VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÚY HÀ

DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ

TRONG VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

(KHẢO SÁT SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN,

Y BAN, LÝ LAN, NGUYỄN THỊ THU HUỆ)

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM HÀ NỘI, 2018

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THÚY HÀ

DIỄN NGÔN VỀ GIỚI NỮ

TRONG VĂN XUÔI NỮ VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI

(KHẢO SÁT SÁNG TÁC CỦA DẠ NGÂN,

Y BAN, LÝ LAN, NGUYỄN THỊ THU HUỆ)

Ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 822 01 21

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC VIỆT NAM NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS TRẦN THIỆN KHANH HÀ NỘI, 2018

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số

liệu sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, đã được công bố theo

đúng quy định. Kết quả nghiên cứu trong luận văn do tôi tìm hiểu, phân tích một

cách trung thực, khách quan. Các kết quả này chưa được công bố trong bất cứ công

trình nào khác.

Hà Nội, ngày 20 tháng 8 năm 2018

Tác giả luận văn

Nguyễn Thúy Hà

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1

Chương 1. GIỚI NỮ NHƯ LÀ SẢN PHẨM KIẾN TẠO XÃ HỘI ............ 9

1.1. Khái niệm giới, diễn ngôn và diễn ngôn về giới nữ ............................... 9

1.2. Nữ tính, nam tính như là sự kiến tạo xã hội .......................................... 10

1.3. Giới nữ trong văn học như là một vấn đề văn hóa - xã hội .................. 11

Chương 2. SỰ KIẾN TẠO HÌNH ẢNH GIỚI NỮ TRONG TÌNH YÊU

VÀ HÔN NHÂN ............................................................................................ 16

2.1. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong tình yêu ...................................... 16

2.2. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong hôn nhân..................................... 37

Chương 3. SỰ KIẾN TẠO VỊ THẾ CỦA GIỚI NỮ TRONG GIA ĐÌNH

VÀ CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI ...................................................................... 40

3.1. Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong gia đình ..................................... 40

3.2. Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong đời sống xã hội ......................... 68

KẾT LUẬN .................................................................................................... 77

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 80

PHỤ LỤC ....................................................................................................... 93

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Một trong những khuynh hướng, phương pháp nghiên cứu nổi bật trong các

khoa học xã hội hiện đại là lý thuyết diễn ngôn. Diễn ngôn học là một lĩnh vực

nghiên cứu liên ngành. Nghiên cứu diễn ngôn không chỉ có quan hệ mật thiết với

ngôn ngữ học, kí hiệu học mà còn gắn liền với với các thành tựu của văn hóa học,

xã hội học, tri thức luận, sử học… Bàn về triển vọng của lý thuyết thuyết diễn ngôn

đối với khoa học hàn lâm, nhà nghiên cứu O.F.Rusakova khẳng định: “Ngày nay,

lĩnh vực nghiên cứu có tên gọi là ‘lí thuyết diễn ngôn’ là một trong những khuynh

hướng đang phát triển mạnh mẽ nhất trong các khoa học xã hội hiện đại. Chứng cớ

là hàng năm, số lượng các ấn phẩm, các hội thảo khoa học, các giáo trình đại học,

các luận văn, luận án dành cho những lĩnh vực khác nhau trong việc vận dụng các lý

thuyết diễn ngôn và phân tích diễn ngôn đang không ngừng tăng lên”. Lý thuyết

diễn ngôn tương thích với nhu cầu khám phá những cơ chế tạo dựng tri thức, niềm

tin, sự kiến tạo chủ thể, các mối quan hệ quyền lực và sự thực hành xã hội đa

dạng…. Đặc biệt, đối với văn chương, lý thuyết diễn ngôn có thể mở ra một cách

đọc mới, một cách lý giải mới các cơ chế ngầm vận hành văn bản.

Theo chúng tôi, một trong những đối tượng tương thích với thế mạnh của lý

thuyết diễn ngôn là văn xuôi nữ. Ở Việt Nam, từ 1986 trở lại đây, văn xuôi nữ

phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những hiện tượng đáng chú ý, cả về mặt

văn học lẫn bình diện văn hóa, xã hội. Dù sự phát triển nở rộ của văn xuôi nữ là

một “vấn đề” của đời sống văn học đương đại, song hầu hết các nghiên cứu về văn

xuôi nữ Việt Nam thời gian gần đây, đều chọn điểm xuất phát từ một vài khung tri

thức quen thuộc: khám phá, đánh giá, lý giải từ đặc trưng thi pháp thể loại hay

phong cách học,…. Những phương pháp này rõ ràng đã đem lại nhiều khám phá

mới mẻ và hấp dẫn về phương diện nghệ thuật, nhưng dường như lại thiếu chiều

sâu cần thiết trước các vấn đề văn hóa, xã hội chi phối sự kiến tạo và tiếp nhận

các tác phẩm. Thực tế cho thấy, câu chuyện chính của văn xuôi nữ chính là các

1

cấu trúc văn hóa, xã hội, chứ không phải là câu chuyện văn chương nghệ thuật

đơn thuần.

Nhìn chung, chúng tôi lựa chọn văn xuôi nữ đương đại Việt Nam là đối

tượng khảo sát, vì đây không chỉ là một hiện tượng văn học, mà còn là hiện tượng

văn hóa, xã hội đáng chú ý. Việc sử dụng lý thuyết diễn ngôn xem xét văn xuôi

nữ, có thể đem lại một cách đọc mới, cách nhìn mới, cách lý giải mới phù hợp với

bản chất của hiện tượng này. Tuy nhiên, do vấn đề đặt ra trong văn xuôi nữ đương

đại rất rộng lớn, nên trong khuôn khổ có hạn của luận văn, chúng tôi chỉ dừng lại

ở vấn đề sự kiến tạo hình ảnh giới nữ (sự tái định nghĩa nữ tính) trong các trường

hợp sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ.

Y Ban là vừa là nhà văn, vừa là nhà báo, diễn ngôn của tác giả này về giới nữ

tiêu biểu cho một kiểu diễn ngôn giàu tính truyền thông - báo chí, tác phẩm của Y

Ban chứa đựng một thứ ngôn ngữ đương đại sống động về giới nữ. Dạ Ngân ngoài

sáng tác, cũng là một nhà báo, nhưng khác với Y Ban, Dạ Ngân vừa muốn thoát

khỏi sự “thu xếp của định mệnh”, vừa không thể thoát khỏi cái nhìn có tính khuôn

mẫu về giới nữ, vốn đã được kiến tạo, duy trì trong các định chế truyền thống. Lý

Lan, một nhà văn gốc Hoa, thành thạo tiếng Anh, đã có tiếp xúc với lý thuyết nữ

quyền, nhưng sáng tác của bà lại có những dấu chỉ về một kiểu diễn ngôn đã được

chính thống hóa. Nguyễn Thị Thu Huệ, một tác giả giữ nhiều chức vụ xã hội,

đứng ở trung tâm, giữa những ràng buộc của thiết chế xã hội, chính trị, để diễn

giải lại về giới nữ. Sáng tác của Y Ban có dấu viết của một thứ diễn ngôn ngoại

biên, thiểu số hướng đến trung tậm. Còn tác phẩm của Dạ Ngân, Lý Lan, Nguyễn

Thị Thu Huệ có dấu vết của thứ diễn ngôn trung tâm hướng ra ngoại biên. Cả Dạ

Ngân, Y Ban, Lý Lan và Nguyễn Thị Thu Huệ đều là các nhà văn nữ, bàn về sự

kiến tạo giới nữ (sự tái định nghĩa nữ tính) của chính các nhà văn nữ có ý nghĩa

đặc biệt, nếu chúng ta thừa nhận rằng ngôn ngữ chính dùng để kiến tạo thế giới lâu

nay vẫn là ngôn ngữ nam giới. Bởi vậy, thực chất việc khảo sát diễn ngôn về giới

nữ của các nhà văn nữ đương đại, là miêu tả sự hình thành một ngôn ngữ riêng của

nhà văn nữ về chính giới nữ trong đối sánh với diễn ngôn nam giới về “kẻ khác”.

2

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

2.1. Sự du nhập, giới thiệu lý thuyết diễn ngôn cũng như việc vận dụng nó

trong nghiên cứu văn học Việt Nam cho đến nay có rất ít thành tựu, nếu không

muốn nói còn ở tình trạng sơ khai.

Đời sống học thuật ở Việt Nam ghi nhận, khái niệm diễn ngôn, phân tích diễn

ngôn được đề cập và bàn thảo đầu tiên trong lĩnh vực ngôn ngữ học. Trần Ngọc

Thêm, Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Thiện Giáp, Nguyễn Thái Hòa... sớm quan tâm đến

vấn đề này, đặc biệt là Diệp Quang Ban [11], Nguyễn Hòa [43]… là hai tác giả có

nghiên cứu chuyên sâu đầu tiên về diễn ngôn, phân tích diễn ngôn. Bên cạnh những

đóng góp của các nhà nghiên cứu vừa kể, còn có những nỗ lực dịch và giới thiệu

đường hướng phân tích diễn ngôn của các giả dịch giả như Hồng Nhâm, Trúc

Thanh, Ái Nguyên, Trần Thuần, Hoàng Văn Vân….

Nhìn sang lĩnh vực xã hội học, văn hóa học, sử học, văn học…. dễ thấy, việc

dịch, giới thuyết về khái niệm này cũng còn khá sơ lược. Riêng trong nghiên cứu

văn học, một số công trình phê bình hoặc biên soạn, tổng thuật, giới thiệu các lý

thuyết văn chương hiện đại, dù có đề cập đến khái niệm này song có thể nói là chưa

đủ để hiểu một cách đúng đắn, có hệ thống về lý thuyết diễn ngôn; chưa đáp ứng

được yêu cầu thay đổi hệ hình/ hình thành một khung tri thức mới làm cơ sở cho

việc mở rộng phạm vi nghiên cứu cũng như xây dựng quan điểm phương pháp luận

mới mẻ trong khoa nghiên cứu văn học hiện đại ở nước ta.

Thuật ngữ diễn ngôn được tìm thấy xuất hiện trong các công trình như Chủ

nghĩa cấu trúc và văn học của Trịnh Bá Đĩnh [39]; Sự đỏng đảnh của phương

pháp do Đỗ Lai Thuý biên soạn và giới thiệu [133]; Năm 2003, Đào Tuấn Ảnh,

Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân công bố công trình Các khái niệm và thuật ngữ của

các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỉ 20 [158] dịch từ

tiếng Nga. Có thể nói, đây là công trình đầu tiên giải thích cụ thể khái niệm diễn

ngôn, thực diễn ngôn và diễn ngôn tâm thần phân lập, mà trước đó việc diễn giải

chúng còn thiếu cơ sở, mơ hồ, phiến diện. Sau công trình của nhóm Đào Tuấn Ảnh,

thuật ngữ và khái niệm diễn ngôn tiếp tục hiện diện qua các bản dịch của Vũ Hoàng

3

Địch, Trần Ngọc Vương [165]; Đặng Anh Đào [152], Lê Hồng Sâm [174], Nguyễn

Tuệ Đan, Tôn Thất Huy [166]; Trần Duy Châu, Lộc Phương Thủy, Phùng Văn Tửu,

Ngân Xuyên [160], Trần Huyền Sâm, Trần Ngọc Hiếu, Đỗ Văn Hiểu và các nghiên

cứu của Trương Đăng Dung, Nguyễn Hưng Quốc, Phương Lựu, Lã Nguyên [97],

Trần Đình Sử, Nguyễn Đăng Điệp, Trần Văn Toàn, Phạm Quốc Lộc, Lê Nguyên

Long, Lê Thị Vân Anh, Nguyễn Thị Thanh Xuân, Nguyễn Thị Minh Ngọc, Trần

Thiện Khanh [126]…. Xét kĩ một số trường hợp, chúng tôi cho rằng, bài viết “Các

lý thuyết diễn ngôn hiện đại: kinh nghiệm phân loại” của O.F.Rusakova do Lã

Nguyên dịch [97] , và các tiểu luận “Ba cách tiếp cận diễn ngôn” [78] của Nguyễn

Thị Minh Ngọc, “Dẫn nhập lý thuyết diễn ngôn của M.Foucault và nghiên cứu văn

học” []124] của Trần Văn Toàn đánh dấu một bước chuyển đáng chú ý đối với việc

tiếp nhận, du nhập lý thuyết diễn ngôn.

2.2. Khác với tình hình dịch, giới thiệu lý thuyết diễn ngôn, việc nghiên cứu

văn xuôi nữ đương đại rất đa dạng. Đã có nhiều công trình lấy văn học nữ, văn xuôi

nữ, thơ nữ nói chung làm đối tượng khảo sát, đấy là chưa kể có không ít nghiên cứu

trường hợp.

2.3. Mặc dù cách tiếp cận, cũng như điểm tựa lý thuyết của các nghiên cứu về

văn học nữ rất phong phú. Tuy nhiên, vấn đề giới trong văn học Việt Nam nói

chung, đặc biệt vấn đề giới nữ trong văn xuôi nữ đương đại nói riêng vẫn chưa được

quan tâm thích đáng.

Chúng tôi thấy việc nghiên cứu vấn đề giới trong văn học gần đây được thực

hành chủ yếu bởi các nhà nghiên cứu phê bình thế hệ 7x và 8x. Tiêu biểu là Trần

Văn Toàn, Hồ Khánh Vân, Nguyễn Thị Vân Anh…. Tác giả Trần Văn Toàn trong

các nghiên cứu như Nam tính hóa nữ tính - Đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh từ góc

nhìn giới tính [121], Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật Trường hợp của

Dũng trong Đoạn tuyệt [122]; Nguyễn Thị Vân Anh trong một nghiên cứu thử

nghiệm Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã hội chủ nghĩa Việt Nam

[4], Thái Phan Vàng Anh trong Văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 - nhìn từ

diễn ngôn giới [6],… cho thấy cốt lõi các diễn giải của họ là xuất phát từ lý thuyết

4

diễn ngôn đan xen với thi pháp học. Nguyễn Đăng Điệp trong Vấn đề phái tính và

âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại [126]; Hồ Khánh Vân trong

Từ lý thuyết phê bình nữ quyền nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác

giả nữ Việt Nam từ năm 1990 đến nay [147]; Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước

đầu của văn học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỉ

XX [148]; Ý thức về địa vị giới thứ hai trong một số sáng tác của các tác giả nữ Việt

Nam và Trung Quốc từ 1980 đến nay [126]; Nguyễn Thị Thanh Xuân trong Vấn đề

phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam đương đại (qua sáng tác

của một số nhà văn nữ tiêu biểu) [151]; John C.Schafer trong Đọc Phạm Duy và Lê

Vân tư duy về nam giới và nữ giới [161] cho thấy sự quan tâm đến giới nữ từ nữ

quyền luận đan xen với lý thuyết về giới, đôi chỗ còn trộn lẫn với thi pháp học,

phong cách học. Trần Nho Thìn trong Từ thực tiễn Việt Nam, góp thêm một tiếng

nói phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ

quyền[126], tiếp cận vấn đề từ góc độ văn hóa học, nữ quyền luận xen với phê phán

tư tưởng hệ.

Tóm lại, các nghiên cứu về văn học nữ [văn xuôi nữ, thơ nữ] ở Việt Nam thời

gian qua, thường đặt ra các vấn đề về tâm lý, thể loại, nhân vật, giọng điệu, bút

pháp, ngôn ngữ…. Góc độ tiếp cận chủ yếu vẫn là tâm lý học sáng tạo, xã hội học,

và đặc biệt là thi pháp học, phản ánh luận. Từ những góc độ đó, các kết luận thường

được rút ra là các đặc điểm riêng về hoàn cảnh sáng tác, đặc trưng về nhân vật, đề

tài, giọng điệu, bút pháp, ngôn ngữ…. của một vài tác giả cụ thể cũng như của văn

học nữ nói chung. Không ít nghiên cứu chủ trương đi tìm mối liên hệ giữa nhân vật

trung tâm và tác giả tiểu sử, hướng đến việc gán cho tác phẩm tính chất tự thuật, tự

truyện.

Các nghiên cứu về giới nữ trong văn học Việt Nam tiếp cận từ góc độ giới, nữ

quyền hay diễn ngôn thường tập trung vào văn học từ sau 1986 đến nay, một số tiểu

luận quan tâm đến các diễn ngôn, các diễn giải về giới trong văn học hồi đầu thế kỷ

XX. Trong phạm vi trường quy, lý thuyết diễn ngôn có xu hướng trở thành thời

thượng, khi được vận dụng vào việc triển khai các khóa luận, luận văn: điểm nổi bật

5

ở các trường hợp này là tiếp nhận lý thuyết diễn ngôn của M. Foucalt, hạn chế chính

là chưa hiểu thấu đáo quan điểm của Foucault, thành ra lý thuyết một đằng nhưng

phương pháp và mô hình triển khai cơ bản vẫn theo mô hình lý thuyết, phương pháp

vốn rất quen thuộc hay đang thống trị trong các trường học.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

- Mục đích của việc nghiên cứu diễn ngôn về giới nữ trong văn xuôi nữ đương

đại là: Chỉ ra hình ảnh giới nữ được kiến tạo ra sao trong các tác phẩm của nhà văn

nữ hiện nay; để lý giải các hình ảnh ấy luận văn phải làm rõ cơ chế kiến tạo, các

thiết chế xã hội của các diễn ngôn….

- Nhiệm vụ chính của luận văn gồm

Xác lập các hiểu thống nhất về khái niệm nữ tính/nam tính, khái niệm diễn

ngôn cũng như diễn ngôn về giới nữ

Phân tích, lý giải những điểm đặc thù trong diễn ngôn về giới nữ của các nhà

văn nữ Việt Nam đương đại: so sánh với các diễn ngôn về giới nữ trước Đổi mới và

các diễn ngôn về giới nữ trong văn xuôi của các nhà văn nam đương đại, nhằm chỉ

ra sự duy trì và đồng thời là sự giải kiến tạo các diễn ngôn về nữ tính của văn xuôi

nữ Việt Nam đương đại

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu chính của luận văn là các diễn ngôn về giới nữ của

chính giới nữ (các nhà văn nữ), cụ thể bao gồm sự định nghĩa lại nữ tính/sự kiến tạo

hình ảnh nữ giới trong tình yêu – hôn nhân, gia đình và các mối quan hệ xã hội…

- Phạm vi nghiên cứu của luận văn: [văn xuôi nữ Việt Nam đương đại] tập

trung khảo sát các tác phẩm Dạ Ngân, Lý Lan, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ. Luận

văn nhìn nhận sáng tác của các nhà văn này như là các trường hợp tiêu biểu và là

những biểu hiện cụ thể, sinh động của các diễn ngôn đương đại về giới nữ.

5. Cơ sơ lý luận và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu diễn ngôn đòi hỏi sự tiếp cận đa ngành, liên ngành. Do đó, luận

văn sử dụng phối hợp nhiều phương pháp:

6

- Phương pháp loại hình: luận văn sử dụng phương pháp này để xem xét hiện

tượng văn học nữ [văn xuôi nữ), xác định tính chất loại hình của văn học này cũng

như các diễn ngôn về giới trong nó. Khung phân loại được sử dụng để xác định đặc

điểm chung của hiện tượng văn học nữ ở đây là diễn ngôn: xác định diễn ngôn của

giới nữ và diễn ngôn về giới nữ.

- Phương pháp văn hóa học: phương pháp này trước hết trang bị cho tác giả

luận văn quan điểm: đặt văn học vào trong hệ thống văn hóa, lý giải văn học từ văn

hóa. Cụ thể việc nghiên cứu diễn ngôn về giới nữ sẽ được đặt vào cái bối cảnh văn

hóa truyền thống và đương đại đê nhìn nhận, mô tả và lý giải nó, xem diễn ngôn đó

như là sản phẩm của sự kiến văn hóa.

- Phương pháp xã hội học: luận văn nhìn nhận diễn ngôn như là sản phẩm kiến

tạo xã hội, diễn ngôn về giới nữ là sản phẩm của tư tưởng hệ, của một thời kỳ lịch

sử, xã hội; diễn ngôn được kiến tạo, thực hành và bị kiểm soát theo một trật tự diễn

ngôn.

- Phương pháp phân tâm học: sử dụng phương pháp này luận văn có thêm một

góc độ lý giải về ngôn ngữ, vô thức của nữ giới ở việc kiến tạo hình ảnh giới nữ

trong tình yêu – hôn nhân, trong không gian gia đình cũng như các mối quan hệ xã

hội.

- Phương pháp kí hiệu học: phương pháp này được sử dụng hỗ trợ cho các

phương pháp văn hóa học, xã hội học, nhằm xác định một kí hiểu quyển và quá

trình kí hiệu hóa ngôn ngữ… của giới nữ

Ngoài các phương pháp trên, luận văn còn sử dụng thường xuyên các thao tác

thống kê, tổng hợp, so sánh…. nhằm làm rõ hơn những vấn đề được đặt ra và tăng

tính thuyết phục cho các kết luận.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn

- Chỉ ra nam tính, nữ tính là sự kiến tạo về mặt xã hội

- Làm sáng tỏ sự kiến tạo hình ảnh giới nữ (vị thế của người nữ) trong tình

yêu, hôn nhân, gia đình (vai trò làm vợ, làm mẹ, nội trợ…) và đời sống xã hội (sự

7

kiến tạo tri thức, nghề nghiệp và tính độc lập về kinh tế….) của các sáng tác nữ Việt

Nam đương đại

- Bước đầu nhận diện sự giải kiến tạo diễn ngôn về nữ tính và sự tạo dựng một

diễn ngôn khác về giới nữ của các nhà văn nữ Việt Nam đương đại trong đối sánh

với diễn ngôn truyền thống.

7. Kết cấu của luận văn

- Ngoài Phần Mở đầu, Kết luận, Tư liệu tham khảo, luận văn có cấu trúc gồm

3 chương

Chương 1: Giới nữ như là sản phẩm kiến tạo xã hội

Chương 2: Sự kiến tạo hình ảnh giới nữ trong tình yêu và hôn nhân

Chương 3: Sự kiến tạo vị thế của giới nữ trong gia đình và đời sống xã hội

8

Chương 1

GIỚI NỮ NHƯ LÀ SẢN PHẨM KIẾN TẠO XÃ HỘI

Chương này phân biệt khái niệm giới và giới tính; diễn ngôn về giới nữ của

các nhà văn nữ [chủ thể sáng tạo] và diễn ngôn về giới nữ của các nhà văn nam [chủ

thể sáng tạo].

Đồng thời khẳng định nam tính và nữ tính không phải là tự nhiên, mà là các

sản phẩm kiến tạo về mặt xã hội. Diễn ngôn về giới nữ thay đổi theo từng ngữ cảnh

văn hóa xã hội.

1.1. Khái niệm giới, diễn ngôn và diễn ngôn về giới nữ

Giới (gender) khác với giới tính (sex). Lâu nay trong một số thực hành phê

bình văn học, hai khái niệm này được xem là đồng nghĩa, do đó thường bị dùng lẫn

lộn, thay thế cho nhau.

Theo các nhà xã hội học, giới tính lá khái niệm dùng chỉ sự khác biệt về sinh

lý căn bản giữa đàn ông và đàn bà, “khác biệt về cơ quan sinh dục và những khả

năng sinh sản” [132, tr.17]. Còn khái niệm giới đề chỉ chị sự phân biệt về mặt xã

hội và văn hóa.

Các nhà nhân học xã hội cũng phân biệt, khái niệm “giới là sản phẩm của của

văn hóa liên quan đến những quan niệm và hành vi được xem là phù hợp với mỗi

giới tính” [132, tr.17], giới là “cấu trúc văn hóa - xã hội” [132, tr.20], “giới được tạo

thành không chỉ trong gia đình hoặc trong quan hệ giữa các cá nhân mà còn trong

cấu trúc của tất cả các thiết chế xã hội chủ yếu, bao gồm trường học, tôn giáo, kinh

tế và chính trị; những thiết chế này định hướng cho tất cả chúng ta nam giới hay phụ

nữ, những thành viên trong một xã hội cụ thể” [132, tr.21]. Giới tính là thuật ngữ

chỉ “những đặc điểm nhận dạng bên ngoài phân biệt một người nam với một người

nữ, cần thiết cho sự tái sản xuất sinh học của con người” [132, tr.17]. Trong khi giới

tính là một đặc trưng sinh học thì giới là một đặc trưng xã hội-văn hóa. Vì là đặc

điểm sinh học nên giới tính có tính bẩm sinh, đồng nhất, phổ quát và không thay

9

đổi; cũng như vậy, do là đặc trưng văn hóa-xã hội nên giới có là sản phẩm xã hội

hóa, có tính đa dạng, đặc thù cho từng thời kỳ, văn hóa, xã hội và có thể thay đổi.

Theo các nhà nữ quyền luận, không chỉ giới mà cả giới tính đều là các kiến tạo

xã hội. Không có sự khác biệt tự nhiên giữa giới nam và giới nữ, yếu tố sinh học

không quy định các hành vi xã hội của con người, mà chính cấu trúc văn hóa xã hội

[thông qua các thiết chế như gia đình, nhà trường, các phương tiện thông tin đại

chúng…] quy định sự khác biệt đó. Sự khác biệt giữa giới nam và giới nữ là do xã

hội, văn hóa tạo nên chứ không phải là sự tồn tại đương nhiên, tự nhiên, sẵn có.

Ngay cả giới tính cũng có thể do xã hội, văn hóa tạo nên, tạo ra.

Diễn ngôn là ngôn ngữ trong hoạt động, ngôn ngữ trong sự hành chức của nó.

Nói đến diễn ngôn là “nói đến những phương thức hoặc quy tắc đặc trưng của việc

tổ chức hoạt động ngôn từ” [158, tr.157]. Diễn ngôn là quá trình kí hiệu hóa để tạo

nghĩa. “Diễn ngôn được tạo lập nên từ tri thức và những quan hệ quyền lực đa dạng

trong cuộc sống. Diễn ngôn, đến lượt nó, cũng là phương cách tạo lập nên tri thức,

cùng với những thực hành xã hội, các dạng thức của chủ thể và mối quan hệ quyền

lực. Được bắt rễ trong ngôn ngữ, diễn ngôn tạo ra niềm tin, niềm tin biến thành tri

thức, và tri thức tạo nên quyền lực. Bởi vậy sẽ không có tri thức nào là chân lý tuyệt

đối và hoàn toàn khách quan” [149, tr.5]. Mọi diễn ngôn đều là sản phẩm của văn

hóa, xã hội.

Khái niệm diễn ngôn của giới nữ khác với diễn ngôn về giới nữ. Khái niệm

thứ nhất đề cập đến giới nữ như một chủ thể, xác định giới nữ có một diễn ngôn

so với giới nam. Diễn ngôn của giới nữ có thể kiến tạo nghĩa cho bất cứ hiện

tượng, đối tượng nào Trong khi đó khái niệm thứ hai, cho thấy, giới nữ là đối

tượng định nghĩa của diễn ngôn, chủ thể của diễn ngôn đó có thể là giới nam

hoặc chính là giới nữ.

1.2. Nữ tính, nam tính như là sự kiến tạo xã hội

Như đã nói ở trên (đồng thời cũng là quan điểm của luận văn này), giới

nam và giới nữ là sản phẩm của sự kiến tạo xã hội. Nam tính và nữ tính trong

phạm vi luận văn không được dùng theo nghĩa sinh học, mà là những kiến tạo xã

10

hội, văn hóa. Nam tính và nữ tính không phải là sản phẩm tự nhiên, mà là sản

phẩm của xã hội.

Thừa nhận, nam tính và nữ tính là sản phẩm văn hóa, thì “tất yếu phải chấp

nhận một thực tế: không có một quan niệm duy nhất, phổ quát cho cái gọi là nam

tính (masculine) hay nữ tính (femininity). Nam tính hay nữ tính biến đổi một cách

đa dạng từ nền văn hóa này sang nền văn hóa khác; và ngay trong một nền văn hóa

thì nam tính và nữ tính cũng luôn biến đổi từ thời kì này sang thời kì khác. Điều này

giải thích vì sao trong những công trình nghiên cứu về giới hiện nay nam

tính hay nữ tính thường được dùng ở dạng số nhiều: những - nam tính

(masculinities) và những – nữ tính (femininities). … những quy phạm về nữ tính và

nam tính không phải là một tồn tại có tính chất tự nhiên mà là sản phẩm của diễn

ngôn được kiến tạo từ một hệ hình tri thức và những tương quan quyền lực của một

thời đại cụ thể.” [121, tr.22].

1.3. Giới nữ trong văn học như là một vấn đề văn hóa - xã hội

"Đàn ông có thể coi văn chương như một thứ say mê, tạo kỳ đài. Còn đàn bà

viết văn xưa nay phần nhiều là để trải lòng. Viết cho mình. Viết bằng thứ bản năng

mách bảo thần thánh nhiều hơn là viết bằng trí khôn. Thế nên, đàn ông viết văn

nhiều khi viết bằng cái thông minh lồng lộng, còn đàn bà thường viết bằng tình yêu,

bằng trái tim giàu trắc ẩn". Nếu coi văn chương là lĩnh vực của sự sáng tạo, sự độc

đáo, nơi cá tính được tôn vinh thì việc phụ nữ cầm bút làm văn chương xác nhận

nhu cầu khẳng định giới tính của mình. Bởi vậy, dù họ đề cập tới những vấn đề vĩ

mô hay nhỏ bé, xa xôi hay gần gụi thì văn chương vẫn bộc lộ sự tinh tế, những góc

nhìn riêng của đặc trưng giới tính. “Xưa nay bất kỳ nước nào cũng vậy, văn học là

phần đàn ông, đàn ông là trung tâm của văn học” [57, tr.423], văn chương ở xứ ta

bao đời nay dường như vẫn chỉ dành riêng cho vài đấng nam nhi thi thố. Phụ nữ

“như đã bị ruồng đuổi ra ngoài bờ cõi văn học” [57, tr. 432], một vài gương mặt phụ

nữ hiếm hoi xuất hiện được coi là hiện tượng đặc biệt, là hiện tượng của văn

chương. Tác phẩm của họ được xem như là những tiếng nói than thân, phản kháng

chế độ nam quyền, là lời kêu gọi sự ban ơn của nam giới. Nhưng người phụ nữ hiện

11

đại chọn viết văn để “sống một cuộc sống khác” (lời tự bạch của Xuân Quỳnh), họ

viết văn bằng tri thức, bằng thái độ kiêu hãnh tự tin khẳng định bản lĩnh giới mình

và giá trị văn chương của mình. Họ dùng văn chương để “tấn công vào những quan

niệm đầy màu sắc nam quyền, tố cáo tình trạng bị nhào nặn thành phụ nữ theo

những tín điều người khác áp đặt cho giới mình” [57, tr.300].

Gần một thế kỷ trước, Phan Khôi đã dự đoán rằng biết đâu nữ lưu sau này sẽ

“trở nên người chủ trương của văn học”. “Nếu văn học mà quả lấy nữ tánh làm

trung tâm thì đàn bà chủ trương lấy nền văn học là phải, mà như vậy thì văn học có

lẽ lại tấn bộ hơn trước. ” [57, tr. 432,]. Chỉ mấy chục năm sau lời tiên tri của Phan

Khôi đã thành sự thật.

Phan Khôi, người được coi là tiếp nhận văn học từ ánh sáng của nữ quyền,

trong bài viết: Văn học với nữ tánh ông đưa ra những luận giải vì sao nữ giới có

quan hệ với văn học. Ông cho rằng đàn bà có nhiều tính chất thích hợp với văn học

như trầm tĩnh, nhẫn nại, nhiều tình cảm,..vì thế đàn bà lấy những tính đó mà chuyên

theo nghề văn học thì dễ và mau chóng thành công hơn đàn ông. Văn học với nữ

tính có quan hệ, nữ tính choán hết mấy phần trong văn học. Ông đưa ra hai ý kiến.

Thứ nhất, phụ nữ là biểu hiện cho cái đẹp và những gì liên quan đến cái đẹp đều gắn

với họ, còn “cái đẹp là cái cốt của văn học” cho nên “văn học hay tả về đàn bà”; thứ

hai, phụ nữ vốn mang bản chất của nữ tính, sự mềm mại, yếu đuối, thiên về bộc lộ

đời sống tình cảm từ bên trong mà “văn học trọng đường tình cảm”, nên văn học

“nói chuyện đàn bà thì khiến cho người ta dễ cảm, cho nên nói về đàn bà nhiều

hơn” [57, tr.429].

Vậy, điều kiện nào để phụ nữ trở thành chủ thể sáng tạo? Trước hết phải là

học. “Người ta không phải sinh ra là phụ nữ, mà trở thành phụ nữ” (Beauvoir).

Những thuộc tính mà từ trước đến nay người ta vẫn áp đặt cho phụ nữ không phải là

cái vốn có, bản chất phụ nữ, mà do người đàn ông áp đặt cho phụ nữ thông qua văn

hóa, giáo dục. Mặt khác bản thân người phụ nữ cũng luôn cho rằng mình yếu kém

hơn đàn ông, mình là “thứ hai”. Nước ta từ xưa tới nay trọng nam khinh nữ, đàn bà

sinh ra chỉ là cái vật phụ thuộc vào đàn ông nên không cần học hành mà tự đàn bà

12

cũng nghĩ rằng không cần học làm gì, chỉ một mình đàn ông học cũng đủ [57,

tr.421]. Trong xã hội phụ quyền, phụ nữ học chỉ để phục vụ chồng con và những

người thân trong gia đình mà không được thi thố ngoài xã hội, bởi phụ nữ còn phải

tuân theo các quy tắc “Tam tòng”, “Tứ đức”. Quan niệm “phụ nhân nan hóa” ấn

định rất rõ ràng trong đời sống văn hóa, người phụ nữ luôn bị coi và tự coi là “phái

yếu. Chữ “tài”, chữ “trí” chỉ gắn liền với người quân tử, kẻ trượng phu. Phụ nữ bị

xếp chung hàng với hạng tiểu nhân. Họ không có quyền đi học hay tham gia thi cử,

không có mặt trong bộ máy quản lí làng xã hay có bất kì tiếng nói nào trong những

vấn đề “nghị sự”. Khổng Tử cho rằng: “Duy nữ tử dữ tiểu nhân, vi nan dưỡng dã.

Cận chi, tắc bất tốn, viễn chi tắc oán” (chỉ có đàn bà và bọn tiểu nhân là khó nuôi

dạy. Hễ ta gần gũi thì khinh nhờn, hễ ta xa cách thì oán ghét). Từ đó nảy sinh tư

tưởng trọng nam khinh nữ, “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”… Nhưng cho đến

nay thì sự bất bình ấy không còn nữa, sự học thì không ai kém ai và nền văn học

văn học tương lai là chung cho tất cả đàn bà Việt?”

Thời trung đại, dưới ảnh hưởng của diễn ngôn Nho giáo, phạm vi nam - nữ

được phân chia một cách rạch ròi, vị thế chủ yếu thuộc về nam giới, “phu xướng

phụ tùy”, người đàn ông nắm trong tay quyền quyết định và người phụ nữ là người

phục tùng. Những quan niệm đạo đức chuẩn mực “phụ nhân nan hóa”, “Tam tòng,

Tứ đức” của Nho giáo trở thành cái cùm để giam cầm nữ giới, “đẩy vị trí của họ

xuống hàng kẻ nô lệ, nô lệ không chỉ về kinh tế, chính trị, văn hóa, mà nô lệ cả về

tình cảm và tình dục”, là công cụ áp chế tinh thần người phụ nữ, ăn sâu vào tiềm

thức của họ quán tính: tự mình tu dưỡng, tự mình ràng buộc, tự mình nhược hóa

mình, là rào cản vô hình, hà khắc trói buộc tự do và kìm hãm sự phát triển của

người phụ nữ. Bởi vậy, “thế giới văn học thời trung đại Việt Nam là thế giới của

đàn ông,do đàn ông thống trị. Những lời bàn về thơ văn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX còn lưu giữ, truyền lại phổ biến, tuyết đối chỉ có lời nói của đàn ông, không có

tiếng nói phụ nữ, gần như không bàn về giới nữ”, “phụ nữ chỉ đóng vai trò thực

hành, gìn giữ và làm gia tăng quyền lực của những diễn ngôn nam giới” [171].

Trong văn chương, người phụ nữ rơi vào bi kịch “mất tiếng nói” [126, tr.169], hoặc

13

lời nói không có giá trị. Họ trở thành đối tượng thay vì trở thành chủ thể của văn

chương, họ không tồn tại với tư cách là chủ thể của diễn ngôn, của lời nói. Họ

mượn lời nam giới để diễn đạt văn chương của mình. Hầu hết các tác giả nữ trong

văn học trung đại như Lý Ngọc Kiều, Lê Thị Yến (Ỷ Lan), Ngô Chi Lan, Đoàn Thị

Điểm, Phạm Lam Anh, Lê Ngọc Hân, Trương Thị Trong, Nguyễn Trinh Thận,

Nguyễn Thị Hinh (Bà Huyện Thanh Quan), Nguyễn Tĩnh Hòa, Nguyễn Thị Nhược

Bích,…đều nói bằng ngôn ngữ của giới nam.

Thời kì 1945- 1975 dân tộc Việt Nam bước vào cuộc chiến đầy cam go, thử

thách với thực dân Pháp và đế quốc Mĩ. Cả dân tộc quyết liệt đấu tranh để chiến đấu

và chiến thắng kẻ thù. Văn học trở thành một thứ vũ khí tham gia trực tiếp vào hai

cuộc kháng chiến nhằm bảo về độc lập dân tộc và thống nhất đất nước. Giọng điệu

sử thi là âm hưởng chính của giai đoạn văn học này. Văn học hướng tới những sự

kiện lịch sử có tính cộng đồng dân tộc, nhân vật thường đại diện cho vẻ đẹp phẩm

chất của con người Việt Nam. Văn học động viên, kêu gọi, khích lệ mỗi cá nhân

phát huy vai trò của mình trong sự nghiệp chung của dân tộc. Trong văn xuôi của

nhiều tác giả, người phụ nữ được nhìn nhận như những anh hùng mang vẻ đẹp của

thời đại như: chị Sứ (Hòn đất - Anh Đức), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng -

Nguyễn Thi), Nguyệt (Mảnh trăng cuối rừng – Nguyễn Minh Châu), Phương Định

(Những ngôi xao xa xôi - Lê Minh Khuê),… Con người cá nhân nhường chỗ cho

con người cộng đồng. Hình tượng nhân vật được xây dựng trong văn học hầu hết là

những hình tượng phi giới tính. Vì vậy, trong diễn ngôn sử thi, người nữ được khai

thác ở khía cạnh xã hội, mà chưa chú ý nhiều đến những đặc trưng về giới.

Từ 1986, công cuộc Đổi mới đã đem lại nhiều chuyển biến lớn lao trên mọi

phương diện của đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội. Trong bối cảnh tiếp xúc với

nhiều luồng tư tưởng mới, giao lưu văn hóa đa chiều của nền kinh tế thị trường,

công nghiệp hóa hiện đại hóa, thời đại bùng nổ của công nghệ thông tin,…nâng cao

học vấn cũng là một thành tựu đáng được ghi nhận. Sự đổi mới toàn diện mọi mặt

từ chính trị, văn hóa, xã hội, kinh tế,…tác động mạnh mẽ đến đời sống văn học

đương thời. Văn học chuyển từ âm hưởng sử thi sang phản ánh cuộc sống thế sự.

14

Văn học quan tâm đến con người cá nhân, tới nhu cầu và khát vọng đời thường.

Hình tượng người nữ xưa nay được nhìn nhận, đánh giá dưới cái nhìn của nam

quyền thì giờ đây được nhìn bằng con mắt của chính họ. Văn xuôi nữ đương đại đã

thực sự chiếm ưu thế trên văn đàn. Văn xuôi đương đại thực sự đã có những tiếng

nói mới mẻ của giới nữ với sự đóng góp của hàng loạt cây bút nữ tài năng như Lê

Minh Khuê, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Lý Lan,

Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, Nguyễn Ngọc Tư,…Trong sáng tác của họ, nữ giới

được nhìn như một khách thể thẩm mĩ độc lập, một đối tượng cần được khám phá,

lý giải. Các nhà văn nữ thoải mái phô bày đời sống, tâm tư tình cảm, khát vọng, nhu

cầu của bản thân mà không cần dấu diếm. Phụ nữ sáng tác với vai trò là một chủ thể

- một tác nhân chống lại sự kiến tạo của nam giới về nữ tính và vị thế xã hội của

giới nữ. Văn học nữ là diễn ngôn của giới nữ, là sự tự kiến tạo về giới mình.

Tiểu kết chương

Giới và giới tính, nam tính và nữ tính đều là các kiến tạo văn hóa - xã hội. Sự

khác biệt giữa giới nam và giới nữ không phải do yếu tố sinh học quy định, mà là

do xã hội, văn hóa (ngôn ngữ) tạo nên. Nam tính và nữ tính không tồn tại tự nhiên,

sẵn có, tiên nghiệm mà là những kiến tạo xã hội, có thể thay đổi, uốn nắn; mỗi xã

hội, cộng đồng, mỗi nền văn hóa và từng thời kỳ, … có một cách định nghĩa khác

nhau về nam tính và nữ tính. Không có sự thật nào về nam tính, nữ tính tồn tại bên

ngoài các diễn ngôn văn hóa.

Nói đến diễn ngôn là nói đến ngôn ngữ trong thực hành chức năng của chúng.

Diễn ngôn, tri thức, quyền lực gắn bó với nhau. Diễn ngôn tạo ra các niềm tin, niềm

tin tạo ra tri thức, tri thức tạo ra quyền lực. Đến lượt mình quyền lực chi phối sự

kiến tạo, diễn giải.

Khái niệm diễn ngôn về giới nữ xác định giới nữ như một chủ đề, đối tượng

của sự kiến tạo. Chủ thể của những sự định nghĩa, diễn giải này, trong phạm vi xem

xét của luận văn, là chính giới nữ. Giới nữ định nghĩa, diễn giải về bản sắc nữ tính

của chính họ.

15

Chương 2

SỰ KIẾN TẠO HÌNH ẢNH GIỚI NỮ TRONG TÌNH YÊU

VÀ HÔN NHÂN

Chương này xem vị thế xã hội là một vấn đề quan trọng đối với người nữ, nhìn

nhận những tri thức về vị thế xã hội của người nữ là một thứ quyền lực, một cơ chế

kiếm soát, ràng buộc, định đoạt số phận của người nữ trong xã hội.

Sau khi chỉ ra vị thế xã hội của người nữ chẳng qua cũng là một sự kiến tạo về

mặt xã hội, luận văn đi sâu phân tích các hình thức kiến tạo và sự thực hành duy trì

các vai trò, nhiệm vụ, bổn phận,…. của người nữ trong tình yêu, hôn nhân.

2.1. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong tình yêu

2.1.1.Trinh tiết như là phẩm giá của người nữ

Cho đến nay, diễn ngôn Nho giáo vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến nếp sống,

suy nghĩ, ngôn ngữ của người Việt. Trong phần lớn các cuộc tranh luận về chuẩn

mực, đạo đức, thì tiết hạnh của nữ giới vẫn được đề cao và trinh tiết của người nữ

vẫn được coi là thước đo để đánh giá nhân cách của họ. Xã hội không thể xóa bỏ bất

bình đẳng giới, phụ nữ sẽ không được đối xử công bằng nếu như vẫn quá coi trọng

và đề cao trinh tiết của họ.

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê định nghĩa: “Trinh tiết là người con gái còn

tân, còn trong trắng, chưa chồng và người con gái đó phải giữ được lòng trọn vẹn

thủy chung với chồng” [103, tr.1036]. Xét theo khía cạnh đạo đức thì trinh tiết biểu

trưng cho sự trong trắng trong tâm hồn, đức hạnh trong tình yêu, người phụ nữ có

trinh tiết là người có ý thức tiết chế dục vọng giữ gì thân thể thuần khiết, chung thủy

với người bạn đời. Ở mỗi thời kỳ khác nhau cách giải thích, cách định nghĩa về

trinh tiết có sự thay đổi. Trinh tiết là một kiến tạo văn hóa, khái niệm này biểu hiện

sự kiểm soát của xã hội đối với (một phần) thân thể nữ.

Học giả Phan Khôi khẳng định: “Xưa nay trong đạo đàn bà, chữ trinh làm

trọng, chữ trinh cũng như những chữ đạo đức, nhân, nghĩa, đó là chữ ta hấp thụ

được từ văn hóa Tàu… Chữ trinh như một tín điều của một tôn giáo riêng dành cho

đàn bà…..” Dưới chế độ phụ hệ, con gái thuận Tam tòng, nếu mất trinh sẽ bị cha bỏ,

16

chồng không nhìn thành ra bơ vơ nên phải giữ trinh. Phan Khôi cũng cho rằng chữ

trinh có hai đường: nết và tiết. Cái nết nghĩa là cái nết đoan chính và chính chuyên

của người phụ nữ, đoan chính là có ý giữ mình nghiêm nghị không cho ai được

phạm đến, chính chuyên là buộc mình duy nhất với một người chồng mà thôi. Phụ

nữ vì cái ý chí phẩm giá của mình mà giữ trinh chứ không phải vì chồng hay vì ai

cả. Như thế, trinh là một cái nết, về sau người ta uốn nắn nó thành ra một cái tiết.

“Tiết là một cái dấu tỏ ra mình đã làm hết bổn phận của mình đối với người mà

mình thuộc về”. [57, tr.53]. Luật bắt đàn bà thủ tiết là do lòng ích kỷ của đàn ông

mà sâu xa hơn là do cái thuyết thủ tiết của Tống Nho. Dưới cái trị quyền theo học

thuyết Tống Nho, phụ nữ ta cũng đã bị ngược đãi mà chịu thiệt nhiều bề. Pháp luật

ta không cấm hẳn người đàn bà cải giá nhưng cũng cướp hết quyền lợi của người

đàn bà cải giá. Hạ người đàn bà cải giá xuống, tung người đàn bà thủ tiết lên. Phan

Khôi cho rằng ngày nay trong xã hội ta “cái hay của nết trinh chừng như còn lại

không được bao lăm, mà cái dở của nết trinh vẫn còn đè lên đầu hết một phần nữ

giới. Đó là kết quả của sự chuộng tiết hơn nết” [57,tr.57]. Cuối bài viết “Chữ trinh:

cái tiết với cái nết”, Phan Khôi đặt chữ trinh trong thời buổi cái thói dâm ô tràn

ngập cả thiên hạ, đàn bà con gái muốn giữ lấy nhân cách trên nền tự do độc lập thì

cần phản đối cái tiết trinh, trau dồi lấy cái nết trinh [57, tr.57]. Như thế trinh tiết

trong xã hội được nâng lên thành một chuẩn mực thiêng liêng, một áp lực phẩm

hạnh của riêng người phụ nữ nhưng lại bị biến thành “của cải xã hội” được đặt dưới

“cái nhìn công cộng” và sự phán xét công khai của cả cộng đồng, bị đặt dưới sự

diễn giải, kiến tạo, điều chỉnh và phán xét của diễn ngôn nam giới. Trinh tiết, như

vậy, trở thành một ám ảnh về phẩm tính, một sợi dây trói buộc nữ giới theo đạo đức

nam quyền, một mặc cảm quy thuộc tự biến thân thể mình thành thứ ‘đồ vật’ chịu

quyền sở hữu từ duy nhất một người đàn ông. Ý thức hệ Nho giáo đã định cho

người nữ truyền thống phải có đủ tứ đức “Công - Dung - Ngôn - Hạnh”. Trinh tiết

là một phạm trù đạo đức thuộc phạm vi nghĩa của từ “Hạnh”. Một trong những diễn

ngôn tạo nghĩa cho chữ trinh là: “Chữ trinh đáng giá ngàn vàng”. Diễn ngôn này đã

xác định vị trí của chữ trinh đối với cuộc sống, cuộc đời người nữ, trinh giữ vai trò

17

làm nên giá trị đầy đủ của một phụ nữ. Trinh không chỉ là một chuẩn mực điểu

chỉnh hành vi của người nữ mà còn là một cơ sở để người nam định giá và lựa chọn

người nữ. Trong diễn ngôn văn học trung đại, việc người nam chọn vợ dựa vào tiêu

chuẩn chữ trinh khá phổ biến. Đối với nam giới, một người phụ nữ đoan trang, đứng

đắn, trong trắng là yêu cầu đầu tiên và mang tính chất quyết định khi chọn vợ.

“Chuyện người con gái Nam Xương của Nguyễn Dữ có đoạn miêu tả: “Vũ Thị

Thiết, người con gái quê ở Nam Xương, tính tình đã “thùy mị, nết na, lại thêm tư

dung tốt đẹp”. Trong làng có chàng Trương Sinh, “mến vì dung hạnh”, xin với mẹ

đem trăm lạng vàng cưới về” [33, tr.176]. Rõ ràng, theo mô tả của Nguyễn Dữ,

Trương Sinh đã thực hành diễn ngôn Nho giáo, chọn Vũ nương vì “hạnh”. Tiết

hạnh ở đây chính là một thứ đảm bảo cho người phụ nữ được lựa chọn, là thước đo

phẩm chất đạo đức, đồng thời là một thử thách đối với người nữ. Trương Sinh trong

“Người con gái Nam Xương” không chỉ là người đề cao đức hạnh của Vũ nương

mà còn là người phát xét tiết hạnh của nhân vật này trong một tình huống thử thách

khác: xa chồng. Cái chết và sự minh oan của Vũ nương trong tác phẩm của Nguyễn

Dữ xoay quanh chủ đề: tiết hạnh. Trương Sinh biến tiết hạnh thành một thứ đạo đức

khắt khe, nghiệt ngã, thành sức mạnh vô hình trói buộc người phụ nữ và dồn người

nữ đến cái chết khi họ bị coi là thất tiết. Nam giới là người làm chủ diễn ngôn đạo

đức, giành được thẩm quyền xét duyệt phẩm chất tiết hạnh và định đoạt giá trị đời

sống của người nữ. Bởi thế lời nói của Vũ Nương không có giá trị. Cho dù Vũ

Nương gắng sức phân trần: “cách biệt ba năm giữ gìn một tiết”, “điều đâu bay buộc

chịu tiếng nhuốc nhơ”, thậm chí thề thốt: “Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch

gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu Mĩ. Nhược

bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm

cơm cho diều quạ, và xin khắp mọi người phỉ nhổ” cũng không hóa giải được mối

nghi ngờ về tiết hạnh của Trương Sinh. Cái chết của nàng, không phải là sự minh

oan cho một tấm lòng trinh bạch mà chính là sự thừa nhận vị trí quan trọng của tiết

hạnh, trinh tiết trong đời sống của người nữ, và xét cho cùng là thừa nhận sức mạnh

nam quyền. Người nữ trong xã hội ấy không có ý thức phản kháng, họ thụ động,

18

trông chờ sự minh oan, sự công nhận đức hạnh từ người đàn ông. Cái chết của Vũ

Nương và cả “phần thưởng”, sự hóa thân của nàng dường như củng cố thêm tầm

quan trọng của chuyện tiết hạnh, chứ chưa phải là giải oan. Sự giải oan cho nàng chỉ

có được khi Trương Sinh xuất hiện công nhận tiết hạnh của Vũ Nương lúc sống.

“Chuyện người con gái Nam Xương” thực chất là chuyện về tiết hạnh, đức hạnh

của người nữ trong xã hội phong kiến. Trong gia đình Nho giáo, phụ nữ phải giữ

gìn được sự trinh trắng đến khi về nhà chồng. Khi theo chồng, trinh là biểu hiện của

đạo làm vợ: “Đạo tòng phu lấy chữ trinh làm đầu”. Đó là yếu tố tiên quyết cuộc

sống hôn nhân của họ.

Một cô gái mất trinh vì bất cứ lý do gì (chủ quan hay khách quan) đều bị coi là

không có phẩm tiết, không đức hạnh, là “gái hư”. Phải chăng vì nỗi sợ hãi, nỗi ám

ảnh trong tiềm thức này mà trinh tiết đã trở thành một trong những mối quan tâm

đặc biệt trong sáng tác của nữ giới. Trinh tiết được quy chiếu trong diễn ngôn về

văn hóa của cộng đồng đã khiến cho các nhà văn nữ Việt Nam đưa vấn đề trinh tiết

thành một sự kiện quan trọng trong cuộc đời của các nhân vật nữ. Trong văn xuôi

nữ Việt Nam đương đại, các nhà văn Phạm Thị Hoài, Đoàn Lê, Dạ Ngân, Võ Thị

Xuân Hà, Nguyễn Thị Thu Huệ, Y Ban, Đoàn Minh Phượng,… đều nói về trinh tiết.

Khảo sát hơn 30 tập truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn của 4 nhà văn nữ Dạ

Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy các nhà văn này

dành khá nhiều tâm huyết cho hệ vấn đề trinh tiết của nhân vật nữ như giá trị của

trinh tiết, nỗi sợ hãi đau đớn ám ảnh bị cưỡng đoạt trinh tiết, đặc biệt là sự lên tiếng

của người nữ trước tình trạng bị cưỡng đoạt trinh tiết, thái độ đấu tranh để đạp đổ

quan niệm trinh tiết trong tư tưởng nam quyền. Đồng thời các nhà văn cũng thể hiện

cái nhìn cởi mở về sự đánh giá phẩm tiết của người phụ nữ.

Người nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ vẫn chịu ảnh hưởng và giam mình trong

diễn ngôn đạo đức truyền thống, chữ trinh vẫn đáng giá ngàn vàng. Bởi thế, một cô

gái còn trinh nhận thấy cái giá trị đích thực của bản thân mình dù cô thiếu thốn mọi

thứ vật chất khác: “Tôi không nghĩ rằng có người muốn lấy tôi. Tôi. Một đứa con

19

gái trinh tiết nhưng thiếu thốn tất cả mọi thứ chứ không như các cô gái may mắn

khác là có tất cả mọi thứ nhưng lại mất trinh.” [53, tr.268].

Trong “Giới nữ”, khi xác định các huyền thoại về nữ giới, Beauvoir khẳng

định, “Đàn ông mong đợi một điều gì khác ngoài ham muốn thỏa mãn dục tính bản

năng khi sở hữu một người phụ nữ”. Theo nghĩa này, trinh tiết được kiến tạo không

chỉ như một phương tiện đáp ứng nhu cầu nam giới, mà việc cưỡng đoạt trinh tiết

của một người nữ còn cấp cho anh ta bằng chứng của khả năng chinh phục tự nhiên.

Trong hệ huyền thoại ấy, việc lấy đi trinh tiết của người nữ là biểu tượng của sức

mạnh và lòng can đảm. Trinh tiết có giá trị bởi nó ghi dấu sự thống trị của người

đàn ông lên thân thể nữ. Không những thế, nó quyết định sự sở hữu độc quyền, bởi

“cách chắc chắn nhất để khẳng định điều gì thuộc về mình là không để bất kì kẻ nào

khác chiếm dụng nó [173, tr.225]. Người đàn ông cho rằng thân thể phụ nữ phải có

tính chất bất động và thụ động của một đồ vật vì họ sinh ra là để đươc chiếm đoạt.

Nhưng bị cưỡng đoạt trinh tiết trở thành nỗi đau đớn, sợ hãi ám ảnh cả cuộc đời

người nữ bởi mất trinh đồng nghĩa với việc “không có phẩm tiết”, là vết nhơ đạo

đức:

“Năm Tho 11 tuổi, đi học về ngang qua nhà ông Đạo. Ông gọi Tho vào nhà,

đóng cửa hiếp dâm xong, cấm Tho kể cho người khác nghe và dạy Tho nói dối cha

mẹ. Tho về nhà, như đứa câm đứa khờ, tự bản thân cũng không biết chuyện gì đã

xảy ra cho mình, chỉ biết đau đớn, sợ hãi, uất ức…. Nỗi đau đớn sợ hãi không nguôi

đi, nhưng Tho đờ đẫn như không còn cảm xúc hay ký ức nữa. Tho không biết nói

gì, không thể nói gì được. Cha Tho đem Tho vô bệnh viện để khám. Tho cũng

không rõ bằng cách nào, nhưng ông kiếm được một cái giấy chứng nhận Tho bị té,

rách màng trinh. Ông bảo mẹ Tho cất cái giấy đó cho Tho. Nó sẽ là bùa bảo hộ hạnh

phúc của Tho sau này. ” [64, tr.5].

Sự cưỡng đoạt trinh tiết đã gây ra cho người nữ một sự chấn thương tâm lý và

đau đớn thân thể tột cùng. Họ uất nghẹn khi nhớ lại về bản thân mình bị chiếm

dụng, chà đạp, thay vì một tồn tại được yêu và được trân trọng. Điều này khiến cho

họ luôn mang tâm lý “sợ đàn ông”, đề phòng đàn ông, không dám nghĩ đến chuyện

20

yêu đương, thậm chí không dám để người đàn ông nào đụng chạm vào thân thể, hay

để lời tán tỉnh của đàn ông lọt vào tai của họ:

“Từ lâu lắm rồi, Tho không bao giờ để cho bất cứ người đàn ông nào đụng đến

thân thể của mình. Cũng không để bất cứ một lời tán tỉnh nào của đàn ông lọt vào

tai mình.” ” [64, tr.10]

“Tho lại càng không màng chuyện yêu đương. Một lần bị cưỡng hiếp, một lần

bị ruồng rẫy, đủ để Tho ớn đàn ông suốt đời. Hôm nọ, Tho thức giấc giữa khuya,

tiếng thở hỗn hễn như dội ra từ ký ức làm Tho cứng đờ trên giường, rồi như một kẻ

bị dìm dưới đáy nước ngoi lên theo bản năng sinh tồn, Tho vùng vẫy, nhào ra khỏi

giường, chạy xuống cầu thang, mở đèn lên. …. Tho tắt đèn, chạy trở lên lầu, ói òng

ọc vô bồn cầu. Khi điều hòa lại nhịp thở, Tho lên giường nằm, cổ họng vẫn nghèn

nghẹn, nước mắt cứ trào ra. Chuyện hai mươi mấy năm xưa, Tho tưởng không còn

nhớ gì nữa, nhưng hóa ra cái tiếng thở hỗn hễn dồn dập ấy vẫn còn ám Tho khiếp sợ

và uất ức đến đờ đẩn như ngày còn thơ.” [64, tr.9].

Dưới ảnh hưởng của diễn ngôn truyền thống về trinh tiết, không chỉ người nữ

mà đàn ông trong văn xuôi đương đại cũng quan niệm trinh tiết là “bảo bối” đảm

bảo hạnh phúc gia đình: “Anh yêu em nhưng anh không thể hôn em. Chẳng để làm

gì khi xảy ra chuyện đó. Rồi mình sẽ ân hận. Em còn lấy chồng, em phải giữ

nguyên vẹn trinh tiết cho chồng em. Đó là bảo bối của em trong cuộc sống vợ

chồng. Anh yêu em và thèm muốn em nhưng em bé tý và tội nghiệp lắm…” [53,

tr.280].

Một biểu hiện khác của việc đề cao trinh tiết là ca ngợi sự dâng hiến trọn vẹn

thân thể của người nữ. Nếu như mất trinh trở thành nỗi đau, nỗi ám ảnh nặng nề của

phụ nữ thì khoảnh khắc hiến dâng hiến trinh tiết thân thể cho chồng là một niềm

vui, niềm hạnh phúc, tự hào của người phụ nữ trước chồng, bởi nó là một thứ “bảo

hiểm suốt đời” cho cuộc hôn nhân của họ. Người nữ trong sác tác của Y Ban đắm

chìm trong cảm xúc đê mê hòa trộn thân thể với chồng: “Không còn vướng nữa,

một cái gì đó đã thông qua nhưng rất đau. Để anh xem, ôi máu, em chảy máu. Xuân

nhổm dậy, một vài giọt máu vương trên đá. Xuân nhìn mặt Tuấn đang nghệt ra sợ

21

hãi. Xuân bật cười chồng ngốc của em, hôn em đi. Nụ hôn ngượng nghịu. Anh sao

vậy? Xuân hỏi Tuấn. Anh ngốc, anh ngốc, anh biết vì sao rồi. Tuấn lại cuồng nhiệt,

hối hả.” [19, tr.34].

Tuy nhiên trong văn xuôi nữ đương đại cũng đang hình thành những diễn

ngôn mới về người nữ. Ở đó người nữ được kiến tạo với một tâm thế hiện đại hơn,

với họ chữ trinh được nhìn theo hướng cởi mở hơn. Người nữ bị mất trinh khi buộc

phải quan hệ với người đàn ông mà không xuất phát từ tình cảm, đã tìm cho mình

một cách bao biện: coi chuyện mất trinh như một một tai nạn:

“Cẩm mở cửa ra hỏi gì vậy. Thanh nói cho anh đi nhờ toa-lét. Cẩm bất đắc dĩ

để anh vào. Anh ở trong toa-lét mười phút rồi bước ra trần trụi, chỉ quấn ngang

hông cái khăn tắm của Cẩm. Chị kinh ngạc đến nỗi không có một phản ứng nào.

Thanh ôm chị vật xuống giường, môi anh chà miết da thịt chị. Phải thử mới biết

thằng nào lại cái. Cẩm không ngờ.Thanh cũng không ngờ. Anh đứng dậy nhìn vết

máu trên tấm ga trải giường, lấy cái khăn tắm phủ lên lấp liếm, áy náy: -“Không

ngờ Cẩm còn trinh”. Mấy ngày sau họ không gặp nhau, tuy họ vẫn đi về trên cùng

con đường như trước đây. Có lần chuông điện thoại reo, Cẩm nhấc máy nói A-lô,

bên kia đầu dây im lặng, rồi cúp máy. Cẩm suy nghĩ một đêm và kết luận mình bị

tai nạn, té lầu hay đụng xe chẳng hạn: Không tiên liệu được, ngoài ý muốn nạn

nhân, hậu quả tệ hại, trách mình hay trách người cũng vậy thôi.” [64, tr.65-66].

Người nữ trong văn học đương đại không hoàn toàn quy phục diễn ngôn đạo

đức truyền thống, họ có ý thức về quyền làm chủ bản thân, cất tiếng nói trước tình

trạng bị cưỡng đoạt trinh tiết, đấu tranh để đạp đổ quan niệm trinh tiết trong tư

tưởng nam quyền... Tho muốn làm rõ trắng đen cái lần mình bị phá trinh, và việc

Đạo phủ nhân chuyện đã hiếp dâm mình trước mặt bao nhiêu người giữa thanh

thiên bạch nhật để mọi người có cái nhìn đúng về cô cho nên cô đã tính toán, sắp

đặt thật kỹ càng: “Tho đã tính toán, đã ôn nhẩm, đã dượt đi dượt lại câu nói: “Ông

Đạo, ông là dân kỳ cựu ở xứ này, chắc ông còn nhớ chuyện mấy chục năm trước,

người ta đồn rùm là ông Đạo đã phá trinh con gái ông Một, khiến cho cô ta lỡ dở

duyên phận, tan nát cuộc đời. Bây giờ ông hãy nói minh bạch, chuyện đó như thế

22

nào?” Tho đã để sẵn trong túi áo cái máy ghi âm nhỏ xíu mà cực nhạy.… Tho sẽ

đem cái băng ghi âm đó đi tìm luật sư khởi kiện hắn. Nếu hắn chối: “Làm gì có

chuyện đó!” [64, tr.13]. Khi cái kế hoạch nhằm minh chứng cho trinh tiết của mình

không thành, Tho phản ứng dữ dội: “Tho phóng ra từ cái ghế lao vô người ông Đạo,

hai nắm tay đấm túi bụi vào mặt vào cổ hắn, Tho thét lạc cả giọng: “Đồ đạo đức

giả! Đồ chó dái! Mày còn tồi bại hơn súc vật! Mày dày vò tan nát cuộc đời người ta

mà còn vênh váo cao ngạo hả? Mày khốn nạn …” [64, tr.13-14]. Người đàn bà bị

hiếp dâm từ năm 11 tuổi đi đòi công lý: “Tho mở cửa bước ra đường, đi tới phòng

tiếp bạn đọc của các báo, hội phụ nữ, ủy ban bảo vệ trẻ em, phòng cố vấn pháp luật,

phòng tiếp dân, phòng luật sư, bất cứ nơi nào Tho mở được cánh cửa, để kể chuyện

như một nhân chứng và nạn nhân rằng gã đàn ông tên Đạo đó đã cưỡng hiếp một bé

gái mười một tuổi... Bây giờ Tho không trông mong chắt mót hạnh phúc với một

người đàn ông nữa. Tho chỉ đòi hỏi công lý cho người đàn bà.” [64, tr.15].

2.1.2. Tình yêu như là cuộc sống của người nữ

“Từ tình yêu hoàn toàn không có cùng một nghĩa đối với hai giới nam và nữ,

và đó là cội nguồn của những hiểu lầm nghiêm trọng giữa họ với nhau.” [173,

tr.311]. Đàn ông coi tình yêu như một công việc trong cuộc đời, họ yêu đàn bà chỉ

có một mong muốn là chiếm hữu, chinh phục đàn bà, mong muốn tình yêu của đàn

bà. Trong tình yêu, đàn ông là chủ thể tối thượng và người đàn bà được yêu chỉ là

một giá trị trong số những giá trị khác. Trái lại, đối với phụ nữ, tình yêu “là bản

thân cuộc sống của người phụ nữ” [173, tr.311]. Người phụ nữ khi yêu không chỉ

tận tụy hết mình mà còn dâng hiến trọn vẹn cả thể xác và tâm hồn, trong lúc không

mảy may chú ý tới bất cứ cái gì khác. “Chính trạng thái vô điều kiện này biến tình

yêu thành một tín ngưỡng, tín ngưỡng duy nhất của họ.” [173, tr.312]. Vị trí, ý

nghĩa của tình yêu trong cuộc đời người nam và nữ không phải là một quy luật của

tự nhiên mà là một sản phẩm của sự tự kiến tạo xã hội.

Theo Trần Nho Thìn, trong bối cảnh xã hội nam quyền phong kiến theo Tống

Nho, vai trò thống trị của người đàn ông được thiết chế xã hội ủng hộ tuyệt đối trở

thành một nét tâm lý phổ biến, người phụ nữ vẫn được khuyến khích cam chịu thân

23

phận, an phận thủ thường [126, tr.200], họ bị mất tiếng nói trong địa hạt tình yêu,

hạnh phúc lứa đôi. Hơn nữa trong tư duy thời phong kiến nếu có chủ động trong

tình yêu thì đó là nam giới chứ không phải nữ giới. Một nữ nhân vật được Nguyễn

Du, một nhà Nho sáng tác với tinh thần trọng yêu thương lại bị các nhà Nho khác

lên án là dâm bởi nhân vật ấy đã chủ động bước chân vượt ra khỏi khuôn phép lễ

giáo phong kiến để tìm đến với người yêu, “một sự chủ động mà Nho gia không thể

chấp nhận” [126, tr.202]. Sang đầu thế kỷ XX, hệ tư tưởng phong kiến suy tàn, nữ

giới dần lấy lại địa vị ngang hàng với nam giới. Một số tác phẩm của văn xuôi của

Tự lực văn đoàn tập trung vào chủ đề phụ nữ tự giải phóng trong tình yêu. Sau năm

1945, nhiều tác phẩm văn xuôi hiện thực xã hội chủ nghĩa sử thi hóa hình ảnh của

nữ giới, phụ nữ được hình dung như những người anh hùng mang như chị Sứ (Hòn

đất - Anh Đức), chị Út Tịch (Người mẹ cầm súng - Nguyễn Thi),… Từ năm 1986,

kết quả của công cuộc đổi mới đất nước toàn diện đã tạo ra những tiền đề cơ bản

giải phóng nữ giới thoát khỏi sự áp chế của nam giới, phụ nữ có cơ hội xuất hiện

như một chủ thể, tham gia vào các hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội. Ý thức về

giới một cách tự giác ăn sâu vào tâm thức của đội ngũ những người cầm bút. Nữ

giới “kháng cự” diễn ngôn của nam giới, chủ động kiến tạo diễn ngôn của giới

mình trong tình yêu, hôn nhân, gia đình…

Trong tương quan với các nhà văn nam, các cây bút nữ dường như có lợi thế

trong việc diễn đạt nội tâm nhân vật nữ, bộc lộ sâu sắc cách cảm, cách nghĩ, tư duy,

hành động của giới mình. Xem xét thế giới nhân vật nữ của văn xuôi đương đại,

chúng tôi thấy rằng nỗi ám ảnh đau đáu trong suốt cuộc đời người nữ là tình yêu, là

khát vọng hạnh phúc và mái ấm gia đình. Bước vào những trang viết của bốn cây

bút nữ Dạ Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng ta dường như bước

vào vương quốc của đàn bà, hiếm thấy sự xuất hiện của nhân vật nam giới. Nhân

vật nữ giới trong những sáng tác của họ dù trẻ hay già, dù đẹp hay xấu, dù bình

thường hay tật nguyền, dù đang hạnh phúc hay lỡ dở, dù chưa có chồng hay người

phụ nữ từng trải,…thì đều có một điểm chung, đó là những “cô gái si tình” khao

khát yêu, khao khát được yêu, si mê và dâng hiến. Truyện “Hậu thiên đường” kiến

24

tạo hình ảnh cô bé mười sáu tuổi lần đầu chập chững bước vào tình yêu si mê người

đàn ông của mình bằng tất cả sự ngây thơ, đắm đuối, mù quáng mà không biết rằng

người đàn ông đó là một kẻ ích kỷ, thô thiển, keo kiệt: “Ngày - mình nhớ anh ấy

quá. Hai ngày không thấy anh ấy đâu. Hay anh ấy ốm rồi. Đi học về, mình cứ thấy

ngơ ngác như thế nào ấy”, "Ôi giời ơi, sao mà sung sướng thế. Mình yêu anh ấy mất

rồi. Lúc ấy, mình không còn thấy cái gì ở trên đời này quan trọng bằng anh ấy.” [49,

tr.296]. Trong “Biển ấm”, năm hai mươi tuổi, cô gái si tình nhận được bức thư tình

của người đàn ông bỏ vợ hơn mình đến mười tuổi, lời yêu vẫy gọi, cô can đảm bỏ

nhà ra đi, vượt mấy trăm cây số, mấy lần qua phà để đến với người yêu: “Tôi bỏ

nhà để đến với anh thế này chỉ được bà đồng ý. Còn bố mẹ thì cấm triệt để. Ngày

ấy. Con gái mới lớn lại đi xa một mình, đến chỗ người đàn ông vừa bỏ vợ, liệu có ái

dám to gan mà cho đi chưa? Nhưng tôi thì quyết tâm đi bằng được. Tôi đã thắng.”

[53, tr.151].

Người phụ nữ si tình trong tình yêu tự khước từ mình, cảm thấy hoan hỉ người

đàn ông mình yêu. Chừng nào còn yêu, còn được yêu và còn cần thiết đối với người

yêu, chừng ấy họ cảm thấy mình hạnh phúc và có lý do để tồn tại. Trong thế giới

nhân vật nữ của Nguyễn Thị Thu Huệ, người ta tìm thấy những cô gái háo hức bước

vào tình yêu, khao khát tình yêu, khao khát sống đúng nghĩa với tình yêu nhưng

tình yêu là thứ khó tìm trong cuộc sống hiện tại. “Tôi mê đi trên chiếc giường hạnh

phúc, chiếc giường có một không hai trên thế gian này. Tôi yêu và tôi được yêu. Dù

biết rằng đến phút ấy, tôi vẫn chưa được gì trọn vẹn ở cuộc đời. Luôn luôn cô đơn,

khát khao một cái gì cụ thể, nên chẳng bao giờ có. Rồi chợt gặp anh. Anh bình dị

nhưng sang trọng. Anh dân dã, nhưng đầy ắp những gì tôi khuyết. Có người ví tình

yêu ào nhanh như cơn bão. Anh đến với tôi chẳng phải mưa dông, chớp giật. Anh

êm đềm thấm vào tôi như hơi thở. Tôi không tin rằng mình lại có tình yêu bời tôi

mất nó quá lâu rồi” [53, tr.485]. Tình yêu trong con mắt của cô gái si tình “trở thành

một thứ tôn giáo” [173, tr.313] mà họ tôn thờ: “Còn tôi. Chợt nhận ra anh lả tất cả

những gì lâu nay tôi thờ cúng, khấn vái. Tôi tự động nằm xuống cát. Tôi cần anh, đã

tìm thấy anh và cần dâng hiến cho anh.” [53, tr.487]. Con đường tình yêu luôn là

25

con đường hấp dẫn với mọi phụ nữ. Cô gái đi trên con đường ấy để mong tìm được

một tình yêu trọn vẹn: “Nàng lại sống cô độc với một khối tâm tư của cô gái đang

tuổi yêu đương mà không kẻ giãi bày. Nàng là người thơ mộng, hay hoài niệm và

suy tưởng. Nàng muốn cuộc sống của mình phải như nàng nghĩ. Sẽ lấy một người

chồng lý tưởng, biết yêu và chiều nàng. Một cuộc sống đầy đủ. Nàng như một tiểu

thư khuê các, biết ngâm thơ và thưởng trăng.” [49, tr.145]. Cô thần tượng và si mê

người đàn ông của mình, chàng thi sĩ nghèo với những vần thơ ngọt ngào nhưng

bước ra khỏi thế giới nghệ thuật ấy, người yêu cô là một tay nghiện rượu và hay hút

thuốc lào, anh gặp cô vì ngưỡng mộ, vì tìm cảm hứng cho thi ca chứ không phải vì

tình yêu. Cuộc tình tan vỡ, cô “đành xếp vào góc cuộc đời một cuộc tình và chỉ nên

đọc những bài thơ chàng in trên báo” [49, tr.145]. Cô gái đến với người đàn ông thứ

hai, rồi thứ ba nhưng không cuộc tình nào trọn vẹn. Chuyện tình của cô gái trong

“Bảy ngày mong đợi” lại là câu chuyện tình yêu “sét đánh”, Lụa yêu đến si mê, tin

tưởng một người lính mà cô không biết gì ngoài cái tên: “Anh ấy tốt lắm. Bố đã

từng là người lính. Bố đừng nói xấu về họ như thế. Con và anh ấy yêu nhau. Anh ấy

bảo anh ấy gửi gắm tình yêu nơi con. Và con là người giữ tình yêu ấy trong lòng. ”

[49, tr.175]. Trong thiên đường của tình yêu, không chỉ những cô gái mới lớn si tình

đắm đuối vì yêu mà ngay cả những người phụ nữ đã đi qua nửa cuộc đời mình, luôn

coi mình là tỉnh táo cũng lạc lối, “luôn luôn ở ngoan ngoãn trong tay hết những

người đàn ông này đến những người đàn ông khác, nhưng của ai cụ thể thì không.”

[39, tr.29], để khi tới “hậu thiên đường” nhìn lại không cuộc tình nào đơm hoa kết

trái: “Bốn mươi tuổi tôi đã có cái gì cho mình. Tiền tài thì vớ vẩn chỉ đủ ăn và sống

một cuộc sống đạm bạc. Một vài cái váy, áo để đi dạ hội và nhảy đầm. Công việc

diễn ra đều đều và nỗi nghi ngờ đàn ông. Dù thiếu họ nhiều khi cuộc sống của tôi

lắm lúc gay gay. Có những kẻ yêu tôi thật, thì tôi không ngửi được họ. Còn một vài

người tôi yêu họ thì họ chỉ xuê xoa "chơi" với tôi. Biết làm sao được. Con cá trượt

thường là con cá to. Không có cái gì trong tay mình là nhất cả. Bỗng dưng, tôi thấy

sập xuống người mình, một nỗi trống trải hoang vắng khủng khiếp. ” [39, tr.292].

26

“Yêu một người nào đó không phải chính là một cảm giác mãnh liệt - nó là

một quyết định, một phán đoán, một ước định. Nếu tình yêu chỉ là một cảm giác thì

sẽ không có cơ bản cho ước định để mà yêu nhau mãi mãi” [176, tr.215]. Sau cuộc

hôn nhân đổ vỡ với người chồng bị mắc chứng bệnh liệt dương, Tự tiếp tục mơ

mộng với “người số hai”- một quan chức lớn nhưng lại vô cùng thực tế đến keo

kiệt. Tự mơ mộng một cuộc tình lãng mạn: một chiếc nhẫn kim cương hay bằng cỏ,

một bó hồng trắng, một căn phòng sang trọng trọng khách sạn, rượu vang đỏ và nụ

hôn: “Tôi đã tha hồ mơ mộng suốt cả buổi tối sau khi nhận được cú điện thoại của

người số hai: Ngày mai làm ngày trai gái vu quy. Sẽ có một chiếc nhẫn cưới kim

cương, hoặc một chiếc nhẫn bằng cỏ. Một bó hoa hồng trắng. Một phòng trong một

khách sạn. Có rượu vang đỏ. Nhẫn sẽ được trao cùng với một nụ hôn nông nàn. Tôi

mê đắm trong sự tưởng tượng của chính mình.” [18,tr.130]. Nhưng rồi lại xấu hổ,

thất vọng đến “tê bì”, “muốn độn thổ” và bị ám ảnh bời cuộc tình “hai bịch sữa”.

Không có căn phòng sang trọng, không có hoa hồng, cũng không có nhẫn dù là

nhẫn cỏ… chỉ người đàn ông thực dụng đến keo kiệt với hai bịch sữa thừa từ bữa ăn

người đàn ông được chiêu đãi:“Hai bịch sữa đã ám ảnh tôi khủng khiếp. Mỗi lần

nhìn thấy ai cầm trên tay hai bịch sữa là người tôi run lên và thân thể tôi như đang

bị phơi trần như nhộng trước thiên hạ. Sau cảm giác ê chề đó tôi luôn tự nhủ rằng

tôi sẽ ngẩng cao đầu để từ chối lời đề nghị. Tôi sẽ nói thẳng cảm giác của tôi về hai

bịch sữa. Nhưng tôi vốn là kẻ mơ mộng, tôi luôn tin rằng ngày mai sẽ là ngày tốt

đẹp. Con người cũng đầy tốt đẹp. Tôi cũng là một con người tốt đẹp. Tôi cũng đáng

được hưởng những điều tốt đẹp chứ. Lần sau người số 2 sẽ mang đến cho tôi một sự

lãng mạn. Hoa. nhẫn cỏ. nhẫn kim cương. Lần sau tôi sẽ nhận được những điều tốt

đẹp ấy” [18, tr.133-134].

Người phụ nữ si tình dâng hiến mình cho tình yêu, hi sinh bản thân mình cho

tình yêu nhưng lại bị người đàn ông mình yêu phủ nhận: “- Cô lừa dối tôi cũng giỏi

nhỉ? - Làm thế nào được. Lúc ấy. Em yêu anh và cần hắn. Để đỡ đần và không

muốn mất anh. - Cô lấy tiền của thằng già nuôi thằng trẻ. Hai thằng đều thiệt còn cô

thì lời. Có phải không?- Em là người chẳng được gì.” [49, tr.86].

27

2.1.3. Sự sùng bái người đàn ông mình yêu của người nữ

Người phụ nữ si mê dâng hiến mình cho tình yêu để tự cứu thoát mình, nhưng

cái nghịch lý của tình yêu si mê là để tự cứu mình, họ tự phủ định mình hoàn toàn

“Người phụ nữ si mê có thể mở to đôi mắt nhìn người đàn ông yêu mình và ánh mắt

tôn vinh mình. Qua chàng, cõi hư vô trở thành cuộc sống dồi dào và con người biến

thành giá trị. Người phụ nữ không còn bị đắm chìm trong đêm tối mịt mù mà được

nâng lên trên đôi cánh, được khích lệ tới tận trời xanh” [173, tr.325]. Sự sùng bái

người đàn ông mình yêu khiến nữ giới bị đặt vào trạng thái “giới thứ hai”. Xét từ

phương diện chủ thể sáng tác, các nhà văn nữ cũng là những người đồng giới với

nhân vật của mình, cất lên tiếng nói về giới mình. Cảm hứng sáng tác hướng về đề

tài tình yêu, các cây bút nữ thường đặt nhân vật người nữ trong thế đối sánh với thế

giới người nam. Đàn ông coi trọng chữ “danh”, coi trọng sự nghiệp, coi trọng việc

“làm ăn kiếm sống”, tình yêu chỉ là thứ yếu: “Yêu mà bây giờ lúc nào cũng gặp

nhau rồi ra bờ hồ ngồi tìm gốc cây tâm sự thì một là chết đói, hai là ễnh bụng ra.

Nếu không làm ăn kiếm sống thì lấy gì tiêu, chẳng nhẽ cứ bòn tiền của các cụ để đi

bao gái à? Thằng này nó đứng đắn, chí thú làm ăn và sòng phẳng. Nó là mẫu thanh

niên hiện đại lý tưởng bấy giờ. Mà cứ gì yêu nhau phải nói nhiều, mai kia lấy nhau

rồi chẳng còn chuyện gì mà nói” [49, tr.147]. Còn “đàn bà, ai cũng có những khả

năng giống nhau: yêu đương, ghen tuông và cuồng si. ” [49, tr.306]. Bản tính nữ

trong tình yêu luôn thể hiện ở sự quan tâm, chăm sóc, hướng về người mình yêu.

Phụ nữ mong ước được phục vụ cho người mình yêu. Họ sẽ cảm thấy mình là cần

thiết trong lúc đáp ứng yêu cầu của người yêu, hòa nhâp vào cuộc sống của người

yêu. Họ tự hào vì điều đó. Họ nhìn người đàn ông mình yêu bằng ánh mắt đam mê

và ngưỡng mộ: “Em nghĩ về anh. Anh là người đàn ông đang trên bệ phóng của

danh vọng. Hằng đêm trong chương trình thời sự luôn thấy hình ảnh của anh.

Nhưng tất cả những thứ đó không quan trọng với em. Cái dẫn đến giây phút em

đang tận hưởng là vì em yêu và ngưỡng mộ anh. Em đã rất ngưỡng mộ anh và khao

khát một tình yêu.… Em biết trong một người đàn ông dẫu có quyền lực và địa vị

thế nào thì vẫn có một phần của con người bình thường. Em đã yêu cái phần người

28

bình thường đó trong anh. Em đã không nhầm. Cái giây phút như tan biến trong

nhau ấy. Em đã bừng tỉnh để nhận ra sự nức nở của anh trên ngực em. Trong cơn

vọt trào của cảm xúc anh đã rên rỉ bằng tiếng của chú mèo chứ không phải tiếng

gầm của sư tử. Em tự hào vì đã làm cho anh sung sướng.” [18, tr.227]. Người phụ

nữ nói về người đàn ông bằng giọng điệu say mê, sùng bái, ngợi khen, trong lăng

kính của tình yêu, người yêu là người đàn ông đẹp nhất, vĩ đại nhất: “Tôi yêu anh.

Một tình yêu đầu tiên, thánh thiện và trong sáng vô cùng. Tôi yêu tất cả những gì có

ở nơi anh. Và anh là người đẹp nhất trong tất cả những chàng trai xung quanh tôị. ”

[49, tr.70]. Sùng bái người yêu, người phụ nữ nguyện tôn thờ, xả thân để công việc

của người đàn ông được thuận buồm xuôi gió, tự nguyện thực hiện chức năng duy

trì giống nòi, khao khát xây dựng gia đình hạnh phúc. Từ khi trúng tiếng sét của chú

công, Tiệp si mê đến mức tưởng tượng cả cái dáng đi nghiêng nghiêng, tình từ đến

mức “tự tin vào sự trinh nguyên và vô điều kiện của trái tim mình”. Tiệp đã viết

một lá thư tình say mê ngay trong đêm ấy: “Ngay đêm đó nàng về nhà viết cho anh

một lá thư dày như một truyện vừa lời lẽ bồng bột và tự nguyện, tưởng rằng người

ấy đang có hạnh phúc thì nàng yên phận nhưng một khi biết anh trục trặc cũng chán

ngán gia đình thì nàng không sợ gì mà không lao tới. Trong thư nàng cam đoàn rằng

nàng sẽ tôn thờ, sẽ xả thân để công việc của người ấy được hanh thông, sẽ sinh cho

người ấy những đứa con trai, sẽ phụng sự cái hạnh phúc mà mình mơ ước,… ” [90,

tr.79], “Từ buổi tối lập cập trong căn phòng nguy hiểm ấy, nàng thấy mình bồng

bềnh như thiếu nữ, ngày như đêm, khi ở nhà cũng như khi ra đường, khi thao thức

cũng như khi trôi vào giấc ngủ” [90, tr.80]. Sự hi sinh trở thành một trạng thái

thiêng liêng. Người phụ nữ si mê không phải chỉ là một người tự yêu mình bị tha

hóa trong cái tôi, họ còn mong muốn vượt qua giới hạn của bản thân mình và trở

nên vô tận qua vai trò trung gian của một người khác. Lúc đầu họ hiến dâng mình

cho tình yêu để cứu thoát mình, nhưng cái nghịch lý của tình yêu si mê là để tự cứu

mình, rốt cuộc họ phủ định mình hoàn toàn”.

29

2.1.4. Khao khát sex và mái ấm gia đình của người nữ

Hoạt động tính giao là thuộc tính của mọi sinh thể sống. Nằm trong tứ khoái

của con người, hoạt động tính giao được mặc nhận như một nhu cầu phổ biến, thiết

yếu của một con người bất kể sang - hèn, quý - tiện. Nhu cầu sex là một trong

những biểu hiện rõ rệt nhất về ý thức cá nhân của mỗi con người. Sex là khát vọng

con người được là chính mình. “Tình yêu không phải là kết quả của của thỏa mãn

tình dục thích đáng nhưng hạnh phúc của tình dục là kết quả của tình yêu” [176,

tr.244]. S.Freud cho rằng, tình yêu tự căn bản là một hiện trượng tính dục. “Con

người nhờ kinh nghiệm mà thấy rằng tình yêu tính dục (sinh dục) đã cung cấp cho

mình sự thỏa mãn lớn nhất, đến nỗi nó trở thành một kiểu mẫu của tất cả hạnh phúc

của mình thực sự” [176, tr.245]. Đòi hỏi tình yêu, tình dục là bản năng mạnh mẽ

của con người. Văn hóa Nho giáo, đại biểu cho lợi ích của kẻ thống trị phong kiến,

nó là một nghệ thuật thống trị khôn khéo, tinh tế với mục đích trấn áp lòng người,

làm cho dân vô tri, vô dục (không hiểu biết, không ham muốn). Khẩu hiệu của nó là

“khắc kỉ phục lễ”, nó yêu cầu cá nhân phải tự kìm chế, kìm nén cảm xúc, kìm nén

dục vọng cá nhân. Từ vai trò chi phối của Nho giáo, việc công khai đề cập tới sex

trong sinh hoạt chính thống của xã hội thường bị coi là “tà dâm”, là đáng xấu hổ,

đáng bị lên án. Sex gắn liền với nhu cầu duy trì và bảo toàn nòi giống.

Xã hội phát triển, khả năng nhận thức tự nhiên, xã hội và chính bản thân con

người đã làm nảy sinh các nhu cầu mới, trong đó nổi lên là nhu cầu tinh thần, giải

phóng tinh thần khỏi sự kìm nén cảm xúc, dục vọng. Sex được coi như một sự thăng

hoa của cảm xúc thẩm mĩ trong đời sống tinh thần được con người nâng niu, trân

trọng. Nên ở các giai đoạn lịch sử trước, dẫu bị phê phán (thậm chí bị kết tội), nhu

cầu hướng về tính yêu lứa đôi và những khoái cảm mà tình yêu lứa đôi đưa lại vẫn

được bày tỏ bằng những cách thức khác nhau. Văn chương là sản phẩm của đời

sống tinh thần, tác phẩm văn chương ra đời trước hết là nhằm đáp ứng nhu cầu tinh

thần. Vì thế, sex là một đề tài muôn thủa của văn học, bởi lẽ nó vốn là phần cực kỳ

quan trọng trong đời sống con người, không có sex thì nhân loại không thể sinh tồn,

phát triển. Khi sex có mặt trong tác phẩm văn chương, nó không đơn nghĩa chỉ là

30

hành vi tình dục thuần túy, nó là vấn đề văn hoá - xã hội, là triết lý sống, là hệ giá trị

hoặc chuẩn mực. Nhu cầu tình dục là một trong những biểu hiện rõ nhất về ý thức

cá nhân của mỗi con người. Nhưng dưới áp lực của các thiết chế kiến tạo diễn ngôn

thì nhu cầu đặc biệt này của con người nói chung và giới nữ nói riêng ở mỗi thời kỳ

lịch sử, mỗi chặng đường văn hóa và văn học được kiến giải khác nhau.

Trong văn học Việt Nam thời trung đại, yếu tố sex hầu như vắng bóng trong

các tác phẩm văn chương được coi là chính thống. Khi các quan niệm khắc kỷ về

đạo đức đang thịnh hành trong xã hội thì dù có muốn, từ “Truyền kỳ mạn lục”,

“Thánh Tông di cảo”… đến “Truyện Kiều”, tiền nhân cũng chỉ đề cập tới sex một

cách bóng bẩy, mơ hồ. Là nạn nhân của chế độ đa thê và tập tục hôn nhân sắp đặt,

người phụ nữ trong xã hội phong kiến không được thỏa mãn mọi nhu cầu cá nhân

của mình, trong đó có nhu cầu tình dục. Những chuẩn mực đạo đức khắt khe về

phẩm hạnh nữ giới rất kiêng tránh việc lấy chuyện tình dục ra bàn luận, đặc biệt lại

là đàn bà, con gái. Phụ nữ phát ngôn về tình dục được cho là thiếu đoan trang, dâm

tà. Giới nữ rơi vào tình trạng “mất tiếng nói” trong diễn ngôn tình dục. Họ xuất hiện

trong văn chương không có tiếng nói riêng, không bộc lộ bản năng, là khách thể

được miêu tả như một đối tượng.

Trong văn học thời kỳ kháng chiến chống Mĩ, khi người đàn ông ra trận,

người phụ nữ ở lại hậu phương đảm đang việc nhà, hăng hái tham gia việc nước, họ

được miêu tả bằng ngôn ngữ sử thi, các nhà văn không khai thác họ ở phương diện

tâm lý gắn với hành vi tình dục. Các nhân vật nữ cũng thường có xu hướng né

tránh, kìm nén hoặc chạy trốn nhu cầu tình dục. Giới nữ là đối tượng miêu tả trong

những sáng tác của nam giới, nam giới tạo ra hình ảnh nữ giới theo ý muốn của đàn

ông. Đặc điểm này mang tính phổ biến bao trùm sáng tác của một thời kỳ văn học

làm nên đặc thù diễn ngôn của văn học thời kỳ này so với các thời kỳ trước và sau

đó. Một số tác phẩm của văn học Việt Nam giai đoạn 1945 - 1975 khai thác nhu cầu

tình dục của phụ nữ nhưng chỉ dừng lại ở những lời nói mạnh bạo thổ lộ tình cảm,

những hành vi đụng chạm thân thể, những cái nắm tay, cũng có những cảm xúc rạo

rực, đê mê: “Bỗng Nhân rùng mình - một cảm giác đê mê rộn trong mạch máu, tràn

31

ra tất cả mình mẩy, tay chân, dựng đứng tóc trên đầu. Nóng ngùn ngụt, nóng đến tắc

thở.” [151,tr. 281],…nhưng cuối cùng những khát khao, cảm xúc, ham muốn bị dồn

nén để nhường chỗ cho sự nghiệp chung của dân tộc và đất nước. Đây là nguyên

nhân chủ yếu lý giải vì sao văn học cách mạng Việt Nam lại nói “không” với sex.

Từ sau năm 1975, và đặc biệt là từ những năm 80 của thế kỷ XX trở lại đây,

văn học Việt Nam có những biến chuyển và thay đổi lớn trên nhiều bình diện. Sự

đổi mới toàn diện mọi mặt từ chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội,… đã tác động lớn

đến đời sống văn học đương thời. Trong điều kiện như thế, diễn ngôn về tình dục

của nữ giới được tạo ra mang một bản sắc riêng khác với các giai đoạn văn học

trước và sau đó. Nền văn học có sự tham gia đông đảo của các cây bút nữ. Nữ giới

không chỉ là khách thể của sự miêu tả mà trở thành chủ thể tự biểu hiện những suy

nghĩ, những khát vọng của giới mình về mọi mặt, trong đó có khát vọng và nhu cầu

về tình dục. Các nhà nhà văn nữ đương đại như Y Ban (I am đàn bà, Xuân Từ

Chiều, Tự, Nhân tình, Hai mươi bảy bước chân là thiên đường,..), Thuận (Vân Vy),

Đỗ Hoàng Diệu (Bóng đè, Vu quy), Nguyễn Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Võ Thị

Xuân Hà (Đàn sẻ ri bay ngang rừng), Võ Thị Hảo (Giàn thiêu, Biển cứu rỗi, Vờn

yêu, Con dại của đá),… tỏ ra mạnh bạo và công khai, trực diện trong diễn ngôn về

tình dục, đặc biệt là đời sống tình dục của giới nữ. Chỉ dưới ngòi bút của nữ giới,

tâm lý và nhục cảm của giới nữ mới được miêu tả một cách cụ thể, rõ rệt bằng chính

nội tại tự thân nó với những cảm xúc thật nhất.

Khảo sát sáng tác của Dạ Ngân, Lý Lan, Y Ban, Nguyễn Thu Huệ, chúng tôi

nhận thấy các nhà văn đã tự cởi trói về tình dục, họ sẵn sàng chủ động bày tỏ sự

ham thích, chủ động tìm kiếm tình dục, tìm cách tự thỏa mãn ham muốn tình dục.

Nhân vật My trong “Thiếu phụ chưa chồng” (Nguyễn Thị Thu Huệ) mạnh dạn bày

tỏ quan niệm khi ngang nhiên chiếm chồng của chị gái để thỏa mãn cảm xúc: “Thời

của tôi khác thời của chị rồi… Tôi muốn tự do và sung sướng” [49, tr.254]. Thế giới

nhân vật nữ trong sáng tác của họ luôn luôn khát khao và đam mê nụ hôn và sex. Đề

cập đến những khát khao và đam mê ấy, họ xây dựng hình tượng những phụ nữ gợi

tình và khát tình. Các nhà văn thường chú ý khắc họa vẻ đẹp của nữ giới ở những

32

phần thân thể mà tạo hóa đã ban tặng cho họ. Gợi tình vốn là vẻ đẹp thiên bẩm của

giới nữ. Là phụ nữ các cây bút nữ hiểu hơn ai hết sức mạnh đặc biệt của những

phần thân thể (làn da, bầu vú, cặp mông, đôi chân và cả những phần kín nhạy cảm

khác) trong yêu, trong khoái cảm và thăng hoa tình dục. Điểm nhấn trong vẻ đẹp tự

nhiên gợi tình của người phụ nữ là đầu vú: “Thừa hưởng cái gien của mẹ nên mấy

chị em My đều có bộ ngực nở. Ai cứ bảo đầu vú con gái phải hồng, My thì không,

nó nhỏ và nâu sẫm. My thường nhìn xuống bụng và đùi, rồi hai bàn chân. Tất cả

tạm ổn: khuôn mặt tròn. Hai mắt to, môi dày và đỏ. Ngực to hông nở…” [49, tr.235

-236]. Và khi trong giấc mơ với những khao khát tình dục của cô gái dậy thì: “Hai

bên vú cương lên và nhức nhối. Tôi vật vã suốt đêm và không thể ngủ lại được nữa.

Những người hàng xóm bảo bà tôi. Dạo này con Thảo nhà cụ dậy thì, đẹp ra đáo để.

Trông nó như cái nụ hoa ấy, xem có đám nào gả nó đi cụ ạ, để yên tâm cái tuổi già.

Tôi soi gướng. Khuôn mặt bầu bĩnh ra hơn. Hai má ửng hồng. Hai bầu vú thây lẩy,

núm vú hồng sưng cứng lên.” [53, tr.271-272]. Bằng ngôn từ giản dị, Y Ban rất tự

hào về vẻ đẹp thôn quê gợi tình của cặp vú: “Vạt áo được kéo lên cao để hở một

bên vú bà Hàn ra ngoài. Một bên vú bánh dày trắng mịn. Cái đầu vú nhỏ, quầng vú

nhỏ nâu sậm chứ không thâm.” [18, tr.30]. Những khao khát tình dục cuồng nhiệt ở

người đàn bà chân ngắn đã 28 tuổi làm cho cơ thể chuyển động, hai má nóng bừng,

ngực co tròn trong tấm áo lót, vú săn lại: “Và hai đầu vú Nấm săn lại, chọc thẳng

vào lớp vải… Hai núm vú săn cứng màu hồng nhô ra. Nấm lấy hai lòng bàn tay xoa

nhè nhẹ. Một cảm giác đê mê lan khắp cơ thể Nấm. Một cảm giác thật dễ chịu” [20,

tr.56]. Với quan niệm và ý thức rõ ràng về những điều mình viết, các cây bút nữ

không hề mặc cảm, dè dặt khi đưa tình dục vào trong tác phẩm. Những người phụ

nữ khát tình luôn khao khát nụ hôn và đạt được những khoái cảm tình dục bằng tất

cả bức xúc lan tỏa: “Em nằm duỗi người, hai tay để lên đầu. Em thả lỏng người

thoải mái. Anh lại hôn em. Môi anh vẫn nồng ấm. Anh đã kết thúc và rất thoả mãn.

Một tay anh để lên ngực em xoa nhẹ. Em muốn khóc nức nở. Em đã cố gắng để

không khóc. Em bắt ý nghĩ quay về một điều gì đó.” [18, tr.226]. “Trong sa mạc vô

tận của tình yêu, khoái lạc giữ một vị trí rất nhỏ nhưng cháy bỏng, sáng rực” [173,

33

tr.48]. Khoái lạc trong tình dục là một trong những yếu tố được đề cao, khoái lạc

làm cho giới nữ không thoát khỏi cám dỗ của xác thịt. “Người phụ nữ có thể đảm

nhận giới tính của mình một cách vẻ vang: sự xúc động, khoái cảm, ham muốn

không còn là một trạng thái mà là một sự dâng hiến, thân thể của họ không còn là

một vật thể, mà là một bài ca, một ngọn lửa. Lúc đó họ có thể phó thác mình một

cách say đắm cho sự cám dỗ của tình dục.” [173, tr.324]. Cám dỗ của xác thịt thúc

bách y như đói ăn và khát uống được ghi lại một cách thẳng thắn, chân thực không

dấu diếm: “Nàng nhớ những cơn thèm sau khi rời Đính ra, cơ thể lúc đó như người

đang ăn thịt mà phải chuyển sang chay tịnh, những cơn đói thực sự trên người, ở

những vùng nhạy cảm nhất trên người là một thứ đói trơ trẽn, thúc bách, thường

trực y như đói ăn và khát uống vậy. Ban ngày thì không nói làm chi, ban ngày làm

cho sự đói ấy như một cái lá xấu hổ bị ánh sáng chạm vào nhưng ban đêm thì nó sổ

lồng một cách cũng rất là đáng xấu hổ… Nhiều lúc thử dùng tay để tưởng tượng nó

là Đính nhưng sau đó thì rã rời, chán ngán và đầu óc u u minh minh chứ không phải

là sự đánh thức tươi tỉnh và bùng nổ như với Đính, như trai trên và gái dưới được.”

[90, tr.256]. Vượt qua những định kiến, dám đối mặt trực diện với dư luận, các nhà

văn nữ đương đại đã đưa tất cả “những bí mật phòng the” vào tác phẩm. Nhân vật

nữ trong sáng tác của họ không ngần ngại trò chuyện một cách tự nhiên với nhau về

những chuyện “ thầm kín” trong cuộc “yêu”: “- Em nói chị không được cười đâu

đấy. Hồi mới yêu nhau em ngủ với anh ấy. Lúc anh ấy xuất ra tinh trùng bắn vọt lên

mặt em. Bây giờ nó chỉ rim rỉm ra ngay chỗ rốn thôi chị a. - Trời ơi mày làm chị

mày cười chết mất. Mới quan hệ với nhau thì nòng súng còn nhỏ,lực bắn mạnh thì

tất yếu đạn phải bay xa. Dùng lâu nòng giãn ra rồi thì bắn xa sao được.” [17, tr.84].

Người phụ nữ khát tình đòi hỏi được thỏa mãn những khát khao tình dục một cách

mạnh mẽ, chủ động làm tình trong những cuộc làm tình: “Nàng ngồi trên người

Đính, như ban nãy Đính đã cẩn trọng với từng xăng-ti-met thịt da nàng. Tiệp thấy

mình bạo dạn và lão luyện, sự nhịp nhàng của thịt da đằm thắm, ngọt ngào. Từ thế

thủ nàng ào sang thế chủ, một cực khác với lần đầu, nàng bốc cháy từ gót chân đến

đỉnh đầu và thật sự không biết mình đang bồng bềnh ở đâu, chính danh hay không

34

chính danh, tà dâm hay không tà dâm, chỉ thấy mình đúng là mình trong tưởng

tượng, thỏa mãn một cách hài hòa, sâu sắc”. Không ít lần nhà văn Y Ban thể hiện

trạng thái khát tình của người phụ nữ khi người đàn ông mà cô hết mực yêu thương

bỗng nhiên mắc phải chứng liệt dương do một sang chấn về tâm lý. Những khao

khát ấy khiến cô không thể thụ động chờ đợi mà chủ động làm tình. Y Ban với “I

am đàn bà” môt thời đã tạo nên cơn “sốt” khi chị là người đầu tiên miêu tả thế chủ

động của nhân vật người phụ nữ giúp việc trong tình dục với ông chủ của mình. Sự

cám dỗ xác thịt, những khát khao, thèm muốn đã khiến cho Thị (I am đàn bà) -

người đàn bà xa chồng đã 2 năm tự động (chủ động) cởi quần áo làm tình với người

đàn ông bị liệt mà hằng ngày mình chăm sóc: “Thị thèm khát. Thị mộng mị đi vào

phòng ông chủ. Cái ánh mắt của ông chủ như thúc vào tim thị. Cái ánh mắt mừng

rỡ. Thị nhìn sâu vào cái ánh mắt mừng rỡ đấy rồi thị trút bỏ quần áo của thị. Thị lấy

chiếc khăn mỏng đắp trên người ông chủ. Con giống con má đang cất cao đầu chờ

thị. Như giấc mơ đêm hôm nào thị cầm lấy nó đưa vào cơ thể thị. Thị đã không phải

thức giấc trong sự thèm khát cháy bỏng nữa. Thị đã thỏa mãn.” [18, tr.30]. Khi

những khát khao của họ không được đàn ông đáp ứng, hoặc đàn ông không đáp ứng

được, họ tự tìm cách thỏa mãn cơn khát tình của mình. Chồng Tự vì bị bất lực

không đáp ứng được đòi hỏi của vợ nên đã bỏ đi, rồi Tự qua tay người đàn ông thứ

hai, thứ ba, thứ tư,… Ai cũng làm nàng không thỏa mản, hay chỉ thoả mản nửa vời.

Nên cách tốt nhất, Tự nghĩ, là nên dùng “chim giả”, loại có điện chạy bằng pin để

kích thích. Trong lúc cùng với các nhân viên trong cơ quan tổ chức đi Lạng Sơn để

“tham quan và mua sắm”, Tự đã tách phái đoàn đi đến đến cửa hàng của người Tàu

mua một con “chim giả”, đó là dụng cụ để đàn bà thủ dâm.“Nó bằng plastic màu đỏ,

trông như món đồ chơi của trẻ con. Dầu vậy tôi cũng bắt đầu nóng bừng. Nhưng cái

đầu tôi lại tỉnh táo đến kỳ lạ, tạnh không, có một sự liên hệ.…Một tấm thân tròn

mình cá trắm, với hai cái vú bánh dày, một đôi chân dài và cái bụng đã qua một lần

sinh nở mà vẫn thon, tịnh không có vết nứt. Cái tấm thân cha mẹ sinh ra thế là quý

lắm, khối người đã mất bao nhiêu tiền để thẩm mỹ mà có nổi tấm thân đó đâu…”.

“Bản năng tình dục của con người chỉ có thể dẫn dắt một cách hợp lý, chứ không

35

được dè nén quá mức nếu không sẽ làm tổn thương con người hoặc bị phản kháng”

[27, tr.73]. Nhưng nếu bản năng tình dục không xuất phát từ cơn khát tình mà bị

cưỡng đoạt, nó không mang lại một sự cực khoái mà là một nỗi đau đớn ê chề: “Có

đêm dậy sớm chui vào bếp nấu cám. Quơ tay vơ rạ, vơ cả vào cái của nợ, cứng

nhăng nhắc đang chổng ngược lên. Hóa ra nó đã mò sang sớm nằm phục kích mình

ở đó rồi. Ối gái góa là gái góa ơi. Cái quân nó đi ăn trộm, nó có biết thương hoa tiếc

ngọc đâu. Nó chơi hùng hục. Nó véo cho thâm tím. Nó cắn cho đứt cả đầu vú. Gái

góa là gái góa ơi, đau đớn ê chề, sáng ra vẫn lê ra đồng.” [18, tr.31]. Tình dục dưới

cái nhìn của những cây bút nữ được thể hiện ở nhiều trạng thái, được thể hiện bằng

lối viết thẳng thắn. Đây cũng là cách để các nhà văn nữ tự giải tỏa mình, khẳng định

quyền lực của giới nữ: quyền được yêu và được hưởng thụ tình yêu.

Con đường đi tìm “người yêu”cũng là con đường lữ thứ mà người phụ nữ đi

tìm hạnh phúc mái ấm gia đình. Đích đến cuối cùng của mọi cảm xúc trong tình yêu

là mái ấm gia đình. Mọi người phụ nữ đều khao khát mái ấm gia đình để được thực

hiện vai trò làm vợ, làm mẹ. Trong “Đàn bà xấu thì không có quà”, người đàn bà

chân ngắn khát khao tình yêu, tình dục, mái ấm gia đình - khao khát những điều mà

một người đàn bà bình thường khao khát nhưng người đàn bà ấy cũng ý thức được

rằng đó là điều xa xỉ: “Nấm cũng khao khát những điều mà một người đàn bà bình

thường khao khát Một tình yêu. Một tình dục. Một chồng - vợ. Một mái ấm gia đình

và những đứa con. Nhưng Nấm đã nhận ra chân dung đích thực của mình. Vì thế

Năm biết khát khao kia là những điều xa xỉ. Vậy chẳng nhẽ Nấm sống một cuộc đời

đồng trinh cho đến chết ư?… Nấm không bao giờ là một cô gái trinh trắng. Nấm

thích một tình yêu mạnh mẽ…” [20, tr.55].

Người đàn bà chân ngắn đã 28 tuổi khao khát một gia đình bình dị để được

thực hiện vai trò của người phụ nữ trong gia đình: làm vợ, làm mẹ “Nấm muốn có

một gia đình bình thường. Một người đàn ông có đôi chân ngắn như Nấm cũng

được và một đứa con. Nấm sẽ tất bật sớm tối để chăm lo cho cái gia đình đó. Mọi

người sẽ quây quần yêu thương nhau để Nấm không phải chịu cảnh cô đơn. Nếu

Nấm có một gia đình như thế thì tối đến Nấm sẽ chỉ đọc sách cho mọi người nghe.”

36

[20, tr.71-72]. Nấm thổ lộ “Em sẽ yêu anh hết mình. Em sẽ trao cho anh tất cả

những điều em đang gìn giữ…Em xứng đáng được nhận sự ngọt ngào và hạnh

phúc. Anh sẽ mang đến cho em sự lắng đọng dịu dàng. Và em sẽ sinh cho anh một

cô con gái. Không, một cậu con trai nữa cơ. Thê thì hai đứa vậy. Không bốn đứa

cơ.” [20, tr.96].

2.2. Sự kiến tạo hình ảnh người nữ trong hôn nhân

2.2.1. Hôn nhân như là thiết chế xã hội của người nữ

Hôn nhân là một sự kiện trọng đại trong đời người nữ. Beauvoir khẳng định:

“Số phận được xã hội dành cho phụ nữ theo truyền thống là hôn nhân. Cho đến cả

ngày nay nữa, phần lớn phụ nữ đều có chồng, đã từng có chồng, chuẩn bị lấy chồng

hay đau khổ vì không có chồng. Người ta xác định một cô gái là độc thân hay

không là sự so sánh với hôn nhân, dù nàng thất vọng, có thái độ phản đối hay thậm

chí thờ ơ với thể chế ấy” [173, tr.10].

Trong văn xuôi đương đại, hôn nhân cũng là một thiết chế đối với phụ nữ, đó

là một đảm bảo cho tương lai của họ, “là chốn nương thân, “phương tiện duy nhất

để hòa nhập vào cộng đồng” [173, tr.13], qua hôn nhân phụ nữ khẳng định được giá

trị cuộc sống của họ và trong hôn nhân vai trò sinh đẻ và nội trợ của người nữ bị

nhốt chặt trong đó. Lý Lan xây dựng hình ảnh một phụ nữ “buộc” phải lựa chọn hôn

nhân vì “tai nạn” đẫn đến có con như sau: “Cưới tôi, không cần lễ vật. Ðôi bông với

chiếc nhẫn là được. Cha mẹ tôi đã qua đời, không cần nghi lễ rườm rà. Bạn bè lối

xóm đồng sự gom lại chừng trăm người, tôi đãi được. Thanh về lo phần Thanh đi”

[64, tr.70]. Lấy chống thành phố, gặp được nhà chồng tốt là mơ ước bao cô gái cô

gái nông thôn những năm còn chiến tranh. Người con gái lấy chồng thành phố như

đúng như mơ ước, may mắn được nhà chồng tốt: Xuân quen Tuấn thật tình cờ, rồi

Tuấn tìm đến nhà Xuân. Ba tháng sau Tuấn xin cưới, Xuân đồng ý vì “nhà Tuấn ở

thành phố, Xuân muốn sống ở thành phố. Thật may phúc cho Xuân được một nhà

chồng tốt.” [19, tr.28]. Hoài, một cô gái mới lớn trong “Xin hãy tin em” (Nguyễn

Thị Thu Huệ) mơ làm cô dâu “Hoài sung sướng mê đi trong vòng tay Thắng. Cô

nghĩ tới lúc được mặc váy trắng, ôm một bó hoa to bước lên xe hoa trong tiếng

37

pháo,tiếng nhạc dìu dặt. Cô sẽ làm vợ và luôn được sống bên anh, người mà cô tin,

yêu và nghe lời hơn cả bố mẹ.” Gắn liền với hôn nhân là bổn phận, là thiên chức

của người nữ: “Trước đó, hồi mới cưới nhau, chị đã yêu anh, tình yêu rạo rực của

lứa tuổi thấy cái gì cũng đẹp, lứa tuổi dễ vừa ý với mình và với chung quanh. Anh

và chị đều mê mẩn khám phá nhau. Vài năm sau, chị có thất vọng đôi chút nhưng

vẫn yêu anh, tình yêu tự nhiên của người phụ nữ đối với người đàn ông làm chủ

thân thể mình, tình yêu bổn phận đối với người tạo ra đứa con mình, tình yêu ấm áp

và bao dung đối với những cái tốt và cái xấu mơ hồ trong anh. Và yêu những kỷ

niệm.” [85, tr.33]

2.2.1. Vị thế thụ động của người nữ trong hôn nhân

Hôn nhân là số phận chung của người phụ nữ. Trong thiết chế hôn nhân truyền

thống, người phụ nữ thường đóng vai trò thụ động, họ không được chọn hay không

có nhiều lựa chọn trong tình yêu, hôn nhân. Diễn ngôn phổ biến mà người phụ nữ

thực hành là: “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy”. Tức là hôn nhân không phải lĩnh vực

tự do của người nữ, nói cho đúng thì quyền tự do của người nữ bao giờ cũng bị hạn

chế. S.de Beaivoir cho rằng, trong hôn nhân chưa bao giờ người nữ thiết lập nên

một đẳng cấp có trao đổi và hợp đồng với đẳng cấp nam giới một cách bình đẳng

[173, tr.10].

Trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại, vị thế thụ động, chờ đợi của người nữ

vẫn được các diễn ngôn duy trì, vai trò chủ động, quyết định vẫn được trao cho đàn

ông. Điều này không chỉ được thể hiện trong việc biểu lộ tình yêu và thể hiện lời

cầu hôn. Không phải ngẫu nhiên diễn ngôn về tình yêu trong văn xuôi nữ đương đại

thường dừng lại miêu tả cảm xúc của người nữ khi được cầu hôn. Nguyễn Thị Thu

Huệ miêu tả cảm xúc của cô gái khi được người mình thầm yêu cầu hôn như sau:

“Tôi run rẩy. Trái tim nhỏ bé và nghèo khổ của tôi đập loạn xạ trong lồng ngực.Tôi

muốn gào, muốn thét lên vì cuối cùng người ấy đã quay lại” [tr.274].

Không chỉ thụ động trong chờ đợi lời cầu hôn từ nam giới, người nữ còn thụ

động trong quan hệ với người chồng khi hôn nhân đã trở thành một cơ chế ràng

buộc họ với nhau và sự ràng buộc ấy được cộng đồng pháp luật bảo vệ. Trong

38

“Xuân Từ Chiều”, khi người chồng trở về nhà sau thời gian chờ tàu khoảng hai giờ

đồng hồ: “Xuân đi ra đi vào, mặt nóng bừng. Xuân cũng rất muốn như mẹ chồng,

ngồi vào một bên cạnh Tuấn, hai tay ôm lấy tay Tuấn nhưng Xuân không dám.”

[19, tr.27]. Y Ban khắc họa hình ảnh đàn bà khao khát nụ hôn của chồng nhưng

không dám thể hiện: “Xuân nhớ lại nụ hôn của chồng khi tiễn chồng ra ga, cô sán

đến chồng nhưng không dám đề nghị chồng hôn” [19, tr.33].

Tiểu kết chương

Sự kiến tạo bản sắc nữ tính trong tình yêu, hôn nhân của văn xuôi nữ Việt

Nam đương đại chịu sự quy định của các tri thức hệ đang vận hành trong đời sống.

Các “diễn ngôn truyền thống” với tính cách là một tri thức hệ, một quyền lực, niềm

tin vẫn còn ảnh hưởng sâu đậm đến cách nói, cách diễn giải, cách tư duy về giới nữ.

Trong tình yêu, giới nữ vẫn duy trì và thực hành theo rất nhiều huyền thoại về

nữ tính. Lịch sử có rất nhiều huyền thoại, trong đó huyền thoại về phụ nữ/ nữ tính là

huyền thoại tĩnh. Phụ nữ trong văn xuôi nữ đương đại vẫn rơi vào cạm bẫy của

huyền thoại: xem trinh tiết như là phẩm giá của mình, là bảo bối đảm bảo cuộc đời

của họ; nhìn nhận tình yêu như là cuộc sống, họ sùng bái người đàn ông mình

yêu… Trong hôn nhân cũng vậy, người nữ vẫn duy trì sự thống trị của đàn ông, họ

thường đặt mình ở vị trí thứ hai, vị thế thụ động, chờ đợi lời cầu hôn, chờ đợi người

đàn ông công nhận mình, che chở, bảo vệ cuộc đời mình…. Hôn nhân là một thiết

chế xã hội của người nữ, là số phận của người nữ.

39

Chương 3

SỰ KIẾN TẠO VỊ THẾ CỦA GIỚI NỮ

TRONG GIA ĐÌNH VÀ CÁC QUAN HỆ XÃ HỘI

3.1. Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong gia đình

Xã hội kiến tạo nên giới phận trong gia đình của người nam và người nữ khác

nhau. Người đàn ông coi trọng công danh sự nghiệp, ý nghĩa cuộc đời người đàn

ông là hướng về một sự nghiệp, “gia đình đối với người đàn ông là cần thiết, quan

hệ nhưng không phải là cứu cánh. Cuộc đời, vũ trụ của người đàn ông không thu

gọn trong giới hạn gia đình. Gia đình với người đàn ông đôi khi chỉ là chỗ dừng

chân bước đệm” [140, tr.36]. Trong khi đó, người đàn bà luôn khao khát mái ấm và

hạnh phúc gia đình. Đàn bà là người sống thiết yếu cho người khác. Người đàn bà

coi gia đình, chồng con là cả cuộc đời, là cả thế giới của mình. “Dự phóng căn bản

của người vợ, người mẹ là chăm nuôi con, chồng để cho họ thực hiện dự phóng của

họ. Cho nên từ sự làm việc cho đến đời sống tình cảm, người đàn bà chỉ có một đối

tương: chồng và con cái” [140, tr.38]. S.de Beaivoir rất tinh tế khi nhận xét: “Phụ

nữ là linh hồn của ngôi nhà, của gia đình, của bếp lửa” [172, tr.207]. Phụ nữ tự tạo

lập cho mình một tiểu vương quốc nhỏ: gia đình. Ở đó phụ nữ là Bà Chúa đảm nhận

nhiều chức năng: nuôi dưỡng cuộc sống, canh giữ và mang lại sinh khí cho ngôi nhà

- nơi lưu truyền quá khứ, và sắp đặt tương lai; sản sinh ra thế hệ mai sau, chăm sóc

chồng con, nấu nướng, giặt giũ,… Gia đình là nơi người nữ tự nguyện duy trì “bản

sắc của giới nữ”. Tính nữ gắn liền với giới phận của không gian gia đình. Trong văn

xuôi nữ đương đại, người nữ vừa chịu sự kiến tạo của xã hội và tư tưởng nam quyền

về vai trò/chức năng làm vợ, làm mẹ vừa có ngôn ngữ riêng tự kiến tạo nên vị thế

của giới mình trong gia đình. Dưới đây, chúng tôi sẽ tập trung mô tả người nữ ở

các vị thế: Nội trợ, làm vợ và làm mẹ.

3.1.1. Sự nhào nặn hình ảnh người nội trợ

Trong “Bí ẩn nữ tính”, Betty Friedan viết: “Những hình ảnh mới mẻ mà bí ẩn

nữ tính đem đến cho phụ nữ Mỹ lại là hình ảnh cũ kỹ: nghề nghiệp nội trợ. Bí ẩn

40

này biến bà mẹ -bà nội trợ, người không bao giờ có cơ hội trở thành thứ gì khác,

thành hình mẫu cho tất cả các phụ nữ”. “Bí ẩn nữ tính bảo rằng giá trị cao nhất và

cam kết duy nhất dành cho phụ nữ là đáp ứng chính nữ tình của mình”. Nữ tính của

người phụ nữ là dọn dẹp, nấu nướng, sinh đẻ con cái,... [173, tr.66-67]. Simone de

Beauvoir cũng nhận ra huyền thoại về nữ tính này, bà xác nhận: “Quả là công việc

nội trợ cho phép phụ nữ trốn thoát khỏi chính bản thân minh một cách vô tận” [173,

tr.64]. Người nội trợ là người chăm lo cho các thành viên trong gia đình, người lo

liệu mọi việc hàng ngày trong sinh hoạt của gia đình. Thực chất đây là công việc

của cả đàn ông và phụ nữ, tuy nhiên định kiến xã hội thường cho rằng công việc nội

trợ là của đàn bà. Khả năng nội trợ là tư chất, thiên hướng tự nhiên mà “trời” ban

cho tặng người phụ nữ. Định kiến xã hội này đã buộc người phụ nữ ngoài thời gian

làm các công việc xã hội, họ còn phải tranh thủ thời gian để làm nội trợ cho tốt.

Hơn nữa, với bản tính của một người phụ nữ Á Đông thương chồng, thương con,

luôn muốn mái ấm gia đình hòa thuận, phụ nữ luôn thu xếp ổn thỏa công việc gia

đình để chồng con được làm việc, học tập và nghỉ ngơi. Phần lớn các diễn ngôn

truyền thông hiện nay đều ghi nhận thực tiễn, đa số đàn ông vẫn quan niệm và tin

tưởng rằng nội trợ là “công việc của đàn bà”, công việc “mang tính đàn bà”, “nội

trợ là thiên chức của phụ nữ”, đàn ông không nên tham gia thì tốt hơn, mặt khác đàn

ông không khéo tay và không thích làm những công việc về ăn uống, họ có những

công việc khác phức tạp hơn. Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại cũng tham gia kiến

tạo các tri thức đó: “Bây giờ khi nàng đau đớn như bị xé nát thân mình thì My chỉ

có một mình. Dương thì đi xa, Hoàng biết nhưng anh luôn đặt việc làm ăn lên trên

hết, tiền là tất cả, tình cảm chỉ lúc nào rỗi thôi” [49, tr.232].

Trong cuộc sống ngày nay, mặc dù đời đống vật chất lẫn tinh thần ngày càng

cao đã tạo điều kiện giải phóng phụ nữ khỏi công việc nội trợ gia đình để tham gia

hoạt động ngoài xã hội, tuy nhiên vai trò nội trợ của người phụ nữ không vì thế mà

bị lãng quên, thậm chí còn được quan tâm nhiều hơn nữa, yêu cầu một chuẩn mực

cao hơn nữa.Đàn ông luôn sẵn có tư tưởng vai trò của phụ nữ là làm vợ, làm nội trợ,

bỏ hết sự nghiệp: “Lấy tôi. Cô sẽ không được đi làm. Lấy tôi xong cô sẽ ở nhà bán

41

hàng cùng bố mẹ và anh chị. Vứt mẹ nó bằng đại học của cô đi, sử với chả sách…

Nhà này không cần người đại học. Thực ra để cô đi làm cũng được nhưng tính cô dễ

dãi, cho cô đi làm rồi cô đẻ ra con cũng chẳng biết bố nó là thằng nào. Gia đình tôi

không bao giờ chấp nhận người như thế.” [49, tr.147]. Đàn ông luôn cho rằng phụ

nữ phải “an phận thủ thường”: “- Đàn bà con gái mà không chịu làm việc an nhàn.

Cứ thích nhảy thếch lên cơ, cho chết.” [18, tr.160].

Dưới ảnh hưởng của quan niệm: “Nghề nghiệp nội trợ được tôi luyện thành bí

ẩn nữ tính, không được thắc mắc và không được phép thắc mắc.” [155, tr.64], ngay

từ lúc nhỏ, đứa bé gái đã được giáo dục để lớn lên trở thành người nội trợ giỏi. Một

trong những thước đo sự thành công/ trưởng thành của người nữ là khả năng quán

xuyến việc nhà. Trong văn xuôi nữ Việt Nam đương đại, vấn đề này đã được miêu

tả đa dạng và cực kỳ sinh động. Một đứa trẻ sắp thành thiếu nữ cũng cho rằng quét

dọn nhà cửa, cuốc đất trồng hoa, rửa bát, lau dọn giá sách,…là “chuyện vặt của đàn

bà”, đàn ông không nên để ý làm gì: “Nó quét dọn nhà cửa, khua mạng nhện. Nó

phủi bụi trên giá sách. Nó cuốc đất vun cho mấy luống hoa. Nó rửa những cái bát

rếch. Người đàn ông ngăn lại, không muốn nó làm thế. Nhưng nó cười duyên tệ: -

Chuyện vặt của đàn bà, chú để ý làm gì. - Sao lại đàn bà? - Thì cháu đã chẳng phải

là một đứa con gái rồi sẽ thành đàn bà ư? ” [18, tr.65].

Người phụ nữ coi công việc dọn dẹp, nấu nướng, sinh đẻ con cái là thiên tính

nữ của mình. Thế giới bao la, rộng lớn, vô hạn của họ bị co lại trong bốn bức tường

gia đình ấm cúng. Họ chỉ quan tâm tới gia đình và tổ ấm. “Thế giới phụ nữ bị giới

hạn nơi cơ thể, sắc đẹp của chính họ, sự hấp dẫn đàn ông, việc sinh đẻ, chăm sóc và

phục vụ thể chất chồng con, tổ ấm” [155, tr.78]. “Phụ nữ thực hiện quyền chiếm

hữu ‘tổ ấm’ của mình bằng công việc nội trợ”, “người ta đề cao cái thi vị của công

việc nội trợ” [173, tr.56]. Công việc nội trợ, dọn dẹp nhà cửa, chuẩn bị bữa ăn, làm

cho người phụ nữ cảm thấy hạnh phúc. Các nhà văn nữ đương đại đã nói về công

việc hàng ngày ấy một cách trìu mến: “Vài tiếng đồng hồ nữa thông lệ ngày thường

của Không Bé sẽ bắt đầu. Vội vã dọn dẹp nhà cửa. vội vã chuẩn bị bữa điểm tâm

cho Ted. Vội vã làm một cặp bánh mỳ kẹp thịt và một đĩa rau trộn cho bữa trưa của

42

Ted. Vội vã nấu một nồi cơm nhỏ, bới cơm vô hộp xốp, loại hộp xốp an toàn khi

hâm trong lò vi ba…, rồi vội vã vệ sinh cá nhân, vội vã ăn mặc chỉnh tề. vội vã lái

xe đi làm.” [66, tr.72]. “Sáng sáng nàng Nấm dậy từ 5 giờ, quét dọn sạch sẽ nhà cửa

rồi đặt nước pha trà cho anh rể, nấu bữa ăn sáng cho chị gái. Đến 7 giờ nàng gõ cửa

căn phòng cuối cùng để đánh thức anh chị dậy đi làm cũng là để quét tước. Tám giờ

sáng nàng Nấm xách làn đi chợ…Nấm đi chợ một vòng để xem chợ sáng nay có

món gì ngon nhất mà lại rẻ nhất. Các món ăn trong ngày sẽ được định trong lúc dạo

chợ. Thế là bữa ăn được dọn lên với những món ăn ngon miệng nhưng thường

không đắt đỏ” [20, tr.8].

Y Ban đã miêu tả sự hứng khởi của một nữ nhân vật khi cô quét dọn nhà cửa

trong kỳ nghỉ hè về thăm nhà: “Sáng hôm sau, sự hứng khởi làm một bà nội trợ đảm

đang làm ta quên đi lời hẹn. Ta quấn một chiếc khăn đỏ ngang đầu, mặc chiếc áo

blu trắng của mẹ. Ta mê mải quét những tổ ấm nhà nhện trên tường. Vừa làm vừa

hát vui vẻ.” [22, tr.14]. Người phụ nữ tin vào ma lực cuốn hút đàn ông từ khả năng

nội trợ của mình: “Được lời khen của người đàn ông, trong ta chợt bừng lên ý nghĩ

làm ta thích thú. Ta sẽ làm cho người đàn ông ngạc nhiên nữa. Ta nhanh nhẹn đi thu

gọn nhà cửa. Chỉ một loáng, căn nhà trở nên gọn gàng, sạch sẽ. Dọn xong trên nhà

ta đi xuống bếp. Người đàn ông như chết lặng trên đi văng không hiểu ra sao? Dọn

dẹp xong xuôi ta rửa chân tay và đứng giữa nhà chắp tay quan sát kết quả lao động

của mình.” [12, tr.34].

Trên thực tế, thì “Chẳng có địa vị nào hiện nay đàn ông đang chiếm giữ mà

đàn bà không thể vươn tới, miễn là để họ thực sự có điều kiện vươn lên” [146,

tr.33]. Văn xuôi nữ đương đại không chỉ tiếp tục nhào nặn vai trò nội trợ của người

nữ mà còn bước đầu xét lại vài trò này. Một số nhà văn kêu gọi không nên giam phụ

nữ trong nhà, hãy để họ vươn ra ngoài xã hội, vươn ra ngoài trường đời, tiếp cận với

tri thức, hãy để cho họ có một môi trường hoạt động vượt ra khỏi gian bếp với vai

trò của bà nội trợ, họ sẽ làm được những cái như đàn ông làm tuy cách làm khác

đàn ông. Y Ban miêu tả một người đàn ông tự cởi trói cho vợ khỏi thân phận nội trợ

như sau: “Hai năm trời thật cố gắng nhưng căn bệnh của anh không hề thuyên giảm.

43

Anh bảo với tôi: Em đi học đi, đời người cũng phải toại nguyện lấy một bề chứ. Em

đã vì gia đình mà không được học bằng chị bằng em. Anh cũng muốn làm cho em

hạnh phúc lắm,… anh sẽ chăm lo gia đình cho em để em đi học tấn tới. Tôi ôm lấy

chồng mà khóc.” [18, tr.119 -120].

Công việc nội trợ là hoạt động không giải thoát người nữ khỏi tính nội tại và

không cho phép họ khẳng định bản thân mình. Chính việc nhấn mạnh vai trò nội trợ

của người nữ đã tạo ra rào cản không cho người người nữ nhiều cơ hội tham gia vào

các hoạt động xã hội - chính trị - nghề nghiệp khác bình đẳng như nam giới.

Nguyễn Thị Thu Huệ đã để cho nữ nhân vật của mình bày tỏ mong muốn vượt thoát

khỏi thân phận nội trợ: “Em sẽ chia tay Hải. Em sợ sống buồn tẻ. Nó giết chết tuổi

trẻ và những ham muốn. Cuộc sống tuyệt vời thế này vậy mà hằng ngày em cứ lọ

mọ như một mụ già sẩm sờ xó bếp. Cơm nước, con cái và ngu si dần đi. ” [49,

tr.70]. Đây lả một sự kiến tạo tri thức mới trong diễn ngôn về người nội trợ của văn

xuôi nữ đương đại, tuy không thật đậm nét.

3.1.2. Sự kiến tạo hình ảnh người vợ

Đời sống của mỗi cá nhân trong xã hội được bắt đầu từ gia đình và trong suốt

cuộc đời của họ gia đình là môi trường sống quan trọng. Mỗi gia đình là một tế bào

của xã hội, vì thế người phụ nữ trong gia đình cũng được ví như hạt nhân của tế bào

đó. Phụ nữ có cơ thể “tự nhiên” đặc biệt để mang thai và sinh con. Xã hội xác định

cho phụ nữ một thiên chức vô cùng quan trọng và cao quý là làm vợ, làm mẹ. Để

xây dựng một gia đình hạnh phúc, phải bắt đầu từ thiên chức làm vợ, làm mẹ của

người phụ nữ. Trong đời sống, có câu “Đàn ông xây nhà, đàn bà xây tổ ấm”, diễn

ngôn này đề cao vai trò của người phụ nữ trong việc xây dựng một gia đình bền

vững. Vai trò làm vợ một trong những thiên chức quan trọng nhất của Phụ nữ

Việt Nam, thiên chức mở đường cho nhiều thiên chức quan trọng khác. Với vai trò

làm vợ, người phụ nữ có ảnh hưởng to lớn tới hạnh phúc và sự ổn định của gia

đình, phụ nữ là người nhen lên và gìn giữ ngọn lửa hạnh phúc gia đình. Với người

phụ nữ, kết hôn và trở thành người vợ trong một gia đình nhỏ dường như là điều tất

yếu “Gái lớn ai không phải lấy chồng” (Nguyễn Bính). “Phần lớn họ quan niệm làm

44

vợ là cách đúng đắn nhất để người con gái thực hiện bổn phận của mình đối với gia

đình và đối với xã hội” [7, tr.58].

Trong vai trò của một người vợ, người phụ nữ cho rằng bổn phận quan trọng

nhất là giữ mái ấm gia đình. Cụ thể hóa của bổn phận ấy là công việc chăm sóc, yêu

thương chồng con. Bản thân họ chỉ thấy hạnh phúc khi làm cho chồng con mình

hạnh phúc. Trong hôn nhân và gia đình thời kỳ trước đây, phụ nữ phải “tòng phu”,

“phu xướng phụ tùy”, vẫn đóng vai trò phụ trong gia đình, phải theo người chồng,

chưa được tự ý quyết định, cũng như chưa được tạo nhiều cơ hội tham gia các công

việc xã hội. Người trụ cột trong gia đình vẫn là người đàn ông. Cũng chính vì tư

tưởng đó mà người chồng trong thời kì trước đại đa số vẫn giữ tính gia trưởng, bắt

người vợ phải làm theo những gì mình mong muốn, người phụ nữ cam chịu số

phận, không dám lên tiếng khi bị chồng đánh đập, đành chấp nhận sống trọn đời bên

gã chồng vũ phu để không bị mang tiếng bỏ chồng bỏ con. Quan niệm "tài trai lấy

năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng" biến người vợ thành nạn nhân

của chế độ đa thê (bất kể là vợ cả hay vợ lẽ) luôn chìm đắm trong những mối mâu

thuẫn, bất hòa, khổ đau. Khi người chồng chết, người phụ nữ cũng mất quyền thừa

kế tài sản, phải phục tòng người con trai (tòng tử). Vì vậy, vai trò của người vợ

không được coi trọng. Trong xã hội phát triển hiện nay, khi có sự bình đẳng giới,

vai trò của người vợ trong gia đình được nhìn nhận lại và được thể hiện rõ nét. Nếu

nam giới là những trụ cột chính trong gia đình thì phụ nữ chính là người chăm sóc

và giáo dục con cái; là người sắp xếp, tổ chức cuộc sống gia đình; góp phần hỗ trợ

chồng thành đạt trong cuộc sống; phát huy những giá trị truyền thống của gia đình,

đồng thời tiếp thu và sáng tạo nên những giá trị văn hóa mới, góp phần xây dựng

văn hóa gia đình. Trong thời đại hiện nay, người phụ nữ ngoài việc làm “bà nội trợ

đảm đang”, người vợ, người mẹ, còn không ngừng học hỏi, rèn luyện để trở thành

người có trình độ, có tri thức, tham gia vào các công việc trong xã hội và không ít

người phụ nữ đã đạt đến vị trí rất cao trong mọi lĩnh vực “giỏi việc nước”.

Việc sinh con đẻ cái để duy trì giống nòi, từ hàng ngàn năm nay, đã bị các lý

thuyết của nam giới, bị định kiến xã hội kiến tạo thành một thứ nghĩa vụ bắt buộc

45

đối với phụ nữ. Trước đây, không phải ngẫu nhiên đàn ông chọn vợ rất coi trọng

tiềm năng sinh sản của người nữ:“ Đàn ông không râu bất nghì/ Đàn bà không vú

lấy gì nuôi con”,“Những người thắt đáy lưng ong/ Đã khéo chiều chồng lại khéo

nuôi con”. Những người phụ nữ không có khả năng sinh con bị xem là có tội với

chồng, gia đình chồng, dòng tộc nhà chồng. Người chồng có thể đi lấy vợ khác,

nhưng người vợ có khi phải chủ động cưới vợ khác cho chồng để nối dõi tông

đường. Những người phụ nữ không con, do đó, càng thêm bất hạnh, bị rẻ rúng,

khinh khi: “Cây độc không trái, gái độc không con”.

Trong văn xuôi nữ đương đại, nhiều quyền của phụ nữ đã được đề cao, tuy

nhiên vẫn có quan niệm của đàn ông cho rằng “nghĩa vụ” của người vợ là sinh con

đẻ cái, đẻ thật nhiều để thiên hạ thấy được dòng giống bất diệt của gia đình mình:

“Tôi thấy cô tốt bụng, ưa nhìn và ngoan ngoãn. Mặc dù nhà cô chẳng ra gì, tôi biết

hết nhưng bỏ qua cho cô. Tôi mong cô đẻ thật nhiều con để cho thiên hạ thấy dòng

giống bất diệt của gia đình tôi.” [53, tr.269]. Người đàn ông cho rằng người vợ chỉ

đem lại hạnh phúc cho chồng, cho gia đình và dòng họ chồng khi sinh con: “Anh sẽ

nuôi con, sẽ làm hết, miễn là em đẻ nó ra thôi, chỉ cần em đẻ thôi. Anh là con một,

bố mẹ anh mong có ngày được bế cháu nội lắm, em sẽ đem hạnh phúc đến cho anh

và mọi người. Anh xin em" [53, tr.443]. Trong quan hệ với chồng, người phụ nữ

dường như chỉ có chức năng sinh đẻ: “Có nhiều chị em lấy chồng chỉ để sinh con,

chả có được cái gọi là sự thăng hoa trong việc ngủ với chồng bao giờ. Thế thì sao

gọi là hạnh phúc được. Đã gọi là hạnh phúc thì phải được thỏa mãn về vật chất và

tâm hồn chứ” [19, tr.247]. Beauvoir cho rằng “nữ tính” không phải là bản tính, tức

là cái vốn có của người đàn bà. Nữ tính là cái do người đàn ông áp đặt. Trong

trường hợp này nữ tính là khả năng và nghĩa vụ sinh con đẻ cái của đàn bà. Dù

người phụ nữ có học thức, có địa vị trong xã hội thì người nữ vẫn cho rằng chức

năng chủ yếu của họ là sinh đẻ: “Cái chính là đàn bà phải biết đẻ con. Đàn bà mà

không biết đẻ con thì chỉ có vứt đi”, “Đàn bà là đất, đàn ông là hạt giống. Đàn bà

phải là đất phù sa màu mỡ, chứ đằng này lại là đất phèn chua thì sao mà giống nó

mọc được” [19, tr.86-87]. Người phụ nữ cho rằng đứa con chính là sợi dây gắn kết

46

thiêng liêng và bền vững của vợ chồng: “Có lẽ…em đi chữa bệnh để sinh con. Có

con rồi, chồng em sẽ nghĩ lại…” [53, tr.372].

Bên cạnh những tiếng nói khẳng định thiên chức làm mẹ của người phụ nữ là

sinh đẻ, văn xuôi nữ đương đại cũng lên tiếng chối bỏ quan niệm ấy như một sự

kháng cự lại những định kiến xã hội và sự áp đặt của đàn ông: “Con ư, con là cái gì?

Nó đem lại cho đời tôi cái gì ngoài sự sồ sề, nhếch nhác và ngu xi? Con à, con để

làm gì khi trước mắt tôi bao nhiêu con đường. Lấy anh. Rồi cứ mỗi năm tôi sản xuất

cho anh một đứa vì dòng họ anh vắng người, lại đẻ như gà ấy mà? Mai tôi dứt khoát

phá.” [53, tr.443].

Trong mô hình gia đình truyền thống, phụ nữ được cho là phải có nghĩa vụ

chung thủy với chồng. Hôn nhân đặt người vợ trong sự phụ thuộc vào chồng, trong

quan hệ ấy, người chồng là được ví như “một vị á thần, có uy tín của người đàn ông

nhằm thay thế người cha, làm người bảo vệ, người cung ứng, người giám hộ, người

hướng đạo; cuộc đời người vợ phải nảy nở dưới bóng chàng; chàng là người nắm

giữ các giá trị, là người bảo đảm chân lý, là biểu tượng về mặt đạo đức lứa đôi”

[173, tr.88]. Đạo đức của người vợ là chung thủy với chồng. Khi đã có gia đình

người vợ tự vạch cho mình một hướng đi và trở thành nguyên tắc cho cuộc sống vợ

chồng: "Không chồng đi dọc đi ngang/ Có chồng thì cứ một đàng mà đi", “Chồng

em áo rách em thương/ Chồng người áo gấm xông hương mặc người”. Chuẩn mực

đạo đức của người phụ nữ phong kiến được kiến tạo theo thuyết “Tam tòng”, “Tứ

đức”. Theo Nho giáo, phụ nữ có ba điều phải tuân theo, không có quyền tự định

đoạt theo ý mình: “Tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử”. “Tam tòng”

và “Tứ đức” được giai cấp thống trị phong kiến sử dụng triệt để như một công cụ

đắc lực để giáo hóa người phụ nữ với mục đích ổn định xã hội, bảo vệ quyền lợi của

giai cấp thống trị và vai trò của nam giới. “Tam tòng” đề cao sự phục tùng một

chiều, sự thuỷ chung tuyệt đối của phụ nữ đối với nam giới. Mặt khác, “bản thân

phụ nữ cũng thừa nhận vũ trụ nói chung là vũ trụ của nam giới, chính đàn ông đã

tạo lập, quản lý nó và ngày nay vẫn thống trị nó; còn về phần mình, phụ nữ không

cho là mình có trách nhiệm và thừa nhận mình thấp kém, phụ thuộc” [173, tr.247].

47

Văn xuôi nữ Việt Nam đương đại dung nạp diễn ngôn truyền thống để nhào

nặn phẩm chất đạo đức nhẫn nại, hy sinh, thuỷ chung son sắt của người nữ. Ngay từ

lúc còn nhỏ, đứa bé gái đã được người mẹ giáo dục đạo tam tòng, tức đức, sự nhẫn

nại, nữ công gia chánh, đến trường để lớn lên “đơm một tấm chồng”: “Mẹ sinh tôi

là gái. Mẹ dạy tôi tam tòng, tứ đức. Đặc biệt mẹ dạy tôi chữ nhẫn. Bài học đầu tiên

của chữ nhẫn là năm lên bốn tuổi mẹ đã vót cho tôi một đôi que đan với một cái giỏ

đựng đầy sợi gai. Bàn tay vụng dại của tôi nhể từng sợi gai đan thành một mảnh vải

kỳ quái bé xíu bằng bàn tay. Lớn lên cha cho tôi đến trường. Tôi học không sáng dạ

nhưng bàn tay đan thì khéo léo vô cùng. Khi 18 tuổi tôi đã có nghề kiếm cơm của

thiên hạ. Nhưng cái nghề này khiến tôi suốt ngày ru rú ở trong nhà. Mẹ bảo: khéo

không nó ế chồng. Cha bảo: mua cho nó căn nhà như cái giỏ để nó đơm một tấm

chồng” [16, tr.65]. Đến khi người con gái xuất giá, người mẹ giáo dục con đạo

“tam tòng”: “Khi bé thì phải vâng lời bố mẹ. Lớn lên lấy chồng thì phải theo chồng,

chồng hết theo con. Chỉ có vâng lời và vâng lời” [49, tr.255]. Trong công trình

“Giới nữ”, Simone De Beauvorr cũng có khái quát tương tự:“Thân phận phụ nữ là

vâng lời và tôn trọng” [173, tr.248]. Bởi vậy, dù người chồng có ngoại tình thì

người vợ cũng phải nhẫn nại, chịu đựng để khuyên người chồng ngoại tình quay về

tổ ấm gia đình: “Miềng biết chứ! Cam chịu, trung hậu, đảm đang. Không phải là

cam chịu mà là nên biết chịu đựng rồi dùng lời lẽ phải trái mà khuyên nhủ chồng

con quay về với mình chứ, sao lại đi giết người” [tr.21].

Văn xuôi nữ đương đại nói nhiều đến chữ “lụy” (một khía cạnh của chữ tòng):

lụy chồng, lụy con, lụy tình: một mực cung phụng chồng, yêu chiều con đến mức

lụy con để rồi nhận lấy sự tủi hổ, bẽ bàng:“Tôi vẫn chưa hiểu được niềm vui sướng

hạnh phúc của mẹ là gì. Cả cuộc đời sống bên mẹ tôi chỉ thấy mẹ một chữ luỵ, luỵ

con luỵ chồng. Tất cả những ngày sống bên mẹ tôi chưa khi nào thấy bố tình cảm

ngọt nhạt với mẹ, âu yếm mẹ và thương cảm mẹ. Mẹ thì một mực cung phụng bố.

Lời nói của bố là mệnh lệnh đã đành, mọi thứ liên quan đến bố cũng như có sự ám

chỉ của mệnh lệnh. Với những đứa con thì mẹ yêu chiều đến mức luỵ con. Mẹ nhận

lấy hết các cảm giác đói, khát, rét, đau, buồn….kể cả tủi hổ bẽ bàng để bảo vệ con.”

48

[20, tr.106]. Trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn, Mỹ Tiệp là nhân chứng cho thực

hành diễn ngôn truyền thống của những góa phụ: “những người đàn bà góa rất biết

tuân thủ tôn ti, trật tự, lề lối, phép tắc”, danh dự [90, tr.18]. Danh dự theo quan niệm

của gia tộc Mỹ Tiệp “là sự hy sinh, nàng vùng quẫy với Tuyên là nàng không có

phẩm chất hy sinh, vì vậy nàng phải bị băm vằm nhiều lần vì đã làm lung lay sợi

dây bện bằng nhiều sự hy sinh của nhiều người trong suốt nửa thế kỷ qua” [90,

tr.23]. Tư Ràng quan niệm: người phụ nữ phải vì danh dự của gia đình - tức là phải

có một gia đình toàn vẹn (phụ nữ phải hi sinh): “Phải tu tỉnh chớ không thử thiếc gì

hết. Ai biểu hồi mới cản ngăn gì con cũng không nghe, giờ củi nỏ hay củi mục gì thì

cũng phải vì danh dự gia đình mà ráng chớ !” [90, tr.2]. Hoài tin tưởng: người phụ

nữ chỉ cần là người mẹ vì con chứ không cần vì bản thân.Trong “Gia đình bé mọn”,

“Nhà không có đàn ông”, nhà văn Dạ Ngân đã phát biểu rất hay về sức mạnh nam

quyền ẩn mình trong văn hóa dưới hình thức diễn ngôn của những người đàn bà

trong một gia tộc góa - “vòng rào ruột thịt, được mạ kền bằng đủ thứ lý lẽ về phẩm

hạnh về danh dự, danh tiết, về “tính đàn bà” của những người đàn bà: “Những

người thân của chị đã thành công khi họ nhân danh đủ thứ, truyền thống và tiêu

chuẩn, tình thương và sự hy sinh nhưng không ai để lộ một lẽ nhân danh khác, ấy là

tính đàn bà. Họ đã gắp gọn ra khỏi trái tim người phụ nữ trẻ ấy khát vọng tình yêu,

cái mà con người cần hơn mọi thứ, vì từ đó mà có tất cả.” [88, tr.114]. Những người

phụ nữ trong gia tộc góa ấy mỗi người mỗi cảnh, mỗi số phận khác nhau nhưng họ

có chung công thức lưu truyền nhiều thế hệ: ở vậy- nuôi con- giữ gìn phẩm hạnh:

Bà nội “góa chồng từ lúc hai cụ mới định cư trên miếng đất hiện giờ, bà hơn người

ở cái cằm vuông vuông nghị lực, ở vóc dạc săn dẻo như một sợi dây luộc và phẩm

hạnh ở vậy nuôi con mà bà coi như một thứ thể diện, một thứ của nả hồi môn cho

con cháu” [88, tr.107].

Một trong những đặc điểm của phụ nữ được các nhà văn tô đậm là sự nhẫn

nhục, đôi khi nhẫn nhục trở thành sự khoan dung, vị tha, chấp nhận hết thảy, thậm

chí hi sinh bản thân vì lợi ích của chồng. Y Ban định nghĩa nhân vật của mình:

Chiều , “đàn bà Trực bình, trực bình là nước ở hồ tiên, là lẫm, là kho chứa tiền bạc,

49

gái giỏi tề gia ích phu tử” [19, tr.145], cả cuộc đời hết lòng chăm sóc, hi sinh cho

chồng con, bởi, “khi người đàn bà còn yêu người đàn ông thì người đàn bà đó sẽ hi

sinh tất cả cho người đàn ông mình yêu” [19, tr.147]. Nhân vật Chiều thường giải

toán giúp chồng để anh từng bước hoàn thành việc học hành, leo dần lên nấc thang

danh vọng: phó giám đốc sở, rồi làm vụ trưởng. Trong lúc bần hàn, cuộc sống khó

khăn, Chiều đã hi sinh việc học của mình mặc dù chị học rất giỏi toán để chăm lo

cho chồng con “cái lão Chiện đi học bổ túc cùng với vợ, nhưng học toán dốt tệ, toàn

phải nhờ vợ làm hộ toán…lão bắt vợ nghỉ học rồi có cho đi học nữa đâu” [19,

tr.25]. Khi đời sống sung túc, chị lại trở nên lạc lõng cô đơn trong chính căm nhà

của mình, bị chồng, con, cháu khước từ, coi như món đồ thừa đành sống cam chịu

như một cái bóng: “…Cái nhà này không muốn cho bà ấy làm việc gì cả, cháu cũng

không cho chơi với bà ấy, bảo là nó học theo giọng của bà ấy thì quê mùa, không

cho bà ấy nấu cơm, bảo nấu quê mùa không ăn được, không cho bà ấy chăm vườn

tỉa cây, bảo chăm cây kiểu quê cây xấu, bà ấy muốn đi học cái lớp nấu ăn với lại lớp

làm vườn, thì bảo già rồi học làm gì, với lại thuê người làm còn đỡ tốn tiền hơn, thế

là bà ấy chẳng phải làm gì, cũng chả ai hỏi thăm đến bà ấy, về đến nhà ai về phòng

nấy, con dâu cũng không bao giờ được câu hỏi thăm mẹ chồng có khỏe không, mà

đến con giai bà ấy cũng không được một câu hỏi thăm mẹ thì làm sao vợ nó bắt

chiếc mà hỏi được.” [19, tr.199-200].

Hôn nhân hạnh phúc không chỉ cần tình yêu giữa hai vợ chồng mà tình dục

cũng là một trong những yếu tố quan trọng giúp giữ gìn hạnh phúc gia đình. Tình

dục chính là sợi dây gắn kết tình cảm của cả hai người, làm cho vợ chồng có thể

hiểu nhau nhiều hơn, hạnh phúc hơn khi được thỏa mãn với bạn tình của mình. Nhà

tình dục học người Mỹ, Kinsey khẳng định: “Chất lượng tình dục xác định chất

lượng hôn nhân”.

Trong xã hội phong kiến, dưới ảnh hưởng của Nho giáo, quan hệ vợ chồng

không được coi trọng, nói đúng hơn theo quan điểm của Nho giáo thì người phụ nữ

không được coi trọng. Những nhà Nho chân chính cũng không coi trọng chuyện vợ

chồng nói riêng và người phụ nữ nói chung. Người đàn ông Nho giáo coi nhiệm vụ

50

hàng đầu là “tu thân”- tu dưỡng đạo đức để làm chính trị, nên con người Nho giáo

không phải là con người tự nhiên với các lạc thú cá nhân, không coi trọng tình cảm

riêng tư, tình cảm vợ chồng. Không những thế trong xã hội chuyên chế phương

Đông, tầng lớp thống trị (vua chúa) luôn sử dụng phụ nữ có nhan sắc để phục vụ

cho ham muốn nhục dục và tham vọng của giai cấp thống trị. Vì vậy những nhà

Nho chân chính coi phụ nữ là tai hoạ cho quốc gia và gia đình. Văn chương cũng ít

nói đến quan hệ vợ chồng, càng ít nói đến tình cảm người vợ dành cho chồng. “Ý

nghĩa của cuộc đời người đàn ông là hướng về một sự nghiệp, ý nghĩa cuộc đời

người đàn bà là trở thành một trong những yếu tố xây dựng sự nghiệp đó. Đàn bà

sống thiết yếu cho người khác. Thân phận đàn bà là thân phận của kẻ lệ thuộc.”

[150, tr.26]. Nếu như đàn ông lấy chữ “Danh” và đàn bà lấy chữ “Tòng” làm mục

tiêu của cuộc đời thì mọi sự từ thân xác, hoạt động xã hội, chính trị, tôn giáo,…sẽ

được quan niệm và tổ chức theo vị trí thống trị của đàn ông và vai trò “đi theo” của

đàn bà. Quan niệm này của xã hội đã kiến tạo nên hình ảnh người nữ thụ động, chờ

đợi, kìm nén,…trong quan hệ tính giao với đàn ông (chồng). “Phụ nữ chỉ được biết

khoái cảm dưới một hình thức đặc thù chứ không phải dưới hình thức cá biệt

hóa…họ không có quyền hoạt động tình dục nào ngoài hôn nhân” [173, tr.27].

Văn xuôi đương đại duy trì nhiều mĩ cảm truyền thống, người nữ trong các

sáng tác nữ vẫn thụ động, chờ đợi, không dám bộc lộ cảm xúc. “Từ bé đến khi là

con gái, người đàn bà sống chờ đợi; chờ đợi có người thương đến, chờ đợi có người

lại hỏi” [169, tr.22] và sau khi lấy chồng lại thụ động chờ chồng. Họ chờ đợi lòng

biết ơn, sự tán thưởng của đàn ông, chờ đợi tình yêu, chờ đợi thái độ ân cần và thái

độ khen ngợi của chồng. Một nhà văn nữ đã diễn tả cảm xúc thèm khát ái ân với

chồng nhưng không bao giờ dám nói thẳng thành lời những cảm giác đó, cũng

không dám thể hiện bằng hành động. Không nói, không làm nên đành ngậm ngùi

thở dài: “Từ biết làm cách gì để chồng đáp ứng lại sự đòi hỏi của cô bây giờ. Nói

thẳng với chồng là em muốn làm cái việc ấy với anh bây giờ ư? Không, không bao

giờ Từ dám nói thành lời những từ ngữ đó. Còn hành động cứ xông vào ôm chặt lấy

chồng, rồi kéo chồng nằm xuống giường. Không, cũng không bao giờ Từ dám hành

51

động đó với chồng. Không dám nói, không dám làm thì sang lều vịt làm gì. Bước

chân của Từ ngập ngừng. Từ quay về giường, nằm xuống thở dài đánh sượt” [19,

tr.134]. Trong quan hệ tính giao vợ chồng, đàn ông luôn chủ động, đàn ông coi việc

ngủ với vợ như một nhu cầu của cuộc sống (ăn, uống, mặc, ngủ,…): “Đàn ông

không có cái phông văn hóa ngủ với vợ. Họ ngủ với vợ như đói thì ăn, khát thì

uống, như muốn tiểu tiện, đại tiện thì vào toa lét vậy, có nghĩa là người vợ luôn bị

thụ động…” [19, tr.248]. Ham muốn của nam giới là ham muốn chiếm hữu, “như

một sự thống trị mang tính chất nhục dục, còn ham muốn của nữ giới như là ham

muốn sự thống trị của nam giới” [169, tr.25]. Một nhân vật nữ diễn tả cảm giác rất

thích gần chồng (khi không ngủ cùng giường với chồng),nhưng lại sờ sợ, ngài ngại

để rồi cứ nằm chờ chồng, như là sự phục tùng đối với quyền thống trị về nhục dục

của nam giới. Bởi, “thường thì Cương luôn là người chủ động. Nếu Cương thích thì

mò vào giường vợ, không biết vợ có thích hay không. Có những tối Từ rất thích gần

chồng, cô cứ nằm chờ chồng nhưng Cương không vào. Từ muốn sang chỗ chồng

nhưng lại sờ sợ ngài ngại. Nhưng sờ sợ ngài ngại cái gì thì chính Từ cũng không

biết” [19, tr.218].

Bên cạnh hình ảnh giới nữ thụ động, văn xuôi nữ đương đại cũng có một số

diễn ngôn xây dựng hình ảnh phụ nữ chủ động, táo bạo, không ngần ngại phô diễn

ham muốn tình dục, cảm xúc trong quan hệ tính giao với chồng: từ cảm xúc thỏa

mãn trong đời sống tình dục của vợ chồng, đến trạng thái đê mê ngây ngất của

người phụ nữ sau một thời kỳ kiêng cữ khi sinh nở, và sự “phấn chấn, khám ra

những cách ngủ với chồng” [19, tr.133],… Văn xuôi nữ đương đại thể hiện sự cởi

mở trong việc miêu tả quan hệ tình dục của người nữ, từ việc miêu tả người nữ tìm

cách thỏa mãn bản năng bằng “dụng cụ tình dục” (I am đàn bà) đến tự sự về những

khám phá điểm cực khoái: Tôi đã sống rất hạnh phúc với chồng tôi sau nhiều năm

không hề có tình dục. Tình yêu của chồng tôi đã lấp đầy sự thiếu hụt đó….. Từ lâu

thế giới người ta đã phát minh ra một thứ dụng cụ, chỉ để thoả mãn mà không cần

đến tình yêu. Đó là cái chim giả…. Có cái chim giả tôi sẽ ngẩng cao đầu và nói:

Không, không bao giờ em gặp lại anh nữa đâu” [18, tr.140-141]. Người nữ có ý

52

thức phản kháng lại sự thống trị của đàn ông, phủ nhận sự phụ thuộc, thụ động của

mình bằng cách khám phá cái điểm “G” bí mật, họ tìm hiểu làm thế nào để khi quan

hệ với chồng đạt trạng thái cực khoái nhằm cách duy trì ngọn lửa trong tình cảm vợ

chồng và sự bền vững cho hôn nhân: “…Cái điểm G của người phụ nữ thường là bí

mật, các nhà khoa học đã tốn nhiều công sức nhưng chưa thể chỉ ra cái điểm G ấy ở

chỗ nào. Vì không thể chỉ đích xác điểm G đó nên rất nhiều phụ nữ không bao giờ

đạt được trạng thái cực khoái. Từ sẽ đi tìm điểm G của mình” [19, tr.217], “…Từ

hiểu rằng cơ chế tình dục của người phụ nữ rất phức tạp. Nhưng dù phức tạp đến

đâu cũng có cái chìa khóa để mở chứ, chỉ có điều cái chìa này là của riêng từng

người không phải ai cũng giống nhau. Vì thế chị em phụ nữ thay vì ngồi than thở

rằng chồng không biết cách làm cho họ sung sướng thì bản thân họ hãy tự biết cách

khai mở cho mình đi [19, tr.243].

Sex trước đây bị coi là vùng cấm, người đọc cũng thường dị ứng về sex bởi

nhiều người quan niệm nói về sex là nối chuyện “văn hóa đen”. Sex là vẫn đề nhạy

cảm. Trong văn xuôi đương đại, sex được các cây bút nữ sử dụng như một “phương

tiện” tạo ra ngôn ngữ riêng khi diễn tả quan hệ tính giao vợ chồng. Chỉ đến văn học

nữ đương đại, người nữ mới trở thành một chủ thể trải nghiệm sex, người nữ mới có

một ngôn ngữ riêng khi nói về “vùng cấm”, về chuyện “riêng tư” này. Vượt qua

những rào cản truyền thống và định kiến xã hội về quan hệ vợ chồng, người phụ nữ

trong văn xuôi nữ đương đại chủ động, háo hức, nồng nhiệt, say đắm với tất cả nhu

cầu về tinh thần và thể xác. Một trong những cái biểu đạt khác của khao khát thảo

mãn tình dục ở người nữ trong văn xuôi nữ đương đại là chuyện ngoại tình. Trong

xã hội phong kiến, một người đàn bà tư thông với người đàn ông khác sẽ bị coi là

trái đạo, xã hội lên án và trừng phạt. Nhưng ngày nay, ngoài sự kiện đàn ông ngoại

tình, thì việc một phụ nữ ngoại tình cũng không còn là điều xa lạ. Theo kết quả điều

tra của một số tổ chức xã hội, tỷ lệ phụ nữ ngoại tình không kém đàn ông. Ngoại

tình trên đại thể là một hiện tượng không mới trong đời sống con người nhưng cách

mà xã hội đánh giá về ngoại tình của phụ nữ và ngoại tình của nam giới có sự khác

biệt. Đàn ông ngoại tình có nhiều nguyên nhân nhưng thường không vì tình yêu và

53

không muốn đánh đổi hạnh phúc gia đình hiện tại, thường có tâm lý hối hận và

muốn quay về gia đình. Đàn ông ngoại tình thường là vì lạc thú. Phụ nữ ngoại tình

thường là vì si mê và khao khát cái mới lạ. Nhiều người cho rằng một khi người đàn

bà phản bội thì sẽ không trông mong gì được nữa. Vì quan niệm truyền thống “trai

năm thê bảy thiếp, gái chính chuyên một chồng” nên khi người phụ nữ ngoại tình

rất khó nhận đựơc sự đồng cảm, tha thứ của người bạn đời và của dư luận xã hội,

trong khi người đàn ông ngoại tình có thể được người vợ bao dung, tha thứ, dư luận

xã hội cũng ít khắt khe hơn với việc ngoại tình của đàn ông. Đàn ông ngoại tình là

chuyện bình thường, phụ nữ ngoại tình thì bị coi là “lăng loàn”; “Tôi có vợ, có con.

Tôi chăm chút cho gia đình mình nhưng điều đó không có nghĩa là tôi không thích

chơi bời. tôi chỉ biết sống đúng theo hoàn cảnh của mình. Tại sao không chứ, cho

dù có là hàng khuyến mại thì cũng là một người đàn bà lạ.” [18, tr.221].

Khảo sát văn xuôi của bốn nhà văn nữ Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan, Y Ban,

Dạ Ngân, chúng tôi nhận thấy người nữ ngoại tình dưới ba cấp độ (hình thức):

ngoại tình tưởng tượng, ngoại tình cách không, ngoại tình có tiếp xúc thân thể. Dù

ngoại tình ở dạng thức nào thì người phụ nữ vẫn mong muốn được thỏa mãn về cảm

xúc, để mong đạt được sự khoái cảm, nghĩa là làm chủ cảm xúc của bản thân.

Ngoại tình tưởng tượng là người nữ muốn thỏa mãn mặt cảm xúc chứ không

hề có quan hệ tiếp xúc về thân thể. Ngoại tình tư tưởng thường bắt nguồn từ sự cô

đơn, sự thiếu thốn tình cảm, muốn tìm một nơi được sẻ chia và quan tâm, muốn

được sống trong cảm giác yêu thương, yêu nồng nhiệt hết mình, thứ mà họ không

tìm thấy được ở gia đình. Người phụ nữ không cần thiết phải sở hữu người đàn ông

mà họ mơ ước. Người đàn ông đó như một “ngăn tủ” của riêng họ, để họ giấu

mình, kèm thêm trí tưởng tượng phong phú, họ sẽ nhận thấy mình được hạnh phúc,

được bù đắp trong tâm hồn những khi buồn, khi giận, khi không được thỏa mãn. Ở

mức độ khao khát, người phụ nữ luôn coi đây như một thế giới riêng để giải tỏa

cảm xúc nhằm cân bằng tinh thần. Chính cảm giác ngoại tình trong tưởng tượng ấy

giúp người phụ nữ cân bằng lại cuộc sống gia đình. Trong sáng tác của nữ nhà văn

Y Ban, “nàng” là một người đàn bà đẹp, đoan trang, có một người chồng tài hoa,

54

một công việc ổn định, một gia đình êm ấm. Nàng có một cuộc sống mà bao phụ nữ

mơ ước (Người đàn bà và những giấc mơ). Thế nhưng nàng lại là một người đàn bà

ngoại tình. Bởi nàng khao khát sự chở che, yêu thương của chồng mà không thỏa

mãn nên đành gửi vào trong những giấc mơ, đành ngoại tình trong mơ để tìm khoái

cảm và cũng chỉ có trong mơ nàng mới đạt được khoái cảm nhưng khi tỉnh dậy lại

thấy ân hận, day dứt với chồng. “Thực chất của sự ngoại tỉnh tưởng tượng ấy là

người đàn bà muốn được thỏa mãn tình dục nhưng tình dục lại chỉ có trong hôn

nhân (chỉ hợp pháp trong hôn nhân) nên phải đè nén cảm xúc khao khát của mình.

Đó là một ước mơ “tình dục bất hợp pháp” [176, tr.423].

Ngoại tình cách không là một mức độ khác của ngoại tình tưởng tượng.

Nhưng nếu như ngoại tình trong tưởng tượng không có đối tượng thứ ba xuất hiện,

thì ngọai tình cách không xuất hiện đối tượng thứ ba đối thoại, trao đổi cảm xúc,

suy nghĩ, tình cảm. Đó là câu chuyện về một người đàn bà, một quý bà tiến sĩ có

một gia đình hạnh phúc (chồng là một tiến sĩ, một chuyên gia trong nhành khảo cổ),

thành đạt trong công việc và kiếm được rất nhiều tiền nhưng vẫn ngoại tình bằng

một trò chơi trên mạng internet - “trò chơi hủy diệt cảm xúc”. Người đàn bà tham

gia trò chơi ban đầu chỉ với mục tiêu chiếm lĩnh số tiền thưởng khá lớn so với

những tính toán thông thường và mối bận tâm thường nhật của phụ nữ. Nhưng vô

tình trong trò chơi, ả lại gặp người đàn ông “tâm đầu ý hợp”: “Nói trắng phớ ra ả

cũng đang ngoại tình. Ả cũng đang có người đàn ông khác” [21, tr.23].

Ngoại tình tưởng tượng tuy không sex nhưng vẫn được xem là ngoại tình, một

kiểu ngoại tình không bị “kết tội” về đạo đức và về pháp luật bởi nó đơn thuần chỉ

là những suy nghĩ giải tỏa cảm xúc để cân bằng tinh thần, cân bằng lại cuộc sống

gia đình. Tuy nhiên, việc nuôi sống một hình ảnh khác ngoài chồng trong tư tưởng

để giúp bản thân thỏa mãn khao khát tình cảm thì nó không chỉ tác động lên đời

sống tình cảm của bản thân người phụ nữ mà nó còn tác động đến gia đình và người

thân. Bởi rất khó kiểm soát suy nghĩ và cảm xúc, đôi khi nó còn là nguyên nhân gây

khủng hoảng tinh thần khiến người mẹ - người vợ lơ đãng, bỏ bê việc vun đắp cho

hạnh phúc gia đình khiến hôn nhân tan vỡ. Người nữ trong văn xuôi đương đại tuy

55

có chạm đến cái ranh giới của hôn nhân nhưng sau mỗi lần “giải tỏa cảm xúc” bằng

ngoại tình tưởng tượng, họ lai ăn năn, dằn vặt, tự vấn mình. Họ cảm thấy mình có

“tội” và chuộc tội bằng cách chăm sóc chồng con, gia đình tốt hơn. Như thế, xét ở

một góc độ nào đó, ngoại tình tưởng tượng là “cứu cánh” của hôn nhân nếu như

người phụ nữ biết dừng lại trong tưởng tượng.

Ngoại tình có tiếp xúc thân thể (sex) xuất phát từ việc không thỏa mãn cảm

xúc, không đạt được khoái cảm trong quan hệ tính giao với chồng khiến người vợ

cảm thấy việc “yêu” vô vị, muốn tìm những cảm giác mới lạ, mãnh liệt với một

người đàn ông khác, ở nơi khác. Ở mức độ ngoại tình này, người đàn bà tiếp xúc

trực tiếp với thân thể đối tượng mà mình hướng tới để nhằm thỏa mãn cảm xúc mà

mình khát khao. Các cây bút nữ trong văn xuôi đương đại không ngàn ngại thể hiện

cảm xúc này bằng ngôn ngữ riêng của cơ thể để biểu hiện suy nghĩ và cả hành động,

người nữ tự nguyện tìm đối tượng, hoàn toàn làm chủ xảm xúc của mình (“I am đàn

bà”). Mỹ Tiệp là một nữ văn sĩ miền Nam say mê nghề nghiệp, có nhan sắc, giàu cá

tính. Do hoàn cảnh chiến tranh xô đẩy, Tiệp bước vào cuộc hôn nhân không tình

yêu với Tuyên. Khi hôn nhân không được hạnh phúc, người chồng nhạt nhẽo, vô vị,

không quan tâm, Mỹ Tiệp thất vọng và cách xót xa cho hôn nhân. Nàng nhận thấy

mình chỉ là một thứ “công cụ” trong gia đình, là “bình phong” cho một gia đình

hạnh phúc để Tuyên yên tâm, tận tụy với cấp trên và chăm lo cho địa vị xã hội của

mình. Và nàng nhận ra trong tình cảm vợ chồng, nàng chỉ là “dịch vụ” trên chiếc

giường ngủ, trong “căn phòng riêng”, và dịch vụ “nội trợ” trong gian bếp. Tiệp đã

chủ động đi tìm sự thỏa mãn cảm xúc, đi tìm tình yêu của mình với những đối

tượng mà nàng yêu thương. Sự xuất hiện của “anh nhà báo cỡ bự” - người mà Tiệp

đã lao vào như con thiêu thân, “hy sinh một cách u mê như thần dân với vị vua của

mình” chỉ sau vài lần bất chợt gặp nhau tại các cuộc họp hay ngoài đường đã mang

đến không ít tai tiếng và những vết nứt đầu tiên cho gia đình nàng. Đính - anh chàng

nhà văn lãng tử của xứ Nghệ đến và làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời Tiệp, đánh

thức mọi phương diện trong con người Tiệp. Nhà văn nữ Dạ Ngân không ngần ngại

56

thể hiện những cung bậc cảm xúc, khác nhau, những khoái cảm khác nhau của tình

dục trong một đêm Tiệp ba lần ân ái với Đính:

Ngoại tình là một trong những vấn đề được nói đến nhiều nhất trong văn xuôi

của bốn cây bút nữ Dạ Ngân, Y Ban, Nguyễn Thị Thu Huệ, Lý Lan. Các cây bút nữ

này chủ động đi sâu miêu tả bản năng tình dục của người phụ nữ để tìm cho mình

một lối viết mới mẻ, họ “dám đi vào khai phá phần “người” còn bỏ ngỏ của văn học

Việt Nam” [151, tr.103]. Trong văn xuôi nữ, có người nữ coi ngoại tình như là một

sự “cứu cánh” của hôn nhân, ngoại tình để giải tỏa cảm xúc để cân bằng tinh thần,

cân bằng cuộc sống. (ngoại tình thường đi kèm với cảm xúc ăn năn, hối hận, mặc

cảm tội lỗi với chồng con, bù đắp bằng cách tích cực cham lo cho gia đình), lại có

nhân vật coi ngoại tình là một cách để giải thoát khỏi hôn nhân (đây là một nguyên

nhân dẫn đến tình trạng ly hôn mà chúng tôi sẽ nói trong phần sau). Nhìn chung

chuyện ngoại tình được các cây bút nữ kể bằng ngôn ngữ riêng, đặc sắc: đó là ngôn

ngữ thân thể riêng. Một thành công của văn xuôi nữ là xác lập cho mình ngôn ngữ

thân thể, ngôn ngữ của tính dục.

3.1.3. Sự tạo dựng hình ảnh người mẹ

“Nếu phụ nữ không phải là một cá thể hoàn chỉnh với tư cách người vợ, thì

trái lại họ trở thành cá thể hoàn chỉnh với tư cách người mẹ: đứa con là niềm vui và

là minh chứng cho sự hiện hữu của họ. Chính qua đưa con họ hoàn thành công việc

tự thể hiện mình về mặt tình dục và về mặt xã hội. Vì vậy qua đứa con, thể chế hôn

nhân có ý nghĩa và đạt kết quả của nó” [173, tr.131]. “Đôi khi người ta mong đợi

một đứa con để củng cố một mối quan hệ, một cuộc hôn nhân.” [173, tr.156]. Đứa

con làm hoàn chỉnh hôn nhân và hạnh phúc gia đình, làm hoàn chỉnh vị thế của

người nữ trong gia đình. “Qua sinh đẻ, phụ nữ thực hiện trọn vẹn số phận của mình

về mặt sinh lý học; đấy là chức năng “tự nhiên” của họ vì toàn bộ cơ thể phụ nữ

hướng về lưu truyền giống nòi” [173, tr.132]. Mục tiêu chính yếu của nữ tính là thể

hiện vai trò của người phụ nữ: làm vợ, làm mẹ. Làm mẹ là bổn phận của người phụ

nữ. Làm mẹ một sự trưởng thành hoàn toàn của người phụ nữ. Truyền thống văn

57

hóa Việt Nam đã dành cho người mẹ một chỗ đứng cao cả trong gia đình: Không có

phụ nữ thì không có người mẹ. Không có người mẹ thì không có các anh hùng.

Bằng kinh nghiệm của chính bản thân, các nhà văn nữ đã đem đến những trải

nghiệm mới, những hiểu biết mới về người phụ nữ. Bên cạnh bản năng tính dục,

còn một thứ bản năng nữa ở người phụ nữ mà các cây bút nữ phô bày với tất cả sự

thấu hiểu của đàn bà cũng như niềm kiêu hãnh của đàn bà: bản năng sinh tồn. Các

nhà văn hướng đến chức năng thiêng liêng của người đàn bà, đó là sự sinh nở.

Nhiều nhân vật trong sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ

thể hiện bản năng làm mẹ (“Người đàn bà có ma lực”, “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ”,

“ABCD”, “Tôi và anh”; “Con thằng bé và con rắn”, “Xuân Từ Chiều”, “Bảy ngày

mong đợi”, “Tiểu thuyết đàn bà”, “Đàn bà xấu thì không có quà”, “Gia đình bé

mọn”, “I am đàn bà”,…). Chức năng làm mẹ, khao khát được làm mẹ xét cho cùng

vẫn là biểu hiện của bản năng sinh tồn giống loài được dồn chứa từ trong vô thức

của người nữ.

Làm mẹ là mong muốn, khát khao của mọi người phụ nữ, là thiên tính bẩm

sinh của người phụ nữ “bản tính làm mẹ là phản xạ bẩm sinh ở phụ nữ.” [12, tr.34]:

“Đêm ấy tôi trổ hết bản năng của một người đàn bà để cho một mong ước, có một

con người được kết thành thai. Tôi muốn tự cứu chuộc cuộc đời mình”. Mặc dù bị

người đàn ông mình si mê cả cuộc đời gọi là chó cái nhưng: “Dẫu có là chó cái, tôi

cũng sẽ sinh ra một đàn chó con. Tôi nhủ thầm trong lòng”. [19, tr.31,32].

Người phụ nữ cảm thấy mãn nguyện, hoan hỉ, thấy mình “có giá” khi mang

thai và sinh con. Với tư cách người vợ, người phụ nữ gắn liền với sứ mệnh “tòng

phu”, theo chồng, phụ thuộc vào chồng; là đối tượng tình dục (trong quan hệ tính

giao với chồng), là “bà nội trợ” trong gian bếp. Nhưng khi mang thai và sinh con,

họ được những người xung quanh, gia đình, chồng trọng vọng. Thậm chí trong thời

kỳ thai nghén, những mong muốn, những nguyện vọng của họ trở thành thiêng liêng

và được đáp ứng vô điều kiện. Đứa con làm vị thế của người nữ trong gia đình thay

đổi. Văn chương là nơi thể hiện những khao khát, đam mê, và những điều sâu kín

nhất trong tâm hồn con người: “Thế giới đàn ông và thế giới phụ nữ là những thế

58

giới khác nhau. Chúng giao thoa với nhau ở một chỗ nhưng không hoàn toàn trùng

nhau. Trong thế giới phụ nữ, điều có ý nghĩa hơn cả là những vấn đề gắn với tình

yêu, gia đình, con cái” [173, 16, tr.128]. Là những người đã từng làm vợ, làm mẹ,

các cây bút văn xuôi nữ có lợi thế rất lớn trong việc diễn tả khát khao làm mẹ của

người nữ. Họ quan niệm: “Người ta có thể vì cái gì mà bỏ bố mẹ, anh em chứ

không thể bỏ con.” [49, tr.263]. Hãy lắng nghe khát vọng được mang thai và sinh

con của một người phụ nữ trong văn xuôi nữ đương đại: “Cô ao ước rằng…. sẽ sinh

hai đứa con, con gái đầu lòng, con trai thứ. Nghĩ đến con cô hơi chạnh lòng, cũng

nghĩ quẩn, sao mà cô chưa có thai lần nào nhỉ. Không kể bảy lần trong hang núi mà

khi đó Tuấn đã đánh thức tất cả các tế bào sinh sôi của Xuân dậy thì những lần gặp

sau đó cô và anh luôn như hai kẻ đói ăn, khát uống hàng thế kỷ. Họ yêu nhau như

thể ngày mai trái đất sẽ vỡ tung. Vậy mà sao chưa một bận nào kết thai?” [tr.38].

Kể cả khi người phụ nữ không được tạo hóa ưu ái về nhan sắc, về hình thể, đôi chân

tật nguyền, là nỗi khiếp sợ của đàn ông mỗi khi nhìn vào, nhưng nữ tính của họ vẫn

được thể hiện ở khao khát cháy bỏng có một đứa con: “Nấm rất yêu quý trẻ con.

Mỗi lần nhìn thấy một đứa bé là Nấm ngắm mê mải rồi ao ước được bế bồng, hôn

hít nó. Một đứa con. Bao lần Nấm đã thầm ước ao Nấm có một đứa con” [20, tr.97].

Người phụ nữ yêu thương chồng, sẽ hết lòng hết dạ với đứa con, chăm sóc con và

chờ đợi chồng, cô cảm thấy hạnh phúc vì được làm mẹ và muốn chia sẻ niềm hạnh

phúc ấy với cha đứa bé: “Buổi chiều, Lụa mặc cho con gái một cái áo màu tím nhạt,

quấn nó vào cái chăn con, đi xích lô đến nhà người lính mắt kém đang vót tăm để

sống. Cô không thể chịu đựng được sự xa cách với Sánh nữa rồi. Giả dụ nếu không

có bé Khánh, có lẽ Lụa cũng nuốt nỗi đắng cay ấy vào lòng. Bỗng nhiên, cô được

làm mẹ. Cô phải chia sẻ niềm hạnh phúc đó với anh.” [49, tr.177].

Nữ tính của người nữ trong văn xuôi nữ đương đại không chỉ được kiến tạo ở

việc người phụ nữ mang thai và sinh con mà còn được biểu đạt ở mẫu tính (một

kiểu nhân tính điển hình của giới nữ). Mẫu tính không hoàn toàn đồng nhất với

chức năng làm mẹ. Mẫu tính còn có thể được hiểu như một phẩm chất của nữ giới là

ban phát mà không cần nhận lại, là nâng niu, chăm chút cho người khác, là sự bao

59

dung, vị tha, là đức tính “nhường”. Nhân vật nữ (trong “I am đàn bà”) xưng là “thị”

(“thị” là từ để chỉ một người đàn bà nào đó trong muôn ngàn người đàn bà Việt

Nam) thể hiện bản năng làm mẹ khi gặp một đứa bé mới sinh, bị bỏ rơi. Thị thấy

thương, vì lòng từ tâm, thị đã nâng niu, chăm chút cho đứa trẻ và bế về nhà, nhận

làm con luôn, dù nhà thị rất nghèo, thị và chồng đã có một lũ con đang sống

trong cảnh cùng cực nghèo đói [18, tr.6]. Đôi khi, bản năng làm mẹ khiến cho

người phụ nữ chỉ cần làm mẹ mà không cần làm vợ [nếu đó là cuộc hôn nhân

không tình yêu], người phụ nữ coi trọng tình yêu hơn là danh dự “cô không sợ

lằn lưỡi môi, búa rìu dư luận chung quanh bởi đó là đời tư của tôi mắc mớ gì

thiên hạ”, “Cẩm nhìn người đàn ông trước mặt, chú ý tới nước da, vóc dáng, mắt

mũi, vì đó có thể là những đặc điểm di truyền cho đứa trẻ đang cựa quậy trong

lòng chị. Chị thường nghĩ sau này sẽ sống như thế nào với đứa con. Nhưng chị

không hề xét đến trường hợp chung sống với một người đàn ông cứ khẳng định

rằng chị không hiểu anh ta, người đàn ông mà chị biết rõ mình không yêu, không

trọng, cũng không hoà hợp được [64, tr.68].

“Mang thai là một bi kịch giữa mình với mình của người phụ nữ, họ cảm nhận

việc mang thai vừa như một sự phong phú thêm, vừa như một sự bị hủy hoại. Cái

thai là một phần của thân thể mình, và là một vật ký sinh lợi dụng nó, họ chiếm hữu

nó và bị nó chiếm hữu, nó thâu tóm toàn bộ tương lai, và trong lúc mang nó trong

lòng, họ tự cảm thấy mênh mông như vũ trụ” [173, tr.157]. Mang thai là niềm hạnh

phúc vô tận của người phụ nữ bởi khi họ mang thai, một đời sống mới sẽ được thể

hiện, khẳng định và xác minh vị thế của họ trong gia đình.

Khảo sát sáng tác của các cây bút nữ văn xuôi đương đại, chúng tôi nhận thấy

các nhân vật nữ một mặt thể hiện niềm hạnh phúc khi sắp được làm mẹ, một mặt họ

lo lắng, kinh hãi phải che dấu thân thể khi mang trong mình mầm sống với người

mình yêu thương bởi họ là những người phụ nữ “chửa hoang” (không chồng mà

chửa). Định kiến xã hội cho rằng đó là một cái “tội”, bản thân người phụ nữ không

bước qua được mặc cảm khi sinh con đứa trẻ sẽ là “con hoang”. “Lụa đang sống

trong những ngày thật hạnh phúc nhưng cũng đầy kinh hãi. Đứa con trong bụng lớn

60

dần. Cô càng lấy khăn buộc nhỏ lại thì bụng cô càng nhô cao hơn. Của anh ấy. Anh

ấy bây giờ ở đâu nhỉ. … Đàn ông, cái sự quên nhớ của họ đều có ý thức. Họ đã

không muốn cái gì thì đừng có cố mà giữ, đâu phải cứ có ba đầu sáu tay phồng

mang trợn mép lên là giữ được? Anh không đến, có nghĩa là anh không muốn. Vậy

Lụa tìm để làm gì? ” [49, tr.174 -175].

Mang thai với người phụ nữ có hôn nhân hợp pháp là niềm hạnh phúc vô tận

nhưng với người phụ nữ “không chồng mà chửa” là một nỗi sỉ nhục, một “chất độc

nhơ nhuốc gia phong” mà đến người thân cũng không thể hiểu và thông cảm được:

“Mẹ vượt biên một mình vì lúc đó mẹ không có chồng mà có thai. Ông bà ngoại

con không thể chịu đựng nỗi sỉ nhục đó” [64, tr.57]. Giải pháp đối với người nữ có

thai nhưng không chồng là “bỏ xứ đi, sinh con ở hoang đảo, qua tới Mỹ kiếm một

người đàn ông chụp hình chung để gởi về nhà để ông bà ngoại đưa cho bà con xóm

giềng xem, và nói với họ là mẹ có chồng con tử tế".” [64, tr.57] hoặc kết hôn với

người đàn ông khác để hợp lý hóa cái mầm sống trong bụng: “Mẹ tôi và bố tôi

(người đàn ông tôi chưa biết mặt) yêu nhau. Mẹ mang thai tôi. Khi biết tin ấy bố tôi

đã lặng lẽ ra đi không một lời từ biệt. Mẹ gặp chú Thới khi mẹ có thai tôi ba tháng.

Hai người lấy nhau. Nửa tháng sau. Chàng trai lần đầu lấy vợ biết mình bị lừa.

Cuốn gói chạy khỏi mẹ tôi như chạy một con chuột chết”[49, tr.265]. Sáng tác văn

xuôi nữ đương đại thể hiện hình ảnh người phụ nữ mang thai nhưng không có hôn

nhân hợp pháp, điều văn chương ít nói đến khi viết về người phụ nữ. Đây chính là

một diễn ngôn mới về giới nữ, định nghĩa lại nữ tính: dù không được làm vợ, họ vẫn

có quyền làm mẹ.

Simone de Beauvoir trong “Giới nữ” (tập 2) nói về nỗi đau của người phụ nữ

khi phá thai, đã nhận xét rằng, phụ nữ phá thai vừa đau đớn về thể xác, vừa có cảm

giác “tội lỗi”, cảm giác mình là tội phạm. Cảm giác đó có phần ít “gay go” hơn với

những phụ nữ có chồng: “họ hành động với sự đồng tình của chồng và không bị day

dứt với những điều trăn trở vô bổ. Nhưng họ phải chịu những nỗi đau thể xác khủng

khiếp” [173, tr.144].

61

Sáng tạo ra con người là thiên chức cao quý của người phụ nữ nhưng trong

trường hợp mang thai ngoài ý muốn thì người phụ nữ là người chịu thiệt thòi. Họ

thường quyết định phá thai khi bị người đàn ông ruồng bỏ, hoặc do vì một lý do nào

đó. Vì lo sợ định kiến của xã hội về vấn đề không chồng mà lại có con, sợ bố mẹ

không chịu được cú sốc nặng khi biết con gái chửa hoang, bị người thân hắt hủi, rồi

sự suy sụp về tinh thần, không người đàn ông nương tựa... trong hoàn cảnh đó, rất

nhiều phụ nữ đã không thể mạnh mẽ làm bà mẹ đơn thân, không đủ can đảm để đối

mặt với tất cả. Cũng có thể vì thai phụ còn đang đi học, chưa đủ điều kiện để kết

hôn và sinh con... Có lẽ vì vậy mà họ đã tìm đến việc phá thai như một giải pháp tốt

nhất để thoát khỏi mọi nỗi lo lắng ấy. Phá thai được coi là “một tội ác ghê tởm

không nên nói tới. Nếu một nhà văn miêu tả niềm vui và nỗi đau của một sản phụ

thì người ta hoan nghênh. Nhưng nếu nói về một phụ nữ phá thai thì bị lên án là bị

ngụp lặn trong rác rưởi” [173, tr.132]. Phá thai liên quan đến văn hóa, đạo đức, tôn

giáo. Đạo Phật và Ki Tô giáo cho rằng phá thai là một hành động phi đạo đức đồng

nghĩa với tội ác vì nó đã hủy diệt mạng sống của một sinh linh bé bỏng. Người mẹ

được xem là tội phạm trực tiếp gây nên tội ác này và phải bị trừng phạt. Những

người theo theo thuyết nữ quyền cho rằng “cơ thể tôi là của tôi”, nói cách khác phụ

nữ có quyền phá thai vì thai nhi nằm trong bụng họ. Quyền được phá thai là nền

tảng cho sự tiến bộ của người phụ nữ. Đó là một trong những quyền chính yếu để

phụ nữ có được sự bình đẳng với nam giới. Người phụ nữ cũng không có trách

nhiệm đạo đức với việc mang cái thai mà mình không hề mong muốn. Do đó,

người phụ nữ vẫn có quyền phá thai. Như vậy, xét trên phương diện đạo đức, văn

hóa, không có quan niệm nào, không triết thuyết được coi là giải quyết vấn đề một

cách tận căn, khách quan, hoàn toàn đúng đắn khi việc phá thai. Phá thai hay không

phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau, người quyết định phải là phụ nữ bởi “sự

sinh đẻ bất đắc dĩ dẫn tới kết quả “ném” vào xã hội những đứa trẻ ốm o mà bố mẹ

không có khả năng nuôi dưỡng, chúng sẽ trở thành nạn nhân của cứu tế xã hội hay

những “trẻ em tử vì đạo” [173, tr.134]. Phụ nữ có quyền với cơ thể của mình.

62

Phá thai trở thành một chủ đề lớn trong văn xuôi nữ nói chung và văn xuôi nữ

Việt Nam đương đại nói riêng. Các cây bút nữ đều thể hiện nỗi đau đớn, sự ăn năn,

dằn vặt khi phá thai dù là tự nguyện hay bị ép buộc. Đi sâu vào khám phá nỗi đau

của những nhân vật nữ trong sáng tác của bốn cây bút nữ Dạ Ngân, Lý Lan, Y Ban,

Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy vấn đề phá thai được thể hiện như sau:

Thứ nhất, người phụ nữ phá thai nhận được sự đồng tình của chồng. Đàn ông

cho rằng việc phá thai chỉ giống như một sự rủi ro mà người phụ nữ phải gánh chịu

một cách tự nhiên. Đàn ông bao giờ cũng cấm đoán việc phá thai nhưng khi đòi hỏi

người vợ hi sinh để thực hiện quyền lợi của mình, họ đặc biệt chấp nhận nó như một

giải pháp thuận lợi nhất. Trong trường hợp này, người phụ nữ nhận được sự đồng

tình của người chồng và ít bị day dứt hơn. Tuy nhiên họ vẫn phải chịu những nỗi

đau khủng khiếp về thể xác. Người phụ nữ tự cảm thấy mình tội lỗi, nhận thức ấy

khiến họ đau đớn bội phần.

Không phải người phụ nữ từ bỏ đứa con không luyến tiếc mà họ phá thai vì

đàn ông thuyết phục. Với người đàn ông, tình yêu và gia đình không phải là duy

nhất mà sự nghiệp mới chiếm vị trí quan trọng số một trong cuộc đời. Vì thế mà anh

ta sẵn sàng hi sinh tất cả để phấn đấu cho sự nghiệp. “Suốt đời họ là những chủ thể

tối thượng và người đàn bà được yêu chỉ là một giá trị trong số những giá trị khác”

[173, tr.312]. Trong “Gia đình bé mọn”, Dạ Ngân đã miêu tả nỗi đau tột cùng cả về

thể xác lẫn tinh thần của nhân vật nữ chính khi phá thai nhiều lần vì sự nghiệp

“phấn đấu” của chồng. Vì sự nghiệp mà Tuyên sẵn sàng “hi sinh” giọt máu của

mình không phải một mà nhiều lần, bỏ mặc vợ quằn quại trong những cơn đau về

thể xác và tinh thần trong bệnh viện. Tuyên tính toán kín kẽ, chu đáo, bí mật cho vợ

phá thai vì sợ dư luận, sợ mọi người biết: “Tuyên muốn việc trục thai này diễn ra ở

một nơi thật xa, trong im lặng, trong bí mật, nếu không thì bên vợ, bên chồng và cả

những người chung cơ quan sẽ không hiểu tại sao người ta có thể bỏ đi giọt máu

hạnh phúc có ý nghĩa kỉ niệm một giai đoạn mới của vợ chồng và của đất nước”

[90, tr.57]. Người phụ nữ đồng tình với sự phấn đấu của chồng: “Tiệp không hiểu

cụ thể hai từ phấn đấu của chồng, chẳng lẽ nàng chưa từng phấn đấu để được tồn tại

63

trong đội ngũ với một nách con nhỏ, phía Tuyên thì không có ai cản trở, đối thủ

càng không, cái mốc mà Tuyên muốn đề cập là cây số mấy, thời điểm nào, bao giờ?

Nhưng nàng thấy chồng có lý, đơn giản vì Tuyên né tránh con cái và nàng cũng

muốn hít thở sâu hơn nữa không khí rỗi rãi, hòa bình sau 3 năm về quê lóp ngóp

làm ruộng vườn với má” [90, tr.56]. Mỗi lần phá thai là mỗi lần người phụ nữ phải

chịu nỗi đau tận cùng về thể xác: “Nàng bấu chặt hai bàn tay vào thành Inox của

bàn sản, tưởng như có từng nhát cuốc bổ xuống, âm thầm, nhói buốt, cào xé, hai

bắp đùi run bắn như đang bị người ta xé đôi như xé một con ếch. Hai hàm răng va

vào nhau lập cập, lạnh quá, lạnh như đã chui xuống tận âm ti nhưng những thứ cuốc

thuổng ấy vẫn cứ đào khoét và chúng âm thầm ghì nàng xuống, xuống mãi, xuống

đến cái nấc cuối cùng của con đường địa ngục ” [90, tr.51].

Cũng có trường hợp phụ nữ phá thai do không chủ động sinh con vì một lý do

nào đó. Trong “Xuân Từ Chiều” (Y Ban), một trong ba nữ nhân vật chính - Từ từng

tám lần phải miễn cưỡng chối bỏ bào thai của mình vì Từ là công chức dưới thời

bao cấp (không xin được việc trong nhà nước) phải đi kiếm sống vỉa hè nên không

có đủ điều kiện nuôi con. Lần nào Từ cũng có cảm giác rất sợ, rất đau, nỗi đau kéo

dài như dứt ruột, còn người chồng thì bỏ mặc vợ với những cơn đau: “Có chồng đưa

đi Từ đỡ sự hơn…Từ muốn gồng mình lên để đỡ đau, cái đau như rứt ruột ra. Từ sợ

cái đau kéo dài ra thì chết mất.” [19, tr.109], “Như lần trước Cương để từ ở cổng rồi

ra quán nước ngồi. Từ sợ lắm run lẩy bẩy, mồ hôi chân tay túa ra ướt đẫm. May mà

cũng nhanh” [19, tr.214].

Thứ hai, người phụ nữ bị ép buộc phá thai do bị ngăn cản về hôn nhân hay

kiếp nhân tình bị bỏ rơi. “Bức thư gửi mẹ Âu Cơ” là lời khẩn cầu đầy nỗi đau về thể

xác, về tinh thần của người con gái bị ép phải từ bỏ thiên chức làm mẹ khi người mẹ

ngăn cản hôn nhân.

Người phụ nữ mang thai mà không có hôn nhân hợp pháp (như đã nói trong

phần trên) thì việc từ bỏ cái bào thai là điều tất yếu khi họ không đủ sức mạnh bước

qua định kiến xã hội, mặc cảm của bản thân .“Nàng có mang, đấy là hệ quả tất yếu

của một sự sơ sểnh.” Hệ quả của sự sơ sểnh của kiếp nhân tình là cảm giác đau đớn

64

“trong bụng nàng lại tụt ẫng ra chất lỏng” khi phá thai: “Bước xuống cầu thang

nàng cảm thấy đầu gối hơi bủn rủn. Nàng nhắc mình phải thật nhẹ nhàng, cẩn thận.

Đến bậc cầu thang cuối từ bụng nàng tụt ẫng ra một khối chất lỏng. Nàng sợ hãi

khép chặt hai đùi rồi từ từ ngồi xuống bậc cầu thang… Nàng đi ra cổng, mỗi bước

chân của nàng đi, từ trong bụng nàng lại tụt ẫng ra chất lỏng.” [16, tr.50]

Nói chung, người nữ chấp nhận việc phá thai là hi sinh nữ tính của mình. Dù

tự nguyện hay ép buộc bị phá thai, họ đều coi đó là một tai họa, một sự khuyết tật

cho giới tính của mình. Phụ nữ thường quá rụt rè, yếu đuối nên không thể chống lại

được ác ý của đàn ông. Họ cho rằng mình vừa là “nạn nhân”, vừa là “tội phạm”,

vừa đau đớn về thể xác, vừa cảm thấy ám ảnh, dằn vặt về tinh thần. “Chính họ là

hiện thân của lỗi lầm đàn ông dưới một gương mặt cụ thể và tức thời, một gương

mặt tự thân” [173, tr.147].

Sinh con (sinh đẻ) là sự hoàn tất quá trình mang thai của người phụ nữ, là sự

vượt qua thử thử thách cuối cùng để hoàn chỉnh nữ tính. Tùy theo trường hợp, sinh

đẻ mang tính chất rất khác nhau. Simone de Beauvoir cho rằng: sinh đẻ, đối với một

số ít phụ nữ là một cực hình (bởi thời kì thai nghén và quá trình sổ nhau); một số

phụ nữ cho đó là một sự thử thách tương đối dễ vượt qua, một số ít cho đó là khoái

cảm của nhục dục, có những phụ nữ lại cho rằng đó là sự sáng tạo trong lúc lâm bồn

và đã thực sự hoàn thành một công việc bổ ích, nhiều người cảm thấy thụ động,

thấy mình là một công cụ chịu đau đớn, đọa đày [173, tr.173]. Với tư cách là chủ

thể trong sáng tác văn chương, các cây bút nữ văn xuôi đương đại tự do bộc lộ

những cảm xúc, kể cả những vật vã trong nỗi đau miên man như xé cơ thể, cả sự rủi

do khi bị băng huyết dẫn đến cái chết.

“Gia đình bé mọn” của Dạ Ngân miêu tả người nữ sinh đẻ là một cực hình,

Tiệp cảm mình là một công cụ chịu đau đớn. Khi chị cần sự giúp đỡ của người thân,

nhất là của người chồng, cần có nguồn động viên tinh thần lớn lao để vượt qua nỗi

đau thể xác thì người chồng lại càng vô tình, bận bịu với việc phục tùng cấp trên,

phấn đấu địa vị. Tiệp một mình vượt cạn 2 lần, cả 2 lần sinh đều không có Tuyên

bên cạnh: “Rốt cục nàng chỉ có một mình, cơn đau như đẩy từ phía sau tới, thanh

65

giường sắt trong phòng chờ như mềm hẳn đi trong 2 tay, nàng thấy đứa con như

xoay tròn vùng vẫy một cách tuyệt vọng bên trong để được thoát ra, được mau

chóng làm người, lúc đó nàng cảm thấy tai tóc mình như dựng đứng hết lên, từng tế

bào rộp phồng,… Nàng chuyển bụng trong căn phòng không có người, cả 2 lần sinh

đều không có Tuyên bên cạnh. Nước ối bục như đập vỡ, nàng ôm bụng đi khum

khum kêu cứu cứu… tiếng khóc của đứa trẻ nghe qua cũng biết chỉnh chu và yếu

đuối” [90, tr.61].

My trong “Thiếu phụ chưa chồng” cũng chịu nỗi đọa đày thể xác và tinh thần

như Tiệp. Cô gái trẻ lần đầu sinh con nhưng không có chồng, cũng không có tình

nhân bên cạnh bởi đàn ông của cô chỉ biết đặt sự nghiệp lên hàng đầu: “Bây giờ khi

nàng đau đớn như bị xé nát thân mình thì My chỉ có một mình. Dương thì đi xa,

Hoàng biết nhưng anh luôn đặt việc làm ăn lên trên hết, tiền là tất cả, tình cảm chỉ

lúc não rỗi thôi” [49, tr.232].

Không phải lúc nào người phụ nữ cũng sinh thuận lợi, có những ca đẻ khó đặt

tính mạng của mẹ con như ngàn cân treo sợi tóc. Trong “ABCD’, Y Ban miêu tả

chân thực từng cơn đau vật vã của người phụ nữ trong ca sinh đẻ khó nhưng nhà

chồng yêu cầu không được sinh mổ mà phải sinh thường. Kết thúc những cơn

đau miên man, vật vã ấy là người phụ nữ lại rơi vào đau bị băng huyết. Không phải

lúc nào người phụ nữ sinh đẻ cũng được “mẹ tròn con vuông”. Có những nỗi đau

sinh con vì mất máu quá nhiều nên dẫn đến tử vong (“Thần cây đa và tôi”).

Bản năng và thiên chức làm mẹ của người phụ nữ còn thể hiện ở việc cho con

bú. Qua việc cho con bú, người mẹ tìm thấy ở đứa con một mối dây liên hệ sâu đậm

về tình cảm. Người phụ nữ rất coi trọng việc cho con bú bởi sữa mẹ có tác dụng rất

lớn đối với sự sinh trưởng của đứa trẻ: “sữa nuôi phần xác, hát nuôi phần hồn”

(Nguyễn Duy). Nhiều người phụ nữ cảm thấy vui vẻ khi cho con bú, lo lắng khi bị

mất sữa: một nhân vật nữ diễn tả cảm xúc khác nhau của người mẹ khi mỗi lần cho

con bú cho con bú: “Đến giờ ăn con bé ọ ẹ đòi bú. Từ vén áo lên, hai cái vú nhẽo

nhèo. Vú đàn bà nuôi con nhỏ phải căng nây mới nhiều sữa. Từ nặn mãi mới ra

được mấy giọt. Từ đưa vú vào mồm con. Con bé ngoạm lấy mút chùn chụt. Rồi nó

66

cằn nhằn nhả ra khóc. Từ sợ quá, nếu không có sữa biết lấy gì nuôi con đây. Mua

sữa ngoài tốn lắm mà Từ thì không có tiền” [19, tr.45].

Vai trò làm mẹ của người phụ nữ không dừng lại ở việc mang thai, sinh con

mà được duy trì, thực hiện suốt cuộc đời. Phụ nữ là người chăm sóc và giáo dục con

cái chủ yếu, với tình yêu thương vô bờ bến, là hơi ấm, là chỗ dựa tinh thần to lớn

đối với mỗi đứa con. Nhờ vai trò đặc biệt đó mà phụ nữ trở thành người khéo léo,

biết lo toan, tươm tất mọi bề: từ cái ăn, cái mặc, đến học hành, vui chơi, giải trí của

mỗi thành viên trong gia đình,…tạo nên sự bí ẩn nữ tính của người nữ.

Văn chương nói chung, văn xuôi nữ Việt Nam đương đại nói riêng đã dành

nhiều trang viết để ca ngợi người phụ nữ trong vai trò làm mẹ ở sự chăm sóc, yêu

thương, hi sinh bản thân vì hạnh phúc và lợi ích của con cái (“Người của mỗi

người”, “Đàn bà xấu thì không có quà”, “ABCD”): “Tôi khóc như mưa gió. Tôi gào

lên: trời đất ơi nếu trời đất thấy tôi nhàn thân quá. Tôi xin làm con trâu con chó.

Thấy tôi hạnh phúc quá, tôi xin nhường chồng tôi cho người khác. Thấy tôi đủ ăn

quá, tôi xin nhịn đói nhịn khát. Thấy nghề nghiệp của tôi tốt đẹp quá,, tôi xin đi nhặt

rác, ăn mày, xin đừng động vào con tôi trời đất ơi.” (“ABCD” - Y Ban)

Người phụ nữ có thể không thực hiện vai trò làm vợ (khi hôn nhân tan vỡ)

nhưng trong đáy sâu tâm hồn của họ vẫn chan chứa một tình mẫu tử thiêng liêng

cao cả: bỏ chồng nhưng không bỏ con. Ngay cả khi Tiệp dám dứt bỏ tất cả (dọn đồ

đạc, dắt con ra khỏi nhà) để bước về phía tình yêu đang vẫy gọi với Đính thì những

đứa con với Tiệp vẫn là trên hết: “Nếu không có Thu Thi thì nàng đã không để Vĩnh

Chuyên về với ba nó, nhưng Thu Thi là Thu Thi, Vĩnh Chuyên là Vĩnh chuyên,

không đứa con nào có thể thay thế đứa con nào trong lòng mẹ, tình mẫu tử không

chật nhưng nó có nhiều ngăn, các đứa con bình đẳng nhau trong những cái ngăn đó

mà nếu có một ngăn bỗng chốc trống đi thì nó sẽ sụp xuống thành một nấm mồ chứ

không thể lấp đầy bằng ai khác. Vĩnh Chuyên đi xuống cầu thang, tiếng dép lóc cóc

của nó dẫm lên ruột gan nàng, nếu không có Thu Thi chắc nàng đã lao đầu qua cửa

sổ”. Tiệp ân hận day dứt, cảm thấy minh có lỗi khi xa con ra Hà Nội sống với Đính:

“Nàng muốn đào bới, muốn vạch đất xé trời để được nhìn thấy các con, giá có thể

67

chạy bộ mà trở về được!- Em không tha thứ cho mình được. Sao em có thể bỏ con

mà đi như vậy được ?” [90, tr.277].

Chỉ có trong hôn nhân, vai trò của người mẹ được tôn vinh. Người phụ nữ có

con ngoài giá thú vẫn bị khinh miệt. Sự hiện hữu của đứa con như một nhân chứng

cho sai lầm tai hại trong cuộc đời, họ căm giận số phận đàn bà của mình. Bởi vậy,

trong một số trường hợp người phụ nữ bị từ chối vai trò làm vợ thì họ cũng khước

từ vai trò làm mẹ, khước từ mẫu tính vốn được xem là phẩm chất và thiên chức

thiêng liêng của người mẹ. Nhân vật người mẹ trong “Hậu thiên đường” (Nguyễn

Thị Thu Huệ) đã đi qua những năm tháng dài bên cạnh đứa con trong sự thờ ơ, lạnh

nhạt, đôi khi gét bỏ, người bởi: “Mặt con gái tôi giống người bố của nó. Nó không

bao giờ biết được điều đó vì khi nó hiện hữu trên đời này thì người thực sự là bố

của nó đã ở một nơi xa tít tắp. Bây giờ, khi tôi bốn mươi tuổi, chợt thấy tại sao lâu

nay mình để tuổi thơ của con trôi qua trong nỗi buồn của sự cô đơn và hứng chịu

nỗi cay đắng của một người đàn bà bị phụ bạc.” [49, tr.288], “Chỉ có con tôi là khổ

thôi. Cũng như cái sự sinh ra nó trên đời này. Ngày ấy, khi sung sướng chúng tôi

chỉ nghĩ đến mình, nhưng khi đau khổ tôi lại mang nó ra mà so, mà ngắm, và nhìn

nó như một chướng ngại vật cản trở tôi trên bước đường đời. Nó chẳng có tội gì. Nó

là sản phẩm của nỗi đam mê. Ai sướng. Ai hạnh phúc? Nó không biết. Chỉ được

biết và được hưởng sự cô đơn, nỗi dằn vặt mà thôi. ” [49, tr.289].

3.2. Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong đời sống xã hội

“Khác với người phụ nữ truyền thống, người phụ nữ Việt Nam thời nay tuy

mối quan hệ gia đình vẫn là trọng tâm nhưng họ có thêm mối quan tâm vượt ra khỏi

ranh giới gia đình như có nghề nghiệp hay tham gia các quan hệ cộng đồng” [7,

tr.64]. Người phụ nữ đương đại đã bước ra khỏi giới phận, không gian gia đình

khép kín đề vươn tới không gian chung của cả cộng đồng xã hội. Người nữ ngoài

việc thực hiện trọn thiên chức, vai trò, của mình làm “bà nội trợ đảm đang”, người

vợ, người mẹ, còn không ngừng học hỏi, rèn luyện để trở thành người có trình độ,

có tri thức, tham gia vào các công việc trong xã hội và không ít người phụ nữ đã đạt

đến vị trí rất cao trong mọi lĩnh vực “giỏi việc nước”. Nhiều phụ nữ tham gia các

68

hoạt xã hội hơn cả nam giới và họ đã mạnh dạn ứng cử, xung phong làm những

công việc mà từ trước đến nay chỉ dành cho nam giới. Họ đã thật sự thoát khỏi

những định kiến, lễ giáo cổ hủ, hà khắc để khẳng định vị thế của mình trong xã hội,

thực hiện hài hòa hai vai: việc nhà, việc nước để vừa có cơ hội phát triển cho bản

thân, vừa bảo toàn hạnh phúc gia đình.

Người phụ nữ hiện đại biết cách cân bằng trách nhiệm gia đình với việc tham

gia các hoạt động kinh tế ngoài xã hội. Quan niệm về sự “đảm đang” của người phụ

nữ cũng thay đổi, không bó hẹp trong “khuôn khổ” của gia đình. Người phụ nữ hôm

nay có tri thức nhiều hơn, được độc lập về kinh tế nhiều hơn, và đồng thời cũng biết

cách tạo ảnh hưởng của bản thân đối với các thành viên trong gia đình rõ nét

hơn. Họ lấy giá các giá trị bền vững của gia đình làm nền tảng để tiếp nhận những

giá trị mới làm cho gia đình phát triển hơn và hạnh phúc hơn. Cũng chính nhờ phát

huy tính năng động, sáng tạo trong công tác xã hội mà người phụ nữ có thể làm tốt

hơn những thiên chức của mình trong gia đình. Trong xã hộ phong kiến, người phụ

nữ phải phục tùng sứ mệnh “Tam tòng, tứ đức”, chế độ “nhất nam viết hữu, thập nữ

viết vô” đã đẩy vị trí người phụ nữ xuống sâu dưới đáy xã hội. Đến xã hội hiện nay,

khi mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ được pháp lý quan tâm, được xã hội

lên tiếng đấu tranh cho bình đẳng giới thì vai trò của người phụ nữ không chỉ dừng

lại và được khẳng định ở trong gia đình, mà ngoài xã hội họ hoàn toàn bình đẳng

với nam giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội... Phụ nữ có quyền thể

hiện mình, quyền bày tỏ những cảm xúc, những tâm tư tình cảm của mình đối với

gia đình và xã hội. Bên cạnh gia đình và xã hội tạo điều kiện cho phụ nữ đảm đương

được vai trò của mình trong xã hội thì vai trò tự thân của mỗi phụ nữ là rất quan

trọng. Người nữ phải tích cực, chủ động tạo dựng vị thế của mình trong xã hội.

3.2.1. Sự kiến tạo tri thức của người nữ

Xã hội phong kiến chịu ảnh hưởng mạnh của Nho giáo với “lời nguyền” của

Khổng Tử “nữ nhi nan giáo” (phụ nữ khó dạy), phụ nữ ở Việt Nam dù không bị bạc

đãi như ở nhiều nước khác nhưng riêng đối với sự học lại phải đứng ngoài: “Nhưng

các cụ ta ngày xưa cho đàn bà là kém hẳn đàn ông, không thể dạy cho bằng đàn ông

69

được. Không những thế mà lại cũng không cần phải dạy nữa, vì âm vốn phải tùy

dương, nhu vốn phải thuận cương, đàn bà nhất sinh gồm trong ba chữ tòng; dạy cho

lắm, học cho lắm cũng là thuộc về vô ích. Nói sự giáo dục đàn bà con gái thì nước

ta tuyệt nhiên không có. Không phải rằng ngày xưa không có lắm bà hay chữ, lắm

bực tài tình, nhưng đó là những người lỗi lạc xuất chúng, không thể kể được”

(Phạm Quỳnh), Rõ ràng trong xã hội Việt Nam xưa, đàn bà bị coi là không đủ phẩm

chất để theo học “chữ Thánh hiền”. Phụ nữ ngay từ nhỏ đã được gia đình giáo dục

về “tam tòng, tứ đức” chứ không được đến trường để giáo dục về tri thức. Ngay từ

đầu thế kỷ XX, Phan Khôi - khúc dạo đầu của phê bình nữ quyền” [151, tr.49] cho

rằng, phụ nữ ngày xưa chỉ lo việc tề gia nội trợ, làm vợ, làm mẹ, muốn làm tròn hai

cái bổn phận ấy không cần học nữa, phụ nữ ngày xưa không biết việc nhà ngoài chứ

đừng nói việc quốc gia xã hội. Đời nay, phụ nữ không chịu bó mình trong cái khuôn

khổ ấy nên mới đòi hỏi được giải phóng “Giải phóng nghĩa là phải đi học như đàn

ông”, “đàn ông làm người thế nào thì đàn bà làm người thế ấy” [57, tr.144]. Phan

Khôi cổ xúy mạnh mẽ cho việc phụ nữ được quyền được đi học như đàn ông, được

làm việc như đàn ông. Đạm Phương (một trong những nhà hoạt động nữ quyền đầu

tiên của Việt Nam) cũng đề cao vấn đề nữ học. Bà cho rằng: “Nay cái vấn đề nữ học

thật là một sự rất quan trọng thứ nhất trong mấy nghìn năm của nước ta…”, “sự

giáo dục học thức của con trai làm sao, thì của con gái cũng phải có làm vậy ” [104,

tr.477], “Nữ giới mà có học thức rộng, là lợi ích chung trong xã hội, chớ có riêng gì

cho đàn bà con gái mà thiệt thòi cho ai đâu?” [104, tr.478]. Trước đây, người phụ

nữ phải cam chịu cảnh mù chữ, người phụ nữ sắc sảo thông minh đến mấy cũng

không thể đọc, viết, cũng không được đến trường học. Ngày nay, đời sống văn học

ghi nhận sự xuất hiện đông đảo các nhà văn nữ, nhà phê bình văn học nữ được đào

tạo bài bản, thông thạo ngoại ngữ, nổi tiếng trong lĩnh vực này.

Bằng những trải nghiệm và tri thức của mình, các cây bút văn xuôi nữ kiến tạo

hình hình ảnh người nữ có tri thức, có quyết tâm học hành thành đạt để có một vị trí

trong xã hội. Người nữ tự giải phóng mình bằng con đường tri thức. Thế giới của

nhân vật xưng tôi trong “Cưới chợ” (Y Ban) từ cái buổi “cưới chợ” đến khi 18 tuổi

70

là những trang sách, từ thế giới đồng đất quanh năm chỉ trồng được cây lúa, cây

khoai, từ mái trường đình làng chỉ dạy cho đứa trẻ biết đọc, biết viết bỗng “nảy nòi”

ra một đứa trẻ học hành giỏi giang: “Tôi học hết trường đình, ra trường xã rồi lên

trường huyện. Tôi học một lèo, năm nào cũng được mấy bằng khen. Khi học xong

phổ thông, tôi được đi học nước ngoài” [16, tr.7]. Người phụ nữ ý thức rằng “tri

thức là sức mạnh” (Bê-cơn), chỉ có tri thức với tạo dựng được một sự nghiệp, mới

có chỗ đứng trong xã hội, cho nên: “Tôi học miệt mài, học đến khô đét cả thời con

gái. Trong đầu óc tôi luôn hiển hiện các khái niệm nhưng lại không có khái niệm

nào là thì yêu của con gái. Học xong đại học, tôi học tiếp tiến sĩ. Cầm tấm bằng tiến

sĩ trong tay tôi được một tổ chức quốc tế mời làm việc. Khi không còn bận rộn nữa,

có những phút được sống với chính mình, tôi thèm khát yêu đương.” [16, tr.10].

Người phụ nữ có tri thức không chỉ là niềm tự hào của gia đình, của dòng họ

mà là niềm tự hào của cả xã, cả huyện. Y Ban nhấn mạnh sự thành đạt về tri thức

của người phụ nữ với tấm bằng tiến sĩ khi trở về nước trong phái đoàn đi khảo sát

văn hóa truyền thống được đón tiếp thịnh soạn, những kế hoạch được đề cao như

sau: “Về nước, tôi đã được các ban ngành đón tiếp thịnh soạn. Những với cái vốn ít

ỏi của một người Việt mới sống có mười tám năm lại chỉ vùi đầu vào đèn sách,

bỗng chốc tôi trở thành chuyên gia văn hóa. Người ta đề cao những kế hoạch của

tôi. Người ta bảo tôi rất chu đáo và hiểu biết. Vì cái sự được đề cao đó nên tôi cố

phải nặn óc để nhớ cho ra một cái nét văn hóa truyền thống nào đấy mà tôi đã từng

được sờ thấy. Tôi bảo: Cưới chợ. Người ta ồ lên - Chao ôi, ngần ấy năm nào chị còn

nhớ được cưới chợ cơ à?” [16, tr.11 -12]. Giống như tôi, Yên - một cô bé mồ côi

cũng đên với hành trình tìm tri thức. Yên đã đấu tranh để bước qua cái định kiến

của làng quê: “đàn bà, con gái cần gì học cao, chờ vài năm nữa lớn lên đi lấy

chồng” [138, tr.364]. Yên học trường làng rồi ra tỉnh học trung học, rồi đại học. Tri

thức đã đem đến cho Yên một công việc, và ngày ngày Yên phải dốc sức làm cho

tốt dù công việc vô vị để được nâng lương, để giữ chỗ làm, “để là một người “giỏi”

trong đám đồng sự ưa ganh ghét”. [138, tr.367].“Và cứ thế ngày ngày Yên đến sở

làm, làm cái công việc được giao, nhảm nhí, vô vị, mà phải dốc sức làm cho tốt cho

71

hay, thể hiện sự nhạy bén và hiệu quả, để được nâng lương, để giữ chỗ làm, để là

một người “giỏi” trong đám đồng sự ưa ganh ghét và không biết lúc nào cái công ty

của mình sập tiệm, hay một sự cố nào đó xảy ra khiến mình mất việc….Mỗi ngày

có hai mươi bốn giờ, mười hai giờ tiêu cho việc kiếm tiền để chi cho sự ăn, ở, mặc.

đi lại,…còn mười hai giờ để ăn, ngủ, mặc, đi lại,…” [138, tr.367-368].

Xuân trong “Xuân Từ Chiều” là cô gái quê lên làm dâu ở một khu tập thể bệnh

viện, Xuân không an phận trong vai trò của người vợ, người con dâu mà luôn nỗ lực

phấn đấu học hành để có một công việc, một chỗ ở tại thành phố: “Cô muốn tốt

nghiệp lại giỏi để có cơ hội ở lại trường. … Cô ao ước rằng, chồng cô cũng được

học đại học. và sau đó hai vợ chông cùng có việc làm ở cơ quan nhà nước, được

phân một căn nhà đàng hoàng” [19, tr.35]. Nhờ nỗ lực phấn đấu, Xuân ngày càng

thăng tiến trong công việc, trở thành trưởng khoa của một trường đại học danh

tiếng. Tri thức mang đến cho người phụ nữ một vị trí, một chỗ đứng trong xã hội,

đồng thời mang đến cho họ cuộc sống như họ mơ ước: “anh chị đã xây được cái nhà

3 tầng khang trang, tọa lạc ngay mặt phố. Trong nhà chẳng thiếu thứ gì.” [19, tr.50].

Người phụ nữ có tri thức tự tin khẳng định sự thành đạt và cuộc sống hạnh

phúc của mình: “Bây giờ tôi đang là một người đàn bà thành đạt. Nếu đừng đòi hỏi

mọi thứ quá hoàn hảo thì tôi đã có những thứ tôi cần. Một căn nhà tiện nghi, một

người chồng tài hoa trẻ đẹp, hai đứa con khỏe mạnh ngoan ngoãn, một việc làm ổn

định có thu nhập cao, có uy tín trong công việc... Sự thành đạt đó phát tiết cả ra vóc

hình. Một gương mặt sáng láng tự tin. Một thân hình hấp dẫn. ?” [18, tr. 39]. Và đặc

biệt hơn, trên những trang viết của các cây bút nữ đương đại còn có bóng dáng của

người phụ nữ nghiên cứu khoa học: “Từ dùng chữ in hoa để viết vào giữa trang giấy

hai từ Đề Cương. Xuống dòng Từ viết tiếp, đề tài nghiên cứu xã hội học về đám

đông” [19, tr.209], “hôm nay tôi trân trọng gửi đến mọi người bản đề cương nghên

cứu đề tài đám đông của tôi” [150, tr.211].

3.2.2. Sự kiến tạo nghề nghiệp của người nữ

“Xã hội ngày nay đang tiến về một hình ảnh lứa đôi như hai người bạn đường,

mỗi người theo đuổi một dự phóng căn bản của đời mình nhưng đi chung với nhau

72

về một phương trời: cả hai đều tự do lựa chọn về địa vị xã hội, học lực, cùng làm

việc, giải trí, du ngoạn, cùng chia sẻ việc nội trợ, săn sóc con cái, cùng tham gia

vào những sinh hoạt xã hội,…Do đó, người đàn bà cũng có thể xây dựng sự

nghiệp, đạt tới công danh cùng với đàn ông.” [150, tr.30]. Trong đời sống xã hội

hiện đại, có nghề nghiệp đã trở thành một tiêu chí để đánh giá người phụ nữ cùng

với tiêu chí hôn nhân. Nhiều phụ nữ xem nghề nghiệp là nền tảng quan trọng để

làm tốt vai trò của mình trong gia đình. “Bí ẩn nữ tính” của người phụ nữ không

chỉ thể hiện ở vai trò của người nội trợ, người vợ, người mẹ mà còn là tạo dựng

nghề nghiệp và tham gia vào đời sống xã hội, bắt nhịp với đời sống hiện đại, thậm

chí là bắt nhịp với đời sống quốc tế. Đó cũng là một cơ sở quan trọng để người mẹ

thực hiện chức năng giáo dục con cái trong gia đình. Sự thành đạt trong sự nghiệp

không làm thay đổi vai trò của người phụ nữ trong gia đình. Họ là những người

“giỏi việc nước, đảm việc nhà”

Đi sâu vào khám phá thế gới nhân vật nữ trong sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban,

Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy một điều rất rõ ràng rằng trong

xã hội hiện đại, người phụ nữ không còn bị ám ảnh bởi những giá trị đạo đức xã

hội, những bổn phận, trách nhiệm khoác lên vai họ. Nhân vật nữ trong sáng tác của

các nhà văn tham gia vào nhiều lĩnh vực nghề nghiệp từ giúp việc, bán hàng rong,

tự kinh doanh buôn bán đến giáo viên, bác sĩ, nghiên cứu khoa học với những dự án

lớn,… Người phụ nữ có tri thức, có bằng cấp với khát vọng được làm công chức

nhà nước, có bảo hiểm, được về hưu dù lương ba cọc ba đồng chật vật đi qua thời

bao cấp được Y Ban thể hiện khá sâu sắc. Trong thời gian làm “công chức vỉa hè”,

kiếm được số tiền kha khá mỗi ngày từ việc bán xôi chim, Từ (“Xuân Từ Chiều”)

vẫn không nguôi hi vọng có một việc làm ổn định, sử dụng được kiến thức đã học ở

đại học. Từ được Xuân giới thiệu vào làm ở một trung tâm nghiên cứu xã hội: “Từ

được nhận vào làm việc với mức lương khởi điểm 1,86, được gần năm trăm ngàn

đồng, so với công chức vỉa hè hè thì còn kém xa, nhưng là biên chế nhà nước, mưa

không đến mặt, nắng không đến đầu, có bảo hiểm y tế, được về hưu.” [19, tr.181].

Từ cứ bình an lên lương theo công thức 3 năm một lần bởi hàng năm làm tốt công

73

việc viết báo cáo tổng kết: “Kể về công trình của em thì chưa có cái nào, chưa ai

giao cho em nghiên cứu cái gì. Hàng năm em vẫn được lao động tiên tiến vì giao

việc gì em hoàn thành tôt việc đó” [19, tr.208]. Người phụ nữ có tri thức, thành đạt

trong công việc và kiếm được rất nhiều tiền trở thành một người tự tin, làm chủ gia

đình, chăm lo cho gia đình từ cái kim, sợi chỉ đến chiếc ô tô: “Một quý bà tiến sĩ

môi trường. Ả rất thông minh và đang nổi tiếng. Hay được ti vi phỏng vấn. Hay

được làm ban giám khảo. Hay được mời chấm luận văn từ thạc sĩ trở lên. Đó cũng

là một lợi thế và đó cũng là một điểm yếu. Ả kiếm được rất nhiều tiền. Đó cũng là

một lợi thế và đó cũng là một điểm yếu. Ả rất hài hước. Đó là một lợi thế hoàn

hảo. Ả biết yêu bản thân mình. Đó cũng là một lợi thế và đó cũng là một điểm

yếu.Ả làm chủ gia đình. Đó cũng là một lợi thế và đó cũng là một điểm yếu. điểm

lớn nhất cảu ả là sự cả tin….Tổng hợp tất cả những điểm lợi thế và điểm yếu của ả

thành một người đàn bà tự tin và luôn làm chủ tình thế.” [21, tr.30]. “Công việc ở

cơ quan không có gì phàn nàn. Ả làm chủ những dự án. Những dự án nhà nước

căng phồng tiền. Dự án khoa học nào cũng đúng tiến độ. Có chưa xong thì bên tài

chính cũng giục hoàn tất thủ tục để còn rút tiền. Vậy đời ả còn chố nào để phàn nàn

nhỉ?” [21, tr.31].

Một người phụ nữ thành đạt trước hết là một người phụ nữ thành công về sự

nghiệp, có công ty riêng ăn nên làm ra, hoặc làm lãnh đạo, quản lý cho những công

ty - cơ quan nhà nước, có học hàm học vị cao trong xã hội. “Chị ởi chị ơi” (“Thần

cây đa và tôi”) là câu chuyện thần cây đa kể về cuộc bầu bán chức quyền cho 2

người đàn bà: người đàn bà cao có năng lực, sống thẳng thắn thì xếp vào làm tổ

trưởng tổ bảo vệ; người đàn bà lùn không có năng lực giỏi nịnh bợ xếp vào làm tổ

trưởng chuyên môn (51 lần cụm từ “người đàn bà” lặp lại trong câu chuyện này).

Khi kiến tạo cho người phụ nữ một nghề nghiệp, xem nữ giới như một nguồn

lực lao động, văn xuôi nữ đương đại cũng miêu tả sự thông minh, mưu chước của

người nữ muốn tiến thân. Đàn bà đẹp có đủ điều kiện trong cuộc sống sẽ được lãnh

đạo để tâm, họ có thể chấp nhận đổi thân thể để được bổ nhiệm: “Sau đợt đi công

tác người đàn bà đã làm vừa ý cấp trên trên giường khách sạn nên được bổ nhiệm

74

ngay một chức mới. Có chức mới thì có cấp trên mới. Sẵn đường đi nước bước

người đàn bà đẹp cứ thế tăng tiến vù vù.” [17, tr.97].

Người nữ trong thời đại mới là người làm chủ tình thế, chinh phục bằng sắc

đẹp: “bây giờ có phải cứ xinh đẹp mà chinh phục được họ đâu. Bây giờ là thời đại

mới, thời đại của chúng ta. Chúng ta làm chủ tình thế chứ đâu như thời phong kiến

mà đàn bà chỉ biết đứng e lệ một chỗ như những bông hoa trong luống hoa ấy,

mặc cho người ta khen, người ta chê. Đấy, cái thời ấy mới cần đến sắc đẹp chinh

phục.” [12, tr.9].

3.2.3. Sự kiến tạo tính độc lập về kinh tế của người nữ

Làm nội trợ không còn là niềm vui, niềm hạnh phúc duy nhất của người phụ

nữ thời nay, căn bếp không còn giữ vị trí quan trọng số một với người phụ nữ hiện

đại. Người phụ nữ hiện đại biết cách cân bằng trách nhiệm gia đình với việc tham

gia các hoạt động kinh tế ngoài xã hội. Nền kinh tế thị trường phát triển phá vỡ sự

phân công lao động cứng nhắc theo giới, cho phép phụ nữ được thừa nhận như một

nguồn lực lao động bình đẳng với nam giới và khiến nam giới phải chia sẻ trách

nhiệm chăm sóc gia đình, giảm nhẹ gánh nặng việc nhà cho phụ nữ, tạo cho họ

nhiều thời gian nhàn rỗi hơn để tham gia vào các hoạt động văn hóa xã hội khác; tạo

ra nhiều cơ hội hơn cho phụ nữ không còn bị phân biệt đối xử trong lĩnh vực việc

làm…Nhờ có trình độ học vấn, trình độ chuyên môn người phụ nữ có thêm cơ hội

được độc lập về kinh tế. Đó cũng là một yếu tố điều kiện cho phụ nữ chăm sóc gia

đình tốt hơn.

Trong văn xuôi nữ đương đại những năm gần đây, nhiều nhà văn chú ý xây

dựng hình ảnh người nữ ít phụ thuộc vào nam giới về kinh tế. Họ độc lập, tự chủ về

kinh tế nhiều hơn thời trước. Trong thời bao cấp, cái thời bị Mỹ cấm vận, người phụ

nữ tốt nghiệp loại ưu không xin được việc làm nhà nước, cũng chủ động lựa chọn

cho mình một nghề để có 1 sự độc lập về kinh tế, họ chấp nhận kiếm ăn vỉa hè:

“việc nào kiếm ra tiền chả được, sao cứ phải việc nhà nước mới gọi là việc… khi

nào có ai mới đi làm thì em đi, chứ em ngán cái sự phải đi xin việc lắm rồi” [19,

tr.142]. Từ, người phụ nữ học hành giỏi giang, tốt nghiệp loại ưu, sau một thời gian

75

sinh con, không xin được việc nhà nước cũng chủ động nhận làm “công chức vỉa

hè” hàng ngày bán xôi để kiếm tiền nuôi con. Ra “đường” bươn chải kiếm sống,

tiếp xúc với nhiều hạng người, Từ đã làm quen và bước vào cuộc chơi lô đề - hình

thức đỏ đen có ma lực: “Từ đã trở thành một người chăm chỉ lo việc kiếm tiền.

Thực ra cái thú đánh đề của Từ cũng là do từ muốn kiếm tiền một cách nhanh

chóng.” [19, tr.145]. Đành rằng cách lựa chọn của Từ không được xã hội đồng tình,

song nếu đặt trong bối cảnh tư tưởng phụ hệ vẫn ra sức tô điểm hình mẫu người đàn

ông là lao động chính thì việc chú ý đến lao động nữ, thừa nhận nữ giới góp phần

vào việc nuôi sống gia đình của văn xuôi nữ đương đại, là một sự kiện cần được

thảo luận sâu hơn.

Tiểu kết chương

Văn xuôi nữ đương đại nhào nặn hình ảnh người nữ theo các huyền thoại

muôn thuở giả tạo: từ tình yêu, hôn nhân đến vị thế của người nữ trong gia đình và

các quan hệ xã hội.

Xét vị thế người nữ trong gia đình, văn xuôi nữ đương đại dường như vẫn tiếp

tục củng cố sự tôn vinh giả tạo người phụ nữ qua các tự sự về vai trò người nội trợ,

người vợ, người mẹ. Có bao nhiêu gánh nặng đè nặng lên thân phận phụ nữ mà

người đời từ lâu đã tin như thế vẫn được khẳng định trong các sáng tác của các nhà

văn nữ Việt Nam hiện nay. Nói tóm lại, các nhà văn nữ ở ta vẫn tiếp tục góp phần

truyền bá các huyền thoại về phụ nữ, mà cốt lõi của chúng là đề cao vai trò, vị trí

của đàn ông…

Sự kiến tạo vị thế của người nữ trong đời sống xã hội chưa được các nhà văn

nữ quan tâm thích đáng. Hình ảnh người nữ trong xã hội, thay vì được đề cao như

đàn ông, thì văn xuôi nữ đương đại xây dựng hình ảnh của họ ở phương diện này

khá mờ nhạt. Người nữ về cơ bản vẫn bị giam nhốt trong không gian gia đình, các

bình diện hoạt động xã hội của họ đây đó biểu đạt cái nhìn mới mẻ, nhưng xét cho

cùng tựa như một thứ trang sức, một thứ thêm vào đời sống muôn thuở, ổn định,

hơn là những kiến tạo theo hướng cải cách, giải phóng giới nữ.

76

KẾT LUẬN

1. Từ năm 1986 trở lại đây, đời sống văn học Việt Nam ghi nhận sự phát triển

mạnh mẽ của văn học nữ. Cả thơ nữ và văn xuôi nữ đều là những hiện tượng nổi

bật. Từ góc nhìn diễn ngôn, sự bùng nổ của văn xuôi nữ không chỉ được xem như

một hiện tượng văn học mà còn cần được lý giải như một hiện tượng văn hóa, hiện

tượng xã hội. Lý thuyết diễn ngôn đem lại cho nghiên cứu một khung tri thức mới,

từ đây có thêm một cách đọc mới, cách lý giải mới về hiện tượng văn học nữ, hình

ảnh giới nữ trong lịch sử văn học dân tộc.

2. Trong văn xuôi nữ đương đại, sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban, Lý Lan và

Nguyễn Thị Thu Huệ là những trường hợp tiêu biểu, vừa cho sự tiếp nhận diễn

ngôn truyền thống trong thực hành kiến tạo hình ảnh giới nữ vừa cho sự giải kiến

tạo hình ảnh này, xác lập một tiếng nói mới. Tiểu thuyết, truyện ngắn của Dạ Ngân,

Y Ban, Lý Lan và Nguyễn Thị Thu Huệ trong chừng mực nhất định có thể xem là

đại diện theo các khu vực diễn ngôn khác nhau: truyền thông, giáo dục, trung tâm,

ngoại biên… Sự đan xen và chuyển hóa giữa các khu vực diễn ngôn đó, hình thành

nên một thứ ngôn ngữ riêng về giới nữ.

3. Giới là sản phẩm của văn hóa. Không có sự khác biệt tự nhiên giữa giới

nam và giới nữ. Sự khác biệt giữa hai giời này do cấu trúc văn hóa xã hội quy định.

Giới nữ là sản phẩm kiến tạo xã hội, và nữ tính không phải là sự tồn tại tiên thiên,

tự nhiên, sẵn có, bất di bất dịch. Nữ tính được định nghĩa, diễn giải và kiểm soát

không giống nhau ở các thời kỳ, các xã hội, các nền văn hóa khác nhau.

4. Sự kiến tạo hình ảnh giới nữ trong tình yêu, hôn nhân, gia đình, và các

quan hệ xã hội ở các sáng tác của Dạ Ngân, Y Ban, Lý Lan và Nguyễn Thị Thu

Huệ nói riêng, văn xuôi đương đại nói chung, có nhiều điểm tương đồng với các

diễn ngôn truyền thống. Điều này có nghĩa là, bốn cây bút này, cơ bản chưa đi ra

khỏi các khuôn mẫu định nghĩa, diễn giải về giới nữ của văn hóa Nho giáo. Dù về

mặt nghệ thuật tự sự, văn xuôi nữ được giới phê bình xem là có cách tân, song về

mặt ngôn ngữ thế giới quan, văn xuôi nữ thực sự chưa có nhiều đột phá.

77

5. Trong tình yêu, người nữ vẫn coi trọng trinh tiết, xem trinh tiết như một

phẩm giá của mình, là bảo bối đảm bảo hạnh phúc gia đình, hành phúc lứa đôi bền

vững. Khảo sát hơn 30 tập truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn của bốn nhà văn nữ Dạ

Ngân, Y Ban, Lý Lan, Nguyễn Thị Thu Huệ, chúng tôi nhận thấy các nhà văn này

dành khá nhiều tâm huyết cho hệ vấn đề trinh tiết của nhân vật nữ như giá trị của

trinh tiết, sự hiến dâng trinh tiết, thân thể trong trắng cho người chồng, người

yêu…. của giới nữ. Người nữ trong văn xuôi đương đại coi tình yêu như là bản

thân cuộc sống, họ sùng bái người đàn ông mình yêu vô điều kiện, vẫn thừa nhận

sự thống trị của nam giới, chấp nhận vị thế thụ động, chờ đợi… Văn chương nữ

đương đại tiếp tực nhào nặn hình ảnh những người phụ nữ si tình (sùng bái tình

yêu, lệ thuộc vào tình yêu, khao khát mong muốn được chở che, yêu thương; hướng

tới đồng nhất với đàn ông, phục tùng đàn ông….), người phụ nữ tự mê mình (đề

cao cái tôi, tìm cách thỏa mãn bản thân, ngắm nghía cơ thể mình trong gương, tôn

vinh người tình tưởng tượng…) mà theo Beauvoir đó là những ngụy tín đánh mất

tự do của người nữ.

Trong hôn nhân, người nữ vẫn coi hôn nhân là số phận của họ. Vì xem trọng

như thế, nên cơ chế hôn nhân cổ truyền vẫn có sức mạnh định đoạt cuộc sống hôn

nhân của họ. Người nữ đóng vai một người thụ động, phụ thuộc, chờ đợi sự công

nhận, chinh phục và cả sự bảo trợ, bảo vệ.... của người đàn ông.

Trong gia đình, định chế xã hội đã nhào nặn người nữ thành người nội trợ,

giam họ trong không gian căn bếp khép kín, kiến tạo cho họ cái chức phận: làm vợ,

làm mẹ. Bằng cách tiếp tục kể các huyền thoại về giới nữ, các sáng tác nữ, đã tôn

vinh và duy trì sự thống trị của nam giới, thừa nhận địa vị số một của nam giới, nữ

giới chủ yếu vẫn sống cho người khác, sống vì người khác (chồng, con).

Trong xã hội, vấn đề học hành, tri thức, quyền lực, lực lượng lao động sản

xuất, thân phận về kinh tế, quyền công dân… của người nữ chưa để lại những dấu

ấn đặc biệt nào về sự diễn giải, chưa có sự kiến tạo nào làm thay đổi tận gốc hình

ảnh giới nữ truyền thống. Giới nữ vẫn bị nhốt chặt trong thân phận phụ thuộc, vẫn

bị coi là đối tượng của những sự trưng dụng văn hóa và xã hội nào đó… Họ không

78

nhận được sự ủng hộ của xã hội, sự giúp đỡ cần thiết của người chồng, để trở thành

những người phụ nữ bình đẳng với nam giới, cùng đẳng cấp với nam giới.

6. Văn xuôi nữ đương đại đã bước đầu có ngôn ngữ riêng để định nghĩa về nữ

tính. Những trang văn kiến tạo hình ảnh người nữ như một chủ thể trải nghiệm, chủ

thể của các hành động trong tình yêu, hôn nhân và trong việc khẳng định vị thế xã

hội là những điểm mới trong diễn ngôn về giới nữ của văn xuôi nữ đương đại.

Từ chỗ chỉ biết đến trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ gia đình, người nữ trong

bối cảnh đương đại biết nghĩ về mình, nghĩ cho mình, sống vì bản thân mình, chủ

động, phóng khoáng, tự do biểu đạt nhu cầu, ham muốn tình dục; chủ động tiếp cận

các nguồn tri thức, tạo dựng cho mình một nghề nghiệp, và tính độc lập về kinh tế.

7. Nhìn chung mối quan tâm hàng đầu của văn xuôi nữ đương đại khi tạo tác

hình ảnh nữ vẫn là vị trí, vai trò, chức năng của họ trong tình yêu, hôn nhân, gia

đình. Vấn đề vị thế xã hội của người nữ vẫn chưa được quan tâm thích đáng.

79

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

TÀI LIỆU TRONG NƯỚC

1. Trần Thúy An (2008), Người phụ nữ qua cái nhìn hiện đại của một số nhà

văn nữ, Luận văn thạc sĩ, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn,

TP.Hồ Chí Minh.

2. Nhuệ Anh (2006), Các nhà văn nữ của “thế kỉ nàng”, Tạp chí Văn nghệ, số

21.

3. Phan Thị Vàng Anh (2016), Truyện ngắn, Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

4. Nguyễn Thị Vân Anh (2017), Diễn ngôn về giới nữ trong văn học hiện thực xã

hội chủ nghĩa Việt Nam, Luận án Tiến sĩ ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm

Hà Nội, Hà Nội.

5. Trần Thị Vân Anh và Lê Ngọc Hùng. (1996), Phụ nữ, giới và phát triển, Nxb.

Phụ nữ, Hà Nội.

6. Thái Phan Vàng Anh (2016), Văn xuôi thế hệ các nhà văn nữ sau 1975 - nhìn

từ diễn ngôn giới, http://huc.edu.vn/van-xuoi-cac-nha-van-nu-the-he-sau-

1975-nhin-tu-dien-ngon-gioi-124-vi.htm

7. Vũ Thị Tú Anh (2016), Quyền lực mềm của người phụ nữ trong văn hóa Đạo

Mẫu, Nxb Giáo dục Việt Nam.

8. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại nhận thức và thẩm, Nxb

Khoa học xã hội.

9. Trầm Nguyên Ý Anh, Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Thị Diệp Mai, (2005),

Truyện ngắn ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nxb Văn học, Hà Nội

10. Lại Nguyên Ân (2002), Đọc lại người trước đọc lại người xưa, Nxb. Hội Nhà

văn, Hà Nội.

11. Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

12. Y Ban (1993), Người đàn bà có ma lực, Nxb Hà Nội, Hà Nội.

80

13. Y Ban -Nguyễn Minh Dậu, Hãy về với anh (1994), Nxb Công an Nhân dân,

Hà Nội.

14. Y Ban (1995), Người đàn bà sinh ra trong đêm, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

15. Y Ban (1996), Vùng sáng ký ức, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

16. Y Ban (2005), Cưới chợ, Nxb Văn Học, Hà Nội.

17. Y Ban (2005), Thần cây đa và tôi, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

18. Y Ban (2006), I am đàn bà, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

19. Y Ban (2008), Xuân Từ Chiều, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

20. Y Ban (2010), Đàn bà xấu thì không có quà, Nxb Công an Nhân dân, Hà Nội.

21. Y Ban (2013), Trò chơi hủy diệt cảm xúc, Nxb Trẻ, TP.HCM.

22. Y Ban (2014), ABCD, Nxb Trẻ, TP.HCM.

23. Y Ban (2015), Cuối cùng thì đàn bà muốn gì, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

24. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm,

Hà Nội.

25. Nguyễn Huệ Chi, Đỗ Đức Hiểu, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá, Từ điển văn

học (bộ mới), NXB Văn Hóa, Hà Nội.

26. Nguyễn Minh Châu (2002), Trang giấy trước đèn (Tôn Phương Lan sưu tầm,

tuyển chọn và giới thiệu), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

27. Đàm Đại Chính (2005), Văn hóa tình dục và pháp luật, Nxb. Thế giới, Hà

Nội.

28. Trương Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn, Tạp chí Văn học, số 5.

29. Trương Đăng Dung (1998), Từ văn bản đến tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

30. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm văn học như là quá trình, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

31. Trương Đăng Dung (2013), Tác phẩm văn học nhìn từ lý thuyết tiếp nhận,

Nxb Khoa học xã hội.

81

32. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

33. Nguyễn Dữ (1988), Truyền kỳ mạn lục, Nxb. Văn nghệ, Hội Nghiên cứu giảng

dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh.

34. Đoàn Ánh Dương (giới thiệu và tuyển chọn) (2015) Truyện ngắn nữ đặc sắc

Việt Nam từ 1986 đến nay, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

35. Đoàn Ánh Dương giới thiệu, tuyển chọn (2018), “Đạm Phương nữ sử”, Nxb

Phụ Nữ, Hà Nội.

36. Nguyễn Đăng Điệp (2016), Một số vấn đề văn học Việt Nam hiện đại, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội

37. Đào Đồng Điện (2005), Phụ nữ - nguồn cảm hứng sáng tác của văn xuôi Việt

Nam thời kì đổi mới, http://vnca.cand.com.vn/Ly-luan/Phu-nu---nguon-cam-

hung-sang-tac-cua-van-xuoi-Viet-Nam-thoi-ky-doi-moi-323505/

38. Trịnh Bá Đĩnh (chủ biên) (2018), Từ ký hiệu đến biểu tượng, Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

39. Trịnh Bá Đĩnh (biên soạn) (2002), Chủ nghĩa cấu trúc và văn học, Nxb Văn

học, Hà Nội.

40. Vũ Quang Hà (2001), Các lý thuyết xã hội học (Tập 1), Nxb. Đại học Quốc

gia Hà Nội.

41. Lê Thị Hiền Hoa (2005), Giới và ngôn ngữ giới, Luận văn thạc sĩ, Đại học

Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tp Hồ Chí Minh.

42. La Khắc Hòa (2015), Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài - Kinh nghiệm

Việt Nam thời hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội

43. Nguyễn Hòa (2008), Phân tích diễn ngôn, một số vấn đề lí luận và phương

pháp, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

44. Trần Thị Thu Hương (2005), Văn học Linglei, một hiện tượng mới trên văn

đàn Trung Quốc, https://trieuxuan.info/print.php?id=3484&catid=6

45. Lê Bá Hán, Nguyễn Khắc Phi, Trần Đình Sử (đồng chủ biên) (1999), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.

82

46. Phạm Văn Hoà, Ngô Thị Thanh Mai. Tìm hiểu đề ngữ liên nhân trong các bài

diễn văn chính trị Anh - Việt, http://www.kh-

sdh.udn.vn/zipfiles/So21/hoa_phanvan.doc.

47. Nguyễn Hoà, Khía cạnh văn hoá của phân tích diễn ngôn, tạp chí Ngôn

ngữ số 12 -2005, Hà Nội.

48. Nguyễn Thị Từ Huy (2009), Alain Robbe - Grillet, Sự thật và Diễn giải, Nxb

Hội nhà văn, Hà Nội.

49. Nguyễn Thị Thu Huệ (1993), Hậu thiên đường, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

50. Nguyễn Thị Thu Huệ (1993), Cát đợi, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

51. Nguyễn Thị Thu Huệ (1995), Phù thủy, Nxb Văn Học, Hà Nội.

52. Nguyễn Thị Thu Huệ ( 2002), Nào ta cùng lãng quên, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

53. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 Truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội.

54. Nguyễn Thị Thu Huệ (2012), Thành phố đi vắng, Nxb Trẻ, TP.HCM.

55. Châm Khanh (2000), Phụ nữ và văn chương, Tạp chí Việt, số 04, http:/

enve.org/home/viet/viewVietJournals.do?

56. Lê Minh Khuê (2012), Tuyển truyện ngắn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

57. Phan Khôi (2017), Vấn đề phụ nữ ở nước ta (Lại Nguyên Ân giới thiệu và

tuyển chọn), Nxb. Phụ nữ

58. Lý Lan (1984), Trong ngôi nhà cỏ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

59. Lý Lan (1986), Nơi bình yên chim hót, Nxb Cà Mau, Cà Mau.

60. Lý Lan (1987), Chút lãng mạn trong mưa, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

61. Lý Lan (1991), Hội lồng đèn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

62. Lý Lan (1992), Những người lớn, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

63. Lý Lan (1999), Đất khách, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

64. Lý Lan (2006), Người đàn bà kể chuyện, Nxb Văn Nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

65. Lý Lan (2009), Hồi Xuân, Nxb Văn nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

66. Lý Lan (2011), Tiểu thuyết đàn bà , Nxb Văn hóa - Văn nghệ, Tp Hồ Chí

Minh.

83

67. Đoàn Lê (2007), Người khách đêm giao thừa, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

68. Đoàn Lê (2011), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

69. Lê Văn Lân (2009). Phù thuật Việt Nam, Nxb. Nam Việt, USA.

70. Phạm Quốc Lộc, Lê Nguyên Long. Dịch và lí thuyết dịch như một hệ hình,

phê bình mới, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 12 -2009, Hà Nội.

71. Phương Lựu (2005), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học Sư

phạm Hà Nội.

72. Phương Lựu (Chủ biên), La Khắc Hòa- Trần Mạnh Tiến (2012), Lí luận văn

học, Nxb Đại học Sư phạm.

73. Phạm Thị Ngọc Liên (2007), Người đàn bà bí ẩn, Nxb Trẻ, TP.HCM.

74. Hồ Thị Liễu (2002), Khảo sát truyện ngắn các nhà văn nữ Việt nam từ 1986

đến 1996, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Trường Đại học Khoa học Xã

hội và Nhân văn, TP. HCM.

75. Hiền Lương (Tổng hợp) (2007), Phụ nữ là người thu phục, Nxb. Trẻ,

TP.HCM.

76. Thùy Mai - Lý Lan (1994), Cỏ hát, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội

77. Nguyễn Đăng Mạnh (Chủ biên), Nguyễn Văn Long (Đồng chủ biên) (2002),

Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học Sư phạm.

78. Nguyễn Thị Ngọc Minh, Ba cách tiếp cận diễn ngôn,

https://phebinhvanhoc.com.vn/ba-cach-tiep-can-khai-niem-dien-ngon/

79. Tôn Thảo Miên (2014), Công chúng, giao lưu và quảng bá văn học thời kỳ đổi

mới (1986 - 2010), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

80. Mười hai cây bút nữ (2007), Vũ điệu thân gầy, Nxb Trẻ, TP.HCM.

81. Nguyễn Thị Nga (2010), Hình tượng tác giả nữ trong thơ thời chống Mĩ, Luận

án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

82. Nguyễn Thị Nga chủ biên (2017), Triết học nữ quyền, lý thuyết triết học về

công bằng cho phụ nữ, Nxb Chính trị Quốc gia sự thật, Hà Nội.

83. Dạ Ngân (1986), Quãng đời ấm áp, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

84. Dạ Ngân (1989), Ngày của một đời, Nxb Văn Nghệ, Tp Hồ Chí Minh.

84

85. Dạ Ngân (1990), Con chó và vụ ly hôn,Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội

86. Dạ Ngân (1993), Cõi nhà, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

87. Dạ Ngân (1995), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội.

88. Dạ Ngân – Nguyễn Quang Thân (2001), Hai mươi năm tình yêu và tác phẩm,

Nxb ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

89. Dạ Ngân (2008), Nước nguồn xuôi mãi, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

90. Dạ Ngân (2010), Gia đình bé mọn, Nxb Thanh Niên, TP.HCM.

91. Dạ Ngân (2010), Tạp văn Dạ Ngân – Gánh đàn bà, Nxb Thanh Niên,

TP.HCM.

92. Dạ Ngân (2010), Tạp văn Dạ Ngân – Phố của làng, Nxb Thanh Niên,

TP.HCM.

93. Dạ Ngân (2012), Chưa phải ngày buồn nhất, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

94. Dạ Ngân (2015), Hoa ở trong lòng, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

95. Nguyễn Thị Minh Ngọc (2007), Ký sự người đàn bà bị chồng bỏ, NxbHội

Nhà văn, Hà Nội.

96. Lã Nguyên (2007), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học

Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, Tạp chí

Nghiên cứu văn học, số 12, trang 12 - 38.

97. Lã Nguyên (2017), Lí luận văn học, những vấn đề hiện đại, Nxb Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

98. Hạnh Nguyên (biên soạn) (2011), Huyền thoại về người phụ nữ Việt Nam,

Nxb Lao động.

99. Vương Trí Nhàn ghi chép (1996), Phụ nữ và sáng tác văn chương, Tạp chí

Văn học, số 6.

100. Nhiều tác giả (2004), Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, Nxb Văn hóa

Thông tin.

101. Nhiều tác giả (2007), Huyền thoại và văn học, Nxb Đại học Quốc gia TP Hồ

Chí Minh.

85

102. Hoàng Ngọc Phách (1920), Văn chương nữ giới – Cái hại văn cảm đối với nữ

học sinh, Tạp chí Nam Phong, số 41.

103. Hoàng Phê (2003), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Năng, Trung tâm Từ điển học

104. Đạm Phương nữ sử (2018), Vấn đề phụ nữ ở nước ta, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

105. Phỏng vấn 10 nhà văn nữ trong và ngoài nước (2005): Có một cách viết nữ

hay không? http://www.gio-o.com/GioO10Nam/PhongVan10nhavannu.html

106. Phỏng vấn Võ Thị Hảo (2003), Nhà văn Võ Thị Hảo: Đôi khi viết văn như cầu

nguyện...”,http://m.vietbao.vn/Van-hoa/Nha-van-Vo-Thi-Hao-Doi-khi-viet-

van-nhu-cau-nguyen/40005445/105/ (19/10/2003)

107. Phỏng vấn Võ Thị Hảo (2006), Tôi nhẹ dạ nhưng nửa vời,

http://www.tin247.com/vo_thi_hao_toi_nhe_da_nhung_nua_voi-8-

21295881.html (18/10/2006)

108. Phỏng vấn Võ Thị Hảo và Trần Thanh Hà (2004), Nữ quyền trong văn chương

nữ Việt Nam chưa mạnh”, http://myvietbao.com/Van-hoa/Nu-quyen-trong-

van-chuong-nu-VN-chua-manh/40045047/105/ (15/8/2004)

109. Phỏng vấn Nguyễn Thị Thu Huệ (2005), Nguyễn Thị Thu Huệ muốn tận

hưởng tình yêu đích thực, https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-

nuoc/nguyen-thi-thu-hue-muon-tan-huong-tinh-yeu-dich-thuc-1885672.html

(22/9/2005)

110. Phỏng vấn Lý Lan (2008) (Vân Anh thực hiện), Lý Lan muốn góp ý với Y Ban

về “I am đàn bà”, https://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/gioi-sao/trong-nuoc/ly-

lan-muon-gop-y-voi-y-ban-ve-i-am-dan-ba-1895961.html (10/3/2008)

111. Phỏng vấn Dạ Ngân (2005), Không làm được thì đừng cố,

https://nld.com.vn/nguoi-cua-cong-chung/da-ngan-khong-lam-duoc-thi-dung-

co-131298.htm (26/10/2005)

112. Phỏng vấn Dạ Ngân (12/2005), Gia đình bé mọn có phải là câu chuyện về tình

yêu của nhà văn Dạ Ngân?, https://www.tienphong.vn/van-nghe/gia-dinh-be-

mon-cua-da-ngan-33121.tpo (26/12/2005)

86

113. Phỏng vấn Dạ Ngân (2007), Nhà văn Dạ Ngân: Những lời tự thú chân thật,

https://dep.com.vn/nha-van-da-ngan-nhung-loi-tu-thu-chan-that/(7/5/2007)

114. Nguyễn Hưng Quốc (2010), Nữ quyền luận,

https://www.voatiengviet.com/a/nu-quyen-luan-07-29-2010-

99565304/875206.html (29/7/2010)

115. Trần Đình Sử (2013), “Khái niệm diễn ngôn trong nghiên cứu văn học hôm

nay”, https://trandinhsu.wordpress.com/2013/03/04/khai-niem-dien-ngon-

trong-nghien-cuu-van-hoc-hom-nay/ (24/3/2013)

116. Trần Đình Sử. “Văn học như là tư duy về cái khả nhiên”, Tạp chí Sông Hương

số 231.

117. Trần Đình Sử (2010), "Giải cấu trúc và nghiên cứu, phê bình văn học", Báo

Văn nghệ (34).

118. Lê Dục Tú (chủ biên)(2018), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ năm

2000, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

119. Nguyễn Minh Tấn chủ biên (1981), Từ trong di sản (Những ý kiến về văn học

từ đầu thế kỉ XX ở nước ta), Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Hà Nội, Hà

Nội.

120. Trần Văn Toàn (2007), Vấn đề tình dục trong văn học Việt Nam,

http://vietvan.vn/vi/bvct/id344/Van-de-tinh-duc-trong-van-hoc-Viet-Nam/.

121. Trần Văn Toàn (2011), Nam tính hóa nữ tính - đọc Đoạn tuyệt của Nhất Linh

từ góc nhìn giới tính, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 9.

122. Trần Văn Toàn (2013), Diễn ngôn về giới tính và thi pháp nhân vật (Trường

hợp của Dũng trong Đoạn tuyệt), Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 8.

123. Trần Văn Toàn (2015), Phương Tây và sự hình thành diễn ngôn về bản sắc

Việt Nam, trong sách Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài kinh nghiệm

Việt Nam thời hiện đại (La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như Phương

chủ biên), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.52-68.

124. Trần Văn Toàn (2015), Dẫn nhập lí thuyết diễn ngôn của M. Foucault và

nghiên cứu văn học, trong sách Tiếp nhận tư tưởng văn nghệ nước ngoài kinh

87

nghiệm Việt Nam thời hiện đại (La Khắc Hòa, Lộc Phương Thủy, Huỳnh Như

Phương chủ biên), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

125. Tuyển truyện ngắn các nhà văn nữ (2006), Mùa thu vàng rực rỡ ,Nxb Quân

đội Nhân dân, Hà Nội.

126. Phùng Gia Thế, Trần Thiện Khanh biên soạn (2016), Văn học và giới nữ (một

số vấn đề lý luận và lịch sử), Nxb Thế giới.

127. Đoàn Cầm Thi (2004), Sáng tạo văn học, giữa mơ và điên” (Đọc Thoạt kỳ

thủy của Nguyễn Bình Phương)

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=7581&rb=0102 (24/10/2008)

128. Lê Thi (1998), Phụ nữ và bình đẳng giới trong đổi mới ở Việt Nam, Nxb. Phụ

nữ, Hà Nội.

129. Nguyễn Huy Thiệp (2006), Tính dục trong văn học hôm nay,

http://vietbao.vn/Van-hoa/Tinh-duc-trong-van-hoc-hom-nay/20563695/103/

(24/4/2006)

130. Trần Nho Thìn (2016), “Từ thực tiễn văn học Việt Nam, góp thêm một tiếng

nói phương pháp luận vào cuộc thảo luận quốc tế về vấn đề Nho giáo và nữ

quyền”, in trong Văn học và giới nữ (một số vấn đề lý luận và lịch sử), Nxb

Thế giới.

131. Trịnh Thanh Thủy (2005), Sex: dưới mắt nhìn của người viết nữ Việt Nam,

http://forum.phunuviet.org/yaf_postsm1117_Sex--duoi-mat-nhin-cua-nguoi-

viet-nu-Viet-Nam---Trinh-Thanh-Thuy.aspx (18/8/2005)

132. Hoàng Bá Thịnh (2008), Giáo trình Xã hội học về giới, Nxb Đại học Quốc gia,

Hà Nội.

133. Đỗ Lai Thúy tuyển chọn và giới thiệu (2004), Sự đỏng đảnh của phương pháp,

Nxb Văn hóa thông tin, Tạp chí Văn hóa nghệ thuật.

134. Đỗ Lai Thúy (1999), Hồ Xuân Hương – Hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hoá

Thông tin, Hà Nội.

135. Lộc Phương Thuỷ chủ biên (2005) Phê bình văn học Pháp thế kỉ XX. Nxb Văn

học, Hà Nội.

88

136. Lê Ngọc Trà, “Tư tưởng lí luận của nhà văn và sáng tác văn học”, Văn

nghệ số 34, ngày 22.8.1987, Hà Nội.

137. Lê Thị Nhâm Tuyết (1973), Phụ nữ Việt Nam qua các thời đại, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

138. Truyện ngắn bốn cây bút nữ ( Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ

Thị Hảo, Lý Lan), 2002, Nxb Văn Học, Hà Nội.

139. Truyện ngắn 5 cây bút nữ (Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Thùy Dương, Bích Ngân,

Đỗ Thị Thu Hiền), 2004, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội.

140. Truyện ngắn các tác giả nữ ( tuyển chọn 1945-1995), (1995), Nxb Văn học,

Hà Nội.

141. Truyện ngắn chọn lọc các tác giả nữ (1996), Nxb Hà Nội, Hà Nội.

142. Truyện ngắn nữ hải ngoại - Khung trời bỏ lại (2005), Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

143. Truyện tình của các nhà văn nữ (1998), Nxb Lao động, Hà Nội.

144. Truyện ngắn hay 2011 (2011), Nxb Thời Đại.

145. Truyện ngắn các tác giả nữ (Tuyển chọn 1945 - 1995) (1995), Nxb Văn học,

Hà Nội.

146. Nguyễn Văn Trung (1961), Đàn ông và đàn bà trong phận lứa đôi, Tạp chí

Văn hữu, số 14, tháng 11

147. Hồ Khánh Vân (2008), Từ lý thuyết phê bình nữ quyền (feminist criticism)

nghiên cứu một số tác phẩm văn xuôi của các tác giả nữ Việt Nam từ năm

1990 đến nay, Luận văn thạc sĩ Ngữ văn tại Trường Đại học Khoa học xã hội

và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.

148. Hồ Khánh Vân (2010), “Ý thức nữ quyền và sự phát triển bước đầu của văn

học nữ Nam Bộ trong tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc đầu thế kỉ XX”,

Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 7.

149. Viện Nghiên cứu xã hội, kinh tế và môi trường (2014), Diễn ngôn giới và tính

dục trong cuộc sống muôn màu, Nxb Tri thức.

150. Chu Văn (2007), Bão biển (tập 2), Nxb Văn hoc, Hà Nội

89

151. Nguyễn Thị Thanh Xuân (2013), Vấn đề phái tính và âm hưởng nữ quyền

trong văn học Việt Nam đương đại (qua sáng tác của một số nhà văn nữ tiêu

biểu), Luận án tiến sĩ Ngữ văn tại Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam, Học viện

KHXH.

TÀI LIỆU NƯỚC NGOÀI

152. Antoine Compagnon (2006), Bản mệnh của lí thuyết, Lê Hồng Sâm, Đặng

Anh Đào dịch, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

153. Alvin Toffler (1992). Thăng trầm quyền lực (phần tiếp), Khổng Đức dịch, Nxb

Thanh Niên, Hà nội.

154. Alain Gheerbrant - Jean Chevalier (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế

giới, Phạm Vĩnh Cư - Nguyễn Xuân Giao & Lưu Huy dịch, Nxb Đà Nẵng.

155. Betty Friedan (2015), Bí ẩn nữ tính, Nguyễn Vân Hà dịch, Nxb Hồng Đức.

156. Francoise Héritier, Đàn ông khống chế đàn bà, một vấn đề văn hóa,

talawas.org http://www.talawas.org/talaDB/..., 2/5/2007.

157. Gillian Brown, George Yule (2002). Phân tích diễn ngôn, Trần Thuần dịch,

Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

158. I.Pilin và E.A. A Tzurganova chủ biên (2003). Các khái niệm và thuật ngữ của

các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ 20, Đào Tuấn

Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

159. Iu.M. Lotman (2015), Kí hiệu học văn hóa, Lã Nguyên, Trần Đình Sử, Đỗ Hải

Phong dịch, Nxb. ĐHQG Hà Nội.

160. Jean - Francois Lyotard (2008), Hoàn cảnh hậu hiện đại, Ngân Xuyên dịch,

Nxb Tri thức, Hà Nội.

161. John C. Schafer (2015), Đọc Phạm Duy và Lê Vân (Tư duy về nam giới và nữ

giới), Cao Thị Như Quỳnh, Trương Văn Quý dịch, Nxb Hồng Đức.

162. Jocelyn Benoist , Michel Espagne (chủ biên), Bùi Văn Nam Sơn (chủ trì

dịch), (2016), Hành trình của Trần Đức Thảo hiện tượng học và chuyển giao

văn hóa, NXB Đại học sư phạm, Hà Nội.

90

163. Jean-Noel Christine (2018), Khai tâm và phân tâm học, Thân Thị Mận dịch,

Nxb Tri Thức, Hà Nội.

164. Kapil Kapoor (2008), Văn học được xem như vốn hiểu biết, tạp chí Nghiên cứu

văn học số 8 -2008, Hà Nội.

165. Kate Hamburger (2004), Logic học về các thể loại văn học, Vũ Hoàng Địch,

Trần Ngọc Vương dịch, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội.

166. Lydia Alix Fillingham, Moshe Susser (2006), Nhập môn Foucalt, Nguyễn Tuệ

Đan và Tôn Thất Huy dịch, Nxb Trẻ.

167. M. Bakhtin (1998), Những vấn đề thi pháp Đôtxtôiepxki, Trần Đình Sử, Lại

Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn dịch, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

168. M. Bakhtin (2003), Lí luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư tuyển chọn

và dịch, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

169. Pierre Bourdieu (2011), Lê Hồng Sâm dịch, Sự thống trị của nam giới, Nxb.

Tri thức.

170. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu),

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

171. Roland Bathes (2008). Những huyền thoại, Phùng Văn Tửu dịch, Nxb. Tri

thức, Hà Nội.

172. Simone de Beauvoir (1996), Giới nữ (tập 1), Nguyễn Trọng Định, Đoàn Ngọc

Thanh dịch, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

173. Simone de Beauvoir (1996), Giới nữ (tập 2), Nguyễn Trọng Định, Đoàn Ngọc

Thanh dịch, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

174. Tzevan Todorov (2004). Thi pháp văn xuôi, Đặng Anh Đào, Lê Hồng Sâm

dịch, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.

175. Thomas Kuhn (2008), Cấu trúc các cuộc cách mạng khoa học, Chu Lan Đình

dịch, Nxb Tri Thức

176. S. Freud, E. Fromm, A. Schopenhaure, V. Soloviev (2003), Phân tâm học và

tình yêu, Đỗ Lai Thúy dịch, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

91

177. Sigmund Freud (2018), Về giấc mơ và diễn giải giấc mơ, Ngụy Hữu Tâm sưu

tầm, biên soạn và biên dịch, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

178. Tess Cosslett, Celia Lury và Penny Summerrfileld chủ biên (2013), Nữ quyền

và tự truyện Văn bản, lý thuyết, phương pháp, Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch,

Nxb Hội nhà văn, Hà Nội.

179. Véronique Mottier (2016), Dẫn luận về tính dục, Thái An dịch, Nxb Hồng

Đức, TP Hồ Chí Minh.

180. Virginia Woolf (2009), Căn phòng riêng (Trịnh Y Thư dịch) Nxb Tri thức.

92

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC 1:

TÁC GIẢ - TÁC PHẨM KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN

1. Nguyễn Thị Thu Huệ ( 2002), Nào ta cùng lãng quên, NXB Hội Nhà Văn,

Hà Nội.

2. Nguyễn Thị Thu Huệ (2006), 37 Truyện ngắn, NXB Văn Học, Hà Nội.

3. Nguyễn Thị Thu Huệ (2012), Thành phố đi vắng, NXB Trẻ, TP.HCM.

4. Nguyễn Thị Thu Huệ (1993), Hậu thiên đường, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Thu Huệ (1995), Phù thủy, NXB Văn Học, Hà Nội.

6. Truyện ngắn bốn cây bút nữ ( Phan Thị Vàng Anh, Nguyễn Thị Thu Huệ, Võ

Thị Hảo, Lý Lan), 2002, NXB Văn Học, Hà Nội.

7. Lý Lan (2006), Người đàn bà kể chuyện, NXB Văn Nghệ, TP.HCM.

8. Lý Lan (1999), Đất khách, NXB Văn Nghệ, TP.HCM.

9. Lý Lan (2011), Tiểu thuyết đàn bà , NXB Văn Hóa - Văn Nghệ, TP.HCM.

10. Thùy Mai – Lý Lan (1994), Cỏ hát, NXB Hội nhà văn, Hà Nội

11. Dạ Ngân (2010), Gia đình bé mọn, NXB Thanh Niên, TP.HCM.

12. Dạ Ngân (2015), Hoa ở trong lòng, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

13. Dạ Ngân (2010), Tạp văn Dạ Ngân – Gánh đàn bà, NXB Thanh Niên,

TP.HCM.

14. Dạ Ngân (2012), Chưa phải ngày buồn nhất, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

15. Dạ Ngân (2010), Tạp văn Dạ Ngân – Phố của làng, NXB Thanh Niên,

TP.HCM.

16. Dạ Ngân – Nguyễn Quang Thân, Hai mươi năm tình yêu và tác phẩm (2001),

NXB ĐHQG Hà Nội, Hà Nội.

17. Dạ Ngân (2008), Nước nguồn xuôi mãi, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

18. Y Ban (2010), Đàn bà xấu thì không có quà, NXB Công an Nhân dân, Hà

Nội.

19. Y Ban (2008), Xuân từ chiều, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

93

20. Y Ban (2013), Trò chơi hủy diệt cảm xúc, NXB Trẻ, TP.HCM.

21. Y Ban (2005), Cưới chợ, NXB Văn Học, Hà Nội.

22. Y Ban (2006), I am đàn bà, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội.

23. Y Ban (2005), Thần cây đa và tôi, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

24. Y Ban (1993), Người đàn bà có ma lực, NXB Hà Nội, Hà Nội.

25. Truyện ngắn 5 cây bút nữ (Y Ban, Võ Thị Xuân Hà, Thùy Dương, Bích Ngân ,

Đỗ Thị Thu Hiền), 2004, NXB Hội Nhà Văn, Hà Nội.

26. Y Ban – Nguyễn Minh Dậu, Hãy về với anh (1994), NXB Công an Nhân

dân, Hà Nội.

27. Y Ban (2014), ABCD, NXB Trẻ, TP.HCM.

28. Y Ban (1995), Người đàn bà sinh ra trong đêm, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

29. Y Ban (1996), Vùng sáng ký ức, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

30. Y Ban (2015), Cuối cùng thì đàn bà muốn gì, NXB Phụ Nữ, Hà Nội.

94

PHỤ LỤC 2:

TÁC GIẢ - TÁC PHẨM SO SÁNH MỞ RỘNG

1. Tuyển truyện ngắn các nhà văn nữ(2006), Mùa thu vàng rực rỡ ,NXB Quân

đội Nhân dân, Hà Nội.

2. Nguyễn Khắc Ngân Vi (2016), Đàn bà hư ảo, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

3. Truyện ngắn các tác giả nữ ( tuyển chọn 1945-1995), (1995), NXB Văn học,

Hà Nội.

4. 12 cây bút nữ (2007), Vũ điệu thân gầy, NXB Trẻ, TP.HCM.

5. Đoàn Lê (2007), Người khách đêm giao thừa, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

6. Đoàn Lê (2011), Tác phẩm chọn lọc, NXB Phụ nữ, Hà Nội.

Phạm Thị Ngọc Liên (2007), Người đàn bà bí ẩn, NXB Trẻ, TP.HCM. 7.

Truyện ngắn chọn lọc các tác giả nữ (1996), NXB Hà Nội, Hà Nội. 8.

Truyện ngắn nữ đặc sắc Việt Nam từ 1986 đến nay (2015), NXB Phụ nữ, Hà 9.

Nội.

10. Truyện ngắn nữ hải ngoại- Khung trời bỏ lại (2005), NXB Phụ nữ, Hà Nội.

11. Nguyễn Thị Minh Ngọc (2007), Ký sự người đàn bà bị chồng bỏ, NXB Hội

Nhà văn, Hà Nội.

12. Truyện tình của các nhà văn nữ (1998), NXB Lao động, Hà Nội.

13. Truyện ngắn ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long, Nguyễn Ngọc Tư,

Nguyễn Thị Diệp Mai, Trầm Nguyên Ý Anh (2005), NXB Văn học, Hà Nội

14. Lê Minh Khuê (2012), Tuyển truyện ngắn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội

15. Phan Thị Vàng Anh (2016), Truyện ngắn, Nxb Trẻ, Tp Hồ Chí Minh.

16. Đoàn Ánh Dương (giới thiệu và tuyển chọn) (2015), Truyện ngắn nữ đặc sắc

Việt Nam từ 1986 đến nay, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

95

PHỤ LỤC 3: TÓM TẮT MỘT SỐ TÁC PHẨM

LÝ LAN

1. Người đàn bà kể chuyện

Tho – 11 tuổi bị ông Đạo hàng xóm hiếp dâm mà không dám nói ra. Khi ba cô

biết chuyện, ba đưa cô vào viện khám và có tờ giấy chứng nhận té ngã rách màng

trinh – lá bùa hộ mệnh của cô. Hai mươi tuổi, Tho được thầy giáo yêu. Nhưng lá

bùa hộ mệnh không linh nghiệm. Thầy giáo bỏ Tho. Tho đau đớn cho số phận

mình.Ba má qua đời. Quê hương đô thị hóa nhanh chóng. Tho xây được nhà, có vốn

mở quán ăn, công việc làm ăn rất phát đạt. Nhưng nỗi đau vãn không nguôi trong

lòng. Tho để ý đến ba cha con Tòng – một người thợ hồ, vợ bị lũ cuốn. Tho tìm

cách để lão Đạo đến quán, Tho muốn có bằng chứng để kiện hắn tội hiếp dâm trẻ

em. Nhưng Tho không nói ra được. Lão Đạo kiện Tho lừa đảo khách. Quán ăn bị

đóng cửa. Tho hiểu ra một điều cô không còn muốn chắt chiu hạnh phúc ở đời, Tho

cần nói ra sự thật để kẻ ác phải trả giá. Tho gõ cửa tất cả các cánh cửa các cơ quan

ngôn luận, các văn phòng luật sư… cô kể câu chuyện đứa bé 11 tuổi bị hiếp dâm và

tan nát một cuộc đời từ đó.

2. Cỏ hát

Tôi và Hạnh thân nhau. Hạnh đi bộ đội. Cô phải chịu đựng những gian khổ

của chiến tranh. Hạnh nghỉ phép về thăm gia đình. Hạnh kể những câu chuyện về

cuộc đời người lính, chuyện cô phải nhịn tiểu khi hành quân giữa đoàn quân toàn

nam giới, chuyện cô bị thương. Hình ảnh những người đồng đội hi sinh luôn ám ảnh

cô. Cô tháy những người hi sinh nằm xuống chỉ còn lại những nắm xương, cỏ mọc

lên xanh mượt mà tươi thắm. Cô ao ước ngày hòa bình trở về cô sẽ là người trồng

cỏ để nâng niu bước chân những người đang sống và để người nằm dưới được yên

giấc. Lần đầu tiên tôi cảm thấy vạn vật không ngơi nghỉ về đêm, chung quanh tôi

cây cỏ đang nảy lộc, đâm chồi, từ trong đêm vọng lại tiến rào rạt rào, nghe tiếng

dòng sông đang thở. Và nhận ra cỏ vẫn ngày đêm âm thầm ngợi ca cuộc sống bất

diệt bằng chính màu xanh bất diệt của mình.

96

3. Rừng mai

Lộc – con gái út con gái rượu của giám đốc Quyền xinh đẹp và xuất sắc

nhiều mặt. Tốt nghiệp Học viện âm nhạc bộ môn dương cầm.

Ninh một họa sĩ trẻ nuôi dưỡng đam mê hội họa bằng một việc làm thực

dụng: thiết kế mẫu quảng cáo cho công ty ông Quyền. Ông Quyền rất quý Ninh

và không giấu ý định chọn Ninh làm chàng dể út. Lộc cũng tỏ ra mến Ninh. Hai

người cũng nhiều lần đi chơi. Sau lần đi rừng về Lộc thay đổi không còn như

trước. Không ai biết chuyện gì xảy ra. Bây giờ họ không còn chuyện gì nữa.

Một ngày tháng chạp, ông Quyền nhìn con gái trang điểm không phải để đi

ra ngoài, ông thương con gái. Ông gọi tài xế Tiếu đến đưa anh ta một xấp tiền và

bảo trở Lộc đi chơi, đi về an toàn chu đáo. Còn ông ở lại tưới mấy chậu hoa nhớ

đến người vợ đã bỏ đi theo người tình cũ.Tiếu cho xe chạy vòng vòng trong

thành phố gần hết buổi sáng. Giáp tết đường xá đông đúc, người xe nườm nượp.

Tiếu nghĩ ra đưa cô tới ngoại ô nhắm về phía rừng. Lộc thấy rừng cô trở nên

khác hẳn, lòng rạo rực. Cô chạy băng qua những lô cao su thẳng tắp. Tiếu sợ hãi

đuổi theo. Lộc cười thích thú, cô hét thật to nhiều lần khiến Tiếu sửng sốt. Lộc

kể chuyện lần đi vào rừng vẽ cùng Ninh, cô phát hiện một hồ nước rất đẹp và cô

cũng hét, hú như thế. Lộc phát hiện một rừng mai tuyệt đẹp, cô đứng lặng im

nhìn đám mai rừng. Tiếu vui sướng chạy về xe lấy dao để chặt cành. Tiếu chất

đầy những cành mai lên xe. Còn trơ lại những gốc mai trông như những cái chân

báu vào đất mà không còn đầu. Lộc lững thững ra xe, họ trở về. Cành mai đẹp

nhất Tiếu biếu ông Quyền, hai cành khác cũng rất đẹp mang về cho vợ con, còn

lại anh đem ra chợ bán hết sạch nội trong đem hai chín. Anh kể cho chủ nghe về

rừng mai, về niềm vui của anh khi phát hiện rừng mai, niềm vui của vợ con anh

khi có thêm tiền sắm tết… còn những chuyện khác anh không nói, không có

chuyện gì cả.Nhìn cành mai trên bàn Lộc nhớ đến những gốc mai trơ trụi như

những cái chân không đầu. Lộc khép rừng mai lại cũng như đã từng cất hồ nước

giữa rừng vào một nơi thăm thẳm trong lòng.

97

4. Cô con gái

Sau chuyến trở về Việt Nam, cô con gái mang về rất nhiều quà, đồ kỉ niệm, và

luôn trách mẹ đã nói dối mình. Cô con gái chiếu lên màn ảnh truyền hình những

đoạn video từ cái máy quay kĩ thuật số. Bà nhận ra ngôi nhà thời thơ ấu và những

người thân.Rời Việt Nam đến xứ người bà đã sớm học được nghệ thuật sống biết

cách nói dối. Cô con gái lớn lên theo phong cách Mĩ, nói tiếng Anh, không thạo

tiếng Việt. Lớn lên cô không ngừng tìm hiểu về cội nguồn của mình, về người cha.

Cô gái đã trưởng thành thành một người phụ nữ hiện đại, đã trải qua vài mối tình.

Có lần cô đưa mẹ đến dự một buổi hội thảo về giới tình, cuộc tranh luận rất sôi nổi.

Một phim miêu tả tỉ mỉ cơ quan sinh sản hai giới, việc giao hợp, việc hình thành

thai nhi. Một phim miêu tả cô gái tự xoa nắn thân thể mình đẻ có khoái cảm. Cô con

gái theo ý kiến đồng tình. Bà mẹ có những cảm nghĩ mâu thuẫn về sự giáo dục và

trưởng thành của con nhưng bà biết không thể uốn nắn con theo như mình muốn.

Cô con gái bằng những cách của mình luôn tìm kiếm câu trả lời cho câu hỏi ai là ba

mình. Bà kể lại lúc vào đại học bà yêu một người nhưng bị ngăn cấm. Bà có thai và

phải bỏ xứ ra đi. ở nước ngoài bà chụp ảnh có chồng có con gửi về cho người thân ở

nhà.

Bà mẹ hiểu rằng con gái sẽ không bỏ cuộc khi chưa tìm ra câu trả lời. Bà nói

ra cái tên Trần Văn Nam. Cô con gái sẽ có cách để tìm hiểu về người có tên đó. Bà

không tưởng nổi người đàn ông ấy sẽ đón nhận đứa con trở về như thế nào, nhưng

bà có thể hình dung co gái không đòi hỏi người cha làm tròn trách nhiệm làm cha

nhưng cô có quyền làm con.

5. Tai nạn

Cẩm – một nhân viên phòng vi tính của công ti, còn độc thân. Những ngày lễ

đồng nghiệp nam vẫn tặng hoa, tặng quà cho tất cả nhân viên nữ trong đó có Cẩm.

Thanh một người đàn ông trắng trẻo, sạch sẽ, nói năng nhỏ nhẹ, không rượu

chè cờ bạc thuốc lá – hai người tình cờ gặp nhau, cùng chung đường, ở chung một

chung cư tuy khác lô. Họ gặp nhau mỗi ngày. Ngày nghỉ Thanh mời Cẩm đi leo núi,

cô đồng ý. Buổi đi chơi gặp mưa, họ cùng vài người vào một quán nhỏ trú mưa. Hai

98

vợ chồng chủ quán đánh nhau nên họ phải chạy ra ngoài hiên, mưa làm họ ướt lấm

lem. Mưa tạnh, họ rời quán. Cẩm đứng ở cửa mở khóa và cảm ơn Thanh về một

ngày vui nếu trời không mưa. Thanh có vẻ áy náy vì bộ dạng của mình. Thanh quay

lại nói muốn nhờ toa lét. Thanh từ phòng tắm bước ra trần trụi chỉ quấn quanh hông

chiếc khăn tắm của Cẩm. Cẩm kinh ngạc không có một phản ứng. Thanh ôm chị vật

xuống giường. Thanh không ngờ Cẩm còn trinh. Mấy ngày sau họ không gặp nhau.

Cẩm suy nghĩ một đem và kết luận mình bị tai nạn. Tháng sau chị phát hiện mình có

thai. Khi đi đến quyết định phá thai thì cái thai đã lớn rất nguy hiểm. Cẩm nghĩ

mình sẽ là bà mẹ đơn thân.Thanh biết chuyện, gọi điện nói chuyện và ngỏ lời muốn

chịu trách nhiệm. Một nỗi đau rất cụ thể lan tỏa thấm thấu làm buốt dần trái tim cô.

Không yêu, cô quyết định cưới.

Y BAN

1. Xuân Từ Chiều

“Xuân Từ Chiều” là câu chuyện về ba người phụ nữ, ba thân phận có cùng

một hình dung giản dị về hạnh phúc, nhưng bất hạnh ập đến, lại mỗi người một

kiểu.

Xuân vốn là cô nuôi dạy trẻ, con gái nhà quê, lấy chồng ra phố rồi phấn đấu

trở thành trưởng khoa của một trường đại học. Xuân có tình yêu rất đẹp với Tuấn -

người đàn ông thông minh, tài năng và yêu cô hết lòng. Nhưng ông Trời cay nghiệt

không cho tình yêu đó được đơm hoa kết trái. Nguồn gốc bi kịch bị giấu kín cho tới

lúc Tuấn chết trong một chuyến công tác ở nước ngoài. Khi đau đớn giã biệt người

chồng, nhẹ nhàng mở từng nút thắt khuy áo, rồi khuy quần để ngắm nhìn cơ thể anh

lần cuối, Xuân ngỡ ngàng khi nhận ra, vật linh thiêng của chồng vẫn cương lên như

trong những giây phút đam mê giữa hai người. Chị lờ mờ hiểu vì sao, sau bao nhiêu

năm chung sống, bao nhiêu lần ái ân, chị chưa từng được thấy, được đụng vào nơi

riêng tư quá đỗi đó của chồng.

Chiều, gười đàn bà trực bình, trực bình là nước ở hồ tiên, là lẫm là kho chứa

bạc tiền, gái giỏi tề gia ích phu tử… Chị giỏi Toán, vẫn thường giải toán giúp

99

chồng, để anh từng bước hoàn thành việc học hành, leo dần lên những nấc thang

danh vọng. Nhưng mà chị nói ngọng, chị quê mùa, nên khi hết cảnh bần hàn, chị lạc

lõng cô đơn trong chính ngôi nhà sang trọng của mình. Chiều tự tử. Cái chết của

một con người cô đơn được rất đông người viếng. Người ta đến viếng vì người sống

- những kẻ đã lạnh lòng trước một tâm hồn từng ấm nóng thương chồng yêu con.

Từ tốt nghiệp đại học, năng lực có thừa, nhưng cuộc sống xô đẩy, cô trở thành

kẻ ra đường bán xôi chim. Mệt mỏi xoay xở với cơm áo, chật vật giằng co níu giữ

tình yêu và gia đình nhỏ bé, Từ va chạm với mọi sóng gió đời thường của người

phụ nữ…

2. Đàn bà xấu thì không có quà

Câu chuyện “Đàn bà xấu thì không có quà” rất đời thường. Ở đó, cuộc sống

hiện lên với những giá trị tốt đẹp nhưng cũng không ít những điều tầm thường đến

giản dị. Một người phụ nữ xấu, dù tâm hồn có đẹp đến đâu, cũng khó lòng tìm được

hạnh phúc cho riêng mình.

Nấm, một cô gái lùn, có đôi chân ngắn bằng nửa thân người. Nàng xấu đến

nỗi khi một đồng nghiệp say rượu lột truồng ra, nhìn kỹ, tỉnh cả rượu, vái ba vái rồi

bỏ đi. Xấu đến mức khi nàng nhìn người anh rể với ánh mắt khao khát, anh rể lại có

cảm giác kinh tởm. Nhưng bù lại, Nấm có một khuôn mặt xinh xắn, nước da trắng

ngần và một trí tuệ thông minh. Trong một cuộc thi viết truyện ngắn, Nấm đã đạt

giải nhất, từ đó cô sáng tác văn chương và trở thành một nhà văn nổi tiếng.Nấm có

trái tim nhạy cảm, biết rung động trước vẻ đẹp và biết khao khát hạnh phúc, tình

yêu. Nấm mong ước được sống như bao người bình thường khác. Nấm rất yêu trẻ

con, cô luôn khao khát một mái ấm gia đình, một người chồng biết thưng yêu và

những dứa trẻ. Nhưng, đôi chân ngắn đã ngăn cản cô đến với tất cả những ước mơ

rất giản dị, rất con người ấy. Nấm làm quen và kết bạn vời một người đàn ông xa lạ

qua mạng internet, ngày ngày hai người trò chuyện rất tâm đầu ý hợp. Những cuộc

chuyện trò tâm tình, thái độ quan tâm của người đàn ông ấy càng khơi dậy trong

Nấm khát khao về một mái ấm gia đình. Nhưng khi người đàn ông bất ngờ trở về

thăm cô, nhìn thấy đôi chân ngắn, dù rất ngưỡng mộ một nhà văn có tài, nhưng

100

người đàn ông ấy đã bỏ đi khoogn một lời hẹn ước. Nấm đã mơ một giấc mơ của

người bình thường. Một bó hoa hồng hoặc một món quà nào đó thật giản dị - món

quà có hơi ấm của bàn tay một người đàn ông. Nhưng không có một món quà nào

cả bởi đàn bà xấu thì không có quà.

Đan xen giữa những câu chuyện của Nấm là câu chuyện ở tòa soạn báo X. Nơi

những người phóng viên buông những lời bình luận sắc sảo, chân thành mà không

bao giờ đăng lên báo. Đó là câu chuyện của hai người đàn bà trái ngược nhau. Một

người xinh đẹp, một người không xinh đẹp. Một người luôn vui vẻ với đám đàn ông

vây quanh và một người luôn phàn nàn rằng không bao giờ nhận được quà hay sự

quan tâm của chồng. Ngoài ra “Đàn bà xấu thì không có quà” còn có sự lồng ghép

số phận của nữ nhà thơ Đ. Một người phụ nữ đẹp, tài hoa nhưng chọn nhầm chồng.

Tất cả những số phận, những câu chuyện, những mối quan hệ hiện lên rõ nét, sống

động và rất chân thực.

3. Trò chơi hủy diệt cảm xúc

“Trò chơi hủy diệt cảm xúc” cuốn hút người đọc vào những dòng đầu tiên,

như cách “chia quân”, “dàn trận” khi tham gia một trò chơi online. Nhân vật chính

(với các đại từ nhân xưng “tôi”, “ả”, “Linh”, “Kim”…) dần dần đi sâu vào trò chơi

được lập trình tinh vi, hoàn hảo từ nhiều bộ óc cực kỳ thông minh: trò chơi hủy diệt

cảm xúc trực tuyến, với số tiền thưởng cho người chiến thắng là 100.000 USD. Tác

phẩm bày ra một trò chơi và nhân vật chính của trò chơi là một người đàn bà tên

Kim. Đó là một người đàn bà bình thường: ngoại hình bình thường, mức sống bình

thường, gia đình bình thường. Tất cả những điều bình thường ấy khiến cho bà rơi

vào cảm giác nhàm chán, trơ lì cảm xúc. Kim đến với trò chơi hủy diệt cảm xúc với

hai lý do: số tiền thưởng 100.000 USD và cái chính là để giết chết cảm xúc của

mình. Cách chơi tưởng như rất đơn giản: chỉ việc ngồi viết (ở đây có thể coi là

“sáng tác”) và gửi những lá thư online gửi đến một địa chỉ email cho trước, làm sao

để tất cả những cung bậc tình cảm yêu – ghét – giận hờn – nghi kị – ghen tuông –

ân hận… được đẩy đến tận cùng. Và kết cục của nó sẽ là sự hủy diệt hoàn toàn

những cảm xúc rất con người đó.

101

Người đàn bà tham gia trò chơi ban đầu chỉ với mục tiêu chiếm lĩnh số tiền

thưởng khá lớn so với những tính toán thông thường và mối bận tâm thường nhật

của phụ nữ. Hóa ra không phải là như vậy, khi mỗi ngày nhu cầu “chơi” lại lớn dần

lên, trở thành một thói quen không thể thiếu. Những lá thư online cứ dày lên, mỗi

dòng chữ là một dòng nước trong veo thấm sâu vào những ngõ ngách bí mật nhất

của tâm hồn, xoa dịu những vết xước trong trái tim người đàn bà, đem đến những

an ủi dịu dàng, sự động viên, quan tâm lo lắng vừa tinh tế vừa sâu xa… mà ngay cả

người thân gần gũi nhất trong đời sống (thực) cũng không có được. Người đàn bà

ấy như được hồi sinh, được yêu và sống bằng thứ năng lượng tinh thần quý giá, đó

chính là sự đồng điệu, hòa nhịp từ trong sâu thẳm mỗi con người. Tất cả những

buồn khổ, uất ức, sự nén nhịn, chịu đựng… trong đời sống chất chồng lo toan, bon

chen của người đàn bà được giải tỏa, thấu hiểu và cảm thông, để có thể yên tâm

khóc, cười, chia sẻ trọn vẹn với một đối tượng hoàn toàn không biết mặt. Cho đến

một ngày người đàn bà ấy nhận được bức thư báo tin mừng chiến thắng trong trò

chơi Hủy diệt cảm xúc trực tuyến, liền đó là những bí mật của cuộc chơi được giải

mã. Trong suốt tám tháng ròng, người đàn bà đã mê mải tâm sự với… một con rô

bốt được lập trình để chuyên viết những bức thư. Và cảm xúc của người chiến

thắng: “Trống rỗng. Tôi không còn một cảm xúc nào. Tôi đã tham gia trò chơi. Tôi

đã giết chết những cảm xúc của mình. Tôi không còn phân biệt được đâu là thật đâu

là giả. Tôi không còn nhận chân được tôi là ai.”

4. ABCD

“ABCD” là cuốn tiểu thuyết về những câu chuyện tưởng như rời rạc trong

cuộc sống: Chuyện mẹ yêu con mụ mị, mẹ mang thai rồi sinh con, mẹ mang thai rồi

bỏ con, chuyện một tình yêu tưởng không thể có giữa người chồng tàn tật và người

vợ xinh đẹp, Cả chuyện bên sông, trong làng trên phố, đi học, đất đai, abcd…Trong

vô vàn những câu chuyện ABCD của cuộc sống đời thường ấy, Y Ban tập trung vào

những câu chuyện về số phận người phụ nữ trong xã hội đương đại.

Câu chuyện về Linh Lang, một cô gái trẻ đẹp đang mộng mơ trên giảng đường

đại học thì bị trúng tiếng sét của thần tình yêu và kết hôn với một người đàn ông

102

đứng tuổi làm quan chức. Linh Lang được chồng yêu chiều hết mức nhưng lại

không được lòng mẹ chồng. Sau một cơn đau đẻ đến chết đi sống lại trong phòng

sinh mà mẹ chồng nhất định bắt sinh thường không cho mổ đẻ, Linh Lang sinh hạ

một bé trai bụ bẫm, kháu khỉnh. Không biết có phải do cơn đau đẻ hay vì cô không

muốn mất đi vẻ đẹp của cơ thể mà cô nhất định không cho con bú. Thằng bé vì thế

mà không thích chơi với mẹ và mỗi khi mẹ vạch vú ra bắt nó bú, nó không thích

điều đó. Những mâu thuẫn với mẹ chồng, sự xa lánh của đứa con khiến người mẹ

trẻ rơi vào trầm cảm.

Câu chuyện tình yêu giữa người chồng tàn tật và người vợ xinh đẹp. Phũ là

một đứa bé gái mồ côi được ông bà Tràng đem về nuôi, càng lớn Phũ càng xinh

đẹp. Vẻ đẹp mơn mởn của người con gái dậy thì khiến người cha nuôi không kìm

chế được dục vọng. Ông Tràng đã hiếp dâm người con gái nuôi mà ông yêu thương

như con đẻ. Phũ có thai, ông tìm cách gả chồng cho Phũ. Phàng, một chàng trai tàn

tật teo hết hai chân, bán quán nước bên bến sông bỗng dưng cưới được cô vợ xinh

đẹp vui mừng khôn xiết. Mặc bao lời dị nghị, biết đám cưới chỉ là sự hợp lý hóa cái

thai trong bụng vợ nhưng Phàng hết lòng yêu thương, chăm sóc, che chở cho mẹ

con Phũ. Cơn sốt đất đai tràn về nông thôn, Phàng nhờ mối lái cũng kiếm được ít

tiền để lo cho vợ con. Số phận thật chớ trêu khi Phàng mất, thằng con trai mà bao

công sức vợ chồng Phàng mới có được đã đuổi mẹ ra khỏi nhà để chiếm tài sản.

Đau đớn, bất lực, Phũ lao mình xuống dòng nước cuồn cuộn.

Câu chuyện về nhà Dỉn - một đôi vợ chồng già, hiếm muộn mãi mới sinh

được mụn con trai, nhưng lớn lên đứa trẻ không nhận cha mẹ, nó cho rằng mình là

một đứa trẻ con nhà giàu đầu thai từ kiếp trước. Nó gọi bố mẹ là ông bà và nhờ ông

bà đi tìm ngôi nhà trước kia nó đã từng sống. Dù rất thương con nhưng đôi vợ

chồng già vẫn cất công đi tìm ngôi nhà như đứa con miêu tả. Thằng bé và đôi vợ

chồng già chuyển về ở trong ngôi nhà đó. Tuy nó gọi bố mẹ là ông bà nhưng nó rất

hiếu thả với cha mẹ. Con nhà Dỉn chính là kiếp sau của con nhà Linh Lang.

Tuy là chuyện của mỗi nhà: Chuyện nhà Phũ này, chuyện nhà Linh Lang này,

chuyện nhà Dỉn này, chuyện nhà Thục này, chuyện nhà Thân này,… nhưng ABCD

103

lại kết nối với nhau bởi ý nghĩa các câu chuyện:lòng yêu thương con người, phải

học cách yêu thương sơ đẳng bắt đầu từ ABCD.

5. Xích lô

Trời mưa, trong căn nhà lụp xụp tối mù mù, hai người đàn ông còng lưng trên

chiếu rượu. Ngươi đàn ông trẻ là con vùng đứng lên đi ra khỏi nhà, tháo chiếc xích

lô buộc trên vách, rồi đạp trong trời mưa. Đến một mái hiên có người đàn bà và hai

đứa trẻ đang co ro, gã bảo họ về nhà.Người đàn bà trở về nhà, hai đứa trẻ chơi trong

lặng lẽ rồi lăn ra ngủ. Người đàn ông già đã ngủ. Người đàn bà sửa soạn cho mấy

đứa trẻ ngủ, rồi ra nằm cạnh người đàn ông già. Gã đuổi “đi, không phải phiên”.

Đúng 6 giờ chiều, đúng như giờ vào ca của nhà máy, người đàn ông trẻ trở về nhà.

Cả nhà cùng ăn cơm trong lặng lẽ. Người đàn bà thu dọn, người đàn ông trẻ pha ấm

trà. Người đàn bà xong việc dẫn hai đứa trẻ sang hàng xóm xem ti vi nhờ. Đúng 9

giờ tối thị cùng hai đứa trẻ về nhà. Nửa đêm người đàn bà thức giấc đúng như giờ

vào ca, thị khẽ nằm xuống cạnh người đàn ông trẻ.

Sau mấy ngày mưa trời cũng tạnh.

Đúng 6 giờ mâm cơm dọn ra, hai người đàn ông ăn trước. Người đàn ông già

đạp xích lô ra đường, người đàn bà thu dọn, người đàn ông trẻ đến chiếu của gã.

Hôm ấy người đàn ông trẻ xốc chị đến chiếu cũa gã, gã hối hả trên người chị như

một cuốc xích lô đạp vội.Người đàn ông trẻ khoảng 30 tuổi, người đàn bà 20 tuổi,

người đàn ông già là bố. Họ có công việc để sống là đạp xich lô. 12 tuổi mẹ mất, hai

cha con đạp xích lô kiếm sống, một nghề cha truyền con nối, dễ học lại không mất

vốn nhiều. Nay người đàn ông già đã có tuổi, họ chia nhau lịch để làm. Cha già thì

làm ban ngày, đêm để người con. Hai cha con mong muốn giành iền để cưới cho

con một người vợ tử tế.

Một hôm người đàn ông già dẫn về một người đàn bà gã gặp ngoài đường về

nhà. Không ai nói nhưng đều hiểu đó là người đàn bà của cha. Rồi một đứa trả ra

đời, số tiền dành dụm ngày một vơi dần, công việc ngày một khó khăn bởi nhiều

người ở quê ra phố đều tìm nghề đạp xich lô để sống. những đứa trẻ ra đời, số tiền

dành dụm để cưới vợ cho con ngày càng vơi. Và điều khó xử là không biết đứa nào

104

là con của con, đứa nào là con của cha. Ý định lấy một người vợ tử tế dần không

còn. Dần dần không ai nói nhưng họ đều hiểu lịch trình của mình định sẵn, đứng

như giờ nhà mày vào ca. Người đàn bà hiểu thị phải biết ơn hai cha con. Ba người

lớn dần dần rất ít trò chuyện. Họ sợ nhất những ngày mưa. Vì mưa hai gã đàn ông

sẽ ở nhà, nghĩa là người đàn bà sẽ phải dẫn hai đứa trẻ ra chỗ khác. Trong nhà chỉ

còn hai gã đàn ông gò lưng trên chiếu rượu.

6. Người đàn bà có ma lực

Một người đàn bà phù phiếm. ngỡ rằng tình yêu là một trò đùa và suốt đời đã

thử sức hút của mình bằng trò chơi đó. Bây giờ người đàn bà đã có tuổi.

Tiếng lao xao, cãi cọ của gia đình hàng xóm khiến người đàn bà khát khao

một gia đình và người đàn bà nhớ về quá khứ với những kỉ niệm tình yêu. Người

đàn bà mở chiếc tráp màu đỏ giở ra những vật kỉ niệm, cuốn sổ nhật kí năm 17 tuổi.

17 tuổi bước vào đại học, không xinh đẹp, không có duyên, nhưng thông minh, học

giỏi. Ngưỡng cửa cuộc đời, sự nghiệp và tình yêu dang rộng. Ai cũng yêu mến,

khâm phục nhưng vẫn chưa được các chàng trai để ý. Một hôm có người biết xem

bói nói chị có tài chinh phục đàn ông. Chị nửa tin nửa ngờ vì biết mình không xinh

đẹp, không có duyên, mà chẳng có chàng trai nào lại bị thu hút bởi một cô gái xấu

xí. Ngày 1- 7, trên chuyến tàu về quê, một người đàn ông trẻ bắt chuyện, sau tìm về

tận nhà cô. Người đàn ông đến, cô thấy mình trẻ trung xinh đẹp hơn. Mối tình đầu

với Sơn– người đàn ông trên tàu – rất ngọt ngào, đầy kỉ niệm tình yêu mà không có

kỉ niệm buồn, nhưng họ vẫn chia tay. Năm thứ tư đời sinh viên, khi tình yêu với

Sơn vấn rất đẹp thì cô lại rung động trước chàng trai khoa toán đàn rất hay. Chàng

trai bị thu hút khi gặp cô trong phòng tự học. Đêm đêm đem đàn ra hát. Cô đến với

chàng trai khoa toán vì bắt đàu thấy Sơn quá nhạt nhẽo. Chàng trai khoa toán dạy cô

đàn, cô hát. Cô đàn và hát rất hay. Một lần chàng đưa cô đi dự sinh nhật bạn. Cô

đàn và hát một bài độc đáo. Chàng nhà văn trẻ bị thu hút bởi cô, coi cô là nàng thơ

của mình. Cô nhìn lại bản thân và bắt đàu tu sữa bản thân cho thêm hấp dẫn. Một

cậu bé thi rớt đại học lên ở ôn thi ở cùng anh trai là bạn học cô. Cậu bé yêu cô nhất

quyết muốn cưới cô làm vợ. Gia đình phản đối nhưng vô hiệu, họ đành để cậu bé đi

105

xuất khẩu lao động. Năm thứ tư cô vẫn để cuộc sống trượt dài.Một chiều đi lang

thang, cô vào xem ca nhạc. Người nhac công trẻ khiến cô chú ý. Cô hoảng sợ khi

thấy bản năng giống như người nhạc công kia được núp dưới bóng tình yêu. Cô ngỡ

tất cả đều là tình yêu thật sự. Tốt nghiệp đại học. Công tác và sống ở môi trường

mới nhưng quan niệm tình yêu không thay đổi. Cô chưa có người yêu.

Một hôm đi dạo một mình cô gặp hai cha con, cô bé rất thích cô vì thấy cô

cũng mặc chiếc áo len đỏ như nó. Người đàn ông mời cô về nhà để ciều lòng con

gái. Cô thi thoảng đến nhà hai cha con, bản năng làm mẹ của người phụ nux khiến

cô trở nên thật dịu dàng khéo léo. Cô bé không có mẹ rất quý mến cô côi cô như

mẹ. Người đàn ông cũng rung động nhưng lại sợ người đàn bà như cô bởi cô rất dễ

bỏ anh ta. Một người đàn ông nữa đén, chàng thực tập sinh ở nức ngoài về. Anh ta

là kiểu người thực dụng, chỉ nghĩ đến cách kiếm tiền, và là kẻ bần tiện. Giờ đây

người đàn bà đã cảm thấy mệt mỏi. Tiếng ồn ã của gia đình hàng xóm khiến người

đàn bà dứt mình khỏi quá khứ. Người đàn bà cảm thấy không còn chút sinh lực nào,

cái cả giác dễ sợ, cố vùng vẫy mà không thoát ra được. Tiếng một cô bé khiến

người đàn bà choàng tỉnh. Tiếng hát của cô bé về mẹ khiến người đàn bà xúc động

rơi nước mắt, người đàn bà nhẩm hát theo cô bé, cái mệt nhọc chán chường dần bay

đi theo tiếng hát. Quá khứ là dĩ vãng, phía trước là tất cả.

6. Con quỷ nhỏ trong lòng tôi

Chiều tối làm được bài thơ đầu tiên, đêm cô mơ một giấc mơ kì lạ về con ngựa

có cánh với vòng nguyệt quế trên đầu. Cô thấy một gương mặt phụ nữ u buồn. Ngày

ấy vừa tốt nghiệp đại học, trước ngưỡng cửa cuộc đời là những ngày tháng dài chờ

việc. Không biết làm gì cho chóng qua những ngày chờ đợi, cô nảy ra ý định viết

văn. Ngày phổ thông cô cũng từng viết. Cô viết những cảm xúc, viết những yêu

mến. Cô thích viết về người lính. Thoáng có ý nghĩ gửi đăng báo nhưng bị xua đi

ngay. Nhưng con quỷ nhỏ bắt đầu xuất hiện trong cô thôi thúc cô viết. Cô gửi đi

một truyện ngắn dự thi cuocj thi viết truyện. Mất mấy ngày hoảng loạn bối rối khi

nghĩ đến việc người ta sẽ cười khi đọc truyện của cô. Nhưng cô nhận được thư của

tòa báo. Con quỷ nhỏ lại thôi thúc cô. Cô viết thư cho người biên tập, một nhà văn.

106

Người biên tập nhận và viết thư cho cô. Con quỷ nhỏ thỏa mãn. Ước mơ của cô như

được chắp cánh. Cô tiếp tục viết. Người biên tập rất muốn gặp cô. Cô đã quyết định

tìm đến tòa soạn cùng một người bạn. Cuộc gặp gỡ đầu tiên rồi những lần sau. Con

quỷ nhỏ thích thú với cuộc hẹn ngoài công viên. Người ấy ôm và hôn cô gái. Trong

giây phút đầu cô hôn trả lại. Sau đó hoảng sợ. Họ chia tay nhau, con quỷ nhỏ nằm

im chỉ còn lí trí. Cô gái đã biết thêm về cuộc đời mà đáng lẽ chưa nên biết. Cô gái

dằn vặt khắc khoải mà không biết thổ lộ cùng ai. Điều làm cô khổ sở nhất là ý nghĩ

chính người ấy sẽ khinh miệt coi cô như một kẻ tầm thường dễ dãi. Tất cả dồn nén

trong bức thư cô gửi người ấy. Khoảng một tuần sau người ấy viết thư trả lời. Bức

thư làm cô vui và quên đi mọi sự dằn vặt. Ngày hôm sau đang tràn đầy niềm vui

hạnh phúc thì nỗi bất hạnh ập xuống. Lá thư cô gửi người ấy không hiểu sao lại ở

trong tay chị Phương cùng làm. Chị khuyên cô đừng dại dột như thế người ấy đã có

vợ. Cô nghĩ đến cảnh người ta , những người vợ kéo đến xem mặt cô gái đã cám dỗ

chồng họ, để họ biết mà tránh. Hàng tháng trời cô gái sống khốn khổ với ngoại

cảnh, nhìn ai cũng thấy họ đang dò xét mình. Cô giãy giụa với số mệnh và tìm cách

chống trả hiện tại. Quyết định viết cho chị vợ một lá thư. Ba ngày sau, người vợ tìm

đến nhà gặp cô. Người vợ nói cho cô biết cô đã quá non nớt, dễ tin. Họ đã bị lừa

dối. Người vợ đưa cho cô một lá thư khác của người biên tập gửi cho một cô gái.

Mọi thứ như sụp đổ trong cô.

Một tuần sau với sự sắp xếp của người vợ, người ấy đến gặp cô và kể một câu

chuyện giả dối. Cô bình thản lắng nghe và kể một câu chuyện khác về sự giả dối.

Cô phá lên cười và nhìn thẳng vào mắt người ấy. Bỗng nhiên người ấy già nua kinh

khủng. Người ấy đứng dậy và đi ra cửa như ai đuổi. Cô gái gục mặt xuống bàn

khóc, cô không cần thứ vốn sống giả dối ấy.

7. Phút dành cho tình yêu

Ngày mai cô gái đi lấy chồng. Đêm nằm trằn trọc với bao ý nghĩ về tương lai.

Chợt tiềm thức đưa cô quay về một câu chuyện đã qua. Đó là phiên trực đàu tiên

trong đời bác sĩ của cô. Đêm trăng đẹp. Buồng số hai, buồng của một bệnh nhân nữ.

Một cảnh tượng khiến cô bác sĩ ngỡ ngàng: cái bóng tráng của nữ bênh nhân kéo lê

107

mình trên sàn đá hoa, đến chỗ chiếc đi văng có người đàn ông đang nằm. Cái bống

trắng ngồi thạt sát đi văng, gục mặt vào lòng người đàn ông, hai tay đu lên cổ người

đàn ông thì thào những lời yêu thương. Người đàn ông tỉnh dậy hốt hoảng bế xốc cô

gài lên trên đi văng rồi quỳ xuống bên cạnh. Hạnh phúc nhất với cô là được ở bên

người đàn ông. Cô muốn mình sẽ sống để yêu anh, để hạnh phúc bên anh.

Bốn giờ sáng, phòng số hai bật đèn sáng trưng, soi rõ cái bóng trắng tôi qua

là một cô gái trẻ, gầy khủng khiếp. Cô gái đau đớn. Bác sĩ phải tiêm mooc phin

cho cô. Cô chưa kịp mang đến hạnh phúc cho anh. Liều thuốc cuối cùng giúp cô

ngủ và vĩnh viễn không phải chịu đau đớn nữa.Người đàn ông cúi xuống làm rơi

tờ giấy từ trong túi áo. Cô bác sĩ cầm lên đọc và ngạc nhiên không hiểu: giấy gọi

ra tòa li hôn lần thứ nhất. Người đàn ông buông xuôi tay đau đớn. Đưa trả anh tờ

giấy, anh vồ lấy và ép chặt vào mặt cười sằng sặc, cười mãi đến khi tờ giấy nhũn

ra rơi lả tả. Người đàn ông buông thõng tay và khẽ rên lên: ít ỏi quá. Cô bác sĩ

không hiểu gì cả.

8. Biển và người đàn bà

Anh nhập vào nàng như một đám bọt bèo sóng đánh dạt vào bờ. Nếu không có

nàng chắc anh sẽ tan rữa ra hòa vào nước biển. Đó là những ngày tồi tệ nhất trong

đời anh khi anh không tự chủ được mình. Toàn bộ sức mạnh đàn ông anh biến mất

thay vào đó là cảm giác muốn được vỗ về, ôm ấp. Anh như một kẻ mồng du tìm đến

bến tình của những kẻ đồng tính. Anh che giấu vợ con, bạn bè tình cảnh khốn khổ

của mình.Một ngày anh bị vợ bắt gặp khi anh luồn tay vào hốc khóa mà bạn tình đã

để sẵn cho anh. Anh chết đứng. Vợ đi khỏi anh gục xuống và không biết gì nữa. Từ

bên trong cửa sổ một ngôi nhà đối diện nàng đã chứng kiến tất cả. Nàng đưa anh đi

bệnh viện với chẩn đoán của bác sĩ – hôn mê thận. Nàng không để người nhà anh

biết anh đang hoạn nạn, nàng muốn anh là của riêng mình. Xuất viện nàng đón anh

về nhà. Anh coi nàng như mẹ. anh kể về cuộc đời mình một nhà khoa học giỏi,

kiêm quản lí. Công việc quản lí khiến anh lúng túng. Cùng lúc ở nhà vợ con anh lại

có những đòi hỏi, thúc ép anh. Người ta đòi hỏi ở anh những thứ anh không có.

Không cho anh làm công việc anh rất thành đạt là nghiên cứu khoa học. Anh bị

108

thanh tra chất vấn khổ sở. Về nhà vợ anh vẫn đẹp rực rỡ và không ngừng đòi hỏi.

Vợ lại cho rằng anh có người đàn bà khác bên ngoài. Vợ bắt quả tang, anh như đã

chết. Nàng xáu xí, nàng thấu hiểu toàn bộ câu chuyện của anh. Nàng bán hết nhà

cửa, đưa anh đi về phía biển. Nàng mua căn nhà nhỏ và một phòng thí nghiệm cho

anh. Nàng làm tất cả để anh thành đạt. Anh nghiên cứu về lượng vàng hòa trong

nước biển.

Một ngày anh thành công. Anh bán công nghệ cho một nhà máy. Anh trở nên

giàu có, trở thành người đàn ông với đày đủ sức mạnh. Nàng đi ra biển, biển rì rào.

DẠ NGÂN

1. Gia đình bé mọn

Mỹ Tiệp là một nữ văn sĩ miền Nam say mê nghề nghiệp, có nhan sắc, giàu cá

tính. Do hoàn cảnh chiến tranh xô đẩy, cuộc hôn nhân không tình yêu với Tuyên

khiến cho Tiệp dần cảm thấy ngột ngạt, không chịu đựng nổi. Sự xuất hiện của “anh

nhà báo cỡ bự” - người mà Tiệp đã lao vào như con thiêu thân, “hy sinh một cách u

mê như thần dân với vị vua của mình” chỉ sau vài lần bất chợt gặp nhau tại các cuộc

họp hay ngoài đường đã mang đến không ít tai tiếng và những vết nứt đầu tiên cho

gia đình nàng.

Dưới sức ép của dòng họ, nhất là sự uy nghi của cô Tư Ràng, Tiệp đã cố làm

lành với chồng nhưng cuộc sống hôn nhân vẫn không thể trụ vững được. Tiệp gặp

Đính. Anh chàng nhà văn lãng tử của xứ Nghệ đến và làm thay đổi hoàn toàn cuộc

đời Tiệp, đánh thức mọi phương diện trong con người Tiệp. Nhưng phải mất mười

một năm sau nhiều phen sóng gió, nàng mới được chính danh cùng người yêu.

Tưởng chừng cuộc sống hạnh phúc sẽ đến với Tiệp sau những khó khăn mà nàng đã

trải qua nhưng sự dằn vặt, cắn rứt, cảm thấy có lỗi với con luôn ám ảnh hạnh phúc

từng ngày của Tiệp và Đính.

Tiểu thuyết khép lại với cảnh Tiệp phải trở lại miền Nam, giúp đứa con gái,

người cũng vừa có một bước đi sai lầm trong việc thiết kế một “gia đình bé mọn”

của riêng mình như thể đang giẫm lại dấu xe đỗ ngày xưa của nàng.

109

PHỤ LỤC 4:

TÊN TẬP TRUYỆN

VÀ TRUYỆN CÓ CỤM TỪ “NGƯỜI ĐÀN BÀ”

STT TÁC GIẢ TÁC PHẨM THỂ LOẠI

Người đàn bà ám khói Truyện ngắn 1 Nguyễn Thị Thu Huệ

Gánh đàn bà Tập tản văn 2 Dạ Ngân

Người đàn bà kể chuyện Tập truyện, 3 Lý Lan

truyện ngắn

Ba người đàn bà Truyện ngắn

Tiểu thuyết đàn bà Tiểu thuyết

Tập truyện 4 Y Ban

Người đàn bà sinh ra trong bóng đêm Người đàn bà có ma lực Tập truyện,

Truyện ngắn

Biển và người đàn bà xấu xí Tập truyện

Truyện ngắn

Người đàn bà và những giấc mơ Tập truyện

Truyện ngắn

Cuối cùng thì đàn bà muốn gì Tập truyện

Truyện ngắn

Tập truyện I am đàn bà

Truyện ngắn

Đứa con và người đàn bà tàn tật Truyện ngắn

Truyện ngắn

Mỗi người đàn ông chỉ của riêng một người đàn bà Đàn bà xấu thì không có quà Tiểu thuyết

Người đàn bà đứng trước gương Truyện ngắn

110

PHỤ LỤC 5:

TÊN TẬP TRUYỆN

VÀ TRUYỆN GỢI HÌNH TƯỢNG NGƯỜI NỮ

STT TÁC GIẢ TÁC PHẨM THỂ

LOẠI

1 Giai nhân Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu

Thiếu phụ chưa chồng Huệ

Truyện ngắn Vợ lính 2 Dạ Ngân

Làm mẹ

Trên mái nhà người phụ nữ

Chị ấy lấy chồng chưa Truyện ngắn 3 Lý Lan

Mẹ và con

Cô con gái

Người mẹ

Thiếu phụ và những đôi cò Truyện ngắn 4 Y Ban

Gái góa là gái góa ơi

Bức thư gửi mẹ Âu cơ

Nữ hoàng cô đơn

111

PHỤ LỤC 6:

SỰ XUẤT HIỆN CỦA CỤM TỪ “NGƯỜI ĐÀN BÀ”

& “NGƯỜI ĐÀN ÔNG” TRONG CÁC TÁC PHẨM

S TÁC PHẨM NGƯỜI NGƯỜI CON

TT ĐÀN BÀ ĐÀN ÔNG ĐÀN BÀ

1 Thần cây đa và tôi (Y

75 Ban)

2 Đàn bà xấu thì không

27 có quà (Y Ban)

3 Trò chơi hủy diệt cảm

45 25 xúc(Y Ban)

4 Người đàn bà có ma

22 lực (Y Ban)

5 Tiểu thuyết đàn bà

35 45 (Lý Lan)

32 6 ABCD (Y Ban)

112

PHỤ LỤC 7:

PHỎNG VẤN CÁC TÁC GIẢ KHẢO SÁT TRONG LUẬN VĂN

Nguyễn Thị Thu Huệ muốn tận hưởng tình yêu đích thực

"Khi va chạm ngoài đời, từng trải hơn trong cuộc sống, tôi mới thấy hết giá trị

của tình yêu. Hãy dành cho tình yêu sự tôn trọng xứng đáng", nữ văn sĩ tâm sự.

 Những năm 1990-1995, chị có chuỗi thành công liên tiếp với 3 tập

truyện xuất bản và nhiều giải thưởng. Chị giải thích chúng như thế nào dưới góc

độ tình yêu?

Đó là khoảng thời gian tôi không hề biết yêu thực sự là gì, và tôi cũng chẳng

tin có tình yêu lớn trong đời. Tôi đi làm, đẻ con, nuôi con, bận túi bụi với cuộc sống

gia đình. Cuộc đời của tôi như một quy trình ngược. Dường như tôi tìm thấy tình

yêu ở tuổi 40, lúc còn trẻ, tôi chẳng biết yêu là gì, chỉ biết đến công việc.

 Điều đó ảnh hưởng tới những nhân vật của chị ra sao?

Hình như trong cách truyện ngắn đã in trước đây của tôi, các nhân vật nam đều

rất tệ, không đáng yêu chút nào. Một là không phải đàn ông đích thực. Hai là rất hay

ho nhưng không có thật ngoài đời, hoặc nếu có, rất hiếm.

 Nhiều phụ nữ cho rằng phái mạnh không mạnh như họ nghĩ. Bản thân

chị nghĩ sao?

Lúc này, tôi nghĩ phái mạnh lúc nào cũng là phái mạnh. Họ không hề xoàng

trong bất cứ chuyện gì. Ít nhất cũng là người tôi đang gặp lúc này. Chính người đó

làm thay đổi những quan niệm của tôi trước đây về phái mạnh.

 Là một nhà văn, lại là giám đốc một hãng phim truyền hình, chị nghĩ

thế nào về người đàn bà thời hiện đại?

113

Khác với nhiều người nghĩ, thực ra người đàn bà lúc nào cũng muốn nương

tựa. Bất đắc dĩ mới phải tự mình đứng thẳng, vì bị xô đẩy mà phải gánh vác việc của

đàn ông. Người đàn ông phải hiểu điều đó.

 Tình yêu, nó có gì thay đổi từ ngày chị cầm bút cho đến bây giờ?

Tình yêu đúng là một thế giới mà không ai có thể hiểu đến tận cùng ý nghĩa

của nó. Ở từng thời điểm, người ta gặp, yêu và nhìn nhận nó bằng những gì họ sống

nên tình yêu có nhiều khuôn mặt.

Với tôi, từ khi cầm bút viết đến nay tôi luôn tôn thờ tình yêu, đấy là điều làm

nên mọi giá trị của cuộc sống. Nhưng thường thì ngày trước tôi viết về tình yêu với

mơ ước được như vậy, còn bây giờ, hình như không còn là mong ước nữa mà nó là

có thực trong cuộc đời tôi. Nhưng tệ thật, lúc biết là nó có thật thì mình lại… quên

viết. Hóa ra tôi muốn tận hưởng tình yêu đích thực hơn cả viết về nó.

 Người ta phải làm gì để giữ gìn tình yêu?

Khi va chạm ngoài đời, từng trải hơn trong cuộc sống, tôi mới thấy hết giá trị

của tình yêu. Tôi nghĩ rằng nhiều người có nó, nhưng lại không biết hoặc không thấy

hết giá trị, từng ngày lãng phí và đánh mất nó. Hãy dành cho tình yêu sự tôn trọng

xứng đáng

 Chị nghĩ gì về đời sống tình cảm gia đình hiện nay?

Cuộc sống không còn quá khó khăn như trước, nhưng chính vì thế mà các mâu

thuẫn trong gia đình dễ bùng nổ hơn. Theo tôi quan sát, nhiều gia đình giờ đây đang

có vấn đề. Họ che giấu điều đó nhưng sự thật nhiều người đang phải đối mặt với nó.

Tôi nghĩ người đàn ông, trên đường đời của anh ta, anh ta cần ngoái lại nhìn người

vợ mình. Anh ta sẽ biết mình cần phải làm gì.

 Bị nhiều đối tượng tấn công, chị làm thế nào với những đối tượng ấy?

114

Tôi biết nhiều người thích tôi, nhưng tôi không yêu họ. Tôi phải giữ một tình

cảm tế nhị và tôn trọng họ, phải giữ để không trở thành kẻ thù của nhau. (cười)

 Khuyết điểm của đàn ông nói chung theo chị là gì?

Một số ích kỷ và vô tâm. Người phụ nữ rất sợ những người đàn ông kém tinh

tế. Nhưng không phải người đàn ông nào cũng tinh tế.

 Một gia đình cần có những yếu tố gì mới trọn vẹn?

Cần 3 yếu tố. Phải yêu nhau. Phải tôn trọng nhau. Phải có tinh thần gìn giữ

hạnh phúc của chính mình.

 Còn công việc của nhà văn viết về tình yêu thì sao?

Phải viết nên những trang viết trở thành bạn tri âm tri kỷ với người đọc, làm

cho cuộc đời thêm ấm áp bình yên.

Phỏng vấn Nguyễn Thị Thu Huệ (2005), “Nguyễn Thị Thu Huệ

muốn tận hưởng tình yêu đích thực”, www.vnexpress.net

“Gia đình bé mọn” có phải là câu chuyện

về tình yêu của nhà văn Dạ Ngân”

“Sau đúng 20 ngày, tôi đặt dấu chấm cuối cùng cho tác phẩm ‘Gia đình bé mọn’

tại nhà sáng tác Đại Lải”, nhà văn Dạ Ngân tâm sự với VNCA về tác phẩm được đồn

là câu chuyện tình yêu của chị cũng như tình yêu thực với nhà văn Nguyễn Quang

Thân...

Tổ ấm của hai nhà văn Nguyễn Quang Thân và Dạ Ngân - “cặp vợ chồng son”

luống tuổi - là một căn gác có tới 10 cửa sổ ở ngoại vi Hà Nội, trên nóc nhà có 60m2

trồng rau sạch, cây cối um tùm. Rời bàn viết, nhà văn Nguyễn Quang Thân tìm những

niềm vui nho nhỏ trong việc tưới tắm mấy cây rau. Vài năm nữa Dạ Ngân về nghỉ hưu,

115

có thể họ sẽ vào Nam sống để chị được gần gia đình - bù đắp những năm tháng chị

phải xa con.

Nhà văn Dạ Ngân vừa cho ra mắt độc giả cuốn tiểu thuyết “Gia đình bé mọn”-

một cuốn sách được đồn rằng chính là câu chuyện về tình yêu của chị và nhà văn

Nguyễn Quang Thân. “Gia đình bé mọn” vừa vinh dự nhận Giải thưởng của Hội Nhà

văn Hà Nội.

 Tiểu thuyết “Gia đình bé mọn” có phải chính là câu chuyện về tình

yêu của chị và nhà văn Nguyễn Quang Thân?

Tôi không nghĩ đây là một cuốn sách về tình yêu. “Gia đình bé mọn” là cuốn

tiểu thuyết về đề tài hậu chiến. Sống trong đất nước của những cuộc chiến kéo dài,

thân phận người Việt nào cũng có một quá khứ chung là chiến tranh, chiến tranh

ảnh hưởng đến rất nhiều thế hệ, còn dấu vết cho tới tận bây giờ.

Tôi viết “Gia đình bé mọn” với tâm thế ấy, chứ không phải ca ngợi hay lý giải

cho một chuyện tình. Khung xã hội trong tiểu thuyết này khá rộng. Câu chuyện tình

yêu xuyên suốt tập sách là chuyện tình của một đôi tình nhân luống tuổi. Thân phận,

quá khứ và các tâm trạng của họ đều trĩu nặng những thế sự…

Tôi không thay đổi tiểu sử, nhân thân cho các nhân vật nguyên mẫu, tôi nói

các nhân vật vì tiểu thuyết nó vốn ôm được nhiều con người, nhiều số phận. Hai

nhân vật nam và nữ là nhà văn bởi những sóng gió của họ cũng bắt đầu từ hệ lụy

của nghề văn mà ra. Họ quyết liệt, cực đoan, đắm đuối đến thế cũng bởi họ là nhà

văn. Khi viết những chương nói về công việc, lý tưởng nghề văn của nhân vật chính

là Tiệp, tôi rất thích.

 Là những trải nghiệm của chính cuộc đời chị, hẳn “cuộc sinh thành”

Gia đình bé mọn rất nhiều vật vã?

Tôi viết “Gia đình bé mọn” theo kiểu ốc sên, cứ leo lên lại tụt xuống. Tôi viết

đi viết lại rất nhiều lần rồi lại bỏ, năm nào cũng viết rồi bỏ, năm lần bảy lượt như

vậy. Khi không viết được cứ thấy ấm ách như người mắc nợ. Khi bắt đầu cầm bút

116

viết, tôi đã biết đây là tác phẩm rất quan trọng trong đời văn của mình. Nếu chưa kết

thúc nó, tôi chưa thể làm được gì. Nó cứ “mắc kẹt” như vậy chỉ vì lý do không có

thời gian dành trọn vẹn cho việc hoàn thành nó.

Năm 2004, tôi lên Đại Lải 20 ngày, một mình một “cõi” viết mỗi ngày một

chương. Tôi xóa hết kết quả viết lách của 5 năm, bắt tay lại từ đầu. 20 ngày ấy tôi

không màng đến tiện nghi là điện thoại, tôi trốn chồng và bạn bè, tôi không có cảm

giác về mọi thứ bên ngoài mình, khi ăn cũng không biết mình đang nhai cái gì. Khi

viết, tôi chay tịnh theo đúng nghĩa đen, ăn sợ thịt thà, sợ no nê. Sau đúng 20 ngày,

tôi đặt dấu chấm cuối cùng cho “Gia đình bé mọn”. Rồi sau đó, về nhà sửa chữa

trên máy tính chen với việc công sở mất vài tháng nữa.

 Sau 12 năm chung sống, điều gì đã giữ cho Dạ Ngân và Nguyễn

Quang Thân vẫn “Yêu nhau một cách dị thường”?

Có lẽ đơn giản vì chúng tôi yêu nhau quá. Bà cô tôi tiên đoán từ khi tôi còn

nhỏ rằng, mẫu đàn ông của tôi phải là người đứng tuổi, có trí tuệ, lành mạnh về tinh

thần… tôi yêu anh Thân là gặp được đúng người. Nhưng hai nhà văn ở với nhau

cũng va chạm chan chát ấy chứ: khác vùng miền, con riêng, chủ kiến mạnh và sự

cực đoan của mỗi người, cuộc sống giữa một Hà Nội khắc nghiệt như thế này…

Nói thật, có nhiều điều ở anh Thân cũng không hoàn hảo: dấu ấn vùng miền

trong tính cách, sự cực đoan, tính căn cơ gay gắt, sự ồn ào về dòng họ… nếu nhìn

dưới khía cạnh tiêu cực thì tôi sẽ phải cảm thấy buồn khổ. Nếu cho những “tiêu

cực” ấy là nét chính trong người đàn ông của mình thì sẽ thấy mình bất hạnh.--

PageBreak--

Nhưng nếu cho nó là chuyện vặt thì những khiếm khuyết sẽ chỉ là chi tiết buồn

cười, và mình hoàn toàn hạnh phúc với “quà tặng” mà số phận trao cho mình. Bí

quyết của sự chung sống là hãy nhìn vào những đức tính quan trọng của nhau, lấy

điều đó làm nền tảng của cuộc sống lứa đôi. Việc điều hòa mâu thuẫn luôn nằm

trong tay người phụ nữ.

117

 Chuyện “con anh con tôi” thường là điểm nhạy cảm phát sinh mâu

thuẫn của các đôi vợ chồng “tập 2”, cho dù họ rất yêu nhau. Anh chị đã ứng xử

như thế nào về chuyện con riêng?

Tôi không phân biệt đối xử, luôn công bằng và chăm chút con chồng. Tôi rất

tự tin với sự công tâm của mình trong việc đối xử với các con và gia đình lớn của

anh Thân. Công sức ấy vất vả không thua chuyện viết văn, khi tôi gánh trên vai

những trách nhiệm của con dâu trưởng: việc nhà thờ, mồ mả, giỗ chạp, các việc lễ

nghĩa trong họ mạc…

Ngược lại, tình cảm của anh Thân với các con tôi cũng rất sâu sắc. Các con tôi

hiểu anh rất thương chúng nó, và thế là đủ. Tình thương ấy có nền tảng của hơn 20

năm gắn bó về tinh thần, thời gian các con tôi hiểu ba Thân còn nhiều hơn chúng

hiểu và sống với cha ruột. Quan trọng hơn, các con tôi chúng biết ba Thân yêu mẹ

chúng nó quá. Khi vợ chồng chúng tôi đi chơi, người ta hay hỏi “anh chị có bao

nhiêu cháu”, chúng tôi luôn nói “5 đứa”. Thực sự trong tình cảm của chúng tôi luôn

trọn vẹn cả 5 đứa con.

 Trở lại ngày chị 30 tuổi, nếu không gặp mối tình quá lớn ấy, liệu chị

có yên phận với “cuộc hôn nhân do chiến tranh thu xếp” của mình?

Nếu không gặp anh Thân tôi cũng không thể tiếp tục cuộc hôn nhân với người

chồng đầu tiên. Chúng tôi quá khác nhau, một người phụ nữ quyết liệt như tôi chắc

chắn sẽ không chịu đựng để tiếp diễn cuộc sống không bắt nguồn từ tình yêu ấy.

Đọc “Gia đình bé mọn”, hẳn bạn nhớ sự dấn thân của Tiệp (nhân vật nữ chính) -

“Trái tim mình nhất thiết phải được biết đến một tình yêu đích thực là như thế

nào”…

 Giới văn chương vẫn đồn tình yêu của Nguyễn Quang Thân và Dạ

Ngân “hoang đường như cổ tích”…

Tôi yêu anh Thân khi mới là một thiếu phụ 30 tuổi, lúc về với nhau đã gần hết

tuổi xanh (Dạ Ngân 41 tuổi, Nguyễn Quang Thân 58 tuổi). 11 năm yêu nhau với

118

khoảng cách hơn 2.000 cây số, thư từ gửi phải qua một trạm trung chuyển, điện

thoại thì chỉ công sở mới có. Chúng tôi dù có nhớ nhung phát điên cũng không dám

điện thoại vì sợ lộ chuyện tổ chức sẽ cho ăn đòn, mà họ cũng đã thường xuyên cho

tôi ăn đòn rồi.

Làm việc và dồn góp tiền để một hoặc hai năm đi thăm nhau được một lần,

gặp nhau không có chỗ riêng tư, phải ở tá túc nhà bạn bè… đó chỉ là vài chi tiết

khái quát về những cơ cực chúng tôi đã trải qua để đến được với nhau. Chúng tôi

ơn sự cưu mang của bạn bè nhiều lắm.

 Nhà văn Nguyễn Quang Thân đã bị “hạ gục” trước Dạ Ngân vì…

Tôi có phẩm chất làm vợ tốt. Anh Thân biết điều đó. Chứ còn văn chương,

nhan sắc thì ở Hà Nội đâu thiếu. Tôi luôn tự hào về phẩm chất “nội tướng” được

thừa hưởng từ những người phụ nữ trong gia đình mình, những người phụ nữ được

nuôi dưỡng trong nền văn hóa miệt vườn không bị hỗn tạp. Họ nền nã, gia giáo, biết

khoan biết nhặt, rất linh hoạt và quyết đoán trong ứng xử với đời sống

Phỏng vấn Dạ Ngân (12/2005), “Gia đình bé mọn có phải là câu

chuyện về tình yêu của nhà văn Dạ Ngân?”, Văn nghệ công an, số 25.

Nhà văn Dạ Ngân – Những lời tự thú chân thật

Thẳng thắn, và chân thành, Dạ Ngân giờ đã là người đàn bà 55 tuổi, và người

chồng của mình, nhà văn Nguyễn Quang Thân 72 tuổi, vẫn sống hạnh phúc trong

căn nhà nhỏ, sau những năm tháng nhọc nhằn chịu đựng bao cay đắng vì tình yêu.

Xin được mượn lời của dịch giả Trần Thiện Đạo để làm tên của bài phỏng vấn

nhà văn Dạ Ngân, tác giả cuốn tiểu thuyết Gia đình bé mọn (đoạt Giải thưởng của

Hội Nhà văn Hà Nội 2005, Hội Nhà văn Việt Nam 2006 và được tái bản lần thứ 3

trong vòng một năm). Nhân vật chính là một nữ nhà báo, nhà văn, đã có gia đình và

hai con. Sau này, cô yêu một người đàn ông đã có gia đình. Cuộc sống, hôn nhân,

119

cay đắng, nước mắt, buồn tủi… nhưng quyết liệt và chân tình, cuối cùng, cô đã có

được người đàn ông của cuộc đời. Thẳng thắn, và chân thành, Dạ Ngân giờ đã là

người đàn bà 55 tuổi, và người chồng của mình, nhà văn Nguyễn Quang Thân 72

tuổi, vẫn sống hạnh phúc trong căn nhà nhỏ, sau những năm tháng nhọc nhằn chịu

đựng bao cay đắng vì tình yêu.

 Có thể hiểu Gia đình bé mọn (GĐBM) là một lời tự thú?

Tôi thích định nghĩa của dịch giả Trần Thiện Đạo. Nó không phải tự truyện,

không phải là tự thuật, nó là tự thú, một thể loại hẳn hoi ở phương Tây. Tự thú theo

thuật ngữ văn học, và tự thú theo đúng nghĩa ngoài đời. “Yêu và sống” của Lê Vân

theo tôi chưa hẳn là một tự truyện, bởi tự truyện là phải chân thật và sòng phẳng.

Với GĐBM, gần như tôi đã bóc tách hết, phơi bày hết chính con người tôi, cuộc

sống của tôi. Trần Đăng Khoa hỏi, bà chị đã tiêu đến đồng xu cuối cùng cho cuốn

này chưa, tôi cười, tôi là một khối vuông ru-bích, tôi còn nhiều bộ mặt nữa nhưng

với đề tài gia đình trong cái phông xã hội hậu chiến, tôi đã viết đến kỳ cùng cố gắng

của tôi.

Con gái miền Tây, có cá tính, lại theo đường văn nghiệp, cô có biết người ta

đánh giá mình là quá mạnh bạo, sắc sảo và ghê gớm không?

Không, không nhà văn nào quan tâm đến dư luận về chính con người mình.

Hãy khen chê họ qua tác phẩm. Cá tính đậm là phẩm chất của văn xuôi đường

trường. Nếu mình nhạt, vào văn, mình cũng sẽ nhạt lắm. Hơn nữa, cũng do nền tảng

gia đình và miền đất sống. Con gái miền Tây mềm mại, phóng khoáng. Tôi giống cô

Ràng (một nhân vật trong GĐBM) của tôi, có nhiều đàn ông ngưỡng mộ.

 Tình yêu đối với cô?

Có yêu nhau, mới sống với nhau được. Mà đã yêu nhau, không điều kiện luôn.

Không Nam, không Bắc, không trong, không ngoài nước, không xấu, không đẹp.

Nhưng tình yêu chân chính, bao giờ cũng có sự khao khát được sống với người

120

mình yêu. Ở chuyện tình của tôi, tôi phải xả thân, hy sinh rất nhiều. Tình yêu, luôn

vừa phải lãng mạn, vừa thực tế, vừa phóng khoáng, lại đòi hỏi bao dung.

 Cô đã từng thất bại trong cuộc tình với một nhà báo?

Lúc đó, tôi, hay chính nhân vật Tiệp của tôi, một người đàn bà có hai con, sau

thất vọng với người chồng đầu tiên, bỗng thấy thật phí đời nếu sống mà chỉ có như

vậy. Cái khác giữa một người đàn bà, với một cô gái là khi cần tình yêu, đàn bà họ

rất quyết đoán, như bà Bovary của Flaubert hay Anna Karenina của Lep Tônxtoi.

Họ có thể tuẫn tiết vì tình yêu, nhưng thôi, khi tôi nhận ra anh nhà báo đó không

yêu gì mình, tôi cũng chẳng cay đắng, chẳng hận thù gì. Tự mình đến với người ta

kia mà.

 Lần đầu cô gặp nhà văn Nguyễn Quang Thân như thế nào?

Chúng tôi gặp nhau ở Trại sáng tác của Hội nhà văn ở Vũng Tàu vào tháng 4

năm 1982. Lúc ấy tôi đã trục trặc với chồng và có 2 con. Anh Thân cũng vậy,

nhưng có tới 3 con, khao khát kiếm tìm. Ngay từ lần đầu tiên nhìn thấy tôi đứng

giúp chia cơm cho các mâm trong Trại, anh nói anh biết rằng đây là người phụ nữ

mà anh ao ước. Anh bảo ở tôi có sự từng trải của người đi từ chiến tranh ra, có vẻ

nền nã của gái miệt vườn và có sự đôn hậu của một nhà văn nhiều nữ tính, cái chính

là tôi luôn buồn buồn như “Người đàn bà có con chó nhỏ” của Tchekhov. Đầu tiên,

tôi thấy ngại cái ông Nghệ Tĩnh phong tình này nhưng sau rồi… anh đã chinh phục

được tôi bằng hàm lượng trí tuệ, sự hóm hỉnh và cả cái kiểu cần cù của một ông “cá

gỗ” nữa.

 Và chấp nhận yêu một người đàn ông đang có vợ?

Vâng. Và đau khổ. Biết bao nhiêu nước mắt đã chảy. Hơn mười một năm trời,

hồi ấy đã ai có điện thoại riêng đâu. Chúng tôi liên lạc với nhau bằng điện tín, bằng

thư, những lần gặp nhau cách quãng, người Nam, kẻ Bắc. Tôi vẫn còn nguyên cái

kho thư tình, khoảng nửa tháng thư vào thì nửa tháng thư ra, mỗi bên 99 lá của ngần

121

ấy năm. Anh Thân viết thư hay hơn tôi, sâu sắc yêu thương, còn thư tôi thì toàn cằn

nhằn thôi à. Nếu anh Thân yêu ít mãnh liệt hơn và ít bền bỉ hơn chắc tôi “chạy

thoát” rồi.

 Tại sao lại toàn những lời cằn nhằn?

Vì khổ quá. Vì sức ép chính danh của tổ chức, của gia tộc, của con cái, của

bạn bè, nói chung là càng nhiều thâm niên yêu thì sự “câu lưu” nhau càng vô lý chỉ

vì chưa có một cái giấy cởi trói cho anh ấy.

 Còn dư luận xung quanh thì sao?

Dư luận bao giờ mà chẳng phù thịnh đạp suy? Các cuộc họp kiểm điểm do

những lá thư tố cáo của người đàn bà kia, và sự từ bỏ của gia tộc vì tôi đã làm “xấu

mặt” người thân của mình… Nhiều thứ áp lực như thể tôi bị nhốt vào thùng phuy

mà nện vậy.

 Có bao giờ cô tự dằn vặt mình là người phá hoại hạnh phúc của

người khác không?

Không. Tôi có quan niệm tận cùng của một nhà văn trong vấn đề này. Một khi

người ta chán nhau thì người thứ ba sẽ xuất hiện, nếu không phải là tôi, anh Thân

cũng sẽ có người khác và phía tôi cũng vậy. Nếu tôi mặc cảm, tôi sẽ không dám làm

gì cả. Mẹ anh Thân, các em của anh ấy và con cái hai bên đều âm thầm chấp nhận

mối tình của chúng tôi. Vấn đề vẫn là làm thế nào để chính danh và được ngẩng mặt

dưới ánh mặt trời.

 Tâm trạng của cô chú trong ngày đi đăng ký kết hôn, khi cô đã 41,

còn chú 58 tuổi?

Khó tả lắm. Cầm tờ giấy đăng ký trong tay, trao nhau đôi nhẫn cưới, mà chiếc

nhẫn của anh Thân to đến nỗi bà chủ tiệm vàng đeo vào ngón chân vẫn vừa ấy,

chúng tôi đặt vài chục thiếp báo hỷ rằng chúng tôi đã đăng ký kết hôn với nhau.

122

Đơn giản vậy thôi, nhưng nó đã giúp mình cởi bỏ hết xiềng xích trong tâm trạng của

chính mình.

 Và hết bị mang tiếng?

Vâng. Hết bị mang tiếng lăng nhăng, cho dù hơn 11 năm xa cách, chúng tôi

chỉ “lăng nhăng” với nhau, chứ không lăng nhăng với ai khác. Tôi cảm thấy may

mắn vì đã tìm được người bạn đời, người đồng nghiệp giỏi hơn tôi, góc cạnh hơn tôi

để có thể chịu được tôi và để tôi vừa yêu vừa nể trọng.

 Cô chú có con chung nào không?

Không. Chúng tôi đã có quá đủ. Con chung của chúng tôi là văn chương. Con

cái, không thể nào ràng buộc được nếu như người ta không chịu được sự ràng buộc.

Cả hai gộp lại năm đứa, nhiều đến phát mệt đi rồi.

 Nhân vật nữ của cô luôn có sự mạnh mẽ trong tình dục?

Đúng. Đời sống tình dục của vợ chồng hiện đại đều phải như thế. Đàn ông

thích người vợ đôi khi cũng chủ động, chứ không phải lúc nào cũng e ấp.

 Thật bất ngờ khi được biết cô chính là Dạ Hương – chuyên gỡ rối tâm

tình cho các bạn trẻ trên báo Nông Nghiệp Việt Nam suốt 5 năm qua. Có khi nào,

cô gặp những cảnh ngộ giống như mình chưa?

Bi kịch, mỗi người một kiểu, không ai giống ai hoàn toàn. Với bi kịch tình yêu

của một người đã có gia đình, tôi sẽ tùy theo từng hoàn cảnh mà khuyên người ta

nên theo, hay bỏ mối tình đó. Bởi con đường đến đích bao giờ cũng đòi hỏi một tình

yêu hai chiều, đòi hỏi sự hy sinh ghê gớm mới có hạnh phúc, nó khác với sự lựa

chọn chính xác từ đầu.

Phỏng vấn Dạ Ngân (2007), “Nhà văn Dạ Ngân: Những lời tự

thú chân thật”, http://tintuconline.com.vn.

123

Y Ban hạ thấp cái tôi để làm phụ nữ bình thường

"Từng có lần chồng tôi lục trong đống bản thảo của tôi và tìm được 8 lá đơn

xin ly hôn. Có lần tôi đã xách vali, ôm con ra khỏi nhà, đi tìm khách sạn ở, vậy rồi

chồng tôi cũng đi theo", nhà văn Y Ban thổ lộ về cuộc sống gia đình.

 Theo chị, hạnh phúc riêng của một nhà văn nữ có gì khác một phụ nữ

bình thường?

Có một sự khác biệt cơ bản, người phụ nữ làm văn chương trong gia đình luôn

luôn "bắt" con người mình quay trở về như một người phụ nữ bình thường. Bởi rõ

ràng, người phụ nữ viết văn là không -bình - thường. Cái không - bình - thường tôi

nói ở đây không phải là cái gì cao siêu, mà bởi tính chất công việc của chúng tôi.

Chúng tôi cố gắng trở thành người đàn bà bình thường trong gia đình, nấu một

bữa cơm bình thường, yêu con như người mẹ bình thường. Những đứa con cần một

người mẹ khi ôm ấp chúng phải toàn tâm toàn ý yêu thương, đầu óc không được

vẩn vơ chuyện khác.

Còn tôi, đôi lúc vừa bế con vừa nấu ăn lại vừa nghĩ ngợi đến chuyện văn

chương. Đến nỗi có lần con gái tôi bảo: "Mẹ ơi, mặt mẹ giãn ra một chút được

không ạ?". Người ta hay nói phải biết phân thân, hoàn cảnh nào thì con người đó.

Thế nhưng, "phân thân" không phải chuyện dễ dàng.

 Câu chuyện gia đình chị đã khi nào trở thành đề tài trong tác phẩm

văn học của chị?

Tôi có một số tác phẩm lấy chất liệu là câu chuyện gia đình mình, nhưng nó đã

được thăng hoa, được lọc qua một lăng kính rồi. Chưa có ai đọc xong mà bảo đó là

chuyện gia đình tôi. Tôi chưa bao giờ kể thật thà mọi chuyện của mình trong tác

phẩm, dù tôi nghĩ, chỉ cần ghi chép lại chân thực cũng đã có thể là một tác phẩm

hay.

124

Tôi sợ làm tổn thương thành viên nào đó trong gia đình. Tuy nhiên, những

khát vọng tôi gửi gắm trong tác phẩm đều chính là khát vọng của gia đình tôi.

 Người ta bảo, một người đàn ông có vợ là nhà văn cũng chẳng sung

sướng gì. Chị biện hộ thế nào cho điều đó?

Hạnh phúc gia đình rất khó cân, đo, đong, đếm. Tôi có người chồng làm họa

sĩ. Ban đầu khi lấy nhau, chúng tôi cũng có nhiều mâu thuẫn tưởng chừng không thể

hòa hợp. Nhưng giờ đây cả hai đã học được cách "sống chung với lũ". Khi hai cá

tính nghệ sĩ va đập nhau, chúng tôi tìm cách hòa giải ngay, không căng thẳng nữa.

Mặt khác, hai đứa con chúng tôi chính là chiếc máy "điều hòa nhiệt độ" của

gia đình. Chúng tôi nhất trí quan điểm dạy con, là biến chúng thành bầu bạn, cho

chúng bình đẳng với mình. Con cái tôi được đối thoại với bố mẹ nên chúng rất cởi

mở, hồn nhiên. Để có một gia đình tồn tại, chúng tôi phải hy sinh rất nhiều.

Người ta nói, phía sau gia đình hạnh phúc là người phụ nữ biết lo toan, thu

vén. Nhưng tôi phải nói rằng, chồng tôi cũng hy sinh cho gia đình, vì gia đình rất

nhiều, bởi anh cũng là một nghệ sĩ. Chúng tôi tìm ra cách để "khớp" với nhau, lo

chung nỗi lo cùng nhau.

Tất nhiên, tôi là phụ nữ, tôi phải lo lắng nhiều chuyện cụ thể hơn. Có giai đoạn

tôi phải lo cơm áo gạo tiền rất nặng nề. Mà bạn biết đấy, chuyện cơm áo gạo tiền nó

kéo con người ta xuống như thế nào, nhất là khi ta lại là một người cầm bút.

 Vậy kinh nghiệm của chị trong việc giữ gìn ngọn lửa gia đình, để gia

đình luôn "trong ấm ngoài êm" là gì?

Trước tiên, tôi cho rằng phải quan niệm gia đình khác đi. Không nên áp đặt

một khái niệm cho tất cả. Mỗi gia đình là một tiểu vũ trụ. Các cụ xưa kia nói "nồi

nào úp vung ấy" là rất đúng. Khái niệm "trong ấm ngoài êm" nếu áp dụng cho gia

đình bình thường khác chưa chắc đã đúng với gia đình tôi. Bởi lẽ, nhiều gia đình

thích sự bằng phẳng. Còn gia đình tôi, lúc nào cũng ồn ã và chúng tôi thích sự ồn ã

ấy.

125

Nếu nhìn bằng cặp mắt bình thường sẽ chẳng bao giờ thấy gia đình tôi bằng

phẳng. Nhưng chúng tôi tồn tại, trọn vẹn là bởi sự ồn ã ấy. Kinh nghiệm bản thân

tôi là luôn hạ thấp cái tôi xuống, để trở thành một người phụ nữ bình thường nhất

hoặc thấp hơn thế nữa. Người phụ nữ làm nghệ thuật luôn phải biết cách "đi vắng"

trong gia đình của mình.

 Từng có nhiều mâu thuẫn, vợ chồng chị đã khi nào đứng bên bờ vực

của sự chia ly?

Từng có lần chồng tôi lục trong đống bản thảo của tôi và tìm được 8 lá đơn xin

ly hôn. Nhưng thực ra chưa khi nào chúng tôi căng thẳng đến mức phải mang chúng

đến tòa án. Có lần tôi đã xách vali, ôm con ra khỏi nhà, đi tìm khách sạn ở, vậy rồi

chồng tôi cũng đi theo. Chúng tôi chưa bao giờ rời nhau cả. Chúng tôi luôn quần tụ

và tồn tại trong sự "nóng bỏng" ấy.

Nhưng cũng có lần vì quá mệt mỏi, vợ chồng ngồi nói chuyện với nhau, chồng

tôi bảo, nếu được làm lại thì bọn mình sẽ không lấy nhau, hoặc vẫn lấy nhau thì sẽ

không có con. Nhưng tôi phản đối, chúng ta có thể không lấy nhau ngay từ đầu, chứ

không thể lấy nhau mà không có con. Bởi không có con thì không thành một gia

đình.

 Chị từng bán gà tần nuôi gia đình trước khi đi làm báo. Vậy khả năng

nấu ăn của chị thế nào?

Tôi có thể làm cả nhà hài lòng về chuyện nấu nướng. Tôi đi ăn tiệc ở đâu, có

món gì mới là về học nấu cho cả gia đình ăn ngay. Tôi cũng không thích đi nhà

hàng. Nhìn đồ ăn thừa ở đấy tôi hay tiếc xót, ngậm ngùi, và chỉ muốn mang chúng

về nhà. Đó là dấu ấn từ tuổi thơ nghèo, đói miếng ăn của tôi.

 Nếu chị không viết văn, gia đình hôm nay của chị sẽ thế nào?

Trời đã cho tôi tính cách "vừa độc đoán vừa ghê gớm" từ thuở nhỏ. Nếu tôi

không làm văn chương thì mọi thành viên trong gia đình vẫn phải chịu đựng tính

126

cách ấy của tôi, hoặc tôi phải thay đổi. Văn chương với riêng tôi cũng là lý do để

đôi khi gia đình có thể tha thứ cho tôi mọi điều.

 Sau những hoạn nạn của đời sống, chị thấy gia đình có ý nghĩa ra sao

với mình?

Tôi vừa nếm trải một cơn sóng gió trong đời sống, để hiểu ra rằng gia đình

quan trọng với mình đến đâu. Tôi được chồng, các con hậu thuẫn, làm chỗ dựa

trong lúc chới với. Nếu trong những chuyện bất hạnh của cuộc đời mà không có gia

đình thì tuyệt vọng lắm.

 Ngày hôm nay, người phụ nữ có thể tự làm nên một gia đình với đứa

con của mình mà không cần tới đôi vai đàn ông. Nếu chị rơi vào hoàn cảnh ấy, chị

sẽ làm gì để giữ tốt vai trò?

Tôi luôn nghĩ, khái niệm gia đình có thể thay đổi theo cách nào đó. Nhưng gia

đình không có người đàn ông vẫn là một gia đình khiếm khuyết, không thể nào gọi

là hoàn hảo. Phụ nữ vẫn chỉ là phụ nữ, dù họ có là ai và làm bất cứ công việc gì.

Phụ nữ viết văn tưởng là mạnh mẽ, nhưng về bản chất lại vô cùng yếu đuối, dễ

tổn thương. Chẳng qua họ phải cố gắng gồng mình lên để che đậy sự yếu đuối trong

tâm hồn đó thôi.

Phỏng vấn Y Ban (2008), “Y Ban: Hạ thấp cái tôi để làm phụ nữ

bình thường”, https://giaitri.vnexpress.net.

127

Nhà văn Lý Lan: “Tôi là mình”!

“Nên thấy rằng, người giỏi cũng không hoàn hảo, người dở cũng phải kiếm

sống. Đó là điều bình thường

Khoảng 20 năm trước, tôi bắt đầu quen biết nhà văn Lý Lan cũng từ một cuộc

phỏng vấn để viết một bài báo. Khi ấy chị đang là giáo viên Anh văn của Trường

Hùng Vương, Q.5 - TPHCM. Trong hai mươi năm qua, Lý Lan đã kịp làm thêm

nhiều việc khác, có thêm nhiều “chức danh” khác- ngoài nhà giáo, nhà văn chị còn

là nhà báo, nhà thơ, nhà biên kịch điện ảnh và dịch giả; đã giành được một suất học

bổng Fulbright về Cao học Văn chương ở Mỹ và hoàn tất chương trình học này,

đồng thời cũng đã kịp xây dựng cho mình một tổ ấm riêng. Không ồn ào phô

trương, không vội vàng đua chen, bền bỉ tự đặt ra cho mình những “cột mốc” riêng

để tự vượt qua chính mình, Lý Lan lẳng lặng học và làm việc.

 Chào chị Lý Lan. Độc giả VN nhất là các em thiếu nhi, thiếu niên VN

rất thích bản dịch Việt ngữ cuốn Harry Potter của chị. Sau cuốn sách này chị có

định tiếp tục công việc dịch thuật không? Và nếu có thì chị sẽ giới thiệu đến độc

giả VN những cuốn sách gì tiếp theo?

Tôi đang dịch truyện ngắn của 24 nữ văn sĩ Mỹ sang Việt ngữ, đang hoàn tất

bản dịch tập thơ của nhà thơ Ái Nhĩ Lan Yeats. Tôi cũng đang cộng tác với nhà thơ

Bruce Weigl dịch thơ của tôi sang tiếng Anh và một kế hoạch cùng với nhà thơ Joe

Duemer dịch Chinh phụ ngâm sang tiếng Anh. Tôi cũng đang cân nhắc vài ba bộ

sách thiếu nhi rất hay khác xem có thể chọn bộ nào để tiếp tục giới thiệu cho độc

giả nhỏ tuổi VN (hóa ra các em rất chịu đọc sách và đã gởi hàng ngàn email cho tôi

để mong tôi dịch tiếp Harry Potter và những tác phẩm hay khác trên thế giới cho

các em đọc).

 Gần đây một số dịch giả đã phải lên tiếng than thở về tình trạng dịch

ẩu, kém chất lượng và không đáng tin của nhiều bản dịch tác phẩm văn học nước

ngoài ở VN. Không kể đến những bản dịch của những dịch giả không tên tuổi,

128

theo chị, vì sao không ít người thậm chí có bằng cấp cao về ngoại ngữ, ngôn ngữ

nhưng bản dịch vẫn chưa hoàn hảo?

Công việc gì cũng vậy, thường có người này làm thành công hơn người kia. Ở

đâu, thời nào cũng có nhiều thầy giáo / bác sĩ / kỹ sư / nông dân / thợ mộc / chính

khách / dịch giả / ca sĩ giỏi và vô số thầy giáo / bác sĩ / kỹ sư / nông dân / thợ mộc /

chính khách / dịch giả / ca sĩ dở. Điều này bình thường. Và nên thấy rằng người giỏi

cũng không hoàn hảo, mà người dở cũng cần phải kiếm sống.

 Sống ở nước ngoài chắc là chị có điều kiện đọc nhiều tác phẩm văn

học của các nước. Trong lĩnh vực truyện ngắn và tiểu thuyết, nhìn chung chị cảm

thấy về mặt ý tưởng, bút pháp, khuynh hướng sáng tác... các nhà văn đương đại

VN có “cũ” lắm không so với các nhà văn đương đại ở các nước?

Tôi sống ở hai nơi, như năm 2005 này tôi ở Mỹ 6 tháng và ở Việt Nam 6

tháng, nên có điều kiện đọc cả sách của người lẫn sách của ta, nhưng dù chăm chỉ

đọc mỗi ngày tôi cũng chỉ đọc được một phần rất rất, rất nhỏ trong thế giới tiểu

thuyết (dài, ngắn), nên tôi cố chọn đọc những thứ KHÁC NHAU, và nếu “nhìn

chung” qua những gì tôi đọc thì tính chất nổi bật là ĐA DẠNG, phong phú, biến

đổi, và tất cả đều khả dĩ tồn tại hay tiêu vong. Mình có chỗ giống và chỗ khác người

ta, chứ mình không cũ hay mới hơn người ta.

 Là một nhà văn người Việt gốc Hoa, có thể thấy trong sáng tác của

chị từ tạp bút, truyện ngắn, tiểu thuyết cho tới kịch bản phim... những năm qua đã

phần nào vẽ nên diện mạo, tâm tư, cuộc sống của cộng đồng này trên quê hương

thứ hai của mình. Sắp tới chị vẫn sẽ tiếp tục mảng đề tài này hay sẽ viết về người

Việt trên đất Mỹ?

Tôi vẫn đang viết tiếp tập 2 Người Hoa ở thành phố Hồ Chí Minh và còn nuôi

tham vọng viết Người Hoa ở Việt Nam nữa. Còn người Việt trên đất Mỹ thì tôi mới

làm xong phần Người Việt ở Bellingham (đề tài được Quỹ Rockefeller tài trợ thông

129

qua Trung tâm Nghiên cứu chiến tranh và hậu quả William Joiner của Trường Đại

học Massachusetts ở Boston).

 Chị có thể nói một chút về cuộc sống hiện nay và người chồng của

chị? Anh có quan tâm đến những gì chị viết, chị làm không?

Hiện nay tôi vẫn đọc, viết và dịch như trước đây. Kiểu lao động tự do này

thích hợp với tánh khí và thói quen làm việc thất thường, tùy hứng, vô kỷ luật, vô

nguyên tắc của tôi. Chồng tôi, Mart Stewart, là người đàn ông rất nhẫn nại với vợ

(hồi tôi chưa về nhà chồng, em gái tôi đã khốn khổ biết bao!). Anh phải đi làm (giáo

sư lịch sử ở Trường Đại học Western Washington) để nuôi vợ, về nhà phải xuống

bếp vì vợ nấu ăn dở quá. Tôi nghĩ mình rất may mắn tìm được một người bạn đời

ủng hộ hết lòng hết sức công việc của mình, lại giúp đỡ mình rất nhiều trong việc

nghiên cứu, học tập, và quan trọng là chia sẻ buồn vui sướng khổ với mình. Tập thơ

đầu tiên của tôi là để tặng anh.

 Anh có bao giờ nói với chị điều gì ở người phụ nữ VN khiến anh thích

nhất và quyết định lấy làm vợ không?

Có. Nhưng tôi xin giữ riêng bí mật này.

 Đồng nghiệp bạn bè nhiều người nói rằng Lý Lan là một người rất có

ý chí, đọc, học và làm việc không mệt mỏi, một người rất độc lập nhưng ít cởi mở,

hơi thiếu sự nồng nhiệt. Còn chị, chị tự nhận xét về mình như thế nào?

Tôi là mình!

Thư Hiên thực hiện

Phỏng vấn Lý Lan (2006), “Nhà văn Lý Lan: Tôi là mình!”,

https://nld.com.vn.

130