VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VIỆT HƯNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI, 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
BÙI VIỆT HƯNG
GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY
TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TÒA ÁN NHÂN DÂN
THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8 38 01 07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. LÊ ĐÌNH NGHỊ
HÀ NỘI, 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong Luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố
trong bất kỳ công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện Luận văn này
đã được cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong Luận văn đã được chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả
Bùi Việt Hưng
LỜI CẢM ƠN
Trong hơn 2 năm học tập, nghiên cứu chương trình cao học Luật Kinh
tế tại Học viện khoa học xã hội, tôi đã tiếp thu được nhiều kiến thức mới,
những kinh nghiệm quý báu, là hành trang cho tôi tiếp tục thực hiện tốt hơn
nhiệm vụ của mình.
Luận văn này là một phần kết quả quan trọng trong quá trình đào tạo
cao học. Với tất cả tình cảm của mình, tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới Ban
giám hiệu Học viện khoa học xã hội, các Thầy, Cô giáo trong và ngoài Học
viện khoa học xã hội đã tận tình giảng dạy, giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi
cho tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu.
Tôi xin cảm ơn TS. Lê Đình Nghị – người đã hướng dẫn tôi trong suốt
quá trình làm Luận văn. Thầy giáo đã cho tôi thêm nhiều kiến thức về khoa
học, cách tiếp cận và nghiên cứu về giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài
sản cũng như giúp em rèn luyện kỹ năng nghiên cứu khoa học.
Mặc dù tôi đã có cố gắng trong quá trình làm luận văn, song không thể
tránh khỏi những hạn chế nhất định, rất mong nhận được sự chỉ dẫn, góp ý và
giúp đỡ quý báu của các Thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp.
Tác giả
Bùi Việt Hưng
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN ................................................................................................. 6
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản ........................................... 6
1.2. Chủ thể, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng vay tài sản ..... 16
1.3. Hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ .... 31
Chương 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG
VAY TÀI SẢN CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN .................. 41
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên ........................................ 41
2.2. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 5 năm gần đây............. 44
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên và nguyên nhân .... 49
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN ........................ 56
3.1. Sự cần thiết đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về
hợp đồng vay tài sản. ................................................................................ 56
3.2. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về hợp đồng
vay tài sản .................................................................................................. 58
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản ......................................................................................... 63
KẾT LUẬN .............................................................................................. 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................... 71
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
BLDS : Bộ luật dân sự
BLTTDS : Bộ luật tố tụng dân sự
TAND : Tòa án nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG SỐ LIỆU
Số hiệu Tên bảng Trang
Thống kê các vụ án dân sự về tranh chấp hợp
Bảng 2.1 đồng vay tài sản được TAND thành phố Thái 44
Nguyên thụ lý từ năm 2014 đến năm 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Chúng ta không thể phủ nhận vai trò đặc biệt của hợp đồng trong đời
sống hiện đại. Không phải ngẫu nhiên mà trong hệ thống pháp luật của bất kỳ
quốc gia nào chế định hợp đồng luôn được coi là một chế định quan trọng vào
bậc nhất. Bởi hợp đồng tạo ra những tiền đề pháp lý cho sự vận động linh
hoạt các giá trị vật chất trong xã hội.
Hợp đồng vay tài sản có vai trò quan trọng trong đời sống xã hội, đặc
biệt trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển, các giao lưu dân sự, thương
mại ngày càng đa dạng. Các quy định về hợp đồng vay tài sản được quy định
trong BLDS năm 2015 đã góp phần đảm bảo sự ổn định của xã hội, đảm bảo
lợi ích chung của cộng đồng cũng như quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ
thể tham gia quan hệ hợp đồng vay. Trong thực tế, tranh chấp về hợp đồng
vay tài sản ngày càng gia tăng. Trong bối cảnh kinh tế xã hội ngày càng phát
triển, yêu cầu hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản nhằm
đảm bảo lợi ích cho các chủ thể được đề ra một cách cấp thiết hơn. Tuy nhiên
những quy định về hợp đồng vay tài sản trong BLDS năm 2015 còn nhiều
thiếu sót, bất cập cần sớm có giải pháp hoàn thiện.
TAND thành phố Thái Nguyên là một trong những Tòa án lớn, số
lượng vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên trong những năm qua có xu hướng ngày càng tăng. Mỗi vụ án có nội
dung đa dạng và tính phức tạp cũng khác nhau nên việc giải quyết loại án này
gặp không ít khó khăn, trong nhận thức vận dụng pháp luật cũng như khó
khăn từ khách quan mang lại. Tuy nhiên, quá trình giải quyết TAND thành
phố Thái Nguyên đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần vào việc
giải quyết số lượng án và nâng cao tỷ lệ giải quyết của đơn vị và toàn ngành.
1
Ngoài ra, qua thực tiễn giải quyết án vay tài sản sẽ phát hiện ra những thiếu
sót trong pháp luật để có những đề xuất sửa đổi, bổ sung pháp luật cho phù
hợp với những đòi hỏi của thực tiễn trong từng giai đoạn cụ thể.
Chính vì vậy, tôi đã quyết định chọn đề tài: “Giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản từ thực tiễn Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên” làm
đề tài luận văn thạc sĩ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Nghiên cứu về hợp đồng vay tài sản không phải là một đề tài mới trong
khoa học pháp lý. Liên quan đến nội dung luận văn của học viên, có nhiều
công trình khoa học đã nghiên cứu về vấn đề này, cụ thể:
Ở góc độ các luận văn, luận án: Bùi Kim Hiếu, “Hợp đồng vay tài sản
trong Luật Dân sự Việt Nam”, Luận văn thạc sỹ Luật học; Nguyễn Hương
Lan, “Hợp đồng vay tài sản theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam”,
Luận văn thạc sĩ luật học – Khoa Luật, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội;
Nguyễn Quý Linh, “Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản từ thực tiễn
Tòa án nhân dân thành phố Hải Phòng”, Luận văn thạc sỹ Luật học – Viện
Đại học Mở Hà Nội; Đỗ Thị Hồng Hạnh, “Hợp đồng vay tài sản qua thực tiễn
giải quyết tranh chấp tại Toà án nhân dân quận Hai Bà Trưng”, luận văn thạc
sĩ luật học – Khoa Luật, trường Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Ở góc độ các bài viết trên các tạp chí: Dương Quốc Thành, “Một số
vấn đề bảo lãnh trong hợp đồng vay tài sản”,Tạp chí Toà án nhân dân;
Nguyễn Minh Oanh, “Cần sửa đổi, bổ sung một số điều về hợp đồng vay tài
sản”, Tạp chí Luật học; Trần Văn Biên, “Một số vướng mắc trong việc giải
quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản liên quan đến trả lãi và lãi suất”,
Tạp chí Nhà nước và pháp luật; Trần Văn Biên, “Một số ý kiến góp ý cho
các quy định của Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) về hợp đồng vay tài
sản”, Viện Nhà nước và pháp luật; Trần Văn Biên, “Về chế định hợp đồng
2
vay tài sản”, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp; Nguyễn Ngọc Điện, (2001),
“Bình luận khoa học một số vấn đề cơ bản của luật dân sự”, Nxb Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh.
Qua nghiên cứu những công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả nhận
thấy: Chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, đầy đủ trong
việc giải quyết hợp đồng vay tài sản trên một địa bàn cụ thể. Việc làm rõ vấn
đề giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản tại một địa bàn cụ thể cần phải
được xác định và nghiên cứu để làm nổi bật những đặc thù trong quan hệ vay
tài sản tại một địa bàn lớn như thành phố Thái Nguyên là cần thiết. Vì đây là
một trong những thành phố có dân số đông nhất, có nhiều các doanh nghiệp,
trung tâm dịch vụ thương mại lớn, nhiều hộ làm ăn cá thể, tiểu thương phát
triển mạnh … Cùng với sự tăng trưởng về các sản phẩm do lao động, sản xuất
kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn thành phố cũng phát triển, nhu cầu về vốn
tăng cao, vì vậy quan hệ vay tài sản cũng không ngừng gia tăng về số lượng,
giá trị cũng như tính phức tạp. Nhận thức được tính phức tạp của quan hệ vay
tài sản nói chung và việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản của
TAND thành phố Thái Nguyên nói riêng nên việc nghiên cứu đề tài này là
hết sức quan trọng và cần thiết.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu: Mục đích của việc nghiên cứu đề tài là làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của chế định hợp đồng vay tài sản, đưa
ra những kiến nghị có tính ứng dụng cao trong hoạt động xét xử của Tòa án,
góp phần nâng cao chất lượng xét xử liên quan đến tranh chấp hợp đồng vay
tài sản trên địa bàn thành phố Thái Nguyên nói riêng và cả nước nói chung.
Nhiệm vụ nghiên cứu: Để thực hiện được mục đích trên luận văn có
nhiệm vụ cụ thể sau đây:
+ Nghiên cứu cơ sở lý luận và pháp lý của chế định hợp đồng vay tài
3
sản theo quy định pháp luật hiện hành của Việt Nam.
+ Nghiên cứu tranh chấp thực tế đã phát sinh qua thực tiễn giải quyết
của TAND thành phố Thái Nguyên để làm rõ những điểm còn bất cập của
pháp luật Việt Nam trong việc điều chỉnh hợp đồng vay tài sản hiện nay.
+ Đề xuất các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật
hợp đồng vay tài sản.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu những vấn đề
lý luận, nội dung các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản và việc
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại TAND thành phố Thái
Nguyên. Nguyên nhân và những bất cập trong việc giải quyết tranh chấp
hợp đồng vay tài sản, từ đó đưa ra những giải pháp nhằm nâng cao chất
lượng xét xử và góp phần giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản tại
Tòa án ngày một tốt hơn.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn xem xét, nghiên cứu lý luận và các quy
định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vay tài sản và việc giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 05
năm gần đây, trong đó đi sâu phân tích nguyên nhân của những tồn tại và đưa
ra giải pháp khắc phục.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận: Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận của
chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng
sản Việt Nam về Nhà nước và pháp luật, trong đó có vấn đề giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản.
Phương pháp nghiên cứu:Để giải quyết yêu cầu của đề tài, luận văn sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:
+ Phương pháp luận duy vật lịch sử: tiến hành nghiên cứu trên cơ sở quá
trình hình thành và phát triển của chế định hợp đồng vay tài sản ở Việt Nam;
+ Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp: đây là phương pháp quan
4
trọng và được tác giả sử dụng chủ yếu trong quá trình thực hiện đề tài của mình.
+ Phương pháp nghiên cứu thực tiễn: sưu tầm và phân tích các vụ tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản để làm rõ thực tiễn áp dụng chế định này. Các ví
dụ liên quan đến bản án, vụ việc tranh chấp do TAND thành phố Thái Nguyên
giải quyết được sử dụng để phân tích, tham chiếu trong luận văn được tác giả
mã hoá tên riêng của doanh nghiệp, cá nhân theo ký tự a, b, c ... để đảm bảo
tính bí mật thông tin cá nhân.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn trong giải quyết tranh
chấp về hợp đồng vay tài sản, làm rõ những đặc thù của loại án này tại TAND
thành phố Thái Nguyên.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng, chỉ ra những bất cập trong hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên và đề ra các giải pháp có tính khả thi nhằm đảm bảo cho hoạt động
giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ở TAND thành phố Thái
Nguyên ngày càng hiệu quả, đáp ứng được công cuộc cải cách tư pháp. Đề
xuất phương hướng hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài
sản, góp phần nâng cao chất lượng xét xử nói chung trong việc giải quyết
tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Lời mở đầu, Kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 3 chương:
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN
CHƯƠNG 2: THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP
ĐỒNG VAY TÀI SẢN CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
CHƯƠNG 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY
5
ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
1.1. Khái niệm chung về hợp đồng vay tài sản
1.1.1. Định nghĩa hợp đồng vay tài sản
Trong nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động đều được tiền tệ hoá. Do
vậy, mỗi chủ thể phải có một nguồn vốn nhằm thoả mãn nhu cầu của mình và
tự chủ trong việc sử dụng nguồn vốn đó. Tuy nhiên, không phải lúc nào nhu
cầu về vốn cũng được đáp ứng đầy đủ. Sự không ăn khớp giữa nguồn vốn và
sử dụng vốn của mỗi chủ thể trong xã hội dẫn đến tình trạng thừa hoặc thiếu
vốn. Vấn đề đặt ra lúc này là nhu cầu giao lưu vốn xuất hiện. Hợp đồng vay
tài sản ra đời để giải quyết nhu cầu này. Nhà nước đã tạo điều kiện cho
nhân dân vay vốn của ngân hàng với mức lãi suất phù hợp, các hộ nông dân
nghèo có thể phát triển được sản xuất kinh doanh. Mặt khác, nhân dân vay,
mượn tài sản của nhau để tiêu dùng cho những việc cần thiết trong gia đình
hoặc để kinh doanh là việc làm phổ biến và có ý nghĩa cần được Nhà nước
khuyến khích.
Tài sản là vấn đề trung tâm, cốt lõi của mối quan hệ xã hội nói chung
và quan hệ pháp luật nói riêng. Trong khoa học pháp lý hiện đại, có nhiều
cách tiếp cận về tài sản. Theo quy định của Cộng Hoà Pháp, “Tất cả tài sản là
động sản hoặc bất động sản”. Từ quy định này có thể nhận thấy, pháp luật
của Cộng hoà Pháp không đưa ra một định nghĩa cụ thể về tài sản mà tiếp cận
thuật ngữ này gián tiếp thông qua hai “tiểu khái niệm” là “động sản” và “bất
động sản”. Nội hàm của khái niệm “tài sản” trong pháp luật của Cộng hoà
Pháp xoay quanh hai khái niệm: “động sản” và “bất động sản”.
Trong pháp luật Việt Nam, Điều 163 BLDS năm 2005 quy định: “Tài
sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản”. Đến BLDS năm 2015,
6
quy định về tài sản có chút ít thay đổi theo đó: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có
giá và quyền tài sản”. Đây không phải là một định nghĩa hoàn chỉnh về tài
sản, nhà làm luật đang cố gắng liệt kê tất cả các dạng tồn tại của tài sản trong
đời sống xã hội. Việc liệt kê các dạng tồn tại của tài sản này có thể dẫn đến
tình trạng bỏ sót một số tài sản đang hiện hữu trong thực tiễn cuộc sống, đồng
thời không chỉ rõ được các đặc tính pháp lý cơ bản để nhận diện tài sản.
Nghiên cứu quy định về tài sản trong Chương VII, BLDS năm 2015.Có
thể nhận thấy, mặc dù Điều 105 có nhắc đến tiền và giấy tờ có giá với tính
chất là một loại tài sản luật định tuy nhiên cả Chương VII hoàn toàn không
có quy định giải nghĩa hai loại tài sản này. Việc nhà lập pháp ghi nhận “quyền
tài sản” duy nhất ở một điều luật (Điều 115) trong BLDS năm 2015 và chỉ
đưa ra được một tiêu chí nhận diện quyền tài sản – “phải trị giá được bằng
tiền” là chưa làm rõ được nội hàm khái niệm quyền tài sản. Khi đối chiếu vào
điều 107 BLDS năm 2015 không thể xác định được quyền tài sản là động sản
hay bất động sản.
Theo quy định tài Điều 105 BLDS năm 2015, tài sản có thể là vật, tiền,
giấy tờ có giá hoặc quyền tài sản.
Vật với tư cách là tài sản được hiểu là đối tượng của thế giới vật chất
theo nghĩa rộng bao gồm cả động vật, thực vật, và tồn tại ở mọi trạng thái
(rắn, lỏng, khí). Tuy nhiên, để được coi là tài sản thì vật cũng phải thỏa mãn
được những đặc điểm của tài sản đã nêu ở trên. Ví dụ: nước trong một dòng
sông, không khí ngoài khí quyển không thể nằm trong sự kiểm soát, chi phối
của con người, do đó mặc dù cũng được coi là đối tượng tồn tại trong thế giới
vật chất nhưng chúng không được xem xét với tư cách là tài sản. Khi nước
được đóng vào chai, không khí được nén vào bình, con người có thể thực hiện
việc kiểm soát, chi phối chúng, khi đó nước và không khí lại được coi là tài
7
sản (tồn tại dưới dạng vật).
Tài sản là tiền. Tiền có chức năng trao đổi ngang giá với những loại tài
sản khác. Tiền do Ngân hàng Nhà nước độc quyền phát hành và được hiểu là
Việt Nam đồng. Giá trị của tiền được thể hiện ở mệnh giá trên chính đồng tiền
đó. Tiền giữ chủ quyền quốc gia, có giá trị sử dụng ổn định và được sử dụng
rộng rãi trên phạm vi lãnh thổ Việt Nam. Bên cạnh chức năng trao đổi, tiền
còn có chức năng dự trữ và thanh toán trên thị trường. Bên cạnh những đồng
tiền Việt Nam thì những ngoại tệ như USD, bảng Anh… cũng là tài sản tại
dưới dạng tiền, tuy nhiên chúng thuộc nhóm tài sản hạn chế lưu thông.
Tài sản là giấy tờ có giá. Giấy tờ có giá được hiểu là những giấy tờ trị
giá được thành tiền và có thể chuyển giao được trong giao dịch dân sự. BLDS
2015 không có quy phạm pháp luật quy định về giấy tờ có giá mà quy định về
loại tài sản này nằm Nghị định số 11/2012/NĐ-CP ngày 22/02/2012 sửa đổi,
bổ sung Nghị định số 163/2006/NĐ-CP ngày 29/12/2006 của Chính phủ về
giao dịch bảo đảm, Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010, Luật các
công cụ chuyển nhượng năm 2005, Luật Chứng khoán năm 2006 (sửa đổi, bổ
sung năm 2010)… Theo đó có các loại giấy tờ có giá bao gồm: cổ phiếu, trái
phiếu, hối phiếu, kì phiếu, chứng chỉ tiền gửi, séc, chứng chỉ ký quỹ…
Tài sản dưới dạng quyền tài sản. Quyền tài sản được quy định cụ thể tại
Điều 115 BLDS năm 2015. Theo đó quyền tài sản được hiểu là quyền có thể
trị giá được thành tiền, và chuyển giao được trong giao dịch dân sự. Quyền tài
sản bao gồm quyền đối với đối tượng quyền sở hữu trí tuệ, quyền sử dụng đất,
hoặc một số quyền tài sản khác như: quyền đòi nợ, quyền yêu cầu chi trả
khoản tiền bảo hiểm phát sinh từ hợp đồng bảo hiểm. Căn cứ vào cách thức
thực hiện quyền của chủ thể, quyền tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có
thể được chia làm hai nhóm, quyền đối vật và quyền đối nhân. Trong quan
niệm của người La-tinh, khối tài sản có của một người được tạo thành từ hai
8
loại quyền: Quyền đối vật – tức là các quyền được thực hiện trên các vật cụ
thể và xác định; quyền đối nhân – bao gồm các quyền tương ứng với các
nghĩa vụ tài sản mà người khác phải thực hiện vì lợi ích của người có quyền.
Hiểu một cách khái quát, quyền đối vật là quyền của chủ thể được thực hiện
các hành vi trực tiếp trên những vật cụ thể mà không cần sự cho phép hay hợp
tác của các chủ thể khác. Các quyền tài sản thể hiện dưới dạng quyền đối vật
trong Bộ luật Dân sự năm 2015 có thể kể đến là quyền sở hữu, quyền hưởng
dụng, quyền bề mặt, quyền đối với bất động sản liền kề; quyền của bên bảo
đảm đối với tài sản bảo đảm…
Đối lập với quyền đối vật là quyền đối nhân. Quyền đối nhân được thiết
lập trong mối quan hệ giữa hai người, hai chủ thể của quan hệ pháp luật. Có
thể hiểu, quyền đối nhân là quyền cho phép một người yêu cầu một người
khác đáp ứng đòi hỏi của mình nhằm thoả mãn một nhu cầu gắn liền với một
lợi ích vật chất của mình. Mối quan hệ giữa hai người này còn gọi là quan hệ
nghĩa vụ. Bản chất quyền đối nhân là quyền của chủ thể (chủ thể quyền) được
yêu cầu một chủ thể khác (chủ thể có nghĩa vụ) phải thực hiện một hành vi
nhất định, nói cách khác quyền của chủ thể quyền trong quan hệ nghĩa vụ chỉ
được thỏa mãn thông qua hành vi thực hiện nghĩa vụ của chủ thể có nghĩa vụ.
Tiêu biểu cho các quyền tài sản dưới dạng quyền đối nhân theo quy định của
Bộ luật Dân sự năm 2015 gồm quyền đòi nợ, quyền yêu cầu cấp dưỡng,
quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân
phẩm, uy tín bị xâm phạm…
Từ điển Tiếng Việt giải nghĩa “vay” được hiểu là “nhận tiền hay vật gì
của người khác để chi dùng trước với điều kiện sẽ trả tương đương hoặc có
thêm phần lãi”. Như vậy, dưới góc độ là quan hệ xã hội, quan hệ vay tài sản
phải có ít nhất hai chủ thể tham gia, được xác lập trên cơ sở thỏa thuận giữa
các bên, đối tượng của quan hệ là tiền hoặc vật bất kỳ. Về phương diện chủ
9
quan, hợp đồng vay tài sản là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự
trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thỏa thuận để cùng nhau làm phát sinh
các quyền và nghĩa vụ dân sự nhất định.
Ngay từ thời La Mã cổ đại, hợp đồng vay tài sản đã trở thành một trong
những hợp đồng thông dụng nhất của pháp luật về hợp đồng. Luật của
Justinian còn quy định: "Các bên trong hợp đồng vay tài sản cũng không được
thỏa thuận về lãi suất theo kiểu lãi mẹ đẻ lãi con". Dưới chế độ cũ ở miền
Nam Việt Nam, trong Bộ Dân luật Sài Gòn 1972, tại chương V: nói về khế
ước vay mượn, Điều 1156 quy định:
" Có hai loại khế ước vay mượn:
1. Vay mượn vật không bị tiêu thất vì sự hành dụng: đó là khế ước
mượn dùng;
2. Vay mượn vật nếu đã dùng sẽ không còn nữa: đó là khế ước vay nợ "
Tại Điều 1173, khế ước vay nợ được định nghĩa như sau: "Khế ước vay
nợ là khế ước trong đó, một bên đương sự giao cho bên kia một số đồ vật sẽ
bị tiêu thất do sự tiêu thụ, người vay khi tới hạn sẽ phải hoàn trả lại đúng số
lượng, cùng loại, cùng hạng như đồ vật đã vay, mặc dầu đồ vật ấy có tăng giá
hay sụt giá".
Trước đây, BLDS năm 2005 định nghĩa hợp đồng vay: “Hợp đồng vay
tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên theo đó, bên cho vay giao tài sản cho
bên vay; khi đến hạn trả, bên cho vay phải hoàn trả cho bên vay vật cùng loại
theo đúng số lượng, đúng chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định”.
Hiện nay, hơp đồng vay được quy định tại Điều 463 BLDS năm 2015:
“Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên cho vay
giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên cho
vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi nếu
có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”. Có thể nhận thấy, về cơ bản định
nghĩa về hợp đồng vay tài sản trong hai BLDS không có gì khác nhau. Hợp
10
đồng vay tài sản được xác lập dựa trên các yếu tố: (i) sự thoả thuận, thống
nhất ý chí giữa các bên; (ii) thời hạn hợp đồng – do các bên thoả thuận; (iii)
Đối tượng của hợp đồng là tiền hoặc vật cùng loại.
Xuất phát từ nguyên tắc "tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận tại Điều
3 BLDS năm 2015, hợp đồng vay tài sản phải được hình thành sự thoả thuận
và thống nhất ý chí giữa các bên. Thỏa thuận ở đây là sự thỏa thuận giữa bên
cho vay và bên vay trong hợp đồng. Hợp đồng có được thiết lập hay không là
do sự thỏa thuận giữa các bên, tức phải có sự thống nhất ý chí giữa các bên
trong việc làm phát sinh quyền và nghĩa vụ nhất định, bởi vì ý chí là khả năng
tự xác định mục đích cho hành động và hướng hoạt động của mình, khắc phục
khó khăn nhằm đạt mục đích đó. Sự thỏa thuận này tất nhiên không vi phạm
điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội. Đặc biệt, các bên chủ thể khi
giao kết hợp đồng phải có sự tự nguyện – tức là phải có sự thống nhất ý chí và
bày tỏ ý chí của từng chủ thể trong hợp đồng. Khi đó, nếu các bên tham gia
hợp đồng không có sự tự nguyện thì hợp đồng sẽ dẫn đến vô hiệu và khi có
tranh chấp đối với hợp đồng này thì là cơ sở để cơ quan Nhà nước có thẩm
quyền tham gia giải quyết.
Trên cơ sở những vấn đề pháp lý về hợp đồng vay tài sản trong BLDS
năm 2005 và BLDS năm 2015 cũng như những vấn đề có liên quan. Chúng
tôi có cùng quan điểm về định nghĩa hợp đồng vay như Điều 463 BLDS năm
2015, theo đó: “Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó
bên cho vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả
cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải
trả lãi nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định”.
1.1.2. Đặc điểm về hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng đặc biệt của hợp đồng dân sự, do vậy
bên cạnh những đặc điểm chung của hợp đồng dân sự thì hợp đồng vay tài sản
cũng có những đặc điểm riêng của nó. Đây chính là cơ sở giúp ta phân biệt
hợp đồng vay tài sản với các loại hợp đồng dân sự khác.
11
- Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng đơn vụ hoặc hợp đồng song vụ
Căn cứ vào mối quan hệ về quyền và nghĩa vụ của các bên tại thời điểm
có hiệu lực của hợp đồng. Các hợp đồng thông dụng được chia làm 02 loại:
hợp đồng đơn vụ và hợp đồng song vụ. Hợp đồng đơn vụ là hợp đồng mà tại
thời điểm hợp đồng có hiệu lực, chỉ một bên chủ thể có quyền đối với bên kia
và ngược lại. Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà từ thời điểm có hiệu lực của
hợp đồng, các bên chủ thể đều có quyền và nghĩa vụ đối với nhau. Do đó nếu
trong hợp đồng vay tài sản, các bên thoả thuận nghĩa vụ giao tài sản của bên
vay cho bên đi vay sau thời điểm giao kết (thời điểm có hiệu lực của hợp
đồng) thì hợp đồng này được xác định là hợp đồng song vụ. Trường hợp các
bên có thoả thuận bên cho vay chuyển giao tài sản vay cho bên đi vay ngay tại
thời điểm giao kết, thì hợp đồng vay được xác định là hợp đồng đơn vụ.
Từ thời điểm này trở đi, người cho vay có quyền yêu cầu người vay sử
dụng tài sản vay đúng mục đích (nếu có thoả thuận), có quyền yêu cầu người vay
hoàn trả lại tài sản đã vay cùng loại, theo đúng số lượng, chất lượng và một
khoản lãi (nếu có) khi đến hạn, còn người vay không có quyền gì đối với người
cho vay. Chính vì vậy, hợp đồng vay tài sản được xem là hợp đồng đơn vụ.
- Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có đền bù hoặc không có đền bù
Căn cứ vào lợi ích đem lại cho các bên khi xác lập quan hệ hợp đồng.
Các hợp đồng dân sự được chia làm 02 loại, hợp đồng có đền bù và hợp đồng
không có đền bù. Hợp đồng vay tài sản có thể là hợp đồng có đền bù hoặc
không có đền bù.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng có tính đền bù khi một bên sau khi đã
thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận lại một lợi ích tương ứng. Hợp đồng
vay tài sản có tính đền bù được áp dụng có tính chất bắt buộc trong hoạt động
tín dụng của ngân hàng. Các tổ chức tín dụng cho vay tiền đều có quy định
mức lãi suất tương ứng tùy thuộc vào từng thời điểm, tính chất và đặc điểm
12
của hợp đồng vay tài sản. Hoặc trong trường hợp bên này cho bên kia vay và
có thỏa thuận là vay có lãi thì tới thời hạn trả nợ bên vay không những trả nợ
gốc mà còn trả số tiền lãi mà các bên đã thỏa thuận nhưng phải phù hợp với
quy định của pháp luật.
Hợp đồng vay tài sản là hợp đồng không có tính đền bù khi trong hợp
đồng vay các bên không thoả thuận về lãi suất. Khi đến hạn trả nợ, bên vay
chỉ có nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ lại số tiền vay hoặc vật cùng loại cho bên cho
vay, mà không trả thêm bất kỳ một khoảng lợi ích vật chất nào khác, hay một
giá trị tài sản nào khác. Loại hợp đồng này có tính chất tương rợ, giúp đỡ lẫn
nhau giữa các chủ thể nhằm khắc phục những khó khăn tạm thời của đời sống
hoặc giúp đỡ nhau phát triển sản xuất kinh doanh là chính, chủ yếu được giao
kết giữa các chủ thể có mối quan hệ quen biết lẫn nhau.
- Hợp đồng vay tài có hậu quả pháp lý làm chuyển giao quyền sở hữu
tài sản vay từ bên cho vay sang cho bên vay
Đây là dấu hiệu để phân biệt hợp đồng vay tài sản với các hợp đồng
dân sự thông dụng khác như: hợp đồng mượn tài sản, hợp đồng thuê tài sản.
Vì trong hai hợp đồng này, người mượn và người thuê tài sản không trở thành
chủ sở hữu tài sản mượn và thuê, mà chỉ có quyền chiếm hữu, sử dụng tài sản
đã mượn, thuê trong một thời gian nhất định do hai bên thoả thuận. Khi hết
hạn, bên mượn, bên thuê phải trả đúng tài sản đã mượn, thuê cho bên cho
mượn, bên cho thuê tài sản. Còn trong hợp đồng vay tài sản, "bên vay trở
thành chủ sở hữu tài sản vay kể từ thời điểm nhận tài sản đó". Bên vay có
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản vay. Hết thời hạn vay, bên vay
chỉ cần trả cho bên cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất
lượng, mà không phải trả lại đúng tài sản đã vay.
Như vậy, khi giao kết hợp đồng vay tài sản thì bên cho vay chuyển giao
tài sản đồng thời chuyển giao quyền sở hữu tài sản đó cho bên vay. Tuy
13
nhiên, bên vay chỉ trở thành chủ sở hữu đối với tài sản vay khi nhận được tài
sản vay đó với sự thống nhất với bên cho vay về một số điều kiện vay. Điều
kiện vay có thể là lãi suất, là việc sử dụng tài sản vay đúng mục đích… và đặc
biệt là hoàn trả tài sản vay sau một thời gian nhất định.
- Đối tượng của hợp đồng vay là tiền hoặc vật cùng loại
Do tính chất của hợp đồng vay, bên cho vay sẽ chuyển giao quyền sở
hữu tài sản vay của mình sang cho bên đi vay. Với tư cách là chủ sở hữu tài
sản vay từ thời điểm nhận tài sản, bên cho vay có quyền chiếm hữu, sử dụng,
định đoạt tài sản đó. Hết thời hạn vay bên vay sẽ không thể trả lại chính tài
sản vay mà chỉ có thể trả lại giá trị tài sản vay (và lãi nếu có thoả thuận).
Chính vì vậy đối tượng của hợp đồng vay tài sản chỉ có thể là tiền hoặc các
vật cùng loại
1.1.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là một dạng của giao dịch dân sự, vì vậy, để phát
sinh hiệu lực trên thực tế, hợp đồng vay tài sản phải thoả mãn đầy đủ các điều
kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự quy định tại Điều 117 BLDS năm 2015.
Cụ thể là các điều kiện sau:
Thứ nhất, chủ thể của hợp đồng vay tài sản phải có năng lực giao kết
hợp đồng. Chủ thể giao kết hợp đồng vay tài sản phải thỏa mãn đầy đủ về
năng lực hành vi dân sự và năng lực pháp luật. Những người từ đủ 15 tuổi đến
18 tuổi đã có thể là chủ thể giao kết hợp đồng vay tài sản. Khi một hợp đồng
vay tài sản được giao kết hợp pháp, tuỳ thuộc vào từng trường hợp cụ thể, hợp
đồng vay sẽ phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý cho các bên ngay từ thời
điểm giao kết hoặc một thời điểm các bên đã thoả thuận rõ trong nội dung
hợp đồng, do vậy để hợp đồng có hiệu lực pháp lý và có khả năng thực hiện,
người giao kết hợp đồng phải có khả năng nhận thức hành vi giao kết hợp
đồng cũng như hậu quả của việc giao kết hợp đồng. Đối với cá nhân, tổ chức
14
giao kết hợp đồng phải đúng thẩm quyền.
Thứ hai, Khi giao kết hợp đồng vay tài sản, các bên phải hoàn toàn tự
nguyện. yếu tố tự nguyện khi giao kết hợp đồng được thể hiện ở hai nội dung:
(i) có sự thỏa thuận thống nhất giữa ý chí bên trong và sự thể hiện ý chí ra bên
ngoài khi xác lập hợp đồng; (ii) các bên không bị lừa dối, đe doạ, ép buộc
giao kết hợp đồng.
Xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong quan hệ giao
kết, sự thoả thuận giữa các bên phải hoàn toàn tự nguyện, không có bất kỳ
một sự ép buộc nào. Việc thể hiện ý chí của các bên phù hợp với nguyện vọng
thực của họ, hướng đến những lợi ích chính đáng của các bên, đồng thời
không xâm hại đến những lợi ích mà pháp luật cần bảo vệ. Việc giao kết hợp
đồng nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng phải tuân theo các nguyên
tắc: tự do giao kết những không trái pháp luật và đạo đức xã hội: Tự nguyện,
bình đẳng, thiện chí... Những hành vi cưỡng ép, đe dọa, lừa dối để giao kết
hợp đồng... là lý do dẫn đến hợp đồng bị coi là vô hiệu.
Thứ ba, mục đích và nội dung của hợp đồng vay tài sản không vi phạm
điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội. Mục đích của hợp đồng là
những lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn đạt được khi giao kết hợp
đồng. Trong hợp đồng vay, các bên có thể thoả thuận rõ về nội dung sử dụng
tài sản vay vào mục đích nào đó ví dụ như để tiêu dùng, để đầu tư sản xuất
kinh doanh… Tuy nhiên một giới hạn mà BLDS đặt ra cho các bên khi xác
lập hợp đồng vay với mục đích vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức
xã hội thì hợp đồng vay đó sẽ vô hiệu. Ví dụ, hợp đồng vay có mục đích sử
dụng tiền vay để cá cược bóng đá, chơi lô đề; hợp đồng vay có mục đích sử
dụng tiền vay để mua ma tuý…
Thứ tư, hình thức của hợp đồng vay tài sản phải tuân theo quy định của
pháp luật. BLDS năm 2015 không quy định hình thức bắt buộc của hợp đồng
15
vay tài sản, vì vậy quy định về hình thức chung của giao dịch dân sự được áp
dụng cho các hợp đồng vay tài sản. Theo đó, hợp đồng vay tài sản có thể được
xác lập dưới hình thức miệng hoặc hình thức văn bản (bao gồm cả hình thức
văn bản có công chứng). Vì vậy tuỳ từng trường hợp cụ thể, phụ thuộc vào
giá trị của tài sản cho vay mà sự thoả thuận thống nhất ý chí của các bên có
thể bằng miệng, bằng văn bản hoặc văn bản phải được công chứng.
1.2. Chủ thể, đối tượng, thời hạn, lãi suất trong hợp đồng vay tài sản
1.2.1. Chủ thể của hợp đồng vay tài sản
Trước đây, theo quy định của BLDS năm 2005, các chủ thể của quan
hệ pháp luật dân sự nói chung cũng như các chủ thể của hợp đồng vay tài sản
nói chung bao gồm: cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên từ
thời điểm ngày 01/01/2017 khi BLDS năm 2015 có hiệu lực, chủ thể trong
hợp đồng vay tài sản chỉ bao gồm: cá nhân và pháp nhân. Các cá nhân và
pháp nhân này phải có đủ năng lực chủ thể khi giao kết hợp đồng vay tài sản
* Chủ thể cá nhân
Đây là chủ thể nguyên sinh, đầu tiên và phổ biến nhất của các quan hệ dân
sự nói chung và quan hệ vay tài sản nói riêng, các chủ thể khác khi tham gia vào
quan hệ dân sự cũng đều phải thông qua hành vi của con người cụ thể. Vì vậy,
để tham gia vào quan hệ vay tài sản, cá nhân phải có tư cách chủ thể, tức là năng
lực pháp luật và năng lực hành vi phù hợp theo quy định pháp luật. Theo quy
định tại Điều 16 Bộ luật dân sự 2015, “năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là
khả năng cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự”, năng lực pháp luật của
mọi cá nhân là bình đẳng không phụ thuộc vào giới tính, dân tộc, độ tuổi hay tôn
giáo. Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi sinh và mất đi khi cá nhân
chết, và không bị hạn chế, trừ trường hợp đặc biệt.
Tuy nhiên, để có thể tự mình thao gia vào các giao dịch dân sự, trong
đó có hợp đồng vay tài sản, cá nhân còn phải thỏa mãn điều kiện về năng lực
hành vi dân sự. Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân
16
bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự. BLDS năm
2015 chia năng lực hành vi dân sự của các cá nhân thành 03 mức độ khác nhau,
dựa trên khả năng nhận thức làm chủ hành vi của cá nhân và dựa trên tiêu chí về
độ tuổi, cụ thể gồm: (i) người mất năng lực hành vi dân sự (Điều 22 BLDS năm
2015); (ii) người có năng lực hành vi dân sự một phần – không đầy đủ, gồm:
người chưa thành niên (là những người chưa đủ 18 tuổi), người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự (Điều 24); người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi (Điều 23); (iii) Những người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ (là những
người đủ 18 tuổi trở lên, không bị Toà án tuyên mất năng lực hành vi dân sự, hạn
chế năng lực hành vi dân sự hay khó khăn trong nhận thức làm chủ hành vi.
Trong các đối tượng nêu trên, chỉ có những người có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và người từ đủ 15 tuổi đến
dưới 18 tuổi mới có thể tự mình xác lập, thực hiện hợp đồng vay tài sản.
Đối với cá nhân là người nước ngoài, theo quy định tại Điều 674 BLDS
2015 năng lực hành vi dân sự của họ được xác định theo pháp luật của nước
mà người đó là công dân. Tuy nhiên, khi xác lập và thực hiện giao dịch dân
sự trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam người nước ngoài
phải tuân theo quy định của pháp luật Việt Nam về việc xác lập và thực hiện
đối với loại giao dịch dân sự đó.
* Chủ thể pháp nhân
Bộ luật dân sự năm 2015 cũng như các BLDS của Việt Nam trước đây
đều không có quy phạm định nghĩa về pháp nhân mà chỉ có những quy định
dưới dạng liệt kê một các điều kiện để một tổ chức trở thành pháp nhân. Cụ
thể, tại khoản 1 Điều 74 BLDS năm 2015 quy định 04 điều kiện để trở thành
pháp nhân, cụ thể:
Thứ nhất, được thành lập hợp pháp theo quy định của Bộ luật này, luật
khác có liên quan. Pháp nhân ở Việt Nam có thể được thành lập hợp pháp
17
theo 3 con đường:
+ Theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Ví dụ:
Giám đốc sở xây dựng của tỉnh X ra quyết định thành lập một trung tâm quy
hoạch của sở xây dựng của tỉnh X. Bộ trưởng Bộ tư pháp ra quyết định thành
lập trường Trung cấp Luật Đồng Hới, Quảng Bình…
+ Theo trình tự cho phép thành lập. Ví dụ: Việc thành lập đoàn luật
sư của một tỉnh sẽ thông qua các bước sau: 1. Những người sáng lập gửi hồ sơ
đề nghị thành lập Đoàn Luật sư đến Sở Tư pháp; 2. Sở Tư pháp chủ trì, phối
hợp với Sở Nội vụ thẩm định hồ sơ và trình UBND tỉnh quyết định thành lập.
3. UBND tỉnh có văn bản gửi Bộ Tư pháp về việc thành lập Đoàn luật sư tại
địa phương. 4. Trên cơ sở văn bản nhất trí của Bộ trưởng Bộ Tư pháp. UBND
tỉnh quyết định thành lập Đoàn Luật sư. Trong trường hợp từ chối thì phải
thông báo lý do bằng văn bản.
+ Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền công nhận. Ví dụ, việc
thành lập các loại pháp nhân là doanh nghiệp thông qua việc đăng ký kinh
doanh ở phòng đăng ký kinh doanh trực thuộc Sở kế hoạch đầu tư các tỉnh.
Thứ hai, có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật
này. BLDS năm 2005 quy định về điều kiện bắt buộc của một tổ chức có tư
cách pháp nhân là phải có cơ cấu tổ chức chặt chẽ, tuy nhiên khi thực hiện
trong thực tiễn đã xảy ra không ít những vướng mắc cần phải nghiên cứu lại.
Cơ cấu tổ chức như thế nào được coi là cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Ví dụ, một
tập thể lớp bao gồm ban cán sự, chi đoàn thanh niên và các thành viên có
được coi là có cơ cấu tổ chức chặt chẽ không? Hay khoa pháp luật Dân sự, có
cơ cấu gồm: ban lãnh đạo khoa, trưởng khoa, 2 phó khoa phụ trách, 3 tổ bộ
môn trực thuộc và trung tâm luật SHTT có được coi là có cơ cấu tổ chức chặt
chẽ không? Thông thường một pháp nhân được coi là cơ cấu tổ chức chặt chẽ
khi đáp ứng 2 điều kiện: Pháp nhân phải là một tập thể người được sắp xếp
18
dưới một hình thái nào đó (doanh nghiệp, bện viện, trường học...) phù hợp với
chức năng và lĩnh vực hoạt động của pháp nhân; Có sự thống nhất về tổ chức,
độc lập về hoạt động được quy định cụ thể trong quyết định thành lập, điều lệ
của từng loại tổ chức – phân biệt với các phòng, ban, khoa trong các trường
học, trong các tổ chức. Mặc dù có sự thống nhất về tổ chức nhưng không có
sự độc lập trong hoạt động nên không thể coi là pháp nhân.
Theo quy định của BLDS năm 2015, pháp nhân phải có cơ cấu tổ
chức theo quy định của Điều 83 tức là pháp nhân phải có cơ quan điều hành.
Cơ quan điều hành phải là một tập thể gồm nhiều người và có trụ sở làm việc
cụ thể. Tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan điều hành được quy định
trong điều lệ của pháp nhân hoặc trong quyết định thành lập pháp nhân.
Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu
trách nhiệm bằng tài sản của mình. Tài sản của mỗi pháp nhân phải độc lập
vơi tài sản của pháp nhân khác và độc lập với tài sản của thành viên pháp
nhân. Yếu tố độc lập ở đây phải hiểu là khi pháp nhân có nghĩa vụ về tài sản
thì không được lấy tài sản riêng của thành viên pháp nhân ra để thực hiện
nghĩa vụ và ngược lại, khi thành viên của pháp nhân có nghĩa vụ tài sản với ai
đó thì không được phép kê biên tài sản của pháp nhân để trả nợ. Liên quan
đến nội dung này cần xem xét về một số loại pháp nhân, ví dụ các cơ quan
Nhà nước ở địa phương là pháp nhân nhưng tài sản sản của các pháp nhân này
là tài sản thuộc sở hữu toàn dân do pháp nhân Nhà nước đại diện và quản lý.
Vậy tài sản của các pháp nhân là cơ quan nhà nước có được coi là độc lập với
pháp nhân khác hay không? Hay trong Luật Doanh nghiệp quy định về các
công ty Nhà nước (tồn tại dưới dạng trách nhiệm hữu hạn một thành viên do
nhà nước làm chủ sở hữu), nhà nước sở hữu 100% số vốn điều lệ.
Tài sản của pháp nhân được hình thành từ các nguồn sau: vốn góp
của các thành viên; lãi từ hoạt động sản xuất, kinh doanh của pháp nhân; tài
19
sản được tặng cho, thừa kế; tài sản của nhà nước được nhà nước giao quyền
quản lý, sử dụng (đối với pháp nhân là các lực lượng vũ trang, doanh nghiệp
nhà nước...). Trên cơ sở có tài sản riêng, pháp nhân phải chịu trách nhiệm
bằng tài sản riêng của mình – chịu trách nhiệm về những hành vi của pháp
nhân. Trách nhiệm của pháp nhân là trách nhiệm hữu hạn trong phạm vi tài
sản riêng của pháp nhân. Câu hỏi: Có trường hợp nào tồn tại trách nhiệm vô
hạn của thành viên pháp nhân đối với nghĩa vụ tài sản của pháp nhân không?
(Các công ty hợp danh có tư cách pháp nhân nhưng các thành viên hợp danh
phải chịu trách nhiệm vô hạn đối với những nghĩa vụ tài sản của pháp nhân).
Thứ tư, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ một các độc lập.
Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp
luật dân sự bình đẳng như những chủ thể khác. Pháp nhân có khả năng hưởng
quyền và gánh chịu những nghĩa vụ dân sự do điều lệ của pháp nhân quy định
phù hợp với quy định pháp luật.
Hiện nay, các pháp nhân ngày càng phổ biến tham gia vào các quan hệ
vay tài sản dưới dạng các hợp đồng tín dụng. Chủ thể của hợp đồng tín dụng
thường được giao kết giữa các pháp nhân thương mại (các tổ chức kinh tế
hoạt động theo Luật Doanh nghiệp) với một bên là tổ chức tín dụng hoạt động
hợp pháp ở Việt Nam. Tổ chức tín dụng bao gồm ngân hàng, tổ chức tín dụng
phi ngân hàng, tổ chức tài chính vi mô và quỹ tín dụng nhân dân, trong đó
Ngân hàng là tổ chức tín dụng phổ biến và giữ vị trí quan trọng trong hoạt
động tín dụng. Khi tham gia vào hợp đồng vay tài sản, Ngân hàng với tư cách
là trung tâm kinh doanh tiền tệ vừa là người cho vay. Ngân hàng có quyền
cho các tổ chức, cá nhân vay để hoạt động sản xuất, kinh doanh với lãi suất
nhất định, đồng thời cũng được phép huy động nguồn vốn nhàn rỗi trong nhân
dân dưới hình thức gửi tiết kiệm có lãi suất theo Nhà nước quy định để kinh
doanh. Khi giao kết hợp đồng vay với pháp nhân hoặc cá nhân có nhu cầu vay
20
vốn, các ngân hang thương mại thường yêu cầu có biện pháp bảo đảm thực
hiện nghĩa vụ trả nợ của bên đi vay. Biện pháp bảo đảm thường được lựa
chọn ở đây là thế chấp tài sản, bão lãnh hoặc cầm cố tài sản.
* Chủ thể là Tổ chức tín dụng:
Pháp luật Việt Nam hiện hành đề cập các tổ chức tín dụng (TCTD) như
là chủ thể bắt buộc của hợp đồng cho vay (HĐCV). Theo khoản 1, Điều 4
Luật các TCTD năm 2010 thì: “TCTD là doanh nghiệp thực hiện một, một số
hoặc tất cả các hoạt động ngân hàng”. Như vậy, nhà lập pháp đã xác lập phạm
vi hoạt động của TCTD, một loại hình doanh nghiệp đặc thù trong nền kinh
tế. Đồng thời Luật các TCTD năm 2010 cũng nghiêm cấm các tổ chức, cá
nhân sử dụng thuật ngữ “ngân hàng” trong tên của doanh nghiệp hoặc thể
hiện phạm vi hoạt động của doanh nghiệp nếu không phải là TCTD.
Đây là sự khác biệt cơ bản so với chủ thể hợp đồng vay tài sản (bao
hàm cả vay tiền) trong dân sự (Điều 463 Bộ luật Dân sự năm 2015) vốn dĩ
được giao kết giữa bất kỳ tổ chức, cá nhân nào. Điểm tương đồng của các
dạng hợp đồng này là nghĩa vụ hoàn trả đầy đủ tiền vay và lãi suất nhưng mục
đích, ý nghĩa cho vay có sự khác biệt. Với quy định mới cho phép các bên
thỏa thuận về lãi suất không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay
(khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015), pháp luật dân sự hướng đến mục đích
bảo vệ quyền lợi vật chất của bên cho vay, tránh sự phụ thuộc quá nhiều vào
vốn vay của ngân hàng nên giao dịch này mang ý nghĩa sinh lời. Ngoài ra, nó
có nguy cơ lấn át hoạt động chuyên nghiệp của ngân hàng vì thủ tục đơn giản,
thông thường không cần thế chấp để bảo đảm khoản vay.
Về bản chất, các TCTD là những doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ với
phương thức huy động vốn và cấp tín dụng. Nguồn vốn mà TCTD chuyển
giao cho bên đi vay sử dụng tạm thời (cấp tín dụng) có nguồn gốc do TCTD
huy động từ công chúng. Khi chuyển giao nguồn vốn tiền tệ để sử dụng tạm
21
thời theo nguyên tắc có hoàn trả cả vốn và lãi vay,[2] TCTD phải tuân thủ các
yêu cầu kiểm soát nghiêm ngặt được Nhà nước đặt ra thông qua quy định cấm
cho vay, hạn chế cho vay, cho vay có bảo đảm.
Như vậy, chế định HĐCV với chủ thể một bên là các TCTD (chủ thể
này có thể có nhiều ngân hàng cùng tham gia khi cho vay hợp vốn, còn gọi là
cho vay đồng tài trợ áp dụng đối với khoản vay phức tạp, giá trị khoản vay
lớn, được cấp cho người vay bởi một nhóm các ngân hàng),[3] chịu sự điều
chỉnh của pháp luật ngân hàng, phù hợp với bản chất là một chế định trung
gian, điều tiết vốn, tách bạch với hợp đồng vay tài sản tương tự như pháp luật
thực định ở các nước trên thế giới.
* Các chủ thể khác
Ngoài các chủ thể là cá nhân, pháp nhân, trong quan hệ vay tài sản còn
phải kể đến các chủ thể khác, đó là hộ gia đình, tổ hợp tác và tổ chức khác
không có tư cách pháp nhân. Ba chủ thể này khi tham gia vào quan hệ vay tài
sản sẽ thông qua hành vi của người đại diện.
Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp
tác, tổ chức khác không có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập,
thực hiện giao dịch dân sự hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự. Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản,
trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi có sự thay đổi người đại diện thì phải
thông báo cho bên tham gia quan hệ dân sự biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác không
có tư cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên
khác ủy quyền làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ
dân sự do mình xác lập, thực hiện.
Như vậy, các chủ thể tham gia xác lập hợp đồng vay tài sản dù là cá
22
nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác hay tổ chức khác không có tư cách
pháp nhân thì cũng đều phải thông qua hành vi của cá nhân với các điều kiện
về năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự và cá nhân đó phải
thỏa mãn điều kiện về đại diện theo quy định pháp luật; đồng thời việc giao
kết phải phù hợp với các quy định của pháp luật thì làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của chủ thể đó. Điều kiện về chủ thể là một trong những điều kiện để
khi tranh chấp Tòa án xác định giá trị hiệu lực pháp luật của hợp đồng vay tài
sản đó.
1.2.2. Đối tượng của hợp đồng vay tài sản
Dưới góc độ khoa học pháp lý, đối tượng của hợp đồng vay tài sản
chính là tài sản. Đây là một trong những điều khoản cơ bản trong hợp đồng
vay tài sản mà bắt buộc các bên phải thoả thuận khi xác lập hợp đồng. Tại
Điều 463 BLDS năm 2015 quy định Hợp đồng vay tài sản một lần nữa khẳng
định đối tượng của hợp đồng vay tài sản là tài sản.
Theo quy định tại Điều 105 BLDS năm 2015, "Tài sản là vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản". Điều này có đồng nghĩa với cách hiểu tất cả các
tài sản đều có thể trở thành đối tượng của hợp đồng vay tài sản hay không?
Câu trả lời là không phải. Do đặc điểm của hợp đồng vay tài sản, bên cho vay
sẽ chuyển giao tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên vay sở hữu. Bên vay có
quyền sở hữu đối với tài sản vay từ thời điểm nhận tài sản, với tư cách là chủ
sở hữu tài sản bên đi vay có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản đó.
Vì vậy đối tượng của hợp đồng không thể là bất động sản, là các vật đặc định.
Nói cách khác, đối tượng của hợp đồng vay chỉ có thể là tiền và vật cùng loại.
Đặc tính này giúp cho việc bên đi vay có thể trả lại tài sản cho bên vay khi hết
thời hạn vay. Thực tiễn xét xử tranh chấp về hợp đồng vay tài sản cho thấy,
đối tượng của hợp đồng vay tài sản thường là tiền, vì tiền tiện lợi cho việc
23
trao đổi và thuận tiện cho việc thanh toán khi trả nợ.
Khi đối tượng cửa hợp đồng vay là vật cùng loại, vật đó không nhất
thiết phải tồn tại ở thời điểm giao kết hợp đồng, mà có thể được thực hiện đối
với những vật sẽ được hình thành trong tương lai, miễn là tại thời điểm giao
kết hợp đồng các bên có ý thức xác nhận về nó. Vật cùng loại là đối tượng của
hợp đồng vay không phải là vật bị hạn chế hoặc cấm lưu thông. Ngoài ra vật
cho vay còn phải là vật phải xác định được (nghĩa là các bên không thể thỏa
thuận một cách chung chung mà phải xác định rõ về chủng loại, về chất lượng
và lượng) và thuộc quyền sở hữu của bên cho vay
Khi đối tượng của hợp đồng vay là tiền. Theo quy định của BLDS năm
2015, tiền là một loại tài sản nhưng lại không có quy định để làm rõ bản chất
pháp lý của tiền. Vậy, có thể hiểu chỉ có loại tiền có giá trị đang được lưu
hành trên thực tế, tức là được pháp luật thừa nhận, mới được coi là tài sản.
Hiện nay, tiền chỉ có hai loại là tiền giấy, tiền kim loại. Tiền là công cụ thanh
toán đa năng, là công cụ tích lũy tài sản và là thước đo giá trị. Pháp luật nước
ta không cho phép ngoại tệ là đối tượng của hợp đồng vay tài sản. Điều 22
Pháp lệnh Ngoại hối năm 2005 đã quy định: "Trên lãnh thổ Việt Nam, mọi
giao dịch, thanh toán, niêm yết, quảng cáo của người cư trú, người không cư
trú không được thực hiện bằng ngoại tệ, trừ các giao dịch với tổ chức tín
dụng, các trường hợp thanh toán thông qua trung gian gồm thu hộ, ủy thác,
đại lý và các trường hợp cần thiết khác được Thủ tướng Chính phủ cho phép".
Như vậy, ngoại tệ là tài sản thuộc loại bị hạn chế lưu thông. Chỉ các tổ chức
tín dụng được Nhà nước cho phép mới có quyền cho vay tài sản là ngoại tệ.
Pháp luật không cho phép công dân thực hiện bất cứ giao dịch mua bán hay
vay mượn ngoại tệ với nhau. Do đó, ngoại tệ chỉ có thể là đối tượng của Hợp
đồng vay tài sản khi các chủ thể tham gia có đủ các điều kiện theo quy định
của pháp luật. Trên thực tế, các bên không phải là tổ chức, cá nhân được phép
24
hoạt động ngoại hối vẫn mua bán, thanh toán cho vay bằng ngoại tệ mà Nhà
nước không thể kiểm soát được. Tuy nhiên, nếu khi có tranh chấp xảy ra, thì
quy định của BLDS sẽ là căn cứ để Tòa án xác định giá trị pháp lý của hợp
đồng vay tài sản đó.
1.2.3. Thời hạn của hợp đồng vay tài sản
Thời hạn của hợp đồng vay được hiểu là khoảng thời gian xác định, khi
hết thời hạn đó, bên đi vay sẽ phải trả lại giá trị tài sản vay và lãi (trong
trường hợp các bên có thoả thuận) cho bên cho vay. Thời hạn vay có thể tính
theo ngày, tháng, năm. Nó có ý nghĩa rất quan trọng trong hợp đồng vay, đó
là một trong những cơ sở để tính lãi suất.
Khi hết thời hạn cho vay mà bên vay không trả nợ hoặc trả nợ không
đầy đủ, thì số nợ đến hạn phải chuyển sang nợ quá hạn và bên vay phải chịu
lãi suất nợ quá hạn đối với số tiền chậm trả theo quy định của pháp luật. Bên
cạnh đó, thời hạn cho vay còn có ý nghĩa trong việc xử lý tài sản dùng để đảm
bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ, khi hết thời hạn vay bên vay không trả nợ hoặc
trả không đầy đủ, bên cho vay sẽ có quyền sử lý tài sản bảo đảm.
Căn cứ vào kỳ hạn vay, có thể chia hợp đồng vay làm 02 loại: hợp đồng
vay có kỳ hạn và hợp đồng vay không có kỳ hạn. Về cơ bản khái niệm thời
hạn vay và kỳ hạn vay được hiểu theo nghĩa giống nhau. Tuy nhiên việc đồng
nhất hai khái niệm này là không chính xác. Theo quy định tại khoản 3 Điều 3
Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng (ban hành kèm
theo Quyết định số 1627/2001/QĐNHNN, ngày 31/12/2001 của Thống đốc
Ngân hàng Nhà nước) quy định:
Kỳ hạn trả nợ là các khoảng thời gian trong thời hạn cho vay đã được
thoả thuận giữa tổ chức tín dụng và khách hàng mà tại cuối mỗi khoảng thời
gian đó khách hàng phải trả một phần hoặc toàn bộ vốn vay cho tổ chức tín
25
dụng. Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt
đầu nhận vốn vay cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được
thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng giữa các tổ chức tín dụng và khách hàng.
Đối với trường hợp hợp đồng vay tài sản không kỳ hạn “bên cho vay có
quyền đòi lại tài sản và bên vay cũng có quyền trả nợ vào bất cứ lúc nào,
nhưng phải báo cho nhau biết trước một thời gian hợp lý, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác” (Điều 469 Bộ luật Dân sự năm 2015). Đối với hợp đồng vay
tài sản có kỳ hạn, theo quy định tại Điều 470 Bộ luật Dân sự năm 2015, “bên
vay có quyền trả lại tài sản bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước cho bên cho
vay một thời gian hợp lý, còn bên cho vay chỉ được đòi lại tài sản trước kỳ
hạn, nếu được bên vay đồng ý”. Tuy nhiên, việc bên vay trả nợ trước khi đến
kỳ hạn cho bên cho vay cũng là một hình thức vi phạm hợp đồng do vậy có
thể sẽ phát sinh phí trả nợ trước hạn nếu hai bên có thỏa thuận.
1.2.4. Lãi suất trong hợp đồng vay
Trừ các trường hợp cho vay trên cơ sở tình cảm, giúp đỡ nhau thì lợi
ích vật chất luôn là vấn đề mà các chủ thể quan tâm khi tham gia vào quan hệ
vay tài sản, ở đây lợi ích vật chất được thể hiện thông qua lãi suất các bên
thoả thuận trong hợp đồng. Bộ luật Dân sự 2015 không có một định nghĩa cụ
thể nào về lãi suất, tuy nhiên theo cách hiểu thông thường thì lãi suất có thể
được hiểu là tỷ lệ phần trăm tính trên nợ gốc mà người vay phải trả thêm vào
số tài sản đã vay tính trên một đơn vị thời gian, nếu các bên có thoả thuận về
việc trả lãi hoặc pháp luật có quy định về việc trả lãi. Thông thường tỷ lệ phần
trăm lãi suất được tính theo tháng, năm, nhưng có thể tính theo ngày nếu thời
gian vay ít hơn một tháng…
Ngoài Bộ luật dân sự 2015, thì Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐTP của
HĐTPTANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định về lãi, lãi suất, phạt vi
phạm và Án lệ số 08/2016/AL cũng đã quy định rất cụ thể về lãi, lãi suất và
26
phạt vi phạm trong hợp đồng vay tài sản.
Lãi suất trong hợp đồng vay có các đặc điểm sau:
Thứ nhất, lãi suất được phát sinh chủ yếu trong các hợp đồng vay tài
sản. Qua nghiên cứu có thể thấy lãi suất có thể xuất hiện trong các hợp đồng
đầu tư, cho thuê tài chính hoặc các hợp đồng khác và là cơ sở để tĩnh lãi. Tuy
nhiên, lãi suất chủ yếu vẫn được tồn tại trong các hợp đồng vay bởi lẽ trong
hợp đồng vay bên vay chỉ phải trả lại tài sản vay sau một thời hạn nhất định
do đó phải có một tỉ lệ xác định để tính lãi tương ứng với thời hạn vay. Hơn
nữa, nếu trong các hợp đồng khác như thuê tài chính, đầu tư thì cơ sở để tính
lãi còn dựa trên nhiều yếu tố khác như chi phí bỏ ra, công sức đóng góp…
còn trong hợp đồng vay thì cơ sở để tính lãi chủ yếu vẫn là lãi suất do các bên
thoả thuận hoặc do pháp luật quy định.
Thứ hai, lãi suất không được phát sinh một cách độc lập, nó chỉ phát
sinh do thoả thuận của các bên sau khi đã thoả thuận được số vay gốc. Bản
chất của lãi suất là một tỉ lệ nhất định mà bên vay phải trả cho bên cho vay
dựa vào số tiền vay gốc trong một thời hạn nhất định. Do đó, sẽ không thể có
tỉ lệ đó nếu như không tồn tại số tiền gốc mà các bên thoả thuận được trong
hợp đồng vay tài sản.
Thứ ba, lãi suất là cơ sở để tính lãi trong hợp đồng vay.
* Giới hạn mức lãi suất trong hợp đồng vay: Về nguyên tắc, lãi suất
cho vay do các bên tự thỏa thuận, tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng
cho vay nặng lãi, bên cho vay lợi dụng lãi suất để thu lời bất chính, và cũng
tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường
hợp không có cơ sở xác định rõ mức lãi suất đã thỏa thuận. Theo quy định
tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015, mức lãi suất tối đa các bên có thể
thoả thuận trong hợp đồng vay là 20%/1 năm. Trường hợp lãi suất theo thỏa
thuận vượt quá lãi suất giới hạn được quy định tại khoản này thì mức lãi suất
27
vượt quá không có hiệu lực. Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi,
nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được
xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại
thời điểm trả nợ.
Như vậy, BLDS năm 2015 không áp dụng lãi suất cơ bản do Ngân
hàng Nhà nước công bố làm lãi suất tham chiếu khi xác định trần lãi suất cho
vay, cũng như xác định các lãi suất liên quan đến các trách nhiệm dân sự khác
như lãi suất phát sinh do chậm trả tiền trong trách nhiệm dân sự do chậm trả
tiền trong trách nhiệm dân sự do chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền. Đây là
điểm mới quan trọng, được quy định tại Điều 468.
Việc sửa đổi quy định tại Điều 476 BLDS năm 2005, cụ thể là nâng
mức lãi suất tối đa trong hợp đồng vay lên 20%/năm sẽ trả lại tính thị trường
cho hoạt động ngân hàng. Không thể thiếu thị trường tiền tệ trong nền kinh tế
thị trường, nó luôn đi song hành với thị trường hàng hóa. Vì thế không có lí
do gì khi thị trường hàng hóa được thị trường hóa về giá cả mà thị trường tiền
tệ lại bị đóng khung bởi trần lãi suất cho vay, hơn nữa lãi suất ấy không được
hình thành trên quan hệ cung cầu về vốn.
Như vậy việc sửa đổi các quy định về lãi suất trong BLDS năm 2015 là
hoàn toàn phù hợp với chủ trương của Đảng và tình hình kinh tế thị trường
trong xã hội hiện nay. Bộ luật Dân sự năm 2015 đã có nhiều quy định mới
theo hướng linh hoạt, mở rộng quyền năng cho các chủ thể trong quan hệ dân
sự, thương mại, từ đó thúc đẩy các chủ thể này tham gia tích cực hơn vào các
quan hệ này.
* Các loại lãi trong hợp đồng vay tài sản
Trong hợp đồng vay tài sản có thể phát sinh hai loại lãi suất, là lãi suất
trong hạn và lãi suất quá hạn quá hạn. Lãi suất nợ quá hạn là một trường hợp
đặc biệt của lãi suất, nó được áp dụng trong trường hợp vay có lãi mà khi đến
28
hạn bên vay không trả hoặc trả nợ không đầy đủ cho bên cho vay.
Đối với trường hợp vay không lãi thì theo quy định tại khoản 4 Điều
466 BLDS năm 2015, trường hợp vay không lãi "Nếu quá hạn vay, người
vay phải chịu mức lãi suất theo quy định tại khoản 2 Điều 468 của Bộ luật
này" (tức là bằng 50% mức lãi suất so với lãi suất vay tối đa do các bên
thỏa thuận).
Đối với trường hợp vay có lãi quá hạn theo quy định tại khoản 5 Điều
466 BLDS năm 2015, trường hợp vay có lãi mà khi đến hạn bên vay không
trả hoặc trả không đầy đủ thì bên vay phải trả lãi theo quy định tại điểm a
hoặc điểm b khoản 5 Điều này. Như vậy, BLDS năm 2015 quy định rõ 2
trường hợp vay có lãi khi đến hạn mà không trả.
Đối với trường hợp lãi quá hạn chưa trả thì bên vay phải chịu mức lãi
suất bằng 150% lãi suất vay theo hợp đồng (ví dụ: Mức lãi trong hợp đồng là
1%, quá hạn sẽ là 1,5%). Do vậy, theo quy định mới thì bên vay phải trả lãi
suất quá hạn trong trường hợp vay có lãi là 150%, so với lãi suất theo hợp
đồng các bên đã thỏa thuận (ví dụ: Lãi suất trong hạn các bên thỏa thuận với
nhau 20%, nếu đến hạn bên vay không trả được sẽ phải chịu lãi suất 20% x
150% = 30%/năm). Với quy định này sẽ thúc đẩy được trách nhiệm trả nợ của
bên vay, bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người cho vay, phù hợp
với xu thế của thực tiễn trong các giao dịch tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Điều này cũng đòi hỏi trách nhiệm của các cơ quan bảo vệ pháp luật
với các tranh chấp hợp đồng vay tài sản, mà theo đó, bên cho vay thường lợi
dụng hoàn cảnh khó khăn của người đi vay để buộc họ phải chịu lãi suất cao.
Nếu có dấu hiệu cấu thành tội phạm hình sự, cần xử lý theo quy định tại Điều
201 BLHS năm 2015 về tội “Tội cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự”.
Vấn đề đặt ra, quy định trường hợp các bên có thỏa thuận về lãi suất thì
lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay,
29
trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác (khoản 1 Điều 468 BLDS
năm 2015), so với quy định khoản 2 Điều 91 Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010 lại quy định, tổ chức tín dụng và khách hàng có quyền thỏa thuận về lãi
suất, phí cấp tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng theo
quy định của pháp luật. Với sự không thống nhất này, các ngân hàng, tổ chức
tín dụng sẽ chịu sự điều chỉnh của BLDS năm 2015 hay Luật Các tổ chức tín
dụng năm 2010?
Có thể thấy, hợp đồng vay tài sản nói chung, hợp đồng tín dụng nói
riêng là một loại giao dịch dân sự. Do đó, việc điều chỉnh quan hệ này phải
bảo đảm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, quy định về điều kiện có
hiệu lực của giao dịch dân sự và các nguyên tắc về giới hạn thực hiện quyền
dân sự được quy định trong BLDS. Quy định về lãi suất trong hợp đồng vay
tài sản là một trong những điển hình của việc cụ thể hóa nguyên tắc giới hạn
thực hiện quyền dân sự, theo đó các bên trong hợp đồng vay có thỏa thuận về
lãi suất nhưng không được vượt quá mức lãi suất giới hạn luật định. Việc quy
định trần lăi suất giúp Nhà nước có thể điều tiết thị trường vay trong trường
hợp cần có sự ổn định của kinh tế - xã hội, định hướng chuẩn mực ứng xử
trong các quan hệ cho vay, thực hiện chính sách cấm hoặc hạn chế việc cho
vay nặng lãi.
Tuy nhiên để bảo đảm không biến lãi suất trần trở thành công cụ pháp
lý để hành chính hóa quan hệ dân sự, bảo đảm tính linh hoạt phù hợp với các
quan hệ vay tài sản đa dạng, có thể được sửa đổi, bổ sung kịp thời để đáp ứng
yêu cầu của những biến động về kinh tế - xã hội. Chính vì vậy, tại khoản 1
Điều 468 BLDS năm 2015 đã quy định mang tính linh hoạt theo hai cơ chế,
đó là "Căn cứ tình hình thực tế và theo đề xuất của Chính phủ, Ủy ban thường
vụ Quốc hội quyết định điều chỉnh mức lãi suất nói trên và báo cáo Quốc hội
30
tại kỳ họp gần nhất"
Như vậy, trong trường hợp luật có liên quan quy định khác về lãi suất
thì sẽ áp dụng lãi suất đó cho quan hệ vay thuộc phạm vi điều chỉnh của luật
khác có liên quan. Quy định này còn được hiểu không chỉ dành riêng cho
quan hệ tín dụng của các ngân hàng thương mại mà còn có thể áp dụng cho
loại vay đặc thù vay khác như vay chính sách xã hội, vay đầu tư phát triển,
vay vàng, ngoại tệ... nếu Nhà nước xét thấy cần điều chỉnh các quan hệ vay
này bằng cơ chế lãi suất riêng. Nghĩa là nếu Luật Các tổ chức tín dụng năm
2010 có cơ chế lãi suất trần riêng cho các hợp đồng tín dụng thì các tổ chức
tín dụng sẽ áp dụng theo quy định của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2010.
1.3. Hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam qua các thời kỳ
Là một trong những ngành luật vô cùng quan trọng trong hệ thống pháp
luật Việt Nam, luật dân sự luôn là đối tượng quan tâm hàng đầu trong đời
sống xã hội. Ở nước ta, pháp luật về hợp đồng vay tài sản có một quá trình
phát triển lâu dài gắn liền với nền lập pháp Việt Nam từ khi mới lập quốc, có
thể được phân ra làm ba giai đoạn chính: Thời kỳ phong kiến; thời kỳ Pháp
thuộc; thời kỳ từ cách mạng tháng Tám năm 1945 đến nay.
1.3.1. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam
thời kỳ phong kiến
Nghiên cứu pháp luật thời kỳ phong kiến cho thấy, từ rất sớm, các quy
định về hợp đồng vay tài sản đã được nhà làm luật phong kiến chú trọng.
Ngay từ các triều đại Lý - Trần - Hồ, quan hệ vay mượn đã được nhà nước
phong kiến thừa nhận qua các chiếu quy định về văn tự vay mượn.
Tuy nhiên, phải đến thời Lê (1428 - 1788) và thời Nguyễn (1802 -
1858), pháp luật điều chỉnh quan hệ vay nợ mới có những bước phát triển
vượt bậc. Hợp đồng vay tài sản đã được ghi nhận và điều chỉnh trong văn bản
pháp lý có hiệu lực cao nhất là Bộ luật Hồng Đức (1483) và Bộ luật Gia Long
31
(1812). Xã hội thời kỳ này quan hệ vay mượn diễn ra khá phổ biến, nhất là
dưới hình thức vay tiền hay vay lúa. Trong quan hệ vay tài sản, nếu số tiền 25
hoặc số lúa cho vay không lớn và thời hạn vay ngắn, các bên thường giao kết
dưới hình thức bằng miệng, không lập thành văn tự. Nếu số tiền hoặc số lúa
cho vay lớn, các bên thường viết khế ước làm bằng chứng.
Một trong những khế ước tiêu biểu, phổ biến trong xã hội phong kiến
đó là khế ước vay nợ và nguyên tắc phải thực hiện đúng cam kết đã vay là
phải trả đủ. Bên cạnh đó, pháp luật thời phong kiến cũng quy định đối với
việc cho vay có tính lãi, cụ thể ở Điều 587 Bộ luật Hồng Đức: "Cho vay nợ
hay cầm đồ vật mỗi tháng được lấy tiền lãi mỗi quan là 15 đồng kẽm". Ngày
xưa, một quan tiền bằng 600 kẽm, như vậy mức lãi suất cho vay một tháng là
2,5%, một năm là 3%.
Khi đáo hạn, bên vay phải hoàn trả tài sản đã vay cho bên cho vay.
Điều 588 Bộ luật Hồng Đức quy định: "mắc nợ mà quá hạn không trả thì xử
tội trượng, tùy theo nặng nhẹ; nếu cự tuyệt không chịu trả, thì xử biếm hai tư,
bồi thường gấp đôi". Còn theo Điều 134 Bộ luật Gia Long quy định "khi đáo
hạn nếu bên vay không trả nợ, họ bị phạt từ 10 roi đến 60 trượng tùy theo số
tiền và sự chậm trễ trả nợ, nhưng bao giờ cũng cho họ khất một thời hạn là 3
tháng để thi hành các nghĩa vụ cam kết trong khế ước". Cũng theo quy định
của Bộ luật Gia Long thì có quy định điều khoản quyền của chủ nợ được phép
xin bỏ tù bên vay nếu không trả được nợ:
Nếu nợ trên 30 lạng bạc có thể cầm tù người vay trong thời hạn một
năm để cưỡng bách trả nợ cho chủ nợ. Quá hạn một năm, nếu quả thực người
vay không có điều kiện để hoàn trả số tiền nợ, thì sẽ tâu lên vua để vua định
liệu. Trong trường hợp nếu số tiền không đến 30 lạng bạc, sau khi người vay
bị cầm tù một năm, nếu quả thực họ không có khả năng trả nợ, họ sẽ không bị
32
đòi nợ nữa mà chỉ phải chịu hình phạt theo quy định của pháp luật.
Trong luật nhà Lê không có quy định này - đây là một điểm tiến bộ của
luật nhà Lê trong việc bênh vực người vay.
Theo quy định của luật nhà Lê: "Nợ đã trả rồi mà còn cố ý không trả
văn tự, hay nói là văn tự đã đánh mất, mà không cấp giấy làm bằng cho người
trả nợ, thì xử phạt 50 roi, biếm một tư. Đã giao giấy làm bằng rồi mà lại đem
văn tự đòi nợ lần hai thì xử phạt 50 roi, biếm một tư và bồi thường gấp đôi số
tiền nợ cho người đã trả nợ" (Điều 589 Bộ luật Hồng Đức) - đây là điều luật
bảo vệ quyền lợi của người đi vay.
Bên cạnh đó, theo luật nhà Lê "cấm người Kinh không được cho người
Mường Mán vay nợ, trái luật xử biếm hai tư, số tiền vay phải sung công"
(Điều 593 Bộ luật Hồng Đức). Sở dĩ có sự cấm đoán này có lẽ nhà làm luật sợ
các chủ nợ trong quan hệ vay mượn, có thể lợi dụng sự kém hiểu biết của các
dân tộc ít người để lừa gạt họ, tác động xấu đến chính sách đại đoàn kết dân
tộc, gây bất lợi về chính trị, khi mà lãnh thổ nước ta luôn bị giặc ngoại xâm
phương Bắc đe dọa. Trong luật nhà Nguyễn không có quy định này nguyên
nhân có lẽ là do sao chép luật nhà Thanh.
Về lãi suất, người cho vay không được cho vay với lãi suất lớn hơn
mức lãi suất tối đa do luật định. Theo Điều 587 Bộ luật Hồng Đức quy định:
"dù vay với thời hạn dài bao nhiêu năm, cũng không tính tiền lãi quá một gốc
một lãi, trái luật thì xử biếm một tư và mất tiền lãi. Nếu chủ nợ tính gồm lãi
vào gốc, rồi bắt làm văn tự khác, thì sẽ bị xử tội nặng hơn sự lạm thu tiền lãi
trái phép một bậc". Sự cấm đoán này chứng tỏ nhà lập pháp thời Lê rất am
hiểu tâm lý chủ nợ, thường dùng biện pháp bắt con nợ làm lại văn tự và "đập
lãi thành vốn" để tăng thêm số tiền vốn cho vay mà vẫn có thể tiếp tục thu
lãi, mặc dù tiền lãi đã quá tiền gốc. Rất tiếc trong Bộ luật Gia Long đã
thiếu một sự bảo vệ hiệu quả như vậy đối với quyền lợi của người đi vay
33
[41, tr. 61]. Nhưng tại Điều 134 Bộ luật Gia Long có quy định mức lãi
suất: "Lãi là 3% một tháng, chủ nợ chỉ có thể đòi tiền vốn và một số tiền lãi
ngang với tiền vốn".
Khi đáo hạn, bên vay không trả được nợ, bên cho vay không được tùy
tiện chiếm đoạt các tài sản của con nợ. Theo Điều 591 Bộ luật Hồng Đức quy
27 định: "Người đòi nợ không trình quan mà tùy ý bắt đồ đạc của cải người
mắc nợ, nếu quá số tiền trong vặn tự thì xử phạt 80 trượng. Ngoài những của
cải tính cho đủ số nợ, các tài sản khác phải trả lại cho người mắc nợ". Điều
này tại Điều 134 Bộ luật Gia Long cũng quy định: "Người cho vay phải trình
gia môn khi đến hạn mà bên vay không trả nợ, không được tùy tiện bắt gia
súc, tài sản của người mắc nợ để trừ nợ và cũng không được bắt người than
của họ làm nô tỳ. Trái luật chủ nợ bị phạt 80 trượng". Về vấn đề này cả hai
Bộ luật tương đối là giống nhau về biện pháp xử lý.
Về các biện pháp bảo đảm, pháp luật thời kỳ này cũng đã ghi nhận một
số biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ giống như dân luật hiện đại. Biện
pháp bảo lãnh được đề cập cả trong hai Bộ luật của nhà Lê và nhà Nguyễn.
Tuy nhiên, trong Bộ luật Gia Long tại Điều 134 chỉ quy định chung chung về
những người bảo lãnh cho bên vay, mà không quy định nghĩa vụ của họ.
Ngược lại, tại Điều 590 Bộ luật Hồng Đức quy định khá rõ vấn đề này:
"Người vay nợ trốn mất, thì người đứng ra bảo lãnh phải trả thay tiền gốc
thôi, nếu trong văn tự có nói người nào sẽ trả thay thì người đó phải trả như
người mắc nợ, trái luật thì bị xử 80 trượng, nếu kẻ mắc nợ có con thì được đòi
ở con".
Ngoài ra, pháp luật cũng ghi nhận hình thức điển cố (cầm cố) hoặc các
động sản như mâm, nồi, bát, đĩa hay các tư trang,… hoặc các bất động sản
như ruộng đất, vườn, ao để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ. Khế ước điển cố các
động sản thường không làm thành văn tự, chỉ là khẩu ước. Trái lại sự điển cố
34
các bất động sản luôn luôn thực hiện bằng văn khế. Điểm đặc biệt là pháp luật
đã thừa nhận cả sự cầm cố công nhân, tức là cầm cố người làm công để đảm
bảo món nợ. Bên vay có thể tự cầm cố chính mình hoặc người thân như con,
cháu để làm công trừ nợ cho người cho vay trong một thời hạn.
Từ những quy định của hai bộ luật trên, có thể nói rằng khế ước vay
mượn nhất là vay tiền là loại khế ước rất thông dụng trong xã hội, nên được
28 các nhà lập pháp thời kỳ này quan tâm. Nếu như Bộ luật Gia Long chỉ có
Điều 134 quy định loại khế ước này, thì trong Bộ luật Hồng Đức đã dành năm
điều (từ Điều 587 đến Điều 591) quy định khá chi tiết và bảo vệ quyền lợi cho
các bên. Điều đó có nghĩa là các nhà lập pháp thời Lê đã đạt đến trình độ lập
pháp cao và rất am hiểu tâm lý của các bên trong quan hệ vay nợ.
1.3.2. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam
thời kỳ Pháp thuộc
Sau khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, dưới sự cai trị và ảnh hưởng
sâu sắc của pháp luật chế độ thực dân Pháp, pháp luật Việt Nam đã có sự
chuyển biến rõ nét. Bắt đầu đã có sự phân hoá hai ngành luật: Dân luật và
Hình luật. Trong giai đoạn này có ba Bộ dân luật áp dụng ba miền khác nhau:
Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ ban hành 10/3/1883 (miền Nam), Bộ Dân luật
Bắc Kỳ ban hành 01/04/1931 (miền Bắc), Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật
ban hành 31/10/1936 (miền Trung).
Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ gồm có 11 thiên, cả về bố cục lẫn nội
dung phỏng theo Quyển I quy định về nhân thân của Bộ luật Dân sự Pháp. Bộ
luật này không đề cập đến các vấn đề về nghĩa vụ, hợp đồng, thừa kế… mà
chỉ quy định các vấn đề về nhân thân. Do vậy, ở miền Nam thời kỳ này, khi
giao kết các hợp đồng vay tài sản, các bên thường tuân theo các chuẩn mực
pháp lý trong Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long. Khi xét xử các tranh
chấp về vấn đề này, Toà án Pháp ở Nam Kỳ phải tham khảo Bộ luật Gia Long
35
với tính cách là tục lệ, có khi các thẩm phán lại dựa vào Bộ luật nhà Lê.
Khác với Bộ Dân luật giản yếu Nam Kỳ, trong Bộ Dân luật Bắc Kỳ và
Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật các quy định của hợp đồng vay được đề cập
khá đầy đủ. Bộ dân luật Bắc kỳ quy định về hợp đồng vay mượn từ Điều 1277
đến Điều 1326.
Nói về việc vay mượn tại Chương IV Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật
chia việc vay mượn thành hai loại:
- Vay mượn những vật có thể dùng được mà không mất đi.
- Vay mượn những vật có thể dùng được mà mất đi (gọi là cho mượn
để tiêu hoặc cho vay).
Tại Điều 1298 tiết thứ hai Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật có quy
định: "đối tượng vay có thể là tiền kẽm, vàng nén, bạc nén, thực phẩm như
thóc lúa"… và cũng tại Điều 1303 Bộ Hoàng việt Trung kỳ hộ luật quy định:
"Bên vay phải trả lãi nếu đã vay đúng như số lượng cùng phẩm hạn lúc vay và
phải đúng hạn". Bên cạnh đó, Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật cũng áp dụng
hình phạt chậm trả cho những đối tượng (bên vay) đã đến hạn trả nợ mà
không trả, điều đó thể hiện tại Điều 1306 "Nếu đến hạn mà bên vay không
hoàn lại của vay hay giá tiền, thì người ấy phải chịu tiền lời về sự trả chậm
theo điều kiện hai bên đã định với nhau, kể từ ngày đáo hạn lần đầu…", và tại
Điều 1309 quy định: "Tiền lời có ước định trước, thì bên vay nợ mới phải
trả", tư tưởng này đến nay vẫn còn giá trị.
Mặt khác, tại tiết thứ hai này (tức vay mượn những vật dùng mà tiêu
mất đi) đã có quy định hai loại hợp đồng: vay có kỳ hạn và vay không kỳ hạn
tại các điều 1300, 1301, 1918, 1919 Bộ Hoàng Việt Trung Kỳ hộ luật. Những
quy định này đã phát huy được hành lang pháp lý cho việc xác lập các quan
hệ về vay tài sản, tạo chuẩn mực pháp lý cho cách ứng xử của các chủ thể khi
giao kết hợp đồng vay tài sản, tạo cơ sở pháp lý cho Toà án trong việc giải
36
quyết các tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
1.3.3. Quy định về hợp đồng vay tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam từ
năm 1945 đến nay
Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Ngày 10/10/1945,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh 90/SL, trong đó có đề cập vẫn sử
dụng một số luật lệ ở Bắc, Trung, Nam nếu "những luật lệ ấy không trái
nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam và chính thể dân chủ cộng hoà".
Điều đó có nghĩa là pháp luật về hợp đồng vay tài sản cũng nằm trong
những nguyên tắc chung đó.
Đến ngày 22/05/1950, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành Sắc lệnh số
97/SL về sửa đổi một số chế định trong dân luật. Theo Điều 13 Sắc lệnh số
97/SL quy định nguyên tắc: "khi lập ước mà có sự tổn thiệt do sự bóc lột của
một bên vì điều kiện kinh tế của hai bên chênh lệch thì khế ước có thể bị coi
là vô hiệu". Chính Sắc lệnh này đã đặt cơ sở cho sự hình thành và phát triển
pháp luật dân sự mới ở nước ta. Đến năm 1959, thì việc áp dụng các Bộ luật
này theo tinh thần của Sắc lệnh 97/SL bị đình chỉ bằng Chỉ thị số 772/CT-
TATC của Toà án nhân dân tối cao. Như vậy, từ năm 1959 cho tới trước khi
Pháp lệnh Hợp đồng dân sự được ban hành năm 1991, thì các quan hệ về hợp
đồng nói chung và quan hệ về hợp đồng vay tài sản nói riêng không có văn
bản nào chính thức điều chỉnh. Điều đó có thể thấy pháp luật dân sự trong giai
đoạn này có vai trò và vị trí khá mờ nhạt.
Ngày 07/05/1991, Chủ tịch Hội đồng Nhà nước ban hành Lệnh số 52-
LCT/HĐNN công bố Pháp lệnh Hợp đồng dân sự 1991 (có hiệu lực từ
01/07/1991). Bước đầu Pháp lệnh đã tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ
dân sự trong sự phát triển chung của đất nước. Trong đó, hợp đồng vay tài sản
được nhắc đến nhưng thể hiện trong định nghĩa về hợp đồng dân sự dưới dạng
liệt kê. Tại Điều 1 của Pháp lệnh này quy định: Hợp đồng dân sự là sự thoả
37
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
của các bên trong mua bán, thuê, vay, mượn, tặng cho tài sản; làm hoặc không
làm một việc, dịch vụ hoặc các thoả thuận khác mà trong đó một hoặc các bên
nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng.
Pháp lệnh này cũng đề ra các nguyên tắc giao kết, thực hiện, sửa đổi,
chấm dứt hợp đồng… Nhưng Pháp lệnh chưa có quy định riêng điều chỉnh
các hợp đồng dân sự thông thường điều đó đã tạo không ít khó khăn cho các
chủ thể khi tham gia quan hệ hợp đồng. Và chế định về hợp đồng vay tài sản
cũng nằm trong những khó khăn đó. Nhận thấy được điều này, từ năm 1980,
Hội đồng Chính phủ thành lập Ban dự thảo Bộ luật Dân sự theo Quyết định số
350/CP ngày 03/11/1980 do Bộ Tư pháp chủ trì.
Ngày 28/10/1995, Quốc hội khoá IX nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa
Việt Nam đã biểu quyết thông qua Bộ luật Dân sự năm 1995, đánh dấu một
bước phát triển của pháp luật dân sự. Bộ luật này đã dành mục 4, chương II,
phần thứ ba quy định về Hợp đồng vay tài sản từ Điều 467 đến Điều 474. Chế
định Hợp đồng vay tài sản đã phát huy được tác động tích cực trong quá trình
điều chỉnh các quan hệ vay tài sản, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các
bên, cũng như là bảo đảm sự bình đẳng giữa bên cho vay và bên vay. Tuy
nhiên, qua hơn mười năm thi hành, do sự phát triển về mọi mặt của đất nước
trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế và khu vực, Bộ luật Dân sự năm
1995 đã bộc lộ những hạn chế, bất cập, không đáp ứng được yêu cầu phát
triển kinh tế - xã hội chung của đất nước.
Ngày 14/6/2005, Bộ luật Dân sự 2005 đã được Quốc hội khóa XI thông
qua tại kỳ họp thứ 7. Bộ luật này đã thay thế Bộ luật Dân sự năm 1995. Trong
đó, chế định hợp đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm 2005 được quy
định tại mục 4, chương XVIII, phần thứ ba, từ Điều 471 đến Điều 479. So với
quy định của Bộ luật Dân sự năm 1995 thì Bộ luật Dân sự năm 2005 về chế
38
định này đã có những sửa đổi, bổ sung nhất định.
Đến ngày 24/11/2015, Bộ Luật dân sự 2015 đã được Quốc hội khóa
XIII thông qua tại kỳ họp thứ 10. Bộ luật này đã thay thế Bộ Luật dân sự
2005. Trong đó, chế định hợp đồng vay tài sản trong Bộ luật Dân sự năm
2015 được quy định tại mục 4, chương XVI, phần thứ ba, từ Điều 463 đến
Điều 471. So với quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì Bộ luật Dân sự
năm 2015 về chế định này đã có những sửa đổi, bổ sung nhất định.
Hợp đồng vay tài sản là một dạng cụ thể của hợp đồng dân sự. Đây là
loại quan hệ dân sự được hình thành, tồn tại lâu đời và phát triển trong đời
sống xã hội. Hợp đồng vay tài sản là phương tiện pháp lý có ý nghĩa rất quan
trọng trong việc điều tiết, lưu thông tiền tệ trong phạm vi nhà nước và giữa
các công dân với nhau. Nó có tác dụng giúp bên vay giải quyết những khó
khăn trước mắt, giúp các tổ chức, doanh nghiệp vay vốn để sản xuất kinh
doanh, đáp ứng nhu cầu vật chất trong sự tồn tại của con người, tăng tình làng
nghĩa xóm, tình bạn bè, tình đoàn kết giữa nhà nước với nhân dân, giữa công
dân với nhau, góp phần vào việc thúc đẩy nền kinh tế của đất nước phát triển,
nâng cao đời sống của nhân dân lao động.
Mặc dù ở mỗi thời kỳ, mỗi một giai đoạn thì mức độ quy định của pháp
luật có khác nhau nhưng nhìn chung pháp luật về hợp đồng vay tài sản vẫn đã,
đang và sẽ ngày càng góp phần tạo điều kiện cho cuộc sống của người dân
ngày một an toàn hơn và đầy đủ hơn. Nó sẽ tạo cho mỗi người một tâm lý an
tâm khi tham gia quan hệ dân sự nói chung và trong quan hệ hợp đồng vay tài
39
sản nói riêng.
Kết luận chương 1
Trong những năm gần đây do ảnh hưởng của nền kinh tế đất nước, tình
trạng vay nợ và vỡ nợ giữa cá nhân, tổ chức với các tổ chức tín dụng, ngân
hàng ngày càng gia tăng, việc vay nợ có thế chấp tài sản là nhà đất làm ảnh
hửởng tới cuộc sống của nhiều người, nhiều gia đình, tổ chức, tình trạng trốn
nợ cũng ngày càng nhiều, những vụ án hình sự về lừa đảo chiếm đoạt tài sản,
lạm dụng chiếm đoạt tài sản cũng tăng lên. Không những vậy, số lượng các
vụ án dân sự, kinh doanh thương mại về vay tài sản tăng đột biến trong thời
gian gần đây. Tình trạng này đang là vấn đề nhức nhối diễn ra không những ở
địa bàn thành phố Thái Nguyên mà còn diễn ra trên cả nước ta.
Thông qua việc tìm hiểu chung về hợp đồng vay tài sản và các phương
thức giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản trong chương 1 sẽ là tiền đề
để học viên đi sâu vào phần thực tiễn giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài
40
sản của TAND thành phố Thái Nguyên.
Chương 2
THỰC TIỄN GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
CỦA TAND THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN
2.1. Thực tiễn áp dụng pháp luật trong giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên
Cùng với sự ra đời của Nhà nước thì việc ra đời Toà án một trong
những công cụ chuyên chính của Nhà nước là một tất yếu khách quan. Chính
vì vậy, ngày 13/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh số 33 thiết lập
các Toà án quân sự đánh dấu sự ra đời của Ngành Toà án Việt Nam. Với mục
tiêu là trấn áp bọn phản cách mạng, bảo vệ và giữ vững chính quyền cách
mạng non trẻ.
Ở Việt Nam, hệ thống Tòa án được tổ chức theo đơn vị hành chính lãnh
thổ. Theo quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 quy định, trong các Tòa
án chỉ có TAND cấp huyện và TAND cấp tỉnh là có thẩm quyền xét xử sơ
thẩm các tranh chấp về dân sự, hình sự, hôn nhân gia đình, kinh doanh thương
mại, lao động, hành chính. Do vậy, việc phân định thẩm quyền xét xử sơ thẩm
giữa Tòa án các cấp được thực hiện đối với TAND cấp huyện và TAND cấp
tỉnh. Dựa trên các quan hệ pháp luật khác nhau mà pháp luật phân chia thẩm
quyền và trình tự thủ tục khác nhau. Giải quyết các quan hệ hình sự thì thuộc
thẩm quyền về hình sự của Tòa án và tuân theo trình tự tố tụng hình sự. Giải
quyết các quan hệ hành chính thì thuộc thẩm quyền của Tòa án về hành chính
và tuân theo thủ tục tố tụng hành chính. Các quan hệ phát sinh trong lĩnh vực
dân sự, kinh doanh thương mại, lao động, hôn nhân và gia đình được điều
chỉnh bởi các văn bản pháp luật khác nhau. Các quan hệ này đều có liên quan
đến quan hệ tài sản, quan hệ nhân thân, do vậy khi có tranh chấp phát sinh từ
quan hệ này thì Tòa án được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Thẩm
41
quyền về dân sự của Tòa án có các đặc trưng sau:
Tòa án nhân danh quyền lực Nhà nước, độc lập trong việc xem xét giải
quyết và ra phán quyết đối với các vụ việc phát sinh từ các quan hệ mang tính
tài sản, nhân thân được hình thành trên cơ sở bình đẳng, tự do, tự nguyện cam
kết, thoả thuận giữa các chủ thể. Tòa án thực hiện nhiệm vụ bảo vệ công lý,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của mình hoặc của người khác.
Thẩm quyền của TAND các cấp được quy định tại Bộ luật tố tụng dân
sự và phải tuân thủ các thủ tục tố tụng dân sự đó. Do vậy, ngoài việc tuân thủ
các nguyên tắc chung về tố tụng như Tòa án độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật, đảm bảo sự vô tư, khách quan khi xét xử … thì Tòa án khi xem xét giải
quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại, dân sự phải tôn trọng và đảm
bảo quyền tự định đoạt của các đương sự.
Phạm vi xem xét giải quyết và quyền quyết định của Tòa án được giới
hạn bởi những yêu cầu mà đương sự đưa ra cũng như trên cơ sở sự thỏa thuận
của họ về vấn đề tranh chấp.
TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết những tranh chấp dân sự,
hôn nhân – gia đình, vụ án kinh doanh thương mại, lao động, trừ trường hợp
có đương sự hoặc tài sản ở nước ngoài hoặc cần phải uỷ thác tư pháp cho cơ
quan Lãnh sự của Việt Nam ở nước ngoài, cho Toà án nước ngoài thì thuộc
thẩm quyền của TAND cấp tỉnh hoặc những vụ việc dân sự thuộc thẩm quyền
giải quyết của TAND cấp huyện quy định tại Điều 33 của Bộ luật dân sự năm
2015 mà TAND cấp tỉnh lấy lên để giải quyết.
Từ khi thành lập đến nay TAND thành phố Thái Nguyên luôn là một
trong những đơn vị vững mạnh. Trong nhiều năm, TAND thành phố Thái
Nguyên luôn đạt được những danh hiệu cao quý như Huân chương Độc lập
hạng Ba, Cờ thi đua của Chính phủ, Bằng khen của Chánh án TAND Tối cao.
42
TAND thành phố thường xuyên duy trì công tác kiểm tra, giám đốc việc xét
xử đối với các Tòa án cấp huyện. Chất lượng xét xử luôn được đảm bảo, án
có kháng cáo, kháng nghị giảm; tỷ lệ án bị huỷ, bị sửa do lỗi chủ quan thấp
hơn so với các năm trước. Công tác giải quyết, xét xử các vụ án dân sự, hôn
nhân và gia đình, án kinh doanh thương mại, hành chính, lao động được thực
hiện tốt. Công tác tổ chức cán bộ tiếp tục có những chuyển biến tiến bộ, số
lượng cán bộ, công chức được bổ sung, đội ngũ lãnh đạo được củng cố, kiện
toàn; công tác quy hoạch cán bộ lãnh đạo quản lý tiếp tục được rà soát, bổ
sung. Công tác thanh tra, kiểm tra, tự kiểm tra việc thực hiện công vụ của cán
bộ, công chức tiếp tục được tăng cường. Do có sự quan tâm đến công tác thi
đua mà đã có tác động tốt đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị, kết quả
nổi bật là trong công tác xét xử tỷ lệ giải quyết các loại án ở nhiều đơn vị đạt
và vượt so với chỉ tiêu của TAND đề ra, chất lượng xét xử được đảm bảo,
không xét xử oan, giảm được số lượng các vụ án bị huỷ, tỷ lệ án bị sửa đã
giảm đáng kể, các mặt công tác có chuyển biến tiến bộ.
Chính nhờ sự nỗ lực đó TAND thành phố Thái Nguyên luôn đạt lượng
án thụ lý nhiều và số án giải quyết lớn, tỷ lệ giải quyết cao. Theo đó, năm
2018, TAND thành phố Thái Nguyên đã giải quyết 7.391 vụ, việc trên tổng số
7.881 vụ, việc đã thụ lý, đạt tỷ lệ 93,8%. Số vụ, việc còn lại hầu hết mới thụ
lý, đang được Tòa án giải quyết trong thời hạn pháp luật quy định. Những vụ
án điểm, vụ án được dư luận xã hội quan tâm, vụ án tham nhũng đã được các
Tòa án khẩn trương nghiên cứu hồ sơ đưa ra xét xử kịp thời, nghiêm minh,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của địa phương.
Trong quá trình giải quyết án đội ngũ Thẩm phán với chuyên môn
nghiệp vụ vững chắc luôn cố gắng hết mình nên các vụ án hòa giải thành
chiếm tỷ lệ lớn, các vụ án phải đưa ra xét xử không nhiều.
Trong 05 năm gần đây (2014-2018), số lượng vụ án kinh doanh thương
43
mại, dân sự về tranh chấp hợp đồng vay tài sản mà TAND thành phố Thái
Nguyên đã thụ lý ngày càng tăng. Cụ thể từ năm 2014 là 20 vụ án chiếm tỷ lệ
25% đến năm 2018 tăng lên 30 vụ án dân sự chiếm tỷ lệ 40%, nâng tổng số
vụ án dân sự trong 05 năm qua là 124 vụ dân sự trong tổng số 380 vụ dân sự,
kinh doanh thương mại, chiếm tỷ lệ 32,6%. Có thể thấy các tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản ngày càng gia tăng về số lượng và mức độ phức tạp và chiếm
tỷ lệ lớn trong tổng số các vụ dân sự tại Thái Nguyên. Đây cũng là một khó
khăn đối với hệ thống Tòa án nói chung và TAND thành phố Thái Nguyên
nói riêng. Có thể thấy được điều này qua số liệu sau:
Bảng 2.1: Thống kê các vụ án về tranh chấp hợp đồng vay tài sản được
TAND thành phố Thái Nguyên thụ lý từ năm 2014 đến năm 2018
Năm 2014 2015 2016 2017 2018 Tổng
Tranh chấp vay tài sản 20 22 25 27 30 124
Tổng 80 78 75 72 75 380
Tỷ lệ (%) 25 28,2 33,3 37,5 40 32,6
Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau nhưng nguyên
nhân chủ yếu là Thái Nguyên là một trong những thành phố lớn ở miền Bắc,
đồng thời cũng là trung tâm của vùng trung du và miền núi phía Bắc nên nhu
cầu sử dụng vốn của những cá nhân, tổ chức cho việc kinh doanh rất lớn dẫn
đến việc giao lưu vốn giữa các cá nhân, tổ chức và tổ chức tín dụng đã làm
cho quan hệ dân sự diễn ra ngày càng nhiều và phức tạp từ đó phát sinh các
tranh chấp là điều tất yếu.
2.2. Những kết quả đạt được trong giải quyết tranh chấp hợp đồng vay
tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong 5 năm gần đây
2.2.1. Trường hợp công nhận sự thỏa thuận của các đương sự
Với số lượng án thụ lý nhiều như vậy nhưng trong quá trình giải quyết,
44
số lượng các vụ án hòa giải thành của TAND thành phố Thái Nguyên luôn
chiếm tỷ lệ lớn trong số lượng các vụ án đã giải quyết. Theo thủ tục tố tụng
dân sự, trong quá trình chuẩn bị xét xử, Tòa án phải tiến hành thủ tục bắt buộc
là thủ tục hòa giải, trừ trường hợp không hòa giải được và không được hòa
giải. Tòa án triệu tập các đương sự lên để hòa giải, giúp các bên thỏa thuận
với nhau về vấn đề tranh chấp. Trước khi hòa giải, Thẩm phán ra thông báo
cho các đương sự biết về thời gian, địa điểm, thành phần, nội dung hòa giải để
họ có thời gian chuẩn bị. Khi tiến hành hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các
đương sự biết quyền và nghĩa vụ của họ, phân tích hậu quả pháp lý của việc
hòa giải thành và hòa giải không thành. Việc hòa giải là một trình tự vô cùng
quan trọng trong việc giải quyết vụ án. Khi các bên đương sự thỏa thuận được
với nhau các vấn đề tranh chấp thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành ghi
nhận các nội dung hòa giải và có chữ ký của các bên đương sự, thẩm phán.
Trong thời hạn 07 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành, nếu không có
đương sự nào thay đổi ý kiến thì Thẩm phán ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay và không
bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm. Như vậy, để hòa giải thành
giữa các đương sự đòi hỏi người Thẩm phán phải nắm vững kiến thức pháp
luật, sự hiểu biết sâu rộng và kinh nghiệm cuộc sống, sự khéo léo, kiên trì để
hướng các bên đương sự tìm được tiếng nói chung trong việc giải quyết vụ án.
Việc các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ
nội dung vụ án giúp cho rút ngắn được thời gian tố tụng, tiết kiệm thời gian,
công sức của các bên và của Nhà nước, tạo tâm lý thoải mái cho các đương
sự, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình thi hành án.
Ý thức được tầm quan trọng của việc hòa giải thành, đội ngũ Thẩm
phán TAND thành phố Thái Nguyên với kiến thức pháp luật vững chắc cũng
như kinh nghiệm trong thực tiễn, sự hiểu biết sâu rộng về đời sống đã không
45
ngừng nỗ lực trong công tác hòa giải và thực tế việc hòa giải thành đạt được
kết quả cao. Có thể thấy được điều này qua số liệu sau: năm 2014 trong tổng
số 20 vụ đã giải quyết thì hòa giải thành là 3 vụ, chiếm tỷ lệ 15%; năm 2015
hòa giải thành 4/22 vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 18,2%; năm 2016 hòa giải
thành 3/25 vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 12%; năm 2017 hòa giải thành 5/27
vụ đã giải quyết, chiếm tỷ lệ 18,5%; năm 2018 hòa giải thành 6/30 vụ đã giải
quyết, chiếm tỷ lệ 20%.
2.2.2. Trường hợp đình chỉ giải quyết vụ án
Trong quá trình giải quyết, khi có căn cứ theo Điều 217 BLTTDS năm
2015 thì Tòa án đình chỉ vụ án, xóa tên vụ án trong sổ thụ lý và trả lại đơn
khởi kiện cùng các tài liệu, chứng cứ kèm theo cho đương sự. Hậu quả pháp
lý của quyết đình chỉ giải quyết vụ án là việc Tòa án xử lý tiền tạm ứng án phí
cho đương sự. Tùy vào căn cứ đình chỉ, Tòa án hoặc là sung công Nhà nước
hoặc trả lại tiền tạm ứng án phí cho người đã nộp. Thực tế, số lượng các vụ án
đình chỉ của TAND thành phố Thái Nguyên trong 05 năm gần đây chiếm tỷ lệ
tương đối trong tổng số các vụ án dân sự, kinh doanh thương mại đã giải
quyết. Năm 2014 đình chỉ 2/20 vụ, chiếm tỷ lệ 10%; năm 2015 đình chỉ 4/22
vụ, chiếm tỷ lệ 18,2%; năm 2016 đình chỉ 5 vụ/25 vụ, chiếm tỷ lệ 20%; năm
2017 đình chỉ 3/27 vụ, chiếm tỷ lệ 11,1%; năm 2018 đình chỉ 6/30 vụ, chiếm
tỷ lệ 20%. Lý do đình chỉ chủ yếu là do nguyên đơn xin rút đơn. Với lý do
này nguyên đơn có quyền nộp đơn khởi kiện lại. Tuy nhiên, thực tế cho thấy,
bằng sự khéo léo, linh hoạt, trong quá trình hòa giải Thẩm phán phân tích hậu
quả pháp lý và những lợi ích cuả việc tự thỏa thuận cho các đương sự, sau khi
các đương sự hiểu và thống nhất được phương thức giải quyết tranh chấp và
tự nguyện thực hiện thỏa thuận thì Thẩm phán thường hướng các đương sự
rút đơn khởi kiện để không phải chịu hậu quả pháp lý về án phí. Vì vậy, thực
tế các vụ án đình chỉ là các vụ án đã giải quyết xong tranh chấp. Trong năm
46
năm gần đây, không có vụ án nào đương sự đã rút đơn mà nộp đơn khởi kiện
lần hai yêu cầu Tòa án giải quyết vụ án và không có quyết định đình chỉ nào
bị kháng cáo, kháng nghị. Đây là một thành công rất lớn của đơn vị.
2.2.3. Trường hợp xét xử
Ở giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán phải tiến hành đầy đủ các
bước thu thập chứng cứ và làm rõ được các tình tiết khách quan của vụ án.
Quá trình này Thẩm phán phải thực hiện các bước chủ yếu sau:
Tiến hành thu thập các tài liệu như giấy vay nợ, biên bản chốt nợ, hợp
đồng tín dụng, hợp đồng vay nợ, hợp đồng thế chấp ….
Tiến hành lấy lời khai của đương sự theo Điều 98 BLTTDS năm 2015,
chỉ tiến hành lấy lời khai của đương sự khi đương sự chưa có bản khai hoặc
nội dung bản khai chưa đầy đủ, rõ ràng, đương sự phải tự viết bản khai và ký
tên của mình. Trong trường hợp đương sự không thể tự viết được thì Thẩm
phán lấy lời khai của đương sự. Việc lấy lời khai của đương sự chỉ tập trung
vào những nội dung đương sự chưa khai và khai không rõ ràng. Ngoài ra, nếu
xét thấy cần thiết, Thẩm phán có thể lấy lời khai của người làm chứng để làm
sáng tỏ nội dung vụ án.
Từ kết quả lấy lời khai, nếu thấy các lời khai có mâu thuẫn thì tiến hành
đối chất giữa các đương sự với nhau, giữa các đương sự với người làm chứng
để làm sáng tỏ những vấn đề mâu thuẫn, việc đối chất phải được ghi thành
biên bản có chữ ký của những ngƣời tham gia đối chất.
Tiến hành điều tra xác minh nhằm làm sáng rõ những vấn đề liên quan
đến vụ án. Bên cạnh đó, tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể, Thẩm phán có thể ra
quyết định trưng cầu giám định theo đề nghị của đương sự. Đối với vụ án
tranh chấp hợp đồng vay tài sản, việc trưng cầu giám định có ý nghĩa quan
trọng, thông thường đương sự yêu cầu về việc giám định chữ viết, chữ ký
trong các giấy vay nợ, giấy nhận nợ …. Đối với những chứng cứ thu thập ở
47
xa, Thẩm phán có thể ra quyết định ủy thác thu thập chứng cứ cho Tòa án nơi
khác hoặc cơ quan có thẩm quyền khác. Trong trường hợp cần thiết pháp luật
quy định cho áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ chứng cứ,
bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc
bảo đảm việc thi hành án. Đối với tranh chấp hợp đồng vay tài sản, việc áp
dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời thường có ý nghĩa để bảo đảm cho việc
thi hành án sau này.
Quá trình thu thập chứng cứ cần tuân thủ nghiêm ngặt, chính xác các
quy định của BLTTDS thì mới bảo đảm tính khách quan, làm rõ bản chất sự
thật khách quan của vụ việc.
Song song với việc thu thập chứng cứ, Thẩm phán vẫn phải tiến hành
thủ tục hòa giải, nếu các đương sự không thỏa thuận được với nhau và xét
thấy chứng cứ đã đầy đủ thì Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Khi vụ án được đưa ra xét xử thì Hội đồng xét xử phải tuân thủ các bước tố
tụng tại phiên tòa được quy định trong BLTTDS, đó là thủ tục bắt đầu phiên
tòa, thủ tục hỏi, tranh luận, nghị án, tuyên án. Hội đồng xét xử có trách nhiệm
xem xét, đánh giá các tình tiết, chứng cứ của vụ án dựa trên lời trình bày, xét
hỏi và tranh luận của các đương sự. Sau khi đã xem xét toàn bộ nội dung vụ
án và các tài liệu chứng cứ, Hội đồng xét xử quyết định về việc giải quyết nội
dung vụ án bằng một bản án. Bản án này có thể bị kháng cáo, kháng nghị theo
thủ tục phúc thẩm. Hết thời hạn mà không có ai kháng cáo, kháng nghị thì bản
án có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, ở trình tự giải quyết sơ thẩm của TAND cấp huyện, vụ án
được xét xử lần đầu tiên và có ý nghĩa rất quan trọng. Việc giải quyết phải
chính xác và tuân thủ nghiêm túc các bước tố tụng thì việc giải quyết vụ án
mới đạt được kết quả cao, hạn chế được mức tối đa việc kháng cáo, kháng
nghị lên Tòa án cấp trên, tránh được án bị sửa, hủy và tránh khiếu kiện kéo
48
dài. Trong 05 năm gần đây, số lượng các vụ án dân sự, kinh doanh thương
mại mà TAND thành phố Thái Nguyên phải xét xử chiếm tỷ lệ không nhiều,
năm 2014 xét xử 15/20 vụ, chiếm tỷ lệ 75%; năm 2015 xét xử 14/22 vụ,
chiếm tỷ lệ 63,6%; năm 2016 xét xử 17 vụ/25 vụ, chiếm tỷ lệ 68%; năm 2017
xét xử 19/27 vụ, chiếm tỷ lệ 70,4%; năm 2018 xét xử 18/30 vụ, chiếm tỷ lệ
60%. Những vụ án phải đưa ra xét xử là những vụ án phức tạp, đương sự
không thể hòa giải được với nhau. Qua thống kê có thể thấy số lượng các vụ
án phải đưa ra xét xử có chiều hướng tăng. Điều đó có thể thấy các vụ án
cũng ngày càng phức tạp hơn về tính chất và mức độ, đòi hỏi trách nhiệm và
chuyên môn của người Thẩm phán cần phải được nâng cao hơn mới đáp ứng
được nhiệm vụ. Trong 05 năm, từ năm 2014 – 2018, hầu hết các vụ án xét xử
đều bị kháng cáo nhưng không có vụ án nào bị kháng nghị. Tuy nhiên, kết
quả xét xử phúc thẩm cho thấy chất lượng các bản án của đơn vị là tốt, y án
và sửa án chiếm tỷ lệ lớn.
2.3. Một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên và nguyên nhân
2.3.1. Một số khó khăn, vướng mắc trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên.
2.3.1.1. Khó khăn, vướng mắc xuất phát từ các quy định của pháp luật trong
việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Về đối tượng của hợp đồng vay tài sản: pháp luật chưa có quy định rõ
ràng về việc ngoại tệ có được xem là đối tượng của hợp đồng vay tài sản hay
không. Nếu cấm việc sử dụng đối tượng vay của hợp đồng vay tài sản là
ngoại tệ thì phải có sự kết hợp giữa quy định của pháp luật với các biện pháp
xử lý cụ thể trong thực tiễn vì việc sử dụng ngoại tệ là đối tượng trong hợp
đồng vay tài sản hiện nay là khá phổ biến.
Về hình thức giả tạo của hợp đồng vay tài sản: thực tế hiện nay, đã có
49
nhiều trường hợp các bên thực hiện giao dịch vay tài sản nhưng không ký hợp
đồng vay tài sản mà lại ký hợp đồng mua bán, đặt cọc tài sản và chủ yếu là
hợp đồng mua bán nhà; hợp đồng đặt cọc mua bán nhà, mua bán quyền sử
dụng đất. Với các trường hợp này, bên cho vay sẽ cầm tài sản của bên vay,
khi đến hạn trả nợ, nếu bên vay không trả vốn và lãi thì bên cho vay yêu cầu
tiến hành thủ tục mua bán, đặt cọc tài sản. Trường hợp này, nếu bên vay kiện
lên Tòa án thì khó có thể đòi được quyền lợi của mình, vì hình thức của hợp
đồng không phải là hợp đồng vay tài sản, việc mức lãi suất, hạn trả nợ và lãi
không được quy định tại hợp đồng mà sẽ do các bên thỏa thuận. Mặt khác,
bên cho vay sẽ đưa hợp đồng mua bán hay đặt cọc tài sản đó ra làm chứng cứ
trước tòa, dẫn đến Tòa án buộc phải chấp nhận yêu cầu của phía cho vay mà
không thể bảo vệ cho bên vay được.
Về lãi suất: Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên thoả
thuận, tuy nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo cơ
sở pháp lý để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp
không có cơ sở xác định rõ mức lãi đã thoả thuận, Bộ Luật Dân sự năm
2015 có quy định về mức lãi suất tại Điều 468. Theo như quy định tại Điều
468, lãi suất trong hợp đồng vay tài sản do các bên thỏa thuận nhưng không
được vượt quá 20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên
quan quy định khác. Mức lãi suất cho vay theo quy định tại BLDS năm 2015
mang tính “tĩnh”, nghĩa là chỉ áp đặt mức lãi suất trần cố định 20%, mức lãi
suất này sẽ không dao động tăng, giảm hay phụ thuộc vào quy định của Ngân
hàng Nhà nước nữa. Việc quy định mức lãi suất này có nhiều thuận lợi, như:
bảo đảm tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay
tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng;
mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù
hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn
50
hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng. Tuy nhiên với quy định này, vấn đề
đặt ra làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền vay tại từng thời điểm
trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản lãi suất vào nợ gốc và
yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi đó, việc áp dụng lãi
suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là phù hợp và số tiền nào
được gọi là khoản tiền vay?
Qua đó, có thể thấy, giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản còn
vấp phải khá nhiều khó khăn do quy định của pháp luật chưa rõ ràng; chưa có
quy định, hướng dẫn cụ thể của pháp luật hoặc các quy định của pháp luật đã
không còn phù hợp với thực tế hiện nay nữa. Vì vậy, pháp luật nước ta cần
sớm khắc phục những khó khăn còn tồn tại đó để việc thực thi pháp luật đạt
hiệu quả cao hơn.
2.3.1.2. Khó khăn, vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật
vào việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản
Hợp đồng vay tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó, bên cho
vay giao tài sản cho bên vay; khi đến hạn trả, bên vay phải hoàn trả cho bên
cho vay tài sản cùng loại theo đúng số lượng, chất lượng và chỉ phải trả lãi
nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật quy định. Việc giải quyết tranh chấp về hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên trong thời gian qua đã
đạt được những hiệu quả nhất định, giải quyết một lượng án không nhỏ, thông
qua đó giải quyết được những bất hòa trong quan hệ dân sự, tuyên truyền giáo
dục được ý thức pháp luật trong nhân dân, làm lành mạnh quan hệ trong dân
sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, góp phần ổn định trật tự
xã hội.
Bên cạnh những kết quả đạt được nhìn chung trong giải quyết án hợp
đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên cũng không tránh khỏi
những hạn chế. Qua công tác kiểm tra cũng đã phát hiện ra những thiếu sót
51
trong quá trình đình chỉ, tạm đình chỉ, hòa giải thành và xét xử.
Trong việc đình chỉ và tạm đình chỉ đôi khi còn có những thiếu sót, có
vụ án căn cứ tạm đình chỉ chưa chính xác, nguyên đơn xin tạm đình chỉ
nhưng không có lý do chính đáng, khi hết lý do tạm đình chỉ việc giải quyết
lại còn chậm trễ. Đối với việc đình chỉ có vụ còn không có căn cứ như sau hai
lần báo gọi nguyên đơn không lên Tòa, không tiến hành xác minh mà ra quyết
định đình chỉ là không chính xác và có vụ án đình chỉ xử lý án phí không
đúng quy định pháp luật.
Có những vụ hòa giải thành nhưng hoạt động thu thập chứng cứ còn
thiếu sót như có vụ đương sự chỉ nộp các tài liệu là bản phô tô mà không giao
nộp bản chính hoặc bản sao có công chứng, chứng thực là không bảo đảm
tính khách quan, chính xác của vụ án. Công tác hòa giải còn chưa đáp ứng
được nhu cầu đòi hỏi của thực tế như Thẩm phán còn chưa nắm chắc nội
dung hồ sơ, còn lúng túng trong việc định hướng giải quyết vụ án, việc giải
thích pháp luật còn sơ sài, khả năng động viên, thuyết phục các đương sự
còn chưa cao.
Đối với những vụ án phải đưa ra xét xử thường là những vụ án phức
tạp, ngoài việc chịu ảnh hưởng những hạn chế của quá trình điều tra vụ án,
còn có những thiếu sót như việc nghiên cứu hồ sơ chưa kỹ, việc xác định tư
cách tố tụng còn chưa chính xác, chưa hiểu đúng các quy định của pháp luật
dẫn đến việc viện dẫn điều luật còn chưa chính xác, chưa đầy đủ, có vụ án còn
vi phạm thời hạn tố tụng. Có những bản án chất lượng chưa cao, nội dung
chưa ngắn gọn, súc tích, cách tuyên án còn chưa rõ ràng, tính án phí còn nhầm
lẫn. Việc tống đạt còn thiếu sót, cấp trích lục án, cấp bản án còn chậm.
Như vậy, những hạn chế của TAND thành phố Thái Nguyên trong xét
xử các vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản như đã nêu ở trên cần phải khắc
52
phục và rút kinh nghiệm để hoạt động giải quyết án ngày càng tốt hơn.
2.3.2. Nguyên nhân
Từ những tồn tại, hạn chế trên có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong
đó có những nguyên nhân cơ bản sau:
* Các nguyên nhân khách quan
Hệ thống pháp luật quy định về chế định vay tài sản của nước ta còn
chưa đồng bộ và chưa thống nhất, các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật
còn chậm, thiếu. Quá trình giải quyết án phát sinh nhiều bất cập, có những
trường hợp lúng túng vì phải tìm văn bản pháp luật để áp dụng, việc hướng
dẫn của Tòa án cấp trên còn chậm ảnh hưởng đến thời hạn tố tụng, có quy
phạm trong các văn bản pháp luật không phù hợp với thực tiễn, hoặc quy định
không rõ ràng, cụ thể dẫn đến nhiều cách hiểu và áp dụng khác nhau.
Sự phối kết hợp giữa Tòa án và các cơ quan liên quan như Tài chính,
Tài nguyên môi trường, Công ty quản lý và phát triển nhà, Phòng đăng ký
kinh doanh, cơ quan thuế, ủy ban nhân dân …trong việc giải quyết án về hợp
đồng vay tài sản còn nhiều khó khăn như việc điều tra xác minh về tài sản thế
chấp, xác minh nơi cư trú của đương sự, xác minh địa chỉ đăng ký kinh
doanh, đăng ký thuế …..Việc ủy thác điều tra, trưng cầu giám định thường
chờ kết quả trả lời rất lâu, thậm chí phải nhiều lần gửi công văn đôn đốc mới
có kết quả trả lời.
Cơ sở vật chất của Tòa án phục vụ cho công tác giải quyết án còn thiếu
thốn, các vụ án có liên quan đến các tỉnh lân cận hầu hết phải ủy thác điều tra
hoặc phải trực tiếp đi xác minh, xem xét thẩm định tài sản, chế độ công tác
phí còn hạn chế.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân còn
chưa được chú trọng, nhận thức pháp luật của người dân còn nhiều hạn chế
nên người dân chưa biết lựa chọn phương thức thỏa thuận bảo đảm được
53
quyền lợi khi phát sinh tranh chấp.
* Nguyên nhân chủ quan
Do trình độ chuyên môn của Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân và thư ký
trong quá trình giải quyết án còn hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu công
việc, biên chế cán bộ của Tòa còn ít, số lượng án nhiều dẫn đến hiệu quả giải
quyết án chưa cao. Thẩm phán cấp huyện đều phải giải quyết tất cả các loại
án nên khả năng chuyên sâu và cập nhật thông tin chưa đáp ứng được nhu cầu
công việc. Hội thẩm nhân dân là chủ thể không thể thiếu trong thành phần
những người tiến hành tố tụng, khi tham gia xét xử có quyền ngang Thẩm
phán, khi nghị án biểu quyết đa số. Thực tế kiến thức pháp luật của Hội thẩm
nhân dân còn nhiều hạn chế, hầu hết không được đào tạo chuyên môn về pháp
luật. Hàng năm Tòa án cấp tỉnh cũng tổ chức tập huấn nhưng thời gian tập
huấn ngắn nên hiệu quả không cao. Do chất lượng Hội thẩm không cao nên
kết quả việc việc xét xử án về hợp đồng vay tài sản cũng bị ảnh hưởng nhiều.
Để hạn chế đến mức thấp nhất những sai sót trong giải quyết án về hợp
đồng vay tài sản cần khắc phục triệt để những nguyên nhân cơ bản nêu trên.
Kết luận chương 2
Nội dung Chương 2 của Luận văn đã nêu lên thực tiễn giải quyết tranh
chấp hợp đồng vay tài sản của TAND thành phố Thái Nguyên. Mặc dù có
nhiều thuận lợi trong công tác xét xử nhưng trong quá trình giải quyết, ngành
Tòa án gặp khó khăn chung là các quy định của luật cũng như văn bản hướng
dẫn còn thiếu, chưa kịp thời điều chỉnh những vấn đề xã hội phát sinh; thậm
chí còn chưa đánh giá đúng bản chất các giao dịch về tài sản... Nhà nước cần
có những chính sách, quyết định thích hợp về vấn đề tiền tệ - lãi suất để ổn
định và phát triển kinh tế, đảm bảo trật tự an toàn xã hội. Một số vụ án tranh
chấp vay tài sản trong việc đình chỉ và tạm đình chỉ đôi khi còn có những
54
thiếu sót, có vụ án căn cứ tạm đình chỉ chưa chính xác, nguyên đơn xin tạm
đình chỉ nhưng không có lý do chính đáng, khi hết lý do tạm đình chỉ việc giải
quyết lại còn chậm trễ. Nguyên nhân là do Thẩm phán chưa tập trung tìm hiểu
kỹ văn bản pháp luật. Có những vụ hòa giải thành nhưng hoạt động thu thập
chứng cứ còn thiếu sót. Công tác hòa giải còn chưa đáp ứng được nhu cầu đòi
hỏi của thực tế như Thẩm phán còn lúng túng trong việc định hướng giải
quyết vụ án, việc giải thích pháp luật còn sơ sài, khả năng động viên, thuyết
phục các đương sự còn chưa cao.
Vì vậy, cần có những giải pháp hiệu quả được trình bày ở chương 3
luận văn để hợp đồng vay tài sản này trở nên thực tế hơn và phù hợp hơn với
ý nghĩa của nó, tránh những tranh chấp không đáng có như hiện tại để bảo vệ
55
lợi ích chính đáng của nhân dân.
Chương 3
YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH
PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG VAY TÀI SẢN
3.1. Sự cần thiết đối với việc hoàn thiện quy định pháp luật dân sự về hợp
đồng vay tài sản.
Mặc dù pháp luật dân sự đã có những quy định cụ thể về hợp đồng vay
tài sản và giải quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản chi tiết cụ thể và rõ
ràng. Tuy nhiên, qua trình áp dụng pháp luật để giải quyết tranh chấp vẫn còn
nhiều khó khăn, vướng mắc, tranh chấp về hợp đồng vay tài sản ngày càng
gia tăng. Quy định của pháp luật về hợp đồng dân sự nói chung cũng như hợp
đồng vay tài sản nói riêng cần được sửa đổi bổ sung để việc áp dụng được tốt
hơn. Trong tình hình nền kinh tế xã hội đang trên đà phát triển cùng hội nhập
khu vực và quốc tế, nhu cầu về vốn càng tăng cao thì việc hoàn thiện các quy
định pháp luật về hợp đồng vay tài sản ngày càng trở nên bức thiết. Có như
vậy mới đảm bảo được quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể khi tham
gia giao dich.
Yêu cầu xây dựng và hoàn thiện pháp luật hợp đồng nói chung và hợp
đồng vay tài sản nói riêng là một tất yếu khách quan, sự đòi hỏi của thực tiến.
Khi thi hành BLDS năm 2015, Nhà nước Việt Nam tiếp tục đẩy mạnh
chính sách xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được
khởi xướng từ năm 1986. Sau hơn ba mươi năm đổi mới, Việt Nam đã hình
thành những điều kiện cần thiết để tiến tới một nền kinh tế thị trường đầy đủ
hơn. Việc thừa nhận sở hữu tư nhân và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát
triển; việc cải thiện quyền tự do giao dịch, lao động; tự do tiền tệ; tự do đầu
tư; việc giao đất cho tổ chức, cá nhân sử dụng ổn định, lâu dài và được phép
56
chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, cho thuê, chuyển đổi, cho hoặc tặng, góp
vốn để kinh doanh; việc hình thành đồng bộ các loại thị trường trong nền kinh
tế (thị trường lao động, thị trường đất đai – bất động sản, thị trường vật tư –
hàng hoá, thị trường tài chính – tiền tệ)…, cũng như việc nỗ lực cải cách thể
chế kinh tế và quy định pháp luật, làm cho thể chế kinh tế của chúng ta ngày
càng phù hợp hơn với kinh tế thế giới.
Song song với những nỗ lực trên, Việt Nam cũng không ngừng mở
rộng quan hệ ra thế giới và đã đạt được nhiều thành quả. Việt Nam trở thành
thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) năm 2007, tham gia
ngày càng sâu rộng vào Diễn đàn APEC, các tổ chức khu vực… tham gia các
hiệp định thương mại song phương, đa phương AFTA, Hiệp định thương mại
Việt – Mỹ… với những cam kết quốc tế trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ
và sở hữu theo cơ chế kinh tế thị trường.
Tuy nhiên, để xây dựng một nền kinh tế thị trường đầy đủ, Việt Nam
còn nhiều việc phải thực hiện, trong đó có yêu cầu bảo đảm các yếu tố cơ bản
của thể chế pháp lý cho nền kinh tế thị trường như: Hoàn thiện hệ thống pháp
luật về tài sản, sở hữu, giao dịch được xây dựng trên cơ sở tôn trọng thỏa
thuận và bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể, Nhà nước không áp
đặt quyền lực để can thiệp vào quan hệ giữa các chủ thể, họ có quyền tự
quyết. Bên cạnh đó các chủ thể được tự do thể hiện ý chí trong giao dịch và
phải chịu trách nhiệm pháp lý về hành vi tham gia giao dịch mà không phụ
thuộc chủ thể đó là Nhà nước, tổ chức hay cá nhân. Ngoài ra, sự hiện diện và
thể hiện vai trò của Nhà nước trong đời sống dân sự, trong thị trường với sự
cam kết tôn trọng và bảo đảm của Nhà nước về sở hữu và quyền tự do giao
dịch cũng là yếu tố cần quy định rõ.
Trong xu thế phát triển đó, BLDS đóng vai trò đặc biệt quan trọng, là
đạo luật “gốc” cho hệ thống các văn bản luật khác như Luật Thương mại;
57
Luật Lao động; Luật hôn nhân và gia đình; Luật Nhà ở; Luật Kinh doanh bất
động sản…. BLDS đã cụ thể hoá các quan điểm chỉ đạo của Đảng ta về bảo
vệ, tôn trọng quyền sở hữu và tự do hợp đồng, góp phần thúc đẩy việc xây
dựng đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Các
quy định trong BLDS năm 2015 đã có tính khái quát cao hơn. Đặc biệt đã
ghi nhận một cách đầy đủ các quyền tự do ý chí của con người trong quan
hệ dân sự.
Tuy nhiên, thực tế hiện nay lại cho thấy, các quy định trong BLDS về
hợp đồng nói chung và hợp đồng vay tài sản nói riêng nhìn chung còn nhiều
yếu tố bất cập như đã phân tích. Quy định về hợp đồng vay tài sản cần có sự
sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với bối cảnh mới hiện nay.
3.2. Những yêu cầu đối với việc hoàn thiện các quy định về hợp đồng vay
tài sản
Việc sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về hợp đồng nói chung và
hợp đồng vay tài sản nói riêng là cần thiết. Chúng ta phải đảm bảo các quy
định về hợp đồng vay tài sản phải đáp ứng những yêu cầu như:
+ Đảm bảo sự tôn trọng tự do ý chí trong hợp đồng
Để đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật hợp đồng của một quốc gia,
người ta thường xem xét các tiêu chí đánh giá tự do hợp đồng. Tự do hợp
đồng được hiểu là khi tham gia quan hệ hợp đồng, các bên được tự do lựa
chọn đối tác, tự do chọn loại hình hợp đồng thích hợp để đạt mục tiêu, tự do
xác lập các điều khoản và tự do quyết định có giao kết hợp đồng hay không.
Tuy nhiên, về cơ bản vẫn phải đảm bảo nguyên tắc chủ đạo đó là hạn
chế sự can thiệp của Nhà nước vào quyền tự do của các chủ thể luật tư. Do
đó, cần đảm bảo tự do hợp đồng của các bên trong quan hệ hợp đồng, đồng
thời có những quy định pháp luật hạn chế ở mức thích đáng tự do hợp đồng
58
nhằm bảo đảm trật tự công cộng và đạo đức xã hội.
Hoàn thiện những quy định liên quan đến hợp đồng vay tài sản như quy
định về lãi suất hay quy định về hụi, họ biêu phường...cần xác định phạm vi
sự can thiệp vào tự do hợp đồng. Trong xu hướng hoàn thiện pháp luật, khi
sửa đổi các quy định liên quan trong BLDS năm 2005 cần có những quy định
về hợp đồng vay tài sản không chỉ bảo đảm sự quản lý nhà nước mà cần đặt
lợi ích của các bên tham gia hợp đồng làm mục tiêu ưu tiên. Điều này nhằm
mục đích Nhà nước thực sự tạo dựng hành lang pháp lý an toàn cho các quan
hệ tự do kinh doanh, tự do thỏa thuận để thúc đẩy các quan hệ phát triển.
+ Đảm bảo tính khoa học và thống nhất
Khi hoàn thiện các quy định pháp luật về hợp đồng vay tài sản, chúng ta
cũng cần đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ giữa các văn bản điều chỉnh quan
hệ hợp đồng. Nói cách khác, mối quan hệ giữa luật chung (luật dân sự) và luật
riêng (các luật chuyên ngành) cần được giải quyết thỏa đáng và triệt để. Vì
thế khi xây dựng, sửa đổi hoặc bổ sung các quy định pháp luật về hợp đồng
vay phải tránh được sự trùng lặp trong việc điều chỉnh, khắc phục được sự
mâu thuẫn trong bản thân các quy định pháp luật về hợp đồng trong luật dân
sự, thương mại và các lĩnh vực khác
- Đối tượng của hợp đồng vay tài sản
BLDS là văn bản pháp lý điều chỉnh chung nhất tất cả các quan hệ xã
hội, do vậy các quy định về hợp đồng vay tài sản cần phải bao quát cả đến các
quan hệ cho vay của tổ chức tín dụng với khách hàng. Vì theo quy định của
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam năm 2010 và Luật các tổ chức tín dụng
năm 2010, thì tổ chức tín dụng là tổ chức được phép hoạt động ngoại hối. Vì
vậy, nên bổ sung vào đối tượng của hợp đồng vay tài sản vào Điều 463 BLDS
năm 2015 là cần thiết. Đồng thời TAND Tối cao cần có hướng dẫn cụ thể
trong việc giải quyết các tranh chấp cho vay ngoại tệ để tránh tình trạng vẫn
59
còn có sự mâu thuẫn, chưa thống nhất khi xét xử tại các Tòa án.
Các quy định về hợp đồng vay tài sản cần phải bao quát cả đến các
quan hệ cho vay giữa các tổ chức tín dụng với khách hàng mà theo quy định
của pháp luật, tổ chức tín dụng là tổ chức được phép hoạt động ngoại hối. Vì
thế việc bổ sung thêm đối tượng của hợp đồng vay tài sản vào Điều 463
BLDS năm 2015 là cần thiết. Ngoài ra, cần quy định cụ thể và tách bạch các
đối tượng là vàng, kim khí quý, đá quý và không để chung trong đối tượng là
vật. Việc tách bạch như vậy sẽ giải quyết được vấn đề lãi suất trong hợp đồng
vay tài sản có đối tượng là vàng – một vấn đề mà BLDS hiện hành vẫn còn
đang bỏ ngỏ.
- Hình thức của hợp đồng vay tài sản
Hình thức của hợp đồng là một trong những vấn đề mang tính lý luận
phức tạp của chế định hợp đồng. Tầm quan trọng của chúng không chỉ dừng
lại ở giá trị chứng cứ khi nảy sinh tranh chấp mà còn liên quan đến việc xác
định thời điểm có hiệu lực của hợp đồng, vấn đề hợp đồng vô hiệu, hậu quả
pháp lý khi hợp đồng vô hiệu về hình thức. Mặc dù BLDS đã có những quy
định về hình thức hợp đồng, trong đó ghi nhận rõ ràng các hình thức, nhưng
nhìn chung, toàn bộ quy định liên quan về hình thức của hợp đồng chưa thể
hiện được quan điểm pháp lý mang tính toàn diện và hệ thống. Số lượng
những vụ tranh chấp tại hợp đồng vay tài sản chủ yếu là hợp đồng miệng,
bằng lời nói. Thực tế xét xử cho thấy, các hợp đồng vay tài sản giao kết bằng
lời nói nhiều hơn các hợp đồng giao kết bằng văn bản. Đối với những hợp
đồng giao kết bằng lời nói, nếu không có bên thứ ba làm chứng, sẽ tạo rất
nhiều khó khăn cho thẩm phán trong quá trình điều tra, thu thập chứng cứ để
giải quyết tranh chấp. Và dù có người làm chứng thì lời nói đó cũng khó kiểm
soát được tính xác thực. Do vậy, BLDS cần quy định chi tiết hơn về hình thức
của hợp đồng vay tài sản để tạo điều kiện thuận lợi cho Toà án có cơ sở pháp
60
lý khi giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng vay tài sản; đồng thời đảm
bảo được quyền lợi hợp pháp của các bên, bên vay không cần lý do để từ chối
việc vay mượn của mình, còn bên cho vay không thể ép buộc bên vay hoặc
lợi dụng giấy tờ vay nợ không rõ ràng để đi đòi nợ.
Đây là giao dịch hết sức phổ biến của đời sống dân sự, dễ có những
xung đột về lợi ích giữa các chủ thể. Vì vậy, một bản hợp đồng vay tài sản
được ký kết với những điều khoản được quy định rõ ràng là căn cứ xác đáng
nhất để các bên thực hiện nghĩa vụ một cách trung thực và tự nguyện.
- Lãi suất
Thứ nhất, trong hợp đồng vay tài sản thì lãi suất là một yếu tố rất quan
trọng vì nó là cơ sở để tính lãi và đa số các tranh chấp về hợp đồng vay tài sản
có nguyên nhân từ lãi, mức lãi suất. Trên thực tế, quan hệ vay tài sản nói
chung rất phong phú, đa dạng, mức lãi suất được xem là phù hợp mà các bên
tham gia giao dịch đưa ra và có thể cùng chấp nhận được chịu ảnh hưởng bởi
rất nhiều yếu tố.
Về nguyên tắc, lãi suất cho vay cụ thể sẽ do các bên thoả thuận, tuy
nhiên, nhằm ngăn ngừa hiện tượng cho vay nặng lãi và cũng tạo cơ sở pháp lý
để giải quyết các tranh chấp về lãi suất hoặc trong trường hợp không có cơ sở
xác định rõ mức lãi đã thoả thuận, BLDS năm 2015 có quy định về mức lãi
suất tại Khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015 quy định "Trường hợp các bên có
thỏa thuận về lãi suất thì lãi suất theo thỏa thuận không được vượt quá
20%/năm của khoản tiền vay, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định
khác". Việc quy định tăng mức lãi suất nêu trên có nhiều thuận lợi như: đảm
bảo được tính rõ ràng, minh bạch, dễ áp dụng; các bên tham gia giao dịch vay
tài sản có thể biết ngay hậu quả pháp lý khi ký xác lập và thực hiện hợp đồng;
mức lãi suất tăng so với quy định của luật cũ không quá cao và tương đối phù
hợp với tình hình kinh tế, xã hội hiện nay. Ngoài ra, quy định nêu trên còn
61
hạn chế được tình trạng cho vay lãi nặng.
Tương tự như trên, nếu như tại khoản 2 Điều 476 Bộ luật dân sự hiện
hành quy định: “Trong trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi,
nhưng không xác định rõ lãi suất hoặc có tranh chấp về lãi suất thì áp dụng lãi
suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước công bố tương ứng với thời hạn vay tại
thời điểm trả nợ” thì tại khoản 2 Điều 468 Bộ luật dân sự năm 2015 đã được
chỉnh lý lại về mức lãi suất ấn định trong hợp đồng vay có lãi nhưng các bên
không có thỏa thuận rõ về lãi suất dẫn đến tranh chấp quy định như sau:
“Trường hợp các bên có thoả thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ
lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức
lãi suất giới hạn quy định tại khoản 1 Điều này tại thời điểm trả nợ”.
Với quy định này việc làm thế nào để xác định chính xác khoản tiền
vay tại từng thời điểm trong trường hợp bên cho vay liên tục nhập các khoản
lãi suất vào nợ gốc và yêu cầu bên vay phải trả lãi trên toàn bộ số nợ đó. Khi
đó, việc áp dụng lãi suất 20%/năm cho khoản vay vào thời điểm nào mới là
phù hợp và số tiền nào mới được gọi là “khoản tiền vay” như trên có lẽ còn
phải chờ hướng dẫn cụ thể mới có thể áp dụng được.
Thứ hai, Cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành thông tư hướng dẫn
cũ thể về quy định: “Trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác” quy
định tại khoản 1 Điều 468 BLDS năm 2015. Mà theo đó, Thông tư được ban
hành quy định cụ thể lãi suất thỏa thuận của các tổ chức tín dụng với khách hàng
trong hoạt động cấp tín dụng theo cơ chế “thỏa thuận tự do” hay “giới hạn trong
phạm vi” để hài hòa lợi ích giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo tác giả,
trong quan hệ cấp tín dụng thì khách hàng không thực sự bình đẳng và yếu thế
hơn nên cần có giới hạn khống chế mức lãi suất cho phù hợp.
Thứ ba, bổ sung chế tài
Bên cạnh việc tính lại lãi suất, có thể bổ sung chế tài dân sự cho trường
62
hợp cho vay nặng lãi. Cụ thể là nếu bên nhận lãi quá cao thì khoản tiền đã
nhận thừa so với mức cho phép được coi như là đã nhận để trả vào tiền gốc.
Do đó, khoản tiền để tính lãi sau khi nhận tiền thừa sẽ nhỏ hơn nên sẽ phát
sinh ít lãi hơn. Cách giải quyết này là hoàn toàn phù hợp với pháp luật thực
định và tăng thêm tính hiệu quả của chế tài cho hành vi cho vay nặng lãi.
Chế tài cho nặng lãi không còn là một quy định của luật chuyên biệt
cho một hợp đồng vay tài sản mà là quy định của luật chung về hợp đồng.
Thiết nghĩ, chế tài đối với trường hợp cho vay nặng lãi cần được áp dụng cho
tất cả những hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ thanh toán mà các bên có thỏa
thuận lãi. Khi hợp đồng có nghĩa vụ thanh toán với lãi suất thì bản chất không
khác gì việc các bên ký hai hợp đồng, hợp đồng làm phát sinh nghĩa vụ thanh
toán (hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê tài sản, hợp đồng dịch vụ...) và hợp
đồng cho vay tiền đối với khoản tiền đáng ra phải trả ngay. Vì vậy, cần áp
dụng chế tài cho vay nặng lãi đối với hợp đồng thứ hai này.
3.3. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản
- Giải pháp về đổi mới tổ chức và hoạt động của hệ thống Tòa án
Thứ nhất là, sự giám sát của Viện kiếm sát đối với những hoạt động tố
tụng của toà án trong quá trình giải quyết tranh chấp cũng là một yếu tố ảnh
hưởng tới chất lượng bản án. Viện kiếm sát thực hiện kiếm sát việc tuân theo
pháp luật trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản thông qua
những hoạt đông như: kiếm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết
tranh chấp hợp đồng vay tài sản của toà án như kiếm sát việc thụ lý, lập hồ sơ,
hoà giải, xét xử, ra bản án; kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc tham
gia tố tụng của những người tham gia tố tụng và những người liên quan trong
quá trình giải quyết các tranh chấp hợp đồng vay tài sản; yêu cầu, kiến nghị,
kháng nghị các bản án, quyết định của Toà án theo quy định của pháp luật
63
nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được kịp thời, đúng pháp luật; tham gia
các phiên toà xét xử vụ án tranh chấp hợp đồng vay tài sản; kiếm sát việc tuân
theo pháp luật của đương sự, cơ quan thi hành án, chấp hành viên, cá nhân và
tổ chức liên quan đến thi hành án. Sự tham gia của Viện kiếm sát có ý nghĩa
quan trọng, đế hoạt động tố tụng tại Toà được đảm bảo tuân thủ đúng pháp
luật, nâng cao trách nhiệm của toà án đối với quá trình giải quyết, cần tăng
cường các biện pháp giám sát, kiểm tra của Viện kiểm sát đối với hoạt động
tố tụng của toà án.
Thứ hai, trong quá trình giải quyết các vụ việc dân sự liên quan đến lãi
suất có nhiều Tòa án địa phương vận dụng quy định pháp luật chưa thống
nhất. Hàng năm ngành Tòa án chưa có tổng kết rút kinh nghiệm xét xử đối
với loại giao dịch dân sự này. Các giao dịch dân sự có lãi suất phát sinh phổ
biến và chiếm đa số trong các vụ việc tranh chấp dân sự hiện nay tại Tòa án.
Do vậy, để thực hiện tốt công tác xét xử, ngành Tòa án cần thực hiện những
việc sau:
- Cần có sự tổng kết, rút kinh nghiệm trong công tác xét xử đối với loại
vụ việc này, từ đó tìm ra và khắc phục vướng mắc, khó khăn trong hoạt động
tố tụng của Tòa án;
- Tòa án nhân dân tối cao phối hợp với các cơ quan liên ngành có văn
bản hướng dẫn kịp thời, cụ thể để áp dụng thống nhất quy định về lãi suất để
đảm bảo quyền lợi của các đương sự và phù hợp lợi ích của Nhà nước; Tổ
chức hội thảo, tập huấn nghiệp vụ cho cán bộ, Thẩm phán, Thư ký tòa án về
quy định lãi suất của Nhà nước.
- Thẩm phán, thư ký Tòa án cần nghiên cứu kỹ quy định lãi suất của
pháp luật dân sự hiện hành, chính sách lãi suất của Nhà nước cũng như các
văn bản pháp quy của Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng quy định
64
về lãi suất để vận dụng lãi suất cơ bản kịp thời, thống nhất. Đặc biệt trong tình
hình hiện nay các quy định lãi suất có nhiều thay đổi và chỉ số lãi suất luôn có
sự biến động phù hợp với nền kinh tế thị trường.
- Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân
Qua thực tiễn xét xử tại Hải Phòng, theo tác giả cần nâng cao trình độ
chuyên môn nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ tư pháp nói riêng và nâng cao hiểu
biết pháp luật của người dân nói chung. Một đòi hỏi bức thiết là Nhà nước cần
đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề
nghiệp cho đội ngũ cán bộ tư pháp và tăng cường kiểm soát các hợp đồng vay
tiền. Tăng cường nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ ngành
Tòa án, bồi dưỡng về phẩm chất đạo đức và trách nhiệm đối với công việc.
Để công tác xét xử đảm bảo được quyền lợi cho đương sự. Bên cạnh đó,
nhưng sai phạm của cán bộ ngành Tòa án cần được xử lý nghiêm khắc, đồng
thời phải bồi thường cho các đối tượng bị xử sai.
- Giải pháp nâng cao hệ thống pháp luật
Trong những năm gần đây, công tác xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật ở nước ta đã có những tiến bộ quan trọng. Nhiều bộ luật, luật, văn bản
dưới luật được ban hành đã tạo khuôn khổ pháp lý ngày càng hoàn chỉnh hơn để
Nhà nước quản lý bằng pháp luật trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội...
Tuy nhiên, nhìn chung hệ thống pháp luật nước ta vẫn chưa đồng bộ,
thiếu thống nhất, tính khả thi thấp, chậm đi vào cuộc sống, chưa theo kịp yêu
cầu phát triển kinh tế xã hội và quản lý đất nước. Cơ chế xây dựng, sửa đổi
pháp luật còn nhiều bất hợp lý và chưa được coi trọng đổi mới, hoàn thiện.
Tiến độ xây dựng luật và các văn bản dưới luật còn chậm, chất lượng các văn
bản pháp luật chưa cao. Thiết chế bảo đảm thi hành pháp luật còn thiếu và
yếu. Công tác xét xử trong một số trường hợp chưa chính xác, tình trạng án
tồn đọng, án bị hủy, bị cải sửa còn nhiều, trong đó có án tranh chấp hợp đồng
65
vay tài sản.
Vì vậy, việc hoàn thiện pháp luật về giải quyết tranh chấp hợp đồng
vay tài sản phải phù hợp với quá trình cải cách tư pháp, cải cách hành chính
và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống
pháp luật phù hợp với kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội
nhập kinh tế quốc tế, việc hoàn thiện cơ chế giải quyết tranh hợp đồng vay tài
sản cần quán triệt các quan điểm sau:
Một là, thể chế hoá kịp thời, đầy đủ, đúng đắn đường lối của Đảng,
cụ thể hoá các quy định của Hiến pháp về xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa.
Theo đó, cần hoàn thiện pháp luật về hợp đồng theo hướng tôn trọng
thoả thuận của các bên giao kết hợp đồng, không trái với đạo đức xã hội,
không xâm phạm trật tự công cộng, phù hợp với tập quán, thông lệ thương
mại quốc tế. Hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng các thiết chế và
chuẩn mực quốc tế về an toàn trong kinh doanh tiền tệ - tín dụng, tạo môi
trường lành mạnh, bình đẳng cho hoạt động ngân hàng, khuyến khích cạnh
tranh trong hoạt động tín dụng trên nguyên tắc an toàn hệ thống.
Hai là, gắn liền và đồng bộ với quá trình cải cách tư pháp trong sạch,
vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, bảo vệ công lý, trên cơ sở giữ vững ổn
định chính trị, xã hội. Giữ vững ổn định chính trị, xã hội là nền tảng để phát
triển và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Để đạt được mục tiêu này, đòi hỏi phải đổi mới tổ chức phiên tòa xét
xử nhằm nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa, coi hoạt động xét xử
của Tòa án là hoạt động trọng tâm. Theo đó, Hội đồng xét xử phải luôn khách
quan, công bằng, tôn trọng những tình tiết, những lập luận do các bên đưa ra,
luôn tạo mọi điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia tố tụng tranh luận một
66
cách bình đẳng, đảm bảo mọi bản án tuyên đều dựa trên cơ sở những tình tiết
khách quan được chứng minh qua tranh tụng, thuyết phục những người tham
gia tố tụng và luôn được đông đảo nhân dân đồng tình ủng hộ.
Ba là, phát triển hệ thống pháp luật phải xuất phát từ thực tiễn nước ta
đồng thời tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm quốc tế. Hệ thống pháp luật Việt
Nam phải thể hiện được bản sắc của nền văn hóa Việt Nam hài hòa tính
truyền thống, hiện đại và phù hợp với các chuẩn mực quốc tế, tạo điều kiện
thuận lợi để thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế trên cơ sở giữ vững độc lập,
tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa đang diễn ra xu hướng giao thoa giữa các
hệ thống pháp luật trên thế giới, các quốc gia có truyền thống dân luật có tính
chất tương đồng như Việt Nam đang ngày càng coi trọng vai trò của án lệ
cũng như tập quán pháp trong việc bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật.
Theo đó, những vụ việc giống nhau phải được xét xử và phán quyết như nhau
hoặc những tập quán được Nhà nước thừa nhận có giá trị pháp lý sẽ trở thành
những quy tắc xử sự chung và được Nhà nước đảm bảo thực hiện. Với những
quy định này sẽ tạo tính ổn định, minh bạch và có thể tiên liệu được trong các
phán quyết của Tòa án, qua đó có tác dụng hướng dẫn các hành vi ứng xử
không chỉ với các bên đương sự mà còn đối với cả xã hội.
Bốn là, bảo đảm tối đa quyền tự do kinh doanh, quyền tự định đoạt của
cá nhân, doanh nghiệp trong việc giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản.
Để hợp đồng vay tài sản nói riêng và pháp luật hợp đồng nói chung
được hiểu rõ ràng thì cơ quan có thẩm quyền cần tăng cường công tác tuyên
truyền, phố biến pháp luật và kiến thức về hợp đồng vay tài sản và giải quyết
các tranh chấp này. Nêu làm tốt công tác này sẽ hạn chế được các tranh chấp
phát sinh và tăng cường khả năng ký kết các hợp đồng vay tài sản giữa các
chủ thể. Với nội dung phong phú cụ thể như mục hỏi đáp thông tin pháp luật,
67
lịch xét xử của toà, các mục trình bày về thủ tục tố tụng, những điều kiện về
khởi kiện... giúp công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật được thực hiện
một cách thuận lợi. Mô hình nay cần được mở rộng hơn nữa ở Toà án các cấp.
Nâng cao công tác tuyên truyền pháp luật tới các công dân nhằm tránh
cho họ những rủi ro không đáng có khi giao kết hợp đồng vay tài sản lãi cao.
Sự biến đối của đồng tiền và giá trị của chính nó tại một số thời điểm trong
thời gian qua đã tạo cơ hội cho các đối tượng cho vay nặng lãi vượt nhiều lần
so với sự quy định của Nhà nước. Những người có nhu cầu đi vay, để tránh
“phiền phức”, họ không vay ở các Ngân hàng hay các tố chức tín dụng mà
vay của những người “dư dật” của cải và có nhu cầu cho vay đế thoả mãn nhu
cầu vật chất của chính mình, nhưng sự biến đối bất thường của giá trị đồng
tiền và việc vay khó khăn tại các Ngân hàng khiến cho những người cho vay
đã cố tình nâng lãi suất. Và hậu quả khi bên vay không trả đủ nợ cho bên cho
vay thường được thực hiện theo thỏa thuận khác mà phần lớn là xâm phạm
đến quyền lợi ích của bên vay.
Ngoài ra, sử dụng án lệ cũng là một phương pháp giải quyết tranh chấp
hiệu quả. Phương pháp này cũng được pháp luật các nước sử dụng khi giải
quyết tranh chấp về hợp đồng vay tài sản.
Như vậy, từ những vướng mắc và hạn chế trong quá trình giải quyết
tranh chấp hợp đồng vay tài sản và sự cần thiết phải hoàn thiện những quy
định về hợp đồng vay. Tác giả xin đưa ra một số giải pháp nêu trên nhằm
tránh được những bất cập, vướng mắc trong quá trình giải quyết tranh chấp
này tại Tòa án hiện nay. Đồng thời hoàn thiện quy định pháp luật về hợp đồng
68
vay tài sản.
Kết luận chương 3
Hợp đồng vay tài sản là loại hợp đồng thông dụng, phổ biến trong đời
sống dân sự, có vai trò quan trọng trong việc lưu thông nguồn vốn, góp phần
thúc đẩy kinh tế - xã hội phát triển; đồng thời thể hiện tinh thần thân ái, giúp
đỡ nhau trong nhân dân. Việc giải quyết các tranh chấp phát sinh từ quan hệ
này là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, bảo vệ sự lành
mạnh trong giao dịch thương mại nói riêng và dân sự nói chung, bảo vệ
truyền thống tốt đẹp của dân tộc.
Từ cơ sở lý luận, qua nghiên cứu thực trạng giải quyết tranh chấp hợp
đồng vay tài sản đã tác giả đã đề ra những giải pháp để hoàn thiện việc giải
quyết loại tranh chấp này của Tòa án được hiệu quả. Việc nghiên cứu đề tài
đã góp phần không nhỏ vào việc làm lành mạnh các quan hệ xã hội, bảo vệ
chế độ, bảo vệ nền pháp chế xã hội chủ nghĩa và xây dựng một xã hội dân
69
chủ, công bằng, văn minh.
KẾT LUẬN
Việc nghiên cứu những quy định về hợp đồng vay tài sản, tranh chấp
hợp đồng vay tài sản và giải quyết tranh chấp tại Toà án trong thời gian này là
vấn đề có ý nghĩa thiết thực. Một mặt, chỉ ra những tranh chấp chủ yếu trong
hợp đồng vay tài sản và chỉ ra những nguyên nhân làm phát sinh tranh chấp,
từ đó đưa ra những giải pháp để hạn chế các tranh chấp, góp phần làm lành
mạnh quan hệ vay tài sản. Mặt khác, phân tích một cách khái quát các quy
định của pháp luật hiện hành về hợp đồng vay tài sản và giải quyết tranh chấp
tại Tòa án. Phân tích đánh giá những kết quả đạt được của Toà và đưa ra
những hạn chế tồn tại trong công tác xét xử. Qua việc nghiên cứu các vấn đề
đó, tác giả mạnh dạn đưa ra những giải pháp nhằm hoàn thiện những quy định
của pháp luật hiện hành tiến tới chuẩn hoá những quy định nội dung trong
BLDS năm 2015 phù hợp với tình hình thực tiễn. Ngoài ra, tác giả còn đề
xuất một số biện pháp để cho những quy định luật được thực hiện trên thực tế,
đảm bảo nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trước mắt, cần thực hiện
công tác rà soát những quy định hiện hành của pháp luật để sửa đổi, bổ sung
cho thống nhất, tránh tình trạng chồng chéo. Đẩy mạnh việc đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ thẩm phán đảm bảo đáp ứng đủ số lượng thẩm phán theo yêu
cầu về cơ cấu của từng cấp Toà án. Phát huy sự hợp tác của các cơ quan liên
quan và tiến hành xã hội hoá công tác thi hành án đảm bảo bản án của Toà
70
được thi hành trên thực tế, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các bên.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chính phủ (2014) Nghị định 50/2014/NĐ-CP về quản lý dự trữ ngoại hối
nhà nước, ban hành ngày 20/5/2014, Hà Nội
2. Chính phủ (2012) Nghị định 24/2012/NĐ-CP về quản lý hoạt động kinh
doanh vàng, ban hành ngày 03/4/2012, Hà Nội
3. Chính phủ (2011) Nghị định số 90/2011/NĐ-CP của Chính phủ về phát
hành trái phiếu doanh nghiệp, ban hành ngày 14/10/2011, Hà Nội
4. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2016) Thông tư 43/2016/TT-NHNN quy
định cho vay tiêu dùng của công ty tài chính, ban hành ngày 30/12/2016,
Hà Nội
5. Quốc hội (1995), Bộ luật dân sự 1995, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
6. Quốc hội (2005), Bộ luật dân sự 2005, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
7. Quốc hội (2015), Bộ luật dân sự 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
8. Quốc hội (2015), Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
9. Quốc hội (2010), Luật các tổ chức tín dụng 2010, Nxb Chính trị Quốc gia,
Hà Nội.
10. Quốc hội (2010), Luật ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2010, Nxb Chính
trị Quốc gia, Hà Nội.
11. Quốc hội (2014), Luật doanh nghiệp 2014, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội.
12. Quốc hội (2013), Luật đất đai 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
13. Quốc hội (2013), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
năm 2013, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
14. Ủy ban thường vụ Quốc hội (2005) Pháp lệnh ngoại hối, ban hành ngày
71
13/12/2005, Hà Nội
15. Đỗ Văn Chỉnh (2010) "Hợp đồng vay tài sản và việc tính tiền lãi", Tạp chí
Tòa án nhân dân, số 05/2010.
16. Nguyễn Văn Cường (2005) Giao dịch dân sự vô hiệu và việc giải quyết
hậu quả pháp lý giao dịch dân sự vô hiệu, Luận án tiến sĩ Luật học.
17. Đỗ Văn Đại (2008) Luật hợp đồng Việt Nam - Bản án và bình luận bản
án, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
18. Nguyễn Ngọc Điện (2005) Bình luận các hợp đồng thông dụng trong luật
dân sự Việt Nam, Nxb Trẻ, Thành phố Hồ Chí Minh.
19. Bùi Đăng Hiếu (2001) "Giao dịch dân sự vô hiệu tuyệt đối và vô hiệu
tương đối", Tạp chí Luật học, số 05/2001.
20. Vũ Văn Mẫu (1969), Cổ luật Việt Nam lược khảo, quyển thứ nhất, Nxb Sài
Gòn, Sài Gòn.
21. Vũ Văn Mẫu (1975), Cổ luật Việt Nam và Tư pháp sử, quyển 2, Nxb Sài
Gòn Sài Gòn.
22. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010) "Tự do hóa lãi suất - có kiểm soát", Báo
điện tử Đài Tiếng nói Việt Nam.
23. Nguyễn Thị Kim Thanh (2010) “Chính sách lãi suất: cơ sở lý luận và thực
tiễn", Cổng thông tin điện tử hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.
24. Lê Thị Thu Thủy (2006) Các biện pháp bảo đảm tiền vay bằng tài sản
của các tổ chức tín dụng, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
25. Trường Đại học Luật Hà Nội (2006) Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam,
Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
26. Đinh Trung Tụng (2005) Bình luận những nội dung mới của Bộ luật Dân
sự, Nxb Tư pháp, Hà Nội.
27. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2001), Bình luận khoa
72
học Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, HàNội.
28. Viện Nghiên cứu khoa học pháp lý - Bộ Tư pháp (2005), Bình luận khoa
học Bộ luật Dân sự Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
29. Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên (2014) Báo cáo tổng kết ngành
Tòa án năm 2014, Thái Nguyên.
30. Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên (2015) Báo cáo tổng kết ngành
Tòa án năm 2015, Thái Nguyên.
31. Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên (2016) Báo cáo tổng kết ngành
Tòa án năm 2016, Thái Nguyên.
32. Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên (2017) Báo cáo tổng kết ngành
Tòa án năm 2017, Thái Nguyên.
33. Tòa án nhân dân thành phố Thái Nguyên (2018) Báo cáo tổng kết ngành
73
Tòa án năm 2018, Thái Nguyên.