TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HC XÃ HI & NV
B MÔN NG VĂN
TRN TH TRÚC GIANG
MSSV: 6095847
HÀNH ĐNG NGÔN T BÀY T TRONG CA DAO
NAM B
Lun văn tt nghip đi hc
Ngành Ng Văn
Cán b hưng dn: ThS.GV. NGUYN TH THU THY
Cn Thơ, năm 2013
TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẦN THƠ
KHOA KHOA HỌC XÃ HỘI & NV
BỘ MÔN NGỮ N
TRẦN THỊ TRÚC GIANG
MSSV: 6095847
HÀNH ĐỘNG NGÔN TỪ BÀY TỎ TRONG CA DAO
NAM BỘ
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn
Cán b hướng dn: ThS.GV. NGUYỄN THỊ THU THỦY
Cần Thơ, năm 2013
2
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Việt Nam, ngdụng học là một chuyên ngành mới_nghn cứu ngôn ng
trong hoạt động, trong quan hệ với ngữ cảnh. Trong những m gần đây, đã
nhiều công trình nghiên cứu các hành động ngôn từ chuyên bit như cầu khiến, cam
kết,...riêng hành động nn từ y t tchưa được nghiên cứu nhiều chuyên
sâu.
Nam Blà một vùng đất mới, chỉ tồn tại khoảng mấy trăm năm nay, n u
bên trong vùng đất y còn biết bao mật đầy t vị đang chđợi chúng ta khám
phá. Ca dao Nam Bộ với những đặc trưng vốn , nó đã trở thành một đề tài muôn
thưở cho những ai yêu quý và cảm mến vùng đất này.
Ca dao Nam Bộ vốn kho tàng văn hóa quý giá của dân tộc Việt Nam nói
chung, người dân Nam Bi riêng. kết tinh tinh hoa sáng tạo tinh thần của
nhân dân lao động, tấm gương phản chiếu i trường thiên nhiên, đời sống
tưởng – tâm hồn của con người Nam Bộ. Thật vô cùng ý nhị, tinh tế bởi ca dao diễn
tả được mọi tình ý tinh vi, sâu xa, mọi cung bậc tình cảm. Tiếng lòng của người
trong cuộc của yêu thương được thể hiện qua ca dao rất sinh động, khi êm ái, nhẹ
nhàng, say đắm; khi trúc trắc, nghẹn ngào, oán tch. vậy, tìm hiểu ca dao Nam
Bộ là ta đã chạm đến những góc khuất trong tâm hồn người dân miền sông nước
y.
Ca dao Nam Bộ là một đề tài không mới đối với ngành nghiên cứu văn học
dân gian Việt Nam nhưng cũng không đối với ngành ngữ dụng học. Công trình
nghn cứu ca dao Nam Bdưới góc độ văn học, văn hóa thì rất nhiều, chẳng hạn
Biểu trưng trong ca dao Nam B của Trần Văn Nam, Cách xưng hô trong ca dao
trữ tình Đồng bằng sông Cửu Long của Nguyễn Văn Nở,... Trong khi đó, ng
trình nghiên cứu ca dao ở góc nhìn ngôn ngữ học, đặc biệt ngữ dụng học thì rất ít.
Từ những do trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề “Hành động ngôn từ
bày t trong ca dao Nam Bộ” làm đề tài cho luận văn của mình.
3
2. Lịch s vấn đề
Liên quan đến đề tài, nhiều công trình nghiên cứu v thuyết cũng n
ứng dụng.
Trước hết, ta không thể không nhắc đến công trình How to do things with
words (1962) của J. L. Austin, một nhà triết học ngôn từ Anh, đã đi sâuo nghiên
cứu một cách có hthống về bình diện ng dụng. Trong quá trình nghiên cứu, ông
nhận thấy rằng có những phát ngôn không thể đánh giá đúng sai theo tiêu chuẩn
logic khi phát ngôn, chúng không nhằm mục đích trình y, miêu thay thông
báo v một sự vật, hiện tượng, sự kiện trong hiện thực mà nhằm thực hiện mt nh
động nào đó biểu thị ngay trong phát ngôn. Đặc biệt, trên cơ sở phân biệt phát ngôn
ngôn nh phát ngôn khảo nghiệm, Austin đã m ra được bản chất nh động
của ngôn từ. Từ đó, ông đã xây dựng nên “Lí thuyết nh động nn từ một
thuyết được xem là xương sống cho ngữ dụng học.
Tiếp c Austin J. R. Searle với Speech acts (1969). Trong công trình
nghn cứu của mình, một mặt Searle tiếp tục phát triển lí thuyết hành động ngôn t
Austin đề ra nhưng mặt khác, tác giả chỉ ra những hạn chế, sai lầm Austin
mắc phải, từ đó, điều chỉnh lại b sung tm những phát hiện mới. C thể,
Searle cho rằng việc phân loại các nh động ngôn từ của Austin kng ổn
xảy ra hiện tượng chồng chéo, giẫm đạp lên nhau, nguyên nhân chính do Austin
đã không đưa ra các tiêu c phân loại. Trên cơ sở đó, ông đưa ra cách phân loại
khác Austin (các nhóm hành động: representatives: biểu hiện, directives: cầu khiến,
commissives: hứa hẹn, expressives: bày tỏ, declarations: tuyên bố dch theo Đỗ
Hữu Châu)
Việt Nam, ngữ dụng học dụng học Việt ngữ được quan tâm nghiên
cứu từ những m 80 của thế kỉ XX:
Bằng phương pháp nghiên cứu ng nghĩa của lời trong ngôn từ tự nhiên,
công trình nghiên cứu Logic ngôn ngữ học (1989) của Hoàng Phê, đã trình bày một
cách khái quát cấu trúc logic ngnghĩa của lời bao gồm tiền giả định, hiển ngôn
m ngôn. Đặc biệt trong quá trình nghiên cứu, Hoàng Pcho rằng: “từ u
sang lời, cấu trúc logic ngữ nghĩa thể thay đổi, nội dung ngnghĩa thể
đưc btlại, giữa các tầng cũng như trong nội bộ mỗi tầng thưng phát
4
triển, trở n phong phú hơn, do tác động của ngôn cảnh để thực hiện chức
năng của lời nói”(126). Phát hiện trên, như tiền đề cho các công trình nghiên
cứu ngôn từ ở bình diện ngữ dụng học sau này.
Tiếng Vit – Sơ thảo ngữ pháp chức năng (1991) của Cao Xuân Ho, đã cho
ta cái nhìn mới về cấu trúc câu trong văn bản và phân loại câu theo lực ngôn trung
nghĩa biểu hiện. Qua việc tìm hiểu phân tích câu ngôn hành vận dụng vị từ
ngôn hành thì tác giả đã hiển nhn đặt chân vào lĩnh địa mới – “ngữ dụng học”.
Công trình nghiên cứu với nhan đề Ngữ dụng học (1998) của Nguyễn Đức
Dân, tác giả đã nêu lên được những vấn đềbản của hành động ngôn từ như phân
loại hành động ngôn từ theo sự phân loại của Austin Searle, điều kiện dùng của
các hành động ngôn từ, biểu thức ngôn nh, động từ ngôn nh, dấu hiệu biểu
thức ngôn hành, hành động ngôn từ trực tiếp gián tiếp.
Tiếp theo là Đỗ Hữu Châu với Đại cương ngôn nghọc - tập 2 - Ngữ dụng
học (2001). Đây được xem công trình tiêu biểu trong việc nghn cứu ngữ dụng
học ở Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, Đỗ Hữu Cu đã trình bày hành động
ngôn từ một cách có hệ thống, đầy đủ và chi tiết hơn dựa trên ngữ liệu là tiếng Việt.
Bên cạnh đó, tác giả n đưa ra cách phân biệt hành động ngôn từ với biểu thức
ngôn nh, phát ngôn ngôn hành nêu một sdấu hiệu ngữ dụng đánh dấu hành
động lời. Tất cđều sban đầu cho thuyết về hành động ngôn từ. Tm
nữa, Đỗ Hữu Châu còn đưa ra những vn đề hiện nay xoay quanhc hành động
lời như : sốợng, phân loại, mối quan hệ giữa động từ ngôn hành với hành động ở
lời hay ranh giới giữa các hành động lời,...Đó những gợi mở cho nhiều n
nghn cứu Việt ngữ học sau y. Ngoài ng trình của Đ Hữu Châu, còn các
công trình khác ng rất đáng được quan tâm như :
Dụng học Việt ng (2000) của Nguyễn Thiện Giáp Ngữ dụng học của Đỗ
Việt Hùng (2011) đã hệ thống hóa một cách ngắn gọn, súc tích các vấn đề lớn về lí
thuyết ngữ dụng hc dựa trên công trình của Đỗ Hữu Châu.
Kể tđó đến nay, rất nhiều công trình nghiên cứu ng dụng học ứng
dụng:
Trong đó có thể nhắc đến bài viết Các chức năng ngdụng của lời cảm ơn
trong tiếng Việt (tạp cNgôn từ đời sống, số 7, 2012) của Nguyễn Thị Mến.
5
Tác giả đã khảo sát các chức năng ngữ dụng của lời cảm ơn trong tiếng Việt. Từ
đó, bài viết góp phần nâng cao hiệu quả vào việc dạy và học cách nói cảm ơn trong
tiếng Việt với cácm ý sử dụng khác nhau trong các tình huống và ngữ cảnh kc
nhau.
Tiếp theo là c bài viết:
Hành vi khen trong hi thoại dạy học (tạp chí Ngôn từ, số 10, 2011) của
Nguyễn Thị Hồng Ngân.
Vnh vi tchối trực tiếp trong tiếng Việt (Ngữ học trẻ 2004: Diễn đàn
học tp và nghiên cứu) của Trần Chi Mai.
Động từ ngôn hành cầu khiến trong văn bản hành chính, Tạp chí ngôn ngữ,
số 10, 2010 của Vũ Ngọc Hoa.
V ca dao Việt Nam, những bài viết nghiên cứu góc độ ngôn ngữ, đặc biệt
ngữ dụng học còn rất hạn chế. Vài bài viết giá trị sau:
Hoàng Xuân Loan có i Hành vi cầu khiến gián tiếp trong ca dao về tình
yêu đôi lứa (tạp chí Ngôn từ đời sống, số 9, 2011). i viết đã cho người đọc
một cái nhìn khá toàn diện, khách quan về cách sử dụng hành động cầu khiến gián
tiếp trong tình yêu đôi lứa của con người Việt Nam.
Qua Khảo sát các phát ngôn có động từ ngữ vi tiếc, trách, ước, khuyên trong
ca dao dân ca Việt Nam (Ng học trẻ 2003: Diễn đàn học tập nghiên cứu)
cùng với Bài ca dao Tát nước đầu đình từ góc nhìn ngữ dụng học (tạp chí Ngôn từ
đời sống, số 7, 2004), Đỗ Thị Kim Liên đã vận dụng những lí thuyết bản của
ngữ dụng học, cụ thhơn, thuyết hành động ngôn từ thuyết chiếu vật vào
những i ca dao Việt Nam để tìm hiểu và phân tích cái hay của từ góc độ tiếp
cận văn bản.
Bài viết Đọc lại hai bài ca dao dưới góc nhìn ngdụng học của Bùi Trọng
Ngoãn đưc đăng trên tạp chí Khoa học Công nghệ, Đại học Đà nẵng, số 5,
2009 đã vận dụng thuyết ngữ dụng học, cụ thể hơn, thuyết hội thoại đphân
tích, đánh giá ý nghĩa ngôn từ văn bản, nội dung hìnhng, tâm tình của các nhân
vật giao tiếp trong hai bài ca dao Đêm trăng thanh anh mới hỏi nàng...”
Trèo lên cây bưởi hái hoa...”