
LUẬN VĂN:
Giải pháp nâng cao chất lượng tín
dụng tại Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa

Lời nói đầu
Những năm qua, nền kinh tế nước ta đã và đang chuyển đầu tư cơ chế kế hoạch
hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự điều tiết và quản lý của Nhà nước, việc chuyển
đổi cơ chế mang tính tất yếu cho sự phát triển kinh tế của một quốc gia như Việt Nam.
ở Việt Nam trong bước chuyển đổi sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước thực hiện nhất quán kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN và theo luật
pháp của Nhà nước. Từ đó nền kinh tế thị trướng phát triển tất yếu sẽ tạo ra những tiền đề
cần thiết và đòi hỏi sự ra đời của nhiều loại ngân hàng như: Ngân hàng Nhà nước, Ngân
hàng thương mại quốc doanh bao gồm: Ngân hàng công thương, Ngân hàng đầu tư và
phát triển của các ngân hàng liên doanh, Ngân hàng cổ phần ... cho nên cần tăng cường
quản lý, hướng dẫn hoạt động của các Ngân hàng, tạo thuận lợi cho sự phát triển nền kinh
tế.
Hoạt động Ngân hàng là một trong những mắt xích quan trọng cấu thành sự vận
động nhịp nhàng của nền kinh tế. Cùng với sự chuyển đổi cơ cấu kinh tế của đất nước,
hệ thống ngân hàng cũng có những bước chuyển mình cho phù hợp với điều kiện và hoàn
cảnh kinh tế mới. Cụ thể là từ hệ thống Ngân hàng ba cấp chuyển thành hệ thống Ngân
hàng hai cấp, từ sau khi có hai pháp lệnh Ngân hàng (5/1990) tách bạch chức năng: Ngân
hàng Nhà nước có chức năng quản lý Nhà nước đối với hệ thống Ngân hàng, chức năng
kinh doanh tiền tệ và dịch vụ Ngân hàng thuộc về Ngân hàng Thương mại và tổ chức tín
dụng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi cấp tín dụng, cung ứng và dịch vụ
thanh toán.
Sau hơn 10 năm đổi mới Ngân hàng đã đưa lại nhiều thành quả. Đóng góp tích cực
vào thành tựu chung đưa đất nước thoát ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, chấm dứt
việc phát hành tiền để bù đắp thâm hụt cho Ngân sách. Đặc biệt là Việt Nam đã thành
công trong việc đẩy lùi lạm phát, ổn định giá cả. Hoạt động Ngân hàng đã góp phần tích
cực trong việc huy động vốn trong và ngoài nước đảm bảo cho tăng trưởng kinh tế với
mức độ cao. Tuy nhiên hiện nay lĩnh vực Ngân hàng đã bộc lộ những yếu kém mà dư
luận xã hội đang quan tâm về những tiềm ẩn và nguy cơ không lành mạnh. Đặc biệt là
chất lượng tín dụng chưa cao đang đòi hỏi tìm kiếm những giải pháp tháo gỡ có hiệu
quả.

Qua thời gian học tại trường và thời gian thực tế tại Ngân hàng Công thương khu
vực Đống Đa, cùng với việc nhận thức sự cần thiết phải nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng Ngân hàng trong giai đoạn hiện nay, với sự chỉ dẫn và chỉ bảo tận tình của giáo
viên hướng dẫn và cán bộ hướng dẫn thực tập Ngân hàng Công thương Đống Đa. Từ
thực tiễn trên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động
tín dụng tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa. làm khoá luận tốt nghiệp của
mình.
Đề tài: “Giải pháp nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng Công thương
khu vực Đống Đa. là một lĩnh vực nghiên cứu phức tạp. Song trong quá trình tìm hiểu
thực tế tại Ngân hàng Công thương khu vực Đống Đa tôi đã đi vào nghiên cứu một số
vấn đề sau đây:
Kết cấu chuyên đề gồm ba chương:
Chương I: Ngân hàng thương mại và chất lượng của ngần hàng thương mại.
Chương II: Thực trạng hoạt động kinh doanh và chất lượng tín dụng tại ngân hàng
công thương đống đa.
Chương III: Những giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại ngân hàng
công thương đống đa.

Chương I
ngân hàng thương mại và chất lượng tín dụng của ngân hàng thương mại
I/ Những hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại:
1- Khái quát về Ngân hàng Thương mại:
Ngân hàng Thương mại trước hết là một doanh nghiệp,vì Ngân hàng thương mại
hoạt giống như các doanh nghiệp khác: có vốn riêng, mua vào, bán ra,có chi phí và thu
nhập, có nghĩa vụ nộp thuế cho Ngân hàng Nhà nước, có thể lãi hoặc lỗ, có thể giầu nên
hoặc phá sản.
Ngân hàng Thương mại kinh doanh dịch vụ tiền tệ, không trực tiếp sản xuất ra của
cải vật chất như các doanh nghiệp thuộc lĩnh vực sản xuất kinh doanh nhưng tạo điều
kiện thuận lợi cho qúa trình sản xuất , lưu thông và phân phối sản phẩm xã hội bằng cách
cung ứng vốn tín dụng, vốn đầu tư cho các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế mở rộng kinh
doanh góp phần tăng nhanh tốc độ phát triển kinh tế.
Nói tóm lại Ngân hàng Thương mại là tổ chức kinh doanh tiền tệ mà hoạt động
thường xuyên và chủ yếu là nhận tiền gửi của khách hàng với trách nhiệm hoàn trả và sử
dụng số tiền gửi đó để cho vay đầu tư thực hiện nghiệp vụ triết khấu và làm các phương
tiện thanh toán.
Ngân hàng Thương mại có hoạt động gần gũi nhất với nhân dân về nền kinh tế
càng phát triển cao, hoạt động của Ngân hàng Thương mại càng đi sâu vào đời sống kinh
tế của đất nước.
Hoạt động của Ngân hàng Thương mại mang tính cạnh tranh cao độ. Trong nền
kinh tế thị trường, cạnh tranh là quy luật hoạt động tự nhiên, không lệ thuộc vào nhuận
thực hoặc chọn lựa chủ quan của con người. Mục tiêu của kinh doanh, là tối đa hoá lợi
nhuận, an toàn trong kinh doanh không ngừng gia tăng doanh thu. Nên cạnh tranh không
ngừng xảy ra nên thị trường đây chính là chìa khoá của mỗi doanh nghiệp để đạt được
tham vọng trong thương trường và cạnh trạnh là điểu không tránh khỏi. Ngân hàng
Thương mại ra đời trên cơ sở sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển và nền kinh tế
ngày càng cần đến hoạt động của Ngân hàng Thương mại với các chức năng , vai trò của
mình nhất là chức năng trung gian tín dụng.Ngân hàng Thương mại đã trở thành bộ phận
thúc đẩy nền kinh tế phát triển.

Trong sự vận hành của nền kinh tế thị trường, Ngân hàng Thương mại hoạt động
một cách có hiệu quả thông qua các nghiệp vụ kinh doanh của mình sẽ thực sự là một
công cụ để Nhà nước điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Bằng hoạt động tín dụng Ngân hàng
Thương mại đã góp phần mở rộng khối lượng tiền cung ứng trong lưu thông . Tiền tệ là
kết của quá trình phát sinh lâu dài của sản xuất hàng hoá. Nó ra đời nhằm đáp ứng yêu
cầu của việc mở rộng giao lưu kinh tế, mở rộng thị trường làm cho kinh tế hàng hoá phát
triển của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Trong quá trình đó đã phát triển yêu
cầu vay mượn vốn lẫn nhau giữa các thương gia nhằm đáp ứng cho sản xuất và lưu thông
hàng hoá. Vốn được chuyển từ người thừa vốn sang người thiếu vốn và phải có một Ngân
hàng đứng ra làm trung gian để cho người thừa vốn và người thiếu vốn gặp nhau. Thông
qua hoạt động tín dụng là chiếc“cầu nối” đưa họ đến với nhau, dần dần thiết lập nên mối
quan hệ mật thiết với nhau đó là quan hệ vay mượn. Ngân hàng Thương mại là một
doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ hoạt động trên cơ sở “đi vay” để “cho vay”. Đây là hình
thức sơ khai của tín dụng. Chính trên cơ sở của sự phát triển đó Ngân hàng cũng đồng
thời xuất hiện, trong cuốn Tư Bản (Tập III, phần II) Các Mác đã viết “Một mặt Ngân
hàng là sự tập trung tư bản tiền tệ của những người có tiền cho vay, mặt khách nó là sự
tập trung của những người đi vay”.
Như vậy, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng từ buổi sơ khai bắt đầu từ hoạt
động tín dụng và cho đến nay vẫn bằng con đường đó.
Trong qúa trình hoạt động của Ngân hàng Thương mại đáp ứng nhu cầu của thị
trường dẫn tới sự phân chia và hình thành nên hệ thống Ngân hàng hai cấp: Ngân hàng
Trung ương làm nhiệm vụ quản lý vĩ mô hoạt động Ngân hàng và các Ngân hàng
Thương mại làm nhiệm vụ kinh doanh tiền tệ - tín dụng. Như vậy hoạt động của Ngân
hàng Thương mại rất đa dạng phong phú và có phạm vi rộng lớn ở quy mô, tính toàn cầu,
tính hiện đại trong công nghệ Ngân hàng.

