VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THỎA
QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2016
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN THỎA
QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ
Chuyên ngành: Triết học
Mã số : 62 22 03 01
LUẬN ÁN TIẾN SỸ TRIẾT HỌC
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS ĐẶNG HỮU TOÀN
HÀ NỘI - 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dƣới sự hƣớng
dẫn của PGS.TS Đặng Hữu Toàn. Những trích dẫn, số liệu, tài liệu tham khảo
là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận đƣợc rút ra từ kết quả
nghiên cứu của luận án là khách quan, khoa học.
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Thỏa
LỜI CẢM ƠN
Sau một thời gian học tập, nghiên cứu tại Học viện Khoa học Xã hội – Viện
Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam, đến nay tôi đã hoàn thành chƣơng trình học
tập và Luận án.
Tôi xin chân thành cảm ơn Đảng ủy, Ban Giám đốc, Phòng Quản lý Đào
tạo Sau đại học, Khoa Triết học Học viện Khoa học Xã hội đã giúp đỡ, tạo điều
kiện cho tôi đƣợc học tập, nghiên cứu và hoàn thành Luận án Tiến sĩ triết học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi của Đảng ủy,
Ban Giám hiệu Trƣờng ĐHSP Hà Nội, Chi ủy, Ban Chủ nhiệm Khoa Triết học
Trƣờng ĐHSP Hà Nội, Đoàn thanh niên Trƣờng ĐHSP Hà Nội trong suốt quá
trình nghiên cứu, học tập và thực hiện luận án.
Với lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc, tôi xin đƣợc bày tỏ lòng cảm ơn
chân thành tới PGS.TS Đặng Hữu Toàn, ngƣời Thầy - Nhà khoa học đã dành
nhiều thời gian và tâm huyết, luôn động viên, chỉ bảo, giúp đỡ và hƣớng dẫn tận
tình để em có thể hoàn thành đƣợc luận án này.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến tập thể cán bộ, nhân viên Viện
Thông tin Khoa học Xã hội Nhân Văn - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam, Thƣ viện Quốc gia, Thƣ viện Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Thƣ viện
Quân đội, Thƣ viện Viện Triết học - Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã
giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tôi có thể thực hiện đề tài luận án.
Tôi vô cùng biết ơn sự ủng hộ, động viên, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận
lợi của gia đình, bạn bè và các bạn đồng nghiệp trong quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thiện bản luận án này.
Tôi xin trân trọng cảm ơn!
Tác giả luận án
Nguyễn Văn Thỏa
MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................................................................... 6 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ ........... 6 1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 17 1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về giá trị và hạn chế của quan niệm chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................... 27 1.4. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã công bố và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án ........................................... 30 TIỂU KẾT CHƢƠNG 1 ............................................................................................ 32 Chƣơng 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ........................................................................... 34 2.1. Khái quát về triết học thực dụng Mỹ và vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 34 2.2. Điều kiện khách quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ............................................................................................................ 44 2.3. Nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ .................................................................................................................... 72 TIỂU KẾT CHƢƠNG 2 ............................................................................................ 81 Chƣơng 3. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ........................................................................... 84 3.1. Về khái niệm chân lý .......................................................................................... 84 3.2. Về tiêu chuẩn của chân lý .................................................................................. 99 3.3. Về phƣơng pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý .................................... 108 TIỂU KẾT CHƢƠNG 3 .......................................................................................... 118 Chƣơng 4. GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ ......................................................... 121 4.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ...................... 121 4.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ ................... 136 TIỂU KẾT CHƢƠNG 4 .......................................................................................... 146 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN .................................................. 151 TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................................... 152
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử phát triển của triết học cho thấy nhân loại không ngừng khát khao
chinh phục những đỉnh cao trong nhận thức, nhằm mục đích tối hậu là đạt đến
chân lý; thậm chí, nhà triết học lỗi lạc thời cổ đại Hy Lạp là Aristote còn cho
rằng triết học là “khoa học về chân lý”. Các trƣờng phái triết học, các nhà triết
học cuối cùng đều hƣớng mục đích của mình vào việc luận giải vấn đề chân lý.
Vì vậy, có thể nói, chân lý là một trong những vấn đề trung tâm, xuyên suốt của
các trƣờng phái triết học và các nhà triết học. Mỗi trào lƣu triết học đều đƣa ra
quan điểm riêng của mình về vấn đề chân lý. Trong triết học phƣơng Tây hiện
đại, chúng ta không thể không kể đến quan niệm về chân lý trong triết học thực
dụng Mỹ, bởi đây là quan niệm độc đáo, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đồng
thời cũng gây nhiều ý kiến trái chiều về vấn đề này. Do vậy, làm rõ vấn đề chân
lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc xem là yêu cầu cần thiết đối với các nhà
nghiên cứu.
Trong các trào lƣu triết học Mỹ, triết học thực dụng là trƣờng phái điển
hình nhất. Triết học thực dụng Mỹ xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ
XX, với các đại diện tiêu biểu là Charles Sanders Peirce, William James và John
Dewey. Triết học thực dụng Mỹ không chỉ ảnh hƣởng ngay trên quê hƣơng của
nó, mà còn ảnh hƣởng đến các nƣớc phƣơng Tây và cả Việt Nam. Triết học thực
dụng đƣợc coi là nét đặc trƣng của văn hóa Mỹ, là “đặc sản tinh thần” của ngƣời
Mỹ. Nó ra đời cùng với sự phát triển của nƣớc Mỹ, có tác động không nhỏ tới sự
phát triển hùng mạnh của nƣớc Mỹ. Ngƣời Mỹ xem triết học thực dụng nhƣ là
công cụ hữu hiệu bậc nhất để phát huy nguồn lực con ngƣời trong sự phát triển
của đất nƣớc.
Nƣớc Mỹ nói chung, văn hóa Mỹ nói riêng là một phần của châu Âu, của
văn hóa phƣơng Tây, nền văn hóa Mỹ tiếp thu và chịu ảnh hƣởng rất lớn của văn
hóa Tây Âu, trong đó có triết học. Nhƣng trong bối cảnh nƣớc Mỹ, điều kiện Mỹ
rất đặc thù, với yếu tố tự nhiên, bối cảnh kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, nhất
là mặt nhân chủng học, văn hóa phƣơng Tây đi vào nƣớc Mỹ đã tự chuyển hóa,
2
triết học phƣơng Tây đƣợc thâm nhập vào nƣớc Mỹ với thuyết Hegel mới - một
trƣờng phái triết học duy tâm tuyệt đối. Bối cảnh nƣớc Mỹ cuối thế kỷ XIX đang
bƣớc vào giai đoạn xã hội công nghiệp hậu kỳ, rất năng động, rất cần phát triển,
muốn biến khoa học công nghệ thành động lực để phát triển. Nƣớc Mỹ muốn tạo
dựng niềm tin vào hiệu quả của khoa học, dựa vào công nghệ để phát triển xã
hội. Nhƣng khoa học nào mới là khoa học đích thực? Đây chính là vấn đề chân
lý. Tính chất tƣ biện, trừu tƣợng, giáo điều của triết học phƣơng Tây vào nƣớc
Mỹ nhân danh khoa học bị chống phá quyết liệt. Rõ ràng, tính chất tƣ biện, giáo
điều của thuyết Hegel mới từ Anh vào Mỹ bị ngƣời Mỹ phê phán, cái mà nƣớc
Mỹ và ngƣời Mỹ chống không phải là chống thuyết Hegel mà chống chủ nghĩa
duy tâm tuyệt đối của thuyết Hegel mới. Trong bối cảnh đó, văn hóa Mỹ dựa vào
Tin lành giáo để tồn tại và phát triển. Tin lành giáo có nhiều điểm chống thuyết
tƣ biện, trừu tƣợng, đối lập với chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối. Có thể nói, vấn đề
chân lý trong triết học thực dụng Mỹ để phân biệt rõ ràng chân khoa học với giả
khoa học, biến chân khoa học thành động cơ, động lực cho sự phát triển xã hội,
đã đáp ứng và hoàn thành đƣợc vai trò đó. Hiện nay, chúng ta đang tiếp thu bài
học của phƣơng Tây, trong đó có văn hóa Mỹ, chính là tiếp thu tinh thần chống
tƣ biện, trừu tƣợng, hƣớng tới hiệu quả, thiết thực mà vấn đề chân lý trong triết
học thực dụng đã đặt ra và giải quyết.
Sở dĩ triết học thực dụng có ảnh hƣởng lớn đến mọi mặt trong đời sống xã
hội nƣớc Mỹ nói riêng và các nƣớc phƣơng Tây nói chung là do nó hƣớng tới
giải quyết nhiều vấn đề mà thực tiễn đặt ra. Ở đây, quan niệm về chân lý không
còn thuần túy mang ý nghĩa lý luận, mà gắn liền với thực tiễn, phục vụ cho hoạt
động cải tạo thực tiễn. Nghiên cứu quan niệm về chân lý của triết học thực dụng
giúp chúng ta làm rõ những giá trị này.
Trong suốt một thời gian dài, từ sau năm 1975, quan hệ giữa Việt Nam và
Mỹ luôn trong trạng thái “đóng băng”. Do đó, việc tìm hiểu về văn hóa Mỹ nói
chung, triết học Mỹ nói riêng còn hết sức hạn chế. Việc bình thƣờng hóa quan hệ
Việt - Mỹ từ giữa thập niên 90 của thế kỷ XX đã tạo điều kiện cho hai nƣớc hợp
tác trên nhiều phƣơng diện, trong đó có văn hóa. Tuy nhiên, so với đòi hỏi khách
3
quan, việc tìm hiểu về văn hóa Mỹ nói chung và triết học Mỹ nói riêng, có thể
nói là chƣa nhiều. Trong khi đó, hiện nay, quá trình hội nhập quốc tế diễn ra
ngày càng sâu rộng trên nhiều lĩnh vực. Để góp phần khắc phục những hạn chế
trong quá trình hội nhập của Việt Nam, chúng ta cần phải đẩy mạnh nghiên cứu
các trào lƣu triết học phƣơng Tây hiện đại, trong đó có triết học thực dụng Mỹ.
Thêm vào đó, với chủ trƣơng phát triển kinh tế tri thức, khi mà tiêu chuẩn của
mọi hoạt động phải căn cứ vào hiệu quả thì việc nghiên cứu quan niệm về chân
lý trong triết học thực dụng Mỹ, với nội dung cốt yếu là lấy tính hữu dụng làm
thƣớc đo của chân lý, càng trở nên cần thiết.
Hơn nữa, trong công cuộc đổi mới toàn diện ở nƣớc ta hiện nay, mà trƣớc
hết là đổi mới tƣ duy đã diễn ra 30 năm qua, song vấn đề đổi mới tƣ duy hiện
vẫn đƣợc Đảng ta xác định là vấn đề căn bản của công cuộc đổi mới, là điểm
then chốt cho sự thành công của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam. Theo tinh thần đó, việc tiếp thu không chỉ những thành tựu về kinh tế,
khoa học, công nghệ, mà cả những thành tựu về tƣ tƣởng tiến bộ của phƣơng
Tây cho sự phát triển của đất nƣớc lại càng trở nên cấp thiết.
Trong các văn kiện của Đảng, các nghị quyết của Bộ Chính trị, Ban chấp
hành Trung ƣơng Đảng đã đặt ra yêu cầu đối với công tác lý luận nói chung và
đội ngũ giảng viên lý luận chính trị nói riêng. Chẳng hạn, trong Nghị quyết 01,
Bộ Chính trị - Ban chấp hành Trung ƣơng Đảng Cộng sản Việt Nam, Khóa VII
ban hành ngày 28 tháng 03 năm 1992 khẳng định rằng: Trong nhiều năm qua nội
dung đào tạo đội ngũ cán bộ lý luận hầu như chỉ bó hẹp trong các bộ môn khoa
học Mác - Lênin, chưa coi trọng việc nghiên cứu các trào lưu khác và tiếp thu
những thành tựu khoa học của thế giới. Hậu quả là số đông cán bộ lý luận thiếu
hiểu biết rộng rãi về kho tàng tri thức của loài người, do đó khả năng phát triển
bị hạn chế. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với ngƣời làm công tác nghiên cứu và
giảng dạy trong các trƣờng đại học, học viện, viện nghiên cứu là cần đẩy mạnh
công việc nghiên cứu và giảng dạy triết học phƣơng Tây hiện đại cho ngƣời học,
giúp ngƣời học tiếp thu tinh hoa tƣ tƣởng của ngƣời phƣơng Tây, hạn chế mặt
tiêu cực, nhằm phục vụ có hiệu quả cho quá trình hội nhập quốc tế hiện nay.
4
Thêm vào đó, nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng
Mỹ còn góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận nhận thức của nhân loại
và có thể coi là một cơ sở để chúng ta so sánh, đối chiếu vấn đề này với các trào
lƣu triết học khác. Đồng thời, nó là sự đối chứng, cho phép chúng ta khẳng định
tính đúng đắn, giá trị khoa học của lý luận nhận thức, trong đó có quan niệm về
chân lý của triết học Mác - Lênin.
Từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn “Quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng Mỹ” làm đề tài luận án tiến sĩ chuyên ngành Triết học.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ những điều kiện, tiền đề, nội dung cơ bản của quan niệm về chân
lý trong triết học thực dụng Mỹ (qua các nhà triết học thực dụng là C. Peirce, W.
James và J. Dewey), luận án chỉ ra những giá trị và hạn chế của nó.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện đƣợc mục đích trên, luận án giải quyết những nhiệm vụ sau:
Một là, làm rõ khái niệm triết học thực dụng và vị trí của vấn đề chân lý
trong triết học thực dụng Mỹ; các đại diện tiêu biểu của triết học thực dụng Mỹ.
Hai là, luận giải cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ.
Ba là, phân tích những nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý trong
triết học thực dụng Mỹ.
Bốn là, chỉ ra và luận giải những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân
lý trong triết học thực dụng Mỹ.
3. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án
3.1. Cơ sở lý luận
Đề tài dựa trên cở sở lý luận của triết học Mác - Lênin, cụ thể là những
nguyên lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử.
3.2. Phương pháp nghiên cứu
Đó là hệ thống các nguyên tắc phƣơng pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử nhƣ: nguyên tắc khách quan, nguyên tắc
toàn diện, nguyên tắc lịch sử cụ thể. Trên cơ sở đó, luận án sử dụng các phƣơng
5
pháp nghiên cứu cụ thể nhƣ: phân tích - tổng hợp; lôgíc - lịch sử; diễn dịch - quy
nạp; so sánh, hệ thống hóa; phƣơng pháp văn bản học, v.v…
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận án nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận án làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ với các nhà
triết học tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey.
- Luận án góp phần làm rõ khái niệm triết học thực dụng, cơ sở hình
thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
- Luận án góp phần làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về
chân lý trong triết học thực dụng Mỹ thông qua các đại diện tiêu biểu là C.
Peirce, W. James và J. Dewey.
- Luận án bƣớc đầu đánh giá những giá trị cũng nhƣ hạn chế của quan
niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, trên cơ sở so sánh, đối chiếu
với quan niệm về chân lý trong triết học Mác - Lênin; từ đó có những đánh
giá khách quan để góp phần hiểu đúng về triết học thực dụng Mỹ - một trƣờng
phái triết học có tính chất đặc thù, điển hình cho văn hóa Mỹ và có tác động
sâu rộng đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội nƣớc Mỹ.
5. Đóng góp mới của luận án
6. Ý nghĩa của luận án
- Luận án góp phần nghiên cứu chuyên sâu quan niệm về chân lý của một
trƣờng phái triết học điển hình - triết học thực dụng Mỹ.
- Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy triết học thực dụng nói riêng, triết học Mỹ nói chung; lý luận nhận
thức; về văn hóa Mỹ, v.v… Đồng thời là tài liệu tham khảo cho sinh viên, học
viên cao học chuyên ngành triết học.
7. Kết cấu của luận án
Để đảm bảo mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, ngoài phần mở đầu, kết
luận, danh mục các công trình khoa học của tác giả đã công bố có liên quan đến
6
đề tài luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chƣơng, 12 tiết.
NỘI DUNG
Chƣơng 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đƣợc thành lập vào cuối thế kỷ XVIII, tạo điều
kiện cho sự phát triển của một nền văn hóa đặc thù - nền văn hóa Mỹ. Thế
nhƣng, phải mất hơn một thế kỷ sau, khi triết học thực dụng ra đời vào cuối thế
kỷ XIX, triết học Mỹ mới khẳng định đƣợc vị trí và ảnh hƣởng của mình. Kể từ
đó, triết học thực dụng đã trở thành nét đặc trƣng trong văn hóa Mỹ. Triết học
thực dụng Mỹ ra đời và phát triển gắn liền với tên tuổi của các “triết gia thực
dụng” tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Từ khi xuất hiện đến nay,
đã có nhiều học giả nghiên cứu về triết học thực dụng ở nhiều nội dung, khía
cạnh của trào lƣu triết học này, cũng nhƣ nghiên cứu nội dung tƣ tƣởng của các
triết gia thực dụng.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước
Chủ nghĩa thực dụng thâm nhập vào Việt Nam trong thời kỳ Mỹ -
Ngụy. Giai đoạn này, ở nƣớc ta chịu ảnh hƣởng khá sâu sắc của tƣ tƣởng
chính trị, văn hóa và lối sống Mỹ. Ngoài việc nghiên cứu chủ nghĩa thực dụng
để đáp ứng nhu cầu học thuật, việc nghiên cứu trƣờng phái triết học này còn
nhằm phục vụ cho nhu cầu thực tiễn xã hội, nhất là phục vụ cho mục đích
chính trị nhằm tuyên truyền, cổ vũ cho lối sống Mỹ. Ở miền Bắc, tính đến
trƣớc năm 1986, việc nghiên cứu về triết học thực dụng dƣới góc độ học thuật
còn hết sức hạn chế, các nghiên cứu về triết học thực dụng đƣợc thể hiện hiện
trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây, các nhà nghiên cứu
chủ yếu đều tập trung vào việc phê phán triết học phi mácxít nói chung và
triết học thực dụng nói riêng. Một số công trình tiêu biểu có thể kể đến nhƣ:
Viện Mác - Lênin (1982), “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện tại
7
của nó” trong tác phẩm Triết học và cuộc đấu tranh ý thức hệ; Phạm Minh Lăng
(1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học và THCN, Hà Nội.
Từ sau Đại hội VI (1986) của Đảng Cộng sản Việt Nam, với chủ trƣơng đổi
mới toàn diện đất nƣớc, trong đó có công tác tƣ tƣởng lý luận, đã tạo điều kiện
thuận lợi và động lực mạnh mẽ cho việc nghiên cứu về triết học phƣơng Tây ngoài
mác-xít nói chung và triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Các công trình nghiên cứu
liên quan trực tiếp và gián tiếp đến chủ nghĩa thực dụng đƣợc thể hiện ở các tài
liệu là sách, các bài báo khoa học, các luận án, luận văn tiêu biểu nhƣ:
Ấn phẩm dưới dạng sách, tài liệu chuyên khảo:
Thời kỳ này, ở nƣớc ta phải kể đến các tác giả nhƣ: Đỗ Minh Hợp (1997),
Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Nguyễn Ngọc
Long (1998), Triết học phương Tây hiện đại ngoài mácxít và ảnh hưởng của nó
đến Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Khoa Triết học, Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, trong đó có hai bài viết về chủ nghĩa thực dụng
là: “Chủ nghĩa thực dụng và ảnh hưởng của nó đến xã hội Việt Nam” của tác giả
Đào Hữu Hải và “Quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng” của tác giả
Trần Thành; Phạm Minh Lăng (2001), Những chủ đề cơ bản của triết học
phương Tây, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
Gần đây, có nhiều nhà nghiên cứu về chủ nghĩa thực dụng, với sự xuất
hiện của nhiều công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện đại nhƣ: Bùi
Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng với các tác phẩm: Lược khảo triết học phương
Tây hiện đại (2003), Nxb Chính trị Quốc gia; Lịch sử triết học phương Tây hiện
đại (2005), Nxb Tổng hợp TP Hồ Chí Minh và Triết học Mỹ (2006), Nxb Tổng
hợp TP Hồ Chí Minh; Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo của triết học phương Tây
hiện đại, Nxb Hà Nội; Mai Sơn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức; Trƣờng Đại
học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội (2007), Những
vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, trong đó
có một số bài viết về chủ nghĩa thực dụng và đánh giá về ảnh hƣởng của chủ
nghĩa thực dụng đến Việt Nam nhƣ “Chủ nghĩa thực dụng” của tác giả Nguyễn
Hùng Hậu; “Chủ nghĩa thực dụng Mỹ - Những tìm hiểu bước đầu” của tác giả
8
Trần Văn Phòng; “Sự ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng ở Việt Nam” của tác
giả Đặng Quang Định; “Bàn về lối sống thực dụng và lối sống xã hội chủ nghĩa”
của tác giả Trần Sĩ Phán; Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ
thế kỷ XX, Nxb Văn học; Đỗ Minh Hợp, Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại cương
triết học phương Tây hiện đại (nửa sau thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX), Nxb
Tổng hợp TP Hồ Chí Minh; Đỗ Kiên Trung (2010), Triết học tân thực dụng,
Nxb Tri thức; Lƣơng Văn Kế (2011), Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Nxb
Giáo dục Việt Nam; Nguyễn Thái Yên Hƣơng, Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn
đề nghiên cứu về Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt Nam; Trịnh Sơn Hoan (2012),
William James và chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Nxb Chính trị Quốc gia,v.v…
Có thể thấy trong những năm gần đây, đã xuất hiện nhiều hơn các công
trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện đại nói chung và triết học thực
dụng Mỹ nói riêng. Tuy nhiên, nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ ở nƣớc ta
còn chƣa nhiều, chƣa mang tính hệ thống, có rất ít công trình nghiên cứu chuyên
biệt về triết học thực dụng. Trong số đó, chúng ta thấy tập trung vào một số nhà
nghiên cứu nhƣ Bùi Đăng Duy, Nguyễn Tiến Dũng, Đỗ Minh Hợp. Trong các
công trình này, tiêu biểu nhƣ cuốn Triết học Mỹ, có thể nói đây là công trình đầu
tiên ở Việt Nam nghiên cứu toàn diện về triết học Mỹ. Các tác giả đã trình bày từ
điều kiện ra đời, các trƣờng phái triết học Mỹ, trong đó triết học thực dụng đƣợc
dành dung lƣợng trình bày nhiều nhất. Công trình này giúp chúng ta có đƣợc cái
nhìn tƣơng đối toàn diện về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói
riêng. Ba nhà triết học thực dụng tiêu biểu đƣợc nghiên cứu phân tích. Trong đó,
C. Peirce đƣợc khẳng định là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng, W. James là
ngƣời mở rộng ảnh hƣởng của chủ nghĩa thực dụng và J. Dewey đã đƣa chủ nghĩa
thực dụng vào đời sống thực tiễn. Thành công của tác giả là đã giúp ngƣời đọc có
cái nhìn bao quát về triết học Mỹ nói chung và triết học thực dụng nói riêng. Tuy
nhiên, đây là một cuốn sách với nội dung viết về triết học Mỹ là rất rộng, nên sẽ là
rất khó để phân tích sâu sắc về trƣờng phái triết học thực dụng và các nhà triết học
thực dụng Mỹ, điều này cần phải đƣợc tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ.
Gần đây, ở nƣớc ta, việc nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ tiếp tục
9
thu hút đƣợc sự quan tâm của một số nhà nghiên cứu. Một số công trình tiêu biểu
nhƣ: Triết học tân thực dụng của Đỗ Kiên Trung (2010); William James và chủ
nghĩa thực dụng Mỹ của Trịnh Sơn Hoan (2012). Ở các công trình này, các tác
giả đã khái quát về quá trình hình thành, các đại diện tiêu biểu, đặc điểm cơ bản
của chủ nghĩa thực dụng và một số ảnh hƣởng của trào lƣu triết học này đối với
nƣớc ta. Trong cuốn “Triết học tân thực dụng”, tác giả đã bàn đến một vấn đề
mới trong dòng chảy của triết học thực dụng, đó là các nhà triết học tân thực
dụng. Cuốn sách đƣợc kết cấu thành hai phần, một phần bàn về những điều kiện,
tiền đề cho sự hình thành chủ nghĩa thực dụng, những đặc điểm cơ bản của nó
thông qua ba nhà triết học tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Trên cơ
sở đó, tác giả hƣớng đến mục đích là chỉ ra dòng chảy của triết học thực dụng
thông qua sự phát triển của các nhà triết học tân thực dụng, từ đó khái quát
những đặc điểm, nội dung mới của triết học tân thực dụng. Có thể nói, đóng góp
cơ bản của tác giả ở công trình này là bƣớc đầu chỉ ra sự phát triển của triết học
thực dụng thông qua các nhà triết học tân thực dụng. Công trình William James
và chủ nghĩa thực dụng Mỹ của Trịnh Sơn Hoan đƣợc xem là một trong những
công trình nghiên cứu mới nhất về chủ nghĩa thực dụng ở nƣớc ta. Cuốn sách thể
hiện sự cố gắng của tác giả trong việc giới thiệu về chủ nghĩa thực dụng và tƣ
tƣởng triết học thực dụng của W. James. Tác giả đã mạnh dạn đƣa ra một số
nhận định mang tính khách quan về trƣờng phái triết học này. Tuy nhiên, với
tiêu đề của công trình, tác giả đã dành phần lớn dung lƣợng trình bày về nội
dung tƣ tƣởng triết học thực dụng của W.James mà chƣa thể trình bày một cách
hệ thống về các nhà triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ vấn đề chân lý.
Ấn phẩm là các bài viết đăng trên các tạp chí chuyên ngành:
Ngoài những công trình, tài liệu trên, ở nƣớc ta đã xuất hiện một số bài
viết của các tác giả có tên tuổi đăng trên các tạp chí chuyên ngành đề cập khái
quát về chủ nghĩa thực dụng và các đại diện tiêu biểu của nó nhƣ: Phong Hiền
(1972), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện đại của nó trong
“Thông báo Triết học số 23”; Trần Tuấn Phong (1996), Về khái niệm “kinh
nghiệm” trong hệ thống triết học của William James, Tạp chí Triết học, số 2; Đỗ
10
Minh Hợp (1996), Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện đại,
Tạp chí Triết học, số 1; Nguyễn Hào Hải (1997), Chủ nghĩa thực dụng qua một
số đại biểu của nó, Tạp chí Triết học số 4 (98); Nguyễn Tiến Dũng (1997), Chủ
nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, số 1 và Một số khía cạnh về
văn hóa và con người trong triết học phương Tây hiện đại (1999), Tạp chí Triết
học, số 1; Nguyễn Văn Dũng (1999), William James với quan niệm về đạo đức,
Tạp chí Triết học, số 3; Nguyễn Tiến Dũng (2002), Triết học Mỹ với việc thiết
lập nền tảng cho khoa học, Tạp chí Triết học, số 2; Trịnh Sơn Hoan (2008), Vài
nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà
Nẵng, số 5 và Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ (2012), Tạp
chí Triết học, số 6 (253); Trần Sĩ Phán (2012), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng
đến lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị, số 3, v.v…
Trong bài viết Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, tác giả Nguyễn Tiến Dũng đã
làm rõ điều kiện hình thành của chủ nghĩa thực dụng, một số nội dung chủ yếu
và giá trị cơ bản của chủ nghĩa thực dụng, nhƣ lý luận về kinh nghiệm, vấn đề
niềm tin, vấn đề ý nghĩa, những kiến giải về đạo đức, tôn giáo và chính trị, xã
hội. Từ đó, tác giả bàn tới sự xâm nhập của chủ nghĩa thực dụng vào Việt Nam.
Nội dung của bài báo đề cập là rất phong phú, nhƣng để làm rõ những nội dung
cũng nhƣ giá trị của chủ nghĩa thực dụng trong khuôn khổ của một bài báo là rất
khó. Mặc dù vậy, đó là tƣ liệu tham khảo giúp chúng ta có cái nhìn khái quát về
triết học thực dụng, để tiếp tục nghiên cứu sâu hơn những nội dung của trƣờng
phái triết học này.
Bài viết Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng Mỹ, tác giả
Trịnh Sơn Hoan đã trình bày một số nội dung cơ bản của chủ nghĩa thực dụng
nhƣ vấn đề kinh nghiệm, niềm tin và hiệu quả trong thực tiễn, phân biệt hai khái
niệm thực dụng thƣờng ngày và thực dụng trong chủ nghĩa thực dụng…, từ đó đi
đến những đánh giá về chủ nghĩa thực dụng.
Nhƣ vậy, các bài viết trên đã đề cập một cách khái quát về điều kiện, tiền
đề, quá trình hình thành, nội dung, đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa thực dụng và
tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Tuy nhiên, trong khuôn khổ những
11
bài viết về chủ nghĩa thực dụng còn dừng ở mức độ giới thiệu và những nhận
định cần đƣợc luận chứng thêm, nhất là việc làm rõ những cơ sở hình thành quan
niệm về chân lý và nội dung của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng
Mỹ. Đây là nội dung tác giả sẽ tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
Ở cấp độ luận văn, luận án:
Ở cấp độ luận án, luận văn có những công trình nghiên cứu về chủ nghĩa
thực dụng Mỹ nhƣ: Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực
dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội; Trần Hải Yến (2003), Chủ
nghĩa thực dụng Mỹ và sự biểu hiện của nó ở Việt Nam; Trần Thị Hoa (2006),
Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey; Phan Thị Thùy Dƣơng (2009), Quan
niệm của William James về chân lý; Phan Văn Thám (2011), Vấn đề kinh nghiệm
trong chủ nghĩa thực dụng Mỹ; Nguyễn Hải Hoàng (2015), Vấn đề niềm tin
trong triết học thực dụng của Peirce; Trịnh Sơn Hoan (2015), Vấn đề nhân sinh
trong triết học Mỹ... Các tác giả đã khai thác trên nhiều phƣơng diện của chủ
nghĩa thực dụng. Tiêu biểu là luận án của tác giả Nguyễn Hải Hoàng khai thác
vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng của C. Peirce. Để đi đến quan niệm về
niềm tin của Peirce, tác giả đã phân tích điều kiện, tiền đề hình thành quan niệm
về niềm tin thực dụng. Thành công của tác giả là đã luận giải đƣợc nội dung cơ
bản của quan niệm về niềm tin trong triết học thực dụng của Peirce, từ đó chỉ ra
đƣợc những giá trị, hạn chế và ảnh hƣởng nó. Đây là cơ sở quan trọng để tác giả
luận án tiếp tục tìm hiểu mối liên hệ giữa “niềm tin thực dụng” với vấn đề chân
lý trong triết học thực dụng của Peirce. Trong khi đó, luận án của tác giả Trịnh
Sơn Hoan nghiên cứu về vấn đề nhân sinh thông qua các trƣờng phái triết học
Mỹ, trong đó có triết học thực dụng. Thành công của luận án là đã đƣa ra bức
tranh khái quát về triết học nhân sinh Mỹ thông qua các trƣờng phái triết học,
đây là những tƣ liệu tham khảo để tác giả tiếp tục đi sâu tìm hiểu về triết học thực
dụng nói chung và quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này nói riêng.
1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài
Mặc dù triết học thực dụng là trào lƣu có ảnh hƣởng lớn trong đời sống xã
hội nhƣng chƣa đƣợc giới nghiên cứu quan tâm một cách tƣơng xứng. Chúng ta
12
thấy không có nhiều công trình nghiên cứu về triết học thực dụng, có thể điểm
một số công trình nhƣ: Konvitz M.R., Kennedy G. (1960), The Amercan
Pragmatists, The Publishing Company perss, New York; Thayer H.S. (1968),
Meaning and Action A Critical History of Pragmatism, The Bobbs - Merrill
Company press, New York; White M. (1978), The Philosophy of the American
Revolution, Oxford Universty press, New York. Trong các công trình nghiên cứu
trên, các tác giả đã phân tích sự hình thành, phát triển của chủ nghĩa thực dụng
Mỹ, các nhà triết học thực dụng tiêu biểu, những đặc điểm và ảnh hƣởng của
trƣờng phái triết học này. Qua đó, các tác giả nhấn mạnh nhân tố thực tiễn trong
triết học thực dụng, triết học thực dụng với tƣ cách là nguyên tắc phƣơng pháp
luận nhận thức của triết học. Thông qua các công trình nghiên cứu của các tác
giả, những nội dung của triết học thực dụng phần nào đƣợc đề cập và đƣợc làm
sáng tỏ. Tuy nhiên, có thể thấy, tất cả những công trình nghiên cứu đó chƣa phân
tích đƣợc một cách sâu sắc điều kiện thực tiễn và những tiền đề lý luận cho sự
xuất hiện của triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng nói riêng.
Ở các nƣớc trong hệ thống xã hội chủ nghĩa trƣớc kia và Việt Nam thời kỳ
trƣớc đổi mới (năm 1986), việc nghiên cứu về triết học phƣơng Tây nói chung,
nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ nói riêng nhằm mục đích phê phán là chủ
yếu. Trong thời kỳ này xuất hiện một số tác phầm dịch từ tài liệu của các nhà
nghiên cứu Liên Xô cũ tiêu biểu nhƣ: J.K. Melvil (1959), Phê phán chủ nghĩa
thực dụng, Nxb Sự thật, Hà Nội. Tác giả Melvil đã đứng trên lập trƣờng giai cấp
để phê phán những mặt phản tiến bộ và ảnh hƣởng tiêu cực của chủ nghĩa thực
dụng do các thế lực phản động lợi dụng chủ nghĩa thực dụng, núp dƣới những
chiêu bài chính trị để bảo vệ lợi ích của giai cấp tƣ sản. Cuốn sách đề cập đến
nhiều nội dung của chủ nghĩa thực dụng. Tuy nhiên, do chịu ảnh hƣởng của ý thức
hệ và nhãn quan chính trị đã dẫn tới hạn chế, phiến diện khi đánh giá về chủ nghĩa
thực dụng là một trƣờng phái triết học tầm thƣờng, duy tâm, phản động.
Trong bối cảnh mở rộng hợp tác quốc tế, nhất là sau khi bình thƣờng hóa
quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, đồng thời xuất phát từ nhu cầu thực tiễn (sau một
13
thời gian dài chúng ta ít bàn về văn hóa Mỹ nói chung và triết học Mỹ nói riêng)
đã xuất hiện nhiều hơn các tài liệu đƣợc dịch và xuất bản tại Việt Nam liên quan
đến chủ nghĩa thực dụng nhƣ: Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây
hiện đại, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia; Lƣu Phóng Đồng (2004), Giáo trình
hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà
Nội; Viện Triết học (1996), Triết học phương Tây hiện đại từ điển; J.K.Melvil
(1997), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục;
W.S.Sahakan (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ đại, Nxb Thành phố Hồ Chí
Minh; R.B.Downs (2003), Những tác phẩm làm biến đổi thế giới, Nxb Lao động,
Hà Nội; Bryan Magee (2003), Câu chuyện triết học, Nxb Thống kê; Vƣơng
Ngọc Bình (2004), Uyliam Giêmxơ, Nxb Thuận Hóa; M.J.Adler (2004), Những
tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội;
S.E.Stumpf và D.C.Abel (2004), Nhập môn triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh; D.E.Cooper (2005), Các trường phái triết học trên thế
giới, NXb Văn hóa thông tin; Ted Honderich (2006), Hành trình cùng triết học,
Nxb Văn hóa thông tin; Jean Wall (2006), Lược sử triết học phương Tây, Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh; S.E.Stumpf (2007), Lịch sử triết học và các
luận đề, Nxb Lao động; Alexis De Tocqueville (2008), Nền dân trị Mỹ, Nxb Tri
thức, Hà Nội; Stuart Brown, Diane Collinson, Robert Wilkinson (2010), 100
triết gia tiêu biểu thế kỷ XX, Nxb Lao động; Bernard Morichere và nhóm giáo sƣ
triết học các trƣờng đại học Pháp (2010), Triết học Tây phương từ khởi thủy đến
đương đại, Nxb Văn hóa thông tin; Max Weber (2010), Nền đạo đức tin lành và
tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb Tri thức; Peter Jenning - Todd Brewster (2010),
Nghiên cứu về nước Mỹ, Nxb Thời đại; Remo Bodei (2011), Triết học thế kỷ XX,
Nxb Thời đại; Catherine L.Albanese (2012), Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ,
Nxb Thời đại; William F.Lawhead (2012), Hành trình khám phá thế giới triết
học phương Tây, Nxb Từ điển Bách khoa.
Trong các công trình của các tác giả nƣớc ngoài đƣợc dịch ra tiếng Việt
phải kể đến cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại của
J.K.Melvil đƣợc hai tác giả Đinh Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch, Nxb
14
Giáo dục (1997); tác giả Lƣu Phóng Đồng với cuốn Triết học phương Tây hiện
đại, tập 2 (1994). Có thể nói, đây là những tác phẩm nƣớc ngoài đƣợc dịch sớm
nhất ở Việt Nam, trở thành tài liệu quan trọng hàng đầu để nghiên cứu về triết
học thực dụng Mỹ, thậm chí chúng ta chủ yếu biết đến triết học thực dụng thông
qua những cuốn sách này. Những công trình này đã ảnh hƣởng rất nhiều đến giới
nghiên cứu nƣớc nhà trong việc đánh giá về trƣờng phái triết học này. Cuốn Các
con đường của triết học phương Tây hiện đại, khi dành mục II, phần 1 nói về
chủ nghĩa thực dụng, tác giả đã có cái nhìn khách quan hơn về chủ nghĩa thực
dụng. Điểm mạnh của cuốn sách là đã nhấn mạnh những nội dung cốt lõi của
triết học thực dụng thông qua những đại biểu của trƣờng phái triết học này là C.
Peirce, W. James và J. Dewey, song tác giả vẫn chƣa làm rõ đƣợc những nội
dung cơ bản của triết học thực dụng, nhất là vấn đề chân lý.
Có thể thấy, trong những công trình dịch ra tiếng Việt, thì cuốn Triết học
phương Tây hiện đại, tập 2 (1994) của tác giả Lƣu Phóng Đồng có nội dung
tƣơng đối toàn diện về chủ nghĩa thực dụng, tác giả dành chƣơng 7 nói về điều
kiện ra đời, nội dung của triết học thực dụng thông qua các đại biểu tiêu biểu là
C. Peirce, W. James và J. Dewey. Mặc dù vậy, cuốn sách chƣa chỉ ra đƣợc
những nội dung đặc trƣng của trƣờng phái triết học này. Sau đó, cuốn sách đƣợc
tác giả tái bản, bổ sung với tên gọi Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học
phương Tây hiện đại (2004). Công trình gồm 20 chƣơng, toàn bộ chƣơng 7 phân
tích về sự ra đời, phát triển và ảnh hƣởng của triết học thực dụng thông qua ba
nhà triết học tiêu biểu là Peirce, James và Dewey. Hai cuốn sách của cùng một
tác giả, có sự chỉnh lý, bổ sung và đƣợc dịch ra tiếng Việt, đƣợc viết với tinh
thần tƣơng đối khách quan, khoa học. Đây là những tài liệu quan trọng để chúng
ta đi vào nghiên cứu triết học phƣơng Tây nói chung và nghiên cứu về triết học
thực dụng Mỹ nói riêng; Công trình Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển
(đƣợc hai tác giả Đặng Hữu Toàn, Đỗ Minh Hợp dịch năm 1996), đã dành một
số mục trình bày về chủ nghĩa thực dụng cũng nhƣ các nhà triết học thực dụng.
Có thể nói đây là công trình có giá trị về trƣờng phái triết học này, tuy nhiên, kết
quả của công trình này chƣa giúp chúng ta có cái nhìn một cách hệ thống về
15
trƣờng phái triết học này; Cuốn Uyliam Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình (Quang
Lâm dịch, Trung tâm Văn hóa - Ngôn ngữ Đông Tây phát hành năm 2004), tác
giả dành toàn bộ nội dung để nói về quá trình hình thành, phát triển tƣ tƣởng triết
học của W. James - nhà triết học thực dụng tiêu biểu và có tầm ảnh hƣởng lớn
nhất nƣớc Mỹ. Tài liệu này là cơ sở để chúng ta nghiên cứu về triết học thực
dụng Mỹ, thông qua triết gia James. Tác giả đã phân tích hết sức chi tiết điều
kiện cho sự ra đời, quá trình phát triển tƣ tƣởng triết học, trong đó, đặc biệt nhấn
mạnh về tƣ tƣởng triết học thực dụng của James, thông qua sự kế thừa và phát
triển tƣ tƣởng triết học của Peirce; cuốn Lịch sử triết học và các luận đề của tác
giả Samuel Enoch Stumpe (Đỗ Văn Thuấn, Lƣu Văn Hy dịch, năm 2004), dành
mục 20 chƣơng 4 để bàn về chủ nghĩa thực dụng, ƣu điểm thấy rõ trong cuốn
sách này là tác giả đã dịch nguyên bản tác phẩm gốc của những nhà sáng lập triết
học thực dụng trong phần các luận đề triết học. Tuy nhiên, những nội dung của
triết học thực dụng chƣa đƣợc phân tích một cách sâu sắc và hệ thống. Cuốn
Nhập môn triết học phương Tây của tác giả Samuel Enoch Stumpe và Donald
C.Abel (Lƣu Văn Hy biên dịch và đƣợc xuất bản năm 2004), kết quả của công
trình này thể hiện sự trình bày hệ thống các chủ đề triết học, đƣợc chứng minh
bằng những tác phẩm gốc của các nhà triết học, trong đó chƣơng 5, chƣơng 9 và
chƣơng 15, tác giả bàn về triết học thực dụng của W. James, nhƣng hạn chế của
nó là không trình bày đƣợc nội dung của các trƣờng phái triết học, trong đó có
triết học thực dụng; Cuốn Hành trình cùng triết học của tác giả Ted Honderich
đƣợc viết dƣới dạng từ điển. Những nội dung của triết học thực dụng đƣợc trình
bày thông qua các nhà triết học thực dụng, nên việc nắm bắt và khái quát những
nội dung của trƣờng phái triết học này thành hệ thống là rất khó khăn. Nhƣng
đây cũng là một cuốn sách có nhiều nội dung phong phú giúp ích cho việc
nghiên cứu về triết học thực dụng; Tác phẩm 100 triết gia tiêu biểu thế kỷ XX
của tập thể tác giả Stuart Brown, Diane Collinson, Robert Wilkinson đã dành
một dung lƣợng ngắn để trình bày một cách khái quát dƣới dạng tiểu sử về các
nhà triết học thực dụng C. Peirce (tr. 304 - 308), W. James (tr. 188 - 193) và J.
Dewey (tr. 84 - 89). Với tài liệu này, chúng ta có thêm tƣ liệu để tìm hiểu về triết
16
học thực dụng; Cuốn Hành trình khám phá thế giới triết học phương Tây của tác
giả William F.Lawhead (Phạm Phi Hoành biên dịch, xuất bản năm 2012), đƣợc
trình bày theo tiến trình phát triển của lịch sử triết học từ thời cổ đại đến thời kỳ
đƣơng đại, trong đó tác giả dành chƣơng 30 phần 4 bàn về “Chủ nghĩa thực
dụng: Thống nhất tư tưởng và hành động”. Từ việc giới thiệu căn nguyên của
chủ nghĩa thực dụng, tác giả đi đến phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản
của các nhà triết học thực dụng là Peirce, James và Dewey.
Các tác phẩm nhƣ Nền dân trị Mỹ của Alexis De Tocqueville; Nền đạo
đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản của Max Weber; Nghiên cứu về nước
Mỹ của các tác giả là Peter Jenning, - Todd Brewster; Các tôn giáo và tín
ngưỡng ở Mỹ của Catherine L.Albanese giúp chúng ta có cơ sở để lý giải điều
kiện hình thành, những ảnh hƣởng của triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ quan
niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này.
Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu trên, dƣới những góc độ
tiếp cận khác nhau, có thể thấy, những nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết
quả sau:
Thứ nhất, khái quát về quá trình ra đời, sự phát triển của triết học thực
dụng Mỹ.
Thứ hai, phân tích một cách khái quát điều kiện, tiền đề ra đời triết học
thực dụng Mỹ.
Thứ ba, phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của các nhà triết học
thực dụng Mỹ.
Thứ tư, hầu hết các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng triết học thực
dụng là một trào lƣu triết học duy tâm chủ quan, gắn với lập trƣờng của giai cấp
tƣ sản.
Thứ năm, về cơ bản, các tác giả đều cho rằng điểm đặc sắc của triết học
thực dụng là nhấn mạnh kinh nghiệm, hiệu quả trong nhận thức và hành động,
coi đây là tiêu chuẩn của chân lý. Từ đó, khẳng định triết học thực dụng đã tuyệt
đối hóa lợi ích cá nhân, chạy theo lợi ích vật chất bất chấp mục đích.
Tuy nhiên, ở mỗi công trình nghiên cứu, tùy vào góc độ nghiên cứu mà
các tác giả nhấn mạnh nội dung nào đó của triết học thực dụng, do đó việc
17
nghiên cứu còn thiếu tính hệ thống, khách quan, toàn diện về triết học thực dụng
Mỹ, nhất là quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Mặc dù vậy,
những kết quả nghiên cứu trên là cơ sở quan trọng để tác giả lý giải khái niệm về
triết học thực dụng Mỹ; về cơ sở hình thành quan niệm về chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ. Đó là vấn đề tác giả sẽ giải quyết trong chƣơng 2 của luận án,
trên cơ sở đó giải quyết những nhiệm vụ trọng tâm đặt ra trong chƣơng 3 và
chƣơng 4 của luận án là làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về chân lý
trong triết học thực dụng Mỹ và chỉ ra những giá trị và hạn chế của quan niệm này.
1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về vấn đề chân lý trong
triết học thực dụng Mỹ
Cách tiếp cận chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cho thấy đây là quan
niệm hết sức mới mẻ, độc đáo, phản ánh đời sống xã hội và con ngƣời Mỹ. Điều
đó lý giải vì sao triết học thực dụng lại có sức ảnh hƣởng lớn đến sự phát triển
của nƣớc Mỹ. Một xã hội hữu dụng, chú trọng hiệu quả thực tế và mỗi con ngƣời
hữu dụng trong từng hành động của mình đã góp phần tạo nên một xã hội năng
độc lập về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng hầu nhƣ chƣa có, chỉ tìm thấy
một số quan điểm thiếu tính hệ thống về vấn đề chân lý trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây nói chung và triết học thực dụng nói riêng.
Chúng ta có thể thấy các công trình nghiên cứu độc lập về vấn đề chân lý trong
triết học thực dụng hầu nhƣ chƣa có, chỉ tìm thấy một số quan điểm thiếu tính hệ
thống trong các công trình nghiên cứu về triết học phƣơng Tây nói chung và triết
học thực dụng nói riêng.
động, hiệu quả và thành công. Chúng ta có thể thấy các công trình nghiên cứu
1.2.1. Về khái niệm chân lý
Bàn về khái niệm chân lý, có thể kể đến một số tác giả và công trình tiêu
biểu ở trong nƣớc và nƣớc ngoài.
Ở nƣớc ta xuất hiện các công trình nghiên cứu của một số tác giả nhƣ:
Cuốn Lịch sử triết học phương Tây hiện đại (2005) và Triết học Mỹ (2006) của
hai tác giả Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng. Các tác giả có cách triển khai
vấn đề khá mới lạ, phù hợp với tƣ duy phƣơng Tây. Trong quan niệm về chân lý,
18
các tác giả đã khái quát một định nghĩa về chân lý của J.Dewey: “Chân lý là ý
tƣởng hay giả thiết đã đƣợc kiểm chứng (Verified), có tác dụng (Working) hay
hữu hiệu vì đem lại thỏa mãn (Satisfactory)” [31, tr.133]. Mặc dù vậy, các nghiên
cứu trên chƣa chỉ ra đƣợc hệ thống những luận điểm về khái niệm chân lý.
Một số bài viết của các tác giả có tên tuổi đăng trên các tạp chí chuyên ngành
đề cập khái quát về chủ nghĩa thực dụng và các đại biểu tiêu biểu nhƣ “Chủ nghĩa
thực dụng Mỹ và một số biểu hiện hiện đại của nó” của tác giả Phong Hiền trong
“Thông báo Triết học số 23”, 1972; bài viết “Chủ nghĩa thực dụng qua một số đại
biểu của nó” của tác giả Nguyễn Hào Hải, trong Tạp chí Triết học số 4 (98),
1997,… Các bài viết này đề cập một cách khái quát về chủ nghĩa thực dụng, hầu
nhƣ rất ít đề cập đến vấn đề chân lý trong triết học thực dụng.
Một số luận án tiến sỹ, luận văn thạc sỹ lấy chủ nghĩa thực dụng làm đề
tài nghiên cứu của mình, nhƣ luận án tiến sỹ Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực
dụng đến nhân cách người cán bộ hậu cần quân đội (2004). Trong luận án, tác
giả Nguyễn Ngọc Ba bàn nhiều đến nội dung của chủ nghĩa thực dụng, từ đó chỉ
ra ảnh hƣởng của nó đến nhân cách ngƣời cán bộ hậu cần, tuy nhiên nếu làm rõ
đƣợc quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng, tác giả sẽ thấy đƣợc rõ hơn
những ảnh hƣởng tích cực của chủ nghĩa thực dụng.
Luận văn Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey của Trần Thị Hoa (2006),
tác giả khai thác nội dung triết học thực dụng của J. Dewey. Thành công của tác
giả là đã chỉ ra đƣợc những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng thực dụng của Dewey,
từ đó khẳng định tầm ảnh hƣởng to lớn của triết học thực dụng Dewey đối với xã
hội Mỹ. Tuy vậy, nếu làm rõ quan điểm nền tảng của triết học thực dụng về khái
niệm chân lý - chân lý chính là công cụ hữu dụng giúp con ngƣời đạt đến thành
công, luận văn sẽ thành công hơn khi viết về chủ nghĩa thực dụng của Dewey.
Luận văn Quan niệm của William James về chân lý (2009) của tác giả
Phan Thị Thùy Dƣơng. Đây là luận văn đầu tiên bàn về khái niệm chân lý của
một nhà triết học tiêu biểu nhất trong triết học thực dụng Mỹ. Điều mà tác giả đã
làm đƣợc là xây dựng hệ thống các luận điểm về vấn đề chân lý trong triết học
của W.James, đồng thời đƣa ra khái niệm chân lý hết sức điển hình của triết học
19
thực dụng Mỹ khi khẳng định James đồng nhất chân lý với tính hữu dụng. Tuy
nhiên, nếu chỉ bàn quan niệm về chân lý của James để khẳng định đó là quan
niệm của triết học thực dụng Mỹ về chân lý sẽ là phiến diện. Vì vậy, nghiên cứu
quá trình hình thành phát triển của khái niệm chân lý qua các nhà triết học thực
dụng Mỹ là vấn đề cần phải tiếp tục làm rõ, để đảm bảo tính hệ thống và toàn
diện về khái niệm chân lý của trƣờng phái triết học này.
Luận án tiến sỹ Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng của Peirce
(2015) của Nguyễn Hải Hoàng. Tác giả nghiên cứu, luận giải sâu về vấn đề niềm
tin trong triết học thực dụng của Peirce - ngƣời sáng lập triết học thực dụng Mỹ.
Tác giả cũng thấy đƣợc mối liên hệ giữa vấn đề niềm tin và vấn đề chân lý trong
triết học thực dụng của Peirce. Đây là tƣ liệu cần thiết để tác giả luận án tiếp tục
làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ..
Trong bối cảnh những tài liệu nghiên cứu về triết học phƣơng Tây hiện
đại nói chung và triết học thực dụng nói riêng còn rất hạn chế, chỉ có một số sách
nguyên bản hoặc sách dịch, là một khó khăn lớn cho ngƣời nghiên cứu về vấn đề
này. Trong những tác giả nƣớc ngoài nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng Mỹ phải kể đến tác giả Lƣu Phóng Đồng. Các tài liệu này đã đƣợc
dịch ra tiếng Việt nhƣ: cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị
quốc gia, năm 1994), trong đó quan niệm về chân lý đƣợc tác giả bàn đến ở một
số nội dung khái quát nhất. Tác giả trình bày nguyên lý thực dụng của C. Peirce
làm nền tảng cho quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Hay quan niệm
của J. Dewey khi đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ. Mặc dù quan niệm về
chân lý chƣa đƣợc tác giả nghiên cứu một cách tƣơng xứng, nhƣng đây là những
tƣ liệu quan trọng để tác giả luận án tiếp tục làm rõ quan niệm về chân lý trong
triết học thực dụng Mỹ.
Cuốn Giáo trình hướng tới thế kỷ XXI - Triết học phương Tây hiện đại
(Nxb Lý luận Chính trị, năm 2001) của tác giả Lƣu Phóng Đồng là một trong
những công trình quan trọng nghiên cứu triết học phƣơng Tây nói chung và
nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ nói riêng. Mặc dù vấn đề chân lý mới chỉ
đƣợc bàn đến thông qua tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng mà chƣa trở
20
thành một nội dung cơ bản xuyên suốt của triết học thực dụng, nhƣng quan niệm
về chân lý bƣớc đầu đã đƣợc chỉ ra ở một số nội dung cơ bản. Chẳng hạn, quan
niệm của C. Peirce coi mục đích của nhận thức chân lý là đạt tới niềm tin; W.
James quan niệm chân lý lấy kinh nghiệm làm căn cứ tồn tại, đồng nhất chân lý
với tính hữu dụng trở thành đặc trƣng cơ bản trong quan niệm về chân lý của
triết học thực dụng.
Cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (1997) của J.K.
Melvil, khi phân tích quan niệm của từng nhà triết học thực dụng Mỹ, từ C.
Peirce, W. James đến J. Dewey, tác giả giúp ngƣời đọc hình dung ra tƣ tƣởng
chủ đạo của triết học thực dụng Mỹ. Trong đó, vấn đề chân lý đƣợc bàn đến
thông qua nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Khi trình bày
về “nguyên lý thực dụng”, Peirce đã đƣa ra một quan niệm điển hình về chân lý
thực dụng. James khẳng định: Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân
lý, cái đó tất phải hữu dụng. Dewey thay thuật ngữ “chân lý” bằng diễn đạt “sự
khẳng định có cơ sở”. Tuy nhiên, khái niệm chân lý trong công trình này mới chỉ
đƣợc đề cập một cách sơ lƣợc thông qua nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học
thực dụng.
Cuốn Lịch sử triết học và các luận đề của S.E. Stumpe, tác giả chỉ dành
một nội dung nhỏ nói về lý thuyết chân lý của W. James, nên quan niệm về chân
lý đƣợc trình bày là không nhiều. Tác giả có thể tham khảo một số tƣ liệu đƣợc
dịch từ các tác phẩm của các nhà triết học thực dụng Mỹ, phục vụ cho quá trình
nghiên cứu quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này.
Toàn bộ tƣ tƣởng triết học của W. James đƣợc trình bày trong cuốn
Uylian Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình, đây là cơ sở để chúng ta nghiên cứu về
triết học thực dụng Mỹ thông qua triết gia James. Trong đó, công trình đã nêu ra
quan niệm cơ bản của James về chân lý, chân lý là cái đem lại lợi ích, hiệu quả,
sự thành công cho con ngƣời. Tuy nhiên, quan niệm về chân lý của James chƣa
thể là tất cả quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Đây là tƣ liệu cần thiết
để tác giả tiếp tục khai thác quan niệm về chân lý của các nhà triết học thực dụng
khác là C. Peirce, J. Dewey, từ đó, chỉ ra một cách hệ thống quan niệm về chân
lý trong triết học thực dụng Mỹ.
21
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết quả sau:
Thứ nhất, về phƣơng pháp tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã bàn đến khái
niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học thực dụng Mỹ là C.
Peirce, W. James và J. Dewey.
Thứ hai, các tác giả đều thống nhất cho rằng, triết học thực dụng khẳng
định chân lý là cái đem lại hiệu quả trong hành động của con ngƣời. Đồng nhất
chân lý với hiệu quả là đặc trƣng trong quan niệm về chân lý của triết học thực
dụng Mỹ.
Thứ ba, hầu hết các tác giả đều trình bày khái niệm chân lý của từng nhà
triết học thực dụng Mỹ, chƣa có một công trình nào nghiên cứu về khái niệm
chân lý của hệ thống triết học thực dụng.
Có thể nói, các kết quả nghiên cứu về khái niệm chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ còn tản mạn, chƣa khái quát thành hệ thống, thiếu tính toàn diện.
Vì vậy, cần phải đƣa ra một khái niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ,
trên cơ sở quan niệm của các nhà triết học thực dụng. Đây là một nhiệm vụ cơ
bản tác giả cần giải quyết trong luận án.
1.2.2. Về tiêu chuẩn của chân lý
Các công trình nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng nói
chung là chƣa nhiều, nghiên cứu về tiêu chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng
lại càng ít. Chúng ta có thể kể đến các công trình của các nhà nghiên cứu nhƣ:
Cuốn sách Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 của Lƣu Phóng Đồng, tác
giả nhấn mạnh quan niệm của C. Peirce về tiêu chuẩn của chân lý là “những hệ
quả thực hành có thể xảy ra”, hay những hiệu quả thực tế cấu thành toàn bộ
nghĩa của khái niệm. Theo Peirce: “Người ta cần xác định chân lý của khái niệm
ấy sẽ có được hiệu quả thực tế gì trong quá trình thực hành chúng; và tổng số
những hiệu quả đó sẽ cấu thành toàn bộ nghĩa của khái niệm” [135, T.V, đoạn 9].
Cuốn Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện đại (Nxb
Lý luận Chính trị), Lƣu Phóng Đồng đã chỉ ra sự thống nhất trong quan niệm về
chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ khi coi tính hiệu quả, thành công, có
lợi là tiêu chuẩn của một quan niệm, tƣ tƣởng. Hiệu quả của quan niệm hoặc giả
22
thuyết trở thành thƣớc đo chân lý của quan niệm hoặc giả thuyết đó. J.Dewey đã
phát triển quan niệm về tiêu chuẩn chân lý trong chủ nghĩa công cụ, khi coi chân
lý là công cụ mà tiêu chuẩn của nó là hiệu quả hay không hiệu quả, thành công
hay không thành công.
Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (Đinh
Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch), J.K. Melvil đã dẫn ra quan điểm của
C. Peirce khi đồng nhất chân lý với tính hiệu quả, tiêu chuẩn để phân biệt chân
lý với giả tạo là hành động dựa trên cơ sở, cơ sở đó là những hiệu quả thực tế. Ở
một khía cạnh khác, tác giả lại dẫn ra quan điểm của Peirce về tiêu chuẩn của
chân lý: “Chân lý là ý kiến đạt đƣợc niềm tin tuyệt đối giữa những ngƣời cùng
nghiên cứu một vấn đề. Đối tƣợng đƣợc trình bày trong ý kiến tập thể ấy là hiện
thực” [135, T.V, đoạn 507]. Theo ông, chân lý là cụ thể nên niềm tin nhất quán,
tuyệt đối của các nhà nghiên cứu trong một lĩnh vực nào đó đƣợc coi là tiêu
chuẩn của chân lý trong lĩnh vực đó. W. James đã phát triển quan điểm của C.
Peirce và đi đến khẳng định tính hiệu quả, hữu dụng, thành công là tiêu chuẩn
của chân lý. Đặc trƣng trong thuyết chân lý của James là đồng nhất chân lý với
tính hữu dụng, cái có ích.
Trong cuốn Lịch sử triết học và các luận đề (Đỗ Văn Thuấn và Lƣu Văn
Hy dịch, Nxb Lao động, Hà Nội, 2004), S.E. Stumpf khẳng định quan điểm của
W. James khi lấy hiệu quả làm tiêu chuẩn của chân lý. James trình bày phạm trù
“thực tại”, xem chân lý là sự phù hợp với thực tại, phạm trù “thực tại” và “phù
hợp với thực tại” có ý nghĩa đặc biệt trong lý thuyết chân lý của W.James, nó
đƣợc xem là tiêu chuẩn để phân biệt chân lý và sai lầm.
Vƣơng Ngọc Bình với cuốn Uyliam Giêmxơ là công trình đƣợc tác giả
dành toàn bộ dung lƣợng bàn về nhà triết học thực dụng W. James. Khi bàn về
tiêu chuẩn của chân lý, tác giả đƣa ra cách hiểu của James về phạm trù “thực
tại”, thực tại không phải là hiện thực khách quan với sự sống động của vạn vật
mà là quan hệ tƣơng đối với đời sống tình cảm của cá nhân con ngƣời, mang ý
nghĩa chủ quan.
Trong cuốn 101 triết gia (Nxb Tri thức, năm 2007), tác giả Mai Sơn đã
23
đƣa ra châm ngôn thực dụng của C. Peirce, ở đây ông nói đến tiêu chuẩn về
nghĩa, thực chất cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Tác giả cũng trình bày “thuyết
khả sai” của Peirce, làm cơ sở phƣơng pháp luận của khoa học để nhận thức
chân lý: “Sự hợp lý của phƣơng pháp khoa học không tùy thuộc vào tính chắc
chắn của những kết luận của nó, nhƣng tùy thuộc vào đặc điểm tự hiệu chỉnh của
nó: bằng cách áp dụng liên tục phƣơng pháp này, khoa học có thể phát hiện ra và
hiệu chỉnh những sai lầm của chính nó, và nhờ vậy cuối cùng đi tới khám phá
chân lý” [105, tr. 498]. Peirce dừng lại ở quan điểm nền tảng khi coi hiệu quả
thực tế do khái niệm tạo ra là tiêu chuẩn của chân lý.
Tóm lại, thông qua những nghiên cứu về tiêu chuẩn của chân lý trong triết
học thực dụng Mỹ, các công trình đã đề cập đến những vấn đề sau:
Thứ nhất, quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lý có
sự thống nhất với khái niệm chân lý, đồng nhất chân lý với hiệu quả, cái có ích,
sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn chân lý của triết học thực
dụng Mỹ.
Thứ hai, về cơ bản các nhà triết học thực dụng Mỹ có quan niệm thống
nhất về tiêu chuẩn của chân lý, đồng thời cũng có sự kế thừa, phát triển, C.Peirce
cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý, W. James và J.Dewey khẳng
định tính hiệu quả có ích, sự thành công là tiêu chuẩn của chân lý.
Thứ ba, thông qua quan niệm về tiêu chuẩn của chân lý, các nhà nghiên cứu
đã chỉ ra một số khía cạnh tích cực, thể hiện quan điểm đề cao thực tiễn, coi hiệu
quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý, đồng thời cũng thấy sai lầm của các nhà triết
học thực dụng là đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Chân lý là sự thỏa
mãn cá nhân, giúp con ngƣời đạt đƣợc thành công, do đó, mỗi ngƣời dựa trên mục
đích lợi ích của mình đều có thể theo đuổi tiêu chuẩn chân lý khác nhau.
Tuy nhiên, ở những công trình nghiên cứu trên, vấn đề về tiêu chuẩn của
chân lý vẫn chƣa đƣợc đặt ra thành một nội dung riêng, chúng ta chỉ tìm thấy
trong tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng Mỹ một cách thiếu hệ thống. Do
đó, luận án sẽ tập trung làm sáng tỏ tính hệ thống của quan niệm về tiêu chuẩn
24
của chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
1.2.3. Về phương pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý
Theo quan điểm của chủ nghĩa thực dụng, chân lý là một quá trình không
phải tĩnh tại, cho nên nhận thức chân lý cũng là một quá trình, đó là quá trình
phát sinh, phát triển, đƣợc chứng thực và có hiệu quả trong đời sống thực tiễn.
Các nhà triết học thực dụng đã chỉ ra phƣơng pháp luận nhằm đạt đến chân lý.
Nghiên cứu về phƣơng pháp luận nhận thức chân lý, chúng ta có thể kể đến một
số công trình tiêu biểu.
Trong cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, năm 1994), tác giả đã bàn đến phƣơng pháp của C. Peirce, đó là phƣơng
pháp khoa học để đạt tới niềm tin vững chắc. Peirce đƣa ra bốn phƣơng pháp
trong lịch sử để củng cố niềm tin và cũng là phƣơng pháp để đạt đến chân lý, bao
gồm: phƣơng pháp cố chấp; phƣơng pháp quyền uy; phƣơng pháp tiên nghiệm;
phƣơng pháp khoa học. Trong đó, Peirce khẳng định để niềm tin nhất trí với thực
tế thì các phƣơng pháp cố chấp, phƣơng pháp quyền uy và phƣơng pháp tiên
nghiệm đều không thể đáp ứng đƣợc đòi hỏi này, chỉ có phƣơng pháp khoa học
mới tạo đƣợc sự nhất trí giữa niềm tin và thực tế. Sự nhất trí này đƣợc đảm bảo
bằng chính tri thức khoa học về thế giới, về những sự vật, hiện tƣợng tồn tại
khách quan.
C. Peirce gọi phƣơng pháp củng cố niềm tin đồng thời cũng là phƣơng
pháp để đạt đến chân lý. Ông chủ trƣơng dùng phƣơng pháp khoa học lấy thực
tại làm căn cứ để loại bỏ hoài nghi, coi trọng phƣơng pháp khoa học để củng cố
niềm tin với tính cách là chân lý.
Trong cuốn Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương Tây hiện
đại (Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội, 2004), Lƣu Phóng Đồng chỉ ra quan điểm
của C. Peirce về tính tƣơng đối của chân lý và lý thuyết có thể sai trong phƣơng
pháp khoa học để nhận thức chân lý. Tác giả đƣa ra quan điểm của W. James về
con đƣờng nhận thức chân lý nhƣ một quá trình biện chứng, đƣợc thực tiễn kiểm
nghiệm. Chân lý là một quá trình phát sinh, là một quá trình chứng thực và kiểm
nghiệm tính hiệu quả trong thực tiễn. James đối lập thuyết chân lý của mình với
25
quan niệm của trƣờng phái duy lý, thông qua việc chỉ ra sự đối lập của thuyết
chân lý thực dụng với chủ nghĩa duy lý, ông khẳng định chân lý mang tính cụ
thể, là hữu dụng trong những tình huống cụ thể. Đồng thời, ông nhấn mạnh hạn
chế của chủ nghĩa duy lý là đã trừu tƣợng hóa và tuyệt đối hóa chân lý.
Tác giả Vƣơng Ngọc Bình trong cuốn Uyliam Giêmxơ (Trung tâm Văn hóa
Ngôn ngữ Đông Tây dịch) cũng thống nhất với quan niệm cho rằng, chân lý là một
quá trình, không phải tĩnh tại, bất biến mà mang tính cụ thể, tƣơng đối, đƣợc sinh ra
từ quan niệm: “Tính chân thực của chân lý trên thực tế là một sự kiện hoặc quá
trình, nó chứng thực quá trình bản thân nó, là quá trình chứng thực của nó, tính hữu
hiệu của nó là quá trình làm cho nó sinh ra hiệu quả” [9, tr. 103].
Trong cuốn Lịch sử triết học và các luận đề của S.E. Stumpf (Đỗ Văn
Thuấn và Lƣu Văn Hy dịch, Nxb Lao động, Hà Nội), tác giả cho rằng, chân lý là
quá trình, chân lý do chân lý trƣớc đây tạo nên. Do đó, chân lý tồn tại dựa vào sự
tin tƣởng, tính chân thực đƣợc tạo ra từ tính hiệu quả, tính hiệu quả tạo nên sự
tồn tại của chân lý.
W. James phân tích về sự chứng thực trực tiếp và gián tiếp chân lý. Vì
chân lý tồn tại phần lớn dựa vào niềm tin nên tất cả đều cần có một sự chứng
thực nào đó, nếu không có nó, hệ thống chân lý sẽ sụp đổ giống nhƣ một hệ
thống tài chính mà không đƣợc bảo chứng tiền mặt. Tiếp tục quan điểm của
W.James, J. Dewey phê phán thuyết chân lý của chủ nghĩa duy lý và thuyết phản
ánh của chủ nghĩa duy vật siêu hình.
Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đại (Đinh
Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch, Nxb Giáo dục), J.K. Melvil đã phân
tích quan điểm của J. Dewey, nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò,
nên phƣơng pháp của ông thƣờng đƣợc gọi là phƣơng pháp thăm dò. Phƣơng
pháp thăm dò của ông xuất phát từ việc giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình
nhận thức. Ông cho rằng, thực tại “đi trƣớc” nhận thức, thực tại cũng chỉ là kết
quả của quá trình nhận thức, từ đó ông đƣa ra phƣơng pháp nghiên cứu chung để
tìm ra chân lý gồm 5 bƣớc. Toàn bộ quá trình này đều dựa trên phƣơng pháp thử
sai, đó là khả năng tự điều chỉnh của nó, một giả thuyết nào đó đƣợc coi là chân
lý nếu nó cho phép giải quyết thành công trong những tình huống có vấn đề. Qua
26
việc khảo sát những công trình nghiên cứu liên quan đến phƣơng pháp luận
nhằm nhận thức chân lý, chúng ta nhận thấy, các kết quả nghiên cứu đã giải
quyết đƣợc một số nội dung sau:
Thứ nhất, các tác giả khẳng định rằng, các nhà triết học thực dụng đều
nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý.
Thứ hai, các tác giả cho rằng, nhận thức chân lý là một quá trình không
phải tĩnh tại, bất biến, mà cần phải đƣợc chứng thực thƣờng xuyên.
Thứ ba, đƣa ra các phƣơng pháp để nhận thức chân lý của các nhà triết
học thực dụng.
Thứ tư, các nhà triết học thực dụng đều tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của
chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý, chân lý là cụ thể, tƣơng đối, không có
chân lý tuyệt đối.
Tuy nhiên, một đặc điểm chung trong việc nghiên cứu về phƣơng pháp
khoa học nhằm đạt đến chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ là chƣa khái
quát đƣợc thành quan niệm mang tính hệ thống mà mới chủ yếu dừng lại ở quan
một nhiệm vụ cơ bản phải giải quyết trong luận án của mình.
Nhìn chung, thông qua các công trình nghiên cứu trên, các nhà nghiên
cứu đã bàn đến khái niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học
thực dụng Mỹ là C. Peirce, W. James và J. Dewey. Các tác giả đều thống nhất
cho rằng, triết học thực dụng khẳng định chân lý là cái đem lại hiệu quả trong
hành động của con ngƣời. Peirce cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của
chân lý, James và Dewey khẳng định tính hiệu quả có ích, sự thành công là
tiêu chuẩn của chân lý. Các nhà triết học thực dụng đều nhấn mạnh vai trò
của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý, đồng thời tuyệt đối hóa vai
trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức chân lý.
Có thể nói, các kết quả nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ còn chƣa nhiều, chƣa thành hệ thống. Vì vậy, luận án sẽ tập
niệm riêng của các nhà triết học thực dụng Mỹ. Nội dung này tác giả xác định là
27
trung làm sáng tỏ tính hệ thống của quan niệm về về chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ.
1.3. Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan về giá trị và hạn chế
của quan niệm chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
Nhìn chung, ở nƣớc ta, nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ chƣa nhiều,
nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ chƣa đầy đủ. Đặc
biệt, việc nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong
triết học thực dụng Mỹ hầu nhƣ rất ít đƣợc bàn đến.
1.3.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
Trong cuốn Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội, năm 1994), Lƣu Phóng Đồng đã đƣa ra một số đánh giá về giá trị của
quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ông cho rằng, triết học thực
dụng đề cao tác dụng của con ngƣời sáng tạo thế giới, sáng tạo chân lý. Chân lý
tồn tại trong quá trình kiểm chứng của thực tiễn, thực tiễn là tiêu chuẩn kiểm
nghiệm của chân lý.
Công trình Các con đường của triết học phương Tây hiện đại của
J.K.Melvil (Nxb Giáo dục, năm 1997), khi bàn về vấn đề chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ, đã đƣa ra một số nhận định về giá trị của nó nhƣ nhấn mạnh vai
trò của các nhà khoa học, các chuyên gia trong việc đánh giá một lý thuyết khoa
học, đó là sự phù hợp với thời đại chuyên môn hóa ngày càng cao hiện nay.
Trong cuốn Uyliam Giêmxơ của Vƣơng Ngọc Bình đã có những nhận
định về quan niệm chân lý của nhà triết học thực dụng W. James, tác giả chỉ ra
sự phê phán và bác bỏ của James đối với quan niệm máy móc siêu hình về chân
lý. Từ đó, tác giả khẳng định chân lý là một quá trình luôn ở trạng thái động.
Trong cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người
Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội năm 1997), nhóm tác giả do
GS Nguyễn Tài Thƣ chủ biên cho rằng, “Thực dụng cũng là một lý thuyết có
công trong việc nâng những điều còn là kinh nghiệm, là những cảm nhận đó lên
trình độ triết lý” [114, tr. 114 - 115]. Các tác giả còn nhấn mạnh, trong mọi hoạt
động của xã hội, việc quan tâm đến hiệu quả cụ thể là điều cần thiết, phù hợp với
28
cuộc sống hàng ngày của con ngƣời.
Tác giả Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng với công trình Triết học Mỹ
(Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh, 2006), đã trình bày quan niệm của triết
học thực dụng Mỹ về chân lý. Theo các tác giả, W. James coi: “Chân lý tồn tại
cùng với con ngƣời… chân lý là do con ngƣời dựa vào nhu cầu của mình mà
sáng tạo nên… ngƣời ta bảo đây là chủ nghĩa nhân bản của chủ nghĩa thực dụng”
[31, tr.119]. Một quan điểm khác, các tác giả cho rằng: “James thƣờng phê phán
chủ nghĩa duy lý vì nó không phù hợp với chân lý, lợi ích. Chủ nghĩa duy lý đƣa
ra một chân lý có sẵn, chân lý trừu tƣợng. Còn chân lý của chủ nghĩa thực dụng
là cụ thể” [31, tr. 119 - 120]. Ở chỗ khác, khi phân tích quan điểm của J.Dewey
về chân lý, tác giả khẳng định: “Dewey chống lại chủ nghĩa duy lý cho rằng chân
lý là khái niệm, là lý tính có sẵn” [31, tr. 136].
Có thể nói, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bƣớc đầu đƣa ra một số
nhận định về giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cho nên
tác giả xem đây là một nội dung quan trọng cần phải tiếp tục nghiên cứu làm rõ.
1.3.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
Cuốn Phê phán chủ nghĩa thực dụng của J.K. Melvil là công trình phê phán
gay gắt, toàn diện về chủ nghĩa thực dụng. Ngay trong bài viết đầu tiên, tác giả đã
phê phán chủ nghĩa thực dụng bằng tiêu đề “Chủ nghĩa thực dụng là triết học của
chủ nghĩa duy tâm chủ quan”. Trong bài viết này, tác giả đã lập luận thông qua
những luận điểm của triết học thực dụng và chứng minh bằng quan điểm của các
nhà triết học thực dụng nhƣ C. Peirce, W. James và J. Dewey. Tác giả đƣa ra khẳng
định về chủ nghĩa thực dụng: “coi chân lý có tính chủ quan” [91, tr. 100], họ phủ
nhận chân lý khách quan. Tác giả thừa nhận quan điểm của chủ nghĩa thực dụng về
chân lý là có căn cứ, căn cứ đó là sự “khuếch đại và tuyệt đối hóa sự có ích của
chân lý” [91, tr. 103]. Tuy nhiên, những nhận định của tác giả đƣa ra về chủ nghĩa
thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý nói riêng còn chịu ảnh hƣởng của lập
trƣờng giai cấp và mang tính phiến diện, chủ quan.
Trong cuốn Các con đường của triết học phương Tây hiện đai (Nxb Giáo
dục, năm 1997), J.K. Melvil khi bàn về quan niệm chân lý trong triết học thực
29
dụng Mỹ, đã đƣa ra một số nhận định về hạn chế của nó nhƣ tính tùy tiện chủ
quan, chân lý “chỉ đáng xem là đối tƣợng của ý kiến tập thể” [92, tr. 28]. Theo
tác giả, với quan niệm chân lý nhƣ niềm tin, C. Peirce đã tạo ra “một loại thế
phẩm cho quan niệm về chân lý khách quan khoa học” [92, tr. 29]. Còn đối với
W. James, tác giả cho rằng, quan niệm về chân lý của nhà triết học này là “để
bảo vệ tín ngưỡng tôn giáo” [92, tr. 31]. Vì vậy, theo tác giả “khuyết tật cơ bản
của chủ nghĩa thực dụng là đem quy tính hữu dụng là cái tạo nên nội dung của tri
thức chân lý” [92, tr. 37]. Có thể thấy, đánh giá của tác giả về quan niệm chân lý
trong triết học thực dụng có một số điểm đã phản ánh đƣợc hạn chế của triết học
thực dụng Mỹ, biểu hiện rõ nhất là lập trƣờng duy tâm chủ quan của trƣờng phái
này. Tuy nhiên, những đánh giá của tác giả về hạn chế trong quan niệm về chân
lý của triết học thực dụng Mỹ còn mang tính chủ quan, chịu ảnh hƣởng của lập
trƣờng giai cấp.
Trong cuốn Mấy trào lưu triết học phương Tây (Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, năm 1984), tác giả Phạm Minh Lăng đã thể hiện sự phê phán sâu
sắc triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng
nói riêng. Tác giả nhận định: “Chủ nghĩa thực dụng là hệ tư tưởng của tập đoàn tư
bản độc quyền Mỹ”. Tác giả đã phân tích trên các nội dung của trƣờng phái triết
học thực dụng, trong đó đặc biệt chú ý chỉ ra hạn chế của trƣờng phái triết học này
khi bàn về chân lý. Ông khái quát “Châm ngôn hành động của chủ nghĩa thực
dụng là “có lợi”, “có lợi” và “có lợi” [78, tr. 278] và khẳng định: “James đã
trắng trợn coi “cái đúng lý” tức cái mà ông gọi là “hậu quả thực tiễn” bằng ngôn
ngữ của nhà kinh doanh… coi đó là “giá trị tiền mặt”” [78, tr. 285]. Có thể thấy,
những đánh giá của tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, chịu ảnh hƣởng của lập
trƣờng giai cấp, chủ yếu nhằm phê phán triết học thực dụng.
Trong tác phẩm Triết học phương Tây hiện đại, tập 2 (Nxb Chính trị Quốc
gia, năm 1994), Lƣu Phóng Đồng đã đƣa ra một số đánh giá về hạn chế của quan
niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Ông cho rằng, quan niệm về chân
lý của triết học thực dụng Mỹ đã phủ nhận tính khách quan của chân lý: “Mọi
quan niệm với tính cách là chân lý chỉ lấy bản thân quan niệm làm căn cứ” [39,
30
tr. 144]. Hạn chế tiếp theo của triết học thực dụng là tuyệt đối hóa một chiều về
tác dụng của con ngƣời, quy toàn bộ chân lý là kết quả sáng tạo chủ quan của
con ngƣời. Tiếp nữa, trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ là
sự đồng nhất chân lý với hiệu quả và sự thành công, sai lầm đó là “phủ nhận tính
khách quan của chân lý, coi có ích, có hiệu quả là tiêu chuẩn duy nhất của chân
lý” [39, tr. 146]. Đồng thời, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng phủ
nhận tính tuyệt đối của chân lý, cho rằng chân lý chỉ mang tính tƣơng đối.
Trong cuốn Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người
Việt Nam hiện nay (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội) của nhóm tác giả do GS
Nguyễn Tài Thƣ chủ biên, đã đƣa ra nhiều đánh giá cụ thể về hạn chế của triết
học thực dụng. Tuy nhiên, chúng ta thấy nhận định này của nhóm tác giả còn thể
hiện quan điểm cũ, mang tính chủ quan, phiến diện, một chiều, không thấy đƣợc
mặt tích cực của triết học thực dụng Mỹ.
Trên cơ sở những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc, tác giả nhận thấy cần
phải có quan điểm khách quan, toàn diện hơn để tiếp tục làm rõ hạn chế trong
quan niệm về chân lý của triết học thực dụng. Đó là một nhiệm vụ quan trọng mà
luận án phải giải quyết.
Nhƣ vậy, qua các nhận định về giá trị và hạn chế của triết học thực dụng
nói chung, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ nói riêng còn chịu
sự chi phối của lập trƣờng giai cấp, nên nhiều nhận định thiếu tính khách quan.
Do đó, để đƣa ra một cái nhìn đúng đắn, khách quan về những giá trị cũng nhƣ
hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, chúng ta phải
căn cứ vào nội dung tƣ tƣởng của các nhà triết học thực dụng, đồng thời có sự so
sánh, đối chiếu với quan niệm này của một số trƣờng phái triết học, nhất là quan
điểm khoa học của triết học Mác - Lênin. Trên cơ sở phân tích nội dung quan
niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, thông qua ba đại diện tiêu biểu là
C. Peirce, W. James và J. Dewey, tác giả sẽ giải quyết vấn đề này. Có thể nói, đây
là điểm mới và đóng góp của luận án khi giải quyết đƣợc những vấn đề đặt ra.
1.4. Đánh giá chung về kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học đã
31
công bố và những vấn đề cần tập trung giải quyết trong luận án
Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu có liên quan về triết học thực
dụng Mỹ, về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, dƣới những góc độ tiếp cận
khác nhau, có thể thấy, những nghiên cứu trên đã đạt đƣợc một số kết quả sau:
Thứ nhất, khái quát điều kiện, tiền đề, quá trình ra đời, phát triển của triết
học thực dụng Mỹ.
Thứ hai, phân tích những nội dung tƣ tƣởng cơ bản của các nhà triết học
thực dụng Mỹ. Từ đó, đa số các nhà nghiên cứu đều thống nhất cho rằng triết
học thực dụng là một trào lƣu triết học duy tâm chủ quan, gắn với lập trƣờng của
giai cấp tƣ sản.
Thứ ba, các tác giả đều cho rằng, điểm đặc sắc của triết học thực dụng là
nhấn mạnh kinh nghiệm, hiệu quả trong nhận thức và hành động, coi đây là tiêu
chuẩn của chân lý. Triết học thực dụng khẳng định chân lý là cái đem lại hiệu
quả trong hành động của con ngƣời. Đồng nhất chân lý với hiệu quả là đặc trƣng
của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
Thứ tư, về phƣơng pháp tiếp cận, các nhà nghiên cứu đã bƣớc đầu bàn đến
khái niệm chân lý thông qua quan niệm của các nhà triết học thực dụng Mỹ là
C.Peirce, W. James và J. Dewey. Quan niệm của triết học thực dụng về tiêu
chuẩn của chân lý có sự thống nhất với khái niệm chân lý, đồng nhất chân lý với
hiệu quả, cái có ích, sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn chân lý
của triết học thực dụng Mỹ. Từ đó, các tác giả khẳng định rằng, các nhà triết học
thực dụng đều nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học trong nhận thức
chân lý và đƣa ra các phƣơng pháp để nhận thức chân lý. Tuy nhiên, chƣa có một
công trình nào nghiên cứu quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
một cách hệ thống.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu trên mới chỉ bƣớc đầu đƣa ra một số
nhận định về giá trị và hạn chế của triết học thực dụng Mỹ nói chung. Tuy nhiên,
những đánh giá của các tác giả còn thể hiện quan điểm cũ, chịu ảnh hƣởng của
lập trƣờng giai cấp, chủ yếu nhằm phê phán triết học thực dụng. Có thể nói, việc
32
nghiên cứu về những giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ hầu nhƣ rất ít đƣợc bàn đến.
Trên cơ sở kế thừa, tiếp thu những kết quả nghiên cứu đã đạt đƣợc về triết
học thực dụng Mỹ nói chung, về vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ nói
riêng, tác giả nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu, tập trung giải quyết một số nội
dung sau:
Thứ nhất, chƣa có một công trình nào nghiên cứu cơ sở hình thành quan
niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, do đó, luận án cần làm rõ cơ sở hình
thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đó là cơ sở để luận án lý
giải những nội dung của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, cũng
nhƣ những giá trị và hạn chế của nó.
Thứ hai, luận án cần tiếp tục làm rõ khái niệm triết học thực dụng và vị trí
của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
Thứ ba, các công trình nghiên cứu mới chỉ bƣớc đầu chỉ ra quan niệm về
chân lý của từng triết gia thực dụng, chủ yếu là quan niệm về chân lý của W. James.
Vì vậy, luận án cần tiếp tục nghiên cứu, làm rõ một cách hệ thống, toàn diện, mang
tính đặc trƣng của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở
quan niệm về chân lý của các nhà triết học thực dụng Mỹ.
Thứ tư, luận án cần tập trung làm sáng tỏ khái niệm chân lý, tiêu chuẩn của
chân lý, phƣơng pháp luận khoa học để đạt đến chân lý của triết học thực dụng Mỹ
trên cơ sở quan niệm về chân lý của C. Peirce, W. James và J. Dewey.
Thứ năm, các công trình nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết học thực
dụng nói chung là chƣa nhiều, nghiên cứu về giá trị và hạn chế của quan niệm về
chân lý trong triết học thực dụng lại càng ít. Do đó, luận án cần chỉ ra những giá trị
và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ trên cơ sở nội
dung quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Tác giả xem đây là điểm
mới và đóng góp cơ bản của luận án.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 1
Thông qua các công trình của các nhà nghiên cứu, của các học giả trong
nƣớc và nƣớc ngoài về triết học thực dụng Mỹ nói chung, quan niệm về chân lý
33
của trƣờng phái triết học này nói riêng, dƣới những góc độ tiếp cận khác nhau, ở
những khía cạnh khác nhau, có thể thấy các nghiên cứu đã đạt đƣợc một số kết
quả trong việc làm rõ điều kiện, tiền đề cho sự ra đời của triết học thực dụng Mỹ,
những nội dung cơ bản của triết học thực dụng và tƣ tƣởng của các nhà triết học
thực dụng Mỹ. Những kết quả này là hết sức cần thiết cho những ngƣời nghiên
cứu kế thừa và tiếp tục nghiên cứu.
Ở nƣớc ta, có nhiều công trình nghiên cứu về triết học thực dụng Mỹ ở mức
độ khái quát, trên cơ sở đó, các tác giả chủ yếu làm rõ tƣ tƣởng triết học của các đại
diện tiêu biểu của trƣờng phái triết học này là C. Peirce, W. James, J. Dewey. Vì vậy,
có rất ít công trình nghiên cứu chuyên sâu về đặc trƣng của triết học thực dụng Mỹ.
Các công trình nghiên cứu quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ còn chƣa
tƣơng xứng với vị trí quan trọng của vấn đề này trong triết học thực dụng Mỹ. Thậm
chí, ở nƣớc ta hầu nhƣ chƣa có một công trình nào đƣợc công bố về vấn đề này. Mặt
khác, việc đƣa ra những nhận định về giá trị và hạn chế của quan niệm về chân lý
trong triết học thực dụng Mỹ còn chịu ảnh hƣởng của lập trƣờng giai cấp, vì vậy,
trong nhiều nhận định còn thể hiện cách nhìn phiến diện, chủ quan, chƣa phản ánh
đúng bản chất của trƣờng phái triết học này.
Căn cứ vào tình hình nghiên cứu có liên quan đến nội dung của đề tài luận án,
có thể khẳng định, cho đến thời điểm hiện nay, chƣa có một công trình khoa học nào
trực tiếp đề cập đến quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ để từ đó, chỉ
ra giá trị và hạn chế của nó ở cấp độ một luận án. Dựa trên quá trình nghiên cứu và
những kết quả nghiên cứu có liên quan về triết học thực dụng Mỹ của các nhà nghiên
cứu, chúng tôi nhận thấy cần phải tiếp tục nghiên cứu để làm sáng tỏ quan niệm nền
tảng của triết học thực dụng - quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, góp phần làm rõ bản chất của
triết học thực dụng một cách khách quan - vấn đề mà bấy lâu nay chúng ta vẫn còn
nhiều tranh luận trái chiều. Tất nhiên, để làm rõ vấn đề này, việc kế thừa những kết
quả của các công trình nghiên cứu trƣớc đó là rất cần thiết.
34
Chƣơng 2
CƠ SỞ HÌNH THÀNH QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ
TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ
2.1. Khái quát về triết học thực dụng Mỹ và vị trí của vấn đề chân lý trong
triết học thực dụng Mỹ
2.1.1. Khái niệm triết học thực dụng
Triết học thực dụng là một trào lƣu triết học ra đời ở Mỹ vào những năm
70 của thế kỷ XIX, là đóng góp độc đáo nhất của tƣ tƣởng Mỹ cho kho tàng triết
học nhân loại. Triết học thực dụng đƣợc hình thành với tƣ tƣởng nền tảng của
C.Peirce, đƣợc truyền bá rộng rãi bởi W. James và đƣợc đƣa vào đời sống hàng
ngày một cách có phƣơng pháp nhờ J. Dewey, trong đó, “ngƣời độc đáo nhất là
Charles Peirce, ngƣời thú vị nhất để đọc là William James và ngƣời gây ảnh
hƣởng sâu rộng nhất là John Dewey” [89, tr. 237].
Triết học thực dụng Mỹ bắt nguồn từ “Câu lạc bộ siêu hình học” do
C.Peirce đứng đầu, thành lập tại Đại học Harvard. Năm 1872, lần đầu tiên ông
đƣa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tƣ tƣởng cơ bản,
quan niệm chủ yếu của mình về triết học thực dụng trong báo cáo khoa học đọc
tại “Câu lạc bộ siêu hình”. Sau đó, báo cáo khoa học này đã đƣợc ông chỉnh lý,
bổ sung thành hai bài viết với tên gọi Củng cố niềm tin (The Fixation of Belief)
và Làm thế nào để cho tư tưởng của chúng ta được sáng tỏ (How to Make Our
Ideas Clear), lần lƣợt đăng trên Nguyệt san khoa học phổ thông (số 11 - 1877 và
số 1 - 1878). Hai bài viết này đƣợc coi là những tác phẩm tiêu biểu thể hiện tƣ
tƣởng triết học thực dụng của Peirce.
Về nguồn gốc của khái niệm triết học thực dụng (Pragmatism). Khái niệm
triết học thực dụng xuất phát từ học thuyết về nghĩa của C. Peirce, đây là học
thuyết trung tâm trong triết học của ông, mục đích nhằm làm sáng tỏ nghĩa của
khái niệm, tƣ tƣởng. Ở đây, ông đã đƣa ra một cách giải thích mới về cách thức
để tạo lập nghĩa của khái niệm, từ đó, tạo lập thuật ngữ “pragmatism”. Thuật ngữ
chủ nghĩa thực dụng (pragmatism) có nguồn gốc từ chữ “pragma” trong tiếng Hy
35
Lạp (nghĩa là “hành vi”, “thực tiễn”). Ông rút ra kết luận: nội dung tƣ tƣởng nào
cũng là tổng số những hiệu quả thực tế, kết quả của những hành động bắt nguồn
từ những tƣ tƣởng ấy. Muốn biết đƣợc nghĩa của một tƣ tƣởng và phân biệt đƣợc
tƣ tƣởng này với tƣ tƣởng khác, chỉ cần căn cứ vào hiệu quả thực tế của chúng.
C.Peirce đã trình bày châm ngôn về chủ nghĩa thực dụng nhƣ sau: “Ngƣời ta cần
suy nghĩ từ chân lý của khái niệm tất nhiên sẽ có đƣợc hiệu quả thực tế mong đợi.
Tổng hòa các hiệu quả này sẽ tạo nên toàn bộ nghĩa của khái niệm đó” [135, T.V,
đoạn 9]. Châm ngôn này của C. Peirce đã thể hiện nội hàm của khái niệm triết học
thực dụng: nghĩa của khái niệm là toàn bộ hiệu quả thực tế do khái niệm, tư tưởng
đó tạo ra.
Thực ra, khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” (pragmatism) là do W. James
nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát biểu đọc tại California vào năm 1898 với
tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả thực tế. Trong bài phát biểu này, James
đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và “nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ
nghĩa thực dụng” của C.Peirce. Bản thân Peirce, trong báo cáo khoa học đọc tại
“Câu lạc bộ siêu hình” và cả trong hai bài viết đƣợc chỉnh lý từ báo cáo này, ông
vẫn chƣa sử dụng danh từ “chủ nghĩa thực dụng”. Sau này, ông đã nhiều lần định
sử dụng danh từ này, nhƣng cảm thấy nghĩa của nó chƣa đƣợc rõ ràng nên chƣa
dùng. Đến năm 1902, khi viết đề mục Từ điển triết học tâm lý của Boune, ông
mới sử dụng danh từ này. Tuy nhiên, cũng vào thời gian này, ông nhận thấy
quan điểm của mình về chủ nghĩa thực dụng đã bị James giải thích một cách sai
lệch. Do vậy, để phân biệt với quan điểm của James và các nhà thực dụng chủ
nghĩa khác, ông đã sửa đổi danh từ “chủ nghĩa thực dụng” thành “chủ nghĩa thực
hiệu” (pragmaticism) và cho rằng, việc sử dụng danh từ “xấu xí” này sẽ không bị
ngƣời khác giải thích sai lệch [135, T.VI, đoạn 482]. Ở đây, chúng ta thấy, khi
C.Peirce dùng khái niệm “chủ nghĩa thực hiệu” ông muốn giải thích khái niệm
này bằng hiệu quả thực tế, bởi theo ông khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” đang
bị ngƣời ta hiểu bằng cách giải thích điển hình của James là cái “có lợi”, “có
ích” bằng “giá trị tiền mặt” mà Peirce không đồng ý.
Triết học thực dụng giải quyết mối quan hệ giữa tƣ duy và hành động, thể
hiện cách tƣ duy đặc thù. Bản thân khái niệm “thực dụng” đã thể hiện cách thức
36
tƣ duy trong hành động, thƣớc đo của tƣ duy là kết quả của hành động. Phƣơng
thức tƣ duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm, mà đi sâu
nghiên cứu xem khi sử dụng chúng thì sẽ tạo ra những hiệu quả thực tế nào. Điều
quan trọng không phải là vấn đề nhận thức đúng về thế giới, mà nhận thức đó giúp
ích gì cho hành động của con ngƣời. Giá trị của tƣ tƣởng, khái niệm thể hiện ở
hiệu quả có thể kiểm nghiệm đƣợc của nó khi áp dụng vào hoạt động thực tiễn.
Về vị trí và đóng góp của C. Peirce, W. James, J. Dewey đối với sự hình
thành và phát triển của triết học thực dụng, có thể khẳng định, “đóng góp của
Pierce là đã hệ thống hóa phƣơng pháp và khái quát hóa về lý luận đƣợc nêu lên
trong “câu lạc bộ siêu hình học”, đặt nền tảng cho sự sinh ra và phát triển của
chủ nghĩa thực dụng” [9, tr. 77], còn W. James là “nhà thực dụng lỗi lạc nhất, thì
J. Dewey là nhà thực dụng ảnh hƣởng nhất” [106, tr. 315]. Về cơ bản, những tƣ
tƣởng của Dewey có sự kế thừa khá trung thành quan điểm thực dụng của các vị
tiền bối, từ chủ nghĩa duy nghiệm tự nhiên, quan điểm thực tiễn, phƣơng pháp
thăm dò đến chủ nghĩa công cụ. Ông đã đƣa tƣ tƣởng thực dụng một cách có
phƣơng pháp vào sinh hoạt hàng ngày trong đời sống xã hội Mỹ.
Nhƣ vậy, đặc điểm chung của triết học thực dụng là nhấn mạnh triết học
cần đi sâu và giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn, coi chân lý là niềm
tin vững chắc, là xuất phát điểm của hành động, thực dụng là phương thức tư
duy trong hành động, hành động là phương tiện chủ yếu, mục đích của hành
động là hiệu quả thực tế.
2.1.2. Triết học thực dụng Mỹ với việc xác định đối tượng, nhiệm vụ nghiên
cứu của triết học
Từ khi triết học thực dụng xuất hiện trên diễn đàn triết học, với các đại
diện tiêu biểu là C. Peirce, W. James và J. Dewey, đã đặt ra vấn đề thực hiện một
cuộc cách mạng trong triết học, đó là việc xác định lại đối tượng và nhiệm vụ
nghiên cứu của triết học. Các nhà triết học thực dụng cho rằng, nhiệm vụ của
triết học chỉ là vấn đề nhận thức luận và phương pháp luận khoa học, chứ không
phải là vấn đề thế giới quan. Triết học phƣơng Tây phân ra thành hai khuynh
hƣớng là chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, xoay quanh việc giải quyết
37
các nội dung cơ bản là bản thể luận, nhận thức luận, thế giới quan, phƣơng pháp
luận. Đó là xuất phát điểm để xây dựng nên hầu hết các trƣờng phái triết học Tây
Âu truyền thống. Với việc các trƣờng phái triết học phân ra hai khuynh hƣớng
duy tâm và duy vật này đã tạo ra cuộc đấu tranh một cách liên tục giữa chúng
trong lịch sử triết học. Các nhà triết học thực dụng Mỹ không đặt ra việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học, né tránh đề cập đến các phạm trù vật chất và ý
thức, họ muốn đi theo con đƣờng điều hòa, trung lập các trƣờng phái triết học.
Họ phê phán mạnh mẽ toàn bộ nền triết học trƣớc đây vì chỉ nghiên cứu những
vấn đề mà theo họ không liên quan gì đến con ngƣời, đến hoạt động và cuộc
sống của con ngƣời, vì thế nó không cần thiết. Với triết học thực dụng, vấn đề
đƣợc đặt ra và giải quyết không phải là vấn đề về bản nguyên của thế giới hay
nhận thức thế giới nhƣ thế nào, đúng đắn hay sai lầm mà là hành động hiệu quả
hay không hiệu quả. Mệnh đề triết học thực dụng đƣa ra là: Tư tưởng, quan niệm
có thể trở thành niềm tin của con người hay không, tùy thuộc vào việc nó có tạo
cơ sở cho con người hành động đạt được hiệu quả, mục đích và thành công như
dự tính hay không. Theo C. Peirce, “chỉ cần đạt tới niềm tin vững chắc, chúng ta
hoàn toàn thoả mãn, bất cứ niềm tin đó là đúng hay sai” [135, T.V, đoạn 375].
Do đó, các quan niệm khác nhau nếu đƣa đến hành động và đạt tới hiệu quả, mục
đích mong muốn thì đều đƣợc thừa nhận.
Bắt đầu từ C. Peirce, ngƣời sáng lập ra triết học thực dụng, thì sứ mệnh
của triết học không phải là nhận thức thế giới, mà là củng cố niềm tin. Theo
ông, mọi vấn đề cần phải liên quan đến củng cố niềm tin, tác động đến hành
động của con ngƣời thì mới nên tồn tại trong triết học chân chính, đã là niềm tin
thì không cần thiết phải là sự phản ánh đúng thực tại khách quan, không cần phải
nhận thức đúng đắn, nó có thể chỉ là giả thuyết chủ quan. Ông đƣa ra quan điểm
này với mong muốn vƣợt ra ngoài giới hạn đối lập chủ quan và khách quan, tuy
nhiên, nó vẫn thể hiện khuynh hƣớng chủ quan.
C. Peirce cho rằng, học thuyết của ông không phải là học thuyết siêu hình,
không có ý định đạt đến bất kỳ tính chân thực nào, mà chủ yếu nhằm mục đích
làm cho tƣ tƣởng, quan điểm của con ngƣời trở nên rõ ràng. Ông muốn biến triết
38
học thực dụng trở thành “một loại lôgíc khoa học hoặc phương pháp luận khoa
học” dùng để phân tích nghĩa của khái niệm: “Triết học về phƣơng pháp cần bắt
chƣớc khoa học thành công, chỉ lấy việc nghiên cứu tỉ mỉ, rõ ràng làm tiền đề
xuất phát, dựa vào các nghiệm chứng đa dạng khác nhau, chứ không nên dựa vào
quyết định của cá nhân” [40, tr. 322]. Từ việc coi nhiệm vụ của triết học là củng
cố niềm tin, định ra phƣơng pháp luận khoa học, ông đã đi đến xây dựng phương
pháp luận trên cơ sở “lý thuyết thăm dò - hoài nghi - niềm tin”. Ông quan tâm
chủ yếu đến phƣơng pháp làm cho tƣ tƣởng, khái niệm của con ngƣời trở nên
sáng tỏ. Ông muốn làm cho triết học thực dụng trở thành một loại lôgíc khoa học
hoặc phƣơng pháp luận khoa học, để làm rõ nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng, để
đạt đƣợc niềm tin vững chắc, làm công cụ hành động, đạt tới mục đích đặt ra.
Ông đặt ra nhiệm vụ cải tạo triết học nhằm biến triết học với từ “P” viết hoa
(Philosophy: một lý thuyết hàn lâm, trừu tƣợng, phổ quát) thành chữ “p” viết
thƣờng (philosophy: một lý thuyết thiết thực, hiệu quả).
Triết học thực dụng thể hiện cách thức tƣ duy trong hành động. Theo đó,
cách thức tƣ duy của triết học thực dụng có thể trở thành chìa khóa để giải quyết
các cuộc tranh luận triết học, dựa trên cách thức đó thì các cuộc đấu tranh giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học truyền thống đƣợc coi là
cuộc đấu tranh có tính chất siêu hình, vô nghĩa. Bởi vì, theo cách nhìn của triết
học thực dụng thì kinh nghiệm thực tế của con ngƣời về thế giới cơ bản đều
giống nhau. Theo C. Peirce, nếu dựa trên hiệu quả thực tế mà xem xét thì thế
giới, dù là vật chất hay tinh thần cũng không khác biệt gì, mà khác biệt nằm ở
chỗ hiệu quả thực tế do nó tạo ra, đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của
triết học thực dụng.
W. James đã tiếp tục công cuộc cải tạo triết học đƣợc C. Peirce đặt ra,
trọng tâm vẫn là việc làm rõ đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học. Triết học thực
dụng của ông với mong muốn vƣợt lên sự đối lập nhị nguyên duy vật và duy
tâm, không bàn đến vấn đề thế giới quan mà chỉ là vấn đề nhận thức luận và
phƣơng pháp luận thuần túy. Ngay từ đầu, James đã nhấn mạnh triết học thực
dụng trƣớc hết là một phƣơng pháp. Thuyết thực dụng là một phƣơng pháp dựa
39
vào đời sống thực tế, nhằm bác bỏ tính chất giáo điều của các thuyết duy lý. Hơn
nữa, với tƣ cách một phƣơng pháp, thuyết thực dụng không định trƣớc các kết
quả cụ thể, không có một công thức nào chung cho mọi vấn đề, ý nghĩa của mọi
lý thuyết là khả năng giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Điều đó có nghĩa là
James đã khái quát chủ nghĩa thực dụng của mình vào công thức: “Nó có tác
dụng gì không?” [106, tr. 310].
Từ việc coi triết học thực dụng là một loại phƣơng pháp, W. James đã đi
đến nghiên cứu sâu sắc cái gọi là “chủ nghĩa kinh nghiệm triệt để”, làm cơ sở lý
luận để chống lại siêu hình học truyền thống, từ đó, ông chủ trƣơng xây dựng
siêu hình học mới. Theo ông, kinh nghiệm luôn là đối tƣợng của triết học và
khoa học, mà bản thân kinh nghiệm lại chính là thực tại, do đó, triết học chỉ nên
nghiên cứu kinh nghiệm.
Ngƣời đã phát triển triết học thực dụng và có những đóng góp to lớn trong
việc cải tạo triết học của chủ nghĩa thực dụng phải kể đến tên tuổi của J. Dewey.
Nội dung cải tạo triết học của ông chủ yếu là vƣợt qua “sự đối lập nhị nguyên”
giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong triết học trƣớc đây. Dewey
xác định mục đích của ông là xây dựng lý luận về vũ trụ lấy kinh nghiệm làm
trung tâm, đó là chủ nghĩa kinh nghiệm tự nhiên. Theo ông, nhiệm vụ của triết
học là phải khắc phục sự đối lập “nhị nguyên”, bởi cái có trƣớc vũ trụ không
phải là vật chất, cũng không phải là tinh thần, mà là kinh nghiệm. Ông cho rằng,
nhờ có kinh nghiệm mà chủ nghĩa thực dụng đã khắc phục đƣợc sự đối lập giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm trong việc giải quyết vấn đề cơ bản của
triết học. Tuy nhiên, hạn chế của ông là tính cực đoan trong việc bác bỏ “thuyết
nhị nguyên”. Ông chủ trƣơng cấm sử dụng những từ nhƣ “vật chất” và “tinh
thần”, mà thay thế nó bằng những từ có ý nghĩa hình dung hoặc các phó từ có ý
nghĩa chức năng. Dewey quả quyết: “Nếu mấy chục năm cấm dùng những từ
nhƣ “tâm linh”, “vật chất”, “ý thức”, chúng ta không thể không dùng hình dung
từ và các phó từ nhƣ “có ý thức” và “một cách ý thức”, “tâm lý” và “về tâm lý”,
“vật chất” và “về vật chất” thế thì chúng ta phát hiện rất nhiều vấn đề đã giản
đơn hóa nhiều” [dẫn theo: 39, tr. 160]. Có thể nói, ông giải quyết sự đối lập nhị
40
nguyên không phải từ gốc vấn đề cơ bản của triết học mà là sự từ chối và muốn
xóa nhòa vấn đề cơ bản đó.
Nhƣ vậy, các nhà triết học thực dụng đã đặt ra vấn đề cần phải xác định
lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết hoc, với tham vọng thực hiện một cuộc cải tạo
triết học. Nhận thấy hạn chế của các trƣờng phái triết học trƣớc đó với quan
niệm siêu hình, máy móc, tách rời thực tiễn cuộc sống, từ đó, họ muốn cải tạo
triết học với từ “P” viết hoa (Philosophy: một lý thuyết hàn lâm, trừu tƣợng, phổ
quát) thành chữ “p” viết thƣờng (philosophy: một lý thuyết thiết thực, hiệu quả).
Bản thân khái niệm “thực dụng” đã thể hiện cách thức tƣ duy trong hành động,
phƣơng thức tƣ duy đó không xem xét khái niệm trong bản thân khái niệm, mà
đi sâu nghiên cứu xem khi sử dụng chúng thì sẽ tạo ra những hiệu quả thực tế
nào, nhận thức giúp ích gì cho hành động của con ngƣời. Tuy nhiên, hạn chế của
các nhà triết học thực dụng thể hiện ở quan điểm chủ quan, né tránh việc giải
quyết vấn đề cơ bản của triết học.
2.1.3. Vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
Triết học thực dụng là một trƣờng phái triết học khá đặc biệt khi xác định
đối tƣợng và nhiệm vụ của triết học là vấn đề nhận thức luận và phƣơng pháp
luận khoa học chứ không liên quan gì đến thế giới quan. Vấn đề chân lý không
chỉ là một nội dung trọng tâm của triết học thực dụng, mà còn là vấn đề xuyên
suốt trong hệ thống lý luận của trƣờng phái triết học này. Các nhà triết học thực
dụng Mỹ, xuất phát từ C. Peirce đến W. James và J. Dewey đã xác định vị trí của
vấn đề chân lý ở những góc độ khác nhau, làm cơ sở cho việc triển khai những
nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý.
Triết học thực dụng của C. Peirce gồm làm hai phần cơ bản là lý luận hoài
nghi - niềm tin và lý luận về nghĩa. Có thể nói, với hai nội dung trên, Peirce đã đặt
nền móng cho lý luận nhận thức nói riêng và toàn bộ hệ thống lý luận của triết học
thực dụng nói chung. Vấn đề chân lý không đƣợc ông nêu ra thành một nội dung
chính mà đƣợc thể hiện trong lý luận nhận thức của ông. Trên cơ sở lý luận nhận
thức, ông đã xây dựng “nguyên lý thực dụng” điển hình, theo đó, việc làm rõ vấn
đề chân lý đã trở thành nền tảng cho tƣ tƣởng của W. James và J. Dewey sau này.
41
C. Peirce nhấn mạnh “lý luận về nghĩa” hơn cả thuyết chân lý. Theo ông,
điều đó xuất phát từ căn nguyên là ông không nhất trí với thuyết chân lý theo
cách hiểu của W. James là đồng nhất chân lý với cái có lợi. Cũng vì lý do trên,
ông không đặt riêng vấn đề chân lý thành một nội dung, nhƣng trên thực tế
không có nghĩa là ông xem nhẹ vấn đề chân lý. Xây dựng “niềm tin thực dụng”,
C. Peirce đi vào triết học từ phƣơng pháp. Ông khẳng định rằng, chủ nghĩa thực
dụng: “bản thân nó không phải là học thuyết siêu hình học, không định xác định
tính chân lý của sự vật. Nó chỉ là một phƣơng pháp phát hiện nghĩa của từ ngữ
và khái niệm trừu tƣợng” [135, T.V, đoạn 464]. Ông cho rằng, vấn đề quan tâm
chủ yếu là phƣơng pháp làm cho tƣ tƣởng, khái niệm trở nên rõ ràng. Peirce
mong muốn đƣa chủ nghĩa thực dụng trở thành một loại lôgíc khoa học hoặc
phƣơng pháp luận khoa học, để phân tích nghĩa của từ ngữ, khái niệm trừu
tƣợng, của tƣ tƣởng, làm cho nó trở thành niềm tin vững chắc của mọi ngƣời, trở
thành công cụ hành động, giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích. Do đó, vấn đề làm
thế nào để củng cố niềm tin và làm sáng tỏ nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm đã trở
thành bộ phận hợp thành chủ yếu của triết học thực dụng Peirce. Lý luận về
nghĩa của ông có liên quan chặt chẽ tới thuyết chân lý, thậm chí có thể nói nó là
một khâu trong toàn bộ lý thuyết về chân lý, có nhiệm vụ làm trong sạch nghĩa
của khái niệm với tính cách là chân lý.
Chúng ta đều biết rằng, vấn đề bản thể luận, nhận thức luận, thế giới quan,
phƣơng pháp luận là những nội dung cơ bản của triết học phƣơng Tây truyền
thống, là xuất phát điểm để xây dựng nên hầu hết các trƣờng phái triết học
phƣơng Tây từ thời cổ đại đến cận đại, sự phân biệt đó đƣợc thể hiện ở cuộc đấu
tranh liên tục, không có hồi kết giữa hai khuynh hƣớng duy vật và duy tâm. Tuy
nhiên, triết học thực dụng với C. Peirce là ngƣời khởi xƣớng, mong muốn thực
hiện cuộc cách mạng trong triết học, thực chất là xác định lại đối tƣợng, nhiệm
vụ của triết học, theo đó triết học thực dụng không quan tâm, thậm chí họ “lảng
tránh” vấn đề cơ bản của triết học. Với triết học thực dụng, vấn đề đƣợc đặt ra và
giải quyết không phải là vấn đề về bản nguyên của thế giới hay nhận thức thế
42
giới nhƣ thế nào, cũng không phải là cuộc tranh cãi duy vật, duy tâm tồn tại
không có hồi kết mà là hành động dựa vào niềm tin, không phụ thuộc vào nhận
thức đúng đắn hay không về thế giới. Điều quan trọng đƣợc triết học thực dụng
xác định là: tƣ tƣởng, quan niệm có thể trở thành niềm tin của con ngƣời hay
không, có tạo cơ sở cho con ngƣời hành động đạt đƣợc hiệu quả, mục đích đặt ra
hay không. Theo C. Peirce, “chỉ cần đạt tới niềm tin xác định, thế là ta thoả mãn,
còn chuyện niềm tin đúng hay sai, thì không liên quan” [135, T.V, đoạn 375].
Các quan niệm khác nhau, nếu đều thúc đẩy hành động và đạt đƣợc hiệu quả
mong đợi thì chúng đều đƣợc chấp nhận và khẳng định.
Theo C. Peirce, mục tiêu của phƣơng pháp khoa học là nhận thức thực tại,
đạt tới chân lý: “lôgic là học thuyết về chân lý, bản chất chân lý và phƣơng pháp
phát hiện chân lý” [135, T.VII, đoạn 321]. Việc xác định vị trí của vấn đề chân lý là
mục tiêu của phƣơng pháp khoa học không đƣợc ông trình bày thành một nội dung
riêng, mà thông qua hệ thống lý luận về nghĩa và lý luận về hoài nghi - niềm tin,
đây là hai nội dung cơ bản trong toàn bộ triết học thực dụng của ông. Do đó, có thể
nói, vấn đề chân lý là một nội dung xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống triết học thực
dụng của Peirce; đồng thời, muốn nghiên cứu về vấn đề chân lý, chúng ta phải tìm
hiểu thông qua toàn bộ hệ thống triết học của ông.
Nếu nhƣ trong triết học C. Peirce, vấn đề chân lý không đƣợc đặt thành
một nội dung riêng, mà đƣợc thể hiện trong toàn bộ hệ thống triết học của ông,
thì đến W. James, nó trở thành một nội dung cơ bản, đƣợc ông cụ thể hóa và
phân tích sâu sắc. James khẳng định triết học thực dụng thực chất là một phƣơng
pháp: “Nó không thay thế cho bất kỳ kết quả đặc biệt nào. Nó chỉ là một phƣơng
pháp” [139, tr. 213]. Phƣơng pháp của triết học thực dụng là phƣơng pháp đạt
hiệu quả thực tế, các loại lý thuyết khác nhau có thể đạt đƣợc hiệu quả thì đều có
ý nghĩa chân lý: “Không có kết quả đặc thù nào, ngoài một thái độ định hƣớng
chính là những gì phƣơng pháp thực dụng này mang lại. Thái độ tránh nhìn vào
những điều đầu tiên (những nguyên lý đầu tiên, những phạm trù đầu tiên, những
điều kiện đầu tiên); để hướng về những điều cuối cùng (những kết quả, hiệu quả,
sự kiện cuối cùng)” [139, tr. 214]. Do vậy, triết học thực dụng là một loại
43
phƣơng pháp luận, đồng thời là lý thuyết về chân lý: “Phạm vi của chủ nghĩa
thực dụng nhƣ sau: trƣớc hết là một phƣơng pháp, thứ nữa là lý luận về vấn đề
chân lý phát sinh nhƣ thế nào” [dẫn theo: 40, tr. 342].
Triết học thực dụng của W. James với hai nội dung cơ bản là phƣơng
pháp luận và lý thuyết về chân lý, phƣơng pháp luận để đạt đƣợc hiệu quả thực
tế, tức là chân lý. Nghiên cứu triết học thực dụng của James, chúng ta thấy rõ vị
trí quan trọng của vấn đề chân lý, ông dựa trên nguyên tắc phƣơng pháp luận của
triết học thực dụng để xây dựng thuyết chân lý. Thuyết chân lý trở thành một bộ
phận cấu thành chủ yếu nhất trong hệ thống lý luận chủ nghĩa thực dụng của
ông. Do đó, làm rõ vấn đề chân lý giúp chúng ta hiểu đƣợc nội dung, phƣơng
pháp luận triết học thực dụng của James tập trung vào việc giải quyết vấn đề
này. Chân lý là quá trình không phải tĩnh tại, bất biến mà liên tục đƣợc hiệu
chỉnh, tiêu chuẩn của nó là hiệu quả có ích đối với con ngƣời.
Nếu nhƣ C. Peirce và W. James là ngƣời sáng lập triết học thực dụng, thì
J. Dewey là ngƣời phát triển trƣờng phái triết học này thông qua chủ nghĩa công
cụ. Chủ nghĩa công cụ thực chất là cách gọi khác của chủ nghĩa thực dụng với
nội dung cơ bản là lý luận về nhận thức và chân lý. Do đó, khi tìm hiểu quan
niệm về chân lý trong triết học thực dụng của ông, chúng ta phải thông qua
nghiên cứu chủ nghĩa công cụ. Trong chủ nghĩa công cụ, Dewey xuất phát từ
quan điểm cho rằng tƣ tƣởng, lý luận của con ngƣời là những công cụ giúp con
ngƣời hành động, hành động nào đƣa con ngƣời đạt đƣợc sự thành công thì đó là
chân lý. Nghiên cứu vấn đề chân lý trong triết học của Dewey, chúng ta thấy có
nhiều điểm ông kế thừa quan điểm của James, đồng thời có sự phát triển ở một
số nội dung nhất định.
Nhƣ vậy, có thể nói, cả ba nhà triết học thực dụng Mỹ đều nhất quán trong
việc xác định vị trí quan trọng của vấn đề chân lý trong lý luận nhận thức nói
riêng và trong triết học thực dụng nói chung. Với quan niệm về chân lý, triết học
thực dụng đã tạo ra đặc trƣng và sự khác biệt của nó so với các trào lƣu triết học
khác, tìm hiểu vị trí của vấn đề chân lý trong triết học thực dụng là cơ sở để
44
chúng ta nghiên cứu những nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý của triết
học thực dụng Mỹ.
2.2. Điều kiện khách quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng Mỹ
2.2.1. Bối cảnh lịch sử, điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội nước Mỹ cuối thế
kỷ XIX - đầu thế kỷ XX
Chủ nhân của châu Mỹ là những ngƣời thổ dân da đỏ, các tài liệu thƣờng gọi
là ngƣời Anh điêng, sự xuất hiện của ngƣời châu Âu trên lãnh thổ của nƣớc Mỹ đã
làm cho vị trí và vai trò chủ nhân của cƣ dân bản địa bị suy giảm nghiêm trọng.
Khi chế độ phong kiến đã phát triển mạnh mẽ ở châu Âu, thì châu Mỹ vẫn
là một vùng đất chƣa đƣợc biết đến. Năm 1492, Christopher Columbus phát hiện
ra châu Mỹ, đánh dấu một sự kiện lịch sử trọng đại đối với nhân loại trên nhiều
phƣơng diện. Trƣớc đó, châu Mỹ là một vùng đất chƣa từng có tên trên bản đồ
thế giới, cũng nhƣ trong tiềm thức của con ngƣời, điều này đã tạo cho những
ngƣời châu Âu sự hiếu kỳ về nó. Không chỉ có vậy, với những gì đƣợc mô tả thì
đây là một vùng đất giàu có về tài nguyên, vàng bạc, điều này đã kích thích
những ngƣời châu Âu bắt đầu di cƣ để chinh phục vùng đất này.
Từ cuối thế kỷ XV, sau những cuộc phát kiến địa lý, lục địa châu Mỹ
đƣợc phát hiện, mở đầu cho những cuộc di dân của ngƣời châu Âu đến đây, họ
mang theo hy vọng về một cuộc sống giàu có, tốt đẹp ở vùng đất mới. Ngƣời
châu Âu bắt đầu sự chinh phục của mình, cùng với nó là sự du nhập phƣơng thức
sản xuất tƣ bản chủ nghĩa ở châu Âu vào vùng đất hoang sơ và đầy hứa hẹn này.
Kể từ khi những ngƣời châu Âu có mặt ở vùng đất này cho đến nay, lịch sử nƣớc
Mỹ đã kéo dài hơn bốn thế kỷ.
Nguyên nhân những ngƣời châu Âu di cƣ của đến Mỹ thì có nhiều, nhƣng
chúng ta có thể thấy đánh giá của cố Tổng thống Mỹ Kennedy là có cơ sở: “Do ba
áp lực chính: Sự khắc nghiệt của tôn giáo, áp lực chính trị, khó khăn về kinh tế là
những nguyên nhân chính” [115, tr. 239]. Đến thế kỷ XVII, những ngƣời Tây Ban
Nha, rồi những ngƣời Pháp, Anh, Hà Lan, Italia,… đã tạo nên làn sóng di dân ồ ạt
kéo đến vùng đất mới này, đẩy những thổ dân ngƣời Anh điêng về phía Tây rồi tàn
sát họ. Trong số các nƣớc thực dân châu Âu, thì ngƣời Anh ngày càng chiếm vị thế
45
vững vàng hơn cả. Chúng ta đều biết, nƣớc Anh là “công xƣởng lớn nhất của thế
giới”, là nƣớc tiên phong trong cuộc cách mạng công nghiệp, điều đó đã tạo nên
một nền sản xuất hiện đại, ý thức tổ chức kỷ luật và tác phong công nghiệp của
ngƣời Anh hơn hẳn ở các nƣớc châu Âu khác. Nƣớc Anh đã sớm trở thành một
cƣờng quốc lớn nhất thế giới. Sự phát triển vƣợt bậc về kinh tế của nƣớc Anh so với
các nƣớc khác là nguyên nhân chính làm cho ngƣời Anh giành đƣợc thắng lợi trong
công cuộc chinh phục thuộc địa ở Bắc Mỹ, mặc dù họ là những ngƣời châu Âu đặt
chân đến Mỹ muộn hơn các nƣớc khác. Từ đầu thế kỷ XVIII đã hình thành 12 trong
số 13 vùng di dân sau này trở thành Liên bang Mỹ. Nƣớc Mỹ đƣợc tạo thành từ
những ngƣời nhập cƣ, đây là đặc trƣng cơ bản của dân tộc Mỹ. Trong quá trình hình
thành và phát triển của mình, đặc trƣng này luôn đƣợc thể hiện. Vì vậy, tên gọi Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ hay “một quốc gia của các quốc gia” là rất phù hợp với đặc
trƣng này. Nhà nghiên cứu M. Frei đã nhận định: “Hoa kỳ không phải tự nhiên mà
có. Đó là đứa con của châu Âu, con ghẻ của một hệ thống hậu phong kiến thối nát”
[72, tr. 7 - 8]. Do đó, có thể nói “lịch sử nước Mỹ là tiếp tục của lịch sử châu Âu ở
một lục địa khác” [31, tr. 8].
Năm 1775, nhân dân 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ đã tiến hành cuộc đấu
tranh vũ trang chống lại sự xâm lƣợc của thực dân Anh dƣới hình thức một cuộc
chiến tranh giành độc lập và đã giành đƣợc thắng lợi. Thắng lợi đó đã lật đổ sự
thống trị của thực dân Anh ở Bắc Mỹ, xây dựng nƣớc Cộng hòa tƣ sản Mỹ, dọn
đƣờng cho chủ nghĩa tƣ bản phát triển ở Mỹ. Sự ra đời của Tuyên ngôn độc lập
của nƣớc Mỹ là một kết quả tất yếu. Ngày 4 tháng 7 năm 1776, Thomas
Jefferson khởi thảo “Tuyên ngôn độc lập”, tuyên bố nền độc lập, đánh dấu sự ra
đời của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ trên cơ sở 13 bang thuộc địa của Anh ở Bắc
Mỹ. Đồng thời, bản Tuyên ngôn độc lập đã xác lập cơ sở lý luận cho chế độ
chính trị - xã hội Mỹ, từ đây một thể chế kinh tế tƣ bản của nghĩa và một nền dân
chủ tƣ sản đƣợc xây dựng độc lập so với châu Âu.
Sau chiến tranh giành độc lập, năm 1783, nƣớc Mỹ và nƣớc Anh đã kí
hiệp ƣớc Versailles, nƣớc Mỹ trở thành nƣớc cộng hòa độc lập tƣ sản đầu tiên ở
châu Mỹ. Đi lên con đƣờng tƣ bản chủ nghĩa, Mỹ không trải qua lịch sử lâu dài
của chế độ phong kiến nên cũng không phải chịu những hậu quả nặng nề của chế
46
độ phong kiến. Do đó, giai cấp tƣ sản Mỹ đã dễ dàng khẳng định đƣợc địa vị
thống trị trong đời sống kinh tế và chính trị nƣớc Mỹ.
Nhƣ vậy, lịch sử nƣớc Mỹ rất đặc biệt, nó chỉ mất khoảng 300 năm từ khi
đƣợc phát hiện đến khi giành đƣợc độc lập cùng với bản Tuyên ngôn độc lập
năm 1776, để vƣợt qua quá trình hàng ngàn năm các nƣớc đại lục châu Âu đã đi
qua, trở thành một nƣớc tƣ bản chủ nghĩa. Những cƣ dân di cƣ chủ yếu từ châu
Âu đến nƣớc Mỹ, họ mang theo nền văn hóa truyền thống, thể chế chính trị - xã
hội và quan hệ sản xuất tiên tiến, làm cho nƣớc Mỹ từ xã hội công xã nguyên
thủy nhảy vọt qua xã hội chiếm hữu nô lệ và xã hội phong kiến, trải qua giai
đoạn thuộc địa ngắn để phát triển lên xã hội tƣ bản chủ nghĩa. Có thể nói, lịch sử
nƣớc Mỹ gắn với các cuộc di dân, cũng chính những cƣ dân di cƣ đã tạo ra sự
thay đổi và phát triển của nƣớc Mỹ: “Những ngƣời nhập cƣ đã đem lại cho nƣớc
Mỹ một sự đóng góp về nhân khẩu và kinh tế đặc biệt quan trọng. Bằng cách cƣ
trú ở biên giới, lập nghiệp ở các thành phố, cung cấp nhân lực chủ yếu cho công
nghiệp, họ đã đến Mỹ với nền văn hóa gốc của họ và đƣợc trang bị một tinh thần
thực dụng cao. Lịch sử di cƣ của nƣớc Mỹ không phải là một bản anh hùng ca
cũng chẳng phải là một cổ tích dân gian, đó là một lịch sử trƣớc hết in đậm chủ
nghĩa thực tế trƣớc cuộc sống hàng ngày” [80, tr. 174]. Cũng do điều kiện lịch sử
nhƣ vậy, ngƣời Mỹ cần một tƣ duy triết học phù hợp với tính đa quốc gia của
dân tộc Mỹ. Triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng nói riêng, hạt nhân của nó là đồng nhất chân lý với tính hiệu quả
ra đời ở nƣớc Mỹ không ngoài đòi hỏi khách quan đó của lịch sử.
Nƣớc Mỹ có điều kiện lịch sử rất đặc thù, điều đó đòi hỏi một tƣ duy triết
học phù hợp. Những điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội là mảnh đất hiện thực
cho sự hình thành triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý trong
triết học thực dụng nói riêng.
Chúng ta đều biết lịch sử nƣớc Mỹ không trải qua chế độ phong kiến, do
vậy so với các nƣớc châu Âu, chủ nghĩa tƣ bản ở Mỹ không gặp sự cản trở của
các thế lực phong kiến hùng mạnh nên phát triển rất thuận lợi, đồng thời giai cấp
47
tƣ sản ở Mỹ cũng có điều kiện phát triển hết khả năng của mình. Do đó, nƣớc
Mỹ đã sớm xây dựng đƣợc một thể chế kinh tế thị trƣờng tƣ bản chủ nghĩa một
cách thuần nhất và triệt để nhất.
Về kinh tế, nƣớc Mỹ đƣợc du nhập quan hệ sản xuất tƣ bản chủ nghĩa từ
châu Âu thông qua những ngƣời di cƣ, chủ yếu là ngƣời Anh, đó là quan hệ sản
xuất tiến bộ nhất lúc đó. Do vậy, nƣớc Mỹ có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế
chính là sự thừa hƣởng trọn vẹn thành tựu của phƣơng thức sản xuất tiến bộ
đƣơng thời ở châu Âu. Trong khi ở châu Âu, mặc dù phƣơng thức sản xuất
phong kiến đã lỗi thời, đã bị vƣợt qua nhƣng vẫn còn có những ảnh hƣởng, là rào
cản ở nhiều phƣơng diện trên con đƣờng phát triển, thì nƣớc Mỹ hầu nhƣ không
chịu bất cứ ảnh hƣởng nào từ phƣơng thức sản xuất này nên có điều kiện thuận
lợi để phát triển về kinh tế.
Đặc biệt, ở Mỹ, sau chiến tranh Nam - Bắc (1861 - 1865), đã xóa bỏ chế
độ nô lệ ở miền Nam, quét sạch rào cản, mở đƣờng cho chủ nghĩa tƣ bản phát
triển, giai cấp tƣ sản giành lấy chính quyền trong toàn liên bang. Những ngƣời
dân di cƣ đến Mỹ không chỉ mang theo thể chế kinh tế tiến bộ, mà còn mang đến
Mỹ khát vọng tự do, dân chủ đƣợc thể hiện bằng thể chế chính trị dân chủ tƣ sản.
Trên cơ sở kinh tế phát triển, nƣớc Mỹ không phải chịu bất cứ rào cản nào
của chế độ phong kiến làm cho chế độ dân chủ tƣ bản chủ nghĩa ở Mỹ cũng đƣợc
xây dựng hoàn bị nhất. Những nguyên tắc của thể chế đó đề cao chủ nghĩa tự do,
quyền tự do cá nhân, tinh thần độc lập, cho nên quan niệm về giá trị của chủ
nghĩa cá nhân ở đây đƣợc thể hiện một cách trực tiếp, phổ biến và sâu rộng. Một
nền dân chủ mà quyền lực thuộc về số đông đƣợc xây dựng, nhƣng không có
nghĩa là thủ tiêu yếu tố cá nhân mà có sự dung hòa, thậm chí tạo động lực cho sự
phát triển cá nhân. Khi con ngƣời không phải suy nghĩ đến quốc gia, quân chủ và
sự bó buộc của những lực lƣợng siêu nhiên khác, thì họ có thể tự do, năng động,
sáng tạo trong công việc để theo đuổi giá trị là sự hiệu quả, lợi ích và thành
công. Do đó, đặc trƣng của nền dân chủ theo đa số ở Mỹ là đề cao quyền tự do,
chủ nghĩa cá nhân và tinh thần độc lập.
Ở Mỹ, thể chế chính trị tƣ bản chủ nghĩa đƣợc xây dựng vững chắc,
ngày càng hoàn thiện, đồng thời với việc giai cấp tƣ sản coi trọng các tiến bộ
48
khoa học kỹ thuật đã tác dụng to lớn đến nền kinh tế - xã hội, nó thúc đẩy sự
phát triển kinh tế và sự phồn vinh của xã hội. Cùng với đó là nguồn tài
nguyên thiên nhiên phong phú, làm cho nền kinh tế Mỹ tăng trƣởng rất nhanh
chóng. Đến thập kỷ 90 của thế kỷ XIX, Mỹ đã trở thành một trong những
cƣờng quốc kinh tế trên thế giới.
Trong xã hội Mỹ, quan hệ xã hội giữa con ngƣời với con ngƣời, cá nhân
và xã hội, thậm chí quan hệ giữa con ngƣời và thƣợng đế ở mức độ nhất định
đều bị coi là hợp đồng mua bán, dựa trên cơ sở lợi ích. Ở đó, mỗi cá nhân dựa
trên nguyên tắc, có thể căn cứ vào niềm tin của mình mà hành động. Tƣ duy hiệu
quả của ngƣời Mỹ đƣợc hình thành từ chính lịch sử sinh tồn của ngƣời Mỹ ở lục
địa mới. Họ ý thức sâu sắc rằng mọi hành động đều tạo ra một hiệu quả nào đó,
đều phải có “giá trị tiền mặt”, chỉ hiệu quả mới có thể giúp ích cho sự tồn tại của
họ. Mục đích rõ ràng và xác định tính mục đích của mọi hành động là hiệu quả
đã trở thành thƣớc đo giá trị, sự thành công hay đó chính là chân lý. Với người
Mỹ, hiệu quả, cái có lợi, sự thành công, sự thỏa mãn là tiêu chuẩn của chân lý.
Nhà sử học ngƣời Mỹ là Comnager, một ngƣời sùng bái chủ nghĩa thực dụng
đã viết: “Chủ nghĩa thực dụng thực tiễn, dân chủ, cá nhân chủ nghĩa chan chứa
hy vọng, thật là thích hợp với tình hình ngƣời Mỹ hạng trung. Trên thực tế
ngƣời Mỹ bao giờ cũng là ngƣời theo chủ nghĩa công cụ… không lấy gì làm lạ
rằng mặc dù nhiều nhà triết học chửi bới và trách móc, chủ nghĩa thực dụng
vẫn đạt tới chỗ trở thành triết học hầu nhƣ chính thức của châu Mỹ” [78, tr.
277]. Nhận định này phần nào thể hiện sự khái quát về mối quan hệ giữa điều
kiện kinh tế xã hội với sự hình thành triết học thực dụng Mỹ nói chung và quan
niệm về chân lý nói riêng.
Chủ nghĩa tƣ bản đƣợc xác lập ở Mỹ mang đầy đủ bản chất xã hội đƣợc
cho là dân chủ và tự do, một thể chế chính trị về quyền con ngƣời cũng đƣợc
phát triển thuận lợi thúc đẩy sự phát triển kinh tế. Ngƣời Mỹ, gốc là những di
dân chủ yếu từ châu Âu lạc quan, cầu tiến, hơn hết có một nền văn hóa phong
phú đƣợc tổng hợp và hội tụ từ nhiều nền văn hóa truyền thống khác nhau.
Trong bối cảnh kinh tế, chính trị và xã hội thuận lợi, với những điều kiện “mở”
cho sự tiếp thu và phát triển, chủ nghĩa tƣ bản phát triển mạnh mẽ, làm cho
49
ngƣời Mỹ khao khát có một hệ tƣ tƣởng riêng, mới và tất nhiên là phù hợp để
thay thế cho mỗi cái riêng của từng dân tộc trong một quốc gia đƣợc gọi là Hợp
chủng quốc Hoa Kỳ.
Nhƣ vậy, hoàn cảnh sinh tồn và sự khao khát tự do của con ngƣời đã thai
nghén và sinh thành nền văn hóa Mỹ, triết học Mỹ, hệ thống lý luận đậm chất
Mỹ, trong đó triết học thực dụng là cốt lõi. Với ngƣời Mỹ, tƣ duy hiệu quả đƣợc
đặt lên hàng đầu, mọi hành động đều phải tạo ra hiệu quả nào đó, bởi chỉ có hiệu
quả mới giúp ích cho họ. Hiệu quả trở thành mục tiêu của hành động, là thƣớc đo
giá trị, cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Cái gì hữu dụng cái đó là chân lý, cái gì
là chân lý cái đó tất phải hữu dụng. Đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của
triết học thực dụng Mỹ.
2.2.2. Nền văn hóa Mỹ với sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học
thực dụng Mỹ
Nƣớc Mỹ là một quốc gia đƣợc gọi là Hợp chủng quốc Hoa Kỳ. Tên gọi
Hợp chủng quốc Hoa Kỳ cho chúng ta cái nhìn về một quốc gia đa sắc tộc, đa
tôn giáo, quy định một nền văn hóa đa dạng mang đậm chất Mỹ. Nền văn hóa đó
đòi hỏi con ngƣời phải hƣớng về một giá trị cốt lõi. Trên cơ sở nền văn hóa Mỹ
đã hình thành triết học Mỹ, trong đó, triết học thực dụng với nền tảng là quan
niệm về chân lý đã đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời Mỹ về giá trị cốt lõi đó.
Chúng ta đều biết rằng, nƣớc Mỹ là một dân tộc đƣợc hình thành do
những dòng ngƣời di cƣ từ các nƣớc trên thế giới, chủ yếu vẫn là ngƣời châu Âu.
Ở nƣớc Mỹ, chúng ta có thể bắt gặp bất kỳ một dân tộc nào, thành phần cƣ dân
đến Mỹ rất đa dạng, phong phú, tạo nên một quốc gia đa chủng tộc nhất thế giới.
Những ngƣời di cƣ đến Mỹ, họ bỏ lại đằng sau quá khứ, họ muốn nhìn về hiện
tại và tƣơng lai. Giải quyết những vấn đề nảy sinh của hiện tại, đồng thời là niềm
tin và khát vọng vào tƣơng lai đã thôi thúc những cƣ dân này nhận thức và hành
động. Câu hỏi đặt ra cho họ là cần cái gì và hành động dựa trên cơ sở nào? Họ
cần có niềm tin vững chắc và hành động theo niềm tin đó, tiêu chuẩn của hành
động chính là hiệu quả, lợi ích, sự thành công trong hành động thực tiễn. Đó cũng
là vấn đề đƣợc trả lời trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ.
Khi đến Mỹ, những cƣ dân di cƣ này mang theo văn hóa truyền thống từ
50
bản địa, do vậy, ngƣời ta thƣờng ví nƣớc Mỹ là một thế giới văn hóa thu nhỏ. Ở
một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa thì các loại văn hóa truyền thống đã hòa hợp
thành một nền văn hóa mới, đồng thời phủ định chính văn hóa truyền thống. Câu
hỏi lớn đặt ra là vì đâu một đất nƣớc với sự đa dạng của các nền văn hóa đƣợc
tạo nên từ cƣ dân “tứ chiếng” của nhiều dân tộc lại có đƣợc sự hòa hợp, tạo ra
động lực cho xã hội phát triển hƣng thịnh nhƣ vậy? Trả lời câu hỏi lớn đó cần
đƣợc nghiên cứu toàn diện với các góc độ về lịch sử, văn hóa, kinh tế, chính trị,
xã hội, … Trong bối cảnh đó, chỉ nền văn hóa nào phát huy tính hữu dụng với
đại lục mới thì mới đƣợc khẳng định, hiệu quả hay không hiệu quả, thành công
hay không thành công, có tác dụng hay không đƣợc coi là tiêu chuẩn của tƣ
tƣởng và hành động cho mọi ngƣời, bất kể họ thuộc về nền văn hóa truyền thống
nào. Đó cũng là quan niệm cơ bản về chân lý của triết học thực dụng Mỹ.
Một đất nƣớc đa sắc tộc, đa tôn giáo, thế nhƣng chúng ta có thể nhận thấy
nền văn hóa chủ đạo, có ảnh hƣởng lớn đến nƣớc Mỹ bắt nguồn từ những cƣ dân
di cƣ thuộc tầng lớp trung lƣu từ Tây Âu, theo đạo Tin lành, nói tiếng Anh.
Chính sự đàn áp khắc nghiệt đối với Thanh giáo (một biến thể của đạo Tin lành),
đã dẫn đến sự di cƣ ồ ạt của các tín đồ Thanh giáo từ Anh đến nƣớc Mỹ. Đồng
thời, cuộc khủng hoảng chính trị ở nƣớc Anh, làm cho phe quý tộc thất thế, phải
bỏ trốn khỏi quê hƣơng, họ là những ngƣời thuộc tầng lớp quý tộc giàu có về vật
chất. Mảnh đất mà họ đặt niềm tin là nƣớc Mỹ. Với tâm thế của kẻ trốn chạy,
một mặt họ phải đối mặt với những gian khổ, thách thức chƣa từng có ở một
vùng đất mới đầy hoang sơ, mặt khác họ không còn con đƣờng nào khác là phải
tiến về phía trƣớc. Với họ, vấn đề quan trọng không phải là những ƣớc muốn
viển vông, cái họ cần là giải quyết những nan đề của cuộc sống họ đang phải đối
mặt. Bởi thế, với họ, những triết lý trừu tƣợng, cao siêu là món ăn xa lạ, không
có điều gì quan tâm hơn là hiện tại và cách thức vƣợt qua nó để tiến lên phía
trƣớc. Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng đã đáp ứng nhu cầu của
ngƣời Mỹ và phù hợp với nền văn hóa Mỹ.
Có thể nói, nƣớc Mỹ đƣợc hình thành từ những cuộc di dân, chủ yếu từ
các nƣớc Tây Âu. Họ đã mang theo những giá trị của văn hóa truyền thống và
niềm tin của những ngƣời theo đạo Tin lành, với khát vọng tự do, bình đẳng, với
51
mong muốn thành công và thỏa mãn đời sống vật chất ngày càng cao. Chính
điều đó đã tạo nên một nền văn hóa rất đặc trƣng - văn hóa Mỹ. Hoàn cảnh lịch
sử đặc biệt của nƣớc Mỹ đã hun đúc nên tinh thần và tâm lý dân tộc Mỹ với nét
đặc thù là lạc quan và cầu tiến, tự lực, tự do hoạt động và hƣớng về phía trƣớc.
Tính cách dân tộc nổi bật của ngƣời Mỹ là chú ý đến thực tế, không ƣa lý luận tƣ
biện trừu tƣợng, do đó, triết học mà họ xây dựng là chủ nghĩa công cụ, coi cái gì
có tác dụng, có lợi là chân lý.
2.2.3. Tư tưởng triết học của bản Tuyên ngôn độc lập (Mỹ năm 1776) và ảnh
hưởng của nó đến quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
Có thể nói, tiền đề trƣớc tiên và quan trọng cho sự hình thành triết học
thực dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng chính là tƣ tƣởng
triết học của bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ.
Thật vậy, lịch sử nƣớc Mỹ có tính chất đặc thù. Với sự ra đời của Tuyên
ngôn độc lập năm 1776, nƣớc Mỹ đã tiến thẳng lên xã hội tƣ bản chủ nghĩa và
thừa hƣởng toàn bộ những thành tựu của nền văn minh nhân loại có đƣợc của
chế độ tƣ bản chủ nghĩa mà không phải trải qua chế độ chiếm hữu nô lệ và chế
độ phong kiến. Do đó, bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 có giá trị lớn về nhiều
mặt đối với nƣớc Mỹ và thế giới.
Cùng với Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của nƣớc Pháp năm 1789,
bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ đƣợc đánh giá là bản tuyên
ngôn tiến bộ nhất thế giới. Đây là một văn kiện lịch sử quan trọng bậc nhất của
nƣớc Mỹ và cũng là văn kiện thể hiện đậm nét tƣ tƣởng tiến bộ đƣơng thời. Sau
này, Chủ tịch Hồ Chí Minh có nhắc đến những tƣ tƣởng đó trong bản Tuyên
ngôn độc lập năm 1945 của nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tại quảng trƣờng
Ba Đình lịch sử. Trong bối cảnh quyền tự do, dân chủ đƣợc đề cao hơn bao giờ
hết ở Mỹ thì Tuyên ngôn độc lập năm 1776 là vũ khí lý luận soi đƣờng cho cuộc
cách mạng ở các thuộc địa Bắc Mỹ. Từ cơ sở lý luận của bản tuyên ngôn, đã trở
thành ngọn cờ tƣ tƣởng thúc đẩy sự hình thành và phát triển của triết học thực
dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng.
Thomas Jefferson (1743 - 1826) là ngƣời soạn thảo Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của nƣớc Mỹ, xác lập nền độc lập của 13 bang thuộc địa ở Bắc Mỹ.
52
Bản thân Jefferson sau này là Tổng thống thứ ba của Mỹ từ năm 1801 đến 1809,
là ngƣời chủ trƣơng đề cao tự do chính trị và tự do tôn giáo. Trong Tuyên ngôn
độc lập năm 1776, các quyền con ngƣời đƣợc dành cho vị trí hàng đầu: ““Tuyên
ngôn độc lập”” lần đầu tiên đã lấy cƣơng lĩnh chính trị đó xác lập nguyên tắc
cách mạng cho giai cấp tƣ sản - nguyên tắc nhân quyền” [121, tr. 16 - 17]. Nội
dung cơ bản của Tuyên ngôn khẳng định những quyền của con ngƣời, quyền tự
do, dân chủ, quyền thiết lập và bãi bỏ chính quyền khi nó đi ngƣợc lại với lợi ích
của quần chúng: “Chúng tôi cho rằng những sự thật sau đây là hiển nhiên, rằng
tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng, rằng tạo hóa cho ta những quyền không
ai có thể xâm phạm đƣợc; trong những quyền không ai có thể xâm phạm đƣợc,
có quyền đƣợc sống, quyền đƣợc tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc. Để đảm
bảo cho các quyền này, chính phủ nào cử lên đối nghịch với các mục đích trên
thì nhân dân có quyền thay đổi, hay phế bỏ rồi thiết lập một chính phủ mới, dựa
trên nền tảng những nguyên tắc nhƣ vậy. Tổ chức các quyền lực của mình theo
hình thức nào đó để cho các quyền lực đó có khả năng đảm bảo an ninh và hạnh
phúc cho họ nhiều nhất” [121, tr. 17 - 18]. Tƣ tƣởng về tự do, bình đẳng và vấn
đề bảo vệ các quyền, lợi ích của cá nhân đƣợc cho là chân lý hiển nhiên trong
bản Tuyên ngôn độc lập là cơ sở lý luận định hƣớng cho các trào lƣu triết học
Mỹ, đặc biệt là sự hình thành triết học thực dụng Mỹ, cũng nhƣ quan niệm về
chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 là văn kiện đánh dấu quá trình ra đời nhà
nƣớc, hơn thế nữa, Tuyên ngôn này “chính là chỗ dựa lớn về ý thức hệ của dân
tộc Mỹ” [31, tr. 23]. Với ngƣời Mỹ, bản Tuyên ngôn này là “chân lý tuyệt đối”.
Ở Mỹ, ngƣời ta tìm đến điểm tựa tinh thần bền vững trong những tƣ tƣởng của
Tuyên ngôn độc lập năm 1776, mà theo đó, những bộ môn khoa học nhƣ đạo
đức học, triết học xã hội, nhân học,… đều đƣợc khai thác từ đây, lấy nền tảng từ
đây. Tuyên ngôn độc lập này có giá trị trƣờng tồn, một sức sống lâu dài ở Mỹ.
Niềm tin của ngƣời Mỹ đặt vào những luận cƣơng trong bản Tuyên ngôn độc lập
này là niềm tin không hề lay chuyển. Tính cách và tôn chỉ sống của ngƣời Mỹ
đƣợc thể hiện trong bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 với giá trị cốt lõi là:
Chúng tôi tin tƣởng chắc chắn những sự thật sau đây tự nó đã là điều hiển nhiên,
53
rằng tất cả mọi ngƣời sinh ra đều bình đẳng; rằng Chúa đã cho họ những quyền
không ai có thể chối bỏ đƣợc; trong đó, có quyền sống, quyền tự do và quyền
mƣu cầu hạnh phúc. Một khía cạnh khác có thể thấy, những giá trị triết học trong
bản Tuyên ngôn này đã đi vào đời sống của các thế hệ ngƣời Mỹ một cách
không thể chối bỏ đƣợc rằng, quyền sống, quyền tự do của con ngƣời là tất yếu,
nó luôn vận động cùng với sự phát triển của xã hội, vì thế cũng sẽ không có một
nhà nƣớc nào đƣợc xây dựng theo hình ảnh của Chúa tồn tại mãi mãi - tất cả đều
phải đƣợc cải tạo và phát triển. Giá trị triết học căn bản của bản Tuyên ngôn độc
lập năm 1776 chính là tuyên ngôn về giá trị tự do của con ngƣời, sự tự do trong
quá trình cải tạo và phát triển theo xu hƣớng tiến bộ. Giá trị đó là sự phản ánh
đặc trƣng văn hóa, tính cách con ngƣời Mỹ và trở thành động lực kích thích
ngƣời Mỹ không ngừng hoàn thiện và tiến lên phía trƣớc. Trên cơ sở những luận
cƣơng trong bản Tuyên ngôn độc lập này, quan niệm về chân lý của triết học
thực dụng đƣợc hình thành và cụ thể hóa khi khẳng định rằng, mỗi ngƣời đều
bình đẳng về cơ hội và có quyền tự do theo đuổi chân lý của mình, miễn là điều
đó giúp con ngƣời có lợi, đƣợc thỏa mãn, thành công và hạnh phúc.
Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, mà nội dung cốt lõi là tƣ
tƣởng về tự do là kết quả của quá trình tìm kiến tự do của ngƣời châu Âu ở lục địa
mới, nhất là tự do về chính trị và tôn giáo. Nguyên tắc tự do, bình đẳng đã đƣợc
khẳng định ngay ở phần đầu của bản Tuyên ngôn độc lập này. Song, tƣ tƣởng tự
do, bình đẳng của ngƣời Mỹ khác nhiều so với tƣ tƣởng tự do, bình đẳng trong tƣ
tƣởng khai sáng của các nhà triết học châu Âu nhƣ Voltaire, Rousseau,... Ngƣời
châu Âu chú trọng sự bình đẳng về địa vị, tài sản, hƣởng thụ, còn ngƣời Mỹ chủ
yếu hiểu bình đẳng là bình đẳng về cơ hội. Bởi theo họ, ai cũng đƣợc xã hội tạo
cho cơ hội nhƣ nhau, song do khác về mức độ phấn đấu, năng lực, sở trƣờng nên
kết quả tất sẽ khác nhau. Đó là sự bình đẳng về điểm xuất phát chứ không phải
bình đẳng về kết quả; cho nên tất yếu họ chấp nhận bình đẳng có hàm chứa bất
bình đẳng. Ngƣời Mỹ không sợ phân hóa giàu nghèo, họ chấp nhận thực tế đó nhƣ
điều tất nhiên của cuộc sống; tài sản cá nhân đƣợc luật pháp bảo vệ. Đó là sự
khẳng định về quyền tự do, bình đẳng khác với ở nƣớc Anh nói riêng và ở châu
Âu lúc đó nói chung, khi họ nói về quyền tự do không có đẳng cấp. Bản Tuyên
54
ngôn độc lập đã xác định nguyên tắc lập nƣớc của chủ nghĩa tự do, đồng thời Hiến
pháp nƣớc Mỹ cũng quy định các quan hệ xã hội là tự do, dân chủ, nhân quyền và
bình đẳng của giai cấp tƣ sản. Tuyên ngôn độc lập năm 1776 là sự kết hợp giữa
triết học và chính trị, nội dung cốt lõi của bản Tuyên ngôn này cũng nhƣ Hiến
pháp nƣớc Mỹ là xác lập nền dân chủ, mà giá trị nền tảng là tƣ tƣởng tự do. Tôn
trọng quyền tự do - quyền thiêng liêng nhất và bất khả xâm phạm của con ngƣời là
điểm nổi bật trong bản Tuyên ngôn độc lập của nƣớc Mỹ, theo đó, trong quan
niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ khẳng định rằng, mỗi ngƣời đều có
chân lý của riêng mình, đều có quyền theo đuổi chân lý của mình nhƣ một mục
đích tự thân. Đó là cơ sở lý luận cho sự hình thành triết học thực dụng Mỹ nói
chung và quan niệm về chân lý của triết học thực dụng nói riêng.
Nhƣ vậy, đƣợc soi sáng từ cơ sở lý luận là tƣ tƣởng triết học của bản
Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, từ cuối thế kỷ XIX, ở nƣớc Mỹ đã
xuất hiện một cuộc vận động triết học đầy sáng tạo, có ý nghĩa sâu sắc, kết quả
của nó là sự ra đời của triết học thực dụng. Thời đại hoàng kim của triết học Mỹ
cũng bắt đầu từ đây và ghi dấu bằng sự phát triển của triết học thực dụng. Niềm
tin của ngƣời Mỹ vào những chân lý hiển nhiên trong bản Tuyên ngôn độc lập
này đã đƣợc cụ thể hóa trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ.
Quan niệm đó trở thành triết lý hành động thúc đẩy ngƣời Mỹ không ngừng lao
động, sáng tạo để ngày càng tạo ra nhiều hơn những giá trị vật chất và tinh thần,
bởi họ tin vào giá trị cốt lõi và hành động theo nó - hiệu quả thực tế, lợi ích trở
thành tiêu chuẩn của chân lý.
2.2.4. Tư tưởng đạo đức của Tin lành giáo và ảnh hưởng của nó đến quan
niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
Cùng với bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ, tƣ tƣởng đạo
đức của đạo Tin lành hay còn gọi là Tin lành giáo là tiền đề lý luận tiếp theo cho
sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
Ở Mỹ, tôn giáo phát triển khá đặc biệt, tôn giáo của ngƣời Mỹ cũng nhằm
một mục đích là đem lại hiệu quả và lợi ích cho con ngƣời, nhằm chống lại thế
giới quan máy móc, siêu hình đang ngự trị ở trời Âu. Giữa tôn giáo và nhà nƣớc
dù có sự tách biệt nhƣng chƣa bao giờ triệt để bởi lợi ích và giá trị của nó là
55
không xung đột. Nhà triết học tên tuổi, ngƣời đƣợc xem là “hiểu nƣớc Mỹ hơn
cả ngƣời Mỹ ” là Tocqueville (1805 - 1859) đã nhận định: “Ở Hoa Kỳ, tôn giáo
hòa vào với mọi thói quen mang tính dân tộc và mọi tình cảm đƣợc tổ quốc làm
nảy sinh ra; điều này đem lại cho tôn giáo một sức mạnh đặc biệt” [116, tr. 571].
Ông đi đến kết luận về tôn giáo ở Mỹ: “Đạo Ki Tô đã duy trì đƣợc một uy quyền
to lớn đối với đời sống tinh thần ngƣời Mỹ,… đạo Ki Tô không chỉ ngự trị nhƣ
một triết học đƣợc con ngƣời tiếp nhận sau khi đã xem xét nó kỹ lƣỡng, mà còn
nhƣ một tôn giáo đƣợc mọi ngƣời tin theo không bàn cãi gì hết” [116, tr. 571].
Nhận định này khẳng định tôn giáo giữ vai trò hết sức quan trọng trong đời sống
tinh thần ở Mỹ. Vì vậy, triết học gắn kết với tôn giáo để luận giải cho sự tồn tại
của các giáo lý tôn giáo; ngƣợc lại, tôn giáo có vai trò chi phối triết học. Ở Mỹ,
đạo Tin lành là tôn giáo phát triển mạnh nhất, giữ vai trò quan trọng nhất và có
ảnh hƣởng to lớn đến mọi mặt đời sống xã hội nƣớc Mỹ.
Nhìn lại lịch sử phát triển tôn giáo ở Mỹ, chúng ta thấy đặc trƣng của cƣ dân
Mỹ chủ yếu là ngƣời châu Âu, họ là những tín đồ của các tôn giáo, tín ngƣỡng khác
nhau và họ mang theo cả tôn giáo, tín ngƣỡng của mình khi di cƣ đến Mỹ. Có nhiều
nguyên nhân dẫn tới sự di cƣ đến Mỹ, một trong những nguyên nhân quan trọng đó
là vấn đề tôn giáo: “Đƣợc thúc đẩy bởi những mơ ƣớc gồm hai mặt: Cuộc săn đuổi,
đi tìm vàng và ý muốn truyền đạo cho những “kẻ man rợ” và tìm nơi ẩn náu cho tự
do tôn giáo” [30, tr. 8 - 9]. Vào thế kỷ XVII, phần lớn ngƣời dân di cƣ đến Mỹ là
ngƣời gốc Anh, theo đạo Tin lành thuộc tầng lớp trung lƣu. Tìm kiếm quyền tự do,
nhất là tự do tôn giáo đã bị bóp nghẹt ở châu Âu lúc đó đã trở thành động lực mạnh
mẽ cho làn sóng di cƣ của ngƣời Anh sang Mỹ. Cội nguồn của văn hóa Mỹ, đạo
đức và tính cách ngƣời Mỹ chịu sự chi phối của tầng lớp này và thứ văn hóa đặc
trƣng mà họ mang theo. Thậm chí, ngay cả những ngƣời không phải là tín đồ của
đạo Tin lành cũng bằng cách này hay cách khác tiếp cận và chịu ảnh hƣởng bởi
những giá trị của đạo Tin lành. Tôn giáo chủ đạo ở Mỹ cũng là đạo Tin lành, có thể
nói, xã hội Mỹ là một xã hội Tin lành. Vì vậy, không nói quá khi khẳng định những
giá trị đạo đức của đạo Tin lành là một trong số những thành tố cốt lõi của nền văn
hóa Mỹ, một nền văn hóa không ngừng đƣợc bổ sung, hoàn thiện và định hƣớng,
tạo thành tính cách của ngƣời Mỹ.
56
Có thể nói, đạo Tin lành và chủ nghĩa tƣ bản có mối liên hệ mật thiết với
nhau: “Đạo Tin lành và chủ nghĩa tƣ bản là đồng minh với nhau ngay từ đầu.
Những ƣu điểm và nhƣợc điểm của đạo Tin lành cũng giống nhƣ những đức tính
tốt và tật xấu của giai cấp trung lƣu… Với đạo Tin lành, sự giầu có, thịnh vƣợng
là điều mà Chúa mong đợi” [72, tr. 60 - 61]. Chính đạo Tin lành là một trong
những tiền đề quan trọng thúc đẩy sự hình thành và phát triển của chủ nghĩa tƣ
bản ở Mỹ. Một phần là vì nó đoạn tuyệt với xã hội và giáo hội thời trung cổ vốn
thiên về lối sống khắc kỉ. Đây là một phong trào chủ yếu thuộc về những tầng
lớp trung lƣu, coi hành động và hiệu quả của hành động là phƣơng tiện chắc
chắn đem lại sự thành công.
Triết học thực dụng nêu lên nguyên tắc “mở” với tất cả các trƣờng phái
triết học, với tất cả các nền văn hóa và cả tín ngƣỡng tôn giáo. Giai cấp tƣ sản
Mỹ có tín ngƣỡng tôn giáo, nhƣng họ cố gắng làm cho tôn giáo phù hợp với yêu
cầu lợi ích, với thành công của con ngƣời và tôn giáo cũng đồng hành với chủ
nghĩa thực dụng. Thậm chí, có quan điểm cho rằng, triết học thực dụng là sự
luận chứng cho đạo Tin lành với tƣ cách quốc giáo của Mỹ. Đó chính là nguyên
nhân quan trọng dẫn tới sự ra đời triết học thực dụng và làm cho nó chiếm vị trí
quan trọng ở Mỹ.
Đạo Tin lành xuất hiện gắn với tên tuổi của Martin Luther (1483 - 1546)
và John Calvin (1509 - 1564). Cuộc vận động tôn giáo của các ông với chủ
trƣơng kêu gọi mọi ngƣời chỉ nên tuân theo Kinh thánh. Các ông ra sức đấu
tranh chống lại Giáo hội Thiên chúa giáo, Luther nói: “Tôi không có lòng tin ở
Giáo hoàng, cũng chẳng tin ở duy nhất các Hội đồng giám mục… Tôi gắn bó
chặt chẽ với các văn bản Kinh thánh mà tôi đã trích dẫn, và lƣơng tâm tôi đã bị
những lời của Chúa thu giữ. Tôi không thể và cũng không muốn rút lại một lời
nào đã tuyên bố cả, vì cho rằng làm thế là không chín chắn và thiếu trung thực,
là hành động trái với lƣơng tâm” [dẫn theo: 7, tr. 9]. Cuộc vận động tôn giáo này
nhằm mục đích kêu gọi: Mọi tín đồ Tin lành đều là Giáo hoàng với Kinh thánh
cầm tay. Trên thực tế đạo Tin lành là sự kết hợp giữa tôn giáo và chính trị, ở Mỹ,
đạo Tin lành có nhiều giáo phái, nhƣng đều có chung một hệ giá trị và niềm tin
của ngƣời Mỹ. Giá trị nổi bật của nó là tinh thần tự lập, tự chịu trách nhiệm, ý
57
thức tự hoàn thiện mình của mỗi cá nhân, tiết kiệm, tự do cá nhân, thành công,
làm giàu bằng lao động sáng tạo. Do đó, ngƣời Mỹ luôn tích cực làm việc và
hoạt động để khẳng định và hoàn thiện mình. Có thể nói, đạo Tin lành ở Mỹ có
vai trò quan trọng cho sự hòa hợp sắc tộc, sự đồng thuận xã hội ở Mỹ, dựa trên
một niềm tin, một hệ giá trị chung. Chính niềm tin và hệ giá trị do Tin lành giáo
mang lại đã có tác dụng quy tụ những con ngƣời với những nền tảng văn hóa
truyền thống khác nhau lại thành một nền văn hóa mới - văn hóa Mỹ.
Tƣ tƣởng nổi bật của “Nền đạo đức Tin lành và tinh thần của chủ nghĩa tư
bản” là khẳng định vai trò của nhân tố tinh thần đối với sự phát triển của chủ
nghĩa tƣ bản. Nhân tố tinh thần đó chính là tƣ tƣởng đạo đức của Tin lành giáo.
M.Weber muốn chứng minh rằng, những quan niệm tôn giáo (ở đây là đạo Tin
lành) thực sự là một nhân tố có ảnh hƣởng quan trọng đối với kinh tế và do đó, là
một trong những nguyên nhân của những chuyển biến kinh tế của các xã hội.
Ông viết: “Nhƣ vậy công trình nghiên này có lẽ là một đóng góp khiêm tốn vào
việc cho thấy bằng cách nào các “ý tƣởng” trở thành những sức mạnh hữu hiệu
trong lịch sử. Để tránh mọi hiểu lầm về ý nghĩa mà ở đây chúng tôi gán cho một
sự hiện hữu nhƣ vậy từ các động lực thuần túy tƣ tƣởng” [131, tr. 159].
Một trong những giá trị đạo đức cơ bản của đạo Tin lành đƣợc thể hiện ở
tính cách ngƣời Mỹ, đó là sự đề cao con ngƣời cá nhân, hay chủ nghĩa cá nhân
của ngƣời Mỹ. Chúng ta đều biết, cuộc cải cách Giáo hội diễn ra ở châu Âu,
ngƣời châu Âu hoặc chấp nhận, hoặc bác bỏ “Sự cải cách của Đạo Tin lành”, thì
ở Mỹ, tinh thần cải cách đó đƣợc đón nhận một cách nồng nhiệt với những con
ngƣời mang trong mình tinh thần của sự cải cách. Tinh thần cải cách của đạo Tin
lành có sự phù hợp với tinh thần tự do, đề cao vai trò cá nhân của ngƣời Mỹ:
“Đạo Tin lành đã góp phần làm cho ngƣời Mỹ trở thành những ngƣời cá nhân
chủ nghĩa. Niềm tin của ngƣời Tin lành Mỹ đã kiến tạo niềm tin về thành công
và con ngƣời tự lập (self - made)” [72, tr. 18]. Tính cách nổi bật của ngƣời Mỹ,
hay có thể gọi là tính cách Mỹ là giá trị cá nhân, lấy con ngƣời cá nhân làm trung
tâm, hay chủ nghĩa cá nhân, tự do cá nhân. Từ con ngƣời cá nhân mà mỗi ngƣời
Mỹ đều hình thành những giá trị trong đời sống của mình. Tự do cá nhân đƣợc
coi là giá trị cơ bản nhất trong tất cả các giá trị của ngƣời Mỹ, chủ nghĩa cá nhân
58
đƣợc tôn thờ và dƣờng nhƣ với ngƣời Mỹ, nó là cái hiển nhiên. Hầu hết ngƣời
Mỹ đều mang hình ảnh sự độc lập, sự thành đạt không dựa vào ai ngoài cá nhân
mình, không ai có thể giúp đƣợc, cho nên con ngƣời phải theo lối đi do chính
mình đã lựa chọn. Mỗi cá nhân cần phải làm việc để đƣợc khẳng định bản thân:
“[tƣ duy khổ hạnh] lại đánh giá rất cao về mặt đạo đức đối với self - made man
[con ngƣời tự thành đạt] biết tiết độ, thuộc tầng lớp trung lƣu tƣ sản” [131, tr.
292]. Ở Mỹ, ngƣời ta phải nghĩ đến cá nhân nhƣ khởi đầu hiển nhiên của mọi
hoạt động, ở đó, sự cố gắng, nỗ lực, tinh thần cần cù, tiết kiệm của cá nhân là cái
quyết định sự thành công của con ngƣời: “Ngƣời Mỹ tin là việc một ngƣời thành
hay bại trong đời phụ thuộc rất nhiều vào tài năng và tính cách riêng của mình.
Ngƣời Mỹ tin rằng khi không có những tôn ti xã hội cứng nhắc, con ngƣời chính
là những gì họ đạt đƣợc” [72, tr. 18].
Đề cao chủ nghĩa cá nhân, đạo Tin lành đã hun đúc nên tính cách tự lập
của ngƣời Mỹ, họ là những “con ngƣời tự lập”. Giá trị nổi bật của con ngƣời tự
thân lập thân là ý thức tự chịu trách nhiệm, không ngừng hoàn thiện, tinh thần
vƣơn vƣợt của từng cá nhân. Tinh thần lạc quan, phấn đấu vƣơn lên không
ngừng là đặc điểm tính cách đƣợc bắt nguồn từ tinh thần thế tục hóa của đạo Tin
lành (nhằm vƣợt bỏ tinh thần giáo điều bằng sống chỉ dựa vào và tuân thủ các
giáo lý của Công giáo trung cổ). Những ngƣời di cƣ sang Mỹ mang theo “giấc
mơ Mỹ”, đó là niềm tin về sự giàu có. Trong khi các tôn giáo lớn khác đều đặt
niềm tin vào thế giới bên kia sau khi con ngƣời chết đi, không coi trọng đời sống
vật chất hiện tại thì đạo Tin lành ở Mỹ lại coi việc làm giàu chính đáng ở thế giới
hiện thực là con đƣờng dẫn lên Thiên Đàng: “Chúng ta không được cấm cản mọi
ngƣời chăm chỉ và tiết kiệm. Chúng ta phải khuyến khích mọi tín đồ Kitô giáo ra
sức kiếm tiền và ra sức tiết kiệm, nói khác đi, làm giàu” [131, tr. 319]. Chính
giáo lý của Tin lành giáo đã tạo cho ngƣời Mỹ niềm tin về một cuộc sống vật
chất sung túc ở trần thế, không có cách nào khác họ phải khẳng định mình bằng
hoạt động thực tiễn, bằng chính sức lao động của cá nhân. Ngƣời Mỹ không
ngừng lao động, họ thấy hạnh phúc, đƣợc thỏa mãn và đƣợc khẳng định, đƣợc
thừa nhận thông qua lao động. M. Weber cho rằng, chính thái độ đặc trƣng đối
59
với lao động chỉ có ở tinh thần của chủ nghĩa tƣ bản, một thái độ vốn chịu ảnh
hƣởng quyết định bởi nền đạo đức Tin lành. Thiên Chúa dạy: “Hãy lao động cần
cù trong nghề nghiệp của ngƣơi [Beruf]. Tuy nhiên, lao động còn là một cái gì
khác nữa và nhất là: lao động chính là mục đích tự thân của cuộc sống nói
chung, nhƣ Thiên Chúa đã định” [131, tr. 282]. Hình ảnh ngƣời Mỹ chăm chỉ,
tiết kiệm, cẩn thận, chú trọng đầu tƣ làm cho đồng tiền tiếp tục sinh lời đã trở
thành phổ biến ở Mỹ, đó cũng là giá trị truyền thống của đạo Tin lành: “Cái cốt
lõi của thứ “triết lý hà tiện” này … quan trọng hơn hết là ý tƣởng theo đó nghĩa
vụ của mỗi ngƣời là làm gia tăng số vốn của mình, và điều này đƣợc giả định
nhƣ là một mục đích tự thân” [131, tr. 91].
Theo giáo lý của đạo Tin Lành, những tín đồ không thể biết đƣợc là họ sẽ
đƣợc cứu độ hay bị kết án, điều đó làm cho họ lo âu và luôn cảm thấy tội lỗi
trong cuộc sống. Để giải thoát khỏi nỗi lo âu này, họ sẽ đi tìm trong thế giới hiện
thực những dấu hiệu chứng tỏ mình đƣợc tuyển. Weber cho rằng, đạo Tin lành
đã tìm ra chứng cứ đó là thành quả và sự nghiệp của con ngƣời trong thế giới
hiện thực, trong đó có sự thành công về mặt kinh tế: “Cách duy nhất để có một
cuộc sống đẹp lòng Thiên Chúa không phải là vƣợt lên trên nền luân lý thế
gian… mà chỉ là chu toàn bổn phận ngay trong thế gian tƣơng ứng với chức
phận mà cuộc sống dành cho mỗi ngƣời trong xã hội - chính vì thế mà các bổn
phận trở thành thiên chức [Beruf] của mỗi ngƣời [131, tr. 142 - 143]. Vì thế,
ngƣời Mỹ rất coi trọng giá trị của lao động, vị thế xã hội đƣợc quyết định bằng
hiệu quả của lao động.
Ngƣời Mỹ đƣợc coi là những ngƣời thực dụng, trong đó đạo Tin lành có
tác động lớn với việc hình thành tính thực dụng của ngƣời Mỹ. Một tôn giáo chú
trọng đời sống thế tục, chú trọng giá trị vật chất, xem đó là thƣớc đo của sự cứu
rỗi, không gì khác là sự cứu rỗi của Thƣợng đế về vật chất, càng giàu có càng
đƣợc cứu rỗi. Giáo lý của đạo Tin lành đề cao sự giàu có bằng sức lao động của
bản thân cá nhân, theo đuổi sự giàu có cũng chính là thực hiện ý Chúa: “Việc
đuổi theo sự giàu có nhƣ là cứu cánh tự thân, mà còn đồng thời xem sự giàu có
(thành quả của lao động nghề nghiệp) nhƣ là sự chúc phúc của Thiên Chúa”
60
[131, tr. 312]. Ngƣợc lại, nghèo đói là sự trừng phạt của Thƣợng đế dành cho kẻ
lƣời biếng. Ngƣời theo đạo Tin lành tin rằng chỉ cần chăm chỉ làm việc, đầu tƣ
để kiếm nhiều tiền một cách chính đáng thì sẽ đƣợc Thƣợng đế cứu độ: “Cái
thực sự đáng lên án, xét theo quan niệm đạo đức, chính là sự nghỉ ngơi trong
việc chiếm hữu, là việc hưởng thụ sự giàu sang cùng với các hậu quả của nó là:
sự ăn không ngồi dồi, các cám dỗ của xác thịt, nhất là nguy cơ không dùng hết
nghị lực để tìm cuộc sống “thánh thiện”… Không phải sự ăn không ngồi rồi lẫn
sự hƣởng thụ, mà chỉ có duy nhất sự hoạt động mới làm tăng thêm vinh quang
của Thiên Chúa, dựa theo các biểu lộ rõ ràng về ý muốn của Ngƣời. Do đó,
phung phí thời gian là tội đầu tiên, và về nguyên tắc, là tội nghiêm trọng nhất
trong các tội.” [131, tr. 275 - 276]. Nếu nhƣ đạo Công giáo cho rằng, Thƣợng đế
chỉ cứu rỗi con ngƣời thuần túy về tâm linh, thì đạo Tin lành lại tin rằng đó là cả
sự cứu rỗi về đời sống vật chất. Tính thực dụng của đạo Tin lành còn đƣợc thể
hiện là việc nhấn mạnh đời sống thực tế, chú trọng hành động thực tế, tạo ra hiệu
quả, sự thành công. Niềm tin không chỉ nằm ở ý thức con ngƣời, mà chủ yếu
đƣợc thể hiện trong hành động thực tế, kết quả của nó là thƣớc đo chính xác
nhất. Đó cũng là quan điểm cốt lõi về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ khi
đồng nhất chân lý với niềm tin thực dụng, với hiệu quả thực tế.
Nhƣ vậy, sự hình thành triết học thực dụng Mỹ nói chung, quan niệm về
chân lý nói riêng chịu ảnh hƣởng từ những tƣ tƣởng đạo đức, giáo lý của đạo Tin
lành. Đổi lại, triết học thực dụng Mỹ và quan niệm về chân lý nhằm luận chứng
trực tiếp cho tôn giáo này. Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ có
sự phù hợp một cách tự nhiên với những giá trị đạo đức của đạo Tin lành. Qua
đó, chúng ta thấy đƣợc vai trò, ảnh hƣởng của những giá trị đạo đức Tin lành
giáo tới sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Tin
lành giáo sở dĩ phù hợp với xã hội Mỹ, bởi vì đó chính là một xã hội đề cao tự
do, đề cao chủ nghĩa cá nhân, coi trọng hiệu quả thực tế, những ràng buộc xã hội
dựa trên mục đích là lợi ích cá nhân, con ngƣời tự do theo đuổi mục đích và hành
động theo mục đích đặt ra. Do đó, quan niệm về chân lý trong triết học thực
dụng kết hợp với đạo Tin lành trong xã hội Mỹ đã tạo nên sức sống bền vững,
đáp ứng nhu cầu của con ngƣời trong xã hội đƣơng thời đó.
61
2.2.5. Tiền đề triết học
Đối với bất cứ trào lƣu triết học nào, trong quá trình hình thành và phát
triển không thể không tiếp thu những giá trị tƣ tƣởng triết học của quá khứ.
Ngoài tiền đề lý luận là những tƣ tƣởng triết học trong bản Tuyên ngôn độc lập
năm 1776 của nƣớc Mỹ và tƣ tƣởng đạo đức của Tin lành giáo, triết học thực
dụng nói chung, quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này nói riêng,
đƣợc hình thành còn là sự kế thừa và chịu ảnh hƣởng trực tiếp của tiền đề triết
học. Các nhà triết học thực dụng đã viện dẫn từ tƣ tƣởng của những nhà triết học
cổ đại nhƣ Socrate, Protagoras, Plato đến những nhà triết học cận hiện đại nhƣ
F.Bacon, R. Descartes, B. Spinoza, J. Locke, G. Berkeley, D. Hume, I. Kant,
G.Hegel,… để xây dựng hệ thống triết học của mình.
Trƣớc hết, sự ra đời của triết học thực dụng nói chung và quan niệm về
chân lý nói riêng là sự kế thừa trên cơ sở phê phán truyền thống triết học duy lý
phƣơng Tây cận hiện đại - với tính cách nhƣ một phản đề. Tiêu biểu là sự phê
phán của C. Peirce đối với thuyết hoài nghi - một phƣơng pháp của chủ nghĩa
duy lý mà R. Descartes là ngƣời đặt nền móng xây dựng. Từ sự bác bỏ nguyên
tắc hoài nghi phổ biến của Descartes, ông đã xây dựng phƣơng pháp củng cố
niềm tin, chân lý với tính cách là niềm tin thực dụng.
Để khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa tƣ bản với chế độ phong kiến,
giai cấp tƣ sản đã đẩy mạnh phát triển các ngành khoa học tự nhiên, cùng với nó
là những phát minh đƣợc ứng dụng trong lĩnh vực sản xuất. Điều đó cũng ảnh
hƣởng không nhỏ đến chủ nghĩa duy lý thời cận hiện đại, với các đại biểu tiêu
biểu nhƣ Descartes, Spinoza và Leibniz. Với việc đề cao tƣ duy lý tính, đề cao tri
thức khoa học, coi đó là cội nguồn của chân lý, các nhà triết học duy lý đã có vai
trò to lớn trong việc xây dựng một hệ thống triết học duy lý nói riêng và phát
triển tƣ duy lý luận của nhân loại nói chung.
Quá trình hình thành và phát triển của chủ nghĩa duy lý cận đại thế kỷ
XVII - XVIII có sự ảnh hƣởng bởi triết học truyền thống. Họ có tham vọng xây
dựng triết học thành “khoa học của các khoa học”, là nền tảng của khoa học tự
nhiên, với cốt lõi là siêu hình học và nhận thức luận. Điều này làm cho nó không
tránh khỏi tính chất tƣ biện, siêu hình. Mặt khác, với việc quá đề cao lý tính, coi
62
đó có sức mạnh chi phối thực tiễn lại là một sự giáo điều, cực đoan. Mặc dù chủ
nghĩa duy lý cận đại thế kỷ XVII - XVIII có vai trò to lớn trong việc đấu tranh
chống lại triết học kinh viện, tƣ duy giáo điều, nhƣng cũng có những hạn chế
nhất định nhƣ chƣa thoát khỏi ảnh hƣởng của tôn giáo và triết học kinh viện, đặc
biệt là tính chất tƣ biện của nó khi giải thích thế giới.
Các nhà triết học thực dụng Mỹ đã nhận thấy những hạn chế của triết học
duy lý nói riêng và triết học Tây Âu truyền thống nói chung, mong muốn cải tạo
triết học, xây dựng một hệ thống triết học khác biệt với triết học truyền thống.
Trong khi hai lý thuyết nhận thức duy lý và duy nghiệm đối lập giữa tƣ duy với
hành động thì triết học thực dụng chủ trƣơng rằng, tƣ duy tham dự vào việc biến
đổi một tình huống thực tiễn. Bản thân C. Peirce, sau này là W. James đều khẳng
định triết học thực dụng với tƣ cách là một phƣơng pháp bác bỏ thuyết duy lý chủ
yếu vì “nó có tính chất giáo điều và tự phụ rằng nó có câu trả lời cuối cùng về thế
giới bằng những kết luận thƣờng không đả động gì tới các vấn đề đời sống. Ngƣợc
lại, thuyết thực dụng bám vào đời sống, từ chối cắt đứt tiến trình tƣ duy quá sớm,
lấy các gợi ý từ các sự kiện đã chứng minh của đời sống, sẵn sàng đi tiếp tới các
khái niệm mới về mục đích mỗi khi nó phát hiện những khía cạnh sâu xa hơn của
cảm xúc và sự mong đợi của con ngƣời” [38, tr. 264]. Các khái niệm duy lý chỉ có
giá trị khi nó đem lại hiệu quả thực tế, có tác dụng, có ích lợi, giúp con ngƣời hành
động cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả, thành công. Hiệu quả thực tế, hiệu quả có ích
đƣợc xem là tiêu chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng.
Chủ nghĩa duy lý phƣơng Tây thế kỷ XVII - XVIII là một xu hƣớng tích cực
đấu tranh chống lại triết học kinh viện, giáo điều, phản khoa học, hậu thuẫn cho sự
phát triển của nền khoa học mới đƣợc xây dựng trên một tƣ duy lý luận có tính phê
phán. Triết học duy lý thể hiện thế giới quan của giai cấp tƣ sản đang lên, gắn với
sự phát triển và khẳng định sự thắng thế của chủ nghĩa tƣ bản thế kỷ XVII - XVIII.
R.Descartes là ngƣời đặt nền móng cho chủ nghĩa duy lý phƣơng Tây cận hiện đại.
Cuộc cách mạng về tƣ tƣởng đƣợc ông thực hiện với nhiệm vụ phải phá bỏ những
định kiến vô căn cứ để có thể xây dựng nền tảng triết học và khoa học vững chắc
bắt nguồn từ lý trí, từ tri thức khoa học. Chủ nghĩa duy lý cận đại của Decartes đã
đề cao lý tính của con ngƣời, coi đó là cái để thay thế thực thể tinh thần siêu nhiên
63
trong triết học kinh viện thời Trung cổ. Với việc đề cao lý tính, đề cao vai trò tích
cực của con ngƣời, coi con ngƣời là trung tâm, mọi hoạt động của con ngƣời đƣợc
chỉ đạo bởi lý tính, ông xác lập luận đề Tôi tư duy, vậy tôi tồn tại: “Tóm lại nghi
ngờ rằng tất cả chỉ là ảo tƣởng hay sai lạc, nhƣng còn một điều mà tôi không thể có
chút nghi ngờ, đó là Tôi suy nghĩ (tư duy). Nghi ngờ chính là suy nghĩ, và tất yếu tôi
[ngƣời suy nghĩ] phải là cái gì đó; và nhận ra rằng chân lý này, tôi suy nghĩ, vậy thì
tôi tồn tại [cogito ergo sum]… kết luận này, tôi suy nghĩ, vậy thì tôi tồn tại, là điều
đầu tiên và chắc chắn nhất trong mọi điều nảy sinh cho ai làm triết học một cách có
trật tự” [106, tr. 196]. Xuất phát điểm của luận đề đó là sự nghi ngờ tất cả và tất
nhiên ta thấy Thƣợng đế với tƣ cách tồn tại tối cao tuyệt đối bị nghi ngờ từ phƣơng
diện triết học, bởi một tồn tại khác vốn chƣa bao giờ có đƣợc vị trí xứng đáng - tồn
tại “tôi tƣ duy”. Theo Descartes, chính những hoài nghi là phƣơng tiện để đạt tới
chân lý. Tồn tại đó hay lý tính của con ngƣời chính là chân lý tối cao, tiêu chuẩn của
nó chính là bản thân sự rõ ràng và phân biệt của trí khôn, ông khẳng định: “Lý do
để mệnh đề tôi suy nghĩ, vậy thì tôi tồn tại đúng chỉ đơn giản là vì nó rõ ràng và
phân biệt trong trí khôn tôi” [106, tr. 198]. Quan niệm của ông thực sự tạo ra cuộc
cách mạng về tƣ tƣởng, mở ra sự phát triển của chủ nghĩa duy lý cận hiện đại, giải
phóng lý tính con ngƣời khỏi những rào cản của chủ nghĩa kinh viện thời Trung cổ.
R. Descartes đƣợc coi là “ngƣời cha của chủ nghĩa duy lý cận đại” [106,
tr. 192]. Hầu hết các nhà triết học phƣơng Tây cận hiện đại đều xuất phát từ
Descartes để đƣa ra lý luận riêng của mình, khi họ cần xây dựng một hệ thống tri
thức tuyệt đối, hoàn chỉnh, xác định, đáng tin cậy thì đa phần đều đi theo con
đƣờng, phƣơng pháp mà Descartes đã đƣa ra. Vì vậy, các nhà triết học thực
dụng, nhất là C. Peirce - ngƣời sáng lập triết học thực dụng, lấy việc phê phán
triết học truyền thống Descartes làm điểm xuất phát cho việc nghiên cứu triết
học của mình. Sự phê phán của Peirce đối với Descartes tập trung vào sự phê
phán thuyết hoài nghi tuyệt đối của Descartes, từ đó ông khẳng định trong nhận
thức không chỉ có hoài nghi mà cần có niềm tin, chân lý với tính cách là niềm tin
vững chắc. Đồng thời, ông cũng phủ nhận tri thức tuyệt đối, đáng tin cậy, không
thể hoài nghi theo quan niệm của Descartes, bởi suy cho cùng tri thức đó vẫn
thuộc về bản thân con ngƣời, không thể lấy cái chủ quan làm thƣớc đo cho tính
64
đúng đắn của chính nó. Peirce muốn từ đây cải biến triết học truyền thống thành
triết học thực tiễn, nhấn mạnh thực tiễn: “Peirce thay thế sự hoài nghi kiểu
Descartes bằng sự hoài nghi thực tế của nhà bác học, thay thế trực giác chủ quan,
riêng đối với những tƣ tƣởng rõ ràng và rành mạch, bằng sự thực nghiệm khách
quan công khai đối với những tƣ tƣởng giả định” [113, tr. 6]. Vì thế, sự phê phán
của Peirce đối với Descartes cũng có ý nghĩa nhƣ là sự phê phán đối với toàn bộ
truyền thống triết học duy lý tây Âu Cận đại.
C. Peirce xây dựng lý thuyết có thể sai (faillibilism), cho rằng mọi kết luận,
niềm tin rút ra từ việc sử dụng phƣơng pháp khoa học đều có thể phát sinh sai lầm,
cho nên luôn trong quá trình không ngừng xem xét lại và hiệu chỉnh thƣờng
xuyên. Theo đó, ông nhấn mạnh, một số chân lý đã xác định thƣờng đƣợc thay đổi
đáng kể, mọi giả thuyết đƣợc gọi là chân lý đều phải đƣợc hiệu chỉnh liên tục, mọi
niềm tin xác định đều mang tính tƣơng đối so với chứng cứ, với việc phát hiện ra
chứng cứ mới thì niềm tin cũng phải thay đổi. Ông đƣa ra thuyết có thể sai để
khẳng định không có chân lý tuyệt đối, mọi chân lý đều mang tính tƣơng đối.
Đồng thời, Peirce cũng phê phán tính tƣ biện, giáo điều của triết học Descartes nói
riêng và triết học duy lý phƣơng Tây Cận đại nói chung.
Bắt đầu từ thời Cận đại, trong triết học phƣơng Tây xuất hiện hai khuynh
hƣớng đối lập nhau và thống trị trong thời kỳ này, đó là chủ nghĩa duy lý và chủ
nghĩa duy nghiệm. Đại biểu nổi tiếng nhất của chủ nghĩa duy lý là Descartes,
ông coi trọng sức mạnh của lý tính và coi lý tính là tiêu chuẩn của chân lý. Chủ
nghĩa duy lý tách lý tính khỏi kinh nghiệm, cảm giác, tuyệt đối hóa những khái
niệm trừu tƣợng, làm cho những khái niệm trở nên trừu tƣợng, trống rỗng, mang
tính chất tƣ biện, giáo điều. Trong khi đó, chủ nghĩa duy nghiệm cho rằng kinh
nghiệm cảm tính là nguồn gốc duy nhất của tri thức mà không thấy đƣợc vai trò
của lý luận, tƣ tƣởng, khái niệm khoa học. Chủ nghĩa duy lý đặt ra cho mình
nhiệm vụ đạt tới tri thức tuyệt đối, tới các chân lý phổ biến. Thực tế, khoa học và
kinh nghiệm hiện thực lại thƣờng chỉ ra tính chất giáo điều và ảo tƣởng trong
những luận điểm của chủ nghĩa duy lý. Cùng với sự phát triển của khoa học, đã
làm phá sản tính chất tƣ biện và mong muốn xây dựng triết học thành “khoa học
của mọi khoa học" của chủ nghĩa duy lý.
65
Triết học thực dụng xuất hiện cuối thế kỷ XIX, trong bối cảnh cuộc đấu
tranh giữa hai khuynh hƣớng tƣ tƣởng diễn ra gay gắt. Một bên là thuyết duy
nghiệm, với sự luận chứng bằng thuyết Tiến hóa của Darwin, từ đó ảnh hƣởng
đến quan niệm triết học với cách nhìn thế giới một cách máy móc và sinh học.
Còn một bên đối lập là thuyết duy lý của Descartes, là chủ nghĩa duy tâm siêu
nghiệm của Kant, chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Hegel, chủ nghĩa duy tâm của
phái Hegel mới. Giữa hai khuynh hƣớng đối lập này là sự phê phán lẫn nhau.
Trên quan điểm khoa học thì triết học duy lý và duy tâm là không đáng tin cậy,
thiếu chứng cứ khoa học. Ngƣợc lại, với thuyết duy lý và duy tâm thì khoa học
dƣờng nhƣ là mối đe dọa các khía cạnh nhân tính của con ngƣời, các đức tin đạo
đức, tôn giáo. Trong bối cảnh đó, các nhà triết học thực dụng đặt ra mục tiêu là
xác định lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học, đó thực chất chính là cách để hòa
giải và kết hợp những giá trị của hai khuynh hƣớng duy nghiệm và duy lý. Triết
học thực dụng khẳng định, chấp nhận một lý thuyết này hay một lý thuyết khác
sẽ tạo ra sự khác biệt nào? Trả lời câu hỏi này, triết học thực dụng đi đến lý giải
quan niệm thực dụng về chân lý đƣợc biểu hiện ở cách thức mà tƣ duy thể hiện
trong hành động. Với các nhà triết học thực dụng, cái quan trọng là tƣ duy kết
thúc bằng hành động, đạt đƣợc mục đích là hiệu quả.
Hơn thế nữa, trong bối cảnh xã hội nƣớc Mỹ lúc bấy giờ, những con
ngƣời đã rời bỏ châu Âu đến Mỹ đều mang theo tính cách đặc trƣng là ghét tính
bảo thủ, giáo điều và không thích chủ nghĩa sùng bái. Họ đến vùng đất mới với
mong muốn đổi thay và đều hiểu rằng ai ai cũng có cơ hội nhƣ nhau, nên chỉ có
thể sống bằng những nghị lực, năng lực, phẩm chất của chính bản thân chứ
không thể trông chờ vào một phép màu nào cả. Niềm tin vào sự thành công là cơ
sở cho hoạt động thực tiễn, nhƣng quan trọng là phải biết xác định mục tiêu và
động lực của hành động thực tế, đó là hiệu quả mà họ thu đƣợc. Vì lẽ đó mà tính
chất siêu hình, trừu tƣợng, tƣ biện, tính tuyệt đối vốn là đặc trƣng cơ bản của
triết học duy lý phƣơng Tây Cận đại là cái gì đó hết sức xa lạ, không thiết thực,
không hữu dụng đối với ngƣời Mỹ và xã hội Mỹ.
Ngay từ đầu, các nhà triết học thực dụng Mỹ đã xác định mục đích của triết
học là trung gian hóa, hòa giải và kết hợp giữa hai truyền thống, hai khuynh
66
hƣớng tƣ tƣởng đối lập của thế kỷ XIX. Giữa hai truyền thống này có một vực
thẳm ngày càng rộng. Nhƣng các nhà triết học thực dụng đƣa ra kết luận rằng, các
tranh luận về Thƣợng đế, cái thiện, ý chí tự do và các vấn đề tƣơng tự phải đƣợc
tiếp cận bằng một quan điểm khác với quan điểm duy lý. Quan điểm này đƣợc các
nhà thực dụng trả lời bằng việc đặt ra câu hỏi: Chấp nhận một lý thuyết này thay
vì một lý thuyết khác sẽ tạo ra sự khác biệt nào, có đem lại hiệu quả, lợi ích, sự
thành công nhƣ dự tính hay không? Với câu hỏi này, triết học thực dụng cố gắng
điều hòa những mâu thuẫn, sự đối lập của các khuynh hƣớng triết học, thậm chí
điều hòa cả những mâu thuẫn giữa thế giới quan khoa học và thế giới quan tôn
giáo, đƣa mọi ngƣời đến một phƣơng châm trong suy nghĩ và hành động mà đích
đến là hiệu quả thực tế. Sự phê phán triết học duy lý phƣơng Tây Cận đại có thể lý
giải từ chính bối cảnh xã hội nƣớc Mỹ lúc bấy giờ, một xã hội “ít quan tâm đến
triết học”, đó là triết học kinh viện, siêu hình, không giải quyết đƣợc những vấn đề
của cuộc sống. Ngƣời Mỹ không chấp nhận những lý thuyết suông, có tính chất tƣ
biện, giáo điều, theo đó tƣ tƣởng, khái niệm chỉ có ý nghĩa khi nó đem lại những
hiệu quả có ích cho con ngƣời, đó mới là chân lý.
Sự hình thành triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý còn
là sự kế thừa triết học I. Kant (1724 - 1804) - ngƣời đƣợc đánh giá là một trong
những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tƣ tƣởng phƣơng Tây. Triết học
Kant là nền tảng và điểm xuất phát của triết học Đức nói riêng và triết học
phƣơng Tây hiện đại nói chung. Trong đó đạo đức học của Kant có ảnh hƣởng
lớn tới các nhà triết học thực dụng.
Theo Kant, để xác định bản chất con ngƣời, nhiệm vụ trung tâm của triết
học là giải quyết các vấn đề: Tôi có thể biết cái gì? Tôi cần phải làm gì? Tôi có
thể hi vọng cái gì? Ba vấn đề mà con ngƣời trăn trở đó, trong đó mục đích cuối
cùng là thuộc về đạo đức. Vì vậy, theo ông, cần có sự phân biệt giữa con ngƣời
đạo đức tự do và con ngƣời lệ thuộc, bởi dẫn dắt con ngƣời có hai loại lý tính.
Nếu con ngƣời hoạt động theo lý tính thuần túy sẽ dẫn con ngƣời đến những suy
tính lạnh lùng, trong đó sự tính toán, vụ lợi có thể dẫn con ngƣời tới hành động
phi đạo đức, hành động theo sự ràng buộc duy lý làm con ngƣời bị lệ thuộc. Còn
hành động đƣợc dẫn dắt bằng lý tính thực tiễn sẽ không có sự tính toán, hành
67
động là do sự mách bảo của lƣơng tâm, của bản tính thiện, cho nên là hành động
có đạo đức.
Theo Kant, nguyên tắc cơ bản của các hoạt động đạo đức là tuân theo
“mệnh lệnh tuyệt đối”, mỗi con ngƣời cần hành động tới mức tối đa sao cho điều
đó đƣợc đƣa vào cơ sở lập pháp phổ biến: “Nguyên tắc duy nhất của luân lý là ở
trong sự độc lập đối với mọi chất liệu của quy luật (tức với một đối tƣợng của
ham muốn), và ở trong việc quy định sự tự do lựa chọn bằng hình thức đơn
thuần của sự ban bố quy luật phổ biến, nhờ đó châm ngôn của nó phải có đƣợc
năng lực ấy. Sự độc lập này chính là Tự do theo nghĩa tiêu cực; còn sự tự ban bố
quy luật của lý tính thuần túy, và, với tƣ cách ấy, của lý tính thực hành là sự Tự
do theo nghĩa tích cực” [71, tr. 60]. Các nguyên tắc đạo đức là cơ sở để con
ngƣời nhận thức về tự do, nhờ các nguyên tắc đạo đức dẫn dắt chúng ta hoàn
toàn có thể nhận thức về tự do của chính bản thân mình: “chính quy luật luân lý
đƣợc ta ý thức một cách trực tiếp (khi ta đề ra cho ta các châm ngôn của ý chí)
mới là cái đầu tiên xuất hiện ra cho ta và trực tiếp dẫn ta đi đến khái niệm về tự
do” [71, tr. 55]; “sự Tự do và quy luật thực hành vô - điều kiện hàm ngụ lẫn
nhau một cách tƣơng hỗ” [71, tr. 54].
Vấn đề mục đích của hành động mà Kant nêu ra có ảnh hƣởng lớn tới
quan điểm của các nhà triết học thực dụng. Các nguyên tắc đạo đức mà ông nêu
ra có ý nghĩa quan trọng đối với quan điểm của triết học thực dụng, cũng nhƣ
quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Trong đó kết quả của hành
động trở thành thƣớc đo của chân lý.
Phạm trù trung tâm trong đạo đức học Kant là “Tự do”, phạm trù này
đƣợc hiểu trên một số khía cạnh sau:
Thứ nhất, tự do là khả năng tiên nghiệm đặc biệt cho phép giác tính hoạt
động độc lập với quy luật tất yếu của tự nhiên trong lĩnh vực hiện tƣợng luận: “Khái
niệm về tính nhân quả xét nhƣ là sự tất yếu tự nhiên đối lập lại với tính nhân quả xét
nhƣ là sự Tự do chỉ liên quan đến sự hiện hữu của những sự vật trong chừng mực
sự hiện hữu ấy là có thể xác định đƣợc ở trong thời gian” [71, tr. 168].
Thứ hai, tự do tồn tại tƣơng đối trong lĩnh vực hiện tƣợng luận, nơi mà
mọi cái đều diễn ra một cách tất yếu: “Sự tất yếu của Tự nhiên vốn không thể
68
cộng tồn với sự Tự do của chủ thể chỉ thuộc về những thuộc tính của sự vật phục
tùng những điều kiện thời gian, do đó, chỉ thuộc về những thuộc tính của chủ thể
hành động xét nhƣ một hiện tƣợng” [71, tr. 172].
Thứ ba, tự do thuộc lĩnh vực “Vật tự thân”. Nếu nhƣ trong lĩnh vực hiện
tƣợng luận, tự do chỉ là tƣơng đối thì trong lĩnh vực “vật tự thân” là thế giới của
tự do: “Xem sự hiện hữu của sự vật, trong chừng mực nó có thể đƣợc xác định ở
trong thời gian và vì thế, cá tính nhân quả dựa theo quy luật của sự tất yếu tự
nhiên nhƣ là chỉ thuộc về hiện tƣợng, còn gán cho sự Tự do cho cùng một hữu
thể ấy nhƣng với tƣ cách là một Vật - tự thân” [71, tr. 169].
Đối với Kant, trong thế giới “Vật tự thân” con ngƣời hoàn toàn tự do đối
với các quy luật tự nhiên, tự coi mình là mục đích của chính mình, tự do của
mình là cao quý nhất trên thế gian. Quan điểm này đƣợc các nhà triết học thực
dụng vận dụng một cách có chọn lọc. Nếu nhƣ Kant xem tự do là lý tƣởng đạo
đức của nhân loại, thì triết học thực dụng coi tự do là lý tƣởng đạo đức cao nhất
của bản thân, phục vụ lợi ích của bản thân và gạt bỏ khỏi con đƣờng mình đi tất
cả những yếu tố có thể ảnh hƣởng đến mục đích của họ. Sự phát triển quan điểm
về tự do của triết học thực dụng còn thể hiện ở chỗ cần phải làm cho quyền dân
chủ tự do của cá nhân phục tùng sự điều khiển của xã hội, chống lại sự tuyệt đối
hóa tự do cá nhân, đặt cá nhân lên trên xã hội. Trên cơ sở kế thừa tƣ tƣởng triết
học của Kant, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng đƣợc hình thành ở
Mỹ, một quốc gia rất xem trọng biểu tƣợng “tự do” và đã trở thành ánh hào
quang trong triết học Mỹ. Khẩu hiệu tự do đƣợc đƣa vào triết học thực dụng nhƣ
là sự khuyến khích con ngƣời dấn thân hành động nhằm đạt hiệu quả, lợi ích,
thành công. Đó cũng là quan niệm cốt lõi về chân lý của triết học thực dụng.
Có thể nói, trong các trào lƣu triết học phƣơng Tây hiện đại, triết học thực
dụng chịu ảnh hƣởng nhiều nhất từ triết học I. Kant, trong đó C. Peirce là nhà
triết học thực dụng chịu ảnh hƣởng lớn nhất. Ông cố gắng xây dựng hệ thống lý
luận thống nhất, rộng rãi trên cơ sở kế thừa truyền thống của chủ nghĩa kinh
nghiệm Anh từ Hume, nhƣng lại tiếp thu triết học cổ điển Đức, đặc biệt là chủ
nghĩa duy tâm tiên nghiệm của Kant. Trong tác phẩm “Phê phán lý tính thuần
túy”, Kant nêu ra vấn đề về mối quan hệ giữa ý kiến, tri thức và tín ngƣỡng
69
(niềm tin). Ông cho rằng, con ngƣời nhìn chung căn cứ vào niềm tin mà hành
động, nhƣng thƣờng xảy ra tình trạng là chúng ta không có đƣợc tri thức thật sự,
trong khi vấn đề lại khá quan trọng, không thể dựa vào ý kiến để giải quyết, khi
đó cần xác định niềm tin. Ông gọi niềm tin ngẫu nhiên tạo nên phƣơng pháp sử
dụng trong hành động thực tế là niềm tin thực dụng, ở triết học Kant, “thực
dụng” đồng nghĩa với “kinh nghiệm”. Ông phân biệt “thực dụng” và “thực tiễn”,
thực dụng biểu hiện quy tắc kỹ xảo và kỹ thuật, những quy tắc này thích hợp với
kinh nghiệm, cần thiết hành động và kiểm nghiệm thực nghiệm; thực tiễn đƣợc
hiểu là luật đạo đức tiên nghiệm, ngƣời ta không thể dựa vào bất kỳ thực nghiệm
và hành động nào để biểu thị niềm tin. C. Pierce đã xuất phát từ “niềm tin thực
dụng” và sự phân biệt “thực dụng” với “thực tiễn” của Kant để xây dựng lý
thuyết triết học thực dụng, đặc biệt là “lý luận thăm dò - hoài nghi - niềm tin”.
Còn W. James dựa vào sự phản bác một cách kiên quyết chủ nghĩa duy
tâm trong triết học Kant và chủ nghĩa Kant mới để xây dựng lý thuyết thực dụng
của mình: “Khƣớc từ bóng ma của cái tuyệt đối, theo James, chủ nghĩa đa
nguyên “xua đuổi kẻ đại phá hủy thực tại”, thuyết chủ trí của triết học tuyệt đối
hậu Kant” [65, tr. 189]. Trong khi đó, sự ảnh hƣởng của triết học Kant đến
J.Dewey là sự tiếp nhận có sửa chữa và mang dấu ấn riêng, đặc biệt là tƣ tƣởng
tự do, dân chủ. Ngay trong luận án tiến sĩ của ông mang tên “Tâm lý học Kant”,
cũng đủ thấy J.Dewey nghiên cứu rất sâu về triết học Kant, do đó, ảnh hƣởng
của triết học Kant đến ông là rất lớn.
Đồng thời, chúng ta cũng phải kể tới sự kế thừa chủ nghĩa Hegel mới
trong triết học thực dụng. Bắt nguồn từ G.W.F. Hegel (1770 - 1831), nhà biện
chứng lỗi lạc ngƣời Đức, chủ nghĩa Hegel mới là một trào lƣu triết học duy tâm
xuất hiện vào cuối thế kỷ XIX ở Anh và Mỹ, đến nửa đầu thế kỷ XX, phong trào
“Phục hƣng Hegel” đã ảnh hƣởng mạnh đến các nƣớc Đức và Italia. Những
ngƣời theo chủ nghĩa Hegel mới, thông qua nghiên cứu một số mặt trong tƣ
tƣởng của Hegel để chứng minh cho lý luận của mình.
Chủ nghĩa Hegel mới núp dƣới phong trào “phục hƣng Hegel” đã nhấn
mạnh quyền tự do cá nhân, coi đây là điểm xuất phát để xây dựng bộ máy nhà
nƣớc. Vì thế, nó đã đáp ứng đƣợc nhu cầu của giai cấp tƣ sản cầm quyền. Với tƣ
70
tƣởng cốt lõi nhƣ trên, chủ nghĩa Hegel mới có ảnh hƣởng rất lớn tới sự ra đời
của triết học thực dụng, cũng nhƣ những tƣ tƣởng cơ bản về dân chủ, tự do, về
nhà nƣớc, về mối quan hệ xã hội, về chân lý,… Do đó, chủ nghĩa Hegel mới
đƣợc xem là nhân tố triết học cơ bản cho sự hình thành quan niệm về chân lý
trong triết học thực dụng.
Học thuyết Hegel mới ảnh hƣởng lớn tới sự hình thành và phát triển của
triết học thực dụng Mỹ. Phong trào làm sống lại Hegel ở Mỹ đƣợc bắt đầu với
tên tuổi của William Torrey Harris (1835 -1909) và H.C. Brochmeyer (1826 -
1906). Họ là những ngƣời sáng lập ra “Trƣờng phái Saint Louis”. Ngoài ra, còn
phải kể đến nhiều ngƣời dân di cƣ từ Đức đến Mỹ. Họ chú trọng nghiên cứu,
dịch và giới thiệu các tác phẩm chủ nghĩa duy tâm tuyệt đối của Đức, nhất là
triết học của Hegel. W.T. Harris là ngƣời sáng lập “Tạp chí triết học tƣ biện”,
ông cho rằng: “Hegel là ngƣời thầy lớn làm cho ngƣời Mỹ am hiểu một số nhà
triết học vĩ đại” [9, tr. 75]. Ở đây đã diễn ra các cuộc tranh luận gay gắt để tán
thành chủ trƣơng “triết học trừu tƣợng” và phƣơng pháp tƣ biện, chống lại chủ
nghĩa duy nghiệm, chủ nghĩa thực chứng và thuyết bất khả tri. Họ cho rằng:
“Thông qua lý tính, ngƣời ta có thể nhận đƣợc tri thức rất chuẩn và tuyên truyền
cho chủ nghĩa Hegel đã nêu lên một thế giới quan toàn diện, trƣớc sau đều thống
nhất và thích hợp cho luân lý học, tôn giáo học, nghệ thuật, chính trị, luật pháp
và giáo dục” [9, tr. 75]. Có thể thấy, thông qua “trƣờng phái Saint Louis” mà ở
Mỹ, ngƣời ta biết đến triết học Hegel và không lấy gì làm lạ khi ở Mỹ, một đất
nƣớc ít bận tâm đến triết học thì triết học Hegel lại có ảnh hƣởng rất lớn đối với
các trƣờng phái triết học ở Mỹ sau này, trong đó có chủ nghĩa thực dụng.
Hình thức điển hình của chủ nghĩa Hegel mới ở Mỹ do Josiah Roiyce và
James Edwim Creighton nêu lên vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX. Đến
những năm 70 của thế kỷ XIX, C. Peirce và W. James cùng một số ngƣời khác
đã sáng lập ra “Câu lạc bộ siêu hình học”. Sở dĩ có tên nhƣ vậy, theo Peirce, là
để “xa lánh mọi ngƣời mà nó cần tránh xa”, về thực chất là nhằm diễn tả vấn đề
quan trọng là chủ nghĩa duy tâm khách quan của Hegel vốn một thời đã thống trị
trong triết học thì đến nay đã hết vai trò lịch sử, cần phải nhƣờng chỗ cho những
71
học thuyết triết học mới. Chính nhờ nghiên cứu những tài liệu của chủ nghĩa
Hegel mới, các nhà triết học thực dụng đã rút ra những kết luận mang tính bƣớc
ngoặt, là cơ sở để xây dựng học thuyết triết học của mình.
Ảnh hƣởng của Hegel tới C.Peirce rõ nhất ở những phạm trù lôgíc đƣợc
ông xây dựng giống nhƣ chính đề, phản đề và hợp đề trong triết học của Hegel:
“Chúng là ba “vƣơng quốc thực tại” khác nhau, hay “vũ trụ kinh nghiệm” [31, tr.
103]. Còn W. James thấy mình phải chống lại Hegel: “Sự tiêu khiển lớn nhất của
tôi là chống lại sự thâm nhập của Hegel vào Harvard” [31, tr. 110]. Trong quan
niệm về tôn giáo của ông cũng tỏ rõ lập trƣờng chống Hegel ở chủ nghĩa vô thần,
chủ nghĩa vô thần đƣợc James trình bày nhƣ là phi duy lý chống lại cái lý trí là cái
A priori (cái tiên thiên). J. Dewey bắt đầu đến với triết học qua đọc và chịu ảnh
hƣởng rất nhiều từ sách báo của “Trƣờng phái Saint Louis”. Năm 1884, Dewey
dạy triết học ở Trƣờng đại học Michigan, tƣ tƣởng của Hegel đã ảnh hƣởng nhiều
đến ông: “Ông muốn vứt bỏ toàn bộ lôgíc hình thức. Chỉ có Hegel với phép biện
chứng mới thỏa mãn đƣợc điều đó. Ông ghét cay ghét đắng mọi quan niệm thuần
túy hình thức và tĩnh tại, bởi vậy ảnh hƣởng của Hegel đã làm ông thích thú tính
hữu cơ và năng động của tƣ duy” [31, tr. 127 - 128]. Sau này, trên cơ sở kế thừa
và tiếp thu những tƣ tƣởng trong hệ thống triết học của Hegel, đặc biệt là lý luận
về nhà nƣớc pháp quyền, Dewey đã xây dựng hệ thống triết học của mình.
Có thể nói, triết học thực dụng là một trƣờng phái triết học thể hiện sự cố
gắng đi tìm giải pháp cho những cuộc tranh luận triết học. Họ muốn vƣợt lên sự
đối lập giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, giữa khoa học và tôn giáo,
giữa tƣ tƣởng và hành động, nhằm biện minh hay cung cấp nền tảng cho tƣ duy
lý thuyết, chỉ cần tƣ duy kết thúc bằng hành động đạt đƣợc hiệu quả nào đó. Trên
cơ sở kế thừa truyền thống của triết học phƣơng Tây, tiêu biểu là tƣ tƣởng triết
học của Descartes, Kant, chủ nghĩa Hegel mới, coi đây nhƣ những phản tiền đề,
bằng việc phê phán tƣ tƣởng của các nhà triết học truyền thống, các nhà triết học
thực dụng đã xây dựng hệ thống quan điểm triết học của mình. Họ khẳng định,
thực dụng chính là phương thức tư duy trong hành động, đích đến của tư duy là
hiệu quả thực tế, tính có ích và sự thành công trong hành động. Đây cũng là
quan điểm nền tảng của lý thuyết về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
72
Nhƣ vậy, chính điều kiện lịch sử, kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của
nƣớc Mỹ đã trở thành mảnh đất hiện thực cho sự hình thành, phát triển triết học
thực dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói
riêng. Nƣớc Mỹ với điều kiện tự nhiên vô cùng thuận lợi, cùng với nó là những thay
đổi xã hội từ khi hình thành đến khi mang tên gọi Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, đã tạo
nên con đƣờng phát triển không giống bất kỳ quốc gia nào trên thế giới mà đi theo
hƣớng dân chủ hóa, tự do hóa đời sống xã hội. Sự khác biệt về tự nhiên, cùng với sự
khác biệt xã hội phần nào dự báo cho sự ra đời của một trƣờng phái triết học mang
đặc trƣng của nƣớc Mỹ, khác biệt so với triết học của lục địa già. Trân mảnh đất
hiện thực đó, các nhà triết học thực dụng đã kế thừa, tiếp thu những tiền đề lý luận
để xây dựng hệ thống triết học thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý nói
riêng. Nền triết học đó chủ trƣơng xác định lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học là
không đi vào những vấn đề của triết học truyền thống, mang tính trừu tƣợng mà chú
trọng đến những vấn đề cụ thể, mang lại lợi ích, hiệu quả thiết thực cho con ngƣời.
Với điều kiện và hoàn cảnh nhƣ trên, đặt ra nhiệm vụ chủ yếu cho triết học Mỹ là
phải luận giải, chứng minh lợi ích cá nhân của con ngƣời, triết học thực dụng dựa
trên tôn chỉ đó đã hình thành và phát triển mạnh mẽ ở Mỹ. Trong hệ thống các
trƣờng phái triết học có mặt tại Mỹ nhƣ: triết học phân tích, triết học khoa học,
trƣờng phái lịch sử, chủ nghĩa Freud mới, chủ nghĩa hiện thực mới, chủ nghĩa nhân
vị, chủ nghĩa tự do, v.v… thì triết học thực dụng đƣợc xem là nét đặc trƣng của văn
hóa Mỹ, tính cách ngƣời Mỹ. Trong bối cảnh đó, triết học thực dụng trở thành món
ăn tinh thần phổ biến và đƣợc ƣa chuộng của ngƣời Mỹ. Do vậy, khi nhắc đến triết
học thực dụng là chúng ta nghĩ ngay đến nƣớc Mỹ và khi nói đến nƣớc Mỹ là chúng
ta cũng nghĩ ngay đến triết học thực dụng. Sở dĩ triết học thực dụng có ảnh hƣởng
sâu rộng đến nƣớc Mỹ chính là việc nó giải quyết vấn đề chân lý phù hợp với quốc
gia đa văn hóa đậm chất Mỹ, khi coi chân lý là cái đem lại hiệu quả, lợi ích và sự
thành công của con ngƣời.
2.3. Nhân tố chủ quan cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng Mỹ
Để thấu hiểu vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, chúng ta cần
phải nắm bắt khái quát lịch sử của trào lƣu triết học này qua các đại diện tiêu
73
biểu của nó, tƣ tƣởng của họ về chân lý, với tính cách là những nhân tố chủ quan
cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
2.3.1. Charles Sanders Peirce
Charles Sanders Peirce (1839 - 1914) là nhà triết học, lôgíc học, toán học
và tự nhiên học. Nhƣng trên hết, ông đƣợc thừa nhận là người sáng lập triết học
thực dụng Mỹ. Theo bộ Encyclopae Britannica, C. Peirce “đƣợc thừa nhận là một
trí tuệ độc đáo nhất và đa năng nhất mà nƣớc Mỹ sản sinh đƣợc cho đến giờ”
[89, tr. 237].
C. Peirce sinh ra và lớn lên ở bang Massachusetts nƣớc Mỹ trong một gia
đình trí thức, cha ông là một giáo sƣ toán học có tên tuổi ở Đại học Harvard.
Năm 1855, ông học tại Đại học Harvard, năm 1858 tốt nghiệp ngành toán học và
khoa học của trƣờng. Từ năm 1861, ông làm việc tại Cục Quản lý Bờ biển và
Trắc địa Mỹ. Cũng trong thời gian này, ông kiêm nhiệm công tác giảng dạy về
lôgíc học, về lịch sử khoa học tại Đại học Harvard (1864 - 1865, 1869 - 1871) và
Đại học Johns Hopkins (1879 - 1884). Từ năm 1877, ông đƣợc bầu làm thành
viên của Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Mỹ, sau đó là Viện sỹ Viện Hàn
lâm Khoa học Quốc gia.
Trong suốt thời gian hơn năm mƣơi năm say mê với công việc nghiên cứu
khoa học và giảng dạy, C. Peirce đã có đƣợc nhiều thành tựu xuất sắc không chỉ
trên lĩnh vực triết học, lôgíc học, tôn giáo học mà cả trên các lĩnh vực khoa học
tự nhiên, nhƣ toán học, vật lý học, hóa học, trắc địa học và lịch sử khoa học. Ông
còn có những cống hiến nhất định trong lĩnh vực tâm lý học, tội phạm học, Ai
Cập học, lịch sử cổ đại,... Tuy có nhiều cống hiến nhƣ vậy nhƣng khi còn sống,
tài năng trên nhiều lĩnh vực của ông lại chƣa đƣợc giới học thuật thừa nhận, mọi
cố gắng và nỗ lực nghiên cứu khoa học của ông cũng chỉ giúp ông xuất bản đƣợc
một tác phẩm khi còn sống - Về vật lý học vũ trụ. Ngay cả yêu cầu chính đáng
của ông là đƣợc giảng dạy chính thức tại các trƣờng đại học cũng không đƣợc
chấp nhận. Khó khăn trong tìm kiếm việc làm để đáp ứng nhu cầu cuộc sống đã
không thể ngăn cản nổi việc ông say sƣa với sáng tạo lý luận. Những ngƣời láng
giềng sống cạnh ông xem ông nhƣ một con ngƣời kỳ quặc, khác thƣờng và gọi
74
ông là “Giáo sƣ Peirce”, mặc dù chƣa bao giờ ông là giáo sƣ. Ông mất năm 1914
vì căn bệnh ung thƣ.
Sau khi C. Peirce qua đời, đầu những năm 20 của thế kỷ XX, di sản lý
luận của ông, bao gồm các bản thảo và bản nháp viết tay, mới lần lƣợt đƣợc xuất
bản. Năm 1923, Tuyển tập triết học của ông đƣợc xuất bản, tập thứ nhất của
tuyển tập này có tên gọi Cơ hội, tình yêu và logic, từ năm 1931 đến năm 1935,
Đại học Harvard cho xuất bản Tập luận văn của Peirce gồm 6 tập và vào năm
1958 xuất bản tiếp tập 7 và tập 8.
Ngay sau khi đƣợc xuất bản, các công trình của C. Peirce đã thu hút sự quan
tâm của đông đảo ngƣời đọc trong giới học thuật Mỹ. Nhờ đó uy tín của ông ở Mỹ
ngày càng tăng và bản thân ông cũng đã đƣợc tôn vinh là ngƣời sáng lập chủ nghĩa
thực dụng Mỹ. Những luận giải, phân tích của ông về lôgíc quan hệ, ký hiệu học, về
chân lý, về nghĩa đã đƣợc các nhà chủ nghĩa kinh nghiệm lôgíc, triết học phân tích,
ngữ nghĩa học, những ngƣời theo chủ nghĩa thực tại và thậm chí cả những nhà hiện
tƣợng học đề cao và coi ông là ngƣời đi tiên phong trong lĩnh vực của mình. Những
thành tựu của ông về khoa học tự nhiên đƣợc giới khoa học tán đồng. Sự công nhận
đó của giới học thuật Mỹ đã làm cho Peirce trở thành một trong những ngƣời nổi
tiếng nhất của giới học thuật Mỹ, thậm chí có ngƣời còn gọi ông là nhà triết học lớn
nhất, độc đáo nhất của nƣớc Mỹ. W. James đã coi ông là nhà tƣ tƣởng Mỹ độc đáo
của thời đại và cùng với những ngƣời đƣơng thời nhƣ Emerson, Royce, Dewey,
Santayana,… Peirce đƣợc coi là ngƣời đã mang lại vinh quang cho nƣớc Mỹ trên
lĩnh vực tƣ tƣởng, lý luận.
C. Peirce là nhà tƣ tƣởng lớn trên nhiều lĩnh vực, song trong tƣ tƣởng của
ông cũng chứa đựng nhiều mâu thuẫn, điều này đã tạo nên những cuộc tranh luận
sôi nổi trong giới học thuật Mỹ, mà ở đó, nhiều ý kiến đánh giá khác nhau đã đƣợc
đƣa ra. Bản thân Ông cũng nhận ra điều này và đã cố gắng tìm cách giải quyết mâu
thuẫn đó trong quá trình phân tích và luận giải thực tiễn nhận thức của chủ thể, mà
với việc phóng đại, đề cao quá mức yếu tố chủ quan trong nhận thức đã đƣa ông tới
chỗ sáng lập một trào lƣu triết học mới - triết học thực dụng. Ông cũng nhận thấy
những mâu thuẫn trong tƣ tƣởng của mình và do vậy, trong những năm cuối đời,
75
ông đã cố gắng để xây dựng một hệ thống lý luận thống nhất, rộng rãi nhƣng bệnh
tật đã không cho phép ông hoàn thành mục tiêu này.
Về cống hiến của C. Peirce trong lịch sử tƣ tƣởng triết học nhân loại.
Peirce đƣợc thừa nhận là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng nhƣng chính ông
lại không phải là ngƣời thực dụng chủ nghĩa một cách triệt để. Trƣớc thập niên
70 của thế kỷ XIX, ông chỉ chuyên tâm nghiên cứu về lôgíc quan hệ. Khi đó, tƣ
tƣởng của ông thể hiện rõ khuynh hƣớng chống chủ nghĩa duy lý và bản thân
ông cũng chƣa trở thành nhà thực dụng chủ nghĩa. Tƣ tƣởng triết học thực dụng
chỉ đƣợc ông đƣa ra vào những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX. Năm
1872, ông đƣa ra khái niệm “chủ nghĩa thực dụng” và trình bày những tƣ tƣởng
cơ bản, chủ yếu của mình về chủ nghĩa thực dụng trong báo cáo khoa học đọc tại
“Câu lạc bộ siêu hình” thuộc Đại học Harvard. Ông là ngƣời đầu tiên đƣa ra
châm ngôn của chủ nghĩa thực dụng khi giải thích nghĩa của khái niệm là toàn bộ
những hiệu quả thực tế, nguyên tắc Peirce hay nguyên tắc của triết học thực
dụng là cơ sở để xây dựng quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này.
Theo đó, nghĩa của khái niệm đƣợc thể hiện ở những kết quả thực tế thông qua
hành động của con ngƣời. Do đó, chân lý là toàn bộ hiệu quả thực tế đối với mục
đích của con ngƣời. Chân lý là hiệu quả thực tế, là thành công trong hành động,
giúp con người đạt đến mục đích đặt ra.
Từ những năm cuối thập niên 80 của thế kỷ XIX, ông chủ yếu dồn sức cho
việc xây dựng một hệ thống triết học rộng rãi với dự định đƣa vào đó cả vấn đề bản
thể luận, nhƣng ông đã không hoàn thành. Cho nên, về cơ bản, sự phát triển thêm
này không thống nhất với tƣ tƣởng triết học thực dụng mà ông đã đƣa ra từ những
năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX và nó cũng không hoàn toàn đồng nhất với tƣ
tƣởng của các nhà triết học thực dụng sau ông. Chính vì thế, vào những năm đầu thế
kỷ XX, ông nhận thấy việc cần phải tách riêng chủ nghĩa thực dụng của mình với
chủ nghĩa thực dụng của W. James, của F.C. Schiller - đại diện cho trào lƣu của triết
học thực dụng Anh, thậm chí với cả J. Dewey. Do vậy, khi nghiên cứu tƣ tƣởng triết
học của Peirce, cần phải có sự luận giải chuyên biệt về những tƣ tƣởng này chứ
không nên quy giản một cách đơn thuần về chủ nghĩa thực dụng.
76
C. Peirce thừa nhận rằng, triết học thực dụng của ông chỉ là một phƣơng
pháp phát hiện nghĩa của từ ngữ và khái niệm trừu tƣợng. Ông còn nhiều lần khẳng
định rằng, cái quan tâm chủ yếu của ông là làm cho tƣ tƣởng và khái niệm mà con
ngƣời đƣa ra có đƣợc kỹ xảo và phƣơng pháp rõ ràng. Vì thế, ông muốn xây dựng
triết học thực dụng của mình thành một loại lôgíc khoa học hay phƣơng pháp luận
khoa học để phân tích nghĩa của từ, của khái niệm, tƣ tƣởng hay nghĩa của ký hiệu
và biến chúng thành phƣơng tiện để củng cố niềm tin, phƣơng thức sử dụng hành
động để đạt đến mục đích. Phƣơng thức để củng cố niềm tin và vấn đề đạt đƣợc
niềm tin vững chắc trên cơ sở làm cho khái niệm, tƣ tƣởng trở nên rõ ràng đã trở
thành bộ phận cấu thành chủ yếu trong triết học thực dụng của Peirce. Do đó, chân
lý đạt đƣợc là sự loại bỏ hoài nghi đạt tới niềm tin; hay chân lý là niềm tin vững
chắc. Việc củng cố niềm tin cũng tức là giúp con ngƣời hành động một cách hiệu
quả, thành công, đạt mục đích đặt ra, đó là niềm tin thực dụng.
Triết học thực dụng của C. Peirce tuy không phải là một hệ thống triết học
hoàn chỉnh, nhƣng những tƣ tƣởng thực dụng chủ nghĩa mà ông đƣa ra vào
những năm đầu thập niên 70 của thế kỷ XIX đã thực sự trở thành cơ sở lý luận
cho sự ra đời của triết học thực dụng Mỹ và do đó, ông xứng đáng đƣợc tôn vinh
là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực dụng Mỹ - một trào lƣu triết học có ảnh hƣởng
lớn không chỉ trong thế kỷ XX, mà còn cho đến cả hiện nay. Đồng thời, Peirce
cũng là người đặt nền móng cho quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng
Mỹ. Nói tới triết học thực dụng chúng ta không thể không nói tới quan niệm về
chân lý của trƣờng phái triết học này, làm rõ quan niệm về chân lý trong triết học
thực dụng cũng tức là làm rõ bản chất của triết học thực dụng mà Peirce là ngƣời
đặt nền móng.
2.3.2. William James
William James (1842 - 1910) là nhà triết học và nhà tâm lý học ngƣời Mỹ.
Ông học ở Ðại học New York và ở châu Âu, ông tốt nghiệp Y khoa tại Ðại học
Harvard (1869), ở đây ông bắt đầu dạy về khoa giải phẫu và sinh lý học (1873). Từ
năm 1875, ông giảng dạy tâm lý học, năm 1876 làm phó giáo sƣ sinh lý học, năm
77
1879 bắt đầu giảng dạy triết học, năm 1880 làm phó giáo sƣ triết học, năm 1885
đƣợc đề bạt là giáo sƣ triết học. Các tác phẩm chính của ông gồm có The Principles
of Psychology (Những nguyên lý của tâm lý học, 1890), The Will to Believe (Ý chí
để tin, 1897), The Varieties of Religious Experience (Tính đa dạng của kinh nghiệm
tôn giáo, 1902), Pragmatism (Chủ nghĩa thực dụng, 1907), v.v…
Trên cơ sở những tƣ tƣởng của C. Peirce, W. James đã kế thừa, hệ thống hóa
triết học thực dụng, ông chính là ngƣời truyền bá triết học thực dụng của Peirce vào
đời sống, làm cho nƣớc Mỹ biết đến Peirce với tƣ cách là ngƣời sáng lập triết học
thực dụng. Công lao của W. James là phát triển những nguyên tắc phƣơng pháp
luận triết học thực dụng của Peirce thành hệ thống, đồng thời dùng nó để phân tích
những vấn đề cụ thể. Ông đã biến tƣ tƣởng triết học thực dụng của Peirce thành
khái niệm mang tính cơ sở, nền tảng của triết học thực dụng.
Từ năm 1889, trong những bài giảng của mình, W. James đã trình bày tƣ
tƣởng của C. Peirce, trong bài “Khái niệm triết học với hiệu quả thực tế”, ông
nhấn mạnh: “Đều có thể tiếp tục đƣa nghĩa thực tế của bất kỳ mệnh đề triết học
nào đến kết quả đặc biệt nhất định nào đó trong kinh nghiệm thực tế tƣơng lai
của chúng ta - bất kỳ nó là tích cực hay tiêu cực. Vấn đề là, nói trên sự thực cần
phải tích cực không bằng nói kinh nghiệm cần phải dựa trên thực tế đặc biệt nhất
định” [dẫn theo: 9, tr. 82]. Sau đó, lần lƣợt trong các công trình: “Từ điển triết
học tâm lý học của Baonơ”, “Chủ nghĩa thực dụng”, “Một số vấn đề của triết
học”, W. James đã tiến hành chú giải, trình bày, bình luận về học thuyết triết học
thực dụng của C. Peirce. Về luận thuyết của chủ nghĩa thực dụng đƣợc ông
khẳng định: “Toàn bộ “nghĩa” của một khái niệm đƣợc thể hiện qua hiệu quả
thực tế, hoặc là kết quả đƣợc biểu hiện trong hình thức hành động cần đƣợc chấp
nhận, hoặc là kết quả đƣợc biểu hiện trong hình thức kinh nghiệm có thể chờ đợi,
nếu khái niệm này là chân thật” [dẫn theo: 9, tr. 83]. Hay, “Khi chúng ta suy nghĩ
về sự vật, nếu muốn hiểu nó hoàn toàn rõ ràng, chỉ cần suy nghĩ nó có thể hàm
chứa hiệu quả thực tế gì, tức chúng ta sẽ có đƣợc cảm giác gì từ sự vật ấy, chúng
ta cần phải chuẩn bị những phản ứng gì. Chúng ta có đầy đủ khái niệm về những
hiệu quả bất kỳ trƣớc mắt hay xa vời” [dẫn theo: 9, tr. 83]. Vấn đề về nghĩa đƣợc
78
khẳng định trong triết học thực dụng: “Quy tắc của chủ nghĩa thực dụng là: Về
nghĩa của một khái niệm, nếu không tìm đƣợc từ trong sự việc có thể cảm giác
đƣợc nào đó do khái niệm ấy trực tiếp chỉ ra, đều có thể tìm đƣợc trong sự khác
biệt của một loại đặc thù do tính chân thật của khái niệm tạo nên trong quá trình
kinh nghiệm của con ngƣời” [dẫn theo: 9, tr. 84]. (Toàn bộ từ “ý nghĩa” trong bản
dịch của tác giả dùng, theo nghiên cứu sinh nên dịch và thay là từ “nghĩa”).
Từ các tƣ tƣởng của C. Peirce, ngƣời cho rằng nghĩa của khái niệm, tƣ
tƣởng thể hiện ở tổng số hiệu quả thực tế mà quan niệm đó tạo ra, W. James xây
dựng chủ nghĩa thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng. Theo
James, chúng ta phải xác định chân lý của mệnh đề trong bất cứ hệ thống triết học
nào tƣơng ứng với các kết quả thực nghiệm và qua các hiệu quả thực tế của nó. Do
đó, chủ nghĩa thực dụng bác bỏ bất cứ nghĩa biểu tƣợng siêu hình nào của tƣ
tƣởng và cũng bác bỏ mọi phƣơng pháp đƣợc giả định là sẽ dẫn tới chân lý qua
phép loại suy từ những cơ sở tiên nghiệm. Triết học thực dụng khẳng định rằng,
chân lý bị hiệu chỉnh khi nó vừa đƣợc phát hiện và chân lý thì thay đổi nên nó chỉ
có giá trị tƣơng đối theo thời gian, nơi chốn và mục đích.
Lý luận của triết học thực dụng đƣợc W. James triển khai tổng quát và cụ
thể hóa từ tƣ tƣởng của C. Peirce. Tuy vậy, về nguyên tắc, tƣ tƣởng triết học
thực dụng của Peirce và James cũng có sự phân biệt: Peirce nhấn mạnh cái
chung, trong khi đó James coi trọng cái cá biệt. Peirce nhấn mạnh các khái niệm
trong kinh nghiệm của con ngƣời đem lại “hiệu quả” thực tế, là “hiện tƣợng thực
nghiệm có thể tƣởng tƣợng đƣợc”, ở đây là kinh nghiệm thông qua thực nghiệm
và khái quát khoa học. Khía cạnh ông quan tâm là mối quan hệ giữa kinh nghiệm
của một chủng loại nhất định chứ không phải là phản ứng của cá nhân, còn
James nhấn mạnh kinh nghiệm của con ngƣời, kinh nghiệm trong đời sống cá
nhân. Sự khác nhau trong cách trình bày về triết học thực dụng giữa Peirce và
James phản ánh sự kế thừa và phát triển của James, vai trò của ông là đã phát
triển triết học thực dụng từ những nguyên tắc phƣơng pháp luận còn mang tính
trừu tƣợng của Peirce thành một hệ thống lý luận tƣơng đối hệ thống của triết
học thực dụng. Theo đó, trong quan niệm về chân lý, James đã cụ thể hóa quan
79
niệm của Peirce khi khẳng định tư tưởng là hữu ích, vì nó chân thực hay tư
tưởng chân thực, vì nó hữu ích.
2.3.3. John Dewey
John Dewey (1859 - 1952) là nhà triết học, nhà giáo dục lớn, nhà xã hội
học ngƣời Mỹ. Về phƣơng diện triết học, ông đƣợc xem là “nhà thực dụng ảnh
hƣởng nhất” [106, tr. 315]. J. Dewey sinh tại Burlington, năm 1879, ông tốt
nghiệp Ðại học Vermont, sau đó lấy bằng tiến sĩ của Ðại học Johns Hopkins năm
1884. Từ đó, ông dạy học tại nhiều nơi nhƣ Đại học bang Michigan, Đại học
Chicago. Tại đây, ông nổi tiếng với các khái niệm thực dụng về giáo dục. Từ
năm 1904 tới năm 1929, ông là thành viên của phân khoa tại Đại học tổng hợp
Columbia. Ông viết ra một khối lƣợng tác phẩm đồ sộ. Ông là một trong những
triết gia sáng tác nhiều nhất, ngay cả lúc về hƣu. Các vấn đề ông nghiên cứu bao
trùm một phạm vi rộng lớn về lôgíc học, siêu hình học, các lý thuyết về nhận
thức. Ông để lại cho nhân loại khoảng 30 tác phẩm và hàng nghìn luận văn, các
tác phẩm ảnh hƣởng lớn nhất của ông bàn về giáo dục, dân chủ, đạo đức học, tôn
giáo và nghệ thuật, ngay cả triết học thực dụng của ông cũng thuộc về lĩnh vực
xã hội hơn là cá nhân.
Vào hai thập niên đầu thế kỷ XX, J. Dewey đã trình bày một số tƣ tƣởng
triết học, nhƣng chƣa gây đƣợc tiếng vang nào, chỉ đến thập niên thứ ba, ông đã
đứng vào hàng ngũ triết gia số một của nƣớc Mỹ. Trong hàng loạt tác phẩm đƣợc
công bố, chúng ta dễ dàng nhận thấy rằng, ông vẫn tiếp tục truyền thống triết học
thực dụng của C. Peirce và W. James, nhƣng không còn nguyên vẹn nữa. Có thể
nói, đóng góp của ông là sự tổng kết, hệ thống hóa và đƣa triết học thực dụng
thành một học thuyết phổ biến trong đời sống xã hội.
Tên tuổi của J. Dewey gắn liền với sự phát triển triết học thực dụng trong
chủ nghĩa công cụ (instrumentalism). Chủ nghĩa công cụ của ông có liên quan
rất mật thiết với triết học thực dụng của W. James. Triết học thực dụng của ông
đề cao kinh nghiệm, hiệu quả, giới hạn triết học của ông trong phạm vi kinh
nghiệm, “kinh nghiệm” là khái niệm trung tâm trong triết học của ông. Ông coi
tri thức là công cụ để thích ứng với hoàn cảnh, chân lý là cái có ích, có lợi.
Dewey cho rằng, chân lý có tính tiến hóa, không cố định hoặc vĩnh hằng và rằng
80
các kiểu mẫu và các hình thức đa dạng của hoạt động con ngƣời là công cụ cho
con ngƣời phát triển để giải quyết vô số vấn đề của xã hội và của tâm lý cá nhân.
Vì các vấn đề đó liên tục biến đổi, nên các công cụ dùng để giải quyết chúng
cũng phải biến đổi theo. Chân lý biến đổi trong tự nhiên, hợp thành một thực tại
không vĩnh hằng cũng không siêu nghiệm và được đặt trên kinh nghiệm, cái có
thể kiểm nghiệm và chia sẻ bởi tất cả những ai tiến hành thẩm tra.
Với chủ trƣơng gắn triết học với đời sống thực tiễn, J. Dewey đặc biệt
thành công trong triết lý giáo dục. Việc tìm kiếm một triết lý giáo dục để có thể
sửa chữa những khuyết tật của xã hội là mối quan tâm hàng đầu của ông, chủ
trƣơng dùng quan điểm tâm lý học để giảng dạy; lấy thực nghiệm giáo dục làm
nội dung quan trọng; vận dụng triết học nhằm cải tạo đời sống xã hội. Ở lĩnh vực
này, ảnh hƣởng của Dewey là ngƣời đi đầu trong quá trình loại bỏ các phƣơng
pháp truyền thống, cũ kĩ và nhấn mạnh sự học hỏi thông qua thực nghiệm và
thực hành, chống lại lối học trừu tƣợng. Dewey xem giáo dục nhƣ một công cụ
giúp cá nhân có khả năng hợp nhất lối sống, văn hóa và thiên hƣớng của mình
một cách hiệu quả và thực dụng. Sự đóng góp của ông vào cuộc vận động cho
một học đƣờng cấp tiến đã đƣợc công nhận trên khắp thế giới.
Trong quan niệm về dân chủ, J. Dewey xem dân chủ là giá trị đạo đức số
một và vì thế, ông nỗ lực đề ra các nguyên tắc nhằm xây dựng một xã hội dân chủ
và kỹ nghệ. Ông còn tham gia tích cực vào phong trào đẩy mạnh trợ cấp an sinh xã
hội, bảo vệ quyền tự do học thuật, cải thiện năng lực và hiệu quả chính trị.
J. Dewey có đóng góp lớn về mặt triết học, ông là ngƣời đã hoàn thiện và
đƣa triết học thực dụng vào đời sống thực tiễn một cách phổ biến ở nƣớc Mỹ.
Công lao và ảnh hƣởng của Dewey cũng nhƣ triết học thực dụng của ông đã đƣa
ông đến một vị trí đặc biệt trong triết học phƣơng Tây hiện đại. Trong cuốn sách
“Lịch sử triết học phƣơng Tây” của B. Russell năm 1946, cuốn sách để tôn vinh
tên tuổi và sự nghiệp của các nhà triết học, chỉ có triết gia duy nhất còn sống
đƣợc dành cho một chƣơng là John Dewey. Ông đã phát triển quan niệm về chân
lý trong chủ nghĩa công cụ, làm cho nó không còn trừu tƣợng nhƣ quan niệm của
C. Peirce và W. James, theo đó chân lý được hiểu là tính hữu ích, sự thành công
trong việc giải quyết những tình huống cụ thể.
81
TIỂU KẾT CHƢƠNG 2
Triết học thực dụng là một trào lƣu triết học ra đời ở Mỹ vào những năm
70 của thế kỷ XIX, là đóng góp độc đáo nhất của tƣ tƣởng Mỹ cho kho tàng triết
học nhân loại. Triết học thực dụng đƣợc hình thành với lý thuyết nền tảng của
C.Peirce, đƣợc truyền bá rộng rãi bởi W. James và đƣợc đƣa vào đời sống hàng
ngày một cách có phƣơng pháp nhờ J. Dewey, trong đó “ngƣời độc đáo nhất là
Charles Peirce, ngƣời thú vị nhất để đọc là William James và ngƣời gây ảnh
hƣởng sâu rộng nhất là John Dewey” [80, tr. 237]. Về cống hiến của Peirce trong
lịch sử tƣ tƣởng triết học, ông đƣợc thừa nhận là ngƣời sáng lập chủ nghĩa thực
dụng, James là ngƣời kế thừa, hệ thống hóa chủ nghĩa thực dụng. Ông chính là
ngƣời truyền bá chủ nghĩa thực dụng của Peirce vào đời sống, làm cho nƣớc Mỹ
biết đến triết học thực dụng. Còn Dewey là ngƣời đã hoàn thiện và đƣa chủ nghĩa
thực dụng vào đời sống thực tiễn một cách phổ biến ở nƣớc Mỹ.
Triết học thực dụng bắt nguồn từ “Câu lạc bộ siêu hình học” do C. Peirce
đứng đầu, thành lập tại Trƣờng đại học Harvard. Nhƣng khái niệm “chủ nghĩa
thực dụng” (pragmatism) lại do W. James nêu ra lần đầu tiên trong một bài phát
biểu đọc tại California vào năm 1898 với tên gọi Khái niệm triết học và hiệu quả
thực tế. Trong bài phát biểu này, W. James đã đề cập đến “nguyên tắc Peirce” và
“nguyên tắc chủ nghĩa thực tế hay chủ nghĩa thực dụng” của Peirce. Trên cơ sở
nguyên tắc thực dụng của Peirce, James đã phát triển thành lý thuyết về chân lý và
J. Dewey đã xây dựng lý luận này trong chủ nghĩa công cụ. Có thể nói, quan niệm
về chân lý là một nội dung cơ bản trong toàn bộ học thuyết của triết học thực dụng
Mỹ với ba nhà triết học tiêu biểu là Peirce, James và Dewey.
Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc hình thành trên
mảnh đất hiện thực ở Mỹ vào những năm cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX.
Nƣớc Mỹ có điều kiện tự nhiên thuận lợi, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong
phú, tạo điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng một nền kinh tế phát triển. Về mặt
xã hội, nƣớc Mỹ đƣợc hình thành với điều kiện hết sức đặc thù, lịch sử nước Mỹ
là sự tiếp tục của lịch sử châu Âu ở một lục địa khác, thông qua những cuộc di
82
dân, chủ yếu là từ châu Âu, họ mang theo nền văn hóa truyền thống, thể chế
chính trị dân chủ và quan hệ sản xuất tiên tiến đến nƣớc Mỹ. Chủ nghĩa tƣ bản
phát triển mạnh mẽ, làm cho ngƣời Mỹ khao khát có một hệ tƣ tƣởng riêng, mới
và một tƣ duy triết học phù hợp với tính đa quốc gia, đa sắc tộc, đa văn hóa của
dân tộc Mỹ. Hoàn cảnh và sự khao khát của con ngƣời đã thai nghén và sinh
thành nền văn hóa Mỹ, triết học Mỹ, hệ thống lý luận đậm chất Mỹ mà quan
niệm về chân lý của triết học thực dụng Mỹ với cốt lõi là lấy tính hiệu quả, cái
có ích, sự thành công làm tiêu chuẩn đã đáp ứng đƣợc yêu cầu đó. Với ngƣời
Mỹ, tƣ duy hiệu quả đƣợc đặt lên hàng đầu, mọi hành động đều phải tạo ra một
hiệu quả nào đó, bởi chỉ có hiệu quả mới giúp ích cho họ, hiệu quả trở thành mục
đích của hành động, là thƣớc đo giá trị, cũng là tiêu chuẩn của chân lý. Cái gì
hữu dụng cái đó là chân lý, cái gì là chân lý cái đó tất phải hữu dụng trở thành
quan niệm cơ bản về chân lý của triết học thực dụng Mỹ. Vì vậy, triết học thực
dụng nói chung, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói riêng đƣợc
hình thành ở nƣớc Mỹ không ngoài đòi hỏi tất yếu khách quan đó.
Trên mảnh đất hiện thực đó, các nhà triết học thực dụng đã kế thừa, tiếp
thu những tiền đề lý luận để xây dựng hệ thống quan niệm về chân lý. Tiền đề lý
luận quan trọng cho sự hình thành quan niệm về chân lý trong triết học thực
dụng Mỹ phải nói tới bản Tuyên ngôn độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ. Nội dung
cốt lõi của bản Tuyên ngôn này là xác lập nền dân chủ, mà giá trị nền tảng của
nó là tƣ tƣởng tự do. Đó là cơ sở lý luận quan trọng cho sự hình thành triết học
thực dụng Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý của triết học thực dụng nói
riêng. Trên nền tảng lý luận là tƣ tƣởng về quyền của con ngƣời, quyền tự do,
dân chủ, cùng những giá trị đạo đức của đạo Tin lành, cốt lõi là niềm tin vào sự
thành công, sự giàu có, sự thỏa mãn bằng chính năng lực lao động của con ngƣời,
đã củng cố cho sự hình thành niềm tin thực dụng với tính cách là chân lý. Niềm tin
thực dụng đặt ra cho con ngƣời cần tin vào cái gì? Hay tính chân thực của niềm
tin. Trả lời câu hỏi đó, triết học thực dụng khẳng định cần tin vào sự rõ ràng của tƣ
tƣởng, quan niệm mà tiêu chuẩn của sự rõ ràng đó chính là hiệu quả thực tế do nó
83
tạo ra. Các nhà triết học thực dụng đặt ra và thực hiện một cuộc cách mạng trong
triết học, đó là xác định lại đối tƣợng, nhiệm vụ của triết học. Đối tƣợng, nhiệm vụ
đó không gì khác chính là đƣa triết học về với đời sống thực tiễn, coi trọng
phƣơng pháp luận, nhấn mạnh hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Theo các
nhà triết học thực dụng, các trƣờng phái triết học trƣớc đó đã không đáp ứng đƣợc
yêu cầu này. Trên cơ sở phê phán các trƣờng phái triết học tƣ biện, các nhà triết
học thực dụng đã xây dựng hệ thống lý luận của triết học thực dụng nói chung và
quan niệm về chân lý nói riêng.
Tóm lại, đặc điểm chung của triết học thực dụng là nhấn mạnh triết học
cần đi sâu và giải quyết những vấn đề của đời sống thực tiễn, thực dụng là
phƣơng thức tƣ duy trong hành động, theo đó chân lý là niềm tin vững chắc,
hành động là phƣơng tiện chủ yếu, hiệu quả thực tế là thƣớc đo, là mục đích của
hành động. Với tôn chỉ này, triết học thực dụng trở thành món ăn tinh thần phổ
biến và đƣợc ƣa chuộng của ngƣời Mỹ, thúc đẩy họ cải tạo thực tiễn bằng chính
hiệu quả trong hành động của mình.
84
Chƣơng 3
NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ
TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ
Chân lý là nội dung xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống lý luận của triết
học thực dụng Mỹ. Các nhà triết học thực dụng Mỹ, từ C. Peirce đến W. James
và J. Dewey đều xác định vị trí của vấn đề chân lý ở những góc độ khác nhau, là
cơ sở cho việc triển khai những nội dung cơ bản trong quan niệm về chân lý.
Vấn đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ đƣợc thể hiện ở những nội dung cơ
bản nhƣ: khái niệm chân lý; tiêu chuẩn của chân lý và phƣơng pháp luận khoa
học nhằm đạt đến chân lý. Làm rõ những nội dung cơ bản của quan niệm về
chân lý trong triết học thực dụng Mỹ là cơ sở cho việc phân tích những giá trị và
hạn chế của nó, đồng thời chỉ ra những ảnh hƣởng của quan niệm này đến văn
hóa, lối sống Mỹ. Vì vậy, việc nghiên cứu nội dung của quan niệm về chân lý
trong triết học thực dụng Mỹ là một trong những vấn đề quan trọng nhất và chỉ
khi giải quyết đƣợc vấn đề này sẽ là chìa khóa để lý giải một cách sâu sắc bản
chất của triết học thực dụng Mỹ.
3.1. Về khái niệm chân lý
Khái niệm chân lý của triết học thực dụng có quá trình hình thành và phát
triển đƣợc bắt đầu bằng quan điểm mang tính nền tảng của C. Peirce, đƣợc
W.James triển khai tổng quát và hệ thống hóa, làm tiền đề cho sự phát triển trong
chủ nghĩa công cụ của J. Dewey.
3.1.1. Niềm tin thực dụng với tính cách là chân lý
C.Peirce đã đặt khái niệm “niềm tin thực dụng” thành tâm điểm trong hệ
thống triết học của mình, để từ đó, khẳng định sứ mệnh của triết học không phải là
nhận thức thế giới mà là củng cố niềm tin: “Hoạt động tƣ duy là do sự hoài nghi
kích thích gây nên. Khi đạt đƣợc niềm tin thì hoạt động này mới dừng lại. Đạt đến
niềm tin là chức năng duy nhất của tƣ duy” [135, T.V, đoạn 394].
Với phạm trù “niềm tin”, C. Peirce mong muốn xây dựng triết học thực
dụng trở thành một “phƣơng pháp luận khoa học”. Xuất phát từ lý luận hoài nghi
85
- niềm tin, Peirce coi mục đích của nghiên cứu là đạt tới niềm tin bằng mọi cách,
niềm tin đƣợc xác định thông qua thăm dò để thoát khỏi trạng thái hoài nghi, căn
cứ duy nhất của phƣơng pháp khoa học không gì khác hơn là phƣơng pháp củng
cố niềm tin một cách vững chắc và triệt để. Do đó, phƣơng pháp này của Peirce
đƣợc gọi là “lý luận thăm dò - hoài nghi - niềm tin”. Lý luận này đƣợc bắt đầu
bằng quá trình thăm dò, đi từ hoài nghi đến xác định niềm tin: “Hoạt động tƣ duy
đƣợc thúc đẩy bởi sự nghi ngờ, và chỉ dừng lại khi niềm tin đƣợc xác lập; vậy
nên tạo ra niềm tin là chức năng duy nhất của tƣ duy” [139, tr. 83]. Vì vậy, có
thể nói, phạm trù “niềm tin” trong triết học thực dụng của Peirce vừa là một
phƣơng pháp, vừa là mục đích của phƣơng pháp - củng cố niềm tin vững chắc.
Theo đó, vấn đề con ngƣời hƣớng tới không phải là nhận thức chân thực mà là
đạt tới niềm tin vững chắc, để đạt đƣợc niềm tin vững chắc, cần phải loại bỏ hoài
nghi. Với quan niệm này, Peirce khẳng định: “Chân lý đƣợc xem là niềm tin nhất
quán và vững chắc” [92, tr. 27].
Coi chân lý là niềm tin nhất quán, vững chắc, C. Peirce đã đƣa ra những
đặc tính bản chất của niềm tin: “Đầu tiên, nó là điều chúng ta nhận biết đƣợc; thứ
hai, nó xóa đi sự khó chịu do nghi ngờ đem lại; và thứ ba, nó liên quan đến bản
chất thiết lập hành động thành quy tắc, hay, nói ngắn gọn lại là thói quen” [139, tr.
85]. Trong quan niệm này, ông đã nói đến mối liên hệ giữa niềm tin với nhận
thức, hoài nghi và những kinh nghiệm do thói quen tạo nên. Phạm trù niềm tin
trong triết học của Peirce là “niềm tin thực dụng”, bởi củng cố niềm tin là đích đến
của phƣơng pháp, đồng thời củng cố niềm tin chính là để hành động có hiệu quả,
ông khẳng định “niềm tin hoặc ý kiến chân chính là cái con ngƣời mƣợn để chuẩn
bị hành động” [135, T.II, đoạn 148], nên “niềm tin khác nhau dẫn đến phƣơng
thức hành động khác nhau” [135, T.V, đoạn 398]. Do đó, niềm tin đứng ở vị trí
trung tâm giữa tƣ tƣởng và hành động: “Một niềm tin không bao hàm hành động
là niềm tin trống rỗng, không có lý do” [77, tr. 445]. Từ đó, ông khẳng định: Con
ngƣời chỉ cần có niềm tin vững chắc là có thể hành động và hành động một cách
hiệu quả, thậm chí không cần quan tâm đến nhận thức đó là đúng hay không. Khi
lấy hiệu quả, sự thỏa mãn những mục tiêu đặt ra làm tiêu chuẩn của niềm tin
86
vững chắc, ông cho rằng, việc xác định tính hữu dụng, sự thỏa mãn đó phải dựa
trên phƣơng pháp khoa học để loại bỏ hoài nghi.
Chủ nghĩa hoài nghi không phải đến C. Peirce mới có, trƣớc đó, chúng ta
đều biết đến thuyết hoài nghi của R. Descartes. Đó là sự hoài nghi toàn diện,
hoài nghi với tƣ cách một giả thiết chủ quan, là “vật liệu xây dựng”, là khởi đầu
của nhận thức để ông tìm cơ sở vững chắc cho nhận thức, cho nên cần phải hoài
nghi tất cả. Hoài nghi theo quan niệm của Descartes là biểu hiện của phƣơng
pháp luận. Còn với D. Hume, hoài nghi là giới hạn cuối cùng của nhận thức.
Với C. Peirce, chân lý là niềm tin nhất quán và vững chắc. Để trở nên vững
chắc, nó phải là niềm tin chung, nghĩa là đƣợc những ngƣời cùng quan tâm thừa
nhận. Đó là chân lý khoa học chứ không phải chân lý của cuộc sống đời thƣờng,
để đạt đƣợc chân lý khoa học là quá trình nhận thức lâu dài, chứ không phải sinh
ra một cách sẵn có. Mỗi chân lý đạt đƣợc - với tính cách là niềm tin vững chắc và
triệt để, là sự loại bỏ những hoài nghi, củng cố niềm tin khoa học.
Với phạm trù đó, C. Peirce coi hoài nghi là điểm khởi đầu của lý luận
thăm dò. Quá trình nghiên cứu nhằm chuyển từ trạng thái hoài nghi sang niềm
tin. Peirce không chủ trƣơng xác lập thứ hoài nghi giả tạo mà căn cứ vào hoài
nghi hiện thực, hoài nghi nảy sinh trong cuộc sống. Theo Peirce, hoài nghi là
trạng thái thiếu hoặc mất niềm tin, dẫn đến trạng thái do dự, không dứt khoát,
không thể hành động đƣợc. Con ngƣời ở trạng thái hoài nghi là do xuất hiện
hoàn cảnh mới mà kinh nghiệm đã có không giải quyết đƣợc. Sự khác biệt thực
tế giữa niềm tin và hoài nghi đƣợc thể hiện ở chỗ, nếu niềm tin giúp con ngƣời
định hƣớng nhận thức và hành động thì hoài nghi không có đƣợc điều này. Khía
cạnh thứ hai của sự khác biệt này là ở chỗ, niềm tin trở thành thói quen đƣợc
thiết lập sẵn trong bản chất để chi phối hành động thì sự nghi ngờ là không có. Ở
điểm khác biệt thứ ba, theo Peirce, “nghi ngờ là một trạng thái khó chịu và
không hài lòng mà chúng ta luôn đấu tranh để giải phóng chính mình ra khỏi nó
và chuyển sang trạng thái tin tƣởng; trong khi trạng thái sau là trạng thái yên
bình và thỏa mãn mà chúng ta không muốn sẽ tránh xa, hay chuyển sang một
niềm tin khác” [139, tr. 66].
87
Từ sự phân biệt giữa niềm tin và hoài nghi, C. Peirce đã đƣa ra một quan
điểm mới về quá trình nhận thức đi từ hoài nghi đến niềm tin: “Nhận thức không
diễn ra nhƣ quá trình đi từ chƣa biết đến biết, mà từ trạng thái hoài nghi và dao
động sang ý kiến chắc chắn, sang niềm tin vững chắc, sang niềm tin không suy
suyển, có khả năng định hƣớng hoạt động. Tƣ duy phục vụ cho hành động chứ
không ngƣợc lại” [92, tr. 24]. Rằng, chính nghi ngờ cũng là một động lực giúp
cho con ngƣời đạt tới sự tin tƣởng: “Sự kích thích của nghi ngờ làm chúng ta đấu
tranh để đạt tới sự tin tƣởng” [139, tr. 67]. Không chỉ niềm tin có tác dụng tích
cực, nó định hƣớng và thúc đẩy con ngƣời hành động mà nghi ngờ cũng có tác
dụng tích cực nhất định đối với con ngƣời. Do đó, theo ông, quá trình phát triển
của nhận thức là quá trình đi từ hoài nghi đến niềm tin, loại bỏ đƣợc hoài nghi,
đạt tới niềm tin vững chắc để phục vụ cho hành động là mục đích của nhận thức:
“Ngay khi mà một sự kích thích của điều hoài nghi tạo nên một sự đấu tranh để
đạt tới sự tin tƣởng, niềm tin chắc chắn đã đạt đƣợc, thì chúng ta cũng hoàn toàn
đã thỏa mãn, cho dù niềm tin đó là chân thực hay giả tạo” [139, tr. 67].
C. Peirce đã đƣa ra quan niệm của triết học thực dụng về hoạt động tƣ duy
của con ngƣời. Trƣớc đó, theo lý thuyết phản ánh, chúng ta hiểu hoạt động của
tƣ duy, ý thức là sự phản ánh hiện thực. Peirce phủ nhận thuyết phản ánh khi
cho rằng, hoạt động nhận thức của con ngƣời không phải là sự phản ánh hiện
thực của ý thức mà là một hình thức hoạt động thích nghi của cơ thể mang bản
năng sinh học. Nó đƣợc xem là hoạt động định hƣớng chứ không phải là hoạt
động phản ánh hiện thực. Nó điều tiết mối quan hệ của con ngƣời với môi
trƣờng, thiết lập nên thói quen phản ứng đối với môi trƣờng xung quanh bằng
phƣơng tiện này hay phƣơng tiện khác. Sống trong thế giới buộc con ngƣời phải
hành động, trong quá trình đó, con ngƣời tạo ra các thói quen hành động. Thói
quen đặt trong hoàn cảnh nhất định sẽ tạo nên niềm tin. Đạt đƣợc niềm tin vững
chắc là mục đích duy nhất của tƣ duy.
Với quan niệm này, C. Peirce cho rằng, niềm tin là bƣớc chuẩn bị để con
ngƣời hành động, niềm tin định hƣớng, thúc đẩy và quyết định hành động nên
niềm tin khác nhau sẽ dẫn đến phƣơng thức hành động khác nhau: “Niềm tin
88
không làm cho chúng ta hành động tức thì, nhƣng lại đƣa chúng ta vào một điều
kiện nhƣ thể để chúng ta sẽ quyết định hƣớng hành động theo một cách nào đó khi
tình huống sự việc xảy ra” [139, tr. 67]. Là một nhà triết học thực dụng, Peirce coi
đích đến của nhận thức là hành động, thậm chí ông còn khẳng định con ngƣời chỉ
cần có niềm tin vững chắc là có thể hành động, còn việc nhận thức thế giới có
đúng hay không, điều đó không liên quan đến hành động. Theo ông, hành động
của con ngƣời chỉ cần dựa vào niềm tin xác định, không dựa vào nhận thức đúng
hay sai, để cho tƣ tƣởng, quan niệm có thể trở thành niềm tin của con ngƣời cần
phải rõ ràng, trong sáng. Tiêu chuẩn đó không phải là sự phản ánh đối tƣợng đúng
hay sai, mà ở chỗ chúng có thúc đẩy con ngƣời hành động và đạt hiệu quả mong
đợi hay không. Ông coi mục đích của tƣ duy là đạt đƣợc niềm tin vững chắc.
Quan điểm trên của C. Peirce cho thấy ông đã tuyệt đối hóa vai trò của
niềm tin đối với hành động và xem nhẹ việc nhận thức đúng đắn thế giới. Ông
không hiểu rằng, niềm tin rõ ràng, trong sáng chỉ có thể có đƣợc dựa trên sự
nhận thức đúng đắn thế giới. Mặc dù vậy, khi nhấn mạnh vai trò của niềm tin đối
với hành động cải tạo thế giới, Peirce muốn khẳng định một triết lý hành động
dựa trên niềm tin, niềm tin là động lực trực tiếp, thôi thúc con người hành động
đạt hiệu quả.
Chúng ta đều biết, nƣớc Mỹ đƣợc tạo nên từ làn sóng di dân từ khắp nơi
trên thế giới, đến một vùng đất mới, tôn chỉ của họ là hành động, chỉ có một
niềm tin vững chắc mới giúp họ thành công trong hành động ở một vùng đất xa
lạ. Ở một khía cạnh nhất định, chính triết lý hành động của triết học thực dụng
đã tạo nên sự phù hợp với tính cách, lối sống của ngƣời Mỹ, những ngƣời đặt
hiệu quả, sự thành công của hành động lên hàng đầu.
Vấn đề tính chân thực hay sai lầm của niềm tin không đƣợc C. Peirce đặt
ra và giải quyết, thay vào đó là khả năng loại bỏ hoài nghi đạt đến trạng thái thỏa
mãn với một niềm tin vững chắc. Theo ông, điểm xuất phát là một niềm tin, quá
trình phát triển của nhận thức đi từ niềm tin tới hoài nghi, rồi từ sự kích thích của
hoài nghi để đi tới niềm tin vững chắc, khi đó mục đích của nhận thức đã hoàn
thành. Theo quan niệm của Peirce, chân lý là niềm tin nhất quán và vững chắc,
89
chân lý đƣợc xác định thông qua hoài nghi và niềm tin, có nghĩa rằng chân lý
đồng nhất với niềm tin. Mục đích của nhận thức là đạt đến niềm tin, củng cố niềm
tin vững chắc là bƣớc chuẩn bị cho hành động, hành động nhằm đạt một mục đích
nào đó, cũng tức là việc thừa nhận chân lý là cái góp phần đạt tới mục đích.
Nhƣ vậy, có thể nói, “niềm tin” là phạm trù trung tâm trong triết học thực
dụng của C. Peirce, đó là “niềm tin thực dụng”. Niềm tin thực dụng khác với
niềm tin tôn giáo, không chỉ bởi nó là niềm tin đƣợc xây dựng trên mảnh đất
thực tiễn mà còn là nguyên tắc chỉ đạo hoạt động thực tiễn. Mặc dù còn hạn chế
ở tính chủ quan, ở sự tuyệt đối hóa vai trò của niềm tin đối với nhận thức và
hành động, nhƣng việc nhấn mạnh sức mạnh của niềm tin, coi niềm tin xác định
là thái độ sẵn sàng hành động để đạt hiệu quả là một đóng góp lớn cả về lý luận
và thực tiễn của Peirce. Đóng góp đó càng đặc biệt với nƣớc Mỹ, một dân tộc
đƣợc hình thành từ những cƣ dân di cƣ đến từ khắp nơi trên thế giới, tạo nên một
hợp chủng quốc Hoa Kỳ với vị thế là cƣờng quốc số một thế giới hiện nay. Đối
với ngƣời Mỹ, niềm tin thực dụng đã trở thành sức mạnh giúp con ngƣời hành
động đạt hiệu quả, sự thành công. Do đó, có thể nói, đó chính là một trong
những nguyên nhân quan trọng lý giải sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ trong lịch sử
cũng nhƣ ngày nay.
3.1.2. Định nghĩa chân lý
Nếu nhƣ trong lý luận hoài nghi - niềm tin, C. Peirce quan niệm chân lý là
niềm tin nhất quán và vững chắc, đó là niềm tin thực dụng, niềm tin đƣợc biểu
hiện là những thói quen và quy tắc hành động. Hành động của con ngƣời luôn
hƣớng tới thực hiện một mục đích nào đó, nên có thể hiểu niềm tin thực dụng tạo
ra hiệu quả của hành động, giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích đặt ra. Còn trong
lý luận về nghĩa, Peirce đã đƣa ra nguyên lý thực dụng hay “nguyên tắc Peirce”,
theo đó nghĩa của khái niệm thể hiện ở hiệu quả thực tế của nó. Chân lý đƣợc
quy về hiệu quả thực tế do khái niệm tạo ra.
Lý luận về nghĩa có liên quan chặt chẽ với phƣơng pháp luận khoa học của
C. Peirce, là sự tiếp tục phát triển của lý luận hoài nghi - niềm tin. Nhiệm vụ của
phƣơng pháp khoa học là củng cố niềm tin, niềm tin thƣờng tồn tại dƣới hình thức
90
quan điểm, tƣ tƣởng, phán đoán, chúng cần phải rõ ràng, trong sáng, tức là nghĩa
của chúng phải xác định. Lý luận về nghĩa có nhiệm vụ làm sáng tỏ nghĩa của tƣ
tƣởng, quan niệm, nó có một vị trí quan trọng trong toàn bộ triết học thực dụng của
Peirce. Điều đó khẳng định rằng, Peirce nhấn mạnh lý luận về nghĩa hơn nhấn mạnh
chân lý là một trong những biểu hiện chủ yếu khác với James và những ngƣời theo
chủ nghĩa thực dụng khác. Ông coi lý luận về nghĩa của khái niệm là nguyên tắc
định nghĩa khoa học, để phân biệt với những ngƣời theo chủ nghĩa thực dụng nhƣ
James quan niệm “có tác dụng tức là chân lý”.
Trong bài viết “Làm thế nào để tư tưởng trở nên rõ ràng”, C. Peirce đƣa
ra một phƣơng pháp mới để làm cho tƣ tƣởng hay khái niệm trở nên rõ ràng là
cần xác lập nghĩa của chúng. Nhƣng xác lập nghĩa của khái niệm nhƣ thế nào?
Trả lời câu hỏi này, Peirce cho rằng, nghĩa của khái niệm và tƣ tƣởng thể hiện ở
những hiệu quả thực tế của chúng đối với con ngƣời. Xác định đƣợc những hiệu
quả thực tế này cũng tức là hiểu đƣợc nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng và do đó,
làm cho tƣ tƣởng trở nên rõ ràng.
Lý luận về nghĩa với việc xác định tính rõ ràng của tƣ tƣởng đƣa đến quan
điểm nền tảng trong triết học thực dụng của C. Peirce, đƣợc thể hiện trong
“nguyên tắc Peirce”: “Hãy nhìn xem ta sẽ đạt đƣợc những hiệu quả thực tế nào
do đối tƣợng của khái niệm tạo ra. Khái niệm về tất cả những hiệu quả ấy là khái
niệm hoàn chỉnh về đối tƣợng” [135, T.V, đoạn 18]. Theo ông, các tƣ tƣởng
khác nhau vì nó dẫn đến những hiệu quả thực tế khác nhau, do đó nội dung của
bất kỳ tƣ tƣởng hay khái niệm nào không gì khác ngoài tổng số những hiệu quả
thực tế do nó tạo ra. Mặc dù vậy, hạn chế của ông là đã đồng nhất khái niệm về
tất cả những hiệu quả thực tế của đối tƣợng với bản thân đối tƣợng.
Khi giải thích thế nào là hiệu quả thực tế, C. Peirce trả lời rằng: Thứ nhất,
đó là những thói quen do đối tƣợng của khái niệm sinh ra; thứ hai, là những cảm
giác. Khi coi tiêu chuẩn của nghĩa là thói quen hành vi của con ngƣời, ông cho
rằng, tất cả thói quen nào đó dẫn đến những hành vi nhất định, thì đều có nghĩa.
Ông khẳng định: “Để làm rõ nghĩa của nó, chúng ta đơn giản cần phải xác định
nó tạo ra những thói quen nào, vì nghĩa của sự vật thể hiện ở chỗ nó hàm ý chỉ
91
những thói quen nào… sự đồng nhất của thói quen phụ thuộc vào việc khi nào và
bằng cách nào nó buộc chúng ta phải hành động” [139, tr. 87]. Khi ông coi
nghĩa của khái niệm, tƣ tƣởng là hiệu quả cảm giác đƣợc, thì việc nắm bắt chúng
trong hành động, trong kinh nghiệm, hiệu quả cảm giác sẽ tạo nên hiệu quả thực
nghiệm, hiệu quả hành động. Theo Peirce, tồn tại nghĩa là có hiệu quả thực tế
dƣới dạng các cảm giác và thói quen hành động, giữa chúng có mối liên hệ với
nhau: “Vì hành động của chúng ta bắt nguồn từ chỗ tác động lên cảm giác, thói
quen của chúng ta có nghĩa giống nhƣ hành động, niềm tin của chúng ta có nghĩa
giống nhƣ thói quen, khái niệm của chúng ta có nghĩa giống nhƣ niềm tin” [139,
tr. 88]. Vì thói quen là kết quả của những cảm giác, nên nghĩa của bất kỳ một
danh từ nào đều là sự trình bày các thuộc tính nhất định, đó là những thuộc tính
có thể cảm giác đƣợc: “Quan niệm của chúng ta về sự vật bất kỳ là quan niệm
của hiệu quả cảm tính của nó” [135, T.V, đoạn 401]. Theo ông, khái niệm về sự
vật chính là những hiệu quả cảm tính do khái niệm đó đem lại, do đó để hiểu
đƣợc nghĩa của một khái niệm, chúng ta phải dựa trên sự miêu tả thuộc tính có
thể cảm giác đƣợc của một khái niệm khác: “một danh từ có nghĩa vì nó có thể
do các danh từ khác miêu tả thuộc tính có thể cảm giác xác định. Nhƣ danh từ
“cứng” có nghĩa vì nó có giá trị nhƣ nhau với “không thể bị các vật khác phá
vỡ”” [135, T.V, đoạn 403].
Đặc trƣng cơ bản trong lý luận thực dụng của C. Peirce là sự đồng nhất
nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm với hiệu quả thực tế, gắn quan hệ giữa khái niệm
với chủ thể, khái niệm có nghĩa gì đối với chủ thể, đối với con ngƣời, đối với xã
hội: “Do chỗ con ngƣời hoàn toàn bị đặt trong phạm vi kinh nghiệm thực tế của
mình, nên trí tuệ cũng nhất thiết đóng vai trò là công cụ phục vụ cho những nhu
cầu của họ, khiến họ không thể mảy may nghĩ đến điều gì khác ngoài những điều
thuộc phạm vi đó” [135, T.V, đoạn 536]. Theo Peirce, có thể khái quát nghĩa của
khái niệm về sự vật là toàn bộ những hiệu quả thực tế được tạo nên từ những
cảm giác và những thói quen hành động của chủ thể. Điều này có nghĩa rằng,
bản thân sự vật hay thực tại khách quan bị hòa tan vào những hiệu quả đối với
chủ thể (những cảm giác và thói quen của chủ thể).
92
Từ “nguyên tắc Peirce”, khi coi nghĩa của khái niệm về sự vật là toàn bộ
những hiệu quả thực tế, là cơ sở để ông xây dựng quan điểm nền tảng của lý
thuyết chân lý thực dụng. Trong bài “Củng cố niềm tin”, ông viết: “Chân lý
khác với giả tạo đơn giản bởi hành động dựa trên cơ sở của nó… đƣa ta đến nơi
mà mình mong muốn, chứ không về phía ngƣợc lại” [135, T.V, đoạn 387]. Ở
luận điểm này, C. Peirce đã phân biệt chân lý với sai lầm ở chỗ, chân lý dẫn tới
thành công, giúp con ngƣời đạt mục đích, thỏa mãn, còn sai lầm thì ngƣợc lại,
không giúp chúng ta đạt đƣợc điều đó. Đây cũng chính là quan điểm cơ bản của
triết học thực dụng về chân lý, trở thành đặc trƣng của lý luận nhận thức trong
triết học thực dụng. Khi trình bày về “nguyên lý thực dụng”, C.Peirce đã đƣa ra
một định nghĩa điển hình về chân lý thực dụng: “Chân lý ở tính hữu dụng tƣơng
lai đối với những mục tiêu của chúng ta. Tôi cảm giác rằng chủ nghĩa thực dụng
thể hiện điều này” [136, tr. 381]. Ông coi hiệu quả, thành công, sự thỏa mãn
những mục tiêu của con người là chân lý, đồng thời cũng khẳng định việc xác
định tính hữu dụng, sự thỏa mãn đó phải dựa trên phƣơng pháp khoa học để loại
bỏ hoài nghi.
Quan niệm về chân lý của C. Peirce thể hiện ở tính hữu dụng, ở hiệu quả
thực tế là cơ sở, nền tảng cho sự phát triển quan niệm về chân lý của W. James,
ông đã phát triển, cụ thể hóa và đƣa ra khái niệm chân lý.
Quan niệm về chân lý của W. James đƣợc xây dựng trong chủ nghĩa kinh
nghiệm triệt để, từ đó ông đƣa ra quan điểm mới về chân lý, chân lý là thuộc tính
của quan niệm, của tƣ tƣởng, chân lý lấy kinh nghiệm làm căn cứ: “Chân lý
đƣợc hình thành ở một ý niệm. Nó trở thành đúng, đƣợc làm thành đúng bởi các
sự kiện” [139, tr. 229]. Chân lý là một phần của kinh nghiệm: “Mọi chân lý đều
lấy kinh nghiệm có hạn làm căn cứ, và bản thân kinh nghiệm cũng không có chỗ
dựa nào khác ngoài dòng kinh nghiệm, không có vật nào khác có thể bảo đảm là
nơi đẻ ra chân lý” [28, tr. 119]. Ông không định nghĩa chân lý để sau đó đi tìm
tiêu chuẩn của nó, bởi theo ông, chân lý không phải là cái có trƣớc, mà chính là
cái đƣợc rút ra từ kinh nghiệm và hoạt động thực tiễn.
Theo W. James, căn cứ vào nguyên tắc thực dụng thì chúng ta không thể
bác bỏ bất kỳ lý thuyết nào đem lại những hiệu quả có ích, chúng ta sẵn sàng tin
93
vào lý thuyết đó nếu nó giúp chúng ta thỏa mãn. Xuất phát từ phạm trù kinh
nghiệm, coi kinh nghiệm là căn cứ của chân lý, ông đi đến định nghĩa chân lý
bởi hiệu quả, bởi sự thành công trong hành động: “Cái gì hữu dụng, cái đó là
chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với
nhau” [dẫn theo: 92, tr.37]. Chân lý là cái đem lại hiệu quả, sự thành công: “Bất
kỳ quan niệm nào, hễ nó đem lại lợi ích và hiệu quả cho con ngƣời, tức là có thể
làm cho con ngƣời đạt đƣợc thành công, mới có thể xem là chân lý” [dẫn theo: 9,
tr. 105]. Đây là quan niệm hết sức độc đáo về chân lý, tạo nên đặc trƣng của triết
học thực dụng.
Quan niệm đồng nhất chân lý với hiệu quả đã trở thành đặc trưng của
triết học thực dụng nói chung và lý luận nhận thức của triết học thực dụng nói
riêng. Do vậy, nếu nhƣ ở C.Peirce, chân lý thể hiện tính hữu dụng tƣơng lai của
chúng đối với những mục tiêu của con ngƣời, thì đến W. James, khái niệm chân
lý đã đƣợc cụ thể, khi ông xem chân lý là cái đem lại lợi ích, hiệu quả và sự
thành công cho con ngƣời. Quan niệm của James về chân lý có sự phù hợp với
“nguyên tắc Peirce”, đồng thời ông cũng có sự phát triển khi khẳng định chân lý là
toàn bộ những hiệu quả có ích, đem lại sự thỏa mãn, thành công cho con ngƣời .
Xuất phát từ quan điểm cho rằng, chân lý là một thuộc tính của ý niệm
chứ không phải của sự vật, chân lý luôn đƣợc tạo ra từ một ý niệm, chân lý là
một phần của kinh nghiệm. W. James nhấn mạnh: “Những ngƣời theo chủ nghĩa
thực dụng và những ngƣời không theo chủ nghĩa thực dụng tranh cãi với nhau
chủ yếu về cách giải thích chân lý… Những ngƣời theo chủ nghĩa thực dụng nói
chân lý chỉ giới hạn trong quan niệm… còn những ngƣời không theo chủ nghĩa
thực dụng nói chân lý là chỉ khách thể” [dẫn theo: 40, tr. 344]. Với quan điểm
này, ông đã phủ nhận cơ sở khách quan của chân lý, phủ nhận chân lý là sự phản
ánh thế giới khách quan thông qua lăng kính chủ quan của con ngƣời. Là một
ngƣời theo chủ nghĩa duy nghiệm, ông cho rằng, chân lý là một phần của kinh
nghiệm, của đời sống: “Các chân lý trở thành đúng khi chúng ta tạo ra đƣợc các
sự nối kết thành công giữa các thành phần khác nhau trong kinh nghiệm của
chúng ta” [106, tr. 311]. Do đó, mọi quan niệm là chân lý chỉ lấy bản thân quan
94
niệm làm căn cứ: “Mọi chân lý đều lấy kinh nghiệm hữu hạn làm căn cứ, mà bản
thân kinh nghiệm hữu hạn là không có chỗ dựa. Trừ bản thân dòng kinh nghiệm
ra, hoàn toàn không có cái gì bên cạnh đảm bảo sinh ra chân lý” [dẫn theo: 40, tr.
344]. Từ đó, ông muốn khẳng định quan điểm của triết học thực dụng, mọi quan
niệm là chân lý chỉ lấy bản thân quan niệm làm căn cứ, chứ không dựa vào thực
tại khách quan. Do vậy, chân lý là một thuộc tính của ý niệm.
Tiếp tục phát triển quan niệm về chân lý, W. James phê phán quan điểm
cho rằng chân lý là sự sao chép thực tại. Theo quan niệm phổ biến thì một quan
niệm đúng là sự sao chép lại thực tại của nó. Theo ông, với quan điểm này, khi
chúng ta có đƣợc một quan niệm đúng về sự vật, tức là chúng ta đã chiếm hữu nó
và chúng ta đã hoàn thành mục đích của tƣ duy: “Ý nghĩa chủ yếu của “chân lý” là
quan hệ bị động, tĩnh tại. Khi anh nhận đƣợc quan niệm thật của bất kỳ sự vật gì,
sự việc xem nhƣ chấm dứt” [dẫn theo: 39, tr. 148]. Còn theo quan điểm của triết
học thực dụng, câu hỏi đặt ra là: “Cứ cho rằng một ý niệm hay một sự tin tƣởng là
đúng đi nữa, việc nó đúng có tạo ra sự khác biệt cụ thể gì trong đời sống thực tế
của một ngƣời hay không? Chân lý sẽ đƣợc thể hiện thế nào? Các kinh nghiệm
nào sẽ khác các kinh nghiệm mà ngƣời ta có thể có nếu sự tin tƣởng đó là sai?
Tóm lại, đâu là giá trị thực của chân lý về phƣơng diện kinh nghiệm?” [139, tr.
228]. Triết học thực dụng trả lời câu hỏi này nhƣ sau: “Các ý niệm đúng là các ý
niệm mà chúng ta có thể lĩnh hội, đánh giá, củng cố và kiểm chứng. Các ý niệm
sai là các ý niệm chúng ta không thể làm như thế” [139, tr. 229]. Ông phân biệt sự
khác biệt thực tiễn của các ý niệm đúng tạo ra bằng sự kiểm chứng hiệu quả thực
tế của nó, hiệu quả có thể kiểm chứng trở thành thƣớc đo của một quan niệm
đúng. Do đó, chân lý không phải là một thuộc tính bất biến, có sẵn mà chân lý là
quá trình vận động của một ý niệm, tính đúng đắn của nó đƣợc tạo thành bởi hiệu
quả thực tế có thể kiểm nghiệm, chứng thực bằng kinh nghiệm thực tiễn của con
ngƣời. Nó là công cụ hành động vô giá trong những hoàn cảnh cụ thể, giá trị của
nó là sự hữu ích trong hành động cải tạo thực tiễn của con ngƣời.
Xuất phát từ phạm trù kinh nghiệm, W. James đi đến một khẳng định rõ
ràng về chân lý, định nghĩa chân lý đƣợc thể hiện ở mệnh đề: Cái gì hữu dụng,
cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải hữu dụng. Ở mệnh đề này,
95
chúng ta thấy ông có kế thừa tƣ tƣởng của Hegel về mối quan hệ giữa thực tại và
chân lý: “Cái gì hợp lý tính thì là hiện thực và cái gì là hiện thực thì hợp lý tính”
[48, tr. 81]. Với mệnh đề này, James đã phát biểu một định nghĩa chân lý đặc
trƣng của triết học thực dụng. Chân lý gắn liền với đời sống hiện thực của con
ngƣời, ở đó một tƣ tƣởng là đúng vì nó hữu ích với cuộc sống, nó thực hiện sứ
mệnh của kinh nghiệm, là những kết quả cụ thể khi giải quyết những tình huống
trong đời sống, giúp con ngƣời thỏa mãn trong hành động.
W. James cho rằng, chân lý là hiệu quả thực tế để củng cố niềm tin vững
chắc, thỏa mãn nhu cầu, nguyện vọng và đảm bảo sự thành công của con người.
Ông nói: “Là hữu dụng, bởi vì nó đúng, hoặc nó đúng, bởi vì nó hữu dụng” [dẫn
theo: 40, tr.345]. Tuy nhiên, ông không đồng nhất chân lý với tính hữu dụng một
cách giản đơn, tính hữu dụng đó là do đối tƣợng của tƣ tƣởng, quan niệm đƣợc
coi là chân lý có tác dụng đối với con ngƣời: “Giá trị cơ bản của quan niệm đúng
là do đối tƣợng của quan niệm có tầm quan trọng với thực tế của chúng ta đẻ ra”
[dẫn theo: 40, tr. 345]. James nhấn mạnh, không phải quan niệm phù hợp với đối
tượng là chân lý, chỉ khi quan niệm đó hữu dụng với con người mới là chân lý.
Vì vậy, ông đồng nhất chân lý với tính hữu dụng đối với con ngƣời.
Theo W. James, sở dĩ con ngƣời theo đuổi chân lý vì: “Bổn phận tìm chân
lý là một phần của bổn phận làm điều có ích, giống nhƣ chúng ta phải tìm sức
khỏe vì khỏe mạnh là có ích” [106, tr. 311]. Theo đó, một quan niệm chỉ cần
đem lại lợi ích, thành công cho con ngƣời thì bất kể nó phản ánh thực tế khách
quan nhƣ thế nào, ngay cả là tín ngƣỡng tôn giáo, đều đƣợc coi là chân lý.
Ngƣợc lại, khi bàn về những quan niệm không đem lại tác dụng cho con ngƣời,
dù là những quan điểm đúng, ông cho rằng: “Nếu những ý niệm đúng mà không
đem lại tốt đẹp cho cuộc sống, hay nếu những tri thức về những ý niệm đó lại
khẳng định là bất lợi và giả dối, mà chỉ có hữu dụng thôi, thì quan niệm thông
thƣờng hiện nay, cho rằng chân lý là điều thiêng liêng và quý giá, và sống theo
chân lý là cả một bổn phận, cũng đã không bao giờ phát triển trở thành tín điều.
Trong một thế giới nhƣ thế, bổn phận của chúng ta thà là xa lánh chân lý mới
phải” [139, tr. 223 - 224]. Ở luận điểm này, ông nói về mối quan hệ giữa quan
96
niệm có ích với quan niệm thật, giả. Xuất phát từ sự đồng nhất chân lý với tính
hữu dụng, cho nên ông nhấn mạnh tính có ích, có lợi của quan niệm hơn là tính
đúng đắn hay sai lầm của nó.
Có thể khẳng định, theo quan niệm của W. James, chân lý gắn với việc
xác định niềm tin của của con ngƣời, nhấn mạnh hiệu quả thực tế, thỏa mãn nhu
cầu, lợi ích, sự thành công của cá nhân. Đặc trƣng cơ bản trong quan niệm của
ông về chân lý là gắn chân lý với vấn đề con ngƣời, hợp nhất thuyết chân lý với
“quan điểm nhân bản của chủ nghĩa thực dụng”: “Chân lý đó cũng là một loại
thiện hảo… Cái đúng là danh xưng để gọi bất cứ điều gì tự chứng minh là tốt
đẹp theo quan điểm của niềm tin và cũng là tốt đẹp vì những lý do nhất định”
[139, tr. 223]. Theo ông, chân lý tồn tại tƣơng đối với con ngƣời, với kinh
nghiệm luôn biến đổi của con ngƣời. Chân lý là do con ngƣời tạo ra theo nhu cầu
của mình, là thƣớc đo mức độ thỏa mãn nhu cầu của mình. Con ngƣời tin vào
chân lý, vì nhƣ vậy nó giúp họ thỏa mãn, đạt tới những điều tốt đẹp hơn. Để
nhấn mạnh vai trò của con ngƣời sáng tạo ra thế giới, sáng tạo ra chân lý, nhà
thực dụng chủ nghĩa ngƣời Anh là F. Schiller đã đề nghị đổi chủ nghĩa thực dụng
thành chủ nghĩa nhân bản. Việc nhấn mạnh vai trò sáng tạo ra chân lý của con
ngƣời, hay vấn đề chân lý gắn với con ngƣời là không sai. Tuy nhiên, cái sai
trong quan niệm này là tuyệt đối hóa vai trò sáng tạo ra chân lý của con ngƣời,
đến mức cho rằng chân lý đều là sản phẩm sáng tạo chủ quan của con ngƣời.
Kế thừa tƣ tƣởng của C. Peirce và W. James, J. Dewey đã phát triển khái
niệm chân lý. Theo đó, chân lý được coi là công cụ giúp con người hành động
hiệu quả, đạt được sự thỏa mãn và thành công. Ông xây dựng lý thuyết chân lý
dựa trên chủ nghĩa công cụ: “Nói theo nghĩa rộng, chủ nghĩa công cụ là tên gọi
khác của chủ nghĩa thực dụng Dewey, nói theo nghĩa hẹp, thì đó là lý luận về
nhận thức và chân lý” [40, tr. 356]. Có thể nói, Dewey đã phát triển khái niệm
chân lý, cũng nhƣ toàn bộ học thuyết triết học thực dụng trong chủ nghĩa công cụ.
J. Dewey đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ. Xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa công cụ cho rằng: tƣ tƣởng, quan niệm, lý luận là công cụ
hành động của con ngƣời. Công cụ phục vụ con ngƣời trong hành động, tiêu
97
chuẩn của nó là kết quả của hành động. Tiêu chuẩn của chân lý giống nhƣ tiêu
chuẩn của những công cụ có giúp hành động của con ngƣời đạt đƣợc thành công
hay không? Do vậy, theo ông: “Nếu quan niệm, ý nghĩa, khái niệm, học thuyết
và hệ thống là công cụ chủ động cải tạo một môi trƣờng nào đó, hoặc loại trừ
một khó khăn, lo lắng riêng nào đó, thì hiệu quả và giá trị của chúng tùy thuộc
vào việc chúng có đem lại thành công hay không, nếu có, thì chúng là đáng tin
cậy, kiện toàn, hữu hiệu, là tốt, là thật” [dẫn theo: 40, tr. 357]. Ông cho rằng, các
quan niệm, tƣ tƣởng, khái niệm giống nhƣ một công cụ nói chung để tiến hành
cải tạo hoàn cảnh hiệu quả và giá trị của nó giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích,
dẫn đến thành công tức là đạt đến chân lý, hay chân lý chính là những công cụ
đƣa con ngƣời đến thành công.
Chân lý là công cụ đưa con người đến thành công, chân lý là một sự thỏa
mãn, là hiệu quả cho mọi người. Trong “Cải tạo của triết học”, khi nói rằng
thuyết chân lý của chủ nghĩa thực dụng “bị ngƣời ta căm ghét” vì lý luận ấy “kỳ
lạ và có khuyết điểm khi trình bày về nó”, J. Dewey đã giải thích rõ quan niệm
của triết học thực dụng khi cho rằng chân lý là sự thỏa mãn, tính hiệu quả và sự
thành công. Chân lý đƣợc coi là một loại thỏa mãn thƣờng bị hiểu nhầm rằng, đó
là sự thỏa mãn của tình cảm, sự thỏa mãn của cá nhân, đáp ứng nhu cầu cá nhân
đơn thuần. Ông khẳng định chủ nghĩa công cụ của ông không chủ trƣơng quy
khái niệm, lý luận khoa học chỉ là sự hữu dụng đối với cá nhân, mà còn phải có
tính phổ biến và đƣợc công chúng thừa nhận. Đó là sự thỏa mãn có điều kiện và
đòi hỏi của vấn đề nảy sinh từ mục đích, phƣơng pháp của quan niệm, hành
động, là sự thỏa mãn có điều kiện của công chúng và mang tính khách quan,
không phụ thuộc vào ý nghĩ hoặc mong muốn của cá nhân. Ông đã phát triển
quan niệm của W. James, theo James, chân lý chỉ là sự thỏa mãn nhu cầu của cá
nhân, còn Dewey đã giải thích về sự thỏa mãn, nhấn mạnh đó là sự thỏa mãn có
điều kiện, phần nào mang tính khách quan, cho cộng đồng, xuất phát từ mục đích
và quan niệm của cộng đồng.
Chân lý đƣợc giải thích là hiệu quả, nó thƣờng đƣợc coi là hiệu quả cho
98
mục đích cá nhân đơn thuần, hoặc là một loại lợi ích cá nhân nào đó. J. Dewey
không chỉ phê phán quan niệm này, mà còn cho rằng, quan niệm coi chân lý là
công cụ thỏa mãn dã tâm và quyền lực riêng của mình là rất đáng lên án. Thực
chất quan niệm chân lý tức hiệu quả, cho rằng tƣ tƣởng hoặc học thuyết có thể
đem lại hiệu quả trong kinh nghiệm cải tạo thực tiễn, hiệu quả cho mọi ngƣời,
cho công chúng, là sự phát triển quan niệm chân lý thực dụng của Dewey, là sự
khác biệt của chủ nghĩa công cụ của ông với chủ nghĩa duy tâm và các học
thuyết thực dụng trƣớc đó. Mặc dù vậy, khi coi chân lý là hiệu quả và sự thỏa
mãn mục đích của mọi ngƣời, thay cho sự thỏa mãn của cá nhân, điều đó không
hề thay đổi tính chất chủ quan trong quan niệm của ông về chân lý.
J. Dewey phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời cũng phủ nhận
tính tuyệt đối của chân lý. Ông theo khuynh hƣớng chủ nghĩa tƣơng đối trong
quan niệm về chân lý. Ông vạch ra sai lầm của quan niệm siêu hình về chân lý khi
cho rằng, chân lý là khái niệm lý tính tiên nghiệm, tĩnh tại, bất biến; đồng thời,
ông cũng phản đối thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Theo ông, mọi tƣ
tƣởng, khái niệm không thể tồn tại độc lập, cũng không thể là sự mô tả hiện thực
khách quan, chỉ có thể là những giả thuyết ứng dụng, mà giả thuyết là do con
ngƣời đề xuất theo ý muốn chủ quan của mình, nó nhƣ những công cụ đƣợc con
ngƣời sử dụng khi thấy tiện lợi. Từ đó, ông phủ định tính khách quan, tính tuyệt
đối của chân lý, đồng thời cũng nhấn mạnh tính tƣơng đối của chân lý. Ông khẳng
định: “Mỗi mệnh đề có liên quan về chân lý, phân tích đến cùng, trên thực tế đều
là giả thuyết và tạm thời, tuy có nhiều mệnh đề đã thƣờng đƣợc chứng minh
không có sai lầm…, hình nhƣ chúng ta thật sự tuyệt đối. Nhƣng về lôgíc, chân lý
tuyệt đối là một loại lý tƣởng không thể thực hiện đƣợc” [dẫn theo: 39, tr. 176].
Quan niệm về chân lý của J. Dewey, về cơ bản xuất phát từ quan niệm
“chân lý là hiệu quả” của W. James. Có những điểm tƣơng đồng ở việc khẳng
định rằng, những quan niệm nào đảm bảo hiệu quả cho hành động là quan niệm
đúng đắn. Cái gì cho phép giải quyết thành công những tình huống nan giải, cái
đó là chân lý. Sau này, trong những tác phẩm của mình, Dewey không còn
thƣờng xuyên dùng thuật ngữ “chân lý” nữa, mà thay bằng diễn đạt “sự khẳng
99
định có cơ sở”. Theo đó, chân lý là sự khẳng định có cơ sở, có đảm bảo, ông
muốn nhấn mạnh chân lý cần phải được sự kiểm chứng của khoa học. Dewey
phát triển quan điểm của C.Peirce về lý luận hoài nghi - niềm tin, khi khẳng định
việc nghiên cứu bao giờ cũng bắt đầu bằng những hoài nghi và kết thúc trong
việc xác định những điều kiện để nghi vấn không còn nữa, quá trình xác định
này đƣợc thông qua nghiên cứu là điều khẳng định có đảm bảo. Định nghĩa chân
lý đƣợc Dewey thể hiện trong lý luận của chủ nghĩa công cụ, chân lý là quan
niệm hay giả thuyết đã được kiểm chứng, có hiệu quả, đem lại sự thỏa mãn và
thành công cho con người.
Nhƣ vậy, xuất phát từ nguyên tắc của C. Peirce hay nguyên tắc của chủ
nghĩa thực dụng, khi cho rằng nghĩa của khái niệm, tư tưởng chính là toàn bộ
những hiệu quả thực tế, W. James đã phát triển thành khái niệm chân lý, ông
đồng nhất chân lý với tính hữu dụng. J. Dewey cũng có những quan điểm tƣơng
đồng với James về khái niệm chân lý, đồng thời phát triển quan niệm về chân lý,
khẳng định chân lý là công cụ hữu ích giúp con người giải quyết những tình
huống có vấn đề, đem lại hiệu quả, sự thỏa mãn và thành công.
3.2. Về tiêu chuẩn của chân lý
Vấn đề tiêu chuẩn của chân lý là một nội dung cơ bản khi nghiên cứu về
phạm trù chân lý trong lý luận nhận thức của các trƣờng phái triết học nói chung,
triết học thực dụng nói riêng. Một tƣ tƣởng, quan niệm đƣợc xác định là đúng
đắn, mang tính chân lý, hay thƣớc đo để chứng minh chân lý đƣợc gọi là tiêu
chuẩn của chân lý. Chân lý thuộc phạm trù nhận thức, nhận thức nhằm đạt đến
chân lý. Quá trình nhận thức không ngừng phát triển cho nên tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý cũng không phải là bất biến. Khi trả lời câu hỏi về tiêu chuẩn của
chân lý, các trƣờng phái triết học, các nhà triết học đã đƣa ra nhiều quan điểm
khác nhau. Triết học thực dụng đƣa ra cách lý giải khá đặc biệt về tiêu chuẩn của
chân lý. Làm rõ tiêu chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, giúp chúng
ta hiểu rõ bản chất của triết học thực dụng, từ đó, có cái nhìn và sự lý giải một
cách khách quan về trƣờng phái triết học này.
3.2.1. Hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý trong quan niệm của C. Peirce
100
C. Peirce là ngƣời sáng lập triết học thực dụng Mỹ, ngƣời đặt nền móng
cho quan niệm về chân lý. Trong lý luận hoài nghi - niềm tin, Peirce đồng nhất
chân lý với niềm tin vững chắc, theo đó tiêu chuẩn của chân lý là niềm tin tuyệt
đối của những ngƣời cùng nghiên cứu một vấn đề khoa học, đó là chân lý khoa
học: “Chân lý là ý kiến đạt đƣợc sự nhất trí tuyệt đối giữa những ngƣời cùng
nghiên cứu một vấn đề. Đối tƣợng đƣợc trình bày trong ý kiến tập thể ấy là hiện
thực” [135, T.V, đoạn 507]. Từ quan điểm này của ông, chúng ta có thể liên
tƣởng tới quan niệm coi tiêu chuẩn chân lý là sự nhất trí chung, tức chân lý thuộc
về số đông của J. Berkeley. Không đồng ý với quan điểm này của Berkeley,
Peirce cho rằng, chân lý của số đông là cái hoàn toàn xa lạ với chân lý khoa học.
Do đó, khi dựa vào ý kiến của các nhà chuyên môn, các nhà khoa học cùng
nghiên cứu một đối tƣợng, một lĩnh vực khoa học, ông đƣa ra một quan niệm rất
đáng để chúng ta lƣu tâm. Đó là trong thời đại chuyên môn hóa phát triển mạnh
mẽ nhƣ hiện nay, chỉ có các nhà khoa học, những chuyên gia trong lĩnh vực của
mình mới đủ khả năng đánh giá các lý thuyết khoa học, xác định tính đúng đắn
của nó. Mặc dù vậy, sai lầm cơ bản trong quan niệm này của ông ở chỗ xem tiêu
chuẩn của chân lý chỉ là đối tƣợng của ý kiến tập thể.
Đến đây, chúng ta thấy vấn đề nảy sinh trong quan niệm của ông, đòi hỏi
ông phải giải quyết, đó là nếu niềm tin là tiêu chuẩn của chân lý thì cái gì là tiêu
chuẩn của niềm tin? Giải đáp vấn đề này, C. Peirce đã xây dựng nguyên tắc của
triết học thực dụng.
Trong luận văn về “Chủ nghĩa thực dụng” (1905), ông đã đƣa ra châm
ngôn thực dụng nhƣ sau: “Hãy xem xét những tác động có thể tin là có ý nghĩa
thực tế, để từ đó, xác định đối tƣợng cho quan niệm đó của bạn. Sau đó, lấy quan
niệm của bạn về những tác động này là TOÀN BỘ quan niệm của bạn về đối
tƣợng” [139, tr. 110]. Châm ngôn này cho thấy ông đã đồng nhất quan niệm về
đối tƣợng với toàn bộ hiệu quả thực tế do quan niệm về đối tƣợng tạo ra. Ông đã
nhấn mạnh “những hiệu quả thực tế có thể xảy ra” và coi những hiệu quả thực tế
này là cái cấu thành toàn bộ nghĩa của khái niệm. Từ quan niệm về nghĩa của
khái niệm, C.Peirce coi tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm là tất cả
101
những hiệu quả thực tế mà nó có thể tạo ra trong hành động. Tất nhiên, những
hiệu quả này, theo ông vẫn nằm ở trong lĩnh vực tƣ tƣởng dƣới dạng phƣơng án
có thể xảy ra, nếu chúng ta thực hành nó trong hoạt động thực tiễn. Những hiệu
quả thực hành chúng ta có thể suy tính đƣợc chủ yếu dựa vào kinh nghiệm trong
hoạt động của con ngƣời. Do đó, theo Peirce, những hiệu quả có thể cảm giác
đƣợc của con ngƣời trở thành tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm và
cũng là tiêu chuẩn của chân lý.
Có thể nói, đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế là một trong những đặc
trƣng của lý luận nhận thức thực dụng mà C. Peirce là ngƣời khởi xƣớng. Theo
C.Peirce, tiêu chuẩn để phân biệt chân lý với giả tạo là hành động dựa trên cơ sở,
cơ sở đó là những hiệu quả thực tế. Trong lý luận về nghĩa, ông đã coi “hiệu quả
thực tế” là tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm, cũng chính là tiêu chuẩn
của chân lý. Mặc dù những giải thích của ông về hiệu quả thực tế là những thói
quen và cảm giác còn mang tính chủ quan, nhƣng ông muốn nhấn mạnh hiệu quả
thực tế của khái niệm phải gắn với kinh nghiệm của con ngƣời, có ý nghĩa với
con ngƣời. Đặc trƣng của lý luận thực dụng về nghĩa thể hiện ở việc đồng nhất
nghĩa với hiệu quả thực tế. Hiệu quả thực tế của khái niệm gắn với niềm tin của
con ngƣời. Do đó, theo ông, để xác định chân lý, cuối cùng chúng ta vẫn phải
căn cứ vào hiệu quả thực tế đối với con ngƣời, đó là hiệu quả có thể cảm giác
đƣợc và mang tính chủ quan.
Với “thuyết khả sai” và lấy đó làm cơ sở phƣơng pháp luận của khoa học,
C. Peirce đã đi đến quan niệm cho rằng, những kết luận của khoa học không bao
giờ là xong xuôi hoàn toàn, mà luôn trong quá trình tự hiệu chỉnh, tự hoàn thiện
không ngừng. Thuyết có thể sai khẳng định nhận thức của con ngƣời không bao
giờ đạt đến tri thức tuyệt đối, theo đó, chân lý chỉ là tƣơng đối: “Có ba loại sự vật
chúng ta tuyệt đối không thể đạt đƣợc, đó là tính xác định tuyệt đối, tính chính xác
tuyệt đối và tính phổ biến tuyệt đối” [135, T.I, đoạn 141]. Việc tìm ra chân lý cũng
luôn cần phải dựa vào phƣơng pháp khoa học: “Sự hợp lý của phƣơng pháp khoa
học không tùy thuộc vào tính chắc chắn của những kết luận của nó, nhƣng vào đặc
điểm tự hiệu chỉnh của nó: bằng cách áp dụng liên tục phƣơng pháp này, khoa học
102
có thể phát hiện ra và hiệu chỉnh những sai lầm của chính nó, và nhờ vậy cuối
cùng đi tới sự khám phá chân lý” [105, tr. 498]. Quan điểm coi tính có thể sai của
những kết luận khoa học, theo đó chân lý luôn cần có sự hiệu chỉnh bằng phƣơng
pháp khoa học, đã cho thấy ông đứng trên quan điểm của nhà khoa học tự nhiên
để đƣa ra những nhân tố tích cực, hợp lý trong việc xác định tiêu chuẩn của chân
lý khoa học. Tuy nhiên, nếu triệt để theo nguyên tắc có thể sai, thì sớm hay muộn
sẽ khiến ông buộc phải khẳng định “tri thức đáng tin cậy là không thể”. Vậy phải
luận chứng tiêu chuẩn của tri thức dựa trên cái gì? Ông đã tìm ra lối thoát bằng
cách chuyển cơ sở của nó sang tính xác thực trong thực tiễn. Nếu nhƣ trong lĩnh
vực lý luận con ngƣời không thể đạt tính chân thực tuyệt đối, thì vẫn còn đó tính
chân thực thực tiễn. Dịch chuyển từ vấn đề lý luận sang thực tiễn, Peirce khẳng
định hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý: “Ngƣời ta cần suy nghĩ từ chân lý
của khái niệm tất nhiên sẽ có đƣợc hiệu quả thực tế mong đợi. Tổng hòa các hiệu
quả này sẽ tạo nên toàn bộ nghĩa của khái niệm đó” [135, T.V, đoạn 9]. Bƣớc
chuyển này khẳng định Peirce là ngƣời sáng lập ra triết học thực dụng và đặt nền
tảng cho quan niệm về chân lý, cũng nhƣ tiêu chuẩn của chân lý.
Nhƣ vậy, C. Peirce cho rằng, con ngƣời chỉ hành động và đạt hiệu quả
khi có đƣợc niềm tin vững chắc, ông đề cao niềm tin thực dụng và coi niềm tin
là thái độ sẵn sàng hành động, nhƣng đó không phải là niềm tin của số đông,
mà là niềm tin khoa học đƣợc tạo ra từ sự nhất trí của những chuyên gia trong
một lĩnh vực nghiên cứu nhất định. Cơ sở của niềm tin vững chắc đó là hiệu
quả thực tế do nó tạo ra. Rằng, niềm tin đó mới là cơ sở đáng tin cậy của chân
lý, hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Theo ông, tổng số những hiệu
quả do kinh nghiệm có thể cảm giác đƣợc của con ngƣời tạo ra là cơ sở để xác
định đó là chân lý hay sai lầm. Từ quan niệm này, ông khẳng định rằng tiêu
chuẩn của chân lý chỉ mang tính tƣơng đối, quá trình đi tới chân lý là sự hiệu
chỉnh những sai lầm.
3.2.2. Hiệu quả có ích là tiêu chuẩn của chân lý trong quan niệm của W. James
Nếu C. Peirce dừng lại ở quan điểm nền tảng coi hiệu quả thực tế do khái
103
niệm tạo ra là tiêu chuẩn của chân lý, thì James đã phát triển, cụ thể hóa quan
điểm này và đi đến khẳng định hiệu quả có ích, sự thành công là tiêu chuẩn căn
bản của chân lý. Khi đồng nhất chân lý với tính hữu dụng, ông khẳng định: “Cái
gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải hữu dụng - cả hai
ý này đồng nghĩa với nhau” [92, tr. 37]. Với James, chân lý là hữu dụng, hữu
dụng là chân lý. Từ quan niệm này, ông cho rằng, không phải cứ quan niệm phù
hợp với đối tƣợng là chân lý, chỉ khi nào quan niệm hữu dụng với con ngƣời thì
đó mới là chân lý. Do đó, suy đến cùng, ông không coi quan niệm phù hợp với
đối tƣợng là chân lý mà coi tính hữu ích của quan niệm đối với con ngƣời mới là
tiêu chuẩn của chân lý. Sai lầm của ông trong quan niệm này ở chỗ đã phủ nhận
tiêu chuẩn khách quan của chân lý, lấy hiệu quả, tính có ích là tiêu chuẩn duy
nhất của chân lý.
Khẳng định hiệu quả có ích là tiêu chuẩn của chân lý, đồng thời W. James
đã đƣa ra phạm trù “thực tại” và coi chân lý là sự phù hợp với thực tại. Quan
điểm này của ông gần với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phạm
trù thực tiễn và vai trò của thực tiễn với tƣ cách tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý.
Về thực chất, phạm trù “thực tại” và “sự phù hợp với thực tại” có ý nghĩa đặc
biệt trong học thuyết chân lý của James, vì nó đƣợc ông xem là tiêu chuẩn để
phân biệt chân lý với sai lầm: “Chân lý là một tính chất của một số ý tƣởng của
chúng ta. Nó có nghĩa là “sự phù hợp với thực tại”, cũng nhƣ sai lầm là sự không
phù hợp với thực tại”. Các nhà thực dụng lẫn các nhà duy lý đều chấp nhận định
nghĩa này nhƣ là điều hiển nhiên. Họ chỉ bất đồng với nhau về cách hiểu chính
xác thuật ngữ “phù hợp” và “thực tại” nghĩa là gì, khi thực tại đƣợc coi là cái mà
các ý niệm của chúng ta phải phù hợp với nó” [139, tr. 227 - 228]. Tuy nhiên,
theo cách hiểu của James, phạm trù “thực tại” không phải là hiện thực khách
quan với sự sống động của vạn vật mà là quan hệ tƣơng đối với đời sống tinh
thần, tình cảm của cá nhân con ngƣời, nó mang tính chủ quan: “Thực tại chỉ là
quan hệ tƣơng đối với đời sống tình cảm và đời sống năng động của chúng ta, đó
là ý nghĩa duy nhất của danh từ ngƣời ta đã nói trong thực tiễn. Nền tảng và khởi
nguồn của mọi thực tại, bất kỳ đƣợc xem xét theo quan điểm tuyệt đối hoặc quan
104
điểm thực tiễn, đều là chủ quan, cũng tức là bản thân chúng ta” [9, tr. 98]. Qua
cách giải thích về “thực tại”, James cố gắng hòa lẫn giữa yếu tố chủ quan với yếu
tố khách quan, kinh nghiệm chủ thể với thực tại khách quan. Xuất phát từ chủ
nghĩa kinh nghiệm, ông lý giải theo quan điểm chủ quan về phạm trù “thực tại”,
khi coi thực tại là các sự kiện cụ thể, hay các loại sự vật trừu tƣợng và những
mối quan hệ của chúng mà chúng ta có thể nhận thấy bằng trực giác. Không chỉ
thế, với ông, “thực tại” còn đƣợc hiểu theo nghĩa thứ ba - đó là toàn bộ các chân
lý khác chúng ta đã có, là những sự vật mà các ý niệm mới của chúng ta phải
quan tâm. Vậy theo cách hiểu này của James thì thế nào là sự “phù hợp” với ba
loại thực tại theo nghĩa đó?
Trƣớc hết, phù hợp là sự mô tả theo, ví dụ nhƣ từ “đồng hồ” có thể thay
thế cho hình ảnh của ý thức về hoạt động của nó và trong rất nhiều thực tại khác,
các ý niệm của chúng ta chỉ có thể là những biểu tƣợng, chứ không phải là
những bản sao. Do đó, phù hợp với thực tại theo nghĩa rộng nhất là “đƣợc dẫn
dắt thẳng tới nó hay vào khu vực của nó; hoặc là đƣợc đặt vào sự tiếp xúc thực
tiễn với nó để có thể xử lý nó hay một sự vật nào đó có liên hệ với nó một cách
tốt hơn” [139, tr. 234]. Sự phù hợp chỉ có nghĩa khi đó là một sự kiện phủ định
những gì mâu thuẫn, những gì có thể cản đƣờng khiến tƣ tƣởng của chúng ta
không dẫn dắt đến một sự vật khác. Do đó, điều cốt yếu là tiến trình nhận thức
cần phải đƣợc dẫn dắt bởi một định hƣớng đúng đắn. Rằng, bất cứ quan niệm
nào giúp chúng ta giải quyết những vấn đề của thực tại một cách đúng đắn, làm
cho đời sống chúng ta phù hợp và thích nghi với môi trƣờng đều có thể coi là
phù hợp để khẳng định là đúng. Vì thế, theo quan niệm của W. James, cái gọi là
phù hợp với thực tại là sự phù hợp năng động của chủ thể đối với khách thể. Ông
đã bác bỏ thuyết phản ánh luận cho rằng một quan niệm đúng là sự mô tả hay
sao chép thực tại. Theo James, sự phù hợp với thực tại đƣợc hiểu chỉ là quan hệ
trong bản thân quan niệm, tức là bộ phận quan niệm này phù hợp với bộ phận
quan niệm khác, chứ không phải là thực tế khách quan.
Thế nhƣng, vấn đề đặt ra ở đây là: Các quan niệm phù hợp với thực tại
nhƣ thế nào thì mới đƣợc coi là các quan niệm đúng? Trả lời vấn đề này, chúng
105
ta phải dựa trên cơ sở kiểm chứng các quan niệm đó, bởi việc theo đuổi các ý
niệm đúng là bổn phận hàng đầu của con ngƣời. Rằng, sở hữu chân lý không
phải là mục đích tự nó, mà chỉ là một phƣơng tiện mang ý nghĩa mở đƣờng để
hƣớng tới những thỏa mãn khác của đời sống. Bổn phận của con ngƣời là tìm
kiếm chân lý hay nói cách khác con ngƣời không ngừng hƣớng nhận thức của
mình đạt đến chân lý. Chân lý là sự phù hợp của quan niệm với thực tại trên cơ
sở kiểm chứng: “Những ý niệm đúng là những ý niệm mà chúng ta có thể đồng
hóa, củng cố, chứng thực và xác nhận. Những ý niệm sai là những ý niệm mà
chúng ta không thể làm được điều này” [139, tr. 229]. Nhƣng chứng thực bằng
tiêu chuẩn nào, có phải là thực tiễn hay không? Trả lời câu hỏi này, ông nhấn
mạnh: “Chúng có nghĩa là một số hiệu quả thực dụng của ý niệm đƣợc chứng thực
và tạo ra giá trị… sự phù hợp - đó là các hiệu quả nhƣ thế là điều mà chúng ta
nghĩ tới mỗi khi chúng ta nói rằng ý niệm của chúng ta “phù hợp” với thực tại”
[139, tr. 229]. Câu hỏi đặt ra là có sự khác biệt căn bản nào giữa ý niệm đúng và ý
niệm sai lầm. Để trả lời câu hỏi này, cũng tức làm rõ tiêu chuẩn để phân biệt chân
lý và sai lầm, triết học thực dụng giải quyết từ góc độ giá trị luận mà không phải ở
góc độ nhận thức luận. Triết học thực dụng muốn khẳng định sự khác biệt của
mình với các trƣờng phái triết học khác. Sự khác biệt này ở chỗ, nếu nhƣ hầu hết
các trƣờng phái triết học khác coi mục đích của nhận thức nhằm đạt đến chân lý,
đạt tới chân lý tức nhiệm vụ của quá trình nhận thức đã hoàn thành, thì triết học
thực dụng lại khẳng định chân lý chỉ là công cụ để tạo ra sự khác biệt về mặt hiệu
quả trong việc cải tạo hoàn cảnh. Chính vì thế, triết học thực dụng không coi việc
đạt đến chân lý là cái đích cuối cùng, mà đạt đến chân lý chỉ là một phƣơng tiện
mở đầu để hƣớng tới các sự thỏa mãn khác của đời sống. Đích cuối cùng của
chân lý chính là giá trị thực tế do nó đem lại cho con ngƣời: “Hãy đƣa ra một ý
tƣởng hoặc là cứ tin là đúng, việc ý tƣởng ấy trở nên đúng sẽ tạo ra khác biệt cụ
thể nào trong đời sống thực thụ của một ngƣời nào đó?” [139, tr. 228]. Tuy
nhiên, W.James lại thể hiện quan điểm chủ quan về thực tại; thực tại rõ ràng
không phải là khách quan, chỉ là dòng kinh nghiệm sống của con ngƣời; tiêu
chuẩn của chân lý chỉ tồn tại ở giá trị niềm tin của con ngƣời khi nó còn đem lại
106
hiệu quả thực tế, ông khẳng định: “Chân lý phần nhiều sống dựa vào một “hệ
thống tín dụng”… toàn bộ sự thực sẽ sụp đổ nhƣ một hệ thống tài chính mà không
có bất cứ cái gì làm cơ sở tiền mặt” [139, tr. 231 - 232]. Rõ ràng, theo quan niệm
của W. James về tiêu chuẩn chân lý thì chẳng những tính khách quan của nó bị
phủ định mà việc tìm ra tiêu chuẩn chung của chân lý giữa mọi ngƣời là điều
không thể. Theo ông, tiêu chuẩn của chân lý chỉ mang tính tƣơng đối, chủ quan,
không có chân lý tuyệt đối, khách quan. Quan niệm này của ông chính là cơ sở để
mỗi cá nhân theo đuổi hiệu quả, lợi ích, hay sự thành công của cá nhân họ, bởi đó
chính là tiêu chuẩn chân lý của chính họ. Nói cách khác, với James, tiêu chuẩn của
chân lý là cụ thể, chỉ mang tính chủ quan và tính cá nhân.
3.2.3. Tính hữu ích, sự thỏa mãn và thành công là tiêu chuẩn của chân lý
trong chủ nghĩa công cụ của J. Dewey
Kế thừa quan điểm của W. James về tiêu chuẩn của chân lý, J. Dewey cho
rằng, tính hữu ích, sự thỏa mãn, sự thành công, cái có lợi là tiêu chuẩn của một
quan niệm, một tƣ tƣởng. Rằng, hiệu quả của một quan niệm hay một giả thuyết
nào đó là thƣớc đo chân lý của quan niệm hay giả thuyết đó. Từ đó, Dewey đƣa
ra thuyết công cụ, về thực chất đó là quan niệm cho rằng, tất cả các khái niệm, tƣ
tƣởng, quan niệm chẳng qua chỉ là những công cụ giúp cho con ngƣời hành
động, đích đến của hành động chính là hiệu quả, sự thành công. Cho nên tiêu
chuẩn của khái niệm, tƣ tƣởng, cũng là tiêu chuẩn của chân lý là tính hiệu quả,
sự thành công của con ngƣời trong hoạt động cải tạo thực tiễn.
Theo J. Dewey, các quan niệm, khái niệm, học thuyết hay hệ thống tƣ
tƣởng đều giống nhƣ một thứ công cụ mà con ngƣời sử dụng để tiến hành cải tạo
hoàn cảnh nào đó một cách chủ động, hoặc để loại bỏ những sự khó khăn nào
đó. Giá trị, hiệu quả của chúng sẽ liên quan đến sự thành công hay không thành
công của công cụ ấy trong quá trình hoạt động của con ngƣời. Nếu chúng thành
công thì chúng đáng tin, có hiệu quả, là tốt, là đúng: “Công cụ không phân biệt
thật giả, bởi vì vậy thật giả đều không phải là đặc tính của phán đoán. Công cụ
thƣờng là hữu hiệu hoặc vô hiệu, thích đáng hay không thích đáng, kinh tế hoặc
lãng phí” [dẫn theo: 40, tr. 357]. Đồng nhất chân lý với công cụ, hay phƣơng tiện
107
giúp con ngƣời hoạt động nhằm cải tạo hoàn cảnh một cách có hiệu quả, Dewey
khẳng định rằng đã là công cụ, hay phƣơng tiện thì tính hữu ích phải đƣợc đặt
lên hàng đầu, phải đƣợc coi là tiêu chuẩn của công cụ hay phƣơng tiện ấy và đó
cũng chính là tiêu chuẩn của chân lý.
Không chỉ thế, J. Dewey còn cho rằng, các khái niệm, phạm trù hay phán
đoán đều do một loại thao tác cấu tạo nên, tác dụng của những thao tác này là cái
giúp cho con ngƣời lựa chọn điều kiện có lợi. Ở góc độ xem xét, Dewey cho
rằng, tri thức và chân lý thực chất không biểu thị phƣơng diện nào của thực tại,
chỉ là công cụ để giải quyết những tình huống có vấn đề. Theo quan niệm của
chủ nghĩa công cụ, việc đánh giá nội dung, ý nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm
không phải ở sự phù hợp của chúng với thực tại mà tiêu chuẩn của nó phụ thuộc
vào hiệu quả hay tính có ích, sự thành công của chúng khi giải quyết những tình
huống có vấn đề. Nói cách khác, quan niệm của Dewey có sự thống nhất với
quan niệm của C. Peirce và W. James khi khẳng định tiêu chuẩn của chân lý
chính là tính hữu ích hay tác dụng của tƣ tƣởng, khái niệm. Song, quan niệm của
ông không còn trừu tƣợng nhƣ Peirce và James, mà cụ thể hơn bởi theo ông,
chân lý là tính hữu dụng trong việc giải quyết tình huống cụ thể chứ không phải
là tính hữu dụng nói chung. Sự thỏa mãn đƣợc tạo ra không phải là mang tính cá
nhân, riêng tƣ của một chủ thể hành động mà là sự thỏa mãn các yêu cầu của tình
huống có vấn đề. Rằng, tính thỏa mãn quan niệm và hành động là tiêu chuẩn của
chân lý. Quan niệm này cho thấy, với ông, sự thỏa mãn mục đích, sự thành công
của trong việc giải quyết tình huống có vấn đề nói riêng và trong hoạt động cải
tạo thực tiễn nói chung là tiêu chuẩn của chân lý. Quan niệm của ông về tiêu
chuẩn của chân lý mang tính duy tâm chủ quan, mặc dù đã thay sự thỏa mãn cá
nhân bằng sự thỏa mãn “công chúng”.
Có thể nói, quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn chân lý có sự
thống nhất với khái niệm chân lý. Việc đồng nhất chân lý với hiệu quả, tính có
ích, sự thành công đã quy định quan niệm của các nhà triết học thực dụng về tiêu
chuẩn của chân lý. Từ quan điểm nền tảng của C. Peirce cho rằng hiệu quả thực
108
tế là tiêu chuẩn của chân lý đến việc khẳng định hiệu quả có ích là tiêu chuẩn
chân lý trong quan niệm của W. James. J. Dewey đã cụ thể hóa khi coi tiêu
chuẩn của chân lý là tính hữu ích, sự thỏa mãn và thành công trong việc giải
quyết những tình huống có vấn đề.
Trong quan niệm về tiêu chuẩn chân lý của triết học thực dụng Mỹ,
chúng ta thấy sự đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế, tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý chính là hiệu quả thực tế. Ở đây, chúng ta có thể thấy một số giá trị cơ
bản trong việc chống lại những quan niệm tƣ biện, siêu hình về tiêu chuẩn của
chân lý. C. Peirce đƣa ra thuyết “có thể sai” để khẳng định tiêu chuẩn kiểm
nghiệm chân lý cần thƣờng xuyên đƣợc hiệu chỉnh; W. James đƣa ra phạm trù
“thực tại”, chân lý là sự phù hợp với thực tại, rất gần với quan điểm thực tiễn,
tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm tra chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng.
Nhƣng trên hết, chúng ta thấy giá trị thực tiễn sâu sắc của quan niệm về tiêu
chuẩn của chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Giá trị đó đƣợc thể hiện ở sự
thâm nhập của nó vào đời sống xã hội nƣớc Mỹ, sự thẩm thấu vào văn hóa, lối
sống của con ngƣời Mỹ. Nó trở thành phƣơng châm sống và hành động của
ngƣời Mỹ mà cái cốt yếu để hành động là đạt đƣợc mục đích, mục đích đó
không gì khác là hiệu quả, sự thỏa mãn và thành công. Từ đó chúng ta có thể
lý giải phần nào nguyên nhân về sự giàu có, sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ với vị
thế là một siêu cƣờng trên thế giới.
Tuy nhiên, sai lầm của các nhà triết học thực dụng là đã phủ nhận tiêu
chuẩn khách quan của chân lý. Ngay cả phạm trù thực tại cũng không phải là
khách quan mà mang tính chủ quan, thậm chí tiêu chuẩn của chân lý cũng chỉ
đƣợc xem là đối tƣợng của ý kiến tập thể. Chân lý là sự thỏa mãn cá nhân, giúp
con ngƣời đạt đƣợc thành công, cho nên, mỗi ngƣời dựa trên mục đích lợi ích
của mình đều có thể theo đuổi tiêu chuẩn chân lý khác nhau. Việc xác định tiêu
chuẩn chân lý nhƣ vậy có phần chủ quan, tùy tiện và phần nào thể hiện lập
trƣờng của giai cấp tƣ sản, nhằm bảo vệ cho lợi ích của giai cấp mình.
3.3. Về phƣơng pháp luận khoa học nhằm đạt đến chân lý
Theo quan điểm của triết học thực dụng, chân lý là một quá trình không
109
phải tĩnh tại, do đó, nhận thức chân lý cũng là một quá trình. Đó là quá trình phát
sinh, phát triển và đƣợc chứng thực, có hiệu quả trong đời sống. Các nhà triết
học thực dụng đƣa ra phƣơng pháp, con đƣờng nhận thức chân lý trên cơ sở khái
niệm chân lý.
C. Peirce khẳng định chân lý là niềm tin nhất quán và vững chắc. Theo
ông, con đƣờng để đạt đến chân lý là phải loại bỏ hoài nghi, xác định niềm tin
vững chắc, giúp con ngƣời sẵn sàng hành động. Ông đƣa ra phƣơng pháp để đạt
tới niềm tin vững chắc, cũng đƣợc coi là phƣơng pháp để nhận thức chân lý.
Phƣơng pháp củng cố niềm tin phải là phƣơng pháp khoa học, để đạt tới niềm tin
khoa học chứ không phải là mọi loại niềm tin của con ngƣời: “Một loại niềm tin
nếu chỉ thỏa mãn tình cảm của con ngƣời, thì chƣa phải là niềm tin thật, chỉ có
thể dùng phƣơng pháp khoa học chứng minh mới là thật” [135, T.VI, đoạn 485].
Ông cho rằng có bốn phƣơng pháp để xác định niềm tin nhƣ sau:
Thứ nhất, phương pháp cố chấp. Phƣơng pháp này thể hiện sự công khai
ủng hộ ý kiến đã hình thành, có thái độ miệt thị và căm thù với những gì đi
ngƣợc lại ý kiến đó. Đó là phƣơng pháp khi đứng trƣớc mọi vấn đề ngƣời ta vẫn
thể hiện sự kiên trì bảo vệ ý kiến của mình, coi niềm tin đó là hoàn toàn không
thể thay đổi, không thể lay chuyển, nó trở thành kim chỉ nam cho hành động.
C.Peirce nhận xét và lý giải việc nhiều ngƣời thực sự sử dụng phƣơng pháp cố
chấp: “Phƣơng pháp đơn giản và ngoan cố này, vì thái độ ghê tởm mang tính bản
năng đối với ý thức lƣỡng lự dẫn tới sợ hãi mông lung do hoài nghi sẽ bắt ngƣời
ta phải nhất quyết bám chặt vào những ý kiến họ đã có. Con ngƣời cảm nhận
thấy rằng, nếu họ dứt khoát giữ vững niềm tin của mình, thì họ sẽ hoàn toàn thỏa
mãn. Không nên bác bỏ rằng, niềm tin vững chắc và không dao động sẽ làm cho
trí não hoàn toàn thanh thản” [135, T.V, đoạn 377].
Bản thân C. Peirce thừa nhận phƣơng pháp cố chấp mang tính phi lý: “…
Đúng là nó hoàn toàn phi lý” [135, T.V, đoạn 324]. Mặc dù vậy, cần hiểu sự phi
lý đó có nghĩa: “Nó là phi lý theo quan điểm của những ngƣời duy lý. Nhƣng,
thừa nhận quan điểm này có nghĩa là coi vấn đề tranh luận đã giải quyết xong”
[135, T.V, đoạn 324]. Peirce khẳng định: “Sẽ là một sự hỗn hào ngạo mạn nếu
110
phản bác rằng, lối hành động của ngƣời bảo vệ phƣơng pháp cố chấp là phi lý, vì
điều đó chỉ có một nghĩa: phƣơng pháp xác lập niềm tin của ngƣời ấy không phải
là phƣơng pháp của chúng ta. Ngƣời ấy hoàn toàn không có ý định trở nên hợp
lý và thực sự thƣờng xuyên nói miệt thị về lý tính yếu đuối và hay mắc sai lầm
của con ngƣời” [135, T.V, đoạn 377].
C. Peirce nhấn mạnh rằng, để loại bỏ hoài nghi củng cố niềm tin vững
chắc làm cơ sở cho hành động và đạt mục đích đặt ra thì chỉ với phƣơng pháp cố
chấp là chƣa đủ, bởi với phƣơng pháp này bộc lộ hạn chế: “Con ngƣời chấp nhận
nó sẽ phát hiện ra rằng, nhiều ngƣời khác suy nghĩ không giống nhƣ mình, vào
một thời điểm nào đó, trong đầu ngƣời ấy sẽ xuất hiện ý nghĩ rằng, ý kiến của họ
cũng tốt nhƣ ý kiến của mình, chính thực tế này sẽ làm dao động niềm tin của
ngƣời ấy” [135, T.V, đoạn 378]. Phƣơng pháp cố chấp đi ngƣợc lại với thực tế
khách quan, mang tính chủ quan của cá nhân. Mặc dù nó phù hợp với nguyên tắc
phƣơng pháp phƣơng pháp luận chung của chủ nghĩa thực dụng, nhƣng Peirce
không tán thành loại phƣơng pháp này, vì cho rằng nó thƣờng bế tắc trƣớc thực
tiễn, không giải quyết đƣợc những vấn đề của thực tiễn.
Thứ hai, phương pháp quyền uy. Từ phƣơng pháp cố chấp sang phƣơng
pháp quyền uy thể hiện bƣớc chuyển từ niềm tin độc đoán của bản thân một cá
nhân sang sự độc đoán của các lực lƣợng xã hội và sự thống trị của xã hội đối
với niềm tin của đa số mọi ngƣời. Đó là phƣơng pháp tiếp nhận những nguyên
tắc, quy định của nhà nƣớc, giáo hội hoặc các cơ quan có sức mạnh hoặc quyền
uy khác để thiết lập niềm tin có tính cƣỡng chế đối với tất cả mọi ngƣời không
đồng chính kiến. Đối với những ngƣời này, vấn đề củng cố niềm tin là vấn đề
phục tùng uy quyền. C. Peirce phân tích phƣơng pháp này nhƣ sau: “Hãy để cho
ý chí nhà nƣớc thay thế ý chí cá nhân. Chúng ta sẽ tạo dựng thể chế có mục đích
thu hút sự quan tâm của mọi ngƣời đến các học thuyết đúng đắn, thƣờng xuyên
nhắc lại chúng, dạy chúng cho giới trẻ; thể chế này đồng thời cũng cần sở hữu
sức mạnh để ngăn chặn việc nghiên cứu, bảo vệ và trình bày các học thuyết đối
lập. Chúng ta loại bỏ mọi nguyên nhân có thể làm thay đổi tâm linh ra khỏi đầu
óc mọi ngƣời. Chúng ta sẽ giữ yên sự dốt nát của họ để họ không học đƣợc cách
suy nghĩ khác. Chúng ta sẽ định hƣớng khát vọng của họ để họ ghét bỏ và sợ hãi
111
những ý kiến riêng và bất thƣờng. Chúng ta sẽ đe dọa và bắt giữ im lặng đối với
tất cả những kẻ bác bỏ niềm tin đã xác lập. Chúng ta sẽ kích thích nhân dân né
tránh những kẻ đó và… trừng phạt thích đáng chúng. Nếu không thể đạt tới sự
đồng thuận chung bằng phƣơng thức nhƣ vậy, thì việc sát hại tất cả những kẻ có
suy nghĩ khác sẽ luôn là một phƣơng tiện rất hữu hiệu để tạo ra ý kiến thống nhất
trong nƣớc” [135, T.V, đoạn 379].
Phƣơng pháp này từng chứng kiến sự thành công, nó phù hợp với nguyên
tắc của triết học thực dụng, nhƣng C. Peirce không tán thành phƣơng pháp này.
Ông cho rằng phƣơng pháp này không thể đảm bảo cho con ngƣời hoàn toàn
thành công, vì không có cách nào ngăn cản ngƣời ta hoài nghi với niềm tin của
uy quyền: “Có thể xuất hiện những ngƣời so sánh ý kiến của mình với ý kiến phổ
biến ở các nƣớc khác và đi đến kết luận rằng, họ bị áp đặt suy nghĩ và sống nhƣ
hiện thời” [135, T.V, đoạn 381]. Có thể xuất hiện những vấn đề mới, niềm tin đã
xác lập không luận giải đƣợc chúng. Khi đó hoài nghi có thể xuất hiện, vì không
có cơ sở nào để khẳng định ý kiến do quyền uy tạo ra là hoàn toàn tin tƣởng hơn
những ý kiến, vấn đề mới xuất hiện.
Thứ ba, phương pháp tiên nghiệm. Đây là phƣơng pháp của những ngƣời
có đƣợc sự đào tạo ở trình độ cao trong xã hội. Phƣơng pháp này khác với các
phƣơng pháp khác ở chỗ niềm tin phổ biến đƣợc hình thành nhờ căn cứ trên một
nguyên lý nào đó hết sức trừu tƣợng; niềm tin dựa trên căn cứ tri thức, phù hợp
với yêu cầu lý tính vĩnh hằng. Phƣơng pháp này có ƣu điểm là cho phép hình
thành ý kiến trong giao tiếp tự do của con ngƣời, trong quá trình xung đột giữa
các quan điểm khác nhau. C. Peirce cho rằng, phần lớn những nhà siêu hình đều
quen dùng phƣơng pháp này: “Phƣơng pháp này là phƣơng pháp có trí tuệ và
xứng đáng tôn trọng hơn nhiều những phƣơng pháp chúng tôi đã chỉ ra” [135,
T.V, đoạn 383]. Chẳng hạn, các nhà triết học siêu hình khẳng định rằng các
nguyên lý triết học của họ nhất trí với các nguyên lý của tƣ duy v.v… Hạn chế
của phƣơng pháp này là khó tìm ra tiếng nói chung giữa các triết gia, không khắc
phục đƣợc sự chủ quan, tùy tiện trong cách nghiên cứu và giải quyết vấn đề,
nghĩa là không loại trừ đƣợc hoài nghi. Nếu chúng ta đặt vấn đề về tính hiệu quả
của phƣơng pháp này, nó có kết quả gần giống nhƣ phƣơng pháp quyền uy: “Có
những ngƣời nhận thấy niềm tin của họ đƣợc quy định bởi hoàn cảnh xa lạ với
112
các sự kiện, do vậy không chỉ sẽ công khai thừa nhận niềm tin đó đáng hoài nghi
mà còn thực sự hoài nghi, do vậy sẽ không còn niềm tin nữa” [135, T.V, đoạn
383]. Do đó, Peirce cũng không tán thành phƣơng pháp này.
Thứ tư, phương pháp khoa học. Theo C. Peirce, để niềm tin nhất trí với
thực tế thì tất cả các phƣơng pháp trên đều không thể đáp ứng đƣợc đòi hỏi này.
Chỉ có phƣơng pháp khoa học mới tạo đƣợc sự nhất trí giữa niềm tin và thực tế:
“Để loại bỏ những hoài nghi của chúng ta, cần tìm ra phƣơng pháp mà theo đó
thì niềm tin của chúng ta do một cái gì đó không phải của con ngƣời quy định,
mà đƣợc một nhân tố bên ngoài bất biến quy định - một nhân tố không chịu tác
động nào của tƣ duy chúng ta” [135, T.V, đoạn 384]. Việc củng cố niềm tin
vững chắc, loại bỏ ý kiến sai lầm, chủ quan, lấy tiền đề khẳng định sự tồn tại
khách quan của thế giới, khẳng định nhiệm vụ thăm dò là giải thích và miêu tả
thực tại khách quan. Sự nhất trí đƣợc đảm bảo bằng chính tri thức khoa học về thế
giới, về những sự vật, hiện tƣợng tồn tại khách quan, ông khẳng định: “giả thuyết
cơ bản” của phƣơng pháp khoa học là ở chỗ: “Sự vật thực tế tồn tại, đặc điểm của
chúng hoàn toàn không phụ thuộc vào ý kiến của ta đối với chúng. Các sự vật đó
chiếu theo qui luật vĩnh hằng luôn tác động tới giác quan ta… Ta có thể thông qua
thảo luận mà xác định sự vật thực sự là cái gì. Mỗi cá nhân chỉ cần có đủ kinh
nghiệm và tƣ duy, ắt hẳn sẽ rút ra đƣợc kết luận thực sự” [135, T.V, đoạn 384].
C.Peirce cho rằng, phƣơng pháp khoa học không dựa vào niềm tin của cá nhân,
với phƣơng pháp khoa học, những ngƣời có niềm tin khác nhau cuối cùng sẽ nhất
trí ý kiến với nhau: “Mỗi ngƣời bằng kinh nghiệm của bản thân và năng lực tƣ duy
có thể sẽ đi đến cùng một kết luận xác đáng” [135, T.V, đoạn 384]. Ƣu thế cơ bản
của phƣơng pháp khoa học thể hiện ở việc củng cố niềm tin vững chắc. Mặc dù
luận điểm của Peirce về phƣơng pháp khoa học có những điểm hợp lý nhất định,
chứa đựng những nhân tố khách quan và khoa học, thể hiện thái độ nghiêm túc
của một nhà khoa học tự nhiên, nhƣng quan điểm của ông lại thể hiện rõ lập
trƣờng chủ quan trong việc lấy hiệu quả thực tế thể hiện ở kinh nghiệm của nhà
khoa học làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định niềm tin.
C. Peirce gọi phƣơng pháp củng cố niềm tin đồng thời cũng là phƣơng
pháp nhằm đạt đến chân lý. Ông chủ trƣơng dùng phƣơng pháp khoa học lấy
thực tại làm căn cứ để loại bỏ hoài nghi, củng cố niềm tin với tính cách là chân
113
lý. Trong khi đó, ông khẳng định để đạt đƣợc niềm tin chắc chắn, phải xuất phát
từ quan điểm khách quan, thừa nhận sự tồn tại của các sự vật, hiện tƣợng là
khách quan; sự tồn tại đó nhƣ một quy luật vĩnh hằng không phụ thuộc vào ý
muốn chủ quan của con ngƣời. Phạm trù thực tại trở thành căn cứ, điểm xuất
phát của nhận thức. Xuất phát từ thực tại, từ kinh nghiệm, con ngƣời sử dụng
phƣơng pháp khoa học để nhận thức chân lý.
Trong lý luận nhận thức của C. Peirce, phƣơng pháp khoa học với tƣ cách
là hạt nhân của lý thuyết có thể sai, đó là khả năng kiểm nghiệm chân lý. Thuyết
này cho rằng, mọi kết luận, niềm tin rút ra từ việc sử dụng phƣơng pháp khoa học
đều có thể phát sinh sai lầm, cho nên đều luôn trong quá trình xem xét lại. Mọi giả
thuyết đƣợc gọi là chân lý đều phải đƣợc cải tiến, mọi niềm tin đƣợc xác lập đều
mang tính tƣơng đối so với chứng cứ. Do đó, chân lý đạt đƣợc cũng cần phải đƣợc
hiệu chỉnh thƣờng xuyên. Với những phát hiện chứng cứ mới, một số niềm tin
cũng phải thay đổi; mọi kinh nghiệm có đƣợc đều chƣa phải là chứng thực cuối
cùng đáng tin tuyệt đối. Qua đó, chúng ta nhận thấy, Peirce nhấn mạnh tính tƣơng
đối của những kết luận khoa học, phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý.
Xuất phát từ phƣơng pháp củng cố niềm tin, cũng đồng thời là phƣơng
pháp xác định chân lý của C. Peirce, W. James đã phân tích con đƣờng nhận thức
chân lý nhƣ một quá trình biện chứng, đƣợc kiểm nghiệm thông qua hiệu quả có
ích trong hoạt động thực tiễn. Chân lý là một quá trình phát sinh, là một quá
trình chứng thực và kiểm nghiệm tính hiệu quả trong thực tiễn.
Theo W. James, chân lý mang tính tƣơng đối, cụ thể, không có chân lý
tuyệt đối, phổ biến. Ông coi chân lý thực dụng cung cấp một công cụ, phƣơng
tiện để con ngƣời đạt đƣợc mục đích. Từ đó, ông đối lập thuyết chân lý của mình
với quan niệm của trƣờng phái duy lý: “Hãy so sánh hai quan điểm! Chủ nghĩa
thực dụng kiên trì sự thực với tính cụ thể, dựa vào tác dụng trong tình huống cá
biệt để quan sát chân lý. Đối với chủ nghĩa thực dụng, chân lý là những gì có giá
trị xác định trong kinh nghiệm. Còn đối với chủ nghĩa duy lý, chân lý vẫn là cái
trừu tƣợng thuần túy. Ngƣời theo chủ nghĩa trừu tƣợng cực đoan rất sợ tính cụ
thể” [dẫn theo: 40, tr. 346]. Thông qua việc chỉ ra sự đối lập của thuyết chân lý
thực dụng với chủ nghĩa duy lý, James khẳng định chân lý của triết học thực
dụng mang tính cụ thể, là tính hữu dụng trong những tình huống cụ thể. Ông
114
nhấn mạnh hạn chế của chủ nghĩa duy lý là trừu tƣợng hóa và tuyệt đối hóa chân
lý: “Giả thuyết vĩ đại của chủ nghĩa duy lý nhƣ sau: ý nghĩa của chân lý là một
quan hệ tính ỳ, quan hệ tĩnh lặng. Khi ta có đƣợc quan niệm đúng về sự vật bất
kỳ, thì sự việc kết thúc” [139, tr. 228]. James phủ định tính ổn định, bất biến,
tính trừu tƣợng của chân lý; cho rằng chân lý là cái ngƣời ta có thể tùy ý luận
định, không xác định, không ổn định. Con ngƣời căn cứ vào nhu cầu, hứng thú
của mình mà hình thành khái niệm về sự vật. Ông cho rằng: “Chủ nghĩa thực
dụng không có bất cứ thành kiến nào, không có giáo điều nào cản trở, cũng
không có tiêu chuẩn nghiêm ngặt xác định chứng cứ là gì… Chủ nghĩa thực
dụng sẵn sàng thừa nhận mọi cái, sẵn sàng tuân theo lôgíc và cảm giác, cũng sẵn
sàng xem xét cái thuần túy nhỏ nhất là kinh nghiệm cá nhân. Miễn là có hiệu quả
thực tế, thì chủ nghĩa thực dụng cũng sẵn sàng khảo sát cả kinh nghiệm thần bí.
Chủ nghĩa thực dụng sẵn sàng thừa nhận Thƣợng đế trong đời sống riêng tƣ xấu
xa của cá nhân” [dẫn theo: 40, tr. 346]. Xuất phát từ quan niệm cho rằng, chân lý
là hiệu quả thực tế, nó mang tính cụ thể và xác định, nên James đã công khai
thừa nhận trong lĩnh vực đời sống tôn giáo cũng tồn tại chân lý.
Chân lý là một quá trình, không phải tĩnh tại, bất biến mà mang tính cụ
thể, tƣơng đối, đƣợc sinh ra từ quan niệm. Chân lý là quá trình, chân lý do chân
lý trƣớc đây tạo nên, vì thế “chúng ta chƣa kiểm chứng xong một chân lý thì đã
có một triệu chân lý phát sinh trong cuộc đời chúng ta rồi” [106, tr. 311]. Do đó,
theo W. James, chân lý tồn tại dựa vào sự tin tƣởng, tính chân thực của chân lý
đƣợc tạo ra từ tính hiệu quả, tính hiệu quả tạo nên sự tồn tại của chân lý.
Quá trình nhận thức chân lý đƣợc thực hiện thông qua sự kiểm chứng tính
hiệu quả của nó, chân lý cần phải có sự kiểm nghiệm và chứng thực thông qua
hoạt động thực tiễn; chân lý tồn tại trong quá trình chứng thực của thực tiễn.
Thực tiễn hay “thực nghiệm” là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. Nhƣng cái
W. James gọi là “thực nghiệm” ở đây không phải là thông qua thực tiễn khách
quan để kiểm nghiệm tính quy luật nội tại của sự vật khách quan, chỉ là kiểm
nghiệm quan niệm có tạo ra hiệu quả thực tế, làm cho con ngƣời thỏa mãn hay
không? Có làm cho con ngƣời đạt đƣợc lợi ích và thành công hay không? Do đó,
bất kể quan niệm đó phản ánh thực tế khách quan nhƣ thế nào, thậm chí bất kể
nó là tín ngƣỡng tôn giáo, đều đƣợc coi là chân lý. Ngƣợc lại, một quan niệm
115
không đem lại giá trị cho con ngƣời thì đƣợc coi là sai lầm.
W. James phân tích về sự chứng thực trực tiếp và gián tiếp của chân lý.
Khi đƣa ra ví dụ về cái đồng hồ, ông cho rằng tất cả chúng ta đều coi nó là một
“cái đồng hồ”, mặc dù không ai nhìn thấy hoạt động ẩn bên trong làm cho nó là
một cái đồng hồ. Chúng ta coi khái niệm của chúng ta là đúng mà không tìm cách
chứng thực nó. Nếu các chân lý có nghĩa là tiến trình - chứng thực một cách cơ
bản, thì chúng ta có thể gọi các chân lý không đƣợc chứng thực ấy là sai lầm
không? James trả lời là không, bởi vì đó là phần lớn các chân lý để chúng ta sống.
Theo ông, chỉ cần niềm tin vào chân lý vì niềm tin đó có tác dụng, mọi cái
chúng ta biết là phù hợp với niềm tin. Chân lý tồn tại phần lớn dựa trên hệ
thống tin tƣởng. Các tƣ tƣởng và niềm tin của chúng ta đƣợc chấp nhận, miễn
là không có gì phản bác lại chúng, giống nhƣ tấm ngân phiếu đƣợc chấp nhận
nếu không ai từ chối nó. Tất cả đều hƣớng tới một sự chứng thực nào đó, đó là
sự chứng thực gián tiếp, nếu không có nó, hệ thống chân lý sẽ sụp đổ giống nhƣ
một hệ thống tài chính mà không đƣợc bảo chứng tiền mặt. James đƣa ra kết
luận: “Các tiến trình chứng thực một cách gián tiếp hay mặc nhiên cũng đúng
không kém gì các tiến trình chứng thực hoàn toàn” [139, tr. 232]. Vì vậy, một
vấn đề đặt ra là tính chân thực của quan niệm ở mỗi ngƣời cần phải có sự
chứng minh một cách trực tiếp hay không? Ông thừa nhận rằng tính chân thực
của quan niệm không cần mỗi ngƣời phải đi chứng minh, chỉ cần ngƣời khác
chứng thực rồi, thì hoàn toàn có thể trao đổi chân lý dựa trên nhu cầu của ngƣời
sử dụng chúng, đó là cách chứng thực gián tiếp.
Nhƣ vậy, W. James đã phân tích con đƣờng nhận thức chân lý là một quá
trình không phải tĩnh tại, bất biến mà không ngừng đƣợc kiểm chứng thông qua
thực tiễn. Trong quan niệm của ông, chân lý không phải là mục đích của nhận
thức mà diễn ra cùng với quá trình nhận thức. Trong quá trình nhận thức, một
quan niệm thể hiện tính hiệu quả thì quan niệm đó là chân lý. Theo quan điểm
này, quá trình nhận thức chân lý cũng không ngừng biến đổi và cần phải đƣợc
kiểm chứng liên tục. Đây là quan điểm khá mới về con đƣờng nhận thức chân
lý, đó cũng là đóng góp của ông cho lý luận nhận thức của chủ nghĩa thực
dụng. Mặc dù vậy, quan điểm của James cũng không tránh khỏi hạn chế trong
cách lý giải về sự “chứng thực” chân lý thông qua “thực nghiệm” hay “thực
116
tiễn”; đó không phải là thực tiễn khách quan, mà là hiệu quả thực tế của một
quan niệm giúp con ngƣời thỏa mãn về lợi ích hay thành công. Quan điểm này
thể hiện rõ tính chủ quan trong việc lý giải con đƣờng nhận thức chân lý và tiêu
chuẩn của chân lý.
Kế thừa quan điểm của C. Peirce và W. James, J. Dewey phát triển lý luận
nhận thức của triết học thực dụng và đƣa ra phƣơng pháp để đạt đến chân lý.
Ông phê phán thuyết chân lý của chủ nghĩa duy lý cho rằng, chân lý là khái niệm
lý tính có sẵn và chống lại thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Theo ông:
“Bất kỳ tƣ tƣởng, khái niệm nào vừa không thể là thực tại tồn tại độc lập, cũng
không thể là rập khuôn thực tại khách quan, chỉ có thể coi chúng là giả thiết ứng
dụng, và giả thiết đƣợc nêu lên theo ý nguyện của con ngƣời. Nó giống nhƣ công
cụ của ngƣời sử dụng để chế tác một sản phẩm nào đó hoàn toàn do ngƣời sử
dụng công cụ thiết kế thuận lợi cho mình” [dẫn theo: 39, tr. 172]. Ở luận điểm
này, ông phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời nhấn mạnh tính chủ
quan, tƣơng đối của chân lý. Chân lý chẳng qua chỉ là những giả thiết chủ quan
nhằm phục vụ cho mục đích của con ngƣời.
J. Dewey nhấn mạnh tác dụng của thí nghiệm và thăm dò, nên phƣơng
pháp của ông thƣờng đƣợc gọi là phƣơng pháp thăm dò, nó là sự kế thừa và phát
triển lý luận “Hoài nghi - niềm tin” của C. Peirce. Phƣơng pháp thăm dò của ông
xuất phát từ việc giải quyết vấn đề thực tại trong quá trình nhận thức. Ông cho
rằng thực tại “đi trƣớc” nhận thức. Nhận thức là sự can thiệp mang tính tích cực,
sáng tạo của chủ thể vào đối tƣợng, làm biến đổi đối tƣợng. Khách thể tồn tại
khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Tƣ duy chỉ là công cụ để cải
tạo những tình huống có vấn đề: “Tƣ duy … đƣợc định nghĩa nhƣ là sự vận động
trong đó những sự vật hiện thời gợi tới những sự vật (hoặc sự thực) khác theo
cách gây tạo niềm tin vào cái sau dựa trên cơ sở hoặc dựa vào sự bảo đảm của
cái trước” [22, tr. 21]. Tuyệt đối hóa vai trò chủ quan của con ngƣời trong quá
trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự vật thành tồn tại của nhận thức là đặc
trƣng trong phƣơng pháp nhận thức khoa học của ông. Ông xem thực tại cũng
chỉ là kết quả của quá trình nhận thức: “Sự thay đổi các quan niệm của chúng ta
về đối tƣợng đã tạo nên đối tƣợng phù hợp với trạng thái ý thức, nói cách khác,
117
quá trình nhận thức là quá trình “xác lập thực tại”. Tồn tại - nghĩa là trở thành
đối tƣợng của nghiên cứu khoa học” [92, tr. 41].
J. Dewey lý giải quá trình nghiên cứu theo tinh thần của C. Peirce. Cuộc
sống đặt con ngƣời vào những tình huống nan giải, những trạng thái hoài nghi.
Khi rơi vào tình huống ấy, con ngƣời cần đến phƣơng pháp để giải quyết những
nan đề. Tƣ duy bắt đầu bằng những trở ngại, đó là sự hoài nghi, từ đó cần phải
giải quyết vấn đề hoài nghi - đƣợc xem là mục đích của tƣ duy: “Việc đòi hỏi
đáp án cho một tình huống phân vân có vai trò như nhân tố làm vững chắc và
định hướng cho toàn bộ tiến trình suy tư” [22, tr. 25]. Theo đó, chức năng cơ
bản của tƣ duy là cải tạo tình huống chƣa xác định thành tình huống xác định;
khoa học là một loại hộp đựng công cụ, từ đó giúp con ngƣời lựa chọn những gì
tiện lợi, có hiệu quả trong những điều kiện nhất định, để giải quyết những vấn đề
nảy sinh trong đời sống, tiêu chuẩn của nó là tính hữu ích, sự thành công trong
hành động: “Tƣ duy là công cụ dùng để khống chế hoàn cảnh, thông qua hành
động để hoàn thành sự khống chế đó” [dẫn theo: 39, tr. 167].
J. Dewey đƣa ra phƣơng pháp nghiên cứu chung để đạt đến chân lý gồm 5
bƣớc: 1) cảm nhận nan giải; 2) ý thức vấn đề; 3) dự thảo giải pháp (giả thuyết);
4) khai mở ý tƣởng về giải pháp đến những kết quả kinh nghiệm của nó; 5) quan
sát và kiểm chứng giả thuyết. Trƣớc hết, thang bậc đầu tiên cần phải xác định
nan giải hay chính là bối cảnh có vấn đề: “Cái khó có thể cảm nhận đƣợc với
một mức độ rõ ràng đủ khiến trí óc suy ngay ra một giải pháp khả dĩ cho tình thế
ấy, hoặc một sự bất an cùng cú sốc có thể ập đến trƣớc, để rồi đƣa tới hẳn một nỗ
lực nhằm khám phá ra đâu là vấn đề” [22, tr.121]. Sau đó, sang bƣớc thứ hai cần
làm sáng tỏ tính chất đặc thù của vấn đề, trở ngại biến tình huống bất định
thành tình huống có vấn đề. Chuyển sang bƣớc thứ ba, cần đƣa ra giả thuyết
hay kế hoạch giải quyết vấn đề: “Sự gợi ý chính là trung tâm của suy luận…
Kết luận đƣợc gợi ý ra chừng nào còn chƣa đƣợc chấp nhận mà chỉ đƣợc coi là
tạm thời sẽ tạo thành một ý kiến. Những từ đồng nghĩa cho điều này là giả
định, phỏng đoán, dự đoán, giả thuyết và lý thuyết [22, tr. 125 - 126]. Đến
thang bậc thứ tƣ là sự suy luận, cần xem xét tất cả các hiệu quả kinh nghiệm có
118
thể xảy ra do quyết định giải quyết đƣa ra. Cuối cùng là giai đoạn thực hiện và
kiểm chứng giả thuyết bằng thực nghiệm: “Bƣớc kết thúc và kết luận là một
kiểu nhƣ chứng thực bằng thực nghiệm, hay là minh xác cho ý kiến phỏng
đoán. Việc lý giải cho thấy là nếu ý kiến đƣợc thâu nạp, nó kéo theo những hệ
quả nhất định. Tới đây thì kết luận đƣợc xem là có tính giả định hay là có điều
kiện” [22, tr. 128]. Trong những trƣờng hợp cần thiết, có thể thay đổi quyết
định đƣa ra. Ông nhấn mạnh quá trình nhận thức chân lý thông qua kiểm chứng
bằng quan sát hoặc bằng thực nghiệm: “Quan sát tồn tại cả vào lúc ban đầu và
lúc kết thúc quá trình: ở lúc ban đầu, nó xác định rành rẽ và chính xác bản chất
của cái khó phải đƣơng đầu; và vào lúc kết thúc, nó kiểm nghiệm lại giá trị của
một số kết luận vẽ ra từ giả thuyết” [22, tr. 129].
Nhƣ vậy, phƣơng pháp nghiên cứu của J. Dewey đƣợc xem là phƣơng
pháp phổ biến để giải quyết mọi tình huống có vấn đề, bao hàm khả năng tự điều
chỉnh của nó. Phƣơng pháp này nhằm giải quyết tình huống có vấn đề (hoài
nghi) thành tình huống rõ ràng, khi đó mục đích của nghiên cứu đã đạt đƣợc.
Quá trình nhận thức là quá trình thay đổi đối tƣợng đƣợc nhận thức. Kết quả của
nghiên cứu là cách giải quyết thành công trong những bối cảnh có vấn đề, hay
chân lý thể hiện ở thành công của giải pháp cho tình huống có vấn đề. Vì vậy,
thực chất của tri thức và chân lý chỉ là công cụ để giải quyết tình huống có vấn
đề hay nghĩa của khái niệm “chân lý” chính là sự thành công.
Có thể nói, các nhà triết học thực dụng Mỹ đều đề cao vai trò của
phƣơng pháp khoa học trong nhận thức chân lý, coi chân lý là quá trình nên
nhận thức chân lý cũng là quá trình thƣờng xuyên đƣợc kiểm chứng bằng
phƣơng pháp khoa học. Triết học thực dụng Mỹ khẳng định và đề cao phƣơng
pháp khoa học để đạt tới chân lý, thực chất, phƣơng pháp khoa học nhằm đạt đến
chân lý, tức là đạt đƣợc hiệu quả, sự thành công trong hành động cải tạo thực
tiễn của con ngƣời. Đây là một trong những đóng góp của trƣờng phái triết học
này về lý luận nhận thức nói chung và về con đƣờng nhận thức chân lý nói riêng.
Song, những phƣơng pháp mà họ đƣa ra để nhận thức chân lý còn mang tính chủ
quan và chƣa thực sự thuyết phục.
119
TIỂU KẾT CHƢƠNG 3
Quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng đƣợc bắt đầu bằng
quan điểm mang tính nền tảng của C. Peirce, đƣợc W. James triển khai tổng
quát và hệ thống hóa, làm tiền đề cho sự phát triển trong chủ nghĩa công cụ
của J. Dewey.
Tƣ tƣởng triết học thực dụng của C. Peirce đƣợc thể hiện ở hai vấn đề
đƣợc coi là trung tâm, xuyên suốt và đƣợc ông đặc biệt quan tâm, đó là vấn đề
“Củng cố niềm tin” và “Làm thế nào để tư tưởng của chúng ta được rõ ràng”.
Đó cũng là câu hỏi mà khi trả lời đƣợc sẽ là giải đáp cho quan niệm về chân lý
của ông nói riêng và triết học thực dụng nói chung. Theo ông, để hành động con
ngƣời cần củng cố niềm tin, đó là quá trình loại bỏ những hoài nghi đạt đƣợc
niềm tin vững chắc, khi đạt đƣợc niềm tin vững chắc tức là mục đích của nhận
thức đã hoàn thành, con ngƣời có thể hành động dựa trên niềm tin đó. Ông đồng
nhất chân lý với niềm tin thực dụng. Song, cần phải trả lời câu hỏi tiếp theo là tin
vào cái gì? Hay tiêu chuẩn của niềm tin là gì? Theo ông, tiêu chuẩn đó là toàn bộ
những hiệu quả thực tế do tƣ tƣởng, khái niệm đó tạo ra. Chân lý khác với giả
tạo chính là hành động dựa trên cơ sở, cơ sở đó là hiệu quả thực tế. Với lôgíc đó,
ông đã tạo ra “nguyên lý thực dụng” hay “nguyên tắc Peirce” đƣợc coi là nền
tảng của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng khi đồng nhất chân lý
với hiệu quả thực tế. Trên cơ sở nguyên tắc của chủ nghĩa thực dụng của Peirce,
W. James đã cụ thể hóa và đƣa ra định nghĩa về chân lý. Ông định nghĩa chân lý
bởi hiệu quả: “Cái gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất phải
hữu dụng - cả hai ý này đồng nghĩa với nhau” [92, tr. 37]. Nếu nhƣ trong quan
niệm của Peirce, chân lý thể hiện tính hữu dụng tƣơng lai của chúng đối với
những mục tiêu của con ngƣời, thì đến James, khái niệm chân lý đã đƣợc cụ thể
khi ông xem chân lý là cái đem lại lợi ích, hiệu quả và sự thành công cho con
ngƣời. Kế thừa quan điểm của Pierce và James về chân lý, J. Dewey đã phát triển
khái niệm chân lý khi đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ. Xuất phát từ
quan điểm của chủ nghĩa công cụ, ông cho rằng: tư tưởng, quan niệm, lý luận là
công cụ hành vi của con người. Vì vậy, chân lý là một sự thỏa mãn, là hiệu quả,
thành công cho mọi ngƣời. Về cơ bản, quan niệm về chân lý của Dewey xuất
phát từ quan điểm “hữu dụng tức là chân lý” của James. Có những điểm tƣơng
120
đồng ở việc khẳng định rằng những phán quyết nào đảm bảo hiệu quả cho hành
động là phán đoán đúng đắn. Cái gì cho phép giải quyết thành công những tình
huống có vấn đề, cái đó là chân lý. Song, quan niệm về chân lý của Dewey đã cụ
thể hơn khi coi chân lý là sự hữu dụng trong việc giải quyết những tình huống cụ
thể. Sự thỏa mãn ở đây không phải là thỏa mãn riêng tƣ của một chủ thể hành
động, mà là thỏa mãn các yêu cầu của bản thân tình huống có vấn đề.
Trong quan niệm của triết học thực dụng về tiêu chuẩn của chân lý, chúng
ta thấy có sự thống nhất với khái niệm chân lý. Việc đồng nhất chân lý với hiệu
quả, tính có ích, sự thành công đã quy định quan niệm về tiêu chuẩn của chân lý.
Từ quan điểm của C. Peirce cho rằng hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý,
đến việc khẳng định tính hiệu quả, tính có ích, sự thỏa mãn, sự thành công là tiêu
chuẩn của chân lý trong quan niệm của W. James và J. Dewey. Trong quan niệm
về tiêu chuẩn của chân lý, chúng ta thấy có một số mặt tích cực, thể hiện quan
điểm biện chứng về tiêu chuẩn của chân lý. Peirce đƣa ra thuyết “có thể sai” để
khẳng định tiêu chuẩn kiểm nghiệm của chân lý cần thƣờng xuyên phải hiệu
chỉnh. Còn James đƣa ra phạm trù “thực tại”, coi chân lý là sự phù hợp với thực
tại. Quan niệm này rất gần với quan điểm thực tiễn, tiêu chuẩn thực tiễn để kiểm
tra chân lý của chủ nghĩa duy vật biện chứng. Đặc biệt, các nhà triết học thực
dụng Mỹ rất chú trọng phƣơng pháp khoa học để đạt đến chân lý, thực chất là
nhằm đạt đƣợc hiệu quả, sự thành công trong hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
Nhận thức chân lý là một quá trình không phải tĩnh tại, đó là quá trình phát sinh,
phát triển và đƣợc chứng thực, có hiệu quả trong đời sống. Tuy nhiên, sai lầm
của các nhà triết học thực dụng là đã phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân
lý. Ngay cả phạm trù thực tại cũng không phải là khách quan mà mang tính chủ
quan, thậm chí tiêu chuẩn của chân lý cũng chỉ đƣợc xem là đối tƣợng của ý kiến
tập thể. Chân lý là sự thỏa mãn cá nhân, giúp con ngƣời đạt đƣợc thành công, vì
vậy mỗi ngƣời dựa trên mục đích lợi ích của mình đều có thể theo đuổi tiêu
chuẩn chân lý khác nhau. Việc xác định tiêu chuẩn của chân lý nhƣ vậy có phần
chủ quan, tùy tiện và phần nào thể hiện lập trƣờng của giai cấp tƣ sản, nhằm bảo
vệ cho lợi ích của giai cấp mình. Do đó, nghiên cứu về vấn đề chân lý trong triết
học thực dụng Mỹ, chúng ta phải thấy rằng bên cạnh một số mặt tích cực, cũng
tồn tại một số hạn chế. Vấn đề này sẽ đƣợc tác giả làm rõ ở phần sau của luận án.
121
Chƣơng 4
GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA QUAN NIỆM VỀ CHÂN LÝ
TRONG TRIẾT HỌC THỰC DỤNG MỸ
4.1. Giá trị của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ 4.1.1. Phê phán quan niệm tư biện về chân lý
Các nhà triết học thực dụng khẳng định họ dứt khoát quay lƣng lại với
những triết lý trừu tƣợng, đóng kín, những tín điều, những nguyên tắc cố định,
bất biến, những hệ thống khép kín xa rời thực tế. Triết học thực dụng luôn hƣớng
đến những cái cụ thể, những sự kiện, coi trọng hành động, tính thực tiễn. Khác
với quan niệm tƣ biện, quan niệm của triết học thực dụng về chân lý là một sự cố
gắng trong việc tìm hiểu bản chất của chân lý. Triết học thực dụng nhấn mạnh
thực tế và hƣớng những vấn đề của đời sống con ngƣời vào trong triết học,
hƣớng mục đích của triết học vào giải quyết những vấn đề của thực tiễn cuộc
sống đặt ra. Với định hƣớng này, họ lên tiếng phản đối các lý thuyết chân lý tƣ
biện nhƣ lý thuyết sao chép của chủ nghĩa duy vật máy móc; lý thuyết chân lý
mang tính bất biến, chết cứng của chủ nghĩa duy lý.
C. Peirce phê phán siêu hình học truyền thống, ông cho rằng, “hầu nhƣ
mỗi một mệnh đề của bản thể luận siêu hình học đều là lời lẽ vô nghĩa hoặc hoàn
toàn sai lầm” [135, T.V, đoạn 423]. Mặc dù vậy, theo ông, siêu hình học truyền
thống, dù không còn thích dụng với thời đại, song nếu nó đƣợc xây dựng trên cơ
sở khoa học thì vẫn có thể chấp nhận đƣợc.
C. Peirce nhấn mạnh tính có thể sai của một kết luận khoa học và đòi hỏi
khoa học luôn trong quá trình hiệu chỉnh và bổ sung bằng sự kiểm chứng thƣờng
xuyên của các phƣơng pháp khoa học. Đây là một đóng góp quan trọng của triết
học thực dụng về lý luận nhận thức. W. James chống lại quan niệm siêu hình,
duy lý cho rằng chân lý mang tính tĩnh tại, không có sự thay đổi. Từ đó, ông
khẳng định chân lý luôn đƣợc tạo ra cho một ý niệm, tính xác thực của nó là một
quá trình kiểm chứng chính nó. Ông phản đối thuyết sao chép của chân lý và cho
rằng chân lý là quá trình động chứ không phải tĩnh tại, bất biến. Theo ông, cách
diễn đạt rằng, chân lý là sự “phù hợp của tƣ tƣởng với hiện thực” tự thân nó là
122
vô nghĩa. Bởi đơn giản bản thân tƣ tƣởng không thể là chân thực hay sai lầm, nó
chỉ trở nên nhƣ vậy trong quá trình vận dụng nó để giải quyết vấn đề cụ thể. Để
giải quyết vấn đề đó, con ngƣời dựa vào hiệu quả thực tế do nó tạo ra đối với
mục đích đặt ra, ở tính hữu ích, tiện lợi, khả năng giải quyết vấn đề thành công,
giúp con ngƣời thỏa mãn. Ở khía cạnh này, ông tỏ ra có lý, đồng thời cũng thể
hiện quan điểm biện chứng về chân lý. Vậy là ông đã lấy hạn chế của quan niệm
tƣ biện về chân lý để khẳng định sự hợp lý trong quan niệm của mình.
J. Dewey đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ, xuất phát từ quan
điểm của chủ nghĩa công cụ để cho rằng: tƣ tƣởng, quan niệm, lý luận là công cụ
hành vi của con ngƣời, tiêu chuẩn của chân lý với tƣ cách là công cụ chính là ở
chỗ có đƣa hành động của con ngƣời đến thành công hay không. Theo ông, chân
lý thực chất không biểu hiện các phƣơng diện nào đó của thực tại, mà chỉ là công
cụ để giải quyết các tình huống có vấn đề, đƣa ra giải pháp thỏa mãn các yêu cầu
của tình huống và cho phép giải quyết thành công nó. Ông cho rằng, các quan
niệm, tƣ tƣởng, khái niệm chẳng qua giống nhƣ một công cụ nói chung để tiến
hành cải tạo hoàn cảnh một cách có hiệu quả và giá trị của nó là ở chỗ giúp con
ngƣời đạt đƣợc mục đích, dẫn đến thành công tức là chân lý, hay chân lý chính là
công cụ đƣa đến thành công cho con ngƣời. Ông nhấn mạnh giá trị của công cụ
hay chân lý là ở kết quả khi sử dụng chúng. Theo ông, đã là công cụ thì chỉ cần
quan tâm đến hiệu quả hay không hiệu quả. Rằng, chân lý là sự thỏa mãn, là hiệu
quả cho mọi ngƣời. Nhấn mạnh chân lý ở tính hữu dụng đƣợc xem là đặc trƣng
trong lý luận nhận thức của triết học thực dụng.
Có thể nói, quan niệm về chân lý của triết học trƣớc triết học Mác có đặc
điểm chung là xem xét chân lý một cách phiến diện, xuất phát từ sự đối lập giữa
chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, tuyệt đối hóa một mặt nào đó trong mối
quan hệ giữa chủ thể và khách thể, giữa vật chất và ý thức, tách rời với quá trình
lịch sử xã hội hiện thực. Hoặc chân lý nếu đƣợc xem là quá trình thì cũng chỉ với
tƣ cách là quá trình thuần túy về tƣ tƣởng, tƣ duy chứ không phải là quá trình
hiện thực của tồn tại. Các nhà triết học duy tâm hoặc tuyệt đối hóa vai trò chủ
quan của chủ thể, hoặc nhấn mạnh năng lực lý tính, trực giác của chủ thể. Vấn đề
chân lý hoặc thuần túy trong lĩnh vực tƣ duy, ý thức, hoặc là sự sao chép máy
123
móc hiện thực khách quan mà không đƣợc đặt ra nhƣ là vấn đề quan hệ giữa chủ
thể con ngƣời với thế giới khách quan. Chân lý biểu hiện không phải là sự phù
hợp của tƣ tƣởng với thế giới khách quan, mà chỉ là sự sao chép tuân theo khách
thể nhƣ cái có sẵn; ở đó không thấy đƣợc vai trò của chủ thể hoặc chỉ thuần túy
tuân theo các quy tắc lôgíc của tƣ duy trừu tƣợng. Chúng ta không thể phủ nhận
những đóng góp nhất định trong lĩnh vực nhận thức luận, song các quan niệm
trƣớc Mác về chân lý không thể đƣa ra cách giải quyết một cách khách quan,
khoa học về vấn đề này. Chủ nghĩa duy vật biện chứng ra đời đã tạo ra một bƣớc
ngoặt về lý luận nhận thức, tạo ra sự thay đổi quan trọng trong quan niệm về
chân lý. Quan điểm duy vật biện chứng về lý luận nhận thức, trên cơ sở phê phán
những hạn chế của quan niệm trƣớc đó, đã khắc phục đƣợc những hạn chế của lý
luận nhận thức truyền thống này và đƣa ra cơ sở khoa học cho những nguyên tắc
của lý luận nhận thức duy vật biện chứng, cũng nhƣ quan niệm về chân lý. Đối
tƣợng hình thành nên chân lý là thế giới khách quan, mà thế giới khách quan là
một quá trình không phải tĩnh tại, bất biến, nên chân lý là một quá trình: “Sự phù
hợp giữa tƣ tƣởng và khách thể là một quá trình: tƣ tƣởng (= con ngƣời) không
nên hình dung chân lý dƣới dạng một sự đứng im chết cứng, một bức tranh (hình
ảnh) đơn giản, nhợt nhạt (lờ mờ) không khuynh hƣớng, không vận động, y nhƣ
một thần linh, một số, một tƣ tƣởng trừu tƣợng” [83, tr. 207].
Chúng ta thấy, cả triết học thực dụng và triết học Mác - Lênin đều phê
phán hạn chế của quan niệm tƣ biện về chân lý. Các nhà triết học thực dụng phê
phán hạn chế của một số quan niệm tƣ biện về chân lý, theo đó, có thể quy về hai
hệ thống lý thuyết là thuyết sao chép của chủ nghĩa duy vật máy móc và chủ
nghĩa duy lý với quan niệm về chân lý một cách siêu hình, chết cứng, xa rời thực
tiễn. Lênin dƣờng nhƣ cũng thừa nhận trong khi phê phán các quan niệm tƣ biện
về chân lý, triết học thực dụng cũng thể hiện phần nào tính đúng đắn, ông cũng
phản đối và cho rằng lý thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy lý về chân lý là nông
cạn: “Cũng giống nhƣ tất cả mọi sự phê phán, chắc chắn là trong việc chủ nghĩa
thực dụng phê phán chủ nghĩa duy lý, cũng có một phần chân lý… Chắc chắn là
lý luận cho rằng tinh thần là tấm gƣơng phản chiếu sự vật, và chân lý là bản sao
chép lại sự vật, là cực kỳ nông cạn” [83, tr. 617]. Rõ ràng, các nhà triết học thực
124
dụng đã thấy đƣợc hạn chế trong quan niệm của các trƣờng phái triết học tƣ biện
về chân lý. Học thuyết duy vật máy móc quá nhấn mạnh đến sự phản ánh hiện
thực khách quan một cách sao chép máy móc, siêu hình, không thấy đƣợc tính
tích cực của chủ thể nhận thức, còn học thuyết của chủ nghĩa duy lý lại thể hiện
quan điểm chân lý là cái đích tối thƣợng, là những mệnh đề tuyệt đối, bất biến
mà không thấy đƣợc việc nhận thức chân lý là một quá trình biện chứng, thƣờng
xuyên có sự hiệu chỉnh, kiểm chứng thông qua thực tiễn. Từ đó, các nhà triết học
thực dụng coi trọng tính chủ thể, sáng tạo trong quá trình nhận thức chân lý.
Quan điểm này khẳng định vai trò quan trọng, thậm chí quyết định của chủ thể
nhận thức, đề cao vai trò chủ động, sáng tạo của chủ thể trong quá trình nhận
thức chân lý. Quá trình đó có cả những sai lầm nhƣng điều quan trọng là cần
thƣờng xuyên hiệu chỉnh cho phù hợp. Đối với xã hội Mỹ, có thể xem đây là
quan điểm phù hợp, đồng thời sự phù hợp đó cũng thúc đẩy xã hội phát triển.
Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức hiện nay, việc đề cao vai trò của chủ thể
trong quá trình nhận thức là một quan điểm có phần đúng đắn.
4.1.2. Đề cao hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý
Đề cao hiệu quả thực tế, các nhà triết học thực dụng Mỹ cho rằng những
khái niệm triết học chỉ có giá trị khi đƣợc đặt trên mảnh đất hiện thực chứ không
phải là sự trừu tƣợng, xa rời thực tế. Ý nghĩa của triết học nằm ở quan hệ của nó
với đời sống con ngƣời, có ý nghĩa thực tiễn đối với con ngƣời. Vấn đề của triết
học phải là những vấn đề của con ngƣời, đó là hiệu quả, lợi ích, sự thành công.
Do đó, chân lý đƣợc hiểu là công cụ giúp con ngƣời đạt đƣợc mục đích, sự thỏa
mãn và thành công; cái gì hữu dụng, cái đó là chân lý; cái gì là chân lý, cái đó tất
hữu dụng. Mệnh đề trên trở thành quan điểm nền tảng của triết học thực dụng
Mỹ nói chung và quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng nói riêng.
Đồng nhất chân lý với tính hiệu quả là một trong những đặc trƣng của lý luận
nhận thức thực dụng, mà C. Peirce là ngƣời đặt nền móng. Quan điểm đó thể hiện
rõ bản chất của chân lý trong triết học thực dụng. Từ đó, ông đƣa ra định nghĩa thực
dụng điển hình về chân lý: “Chân lý là ở tính hữu dụng tƣơng lai đối với những
mục tiêu của chúng ta. Tôi cảm giác rằng chủ nghĩa thực dụng thể hiện điều này”
[136, tr. 381]. Quan niệm của ông về chân lý đƣợc thể hiện trong “nguyên tắc
125
Peirce”, là nền tảng cho quan niệm về chân lý sau này của W. James và J. Dewey.
C. Peirce khẳng định hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Để xác
định nghĩa của một khái niệm, tƣ tƣởng chỉ cần căn cứ vào hiệu quả thực tế của
chúng. Từ đặc trƣng này của triết học thực dụng đƣợc Peirce xây dựng và đặt
cho nó cái tên là Pragmatism. Ông thƣờng nhấn mạnh chân lý và thực tại thống
nhất với nhau. Ông đƣa ra phƣơng pháp củng cố niềm tin đồng thời là phƣơng
pháp để đạt đến chân lý, đó là phƣơng pháp khoa học, lấy thực tại làm căn cứ.
Theo ông, tiêu chuẩn để phân biệt chân lý khác với giả tạo ở chỗ hành động phải
dựa trên cơ sở của nó, cơ sở đó là toàn bộ những hiệu quả thực tế.
W. James khẳng định chân lý là sự “phù hợp” với “thực tại”. Tuy nhiên,
ông cũng phản đối sự “phù hợp” giản đơn của nhận thức với đối tƣợng. Trên
thực tế, ông cố gắng thuyết minh rằng chân lý là một quá trình phát sinh, là
quá trình quan niệm đƣợc chứng thực và có hiệu quả trong thực tiễn. Trong
quan điểm chân lý là sự phù hợp với thực tại, một mặt, ông phê phán “thuyết
sao chép” mang tính máy móc về chân lý, phê phán triết học duy tâm tƣ biện
về tính tuyệt đối, có sẵn của chân lý; mặt khác, ông cũng nhấn mạnh tính chủ
thể, tính nhân tạo của chân lý. Có thể nói, đây là một đóng góp của ông trong
lý luận về chân lý.
Nếu nhƣ C. Pierce lấy hiệu quả thực tế làm tiêu chuẩn để xác định nghĩa
của một tƣ tƣởng, khái niệm, thì W. James lại lấy tính hữu ích để xác định sự
đúng, sai của những tƣ tƣởng - tức là xác định giá trị của chúng hay chính là
chân lý. Tƣ tƣởng chừng nào còn có ích, thì còn lƣu hành đƣợc, cũng giống nhƣ
việc phát hành giấy bạc, tƣ tƣởng nào không còn có giá trị, không có ích lợi nữa
cũng giống nhƣ giấy bạc khi bị mất giá, phá giá có thể sẽ ngừng trao đổi; muốn
lƣu hành đƣợc thì phải thay giấy bạc khác, đổi đồng tiền khác. Định nghĩa nổi
tiếng về chân lý đƣợc ông đƣa ra: Chân lý là cái gì đem lại hiệu quả có ích. Có
thể nói, chỉ đến khi James xuất hiện với học thuyết về chân lý trong những thập
niên đầu thế kỷ XX ở Mỹ, mới thực sự đƣa triết học thực dụng lên địa vị đỉnh
cao, khẳng định sự thắng thế đối với các trƣờng phái triết học khác, trở thành
một phần không thể thiếu của nền văn hóa Mỹ.
Quan niệm về chân lý đƣợc J. Dewey nghiên cứu thông qua chủ nghĩa
126
công cụ, theo nghĩa hẹp, chủ nghĩa công cụ là lý luận về nhận thức và chân lý.
Ông đề cao thực tiễn, coi chân lý thực chất là công cụ giải quyết những tình
huống có vấn đề, để cải tạo thế giới, giúp con ngƣời thỏa mãn, thành công.
Tính hữu ích của quan niệm trở thành thƣớc đo của chân lý. Phát triển thêm
một bƣớc quan niệm của James về chân lý, ông cho rằng sự thỏa mãn, hiệu quả
của chân lý không phải cho cá nhân mà là cho cộng đồng xã hội. Chính từ
những hiểu lầm và phản ứng đối với chủ nghĩa thực dụng, ông đã đi đến sự giải
thích và bổ sung này.
Triết học thực dụng thừa nhận chân lý là sự phù hợp của quan niệm với thực
tại, đây là quan điểm đƣợc chấp nhận phổ biến trong triết học trƣớc Mác. Đồng
thời, họ giải thích sự phù hợp của chân lý là quá trình chứng thực bằng hiệu quả
thực tế trong hoạt động của con ngƣời. Tiêu chuẩn hiệu quả thực tế, tính hữu ích, sự
thành công trong hoạt động của con ngƣời trở thành thƣớc đo của chân lý.
Chúng ta thấy giữa triết học Mác - Lênin và triết học thực dụng Mỹ có sự
gặp gỡ nhau ở một số nội dung cơ bản. Trước hết, xem xét chân lý là một quá
trình không phải tĩnh tại, bất biến, mà thƣờng xuyên đƣợc kiểm chứng thông qua
thực tiễn. Thứ hai, đề cao hiệu quả thực tế là tiêu chuẩn của chân lý. Coi trọng
hành động thực tiễn, đặt hiệu quả lên hàng đầu đƣợc coi là nét đặc trƣng của triết
học thực dụng: “Nguyên nhân quan trọng nhất làm cho nó (chủ nghĩa thực dụng)
còn tồn tại và phát triển là nó đề cập tới một trong những vấn đề quan trọng nhất
của con ngƣời - vấn đề hoạt động” [119, tr. 193]. Nếu nhƣ trong triết học Mác -
Lênin, thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là động lực, là mục đích của nhận thức và là
tiêu chuẩn để kiểm tra chân lý; thực tiễn đƣợc đặc biệt đề cao, tạo ra một cuộc
cách mạng trong lý luận nhận thức khi đƣa thực tiễn trở thành phạm trù trung
tâm, thì trong triết học thực dụng, các nhà triết học thực dụng đã phê phán toàn
bộ triết học tƣ biện trƣớc đó vì chỉ nghiên cứu những vấn đề xa rời mảnh đất
hiện thực, không liên quan đến con ngƣời, đến hoạt động và cuộc sống của con
ngƣời. Các nhà triết học thực dụng ý thức đƣợc rằng, hoạt động nhận thức của
con ngƣời chỉ có ý nghĩa khi chúng gắn liền với thực tiễn, phục vụ và cải tạo
thực tiễn, quay trở về với thực tiễn, với sự sống động của hiện thực mà ở đó, con
ngƣời là chủ thể và đó chính là điểm tích cực của triết học thực dụng, đƣợc coi là
127
một biểu hiện của chủ nghĩa nhân văn của trƣờng phái triết học này.
Tuy nhiên, quan niệm về thực tiễn của triết học Mác - Lênin và triết học
thực dụng cũng có những khác biệt căn bản, cùng đề cập tới thực tiễn, nhƣng nội
dung của thực tiễn trong triết học Mác - Lênin lại khác cơ bản về chất so với
quan niệm về thực tiễn trong triết học thực dụng. Theo triết học Mác - Lênin,
thực tiễn đƣợc coi là hoạt động đặc trƣng của con ngƣời, nhƣng không phải toàn
bộ hoạt động của con ngƣời đều là thực tiễn, chỉ những hoạt động vật chất mới
đƣợc coi là thực tiễn. Thực tiễn là toàn bộ những hoạt động vật chất, có tính lịch
sử - xã hội của con ngƣời, nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Theo triết học Mác -
Lênin, chân lý là quá trình nhận thức: “Từ trực quan sinh động đến tƣ duy trừu
tƣợng, và từ tư tuy trừu tượng đến thực tiễn - đó là con đƣờng biện chứng của sự
nhận thức chân lý, của sự nhận thức thực tại khách quan” [83, tr. 179]. Vấn đề
thực tiễn trong triết học Mác - Lênin vừa là điểm khởi đầu, vừa là điểm kết thúc
của quá trình nhận thức chân lý: “Vấn đề tìm hiểu tƣ duy của con ngƣời có thể
đạt tới chân lý khách quan không, hoàn toàn không phải là một vấn đề lý luận
mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà con ngƣời phải chứng minh
chân lý, nghĩa là chứng minh tính hiện thực và sức mạnh, tính trần tục của tƣ duy
của mình” [86, tr. 9 - 10]. Thực tiễn là quá trình thống nhất giữa chủ thể và
khách thể, chủ quan và khách quan: “Con ngƣời chứng minh bằng thực tiễn của
mình sự đúng đắn khách quan của những ý niệm, khái niệm, tri thức của mình,
của khoa học của mình” [83, tr. 203]. Theo đó, thực tiễn thuộc về thực tại khách
quan, độc lập với ý thức con ngƣời và quyết định ý thức của con ngƣời.
Trong khi đó, vấn đề “thực tại” trong triết học thực dụng chẳng qua cũng
chỉ là kinh nghiệm thực tiễn mang tính chủ quan của con ngƣời; ở đó, tính hữu
dụng đối với cá nhân mang tính chất chủ quan trở thành tiêu chuẩn của chân lý.
Đối với triết học thực dụng thì thực tiễn đƣợc hiểu là những hành động của con
ngƣời trong sự tác động của hoàn cảnh và thói quen, kinh nghiệm phản ứng lại
hoàn cảnh chứ không phải là hoạt động vật chất, vì thế nó có cả những hoạt động
vật chất, có cả những hoạt động tinh thần, tƣ tƣởng. Theo các nhà thực dụng,
kích thích và phản ứng, thói quen và kinh nghiệm cũng là những nội dung cơ bản
của thực tiễn, đồng thời những hoạt động này hƣớng tới mục đích đem lại hiệu
128
quả, tính hữu ích, để giải quyết thành công những nan đề của đời sống. Vì vậy,
nhận thức không đi từ cái chƣa biết đến cái biết, mà từ sự hoài nghi đến niềm tin
và khi đạt đƣợc niềm tin vững chắc, giúp con ngƣời hành động đạt hiệu quả là
đích đến của nhận thức và hành động; hay chân lý chính là tính hiệu quả của
hành động.
4.1.3. Nhấn mạnh yếu tố năng động chủ quan trong quá trình nhận thức chân lý
Triết học thực dụng Mỹ phê phán quan điểm siêu hình về chân lý. Họ cho
rằng, chân lý không phải là cái đích tự tại, mà nhận thức chân lý là một quá trình
mang tính chủ quan, đƣợc kiểm nghiệm bằng hiệu quả thực tế. Đề cao vai trò của
chủ thể, chân lý thực chất là việc xác định mối quan hệ của chủ thể tƣ duy, ý
thức với thế giới. Quá trình nhận thức chân lý bao hàm sự sáng tạo, mang đậm
dấu ấn chủ quan của chủ thể. Đây là một trong những đóng góp của triết học
thực dụng trong quan niệm về chân lý.
Trong lý luận hoài nghi - niềm tin, C. Peirce cho rằng, quá trình nhận
thức, con ngƣời không thể thâm nhập vào bản chất tồn tại của sự vật, thậm chí
nhận thức về nó là một việc làm vô nghĩa. Từ đó, ông đƣa ra quan niệm đặc biệt
về bản chất hoạt động của tƣ duy con ngƣời, đề cao hoạt động tƣ duy, hoạt động
sáng tạo của chủ thể nhận thức, đƣợc coi là đặc trƣng trong lý luận nhận thức của
chủ nghĩa thực dụng. Theo đó, tƣ duy không phải là hoạt động phản ánh tồn tại
hiện có, mà là hoạt động mang tính định hƣớng, điều tiết của chủ thể trong mối
quan hệ với môi trƣờng, tạo ra phản ứng tối ƣu với môi trƣờng trong quá trình
hoạt động của con ngƣời. Ông đƣa ra quan điểm khá mới về quá trình nhận thức,
nhận thức không diễn ra nhƣ một quá trình đi từ cái chƣa biết đến cái biết, mà từ
trạng thái hoài nghi, dao động sang niềm tin vững chắc. Đó là niềm tin thực
dụng, niềm tin là thái độ sẵn sàng hành động. Sống trong thế giới, buộc con
ngƣời phải hành động, cùng với hoạt động của tƣ duy đã tạo ra các thói quen
hành động, thói quen đó cấu thành niềm tin. Trong quá trình hành động, chủ thể
tƣ duy bị kích thích bởi hoài nghi (trạng thái lo âu và bất mãn không thể hành
động) tạo ra nỗ lực đạt tới niềm tin vững chắc, khi hoài nghi dừng lại, mục đích
của tƣ duy đã đạt đƣợc. Vai trò của chủ thể nhận thức thể hiện ở khả năng khắc
phục hoài nghi (trạng thái lo âu), đạt đến niềm tin vững chắc (tâm trạng thỏa
129
mãn), niềm tin vững chắc cũng là mục đích của tƣ duy, giúp con ngƣời sẵn sàng
hành động. Trong xã hội hiện đại, khi mà tri thức khoa học của nhân loại phát
triển không ngừng, sự thay thế một hệ thống tri thức này bằng một hệ thống tri
thức khác là một quá trình diễn ra tƣơng đối phổ biến và nhanh chóng, việc kiểm
nghiệm một tri thức và chứng minh tính đúng đắn của nó trở nên rất khó khăn thì
việc khẳng định vai trò của chủ thể tƣ duy trong quá trình nhận thức chân lý
đƣợc coi là một quan điểm phù hợp và tích cực. Hơn nữa, để đạt đƣợc niềm tin
vững chắc phải sử dụng phƣơng pháp khoa học là một quan điểm tiến bộ. Vai trò
đó thể hiện ở quá trình chủ thể nhận thức, loại bỏ hoài nghi và đạt đến niềm tin
vững chắc, khi đó mục đích của tƣ duy đã đạt đƣợc, con ngƣời đã có thể sẵn
sàng hành động cải tạo thực tiễn dựa vào niềm tin thực dụng.
Trong lý luận về nghĩa, C. Peirce khẳng định rằng, để làm cho tƣ tƣởng
đƣợc rõ ràng cần xác lập nghĩa của chúng. Nghĩa của tƣ tƣởng không thể gắn với
cái gì khác ngoài những hiệu quả thực tế, hay chính là những hiệu quả có ý nghĩa
thực tiễn. Triết học thực dụng của Peirce xác định nghĩa của khái niệm hay chân lý
bằng cách gắn liền quan hệ của khái niệm, tƣ tƣởng với chủ thể, với việc khái niệm
đó có nghĩa gì đối với chủ thể. Nghĩa của tƣ tƣởng, khái niệm với chủ thể đơn giản
là các thói quen nó tạo ra, các thói quen lại là kết quả của trực giác cảm tính, nên
nghĩa của tƣ tƣởng thực chất là tƣ tƣởng về tác động có thể cảm nhận thấy của chủ
thể bằng những hiệu quả thực tế (cảm tính). Chính hiệu quả thực tế và những thói
quen hành động là toàn bộ khái niệm về sự vật hay chân lý, điều này cũng có nghĩa
bản thân sự vật đƣợc hòa vào những hiệu quả đối với chủ thể.
Có thể nói, lý luận về chân lý của C. Peirce khẳng định vai trò của chủ
thể, chân lý không gì khác là việc xác định mối quan hệ của chủ thể tƣ duy, ý
thức với thế giới. Chân lý đồng nhất với niềm tin, mục đích của tƣ duy là đạt đến
niềm tin vững chắc của chủ thể bằng phƣơng pháp khoa học, niềm tin là thái độ
chủ thể sẵn sàng hành động trong thực tiễn. Triết học thực dụng Peirce khẳng
định vai trò của chủ thể, thể hiện tính năng động chủ quan trong nhận thức chân
lý và cải tạo thực tiễn.
W. James cho rằng chân lý là một quá trình phát sinh, là một quá trình
chứng thực và sinh ra hiệu quả trong hoạt động thực tế của cá nhân con ngƣời.
130
Quá trình chứng thực của chân lý đòi hỏi phải đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm. Chân
lý tồn tại trong quá trình chứng thực bằng hiệu quả thực tế. Ông cho rằng, chân
lý là thuộc tính của tƣ tƣởng, quan niệm, chứ không phải là thuộc tính của sự vật.
Vì thế, chân lý là một phần kinh nghiệm của chủ thể, kinh nghiệm là nơi nảy
sinh và là căn cứ của chân lý. Khi khẳng định chân lý là quá trình, quá trình nhận
thức chân lý không phải cố định, vì thế không có chân lý tuyệt đối, chân lý chỉ là
tƣơng đối. Chân lý là cụ thể, xác định, thậm chí ông còn cho rằng, một số khía
cạnh có ích cho con ngƣời, ngay cả yếu tố tôn giáo, đều có ý nghĩa chân lý. Tính
cụ thể, tính xác định của chân lý đƣợc thể hiện trong quan hệ với lợi ích, với tính
hiệu quả đối với con ngƣời. Theo ông, việc chủ thể sở hữu tƣ tƣởng chân thực là
công cụ vô giá, cần thiết trong những hoàn cảnh cụ thể, giúp con ngƣời lựa chọn
dựa trên những suy tính chủ quan với tiêu chí là hiệu quả, có ích, sự thỏa mãn,
điều này tạo ra các phƣơng thức hành động tiện lợi trong mọi hoàn cảnh mà
không vấp phải trở ngại đáng kể nào. Tuy nhiên, cái chân thực hay tiện lợi, hữu
ích đối với một tình huống nào đó cũng có thể là không chân thực, tiện lợi, hữu
ích đối với tình huống khác. Do đó, không thể có chân lý “tuyệt đối”, chỉ có thể
nói chân lý là tƣơng đối, cụ thể do tính hữu hạn trong kinh nghiệm của con
ngƣời quy định. Vì vậy, ông đề cao vai trò năng động, sáng tạo của chủ thể trong
quá trình nhận thức chân lý và vận dụng nó trong hoạt động thực tiễn.
Trong khi phê phán quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về tính cố định,
bất biến của chân lý, J. Dewey đi đến kết luận về tính tƣơng đối của chân lý.
Nhận thức về tính tƣơng đối của chân lý là nhiệm vụ của nhận thức khoa học.
Khi bàn về nhận thức khoa học, ông thấy đƣợc tính năng động, chủ quan của con
ngƣời. Nhiệm vụ của khoa học và phƣơng pháp khoa học nhằm làm cho con
ngƣời thích nghi tốt với môi trƣờng, đảm bảo sự thành công trong hành động của
con ngƣời. Phƣơng pháp thăm dò của ông xuất phát từ việc giải quyết vấn đề
thực tại trong quá trình nhận thức và cho rằng, tƣ duy đóng vai trò quyết định
trong quá trình này. Chủ thể của tƣ duy, nhận thức là con ngƣời thực tiễn, con
ngƣời hành động, mục đích của nhận thức nhằm thỏa mãn nhu cầu, lợi ích và đạt
đƣợc thành công trong hành động. Quan niệm của Dewey khẳng định vai trò tích
cực của chủ thể nhận thức trong việc sử dụng tƣ duy nhƣ công cụ hành động,
131
nhằm đạt đƣợc sự thỏa mãn, thành công trong hoạt động cải tạo thực tiễn.
Ở một góc độ nhất định, quan niệm về chân lý hƣớng đến con ngƣời trong
sự thống nhất chỉnh thể chân - thiện - mỹ, đó là biểu hiện của chủ nghĩa nhân
bản trong triết học thực dụng. Tất nhiên, ở đây, chúng ta muốn nhấn mạnh đến
con ngƣời xã hội, con ngƣời cộng đồng chứ không phải con ngƣời cá nhân. Nếu
loại bỏ việc triết học thực dụng hƣớng tới lợi ích và bảo vệ lợi ích của số ít ngƣời
trong xã hội thì đó thực sự là một quan điểm vì con ngƣời, vì sự tiến bộ xã hội.
Khi vấn đề lợi ích cá nhân đƣợc giải quyết sẽ mở ra khả năng để giải quyết
những vấn đề xã hội, lợi ích xã hội, vì sự tiến bộ xã hội. Nhấn mạnh hiệu quả
thực tế, sự thỏa mãn giúp con ngƣời đạt đến thành công đƣợc coi là tiêu chuẩn
của chân lý. Quan điểm đó là sự phản ánh thực tiễn, là quan điểm phù hợp trong
thời đại ngày nay, khi thƣớc đo của giá trị chính là tính hiệu quả, sự hữu dụng và
thỏa mãn những nhu cầu của con ngƣời, con ngƣời chính là thƣớc đo của chính
mình và vạn vật. Đó là một trong những nguyên nhân lý giải vì sao triết học thực
dụng Mỹ lại tác động mạnh mẽ đến đến con ngƣời và xã hội Mỹ, đƣa nƣớc Mỹ
trở thành một siêu cƣờng thế giới.
4.1.4. Đề cao phương pháp khoa học và sự kiểm chứng trong nhận thức chân lý
Các nhà triết học thực dụng Mỹ cho rằng, chân lý là quá trình thƣờng
xuyên đƣợc chứng thực và kiểm nghiệm, qua đó họ đề cao phƣơng pháp khoa
học trong nhận thức chân lý. Trong đó, phƣơng pháp của triết học thực dụng
giúp con ngƣời định hƣớng kết quả trong hoạt động, một thái độ chủ động,
không chịu những rào cản của tƣ tƣởng cũ, cái quan trọng là những kết quả cuối
cùng chứ không phải là những nguyên tắc đầu tiên.
C. Peirce là ngƣời đặc biệt đề cao phƣơng pháp khoa học trong quá trình
nhận thức chân lý. Ngay cả khi coi hiệu quả, sự thỏa mãn đối với con ngƣời là
tiêu chuẩn của chân lý, ông thƣờng khẳng định phải dùng phƣơng pháp khoa học
để chứng minh. Trên cơ sở chỉ ra những hạn chế của các phƣơng pháp để củng
cố niềm tin với tính cách là chân lý trong lịch sử, nhƣ phƣơng pháp cố chấp,
phƣơng pháp quyền uy, phƣơng pháp tiên nghiệm, Peirce nhấn mạnh vai trò của
phƣơng pháp khoa học để củng cố niềm tin và cũng là phƣơng pháp để đạt đến
chân lý. Ông cho rằng, chỉ có phƣơng pháp khoa học mới đảm bảo cho con
132
ngƣời đạt đƣợc niềm tin vững chắc trên cơ sở loại bỏ hoài nghi. Ở khía cạnh này,
ông thể hiện là một nhà khoa học tự nhiên nghiêm túc. Đồng thời, phƣơng pháp
khoa học của Peirce có đặc điểm: “Nhấn mạnh quá trình tiến bộ và phát triển,
phản đối bảo thủ và trì trệ” [40, tr. 324]. Nhấn mạnh phƣơng pháp khoa học,
Peirce đƣa ra lý thuyết “có thể sai”, đây là một đóng góp về mặt phƣơng pháp
luận của ông. Theo đó, mọi lý thuyết khoa học phải luôn trong quá trình xem xét
lại và cần thƣờng xuyên bổ sung các chứng cứ. Do vậy, không có chân lý tuyệt
đối, chân lý luôn là tƣơng đối.
W. James coi triết học thực dụng của ông trƣớc hết là một loại phƣơng
pháp, sau là học thuyết về chân lý. Ông nhấn mạnh: “Nó không thay thế cho bất
kỳ kết quả đặc biệt nào. Nó chỉ là một phƣơng pháp” [139, tr. 213]. Triết học
thực dụng là một phƣơng pháp dựa vào đời sống thực tế để giải quyết những tình
huống thực tế đặt ra. Phƣơng pháp của triết học thực dụng bác bỏ tính chất giáo
điều, tƣ biện, xa rời các vấn đề đời sống của các thuyết duy lý. Với tƣ cách một
phƣơng pháp, ông cho rằng, nó không định trƣớc các kết quả cụ thể, không có
một công thức nào chung cho mọi vấn đề, ý nghĩa của mọi tƣ tƣởng, lý thuyết ở
tính có ích, ở khả năng giải quyết thành công các vấn đề của cuộc sống. Có thể
nói, James đã đề cao phƣơng pháp, coi phƣơng pháp của triết học thực dụng
nhằm đạt đƣợc hiệu quả thực tế, tính hữu ích đƣợc coi là tiêu chuẩn của chân lý.
J. Dewey đƣa ra các phƣơng pháp nhận thức chân lý, ông nhấn mạnh tác
dụng của thí nghiệm và thăm dò, còn gọi là phƣơng pháp thăm dò, lý luận của
ông là sự phát triển lý luận hoài nghi - niềm tin của C. Peirce. Theo đó, phơng
pháp nhận thức chân lý có sự gắn bó chặt chẽ với việc giải quyết những tình
huống có vấn đề, việc kiểm tra tính đúng đắn của tƣ tƣởng đƣợc thực hiện hoặc
bằng thực nghiệm hoặc bằng quan sát. Phƣơng pháp khoa học để cải biến tình
huống có vấn đề, còn hoài nghi thành tình huống rõ ràng là mục đích của tƣ duy.
Do vậy, sự thành công hay không thành công trong việc sử dụng phƣơng pháp
trở thành tiêu chuẩn của chân lý. Trên cơ sở đó, ông nhấn mạnh việc thực hiện
phƣơng pháp giải quyết các nan đề của thực tiễn phải luôn đặt trong sự thử sai,
trong sự điều chỉnh thƣờng xuyên. Ở khía cạnh này, chúng ta thấy phƣơng pháp
133
mà ông đƣa ra có sự phù hợp với thực tiễn xã hội luôn biến động không ngừng.
Nhƣ vậy, có thể nói, các nhà triết học thực dụng có sự thống nhất trong
việc đề cao phƣơng pháp khoa học và sự kiểm chứng trong nhận thức chân lý.
Trong bối cảnh sự phát triển nhanh chóng của khoa học tự nhiên và các tiến bộ
của khoa học công nghệ, việc đề cao phƣơng pháp khoa học trong quá trình nhận
thức chân lý của triết học thực dụng là một quan điểm tiến bộ.
4.1.5. Tác động tích cực đến đời sống xã hội, văn hóa và lối sống Mỹ
Trƣớc khi triết học thực dụng ra đời, nƣớc Mỹ đƣợc đánh giá là đất nƣớc ít
quan tâm đến triết học. Chúng ta đều hiểu thứ triết học mà ngƣời Mỹ ít quan tâm
đó là triết học siêu hình, trừu tƣợng, tƣ biện của châu Âu, đó cũng là quê hƣơng
của phần lớn những ngƣời di cƣ đến Mỹ. Nhận định của nhà nghiên cứu đƣợc coi
là hiểu nƣớc Mỹ hơn ngƣời Mỹ là A. Tocqueville đã cho chúng ta cái nhìn chân
xác về nền triết học Mỹ: “Tôi nghĩ rằng, trong thế giới văn minh, không có một
nƣớc nào ngƣời ta lại ít bận tâm đến triết học hơn là Hoa Kỳ. Ngƣời Mỹ không có
một trƣờng phái triết học riêng và họ ít quan tâm đến những trƣờng phái triết học
đang chia rẽ ở châu Âu; họ biết các trƣờng phái đó qua tên gọi đã đủ vất vả rồi”
[116, tr.567]. Phƣơng pháp tƣ duy của ngƣời Mỹ xuất phát từ những sự kiện cụ
thể, để tìm ra phƣơng pháp hành động có hiệu quả. Do vậy, họ quay lƣng với
những giáo lý của triết học tƣ biện. Tocqueville đã có lý khi khẳng định về
phƣơng pháp triết học của ngƣời Mỹ: “Vƣợt thoát khỏi tinh thần hệ thống, thoát
khỏi cái ách của thói quen, khỏi các châm ngôn sống gia đình, các quan điểm giai
cấp, và ở một mức độ nào đó là thoát khỏi các định kiến dân tộc; chỉ coi truyền
thống nhƣ một thứ thông tin và chỉ coi các sự kiện đang xảy ra nhƣ là một cách
xem xét hữu ích để hành động khác đi và hành động tốt hơn; tìm tòi theo lối tự lực
và chỉ tìm ngay bên trong bản thân mình cái nguyên cớ của sự vật, hƣớng tới kết
quả mà không bị trói chân, trói tay vào các phƣơng tiện và nhằm vào cái gốc vấn
đề thông qua cái biểu hiện bề ngoài” [116, tr. 567]. Triết học thực dụng ra đời ở
Mỹ vào cuối thế kỷ XIX đã tạo ra sự phù hợp không chỉ với phƣơng pháp tƣ duy
của ngƣời Mỹ, còn phù hợp với đặc điểm hình thành quốc gia, dân tộc, nền văn
hóa và tính cách ngƣời Mỹ. Nó đáp ứng đƣợc yêu cầu của ngƣời Mỹ - những ngƣời
tự thân, lập thân, trong đó cái cốt yếu là hiệu quả, sự thành công trong hành động.
134
Triết học thực dụng Mỹ với C. Pierce đặt nền móng là một thứ triết học
thực tiễn. Đây chính là tƣ tƣởng có tính chất phản kháng lại những chân lý mang
tính chất duy lý, lý thuyết, kinh viện, trừu tƣợng từ châu Âu đƣa sang không còn
thiết thực, đắc dụng với phần lớn ngƣời Mỹ. Chúng ta đều biết họ là những
ngƣời từ trong lịch sử đã rời bỏ tổ quốc, đất mẹ vƣợt Đại Tây Dƣơng đến lục địa
mới này để lập nghiệp, tìm sự thay đổi và thành công, để đổi đời nên không có gì
ngạc nhiên khi họ chỉ nhìn cuộc sống bằng con mắt hiện thực, thực tiễn để hành
động. Những tƣ tƣởng của triết học thực dụng của C.Pierce nêu ra đã phần nào
đáp ứng đƣợc nhu cầu của ngƣời Mỹ.
W.James đã cụ thể hóa tƣ tƣởng của C.Peirce khi khẳng định rằng, những tƣ
tƣởng nào có ích thì đƣợc lƣu hành, ngƣợc lại tƣ tƣởng nào không còn có ích lợi
nữa sẽ phải thay thế. Cái gì có ích, cái đó là chân lý. Đó là một định nghĩa nổi tiếng
về chân lý của triết học thực dụng. Quan điểm này không chỉ phù hợp với nền văn
hóa Mỹ mà còn rất phù hợp với tinh thần, tính cách ngƣời Mỹ. Ngƣời Mỹ ghét tính
bảo thủ và không thích chủ nghĩa giáo điều. Rời bỏ châu Âu, nơi mà triết học duy
lý, với những lý thuyết đồ sộ, kinh viện đang thống trị để tìm đến vùng đất mới -
đƣợc coi là “miền đất hứa”, với hoài bão xây dựng một tƣơng lai tƣơi sáng tại đây.
Mọi ngƣời đều hiểu rằng bất cứ ai cũng có cơ hội nhƣ nhau, đều có ƣớc muốn thay
đổi, nên chỉ có thể tiến lên, sống bằng những nghị lực phi thƣờng, phẩm chất, năng
lực và sự cố gắng của chính mình. Muốn thành công thì ngoài nghị lực, sự lạc quan,
tinh thần cầu tiến, lòng dũng cảm còn phải biết thích nghi, sáng tạo, nhạy bén, căn
cứ vào hoàn cảnh, tình hình thực tế để hành động với mục tiêu tối hậu là hiệu quả,
lợi ích, sự thành công trong hành động.
Các nhà triết học thực dụng đã đặt ra nhiệm vụ nhận thức của con ngƣời là
cải tạo thế giới; muc đích của nhận thức nhằm đạt đƣợc lợi ích, sự thành công
của con ngƣời. Vì vậy, nhận thức phải trở thành công cụ để cải tạo hiện thực
đem lại hiệu quả, lợi ích, sự thành công - đó chính là tiêu chuẩn của chân lý. Ở
đây, chúng ta thấy có nét tƣơng đồng giữa triết học Mác - Lênin với triết học
thực dụng. Triết học Mác - Lênin coi thực tiễn là mục đích của nhận thức, còn
J.Dewey thì coi nhận thức phải có nhiệm vụ và là công cụ để cải tạo hiện thực.
Nhận thức phải đƣợc coi nhƣ những công cụ, cũng giống nhƣ những công cụ
135
mang tính chất vật thể khác tác động và cải tạo thế giới. Công cụ nhận thức đƣợc
thể hiện thông qua tinh thần và trí tuệ của con ngƣời có những khả năng và công
hiệu rất lớn trong việc cải tạo thế giới, khi nó cải tạo thực tiễn đạt hiệu quả có
ích, tức công cụ đó là chân lý. Quan điểm này đáng để chúng ta ghi nhận, nhất là
trong giai đoạn nền kinh tế tri thức hiện nay, khi mà cấu thành giá trị của sản
phẩm phần lớn và quan trọng nhất không phải là nguyên, nhiên, vật liệu mà
chính là tri thức, là trí tuệ của con ngƣời.
Nhƣ vậy, nói không quá khi khẳng định triết học thực dụng đã ăn sâu,
bám rễ vào đời sống xã hội và con ngƣời Mỹ. Nó trở thành công cụ hành động
giúp con ngƣời đạt hiệu quả, lợi ích, sự thành công, qua đó cũng thúc đẩy xã
hội phát triển. Do vậy, quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng đã có tác
động đến mọi mặt của xã hội và con ngƣời Mỹ. Chính việc đề cao thực tiễn, coi
trọng hiệu quả đã làm nên sức sống của triết học thực dụng. Ở đây, chúng ta
thấy có một sự trùng hợp đến kỳ lạ trong quan niệm về chân lý của trƣờng phái
triết học này với tƣ duy ngƣời Mỹ, những ngƣời coi trọng thực tiễn, coi trọng
hiệu quả thực tế. Với họ, chân lý đƣợc đồng nhất với hiệu quả, lợi ích, sự thành
công. Hay sự hình thành của triết học thực dụng là sự phản ánh của tƣ duy, văn
hóa, lối sống của ngƣời Mỹ và khi nó ra đời lại làm nên nét đặc sắc trong tƣ
duy, lối sống và văn hóa Mỹ. Cả hai thật khó nói đƣợc đâu là nguồn gốc của
nhau, chỉ biết rằng nhắc đến Mỹ là nhắc đến triết học thực dụng và ngƣợc lại
nhắc đến triết học thực dụng là nhắc đến nƣớc Mỹ và ngƣời Mỹ. Ở đó, hiệu
quả, lợi ích, sự thỏa mãn, sự thành công trong hoạt động cải tạo hiện thực sống
động của con ngƣời trở thành tiêu chuẩn của chân lý. Đó chính là điểm gặp gỡ
căn bản trong lý luận của triết học thực dụng với triết học Mác - Lênin. Chúng
ta thấy, từ những thập niên 70 - 80 của thế kỷ XX đã diễn ra quá trình Mỹ hóa
phƣơng Tây, thậm chí, hiện nay, xu hƣớng Mỹ hóa thế giới đang diễn ra ngày
càng sâu rộng. Chúng ta không thể phủ nhận tầm ảnh hƣởng to lớn về mọi mặt
của nƣớc Mỹ đối với thế giới, trong đó có ảnh hƣởng về văn hóa và lối sống
Mỹ đến các nƣớc phƣơng Tây nói riêng và các nƣớc trên thế giới nói chung. Để
lý giải nguyên nhân và sự ảnh hƣởng to lớn này, chúng ta có thể tìm thấy từ
những tác động tích cực của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
136
đến sự hình thành và phát triển của đời sống xã hội, văn hóa, lối sống Mỹ.
4.2. Hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ
4.2.1. Thể hiện lập trường duy tâm chủ quan
Triết học thực dụng Mỹ là một trƣờng phái triết học duy tâm chủ quan,
trong lý luận nhận thức nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng, triết học
thực dụng Mỹ thể hiện rõ quan điểm duy tâm chủ quan. Lập trƣờng duy tâm chủ
quan của trƣờng phái triết học này đƣợc thể hiện ở sự phủ nhận hiện thực khách
quan, cũng nhƣ các quy luật của thế giới khách quan, phủ nhận vấn đề cơ bản
của triết học. Biểu hiện trong quan niệm về chân lý, triết học thực dụng bác bỏ
chân lý khách quan, khẳng định chân lý là cụ thể. Tiền đề của triết học thực dụng
lấy con ngƣời - một thực thể phi lý tính, dƣới ảnh hƣởng của những tiềm thức
làm điểm xuất phát.
C. Peirce thể hiện rõ quan điểm chủ quan trong lý luận về niềm tin, theo
ông vấn đề quan trọng không phải là nhận thức đúng hay sai mà là tin hay không
tin, chỉ cần có niềm tin chắc chắn là có thể sẵn sàng hành động. Chân lý không
còn là khách quan mà chỉ còn thuần túy là niềm tin vững chắc. Theo nguyên tắc
thực dụng của Peirce thì những khái niệm chỉ có nghĩa khi nó đem lại những
hiệu quả thực tế; Nội dung của tƣ tƣởng, khái niệm về sự vật chẳng qua cũng chỉ
là quan niệm về những hiệu quả thực tế mà nó đem lại cho con ngƣời. Quan
niệm này rất gần với Berkeley: Tồn tại là đƣợc tri giác.
Lập trƣờng duy tâm chủ quan của C. Peirce đƣợc thể hiện ngay từ đầu ông
luôn trăn trở bởi vấn đề: “Thiên Chúa giáo sẽ ra sao, nếu chúng ta nhìn nhận nó
từ lập trƣờng duy vật?” [135, T.V, đoạn 12]. Ở giai đoạn đầu trong quá trình
nghiên cứu của mình, ông chƣa thể hiện thái độ thù địch sâu sắc đối với chủ
nghĩa duy vật và còn thừa nhận ý nghĩa tích cực của nó ở một chừng mực nhất
định, ông còn cho rằng, chúng ta sẽ hành động đúng, “nếu giải thích sự vĩ đại
của thời đại chúng ta theo cách phù hợp với xu hƣớng duy vật này” [135, T.V,
đoạn 12]. Đồng thời, dựa trên lời nói nổi tiếng của Kant, ông cũng tuyên bố,
“nếu chủ nghĩa duy vật thiếu chủ nghĩa duy tâm là mù quáng, thì chủ nghĩa duy
tâm thiếu chủ nghĩa duy vật là trống rỗng” [135, T.V, đoạn 11]. Mục đích của
ông muốn tổng hợp chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, để loại bỏ các hạn
137
chế và giữ lại các ƣu điểm của cả chủ nghĩa duy tâm lẫn của cả chủ nghĩa duy
vật: “sẽ đem lại cho chúng ta niềm tin mạnh mẽ hơn nhiều niềm tin trƣớc kia”
[135, T.V, đoạn 13]. Song, trên thực tế, Peirce ngày càng thiên về lập trƣờng
triết học duy tâm: “Lập trƣờng của tôi là lập trƣờng duy tâm” [135, T.V, đoạn
20]. Ông đã bắt đầu cảm thấy rằng chủ nghĩa duy vật “tất yếu phiến diện”, nó
dƣờng nhƣ không thừa nhận ý nghĩa của các tƣ tƣởng mà sự hiểu biết về chúng
cho phép hiểu biết về các sự vật. Nguyên nhân ở đây là Peirce luôn chỉ biết tới
một thứ chủ nghĩa duy vật - chủ nghĩa duy vật máy móc. Trong khi đó, Peirce
nhận thấy ƣu điểm của chủ nghĩa duy tâm là hiểu biết về vai trò của các tƣ tƣởng
trong quá trình nhận thức và trong cuộc sống con ngƣời nói chung. Ông khẳng
định rằng: “chỉ chủ nghĩa duy tâm làm cho chân lý trong khoa học trở nên có
thể” [135, T.V, đoạn 11].
Triết học thực dụng đồng nhất chân lý với hiệu quả, xem tính hữu dụng là
cái tạo nên nội dung của chân lý. Một trong những thuộc tính của chân lý là tính
hiệu quả của hành động, nhƣng đồng nhất chân lý với tính hiệu quả lại là một
quan điểm sai lầm. Chƣa bàn đến tính hiệu quả đó cho ai? Vì ai? Đƣơng nhiên,
ban đầu triết học thực dụng nói đến tính hiệu quả chung chung, đó là hiệu quả
cho số ít ngƣời trong xã hội, nhất là những ngƣời hữu sản. Về sau, các nhà thực
dụng có bổ sung tính hiệu quả cho cộng đồng. Tuy nhiên, điều đó không làm
thay đổi bản chất chân lý của triết học thực dụng, bởi trong nền kinh tế thị
trƣờng, trong đó, những quy luật kinh tế thể hiện mặt trái của nó, không có sự
bình đẳng và công bằng cho tất cả mọi ngƣời; ở đó, quyền lực thuộc về số ít
những ngƣời giàu có trong xã hội thì sự thỏa mãn lợi ích của ngƣời này nhiều
khi là sự xâm hại lợi ích của ngƣời khác, thành công cho ngƣời này là sự thất bại
của ngƣời khác, không có hiệu quả, sự thỏa mãn, lợi ích và thành công cho tất cả
mọi ngƣời. Lênin đã nhận xét về quan niệm chân lý của triết học thực dụng: “Chỉ
có những quan niệm dẫn đến thành công mới có tính chất chân lý. Nhƣng còn
cần phải biết rằng chúng có tính chân lý vì chúng dẫn đến thành công hay chúng
dẫn đến thành công vì chúng có tính chân lý. Chủ nghĩa thực dụng bao giờ cũng
có khuynh hƣớng giải quyết hai cách nói này theo hƣớng thứ nhất. Lẽ phải thông
thƣờng hình nhƣ chỉ có thể giải quyết điều đó theo hƣớng thứ hai” [83, tr.617].
138
Về điểm này, triết học thực dụng thể hiện quan điểm chủ quan và đứng trên lập
trƣờng giai cấp, phần nào nhằm bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tƣ sản. Triết học
thực dụng nhấn mạnh lợi ích, coi tính hữu ích là tiêu chuẩn của chân lý, điều đó
không sai, bởi suy cho cùng lợi ích là một trong những động lực quan trọng thúc
đẩy xã hội phát triển. C. Mác cũng khẳng định: “...Tất cả những gì mà con ngƣời
đấu tranh để giành lấy, đều dính liền với lợi ích của họ” [85, tr. 109]. Sai lầm
trong quan niệm về chân lý của triết học thực dụng là đã tuyệt đối hóa lợi ích cá
nhân, lợi ích trƣớc mắt, thậm chí coi đó là mục đích của cá nhân theo đuổi, từ đó
không thể giải quyết triệt để mối quan hệ giữa lợi ích cá nhân và lợi ích cộng
đồng, thành công của cá nhân với sự phát triển và tiến bộ xã hội.
Tác giả Phạm Minh Lăng chủ yếu đề cập tới vấn đề chân lý trong triết học
thực dụng dựa trên cơ sở khái quát quan niệm về chân lý, tiêu chuẩn của chân lý,
từ đó phân tích quan niệm về chân lý của chủ nghĩa thực dụng trên hai nội dung:
khái niệm về chân lý và tiêu chuẩn của chân lý. Phê phán quan niệm về chân lý
của chủ nghĩa thực dụng, tác giả viết: “Quan niệm của chủ nghĩa thực dụng coi
chân lý và tiêu chuẩn của chân lý là không thỏa đáng bởi vì chân lý phải được
kiểm chứng bằng cái gì đó không phải là nó chứ không phải bằng chính nó hay
những công cụ giúp nó đạt được. Chân lý có thể là cái có giá trị từ hiệu quả
nhưng chân lý không thể chính là hiệu quả. Cần nhớ rằng việc tìm kiếm chân lý
là một công việc phải vượt qua hành vi, vượt qua thực tiễn cũng như tiến bộ về
xã hội và về khoa học” [79, tr. 490 - 491].
Tác giả Nguyễn Ngọc Ba cho rằng: “Chủ nghĩa thực dụng về bản chất là
triết học duy tâm siêu hình, coi kinh nghiệm, hiệu quả, cái có lợi là tiêu chuẩn
chân lý” [4, tr. 11]. Tác giả cũng đã nhận định: Mặc dù lối sống thực dụng, chủ
nghĩa cá nhân tuy không đồng nhất với chủ nghĩa thực dụng nhƣng từ khi có lý
luận của chủ nghĩa thực dụng, lối sống đó có thể đƣợc xem là phạm trù “thực
dụng”, chủ nghĩa thực dụng đã cổ vũ cho lối sống đó “trên thực tế chủ nghĩa cá
nhân và chủ nghĩa thực dụng gắn bó với nhau” [4, tr.15].
Tác giả Melvil khẳng định rằng, chủ nghĩa thực dụng là triết học của chủ
nghĩa duy tâm chủ quan: “Dù người ta có dán những nhãn hiệu như thế nào vào
các hình thức của chủ nghĩa thực dụng, như chủ nghĩa kinh nghiệm, chủ nghĩa
139
tự nhiên, chủ nghĩa công cụ, v.v. thì chủ nghĩa thực dụng trước hết vẫn là chủ
nghĩa duy tâm chủ quan, giống như chủ nghĩa Makhơ, chủ nghĩa kinh nghiệm
phê phán và bất cứ hình thức nào của chủ nghĩa thực chứng hiện đại” [91, tr. 8].
Tiếp đến, một số tƣ tƣởng cơ bản của chủ nghĩa thực dụng cũng đƣợc Melvil đề
cập đến nhƣ vấn đề kinh nghiệm, thực tiễn, chân lý, v.v.. Trong vấn đề kinh
nghiệm, ông chỉ rõ: “Phái thực dụng hiểu kinh nghiệm theo tinh thần duy tâm
chủ quan, theo tinh thần duy ý chí luận” [91, tr. 51] và có tính chất duy ngã luận.
Mặc dù vậy, Melvil đã đƣa ra một gợi ý để chúng ta có thể nghiên cứu, làm rõ
bản chất của chủ nghĩa thực dụng: “Nếu không chú ý đến những đặc điểm riêng
nào đó của chủ nghĩa thực dụng đã được hình thành trong điều kiện phát triển
cụ thể của chủ nghĩa đế quốc Mỹ, mà chú ý đến thái độ của chủ nghĩa thực dụng
đối với những vấn đề triết học chủ yếu, nếu nhìn chủ nghĩa thực dụng theo khía
cạnh đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, thì sẽ thấy rằng
chủ nghĩa thực dụng là một hiện tượng đặc sắc trong sinh hoạt tinh thần của
giai cấp tư sản đế quốc chủ nghĩa ở các nước, là một hình thức điển hình của
triết học duy tâm chủ quan trong thời đại đế quốc chủ nghĩa” [91, tr. 7].
C. Peirce là ngƣời đầu tiên bàn đến khái niệm “hiệu quả thực tế”, khi khẳng
định tổng số những hiệu quả thực tế là khái niệm hoàn chỉnh về đối tƣợng. Nhƣng
những hiệu quả thực tế không phải mang tính khách quan, mà là những thói quen
và những cảm giác do khái niệm sinh ra. Ông xem những hiệu quả có thể cảm
giác đƣợc là tiêu chuẩn để xác định nghĩa của khái niệm. Quan niệm của Peirce về
chân lý là những hiệu quả cảm giác, thể hiện tính chủ quan mà không thấy đƣợc
tính khách quan của đối tƣợng. Thậm chí, ông còn cho rằng tiêu chuẩn của chân lý
là sự nhất trí chung của những ngƣời cùng nghiên cứu một vấn đề. Sai lầm của
Peirce là xem chân lý chẳng qua cũng chỉ là đối tƣợng của ý kiến tập thể, cho dù
ông nhấn mạnh vai trò của phƣơng pháp khoa học, nhƣng nó không làm thay đổi
tính chủ quan trong quan niệm về tiêu chuẩn chân lý.
Theo C. Peirce, không có chân lý tuyệt đối, chân lý luôn là tƣơng đối.
Mặc dù ông cố gắng đƣa ra phƣơng pháp khoa học để loại bỏ hoài nghi, nhận
thức chân lý, nhƣng hạn chế của ông là đã tuyệt đối hóa tính tương đối, phủ
nhận tính tuyệt đối của các kết luận khoa học. Còn W. James thì phủ nhận
140
tính khách quan của chân lý. Tiếp tục triển khai vấn đề, ông đồng nhất chân lý
với tính hữu dụng và xem hiệu quả, lợi ích, sự thành công là tiêu chuẩn của
chân lý. Mặc dù ông cho rằng, chân lý là vấn đề liên quan đến con ngƣời, vì
nhu cầu, lợi ích và sự thỏa mãn của con ngƣời, tính nhân bản của chủ nghĩa
thực dụng đƣợc thể hiện và tất nhiên hiệu quả, lợi ích ở đây là đối với cá
nhân. Hình nhƣ biết trƣớc ngày càng lún sâu vào lập trƣờng chủ quan trong
quan niệm về chân lý, ông đã đƣa ra sự chứng thực chân lý bằng “thực tại”.
Sự kiểm nghiệm chân lý bằng “thực tại”, nghe qua có vẻ nhƣ ông đang đem
tính thực tiễn vào tiêu chuẩn của chân lý. Nhƣng kỳ thực, cái “thực tại” và sự
“phù hợp với thực tại” theo cách hiểu và cách triển khai của ông không phải
là thực tại mang tính khách quan, mà mang tính chủ quan trong quan hệ với
đời sống tình cảm của con ngƣời, quan hệ với cái có ích cho con ngƣời. Đồng
thời, trong khi lý giải tiêu chuẩn của chân lý, ông còn khẳng định chân lý
sống dựa vào niềm tin của con ngƣời, chân lý là niềm tin đƣợc củng cố vững
chắc. Quan niệm đó của ông khẳng định chân lý mang tính chủ quan.
W. James cho rằng chân lý là thuộc tính của ý niệm chứ không phải là
thuộc tính của sự vật. Với quan điểm này, ông đã phủ nhận cơ sở khách quan của
chân lý; chân lý chỉ thuần túy lấy bản thân quan niệm làm căn cứ chứ không phải
là thế giới khách quan. Ông đồng nhất chân lý với tính hữu dụng, một quan điểm
có ích vì nó là chân lý, hoặc nó là chân lý vì nó có ích. Tính hiệu quả, có ích, sự
thành công trở thành tiêu chuẩn căn bản của chân lý. Sai lầm của ông là đã phủ
nhận tính khách quan của chân lý. Tiếp tục triển khai vấn đề, ông cho rằng tôn
giáo thỏa mãn nhu cầu của con ngƣời, giúp con ngƣời đạt đƣợc thành công;
Chúa là một loại giả thiết có ích, giống nhƣ các giả thiết với tính cách là quan
niệm của chân lý; Chúa tồn tại dựa trên hiệu quả đối với con ngƣời. Do đó, bản
thân tôn giáo cũng tồn tại chân lý, vì tồn tại cái có ích. Đây thực chất là luận điệu
bảo vệ cho sự tồn tại của tôn giáo. Vì vậy, có ý kiến cho rằng triết học thực dụng
là công cụ bảo vệ sự tồn tại hợp lý của tôn giáo.
Khi khẳng định chân lý là quá trình, nên quá trình nhận thức chân lý
không phải cố định. Do đó, không có chân lý tuyệt đối, chân lý chỉ là tƣơng đối.
Chân lý là cụ thể, xác định, thậm chí W. James còn cho rằng một số khía cạnh có
141
ích cho con ngƣời, ngay cả tín ngƣỡng, tôn giáo đều có ý nghĩa chân lý. Tính cụ
thể, tính xác định của chân lý là cụ thể trong quan hệ lợi ích, với tính hiệu quả
cho con ngƣời. Tuy nhiên, tuyệt đối hóa tính cụ thể, tính tƣơng đối khi cho rằng,
chân lý là thuộc về mỗi con ngƣời dựa trên lợi ích, nhu cầu của mình, đồng thời
phủ nhận tiêu chuẩn khách quan của chân lý lại là một sai lầm.
Còn J. Dewey, khi phê phán quan điểm của chủ nghĩa siêu hình về tính cố
định, bất biến của chân lý, ông đi đến kết luận về tính tƣơng đối của chân lý.
Nhận thức tính tƣơng đối của chân lý là nhiệm vụ của nhận thức khoa học. Khi
bàn về nhận thức khoa học, ông thấy đƣợc tính năng động, chủ quan của con
ngƣời. Điều đó không sai, sai lầm của ông là ở chỗ tuyệt đối hóa tính chủ quan,
từ đó xem nhẹ đối tƣợng khách quan; coi thực tại cũng chỉ đáng xem là đối
tƣợng của nghiên cứu khoa học.
4.2.2. Phủ nhận tính khách quan và tiêu chuẩn khách quan của chân lý
Là một trƣờng phái triết học duy tâm chủ quan, các nhà triết học thực
dụng đều cố gắng bằng cách này hay cách khác để phủ nhận hiện thực khách
quan, cũng nhƣ tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Niềm tin giữ vai trò quyết
định, thực tại chỉ là cái do con ngƣời ta tin. Hiện thực là hiện thực mà chủ thể đã
trải qua bằng kinh nghiệm để cảm nhận và xử lý, chứ không phải là hiện thực
khách quan. Hành động thực tiễn cũng chỉ là bất kỳ hành động nào của chủ thể,
kể cả là ý thức chủ quan thuần túy. Phù hợp với thế giới khách quan chỉ là sự
phù hợp với lợi ích, hiệu quả, sự thành công, thỏa mãn mục đích của chủ thể.
Khi bàn về tiêu chuẩn chân lý thể hiện ở hiệu quả thực tế của chúng đối với
con ngƣời, C. Peirce cho rằng những hiệu quả thực tế đó, thực chất đó là những
thói quen hành vi và những cảm giác trong kinh nghiệm của con ngƣời. Quan
điểm chủ quan này về tiêu chuẩn của chân lý xuất phát từ chính châm ngôn thực
dụng của ông. Hơn nữa, ông còn cho rằng tiêu chuẩn của chân lý chính là sự nhất
trí chung của tất cả mọi ngƣời cùng nghiên cứu một vấn đề. Ở đây, tiêu chuẩn
khách quan của chân lý đã bị phủ định, thay bằng ý kiến chủ quan của số đông.
Vì vậy, đối với Peirce, hiện thực chỉ đƣợc coi là đối tƣợng của ý kiến tập thể.
W. James cho rằng, không có hiện thực khách quan nào cả, chỉ có những
cái ngƣời ta tin mới tồn tại thực. Cái thực tại theo quan điểm của ông chẳng qua
142
cũng chỉ là cái mà con ngƣời cho đó là thực tại, thừa nhận nó là thực tại trong
một lúc nào đó. Do đó, thực tại chỉ tồn tại vì một lẽ duy nhất là vì ngƣời ta tin nó
tồn tại. Ông nhấn mạnh tính hữu dụng là tiêu chuẩn của chân lý. Chân lý không
phải là quan niệm phù hợp với đối tƣợng, mà là quan niệm đem lại hiệu quả cho
con ngƣời. Từ việc phủ nhận tính khách quan của chân lý, lý luận của James biện
hộ cho sự tồn tại của tôn giáo và khẳng định sự tồn tại đó là có ích cho con
ngƣời, tức nó có tính chân lý.
J. Dewey phát triển quan điểm về tính hữu dụng mang đậm màu sắc chủ
quan, khi ông đồng nhất chân lý với chủ nghĩa công cụ, đã là công cụ thì không
cần phân biệt thật giả, mà chỉ cần quan tâm đến việc nó có tác dụng, có hiệu quả
hay không. Ông đã phủ nhận hoàn toàn tiêu chuẩn khách quan của chân lý. Với
ông, chân lý chỉ thuần túy mang tính chủ quan.
Triết học Mác - Lênin khẳng định tiêu chuẩn khách quan của chân lý, thì triết
học thực dụng lại phủ nhận tiêu chuẩn khách quan, đồng thời nhấn mạnh tính chủ
quan, nhân tạo của chân lý. Theo quan điểm của triết học Mác - Lênin, chân lý là
khách quan vì đối tƣợng, nội dung phản ánh là thế giới khách quan, tồn tại độc lập
với ý thức con ngƣời, đƣợc thực tiễn kiểm nghiệm: “Nhƣng khái niệm của con
ngƣời hẳn lấy cái chân lý khách quan ấy để nhận thức, nó chỉ nhận thức và chiếm
lấy chân lý khách quan ấy khi khái niệm trở thành “tồn tại vì nó”, theo nghĩa thực
tiễn. Nghĩa là thực tiễn của con ngƣời và của loài ngƣời là sự kiểm nghiệm, là tiêu
chuẩn của tính khách quan của nhận thức” [83, tr. 236]. Trong mối quan hệ giữa lý
luận và nhận thức, triết học Mác - Lênin khẳng định: “Quan điểm về đời sống, về
thực tiễn phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức [81, tr.
167]. Triết học Mác - Lênin đề cao thực tiễn, coi thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm tra
chân lý: “Thực tiễn cao hơn nhận thức (lý luận), vì nó có ƣu điểm không những của
tính phổ biến, mà cả của tính hiện thực trực tiếp” [83, tr. 230]. Thực tiễn là phạm trù
triết học, thực tiễn vừa là cơ sở vừa là động lực của nhận thức, là tiêu chuẩn để kiểm
tra chân lý. Khác với hoạt động sinh tồn của loài vật, hoạt động thực tiễn có tính
mục đích, có tính cách mạng, tính cộng đồng, tính xã hội, là hoạt động vật chất, cảm
tính. Thực tiễn có tính tƣơng đối, tính cụ thể, không có thực tiễn trừu tƣợng, chung
chung. Đối với triết học thực dụng, nhận thức không quan trọng là đúng hay sai,
143
nhận thức giống nhƣ công cụ chỉ cần quan tâm đến hiệu quả hay không hiệu quả.
Do đó, nhiệm vụ của nhận thức là đảm bảo cho tính hiệu quả tối đa cho hành động,
nếu nó mang lại giá trị thực tiễn tức là có hiệu quả thì nó đƣợc coi là chân lý. Đây là
khác biệt cơ bản của triết học Mác - Lênin và triết học thực dụng Mỹ về lý luận
nhận thức nói chung và quan niệm về chân lý nói riêng.
4.2.3. Tuyệt đối hóa tính chủ quan, tính tương đối và phủ nhận tính tuyệt đối
của chân lý
Trong quan niệm về chân lý, triết học thực dụng Mỹ thể hiện lập trƣờng
duy tâm chủ quan. Các nhà triết học thực dụng Mỹ đã tuyệt đối hóa tính chủ
quan, cho rằng chân lý là cụ thể, là tƣơng đối và không có chân lý tuyệt đối. Có
thể nói, chân lý là sản phẩm của quá trình nhận thức của con ngƣời về thế giới
khách quan, do đó nó mang tính chủ quan, là cụ thể, tƣơng đối. Nhƣng việc tuyệt
đối hóa tính chủ quan, tính cụ thể, tính tƣơng đối mà phủ nhận chân lý tuyệt đối
lại là hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
C. Peirce luôn đòi hỏi chân lý phải có sự chứng thực, mọi quan niệm, giả
thuyết đƣợc xem là chân lý đều cần phải thƣờng xuyên hiệu chỉnh. Do đó, chân
lý tuyệt đối, phổ biến là không thể đạt đến đƣợc, chân lý chỉ mang tính tƣơng đối.
Với quan niệm chân lý là sự “phù hợp” với thực tại, W. James cho rằng, chân
lý là sự phù hợp với thực tại, nhƣng thực tại theo cách hiểu của ông không phải là thế
giới khách quan, mà liên quan đến đời sống tình cảm, tính chủ quan của con ngƣời.
Sự phù hợp với thực tại chẳng qua chỉ là sự phù hợp của quan niệm này với quan
niệm khác, sự phù hợp năng động của chủ thể với khách thể. Sự phù hợp của quan
niệm với thực tại chỉ trong phạm vi đƣợc kiểm chứng. Sở hữu một chân lý là phƣơng
tiện để hƣớng tới sự thỏa mãn khác của con ngƣời. Rõ ràng, theo quan niệm này,
chân lý phụ thuộc vào tính chủ quan của mỗi ngƣời. Vì vậy, theo đuổi mục đích, lợi
ích, tính hiệu quả của mỗi ngƣời là tiêu chuẩn của chân lý. Quan điểm này là sự cổ vũ
cho chủ nghĩa cá nhân; mỗi ngƣời hãy theo đuổi mục đích, lợi ích của mình; mỗi
ngƣời đều có thể tạo ra chân lý riêng của mình, vì chân lý là cụ thể.
Quan điểm của W. James về sự chứng thực gián tiếp của chân lý cũng thể
hiện rõ tính chủ quan. Ông cho rằng chân lý là một quá trình, không phải tĩnh tại mà
luôn biến đổi. Việc chứng thực trực tiếp chân lý là một việc làm rất khó khăn.
144
Chúng ta chƣa kiểm nghiệm xong một chân lý thì đã có hàng triệu chân lý phát sinh
trong đời sống rồi. Do vậy, chân lý tồn tại chủ yếu dựa vào sự tin tƣởng.
Trên cơ sở phê phán những ngƣời theo quan điểm duy lý đã tuyệt đối hóa
chân lý, W. James khẳng định chân lý là một quá trình, không có tính ổn định
tuyệt đối mà chỉ mang tính tƣơng đối. Bởi nội dung của chân lý liên quan chặt
chẽ với kinh nghiệm của con ngƣời, tính chân lý phụ thuộc vào yếu tố niềm tin
của cá nhân, do đó chân lý luôn biến đổi, không có chân lý tuyệt đối, nó chỉ
mang tính tƣơng đối. Ông ủng hộ quan điểm cho rằng mỗi ngƣời tùy thuộc vào
kinh nghiệm, vào hiệu quả, sự thỏa mãn nhu cầu, mục đích của mình mà xác
định tính chân lý của riêng mình. Quan điểm này là cơ sở lý luận để giai cấp tƣ
sản biện hộ cho việc theo đuổi mục đích lợi ích, hiệu quả của mình bất chấp mọi
thủ đoạn miễn là đạt đƣợc mục đích lợi nhuận.
J. Dewey phủ nhận tính khách quan của chân lý, đồng thời cũng phủ nhận
tính tuyệt đối của chân lý. Ông có khuynh hƣớng chủ nghĩa tƣơng đối trong quan
niệm về chân lý. Trên cơ sở chỉ ra những sai lầm của chủ nghĩa siêu hình, khi
cho rằng, chân lý là khái niệm lý tính tiên nghiệm, mang tính tĩnh tại, bất biến,
đồng thời cũng phản đối thuyết phản ánh của chủ nghĩa duy vật. Ông cho rằng
mọi tƣ tƣởng, khái niệm không thể là sự mô tả hiện thực khách quan, chỉ có thể
là những giả thiết ứng dụng, mà giả thiết là do con ngƣời đề xuất theo ý muốn
chủ quan của mình; nó nhƣ những công cụ đƣợc con ngƣời sử dụng khi cảm thấy
tiện lợi. Từ đó, ông phủ định tính khách quan, tính tuyệt đối của chân lý, đồng
thời cũng nhấn mạnh tính tƣơng đối, chủ quan của chân lý.
Theo J. Dewey, thực tại “đi trƣớc” nhận thức; nhận thức là sự can thiệp
mang tính tích cực, sáng tạo của chủ thể vào đối tƣợng, làm biến đổi đối tƣợng.
Khách thể tồn tại khách quan bị tan biến vào “quá trình nghiên cứu”. Tuyệt đối hóa
vai trò chủ quan của chủ thể trong quá trình nhận thức, biến tồn tại tự thân của sự
vật thành tồn tại của nhận thức là đặc trƣng trong phƣơng pháp nhận thức khoa học
của ông. Thực tại cũng chỉ đƣợc ông xem là kết quả của quá trình nhận thức: “Sự
thay đổi các quan niệm của chúng ta về đối tƣợng đã tạo nên đối tƣợng phù hợp với
trạng thái ý thức, nói cách khác, quá trình nhận thức là quá trình “xác lập thực tại”.
Tồn tại - nghĩa là trở thành đối tƣợng của nghiên cứu khoa học” [92, tr. 41].
145
J. Dewey lý giải quá trình nghiên cứu theo tinh thần của C. Peirce. Cuộc
sống đặt con ngƣời vào những tình huống nan giải, những trạng thái hoài nghi.
Bị rơi vào tình huống ấy, con ngƣời cần đến phƣơng pháp để giải quyết vấn đề.
Chức năng duy nhất của tƣ duy là cải tạo tình huống chƣa xác định thành tình
huống xác định. Khoa học là một loại hộp đựng công cụ, từ đó ngƣời ta lựa chọn
những gì tiện lợi, có hiệu quả trong những điều kiện nhất định.
Nếu nhƣ triết học Mác - Lênin khẳng định chân lý vừa có tính tƣơng đối,
vừa có tính tuyệt đối, thì triết học thực dụng phủ nhận tính tuyệt đối của chân lý
và xem chân lý chỉ thuần túy tƣơng đối với hiệu quả, lợi ích cho con ngƣời.
Ngay cả việc triết học thực dụng thừa nhận tính tƣơng đối của chân lý, thì quan
niệm đó cũng khác cơ bản so với quan niệm của triết học Mác - Lênin. Triết học
Mác - Lênin xuất phát từ việc coi chân lý là một quá trình con ngƣời nhận thức
về thế giới trên cơ sở thực tiễn, là sự thống nhất giữa chủ thể và khách thể, trong
đó chủ thể phản ánh khách thể thông qua thực tiễn; thực tiễn luôn vận động, biến
đổi. Vì vậy, quá trình phản ánh của chủ thể về thế giới khách quan trong những
trƣờng hợp cụ thể là đúng đắn nhƣng chỉ là tƣơng đối đầy đủ - khi đó xuất hiện
chân lý tƣơng đối; đồng thời triết học Mác - Lênin cũng khẳng định con ngƣời
có khả năng nhận thức đƣợc đúng đắn bản chất của thế giới. Nhận thức là một
quá trình phản ánh thế giới khách quan, là sự thống nhất giữa chủ thể và khách
thể. Theo đó chân lý tƣơng đối không ngừng đƣợc bổ sung, khi đó xuất hiện
chân lý tuyệt đối. Chân lý tƣơng đối và chân lý tuyệt đối có quan hệ thống nhất
với nhau, trong đó, tổng số chân lý tƣơng đối chính là chân lý tuyệt đối: “Chân
lý tuyệt đối đƣợc cấu thành từ tổng số những chân lý tƣơng đối đang phát triển;
chân lý tƣơng đối là sự phản ánh tƣơng đối đúng của một khách thể tồn tại độc
lập với nhân loại; những phản ánh ấy ngày càng trở nên chính xác hơn; mỗi chân
lý khoa học, dù là có tính tƣơng đối, vẫn chứa đựng một yếu tố tuyệt đối” [81, tr.
383]. Vì vậy, chân lý vừa có tính tương đối, vừa có tính tuyệt đối.
Còn đối với triết học thực dụng, chân lý đƣợc xem là công cụ, phƣơng
tiện, phƣơng pháp tƣ duy để đạt hiệu quả, lợi ích, sự thành công trong hành
động. Chân lý gắn liền với tính hữu dụng của hành động; mà hành động để đem
lại hiệu quả lại gắn với hoàn cảnh hay tình huống cá biệt, của từng cá nhân con
146
ngƣời riêng biệt, cụ thể. Do đó, chân lý chỉ là tƣơng đối. Có bao nhiêu công cụ,
giải pháp đem lại hiệu quả trong việc giải quyết những vấn đề đặt ra cho từng
con ngƣời, từng hoàn cảnh cụ thể thì sẽ có bấy nhiêu chân lý. Cho nên, tính
tƣơng đối của chân lý đƣợc hiểu là tính tƣơng đối trong việc đem lại hiệu quả
của hành động khi con ngƣời lựa chọn một giải pháp này, một phƣơng pháp này
mà không phải là cái khác. Các nhà triết học thực dụng chỉ thừa nhận và khẳng
định sự tồn tại của chân lý tƣơng đối, đồng thời kiên quyết phủ nhận sự tồn tại
của chân lý tuyệt đối, không thấy đƣợc mối quan hệ giữa chúng.
Tóm lại, quan niệm về chân lý của triết học thực dụng có một số giá trị
nhất định. Đó là sự cố gắng đi tìm những kiến giải mới trong nhận thực triết học.
Đề cập đến thực tiễn và giải quyết những vấn đề thực tiễn, phục vụ cho con
ngƣời là đích hƣớng tới của triết học thực dụng. Ở đây, trƣờng phái triết học thực
dụng khẳng định quan điểm thực tiễn, khẳng định triết học không xa rời thực
tiễn, mà luôn xuất phát và phục vụ cho thực tiễn; qua đó cũng thể hiện tinh thần
nhân văn, vì con ngƣời và phục vụ con ngƣời. Vì thế, không phải ngẫu nhiên,
triết học thực dụng trở thành một nét đặc trƣng trong văn hóa Mỹ, có tác động
không nhỏ đến mọi mặt đời sống xã hội nƣớc Mỹ. Đây là đóng góp cơ bản của
quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Đồng thời, trong quan niệm
về chân lý, triết học thực dụng Mỹ cũng bộc lộ một số hạn chế. Xuất phát từ lập
trƣờng duy tâm chủ quan, trong quan niệm về chân lý, các nhà triết học thực
dụng nhấn mạnh tính chủ quan, tính cá thể, tính cụ thể, tính tƣơng đối của chân
lý, phủ nhận tính khách quan, tính tuyệt đối và tiêu chuẩn khách quan của chân
lý. Ở một góc độ nào đó, chúng ta thấy quan niệm về chân lý của triết học thực
dụng Mỹ thể hiện lập trƣờng giai cấp và bảo vệ cho lợi ích của giai cấp tƣ sản.
TIỂU KẾT CHƢƠNG 4
Đồng nhất chân lý với hiệu quả thực tế là đặc trƣng cơ bản của quan niệm
về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ. Nó cũng là nền tảng của triết học thực
dụng và khi nhắc đến triết học thực dụng là nhắc đến hiệu quả của hành động. Vì
vậy, có ý kiến còn nhấn mạnh đây là trƣờng phái triết học hành động, thể hiện
triết lý hành động. Chính vì vậy, không phải ngẫu nhiên, triết học thực dụng trở
thành nét đặc trƣng của văn hóa Mỹ. Sở dĩ nó có ảnh hƣởng lớn nhƣ vậy đối với
147
ngƣời Mỹ, xã hội Mỹ bởi quan niệm về chân lý đã đi sâu vào những vấn đề thực
tế đời sống, nhằm cải tạo thực tiễn của con ngƣời. Nó quan tâm trả lời câu hỏi
làm thế nào để suy nghĩ và hành động đạt đƣợc hiệu quả, ích lợi và thành công.
Điều đáng nói ở đây là triết học thực dụng nói chung và quan niệm về chân lý
của triết học thực dụng nói riêng đã có sự phù hợp với văn hóa và lối sống của
ngƣời Mỹ; cũng bởi sự phù hợp này, triết học thực dụng đƣợc ngƣời Mỹ, xã hội
Mỹ dễ dàng chấp nhận nhƣ một triết lý nội sinh thấm sâu vào huyết mạch và khí
quản con ngƣời. Nó không chỉ ảnh hƣởng đến nƣớc Mỹ, mà còn ảnh hƣởng đến
nhiều nƣớc trên thế giới. Điều đó là minh chứng sống cho những giá trị của quan
niệm về chân lý nói riêng và của triết học thực dụng nói chung.
Những giá trị cơ bản của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng
Mỹ có thể khái quát ở những nội dung coi trọng thực tiễn, nhấn mạnh hiệu quả
trong hành động, phê phán quan niệm tƣ biện về chân lý, khẳng định tính năng
động chủ quan trong quá trình nhận thức chân lý. Giá trị đó không dừng lại ở
mặt lý luận, nó còn là sự khẳng định về mặt thực tiễn. Thực tiễn nƣớc Mỹ là một
mảnh đất chứng minh rằng, một trƣờng phái triết học nếu biết giải quyết những
vấn đề của thực tiễn cuộc sống đặt ra sẽ có sức mạnh và tầm ảnh hƣởng to lớn.
Trƣờng hợp đó rất đúng với quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
Có thể khẳng định, đặc trƣng chủ yếu của quan niệm về chân lý trong triết
học thực dụng là sự nhấn mạnh hiệu quả hành động; điều này có những yếu tố
hợp lý nhất định, đáp ứng đƣợc nhu cầu, khát vọng, ham muốn tự do, sáng tạo và
ƣớc muốn thay đổi; đặc biệt là sự coi trọng thành quả sáng tạo của cá nhân đƣợc
thể hiện ở tính hữu dụng, sự thành công. Chính nó đã đem lại những giá trị nhất
định cho con ngƣời và xã hội. Tuy nhiên, cũng từ quan niệm quá chú trọng, tuyệt
đối hóa hiệu quả, cái có ích của hành động đã làm xuất hiện những hạn chế nhất
định. Triết học thực dụng nói chung, quan niệm về chân lý của triết học thực
dụng nói riêng, không thể giải quyết đƣợc mối quan hệ giữa cái chung và cái
riêng, giữa hiệu quả của cá nhân và hiệu quả cho cộng đồng xã hội. Tất nhiên,
trong tƣơng quan so sánh với quan niệm về chân lý của triết học Mác - Lênin nói
chung và phạm trù thực tiễn nói riêng, chúng ta càng thấy rõ hơn những giá trị
và hạn chế của quan niệm về chân lý trong triết học thực dụng Mỹ.
148
KẾT LUẬN
Chân lý là một vấn đề cơ bản trong lý luận nhận thức. Nghiên cứu về
vấn đề này có rất nhiều quan niệm khác nhau, trong đó có quan niệm về chân lý
của triết học thực dụng. Quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này là
một sự cố gắng đi tìm cách lý giải mới, khác với các quan niệm truyền thống về
bản chất của chân lý. Quan niệm độc đáo, mới mẻ của triết học thực dụng về
vấn đề chân lý đã gây ra nhiều ý kiến trái chiều, đồng tình có, phản đối có,
khen có, chê có. Tuy nhiên, chúng ta không thể phủ nhận ảnh hƣởng của triết
học thực dụng tới xã hội Mỹ nói riêng và tới các nƣớc trên thế giới nói chung.
Ảnh hƣởng đó theo hai hƣớng, cả theo chiều hƣớng tích cực lẫn theo chiều
hƣớng tiêu cực; thậm chí đã có lúc, ngƣời ta còn đồng nhất chủ nghĩa thực
dụng với lối sống thực dụng. Sở dĩ có sự ảnh hƣởng to lớn nhƣ vậy chính là do
vấn đề chân giá trị mà triết học thực dụng theo đuổi, hay chính là việc lý giải
quan niệm về chân lý của trƣờng phái triết học này. Lý giải vấn đề này, luận án
đã góp phần làm rõ hơn nguyên nhân của sự ảnh hƣởng đó.
Nói tới nƣớc Mỹ, ngƣời Mỹ và sự hùng mạnh của nƣớc Mỹ trong thế
giới hiện đại là chúng ta nhắc đến triết học thực dụng - thứ triết học đƣợc xem
nhƣ “đặc sản tinh thần của ngƣời Mỹ”, đƣợc coi là công cụ hữu hiệu bậc nhất
giúp nƣớc Mỹ khẳng định sự hùng mạnh của mình. Ngƣời Mỹ tôn thờ triết học
thực dụng nhƣ tôn thờ chân lý của sự sống còn trong một quốc gia đa sắc tộc,
đa văn hóa. Từ châm ngôn thực dụng của C.Peirce, chân lý ở tính hữu dụng
tƣơng lai với những mục tiêu của con ngƣời, W.James đã phát triển thành quan
niệm chân lý là hiệu quả, cái gì hữu ích cái đó là chân lý. Đến J.Dewey, chân lý
là sự khẳng định có cơ sở, sự khẳng định đó dựa trên tính hiệu quả, có tác dụng
giúp con ngƣời thỏa mãn, thành công trong việc giải quyết những tình huống
có vấn đề. Trong ba nhà triết học thực dụng Mỹ, thì quan điểm của C.Peirce
nhấn mạnh lý luận về nghĩa hơn cả học thuyết về chân lý. Ông là ngƣời đặt cơ
sở, nền móng cho toàn bộ lý luận của triết học thực dụng về chân lý. Quan
điểm của W.James về vấn đề chân lý thể hiện đầy đủ, hoàn chỉnh nhất.
149
J.Dewey là ngƣời phát triển lý luận chân lý trong lý luận về chủ nghĩa công
cụ. Đồng nhất chân lý với tính hữu dụng trở thành quan điểm nền tảng của lý
luận thực dụng về chân lý.
Quan niệm về chân lý của triết học thực dụng có những hạn chế, bên
cạnh đó cũng có một số giá trị nhất định. Giá trị của triết học thực dụng khi bàn
về vấn đề chân lý ở sự phê phán những hạn chế, sai lầm của triết học tƣ biện,
coi chân lý là những giá trị vĩnh hằng, bất biến. Ở khía cạnh này, triết học thực
dụng tỏ ra có lý khi cho rằng, chân lý chỉ mang tính tƣơng đối và thƣờng xuyên
phải hiệu chỉnh khi những căn cứ cho sự tồn tại của nó đã thay đổi. Tuy nhiên,
phủ định tính tuyệt đối của chân lý lại là quan điểm sai lầm. Triết học thực
dụng bàn đến vấn đề thực tiễn, sự phù hợp của khái niệm với “thực tại”. Về
điểm này, các nhà triết học thực dụng đã trung thành với quan điểm nền tảng
của mình khi cho rằng, sự phù hợp với thực tại không phải là sự phù hợp với
thế giới khách quan, mà là sự phù hợp của một bộ phận thế giới với lợi ích của
con ngƣời. Có thể nói, quan điểm này của triết học thực dụng đã phủ nhận tiêu
chuẩn khách quan của chân lý; coi chân lý chỉ thuần túy chủ quan, là sự thỏa
mãn lợi ích của con ngƣời. Việc nhấn mạnh nhận thức chân lý là quá trình đƣợc
chứng thực và có hiệu quả trong đời sống thực tiễn, đã cho thấy triết học thực
dụng coi trọng vấn đề thực tiễn trong nhận thức; xem nhận thức là một quá
trình biện chứng có sự chứng thực bằng hiệu quả thực tế. Các nhà triết học thực
dụng Mỹ đề cao vai trò năng động, sáng tạo của chủ thể trong quá trình nhận
thức chân lý, bởi suy cho cùng, con ngƣời với tƣ cách là chủ thể đƣợc coi là cội
nguồn của sự sáng tạo và sức mạnh trong nhận thức, cải tạo thế giới, hay con
người là thước đo chính mình và của vạn vật. Đƣơng nhiên, sai lầm của họ là
cách hiểu thực tiễn chẳng qua chỉ là hoạt động kinh nghiệm thuần túy mang
tính chủ quan của con ngƣời vì mục đích có ích cho con ngƣời. Thậm chí, các
nhà triết học thực dụng còn ủng hộ và luận chứng cho sự tồn tại mang tính hợp
lý của tôn giáo, vì tôn giáo giúp thỏa mãn nhu cầu, là có ích đối với con ngƣời.
Có thể nói, triết học thực dụng ra đời, tồn tại và phát triển đƣợc coi là hệ thống
150
lý luận có sự phù hợp với xã hội Mỹ nói riêng và đặc điểm xã hội phƣơng Tây
hiện nay nói chung.
Nghiên cứu quan niệm của triết học thực dụng về chân lý giúp chúng ta
có cơ sở để so sánh, đối chiếu với quan niệm về chân lý của các trào lƣu triết
học phƣơng Tây hiện đại và các trào lƣu triết học khác. Qua nghiên cứu vấn
đề chân lý trong triết học thực dụng Mỹ, tác giả luận án đã cố gắng đƣa ra một
cách nhìn khách quan, với mong muốn tìm thấy những giá trị tích cực vốn có
của nó trong những điều kiện nhất định. Từ quan điểm khách quan đó, tác giả
cũng thấy rõ những hạn chế cơ bản của trƣờng phái triết học này khi bàn về
vấn đề chân lý. Quan điểm khách quan đó càng khẳng định tính đúng đắn của
quan niệm về chân lý trong triết học Mác - Lênin nói riêng và lý luận nhận
thức nói chung.
Tuy nhiên, trong phạm vi của một đề tài luận án, tác giả đã cố gắng, nỗ
lực hoàn thành mục đích và nhiệm vụ đặt ra, nhƣng cũng không tránh khỏi hạn
chế chủ quan, chƣa thật toàn diện về vấn đề nghiên cứu, đặc biệt đây là một
vấn đề khó. Tác giả mong rằng trong tƣơng lai sẽ có sự phát triển và hoàn thiện
thêm ở cấp độ cao hơn, với chất lƣợng tốt hơn, nhằm đáp ứng đƣợc một phần
nào đó về lý luận và thực tiễn khi nghiên cứu về vấn đề chân lý nói riêng và lý
luận nhận thức nói chung hiện nay.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
CÓ LIÊN QUAN TỚI ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Nguyễn Văn Thỏa, C.S.Peirce với quan niệm về chân lý (2012), Tạp chí Triết
học, số 12 (259). Trang: 74 - 83.
2. Nguyễn Văn Thỏa, Quan niệm của John Dewey về chân lý (2013), Tạp chí
Khoa học, Volume 58, Number 6B. Trang: 121 - 128.
3. Nguyễn Văn Thỏa, Quan niệm của William James về chân lý (2014), Tạp chí
Khoa học, Volume 59, Number 6BC, tr.72-tr.78.
4. Nguyễn Văn Thỏa, Phạm trù “niềm tin” trong triết học thực dụng của C.S.
Peirce (2015), Tạp chí Nhân lực Khoa học Xã hội, số 10 (29). Trang: 53 - 60.
5. Nguyễn Văn Thỏa, Tiêu chuẩn chân lý trong triết học thực dụng Mỹ (2015),
Tạp chí Triết học, số 12 (295). Trang: 80 - 86.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TIẾNG VIỆT:
1. Mortimer J. Adler (2004), Những tư tưởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb
Văn hóa thông tin.
2. C.L.Albanse (2012), Các tôn giáo và tín ngưỡng ở Mỹ, Nxb Thời đại, Hà Nội.
3. Vĩnh An (2006), Hỏi đáp triết học, tập 3, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.
4. Nguyễn Ngọc Ba (2004), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến nhân cách
người cán bộ hậu cần quân đội, Luận án tiến sĩ triết học, Học viện Chính trị
Quân sự, Hà Nội.
5. Lƣu Bành (2009), Tôn giáo Mỹ đương đại, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
6. Trịnh Đình Bảy (2003), Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
7. Baubérot J. (2006), Lịch sử đạo Tin lành, Nxb Thế giới.
8. Bellah R. (1990), Văn hóa và tính cách người Mỹ, Nxb Khoa học xã hội và
Viện thông tin khoa học xã hội.
9. Vƣơng Ngọc Bình (2004), Uyliam Giêmxơ, Trung tâm Văn hóa Ngôn ngữ
Đông Tây, Hà Nội.
10. Bochenski (1969), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Ca Dao, Sài Gòn.
11. Bodei R. (2011), Triết học thế kỷ XX, Nxb Thời đại
12. Brinton C., Wolff R.L., Chrisropher J.B. (2004), Văn minh phương Tây, Nxb
Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
13. Brinton C. (2007), Con người và tư tưởng phương Tây, Nxb Từ điển bách
khoa, Hà Nội.
14. Caygill H. (2013), Từ điển triết học Kant, Nxb Tri thức, Hà Nội.
15. Vƣơng Kính Chi (2000), Lược sử nước Mỹ, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
16. Nguyễn Khắc Chƣơng (2004), Vấn đề tiêu chuẩn của chân lý, Luận án Tiến
sĩ Triết học, Viện Triết học - Viện Khoa học Xã hội Việt Nam.
153
17. Cooper D.E. (2005), Các trường phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hóa
thông tin.
18. Cuvillier A. (1962), Các vấn đề triết học, (Nguyễn Hữu Trọng dịch), Viện
Đại học Huế.
19. Descartes R. (1973), Phương pháp luận, Nxb Nam chi tùng thƣ, Sài Gòn.
20. Dewey J. (2008), Dân chủ và giáo dục, Nxb Tri thức, Hà Nội.
21. Dewey J. (2012), Kinh nghiệm và giáo dục, (Phạm Anh Tuấn dịch), Nxb Trẻ
- DT Books.
22. Dewey J. (2014), Cách ta nghĩ, Nxb Tri thức, Hà Nội.
23. Phạm Tất Dong (1997), Vấn đề con người trong triết học thực dụng, Nxb
Khoa học xã hội.
24. Nguyễn Tiến Dũng (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ, Tạp chí Châu Mỹ ngày
nay, số 1.
25. Nguyễn Tiến Dũng (1999), Một số khía cạnh về văn hóa và con người trong
triết học phương Tây hiện đại, Tạp chí Triết học, số 1.
26. Nguyễn Tiến Dũng (2002), Triết học Mỹ với việc thiết lập nền tảng Triết học
cho khoa học, Tạp chí Triết học, số 2.
27. Nguyễn Văn Dũng (1999), William James với quan niệm về đạo đức, Tạp chí
Triết học, số 3.
28. Durant W. (2014), Câu chuyện triết học, Công ty sách Thời đại & Nxb Hồng
đức, Hà Nội.
29. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2003), Lược khảo triết học phương
Tây hiện đại, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
30. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2005), Lịch sử triết học phương Tây
hiện đại, Nxb Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh.
31. Bùi Đăng Duy và Nguyễn Tiến Dũng (2006), Triết học Mỹ, Nxb Tổng hợp
thành phố Hồ Chí Minh.
32. Phan Thị Thùy Dƣơng (2009), Quan niệm của Wiliam James về chân chân
lý, Luận văn Thạc sĩ triết học.
154
33. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Nghị quyết của Bộ Chính trị số 01 -
NQ/TW “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”, ngày 28 tháng 3
năm 1992.
34. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
35. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
36. Trần Thái Đỉnh (2005), Triết học Kant, Nxb Văn hóa thông tin.
37. Trần Thái Đỉnh (2008), Triết học Hiện sinh, Nxb Văn học.
38. Phan Quang Định (2008), Toàn cảnh triết học Âu Mỹ thế kỷ XX, Nxb Văn học.
39. Lƣu Phóng Đồng (1994), Triết học phương Tây hiện đại, tập 2, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
40. Lƣu Phóng Đồng (2004), Giáo trình hướng tới thế kỷ 21: Triết học phương
Tây hiện đại, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội.
41. Lê Minh Đức, Nguyễn Nghị (1994), Lịch sử nước Mỹ, Nxb Văn hóa thông tin.
42. Phạm Văn Đức, Đặng Hữu Toàn, Nguyễn Đình Hòa (2009), Triết học Mác
và thời đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
43. Fich J.P. (2003), Văn minh Hoa Kỳ, Nxb Trẻ, Hà Nội.
44. Foner E. (chủ biên) (2003), Lịch sử nước Mỹ mới, (Diệu Hƣơng dịch), Nxb
Chính trị Quốc gia.
45. Nguyễn Hào Hải (1997), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ qua một số đại biểu của
nó, Tạp chí triết học, số 4.
46. Nguyễn Hào Hải (2001), Một số học thuyết triết học phương Tây hiện đại,
Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.
47. Cao Hằng (2004), Francois Jullien, bàn về hiệu quả, Tạp chí Triết học, số 10.
48. Hegel G.W.F (2010), Các nguyên lý của triết học pháp quyền, Nxb Tri thức,
Hà Nội.
49. Phong Hiền (1972), Chủ nghĩa thực dụng Mỹ và một số biểu hiện của nó,
Thông báo triết học, số 23.
155
50. Trần Thị Hoa (2006), Chủ nghĩa thực dụng của John Dewey, Luận văn thạc
sĩ triết học.
51. Trịnh Sơn Hoan (2008), Vài nét về chủ nghĩa thực dụng Mỹ (Some features
of American pragmatism), Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Đại học Đà
Nẵng, số 5 (28).
52. Trịnh Sơn Hoan (2011), Nước Mỹ và sự hình thành tính cách Mỹ, Tạp chí
Triết học (238/3), tr. 82-88.
53. Trịnh Sơn Hoan (2012), Những đánh giá bước đầu về chủ nghĩa thực dụng
Mỹ, Tạp chí Triết học, số 6 (253).
54. Trịnh Sơn Hoan (2012), Triết học William James và chủ nghĩa thực dụng
Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia.
55. Trịnh Sơn Hoan (2015), Vấn đề nhân sinh trong triết học Mỹ, Luận án tiến sĩ
triết học, Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn Lâm Khoa học Xã hội Việt
Nam, Hà Nội.
56. Nguyễn Hải Hoàng (2015), Vấn đề niềm tin trong triết học thực dụng Peirce,
Luận án tiến sĩ triết học, Trƣờng Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Đại
học Quốc gia Hà Nội.
57. Honderich T. (2006), Hành trình cùng triết học, Nxb Văn hóa thông tin.
58. Đỗ Minh Hợp (1996), Vấn đề tính chủ quan trong triết học phương Tây hiện
đại, Tạp chí Triết học, số 1.
59. Đỗ Minh Hợp (1997), Triết học phương Tây hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
60. Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Hà Nội.
61. Đỗ Minh Hợp - Nguyễn Anh Tuấn - Nguyễn Thanh (2008), Đại cương lịch
sử triết học phương Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, Nxb
Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
62. Đỗ Minh Hợp (2011), Nhập môn triết học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 1, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
156
64. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 2, Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
65. Đỗ Minh Hợp (2014), Lịch sử triết học phương Tây, tập 3, Nxb Chính trị
Quốc gia.
66. Nguyễn Thái Yên Hƣng (2005), Liên bang Mỹ, đặc điểm xã hội - văn hóa,
Viện Văn hóa và Nxb Văn hóa thông tin.
67. Nguyễn Thái Yên Hƣơng - Tạ Minh Tuấn (2011), Các vấn đề nghiên cứu về
Hoa Kỳ, Nxb Giáo dục Việt Nam.
68. Inwood M. (2015), Từ điển triết học Hegel, Nxb Tri thức, Hà Nội.
69. Jenning P., Brewster T. (2010), Nghiên cứu về nước Mỹ, (Nguyễn Kim Dân
dịch), Nxb Thời đại, Hà Nội.
70. Jullien F. (2002), Bàn về tính hiệu quả, Nxb Đà Nẵng.
71. Kant I. (2015), Phê phán lý tính thực hành, Nxb Tri thức, Hà Nội.
72. Lƣơng Văn Kế (2011), Văn hóa Bắc Mỹ trong toàn cầu hóa, Nxb Giáo dục
Việt Nam.
73. Khái quát về lịch sử nước Mỹ (2000), Nxb Chính trị Quốc gia.
74. Gia Khang, Kiến Văn biên dịch (2011), Trí tuệ dân tộc Mỹ, Nxb Thời đại,
Hà Nội.
75. Vũ Khiêu (1986), Triết học tư sản phương Tây hôm nay, Nxb Thông tin lý
luận, Hà Nội.
76. Krishnamurti (2010), Chân lý và thực tại, (Đào Hữu Nghĩa dịch), Công ty
sách Thời đại & Nxb Thời đại, Hà Nội.
77. Lawhead W.F. (2012), Hành trình khám phá thế giới triết học phương Tây,
Nxb Từ điển Bách khoa.
78. Phạm Minh Lăng (1984), Mấy trào lưu triết học phương Tây, Nxb Đại học
và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
79. Phạm Minh Lăng (2001), Những chủ đề cơ bản của triết học phương Tây,
Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.
157
80. Lennkh A., Toinet M.F. (1995), Thực trạng nước Mỹ, Nxb Khoa học xã hội,
Hà Nội.
81. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 18, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
82. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 23, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
83. V.I.Lênin (1981), Toàn tập, tập 29, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
84. Nguyễn Ngọc Long (1998), Triết học phương Tây ngoài mác xít và ảnh hưởng
của nó đến Việt Nam hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
85. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
86. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
87. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
88. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 23, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
89. Bryan Magee (2003), Câu chuyện triết học, Huỳnh Phan Anh - Mai Sơn
(dịch), Nxb Thống kê, Hà Nội.
90. Đặng Thai Mai (1956 - dịch), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Xây dựng,
Hà Nội.
91. Melvil J.K. (1959), Phê phán chủ nghĩa thực dụng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
92. Melvil J.K. (1997), Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, (Đinh
Ngọc Thạch và Phạm Đình Nghiệm dịch), Nxb Giáo dục.
93. Mill J.S. (2005), Bàn về tự do, Nxb Tri thức, Hà Nội.
94. Đặng Nguyên Minh (2007), Triết học thế giới nên biết, tập 2, Nxb Lao động
Xã hội.
95. Lê Tôn Nghiêm (2001), Lịch sử triết học phƣơng Tây, Tập 1, 2, 3, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
96. Hữu Ngọc (1995), Hồ sơ văn hóa Mỹ, Nxb Thế giới.
97. Trần Thảo Nguyên (2006), Triết học kinh tế trong “Lý thuyết về công lý”
của John Rawls, Nxb Thế giới.
98. Văn Sinh Nguyễn (2004), Văn minh phương Đông và phương Tây, Nxb Lao
động Xã hội.
158
99. Trần Sĩ Phán (2012), Ảnh hưởng của chủ nghĩa thực dụng đến lối sống sinh
viên Việt Nam hiện nay, Tạp chí Lý luận chính trị (3), tr. 64-70.
100. Nguyễn Thu Phong (2002), Minh triết trong tư tưởng phương Tây, Nxb
Thành phố Hồ Chí Minh.
101. Trần Tuấn Phong (1996), Về khái niệm “kinh nghiệm” trong hệ thống triết
học William James, Tạp chí Triết học (90/2), tr. 49-52.
102. Robert và cộng sự (1999), Văn hóa và tính cách người Mỹ, Nxb khoa học
xã hội & Viện Thông tin khoa học xã hội.
103. Rius (2006), Nhập môn Marx, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
104. Sahakan W.S. - Sahakan M.L. (2001), Tư tưởng của các triết gia vĩ đại,
Nxb Thành phố Hồ Chí Minh.
105. Mai Sơn biên soạn (2007), 101 triết gia, Nxb Tri thức, Hà Nội.
106. Stumpf S.E. (2004), Lịch sử triết học và các luận đề, Nxb Lao động, Hà Nội.
107. Stumpf S.E., Abel D.C. (2004), Nhập môn triết học phương Tây, Nxb Tổng
hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
108. Vũ Minh Tâm (2012), “Triết lý thiết thực của ngƣời Việt xƣa”, Tạp chí
Triết học (250/3), tr.33-37.
109. Trần Quang Thái (2011), Chủ nghĩa hậu hiện đại các vấn đề nhận thức
luận, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.
110. Phan Văn Thám (2011), Vấn đề kinh nghiệm trong chủ nghĩa thực dụng
Mỹ, Luận văn Thạc sĩ.
111. Võ Minh Thanh (2006), Trích văn triết học, Nxb Văn học.
112. Thomson M. (2004), Triết học tôn giáo (Đỗ Minh Hợp dịch), Nxb Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
113. Thƣ viện Quân đội (1972), Chủ nghĩa thực dụng, Tập 13, Từ điển Bách
khoa Pháp.
114. Nguyễn Tài Thƣ chủ biên (1997), Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo
đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
159
115. Đặng Ngọc Dũng Tiến (2001), Hoa Kỳ phong tục và tập quán, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
116. Tocqueville A.D. (2008), Nền dân trị Mỹ, (Phạm Toàn dịch), Nxb Tri thức,
Hà Nội.
117. Triết học phương Tây hiện đại - Từ điển (1996), (Đỗ Minh Hợp - Đặng Hữu
Toàn dịch), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
118. Đỗ Kiên Trung (2010), Triết học tân thực dụng Neopramatism, Nxb Tri
thức, Hà Nội.
119. Trƣờng Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
(2007), Những vấn đề triết học phương Tây thế kỷ XX, Nxb Đại học Quốc
gia, Hà Nội.
120. Từ điển triết học (Bản dịch tiếng Việt năm 1960), Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va.
121. Nguyễn Văn Út biên soạn (2006), 9 bản tuyên ngôn nổi tiếng thế giới, Nxb
Văn hóa thông tin, Hà Nội.
122. Nguyễn Ƣớc (2009), Đại cương triết học tây phương, Nxb Tri thức, Hà Nội.
123. Nguyễn Ƣớc (2009), Các chủ đề triết học, Nxb Tri thức, Hà Nội.
124. Văn hóa và tính cách người Mỹ (1990), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
125. Tuệ Văn (1994), Lịch sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
126. Tuệ Văn (2005), Tài liệu tham khảo triết học phương Tây, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
127. Triệu Vân (1946), Quan niệm mác xít về chân lý, Nxb Đại Đồng, Đà Nẵng.
128. Viện Mác - Lênin, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học (1982), Triết học và
cuộc đấu tranh ý thức hệ, Nxb Thông tin lý luận, Hà Nội.
129. Hoàng Xuân Việt (2004), Lược sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp
Thành phố Hồ Chí Minh.
130. Wall J. (2006), Lược sử triết học phương Tây, Nxb Tổng hợp Thành phố
Hồ Chí Minh.
160
131. Weber M. (2010), Nền đạo đức Tin lành và tinh thần chủ nghĩa tư bản, Nxb
Tri thức, Hà Nội.
132. Zinn H. (2010), Lịch sử dân tộc Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
TIẾNG ANH:
133. James W. (1914), The meaning of truth a sequel to “Paragmatis”
H.O.Houghton & co Cambridge, Mass, press, New York.
134. Konvitz M.R., Kennedy G. (1960), The Amercan Pragmatists, The
Publishing Company perss, New York.
135. Peirce C.S. (1931 - 1960), Collected Papers of Charles Sanders Peirce,
Volume I - VIII, Harvard University Press.
136. Peirce C.S. (1958), Values in a Univers of Chance, New York.
137. Peirce C.S. (1997), Pragmaitsm as a Principle and Method of Right
Thinking, Published State University of New York press.
138. Thayer H.S. (1968), Meaning and Action A Critical History of Pragmatism,
The Bobbs - Merrill Company press, New York .
139. Thayer H.S. (1982), Pragmatism the classic writing, Hackett Publishing
Company press, New York.
140. White M. (1978), The Philosophy of the American Revolution, Oxford
University press, New York.

