cách phổ biến ở nƣớc Mỹ.

Công lao và ảnh hƣởng của Dewey cũng nhƣ triết học thực dụng của ông đã đƣa

ông đến một vị trí đặc biệt trong triết học phƣơng Tây hiện đại. Trong cuốn sách

“Lịch sử triết học phƣơng Tây” của B. Russell năm 1946, cuốn sách để tôn vinh

tên tuổi và sự nghiệp của các nhà triết học, chỉ có triết gia duy nhất còn sống

đƣợc dành cho một chƣơng là John Dewey. Ông đã phát triển quan niệm về chân

lý trong chủ nghĩa công cụ, làm cho nó không còn trừu tƣợng nhƣ quan niệm của

C. Peirce và W. James, theo đó chân lý được hiểu là tính hữu ích, sự thành công

trong việc giải quyết những tình huống cụ thể.

81

TIỂU KẾT CHƢƠNG 2

Triết học thực dụng là một trào lƣu triết học ra đời ở Mỹ vào những năm

70 của thế kỷ XIX, là đóng góp độc đáo nhất của tƣ tƣởng Mỹ cho kho tàng triết

học nhân loại. Triết học thực dụng đƣợc hình thành với lý thuyết nền tảng của

C.Peirce, đƣợc truyền bá rộng rãi bởi W. James và đƣợc đƣa vào đời sống hàng

ngày một cách có phƣơng pháp nhờ J. Dewey, trong đó “ngƣời độc đáo nhất là

Charles Peirce, ngƣời thú vị nhất để đọc là William James và ngƣời gây ảnh

hƣởng sâu rộng nhất là John Dewey” [80, tr. 237]. Về cống hiến của Peirce trong

lịch sử tƣ tƣởng triết học, ông đƣợc thừa nhận là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực

dụng, James là ngƣời kế thừa, hệ thống hóa chủ nghĩa thực dụng. Ông chính là

ngƣời truyền bá chủ nghĩa thực dụng của Peirce vào đời sống, làm cho nƣớc Mỹ

biết đến triết học thực dụng. Còn Dewey là ngƣời đã hoàn thiện và đƣa chủ nghĩa

thực dụng vào đời sống thực tiễn một cách phổ biến ở nƣớc Mỹ.

Triết học thực dụng bắt nguồn từ “Câu lạc bộ siêu hình học” do C. Peirce

đứng đầu, thành lập tại Trƣờng đại học Harvard. Nhƣng khái niệm “chủ nghĩa

thực dụng” (pragmatism) lại do W. James nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát

biểu đọc tại California vào năm 1898 với tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả

thực tế. Trong bài phát biểu này, W. James đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và

“nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ nghĩa thực dụng” của Peirce. Trên cơ sở

nguyên tắc thực dụng của Peirce, James đã phát triển thành lý thuyết về chân lý và

J. Dewey đã xây dựng lý luận này trong chủ nghĩa công cụ. Có thể nói, quan niệm

về chân lý là một nội dung cơ bản trong toàn bộ học thuyết của triết học thực dụng

Mỹ với ba nhà triết học tiêu biểu là Peirce, James và Dewey.

Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc hình thành trên

mảnh đất hiện thực ở Mỹ vào những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.

Nƣớc Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong

phú, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng một nền kinh tế phát triển. Về mặt

xã hội, nƣớc Mỹ đƣợc hình thành với điều kiện hết sức đặc thù, lịch sử nước Mỹ

là sự tiếp tục của lịch sử châu Âu ở một lục địa khác, thông qua những cuộc di

82

dân, chủ yếu là từ châu Âu, họ mang theo nền văn hóa truyền thống, thể chế

chính trị dân chủ và quan hệ sản xuất tiên tiến đến nƣớc Mỹ. Chủ nghĩa tƣ bản

phát triển mạnh mẽ, làm cho ngƣời Mỹ khao khát có một hệ tƣ tƣởng riêng, mới

và một tƣ duy triết học phù hợp với tính đa quốc gia, đa sắc tộc, đa văn hóa của

dân tộc Mỹ. Hoàn cảnh và sự khao khát của con ngƣời đã thai nghén và sinh

thành nền văn hóa Mỹ, triết học Mỹ, hệ thống lý luận đậm chất Mỹ mà quan

niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ với cốt lõi là lấy tính hiệu quả, cái

có ích, sự thành công làm tiêu chuẩn đã đáp ứng đƣợc yêu cầu đó. Với ngƣời

Mỹ, tƣ duy hiệu quả đƣợc đặt lên hàng đầu, mọi hành động đều phải tạo ra một

hiệu quả nào đó, bởi chỉ có hiệu quả mới giúp ích cho họ, hiệu quả trở thành mục

đích của hành động, là thƣớc đo giá trị, cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Cái gì

hữu dụng cái đó là chân lý, cái gì là chân lý cái đó tất phải hữu dụng trở thành

quan niệm cơ bản về chân lý của triết học thực dụng Mỹ. Vì vậy, triết học thực

dụng nói chung, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói riêng đƣợc

hình thành ở nƣớc Mỹ không ngoài đòi hỏi tất yếu khách quan đó.

Trên mảnh đất hiện thực đó, các nhà triết học thực dụng đã kế thừa, tiếp

thu những tiền đề lý luận để xây dựng hệ thống quan niệm về chân lý. Tiền đề lý

luận quan trọng cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực

dụng Mỹ phải nói tới bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ. Nội dung

cốt lõi của bản Tuyên ngôn này là xác lập nền dân chủ, mà giá trị nền tảng của

nó là tƣ tƣởng tự do. Đó là cơ sở lý luận quan trọng cho sự hình thành triết học

thực dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý của triết học thực dụng nói

riêng. Trên nền tảng lý luận là tƣ tƣởng về quyền của con ngƣời, quyền tự do,

dân chủ, cùng những giá trị đạo đức của đạo Tin lành, cốt lõi là niềm tin vào sự

thành công, sự giàu có, sự thỏa mãn bằng chính năng lực lao động của con ngƣời,

đã củng cố cho sự hình thành niềm tin thực dụng với tính cách là chân lý. Niềm tin

thực dụng đặt ra cho con ngƣời cần tin vào cái gì? Hay tính chân thực của niềm

tin. Trả lời câu hỏi đó, triết học thực dụng khẳng định cần tin vào sự rõ ràng của tƣ

tƣởng, quan niệm mà tiêu chuẩn của sự rõ ràng đó chính là hiệu quả thực tế do nó

83

tạo ra. Các nhà triết học thực dụng đặt ra và thực hiện một cuộc cách mạng trong

triết học, đó là xác định lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học. Đối tƣợng, nhiệm vụ

đó không gì khác chính là đƣa triết học về với đời sống thực tiễn, coi trọng

phƣơng pháp luận, nhấn mạnh hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Theo các

nhà triết học thực dụng, các trƣờng phái triết học trƣớc đó đã không đáp ứng đƣợc

yêu cầu này. Trên cơ sở phê phán các trƣờng phái triết học tƣ biện, các nhà triết

học thực dụng đã xây dựng hệ thống lý luận của triết học thực dụng nói chung và

quan niệm về chân lý nói riêng.

Tóm lại, đặc điểm chung của triết học thực dụng là nhấn mạnh triết học

cần đi sâu và giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn, thực dụng là

phƣơng thức tƣ duy trong hành động, theo đó chân lý là niềm tin vững chắc,

hành động là phƣơng tiện chủ yếu, hiệu quả thực tế là thƣớc đo, là mục đích của

hành động. Với tôn chỉ này, triết học thực dụng trở thành món ăn tinh thần phổ

biến và đƣợc ƣa chuộng của ngƣời Mỹ, thúc đẩy họ cải tạo thực tiễn bằng chính

hiệu quả trong hành động của mình.

84

Chƣơng 3

NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ

TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ

Chân lý là nội dung xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống lý luận của triết

học thực dụng Mỹ. Các nhà triết học thực dụng Mỹ, từ C. Peirce đến W. James

và J. Dewey đều xác định vị trí của vấn đề chân lý ở những góc độ khác nhau, là

cơ sở cho việc triển khai những nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý.

Vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc thể hiện ở những nội dung cơ

bản nhƣ: khái niệm chân lý; tiêu chuẩn của chân lý và phƣơng pháp luận khoa

học nhằm đạt đến chân lý. Làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về

chân lý trong triết học thực dụng Mỹ là cơ sở cho việc phân tích những giá trị và

hạn chế của nó, đồng thời chỉ ra những ảnh hƣởng của quan niệm này đến văn

hóa, lối sống Mỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung của quan niệm về chân lý

trong triết học thực dụng Mỹ là một trong những vấn đề quan trọng nhất và chỉ

khi giải quyết đƣợc vấn đề này sẽ là chìa khóa để lý giải một cách sâu sắc bản

chất của triết học thực dụng Mỹ.

3.1. Về khái niệm chân lý

Khái niệm chân lý của triết học thực dụng có quá trình hình thành và phát

triển đƣợc bắt đầu bằng quan điểm mang tính nền tảng của C. Peirce, đƣợc

W.James triển khai tổng quát và hệ thống hóa, làm tiền đề cho sự phát triển trong

chủ nghĩa công cụ của J. Dewey.

3.1.1. Niềm tin thực dụng với tính cách là chân lý

C.Peirce đã đặt khái niệm “niềm tin thực dụng” thành tâm điểm trong hệ

thống triết học của mình, để từ đó, khẳng định sứ mệnh của triết học không phải là

nhận thức thế giới mà là củng cố niềm tin: “Hoạt động tƣ duy là do sự hoài nghi

kích thích gây nên. Khi đạt đƣợc niềm tin thì hoạt động này mới dừng lại. Đạt đến

niềm tin là chức năng duy nhất của tƣ duy” [135, T.V, đoạn 394].

Với phạm trù “niềm tin”, C. Peirce mong muốn xây dựng triết học thực

dụng trở thành một “phƣơng pháp luận khoa học”. Xuất phát từ lý luận hoài nghi

85

- niềm tin, Peirce coi mục đích của nghiên cứu là đạt tới niềm tin bằng mọi cách,

niềm tin đƣợc xác định thông qua thăm dò để thoát khỏi trạng thái hoài nghi, căn

cứ duy nhất của phƣơng pháp khoa học không gì khác hơn là phƣơng pháp củng

cố niềm tin một cách vững chắc và triệt để. Do đó, phƣơng pháp này của Peirce

đƣợc gọi là “lý luận thăm dò - hoài nghi - niềm tin”. Lý luận này đƣợc bắt đầu

bằng quá trình thăm dò, đi từ hoài nghi đến xác định niềm tin: “Hoạt động tƣ duy

đƣợc thúc đẩy bởi sự nghi ngờ, và chỉ dừng lại khi niềm tin đƣợc xác lập; vậy

nên tạo ra niềm tin là chức năng duy nhất của tƣ duy” [139, tr. 83]. Vì vậy, có

thể nói, phạm trù “niềm tin” trong triết học thực dụng của Peirce vừa là một

phƣơng pháp, vừa là mục đích của phƣơng pháp - củng cố niềm tin vững chắc.

Theo đó, vấn đề con ngƣời hƣớng tới không phải là nhận thức chân thực mà là

đạt tới niềm tin vững chắc, để đạt đƣợc niềm tin vững chắc, cần phải loại bỏ hoài

nghi. Với quan niệm này, Peirce khẳng định: “Chân lý đƣợc xem là niềm tin nhất

quán và vững chắc” [92, tr. 27].

Coi chân lý là niềm tin nhất quán, vững chắc, C. Peirce đã đƣa ra những

đặc tính bản chất của niềm tin: “Đầu tiên, nó là điều chúng ta nhận biết đƣợc; thứ

hai, nó xóa đi sự khó chịu do nghi ngờ đem lại; và thứ ba, nó liên quan đến bản

chất thiết lập hành động thành quy tắc, hay, nói ngắn gọn lại là thói quen” [139, tr.

85]. Trong quan niệm này, ông đã nói đến mối liên hệ giữa niềm tin với nhận

thức, hoài nghi và những kinh nghiệm do thói quen tạo nên. Phạm trù niềm tin

trong triết học của Peirce là “niềm tin thực dụng”, bởi củng cố niềm tin là đích đến

của phƣơng pháp, đồng thời củng cố niềm tin chính là để hành động có hiệu quả,

ông khẳng định “niềm tin hoặc ý kiến chân chính là cái con ngƣời mƣợn để chuẩn

bị hành động” [135, T.II, đoạn 148], nên “niềm tin khác nhau dẫn đến phƣơng

thức hành động khác nhau” [135, T.V, đoạn 398]. Do đó, niềm tin đứng ở vị trí

trung tâm giữa tƣ tƣởng và hành động: “Một niềm tin không bao hàm hành động

là niềm tin trống rỗng, không có lý do” [77, tr. 445]. Từ đó, ông khẳng định: Con

ngƣời chỉ cần có niềm tin vững chắc là có thể hành động và hành động một cách

hiệu quả, thậm chí không cần quan tâm đến nhận thức đó là đúng hay không. Khi

lấy hiệu quả, sự thỏa mãn những mục tiêu đặt ra làm tiêu chuẩn của niềm tin

86

vững chắc, ông cho rằng, việc xác định tính hữu dụng, sự thỏa mãn đó phải dựa

trên phƣơng pháp khoa học để loại bỏ hoài nghi.

Chủ nghĩa hoài nghi không phải đến C. Peirce mới có, trƣớc đó, chúng ta

đều biết đến thuyết hoài nghi của R. Descartes. Đó là sự hoài nghi toàn diện,

hoài nghi với tƣ cách một giả thiết chủ quan, là “vật liệu xây dựng”, là khởi đầu

của nhận thức để ông tìm cơ sở vững chắc cho nhận thức, cho nên cần phải hoài

nghi tất cả. Hoài nghi theo quan niệm của Descartes là biểu hiện của phƣơng

pháp luận. Còn với D. Hume, hoài nghi là giới hạn cuối cùng của nhận thức.

Với C. Peirce, chân lý là niềm tin nhất quán và vững chắc. Để trở nên vững

chắc, nó phải là niềm tin chung, nghĩa là đƣợc những ngƣời cùng quan tâm thừa

nhận. Đó là chân lý khoa học chứ không phải chân lý của cuộc sống đời thƣờng,

để đạt đƣợc chân lý khoa học là quá trình nhận thức lâu dài, chứ không phải sinh

ra một cách sẵn có. Mỗi chân lý đạt đƣợc - với tính cách là niềm tin vững chắc và

triệt để, là sự loại bỏ những hoài nghi, củng cố niềm tin khoa học.

Với phạm trù đó, C. Peirce coi hoài nghi là điểm khởi đầu của lý luận

thăm dò. Quá trình nghiên cứu nhằm chuyển từ trạng thái hoài nghi sang niềm

tin. Peirce không chủ trƣơng xác lập thứ hoài nghi giả tạo mà căn cứ vào hoài

nghi hiện thực, hoài nghi nảy sinh trong cuộc sống. Theo Peirce, hoài nghi là

trạng thái thiếu hoặc mất niềm tin, dẫn đến trạng thái do dự, không dứt khoát,

không thể hành động đƣợc. Con ngƣời ở trạng thái hoài nghi là do xuất hiện

hoàn cảnh mới mà kinh nghiệm đã có không giải quyết đƣợc. Sự khác biệt thực

tế giữa niềm tin và hoài nghi đƣợc thể hiện ở chỗ, nếu niềm tin giúp con ngƣời

định hƣớng nhận thức và hành động thì hoài nghi không có đƣợc điều này. Khía

cạnh thứ hai của sự khác biệt này là ở chỗ, niềm tin trở thành thói quen đƣợc

thiết lập sẵn trong bản chất để chi phối hành động thì sự nghi ngờ là không có. Ở

điểm khác biệt thứ ba, theo Peirce, “nghi ngờ là một trạng thái khó chịu và

không hài lòng mà chúng ta luôn đấu tranh để giải phóng chính mình ra khỏi nó

và chuyển sang trạng thái tin tƣởng; trong khi trạng thái sau là trạng thái yên

bình và thỏa mãn mà chúng ta không muốn sẽ tránh xa, hay chuyển sang một

niềm tin khác” [139, tr. 66].

87

Từ sự phân biệt giữa niềm tin và hoài nghi, C. Peirce đã đƣa ra một quan

điểm mới về quá trình nhận thức đi từ hoài nghi đến niềm tin: “Nhận thức không

diễn ra nhƣ quá trình đi từ chƣa biết đến biết, mà từ trạng thái hoài nghi và dao

động sang ý kiến chắc chắn, sang niềm tin vững chắc, sang niềm tin không suy

suyển, có khả năng định hƣớng hoạt động. Tƣ duy phục vụ cho hành động chứ

không ngƣợc lại” [92, tr. 24]. Rằng, chính nghi ngờ cũng là một động lực giúp

cho con ngƣời đạt tới sự tin tƣởng: “Sự kích thích của nghi ngờ làm chúng ta đấu

tranh để đạt tới sự tin tƣởng” [139, tr. 67]. Không chỉ niềm tin có tác dụng tích

cực, nó định hƣớng và thúc đẩy con ngƣời hành động mà nghi ngờ cũng có tác

dụng tích cực nhất định đối với con ngƣời. Do đó, theo ông, quá trình phát triển

của nhận thức là quá trình đi từ hoài nghi đến niềm tin, loại bỏ đƣợc hoài nghi,

đạt tới niềm tin vững chắc để phục vụ cho hành động là mục đích của nhận thức:

“Ngay khi mà một sự kích thích của điều hoài nghi tạo nên một sự đấu tranh để

đạt tới sự tin tƣởng, niềm tin chắc chắn đã đạt đƣợc, thì chúng ta cũng hoàn toàn

đã thỏa mãn, cho dù niềm tin đó là chân thực hay giả tạo” [139, tr. 67].

C. Peirce đã đƣa ra quan niệm của triết học thực dụng về hoạt động tƣ duy

của con ngƣời. Trƣớc đó, theo lý thuyết phản ánh, chúng ta hiểu hoạt động của

tƣ duy, ý thức là sự phản ánh hiện thực. Peirce phủ nhận thuyết phản ánh khi

cho rằng, hoạt động nhận thức của con ngƣời không phải là sự phản ánh hiện

thực của ý thức mà là một hình thức hoạt động thích nghi của cơ thể mang bản

năng sinh học. Nó đƣợc xem là hoạt động định hƣớng chứ không phải là hoạt

động phản ánh hiện thực. Nó điều tiết mối quan hệ của con ngƣời với môi

trƣờng, thiết lập nên thói quen phản ứng đối với môi trƣờng xung quanh bằng

phƣơng tiện này hay phƣơng tiện khác. Sống trong thế giới buộc con ngƣời phải

hành động, trong quá trình đó, con ngƣời tạo ra các thói quen hành động. Thói

quen đặt trong hoàn cảnh nhất định sẽ tạo nên niềm tin. Đạt đƣợc niềm tin vững

chắc là mục đích duy nhất của tƣ duy.

Với quan niệm này, C. Peirce cho rằng, niềm tin là bƣớc chuẩn bị để con

ngƣời hành động, niềm tin định hƣớng, thúc đẩy và quyết định hành động nên

niềm tin khác nhau sẽ dẫn đến phƣơng thức hành động khác nhau: “Niềm tin

88

không làm cho chúng ta hành động tức thì, nhƣng lại đƣa chúng ta vào một điều

kiện nhƣ thể để chúng ta sẽ quyết định hƣớng hành động theo một cách nào đó khi

tình huống sự việc xảy ra” [139, tr. 67]. Là một nhà triết học thực dụng, Peirce coi

đích đến của nhận thức là hành động, thậm chí ông còn khẳng định con ngƣời chỉ

cần có niềm tin vững chắc là có thể hành động, còn việc nhận thức thế giới có

đúng hay không, điều đó không liên quan đến hành động. Theo ông, hành động

của con ngƣời chỉ cần dựa vào niềm tin xác định, không dựa vào nhận thức đúng

hay sai, để cho tƣ tƣởng, quan niệm có thể trở thành niềm tin của con ngƣời cần

phải rõ ràng, trong sáng. Tiêu chuẩn đó không phải là sự phản ánh đối tƣợng đúng

hay sai, mà ở chỗ chúng có thúc đẩy con ngƣời hành động và đạt hiệu quả mong

đợi hay không. Ông coi mục đích của tƣ duy là đạt đƣợc niềm tin vững chắc.

Quan điểm trên của C. Peirce cho thấy ông đã tuyệt đối hóa vai trò của

niềm tin đối với hành động và xem nhẹ việc nhận thức đúng đắn thế giới. Ông

không hiểu rằng, niềm tin rõ ràng, trong sáng chỉ có thể có đƣợc dựa trên sự

nhận thức đúng đắn thế giới. Mặc dù vậy, khi nhấn mạnh vai trò của niềm tin đối

với hành động cải tạo thế giới, Peirce muốn khẳng định một triết lý hành động

dựa trên niềm tin, niềm tin là động lực trực tiếp, thôi thúc con người hành động

đạt hiệu quả.

Chúng ta đều biết, nƣớc Mỹ đƣợc tạo nên từ làn sóng di dân từ khắp nơi

trên thế giới, đến một vùng đất mới, tôn chỉ của họ là hành động, chỉ có một

niềm tin vững chắc mới giúp họ thành công trong hành động ở một vùng đất xa

lạ. Ở một khía cạnh nhất định, chính triết lý hành động của triết học thực dụng

đã tạo nên sự phù hợp với tính cách, lối sống của ngƣời Mỹ, những ngƣời đặt

hiệu quả, sự thành công của hành động lên hàng đầu.

Vấn đề tính chân thực hay sai lầm của niềm tin không đƣợc C. Peirce đặt

ra và giải quyết, thay vào đó là khả năng loại bỏ hoài nghi đạt đến trạng thái thỏa

mãn với một niềm tin vững chắc. Theo ông, điểm xuất phát là một niềm tin, quá

trình phát triển của nhận thức đi từ niềm tin tới hoài nghi, rồi từ sự kích thích của

hoài nghi để đi tới niềm tin vững chắc, khi đó mục đích của nhận thức đã hoàn

thành. Theo quan niệm của Peirce, chân lý là niềm tin nhất quán và vững chắc,

89

chân lý đƣợc xác định thông qua hoài nghi và niềm tin, có nghĩa rằng chân lý

đồng nhất với niềm tin. Mục đích của nhận thức là đạt đến niềm tin, củng cố niềm

tin vững chắc là bƣớc chuẩn bị cho hành động, hành động nhằm đạt một mục đích

nào đó, cũng tức là việc thừa nhận chân lý là cái góp phần đạt tới mục đích.

Nhƣ vậy, có thể nói, “niềm tin” là phạm trù trung tâm trong triết học thực

dụng của C. Peirce, đó là “niềm tin thực dụng”. Niềm tin thực dụng khác với

niềm tin tôn giáo, không chỉ bởi nó là niềm tin đƣợc xây dựng trên mảnh đất

thực tiễn mà còn là nguyên tắc chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Mặc dù còn hạn chế

ở tính chủ quan, ở sự tuyệt đối hóa vai trò của niềm tin đối với nhận thức và

hành động, nhƣng việc nhấn mạnh sức mạnh của niềm tin, coi niềm tin xác định

là thái độ sẵn sàng hành động để đạt hiệu quả là một đóng góp lớn cả về lý luận

và thực tiễn của Peirce. Đóng góp đó càng đặc biệt với nƣớc Mỹ, một dân tộc

đƣợc hình thành từ những cƣ dân di cƣ đến từ khắp nơi trên thế giới, tạo nên một

hợp chủng quốc Hoa Kỳ với vị thế là cƣờng quốc số một thế giới hiện nay. Đối

với ngƣời Mỹ, niềm tin thực dụng đã trở thành sức mạnh giúp con ngƣời hành

động đạt hiệu quả, sự thành công. Do đó, có thể nói, đó chính là một trong

những nguyên nhân quan trọng lý giải sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ trong lịch sử

cũng nhƣ ngày nay.

3.1.2. Định nghĩa chân lý

Nếu nhƣ trong lý luận hoài nghi - niềm tin, C. Peirce quan niệm chân lý là

niềm tin nhất quán và vững chắc, đó là niềm tin thực dụng, niềm tin đƣợc biểu

hiện là những thói quen và quy tắc hành động. Hành động của con ngƣời luôn

hƣớng tới thực hiện một mục đích nào đó, nên có thể hiểu niềm tin thực dụng tạo

ra hiệu quả của hành động, giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích đặt ra. Còn trong

lý luận về nghĩa, Peirce đã đƣa ra nguyên lý thực dụng hay “nguyên tắc Peirce”,

theo đó nghĩa của khái niệm thể hiện ở hiệu quả thực tế của nó. Chân lý đƣợc

quy về hiệu quả thực tế do khái niệm tạo ra.

Lý luận về nghĩa có liên quan chặt chẽ với phƣơng pháp luận khoa học của

C. Peirce, là sự tiếp tục phát triển của lý luận hoài nghi - niềm tin. Nhiệm vụ của

phƣơng pháp khoa học là củng cố niềm tin, niềm tin thƣờng tồn tại dƣới hình thức

90

quan điểm, tƣ tƣởng, phán đoán, chúng cần phải rõ ràng, trong sáng, tức là nghĩa

của chúng phải xác định. Lý luận về nghĩa có nhiệm vụ làm sáng tỏ nghĩa của tƣ

tƣởng, quan niệm, nó có một vị trí quan trọng trong toàn bộ triết học thực dụng của

Peirce. Điều đó khẳng định rằng, Peirce nhấn mạnh lý luận về nghĩa hơn nhấn mạnh

chân lý là một trong những biểu hiện chủ yếu khác với James và những ngƣời theo

chủ nghĩa thực dụng khác. Ông coi lý luận về nghĩa của khái niệm là nguyên tắc

định nghĩa khoa học, để phân biệt với những ngƣời theo chủ nghĩa thực dụng nhƣ

James quan niệm “có tác dụng tức là chân lý”.

Trong bài viết “Làm thế nào để tư tưởng trở nên rõ ràng”, C. Peirce đƣa

ra một phƣơng pháp mới để làm cho tƣ tƣởng hay khái niệm trở nên rõ ràng là

cần xác lập nghĩa của chúng. Nhƣng xác lập nghĩa của khái niệm nhƣ thế nào?

Trả lời câu hỏi này, Peirce cho rằng, nghĩa của khái niệm và tƣ tƣởng thể hiện ở

những hiệu quả thực tế của chúng đối với con ngƣời. Xác định đƣợc những hiệu

quả thực tế này cũng tức là hiểu đƣợc nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng và do đó,

làm cho tƣ tƣởng trở nên rõ ràng.

Lý luận về nghĩa với việc xác định tính rõ ràng của tƣ tƣởng đƣa đến quan

điểm nền tảng trong triết học thực dụng của C. Peirce, đƣợc thể hiện trong

“nguyên tắc Peirce”: “Hãy nhìn xem ta sẽ đạt đƣợc những hiệu quả thực tế nào

do đối tƣợng của khái niệm tạo ra. Khái niệm về tất cả những hiệu quả ấy là khái

niệm hoàn chỉnh về đối tƣợng” [135, T.V, đoạn 18]. Theo ông, các tƣ tƣởng

khác nhau vì nó dẫn đến những hiệu quả thực tế khác nhau, do đó nội dung của

bất kỳ tƣ tƣởng hay khái niệm nào không gì khác ngoài tổng số những hiệu quả

thực tế do nó tạo ra. Mặc dù vậy, hạn chế của ông là đã đồng nhất khái niệm về

tất cả những hiệu quả thực tế của đối tƣợng với bản thân đối tƣợng.

Khi giải thích thế nào là hiệu quả thực tế, C. Peirce trả lời rằng: Thứ nhất,

đó là những thói quen do đối tƣợng của khái niệm sinh ra; thứ hai, là những cảm

giác. Khi coi tiêu chuẩn của nghĩa là thói quen hành vi của con ngƣời, ông cho

rằng, tất cả thói quen nào đó dẫn đến những hành vi nhất định, thì đều có nghĩa.

Ông khẳng định: “Để làm rõ nghĩa của nó, chúng ta đơn giản cần phải xác định

nó tạo ra những thói quen nào, vì nghĩa của sự vật thể hiện ở chỗ nó hàm ý chỉ

91

những thói quen nào… sự đồng nhất của thói quen phụ thuộc vào việc khi nào và

bằng cách nào nó buộc chúng ta phải hành động” [139, tr. 87]. Khi ông coi

nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng là hiệu quả cảm giác đƣợc, thì việc nắm bắt chúng

trong hành động, trong kinh nghiệm, hiệu quả cảm giác sẽ tạo nên hiệu quả thực

nghiệm, hiệu quả hành động. Theo Peirce, tồn tại nghĩa là có hiệu quả thực tế

dƣới dạng các cảm giác và thói quen hành động, giữa chúng có mối liên hệ với

nhau: “Vì hành động của chúng ta bắt nguồn từ chỗ tác động lên cảm giác, thói

quen của chúng ta có nghĩa giống nhƣ hành động, niềm tin của chúng ta có nghĩa

giống nhƣ thói quen, khái niệm của chúng ta có nghĩa giống nhƣ niềm tin” [139,

tr. 88]. Vì thói quen là kết quả của những cảm giác, nên nghĩa của bất kỳ một

danh từ nào đều là sự trình bày các thuộc tính nhất định, đó là những thuộc tính

có thể cảm giác đƣợc: “Quan niệm của chúng ta về sự vật bất kỳ là quan niệm

của hiệu quả cảm tính của nó” [135, T.V, đoạn 401]. Theo ông, khái niệm về sự

vật chính là những hiệu quả cảm tính do khái niệm đó đem lại, do đó để hiểu

đƣợc nghĩa của một khái niệm, chúng ta phải dựa trên sự miêu tả thuộc tính có

thể cảm giác đƣợc của một khái niệm khác: “một danh từ có nghĩa vì nó có thể

do các danh từ khác miêu tả thuộc tính có thể cảm giác xác định. Nhƣ danh từ

“cứng” có nghĩa vì nó có giá trị nhƣ nhau với “không thể bị các vật khác phá

vỡ”” [135, T.V, đoạn 403].

Đặc trƣng cơ bản trong lý luận thực dụng của C. Peirce là sự đồng nhất

nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm với hiệu quả thực tế, gắn quan hệ giữa khái niệm

với chủ thể, khái niệm có nghĩa gì đối với chủ thể, đối với con ngƣời, đối với xã

hội: “Do chỗ con ngƣời hoàn toàn bị đặt trong phạm vi kinh nghiệm thực tế của

mình, nên trí tuệ cũng nhất thiết đóng vai trò là công cụ phục vụ cho những nhu

cầu của họ, khiến họ không thể mảy may nghĩ đến điều gì khác ngoài những điều

thuộc phạm vi đó” [135, T.V, đoạn 536]. Theo Peirce, có thể khái quát nghĩa của

khái niệm về sự vật là toàn bộ những hiệu quả thực tế được tạo nên từ những

cảm giác và những thói quen hành động của chủ thể. Điều này có nghĩa rằng,

bản thân sự vật hay thực tại khách quan bị hòa tan vào những hiệu quả đối với

chủ thể (những cảm giác và thói quen của chủ thể).

92

Từ “nguyên tắc Peirce”, khi coi nghĩa của khái niệm về sự vật là toàn bộ

những hiệu quả thực tế, là cơ sở để ông xây dựng quan điểm nền tảng của lý

thuyết chân lý thực dụng. Trong bài “Củng cố niềm tin”, ông viết: “Chân lý

khác với giả tạo đơn giản bởi hành động dựa trên cơ sở của nó… đƣa ta đến nơi

mà mình mong muốn, chứ không về phía ngƣợc lại” [135, T.V, đoạn 387]. Ở

luận điểm này, C. Peirce đã phân biệt chân lý với sai lầm ở chỗ, chân lý dẫn tới

thành công, giúp con ngƣời đạt mục đích, thỏa mãn, còn sai lầm thì ngƣợc lại,

không giúp chúng ta đạt đƣợc điều đó. Đây cũng chính là quan điểm cơ bản của

triết học thực dụng về chân lý, trở thành đặc trƣng của lý luận nhận thức trong

triết học thực dụng. Khi trình bày về “nguyên lý thực dụng”, C.Peirce đã đƣa ra

một định nghĩa điển hình về chân lý thực dụng: “Chân lý ở tính hữu dụng tƣơng

lai đối với những mục tiêu của chúng ta. Tôi cảm giác rằng chủ nghĩa thực dụng

thể hiện điều này” [136, tr. 381]. Ông coi hiệu quả, thành công, sự thỏa mãn

những mục tiêu của con người là chân lý, đồng thời cũng khẳng định việc xác

định tính hữu dụng, sự thỏa mãn đó phải dựa trên phƣơng pháp khoa học để loại

bỏ hoài nghi.

Quan niệm về chân lý của C. Peirce thể hiện ở tính hữu dụng, ở hiệu quả

thực tế là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển quan niệm về chân lý của W. James,

ông đã phát triển, cụ thể hóa và đƣa ra khái niệm chân lý.

Quan niệm về chân lý của W. James đƣợc xây dựng trong chủ nghĩa kinh

nghiệm triệt để, từ đó ông đƣa ra quan điểm mới về chân lý, chân lý là thuộc tính

của quan niệm, của tƣ tƣởng, chân lý lấy kinh nghiệm làm căn cứ: “Chân lý

đƣợc hình thành ở một ý niệm. Nó trở thành đúng, đƣợc làm thành đúng bởi các

sự kiện” [139, tr. 229]. Chân lý là một phần của kinh nghiệm: “Mọi chân lý đều

lấy kinh nghiệm có hạn làm căn cứ, và bản thân kinh nghiệm cũng không có chỗ

dựa nào khác ngoài dòng kinh nghiệm, không có vật nào khác có thể bảo đảm là

nơi đẻ ra chân lý” [28, tr. 119]. Ông không định nghĩa chân lý để sau đó đi tìm

tiêu chuẩn của nó, bởi theo ông, chân lý không phải là cái có trƣớc, mà chính là

cái đƣợc rút ra từ kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn.

Theo W. James, căn cứ vào nguyên tắc thực dụng thì chúng ta không thể

bác bỏ bất kỳ lý thuyết nào đem lại những hiệu quả có ích, chúng ta sẵn sàng tin

93

vào lý thuyết đó nếu nó giúp chúng ta thỏa mãn. Xuất phát từ phạm trù kinh

nghiệm, coi kinh nghiệm là căn cứ của chân lý, ông đi đến định nghĩa chân lý

bởi hiệu quả, bởi sự thành công trong hành động: “Cái gì hữu dụng, cái đó là

chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với

nhau” [dẫn theo: 92, tr.37]. Chân lý là cái đem lại hiệu quả, sự thành công: “Bất

kỳ quan niệm nào, hễ nó đem lại lợi ích và hiệu quả cho con ngƣời, tức là có thể

làm cho con ngƣời đạt đƣợc thành công, mới có thể xem là chân lý” [dẫn theo: 9,

tr. 105]. Đây là quan niệm hết sức độc đáo về chân lý, tạo nên đặc trƣng của triết

học thực dụng.

Quan niệm đồng nhất chân lý với hiệu quả đã trở thành đặc trưng của

triết học thực dụng nói chung và lý luận nhận thức của triết học thực dụng nói

riêng. Do vậy, nếu nhƣ ở C.Peirce, chân lý thể hiện tính hữu dụng tƣơng lai của

chúng đối với những mục tiêu của con ngƣời, thì đến W. James, khái niệm chân

lý đã đƣợc cụ thể, khi ông xem chân lý là cái đem lại lợi ích, hiệu quả và sự

thành công cho con ngƣời. Quan niệm của James về chân lý có sự phù hợp với

“nguyên tắc Peirce”, đồng thời ông cũng có sự phát triển khi khẳng định chân lý là

toàn bộ những hiệu quả có ích, đem lại sự thỏa mãn, thành công cho con ngƣời .

Xuất phát từ quan điểm cho rằng, chân lý là một thuộc tính của ý niệm

chứ không phải của sự vật, chân lý luôn đƣợc tạo ra từ một ý niệm, chân lý là

một phần của kinh nghiệm. W. James nhấn mạnh: “Những ngƣời theo chủ nghĩa

thực dụng và những ngƣời không theo chủ nghĩa thực dụng tranh cãi với nhau

chủ yếu về cách giải thích chân lý… Những ngƣời theo chủ nghĩa thực dụng nói

chân lý chỉ giới hạn trong quan niệm… còn những ngƣời không theo chủ nghĩa

thực dụng nói chân lý là chỉ khách thể” [dẫn theo: 40, tr. 344]. Với quan điểm

này, ông đã phủ nhận cơ sở khách quan của chân lý, phủ nhận chân lý là sự phản

ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ quan của con ngƣời. Là một

ngƣời theo chủ nghĩa duy nghiệm, ông cho rằng, chân lý là một phần của kinh

nghiệm, của đời sống: “Các chân lý trở thành đúng khi chúng ta tạo ra đƣợc các

sự nối kết thành công giữa các thành phần khác nhau trong kinh nghiệm của

chúng ta” [106, tr. 311]. Do đó, mọi quan niệm là chân lý chỉ lấy bản thân quan

94

niệm làm căn cứ: “Mọi chân lý đều lấy kinh nghiệm hữu hạn làm căn cứ, mà bản

thân kinh nghiệm hữu hạn là không có chỗ dựa. Trừ bản thân dòng kinh nghiệm

ra, hoàn toàn không có cái gì bên cạnh đảm bảo sinh ra chân lý” [dẫn theo: 40, tr.

344]. Từ đó, ông muốn khẳng định quan điểm của triết học thực dụng, mọi quan

niệm là chân lý chỉ lấy bản thân quan niệm làm căn cứ, chứ không dựa vào thực

tại khách quan. Do vậy, chân lý là một thuộc tính của ý niệm.

Tiếp tục phát triển quan niệm về chân lý, W. James phê phán quan điểm

cho rằng chân lý là sự sao chép thực tại. Theo quan niệm phổ biến thì một quan

niệm đúng là sự sao chép lại thực tại của nó. Theo ông, với quan điểm này, khi

chúng ta có đƣợc một quan niệm đúng về sự vật, tức là chúng ta đã chiếm hữu nó

và chúng ta đã hoàn thành mục đích của tƣ duy: “Ý nghĩa chủ yếu của “chân lý” là

quan hệ bị động, tĩnh tại. Khi anh nhận đƣợc quan niệm thật của bất kỳ sự vật gì,

sự việc xem nhƣ chấm dứt” [dẫn theo: 39, tr. 148]. Còn theo quan điểm của triết

học thực dụng, câu hỏi đặt ra là: “Cứ cho rằng một ý niệm hay một sự tin tƣởng là

đúng đi nữa, việc nó đúng có tạo ra sự khác biệt cụ thể gì trong đời sống thực tế

của một ngƣời hay không? Chân lý sẽ đƣợc thể hiện thế nào? Các kinh nghiệm

nào sẽ khác các kinh nghiệm mà ngƣời ta có thể có nếu sự tin tƣởng đó là sai?

Tóm lại, đâu là giá trị thực của chân lý về phƣơng diện kinh nghiệm?” [139, tr.

228]. Triết học thực dụng trả lời câu hỏi này nhƣ sau: “Các ý niệm đúng là các ý

niệm mà chúng ta có thể lĩnh hội, đánh giá, củng cố và kiểm chứng. Các ý niệm

sai là các ý niệm chúng ta không thể làm như thế” [139, tr. 229]. Ông phân biệt sự

khác biệt thực tiễn của các ý niệm đúng tạo ra bằng sự kiểm chứng hiệu quả thực

tế của nó, hiệu quả có thể kiểm chứng trở thành thƣớc đo của một quan niệm

đúng. Do đó, chân lý không phải là một thuộc tính bất biến, có sẵn mà chân lý là

quá trình vận động của một ý niệm, tính đúng đắn của nó đƣợc tạo thành bởi hiệu

quả thực tế có thể kiểm nghiệm, chứng thực bằng kinh nghiệm thực tiễn của con

ngƣời. Nó là công cụ hành động vô giá trong những hoàn cảnh cụ thể, giá trị của

nó là sự hữu ích trong hành động cải tạo thực tiễn của con ngƣời.

Xuất phát từ phạm trù kinh nghiệm, W. James đi đến một khẳng định rõ

ràng về chân lý, định nghĩa chân lý đƣợc thể hiện ở mệnh đề: Cái gì hữu dụng,

cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải hữu dụng. Ở mệnh đề này,

95

chúng ta thấy ông có kế thừa tƣ tƣởng của Hegel về mối quan hệ giữa thực tại và

chân lý: “Cái gì hợp lý tính thì là hiện thực và cái gì là hiện thực thì hợp lý tính”

[48, tr. 81]. Với mệnh đề này, James đã phát biểu một định nghĩa chân lý đặc

trƣng của triết học thực dụng. Chân lý gắn liền với đời sống hiện thực của con

ngƣời, ở đó một tƣ tƣởng là đúng vì nó hữu ích với cuộc sống, nó thực hiện sứ

mệnh của kinh nghiệm, là những kết quả cụ thể khi giải quyết những tình huống

trong đời sống, giúp con ngƣời thỏa mãn trong hành động.

W. James cho rằng, chân lý là hiệu quả thực tế để củng cố niềm tin vững

chắc, thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng và đảm bảo sự thành công của con người.

Ông nói: “Là hữu dụng, bởi vì nó đúng, hoặc nó đúng, bởi vì nó hữu dụng” [dẫn

theo: 40, tr.345]. Tuy nhiên, ông không đồng nhất chân lý với tính hữu dụng một

cách giản đơn, tính hữu dụng đó là do đối tƣợng của tƣ tƣởng, quan niệm đƣợc

coi là chân lý có tác dụng đối với con ngƣời: “Giá trị cơ bản của quan niệm đúng

là do đối tƣợng của quan niệm có tầm quan trọng với thực tế của chúng ta đẻ ra”

[dẫn theo: 40, tr. 345]. James nhấn mạnh, không phải quan niệm phù hợp với đối

tượng là chân lý, chỉ khi quan niệm đó hữu dụng với con người mới là chân lý.

Vì vậy, ông đồng nhất chân lý với tính hữu dụng đối với con ngƣời.

Theo W. James, sở dĩ con ngƣời theo đuổi chân lý vì: “Bổn phận tìm chân

lý là một phần của bổn phận làm điều có ích, giống nhƣ chúng ta phải tìm sức

khỏe vì khỏe mạnh là có ích” [106, tr. 311]. Theo đó, một quan niệm chỉ cần

đem lại lợi ích, thành công cho con ngƣời thì bất kể nó phản ánh thực tế khách

quan nhƣ thế nào, ngay cả là tín ngƣỡng tôn giáo, đều đƣợc coi là chân lý.

Ngƣợc lại, khi bàn về những quan niệm không đem lại tác dụng cho con ngƣời,

dù là những quan điểm đúng, ông cho rằng: “Nếu những ý niệm đúng mà không

đem lại tốt đẹp cho cuộc sống, hay nếu những tri thức về những ý niệm đó lại

khẳng định là bất lợi và giả dối, mà chỉ có hữu dụng thôi, thì quan niệm thông

thƣờng hiện nay, cho rằng chân lý là điều thiêng liêng và quý giá, và sống theo

chân lý là cả một bổn phận, cũng đã không bao giờ phát triển trở thành tín điều.

Trong một thế giới nhƣ thế, bổn phận của chúng ta thà là xa lánh chân lý mới

phải” [139, tr. 223 - 224]. Ở luận điểm này, ông nói về mối quan hệ giữa quan

96

niệm có ích với quan niệm thật, giả. Xuất phát từ sự đồng nhất chân lý với tính

hữu dụng, cho nên ông nhấn mạnh tính có ích, có lợi của quan niệm hơn là tính

đúng đắn hay sai lầm của nó.

Có thể khẳng định, theo quan niệm của W. James, chân lý gắn với việc

xác định niềm tin của của con ngƣời, nhấn mạnh hiệu quả thực tế, thỏa mãn nhu

cầu, lợi ích, sự thành công của cá nhân. Đặc trƣng cơ bản trong quan niệm của

ông về chân lý là gắn chân lý với vấn đề con ngƣời, hợp nhất thuyết chân lý với

“quan điểm nhân bản của chủ nghĩa thực dụng”: “Chân lý đó cũng là một loại

thiện hảo… Cái đúng là danh xưng để gọi bất cứ điều gì tự chứng minh là tốt

đẹp theo quan điểm của niềm tin và cũng là tốt đẹp vì những lý do nhất định”

[139, tr. 223]. Theo ông, chân lý tồn tại tƣơng đối với con ngƣời, với kinh

nghiệm luôn biến đổi của con ngƣời. Chân lý là do con ngƣời tạo ra theo nhu cầu

của mình, là thƣớc đo mức độ thỏa mãn nhu cầu của mình. Con ngƣời tin vào

chân lý, vì nhƣ vậy nó giúp họ thỏa mãn, đạt tới những điều tốt đẹp hơn. Để

nhấn mạnh vai trò của con ngƣời sáng tạo ra thế giới, sáng tạo ra chân lý, nhà

thực dụng chủ nghĩa ngƣời Anh là F. Schiller đã đề nghị đổi chủ nghĩa thực dụng

thành chủ nghĩa nhân bản. Việc nhấn mạnh vai trò sáng tạo ra chân lý của con

ngƣời, hay vấn đề chân lý gắn với con ngƣời là không sai. Tuy nhiên, cái sai

trong quan niệm này là tuyệt đối hóa vai trò sáng tạo ra chân lý của con ngƣời,

đến mức cho rằng chân lý đều là sản phẩm sáng tạo chủ quan của con ngƣời.

Kế thừa tƣ tƣởng của C. Peirce và W. James, J. Dewey đã phát triển khái

niệm chân lý. Theo đó, chân lý được coi là công cụ giúp con người hành động

hiệu quả, đạt được sự thỏa mãn và thành công. Ông xây dựng lý thuyết chân lý

dựa trên chủ nghĩa công cụ: “Nói theo nghĩa rộng, chủ nghĩa công cụ là tên gọi

khác của chủ nghĩa thực dụng Dewey, nói theo nghĩa hẹp, thì đó là lý luận về

nhận thức và chân lý” [40, tr. 356]. Có thể nói, Dewey đã phát triển khái niệm

chân lý, cũng nhƣ toàn bộ học thuyết triết học thực dụng trong chủ nghĩa công cụ.

J. Dewey đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ. Xuất phát từ quan

điểm của chủ nghĩa công cụ cho rằng: tƣ tƣởng, quan niệm, lý luận là công cụ

hành động của con ngƣời. Công cụ phục vụ con ngƣời trong hành động, tiêu

97

chuẩn của nó là kết quả của hành động. Tiêu chuẩn của chân lý giống nhƣ tiêu

chuẩn của những công cụ có giúp hành động của con ngƣời đạt đƣợc thành công

hay không? Do vậy, theo ông: “Nếu quan niệm, ý nghĩa, khái niệm, học thuyết

và hệ thống là công cụ chủ động cải tạo một môi trƣờng nào đó, hoặc loại trừ

một khó khăn, lo lắng riêng nào đó, thì hiệu quả và giá trị của chúng tùy thuộc

vào việc chúng có đem lại thành công hay không, nếu có, thì chúng là đáng tin

cậy, kiện toàn, hữu hiệu, là tốt, là thật” [dẫn theo: 40, tr. 357]. Ông cho rằng, các

quan niệm, tƣ tƣởng, khái niệm giống nhƣ một công cụ nói chung để tiến hành

cải tạo hoàn cảnh hiệu quả và giá trị của nó giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích,

dẫn đến thành công tức là đạt đến chân lý, hay chân lý chính là những công cụ

đƣa con ngƣời đến thành công.

Chân lý là công cụ đưa con người đến thành công, chân lý là một sự thỏa

mãn, là hiệu quả cho mọi người. Trong “Cải tạo của triết học”, khi nói rằng

thuyết chân lý của chủ nghĩa thực dụng “bị ngƣời ta căm ghét” vì lý luận ấy “kỳ

lạ và có khuyết điểm khi trình bày về nó”, J. Dewey đã giải thích rõ quan niệm

của triết học thực dụng khi cho rằng chân lý là sự thỏa mãn, tính hiệu quả và sự

thành công. Chân lý đƣợc coi là một loại thỏa mãn thƣờng bị hiểu nhầm rằng, đó

là sự thỏa mãn của tình cảm, sự thỏa mãn của cá nhân, đáp ứng nhu cầu cá nhân

đơn thuần. Ông khẳng định chủ nghĩa công cụ của ông không chủ trƣơng quy

khái niệm, lý luận khoa học chỉ là sự hữu dụng đối với cá nhân, mà còn phải có

tính phổ biến và đƣợc công chúng thừa nhận. Đó là sự thỏa mãn có điều kiện và

đòi hỏi của vấn đề nảy sinh từ mục đích, phƣơng pháp của quan niệm, hành

động, là sự thỏa mãn có điều kiện của công chúng và mang tính khách quan,

không phụ thuộc vào ý nghĩ hoặc mong muốn của cá nhân. Ông đã phát triển

quan niệm của W. James, theo James, chân lý chỉ là sự thỏa mãn nhu cầu của cá

nhân, còn Dewey đã giải thích về sự thỏa mãn, nhấn mạnh đó là sự thỏa mãn có

điều kiện, phần nào mang tính khách quan, cho cộng đồng, xuất phát từ mục đích

và quan niệm của cộng đồng.

Chân lý đƣợc giải thích là hiệu quả, nó thƣờng đƣợc coi là hiệu quả cho

98

mục đích cá nhân đơn thuần, hoặc là một loại lợi ích cá nhân nào đó. J. Dewey

không chỉ phê phán quan niệm này, mà còn cho rằng, quan niệm coi chân lý là

công cụ thỏa mãn dã tâm và quyền lực riêng của mình là rất đáng lên án. Thực

chất quan niệm chân lý tức hiệu quả, cho rằng tƣ tƣởng hoặc học thuyết có thể

đem lại hiệu quả trong kinh nghiệm cải tạo thực tiễn, hiệu quả cho mọi ngƣời,

cho công chúng, là sự phát triển quan niệm chân lý thực dụng của Dewey, là sự

khác biệt của chủ nghĩa công cụ của ông với chủ nghĩa duy tâm và các học

thuyết thực dụng trƣớc đó. Mặc dù vậy, khi coi chân lý là hiệu quả và sự thỏa

mãn mục đích của mọi ngƣời, thay cho sự thỏa mãn của cá nhân, điều đó không

hề thay đổi tính chất chủ quan trong quan niệm của ông về chân lý.

J. Dewey phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời cũng phủ nhận

tính tuyệt đối của chân lý. Ông theo khuynh hƣớng chủ nghĩa tƣơng đối trong

quan niệm về chân lý. Ông vạch ra sai lầm của quan niệm siêu hình về chân lý khi

cho rằng, chân lý là khái niệm lý tính tiên nghiệm, tĩnh tại, bất biến; đồng thời,

ông cũng phản đối thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Theo ông, mọi tƣ

tƣởng, khái niệm không thể tồn tại độc lập, cũng không thể là sự mô tả hiện thực

khách quan, chỉ có thể là những giả thuyết ứng dụng, mà giả thuyết là do con

ngƣời đề xuất theo ý muốn chủ quan của mình, nó nhƣ những công cụ đƣợc con

ngƣời sử dụng khi thấy tiện lợi. Từ đó, ông phủ định tính khách quan, tính tuyệt

đối của chân lý, đồng thời cũng nhấn mạnh tính tƣơng đối của chân lý. Ông khẳng

định: “Mỗi mệnh đề có liên quan về chân lý, phân tích đến cùng, trên thực tế đều

là giả thuyết và tạm thời, tuy có nhiều mệnh đề đã thƣờng đƣợc chứng minh

không có sai lầm…, hình nhƣ chúng ta thật sự tuyệt đối. Nhƣng về lôgíc, chân lý

tuyệt đối là một loại lý tƣởng không thể thực hiện đƣợc” [dẫn theo: 39, tr. 176].

Quan niệm về chân lý của J. Dewey, về cơ bản xuất phát từ quan niệm

“chân lý là hiệu quả” của W. James. Có những điểm tƣơng đồng ở việc khẳng

định rằng, những quan niệm nào đảm bảo hiệu quả cho hành động là quan niệm

đúng đắn. Cái gì cho phép giải quyết thành công những tình huống nan giải, cái

đó là chân lý. Sau này, trong những tác phẩm của mình, Dewey không còn

thƣờng xuyên dùng thuật ngữ “chân lý” nữa, mà thay bằng diễn đạt “sự khẳng

99

định có cơ sở”. Theo đó, chân lý là sự khẳng định có cơ sở, có đảm bảo, ông

muốn nhấn mạnh chân lý cần phải được sự kiểm chứng của khoa học. Dewey

phát triển quan điểm của C.Peirce về lý luận hoài nghi - niềm tin, khi khẳng định

việc nghiên cứu bao giờ cũng bắt đầu bằng những hoài nghi và kết thúc trong

việc xác định những điều kiện để nghi vấn không còn nữa, quá trình xác định

này đƣợc thông qua nghiên cứu là điều khẳng định có đảm bảo. Định nghĩa chân

lý đƣợc Dewey thể hiện trong lý luận của chủ nghĩa công cụ, chân lý là quan

niệm hay giả thuyết đã được kiểm chứng, có hiệu quả, đem lại sự thỏa mãn và

thành công cho con người.

Nhƣ vậy, xuất phát từ nguyên tắc của C. Peirce hay nguyên tắc của chủ

nghĩa thực dụng, khi cho rằng nghĩa của khái niệm, tư tưởng chính là toàn bộ

những hiệu quả thực tế, W. James đã phát triển thành khái niệm chân lý, ông

đồng nhất chân lý với tính hữu dụng. J. Dewey cũng có những quan điểm tƣơng

đồng với James về khái niệm chân lý, đồng thời phát triển quan niệm về chân lý,

khẳng định chân lý là công cụ hữu ích giúp con người giải quyết những tình

huống có vấn đề, đem lại hiệu quả, sự thỏa mãn và thành công.

3.2. Về tiêu chuẩn của chân lý

Vấn đề tiêu chuẩn của chân lý là một nội dung cơ bản khi nghiên cứu về

phạm trù chân lý trong lý luận nhận thức của các trƣờng phái triết học nói chung,

triết học thực dụng nói riêng. Một tƣ tƣởng, quan niệm đƣợc xác định là đúng

đắn, mang tính chân lý, hay thƣớc đo để chứng minh chân lý đƣợc gọi là tiêu

chuẩn của chân lý. Chân lý thuộc phạm trù nhận thức, nhận thức nhằm đạt đến

chân lý. Quá trình nhận thức không ngừng phát triển cho nên tiêu chuẩn để kiểm

tra chân lý cũng không phải là bất biến. Khi trả lời câu hỏi về tiêu chuẩn của

chân lý, các trƣờng phái triết học, các nhà triết học đã đƣa ra nhiều quan điểm

khác nhau. Triết học thực dụng đƣa ra cách lý giải khá đặc biệt về tiêu chuẩn của

chân lý. Làm rõ tiêu chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, giúp chúng

ta hiểu rõ bản chất của triết học thực dụng, từ đó, có cái nhìn và sự lý giải một

cách khách quan về trƣờng phái triết học này.

3.2.1. Hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý trong quan niệm của C. Peirce

100

C. Peirce là ngƣời sáng lập triết học thực dụng Mỹ, ngƣời đặt nền móng

cho quan niệm về chân lý. Trong lý luận hoài nghi - niềm tin, Peirce đồng nhất

chân lý với niềm tin vững chắc, theo đó tiêu chuẩn của chân lý là niềm tin tuyệt

đối của những ngƣời cùng nghiên cứu một vấn đề khoa học, đó là chân lý khoa

học: “Chân lý là ý kiến đạt đƣợc sự nhất trí tuyệt đối giữa những ngƣời cùng

nghiên cứu một vấn đề. Đối tƣợng đƣợc trình bày trong ý kiến tập thể ấy là hiện

thực” [135, T.V, đoạn 507]. Từ quan điểm này của ông, chúng ta có thể liên

tƣởng tới quan niệm coi tiêu chuẩn chân lý là sự nhất trí chung, tức chân lý thuộc

về số đông của J. Berkeley. Không đồng ý với quan điểm này của Berkeley,

Peirce cho rằng, chân lý của số đông là cái hoàn toàn xa lạ với chân lý khoa học.

Do đó, khi dựa vào ý kiến của các nhà chuyên môn, các nhà khoa học cùng

nghiên cứu một đối tƣợng, một lĩnh vực khoa học, ông đƣa ra một quan niệm rất

đáng để chúng ta lƣu tâm. Đó là trong thời đại chuyên môn hóa phát triển mạnh

mẽ nhƣ hiện nay, chỉ có các nhà khoa học, những chuyên gia trong lĩnh vực của

mình mới đủ khả năng đánh giá các lý thuyết khoa học, xác định tính đúng đắn

của nó. Mặc dù vậy, sai lầm cơ bản trong quan niệm này của ông ở chỗ xem tiêu

chuẩn của chân lý chỉ là đối tƣợng của ý kiến tập thể.

Đến đây, chúng ta thấy vấn đề nảy sinh trong quan niệm của ông, đòi hỏi

ông phải giải quyết, đó là nếu niềm tin là tiêu chuẩn của chân lý thì cái gì là tiêu

chuẩn của niềm tin? Giải đáp vấn đề này, C. Peirce đã xây dựng nguyên tắc của

triết học thực dụng.

Trong luận văn về “Chủ nghĩa thực dụng” (1905), ông đã đƣa ra châm

ngôn thực dụng nhƣ sau: “Hãy xem xét những tác động có thể tin là có ý nghĩa

thực tế, để từ đó, xác định đối tƣợng cho quan niệm đó của bạn. Sau đó, lấy quan

niệm của bạn về những tác động này là TOÀN BỘ quan niệm của bạn về đối

tƣợng” [139, tr. 110]. Châm ngôn này cho thấy ông đã đồng nhất quan niệm về

đối tƣợng với toàn bộ hiệu quả thực tế do quan niệm về đối tƣợng tạo ra. Ông đã

nhấn mạnh “những hiệu quả thực tế có thể xảy ra” và coi những hiệu quả thực tế

này là cái cấu thành toàn bộ nghĩa của khái niệm. Từ quan niệm về nghĩa của

khái niệm, C.Peirce coi tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm là tất cả

101

những hiệu quả thực tế mà nó có thể tạo ra trong hành động. Tất nhiên, những

hiệu quả này, theo ông vẫn nằm ở trong lĩnh vực tƣ tƣởng dƣới dạng phƣơng án

có thể xảy ra, nếu chúng ta thực hành nó trong hoạt động thực tiễn. Những hiệu

quả thực hành chúng ta có thể suy tính đƣợc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm trong

hoạt động của con ngƣời. Do đó, theo Peirce, những hiệu quả có thể cảm giác

đƣợc của con ngƣời trở thành tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm và

cũng là tiêu chuẩn của chân lý.

Có thể nói, đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế là một trong những đặc

trƣng của lý luận nhận thức thực dụng mà C. Peirce là ngƣời khởi xƣớng. Theo

C.Peirce, tiêu chuẩn để phân biệt chân lý với giả tạo là hành động dựa trên cơ sở,

cơ sở đó là những hiệu quả thực tế. Trong lý luận về nghĩa, ông đã coi “hiệu quả

thực tế” là tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm, cũng chính là tiêu chuẩn

của chân lý. Mặc dù những giải thích của ông về hiệu quả thực tế là những thói

quen và cảm giác còn mang tính chủ quan, nhƣng ông muốn nhấn mạnh hiệu quả

thực tế của khái niệm phải gắn với kinh nghiệm của con ngƣời, có ý nghĩa với

con ngƣời. Đặc trƣng của lý luận thực dụng về nghĩa thể hiện ở việc đồng nhất

nghĩa với hiệu quả thực tế. Hiệu quả thực tế của khái niệm gắn với niềm tin của

con ngƣời. Do đó, theo ông, để xác định chân lý, cuối cùng chúng ta vẫn phải

căn cứ vào hiệu quả thực tế đối với con ngƣời, đó là hiệu quả có thể cảm giác

đƣợc và mang tính chủ quan.

Với “thuyết khả sai” và lấy đó làm cơ sở phƣơng pháp luận của khoa học,

C. Peirce đã đi đến quan niệm cho rằng, những kết luận của khoa học không bao

giờ là xong xuôi hoàn toàn, mà luôn trong quá trình tự hiệu chỉnh, tự hoàn thiện

không ngừng. Thuyết có thể sai khẳng định nhận thức của con ngƣời không bao

giờ đạt đến tri thức tuyệt đối, theo đó, chân lý chỉ là tƣơng đối: “Có ba loại sự vật

chúng ta tuyệt đối không thể đạt đƣợc, đó là tính xác định tuyệt đối, tính chính xác

tuyệt đối và tính phổ biến tuyệt đối” [135, T.I, đoạn 141]. Việc tìm ra chân lý cũng

luôn cần phải dựa vào phƣơng pháp khoa học: “Sự hợp lý của phƣơng pháp khoa

học không tùy thuộc vào tính chắc chắn của những kết luận của nó, nhƣng vào đặc

điểm tự hiệu chỉnh của nó: bằng cách áp dụng liên tục phƣơng pháp này, khoa học

102

có thể phát hiện ra và hiệu chỉnh những sai lầm của chính nó, và nhờ vậy cuối

cùng đi tới sự khám phá chân lý” [105, tr. 498]. Quan điểm coi tính có thể sai của

những kết luận khoa học, theo đó chân lý luôn cần có sự hiệu chỉnh bằng phƣơng

pháp khoa học, đã cho thấy ông đứng trên quan điểm của nhà khoa học tự nhiên

để đƣa ra những nhân tố tích cực, hợp lý trong việc xác định tiêu chuẩn của chân

lý khoa học. Tuy nhiên, nếu triệt để theo nguyên tắc có thể sai, thì sớm hay muộn

sẽ khiến ông buộc phải khẳng định “tri thức đáng tin cậy là không thể”. Vậy phải

luận chứng tiêu chuẩn của tri thức dựa trên cái gì? Ông đã tìm ra lối thoát bằng

cách chuyển cơ sở của nó sang tính xác thực trong thực tiễn. Nếu nhƣ trong lĩnh

vực lý luận con ngƣời không thể đạt tính chân thực tuyệt đối, thì vẫn còn đó tính

chân thực thực tiễn. Dịch chuyển từ vấn đề lý luận sang thực tiễn, Peirce khẳng

định hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý: “Ngƣời ta cần suy nghĩ từ chân lý

của khái niệm tất nhiên sẽ có đƣợc hiệu quả thực tế mong đợi. Tổng hòa các hiệu

quả này sẽ tạo nên toàn bộ nghĩa của khái niệm đó” [135, T.V, đoạn 9]. Bƣớc

chuyển này khẳng định Peirce là ngƣời sáng lập ra triết học thực dụng và đặt nền

tảng cho quan niệm về chân lý, cũng nhƣ tiêu chuẩn của chân lý.

Nhƣ vậy, C. Peirce cho rằng, con ngƣời chỉ hành động và đạt hiệu quả

khi có đƣợc niềm tin vững chắc, ông đề cao niềm tin thực dụng và coi niềm tin

là thái độ sẵn sàng hành động, nhƣng đó không phải là niềm tin của số đông,

mà là niềm tin khoa học đƣợc tạo ra từ sự nhất trí của những chuyên gia trong

một lĩnh vực nghiên cứu nhất định. Cơ sở của niềm tin vững chắc đó là hiệu

quả thực tế do nó tạo ra. Rằng, niềm tin đó mới là cơ sở đáng tin cậy của chân

lý, hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông, tổng số những hiệu

quả do kinh nghiệm có thể cảm giác đƣợc của con ngƣời tạo ra là cơ sở để xác

định đó là chân lý hay sai lầm. Từ quan niệm này, ông khẳng định rằng tiêu

chuẩn của chân lý chỉ mang tính tƣơng đối, quá trình đi tới chân lý là sự hiệu

chỉnh những sai lầm.

3.2.2. Hiệu quả có ích là tiêu chuẩn của chân lý trong quan niệm của W. James

Nếu C. Peirce dừng lại ở quan điểm nền tảng coi hiệu quả thực tế do khái

103

niệm tạo ra là tiêu chuẩn của chân lý, thì James đã phát triển, cụ thể hóa quan

điểm này và đi đến khẳng định hiệu quả có ích, sự thành công là tiêu chuẩn căn

bản của chân lý. Khi đồng nhất chân lý với tính hữu dụng, ông khẳng định: “Cái

gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai

ý này đồng nghĩa với nhau” [92, tr. 37]. Với James, chân lý là hữu dụng, hữu

dụng là chân lý. Từ quan niệm này, ông cho rằng, không phải cứ quan niệm phù

hợp với đối tƣợng là chân lý, chỉ khi nào quan niệm hữu dụng với con ngƣời thì

đó mới là chân lý. Do đó, suy đến cùng, ông không coi quan niệm phù hợp với

đối tƣợng là chân lý mà coi tính hữu ích của quan niệm đối với con ngƣời mới là

tiêu chuẩn của chân lý. Sai lầm của ông trong quan niệm này ở chỗ đã phủ nhận

tiêu chuẩn khách quan của chân lý, lấy hiệu quả, tính có ích là tiêu chuẩn duy

nhất của chân lý.

Khẳng định hiệu quả có ích là tiêu chuẩn của chân lý, đồng thời W. James

đã đƣa ra phạm trù “thực tại” và coi chân lý là sự phù hợp với thực tại. Quan

điểm này của ông gần với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm

trù thực tiễn và vai trò của thực tiễn với tƣ cách tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.

Về thực chất, phạm trù “thực tại” và “sự phù hợp với thực tại” có ý nghĩa đặc

biệt trong học thuyết chân lý của James, vì nó đƣợc ông xem là tiêu chuẩn để

phân biệt chân lý với sai lầm: “Chân lý là một tính chất của một số ý tƣởng của

chúng ta. Nó có nghĩa là “sự phù hợp với thực tại”, cũng nhƣ sai lầm là sự không

phù hợp với thực tại”. Các nhà thực dụng lẫn các nhà duy lý đều chấp nhận định

nghĩa này nhƣ là điều hiển nhiên. Họ chỉ bất đồng với nhau về cách hiểu chính

xác thuật ngữ “phù hợp” và “thực tại” nghĩa là gì, khi thực tại đƣợc coi là cái mà

các ý niệm của chúng ta phải phù hợp với nó” [139, tr. 227 - 228]. Tuy nhiên,

theo cách hiểu của James, phạm trù “thực tại” không phải là hiện thực khách

quan với sự sống động của vạn vật mà là quan hệ tƣơng đối với đời sống tinh

thần, tình cảm của cá nhân con ngƣời, nó mang tính chủ quan: “Thực tại chỉ là

quan hệ tƣơng đối với đời sống tình cảm và đời sống năng động của chúng ta, đó

là ý nghĩa duy nhất của danh từ ngƣời ta đã nói trong thực tiễn. Nền tảng và khởi

nguồn của mọi thực tại, bất kỳ đƣợc xem xét theo quan điểm tuyệt đối hoặc quan

104

điểm thực tiễn, đều là chủ quan, cũng tức là bản thân chúng ta” [9, tr. 98]. Qua

cách giải thích về “thực tại”, James cố gắng hòa lẫn giữa yếu tố chủ quan với yếu

tố khách quan, kinh nghiệm chủ thể với thực tại khách quan. Xuất phát từ chủ

nghĩa kinh nghiệm, ông lý giải theo quan điểm chủ quan về phạm trù “thực tại”,

khi coi thực tại là các sự kiện cụ thể, hay các loại sự vật trừu tƣợng và những

mối quan hệ của chúng mà chúng ta có thể nhận thấy bằng trực giác. Không chỉ

thế, với ông, “thực tại” còn đƣợc hiểu theo nghĩa thứ ba - đó là toàn bộ các chân

lý khác chúng ta đã có, là những sự vật mà các ý niệm mới của chúng ta phải

quan tâm. Vậy theo cách hiểu này của James thì thế nào là sự “phù hợp” với ba

loại thực tại theo nghĩa đó?

Trƣớc hết, phù hợp là sự mô tả theo, ví dụ nhƣ từ “đồng hồ” có thể thay

thế cho hình ảnh của ý thức về hoạt động của nó và trong rất nhiều thực tại khác,

các ý niệm của chúng ta chỉ có thể là những biểu tƣợng, chứ không phải là

những bản sao. Do đó, phù hợp với thực tại theo nghĩa rộng nhất là “đƣợc dẫn

dắt thẳng tới nó hay vào khu vực của nó; hoặc là đƣợc đặt vào sự tiếp xúc thực

tiễn với nó để có thể xử lý nó hay một sự vật nào đó có liên hệ với nó một cách

tốt hơn” [139, tr. 234]. Sự phù hợp chỉ có nghĩa khi đó là một sự kiện phủ định

những gì mâu thuẫn, những gì có thể cản đƣờng khiến tƣ tƣởng của chúng ta

không dẫn dắt đến một sự vật khác. Do đó, điều cốt yếu là tiến trình nhận thức

cần phải đƣợc dẫn dắt bởi một định hƣớng đúng đắn. Rằng, bất cứ quan niệm

nào giúp chúng ta giải quyết những vấn đề của thực tại một cách đúng đắn, làm

cho đời sống chúng ta phù hợp và thích nghi với môi trƣờng đều có thể coi là

phù hợp để khẳng định là đúng. Vì thế, theo quan niệm của W. James, cái gọi là

phù hợp với thực tại là sự phù hợp năng động của chủ thể đối với khách thể. Ông

đã bác bỏ thuyết phản ánh luận cho rằng một quan niệm đúng là sự mô tả hay

sao chép thực tại. Theo James, sự phù hợp với thực tại đƣợc hiểu chỉ là quan hệ

trong bản thân quan niệm, tức là bộ phận quan niệm này phù hợp với bộ phận

quan niệm khác, chứ không phải là thực tế khách quan.

Thế nhƣng, vấn đề đặt ra ở đây là: Các quan niệm phù hợp với thực tại

nhƣ thế nào thì mới đƣợc coi là các quan niệm đúng? Trả lời vấn đề này, chúng

105

ta phải dựa trên cơ sở kiểm chứng các quan niệm đó, bởi việc theo đuổi các ý

niệm đúng là bổn phận hàng đầu của con ngƣời. Rằng, sở hữu chân lý không

phải là mục đích tự nó, mà chỉ là một phƣơng tiện mang ý nghĩa mở đƣờng để

hƣớng tới những thỏa mãn khác của đời sống. Bổn phận của con ngƣời là tìm

kiếm chân lý hay nói cách khác con ngƣời không ngừng hƣớng nhận thức của

mình đạt đến chân lý. Chân lý là sự phù hợp của quan niệm với thực tại trên cơ

sở kiểm chứng: “Những ý niệm đúng là những ý niệm mà chúng ta có thể đồng

hóa, củng cố, chứng thực và xác nhận. Những ý niệm sai là những ý niệm mà

chúng ta không thể làm được điều này” [139, tr. 229]. Nhƣng chứng thực bằng

tiêu chuẩn nào, có phải là thực tiễn hay không? Trả lời câu hỏi này, ông nhấn

mạnh: “Chúng có nghĩa là một số hiệu quả thực dụng của ý niệm đƣợc chứng thực

và tạo ra giá trị… sự phù hợp - đó là các hiệu quả nhƣ thế là điều mà chúng ta

nghĩ tới mỗi khi chúng ta nói rằng ý niệm của chúng ta “phù hợp” với thực tại”

[139, tr. 229]. Câu hỏi đặt ra là có sự khác biệt căn bản nào giữa ý niệm đúng và ý

niệm sai lầm. Để trả lời câu hỏi này, cũng tức làm rõ tiêu chuẩn để phân biệt chân

lý và sai lầm, triết học thực dụng giải quyết từ góc độ giá trị luận mà không phải ở

góc độ nhận thức luận. Triết học thực dụng muốn khẳng định sự khác biệt của

mình với các trƣờng phái triết học khác. Sự khác biệt này ở chỗ, nếu nhƣ hầu hết

các trƣờng phái triết học khác coi mục đích của nhận thức nhằm đạt đến chân lý,

đạt tới chân lý tức nhiệm vụ của quá trình nhận thức đã hoàn thành, thì triết học

thực dụng lại khẳng định chân lý chỉ là công cụ để tạo ra sự khác biệt về mặt hiệu

quả trong việc cải tạo hoàn cảnh. Chính vì thế, triết học thực dụng không coi việc

đạt đến chân lý là cái đích cuối cùng, mà đạt đến chân lý chỉ là một phƣơng tiện

mở đầu để hƣớng tới các sự thỏa mãn khác của đời sống. Đích cuối cùng của

chân lý chính là giá trị thực tế do nó đem lại cho con ngƣời: “Hãy đƣa ra một ý

tƣởng hoặc là cứ tin là đúng, việc ý tƣởng ấy trở nên đúng sẽ tạo ra khác biệt cụ

thể nào trong đời sống thực thụ của một ngƣời nào đó?” [139, tr. 228]. Tuy

nhiên, W.James lại thể hiện quan điểm chủ quan về thực tại; thực tại rõ ràng

không phải là khách quan, chỉ là dòng kinh nghiệm sống của con ngƣời; tiêu

chuẩn của chân lý chỉ tồn tại ở giá trị niềm tin của con ngƣời khi nó còn đem lại

106

hiệu quả thực tế, ông khẳng định: “Chân lý phần nhiều sống dựa vào một “hệ

thống tín dụng”… toàn bộ sự thực sẽ sụp đổ nhƣ một hệ thống tài chính mà không

có bất cứ cái gì làm cơ sở tiền mặt” [139, tr. 231 - 232]. Rõ ràng, theo quan niệm

của W. James về tiêu chuẩn chân lý thì chẳng những tính khách quan của nó bị

phủ định mà việc tìm ra tiêu chuẩn chung của chân lý giữa mọi ngƣời là điều

không thể. Theo ông, tiêu chuẩn của chân lý chỉ mang tính tƣơng đối, chủ quan,

không có chân lý tuyệt đối, khách quan. Quan niệm này của ông chính là cơ sở để

mỗi cá nhân theo đuổi hiệu quả, lợi ích, hay sự thành công của cá nhân họ, bởi đó

chính là tiêu chuẩn chân lý của chính họ. Nói cách khác, với James, tiêu chuẩn của

chân lý là cụ thể, chỉ mang tính chủ quan và tính cá nhân.

3.2.3. Tính hữu ích, sự thỏa mãn và thành công là tiêu chuẩn của chân lý

trong chủ nghĩa công cụ của J. Dewey

Kế thừa quan điểm của W. James về tiêu chuẩn của chân lý, J. Dewey cho

rằng, tính hữu ích, sự thỏa mãn, sự thành công, cái có lợi là tiêu chuẩn của một

quan niệm, một tƣ tƣởng. Rằng, hiệu quả của một quan niệm hay một giả thuyết

nào đó là thƣớc đo chân lý của quan niệm hay giả thuyết đó. Từ đó, Dewey đƣa

ra thuyết công cụ, về thực chất đó là quan niệm cho rằng, tất cả các khái niệm, tƣ

tƣởng, quan niệm chẳng qua chỉ là những công cụ giúp cho con ngƣời hành

động, đích đến của hành động chính là hiệu quả, sự thành công. Cho nên tiêu

chuẩn của khái niệm, tƣ tƣởng, cũng là tiêu chuẩn của chân lý là tính hiệu quả,

sự thành công của con ngƣời trong hoạt động cải tạo thực tiễn.

Theo J. Dewey, các quan niệm, khái niệm, học thuyết hay hệ thống tƣ

tƣởng đều giống nhƣ một thứ công cụ mà con ngƣời sử dụng để tiến hành cải tạo

hoàn cảnh nào đó một cách chủ động, hoặc để loại bỏ những sự khó khăn nào

đó. Giá trị, hiệu quả của chúng sẽ liên quan đến sự thành công hay không thành

công của công cụ ấy trong quá trình hoạt động của con ngƣời. Nếu chúng thành

công thì chúng đáng tin, có hiệu quả, là tốt, là đúng: “Công cụ không phân biệt

thật giả, bởi vì vậy thật giả đều không phải là đặc tính của phán đoán. Công cụ

thƣờng là hữu hiệu hoặc vô hiệu, thích đáng hay không thích đáng, kinh tế hoặc

lãng phí” [dẫn theo: 40, tr. 357]. Đồng nhất chân lý với công cụ, hay phƣơng tiện

107

giúp con ngƣời hoạt động nhằm cải tạo hoàn cảnh một cách có hiệu quả, Dewey

khẳng định rằng đã là công cụ, hay phƣơng tiện thì tính hữu ích phải đƣợc đặt

lên hàng đầu, phải đƣợc coi là tiêu chuẩn của công cụ hay phƣơng tiện ấy và đó

cũng chính là tiêu chuẩn của chân lý.

Không chỉ thế, J. Dewey còn cho rằng, các khái niệm, phạm trù hay phán

đoán đều do một loại thao tác cấu tạo nên, tác dụng của những thao tác này là cái

giúp cho con ngƣời lựa chọn điều kiện có lợi. Ở góc độ xem xét, Dewey cho

rằng, tri thức và chân lý thực chất không biểu thị phƣơng diện nào của thực tại,

chỉ là công cụ để giải quyết những tình huống có vấn đề. Theo quan niệm của

chủ nghĩa công cụ, việc đánh giá nội dung, ý nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm

không phải ở sự phù hợp của chúng với thực tại mà tiêu chuẩn của nó phụ thuộc

vào hiệu quả hay tính có ích, sự thành công của chúng khi giải quyết những tình

huống có vấn đề. Nói cách khác, quan niệm của Dewey có sự thống nhất với

quan niệm của C. Peirce và W. James khi khẳng định tiêu chuẩn của chân lý

chính là tính hữu ích hay tác dụng của tƣ tƣởng, khái niệm. Song, quan niệm của

ông không còn trừu tƣợng nhƣ Peirce và James, mà cụ thể hơn bởi theo ông,

chân lý là tính hữu dụng trong việc giải quyết tình huống cụ thể chứ không phải

là tính hữu dụng nói chung. Sự thỏa mãn đƣợc tạo ra không phải là mang tính cá

nhân, riêng tƣ của một chủ thể hành động mà là sự thỏa mãn các yêu cầu của tình

huống có vấn đề. Rằng, tính thỏa mãn quan niệm và hành động là tiêu chuẩn của

chân lý. Quan niệm này cho thấy, với ông, sự thỏa mãn mục đích, sự thành công

của trong việc giải quyết tình huống có vấn đề nói riêng và trong hoạt động cải

tạo thực tiễn nói chung là tiêu chuẩn của chân lý. Quan niệm của ông về tiêu

chuẩn của chân lý mang tính duy tâm chủ quan, mặc dù đã thay sự thỏa mãn cá

nhân bằng sự thỏa mãn “công chúng”.

Có thể nói, quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn chân lý có sự

thống nhất với khái niệm chân lý. Việc đồng nhất chân lý với hiệu quả, tính có

ích, sự thành công đã quy định quan niệm của các nhà triết học thực dụng về tiêu

chuẩn của chân lý. Từ quan điểm nền tảng của C. Peirce cho rằng hiệu quả thực

108

tế là tiêu chuẩn của chân lý đến việc khẳng định hiệu quả có ích là tiêu chuẩn

chân lý trong quan niệm của W. James. J. Dewey đã cụ thể hóa khi coi tiêu

chuẩn của chân lý là tính hữu ích, sự thỏa mãn và thành công trong việc giải

quyết những tình huống có vấn đề.

Trong quan niệm về tiêu chuẩn chân lý của triết học thực dụng Mỹ,

chúng ta thấy sự đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế, tiêu chuẩn để kiểm tra

chân lý chính là hiệu quả thực tế. Ở đây, chúng ta có thể thấy một số giá trị cơ

bản trong việc chống lại những quan niệm tƣ biện, siêu hình về tiêu chuẩn của

chân lý. C. Peirce đƣa ra thuyết “có thể sai” để khẳng định tiêu chuẩn kiểm

nghiệm chân lý cần thƣờng xuyên đƣợc hiệu chỉnh; W. James đƣa ra phạm trù

“thực tại”, chân lý là sự phù hợp với thực tại, rất gần với quan điểm thực tiễn,

tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm tra chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng.

Nhƣng trên hết, chúng ta thấy giá trị thực tiễn sâu sắc của quan niệm về tiêu

chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Giá trị đó đƣợc thể hiện ở sự

thâm nhập của nó vào đời sống xã hội nƣớc Mỹ, sự thẩm thấu vào văn hóa, lối

sống của con ngƣời Mỹ. Nó trở thành phƣơng châm sống và hành động của

ngƣời Mỹ mà cái cốt yếu để hành động là đạt đƣợc mục đích, mục đích đó

không gì khác là hiệu quả, sự thỏa mãn và thành công. Từ đó chúng ta có thể

lý giải phần nào nguyên nhân về sự giàu có, sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ với vị

thế là một siêu cƣờng trên thế giới.

Tuy nhiên, sai lầm của các nhà triết học thực dụng là đã phủ nhận tiêu

chuẩn khách quan của chân lý. Ngay cả phạm trù thực tại cũng không phải là

khách quan mà mang tính chủ quan, thậm chí tiêu chuẩn của chân lý cũng chỉ

đƣợc xem là đối tƣợng của ý kiến tập thể. Chân lý là sự thỏa mãn cá nhân, giúp

con ngƣời đạt đƣợc thành công, cho nên, mỗi ngƣời dựa trên mục đích lợi ích

của mình đều có thể theo đuổi tiêu chuẩn chân lý khác nhau. Việc xác định tiêu

chuẩn chân lý nhƣ vậy có phần chủ quan, tùy tiện và phần nào thể hiện lập

trƣờng của giai cấp tƣ sản, nhằm bảo vệ cho lợi ích của giai cấp mình.

3.3. Về phƣơng pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý

Theo quan điểm của triết học thực dụng, chân lý là một quá trình không

109

phải tĩnh tại, do đó, nhận thức chân lý cũng là một quá trình. Đó là quá trình phát

sinh, phát triển và đƣợc chứng thực, có hiệu quả trong đời sống. Các nhà triết

học thực dụng đƣa ra phƣơng pháp, con đƣờng nhận thức chân lý trên cơ sở khái

niệm chân lý.

C. Peirce khẳng định chân lý là niềm tin nhất quán và vững chắc. Theo

ông, con đƣờng để đạt đến chân lý là phải loại bỏ hoài nghi, xác định niềm tin

vững chắc, giúp con ngƣời sẵn sàng hành động. Ông đƣa ra phƣơng pháp để đạt

tới niềm tin vững chắc, cũng đƣợc coi là phƣơng pháp để nhận thức chân lý.

Phƣơng pháp củng cố niềm tin phải là phƣơng pháp khoa học, để đạt tới niềm tin

khoa học chứ không phải là mọi loại niềm tin của con ngƣời: “Một loại niềm tin

nếu chỉ thỏa mãn tình cảm của con ngƣời, thì chƣa phải là niềm tin thật, chỉ có

thể dùng phƣơng pháp khoa học chứng minh mới là thật” [135, T.VI, đoạn 485].

Ông cho rằng có bốn phƣơng pháp để xác định niềm tin nhƣ sau:

Thứ nhất, phương pháp cố chấp. Phƣơng pháp này thể hiện sự công khai

ủng hộ ý kiến đã hình thành, có thái độ miệt thị và căm thù với những gì đi

ngƣợc lại ý kiến đó. Đó là phƣơng pháp khi đứng trƣớc mọi vấn đề ngƣời ta vẫn

thể hiện sự kiên trì bảo vệ ý kiến của mình, coi niềm tin đó là hoàn toàn không

thể thay đổi, không thể lay chuyển, nó trở thành kim chỉ nam cho hành động.

C.Peirce nhận xét và lý giải việc nhiều ngƣời thực sự sử dụng phƣơng pháp cố

chấp: “Phƣơng pháp đơn giản và ngoan cố này, vì thái độ ghê tởm mang tính bản

năng đối với ý thức lƣỡng lự dẫn tới sợ hãi mông lung do hoài nghi sẽ bắt ngƣời

ta phải nhất quyết bám chặt vào những ý kiến họ đã có. Con ngƣời cảm nhận

thấy rằng, nếu họ dứt khoát giữ vững niềm tin của mình, thì họ sẽ hoàn toàn thỏa

mãn. Không nên bác bỏ rằng, niềm tin vững chắc và không dao động sẽ làm cho

trí não hoàn toàn thanh thản” [135, T.V, đoạn 377].

Bản thân C. Peirce thừa nhận phƣơng pháp cố chấp mang tính phi lý: “…

Đúng là nó hoàn toàn phi lý” [135, T.V, đoạn 324]. Mặc dù vậy, cần hiểu sự phi

lý đó có nghĩa: “Nó là phi lý theo quan điểm của những ngƣời duy lý. Nhƣng,

thừa nhận quan điểm này có nghĩa là coi vấn đề tranh luận đã giải quyết xong”

[135, T.V, đoạn 324]. Peirce khẳng định: “Sẽ là một sự hỗn hào ngạo mạn nếu

110

phản bác rằng, lối hành động của ngƣời bảo vệ phƣơng pháp cố chấp là phi lý, vì

điều đó chỉ có một nghĩa: phƣơng pháp xác lập niềm tin của ngƣời ấy không phải

là phƣơng pháp của chúng ta. Ngƣời ấy hoàn toàn không có ý định trở nên hợp

lý và thực sự thƣờng xuyên nói miệt thị về lý tính yếu đuối và hay mắc sai lầm

của con ngƣời” [135, T.V, đoạn 377].

C. Peirce nhấn mạnh rằng, để loại bỏ hoài nghi củng cố niềm tin vững

chắc làm cơ sở cho hành động và đạt mục đích đặt ra thì chỉ với phƣơng pháp cố

chấp là chƣa đủ, bởi với phƣơng pháp này bộc lộ hạn chế: “Con ngƣời chấp nhận

nó sẽ phát hiện ra rằng, nhiều ngƣời khác suy nghĩ không giống nhƣ mình, vào

một thời điểm nào đó, trong đầu ngƣời ấy sẽ xuất hiện ý nghĩ rằng, ý kiến của họ

cũng tốt nhƣ ý kiến của mình, chính thực tế này sẽ làm dao động niềm tin của

ngƣời ấy” [135, T.V, đoạn 378]. Phƣơng pháp cố chấp đi ngƣợc lại với thực tế

khách quan, mang tính chủ quan của cá nhân. Mặc dù nó phù hợp với nguyên tắc

phƣơng pháp phƣơng pháp luận chung của chủ nghĩa thực dụng, nhƣng Peirce

không tán thành loại phƣơng pháp này, vì cho rằng nó thƣờng bế tắc trƣớc thực

tiễn, không giải quyết đƣợc những vấn đề của thực tiễn.

Thứ hai, phương pháp quyền uy. Từ phƣơng pháp cố chấp sang phƣơng

pháp quyền uy thể hiện bƣớc chuyển từ niềm tin độc đoán của bản thân một cá

nhân sang sự độc đoán của các lực lƣợng xã hội và sự thống trị của xã hội đối

với niềm tin của đa số mọi ngƣời. Đó là phƣơng pháp tiếp nhận những nguyên

tắc, quy định của nhà nƣớc, giáo hội hoặc các cơ quan có sức mạnh hoặc quyền

uy khác để thiết lập niềm tin có tính cƣỡng chế đối với tất cả mọi ngƣời không

đồng chính kiến. Đối với những ngƣời này, vấn đề củng cố niềm tin là vấn đề

phục tùng uy quyền. C. Peirce phân tích phƣơng pháp này nhƣ sau: “Hãy để cho

ý chí nhà nƣớc thay thế ý chí cá nhân. Chúng ta sẽ tạo dựng thể chế có mục đích

thu hút sự quan tâm của mọi ngƣời đến các học thuyết đúng đắn, thƣờng xuyên

nhắc lại chúng, dạy chúng cho giới trẻ; thể chế này đồng thời cũng cần sở hữu

sức mạnh để ngăn chặn việc nghiên cứu, bảo vệ và trình bày các học thuyết đối

lập. Chúng ta loại bỏ mọi nguyên nhân có thể làm thay đổi tâm linh ra khỏi đầu

óc mọi ngƣời. Chúng ta sẽ giữ yên sự dốt nát của họ để họ không học đƣợc cách

suy nghĩ khác. Chúng ta sẽ định hƣớng khát vọng của họ để họ ghét bỏ và sợ hãi

111

những ý kiến riêng và bất thƣờng. Chúng ta sẽ đe dọa và bắt giữ im lặng đối với

tất cả những kẻ bác bỏ niềm tin đã xác lập. Chúng ta sẽ kích thích nhân dân né

tránh những kẻ đó và… trừng phạt thích đáng chúng. Nếu không thể đạt tới sự

đồng thuận chung bằng phƣơng thức nhƣ vậy, thì việc sát hại tất cả những kẻ có

suy nghĩ khác sẽ luôn là một phƣơng tiện rất hữu hiệu để tạo ra ý kiến thống nhất

trong nƣớc” [135, T.V, đoạn 379].

Phƣơng pháp này từng chứng kiến sự thành công, nó phù hợp với nguyên

tắc của triết học thực dụng, nhƣng C. Peirce không tán thành phƣơng pháp này.

Ông cho rằng phƣơng pháp này không thể đảm bảo cho con ngƣời hoàn toàn

thành công, vì không có cách nào ngăn cản ngƣời ta hoài nghi với niềm tin của

uy quyền: “Có thể xuất hiện những ngƣời so sánh ý kiến của mình với ý kiến phổ

biến ở các nƣớc khác và đi đến kết luận rằng, họ bị áp đặt suy nghĩ và sống nhƣ

hiện thời” [135, T.V, đoạn 381]. Có thể xuất hiện những vấn đề mới, niềm tin đã

xác lập không luận giải đƣợc chúng. Khi đó hoài nghi có thể xuất hiện, vì không

có cơ sở nào để khẳng định ý kiến do quyền uy tạo ra là hoàn toàn tin tƣởng hơn

những ý kiến, vấn đề mới xuất hiện.

Thứ ba, phương pháp tiên nghiệm. Đây là phƣơng pháp của những ngƣời

có đƣợc sự đào tạo ở trình độ cao trong xã hội. Phƣơng pháp này khác với các

phƣơng pháp khác ở chỗ niềm tin phổ biến đƣợc hình thành nhờ căn cứ trên một

nguyên lý nào đó hết sức trừu tƣợng; niềm tin dựa trên căn cứ tri thức, phù hợp

với yêu cầu lý tính vĩnh hằng. Phƣơng pháp này có ƣu điểm là cho phép hình

thành ý kiến trong giao tiếp tự do của con ngƣời, trong quá trình xung đột giữa

các quan điểm khác nhau. C. Peirce cho rằng, phần lớn những nhà siêu hình đều

quen dùng phƣơng pháp này: “Phƣơng pháp này là phƣơng pháp có trí tuệ và

xứng đáng tôn trọng hơn nhiều những phƣơng pháp chúng tôi đã chỉ ra” [135,

T.V, đoạn 383]. Chẳng hạn, các nhà triết học siêu hình khẳng định rằng các

nguyên lý triết học của họ nhất trí với các nguyên lý của tƣ duy v.v… Hạn chế

của phƣơng pháp này là khó tìm ra tiếng nói chung giữa các triết gia, không khắc

phục đƣợc sự chủ quan, tùy tiện trong cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề,

nghĩa là không loại trừ đƣợc hoài nghi. Nếu chúng ta đặt vấn đề về tính hiệu quả

của phƣơng pháp này, nó có kết quả gần giống nhƣ phƣơng pháp quyền uy: “Có

những ngƣời nhận thấy niềm tin của họ đƣợc quy định bởi hoàn cảnh xa lạ với

112

các sự kiện, do vậy không chỉ sẽ công khai thừa nhận niềm tin đó đáng hoài nghi

mà còn thực sự hoài nghi, do vậy sẽ không còn niềm tin nữa” [135, T.V, đoạn

383]. Do đó, Peirce cũng không tán thành phƣơng pháp này.

Thứ tư, phương pháp khoa học. Theo C. Peirce, để niềm tin nhất trí với

thực tế thì tất cả các phƣơng pháp trên đều không thể đáp ứng đƣợc đòi hỏi này.

Chỉ có phƣơng pháp khoa học mới tạo đƣợc sự nhất trí giữa niềm tin và thực tế:

“Để loại bỏ những hoài nghi của chúng ta, cần tìm ra phƣơng pháp mà theo đó

thì niềm tin của chúng ta do một cái gì đó không phải của con ngƣời quy định,

mà đƣợc một nhân tố bên ngoài bất biến quy định - một nhân tố không chịu tác

động nào của tƣ duy chúng ta” [135, T.V, đoạn 384]. Việc củng cố niềm tin

vững chắc, loại bỏ ý kiến sai lầm, chủ quan, lấy tiền đề khẳng định sự tồn tại

khách quan của thế giới, khẳng định nhiệm vụ thăm dò là giải thích và miêu tả

thực tại khách quan. Sự nhất trí đƣợc đảm bảo bằng chính tri thức khoa học về thế

giới, về những sự vật, hiện tƣợng tồn tại khách quan, ông khẳng định: “giả thuyết

cơ bản” của phƣơng pháp khoa học là ở chỗ: “Sự vật thực tế tồn tại, đặc điểm của

chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào ý kiến của ta đối với chúng. Các sự vật đó

chiếu theo qui luật vĩnh hằng luôn tác động tới giác quan ta… Ta có thể thông qua

thảo luận mà xác định sự vật thực sự là cái gì. Mỗi cá nhân chỉ cần có đủ kinh

nghiệm và tƣ duy, ắt hẳn sẽ rút ra đƣợc kết luận thực sự” [135, T.V, đoạn 384].

C.Peirce cho rằng, phƣơng pháp khoa học không dựa vào niềm tin của cá nhân,

với phƣơng pháp khoa học, những ngƣời có niềm tin khác nhau cuối cùng sẽ nhất

trí ý kiến với nhau: “Mỗi ngƣời bằng kinh nghiệm của bản thân và năng lực tƣ duy

có thể sẽ đi đến cùng một kết luận xác đáng” [135, T.V, đoạn 384]. Ƣu thế cơ bản

của phƣơng pháp khoa học thể hiện ở việc củng cố niềm tin vững chắc. Mặc dù

luận điểm của Peirce về phƣơng pháp khoa học có những điểm hợp lý nhất định,

chứa đựng những nhân tố khách quan và khoa học, thể hiện thái độ nghiêm túc

của một nhà khoa học tự nhiên, nhƣng quan điểm của ông lại thể hiện rõ lập

trƣờng chủ quan trong việc lấy hiệu quả thực tế thể hiện ở kinh nghiệm của nhà

khoa học làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định niềm tin.

C. Peirce gọi phƣơng pháp củng cố niềm tin đồng thời cũng là phƣơng

pháp nhằm đạt đến chân lý. Ông chủ trƣơng dùng phƣơng pháp khoa học lấy

thực tại làm căn cứ để loại bỏ hoài nghi, củng cố niềm tin với tính cách là chân

113

lý. Trong khi đó, ông khẳng định để đạt đƣợc niềm tin chắc chắn, phải xuất phát

từ quan điểm khách quan, thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tƣợng là

khách quan; sự tồn tại đó nhƣ một quy luật vĩnh hằng không phụ thuộc vào ý

muốn chủ quan của con ngƣời. Phạm trù thực tại trở thành căn cứ, điểm xuất

phát của nhận thức. Xuất phát từ thực tại, từ kinh nghiệm, con ngƣời sử dụng

phƣơng pháp khoa học để nhận thức chân lý.

Trong lý luận nhận thức của C. Peirce, phƣơng pháp khoa học với tƣ cách

là hạt nhân của lý thuyết có thể sai, đó là khả năng kiểm nghiệm chân lý. Thuyết

này cho rằng, mọi kết luận, niềm tin rút ra từ việc sử dụng phƣơng pháp khoa học

đều có thể phát sinh sai lầm, cho nên đều luôn trong quá trình xem xét lại. Mọi giả

thuyết đƣợc gọi là chân lý đều phải đƣợc cải tiến, mọi niềm tin đƣợc xác lập đều

mang tính tƣơng đối so với chứng cứ. Do đó, chân lý đạt đƣợc cũng cần phải đƣợc

hiệu chỉnh thƣờng xuyên. Với những phát hiện chứng cứ mới, một số niềm tin

cũng phải thay đổi; mọi kinh nghiệm có đƣợc đều chƣa phải là chứng thực cuối

cùng đáng tin tuyệt đối. Qua đó, chúng ta nhận thấy, Peirce nhấn mạnh tính tƣơng

đối của những kết luận khoa học, phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý.

Xuất phát từ phƣơng pháp củng cố niềm tin, cũng đồng thời là phƣơng

pháp xác định chân lý của C. Peirce, W. James đã phân tích con đƣờng nhận thức

chân lý nhƣ một quá trình biện chứng, đƣợc kiểm nghiệm thông qua hiệu quả có

ích trong hoạt động thực tiễn. Chân lý là một quá trình phát sinh, là một quá

trình chứng thực và kiểm nghiệm tính hiệu quả trong thực tiễn.

Theo W. James, chân lý mang tính tƣơng đối, cụ thể, không có chân lý

tuyệt đối, phổ biến. Ông coi chân lý thực dụng cung cấp một công cụ, phƣơng

tiện để con ngƣời đạt đƣợc mục đích. Từ đó, ông đối lập thuyết chân lý của mình

với quan niệm của trƣờng phái duy lý: “Hãy so sánh hai quan điểm! Chủ nghĩa

thực dụng kiên trì sự thực với tính cụ thể, dựa vào tác dụng trong tình huống cá

biệt để quan sát chân lý. Đối với chủ nghĩa thực dụng, chân lý là những gì có giá

trị xác định trong kinh nghiệm. Còn đối với chủ nghĩa duy lý, chân lý vẫn là cái

trừu tƣợng thuần túy. Ngƣời theo chủ nghĩa trừu tƣợng cực đoan rất sợ tính cụ

thể” [dẫn theo: 40, tr. 346]. Thông qua việc chỉ ra sự đối lập của thuyết chân lý

thực dụng với chủ nghĩa duy lý, James khẳng định chân lý của triết học thực

dụng mang tính cụ thể, là tính hữu dụng trong những tình huống cụ thể. Ông

114

nhấn mạnh hạn chế của chủ nghĩa duy lý là trừu tƣợng hóa và tuyệt đối hóa chân

lý: “Giả thuyết vĩ đại của chủ nghĩa duy lý nhƣ sau: ý nghĩa của chân lý là một

quan hệ tính ỳ, quan hệ tĩnh lặng. Khi ta có đƣợc quan niệm đúng về sự vật bất

kỳ, thì sự việc kết thúc” [139, tr. 228]. James phủ định tính ổn định, bất biến,

tính trừu tƣợng của chân lý; cho rằng chân lý là cái ngƣời ta có thể tùy ý luận

định, không xác định, không ổn định. Con ngƣời căn cứ vào nhu cầu, hứng thú

của mình mà hình thành khái niệm về sự vật. Ông cho rằng: “Chủ nghĩa thực

dụng không có bất cứ thành kiến nào, không có giáo điều nào cản trở, cũng

không có tiêu chuẩn nghiêm ngặt xác định chứng cứ là gì… Chủ nghĩa thực

dụng sẵn sàng thừa nhận mọi cái, sẵn sàng tuân theo lôgíc và cảm giác, cũng sẵn

sàng xem xét cái thuần túy nhỏ nhất là kinh nghiệm cá nhân. Miễn là có hiệu quả

thực tế, thì chủ nghĩa thực dụng cũng sẵn sàng khảo sát cả kinh nghiệm thần bí.

Chủ nghĩa thực dụng sẵn sàng thừa nhận Thƣợng đế trong đời sống riêng tƣ xấu

xa của cá nhân” [dẫn theo: 40, tr. 346]. Xuất phát từ quan niệm cho rằng, chân lý

là hiệu quả thực tế, nó mang tính cụ thể và xác định, nên James đã công khai

thừa nhận trong lĩnh vực đời sống tôn giáo cũng tồn tại chân lý.

Chân lý là một quá trình, không phải tĩnh tại, bất biến mà mang tính cụ

thể, tƣơng đối, đƣợc sinh ra từ quan niệm. Chân lý là quá trình, chân lý do chân

lý trƣớc đây tạo nên, vì thế “chúng ta chƣa kiểm chứng xong một chân lý thì đã

có một triệu chân lý phát sinh trong cuộc đời chúng ta rồi” [106, tr. 311]. Do đó,

theo W. James, chân lý tồn tại dựa vào sự tin tƣởng, tính chân thực của chân lý

đƣợc tạo ra từ tính hiệu quả, tính hiệu quả tạo nên sự tồn tại của chân lý.

Quá trình nhận thức chân lý đƣợc thực hiện thông qua sự kiểm chứng tính

hiệu quả của nó, chân lý cần phải có sự kiểm nghiệm và chứng thực thông qua

hoạt động thực tiễn; chân lý tồn tại trong quá trình chứng thực của thực tiễn.

Thực tiễn hay “thực nghiệm” là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Nhƣng cái

W. James gọi là “thực nghiệm” ở đây không phải là thông qua thực tiễn khách

quan để kiểm nghiệm tính quy luật nội tại của sự vật khách quan, chỉ là kiểm

nghiệm quan niệm có tạo ra hiệu quả thực tế, làm cho con ngƣời thỏa mãn hay

không? Có làm cho con ngƣời đạt đƣợc lợi ích và thành công hay không? Do đó,

bất kể quan niệm đó phản ánh thực tế khách quan nhƣ thế nào, thậm chí bất kể

nó là tín ngƣỡng tôn giáo, đều đƣợc coi là chân lý. Ngƣợc lại, một quan niệm

115

không đem lại giá trị cho con ngƣời thì đƣợc coi là sai lầm.

W. James phân tích về sự chứng thực trực tiếp và gián tiếp của chân lý.

Khi đƣa ra ví dụ về cái đồng hồ, ông cho rằng tất cả chúng ta đều coi nó là một

“cái đồng hồ”, mặc dù không ai nhìn thấy hoạt động ẩn bên trong làm cho nó là

một cái đồng hồ. Chúng ta coi khái niệm của chúng ta là đúng mà không tìm cách

chứng thực nó. Nếu các chân lý có nghĩa là tiến trình - chứng thực một cách cơ

bản, thì chúng ta có thể gọi các chân lý không đƣợc chứng thực ấy là sai lầm

không? James trả lời là không, bởi vì đó là phần lớn các chân lý để chúng ta sống.

Theo ông, chỉ cần niềm tin vào chân lý vì niềm tin đó có tác dụng, mọi cái

chúng ta biết là phù hợp với niềm tin. Chân lý tồn tại phần lớn dựa trên hệ

thống tin tƣởng. Các tƣ tƣởng và niềm tin của chúng ta đƣợc chấp nhận, miễn

là không có gì phản bác lại chúng, giống nhƣ tấm ngân phiếu đƣợc chấp nhận

nếu không ai từ chối nó. Tất cả đều hƣớng tới một sự chứng thực nào đó, đó là

sự chứng thực gián tiếp, nếu không có nó, hệ thống chân lý sẽ sụp đổ giống nhƣ

một hệ thống tài chính mà không đƣợc bảo chứng tiền mặt. James đƣa ra kết

luận: “Các tiến trình chứng thực một cách gián tiếp hay mặc nhiên cũng đúng

không kém gì các tiến trình chứng thực hoàn toàn” [139, tr. 232]. Vì vậy, một

vấn đề đặt ra là tính chân thực của quan niệm ở mỗi ngƣời cần phải có sự

chứng minh một cách trực tiếp hay không? Ông thừa nhận rằng tính chân thực

của quan niệm không cần mỗi ngƣời phải đi chứng minh, chỉ cần ngƣời khác

chứng thực rồi, thì hoàn toàn có thể trao đổi chân lý dựa trên nhu cầu của ngƣời

sử dụng chúng, đó là cách chứng thực gián tiếp.

Nhƣ vậy, W. James đã phân tích con đƣờng nhận thức chân lý là một quá

trình không phải tĩnh tại, bất biến mà không ngừng đƣợc kiểm chứng thông qua

thực tiễn. Trong quan niệm của ông, chân lý không phải là mục đích của nhận

thức mà diễn ra cùng với quá trình nhận thức. Trong quá trình nhận thức, một

quan niệm thể hiện tính hiệu quả thì quan niệm đó là chân lý. Theo quan điểm

này, quá trình nhận thức chân lý cũng không ngừng biến đổi và cần phải đƣợc

kiểm chứng liên tục. Đây là quan điểm khá mới về con đƣờng nhận thức chân

lý, đó cũng là đóng góp của ông cho lý luận nhận thức của chủ nghĩa thực

dụng. Mặc dù vậy, quan điểm của James cũng không tránh khỏi hạn chế trong

cách lý giải về sự “chứng thực” chân lý thông qua “thực nghiệm” hay “thực

116

tiễn”; đó không phải là thực tiễn khách quan, mà là hiệu quả thực tế của một

quan niệm giúp con ngƣời thỏa mãn về lợi ích hay thành công. Quan điểm này

thể hiện rõ tính chủ quan trong việc lý giải con đƣờng nhận thức chân lý và tiêu

chuẩn của chân lý.

Kế thừa quan điểm của C. Peirce và W. James, J. Dewey phát triển lý luận

nhận thức của triết học thực dụng và đƣa ra phƣơng pháp để đạt đến chân lý.

Ông phê phán thuyết chân lý của chủ nghĩa duy lý cho rằng, chân lý là khái niệm

lý tính có sẵn và chống lại thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Theo ông:

“Bất kỳ tƣ tƣởng, khái niệm nào vừa không thể là thực tại tồn tại độc lập, cũng

không thể là rập khuôn thực tại khách quan, chỉ có thể coi chúng là giả thiết ứng

dụng, và giả thiết đƣợc nêu lên theo ý nguyện của con ngƣời. Nó giống nhƣ công

cụ của ngƣời sử dụng để chế tác một sản phẩm nào đó hoàn toàn do ngƣời sử

dụng công cụ thiết kế thuận lợi cho mình” [dẫn theo: 39, tr. 172]. Ở luận điểm

này, ông phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời nhấn mạnh tính chủ

quan, tƣơng đối của chân lý. Chân lý chẳng qua chỉ là những giả thiết chủ quan

nhằm phục vụ cho mục đích của con ngƣời.

J. Dewey nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò, nên phƣơng

pháp của ông thƣờng đƣợc gọi là phƣơng pháp thăm dò, nó là sự kế thừa và phát

triển lý luận “Hoài nghi - niềm tin” của C. Peirce. Phƣơng pháp thăm dò của ông

xuất phát từ việc giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình nhận thức. Ông cho

rằng thực tại “đi trƣớc” nhận thức. Nhận thức là sự can thiệp mang tính tích cực,

sáng tạo của chủ thể vào đối tƣợng, làm biến đổi đối tƣợng. Khách thể tồn tại

khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Tƣ duy chỉ là công cụ để cải

tạo những tình huống có vấn đề: “Tƣ duy … đƣợc định nghĩa nhƣ là sự vận động

trong đó những sự vật hiện thời gợi tới những sự vật (hoặc sự thực) khác theo

cách gây tạo niềm tin vào cái sau dựa trên cơ sở hoặc dựa vào sự bảo đảm của

cái trước” [22, tr. 21]. Tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của con ngƣời trong quá

trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự vật thành tồn tại của nhận thức là đặc

trƣng trong phƣơng pháp nhận thức khoa học của ông. Ông xem thực tại cũng

chỉ là kết quả của quá trình nhận thức: “Sự thay đổi các quan niệm của chúng ta

về đối tƣợng đã tạo nên đối tƣợng phù hợp với trạng thái ý thức, nói cách khác,

117

quá trình nhận thức là quá trình “xác lập thực tại”. Tồn tại - nghĩa là trở thành

đối tƣợng của nghiên cứu khoa học” [92, tr. 41].

J. Dewey lý giải quá trình nghiên cứu theo tinh thần của C. Peirce. Cuộc

sống đặt con ngƣời vào những tình huống nan giải, những trạng thái hoài nghi.

Khi rơi vào tình huống ấy, con ngƣời cần đến phƣơng pháp để giải quyết những

nan đề. Tƣ duy bắt đầu bằng những trở ngại, đó là sự hoài nghi, từ đó cần phải

giải quyết vấn đề hoài nghi - đƣợc xem là mục đích của tƣ duy: “Việc đòi hỏi

đáp án cho một tình huống phân vân có vai trò như nhân tố làm vững chắc và

định hướng cho toàn bộ tiến trình suy tư” [22, tr. 25]. Theo đó, chức năng cơ

bản của tƣ duy là cải tạo tình huống chƣa xác định thành tình huống xác định;

khoa học là một loại hộp đựng công cụ, từ đó giúp con ngƣời lựa chọn những gì

tiện lợi, có hiệu quả trong những điều kiện nhất định, để giải quyết những vấn đề

nảy sinh trong đời sống, tiêu chuẩn của nó là tính hữu ích, sự thành công trong

hành động: “Tƣ duy là công cụ dùng để khống chế hoàn cảnh, thông qua hành

động để hoàn thành sự khống chế đó” [dẫn theo: 39, tr. 167].

J. Dewey đƣa ra phƣơng pháp nghiên cứu chung để đạt đến chân lý gồm 5

bƣớc: 1) cảm nhận nan giải; 2) ý thức vấn đề; 3) dự thảo giải pháp (giả thuyết);

4) khai mở ý tƣởng về giải pháp đến những kết quả kinh nghiệm của nó; 5) quan

sát và kiểm chứng giả thuyết. Trƣớc hết, thang bậc đầu tiên cần phải xác định

nan giải hay chính là bối cảnh có vấn đề: “Cái khó có thể cảm nhận đƣợc với

một mức độ rõ ràng đủ khiến trí óc suy ngay ra một giải pháp khả dĩ cho tình thế

ấy, hoặc một sự bất an cùng cú sốc có thể ập đến trƣớc, để rồi đƣa tới hẳn một nỗ

lực nhằm khám phá ra đâu là vấn đề” [22, tr.121]. Sau đó, sang bƣớc thứ hai cần

làm sáng tỏ tính chất đặc thù của vấn đề, trở ngại biến tình huống bất định

thành tình huống có vấn đề. Chuyển sang bƣớc thứ ba, cần đƣa ra giả thuyết

hay kế hoạch giải quyết vấn đề: “Sự gợi ý chính là trung tâm của suy luận…

Kết luận đƣợc gợi ý ra chừng nào còn chƣa đƣợc chấp nhận mà chỉ đƣợc coi là

tạm thời sẽ tạo thành một ý kiến. Những từ đồng nghĩa cho điều này là giả

định, phỏng đoán, dự đoán, giả thuyết và lý thuyết [22, tr. 125 - 126]. Đến

thang bậc thứ tƣ là sự suy luận, cần xem xét tất cả các hiệu quả kinh nghiệm có

118

thể xảy ra do quyết định giải quyết đƣa ra. Cuối cùng là giai đoạn thực hiện và

kiểm chứng giả thuyết bằng thực nghiệm: “Bƣớc kết thúc và kết luận là một

kiểu nhƣ chứng thực bằng thực nghiệm, hay là minh xác cho ý kiến phỏng

đoán. Việc lý giải cho thấy là nếu ý kiến đƣợc thâu nạp, nó kéo theo những hệ

quả nhất định. Tới đây thì kết luận đƣợc xem là có tính giả định hay là có điều

kiện” [22, tr. 128]. Trong những trƣờng hợp cần thiết, có thể thay đổi quyết

định đƣa ra. Ông nhấn mạnh quá trình nhận thức chân lý thông qua kiểm chứng

bằng quan sát hoặc bằng thực nghiệm: “Quan sát tồn tại cả vào lúc ban đầu và

lúc kết thúc quá trình: ở lúc ban đầu, nó xác định rành rẽ và chính xác bản chất

của cái khó phải đƣơng đầu; và vào lúc kết thúc, nó kiểm nghiệm lại giá trị của

một số kết luận vẽ ra từ giả thuyết” [22, tr. 129].

Nhƣ vậy, phƣơng pháp nghiên cứu của J. Dewey đƣợc xem là phƣơng

pháp phổ biến để giải quyết mọi tình huống có vấn đề, bao hàm khả năng tự điều

chỉnh của nó. Phƣơng pháp này nhằm giải quyết tình huống có vấn đề (hoài

nghi) thành tình huống rõ ràng, khi đó mục đích của nghiên cứu đã đạt đƣợc.

Quá trình nhận thức là quá trình thay đổi đối tƣợng đƣợc nhận thức. Kết quả của

nghiên cứu là cách giải quyết thành công trong những bối cảnh có vấn đề, hay

chân lý thể hiện ở thành công của giải pháp cho tình huống có vấn đề. Vì vậy,

thực chất của tri thức và chân lý chỉ là công cụ để giải quyết tình huống có vấn

đề hay nghĩa của khái niệm “chân lý” chính là sự thành công.

Có thể nói, các nhà triết học thực dụng Mỹ đều đề cao vai trò của

phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý, coi chân lý là quá trình nên

nhận thức chân lý cũng là quá trình thƣờng xuyên đƣợc kiểm chứng bằng

phƣơng pháp khoa học. Triết học thực dụng Mỹ khẳng định và đề cao phƣơng

pháp khoa học để đạt tới chân lý, thực chất, phƣơng pháp khoa học nhằm đạt đến

chân lý, tức là đạt đƣợc hiệu quả, sự thành công trong hành động cải tạo thực

tiễn của con ngƣời. Đây là một trong những đóng góp của trƣờng phái triết học

này về lý luận nhận thức nói chung và về con đƣờng nhận thức chân lý nói riêng.

Song, những phƣơng pháp mà họ đƣa ra để nhận thức chân lý còn mang tính chủ

quan và chƣa thực sự thuyết phục.

119

TIỂU KẾT CHƢƠNG 3

Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng đƣợc bắt đầu bằng

quan điểm mang tính nền tảng của C. Peirce, đƣợc W. James triển khai tổng

quát và hệ thống hóa, làm tiền đề cho sự phát triển trong chủ nghĩa công cụ

của J. Dewey.

Tƣ tƣởng triết học thực dụng của C. Peirce đƣợc thể hiện ở hai vấn đề

đƣợc coi là trung tâm, xuyên suốt và đƣợc ông đặc biệt quan tâm, đó là vấn đề

“Củng cố niềm tin” và “Làm thế nào để tư tưởng của chúng ta được rõ ràng”.

Đó cũng là câu hỏi mà khi trả lời đƣợc sẽ là giải đáp cho quan niệm về chân lý

của ông nói riêng và triết học thực dụng nói chung. Theo ông, để hành động con

ngƣời cần củng cố niềm tin, đó là quá trình loại bỏ những hoài nghi đạt đƣợc

niềm tin vững chắc, khi đạt đƣợc niềm tin vững chắc tức là mục đích của nhận

thức đã hoàn thành, con ngƣời có thể hành động dựa trên niềm tin đó. Ông đồng

nhất chân lý với niềm tin thực dụng. Song, cần phải trả lời câu hỏi tiếp theo là tin

vào cái gì? Hay tiêu chuẩn của niềm tin là gì? Theo ông, tiêu chuẩn đó là toàn bộ

những hiệu quả thực tế do tƣ tƣởng, khái niệm đó tạo ra. Chân lý khác với giả

tạo chính là hành động dựa trên cơ sở, cơ sở đó là hiệu quả thực tế. Với lôgíc đó,

ông đã tạo ra “nguyên lý thực dụng” hay “nguyên tắc Peirce” đƣợc coi là nền

tảng của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng khi đồng nhất chân lý

với hiệu quả thực tế. Trên cơ sở nguyên tắc của chủ nghĩa thực dụng của Peirce,

W. James đã cụ thể hóa và đƣa ra định nghĩa về chân lý. Ông định nghĩa chân lý

bởi hiệu quả: “Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải

hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với nhau” [92, tr. 37]. Nếu nhƣ trong quan

niệm của Peirce, chân lý thể hiện tính hữu dụng tƣơng lai của chúng đối với

những mục tiêu của con ngƣời, thì đến James, khái niệm chân lý đã đƣợc cụ thể

khi ông xem chân lý là cái đem lại lợi ích, hiệu quả và sự thành công cho con

ngƣời. Kế thừa quan điểm của Pierce và James về chân lý, J. Dewey đã phát triển

khái niệm chân lý khi đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ. Xuất phát từ

quan điểm của chủ nghĩa công cụ, ông cho rằng: tư tưởng, quan niệm, lý luận là

công cụ hành vi của con người. Vì vậy, chân lý là một sự thỏa mãn, là hiệu quả,

thành công cho mọi ngƣời. Về cơ bản, quan niệm về chân lý của Dewey xuất

phát từ quan điểm “hữu dụng tức là chân lý” của James. Có những điểm tƣơng

120

đồng ở việc khẳng định rằng những phán quyết nào đảm bảo hiệu quả cho hành

động là phán đoán đúng đắn. Cái gì cho phép giải quyết thành công những tình

huống có vấn đề, cái đó là chân lý. Song, quan niệm về chân lý của Dewey đã cụ

thể hơn khi coi chân lý là sự hữu dụng trong việc giải quyết những tình huống cụ

thể. Sự thỏa mãn ở đây không phải là thỏa mãn riêng tƣ của một chủ thể hành

động, mà là thỏa mãn các yêu cầu của bản thân tình huống có vấn đề.

Trong quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lý, chúng

ta thấy có sự thống nhất với khái niệm chân lý. Việc đồng nhất chân lý với hiệu

quả, tính có ích, sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn của chân lý.

Từ quan điểm của C. Peirce cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý,

đến việc khẳng định tính hiệu quả, tính có ích, sự thỏa mãn, sự thành công là tiêu

chuẩn của chân lý trong quan niệm của W. James và J. Dewey. Trong quan niệm

về tiêu chuẩn của chân lý, chúng ta thấy có một số mặt tích cực, thể hiện quan

điểm biện chứng về tiêu chuẩn của chân lý. Peirce đƣa ra thuyết “có thể sai” để

khẳng định tiêu chuẩn kiểm nghiệm của chân lý cần thƣờng xuyên phải hiệu

chỉnh. Còn James đƣa ra phạm trù “thực tại”, coi chân lý là sự phù hợp với thực

tại. Quan niệm này rất gần với quan điểm thực tiễn, tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm

tra chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đặc biệt, các nhà triết học thực

dụng Mỹ rất chú trọng phƣơng pháp khoa học để đạt đến chân lý, thực chất là

nhằm đạt đƣợc hiệu quả, sự thành công trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời.

Nhận thức chân lý là một quá trình không phải tĩnh tại, đó là quá trình phát sinh,

phát triển và đƣợc chứng thực, có hiệu quả trong đời sống. Tuy nhiên, sai lầm

của các nhà triết học thực dụng là đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân

lý. Ngay cả phạm trù thực tại cũng không phải là khách quan mà mang tính chủ

quan, thậm chí tiêu chuẩn của chân lý cũng chỉ đƣợc xem là đối tƣợng của ý kiến

tập thể. Chân lý là sự thỏa mãn cá nhân, giúp con ngƣời đạt đƣợc thành công, vì

vậy mỗi ngƣời dựa trên mục đích lợi ích của mình đều có thể theo đuổi tiêu

chuẩn chân lý khác nhau. Việc xác định tiêu chuẩn của chân lý nhƣ vậy có phần

chủ quan, tùy tiện và phần nào thể hiện lập trƣờng của giai cấp tƣ sản, nhằm bảo

vệ cho lợi ích của giai cấp mình. Do đó, nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết

học thực dụng Mỹ, chúng ta phải thấy rằng bên cạnh một số mặt tích cực, cũng

tồn tại một số hạn chế. Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả làm rõ ở phần sau của luận án.

121

Chƣơng 4

GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ

TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ

4.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ 4.1.1. Phê phán quan niệm tư biện về chân lý

Các nhà triết học thực dụng khẳng định họ dứt khoát quay lƣng lại với

những triết lý trừu tƣợng, đóng kín, những tín điều, những nguyên tắc cố định,

bất biến, những hệ thống khép kín xa rời thực tế. Triết học thực dụng luôn hƣớng

đến những cái cụ thể, những sự kiện, coi trọng hành động, tính thực tiễn. Khác

với quan niệm tƣ biện, quan niệm của triết học thực dụng về chân lý là một sự cố

gắng trong việc tìm hiểu bản chất của chân lý. Triết học thực dụng nhấn mạnh

thực tế và hƣớng những vấn đề của đời sống con ngƣời vào trong triết học,

hƣớng mục đích của triết học vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc

sống đặt ra. Với định hƣớng này, họ lên tiếng phản đối các lý thuyết chân lý tƣ

biện nhƣ lý thuyết sao chép của chủ nghĩa duy vật máy móc; lý thuyết chân lý

mang tính bất biến, chết cứng của chủ nghĩa duy lý.

C. Peirce phê phán siêu hình học truyền thống, ông cho rằng, “hầu nhƣ

mỗi một mệnh đề của bản thể luận siêu hình học đều là lời lẽ vô nghĩa hoặc hoàn

toàn sai lầm” [135, T.V, đoạn 423]. Mặc dù vậy, theo ông, siêu hình học truyền

thống, dù không còn thích dụng với thời đại, song nếu nó đƣợc xây dựng trên cơ

sở khoa học thì vẫn có thể chấp nhận đƣợc.

C. Peirce nhấn mạnh tính có thể sai của một kết luận khoa học và đòi hỏi

khoa học luôn trong quá trình hiệu chỉnh và bổ sung bằng sự kiểm chứng thƣờng

xuyên của các phƣơng pháp khoa học. Đây là một đóng góp quan trọng của triết

học thực dụng về lý luận nhận thức. W. James chống lại quan niệm siêu hình,

duy lý cho rằng chân lý mang tính tĩnh tại, không có sự thay đổi. Từ đó, ông

khẳng định chân lý luôn đƣợc tạo ra cho một ý niệm, tính xác thực của nó là một

quá trình kiểm chứng chính nó. Ông phản đối thuyết sao chép của chân lý và cho

rằng chân lý là quá trình động chứ không phải tĩnh tại, bất biến. Theo ông, cách

diễn đạt rằng, chân lý là sự “phù hợp của tƣ tƣởng với hiện thực” tự thân nó là

122

vô nghĩa. Bởi đơn giản bản thân tƣ tƣởng không thể là chân thực hay sai lầm, nó

chỉ trở nên nhƣ vậy trong quá trình vận dụng nó để giải quyết vấn đề cụ thể. Để

giải quyết vấn đề đó, con ngƣời dựa vào hiệu quả thực tế do nó tạo ra đối với

mục đích đặt ra, ở tính hữu ích, tiện lợi, khả năng giải quyết vấn đề thành công,

giúp con ngƣời thỏa mãn. Ở khía cạnh này, ông tỏ ra có lý, đồng thời cũng thể

hiện quan điểm biện chứng về chân lý. Vậy là ông đã lấy hạn chế của quan niệm

tƣ biện về chân lý để khẳng định sự hợp lý trong quan niệm của mình.

J. Dewey đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ, xuất phát từ quan

điểm của chủ nghĩa công cụ để cho rằng: tƣ tƣởng, quan niệm, lý luận là công cụ

hành vi của con ngƣời, tiêu chuẩn của chân lý với tƣ cách là công cụ chính là ở

chỗ có đƣa hành động của con ngƣời đến thành công hay không. Theo ông, chân

lý thực chất không biểu hiện các phƣơng diện nào đó của thực tại, mà chỉ là công

cụ để giải quyết các tình huống có vấn đề, đƣa ra giải pháp thỏa mãn các yêu cầu

của tình huống và cho phép giải quyết thành công nó. Ông cho rằng, các quan

niệm, tƣ tƣởng, khái niệm chẳng qua giống nhƣ một công cụ nói chung để tiến

hành cải tạo hoàn cảnh một cách có hiệu quả và giá trị của nó là ở chỗ giúp con

ngƣời đạt đƣợc mục đích, dẫn đến thành công tức là chân lý, hay chân lý chính là

công cụ đƣa đến thành công cho con ngƣời. Ông nhấn mạnh giá trị của công cụ

hay chân lý là ở kết quả khi sử dụng chúng. Theo ông, đã là công cụ thì chỉ cần

quan tâm đến hiệu quả hay không hiệu quả. Rằng, chân lý là sự thỏa mãn, là hiệu

quả cho mọi ngƣời. Nhấn mạnh chân lý ở tính hữu dụng đƣợc xem là đặc trƣng

trong lý luận nhận thức của triết học thực dụng.

Có thể nói, quan niệm về chân lý của triết học trƣớc triết học Mác có đặc

điểm chung là xem xét chân lý một cách phiến diện, xuất phát từ sự đối lập giữa

chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, tuyệt đối hóa một mặt nào đó trong mối

quan hệ giữa chủ thể và khách thể, giữa vật chất và ý thức, tách rời với quá trình

lịch sử xã hội hiện thực. Hoặc chân lý nếu đƣợc xem là quá trình thì cũng chỉ với

tƣ cách là quá trình thuần túy về tƣ tƣởng, tƣ duy chứ không phải là quá trình

hiện thực của tồn tại. Các nhà triết học duy tâm hoặc tuyệt đối hóa vai trò chủ

quan của chủ thể, hoặc nhấn mạnh năng lực lý tính, trực giác của chủ thể. Vấn đề

chân lý hoặc thuần túy trong lĩnh vực tƣ duy, ý thức, hoặc là sự sao chép máy

123

móc hiện thực khách quan mà không đƣợc đặt ra nhƣ là vấn đề quan hệ giữa chủ

thể con ngƣời với thế giới khách quan. Chân lý biểu hiện không phải là sự phù

hợp của tƣ tƣởng với thế giới khách quan, mà chỉ là sự sao chép tuân theo khách

thể nhƣ cái có sẵn; ở đó không thấy đƣợc vai trò của chủ thể hoặc chỉ thuần túy

tuân theo các quy tắc lôgíc của tƣ duy trừu tƣợng. Chúng ta không thể phủ nhận

những đóng góp nhất định trong lĩnh vực nhận thức luận, song các quan niệm

trƣớc Mác về chân lý không thể đƣa ra cách giải quyết một cách khách quan,

khoa học về vấn đề này. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã tạo ra một bƣớc

ngoặt về lý luận nhận thức, tạo ra sự thay đổi quan trọng trong quan niệm về

chân lý. Quan điểm duy vật biện chứng về lý luận nhận thức, trên cơ sở phê phán

những hạn chế của quan niệm trƣớc đó, đã khắc phục đƣợc những hạn chế của lý

luận nhận thức truyền thống này và đƣa ra cơ sở khoa học cho những nguyên tắc

của lý luận nhận thức duy vật biện chứng, cũng nhƣ quan niệm về chân lý. Đối

tƣợng hình thành nên chân lý là thế giới khách quan, mà thế giới khách quan là

một quá trình không phải tĩnh tại, bất biến, nên chân lý là một quá trình: “Sự phù

hợp giữa tƣ tƣởng và khách thể là một quá trình: tƣ tƣởng (= con ngƣời) không

nên hình dung chân lý dƣới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình

ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ) không khuynh hƣớng, không vận động, y nhƣ

một thần linh, một số, một tƣ tƣởng trừu tƣợng” [83, tr. 207].

Chúng ta thấy, cả triết học thực dụng và triết học Mác - Lênin đều phê

phán hạn chế của quan niệm tƣ biện về chân lý. Các nhà triết học thực dụng phê

phán hạn chế của một số quan niệm tƣ biện về chân lý, theo đó, có thể quy về hai

hệ thống lý thuyết là thuyết sao chép của chủ nghĩa duy vật máy móc và chủ

nghĩa duy lý với quan niệm về chân lý một cách siêu hình, chết cứng, xa rời thực

tiễn. Lênin dƣờng nhƣ cũng thừa nhận trong khi phê phán các quan niệm tƣ biện

về chân lý, triết học thực dụng cũng thể hiện phần nào tính đúng đắn, ông cũng

phản đối và cho rằng lý thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy lý về chân lý là nông

cạn: “Cũng giống nhƣ tất cả mọi sự phê phán, chắc chắn là trong việc chủ nghĩa

thực dụng phê phán chủ nghĩa duy lý, cũng có một phần chân lý… Chắc chắn là

lý luận cho rằng tinh thần là tấm gƣơng phản chiếu sự vật, và chân lý là bản sao

chép lại sự vật, là cực kỳ nông cạn” [83, tr. 617]. Rõ ràng, các nhà triết học thực

124

dụng đã thấy đƣợc hạn chế trong quan niệm của các trƣờng phái triết học tƣ biện

về chân lý. Học thuyết duy vật máy móc quá nhấn mạnh đến sự phản ánh hiện

thực khách quan một cách sao chép máy móc, siêu hình, không thấy đƣợc tính

tích cực của chủ thể nhận thức, còn học thuyết của chủ nghĩa duy lý lại thể hiện

quan điểm chân lý là cái đích tối thƣợng, là những mệnh đề tuyệt đối, bất biến

mà không thấy đƣợc việc nhận thức chân lý là một quá trình biện chứng, thƣờng

xuyên có sự hiệu chỉnh, kiểm chứng thông qua thực tiễn. Từ đó, các nhà triết học

thực dụng coi trọng tính chủ thể, sáng tạo trong quá trình nhận thức chân lý.

Quan điểm này khẳng định vai trò quan trọng, thậm chí quyết định của chủ thể

nhận thức, đề cao vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể trong quá trình nhận

thức chân lý. Quá trình đó có cả những sai lầm nhƣng điều quan trọng là cần

thƣờng xuyên hiệu chỉnh cho phù hợp. Đối với xã hội Mỹ, có thể xem đây là

quan điểm phù hợp, đồng thời sự phù hợp đó cũng thúc đẩy xã hội phát triển.

Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hiện nay, việc đề cao vai trò của chủ thể

trong quá trình nhận thức là một quan điểm có phần đúng đắn.

4.1.2. Đề cao hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý

Đề cao hiệu quả thực tế, các nhà triết học thực dụng Mỹ cho rằng những

khái niệm triết học chỉ có giá trị khi đƣợc đặt trên mảnh đất hiện thực chứ không

phải là sự trừu tƣợng, xa rời thực tế. Ý nghĩa của triết học nằm ở quan hệ của nó

với đời sống con ngƣời, có ý nghĩa thực tiễn đối với con ngƣời. Vấn đề của triết

học phải là những vấn đề của con ngƣời, đó là hiệu quả, lợi ích, sự thành công.

Do đó, chân lý đƣợc hiểu là công cụ giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích, sự thỏa

mãn và thành công; cái gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất

hữu dụng. Mệnh đề trên trở thành quan điểm nền tảng của triết học thực dụng

Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói riêng.

Đồng nhất chân lý với tính hiệu quả là một trong những đặc trƣng của lý luận

nhận thức thực dụng, mà C. Peirce là ngƣời đặt nền móng. Quan điểm đó thể hiện

rõ bản chất của chân lý trong triết học thực dụng. Từ đó, ông đƣa ra định nghĩa thực

dụng điển hình về chân lý: “Chân lý là ở tính hữu dụng tƣơng lai đối với những

mục tiêu của chúng ta. Tôi cảm giác rằng chủ nghĩa thực dụng thể hiện điều này”

[136, tr. 381]. Quan niệm của ông về chân lý đƣợc thể hiện trong “nguyên tắc

125

Peirce”, là nền tảng cho quan niệm về chân lý sau này của W. James và J. Dewey.

C. Peirce khẳng định hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Để xác

định nghĩa của một khái niệm, tƣ tƣởng chỉ cần căn cứ vào hiệu quả thực tế của

chúng. Từ đặc trƣng này của triết học thực dụng đƣợc Peirce xây dựng và đặt

cho nó cái tên là Pragmatism. Ông thƣờng nhấn mạnh chân lý và thực tại thống

nhất với nhau. Ông đƣa ra phƣơng pháp củng cố niềm tin đồng thời là phƣơng

pháp để đạt đến chân lý, đó là phƣơng pháp khoa học, lấy thực tại làm căn cứ.

Theo ông, tiêu chuẩn để phân biệt chân lý khác với giả tạo ở chỗ hành động phải

dựa trên cơ sở của nó, cơ sở đó là toàn bộ những hiệu quả thực tế.

W. James khẳng định chân lý là sự “phù hợp” với “thực tại”. Tuy nhiên,

ông cũng phản đối sự “phù hợp” giản đơn của nhận thức với đối tƣợng. Trên

thực tế, ông cố gắng thuyết minh rằng chân lý là một quá trình phát sinh, là

quá trình quan niệm đƣợc chứng thực và có hiệu quả trong thực tiễn. Trong

quan điểm chân lý là sự phù hợp với thực tại, một mặt, ông phê phán “thuyết

sao chép” mang tính máy móc về chân lý, phê phán triết học duy tâm tƣ biện

về tính tuyệt đối, có sẵn của chân lý; mặt khác, ông cũng nhấn mạnh tính chủ

thể, tính nhân tạo của chân lý. Có thể nói, đây là một đóng góp của ông trong

lý luận về chân lý.

Nếu nhƣ C. Pierce lấy hiệu quả thực tế làm tiêu chuẩn để xác định nghĩa

của một tƣ tƣởng, khái niệm, thì W. James lại lấy tính hữu ích để xác định sự

đúng, sai của những tƣ tƣởng - tức là xác định giá trị của chúng hay chính là

chân lý. Tƣ tƣởng chừng nào còn có ích, thì còn lƣu hành đƣợc, cũng giống nhƣ

việc phát hành giấy bạc, tƣ tƣởng nào không còn có giá trị, không có ích lợi nữa

cũng giống nhƣ giấy bạc khi bị mất giá, phá giá có thể sẽ ngừng trao đổi; muốn

lƣu hành đƣợc thì phải thay giấy bạc khác, đổi đồng tiền khác. Định nghĩa nổi

tiếng về chân lý đƣợc ông đƣa ra: Chân lý là cái gì đem lại hiệu quả có ích. Có

thể nói, chỉ đến khi James xuất hiện với học thuyết về chân lý trong những thập

niên đầu thế kỷ XX ở Mỹ, mới thực sự đƣa triết học thực dụng lên địa vị đỉnh

cao, khẳng định sự thắng thế đối với các trƣờng phái triết học khác, trở thành

một phần không thể thiếu của nền văn hóa Mỹ.

Quan niệm về chân lý đƣợc J. Dewey nghiên cứu thông qua chủ nghĩa

126

công cụ, theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa công cụ là lý luận về nhận thức và chân lý.

Ông đề cao thực tiễn, coi chân lý thực chất là công cụ giải quyết những tình

huống có vấn đề, để cải tạo thế giới, giúp con ngƣời thỏa mãn, thành công.

Tính hữu ích của quan niệm trở thành thƣớc đo của chân lý. Phát triển thêm

một bƣớc quan niệm của James về chân lý, ông cho rằng sự thỏa mãn, hiệu quả

của chân lý không phải cho cá nhân mà là cho cộng đồng xã hội. Chính từ

những hiểu lầm và phản ứng đối với chủ nghĩa thực dụng, ông đã đi đến sự giải

thích và bổ sung này.

Triết học thực dụng thừa nhận chân lý là sự phù hợp của quan niệm với thực

tại, đây là quan điểm đƣợc chấp nhận phổ biến trong triết học trƣớc Mác. Đồng

thời, họ giải thích sự phù hợp của chân lý là quá trình chứng thực bằng hiệu quả

thực tế trong hoạt động của con ngƣời. Tiêu chuẩn hiệu quả thực tế, tính hữu ích, sự

thành công trong hoạt động của con ngƣời trở thành thƣớc đo của chân lý.

Chúng ta thấy giữa triết học Mác - Lênin và triết học thực dụng Mỹ có sự

gặp gỡ nhau ở một số nội dung cơ bản. Trước hết, xem xét chân lý là một quá

trình không phải tĩnh tại, bất biến, mà thƣờng xuyên đƣợc kiểm chứng thông qua

thực tiễn. Thứ hai, đề cao hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Coi trọng

hành động thực tiễn, đặt hiệu quả lên hàng đầu đƣợc coi là nét đặc trƣng của triết

học thực dụng: “Nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nó (chủ nghĩa thực dụng)

còn tồn tại và phát triển là nó đề cập tới một trong những vấn đề quan trọng nhất

của con ngƣời - vấn đề hoạt động” [119, tr. 193]. Nếu nhƣ trong triết học Mác -

Lênin, thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là động lực, là mục đích của nhận thức và là

tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý; thực tiễn đƣợc đặc biệt đề cao, tạo ra một cuộc

cách mạng trong lý luận nhận thức khi đƣa thực tiễn trở thành phạm trù trung

tâm, thì trong triết học thực dụng, các nhà triết học thực dụng đã phê phán toàn

bộ triết học tƣ biện trƣớc đó vì chỉ nghiên cứu những vấn đề xa rời mảnh đất

hiện thực, không liên quan đến con ngƣời, đến hoạt động và cuộc sống của con

ngƣời. Các nhà triết học thực dụng ý thức đƣợc rằng, hoạt động nhận thức của

con ngƣời chỉ có ý nghĩa khi chúng gắn liền với thực tiễn, phục vụ và cải tạo

thực tiễn, quay trở về với thực tiễn, với sự sống động của hiện thực mà ở đó, con

ngƣời là chủ thể và đó chính là điểm tích cực của triết học thực dụng, đƣợc coi là

127

một biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn của trƣờng phái triết học này.

Tuy nhiên, quan niệm về thực tiễn của triết học Mác - Lênin và triết học

thực dụng cũng có những khác biệt căn bản, cùng đề cập tới thực tiễn, nhƣng nội

dung của thực tiễn trong triết học Mác - Lênin lại khác cơ bản về chất so với

quan niệm về thực tiễn trong triết học thực dụng. Theo triết học Mác - Lênin,

thực tiễn đƣợc coi là hoạt động đặc trƣng của con ngƣời, nhƣng không phải toàn

bộ hoạt động của con ngƣời đều là thực tiễn, chỉ những hoạt động vật chất mới

đƣợc coi là thực tiễn. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có tính lịch

sử - xã hội của con ngƣời, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Theo triết học Mác -

Lênin, chân lý là quá trình nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu

tƣợng, và từ tư tuy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đƣờng biện chứng của sự

nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” [83, tr. 179]. Vấn đề

thực tiễn trong triết học Mác - Lênin vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc

của quá trình nhận thức chân lý: “Vấn đề tìm hiểu tƣ duy của con ngƣời có thể

đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận

mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con ngƣời phải chứng minh

chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tƣ duy

của mình” [86, tr. 9 - 10]. Thực tiễn là quá trình thống nhất giữa chủ thể và

khách thể, chủ quan và khách quan: “Con ngƣời chứng minh bằng thực tiễn của

mình sự đúng đắn khách quan của những ý niệm, khái niệm, tri thức của mình,

của khoa học của mình” [83, tr. 203]. Theo đó, thực tiễn thuộc về thực tại khách

quan, độc lập với ý thức con ngƣời và quyết định ý thức của con ngƣời.

Trong khi đó, vấn đề “thực tại” trong triết học thực dụng chẳng qua cũng

chỉ là kinh nghiệm thực tiễn mang tính chủ quan của con ngƣời; ở đó, tính hữu

dụng đối với cá nhân mang tính chất chủ quan trở thành tiêu chuẩn của chân lý.

Đối với triết học thực dụng thì thực tiễn đƣợc hiểu là những hành động của con

ngƣời trong sự tác động của hoàn cảnh và thói quen, kinh nghiệm phản ứng lại

hoàn cảnh chứ không phải là hoạt động vật chất, vì thế nó có cả những hoạt động

vật chất, có cả những hoạt động tinh thần, tƣ tƣởng. Theo các nhà thực dụng,

kích thích và phản ứng, thói quen và kinh nghiệm cũng là những nội dung cơ bản

của thực tiễn, đồng thời những hoạt động này hƣớng tới mục đích đem lại hiệu

128

quả, tính hữu ích, để giải quyết thành công những nan đề của đời sống. Vì vậy,

nhận thức không đi từ cái chƣa biết đến cái biết, mà từ sự hoài nghi đến niềm tin

và khi đạt đƣợc niềm tin vững chắc, giúp con ngƣời hành động đạt hiệu quả là

đích đến của nhận thức và hành động; hay chân lý chính là tính hiệu quả của

hành động.

4.1.3. Nhấn mạnh yếu tố năng động chủ quan trong quá trình nhận thức chân lý

Triết học thực dụng Mỹ phê phán quan điểm siêu hình về chân lý. Họ cho

rằng, chân lý không phải là cái đích tự tại, mà nhận thức chân lý là một quá trình

mang tính chủ quan, đƣợc kiểm nghiệm bằng hiệu quả thực tế. Đề cao vai trò của

chủ thể, chân lý thực chất là việc xác định mối quan hệ của chủ thể tƣ duy, ý

thức với thế giới. Quá trình nhận thức chân lý bao hàm sự sáng tạo, mang đậm

dấu ấn chủ quan của chủ thể. Đây là một trong những đóng góp của triết học

thực dụng trong quan niệm về chân lý.

Trong lý luận hoài nghi - niềm tin, C. Peirce cho rằng, quá trình nhận

thức, con ngƣời không thể thâm nhập vào bản chất tồn tại của sự vật, thậm chí

nhận thức về nó là một việc làm vô nghĩa. Từ đó, ông đƣa ra quan niệm đặc biệt

về bản chất hoạt động của tƣ duy con ngƣời, đề cao hoạt động tƣ duy, hoạt động

sáng tạo của chủ thể nhận thức, đƣợc coi là đặc trƣng trong lý luận nhận thức của

chủ nghĩa thực dụng. Theo đó, tƣ duy không phải là hoạt động phản ánh tồn tại

hiện có, mà là hoạt động mang tính định hƣớng, điều tiết của chủ thể trong mối

quan hệ với môi trƣờng, tạo ra phản ứng tối ƣu với môi trƣờng trong quá trình

hoạt động của con ngƣời. Ông đƣa ra quan điểm khá mới về quá trình nhận thức,

nhận thức không diễn ra nhƣ một quá trình đi từ cái chƣa biết đến cái biết, mà từ

trạng thái hoài nghi, dao động sang niềm tin vững chắc. Đó là niềm tin thực

dụng, niềm tin là thái độ sẵn sàng hành động. Sống trong thế giới, buộc con

ngƣời phải hành động, cùng với hoạt động của tƣ duy đã tạo ra các thói quen

hành động, thói quen đó cấu thành niềm tin. Trong quá trình hành động, chủ thể

tƣ duy bị kích thích bởi hoài nghi (trạng thái lo âu và bất mãn không thể hành

động) tạo ra nỗ lực đạt tới niềm tin vững chắc, khi hoài nghi dừng lại, mục đích

của tƣ duy đã đạt đƣợc. Vai trò của chủ thể nhận thức thể hiện ở khả năng khắc

phục hoài nghi (trạng thái lo âu), đạt đến niềm tin vững chắc (tâm trạng thỏa

129

mãn), niềm tin vững chắc cũng là mục đích của tƣ duy, giúp con ngƣời sẵn sàng

hành động. Trong xã hội hiện đại, khi mà tri thức khoa học của nhân loại phát

triển không ngừng, sự thay thế một hệ thống tri thức này bằng một hệ thống tri

thức khác là một quá trình diễn ra tƣơng đối phổ biến và nhanh chóng, việc kiểm

nghiệm một tri thức và chứng minh tính đúng đắn của nó trở nên rất khó khăn thì

việc khẳng định vai trò của chủ thể tƣ duy trong quá trình nhận thức chân lý

đƣợc coi là một quan điểm phù hợp và tích cực. Hơn nữa, để đạt đƣợc niềm tin

vững chắc phải sử dụng phƣơng pháp khoa học là một quan điểm tiến bộ. Vai trò

đó thể hiện ở quá trình chủ thể nhận thức, loại bỏ hoài nghi và đạt đến niềm tin

vững chắc, khi đó mục đích của tƣ duy đã đạt đƣợc, con ngƣời đã có thể sẵn

sàng hành động cải tạo thực tiễn dựa vào niềm tin thực dụng.

Trong lý luận về nghĩa, C. Peirce khẳng định rằng, để làm cho tƣ tƣởng

đƣợc rõ ràng cần xác lập nghĩa của chúng. Nghĩa của tƣ tƣởng không thể gắn với

cái gì khác ngoài những hiệu quả thực tế, hay chính là những hiệu quả có ý nghĩa

thực tiễn. Triết học thực dụng của Peirce xác định nghĩa của khái niệm hay chân lý

bằng cách gắn liền quan hệ của khái niệm, tƣ tƣởng với chủ thể, với việc khái niệm

đó có nghĩa gì đối với chủ thể. Nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm với chủ thể đơn giản

là các thói quen nó tạo ra, các thói quen lại là kết quả của trực giác cảm tính, nên

nghĩa của tƣ tƣởng thực chất là tƣ tƣởng về tác động có thể cảm nhận thấy của chủ

thể bằng những hiệu quả thực tế (cảm tính). Chính hiệu quả thực tế và những thói

quen hành động là toàn bộ khái niệm về sự vật hay chân lý, điều này cũng có nghĩa

bản thân sự vật đƣợc hòa vào những hiệu quả đối với chủ thể.

Có thể nói, lý luận về chân lý của C. Peirce khẳng định vai trò của chủ

thể, chân lý không gì khác là việc xác định mối quan hệ của chủ thể tƣ duy, ý

thức với thế giới. Chân lý đồng nhất với niềm tin, mục đích của tƣ duy là đạt đến

niềm tin vững chắc của chủ thể bằng phƣơng pháp khoa học, niềm tin là thái độ

chủ thể sẵn sàng hành động trong thực tiễn. Triết học thực dụng Peirce khẳng

định vai trò của chủ thể, thể hiện tính năng động chủ quan trong nhận thức chân

lý và cải tạo thực tiễn.

W. James cho rằng chân lý là một quá trình phát sinh, là một quá trình

chứng thực và sinh ra hiệu quả trong hoạt động thực tế của cá nhân con ngƣời.

130

Quá trình chứng thực của chân lý đòi hỏi phải đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm. Chân

lý tồn tại trong quá trình chứng thực bằng hiệu quả thực tế. Ông cho rằng, chân

lý là thuộc tính của tƣ tƣởng, quan niệm, chứ không phải là thuộc tính của sự vật.

Vì thế, chân lý là một phần kinh nghiệm của chủ thể, kinh nghiệm là nơi nảy

sinh và là căn cứ của chân lý. Khi khẳng định chân lý là quá trình, quá trình nhận

thức chân lý không phải cố định, vì thế không có chân lý tuyệt đối, chân lý chỉ là

tƣơng đối. Chân lý là cụ thể, xác định, thậm chí ông còn cho rằng, một số khía

cạnh có ích cho con ngƣời, ngay cả yếu tố tôn giáo, đều có ý nghĩa chân lý. Tính

cụ thể, tính xác định của chân lý đƣợc thể hiện trong quan hệ với lợi ích, với tính

hiệu quả đối với con ngƣời. Theo ông, việc chủ thể sở hữu tƣ tƣởng chân thực là

công cụ vô giá, cần thiết trong những hoàn cảnh cụ thể, giúp con ngƣời lựa chọn

dựa trên những suy tính chủ quan với tiêu chí là hiệu quả, có ích, sự thỏa mãn,

điều này tạo ra các phƣơng thức hành động tiện lợi trong mọi hoàn cảnh mà

không vấp phải trở ngại đáng kể nào. Tuy nhiên, cái chân thực hay tiện lợi, hữu

ích đối với một tình huống nào đó cũng có thể là không chân thực, tiện lợi, hữu

ích đối với tình huống khác. Do đó, không thể có chân lý “tuyệt đối”, chỉ có thể

nói chân lý là tƣơng đối, cụ thể do tính hữu hạn trong kinh nghiệm của con

ngƣời quy định. Vì vậy, ông đề cao vai trò năng động, sáng tạo của chủ thể trong

quá trình nhận thức chân lý và vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn.

Trong khi phê phán quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về tính cố định,

bất biến của chân lý, J. Dewey đi đến kết luận về tính tƣơng đối của chân lý.

Nhận thức về tính tƣơng đối của chân lý là nhiệm vụ của nhận thức khoa học.

Khi bàn về nhận thức khoa học, ông thấy đƣợc tính năng động, chủ quan của con

ngƣời. Nhiệm vụ của khoa học và phƣơng pháp khoa học nhằm làm cho con

ngƣời thích nghi tốt với môi trƣờng, đảm bảo sự thành công trong hành động của

con ngƣời. Phƣơng pháp thăm dò của ông xuất phát từ việc giải quyết vấn đề

thực tại trong quá trình nhận thức và cho rằng, tƣ duy đóng vai trò quyết định

trong quá trình này. Chủ thể của tƣ duy, nhận thức là con ngƣời thực tiễn, con

ngƣời hành động, mục đích của nhận thức nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích và đạt

đƣợc thành công trong hành động. Quan niệm của Dewey khẳng định vai trò tích

cực của chủ thể nhận thức trong việc sử dụng tƣ duy nhƣ công cụ hành động,

131

nhằm đạt đƣợc sự thỏa mãn, thành công trong hoạt động cải tạo thực tiễn.

Ở một góc độ nhất định, quan niệm về chân lý hƣớng đến con ngƣời trong

sự thống nhất chỉnh thể chân - thiện - mỹ, đó là biểu hiện của chủ nghĩa nhân

bản trong triết học thực dụng. Tất nhiên, ở đây, chúng ta muốn nhấn mạnh đến

con ngƣời xã hội, con ngƣời cộng đồng chứ không phải con ngƣời cá nhân. Nếu

loại bỏ việc triết học thực dụng hƣớng tới lợi ích và bảo vệ lợi ích của số ít ngƣời

trong xã hội thì đó thực sự là một quan điểm vì con ngƣời, vì sự tiến bộ xã hội.

Khi vấn đề lợi ích cá nhân đƣợc giải quyết sẽ mở ra khả năng để giải quyết

những vấn đề xã hội, lợi ích xã hội, vì sự tiến bộ xã hội. Nhấn mạnh hiệu quả

thực tế, sự thỏa mãn giúp con ngƣời đạt đến thành công đƣợc coi là tiêu chuẩn

của chân lý. Quan điểm đó là sự phản ánh thực tiễn, là quan điểm phù hợp trong

thời đại ngày nay, khi thƣớc đo của giá trị chính là tính hiệu quả, sự hữu dụng và

thỏa mãn những nhu cầu của con ngƣời, con ngƣời chính là thƣớc đo của chính

mình và vạn vật. Đó là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao triết học thực

dụng Mỹ lại tác động mạnh mẽ đến đến con ngƣời và xã hội Mỹ, đƣa nƣớc Mỹ

trở thành một siêu cƣờng thế giới.

4.1.4. Đề cao phương pháp khoa học và sự kiểm chứng trong nhận thức chân lý

Các nhà triết học thực dụng Mỹ cho rằng, chân lý là quá trình thƣờng

xuyên đƣợc chứng thực và kiểm nghiệm, qua đó họ đề cao phƣơng pháp khoa

học trong nhận thức chân lý. Trong đó, phƣơng pháp của triết học thực dụng

giúp con ngƣời định hƣớng kết quả trong hoạt động, một thái độ chủ động,

không chịu những rào cản của tƣ tƣởng cũ, cái quan trọng là những kết quả cuối

cùng chứ không phải là những nguyên tắc đầu tiên.

C. Peirce là ngƣời đặc biệt đề cao phƣơng pháp khoa học trong quá trình

nhận thức chân lý. Ngay cả khi coi hiệu quả, sự thỏa mãn đối với con ngƣời là

tiêu chuẩn của chân lý, ông thƣờng khẳng định phải dùng phƣơng pháp khoa học

để chứng minh. Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của các phƣơng pháp để củng

cố niềm tin với tính cách là chân lý trong lịch sử, nhƣ phƣơng pháp cố chấp,

phƣơng pháp quyền uy, phƣơng pháp tiên nghiệm, Peirce nhấn mạnh vai trò của

phƣơng pháp khoa học để củng cố niềm tin và cũng là phƣơng pháp để đạt đến

chân lý. Ông cho rằng, chỉ có phƣơng pháp khoa học mới đảm bảo cho con

132

ngƣời đạt đƣợc niềm tin vững chắc trên cơ sở loại bỏ hoài nghi. Ở khía cạnh này,

ông thể hiện là một nhà khoa học tự nhiên nghiêm túc. Đồng thời, phƣơng pháp

khoa học của Peirce có đặc điểm: “Nhấn mạnh quá trình tiến bộ và phát triển,

phản đối bảo thủ và trì trệ” [40, tr. 324]. Nhấn mạnh phƣơng pháp khoa học,

Peirce đƣa ra lý thuyết “có thể sai”, đây là một đóng góp về mặt phƣơng pháp

luận của ông. Theo đó, mọi lý thuyết khoa học phải luôn trong quá trình xem xét

lại và cần thƣờng xuyên bổ sung các chứng cứ. Do vậy, không có chân lý tuyệt

đối, chân lý luôn là tƣơng đối.

W. James coi triết học thực dụng của ông trƣớc hết là một loại phƣơng

pháp, sau là học thuyết về chân lý. Ông nhấn mạnh: “Nó không thay thế cho bất

kỳ kết quả đặc biệt nào. Nó chỉ là một phƣơng pháp” [139, tr. 213]. Triết học

thực dụng là một phƣơng pháp dựa vào đời sống thực tế để giải quyết những tình

huống thực tế đặt ra. Phƣơng pháp của triết học thực dụng bác bỏ tính chất giáo

điều, tƣ biện, xa rời các vấn đề đời sống của các thuyết duy lý. Với tƣ cách một

phƣơng pháp, ông cho rằng, nó không định trƣớc các kết quả cụ thể, không có

một công thức nào chung cho mọi vấn đề, ý nghĩa của mọi tƣ tƣởng, lý thuyết ở

tính có ích, ở khả năng giải quyết thành công các vấn đề của cuộc sống. Có thể

nói, James đã đề cao phƣơng pháp, coi phƣơng pháp của triết học thực dụng

nhằm đạt đƣợc hiệu quả thực tế, tính hữu ích đƣợc coi là tiêu chuẩn của chân lý.

J. Dewey đƣa ra các phƣơng pháp nhận thức chân lý, ông nhấn mạnh tác

dụng của thí nghiệm và thăm dò, còn gọi là phƣơng pháp thăm dò, lý luận của

ông là sự phát triển lý luận hoài nghi - niềm tin của C. Peirce. Theo đó, phơng

pháp nhận thức chân lý có sự gắn bó chặt chẽ với việc giải quyết những tình

huống có vấn đề, việc kiểm tra tính đúng đắn của tƣ tƣởng đƣợc thực hiện hoặc

bằng thực nghiệm hoặc bằng quan sát. Phƣơng pháp khoa học để cải biến tình

huống có vấn đề, còn hoài nghi thành tình huống rõ ràng là mục đích của tƣ duy.

Do vậy, sự thành công hay không thành công trong việc sử dụng phƣơng pháp

trở thành tiêu chuẩn của chân lý. Trên cơ sở đó, ông nhấn mạnh việc thực hiện

phƣơng pháp giải quyết các nan đề của thực tiễn phải luôn đặt trong sự thử sai,

trong sự điều chỉnh thƣờng xuyên. Ở khía cạnh này, chúng ta thấy phƣơng pháp

133

mà ông đƣa ra có sự phù hợp với thực tiễn xã hội luôn biến động không ngừng.

Nhƣ vậy, có thể nói, các nhà triết học thực dụng có sự thống nhất trong

việc đề cao phƣơng pháp khoa học và sự kiểm chứng trong nhận thức chân lý.

Trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của khoa học tự nhiên và các tiến bộ

của khoa học công nghệ, việc đề cao phƣơng pháp khoa học trong quá trình nhận

thức chân lý của triết học thực dụng là một quan điểm tiến bộ.

4.1.5. Tác động tích cực đến đời sống xã hội, văn hóa và lối sống Mỹ

Trƣớc khi triết học thực dụng ra đời, nƣớc Mỹ đƣợc đánh giá là đất nƣớc ít

quan tâm đến triết học. Chúng ta đều hiểu thứ triết học mà ngƣời Mỹ ít quan tâm

đó là triết học siêu hình, trừu tƣợng, tƣ biện của châu Âu, đó cũng là quê hƣơng

của phần lớn những ngƣời di cƣ đến Mỹ. Nhận định của nhà nghiên cứu đƣợc coi

là hiểu nƣớc Mỹ hơn ngƣời Mỹ là A. Tocqueville đã cho chúng ta cái nhìn chân

xác về nền triết học Mỹ: “Tôi nghĩ rằng, trong thế giới văn minh, không có một

nƣớc nào ngƣời ta lại ít bận tâm đến triết học hơn là Hoa Kỳ. Ngƣời Mỹ không có

một trƣờng phái triết học riêng và họ ít quan tâm đến những trƣờng phái triết học

đang chia rẽ ở châu Âu; họ biết các trƣờng phái đó qua tên gọi đã đủ vất vả rồi”

[116, tr.567]. Phƣơng pháp tƣ duy của ngƣời Mỹ xuất phát từ những sự kiện cụ

thể, để tìm ra phƣơng pháp hành động có hiệu quả. Do vậy, họ quay lƣng với

những giáo lý của triết học tƣ biện. Tocqueville đã có lý khi khẳng định về

phƣơng pháp triết học của ngƣời Mỹ: “Vƣợt thoát khỏi tinh thần hệ thống, thoát

khỏi cái ách của thói quen, khỏi các châm ngôn sống gia đình, các quan điểm giai

cấp, và ở một mức độ nào đó là thoát khỏi các định kiến dân tộc; chỉ coi truyền

thống nhƣ một thứ thông tin và chỉ coi các sự kiện đang xảy ra nhƣ là một cách

xem xét hữu ích để hành động khác đi và hành động tốt hơn; tìm tòi theo lối tự lực

và chỉ tìm ngay bên trong bản thân mình cái nguyên cớ của sự vật, hƣớng tới kết

quả mà không bị trói chân, trói tay vào các phƣơng tiện và nhằm vào cái gốc vấn

đề thông qua cái biểu hiện bề ngoài” [116, tr. 567]. Triết học thực dụng ra đời ở

Mỹ vào cuối thế kỷ XIX đã tạo ra sự phù hợp không chỉ với phƣơng pháp tƣ duy

của ngƣời Mỹ, còn phù hợp với đặc điểm hình thành quốc gia, dân tộc, nền văn

hóa và tính cách ngƣời Mỹ. Nó đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời Mỹ - những ngƣời

tự thân, lập thân, trong đó cái cốt yếu là hiệu quả, sự thành công trong hành động.

134

Triết học thực dụng Mỹ với C. Pierce đặt nền móng là một thứ triết học

thực tiễn. Đây chính là tƣ tƣởng có tính chất phản kháng lại những chân lý mang

tính chất duy lý, lý thuyết, kinh viện, trừu tƣợng từ châu Âu đƣa sang không còn

thiết thực, đắc dụng với phần lớn ngƣời Mỹ. Chúng ta đều biết họ là những

ngƣời từ trong lịch sử đã rời bỏ tổ quốc, đất mẹ vƣợt Đại Tây Dƣơng đến lục địa

mới này để lập nghiệp, tìm sự thay đổi và thành công, để đổi đời nên không có gì

ngạc nhiên khi họ chỉ nhìn cuộc sống bằng con mắt hiện thực, thực tiễn để hành

động. Những tƣ tƣởng của triết học thực dụng của C.Pierce nêu ra đã phần nào

đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời Mỹ.

W.James đã cụ thể hóa tƣ tƣởng của C.Peirce khi khẳng định rằng, những tƣ

tƣởng nào có ích thì đƣợc lƣu hành, ngƣợc lại tƣ tƣởng nào không còn có ích lợi

nữa sẽ phải thay thế. Cái gì có ích, cái đó là chân lý. Đó là một định nghĩa nổi tiếng

về chân lý của triết học thực dụng. Quan điểm này không chỉ phù hợp với nền văn

hóa Mỹ mà còn rất phù hợp với tinh thần, tính cách ngƣời Mỹ. Ngƣời Mỹ ghét tính

bảo thủ và không thích chủ nghĩa giáo điều. Rời bỏ châu Âu, nơi mà triết học duy

lý, với những lý thuyết đồ sộ, kinh viện đang thống trị để tìm đến vùng đất mới -

đƣợc coi là “miền đất hứa”, với hoài bão xây dựng một tƣơng lai tƣơi sáng tại đây.

Mọi ngƣời đều hiểu rằng bất cứ ai cũng có cơ hội nhƣ nhau, đều có ƣớc muốn thay

đổi, nên chỉ có thể tiến lên, sống bằng những nghị lực phi thƣờng, phẩm chất, năng

lực và sự cố gắng của chính mình. Muốn thành công thì ngoài nghị lực, sự lạc quan,

tinh thần cầu tiến, lòng dũng cảm còn phải biết thích nghi, sáng tạo, nhạy bén, căn

cứ vào hoàn cảnh, tình hình thực tế để hành động với mục tiêu tối hậu là hiệu quả,

lợi ích, sự thành công trong hành động.

Các nhà triết học thực dụng đã đặt ra nhiệm vụ nhận thức của con ngƣời là

cải tạo thế giới; muc đích của nhận thức nhằm đạt đƣợc lợi ích, sự thành công

của con ngƣời. Vì vậy, nhận thức phải trở thành công cụ để cải tạo hiện thực

đem lại hiệu quả, lợi ích, sự thành công - đó chính là tiêu chuẩn của chân lý. Ở

đây, chúng ta thấy có nét tƣơng đồng giữa triết học Mác - Lênin với triết học

thực dụng. Triết học Mác - Lênin coi thực tiễn là mục đích của nhận thức, còn

J.Dewey thì coi nhận thức phải có nhiệm vụ và là công cụ để cải tạo hiện thực.

Nhận thức phải đƣợc coi nhƣ những công cụ, cũng giống nhƣ những công cụ

135

mang tính chất vật thể khác tác động và cải tạo thế giới. Công cụ nhận thức đƣợc

thể hiện thông qua tinh thần và trí tuệ của con ngƣời có những khả năng và công

hiệu rất lớn trong việc cải tạo thế giới, khi nó cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả có

ích, tức công cụ đó là chân lý. Quan điểm này đáng để chúng ta ghi nhận, nhất là

trong giai đoạn nền kinh tế tri thức hiện nay, khi mà cấu thành giá trị của sản

phẩm phần lớn và quan trọng nhất không phải là nguyên, nhiên, vật liệu mà

chính là tri thức, là trí tuệ của con ngƣời.

Nhƣ vậy, nói không quá khi khẳng định triết học thực dụng đã ăn sâu,

bám rễ vào đời sống xã hội và con ngƣời Mỹ. Nó trở thành công cụ hành động

giúp con ngƣời đạt hiệu quả, lợi ích, sự thành công, qua đó cũng thúc đẩy xã

hội phát triển. Do vậy, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng đã có tác

động đến mọi mặt của xã hội và con ngƣời Mỹ. Chính việc đề cao thực tiễn, coi

trọng hiệu quả đã làm nên sức sống của triết học thực dụng. Ở đây, chúng ta

thấy có một sự trùng hợp đến kỳ lạ trong quan niệm về chân lý của trƣờng phái

triết học này với tƣ duy ngƣời Mỹ, những ngƣời coi trọng thực tiễn, coi trọng

hiệu quả thực tế. Với họ, chân lý đƣợc đồng nhất với hiệu quả, lợi ích, sự thành

công. Hay sự hình thành của triết học thực dụng là sự phản ánh của tƣ duy, văn

hóa, lối sống của ngƣời Mỹ và khi nó ra đời lại làm nên nét đặc sắc trong tƣ

duy, lối sống và văn hóa Mỹ. Cả hai thật khó nói đƣợc đâu là nguồn gốc của

nhau, chỉ biết rằng nhắc đến Mỹ là nhắc đến triết học thực dụng và ngƣợc lại

nhắc đến triết học thực dụng là nhắc đến nƣớc Mỹ và ngƣời Mỹ. Ở đó, hiệu

quả, lợi ích, sự thỏa mãn, sự thành công trong hoạt động cải tạo hiện thực sống

động của con ngƣời trở thành tiêu chuẩn của chân lý. Đó chính là điểm gặp gỡ

căn bản trong lý luận của triết học thực dụng với triết học Mác - Lênin. Chúng

ta thấy, từ những thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX đã diễn ra quá trình Mỹ hóa

phƣơng Tây, thậm chí, hiện nay, xu hƣớng Mỹ hóa thế giới đang diễn ra ngày

càng sâu rộng. Chúng ta không thể phủ nhận tầm ảnh hƣởng to lớn về mọi mặt

của nƣớc Mỹ đối với thế giới, trong đó có ảnh hƣởng về văn hóa và lối sống

Mỹ đến các nƣớc phƣơng Tây nói riêng và các nƣớc trên thế giới nói chung. Để

lý giải nguyên nhân và sự ảnh hƣởng to lớn này, chúng ta có thể tìm thấy từ

những tác động tích cực của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

136

đến sự hình thành và phát triển của đời sống xã hội, văn hóa, lối sống Mỹ.

4.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ

4.2.1. Thể hiện lập trường duy tâm chủ quan

Triết học thực dụng Mỹ là một trƣờng phái triết học duy tâm chủ quan,

trong lý luận nhận thức nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng, triết học

thực dụng Mỹ thể hiện rõ quan điểm duy tâm chủ quan. Lập trƣờng duy tâm chủ

quan của trƣờng phái triết học này đƣợc thể hiện ở sự phủ nhận hiện thực khách

quan, cũng nhƣ các quy luật của thế giới khách quan, phủ nhận vấn đề cơ bản

của triết học. Biểu hiện trong quan niệm về chân lý, triết học thực dụng bác bỏ

chân lý khách quan, khẳng định chân lý là cụ thể. Tiền đề của triết học thực dụng

lấy con ngƣời - một thực thể phi lý tính, dƣới ảnh hƣởng của những tiềm thức

làm điểm xuất phát.

C. Peirce thể hiện rõ quan điểm chủ quan trong lý luận về niềm tin, theo

ông vấn đề quan trọng không phải là nhận thức đúng hay sai mà là tin hay không

tin, chỉ cần có niềm tin chắc chắn là có thể sẵn sàng hành động. Chân lý không

còn là khách quan mà chỉ còn thuần túy là niềm tin vững chắc. Theo nguyên tắc

thực dụng của Peirce thì những khái niệm chỉ có nghĩa khi nó đem lại những

hiệu quả thực tế; Nội dung của tƣ tƣởng, khái niệm về sự vật chẳng qua cũng chỉ

là quan niệm về những hiệu quả thực tế mà nó đem lại cho con ngƣời. Quan

niệm này rất gần với Berkeley: Tồn tại là đƣợc tri giác.

Lập trƣờng duy tâm chủ quan của C. Peirce đƣợc thể hiện ngay từ đầu ông

luôn trăn trở bởi vấn đề: “Thiên Chúa giáo sẽ ra sao, nếu chúng ta nhìn nhận nó

từ lập trƣờng duy vật?” [135, T.V, đoạn 12]. Ở giai đoạn đầu trong quá trình

nghiên cứu của mình, ông chƣa thể hiện thái độ thù địch sâu sắc đối với chủ

nghĩa duy vật và còn thừa nhận ý nghĩa tích cực của nó ở một chừng mực nhất

định, ông còn cho rằng, chúng ta sẽ hành động đúng, “nếu giải thích sự vĩ đại

của thời đại chúng ta theo cách phù hợp với xu hƣớng duy vật này” [135, T.V,

đoạn 12]. Đồng thời, dựa trên lời nói nổi tiếng của Kant, ông cũng tuyên bố,

“nếu chủ nghĩa duy vật thiếu chủ nghĩa duy tâm là mù quáng, thì chủ nghĩa duy

tâm thiếu chủ nghĩa duy vật là trống rỗng” [135, T.V, đoạn 11]. Mục đích của

ông muốn tổng hợp chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để loại bỏ các hạn

137

chế và giữ lại các ƣu điểm của cả chủ nghĩa duy tâm lẫn của cả chủ nghĩa duy

vật: “sẽ đem lại cho chúng ta niềm tin mạnh mẽ hơn nhiều niềm tin trƣớc kia”

[135, T.V, đoạn 13]. Song, trên thực tế, Peirce ngày càng thiên về lập trƣờng

triết học duy tâm: “Lập trƣờng của tôi là lập trƣờng duy tâm” [135, T.V, đoạn

20]. Ông đã bắt đầu cảm thấy rằng chủ nghĩa duy vật “tất yếu phiến diện”, nó

dƣờng nhƣ không thừa nhận ý nghĩa của các tƣ tƣởng mà sự hiểu biết về chúng

cho phép hiểu biết về các sự vật. Nguyên nhân ở đây là Peirce luôn chỉ biết tới

một thứ chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy vật máy móc. Trong khi đó, Peirce

nhận thấy ƣu điểm của chủ nghĩa duy tâm là hiểu biết về vai trò của các tƣ tƣởng

trong quá trình nhận thức và trong cuộc sống con ngƣời nói chung. Ông khẳng

định rằng: “chỉ chủ nghĩa duy tâm làm cho chân lý trong khoa học trở nên có

thể” [135, T.V, đoạn 11].

Triết học thực dụng đồng nhất chân lý với hiệu quả, xem tính hữu dụng là

cái tạo nên nội dung của chân lý. Một trong những thuộc tính của chân lý là tính

hiệu quả của hành động, nhƣng đồng nhất chân lý với tính hiệu quả lại là một

quan điểm sai lầm. Chƣa bàn đến tính hiệu quả đó cho ai? Vì ai? Đƣơng nhiên,

ban đầu triết học thực dụng nói đến tính hiệu quả chung chung, đó là hiệu quả

cho số ít ngƣời trong xã hội, nhất là những ngƣời hữu sản. Về sau, các nhà thực

dụng có bổ sung tính hiệu quả cho cộng đồng. Tuy nhiên, điều đó không làm

thay đổi bản chất chân lý của triết học thực dụng, bởi trong nền kinh tế thị

trƣờng, trong đó, những quy luật kinh tế thể hiện mặt trái của nó, không có sự

bình đẳng và công bằng cho tất cả mọi ngƣời; ở đó, quyền lực thuộc về số ít

những ngƣời giàu có trong xã hội thì sự thỏa mãn lợi ích của ngƣời này nhiều

khi là sự xâm hại lợi ích của ngƣời khác, thành công cho ngƣời này là sự thất bại

của ngƣời khác, không có hiệu quả, sự thỏa mãn, lợi ích và thành công cho tất cả

mọi ngƣời. Lênin đã nhận xét về quan niệm chân lý của triết học thực dụng: “Chỉ

có những quan niệm dẫn đến thành công mới có tính chất chân lý. Nhƣng còn

cần phải biết rằng chúng có tính chân lý vì chúng dẫn đến thành công hay chúng

dẫn đến thành công vì chúng có tính chân lý. Chủ nghĩa thực dụng bao giờ cũng

có khuynh hƣớng giải quyết hai cách nói này theo hƣớng thứ nhất. Lẽ phải thông

thƣờng hình nhƣ chỉ có thể giải quyết điều đó theo hƣớng thứ hai” [83, tr.617].

138

Về điểm này, triết học thực dụng thể hiện quan điểm chủ quan và đứng trên lập

trƣờng giai cấp, phần nào nhằm bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tƣ sản. Triết học

thực dụng nhấn mạnh lợi ích, coi tính hữu ích là tiêu chuẩn của chân lý, điều đó

không sai, bởi suy cho cùng lợi ích là một trong những động lực quan trọng thúc

đẩy xã hội phát triển. C. Mác cũng khẳng định: “...Tất cả những gì mà con ngƣời

đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ” [85, tr. 109]. Sai lầm

trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng là đã tuyệt đối hóa lợi ích cá

nhân, lợi ích trƣớc mắt, thậm chí coi đó là mục đích của cá nhân theo đuổi, từ đó

không thể giải quyết triệt để mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng

đồng, thành công của cá nhân với sự phát triển và tiến bộ xã hội.

Tác giả Phạm Minh Lăng chủ yếu đề cập tới vấn đề chân lý trong triết học

thực dụng dựa trên cơ sở khái quát quan niệm về chân lý, tiêu chuẩn của chân lý,

từ đó phân tích quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng trên hai nội dung:

khái niệm về chân lý và tiêu chuẩn của chân lý. Phê phán quan niệm về chân lý

của chủ nghĩa thực dụng, tác giả viết: “Quan niệm của chủ nghĩa thực dụng coi

chân lý và tiêu chuẩn của chân lý là không thỏa đáng bởi vì chân lý phải được

kiểm chứng bằng cái gì đó không phải là nó chứ không phải bằng chính nó hay

những công cụ giúp nó đạt được. Chân lý có thể là cái có giá trị từ hiệu quả

nhưng chân lý không thể chính là hiệu quả. Cần nhớ rằng việc tìm kiếm chân lý

là một công việc phải vượt qua hành vi, vượt qua thực tiễn cũng như tiến bộ về

xã hội và về khoa học” [79, tr. 490 - 491].

Tác giả Nguyễn Ngọc Ba cho rằng: “Chủ nghĩa thực dụng về bản chất là

triết học duy tâm siêu hình, coi kinh nghiệm, hiệu quả, cái có lợi là tiêu chuẩn

chân lý” [4, tr. 11]. Tác giả cũng đã nhận định: Mặc dù lối sống thực dụng, chủ

nghĩa cá nhân tuy không đồng nhất với chủ nghĩa thực dụng nhƣng từ khi có lý

luận của chủ nghĩa thực dụng, lối sống đó có thể đƣợc xem là phạm trù “thực

dụng”, chủ nghĩa thực dụng đã cổ vũ cho lối sống đó “trên thực tế chủ nghĩa cá

nhân và chủ nghĩa thực dụng gắn bó với nhau” [4, tr.15].

Tác giả Melvil khẳng định rằng, chủ nghĩa thực dụng là triết học của chủ

nghĩa duy tâm chủ quan: “Dù người ta có dán những nhãn hiệu như thế nào vào

các hình thức của chủ nghĩa thực dụng, như chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa

139

tự nhiên, chủ nghĩa công cụ, v.v. thì chủ nghĩa thực dụng trước hết vẫn là chủ

nghĩa duy tâm chủ quan, giống như chủ nghĩa Makhơ, chủ nghĩa kinh nghiệm

phê phán và bất cứ hình thức nào của chủ nghĩa thực chứng hiện đại” [91, tr. 8].

Tiếp đến, một số tƣ tƣởng cơ bản của chủ nghĩa thực dụng cũng đƣợc Melvil đề

cập đến nhƣ vấn đề kinh nghiệm, thực tiễn, chân lý, v.v.. Trong vấn đề kinh

nghiệm, ông chỉ rõ: “Phái thực dụng hiểu kinh nghiệm theo tinh thần duy tâm

chủ quan, theo tinh thần duy ý chí luận” [91, tr. 51] và có tính chất duy ngã luận.

Mặc dù vậy, Melvil đã đƣa ra một gợi ý để chúng ta có thể nghiên cứu, làm rõ

bản chất của chủ nghĩa thực dụng: “Nếu không chú ý đến những đặc điểm riêng

nào đó của chủ nghĩa thực dụng đã được hình thành trong điều kiện phát triển

cụ thể của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, mà chú ý đến thái độ của chủ nghĩa thực dụng

đối với những vấn đề triết học chủ yếu, nếu nhìn chủ nghĩa thực dụng theo khía

cạnh đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, thì sẽ thấy rằng

chủ nghĩa thực dụng là một hiện tượng đặc sắc trong sinh hoạt tinh thần của

giai cấp tư sản đế quốc chủ nghĩa ở các nước, là một hình thức điển hình của

triết học duy tâm chủ quan trong thời đại đế quốc chủ nghĩa” [91, tr. 7].

C. Peirce là ngƣời đầu tiên bàn đến khái niệm “hiệu quả thực tế”, khi khẳng

định tổng số những hiệu quả thực tế là khái niệm hoàn chỉnh về đối tƣợng. Nhƣng

những hiệu quả thực tế không phải mang tính khách quan, mà là những thói quen

và những cảm giác do khái niệm sinh ra. Ông xem những hiệu quả có thể cảm

giác đƣợc là tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm. Quan niệm của Peirce về

chân lý là những hiệu quả cảm giác, thể hiện tính chủ quan mà không thấy đƣợc

tính khách quan của đối tƣợng. Thậm chí, ông còn cho rằng tiêu chuẩn của chân lý

là sự nhất trí chung của những ngƣời cùng nghiên cứu một vấn đề. Sai lầm của

Peirce là xem chân lý chẳng qua cũng chỉ là đối tƣợng của ý kiến tập thể, cho dù

ông nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học, nhƣng nó không làm thay đổi

tính chủ quan trong quan niệm về tiêu chuẩn chân lý.

Theo C. Peirce, không có chân lý tuyệt đối, chân lý luôn là tƣơng đối.

Mặc dù ông cố gắng đƣa ra phƣơng pháp khoa học để loại bỏ hoài nghi, nhận

thức chân lý, nhƣng hạn chế của ông là đã tuyệt đối hóa tính tương đối, phủ

nhận tính tuyệt đối của các kết luận khoa học. Còn W. James thì phủ nhận

140

tính khách quan của chân lý. Tiếp tục triển khai vấn đề, ông đồng nhất chân lý

với tính hữu dụng và xem hiệu quả, lợi ích, sự thành công là tiêu chuẩn của

chân lý. Mặc dù ông cho rằng, chân lý là vấn đề liên quan đến con ngƣời, vì

nhu cầu, lợi ích và sự thỏa mãn của con ngƣời, tính nhân bản của chủ nghĩa

thực dụng đƣợc thể hiện và tất nhiên hiệu quả, lợi ích ở đây là đối với cá

nhân. Hình nhƣ biết trƣớc ngày càng lún sâu vào lập trƣờng chủ quan trong

quan niệm về chân lý, ông đã đƣa ra sự chứng thực chân lý bằng “thực tại”.

Sự kiểm nghiệm chân lý bằng “thực tại”, nghe qua có vẻ nhƣ ông đang đem

tính thực tiễn vào tiêu chuẩn của chân lý. Nhƣng kỳ thực, cái “thực tại” và sự

“phù hợp với thực tại” theo cách hiểu và cách triển khai của ông không phải

là thực tại mang tính khách quan, mà mang tính chủ quan trong quan hệ với

đời sống tình cảm của con ngƣời, quan hệ với cái có ích cho con ngƣời. Đồng

thời, trong khi lý giải tiêu chuẩn của chân lý, ông còn khẳng định chân lý

sống dựa vào niềm tin của con ngƣời, chân lý là niềm tin đƣợc củng cố vững

chắc. Quan niệm đó của ông khẳng định chân lý mang tính chủ quan.

W. James cho rằng chân lý là thuộc tính của ý niệm chứ không phải là

thuộc tính của sự vật. Với quan điểm này, ông đã phủ nhận cơ sở khách quan của

chân lý; chân lý chỉ thuần túy lấy bản thân quan niệm làm căn cứ chứ không phải

là thế giới khách quan. Ông đồng nhất chân lý với tính hữu dụng, một quan điểm

có ích vì nó là chân lý, hoặc nó là chân lý vì nó có ích. Tính hiệu quả, có ích, sự

thành công trở thành tiêu chuẩn căn bản của chân lý. Sai lầm của ông là đã phủ

nhận tính khách quan của chân lý. Tiếp tục triển khai vấn đề, ông cho rằng tôn

giáo thỏa mãn nhu cầu của con ngƣời, giúp con ngƣời đạt đƣợc thành công;

Chúa là một loại giả thiết có ích, giống nhƣ các giả thiết với tính cách là quan

niệm của chân lý; Chúa tồn tại dựa trên hiệu quả đối với con ngƣời. Do đó, bản

thân tôn giáo cũng tồn tại chân lý, vì tồn tại cái có ích. Đây thực chất là luận điệu

bảo vệ cho sự tồn tại của tôn giáo. Vì vậy, có ý kiến cho rằng triết học thực dụng

là công cụ bảo vệ sự tồn tại hợp lý của tôn giáo.

Khi khẳng định chân lý là quá trình, nên quá trình nhận thức chân lý

không phải cố định. Do đó, không có chân lý tuyệt đối, chân lý chỉ là tƣơng đối.

Chân lý là cụ thể, xác định, thậm chí W. James còn cho rằng một số khía cạnh có

141

ích cho con ngƣời, ngay cả tín ngƣỡng, tôn giáo đều có ý nghĩa chân lý. Tính cụ

thể, tính xác định của chân lý là cụ thể trong quan hệ lợi ích, với tính hiệu quả

cho con ngƣời. Tuy nhiên, tuyệt đối hóa tính cụ thể, tính tƣơng đối khi cho rằng,

chân lý là thuộc về mỗi con ngƣời dựa trên lợi ích, nhu cầu của mình, đồng thời

phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lý lại là một sai lầm.

Còn J. Dewey, khi phê phán quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về tính cố

định, bất biến của chân lý, ông đi đến kết luận về tính tƣơng đối của chân lý.

Nhận thức tính tƣơng đối của chân lý là nhiệm vụ của nhận thức khoa học. Khi

bàn về nhận thức khoa học, ông thấy đƣợc tính năng động, chủ quan của con

ngƣời. Điều đó không sai, sai lầm của ông là ở chỗ tuyệt đối hóa tính chủ quan,

từ đó xem nhẹ đối tƣợng khách quan; coi thực tại cũng chỉ đáng xem là đối

tƣợng của nghiên cứu khoa học.

4.2.2. Phủ nhận tính khách quan và tiêu chuẩn khách quan của chân lý

Là một trƣờng phái triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực

dụng đều cố gắng bằng cách này hay cách khác để phủ nhận hiện thực khách

quan, cũng nhƣ tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Niềm tin giữ vai trò quyết

định, thực tại chỉ là cái do con ngƣời ta tin. Hiện thực là hiện thực mà chủ thể đã

trải qua bằng kinh nghiệm để cảm nhận và xử lý, chứ không phải là hiện thực

khách quan. Hành động thực tiễn cũng chỉ là bất kỳ hành động nào của chủ thể,

kể cả là ý thức chủ quan thuần túy. Phù hợp với thế giới khách quan chỉ là sự

phù hợp với lợi ích, hiệu quả, sự thành công, thỏa mãn mục đích của chủ thể.

Khi bàn về tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở hiệu quả thực tế của chúng đối với

con ngƣời, C. Peirce cho rằng những hiệu quả thực tế đó, thực chất đó là những

thói quen hành vi và những cảm giác trong kinh nghiệm của con ngƣời. Quan

điểm chủ quan này về tiêu chuẩn của chân lý xuất phát từ chính châm ngôn thực

dụng của ông. Hơn nữa, ông còn cho rằng tiêu chuẩn của chân lý chính là sự nhất

trí chung của tất cả mọi ngƣời cùng nghiên cứu một vấn đề. Ở đây, tiêu chuẩn

khách quan của chân lý đã bị phủ định, thay bằng ý kiến chủ quan của số đông.

Vì vậy, đối với Peirce, hiện thực chỉ đƣợc coi là đối tƣợng của ý kiến tập thể.

W. James cho rằng, không có hiện thực khách quan nào cả, chỉ có những

cái ngƣời ta tin mới tồn tại thực. Cái thực tại theo quan điểm của ông chẳng qua

142

cũng chỉ là cái mà con ngƣời cho đó là thực tại, thừa nhận nó là thực tại trong

một lúc nào đó. Do đó, thực tại chỉ tồn tại vì một lẽ duy nhất là vì ngƣời ta tin nó

tồn tại. Ông nhấn mạnh tính hữu dụng là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý không

phải là quan niệm phù hợp với đối tƣợng, mà là quan niệm đem lại hiệu quả cho

con ngƣời. Từ việc phủ nhận tính khách quan của chân lý, lý luận của James biện

hộ cho sự tồn tại của tôn giáo và khẳng định sự tồn tại đó là có ích cho con

ngƣời, tức nó có tính chân lý.

J. Dewey phát triển quan điểm về tính hữu dụng mang đậm màu sắc chủ

quan, khi ông đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ, đã là công cụ thì không

cần phân biệt thật giả, mà chỉ cần quan tâm đến việc nó có tác dụng, có hiệu quả

hay không. Ông đã phủ nhận hoàn toàn tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Với

ông, chân lý chỉ thuần túy mang tính chủ quan.

Triết học Mác - Lênin khẳng định tiêu chuẩn khách quan của chân lý, thì triết

học thực dụng lại phủ nhận tiêu chuẩn khách quan, đồng thời nhấn mạnh tính chủ

quan, nhân tạo của chân lý. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, chân lý là

khách quan vì đối tƣợng, nội dung phản ánh là thế giới khách quan, tồn tại độc lập

với ý thức con ngƣời, đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm: “Nhƣng khái niệm của con

ngƣời hẳn lấy cái chân lý khách quan ấy để nhận thức, nó chỉ nhận thức và chiếm

lấy chân lý khách quan ấy khi khái niệm trở thành “tồn tại vì nó”, theo nghĩa thực

tiễn. Nghĩa là thực tiễn của con ngƣời và của loài ngƣời là sự kiểm nghiệm, là tiêu

chuẩn của tính khách quan của nhận thức” [83, tr. 236]. Trong mối quan hệ giữa lý

luận và nhận thức, triết học Mác - Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về

thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức [81, tr.

167]. Triết học Mác - Lênin đề cao thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra

chân lý: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ƣu điểm không những của

tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [83, tr. 230]. Thực tiễn là phạm trù

triết học, thực tiễn vừa là cơ sở vừa là động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm

tra chân lý. Khác với hoạt động sinh tồn của loài vật, hoạt động thực tiễn có tính

mục đích, có tính cách mạng, tính cộng đồng, tính xã hội, là hoạt động vật chất, cảm

tính. Thực tiễn có tính tƣơng đối, tính cụ thể, không có thực tiễn trừu tƣợng, chung

chung. Đối với triết học thực dụng, nhận thức không quan trọng là đúng hay sai,

143

nhận thức giống nhƣ công cụ chỉ cần quan tâm đến hiệu quả hay không hiệu quả.

Do đó, nhiệm vụ của nhận thức là đảm bảo cho tính hiệu quả tối đa cho hành động,

nếu nó mang lại giá trị thực tiễn tức là có hiệu quả thì nó đƣợc coi là chân lý. Đây là

khác biệt cơ bản của triết học Mác - Lênin và triết học thực dụng Mỹ về lý luận

nhận thức nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng.

4.2.3. Tuyệt đối hóa tính chủ quan, tính tương đối và phủ nhận tính tuyệt đối

của chân lý

Trong quan niệm về chân lý, triết học thực dụng Mỹ thể hiện lập trƣờng

duy tâm chủ quan. Các nhà triết học thực dụng Mỹ đã tuyệt đối hóa tính chủ

quan, cho rằng chân lý là cụ thể, là tƣơng đối và không có chân lý tuyệt đối. Có

thể nói, chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức của con ngƣời về thế giới

khách quan, do đó nó mang tính chủ quan, là cụ thể, tƣơng đối. Nhƣng việc tuyệt

đối hóa tính chủ quan, tính cụ thể, tính tƣơng đối mà phủ nhận chân lý tuyệt đối

lại là hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

C. Peirce luôn đòi hỏi chân lý phải có sự chứng thực, mọi quan niệm, giả

thuyết đƣợc xem là chân lý đều cần phải thƣờng xuyên hiệu chỉnh. Do đó, chân

lý tuyệt đối, phổ biến là không thể đạt đến đƣợc, chân lý chỉ mang tính tƣơng đối.

Với quan niệm chân lý là sự “phù hợp” với thực tại, W. James cho rằng, chân

lý là sự phù hợp với thực tại, nhƣng thực tại theo cách hiểu của ông không phải là thế

giới khách quan, mà liên quan đến đời sống tình cảm, tính chủ quan của con ngƣời.

Sự phù hợp với thực tại chẳng qua chỉ là sự phù hợp của quan niệm này với quan

niệm khác, sự phù hợp năng động của chủ thể với khách thể. Sự phù hợp của quan

niệm với thực tại chỉ trong phạm vi đƣợc kiểm chứng. Sở hữu một chân lý là phƣơng

tiện để hƣớng tới sự thỏa mãn khác của con ngƣời. Rõ ràng, theo quan niệm này,

chân lý phụ thuộc vào tính chủ quan của mỗi ngƣời. Vì vậy, theo đuổi mục đích, lợi

ích, tính hiệu quả của mỗi ngƣời là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm này là sự cổ vũ

cho chủ nghĩa cá nhân; mỗi ngƣời hãy theo đuổi mục đích, lợi ích của mình; mỗi

ngƣời đều có thể tạo ra chân lý riêng của mình, vì chân lý là cụ thể.

Quan điểm của W. James về sự chứng thực gián tiếp của chân lý cũng thể

hiện rõ tính chủ quan. Ông cho rằng chân lý là một quá trình, không phải tĩnh tại mà

luôn biến đổi. Việc chứng thực trực tiếp chân lý là một việc làm rất khó khăn.

144

Chúng ta chƣa kiểm nghiệm xong một chân lý thì đã có hàng triệu chân lý phát sinh

trong đời sống rồi. Do vậy, chân lý tồn tại chủ yếu dựa vào sự tin tƣởng.

Trên cơ sở phê phán những ngƣời theo quan điểm duy lý đã tuyệt đối hóa

chân lý, W. James khẳng định chân lý là một quá trình, không có tính ổn định

tuyệt đối mà chỉ mang tính tƣơng đối. Bởi nội dung của chân lý liên quan chặt

chẽ với kinh nghiệm của con ngƣời, tính chân lý phụ thuộc vào yếu tố niềm tin

của cá nhân, do đó chân lý luôn biến đổi, không có chân lý tuyệt đối, nó chỉ

mang tính tƣơng đối. Ông ủng hộ quan điểm cho rằng mỗi ngƣời tùy thuộc vào

kinh nghiệm, vào hiệu quả, sự thỏa mãn nhu cầu, mục đích của mình mà xác

định tính chân lý của riêng mình. Quan điểm này là cơ sở lý luận để giai cấp tƣ

sản biện hộ cho việc theo đuổi mục đích lợi ích, hiệu quả của mình bất chấp mọi

thủ đoạn miễn là đạt đƣợc mục đích lợi nhuận.

J. Dewey phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời cũng phủ nhận

tính tuyệt đối của chân lý. Ông có khuynh hƣớng chủ nghĩa tƣơng đối trong quan

niệm về chân lý. Trên cơ sở chỉ ra những sai lầm của chủ nghĩa siêu hình, khi

cho rằng, chân lý là khái niệm lý tính tiên nghiệm, mang tính tĩnh tại, bất biến,

đồng thời cũng phản đối thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Ông cho rằng

mọi tƣ tƣởng, khái niệm không thể là sự mô tả hiện thực khách quan, chỉ có thể

là những giả thiết ứng dụng, mà giả thiết là do con ngƣời đề xuất theo ý muốn

chủ quan của mình; nó nhƣ những công cụ đƣợc con ngƣời sử dụng khi cảm thấy

tiện lợi. Từ đó, ông phủ định tính khách quan, tính tuyệt đối của chân lý, đồng

thời cũng nhấn mạnh tính tƣơng đối, chủ quan của chân lý.

Theo J. Dewey, thực tại “đi trƣớc” nhận thức; nhận thức là sự can thiệp

mang tính tích cực, sáng tạo của chủ thể vào đối tƣợng, làm biến đổi đối tƣợng.

Khách thể tồn tại khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Tuyệt đối hóa

vai trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự

vật thành tồn tại của nhận thức là đặc trƣng trong phƣơng pháp nhận thức khoa học

của ông. Thực tại cũng chỉ đƣợc ông xem là kết quả của quá trình nhận thức: “Sự

thay đổi các quan niệm của chúng ta về đối tƣợng đã tạo nên đối tƣợng phù hợp với

trạng thái ý thức, nói cách khác, quá trình nhận thức là quá trình “xác lập thực tại”.

Tồn tại - nghĩa là trở thành đối tƣợng của nghiên cứu khoa học” [92, tr. 41].

145

J. Dewey lý giải quá trình nghiên cứu theo tinh thần của C. Peirce. Cuộc

sống đặt con ngƣời vào những tình huống nan giải, những trạng thái hoài nghi.

Bị rơi vào tình huống ấy, con ngƣời cần đến phƣơng pháp để giải quyết vấn đề.

Chức năng duy nhất của tƣ duy là cải tạo tình huống chƣa xác định thành tình

huống xác định. Khoa học là một loại hộp đựng công cụ, từ đó ngƣời ta lựa chọn

những gì tiện lợi, có hiệu quả trong những điều kiện nhất định.

Nếu nhƣ triết học Mác - Lênin khẳng định chân lý vừa có tính tƣơng đối,

vừa có tính tuyệt đối, thì triết học thực dụng phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý

và xem chân lý chỉ thuần túy tƣơng đối với hiệu quả, lợi ích cho con ngƣời.

Ngay cả việc triết học thực dụng thừa nhận tính tƣơng đối của chân lý, thì quan

niệm đó cũng khác cơ bản so với quan niệm của triết học Mác - Lênin. Triết học

Mác - Lênin xuất phát từ việc coi chân lý là một quá trình con ngƣời nhận thức

về thế giới trên cơ sở thực tiễn, là sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể, trong

đó chủ thể phản ánh khách thể thông qua thực tiễn; thực tiễn luôn vận động, biến

đổi. Vì vậy, quá trình phản ánh của chủ thể về thế giới khách quan trong những

trƣờng hợp cụ thể là đúng đắn nhƣng chỉ là tƣơng đối đầy đủ - khi đó xuất hiện

chân lý tƣơng đối; đồng thời triết học Mác - Lênin cũng khẳng định con ngƣời

có khả năng nhận thức đƣợc đúng đắn bản chất của thế giới. Nhận thức là một

quá trình phản ánh thế giới khách quan, là sự thống nhất giữa chủ thể và khách

thể. Theo đó chân lý tƣơng đối không ngừng đƣợc bổ sung, khi đó xuất hiện

chân lý tuyệt đối. Chân lý tƣơng đối và chân lý tuyệt đối có quan hệ thống nhất

với nhau, trong đó, tổng số chân lý tƣơng đối chính là chân lý tuyệt đối: “Chân

lý tuyệt đối đƣợc cấu thành từ tổng số những chân lý tƣơng đối đang phát triển;

chân lý tƣơng đối là sự phản ánh tƣơng đối đúng của một khách thể tồn tại độc

lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân

lý khoa học, dù là có tính tƣơng đối, vẫn chứa đựng một yếu tố tuyệt đối” [81, tr.

383]. Vì vậy, chân lý vừa có tính tương đối, vừa có tính tuyệt đối.

Còn đối với triết học thực dụng, chân lý đƣợc xem là công cụ, phƣơng

tiện, phƣơng pháp tƣ duy để đạt hiệu quả, lợi ích, sự thành công trong hành

động. Chân lý gắn liền với tính hữu dụng của hành động; mà hành động để đem

lại hiệu quả lại gắn với hoàn cảnh hay tình huống cá biệt, của từng cá nhân con

146

ngƣời riêng biệt, cụ thể. Do đó, chân lý chỉ là tƣơng đối. Có bao nhiêu công cụ,

giải pháp đem lại hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề đặt ra cho từng

con ngƣời, từng hoàn cảnh cụ thể thì sẽ có bấy nhiêu chân lý. Cho nên, tính

tƣơng đối của chân lý đƣợc hiểu là tính tƣơng đối trong việc đem lại hiệu quả

của hành động khi con ngƣời lựa chọn một giải pháp này, một phƣơng pháp này

mà không phải là cái khác. Các nhà triết học thực dụng chỉ thừa nhận và khẳng

định sự tồn tại của chân lý tƣơng đối, đồng thời kiên quyết phủ nhận sự tồn tại

của chân lý tuyệt đối, không thấy đƣợc mối quan hệ giữa chúng.

Tóm lại, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng có một số giá trị

nhất định. Đó là sự cố gắng đi tìm những kiến giải mới trong nhận thực triết học.

Đề cập đến thực tiễn và giải quyết những vấn đề thực tiễn, phục vụ cho con

ngƣời là đích hƣớng tới của triết học thực dụng. Ở đây, trƣờng phái triết học thực

dụng khẳng định quan điểm thực tiễn, khẳng định triết học không xa rời thực

tiễn, mà luôn xuất phát và phục vụ cho thực tiễn; qua đó cũng thể hiện tinh thần

nhân văn, vì con ngƣời và phục vụ con ngƣời. Vì thế, không phải ngẫu nhiên,

triết học thực dụng trở thành một nét đặc trƣng trong văn hóa Mỹ, có tác động

không nhỏ đến mọi mặt đời sống xã hội nƣớc Mỹ. Đây là đóng góp cơ bản của

quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đồng thời, trong quan niệm

về chân lý, triết học thực dụng Mỹ cũng bộc lộ một số hạn chế. Xuất phát từ lập

trƣờng duy tâm chủ quan, trong quan niệm về chân lý, các nhà triết học thực

dụng nhấn mạnh tính chủ quan, tính cá thể, tính cụ thể, tính tƣơng đối của chân

lý, phủ nhận tính khách quan, tính tuyệt đối và tiêu chuẩn khách quan của chân

lý. Ở một góc độ nào đó, chúng ta thấy quan niệm về chân lý của triết học thực

dụng Mỹ thể hiện lập trƣờng giai cấp và bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tƣ sản.

TIỂU KẾT CHƢƠNG 4

Đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế là đặc trƣng cơ bản của quan niệm

về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Nó cũng là nền tảng của triết học thực

dụng và khi nhắc đến triết học thực dụng là nhắc đến hiệu quả của hành động. Vì

vậy, có ý kiến còn nhấn mạnh đây là trƣờng phái triết học hành động, thể hiện

triết lý hành động. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên, triết học thực dụng trở

thành nét đặc trƣng của văn hóa Mỹ. Sở dĩ nó có ảnh hƣởng lớn nhƣ vậy đối với

147

ngƣời Mỹ, xã hội Mỹ bởi quan niệm về chân lý đã đi sâu vào những vấn đề thực

tế đời sống, nhằm cải tạo thực tiễn của con ngƣời. Nó quan tâm trả lời câu hỏi

làm thế nào để suy nghĩ và hành động đạt đƣợc hiệu quả, ích lợi và thành công.

Điều đáng nói ở đây là triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý

của triết học thực dụng nói riêng đã có sự phù hợp với văn hóa và lối sống của

ngƣời Mỹ; cũng bởi sự phù hợp này, triết học thực dụng đƣợc ngƣời Mỹ, xã hội

Mỹ dễ dàng chấp nhận nhƣ một triết lý nội sinh thấm sâu vào huyết mạch và khí

quản con ngƣời. Nó không chỉ ảnh hƣởng đến nƣớc Mỹ, mà còn ảnh hƣởng đến

nhiều nƣớc trên thế giới. Điều đó là minh chứng sống cho những giá trị của quan

niệm về chân lý nói riêng và của triết học thực dụng nói chung.

Những giá trị cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng

Mỹ có thể khái quát ở những nội dung coi trọng thực tiễn, nhấn mạnh hiệu quả

trong hành động, phê phán quan niệm tƣ biện về chân lý, khẳng định tính năng

động chủ quan trong quá trình nhận thức chân lý. Giá trị đó không dừng lại ở

mặt lý luận, nó còn là sự khẳng định về mặt thực tiễn. Thực tiễn nƣớc Mỹ là một

mảnh đất chứng minh rằng, một trƣờng phái triết học nếu biết giải quyết những

vấn đề của thực tiễn cuộc sống đặt ra sẽ có sức mạnh và tầm ảnh hƣởng to lớn.

Trƣờng hợp đó rất đúng với quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

Có thể khẳng định, đặc trƣng chủ yếu của quan niệm về chân lý trong triết

học thực dụng là sự nhấn mạnh hiệu quả hành động; điều này có những yếu tố

hợp lý nhất định, đáp ứng đƣợc nhu cầu, khát vọng, ham muốn tự do, sáng tạo và

ƣớc muốn thay đổi; đặc biệt là sự coi trọng thành quả sáng tạo của cá nhân đƣợc

thể hiện ở tính hữu dụng, sự thành công. Chính nó đã đem lại những giá trị nhất

định cho con ngƣời và xã hội. Tuy nhiên, cũng từ quan niệm quá chú trọng, tuyệt

đối hóa hiệu quả, cái có ích của hành động đã làm xuất hiện những hạn chế nhất

định. Triết học thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý của triết học thực

dụng nói riêng, không thể giải quyết đƣợc mối quan hệ giữa cái chung và cái

riêng, giữa hiệu quả của cá nhân và hiệu quả cho cộng đồng xã hội. Tất nhiên,

trong tƣơng quan so sánh với quan niệm về chân lý của triết học Mác - Lênin nói

chung và phạm trù thực tiễn nói riêng, chúng ta càng thấy rõ hơn những giá trị

và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.

148

KẾT LUẬN

Chân lý là một vấn đề cơ bản trong lý luận nhận thức. Nghiên cứu về

vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, trong đó có quan niệm về chân lý

của triết học thực dụng. Quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này là

một sự cố gắng đi tìm cách lý giải mới, khác với các quan niệm truyền thống về

bản chất của chân lý. Quan niệm độc đáo, mới mẻ của triết học thực dụng về

vấn đề chân lý đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều, đồng tình có, phản đối có,

khen có, chê có. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận ảnh hƣởng của triết

học thực dụng tới xã hội Mỹ nói riêng và tới các nƣớc trên thế giới nói chung.

Ảnh hƣởng đó theo hai hƣớng, cả theo chiều hƣớng tích cực lẫn theo chiều

hƣớng tiêu cực; thậm chí đã có lúc, ngƣời ta còn đồng nhất chủ nghĩa thực

dụng với lối sống thực dụng. Sở dĩ có sự ảnh hƣởng to lớn nhƣ vậy chính là do

vấn đề chân giá trị mà triết học thực dụng theo đuổi, hay chính là việc lý giải

quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Lý giải vấn đề này, luận án

đã góp phần làm rõ hơn nguyên nhân của sự ảnh hƣởng đó.

Nói tới nƣớc Mỹ, ngƣời Mỹ và sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ trong thế

giới hiện đại là chúng ta nhắc đến triết học thực dụng - thứ triết học đƣợc xem

nhƣ “đặc sản tinh thần của ngƣời Mỹ”, đƣợc coi là công cụ hữu hiệu bậc nhất

giúp nƣớc Mỹ khẳng định sự hùng mạnh của mình. Ngƣời Mỹ tôn thờ triết học

thực dụng nhƣ tôn thờ chân lý của sự sống còn trong một quốc gia đa sắc tộc,

đa văn hóa. Từ châm ngôn thực dụng của C.Peirce, chân lý ở tính hữu dụng

tƣơng lai với những mục tiêu của con ngƣời, W.James đã phát triển thành quan

niệm chân lý là hiệu quả, cái gì hữu ích cái đó là chân lý. Đến J.Dewey, chân lý

là sự khẳng định có cơ sở, sự khẳng định đó dựa trên tính hiệu quả, có tác dụng

giúp con ngƣời thỏa mãn, thành công trong việc giải quyết những tình huống

có vấn đề. Trong ba nhà triết học thực dụng Mỹ, thì quan điểm của C.Peirce

nhấn mạnh lý luận về nghĩa hơn cả học thuyết về chân lý. Ông là ngƣời đặt cơ

sở, nền móng cho toàn bộ lý luận của triết học thực dụng về chân lý. Quan

điểm của W.James về vấn đề chân lý thể hiện đầy đủ, hoàn chỉnh nhất.

149

J.Dewey là ngƣời phát triển lý luận chân lý trong lý luận về chủ nghĩa công

cụ. Đồng nhất chân lý với tính hữu dụng trở thành quan điểm nền tảng của lý

luận thực dụng về chân lý.

Quan niệm về chân lý của triết học thực dụng có những hạn chế, bên

cạnh đó cũng có một số giá trị nhất định. Giá trị của triết học thực dụng khi bàn

về vấn đề chân lý ở sự phê phán những hạn chế, sai lầm của triết học tƣ biện,

coi chân lý là những giá trị vĩnh hằng, bất biến. Ở khía cạnh này, triết học thực

dụng tỏ ra có lý khi cho rằng, chân lý chỉ mang tính tƣơng đối và thƣờng xuyên

phải hiệu chỉnh khi những căn cứ cho sự tồn tại của nó đã thay đổi. Tuy nhiên,

phủ định tính tuyệt đối của chân lý lại là quan điểm sai lầm. Triết học thực

dụng bàn đến vấn đề thực tiễn, sự phù hợp của khái niệm với “thực tại”. Về

điểm này, các nhà triết học thực dụng đã trung thành với quan điểm nền tảng

của mình khi cho rằng, sự phù hợp với thực tại không phải là sự phù hợp với

thế giới khách quan, mà là sự phù hợp của một bộ phận thế giới với lợi ích của

con ngƣời. Có thể nói, quan điểm này của triết học thực dụng đã phủ nhận tiêu

chuẩn khách quan của chân lý; coi chân lý chỉ thuần túy chủ quan, là sự thỏa

mãn lợi ích của con ngƣời. Việc nhấn mạnh nhận thức chân lý là quá trình đƣợc

chứng thực và có hiệu quả trong đời sống thực tiễn, đã cho thấy triết học thực

dụng coi trọng vấn đề thực tiễn trong nhận thức; xem nhận thức là một quá

trình biện chứng có sự chứng thực bằng hiệu quả thực tế. Các nhà triết học thực

dụng Mỹ đề cao vai trò năng động, sáng tạo của chủ thể trong quá trình nhận

thức chân lý, bởi suy cho cùng, con ngƣời với tƣ cách là chủ thể đƣợc coi là cội

nguồn của sự sáng tạo và sức mạnh trong nhận thức, cải tạo thế giới, hay con

người là thước đo chính mình và của vạn vật. Đƣơng nhiên, sai lầm của họ là

cách hiểu thực tiễn chẳng qua chỉ là hoạt động kinh nghiệm thuần túy mang

tính chủ quan của con ngƣời vì mục đích có ích cho con ngƣời. Thậm chí, các

nhà triết học thực dụng còn ủng hộ và luận chứng cho sự tồn tại mang tính hợp

lý của tôn giáo, vì tôn giáo giúp thỏa mãn nhu cầu, là có ích đối với con ngƣời.

Có thể nói, triết học thực dụng ra đời, tồn tại và phát triển đƣợc coi là hệ thống

150

lý luận có sự phù hợp với xã hội Mỹ nói riêng và đặc điểm xã hội phƣơng Tây

hiện nay nói chung.

Nghiên cứu quan niệm của triết học thực dụng về chân lý giúp chúng ta

có cơ sở để so sánh, đối chiếu với quan niệm về chân lý của các trào lƣu triết

học phƣơng Tây hiện đại và các trào lƣu triết học khác. Qua nghiên cứu vấn

đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, tác giả luận án đã cố gắng đƣa ra một

cách nhìn khách quan, với mong muốn tìm thấy những giá trị tích cực vốn có

của nó trong những điều kiện nhất định. Từ quan điểm khách quan đó, tác giả

cũng thấy rõ những hạn chế cơ bản của trƣờng phái triết học này khi bàn về

vấn đề chân lý. Quan điểm khách quan đó càng khẳng định tính đúng đắn của

quan niệm về chân lý trong triết học Mác - Lênin nói riêng và lý luận nhận

thức nói chung.

Tuy nhiên, trong phạm vi của một đề tài luận án, tác giả đã cố gắng, nỗ

lực hoàn thành mục đích và nhiệm vụ đặt ra, nhƣng cũng không tránh khỏi hạn

chế chủ quan, chƣa thật toàn diện về vấn đề nghiên cứu, đặc biệt đây là một

vấn đề khó. Tác giả mong rằng trong tƣơng lai sẽ có sự phát triển và hoàn thiện

thêm ở cấp độ cao hơn, với chất lƣợng tốt hơn, nhằm đáp ứng đƣợc một phần

nào đó về lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu về vấn đề chân lý nói riêng và lý

luận nhận thức nói chung hiện nay.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ

CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Nguyễn Văn Thỏa, C.S.Peirce với quan niệm về chân lý (2012), Tạp chí Triết

học, số 12 (259). Trang: 74 - 83.

2. Nguyễn Văn Thỏa, Quan niệm của John Dewey về chân lý (2013), Tạp chí

Khoa học, Volume 58, Number 6B. Trang: 121 - 128.

3. Nguyễn Văn Thỏa, Quan niệm của William James về chân lý (2014), Tạp chí

Khoa học, Volume 59, Number 6BC, tr.72-tr.78.

4. Nguyễn Văn Thỏa, Phạm trù “niềm tin” trong triết học thực dụng của C.S.

Peirce (2015), Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội, số 10 (29). Trang: 53 - 60.

5. Nguyễn Văn Thỏa, Tiêu chuẩn chân lý trong triết học thực dụng Mỹ (2015),

Tạp chí Triết học, số 12 (295). Trang: 80 - 86.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT:

1. Mortimer J. Adler (2004), Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb

Văn hóa thông tin.

2. C.L.Albanse (2012), Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ, Nxb Thời đại, Hà Nội.

3. Vĩnh An (2006), Hỏi đáp triết học, tập 3, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách

người cán bộ hậu cần quân đội, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị

Quân sự, Hà Nội.

5. Lƣu Bành (2009), Tôn giáo Mỹ đương đại, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.

6. Trịnh Đình Bảy (2003), Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, Nxb Chính

trị quốc gia, Hà Nội.

7. Baubérot J. (2006), Lịch sử đạo Tin lành, Nxb Thế giới.

8. Bellah R. (1990), Văn hóa và tính cách người Mỹ, Nxb Khoa học xã hội và

Viện thông tin khoa học xã hội.

9. Vƣơng Ngọc Bình (2004), Uyliam Giêmxơ, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ

Đông Tây, Hà Nội.

10. Bochenski (1969), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Ca Dao, Sài Gòn.

11. Bodei R. (2011), Triết học thế kỷ XX, Nxb Thời đại

12. Brinton C., Wolff R.L., Chrisropher J.B. (2004), Văn minh phương Tây, Nxb

Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

13. Brinton C. (2007), Con người và tư tưởng phương Tây, Nxb Từ điển bách

khoa, Hà Nội.

14. Caygill H. (2013), Từ điển triết học Kant, Nxb Tri thức, Hà Nội.

15. Vƣơng Kính Chi (2000), Lược sử nước Mỹ, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

16. Nguyễn Khắc Chƣơng (2004), Vấn đề tiêu chuẩn của chân lý, Luận án Tiến

sĩ Triết học, Viện Triết học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.

153

17. Cooper D.E. (2005), Các trường phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hóa

thông tin.

18. Cuvillier A. (1962), Các vấn đề triết học, (Nguyễn Hữu Trọng dịch), Viện

Đại học Huế.

19. Descartes R. (1973), Phương pháp luận, Nxb Nam chi tùng thƣ, Sài Gòn.

20. Dewey J. (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội.

21. Dewey J. (2012), Kinh nghiệm và giáo dục, (Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Trẻ

- DT Books.

22. Dewey J. (2014), Cách ta nghĩ, Nxb Tri thức, Hà Nội.

23. Phạm Tất Dong (1997), Vấn đề con người trong triết học thực dụng, Nxb

Khoa học xã hội.

24. Nguyễn Tiến Dũng (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày

nay, số 1.

25. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Một số khía cạnh về văn hóa và con người trong

triết học phương Tây hiện đại, Tạp chí Triết học, số 1.

26. Nguyễn Tiến Dũng (2002), Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng Triết học

cho khoa học, Tạp chí Triết học, số 2.

27. Nguyễn Văn Dũng (1999), William James với quan niệm về đạo đức, Tạp chí

Triết học, số 3.

28. Durant W. (2014), Câu chuyện triết học, Công ty sách Thời đại & Nxb Hồng

đức, Hà Nội.

29. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2003), Lược khảo triết học phương

Tây hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

30. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phương Tây

hiện đại, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.

31. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2006), Triết học Mỹ, Nxb Tổng hợp

thành phố Hồ Chí Minh.

32. Phan Thị Thùy Dƣơng (2009), Quan niệm của Wiliam James về chân chân

lý, Luận văn Thạc sĩ triết học.

154

33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 01 -

NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”, ngày 28 tháng 3

năm 1992.

34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần

thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

36. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, Nxb Văn hóa thông tin.

37. Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học Hiện sinh, Nxb Văn học.

38. Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX, Nxb Văn học.

39. Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, tập 2, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

40. Lƣu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương

Tây hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.

41. Lê Minh Đức, Nguyễn Nghị (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin.

42. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hòa (2009), Triết học Mác

và thời đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

43. Fich J.P. (2003), Văn minh Hoa Kỳ, Nxb Trẻ, Hà Nội.

44. Foner E. (chủ biên) (2003), Lịch sử nước Mỹ mới, (Diệu Hƣơng dịch), Nxb

Chính trị Quốc gia.

45. Nguyễn Hào Hải (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ qua một số đại biểu của

nó, Tạp chí triết học, số 4.

46. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

47. Cao Hằng (2004), Francois Jullien, bàn về hiệu quả, Tạp chí Triết học, số 10.

48. Hegel G.W.F (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Nxb Tri thức,

Hà Nội.

49. Phong Hiền (1972), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện của nó,

Thông báo triết học, số 23.

155

50. Trần Thị Hoa (2006), Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey, Luận văn thạc

sĩ triết học.

51. Trịnh Sơn Hoan (2008), Vài nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ (Some features

of American pragmatism), Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà

Nẵng, số 5 (28).

52. Trịnh Sơn Hoan (2011), Nước Mỹ và sự hình thành tính cách Mỹ, Tạp chí

Triết học (238/3), tr. 82-88.

53. Trịnh Sơn Hoan (2012), Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng

Mỹ, Tạp chí Triết học, số 6 (253).

54. Trịnh Sơn Hoan (2012), Triết học William James và chủ nghĩa thực dụng

Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia.

55. Trịnh Sơn Hoan (2015), Vấn đề nhân sinh trong triết học Mỹ, Luận án tiến sĩ

triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt

Nam, Hà Nội.

56. Nguyễn Hải Hoàng (2015), Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng Peirce,

Luận án tiến sĩ triết học, Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại

học Quốc gia Hà Nội.

57. Honderich T. (2006), Hành trình cùng triết học, Nxb Văn hóa thông tin.

58. Đỗ Minh Hợp (1996), Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện

đại, Tạp chí Triết học, số 1.

59. Đỗ Minh Hợp (1997), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

60. Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Hà Nội.

61. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Anh Tuấn - Nguyễn Thanh (2008), Đại cương lịch

sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, Nxb

Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

62. Đỗ Minh Hợp (2011), Nhập môn triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 1, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

156

64. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 2, Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

65. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 3, Nxb Chính trị

Quốc gia.

66. Nguyễn Thái Yên Hƣng (2005), Liên bang Mỹ, đặc điểm xã hội - văn hóa,

Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin.

67. Nguyễn Thái Yên Hƣơng - Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn đề nghiên cứu về

Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt Nam.

68. Inwood M. (2015), Từ điển triết học Hegel, Nxb Tri thức, Hà Nội.

69. Jenning P., Brewster T. (2010), Nghiên cứu về nước Mỹ, (Nguyễn Kim Dân

dịch), Nxb Thời đại, Hà Nội.

70. Jullien F. (2002), Bàn về tính hiệu quả, Nxb Đà Nẵng.

71. Kant I. (2015), Phê phán lý tính thực hành, Nxb Tri thức, Hà Nội.

72. Lƣơng Văn Kế (2011), Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Nxb Giáo dục

Việt Nam.

73. Khái quát về lịch sử nước Mỹ (2000), Nxb Chính trị Quốc gia.

74. Gia Khang, Kiến Văn biên dịch (2011), Trí tuệ dân tộc Mỹ, Nxb Thời đại,

Hà Nội.

75. Vũ Khiêu (1986), Triết học tư sản phương Tây hôm nay, Nxb Thông tin lý

luận, Hà Nội.

76. Krishnamurti (2010), Chân lý và thực tại, (Đào Hữu Nghĩa dịch), Công ty

sách Thời đại & Nxb Thời đại, Hà Nội.

77. Lawhead W.F. (2012), Hành trình khám phá thế giới triết học phương Tây,

Nxb Từ điển Bách khoa.

78. Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học

và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

79. Phạm Minh Lăng (2001), Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây,

Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

157

80. Lennkh A., Toinet M.F. (1995), Thực trạng nước Mỹ, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

81. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

82. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

83. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

84. Nguyễn Ngọc Long (1998), Triết học phương Tây ngoài mác xít và ảnh hưởng

của nó đến Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.

85. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

86. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

87. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

88. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

89. Bryan Magee (2003), Câu chuyện triết học, Huỳnh Phan Anh - Mai Sơn

(dịch), Nxb Thống kê, Hà Nội.

90. Đặng Thai Mai (1956 - dịch), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Xây dựng,

Hà Nội.

91. Melvil J.K. (1959), Phê phán chủ nghĩa thực dụng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

92. Melvil J.K. (1997), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, (Đinh

Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch), Nxb Giáo dục.

93. Mill J.S. (2005), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.

94. Đặng Nguyên Minh (2007), Triết học thế giới nên biết, tập 2, Nxb Lao động

Xã hội.

95. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học phƣơng Tây, Tập 1, 2, 3, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

96. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới.

97. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong “Lý thuyết về công lý”

của John Rawls, Nxb Thế giới.

98. Văn Sinh Nguyễn (2004), Văn minh phương Đông và phương Tây, Nxb Lao

động Xã hội.

158

99. Trần Sĩ Phán (2012), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến lối sống sinh

viên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị (3), tr. 64-70.

100. Nguyễn Thu Phong (2002), Minh triết trong tư tưởng phương Tây, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

101. Trần Tuấn Phong (1996), Về khái niệm “kinh nghiệm” trong hệ thống triết

học William James, Tạp chí Triết học (90/2), tr. 49-52.

102. Robert và cộng sự (1999), Văn hóa và tính cách người Mỹ, Nxb khoa học

xã hội & Viện Thông tin khoa học xã hội.

103. Rius (2006), Nhập môn Marx, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.

104. Sahakan W.S. - Sahakan M.L. (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ đại,

Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.

105. Mai Sơn biên soạn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức, Hà Nội.

106. Stumpf S.E. (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb Lao động, Hà Nội.

107. Stumpf S.E., Abel D.C. (2004), Nhập môn triết học phương Tây, Nxb Tổng

hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

108. Vũ Minh Tâm (2012), “Triết lý thiết thực của ngƣời Việt xƣa”, Tạp chí

Triết học (250/3), tr.33-37.

109. Trần Quang Thái (2011), Chủ nghĩa hậu hiện đại các vấn đề nhận thức

luận, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

110. Phan Văn Thám (2011), Vấn đề kinh nghiệm trong chủ nghĩa thực dụng

Mỹ, Luận văn Thạc sĩ.

111. Võ Minh Thanh (2006), Trích văn triết học, Nxb Văn học.

112. Thomson M. (2004), Triết học tôn giáo (Đỗ Minh Hợp dịch), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

113. Thƣ viện Quân đội (1972), Chủ nghĩa thực dụng, Tập 13, Từ điển Bách

khoa Pháp.

114. Nguyễn Tài Thƣ chủ biên (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo

đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

159

115. Đặng Ngọc Dũng Tiến (2001), Hoa Kỳ phong tục và tập quán, Nxb Trẻ,

Thành phố Hồ Chí Minh.

116. Tocqueville A.D. (2008), Nền dân trị Mỹ, (Phạm Toàn dịch), Nxb Tri thức,

Hà Nội.

117. Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển (1996), (Đỗ Minh Hợp - Đặng Hữu

Toàn dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

118. Đỗ Kiên Trung (2010), Triết học tân thực dụng Neopramatism, Nxb Tri

thức, Hà Nội.

119. Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội

(2007), Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

120. Từ điển triết học (Bản dịch tiếng Việt năm 1960), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.

121. Nguyễn Văn Út biên soạn (2006), 9 bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, Nxb

Văn hóa thông tin, Hà Nội.

122. Nguyễn Ƣớc (2009), Đại cương triết học tây phương, Nxb Tri thức, Hà Nội.

123. Nguyễn Ƣớc (2009), Các chủ đề triết học, Nxb Tri thức, Hà Nội.

124. Văn hóa và tính cách người Mỹ (1990), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

125. Tuệ Văn (1994), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố

Hồ Chí Minh.

126. Tuệ Văn (2005), Tài liệu tham khảo triết học phương Tây, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

127. Triệu Vân (1946), Quan niệm mác xít về chân lý, Nxb Đại Đồng, Đà Nẵng.

128. Viện Mác - Lênin, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1982), Triết học và

cuộc đấu tranh ý thức hệ, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.

129. Hoàng Xuân Việt (2004), Lược sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp

Thành phố Hồ Chí Minh.

130. Wall J. (2006), Lược sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố

Hồ Chí Minh.

160

131. Weber M. (2010), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb

Tri thức, Hà Nội.

132. Zinn H. (2010), Lịch sử dân tộc Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.

TIẾNG ANH:

133. James W. (1914), The meaning of truth a sequel to “Paragmatis”

H.O.Houghton & co Cambridge, Mass, press, New York.

134. Konvitz M.R., Kennedy G. (1960), The Amercan Pragmatists, The

Publishing Company perss, New York.

135. Peirce C.S. (1931 - 1960), Collected Papers of Charles Sanders Peirce,

Volume I - VIII, Harvard University Press.

136. Peirce C.S. (1958), Values in a Univers of Chance, New York.

137. Peirce C.S. (1997), Pragmaitsm as a Principle and Method of Right

Thinking, Published State University of New York press.

138. Thayer H.S. (1968), Meaning and Action A Critical History of Pragmatism,

The Bobbs - Merrill Company press, New York .

139. Thayer H.S. (1982), Pragmatism the classic writing, Hackett Publishing

Company press, New York.

140. White M. (1978), The Philosophy of the American Revolution, Oxford

University press, New York.