BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐÀO ANH DUY
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC
HÀ NỘI - 2013
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
ĐÀO ANH DUY
GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
Chuyên ngành : Quản lý giáo dục
Mã số : 60 14 01 14
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS, TS NGUYỄN VĂN PHÁN
HÀ NỘI - 2013
Trang
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................................
................................................................................................................................................3
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO Ở
TRƯỜNG ĐẠI HỌC......................................................................................................... 13
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài.....................................................17
1.2. Nội dung cơ bản (các yếu tố) đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy trường đại học.............................................................................................................................26
Chương 2 THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU.............................................................................38
2.1. Khái quát về Trường Đại học Bạc liêu.................................................................38
2.2. Thực trạng đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu.................................................................................................................................41
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO HỆ CHÍNH QUY
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU...................................................................................63
3.1. Nguyên tắc đề xuất các giải pháp..........................................................................70
3.2. Hệ thống giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc Liêu...................................................................................................................72
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp...........................90
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ .......................................85
TÀI LIỆU THAM KHẢO ..............................87
PHỤ LỤC .................................90
BẢNG QUY ƯỚC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Phần trăm Ban Giám hiệu
Bộ Giáo dục và Đào tạo Cán bộ giảng viên Cán bộ quản lý
Cao đẳng Chất lượng giáo dục đại học Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa
Công nghệ thông tin Cơ sở vật chất Đảm bảo chất lượng
Đảm bảo chất lượng giáo dục Đại học
Đại học Bạc Liêu Giáo dục đại học Giáo dục mầm non
Giảng viên
Khoa học công nghệ Kế hoạch – Tài chánh
Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục Ký túc xá
Kinh tế xã hội Mét vuông Nghiên cứu khoa học Phòng cháy chữa cháy
Quản lý khoa học – Hợp tác Quốc tế
Quản trị kinh doanh
Sinh viên Trung bình
Thể dục thể thao Trung học sư phạm Thanh niên xung kích Ủy ban nhân dân
%: BGH: Bộ GD&ĐT: CB-GV: CBQL: CĐ: CLGDĐH: CNH-HĐH: CNTT: CSVC: ĐBCL: ĐBCLGD: ĐH: ĐHBL: GDĐH: GDMN: GV: KHCN: KH-TC: KT&KĐCLGD: KTX: KT-XH: m2: NCKH: PCCC: QLKH-HTQT: QTKD: SV: TB: TDTT: THSP: TNXK: UBND: UNESCO: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của
Liên Hiệp Quốc
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đại hội XI của Đảng xác định "Phát triển giáo dục là quốc sách hàng
đầu. Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng
chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, dân chủ hoá và hội nhập quốc tế, trong
đó đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ
quản lý là khâu then chốt. Tập trung nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo,
coi trọng giáo dục đạo đức, lối sống, năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành,
khả năng lập nghiệp. Đổi mới cơ chế tài chính giáo dục. Thực hiện kiểm định
chất lượng giáo dục, đào tạo ở tất cả các bậc học. Xây dựng môi trường giáo
dục lành mạnh, kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường với gia đình và xã hội"
Tuy nhiên, chất lượng đào tạo đại học vẫn chưa theo kịp yêu cầu ngày
càng cao của thị trường lao động; chưa đáp ứng được những đòi hỏi bức thiết từ
nhu cầu của xã hội, nhất là trong các ngành kỹ thuật. Đào tạo chưa thật sự gắn
giữa nhu cầu với sử dụng; vẫn còn khoảng cách lớn giữa trình độ của sinh viên
ra trường và yêu cầu của các đơn vị sử dụng lao động. Do đó hiện nay đang tồn
tại một nghịch lý là “cung - thừa” “cầu – thiếu”, trong khi các trường tìm cách để
duy trì và mở rộng quy mô đào tạo, số lượng tốt nghiệp đại học chưa có việc làm
ngày càng tăng nhưng các cơ quan, doanh nghiệp đều khó tuyển dụng được
những lao động đáp ứng được yêu cầu của công việc, hoặc tuyển dụng được thì
cũng phải bồi dưỡng, đào tạo lại thì mới có thể sử dụng được.
Nhiều ý kiến cho rằng: trong những nguyên nhân quan trọng là các
trường đại học chỉ đào tạo “cái mình có” mà chưa chú trọng đến đào tạo “cái
xã hội cần” tức là chưa thực hiện tốt quy luật “cung – cầu” của thị trường lao
động. Điều này dẫn đến sự mất cân đối cung – cầu đào tạo cả về quy mô, cơ
cấu và đặc biệt là chất lượng, gây ra lãng phí lớn và giảm hiệu quả đào tạo.
Chính vì vậy, vấn đề nâng cao chất lượng đào tạo và đảm bảo các điều kiện
cho nó đang được các nhà trường đại học cũng như toàn xã hội quan tâm; và
là vấn đề cấp thiết hiện nay nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của đất nước.
Đảm bảo chất lượng giáo dục đại học thể hiện ở những yếu tố tạo nên
chất lượng sản phẩm đào tạo, đó chính là chất lượng nguồn nhân lực được qua
đào tạo. Việc đảm bảo chất lượng đào tạo trong các trường đại học cũng như
chất lượng đào tạo nghề nghiệp nói chung đang là một yêu cầu bức thiết hiện
nay trong việc phát triển nguồn nhân lực cả trước mắt và lâu dài. Hiện nay,
Bộ GD&ĐT đang triển khai kiểm định chất lượng giáo dục theo mô hình
được nhiều nước trên thế giới sử dụng, đã triển khai công tác đảm bảo chất
lượng và đã thu được một số kết quả nhất định. Nhiều trường đại học đã và
đang triển khai có hiệu quả công tác đảm bảo chất lượng theo tập huấn hàng
năm của Bộ GD&ĐT.
Đối với trường Đại học Bạc Liêu, qua hơn 5 năm (2006-2012) xây dựng
và phát triển đã từng bước phấn đấu xây dựng và trưởng thành. Nhà trường là
nơi đào tạo nhiều ngành nghề với nhiều loại hình đào tạo từ ngắn hạn, dài hạn,
chính quy, tại chức, liên thông từ trung cấp đến cao đẳng, lên đại học, nhằm tạo
mọi cơ hội học tập cho sinh viên. Chất lượng đào tạo của nhà trường phụ thuộc
vào nhiều yếu tố, có yếu tố thuộc phạm vi bên ngoài, hoặc do liên kết mà có,
do vậy ảnh hưởng ít nhiều đến chất lượng sản phẩm đào tạo.
Tuy nhiên, là một trường Đại học mới thành lập nên Đại học Bạc Liêu
vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo, trong
đó nhiều yếu tố của đảm bảo chất lượng còn thiếu như: nguồn tài chính, cơ sở
vật chất, đội ngũ giảng viên, chất lượng đầu vào. Đặc biệt công tác tổ chức,
quản lý đào tạo hệ thống các bậc học, ngành học đan xen nhau; và đào tạo hệ
chính quy bậc đại học còn nhiều hạn chế, vì còn ít kinh nghiệm do mới thành
lập và còn thiếu những giải pháp phù hợp. Vì vậy, việc nghiên cứu và đề xuất
những giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo nhất là hệ chính quy là hết sức
cấp thiết đối với nhà trường trong giai đoạn hiện nay; bởi nó đáp ứng đòi hỏi
sự phát triển về chất lượng nguồn nhân lực lao động của các ngành nghề trên
các tỉnh thuộc bản đảo Cà Mau.
Xuất phát từ thực tế trên, chúng tôi lựa chọn vấn đề nghiên cứu “Giải
pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học Bạc
Liêu” nhằm góp phần thực hiện mục tiêu phấn đấu đến năm 2020 trường Đại
học Bạc Liêu trở thành trung tâm đào tạo nguồn nhân lực và chuyển giao
khoa học công nghệ cho vùng Đồng bằng sông Cửu Long.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những năm qua, giáo dục đại học đã có nhiều đổi mới đáp ứng ngày
càng tốt hơn nhu cầu nhân lực có trình độ đại học để phục vụ cho sự phát
triển kinh tế - xã hội; công tác đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng đào tạo
giáo dục chuyên nghiệp đã đạt được những kết quả nhất định, nhân lực trình
độ đại học ngày càng đáp ứng được yêu cầu thị trường lao động. Đây là hiệu
quả của việc đầu tư về nhân lực, vật lực và sự đổi mới quản lý của các trường
đại học. Nỗ lực nâng cao chất lượng đào tạo của các trường trong xu thế cạnh
tranh hứa hẹn sẽ tạo ra những “sản phẩm” có chất lượng, đáp ứng yêu cầu xã
hội.
Để giải quyết hiệu quả bài toán giữa duy trì và phát triển quy mô, ngành
nghề đào tạo vừa đảm bảo chất lượng và hiệu quả đào tạo đáp ứng nhu cầu xã
hội, cần phải tiến hành nhiều giải pháp một cách đồng bộ. Trong đó các giải
pháp quản lý là mang tính bao trùm và có ý nghĩa quyết định đến việc đảm
bảo chất lượng đào tạo ở các trường đại học là rất quan trọng và cần thiết. Bởi
vì, thông qua quản lý xác định được những cách thức tổ chức, điều khiển toàn
bộ quá trình hoạt động hướng vào việc tạo ra những biến đổi về chất của
người học trong quá trình đào tạo để có được đội ngũ lao động có năng lực
chuyên môn nghề nghiệp, năng lực thích nghi được với môi trường xã hội
luôn luôn biến đổi, phát triển thì công tác quản lý nâng cao chất lượng đào tạo
ở các trường đại học là rất quan trọng và cần thiết.
Để có thể đánh giá chính xác chất lượng, hiệu quả hoạt động của một hệ
thống hay một tổ chức giáo dục, giới nghiên cứu hết sức quan tâm đến việc
xây dựng một bộ thước đo bao gồm các tiêu chuẩn, tiêu chí và các chỉ số làm
căn cứ chủ yếu để xem xét chất lượng giáo dục gắn với mục tiêu theo những
yêu cầu và trong những lĩnh vực, điều kiện thực tế khác nhau.
Vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo đến nay đã nhận được sự quan tâm
đúng mực của các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước.
Theo Phạm Xuân Thanh (2005), trên thế giới hiện nay có hơn 100 nước
có hệ thống đảm bảo chất lượng giáo dục đại học. Phần lớn các hệ thống này
được hình thành trong những năm 90 (thế kỷ 20). Các hệ thống đảm bảo chất
lượng giáo dục đại học được lập ra là nhằm để thích ứng với sự phát triển về
quy mô đào tạo của giáo dục đại học.
Cũng theo tác giả này, việc đảm bảo chất lượng được nhận thức và thực
hiện rất khác nhau giữa các quốc gia. Chẳng hạn như:
Tại Mỹ, đảm bảo chất lượng là một quy trình đánh giá một cơ sở hay
một chương trình nhằm xác định xem các tiêu chuẩn về giáo dục đại học, học
thuật và cơ sở hạ tầng có được duy trì và tăng cường không (CHEA, 2001).
Tại Australia, đảm bảo chất lượng bao gồm các chính sách, thái độ,
hành động và quy trình cần thiết để đảm bảo rằng chất lượng đang được duy
trì và nâng cao (AUQA, 2002).
Tại Anh, đảm bảo chất lượng là một công cụ qua đó cơ sở giáo dục đại
học khẳng định rằng các điều kiện dành cho sinh viên đã đạt được các tiêu
chuẩn do nhà trường hay cơ quan có thẩm quyền đề ra (CHEA, 2001).
Trong nhiều nước châu Âu trước đây, đảm bảo chất lượng được sử dụng
như một hệ thống đánh giá bên ngoài mà không cần phải có một sự công nhận
chính thức các kết quả đạt được. Tuy nhiên, một xu hướng mới được hình thành
là xúc tiến xây dựng hệ thống kiểm định trong mỗi quốc gia châu Âu.
Ở các nước Đông Nam Á, việc đảm bảo chất lượng cũng rất khác nhau.
Ở Thái Lan, nhằm vào các mục tiêu giáo dục đại học, sự thực hiện, các
kết quả học tập hay các chỉ số và sự phát triển, việc đảm bảo chất lượng được
giới thiệu qua hệ thống kiểm tra chất lượng nhà trường, kiểm toán chất lượng
bên ngoài và kiểm định công nhận (BHES, 2002).
Ở Indonesia, đảm bảo chất lượng được xác định thông qua kiểm tra nội
bộ các chương trình học, các quy định của chính phủ, cơ chế thị trường và
kiểm định công nhận (Tajudin, 2001).
Một số nước Đông Nam Á cũng đã thành lập cơ quan kiểm định quốc gia
như: BADC (Brunei), BAN-PT (Indonesia), LAN (Malaysia), FAAP
(Philipines), ONESQA (Thái Lan). Trọng tâm kiểm định của mỗi quốc gia có sự
khác nhau. Chẳng hạn như: Indonesia thực hiện kiểm định ở cấp chương trình;
các nước như: Malaysia, Brunei, Thái Lan thực hiện kiểm định ở cấp trường.
Ở Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa, hội nhập kinh tế quốc tế và sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế tri thức đòi hỏi nguồn
nhân lực chất lượng cao đảm bảo cho sự phát triển bền vững của đất nước.
Nhiệm vụ chính của giáo dục và đào tạo là cung cấp nguồn nhân lực đó. Để
thực hiện nhiệm vụ này, giáo dục và đào tạo nói chung, giáo dục đại học và
trung cấp chuyên nghiệp của nước ta nói riêng, không những phải mở rộng
quy mô mà còn phải không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo, xây dựng các biện pháp khả thi để
thực hiện nhiệm vụ này đã được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm.
Có thể kể đến một số sách, công trình nghiên cứu tiêu biểu đã đề cập
đến vấn đề này ở nhiều mức độ, nhiều cách tiếp cận khác nhau:
Nguyễn Hữu Châu (chủ biên), (2008), Chất lượng giáo dục, những vấn
đề lí luận và thực tiễn, NXB Giáo dục.
Nguyễn Đức Chính (chủ biên), (2002), Kiểm định chất lượng trong
giáo dục đại học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội.
Lê Vinh Danh (2006), Một số vấn đề lí luận về đảm bảo chất lượng đào
tạo trong giáo dục đại học, Kỷ yếu Hội thảo “Đảm bảo chất lượng trong đổi
mới giáo dục đại học”, NXB Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân
lực, NXB Giáo dục.
Nguyễn Công Giáp (1997), Bàn về phạm trù chất lượng và hiệu quả
giáo dục, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 10.
Lê Đức Phúc (1997), Chất lượng và hiệu quả giáo dục, Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục, số 5.
Phạm Xuân Thanh (2005), Kiểm định chất lượng giáo dục đại học, Tạp
chí Giáo dục, số 115.
Qua những công trình nghiên cứu nêu trên, các vấn đề xoay quanh hoạt
động đảm bảo chất lượng đào tạo đã dần sáng tỏ; và có thể dựa vào mô hình
đánh giá chất lượng giáo dục cơ bản ở một cơ sở giáo dục có các hệ tiêu chí
đánh giá sau:
Thứ nhất: các tiêu chí thể hiện bối cảnh chung của cơ sở giáo dục (các
chuẩn mực được thiết lập bởi cơ quan quản lý cấp trên, hoàn cảnh kinh tế - xã
hội địa phương, sự hỗ trợ của cộng đồng…);
Thứ hai: các tiêu chí đầu vào (nguồn lực tài chính, trình độ chuyên môn
và kinh nghiệm của đội ngũ giáo viên, nguồn tuyển sinh, kích cỡ lớp học,
trang thiết bị của nhà trường, cơ sở vật chất…);
Thứ ba: các tiêu chí đánh giá quá trình (các chủ trương, chính sách, sự
lãnh đạo của nhà trường, đội ngũ giáo viên, môi trường sư phạm, phương
pháp dạy học, phương pháp kiểm tra, đánh giá kết quả học tập…)
Thứ tư: các chỉ số về đầu ra (sản phẩm) (kết quả đạt được của sinh viên
về các môn học cơ bản, tỉ lệ lên lớp, bỏ học, tiếp tục theo học bậc cao hơn và
tỉ lệ sinh viên tìm được việc làm phù hợp sau khi tốt nghiệp…).
Tiếp tục phát triển các hệ tiêu chí đánh giá này, ĐBCLGD sẽ tiến hành
xây dựng các quy định về tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục cho từng
loại hình trường và dùng quy định tiêu chuẩn đó làm công cụ để đánh giá mức
độ yêu cầu và điều kiện mà các cơ sở của từng loại hình trường phải đáp ứng
để được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục. Các tiêu chuẩn (gồm
nhiều tiêu chí) kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục phải quán triệt quan điểm
tiếp cận tổng thể, đánh giá toàn bộ các lĩnh vực hoạt động giáo dục của nhà
trường. Các yếu tố được đánh giá có mối quan hệ biện chứng với nhau trong
một chỉnh thể thống nhất, có tác động ảnh hưởng qua lại với nhau và với chất
lượng sản phẩm giáo dục của nhà trường.
Mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục ở Việt Nam chịu ảnh hưởng của
nhiều nước trên thế giới có kinh nghiệm triển khai các hoạt động này. Trước hết,
nó chịu ảnh hưởng của mô hình đảm bảo chất lượng của Hoa Kỳ và các nước
Bắc Mỹ; chịu ảnh hưởng của các mô hình đảm bảo chất lượng của các nước
Châu Âu là những nước đi trước Việt Nam trong khá nhiều năm để triển khai
xây dựng mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục; đặc biệt chịu ảnh hưởng của
các nước trong khu vực Châu Á - Thái Bình Dương do có nhiều nét tương đồng
trong văn hóa nên dễ chia sẻ, trao đổi kinh nghiệm thực tiễn. Những ảnh hưởng
của các nước khác đến mô hình đảm bảo chất lượng của Việt Nam chủ yếu
thông qua sự hỗ trợ hợp tác song phương và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế,
đặc biệt là Ngân hàng thế giới. Mạng lưới chất lượng Châu Á - Thái Bình
Dương (APQN), SEAMEO và của một số nước như Hoa Kỳ, Australia, Hà Lan.
Trong quá trình tiếp cận với nhiều mô hình đảm bảo chất lượng và kiểm
định chất lượng giáo dục trên thế giới, mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục
ở Việt Nam đang từng bước được hình thành, phù hợp với mô hình đảm bảo
chất lượng của nhiều nước trên thế giới, nhất là mô hình của Châu Âu, Châu
Á - Thái Bình Dương, AUN, những mô hình được tiếp tục phát triển trên mô
hình chung của Châu Âu.
Mô hình đảm bảo chất lượng giáo dục của Việt Nam cơ bản bao gồm:
Hệ thống đảm bảo chất lượng bên trong của nhà trường;
Hệ thống đảm bảo chất lượng bên ngoài nhà trường (hệ thống đánh giá
ngoài bao gồm các chủ trương, quy trình và công cụ đánh giá);
Hệ thống các tổ chức đảm bảo chất lượng (các tổ chức đánh giá ngoài
và các tổ chức kiểm định độc lập, đang đề nghị cho phép thành lập).
Đảm bảo chất lượng giáo dục là một lĩnh vực còn khá mới ở Việt Nam.
Có thể nói, ở cấp hệ thống, nó được bắt đầu từ khi Phòng kiểm định chất lượng
Đào tạo trong vụ Đại học, Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) được thành lập
từ tháng 01/2002, sau đó được mở rộng cho các cấp học và trình độ đào tạo
khác kể từ năm 2003, sau khi Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục
(KT&KĐCLGD) được thành lập. Kiểm định chất lượng được đẩy mạnh từ
tháng 12/2004 khi Quy định tạm thời về kiểm định chất lượng trường đại học
được ban hành và được tiếp tục củng cố và phát triển gắn với việc ban hành các
quy trình và các tiêu chuẩn kiểm định khác. Tuy nhiên, sự hiểu biết của cán bộ
quản lý, giảng viên nói riêng và của xã hội nói chung về kiểm định còn rất hạn
chế; nhiều người đang hiểu về vấn đề này theo nhiều cách khác nhau.
Nhìn chung, vấn đề đảm bảo chất lượng đào tạo đại học đã được quan
tâm đúng mức; nhiều bài viết, công trình khoa học, nhiều hội thảo, tọa đàm đã
được tổ chức luận bàn xoay quanh vấn đề này, thể hiện tầm quan trọng của nó
liên quan đến chất lượng đào tạo ở các cơ sở giáo dục đại học. Những cuốn
sách, công trình nghiên cứu trên, là nguồn tài liệu lý luận hết sức phong phú,
giúp tác giả nghiên cứu kế thừa phục vụ cho quá trình xây dựng cơ sở lý luận
của vấn đề nghiên cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Từ nghiên cứu lý luận và thực trạng đảm bảo chất lượng, luận văn hướng
tới đề xuất giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại Trường Đại
học Bạc Liêu, đáp ứng yêu cầu phát triển nhà trường trong thời gian tới.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Nghiên cứu cơ sở lý luận về đảm bảo chất lượng đào tạo đại học.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng về chất lượng đào tạo hệ chính
quy tại trường Đại học Bạc Liêu.
Đề xuất một số giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại
trường Đại học Bạc Liêu.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo tại trường Đại học Bạc Liêu.
Đối tượng nghiên cứu
Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học
Bạc Liêu.
Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu trong phạm vi hệ đào tạo chính quy bậc cao
đẳng và đại học tại trường Đại học Bạc Liêu; đồng thời các báo cáo tổng kết
và số liệu khảo sát phục vụ nhiệm vụ nghiên cứu từ năm 2010 đến nay.
5. Giả thuyết khoa học
Đảm bảo chất lượng đào tạo đại học, có vai trò quan trọng, quyết định
trực tiếp đến chất lượng sản phẩm đào tạo và uy tín của trường đối với xã hội.
Vì vậy, trường đại học Bạc Liêu chỉ có thể nâng cao chất lượng đào tạo hệ
chính quy khi thực hiện tốt những vấn đề như: đổi mới hoạt động tổ chức
quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá chất lượng; nâng cao chất lượng
chương trình đào tạo, xây dựng chuẩn đầu ra và chất lượng đội ngũ cán bộ
giảng dạy, nghiên cứu; tạo điều kiện tốt cho sinh viên phát triển toàn diện;
phát triển công nghệ thông tin và tăng cường hợp tác quốc tế về đào tạo,
nghiên cứu khoa học; tăng cường cơ sở vật chất và chủ động, đa dạng hóa
nguồn tài chính phục vụ hiệu quả giáo dục đào tạo…
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu
Đề tài được nghiên cứu trên cơ sở quán triệt sâu sắc các quan điểm tư
tưởng về giáo dục đào tạo của Đảng, Nhà nước và Ngành Giáo dục - Đào tạo,
nhất là chủ trương đổi mới quản lý giáo dục, nâng cao chất lượng đào tạo hệ
chính quy của các trường đại học.
Trong quá trình nghiên cứu, đề tài quán triệt và vận dụng các quan điểm
tiếp cận hệ thống - cấu trúc, lôgic - lịch sử và quan điểm thực tiễn.
Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành đề tài, tác giả luận văn sử dụng tổng hợp các phương
pháp nghiên cứu khoa học giáo dục như:
Các phương pháp nghiên cứu lý luận gồm: Phương pháp phân tích -
tổng hợp, phân loại - hệ thống hóa, khái quát hóa những tài liệu có liên quan
để thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm:
Quan sát hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo đại học hệ chính quy
của trường đại học Bạc Liêu.
Điều tra bằng bảng hỏi ý kiến để tìm hiểu, thu thập thông tin thực tiễn
liên quan đến đề tài.
Nghiên cứu các sản phẩm đánh giá chất lượng đào tạo và tổng kết kinh
nghiệm đảm bảo chất lượng đào tạo.
Tiến hành tham khảo ý kiến của chuyên gia về những vấn đề liên quan
đến đề tài. Tổ chức tiến hành khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của
biện pháp đề xuất.
Sử dụng toán thống kê để xử lý số liệu từ các kết quả nghiên cứu.
7. Ý nghĩa của luận văn
Đề tài góp phần làm sáng tỏ những quan điểm về đảm bảo chất lượng
đào tạo đại học hệ chính quy và thực trạng vấn đề đảm bảo chất lượng ở
trường ĐHBL; từ đó đưa ra những giải pháp khả thi, hiệu quả hơn giúp nhà
trường ngày càng nâng cao chất lượng đào tạo. Kết quả nghiên cứu có thể
dùng làm nguồn tham khảo cho cán bộ quản lý giáo dục, giảng viên trong tìm
hiểu về lĩnh vực hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy ở trường
đại học vùng đồng bằng sông Cửu Long.
8. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, luận văn gồm có 3 chương (7 tiết), kết luận, danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
1.1. Một số khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài
1.1.1. Chất lượng đào tạo
Chất lượng
Từ chất lượng (quality) bắt nguồn từ từ ‘qualis’ trong tiếng Latin, có
nghĩa là “loại gì”. Đây là một từ đa nghĩa và nhiều hàm ý, một khái niệm khó
nắm bắt (Pfeffer and Coote, 1991).
Hiện nay, có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng. Bên cạnh sự
thay đổi về thời gian thì từ những cách tiếp cận khác nhau cũng dẫn đến
những khái niệm khác nhau về chất lượng. Như vậy, chất lượng được xem
như là đích tới luôn thay đổi và luôn có tính lịch sử cụ thể; vì vậy xin nêu một
số khái niệm tiêu biểu về chất lượng như sau:
Viện tiêu chuẩn Anh Quốc (British Standards Institution, viết tắt là BSI)
định nghĩa chất lượng là “toàn bộ các đặc trưng cũng như tính chất của một
sản phẩm hoặc một dịch vụ giúp nó có khả năng đáp ứng những yêu cầu được
xác định rõ hoặc ngầm hiểu” (BSI, 1991).
Điều này có nghĩa, chất lượng là tiềm năng của một sản phẩm hay dịch
vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu người sử dụng. Và cũng có thể nói, chất lượng là
cái làm nên phẩm chất, giá trị của sự vật hoặc là “cái tạo nên bản chất sự vật,
làm cho sự vật này khác sự vật kia”. Chất lượng là mức độ đáp ứng các yêu
cầu của một tập hợp các đặc tính vốn có, trong đó yêu cầu cần được hiểu là
các nhu cầu hay mong đợi đã được công bố, ngầm hiểu hay bắt buộc.
Theo Từ điển tiếng Việt: “Chất lượng là phạm trù triết học biểu thị
những thuộc tính bản chất của sự vật, chỉ rõ nó là cái gì, tính ổn định tương
đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác, chất lượng là đặc tính khách quan
của sự vật”.
Theo ISO 9000 (năm 2000): “Chất lượng là mức độ mà một tập hợp các
đặc trưng vốn có đáp ứng được các yêu cầu của khách hàng và những người
khác có quan tâm”.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN – ISO 8402 – 86): Chất lượng của
sản phẩm là tổng thể những đặc điểm, những đặc trưng của sản phẩm thể hiện
được sự thỏa mãn nhu cầu trong những điều kiện tiêu dùng xác định và phù
hợp với công cụ, tên gọi sản phẩm.
Theo tiêu chuẩn Việt Nam 5814 – 94: Chất lượng là sự tập hợp các đặc
tính của một thực thể (đối tượng) tạo cho thực thể đối tượng có khả năng thỏa
mãn những nhu cầu đã nêu ra hoặc nhu cầu tiềm ẩn.
Chất lượng được hiểu theo khía cạnh (Theo Harvey & Green; 1993) đó
là: “Chất lượng tuyệt đối” được hiểu là “sự xuất chúng, tuyệt vời, ưu tú. Xuất
sắc; sự hoàn hảo; sự phù hợp, thích hợp; sự thể hiện giá trị; sự biến đổi về
chất”. Đó là cái mà hầu hết chúng ta muốn có, và chỉ một số ít có thể có được.
“Chất lượng tương đối” dùng để chỉ một số thuộc tính mà người ta gán cho
sản phẩm. Theo quan niệm này thì một vật, một sản phẩm hoặc một dịch vụ
được xem là có chất lượng khi nó đáp ứng được các mong muốn do người sản
xuất định ra và các yêu cầu mà người sử dụng đòi hỏi.
Như vậy: “chất lượng tương đối” có hai khía cạnh:
Thứ nhất, chất lượng là đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) do
người sản xuất đề ra, ở khía cạnh này được xem là “chất lượng bên trong”.
Thứ hai, chất lượng được xem là sự thỏa mãn tốt nhất những đòi hỏi
của người sử dụng, ở khía cạnh này được xem là “chất lượng bên ngoài".
Vậy chất lượng là những thuộc tính phản ánh bản chất của sự vật, chỉ rõ
nó là cái gì, tính ổn định tương đối của sự vật phân biệt nó với sự vật khác,
chất lượng là đặc tính khách quan của sự vật.
Có thể nhận thấy rằng khái niệm chất lượng là một khái niệm khó xác
định và phụ thuộc vào ngữ cảnh. Nó có một phổ nghĩa từ “chuẩn mực” đến
“xuất sắc”. “Chuẩn mực có thể được hiểu bằng khái niệm ‘ngưỡng’ tối thiểu
mà theo đó hiệu quả của công việc sẽ được đánh giá (Ashcroft & Foreman-
Peck, 1996). Trong bối cảnh này, chất lượng đồng nghĩa với hoạt động đánh
giá, được hiểu theo nghĩa nó là tập hợp các tiêu chuẩn dựa trên quy chiếu
nhóm chuẩn (norm-referenced standards). Ở phía bên kia của phổ nghĩa là
quan điểm xem chất lượng là sự xuất sắc (tương tự như những gì Green và
Harvey gọi là vượt trội). Xuất sắc là trạng thái thành tích đặc biệt, vượt trội,
không có lỗi và đạt mức hài lòng cao nhất từ các bên có liên quan. Trong giáo
dục đại học, mục tiêu của chúng ta là đạt được các “chuẩn mực” và tiến gần
hơn về sự “xuất sắc”.
Để đánh giá chất lượng của một hoạt động, thông thường người ta so
sánh kết quả đạt được với mục tiêu đặt ra. Với cách tiếp cận này, hiệu quả của
hoạt động đào tạo cũng cần phải được xem xét trong mối tương quan giữa kết
quả và chi phí (theo nghĩa rộng), đồng thời có tính tới hiệu quả xã hội.
Hiện nay, trong bối cảnh Việt Nam, ‘Chất lượng’ được xem là ‘phù hợp
với mục tiêu’ – đáp ứng hoặc xác nhận các tiêu chuẩn đã được công nhận nói
chung theo định nghĩa của một cơ quan kiểm định chất lượng hoặc một cơ
quan đảm bảo chất lượng.
Do đó, chất lượng (giáo dục trường đại học) ở Việt Nam được hiểu: Là
sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu
giáo dục đại học của Luật Giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
Chất lượng đào tạo
Theo tác giả Nguyễn Minh Đường: “Đào tạo là quá trình hoạt động có
mục đích, có tổ chức nhằm hình thành và phát triển hệ thống tri thức, kỹ
năng, kỹ xảo, thái độ… để hoàn thiện nhân cách cho mỗi cá nhân để tạo điều
kiện cho họ có thể vào đời hành nghề một cách có năng suất và hiệu quả”.
Như vậy, đào tạo là một quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức
nhằm hình thành và quá trình có hệ thống các tri thức, kỹ năng, thái độ một
cách có hệ thống nhằm chuẩn bị cho người đó thích nghi với cuộc sống và
khả năng đảm nhận được một công việc nhất định. Đào tạo là một loại công
việc xã hội, một hoạt động đặc trưng của giáo dục (nghĩa rộng) nhằm chuyển
giao kinh nghiệm hoạt động từ thế hệ này qua thế hệ khác. Quá trình đào tạo
có thể diễn ra trong nhà trường hoặc ngoài cơ sở sản xuất kinh doanh theo
một ngành nghề cụ thể nhằm giúp cho người học đạt được một trình độ nhất
định trong lao động nghề nghiệp.
Người ta thấy rằng các định nghĩa chất lượng nói chung và chất lượng
đào tạo nói riêng luôn được thay đổi theo thời gian. Hiện nay, khái niệm về
chất lượng đào tạo còn nhiều điểm khác nhau, do từ “chất lượng” được dùng
chung cho cả hai quan niệm: Chất lượng tuyệt đối và chất lượng tương đối.
Với quan niệm chất lượng tuyệt đối thì từ “chất lượng” được dùng cho
những sản phẩm, những đồ vật hàm chứa trong nó những phẩm chất, những
tiêu chuẩn cao nhất khó có thể vượt qua được. Nó được dùng với nghĩa chất
lượng cao, hoặc chất lượng hàng đầu.
Với quan niệm chất lượng tương đối thì được hiểu theo hai khía cạnh:
Thứ nhất là đạt được mục tiêu (phù hợp với tiêu chuẩn) do người sản xuất đề
ra, ở khía cạnh này chất lượng được xem là “chất lượng bên trong”. Thứ hai,
chất lượng được xem là sự thỏa mãn tốt nhất những đòi hỏi của người tiêu
dùng, ở khía cạnh này chất lượng được xem là “chất lượng bên ngoài”.
Ở mỗi cơ sở đào tạo luôn có một nhiệm vụ ủy thác, nhiệm vụ này
thường do các chủ sở hữu quy định, điều này chi phối mọi hoạt động của nhà
trường. Từ nhiệm vụ được ủy thác này, nhà trường xác định các mục tiêu đào
tạo của mình sao cho phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội để đạt được
“chất lượng bên ngoài”; và các hoạt động của nhà trường sẽ được hướng vào
nhằm đạt mục tiêu đào tạo đó, đạt “chất lượng bên trong”.
Do đó, hiện nay cũng có nhiều quan niệm khác nhau về chất lượng đào tạo:
Theo tác giả Lê Đức Ngọc và Lâm Quang Thiệp (Đại học quốc gia Hà
Nội) chất lượng đào tạo được đánh giá qua mức độ đạt được mục tiêu đào tạo
đã đề ra đối với một chương trình đào tạo.
Theo tác giả Trần Khánh Đức, chất lượng giáo dục là kết quả của quá
trình đào tạo được phản ánh ở các đặc trưng về phẩm chất, giá trị nhân cách
và giá trị sức lao động hay năng lực hành nghề của người tốt nghiệp tương
ứng với mục tiêu, chương trình đào tạo theo các ngành nghề cụ thể.
Theo cách tiếp cận quản lý chất lượng thì: Chất lượng đào tạo được coi
là sự phù hợp và đáp ứng yêu cầu. Chất lượng đào tạo có hai phần: phần cứng
là bộ ba kiến thức, kỹ năng, thái độ người học tiếp thu trong quá trình đào tạo;
phần mềm là năng lực sáng tạo và thích ứng. Chất lượng đào tạo phụ thuộc
vào ba yếu tố: Hoạch định (thiết kế và xây dựng mục tiêu); Tổ chức đào tạo;
Sử dụng; miền chất lượng là vùng giao nhau của ba yếu tố trên; miền chất
lượng càng lớn chứng tỏ cơ sở đào tạo đã tổ chức tốt quá trình đào tạo phù
hợp với mục tiêu thiết kế ban đầu đạt hiệu quả và có khả năng cạnh tranh với
các cơ sở đào tạo khác.
Xét dưới góc độ hệ thống các trường đại học, thì chất lượng đào tạo
được hiểu là một trong các thành phần đầu ra của các trường đại học, nó
được xã hội đặt hàng thông qua luật giáo dục.
Xét dưới góc độ trường đại học, chất lượng giáo dục trường đại học là
sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu
giáo dục đại học của luật giáo dục, phù hợp với yêu cầu đào tạo nguồn nhân
lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của ngành.
Với quan điểm tiếp cận thị trường: “Chất lượng đào tạo là mức độ đạt
được so với các chuẩn của mục tiêu đào tạo và mức độ thỏa mãn yêu cầu của
khách hàng”.
Có thể coi các tiêu chí nêu trên thể hiện nội hàm của khái niệm chất
lượng đào tạo, là mục tiêu mà các cơ sở đào tạo cần hướng tới. Và từ quan
niệm về chất lượng đào tạo nêu trên, tác giả Trần Khánh Đức cho rằng hệ
thống các tiêu chí đánh giá chất lượng đào tạo (sản phẩm đào tạo) tương ứng
đối với từng ngành đào tạo nhất định.
Từ những phân tích trên, có thể hiểu chất lượng đào tạo chính là sự tổng
hòa những phẩm chất và năng lực được tạo nên trong quá trình đào tạo so với
thang chuẩn quốc gia của nhà nước hoặc xã hội nhất định.
Chất lượng đào tạo ngày nay không chỉ đơn thuần là trình độ, khả năng
học tập, rèn luyện ở nhà trường được đánh giá bằng điểm số của các môn thi,
môn kiểm tra, mà quan trọng hơn là bằng những kết quả thực tế và bằng hiệu
quả sử dụng những phẩm chất và năng lực của sinh viên trong hoạt động thực
tiễn ở nhà trường, gia đình và xã hội.
Mặc dù có nhiều định nghĩa, cách hiểu khác nhau nhưng có thể khái
quát: Chất lượng đào tạo là sự phù hợp với mục tiêu đề ra qua sự đánh giá
của người dạy, người học, người quản lý và người sử dụng sản phẩm đào tạo.
Chất lượng đào tạo luôn là vấn đề quan trọng nhất của các cơ sở đào tạo,
và là mục tiêu mà tất cả các nhà trường cần hướng tới. Việc phấn đấu nâng cao
chất lượng đào tạo bao giờ cũng được xem là nhiệm vụ quan trọng nhất trong
công tác quản lý của các cơ sở đào tạo nói chung và trường đại học nói riêng.
1.1.2. Đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học
Hiện nay có nhiều cách hiểu khác nhau về đánh giá chất lượng trong
giáo dục đại học, song nhiều tài liệu thống nhất khái quát về đánh giá chất
lượng trong giáo dục đại học: Là quá trình hình thành những nhận định, phán
đoán về kết quả giáo dục, dựa trên sự phân tích những thông tin thu được đối
chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn, tiêu chí đã đề ra nhằm đề xuất những ý
kiến thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng cao chất lượng và
hiệu quả giáo dục đào tạo.
Do cách tiếp cận khác nhau về đánh giá chất lượng giáo dục đại học,
nên hiện có 6 quan điểm (6 cách tiếp cận) tương đối phổ biến hiện nay về
đánh giá chất lượng giáo dục đại học đó là:
Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu vào”
Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “Chất lượng một trường
đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó”.
Chất lượng một trường phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào
(quan điểm nguồn lực). Theo quan điểm này, một trường đại học tuyển được
sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết
để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem
là trường có chất lượng cao.
Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động, vai trò của quá trình đào tạo diễn
ra rất đa dạng và liên tục trong suốt quá trình đào tạo.
Thực tế, theo cách đánh giá này, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và
phỏng đoán chất lượng “đầu ra”. Nó sẽ khó giải thích trường hợp một trường
đại học có nguồn lực “đầu vào” dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào
tạo hạn chế ; hoặc ngược lại, một trường có những nguồn lực khiêm tốn,
nhưng đã cung cấp cho sinh viên một chương trình đào tạo hiệu quả.
Chất lượng được đánh giá bằng “Đầu ra”
Chất lượng “đầu ra” của trường quan trọng hơn so với “đầu vào”. “Đầu
ra” chính là sản phẩm của trường. Quan điểm này cho rằng “đầu ra” của giáo
dục đại học có tầm quan trọng hơn nhiều so với “đầu vào” của quá trình đào
tạo. “Đầu ra” chính là sản phẩm của giáo dục đại học được thể hiện bằng mức
độ hoàn thành công việc của sinh viên tốt nghiệp hay khả năng cung cấp các
hoạt động đào tạo của trường đó.
Có 2 vấn đề cơ bản có liên quan đến cách tiếp cận CLGDĐH này. Một
là, mối liên hệ giữa “đầu vào” và “đầu ra” không được xem xét đúng mức.
Trong thực tế mối liên hệ này là có thực, cho dù đó không phải là quan hệ
nhân quả.
Một trường có khả năng tiếp nhận các sinh viên xuất sắc, không có
nghĩa là sinh viên của họ sẽ tốt nghiệp loại xuất sắc. Hai là, cách đánh giá
“đầu ra” của các trường rất khác nhau.
Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị gia tăng”
Trường đó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển về trí tuệ và cá
nhân của sinh viên. Theo quan điểm này, một trường đại học có tác động tích
cực tới sinh viên khi nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển về trí tuệ
và cá nhân của sinh viên. “Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của
“đầu ra” trừ đi giá trị của “đầu vào”, kết quả thu được: là “giá trị gia tăng” mà
trường đại học đã đem lại cho sinh viên và được đánh giá là CLGDĐH. Giá
trị gia tăng cao tức chất lượng đào tạo của trường cao.
Thế nhưng, nếu theo quan điểm này thì sẽ khó có thể thiết kế một thước
đo chuẩn để đánh giá chất lượng “đầu vào” và “đầu ra” thống nhất cho mọi
nhà trường. Các trường trong hệ thống giáo dục đại học lại rất đa dạng, không
thể dùng một bộ công cụ đo duy nhất cho tất cả các trường đại học. Vả lại,
cho dù có thể thiết kế được bộ công cụ như vậy, giá trị gia tăng được xác định
sẽ không cung cấp thông tin gì cho chúng ta về sự cải tiến quá trình đào tạo
trong từng trường đại học.
Giá trị gia tăng chưa nói lên được đầy đủ chất lượng đào tạo, chưa biết
được khâu nào, lĩnh vực nào có vai trò chủ yếu.
Chất lượng được đánh giá bằng “Giá trị học thuật”
Dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội
ngũ GV để thẩm định công nhận chất lượng đào tạo. Đây là quan điểm truyền
thống của nhiều trường đại học phương Tây, chủ yếu dựa vào sự đánh giá của
các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng
trường trong quá trình thẩm định công nhận chất lượng đào tạo đại học. Điều
này có nghĩa là trường đại học nào có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín
khoa học cao thì được xem là trường có chất lượng cao.
Tuy nhiên, cho dù năng lực học thuật có thể được đánh giá một cách
khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá những cuộc cạnh tranh của các
trường đại học để nhận tài trợ cho các công trình nghiên cứu khoa học. Ngoài
ra, liệu có thể đánh giá được năng lực chất xám của đội ngũ cán bộ giảng dạy
và nghiên cứu khi xu hướng chuyên ngành hoá ngày càng sâu, phương pháp
luận ngày càng đa dạng.
Hạn chế của phương pháp này là không tính đến vai trò của các thành tố
khác. Trong thực tế có nhà trường không có đội ngũ GV cơ hữu chất lượng
cao nhưng do biết quản lý tốt đã liên kết được với các trường khác có đội ngũ
GV có chất lượng cao.
Chất lượng được đánh giá bằng “Văn hoá tổ chức riêng”
Quan niệm này nhấn mạnh vai trò của công tác quản lý. Trường phải tạo
ra được “Văn hoá tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình cải tiến chất lượng. Quan
điểm này dựa trên nguyên tắc các trường đại học phải tạo ra được “Văn hoá tổ
chức riêng” hỗ trợ cho quá trình liên tục cải tiến chất lượng. Vì vậy một trường
được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hoá tổ chức riêng” với nét
đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
Một nhà trường có môi trường văn hoá giáo dục được tổ chức tốt thì
chất lượng của nhà trường sẽ cao; tuy nhiên văn hoá tổ chức của các nhà
trường rất khác nhau, khó thiết kế được tiêu chí, một thước đo nhất quán về
vấn đề này cho các nhà trường. Quan điểm này xuất phát từ lĩnh vực công
nghiệp và thương mại nên khó có thể phù hợp với giáo dục.
Chất lượng được đánh giá bằng “Kiểm toán”
Quan điểm này cho rằng, thông tin là cơ sở của chất lượng giáo dục.
Thời đại thông tin, ai có nhiều thông tin thì hoạt động sẽ đạt chất lượng.
Thông tin là tài sản. Nếu người quản lý có đủ thông tin cần thiết thì có thể có
được quyết định chính xác.
Kiểm toán là đo đếm được số lượng thông tin trong nhà trường. Chất
lượng của thông tin đó đến đâu. Kiểm toán chất lượng quan tâm xem cơ sở
đào tạo có thu thập đủ thông tin phù hợp và cần thiết để đưa ra quyết định hay
không, quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lý và hiệu
quả không.
Quan điểm này xem trọng quá trình bên trong trường đại học và nguồn
thông tin cung cấp cho việc ra quyết định; và cho rằng nếu một cá nhân có đủ
thông tin cần thiết thì có thể có được các quyết định chính xác, và chất lượng
GDĐH được đánh giá qua quá trình thực hiện, còn “Đầu vào” và “Đầu ra” chỉ
là các yếu tố phụ.
Tuy nhiên, chất lượng còn phụ thuộc vào năng lực xử lý thông tin; đôi
khi một cơ sở đào tạo có đầy đủ thông tin cần thiết, song vẫn có thể có những
quyết định chưa phải là tối ưu.
Tóm lại, mặc dù có nhiều quan điểm đánh giá chất lượng trong giáo dục
đại học rất khác nhau, quan điểm nào cũng có tính hợp lý và những mặt chưa
hợp lý, điều đó đòi hỏi những người quản lý giáo dục đại học phải có quan
điểm toàn diện khi xem xét vấn đề này, không cực đoan, một chiều khi đánh
giá chất lượng giáo dục của một trường đại học nào đó. Đồng thời, việc tập
hợp các quan điểm đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học như trên, tạo
cơ sở cho việc nghiên cứu làm rõ cũng như xem xét các hoạt động đảm bảo
chất lượng đào tạo ở các trường đại học được khách quan hơn.
1.1.3. Đảm bảo chất lượng và đảm bảo chất lượng đào tạo
Đảm bảo chất lượng
Trong hai thập kỷ vừa qua, có nhiều thuyết đảm bảo chất lượng đại học
bắt đầu xuất hiện ở châu Âu và một vài thuyết trong số đó đã trở thành nổi
tiếng trên thế giới. Trước đây, mô hình kiểm soát chất lượng thường được sử
dụng để kiểm tra chất lượng và mô hình này có nguồn gốc từ sản xuất hàng
hóa. Hiện nay, các lý thuyết có liên quan đến đảm bảo chất lượng như: tiêu
chuẩn hóa quốc tế dành cho các cơ quan, tổ chức (ISO) và quản lý chất lượng
toàn diện xuất phát từ kinh doanh và công nghiệp đã được đưa vào giáo dục,
đặc biệt là giáo dục đại học.
Đảm bảo chất lượng là một qui trình có tính hệ thống và được hoạch
định dùng để đánh giá một cơ sở hoặc một chương trình đào tạo nhằm xem
xét các tiêu chuẩn giáo dục đã được chấp nhận từ trước, tính chuyên môn và
cơ sở hạ tầng có được duy trì và củng cố hay không.
Đảm bảo chất lượng thường được xem là các mong đợi rằng các cơ chế
kiểm soát chất lượng được vận hành và hiệu quả. Ở nhiều nước, đảm bảo chất
lượng còn là các biện pháp mà theo đó một cơ sở đào tạo chứng thực rằng
mình có đầy đủ các điều kiện cần thiết để sinh viên đạt được các tiêu chuẩn
do chính nhà trường hoặc cơ sở cấp bằng khác qui định.
Trong giáo dục đại học, đảm bảo chất lượng được xác định như các hệ
thống, chính sách, thủ tục, quy trình, hành động và thái độ được xác định từ
trước nhằm đạt được, duy trì, giám sát và củng cố chất lượng
(Woodhouse,1998; 1999; 1999a). Định nghĩa này cũng được cơ quan đảm
bảo chất lượng Australia sử dụng. ISO định nghĩa đảm bảo chất lượng như
sau: “tất cả các hoạt động có hoạch định hay có hệ thống cần thiết nhằm cung
cấp sự đủ tự tin rằng một sản phẩm hay một dịch vụ là đáp ứng được các yêu
cầu về chất lượng”.
Trong giáo dục đại học, đảm bảo chất lượng được xem là “tổng số
các cơ chế và quy trình được áp dụng nhằm đảm bảo chất lượng đã được
định trước hoặc việc cải tiến chất lượng liên tục – bao gồm việc hoạch
định, việc xác định, khuyến khích, đánh giá và kiểm soát chất lượng”
(Warren Piper, 1993).
Như vậy: Đảm bảo chất lượng là toàn bộ các hoạt động có hệ thống và
kế hoạch chặt chẽ, được tiến hành trong hệ thống chất lượng và được chứng
minh là đủ mức cần thiết để tạo sự tin tưởng thỏa đáng rằng thực thể (tổ
chức) sẽ đáp ứng các yêu cầu về chất lượng.
ĐBCL Có 2 mục đích:
ĐBCL bên trong nhằm tạo niềm tin cho tổ chức.
ĐBCL bên ngoài nhằm tạo niềm tin cho các bên liên quan.
Chất lượng đào tạo được đảm bảo bởi hệ thống đảm bảo chất lượng, hệ
thống này sẽ chỉ ra chính xác phải làm thế nào và theo những tiêu chuẩn nào;
và các tiêu chuẩn chất lượng được sắp xếp theo những thể thức trong hệ thống
đảm bảo chất lượng.
Đảm bảo chất lượng đào tạo
Từ quan niệm về đảm bảo chất lượng, có thể khái quát: Đảm bảo chất
lượng đào tạo, là một công cụ nhằm mục đích xác định mức độ đáp ứng mục
tiêu giáo dục trong từng giai đoạn của cơ sở giáo dục, thông qua sự đánh giá
tổng thể về tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo.
Muốn đánh giá một cơ sở giáo dục có đảm bảo chất lượng đào tạo hay
không và đảm bảo đến mức độ nào, thì phải thông qua khâu kiểm định chất
lượng. Kiểm định chất lượng đào tạo có kiểm định từ bên trong (cơ sở đào tạo
tự đánh giá các mặt đảm bảo chất lượng đào tạo), và kiểm định từ bên ngoài
(của cơ quan kiểm định chất lượng của nhà nước đối với cơ sở đào tạo). Kết
quả kiểm định là thước đo cơ sở giáo dục trong chuẩn chất lượng, đạt được
những gì, còn thiếu những gì để điều chỉnh, bổ sung các điều kiện và tổ chức
giáo dục, nhằm đạt chuẩn chất lượng. Kết quả kiểm định sẽ được công khai với
cơ quan chức năng quản lý và xã hội. Ðiều đó một mặt là sự thể chế hóa được
phát triển đầy đủ nhất về tính chịu trách nhiệm của cơ sở giáo dục đối với công
luận, mặt khác sẽ thúc đẩy tích cực các cơ sở giáo dục phải tìm nhiều giải pháp,
giải bài toán đảm bảo và nâng cao chất lượng giáo dục của đơn vị mình.
ĐBCL được coi là hoạt động có hiệu quả khi không chỉ đánh giá xem
một trường hay một chương trình đào tạo có đạt chất lượng hay không mà còn
phải có vai trò như những chuyên gia tư vấn sẵn sàng giúp nhà trường giải
quyết các vấn đề tồn đọng và không ngừng nâng cao chất lượng các hoạt động
giáo dục - đào tạo.
Một số nơi, ĐBCL còn nhằm mục đích giải trình với xã hội, với các cơ
quan quyền lực hay các cơ quan, tổ chức tài trợ, cấp kinh phí. Người học
trước khi lựa chọn trường để đăng ký dự tuyển, các doanh nghiệp sử dụng lao
động trước khi tuyển chọn cũng thường cân nhắc xem nhà trường hay ngành
đào tạo đã được kiểm định hay chưa.
Đảm bảo chất lượng có một ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi:
Quyền tự chủ (quản lý, học thuật và tài chính) của các cơ sở đào tạo
được mở rộng;
Tỉ trọng (số người theo học) và thành phần (loại trường đào tạo) phi chính
phủ (ngoài công lập) trong hệ thống giáo dục quốc dân ngày một phát triển;
Yếu tố nước ngoài tham gia đào tạo (trong và ngoài công lập) ngày một
tăng (do toàn cầu hóa).
Kết quả ĐBCL góp phần định hướng các hoạt động sau đây của xã hội:
Định hướng lựa chọn của người học để xác định cơ sở giáo dục có chất
lượng, hiệu quả, phù hợp với khả năng của mình;
Định hướng đầu tư của nhà nước để đào tạo nguồn nhân lực theo những
ngành nghề cần thiết cho sự phát triển trong tương lai.
Định hướng đầu tư của các doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực
thích hợp cho doanh nghiệp của mình.
Định hướng cho các nhà đầu tư nước ngoài làm từ thiện hay cần phát
triển vốn của mình.
Định hướng phát triển cho các cơ sở giáo dục để tăng cường năng lực
cạnh tranh trong và ngoài nước (xây dựng văn hóa chất lượng, không ngừng
nâng cao chất lượng và hiệu quả học thuật, quản lý và tài chính…)
Định hướng cho sự hợp tác đào tạo (chuyển đổi, công nhận văn bằng
chứng chỉ…) giữa các cơ sở đào tạo trong và ngoài nước…
Đảm bảo chất lượng đào tạo trường đại học
Từ các quan niệm trên, có thể khái quát: Đảm bảo chất lượng đào tạo
trường đại học: Là công cụ phương tiện để xác định mức độ đáp ứng mục
tiêu giáo dục đào tạo của nhà trường đại học trong từng giai đoạn, thông
qua sự đánh giá tổng thể về tất cả các yếu tố, các mặt đảm bảo cho việc duy
trì và phát triển chất lượng đào tạo của nhà trường, đáp ứng yêu cầu nguồn
nhân lực chất lượng cao của xã hội.
Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo trường đại học
Trong bất kỳ lĩnh vực nào cũng cần có một cách làm phù hợp với nội
dung của chương trình đã đề ra; cách thức hành động sẽ ảnh hưởng đến chất
lượng nội dung của công việc cũng như hiệu quả của công việc tiến hành; do
đó để thực hiện tốt công việc thì cần phải có những giải pháp thích hợp.
Về phương diện quản lý hoặc đảm bảo cho hoạt động nào đó, thì giải
pháp được các chủ thể đề ra, có tính bắt buộc đối với đối tượng. Đồng thời,
giải pháp đề ra luôn được chủ thể tiến hành, thực chất là đưa ra các cách thức
tổ chức, điều khiển có hiệu quả hoạt động của một nhóm nào đó; tuy nhiên
cách thức tổ chức, điều khiển này phải dựa trên bản chất, chức năng, yêu cầu
của hoạt động đó.
Từ các vấn đề trên, có thể hiểu:
Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo trường đại học: Là hệ thống
công cụ phương tiện để xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục đào tạo
của nhà trường đại học trong từng giai đoạn, thông qua sự đánh giá tổng thể
về tất cả các yếu tố đảm bảo cho việc duy trì và phát triển chất lượng đào tạo
của nhà trường, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội.
Tóm lại, sự khái quát quan niệm về đảm bảo chất lượng đào tạo trường
đại học và giải pháp đảm bảo chất lượng đó mới chỉ là bước đầu, có thể còn
phải tiếp tục nghiên cứu để là rõ hơn, song nó cũng đã lột tả được phần nào
bản chất của vấn đề, tạo cơ sở định hướng cho việc nghiên cứu làm rõ nội
dung đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy trường đại học và đề xuất một
số giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo đại học một cách cụ thể và khách
quan hơn.
1.2. Nội dung cơ bản (các yếu tố) đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính
quy trường đại học
1.2.1. Chuẩn đầu ra
Các nhà khoa học, các tổ chức trong và ngoài nước đã đưa ra nhiều khái
niệm về chuẩn đầu ra. Tuy nhiên, theo quan điểm của Bộ Giáo dục và Đào tạo
Việt Nam thì: Chuẩn đầu ra là quy định về nội dung kiến thức chuyên môn;
kỹ năng thực hành, khả năng nhận thức công nghệ và giải quyết vấn đề; công
việc mà người học có thể đảm nhận sau khi tốt nghiệp và các yêu cầu đặc thù
khác đối với từng trình độ, ngành đào tạo. Cũng theo Bộ Giáo dục và Đào tạo,
chuẩn đầu ra là sự khẳng định người học làm được những gì và kiến thức, kỹ
năng, thái độ, hành vi mà người học phải đạt được khi tốt nghiệp ở một ngành
đào tạo hoặc ở một chương trình đào tạo.
Chuẩn đầu ra có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với cả nhà trường,
người học và người sử dụng lao động. Đối với nhà trường, chuẩn đầu ra như
một lời cam kết của nhà trường về chất lượng đào tạo với xã hội, về năng lực
của người học sau khi hoàn thành chương trình đào tạo. Đó cũng là chuẩn
mực thấp nhất có thể chấp nhận được nhà trường quy định cho một sinh viên
khi hoàn thành khóa đào tạo. Trên cơ sở chuẩn đầu ra để nhà trường rà soát và
điều chỉnh chương trình đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội. Việc xây dựng
và công bố chuẩn đầu ra cũng giúp cho các trường thay đổi nếp nghĩ, cách
làm về xây dựng một chương trình đào tạo, đó là việc xây dựng chương trình
hướng nhiều hơn đến người học, lấy người học làm trung tâm chứ không chỉ
tập trung vào đội ngũ giảng viên và cơ sở vật chất hiện có của nhà trường.
Trên cơ sở chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo được công bố mà các
trường xây dựng chuẩn cho nội dung chương trình của từng học phần, môn
học hoặc mô-đun, đổi mới phương pháp dạy học, tăng cường cơ sở vật chất,
tài chính, đổi mới quản lý và các điều kiện đảm bảo chất lượng khác nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo, gắn đào tạo với nhu cầu xã hội.
Chuẩn đầu ra cũng là căn cứ để các trường xây dựng chuẩn đầu vào đối
với người học, mặt khác giúp cho việc công nhận văn bằng, tín chỉ, xây dựng
chương trình đào tạo liên thông giữa các trình độ.
Đối với người học, chuẩn đầu ra giúp sinh viên định hướng nghề
nghiệp, giúp họ hiểu họ được mong đợi những gì, họ có thể đảm nhận được
công việc nào sau khi học xong chương trình. Và cũng nhờ vậy, sinh viên
hiểu được điều gì họ phải cố gắng để đạt chuẩn, từ đó họ sẽ không ngừng nỗ
lực học tập, rèn luyện. Khi người học đạt chuẩn, họ sẽ thành công hơn trong
thực tiễn công tác khi ra trường.
Đối với người sử dụng lao động, chuẩn đầu ra cung cấp thông tin cho
nhà tuyển dụng về những kiến thức và hiểu biết tối thiểu của sinh viên khi tốt
nghiệp. Từ đó, tạo cơ hội tăng cường hợp tác, gắn kết giữa nhà trường và
người sử dụng lao động trong đào tạo và sử dụng nhân lực cho xã hội, đáp
ứng yêu cầu của các nhà tuyển dụng và sử dụng lao động.
Với ý nghĩa đó của chuẩn đầu ra, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã coi việc
xây dựng và công bố chuẩn đầu ra là nhiệm vụ trọng tâm của các trường và
toàn ngành trong hai năm học 2009-2010 và 2010-2011 nhằm góp phần đổi
mới quản lý giáo dục đại học và trung cấp chuyên nghiệp.
1.2.2. Chương trình đào tạo
Chương trình đào tạo đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đảm
bảo chất lượng đào tạo ở mọi cấp, ngành học. Theo lãnh đạo nhiều trường
đại học, cao đẳng, cần thiết phải có một cuộc “cách mạng” triệt để trong việc
xây dựng chương trình theo hướng dẫn của Bộ GD&ĐT với yêu cầu tăng
tính chuyên sâu về môn học, đảm bảo sự cân đối giữa lý thuyết với thực
nghiệm và đặc biệt là phải gắn với thực tiễn sản xuất, thực tế xã hội.
Chương trình đào tạo là cơ sở nền tảng ban đầu góp phần quyết định
chất lượng đào tạo. Nếu xác định chính xác chuẩn đầu ra cho từng đối tượng
sẽ là cơ sở xác định chương trình đào tạo phù hợp. Đảm bảo chất lượng đào
tạo phải căn cứ từ chuẩn đầu ra, đồng thời phải xem xét mức độ phù hợp hay
chưa phù hợp của chương trình với mục tiêu đào tạo.
Luật Giáo dục Đại học có hiệu lực, đồng thời sự ra đời của Thông tư
57, sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế đào tạo đại học và cao đẳng hệ
chính quy theo hệ thống tín chỉ Bộ GD&ĐT ban hành đã tạo sự chủ động,
thuận lợi hơn rất nhiều cho các trường trong việc quyết định chương trình
đào tạo. Với quy định mới này, các trường có điều kiện đưa vào chương trình
những nội dung mới; tham khảo, sử dụng các chương trình đào tạo của các
trường tiên tiến, các trường có uy tín; tiếp cận được với các chương trình tiên
tiến trên thế giới.
Việc đầu tiên khi xây dựng hay cải tiến chương trình là phải khảo sát ý
kiến của đơn vị sử dụng lao động, tham khảo ý kiến họ xem sinh viên của
mình ra trường yếu, mạnh ở điểm nào, phải bổ sung gì, thường đơn vị sử
dụng lao động phải đào tạo lại những gì. Sau khi đi khảo sát sẽ điều chỉnh lại
chuẩn đầu ra cho phù hợp với yêu cầu của họ. Tiếp theo, tiến hành xây dựng
chuẩn đầu ra, việc xây dựng chuẩn đầu ra cũng cần lấy ý kiến đơn vị sử dụng
lao động. Sau đó, trên cơ sở chuẩn đầu ra sẽ xây dựng chương trình; tiếp tục
lấy ý kiến của họ trước khi chương trình hoàn thiện. Một số chương trình đào
tạo của nhà trường cũng cần thực hiện thăm dò cả ý kiến sinh viên. Trường
sẽ thực hiện điều chỉnh chương trình khi cần thiết, và cái gốc của điều chỉnh
làm sao phải sát với thực tế sử dụng lao động, phải thực sự vì chất lượng.
Việc xây dựng chương trình đào tạo hệ chính quy của trường đại học
được thực hiện theo quy trình và trên cơ sở chương trình khung do Bộ GD & ĐT
ban hành, có sự tham gia của các chuyên gia, cán bộ quản lý giáo dục. Mục tiêu,
cấu trúc và tính hệ thống của chương trình đào tạo, sự đáp ứng yêu cầu về
chuẩn kiến thức, kỹ năng của đào tạo trình độ đại học và đáp ứng linh hoạt
yêu cầu sử dụng nhân lực của xã hội.
Sự bổ sung, điều chỉnh chương trình đào tạo theo định kỳ, dựa trên cơ sở
tham khảo các chương trình tiên tiến, các ý kiến phản hồi từ các tổ chức sử dụng
sản phẩm đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã
hội của đất nước. Chương trình đào tạo hệ chính quy của trường đại học phải
đảm bảo liên thông giữa các trình độ đào tạo (cao đẳng, đại học và sau đại học);
và định kỳ đánh giá, thực hiện cải tiến chúng; việc đa dạng hoá các hình thức
đào tạo, đáp ứng yêu cầu học tập của người học theo quy định.
1.2.3. Tổ chức quản lý đào tạo
Đối với bất kỳ một cơ sở đào tạo đại học nào, dù công lập hay tư thục
thì công tác tổ chức và quản lý luôn là khâu quan trọng hàng đầu để đảm
bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học của nhà trường. Nếu thực
hiện tốt khâu tổ chức và quản lý đào tạo sẽ tạo sức mạnh tổng hợp và
nguồn lực to lớn để đảm bảo chất lượng đào tạo. Trái lại, tổ chức và quản
lý yếu kém sẽ làm giảm sút, thất thoát nguồn lực, dẫn đến chất lượng đào
tạo bị suy giảm.
Việc tổ chức quản lý đào tạo của nhà trường đại học, hoặc đối với một
ngành học cụ thể là cả quá trình được bắt đầu từ lúc sinh viên hoàn thành thủ
tục nhập học và kết thúc lúc tốt nghiệp ra trường; nó diễn ra trong hệ thống
gồm các tổ chức cá nhân tham gia: BGH, các đơn vị trực thuộc, giảng viên,
sinh viên, được làm rõ trách nhiệm tham gia quá trình đào tạo.
Tổ chức quản lý đào tạo hệ chính quy của nhà trường đại học, bao gồm
các công việc cụ thể như: Công tác lập kế hoạch, phân bổ và đánh giá các nguồn
lực cho hoạt động đào tạo. Nhiệm vụ này đòi hỏi tính nghiêm túc, chặt chẽ trong
xây dựng và triển khai kế hoạch đào tạo; kÕ ho¹ch ph¶i phản ánh rõ c¸c môc tiªu
cô thÓ cña tõng c«ng viÖc, x¸c ®Þnh ®îc c¸c chØ sè thùc hiÖn qua tõng giai
®o¹n. KÕ ho¹ch ph¶i x¸c ®Þnh ®îc c¸c nhiÖm vô then chèt, c¸c ®Þnh híng
chÝnh trong thêi gian 4-5 năm; đồng thời ph¶i cã c¸c ch¬ng tr×nh hµnh ®éng
cô thÓ trong từng giai đoạn, nh»m gi¶i quyÕt c¸c vÊn ®Ò cÇn u tiªn và x¸c
®Þnh ®îc c¸c môc ®Ých träng t©m vÒ c¸c lÜnh vùc ho¹t ®éng quan träng
nhÊt cña nhà trường. KÕ ho¹ch ph¶i nªu râ viÖc ph©n bæ hîp lý c¸c nguån lùc
vµ chi phÝ cho viÖc thùc hiÖn nhiÖm vô ®µo t¹o; định kú cã ®¸nh gi¸ viÖc
thùc hiÖn vµ sö dông kÕt qu¶ ®¸nh gi¸ để ®iÒu chØnh kÕ ho¹ch khi cÇn.
Tổ chức bộ máy và quản lý đào tạo phải theo biên chế của trường đại học,
phù hợp với biểu biên chế của Bộ GD & ĐT quy định, đáp ứng với yêu cầu
của trường đại học. Hệ thống văn bản tổ chức quản lý đào tạo phải đầy đủ, nhất
là quy chế giáo dục, đào tạo nhằm phát huy tốt hiệu quả quản lý hoạt động đào
tạo. Trong quy chế giáo dục, đào tạo phải phân định rõ chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của các bộ phận, cán bộ quản lý các cơ quan, khoa giáo viên và sinh
viên; đồng thời phải có cơ chế chính sách và biện pháp giám sát, đánh giá việc
thực hiện các kế hoạch đào tạo của nhà trường, nhất là hoạt động dạy học của
các hoa giáo viên.
1.2.4. Chất lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học
Chất lượng đào tạo
Là một nội dung đảm bảo khó và phức tạp nhất trong toàn bộ hoạt động
đảm bảo chất lượng. Chất lượng đào tạo phản ánh chất lượng toàn bộ quá
trình đào tạo của nhà trường đại học; nó không chỉ thể hiện ở kết quả tốt
nghiệp ra trường của các đối tượng sinh viên hàng năm, mà nó còn biểu hiện
ở sự phát triển phẩm chất, năng lực của họ và sự phát huy tác dụng của sản
phẩm đào tạo trong thực tiễn. Chất lượng đào tạo được đánh giá không chỉ ở
tại nơi đào tạo, mà còn phải thông qua sự phản hồi từ những nơi sử dụng sản
phẩm đào tạo, tức là mức độ phát huy năng lực, khả năng hoàn thành nhiệm vụ
của người học.
Trước hết, chất lượng đào tạo phản ánh ở tỷ lê ̣ sinh viên tốt nghiê ̣p hàng
năm so với chỉ tiêu đào tạo, và tỷ lê ̣ sinh viên đạt loại giỏi, khá, trung bình trên
tổng số sinh viên tốt nghiê ̣p hàng năm. Sau đó là sự phát triển về trí tuệ và nhân
cách của sinhviên; sự phát triển về trình đô ̣ kiến thức, kĩ năng và thái độ tư tưởng
đạo đức so với trước khi được đào tạo tại trường.
Chất lượng đào tạo còn phản ánh ở sự phát huy tác dụng của sản phẩm
đào tạo; đó là tỷ lÖ sinh viªn ra trêng cã phÈm chÊt chÝnh trÞ, ®¹o ®øc tèt, cã
uy tÝn cao, cã ¶nh hëng tÝch cùc ®Õn nơi công tác; và sau khi tốt nghiê ̣p ra
trường, sinh viên đáp ứng yêu cầu của nơi sử dụng ở mức độ nào.
Nghiên cứu khoa học
Nghiên cứu khoa học ở nhà trường đại học, là nhiệm vụ quan trọng
nhằm phục vụ trực tiếp cho giáo dục, đào tạo; đồng thời nó cũng là một trong
những yêu cầu và nhiệm vụ của cán bộ, giảng viên; kết quả của hoạt động
nghiên cứu khoa học sẽ tạo động lực thúc đẩy và là một trong những mặt đảm
bảo quan trọng cho chất lượng và hiệu quả đào tạo.
Biểu hiện của hoạt động nghiên cứu khoa học của trường đại học ở chỗ:
ý thøc, tr¸ch nhiÖm của c¸n bé, gi¶ng viªn, sinh viªn tham gia nghiªn cøu
khoa häc; c¸c biÖn ph¸p ®éng viªn khuyÕn khÝch vµ b¾t buéc họ tham gia
nghiªn cøu khoa học; sự đầu tư tương xứng cho các đề tài, đề án được thực
hiện, nghiệm thu theo đúng quy trình và kế hoạch; những đóng góp mới cho
khoa học và giá trị ứng dụng thực tế trong các đề tài nghiên cứu để giải quyết các
nhiê ̣m vụ giáo dục, đào tạo và sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Định møc
vÒ sè lîng c«ng tr×nh ®îc c«ng bè trong mçi n¨m häc cho tõng đối tượng c¸n
bé, gi¶ng viªn; c¸c chÝnh s¸ch khuyÕn khÝch ®èi víi c¸c t¸c gi¶ cã nhiÒu
c«ng tr×nh khoa häc cã chÊt lîng tèt. Số lượng bài báo đăng trên các tạp chí
chuyên ngành trong nước và quốc tế; số đề tài nghiên cứu khoa học phù hợp
với định hướng nghiên cứu và phát triển của trường. Tỷ lệ các công trình xuất
bản có giá trị về mă ̣t lý luâ ̣n, thực tiễn và tính ứng dụng trong giáo dục đào
tạo, nghiên cứu phát triển.
1.2.5. Đội ngũ cán bộ quản lý, giảng viên
Đội ngũ cán bộ quản lý
Những người làm công tác quản lý giáo dục trong nhà trường có ảnh
hưởng rất lớn đến đảm bảo chất lượng đào tạo. Bao gồm ban giám hiệu,
trưởng phó các phòng ban, khoa, tổ của trường, những người quản lý và
hoạch định chiến lược giáo dục của nhà trường. Các mục tiêu của giáo dục
đào tạo sẽ khó thể thực hiện tốt nếu không có đội ngũ cán bộ quản lý đủ
mạnh, trường không thể thiếu đội ngũ cán bộ quản lý với năng lực, trình độ,
trách nhiệm cao trong bộ máy quản lý hành chính.
Thực tế cho thấy, mọi hoạt động trong nhà trường cần được tiến hành
một cách đồng bộ và thống nhất; vì vậy cần phải có hệ thống quản lý từ Ban
giám hiệu đến các phòng, ban chức năng để thực hiện các công việc từ quản
lý con người đến quản lý và điều hành các hoạt động giáo dục rèn luyện ý
thức đạo đức cho sinh viên, cũng như hoạt động giảng dạy, hoạt động phục vụ
cho giảng dạy, hạch toán thu chi, mua sắm và vận hành, bảo quản các trang
thiết bị, cơ sở vật chất… Một bộ phận nào đó trong hệ thống trên bị trục trặc
hay suy yếu đều ảnh hưởng và gây ách tắc tới hoạt động của các bộ phận
khác, do đó ảnh hưởng tới việc nâng cao chất lượng đào tạo và tăng chi phí
đào tạo nguồn nhân lực. Nhưng việc thực hiện tốt các hoạt động trong hệ
thống trên lại phụ thuộc vào trình độ năng lực và ý thức trách nhiệm của
chính những con người được quyền phân công và sử dụng đội ngũ cán bộ,
giảng viên trong nhà trường. Cho nên phải có đội ngũ cán bộ quản lý có năng
lực trình độ phù hợp với công việc và ý thức trách nhiệm cao sẽ là yếu tố
hàng đầu đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
Đội ngũ giảng viên
Sứ mệnh đào tạo con người mới là trách nhiệm chung của toàn xã hội,
nhưng đội ngũ giảng viên vẫn là yếu tố đảm bảo quan trọng và quyết định
nhất đến chất lượng đào tạo. Tục ngữ có câu: “không thầy đố mày làm nên“
cho đến bây giờ vẫn còn nguyên giá trị.
Giảng viên phải là người tổ chức các hoạt động học tập, hướng dẫn,
rèn luyện sinh viên cách học, cách thu thập, xử lý thông tin để phục vụ việc
học tập; không phải chỉ dạy cho sinh viên nắm được cái gì mà còn phải biết
hướng dẫn họ vận dụng tổng hợp những kiến thức, kĩ năng đã học để phát
hiện, giải quyết vấn đề trong thực tiễn đời sống. Do vậy người giảng viên
phải có năng lực, trình độ cao để đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp
giảng dạy, vận dụng nhiều hình thức tổ chức giáo dục và kiểm tra, đánh giá
giáo dục mới khác nhau và hiện đại.
Chất lượng của đội ngũ giáo viên là yếu tố quyết định chất lượng sản
phẩm giáo dục đào tạo, mặc dù lấy người học làm trung tâm của đào tạo. Mọi
sự bất cập về số lượng, chất lượng, trách nhiệm của người thầy so với yêu cầu
đào tạo đều có ảnh hưởng đến kết quả đào tạo. Đối với sinh viên, tấm gương
về đạo đức, nhân cách, tài năng của người thầy có tác dụng rất lớn đối với
việc hình thành nhân cách, tài năng của họ. Muốn có trò giỏi (nguồn nhân lực
có chất lượng) ắt phải có thầy giỏi, bởi trong thực tế người thầy không thể cho
học sinh của mình cái mà mình chưa có được. Trình độ chuyên môn của thầy
yếu dẫn tới việc truyền tải tri thức và tay nghề cho sinh viên không đầy đủ,
thậm chí còn sai lệch, học sinh thông minh nhưng không có thầy giỏi dẫn dắt
thì sự thông minh ấy không thể trở thành nhân tài được. Vì vậy phải xây dựng
đội ngũ giáo viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, có trách nhiệm và
lương tâm nghề nghiệp là mục tiêu của các nhà trường. Đồng thời, các trường
phải chú trọng nâng cao trình độ giáo viên, tạo điều kiện cho họ cập nhật với
các tri thức khoa học hiện đại và học tập nghiên cứu nâng cao trình độ chuyên
môn, năng lực giảng dạy, ngày càng có uy tín đối với sinh viên; bởi họ là yếu
tố đảm bảo quan trọng nhất, quyết định trực tiếp đến chất lượng đào tạo của
bất kì nhà trường nào.
1.2.6. Thư viện, giáo trình, sách, tài liệu tham khảo và cơ sở vật chất,
phương tiện kỹ thuật, tài chính
Thư viện, giáo trình, sách, tài liệu tham khảo
Mọi cơ sở đào tạo đại học nào, dù công lập hay tư thục thì thư viện,
giáo trình, sách, tài liệu tham khảo luôn là khâu quan trọng đối với giảng
viên và sinh viên, nó góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo và nghiên cứu
khoa học của nhà trường Thư viện được trang bÞ đầy đủ sách, tài liệu của
các chuyên ngành và liên ngành cũng như các sách mở rộng, nâng cao kiến
thức chuyên môn cho giảng viên, sinh viên học tập nghiên cứu, ®¸p øng yªu
cÇu nâng cao chất lượng dạy học. Thư viện theo quy chuẩn, hệ thống cung
ứng tài liệu hiện đại, khoa học, phục vụ trực tiếp các chương trình đào tạo và
nhu cầu nghiên cứu, tham khảo của cán bộ, giảng viên, sinh viên. Phương
thức tổ chức hoạt động của thư viện thuận tiện cho người đọc; và đa dạng hoá
các hình thức cung cấp tài liệu, tư liệu.
Trong điều kiện hiện nay, các trường đại học cần có hệ thống thư viện
điện tử đảm bảo nhu cầu học tập, nghiên cứu của cán bộ, giảng viên, học
viên; và việc cung cấp các thiết bị tin học để hỗ trợ hiệu quả các hoạt động
dạy học, nghiên cứu khoa học và quản lý.
Cơ sở vật chất, phương tiện kỹ thuật và tài chính
Cơ sở vật chất và phương tiện kĩ thuật dạy học của trường đại học, bao
gồm tất cả những công trình, nhà cửa, đường xá, trang thiết bị sinh hoạt; các
phòng học, phòng chuyên dùng; các phương tiện kỹ thuật dạy học, sách giáo
khoa, giáo trình và các tài liệu dạy học; các bãi tập luyện thể thao, rèn luyện
thể lực... Trang thiết bị dạy và học để hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo,
nghiên cứu khoa học được đảm bảo về chất lượng và sử dụng có hiệu quả,
đáp ứng yêu cầu của các chuyên ngành đang đào tạo tại trường. Diện tích lớp
học theo quy định cho việc dạy và học, trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt
động văn hoá, nghệ thuật, thể dục thể thao theo quy định. Hệ thống điện ánh
sáng cho các phòng học đảm bảo đúng quy chuẩn và hệ thống giảng đường và
các công trình phụ bảo đảm vệ sinh môi trường.
Cơ sở đào tạo nguồn nhân lực đều phải dựa trên những điều kiện cơ sở
vật chất nhất định để cho các hoạt động giảng dạy, học tập, nghiên cứu được
diễn ra đúng kế hoạch, mục tiêu đề ra. Để thực hiện được tất cả những hoạt
động nêu trên, cần có sự hỗ trợ rất lớn về tài chính và những điều kiện vật
chất. Ngoài nguồn lực tài chính dùng để trả lương cho đội ngũ cán bộ giảng
dạy và quản lý trong các trường, còn cần một lượng không nhỏ để xây dựng
mở mang trường lớp, các thiết bị văn phòng, máy tính, dụng cụ vật tư kỹ thuật
cho thí nghiệm thực hành, các thiết bị phục vụ cho hoạt động giảng dạy có
chất lượng cao, giáo trình và tài liệu cho sinh viên học và tham khảo.
Thực tế đã chứng minh để đáp ứng yêu cầu nhân lực kỹ thuật không thể
thiếu điều kiện trang thiết bị và xưởng thực hành. Không có các điều kiện trên
việc tiếp xúc với trang thiết bị trở nên xa lạ, sinh viên không được làm quen
với các thao tác nghề, những kiến thức lý thuyết thu nhận được sẽ mai một
dần theo năm tháng, kỹ năng của người thợ không được hình thành. Hơn nữa,
nếu không có nguồn tài chính để bổ sung các thiết bị hiện đại cho sinh viên
thực hành sẽ không đáp ứng khoa học công nghệ hiện nay và cũng không thể
đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực theo hướng kinh tế tri thức.
1.2.7. Môi trường giáo dục
Môi trường giáo dục là tập hợp không gian với các hoạt động xã hội của
cá nhân, các phương tiện và giao lưu được phối hợp với nhau tạo điều kiện
thuận lợi để giáo dục đạt kết quả cao nhất. Nhiệm vụ chăm lo sự nghiệp giáo
dục, xây dựng phong trào học tập và phát triển môi trường giáo dục lành
mạnh đã trở thành chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước, đã được xác định
trong Luật Giáo dục để mọi cá nhân và tổ chức phải thực hiện. Do đó, việc
xác định nhiệm vụ xây dựng và phát triển môi trường văn hoá giáo dục cho
thế hệ trẻ là trọng tâm của ngành Giáo dục.
Mục tiêu chung của giáo dục là phát triển toàn diện nhân cách thế hệ trẻ,
để giáo dục được một con người trưởng thành là một việc rất khó nhưng cũng rất
vĩ đại. Do bản chất nhân văn của giáo dục, cùng với đạo lí và lẽ sống tình người
đang thôi thúc chúng ta phải góp một viên gạch vào xây dựng một môi trường
sống tốt đẹp cho mọi người. Môi trường giáo dục cũng là một trong những yếu
tố quan trọng tác động, ảnh hưởng đến chất lượng của giáo dục đào tạo.
Những yếu tố trên là điều kiện vật chất, phương tiện, tài chính phục vụ
hoạt động dạy học và nghiên cứu khoa học của cán bộ, giảng viên, sinh viên, là
những yếu tố quan trọng trong việc đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
Việc khái quát nội dung cơ bản (yếu tố) đảm bảo chất lượng đào tạo hệ
chính quy trường đại học trên như: chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo, tổ
chức quản lý đào tạo, chất lượng đào tạo, nghiên cứu khoa học, đội ngũ cán
bộ quản lý, giáo viên, thư viện giáo trình, sách, tài liệu tham khảo và cơ sở
vật chất kĩ thuật… là những nội dung cơ bản tạo nên cơ sở nền tảng lý luận
trực tiếp giúp cho việc đề xuất các giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo được
khách quan hơn.
*
* *
Cất lượng giáo dục trường đại học, là sự đáp ứng mục tiêu do nhà trường
đề ra, đảm bảo các yêu cầu về mục tiêu giáo dục đại học phù hợp với yêu cầu
đào tạo nguồn nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả
nước. Còn chất lượng đào tạo, là sự phù hợp với mục tiêu đề ra qua sự đánh
giá của người học, người dạy, người quản lý và người sử dụng sản phẩm đào
tạo. Đánh giá chất lượng trong giáo dục đại học, là quá trình hình thành
những nhận định, phán đoán về kết quả giáo dục dựa trên sự phân tích những
thông tin thu được đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn, tiêu chí đã đề ra
nhằm đề xuất những ý kiến thích hợp để cải thiện thực trạng, điều chỉnh, nâng
cao chất lượng và hiệu quả giáo dục đào tạo.
Đảm bảo chất lượng đào tạo, là một công cụ nhằm mục đích xác định
mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục trong từng giai đoạn của cơ sở giáo dục,
thông qua sự đánh giá tổng thể về tất cả các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng
đào tạo.
Giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo trường đại học: Là hệ thống công
cụ phương tiện để xác định mức độ đáp ứng mục tiêu giáo dục đào tạo của
nhà trường đại học trong từng giai đoạn, thông qua sự đánh giá tổng thể về
tất cả các yếu tố đảm bảo cho việc duy trì và phát triển chất lượng đào tạo của
nhà trường, đáp ứng yêu cầu nguồn nhân lực chất lượng cao của xã hội.
Nội dung đảm bảo chất lượng đào tạo trường đại học bao gồm các yếu
tố như: chuẩn đầu ra; đội ngũ giảng viên và sinh viên; chương trình nội dung
đào tạo; tổ chức quá trình đào tạo; chất lượng đào tạo; thư viện, giáo trình,
sách, tài liệu tham khảo; công tác quản lý khoa học, quản lý cơ sở vật chất
kỹ thuật…
Chương 2
THỰC TRẠNG ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
2.1. Khái quát về Trường Đại học Bạc liêu
2.1.1. Thông tin khái quát về nhà trường
Trường Đại học Bạc Liêu trực thuộc UBND tỉnh Bạc Liêu và chịu sự
quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Trường tọa lạc tại
trung tâm thành phố Bạc Liêu, hiện nay, trường có hai cơ sở, cơ sở I tọa lạc
trên đường Võ Thị Sáu, Phường 8, thành phố Bạc Liêu; cơ sở II nằm trên
đường Lê Duẩn, Phường 1, thành phố Bạc Liêu.
Đại học Bạc Liêu là trường đại học công lập, là cơ sở giáo dục đại học
đa ngành, đa hệ, có chức năng đào tạo các bậc từ trung cấp đến sau đại học;
Nghiên cứu khoa học và hợp tác quốc tế.
Trường Đại học Bạc Liêu được thành lập ngày 24/11/2006, theo Quyết
định số 1558/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, sự ra đời của trường hợp
theo ý chí, nguyện vọng của Đảng bộ và nhân dân tỉnh Bạc Liêu, đáp ứng yêu
cầu đào tạo và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, phục vụ sự nghiệp
CNH-HĐH của tỉnh và vùng bán đảo Cà Mau.
Trường Đại học Bạc Liêu có sứ mạng đào tạo nguồn nhân lực có trình độ
đại học, trên đại học, sinh viên được đào tạo đạt ba mục tiêu: Có kiến thức
chuyên ngành vững chắc; đảm bảo các kỹ năng cần thiết đáp ứng nhu cầu xã
hội; trở thành một công dân có trình độ văn hóa cao và nhân cách tốt. Giữ vai
trò nòng cốt trong đào tạo, nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ
cho khu vực Bán đảo Cà Mau, trên các lĩnh vực Nông nghiệp - Thủy sản - Du
lịch - Dịch vụ.
Nhiệm vụ của trường là dựa trên sự đầu tư của nhà nước cộng với sự
phát triển các mối quan hệ trong và ngoài nước để nâng cao năng lực đào tạo,
mở rộng ngành nghề đáp ứng yêu cầu phát triển KT-XH của tỉnh Bạc Liêu và
các tỉnh vùng bán đảo Cà Mau.
Để đảm bảo thực hiện sứ mạng và chất lượng đào tạo, nhà trường đẩy
mạnh phát triển nguồn nhân lực đào tạo. Cải tiến chương trình, đổi mới
phương pháp giảng dạy và mở rộng ngành nghề đào tạo; ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý và đào tạo. Thực hiện đổi mới cơ bản toàn diện đảm bảo
mang lại cho cán bộ, giảng viên, nhân viên nhà trường một môi trường thuận
lợi, có thể phát huy toàn bộ năng lực trí tuệ của mình cho sự nghiệp đào tạo
và phát triển giáo dục đại học. Tạo cho sinh viên môi trường học tập và
nghiên cứu khang trang, hiện đại, đảm bảo chất lượng giáo dục theo ba mục
tiêu mà sứ mạng đề ra.
Về bộ máy, cơ cấu tổ chức đến thời điểm này đã được kiện toàn, hoàn
thiện và hoạt động hiệu quả. Cơ sở vật chất không ngừng được tăng cường, từ
chỗ thiếu trầm trọng phòng học, phòng làm việc, thiết bị thực hành thí
nghiệm, trường tích cực tranh thủ các nguồn vốn đầu tư cải tạo, xây dựng
mới, mua sắm thiết bị, đến nay cơ sở vật chất cơ bản đáp ứng được nhiệm vụ
đào tạo.
Cơ sở vật chất của trường hiện sử dụng, có tổng diện tích là 50.049 m2,
gồm 2 khu. Có 15 đơn vị trực thuộc là các phòng, khoa, tổ bộ môn với 282 cán
bộ, giảng viên, nhân viên, lưu lượng sinh viên đào tạo hàng năm khoảng 6.000.
Trong thời gian qua công tác xây dựng đội ngũ được coi trọng và phát
triển về cả số lượng cũng như chất lượng. Năm 2008 đội ngũ giảng viên chỉ
90 người với 30 thạc sĩ thì tháng 11/2012 có 188 giảng viên với 5 tiến sĩ và
118 thạc sĩ.
Hiện nay trường có 04 khoa, từ khi thành lập đến nay, trường Đại học
Bạc Liêu đã hoàn thành các Đề án và được Bộ Giáo dục và Đào tạo giao
nhiệm vụ tuyển sinh các ngành có trình độ Đại học, Cao đẳng sau đây:
Hệ Đại học chính qui:
Tin học ứng dụng, Quản trị kinh doanh, Kế toán tổng hợp, Kế toán kiểm
toán, Tài chính - Ngân hàng, Nuôi trồng thuỷ sản, Bệnh học thuỷ sản, Chăn
nuôi, Bảo vệ thực vật, Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam, Ngôn ngữ Anh, Sư
phạm Sinh, Sư phạm Toán, Sư phạm Hóa học.
Hệ Đại học liên thông:
Nuôi trồng thủy sản (từ trung cấp lên đại học).
Tin học ứng dụng (từ cao đẳng lên đại học).
Kế toán (từ Trung cấp lên đại học và cao đẳng lên đại học).
Hệ Cao đẳng chính qui:
Tin học ứng dụng, Kế toán, Nuôi trồng thuỷ sản, Giáo dục Tiểu học,
Giáo dục Mầm Non, Sư phạm Âm Nhạc, Sư phạm Văn- Sử, Sư phạm Tiếng
Anh, Sư phạm Vật lý, Sư phạm Địa lý
Hệ Cao đẳng liên thông:
Giáo dục Mầm Non : từ THSP lên Cao đẳng
Giáo dục Tiểu học: từ THSP lên Cao đẳng
Ngoài ra trường còn liên kết đào tạo sau đại học 3 ngành đào tạo: Quản
lý giáo dục, Xây dựng Đảng, Quản lý Khoa học - Công nghệ với 74 học viên.
Ngoài hợp tác chặt chẽ với các trường đại học trong nước, trường mạnh
dạn xây dựng quan hệ hợp tác quốc tế với các trường ở các nước trong khu
vực Đông Nam Á và các nước khác trên thế giới trên nhiều lĩnh vực:
Hợp tác trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng giảng viên;
Hợp tác trong lĩnh vực trao đổi để đào tạo sinh viên;
Hợp tác trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học và chuyển giao công nghệ;
Xin phép Chính phủ được chọn và kết nghĩa với một số trường Đại học
trên thế giới để trao đổi kinh nghiệm, tăng cường nguồn lực cho sự phát triển
nhà trường đáp ứng được yêu cầu của đất nước nói chung và khu vực nói
riêng.
Hiện nay trường đã đặt quan hệ với một số đối tác nước ngoài để tiến
hành các thủ tục tiếp nhận tình nguyện viên tham gia giảng dạy các lớp Tiếng
Anh và Tin học cho sinh viên của trường:
Tổ chức Koica (Hàn Quốc): giảng dạy môn Tin học.
Tổ chức Fulbriht (Hoa Kỳ): giảng dạy môn Tiếng Anh.
Hiện nay, trường đã đưa cán bộ, giảng viên đi đào tạo và bồi dưỡng sau
đại học ở nhiều nước như: Mỹ, Italia, Australia, Nhật, Trung Quốc, Ấn Độ…
Dù mới thành lập, xong thời gian qua trường đã từng bước hoàn thiện bộ
máy, đầu tư khá tốt về xây dựng cơ sở vật chất và đội ngũ, hoàn chỉnh chiến
lược phát triển nhà trường giai đoạn 2011-2020. Hàng năm hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ được giao, để lại ấn tượng tốt trong xã hội, từng bước khẳng
định thương hiệu.
2.2. Tình hình đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học
Bạc Liêu
2.2.1. Thực trạng chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường Đại học
Bạc Liêu
Thông qua tiến hành khảo sát bằng phiếu hỏi ý kiến đối với cán bộ quản
lý và giáo viên đại diện của các cơ quan, các khoa của nhà trường, chúng tôi
tổng hợp kết quả tại phụ lục 1. Chất lượng đào tạo hệ chính quy cao đẳng và
đại học của trường đại học Bạc Liêu phản ánh ở nhiều yếu tố, trong đó kết
quả học tập của sinh viên là chủ yếu, nhất ở tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp. Những
năm qua thực trạng tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp hệ chính quy cao đẳng và đại
học của trường như sau:
Bảng 2.1. Tổng hợp chất lượng đào tạo hệ chính quy
Trường Đại học Bạc Liêu từ 2009 - 2012
Xếp Loại Tốt Nghiệp % TB Năm Tỉ lệ TN % Hỏng % Giỏi Khá TB Hệ Chính quy L THI TN khá
1 11,61 75,25 11,11 98,40 1,52 2009 0,5
Cao Đẳng
Đại học 98 190 165 333 435 569 0 0 0,3 1,6 1,6 75,26 70,3 62,46 70,0 71,51 22,63 20,61 14,71 22,52 22,67 1,57 4,24 9,90 4,36 3,80 99,47 95,15 87,39 99,54 99,63 0,53 4,85 12,61 0,46 0,36
2010 2011 2012 2011 2012 Nhận xét:
Từ kết quả tổng hợp tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp những năm qua cùng với
kết quả các hội nghị tổng kết các khóa đào tạo từ 2009 đến nay về đánh giá
chất lượng đào tạo của nhà trường. Kết hợp với số liệu thống kê thu thập được
từ nguồn cung cấp của cơ quan đào tạo, khoa giáo viên, có thể đánh giá thùc
tr¹ng chất lượng đào tạo hệ chính quy cao đẳng và đại học của trường đại học
Bạc Liêu từ năm 2009 đến nay như sau:
Về chất lượng đào tạo cao đẳng
Từ tổng hợp ở bảng 2.1 cho thấy: trong 4 năm từ 2009 đến 2012, thì năm
có tỷ lệ tốt nghiệp loại khá cao nhất là năm 2010 đạt 22,26%, loại trung bình
khá là 75,26%, loại trung bình là 1,57%, không tốt nghiệp là 0,53% (mặc dù
không có sinh viên tốt nghiệp giỏi) nhưng được đánh giá là năm thành công
nhất về chất lượng đào tạo cao đẳng của trường.
Còn năm được đánh giá là thấp nhất về chất lượng đào tạo là năm 2012,
chỉ có 14,71% tốt nghiệp loại khá và 62,46% loại trung bình khá, có 9,9 % tốt
nghiệp trung bình (mặc dù có 0,3% sinh viên tốt nghiệp giỏi), song có tới
12,61% không tốt nghiệp, điều đó đã dẫn đến tỷ lệ tốt nghiệp chỉ đạt 87,39%
thấp nhất trong 4 năm qua.
Như vậy, trong 4 năm qua sinh viên tốt nghiệp loại trung bình khá chiếm
tỷ lệ cao nhất, từ 62,46% đến 75,26%, còn lại là tốt nghiệp khá từ 11,61% đến
22,63% ; và tốt nghiệp trung bình từ 1,57 %đến 11,11%; rất ít sinh viên tốt
nghiệp giỏi. Điều đó phản ánh rõ nét chất lượng đào tạo hệ cao đẳng của nhà
trường trong những năm qua còn rất khiêm tốn, đồng thời cũng phản ánh các
mặt đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường cũng còn nhiều mặt chưa đáp
ứng, từ trình độ đầu vào, đến tổ chức đào tạo và các mặt đảm bảo khác.
Về chất lượng đào tạo đại học
Từ tổng hợp ở bảng 2.1 cho thấy, trong 2 năm từ 2011 đến 2012, thì năm
có tỷ lệ tốt nghiệp loại khá cao hơn là năm 2012 đạt 22,67%, loại trung bình
khá là 71,51% loại trung bình là 3,87% không tốt nghiệp là 0,36% (có 1,6%
sinh viên tốt nghiệp giỏi) là năm được đánh giá là tiến bộ hơn năm 2011 về
đào tạo đại học của trường.
Còn năm 2011, được đánh giá là thấp hơn về chất lượng đào tạo, có
22,52% tốt nghiệp loại khá và 70,80% loại trung bình khá, có 4,36% tốt nghiệp
trung bình (có 1,6% sinh viên tốt nghiệp giỏi) và có 0,46% không tốt nghiệp.
Như vậy, trong 2 năm qua tỷ lệ tốt nghiệp loại trung bình khá chiếm tỷ lệ
cao nhất, từ 70,80% đến 71,51%, còn lại là tốt nghiệp khá từ 22,67% đến
22,52%; và tốt nghiệp trung bình từ 3,87 % đến 4,36%; sinh viên tốt nghiệp giỏi
chỉ chiếm 1,60%. Điều đó phản ánh chất lượng đào tạo đại học của nhà trường
trong 2 năm qua còn hạn chế, từ đó cũng cho thấy các mặt đảm bảo chất lượng
đào tạo của nhà trường còn nhiều mặt chưa đáp ứng, từ điểm sàn khi tuyển sinh,
đến tổ chức đào tạo, đội ngũ giảng viên và các mặt đảm bảo khác…
Đánh giá chung
Chất lượng đào tạo của nhà trường phụ thuộc vào nhiều yếu tố; song kết
quả học tập, tỷ lệ các loại tốt nghiệp của sinh viên phản ánh rõ nhất chất
lượng đào tạo. Tỷ lệ sinh viên hệ chính quy bậc cao đẳng và đại học tốt
nghiệp loại trung bình khá chiếm đa số ở trường đại học Bạc Liêu những năm
qua như kết quả khảo sát trên, mặc dù chưa thể hiện toàn bộ, song cũng phản
ánh cơ bản chất lượng đào tạo của nhà trường. Với một nhà trường nằm ở
vùng bán đảo Cà Mau, với trình độ dân trí và nền kinh tế chưa phát triển
mạnh, nằm ở xa các trung tâm kinh tế - văn hóa của đất nước; và là trường đại
học mới thành lập chưa có nhiều kinh nghiêm, đội ngũ giảng viên có học vị,
học hàm ít…do vậy tỷ lệ tốt nghiệp như tổng hợp trên đã phản ánh sự nỗ lực
cố gắng rất lớn của nhà trường, nhất là giảng viên và sinh viên.
Tuy nhiên, những hạn chế về chất lượng đào tạo qua phản ánh ở tỷ lệ
sinh viên tốt nghiệp loại trung bình khá chiếm đa số (chưa khảo sát đến tỷ lệ
tốt nghiệp của đối tượng đào tạo liên thông, không chính quy, tại chức…) đều
có nguyên nhân của nó. Theo chúng tôi, nguyên nhân chủ yếu là do công tác
đảm bảo chất lượng đào tạo còn nhiều bất cập, do cả phía nhà trường và phía
khách quan đem lại. Trước yêu cầu về nâng cao chất lượng đào tạo hệ chính
quy của nhà trường, nhất là trước những đòi hỏi khách quan của các tổ chức,
các công ty, các doanh nghiệp và những cơ quan tuyển dụng lao động có trình
độ cao đẳng và đại học về chất lượng nguồn nhân lực do nhà trường đào tạo.
Điều đó đang đặt ra những yêu cầu cần thiết phải xem xét, đánh giá một cách
khách quan, toàn diện tất cả các yếu tố liên quan đến đảm bảo chất lượng đào
tạo hệ chính quy của nhà trường, tạo cơ sở thực tiễn đề xuất các giải pháp phù
hợp, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong giai đoạn
mới của đất nước.
2.2.2. Những vấn đề về đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại
trường Đại học Bạc Liêu
Thực trạng đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại trường đại học
Bạc Liêu được thể hiện ở các yếu tố sau:
Chuẩn đầu ra
Về ưu điểm: Nhận thức của đội ngũ cán bộ quản lý và giảng viên của nhà
trường về chuẩn đầu ra rất tốt, coi nó như một lời cam kết của nhà trường về
đảm bảo chất lượng đào tạo với xã hội, về năng lực của người học sau khi
hoàn thành chương trình đào tạo. Do đó, trên cơ sở chuẩn đầu ra nhà trường
đã rà soát và điều chỉnh chương trình đào tạo nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội.
Việc xây dựng và công bố chuẩn đầu ra giúp cho các trường thay đổi nếp
nghĩ, cách làm về xây dựng một chương trình đào tạo hướng nhiều hơn đến
người học, lấy người học làm trung tâm.
Thực hiện chỉ thị và theo yêu cầu của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Ngày 30
tháng 9 năm 2011, trường Đại học Bạc Liêu đã công bố quyết định số:
296/QĐ - ĐHBL của Hiệu trưởng nhà trường về việc ban hành chuẩn đầu ra
của các chuyên ngành đào tạo trình độ đại học, cao đẳng hệ chính quy.
Theo đó, các khoa giáo viên và các phòng, ban, trung tâm có nhiệm vụ
xây dựng kế hoạch và tổ chức đào tạo nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo đúng
theo chuẩn. Chuẩn đầu ra của nhà trường quy định trong các chương trình,
cho từng ngành và trình độ đào tạo và công khai ngay từ học kỳ thứ nhất của
khóa học.
Nội dung cơ bản về chuẩn tốt nghiệp đầu ra của trường đáp ứng 3 mục tiêu:
Một là, Sinh viên được trang bị kiến thức cơ bản và kiến thức khoa học
chuyên ngành đủ trình độ xử lý những vấn đề liên quan tới ngành đào tạo.
Hai là, Với năng lực chuyên môn có được, sinh viên có thể thích ứng
được với yêu cầu của xã hội, giải quyết các vấn đề phát sinh trong thực tiễn.
Có điều kiện tự học, tự nghiên cứu để hoàn thiện kiến thức.
Ba là, Có ý thức kỷ luật trong công tác, có thái độ đạo đức nghề nghiệp tốt.
Thực hiện cam kết chất lượng, tùy theo nội dung yêu cầu của chương
trình các ngành, hệ và phương thức đào tạo, mỗi trình độ có yêu cầu cụ thể về
điều kiện tuyển sinh, chương trình, điều kiện về giảng viên, cơ sở vật chất ....
Như vậy, nhìn chung công tác xây dựng chuẩn đầu ra của trường Đại học
Bạc Liêu đã được thực hiện đúng tiến độ, đảm bảo đúng quy trình, cơ bản đáp
ứng đúng nội dung, yêu cầu.
Về hạn chế: Trong thời gian đầu thực hiện xây dựng chuẩn đầu ra,
trường còn khá lúng túng và còn tồn tại những bất cập, ảnh hưởng đến đảm
bảo chất lượng đào tạo như: Việc xây dựng chuẩn đầu ra còn thiếu định
lượng một cách chuẩn xác các thành tố cấu thành chuẩn đầu ra (68,59% đồng
ý với đánh giá này); Chất lượng xây dựng chuẩn đầu ra chưa cao (76,52%
đồng ý với đánh giá này); Nội dung chuẩn đầu ra chưa đầy đủ (69,45% đồng
ý với đánh giá này); Các khoa giáo viên chưa thực hiện đúng qui trình xây
dựng chuẩn đầu ra như: yêu cầu về thái độ, vị trí làm việc sau khi tốt
nghiệp... (66,78% đồng ý với đánh giá này); Các điều kiện đảm bảo cho
chuẩn đầu ra chưa đầy đủ… (72,32% đồng ý với đánh giá này).
Từ thực trạng đó đòi hỏi nhà trường cần phải thường xuyên hoàn thiện
nhằm chính xác hóa dần chuẩn đầu ra để ngày càng đáp ứng tốt hơn nhu cầu
xã hội.
Chương trình đào tạo
Về ưu điểm: Từ khi thành lập trường đến nay, trường luôn chú trọng xây
dựng chương trình đào tạo đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ và đảm bảo chất
lượng đào tạo. Nội dung chương trình bao gồm giáo dục đại cương, giáo dục
chuyên nghiệp, kiến thức bổ trợ; có chương trình chi tiết, đề cương chi tiết.
Các chương trình đào tạo đều phù hợp với chương trình do Bộ GD&ĐT ban
hành, được xây dựng có tham khảo chương trình của một số trường ĐH như
ĐH Cần Thơ, ĐH An Giang… Các chương trình đào tạo CĐ, ĐH chính qui
đã được xây dựng chuẩn đầu ra và công bố công khai và được thiết kế theo 2
dạng: theo Chế độ Niên chế - Học phần và từ năm 2010, các ngành Đại học
Kế toán tổng hợp, Kế toán kiểm toán, Quản trị kinh doanh, Bệnh học thuỷ sản
được xây dựng theo học chế tín chỉ.
Từ năm học 2011 đến 2013, Trường chuyển tiếp các ngành đào tạo đại
học: Tin học, Tiếng Việt và Văn hóa Việt Nam, Ngôn ngữ Anh và cao đẳng
Tin học; Nuôi trồng thủy sản, Tài chính- Ngân hàng; đại học liên thông: Kế
toán, Tin học và các ngành Cao đẳng chính quy: Giáo dục Tiểu học, Giáo dục
Mầm Non, Sư phạm Vật lý, Sư phạm Địa lý; Sư phạm Tiếng Anh sang học
chế tín chỉ. Như vậy tất cả các ngành tuyển sinh năm 2012 đều được đào tạo
theo học chế tín chỉ.
Hiện nay trường đang thực hiện song hành 2 hình thức đào tạo:
niên chế - học phần và đào tạo tín chỉ; đến năm học 2015-2016, kết thúc các
khóa học theo học chế niên chế.
Thời gian sinh viên học tại trường, nhiều doanh nghiệp, cơ sở sản xuất đã
đến liên hệ với trường để tìm hiểu quá trình đào tạo, trao tặng học bổng cho sinh
viên với mục đích chuẩn bị tuyển dụng, sử dụng nguồn nhân lực do trường đào
tạo. Họ quan tâm đến chương trình đào tạo, thể hiện sự đồng thuận với nội dung
chương trình, điều đó cũng góp phần chứng tỏ công tác xây dựng chương trình
đào tạo của Đại học Bạc Liêu đã được tiến hành đúng hướng.
Trong quá trình thực hiện chương trình, trường luôn chú ý theo dõi tính
hiệu quả của nó, từ đó có kế hoạch bổ sung chỉnh sửa cho phù hợp. Chẳng hạn:
Đối với các ngành đào tạo mới tuyển sinh năm 2010, chương trình có
điều chỉnh các môn Lý luận chính trị theo Quyết định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo và tăng cường các môn tự chọn. Đối với các ngành Đại học Ngôn
ngữ Anh và Cao đẳng sư phạm Tiếng Anh được điều chỉnh theo hướng tăng
cường kỹ năng nghe- nói cho sinh viên.
Năm 2010 trường đã xây dựng chương trình đào tạo Đại học theo tín chỉ
các ngành Kế toán, QTKD, Bệnh học thủy sản; ngành Cao đẳng GDMN có sự
điều chỉnh hợp lý ở các môn Lý luận chính trị, các môn tự chọn.
Hàng năm trường đều tiến hành tự đánh giá chương trình đào tạo hoặc rà
soát điều chỉnh để cải tiến chất lượng chương trình. Năm 2010 trường đã tiến
hành cho giảng viên, sinh viên góp ý về chương trình đào tạo các ngành Đại
học, cao đẳng chính quy. Đồng thời, tổ chức hội nghị, hội thảo với các nhà
tuyển dụng, các doanh nghiệp để lắng nghe ý kiến của họ làm cơ sở để xây
dựng chương trình đáp ứng nhu cầu xã hội. Các phản hồi của nhà tuyển dụng
được trường tiếp thu và từng bước bổ sung hoàn thiện chương trình đào tạo
của các ngành; tuy nhiên khi xây dựng chương trình đào tạo, do chưa có cơ
chế nên nhà trường chưa thể mời đại diện các doanh nghiệp, hoặc các tổ chức,
cá nhân tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp của trường tham gia.
Nhìn chung, thời gian qua chương trình đào tạo dành cho hệ chính quy
tại trường đã luôn được chú ý xây dựng theo hướng đáp ứng những gì mà xã
hội yêu cầu, đáp ứng nhu cầu của người học; và luôn được rà soát, tự đánh
giá cải tiến chất lượng đáp ứng mục tiêu “đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội”.
Việc xây dựng chương trình đào tạo từng bước chú trọng theo hướng
đảm bảo liên thông với các trình độ đào tạo và chương trình đào tạo khác.
Về hạn chế: Trong quá trình thực hiện, chúng tôi nhận thấy chương trình
đào tạo của trường còn tồn tại một số hạn chế ảnh hưởng đến đảm bảo chất
lượng đào tạo như: Chương trình đào tạo được xây dựng chưa có sự tham gia
của các tổ chức, hội nghề nghiệp và các nhà tuyển dụng lao động (84,24% ý
kiến đồng ý với đánh giá này); Chưa xây dựng được các môn học tự chọn một
cách đa dạng (66,14% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Chưa đánh giá được
mức độ đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động (96,14% ý kiến đồng ý với
đánh giá này); Các chương trình đào hiện nay chưa trao đổi tín chỉ với các
trường trong khu vực (86,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Một số
ngành, chương trình còn nặng tính hàn lâm; kiến thức lý thuyết nhiều, còn ít
liên hệ với thực tiễn (62,12% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Việc rà soát
chương trình đào tạo ở các khoa chưa được tiến hành thường xuyên (64,37%
ý kiến đồng ý với đánh giá này)...
Từ thực trạng đó, đòi hỏi nhà trường cần phải chỉ đạo giám sát thường
xuyên hơn, khắc phục những hạn chế trên nhằm nâng cao chất lượng chương
trình đào tạo yếu tố cơ bản của đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
Tổ chức đào tạo và nghiên cứu khoa học
Về tổ chức công tác đào tạo:
Ưu điểm: Tổ chức đào tạo của nhà trường có ảnh hưởng trực tiếp đến
đảm bảo chất lượng đào tạo, do vậy từ năm 2010 đến năm 2012 trường đã
hoàn thành lộ trình chuyển từ đào tạo theo niên chế-học phần sang đào tạo
theo hệ thống tín chỉ. Trường đã hoàn thành chuyển đổi các chương trình đào
tạo các ngành đại học, cao đẳng hiện có sang học chế tín chỉ đối với các khóa
đào tạo mới; và có lộ trình chặt chẽ, phù hợp, chuẩn bị đồng bộ từ CSVC,
giảng viên, ban hành các quy định theo quá trình chuyển đổi này.
Trường rất quan tâm chú trọng đến việc đổi mới phương pháp dạy và
học: có biện pháp tuyên truyền nhận thức cho CB-GV, sinh viên thấy được xu
thế đổi mới giáo dục đại học đòi hỏi phải đẩy mạnh đổi mới nội dung, chương
trình, phương pháp giảng dạy và học tập nhất là đổi mới phương pháp dạy
học và đánh giá kết quả học tập của sinh viên. Yêu cầu đào tạo đáp ứng nhu
cầu xã hội là một trong các động lực thúc đẩy đòi hỏi nhà trường phải đổi mới
cách dạy- cách học. Do chuyển hình thức đào tạo từ niên chế-học phần sang
đào tạo theo học chế tín chỉ đã tác động tích cực, toàn diện đến đổi mới
phương pháp dạy và học, phương pháp đánh giá kết quả học tập của sinh viên
theo hướng sinh viên tăng cường kỹ năng tự học, tự nghiên cứu, kỹ năng làm
việc theo nhóm. Cải tiến mạnh mẽ công tác kiểm tra thường xuyên, thi kết
thúc học phần; tổ chức nhiều hoạt động chuyên đề, ngoại khóa, sinh viên
tham gia NCKH…Hiện nay, trường đang sử dụng các loại hình đánh giá kết
quả học của người học như: kiểm tra thường xuyên (số bài kiểm tra tùy thuộc
vào số đơn vị học trình của từng học phần), đánh giá khả năng nhận thức,
mức độ chuyên cần của người học trong thảo luận, kết quả thực hành và quá
trình học tập hoặc bài tập ở nhà. Ngoài ra, việc đánh giá này được thực hiện
một cách nghiêm túc, khách quan qua các kỳ thi kết thúc học phần và phương
pháp dạy của người dạy thông qua các tiết dự giờ trên lớp. Kết quả học tập
của người học được công bố, lưu trữ đúng theo những quy định, quy chế của
Trường và Bộ GD&ĐT. Việc công nhận các kết quả học tập của người học
được thể hiện là người học được cấp các chứng chỉ, văn bằng tốt nghiệp cho
các học phần hoặc kết thúc khóa học theo đúng quy định của Bộ GD-ĐT.
Người học có thể tự tra cứu kết quả học tập hay các thông tin cần thiết có liên
quan thông qua Website của Trường.
Tính linh hoạt của quá trình đào tạo của nhà trường được thể hiện rõ
như: Quá trình đào tạo không khép kín; các ngành, hệ đào tạo có sự liên kết
chặt chẽ, có sự liên thông giữa bậc Cao đẳng, bậc Đại học, giúp cho sinh viên
có thể cùng lúc học được nhiều bằng khác nhau, tạo điều kiện cho sinh viên
học trong hè để thi lại; đối với các môn Tin học, Tiếng Anh ở các ngành
không chuyên, trường cho phép sinh viên thay thế bằng kết quả thi Chứng chỉ
quốc gia tương ứng; đối với những sinh viên có hoàn cảnh khó khăn, trường
cho phép bảo lưu kết quả có thời hạn theo quy chế.
Có thể thấy, tổ chức đào tạo ở trường Đại học Bạc Liêu đã tạo nhiều điều
kiện thuận lợi cho người học, tạo cơ sở cho việc đảm bảo chất lượng dạy và học.
Về hạn chế: việc tổ chức đào tạo của nhà trường, bên cạnh những ưu
điểm là cơ bản, vẫn còn một số tồn tại hạn chế ảnh hưởng trực tiếp đến đảm
bảo chất lượng đào tạo như: Chưa thống kê được từng loại hình đánh giá cho
từng môn học của từng ngành học (69,12% ý kiến đồng ý với đánh giá này);
Sinh viên còn một bộ phận chưa tự giác, tích cực học tập, chưa thích ứng
được với phương thức đào tạo theo hệ thống tín chỉ (89,25% ý kiến đồng ý
với đánh giá này); Đổi mới phương pháp dạy và học chưa thực sự mạnh mẽ
(73,17% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Trường chưa có nhiều kinh nghiệm
thực tiễn để duy trì và kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện quy chế giáo dục
(65,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Duy trì đào tạo theo hệ thống tín
chỉ buớc đầu gặp những khó khăn (75,72% ý kiến đồng ý với đánh giá này);
Thời gian công bố kết quả học tập của người học còn chậm và người dạy ở
một số môn học, ngành học chưa có kết quả đánh giá gửi cho người học
(67,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Còn sai sót trong quá trình lên
điểm cho người học do cán bộ phụ trách đảm nhiệm nhiều việc dẫn đến kéo
dài thời gian công bố kết quả học tập của người học (70,21% ý kiến đồng ý
với đánh giá này).
Về nghiên cứu khoa học
Về ưu điểm: Từ khi được thành lập, Trường ĐHBL đã xác định NCKH
là một trong hai nhiệm vụ quan trọng, góp phần đắc lực đảm bảo nâng cao
chất lượng đào tạo, vì thế năm 2008 bộ phận chuyên trách là Phòng
QLKH&QHQT của trường được thành lập để thực hiện tốt nhiệm vụ này.
Hàng năm trường xây dựng kế hoạch hoạt động KHCN khá phù hợp với thực
tế trường, và thông báo cho các cơ quan đơn vị thực hiện, cụ thể như: Mục
đích yêu cầu và các lĩnh vực nghiên cứu, kinh phí hỗ trợ; Xét duyệt, phân cấp
đề tài, công bố danh mục, phê duyệt phương án thực hiện; Thẩm định đề
cương nghiên cứu và điều chỉnh (nếu có); Tổ chức nghiệm thu; Báo cáo tổng
kết, đánh giá rút kinh nghiệm về hoạt động KHCN. Liên kết trong nghiên cứu
khoa học cũng được nhà trường quan tâm, thông qua các hội thảo khoa học
bước đầu gắn kết với các doanh nghiệp. Trường đã ký văn bản hợp tác toàn
diện với trường Đại học Cần Thơ tạo tiền đề tốt cho việc liên kết trong
NCKH. Bên cạnh đó, chủ trương hợp tác toàn diện với huyện U Minh và
huyện Trần Văn Thời - Tỉnh Cà Mau đang mở ra một hướng phát triển mới
trong hoạt động khoa học-công nghệ. Trường chỉ đạo cho khoa Nông nghiệp
tiến hành hợp tác, giúp đỡ các huyện thị trong tỉnh nghiên cứu khoa học và
chuyển giao công nghệ. Đã chú ý bồi dưỡng năng lực NCKH cho giảng viên
qua các buổi tập huấn NCKH, báo cáo chuyên đề và có chính sách ưu đãi
nhằm khuyến khích giảng viên viết bài báo đăng trên các tạp chí chuyên
ngành trong nước. Đề tài nghiên cứu khoa học hàng năm tăng, chất lượng các
đề tài được nâng lên mang lại hiệu quả trong đào tạo. Các công trình đã công
bố, các kết quả, sản phẩm các đề tài, dự án trong 5 năm qua được xuất bản
thành sách tham khảo, tài liệu giảng dạy , nghiên cứu là: 154 (Xuất sắc: 04;
Giỏi 17; Khá: 76; Trung bình: 01; Đạt:13; chưa nghiệm thu: 43).
Công tác nghiên cứu khoa học trong sinh viên cũng được nhà trường qua
tâm và thu được nhiều kết quả khích lệ như: Năm học 2007-2008: có 19 đề
tài, Năm học 2008-2009: có 09 đề tài, Năm học 2009-2010: có 14 đề tài, Năm
học 2010-2011: có 11 đề tài, Năm học 2011-2012: có 14 đề tài.
Qua hoạt động nghiên cứu khoa học cho thấy:
1. Năng lực nghiên cứu khoa học của giảng viên từng bước được nâng
cao từ việc chọn lựa lĩnh vực nghiên cứu, đề tài nghiên cứu đến việc giải
quyết khoa học vấn đề nêu ra góp phần phát triển chất lượng nghiên cứu khoa
học của trường.
2. Năng lực nghiên cứu khoa học của sinh viên cũng được nâng cao
thông qua sự hướng dẫn của giảng viên.
3. Thông qua nhiệm vụ NCKH, trình độ nghiệp vụ của giảng viên được
nâng cao góp phần cải tiến phương pháp giảng dạy.
4. Sự chuyển biến về lĩnh vực nghiên cứu từ soạn thảo giáo trình sang
nghiên cứu đổi mới chương trình giảng dạy theo đặc điếm khối ngành đào tạo
sẽ tạo thêm hứng thú cho sinh viên trong quá trình lĩnh hội kiến thức.
5. Nghiên cứu khoa học của sinh viên bước đầu hình thành, thông qua đề
tài nghiên cứu , sinh viên vận dụng được những điều đã học vào thực tiễn xã
hội góp phần thay đổi về chất của sinh viên ra trường.
Nhìn chung, về mặt nghiên cứu khoa học Trường bước đầu có nhiều kết
quả đáng khích lệ. Mỗi năm có hàng chục đề tài cấp trường và cấp khoa được
nghiệm thu. Tỉ lệ các đề tài nghiên cứu đạt loại khá, giỏi chiếm 77% tổng số
đề tài được nghiệm thu. Số lượng các đề tài bao trùm nhiều lĩnh vực, ngành
nghề trường đang đào tạo; bước đầu có các đề tài có giá trị phục vị kinh tế -
xã hội địa phương, được chuyển giao ứng dụng, nhất là lĩnh vực nông nghiệp,
thủy sản. Đây là điểm cần phát huy.
Về hạn chế: bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động nghiên cứu khoa học
của trường đảm bảo cho chất lượng đào tạo còn tồn tại một số hạn chế như:
Lực lượng cán bộ, giảng viên trẻ tuy đang tăng nhưng trường còn thiếu
các chuyên gia đầu có kinh nghiệm trong nghiên cứu khoa học, vì thế số
lượng đề tài NCKH còn ít, nội dung đề tài còn hạn chế về khả năng triển khai
ứng dụng, vì thế chưa có kinh phí thu được từ NCKH. Có một số giảng viên
chưa quen hoặc chưa thực sự quan tâm đến công việc nghiên cứu, xem nghiên
cứu khoa học như là một công việc nghĩa vụ. Một số ít giảng viên do thiếu
kinh nghiệm trong nghiên cứu, chủ quan nên không lấy được số liệu phục vụ
cho đề tài như dự kiến ban đầu. Tỉ lệ giảng viên trẻ đăng tải các bài báo khoa
học trên các tạp chí còn thấp.
Hợp tác toàn diện với huyện U Minh và huyện Trần Văn Thời - Tỉnh Cà
Mau tuy đã có chủ trương nhưng chưa thực hiện tiếp những bước phát triển
tiếp theo. Kinh phí nghiên cứu rất hạn chế (150 triệu/năm) không thể thực
hiện các đề tài lớn, có ý nghĩa thực tiễn trong phát triển kinh tế-xã hội địa
phương. Nội dung các đề tài chủ yếu phục vụ công tác đào tạo của trường.
Lĩnh vực các bài báo đề cập chưa rộng. Số lượng đề tài nghiên cứu tuy
nhiều, song việc triển khai ứng dụng vào thực tế sản xuất còn rất hạn chế, hầu
như chưa có do chưa nắm bắt được nhu cầu thực tế, một phần do kinh phí của
tỉnh cấp rất thấp; chỉ có một số đề tài được sử dụng làm giáo trình, tài liệu
tham khảo phục vụ cho công tác đào tạo. sản xuất.
Tóm lại, từ thực trạng về tổ chức đào tạo và nghiên cứu khoa học như
trình bày trên, đòi hỏi nhà trường cần tập trung tháo gỡ những vướng mắc,
khắc phục những hạn chế, vì đây là những yếu tố cơ bản nhất nhằm đảm bảo
chất lượng đào tạo của nhà trường; và cũng thực tế này tạo cơ sở để tác giả
nghiên cứu đề xuất giải pháp được chính xác và phù hợp hơn.
Chất lượng đào tạo (được đánh giá ở tiết 2.2.1)
Đội ngũ giảng viên
Về ưu điểm: Nhà trường đã xây dựng được đội ngũ giảng viên đủ về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu, chất lượng đạt chuẩn theo quy định. Trường từng
bước thực hiện việc rà soát, sắp xếp, bổ sung đồng thời đẩy mạnh công tác
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ; và hiện tại đội ngũ cán
bộ quản lý, giảng viên đảm bảo được chất lượng đào tạo của nhà trường.
Kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giảng viên được
thực hiện khá tốt, đáp ứng được mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, phù hợp với
quy mô phát triển và điều kiện thực tế của trường. Trường thực hiện một số
chính sách khuyến khích mời gọi những cán bộ có trình độ cao, sinh viên tốt
nghiệp khá giỏi bổ sung cho đội ngũ giảng viên. Quy trình tuyển dụng, bổ
nhiệm, quản lý nhân sự được thực hiện đúng quy định và được công khai rõ
ràng, minh bạch.
Hiện nay Trường ĐHBL có gần 300 CB, GV đủ số lượng giảng viên để
thực hiện chương trình giáo dục và nghiên cứu khoa học; đạt mục tiêu của
chiến lược phát triển giáo dục nhằm giảm tỷ lệ trung bình sinh viên/giảng
viên. Đa số đội ngũ đã và đang được đào tạo sau đại học: tuổi trung bình của
GV cơ hữu: 33,1%; Tỷ lệ GV có trình độ tiến sĩ/GV cơ hữu: 1,9%; Tỷ lệ GV
có trình độ thạc sĩ/GV cơ hữu: 55,8%. Đội ngũ giảng viên được đào tạo chính
quy, được giảng dạy đúng chuyên ngành đào tạo, hầu hết đều biết ứng dụng
tin học trong giảng dạy, nghiên cứu.
Trường tích cực, chủ động thực hiện có hiệu quả xây dựng đội ngũ giảng
viên theo hướng cân bằng giữa kinh nghiệm và trẻ hóa đội ngũ. Nhìn tổng thể
số giảng viên có độ tuổi dưới 30 chiếm tỉ lệ 40%, giảng viên có độ tuổi từ 30-
40 chiếm tỉ lệ 40,46%, giảng viên có độ tuổi từ 41-60 chiếm tỉ lệ 19,54%.
Trường có chính sách, biện pháp tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản
lý và giảng viên tham gia các hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ trong và
ngoài nước. Ưu tiên CBQL, giảng viên tham gia tập huấn, hội thảo khoa học
do Bộ và các trường đại học trong nước tổ chức; tổ chức các chuyên đề về đổi
mới phương pháp giảng dạy, biên soạn đề cương bài giảng, nghiệm thu các đề
tài NCKH (nghiên cứu khoa học), duy trì hoạt động các câu lạc bộ mang tính
chuyên môn nghiệp vụ; Tạo điều kiện cho CBQL, giảng viên tiếp xúc trao đổi
với các tổ chức, doanh nghiệp, hiệp hội ngoài trường.
Nhìn chung, đội ngũ giảng viên đảm bảo được phần giáo dục đại cương
trong chương trình đào tạo, đảm bảo một phần giáo dục chuyên nghiệp.
Trường đã và đang có kế hoạch tuyển dụng, bồi dưỡng giảng viên; qui hoạch
cán bộ quản lý từng bước đáp ứng mục tiêu, chức năng, nhiệm vụ, phù hợp
với điều kiện cụ thể của nhà trường, trong đó coi trọng xây dựng đội ngũ
giảng viên nòng cốt, đầu đàn trên các lĩnh vực.
Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên, sự quan tâm đến đội ngũ
giảng viên của trường đảm bảo cho chất lượng đào tạo còn một số tồn tại hạn
chế như: Công tác quy hoạch, dự nguồn đội ngũ giảng viên từng năm, từng
nhiệm kỳ còn chậm, chưa cụ thể (77,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này);
Cơ cấu trong đội ngũ giảng viên còn thiếu đồng bộ, việc tuyển dụng giảng
viên ở một số ngành gặp khó khăn do thiếu nguồn (69,18% ý kiến đồng ý với
đánh giá này); Việc tìm kiếm đối tác, nhà tài trợ cho phát triển năng lực
chuyên môn của giảng viên còn hạn chế (72,28% ý kiến đồng ý với đánh giá
này); Giảng viên có kinh nghiệm phân bổ không đều, có những khoa, tổ hầu
hết là giảng viên trẻ, kinh nghiệm công tác chuyên môn giảng dạy chưa nhiều
(77,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này);
Về cơ cấu chuyên môn và trình độ của đội ngũ giảng viên hiện tại chưa
đảm bảo theo quy định dạy (65,18% ý kiến đồng ý với đánh giá này). Một số
khoa giữa cơ cấu chuyên môn và trình độ chuyên môn khá hợp lý, tuy nhiên
cũng có một số ít khoa chưa hợp lý số giảng viên có trình độ trên số lượng
giảng viên trong một chuyên ngành còn thấp, số giảng viên có trình độ đáp
ứng yêu cầu về chuyên môn còn ít, thiếu giảng viên đầu đàn.
Từ thực trạng về đội ngũ giảng viên như trình bày trên, đòi hỏi nhà
trường cần tập trung khắc phục những hạn chế, vì đây là yếu tố cơ bản nhất
nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường; và cũng thực tế này tạo cơ
sở để tác giả nghiên cứu đề xuất giải pháp được chính xác và phù hợp hơn.
Thư viện, giáo trình, sách, tài liệu tham khảo
Về ưu điểm: Từ khi thành lập, nhà trường thường xuyên quan tâm đến
hoạt động của thư viện, nó là yếu tố đảm bảo cho chất lượng đào tạo. Thư
viện đặt tại khu I được xây dựng kiên cố với diện tích sàn 2250m2 và được
trang bị khá đầy đủ. Thư viện hiện có 8.000 tên sách với 54.087 đầu sách, cơ
bản có thể phục vụ cho tất cả các ngành học của trường. Ngoài ra còn có hệ
thống 50 máy tính được nối mạng có khả năng khai thác tài liệu giáo trình của
một số trường đại học và thư viện quốc gia, đảm bảo thuận lợi cho giảng dạy
NCKH cũng như học tập của SV và hoạt động đào tạo của nhà trường. Thư
viện đã tổ chức triển khai phần mềm quản lý hoạt động phục vụ bạn đọc; hàng
năm có kế hoạch bổ sung tài liệu từ nhiều nguồn nhằm đáp ứng nhu cầu dạy
và học của nhà trường. Trường có chủ trương đưa lên trang Web của trường
một số đề cương bài giảng, tài liệu tham khảo, bài tập, đề tài NCKH của cán
bộ, giảng viên thuộc các khoa, bộ môn. Trường chưa có đủ điều kiện tổ chức
biên soạn giáo trình, nên hiện nay chủ yếu là tố chức lựa chọn giáo trình phù
hợp với chương trình đào tạo để làm tài liệu giảng dạy, học tập.
Nhìn chung, Thư viện, giáo trình, tài liệu tham khảo tiếng Việt và nước
ngoài đáp ứng yêu cầu sử dụng của cán bộ, giảng viên và người học. Có thư
viện điện tử được nối mạng, phục vụ dạy, học, nghiên cứu khoa học có hiệu
quả. Hoạt động thư viện đã từng bước ổn định và có những đổi mới trong
công tác phục vụ và ứng dụng tin học trong quản lý.
Về hạn chế: Bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động đảm bảo cho chất
lượng đào tạo của thư viện còn một số tồn tại hạn chế như: Sách, giáo trình về
các lĩnh vực kinh tế, kỹ thuật, công nghệ, tài liệu tiếng nước ngoài còn ít
(75,18% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Các tạp chí, tài liệu tham khảo phục
vụ cho công tác NCKH còn thiếu (76,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này);
Đa số sinh viên chưa nhận thức được tầm quan trọng của thư viện, nó chính
là: “giảng đường thứ hai” không thể thiếu của họ (68,28% ý kiến đồng ý với
đánh giá này); Thư viện chưa thu hút được nhiều người sử dụng vì cơ sở vật
chất và trang thiết bị còn thiếu, vai trò quảng bá thư viện chưa cao (72,28% ý
kiến đồng ý với đánh giá này); Chưa liên kết được với thư viện các trường
Đại học vùng Đồng bằng sông Cửu long cũng như của cả nước (65,18% ý
kiến đồng ý với đánh giá này) … Những hạn chế trên nếu được khắc phục sẽ
góp phần đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
Quản lý tài chính và cơ sở vật chất kỹ thuật
Về quản lý tài chính
Ưu điểm: Trường Đại học Bạc Liêu là đơn vị sự nghiệp có thu, trên cơ
sở quy định của Nhà nước, trường đang tiến hành xây dựng và thực hiện kế
hoạch tự chủ về tài chính, tạo được một số nguồn tài chính hợp pháp sử dụng
cho đào tạo, NCKH và các hoạt động khác. Nhà trường đã thực hiện nghiêm
túc công tác lập kế hoạch và quản lý tài chính theo đúng quy định; sự phân bổ
và sử dụng tài chính trong thời gian qua hợp lý, kịp thời, minh bạch và đem
lại hiệu quả thiết thực.
Nguồn tài chính chủ yếu từ ngân sách nhà nước và một phần nguồn thu
sự nghiệp; để thực hiện tự chủ về tài chính, tạo các nguồn thu hợp pháp,
trường đã thực hiện: Xây dựng các nguồn thu hàng năm trên cơ sở các văn
bản quy định của nhà nước; Hàng năm chủ động bố trí kinh phí cho các hoạt
động hợp lý theo từng nguồn thu và các nhu cầu chi trọng điểm; Củng cố và
tăng các nguồn thu sự nghiệp hợp pháp như học phí của sinh viên, hợp đồng
liên kết đào tạo và các dịch vụ khác; Xây dựng Quy chế chi tiêu nội bộ, quy
định về việc sử dụng các nguồn thu; Trích lập và sử dụng các quỹ đúng quy
định; Thực hiện nghiêm túc chế độ kế toán, thống kê, báo cáo, quyết toán và
công khai minh bạch rõ ràng; Việc thu, chi đều được thể hiện cụ thể trong
chứng từ, sổ sách, báo cáo quyết toán hàng năm và được thông qua hội nghị
công chức của trường cho từng năm học; Sử dụng các nguồn thu cho hoạt
động đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác thực hiện theo phân
bổ dự toán năm của đơn vị; Thực hiện luật phòng chống tham nhũng trong
quản lý tài chính nghiêm túc, tiết kiệm, không có biểu hiện tiêu cực; Các
nguồn thu trên đáp ứng được các hoạt động của nhà trường; Công tác quản lý
tài chính của trường được thực hiện qua phần mềm quản lý tài chính từ năm
2008, mọi việc được thực hiện một cách minh bạch và đúng quy định. Kết
thúc từng năm việc chi tiêu tài chính được thể hiện công khai từng nguồn
trong đại hội công chức và báo cáo quyết toán gửi sở Tài chính tỉnh Bạc Liêu
để thẩm định, phê duyệt.
Nhà trường đã tạo những điều kiện thuận lợi để mọi thành viên trong
trường có thể tham gia vào việc xây dựng các kế hoạch tài chính, hàng năm
phòng kế hoạch tài chính thông báo cho các phòng, khoa, tổ lập dự trù kinh
phí hoạt động gửi về phòng KH-TC. Để đảm bảo nguồn kinh phí cho các hoạt
động của nhà trường, hàng năm căn cứ vào kế hoạch tuyển sinh, các hoạt
động, các nguồn thu trường xây dựng kế hoạch phân bổ kinh phí. Nhìn chung
tài chính được phân bổ hợp lý, có trọng điểm và ưu tiên các nội dung trọng
tâm phục vụ chiến lược nâng cao chất lượng giáo dục.
Việc phân bổ tài chính được thống nhất trong toàn trường trên cơ sở tiết
kiệm, thực hiện đúng quy định và mang lại hiệu quả cao cho các hoạt động
của trường. Từ năm 2007 đến nay trường không vi phạm về quy định quản lý
tài chính. Từ việc phân bổ sử dụng tài chính hợp lý, minh bạch và hiệu quả đã
mang lại kết quả là: nguồn lực của nhà trường ngày càng được nâng cấp, cơ
sở vật chất được nâng cao; thời gian tới trường tiếp tục rà soát và xây dựng,
hoàn thiện các văn bản quy định để thực hiện tự chủ tài chính đảm bảo đúng
quy định và có hiệu quả nhất.
Một số hạn chế: Trường chưa xây dựng kế hoạch ngắn hạn, trung hạn,
dài hạn để khai thác các nguồn thu sự nghiệp (72,28% ý kiến đồng ý với đánh
giá này); Cơ chế tự chủ chưa cao, chưa chủ động được nguồn thu (72,28% ý
kiến đồng ý với đánh giá này); Chưa kết hợp với các bộ phận liên quan xây
dựng báo cáo cụ thể đánh giá hiệu quả đầu tư cho các hoạt động và định
hướng cho các năm sau của trường (65,12% ý kiến đồng ý với đánh giá này);
Mức độ xã hội hoá chưa cao, nên tính tự chủ còn hạn chế (75,18% ý kiến
đồng ý với đánh giá này); Văn bản về chế độ tài chính còn thay đổi thường
xuyên, chế độ sửa đổi không theo kịp sự phát triển của xã hội (68,28% ý kiến
đồng ý với đánh giá này)...
Những hạn chế trên nếu được nhà trường quan tâm khắc phục sẽ góp
phần tăng thêm nguồn tài chính, phục vụ tốt hơn cho việc đảm bảo chất lượng
đào tạo của cho trường.
Về cơ sở vật chất kỹ thuật
Ưu điểm: Cơ sở vật chất phục vụ cho dạy và học của Trường Đại học
Bạc Liêu được chuyển giao từ trường Cao đẳng Sư phạm. Để đảm bảo có đủ
phòng học, giảng đường, phòng thực hành, thí nghiệm, ngay từ năm 2007
trường đã nhanh chóng đầu tư sửa chữa, nâng cấp và xây dựng mới phục vụ
công tác đào tạo của trường. Trường có 55 phòng học và giảng đường trong
đó có 38 phòng học 50 chỗ, 17 giảng đường sức chứa từ 80 đến 200 chỗ. Số
phòng thực hành thí nghiệm là 14, trong đó thực hành nhạc 02, thực hành tin
học 06, thực hành lý, hóa, sinh 06. Các phòng học, giảng đường được bố trí
theo yêu cầu của từng môn học ngành học và được sử dụng tối đa, bình quân
số mét vuông diện tích phòng học, giảng đường, phòng thực hành thí nghiệm
trên mỗi SV là: 1,5m2/SV.
Từ năm 2007 đến nay trường đã đầu tư trên 8 tỷ đồng lắp đặt thiết bị cho
dạy, học và hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học như: Thiết
bị thực hành âm nhạc, mỹ thuật; Thiết bị phục vụ thực hành tin học; Thiết bị
phòng thực hành thí nghiệm vi sinh, bệnh học thủy sản, vật lý đại cương, điện
tử; sinh hoá đại cương được trang bị đồng bộ, khá hiện đại bao gồm hệ thống
kính hiển vi, Camera, tủ cấy, tủ sấy, tủ hút, phòng cấy; Thiết bị giáo dục thể
chất và hệ thống âm thanh, máy chiếu các giảng đường, phòng học khá đầy
đủ… Các phòng thực hành, thiết bị đều có văn bản, quy định sử dụng và
được giao cho từng cá nhân, đơn vị trực tiếp quản lý; hàng năm đều được tiến
hành kiểm kê, đánh giá. Các thiết bị được khai thác tối đa, nhất là các thiết bị
tin học. Hàng năm trường thực hiện nâng cấp, bổ sung các thiết bị đáp ứng
yêu cầu đào tạo của một số ngành học.
Trường có đủ diện tích lớp học theo quy định cho việc dạy và học; có
KTX cho người học, đảm bảo đủ diện tích nhà ở và sinh hoạt cho sinh viên
nội trú; có trang thiết bị và sân bãi cho các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể
dục thể thao theo quy định. Trường hiện có một nhà thi đấu đa năng diện tích
1057m2 , có hai sân bóng chuyền, 01 sân quần vợt đúng tiêu chuẩn; các thiết
bị được mua sắm đủ đáp ứng yêu cầu phục vụ học tập, rèn luyện TDTT.
Trường có đủ phòng làm việc cho cán bộ, giảng viên và nhân viên cơ
hữu theo quy định. Hiện tại các phòng làm việc cho CBVC, giảng viên với
diện tích 1827m2 được bố trí riêng cho từng bộ phận. Các phòng đều được
trang bị đầy đủ các thiết bị, phương tiện làm việc và giao cá nhân, đơn vị chịu
trách nhiệm quản lý, sử dụng. Ngoài các phòng làm việc còn có các phòng
như: phòng họp, phòng đàm phán, phòng hội thảo, phòng bảo vệ đề tài
NCKH, phòng đợi giờ cho GV, phòng làm việc cho các tổ chức đoàn thể. Tỷ
lệ diện tích phòng làm việc trên tổng số CBNV, GV cơ hữu 14m2/người.
Trường có các biện pháp hữu hiệu bảo vệ tài sản, trật tự, an toàn cho cán bộ
quản lý, giảng viên, nhân viên và người học; vấn đề an ninh trật tự trong trường
được bảo đảm, không xảy ra hiện tượng mất trật tự, mất tài sản. Nhân viên bảo
vệ hầu hết được tập huấn; Đội thanh niên xung kích cũng được tập huấn nghiệp
vụ. Khuôn viên trường được bảo vệ bằng hệ thống hàng rào khá kiên cố.
Tuy mới đi vào hoạt động từ 2007, xong trường đã có nỗ lực lớn trong
xây dựng CSVC, về cơ bản đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Với mục tiêu,
chức năng, nhiệm vụ đã được xác định, trường tiếp tục đẩy mạnh trong thực
hiện kế hoạch xây dựng CSVC đáp ứng tốt nhất cho thực hiện nhiệm vụ chính
trị của trường.
Về hạn chế: bên cạnh những ưu điểm trên, công tác đảm bảo cơ sở vật
chất cho hoạt động đào tạo vẫn còn một số khó khăn, yếu kém, như: Chưa có
các phòng học bộ môn và phòng thí nghiệm thực hành cho đào tạo chuyên
ngành, phục vụ hỗ trợ công tác nghiên cứu khoa học chưa đáp ứng (78,25% ý
kiến đồng ý với đánh giá này); Công tác đánh giá hàng năm về nhu cầu và
hiệu quả sử dụng các phòng học, phòng thí nghiệm chưa được tiến hành,
phòng học vẫn còn thiếu cho sự phát triển của nhà trường (72,28% ý kiến
đồng ý với đánh giá này); Thiếu một số thiết bị phục vụ thực hành thí nghiệm
chuyên ngành (72,28% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Hệ thống dữ liệu của
trường chưa được tích hợp một cách hệ thống, chưa có bộ phận quản trị mạng
và ứng dụng các phần mềm trong quản lý còn hạn chế (68,76% ý kiến đồng ý
với đánh giá này); Nhu cầu KTX, sân bãi, thiết bị phục vụ các hoạt động
TDTT chưa đáp ứng đủ và chưa có khu TDTT riêng có khả năng tổ chức các
hoạt động lớn (78,25% ý kiến đồng ý với đánh giá này); Quy cách cũng như
bố trí phòng làm việc cho các bộ phận chưa hợp lý (68,76% ý kiến đồng ý
với đánh giá này)…
Những hạn chế trên nếu được nhà trường quan tâm khắc phục sẽ góp
phần làm cho cơ sở vật chất và phương tiện kỹ thuật dạy học của trường ngày
càng đầy đủ hơn, phục vụ tốt hơn cho việc đảm bảo chất lượng đào tạo của
cho trường.
2.2.3. Nguyên nhân của những hạn chế
Kết quả khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng đảm bảo chất lượng
đào tạo hệ chính quy ở trường đại học Bạc Liêu còn nhiều hạn chế bất cập
như trình bày trên, điều đó sẽ ảnh hưởng đến việc duy trì và phát triển chất
lượng đào tạo của nhà trường trong những năm tới; và theo chúng tôi những
tồn tại hạn chế đó xuất phát từ các nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:
Một là, các lực lượng sư phạm của nhà trường chưa nhận thức và có
trách nhiệm đầy đủ về các mặt đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
Đây là nguyên nhân của mọi nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong các
hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo, từ xây dựng chuẩn đầu ra cho đến đảm
bảo cơ sở vật chất…nó chi phối đến tính tự giác, tích cực, chủ động của các lực
lượng sư phạm trong thực hiện các nhiệm vụ giáo dục đào tạo của nhà trường.
Hai là, việc xây dựng chuẩn đầu ra chưa thực sự đáp ứng nhu cầu xã hội,
tổ chức quản lý đào tạo của trường chưa đổi mới và duy trì chặt chẽ.
Nguyên nhân này ảnh hưởng trực tiếp, hàng đầu đến đảm bảo chất lượng
đào tạo của nhà trường, nhất là hoạt động giảng dạy của giảng viên ở các
khoa; đồng thời nó chi phối đến tính hiệu quả của các hoạt động đào tạo và
tính chuyên nghiệp, sáng tạo của giáo viên, của cán bộ quản lý giáo dục trong
thực hiện nhiệm vụ dạy học, đào tạo.
Ba là, Chất lượng chương trình đào tạo hệ chính quy cao đẳng và đại học
của nhà trường chưa được quan tâm từ nhiều phía; công tác đánh giá chất
lượng giáo dục chưa thường xuyên ở các khoa giáo viên, cơ quan chức năng.
Bốn là, Chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu chưa được
chuẩn hóa, yêu cầu tuyển sinh còn thấp so với các trường đại học khác.
Năm là, Hợp tác quốc tế, cơ sở vật chất và nguồn tài chính chưa được
quan tâm đúng mức để phục vụ có hiệu quả dạy và học, nâng cao chất lượng
đào tạo, nghiên cứu khoa học của nhà trường…
Như vậy, trên đây là tổng hợp nguyên nhân khách quan và chủ quan
về những hạn chế về thực trạng đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy ở
trường đại học Bạc Liêu. Từ các nguyên nhân đó, đặt ra yêu cầu cần nghiên
cứu đề xuất giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế đó, góp phần nâng
cao chất lượng đào tạo và uy tín của nhà trường đối với xã hội.
*
* *
Thực trạng đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy ở trường đại học
Bạc Liêu trong những năm qua về cơ bản đã đáp ứng mục tiêu yêu cầu giáo
dục - đào tạo của nhà trường. Tuy nhiên, từ yêu cầu mới của xã hội và những
đòi hỏi phát triển chất lượng đào tạo của nhà trường trong thời gian tới, thì
hoạt động này còn những hạn chế, bất cập nhất định trên tất cả các yếu tố đảm
bảo chất lượng đào tạo, kết quả nghiên cứu đã phản ánh điều đó. Để đảm bảo
chất lượng đào tạo, các lực lượng sư phạm của nhà trường đã thực hiện nhiều
giải pháp, nhưng trước yêu cầu đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay và
nâng cao chất lượng đào tạo, thì cần nghiên cứu vận dụng những giải pháp
phù hợp, có tính khả thi hơn.
Kết quả khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng đảm bảo chất lượng
đào tạo hệ chính quy ở trường đại học Bạc Liêu cho thấy: trong các yếu tố
ảnh hưởng đến đảm bảo chất lượng, thì yếu tố nhận thức và trách nhiệm của
các lực lượng sư phạm về vấn đề này còn hạn chế; từ đó dẫn đến những hệ
lụy khác như đã trình bày ở nguyên nhân hạn chế. Kết quả nghiên cứu trên, là
cơ sở thực tiễn cho việc đề xuất các giải pháp mới trong đảm bảo chất lượng
đào tạo hệ chính quy ở trường đại học Bạc Liêu phù hợp với tình hình đổi mới
giáo dục đại học hiện nay, nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục - đào tạo của
nhà trường trong thời kỳ mới.
Chương 3
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
HỆ CHÍNH QUY TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
3.1. Nguyên tắc đề xuất các giải pháp
3.1.1. Nguyên tắc bảo đảm tính đồng bộ
Hệ thống đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường bao gồm tất cả các
yếu tố tạo nên chất lượng đào tạo: từ các nguồn nhân lực như Ban Giám hiệu,
các khoa giáo viên và các cơ quan chức năng, đến nguồn vật lực và tài lực của
nhà trường… Do đó, khi nghiên cứu, đề xuất các giải pháp đảm bảo chất
lượng đào tạo phải quán triệt nguyên tắc này, để chúng bao trùm toàn bộ các
mặt đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
3.1.2. Nguyên tắc bảo đảm tính khả thi
Nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống giải pháp đưa ra không xa vời, mà phải
áp dụng được, tính khả thi cao và mang lại hiệu quả trên thực tế; và được sự
đồng thuận của các cấp quản lý giáo dục, của người học và đặc biệt là sự
đồng thuận của toàn thể cán bộ, giáo viên, các tổ chức trong nhà trường.
3.1.3. Nguyên tắc bảo đảm tính thực tiễn
Nguyên tắc này đòi hỏi hệ thống giải pháp đưa ra phải phù hợp với tình
hình thực tế của nhà trường, của địa phương, nhất là phù hợp với khả năng
của đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giảng viên của nhà trường; và khi áp
dụng các giải pháp đó chúng mang lại hiệu quả trên thực tế.
3.1.4. Nguyên tắc bảo đảm tính hiệu quả
Thước đo của tính hiệu quả, chính là những giải pháp đưa ra được áp
dụng sẽ tạo ra những sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học khi ra trường có
đầy đủ các phẩm chất, năng lực theo mục tiêu đào tạo (đúng theo chuẩn đầu
ra); các giải pháp đề ra phải thực sự đảm bảo nâng cao được chất lượng đào
tạo của nhà trường.
Tóm lại, các nguyên tắc đề xuất giải pháp trên chính là những yêu cầu
đòi hỏi người nghiên cứu phải quán triệt nó, cùng với kết quả nghiên cứu cơ
sở lý luận và thực tiễn ở chương 1 và 2 để đưa ra các giải pháp được khách
quan khoa học hơn.
3.2. Hệ thống giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy tại
trường Đại học Bạc Liêu
3.2.1. Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự
đánh giá nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
Mục tiêu
Đổi mới toàn diện hoạt động tổ chức quản lý đào tạo, với mục tiêu đạt đến
tính hiệu quả cao trong sự vận hành toàn bộ quá trình đào tạo. Khi sinh viên đã
vào trường thì hoạt động tổ chức quản lý đào tạo đóng vai trò chủ yếu để tạo ra
sản phẩm có chất lượng; do vậy mục tiêu hướng tới của hoạt động này chính là
góp phần đảm bảo cho chất lượng đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội.
Tự đánh giá chất lượng giáo dục của nhà trường cũng là một trong những
yếu tố quan trọng góp phần đảm bảo cho chất lượng đào tạo phát triển. Do vậy,
thường xuyên tổ chức tiến hành hoạt động tự đánh giá, là nhằm tới mục tiêu
làm cho quá trình đào tạo khắc phục được những hạn chế nảy sinh trong quá
trình tổ chức đào tạo; và làm cho chất lượng ngày càng nâng cao hơn.
Nội dung và cách thức thực hiện
Về đổi mới hoạt động tổ chức quản lý đào tạo
Nhà trường cần tiếp tục quán triệt Chỉ thị 296/CT-TTg của Thủ tướng
chính phủ và chương trình hành động của trường về đổi mới tổ chức quản lý
đào tạo và nâng cao chất lượng trường giai đoạn 2010-2015; đồng thời tiến
hành tổng kết 3 năm thực hiện đổi mới quản lý và nâng cao chất lượng giáo
dục, đào tạo, làm cho hoạt động này được vận hành một cách chặt chẽ, khoa
học hơn, qua đó rút ra những bài học kinh nghiệm thiết thực bổ ích trong tổ
chức quản lý đào tạo.
Bên cạnh đó, cần thường xuyên cập nhật kết quả thực hiện Thông tư
09/2009/TT-BGD&ĐT về quy chế công khai đối với cơ sở giáo dục trong hệ
thống giáo dục quốc dân; phát triển và hoàn thiện hệ thống tổ chức, bộ máy nhà
trường ngang tầm yêu cầu sứ mạng, mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra. Trong đó đặc
biệt quan tâm đến bộ máy phòng đào tạo và các khoa giáo viên, nơi thực thi
việc đổi mới tổ chức quản lý đào tạo đạt đến mức độ nào, hiệu quả đến đâu.
Đổi mới tổ chức quản lý đào tạo phụ thuộc vào đội ngũ cán bộ quản lý
giáo dục; do đó cần tập trung xây dựng quy hoạch và có lộ trình cụ thể để
phát triển đội ngũ này đủ số lượng, có chất lượng cao, hợp lý về cơ cấu. Phấn
đấu xây dựng đội ngũ cán bộ quản lý của trường có phẩm chất đạo đức tốt,
nhiệt tình, có ý thức trách nhiệm cao trong công việc có kinh nghiệm trong
quản lý, năng lực chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng được các yêu cầu trong tổ
chức thực hiện nhiệm vụ của trường.
Thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao năng lực chuyên môn cho đội ngũ
cán bộ quản lý giáo dục từ Ban Giám Hiệu đến Tổ trưởng, Chủ nhiệm Bộ
môn, để họ có đủ kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm trong thực hiện đổi mới
tổ chức quản lý đào tạo ở từng cơ quan, khoa giáo viên và toàn trường. Tổ
chức định kỳ lấy ý kiến đóng góp của giảng viên, sinh viên về công tác tổ
chức quản lý đào tạo của nhà trường và các khoa giáo viên để kịp thời khắc
phục những hạn chế.
Trong đổi mới tổ chức quản lý quá trình đào tạo, cần chú trọng khâu duy
trì và điều khiển hoạt động đào tạo một cách chặt chẽ khoa học, theo quy chế
giáo dục đào tạo của nhà trường, và kế hoạch hóa tất cả các công việc liên
quan đến hoạt động đào tạo; thường xuyên điều chỉnh, ban hành các quy định
phù hợp với tình hình mới. Đổi mới công tác đánh giá giảng viên và sinh
viên; thống kê việc áp dụng hình thức đánh giá phù hợp cho từng môn học,
ngành học (theo tỷ lệ số môn học của từng ngành đào tạo dưới hình thức
thi/kiểm tra trắc nghiệm, hình thức thi/kiểm tra dưới dạng bài tập nghiên
cứu/tiểu luận, hình thức thi/kiểm tra tự luận).
Từng giảng viên phải có kế hoạch giảng dạy, coi và chấm thi chi tiết của
cả năm học để đảm bảo tiến độ và chủ động trong công việc. Xây dựng cơ sở
dữ liệu về hoạt động đào tạo của trường; nắm vững tình hình sinh viên tốt
nghiệp có việc làm phù hợp ngành nghề đào tạo và thu nhập của họ sau khi
tốt nghiệp.
Xây dựng kế hoạch, lộ trình tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng
đào tạo, đặc biệt là nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác Đảm bảo chất lượng
giáo dục của nhà trường. Tăng cường hợp tác với các trường tiên tiến trong khu
vực để trao đổi kinh nghiệm tổ chức quản lý đào tạo, gắn bó với các doanh
nghiệp, cơ quan đơn vị sử dụng lao động trong quá trình đào tạo.
Thường xuyên tự đánh giá chất lượng giáo dục
Tiếp tục quán triệt chỉ thị 46/2008/CT-BGDĐT, ngày 05/08/2008 của Bộ
giáo dục và Đào tạo về tăng cường công tác đánh giá & kiểm định chất lượng
giáo dục. Trường quyết định từ năm học 2008-2009, hàng năm sẽ tiến hành
công tác tự đánh giá chất lượng giáo dục trường và báo cáo với Bộ GD & ĐT.
Tuân thủ quy trình kiểm định chất lượng của Bộ Giáo dục & Đào tạo
gồm 8 lĩnh vực:Tổ chức và quản lý của trường; Đội ngũ cán bộ; Đội ngũ sinh
viên; Giảng dạy và học tập; Nghiên cứu khoa học; Cơ sở vật chất; Tài chính;
Những vấn đề khác. Kiểm định theo điều tra đánh giá của thị trường bằng
cách thu thập ý kiến khách hàng về ngành nghề đào tạo, chất lượng…, qua
phiếu thăm dò và tổ chức hội nghị khách hàng…
Có kế hoạch và phương pháp đánh giá hợp lý các hoạt động giảng dạy
của giảng viên; chú trọng việc triển khai đổi mới phương pháp dạy và học,
phương pháp đánh giá kết quả học tập của người học theo hướng phát triển
năng lực tự học, tự nghiên cứu và làm việc theo nhóm của người học. Tổ chức
cho người học tham gia đánh giá chất lượng giảng dạy, chất lượng đào tạo
thành hoạt động thường xuyên; đảm bảo hàng năm có 100% giảng viên được
tham gia lấy ý kiến của người học về hoạt động giảng dạy của mình.
Huy động lực lượng của toàn trường tham gia công tác tự đánh giá chất
lượng đào tạo với tinh thần trách nhiệm và sự nỗ lực cao. Tổ chức thành lập
các nhóm công tác chuyên môn theo nhóm các tiêu chuẩn và tổ chức tập huấn
cho đội ngũ này về cách thức tiến hành công việc tự đánh giá các mặt đảm
bảo chất lượng đào tạo. Trong tổ chức triển khai hoạt động tự đánh giá chất
lượng đào tạo, cần thường xuyên chỉ đạo chặt chẽ hoạt động của các thành
viên hội đồng và các nhóm công tác chuyên môn; đây là một trong những yếu
tố quyết định đến hiệu quả của hoạt động này. Nếu sự chỉ đạo công tác này
của các thành viên hội đồng thiếu chặt chẽ, khoa học và hoạt động của các
nhóm công tác chuyên môn không nhịp nhàng, tỉ mỉ, cẩn trọng sẽ ảnh hưởng
trực tiếp đến tiến độ cũng như chất lượng, hiệu quả của công tác này và dẫn
đến hoạt động tự đánh giá không đạt yêu cầu.
Tổ chức nhiều hình thức, nhiều kênh thông tin trong hoạt động tự đánh
giá chất lượng giáo dục; xây dựng hệ thống lấy ý kiến người học trực tuyến.
Trong quá trình tự đánh giá chất lượng giáo dục cần phản ánh đúng thực
trạng, trung thực các số liệu, so sánh đối chiếu với 10 tiêu chuẩn quy định để
nhìn nhận rõ những hạn chế, thiếu sót…phấn đấu khắc phục vươn lên trên
tất cả các hoạt động.
3.2.2. Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và xây dựng các
chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội
Mục tiêu
Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo, là một trong những yếu tố
trọng yếu để đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường; mục tiêu của giải
pháp này nhằm “đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội”; do vậy cần từng bước cải
tiến chất lượng, đảm bảo phù hợp thống nhất với chuẩn đầu ra của từng ngành
đào tạo, cho đến từng môn học đạt được mục tiêu đó. Xây dựng chuẩn đầu ra
và từng bước hoàn thiện nó, nhằm đảm bảo thống nhất, phù hợp với chương
trình đào tạo; và xây dựng chuẩn đầu ra đến từng môn học.
Nội dung và cách thức thực hiện
Về nâng cao chất lượng chương trình đào tạo
Tổ chức rà soát kết quả tự đánh giá về chương trình đào tạo và đề ra kế
hoạch cải tiến chất lượng chương trình hàng năm, đáp ứng mục tiêu “đào tạo
đáp ứng nhu cầu xã hội”. Các khoa phải thường xuyên quan tâm điều chỉnh
các môn học tự chọn theo nhu cầu sử dụng nhân lực của xã hội.
Tổ chức xây dựng chương trình đào tạo của nhà trường phải được thực
hiện theo quy trình và trên cơ sở chương trình khung do Bộ GD& ĐT ban hành,
có sự tham gia của các chuyên gia, giảng viên, cán bộ quản lý giáo dục, nhằm
đảm bảo cho các bên có liên quan, nhất là các doanh nghiệp và các tổ chức
tuyển dụng lao động do nhà trường đào tạo được tham gia xây dựng, đóng
góp cho chương trình đào tạo của nhà trường. Khi chương trình đào tạo được
xây dựng xong tiếp tục xin ý kiến tham gia của các nhà tuyển dụng lao động;
tiếp thu phản hồi của nhà tuyển dụng để cải tiến chất lượng chương trình, xây
dựng chương trình phù hợp hơn.
Tiến tới xây dựng chương trình các ngành đào tạo mới theo học chế tín
chỉ. Thiết kế chương trình các ngành học mới bám sát vào tình hình thực tế do
yêu cầu sử dụng lao động đặt ra. Phải tính đến yếu tố địa phương, phù hợp
tình hình thực tiễn của vùng bán đảo Cà Mau.
Các chương trình đào cần được cải tiến, trao đổi tín chỉ với các trường
trong khu vực, nghiên cứu thiết kế lại các chương trình đào tạo đảm bảo theo
hướng liên thông giữa các trình độ đào tạo cao đẳng, đại học hệ chính quy và
cả chương trình đào tạo; định kỳ đánh giá, thực hiện cải tiến chúng để đáp
ứng yêu cầu học tập của người học theo quy định. Sự bổ sung, điều chỉnh
chương trình đào tạo cần được tiến hành theo định kỳ, dựa trên cơ sở tham
khảo các chương trình tiên tiến, các ý kiến phản hồi từ các doanh nghiệp, tổ
chức sử dụng sản phẩm đào tạo đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực phát triển
kinh tế - xã hội của vùng.
Có kế hoạch tìm hiểu mức độ đáp ứng yêu cầu xã hội của sinh viên tốt
nghiệp, khảo sát chất lượng hoạt động công tác, tình hình việc làm của sinh
viên tốt nghiệp để trường có biện pháp không ngừng cải tiến, nâng cao chất
lượng chương trình đào tạo.
Về xây dựng các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội
Chuẩn đầu ra chính là lời tuyên bố về các loại hình đào tạo, là lời khẳng
định và cam kết về chất lượng sản phẩm đào tạo đối với toàn xã hội của mỗi
cơ sở đào tạo. Chính vì vậy trong nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục năm 2009-
2010 và chương trình hành động triển khai thực hiện Nghị quyết số
05-NQ/BCSĐ về đổi mới quản lý giáo dục giai đoạn 2010-2015, Bộ GD&ĐT
đã chỉ đạo tất cả các trường ĐH, CĐ cần phải tổ chức xây dựng và công bố
chuẩn đầu ra cho các ngành nghề đào tạo của trường. Đồng thời, Bộ GD&ĐT
cũng đã có công văn số 2196/BGDĐT-GDĐH hướng dẫn các cơ sở giáo dục
xây dựng và công bố chuẩn đầu ra nhằm đảm bảo tính thống nhất về nội
dung, cách thức xây dựng và công bố chuẩn đầu ra. Để đào tạo đáp ứng theo
nhu cầu xã hội, trường cần xây dựng chuẩn đầu ra phù hợp, sát thực. Đồng
thời, để xác định chất lượng chuẩn đầu ra, trên cơ sở đó điều chỉnh chuẩn đầu
ra đáp ứng nhu cầu thực tiễn, nhà trường cần thực hiện một số nội dung sau:
Tổ chức đánh giá chất lượng chuẩn đầu ra từng ngành nghề đào tạo;
đồng thời tổ chức học tập kinh nghiệm, tham khảo chuẩn đầu ra của các
trường đã công bố để rút ra được những bài học kinh nghiệm trong thực tiễn.
Triển khai hoạt động lấy ý kiến các bên có liên quan về chuẩn đầu ra của
chương trình đào tạo, nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội trong đào tạo. Trong quá
trình rà soát, điều chỉnh bổ sung nội dung chuẩn đầu ra, các trường có thể mời
các doanh nghiệp, đơn vị sử dụng lao động cùng tham gia xây dựng, hoàn
thiện nội dung chuẩn đầu ra, chương trình đào tạo. Trên cơ sở kết quả rà soát,
lấy ý kiến, tổ chức điều chỉnh, bổ sung nội dung chuẩn đầu ra ngành đào tạo
đối với từng ngành, từng chương trình cụ thể.
Kịp thời xây dựng và công bố chuẩn đầu ra cho các ngành nghề mới mở;
Giám sát chặt chẽ việc thực hiện đào tạo theo chuẩn đầu ra; thực hiện công khai
chuẩn đầu ra cùng với công khai các điều kiện đảm bảo chất lượng đào tạo khác.
Tập trung củng cố và tăng cường hoàn thiện các điều kiện đảm bảo
chuẩn đầu ra đó là đảm bảo các chuẩn về: chương trình đào tạo, thư viện, giáo
trình, cơ sở vật chất thiết bị phục vụ học tập, thực hành, thí nghiệm, đội ngũ
giảng viên, phương pháp giảng dạy, phương pháp đánh giá kết quả học tập…
phấn đấu đào tạo đạt chuẩn và đào tạo đáp ứng nhu cầu của xã hội.
3.2.3. Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và tạo điều kiện để sinh
viên phát triển toàn diện
Mục tiêu
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, không chỉ là yếu tố đảm bảo mà
còn là mục tiêu quan trọng nhất của bất kỳ nhà trường nào, vì họ là trực tiếp
tạo nên chất lượng dạy học, đào tạo của nhà trường. Giảng viên của nhà
trường, là lực lượng chính để thực hiện 2 nhiệm vụ chủ yếu: giảng dạy và
nghiên cứu khoa học; do đó cần tuyển chọn chặt chẽ đội ngũ này và bồi
dưỡng một cách nghiêm túc về các mặt: trình độ chuyên môn, trình độ sư
phạm, đạo đức tư cách, lòng yêu ngành nghề. Giảng viên được chọn và sàng
lọc theo quy chế tuyển chọn và bồi dưỡng giảng viên của trường và phấn đấu
đạt tiêu chuẩn 1 giảng viên/15 sinh viên.
Sinh viên là nhân vật trung tâm, đảm bảo cho sự tồn tại của nhà trường;
do vậy mọi hoạt động đều vì sinh viên, để sinh viên toàn tâm toàn ý chủ động
và tự tin học tập tốt; họ phải được phát triển toàn diện về trí, đức, thể, mỹ; tốt
nghiệp có việc làm và thích ứng với cơ chế thị trường và phải thu hút được thí
sinh thi vào trường ngày càng đông và chất lượng cao.
Nội dung và cách thức thực hiện
Đối với đội ngũ giảng viên
Đội ngũ giảng viên của nhà trường vừa đảm nhiệm việc giảng dạy,
nghiên cứu khoa học, tham gia biên soạn chương trình và tài liệu dạy học; họ
còn tham gia là hướng dẫn sinh viên tập dượt nghiên cứu khoa học; nếu đội
ngũ này đủ về số lượng, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học vấn cao, có
năng lực và nghiệp vụ sư phạm giỏi…là yếu tố quyết định để đảm bảo chất
lượng đào tạo của nhà trường.
Muốn nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên, nhà trường cần đặt ra yêu
cầu cho họ phấn đấu vươn lên, đó là các yêu cầu về: tình yêu nghề nghiệp,
nhiệt tình say mê khoa học, khát vọng tự hoàn thiện, vươn lên để chiếm lĩnh
đỉnh cao về năng lực sư phạm. Biểu hiện ở trình độ hiểu biết sâu rộng về lĩnh
vực chuyên môn giảng dạy và các lĩnh vực khoa học liên quan, có tư duy
khoa học, sự am hiểu tâm lý sinh viên, có kỹ xảo, kỹ năng nghề nghiệp; có
tính trung thực và thái độ trách nhiệm cao đối với nhiệm vụ dạy học, giáo
dục; luôn mô phạm về đạo đức và đòi hỏi cao đối với bản thân và sinh viên...
Xây dựng và tổ chức thực hiện đề án phát triển, đào tạo đội ngũ giảng
viên giai đoạn 2013-2020. Nhà trường cần quan tâm thường xuyên đến việc bồi
dưỡng nâng cao năng lực chuyên môn cho giảng viên. Hàng năm có kế hoạch
tuyển dụng, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ giảng viên đáp ứng mục tiêu, chức
năng, nhiệm vụ và phù hợp với điều kiện cụ thể của nhà trường và từng khoa.
Đảm bảo các quyền dân chủ trong giảng dạy, học tâ ̣p, nghiên cứu của đội ngũ
giảng viên; và có chính sách tạo điều kiện cho họ tham gia các hoạt động
chuyên môn ở trong và ngoài nước.
Đảm bảo trình độ chuẩn về giảng dạy theo chuyên môn được đào tạo
theo quy định, cơ cấu chuyên môn và trình độ ngoại ngữ, tin học đáp ứng yêu
cầu về nhiệm vụ đào tạo, nghiên cứu khoa học của đội ngũ giảng viên. Tạo vị
thế người Thầy trong nhà trường, trong xã hội; tạo điều kiện thuận lợi để
giảng viên phát huy quyền dân chủ của mình. Hoàn thiện các văn bản liên
quan đến đảm bảo quyền dân chủ trường đại học, tích cực phòng ngừa hiện
tượng thiếu công bằng, mất đoàn kết, xử lý nghiêm những sự việc vi phạm
quyền dân chủ.
Thường xuyên tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ giảng viên trẻ từ
các đối tượng sinh viên giỏi, cán bộ khoa học có năng lực và đã qua công tác
tại các cơ sở kinh tế xã hội. Chú trọng phát huy kinh nghiệm công tác chuyên
môn của giảng viên lâu năm đồng thời tích cực bồi dưỡng chuyên môn cho
lớp giảng viên trẻ.
Xây dựng quy trình bồi dưỡng và thực hiện cơ chế sàng lọc để đảm bảo
chất lượng; hoàn chỉnh các chính sách về phát triển năng lực chuyên môn của
đội ngũ; mở rộng quan hệ, tìm kiếm đối tác, nhà tài trợ cho phát triển năng
lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên. Tiếp tục bổ sung giảng viên ở một số
ngành còn thiếu đảm bảo đủ giảng viên thực hiện các chương trình đào tạo
hiện tại và những năm sau. Đảm bảo cân bằng giữa trình độ và cơ cấu chuyên
môn, đồng bộ về cơ cấu và đạt chuẩn qui định.
Xây dựng và thực hiện lộ trình phát triển đội ngũ giảng viên, phấn đấu
đến năm 2015 đạt tỷ lệ từ (20 - 15) SV/giảng viên. Có cơ chế chính sách thu
hút nhiều chuyên gia giỏi trong và ngoài nước và khuyến khích cán bộ, giảng
viên đi đào tạo nước ngoài. Yêu cầu giảng viên đẩy mạnh nghiên cứu, tham
gia viết bài cho các tạp chí chuyên ngành, nhất là tạp chí nước ngoài và các
tạp chí lớn; tăng cường chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, tập huấn kỹ
năng phương pháp dạy học tích cực cho giảng viên…
Đối với sinh viên
Đảm bảo mọi quyền lợi cho người học, có quy định chặt chẽ nghĩa vụ,
trách nhiệm của người học trong quá trình học tập ở nhà trường. Trường phải
triển khai nhiều biện pháp nhằm cung cấp đầy đủ các thông tin làm cơ sở cho
người học thực hiện các nhiệm vụ của mình trong quá trình học tập và rèn
luyện. Đảm bảo thực hiện đầy đủ nghiêm túc theo qui chế công tác học sinh,
sinh viên của trường, đặc biệt là chuyển đổi từ đào tạo theo niên chế sang học
chế tín chỉ.
Xây dựng được thương hiệu “Đại học Bạc Liêu” là trường đạt chất lượng
cao, có uy tín, có đội ngũ thầy cô giáo nổi tiếng trong nhiều lĩnh vực. Tuyên
truyền giới thiệu về trường thông qua các hoạt động học tập và nghiên cứu khoa
học của sinh viên, các hoạt động văn hoá, thể dục, thể thao và phải coi công tác
sinh viên là nhiệm vụ thường xuyên của mọi thành viên trong nhà trường.
Tiếp tục hoàn thiện và câ ̣p nhâ ̣t văn bản về khung chương trình đào tạo,
các tài liê ̣u liên quan đến người học; đồng thời tăng cường các dịch vụ hữu
ích khác trên website của trường để phổ biến thông tin đến người học tốt nhất.
Xây dựng các chuẩn kiến thức và kỹ năng, chuẩn đầu ra của các chương
trình đào tạo, công khai đề cương chi tiết học phần đến sinh viên, người học.
Tăng cường cơ sở vật chất và dịch vụ hỗ trợ người học đạt hiệu quả tốt
hơn. Tăng cường công tác phục vụ vì sinh viên, quan tâm, chăm lo cho sinh viên
từ khi bước vào trường, thực hiện công bằng trong việc đánh giá học tập và rèn
luyện của sinh viên, từng bước giải quyết chỗ ở trong ký túc xá cho sinh viên.
Thành lập các trung tâm tư vấn cho sinh viên về phương pháp học tập, nghề
nghiệp, giới thiệu, tư vấn việc làm và các vấn đề xã hội khác. Định kỳ khảo sát ý
kiến của người học về các hoạt động hỗ trợ để nâng cao chất lượng phục vụ.
Phấn đấu tất cả người học được đảm bảo chế độ chính sách xã hội, được
khám, chăm lo sức khỏe theo đúng quy định. Người học được khám sức khỏe
định kỳ hàng năm, được tham gia các loại bảo hiểm. Phân công cụ thể cho các
bộ phận, đơn vị tổ chức phối hợp thực hiê ̣n các công tác chính sách xã hội,
chăm sóc sức khỏe, các phong trào văn hóa, thể dục thể thao trong sinh viên
xem đây là một trong những công tác quan trọng của nhà trường.
Thường xuyên thực hiện điều tra người học để nắm bắt nhu cầu người
học từ đó có thể điều chỉnh, bổ sung kịp thời mục tiêu đào tạo, chương trình
đào tạo Tiếp tục tuyên truyền phong trào rèn luyện đạo đức, lối sống cho sinh
viên, cải tiến các hình thức tổ chức hấp dẫn có sức thu hút. Đảng ủy sẽ tăng
cường lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát hơn nữa trong công tác giáo dục lý tưởng, đạo
đức lối sống cho sinh viên. Cập nhật các thông tin mang tính thời sự để kịp
thời tuyên truyền, định hướng tư tưởng chính trị cho sinh viên, nhất là các
thông tin về quyền toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam, về bảo vệ biển đảo…
Chú trọng hơn công tác tổ chức ngoại khóa về thời sự kinh tế, chính trị
và xã hội cho người học. Đổi mới lãnh chỉ đạo công tác đoàn thể nhất là Đoàn
thanh niên, cải tiến một số hoạt động, tránh đơn điệu, nhàm chán để thu hút
hơn nữa sự tham gia các hoạt động của sinh viên. Phát huy vai trò sinh viên là
chủ thể các hoạt động. Xây dựng văn hóa học đường, trường học thân thiện.
Phối hợp với địa phương xây dựng các biện pháp ngăn ngừa và xử lý kịp
thời các trường hợp sinh viên vi phạm pháp luật, vi phạm an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội và các tệ nạn xã hội khác. Thực hiện ký cam kết liên tịch
với công an Tỉnh, công an thành phố, các phường với Sở GD& ĐT và các
trường Cao đẳng Y tế, Cao đẳng Nghề Bạc Liêu, trường Trung học Kinh tế về
đảm bào an ninh trường học cho học sinh-sinh viên.
Phân công nhiệm vụ cụ thể đơn vị phụ trách và có kế hoạch theo dõi,
tổng kết các loại hình hoạt động và phong trào trong việc rèn luyện đạo đức,
lối sinh, tinh thần trách nhiệm và thái độ hợp tác trong sinh viên và khen
thưởng kịp thời sinh viên nhằm phát huy tính phối hợp, liên kết hỗ trợ các
công việc giữa những sinh viên, phát huy vai trò xung kích và chủ động trong
học tập.
3.2.4. Phát triển công nghệ thông tin để nâng cao chất lượng các hoạt
động đào tạo, nghiên cứu khoa học
Mục tiêu
Phát triển công nghệ thông tin là một trong những yếu tố quan trọng, góp
phần đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường; và đó cũng là mục tiêu quan
trọng nhất của bất kỳ nhà trường nào; vì nó góp phần tạo nên chất lượng
giảng dạy, nghiên cứu khoa học và hiện đại hóa công tác quản lý nhà trường,
đáp ứng yêu cầu của một trường Đại học tiên tiến trong khu vực.
Nội dung và cách thức thực hiện
Phát triển công nghệ thông tin trong giảng dạy và nghiên cứu khoa học
Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học là xu thế phát triển tất yếu
của nền giáo dục hiện đại. Công nghệ thông tin là một thành tựu lớn của cuộc
cách mạng KH-KT hiện nay. Nó thâm nhập và chi phối hầu hết các lĩnh vực
nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ trong sản xuất, giáo dục, đào tạo
và các hoạt động chính trị, xã hội khác. Trong giáo dục – đào tạo, công nghệ
thông tin được sử dụng vào tất cả các môn học tự nhiên, kỹ thuật, xã hội và
nhân văn. Hiệu quả rõ rệt là chất lượng giáo dục tăng lên cả về mặt lý thuyết
và thực hành. Vì thế, nó là chủ đề lớn được tổ chức văn hóa giáo dục thế giới
UNESCO chính thức đưa ra thành chương trình hành động trước ngưỡng cửa
của thế kỷ XXI và dự đoán “sẽ có sự thay đổi nền giáo dục một cách căn bản
vào đầu thế kỷ XXI do ảnh hưởng của CNTT”. Như vậy, công nghệ thông tin
đã ảnh hưởng sâu sắc tới giáo dục và đào tạo, đặc biệt là trong đổi mới
phương pháp dạy học, và đang tạo ra những thay đổi của một cuộc cách mạng
giáo dục . Công nghệ thông tin đóng một vai trò rất quan trọng trong việc đảm
bảo chất lượng đào tạo; nhằm đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong
giảng dạy, nghiên cứu khoa học, trường cần thực hiện một số nội dung sau:
Đẩy mạnh tuyên truyền cho CB - GV - SV thấy rõ hiệu quả và yêu cầu
mang tính tất yếu của ứng dụng CNTT trong đổi mới phương pháp giảng dạy
thông qua việc triển khai các văn bản chỉ đạo của Bộ, ngành về ứng dụng
CNTT trong dạy học. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ khối, hội
thảo chuyên đề; thông qua dự giờ thăm lớp và qua việc triển khai các cuộc thi
có ứng dụng CNTT do các chuyên ngành tổ chức.
Có cơ chế phù hợp và tạo điều kiện cho mọi người hưởng ứng tham gia
tích cực đẩy nhanh chiến lược nghiên cứu và sử dụng công nghệ thông tin
nhằm nâng cao chất lượng dạy và học, nghiên cứu khoa học và quản lý.
Đầu tư cho khoa công nghệ thông tin những nguồn lực cần thiết, tạo
quyền chủ động lập kế hoạch làm việc trực tiếp; và triển khai công nghệ
thông tin vào các khâu giảng dạy, nghiên cứu khoa học và công tác của từng
cơ quan, khoa giáo viên.
Tăng cường hệ thống máy tính phục vụ cho học tập của sinh viên; xây
dựng phòng quản trị mạng, hệ thống dữ liệu hoàn chỉnh tạo thuận lợi cho CB,
SV truy cập sử dụng. Đẩy mạnh tin học hóa trong công tác quản lý giáo dục
đào tạo; tiếp tục đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ
giảng dạy tin học và quản lý tin học của nhà trường.
Tạo điều kiện cho giảng viên học tập nâng cao trình độ tin học; bố trí sắp
xếp để cán bộ giảng viên được tham gia đầy đủ các lớp tập huấn, bồi dưỡng
CNTT.
Tổ chức các lớp bồi dưỡng kỹ năng sử dụng máy tính và các phần mềm
tin học với giảng viên và giáo viên CNTT và những giáo viên có kỹ năng tốt
về tin học của trường, theo hình thức trao đổi giúp đỡ lẫn nhau, tập trung chủ
yếu vào những kỹ năng mà giáo viên cần sử dụng trong quá trình soạn giảng,
như lấy thông tin, các bước soạn một bài trình chiếu, các phần mềm thông
dụng, cách chuyển đổi các loại phông chữ, cách sử dụng một số phương tiện
như máy chiếu, máy quay phim, chụp ảnh, cách thiết kế bài kiểm tra...
Tổ chức sinh hoạt chuyên môn, chuyên đề để trao đổi về kinh nghiệm
ứng dụng CNTT trong giảng dạy. Tham gia lập và sử dụng “nguồn học liệu
mở” về đề thi, giáo án, tài liệu tham khảo trên website của Bộ và các trường
bạn, tài liệu dùng chung trên websile của trường.
Đẩy mạnh việc khai thác tài nguyên trên mạng Internet phục vụ công tác
quản lý và giảng dạy của CBGV thông qua bồi dưỡng, tập huấn, cung cấp địa
chỉ hoặc mở liên kết với trang web của trường.
Tiến hành báo cáo đánh giá định kỳ về tin học hóa trong dạy-học, nghiên
cứu khoa học và quản lý; xây dựng dự án công nghệ dạy học trực tuyến và
Trường học điện tử. Triển khai đánh giá việc tin học hóa trong dạy-học,
nghiên cứu khoa học và quản lý giáo dục hàng năm.
3.2.5. Tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng các hoạt
động đào tạo, nghiên cứu khoa học
Mục tiêu
Tăng cường hợp tác quốc tế, giúp trường tiếp cận với các chuẩn mực
giáo dục đại học tiên tiến, phù hợp với yêu cầu phát triển của Việt Nam, tham
gia đào tạo nhân lực khu vực và cả nước. Hợp tác quốc tế bình đẳng trong các
hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học có hiệu quả nhằm nâng cao nội lực
và đem lại nguồn thu cho nhà trường.
Nội dung và cách thức thực hiện
Tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng đào tạo
Hợp tác quốc tế là một trong những hoạt động hữu hiệu để nâng cao chất
lượng đào tạo và nghiên cứu khoa học Để đẩy mạnh tính hiệu quả của công
tác này, nhà trường cần:
Xây dựng kế hoạch ban hành hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn
về quản lý hoạt động hợp tác quốc tế. Phổ biến các quy định và hướng dẫn về
hoạt động hợp tác quốc tế cho cán bộ, giảng viên.
Ban Giám hiệu cần cụ thể hóa chủ trương, chính sách và chiến lược hợp
tác quốc tế, có ưu tiên cho hoạt động này. Bồi dưỡng nâng cao trình độ
chuyên môn, chuyển giao công nghệ cho đội ngũ giảng viên, cán bộ khoa học,
từng bước tiếp cận với công nghệ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế
quốc tế.
Nhà trường cần nỗ lực và tăng cường tìm kiếm đối tác thông qua giới
thiệu của Vụ Hợp tác Quốc tế - Bộ Giáo dục và Đào tạo; Trường Đại học Cần
Thơ, các trường Đại học có liên kết đào tạo, các Lãnh sự quán và Đại sứ quán
tại Việt Nam, tập trung vào các hoạt động liên kết đào tạo, trao đổi học thuật,
trao đổi giảng viên và học viên và hỗ trợ cơ sở vật chất.
Thực hiện chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá loại hình hợp tác,
tăng cường hội nhập khu vực và quốc tế. Đổi mới cơ chế hợp tác quốc tế, mở
rộng quyền tự chủ, có cơ chế chính sách khuyến khích các đơn vị và cá nhân
về hợp tác quốc tế trong khuôn khổ luật pháp.
Tiếp tục thực hiện các dự án hợp tác song phương với Trung Quốc xúc
tiến xây dựng mối quan hệ và ký kết hợp tác với Úc, Mỹ, Nga, Trung Quốc,
Ấn Độ, Nhật Bản… về đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ,
hợp tác sản xuất và những vấn đề mà hai bên cùng quan tâm và cùng có lợi.
3.2.6. Tăng cường cơ sở vật chất và chủ động tạo nguồn tài chính đáp
ứng các hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo
Mục tiêu
Cơ sở vật chất và nguồn tài chính, là một trong những yếu tố quan trọng
bậc nhất nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường. Có thực mới vực
được đạo, không có tài chính không thực hiện được bất kỳ hoạt động đảm bảo
chất lượng nào; và đó cũng là mục tiêu quan trọng nhất của bất kỳ nhà trường
nào; vì nó tạo nên chất lượng các hoạt động đảm bảo khác của nhà trường. Do
đó mục tiêu của giải pháp này muốn phấn đấu xây dựng nhanh cơ sở vật chất
của trường Đại học Bạc Liêu đạt Tiêu chuẩn Việt Nam. Muốn vậy cần đổi
mới phương thức quản lý, chủ động tạo nguồn tài chính để tăng cường phát
triển, thu hút các nhà đầu tư; và sử dụng hiệu quả nguồn lực tài chính của nhà
nước; đồng thời thực hiện đa dạng hóa nguồn tài chính, để đảm bảo nâng cao
đời sống cho cán bộ, giảng viên, nhân viên.
Nội dung và cách thức thực hiện
Tăng cường cơ sở vật chất
Hoàn thành quy hoạch tổng thể về sử dụng và phát triển cơ sở vật chất;
điều chỉnh lại quy hoạch không gian các cơ sở của trường; từng bước thực hiện
chiến lược phát triển cơ sở vật chất giai đoạn 2015 - 2020 đã được phê duyệt.
Xây dựng kế hoạch tăng cường cơ sở vật chất hàng năm, nhất là hệ
thống phòng học, giảng đường, phòng thí nghiệm chuyên ngành, phòng học
bộ môn theo hướng phục vụ đào tạo hệ thống tín chỉ; đầu tư nâng cấp, sửa
chữa nhà đa năng, xây dựng thêm một số sân bóng chuyền, cầu lông.
Tiếp tục xây dựng thêm các phòng học; phấn đấu nâng bình quân số mét
vuông diện tích phòng học, giảng đường, phòng thực hành thí nghiệm trên
mỗi sinh viên là: 3m2/SV vào năm 2015; tiếp tục đầu tư sửa chữa, nâng cấp,
trang bị thêm phương tiện các phòng làm việc hiện có.
Quy hoạch lại các phòng thí nghiệm theo hướng tập trung trang thiết bị,
đổi mới cơ chế quản lý nhằm phát huy hiệu quả cao nhất; từng bước đầu tư
xây dựng các phòng thực hành, thí nghiệm theo hướng đồng bộ, hiện đại và
sử dụng có hiệu quả cao; tổ chức khai thác sử dụng các phòng thí nghiệm hiệu
quả hơn.
Tiếp tục xúc tiến dự án xây dựng KTX từ nguồn vốn trái phiếu Chính
phủ, dự kiến đến 2015 có 80% sinh viên ở nội trú; tiến hành xây dựng khu
làm việc tại cơ sở mới theo quy hoạch; tích cực tham mưu tìm nguồn tài chính
xây dựng cơ sở III; mở rộng quan hệ hợp tác tìm các nguồn tài trợ.
Đầu tư thiết bị giảng dạy, học tập, nghiên cứu theo hướng đồng bộ, hiện
đại và thiết thực; xây dựng kế hoạch mua sắm hàng năm, nhất là các thiết bị
phục vụ đào tạo chuyên ngành.
Tiếp tục đầu tư nâng cấp thư viện theo hướng thư viện điện tử và tham
gia mạng lưới các thư viện trong nước; đào tạo đội ngũ có chuyên môn sâu sử
dụng thiết bị hiện đại.
Đánh giá tổng kết hàng năm tình hình sử dụng hệ thống các phòng học,
giảng đường, phòng thực hành, thí nghiệm; khảo sát công năng và hiệu quả
khai thác sử dụng phòng học, KTX, sân bãi TDTT để có sự điều chỉnh trong
sử dụng và mở rộng phát triển; tổ chức lấy ý kiến thăm dò người sử dụng
nhằm hoàn thiện trong trang bị.
Tăng cường bồi dưỡng nghiệp vụ cho nhân viên bảo vệ, đội TNXK; bồi
dưỡng nghiệp vụ PCCC; đầu tư phương tiện làm việc cho lực lượng bảo vệ và
PCCC; thường xuyên tiến hành tổng kết công tác an ninh trật tự trường.
Chủ động tạo nguồn tài chính đáp ứng các hoạt động đảm bảo chất
lượng đào tạo
Xây dựng kế hoạch từng năm sát với thực tế, khai thác triệt để nguồn
thu, nâng cao các hợp đồng đào tạo, NCKH để thu hút đầu tư từ xã hội; xây
dựng kế hoạch ngắn hạn, trung hạn, dài hạn để khai thác các nguồn thu sự
nghiệp. Xây dựng cơ chế quản lý kinh phí NCKH, hợp tác quốc tế cho các
đơn vị và cá nhân trong trường; hoạt động hợp tác quốc tế thông qua liên
doanh ký kết đề tài NCKH, dự án đào tạo cán bộ, đấu thầu để tăng nguồn thu
cho nhà trường.
Hoàn thiện hơn nữa việc tin học hoá trong quản lý tài chính; tăng mức xã
hội hóa, tăng tính chủ động; đồng thời chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn
tài chính, khai thác triệt để các nguồn từ đào tạo, nghiên cứu, phục vụ sản
xuất và tăng cường thương mại hoá các sản phẩm khoa học công nghệ.
Chủ động tìm nguồn kinh phí ngoài nhà nước, nguồn đầu tư của nước
ngoài và của các tổ chức quốc tế nhằm tạo ra nguồn tài chính dồi dào đáp ứng
các hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường.
Xây dựng các quy trình sử dụng nguồn kinh phí hợp lý hơn, nâng cao
hiệu quả sử dụng nguồn tài chính đúng quy định và pháp luật, mang lại hiệu
quả cao hơn nhằm nâng cao nguồn lực và cơ sở vật chất trong trường. Phân
bổ kinh phí cho các công việc trong hoạt động của trường ngày càng khoa học
nhằm mang lại hiệu quả cao hơn.
Tiến hành đánh giá hiệu quả sử dụng tài chính hàng năm; kết hợp với các
bộ phận liên quan xây dựng báo cáo cụ thể đánh giá hiệu quả đầu tư cho các
hoạt động và định hướng cho các năm sau của trường.
Mối quan hệ của hệ thống giải pháp
Hệ thống giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo như trình bày trên, là
một chỉnh thể thống nhất, quan hệ biện chứng, tác động tương hỗ, thường
xuyên thúc đẩy và chế ước lẫn nhau, mỗi giải pháp tuy có vai trò nhất định
trong đảm bảo chất lượng đào tạo, song chúng sẽ tạo thành sức mạnh khi gắn
chặt với nhau trong một chỉnh thể toàn vẹn. Mọi biểu hiện xem nhẹ giải pháp
nào đó, vận dụng tách rời, hoặc tuyệt đối hóa từng mặt đều làm giảm hiệu quả
của chúng. Trong thực tiễn đảm bảo chất lượng đào tạo, nếu thực hiện tốt, có
kết quả giải pháp nào đó sẽ là tiền đề, tạo điều kiện thúc đẩy kết quả của giải
pháp khác và tạo nên hiệu quả chung của cả hệ thống; và ngược lại. Ví dụ
như: khi nguồn tài chính chưa đáp ứng các hoạt động đảm bảo chất lượng đào
tạo sẽ ảnh hưởng đến tất cả các mặt đảm bảo khác, từ đổi mới tổ chức quản lý
đào tạo, tự đánh giá chất lượng đào tạo, xây dựng chương trình, phát triển
công nghệ thông tin, đến hợp tác quốc tế và đầu tư cơ sở vật chất…Do đó, để
đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy trường Đại học Bạc Liêu cần vận
dụng tổng hợp chúng trong một chỉnh thể thống nhất, để mang lại hiệu quả
trong hoạt động này.
Sơ đồ phản ánh mối quan hệ giữa các giải pháp đảm bảo chất lượng
đào tạo hệ chính quy trường Đại học Bạc Liêu:
Gi¶i ph¸p đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy trường Đại học Bạc Liêu
2
3 Nâng cao
4 Phát triển
Nâng cao
CNTT và
chất lượng
chất lượng
đội ngũ
tăng cường
chương
trình đào tạo
hợp tác
giảng viên
và xây dựng
và tạo điều
quốc tế để
các chuẩn
nâng cao
kiện để sinh
đầu ra đáp
viên phát
chất lượng
ứng nhu cầu
1 Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá nâng cao
đào tạo,
triển toàn
5 Tăng cường CSVC và chủ động tạo nguồn tài
chính đáp ứng hoạt động đảm bảo chất lượng
đào tạo
3.3. Khảo nghiệm tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp
Mục đích khảo nghiệm: Nhằm đánh giá một cách khách quan về tính
cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp đề ra, nhằm đạt hiệu quả tốt nhất
trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài.
Đối tượng khảo nghiệm: Đối tượng khảo nghiệm là cán bộ, giảng viên
trường Đại học Bạc Liêu tổng số 42.
Nội dung khảo nghiệm: Khảo nghiệm các giải pháp mà luận văn đã đưa
ra để đánh giá tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đó.
Phương pháp khảo nghiệm: Sử dụng phương pháp xin ý kiến chuyên gia
qua phiếu điều tra để đánh giá về tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp.
Sử dụng phương pháp thống kê toán học để tổng hợp kết quả khảo sát.
Để đánh giá tính cần thiết và tính khả thi của các giải pháp đã đề xuất, tác giả đã xin ý kiến của các
đồng chí trong Ban Giám Hiệu, lãnh đạo các phòng, khoa, tổ, bộ môn, trung tâm (15) và một số giảng
viên có kinh nghiệm (37). Số phiếu điều tra phát ra là 42, số phiếu thu về là 42. Sau khi nhận được các
phiếu khảo sát, tổng hợp kết quả thể hiện qua bảng như sau:
Kết quả khảo nghiệm
Bảng 3.1: Kết quả khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp
Mức độ cần thiết (%) Mức độ khả thi (%)
STT
Tên các giải pháp
Không khả
Cần thiết
Rất khả thiKhả thi
Rất cần thiết
Không cần thiết
thi
01
88,33
16,67
0,00
76,16 23,80
0,00
Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá nhằm nâng cao chất lượng đào tạo
02
71,40
28,60
0,00
59,52 23,82
4,76
Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và xây dựng các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội
03
90,48
9,52
0,00
71,43 23,81
4,76
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và tạo điều kiện để sinh viên phát triển toàn diện
Phát triển công nghệ thông tin
và tăng cường hợp tác quốc
04
tế để nâng cao chất lượng
83,33
16,67
0,00
76,19 19,05
4,76
hoạt động đào tạo, nghiên
cứu khoa học
Tăng cường cơ sở vật chất và
chủ động tạo nguồn tài
chính đáp ứng các hoạt
05
95,24
4,76
0,00
95,24
4,76
0,00
động đảm bảo chất lượng
đào tạo
* Một số nhận xét sau khi khảo nghiệm
Kết quả khảo nghiệm cho thấy: các giải pháp đề xuất của tác giả được các chuyên gia đánh giá ở
mức rất cần thiết dao động từ 71,40% đến 90,48%. Trong các giải pháp trên, thì giải pháp tăng cường
cơ sở vật chất và chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ có hiệu
Về tính cần thiết:
quả dạy và học được đánh giá chiếm tỷ lệ cao nhất với mức rất cần thiết là 95,24%; giải pháp
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và tạo điều kiện tốt
để sinh viên phát triển toàn diện chiếm tỷ lệ cao (90,48%); Giải pháp đổi mới hoạt
động tổ chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá chất lượng giáo
dục nhằm nâng cao chất lượng đào tạo (81,5%). Thấp nhất là giải pháp nâng cao chất
lượng chương trình đào tạo và xây dựng các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã
hội chiếm 71,40%. Theo chúng tôi, kết quả khảo nghiệm trên phản ánh đúng tình
trung cải thiện các điều kiện về tài chính, cơ sở vật chất, đầu tư mua sắm trang thiết bị và phương tiện
kỹ thuật phục vụ cho công tác đào tạo. Thường xuyên chăm lo đến vấn đề quy hoạch, đào tạo bồi dưỡng
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và tạo điều kiện tốt để sinh
hình thực tế hiện nay của nhà trường. Vấn đề này là cơ sở thực tiễn quan trọng để Nhà trường tập
viên phát triển toàn diện, góp phần chủ động nâng cao chất lượng đào tạo của Nhà trường.
Kết quả khảo nghiệm cho thấy: các giải pháp đề xuất của tác giả được các chuyên gia đánh
giá ở mức rất khả thi dao động từ 59,52% đến 95,24%. Trong đó, giải pháp tăng cường cơ sở vật
chất và chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ có hiệu quả dạy và học chiếm tỷ
Về tính khả thi:
lệ cao nhất, mức rất khả thi là 95,24%. Giải pháp có tính khả thi thấp nhất là: Nâng cao chất
lượng chương trình đào tạo và xây dựng các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội. Còn các giải
pháp khác đều được đánh giá mức rất khả thi trên 70%.
So sánh về tính cần thiết và tính khả thi cho thấy: chỉ có giải pháp 5: Tăng cường cơ sở vật chất
và chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ có hiệu quả dạy và học được các chuyên gia
đánh giá vừa có tính rất cần thiết và rất khả thi cao nhất và như nhau. Tuy nhiên trong đó giải pháp 3:
Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và tạo điều kiện tốt để sinh viên phát triển
toàn diện có sự chênh lệch giữa tính cần thiết và tính khả thi cao nhất, gần 20%; theo chúng tôi điều đó
phản ánh đúng tình hình thực tế hiện nay, mặc dù nhà trường rất muốn nâng cao chất lượng… nhưng
còn vướng mắc khá nhiều rào cản, nên tính khả thi không tương xứng với tính cần thiết của nó. Còn lại
các giải pháp khác có sự chênh lệch không đáng kể, đều trên dưới 10%.
Kết quả thu được thông qua các ý kiến khảo nghiệm của cán bộ - giảng viên nhà trường về những
giải pháp đảm bảo đưa ra để nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo ở trường Đại học Bạc Liêu rất được
sự đồng tình và chấp nhận ở mức rất cần thiết và rất khả thi cao; vì vậy cần thiết phải triển khai tổ chức
thực hiện trong thời gian tới.
*
* *
Tóm lại, trên cơ sở kết quả nghiên cứu về mặt lý luận ở chương 1, kết
quả nghiên cứu thực trạng ở chương 2 và trên cơ sở các yêu cầu đề xuất giải
hệ chính quy cao đẳng và đại học của trường đại học Bạc Liêu bao gồm: Đổi mới hoạt động tổ
pháp, tác giả đã đề xuất 5 giải pháp đảm bảo nhằm nâng cao chất lượng hoạt động đào tạo
chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá chất lượng giáo dục nhằm
nâng cao chất lượng đào tạo; Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và
xây dựng các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội; Nâng cao chất lượng đội
ngũ cán bộ giảng dạy, nghiên cứu và tạo điều kiện tốt để sinh viên phát triển
toàn diện; Phát triển công nghệ thông tin và tăng cường hợp tác quốc tế để
cơ sở vật chất và chủ động thực hiện đa dạng hóa nguồn tài chính phục vụ có hiệu
nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học; và tăng cường
quả dạy và học
Do điều kiện còn hạn chế về nguồn lực và thời gian, tác giả bước đầu
khảo nghiệm tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp bằng việc xin ý
quả cho thấy: hệ thống giải pháp tác giả đề xuất nhằm đảm bảo chất lượng hoạt động đào tạo ở trường
Đại học Bạc Liêu rất được sự đồng tình và chấp nhận ở mức rất cần thiết và rất khả thi cao; vì vậy cần
kiến chuyên gia là những người sẽ trực tiếp triển khai thực hiện các giải pháp đó trong thực tế. kết
thiết phải triển khai tổ chức thực hiện trong thời gian tới, nhằm từng bước nâng cao chất lượng đào tạo,
củng cố và phát triển uy tín của nhà trường đối với xã hội, xây dựng nhà trường trở thành trung tâm đào
tạo có tiềm năng phát triển bền vững ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long trong thế kỷ 21.
KẾT LUẬN - KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Những vấn đề đặt ra cho đổi mới giáo dục đại học như: đổi mới tổ chức quản
lý giáo dục đại học, đào tạo đáp ứng nhu cầu xã hội, chuẩn hóa đội ngũ giảng
viên và cán bộ quản lý; đảm bảo và đánh giá chất lượng đào tạo và kiểm định chất
lượng giáo dục, xây dựng chiến lược phát triển, xây dựng và công bố chuẩn đầu
ra… đang đặt ra những yêu cầu cấp bách cho hệ thống giáo dục đại học, nhất là
những trường đại học địa phương như Đại học Bạc Liêu, khi mà trình độ, năng
lực, kinh nghiệm quản lý còn nhiều hạn chế so với yêu cầu.
Chính vì vậy, trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn của đề tài luận
văn. Tác giả cho rằng: để khẳng định sự phát triển toàn diện, nâng cao uy tín thương
hiệu của nhà trường, thì công tác đảm bảo chất lượng đào tạo tại trường ĐHBL; đặc
biệt là đảm bảo chất lượng đào tạo hệ chính quy cần phải thực hiện triển khai quyết
liệt hơn nữa trong thời thời gian tới. Cụ thể như: Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý
đào tạo và thường xuyên tự đánh giá chất lượng giáo dục nhằm nâng cao chất
lượng đào tạo; Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và xây dựng các chuẩn
đầu ra đáp ứng nhu cầu xã hội; Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giảng dạy,
nghiên cứu và tạo điều kiện tốt để sinh viên phát triển toàn diện; Phát triển công
nghệ thông tin và tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng các hoạt động
đào tạo, nghiên cứu khoa học; Tăng cường cơ sở vật chất và chủ động thực hiện đa
dạng hóa nguồn tài chính phục vụ có hiệu quả dạy và học. Đây là tổng hợp các giải
pháp đã được khảo nghiệm về tính cần thiết và tính khả thi của chúng; việc vận
dụng toàn diện, đồng bộ các giải pháp này sẽ góp phần tạo ra những sản phẩm đào
tạo có chất lượng ngày càng tốt hơn, đóng góp cho tương lai phát triển Kinh tế - xã
hội không chỉ tỉnh Bạc liêu, mà còn đáp ứng nhu cầu nhân lực chất lượng cao cho
vùng Bán đảo Cà Mau và Đồng bằng Sông Cửu Long.
2. Kiến nghị
2.1. Đối với nhà nước
Cần có mô hình chuẩn về đảm bảo chất lượng đào tạo đại học, làm cơ sở
cho thực thi các giải pháp đảm bảo chất lượng đào tạo ở trường đại học hiện
nay.
Hoàn thiện các văn bản quy định dưới luật về đảm bảo chất lượng đào tạo
đại học, để tạo các điều kiện thuận lợi cho các trường đại học thực hiện mục tiêu
chất lượng đào tạo theo chuẩn đầu ra. Khi đã có các văn bản quy định đảm bảo
chất lượng đào tạo đại học, thì cũng nên có quy định chặt chẽ về tiêu chuẩn mở
trường đại học mới. Để đạt được mục tiêu nâng cao chất lượng đào tạo đại học
một cách toàn diện, cần chú ý đến việc chỉ đạo xây dựng chuẩn đầu ra cho các
trường đại học và các điều kiện để đảm bảo các chuẩn đó.
2.2. Đối với Bộ Giáo dục - Đào tạo
Nghiên cứu hoàn thiện hệ thống quy định về đảm bảo chất lượng đào tạo
của tất cả các trường đại học.
Cần xây dựng hệ thống cơ quan Đảm bảo chất lượng Giáo dục - Đào tạo
từ cấp Bộ đến cấp trường hoàn chỉnh, thống nhất về chức năng, nhiệm vụ, tổ
chức biên chế và đảm bảo kinh phí cho hoạt động của cơ quan.
Đầu tư kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ quản lý về công tác đảm bảo
chất lượng đào tạo; và có chính sách phát triển đội ngũ kiểm định viên, thanh tra
viên chuyên nghiệp; thực hiện chế độ kiểm định, thanh tra viên kiêm nhiệm.
2.3. Đối với Trường đại học Bạc Liêu
Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức, thái độ và những
hành động cụ thể trong đảm bảo chất lượng đào tạo cho cán bộ quản lý, giáo
viên và sinh viên trong nhà trường.
Phân định ra một số nhiệm vụ liên quan đến đảm bảo chất lượng, đào tạo
giữa cơ quan Khảo thí và các cơ quan đào tạo của nhà trường. Đầu tư về con
người và phương tiện để hoạt động đảm bảo chất lượng, đào tạo đi vào nề nếp.
Hình thành bộ phận chuyên trách đảm bảo chất lượng giáo dục của nhà trường
và giao cho họ chức năng kiểm soát chất lượng đào tạo một cách cụ thể.
Cần thực hiện tốt kết quả nghiên cứu của luận văn trong thực tiễn, giúp
phần tăng cường chất lượng hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà
trường trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. A.W Astin (2004), Đánh giá chất lượng để đạt được sự hoàn hảo (Triết lí
thực tiễn trong nhận xét và đánh giá chất lượng giáo dục đại học),
Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
2. Bộ Chính trị (khóa X), Kết luận số 242/TB-TƯ, Về tiếp tục thực hiện Nghị
quyết Trung ương 2 (khóa VIII), phương hướng phát triển giáo dục và
đào tạo đến năm 2020.
3. Bộ Giáo dục và Đào tạo (2010), Đổi mới quản lý hệ thống GDĐH giai
đoạn 2010 – 2012, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Nguyễn Hữu Châu (chủ biên) (2008), Chất lượng giáo dục, những vấn đề
lí luận và thực tiễn, Nxb Giáo dục.
5. Chiến lược phát triển giáo dục Việt Nam giai đoạn 2011 – 2020.
6. Chiến lược phát triển Trường Đại học Bạc Liêu giai đoạn 2010 – 2015 và
định hướng đến năm 2020.
7. Nguyễn Đức Chính (chủ biên) (2002), Kiểm định chất lượng trong giáo
dục đại học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
8. Cục Khảo thí và Kiểm định chất lượng giáo dục (2006), Tài liệu tập huấn
tự đánh giá trong kiểm định chất lượng giáo dục, Bộ Giáo dục và Đào
tạo, Hà Nội.
9. Lê Vinh Danh (2006), Một số vấn đề lí luận về đảm bảo chất lượng đào tạo
trong giáo dục đại học, Kỷ yếu Hội thảo “Đảm bảo chất lượng trong đổi
mới giáo dục đại học”, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh.
10.Đại từ điển tiếng Việt (1998), Nxb Văn hóa – Thông tin, Hà Nội.
11.Vũ Cao Đàm (2002), Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa
học Kỹ thuật, Hà Nội.
12.Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ Hai, Ban
Chấp hành Trung ương khóa (VIII), Nxb CTQG, Hà Nội.
13.Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội.
14.Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X, Nxb CTQG, Hà Nội.
15.Đảng Cộng sản Việt Nam (2009), Văn kiện Hội nghị lần thứ 9 BCHTƯ
(khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh chiến lược cán bộ từ nay đến năm
2020, Nxb CTQG, Hà Nội.
16.Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội.
17.Trần Khánh Đức (2004), Quản lý và kiểm định chất lượng đào tạo nhân
lực, Nxb Giáo dục.
18.Trần Khánh Đức (2010), Giáo dục và phát triển nguồn nhân lực trong thế
kỷ 21, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
19.Giáo trình khoa học quản lý (2002), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
20.Nguyễn Công Giáp (1997), “Bàn về phạm trù chất lượng và hiệu quả giáo
dục”, Tạp chí Phát triển giáo dục, số 10.
21.Phạm Minh Hạc (1998), Một số vấn đề giáo dục và khoa học giáo dục,
Nxb Giáo dục.
22.Koontz Harold, Cyrilodonmell Hein Wihrich (1996), Những vấn đề cốt
yếu của quản lý, Nxb Khoa học Kinh tế, Hà Nội.
23.Trần Đình Hồng (2010), Biện pháp quản lý học viên trong các hệ đào tạo
chính ủy ở HVCT hiện nay, Luận văn thạc sĩ, Học viện Chính trị.
24.Trần Kiểm (1997), Quản lý giáo dục và trường học, Viện Khoa học Giáo
dục, Hà Nội.
25.Trần Kiểm (2004), Khoa học quản lý giáo dục – một số vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
26.Trần Kiểm (2006), Tiếp cận hiện đại trong quản lý giáo dục, Nxb Đại học
Sư phạm Hà Nội.
27.Luật giáo dục (2005) sửa đổi bổ sung (2009), Nxb CTQG, Hà Nội.
28.Đoàn Duy Lục (chủ biên) (2004), Giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Giáo dục.
29.Hồ Chí Minh, Bàn về công tác giáo dục, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1990.
30.Hồ Chí Minh (1948), “Sửa đổi lối làm việc”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 274, 280.
31.Hồ Chí Minh (1948), “Tư cách một người Tướng”, Hồ Chí Minh toàn tập,
Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr. 479 – 481.
32.Hồ Chí Minh (1956), “Bài nói chuyện tại lớp nghiên cứu chính trị khóa I,
Trường Đại học nhân dân Việt Nam”, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 8,
Nxb CTQG, Hà Nội, 1996, tr. 215.
33.Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 2000.
34.Lê Đức Ngọc (2004), Giáo dục đại học – Quan điểm và giải pháp, Nxb
Đại học Quốc gia Hà Nội.
35.Lê Đức Phúc (1997), “Chất lượng và hiệu quả giáo dục”, Tạp chí Nghiên
cứu giáo dục, số 5.
36.Nguyễn Ngọc Quang (1989), Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo
dục, Trường CBQL GD, Hà Nội.
37.Phạm Xuân Thanh (2005), “Kiểm định chất lượng giáo dục đại học”, Tạp
chí Giáo dục, số 115.
38.Tỉnh ủy Bạc Liêu (2011), Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ
XIV, Bạc Liêu.
39.Nguyễn Cảnh Toàn (chủ biên) (1997), Quá trình dạy học – tự học, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
40.Trường Đại học Bạc Liêu (2011), Báo cáo tổng kết từ năm học 2006 –
2007 đến năm học 2010 – 2011, Bạc Liêu.
41.Trường Đại học Bạc Liêu (2007), Quy chế giáo dục đào tạo.
42.Từ điển Bách khoa Việt Nam (1995), Trung tâm Biên soạn từ điển,
Tập 1, Hà Nội.
43.Từ điển Giáo dục học (2001), Nxb Từ điển Bách khoa, Hà Nội.
44.Từ điển tiếng Việt thông dụng (1998), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
45.Viện Ngôn ngữ học (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
PHỤ LỤC
Phụ lục 1:TỔNG HỢP KẾT QUẢ TRƯNG CẦU Ý KIẾN
(Tổng số trưng cầu ý kiến 92 phiếu)
1. Đánh giá về vai trò, tầm quan trọng của công tác đảm bảo chất lượng
giáo dục đào tạo
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tỉ lệ (%)
2. Nhận định về trách nhiệm của các tổ chức, lực lượng đối với công tác
đảm bảo chất lượng đào tạo
1 Đặc biệt quan trọng Rất quan trọng 2 3 Quan trọng 4 Không quan trọng 92 92 92 92 21,5 56,8 19,6 0,98
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tỉ lệ (%)
92 92 92 92 0,98 6,8 1,9 5,8 Cấp uỷ các cấp 1 Các cơ quan, đơn vị 2 Cơ quan chuyên môn 3 4 Hội đồng tự đánh giá
Các tổ chức, các lực lượng của nhà 92 82,3 5 trường và sinh viên
3. Nhận định về sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Ban Giám hiệu đối với
công tác đảm bảo chất lượng đào tạo
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tỉ lệ (%)
Rất quan tâm
Chưa quan tâm
1 2 Quan tâm 3 4 Khó trả lời 92 92 92 92 9,8 52,9 16,6 14,7
4. Các mặt đảm bảo chất lượng đào tạo của nhà trường
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tốt, khá (%)
1 92 67,23
Công tác tổ chức và quản lý đào tạo Số lượng, chất lượng đội ngũ cán bộ, 2 92 62,45
giảng viên của nhà trường Số lượng, chất lượng sinh viên Chương trình, nội dung đào tạo Phương pháp, phương tiện dạy học
3 4 5 6 Hoạt động nghiên cứu khoa học Thư viện, tài liệu giáo trình 7 Cơ sở hạ tầng, vật chất huấn luyện 8 9 Chất lượng, kết quả đào tạo 10 Môi trường sư phạm 11 Tiêu chuẩn khác 92 92 92 92 92 92 92 92 92 62,45 69,24 66,34 66,24 61,67 61,67 67,43 70,45 71,32
đào tạo và đảm bảo chất lượng đào tạo
5. Ý kiến về các quy chế, quy định của nhà trường hiện nay về công tác
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tỉ lệ (%)
Phù hợp Chưa thật phù hợp Còn mang tính hình thức Chưa phù hợp
1 2 3 4 5 Khó trả lời 92 92 92 92 92 24,5 44,1 13,7 14,7 4,9
chất lượng đào tạo
6. Về việc phổ biến các quy định, chỉ thị hướng dẫn của trên về đảm bảo
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tỉ lệ (%)
1 Thường xuyên 2 Không thường xuyên 3 Không biết 4 Khó trả lời 92 92 92 92 58,8 35,2 2,9 1,9
7. Nhận xét về tự đánh giá các mặt đảm bảo chất lượng đào tạo nhà trường
TT Nội dung Kết quả Số phiếu Tỉ lệ (%)
1 Tốt 2 Khá 3 Trung bình 4 Khó trả lời 92 92 92 7 16,6 62,7 18,6 6,86
8. Những đánh giá đảm bảo chất lượng đào tạo ở các cơ quan, khoa giáo
viên
TT Nội dung
Kết quả Tốt % Chưa tốt % 67,23 % 32,72 %
2 65,12 % 34,87 %
1 Vấn đề tổ chức quản lý hoạt động đào tạo Vấn đề thường xuyên tự đánh giá chất lượng đào tạo Chuẩn đầu ra và chương trình đào tạo
3 4 Đội ngũ giảng viên và sinh viên 69,24 % 62,45 % 30,75 % 37,54 %
5 61,67 % 38,32 %
6 58,26 % 41,73 % Công nghệ thông tin và hợp tác quốc tế về đào tạo, nghiên cứu khoa học Chủ động tạo nguồn tài chính cho các hoạt động đảm bảo chất lượng đào tạo
Phụ lục 2: Tổng hợp chất lượng đào tạo hệ chính quy
Trường Đại học Bạc liêu từ 2009 - 2012
Xếp Loại Tốt Nghiệp %
SL
Hệ
Tỉ lệ TN
Hỏng
Chính
Năm
THI
Giỏi
Khá
TB Khá
TB
%
%
quy
Cao
2009 2010 2011
1 =0,5 23 =11,61 149=75,25 22=11,11 195=98,48 189=99,47 0 = 0 157=95,15 0 = 0
43 =22,63 143=75,26 116 =70,3 34 =20,61
3 = 1,57 7 = 4,24
3 = 1,52 1 = 0,53 8 = 4,85
TN 198 190 165
Đẳng
2012
1 =0,3 49 =14,71 208=62,46
30 = 9,9
291=87,39 42 =12,61
333
Đại
2011
435
7 =1,6 98 =22,52
308 =70,8
19 = 4,36 432=99,31
2 =0,46
học
Bảng: Thống kê số lượng sinh viên từ năm 2008 - 2013
Trình độ đào tạo
Ghi chú
Số TT
Năm 2008- 2009
Năm 2009- 2010
Năm 2010- 2011
Năm 2011- 2012
Năm 2012- 2013
1059 0
1550 407
2440 997
1976 1028
1932 1219
1 Đại học 1.1 Hệ chính quy 1.2 Hệ không chính quy 2 Cao đẳng 2.1 Chính quy 2.2 Hệ không chính quy Tổng
360 0 1419
1360 0 4364
943 128 4508
1529 0 4680
768 128 2853 (Nguồn: Báo cáo tự đánh giá của trường Đại học Bạc Liêu năm 2013)
Bảng: Thống kê số lượng cán bộ, giảng viên, nhân viên
Phân loại
Nam 144 109 35 Nữ 152 101 51
(Nguồn: Báo cáo tự đánh giá của trường Đại học Bạc Liêu năm 2013)
STT 1 Cán bộ cơ hữu 1.1 Cán bộ biên chế 1.2 Cán bộ HĐ dài hạn (từ 1 năm trở lên) Cán bộ khác (GV thỉnh giảng) 2 Tổng số 296 210 86 36
Bảng: Phân loại GV cơ hữu theo trình độ, giới tính và độ tuổi
Số
Tr.độ/học
Số
Tỷ lệ
Phân loại theo
Phân loại theo độ tuổi
TT
vị
lượng
(%)
giới tính
0 0 1,9 55,8 42,3 0
1 GS/TSKH PGS 2 Tiến sĩ 3 4 Thạc sĩ 5 Đại học 6 Cao đẳng Tổng
0 0 4 120 91 0 215
Nam 0 0 4 55 40 0 99
Nữ 0 0 0 65 51 0 116
<30 0 0 0 35 51 0 86
30-40 0 0 0 66 21 0 87
41-50 0 0 0 9 12 0 21
51-60 0 0 4 10 7 0 21
Bảng: Kết quả các đề tài đã được nghiệm thu
Phân loại
Số lượng Năm 2008 Năm 2009 Năm 2010 Năm 2011 Năm 2012
1 2 3
0 2 32 34
0 7 29 36
1 5 27 33
0 10 8 18
1 20 11 32
đề tài Cấp tỉnh Cấp trường Cấp khoa Tổng
Phụ lục 3:Tổng hợp kết quả khảo sát tính cấp thiết và tính khả thi của các giải pháp
Mức độ cần thiết%
Mức độ khả thi%
STT
Tên các giải pháp
Không khả
Rất khả thiKhả thi
Rất cần thiết
Cần thiết
Không cần thiết
thi
01
88,33
16,67
0,00
76,16
23,80
0,00
Đổi mới hoạt động tổ chức quản lý đào tạo và thường xuyên tự đánh giá chất lượng GD nhằm nâng cao chất lượng ĐT
02
71,40
28,60
0,00
59,52
23,82
4,76
Nâng cao chất lượng chương trình đào tạo và xây dựng các chuẩn đầu ra đáp ứng nhu cầu XH
03
90,48
9,52
0,00
71,43
23,81
4,76
Nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên và tạo điều kiện để sinh viên phát triển toàn diện
04
83,33
16,67
0,00
76,19
19,05
4,76
Phát triển CNTT và tăng cường hợp tác quốc tế để nâng cao chất lượng các hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học
05
88,10
11,90
0,00
95,24
4,76
0,00
Tăng cường CSVC và chủ động tạo nguồn tài chính phục vụ có hiệu quả dạy và học