BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HỒ CHÍ MINH

TRẦN HOÀNG HÙNG

CON NGƯỜI TRONG THƠ THIỀN

LÝ - TRẦN DƯỚI GÓC NHÌN

THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN

TP.HỒ CHÍ MINH - NĂM 2005

MỤC LỤC

MỤC LỤC ................................................................................................................. 3

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 5

1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI: ................................................................. 5

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ. .................................................................................................... 6

3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: ............................................................................. 9

4.ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN: ......................................................................... 9

5. KẾT CẤU LUẬN VĂN: ............................................................................................. 9

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI LÝ TRẦN ................ 11

1.1.Bối cảnh lịch sử văn hóa thời Lý - Trần: .............................................................. 11

1.2.Khái lược về Phật giáo và Thiền tông thời Lý - Trần: ......................................... 20

1.3.Vài nét về mối quan hệ giữa thơ và thiền: ............................................................ 26

CHƯƠNG 2: CON NGƯỜI TRONG THƠ THIÊN LÝ – TRẦN DƯỚI GÓC

NHÌN THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI .....................................................................34

2.1.Con người thật không địa vị trong thơ thiền Lý-Trần.......................................... 34

2.2.Con người trí tuệ: ................................................................................................... 50

2.3.Con người tự tại: .................................................................................................... 61

2.4.Con người vô ngã vị tha: ....................................................................................... 76

CHƯƠNG 3: KHÔNG GIAN, THỜI GIAN VÀ NGÔN NGỮ NGHỆ THUẬT

TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN ......................................................................88

3.1.Không gian nghệ thuật: ......................................................................................... 88

3.2.Thời gian nghệ thuật .............................................................................................. 96

3.3.Ngôn ngữ nghệ thuật ........................................................................................... 106

KẾT LUẬN ........................................................................................................... 118

TÀI LIỆU THAM KHẢO ...................................................................................124

I/TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT ................................................................ 124

II/TÀI LIỆU TIẾNG ANH ........................................................................................ 130

III/TÀI LIỆU TIẾNG HOA ....................................................................................... 131

MỞ ĐẦU

1. LÝ DO VÀ MỤC ĐÍCH CHỌN ĐỀ TÀI:

Văn hoa là động lực để phát triển xã hội, mà văn học chính là xương sống của văn

hoa. Văn học Phật giáo nói chung, thơ thiền nói riêng là một bộ phận quan trọng của văn

học Lý - Trần, là di sản văn hoa quí báu của một thời đại đáng tự hào của dân tộc Việt

Nam. Củng cố văn hoa truyền thống, kế thừa tiếp thu những thành tựu của văn hoa nhân

loại làm phong phú thêm cho nền văn hoá nước nhà là việc làm vô cùng bức thiết.

Thời đại Lý -Trần là thời kỳ vàng son nhất của lịch sử Việt Nam với những thành

tựu rực rỡ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội như kinh tế, quân sự, chính trị, văn

hoa, nghệ thuật... Nhưng độc đáo và kỳ đặc nhất là tinh thần hào hùng, trong sáng của

những con người với phong cách siêu việt, vừa tự tin, hào hùng, phóng khoáng, vừa trong

sáng, tinh khiết, thuần lương khó gặp ở những thời đại khác. Cái gì đã tạo ra được những

con người như vậy ?

Văn học là nhân học, văn học làm nên con người.Con người vừa là đối tượng chủ

yếu, vừa là mục đích cứu cánh của văn học. Quan niệm nghệ thuật về con người là một

phạm ưù rất quan trọng của thi pháp học, là trung tâm của quan niệm thẩm mỹ của nghệ

sĩ. Nó hướng chúng ta đến đối tượng chủ yếu của văn học. Không thể lý giải một hệ

thống thơ mà bỏ qua con người thể hiện trong đó.

Hiện nay thơ thiền đang được giảng dạy ở các trường phổ thông, đại học và sau đại

học. Tìm hiểu, nghiên cứu sâu hơn về thơ thiền nói chung, con người ương thơ thiền nói

riêng là việc làm cần thiết.

Hơn nữa,người viết vốn thân ở cửa thiền nhiều năm, đã có cơ hội tiếp xúc với thiền

học, Hán học, đã rất yêu thích và thuộc lòng nhiều bài thơ thiền từ lúc còn rất nhỏ. Nhưng

thơ thiền rất kỳ lạ, càng đọc càng thấy hấp dẫn đến kỳ lạ, càng phát hiện ra những vấn đề

mới.

"Ôn cố nhi tri tân" góp phân nhỏ trong việc vén bức màn bí mật về những bức thông

điệp của ông cha ta muốn nhắc lại cho hậu duệ, nên người viết chọn đề tài này.

2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ.

Thơ thiền Việt Nam là một hiện tượng văn học độc đáo, là một bông hoa kỳ lạ của

vườn thơ. Văn học Phật giáo nói chung, thơ thiền nói riêng là một trong những nhánh

chính khơi nguồn cho dòng văn học viết Việt Nam chảy mãi đến hôm nay. Nó xuất hiện

vào thế kỷ thứ X, đến nay đã có lịch sử hơn một ngàn năm và đã đạt được những thành

tựu đáng kể. Đinh Gia Khánh nhận định : "Văn học thời Lý mở đầu cho những truyền

thống lớn của dòng văn học viết..., văn học thiền tông có vị trí nhất định. Thơ thiền gắn

bó với đời sống dân tộc."

Việc sưu tầm, dịch thuật, giới thiệu, và nghiên cứu thơ thiền được các nhà nghiên

cứu Việt Nam chú ý từ thế kỷ XV.Những công trình đầu tiên cày xới mảnh đất bí ẩn này

phải kể đến "Việt Nam văn học sử yếu" (1941) của Dương Quảng Hàm, "Việt Nam cổ

văn học sử" (1942) của Nguyễn Đổng Chi, "Văn học đời Lý" và "Văn học đời Trần"

(1942) của Ngô Tất Tố, "Cuộc tiến hoá văn học Việt Nam" (1943) của Kiều Thanh Quế,

"Văn học cổ Việt Nam" (1960)của Đinh Gia Khánh, "Hai trăm năm lịch sử văn họcđời

Lý" và "Văn học đời Trần Hồ" của Phạm Văn Diêu, " Mấy điều tâm đắc về một thời đại

văn học" của Đặng Thai Mai. Bên cạnh những công trình lớn, những chuyên luận, tiểu

luận của những nhà nghiên cứu uy tín hàng đầu Việt Nam hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp

đề cập đến thơ thiền như Nguyễn Đăng Thục, Trần Trọng Kim, Hoàng Xuân

Hãn,Nguyễn Duy Cần, Lê Văn Siêu, Thích Mãn Giác, Nguyễn Huệ Chi, Hà Văn Tấn,

Nguyễn Duy Hình, Trần Đình sử, Kiều Thu Hoạch, Phạm Ngọc Lan, Đỗ Văn Hỷ, Mai

Quốc Liên, Đoàn Thu Vân, Lê Mạnh Thát, Minh Chi, Trần Thị Băng Thanh, Lê Trí Viễn,

Thích Thanh Từ, Minh Tuệ, Nguyễn văn Xuất...

Một số luận án gần đây nhất với đối tượng nghiên cứu là văn học Phật giáo thời Lý

- Trần như "Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu văn học Việt Nam thời Lý

- Trần" (1995)của Nguyễn Phạm Hùng, "Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ

thiền Việt Nam thế kỷ XI- XIV (1996) của Đoàn Thị Thu Vân, "Văn học Phật giáo thời

Lý - Trần, diện mạo và đặc điểm." (2002) của Nguyễn Công Lý. Cả ba luận án này đều

có đề cập đến con người trong thơ thiền thời Lý - Trần nhưng chưa phải là một công trình

chuyên biệt, không nghiên cứu chuyên sâu về con người.

Theo thiển kiến của người viết, phần lớn các nhà nghiên cứu xem xét thơ thiền trên

quan điểm xã hội học- triết học. Xem xét thơ thiền trên bình diện văn hoa lịch sử như

Đinh Gia Khánh, Đặng thai Mai, Mai Quốc Liên, Lê Mạnh Thát, Nguyễn Tự Cường,

Nguyễn Hữu Sơn, Nguyễn Công Lý, Nguyễn Phạm Hùng. Khảo sát thơ thiền dưới quan

điểm triết học Thiền và mỹ học Thiền như Thích Mãn giác, Thích Thanh Từ, Nhất Hạnh,

Minh Chi, Minh Tuệ, Thích Phước An, Thích Phước Sơn.

Kế thừa một số thành tựu của thi pháp học hiện đại trong nghiên cứu văn học, M.

Bakh Tin đã cho ra đời nhiều công trình có sức ảnh hưởng lớn đến toàn thế giới, mở ra

một hệ trình mới trong cách tiếp cận bản chất của văn học. Tiếp thu những thành tựu này,

ở Việt Nam, Trần Đình Sử, Đoàn Thị Thu Vân, Nguyễn văn Xuất....đã vận dụng thi pháp

học hiện đại vào nghiên cứu thơ thiền.

Có thể kể đến những ý kiến bàn về thơ thiền của các nhà nghiên cứu. Dương Quảng

Hàm cho rằng : "Các vị sư đều là những người uyên thâm Nho học, có nhiều vị làm thơ."

Bùi Văn Nguyên nhận định : "Các nhà sư thường trở thành nhà thơ và có tâm hồn

rung động trước cảnh vật và lòng người."

Đinh Gia Khánh nhận xét về văn học thời Lý : "Sự hòa đồng giữa con người và

thiên nhiên là cơ sở cho những tứ thơ độc đáo và những hình tượng thơ sinh động. Thiên

nhiên được miêu tả với tình cảm thắm thiết và niềm lạc quan yêu đời, thể hiện thái độ an

nhiên tự tại, bản lĩnh vững vàng tự tin của con người."

Đặng Thai Mai đề cập tới con người có thái độ tích cực lạc quan của các nhà thơ

thiền với tâm hồn phóng khoáng giàu chất nhân văn và những bài thơ thiền độc đáo dung

hợp đạo đời.

Nguyễn Huệ Chi cho rằng nét đặc sắc trong thơ văn Tuệ Trung thượng sĩ là ý thức

về bản ngã về sự tự do tự tại của một nhà tư tưởng , một nhà duy lý ẩn trong con người

thiền. Ông là con người vừa Nho vừa Phật, vừa Lão Trang. Nguyễn Phương Chi khẳng

định cái cốt lõi của Huyền Quang không phải là con người thiền mà chính là con người

thi sĩ, với những cảm xúc tràn đầy trước cuộc sống muôn màu muôn vẻ, con người thi

nhân với sức sáng tạo mãnh liệt. Thích Thanh Từ , Minh Tuệ, Minh Chi, ca ngợi phẩm

chất thiền, thái độ ung dung, tự tại trong cuộc sống đầy lăng xăng, phiền não của Tuệ

Trung thể hiện từ con người, phong cách sống và tư tưởng siêu việt, thể hiện ra với thi

hướng dạt dào phóng khoáng.

Đoàn Thị Thu Vân trong luận án phó tiến sĩ "Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật

của thơ thiền Việt nam thế kỷ XI- XIV" đề cập đến con người vô ngã, vô ngôn, vô uy, vô

phân biệt với tinh thần phá chấp triệt để, đả phá cái nhìn nhị nguyên và con người tự do

hoàn toàn đạt đạo.

Nguyễn Phạm Hùng với luận án phó tiến sĩ "Vận dụng quan điểm thể loại vào việc

nghiên cứu văn học việt Nam thời Lý - Trần" cho rằng, con người trong thơ thiền là con

người lưỡng thể, là sự hợp nhập của con người Phật giáo và con người cá nhân. về con

người Phật giáo, Nguyễn Phạm Hùng chỉ ra con người tự do, con người vô ngã, con

người vô ngôn và con người vũ trụ. Còn con người cá nhân với sự đề cao con người và

trách nhiệm cá nhân nương vào cái hữu và cái sắc của nhà Phật mà tồn tại.

Nguyễn Công Lý trong luận án tiến sĩ "Văn học Phật giáo thời Lý -Trần -diện mạo

và đặc điểm" thông qua việc hộ thống lại nhưng quan niệm về con người của những nhà

nghiên cứu trước, rút ra hai hướng tiếp cận nghiên cứu vấn đề con người trong văn học

Phật giáo Lý Trần. Một là hướng tiếp cận những phẩm chất Phật giáo trong con người,

nói cách khác, đó là những con người chịu ảnh hưởng sâu đậm triết lý thiền và triết lý ấy

đã thâm nhập vào cuộc sống của con người hành đạo, tạo nên một lối sống, một bản lĩnh

sống : sống thiền. Đó chính là cơ sở tạo nên phẩm chất con người. Hai là hướng tiếp cận

những phẩm chất con người cá nhân với cá tính đầy cởi mở, rung động dạt dào niềm tin,

tràn đầy sức sống.

Bên cạnh đó, Viện triết học, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, Viện nghiên cứu Phật

học Việt Nam, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, Tạp chí văn học, Tạp chí tư tưởng, Tạp chí

Vạn Hạnh, Tạp chí Văn hoa dân gian ... hoặc trực tiếp hoặc gián tiếp đề cập tới văn học

Phật giáo và thơ thiền đã giúp cho người viết hiểu rõ thêm về con người ương thơ thiền

Lý Trần

3.PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

Dựa trên cơ sở tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như phân tích, tổng hợp,

thống kê, phân loại, so sánh, liên ngành, văn bản học, vận dụng các phương pháp phù hợp

với từng trường hợp cụ thể, đồng thời kết hợp với trực giác thiền, người viết đi sâu vào

tìm hiểu con người trong thơ thiền Lý Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại.

4.ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN:

4.1.Luận văn là một công trình chuyên biệt nghiên cứu về con người trong thơ thiền

Lý - Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại. Luận văn xem xét con người trong thơ

thiền dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại, đưa ra một cách hiểu mới về con người trong

thơ thiền Lý - Trần.

4.2.Kết quả của hướng nghiên cứu này sẽ góp thêm một cách hiểu về thơ thiền,

cũng như việc xác định giá tri của thơ thiền Lý - Trần

4.3.Việc phát hiện ra "Con người thật không địa vị" trong thơ thiền mở ra một đối

tượng mới, đầy bí ẩn và cuốn hút cho văn học. Bên cạnh đó, thiền ngữ và vô ngôn sẽ góp

phần mở ra khả năng vô hạn trong việc phản ánh cuộc sống và con người.

5. KẾT CẤU LUẬN VĂN:

Ngoài phần mở đầu (7 trang) và phần kết luận (8 trang) luận văn được tổ chức thành

3 chương như sau :

- Chương 1: Bối cảnh lịch sử - văn hóa thời Lý - Trần (29 trang)

- Chương 2: Con người trong thơ thiền Lý - Trần dưới góc nhìn thi pháp học hiện

đại (59 trang )

- Chương 3: Không gian, thời gian, ngôn ngữ nghệ thuật trong thơ thiền Lý - Trần

(32 trang)

Tài liệu tham khảo ( 8 trang)

CHƯƠNG 1: BỐI CẢNH LỊCH SỬ - VĂN HÓA THỜI LÝ TRẦN

1.1.Bối cảnh lịch sử văn hóa thời Lý - Trần:

Sau hơn 1000 năm, nước ta liên tục bị các thế lực phong kiến phương Bắc đô hộ.

Những trang sử Bắc thuộc đau thương của dân tộc ta bắt đầu từ sau cuộc kháng chiến

chống Nam Việt thất bại của An Dương Vương vào năm 179 trước Công Nguyên kéo dài

cho đến năm 905 mới dứt.

Năm 905, Khúc Thừa Dụ nhân cơ hội Trung Quốc chính sự rối ren, ông từng bước

xây dựng những cơ sỏ đầu tiên cho một chính quyề n độ c lập tự chủ. Đến năm 938 với

chiến thắng Bạch Đằng lịch sử , Ngô Quyền thật sự đa có công lớn trong việc dẫn dắt dân

tộc ta bước sang kỷ nguyên độc lập, tự chủ, xua tan mây đen nổ lệ ngàn năm, mở ra một

chân trời mới. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên từng nói : "Tiền Ngô Vương không chỉ là người

chiến thắng mà còn có công cắt đặt trăm quan, chế định ra triều nghi và phẩm phục tỏ cho

thấy cách thức của bậc "Đế Vương" . Nhà nước phong kiến Việt Nam nhờ những tiền đề

trên từng bước củng cô" và phát triển mọi lĩnh vực qua các thời kì: Đinh Bộ Lĩnh dẹp

loạn 12 sứ quân (968 - 980), Thập đạo tướng quân Lê Hoàn đánh tan quân Tống lập nên

nhà Tiền Lê (980-1009), Lê Ngọc Triều hoang dâm vô độ, bỏ bê chính sự, mất vào năm

1009, Lý Công uẩn được tôn làm vua lập ra nhà Lý cho đến năm 1225, dưới sự đạo diễn

của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoang nhường ngôi cho Trần Cảnh (Trần Thái Tông). Nhà

Trần tồn tại và phát triển đến năm 1400, Hồ Quý Ly soán ngôi nhà Trần và bị nhà Minh

đánh bại vào năm 1407.

Kế thừa, phát huy những giá trị của nền văn minh sông Hồng - nền văn minh đầu

tiên đặt nền tảng vững chắc khẳng định những giá trị mang tính bản sắc riêng, bền vững

của lịch sử văn hóa Việt Nam , khẳng định bản lĩnh riêng Việt Nam . Nhìn từ góc độ văn

hóa, triết lý lớn nhất xuyên suốt các truyện kể dân gian như truyện Hồng Bàng, truyện

thánh Tản Viên, truyện Thánh Gióng ... là khuôn vàng thước ngọc về ý thức trách nhiệm

xây dựng khối đòan kết gắn bó mật thiết với nhau vì nghĩa tình ruột thịt thiêng liêng,

cùng nhau chống giặc giữ nước, cùng nhau chinh phục, cải tạo tự nhiên thiết lập cuộc

sống ấm no hạnh phúc cho mình và con cháu đời đời về sau. Chính vì vậy cho nên dù

nước ta trải qua thời kì đen tối hơn 1000 năm Bắc thuộc, các triều đại phong kiến phương

Bắc tiếp nối nhau đô hộ nước ta nhưng vẫn không đồng hóa được.

Trong suốt hơn một ngàn năm mây đen che phủ bầu trời đất Việt, các triều đại

phương Bắc áp dụng nhiều kế sách đồng hóa về mọi mặt hòng thôn tính nước Việt ta. về

chính trị, chúng tìm mọi cách thủ tiêu nền độc lập và ý chí tự chủ của dân tộc ta. về quân

sự, chúng xây dựng và bảo vệ guồng máy đô hộ trên toan cõi nước ta, sẵn sàng đàn áp

đẫm máu mọi hình thức đấu tranh của nhân dân ta. Về kinh tế, chúng ra sức vơ vét tài

nguyên và của cải nước ta. Về văn hóa xã hội, chúng ra sức truyền bá văn hóa, chữ viết,

tín ngưỡng, tập quán... của người Trung Quốc vào nước ta, mặt khác mở cửa cho dân

Trung Quốc di cư vào nước ta hòng xóa tan mọi sự cách biệt để dễ dàng đồng hóa dân tộc

ta. Mặc đù vậy, do dân tộc ta từ khi hình thành tồn tại và phát triển, sớm đã bị nhiều thế

lực ngoai bang đe dọa, xâm lược nên sớm hình thành ý thức dân tộc. Nhà sử học Nguyễn

Khắc Thuần cho rằng : "Văn minh sông Hồng là đặc trưng riêng của bản lĩnh Việt Nam.

Dân tộc Việt Nam đã hình thành ngay trong tiến trình dựng nước và giữ nước bền bỉ và

kiên cường chứ không phải đợi đến thời cận đại như nhiều dân tộc khác trên thế giới".

Trong suốt thời kì bị đô hộ , dân tộc ta không ngừng nổi dậy đòi quyền tự chủ, độc

lập. Biết bao anh hùng nghĩa sĩ hy sinh, máu của họ tô đậm thêm bản lĩnh Việt Nam.

Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40-43), khởi nghĩa Bà Triệu (248), khởi nghĩa Lý Bí (542),

khởi nghĩa của Lý Tự Tiên - Đinh Kiến (687), khởi nghĩa Mai Thúc Loan (722), khởi

nghĩa Phùng Hưng (? -791), khởi nghĩa Dương Thanh (819-820)...

Khác hẳn với thời sơ sử, thời Bắc Thuộc, đời sống văn hóa và tư tưởng của xã hội ta

đã biến đổi một cách mạnh mẽ và sâu sắc. Lý do chủ yếu là do chúng ta tiếp nhận một số

tư tưởng, học thuyết mới. Nổi bật nhất là Phật Học, Đạo Học, Nho Học...

Nho Giáo vốn có lịch sử hình thành và phát triển rất lâu đời ở Trung Quốc. Khổng

Tử (551-479) khai sinh ra Nho Học, Mạnh Tử là người kế thừa và phát triển. Nho Giáo

chú trọng đề cao tam tòng, tứ đức, tam cương, ngũ thường, quan trọng nhất là điều

"Nhân", học thuyết chính danh. "Chính danh" là việc làm căn bản đưa xã hội từ loạn sang

trị. Ông ít bàn đến những vấn đề trừu tượng thuộc bản thể luận. Ông quan tâm đến việc

xây dựng lại một xã hội có kỷ cương, lề lối, trật tự. Ông nói: "Tu thân, tề gia, trị quốc,

bình thiên hạ". Muốn thiên hạ thái bình thì phải tu thân trước. Tóm lại, Nho Học chủ

trương cách học làm người, cải thiện xã hội. Do thời đại lịch sử, từ khi Nho Giáo truyền

sang Việt Nam cho đến đầu thế kỷ thứ X vẫn chưa có ảnh hưởng lớn đến đời sống văn

hóa người Việt. Từ thế kỷ X - XIV địa vị của Nho Giáo ngay một được củng cố, phát

triển. Từ cuối đời Trần đến nhà Hồ, Lê, Sơ, Mạc, Nho giáo đã phát triển đến đỉnh cao

thịnh đạt nhất, chiếm địa vị quan trọng trên vũ đài chính trị và tư tưởng của nước ta. Từ

thế kỷ XVII đến thế kỷ cuối thế kỷ XIX tuy vẫn được quan tâm nhưng dần dần đi đến

bước đường cùng. Từ cuối thế kỷ XIX cho đến nay, Nho Giáo chẳng những phải rút ra

khỏi vũ đài chính trị và tư tưởng mà còn rút lui khỏi địa hạt giáo dục, thi cử và nhiều lĩnh

vực khác mà nó từng ảnh hưởng. Giờ đây Nho Giáo chỉ còn là dĩ vãng, người ta nghiên

cứu nó để tìm ra những giá trị thích hợp với xã hội hiện đại.

Đạo Giáo cũng ra đời đồng thời với Nho Giáo, do Lão Tử khai sinh, Trang Tử kế

thừa . Đạo học là một trong những học phái lớn của Trung Quốc. Khi truyền sang nước

ta, xu thế Đạo giáo quí tộc (Đạo thần tiên) không tạo được ảnh hưởng lớn, ngược lại, Đạo

giáo bình dân (Đạo phù thủy) được phổ biến mạnh mẽ và rộng rãi. Điều này hẳn do dân

tộc ta đang bị mất nước, hoàn toàn không chấp nhận chính quyền đô hộ cũng như pháp

chế của chúng. Họ xem thần thánh của Đạo giáo như những vị quan lại thanh liêm,

nghiêm khắc, chứng minh, xét xử công bằng mọi đúng sai, tốt xấu ở đời, làm chỗ dựa

tinh thần cho họ. Lúc đầu Đạo quán, miếu chỉ thờ những vị thần có nguồn gốc từ Trung

Quốc, càng về sau Đạo quán , đền miếu dần dần trở thành nơi thờ những anh hùng nghĩa

sĩ, những người có công dựng nước, giữ nước, những người hi sinh vì sự hòa bình độc

lập của dân tộc.

Theo Lão Tử, "Đạo" là phạm trù quan trọng nhất, là nguồn gốc sinh ra vạn vật, là

cái có trước, bao trùm vạn vật. Đạo cũng chính là quy luật của tự nhiên, là quy luật tồn tại

và vận động của vạn vật. Nếu Đạo là thể tinh vi, khó nắm bắt được thì Đức là dụng, là

hình dáng của vật, là thứ ly sâu sắc và phổ biến. Ông nói: "Đạo làm cho vạn vật sinh

trưởng, Đức làm cho vạn vật tốt tưới...". Ông chủ trương thuận theo tự nhiên, trở về với

Đạo. Đạo giáo truyền vào nước ta khá sớm , từ thế kỷ thứ X đến cuối thế kỷ XIV (tức là

từ họ Khúc nổi dậy đến cuối thời Trần ) Đạo giáo có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tư

tưởng của xã hội và có địa vị quan trọng trên vũ đài chính trị.

Nhưng từ cuối thế kỷ XIV đến cuối thế kỷ XIX , Đạo giáo rút lui khỏi vũ đài chính

trị và tư tưởng nhưng vẫn còn lưu lại trong lòng dân gian . Từ đầu thế kỷ XX đến nay,

Đạo giáo gần như rất ít xuất hiện. Người ta chỉ còn biết về Đạo giáo qua một số dấu tích

và một ít kinh sách mà thôi.(Về Phật giáo sẽ được đề cập ở phần sau)

Tháng 10 năm Kỷ Dậu ( 1009) Lý Công Uẩn Lên ngôi Hoàng Đế. Vừa lên ngôi,

Ông ban lệnh đại xá thiên hạ miễn thuế 3 năm ổn định mọi mặt. Các sử thần nhà Lê nhận

xét: Hoàng Đế ứng mệnh trời, thuận lòng người, nhận thời mở vận, là người khoan thứ

nhân từ, tinh tế, và hòa nhã rất có lượng của bậc Đế Vương . Tháng 7 năm 1010 Ông dời

đô về Thăng Long, tổ chức tại bộ máy nhà nước, phân rõ phẩm trật cao thấp.Ngay từ khi

mới lên ngôi, Lý Công uẩn đã rất chăm lo đến việc củng cố xây dựng quân đội, chăm lo

kinh tế, xem trọng nông nghiệp, kích thích thủ công, thương nghiệp phát triển.

Gắn chặt với quá trình xây dựng và củng cố chính quyền độc lập và tự chủ là quá

trình không ngừng mở mang về mọi mặt của đời sống văn hóa. Năm 1070, nhà Lý cho

xây dựng Văn Miếu, đến năm 1076 lại cho xây tiếp trường Quốc Tử Giám ngay giữa

kinh thành Thăng Long. Năm 1075, khoa thi đầu tiên trong lịch sử nước ta được tổ chức ,

sau năm đó, một số khoa thi minh kinh bác học cũng được mở ra. về mặt tư tưởng, tuy

Nho Giáo đã bắt đầu có ảnh hưởng nhưng không đáng kể, thống trị xã hội vẫn là tư tưởng

Phật giáo. Đây là giai đoan thịnh đạt của Phật giáo ở nước ta. Chùa chiền được xây dựng

khắp nơi, tăng ni ngày một đông hơn. Đa số các vị vua triều Lý đều xuất gia tu Phật. Lý

Thái Tông, Lý Thánh Tông, Lý Cao Tông, Lý Huệ Tông ... Thời này, phái Thiền Thảo

Đường xuất hiện ở nước ta.

Nghệ thuật điêu khắc và kiến trúc phát triển rực rỡ. Một số công trình kiến trúc nổi

tiếng và có giá trị lâu dài như : Kinh thành Thăng Long, Chùa Giạm, Tháp Báo Thiên,

tượng phật Di Lặc chùa Quỳnh Lâm. Đặc điểm bao quát của nghệ thuật kiến trúc thời Lý

là sự chắc chắn, cân đối hài hòa với ngoai cảnh. Nghệ thuật điêu khắc cũng có phong

cách riêng, bố cục gọn gàng cân xứng nhưng không đơn điệu. Đề tài thường miêu tả cách

điệu phong cảnh thiên nhiên cảnh người múa hát, đường khắc thanh thoát, mềm mại và

có sức gợi phong phú. Độc đáo nhất là hình tượng con rồng chở được tất cả khát vọng

của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước. Chúa Diên Hưu (chùa Một Cột) là tác phẩm tổng

hợp của cả kiến trúc lẫn điêu khắc được xây cất vào năm 1049 với hình dáng thoát trông

như một tòa sen , uy nghi và thanh cao, tĩnh mịch nhưng gần gũi cởi mở.

Nghệ thuật ca múa nhạc là loai hình nghệ thuật có lịch sử lâu đời, đến đây đã phát

triển vượt bậc. Hát ả đào trở nên phổ biến, hát chèo và tuồng cũng nhanh chóng định

hình; các loai nhạc cụ như tiếng sáo, trúc, đàn đã khá thông dụng.

Tóm lại, dưới thời Lý, Đại Việt thực sự đã trở thành một cường quốc, ngoài sức

mạnh về quân sự, tiềm lực về kinh tế, văn hóa dân tộc cũng phát triển rực rỡ, thể hiện hào

khí bừng bừng của cả một dân tộc vững bước đi lên sau một thời kì dài bị che phủ bởi

mây đen nô lệ. Và đây cũng chính là thời kì dân tộc ta viết nên trang sử vẻ vang, chiến

thắng quân Tống, bình định Chiêm Thành, bảo vệ độc lập dân tộc.

Thuận theo dòng biến chuyển của thời gian, năm 1224, do không có con trai nối

dõi, Lý Huệ Tông buộc phải truyền ngôi cho con gái là Lý Phật Kim (tức Lý Chiêu

Hoàng), lúc đó mới 6 tuổi. Năm 1225, dưới sự đạo diễn của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu

Hoàng kết hôn với Trần cảnh (Trần Thái Tông). Nhà Trần nhanh chóng ổn định tình hình

rối ren loan lạc từ thời Lý. Nhà Trần lập ra Phủ Tông Chính, một cơ quan chuyên trông

coi về trật tự thế thứ của quý tộc họ Trần. Năm 1230, nhà Trần cho biên soạn bộ Quốc

triều thông chế, coi đó là cơ sở xây dựng, khảo xét hành chính. Cũng năm này, bộ Quốc

triều thường lễ ra đời. Nhà Trần tổ chức lại quân đội, mở mang chế độ khoa cử để tuyển

dụng nhân tài, củng cố và phát triển kinh tế, thống nhất tiền tệ và đơn vị đo lường, lưu

thông buôn bán ngày càng được khuyến khích. Năm 1341, biên soạn bộ Hình Thư mới

trên cơ sở bộ Hình Thư của thời Lý.

Cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, thế giới đang trong tình trạng báo động đau thương

trước sự tàn bạo khát máu của quân Mông cổ. Vó ngựa quân Mông cổ giày xéo gần một

nửa Âu, Á. Nhà thơ người Armenia là V.Frik (1210-1290) viết về sự đổ nát điều tàn này :

"Không một dòng suối, không một con sông nào, không tràn đầy nước mắt chúng

ta,

Không một ngọn núi, một cánh đồng nào không bị quân tàu giày xéo."

Thế nhưng, quân dân ta một lòng đã làm nên biết bao chiến công oanh liệt, ba lần

đánh đuổi quân Mông - Nguyên ra khỏi bờ cõi, bảo vệ độc lập tự chủ, khẳng định được

tinh thần và vị trí của dân tộc trên trường quốc tế, lập nên hào khí Đông Á bất diệt.

Phật giáo chi phối toàn bộ tư tưởng xã hội Đại Việt suốt từ thời Lý, đến thời Trần

càng được củng cố và phát triển hơn. Nếu thời Lý, phái Thiền Thảo Đường xuất hiện thì

sang thời Trần, phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử ra đời do vua Trần Nhân Tông là tổ sư khai

sáng. Đa số các vị vua Trần hoặc là xuất gia tu hành hoặc tu tại gia. Bên cạnh đó từ hàng

thân vương, quý tộc, quan lại đến thứ đều một lòng kính Phật. Tư tưởng từ bi, hỉ xả, bác

ái, vô ngã vị tha phổ khắp thiên hạ tạo lập được cuộc sống ấm no an bình thịnh trị, như

Hoàng Xuân Hãn nhận xét : "Đây là đời thuần từ nhất trong lịch sử nước ta" [25;429].

Giáo dục và thi cử Nho học ngày càng chính quy hơn, chặt chẽ hơn. Năm 1232, nhà

Trần đặt ra học vị thái học sinh (1442, nhà Lê đổi thành Tiến sĩ). Nhờ giáo dục và thi cử ,

nhà Trần tuyển chọn được nhiều nhân tài xuất chúng như: Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi,

Lê Văn Hưu, Chu Văn An, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Phạm Sư Mạnh,...

Văn học Lý - Trần là thời kỳ văn học chính thức mở đầu có nhiệm vụ khai phá mở

đường cho văn học viết Việt Nam từ sau những năm nước nhà bước sang kỷ nguyên độc

lập tự chủ ở thế kỷ X. Nền văn học này kế thừa những gì đã phôi thai trong thời Bắc

thuộc tạo mầm mông, tiền đề cho nó phát triển. Vì văn học Lý Trần hình thành trong sự

ảnh hưởng nặng nề của nhiều yếu tố ngoai lai, đặc biệt là phải sử dụng Hán tự (chữ

Hán).Nguyên nhân rất rõ là nước ta bị lệ thuộc hàng ngàn năm, văn hóa Hán xâm nhập

vào đời sống sinh hoạt mọi ngóc ngách của đời sống xã hội Văn học Lý -Trần dùng chữ

Hán để sáng tạo . Mãi đến thế kỷ XIII mới sử dụng chữ Nôm để viết tác phẩm văn học.

Ngay cả chữ Nôm cũng hình thành từ sự vay mượn, lắp ghép Hán tự. Bên cạnh đó , các

tác giả thời này chủ yếu vay mượn thi liệu, điển cố, điển tích trong các kinh điển, sử sách

Trung Quốc. Sự vay mượn này lặp đi, lặp lại nhiều lần lắm khi tạo nên tính qui phạm,

ước lộ, tượng trứng trong văn học .Điều này dễ thấy trong "Hịch tướng sĩ" của Trần Quốc

Tuấn, tác giả dẫn lại không biết bao nhiêu trung thần nghĩa sĩ trong sách sử Trung Quốc

làm gương cho tướng sĩ ta, ngay cả trong "Phóng cuồng ngâm" của Tuệ Trung , ta bắt

gặp nào là Qui Sơn, Tạ Tam, Thạch Đầu, Phổ Hóa, Bố Đại; nào là Tào Khê, Lư Thị,

Thương Lương .... Nếu không biết những điển tích này thì khó lòng hiểu được giọng

ngâm cuồng phóng này, vì quan niệm xưa cho rằng có như vậy mới là tao nhã , hào

phóng, bác học .

Văn học Lý - Trần kế thừa và hoàn thiện những thành tựu của các thể loại của văn

học Hán bao gồm vận văn, biền văn và tản văn. Vận văn gồm các thể loai cổ phong,

Đường luật (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn có các thể loai như hịch, phú,

cáo ; tản văn thì mượn các thể như chiếu, chế, biểu, tấu, tự bạt. Nếu xét một cách tổng

quát thì văn học Lý - Trần chưa có thể loại tự thân như văn học giai đoạn sau, nhìn chung

thì vận văn được ưa chuộng hơn tản văn ; các thể loại thơ trữ tình đạt nhiều thành tựa hơn

thể loại tự sự.

Văn học Lý - Trần kế thừa và hoàn thiện những thành tựu của các thể loại của văn

học Hán bao gồm vận văn, biền văn và tản văn. Vận văn gồm các thể loai cổ phong,

Đường luật (bát cú, tứ tuyệt), từ khúc, ca, ngâm; biền văn có các thể loai như hịch, phú,

cáo ; tản văn thì mượn các thể như chiếu, chế, biểu, tấu , tự bạt. Nếu xét một cách tổng

quát thì văn học Lý - Trần chưa có thể loại tự thân như văn học giai đoạn sau, nhìn chung

thì vận văn được ưa chuộng hơn tản văn ; các thể loại thơ trữ tình đạt nhiều thành tựa hơn

thể loại tự sự.

Thời Trung Đại , các nước trong khu vực Đông Á nói chung , Việt Nam nói riêng

chịu ảnh hưởng sâu đậm những tư tưởng , những học thuyết Nho- Phật - Lão. Tư tưởng

tam giáo hằn sâu trong tâm lý, tư tưởng, đời sống của người Việt Nam lúc bấy giờ. Xét

riêng thời Lý- Trần, tư tưởng Phật giáo có ảnh hưởng sâu rộng nhất, cả trong tầng lớp

bình dân lẫn quí tộc phong kiến.

Một trong những nét đặc sắc của bản lĩnh Việt Nam được hầu hết các nhà nghiến

cứu đồng tình là cho dù chúng ta tiếp thu , kế thừa hay ảnh hưởng khách quan bất kỳ tư

tưởng học thuyết nào , chúng ta phải cố gắng vận động chúng theo hướng dân tộc hóa.

Văn học Lý- Trần cũng không đi ngoài hướng này trên tiến trình hình thành và phát triển.

Song song với việc tiếp thu, kế thừa những tinh hoa của văn hóa, văn học nước ngoài,

văn học Lý - Trần cũng gạn lọc những yếu tố không thích hợp , đi ngược lại quyền lợi

dân tộc. Quá trình vận động và phát triển theo hướng dân tộc hóa biểu hiện không chỉ ở

hình thức mà còn ở nội dung văn học . về hình thức, ban đầu văn học Lý - Trần sử dụng

chữ Hán thì đến khoảng thế kỷ XIU (thời Trần). Các tác giả còn sử dụng chữ Nôm để

sáng tác, chữ Nôm ra đời là một thành tựu đáng kể khẳng định mong muốn độc lập tự chủ

của dân tộc ta. Đó còn là cột mốc cho sự phát triển của văn học, tạo tiền đề cho các kiệt

tác bất hủ ở giai đoan sau. về nội dung, văn học Lý - Trần đã tiếp thu có chọn lọc những

tinh túy của văn học Hán, chuyển hóa thành những thứ phù hợp với dân tộc , phục vụ cho

dân tộc. Nền văn học này thể hiện rõ nét tâm tư tình cảm nguyện vọng, ước mơ của con

người Việt Nam. Chẳng hạn như thơ thiền Việt Nam bình dị, gần gũi thắm chất trữ tình,

ít quan tâm đến những vấn đề thuộc bản thể luận. Nếu có cũng được diễn tả bằng những

hình tượng hết sức gần gũi với cuộc sống đời thường. Không như thơ thiền Trung Quốc,

mang đậm tính triết học. Ngay cả Nho giáo, Lão giáo từ Trung Quốc truyền sang cũng

dần dần có những nét khác biệt với tư tưởng chính thống ở bản xứ. Như tư tưởng trung

quân, ái quốc, tam cương, ngũ thường khi vào Việt Nam cũng được nhìn nhận thoáng

hơn khổng khắc nghiệt như nơi phát sinh ra nó. Lý tưởng nhân nghĩa của Khổng - Mạnh

thì được Nguyễn Trãi lý giải: "Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân". Hay các Đạo quán dần

dần được dùng để thờ phụng những vị anh hùng nghĩa sĩ hi sinh vì sự hòa bình độc lập

của dân tộc hơn là thờ các vị thần thánh của Đạo Lão.

Xuất phát từ lý tưởng trung quân ái quốc, cảm hứng yêu nước, yêu hòa bình, mở ra

một dòng văn học yêu nước trong văn chương Việt Nam. Khi đất nước bị ngoai xâm bức

bách thì biểu hiện của lòng yêu nước là quyết hi sinh để bảo vệ độc lập tự chủ không

khoan nhương với kẻ thù :

Nam quốc sơn hà Nam đế cư

Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư

(Sông núi nước Nam vua Nam ở

Rành rành định phận tại sách trời

Lũ giặc cớ sao xâm phạm tới

Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời)

Khí phách hào hùng với niềm tin bất diệt vào vận nước vững bền nghìn thu tỏ rõ

hào khí Đông A của Trần Quang Khải

Đọ át sóc Chương Dương độ

Cầm hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san

(Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nước ấy ngàn thu)

Lúc đất nước hòa bình thì cảm hứng yêu nước được bộc lộ thành niềm khát vọng

xây dựng đất nước yên bình, hạnh phúc, tình yêu thiên nhiên với cảnh trí tươi đẹp của

non sông gấm vóc, tự hào về truyền thống văn hóa dân tộc.

Tư tưởng nhân đạo chính là cảm hứng chủ đạo của văn học thời kì này. Với cảm

hứng thời Trung đại, con người chưa xem tự nhiên như là một khách thể. Con người tự

xem mình là một phần tử của vũ trụ (tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ). Với quan niệm thiên

nhân hợp nhất con người và vũ trụ tự có sự giao hòa gắn bó mật thiết, cộng thêm quan

niệm vạn vật nhất thể của nhà Phật và tư tưởng hòa quang đồng trần của Lão giáo tạo nên

hình tương con người đặc biệt khó gặp được ở thời đại khác .Hơn nữa, con người thời đại

này hướng tới sự hoàn thiện, hướng những tới giá trị chân thiện mỹ tạo nên những

nguyên tắc đạo đức tốt đẹp. Nhất là văn học Lý - Trần nói chung, văn học thiền nói riêng

phản ánh được sự thiết tha vun đắp những giá trị nhân bản ngày một hoàn thiện hơn. Đặc

biệt là mong muốn về sự tự do hoàn toàn và sự giải phóng con người với ý nghĩa cao nhất

. Theo các nhà thơ thiền, con người chỉ đạt được sự tự do hoàn toàn , sự giải phóng triệt

để khi và chỉ khi họ ngộ được con người thật không địa vị trong mỗi con người.

1.2.Khái lược về Phật giáo và Thiền tông thời Lý - Trần:

Phật giáo do Đức Phật Thích Ca Mâu Ni sáng lập ra cách đây hơn 2500 năm tại một

nước nhỏ thuộc nước Ấn Độ. Từ quê hương Ấn Độ cổ đại, Phật giáo truyền vào nước ta

từ những năm đầu Cổng Nguyên . So với Nho giáo và Đạo giáo thì trong thời Bắc thuộc,

Phật giáo được dân tộc ta tiếp nhận nhanh chóng và mạnh mẽ nhất . Ngay từ đầu nếp

sống gần gũi hiền lành thân thiện của các vị tu hành tạo được thiện cảm ngày càng lớn

trong lòng nhân dân. Những nét tương đồng giữa giáo lý và nghi thức của nhà Phật với

đạo lý , tập tục cổ truyền cộng với quá ữình nhập thế giúp đời tích cực của nhà tu hành

khiến cho Phật giáo nhanh chóng có vị trí quan trọng trong nhận thức cũng như tình cảm

của người Việt ta. Như vậy lịch sử Phật giáo Việt Nam được mở đầu bằng những trang

thuận lợi, tốt đẹp.

Từ những năm đầu thế kỷ thứ X đến nửa sau thế kỷ XIV Phật giáo như là quốc giáo

nước nhà, số người xuất gia tu Phật và tại gia tu Phật ngày càng đông. Trên từ Vua quan,

hoàng tộc dưới đến thứ dân đều một lòng tu phật. về mặt tổ chức chính quyền, triều đình

dành hẳn một hệ thống ngạch quan cho người tu hành. Hệ thống ngạch quan đó là Tăng

ban. Các vị quan lại trong tăng ban không chỉ nắm quyền điều khiển đời sống tinh thần

của xã hội mà còn có uy thế rất lớn trong địa hạt chính trị và kinh tế. Một số vị vua xuất

gia tu phật như: Lý Huệ Tông, Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông (sơ tổ phái Trúc Lâm).

Một số vị vua tu tại gia như Lý Thánh Tông, Lý Anh Tông, Lý Cao Tông, Trần Thánh

Tông, Trần Anh Tông ... Những vị xuất thân từ hòang tộc đi tu như Mãn Giác thiền sư,

Linh Nhân Hoàng Thái Hậu, Tuệ Trung thượng sĩ Trần Tung. Còn quan lại, tri thức tu

Phật nhiều không kể hết, những người không tu cũng ảnh hưởng tư tưởng phật giáo sâu

sắc, sử sách có câu : "Thiên hạ Lý - Trần bán vi tăng" (Thiên hạ thời Lý - Trần một nửa

là tăng chúng). Đặc biệt các vị thiền sư đa phần là quốc sư hay cố vấn chính tri đặc biệt

của các Hòang đế như Khuông Việt quốc sư Ngô Chân Lưu thời Đinh, Thiền sư ĐỖ Pháp

Thuận thời Tiền Lê, Quốc sư Vạn Hạnh. Thiền sư Thảo Đường, Từ Đạo Hạnh, Chân

Không, Viên Thông, Viên Chiếu thời nhà Lý. Quốc sư Liễu Ninh, Trần Thái Tông, Điều

ngự giác hoàng Trần Nhân Tông, thiền sư Pháp Loa, Huyền Quang, Bảo Sát... thời Trần.

Từ khi mới truyền vào nước ta cho đến cuối thế kỷ XIV, Phật giáo có vị trí như

Quốc giáo, đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và tư tưởng của xã hội đương

thời. Đến đầu thế kỷ XV, Nho giáo từ vị trí khiêm nhường nhất trong tam giáo, nhanh

chóng vươn lên giữ vị ưí quan trọng trên vũ đài chính trị tư tưởng. Tuy vậy, Phật giáo

tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong lòng xã hội. Điều nổi bật cần được sử sách trân trọng

đó là mặc dù trong giai đoan này, trên chính trường đã xảy ra một cuộc chuyển giao

quyền lực trên vũ đài chính trị tư tưởng nhưng không có cảnh đầu rơi máu đổ, đấu tranh,

giết chóc. Đó chính là một trong những biểu hiện đặc trưng của nét cao đẹp đáng trân

trọng văn hóa Việt Nam. Điểm này hoàn toàn khác với Châu Âu Thiên Chúa giáo thời

trung cổ, nơi mà những tư tưởng đi chệch ra ngoai học thuyết chính thống của Giáo hội

phải bị diệt trừ bằng lửa và gươm. Nét văn hóa quý báu này hẳn là sự hòa lẫn như nước

với sữa giữa truyền thống yêu chuộng hòa bình, thương người như thể thương thân và

tinh thần từ bi bác ái bao la của nhà Phật. Vì thế từ xưa đến nay dân tộc Việt Nam ta chưa

hề có chiến tranh tôn giáo, chiến tranh sắc tộc như ở một số quốc gia khác.

Trải gần mười thế kỷ, Phật giáo đã có uyên nguyên sâu xa trong lòng dân tộc Đại

Việt ngày càng có điều kiện phát triển sâu rộng và có ảnh hưởng không chỉ trong đời

sống tâm linh , đời sống văn hóa mà còn chi phối đến chính trị xã hội .... Suốt các triều

đại Ngô, Đinh, tiền Lê, Lỹ -Trần, Phật giáo Việt Nam chiếm vị trí rất quan trọng, tư

tưởng Phật giáo chi phối từ vua quan đến thứ dân , ai ai cũng thuần lòng từ bi hỷ xả , ai

cũng tin vào nhân quả nghiệp báo. Ai ai cũng sống cuộc sống ấm no, hạnh phúc trong

tình thương yêu gần gũi với nhau. Đúng như Đặng Thai Mai nhận xét: Hồi ấy người ta

biết sống , biết vui trong tình thân, trong tin tưởng biết sống một đời sống tích cực vui vẻ

, một đời sống cởi mở phong phú rộng rãi sâu sắc[60,38]

Thời này tầng lớp trí thức phần lớn là tăng lữ . Họ không chỉ chăm lo tu tập , hoang

pháp, chăm sóc đời sống tinh thần cho con người mà còn đóng góp đáng kể trong công

cuộc vệ quốc, kiến quốc chùa, tháp được vua chúa cho xây dựng nhiều nơi. Bên cạnh ,

chùa Hương Tích ở Nghệ An đã có chiều dài lịch sử lâu đời, còn có các chùa khác như

Trấn Quốc, Lục tổ, Kiến Sơ, Kiến Dương ... các nền tháp , cột kinh khắc chú Đà la ni chú

lăng nghiêm được các nhà khảo cổ phát hiện chứng tỏ đời Đinh và trước đó, Phật giáo đã

rất phát triển ở vùng kinh đô Hoa Lư-Ninh Bình.

Nền tảng cơ bản của phật học là Tứ diệu đế: ( bốn chân lý chắc thật) khổ đế, tập đế,

diệt đế và đạo đế. Kết cấu, trình tự của từ diệu đế rất độc đáo, khoa học . Đức Phật nói

khổ đế trước , chỉ bày rõ ràng cuộc đời có nhiều thứ làm cho con người đau khổ. Thứ đến

chỉ ra nguyên nhân gây nên đau khổ (tập đế) đó là mê muội không hiểu rõ quy luật nhân

quả luân hồi, từ thân miệng ý tạo ra nhiều ác nghiệp phải chịu báo ứng. Tiếp đến, phác

họa cuộc sống an vui hạnh phúc sau khi thoát khổ (diệt đế). Cuối cùng mới chỉ bày

phương pháp cách thức tu tập để thoát khỏi khổ đau triền miên bất tận. về giáo môn, Đức

Phật đưa ra ba mươi bảy phẩm trợ đạo dùng làm phương pháp tu hành tất cả đều không

ngoài tôn chỉ của bài kệ

Chư ác mạc tác Không làm các điều ác

Chúng thiện phụng hành Siêng làm các việc lành

Tự tịnh kỳ ý Giữ tâm ý trong sạch

Thị chư Phật giáo Là lời chư Phật dạy

Đây cũng chính là câu trả lời của Ô Sào thiền sư trả lời câu hỏi :"Thế nào là Phật

pháp"của Bạch Cư Dị.

Mục đích cuối cùng của đạo Phật là giải thoát con người ra khỏi đau khổ triền miên

bất tận. Đức Phật thường nói : biển chỉ có một vị mặn, còn đạo của ta cũng chỉ có một vị

là giải thoát. Cảnh giới cao nhất của giải thoát là ngộ được con người thật không địa vị (

Phật tánh ) của chính mình ngộ được bản thể của vũ trụ, thấu rõ qui luật vạn vật, đạt được

giải thoát hoàn toàn không còn bị cái gì câu thúc, trói buộc. Điều này chính Đức Phật tự

thân trải nghiệm qua hơn sáu năm tu khổ hạnh và bốn mươi chín ngày tọa thiền chiêm

nghiệm mà nhận ra. Trên hội Linh Sơn , đức Phật không nói - chỉ giơ cành hoa lên, mọi

người ngơ ngác chỉ một mình Đại Ca Diếp mỉm cười . Phật truyền y bát cho Đại Ca Diếp

: Ta có chánh pháp nhãn tạng, niết bàn diệu tâm, thực tướng vô tướng, không lập văn tự ,

truyền riêng ngoài giáo , chỉ thẳng chân tâm, kiến tánh thành Phật nay truyền lại cho

ngươi. Công án "niêm hoa vi tiếu" này với tôn chỉ "dĩ tâm truyền tâm, trực chỉ nhân tâm ,

kiến tánh thành phật". Là cơ sở đầu tiên tạo nên các phái Thiền Tông sau này. Đại Ca

Diếp được xem là sơ tổ của phái Thiền tông.

Mặc dù xu hướng Thiền xuất hiện ở Việt Nam ngay từ những năm đầu Công

Nguyên. Nhưng phải đợi đến phái Tỳ Ni Đa Lưu Chi (từ nửa sau thế kỷ VI đến nửa đầu

thế kỷ XIII) mới thành lập tông phái riêng. Phái Tỳ ni đa lưu chi lưu truyền vào nước ta

gián tiếp , từ Ẩn Độ sang Trung Quốc rồi mới vào Việt Nam. Thiền sư Tỳ ni đa lưu chi

đắc pháp từ tam tổ Tăng Xán. Dòng thiền này kế thừa pháp của tổ Bồ đề đạt ma và ảnh

hưởng tư tưởng "siêu việt hữu vô", "vô chấp vô trụ" của Long Thọ trong Trung Quán

Luận. Phái này xem trọng bộ kinh "Tượng đầu tinh xá", một bộ kinh quan trong thuộc

văn hệ Bát Nhã. Do kê thừa thiền học từ An Độ nên họ coi trọng việc tọa thiền, tham

thiền, tu định, trì chú.

Thiền sư vô ngôn Thông đắc pháp từ tổ Bách Trượng Hoai Hải đệ tử đời thứ ba của

lục tổ Huệ Năng. Kế thừa pháp môn "Đốn ngộ" của Lục tổ. Trong pháp bảo đàn kinh, lời

đầu tiên Huệ Năng khai ngộ cho thượng tọa Minh: "Không nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái

gì là bản lai diện mục của thượng tọa Minh". Huệ Minh đại ngộ dưới câu nói này. Cái tên

"Vô ngôn thông" nghĩa là thông suốt cái không ngôn ngữ thể hiện đặc điểm của Thiền

phái này: Không chấp văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật. Chân lý chỉ có thể

trực ngộ không thể lý giải qua ngôn ngữ, tự tánh vốn tròn đủ không thể tìm cầu từ bên

ngoai. Phái này chuyên trì kinh Viên Giác.

Phái Thảo Đường do vua Lý Thánh Tông và thiền sư Thảo Đường lập ra tại chùa

Khai Quốc ở kinh đô Thăng Long theo ý muốn của vương triều nhà Lý muốn thành lập

một nền Phật giáo riêng mang bản sắc Đại Việt. Điều này thể hiện rõ chí hướng lớn xây

dựng một đất nước Đại Việt hùng mạnh, độc lập. Dầu sao thì Thiền phái Tỳ ni đa Lưu chi

và thiền phái Vô Ngôn Thông đêu mang đậm yêu tô ngoai lai từ An Độ và Trung Quốc.

Hiện nay những tư liệu viết về phái Thảo Đường còn lại rất hiếm. Như trong văn cảnh

sách Thảo Đường nêu ra tinh thần chủ yếu của phái là sự dung hợp Thiền Tông, Tịnh Độ

và Mật Tông. Ông cho rằng thiền quán là con đường tự lực đốn ngộ chỉ phù hợp với

những người thượng căn thượng trí. Còn Pháp môn niệm phật thì rất đơn giản tiện lợi phù

hợp cho tất cả mọi tầng lớp. Nhưng do phái Thiền này chủ yếu được các vua quan thân

tộc nhà Lý tiếp nhận, không được truyền bá rộng rãi nên cuối cùng bị mai một cùng với

sự kiện thay triều đổi đại từ nhà Lý sang nhà Trần.

Phái Thiền Trúc Lâm là phái thiền Việt Nam manh nha từ các vị thiền sư như Viên

Chứng Đại Đăng, Tiêu Dao, Trần Thái Tông gần nhất là Tuệ Trung thượng sĩ - thầy của

sơ tổ Trúc Lâm điều ngự giác hoàng Trần Nhân Tông. Tông chỉ của phái này là sự kế

thừa, dung hợp, các tư tưởng Vô ngôn thông và Lâm tế bên Trung Quốc, phát triển cho

phù hợp với nhu cầu và tình hình dân tộc lúc bấy giờ. Thiền phái này dung hợp cả Thiền

và Tịnh Độ, kiêm cả ngộ lẫn tiệm tu; vừa khai ngộ bằng cách "trực chỉ nhân tâm, khai

thông huệ nhãn" đối với những người thượng căn, vừa giải thích diễn giảng rõ ràng cho

những người sơ cơ học đạo có chỗ y cứ. Thiền phái Trúc Lâm ra đời kế tục tinh thần

muốn xây dựng một ý thức hệ chính thống độc lập tự chủ của nhà Lý. Bởi vì nhà nước

phong kiến Trung Quốc lúc này xem ý thức hệ Nho Giáo là chính thống. Nội dung triết lý

tư tưởng của phái Trúc Lâm được xem xét qua một số trước tác như Khóa Tư Lục , thiền

tông Chỉ Nam, Thượng sĩ ngữ lục, Thạch thất mỹ ngữ, Thiền lâm thiết chủng ngữ lục,

Tăng già toái sự, Đại hương hải ấn thi tập, Đoan sách lục, Tham thiền yếu chỉ, Phổ tuệ

ngữ lục, Ngọc hiên tập. Những tác phẩm trên hiện chưa SƯU tầm được hết nên chủ yếu

dựa vào Khóa hư lục, Thượng sĩ ngữ lục, Thiền Tông chỉ nam tự. Ở đây ngoài kế thừa

tinh thần Phật tại tâm, ngoài tâm không có Phật và Phật tính bình đẳng, Phật thánh không

khác, Thiền phái Trúc Lâm còn chủ trương dung hợp tam giáo, đặc biệt ảnh hưởng tư

tưởng Lão - Trang. Hơn nữa còn chủ trương dung hợp thiền tịnh, chỉ bày ngồi thiền niệm

phật, thọ trì cấm giới, khuyến thiện ngăn ác, bố thí từ bi tôn trọng phép nước, hiếu thuận

cha mẹ, kính thờ vua...

Theo tinh thần "Nhất thiết duy tâm tạo" và "Vạn pháp vô thường" nên họ có một

nhân sinh quan rất tích cực xem sống chết là lẽ thường, hưng suy là quy luật tự nhiên

khổng tham sống sợ chết, không tham cầu danh lợi, hết lòng thực hành hạnh quên mình

vì người (vô ngã vị tha). Có lẽ vì vậy thời Lý Trần đã tạo nên được tinh thần trong sáng

thuần khiết nhưng vẫn tỏa rạng hào khí Đông A ngút trời.

Tóm lại, Phật giáo Việt Nam với hơn một ngàn năm du nhập đã không ngừng củng

cố và phát triển mà đỉnh cao là thời Lý - Trần. Phật giáo Việt Nam thời Lý - Trần vừa kế

thừa tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa của giáo lý triết học truyền thống lại vừa rộng

mở, linh họat vận động theo hướng Việt hóa cho phù hợp với hòan cảnh đất nước, đậm

nét nhất là hướng tùy tục và bình dân hóa. Nó dung hợp các tông phái Phật giáo, dung

hòa cả những tư tưởng ngoài Phật giáo, điển hình là Nho giáo và Lão giáo cùng tín

ngưỡng văn hóa dân gian bản địa. Nhờ vậy Phật giáo Lý - Trần đã tạo nên bản sắc riêng,

phù hợp với tâm lý xã hội gắn bó mật thiết với cuộc sống, hòa nhập với đời thường. Đây

là một tôn giáo có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống tư tưởng góp phần làm nên chất

khoan giản, nhân thứ, cởi mở của thời đại. Phật giáo Lý - Trần mà tinh hoa của nó là

thiền tổng bên cạnh tôn chỉ chung là "Trực chỉ nhân tâm - Kiến tánh thành phật" với tinh

thẩn phá châp, tùy duyên của thiền, Thiền tông Lý-Trần Việt Nam còn có những đặc

trưng riêng. Dễ thấy nhất là Thiền được đưa vào phục vụ cho đất nước, cho cuộc sống và

ngày càng có xu hướng bình dân hóa hơn.

1.3.Vài nét về mối quan hệ giữa thơ và thiền:

Từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, nhắc đến một chữ "thơ" là nhắc đến nỗi trăn trở

liên miên bất tận của tất cả những người làm thơ, yêu thơ, thích thơ với câu hỏi: Thơ là gì

? Từ "Văn tâm điêu long" của Lưu Hiệp ở phương Đông, "Nghệ thuật thi ca" của Aristote

ở phương Tây vào khoang thế kỷ VI trước công nguyên cho đến các nhà thơ lưu tiếng

muôn đời trên khắp hoàn vũ như: Lý Bạch, Đỗ Phủ, Bạch Cư Dị ở Trung Quốc, NuKaDa,

Hitomaro, Matsuo Bashô Sogi ở Nhật Bản, Puskin, Byron, Siler, Tago, Huygô Neruda,

Híchmét, Lamactin, Brếch, Muytxê, Malácmê, Pônclôđen, Lécmôntốp... và các nhà

nghiên cứu thơ ca nhưBakhtin, Jakoson, Bêlinski, HJauss, A.Potepnia, Mâylăc, Gadamer,

Asmus, T.Eliot, Livix, Risoc, Iubôrep, M.Kharapchencô, Slenstet, Zaiash Nừô, Tonxtoi,

Gogol, Veselovski,... Cũng như các nhà thơ, nhà nghiên cứu ở Việt Nam từ xưa đến nay

như : Lê Quý Đôn, Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Hồ Chí Minh, Hồ Xuân Hương, Nguyễn

Đình Chiểu, Hoài Thanh, Tố Hữu, Huy Cận, Xuân Diệu, Chế Lan Viên... đều có những

nhận xét, trình tường về thơ. Thơ ca xuất hiện từ buổi trời đất mới thành tựu, Blaga

Dimitrova viết: Ôi nếu tôi không biết thơ là gì thì cả đời tôi, tôi chẳng đau khổ thế này.

Nhiều người cố gắng định nghĩa về thơ : Từ xưa quan niệm "thi ngôn chí" (Thư - Nghiêu

điển) được xem như là thiên kinh địa nghĩa. "Tại tâm vi chí, phát ngôn vi thi". (Thi - Đại

tự). Lục cơ cho rằng "Thi duyên tình". Bạch Cư Di lại nói: "Thi giả, căn tình, miêu ngôn,

hoa thanh, nghĩa thực" (Thơ, tình là gốc, lời là ngọn, âm thanh là hoa, nghĩa là quả). Lê

Quý Đôn viết: "Thơ phát khởi từ trong lòng người ta. Nghiêm Vũ đòi hỏi thơ phải vươn

tới chỗ kì diệu thấu triệt, lung linh, không thể nắm bắt được, như âm thanh giữa trời cao,

sắc đẹp trong dung nhan, ánh trăng dưới đáy nước, hình ảnh trong gương... Bêlinski tự

đặt câu hỏi: Thơ là gì? rồi tự trả lời "Thơ là sự sống, là cái mỉm cười, của sự sống đang

reo vui và thoăn thoắt biến hóa ... thơ là ánh tươi hồng trên môi thiếu nữ là tiếng cười

hiền lành trong trẻo của trẻ thơ. Nhưng khi đánh giá về thơ thì Puskin lại viết: "Thơ là

nghệ thuật là nghệ thuật là sự sáng tạo có tính chất nghệ sĩ, nghĩa là rút cuộc thơ phải

được sáng tạo ương ngôn từ" . Octavio Paz lại hình dung:

"Giữa những điều ta nhìn và nói

Giữa những điều ta nói và im lặng

Giữa những điều ta im lặng và mơ

Giữa những điều ta mơ và quên lãng

Là thơ ca

Thơ trườn đi

Giữa có và không

Nói

Cái ta im lặng Im lặng Cái ta nói Mơ

Cái ta lãng quên..."

Jakobson nghĩ rằng: "Thơ là sự phân vân kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa". Hay có

người lên tiếng : Thơ là tiếng vọng của tâm hồn, thơ là sự thể hiện sâu sắc tâm trạng , thơ

là tiếng hát, nhà thơ là người hát rong, hát lên niềm khao khát sự sống, tình yêu, tự do;

thơ là văn bản không liên tục, thơ có nhiều chỗ "lặng", cái "lặng" của thơ tràn ngập cảm

xúc và tư duy; thơ là sự trùng điệp... Ngoài ra còn có hằng hà sa số những định nghĩa về

thơ. Nhưng có lẽ mãi mãi thơ vẫn là ẩn số bí mật, người ta có thể tiếp cận gần đến chứ

không thể đến đích được. Cho nên mãi mãi không có định nghĩa nào là hoan mỹ cả. Hình

như thơ là cái gì vừa gần gũi vừa xa lạ; vừa thực vừa ảo; như có như không; khó lòng

nắm bắt nhưng lại tồn tại rõ ràng.

Cũng như “Thơ", "Thiền" là một phạm trù rộng lớn, thâm diệu, khó lòng định nghĩa

rõ ràng, thiền là phương pháp tu luyện thân tâm có từ thời xưa, tiếng Phạn là Dhỳana,

dịch âm là "thiền na" gọi tắt là "thiền", nghĩa là tĩnh lự, tĩnh tâm, chuyên chú vào một vấn

đề, sự việc nhất định và tập trung suy tư vào vấn đề đó, buông bỏ hết mọi thứ xung

quanh. Dấu hiệu chung của các dạng tu tập thiền là sự hướng dẫn con người đạt được tâm

tập trung, lắng đọng như một hồ nước người ta có thể nhìn thấu đến đáy, nếu mặt nước

không xao động. Tiến sĩ khoa tâm lý học kiêm thiền sư nổi tiếng người Anh David

Fontana luận về thiền như sau : "Thiền không có nghĩa là ngủ gục, để tâm chìm lắng vào

cõi hôn mê, trốn lìa thế gian, vị kỷ, chỉ nghĩ tới mình, để mình rơi vào vọng tưởng, quên

mình ở đâu. Thiền là giữ tâm tỉnh táo, linh động, chú tâm tập trung nhìn thế giới linh

động, hiện hữu rõ ràng như nó đang là, trau dồi tấm lòng nhân đạo, biết rõ mình là ai, ở

đâu." Thiền không chỉ ngồi xếp bằng theo thế Liên hoa (kiết già) mà có thể vận dụng

trong mọi sinh họat hàng ngày miễn sao tâm không bị cảnh chuyển, không bị loan theo

tác động bên ngoai. Lục tổ Huệ Năng nói: "Ngoài lìa tướng là thiền, trong không loạn là

định".

Nhà mỹ học nổi tiếng Trung Quốc nhận xét về ảnh hưởng của triết học thiền và mỹ

học thiền đối với văn hóa Trung Quốc như sau : "Thiền là cái cực tĩnh trong cái động,

cũng như là cái cực động trong cái tĩnh, tịch mà thường chiếu, chiếu mà thường tịch,

động tĩnh không chia hai, tìm thẳng tới cội nguồn của sự sống. Thiền là cõi triết học và là

cõi nghệ thuật mà người Trung Quốc sau khi tiếp xúc với đại thừa phật giáo đã thể

nghiệm chỗ sâu sắc của tâm linh mà phát huy rực rỡ". Chúng ta cũng có thể nói như vậy

về ảnh hưởng của thiền đối với văn hóa văn học Việt Nam.

Thiền không chỉ là phương pháp tu, mà còn là một trạng thái tâm thức đặc biệt

thông qua công phu tu luyện không thể định nghĩa rõ ràng , không thể mô tả và phải do tự

mỗi người tự mình nếm trãi, cảm nhận. Tọa thiền là cách giúp con người khai mở kho

tàng trí tuệ và năng lực tiềm ẩn sâu trong mỗi con người, giúp con người khám phá , nhận

lại bản thể chân thật của mỗi con người, đạt đến con người toàn thiện, toàn mỹ.

Mặc dù thơ và thiền đều là những hình thái ý thức thuộc kiến trúc thượng tầng và có

uyên nguyên sâu xa, nhưng khởi nguyên lại rất khác nhau. về hình thức, thiền là cách

thức, phương pháp tu tập thuộc về tôn giáo còn thơ là cảm xúc, trăn trở của con người

được vật thể hóa bằng văn tự thuộc văn học. Xét về nội dung, thiền là phương tiện nhắm

đến chứng ngộ chân như nhận lại "con người thật khổng địa vị", phát huy tuệ giác, thoát

ly khổ hải; thơ dùng để bày tỏ lòng mình đối với con người và vạn vật, biểu hiện quan

điểm chủ quan của nhà thơ. Xét về cứu cánh, thì mục đích của thiền là thanh lọc tạp

niệm, chuyên tâm suy tư, nhận rõ con người chân thật, thóat ly đau khổ đạt tới Niết Bàn,

tự độ, độ người khác cùng được an lạc, vui vẻ. Còn thơ để bày tỏ lòng mình, truất được

khát vọng sẻ chia tâm sự, tự mình sảng khoai. Như đại thi hào Nguyễn Du kết thúc tác

phẩm vô tiền khoáng hậu của mình bằng hai câu thơ cực kì khiêm tốn:

"Lời quê chắp nhặt dông dài

Mua vui cũng được một vài trống canh"

Riêng về cảm thụ thì cảnh giới thiền mỗi người tự rõ, nóng lạnh tự biết, khó lòng

dùng ngôn ngữ bày tỏ được, dùng cố gắng bày tỏ cũng chỉ như ngón tay dùng để chỉ mặt

trăng thôi. Trần Thái Tông nói về chỗ này như sau :

Cá trung tư vị vô nhân thức Bao nhiêu thú vị chẳng ai hay

Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh Mặc kệ cho sư vui đến sáng

Còn thi nhân không những dùng thơ để tự tiêu khiển mà còn bày tỏ quan điểm, thái

độ của mình trước cuộc sống, dùng để cảm hóa người khác theo tinh thần "văn dĩ tải

đạo".

Tuy thơ và thiền có nhiều chỗ dị biệt như vậy, nhưng chúng ta đã có dịp chứng kiến

một sự thật hiển nhiên là từ giai đoan tiền đề, cho đến chính trong thời hoàng kim của thơ

ca Trung Quốc - thời Đường Tống (ảnh hưởng sâu rộng đến thơ ca Việt Nam) sự hòa hợp

như nước với sữa hòa lẫn vào nhau, bổ túc nâng đỡ nhau giữa thơ và thiền. Chính sự hòa

hợp này là một trong những nhân tố tạo nên một thời kỳ rực rỡ vô tiền khoáng hậu của

thơ ca Trung Quốc. Miêu tả sự dung hợp tuyệt diệu này, các nhà thơ nổi tiếng đều nhất trí

với Nguyễn Hiếu vấn đời Nam Tống :

"Thi vi thiền khách thiêm hoa cẩm

Thiền thị thi gia thiết ngọc đao"

(Thiền là con dao gọt ngọc của nhà thơ

Thơ là chiếc áo gấm thêu hoa của thiền khách)

Thiền như cơn gió nhẹ lộng vào vườn thơ hoa với muôn hồng nghìn tía, với ngọn

bút truyền thần, thi nhân hòa thiền vào thơ như ngàn hoa nhờ gió, thụ phấn, đơm hoa tạo

nên biết bao là rực rỡ, nó lại ánh lên màu sắc vi diệu của thiền. Thật là lạ lùng, kỳ diệu

xưa nay hiếm thấy. Từ bản chất của thiền mà luận, thơ không thể là thiền trên gấm thêu

thêm hoa, nhưng sự thật hiển nhiên cho thấy kết quả của việc dùng thơ ngụ thiền khiến

cho thiền học phát dương quang đại. Với thế mạnh của ngôn từ, thơ có sức gợi mãnh liệt,

không phải dùng thuật ngữ phật học mà vẫn tải cốt tủy tông chỉ nhà Phật. Hầu như các

bậc đại gia về thơ ca thời này đều chịu ảnh hưởng thiền lý trong sáng tác như thi phật

Vương Duy, Lý Bạch, Bạch Cư Dị, Liễu Tông Nguyên, Tô Đông Pha, Tô Triệt, Kiểu

Nhiên, Tư Không Đồ, Nghiêm Thương Lãng... Rất nhiều tác phẩm luận về thơ ca dựa

trên nền tảng thiền lý, dùng thiền lý luận thơ như "Thi pháp" của Kiểu Nhiên, "Thương

lãng thi thoại" của Nghiêm Vũ, ông chủ trương dung hợp giữa thiền đạo và thi đạo nhấn

mạnh khái niệm "Thần vận" và "Diệu ngữ"; "Thi phẩm" của Tư Không Đồ, "Thi Thức"

của Kiểu Nhiên... Thi học thời này được sự nâng đỡ của thiền học như "dao gọt ngọc" gọt

ngọc thành đồ trang sức đẹp đẽ nên nó không chỉ là bản thân thơ mà thôi. Có thể nói rằng

đặc chất của thơ Đường Tống là ở nơi thiền vị. Thiền khiến cho thơ Đường Tống thêm

giàu giai điệu riêng, ý vị riêng, thiền cũng là nhà thơ đem gấm thêu hoa chứ không chỉ

dùng dao gọt ngọc mà thôi đâu. Bên cạnh đó sự ra đời của các Tông phái Thiền ảnh

hưởng đến sự ra đời của các Tông phái thơ ca như Giang Tây thi phái, Điền viên phái,

Giang Hồ phái, Biến Tái phái, Sơn Thủy phái...

Thiền tông khởi nguyên từ Đức Phật Thích Ca trên hội Linh Sơn, giơ cành hoa lên

cao đại chúng ngơ ngác, chỉ có mình Đại Ca Diếp mỉm cười và được Phật ấn chứng, trao

truyền y bát. Công án "Niêm hoa vi tiếu" này mở đầu cho sự phát triển Thiền tông sau

này với tông chỉ không lập văn tự, truyền riêng ngoài giáo, chỉ thẳng tâm người, thấy

tánh thành Phật. Từ Đức Phật truyền tâm ấn cho Đại Ca Diếp ở An Độ truyền thừa đến

Đạt Ma qua hai mươi tám đời, Đạt Ma qua Trung Quốc tiếp tục truyền thừa đến Huệ

Năng là đời thứ ba mươi ba. Nếu tính riêng truyền thừa ở Trung Quốc thì Huệ Năng là

đời thứ sáu, mỗi đời đều có kệ truyền pháp, nhưng cũng chỉ là thầy truyền cho trò, không

được phổ biến rộng rãi. Đến đời ngũ tổ Hoang Nhẫn pháp thị cho các đệ tử trình kệ để tổ

xem ai khế hợp tâm tông thì được truyền y bát. Bài thơ "Thân thị bồ đề thọ" của Thần Tú

và bài họa lại "Bồ đề bổn vô thọ" của Huệ Năng lại được phổ biến rộng rãi gây tiếng

vang rất lớn, ảnh hưởng sâu rộng đến giới văn nhân cũng như thiền khách lúc bấy giờ.

Thiền học vi diệu, khó lòng dùng ngôn ngữ diễn tả hết được. Bên ngoài, thiền giúp

con người thanh lọc thân tâm khai mở trí tuệ, phát huy sức mạnh tinh thần, xét cứu cánh,

không ngoài chữ ngộ, do mê tâm loạn trí nên một đời mơ hồ; ngộ liền thấy sáng sủa ung

dung tự tại; mê như mây đen che khuất mặt trờ, ngộ như mặt trời chói rọi muôn nơi, đâu

đâu cũng tỏ rạng lạ thường . Trực hội chân tâm, thấu suốt tự tánh, liễu triệt thật tướng của

vũ trụ không thể dùng trí óc phân biệt hiểu thấu chỉ có thể trực tiếp hội nhập. Thiền lý

này được rất nhiều nhà thơ ứng dụng vào lĩnh vực thơ ca. Chủ trương tham thiền để học

thơ sớm nhất là Tô Đông Pha ở Trung Quốc. Ông viết: "Mượn thơ hay để tiêu khiển

trong đêm trường, gặp chỗ hay đẹp tức thì tham thiền". Nhưng truy ngược về quá khứ,

người đầu tiên dùng lý thiền đế luận thơ phải kể đến Lưu Hiệp, pháp danh Tuệ Địa với

tác phẩm được xem là lớn nhất của lý luận văn học Châu Á có thể sánh ngang với "Nghệ

thuật thơ ca" của Aristote như Lỗ Tấn đã từng khẳng định"[31,l 18].

Ông xây dựng một lý luận văn học dựa trên "cơ chế lý luận Phật giáo" [31,120].

Theo Phan Ngọc (người dịch tác phẩm Văn tâm điêu long) cho rằng tác giả đánh giá văn

học dựa trên "phương pháp phân tích phật giáo" [31,118] và khẳng định "Khổng có Phật

giáo thì không có văn hóa Trung Quốc thời Đường Tống" [31,123]. Hàn Câu, Lữ Bổn

Trung đem phương pháp tham thiền dạy người học thơ. Nếu ai đến hỏi thi pháp, thì họ

bảo hãy tham bài thơ này làm phương pháp :

Sông Biện ngày xuôi ba trăm dặm

Về đông thuyền nhỏ lại trương buồm

Sớm từ nước Kỷ theo gió Bắc

Đêm đậu Ninh Lăng thấy trăng Nam

Sương vào bức cổ thụ

Gió lạnh rắc mưa mái tóc mình

Mơ màng chẳng thấy nơi nao đổ

Sắc nước màu trời biêng biếc xanh

Hàn, Lữ còn làm ra bốn bài thơ chỉ rõ mối quan hệ hòa hợp giữa thơ và thiền, chỉ

bày mục đích tham thiền học thơ, cùng xem bài thơ sau đây:

"Học thi đương như sơ học thiền (Học thơ phải như mới học thiền

Vị ngộ thả biến tham chư phương Chưa ngộ hãy đi tham vấn liền

Nhất triều ngộ bãi chánh pháp nhãn Một sáng ngộ xong chánh pháp nhãn

Tín thủ niêm xuất giá thành chương" Những gì tay viết thảy văn chương)

Tăng Lý Ly viết trong Đĩnh trai thi thoai: "Hậu Sơn bàn luận về thơ nói là đỗi

xương, Đông Hồ nói là bắn trúng đích, Tử Thương nói tham cứu nhiều là có chỗ vào,

íihưng kỳ thực là then chốt là chẳng phải ngộ nhập thì không thể được". Lục Du khẳng

định : "Xét kỹ trên thực tế Giang Tây thi phái đã đề xướng việc nghiên cứu thơ, vận dụng

cách thức linh họat để đạt được chỗ sâu rộng của lý thơ, nên được các nhà, các phái công

nhận, còn muốn biết được nguồn dòng của nó thì phải từ trong thiền học lưu xuất".

Thời xưa, người ta cho rằng thiên chức của thơ là "tải đạo". Còn chỗ cứu cánh của

thiền lại thuộc về bản thể luận của triết học. Đàm Nghệ Lục nói: "Chẳng nói lý vu vơ mà

thuật lại trạng thái sự vật để sáng tỏ lý. Chẳng nói đạo suông mà tả phương tiện tải đạo.

Nêu lên phần hình nhi hạ để làm sáng tỏ phần hình nhi thượng, khiến cho từ chỗ mênh

mông không hình tượng, mượn vật để khởi hứng, từ chỗ lờ mờ không có, ta lần theo dấu

vết mà như thấy được". Chỗ không thể nghĩ bàn của thiền , ngoai việc nhướng mày, chớp

mắt, giơ tay, đánh hét, truy bức người nghe đến chỗ tận cùng không lối thoát của tư duy

lý tính, các thiền sư còn dùng thi ca là phương thức biểu hiện. Vì xét về phần thi ca muốn

biểu đạt, điều nói ra được thì có hạn, mà ý lại vô cùng, điều mà trong Tân Tri Ngôn Luận

Thi đề cập: "Nói đến thơ đạo ắt có chỗ biểu hiện, ý tứ của thơ chẳng dừng ở những điều

thơ nói. Điều mà thơ muốn mọi người lãnh hội được chẳng phải điều thơ nói mà là những

điều thơ chưa nói ra, đây là chỗ "siêu dĩ tượng ngoai" (vượt ra ngoai hình tượng)".

Thơ còn giống thiền ở chỗ thể nghiệm. Thơ là nghệ thuật ngôn từ, đối tượng nhận

thức của nó là cụôc sống và con người. Thông qua ngôn từ, thơ biểu hiện những rung

cảm về nội tâm và ngoai cảnh và cách nhìn nhận về con người. Nhà thơ sáng tạo ra một

thế giới mà chính họ đã thể nghiệm, đó là cảnh giới mà trong đó nghệ thuật, nhân sinh và

vũ trụ hợp thành một thể. Chính do cùng thể ngộ nhân sinh và vũ trụ mà thơ và thiền gặp

nhau. Thứ đến, thiền và thơ đều chủ trương không chấp trước vào ngôn ngữ văn tự để đạt

đến sự diệu ngộ siêu nghiệm, về thơ thì có người nói: " Bất trước nhất tự, tận đắc phong

lưu" (Một chữ cũng chẳng câu nệ mới tỏ hết tài năng) có như vậy mới đạt tới ý ở ngoai

lời, biểu tượng ở ngoai hình tượng. Thiền thì chủ trương : "bất lập văn tự" (không lập văn

tự). Vì Phật tánh phổ khắp mười phương nhưng lại không có hình tượng, không thể nắm

bắt chỉ có thể trực hội. Thế nên phải vượt ra ngoai lề lối tư duy lôgic tầm thường, vượt ra

ngoai cái vỏ của ngôn ngữ, bằng vào sự thể ngộ siêu nghiệm của trực giác mới là phương

pháp hữu hiệu đến ngộ chân như. Lúc đó một bài thơ, một câu thơ, một chữ và cái chớp

mắt, nhướng mày, cái đánh, cái hét, cái tát hay cả lúc im lặng cũng không có gì khác biệt.

CHƯƠNG 2: CON NGƯỜI TRONG THƠ THIÊN LÝ – TRẦN

DƯỚI GÓC NHÌN THI PHÁP HỌC HIỆN ĐẠI

2.1.Con người thật không địa vị trong thơ thiền Lý-Trần.

"Văn học là khoa học về con người" câu nói kinh điển của M.Gorki, cho đến nay và

mãi về sau không hề cũ. Con người vừa là đối tượng chủ yếu vừa là mục đích cuối cùng

của văn học. Văn học là nghệ thuật miêu tả, phản ánh thể hiện con người và vì con người.

Dù cho miêu tả phật, thần hay miêu tả thiên nhiên, vạn vật, văn học đều thể hiện con

người. Chúng ta không thể tìm hiểu, nghiên cứu, lý giải một hệ thống, một trào lưu, một

giai đoạn một hiện tượng văn học mà bỏ qua con người được thể hiện trong đó.

Văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù, quan niệm nghệ thuật về con người

thuộc phạm vi ý thức của văn học, gắn liền với chức năng nhiệm vụ, và cách cắt nghĩa

của văn học đối với con người. Sáng tác văn học là một hoạt động nhận thức nên luôn

mang tính quan niệm. Phản ánh, thể hiện con người, tất nhiên văn học không thể không

có quan niệm về con người. Đây là một phạm trù quan trọng của thi pháp học, hướng ta

nhìn về trung tâm quan niệm thẩm mỹ của nhà văn. Người ta không thể xây dựng hình

tượng con người nếu như không hiểu biết cảm nhận và có các phương pháp, thủ thuật

nhất định. Chính nhờ điều này, đã tạo nên chiều sâu, tính độc đáo, tính nghệ thuật của

hình tượng con người ương văn học.

Theo Trần Đình Sử, quan niệm nghệ thuật về con người là nguyên tắc lý giải, cảm

thụ của chủ thể. Tức quan niệm nghệ thuật về con người là sự lý giải, cắt nghĩa, sự cảm

nhận con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương tiện, biện pháp thể hiện

con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ thuật và giá trị thẩm mỹ của tác phẩm.

Nguyễn Thị Bích Hải cho rằng cách lý giải các câu hỏi: Con người là ai? Vị trí của nó

trong trời đất này, trong nhân quần, xã hội này? Con người thế nào là thiện, là mỹ? Con

người thế nào mới xứng đáng là con người? Làm nên hệ thống quan niệm nghệ thuật về

con người. Con người trong văn học không thể đồng nhất với con người trong thực tế, đó

là quan niệm về con người ấy một cách thẩm mỹ, nghệ thuật. Đôi khi nhà văn không ý

thức rõ rệt được vấn đề này nhưng nhiều nhà văn lớn với ý thức sứ mệnh nghệ thuật của

mình đã có ý thức về quan niệm nghệ thuật về con người. Hơn nữa, quan niệm con người

trong nghệ thuật khổng đồng nhất với quan niệm triết học về con người nhưng giữa

chúng có mối liên hệ rất mật thiết. Những quan niệm triết học về con người luôn ảnh

hưởng sâu sắc đến nghệ thuật. Để phân biệt quan niệm nghệ thuật về con người với các

quan niệm triết học, xã hội học...Về con người, các nhà lý luận chủ yếu dựa vào đặc

trưng hình tượng sự phản ánh phương diện cảm tính của hiện thực.

Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học có cơ sở sâu xa ương thực tế lịch

sử. Mác nói: "Trong tất cả các hình thái ý thức xã hội có trước chủ nghĩa tư bản các đặc

điểm đẳng cấp và tầng lớp được từng cá nhân riêng lẻ thời đó cảm nhận như là cá tính

không thể tách rời của họ". Ngược lại "Trong các xã hội có sự thống trị của tư hữu ruộng

đất, thì các quan hệ tự nhiên lại chiếm ưu thế. Nơi nào tư bản thống trị thì các yếu tố

được tạo thành bằng phương thức xã hội và lịch sử chiếm ưu thế. Hiểu như vậy, thì quan

niệm nghệ thuật về con người là một sản phẩm của lịch sử. Hơn nữa, nó còn là sản phẩm

của văn hóa, tư tưởng. E.Kuprêanova nói : "Quan niệm con người là hình thức đặc thù

nhất của sự phản ánh nghệ thuật, trong nó thể hiện sự tác động qua lại của nghệ thuật với

các hình thái xã hội khác." Cho nên dù quan niệm con người trong từng thời đại khác

nhau nhưng vẫn mang dấu ấn của quan niệm thống trị. Quan niệm con người chính là sự

khám phá về con người, nó phản ánh cấu trúc của nhân cách con người, tất nhiên nó cũng

mang dấu ấn sáng tạo của cá tính nghệ thuật gắn liền với cái nhìn nghệ sĩ. V.Sécbina nói :

"Quan niệm con người tạo thành cơ sở, nhân tố vận động của nghệ thuật thành bản chất

nội tại của hình tượng nghệ thuật".

Nhưng không phải bất cứ cách cắt nghĩa lý giải nào về con người cũng là quan niệm

nghệ thuật về con người, mà là cách cắt nghĩa có tính phổ quát tột cùng mang ý vị triết

học, nó thể hiện cái giới hạn tối đa trong việc miêu tả con người. Quan niệm nghệ thuật

về con người luôn hướng vào con người trong mọi chiều sâu của nó, cho nên đây là tiêu

chuẩn quan trọng nhất để đánh giá giá trị nhân văn vốn có của văn học. Những tác phẩm

minh hoa sử dụng nhân vật như là việc minh hoa đơn giản, tất nhiên xem nhẹ việc khám

phá về con người, do đó, nội dung nhân văn thường nghèo nàn. Nghệ sĩ là người suy nghĩ

về con người, nêu ra những tư tưởng mới để tìm hiểu về con người.

Quan niệm nghệ thuật về con người là hệ qui chiếu nội tại của chủ thể trong cảm

nhận con người, quan niệm này xét đến toàn bộ quan niệm về con người trong sự sáng

tạo đổi mới. Tâm lý con người là một lĩnh vực vô cùng rộng lớn, nhiều ngóc ngách sâu

thẳm, nhiều chiều hướng để nhà văn dùng làm đối tượng miêu tả. Từ ý nghĩ, suy tính,

tâm trạng, trạng thái đến miêu tả ý thức, vô thức thậm chí tiềm thức. L.Tônxtôi đã rất

thành công trong việc miêu tả tả tâm lý nhân vật Đôxtôíepxki thành danh nhờ vào tuyệt kĩ

độc thoại nội tâm, đa thanh thoại trong tiểu thuyết. Ngoài ra, chi tiết, ngôn ngữ cũng là

phạm vi thể hiện quan niệm về con người như những yếu tố khác song chúng chỉ biểu

hiện trong tính hệ thống, sự lặp lại có qui luật, có sự liên hệ chi phối lẫn nhau.

Quan niệm về con người thay đổi chẳng những đề tài của văn học không ngừng thay

đổi làm cho đối tượng được nhìn từ những góc độ mới. Bỏ qua hay xem nhẹ quan niệm

nghệ thuật về con người sẽ dẫn đến hiểu đơn giản hay phiến diện về văn học hoặc đồng

nhất thế giới tư tưởng với thế giới quan, hạ thấp yêu cầu sáng tạo tư tưởng nghệ thuật,

thẩm mỹ của nhà văn, kết quả là xem nhẹ vai trò sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. vấn đề

này thực chất là vấn đề tính năng động của nghệ thuật trong việc phản ánh hiện thực lý

giải con người bằng các phương tiện nghệ thuật, là vấn đề giới hạn, phạm vi chiếm lĩnh

đời sống của một hệ thống nghệ thuật, là khả năng thâm nhập vào các góc độ, phương

diện khác nhau của cuộc đời vốn muôn màu muôn vẻ.

Như vậy quan niệm nghệ thuật về con người là phạm trù trung tâm, là yếu tố cơ

bản, then chốt nhất của một chỉnh thể nghệ thuật, một hiện tượng nghệ thuật. Nó còn là

phạm trù trung tâm của thi pháp học chi phối những yếu tố khác của thi pháp. Sự phát

ưiển đổi mới và đa dạng của văn học trước hết là đổi mới về quan niệm nghệ thuật về con

người. Nghiên cứu vấn đề này giúp ta thâm nhập vào qui luật tư duy của văn học, khám

phá qui luật vận động và phát triển của văn học.

Quan niệm về con người nhìn từ góc độ triết học tuy không đồng nhất với quan

niệm nghệ thuật về con người nhưng giữa chúng có mối quan hệ mật thiết. Những quan

niệm triết học về con người luôn có ảnh hưởng sâu sắc hình thành nên quan niệm nghệ

thuật về con người. Triết học cổ đại, con người luôn được đặt trong mối quan hộ tương

dữ, tương thông với vũ trụ vạn vật. Con người là "tiểu vũ trụ" trong lòng "đại vũ trụ".Con

người đầy đủ tất cả những tố chất của đất trời. Mạnh tử nói "vạn vật giai bị ư ngã"(Vạn

vật đều đầy đủ nơi ta). Trang tử thì cho rằng "thiên địa dữ cùng sinh ra với ta,vạn vật với

ta là một). Quan niệm "con người vũ trụ "này có từ thời cổ, tồn tại suốt thời phong kiến,

ảnh hưởng đến tận thời cận đại. Max phân ra con người tự nhiên, con người xã hội, con

người nhân cách. Nhà tâm phân học Freud đề xuất mối quan hệ biện chứng giữa con

người tiềm thức , con người ý thức, con người vô thức. Ông quan tâm đến sự xung đột và

thống nhất giữa bản ngã và siêu ngã. Kế thừa tư tưởng Max, Trần Đức Thảo khẳng định

bản chất người có các cấp độ khác nhau. cấp độ nổi là bản chất cá nhân lệ thuộc vào điều

kiện giai cấp. cấp độ sâu hơn là bản chất cá nhân và nhân cách, hai cấp độ này tổng hòa

trong con người và vận động trong quá trình vừa ổn định vừa biến đổi. M. Bakh Tin phát

hiện ra: "Không bao giờ có sự trùng khít của bản thân con người với "thân phận" và " địa

vị "của họ..."Cuộc sống đích thực của nhân cách được thể hiện dường như ở điểm không

trùng khít này của con người với chính nó. ở điểm con người thoát ra khỏi những giới

hạn của những gì mà nó đang có như là một tồn tại vật thể (người viết nhấn mạnh). Theo

Nguyễn Văn Xuất, " Sự sống đích thực của nhân cách mà Đôtxtôiepxki quan niệm chính

là con người nhân cách, một bình diện mới về con người là"Con người trong con

người"[103,28].

Trước nhất và dễ thấy nhất là thơ thiền Lý- Trần đề cập tới con người thực thể hay

nói theo ngôn ngữ thiền là con người tứ đại. Tứ đại bao gồm địa đại (đất )là những thứ

thuộc về xương thịt, thủy đại (nước) là những thứ thuộc về máu huyết, tủy....,hỏa đại

(lửa) là những thứ thuộc về hơi ấm,hơi nóng trong cơ thể, phong đại (gió)gồm những thứ

thuốc về hơi khí. Con người thực thể này không được các tác giả miêu tả theo vẻ đẹp của

hình dáng bên ngoài như Kiều Nguyễn Du:

..."Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang

Hoa cười ngọc thốt đoan trang

Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da..."

Dưới cái nhìn của các vị thiền sư, thi sĩ thời Lý- Trần, con người tứ đại vốn do bốn

yếu tố xung khắc trong bản chất tạo thành. Những yếu tố này kết hợp với nhau khi thuận

duyên, hết duyên chúng lại tan rã. Cho nên cái thân người vốn không ổn định, không

thường hằng. Con người thực thể luôn bị sự chi phối bởi quy luật "Sinh, lão, bệnh,

tử",cũng như vũ trụ, vạn vật bị chi phối bởi quy luật "Sinh, trụ, dị, diệt". Mãn Giác thiền

sư với chỉ bốn câu, hai mươi chữ đã khái quát toàn bộ các quy luật này bằng hình tượng

độc đáo,có sức gợi cảm:

Xuân khứ bách hoa lạc

Xuân đáo bách hoa khai.

Sự trục nhãn tiền quá

Lão tùng đầu thượng lai.

(Xuân đi trăm hoa rụng

Xuân đến trăm hoa nở

Sự việc qua trước mắt

Trên đầu già đến rồi)

Thông thường người ta thấy hoa nở trước, hoa rụng sau như Bác Hồ nói:

Mai khôi hoa khai, hoa hưu tạ

(Hoa hồng nở, hoa hồng lại rụng)

Nói như vậy, chúng ta thấy rõ một vòng đời của hoa. Bắt đầu từ "nở" và kết thúc là

"rụng".Nhưng ở đây, vị thiền sư thời Lý- Trần vẽ ra vòng tuần hoàn sinh sinh hóa hóa,

liên miên bất tận bằng cách nói hoa rụng trước, hoa nở sau, gợi ra những vòng đời tiếp

theo của hoa. Các từ xuân, bách, hoa được dùng lặp lại ở cùng một vị trí và các động từ

đối nhau như khứ - đáo; lạc - khai; nhãn tiền quá - đầu thượng lai như chỉ ra quy luật này

như bánh xe luân hồi tuần hoan mãi không dứt. Chữ "bách" được dùng lặp lại, không chỉ

là chỉ số trăm, mà là chỉ tất cả mọi loài không có loài nào nằm ngoai quy luật "sinh, trụ,

dị, diệt" cả. Hình ảnh mái tóc bạc được nhắc gián tiếp là biểu tượng của dấu ấn thời gian

để lại trên đầu người với quy luật "sinh, lão, bệnh, tử" nghiệt ngã. Những thứ đáng sợ

nhất của đời người không ai muốn gặp nhưng không ai thóat khỏi. Lý Bạch từng than :

"Quân bất kiến

Cao đường minh kính bi bạch phát

Triêu như thanh ty, mộ như tuyết"

Cũng như Viên Chiếu nhìn thấy:

Thân như tường bích dĩ đối thì

Cứ thế thông thông thục bất bi [98, 43]

(Thân như tường vách đã lung lay

Lật đật người đời cũng xót thay)

Dưới cái nhìn thân người không bền chắc, lúc nào cũng có thể hoai diệt. Đau khổ

hơn là thân thể đi dần đến hoai diệt mà ta không làm chủ được. Thiền sư Vạn Hạnh cảnh

tỉnh mọi người một cách mạnh mẽ bằng hình ảnh:

Thân như điện ảnh hữu hoan vô

Vạn mộc xuân vinh thu hưu khô [98,28]

(Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi, thu não nùng)

Với tuệ nhãn của ni sư Diệu Nhân, qui luật "sinh, lão, bệnh, tử" là qui luật tự nhiên,

chân lý của vạn vật. Nếu có người muốn trốn khỏi qui luật này là những người bất trí, tự

mình trói buộc mình :

Sinh, lão, bệnh, tử

Tự cổ thường nhiên

Dục cầu xuất ly

Giải phược thiêm triền [98, 55]

Con người sinh ra, lớn lên theo dòng chảy một chiều của thời gian, phải già, bệnh

rồi cuối cùng là về với cát bụi. Đây là ngưỡng cửa cuối cùng mà ai cũng phải bước qua.

Theo lý duyên sanh của Phật giáo, mọi thứ trên cõi đời này không ngòai nhân duyên

mà có. Nhân duyên hợp thì thành, nhân duyên tan thì rã. Thân người cũng vậy. Cho nên

Đạo Huệ cho rằng :

Địa, thủy, hỏa, phong, thức

Nguyên lai nhất thiết không [98, 92]

(Đất nước giáo lửa thức

Hết thảy vốn đều không)

"Không" đây không có nghĩa là không có, bởi nó vốn hiện hữu, mà là không thật có

vì : "Như vân hoan tụ tán" (Mây tụ rồi tan đấy). Quan niệm cho rằng sự tan hợp của thân

người không khác gì sự tan hợp của mây trời chợt có, chợt không là nhìn thân người

trong sự vận động. Không ít người bám vào đây cho rằng đó là con người bi quan, yếm

thế, chán đời. Có phải đúng như vậy chăng?

Thật ra thơ thiền đề cập tới con người thực thể. Không phải chỉ để nói về nó, mà

xem nó như là chất dẫn để nói về một con người khác. Theo các vị thiền sư - thi sĩ, mục

đích tối hậu, xuyên suốt của thơ thiền chính là khám phá, nhận lại "con người thật không

địa vị" trong mỗi người, là "chân tâm", "phật tánh" ương lời dạy "tất cả chúng sanh đều

có phật tánh" của đức Phật. Cốt tủy của Phật giáo nói chung, thiền tông nói riêng là ngộ

được "con người thật không địa vị" này. Đây là mấu chốt của bản thể luận, cũng là cảnh

giới cao nhất của giải thóat luận, giải phóng con người với ý nghĩa cao nhất, triệt để nhất.

"Con người thật không địa vị" là hình tượng "nương sanh diện" (khuôn mặt mẹ) của

Trần Thánh Tông, là "chân diện mục" (khuôn mặt thật), là "đồng tử" (trẻ thơ) của Tuệ

Trung Thượng sĩ, là "Đông hoang diện" (Chúa xuân), là "vô vị chân nhân" (người thật

không địa vị) của Trần Nhân Tông, là "bản lai nhân" (người thuở xưa) của Trần Minh

Tông, là "Diệu thể" (Thể vi diệu) của Đạo Huệ, là "Tự tại nhân" (con người tự do) của

Hiện Quang...

Trần Nhân Tông thấy rằng tuy nó không ngoai con người xương thịt nhưng thật

không dễ nhận ra.

Vô vị chân nhân xích nhục đoàn

Hồng hồng bạch bạch mạc tương mãn

Thùy tri vân quyện trường không tịch

Thúy lộ thiên biên nhất dạng san [98, 135]

("Vô vị chân nhân" thịt đỏ au

Hồng hồng trắng trắng dối chi nhau

Ai hay mây cuốn trời quanh tạnh

Núi hiện chân trời biếc một màu)

"Vô vị chân nhân" được dịch là "Con người thật không địa vị". Không phải là bậc

chân nhân chưa thành Phật cũng chỉ là khối thịt đỏ hỏn như có người đã dịch. Vì chữ

"nhân" mới là từ trung tâm, còn phần trước là định ngữ. Bài thơ này có lẽ tác giả lấy cảm

hứng từ một đoan sau trong "Lâm Tế ngữ lục" của Lâm Tế Nghĩa Huyền hiển thị tông

phong khai ngộ cho người hậu học: "Xích nhục đoan thượng, hữu nhất vô vị chân nhân,

thường tùng nhữ đẳng chư nhân diện môn xuất nhập, vị chứng cứ giả khán khán" [48,

201](trong thân xác máu thịt đỏ hỏn có một con người thật, không có địa vị, thường cùng

các ông ra vào, ai chưa thấy rõ, hãy xem cho kỹ). Hình ảnh mặt trời thường sáng, nhưng

do mây đen che phủ, không thấy được sự quang đãng. Nếu mây đen tan đi, cả bầu trời

quang tạnh hiện ra cảnh vật đẹp như tranh vẽ. Xa xa một rặng núi một màu xanh biếc

hiện ra bên chân trời. Giống như trong mỗi con người đều có con người thật, ẩn tàng

nhiều sự linh diệu bí mật, nhưng do chấp vào thân tứ đại nên bị che lấp . Chỉ cần phá

được sự câu chấp vào thân tứ đại sẽ thấy được con người kỳ diệu, chân thật. Từ nghi vấn

"Thúy tri" (ai biết) vừa như khích gợi óc tò mò của người nghe, vừa như muốn san sẻ

lòng mình, thúc giục quay về, truy thấu khuôn mặt thật của chính mình. Con người thật

này thật như:

"Tuế tuế hoa tùy tam nguyệt tiếu

Triêu triêu kê hướng ngũ canh minh" [98,178]

(Độ độ hoa cười xuân tới tiết

Đêm đêm gà gáy lúc tàn canh)

Từ "tuế" được dùng trùng điệp như qui luật tuần hoan của thời gian dài trong khi từ

"triêu" cũng lặp lại nhưng chỉ thời gian ngắn hơn. Cặp từ trùng điệp, đối nhau cho thấy

quy luật chân thật không khác nhau dù thời gian ngắn hay dài.

Thờ thiền hay dùng kiểu câu nghi vấn, có khi dùng nhiều câu nghi vấn liên tục dồn

độc giả vào đường cùng của tư duy lôgic, tư duy lý tính, mở ra một con đường sáng thẳng

đến chỗ bí ẩn nhất, cũng là quí báu nhất của mỗi con người.

"A thúy hội đắc nương sanh diện

Thủy tín nhân duyên tổng giả danh" [98,177]

(Khuôn mặt người mẹ ai hay biết

Trời nọ, người kia thảy giả danh)

Hay : "Tiền thật giả thị a thúy

Hậu đắc giả thị a thùy"[98,226]

(Người mất trước đó là ai,

Người được sau lại là ai?)

Tuệ Trung khẳng định :

"Mi mao tiêm hoành tỵ khổng thúy

Phật dữ chúng sanh đô nhất diện"[98, 225]

(Cũng nét mày ngang đường mũi dọc

Phật với chúng sanh mặt khác nào.)

Cách so sánh vị tỳ kheo Khánh Hỷ, mặt đẹp như trăng rằm, trí tuệ siêu việt, phong

thái hơn người với anh đồ tể Quảng Ngạch xấu xí, dốt nát không khác nhau càng làm nổi

rõ bình đẳng giữa Phật và chúng sanh . Phật và chúng sanh đều có cùng " bộ mặt thật với

lổng mày ngang, đường mũi dọc". Quan niệm này thật hi hữu, khó thấy trong thời cổ

trung đại, thời kỳ mà vua chỉ dám xưng là thiên tử (con trời), tất cả chiếu chỉ vua ban ra

đều phải mở đầu bằng câu "phụng thiên thừa vận" (Tuân theo mệnh trời). Thần, Trời,

Phật là những thế lực siêu nhiên, là bề trên của con người,là những lực lượng bất khả

xâm phạm. Nhưng Tuệ Trung,một vị quan lớn, một vị thiền sư- thi sĩ dám công nhiên cho

rằng : Phật và mọi chúng sanh bình đẳng như nhau. Cái nhìn vượt thời gian, không gian

này là nền tảng cơ sở vững chắc, mang tính nhân văn với ý nghĩa cao nhất, siêu việt thời

đại về sự bình đẳng tuyệt đối không chỉ giữa người với người mà còn giữa mọi chúng

sanh với Phật, Trời Thần Thánh (người viết nhấn mạnh). Bởi vì tất cả cùng có "Con

người thật không địa vị" như nhau.

Ông chỉ ra, nếu tham thấu được "Đồng tử" trong mỗi người thì sẽ vượt qua sông mê,

đến bến giác ngộ:

"Yếu đắc nhất cao siêu bỉ ngạn

Hiếu tham đồng tử diện tiền nhân"[98, 358]

(Muốn nhảy cho cao sang bến nọ

Hỏi xem con trẻ có như lời)

Trả lời người học, thế nào là "chân diện mục" :

"Dục thức giá ban chân diện mục

Ha ha nhật ngọ đả tam canh "[98, 166]

Muốn tìm ra cái gì là khuôn mặt thực của mình mà hướng ngoại tìm cầu là vô ích.

Dù cho từ giữa trưa ngủ tít đến canh ba thì cũng không rời nó được. Ông nhấn mạnh

đừng nhọc công tìm kiếm khắp cùng trời đất, chỉ cần nhận lại cái xưa nay không khác:

"Diệu khúc, bản lai đầu cử xướng

Mạc tầm Nam Bắc dữ Đông Tây"

(Khúc diệu nguồn xưa xin cứ hát

Bốn phương thôi chớ hỏi nơi nao)

Đạo Huệ làm rõ hơn mối quan hệ giữa thân tứ đại ( sắc thân) và chân thân (diệu

thể), sắc thân dễ nhận ra, diệu thể khó lòng nắm bắt. Tuy sắc thân không phải là diệu thể,

nhưng ngoài sắc thân sẽ không có diệu thể :

"Sắc thân dữ diệu thể

Bất hợp bất phân ly" [95, 419]

Hai thứ này không phải một cũng không phải hai, không đồng nhất cũng không tách

biệt. Hình ảnh một cành hoa trong lò lửa đánh đổ mọi sự cố gắng tách bạch rạch ròi, thô

thiển sắc thân ra khỏi diệu thể :

"Nhược nhân yếu phân biệt

Lô trung hoa nhất chi." [95, 419]

(Nếu người nào muốn phân biệt ra

khác nào cành hoa trong lò lửa)

Chỉ rõ mối liên hệ giữa sắc thân và diệu thể, Lâm Tế Nghĩa Huyền nói:"Nó (diệu

thể) vốn vô hình thông suốt cả mười phương. Ở mắt là thấy, ở tai là nghe, ở mũi là ngửi,

ở miệng là đàm luận, ở tay thì cầm nắm, ở thân thì di chuyển, vốn là một minh tinh phân

làm sáu hòa hợp." [48,26]. Nó vốn ứng hiện mọi nơi, không gì giấu được nó. Cũng không

có bất cứ thứ gì chi phối, ảnh hưởng được con người ấy.

"Hàn thử đáo lai vô sở thức

Vị tằng phân thượng lão nhân can" [98, 249]

(Lạnh đến, nóng qua không nhận biết

Mảy may chẳng bận đến thân ông )

Con người ấy, dù trong hoàn cảnh nào, trong tình huống nào vẫn ung dung tự tại,

thường làm chủ mình, không gì lay chuyển nổi. Theo các thiền sư, nó vốn có sẵn trong

mỗi người, là "của quý trong nhà" theo cách nói của Trần Nhân Tông. Khi chưa nhận ra

được nó, sống được với nó đồng nghĩa với việc chưa nhận ra quy luật vận động của vạn

hữu, vì vậy bị qui luật ấy chi phối. Nhận được con người thật ấy rồi sẽ làm chủ được

mình, làm chủ được hoàn cảnh, làm chủ được thiên nhiên- Trần Nhân Tông ghi lại tiến

trình từ khi giác ngộ đến lúc đại ngộ.

"Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung

Như kim khám phá Đông hoàng diện

Thiền bản bồ đoàn khán trụy hồng." [98, 261]

(Tuổi trẻ chưa từng hiểu lễ sắc không

Xuân sang hoa nở rộn tơ lòng

Như nay thấu rõ "Đông hoàng diện"

Nệm cỏ ngồi yên ngó rụng hồng)

Thiền sư Thường Chiếu bày tỏ về con người ấy, nhưng khẳng định:

"Tại thế vi nhân thân

Tân vi như lai tạng

Chiếu diệu thả vô phương

Tầm chi cánh tuyệt kháng ." [98, 115]

(Ở thế là nhân thân

Tâm là Như lai tạng

Chiếu dại khắp muôn phương

Muốn tìm không thấy bóng.)

Đại bộ phận thơ thiền gắn với "con người thật không địa vị" hầu như ít khi miêu tả,

mà thể hiện sự chiêm nghiệm, khai thông. Thế giới thơ thiền ưu tiên cho sự tĩnh lặng, bởi

nó gắn với triết học thiền. Phép thiền định hóa thân thành phương thức chiếm lĩnh nghệ

thuật, đi vào tư duy nghệ thuật của thơ. Thơ thiền xem "con người thật không địa vị" vừa

là đối tượngvà cũng là mục đích cứu cánh. Thơ văn thời trung đại Việt nam thường miêu

tả hình dáng bề ngoài, nếu có cũng chỉ vài nét sơ lược về tính cách. Chưa thể có như

L.Tolstoi xem tâm lý như là đối tượng, Đostoevsky xem ý thức, tư tưởng như là đối

tượng để miêu tả. Nhưng thơ thiền ở Việt Nam, một vườn hoa thơ mới lạ một thời không

được công nhận thì khác. Hãy nghe Trần Thánh Tông bàn về "con người" trong con

người:

"Chân tâm chi dụng

Tinh tinh tịch tịch

Vô khứ vô lai

Vô tổn vô ích

Nhập đại, nhập tiểu

Nhậm tiểu nhậm nghịch

Động như vân hạc

Tĩnh như tường bích

Kỳ khinh như mao

Kỳ trọng như thạch

Sái sái nhi tịch

Khỏa khỏa nhi xích

Bất khả đạc lượng

Toàn vô tung tích

Kim nhật vị quân

Phân minh phẫu phách." [l01, 414]

(Dụng của chân tâm

Thông tuệ lặng lẽ

Không đến, không đi

Không bớt không thêm

Vào nhỏ vào to

Mặc kệ thuận hay nghịch

Động thì như mây như hạc

Tĩnh thì như tường như vách

Nhẹ tựa mây lông

Nặng như núi đá

Làu làu trong sạch

Trần trụi không có vật gì

Không thể đo lường

Không có tung tích

Nay ta vì ngươi

Tỏ bày rành mạch.)

Với quan niệm "thiên nhân hợp nhất" con người thời đó không xem tự nhiên là

khách thể, mà thấy trong mình đầy đủ cả tự nhiên trong đó. Sirmohaned Iqbat từng nói :"

Cái lẽ hợp nhất của mọi vật hiện hữu đã quá rõ ràng, khiến cho tôi dám tin rằng nếu ta

châm cây kim vào hoa hồng, cánh hoa sẽ nhỏ ra một giọt máu người." Con người trong

mối tương quan khăng khít với trời đất được Đoàn Văn Khâm, một vị thượng thư đời

Trần phát biểu:

"Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt

Viện tiền sơn thủy thị chân hình" [95, 290]

(Bạn thiền thôi hãy đừng thương xót

Non nước ngoài an ấy dáng xưa)

Mặc dù thân xác tứ đại của thiền sư Quảng Trí theo quy luật tự nhiên trở về với cát

bụi, nhưng chân thân của vị thiền sư này hòa vào vũ trụ vạn vật tương tục mãi không dứt.

Sơn (núi), thủy (sông nước) vốn là những thứ bao la rộng lớn, ước lệ cho sự trường cửu,

miên viễn dụ cho chân thân của người bất diệt . Xin nghe vị Nguyễn Công Bậc luận về

diệu thể của chân thân: "Cái diệu thể thì huyền tịch, không ở trong, không ở ngoài nhưng

lại là khởi nguyên của năm nguyên tố (đất, nước, gió, lửa, thức ). Còn cái đại dụng thì

tràn đầy, là cõi bao la, có hình thù, có thể chất, nhưng lại nằm trong khí thái hư. Nó

không có dấu hiệu để suy lường; không có bóng hình để tìm kiếm. Nó bao trùm cả ười

đất rộng lớn, đâu khó dò xem; Nó hòa đồng cả tinh tú huy hoàng dễ nào tìm xét. Dù có

then máy của tạo hóa chuyển vần, nó vẫn nghiễm nhiên tồn tại; dù có xô đẩy cho sự mau

chậm của âm dương vận động, thì cái bí yếu vẫn riêng sâu kín. Đó chẳng phải huyền tịch

hay sao?" [95,364].

Các vị thiền sư cho rằng nó là thứ bí ẩn lớn nhất trong mỗi con người, là mấu chốt

quan trọng để trả lời câu hỏi, con người là ai? Ta là ai? Câu hỏi này đeo đẳng mọi người

trong các thời đại từ xưa đến nay và có lẽ mãi mãi về sau. Nó là bản thể của vũ trụ,là

chân tánh của vạn vật.

Đạt được con người thật này, tự mình thể nghiệm, sống được với nó là cảnh giới

cao nhất của tự do, giải thoát. Có lẽ Thiền sư Mãn Giác đã thể nghiệm, sống trọn vẹn với

con người thật này, nên cho dù đang ở bên bờ vực thẳm giữa cái sống và cái chết, vẫn

ung dung tự tại khẳng định :

"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai" [98,46 ]

( Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua, sân trước một cành mai.)

Đặt hai câu thơ này trong toàn bài thơ mới thấy hết cái độc đáo của nó. Kết cấu bài

thơ này rất ít thấy, rất kỳ lạ. Bốn câu đầu, mỗi câu năm chữ, hình tượng hóa quy luật phổ

quát của tự nhiên; qui luật "sanh, trụ. Dị, diệt" ở vật và "sanh, lão, bệnh, tử" ỏ người. Bốn

câu trên như biểu hiện sự vô thường, chóng vánh, không vững chãi thì hai câu dưới mỗi

câu bảy chữ như đế bằng vững chắc, giữ vững bốn câu trên. Nếu cho rằng , hai câu dưới

là cách nói gở, kiểu các hảo hán khi sắp chết, "hai mươi năm sau vẫn là một hảo hán".

Hay cho rằng đây là sự phủ nhận những điều đã nói ở trên. Một cành mai nở trong đêm

tối vắng vẻ dù mùa xuân đã qua đi mang ý nghĩa phủ định qui luật "vô thường" của vạn

vật trong đó có con người. Không hẳn là như vậy.

Mai rất được chuộng trong thơ cổ, biểu thị sự thanh cao, trong sáng thuần khiết, là

"hoa trung tứ bảo" (tùng cúc trúc mai). Hình tượng " một cành mai" nở trong đêm vắng

dù cho mùa xuân qua đi thật kỳ đặc nhưng có sức cảm to lớn, gợi ta nhớ tới công án

"Niêm hoa vi tiếu". Trên hội Linh Sơn, Đức Phật đưa cành hoa lên, mọi người ngơ ngác,

chỉ Đại Ca Diếp mỉm cười. Như tiếng hát đinh tai của Thiền sư Lâm Tế làm tan vỡ si mê,

cố chấp, khai thông trí tuệ, như cây gậy của Đức Sơn đập tan vọng tưởng điên đảo, như ly

trà Triệu Châu, mỗi người uống thầm cảm nhận mùi vị của nó. Một cành mai như chân

thân của thiền sư, như con người bất diệt trong con người sanh diệt vượt qua tham lam,

sâu hận, si mê, vượt qua mọi giới hạn tầm thường của không gian, thời gian, vượt qua

khỏi mọi quy luật hữu hạn, vượt ra ngoài cố chấp, thành kiến, biên kiến là giá trị đích

thực của con người.

Tác giả mở đầu bài thơ với hình ảnh "Trăm hoa rụng", kết thúc với hình tượng "một

cành mai" nở trong đêm tối, hơn nữa bài thơ lại được viết lúc sắp "thi tịch" (mất) không

chỉ là cái nhìn lạc quan, tin tưởng yêu đời, ca ngợi sức sống mạnh mẽ, kiên định trước sự

biến đổi vô thường của vạn vật mà hướng tới "con người thật không địa vị" tự do, giải

thoát ra khỏi mọi giới hạn, vượt qua cả chính mình, vươn tới giá trị làm người đích thực,

giải phóng con người với ý nghĩa cao nhít. Nhà thơ đã dựng nên một tượng đài nghệ thuật

vô tiền khoáng hậu, mang ý nghĩa nhân văn lớn lao, có lẽ từ xưa đến nay chưa có ai vượt

qua được về con người đích thực trong mỗi con người.

Âm vang thông điệp của ngài vang vọng mãi nhắn lại với bao thế hệ sau hãy vươn

tới giá trị làm người đích thực. Tượng đài nghệ thuật thể hiện tinh thần bất diệt của con

người thời Lý- Trần sẽ đứng mãi với thời gian.

2.2.Con người trí tuệ:

Thơ thiền còn thể hiện con người có trí tuệ, bản lĩnh, tự tin ở năng lực, sức mạnh

của con người và chính mình. Không ỷ lại, hay nương tựa vào một ai hay một cái gì khác.

Đức Phật từng nói : "Các ngươi hãy tự thắp đuốc mà đi". Tuệ Trung cảnh tỉnh đệ tử :

"Báo quân hưu ỷ tha môn hộ

Nhất điểm xuân quang xứ xứ hoa." [98,160]

(Cửa người anh hãy thôi nương tựa

Một ánh xuân về hoa đó đây.)

Khẳng định sự tin tưởng vào tự lục, Tuệ Trung mở đầu bài "Thị chúng"bằng :

"Hưu tầm thiếu thất dữ Tào Khê"

Và kết thúc :

"Mạc tầm nam bắc dữ đông tây" [98,190]

Từ "Hưu" chỉ như lời khuyên, nhưng từ "Mạc" là từ phủ định mạnh mẽ. Ý phủ định

được tăng dần theo ngữ điệu, từ "hưu tầm" đến "Mạc tầm", từ những địa danh cụ thể

(Thiếu Thất, Tào khê) đến không gian rộng lớn (Nam, bắc, đông, tây).

Trần Minh Tông cũng dùng từ "hưu"trùng điệp biểu thị ý này :

"Hưu hưu ngoại mịch khổ thi công

Phất phất tỵ khổng cổ kim đồng." [98,291]

(Tìm ở bên ngoài chỉ luống công

Phập phồng cánh mũi xưa nay chung)

Thơ thiền như là thế giới của những dạng câu phủ định. số bài thơ xuất hiện dạng

này chiếm khoảng 60%, ngay ưong một bài, lắm khi được sử dụng nhiều lần:

"Đạo vô ảnh tượng

Xúc mục phi dao

Tự phản suy cầu

Mạc cầu tha đắc." [98,97 ]

(Đạo không hình bóng

Trước mắt đâu xa

Tìm tự lòng ta

Đừng tìm chốn khác )

Hay:

"Gia trung hữu bảo hưu tầm mịch

Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền."

(Trong nhà có của báu chớ tìm kiếm

Gặp cảnh vô tâm đừng nên hỏi thiền)

Tuy cùng sử dụng dạng câu phủ định nhưng không đơn điệu, nhàm chán, trái lại hết

sức phong phú đa dạng, tạo nhiều sắc thái ý nghĩa khác nhau.Có thể thấy các từ được

dùng nhiều lần như :bất, phi, mạc, hưu, vô, vị, nan, vật, bãi, hi, hãn, khẳng...

Sở dĩ có hiện tượng này hẳn là do đặc trưng chức năng của thơ thiền. Những từ biểu

thị ý phủ định rất đặc trưng trong việc truy bức, dồn ép người học vào tuyệt lộ của tư duy

lý tính, phá tan những thành kiến nhị nguyên, khư khư bám víu vào những thứ của ta,

thuộc về ta, ta đúng, ta giỏi....Khai thông dòng thác trí tuệ tìm ẩn sâu thẳm trong mỗi con

người.

Đó là những con người thông đời, liễu đạo, am hiểu Nho, Phật, Lão, dung thông

tam giáo. Đem trí tuệ và đức độ của mình làm lợi ích cho chúng sanh, góp phần không

nhỏ vào việc an bang định quốc, bảo vệ đất nước,thiết lập cuộc sống thanh bình thịnh trị,

ấm no hạnh phúc. Lý Nhân Tông khen Vạn Hạnh thiền sư:

"Vạn Hạnh dung tam tế

Chân phù cổ sấm thi

Hương quan danh cổ pháp

Trụ tích trấn vương kỳ." [95,386 ]

(Vạch Hạnh thông ba cõi

Lời ông nghiệm sấm thi

Quê hương làng cổ pháp

Chống gậy trấn kinh kỳ)

Vạn Hạnh còn có thể dự báo được vận mệnh của đất nước trong hiện tại và tương

lai bằng hình ảnh sinh động :

"Tật lê trần bắc thủy

Lý tử thọ nam thiên

Tứ phương can qua tĩnh

Bát biểu hạ bình yên." [ 95,223 ]

(Gốc lê chìm biển Bắc

Cây mận mọc trời Nam

Bốn phương yên giáo mác

Tám cõi ngợi bình an)

Sự thật lịch sử đã chứng minh lời tiên đoán, cũng là sự mong mỏi của vị thiền sư

này.

Như mọi người đều biết, thời trung đại các thế lực Thần, Phật, Tiên, Thánh là

những thế lực bất khả xâm phạm, quyền năng vô hạn, không có gì là không làm được.

Vua Lý Nhân Tông đã xem Thiền sư Giác Hải và đạo nhân Thông Huyền không khác gì

Phật, Tiên, không những có tấm lòng từ bi bao la như biển mà còn có năng lực phi

thường :

"Giác Hải tâm như hải

Thông Huyền đạo hưu huyền

Thần thông kiêm biến hóa

Nhất Phật nhất thần tiên." [95,383 ]

(Giác Hải tâm như biển

Thông Huyền đạo lại huyền

Thần thông và biến hóa

Một người là Phật, một là thần tiên.)

Hình ảnh con người có trí tuệ được hình dung:

"Trí giả do như nguyệt chiếu thiên

Quang hàm trần sát chiếu vô thiên." [98,90 ]

(Người có trí tuệ như trăng chiếu giữa trời

Ánh sáng bao phủ, không sót chỗ nào)

Một sự so sánh đầy sáng tạo và gợi cảm. Con người có trí tuệ dụ như mặt trăng với

ánh sáng lung linh giữa trời chiếu rọi khắp muôn nơi, không đâu là không tới, không gì

ngăn cản được, khó có thể dùng ngôn ngữ mà đo lường được. Trí tuệ được nói đến ở đây

không chỉ là hiểu biết là tri thức có được sau khi học, mà còn là chân trí tuệ (trí tuệ ba la

mật, từ nhà Phật), là trí tuệ tìm ẩn sâu kín trong mỗi con người, chỉ khi liễu ngộ thì mới

có được:

"Liễu ngộ thân tâm khai tuệ nhã

Biến hóa linh thông hiện thật tướng

Hành trụ tọa ngoa độc trác nhiên

ứng hiện hóa thân bất khả lượng

Tuy nhiên sung tắc biến hư không

Quan lai bất kiến như hữu tướng

Thế gian vô vật khả tỉ huống

Trường hiện linh quang minh lãng lãng

Thường thời diễn thuyết bất tư nghị

Vô đắc nhất ngôn dĩ vi đáng. [98,100]

(Hiểu thấu được "thân tâm" mới mở con "mắt tuệ"

Biến hóa linh thông làm cho thực tướng hiện ra

Đi, đứng, nằm, ngồi riêng nó cao vòi vọi

Hóa thân ứng hiện không thể nào lường được

Tuy rằng đầy khắp hư không

Nhưng xem ra không có hình tướng gì cả

Trên đời không có vật gì có thể so sánh

Ánh linh quang hiện không cùng, sáng vằng vặc

Lúc thường diễn thuyết, nhưng không thể nghĩ ngợi hay

luận bàn gì về nó được

Không có một lời nào để diễn tả cho thỏa đáng)

Nếu thời đó, con người thường tin vào các thế lực thần minh, thì con người tong thơ

Thiền rất vững lòng tin vào trí tuệ năng lực, sức mạnh vô biên của con người, không

những dám đối diện với vũ trụ, làm cho vũ trụ phải thay đổi trước tác động của với mình

với ý chí mãnh liệt:

"Nhất đàn chỉ phá vạn trúng sơn

Giá cá công phu dã thị nhàn"[98,248]

(Búng tay một cái, phá được vạn tầng núi

Công phu ấy cũng dễ dàng thôi)

Hay "Thiên địa do đàn chỉ

Sơn xuyên đẳng thần thanh."[98,175 ]

(Trời đất chỉ như búng ngón tay

Núi sông chỉ như tiếng dăng hắng.)

hoặc cách so sánh ấn tượng :

"Động như không cốc phong xao hưởng

Tĩnh nhược hàn đàm nguyện lậu minh" [ 98,252 ]

(Động tựa hang không gào gió táp

Tịnh như đầm lặng rọi trăng thanh )

Thơ Nho cũng nói tới con người có tài năng, trí tuệ nhưng hướng về phẩm chất, khí

tiết. Thiên nhiên là công cụ ước lệ để con người tự bộc lộ mình:

"Đào, lê xuân tận phương tâm yết

Tùng, cúc thu thân vãn tiết tuyền"

(Đào, lê khi xuân qua thì lòng thơm cũng hết

Tùng, cúc đến khí tiết muộn vào giữa thu vẫn còn.)

Tài năng của Trần Quang Khải cũng được miêu tả trong khí thế chống giặc:

“Đoạt sóc chương Dương độ

Cầm hồ Hàm Tử quan."

(Chương Dương cướp giáo giặc

Hàm Tử bắt quân thù )

Có khí thế át sao Ngưu như Phạm Ngũ Lão thì cũng chỉ vì nợ công danh:

"Nam nhi vị liễu công danh trái

Tu thính nhân gian thuyết Vũ Hầu"

(Nam nhi chưa trả xong nợ công danh

Thì thẹn khi nghe chuyện Gia Cát Lượng)

Tự tin vào con người, không nương tựa vào các thế lực khác, không chịu theo lối

mòn, dù đó là lối mòn của đức Phật, bậc đạo sư, giáo chủ của họ. Họ muốn tự sáng tạo, tự

khai phá con đường mới, bầu trời mới với ý chí xung thiên:

"Nam nhi tự hữu xung thiên chí

Hưu hướng Như Lai, hành xứ hành"[98, 108]

Đây là chỗ độc đáo, mới lạ của con người với tinh thần thiền. Thiền kích thích tự

mỗi người khai sáng con đường đi riêng cho mình. Không nên giáo điều, khổng bám víu

dù đó là Phật, là kinh điển. Chính điều này làm cho một số người không thấu hiểu tinh

thần thiền cho rằng tư tưởng này đi ngoai tôn chỉ, thậm chí chống lại giáo lý nhà Phật hay

khủng hoảng niềm tin đối với Phật giáo. Nhiều người còn đi xa hơn với cách nghĩ, những

vị thiền sư tuy thân đang ở cảnh Bụt nhưng lại mang lòng trần. Nếu chỉ bám víu vào ngôn

ngữ một cách giáo điều thì khi nghe:

"Mê chi cầu phật

Hoặc chi cầu thiền

Thiền, Phật bất cầu

Uổng khẩu vô nghiên (ngôn)" [98, 55]

(Mê muội cầu Phật

Nhầm lẫn cầu Thiền

Thiền, Phật bất cầu

Uổng miệng không nói)

Không khỏi có những nhận định như trên. Thật ra tinh thần của Quảng Nghiêm,

Diệu Nhân, Tuệ Trung mới là tinh thần "Thiền" chân chính.Tinh thần "phá chấp" triệt để.

Ngay cả tinh thần "phá chấp" cũng không chấp vào đó. Kinh Viên Giác có câu : "Nhất

thiết tu đa la giáo như tiêu chỉ nguyệt, nhược phục kiến nguyệt liễu tri sở tiêu tất cánh phi

nguyệt". (Hết thảy mọi giáo lý trong kinh điển đều như ngón tay chỉ mặt trăng, (phương

tiện đạt đến trí tuệ giải thoát). Muốn thấy mặt trăng mà chỉ dừng lại chỗ hiểu biết của

ngón tay thì rốt cuộc đó chẳng phải là trăng). Tuệ Trung cũng nói:

"Kiến nguyệt an năng khổ tầm chỉ" [98, 223]

(Thấy trăng, tìm gì ở ngón tay chỉ)

Con người trí tuệ được nhìn trong mối liên hệ với người ngu. Sự đối lập này được

tác giả lặp lại hai lần:

Ngu nhân điên đảo, bố sanh tử

Trí giả đạt quan nhàn nhi dĩ" [98, 220]

(Người ngu điên đảo, sợ sống chết

Người trí có cái nhìn thông suốt xem là chuyện thường

Quan niệm trí, ngu ở đây không được xem dưới góc độ bình thường, mà được nhìn

gắn với triết học Phật giáo. Dưới con mắt nhà Phật, người không sợ nhân quả, không tin

tội phước, không hiểu luật vô thường, không thấy được chân tướng của vạn pháp, nhất là

không ngộ được phật tính của mình là người ngu. Ngược lại, người biết sợ nhân quả, tin

tội phước, thấu rõ luật vô thường (mọi thứ đều không thường hằng), thấy rõ chân tánh,

thực tướng của vạn vật, cảnh giới cao nhất là ngộ được "con người thật không địa vị" của

mình.

Người ngu được hình dung bằng sự mê lầm, giống như "con hươu khát nước chạy

đuổi theo bóng nắng, chạy đông, chạy tây không lúc nào ngừng nghỉ" [98, 221].

Không quan niệm trí ngu như các vị thiển sư, Nguyễn Bỉnh Khiêm hiện ra trong thơ

là con người lý trí, nghị luận, khôn ngoan và lịch lãm. Ông đề xướng tư tưởng bất tranh

khi thế cuộc hỗn loan, kêu gọi mọi người không nên thi thố tài năng, phải nhẫn nhục, yên

phận và chịu đựng. Ông thật ngạo nghễ :

"Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Người khôn người đến chốn lao đao..."

Nguyễn Trãi thì không như vậy, tuy ông tự nói về mình như một con người đau

khổ, day dứt trước cuộc sống đầy mâu thuẫn. Ông quan niệm về cuộc đời rất sâu sắc, ý

thức về tài năng cá nhân mạnh mẽ. Con người có tài thì phải dùng vào việc lớn có ích cho

dân cho nước. Ông khẳng định một con người tận tâm tận lực muốn cống hiến trọn vẹn

trí tuệ, tài năng của mình cho cuộc sống, cho nhân dân, cho đất nước một cách vô oan, vô

hối:

"Thu đến cây nào chẳng lạ lùng

Một mình lạt thuở ba đông

Lâm tuyền ai rặng già làm khách

Tài đống lương cao ắt cả dùng"

Do con người này thây rõ được quy luật "sinh, trụ, dị, diệt" ở vật và qui luật "thành,

trụ, hoai, không" ở người nên họ có một nhân sinh quan vô cùng tích cực, không sợ sống

chết, không đàm mê sắc dục :

"Thân như điện ảnh hữu hoàn vô

Van mộc xuân vinh, thu hựu khô

Nhậm vận thịnh suy vô bố úy

Thịnh suy như lộ thảo đầu phô" [98, 28]

(Thân như bóng chớp có rồi không

Cây cối xuân tươi, thu não nùng

Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi

Thịnh suy như hạt sương đầu ngọn cỏ)

Cuộc đời con người vô cùng chóng vánh, ngắn ngủi. Hình ảnh thân người giống

như bóng chớp, có đó rồi mất đó, phát huy tác dụng cảnh tỉnh cho mọi người thấy được

sự vô thường của kiếp người. Thấy được như vậy không phải để bi quan, yếm thế mà để

đạt tới sự "vô bố úy" (không sợ hãi). Mặc cho cuộc đời thịnh hay suy, mặc cho số phận

vinh hay nhục, mặc cho hoàn cảnh bức bách thế nào vẫn giữ được tâm thế bình thản, an

nhiên không sợ hãi. Sự thật này đã chứng minh, những con người thời này với tâm thế

"vô bố úy" đã làm nên những sự nghiệp phi thường, để lại tiếng thơm muôn đời, hậu duệ

đời sau luôn tự hào về họ. Tại sao những con người này không sợ bất kì thứ gì, kể cả cái

chết. Có lẽ vì họ thâm nhập tư tưởng thịnh, suy, sống chết cũng như "hạt sương rơi trên

đầu ngọn cỏ".

"Nhậm vận" là bậc thứ bảy trong mười bậc tu, kể từ lúc mới tu đến khi chứng ngộ

theo "Thập mục ngưu đồ" (Mười bức tranh chăn trâu) nổi tiếng của thiền tông. Chúng ta

cùng thưởng thức bài tụng thứ bảy của Phổ Minh thiền sư về cảnh giới "Nhậm vận" (tùy

theo thời cuộc) này:

"Liễu ngạn xuân ba tịch chiếu trung

Đạm yên phương thảo lục nhung nhung

Cỏ xan khát ẩm tùy thời quá

Thạch thượng sơn đồng thụy chín nồng"

(Sóng xuân lặng chiếu liễu bên bờ

Khói nhạt cỏ thơm xanh mởn mơ

Ngày tháng đói ăn cùng khát uống

Mục đồng trên đá ngủ say sưa.)

Đại ý của bài tụng này là con người đạt tới mức "tùy duyên" nhưng "bất biến"

không bị mê đắm trong mọi hoàn cảnh. Tùy theo thế tục nhưng không nhiễm thế tục, tùy

duyên làm lợi ích cho chúng sanh nhưng không chấp vào sự làm của mình, thuận theo

dòng đời nhận ra bản tính. Tại sao thiên sư Vạn Hạnh , nguyên lão ba ưiều, đạo cao đức

trọng, lập nên nhiều công trạng lớn trong công cuộc chống giặc ngoại xâm, an bang định

quốc, lại dừng lại ở bậc thứ bảy. Có lẽ dù Vạn Hạnh là thiền sư, nhưng là thiền sư Việt

Nam , xu hướng dân tộc hóa vẩn còn len lỏi trong từng tế bào, thớ thịt của người hòa với

tư tưởng Bồ tát đạo quên mình vì người của nhà Phật chăng?

Theo Tuệ Trung, người có trí tuệ thông đời, liễu đạo, không những chỉ tự mình giác

ngộ mà càng quan trọng hơn là phải giác ngộ cho mọi người, mọi chúng sanh:

"Giác tha giác tự bạt mê đồ

Biến giới thanh lương tô nhiệt bệnh,"[98,227]

(Giác ngộ cho người, cho mình vượt khỏi đường mê,

Khắp cõi mát mẻ, không có bệnh tật)

Phương pháp giác ngộ cho người, cho mình không ngoài:

"Đáo đầu bát vạn tứ thiên đà la ni pháp môn

Đồng nhiếp nhập Như Lai quảng đại viên trí chi kính." [98,227]

(Rốt cùng tám vạn bốn ngàn pháp môn đà-la-ni

Cùng thu vào tấm gương trí tuệ rộng lớn tràn đầy của Như Lai.)

Nhà nghiên cứu Trân Đình sử nhận xét rất xác đáng rằng, "Đây là hình thức đầu tiên

mà người trí thức Việt Nam đương thời đã tự trở thành con người tư duy triết học. Lần

đầu tiên trong thời kỳ đầu xây dựng quốc gia độc lập, tự chủ, con người Việt Nam xuất

hiện trong tư thế tư duy trí tuệ, xác lập môn phái, mà không phải là mê tín dị đoan , thật

là một sự kiện lớn, xứng đáng với con người của một quốc gia độc lập. Thiền tông Việt

Nam đã đem lại cho văn học Việt Nam gương mặt trí tuệ sáng ngời độc đáo, có lẽ đến

nay người tá vẫn chưa nhận thức hết ý nghĩa của nó. [77,204] Lịch sử thời Lý- Trần đã

thể hiện rõ những con người có trí tuệ lớn đưa dân tộc Đại Việt, vốn dân số ít, diện tích

rất nhỏ trở thành một cường quốc của vùng Đông Á , nhiều lần chiến thắng giặc ngoại

xâm mạnh hơn gấp nhiều lần để bảo vệ lãnh thổ, tiêu biểu là quân Mông- Nguyên có

thành tích xâm lược gần một nưả châu Âu, châu Á.

2.3.Con người tự tại:

Hiện lên trong thơ thiền là con người thung dung trầm tĩnh , thanh thoát, tiêu diêu tự

tại, hòa mình vào thiên nhiên vạn vật, sống trọn vẹn với thực tại, hết mình với cuộc sống.

Họ không truy cầu quá khứ, không mơ tưởng hão huyền ở tương lai xa xôi. Giá trị chân

thực của cuộc sống không phải là cái gì bí mật xa vời mà ngay trong hiện tại, trước mắt

mọi người ngay lúc đương là. Quan niệm "nhất thiết duy tâm tạo" từ kinh Hoa Nghiêm

tạo nên cách nhìn chỉ cần đạt tới đối cảnh vô tâm không có gì có thể bám víu được. Bởi

vì nếu vướng mắc vào bất kỳ pháp nào cũng sinh ra nhị nguyên, biên kiến, cái chân tâm

ương sáng bị che lấp, tự mình bị lô lệ, lệ thuộc, không thoát ra được. Các vị thiền sư, thi

sĩ luôn cảnh giác cho học trò không dính mắc vào cái nhìn nhị nguyên, phân biệt, thích

tốt, chê xấu, chê phàm, muốn thánh, bỏ mê, theo ngộ, khen trí, chê ngu, muốn đến niết

bàn, xa lìa địa ngục ... Cái nhìn vọng kiến kiến chấp này là sợi dây vổ hình, ràng buộc,

mình để cứ mãi truy cầu quá khứ mơ mộng tương lai và mãi mãi đau khổ vì " cầu bất

đắc" ( mong cầu mà không được toại nguyện). Giải phóng con người ra khỏi đau khổ, mê

lầm, chấp trước, hướng tới chân như trong sáng thuần khiết vô biên như viên ngọc mình

châu không tỳ vết là tâm nguyệt thiết tha của các bậc tu hành . Trói buộc lớn nhất, khó

thoát ra khỏi nhất đó là " ngã chấp" và "pháp chấp", Bởi vì

"Bát nhã chân vô tông

Nhân không ngã diệc không". [ 95,240]

( Bát nhã thật vô tông

Người không, ta cũng không)

Ánh sáng của trí tuệ thật không có nguồn gốc nào cả.

" Nhân", "ngã"đều là không, là hư huyễn

Huyễn pháp giai thị huyễn

Huyễn tu giai thị huyễn

Nhị huyễn giai bất tác

Tức thị trừ chư huyễn" [ 95, 462]

(pháp , chính là hư ảo

Tu, đều là huyễn tu

Biết hai thứ đều là huyễn

Trừ bỏ được sự mê lầm hư huyễn)

Một khi đã hiểu mọi vật trên đời này đều là không thật, nên biết bướm hoa đều

huyễn ảo , thây hoa mặc bướm để lòng chi ( Hoa diệp bản lai giai thị huyễn , mạc tu hoa

điệp hướng tâm trì )[95,390] Hãy hình dung phong thái của nhà sư Hiện Quang

" Ná dĩ Hứa Do đức

Hà tri thế kỷ xuân

Vô vi cư khoáng dã

Tiêu dao tự tại nhân. [98,129]

(Hứa Do, tập theo đức

Nào biêt đời đã mấy xuân

Vô vi sống đồng rộng

Người tự tại thong dong)

Tuy thân sống nơi ruộng đồng hoang dã, không biết, cũng không muốn biết đã bao

năm rồi , nhưng chỉ cốt đạt cái đức của thánh hiền với tâm vô cầu, vô nhiễm thuận theo tự

nhiên mà thung dung tự tại. Hơn nữa , tuy Hiện Quang là một thiền sư danh vang khắp

chốn, vẫn khiêm nhường là thường tập theo đức của Hứa Do, một nho gia ẩn sĩ. Ông quả

là không câu nệ hình thức, tôn giáo.

Con người an nhàn vô vi của Pháp Loa được thể hiện qua:

"Vạn duyên tuyệt đoạn nhất thân nhàn

Tứ thập niên dư mộng ảo gian

Trân trọng chư nhân hưu tá vấn

Ná biên phong nguyệt cánh hoàn khoan." [98,273]

(Vạn duyên cắt đứt một thân nhàn

Hơn bốn mươi năm ở trong mộng ảo

Trân trọng nhắn mọi người đừng gạn hỏi

Trăng gió ở thế giới bên kia càng mênh mông)

Con người tự mình thoát ra khỏi sự trói buộc của vạn "duyên", làm chủ được thân

tâm không còn bị tác động bên ngoài ảnh hưởng , cả những phiền não, ái dục bên trong

cũng không thể câu thúc được. Như vậy mới là Một thân nhàn nhã. Chữ "Duyên" là thuật

nhà Phật, có nghĩa là tất cả mọi thứ trên đời, kể cả thân người đểu do nhân duyên tạo

thành, khi đủ duyên thì hợp lại, hết duyên thì tan rã, hủy hoai. Đức Phật chỉ ra mười hai

nhân duyên (thập nhị nhân duyên) tạo thành vòng tuần hoàn, mắc xích với nhau, giải

thích nguồn gốc nguyên nhân gây đau khổ cho con người trong vòng sanh tử luân hồi.

Mười hai nhân duyên khỏi đầu từ vô minh" (mê muội) không sáng suốt, không hiểu rõ

bản thể của vạn vật, không ngộ được chân tâm , không thông suốt qui luật của vũ trụ vạn

vật . Bốn mươi năm ông sống trong mộng ảo, do bị ngoại duyên tác động. Khi "vạn

duyên tuyệt đoạn " mới đạt được " Nhất thân nhàn".

Quan niệm " Cảnh tự tâm sinh" tốt xấu, khôn ,ngu, là do con người phân biệt ra chứ

không có thực là quan niệm triết học, tuy nhiên ý hướng phá bỏ sự trói buộc của con

đường mòn tư duy, giải phóng con người đến khoảng không gian bao la của tự do trí tuệ

là một tinh thần nhân văn cao đẹp mà thơ thiền Lý- Trần đã đóng góp cho dân tộc , cho

thời đại , góp phần tạo nên hào khí Đông A , tạo nên những con người phi thường về

nhân cách và tư tưởng, vừa làm vua, làm tướng đuổi giặc , lại vừa làm thiền sư ẩn sĩ, nhà

thơ viết hịch kêu gọi đánh giặc mà dám nêu gương trung nghĩa của nước giặc , làm đến

vương hầu mà coi công danh như phù vân , lìa bỏ ngai vàng như trút bỏ chiếc giày rách...

Triết học thiền tông được vận dụng nhuần nhuyễn trong một bản lĩnh dân tộc mạnh mẽ

của những nhà thơ thiền Việt Nam ở một thời đại đang lên của đàn tộc đã tạo thành một

nhân sinh quan đẹp đẽ và độc đáo, cốt lõi của một nền văn hoa đầy khí sắc.[97,66 ]

Con người tự do, tự tại, thoát ra khỏi mọi lệ thuộc vào qui ước giáo điều có sẩn,

phải có bản lĩnh sống trọn vẹn với cái đương là, không mong ước, mơ mộng cái trở

thành. Dù đạt đến "vô tâm" (Tâm không dính mắc vào bất kỳ thứ gì), cũng không chấp ở

chỗ "vô tâm".

"Mạc vị vô tâm vân thi đạo

Vô tâm do cách nhất trùng quan". [97,66]

(Đừng bảo vô tâm là đạt đạo

Vô tâm còn cách một trùng cửa quan)

Không chấp vào sắc tướng,vào "có",cũng chẳng dính mắc vào "không", vượt qua

nhị nguyên có, không. Đánh đổ sự mê hoặc bởi những khái niệm u huyền của Phật:

" Sắc thị không, không tức sắc

Không thị sắc, sắc tức không

Sắc không câu bất quản

Phương đắc khế chân tông." [98,68]

(Sắc là không, không tức sắc

Không là sắc, sắc tức không

Không là sắc đều chẳng quản

Mới khế hợp chân tông )

Hai phạm trù"sắc", "không" chuyển hoa lẫn nhau, cái này không phải cái kia, nhưng

cái này đồng thời không ngoài cái kia, cả hai đều là tương đối, vượt lên trên, vượt qua

khỏi những phạm trù tương đối này mớt đạt được sự tự do, tự tại tuyệt đối.

Tư tưởng phóng khoáng đến ngông cuồng là sự dung hợp, hoa quyện giữa Thiền-

Lão, Trang và Nho, nhưng yếu tố trung tâm vẫn là thiền. Tinh thần tuy duyên nhưng bất

biến, hoa hợp nhưng không chấp trước thể hiện niềm vui, an lạc của sự tự do.Từ "phóng

cuồng" dung chứa cả nội dung lẫn hình thức một cách nhất quán. Đời người có năm thứ

dục lạc : Tài, sắc, danh, thực, thúy ( Tiền tài, sắc đẹp, danh vọng, địa vị, ăn uống, ngủ ).

Năm thứ này sẽ nhấn chìm những ai tham đắm mê lũy nó. Đây cũng là năm cửa quan khó

thoát ra được đối với những người muốn hoàn thiện mình. Đừng nói đến cả năm cửa, chỉ

một trong năm cửa này cũng khó vượt qua. Với những thứ cần thiết hàng ngày thì:

"Cơ tắc xán hề hoa la phạn

Khốn tắc miên hề hà hữu hương

Hứng thời xuy hề vô khổng địch

...Quyện tiểu khế hề hoan hỉ địa

Khát bảo xuyết hề tiêu dao thang" [98,212].

Thái độ tuy duyên thời nhi an nay ta cũng bắt gặp ở Trần Nhân Tông :

"Cư trần lạc đạo thả tuy duyên

Cơ tắc xán hề khốn tắc miên" [98,268]

(Ở nơi cõi trần mà vui với lẽ đạo, hãy cứ tuy duyên. Đói thì ăn, mệt thì ngủ).

Niềm vui an lạc được thể hiện:

"Lạc ngô lạc hề Bố Đại lạc

Cuồng ngô cuồng hề Phổ Hoá cuồng"

Vinh hoa phú quí, danh vọng, địa vị dưới mắt các thiền sư- thi sĩ cũng chỉ là:

"Đốt đốt phù vân hề phú quí

Hu hu quá khích hề niên quang

Hồ vi hề quan đồ hiểm trở

Phả nại hề thế thái viêm lương."

Một khi tỉnh ngộ, hiểu thấu nhân tình thế thái:

"Phóng tứ đại hề mạc bả tróc

Liễu nhất sanh hề hưu bôn ba."

Họ buông thả cả tấm thân tứ đại, cái mà người đời bôn ba, tính toán cả đời cũng chỉ

vì cung phụng cho nó. Chắc cũng vì lý do này mà Lão tử thường dạy học trò:

“Ngọ hữu đại hoạn

Vị ngô hữu thân

Ngô nhược vô thân

Hà hữu đại hoạn

(Ta có nạn lớn

Vì ta có thân

Nếu không có thân

Làm gì có nạn)”

Vì họ không chấp vào tấm thân tứ đại nên mới được :

“Thích ngã nguyện hề đắc ngã sở

Sinh tử tương bức hề ư ngã hà phương."

Sống chết là chuyện lớn nhất của cuộc đời con người, cũng là cánh cửa vô hình, dù

không muốn, nhưng từ xưa đến nay không ai thoát khỏi được. Chết nỗi là ám ảnh, sợ hãi

của rất nhiều người, cổ nhân có câu :

Bành Tổ niên cao kim hà tại

Nhan Hồi thọ yểu diệc qui không

(Ông Bành Tổ tuổi thọ rất cao bây giờ cũng không còn tồn tại, Nhan Hồi chết sớm

cũng trở về với cát bụi mà thôi)

Câu hỏi ngạo nghễ như thách thức đối với qui luật khắc nghiệt của người đời, càng

hiện rõ hơn sự siêu thoát của Tuệ Trung.

Trần Nhân Tông khẳng định con người bị lệ thuộc, bị câu phược là do mình tự

chuốc lấy, vốn dĩ không có ai thúc buộc được mình, có chăng là do tâm thị phi (đúng ,

sai), tâm danh lợi trói buộc:

“Thùy phược cánh tương cầu giải thoát

Bất phàm, hà tất mịch thần tiên

Viên nhàn, mã quyện, nhân ưng lão

Y cựu vân trang nhất tháp thiền." [98,266]

(Ai trói buộc mà tìm cách giải thoát

Không là phàm tục, cần gì phải tìm thần tiên

Vượn nhàn, ngựa mỏi, người cũng về già

Vẫn y như xưa, một cái giường thiền nơi an mây.)

Ông tự bộc lộ con người mình bằng những hình ảnh sinh động. Thật khó có sự so

sánh nào độc đáo, tinh tế hơn con người thoát ra khỏi vòng thị phi, ví với hoa rụng vào

buổi sáng, sự lạnh nhạt với danh lợi như cái lạnh của trận mưa đêm lắng vào trong sự u

tịch, trong trẻo của rừng núi:

"Thị phi niệm trục triêu hoa lạc

Danh lợi tâm tuy dạ vũ hàn

Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch

Nhất thanh đề điểu hưu xuân tàn." [98,265]

(Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm

Lòng danh lợi nguội lạnh như trận mửa đêm

Hoa rụng hết, mưa tạnh núi vắng lặng

Một tiếng chim kêu, lại một mùa xuân qua đi.)

Tâm an tịnh, lắng đọng hoa vào sự vắng lặng đến tột cùng của núi non sau một trận

mưa càng làm cho cảnh vật yên tĩnh. Chính sự yên tĩnh này làm cho người ta chú ý đến

tiếng chim kêu báo hiệu mùa xuân sắp tàn.

Hào khí của con người đạt đạo, hiểu thấu lẽ thực của cuộc đời, đạt tới tự do tuyệt

đối, sống trong bất kỳ hoàn cảnh nào, gặp bất kỳ sự trở ngại nào, đối diện với bất kỳ nguy

hiểm nào cũng ở trong trạng thái "Tâm như chỉ thuỷ",thanh thản yên vui, sống hết mình,

làm hết mình nhưng không vướng mắc:

"Tứ thập niên dư nhất phiến thành

Lao quan khiêu xuất vạn trùng quýnh

Động như không cốc phong xao hưởng

Tĩnh nhược hàn đâm nguyệt lậu minh

Cú lý ngũ huyền thân thấu đắc

Lộ đầu thập tự nhậm tung hoành

Hữu nhân vấn ngã hà tiêu tức

Vân tại thanh thiên thúy tại bình." [98,252]

(Hơn bốn mươi năm tu vẹn được một tấm lòng

Đã nhảy ra khỏi vạn tầng cửa ngục tù

Động như tiếng gió trong hang trống rỗng

Tĩnh thì tựa ánh trăng lọt xuống đầm lạnh

Tự mình thấu rõ nghĩa lý "Ngũ huyền"

Mặc sức dọc ngang đường bốn ngã

Có người hỏi ta thế nào là biến diệt

Như mây trong trời xanh, như nước trong bình)

Trần Thánh Tông vốn là vua, nhưng lại nói đã nhảy ra khỏi hàng vạn tầng của địa

ngục? Có ai nhốt ông chăng? Có lẽ là không. Chính muôn vạn phiền não, tham, sân, si,

mạn, nghi, tà kiến, biên kiến....đã nhốt ông trong ngục tù phiền não. Và hơn bốn mươi

năm sau khi ngộ mới thoát ra được. Khi giải thoát được mới ung dung nhàn hạ:

"Chung nhật nhàn đàn bất điệu cầm

Nhàn môn vô sự khả quan tâm

Cá trung khúc phá vô nhân hội

Duy hữu tùng phong hoa thử âm

Tung hoành bất đoa hữu vô ky

Vạn pháp phân phân tổng bất tri

Khiết phạn, đả miên tuy xứ dụng

Cánh vô tha sự khả ưng vi." [98,248]

(Suốt ngày thảnh thơi gảy cây đàn không điệu

Cửa nhà nhàn hạ không có gì bận tâm

Trong đó khám phá ra khúc nhạc mà không ai hay biết

Chỉ có gió trên cây tùng là hoa cùng âm thanh này

Tung hoành tự do mà không rơi vào "có" "không"

Mọi thứ rối bời thảy đều chẳng biết

Ăn cơm và đi ngủ đều tuỳ ý

Ngoài ra không còn gì đáng làm)

Con người như thay da đổi thịt, chuyển mình thoát ra khỏi mọi ràng buộc, thúc

phược như hình ảnh của người đạt đạo có thể ở ngay bụi trần mà vẫn lìa được bụi trân, ở

ngay trong phiền não, mà thường lìa phiền não, hoa với quy luật tự nhiên, hoa vào sự

mênh mông bất tận của tam giới, hoàn toàn tự do tự tại. Đó là con người thoát thế :

"Phiên thân nhất tịch xuất phần lung

Vạn sự đô lô nhập nhãn không

Tam giới mang mang tâm liễu liễu

Nguyệt hoa tây một, nhật thăng đông." [98,172]

(Xoay mình một cái vượt ra khỏi lồng

Muôn việc đều như trò chơi, vào mắt thành hư không

Ba cõi mênh mông lòng sáng tỏ

Bóng trăng chìm xuống phương tây, mặt trời mọc ở phương

đông)

Tuy con người không mê đắm trong danh vọng địa vị, lầu son gác tía, nhưng vẫn

không chấp vào sự không mê đắm này. Tức là không phải do chán ghét cảnh giàu sang

phú quí mà thích cảnh yên lặng thanh vắng của núi rừng hoang dã rồi cũng đắm nhiễm

vào đấy. Bởi vì dưới mắt của thiền sư dù là đắm nhiễm vào giàu sang phú quí hay đắm

nhiễm vào sự thanh vắng của núi rừng cũng là đắm nhiễm, không có gì khác biệt. Nên

Tuệ Trung nhắc nhở mọi người:

"Bất yếu chu môn, bất yếu lâm

Đáo đầu hà xứ bất an tâm

Nhân gian tận kiến thiên sơn hiểu

Thuỳ thính cô viên đề xứ thâm ." 98,154 ]

(Chẳng cần giàu sang, cũng chẳng cần núi rừng

Rốt cuộc chốn nào là chẳng an tâm

Người đời chỉ nhìn thấy nghìn non sáng sủa

Có ai nghe được tiếng vượn cô đơn kêu ở rừng sâu)

Thái độ không chấp nhị nguyên quá rõ, từ "bất yếu" (chẳng cần)được dùng lặp lại

càng tăng thêm sức thuyết phục. Nếu không bị kẹt trong kiến chấp nhị nguyên thì đến đâu

mà chẳng được an lạc. Nhãn quan "vô phân biệt"cũng thể hiện rõ hơn ở :

"Sắc không mê ngộ giả

Nhất lý cổ kim đồng." [98,233 ]

(Sắc, không và mê, ngộ

Xưa nay cùng một lẽ như nhau)

Tuệ Trung khuyên giáo người nghe:

"Phật tổ đáo đầu câu bất lễ

Thu quang hiểu giản ngọc sùng vinh" [ 34,158 ]

(Phật, tổ rốt cùng đều chẳng lạy

Ngọc ngân khe sớm ánh thu trong)

Ý này không khác gì lời nói sấm sét đập tan mọi sự so đo, phân biệt của thiền sư

Lâm Tế: "Đẳng giác, Diệu giác là kẻ mang gông cùm, La Hán, Bích Chi là cứt đái, Bồ

Đề, Niết Bàn như cọc cột lừa,...nếu các người muốn cầu Phật thì bị con ma Phật giữ, cầu

tổ thì bị con ma Tổ trói...Quay vào bên trong, quay ra bên ngoài, gặp gì giết nấy: gặp Phật

giết Phật; gặp tổ giết Tổ; gặp La Hán, giết La Hán; gặp cha mẹ, giết cha mẹ; gặp người

thân giết người thân (những khái niệm). Như thế mới giải thoát, không bị vật câu thúc,

thấu thoát tự tại." [48,6,44]. Và cho rằng :

"Đản năng vong nhị kiến

Pháp giới tận bao dung." [98,234 ].

(Chỉ cần bỏ nhị kiến

Thì bao dung được tất cả thế giới)

Con người tự tại còn được bộc lộ trong sự dung nhiếp, bao dung tất cả mọi thứ, tâm

như hư không bao trùm muôn vật không còn phân biệt hoàn toàn giải thoát, vui đời hành

đạo "Nhất thiết vô ngại" : (Không có gì ngăn ngại):

"Tiểu đình trường giang đãng dạng phù

Du dương trạo bát quá than đầu

Nhất thanh hà xứ tân lai nhạn

Trắc giác thu phong biến nhập châu." [ 34,159 ]

(Sông dài thuyền nhỏ nổi lênh đênh

Cất mái chèo qua đoạn thác ghềnh

Một tiếng nhạn trời đâu vẳng đến

Gió thu đâu đã dậy mênh mông)

Tứ thơ phóng túng diễn tả tâm y tự do của người vô sự hội nhập nhất thể với sum la

vạn tượng đưa trí tưởng tượng của người đọc bay xa theo lời thơ đầy cảm xúc.

Thơ của Tuệ Trung hết sức phóng khoáng, nhất là ca ngâm càng phóng túng hơn.

Các bài ca như phóng cuồng ngâm, Phật tâm ca, trừu thần ngâm, Phàm thánh bất dị, Sinh

tử nhàn nhi dĩ... vần điệu, nhịp điệu, âm thanh, tứ thơ vừa phong phú, và phóng túng thể

hiện rõ nét hơn tâm thế của con người tiêu diêu tự tại. Đúng như nhận xét của Nguyễn

Huệ Chi : Thơ văn Trần Tung mang tính chất phóng khoáng của một con người không bị

ràng buộc quá chặt vào bất kỳ vào bất kỳ một tín điều nào, kể cả tín điều nhà Phật ...Đó

chính là đặc điểm cốt yếu tạo nên bản sắc tư tưởng của vị thượng sĩ lừng danh phóng

cuồng này...

Trước khi đạt được tâm thế an nhiên tự tại, Ông đã từng bị trói buộc trong bài "xuất

trần", Ông nói :

"Tằng vi vật dục dịch lao khu

Bãi lạc trần hiêu thế ngoại du." [95,167 ]

(Từng bị vật dụng sai khiến cái thân

Thoát ra khỏi bụi trần mà rong chơi ngoài cõi thế)

Kiểu tự tại của ông là tự tại "vô thị ,vô phi":

"Đằng thử vô đoan tiệm tiệm xâm

Qui lai chung lão ký sơn lâm

Sài môn mao ốc tiêu tiêu sái

Vô thị vô phi tự tại tâm." [95,176 ].

(Dây leo và loài chuột không dưng lần dấn tới

Trở về gởi thân nơi núi rừng đến trong tuổi già

Cửa liếp nhà tranh ăn ở thảnh thơi

Không " thị" không "Phi" lòng ung dung tự tại)

Con người trong thơ Nho, đôi khi bất đắc chí trước cuộc sống, nhất là không toại

nguyện được tấm lòng muốn phục vụ triều đình, phục vụ cho dân cho nước, tận lòng

cống hiến cho cuộc sống thì cũng hướng về rừng núi vui thú điền viên, không tranh với

đời, làm thân tiêu diêu ẩn sĩ, nhưng vẫn mang trong mình khối lòng khó dứt với cuộc đời.

Như Chu An, trong lúc quy ẩn, dù tự cho:

"Thân dữ cô vân trường luyến tụ

Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan." [97,149 ]

(Thân cùng đám mây cô đơn mãi quyện vào hốc núi

Lòng như giếng xưa không còn gợn sóng)

Nhưng vẫn không buông được tấm lòng bi thương khi tấc lòng chưa thể nguội như

tro lạnh : "Nghe nói đến tiên hoàng thầm gạt giọt lệ sa". Điều này cũng dễ thấy được, triết

học Nho gia thiên về cải tạo xã hội, từ cung cách việc làm, thái độ, mục đích cứu cánh

gắn liền với " tam cương, ngũ thường" với bổn phận trách nhiệm theo lý tưởng Khổng

Mạnh, xem trung hiếu tiết nghĩa là kim chỉ nam, gắn liền với hoài bão lập nên công danh

muôn thuở. Nếu thơ thiền hình tượng hoa những vấn đề mang tính triết học liên quan đến

giải thoát luận và bản thể luận thành những ước lệ thì lòng trung là nguồn cảm hứng quen

thuộc với các nhà thơ Nho đến nỗi tạo thành những hình ảnh mang tính ước lệ, tuy nội

dung không đổi nhưng vẫn nồng đượm tình cảm.

Không như con người Nho gia đầy tâm trạng, trách nhiệm với những mối liên hệ

ràng buộc xã hội, con người trong thơ thiền là một con người hoàn toàn tự do tự tại vì

thấu rõ quy luật tự nhiên, chân tướng của vạn pháp, bản thể đích thực của con người.

Đoàn Thị Thu Vân đã nhận xét xác đáng là việc khám phá ra diện mạo đích thực của con

người và vạn vật để trở về với bản thể (Con người thật không địa vị). Không phải nhằm

đến thái độ tiêu cực, thoát ly, hư vô chủ nghĩa trong cuộc sống. Mà Thiền, trái lại, là sống

cuộc sống trọn vẹn nhất. Hiểu biết cuộc sống là để làm chủ bản thân, làm chủ cuộc sống,

chứ không phải phủ định cuộc sống. Tinh thần cống hiến tích cực cho cuộc sống của các

thiền SƯ và thiền gia thời Lý-Trần đã minh chứng cho điều này.Có điều thái độ của họ

không như nhà Nho, họ dường như vô vi mà kỳ thực là vô bất vi (không có gì là không

làm), không chăm chắm vào việc lo đời một cách tự nhiên, tự tại, trộn lẫn cùng thế tục,

hoa cùng ánh sáng, tuy duyên mà hành động. Bởi vậy trong nhà thiền không có lập ngôn

về cách sống, về hoài bão vì có lập ngôn, có hoài bão là tự trói buộc, mà chỉ có sự phản

ánh, miêu tả những mảng cuộc sống hiện thực của con người.

Nhà thiền đôi khi tự cho rằng mình còn đa mang bận bịu nhưng kỳ thật tâm chẳng

còn vướng mắc điều gì:

"Ôi dư cốt đốt tuyệt phần hương

Khẩu đáp sơn đông vấn đoản chương

Thủ bả xuy thương hoà thái thác

Đồ giao nhân tiếu lão tăng mang." [ 98,276 ]

(Củi đã tàn cũng không đốt nhang

Miệng trả lời chú bé trên núi hỏi về chương sách ngắn

Tay cầm ống thổi lửa, tay nhặt mảnh củi khô

Luống để người đời cười ông sư già bận rộn.)

Đó cũng là tâm thế lòng không, tâm đạt của Cúc Đường chủ nhân :

“Tâm khôi ra giác mộng

Bộ lý đáo thiền đường

Xuân vãn hoa dung bạc

Lâm u thiền vận trường

Vũ thu thiên nhất bích

Trì tĩnh nguyệt phân lương

Khách khứ tăng vô ngữ

Tùng hoa mãn địa hương." [ 98,270 ]

(Nguội ngắt lòng danh lợi

Am thiền rảo gót qua

Xuân chày hoa mỏng mảnh

Rừng thẳm ve ngân nga

Mưa tạnh da trời biếc

Ao trong ánh trăng ngà

Khách về sư biếng nói

Thông rụng nức mùi hoa)

2.4.Con người vô ngã vị tha:

Trong các bài thơ thiền chúng ta còn thấy con người vô ngã vị tha (quên mình, vì

người) có tấm lòng cởi mở khoan dung độ lượng, Họ không những có tâm nhân mở

khoan dung độ lượng, không những có tâm nhân ái thương người, mà còn yêu thiên

nhiên, yêu đất nước, luôn đem hết khả năng và trí tuệ của mình phục vụ cho con người,

cho đất nước. "Vô ngã" là một thuật ngữ nhà Phật nghĩa là không còn chấp ngã, không

còn chấp vào cách nhìn cái này của ta, cái kia thuộc về ta, cái gì của ta là hay là tốt, cái gì

của người khác là dở là xấu, khư khư bám víu vào lòng ham muốn của mình không lúc

nào nghỉ. Vô ngã là giải thoát, không mang ý nghĩa phủ nhận con người, xóa bỏ con

người, không mang ý nghĩa phi nhân bản, phi giá trị mà, mà chính là giải thoát con người

khỏi tù ngục của sự cố chấp, giải phóng con người với ý nghĩa cao nhất, giải phóng con

người ra khỏi mọi sự ràng buộc, thúc phược của tất cả mọi sự tác động ảnh hưởng bên

ngoài, nhất là sự trói buộc của chính mình, hướng tới một con người tự do với ý nghĩa

tuyệt đối. Con người vô ngã vượt lên trên mọi sự chấp trước vào phàm thánh, mê ngộ,

đúng sai, tốt xấu, trí ngu đạt tới con mắt bình đẳng, vô phân biệt và cái nhìn đạt quan,

lượng giải đối với chúng sinh.

Con người vô ngã, trước hết gắn với trạng thái quên kỳ diệu. Có lẽ ở trong trạng

thái quên thì con người mới đạt đến cảnh giới "vô ngã". Trạng thái quên cũng là trạng

thái thứ tám (bậc thứ tám trên mười bậc) của "Thập mực ngưu đồ",chúng ta cùng gẫm bài

tụng " Tương vong" ( cùng quên) của Phổ Minh thiền sư về bức tranh thứ tám này: "

Bạch ngưu thường tại bạch vân trung

Nhân tự vô tâm ngưu diệc đồng

Nguyệt thấu bạch vân, vân ảnh bạch

Bạch vân minh nguyệt nhận đông tây."

(Trâu trắng thường trong mây trắng bay,

Vô tâm người ấy lẫn trâu này

Trăng xuyên mây trắng hình mây trắng

Mây trắng trăng trong đông lại tây)

Đây là trạng thái đi mà không biết đi, ngồi cũng không biết ngồi, không phân biệt

đông tây, không chia nam với bắc. Người vô tâm mà trâu cũng vô tâm. Trạng huống "vật

ngã câu vong" (ta, vật đều quên) này thật không ngọn bút nào tả được:

"Vương thân vương thế dĩ đô vương (vong)

Toa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương

Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật

Cúc hoa khai xứ tức trùng dương." [95,415 ]

(Quên mình, quên đời quên hết cả

Yên lặng ngồi lâu lạnh cả giường

Cuối năm trong núi không có lịch

Nhìn hoa cúc nở, biết tiết trùng dương)

Chữ "vong" được lặp lại ba lần trong một câu, diễn tả trạng thái quên từ thấp đến

cao, từ "vong thân" rồi "vong thế" đến "đô vong". Ông quên cả thời gian đang trôi đi,

mặc dù vẫn ở trong đó :

"Hoa tại trung đình nhân tại lâu

Phần hương độc tọa tự vong ưu

Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh

Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu"[95, 416]

(Hoa ở sân lớn người trên lầu

Thắp hương, ngồi một mình, tự quên ưu phiền

Chủ hoa và hoa không hề ganh đua

Nhưng trong các loài hoa thơm, hoa cúc là trội nhất)

Ở đây, thiền sư Huyền Quang tự vẽ lại cảnh tượng và trạng huống của một lần ngồi

thiền, ông thắp nhang đả tọa để tiêu trừ phiền não, khi đạt đến tâm thái "vật, ngã lưỡng

vong", lúc ấy người và hoa hòa quyện vào nhau không còn phân chia tách bạch được,

người và vật lồng vào nhau như không còn tồn tại, hiện hữu nữa. Giây phút ấy con người

không còn nhớ đến sự tồn tại của thân tứ đại, không còn phân biệt bỉ thử, cái "tôi" như đã

hòa tan vào thiên nhiên vạn vật không còn bóng dáng. Khi xưa đức Phật từng hỏi các vị

đệ tử rằng "làm thế nào để một giọt nước không bị tan biến mất". Trong lúc các đệ tử

chưa kịp trả lời, thì người đã tự trả lời : "Hòa nó vào biển cả mênh mông".

Con người tự nhận ra được sự hữu hạn của thân mình, biết rõ cuộc đời là rất ngắn

ngủi, nhưng càng muốn nắm giữ bám víu, thì càng dễ mất đi bởi lẽ quy luật của vạn hữu

là "hữu thành tất hữu hoại", "hữu sinh tất hữu tử". Nên nếu muốn mở rộng cuộc đời,

không gì hơn là mở rộng tâm hồn hoa vào thể tánh bao la rộng mở của vũ trụ, hóa thân

vào sum la vạn tượng và trở nên bất diệt. Chắc có lẽ Đoàn Văn Khâm cũng có cách nhìn

này nên khi Quảng Trí thiền sư viên tịch (mất). Ông khuyên mọi người không nên đau

buồn và thương tiếc vì chân thân của thiền sư mãi mãi bất diệt dù cho thân xác tứ đại đã

trở về với cát bụi:

"Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt

Viện tiền sơn thủy thị chân hình"[95, 291]

(Các bạn tu thôi chớ nên thương xót nỗi vĩnh biệt

Non nước trước chùa là hình ảnh thực của người)

Đọc thơ thiền như đưa ta vào thế giới bao la rộng lớn vô bờ vô bến của sự tĩnh lặng,

mặc chiếu, ta như theo dấu của tác giả phổ tâm mình vào thiên nhiên:

"Dạ khí phân lương nhập họa hình

Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh

Trúc đường vong thích hương sơ tận

Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh".[95, 413]

(Khi màn đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ

Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu

Dưới mái tranh nhà quên bang hương vừa tắt

Mấy khóm cây cành giăng lưới bủa vầng trăng sáng)

Giọng thơ bình dị, trầm tĩnh, khách quan đến mức tưởng như lãnh đạm, không có sự

cuồng nhiệt, đắm say hay quá lý tưởng vào bất cứ đối tượng nào kiểu như Tố Hữu :

"Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ

Mặt trời chân lý chói qua tim

Hồn tôi là một vườn hoa lá

Rất đậm hương và rộn tiếng chim

Hay kiểu :

Ta muốn ôm cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn ..."

Đôi lúc giọng thơ còn pha thêm sắc thái khôi hài tào lộng, đả phá cả sự khuôn sáo

nghiêm trang cẩn trọng . Như Trần Thái Tông lộng hóa công án của Bồ Đề Đạt Ma an

tâm cho Huệ Khả:

"Tâm ký vô tâm đạo hướng thùy

Mộng hồi á tử nhãn ma di

Lão tăng man đạo năng an cánh

Tiếu sát bàng quan bất tự tri ."[97, 67]

(Tâm vốn vô tâm nói với ai

Thằng câm tỉnh mộng mắt tròn ngây

Tăng già nói dối là đã an tâm cho rồi

Cười ngất, người ngoài không hay biết).

Sở dĩ giọng thơ thiền bình đạm khách quan đến tưởng như lãnh đạm vô tình là nhằm

kéo con người ra khỏi sự quyến rũ, hấp dẫn của sắc tướng, đánh đổ mọi sự sùng tín mê

lầm của người học đạo ngõ hầu đưa họ ra khỏi những sự vướng mắc, ràng buộc, tự mình

phược mình với đầu óc cố chấp, tín điều, từ đó vượt qua được những cái đẹp hữu hạn, vô

thường của hình sắc, hướng đến cái đẹp đích thự :

"Niên niên hoa lộ hướng thu khai

Nguyệt đạn phong quang thiếp thốn hoài

Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ

Mãn đầu tùy đáo sáp qui lai" [95, 417]

(Thu đến sương về tuyết nở hoa

Trăng trong gió nhẹ hợp lòng ta

Cười ai chẳng biết hồn tinh tuy

Hái giắt đầy thân trở lại nhà).

Nhưng nói như vậy không có nghĩa là con người trong thơ thiền thể hiện sự lạnh

nhạt, vô cảm trước thiên nhiên và cuộc đời, mà trái lại cái "tâm lão bà" (cách nói của

thiền sư Đại Ngu) với lòng nhân ái, từ bi bao la ẩn kín đằng sau lớp màn có vẻ lạnh lùng

vô cảm. Nói rõ hơn tức là sự khô khan lạt lẽo chỉ là cái vẻ bề ngoài, mục đích cuối cùng

của nó chở cả tấm lòng nhà thơ đối với con người giống như cha mẹ đánh răn con cái

vậy, không phải là cha mẹ không thương yêu con mình, mà là sự biểu hiện mức độ cao

hơn của tình thương nuông chiều cưng nựng.

Thơ thiền thời Lý thường bàn nhiều đến triết học Phật giáo, ít bàn đến các vấn đề

khác, nên mang tính triết học đậm nét, đến thời Trần, do nhu cầu mở rộng phạm vi phản

ánh nên xuôi lần theo xu hướng trữ tình. Trong nhiều bài thơ, nếu không tinh tế thì khó

phân được ranh giới của thơ thiền. Bởi vì tư tưởng triết học, cảm quan thiền ẩn sâu dưới

những hình tượng của cuộc sống đời thường hay thiên nhiên ngoại vật. Điều này thể hiện

rõ nhất ở thiền sư Huyền Quang, đến nỗi không ít người cho rằng trong ông con người

thế tục lấn át con người phật giáo, tuy ông ở chốn không môn nhưng "lòng tục" vẫn cứ

hiện ra mồn một. Có lẽ cái tâm "tuy tục" của ông đã đến mức không còn dấu vết, không

còn ranh giới để phân biệt chăng?

Tấm lòng từ bi thương người không giới hạn của ông lộ rõ trong bài "Ai Phù Lỗ"

"Khoa huyết thành thư dục ký âm

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm

Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt

Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm"

(Chích máu thành thơ muốn gởi lời

Lẽ loi nhạn lạnh ải mù khơi

Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ ?

Xa cách nhưng lòng chỉ một thôi)

Hình ảnh chim nhạn lẻ loi cô đơn lạnh lẽo, càng thêm cô đơn bơ vơ giữa chốn mù

khơi thể hiện rõ tấm lòng thương người vô bờ bến, niềm cảm thông vô hạn nỗi lòng của

người tù nhân bị đày xa xứ nhưng lòng khắc khoải mong nhớ quê nhà của vị thiền sư- thi

sĩ này.

Xưa nay, những thi sĩ thể hiện tấm lòng nhân đạo thương người không phải là hiếm,

có những tấm chân tình làm rung động tâm hồn bao thế kỷ. Đơn cử như Nguyễn Du được

xem như là nhà thơ của nỗi đau nhân loại, có con mắt trông thấu bao cõi, có tấm lòng

nghĩ tới muôn đời. Hay như Đỗ Phủ từng than:

Chu môn tửu nhục xứ

Lộ hữu đồng tử cốt

(Nhà giàu rượu thịt ê

Ngoài đường thây trẻ chết đói)

Nhưng ở đây Huyền Quang thương cả tên tù binh, kẻ mà trước đó từng chĩa giáo

giết chết bao nhiêu đồng bào ta. Điểm xuất phát của tấm lòng từ bi bao la quảng đại này ở

chỗ con người tuy khác nhau về chủng tộc, màu da nhưng cùng là con người, cùng có

chân tâm Phật tánh như nhau.

Lục Tổ huệ Năng lúc chưa ngộ đạo, từng đến tham vấn Ngũ Tổ Hoàng Nhẫn. Ngũ

Tổ Hoàng Nhẫn hỏi:

- Ngươi là người đất Lĩnh Nam, là kẻ quê mùa, làm sao làm phật được?

Huệ Năng thưa:

- Bạch Hòa Thượng, người có nam bắc, chứ phật tính không có nam bắc. Thân quê

mùa của con không giống với thân hòa thượng như phật tính nào có khác gì ? [64, 7] Đây

chính cơ sở vững chắc nhất khẳng định sự bình đẳng giữa người và người. Hồ chí Minh ở

thế kỷ XX cũng khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập rằng con người sinh ra đều có

quyền bình đẳng .

Có lẽ các vị vua thời Lý - Trần nhất là thời Trần đã ở vào cảnh giời vô ngã nên mới

có thể làm được những việc khó làm. Quốc sư Viên Chứng từng khuyên vua Trần Thái

Tông : "Phàm đã là bậc nhân quân tất phải lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của

mình, lấy tấm lòng thiên hạ làm tấm lòng của mình. Nay muôn dân đã muốn bệ hạ về, thì

bệ hạ không về sao được, duy có việc nghiên cứu nội điển xin bệ hạ đừng chút xao lãng

mà thôi" [95, 30]

Tuân theo lời dạy của Trúc Lâm đại sa môn, các vị vua Trần như Trần Thái Tông,

Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Trần Anh Tông... tuy ở ngôi nhân chủ, quyền uy tột

bậc nhưng sống đơn sơ, đạm bạc, không tham đắm vinh hoa phú quý, có vị đi giày vải,

mặc áo thô, nằm rơm gối đất, tận hết sức mình phục vụ cho dân, cho nước. Tuy như vậy

mà vẫn còn lo lắng không xứng với lòng dân mong đợi. Nhưng thực sự họ đã làm được

những điều phi thường không những bảo gia vệ quốc mà còn đưa dân tộc Đại Việt lên

hàng cường quốc của vùng Đông Á. Con người nhân đức, độ lượng còn được thể hiện

trong lời tán dương tổ tiên của vua Trần Dụ Tông, trong sự đối sánh với các triều đại

Trung Quốc thời đó:

Đường, Việt khai cơ Lưỡng Thái Tông

Đường xứng Trịnh Quán, ngã Nguyên Phong

Kiến Thành tru tử An Sinh tại

Miến hiệu tuy đồng đức bất đồng

(Nhà Đường, Nhà Trần khai cơ là hai Thái Tông

Vua Đường hiệu Trịnh Quán, Việt hiệu Nguyên Phong

Kiến Thành bị giết An Sinh Vương còn sống

Tuy miến hiệu giống nhau nhưng đức độ khác nhau)

Đây là sự kiện hoàng tử Kiến Thành bị Lý Thế Dân giết, trong khi An Sinh Vương

Trần Liễu vì chuyện nhà không thuận đem quân làm phản, nhưng cuối cùng Trần Thái

Tông vẫn tha cho, không giết.

Những con người này luôn luôn tỉnh thức, thời thời thanh lọc thân tâm, khắc khắc

giữ mình trong sáng, xem việc tô bồi đạo đức là quan trọng. Họ luôn hướng đến chân-

thiện-mỹ:

"Đạm nhiên tự thủ

Duy đức thị vụ

Hoặc vân thiện ngôn

Quyền quyền nhất cú

Tâm vô bỉ ngã

Ký tuyệt hôn mai."[95, 429]

(Lấy đức làm trọng

Thanh đạm giữ mình

Một lời nói phải

Ghi nhớ đinh ninh

Lòng không bỉ ngã

Sáng sủa quang minh)

Con người luôn ghi nhớ từng lời nói phải (thiện ngôn)để noi theo thật là hiếm thấy,

tâm không còn phân biệt, trệ phược vào hai bên bĩ, ngã (người, ta).Chỗ này cũng là cấp

độ cao của sự phá trừ, vọng chấp nhị nguyên.

Cũng như nhà sư Hiện Quang, lòng không vướng bận "cuộc đời đã trải qua mấy

mùa xuân", mà chỉ cốt học được cái "đức"của ẩn sĩ Hứa Do. Lời này có lẽ là sự khiêm hạ

của một vị thiền sư danh vang khắp chốn, hay là sản phẩm của sự dung hợp tam giáo.

Trong thơ thiền ít khi đề cập đến những vấn đề liên quan đến cuộc sống đời thường

như chuyện tiền bạc, vợ con. Điều này cũng hiếm khi xuất hiện trong các tác phẩm văn

học thời Lý - Trần nói chung. Chúng ta không khỏi lấy làm lạ khi nghe thiền sư Trí Bảo,

một nhà lý luận xuất sắc của thiền môn được mệnh danh là "nói ngang, nói dọc như lửa

tóe trong đá" trả lời một người hậu học hỏi về hai chữ "tri túc" (biết đủ):

Bồ tát tư tài tri chỉ túc

Ư tha từ thứ bất xâm dục

Thảo diệp bất dữ, ngã bất thủ,

Bất tưởng tha vật, đức như ngọc

Bồ tát tự thê phương tri túc

Như hà tha thê khởi tham dục?

Ư tha thê thiếp tha sở hộ

An nhẫn tự tâm khởi tâm khúc"[95, 434]

(Bồ tát đối với tiền của phải biết dừng, biết đủ

Đối với người phải nhân từ khoan thứ, không sinh lòng cướp đoạt

Lá cây, ngọn có người không cho ta không lấy.

Không màng của người đức sáng như ngọc.

Bồ tát đối với thê thiếp phải biết đủ.

Sao lại sinh lòng tham muốn vợ người khác ?

Với vợ của người để người nâng niu,

Nỡ nào mình lại nổi lòng gian)

Chỉ có đạt đến cái nhìn vô ngã, mới có thể thực hành lợi tha (đem lại lợi ích cho

chúng sanh một cách trọn vẹn nhất. Bởi vì nếu còn chấp ngã thì còn mang lòng tư lợi, chỉ

nghĩ đến mình, đến những thứ có liên quan hoặc sở hữu của mình, đồng nghĩa với ích kỷ.

Tinh thần vô ngã vị tha hòa với truyền thống thương người như thể thương thân, tạo nên

nét đẹp nhân cách của con người Việt Nam. Chắc cũng vì vậy, ở Việt Nam sản sinh ra

nhiều vị danh tăng thạc đức. Những vị thiền sư này không chỉ tinh thông giáo điển, trí tuệ

uyên bác mà còn có tấm lòng bồ tát bao la, góp công sức rất lớn cho việc an bang trị

quốc, đem lại ấm no hạnh phúc cho muôn dân và công cuộc chống ngoại xâm bảo vệ đất

nước .

Tấm lòng yêu nước thương dân của thiền sư Pháp Thuận thể hiện rất rõ trong bài

thơ "Quốc tộ"

"Quốc tộ như đằng lạc

Nam thiên lý thái bình

Vô vi cư điện các

Xứ xứ tức đao binh"[95, 226]

( Vận nước rất bền vững

Trời Nam mở thái bình

Vô vi trên điện gác

Chốn chốn dứt đao binh)

Hay trong lời truy tán của thiền sư Vạn Hạnh của vua Lý Nhân Tông:

"Vạn Hạnh dung tam tế

Chân phù cổ sấm thi

Hương quan danh cổ pháp

Trụ tích trấn vương kì"[95, 386]

(Vạn Hạnh thông ba cõi

Lời ông nghiệm sấm thi

Quê hương làng cổ pháp

Chống gậy trấn kinh kỳ )

Hình ảnh thiền sư chống tích trượng giữ yên kinh đô thời Lý- Trần gợi ta nhớ đến

hình ảnh Bác Hồ chống gậy leo lên núi xem thế trận.

Huề trượng đăng sơn quan trận địa

Vạn trùng sơn ủng vạn trùng vân

(Chống gậy leo lên núi cao xem trận địa

Muôn ngàn ngọn núi đỡ muôn ngàn đám mây)

Tinh thần quên mình vì người hết lòng phục vụ cho chúng sanh của con người được

bộc lộ rõ hơn trong lời khuyên của Lý Nhân Tông vơi Mãn Giác : "Chí nhân thi hiện, tất

vụ tế sinh, vô hạnh bất cụ, vô sự bất tu, phi duy định tuệ chi dục, diệc hữu tán dương chi

công" [59,216] (Bậc chí nhân thị hiện, tất phải tận lực cứu giúp chúng sanh không hạnh

nào không đủ, không việc gì không làm, chẳng những đắc lực về thiền định lại có công

giúp ích nước nhà).

Kế thừa tư tưởng này, cả cuộc đời Trần Thái Tông, một vị vua anh minh, một vị

thiền sư đạt ngộ là sự minh chứng cho lời nguyện "tựu nhược dĩ thân vi thiên hạ chi tiên

dã"(lấy thân mình làm người đưa đường cho thiên hạ) [59, 222]

CHƯƠNG 3: KHÔNG GIAN, THỜI GIAN VÀ NGÔN NGỮ

NGHỆ THUẬT TRONG THƠ THIỀN LÝ - TRẦN

3.1.Không gian nghệ thuật:

Không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức nghệ thuật là phương thức tồn tại

và triển khai của thế giới nghệ thuật. Khó có thể hiểu rõ những đặc điểm trong quan niệm

về thế giới và con người của một nhà thơ, một hiện tượng thơ nếu không tìm hiểu không

gian nghệ thuật ương sáng tác đó. Cũng như khó mà hiểu được con người mà không xem

xét trong mối quan hệ với không gian tồn tại của nó. Không gian nghệ thuật là một

phương diện cơ bản của tư duy nghệ thuật, là hình thức tồn tại của hình tượng nghệ thuật,

nó đánh dấu trình độ chiếm lĩnh thế giới con người. Chỉ cần khảo sát không gian trong

tác phẩm ta sẽ có thể xác định được thời đại và thể loại của nó. Mỗi thể loại văn học có

thế giới riêng, có mã không gian riêng. Ngay cùng một tác giả nhưng khi sử dụng những

thể loại khác nhau, không gian nghệ thuật cũng khác nhau rõ rệt. Nó là phương diện để

tác giả xây dựng thế giới nghệ thuật của mình. Nó cũng là chìa khoa cho người đọc mở

vào thông điệp tư tưởng được tác giả thổi vào trong tác phẩm. Theo Trần Đình Sử, không

gian nghệ thuật là hình tượng không gian trong tác phẩm.

Theo quan niệm triết học cổ Phương Đông con người là một tiểu vũ trụ, tiểu thế

giới mang trong mình đầy đủ những tố chất của đại vũ trụ, đại thế giới nghĩa là bản thân

con người gồm trong nó cả không gian và thời gian.

Chúng ta có thể phân tích không gian trong thơ theo ba chiều của không gian vật lý

mà trung tâm là con người, phát hiện ra không gian tâm tưởng, lý giải tính chất động tĩnh,

thực, hư của nó, tìm hiểu nó trong mối quan hệ khăng khít với thời gian nghệ thuật.

Nhưng quan trọng nhất là xem xét không gian nghệ thuật như một quan niệm về thế giới

và con người, như một phương thức chiếm lĩnh thực tại, một hình thức thể hiện cảm xúc

và khái quát tư tưởng thẩm mỹ, để từ đó lý giải khả năng phản ánh hiện thực của một hệ

thống thơ nhất định. Trần Đình sử cho rằng không gian vũ trụ trong thơ trữ tình bác học

cổ xưa lấn át không gian xã hội, vì vậy người xưa cảm thấy không phải xã hội, mà chính

là vũ trụ mới là phạm vi cuối cùng để con người tự nhận thức. Quan niệm đó đã qui định

các đường của không gian nghệ thuật thơ trữ tình cổ xưa; thứ nhất là ưu thế tuyệt đối của

không gian trên cao. Lên cao để mở rộng khả năng bao quát xung quanh, chiếm lĩnh thế

giới, làm cho tâm hồn phóng khoáng, nuôi dưỡng ý chí cao xa, nhất là không gian trên

cao không bị ngăn ngại. Có thể mở ra vô hạn, vô biên. Thứ hai là không gian nhỏ bé của

con người luôn có mối quan hệ liên thông với không gian to lớn của vũ trụ. Con người

ương thơ cổ luôn phá thế khép kín. Không gian cũng không bao giờ là riêng biệt là khép

kín mà luôn luôn là không gian mở. Thứ ba là ưu thế của không gian tĩnh so với không

gian động, quan hệ giữa con người và thế giới vạn vật xung quanh là quan hệ chiêm

nghiệm trực giác, soi sáng lẫn nhau tương thông tương cảm. Nhưng tĩnh ở đây sở dĩ được

cảm nhận rõ rệt là nhờ hoa tĩnh làm động, trong cái động làm rõ cái tĩnh hơn. Nếu không

có tiếng sương móc mỏng manh rơi nhẹ trên sân thu thì làm sao cảm được cái yên tĩnh

trống vắng của đêm. Cái động nhờ cái tĩnh mà phát sinh, ngược lại cái tĩnh nhờ cái động

mà hiện hữu. Thứ tứ là ưu thế của cái nhìn "siêu cá thể" . Cái nhìn trong thơ cổ dường

như không của ai cả mà như mặc nhiên là của mọi người. Nhà thơ cảm thụ bản thân và

thế giới bằng chính con mắt của vũ trụ, cũng chính là con mắt của tác giả vì tác giả không

xem vũ trụ như là một yếu tố khách quan. Điều này cho phép tác giả khách quan hóa tối

đa các cảm xúc nhưng cũng hạn chế cái nhìn riêng, cái tính cá biệt của tác giả.

Không gian nghệ thuật tập trung vào điểm nhìn, cái nhìn; điểm nhìn không gian,

điểm nhìn thời gian. (Ở đây thời gian là chiều thứ tư của không gian) điểm nhìn tâm lý -

tư tưởng : "Bác ngồi đó lớn mênh mông Trời cao biển rộng, ruộng đồng nước non...”

Không gian nghệ thuật là một hiện tượng nghệ thuật, một hiện tượng mang tính ước

lệ, mang ý nghĩa cảm xúc, tâm tưởng: "Gần nhau đây mà xa biết bao nhiêu. Giữa hai đứa

mênh mông là biển rộng...".

Không gian vũ trụ là đặc trưng cảm nhận thế giới của con người thời trung đại.

Khổng gian trong thơ thiền, trước hết là không gian mang tính bản thể của nó. Với tuệ

nhãn của các vị thiền sư - thi sĩ, không gian cũng là một pháp. Bản thể của nó không khác

gì các pháp khác. "Pháp" là tất cả những gì có đặc tính của nó khiến ta không lầm với cái

khác, có những khuôn khổ riêng của nó để nó làm phát sinh trong đầu óc ta một khái

niệm về nó. [Theo Từ điền phật học của Đinh Phúc Bảo]. Pháp là toàn bộ mọi sự vật hiện

tượng, kể cả các hiện tượng tinh thần, là qui luật của vũ trụ, là sự thể hiện của chân như.

Quan niệm "Tâm pháp nhất như" tạo nên cái nhìn không gian mang tính bản thể của nó.

Bản thể của nó cũng là bản thể của vũ trụ, trong đó có con người:

"Trai đình u điểu không đề nguyệt

Mộ tháp thúy nhân vị tác minh

Đạo lữ bất tu thương vĩnh biệt

Viện tiền sơn thủy thị chân hình [95, 291]

(Trăng rọi sân trai chim khắc khoải,

Tháp bia không chữ mộ thờ ơ

Bạn đạo thôi hãy đừng thương xót

Non nước ngoài am là "chân hình" của sư)

Bản thể, thật tướng của núi, sông trước cửa chùa mới chính là hình ảnh chân thực

của người. Con người thật của người hóa thân vào núi sông bất diệt, tồn tại mãi cùng thời

gian.

Đó cũng là cách nhìn của Trần Nhân Tông:

"Thúy trí vân quyển trường không tịnh

Thúy lộ thiên biên nhất dạng sơn."[98, 135]

(Có ai hay mây cuốn đi thì cả bầu trời không quang tạnh

Màu xanh biết lộ ra bên chân trời một rặng núi.)

Mãn Giác cũng dùng hình ảnh một cành mai trước sân dụ cho con người bất diệt:

"Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận

Đình tiền tạc dạ nhất chi mai"[98, 46]

(Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết

Đêm qua sân trước một cành mai)

Không gian trong thơ thiền đã được tâm hóa, nên được nhìn trong quan niệm một là

tất cả, tất cả là một:

"Càn khôn tận thị mao đầu thượng

Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung".[98, 79]

(Trời đất hết thảy đều ở trên đầu một sợi lông

Mặt trời, mặt trăng chứa đựng trong một hạt cải)

Cách so sánh tưởng chừng như cực kì vô lý giữa cái rộng lớn bao la với cái vô cùng

nhỏ nhiệm càng tạo sức tác động lớn lao, gây ra cảm xúc mạnh mẽ. Nếu nói hạt cải, sợi

lông nằm trong càn khôn, vũ trụ là điều hiển nhiên không cần bàn luận. Đằng này lại cho

rằng cả càn khôn, vũ trụ, nhật nguyệt đều nằm trên đầu một sợi lông, nằm trong một hạt

cải! Thật là độc đáo nhưng không kém phần ý vị. Ý vị kiểu :

"Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không" [98, 64]

(Bảo là có thì một hạt cát một hạt bụi cũng có

cho là không thì hết thảy .đều là không)

Không gian bao la của càn khôn, vũ trụ, nhật nguyệt hay của con người không khác

gì không gian trên đầu một sợi lộng, một hạt cải. Do đó, quan niệm lớn nhỏ hơn thua chỉ

là quan niệm vọng kiến, cố chấp. Các nhà thơ gợi lên điều này cốt để đánh tan cái nhìn

mê lầm của con người đối với ngoại cảnh.

Xưa kia, đức Phật từng nói: " Trong một hạt bụi có cả ba ngàn đại thiên thế giới".

Trong thời trung đại khó có người chấp nhận cách nói này, nhưng với sự tiến bộ vượt bậc

của khoa học hiện nay, thì điều này không còn xa lạ nữa.

Ở thơ thiền Nhật Bản, người ta như hòa tan vào không gian bao la rộng lớn, hóa

trọn thân mình vào thiên nhiên không còn bóng dáng, không còn dấu vết:

Hương hoa mơ ơi

Con đường núi ngọc

Bỗng nhiên mặt ười (Bashô)

(Ume ga ka ni

Notto hi no dem

Yamaji Kana)

Hay như:

Vầng trăng tan nhanh

Trong giọt mưa đọng

Đó đây trên cành (Bashô)

(Tsuki hayashi

Kozue wa ame wo

Mochinagara)

Hình ảnh giọt mưa nhỏ trên cành cây tan đi làm cho cả vầng trăng tan nhanh không

lưu dấu vết.

Gắn với con người tự do, tự tại, tiêu diêu, phóng khoáng không bị bất kỳ sự ràng

buộc câu thúc nào là không gian rộng lớn, vô biên, không ngằn không mé. Trong thơ

thiền ta thường bắt gặp kiểu không gian này :

"Vạn lý thanh giang vạn lý thiên

Nhất thôn tang giá nhất thôn yên" [98, 71]

(Vạn dặm sông xanh, vạn dặm trời

Một xóm dâu đay, một xóm khói mây)

Hay :

"Trường không nhất kiến cô luân nguyệt

Sát hải trừng trừng dạ mạn thu"[95, 177]

(Bầu trời bát ngát chỉ thấy vầng trăng cô đơn

Bể phật trong suốt, đêm chuyển về thu).

Sự mênh mông, bát ngát, bao la khoáng đạt càng được mở ra vô biên tế từ bốn

phương tám hướng, mở ra theo chiều lên cao hoặc xuống sâu. Nhà thơ Huy Cận của thế

kỷ XX cũng mở không gian ra bốn chiều bằng hình ảnh độc đáo:

Nắng xuống trời lên sâu chót vót

Sông dài trời rộng bến cô liêu.

Không gian như mở ra vô tận với các từ nắng xuống, trời lên, sông dài, trời rộng,

Bến cô liêu càng làm cho không gian trở nên bát ngát hơn. Không gian bao la không chỉ

bó hẹp trong một thế gian, một thái dương hệ, mà còn mở rộng đến cả những thế giới

khác, cõi khác :

"Tam giới mang mang tâm liễu liễu

Nguyệt hoa tây một nhật thăng đông" [95, 179]

(Ba cõi mênh mông lòng sáng rõ

Bóng trăng chìm xuống phương tây, thì mặt trời lại mọc lên ở đằng đông)

Dưới nhãn quang của thiền sư, cái bao la vô cùng vô tận là biểu tượng của chân tâm

phật tánh, là biểu trưng của bản thể bao la bao trùm của hư không. Không gian ở trong

thơ thiền không chỉ bao la khoáng đạt mà còn tĩnh lặng, trong trẻo càng làm cho cái cảm

giác bao la càng thêm mông huân vô tận:

"Vũ thu thiên nhất bích

Trì tĩnh nguyệt phân lương" [98, 270]

(Mưa tạnh, trời một màu xanh biếc

Mặt ao tĩnh lặng, trăng sáng tỏa mát dịu)

Hay:

"Tĩnh nhược hàn đàm nguyệt lậu minh" [98, 253]

(Tĩnh thì như ánh trăng lọt xuống đầm lạnh)

Không gian lạnh lẽo được Huyền Quang miêu tả:

"Xi vẫn đảo miên phương kính lãnh

Tháp quang song trĩ ngọc tiêm hàn" [98, 287]

(Bóng xi vẫn ngủ được dưới mặt hồ như tấm gương vuông lạnh giá.

Ánh tháp đứng song song như ngón tay ngọc rét buốt)

Và "Dạ khí phân lương nhập họa hình" [98, 281]

(Hơi đêm tỏa mát vào bức bình phong vẽ)

Cái lạnh lẽo đến băng giá không chỉ được cảm nhận qua con người có cảm giác mà

được cảm nhận qua những đồ vật vô tri vô giác. Tác giả như hóa thân mình, thổi hồn vào

nó đế cảm nhận rõ hơn.

Cái hư không vắng lặng tĩnh mịch là biểu tượng thiện dụng cho chân tâm . Đôi khi,

không cần phóng nhãn tuyến ra xa tít mù khơi mới gợi lên được sự khoáng đãng mênh

mông kiểu như:

Đứng bên ni đồng ngó bên tê đồng mênh mông bát ngát

Đứng bên tê đồng ngó bên ni đồng cũng bát ngát mênh mông

Chỉ cần một khoảng không gian cụ thể nào đấy vẫn được thiền sư thi sĩ mở ra vô

hạn qua một điểm nhìn của tác giả:

"Bán song đăng ảnh mãn sàng thư

Lộ trích thu đình dạ khí hư

Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ" [98, 263]

(bóng đèn soi nửa cửa sổ, sách đầy giường

Móc rơi trên sân thu, hơi đêm trống không

Khi tỉnh giấc tiếng chày nện vải không còn nghe thấy

Trên chùm hoa quế trăng vừa mọc)

Những giọt sương móc bình thường không ai nghe thấy bởi những tiếng động khác,

nhưng trong đêm thu tĩnh lặng trong trẻo, âm thanh của giọt sương trong hư không lạnh

lẽo gieo vào lòng tác giả cái cảm giác thăm thẳm sâu lắng của sự tĩnh lặng. Những cụm

từ "Vô mịch xứ" "nguyệt lai sơ" như tạo ra một trường liên tưởng về sự vô biên vô tận

của không gian. Cái cực tĩnh nhờ cái động mà cảm được, cái động nhờ cái tĩnh mới phát

sinh càng tạo nên cái độc đáo, tuyệt diệu của câu thơ. "Khổng gian ấy luôn hàm chứa sự

chuyển động đối lập nhưng thống nhất biện chứng giữa cái vô cùng lớn và cái vô cùng

bé" [97, 93] giữa cái cực tĩnh và cái cực động, giữa cái không và cái có.

"Cửu giới tuần hoàn thị nghĩ ma" [98, 193]

(Chín cõi tuần hoàn như kiến bò trên miệng cối xoay)

Không gian hiện thực của thế giới hiện tượng và không gian thiền vừa đối lập vừa

chuyển hóa cho nhau. Người còn mê lầm chấp trước thì còn bị câu thúc trong sự lớn, bé,

rộng, hẹp của không gian hiện thực. Người ngộ đạo, không còn vọng kiến phân biệt,

không còn bị câu thúc, vướng mắc nên đạt được sự vô ngại, dù đang ở trong bụi trần sanh

diệt nhưng vẫn thường tự tại:

"Tại quang tại trần

Thường ly quang trần" [98, 83]

(Ở nơi ánh sáng, ở nơi bụi bặm

Nhưng thường lìa khỏi ánh sáng, bụi bặm)

Chữ "ly"(lìa) ở đây không phải là xa rời, lìa xa ánh sáng và bụi trần mà là tự tại vô

ngại trong đó. Cũng như thoát ly sanh tử (sống chết) không có nghĩa xa lìa, trốn khỏi sự

sống chết, bởi vì đó là điều không thể, mà là tự tại, không bị sự sống, cái chết câu thúc

trói buộc.

Không gian thiền không phải là không gian thực tại nhưng không thể lìa không gian

thực tại mà tìm thấy nó, là cái đang là, không cần nhọc công tìm đâu xa, dù cho muốn tìm

cầu cũng không thể được :

"Hà sa cảnh thị bồ đề đạo

Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm" [98, 58]

(Khắp những thế gian đều là đạo của phật

Thế mà tưởng muốn đến, thì còn cách vạn dặm)

Thường Chiếu khẳng định :

"Đại thiên sa giới ngoại

Hà xứ bất vi gia"[98, 118]

(Dù ngoài đại thiên thế giới

Nhưng không có nơi nào không phải là nhà)

3.2.Thời gian nghệ thuật

Thời gian nghệ thuật cũng như không gian nghệ thuật là phạm trù của hình thức

nghệ thuật, thể hiện phương thức tồn tại và triển khai của thế giới nghệ thuật. Cũng như

thế giới thực tại không thể tồn tại bên ngoài không gian, thời gian, thế giới nghệ thuật chỉ

tồn tại trong không gian và thời gian nghệ thuật. Không gian nghệ thuật và thời gian nghệ

thuật là hai đại lượng không thể tách biệt nhau vì ta có thể xem xét một cách tổng hợp

thông qua phạm trù không-thời gian. Nhưng ta có thể xét riêng tương đối vì chúng có

phương thức, phương tiện biểu hiện riêng. Thời gian nghệ thuật trong văn học không phải

đơn giản chỉ là quan điểm của tác giả về thời gian mà là một hình tượng thời gian sinh

động, gợi cảm, là sự cảm thụ, ý thức về thời gian được dùng làm hình thức nghệ thuật để

phản ánh hiện thực, tổ chức tác phẩm, lý giải con người.

Thời gian nghệ thuật trong thơ ca chính là hình thức để độc giả cảm thụ về thế giới

và con người., nó mang đầy tính ước lệ, chủ quan và thể hiện một cách hiểu về thế giới

và con người. Tìm hiểu thời gian nghệ thuật của một hiện tượng thơ chính là tìm hiểu

cách cảm nhận cuộc sống một cách nghệ thuật và thẩm my~. Rõ ràng là ở mỗi hiện tượng

văn học lớn đều có những hình thức không gian nghệ thuật và thời gian nghệ thuật đặc

trưng. Chắc chắn rằng, khó có thể hiểu rõ những đặc điểm trong quan niệm về thế giới,

nhất là con người trong một hiện tượng thơ mà không tìm hiểu thời gian nghệ thuật trong

đó.

Thời gian nghệ thuật trong văn học nói chung, trong thơ nói riêng, không thể hiện

theo kiểu thời gian lịch, thời gian vật lý, thời gian đồng hồ mà là sự cảm thụ thời gian gắn

liền với ý thức về ý nghĩa của cuộc đời, với quan niệm về thế giới, với ước mơ, lý tưởng,

và năng lực hoạt động của con người. Trăm năm có thể trôi qua như một giấc mộng, một

giây đợi chờ dài như cả tam thu, một khoảnh khắc như là mãi mãi "trong hoa tiếng hát

vừa ngưng lại, là lúc trần gian qua vạn năm" (Du tiên - Tào Đường) hay "Dưới vùng ba

núi là trần tục, vụt thoáng nghìn năm tựa ngựa phi"(Mộng lên trời - Lý Hạ). Như vậy, ý

thức về thời gian là ý thức về sự tồn tại của con người, phát hiện về thời gian giúp ta nhận

thức sâu sắc hơn về cuộc sống và con người.

Thời gian nghệ thuật là đại lượng được cảm nhận bằng tâm lý qua các hình tượng

thời gian có ý nghĩa thẩm mỹ dựng lên trong thế giới nghệ thuật vì vậy nó khác với thời

gian vật lý. Những cảm xúc thời gian ấy được nghẹ thuật hóa để khắc phục tính hữu hạn

một chiều của thời gian thực tại nhằm sáng tạo ra thế giới nghệ thuật có thể tồn tại mãi

với thời gian. Thời gian nghệ thuật cũng có tính liên tục, nhưng là liên tục của những đổi

thay có ý nghĩa. Ngay cả bản thân thời gian cũng là đối tượng của sự cảm nhận, một chủ

đề, đề tài rộng lớn của văn học nói chung, thơ nói riêng. Thi nhân có thể miêu tả thời gian

trong cảm nhận, trong quan niệm mang tính cảm xúc tâm lý của mình. Do đó nó mang

đậm tính chủ quan, Lý Bạch nói: "Thi thành thảo thụ giai thiên cổ" (Làm xong bài thơ thì

cỏ cây đều sống đến ngàn năm). Giáo sư Trần Đình Sử xác định: "Thời gian nghệ thuật là

hình tượng thời gian được sáng tạo nên trong tác phẩm" [75]

Thời gian nghệ thuật chịu sự chi phối không nhỏ của thế giới quan, của quan niệm

triết học về thời gian. Không như không gian có thể nhìn thấy, thời gian là thứ không

nhìn thấy được bao giờ. Tuy không thấy hình thù trực tiếp của thời gian, nhưng nó hiển

nhiên tồn tại, không có cái gì khổng vận hành trong nó. Ta có thể "thấy" thời gian qua

những cái khác như hoa tí ngọ nở lúc mười giờ., hoa quỳnh nở lúc nửa đêm... Trong thời

trung đại ở phương Đông, cảm thức và tư duy về thời gian chịu ảnh hưởng quan niệm về

thời gian của ba dòng tư tưởng Nho, Phật, Lão.

Nho gia là một học thuyết chuyên về chính trị xã hội nên chủ yếu quan tâm đến sự

thành bại, hưng suy của các triều đại, quan tâm đến thời gian chủng tộc. Nhất là tư tưởng

"sùng cổ", xem thời gian quá khứ là huy hoàng, là mẫu mực như thời Tam hoàng, Ngũ

đế, Chu công. Nho gia thấy sự vận động không ngừng nghỉ của thời gian qua câu nói của

Khổng Tử khi nhìn dòng sông chảy xiết: "Thệ giá như tư phù, bất xá trú dạ" (cứ chảy mãi

vậy ru, không kể ngày đêm). Nho gia còn cho rằng: "Mỗi hướng du hạ" (đời ngày một

xuống dốc) hiện tại không bằng quá khứ.

Đạo gia muốn tu luyện thành "trường sinh bất lão" xem thời gian là trường cửu, gắn

chặt với không gian.

Trong đạo đức kinh, Lão Tử nói: "Thiên trường, địa cửu thiên địa sở dĩ năng trường

thả cữu giã, dĩ kỳ bất tự sinh, cố năng trường sinh" (Trời đất bao la bất tận. Trời đất vì có

thể "trường" nên mới "cửu" được vì nó không tự sinh ra, nên mới được trường sinh.)

Phật giáo cho rằng thời gian như vòng bánh xe"luân hồi" vận động liên tục, vô thủy

vô chung. Không có điểm khởi đầu, không có điểm kết thúc. Con người do "vô minh",

mê muội không hiểu nhân quả, tội phước, không thấu được thật tánh của vạn pháp, không

ngộ được chân tâm của mình nên gây tạo tội nghiệp phải trôi lăn trong sanh tử luân hồi

trong vô lượng vô số kiếp chịu khổ vô cùng. Mỗi kiếp là một đời người với chu kỳ "sanh,

lão, bệnh, tử". Thời gian của một đời người vô cùng ngắn ngủi chẳng qua chỉ là khoảnh

khắc trong vòng luân hồi liên miên bất tận. Một lần đức Phật hỏi chung đệ tử : "Đời

người sống được bao lâu?" Nhiều người trả lời nhưng chỉ có câu trả lời : Đời người chỉ

dài bằng hơi thở, thở ra mà không hít vào là hết một đời, là được Phật xác nhận. Sức tàn

phá của lưỡi búa thời gian là ghê gớm nhất mà không ai ngăn nổi. Bên cạnh đó, dưới con

mắt của người "ngộ đạo", thì thời gian không còn được nhìn ở nhị nguyên, phân biệt. Nó

được nhìn dưới cái nhìn "vạn pháp bình đẳng" không có quá khứ, hiện tại, hay vị lai,

không có dài ngắn, lâu mau. Một sát na hay mãi mãi không có gì khác nhau. Quan điểm

triết học này của Phật Giáo ảnh hưởng lớn đến cách thể hiện thời gian nghệ thuật trong

thơ thiền.

Dưới cái nhìn của các thiền sư-thi sĩ thời gian thực tại vận động tuần hoàn như bánh

xe luân hồi gắn chặt với qui luật "sinh, trụ, dị, diệt" của vũ trụ vạn vật và nhất là qui luật

"sinh lão bệnh tử" của đời người. Thời gian tuần hoàn theo chu kỳ được Vạn Hạnh diễn

tả bằng hình tượng:

"Vạn mộc xuân vinh thu hưu khô" [95, 230]

(cây cối xuân tươi, thu não nùng)

Vạn Hạnh ví như bóng chớp có rồi không Tuệ Trung dùng hình ảnh:

"Thân như băng kiến hiệu

Mệnh tự chúc đương phong"

(Thân: lớp băng nắng rọi

Mệnh: ngọn đuối gió tương)

Cái mong manh hữu hạn của đời người như "băng dưới nắng" như "đuốc trước gió"

làm cho người đọc phải giật mình tỉnh ngộ. Thời gian quá nhanh, cuộc đời ngắn ngủi cho

nên giàu sang phú quí công danh sự nghiệp chẳng qua như giấc mộng, tỉnh rồi thì không

còn nữa, như đám mây tụ rồi tan đấy:

"Đốt, đốt phù vân hề phú quí

Hu, Hu quá khích hể niên quang." [ 98,211]

(Chà chà, giàu sang như mây nỗi

Ôi ôi thời gian như bóng câu qua cửa sổ)

Thời gian đời người vận động vô thường, Trần thái Tông cảnh tỉnh người nghe:

"Nhật xuất hoàn tương một

Thân phù hưu phục trầm" [95, 190]

(Mặt trời mọc rồi lặn

Thân nổi chìm luân hồi)

"Quang âm nan cữu trụ

Lão bệnh dị tương xâm" [95, 192]

(Thời gian thấm thoát khôn mong giữ

Già ốm trêu người sá kể ai)

Tuệ Trung cảnh giác mọi người không nên mê mờ chìm đắm trong danh lợi mộng

ảo để rồi phải chịu đau khổ khôn cùng:

"Vinh hoa khẳng cố nhất trường mộng

Tuế nguyệt không hoài vạn hộc sầu"[95, 202]

(Không nhìn rõ giàu sang như giấc mộng

(nên) Trong lòng ôm nỗi sầu cùng năm tháng.

Đề cập đến thời gian thực tại vô cùng ngắn ngủi, đời người như giấc mộng, công

danh phú quý như mây mỗi tương ứng với con người thân thể, con người tứ đại vô

thường, không có nghĩa là bi quan, yếm thế, bất lực với nó. Ý thức về nó để cảnh tỉnh

mọi người không nên đắm chìm trong mộng tưởng điên đảo mà phải nhìn thấu nó, nỗ lực

cần tu vượt ra sự câu thúc của mọi sự hữu hạn, vô thường, đạt đến cảnh giới "vô phân

biệt", không còn nhìn mọi sự vật hiện tượng trong nhị nguyên đối đãi trong sự sinh diệt,

tốt xấu; thị phi. Nhìn thời gian trong bản chất của nó, không dài ngắn, không lâu mau, sát

na, khoảnh khắc là mãi mãi, vô lượng vô biên vô thủy vô chung, không đến không đi.

Đây chính là thời gian thực tướng. Năm ngoái, năm nay, đêm trước, hôm nay không còn

gì khác biệt.

"Tạc dạ nguyệt minh kim dạ nguyệt

Tân niên hoa phát cố niên hoa"[97, 98]

(Đêm qua trăng sáng trăng đêm nay

Năm mới hoa nở hoa năm cũ)

Nếu nhìn dưới con mắt vọng kiến, nhị nguyên, phân biệt thì không thể thấy được

trăng đêm qua có thể soi sáng trăng đêm nay, hoa năm mới có thể nở hoa năm cũ. Quan

niệm về thời gian thực tướng không phân biệt là một nét rất đặc sắc ở thơ thiền, không

thể tìm thấy trong các dòng thơ khác. Mặc dù trong thơ Nho đôi lúc có đề cập đến thời

gian tĩnh tại. Nhưng đó là miêu tả cảnh sắc thiên nhiên trong một thời điểm tĩnh tại, lúc

đó thời gian như ngừng trôi

"Núi xanh muôn lớp họa bình che

Ác xế soi lên rạng nửa khe

Bụi rậm đường sâu người vắng vẻ

Trang mây chi khách gọi let" (Chu An)

Nguyễn Trãi xem thời gian vũ trụ bất biến là đối tượng cần được vượt lên để thay

đổi số phận của kiếp người hay lịch sử :

"Bành được thương thua con tạo hóa

Diều bay cá nhảy đạo tự nhiên"

Mùa xuân lúc đến thì trăm hoa đua nở, muôn hồng nghìn tía, lúc qua rồi thì hoa tàn,

cánh rụng nhưng với Chân Không thì:

"Xuân lai xuân khứ nghi xuân tận

Hoa lạc hoa khai chỉ thị xuân"

(Xuân qua lại ngỡ xuân tàn

Hoa dù rụng nở vẫn hoàn tiết xuân)

Khoảnh khắc chợt tỉnh cũng tức là thời gian giao điểm giữa mê và ngộ. Thời gian

của sự chuyển đổi lớn lao từ cái nhìn nhị nguyên, phân biệt đến cái nhìn vô phân biệt.

Trần Nhân Tông lúc chưa ngộ thì:

"Niên thiếu hà tằng liễu sắc không

Nhất xuân tâm tại bách hoa trung"

(Tuổi trẻ chưa tường lẽ sắc không

Xuân sang hoa nở rộng tơ lòng)

Khi đã liễu ngộ thì:

"Như kim khám phá Đông hoàng diện

Thiên bản bồ đoàn khán trụy hồng" [98, 261]

Đây là sự chuyển biến lớn lao của tâm thức. Khi chưa rõ lẽ thực thì bị hoàn cảnh

câu thúc. Khi đã ngộ rồi thì tự tại an nhiên làm chủ bản thân, làm chủ hoàn cảnh. Khoảnh

khắc đó ngắn ngủi nhưng có ý nghĩa vô cùng to lớn:

"Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ

Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ" [98, 263]

(Tỉnh giấc tiếng chày đâu chẳng biết

Trên cành hoa quế nguyệt lồng gương)

Phút giây kì diệu ấy, phút giây làm thay đổi hoàn toàn ấy được Lục Tổ Huệ Năng

bàng hoàng thốt lên:

Đâu ngờ tự tánh, vốn tự thanh tịnh

Đâu ngờ tự tánh vốn không sinh diệt

Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ

Đâu ngờ tự tánh vốn không lay động

Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp [64, 15]

Trần Thái Tông diễn tả thời gian bước ngoặt này bằng hình ảnh sinh động:

"Tế lai sơn sắc tinh

Vân khứ động trung minh" [97, 103]

(Mưa tạnh sắc non phơi

Mây đi động sáng ngời)

Đó cũng là lúc con người như chuyển thân hoán cốt, như thoát ra ngoài mọi sự giới

hạn phân biệt, như tự do tự tại trong khoảng không vô tận, hét lên một tiếng chuyển động

đất trời:

"Hữu thời trực thướng cô phong đính

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư" [95, 342]

(Có lúc lên thẳng đỉnh núi chót vót

Kêu lên một tiếng dài lạnh cả bầu trời)

Tiếng kêu vượt không gian vượt thời gian này đánh dấu một sự chuyển biến lớn

trong tâm thức của tác giả, từ mê đến ngộ. Tiếng kêu này dường như muốn chia sẻ niềm

hỷ lạc vô biên của con người đại ngộ.

Viên Ngọc cho rằng cuộc sống đích thực của con người chính là từ lúc giác ngộ trở

đi, còn trước đó là vô minh, lầm lạc, khổ sở vô cùng:

... "Vô minh bị phú cửu mê dung

Trú dạ văn chung khai giác ngộ

Lẩn thần tịnh sát đắc thần thông" [98, 103]

(Vì vô minh che lấp nên mê mờ biếng nhác

Đêm ngày nghe tiếng chuông bừng tỉnh ngộ

Thần lười rũ sạch, chứng được thần thông)

Nếu thơ Đường, thời huy hoàng nhất của thơ ca Trung Quốc cực kì xem trọng thời

gian quá khứ. Các nhà thơ sùng bái cổ nhân, tôn thờ quá khứ. Toàn Đường thi có không

biết bao nhiêu là thơ hoài cổ: "Bách Đế hoài cổ", "Việt Trung lãm cổ", "Xích Bích hoài

cổ", "Vịnh hoài cổ tích", Lý Bạch nói:

"Ngũ hữu vạn cổ trạch

Tung Dương Ngọc Nữ phong"

(Ta có ngôi nhà muôn năm

Trên ngọn Ngọc Nữ núi Tung Dương)

Ngược lại thơ thiền đặc biệt xem trọng thời gian hiện tại, không "hoài cổ" như thơ

Đường, cũng không mơ mộng ở tương lai, luôn luôn tỉnh giác với phút giây hiện tại. Các

thiền sư - thi sĩ cho rằng quá cả khi tỉnh giác với hiện tại nhưng họ biêt rõ hiện tại cũng

không trụ.

Đản tri kinh nhật nguyệt

Thúy thức cựu xuân thu

(Sống ngày nay biết ngày nay

Còn xuân thu truóc ai hay làm gì)

Quảng Nghiêm đả phá một cách mạnh mẽ sự sai lầm của việc quan tâm đến chuyện

viễn vông xa rời hiện tại:

"Ly tịch phương ngôn diệc khứ

Sanh vô sanh hậu thuyết vô sanh." [95,436]

(Thoát tịch diệt xong bàn tịch diệt

Sinh vô sinh hãy nói vô sinh)

Thậm chí có lúc các thiền sư còn quên luôn cả ngày tháng thực tại, hoa mình vào tự

nhiên và mặc nhiên là :

"Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật

Cúc hoa khai xứ tức Trùng Dương” [95, 415]

(Cuối năm trong núi không có lịch

Thấy hoa cúc nở biết là đến Trùng Dương)

Và ngay cả cái mới vừa đến cũng không quan tâm:

"Thụy khởi khải song phi

Bất tri xuân dĩ qui" [97, 107]

(Ngủ dậy mở cửa sổ

Không hay xuân đã về)

Trong nhiều bài thơ thiền, thời gian mùa thu và ban đêm được các thi nhân chọn

làm hình tượng thời gian. Mặc dù ánh trăng ban đêm và mùa thu là nguồn cảm hứng bất

tận làm rung động tâm hồn thi nhân nhiều thời đại. Nhưng hầu hết là mùa thu của tâm

trạng buồn cô đơn ảm đạm :

Rặng liễu điều hiu đứng chịu tang

Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng

Đây mùa thu tới mùa thu tới

Với áo mơ phai dệt lá vàng.

Còn đêm mùa thu trong thơ thiền thì khác hẳn:

"Thu sương trích trích lô hoa ngan

Dạ tuyết phân phân nguyệt sắc thiên" [97, 106]

(Sương thu điểm giọt nơi bờ lau

Tuyết đêm lất phất dưới bầu trời sáng trăng)

Hay:

"Dạ khí phân lương nhập họa hình

Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh"

(Khí đêm tỏa mát vào bức bình phong vẽ

Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu) [97, 106]

Ban đêm, đặc biệt là đêm thu với cái hư không trong trẻo, tịnh mịch đó là thời điểm

thuận lợi, thích hợp cho sự biểu hiện cái chân tâm trong sáng vô biên, là thời khắc của sự

hòa điệu giữa con người và vũ trụ vạn vật. Đêm thu trong mát còn là thời điểm thuận lợi

cho sự giác ngộ, lúc ấy con người đứng trước cái hư không trong lặng của trời đất, phiền

não lắng đọng, lớp màn vô minh bị rũ sạch như mây đen bị gió cuốn đi, hiển rõ mặt ười

tự tính trong sáng thuần khiết vô biên. Đúng như nhận xét của Đoàn Thị Thu Vân.

3.3.Ngôn ngữ nghệ thuật

Thật khó có thể tìm hiểu một cách rõ ràng một hiện tượng văn học mà bỏ qua việc

tìm hiểu ngôn ngữ nghệ thuật. Bởi vì văn học là nghệ thuật ngôn từ và ngôn ngữ là yếu tố

thứ nhất của văn học. Hơn nữa, tu duy hình tượng là đặc trưng, là cơ sở của tư duy nghệ

thuật. Max từng nói: "Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy". Do đó, nghiên cứu văn

học nói chung, thơ thiền nói riêng, không thể không nghiên cứu phương diện ngôn ngữ

của nó. Để giải thích bản chất của thơ là gì? Đâu là yếu tố nhất thiết phải có trong mỗi tác

phẩm thơ? Jakopson bắt đầu giải thích từ thao tác cơ bản được thực hiện trong hành xử

ngôn ngữ, đó là thao tác lựa chon và thao tác phối hợp. Ông cho rằng: "Thơ là sự chiếu

nguyên lý tương đương của trục lựa chọn lên trục phối hợp" [16, 45]Các đơn vị tương

đương này có thể thuộc về mọi bình diện ngôn ngữ: âm vị, âm tiết, ngữ pháp, ngữ nghĩa.

Chúng tạo nên vần thơ, nhịp thơ. Tất cả các kiểu lập lại đều có thể qui về hình thức song

hành (đối chiếu, so sánh). Do vậy, mỹ học thơ ca là mỹ học của sự so sánh tương đồng và

mỹ học của sự so sánh đối lập. Thơ ca mọi thời đại, mọi vùng khác nhau trên địa cầu đều

bị chi phối bởi nguyên lý này.

Chính bằng thao tác lựa chọn của mình, bản thân ngôn ngữ mà không phải ai khác,

đã cung cấp tiền đề vật chất cho việc khử tính tạo hình khỏi văn bản để tập trung sự chú ý

người nghe vào hệ thống tổ chức ngôn ngữ có tính biểu hiện. Thao tác lựa chọn đã làm

xuất hiện điều thần thoại trong hoạt động ngôn ngữ: vốn sinh ra để nói về mọi cái khác,

ngôn ngữ lại có thêm khả năng nói về chính bản thân mình. Việc nhận thức lại các yếu tố

vốn dùng để nhận thức đó rõ ràng đã xóa bỏ, gạt sang một bên, đẩy lùi lại phía sau ý

nghĩa trực tiếp của các tín hiệu ngôn ngữ (nghĩa đen) khi nghĩa trực tiếp bị "chìm đi" để

nghĩa gián tiếp nổi lên. Nghĩa gián tiếp lập tức có cuộc sống tự thân sau khi được nâng

lên từ nghĩa trực tiếp. Ký hiệu học gọi đó là sự vận động tạo nghĩa lôgic về sự tạo nghĩa

bên trong ngôn từ. Cái biểu đạt và cái được biểu đạt xâm nhập vào nhau, chuyển hóa cho

nhau tạo hiệu quả mới về ngữ nghĩa. Xây dựng những kết hợp là một khả năng vô cùng

quyết định đối với nghệ thuật ngôn ngữ. Khi lắp ghép, vừa tập trung sự chú ý của người

nghe vào bình diện ngữ nghĩa thứ nhất, đồng thời tạo nên một ý nghĩa mới có nội dung

lớn hơn, rộng hơn tổng số nội dung ý nghĩa của các thành tố của kết hợp tức là từ nghĩa

trực tiếp của các thành tố đưa lại, ta còn hiểu thêm một nội dung mới nữa. Như vậy, sự

kết hợp làm cho văn bản nói được nhiều hơn, rộng hơn một bình diện ngữ nghĩa. Bí quyết

của "Huyền thoại chi âm", "Cam dư chi vị" là ở đây. Với thi pháp học hiện đại, văn bản

trong tính chính thể là cơ sở khách quan để hiểu về tác phẩm mà các qui tắc ngôn ngữ là

thứ trực tiếp và đầu tiên.

Muốn hiểu tác phẩm trước hết phải hiểu các từ, câu, đoạn và nghĩa của toàn bộ tác

phẩm cơ sở của các ý nghĩa là sự khu biệt. Hệ thống các khu biệt tạo thành bản thân ngôn

ngữ. Từ các nét khu biệt, hệ thống khu biệt hiểu được ý nghĩa biểu hiện qua ngôn ngữ

nghệ thuật của tác phẩm. Mọi ấn tượng thẩm mỹ mà ta có được về tác phẩm đều do ngôn

từ gợi nên. "Thế giới nghệ thuật trong tác phẩm văn học mọc lên từ ngôn từ. Do đó lấy

văn bản ngôn từ làm cơ sỏ, làm điểm xuất phát chính là con đường mà các tác giả đã lót

sẵn cho người đọc. Bỏ qua, coi nhẹ ngôn từ thì chẳng còn gì mà nói về tác phẩm văn học

nữa".[76, 113, 115].

Ngôn từ càng tỏ ra quan trọng vì nó không phải là cái để chỉ ra hình tượng nghệ

thuật nằm bên ngoài nó, mà là cái làm cho hình tượng nghệ thuật hiện hình ngay trong

bản thân đến mức ngôn từ là hình tượng! Quan trọng hơn nữa, ngôn từ mang cái mô hình

giao tiếp của văn học và thơ ca nói riêng : người nói, không gian, người nghe. Người nói

ở đây trước hết không phải là một đầu óc tư duy mà là con người, là cơ thể, là thân xác

với mọi cảm giác, cho nên ngôn từ mang kinh nghiệm, thể nghiệm của chủ thể chứ không

phải thông báo cái gì ngoài nó. Hơn nữa ngôn từ không phải chỉ là tín hiệu, nó là hành vi.

Văn học nói tới thế giới tưởng tượng, hư cấu nên bản thân ngôn từ văn học là hành vi:

bày tỏ một tâm tình, một khát vọng, một ý tưởng... Do đó đọc văn học mà chỉ thấy "hình

tượng", "bức tranh" thì chỉ hiểu một phần rất nhỏ của văn học mà thôi.

Từ những thành tựu rực rỡ của ngôn ngữ học, với quan niệm về ngôn ngữ văn học

mà thi pháp học hiện đại dựa vào, chúng ta nhìn lại những đặc điểm đặc trưng của ngôn

ngữ nghệ thuật trung đại phương Đông.

Nguyên lý rất cơ bản của triết học phương Đông là "Vạn pháp duy tâm", "Vạn vật

nhất thể" sum la vạn tượng, cả con người tuy hiện tượng biểu hiện không giống nhưng

bản thể không khác, không ngoài chân tâm. Tư duy phương Đông là tư duy tổng hợp, xu

hướng khái quát cao. Loại tư duy đặc thù này của triết học và mỹ học phương Đông ảnh

hưởng rất lớn đến các loại hình nghệ thuật nói chung và nghệ thuật ngôn ngữ nói riêng.

Do tính đặc thù của tư duy tổng hợp nên ngôn ngữ được sử dụng mang tính cô đúc, hàm

súc cực cao, tính chất này qui định theo nó những thủ pháp nghệ thuật tương ứng là ẩn

dụ, tượng trưng, đặc biệt hay sử dụng điển tích, điển cố. Thiên nhiên và con người có mối

cảm ứng tương linh tương thông, con người như thấy vạn vật đầy đủ trong mình, vạn vật

như có hình bóng con người trong đó. Con người muốn diễn tả tự nhiên hay thể hiện tình

cảm của mình đối với tự nhiên không phải từ góc nhìn của người ngoài khám phá khách

thể mà như là tự thể hiện. Khám phá thiên nhiên vạn vật là đi vào chiều sâu của tâm hồn

con người, qua thiên nhiên, từ thiên nhiên hiểu thông về con người, cuộc sống sâu sắc

hơn.

"Ngôn ngữ đạo đoạn" (kinh tứ thập nhị chương) lời nói hữu hạn không thể diễn đạt

đến trọn vẹn cái chân lý vô cùng thể hiện rõ quan điểm mỹ học phương Đông. Ngôn ngữ

khó có thể thể hiện cái tĩnh mà động, thường mà biến, hư mà thật khó lòng nắm bắt.

Đúng như lời nhận xét sâu sắc của cô Đoàn Thị Thu Vân, một trong những đặc trưng

thẩm mỹ cơ bản của thi ca phương Đông là nghệ thuật "biểu diễn cái không lời" (Ngôn

vô ngôn - Lão Tử) hay "Thính hồ vô thanh" (nghe cái không có âm thanh) -Trang Tử,

người viết nhấn mạnh) đây không chỉ là đặc trưng thẩm mỹ cơ bản mà còn là nét độc đáo

thâm diệu của mỹ học phương Đông. Tức là dùng ngôn từ hay vô ngôn cũng không bị

câu thúc trói buộc. Không diễn tả đối tượng chỉ cốt khơi gợi hướng tới chiếm lĩnh đối

tượng. Cái hiện ra qua bề mặt ngôn ngữ chỉ là một phần nổi lên của tảng băng trôi, phần

chính yếu, ngôn ngữ không thể diễn tả hết được như chín phần chìm dưới của tảng băng,

ẩn tàng sau lớp từ ngữ diễn tả.

Hơn nữa, từ ý tưởng đến ngôn ngữ cần một khoảng cách vô hình, khoảng cách này

chỉ có thể rút ngắn lại với những nhà văn, nhà thơ thiên tài chứ hoàn toàn không thể xóa

bỏ. Đó là chưa nói, ngôn ngữ không thể thể hiện trọn vẹn chân lý, nếu miễn cưỡng thì

không thể tiếp cận trọn vẹn chân lý đích thực được.(người viết nhấn mạnh)

Những tuyệt tác của thi ca phương Đông thường dường như chưa hoàn tất, chưa đầy

đủ, chưa kết thúc, tạo nên sự lung linh mờ ảo, chập chờn chưa rõ, với sức cuốn hút vô

biên, sức sống vô hạn, không những không bao giờ nhàm chán mà còn tạo sức kích thích

lớn lao của lạc thú khám phá sự kì diệu của bí ẩn thi ca. Mỗi người tự cảm nhận, tự chiêm

nghiệm, tự lắng nghe tiếng phản hồi tự nơi sâu thẳm của lòng mình. Tinh thần của mỹ

học phương Đông, theo Đoàn Thị Thu Vân, có thể tóm tắt là : "Lấy hư diễn thực, cái có

phát sinh từ cái không". Thật ra trong hư có thực, trong cái có có cái không, trong cái

không ẩn tàng cái có. Như thiền sư Đạo Hạnh nói:

"Tác hữu trần sa hữu

Vi không nhất thiết không" [98, 64]

(Có thì muôn sự có

Không thì tất cả không)

Bên cạnh những nét chung của ngôn ngữ nghệ thuật trung đại phương Đông, ngôn

ngữ thơ thiền Lý - Trần ảnh hưởng sâu sắc quan điểm "ngôn ngữ đạo đoạn" nên ngôn ngữ

được dùng đạt đến đỉnh điểm của tính cổ đúc, hàm súc và gợi mở ngôn ngữ thơ Thiền

như luồng nội lực vô biên đả thông tất cả kinh mạnh, lạc mạch, mỡ ra thông lộ vô biên

cho người tiếp nhận. Sự bất toàn, bất cập của ngôn ngữ kính thích mãnh liệt sự ngăn trệ

của trí tuệ, kích thích mãnh liệt vào lòng ham hiểu biết muốn khám phá, và đó là cách

thức giải phóng, khai thông những tiềm lực to lớn, vô biên tận trong sâu thẳm của chân

tâm, trí tuệ người đọc. Tính chất "ý tại ngôn ngoại, huyền ngoại chi âm, cam dư chi vị"

không thể chỉ hiểu theo nghĩa lời ít ý sâu, ngôn ngữ có nhiều tầng nghĩa mà đối tượng

tiếp nhận có thể lĩnh hội theo cơ chế của sự liên tưởng mà lắm khi vượt ra ngoài khuôn

sáo ngữ nghĩa thông thường của ngôn ngữ, cầu trường liên tưởng thông qua ngữ nghĩa.

Tức là thông điệp mà thơ thiền phát ra không thể đạt tơi bằng tư duy lôgíc thông thường.

Mục đích của thơ thiền thường nhằm dồn người đọc đến tuyệt lộ của tư duy lý tính, tạo

nên một khối bế tắc, khối "nghi" lớn. Đây chính là nhân, là điều kiện cần dẫn đến sự

bừng vỡ, khai thông trí tuệ, tiềm lực vô biên của "chân tâm" khiến độc giả lĩnh hội hoàn

toàn thông điệp của tác giả. Ngôn ngữ của thơ thiền được các tác giả xem như một

"pháp" bình đẳng với những pháp khác, vượt ra ngoài mọi qui ước về mặt ý nghĩa tạo nên

một thứ siêu ngôn ngữ. Bước đột phá này bổ túc cho sự bất toàn của ngôn ngữ trong việc

phản ánh, biểu hiện, tái tạo hiện thực và chiều sâu vô tận của tâm hồn người mà ngôn ngữ

thông thường không thể biểu hiện được. Đây là một vấn đê lớn cần được quan tâm

nghiên cứu sâu hơn. Thứ siêu ngôn ngữ này mở rộng khả năng biểu hiện của ngôn ngữ

đến vô giới hạn, có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu phản ánh, thể hiện sự muôn màu

muôn vẻ của cuộc sống, mà chiều sâu bí ẩn của tâm hồn người là mảnh đất màu mỡ nhất.

Tính gợi mở khai thông của ngôn ngữ thơ thiền khích dẫn mạnh mẽ vào sự hoạt động tâm

trí giúp độc giả tự ngộ ra chân lý. Điều này kích thích sự sáng tạo tự thân tránh thái độ

sáo mòn, dọn sẵn.

Thơ thiền Lý - Trần dùng chữ Hán, ba ương sáu nguyên tắc cấu thành là tượng hình,

tượng thanh, hội ý, điều này thể hiện thái độ chuộng triết lý tư duy trừu tượng thiên về tư

duy tổng hợp. Thơ thiền thời Lý chịu ảnh hưởng rất nặng thơ Đường nói chung và thơ

thiền thời Đường Tống nói riêng, thường dùng thể tuyệt cú, nặng về bản thể luận và giải

thoát luận là loại thơ triết học. Sang thời Trân, khi chữ Nôm phát triển và thơ thiền có xu

hướng đại chúng hóa thì nét bình dân , chuộng thực tiễn hướng về cuộc sống lấn dần sang

mảnh đất triết lý trừu tượng, truy nguyên bản thể trong nội dung thơ thiền. Điều này có

cơ sở từ đặc điểm xã hội lích sử của dân tộc Việt Nam. Vì vậy từ ngữ về cuộc sống đời

thường được các thi nhân đùng nhiều hơn.

Ngôn ngữ thơ thiền gắn với triết lý thiền. Do tính chất đặc biệt của triết học thiền là

bất lập văn tự nên từ ngữ của các từ ngữ của các thiền SƯ-thi sĩ dùng lắm khi vượt ra

khỏi mọi qui ước ý nghĩa thông thường được mọi người chấp nhận, trở thành ngôn ngữ

siêu ngôn ngữ. Thứ siêu ngôn ngữ này không thể dùng tư duy lôgic thông thường hiểu

được, nó chính là phương tiện "tháo đinh gỡ chốt" khai thông suối nguồn trí tuệ hầu đạt

đến triệt ngộ cho người học. Đây là mục đích cứu cánh của thơ thiền. Lúc ấy dù là ngôn

ngữ hay không ngôn ngữ, là tiếng hô, tiếng hét, là cái đánh, cái tát hay đạp không có gì là

khác nhau. Vì vậy người học nếu dùng lí trí, tư duy logic thì không thể lĩnh hội được, chỉ

bằng vào "trực cảm" vô phân biệt mới lĩnh hội được. Đều kiện cần của trực cảm là trước

hết phải thanh lọc tâm mình, buông xả tất cả nhất là thành kiến, giống như lý nước, nếu

không súc sạch, đổ hết nước dơ ra ngoài thì không thể đựng nước sạch được.

Đọc thơ thiền không phải là đọc được những gì ở ý nghĩa của ngôn ngữ mà là lĩnh

hội được gì qua những cách nói ngược đời nghịch lý, phi lôgic, khác thường, không thể

có được trong cuộc sống :

"Dục tri đoan đích ý

Thạch hổ giảo kim ngưu" [98, 174]

(Muốn biết ý nghĩa đích thực

Hổ đá cắn dê vàng)

Hay:

"Khốn tắc miên hề hà hữu hương

Hứng thời xuy hề vô khổng địch" [98, 211]

(Mệt thì ngủ làng trống không

Khi hứng thì thổi sáo không lỗ)

Thiền sư Viên Chiếu dùng những hình tượng sinh động để trả lời người học, như để

trả lời câu hỏi: "Phật và Thánh nghĩa là thế nào?". Ông nói:

"Ly hạ trùng dương cúc

Chi đầu thục khí oanh" [loi, 274]

(Trùng dương đến cúc vàng dưới dậu

Xuân ấm về oanh nấu đầu cành)

Học trò bảo không hiểu xin thầy chỉ giáo, sư đáp:

"Trú đắc kim ô chiếu

Dạ lai ngọc thố minh" [101, 274]

(Ngày vầng ô chiếu sáng

Đêm bóng thỏ rạng soi)

Có người hỏi thế nào là ngôn đạo ngữ đoán? Sư đọc:

"Giốc hưởng tuy phong xuyên trúc đào

Sơn nham đới nguyệt quá tường lai" [101, 280]

(Xuyên rặng trúc còi theo gió tới

Vượt bờ tường núi đội trăng sang)

Trả lời câu hỏi thế nào là bản ý bằng hai câu thơ:

"Xuân chức hoa như cẩm

Thu lai diệp tự hoàng" [101, 280]

(Xuân dệt muôn hoa như gấm thêu

Thu sang ngàn lá tựa vàng gieo)

Những câu thơ tuyệt diệu này mới nghe tưởng chừng như chẳng ăn nhập gì với câu

hỏi ngỏ hầu đánh tan cố chấp, vướng mắc của người học, mở đường thông đến chỗ bí ấn

nhất của mỗi con người.

Đối với các vị thiền sư - thi sĩ, vô ngôn cũng là một thứ ngôn ngữ, nhưng là ngôn

ngữ đặc biệt. Trong thực tế, ở một số tình huống, không có một từ ngữ nào có thể diễn tả

được. Trong thơ thiền, để biểu lộ cái chân tâm trong sáng, u huyền tịch diệu, không màu

không mùi, không lớn không bé, không hình không dáng, không vuông không tròn, hoặc

diễn tả cái trạng huống giác ngộ, bừng vỡ chân lý, lúc ấy không gì hơn vô ngôn.

Cùng với thiền ngữ, vô ngôn bổ túc cho sự bất toàn của ngôn ngữ. Ngôn ngữ dù có

được dùng hay đến đâu cũng mang ý nghĩa giới hạn, vô ngôn đưa nó đến vô hạn. Hãy

cùng nghe nhà thơ Trần Quang Triều tả cảnh một buổi chiều:

"Tâm khôi oa giấc mộng

Bộ lý đáo thiền đường

Xuân vãn hoa dung bạc

Lâm u thiền vận trường

Vũ thu thiên nhất bích

Trì tĩnh nguyệt phân lương

Khách khứ tăng vô ngữ

Tùng hoa mãn địa hương" [98, 270]

(Nguội ngắt lòng danh lợi

Am thiền rảo gót qua

Xuân chày hoa mỏng mảnh

Rừng thẳm ve ngân nga

Mưa tạnh da trời biếc

Ao trong ánh trăng ngà

Khách về tăng không nói

Thông rụng nức mùi hoa)

Lúc này, thật không một ngôn từ nào diễn tả hết được cái không gian trong sáng,

cảnh vật yên tĩnh mát mẽ. Một sự thanh khiết vô biên tuyệt diệu của đất trời làm cho con

người lọc được hết mọi ưu tư phiền não, tâm không còn vướng mắc, không còn lời gì

đáng để thốt ra nữa. Trạng thái lặng yên hội nhập với vạn vật được Trần Nhân Tông đề

cập:

"Khách lai bất vấn nhân gian sự

Cộng ỷ lan can khán thúy vi" [98, 259]

(Khách đến không hỏi lời nào về chuyện đời

Cùng đứng tựa lan can ngắm xa xa một màu xanh)

Tinh thần vô ngôn được Trần Thái Tông diễn tả trong sự hòa lẫn giữa người và vật,

tất cả hòa vào vũ trụ vô biên:

"Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình

Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh

Cá trung tư vị vô nhân thức

Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh" [98, 132]

(Gió động cành thông trăng lấp lánh

Lòng đây cảm đấy cùng thanh sảng

Bao nhiêu thú vị chẳng ai hay

Mặc kệ cho sư vui đến sáng)

Bằng vào nghệ thuật ngôn ngữ vô ngôn này, thiền sư - thi sĩ đã mở ra một cầu

trường cảm nhận vô biên giữa tác giả và người đọc. Cái mỹ học "vô ngôn" của thiền tông

đã mang đến cho thơ ca luồng sinh khí của một thế giới xúc cảm mới mẻ và rộng mở đến

vô hạn. Giây phút thực hiện đại hòa điệu giữa con người và vũ trụ đem lại niềm an lạc

thú vị không thể giải thích bằng lời được" [97, 73]. Lúc đó vô ngôn là ngôn ngữ đắc dụng

nhất.

Ngoài ra ngôn ngữ thơ thiền còn một số đặc điểm khác. Các nhà thơ thường dùng

những từ thuộc thuật ngữ của triết học thiền và mỹ học thiền.

"Pháp bổn như vô pháp

Phi hữu diệc phi không" [98, 34]

(Pháp vốn như không pháp

không phải có, cũng không phải không)

Hay:

"Sắc thị không, không tức sắc

Không thị sắc, sắc tức không"

(Sắc là không, không tức là sắc

Không là sắc, sắc tức là không)

Thủ pháp ẩn dụ được sử dụng hầu hết trong các bài thơ thiền, chiếm khoảng 60%

trên tổng số tác phẩm. Nó được nhiều người dùng đến mức trở thành ước lệ .Từ "Gia"

(nhà) chỉ ra cội nguồn bản thể của mỗi người:

"Đại thiên sa giới ngoại

Hà xứ bất vi gia" [98, 118]

(Cả hà sa thế giới

Đâu cũng nhà nó thôi)

Dấu vết của tinh thần tam giáo đồng nguyên thể hiện rất rõ trong thơ thiền. Ngoài

điển cố Phật giáo, điển cố của Nho gia, Đạo gia cũng thường được sử dụng:

"Y cẩu phù vân biến thái đa

Du du đô phó mộng Nam Kha" [98, 184]

(Vân cẩu đổi thay lắm vẻ mà

Mơ màng phó trọn giấc Nam Kha)

Hay:

"Quân khán Vương Tạ lầu tiền yến

Kim nhập tầm thường bách tính giá" [98, 185]

(Hãy xem đàn én lầu vương Tạ

Nay xuống làm thân với mọi nhà)

Để tác động mạnh vào người đọc, các thi nhân thường dùng những từ mang chức

năng biểu cảm :

"Di! Di! Di!

Đốt! Đốt! Đốt!

Đại hải trung âu nhàn xuất một

Chư hành vô thường nhất thiết không" [97, 56]

(Ôi! Ôi! Ôi!

Chà! Chà! Chà!

Bọt trong biển lớn có rồi tan đó

Mọi hiện tượng đều thường biến diệt)

Hay:

"Đốt đốt phù vân hề phú quý

Hu hu quá khích hề niên quang" [97, 56]

(Chà chà giàu sang như mây nổi

Ôi chao thời gian như bóng ngựa qua cửa sổ)

KẾT LUẬN

Thơ thiền là một sản phẩm độc đáo và kỳ đặc xuất hiện cách đây hơn một ngàn năm

ở một số quốc gia phương Đông như Trung Quốc, Nhật Bản, An Độ, Đài Loan... trong đó

có Việt Nam.

Thơ thiền Việt Nam xuất hiện vào đầu thế kỷ X kéo dài cho đến nay, mà đỉnh cao là

thời Lý - Trần. Có thể nói rằng văn học phật giáo thời Lý-Trần nói chung, thơ thiền nói

riêng là một trong những nhánh chính khơi nguồn cho văn học viết Việt Nam chảy mãi

đến hôm nay. Thơ thiền thời Lý -Trần là những bông hoa kỳ diệu trong vườn thơ Việt

Nam, cho đến hôm nay ta vẫn chưa cảm nhận hết mùi hương của nó, mà con người trong

thơ thiền Lý - Trần là tinh tuy của những bông hoa đó.

Trong luận văn này, người viết đi sâu vào nghiên cứu con người trong thơ thiền

dưới góc nhìn thi pháp học hiện đại.Quan niệm nghệ thuật về con người trong thơ chính

là phạm trù quan trọng nhất của thi pháp học hiện đại, là yếu tố cơ bản then chốt nhất của

một chỉnh thể nghệ thuật. Nghiên cứu vấn đề này giúp ta thâm nhập vào qui luật tư duy

của văn học, khám phá qui luật vận động và phát triển của văn học. Trước hết đó là "con

người thật không địa vị"(vô vị chân nhân). Nếu con người vừa là đối tượng, vừa là mục

tiêu cuối cùng của văn học, thì con người thật không địa vị vừa là đối tượng chiêm

nghiệm, miêu tả, tự biểu lộ,vừa là mục đích cứu cánh của thơ thiền. Thơ thiền gắn với

triết học thiền và mỹ học thiền, mà triết học thiền chỉ quan tâm giải quyết những vấn đề

thuộc bản thể luận và giải thoát luận. Phật giáo đại thừa nói chung, thiền tông nói riêng

đều cho rằng "vạn vật nhất thể" bản thể của chúng sanh và bản thể của thế giới hiện

tượng không khác nhau. "Con người thật không địa vị" hay là chân tâm, Phật tánh theo

cách nói của nhà Phật, là mục tiêu, là lý tưởng của cả cuộc đời của các thiền sư- thi sĩ.

Truy thấu, sống trọn vẹn với con người thật không địa vị chính là sự giải thoát với ý

nghĩa cao nhất, tuyệt đối nhất. Sự nhất quán này không chỉ thể hiện rõ trong triết học

thiền tông, mà còn thống nhất trong toàn bộ hệ thống thơ thiền thời Lý -Trần. Con người

thật không địa vị là bí ẩn sâu kín nhất trong mỗi con người, nó không phải là con người

thực thể (con người vật lý) nhưng ngoài con người thực thể thì không thể có đươc.Nó

không hình không tướng, không to không nhỏ, không màu không mùi, không xanh vàng

đỏ trắng, bao trùm khắp hư khổng nhưng nếu ôm lòng cố chấp, thành kiến, kiến chấp mà

cố công tìm kiếm cũng là vô ích chỉ như đang mang cái đầu trên cổ mà đi tìm đầu.

Nếu con người thật rất diệu, rất tĩnh, không hình, không dáng thuộc về bản thể khó

lòng nắm bắt, thì cái dụng của nó hiện ra bên ngoài là con người trí tuệ. Đó là những con

người có trí tuệ hơn người, hiểu thấu cuộc đời, tinh thông tam giáo. Họ chẳng những có

tài kinh bang tế thế mà còn có công lớn trong việc chống giặc ngoại xâm bảo vệ quyền

độc lập tự chủ của dân tộc. Bên cạnh đó con người còn dám hiên ngang đối diện với thiên

nhiên, cải biến tự nhiên thay đổi tự nhiên, bắt tự nhiên phải phục tùng con người. Đó còn

là những con người tiên đoán được vận mệnh của đất nước để thay đổi phù hợp với lịch

sử như Vạn Hạnh, Mãn Giác, Lý Thái Tổ, Trần Thái Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân

Tông...

Bên cạnh con người trí tuệ là con người giải thoát ra khỏi mọi sự vướng mắc, ràng

buộc, cố chấp đạt đến tự do tự tại tiêu diêu phóng khoáng. Con người tự tại ở đây không

chỉ vượt ra khỏi sự ràng buộc của ngoại cảnh, của các tác động ảnh hưởng từ bến ngoài,

mà còn thoát ra khỏi sự cố chấp buộc ràng của chính bản thân mình. Đó là chấp ngã, chấp

vào những thứ thuộc sở hữu về mình, có liên quan trực tiếp đến mình. "Chấp ngã" là một

trong những phiền não khó thoát ra nhất, nó ăn sâu vào trong tiềm thức của mỗi người,

như là máu thịt của mình, khó có thể nhận ra được. Theo nhà Phật, ai vượt qua được ngã

chấp là chứng quả A La Hán, lúc ấy sanh tử cũng không còn ràng buộc được mình.

Con người tự tại còn được thể hiện ở sự tự tin vào năng lực trí tuệ, khả năng của con

người và của chính mình, tự tin ở sự trong sáng, thiện lương, thanh khiết của chân tâm

thường hằng.

Hiện lên trong thơ thiền còn là con người vô ngã. Tức là con người không còn chấp

ngã, không còn chấp vào những cái của ta, những cái thuộc về ta. Con người vô ngã

không có nghĩa phủ định, xóa bỏ giá trị con người mà là giải phóng con người hoàn toàn

ra khỏi mọi sự ràng buộc thúc phược, đạt đến tự do tự tại với ý nghĩa cao nhất. Vì vậy nó

không những không mang ý nghĩa phi nhân bản mà còn mang giá trị nhân văn lớn lao.

vấn đề này có lẽ cần được nghiên cứu sâu hơn.

Con người vô ngã thường gắn với trạng thái quên kì diệu. Hẳn là trong trạng thái

"Vật ngã câu vong" (ta, vật đều quên) thì con người mới đạt được tâm thái vô ngã. Trạng

thái quên này được các thiền sư - thi sĩ tái hiện bằng hình tượng ông chài ngủ say tít

không quan tâm đến ngoại vật hay cảnh vị thiền sư toa thiền đạt đến thiền lạc, và cả ông

già như bận bịu với những thứ bình dị quên cả ngày tháng trôi qua.

Chỉ có vô ngã mới có thể thực hành hạnh lợi tha (làm lợi ích cho mọi người) rốt ráo.

Hạnh quên mình vì mọi người thể hiện rất rõ ở những vị thiền sư, vua chúa quan lại thời

này. Tiêu biểu nhất là lời nguyện "lấy thân mình là người đưa đường cho thiên hạ" được

minh chứng bằng cả cuộc đời của vị vua thiền sư Trần Thái Tông. Tinh thần từ bi bao la

này có tiền đề từ lời khuyên của Lý Nhân Tông đối với Mãn Giác thiền sư "Bậc chí nhân

hiện ra trong đời tất phải làm lợi ích cho chúng sanh, không có hạnh nào là không đủ,

không có việc gì không làm, chẳng những đắc lực về thiền định mà còn có công giúp đỡ

nước nhà". Và gần hơn là lời khuyên lấy tấm lòng của thiên hạ làm lòng mình, lấy ý

muốn thiên hạ làm ý muốn của mình, của quốc sư Viên Chứng với vua Trần Thái Tông.

Con người có lòng thương yêu con người không phân biệt chủng tộc, giới tính, tôn

giáo, màu da. Điểm xuất phát của tấm lòng thương yêu con người này là tư tưởng "tất cả

mọi chúng sanh đều có phật tính như nhau" , Phật và chúng sanh đều có lông mày ngang,

lỗ mũi dọc theo cách nói của Tuệ Trung thượng sĩ. Con người này không tham danh

vọng, địa vị không màng giàu sang phú quý, xem vinh hoa như mộng ảo, phú quý như

mây nổi, luôn luôn hướng tới cái chân thiện mỹ, hướng tới hoàn thiện đạo đức bản thân

mình, vươn tới giá trị làm người đích thực.

Như vậy, "con người thật không địa vị" là bản thể, là chân tâm phật tánh của mỗi

người, nhưng vì nó vô hình vô tướng, không thể nắm bắt chỉ có thể trực hội. Hình tướng

con người trí tuệ, con người tự do tự tại, con người vô ngã vị tha, yêu thương mọi người,

không màng vinh hoa phú quý chỉ lo tu bồi đạo đức thể hiện rất rõ, dễ nhận thấy hơn.

Mặc dù quan niệm về con người trong thơ thiền Lý - Trần ảnh hưởng rất lớn bởi triết học

thiền và mỹ học thiền nhiửig thực tế nó đã cung cấp cho nền văn học Việt Nam nói

chung, văn học thế giới nói riêng một cách hiểu độc đáo về con người. Cách hiểu này

mang một giá trị nhân văn với ý nghĩa cao nhất, nó nâng con người lên một tầm cao mới

ngang tầm với Phật - một đấng được xem là toàn năng, toàn trí, có quyền năng vô hạn.

Con người thật không thật địa vị, một bí ẩn sâu kín nhất trong mỗi người, cũng là

tiềm năng vô biên trong con người có thể là một đối tượng bí ẩn, là nguồn nguyên liệu vô

biên cho các nhà văn, nhà thơ khai thác, chiếm lĩnh.

Quan niệm về con người trong thơ thiền Lý Trần cồn được xem xét rõ hơn qua thời

gian, không gian và ngôn ngữ nghệ thuật. Ngoài những đặc trứng chung của ngôn ngữ

nghệ thuật trung đại phương Đông mà cơ bản là tính cô đúc, hàm súc với những thủ pháp

nghệ thuật tương ứng là ẩn dụ so sánh và thường dùng điển cố, ngôn ngữ thơ thiền chịu

ảnh hưởng sâu xa của tôn chỉ "bất lập văn tự" và "trực chỉ nhân tâm" nên nó có những nét

đặc biệt và kỳ lạ hơn những ngôn ngữ nghệ thuật của các thể loại khác , thể thơ khác.

Ngôn ngữ thơ thiền là ngôn ngữ trong tính bản thể của nó, là một ngôn ngữ siêu

ngôn ngữ. Nó vượt qua mọi qui ước thông thường về ngữ nghĩa, ưa dùng lối nói nghịch

lý, kỳ lạ, khác thường, phi ngữ nghĩa, phi lôgic kết hợp với kiểu câu phủ định, câu nghi

vấn không phải để người đọc nhận thức theo kiểu tư duy liên tưởng, nhận thức lôgic mà

là đẩy người nghe vào tuyệt lộ tư duy lôgic, đánh tan mọi sự mê lầm, chấp trước khai

thông kho tàng trí tuệ, tiềm năng vô biến vô tận trong mỗi con người. Đây là kiểu "bức tử

khai sanh" (chết đi sống lại) kiểu nhà thiền.

Vô ngôn là ngôn ngữ không lời. Bằng vào vô ngôn, nhà thơ diễn tả được nhiều hơn

phong phú hơn cả lúc dùng ngôn ngữ. Vô ngôn cũng là trạng thái tĩnh lự thiền.

Thiền ngữ và vô ngôn là những thứ ngôn ngữ nghệ thuật đặc trưng và độc đáo của

thơ thiền, nó mở ra chân trời vô tận cho sự phản ánh con người và cuộc sống, nhất là bí

ẩn sâu kín bên trong con người, nó bổ túc cho sự bất toàn của ngôn ngữ, trong những tình

huống ngôn ngữ bất lực. Vấn đề này có lẽ cần được quan tâm, nghiên cứu sâu hơn. Bên

cạnh đó, ngôn ngữ điển cố, không những điển cố nhà Phật mà điển cố Nho, Lão cũng

được các thiền sư sử dụng, điều này chứng tỏ con người dung thông Nho, Phật, Lão và

tinh thần tam giáo đồng nguyên tồn tại trong thời Lý -Trần.

Không gian trong thơ thiền Lý - Trần là không gian được thanh lọc qua nhãn quan

thiền. Trước hết là không gian thiền, không gian trong tính bản thể của nó. Không gian

này được nghệ thuật hóa kiểu "Viện tiền sơn thúy thị chân hình" (Non nước ngoài am

chính là chân thân của Người). Hầu hết không gian trong các bài thơ thiền là một khoảng

không gian bao la rộng lớn và cực kì tĩnh lặng. Sự bao la khoáng đạt rộng lớn vô biên

không chỉ ở trong trời đất này mà còn mở rộng ra ngoài tam giới. Đây là biểu trừng của

cái chân không của thiền tâm, của sự tự do tự tại không bị ràng buộc vướng mắc vào bất

kì một đối tượng nào, một khuôn khổ nào.

Trong các tác phẩm, thời gian thiền , thời gian trong tính bản thể của nó vốn không

phân biệt quá khứ tương lai, không phân biệt dài ngắn, lâu hay mau. Điều này thể hiện

cái nhìn vô phân biệt, vượt qua nhị nguyên đối đãi của các thi sĩ. Thời gian hiện thực của

đời người vô cùng ngắn ngủi, chóng vánh được hình tượng hóa bằng hình ảnh bóng câu

qua cửa sổ. Sự ngắn ngủi chóng vánh này càng làm nổi rõ qui luật vô thường sanh diệt

của con người thực thể. Con người còn mê lầm không thấy được bản thể của vũ trụ, phật

tánh của chính mình. Đối lập với nó là thời gian trường cửu, hằng thường của con người

ngộ đạo, nhìn vạn vật dưới tuệ nhãn vô phân biệt. Các thiền sư thi sĩ con đặc biệt đề cao

giây phút ngộ đạo, thời gian chuyển biến từ mê đến ngộ, lúc ây khoảnh khắc cũng là mãi

mãi, thời gian lúc nào cũng là hiện tại, con người sống trọn vẹn với cái đương là. Mùa thu

có trăng sáng, gió thanh, hơi đêm lạnh thường được các nhà thơ đề cập, có lẽ lúc ấy con

người như rũ sạch bụi trần vén màn vô minh, là thời điểm thuận lợi, là cơ duyên tốt cho

sự bừng vỡ tâm thức, đạt đến triệt ngộ chăng?

Thơ thiền là một sản phẩm kỳ đặc và đầy sức thu hút hấp dẫn, sở dĩ như vậy là do

nó xuất phát trên nền tảng của sự trực cảm xuất thần vượt khỏi mọi ngăn cách của không

gian, của suy luận lôgic và nhận thức lý trí, hướng tới một thời gian không gian vô giới

vô hạn, vô biến tế đạt tới cái nhìn thấu triệt để đối với vạn hữu. Con người đạt đạo này

bình đẳng với Phật tổ, không sanh không diệt, vô khứ vô lai thấu rõ qui luật vận hành của

vạn hữu, bản chất của vũ trụ thấu suốt cổ kim, liễu đạt tự tánh, thường sống với cái

đương là của con người thật không địa vị, luôn luôn tự do tự tại, nhậm ý tung hoành,

thoát ra khỏi mọi sự thúc phước hữu hạn, chấp trước vươn tới giá trị làm người đích thực

hoa vào cuộc sống thanh đạm bình dị nhưng siêu việt tất cả. Đây có lẽ là nguyên nhân

xuất hiện những con người có phong thái khác phàm, nhân cách siêu việt, vừa làm vua,

vừa làm tướng, vừa làm thiền sư, vừa làm thi sĩ. Một con người có thể cùng lúc làm được

những việc gần như mâu thuẫn với nhau khiến người khác khó tin . Làm vua mà có thể

bỏ ngôi vua như quăng chiếc giày rách, lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của

thiên hạ, thanh đạm giữ mình, tu bồi giới đức, không màng phú quí. Làm thiền sư mà

không quản giới luật, không chấp tín điều, chay mặn bất chấp, chủ trương không theo lối

mòn của Như Lai. Làm tướng có công lao hiển hách, quyền uy lớn lao mà vẫn khiêm

cung hòa nhã, một lòng thờ vua, trung can nghĩa đảm không sợ hi sinh, quên mình vì

nước. Là sứ giả, thân tại hang hùm, mặt đối cường địch, cái chết kề cổ mà vẫn ung dung

tự tại, không nhục quốc thể, không phụ mệnh vua. Là phụ nữ, ngoài việc tề gia an nội,

khi cần cũng có thể phò tá quân vương, giữ an thiên hạ không kém mày râu... tạo nên tinh

thần vô tiền khoáng hậu với hào khí Đông A bất diệt.

Như vậy, trong chừng mực nào đó, người viết đã tìm hiểu quan niệm về con người

tong thơ thiền Lý - Trần một cách có hệ thống, đưa ra một cách hiểu mới về con người.

Nhưng con người trong thơ thiền xưa nay vẫn là một bí ẩn, muốn vén bức màn bí ẩn này

một cách triệt để hơn cần có những nghiên cứu sâu hơn, những công trình lớn hơn, nhất

là những vấn đề liên quan đến "con người thật không địa vị", thiền ngữ và vô ngôn trong

thơ thiền.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I/TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT

1.Aristote(1999), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn Học, Hà Nội.

2.Thích Phước An, "Thiền sư Huyền Quang và con đường trầm lặng của mùa thu",

Tạp chí văn học (4), 48-52.

3.Đào Duy Anh(1974), "Chữ Nôm thời Lý-Trần", Tạp chí văn học(6), 44-48

4.Đổ Tùng Bách(2000), Thơ Thiền Đường-Tống, Nxb Đồng Nai.

5.Ban Phật học chuyên môn(1992), Thiền học đời Trần, Viện nghiên cứu Phật học

Việt Nam.

6.Nguyễn Phan Cảnh(1987), Ngôn ngữ thơ, Nxb Đại học và giáo dục chuyên

nghiệp, Hà Nội.

7.Thích Minh Châu, Thích Thanh Từ, Thích Phước Sơn, Minh Chi(1994), Thiền

nguyên thủy và Thiền phát triển, Ban Phật học chuyên môn, TP. Hồ Chí Minh.

8.Nguyễn Đổng Chi(1971), Việt Nam văn cổ học sử, Phủ quốc vụ khanh đặc trách

văn hóa, Sài Gòn.

9.Nguyễn Huệ Chi(1977), "Trần Tung- Một gương mặt lạ trong làng thơ thiền thời

Lý-Trần", Tạp chí văn học, (4), 116-135.

10.Nguyễn Huệ Chi(1978), "Các yếu tố Nho Phật Lão được tiếp thu và chuyển hoa

thế nào trong đời sống tư tưởng và văn hoa thời đại Lý-Trần", Tạp chí văn học (6), 67-72.

11.Nguyễn Phương Chi(1982), "Huyền Quang, nhà sư thi sĩ", Tạp chí văn học(3),

75-78

12.Nguyễn Đình Chú(1999), vấn đề "Ngã" và "Phi Ngã" trong văn học Việt Nam

cận đại", Tạp chí văn học,(5), 38-43.

13.Nhật Chiêu(1998), Thơ ca Nhật Bản, Nxb Giáo dục.

14.Đoàn Trung Còn(1970), Các tông phái đạo Phật, Nxb Trí Đức, Sài Gòn.

15.Xuân Diệu(2001), Bình luận các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Nxb Trẻ, TP.HCM.

16.Trịnh Bá Đĩnh(2002), Chủ nghĩa cấu trúc và vãn học, Nxb Văn học-Trung tâm

nghiên cứu quốc học.

17.Hà Minh Đức(chủ biên) (2001), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

18.Lê Quý Đôn(1977), Kiến vãn tiểu lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

19.Thích Mãn Giác(1974), Phật học, thiền học và thỉ ca, Nxb Đại học Vạn Hạnh,

Sài Gòn.

20.Trần Văn Giáp(1942), Việt Nam Phật giáo sử lược, Hà Nội.

21.T.P.Grigôriêva(1992), "Thiền trong thơ Haikư Nhật Bản", Tạp chí văn học, (4),

60-64.

22.Guiriêvita(1996), Những phạm trù văn hoa trung cơ, Nxb Giáo dục.

23.Trần Văn Giàu(1988), Triết học và tư tưởng, Nxb TP.HỒ Chí Minh.

24.Bùi Giáng(1970), Sa mạc trường ca, Nxb An Tiêm.

25.Hoàng Xuân Hãn(1949, 1950), Lý Thường Kiệt-Lịch sử ngoại giao và tôn giáo

triều Lý, Nxb Sông Nhị.

26.Dương Quảng Hàm(1968), Việt Nam thỉ vãn hợp tuyển, Bộ giáo dục và trung

tâm học liệu, Sài Gòn.

27.Nhất Hạnh(1964), Đạo Phật đì vào cuộc sống, Nxb Lá Bối.

28.Nguyễn Văn Hạnh- Huỳnh Như Phương(1995),Lý luận văn học, Nxb Giáo dục.

29.Trần Mạnh Hảo(1999), Văn học-Phê bình nhận diện, Nxb Văn học.

30.Đổ Đức Hiểu(1993), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội.

31.Lưu Hiệp(1999), Văn tâm điêu long, Nxb Văn học.

32.Nguyễn Duy Hinh(1977), "Yên Tử-Vua Trần-Trúc Lâm", Tạp chí nghiên cứu

lịch sử(2), 10-21.

33.Kiều Thu Hoạch(1965), "Tìm hiểu thơ văn của các nhà sư Lý-Trần", Tạp chí vấn

học, (6), 56-65.

34.Nguyễn Phạm Hùng(1995), Vận dụng quan điểm thể loại vào việc nghiên cứu

văn học Việt Nam thời Lý-Trần, Bảo vệ tại viện văn học.

35.Nguyễn Phạm Hùng(1992), "Thơ thiền và việc lĩnh hội thơ thiền", Tạp chí văn

học(4), 39-43.

36.Đỗ Văn Hỷ(1975), "Câu chuyện Huyền Quang và cách đọc thơ thiền", Tạp chí

văn học, (1), 62-70.

37.Kenneth Kraft(2004), Lịch sử tư tưởng Nhật Bản, Quốc sư Đại Đăng và sơ kỳ

thiền tỏng Nhật Bản, Nxb Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh.

38.Đinh Gia Khánh(chủ biên) (1978), Văn học Việt Nam thế kỷ X- nửa đầu thế kỷ

XVIIỈ tập i, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

39.Thích Thanh Kiểm(1971), Lược sử Phật giáo Ấn Dợ, Nxb Quê hương.

40.Trần Trọng Kim(1952), Phật giáo thuở xưa và Phật giáo thuở nay, Nxb Tân Việt.

41.Nguyễn Xuân Kính(1992), Thi pháp ca dao, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

42.Kinh Kim Cương Bát Nhã Ba La Mật.

43.Kinh Đại Bát Niết Bàn, Viện hóa đạo, Sài Gòn.

44.Kinh Lăng Nghiêm (3 tập), Viện hóa đạo Sài Gòn.

45.Kinh Hoa Nghiêm(4 tập), Thành hội Phật giáo Hồ Chí Minh.

46.Khrapchenko(1985), Sáng tạo nghệ thuật hiện thực con người tập 2, Nxb Khoa

học xã hội.

47.Phạm Ngọc Lan(1992), "Trần Nhân Tông và cảm hứng thiền trong thơ", Tạp chí

văn học, (4), 44-47.

48.Lâm Tế (2004), Lâm tế ngữ lục, Nxb TP.HỒ Chí Minh

49.Phạm Ngọc Lan(1986),"Chất trữ tình thơ thiền thời Lý (4), 92-97.

50.Nguyễn Lang(1994), Phật gỉáoViệt Nam sử luận 3 tập, Nxb Khoa học xã hội.

51.Đặng Thanh Lê(1992), "Nghiên cứu văn học cổ- trung đại Việt Nam trong mối

quan hệ khu vực", Tạp chí văn học(1),2-8.

52.Mai Quốc Liên(1986),"Các nhà thơ đời Trần", Dưới gốc me vườn Nguyễn Huê,

sở văn hoa thông tin Nghĩa Bình.

53.Ngô Sĩ Liên(1972), Đại Việt sử ký toàn thư 4 tập, Nxb Khoa học xã hội.

54.Tạ Ngọc Liễn(1977). "Vài nhận xét về thiền tông và phái Trúc Lâm Yên Tử",

Nghiên cứu lịch sử, (4), 51-62.

55.Phương Lựu(1985), về quan niệm văn học cổ Việt Nam, NXB Giáo dục.

56.Phương Lựu(1996), Góp phần xác lập hệ thống quan niệm văn học trung đại

Việt Nam, Nxb Giáo dục.

57.Phương Lựu(chủ biên(1986-1988), Lý luận văn học 3 tập, Nxb Giáo dục.

58.Nguyễn Công Lý(2002),Van học Phật giáo thời Lý-Trần, diện mạo và đặc điểm,

Nxb Đại học quốc gia TPHCM.

59.Đặng Thai Mai(1977), "Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học", Thơ văn Lý-

Trần tập 7, Nxb Khoa học xã hội.

60.M.BakhTin(1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du,

Hà Nội.

61.M.BakhTin(1993), Những vấn đề thi pháp ĐôxtôepxkU Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62.Nguyễn Đăng Na(1996), "Vài nét về văn học Việt Nam thời trung đại", Tạp chí

tác phẩm mới (8), 62-64.

63.Bùi Văn Nguyên(1978), Lịch sứ văn học Việt Nam tập 2, Nxb Giáo dục.

64.Huê Năng(1998), Pháp Bảo Đàn Kinh, Thành hội Phật giáo Hồ Chí Minh

65.Phùng Quý Nhâm(1997), Lý luận văn học, Đại học quốc gia TP.HCM, Trường

Đại học sư phạm.

66.Lê Trường Phát (2000), Thi pháp văn học dân gian, Nxb Giáo dục.

67.RJakobson(1994), Thi pháp học, Đại học sư phạm TP.HCM.

68.Tuệ Sĩ(1970), Triết học của tánh không, Nxb An Tiêm

69.Vũ Văn Sĩ (1999), về một đặc trưng thi pháp thơ Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội.

70.Nguyễn Hữu Sơn(2002), Loại hình tác phẩm thiền Uyển Tập Anh, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

71.Suzuki( 1970-1971), Thiền luận 3 tập, Nxb An Tiêm.

72.Suzuki(1971), cốt tủy của đạo Phật, Nxb An Tiêm.

73.Trần Đình Sử(1993), Giáo trình thi pháp học, Trường Đại học sư phạm

TP.HCM.

74.Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới hội nhà văn

Việt Nam, TP.HCM

75.Trần Quốc Tảng (1969), Thượng sĩ ngữ lục, Nxb Đại học Vạn Hạnh

76. Trần Đình Sử(2001), Văn học và thời gian, Nxb Văn học

77.Trần Đình Sử (1999), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo dục

78.Ngô Tất Tố(1942),Văn học đời Lý, Nxb Mai Linh, Hà Nội.

79.Ngô Tất Tố(1942), Văn học đời Trần, Nxb Mai Linh, Hà Nội.

80.Trần Thái Tông(1974), Khoa hư lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

81.Hoài Thanh(1967), Thỉ nhân Việt Nam, Nxb Hoa Tiên.

82.Trần Thị Băng Thanh(1992),"Thử phân tích hai mạch cảm hứng trong dòng văn

học mang dấu ấn Phật giáo thời trung đại", Tạp chí văn học, (4), 30-35.

83.Lê Mạnh Thát(1999), Nghiên cứu về Thiền Uyển Tập Anh, Nxb TP.HCM.

84.Lê Mạnh Thát(2002j, Lịch sử Phật giáoViệt Nam tập 3, Nxb TP.HCM.

85.Nguyễn Đăng Thục(1974), Phật giáo Việt Nam, Nxb Mặt Đất,Sài Gòn.

86.Nguyễn Đăng Thục(1967), Thiền học Việt Nam, Nxb Lá bối, Sài Gòn.

87.Nguyễn Đăng Thục(1967-1969), Lịch sử tư tưởng Việt Nam 2 tập, Bộ Văn hoa

phủ quốc vụ khanh đặc trách văn hoa, Sài Gòn.

88.Nguyễn Đăng Thục(1996), Thiền học Trần Thái Tông, Nxb Văn hoa thông tin.

89.Đổ Lai Thúy(1997), Con mắt thơ, Nxb Giáo dục.

90.Nguyễn Tài Thư(chủ biên) (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

91.Lê Ngọc Trà(1990), Lý luận văn học, Nxb Trẻ TP.HCM.

92.Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm, thuộc viện khoa học xã hội TP.HCM(1993),

Tuệ Trung thượng sĩ với Thiền tông Việt Nam(Kỷ yếu hội thảo khoa học)

93.Thích Thanh Từ (1973), Thiền sư Việt Nam, Chân không thiền viện, Vũng Tàu.

94.Tầm Vu (1972), "Tim hiểu đặc điểm của tư tưởng Phật giáo Việt Nam trong thời

đại Lý - Trần qua các tác phẩm văn học", Tạp chí văn học (2), 47-60

95.Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia(2000), Tổng tập văn học Việt

Nam tập 1; 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

96. Lê Trí Viễn(1996), Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội Hà Nội.

97.Đoàn Thị Thu Vân(1995), Khảo sát một số đặc trưng nghệ thuật của thơ thiền

Việt Nam, thế kỷ XI-XIV, Đại học sư phạm TP.HCM.

98.Đoàn Thị Thu Vân(1998), Thơ thiền Lý-Trần, Nxb Văn Nghệ TP.HCM.

99.Viện nghiên cứu Phật học Việt Nam(1995), Tam Tổ thực lục.

100.Viện Sử Học(1971), Lịch sử Việt Nam, tập 1, Nxb Khoa học xã hội.

101.Viện Văn Học(1977-1989), Thơ văn Lý-Trần 3 tập, Nxb Khoa học xã hội.

102.Nguyễn Văn Xuất(1995), Thi pháp thơ trữ tình, Đại học sư phạm TP.HCM.

103.Nguyễn Văn Xuất(1995), Thi pháp tiểu thuyết hiện đại, Đại học sư phạm

TP.HỒ Chí Minh

104.Nguyễn Văn Xuất(1985-1995),Cảm hứng phê phán trong tiểu thuyết hiện đại,

Thư viện quốc gia trung ương.

105.Lê Thu Yến(chủ biên) (2003), Việt Nam văn học trung đại những công trình

nghiên cứu, Nxb Giáo dục.

II/TÀI LIỆU TIẾNG ANH

106.Patriarch Ou-i(1997), Mỉnd-Seal ofthe buddhas, Sutra translation committee of

the Ưnited States and Canada.

107.Peter Della Santina(1997), The tree of Enỉightenment, Chico dhrama study

foundation.

108.Ven.Master Chin Kung(2003), Buddhism: the Wisdom of compassion and

awakening, Edited by silent voices.

109.Narada(2002), The Buddha and his teachings, Buddist missimary society

Malaysia.

no. Patriarch Yin Kuang(2003), Pure-Land Zen,Zen Pure-Land translated by master

Thich Thiên Tam forrest smith, Editor.

III/TÀI LIỆU TIẾNG HOA