Bản luận cứ bào chữa vụ án “Đòi
nợ” do việc mua bán nhà
Tôi là Luật sư ................., thuộc Đoàn Luật sư TP. HCM, được sự yêu cầu
của Nguyên đơn dân sự là Bà E, Việt kiều Mỹ và được sự chấp nhận cho
phép của Quí Toà, tôi được thực hiện việc bào chữa để bảo vệ quyền lợi của
thân ch tôi trong vụ “Đòi nợ” bị kháng cáo bi b đơn dân sự S, tại phiên toà
phúc thẩm hôm nay.
CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – T do – Hnh phúc
—–oOo—
Tp. Hồ Chí Minh, ngày .... tháng .... năm 20......
BẢN LUẬN CỨ
Kính thưa Quí Toà Phúc Thẩm,
Tôi Luật XXXX, thuộc Đoàn Luật TP. HCM, được syêu cầu của
Nguyên đơn dân sự là Bà E, Việt kiều M và được sự chấp nhận cho phép của
Quí Toà, tôi được thực hiện việc bào chữa để bảo vquyền lợi của thân chủ
tôi trong v“Đòi n bkháng cáo bi bị đơn dân sS, tại phiên tphúc
thẩm hôm nay.
Được phép Quí Toà, tôi xin được trình bày các ni dung v việc như sau :
VẤN ĐỀ THỨ NHẤT: Vnội dung kháng cáo của bị đơn dân sự, tôi cho là
chưa đ cơ sở pháp lý, vì các lý lẽ sau:
1) Toà cấp Sơ thẩm đã tiến hành quá trình thủ tục mời hoà giải theo đúng qui
định tại Điều 200 Bộ luật tố tụng dân sự (hai lần triệu tập hoà giải tại bút lục
42, 49 và bút lục 55; bốn lần phối hợp niêm yết giấy triệu b đơn ti UBND
phường H tại các bút lục 50, 54, 60 và 64, lp Biên bản hoà giải bất thành do
bđơn dân sự vắng mặt không do 2 lần tại các bút lục 53 và 56; quyết
định hoãn phiên Toà 1 lần tại bút lục 63 ngày 05/05/2005 theo giấy triệu tập
lần thứ Bị đơn vắng mặt (tại bút lục số 3), trước khi đưa ra xét xữ
chính thức vào sáng ngày 24/05/2005 với sự có mặt của b đơn dân sự).
2) Do bđơn dân sự coi thường luật pháp, ctình tránh tiếp nhận giấy
triệu tập của Toà, kcả lần mặt tại nhà nhưng do khinh nhờn giấy triệu
tập bằng thái độ từ chối không chịu ký nhận. Chứng cứ và nhân chứng cụ thể
được thể hiện tại các bút lục sau:
Tại bút lục số 43: (theo yêu cu xác nhn của Toà án, Công an phường H) đã
xác nhận: “đương sS hiện còn cư trú tại địa phương (hộ KT3) vào ngày
03/03/2005 tức là mặt tại địa ch trú trước các thời điểm Toà phát Giấy
triệu tập, nhưng đã c tình né tránh để khỏi nhận Giấy triệu tập ca Toà.
Tại bút lục số 1 (khi giấy triệu tập lần 2 vào ngày 08/3/2005: UBND
phường H xác nhận cử cán b tên H trực tiếp đến nhà giao giấy triệu
nhưng bị đơn tuy mặt tại nhà nhưng không chịu ký nhận, nên UBND
phường đã xác nhận: “đương s có mặt ti địa phương nhưng không ký
nhận”.
Như vậy, quá trình tiến hành thủ tục mời hoà giải trước khi chính thức xét xữ
đã được Toà cấp Sơ thẩm tiến hành là hoàn toàn chặt chẽ, đúng qui định luật
ttụng dân sự các chứng cứ là ràng cthể về sự né tránh, ctình t
chối tiếp nhận “Giấy triệu tập” của Bị đơn. Lại nữa, bị đơn dân sự không thể
viện lý do không biết Bà E khởi kiện vviệc gì, đã nhiều lần E đòi n,
đòi nđối với Ông S và đã làm đơn kiện Ông S tại UBND phường 20 Quận
Tcăn nhà khoản nnày o ngày 13/11/2003. ta cũng đã điện thoại
nhiều lần thông báo rõ là sđưa Ông ra Toà. Mặt khác, bị đơn dân svào
gicuối cũng mặt tại phiên Toà thẩm, cho nên vic bị đơn nêu lý do
không biết Bà E kiện cáo việc gì không sở thc tế và hoàn toàn
không đúng. v
Tcác sở pháp và thực tế đã nêu, đối chiếu với Điều 200 khoản 2 Bộ
Luật Tố tụng n s qui định: “Bđơn đã đưc triệu tập hợp lệ đến lần
th2 mà vẫn vắng mặt thì Toà án vn tiến hành xét xvắng mặt họ”. Chưa
nói là đây Toà Sơ Thẩm đã xét xữ với sự có mặt của bị đơn.
ràng việc kháng cáo của Bị đơn dân slà không sở pháp và thực
tiễn.
VẤN ĐỀ THỨ HAI : v nội dung vụ kin “Đòi nợ”, theo strình bày của
thân chtôi và người đại diện tại phiên Toà thẩm cũng như tại phiên Toà
Phúc thẩm hôm nay có thể tóm tắt như sau:
Nguyên vào đầu năm 1999, do ước vọng và ý định trở về định tại Việt
Nam đlàm ăn dưỡng già, nên thân chủ tôi là E muốn mua nhà đch
ăn ở ổn định về sau. Song vào thời điểm này Nhà nước ta chưa có chủ trương
cho Việt Kiều mua nhà. Chính lý do đó, thân chủi đã có nhmột người
quen biết, tin cậy là nghệ sĩ cải lương đàn em (vì Bà E cũng vốn là nghệ sĩ cải
lương ttrước khi xuất cảnh) là Ông S đứng tên để hợp thức hoá việc mua
căn nhà s—/ Hương lộ , Phường , Quận T (nay là —/ Bis LuBán
Bích, Phường H, Quận T, Tp. HCM). Và do thấy gia đình Ông S nghèo, thiếu
nhà ở, còn hộ tập thcủa Đoàn Cải lương S, nên thân chủ tôi đã kết hợp
một công hai chuyện, vừa đng ý để vợ chng Ông S mượn nhà ở, vừa trông
coi dùm nhà cửa cho thân chủ tôi. Nhưng để đảm bảo ssòng phẳng, tránh
rủi ro tranh chấp về sau, nên thân ch tôi (Bà E) đã giữ toàn bgiấy tpháp
lý về căn nhà (dù đứng tên Ông S) và bản sao giấy mượn nợ ca Ông S (vì do
Ông S ch viết tay có một bản).
Cho đến khi Nghđịnh 81/2001/NĐ-CP của Chính Phủ ngày 05/11/2001
về việc “Ngưi VN định cư ở nưc ngoài mua nhà ở tại VN”, mà đặc biệt khi
Luật Đất đai mới năm 2003 qui định chính thức các loại đối tượng Vit
Kiều được mua nhà (mà trường hợp thân chủ tôi cũng là đối tượng được phép
theo qui định Điều 121, khoản 1, điểm d v người nhu cầu về sống ổn
định tại VN”,n thân chtôi đã trc tiếp đặt vấn đnhiều lần với ông S để
được lấy lại n nhà đã cho n . Nhưng Ông S đã tchối trả nhà và tìm
mọi cách tránh với ý đ, mà theo thân ch tôi đánh giá, là muốn chiếm
đoạt căn nhà này. Thân chi, Bà E, cũng có đơn kiện tại UBND phường 20
Quận T vào ngày13/11/2003 như đã nói phần trên, nhưng do quận T đang
trong thời kỳ tách Qun T do không đủ chức năng thẩm quyền nên chưa
giải quyết.
Cơ sở thực tế và pháp lý chng minh sự thật trên gồm:
1) Biên nhn mượn 40 lượng vàng SJC do chính Ông S viết tay ngày
04/01/1999 mà chính bị đơn S đã xác nhận nguyên văn tại phiên Toà sơ thẩm
theo bút lục 68 là: “Dạ có, tôi có làm giấy mượn nợ tiền của Bà E” “Bà E
nói tôi viết giấy nợ làm tin cho Bà E, chữ viết trong đó là tôi tự viết ra”.