
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
TRƢỜNG ĐẠI HỌC THỂ DỤC THỂ THAO BẮC NINH
TRỊNH MINH QUYẾT
NGHIÊN CỨU LỰA CHỌN BÀI TẬP
NÂNG CAO THỂ LỰC CHUNG CHO SINH VIÊN
TRƢỜNG CAO ĐẲNG Y TẾ THANH HÓA
Chuyên ngành: Giáo dục thể chất
Mã số : 60.81.01
LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC
HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN XUÂN TRÃI
BẮC NINH – 2011

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, Đảng và Nhà nước ta
luôn coi trọng vị trí con người, vì là động lực quan trọng nhất. Điều đó, khẳng định
phải có chính sách chăm sóc Giáo dục cải tạo con người Việt Nam, phát triển hài hòa
tất cả các mặt thể chất tinh thần và đạo đức.
Thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước về công tác TDTT
nhiều năm qua. Bộ Giáo dục - Đào tạo đã có nhiều văn bản quan trọng chỉ đạo phát
triển công tác giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên trường học. Trong đó, chương
trình giáo dục thể chất là cụ thể hiệu quả nhất để hướng dẫn và triển khai công việc
này đến từng cá nhân con người tham gia luyện tập vì sức khỏe.
Chương trình giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng, Trung học
chuyên nghiệp nhằm giải quyết các nhiệm vụ sau đây:
Thứ nhất: Nhằm giáo dục đạo đức XHCN, rèn luyện tinh thần ý thức tập thể, ý
thức tổ chức kỷ luật, xây dựng niềm tin lối sống lành mạnh, tinh thần tự giác, tích cực
và rèn luyện thân thể để có sức khỏe chuẩn bị sẵn sàng phục vụ sản xuất và bảo vệ Tổ
quốc.
Thứ hai: Góp phần cung cấp cho thành viên những kiến thức lý luận cơ bản về
nội dung và phương pháp tập luyện TDTT, kỹ năng vận động và kỹ năng cơ bản của
một số môn thể dục thể thao thích hợp. Trên cơ sở đó, bồi dưỡng khả năng sử dụng
các phương tiện để tự rèn luyện thân thể, tham gia tích cực vào việc tuyên truyền và tổ
chức các hoạt động TDTT của nhà trường và toàn xã hội.
Thứ ba: Góp phần duy trì và củng cố sức khỏe của sinh viên, phát triển cơ thể
một cách hài hòa, xây dựng thói quen lành mạnh và khắc phục những thói quen xấu,
rèn luyện thân thể để đạt những chỉ tiêu thể lực quy định cho từng đối tượng và năm
học cụ thể theo tiêu chuẩn rèn luyện thân thể trên từng lứa tuổi.
Thứ tư: Nâng cao mức độ thích ứng nghề nghiệp của từng sinh viên bằng các
bài tập thể dục ứng dụng nghề nghiệp phát triển kiến thức, những kỹ năng - kỹ xảo
chuyên môn, tạo điều kiện nhanh chóng nắm vững và thích ứng nghề nghiệp.
Điều 41 của Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 đã
Quy định chế độ giáo dục thể chất bắt buộc trong trường học. Chỉ thị 36/CT-TW

2
ngày 24/3/1994 của Ban Bí thư Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ rõ: “Thực
hiện giáo dục thể chất trong tất cả các trường học”.[4]
Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam khóa VII và Chỉ thị 192/CT của
Chính phủ đã chỉ rõ: Sự cần thiết phải coi trọng việc cải tiến nội dung phương pháp và
điều kiện tập luyện, nhằm nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong nhà trường các
cấp từ bậc học phổ thông đến Đại học.[6]
Mục tiêu giáo dục thể chất trong nhà trường đại học gắn liền và góp phần thực
hiện mục tiêu của giáo dục và đào tạo, giữ vị trí quan trọng và then chốt trong chiến
lược phát triển sự nghiệp TDTT. Báo cáo chính trị Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu
rõ: “Công tác thể dục thể thao cần coi trọng, nâng cao chất lượng giáo dục thể chất
trong các trường đại học và trung học chuyên nghiệp”.[7]
Để thực hiện được mục đích giáo dục thể chất trong các trường đại học là góp
phần thực hiện mục tiêu đào tạo toàn diện đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật, quản lý
kinh tế và văn hóa xã hội, phát triển con người hài hòa có thể chất cường tráng đáp
ứng yêu cầu chuyên môn nghề nghiệp, ngày 23/01/1989, Bộ trưởng Bộ Đại học trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề ra quyết định số 203/QĐ/TDTT, ban hành chương
trình giáo dục thể chất mới.
Mặc dù có chương trình cải tiến nhưng thể lực chung và thể lực nghề nghiệp
của sinh viên chưa được cải thiện đáng kể. Tình trạng phát triển thể chất sức khỏe và
thể lực của sinh viên trong các trường học như Bộ Giáo dục và Đào tạo đánh giá là
đáng lo ngại: Hàng năm có tới 30,80% trường hợp sinh viên mắc các bệnh thông
thường phải nghỉ học hoặc ảnh hưởng trực tiếp đến học tập. Có 4,10% sinh viên trừng
đại học khối kỹ thuật và 5,90% sinh viên các trường ngoài khối kỹ thuật xếp loại sức
khỏe và thể lực yếu.[12]
Một trong những nguyên nhân hiện trạng đó là việc dạy học môn thể dục ở
nhiều trường mới chỉ được thực hiện về hình thức, chủ yếu do có được điểm số thực
đánh giá mà chưa chú trọng thực chất, chưa quán triệt sâu sắc và thực hiện ý nghĩa nội
dung giáo dục thể chất để trang bị kiến thức lý luận TDTT, và trang kỹ thuật TDTT
một cách phù hợp. Công tác giáo dục thể chất, phát triển thể lực của sinh viên phải
được coi trọng thường xuyên.
Tất cả các vấn đề trên quan hệ chặt chẽ tới việc phân chia tỷ lệ nội dung giáo
dục môn học, vì tăng tỷ lệ nội dung giáo dục kỹ năng thì chỉ giúp cho sinh viên nắm
bắt về kỹ thuật động tác tốt, song để nâng cao sức khỏe phát triển tố chất thể lực thì

3
phải tăng tỷ lệ nội dung giáo dục thể lực. Trong khi đó mục đích đào tạo giáo dục thể
chất ở các trường học không chuyên TDTT thì nhu cầu kỹ năng không đòi hỏi lớn,
phần nhiều các kỹ năng TDTT đã được trang bị ở các trường phổ thông cấp dưới mà
chỉ cần hoàn thiện chúng ở bậc học trên. Rõ ràng là nếu bớt tỷ lệ nội dung giáo dục
thể chất trong điều kiện thời gian chương trình giáo dục thể chất quá ít ỏi, tất dẫn tới
làm giảm sút hiệu quả tăng cường và phát triển thể chất cho sinh viên. Do đó, khó có
thể thực hiện được mục đích giáo dục thể chất trong các trường đại học là phải tăng
cường thể lực cho sinh viên.
Mặt khác, việc nâng cao thể chất cho sinh viên nếu chỉ dựa vào những tiết học
chính khóa cùng khóa thì có thể nâng cao và phát huy tính tự giác tăng tính tự tập
luyện của sinh viên.
Trường Cao đẳng y tế Thanh Hoá là một ngôi trường có gần 50 năm truyền
thống lịch sử hình thành và phát triển. Trường nằm trên địa bàn của tỉnh Thanh Hoá,
một tỉnh địa đầu của khu vực Trung Bộ, với 4 triệu dân. Trong những năm qua, Nhà
trường đã đào tạo được hàng nghìn Cử nhân điều dưỡng, Y sỹ đa khoa, Y sỹ sản nhi,
Y sỹ y học dân tộc, Y sỹ vệ sinh phòng dịch, Dược sỹ, Nữ hộ sinh và hàng trăm sinh
viên các chuyên ngành: Sản khoa, Xét nghiệm, Chẩn đoán hình ảnh... Đáp ứng nhu
cầu cán bộ y tế cho không những trong tỉnh, trong khu vực, mà còn là phạm vi cả
nước. Ngoài ra, Nhà trường còn làm nhiệm vụ liên kết đào tào cán bộ y tế cho nước
bạn Lào. [46], [41]
Phong trào TDTT của Nhà trường được phát triển mạnh, nhiều năm đạt được
danh hiệu trường tiên tiến xuất sắc về TDTT. Trong thời gian qua, môn GDTC được
Ban giám hiệu cũng như các tổ chức khác trong Nhà trường đặc biệt quan tâm và tạo
điều kiện để phát triển. Với cơ sở vật chất, sân bãi dụng cụ TDTT chưa phải là dồi dào
nhưng phần nào đã đáp ứng được nhu cầu tối thiểu công tác giảng dạy cũng như các
hoạt động TDTT của cán bộ giáo viên, sinh viên trong trường. Ngoài việc giảng dạy
đảm bảo chương trình GDTC áp dụng chung cho các trường cho sinh viên, các giáo
viên TDTT đã huấn luyện thi đấu cho một số đội tuyển thể thao nghiệp dư của trường
và đạt được một số thành tích ở các giải của ngành, tỉnh... Có được thành tích trên,
trước hết do sự quan tâm của Đảng ủy, Ban giám hiệu nhà trường, sự hỗ trợ, ủng hộ
của các Phòng Ban, cùng sự nhiệt tình lòng yêu nghề của đội ngũ giáo viên TDTT nhà
trường; Bên cạnh đó, công tác giáo dục thể chất còn nhiều hạn chế do nhiều nguyên
nhân khác nhau như: Hình thức giáo dục nội ngoại khóa còn nghèo nàn, phân loại sức
khỏe thể lực sinh viên chưa được tiến hành. Trong những năm qua, trường Cao đẳng y

4
tế Thanh Hóa đã kiểm tra thể lực của sinh viên để đánh giá kết quả công tác Giáo dục
Thể chất, nhưng việc đánh giá thường xuyên chưa coi trọng, mà chỉ đánh giá theo kết
quả học tập, bằng cách cho điểm theo tiêu chuẩn đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo ban
hành. Điều đó, chưa đánh giá một cách chính xác, đầy đủ về sức khỏe và sự phát triển
thể lực của sinh viên nhà trường.
Với đặc thù của ngành, sinh viên trường y phải trải qua một lịch học tập tương
đối vất vả, vừa phải học các môn lý thuyết trên giảng đường, vừa phải học thực hành
tại Labo và thường xuyên học lâm sàng cũng như trực đêm tại bệnh viện. Rất nhiều
sinh viên đã không đáp ứng được yêu cầu học tập do tình trạng thể lực không tốt.
Trong các buổi học, thường xuyên có sinh viên bị mệt mỏi, choáng ngất...kết quả học
tập sa sút. Thực tế đó đòi hỏi Nhà trường phải nhanh chóng tìm ra các giải pháp có
hiệu quả để đảm bảo và nâng cao được thể lực chung cho sinh viên, đáp ứng được yêu
cầu học tập.
Qua thực hiện chương trình, chúng tôi nhận thấy chương trình mới của Bộ đề ra
áp dụng cho các trường Đại học và Cao đẳng. Về giáo dục ngoại khóa, chỉ dừng lại ở
mức phổ biến nội dung rèn luyện thân thể, yêu cầu về phương pháp tập luyện, tự tập
luyện, việc tập luyện của sinh viên chỉ mang tính chất tự phát, tính tự nguyện và hiệu
quả của tập luyện ngoại khóa thấp.
Xuất phát từ mục đích nâng cao hiệu quả giảng dạy học tập, nhất là phát triển
thể lực cho sinh viên, việc xác định phương pháp và biện pháp phát triển thể lực cho
đối tượng nêu trên hết sức cần thiết và quan trọng.
Cho đến nay, ở nước ta đã có một số công trình của các tác giả nghiên cứu trên
lĩnh vực giáo dục thể chất của sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng, chuyên nghiệp
và dạy nghề. Như các công trình nghiên cứu của các tác giả: Phạm Thị Nghị (1999)
với đề tài: “Nghiên cứu biện pháp phát triển thể lực cho sinh viên sức khỏe yếu của
trường Đại học Đà Nẵng”, Nguyễn Thị Bích Thủy (2001) với đề tài: “Nghiên cứu
hiệu quả một số bài tập phát triển chung nhằm nâng cao thể lực cho nữ sinh viên
trường Cao đẳng Sư phạm Phú Thọ”, Nguyễn Duy Linh (2006) với đề tài: “Nghiên
cứu một số giải pháp nâng cao hiệu quả GDTC của trường trung học GTVT-TWI”,
Cao Hùng Dũng (2007) với đề tài:”Nghiên cứu nâng cao năng lực sức bền chung cho
sinh viên trường Đại học Nông nghiệp - Hà Nội”, Nguyễn Văn Luyện (2008) với đề
tài: “Nghiên cứu ứng dụng bài tập nhằm nâng cao thể lực chung cho sinh viên trường
Đại học Sư phạm Kỹ thuật Vinh”, Nguyễn Thị Bích Thủy (2001) với đề tài: “Nghiên
cứu hiệu quả một số bài tập phát triển chung nhằm nâng cao thể lực cho nữ sinh viên