BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Cao

KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Nguyễn Thị Cao

KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 60 22 34

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN THỊ NGỌC ĐIỆP

Thành phố Hồ Chí Minh – 2013

LỜI CẢM ƠN

Trong suốt thời gian học tập và hoàn thành luận văn này, người viết đã

nhận được sự hướng dẫn tận tình và sự động viên, giúp đỡ của TS Nguyễn Thị

Ngọc Điệp. Tôi xin kính gởi lời tri ân chân thành đến cô!

Xin gởi lời cảm ơn đến Ban Giám Hiệu trường ĐHSP, các Thầy cô giáo

khoa Ngữ văn, các Thầy cô phòng Sau đại học, Thư viện trường đã luôn tạo

điều kiện cho Tôi học tập, tra cứu, tham khảo tài liệu phục vụ cho quá trình

nghiên cứu.

Kính gửi lời cảm ơn đến những người thân, bạn bè, đồng nghiệp đã luôn

quan tâm, động viên, giúp đỡ để Tôi hoàn thành quá trình học tập và nghiên

cứu đề tài này!

Xin chân thành cảm ơn!

Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 17 tháng 11

năm 2012

Nguyễn Thị Cao

Người viết

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN ............................................................................. 3

MỤC LỤC ................................................................................... 4

A. PHẦN MỞ ĐẦU .................................................................... 6 1. Lí do chọn đề tài .................................................................................... 6

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu ................................................................... 7

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ..................................................... 12

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu .................................................... 18

5. Phương pháp nghiên cứu ................................................................... 18

6. Cấu trúc của luận văn ........................................................................ 19

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ VÀ KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT ....................... 21 1.1 Khái quát về truyện cổ tích thần kỳ ................................................ 21

1.1.1 Khái niệm truyện cổ tích thần kỳ ......................................................... 21 1.1.2. Đặc trưng của truyện cổ tích thần kỳ .................................................. 23 1.1.3. Giới thiệu về kho tàng truyện cổ tích thần kỳ các dân tộc Việt Nam . 27

1.2. Khái quát về kiểu truyện người lấy vật ......................................... 28

1.2.1. Khái niệm về kiểu truyện người lấy vật ............................................. 28 1.2.2. Cơ sở hình thành kiểu truyện người lấy vật ....................................... 31 1.2.3. Giới thiệu chung về kiểu truyện người lấy vật ................................... 33

Chương 2: KHẢO SÁT NHỮNG MÔ-TÍP CHỦ YẾU TRONG KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT...................... 39 2.1. Khái niệm về mô-típ và giới thiệu chung về các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật ................................................................................ 39

2.1.1. Khái niệm về mô-típ ........................................................................... 39 2.1.2. Giới thiệu chung về các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật ........ 40

2.2. Phân tích các mô-típ chủ yếu .......................................................... 43

2.2.1. Mô-típ sự ra đời thần kỳ ..................................................................... 43 2.2.2. Mô-típ người đội lốt vật...................................................................... 50 2.2.3. Mô-típ thách đố................................................................................... 54 2.2.4. Mô-típ tài năng thần kỳ ...................................................................... 62 2.2.5. Mô-típ cởi lốt và kết hôn .................................................................... 68 2.2.6. Mô-típ người em út bị hại ................................................................... 85 2.2.7. Mô-típ vật phù trợ ............................................................................... 90

Chương 3: KẾT CẤU VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT ................................................................... 95 3.1. Các kiểu kết hợp mô-típ để tạo thành cốt truyện cụ thể .............. 95

3.1.1. Kiểu cốt truyện có hai mô-típ ............................................................. 96 3.1.2. Kiểu cốt truyện có ba mô-típ .............................................................. 97 3.1.3. Kiểu cốt truyện có bốn mô-típ ............................................................ 99 3.1.4. Kiểu cốt truyện có năm mô-típ ......................................................... 102 3.1.5. Kiểu cốt truyện có sáu mô-típ ........................................................... 104 3.1.6. Kiểu cốt truyện có bảy mô-típ .......................................................... 106

3.2. Ý nghĩa của kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích ...... 110

3.2.1 Kiểu truyện người lấy vật phản ánh tín ngưỡng dân gian ................. 110 3.2.2. Kiểu truyện người lấy vật thể hiện triết lý nhân sinh của nhân dân . 115

C. KẾT LUẬN ........................................................................ 121

KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT TRONG TRUYỆN

CỔ TÍCH VIỆT NAM

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

Truyện cổ tích hơn bất kỳ một thể loại văn học dân gian nào khác

ở chỗ nó đã xây dựng thành công một thế giới hiện thực trong mơ ước.

Nó rọi chiếu ánh sáng kỳ ảo của niềm hạnh phúc vào cuộc đời đầy bất

hạnh của con người, khiến họ yêu đời và sống mạnh mẽ hơn. Nhưng

truyện cổ tích không làm cho con người bị ru ngủ, bị lãng quên trong thế

giới thần tiên ấy mà khiến họ tích cực hành động để xây dựng và cải tạo

hiện thực theo hướng tốt đẹp. Mọi người nhớ và yêu thích truyện cổ tích

chính là ở khả năng cải tạo, biến đổi nhanh chóng, kỳ diệu, triệt để và

hợp lòng dân.

Trong xã hội hiện đại, khi cuộc sống của con người tương đối đầy

đủ về phương diện vật chất thì nhu cầu về văn hóa tinh thần là điều tất

yếu, con người có xu hướng tìm hiểu về văn hóa tâm linh, những phong

tục tâp quán, tín ngưỡng nguyên thủy ngàn đời, cội nguồn của dân tộc.

Tín ngưỡng dân gian luôn là vùng đất còn chứa nhiều điều bí ẩn, gợi sự

tò mò, thích thú khám phá những nét cổ sơ ấy, nó như đưa con người trở

về với xã hội nguyên thủy, trở về với tổ tiên, với những giá trị tinh thần

vô giá của mỗi dân tộc. Nghiên cứu về kiểu truyện người lấy vật trong

kho tàng truyện cổ tích các dân tộc cũng là một cách đưa ta về với cội

nguồn dân tộc. Việc người dân tôn sùng, cúng bái một vật nào đấy làm

thần phù trợ cho tộc người mình là nhu cầu không thể thiếu của đời

sống, thể hiện nét đẹp văn hóa trong tín ngưỡng dân gian và là một việc

làm cần thiết trong cuộc sống vốn còn nhiều khó khăn của cộng đồng

lúc bấy giờ.

Nghiên cứu kiểu truyện người lấy vật còn giúp chúng ta hiểu biết

thêm về nét đẹp văn hóa, về con người Việt Nam trong xã hội đa dân

tộc. Văn hóa là những giá trị tinh thần quý báu, phản ánh nét đẹp về

phong cách, lối sống và niềm tin sâu sắc vào thế giới thần bí siêu nhiên

nào đó. Sự tồn tại của yếu tố văn hóa, giúp cho con người trong xã hội

hiện tại có nhận thức sâu sắc và hoàn thiện hơn về nhân phẩm và đạo

đức, lối sống đầy nghĩa tình của tổ tiên xưa kia, đồng thời nét đẹp văn

hóa của xã hội đa dân tộc sẽ giúp chúng ta có cái nhìn rõ hơn, sâu sắc

hơn về tổ tiên, truyền thống văn hóa dân tộc để có cách sống phù hợp và

tốt đẹp hơn, một phong cách, lối sống thấm dậm nghĩa tình của người

Việt Nam.

Nghiên cứu về kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích giúp

chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn, thấy được cái hay, cái hấp dẫn của một

kiểu truyện cụ thể và vai trò của nó trong cấu trúc của tác phẩm cổ tích.

Một số truyện thuộc kiểu truyện người lấy vật còn được đưa vào chương

trình giảng dạy ở nhà trường phổ thông, vì vậy việc tìm hiểu về kiểu

truyện này giúp cho giáo viên có những hiểu biết cụ thể hơn, sâu sắc hơn

nhằm phục vụ cho công tác giảng dạy văn học dân gian được thuận lợi

và đạt hiệu quả cao hơn.

Từ những lý do nêu trên chúng tôi chọn Kiểu truyện người lấy vật

trong truyện cổ tích Việt Nam để làm đề tài nghiên cứu trong luận văn

của mình, với mong muốn có cái nhìn toàn diện hơn về kiểu truyện

người lấy vật trong hệ thống kiểu truyện cổ tích Việt Nam.

2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu

Từ trước đến nay đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu về

truyện cổ tích, mỗi công trình tiếp cận thể loại này theo những hướng

khác nhau. Tiếp cận truyện cổ tích theo kiểu truyện mà cụ thể là kiểu

truyện người lấy vật là một hướng đi khá độc đáo, mới mẻ và cũng đã

được một số nhà nghiên cứu quan tâm.

Trong Từ điển văn học (tập 2), mục “Truyện cổ tích”, nhà nghiên

cứu Chu Xuân Diên đã nhấn mạnh, kiểu truyện người lấy vật không

những xuất hiện trong truyện cổ tích Việt Nam mà còn xuất hiện phổ

biến trong cổ tích các nước trên thế giới. “….kiểu truyện người lấy vật ở

Việt Nam gồm các truyện như: Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Lấy chồng Dê, của

người Việt, truyện Chàng Bâu của người Mường, Chàng Ca đác của

người Thái, truyện Ếch lấy con vua của người Mèo… Kiểu truyện này

phản ánh những nét tiêu biểu của hiện thực xã hội Việt Nam thời xưa,

chứa đựng một cách tập trung những truyền thống sáng tác chủ yếu của

loại truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam, đồng thời cũng thể hiện được một

cách rõ ràng hơn cả tính quốc tế của loại truyện này” [52, tr.302]. Cũng

trong công trình trên, ông cho rằng có thể gọi các truyện trên là một kiểu

truyện “người đội lốt vật”. Cách gọi này của ông có sự liên hệ gần gũi

với kiểu truyện người lấy vật vì trong mỗi truyện việc kết hôn đều diễn

ra giữa người và vật. Vật ở đây lại chính là do con người đội lốt, cái lốt

vật như là sự thử thách lớn trong cuộc đời nhân vật.

Trong Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa của một số típ truyện kể dân

gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam của Vũ Anh Tuấn, tác giả cho rằng

“truyện cổ tích mà quá trình hình thành và phát triển có một giai đoạn

song trùng về thời gian, đồng hiện trong không gian thần thoại, đó là

kiểu truyện người thần kì đội lốt. Từ dạng nguyên sơ nhất, kiểu truyện

này đã có cấu trúc và ý nghĩa riêng. Sự xâm nhập vào cấu trúc của nó

đôi ba mô-típ hoặc những chi tiết kiểu thần thoại là các yếu tố ngoại sinh

làm phong phú bản kể, tạo nên sắc thái riêng của kiểu truyện” [63,

tr.56]. Theo ông đây là một dạng truyện nguyên sơ của cổ tích và mang

đậm yếu tố thần kỳ, xuyên suốt trong công trình nghiên cứu của mình,

ông đã liệt kê những hình thức người thần kỳ đội lốt như: lốt chim, lốt

hổ, lốt cóc… các nhân vật chính đều đội lốt vật xấu xí, dị dạng. Mọi tình

tiết trong cấu trúc đều hướng vào sự khẳng định thuộc tính và phẩm chất

của nhân vật chính: lốt càng xấu, người càng đẹp, càng siêu phàm. Họ là

những người đại diện cho chính nghĩa, có những hành động cực kỳ cao

cả, đẹp đẽ, chính đáng trong những tình huống khó khăn, bảo vệ quyền

lợi cho những con người nghèo khổ, thấp cổ bé họng trong xã hội phân

chia giai cấp, phân biệt đối xử giữa người giàu với người nghèo.

Tác giả Nguyễn Thị Huế có bài viết Người mang lốt – mô típ đặc

trưng của kiểu truyện cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba, tác giả cho

rằng nhân vật xấu xí trong truyện cổ tích thường là đối tượng của sự phê

phán, ghẻ lạnh của xã hội. Nhân vật thường mang những cái lốt xấu xí,

những cái lốt đó có thể là một con vật, hay một dị vật nào đó làm cho

con người ghê sợ, xa lánh. Chỉ có người con gái út xinh đẹp, nết na

trong truyện cổ tích luôn là người nhìn ra được những tài năng phi

thường ẩn sau hình hài xấu xí của nhân vật, chấp nhận lấy nhân vật xấu

xí ấy làm chồng. “Tính chất lý tưởng hóa của mô típ người mang lốt còn

thể hiện ở sự biến hình đẹp đẽ của nhân vật xấu xí, sau hôn nhân và nhờ

hôn nhân nhân vật mới được mô tả thành người xinh đẹp” [30, tr.60].

Trong bài viết này kiểu truyện về nhân vật xấu xí mà tài ba có những nét

tương đồng với kiểu truyện người lấy vật, nhân vật xấu xí mà tài ba có

thể là một nhân vật dị dạng hay nhân vật đội lốt vật. Nhân vật tuy xấu

nhưng có tài năng phi thường, tấm lòng nhân hậu, được trở lại thành

người đẹp đẽ ở cuối truyện.

Trong công trình nghiên cứu của mình, Nguyễn Bích Hà có bài

viết về Mô típ“sự ra đời thần kỳ” trong truyện Thạch Sanh, tác giả đã

liệt kê một số dạng khác nhau của sự sinh đẻ thần kỳ trong truyện cổ

tích, trong đó có dạng “đứa trẻ ra đời do người mẹ kết hợp với con vật

nào đó: người mẹ lấy khỉ, lấy cóc, lấy đại bàng, lấy rắn… Sau đó thụ

thai và có thể sinh ra trứng rồi nở ra con hoặc sinh con (Chàng rắn – Gia

rai); người mẹ lấy chó sau đó thụ thai và sinh con (Sự tích núi Tang ku

ban pha hu – Inđônêxia)” [25, tr.24]. Trong bài viết này sau khi đưa ra

các hình thức khác nhau về sự ra đời thần kỳ của nhân vật trong truyện

cổ tích, tác giả đã đưa ra nhận xét về sự ra đời thần kỳ của chàng trai trẻ

Thạch Sanh là do người mẹ cảm ứng với lực lượng siêu nhiên, thái tử

nhà trời đã đầu thai vào Thạch Sanh, đó cũng là một hình thức ra đời

thần kỳ xuất hiện trong kiểu truyện người lấy vật khá phổ biến trong

truyện cổ tích Việt Nam và thế giới.

Tác giả Lại Phi Hùng có bài viết về Những tương đồng và khác

biệt trong một số kiểu truyện cổ dân gian ở Lào và Việt Nam, tác giả đã

có sự so sánh vô cùng phong phú về ba kiểu truyện chàng trai khỏe,

người bất hạnh và người đội lốt vật. Trong đó, kiểu truyện người đội lốt

vật được tác giả so sánh chặt chẽ, khá công phu, đưa ra rất nhiều hình

thức mang lốt của nhân vật trong truyện cổ tích của hai nước. Theo ông,

đặc trưng chung của kiểu truyện người đội lốt vật đó là thẩm mỹ; một

chàng trai hoặc một cô gái nào đó ẩn mình dưới cái vỏ loài vật, có khi

nhỏ bé xấu xí, có khi lạ lùng kì dị, sau một thời gian thử thách, họ trút

bỏ lốt cũ, trở thành những chàng trai, cô gái trẻ đẹp, tài năng, hiếu hạnh,

đấu tranh giành lại được hạnh phúc vốn đã bị tước đoạt, tiêu diệt kẻ thù,

khẳng định vị trí, năng lực của những người mồ côi, người đội lốt, người

con út trong xã hội phụ quyền đã phân chia giai cấp. Qua đó, các nghệ

nhân dân gian khẳng định khát vọng vươn tới cái thiện, cái đẹp, phủ

định cái ác, cái xấu, thực hiện ước mơ công bằng, dân chủ đầy tinh thần

lãng mạn của người xưa.

Tác giả Nguyễn Thị Thu Vân với luận án tiến sĩ Khảo sát truyện

cổ dân tộc Chăm, đã đưa ra nhóm cốt truyện người lấy ma qủy hoặc lấy

thú vật, quái vật. Tác giả cho rằng “cuộc hôn nhân giữa người với thú

vật hoặc quái vật chỉ là tạm thời, do hoàn cảnh bắt buộc. Thông thường

là người phụ nữ bị thú vật cướp đi làm vợ, họ bị bắt buộc phải sống cuộc

sống chồng vợ với thú vật, sinh con đẻ cái cho đến khi được người yêu,

chồng hay một dũng sĩ cứu được, đem trở về xã hội loài người. Quan hệ

giữa con người với thú vật, quái vật, hay qủy có lẽ cũng do xuất phát từ

quan niệm con người có thể giao cảm với thiên nhiên, với tự nhiên, với

chim muông, cầm thú, với thần linh, ma quỷ” [72, tr.75].

Tác giả Lê Hồng Phong có công trình nghiên cứu Tìm hiểu truyện

cổ Tây Nguyên - Trường hợp Mạ và K’ho. Trong chương “Cổ tích Mạ -

K’ho”, tác giả đề cập đến ba dạng chính của cổ tích Mạ - K’ho là cổ tích

về nhân vật mồ côi, cổ tích về nhân vật mang lốt; cổ tích về nhân vật

malai. Trong đó, cổ tích về nhân vật người mang lốt được ông trình bày

khá chi tiết “nhân vật mang lốt tuy xuất hiện nhiều dạng nhưng không

thuần nhất, manh nha từ huyền thoại, đã có những ông bà thần mang lốt

chim cho hạt lúa đầu tiên, ông thần mang lốt khổng lồ có tên là Yut

chống trời cao….Vì vậy, đến cổ tích, nhân vật mang lốt không chỉ

người, dù người mang lốt là nhân vật chính trong truyện về nhân vật

mang lốt” [53, tr.93]. Có các hình thức lốt mà nhân vật mang như: lốt

động vật, lốt dị dạng, lốt sự vật… Các hình thức lốt này nhìn chung có

liên quan đến giới động thực vật quen thuộc của núi rừng Tây nguyên,

với nền kinh tế săn bắt nguyên thủy, hoa quả mà con người hái lượm

được trong rừng, trên rẫy. Hệ thống những mô-típ chủ yếu mà tác giả sử

dụng, đã làm nổi rõ hơn những giá trị đích thực của cái lốt vật được

nhân vật khoác lên người trong suốt giai đoạn đầu đời. Qua các hình

thức lốt vật đó, dân gian muốn gởi gấm những khát khao về sự hoàn

thiện cái đẹp bên ngoài lẫn vẻ đẹp tâm hồn. Họ mong mỏi một sự thay

đổi tuyệt đối cho nhân vật bất hạnh, không may.

Ngoài ra, một số nhà nghiên cứu về văn học dân gian cũng đã

bước đầu khái quát về kiểu truyện người lấy vật như Võ Quang Nhơn

với công trình Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt Nam, phần

khảo sát các hình tượng nhân vật trung tâm của thần thoại và truyện cổ

tích các dân tộc ít người Việt Nam. Phan Đăng Nhật với bước đầu tìm

hiểu về người đội lốt vật xấu xí và nhân vật mồ côi trong công trình Văn

học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước cách mạng tháng Tám); tác giả

Đặng Thái Thuyên với việc tìm hiểu Đề tài hôn nhân trong truyện cổ

tích thần kỳ Mường, cũng đề cập đến vấn đề kết hôn giữa người và vật

trong một số truyện cổ tích thần kỳ.

Trên đây, chúng tôi vừa trình bày một cách ngắn gọn về việc

nghiên cứu các vấn đề liên quan đến kiểu truyện người lấy vật, các tác

giả đã có những đóng góp rất quý báu trong quá trình nghiên cứu về văn

học dân gian Việt Nam. Các tác giả đã đề cập một cách trực tiếp hoặc

gián tiếp đến vấn đề người lấy vật trong truyện cổ tích thần kỳ, tuy nhiên

vẫn chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách có hệ thống về vấn

đề này. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài Kiểu truyện người lấy vật trong

truyện cổ tích Việt Nam để nghiên cứu, trên cơ sở muốn có cái nhìn hoàn

chỉnh hơn về đề tài này. Chúng tôi luôn trân trọng và tiếp thu những

công trình nghiên cứu của các nhà nghiên cứu đi trước, và cố gắng hoàn

thiện hơn vấn đề này trong công trình nghiên cứu của mình.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi chọn kiểu truyện người lấy vật

trong truyện cổ tích Việt Nam làm đối tượng nghiên cứu của mình. Qua

quá trình tìm hiểu, chúng tôi thấy có nhiều thể loại xuất hiện kiểu truyện

người lấy vật nhưng vì thời gian không cho phép chúng tôi chỉ giới hạn

khảo sát ở thể loại truyện cổ tích và chủ yếu lấy từ truyện cổ tích thần kỳ

của các dân tộc Việt Nam, lựa chọn những truyện có biểu hiện của kiểu

truyện người lấy vật để tìm hiểu.

Do tình hình tư liệu không được phong phú, nguyên nhân sâu xa

có lẽ công tác sưu tầm truyện cổ tích chưa thật sự đầy đủ nên có nhiều

dân tộc chúng tôi không tìm thấy truyện cần sử dụng cho đề tài này.

Công trình nghiên cứu chỉ dựa trên 56 truyện của 19 dân tộc anh em

như: Kinh, Thái, Mường, Mèo, Gia rai, Vân Kiều… để nghiên cứu. Có

thể nói đây là những tộc người tương đối lớn ở Việt Nam, có đời sống

văn hóa vật chất và tinh thần khá phong phú, nguồn truyện tương đối dồi

dào, phong phú ở tất cả các thể loại. Chúng tôi hy vọng số lượng truyện

được khảo sát trong luận văn này có thể phản ánh được những đặc điểm

của kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích của Việt Nam nói

chung và của các dân tộc thành phần (đã nêu trên) nói riêng.

Trong quá trình tìm hiểu về kho tàng truyện cổ tích các dân tộc

Việt Nam, chúng tôi nhận thấy trong kiểu truyện người lấy vật thì nhân

vật là “vật” có nhiều hình thức mang lốt khác nhau như: lốt động vật,

thực vật, hoa quả, đồ gia dụng… Do điều kiện không cho phép chúng tôi

không thể tìm hiểu hết tất cả các hình thức lốt trên mà chỉ tìm hiểu ở

hình thức lốt động vật, bởi vì qua tìm hiểu số lượng các truyện ở dạng

lốt động vật xuất hiện nhiều hơn so với các hình thức lốt còn lại, vì thế

chúng tôi giới hạn đối tượng nghiên cứu trong đề tài của mình là nhân

vật có hình thức lốt động vật. Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi sẽ

bước đầu có sự so sánh, đối chiếu kiểu truyện người lấy vật trong cổ tích

Việt Nam với cổ tích các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới.

Nguồn dẫn liệu

Chúng tôi tìm đọc hầu hết các tuyển tập truyện cổ của các dân tộc,

bao gồm trước và sau năm 1975. Từ các tuyển tập đó, chúng tôi chọn ra

được 56 truyện của 19 dân tộc để tìm hiểu. Sau đây là danh sách các

nguồn dẫn liệu phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài này.

Chúng tôi sắp xếp danh mục các truyện khảo sát theo thứ tự các dân

tộc.

Danh mục truyện khảo sát

STT Tên truyện cổ tích

Người lấy cóc (Kinh) 1

Lấy chồng dê (Kinh) 2

Ông trạng lấy rùa (Kinh) 3

Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá (Kinh) 4

Nàng tiên ốc (Kinh) 5

Chàng nhái (Kinh) 6

Chàng tôm (Kinh) 7

Cóc tiên (Kinh) 8

Chàng hến (Kinh) 9

Hoàng tử rắn và nàng hoa sen (Kinh) 10

Nàng cá măng (Thái) 11

Chàng rùa (Thái) 12

Chàng chồn (Thái) 13

Chuyện con cầy bay (Thái) 14

Chàng dê (Mèo) 15

Nàng Hơ Lúi (Ba Na) 16

Cóc và Hơ Bia Phu (Ba Na) 17

Chàng rể cọp (Dao) 18

Con chuột lông đỏ (Tày) 19

Cụ vách - ốc sên (Mường) 20

Lấy vợ cóc (Mường) 21

Con cum (ếch) ( Mường) 22

Mó nước ấm (Mường) 23

Lấy chồng rùa (Mường) 24

Anh chàng cá chuối (Mường) 25

Trăn thần (Chàm) 26

Hoàng tử rắn (Cao Lan) 27

Lấy chồng rắn (H’Mông) 28

Chàng rùa (H’Mông) 29

Người đội lốt mèo (Tà Ôi) 30

Chuyện chàng cóc (Tà Ôi) 31

Con nai thần (Cơ ho) 32

Chàng ếch – con trai thần mặt trời (Cơ ho) 33

Cô gái lấy chồng trăn (Xê Đăng) 34

Chàng rùa (Xê Đăng) 35

Nàng tiên cá (Xê Đăng) 36

Nàng út lấy chồng tôm (Churu) 37

Chàng trăn (Churu) 38

Chàng khỉ và nàng Ma Phun (Churu) 39

Chàng ếch (Churu) 40

Lấy chồng trăn (Vân Kiều) 41

Chàng rể cóc (Vân Kiều) 42

Chàng rể heo (Vân Kiều) 43

Nàng bò tót (Vân Kiều) 44

Truyện chồn và nàng H’Lúi (Gia rai) 45

Chàng lợn (Gia rai) 46

Chàng rắn (Gia rai) 47

Hrit và cô gái trong lốt da bò (Gia rai) 48

H’Bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai) 49

Cây tông lông (Gia rai) 50

H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai) 51

Chàng chim cu gáy (Raglai) 52

Phò mã cóc (Raglai) 53

Lấy chồng rắn (Raglai) 54

Chàng cóc (Kơ Dong) 55

Chồng cóc (Ê Đê) 56

Danh mục các tuyển tập truyện cổ

1. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Touneh Nai Chanh, Phan Xuân Viện (sưu tầm

và biên soạn) (2006), Truyện cổ Churu, Nxb Văn nghệ.

2. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, quyển 1,

tập 3-4, Nxb Giáo dục.

3. Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (1996), Tuyển tập truyện cổ tích Việt

Nam - phần truyện cổ tích người Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

4. Y Điêng, Hoàng Thao (Sưu tầm – biên soạn) (1978), Truyện Cổ Ê Đê,

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

5/ Thu Hương (2006), Truyện cổ Vân Kiều, Nxb Văn hóa thông tin.

6. Thu Hương (2006), Truyện cổ Cơ ho, Nxb Văn hóa thông tin.

7. Thu Hương (2006), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa thông tin

8. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na – Tây Nguyên, tập 1, Nxb

Hà Nội.

9. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na – Tây Nguyên, tập 2, Nxb

Hà Nội.

10. Hoàng Anh Nhân (1987), Truyện cổ Mường, Nxb Hà Nội.

11. Doãn Thanh, Thương Nguyễn, Hoàng Thao (1963), Truyện cổ dân tộc

Mèo, Nxb Văn học Hà Nội.

12. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (1978), Truyện cổ Dao, Nxb Văn

hóa dân tộc Hà Nội.

13. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn)(1980), Truyện cổ Thái, Nxb Văn

hóa dân tộc Hà Nội.

14. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (2001), Truyện cổ các dân tộc

miền núi Bắc Miền Trung, Nxb Thuận Hóa - Nghệ An –Thanh Hóa.

15. Truyện cổ Việt Bắc, (1974) (tập 2), Nxb Việt Bắc.

16. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn –Tây

Nguyên, tập 1, Nxb Văn học Hà Nội.

17. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn –Tây

Nguyên, tập 2, Nxb Văn học Hà Nội.

18. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ Hmông, Nxb Hà Nội.

19. Viện văn học (1999), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, quyển 1,

tập 2, Nxb Giáo dục.

20. Lữ Huy Nguyên, Đặng Văn Lung (sưu tầm và biên soạn) (1996), Hợp

tuyển truyện cổ tích Việt Nam, tập 15- 16, Nxb Văn học.

Trên đây là những đầu sách có truyện phục vụ đề tài khảo sát, những sách

tham khảo không có truyện không được liệt kê trong danh mục.

Danh mục các dân tộc và phân bố truyện khảo sát

STT Dân tộc Số lượng truyện

1 Kinh 10

2 Thái 4

3 Mèo 1

4 Ba Na 2

5 Dao 1

6 Tày 1

7 Mường 6

8 Chàm 1

9 H’Mông 2

10 Tà Ôi 2

11 Cao Lan 1

12 Cơ ho 2

13 Xê Đăng 3

14 Churu 4

15 Vân Kiều 4

16 Gia rai 7

17 Raglai 3

18 Kơ Dong 1

19 Ê Đê 1

4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Chúng tôi xác định việc tìm hiểu về kiểu truyện người lấy vật

trong truyện cổ tích Việt Nam sẽ giúp chúng ta có cái nhìn cụ thể hơn về

tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, hiểu hơn về một kiểu truyện cụ thể và

cấu trúc của kiểu truyện ấy trong tác phẩm văn học dân gian. Đồng thời

việc tìm hiểu kiểu truyện này tạo cơ sở để giúp chúng ta hiểu thêm về

những nét văn hóa truyền thống vô cùng phong phú, đa dạng các dân

tộc, cũng như thấy được mối quan hệ giữa văn học với đời sống tín

ngưỡng dân gian.

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận văn sẽ tiến hành làm rõ các

vấn đề về truyện cổ tích thần kỳ, kiểu truyện người lấy vật, chọn lọc

những tác phẩm thuộc kiểu truyện người lấy vật để khảo sát và tìm ra

những kết luận chung, lập nên các mô hình khái quát. Qua đó, chúng tôi

phân tích và nhấn mạnh vai trò của kiểu truyện người lấy vật trong cấu

trúc tác phẩm truyện cổ tích, sự tương đồng giữa kiểu truyện này với các

kiểu truyện khác. Khi tìm hiểu đề tài này, luận văn cũng cố gắng chỉ ra

những mối liên hệ giữa kiểu truyện người lấy vật với các tín ngưỡng

nguyên thủy, với văn hóa và con người trong xã hội xưa. Qua đó thấy

được nét đặc sắc của tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ, thấy được mối

quan hệ giữa văn học dân gian với văn hóa dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp khảo sát, thống kê

Đây là phương pháp được sử dụng nhiều trong quá trình nghiên

cứu, dựa trên cơ sở các nguồn tài liệu về truyện cổ tích chúng tôi tiến

hành khảo sát, chọn lọc, thống kê các truyện cổ tích thần kỳ thuộc kiểu

truyện người lấy vật và các tài liệu có liên quan phục vụ cho đề tài.

Phương pháp so sánh, phân tích, tổng hợp

Chúng tôi tiến hành đối chiếu các truyện cổ tích thuộc kiểu truyện

người lấy vật nhưng tồn tại ở các dân tộc khác nhau của Việt Nam; đối

chiếu kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam với cổ

tích các nước trong khu vực Đông Nam Á và thế giới; từ đó phân tích

các đối tượng để làm rõ vấn đề nghiên cứu. Tiếp theo là tiến hành tổng

hợp, lí giải dựa trên cơ sở kết hợp kết quả so sánh và phân tích.

Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Chúng tôi sử dụng phương pháp này, với mục đích nhìn nhận đối

tượng trong mối quan hệ giữa văn học dân gian với văn hóa, dân tộc

học, xã hội học nhằm xem xét đối tượng trên nhiều phương diện và

hướng tiếp cận khác nhau.

6. Cấu trúc của luận văn

Cấu trúc của luận văn gồm có các phần chính như: phần Mở đầu,

Nội dung và Kết luận.

Phần nội dung luận văn có ba chương được khái quát như sau:

Chương 1: Khái quát về truyện cổ tích thần kỳ và kiểu truyện

người lấy vật. Trong chương này, chúng tôi sẽ trình bày khái quát chung

về truyện cổ tích thần kỳ. Bên cạnh đó, chúng tôi giới thiệu chung về

kiểu truyện, kiểu truyện người lấy vật, xác định cơ sở hình thành kiểu

truyện để tạo tiền đề đi vào nghiên cứu nội dung của kiểu truyện ở

những chương tiếp theo.

Chương 2: Khảo sát những mô-típ chủ yếu trong kiểu truyện

người lấy vật. Ở chương này, chúng tôi đi vào phân tích những mô-típ

chủ yếu tham gia vào cấu tạo cốt truyện của kiểu truyện người lấy vật,

trình bày các sơ đồ của từng mô-típ cụ thể, cũng như lý giải những vấn

đề liên quan đến kiểu truyện người lấy vật mà chúng tôi đang nghiên

cứu.

Chương 3: Kết cấu và ý nghĩa của của kiểu truyện người lấy vật.

Ở chương cuối này, người viết sẽ trình bày các kiểu liên kết giữa các

mô-típ lại với nhau tạo thành cốt truyện trong kiểu truyện người lấy vật,

và ý nghĩa của kiểu truyện người lấy vật trong mối tương quan với tín

ngưỡng nguyên thủy của các dân tộc, triết lý nhân sinh của nhân dân.

Ngoài ra, luận văn còn có thêm phần Phụ lục, giới thiệu phụ lục

của các truyện được khảo sát.

Chương 1: KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN CỔ TÍCH THẦN KỲ VÀ KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT

1.1 Khái quát về truyện cổ tích thần kỳ

1.1.1 Khái niệm truyện cổ tích thần kỳ

Hiện nay, các nhà nghiên cứu văn học dân gian tán thành việc

phân chia thể loại truyện cổ tích làm ba tiểu loại: truyện cổ tích loài vật,

truyện cổ tích thần kỳ và truyện cổ tích sinh hoạt. Dĩ nhiên ranh giới

thực tế giữa các tiểu loại trong truyện cổ tích không phải lúc nào cũng rõ

ràng (cũng tương tự như ranh giới các thể loại thần thoại, truyền thuyết,

cổ tích). Trong ba tiểu loại này, chúng tôi chỉ chọn tiểu loại truyện cổ

thần kỳ để phục vụ cho việc nghiên cứu đề tài luận văn.

Việt Nam với 54 dân tộc anh em cùng tồn tại trên một dãy đất hình

chữ S, mỗi dân tộc đều có một kho tàng truyện cổ tích của riêng mình,

với số lượng tác phẩm lớn, đa dạng, phong phú mang nhiều giá trị đặc

trưng của từng dân tộc. Truyện cổ tích của các dân tộc còn phản ánh

nhiều nét đẹp về văn hóa, phong tục, tập quán từng vùng, miền, tìm hiểu

kho tàng cổ tích của mỗi dân tộc, bao giờ cũng tìm thấy cái riêng của

từng dân tộc hòa trong cái chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam, rộng

Truyện cổ tích thần kỳ là một bộ phận phong phú nhất trong kho

hơn nữa là cái chung của cộng đồng thế giới.

tàng truyện cổ tích Việt Nam, đa số những truyện cổ tích hay nhất ở mỗi

dân tộc đều thuộc về tiểu loại này. Các nhà nghiên cứu xem truyện cổ

tích thần kỳ là một tiểu loại của truyện cổ tích, vì nó có những đặc điểm

riêng về nhiều mặt, phân biệt với những cổ tích dân gian khác như

truyện cổ tích loài vật hay truyện cổ tích sinh hoạt thể hiện ở cách xây

dựng nhân vật, cốt truyện. Trong đó tiêu chí cơ bản để phân biệt chúng

với nhau là vai trò quan trọng của yếu tố thần kỳ, quá trình phát triển hệ

thống tình tiết của cốt truyện. Trong kho tàng truyện cổ tích, số lượng

các truyện cổ tích thần kỳ sưu tầm được thường nhiều hơn các tiểu loại

cổ tích khác. Các truyện như: Sọ Dừa, Lấy vợ cóc, Nàng tiên ốc, Chàng

rùa… là những truyện có tính chất lý tưởng hóa nhân vật với hình dáng

bên ngoài xấu xí, dị dạng nhưng hoàn thiện về tâm hồn, tài năng, đây

thực chất là lý tưởng hóa loại người thuộc tầng lớp dưới của xã hội lúc

bấy giờ.

Nhìn chung, trong tiểu loại truyện cổ tích thần kỳ yếu tố kỳ diệu

đậm đà hơn so với so với các tiểu loại khác. Yếu tố thần kỳ không chỉ

tạo ra màu sắc ly kỳ, khác lạ và hấp dẫn cho truyện cổ tích mà nó còn có

ý nghĩa rất quan trọng, nếu thiếu nó bản thân nhân vật không thể vượt

qua được những thử thách gay go để chiến thắng kẻ thù, bảo vệ công lý,

chính nghĩa.

Có người cho rằng, truyện cổ tích thần kỳ có nhiều yếu tố cổ xưa

liên quan đến những quan niệm thần thoại và tín ngưỡng của con người

thời thị tộc, bộ lạc nguyên thủy (như những cấm kỵ, hôn nhân huyết

thống, vấn đề thừa kế tài sản, tục hiến sinh…). Tuy nhiên, nội dung

chính của truyện cổ tích thần kỳ là phản ánh hiện thực của đời sống xã

hội có giai cấp. Chính vì vậy mà những nhân vật trung tâm của truyện cổ

tích thần kỳ là những con người thấp hèn trong xã hội như người đội lốt

xấu xí, người mồ côi, người con riêng, người em út… Hướng về đạo đức

thời thị tộc, truyện cổ tích thần kỳ thường miêu tả những nhân vật bất

hạnh ấy theo khuynh hướng lý tưởng hóa những phẩm chất đạo đức của

họ, giải quyết số phận cuộc đời của họ theo một kết cục có tính chất ước

mơ. Càng về sau này, với sự phát triển của xã hội có giai cấp, chủ đề về

đấu tranh xã hội dần dần đi sâu vào cốt truyện và những nội dung đấu

tranh giai cấp được lồng vào trong quan hệ gia đình, xã hội.

Một đặc điểm khác của truyện cổ tích thần kỳ là sự tưởng tượng và

hư cấu dựa trên cơ sở hiện thực và phi hiện thực (khác với truyện cổ tích

sinh hoạt chỉ dựa trên cơ sở hiện thực đời sống). Ở đây, cái có thực hoặc

có thể có thực được kết hợp, hòa lẫn vào cái thần kỳ hư ảo, không có

thực tạo thành một thể thống nhất làm nên một thế giới truyện cổ tích.

Hầu hết những vấn đề xã hội trong truyện cổ tích đều được giải quyết

một cách trực tiếp hoặc gián tiếp bởi các lực lượng thần kỳ (bằng cách

hư cấu các phương tiện thần kỳ…).

Có thể thấy, nội dung truyện cổ tích thần kỳ rất phong phú và đa

dạng, thể hiện mọi mặt trong đời sống sinh hoạt, lao động sản xuất và

chiến đấu. Truyện cổ tích thần kỳ còn thể hiện những quan điểm thẩm

mỹ, quan điểm nhân sinh, những tâm tư tình cảm, ước vọng của người

dân trong xã hội đã có sự phân chia giai cấp.

1.1.2. Đặc trưng của truyện cổ tích thần kỳ

Đặc trưng về nội dung:

Nội dung chính của truyện cổ tích thần kỳ là phản ánh hiện thực về

đời sống xã hội của con người và số phận con người trong xã hội có giai

cấp. Đó là số phận của những con người mồ côi, người đội lốt, người em

út bị xã hội hắt hủi, khinh rẻ như truyện Tấm Cám, Cây tre trăm đốt, Hà

rầm hà rạc, Cây khế, Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá,... Con người

trong truyện cổ tích thần kỳ thường bất lực trước những khó khăn, thử

thách khắc nghiệt, khi đó lực lượng thần kỳ xuất hiện giúp cho nhân vật

vượt qua những khó khăn và xung đột của truyện sẽ được giải quyết. Cổ

tích thần kỳ phản ánh bi kịch gia đình đi từ quần hôn đến hôn nhân một

vợ một chồng, từ chế độ mẫu quyền sang phụ quyền, từ chế độ chưa có

giai cấp sang chế độ phân chia giai cấp như truyện Thạch Sanh, Hai anh

em, Chàng Sính, Chiếc bật lửa thần, Hòn trống mái,... Kẻ thống trị trở

nên giàu có hơn thông qua các hình thức áp bức bóc lột sức lao động,

chiếm đoạt của cải của những lao động nghèo. Người nghèo trở nên bần

cùng hơn, lam lũ hơn, là một thực tế đầy bất công trong xã hội có giai

cấp lúc bấy giờ. Truyền thống dân chủ xã hội công xã thời nguyên thủy

đã bị phá vỡ, mờ nhạt dần theo thời gian kéo theo số phận của con người

trong xã hội ấy cũng bị thay đổi.

Truyện cổ tích thần kỳ có khác so với truyện cổ tích loài vật và cổ

tích sinh hoạt trong thể loại truyện cổ tích. Trong đó, truyện cổ tích loài

vật vừa có nội dung nhận xét thực tiễn về đặc điểm của loài vật vừa tư

duy suy luận, giải thích về nguồn gốc ra đời của các con vật ấy. Còn

trong truyện cổ tích sinh hoạt thường không có hoặc có rất ít yếu tố thần

kỳ, các mâu thuẫn, xung đột xã hội giữa người với người được giải

quyết một cách hiện thực, không cần đến những yếu tố siêu nhiên. Nếu

có xuất hiện những yếu tố thần kỳ thì vẫn không giữ vai trò quan trọng,

nhiều khi chỉ là các chi tiết làm cho câu chuyện thêm vẻ li kì, hấp dẫn

hơn.

Đặc trưng về thi pháp:

Về nhân vật: nhân vật trung tâm trong truyện cổ tích thần kỳ chính

là những con người thấp hèn trong xã hội có giai cấp như người mồ côi,

người con riêng, người em út, người xấu hình dị dạng, người có tài lạ…

Đó là những kiểu nhân vật có tính chất phổ biến, thường xuất hiện nhiều

trong truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc. Nhân vật trong truyện cổ

tích thần kỳ thường ít được miêu tả về chân dung có chăng chỉ là sự giới

thiệu khái quát chung chung như: “một cô gái đẹp tuyệt trần”, “một

chàng trai khôi ngô tuấn tú”… Truyện cổ tích thần kỳ không miêu tả

tâm lý nhân vật, nhân vật bộc lộ tính cách qua hành động chứ không

phải qua tâm lý như nhiều thể loại khác.

Nhân vật trong truyện cổ tích đại diện cho một tầng lớp, một nhóm

người nào đó mang tính khái quát chung về một loại nhân vật. Đó là

nhân vật chức năng, loại nhân vật khá quen thuộc trong các thể loại tự

sự của văn học dân gian. Chẳng hạn như Sọ Dừa, chàng lợn, chàng

rắn,… là những người dị dạng xấu xí bị xã hội hắt hủi, coi thường, là

những con người thấp cổ bé họng đại diện cho người lao động bị áp bức,

bóc lột bất công, các hành động của các nhân vật đều mang chức năng

nhân vật thiện, nhân vật tốt. Sự chiến thắng của nhân vật chính diện còn

có sự đóng góp không nhỏ của lực lượng thần kỳ hay là yếu tố thần kỳ.

Trong truyện cổ tích, lực lượng thần kỳ này có thể là những vật thể quen

thuộc, những đồ vật quen thuộc được thổi vào những yếu tố hoang

đường, kỳ ảo, làm cho nó trở nên lung linh, huyền ảo và vô cùng hấp

dẫn. Lực lượng thần kỳ còn là những con vật kỳ ảo như ngựa thần, chim

thần, sói thần, cá biết nói, ngựa ỉa ra vàng, rắn hoá vàng,… Những con

vật nuôi hoặc hoang dã nhưng có thể biến hoá khôn lường, có thể nói

tiếng người hoặc can dự vào những hoạt động của xã hội loài người.

Chàng Sọ Dừa nhờ con gà biết nói tiếng người đã giúp cho chàng tìm lại

được vợ con trên đảo vắng. Yếu tố thần kỳ đóng một vai trò rất quan

trọng trong truyện cổ tích: ông bụt, bà tiên luôn tốt bụng, sẵn sàng giúp

đỡ con người trong lúc khó khăn, nhất là những em nhỏ bất hạnh, mồ

côi. Cô Tấm hiền lành, chịu khó được ông bụt nhiều lần ra tay giúp đỡ

nên thoát được nạn đày ải của mẹ con dì ghẻ và cuối cùng được trở

thành hoàng hậu. Đó chính là sự can thiệp của các lực lượng thần kỳ vào

cuộc sống của con người. Những con người dù thân hình dị dạng, đội lốt

vật xấu xí, nghèo khổ, đói rách, bị khinh khi… với bao thử thách nhưng

cuối cùng họ cũng trở thành những người giàu sang, phú quý, sống một

cuộc sống sung sướng và hạnh phúc. Một kết cục như thế không thể có

trong xã hội có giai cấp, cho nên truyện cổ tích đã phải nhờ đến các yếu

tố thần kỳ. Những yếu tố đó can thiệp vào truyện cổ tích để miêu tả hiện

thực cuộc sống, dẫn đến một kết cục có tính chất mơ ước đồng thời cũng

thể hiện những nét văn hoá, sự tín ngưỡng của người xưa đối với thiên

nhiên vạn vật và con người. Như vậy, nhân vật trung tâm trong truyện

cổ tích thần kỳ là nhân vật lý tưởng được tác giả dân gian xây dựng lên

để đối chiếu, so sánh với các nhân vật ở tuyến đối lập về đạo đức và tài

năng.

Về kết cấu cốt truyện: cốt truyện là một bộ phận có tính chất đặc

trưng quan trọng hàng đầu trong các tác phẩm thuộc loại hình tự sự. Cốt

truyện là một thể tổng hợp các hành động, sự kiện, phát triển một cách

cụ thể trong quá trình diễn tiến của câu chuyện. Truyện cổ tích thần kỳ

thường có kết cấu rõ ràng, rành mạch, dễ thuộc dễ nhớ và thường có cốt

truyện phức tạp hơn so với các tiểu loại truyện cổ tích khác. Cốt truyện

của nó thường có tính chất ly kỳ với chuỗi hành động, diễn biến liên tục

đến tận cùng của nhân vật chính qua những chiến đấu khắc phục mọi trở

ngại khác thường trên con đường đi tới mục đích. Truyện cổ tích thần kỳ

có nhiều chi tiết kỳ lạ, nhiều sự kiện khác thường, với những yếu tố thần

kỳ như sự biến hóa siêu nhiên, những nhân vật thần linh (tiên, bụt, thần,

yêu quái, những vật có phép mầu…). Cốt truyện ấy cũng làm cho con

người cảm thấy thỏa mãn được nhu cầu tâm lý, sau những nỗi lo lắng

hồi hợp dành cho nhân vật mình yêu thích bởi kết thúc có hậu của câu

chuyện. Cốt truyện của truyện cổ tích là cốt truyện của nhân vật hành

động. Cốt truyện và nhân vật có mối quan hệ gắn bó mật thiết với nhau,

kết cấu của cốt truyện thường xoay quanh nhân vật chính.

Về xung đột: xung đột xã hội là một đề tài quan trọng của truyện cổ

tích thần kỳ. Nhân vật trung tâm là những con người bất hạnh không

may. Đây là điểm khác với các thể loại thần thoại và sử thi dân gian xuất

hiện trước đó, vì đây là lần đầu tiên nhân vật trung tâm là con người bất

hạnh được xuất hiện trong tác phẩm văn học dân gian. Trong xã hội

phong kiến các xung đột thường xảy ra trong mối quan hệ gia đình,

người em út, người con riêng… luôn gánh chịu những thiệt thòi, mất

mát so với các thành viên khác, nhân vật Tấm – hình ảnh người con

riêng mồ côi trong truyện Tấm Cám, hay nhân vật người em trong

truyện Cây khế, Đực rựa, Hà rầm hà rạc,…

Về không gian và thời gian nghệ thuật: không gian và thời gian

nghệ thuật trong truyện cổ tích thần kỳ có tính chất đa chiều và rộng lớn,

mang đặc tính tượng trưng ước lệ, góp phần tạo nên tính chất hoang

đường kỳ thú ở truyện cổ tích.

Trong truyện cổ tích, thời gian mở đầu câu chuyện và phần kết thúc

câu truyện khác với thời gian của cốt truyện chính. Bùi Mạnh Nhị với

bài viết Thời gian nghệ thuật trong ca dao – dân ca trữ tình, đề cập đến

thời gian nghệ thuật trong truyện cổ tích như sau: “phần mở đầu truyện

cổ tích đưa người nghe vào thế giới cổ tích, một thế giới xa xưa, phiếm

chỉ và huyền ảo. Phần kết thúc kéo họ về thực tại, kết thúc cuộc viễn du

cổ tích. Còn trong cốt truyện chính, các sự kiện được kể theo trình tự kế

tiếp: việc xảy ra trước, kể trước; xảy ra sau kể sau; thời gian vận động về

phía trước cùng với nhân vật, không có thời gian quay ngược lại. Thời

gian trong truyện cổ tích, về mặt ngữ pháp là quá khứ, nhưng về mặt lịch

sử là quá khứ không xác định. Nó không xác định ngay cả ở những đại

lượng tưởng chừng chính xác (ba mươi, mười lăm). Có khi có sự kiện

không có thời gian, hoặc diễn ra trong thời gian thần kỳ (một đêm).

Cũng có khi thời gian như ngừng lại, nhân vật đứng ngoài thời gian, trẻ

mãi không già…” [50,tr.27]. Thời gian nghệ thuật của truyện cổ tích

thần kỳ là thời gian mang tính trật tự tuyến tính, hoặc xuất hiện thời gian

ngưng đọng.

Không gian trong truyện cổ tích thần kỳ thường xảy ra trong một

không gian đa chiều, rộng lớn. Không gian ấy có khi là khung cảnh rừng

núi hiểm trở, có khi là làng, bản xa xôi nghèo khó hay cung điện nguy

nga tráng lệ… Tất cả các không gian ấy đều đi vào câu chuyện một cách

tự nhiên tạo nên sự ly kỳ hấp dẫn, góp phần nâng cao giá trị nghệ thuật

cho tác phẩm đồng thời tạo sự hấp dẫn cho người đọc, người nghe.

1.1.3. Giới thiệu về kho tàng truyện cổ tích thần kỳ các dân tộc Việt Nam

Kho tàng truyện cổ tích thần kỳ các dân tộc Việt Nam với 54 dân

tộc anh em, mỗi một dân tộc đều có một kho tàng truyện cổ tích của

riêng mình khá phong phú và đa dạng, với số lượng tác phẩm truyện cổ

tích thần kỳ rất lớn của các dân tộc Mường, Tày, Thái, Gia rai, Churu,

Xê Đăng, Ba Na, Kinh, Cơ ho,…

Trong kho tàng truyện cổ tích các dân tộc có rất nhiều kiểu truyện

khác nhau như: kiểu truyện người em út, kiểu truyện dũng sĩ cứu người

đẹp, kiểu truyện chàng trai khỏe... Vì thế, công việc sưu tầm, nghiên

cứu, biên soạn về truyện cổ tích các dân tộc thiểu số và dân tộc Việt trên

đất nước Việt Nam là cấp thiết nhưng vô cùng khó khăn, phức tạp, nó

đòi hỏi phải được tiến hành trong một thời gian dài. Những yếu tố cổ

tích có thể lưu hành tự do từ dân tộc này sang dân tộc khác, điều đó cho

thấy việc ảnh hưởng của các nền văn hóa khác nhau vào yếu tố cổ tích

giữa các dân tộc là không thể tránh khỏi. Dân tộc nào cũng có hệ thống

xã hội, văn hóa của riêng mình, xã hội nào cũng có những thành tố văn

hóa, cổ tích, nhưng bản sắc văn hóa thì riêng biệt không trộn lẫn vào

nhau. Vì vậy, sự giao lưu văn hóa, sự ảnh hưởng qua lại giữa dân tộc

anh em trên dãy đất Việt Nam, sự giao lưu tiểu loại truyện cổ tích giữa

các dân tộc sẽ góp phần tạo nên những bản sắc văn hóa vô cùng phong

phú và đa dạng, làm phong phú hơn cho kho tàng truyện cổ tích các dân

tộc. Kho tàng truyện cổ tích các dân tộc Việt Nam là nguồn tư liệu quý

giúp cho chúng ta rất nhiều trong việc nghiên cứu văn học dân gian. Nó

để lại những bài học quý báu những giá trị tinh thần to lớn, những quan

niệm thẩm mỹ hay những triết lý dân gian giúp ích cho cuộc sống của

con người đồng thời mang tính giáo dục cao. Ngoài ra, nó còn làm nên

đặc trưng riêng cho thể loại truyện cổ tích mà cụ thể là tiểu loại truyện

cổ tích thần kỳ.

1.2. Khái quát về kiểu truyện người lấy vật

1.2.1. Khái niệm về kiểu truyện người lấy vật

Theo nhà nghiên cứu Stith Thompson thì: “Típ là những cốt kể có

thể tồn tại độc lập trong kho truyện truyền miệng. Dù đơn giản hay phức

tạp, truyện nào cũng được kể như cốt kể độc lập đều được xem là một

típ. Có những truyện kể dài chứa đựng hàng tá mô-típ, lại có những

truyện kể ngắn như những mẫu kể trong các chùm truyện về súc vật, có

thể chỉ có một mô-típ đơn lẻ. Trong trường hợp đó, típ và mô-típ đồng

nhất” [16, tr.11]. Như vậy, trong một kiểu truyện (típ) có sự hiện diện

của các mô-típ, nhưng không nhất thiết mỗi truyện đều phải có đủ tất cả

các mô-típ chung. Có thể có truyện chỉ chung với các truyện khác một

vài mô-típ nhưng cũng có truyện có nhiều mô-típ chung. Trong ngôn

ngữ thông thường, típ chỉ một lớp vật thể có những đặc điểm chung. Nó

được dịch là kiểu, kiểu mẫu, đại diện điển hình. Dựa trên nghĩa chung

đó, khoa học dân gian đã dùng thuật ngữ típ để chỉ một tập hợp các mẫu

truyện kể dân gian có chung một cốt kể. Cụ thể hơn, típ chỉ tập hợp của

nhiều mẫu truyện mà không chỉ từng truyện kể riêng lẻ, những mẫu

truyện đó phải có chung một cốt kể. Như vậy, típ là một cốt kể với tất cả

những dị bản của nó và trở thành một kiểu truyện tức là một đơn vị

truyện độc lập, phân biệt với những đơn vị truyện khác. Từ đấy, khái

niệm về kiểu truyện cho chúng ta thấy không phải bất cứ truyện nào

cùng loại truyện cũng phải bắt buộc có đầy đủ các mô-típ cơ bản, hay

các nhân vật của từng truyện phải có những đặc điểm hoàn toàn giống

nhau. Tùy theo trình độ nghệ thuật, dụng ý nghệ thuật, các yếu tố có liên

quan đến sự ra đời tác phẩm mà ở mỗi truyện có những nét riêng, thể

hiện những giá trị nghệ thuật khác nhau, không thể nhầm lẫn với các

truyện khác.

Kiểu truyện người lấy vật là tập hợp các truyện kể về nhân vật là

những người con trai, con gái là con của hai ông bà già nghèo hiếm

muộn hay cô gái chưa chồng… Nhân vật được sinh ra trong hình hài của

một con vật xấu xí, như cóc, ếch, nhái, lợn, rắn, dê, cá, hay trong hình

hài dị dạng như cục thịt, sọ dừa, tai to, cái khọ, trứng… Nhân vật biết

nói tiếng người biết làm việc như con người. Do có tài năng thần kỳ,

nhân vật đã vượt qua được những thử thách khắc nghiệt và lấy con gái

mơtao, phú ông hay công chúa con vua làm vợ. Sau khi lấy vợ/chồng,

đêm đêm nhân vật trút bỏ lốt xấu xí, bộ da động vật của mình và hiện ra

trước mắt người vợ/chồng trẻ với vóc dáng của một chàng thanh niên

khôi ngô tuấn tú hay những cô gái xinh đẹp tuyệt trần. Những người

vợ/chồng của nhân vật đã hủy bỏ tấm lốt xấu xí của nhân vật bằng cách

đốt cháy, xé rách, đập nát, giấu đi hay vứt xuống suối để chấm dứt cuộc

đời đội lốt, cũng từ đây hình dáng của các con vật xấu xí hay dị dạng

biến mất và nhân vật trở lại thành người xinh đẹp, tài năng hơn người.

Chúng tôi cho rằng, bên trong kiểu truyện người lấy vật là tập hợp

của nhiều mô-típ nhân vật ẩn mình trong các lốt vật, các nhân vật này

cũng là những thành viên của cộng đồng xã hội nguyên thủy nhưng họ

phải chịu khốn khổ, tủi nhục vì bị ruồng bỏ, bị xã hội đày đọa, lên án

không được cộng đồng huyết thống quan tâm chỉ vì hình dáng dị dạng,

xấu xí của mình. Với tấm lòng nhân ái, tình thương yêu con người, tinh

thần nhân đạo cao cả và ước muốn mang lại sự công bằng cho nhân vật

bất hạnh, không may. Nghệ nhân dân gian đã cho nhân vật của mình có

được những tài năng thần kỳ để giành lại hạnh phúc vốn đã bị tước đoạt

trong xã hội có giai cấp. Cuối cùng các nhân vật bất hạnh ấy có thể sống

hạnh phúc, giàu sang khi cởi bỏ lốt vật xấu xí trở thành những con người

mới đẹp đẽ, tài năng, giàu lòng nhân ái. Đúng với tinh thần lý tưởng hóa

nhân vật bằng ước mơ của nhân dân nhằm mục đích mang lại một số

phận tốt đẹp cho nhân vật bất hạnh không may của người xưa.

Kiểu truyện người lấy vật không chỉ phổ biến trong truyện cổ tích

Việt Nam mà còn cả trong cổ tích khu vực và thế giới. Dân tộc Việt

Nam ta không chỉ có những nét chung với các dân tộc khác trong vùng

Đông Nam Á, mà còn có những nét giống nhau với các dân tộc khác

trên thế giới khi cùng trải qua những hình thái kinh tế xã hội, có lịch sử

hoặc cách tư duy tương tự nhau. Rõ ràng sự tương đồng này không phải

do mối liên hệ cội nguồn về tộc người hay văn hóa, cũng không phải do

sự tiếp xúc giao lưu hay do cùng lãnh thổ hay quan hệ kinh tế mà là sự

tương đồng loại hình của văn hóa các dân tộc trên thế giới. Qua nghiên

cứu chúng tôi nhận thấy giữa kho tàng văn học dân gian các dân tộc trên

thế giới có mối tương đồng về mặt loại hình, giữa truyện cổ tích Việt

Nam với truyện cổ tích các nước trên thế giới có những truyện giống

nhau cả về mô-típ, đề tài, nhân vật, cốt truyện… Điều này đã giúp cho

Nguyễn Đổng Chi soạn ra phần Khảo dị rất bổ ích trong tập Kho tàng

truyện cổ tích Việt Nam, và bước đầu áp dụng phương pháp loại hình

vào việc nghiên cứu sưu tầm truyện cổ tích ở Việt Nam.

Chúng ta có thể tìm thấy nhiều truyện tương tự kiểu truyện người

lấy vật ở các nước Đông Nam Á và thế giới như: truyện Nàng nhái

(Miến Điện); Con nhái (Pháp); Con sói trắng (Pháp); Công chúa ếch

(Nga); Chàng kỵ mã (Mông cổ); Chàng lợn (Campuchia); Con lợn trở

thành vua (Campuchia); Chuyện chàng lợn (Rumani); truyện Chàng rắn

(Ấn Độ); truyện Người lấy nhái, truyện Cô vợ cá (Ác mê ni)… Theo

thống kê trên cơ sở tư liệu cho phép, có thể nói kiểu truyện người lấy vật

rất phổ biến ở nhiều nước thuộc châu Á cũng như châu Âu, phương

Đông cũng như phương Tây trên toàn thế giới.

Như vậy, chúng ta có thể khẳng định mức độ phổ biến của kiểu

truyện người lấy vật ở Việt Nam và thế giới là rất lớn. Trong đó, các

kiểu kết cấu cốt truyện, nhân vật, xung đột, không gian và thời gian

trong kiểu truyện người lấy vật giữa các nước có nét tương đồng, khác

biệt, có sự giao lưu, ảnh hưởng qua lại lẫn nhau, tạo thành một hệ thống

kiểu truyện người lấy vật khá phổ biến trên thế giới.

1.2.2. Cơ sở hình thành kiểu truyện người lấy vật

Thông qua việc tìm hiểu các vấn đề về mô-típ, các cách kết hợp

mô-típ tạo thành một cốt truyện hoàn chỉnh trong kiểu truyện người lấy

vật, dựa vào đó chúng tôi khái quát nên cơ sở hình thành kiểu truyện

người lấy vật từ một vài nguyên nhân như sau: kiểu truyện người lấy vật

được hình thành do quá trình phát triển của xã hội, từ chỗ giải thể gia

đình lớn, gắn với chế độ chiếm hữu tư nhân về tài sản, trong đó người

con trai cả được xác định quyền thừa kế tài sản, người con út, con riêng,

con côi bị tước đoạt quyền sống, quyền hạnh phúc, thậm chí còn bị hất

ra khỏi cộng đồng. Tâm lý chung của nhân dân muốn khôi phục lại

truyền thống cũ – truyền thống người em út, con út được kế thừa tài sản

và duy trì bếp lửa gia đình dòng họ trong xã hội thị tộc. Nhưng thực tế

không cho phép, họ đành gởi gắm ước mơ ấy vào hình tượng nhân vật

có vẻ bề ngoài xấu xí, nhỏ bé, tầm thường nhưng ẩn bên trong lại là

những chàng trai, cô gái xinh đẹp, tài giỏi hơn người như hình tượng

nàng tiên cua, nàng tiên cá, chàng chồn, chàng trăn, chàng rắn, chàng

rùa… xuất hiện trong nhiều truyện cổ tích thần kỳ của các dân tộc Việt

Nam.

Kiểu truyện người lấy vật còn hình thành do nhận thức của người

dân còn đơn giản, họ quan niệm con người và loài vật có cùng nguồn

gốc với nhau. Do trình độ nhận thức của con người nguyên thủy còn hạn

chế nên họ chưa tự tách rời mình khỏi tự nhiên mà nhân hóa toàn bộ giới

tự nhiên. Họ cho rằng con người có những đặc tính gì thì thiên nhiên

cũng có đặc tính giống như vậy, thiên nhiên cũng biết buồn, căm giận

hay vui vẻ. Con người xem các con vật như là thành viên trong gia đình,

như anh em, bằng hữu cùng chia sẻ niềm vui nỗi buồn và giúp nhau khi

hoạn nạn. Con vật có thể biến thành con người và con người có thể biến

thành vật trong những hoàn cảnh khác nhau. Truyện cổ tích thần kỳ giải

thích nguồn gốc của con người và loài vật một cách thực tế hơn thần

thoại. Với suy nghĩ và nhận thức một cách đơn giản như thế thì việc

sáng tạo ra kiểu truyện người lấy vật là điều tất nhiên, phù hợp với tư

duy con người nguyên thủy.

Kiểu truyện người lấy vật còn hình thành dựa trên quan điểm các

nghệ nhân dân gian, họ là những người trực tiếp chứng kiến sự tàn bạo

của xã hội phong kiến, sự thống khổ của những con người thấp cổ bé

họng bị áp bức bóc lột sức lao động đến cùng kiệt trong xã hội lúc bấy

giờ. Những chàng trai, cô gái mà phần nhiều là con côi, con út, người

đội lốt vật hay nhân vật lấy các con vật có hình dáng bên ngoài dị dạng,

xấu xí làm chồng, vợ của nhau. Vượt qua được các thử thách khắc

nghiệt các con vật trút bỏ lốt xấu xí trở thành những chàng trai, cô gái

xinh đẹp, tài năng, hiếu hạnh, kết hôn và sống hạnh phúc với nhau. Sự

đối lập giữa cái vẻ bề ngoài xấu xí, dị dạng với bên trong cao đẹp, trong

sáng của các nhân vật đội lốt vật là một thủ pháp nghệ thuật xây dựng

hình tượng nhân vật đặc thù của văn học dân gian cũng quy luật hình

thành nên truyện cổ tích thần kỳ và kiểu truyện người lấy vật. Các yếu tố

thần kì là đặc trưng không thể thiếu trong tiểu loại này, nó là một biện

pháp nghệ thuật đặc biệt nhằm thúc đẩy cốt truyện theo một định hướng

đã vạch sẵn. Nhân vật đội lốt vật xấu xí sử dụng những yếu tố thần kỳ để

vượt qua được những thử thách khắc nghiệt của những ông bố vợ tương

lai, đồng thời nhân vật cũng khẳng định tài năng phi thường của chính

mình như truyện Chàng trăn, Chàng rể rắn, Chàng rùa, Chàng chồn,

Lấy chồng dê, Lấy vợ cóc, Chàng nhái, Chàng rể cọp, Chàng lợn… Các

yếu tố thần kỳ, được nhân vật đội lốt sử dụng trong nhiều truyện, là nhân

tố góp phần hình thành nên kiểu truyện người lấy vật với những đặc

Có thể nói, cơ sở hình thành kiểu truyện người lấy vật dựa trên rất

trưng riêng của cổ tích thần kỳ.

nhiều những yếu tố về văn hóa, xã hội, quan niệm, thủ pháp xây dựng

hình tượng nhân vật và yếu tố thần kỳ trong tiểu loại truyện cổ tích thần

kỳ. Tất cả các cơ sở hình thành nên kiểu truyện này nằm trong hệ thống

văn hóa, xã hội, con người và đặc trưng của thể loại truyện cổ tích, một

thể loại đặc thù của văn học dân gian.

1.2.3. Giới thiệu chung về kiểu truyện người lấy vật

Kiểu truyện ngưới lấy vật không thuần nhất, nó luôn có những biến

đổi phong phú, đa dạng cho nên chúng ta cần có sự phân loại thành các

dạng truyện, nhóm truyện cụ thể. Nhưng tiêu chí để phân loại một cách

khoa học kiểu truyện này nên được hình dung như thế nào để bao hàm

bên trong thực trạng tồn tại đa dạng, vốn có của đối tượng. Có nhiều

cách phân loại khác nhau, do góc độ tiếp cận đối tượng có thể có các

cách như sau:

Ở kiểu truyện người lấy vật thì “vật” ở đây có thể tồn tại dưới nhiều

dạng thức khác nhau: động vật, thực vật, đồ vật…

1. Vật là người/ thần/ tiên đội lốt

Hình thức Vật

động vật.

2. Vật là người/ thần/ tiên đội lốt

thực vật, hoa quả, đồ gia dụng…

Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi chỉ giới hạn đối tượng

nghiên cứu trong luận văn của mình ở hình thức thứ nhất: vật là người/

thần/ tiên đội lốt động vật (như đã trình bày trong phần phạm vi nghiên

cứu đề tài).

“Người” trong kiểu truyện người lấy vật

“Người” trong “người lấy vật” gồm những đối tượng nào? Các nhân

vật là “người” thuộc kiểu truyện này gồm có:

“Người” là các cô gái xinh đẹp, nết na, hiền hậu con nhà giàu có

hoặc những cô gái mồ côi nghèo khổ, và nhân vật là “người” dạng này

thường rơi vào người con gái út hiếu thảo như truyện Lấy chồng dê

(Kinh), Lấy chồng rắn (Gia rai), Phò mã cóc (Raglai), Chàng rùa (Xê

Đăng), Chàng rể cóc (Vân kiều), Anh chàng cá chuối (Mường),... nhân

vật người là những cô con gái đẹp, các cô con gái của Phú ông giàu có

như: Chàng tôm (Kinh), Chàng hến (Kinh), Cóc và nàng Hơ bia Phu

(Ba Na), con gái của Tạo mường Chàng rùa (Thái), Chẩu mường Chàng

chồn (Thái), con gái quan Chàng dê (Mèo), con gái Mơ tao Truyện chồn

và nàng Hơ lúi (Gia rai), Chàng lợn (Gia rai), Chàng rắn (Gia rai),

hoặc là công chúa con Vua Chàng nhái (Kinh), Cóc tiên (Kinh), Chàng

rể cọp (Dao), Chàng rùa (H’Mông), Chàng ếch (Cơ ho)… Họ đều là

những người con gái mang một vẻ đẹp cả dung mạo lẫn tính tình – vẻ

đẹp đúng với quan niệm của nhân dân. Đó là những người con gái vừa

đẹp người vừa đẹp nết và có tấm lòng lương thiện, vị tha. Họ là niềm

mơ ước, nỗi khát vọng và là nguồn tình cảm quý giá đối với các nhân

vật đội lốt vật, và cũng chính họ giúp cho cuộc đời của các nhân vật đội

lốt vật dị dạng, xấu xí có được niềm vui, niềm hạnh phúc trọn vẹn. Nhân

vật người con gái xinh đẹp, nết na hiền dịu, hiếu thảo luôn luôn có mối

quan hệ gắn bó với nhân vật đội lốt vật xấu xí, dị dạng. Nhân vật người

con gái xinh đẹp chiếm vị trí khá quan trọng trong cốt truyện của kiểu

truyện người lấy vật. Ở một số truyện người con gái đẹp thường là con

út của một người cha, mẹ có ba cô con gái (cũng có thể là hai cô, bảy cô,

chín hoặc mười cô…). “Vua đồng ý gả công chúa út cho nhái” (truyện

Chàng nhái – Kinh),… Các cô gái xinh đẹp này chắc sẽ là mục tiêu đối

tượng của bao chàng trai tài giỏi, chắc chắn họ sẽ được hạnh phúc.

Nhưng trong những tình huống kỳ lạ, độc đáo, sự xuất hiện của nhân vật

đội lốt vật, dị dạng xấu xí đã làm thay đổi cả số phận của các cô gái đó.

Trong các cốt truyện, hình tượng cô gái út đã được đề cao một cách

độc đáo trong sự so sánh với các cô chị. Tính cách tốt đẹp của những

con người tốt bụng, hiền lành và sự thiện cảm mà cô con gái út giành

cho nhân vật đội lốt vật. Vì thế, khi nhân vật đội lốt vật xấu xí ngỏ lời

cầu hôn hay khi cha mẹ hỏi ai trong số các cô ưng lấy những con người

đội lốt làm chồng thì: “hỏi cô gái đầu lòng, cô nguýt một cái rõ dài rồi

vội vàng đi vào nhà, nói vọng ra: “úi dào! Chồng người chả lấy, lại lấy

chồng dê!” Hỏi cô thứ hai, cô nói: “là người không thể lấy dê!” chỉ có cô

gái út là trả lời: “cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy” (Lấy chồng dê). Hành

động của các cô con gái út như chấp nhận, bênh vực, yêu thương, bảo vệ

đối với nhân vật người đội lốt vật xấu xí, dị dạng làm cho cha, mẹ, và

các cô chị nghĩ rằng đó là những hành động kỳ quặc và bất thường, họ

không tin tưởng và chế nhạo còn cho đó là “một sự ngu ngốc, sự liều

lĩnh không đáng có”. Song thực chất các cô gái út lại là những người

khôn ngoan, tinh tế, nhìn thấu vẻ bề ngoài xấu xí của nhân vật và sớm

nhận biết được tài năng cùng bản chất tốt đẹp của nhân vật người đội lốt.

Kết quả đã đem lại cho cô út – người con gái đẹp cuộc sống hạnh phúc

với người chồng khôi ngô tuấn tú, thông minh, giàu có; hưởng được mọi

điều may mắn tốt đẹp hơn hẳn các cô chị, và điều đó cho thấy sự lanh

lợi, thông minh, sáng suốt của các cô con gái út.

Ngoài ra, “người” còn là những chàng trai mồ côi hiền lành, nghèo

khổ, hiếu thảo, siêng năng, là những chàng thư sinh chăm chỉ đèn sách

nhưng có hoàn cảnh nghèo khó, cuộc sống của các chàng trai còn nhiều

khó khăn, vất vả nhưng họ có một tấm lòng nhân hậu, vị tha, họ cần

mẫn, chăm chỉ, và rất đáng thương. Họ chấp nhận hoàn cảnh và tin

tưởng vào một tương lai tốt đẹp, sống có lý tưởng và niềm tin mạnh mẽ

vào một sự đổi đời: Lấy vợ cóc (Mường), Hrit và cô gái trong lốt da bò

(Gia rai), Ông trạng lấy rùa (Kinh), Người lấy cóc (Kinh), Nàng tiên

cua và anh chàng đánh cá (Kinh), Nàng tiên ốc (Kinh), Nàng cá măng

(Thái), Chuyện con cầy bay (Thái), Con cum (Mường), Nàng tiên cá (Xê

Đăng), Nàng bò tót (Vân Kiều)…

“Vật” trong kiểu truyện người lấy vật

“Vật” trong “người lấy vật” gồm những đối tượng nào? Nhân vật là

“vật” thuộc kiểu truyện này có các đối tượng như sau:

“Vật” là những vị thần linh, con thần linh đầu thai vào lốt vật để

trừng phạt kẻ ác và giúp đỡ những người lương thiện, mang lại cuộc

sống tốt đẹp cho người hiền lành, chăm chỉ, tốt bụng, mang lại công

bằng cho xã hội. Ông trạng lấy rùa (rùa là công chúa thủy cung), Con

chuột lông đỏ (chuột là con trai tướng Bắc Đẩu), Nàng tiên cá, Nàng

tiên cua và anh chàng đánh cá, Nàng tiên ốc, Trăn thần (trăn là con trai

thần núi), Hrit và cô gái trong lốt da bò (cô gái trong lốt da bò là tiên

nữ), Lấy vợ cóc (nhân vật cóc là tiên nữ), Chuyện con cầy bay (nhân vật

cô gái là nàng tiên ốc), Cóc tiên (cóc là tiên nữ), Chàng chồn (nhân vật

chồn là thánh chồn), Anh chàng cá chuối (nhân vật cá chuối là con

trời),…

“Vật” còn là những chàng trai, cô gái có tài sắc hơn người nhưng

phải mang cái lốt vật xấu xí, cái lốt ấy chỉ là cái vỏ để che đậy bên

ngoài, ẩn sâu trong cái lốt vật xấu xí ấy là những con người với sắc đẹp,

tài năng phi thường và khi cái lốt vật ấy bị phá hủy đi sẽ tạo ra sự bất

ngờ cho người đọc, người nghe về tài năng, phẩm chất đạo đức của các

nhân vật.

“Kết hôn” trong kiểu truyện người lấy vật

Nhân vật kết hôn với nhau do sự thách đố của cha, mẹ. Có các

truyện Chàng rùa (Xê Đăng), Lấy chồng rắn (H’Mông), Chàng rắn (Gia

rai), Lấy chồng trăn (Xê Đăng), Lấy chồng dê (Kinh), Chàng nhái

(Kinh), Chàng dê (Mèo), Lấy chồng rùa (Mường), Chàng rùa

(H’Mông), Chàng rể heo (Vân Kiều), Hơ bia Rác lấy chồng chồn (Gia

rai)…

Chẳng hạn như truyện Chàng rùa (Xê Đăng) kể rằng: “ông bố có

mười cô con gái, bà mẹ mất sớm, ông hàng ngày đi bắt cá nuôi con. Một

lần đi đặt lờ, thấy cá qua khe hở đi mất. Ông bảo rùa đấp lại khe hở ông

sẽ thưởng cho rùa một cô con gái, rùa giúp ông đắp lại khe hở và đòi

ông trả công bằng cách gả con gái cho mình. Rùa theo ông về nhà, các

cô chị đều khinh bỉ rùa và từ chối rùa. Cô út vì thương cha nên ưng

thuận lấy rùa”. Hay trong truyện Lấy chồng rắn (H’Mông), nhân vật kết

hôn do ông bố thách đố, ai di chuyển được hòn đá nặng ra khỏi ruộng

giúp ông, ông sẽ gả con gái cho người đó. Truyện Chàng rắn (Gia rai)

thì kể rằng: Mơ tao muốn qua dòng suối dữ, ông nói rằng ai có thể bắt

được cầu cho ông đi qua thì ông sẽ gả con gái cho. Có chàng trai đội lốt

rắn đã lấy thân mình bắt cầu cho Mơ tao đi qua suối và đòi lấy con gái

Mơ tao, “Mơ tao rất buồn phiền vì không muốn gả con gái cho rắn”.

Ông hỏi con gái lớn là Hơ Bia Ngo, cô từ chối ngay. Ông hỏi con gái út

Hơ Bia Lúi, cô út vì thương cha nên nhận lời lấy rắn làm chồng…

Nhân vật là “vật” tự nhờ mẹ đến nhà hỏi cưới cô con gái út về làm

vợ. Có các truyện: Lấy chồng dê (Kinh), Chàng nhái (Kinh), Chàng dê

(Mèo), Chuyện chàng cóc (Tà Ôi), Chàng rể heo (Vân Kiều), Lấy chồng

trăn (Vân Kiều), Chàng rể cóc (Vân Kiều), Chàng hến (Kinh), Chàng

rùa (Thái), Cóc tiên (Kinh), Chàng rùa (H’Mông).

Nhân vật “người” và “vật” gặp nhau tình cờ, cả hai thấy được tài

năng, phẩm chất của nhau đem lòng yêu mến và muốn kết hôn với nhau.

Đa số các truyện có chi tiết cô gái rình và phát hiện ra nhân vật đội lốt

vật kia là một chàng trai khôi ngô tuấn tú, đồng ý kết hôn: Nàng tiên ốc

(Kinh), Lấy vợ cóc (Mường), Nàng tiên cá (Xê Đăng), Nàng tiên cua và

anh chàng đánh cá (Kinh), Chàng chim cu gáy (Raglai), Lấy chồng dê

(Kinh), Con cum (Mường), Người lấy cóc (Kinh), Ông trạng lấy rùa

(Kinh), Nàng cá măng (Kinh), Chuyện con cầy bay (Thái), Nàng bò tót

(Vân Kiều)…

Nhân vật là “người” sau khi gặp “vật” đã giả bệnh, cố ý giấu lốt

vật và đòi kết hôn với “vật”, truyện: Chàng ếch (Churu), Chàng lợn

(Gia rai), Chồng cóc (Ê Đê), Chàng chồn (Thái), Cóc và Hơ bia Phu (Ba

Na), Hrit và cô gái trong lốt da bò (Gia rai), Chàng chim cu gáy

(Raglai), Lấy chồng rắn (Gia rai), Chàng ếch – con trai thần mặt trời

(Cơ ho)…

Như vậy, chúng ta có thể thấy các nhân vật là “người” và “vật”

trong kiểu truyện người lấy vật cũng như các kiểu kết hôn của hai nhân

vật trong các truyện được miêu tả rất phong phú, đa dạng và mang màu

sắc ly kỳ, hấp dẫn, mang tính chất thần kỳ cao.

Tiểu kết: Trong hệ thống kiểu truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam,

kiểu truyện người lấy vật mang những đặc trưng riêng, miêu tả các nhân

vật đội lốt với hình dáng bên ngoài xấu xí, dị dạng của các con vật như:

cóc, chồn, rắn, rùa, cua, cá… Đây là kiểu nhân vật xuất hiện khá phổ

biến trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam và lan rộng ra các nước trên

thế giới. Điều đó cho thấy, sự tồn tại, vận động và phát triển của kiểu

truyện này là rất lớn, cũng như sức hấp dẫn đặc trưng của tiểu loại

truyện cổ tích thần kỳ - một tiểu loại chiếm số lượng lớn tác phẩm trong

kho tàng truyện cổ tích các nước.

Hình tượng nhân vật đội lốt “vật” xấu xí dị dạng nhưng có tài năng

phi thường, lập nên những kỳ tích thần kỳ, khi cởi lốt thành những

chàng trai, cô gái xinh đẹp, tài giỏi với phẩm chất cao quý kết hôn cùng

người con gái đẹp, là hình tượng nhân vật trung tâm xuất hiện phổ biến

trong loại hình tự sự dân gian, đặc biệt trong truyện cổ tích thần kỳ.

Kiểu nhân vật này có nét tương đồng với kiểu nhân vật dũng sĩ cứu

người đẹp, kiểu nhân vật chàng trai khỏe, kiểu nhân vật xấu xí mà tài ba,

người em út, người mồ côi,…

Chương 2: KHẢO SÁT NHỮNG MÔ-TÍP CHỦ YẾU TRONG KIỂU TRUYỆN NGƯỜI LẤY VẬT

2.1. Khái niệm về mô-típ và giới thiệu chung về các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật

2.1.1. Khái niệm về mô-típ

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thì mô-típ “tiếng Hán Việt gọi là

mẫu đề (do người Trung Quốc phiên âm chữ mô-típ trong tiếng Pháp) có

thể chuyển thành các chữ “khuôn”, “dạng”, hoặc “kiểu” trong tiếng Việt

nhằm chỉ những thành tố, những bộ phận lớn hoặc nhỏ đã được hình

thành ổn định bền vững và được sử dụng nhiều lần trong sáng tác văn

học nghệ thuật, nhất là trong văn học nghệ thuật dân gian… khái niệm

mô-típ là một công cụ rất cần thiết và hữu ít cho những người làm công

tác sưu tầm, nghiên cứu, giảng dạy văn học dân gian” [26, tr.136].

Từ điển văn học đã đưa ra hai cách dùng thuật ngữ “mô-típ” như

sau:

Thứ nhất, “mô-típ thường được hiểu theo nghĩa là “hạt nhân của cốt

truyện”, là cái “công thức” từ đó cốt truyện được triển khai” [72, tr.16].

Mô-típ trải qua quá trình phát triển nó sẽ trở thành cốt truyện hay cốt

truyện chính là sự tiến triển một cách tự nhiên của mô-típ. Về khía cạnh

này, chúng ta có thể xem mô-típ là một sự khái quát giản đơn, tùy theo

thời gian dài ngắn khác nhau nó có thể phát triển lên thành những khái

quát phức tạp hơn, đa dạng hơn tồn tại trong cốt truyện.

Thứ hai, “mô-típ được hiểu theo nghĩa là “yếu tố hợp thành” của cốt

truyện” [72, tr.16]. Thí dụ như các mô-típ về “sự sinh nở thần kỳ”,

“người đội lốt vật”, “thách đố”, “cởi lốt kết hôn”… Các mô-típ này kết

hợp lại với nhau tạo nên những cốt truyện cụ thể từ đơn giản đến phức

tạp trong kiểu truyện như truyện: Lấy chồng dê, Lấy vợ cóc, Chàng nhái,

Người lấy cóc, Chàng rùa, Chàng rắn, Chàng lợn, Chàng rùa, Chàng

cóc,…

Bất kỳ một mô-típ nào cũng có mối quan hệ với cốt truyện và

những mô-típ khác trong một tác phẩm cụ thể. Giữa chúng có sự tương

tác qua lại lẫn nhau tạo nên một cốt truyện hoàn chỉnh trong tác phẩm

truyện cổ tích.

2.1.2. Giới thiệu chung về các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật

Tiến hành khảo sát trên các nguồn tư liệu như đã trình bày ở phạm

vi nghiên cứu, chúng tôi thấy trong 56 truyện được khảo sát thì có sự

xuất hiện với tần số rất cao của bảy mô-típ trong cốt truyện, các mô-típ

này thường xuyên tồn tại trong các truyện và đóng vai trò khá quan

trọng trong cấu trúc của kiểu truyện người lấy vật như: mô-típ sự ra đời

thần kỳ; người đội lốt vật; thách đố; tài năng thần kỳ; cởi lốt và kết hôn;

người em út bị hại; vật phù trợ. Để dễ nhận biết và tạo điều kiện thuận

lợi hơn trong quá trình khảo sát, chúng tôi mã hóa các mô-típ ấy như

sau:

Mô-típ 1: (M1) Sự ra đời thần kỳ

Mô-típ 2: (M2) Người đội lốt vật

Mô-típ 3: (M3) Thách đố

Mô-típ 4: (M4) Tài năng thần kỳ

Mô-típ 5: (M5) Cởi lốt và kết hôn

Mô-típ 6: (M6) Người em út bị hại

Mô-típ 7: (M7) Vật phù trợ

Bảng khảo sát các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật

qua tư liệu truyện cổ tích thần kỳ

TT Tên truyện cổ tích M1 M2 M3 M4 M5 M6 M7 Tổng

1 Người lấy cóc (Kinh) + + + + 5 +

2 Lấy chồng dê (Kinh) + + + + + + 7 +

3 Ông trạng lấy rùa (Kinh) + + 2

4 Nàng tiên cua và anh chàng + + 2

đánh cá (Kinh) 5 Nàng tiên ốc (Kinh) + + 2

6 Chàng nhái (Kinh) + + + + + 5

7 Chàng tôm (Kinh) + + + + 4

8 Cóc tiên (Kinh) + + + + 4

9 Chàng hến (Kinh) + + + + + + 6

10 Hoàng tử rắn và nàng hoa sen + + + 3

(Kinh)

11 Nàng cá măng (Thái) + + 2

12 Chàng rùa (Thái) + + + + + 5

13 Chàng chồn (Thái) + + + + 4

14 Chuyện con cầy bay (Thái) + + 2

15 Chàng dê (Mèo) + + + + 4

16 Nàng Hơ Lúi (Ba Na) + + + + 4

17 Cóc và Hơ Bia Phu (Ba Na) + + + + + 5

18 Chàng rể cọp (Dao) + + + + 4

19 Con chuột lông đỏ (Tày) + + + 3

20 Cụ vách - ốc sên (Mường) + + + + 4

21 Lấy vợ cóc (Mường) + + + + 4

22 Con cum (ếch con) (Mường) + + + + 4

23 Mó nước ấm (Mường) + + 2

24 Lấy chồng rùa (Mường) + + + + 4

25 Anh chàng cá chuối (Mường) + + + + 7 + + +

26 Trăn thần (Chàm) + + 2

27 Hoàng tử rắn (Cao Lan) + + + + 4

28 Lấy chồng rắn (H’Mông) + + + + 4

29 Chàng rùa (H’Mông) + + + + + 5

30 Người đội lốt mèo (Tà Ôi) + + + + + 5

31 Chuyện chàng cóc (Tà Ôi) + + + + 4

32 Con nai thần (Cơ ho) + + + 3

33 Chàng ếch - con trai thần mặt + + + + + 5

trời (Cơ ho)

34 Cô gái lấy chồng trăn + + + 3 (Xê Đăng)

35 Chàng rùa (Xê Đăng) + + + + + + 6

36 Nàng tiên cá (Xê Đăng) + + 2

+ + + 3

37 Nàng út lấy chồng tôm(Churu) 38 Chàng trăn (Churu) + + 2

39 Chàng khỉ và nàng Ma Phun + + + 3 (Churu)

40 Chàng ếch (Churu) + + + + 4

41 Lấy chồng trăn (Vân Kiều) + + + 3

42 Chàng rể cóc (Vân Kiều) + + + + + + 6

43 Chàng rể heo (Vân Kiều) + + + + + 5

44 Nàng bò tót (Vân Kiều) + + 2

45 Truyện chồn và nàng H’Lúi + + + 3 (Gia rai)

46 Chàng lợn (Gia rai) + + + + + 5

47 Chàng rắn (Gia rai) + + + + + + 6

48 Hrit và cô gái trong lốt da bò + + 2 (Gia rai)

49 H’Bia Rác lấy chồng chồn + + 4 + + (Gia rai)

50 Cây tông lông (Gia rai) + + + + 4

52 H’Lúi lấy chồng chồn + + + 3 (Gia rai)

52 Chàng chim cu gáy (Raglai) + + + + 4

53 Phò mã cóc (Raglai) + + + + 4

54 Lấy chồng rắn (Raglai) + + + 3

55 Chàng cóc (Kơ Dong) + + + + 4

56 Chồng cóc (Ê Đê) + + + 3

Tổng 24 56 23 44 56 7 4

Bảng tỉ lệ các mô-típ

Mô-típ Số lượng truyện Tỉ lệ (%)

42.9 24/56 M1

100.0 56/56 M2

40.1 23/56 M3

78.6 44/56 M4

100.0 56/56 M5

12.5 7/56 M6

7.1 4/56 M7

2.2. Phân tích các mô-típ chủ yếu

2.2.1. Mô-típ sự ra đời thần kỳ

Mô-típ sự ra đời thần kỳ của nhân vật xuất hiện ở 24 truyện chiếm

tỉ lệ 42.9% trên tổng số 56 truyện khảo sát. Đây là mô-típ có tần số xuất

hiện nhiều trong truyện cổ tích thần kỳ, nó làm nền tảng cho việc giải

thích, dự báo những sự việc không bình thường sẽ xảy ra và dẫn đến sự

xuất hiện các mô-típ tiếp theo. Trong mô-típ này, nhân vật chính thường

đầu thai vào những gia đình hiếm muộn con cái và sự thụ thai thường

xảy ra một cách thần kỳ.

Bảng thống kê các hình thức nhân vật ra đời

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 50)

Ở hình thức nhân vật ra đời do người mẹ ướm chân, ăn, uống…có

12/24 truyện chiếm số lượng lớn nhất trong bốn cách nhân vật ra đời

thần kỳ. Qua các cách ra đời phổ biến trên cho chúng ta thấy, nhân vật

được sinh ra trong hoàn cảnh đặc biệt, khác thường, dự báo cho hành

trạng phi thường của nhân vật sau này. Hiểu một cách đơn giản, một

người có sức mạnh và tài năng phi thường không thể ra đời một cách

bình thường như những người bình thường được. Đó là tính lôgic ở nghệ

thuật xây dựng nhân vật anh hùng trong mối quan hệ với tướng mạo

khác thường. Vì thế, chúng ta không có gì là ngạc nhiên khi thấy nhân

vật có được tài năng thần kỳ ở phần sau của truyện. Cách nhân vật ra đời

do bà mẹ “ướm thử chân” mình vào vết chân nhỏ in trước ngõ, “người

vợ liền ướm thử bàn chân mình vào đó, ít lâu sau, bà có thai và sinh ra

một con cóc” (Chàng rể cóc – Vân Kiều), hay bà mẹ bị các con vật “đái

lên bụng” (Chuyện chàng cóc – Tà Ôi), do “uống nước và tắm ở một

dòng suối lạ” (Nàng Hơ lúi – Ba Na), hay một bà già góa chồng “xuống

sông tắm, thấy có miếng bưởi đang trôi bèn vớt lên ăn. Về nhà, bà cảm

thấy trong người hơi khác và sau đó mang thai sinh ra một con nhái”

(Chàng nhái - Kinh), có trường hợp hai cô gái trẻ xinh đẹp ra suối cắt

rau về nấu cho lợn, bụng đói, “bên bờ suối sẵn có cây sung chín quả to

bằng quả bưởi, họ bảo nhau hái lấy ăn hết mỗi người một quả. Sung

ngọt và thơm, nuốt đến đâu gan ruột mát ra đến đấy” hai nàng mang thai

“nàng Ả đẻ ra một con Cụ vách, nàng Hai đẻ ra một con ốc sên” (Cụ

vách- ốc sên – Mường), cô gái H’Lúi cùng bà vào rừng gặp “trời nắng

gắt, hai người đều khát nước. Chịu không được, Lúi phải bỏ việc đi tìm

nước uống. Tìm mãi, H’Lúi thấy một cây nấm to có đọng ít nước. Đó là

nước đái của con lợn rừng. H’Lúi uống nước, nàng có thai đến ngày đến

tháng sinh ra một chú lợn rừng” (Chàng lợn – Gia rai), nàng Di Dật vào

rừng cắt cỏ tranh lợp nhà, gặp trời nắng lại khát nước, nàng tìm thấy

“giữa tảng đá lớn đen xì to như con voi nằm giữa rừng lại có một hốc

nhỏ chứa đầy nước trong vắt. Di Dật lấy tay vốc uống. Nước ngọt và

thơm, uống đến đâu, gan ruột mát đến đấy. Di Dật về nhà thấy trong

người khác lạ, chị có mang và sinh ra một con cóc” (Chàng cóc – Kơ

Dong)…

Nhân vật ra đời do cha mẹ già, hiếm muộn cầu khẩn thần linh,

xuất hiện trong 7/24 truyện, đây là cách mà nhân vật ra đời phổ biến thứ

hai. Điều này cũng phù hợp với tâm lý chung của người lao động nghèo,

khi họ gặp vấn đề khó khăn không thể giải quyết được, họ thường tin

vào các đấng thần linh tối cao nào đó có thể giúp họ vượt qua khó khăn,

nguy hiểm, vì thế họ thường cầu khẩn thần linh và làm nhiều việc thiện,

được thần linh cho người/thần đầu thai vào lốt vật làm con của những

gia đình này như: “có hai vợ chồng nhà nọ, đầu tóc đã hoa râm mà vẫn

hiếm hoi. Vợ chồng cầu khẩn khấp nơi mong có một mụn con khỏi phải

hiu quạnh lúc tuổi già. Thế rồi, người vợ bỗng mang thai, chín tháng

mười ngày đẻ ra một con dê đực” (Lấy chồng dê –Kinh), hay “có hai vợ

chồng nọ sống với nhau mãi không có con phải đi cầu tự ở nhiều nơi.

Một thời gian sau, người vợ sinh được một đứa trẻ rất kỳ lạ, không

giống người mà giống khỉ nên đặt tên là hến” (Chàng hến – Kinh), hai

vợ chồng kia hiếm hoi “một hôm, đầu gối người vợ tấy sưng to, không

sao chữa khỏi. Sau cơn nhức nhói như điên dại, chị ta thấy da rạn nứt.

Một chú rùa từ chỗ nứt bò ra. Rùa nói ngay: con là con của bố mẹ”

(Chàng rùa – H’Mông),…

Nhân vật do cha, mẹ nhặt được trong quá trình lao động. Chúng

tôi tìm thấy 2/24 truyện xuất hiện ở hình thức ra đời này và có số lượng

truyện ít nhất trong các hình thức ra đời của nhân vật. Ở hình thức này

có các truyện như: Cóc tiên của dân tộc Kinh kể rằng: “hai vợ chồng già

nghèo đi xúc tép. Họ xúc trúng cóc tiên. Cóc tiên bảo ông bà mang mình

về nhà nuôi. Cóc bảo: “ông bà cứ mang tôi về nuôi, tôi làm được nhiều

việc lắm!” hay truyện Chàng rùa của dân tộc Thái thì kể rằng: “một

hôm, trời mưa lâm thâm, bà đeo giỏ đi mò cua từ sáng sớm đến chiều,

chỉ bắt được một con rùa. Về nhà định làm thịt rùa thì bỗng nghe tiếng

nói: “mẹ ơi, đừng làm thịt con, hãy cố gắng nuôi con, lớn lên con sẽ

giúp mẹ”.

Ngoài ra, trong 56 truyện được khảo sát chúng tôi còn tìm thấy

nhân vật ra đời trong những tình huống khác chiếm số lượng 3/24

truyện, ở hình thức ra đời này có các truyện như: Chàng rể heo của dân

tộc Vân Kiều kể rằng “một người đàn bà hóa lại có mang, sinh ra một

con heo đực. Heo đực chóng lớn. Chẳng mấy tuần trăng nó đã to múp

míp”, bên cạnh đó, dân tộc Kinh có truyện Chàng tôm cũng đề cập đến

cách nhân vật ra đời “có hai vợ chồng sinh ra một con tôm”, truyện

Chàng ếch của dân tộc Churu thì “người vợ sinh ra một con ếch”.

Sự mang thai và sự ra đời của các nhân vật thật là đặc biệt khác

thường. Mô-típ này trở nên quen thuộc và phổ biến, một kiểu ra đời của

nhiều nhân vật trong các thể loại truyện dân gian. Các nhà nghiên cứu

cho rằng mô-típ này có nguồn gốc từ thần thoại – một thể loại truyện

dân gian xuất hiện sớm nhất trong xã hội sơ khai. Việc các bà mẹ sinh

con một cách khác thường đều được ca ngợi trong các thể loại thần thoại

và sử thi. Điều đó mang tính chất thần thánh, các bà mẹ đã giao tiếp

được với thần linh để sinh ra những người con mang tính cách thần kỳ,

có tài năng và sức khỏe hơn người, lập được nhiều chiến công để bảo vệ

cộng đồng. Như vậy, mô-típ về sự ra đời thần kỳ trong truyện cổ tích có

nét tương đồng với thần thoại. Thần thoại xuất hiện trong thời kỳ cộng

sản nguyên thủy, khi hình thức hôn nhân là hình thức quần hôn mà chế

độ mẫu hệ nắm quyền trong gia đình, đứa con ra đời sẽ nhận được sự

chăm sóc chung của cả cộng đồng huyết thống, của toàn xã hội. Về sau

khi xã hội có sự phân hóa giai cấp rõ rệt kéo theo sự tan rã của chế độ

mẫu hệ, xã hội chuyển sang chế độ phụ hệ lên nắm quyền trong gia đình.

Khi ấy, những đứa trẻ được sinh ra trong những tình huống khác thường,

kỳ lạ sẽ bị lên án, trừng phạt và không được sự quan tâm của xã hội.

Những đứa trẻ đó phải chịu thiệt thòi, bị xua đuổi, hắt hủi ra khỏi cộng

đồng và đây là điều kiện để thể loại truyện cổ tích xuất hiện với nhiều

kiểu nhân vật khác nhau như: kiểu nhân vật mồ côi, kiểu nhân vật em út,

kiểu nhân vật dũng sĩ, chàng trai khỏe… Các kiểu nhân vật này tương

ứng với từng hoàn cảnh khác nhau, nhân vật chính được đưa vào truyện

cổ tích thường có số phận không may, luôn chịu thiệt thòi. Họ là những

con người bình thường, có nhiệm vụ phản ánh các khía cạnh của xã hội

nguyên thủy trong thời kỳ tan rã của chế độ mẫu hệ. Những yếu tố thần

kỳ xuất hiện đóng vai trò là phương tiện để nhân vật giải quyết các mâu

thuẫn, xung đột xã hội và giúp cho nhân vật thoát khỏi tai nạn, vượt qua

những thử thách khắc nghiệt và mang lại sự công bằng cho nhân vật,

công lý cho xã hội, thoát khỏi những bế tắc của cuộc đời. Nhân vật

chính được thay đổi số phận, có cuộc sống hạnh phúc, là những kết thúc

có hậu mang đầy tính ước mơ của người xưa. Kiểu truyện người lấy vật

là sự phản ánh một cách sâu xa quy luật sáng tác và quy luật xây dựng

nhân vật trong truyện cổ tích. Những con người bất hạnh, xấu xí, thấp

hèn chính là những con người đại diện cho hiện thực xã hội lịch sử của

dân tộc. Trong thực tế hoàn cảnh ra đời của các nhân vật người đội lốt

vật đa phần thường là những hoàn cảnh éo le, khó khăn và đáng thương

như: cha mẹ già yếu, hoặc mẹ già cô đơn, không có của cải do không

còn sức lao động, hay những cô gái không được sự giúp đỡ và sự chấp

nhận của cộng đồng, không có họ hàng thân thích… Mô-típ sự ra đời

thần kỳ cho thấy sự kế thừa từ thể loại truyện thần thoại đến thể loại

truyện cổ tích thần kỳ.

Về mô-típ sự ra đời thần kỳ của nhân vật, chúng tôi cũng tìm thấy

có nét giống nhau với mô-típ mở đầu (sự ra đời thần kỳ) của một số

nước trên thế giới. Trong tám truyện mà chúng tôi tìm hiểu của bốn

quốc gia đều có chung mô-típ đầu tiên (sự ra đời thần kỳ) của nhân vật ở

nhiều hình thức ra đời khác nhau như: truyện Chàng kỵ mã (Pháp), thì

kể rằng “hai vợ chồng nhà nọ nghèo, hiếm hoi, cầu thần mãi mới có

mang nhưng lại sinh ra được một con nhái”, truyện Nàng nhái (Miến

Điện) thì kể rằng: “có hai vợ chồng già hiếm hoi, đẻ được một con

nhái”, truyện Chàng cóc (Campuchia), “ông bà chăng kéo mãi mà chỉ

được một con cóc”; truyện Chàng lợn (Campuchia) thì “gia đình chỉ

được độc một đứa con là lợn”… Như vậy, mô-típ sự ra đời thần kỳ trong

truyện cổ tích của Việt Nam và trong truyện cổ tích của các nước trên

thế giới có nét tương đồng với nhau rất lớn.

Nhân vật ra đời một cách khác thường là một điều bình thường

trong truyện cổ tích, sự ra đời thần kỳ, có lẽ bắt nguồn từ quan niệm sai

lầm về sự sinh đẻ của con người thời thị tộc, bộ lạc nguyên thủy, sau này

chuyển thành tính thẩm mỹ trong truyện cổ tích tạo nên sự hấp, ly kỳ

cho sự ra đời của các nhân vật. Mô-típ này có liên quan đến đời sống,

tục lệ và tín ngưỡng của người nguyên thủy. Trong truyện cổ tích, mô-

típ sự ra đời thần kỳ được sử dụng với mục đích báo hiệu những hành

trạng phi thường của nhân vật. Có thể thấy cách ra đời thần kỳ của nhân

vật ở một số truyện như: nàng cóc trong truyện Lấy vợ cóc là một lốt vật

xấu xí, dị hình dị dạng. Cóc sinh ra không bình thường. Cha mẹ cóc

hiếm muộn, sinh ra được đứa con lại là cóc. Cóc ra đời là sự thất vọng

cho cha mẹ. Nhưng không, cóc tuy có hình dạng của một con vật vô tích

sự nhưng lại giỏi giang hơn người thường. Chàng rùa được sinh ra kỳ lạ

từ đầu gối của người mẹ, nhưng rùa lại là người có tài năng, có sức khỏe

hơn người, biết làm tất cả những công việc của con người. Hay truyện

Cây tông lông của người Ê Đê liên quan đến nguồn gốc ra đời của nhân

vật là cây và chim. Truyện kể về câu chuyện người đàn bà vào rừng,

khát nước, tìm thấy một hốc cây tông lông có chứa nước, bà uống nước

đó, thụ thai sinh ra hai hạt tông lông. Hai vợ chồng đem trồng sau nhà.

Chúng mộc thành hai cây tông lông mập mạp, lớn nhanh lạ thường.

Chim phượng hoàng đến làm tổ, đẻ trứng trên cây tông lông. Gió to,

trứng rơi xuống, nở ra một con chim con. Sau đổi lốt thành chàng trai

khỏe mạnh. Chàng chặt cây tông lông làm ná, chặt cành tông lông làm

tên, giết chết con chim dữ ăn thịt dân bản. Chàng còn đánh thần sét, cưới

nàng mặt trời, vợ thần sét làm vợ…

Trong quá trình tìm hiểu về tín ngưỡng dân tộc, chúng tôi nhận

thấy những vật tổ chim, rắn có chiều hướng thay đổi từ tôn thờ sang đối

kháng. Có lẽ do xuất phát từ thực tế đời sống con người, xã hội ngày

càng phát triển gắn với cái nhìn mới hơn, toàn diện hơn, người ta tin vào

những gì mắt thấy tai nghe hơn là những câu chuyện lưu truyền thời xa

xưa mang đầy những yếu tố mơ hồ, huyền bí, không gắn với lợi ích thực

tế. Điều đó có thể là nguyên nhân dẫn đến thái độ đối kháng của con

người đối với những vật mà trước đây họ từng tôn thờ và phục tùng

tuyệt đối.

Mô-típ sự ra đời thần kỳ mang đến cho nhân vật sự xuất hiện bước

đầu khá huyền bí, kỳ lạ, mô-típ này còn làm nền tảng cho những hành

trạng phi thường của nhân vật được thể hiện ở các diễn biến sau này.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau:

Người mẹ

Uống phải một một vũng nước lạ Cảm ứng từ thiên nhiên…

Giẫm phải một dấu chân lạ… Cầu khẩn thần linh…

Ăn, tắm trên dòng suối lạ… Nhặt được “vật” trong quá trình lao

động

Người mẹ mang thai

(Đủ tháng đủ ngày hay nhiều hơn bình thường, nhặt được…)

Nhân vật ra đời thần kỳ

2.2.2. Mô-típ người đội lốt vật

Sau mô-típ sự ra đời thần kỳ là mô-típ người đội lốt vật xuất hiện ở

56 truyện, chiếm tỉ lệ 100% trên tổng số 56 truyện khảo sát, là mô-típ

chiếm tỉ lệ cao nhất. Mô-típ người đội lốt vật cho chúng ta cái nhìn khái

quát về các hình thức lốt của các con vật mà nhân vật khoác lên mình,

mô-típ này cùng làm nền tảng cho việc dự báo những việc không bình

thường sẽ xảy ra và sự xuất hiện các mô-típ tiếp theo.

Mô-típ người đội lốt vật xuất hiện ở các hình thức lốt sau: Lợn

(Chàng lợn, Chàng rể heo), Dê (Lấy chồng dê, Chàng dê), Chồn

(Chàng chồn, H’Lúi lấy chồng chồn, H’bia Rác lấy chồng chồn), Trăn

(Lấy chồng trăn, Cô gái lấy chồng trăn, Trăn thần), Rắn (Chàng rắn,

Lấy chồng rắn, Hoàng tử rắn và nàng hoa sen, Hoàng tử rắn), Cóc

(Người lấy cóc, Chàng cóc, Chồng cóc, Chuyện chàng cóc, Chàng rể

cóc, Phò mã cóc, Cóc tiên), Rùa (Ông trạng lấy rùa, Chàng rùa), Mèo

(Người đội lốt mèo), Nai (Con nai thần), Ốc (Nàng tiên ốc, Chuyện con

cầy bay), Cá (Nàng tiên cá, Nàng cá măng, Anh chàng cá chuối), Bò

(Nàng bò tót, Hrit và cô gái trong lốt da bò), Hổ (Chàng rể cọp), Ốc và

Sâu (Cụ vách - ốc sên), Cua (Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá),

Chuột (Con chuột lông đỏ), Khỉ (Chàng khỉ và nàng Ma Phun, Chàng

hến), Tôm (Nàng út lấy chồng tôm, Chàng tôm), Chim (Chàng chim cu

gáy, Cây tông lông), Ếch (Chàng ếch, Chàng ếch – con trai thần mặt

trời, Con Cum),…

Bảng thống kê hình thức các lốt vật

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 52)

Qua bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy hình thức lốt mà nhân vật

mang nhiều nhất đó là lốt cóc, với tần số xuất hiện là 10/56 lần. Con cóc

được xem như là vị thần có công trong việc hô mưa, gọi gió. Trong dân

gian, cóc được xem là cậu ông trời, cóc nghiến răng trời đổ mưa giúp

cho mùa màng tươi tốt, nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, lao

động sản xuất được thuận lợi và tốt đẹp hơn. Cóc được xem như là vị

cứu tinh của con người trong xã hội lúc bấy giờ.

Tiếp đến là người đội lốt rắn với tần số xuất hiện là 5/56, rùa 5/56.

Ngoài ra, các hình thức lốt khác xuất hiện rải rác ở các lốt như chồn

4/56; trăn 4/56; cá 3/56; ếch 3/56; dê 2/56; khỉ 2/56; chim 2/56; lợn

2/56; mèo 1/56… Các con vật trong hình thức các lốt vật này đều có

nguồn gốc gần gũi, có mối quan hệ thân thiết gắn bó với con người,

người và vật được xem như là bạn thân, là thành viên trong gia đình,

giúp đỡ lẫn nhau khi gặp khó khăn và chung sống hòa bình trong xã hội

- xã hội của truyện cổ tích xa xưa. Theo chúng tôi tìm hiểu, ngoài cách

lý giải về nguồn gốc vật thiêng của các lốt vật, lý giải theo địa hình rừng

núi hay đồng bằng cũng là một cách lý giải khá hợp lý. Các dân tộc

thiểu số sống chủ yếu ở vùng rừng núi gắn với công việc làm nương rẫy,

săn bắt, cuộc sống phụ thuộc hoàn toàn vào địa hình núi rừng, đây cũng

là môi trường khá thích hợp cho các con vật như rắn, rùa, chồn, lợn,

khỉ… tồn tại và sinh sống. Trong khi đó, ở các vùng đồng bằng sông

nước với sự bồi đắp phù sa của các con sông đã tạo nên môi trường sống

thích hợp cho các con vật như cá, rùa, tôm, cua, cóc, nhái…Vì thế, trong

quá trình khảo sát truyện cổ tích của các dân tộc, chúng tôi nhận thấy có

sự trùng hợp khá ngẫu nhiên về hình thức lốt của các con vật có môi

trường sống là vùng rừng núi, hay đồng bằng. Điều này cũng phù hợp

với quan điểm thẩm mỹ, lối sống và sinh hoạt của người dân từng vùng,

miền. Những cái lốt vật này đều thể hiện cho hình thức xấu xí ban đầu

của nhân vật, làm nên đặc điểm nổi bật của nhân vật trong tác phẩm.

Nhân vật chính là người đội lốt vật ra đời được đánh giá qua nỗi

thất vọng, tủi khổ của chính những ông bố, bà mẹ của nhân vật. Hai vợ

chồng già tóc đã hoa râm, hiếm con trong truyện Lấy chồng dê (Kinh),

đã cầu khấn khắp nơi để mong có con, khi bà vợ có mang và đẻ ra một

cái bọc, đứa con trong cái bọc ấy không phải là người mà là một con dê

đực làm cho ông già buồn phiền mà chết. Cô gái mồ côi trong truyện

Người đội lốt mèo bị dân làng đuổi vào rừng sống sau khi cô sinh ra một

con mèo hôi thối, cô gái đau khổ đến tột cùng. Hay truyện Cụ vách - ốc

sên, sau khi sinh ra hai quái vật, hai bà mẹ cùng dân làng phải rời bỏ

thôn bản lánh vào rừng sâu để lánh nạn. Cô gái Di Dật trong truyện

Chàng cóc (Kơ Dong) có mang sinh ra một con cóc, trông nó xấu xí

không thành người ai cũng ghét bỏ nó. Di Dật khổ sở vô cùng, những lời

nhiếc móc, đay nghiến của dân làng làm cho cô càng thêm khổ não. Có

người thương nhưng cũng có người dè bỉu, bảo vứt cái quái vật ấy đi.

Các cô chị em gái của Di Dật định quật chết con cóc, sợ nó gây họa về

sau. Di Dật phải ôm con vào rừng để ở…

Như vậy, các nhân vật đội lốt vật xấu xí luôn nhận được cái nhìn

đầy khinh bỉ và ghê sợ từ những con người đại diện cho tầng lớp trên

giàu có, quyền thế như những ông vua, quan lại, phú ông, chủ mường,

mơ tao… đến những người chị gái của các cô gái đẹp trong một gia đình

cũng có cái nhìn khác nhau đối với nhân vật đội lốt. Thái độ xa lánh, xua

đuổi, không tôn trọng nhân vật đội lốt của những người chị gái khi tiếp

xúc với nhân vật như: không chịu mang cơm, hoặc nếu có mang cơm thì

cũng đặt ở một nơi khá xa nhân vật, hay việc từ chối lấy nhân vật để cứu

cha hoặc mẹ già đang bị nguy hiểm đến tính mạng. Từ đó, cho thấy các

cô chị gái đa phần là những con người với thói ích kỷ, nhỏ nhen chỉ

sống cho chính bản thân mình, một lối sống đáng bị lên án và loại trừ ra

khỏi xã hội. Duy nhất có một người - đó là người con gái út có cách

đánh giá không giống với những cách đánh giá trên, là người đầu tiên

đón nhận nhân vật với thái độ khác hẳn với tất cả mọi người. Các cô đã

nhìn thấy tư cách con người trong hình thức vật, dần dần cùng với sự

diễn tiến của câu chuyện, bản chất con người thực của nhân vật đội lốt

đã được bộc lộ đúng cái nhìn và đánh giá của các cô gái út - rất giàu tình

thương yêu và tấm lòng nhân đạo cao cả.

“Cái lốt trong mô-típ người đội lốt là hình thức tạm thời để nhân

vật ẩn mình trong đó. Cái lốt có thể là sự ẩn mình chủ động và tự

nguyện khi nhân vật được kể là hậu thân của các thần muốn đầu thai

trong lốt vật vào các gia đình hiếm con. Cái lốt cũng có thể là sự ẩn

mình do bắt buộc khi: nhân vật được kể là sinh ra đã phải đội lốt. Cái lốt

chỉ là vỏ bọc ngoài, là tạm thời nhưng nó đồng thời cũng thực sự là nhân

vật khi nó không tồn tại độc lập, không tách rời khỏi nhân vật. Cái lốt

trong mô-típ người đội lốt có ý nghĩa thử thách để khẳng định tư cách

con người trong hình thức vật – những con vật quái dị, xấu xí. Cái lốt

thể hiện cách nhìn nhận, đánh giá của giai cấp đối kháng. Trong cuộc

sống, cái lốt của nhân vật mang ý nghĩa đấu tranh cho sự tồn tại của một

loại người. Trong hôn nhân cái lốt của nhân vật là sự thách thức ghê

gớm khi con người đó muốn được sống như đồng loại và muốn bảo vệ

tình yêu chính đáng của mình” [26, tr.58]. Cái lốt sẽ được cởi bỏ khi

nhân vật chiến thắng và đạt được mục đích của mình. Các nhân vật đều

có phép màu kỳ lạ để biến hóa như: nam thì khôi ngô tuấn tú, trẻ đẹp,

khỏe mạnh; nữ thì xinh đẹp tuyệt vời, khéo tay, tài giỏi, hiếu hạnh nết

na. Đó mới chính là những con người thực ẩn sau những cái lốt xấu xí,

dị dạng mà mọi người xa lánh, khinh khi.

Mặt khác, các lốt xấu xí ấy còn thể hiện nguồn gốc tín ngưỡng thời

cổ, tuy không còn mang ý nghĩa dân tộc học cụ thể nữa nhưng nó trở

thành những chi tiết thể hiện quan điểm thẩm mỹ được dùng để phản

ánh một cách độc đáo về một tầng lớp người trong xã hội bị coi là

thấp hèn nhất. Cái lốt vật mà nhân vật phải đội trong một giai đoạn là

cách để thử thách sự nhìn nhận của con người, khơi dậy nơi con người

lòng trân trọng, cảm thông sâu sắc và quan tâm giúp đỡ những con

người không may khiếm khuyết về thể chất do bẩm sinh hoặc do bệnh

tật. Người xưa quan niệm có tật tức có tài, ẩn bên trong nhân vật đội lốt

là cả một tài năng phi thường với tâm hồn cao đẹp đáng quý của một con

người xấu xị, dị dạng bị xã hội xa lánh.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau:

Nhân vật ra đời thần kỳ

Hình dạng của con vật

(rắn, dê, cóc, chồn, ốc, sâu, lợn, rùa, cá, mèo, nhái, khỉ,...)

Nhân vật đội lốt vật xấu xí

2.2.3. Mô-típ thách đố

Mô-típ thách đố xuất hiện trong 23 truyện chiếm tỉ lệ 40.1% trên

tổng số 56 truyện khảo sát, đây là mô-típ chiếm vị trí thứ ba trong bảy

mô-típ với tần số xuất hiện khá nhiều. Trong bất kỳ cốt truyện cổ tích

thần kỳ nào, mô-típ thách đố cũng là một mô-típ lớn. Các nhân vật chính

với tính cách là nạn nhân, những con người khốn khổ của xã hội muốn

thay đổi số phận của mình, muốn đạt đến những mơ ước hạnh phúc tốt

đẹp thường phải trải qua rất nhiều thử thách khắc nghiệt. Các nhân vật

như anh trai cày, cô gái nghèo đi ở đợ, cô Tấm, Thạch Sanh, cùng những

người em út, chàng mồ côi khác… trong nhiều cốt truyện cổ tích thần

kỳ, họ đã trải qua hết thử thách này đến thử thách khác và cuối cùng có

được kết thúc với cuộc sống hạnh phúc, giàu sang. Mô-típ thách đố là

một mô-típ đã tạo ra những tình huống ly kỳ, hấp dẫn vào bậc nhất cho

các nhân vật cũng như các cốt truyện cổ tích thần kỳ, nhân vật sẽ phải

giải quyết những công việc hết sức khó khăn mà một người bình thường

khó có thể thực hiện và hoàn thành được trong một thời gian ngắn.

Chúng tôi nhận thấy có sự trùng hợp giữa hình ảnh nhân vật trong

kiểu truyện người lấy vật với những kiểu truyện khác. Hoàn cảnh đặc

biệt của nhân vật ở chỗ nhân vật không chỉ đơn thuần lâm vào tình trạng

mất chỗ dựa vào cộng đồng, chịu cảnh thiếu thốn về vật chất, thậm chí

bị đói khát vì bị cộng đồng xua đuổi, mà còn chịu những thử thách nặng

nề về mặt tinh thần. Nhân vật luôn chịu thử thách và cố gắng vượt qua

thử thách bằng hành động của chính mình, một mặt nhân vật muốn bộc

lộ những khả năng phi thường của mình, một mặt muốn giành lấy quyền

được sống và được đối xử công bằng như tất cả mọi người trong xã hội.

Sự thử thách đối với nhân vật được biểu hiện dưới nhiều hình thức,

nhiều cấp độ và trong nhiều mối quan hệ khác nhau. Ở phần đầu các cốt

truyện, nhân vật khi sinh ra gây cho người thân sự thất vọng lớn như:

Cô gái đẻ ra một con cóc da vàng mắt tía (Nàng Hơ Lúi).

Bà mẹ đẻ ra một con dê đực (Lấy chồng dê).

Cô gái đẻ ra con mèo hôi thối (Người đội lốt mèo).

Bà mẹ đẻ ra một con cá chuối (Anh chàng cá chuối)…

Những con vật đó không được cha mẹ chấp nhận là người và trong

những hình thù kỳ quái đó, nhân vật cũng không được xã hội tiếp nhận.

Nhân vật người đội lốt vật đã tìm cách để vượt qua thử thách đầu tiên,

để khẳng định tư cách con người trong hình thức vật, nhân vật người đội

lốt vật đã bằng cách cất lên tiếng nói của con người. Truyện Người lấy

cóc (Kinh), khi người vợ sinh ra một con cóc, cả nhà toan đem cóc ném

đi cho khuất mắt, bỗng cóc cất tiếng nói: “đừng ném con đi, cứ để con

lại, con cũng làm được việc”, hay truyện Cóc tiên (Kinh), khi hai vợ

chồng già xúc được cóc, cóc bảo: “ông bà cứ mang tôi về nuôi, tôi làm

được nhiều việc lắm”, truyện Chàng rùa (Thái) kể rằng: “bà đeo giỏ đi

mò cua từ sáng sớm đến chiều, chỉ bắt được một con rùa. Về nhà định

làm thịt rùa thì bỗng nghe tiếng nói: “mẹ ơi, đừng làm thịt con, hãy cố

gắng nuôi con, lớn lên con sẽ giúp mẹ”...

Ở kiểu truyện người lấy vật, nhân vật đội lốt quyết giành cho mình

quyền được sống, được tồn tại trong xã hội. Trong nhiều cốt truyện, con

người tàn tật khiếm khuyết này đã luôn luôn chủ động bộc lộ cho mọi

người thấy rõ ở họ những khả năng cũng giống như những người bình

thường khác, thậm chí những khả năng sống ấy còn mạnh mẽ hơn với

người bình thường gấp nhiều lần. Truyện Chàng ếch (Churu), “ếch bảo

mẹ đến nhà già làng xin cho ếch đi chăn trâu thuê”, trong truyện Chàng

tôm (Kinh), chàng tôm nói với mẹ rằng: “mẹ hãy đến nhà ông cả xin cho

con giữ trâu”, truyện Chàng hến (Kinh) thì “hến bảo cha mẹ tới nhà giàu

nhất vùng xin cho mình đi giữ trâu”, truyện Chàng rùa (Thái), “rùa lớn

nhanh như thổi và rùa xin mẹ đi phát nương, làm rẫy”, truyện Chàng rùa

(H’Mông) khi người mẹ nghèo buồn rầu than thân rùa bảo mẹ: “mẹ yên

tâm, để con đi làm cho vua thay bố mẹ”…

Trong sự nỗ lực chủ động để sống, để khẳng định mình, nhân vật

đội lốt vật xấu xí với tính cách là nạn nhân – là những người chịu một

thân phận thấp hèn – đã gặp một đối tượng thử thách chính – đó là

những người đại diện cho tầng lớp trên của xã hội, những người có địa

vị, quyền lực và giàu có về của cải.

Bảng thống kê về các loại thử thách

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 57)

Thử thách về khả năng làm việc của nhân vật xuất hiện với tần số

rất cao 14/23 truyện khảo sát, đây là loại thử thách phổ biến thường

được các ông bố vợ tương lai đặt ra cho nhân vật nếu muốn cưới con gái

ông ta làm vợ, đây được xem như là phong tục thử tài kén rể của các dân

tộc thiểu số. Loại thử thách này có các truyện như: Người lấy cóc

(Kinh), Lấy chồng dê (Kinh), Chàng chồn (Thái), Chàng rể cọp (Dao),

Con cum (Mường), Lấy chồng rùa (Mường), Chàng rùa (Xê Đăng),

Truyện chồn và nàng Hơ lúi (Gia rai), H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia

rai), Chàng rùa (Thái)…

Ở truyện Người lấy cóc (Kinh), bọn học trò tổ chức “cuộc thi dọn

cỗ, cuộc thi may quần áo, cuộc thi vợ đẹp” để làm xấu mặt anh học trò

nghèo có vợ cóc nhưng anh học trò đã thắng cả ba lần thi. Truyện Chàng

chồn (Thái), “một hôm chẩu mường gọi tất cả các rể đến giao cho mỗi

người ba chục con trâu để mai đi dẫm ruộng, thánh chồn bảo: nàng cứ

nhận ba mươi con trâu. Sáng mai ra ruộng, nàng lấy chạc buộc mũi con

trâu đầu đàn cho chắc chắn nhé... Đến non trưa, phần ruộng của chồn đã

xong”, hay trong truyện Chàng rể cọp (Dao), “Vua cha thách đố ba

chàng rể, ai lùa được tất cả trâu, bò, dê vào chuồng thì là của người đó.

Chàng rể cọp lùa được tất cả vào chuồng của mình”, truyện Con cum

(Mường), Vua loan tin báo cho dân cả nước biết, sắp có hội thi các thứ

đẹp, quí, ai cũng phải dự thi. Truyện Lấy chồng rùa (Mường), ông lão

nói to: “cỏ nhiều thế này làm thế nào cho cỏ hết, ai làm được ta gả một

con gái cho” rùa đã cố gắng làm sạch cỏ. Truyện Chàng rùa (Xê Đăng),

“ông nghe tiếng rùa huýt sáo và bảo rùa sửa lại cái khe kẽ bờ kia để đặt

lờ, ông sẽ thưởng cho chú rùa một cô con gái… Ông còn thách đố bảo

thi trâu, xây nhà,…” truyện H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai), ông bố

kêu rằng: “ôi dân làng, chân H’Bia Rác bị kẹt dưới suối. Ai cứu được tôi

gả nó cho”…

Có thể thấy khả năng làm việc của nhân vật đội lốt là rất lớn, các

công việc dù lớn hay nhỏ, khó khăn đến đâu đều được nhân vật hoàn

thành đúng với thời gian quy định của người đưa ra thử thách, một khả

năng làm việc tuyệt vời đáng khâm phục của nhân vật.

Thử thách về sức khỏe hơn người xuất hiện 3/23 truyện, ở loại thử

thách này, nhân vật đội lốt đã thể hiện được khả năng có được sức khỏe

hơn người, phù hợp với sự ra đời thần kỳ của nhân vật như đã dự báo ở

mô-típ mở đầu, loại thử thách này có các truyện như: Lấy chồng rắn

(H’Mông), Chàng rắn (Gia rai), H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai).

Mơ tao lẩm bẩm “bây giờ ai bắc cầu cho tôi sang sông, tôi sẽ gả con

gái cho”. Một con rắn dài từ dưới nước ngoi lên lấy thân mình bắc cầu

cho Mơ tao qua sông (truyện Chàng rắn – Gia rai).

Một ông lão than rằng: “giá như ai có sức vóc hơn lão vần giúp tảng

đá, lão sẽ gả con gái cho”! Cụ phải giữ lời đấy nhá – một con rắn màu

đất nhỏ như ngón tay cái, hiền lành cất tiếng nói. Rắn vẩy đuôi ba cái,

hòn đá từ từ di chuyển (truyện Chàng rắn – H’Mông). Ông kêu rằng: “ôi

dân làng, chân H’bia Rác bị kẹt dưới suối. Ai cứu được tôi gả nó cho”

(truyện H’bia Rác lấy chồng chồn – Gia rai)…

Như vậy, chúng ta có thể thấy ẩn sau cái lốt vật xấu xí ấy là sức

khỏe, tài năng hơn người của các nhân vật đội lốt. Họ đã chinh phục

được đối tượng đưa ra thử thách một cách tuyệt đối và khẳng định được

giá trị của chính bản thân mình thông qua các cuộc thử thách khắc

nghiệt ấy.

Thử thách về tài đi săn xuất hiện ở 4/23 truyện, có các truyện như:

Chàng chồn (Thái), Chàng rể cọp (Dao), Chàng lợn (Gia rai), Chàng

rùa (Xê Đăng).

“Chẩu mường muốn ăn thịt nai, gọi tám chàng rể mang lưới săn hết

khu rừng nọ đến khu rừng kia, chồn vào rừng biến thành một lực sĩ, cầm

chiếc áo giũ lông ra, mỗi lông biến thành một người lính... chàng bắt

được hàng chục con nai” (truyện Chàng chồn –Thái).

Ngày sinh của vua cha, “ba chàng rể ra sông chài cá về làm cơm

mời cha, hai chàng rể xinh đẹp không bắt được một con cá nào, chàng rể

cọp chài được rất nhiều cá mang về làm cơm mời cha” (truyện Chàng rể

cọp - Dao).

“Chỉ trong một ngày lợn đã săn không biết bao nhiêu là hươu nai.

Ba người xẻ thịt ra nướng và nhét thịt vào ống nứa mang về. Lợn bảo

Pơtao hãy cho bịt hết những lỗ hổng trên sàn nhà để lợn đổ thịt ra. Lợn

liền dốc ống và gùi đổ thịt ra. Quả nhiên thịt nhiều đến nổi ùn lên đầy cả

gian nhà. Lợn đi săn voi, dẫn cả một đàn voi lớn về làng” (truyện Chàng

lợn – Gia rai). “Ông lão bị bệnh, gọi tất cả con rể lại và đòi ăn óc cá,

chàng rùa làm phép bắt một con cá hay gây sự, lấy óc cá gói vào một

mảnh lá nhỏ mang về, bảo dân làng chuẩn bị thật nhiều nong để đựng óc

cá” (truyện Chàng rùa – Xê Đăng).

Các chàng trai đội lốt vật ngoài khả năng làm việc, có sức khỏe

hơn người còn có tài săn bắt giỏi. Họ luôn luôn đánh bại các đối thủ

bằng kết quả săn bắt của mình.

Thử thách về sính lễ quý hiếm xuất hiện ở 8/23 truyện, đây là loại

thử thách có ý nghĩa lớn trong hành động của nhân vật, việc tìm ra

những sính lễ quý hiếm là một công việc vô cùng khó khăn, và đầy nguy

hiểm. Có các truyện như: Chàng nhái (Kinh), Chàng rùa (Thái), Chàng

dê (Mèo), Lấy chồng rùa (Mường), Chàng rể cóc (Vân Kiều), Chàng rể

heo (Vân Kiều), Chàng rùa (H’Mông), Anh chàng cá chuối (Mường).

Truyện Chàng nhái (Kinh), “nhà vua ra điều kiện cho mẹ nhái: nếu

muốn cưới con gái ta thì phải có đủ các món lễ vật sau: một trăm cái mặt

trời, một trăm con voi, một trăm con cọp, một trăm con sư tử, một trăm

con báo. Thứ gì cũng đủ một trăm, nếu không thì hai mẹ con bà bị chém

đầu…”

Bên cạnh những thử thách về sính lễ quý hiếm cho chàng nhái của

dân tộc Kinh thì các dân tộc thiểu số cũng có những thử thách tương tự

mà nhân vật phải vượt qua như: “rùa bảo mẹ mang hai quả dưa già làm

quà đến nhà Tạo mường hỏi nàng Lả làm vợ. Tạo mường rất bực, cầm

hai quả dưa ném theo. Quả dưa vỡ nát, văng ra toàn vàng, bạc. Tạo

mường bảo rùa mang đến mười quả dưa nữa, sẽ gả nàng Lả cho” (truyện

Chàng rùa – Thái). Hay truyện Chàng dê (Mèo), “quan đành thách cưới

thật nhiều vàng bạc châu báu, của ngon vật lạ để thử tài chàng dê. Đến

hẹn dê đem những vật thách cưới đến nhà đến nhà quan, quan vui vẻ

Ở truyện Người lấy cóc (Kinh) kể rằng: nàng cóc xin cha mẹ ra ngoài

bằng lòng”.

ruộng giữ lúa. Cha mẹ cóc không tin nhưng sau cũng bằng lòng. Cóc

phải lòng anh học trò nghèo nên thường trêu ghẹo và tìm cách bắt

chuyện với anh. Cóc táo bạo ngỏ lời với anh học trò nghèo. Lúc đầu anh

học trò lấy làm bất ngờ và không tin cóc sẽ làm được việc anh nói: “tôi

đưa cóc về nhà thì làm được gì?” Nàng cóc khẳng định khả năng tề gia

nội trợ của mình. Anh học trò phân vân, ngẫm nghĩ: có lẽ là duyên số “ta

lấy cóc về để nàng giúp đỡ mẹ già chẳng tốt sao?” Nghĩ thế, anh liền nói

với mẹ đến nhà xin cưới cóc về làm vợ. Cóc đã chu toàn bổn phận làm

vợ, làm dâu, ngày ngày lo cơm nước cho chồng và mẹ già, gia đình cóc

sống ấm êm hạnh phúc…

Truyện Lấy chồng rùa (Mường), ông thách cưới rất nặng đòi những

“một trăm con trâu khoang trắng, một trăm con nai chín gạc, một trăm

chiếc vạc tám tai”. Chàng rùa nhận lời. Đúng ngày hẹn, chàng rùa đem

lễ vật đến. Hay truyện Anh chàng cá chuối (Mường) thì kể rằng, lão nhà

giàu đành cắt của nặng “lão cắt những chín chục vò rượu kê mèn, chín

chục trâu đen, bò đớm trắng, chín chục con nai chín gạc, chín chục vạc

tám tai, hàng đàn hổ báo”…Chàng rể cóc (Vân Kiều) kể rằng, “cóc vào

nhà mang một giỏ bạc giấu trong trấu. Người con gái lớn của A –Nha

nhặt hoài không hết số bạc trắng trên nền nhà”.

Truyện Chàng rể heo (Vân Kiều), “A-Nha thách cưới bằng cách

bảo heo rắc bạc trắng liền từ chân nhà sàn nhà bà đến chân nhà sàn nhà

ta, thì ta gả con gái út cho. Heo đực bảo mẹ sang nhà bảo A-Nha trải

chiếu từ chân nhà sàn bên nhà A-Nha sang chân nhà sàn nhà ta để con

rải bạc rải vàng. Nhà A-Nha giàu có đủ áo chu-he, váy ta mục rải đầy

trên chiếu thì A-Nha lấy hết bạc vàng ta. Bằng như A-Nha không đủ áo,

váy phải gả con gái út cho ta làm vợ… Số vải của nhà A-Nha chỉ che đủ

nửa số vàng bạc của chàng heo đực”

Có thể nói, nhân vật đội lốt đã đáp ứng được các yêu cầu thử thách

vô cùng khắc nghiệt của đối tượng đưa ra thử thách bằng những sính lễ

quý hiếm, có một không hai. Những sính lễ quý hiếm mà trong một thời

gian ngắn các chàng trai phải tìm được. Loại thử thách này, rất khó thực

hiện được đối với các chàng trai xuất thân bình thường trong xã hội lúc

bấy giờ. Nhân vật đội lốt với sự ra đời thần kỳ ở đầu câu truyện như báo

hiệu một hành trạng phi thường của nhân vật, vì vậy, việc nhân vật này

hoàn thành công việc khó khăn mà các đối tượng thử thách đưa ra là

điều hợp lẽ tự nhiên. Có thể thấy, quan hệ giữa nhân vật – những con

người thấp hèn và ông chủ - những người đại diện cho tầng lớp trên có

địa vị, có của cải là quan hệ có đối kháng, có mâu thuẫn, nhưng tính chất

của mâu thuẫn chưa đến độ gay gắt, quyết liệt. Qua thử thách, cả hai đi

đến một thỏa hiệp chính là sự kết hôn của nhân vật đội lốt với con gái

các vị ấy.

Trong các cốt truyện khảo sát, nhân vật chính bao giờ cũng trải qua

những thử thách vô cùng khó khăn, khắc nghiệt, mới đi đến cởi lốt. Việc

đặt ra thử thách cho nhân vật đội lốt nhằm tạo tình huống ly kỳ hấp dẫn

cho cốt truyện. Mặt khác, nó cũng là điều kiện để cho nhân vật thể hiện

tài năng, phẩm chất khác thường của mình đang ẩn sâu trong một cái lốt

xấu xí nào đó. Ở loại thử thách của mô-típ này, nhân vật chính muốn

vượt qua phải có sẵn những tài năng phù hợp với giới tính của mình;

nam phải mạnh mẽ có tài năng ứng biến nhanh nhẹn; nữ phải đảm đang,

khéo léo và đặc biệt là phải rất xinh đẹp…

Hay truyện Người đội lốt mèo (Tà Ôi) kể rằng “Mèo cởi lốt thành

một chàng trai khôi ngô tuấn tú, thân hình vạm vỡ. Hai mẹ con mèo ở lại

trong rừng… Mèo lột xác thành chàng trai xinh đẹp và làm cho mẹ một

ngôi nhà mới, kín đáo và đầy đủ đồ dùng trong nhà”…

Nguyên tắc quan trọng trong tổ chức nghệ thuật của truyện cổ tích

là cốt truyện phải phát triển theo hướng: thiện cuối cùng sẽ thắng ác,

chính nghĩa phải thắng gian tà, điều nhân nghĩa phải được khẳng định,

cái bất nhân phải được loại trừ… Số phận của nhân vật bắt buộc phải có

sự thay đổi. Nhân vật đội lốt sau khi vượt qua những thử thách khó

khăn, cùng với tài năng và phẩm chất đạo đứa của mình sẽ được hưởng

cuộc sống giàu sang hạnh phúc đến trọn đời. Bên cạnh đó, những người

với tính cách xấu xa, tham lam, độc ác có những hành động bất nhân sẽ

phải trả giá. Truyện chỉ có thể kết cấu như vậy, đó cũng chính là logíc

thông thường của rất nhiều truyện cổ tích thần kỳ trên toàn thế giới.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau:

Nhân vật đội lốt vật xấu xí

Thử thách

thi tài nấu nướng, may vá sính lễ quý hiếm, thần kỳ, khó

tìm,…

và thi sắc đẹp… công việc khó khăn…

Nhân vật vượt qua thử thách

(nhân vật vượt qua các thử thách một cách dễ dàng, đầy thuyết phục)

2.2.4. Mô-típ tài năng thần kỳ

Tiếp sau mô-típ thách đố là mô-típ tài năng thần kỳ, sự xuất hiện

mô-típ này trong phạm vi khảo sát của chúng tôi gồm 44 truyện chiếm

78.6% trên tổng số 56 truyện, chiếm vị trí thứ hai. Mô-típ tài năng thần

kỳ trong kết cấu hình tượng nhân vật người đội lốt vật quái dị, xấu xí là

một đặc điểm nhằm để lý tưởng hóa nhân vật của các tác giả dân gian.

Mô-típ tài năng thần kỳ là sự tiếp nối mô-típ thách đố, bởi thử thách

được đặt ra phải có tài năng để giải quyết. Cốt truyện sẽ không thể tiếp

tục phát triển được nếu không có sự tiếp nối này. Đó là đặc trưng cấu

trúc xâu chuỗi của tác phẩm dân gian. Với mục đích đề cao, lý tưởng

hóa nhân vật, đối tượng phản ánh của tác giả dân gian cụ thể ở đây là

những con người xấu xí thấp hèn, song họ đã được các tác giả dân gian

gán cho những tài năng, những khả năng thần kỳ, xây dựng thành một

con người đẹp đẽ, thậm chí trở nên phi thường để vượt qua hết mọi thử

thách của đối tượng thử thách đặt ra.

Bảng thống kê về tài năng thần kỳ

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 58)

Trường hợp nhân vật có phép thuật, được giúp đỡ, chúng tôi thấy

xuất hiện ở 39/44 truyện khảo sát, chiếm số lượng rất lớn trong mô-típ

thứ tư này. Với phép thuật có được các nhân vật đội lốt đã lập nên

những chiến công, những kết quả công việc ngoài mong đợi của các đối

tượng đưa ra thử thách, nhân vật đã sử dụng tài năng, phép thuật của

mình tiêu diệt những kẻ xấu xa độc ác trong xã hội, mang lại niềm tin

chính nghĩa cho nhân dân.

Thông thường nhân vật được kể trong các cốt truyện bỗng dưng

biết được phép thuật của thần linh, nhờ thần linh giúp đỡ. Các truyện

như Lấy chồng dê (Kinh), Nàng Hơ Lúi (Ba Na), Cóc và Hơ bia Phu (Ba

Na), Chàng rể cọp (Dao), Cụ vách - ốc sên (Mường), Người đội lốt mèo

(Tà Ôi), Chuyện chàng cóc (Tà Ôi), Con nai thần (Cơ ho), Chàng ếch –

con trai thần mặt trời (Cơ ho), Chàng rùa (Xê Đăng), Cô út lấy chồng

tôm (Chu ru), Truyện chồn và nàng Hơ Lúi (Gia rai)…

Lấy chồng dê (Kinh), đêm hôm ấy, dê bước ra sân trút lốt dê thành

một chàng trai trẻ, khi chàng hô lên: “lấy cho ta mọi thứ để làm sính lễ”

lập tức các gia nô xuất hiện rất đông, họ đội đến đủ số vàng bạc và dắt

đến đủ số trâu, bò, lợn rồi biến mất”.

Hay “chàng cóc dùng ống điếu hút các súc vật ấy đem về buôn

làng mình. Từ trong ống điếu bé xíu, khi chàng cóc nghiêng ống xuống

thì vô số các súc vật chen nhau chui từ ống điếu ra và đứng chật cả một

vùng rộng lớn. Từ đó, buôn làng của chàng cóc càng trở nên giàu có”

(truyện Nàng Hơ Lúi – Ba Na).

“Vợ chồng cóc đi đến một khu rừng vắng, cóc liền lột xác, hóa

thành chàng trai tuấn tú. Chàng trai cầm một chiếc đũi làm phép, tức thì

trước mặt hai vợ chồng hiện lên đủ nhà cửa, trâu bò, lúa gạo và kẻ hầu

người hạ. Vợ chồng cóc có cuộc sống rất sung sướng trong một tòa lầu

bằng vàng lộng lẫy” (truyện Cóc và Hơ bia Phu - Ba Na).

Truyện (Chàng rể cọp – Dao), “ba chàng rể ra sông chài cá về làm

cơm mời cha, hai chàng rể xinh đẹp không bắt được một con cá nào,

chàng rể cọp chài được rất nhiều cá mang về cho vợ… Khi chàng rể cọp

và vợ về nhà thì căn nhà bỗng biến thành tòa lâu đài nguy nga tráng lệ”.

Chàng trai mèo tiêu diệt quân giặc xâm lược thôn bản bằng tài năng thần

kỳ của mình, “chàng trai liền rút tấm áo mèo ra và hô một tiếng, từ trong

chiếc áo mèo có một chiếc đao thần bay ra, nó tìm những tên còn sống

sót chém sạch” (truyện Người đội lốt mèo - Tà Ôi).

Trong khi đó chàng ếch – con trai thần mặt trời thì chỉ cần “mang

một hạt lúa của vua về nhà”, “bọn nhà giàu bắt chàng phải bắc một cây

cầu qua dòng sông rộng hàng nghìn sải”, chàng ếch làm xong chiếc cầu

chỉ trong một đêm (truyện Chàng ếch-(con trai thần mặt trời) – Cơ ho).

Chàng rùa (Xê Đăng), “ông lão bị bệnh, gọi tất cả con rể lại và đòi

ăn óc cá, chàng rùa làm phép bắt một con cá hay gây sự, lấy óc cá gói

vào một mảnh lá nhỏ mang về, bảo dân làng chuẩn bị thật nhiều nong để

đựng óc cá. Đến mấy chục nong cũng không đủ đựng óc cá, ông lão ăn

và khỏe lại. Ông còn thách đố thi trâu, xây nhà,… chàng rùa thắng”.

Cô út lấy chồng tôm (Churu), “chàng trai làm phép cầu thần ban

cho nhà đẹp, tôi tớ, sai người đến rước nàng út về ở”. Hay “chồn bảo vợ

về nhà xin cha mẹ một con gà, một con lợn, một con trâu, một ché rượu

để làm lễ và dặn chỉ xin bằng nắm tay thôi, còn ché rượu bằng cái chén

cũng được… Vợ chồng Mtao cùng con trai đến dự lễ, lạ lùng thay

những món ăn, rượu uống cách nào cũng không bao giờ hết” (Truyện

chồn và nàng Hơ Lúi - Gia rai).

“Chàng chồn biến thành một lực sĩ. Chàng cầm áo giũ lông ra, mỗi

cái lông biến thành một người lính, chàng căng lưới rồi cho lính đi lùng

trong rừng để lùa nai vào. Hết buổi sáng, chàng săn được hàng chục con

nai”, “chồn bảo kiếm cho chồn một nghìn giáo sắt và một con ngựa.

Quân giặc tới, chồn lại cởi áo giũ lông ra, mỗi cái lông biến thành một

người lính, chàng chỉ huy đoàn quân đánh tan bọn giặc trong chốc lát”

(truyện Chàng Chồn –Thái).

Như vậy, với phép thuật của mình, nhân vật đội lốt đã vượt qua

được thử thách, lập được những thành tích vượt ra ngoài sự suy đoán

của nhiều người và tạo sự bất ngờ cho nhân vật thách đố.

Bên cạnh việc có phép thuật thần kỳ thì nhân vật tự nhiên có một

sức mạnh rất lớn xuất hiện ở 5/44 truyện khảo sát, nhân vật giúp cô gái

thoát khỏi tai họa hay làm một công việc khó khăn nào đó. Các truyện

Con chuột lông đỏ (Tày), H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai), H’Lúi lấy

chồng chồn (Gia rai)….

Ở các truyện này, các cô gái thường gặp một tai họa nào đó không

ai có thể cứu giúp được, duy chỉ có nhân vật đội lốt là cứu được các cô

gái ấy bằng tài năng và sức lực của chính bản thân mình.

Truyện Con chuột lông đỏ (Tày), cô chị vì không thể nào làm hết

được cỏ trong lúa nương, người chị ước ao “làm thế nào có một ai đến

giúp mình làm hết cỏ lúa nương, dù không đẹp mình cũng lấy làm

chồng”. Lời nói ấy lọt vào tai con chuột lông đỏ vừa đi qua bên trên

nương. Đêm ấy, “con chuột lông đỏ ra sức nhổ hết cỏ trên nương, lúa

lên xanh mơn mởn”.

Ở truyện H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai), “chồn chạy về nhà

lấy áo choàng ra khoác cho Rác đỡ lạnh, rồi lặn xuống gở từng viên đá.

Chồn gở một ngày, ném lên bờ chồng đá cao gần bằng trái núi. Rác rút

chân ra được, chồn cõng Rác lên bờ”.

Truyện H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai), “…cứ thế, trên đường đuổi

theo H’Lúi, lũ xương ống lần lượt gặp trâu rừng, cọp, voi.... đều bị lũ

xương ống ăn thịt. Cuối cùng H’Lúi gặp một con chồn. Nàng nghe tiếng

kèn của chồn thổi trên cây, H’Lúi kêu lên. Chồn ơi! anh giấu em với! lũ

xương ống đuổi theo em để ăn thịt kia kìa. Chồn bảo: nếu em bằng lòng

lấy anh làm chồng anh sẽ tìm cách giấu được em ngay”.

Nhân vật đội lốt đã cứu giúp các cô gái thoát nạn và cô gái lấy

nhân vật đội lốt làm chồng, họ sống hạnh phúc bên nhau.

Với tài năng thần kỳ của mình, nhân vật đội lốt đã chinh phục được

trái tim cô gái xinh đẹp con các vị chủ làng, mtao, tù trưởng giàu có

hoặc các cô công chúa con các vị vua… và nhất là đã cầu hôn được với

các cô gái đó. Trong tất cả các cốt truyện, nhân vật làm được các công

việc khó khăn thông thường đều là nhờ sức mạnh vốn có của mình do

được các vị thần linh ban thưởng cho, hoặc do nguồn gốc xuất thân thần

kỳ của mình. Truyện của dân tộc Tây Nguyên nói về chàng cóc, chàng

trăn biết phát nương lớn, làm rẫy giỏi; chàng heo, chàng rùa biết bắt

hươu nai, lấy sữa hổ, mật gấu, ngà voi… Tài năng của mỗi nhân vật

mang nội dung thần kỳ nhưng chứa đựng cả một sức sống, ước mơ rất

thực của những người lao động nghèo ở các dân tộc, là những hình ảnh

phong phú, nét đặc trưng gắn với đời sống sinh hoạt của mỗi miền, mỗi

vùng đất nước. Tài năng của các nhân vật như chàng ếch, chàng rùa

trong truyện của dân tộc Tày, Dao, H’Mông là tài năng gắn bó với ruộng

đồng; sức khỏe, kỹ năng của họ tập trung vào những lao động về thủy

lợi, ruộng nương trong nông nghiệp. Tài năng của các nhân vật chàng

nai, chàng chồn trong truyện của dân tộc Thái thì vừa gần gũi với ruộng

đồng ở thung lũng lại vừa gắn bó với rừng núi… Những chàng cóc,

chàng trăn, chàng lợn trong truyện của các dân tộc Tây Nguyên vừa là

người có sức khỏe, có tài trồng nương rẫy lại vừa là người thông thạo

công việc săn bắn thú rừng (bẫy voi, bắt hươu, nai…). Ở phần kết các

câu chuyện đã kể nhân vật vượt qua các thử thách, chiến thắng mọi kẻ

thù, thay thế người cầm đầu một vùng đất, một bản, có khi lên làm vua

đứng đầu một nước…

Mô-típ tài năng thần kỳ trong kết cấu hình tượng nhân vật đội lốt

vật xấu xí, dị dạng ở đây đã góp phần vẽ lên được hiện thực mơ ước nói

trên, và thể hiện thật rõ nét nhân vật từ một con người thiệt thòi, khiếm

khuyết về mặt hình thức đã trở thành những con người có những tài

năng phi thường. Chiến công và tài năng mà các nhân vật đội lốt vật lập

nên, làm cho họ có hình ảnh khá gần gũi với hình ảnh những chàng trai

khỏe, chàng dũng sĩ diệt đại bàng cứu người đẹp, diệt giặc cứu dân, xây

dựng buôn làng, các nhân vật trong thần thoại kỳ vĩ của các dân tộc…

Đối với mô-típ tài năng thần kỳ, tác giả dân gian đã xây dựng được hình

ảnh nhân vật thật kỳ vĩ, một con người bề ngoài khiếm khuyết xấu xí và

bị coi là thấp hèn nhưng bên trong đã chứa đựng những khả năng phi

thường của nhân vật.

Trong quá trình tìm hiểu về truyện cổ tích, chúng tôi nhận thấy đa

phần truyện của các nước trên thế giới thường chú trọng đến hành động

của nhân vật nhiều hơn là miêu tả nội tâm. Truyện Con lợn trở thành

vua (Campuchia) thì kể: lợn lớn lên, biết nói, biết đi rất sớm, lại có vẻ

thông minh. Lợn biết làm nhiều việc trong nhà giúp bố mẹ. Lợn lẳng

lặng đi khỏi nhà... ai nấy đều quý mến lợn. Riêng cô gái út tỏ ra thân

mật với lợn hơn. Truyện Chàng kỵ mã (Mông cổ) thì miêu tả: “nếu quan

không bằng lòng thì tôi sẽ cười”. Quan sẵn sàng cho nhái cười, không

ngờ mỗi tiếng cười của nhái làm cho đất rung chuyển, nhà cửa cơ hồ

muốn đổ, khi nhái khóc thì trời mù mịt, nước đổ ầm ầm tràn ngập khắp

nơi... Người ta thấy xuất hiện một chàng trai áo xanh cưỡi ngựa xanh, có

yên cương quý đến đua với các kỵ sĩ đã thắng cuộc. Chàng đi sau,

nhưng về đích trước tiên. Không những thế, trong khi đua, chàng còn ba

lần bắn chết ba con diều hâu và hai lần xuống ngựa ngắt hoa ném tặng

người dự. Truyện Công chúa ếch (Nga) thì kể rằng: khi nhảy ếch vung

tay áo ra, có hàng đàn chim bay ra cùng cảnh núi sông xuất hiện rất đẹp

mắt... Hoàng tử cướp được quạt, bẻ gãy chuôi thì công chúa ếch hiện ra.

Truyện Con sói trắng (Pháp) miêu tả rằng: cô con gái cả xin cha đưa về

cho mình một cái áo đẹp, cô thứ hai cũng thế, chỉ có cô thứ ba thì xin

một đóa hoa hồng biết nói... Ông tiến vào sâu, chỉ thấy có một cây hoa

hồng có hoa đang hát, khắp nơi không một bóng người. Ông ngắt một

bông hoa…

Truyện của Việt Nam như: Chàng tôm (Kinh) thì kể “tôm đến nhà

ông Cả lấy càng búng dây buộc ra mở cổng rồi mở dây buộc trâu. Tôm

đuổi trâu đi bằng cách búng càng… Cô út quyết định theo chàng về nhà.

Chàng tôm không dám dắt nàng út về nhà mà dắt đi gặt,…” hay truyện

Chuyện con cầy bay (Thái), “một hôm, Bun vác cần câu ra suối. Bun chỉ

câu được một con ốc bùn, mình phủ đầy rêu. Mang ốc về nhà, Bun bỏ

con ốc lên gác bếp và ngủ thiếp đi... Bun vứt xuống gầm sàn và trúng

phải hòn đá, vỏ ốc vỡ tan từng mảnh. Ngay lúc ấy bỗng có một người

con gái, đôi môi đỏ như cánh hoa vàng xuất hiện. Nàng lao từ trong nhà

ra túm lấy cổ tay Bun rồi…”, truyện Con chuột lông đỏ (Tày) miêu tả:

“hai chị em trông thấy con chuột lông đỏ nói tiếng người, mắt lồi, tai to,

mõm dài, người chị vùng chạy trốn, con chuột chạy lao theo, chuột bị

lừa xuống suối. Người chị chạy về nhà. Cô em đến vớt chuột lên, người

em khóc, nước mắt tuôn đầy mặt, chuột thấy vậy nói: cho chuột ăn bát

cơm rồi chuột sẽ quay về nhà trên nương. Khi ấy trời chạng vạng tối,

người em mang chuột lông đỏ về giấu trong buồng ngủ. Người em giấu

cơm nuôi chuột, một bát chuột ăn cũng hết, ba bát chuột ăn cũng hết,…”

truyện Người đội lốt mèo (Tà Ôi) thì kể: “Mèo chạy thật nhanh vào rừng

tìm mẹ. Mèo cõng mẹ chạy như bay đến bên bờ suối có hang rộng và

sâu,”…

Hành động của các nhân vật trong truyện cổ tích thế giới được miêu

tả khá chi tiết, đó cũng là nét chung của nghệ thuật xây dựng nhân vật

trong truyện cổ tích Việt Nam và cổ tích các nước trên thế giới.

Với mô-típ tài năng thần kỳ, hình tượng nhân vật đội lốt đã khẳng

định được giá trị của chính mình, đáp ứng được mọi khát vọng và mong

đợi của quần chúng nhân dân, ước mơ về một chiến thắng của chế độ xã

hội mà trong đó sẽ xóa bỏ hết mọi bất công, mọi người đều đuợc hưởng

sự công bằng, mọi tài năng đều được tôn trọng và mọi quyền bình đẳng

dân chủ đều được thực hiện.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau

Nhân vật vượt qua thử thách

Nhân vật có phép thuật thần kỳ, có sức mạnh, có khả năng,…

(mấy chục cái nong không đủ đựng óc cá mà nhân vật đã bắt,…)

(rắn vẩy đuôi ba cái hòn đá di chuyển)

(rùa xây tòa lâu đài trong một đêm,…)

Tài năng thần kỳ

(nhân vật lập nên những chiến công, kỳ tích phi thường, thần kỳ…)

2.2.5. Mô-típ cởi lốt và kết hôn

Sau khi nhân vật đội lốt vượt qua được những thử thách khắc

nghiệt bằng chính tài năng và bản lĩnh của mình, chinh phục được đối

tượng đưa ra thử thách một cách tuyệt đối, nhân vật đội lốt sẽ phải cởi

bỏ cái lốt vật xấu xí mang trên mình bấy lâu để kết hôn với người mình

yêu. Mô-típ này xuất hiện trong 56 truyện, chiếm tỉ lệ 100%, đây cũng là

mô-típ có tỉ lệ cao ngang bằng cùng với mô-típ người đội lốt vật. Có thể

khẳng định rằng, mô-típ cởi lốt kết hôn không thể vắng trong kiểu

truyện người lấy vật, nó là đích đến cuối cùng của các nhân vật đội lốt

và hôn nhân là một loại mô-típ phổ biến trong văn học dân gian.

Nhân vật cởi lốt xuất hiện ở 56 truyện khảo sát, nhân vật là “vật”

sau khi kết hôn thường cởi lốt vật thành người vào đêm tân hôn, rủ vợ ra

suối tắm cởi lốt thả trôi theo dòng suối, biến hóa thành nhiều nhân vật

khác nhau để thử lòng vợ. Các truyện như: Cóc tiên (Kinh), Chàng hến

(Kinh), Hoàng tử rắn và nàng hoa sen (Kinh), Cụ vách - ốc sên

(Mường), Người đội lốt mèo (Tà Ôi), Con nai thần (Cơ ho), Cô gái lấy

chồng trăn (Xê Đăng), Nàng tiên cá (Xê Đăng), Chàng trăn (Churu),

Chàng ếch (Churu), Nàng bò tót (Vân Kiều), Chàng lợn (Gia rai),

Chàng rắn (Gia rai)…

Nhân vật đội lốt vật dị dạng, xấu xí trong đêm tân hôn đã cởi lốt

hóa thành chàng thanh niên tuấn tú hoặc nhân vật cùng với vợ xuống

suối tắm, tắm xong hình dáng thay đổi là một tình tiết đặc trưng của

hàng loạt các bản truyện của nhiều dân tộc khác nhau ở đề tài kiểu

truyện người lấy vật này. Có thể tìm thấy chi tiết đó ở truyện Cóc tiên

(Kinh), “sau khi dẹp yên bờ cõi, thắng trận trở về cóc bỏ lốt cũ trở thành

một chàng trai khôi ngô tuấn tú”, truyện Chàng hến (Kinh), “một lần cô

ấy thấy con lột bỏ lốt khỉ trở thành chàng trai khôi ngô tuấn tú đi xuống

sông tắm thì đem lòng thương yêu con”, truyện Hoàng tử rắn và nàng

hoa sen (Kinh), “bỗng nhiên có một tiếng sấm nổ vang trời, con rắn lột

xác biến thành một vị hoàng tử vô cùng khôi ngô tuấn tú”, truyện Người

đội lốt mèo (Tà Ôi), “mèo trở về lột xác thành chàng trai xinh đẹp và

làm cho mẹ một ngôi nhà mới”, truyện Cô gái lấy chồng trăn (Xê

Đăng), “đêm đó, cô gái nhỏ theo trăn về hang làm vợ nó, nàng sợ sệt và

buồn khổ, lúc trời sắp sáng khi đã thiếp, nàng cảm thấy một bàn tay ai

thật mát đặt nhẹ lên trán và cả hơi thở ấm nồng. Nàng tỉnh dậy, trước

mắt nàng là một chàng trai khỏe mạnh, tuấn tú”, truyện Chàng ếch

(Churu), “cô không thấy ếch đâu, chỉ thấy một chàng trai khôi ngô tuấn

tú đang tắm dưới ao. Chàng trai biến lại thành ếch”, truyện Nàng bò tót

(Vân Kiều), “anh ngạc nhiên khi thấy một người con gái đẹp từ đâu hiện

ra, dọn dẹp trong ngoài”, truyện Chàng lợn (Gia rai), “tắm xong lợn lột

xác thành một chàng trai. Pơtao thấy con gái trở về cùng với một chàng

trai khỏe, đẹp”, truyện Chàng rắn (Gia rai), “tắm xong, rắn trút bỏ lốt

bên ngoài, biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú”, truyện H’Lúi lấy

chồng chồn (Gia rai), “đêm ấy, khi chồn tưởng rằng hai chị em đã ngủ

say, chàng chồn liền cởi tấm da chồn, biến thành một chàng trai có thân

hình rất đẹp, lại phát ra ánh sáng rực rỡ, như một ngọn đèn. Chàng biến

thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, chứ không còn là một con chồn

xấu xí khi trước”, truyện Chàng chim cu gáy (Raglai), “dòng nước con

sông làm trôi tuột đi hết lớp lông trên mình chú chim cu gáy. Trong

phúc chốc, chú chim biến thành chàng trai Raglai vạm vỡ”, truyện

Chàng chồn (Thái), “cô thấy một chàng trai, mặt mũi khôi ngô đang

ngồi tựa gốc cây thổi sáo”, truyện Nàng Hơ Lúi (Ba Na), “sau trận mưa

cóc biến thành chàng trai khỏe mạnh có giọng nói như sấm vang”,

truyện Lấy chồng rùa (Mường), “chàng rùa cởi lốt rùa thành một chàng

trai rất đẹp, cạnh cái xác rùa khô”, truyện Anh chàng cá chuối (Mường),

cô chị “ghé mắt nhìn qua lỗ vách em gái mình ngồi cạnh chàng trai, sau

nó là cái lột cá khô”, truyện Hoàng tử rắn (Cao Lan), “rắn đưa vợ về

thủy cung và cởi lốt thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú”, truyện Lấy

chồng rắn (H’Mông), “chàng rắn cởi lốt thành chàng trai khôi ngô tuấn

tú”, truyện Chàng cóc (Kơ Dong), chàng cóc “cởi lốt thành một chàng

trai rất tuấn tú rất đẹp”…

Như vậy, nhân vật cởi lốt kết hôn là điều tất yếu trong toàn bộ các

câu chuyện, là phần thưởng mà họ có được trong suốt thời gian dài chịu

sự thử thách khắc nghiệt, nên khi nhân vật cởi lốt thành những chàng

trai, cô gái xinh đẹp thì bị những người chồng, vợ của họ không muốn

chồng, vợ mình mang lốt vật xấu xí mãi nên tìm cách hủy cái lốt ấy đi

để kết thúc cuộc đời đội lốt, nhân vật có được cuộc sống như những

người bình thường giàu sang và hạnh phúc.

Bảng thống kê các hình thức hủy lốt vật

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 60)

Nhân vật là “vật” sau khi cởi lốt bị vợ, chồng xé lốt xuất hiện ở

3/56 truyện khảo sát. Trong ba truyện này có hai truyện của người Kinh

là các truyện: Người lấy cóc (Kinh), “anh thấy một tấm da cóc vứt lại

một đống lù lù ở gốc cây. Hiểu ra đó là cái lốt của vợ mình, lập tức anh

chạy vào xé nát tấm da cóc”, truyện Chàng tôm (Kinh), “chàng tôm cởi

lốt vỏ để ra ngoài. Cô út thấy vậy bèn lấy vỏ tôm xé ra nhét vào hang

chuột”. Bên cạnh đó còn có truyện Chồng cóc (Ê Đê), cũng đề cập đến

việc nhân vật cởi lốt ra và bị xé lốt, “tới một con sông, cóc cởi lốt xuống

tắm. Hơ-bia rình xé lốt cóc, cóc phải biến thành người”.

Nhân vật là “vật” sau khi cởi lốt bị vợ, chồng giấu lốt xuất hiện

3/56 truyện khảo sát. Có các truyện như: Ông trạng lấy rùa (Kinh),

“Giáp Hải bước vào lấy cái mai rùa giấu đi”, truyện Nàng tiên cua và

anh chàng đánh cá (Kinh), “ta cất giấu bộ áo khoác ngoài của nàng ở

hang đá kia, lúc nào thấy cần thì con đến đó mà lấy”, truyện Chàng ếch -

con trai thần mặt trời (Cơ ho), “tìm mãi nàng không thấy K’ươr đâu mà

chỉ thấy một tấm da ếch nhỏ xíu, nghĩ là của K’ươr bỏ quên, liền tinh

nghịch giấu vào bụi cỏ”...

Nhân vật là “vật” sau khi cởi lốt bị vợ, chồng đập lốt chỉ xuất hiện

2/56 truyện. Truyện Nàng tiên ốc (Kinh), “trời thấy chàng siêng năng,

can đảm mà phải chịu cảnh nghèo khổ, cô đơn, nên sai em xuống giúp

chàng. Chàng trai đập tan vỏ ốc”, truyện Chuyện con cầy bay (Thái),

“Bun vứt xuống gầm sàn và trúng phải hòn đá, vỏ ốc vỡ tan từng mảnh”.

Nhân vật là “vật” sau khi cởi lốt bị vợ, chồng phá lốt xuất hiện

2/56 truyện khảo sát. Truyện Lấy chồng dê (Kinh), “chị khuyên em phá

lốt dê đi để chấm dứt cuộc đời đội lốt”, truyện Truyện chồn và nàng

H’Lúi (Gia rai), “chàng chồn bị vợ phá bỏ cái lốt chồn và trở lại thành

người”.

Nhân vật là “vật” sau khi cởi lốt bị vợ, chồng đốt lốt đi. Đây là hình

thức cởi lốt cũng khá phổ biến xuất hiện ở 10/56 truyện khảo sát. Bếp

lửa là hình ảnh khá quen thuộc của cộng đồng các dân tộc, hình ảnh gia

đình quây quần bên bếp lửa khi màn đêm buông xuống là một hình ảnh

đẹp, đáng yêu, và bếp lửa rực cháy cũng là phương tiện cần thiết cho

việc hủy bỏ cái lốt vật xấu xí một cách nhanh chóng nhất, hữu hiệu nhất.

Truyện Chàng nhái (Kinh), “chàng liền lấy bộ da nhái ra và biến thành

con nhái như xưa cho vợ tin, sau đó biến trở lại thành người bình thường

và đốt bộ da nhái đi”, truyện Chàng rùa (Thái), “nàng Lả lấy cái lốt rùa

đem về nhà đốt đi”, Chàng dê (Mèo), “một đêm, lừa lúc chàng ngủ say,

nàng Hai lấy da dê đốt ra tro”, truyện Con chuột lông đỏ (Tày), “mẹ bàn

với con gái lấy áo lông chuột đỏ đem đốt đi để chàng thôi biến thành

chuột”, truyện Mó nước ấm (Mường), “nàng đi nương quên cất lốt lông

gà, mẹ nàng đốt lông gà đi”, truyện Trăn thần (Chàm), “chàng trai bảo

cô gái đem đốt cái vỏ trăn kia đi”, truyện Lấy chồng trăn (Vân Kiều),

“hai con quạ theo lời A-Chung cắp chiếc lốt trăn cho vào lửa đốt mất”,

truyện Chàng rể cóc (Vân Kiều), “cô gái nhanh tay vớ lấy ném luôn vào

bếp lửa đang cháy rực cái lốt da cóc của chồng”, truyện Chàng rể heo

(Vân Kiều), “cô gái út nhờ chuột tha tấm lốt heo ném vào bếp lửa dưới

sàn, chàng heo thành người con trai đẹp”…

Ngoài ra, có trường hợp người vợ vì nôn nóng muốn cho chồng trở

thành người nên đã hủy bỏ cái lốt xấu xí một cách vội vã, không cẩn

trọng nên đã làm cho nhân vật đội lốt bị ốm, hoặc gặp phải một tai nạn

khủng khiếp nào đó. Tình tiết này được kể trong truyện Chàng rùa

(Thái), nàng Lả vợ của rùa đã lấy cái lốt rùa đem về nhà đốt đi, rùa hốt

hoảng chạy về nhưng không kịp, xác đã bị đốt gần hết. Rùa nói cho vợ

biết, chỉ còn ít ngày nữa là mình sẽ hết hạn bị đày làm con rùa, nhưng

nay xác đã bị đốt sẽ bị then (Trời) nổi giận mà trừng phạt. Rồi chảy

nước mắt từ biệt vợ. Do bị then trừng phạt, chàng rùa đẹp đẽ, khỏe mạnh

có nhiều tài năng, phép lạ “chỉ còn như một cục bùn nhão nhoét, nằm

thoi thóp thở, da xanh nhớt, chân tay không cử động”. Nàng Lả sợ hãi,

hối hả chạy về phía Đông rồi chạy về phía Tây, nàng vấp ngã và bất

tỉnh… Sau được ông lão cho cành lá thần về cứu sống được chàng rùa,

từ đó rùa trở thành người vĩnh viễn, hai vợ chồng sống yên vui hạnh

phúc. Hay truyện Mó nước ấm (Mường) kể rằng: bà mẹ cô gái do không

biết sơ ý đốt cháy gần hết chiếc lông gà đen, chàng trai gà trở về thủy

cung và lâm bệnh nặng khi chưa hết hạn đội lốt lông gà đen…

Tóm lại, qua năm hình thức hủy các lốt vật, chúng tôi nhận thấy các

nhân vật sau khi cởi lốt kết hôn đều trở thành những chàng trai, cô gái

xinh đẹp khó ai sánh kịp, việc hủy các lốt vật mà nhân vật mang suốt

đoạn đầu đời là đều tất nhiên, việc làm này cho thấy tính chất lý tưởng

về một xã hội tốt đẹp, tấm lòng nhân đạo cao cả của nhân dân. Họ ước

mơ một sự đổi đời, một niềm tin vào lẽ phải, một ước muốn người

nghèo khổ chăm chỉ sẽ trở nên giàu có, người lương thiện, bất hạnh

không may sẽ được hưởng hạnh phúc. Bên cạnh đó, chúng tôi nhận thấy

việc nhân vật trút bỏ lốt xấu xí với các hình thức như trên chắc chắn

không phải là những tình tiết ngẫu nhiên. Có thể đây “rõ ràng là sự phản

ánh một hình thức nghi lễ cổ xưa nào đó tồn tại ở các dân tộc. Những cái

lốt hay là những tấm da mà nhân vật trút bỏ ra trong đêm tân hôn, sau

khi cưới, hay bằng cách đi tắm… Những cách thức hủy bỏ tấm da, hủy

bỏ cái lốt như giấu đi, vứt đi hay làm rách, đốt cháy… Có thể là sự thể

hiện những nghi thức cổ, những tục lệ, những quan niệm cổ nhất về việc

thờ cúng những tấm da động vật, thờ cúng tín ngưỡng vật tổ. Việc

những tấm da bị đốt cháy đã gây nên sự ốm đau, hay chuyện rủi ro cho

nhân vật có thể xuất hiện trong các cốt truyện muộn hơn, chắc có lẽ

cũng là sự phản ánh sự vi phạm của con người về những điều cấm kỵ, vi

phạm những nghi thức tôn giáo cần phải được tiến hành một cách kín

đáo và bí mật… Điều đó cũng tức là đã vi phạm nghiêm trọng đến tín

ngưỡng thờ cúng tô tem vật tổ” [46, tr.62]. Những tín ngưỡng thờ cúng

vật tổ hiện tại vẫn còn lưu giữ ở nhiều dân tộc thiểu số của Việt Nam,

mỗi tộc người có những cách thức thờ cúng riêng biệt tạo nên nét đặc

trưng về văn hóa, phong tục, tín ngưỡng của dân tộc mình.

Nhân vật cởi lốt thành những chàng trai, cô gái đẹp để thử lòng

chung thủy của người chồng/vợ mình. Có các truyện Cóc tiên (Kinh),

Chàng nhái (Kinh), Chàng rể cóc (Vân Kiều), Chàng rể heo (Vân

Kiều).

Bảng thống kê về nhân vật cởi lốt thử lòng chung thủy của vợ, chồng

Nhân vật cởi lốt thử lòng chung

thủy của vợ, chồng. TT Tên truyện cổ tích

Chàng trai Cô gái

1 Cóc tiên (Kinh) +

2 Chàng nhái (Kinh) +

3 Chàng rể cóc (Vân Kiều) +

4 Chàng rể heo (Vân Kiều) +

Tổng 4 0

Qua khảo sát, chúng tôi thấy cả 4/4 truyện trên đều xuất hiện chi

tiết người đội lốt cởi lốt thành những chàng trai khỏe mạnh, khôi ngô

tuấn tú để thử lòng chung thủy của vợ. Các cô gái là vợ nhân vật xấu xí

đã vượt qua thử thách ấy bằng sự xử trí thông minh, nhanh nhẹn, đưa ra

những quyết định thẳng thắng bảo vệ chồng mình (nhân vật đội lốt), bảo

vệ hạnh phúc tình yêu. Các cô gái đã tự khẳng định mình và khẳng định

sự thủy chung của mình trong tình yêu, đó là nét đẹp đáng quý của

người phụ nữ Việt Nam nói riêng và phụ nữ trên thế giới nói chung.

Ở truyện Cóc tiên (Kinh), “chàng cóc muốn thử lòng công chúa

bèn hóa thành một chàng trai đẹp đến chọc ghẹo và nói: sao cô lại

thương chi thằng cóc xấu xí dơ bẩn ấy? Cô hãy thương tôi và đồng ý

làm vợ tôi nhé! nàng không ngần ngừ mà đáp lại: tôi lấy người nào thì

tôi chung thủy với người ấy. Tôi không bao giờ đổi ý cả!” Hay truyện

Chàng nhái (Kinh), “nhái nảy ra ý định muốn thử tấm lòng của vợ đối

với mình bèn xuất hồn lên trời làm như mình đã chết. Vợ nhái tưởng

chồng chết thật nên khóc thương thảm thiết, vẫn sống vậy để nuôi mẹ

chồng trong khi rất nhiều chàng trai đến cầu hôn. Nhái lột bỏ lốt vỏ nhái

hóa thành chàng trai khôi ngô tuấn tú, xuống trần cải trang thành một

công tử phương xa đến hỏi cưới công chúa Thu Nguyệt, nhưng năn nỉ

mãi công chúa vẫn một mực chung thủy với chồng nhái”. Truyện Chàng

rể heo (Vân Kiều) thì kể rằng: “một hôm bên bếp lửa, xuất hiện một

chàng trai đẹp đến tán tỉnh cô gái út, được chuột cho biết chính là chồng

mình – chàng heo đực đang thử lòng cô gái. Lần thứ hai lại biến thành

chàng trai khác”, truyện Chàng rể cóc (Vân Kiều), “một đêm trăng sáng

có người con trai đẹp hiện ra bên cạnh cô gái và thử lòng cô gái”...

Trong kiểu truyện người lấy vật này, nhân vật “vật” còn là những

vị thần linh, con thần linh đầu thai vào lốt vật để trừng phạt kẻ ác và

giúp đỡ những người lương thiện, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho những

người nghèo, người bất hạnh không may.

Bảng thống kê về “vật” là thần linh, con thần linh

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 62)

Nhân vật là các chàng trai con của thần linh, xuất hiện ở 9/17

truyện khảo sát. Các chàng trai khôi ngô tuấn tú, khỏe mạnh và tài giỏi

hơn người, họ còn là những con người có tấm lòng nhân hậu, thủy

chung. Các chàng trai hóa thân vào các lốt vật vì phạm tội với trời, hay

vì thương gia cảnh nghèo khổ không may của các gia đình mà đầu thay

làm con các gia đình ấy, để giúp đỡ họ, hoặc vì thương tình các cô gái

mồ côi, siêng năng, hiếu hạnh mà hóa thân vào các lốt vật để được kết

hôn cùng các cô gái, mang lại cuộc sống giàu sang cho những con người

bất hạnh.

Có các truyện như: Cóc tiên (Kinh), “Ngọc Hoàng phái một chư tiên

xuống trần gian đầu thai vào các nhà giàu”, truyện Chàng rùa (Thái),

“nàng ơi, chỉ còn ít ngày nữa, anh sẽ hết hạn bị đày làm con rùa. Chúng

ta sẽ chung sống trong ngôi nhà mà anh đang làm dở. Nhưng bây giờ

nàng đốt mất xác anh rồi. Then biết, then nổi giận. Thôi anh đi đây”,

truyện Chàng dê (Mèo), chàng trai là một con dê thần “dê thần có nhiều

phép lạ”, truyện Con chuột lông đỏ (Tày), “anh là con trai thứ năm của

tướng Bắc Đẩu, có lỗi với Ngọc Hoàng bị đày xuống trần làm kiếp chuột

ba năm”, truyện Trăn thần (Chàm), “anh là con trai thần núi”, truyện

Chàng rùa (H’Mông), “rùa vốn là con trời, được trời cho xuống trần

chơi”, truyện Anh chàng cá chuối (Mường), “ta là con trời sắp đến hạn

lên chầu”...

Nhân vật là các cô gái con của thần linh xuất hiện ở 6/17 truyện

khảo sát. Các cô gái xinh đẹp, dịu dàng, nết na, thùy mị luôn làm tròn bổ

phận vợ hiền dâu thảo trong gia đình, các cô gái còn là những con người

hiền lành, giỏi giang, khéo léo và có tấm lòng nhân hậu, vị tha. Ngoài ra

các cô gái còn thể hiện bản chất thật thà, thông minh, nhanh nhẹn và

thủy chung.

Các truyện Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá (Kinh), “nàng tiên

cua - con cua có bộ càng vàng óng và chiếc chiếc gộp màu hoa đá rất

đẹp”, truyện Nàng tiên ốc (Kinh), “em chính là con gái thứ mười của

nhà trời”, truyện Nàng cá măng (Thái), “thấy một người con gái có sắc

đẹp lạ lùng, cả mấy mường không cô nào sánh kịp, đang nhóm lửa thổi

cơm – đó là nàng Pi Cảo (nàng tiên cá)”, truyện Chuyện con cầy bay

(Thái), “... về nàng tiên ốc xinh đẹp”, truyện Lấy vợ cóc (Mường), “vua

trời sai nàng tiên xuống giúp đỡ Côi”, truyện Nàng tiên cá (Xê Đăng),

“người con gái đẹp ấy chính là nàng tiên cá”...

Nhân vật đội lốt vật chính là những vị thần linh xuất hiện ở 2/17

truyện khảo sát. Truyện Con nai thần (Cơ ho), nhân vật đội lốt là Chúa

nai; truyện Chàng chồn (Thái), nhân vật đội lốt là Thánh chồn. Cả hai

đều là những vị thần linh hiền lành, nhân hậu, luôn giúp đỡ những con

người nghèo khổ, bất hạnh không may. Điều này cho thấy giữa người và

lực lượng thần bí siêu nhiên luôn có mối liên hệ gắn kết với nhau trong

cuộc sống, các vị thần luôn giúp đỡ con người khi có tai họa hay khó

khăn nào đó xảy ra mà con người không thể giải quyết, họ cần đến bàn

tay vô hình của các vị thần linh nâng đỡ.

Ngoài ra còn có trường hợp nhân vật đội lốt bị giết chết hoặc bỏ đi vĩnh

viễn.

Bảng thống kê về nhân vật đội lốt bị giết chết hoặc bỏ đi

TT Tên truyện cổ tích Chết Bỏ đi

1 Chàng trăn (Churu) +

2 H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai) +

3 Chàng ếch (Churu) +

Tổng 1 2

Các truyện Chàng trăn (Churu), “chàng trăn hôn cô gái rồi từ biệt,

trăn ra đi”, truyện Chàng ếch (Churu), “ếch mang lúa về cho mẹ xong và

biến mất”, truyện H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai), “chàng chồn bị các

em bắn chết, chúng đốt xác anh rể và ăn thịt anh rể”. Các nhân vật này

có chung quan điểm là chấp nhận thực tại, đầu hàng với số phận không

may của mình. Khi không thực hiện được ước mơ kết hôn với cô gái

đẹp, họ sẽ ra đi hoặc sẽ bị giết chết mà không có một hành động kháng

cự nào để bảo vệ mình, bảo vệ hạnh phúc tình yêu. Đây có lẽ cũng là

một biểu hiện của thái độ cam chịu, bất lực trước thực tại xã hội của

những con người nhỏ bé, yếu đuối trước guồng máy phong kiến mạnh

mẽ, bạo tàn.

Các trình tự diễn biến khi kết hôn của nhân vật trong truyện thường

xuất hiện không giống nhau ở hầu hết các truyện về người lấy vật trong

cổ tích các dân tộc Việt Nam. Sự việc nhân vật cởi lốt vật thành người

cho ta thấy nhân vật đã vượt qua thử thách khó khăn để tiến đến hôn

nhân và bảo vệ được tình yêu hạnh phúc của chính mình.

Trong đa số các truyện được khảo sát, cuộc hôn nhân được diễn ra

thật khó khăn, và phức tạp. Ngay từ đầu các câu chuyện, cuộc hôn nhân

được đề cập đến bằng việc nhân vật đội lốt vật giúp ông bố vợ tương lai,

những người đại diện tầng lớp trên (trong đa số tác phẩm) làm những

công việc khó khăn, đã ngỏ lời cầu hôn và đặt điều kiện muốn lấy con

gái của các ông làm vợ. Nhân vật một mặt muốn được trả công và một

mặt khác muốn thay đổi địa vị, nên bằng tài năng đã kiên trì thực hiện

mục đích của mình. Do có phép mầu thần kỳ từ trước, nhân vật đã đi từ

chiến thắng này đến chiến thắng khác đáp ứng mọi yêu cầu thử thách

của người đặt ra. Và mỗi lần chiến thắng được thử thách là mỗi lần nhân

vật càng chứng minh cho tài năng của mình. Nhân vật đội lốt sau khi cởi

lốt và kết hôn được nhận phần thưởng xứng đáng với tài năng và công

sức của mình đã bỏ ra thể hiện ở các chi tiết: sau hôn nhân địa vị thấp

hèn của nhân nhân vật xấu xí đã trở thành địa vị cao cả khi nhân vật trở

thành vua, thành phò mã con rể của vua, con rể tạo mường, con rể phú

ông, mơtao, tù trưởng...

Bảng thống kê về địa vị của nhân vật đội lốt sau khi kết hôn

(Xem bảng thống kê ở phần Phụ lục trang 63)

Các nhân vật đội lốt sau khi cởi lốt đa số đều trở thành con rể của

những nhà giàu sang quyền quý, những thế lực có địa vị trong xã hội và

cả những vị vua chúa và thần linh. Việc nhân vật xấu xí trở thành con rể

của các vị này cũng là điều mà mọi người mong chờ, đó là phần thưởng

xứng đáng giành cho những người tuy đội lốt vật xấu xí nhưng có tài

năng, phẩm chất hơn người.

Nhân vật trở thành con rể thần (1/24 truyện) có truyện Chàng chim

cu gáy (Raglai), “chàng chim cu gáy biết được nàng TiLinq, con gái của

một vị cận thần của thần mặt trời thường tắm ở con sông thần Dadưng

mỗi tuần một lần… Chim cu gáy cứu sống công chúa và họ nên vợ nên

chồng”. Chàng chim cu gáy là đại diện cho tầng lớp dưới của xã hội, xấu

xí dị dạng nhưng luôn có lý tưởng, ước mơ chinh phục người đẹp, cuối

cùng nhân vật đã chiến thắng và có địa vị cao quý trong xã hội. Ước

muốn xóa bỏ ngăn cách giàu nghèo, áp bức và bị áp bức, bất công trong

xã hội mà chế độ phụ quyền đang thống trị.

Nhân vật trở thành con rể vua (4/24 truyện) có các truyện như:

Chàng nhái (Kinh), “chàng nhái cùng công chúa sống hạnh phúc bên

nhau suốt đời”, truyện Chàng rể cọp (Dao), “vua cha rất yêu quý rể

cọp”, truyện Chàng rùa (H’Mông), “vua đồng ý gả con gái”, truyện

Chàng ếch - con trai thần mặt trời (Cơ ho), “K’ươr dựng nhà mới và

sống hạnh phúc với cô công chúa út”. Vua là người đứng đầu một nước,

người nắm quyền cai trị cả thiên hạ, nhân vật đội lốt trở thành con rể

vua. Điều đó chứng tỏ rằng, mọi người đều có quyền được hưởng sự

công bằng, ai cũng có thể có cơ hội trở thành con rể vua nhưng kết quả

cuối cùng người xứng đáng làm phò mã phải là những người có đủ trí

tuệ, tài năng phi thường hơn hẳn người thường.

Nhân vật trở thành con rể Mơtao, Pơtao (3/24 truyện) có các

truyện như: Truyện chồn và nàng H’Lúi (Gia rai), “chồn trở thành chồng

cô gái con mơtao”, truyện Chàng lợn (Gia rai), “HBia xin cha cưới lợn

cho mình làm chồng”, truyện Chàng rắn (Gia rai), “H’bia Lúi thương

cha quá nên đồng ý lấy rắn làm chồng”.

Nhân vật trở thành con rể phú ông (4/24 truyện) có các truyện như:

Chàng tôm (Kinh), “chàng tôm và cô út yêu nhau và coi nhau như vợ

chồng. Sau đó, hai vợ chồng dắt nhau về nhà ông Cả ở”, truyện Chàng

hến (Kinh), “ông nhà giàu vì bất đắc dĩ phải gả cô út cho hến, từ đó ông

đăm ra ghét vợ chồng hến”, truyện Lấy chồng dê (Kinh), “dê bảo mẹ vào

hỏi con gái phú ông làng bên cho dê làm vợ”, truyện Cóc và Hơ Bia Phu

(Ba Na), “nàng là con Bót Ria giàu có nhất vùng”...

Nhân vật trở thành con rể quan (1/24 truyện), truyện Chàng dê

(Mèo), “quan hỏi đến cô gái út, cô gái út bằng lòng làm vợ dê”.

Nhân vật trở thành con rể chẩu mường (1/24 truyện) có truyện

Chàng chồn (Thái), “chàng trở về trong nỗi vui mừng vô hạn của dân

bản. Chàng và nàng Lả sống hạnh phúc bên nhau”.

Nhân vật trở thành con rể A – Nha (2/24 truyện) có các truyện

như: Chàng rể heo (Vân Kiều), “cóc nói tiếng người bảo mẹ đến nhà A

–Nha cưới vợ cho cóc”, truyện Chàng rể cóc (Vân Kiều) “con heo đực

bảo mẹ sang nhà A-Nha hỏi cưới con gái A-Nha về làm vợ”.

Nhân vật trở thành con rể Tạo mường (1/24 truyện) có truyện

Chàng rùa (Thái), “rùa bảo mẹ đem hai quả dưa già làm quà đến nhà

Tạo mường hỏi nàng Lả về làm vợ”.

Nhân vật trở thành con rể chúa làng, già làng (3/24 truyện) có các

truyện như: Mó nước ấm (Mường), “nàng út ở dưới thủy cung được

mười hai năm và sinh hai đứa con. Vua Thủy Tề cho hai vợ chồng về

trần gian sinh sống”, truyện Anh chàng cá chuối (Mường), “chàng chuối

về bảo mẹ đến nhà lang dạm hỏi nàng Hai cho chàng”, truyện Chuyện

chàng cóc (Tà Ôi), “cóc thầm thương con gái chúa làng và bảo bố mẹ

đến hỏi cưới con gái chúa làng cho cóc làm vợ”.

Như vậy, đa số các truyện được khảo sát thì nhân vật đội lốt vật

xấu xí khi cởi lốt kết hôn đều trở thành con rể của những người thuộc

tầng lớp trên của xã hội. Đó có lẽ là ước mơ đổi đời mà nhân dân muốn

gởi gắm vào nhân vật đội lốt xấu xí, chỉ khi nhân vật đội lốt trở thành

con rể của những người giàu có, quyền thế thì thân phận, địa vị của các

nhân vật đội lốt mới khẳng định và đề cao, đó cũng là lẽ công bằng

trong xã hội.

Ngoài ra, phần thưởng có lẽ xứng đáng nhất, cao quý nhất chính là

nhân vật trở thành Vua xuất hiện ở 4/24 truyện khảo sát, có các truyện

như: Cóc tiên (Kinh), “cóc bỏ lốt cũ trở thành một chàng trai khôi ngô

tuấn tú. Chàng được đức vua truyền cho ngôi báu”, truyện Hoàng tử rắn

và nàng hoa sen (Kinh), “nhà vua thấy thế liền cưới nàng hoa sen cho

con mình và nhường ngôi lại cho hoàng tử”, truyện Lấy vợ cóc

(Mường), “ Côi cùng vợ vua sống trong căn nhà sang trọng, có quan

văn, quan võ đứng chầu. Chàng Côi đang ngồi trong cung điện, tri vì

thiên hạ, nơi nơi sống yên lành”, truyện Phò mã cóc (Raglai), “cóc được

vua cha nhường ngôi, chàng lên làm vua Chăm sống hạnh phúc suốt đời

với hoàng hậu”. Chính những nhân vật này sẽ thay thế tầng lớp thống trị

cũ, cai trị đất nước theo hướng công bằng, dân chủ xem trọng tài năng,

đem lại công bằng, lẽ phải cho nhân dân, tạo nên cuộc sống ấm no, hạnh

phúc cho trăm họ.

Trong mô-típ cởi lốt và kết hôn đáng chú ý là vai trò của nhân vật

người con gái đẹp, những cô con gái út hiếu thảo. Cuộc hôn nhân sẽ

không thể tiến triển được nếu không có vai trò của những người con gái

đẹp, những cô gái út hiếu thảo này. Mặc dù không phải là nhân vật chính

nhưng các cô gái đã góp phần thúc đẩy cho cuộc hôn nhân đi tới một kết

quả tốt đẹp. Nhân vật đội lốt vật quái dị, xấu xí đa phần khi ngỏ lời cầu

hôn đều đòi lấy chính người con gái út về làm vợ. Thông thường thì

những ông bố lấy các cô chị ra trước để hỏi ý kiến, hoặc để thay thế cho

cô em. Các cô chị với thái độ coi thường con vật xấu xí, dị dạng đã từ

chối ngay, chỉ có những người con gái đẹp thường là cô gái út tự nguyện

nghe lời cha, mẹ hoặc để cứu cha, mẹ nhận lấy cuộc hôn nhân đó.

Bảng thống kê ý kiến người con gái đẹp

Cô gái đẹp

TT Tên truyện cổ tích Đồng ý Không đồng ý

1 Lấy chồng dê (Kinh) +

2 Chàng hến (Kinh) +

3 Hoàng tử rắn (Cao Lan) +

4 Chàng rùa (Xê Đăng) +

5 Chàng rể cóc (Vân Kiều), +

6 Chàng rắn (Gia rai), +

7 Anh chàng cá chuối (Mường), +

Qua bảng thống kê, các cô gái đẹp (cô gái út) trong 7/7 truyện

khảo sát đều đồng ý lấy nhân vật đội lốt làm chồng. Các truyện Lấy

chồng dê (Kinh), “đến cô gái thứa ba, cô khép nép cuối đầu thưa: cha

mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy”, truyện Chàng hến (Kinh), “cô út nhận lời

lấy hến”, truyện Hoàng tử rắn (Cao Lan), “chỉ có cô út vì cứu cha nên

chấp nhận làm vợ rắn”, truyện Chàng rùa (Xê Đăng), “cô em út đồng ý

lấy rùa”, truyện Chàng rể cóc (Vân Kiều), “người con gái út nhặt tiếp,

cả bạc xoay tròn và chạy vào giỏ cô gái út. Cô con gái út được cóc cưới

về làm vợ”, truyện Chàng rắn (Gia rai), “H’bia Lúi thương cha quá nên

đồng ý lấy rắn làm chồng”, truyện Anh chàng cá chuối (Mường), “chàng

chuối về bảo mẹ đến nhà lang dạm hỏi nàng Hai cho chàng. Nàng Hai

đồng ý”. Như vậy, người con gái út là hình ảnh mang đầy tính chất lý

tưởng và ước mơ. Sự ngây thơ, trong sáng, tình cảm bất chấp sự cách

biệt về hoàn cảnh, đẳng cấp, địa vị, hình thức của nhân vật đội lốt xấu xí

thể hiện khát vọng về hạnh phúc, tình yêu không vị kỷ, không tính toán

ở cô. Đồng thời việc cô tự nguyện lấy những anh chàng đội lốt xấu xí

làm chồng, xét về mặt tư tưởng – xã hội thì đó là những hành vi có ý

nghĩa dân chủ, tiến bộ, sự công bằng, sự bênh vực của nhân dân lao

động đối với những con người thấp hèn, xấu xí, dị dạng, mong muốn

cho họ có một cuộc sống lứa đôi hạnh phúc, xứng đáng và tốt đẹp vĩnh

hằng.

Trong mô-típ cởi lốt và kết hôn, vai trò của nhân vật người con trai

(anh học trò, anh nông dân, mồ côi) có vợ đội lốt vật cũng đáng được đề

cao. Họ là những con người hiền lành chất phác, chăm chỉ, sống có lý

tưởng. Cũng như người con gái út, việc các anh con trai đồng ý lấy nhân

vật đội lốt xấu xí làm vợ thể hiện nét tính cách rất đáng quý ở họ, tình

cảm bất chấp sự cách biệt về hoàn cảnh, đẳng cấp, địa vị, hình thức bề

ngoài của đối tượng kết hôn. Mặc dù không phải là nhân vật chính

nhưng các chàng trai đã góp phần thúc đẩy cho cuộc hôn nhân nhanh

chóng đi tới một kết quả tốt đẹp.

Nhân vật anh con trai có thể là :

Chàng nho sĩ nghèo (2/11 truyện), truyện Ông trạng lấy rùa (Kinh)

“Giáp Hải là một nho sĩ nghèo rất ham học. Ngày nọ, ông qua đò gặp

lúc hai vợ chồng người chèo đò muốn làm thịt con rùa. Giáp Hải mua lại

con rùa đem về nhà nuôi chứ không ăn thịt”, truyện Người lấy cóc

(Kinh) “ở gần làng có anh học trò nghèo, bố mẹ chết sớm. Anh học trò

quyết định cưới cóc làm vợ”.

Anh nông dân có hoàn cảnh đáng thương, nghèo khổ nhưng hiền

lành, chăm chỉ, xứng đáng có được vợ đẹp, con xinh có cuộc sống giàu

sang hạnh phúc.

Chàng trai mồ côi, nghèo (9/11 truyện), đặc trưng nội dung của

truyện cổ tích thần kỳ thường hướng về những con người thuộc tầng lớp

dưới của xã hội, những con người mồ côi, bất hạnh, nghèo khổ, nhưng

lương thiện và giàu lòng nhân ái, họ phải chịu nhiều mất mát cả về vật

chất lẫn tinh thần. Họ ước mơ có một sức mạnh siêu nhiên nào đó để

hóa giải cuộc đời họ, mang lại cuộc sống tốt đẹp bình yên cho bản thân,

mang lại lẽ phải sự công bằng cho xã hội. Các chàng trai mồ côi, nghèo

là đối tượng được đề cập đến nhiều hơn trong truyện cổ tích thần kỳ. Vì

vậy, hình ảnh chàng trai mồ côi xuất hiện với tần số cao trong truyện cổ

tích về kiểu truyện người lấy vật là đều tất nhiên. Có các truyện như:

Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá (Kinh), “có một chàng trai mồ côi

cả cha lẫn mẹ”, truyện Nàng tiên ốc (Kinh), “có người con trai, cha mẹ

chết sớm, sống một mình trong túp lều ven núi”, truyện Nàng cá măng

(Thái), “anh chàng mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, anh phải sống vất vả

quanh năm suốt tháng”, truyện Chuyện con cầy bay (Thái), “cậu bé

người Thái, mồ côi cha mẹ từ nhỏ”, truyện Lấy vợ cóc (Mường), “ở nhà

nọ có hai mẹ con Côi nghèo lắm”, truyện Nàng bò tót (Vân Kiều), “hai

bà cháu anh mồ côi”, truyện Nàng tiên cá (Xê Đăng), “chàng đánh cá

làm một túp lều nhỏ bé ở ngay cạnh một cái hồ lớn. Anh rất nghèo, hàng

ngày phải vác lưới đi kiếm cá ăn”, truyện Con cum (Mường), “ba chàng

trai nghèo cùng nhau đi làm thuê”…

Các chàng trai mồ côi, nghèo đại diện cho những người thuộc tầng

lớp dưới của xã hội lúc bấy giờ, họ đa phần có cuộc sống nghèo khổ,

thiếu thốn về vật chất lẫn tinh thần, họ luôn hy vọng một sự đổi đời ở

ngày mai. Kết thúc của truyện cổ tích nói chung và kiểu truyện người

lấy vật nói riêng thường nhân vật xấu xí, bất hạnh, mồ côi nhưng hiền

lành chăm chỉ sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng, đó là cách kết thúc

có hậu mà chúng ta thường thấy trong truyện cổ tích Việt Nam.

Kết thúc có hậu là kiểu kết thúc thường thấy ở Việt Nam, trong quá

trình tìm hiểu về truyện cổ tích của các nước trên thế giới, chúng tôi thấy

cách kết thúc của kiểu truyện người lấy vật ở một số nước trên thế giới

thường là không có hậu như truyện Chàng kỵ mã (Mông cổ) có kết thúc:

Thần hứa cho chàng nhái sống lại nhưng bắt nàng phải đem ba điều đó

thông báo từng nhà cho mọi người biết trước khi trời sáng mới được.

Việc báo tin này, vợ nhái không làm tròn vì bị bố nàng cản trở. Thế là

chàng nhái chết, vợ nhái cũng biến thành đống đá trước mộ. Truyện Con

sói trắng (Pháp) có kết thúc: đêm sói hóa thành ông chúa đẹp, sáng trở

lại thành sói. Vài ngày sau người cha về. Ai hỏi, ông cũng không nói,

nhưng sau không thể giấu được nữa, nói toặc tất cả. Bỗng nghe một

tiếng rú rùng rợn: một con sói trắng ngã lăn ra dưới chân… Với cách kết

thúc này, nhân vật đội lốt thường nhận lấy cái chết khi chưa hết hạn bị

trừng phạt vì tội lỗi trước đó của nhân vật. Một cách kết thúc không có

hậu của đa số truyện người lấy vật ở các nước trên thế giới.

Mô-típ cởi lốt và kết hôn là mô-típ làm tăng thêm tính chất lý

tưởng, lãng mạn cho hình tượng nhân vật đội lốt vật xấu xí. Điều đó phù

hợp với đặc trưng nhân vật của thể loại truyện cổ tích thần kỳ. Nhân vật

xấu xí, dị dạng, bất hạnh không may sẽ được trở nên xinh đẹp, có cuộc

sống giàu sang hạnh phúc vẹn toàn.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau:

(sau khi lập nên những chiến công, kỳ tích thần kỳ, nhân vật...)

Tài năng thần kỳ

Rủ vợ/chồng đi tắm, cởi lốt. Người vợ/chồng giấu, xé, đốt, đập

lốt...

Cởi lốt thành chàng trai khôi ngô, cô gái xinh đẹp, nết na…

Nhân vật cởi lốt kết hôn

(sống giàu sang, hạnh phúc)

2.2.6. Mô-típ người em út bị hại

Về mô-típ người em út bị hại có tất cả là 7 truyện, chiếm tỉ lệ

12.5% trên tổng số 56 truyện khảo sát. Các truyện của kiểu truyện người

lấy vật thì nhân vật là người em gái út trong gia đình có đông chị em gái,

thường xuất hiện chi tiết sau khi người em gái út kết hôn với nhân vật

đội lốt, người chị thường hối tiếc và ganh tị với hạnh phúc của em. Họ là

những kẻ trước đây đã chê bai, dè bỉu, chế nhiễu và đối xử bất công với

nhân vật đội lốt vật xấu xí, dị hình dị dạng. Nay do ghen tức với hạnh

phúc của cô em mà họ chẳng kể gì đến tình chị em, rắp tâm bằng mọi

cách hãm hại em gái để âm mưu cướp đoạt chồng của em mình. Có các

truyện như Lấy chồng dê (Kinh), Chàng hến (Kinh), Hoàng tử rắn (Cao

Lan), Chàng rùa (Xê Đăng), Chàng rể cóc (Vân Kiều), Chàng rắn (Gia

rai), Anh chàng cá chuối (Mường).

Bảng thống kê về hình thức người em út bị hại

TT Tên truyện cổ tích Hình thức người em út bị hại

1 Lấy chồng dê (Kinh) Đi trẩy hội, bị đẩy xuống biển.

2 Chàng hến (Kinh) Chị tìm cách hãm hại em nhưng không thành.

3 Hoàng tử rắn (Cao Lan) Hái cau, bị chặt cây.

4 Chàng rùa (Xê Đăng) Đi chơi đu, bị chặt dây đu, vứt xác xuống sông.

5 Chàng rể cóc (Vân Kiều) Bị lừa lên rẫy, bị cướp chồng.

6 Chàng rắn (Gia rai) Đi hái chanh, bị đẩy xuống nước.

7 Anh chàng cá chuối (Mường) Đi gội đầu, bị đẩy chiếc mảng trôi đi.

Truyện Chàng rắn (Gia rai), cô chị đã hãm hại em gái mình vì tiếc

và ghen tức khi thấy em lấy được chồng đẹp, “H’Bia Ngo muốn cướp

chồng em, bèn rủ H’Bia Lúi sang sông hái chanh. Hai chị em mang dao

và muối đi. Hái được chanh, hai người ngồi trên bờ suối ăn. Lừa lúc em

vô ý, Ngo đẩy Lúi xuống nước”.

Trong truyện Chàng rùa (Xê Đăng), các cô chị vẫn khinh bỉ chồng

cô út là rùa nhưng khi thấy rùa hóa thành chàng trai đẹp, lại thắng trong

các cuộc thử tài do ông bố đặt ra thì tất cả các cô chị và các anh rể đều

hết sức tức tối và sinh lòng ghen ghét. Trong khi rùa đi vắng, các chị đã

bày mưu giết em. “mấy chị em rủ nhau đi lấy củi, cô út trả lời củi của cô

đang còn, mấy chị rủ em đi chơi đu, cô út thích quá nên đã nhận lời. Họ

đã chặt dây đu làm cô út ngã chết tươi, rồi vứt xác cô xuống sông”.

Hay truyện Lấy chồng dê (Kinh), khi chàng dê ra đi, “hai chị đến rủ

em đi trẩy hội, cả ba xuống thuyền thừa lúc em vô ý bất thần hai chị đẩy

em xuống biển”. Truyện Chàng hến (Kinh), hai cô chị ghen tức vì em

lấy được chồng đẹp nên “họ tìm cách hãm hại cô em út để cướp chồng

nhưng không thành”, truyện Hoàng tử rắn (Cao Lan), khi cha đã chết,

“cô chị cả độc ác hại chết nàng út và thay nàng xuống thủy cung sống

cùng hoàng tử”. Truyện Anh chàng cá chuối (Mường), “Ả đến nhà nàng

rủ em đi gội đầu ở bến bãi, chải chấy ở bờ sông, nàng Ả đẩy chiếc mảng

trôi đi”…

Với tính cách xảo quyệt và gian ác, những người chị gái có âm

mưu muốn giết em, cướp chồng em, đều được các tác giả dân gian kể lại

trong cốt truyện một cách chi tiết. Ở mỗi dân tộc, tuy cách kể có thể

khác nhau nhưng tất cả đều tập trung thể hiện tính cách ích kỷ, tính toán

và tham lam của các cô chị. Những người chị gái đã từ chỗ đùn đẩy cho

em việc phải lấy những con vật xấu xí làm chồng đến chỗ tính toán để

đang tâm giết chết em mình. Sự tham lam của họ ngày càng trở nên ghê

gớm hơn và đã biến thành tội ác dã man. Mọi tình tiết, mọi bước phát

triển của cốt truyện như trên đã tạo nên sự đối lập hoàn toàn và liên tục

giữa tính cách các người chị và cô gái út, tạo ra hai hình ảnh tương phản

nhau rõ rệt: cô em đáng yêu, tốt bụng bao nhiêu thì những người chị

Với những người chị gái độc ác, theo luân lý thông thường của dân

đáng ghét, độc ác và ngu ngốc bấy nhiêu.

gian “ác giả ác báo” họ sẽ phải bị trừng phạt, ở đây họ lại được tha thứ

do lòng độ lượng, ngây thơ và vô tư của cô út. Song, nếu như cô út

không ra tay trừng phạt thì lực lượng siêu nhiên luôn giám sát mọi hành

vi của con người, đã thay người trừng phạt những kẻ độc ác xấu xa ấy.

Thiên nhiên trừng phạt những người chị độc ác, những con người

xấu xa luôn muốn hãm hại người khác, độc ác hơn là hãm hại chính

người thân yêu của mình: truyện Lấy chồng dê (Kinh), “hai chị vừa thẹn

vừa sợ, len lén bước ra khỏi cổng, đi được một quảng chúng bị thần sét

đánh chết”, truyện Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá (Kinh), “tên nhà

giàu độc ác bị sét đánh chết, xác hắn bị gió cuốn tung ra biển khơi làm

mồi cho bầy thủy quái”.

Người trừng phạt những người chị độc ác, ở truyện Chàng rùa (Xê

Đăng) thì miêu tả: chàng rùa nhất quyết trả thù cô chị độc ác đã hại chết

vợ mình, “chàng đưa cho con một nắm kim châm và bảo đứa con khi

các cô chị đưa mắt vào gùi thì dùng kim đâm thủng mắt. Người thì thành

gà, chó, heo giữ nhà cho vợ chồng rùa”

Ngoài ra, ở truyện Hoàng tử rắn (Cao Lan), người em với tấm lòng

nhân ái, độ lượng, vị tha không trừng phạt mà còn tha tội cho các cô chị:

“tuy biết người chị cả hại mình, nhưng nàng út thương tình chị em, tha

cho người chị cả”.

Bên cạnh đó, có trường hợp các cô chị tự chuốt lấy cái chết sau khi

hãm hại em mình như truyện: Chàng hến (Kinh) kể rằng, “hai cô chị ra

bìa rừng mua hai con khỉ về làm chồng. Khỉ phá phách lung tung, hai cô

chị xấu hổ nhảy xuống sông tự vẫn”, truyện Chàng rắn (Gia rai), “đêm

ấy, rắn tỉnh rượu nuốt luôn H’bia Ngo và bò xuống sông mất tích”. Kết

thúc truyện, người chị (hoặc anh) có chết thì thường không bao giờ do

chính tay người em (hoặc người đội lốt) trả thù. Những người em (hoặc

người đội lốt) dù có bị chị (hoặc anh) hành hạ, bạc đãi, đối xử tồi tệ đến

đâu chăng nữa cũng bỏ qua tất cả, thậm chí còn sẵn sàng cứu giúp họ

khi có dịp. Đó là đặc trưng nhân bản phương Đông - con người sống

giàu tình thương yêu, sống hòa thuận, đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau, có tấm

lòng nhân hậu, thuần phác, bao dung.

Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy có sự khác biệt giữa

mâu thuẫn trong gia đình ở truyện của Việt Nam là chị em gái, mẹ và

con gái nhưng mâu thuẫn này lại xuất hiện ở anh em trai, cha và con trai

ở các nước trên thế giới. Ở Việt Nam có các truyện như: Chàng cóc (Kơ

Dong) kể rằng: một gia đình có chín người con gái sàn sàn như nhau,

đều rất đẹp. Có cô gái gọi là Di Dật (cô thứ ba) là xinh đẹp nhất, các chị

em Di Dật định quật chết con cóc, sợ nó sẽ gây tai họa về sau. Truyện

Chàng rắn (Gia rai) thì kể: Mtao có hai người con gái H’bia Ngo và

H’bia Lúi. H’bia Ngo ghen tức với em. Ngo đẩy Lúi xuống nước. Ngo

tưởng Lúi đã chết nên đón tiếp rắn hết sức vồn vã, rồi ngỏ ý muốn lấy

rắn thay em. Truyện Lấy chồng trăn (Vân Kiều) kể rằng: một bà mẹ có

mười một đứa con gái. Các cô chị đều từ chối lấy trăn. Người chị cả

ghen tỵ với hạnh phúc của em… Ở nhiều nước có các truyện như Công

chúa ếch (Nga) miêu tả: một ông vua có ba hoàng tử, lúc họ đến tuổi lấy

vợ cũng có cuộc bói vợ bằng cách bắn mỗi người một phát tên, hễ cô

nào nhặt được tên của ai thì sẽ là vợ người ấy. Truyện Con nhái (Pháp)

thì kể rằng: một người đàn bà đang muốn tìm vợ cho hai con trai...

người chú ra một cuộc thi vui nhộn. Truyện Nàng nhái (Miến Điện) kể

rằng: hoàng tử tung hoa huệ lên trời, không ngờ hoa rơi trúng đầu nhái.

Hoàng tử đành kết hôn với nhái... Vua cha muốn truyền ngôi cho con,

mở một cuộc thi tìm bắt nai vàng. Các hoàng tử khác chỉ tìm được

những con nai thường, chỉ có chồng nhái nhờ có nhái, tìm được nai

vàng. Vua cha lại mở cuộc thi đem đến thức ăn sống nhưng sau buổi lễ,

gạo phải không móc, thịt không ôi. Các hoàng tử đem gạo thịt nấu sẵn,

chỉ có nhái đưa gạo thịt sống đến, trải qua mấy ngày mà vẫn tươi. Lần

thứ ba, vua thi vợ đẹp... Có thể, đây là nét riêng về phong tục, tập quán

về quyền thừa kế tài sản của các dân tộc phương Tây.

Kết thúc của kiểu truyện người lấy vật nhân vật người em út được

hưởng hạnh phúc, giàu sang còn những người chị độc ác, xấu xa sẽ bị

trừng phạt đích đáng cho những hành động độc ác của mình. Cách kết

thúc này phù hợp với cách kết thúc đặc trưng của truyện cổ tích thần kỳ,

người tốt được hưởng hạnh phúc, kẻ xấu thì đền tội.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau:

Nhân vật kết hôn sống hạnh phúc

Người chị ghen ghét hãm hại em

(rủ em đi trẩy hội, đi hái cau, đi hái chanh, đi gội đầu…)

Người em út bị hại

(bị đẩy xuống sông, bị chặt cây cau, bị đẩy chiếc mảng trôi đi,…)

2.2.7. Mô-típ vật phù trợ

Mô-típ vật phù trợ xuất hiện trong 4 truyện, chiếm 7.1% trên tổng

số 56 truyện khảo sát, đây là mô-típ có tần số xuất hiện ít nhất. Trong

công trình nghiên cứu nổi tiếng Hình thái học truyện cổ tích [61] V. Ia.

Prop đã chỉ ra rằng sự ra đi, sự từ giã gia đình của nhân vật chính đã làm

thành một điểm nút đáng chú ý của truyện cổ tích, sau hành động ra đi là

một quá trình hành động phát triển. Những sự ra đi của các nhân vật

cũng khác nhau, và theo khảo sát của Tăng Kim Ngân thì “sự ra đi này

xuất hiện 38 lần trong 33 truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam” [38, tr.99].

Con số này cho thấy rằng đây là một tình tiết khá phổ biến về sự ra đi

của nhân vật không chỉ xuất hiện trong truyện cổ tích thần kỳ thế giới

mà còn chiếm một số lượng đáng kể trong truyện cổ tích thần kỳ của

Việt Nam.

Mô-típ về vật phù trợ không có gì là xa lạ trong cốt truyện của

truyện cổ tích thần kỳ nói chung. Thông thường những vật trợ giúp cho

nhân vật trong truyện cổ tích đều mang tính chất thần kỳ, có phép màu

giúp cho nhân vật vượt qua những khó khăn được dễ dàng hơn hoặc sẽ

lập được chiến công kỳ diệu, hay làm được những việc phi thường mà

những người bình thường không làm được. Bên cạnh đó, nhân vật chính

thường ra đi với mục đích tìm kế sinh nhai, đi buôn bán, đi sứ và đi học

xa… Nhờ có khả năng dự báo, đoán biết sự việc, nhân vật đã trao cho vợ

những vật phù trợ trước khi ra đi và dặn vợ lúc nào cũng mang theo bên

mình. Có các truyện Lấy chồng dê (Kinh), Chàng rắn (Gia rai), Chàng

rùa (Xê Đăng), Anh chàng cá chuối (Mường).

Bảng thống kê về vật phù trợ

Vật phù trợ

TT Tên truyện cổ tích Con Quả Hòn Quả Ống

dao trứng dừa muối đá

1 Lấy chồng dê (Kinh) + +

2 Chàng rắn (Gia rai) + +

3 Chàng rùa (Xê Đăng) + + +

4 Anh chàng cá chuối (Mường) + +

4 2 Tổng 1 1 1

Về vật phù trợ ở truyện Lấy chồng dê (Kinh) kể rằng chàng dê định

đi xa, một hôm chồng trao vợ một con dao, một hòn đá lửa, dặn rằng:

“tôi có một số công việc phải vượt muôn trùng sóng nước, chưa hẹn

được ngày về, cũng không thể đem nàng đi theo được. Nàng ở nhà nhớ

đừng đi đâu xa. Hai vật hộ thân này hãy luôn luôn mang bên người đừng

quên, có khi dùng được việc”. Truyện Chàng rắn (Gia rai) thì nói rõ khi

nàng Lúi vợ rắn có mang, rắn bèn dặn vợ: “tôi phải đi sang Lào buôn

một chuyến. Ở nhà, em nên giữ gìn cẩn thận, chờ tôi về”. Truyện Chàng

rùa (Xê Đăng) cũng vậy, khi “chàng rùa sang Lào buôn bán, vợ có

mang, khi đi chàng kiếm đủ mọi thứ vợ cần, rùa đưa cho vợ một quả

trứng gà, một trái dừa, một con dao và dặn lúc nào cũng để bên mình”.

Truyện Anh chàng cá chuối (Mường), chàng chuối bảo rằng: “ta là con

trời sắp đến hạn lên chầu, nàng đi đâu cũng phải dắt con dao và quả

trứng trong người nhé”.

Vật phù trợ ở cốt truyện của kiểu truyện người lấy vật mang một

tính chất hoàn toàn khác, đa phần là những vật mang tính chất thuần túy

vật chất, là những vật dụng hết sức bình thường không mang tính chất

thần kỳ, không phải là những phương tiện thần kỳ. Nó là tín vật của

người chồng trước khi đi xa và được cô gái luôn mang bên mình theo lời

chồng dặn. Nhưng bất ngờ những tín vật này đã trở thành vật phù trợ

cho các cô gái khi các cô gặp nạn như: truyện Lấy chồng dê (Kinh), khi

cô em bị hai người chị độc ác đẩy xuống biển “con cá kình lao tới đốp

ngay vào bụng… Nàng đâm chém dữ dội, cá kình chết, xác cá dạt vào

một hòn đảo hoang, vợ dê rạch bụng cá chui ra ngoài. Nàng dựng lều,

đốt củi lên sưởi, và xẻo thịt cá kình nướng ăn…Một hôm, vợ dê nhìn ra

xa thấy có bóng một cánh buồm trắng, nàng ra hiệu cầu cứu và vợ chồng

dê gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi”.

Truyện Chàng rắn (Gia rai), khi Ngo đẩy Lúi xuống nước, tay Lúi

vẫn còn cầm dao và ống muối, “H’bia Lúi bị con cá to nuốt vào bụng. Ở

trong bụng cá, Lúi sinh được một đứa con trai, đứa trẻ biết đi, biết nói.

Hỏi mẹ và lấy dao rạch bụng cá, xát muối vào làm cá chết, trôi vào bờ.

Hai mẹ con H’Lúi vào rừng dựng liều sống tạm qua ngày. Chàng rắn trở

về mang theo rất nhiều của cải, trâu bò và người hầu hạ. Qua khu rừng,

nghe tiếng gà gáy, chàng ghé vào túp liều nghỉ tạm thì gặp vợ con

mình”.

Truyện Chàng rùa (Xê Đăng), cô em ngã xuống sông chết, “cá

nuốt xác vào bụng, cô em sống lại, sinh con trong bụng cá, mổ bụng cá

chui ra, vùi trứng gà vào cát, gà nở thành con, dừa mọc chồi, lớn nhanh

như thổi, gà gáy chàng rùa trở về, hai vợ chồng gặp nhau”…

Truyện Anh chàng cá chuối (Mường) trước khi đi “nàng Hai vội

dắt dao, bỏ trứng vào cạp váy đi theo chị. Nàng Ả đẩy chiếc mảng trôi

đi... Nàng Hai lấy dao dựng lều và đào củ rừng ăn. Quả trứng nàng vùi

dưới cát nóng nở ra được con gà trống. Hết hạn chầu trời, trên đường trở

về chàng chuối ghé vào lều nghỉ tạm, hai vợ chồng vui mừng gặp lại

nhau”…

Những vật phù trợ ở đây chỉ đơn thuần là những vật bình thường,

chúng hoàn toàn mang nội dung và ý nghĩa hiện thực không phải là

những vật phù phép siêu nhiên kỳ ảo, nhưng chính nhờ sự thông minh,

nhanh nhại của cô gái đẹp đã tạo ra những cách nhìn nhận khác về

chúng. Chúng là những vật cứu tinh, đã giúp cho người vợ của nhân vật

thoát khỏi tai họa, và đóng vai trò khá quan trọng. Con dao giúp người

vợ rạch được bụng cá, viên đá đánh lửa giúp người vợ sống và sưởi ấm,

quả trứng nở thành con gà để giúp cô gái tìm lại được chồng… Sự phát

triển của những tình tiết đó đã tạo cho câu chuyện đang trên đường đi tới

sự ảm đạm, tối tăm và bế tắc bỗng sáng bừng lên và phát triển mau lẹ,

chuyển bại thành thắng. Sự xuất hiện của mô-típ vật phù trợ đã góp phần

đưa tác phẩm đi đến kết thúc một cách có hậu rất tự nhiên, hợp lý và

chặt chẽ.

Có thể mô hình hóa mô-típ này như sau:

Người em út bị hại

(các cô chị gái luôn tìm cách hãm hại em mình)

Bị đẩy xuống sông, Bị chặt cây ngã chết,

Chị đẩy chiếc mảng trôi đi,… Bị cá nuốt vào bụng,

chết…

Vật phù trợ

(con dao, ống muối, trứng gà, hòn đá lửa, trái dừa…)

(người em được cứu sống, đoàn viên, sống hạnh phúc…)

Tiểu kết: Kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích Việt Nam

được hợp thành bởi hệ thống những mô-típ tồn tại trong các truyện. Hệ

thống các mô-típ ấy xuất hiện khá phổ biến trong nhiều kiểu truyện khác

cùng tính chất, phân tích hệ thống các mô-típ sẽ làm nổi rõ hơn những

đặc trưng của nhân vật đội lốt vật.

Nhìn chung, nhân vật ra đời thần kỳ được thể hiện dưới nhiều

hình thức khác nhau trong truyện cổ tích các dân tộc. Nó không đơn

thuần là sự lạ hóa về sự ra đời của nhân vật mà có những cơ sở sâu xa

hơn là nó phản ánh đời sống văn hóa tinh thần của các dân tộc, phản ánh

những tín ngưỡng văn hóa tồn tại sâu đậm trong xã hội nguyên thủy.

Nhân dân muốn lý tưởng hóa nhân vật đội lốt xấu xí có nguồn gốc cao

quý của những vị thần linh hay những hiện tượng kỳ lạ, khác thường

trong xã hội. Nhân vật đội lốt vượt qua thử thách khắc nghiệt bằng chính

tài năng, lập nên những chiến công thần kỳ, đa phần đều nhờ vào nguồn

gốc xuất thân không bình thường ban đầu. Nhân vật đội lốt vật xấu xí

cởi lốt kết hôn là việc làm phù hợp với tâm tư, nguyện vọng của đại đa

số người dân lao động nghèo khổ. Họ mong muốn nhân vật đội lốt vật

xấu xí của mình sẽ có một kết cục tốt đẹp, trở thành những người xinh

đẹp, tài giỏi hơn người và xứng đáng được nhận những phần thưởng cao

quý giành cho mình. Nhân vật đội lốt đã thực thi lẽ công bằng trong xã

hội, trừng trị những kẻ gian ác, mang lại cuộc sống tốt đẹp cho bản thân

và cho cả cộng đồng dân tộc. Việc tìm hiểu hệ thống các mô-típ trong

kiểu truyện người lấy vật cũng góp phần khẳng định đặc trưng của kiểu

truyện, sự tiếp biến văn hóa, xã hội giữa các tộc người trong giai đoạn

chế độ mẫu hệ tan rã và chế độ phụ hệ lên cầm quyền. Sự chuyển biến

mạnh mẽ này kéo theo sự biến đổi về cơ chế xã hội, văn hóa, con người,

là nhân tố ảnh hưởng khá lớn đến việc hình thành kiểu truyện người lấy

vật trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam.

Chương 3: KẾT CẤU VÀ Ý NGHĨA CỦA KIỂU TRUYỆN

NGƯỜI LẤY VẬT

3.1. Các kiểu kết hợp mô-típ để tạo thành cốt truyện cụ thể

Trong chương hai chúng tôi đã khảo sát bảy mô-típ có tham gia

vào xây dựng cốt truyện của kiểu truyện người lấy vật. Các mô-típ này

đã được chúng tôi phân tích một cách chi tiết về số lượng, tần số xuất

hiện, vai trò của nó trong kết cấu của cốt truyện cổ tích thần kỳ nói

chung và kiểu truyện người lấy vật nói riêng. Trong quá trình khảo sát

các mô-típ, chúng tôi nhận thấy các mô-típ có vai trò và tác dụng rất to

lớn trong việc xây dựng cốt truyện, các mô-típ có vai trò dẫn dắt, tạo ra

những tình tiết hấp dẫn, bất ngờ cho người đọc và nghe. Vì thế, việc kết

hợp các mô-típ lại với nhau tạo nên một cốt truyện cụ thể, hoàn chỉnh

trong kiểu truyện người lấy vật, là một công việc cần thiết, để có cái

(M1) Sự ra đời thần kỳ

nhìn toàn diện hơn về một kiểu truyện cụ thể.

(M2) Người đội lốt vật

(M4) Tài năng thần kỳ

(M3) Thách đố

Bảy mô-típ

(M5) Cởi lốt và kết hôn

(M7) Vật phù trợ

(M6) Người em út bị hại

Dựa vào bảng khảo sát các mô-típ trong kiểu truyện người lấy vật,

chúng tôi khái quát lại thành sáu kiểu cốt truyện có chứa các mô-típ như

sau:

Bảng thống kê các kiểu cốt truyện chứa mô-típ

TT Kiểu cốt truyện chứa các mô-típ Số lượng Tỉ lệ (%)

1 Kiểu cốt truyện có hai mô-típ 11/56 19.6

2 Kiểu cốt truyện có ba mô-típ 12/56 21.4

3 Kiểu cốt truyện có bốn mô-típ 18/56 32.1

4 Kiểu cốt truyện có năm mô-típ 9/56 16.1

5 Kiểu cốt truyện có sáu mô-típ 4/56 7.2

6 Kiểu cốt truyện có bảy mô-típ 2/56 3.6

Tổng 56 100.0

Qua bảng thống kê, về các kiểu cốt truyện có chứa các mô-típ,

chúng tôi tiến hành phân tích, khái quát, và đi đến kết hợp các mô-típ lại

với nhau tạo nên cốt truyện hoàn chỉnh trong kiểu truyện người lấy vật.

Nhân vật chính của cốt truyện gồm “người” và “vật”, nhân vật là “vật”

sau khi vượt qua những thử thách sẽ phải cởi lốt vật xấu xí ấy để kết hôn

với “người”. Sau mô-típ cởi lốt kết hôn của các nhân vật, cốt truyện còn

xuất hiện một số mô-típ khác như: người em út bị hại, vật phù trợ… tất

cả các mô-típ đều xâu chuỗi vào cốt truyện làm cho cốt truyện thêm ly

kỳ, hấp dẫn hơn.

Như vậy, quá trình diễn tiến của quan hệ giữa các nhân vật và sự

xâu chuỗi các mô-típ lại với nhau, tạo nên cốt truyện với sự kết hợp các

mô-típ theo nhiều kiểu khác nhau, sẽ được chúng tôi trình bày trong

phần sơ đồ kết cấu cốt truyện của kiểu truyện người lấy vật.

Có các kiểu kết hợp các mô-típ như sau:

3.1.1. Kiểu cốt truyện có hai mô-típ

Ở kiểu thứ nhất này, cốt truyện được kết hợp bởi hai mô-típ:

người đội lốt (M2) và cởi lốt kết hôn (M5). Trong 56 truyện mà chúng

tôi khảo sát có 11 truyện thuộc kiểu này, chiếm tỉ lệ 19.6% nằm rải rác ở

các dân tộc. Có các truyện như: Ông trạng lấy rùa (Kinh), Nàng tiên cua

và anh chàng đánh cá (Kinh), Nàng tiên ốc (Kinh), Nàng cá măng

(Thái), Chuyện con cầy bay (Thái), Trăn thần (Chàm), Nàng tiên cá (Xê

Đăng), Nàng bò tót (Vân Kiều), Hrit và cô gái trong lốt da bò (Gia rai),

Mó nước ấm (Mường), Chàng trăn (Churu). Ở kiểu thứ nhất này cốt

truyện có kết cấu tương đối đơn giản, nhân vật đội lốt vật có thể là thần,

tiên hay những chàng trai, cô gái xinh đẹp mượn lốt vật để giúp đỡ

những người nghèo khổ, không may, trừng trị những kẻ gian ác mang lại

công bằng cho nhân vật, cho xã hội. Một điều trùng hợp khá ngẫu nhiên

là, trong mười một truyện kể trên, nhân vật là những người con của các

vị thần hay những nàng tiên xinh đẹp đội lốt xuống trần kết duyên cùng

các chàng trai, cô gái nghèo, mồ côi nhưng chăm chỉ hiền lành. Cuộc

hôn nhân như là phần thưởng xứng đáng giành cho nhân vật bất hạnh

không may.

Sơ đồ

Nhân vật đội lốt vật

(người đội lốt cá, lốt cua, lốt rùa, lốt ốc,…)

Gặp các chàng trai, cô gái nghèo, mồ côi…

Nhân vật cảm mến nhau, yêu thương nhau…

Cởi lốt vật kết hôn

(“vật” cởi lốt bị giấu, đập, phá lốt cá, cua, rùa,…)

(kết hôn cùng chàng trai, cô gái, có cuộc sống hạnh phúc)

3.1.2. Kiểu cốt truyện có ba mô-típ

Ở kiểu thứ hai này cốt truyện được kết hợp bởi ba mô-típ, qua 56

truyện được khảo sát, chúng tôi tìm thấy có 12 truyện thuộc kiểu thứ hai

chiếm tỉ lệ 21.4% nằm rải rác ở các dân tộc. Có các truyện như: Cóc tiên

(Kinh), Hoàng tử rắn và nàng hoa sen (Kinh), Con chuột lông đỏ (Tày),

Con nai thần (Cơ ho), Cô gái lấy chồng trăn (Xê Đăng), Nàng út lấy

chồng tôm (Churu), Chàng khỉ và nàng Ma Phun (Churu), Lấy chồng

trăn (Vân Kiều), Truyện chồn và nàng Hơ Lúi (Gia rai), H’Lúi lấy

chồng chồn (Gia rai), Lấy chồng rắn (Raglai), Chồng cóc (Ê Đê). Trong

12 truyện thuộc kiểu thứ hai này, chúng tôi thấy có hai trường hợp kết

hợp các mô-típ như sau:

11 truyện có kết hợp ba mô-típ: người đội lốt vật, tài năng thần kỳ,

cởi lốt kết hôn (M2+M4+M5), đó là những truyện Cóc tiên (Kinh), Con

chuột lông đỏ (Tày), Con nai thần (Cơ ho), Cô gái lấy chồng trăn (Xê

Đăng), Nàng út lấy chồng tôm (Churu), Chàng khỉ và nàng Ma Phun

(Churu), Lấy chồng trăn (Vân Kiều), Truyện chồn và nàng Hơ Lúi (Gia

rai), H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai), Lấy chồng rắn (Raglai), Chồng cóc

(Ê Đê).

Sơ đồ Người đội lốt vật

(người đội lốt rắn, lốt chồn, lốt khỉ, lốt cóc, lốt chuột,…)

Tài năng thần kỳ

(“vật” hóa phép thành tòa lâu đài nguy nga,…)

(tiếng hát làm say mê lòng người,…)

Cởi lốt vật kết hôn

(“vật” cởi lốt rắn, chồn, nai, khỉ, chuột, trăn, cóc,…)

(giấu, đập, đốt, xé, phá lốt… , sống hạnh phúc.)

1 truyện có kết hợp ba mô-típ khác như: sự ra đời thần kỳ, người

đội lốt vật, cởi lốt kết hôn ( M1+M2+M5) có truyện Hoàng tử rắn và

nàng hoa sen (Kinh).

Sơ đồ

Sự ra đời thần kỳ

(Hoàng hậu sinh ra một cái bọc,

bên trong là một con rắn)

Người đội lốt vật

(người đội lốt rắn)

Cởi lốt vật kết hôn

(rắn lột xác biến thành một vị hoàng tử khôi ngô

tuấn tú, kết hôn cùng cô gái đẹp, lên làm vua)

Trong hai trường hợp trên trường hợp thứ nhất là phổ biến, nhân

vật đội lốt vật như: lốt rắn, lốt chồn, lốt khỉ, lốt cóc, lốt chuột… đã thể

hiện tài năng thần kỳ của mình (hóa phép thành tòa lâu đài nguy nga,

tiếng hát làm say mê lòng người…). Nhân vật đội lốt đã chứng minh

được tài năng, sức mạng phi thường khẳng định chính mình và giành lấy

hạnh phúc. Nhân vật đội lốt có thể lên làm vua trị vì thiên hạ hay là

những người có cuộc sống giàu sang hạnh phúc, đó là phần thưởng xứng

đáng giành cho nhân vật đội lốt xấu xí, một kết thúc có hậu.

3.1.3. Kiểu cốt truyện có bốn mô-típ

Ở kiểu thứ ba này cốt truyện được kết hợp bởi bốn mô-típ, trong 56

truyện được khảo sát, chúng tôi tìm thấy có 18 truyện thuộc kiểu thứ ba,

chiếm tỉ lệ 32.1% nằm rải rác ở các dân tộc. Có các truyện như: Chàng

tôm (Kinh), Chàng chồn (Thái), Chàng dê (Mèo), Chàng rể cọp (Dao),

Cụ vách - ốc sên (Mường), Lấy vợ cóc (Mường), Con cum-ếch con

(Mường), Lấy chồng rùa (Mường), Hoàng tử rắn (Cao Lan), Lấy chồng

rắn (H’Mông), Chuyện chàng cóc (Tà ôi), Chàng ếch (Churu), H’bia

Rác lấy chồng chồn (Gia rai), Cây tông lông (Gia rai), Chàng chim cu

gáy (Gia rai), Phò mã cóc (Raglai), Chàng cóc (Kơ Dong), Nàng Hơ Lúi

(Ba Na).

Trong 18 truyện thuộc kiểu thứ ba này, chúng tôi thấy có ba trường

hợp kết hợp các mô-típ như sau:

9 truyện có kết hợp bốn mô-típ: sự ra đời thần kỳ, người đội lốt vật,

tài năng thần kỳ, cởi lốt kết hôn (M1+M2+M4+M5), đó là những truyện

Chàng tôm (Kinh), Cụ vách - ốc sên (Mường), Chuyện chàng cóc (Tà

ôi), Chàng ếch (Churu), Chàng chim cu gáy (Gia rai), Phò mã cóc

(Raglai), Chàng cóc (Kơ Dong), Nàng Hơ Lúi (Ba Na).

Sơ đồ

Sự ra đời thần kỳ

(người sinh ra cóc, chim, ốc, sâu, tôm,…)

Người đội lốt vật

(người đội lốt cóc, chim, ốc, sâu, tôm,…)

Tài năng thần kỳ

(“vật” hóa phép xây nhà đẹp, gùi thịt đổ đầy cả gian nhà,...)

(dùng phép thuật đánh tan quân giặc,…)

Cởi lốt kết hôn

(“vật”cởi lốt cóc, chim, ốc, tôm, bị giấu, đập, xé, đốt lốt…)

( kết hôn với cô gái út, lên làm vua…)

8 truyện có kết hợp bốn mô-típ: người đội lốt vật, thách đố, tài năng

thần kỳ, cởi lốt kết hôn (M2+M3+M4+M5), đó là những truyện Chàng

chồn (Thái), Chàng dê (Mèo), Chàng rể cọp (Dao), Lấy vợ cóc

(Mường), Con cum-ếch con (Mường), Lấy chồng rùa (Mường), Lấy

chồng rắn (H’Mông), H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai).

Sơ đồ

Người đội lốt vật

(người đội lốt cóc, rắn, chồn,…)

Thách đố

(“vật” thi may áo, sắc đẹp, lùa trâu, bò vào chuồng,...)

(thách cưới nhiều vàng bạc,…)

Tài năng thần kỳ

(“vật” vẩy đuôi ba cái di chuyển hòn đá nặng,...)

(cởi áo giũ lông thành đoàn quân,...)

Cởi lốt kết hôn

(“vật” cởi (giấu, đập, xé, đốt)lốt cóc, rắn, chồn, dê, cọp,…)

(kết hôn với cô gái út, sống hạnh phúc.)

1 truyện có kết hợp bốn mô típ: người đội lốt vật, tài năng thần kỳ,

cởi lốt kết hôn, người em út bị hại (M2+M4+M5+M6) có truyện Hoàng

tử rắn (Cao Lan).

Sơ đồ Người đội lốt vật

(người đội lốt rắn)

Tài năng thần kỳ

(Hoàng tử giết chết được con quỷ nhiều tay đã bắt cóc vợ)

Cởi lốt kết hôn

(hoàng tử cởi lốt rắn, kết hôn với cô gái út)

Người em út bị hại

(em bị chị giết chết, hóa thành chim)

Trong ba trường hợp trên, hai trường hợp đầu là phổ biến, nhân

vật có xuất thân không bình thường, sự ra đời thần kỳ của các nhân vật

đã góp phần làm tăng thêm tính chất đặc trưng của cốt truyện cổ tích

thần kỳ, tạo nên sự hấp dẫn cho cốt truyện. Ở kiểu thứ ba này, nhân vật

đội lốt có hành trạng phi thường, tài năng đặc biệt và nhân vật đã vượt

qua thử thách bằng tài năng, trí tuệ, sức khỏe vốn có của mình để đi đến

kết hôn cùng người con gái đẹp. Cốt truyện ở kiểu thứ ba này càng trở

nên phức tạp hơn so với hai kiểu đầu, việc kết hợp càng nhiều những

mô-típ trong cốt truyện càng khẳng định một cách chắc chắn hơn về

nhân vật đội lốt, một con người có hình thù kỳ quái, dị dạng tưởng

chừng như vô tích sự kia lại là một tài năng phi thường khó ai sánh kịp.

Vì thế, việc nhân vật đội lốt kết hôn với người con gái đẹp, có cuộc sống

giàu sang hạnh phúc là điều tất nhiên.

Về mặt kết cấu, khác với những cốt truyện có hai, ba mô-típ thường

có kết cấu đơn giản hơn những truyện có bốn mô-típ, cốt truyện có thêm

những tình tiết sẽ tạo nên sự hấp dẫn, li kỳ hơn. Đặc biệt, so với cốt

truyện hai, ba mô-típ thì cốt truyện có bốn mô-típ sẽ khắc họa bản chất

của nhân vật đội lốt một cách cụ thể vật được thể hiện rõ hơn thông qua

những thử thách và hành động cụ thể mà nhân vật thực hiện. Điều này

giúp cho cốt truyện bộc lộ rõ nét hơn về chủ đề và tư tưởng của riêng

từng tác phẩm cũng như của cả kiểu truyện. Vì thế, so với những truyện

có hai, ba mô-típ thì những truyện có bốn mô-típ này có một kết cấu

hoàn chỉnh hơn, việc lý tưởng hóa nhân vật đội lốt hay đề cao nhân vật

đội lốt có cơ sở vững chắc hơn, sức thuyết phục cao hơn.

3.1.4. Kiểu cốt truyện có năm mô-típ

Ở kiểu thứ tư này cốt truyện được kết hợp bởi năm mô-típ, trong

56 truyện khảo sát, chúng tôi tìm thấy có 9 truyện thuộc kiểu thứ tư,

chiếm tỉ lệ 16.1% nằm rải rác ở các dân tộc. Có các truyện như: Người

lấy cóc (Kinh), Chàng nhái (Kinh), Cóc và Hơ bia Phu (Ba Na), Chàng

rùa (H’Mông), Người đội lốt mèo (Tà Ôi), Chàng rể heo (Vân Kiều),

Chàng lợn (Gia rai), Chàng ếch - con trai thần mặt trời (Cơ ho), Chàng

rùa (Thái).

Trong 9 truyện thuộc kiểu thứ tư này, chúng tôi thấy có kết hợp

năm mô-típ như sau: sự ra đời thần kỳ, người đội lốt vật, thách đố, tài

năng thần kỳ, cởi lốt kết hôn (M1+M2+M3+M4+M5).

Sơ đồ

Sự ra đời thần kỳ

(người sinh ra nhái, rùa, cóc, mèo,…)

Người đội lốt vật

(người đội lốt nhái, rùa, cóc, mèo,…)

Thách đố

(“vật”thi nấu ăn, may áo, sắc đẹp,...)

(thách cưới lễ vật quý hiếm,…)

Tài năng thần kỳ

(“vật” xây nhà cho vua trong một đêm,...)

(chiếc áo mèo biến thành chiếc đao thần giết giặc,…)

Cởi lốt kết hôn

(“vật” cởi lốt nhái, rùa, cóc, mèo, bị giấu, đập, xé, đốt lốt,...)

(kết hôn với cô gái út, sống hạnh phúc)

Cốt truyện ở kiểu thứ tư này có kết cấu cũng khá phức tạp, với

nhiều những mô-típ xoay quanh trục cốt truyện tạo nên một cốt truyện

tương đối hoàn chỉnh. Nhân vật người đội lốt với sự ra đời thần kỳ, đã

vượt qua thử thách khắc nghiệt kết hợp tài năng hơn người đã chiến đấu

và chiến thắng, giành lấy hạnh phúc cho chính mình. Nhân vật có thể là

người bình thường, hay thần tiên vì thương người mà đầu thay làm con

một gia đình nào đó, các nhân vật đội lốt đã tạo ra nhiều điều bất ngờ, lý

thú cho người đọc, người nghe bằng chính tài năng và tấm lòng nhân ái,

vị tha của chính mình… Sự kết hợp của năm mô-típ trong cốt truyện. Ở

kiểu thứ tư này, cốt truyện đã trở nên phức tạp và chặt chẽ hơn các tình

tiết diễn biến các sự kiện, nhân vật được thể hiện chi tiết hơn. Sự kết

hợp năm mô-típ trên đã tạo nên một cốt truyện tương đối hoàn chỉnh

trong kiểu truyện người lấy vật mà chúng tôi khảo sát.

3.1.5. Kiểu cốt truyện có sáu mô-típ

Ở kiểu thứ năm này cốt truyện được kết hợp bởi sáu mô-típ lại với

nhau, trong 56 truyện khảo sát, chúng tôi tìm thấy có 4 truyện thuộc kiểu

thứ năm chiếm tỉ lệ 7.2% nằm rải rác ở các dân tộc. Có các truyện như:

Chàng hến (Kinh), Chàng rùa (Xê Đăng), Chàng rể cóc (Vân Kiều),

Chàng rắn (Gia rai).

Trong 4 truyện thuộc kiểu thứ năm này, chúng tôi thấy có hai trường

hợp kết hợp các mô-típ như sau:

2 truyện có kết hợp sáu mô-típ: sự ra đời thần kỳ, người đội lốt vật,

thách đố, tài năng thần kỳ, cởi lốt kết hôn, người em út bị hại,

(M1+M2+M3+M4+M5+M6) có truyện Chàng hến (Kinh), Chàng rể

cóc (Vân Kiều).

Sơ đồ Sự ra đời thần kỳ

(người mẹ cầu khẩn, ướm chân sinh ra khỉ,cóc)

Người đội lốt vật

(người đội lốt khỉ, lốt cóc)

Thách đố

(“vật”chăn trâu, bạc giấu trong trấu,...)

Tài năng thần kỳ

(“vật” giết quỷ nhắc pụt, xúc lưng bồ lúa chưa đổ đầy tai,...)

Cởi lốt kết hôn

(“vật” cởi lốt khỉ, đốt lốt cóc, kết hôn với cô gái út)

Người em út bị hại

(chị lừa em lên rẫy, lừa chồng cóc về nhà,...)

(tìm cách hại em nhưng không thành công,...)

2 truyện có kết hợp sáu mô-típ: người đội lốt vật, thách đố, tài

năng thần kỳ, cởi lốt kết hôn, người em út bị hại, vật phù trợ

(M2+M3+M4+M5+M6+M7, có truyện Chàng rùa (Xê Đăng), Chàng

rắn (Gia rai).

Sơ đồ

Người đội lốt vật

(người đội lốt rùa,rắn)

Thách đố

(“vật”đắp lại khe khẽ bờ để đặt lờ, thi xây nhà, lùa trâu,...)

(bắt cầu qua sông,...)

Tài năng thần kỳ

(“vật”cứu sống chị, bắt cá lấy óc gói vào lá,...)

(mấy chục cái nong cũng không đựng đủ óc cá,...)

Cởi lốt kết hôn

(“vật” cởi lốt rùa, rắn, kết hôn với cô gái út)

Người em út bị hại

(em đi đánh đu bị chặt gốc cây ngã chết,...)

(em đi hái chanh bị đẩy xuống sông,...)

Vật phù trợ

(con dao, trái dừa, trứng gà, ống muối)

3.1.6. Kiểu cốt truyện có bảy mô-típ

Ở kiểu thứ sáu này cốt truyện được kết hợp bởi bảy mô-típ lại với

nhau, qua 56 truyện khảo sát chúng tôi tìm thấy có 2 truyện thuộc kiểu

thứ sáu chiếm tỉ lệ 3.6%, có các truyện như: Lấy chồng dê (Kinh), Anh

chàng cá chuối (Mường). Trong 2 truyện thuộc kiểu thứ sáu này, chúng

tôi thấy có sự kết hợp đầy đủ bảy mô-típ: sự ra đời thần kỳ, thách đố,

người đội lốt vật, thách đố, tài năng thần kỳ, cởi lốt kết hôn, người em út

bị hại, vật phù trợ (M1+M2+M3+M4+M5+M6+M7).

Sơ đồ

Sự ra đời thần kỳ

(người mẹ cầu khẩn thần linh sinh ra con dê)

(người mẹ ăn thịt con cá chuối sinh ra cá chuối)

Người đội lốt vật

(người đội lốt dê, đội lốt cá chuối)

Thách đố

(sính lễ 100 trâu bò, 100 lợn, 1 mâm vàng, 90 vò rượu kê mèn,

90 trâu đen, bò đớm trắng, 90 vạc tám tai, hàng đàn hổ báo,...)

Tài năng thần kỳ

(tiếng sáo làm cho cảnh vật tưng bừng, chim thi nhau nhảy nhót,...)

(chàng dê hô một tiếng có đủ số vàng bạc và trâu, bò, lợn,...)

Cởi lốt kết hôn

(“vật”cởi (bị đốt) lốt dê, lốt cá chuối)

(kết hôn với cô gái út)

Người em út bị hại

(chị rủ em đi gội đầu, chải chấy, rủ em đi trẩy hội,...)

(chị đẩy em xuống sông, đẩy chiếc mảng trôi đi,...)

Vật phù trợ

(con dao, trứng, hòn đá lửa,...)

Với sự kết hợp đầy đủ các mô-típ đã khảo sát ở chương hai, ở kiểu

cuối này, cốt truyện đã trở nên phức tạp và chặt chẽ hơn, các tình tiết

diễn biến của cốt truyện, các sự kiện, nhân vật được thể hiện chi tiết

hơn, rõ ràng hơn. Sự kết hợp đầy đủ các mô-típ trên đã tạo nên một cốt

truyện hoàn chỉnh trong kiểu truyện người lấy vật.

Như vậy: thông qua sáu kiểu kết cấu cốt truyện như đã trình bày ở

trên, mỗi kiểu có những kết cấu riêng, với nhiều kết cấu đa dạng đi từ

đơn giản đến phức tạp, từ chi tiết đến khái quát. Ở kiểu thứ nhất, thứ hai

và thứ ba có sự hiện diện của hai, ba và bốn mô-típ tạo nên một cốt

truyện tương đối đơn giản với sự xuất hiện các mô-típ đang xen lẫn

nhau, cốt truyện đơn giản ở ba kiểu đầu giúp cho người đọc, người nghe

có thể hình dung về nhân vật đội lốt là một con vật có thể được sinh ra

trong hoàn cảnh không bình thường, có tài năng phi thường và kết thúc

truyện nhân vật có được cuộc sống hạnh phúc giàu sang. Đến với kiểu

thứ tư và thứ năm, có sự xuất hiện của năm và sáu mô-típ tạo nên một

cốt truyện có độ phức tạp tăng dần theo cấp độ xuất hiện các mô-típ, tiếp

cận cốt truyện của hai kiểu này, người đọc, người nghe có thể hình dung

về nhân vật đội lốt với những tình tiết cụ thể hơn, mức độ thử thách

càng gay gắt và khó thực hiện hơn. Nhân vật đã có được những tài năng

thần kỳ gì để giúp nhân vật vượt qua được các thử thách khó khăn để kết

hôn với người con gái đẹp và nhận những phần thưởng xứng đáng giành

cho mình. Trong cốt truyện của hai kiểu này mức độ phức tạp sẽ tăng

dần tạo nên sự hấp dẫn, tính chất ly kỳ, lôi cuốn được người đọc, người

nghe trong việc tiếp nhận một tác phẩm truyện cổ tích thần kỳ. Đặc biệt

hơn, ở kiểu cuối cốt truyện được kết hợp bởi bảy mô-típ đã tạo nên một

chỉnh thể hoàn chỉnh nhất trong các kiểu kết hợp mô-típ tạo nên một cốt

truyện vô cùng hấp dẫn. Sơ đồ của kiểu kết hợp cuối này, có thể được

xem như là sơ đồ hoàn chỉnh nhất của kiểu truyện người lấy vật.

Dựa vào các kiểu kết cấu cốt truyện cụ thể ở sáu kiểu trên, chúng tôi

tiến hành kết hợp các kiểu kết cấu cốt truyện cụ thể đó lại với nhau, để

tạo nên một kết cấu chung về kiểu truyện người lấy vật thông qua lược

đồ kết cấu kiểu truyện người lấy vật như sau.

Lược đồ kết cấu kiểu truyện người lấy vật

Sự ra đời thần kỳ

( bà già góa, bà già nghèo, cô gái chưa chồng,...)

(mang thai và sinh ra nhân vật do ướm chân, ăn, uống,...)

(cảm ứng từ thiên nhiên, nhặt được vật khi lao động, cầu khẩn thần

linh,…)

Người đội lốt vật

(người đội lốt cóc, lốt rắn, lốt dê, lốt cá, lốt nhái, lốt chim, lốt rùa,… )

Thách đố

(“vật” bị thử thách về khả năng làm việc, về sức khỏe,…)

(khả năng săn bắt, về sính lễ quý hiếm,… )

Tài năng thần kỳ

(“vật” có phép thuật, có sức mạnh thần kỳ của thần linh,…)

(lập nhiều chiến công, kỳ tích thần kỳ,…)

Cởi lốt và kết hôn

(“vật” cởi lốt bị xé, giấu, đốt, đập lốt,…)

(kết hôn do cha mẹ thách đố,tình cờ gặp nhau, giả bệnh,…)

(sống giàu sang hạnh phúc,…)

Người em út bị hại

(em bị chị đẩy xuống sông, bị chặt cây ngã xuống sông chết,…)

(em bị chị lừa (chết),…)

Vật phù trợ

(em mang theo bên mình quả trứng, quả dừa,…)

(hòn đá lửa, con dao, ống muối,…)

(vật phù trợ giúp cô em thoát nạn, đoàn viên,…)

Trên đây là lược đồ mang tính khái quát cao nhất về kiểu truyện

người lấy vật trong truyện cổ tích thần kỳ. Nó chưa thật đầy đủ và chính

xác vì nếu chỉ là một truyện cụ thể thì việc trình bày lược đồ sẽ đơn giản

hơn rất nhiều, nhưng đây lại là một kiểu truyện gồm nhiều truyện hợp

thành. Dù vậy, chúng tôi vẫn hy vọng rằng với những lược đồ trên, ta có

thể phần nào hình dung ra được những cốt truyện với những nội dung cơ

bản nhất, đồng thời có thể so sánh với những kiểu truyện khác bằng hình

thức mô hình.

Như vậy, chúng tôi đã trình bày những vấn đề cơ bản xoay quanh

kết cấu kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam,

từ cốt lõi đến các quá trình liên kết các yếu tố trong cốt truyện, từ mô

hình kết cấu các mô-típ cụ thể đến mô hình kết cấu toàn bộ kiểu truyện.

Ở chương ba này, chúng tôi đã dùng mười sơ đồ kết cấu cốt truyện của

bảy mô-típ và một lược đồ kết cấu kiểu truyện người lấy vật, việc sử

dụng những sơ đồ kết cấu này kết hợp với việc phân tích, so sánh, lý giải

cũng góp phần làm rõ hơn vấn đề mà người viết muốn đề cập đến, đồng

thời khái quát các mô-típ bằng sơ đồ cũng góp phần làm tăng thêm phần

sinh động trong cấu trúc của một văn bản.

3.2. Ý nghĩa của kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích

3.2.1 Kiểu truyện người lấy vật phản ánh tín ngưỡng dân gian

Trong tín ngưỡng cổ xưa, việc con người sùng bái một số loài vật

vì cho là nguồn gốc linh thiêng của loài người là có thật. Thực tế ở mỗi

dân tộc, chúng ta có thể tìm thấy ít hay nhiều thái độ tôn trọng hoặc đề

cao đối với các loài vật đã từng được coi là thiêng liêng đó. Xuất phát từ

quan niệm tín ngưỡng dân gian, thần thoại, cổ tích đã thần thánh hóa các

con vật, được coi như là thần linh hay có phép màu của thần linh. Những

tín ngưỡng, nghi lễ bản địa và thêm vào đó là sự tiếp biến văn hóa là

hình thái tôn giáo nguyên thủy ra đời vào thời kỳ thị tộc sơ khai. Các

thành viên trong một thị tộc tin rằng họ có mối quan hệ siêu nhiên với

một động vật, một thực vật hay với một vật vô tri nhất định nào đó. Vì

vậy, họ kiêng không giết, không ăn thịt những con vật mà mình sùng

bái, tín ngưỡng vì cho rằng đó là những vật đã có công giúp đỡ thị tộc

mình thoát khỏi khó khăn nguy hiểm và mang lại sự bình yên cho thị

tộc.

Trong hệ thống các con vật đã khảo sát ở 56 truyện thuộc chương

hai, chúng tôi nhận thấy có một số con vật rất được nhân dân sùng bái,

tín ngưỡng, có thái độ tôn trọng và yêu mến như:

“Vật” là Cóc, đối với hình tượng con cóc – một con vật có sức sống

“kỳ diệu”, thích nghi được với mọi môi trường sống khắc nghiệt cả hạn

hán lẫn ngập lụt, trên cạn lẫn dưới nước. Đối với cóc, người Việt có

quan niệm đặt cóc ngang hàng với vị trí cậu ông Trời – vị thần lớn nhất

trong các vị thần, qua câu: Con cóc là cậu ông Trời. Ai mà đánh nó thì

Trời đánh cho. Người ta cho rằng cóc có công lao gọi mưa, chống hạn

hán để cứu cả loài người và hết thảy các sinh vật khác thoát khỏi bị tuyệt

diệt. Chúng ta cũng tìm thấy cóc trong thần thoại Cóc kiện trời của

người Việt... phổ biến ở Tây Nguyên, mà cụ thể ở các dân tộc người

Mường (Lấy vợ cóc, Con cum), tộc người Tà Ôi (Chuyện chàng cóc),

tộc người Vân Kiều (Chàng rể cóc), tộc người Ê Đê (Chồng cóc), tộc

người Kơ Dong (Chàng cóc),... Con cóc có tên gọi chung là Giàng Xri

hay Hrí tượng trưng cho thần Lúa – vị thần rất được quý trọng: “Giàng

Xri coi sóc mùa màng chủ yếu là lúa. Giàng là một bà già không đẹp,

người lở ghẻ (vỏ thóc cũng xù xì, lở lói, xấu xí nhưng hạt gạo lại như

ngọc như ngà, nuôi sống con người). Giàng thường hay biến thành con

cóc, da cóc xù xì chính là vết lở trên người bà. Nên vì vậy, người Xê

Đăng rất quý cóc (có nơi cho cóc là bạn, anh em của thần Sét, không

phải hóa thân của thần lúa. Quan niệm cóc là người thân của thần Sét

gần với quan niệm Con cóc là cậu ông Trời của người Việt). Cóc nghiến

răng, trời mưa là do Giàng muốn như người bạn của mình là thần Sét

tưới nước xuống cho cây cỏ tươi tốt. Lúc giông tố, mưa lũ thần hung

hăng gây rối, cóc ngồi thu mình giận dỗi, mong thần sấm sét phải dịu

bớt cơn giận, làm lành với mình” [30, tr.58]. Như vậy, từ xa xưa cóc là

con vật được nhân dân tín ngưỡng, tôn sùng và có thái độ kính cẩn đối

với nó. Hiện nay, cóc là con vật được nhắc đến với ý nghĩa của sự thịnh

vượng và phát tài.

“Vật” là Rắn, rắn là một con vật thường gây cho con người nhiều sự

sợ hãi cũng như gợi trí tò mò nhất. Chính vì thế, không chỉ ở Việt Nam

mà hầu như tất cả các nước trên thế giới, họ luôn lấy rắn làm đối tượng

để bàn luận. Rắn xuất hiện trong các truyện của các tộc người như :

Raglai (Lấy chồng rắn), Gia lai (Chàng rắn), Cao Lan (Hoàng tử rắn),

H’Mông (Lấy chông rắn), Kinh (Hoàng tử rắn và nàng hoa sen),... Rắn

trong tín ngưỡng dân gian của Việt Nam là một vị Thủy thần. Trong

nhận thức của người xưa, các hiện tượng tự nhiên luôn bí ẩn và đầy

hiểm họa. Họ không hiểu được vì sao có lũ lụt, hạn hán… Nên cho đó là

do các vị thần làm ra. Rắn từ một con vật, một thế lực có thật xung

quanh con người đã được hợp nhất thành thần nước. Từ sợ hãi, con

người cầu thân với tự nhiên, gửi vào đó niềm tin và nguyện vọng của

mình qua hoạt động thờ cúng. Từ thực tế ảnh hưởng đối với sản xuất

nông nghiệp, người ta không ngạc nhiên khi thấy việc sùng bái nước trở

thành tín ngưỡng phổ biến của con người. Từ đó rắn đã trở thành con vật

tôn kính, linh thiêng, là vị thần sông nước cai quản sông ngòi. Nói cách

khác, nếu tín ngưỡng là hình thức thể hiện niềm tin vào cái thiêng liêng

của con người, được hình thành trên nỗi sợ hãi, hoài nghi hay tin tưởng

về một sức mạnh nào đó mà nhân dân tin rằng sức mạnh đó có thể thay

đổi cuộc sống của họ. Niềm tin và nỗi sợ hãi của con người được thể

hiện đối với nước thông qua hình tượng rắn, đó là lý do vì sao hình

tượng rắn trở thành tín ngưỡng trong đời sống văn hóa dân gian. Ngày

nay chúng ta vẫn thấy rất nhiều đền thờ rắn (thủy thần) dọc theo các

sông như sông Hồng, sông Đuống, sông Cầu… Đây chính là niềm tin

tuyệt đối vào tự nhiên của người xưa. Theo các nhà nghiên cứu, việc thờ

thần rắn với tư cách là một thủy thần trong các trường hợp vừa kể trên là

hiện tượng mang tính khu vực, rất điển hình, được gắn vào giai đoạn

người Việt cổ mới đánh dấu giai đoạn ban đầu hạ sơn xuống vùng phù

sa trẻ. Rõ ràng, con rắn đã đi vào trong tín ngưỡng của người Việt với tư

cách là thủy thần – đại diện cho một lực lượng tự nhiên mà con người sợ

hãi, muốn cầu thân, thờ cúng.

“Vật” là Rùa, đối với con rùa một con vật mà từ xưa nó đã được

loài người coi là hình ảnh của vũ trụ bao la, với mai tròn như trời, mình

vuông như đất. Theo quan niệm của nhiều dân tộc như Thái (Chàng

rùa), tộc người Mường (Lấy chồng rùa), tộc người H’Mông (Chàng

rùa), tộc người Xê Đăng (Chàng rùa),… Thì rùa đã dạy cho loài người

biết làm nhà để trú thân. “Những trường hợp dẫn đến cách làm nhà theo

hình rùa có khác nhau. Hoặc là bắt được rùa, hoặc là nhờ thần bày cho.

Nhưng đều thống nhất ở chỗ, các dân tộc làm nhà sàn theo hình dáng

rùa, chân là cột, mai là mái, bụng là sàn. Do đó các dân tộc biết ơn rùa,

không ăn thịt rùa (Mường) và treo mai rùa ở cột chính trước nơi thờ với

ý nghĩa là để rùa được ăn hương khói như tổ tiên…” (Thái) [30, tr.58].

Người Việt (Ông trạng lấy rùa) xem rùa là một trong bốn con vật linh

(tứ linh), có công giúp con người xây thành, làm lẫy nỏ giết giặc bảo vệ

đất nước. Có thể tìm thấy hình ảnh con rùa trong thần thoại Thần Kim

Quy...

“Vật” là Chồn, chồn xuất hiện trong truyện của một số dân tộc như:

Thái (Chàng chồn), Gia rai (Truyện chồn và nàng H’Lúi, H’bia Rác lấy

chồng chồn),... Tộc người Khơ Mú có cách giải thích về tín ngưỡng vật

là chồn như sau: người Khơ Mú có “họ Tmoong tức chồn, cầy gồm có

T.hol (tiếng Thái: nhển moong là con cầy có vệt ở sống mũi, màu mốc

hay ăn quả vả) và T.rung (nhền hang cản) là loại cáo đuôi đen pha trắng,

ăn gà, vịt… Ngoài ra còn nhóm tiác (hươu nai, ho họa (khỉ), haull (gấu),

goi (sóc bé), di vê (rái cá). Họ Tmoong kể rằng: có con cầy hương ngủ

trong hốc cây to. Có người nhét cỏ tranh bịt hốc cây đốt với ý định làm

chỗ ngủ. Cầy hương bị chết. Người này lấy làm lạ không hiểu vì sao cầy

hương chết. Anh ta thử chui vào hốc cây, nhờ người hun hộ xem sao.

Kết quả anh ta chết nốt. Con cháu cho là cầy hương làm bố chết, nên lấy

Tmoong làm vật tổ và tên họ” [70, tr.613]. Bên cạnh đó còn có “vật” là

Hổ: có truyện (Chàng rể cọp) người Khơ Mú ở rải rác khắp các bản

mường đều mang tên thú, chim, cây cỏ... Nhóm gồm tên thú có “họ Rvai

tức họ hổ chia ra hai nhánh: R.veng ung (tiếng Thái là xửa lai chen tức

hổ vằn có chấm to), R.xênh khương (x.chống hay căn tao tức hổ vằn đen

sắc vàng) và R.tlắp (x. nộc tức báo hay loại hổ không vằn, màu lung hay

ăn gà, vịt). Ở Nghệ An có thêm R.derr tức hổ xám lớn, dữ. Mỗi dòng họ

đều có huyền thoại để giải thích vì sao nhận sinh vật đó là vật tổ hay các

sự việc đó liên quan đến dòng họ nên phải kiêng cữ và lấy tên đó đặt tên

cho dòng họ mình. Ở họ Rvai kể rằng: Một gia đình nọ, người cha hóa

hổ, thường đi kiếm ăn. Một hôm, hổ vồ bắt một cô gái hái củi. Cởi bỏ lốt

hổ về nhà, người chồng thấy vợ khóc bên xác con gái bị hổ ăn thừa để

lại. Biết mình nhầm, hối hận, người cha bảo vợ con sau cắm ta-leo ở

những nơi thường đi qua để khỏi nhằm lẫn. Từ đó bốn họ Lộc, Lự,

Quằng, Lường kiêng không ăn, giết hổ” (Thái) [70, tr.612]. Có “vật” là

Chim cũng được người Thái sùng bái, kính trọng và có cách giải thích

về việc lấy chim làm họ của một nhóm tộc người mình. Có truyện Cây

tông lông (Gia rai), Chàng chim cu gáy (Raglai). Nhóm họ “chim

Thràng (tiếng Thái là nộc cốt căm là con phượng hoàng đất), chim có

mỏ rất to, cánh dài, mình to bằng con vịt trời thường được coi là chúa

loài chim. Chim phượng hoàng đất không bao giờ ở gần nước, ăn sâu

bọ, chim con. Chuyện họ Thràng kể như sau: có gia đình lấy sâu ở trong

măng để bẫy chim. Không ngờ thấy phượng hoàng đất mắc bẫy chết.

Người đó lấy làm lạ giống chim này xưa nay không bao giờ ăn sâu trong

măng, ý mình không định bụng bẫy nó, sao tự dưng chim lại chui vào

bẫy để chết. Từ đó lấy con chim đó làm họ” [70, tr.614]. Như vậy, các

dân tộc thiểu số miền núi Việt Nam luôn quan niệm rằng mỗi một con

vật tuy có hình dáng bên ngoài xấu xí (như cóc, rắn, nai, chồn, ếch…)

nhưng là những vị thần có công trong việc bảo vệ cộng đồng, giúp đỡ

những người lương thiện, nghèo khổ và trừng trị những kẻ độc ác xấu xa

mang lại sự công bằng cho xã hội. Hành động của các nhân vật là vật đã

để lại ấn tượng tốt đẹp trong tâm thức người dân, vì thế họ cho rằng các

con vật ấy cần được tôn sùng, cúng bái và thần thánh hóa các con vật.

Từ đó, một số các con vật đã đi vào tín ngưỡng dân gian của các dân tộc.

Có lẽ người xưa có lý do khi chọn các lốt vật của những con vật gần gũi,

có công giúp đỡ, mang lại sự bình yên, sung túc cho thị tộc mình. Đồng

thời cho nhân vật đội các lốt vật ấy để khi cởi lốt họ sẽ trở thành những

chàng trai, cô gái xinh đẹp, tài giỏi. Đây cũng là cách mà nhân dân

muốn lý tưởng hóa nhân vật xấu xí, bất hạnh của mình bằng hình thức

đội các lốt của các con vật mình tôn kính. Qua đó, chúng ta thấy rõ hơn

về tín ngưỡng nguyên thủy của người xưa.

Ngoài ra, trong quá trình nghiên cứu chúng tôi nhận thấy rằng

không phải tất cả các con vật xấu xí đều được nhân dân tôn sùng, tín

ngưỡng mà còn một lý do nào đó để các nghệ nhân dân gian dùng hình

dạng xấu xí của các con vật để đội lốt cho nhân vật của mình. Có thể

việc chọn những con vật xấu xí ấy là việc làm ngẫu nhiên, bởi vì trong

cuộc sống của người dân các con vật như mèo (Người đội lốt mèo), khỉ

(Khỉ và nàng Ma Phun), tôm (Nàng út lấy chồng tôm), cá (Nàng cá

măng), ốc,… là những vật vừa có hình dạng xấu xí vừa gần gũi, thân

thiết với con người nên được con người chọn lựa và đưa vào truyện cổ

tích một cách tùy hứng, ngẫu nhiên. Các con vật có thể được đi vào tín

ngưỡng cổ xưa của dân tộc nhưng cũng có thể chỉ là những con vật bình

thường, thậm chí là những con vật đáng ghét, đáng khinh bỉ và xa lánh

mà nghệ nhân dân gian muốn lên án, phê phán và loại trừ ra khỏi cuộc

sống cộng đồng nên gán nó vào một nhân vật xấu xí, dị dạng bị mọi

người khinh khi, xa lánh.

3.2.2. Kiểu truyện người lấy vật thể hiện triết lý nhân sinh của nhân dân

Văn học dân gian có vai trò phản ánh một cách chân thực tâm tư,

nguyện vọng, tình cảm của quần chúng, phản ánh cách nhìn, cách hiểu

các sự kiện đã xảy ra xung quanh họ, và có tác động mạnh mẽ đến cuộc

sống của họ. Phổ biến trong các truyện người lấy vật các nhân vật

thường đội các lốt như: cóc, ếch, rắn, trăn, chồn, dê, lợn… Điều này

chứng tỏ rằng nó đã phản ánh một ký ức xa xưa về các con vật và ký ức

ấy chưa hề phai nhạt trong các dân tộc. Các truyện người lấy vật có sự

tiếp nhận và kế thừa từ thần thoại, song sự tiếp nhận ở đây không phải là

một sự tiếp nhận hoàn toàn lặp lại và giống thần thoại. Truyện chỉ mượn

cái “phần xác” của con vật tín ngưỡng và đã phát triển theo cách riêng

để chứa đựng cái “phần hồn” cho một ý nghĩa hoàn toàn khác trước. Bên

cạnh các nhân vật là con người, nhân vật là con vật trong truyện người

lấy vật vẫn đóng vai trò là một trong những yếu tố chính của sự miêu tả

hiện thực xã hội.

Xã hội trong thần thoại phản ánh là xã hội cộng sản nguyên thủy, xã

hội trong truyện cổ tích phản ánh là xã hội có giai cấp. So với xã hội

cộng sản nguyên thủy, xã hội có giai cấp là xã hội tiến bộ hơn, nhưng

cũng có mặt trái của nó. Xã hội có giai cấp đã phá vỡ mọi nguyên tắc

bình đẳng dân chủ của xã hội nguyên thủy, gây nên cảnh bất công, làm

nảy sinh những mối quan hệ đối kháng giữa những người có của cải,

giàu có và số đông dân chúng lao động nghèo khổ. Hiện thực đó làm nảy

sinh trong nhân dân khát vọng muốn trở về với cuộc sống trước đây, với

những đạo đức cộng sản nguyên thủy, với sự bình đẳng tốt đẹp và mọi

người đều được tôn trọng. Kiểu truyện người lấy vật là một trong số rất

nhiều đề tài của thể loại truyện cổ tích mang nội dung nhân đạo cao cả

phản ánh khát vọng lớn lao đó của nhân dân, gửi gắm vào hình ảnh nhân

vật lý tưởng – nhân vật người đội lốt vật những ước muốn của mình. Tác

giả dân gian đã xây dựng nhân vật đội lốt theo quy luật đi từ tính chất

thấp hèn đến tính chất cao cả, từ những hình thức những con vật xấu xí

đến những con người đẹp đẽ. Người tốt sẽ được hưởng hạnh phúc,

những kẻ độc ác xấu xa cuối cùng sẽ bị trừng trị một cách thích đáng

cho tội lỗi của mình gây ra. Có thể khẳng định điều này qua truyện Lấy

vợ cóc (Kinh), nàng cóc đã chu toàn bổn phận rất tuyệt vời. Người bình

dân luôn tôn trọng cái đẹp, hướng về cái đẹp toàn vẹn cả về nội dung lẫn

hình thức, đức hạnh lẫn nhan sắc, và đẹp người lẫn đẹp nết trong một

con người cụ thể. Truyện cũng gợi cho ta bài học về cách đánh giá con

người, đừng nhìn vẻ ngoài có vẻ xấu xí, vô tích sự mà có cái nhìn khinh

thường, miệt thị. Khi đánh giá một con người phải đánh giá một cách

cân nhắc, đừng có cái nhìn phiến diện một chiều. Theo tinh thần đánh

giá của ông cha ta ngày xưa qua câu tục ngữ: Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.

Xấu người đẹp nết con hơn đẹp người. Truyện Lấy vợ cóc tiêu biểu cho

truyện cổ tích thần kỳ về nhân vật đội lốt, thể hiện ước mơ, quan niệm lý

tưởng về con người. Truyện đã bênh vực, ca ngợi những con người cùng

khổ, nghèo hèn nhất, xấu xí nhất bị xã hội hắt hủi, khinh khi, xa lánh.

Nhưng những con người có vẻ bề ngoài xấu xí ấy, thực chất lại chính là

những con người có tài năng, phẩm chất, vẻ đẹp tuyệt vời ẩn sâu bên

trong. Hay truyện Nàng cá măng (Thái), Nàng tiên ốc (Kinh), Nàng tiên

cá (Xê Đăng), Nàng bò tót (Vân Kiều)... Tất cả các nhân vật đội lốt các

con vật xấu xí từng làm cho con người sợ hãi, xa lánh, ban đầu đều ẩn

sâu bên trong những phẩm chất đáng quý, đáng được đề cao. Mang hình

dáng của con cá (Nàng cá măng), con ốc (Nàng tiên ốc), con bò (Nàng

bò tót), con cua... Các cô gái đội lốt đều là những người có đầy đủ

những phẩm chất tốt đẹp, có tấm lòng nhân hậu thủy chung. Các cô gái

đội lốt ở kiểu truyện người lấy vật đã thuyết phục được người đọc người

nghe bằng chính tài năng, phẩm chất vốn có của mình, họ là những nhân

vật điển hình cho lớp người xấu xí dị dạng nhưng biết vượt lên chính

mình và tỏa sáng với những tài năng, phẩm chất tốt đẹp hơn người. Các

cô gái luôn là người vợ hiền, dâu thảo, sống có nghĩa có tình, đó cũng là

một trong những phẩm chất đáng quý của người phụ nữ Á Đông – sống

nhẫn nhịn, hòa thuận, thủy chung. Từ đó, chúng ta có quyền tự hào, ca

ngợi về người phụ nữ Việt Nam nói chung và phụ nữ các dân tộc nói

riêng, tuy có bề ngoài xấu xí nhưng tâm hồn thì cao thượng, trong sáng,

thủy chung. Và cũng từ đấy cách nhìn nhận đánh giá về con người cần

xét trên nhiều phương diện khác nhau, không thể nhìn bề ngoài xấu xí,

dị dạng mà cho rằng họ là những người vô tích sự, hèn kém cái nhìn

khinh bỉ, xa lánh và loại trừ ra khỏi đời sống cộng đồng.

Cũng như các cô gái đội lốt vật, nhân vật là các chàng trai đội lốt

vật chiếm đa số trong kiểu truyện người lấy vật có các truyện như:

Chàng nhái (Kinh), Chàng tôm (Kinh), Chàng rùa (Thái), Chàng rắn

(Gia rai), Chàng trăn (Churu), Chàng lợn (Gia rai), Chàng chồn (Thái),

Chàng cóc (Kơ Dong)... Cũng đội trong lốt các con vật xấu xí nhưng ẩn

sâu bên trong là những chàng trai khôi ngô tuấn tú, có phẩm chất cao

quý và cả những tài năng phi thường khó ai sánh kịp. Chàng rùa khi cởi

lốt rùa ra trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, có tài năng hơn

người. Tương tự chàng rắn, chàng lợn, chàng chồn, chàng cóc... Khi cởi

lốt vật ra, họ đều trở thành những chàng trai tuấn tú, thông minh, có sức

vóc và tài năng hơn hẳn những con người bình thường. Các chàng trai

này đại diện cho những người thuộc tầng lớp dưới của xã hội (xấu xí, dị

dạng, nghèo khổ...), vượt qua được các thử thách khắc nghiệt của những

người thuộc tầng lớp trên của xã hội (vua, quan, phú ông, chủ làng...)

một cách dễ dàng, lập nên những chiến công thần kỳ, khẳng định giá trị

của bản thân đồng thời góp phần bảo vệ dân làng, đất nước khi có giặc

ngoại xâm hay các thế lực hùng mạnh khác xâm lấn và đe dọa cuộc sống

của nhân dân. Chàng chồn đã cởi lốt chồn dẫn quân đánh tan bọn giặc

xâm lược bảo vệ làng, bản bình yên hay chàng mèo, chàng cóc cũng cởi

lốt dùng mưu đánh tan kẻ thù bảo vệ đất nước... Với những chiến công

thần kỳ ấy, nhân vật nhận được phần thưởng xứng đáng giành cho mình,

có địa vị cao quý trong xã hội như: làm vua hay con rể vua, chủ làng...

Từ đó, cách nhìn nhận đánh giá của nhân dân về những con người mang

hình dáng những con vật xấu xí, quái dị sẽ không còn chính xác nếu chỉ

nhìn bề ngoài mà đi đến khẳng định nhân vật thấp kém về tài năng và

hoàn toàn vô tích sự. Cách đánh giá này chỉ phù hợp cho những con

người bình thường nhưng có tâm địa độc ác, xấu xa luôn tìm cách hại

người và cuối cùng bị trừng phạt một cách đích đáng. Đó là những

người chị, người anh trong thế giới cổ tích nói chung và trong truyện

người lấy vật nói riêng, luôn luôn tìm cách hãm hại hoặc giết chết em

mình chỉ vì ganh ghét với hạnh phúc mà em có được.

Cách đánh giá về những giá trị thực của con người phải được xem

xét từ nhiều khía cạnh, các chàng trai đội lốt các con vật trong truyện

người lấy vật đáng được xã hội đề cao, trọng dụng và ca ngợi. Họ xứng

đáng trở thành người đứng đầu cai trị muôn dân hay những vị chủ làng,

trù trưởng giàu có hùng mạnh. Với tấm lòng nhân ái và phẩm chất của

một người anh hùng, họ sẵn sàng hy sinh để bảo vệ sự bình yên của thị

tộc, bảo vệ đất nước đánh đuổi giặc ngoại xâm bằng chính tài năng, sự

thông minh và lòng dũng cảm của mình. Kiểu truyện người lấy vật

thường đề cập đến các nhân vật nghèo hèn nhất, xấu xí nhất, bị xã hội

hắt hủi, xa lánh. Nhưng kết thúc truyện thì những con người có vẻ bề

ngoài xấu xí ấy, thực chất lại chính là những con người có tài năng,

phẩm chất, vẻ đẹp tuyệt vời ẩn sâu bên trong những cái lốt vật xấu xí,

quái dị ấy. Họ tiêu biểu cho những số phận, phẩm chất, tài năng tuyệt

vời của nhân dân.

Cách kết thúc này phải chăng thể hiện sự hướng tới, sự ngưỡng

vọng của tác giả dân gian về một thế giới đầy ước mơ, một sự đổi đời

cho nhân vật xấu xí, bất hạnh, không may, một cái nhìn đầy lạc quan và

tin tưởng vào lẽ phải, sự công bằng trong xã hội.

Tiểu kết: Sự kết hợp các mô-típ trong hệ thống các mô-típ lại với

nhau là một việc làm cần thiết. Cốt truyện của kiểu truyện người lấy vật

thường được kết hợp rất nhiều các mô-típ với nhau, tạo nên tính hệ

thống, xâu chuỗi, các hành động đặc trưng của kiểu nhân vật đội lốt xấu

xí, dị dạng cùng với các tình tiết, diễn biến các vấn đề xảy ra trong cốt

truyện, từ đơn gian đến phức tạp, từ cụ thể đến khái quát, tạo nên một

cốt truyện hoàn chỉnh nhất trong kiểu truyện người lấy vật với việc kết

hợp đầy đủ các mô-típ trong truyện lại với nhau. Tín ngưỡng nguyên

thủy là loại hình văn hóa tinh thần không thể thiếu trong đời sống của

các dân tộc, cùng với văn hóa làm nên đặc trưng riêng của từng tộc

người trong xã hội. Việc tôn sùng, cúng bái những vật mà theo quan

niệm của thị tộc đó là những vật đã mang lại sự bình yên cho cộng đồng

thị tộc, mang lại cuộc sống ấm no cho mọi người. Dù vật đó có xấu xí,

dị dạng đến đâu, họ cũng xem như những vật thiêng, những vị thần bảo

hộ cho thị tộc mình, giúp thị tộc thoát khỏi tai họa hay khó khăn khi có

biến cố xảy ra. Từ đấy, cho chúng ta thấy niềm tin, ước muốn mãnh liệt

của nhân dân, nhất là những người lao động nghèo vào một sự đổi đời,

vào lẽ phải, công bằng của xã hội chính thắng tà, người lương thiện sẽ

được hưởng hạnh phúc, kẻ độc ác xấu xa phải bị trừng trị. Những con

người xấu xí, dị dạng, bất hạnh, không may sẽ trở nên xinh đẹp, có

phẩm chất đạo đức, tài năng hơn người, có cuộc sống giàu sang, hạnh

phúc vẹn toàn.

C. KẾT LUẬN

Truyện cổ tích sản sinh trong một giai đoạn lịch sử dài. Ở nước

ta, hơn hai ngàn năm dưới chế độ phong kiến kể từ sau khi nước Âu Lạc

bị xâm lược, là thời đại của truyện cổ tích. Đó là thời kỳ mà chế độ công

xã thị tộc tan rã và được thay thế bằng gia đình riêng lẻ, khi xã hội có

phân chia giai cấp. Vì thế mà truyện cổ tích chủ yếu phản ánh cuộc đấu

tranh xã hội giữa một bên là giai cấp thống trị và một bên là gia cấp bị

trị, giữa kẻ giàu và người nghèo, giữa những kẻ “bề trên” và những

người “bề dưới”. Truyện cổ tích là một thể loại chiếm ưu thế cả về số

lượng và vị trí độc đáo của nó trong loại hình sáng tác dân gian tự sự.

Truyện cổ tích quen thuộc với mọi người và đặc biệt đối với trẻ thơ, nó

có sức hấp dẫn kỳ lạ bởi thế giới bí ẩn đầy tính nhiệm mầu - thế giới của

truyện cổ tích. Vẻ đẹp của thể loại không chỉ được thể hiện qua sự cảm

thụ nghệ thuật của người đọc, người nghe truyện cổ tích, mà còn được

phát hiện qua việc nghiên cứu những yếu tố làm nên thi pháp của thể

loại này.

Từ quá trình nghiên cứu kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ

trích Việt Nam, chúng tôi có thể rút ra các kết luận sau:

1. Kiểu truyện người lấy vật thuộc hệ thống của những kiểu truyện

phổ biến trong truyện cổ tích thần kỳ.

Người lấy vật là một kiểu truyện cùng tồn tại song song với các

kiểu truyện phổ biến khác trong cổ tích thần kỳ Việt Nam như: kiểu

truyện chàng trai khỏe; chàng dũng sĩ; kiểu truyện nhân vật mồ côi, bất

hạnh hay kiểu truyện người em út... Bất kỳ một kiểu truyện nào cũng có

những đóng góp rất lớn cho kho tàng truyện cổ tích với những vai trò,

tác dụng, ý nghĩa khác nhau. Kiểu truyện người lấy vật có những đóng

góp rất quan trọng trong cấu trúc của truyện cổ tích, hệ thống nhân vật

đội lốt khá phong phú và đa dạng, cốt truyện và hệ thống các mô-típ tồn

tại trong kiểu truyện khá đa dạng và mang đặc trưng riêng.

2. Kiểu truyện người lấy vật có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng

trong kết cấu một tác phẩm văn học dân gian mà cụ thể là trong tiểu loại

truyện cổ tích thần kỳ. Kiểu truyện này còn góp phần làm hoàn thiện

hơn hệ thống đề tài, chủ đề, cốt truyện, nhân vật trong thể loại truyện cổ

tích. Nó làm tăng thêm sức hấp dẫn bởi những yếu tố kỳ ảo, tạo cho

người đọc cảm giác như đang tồn tại trong xã hội cổ tích, tận mắt chứng

kiến những sức mạnh thần kỳ, những tài năng thần kỳ và những nhân vật

thần kỳ. Tiến trình phát triển của kiểu truyện người lấy vật giống với các

kiểu truyện khác cùng tính chất, hòa cùng xu hướng phát triển chung của

thể loại truyện cổ tích. Với kết cấu hệ thống các sự kiện, các mô-típ, các

tình tiết... khá phong phú, đa dạng góp phần làm rõ hơn về hệ thống kết

cấu trong truyện cổ tích thần kỳ. Bên cạnh đó, hệ thống nhân vật trong

kiểu truyện người lấy vật đa phần là những con người thuộc tầng lớp

dưới, có xuất thân thấp hèn trong xã hội có giai cấp. Với hình dạng kỳ

quái, họ là tâm điểm của những lời chỉ trích, phê phán, chế giễu của xã

hội. Số phận cuộc đời của những con người bất hạnh, không may ấy lại

được giải quyết theo một kết cục có tính chất ước mơ thiện thắng ác,

chính thắng tà. Ngoài ra, sự đa dạng của các kết cấu cốt truyện trong

kiểu truyện người lấy vật cũng làm phong phú hơn, hoàn thiện hơn về

các kết cấu của truyện cổ tích thần kỳ nói riêng trong kho tàng truyện cổ

tích Việt Nam nói chung.

3. Kiểu truyện người lấy vật còn cho chúng ta hiểu hơn về các

phong tục, tập quán, tín ngưỡng của các tộc người ở Việt Nam. Có thể

thấy, có nhiều yếu tố cổ xưa liên quan đến các phong tục, tín ngưỡng

của con người thời thị tộc, bộ lạc nguyên thủy như: phong tục thử tài

kén rể, phong tục ở rể hay tập quán đặt tên họ theo tên vật, tín ngưỡng

thờ thần (vật hóa các con vật thành thần mưa, thủy thần, thần lúa… ).

Việc người dân tôn sùng, cúng bái một vật nào đấy làm thần phù trợ cho

tộc người mình là nhu cầu không thể thiếu của đời sống, thể hiện nét đẹp

văn hóa trong tín ngưỡng dân gian và là một việc làm cần thiết trong

cuộc sống vốn còn nhiều khó khăn. Ngoài ra, nét đặc trưng của từng dân

tộc còn được thể hiện qua việc giữ gìn và phát huy những yếu tố văn hóa

mang đậm bản sắc dân tộc thông qua các hoạt động văn hóa xã hội. Đó

là truyền thống văn hóa quý báu mà ông cha ta đã dày công gìn giữ, phát

huy và lưu truyền đến ngày nay. Con người Việt Nam luôn hướng về cội

nguồn, tổ tiên, uống nước nhớ nguồn đó là đạo lý nghìn đời của dân tộc.

Nó như đưa con người trở về với xã hội nguyên thủy, trở về với tổ tiên,

với những giá trị tinh thần vô giá của mỗi dân tộc Vì vậy, chúng ta cố

gắng ra sức giữ gìn, truyên truyền và phát huy hơn nữa những giá trị văn

hóa tốt đẹp của ông cha hòa cùng nét đẹp văn hóa của nhân loại.

4. Qua việc nghiên cứu về kiểu truyện người lấy vật cho chúng ta

thấy được sự liên hệ giữa kiểu truyện này ở Việt Nam với các nước trên

thế giới.

Kiểu truyện người lấy vật không phải là kiểu truyện chỉ riêng ở Việt

Nam mà còn có mặt ở các nước trong khu vực Đông Nam Á và trên thế

giới. Tất cả các truyện của Việt Nam và trên thế giới giống nhau hay có

nhiều tình tiết khác nhau đều phát triển theo những khuynh hướng chung

của truyện cổ tích thần kỳ, đó là: thiện thắng ác, chính thắng tà, thật thà,

siêng năng, nhân nghĩa thắng sự gian trá, tham lam và độc ác. Tiến trình

phát triển dần đến đỉnh điểm và kết thúc có hậu với những phần thưởng

cả về vật chất lẫn tinh thần cho người xấu xí, dị dạng, nghèo khổ, bất

hạnh và sự trừng phạt thích đáng đối với những người có lòng dạ độc ác,

nham hiểm luôn tìm cách hãm hại người khác. Đây chính là biểu hiện

của tinh thần nhân đạo, sự lạc quan yêu đời, niềm tin vào chính nghĩa,

thái độ yêu chuộng công lý, lẽ phải, sự công bằng của xã hội. Nó còn tạo

nên giá trị thẩm mỹ chung cho thể loại truyện cổ tích ở Việt Nam và các

nước trên thế giới. Qua đó, cho chúng ta thấy rõ hơn sự giao lưu, tương

tác giữa văn hóa của các tộc người Việt Nam với văn hóa của các nước

trong khu vực và trên thế giới. Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu

vực Đông Nam Á, là nơi giao thoa, chịu ảnh hưởng sâu rộng của hai

nền văn hóa lớn cổ đại của phương Đông là văn hóa Trung Hoa và Ấn

Độ. Chính vì vậy, một bộ phận của văn hóa Việt Nam không tách rời

khỏi nền văn hóa dân gian Đông Nam Á nói riêng, và nền văn hóa dân

gian của thế giới nói chung, mà luôn gắn bó, bổ sung, chứa đựng những

nét tương đồng và dị biệt với các nền văn hóa đó. Đồng thời sự giao lưu

văn hóa này không dừng lại ở phạm vi trong khu vực Đông Nam Á mà

còn hướng tới sự mở rộng, sự phát triển ở phạm vi quốc tế trong xu

hướng phát triển văn hóa chung của nhân loại.

Từ việc nghiên cứu về kiểu truyện người lấy vật trong kho tàng

truyện cổ tích Việt Nam, luận văn đã bước đầu đưa ra những lý giải về

một kiểu truyện quen thuộc và phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở

nhiều nước trên thế giới, về một số phương diện như khảo sát những

mô-típ tham gia vào xây dựng cốt truyện, sự liên kết các mô-típ lại với

nhau tạo nên kết cấu kiểu truyện người lấy vật trong truyện cổ tích thần

kỳ Việt Nam.

MỤC LỤC PHẦN PHỤ LỤC

Tên truyện cổ tích

Trang

TRUYỆN CỦA VIỆT NAM

1. Người lấy cóc (Kinh) ............................................................................................ 3

2. Lấy chồng dê (Kinh) ............................................................................................. 3

3. Ông trạng lấy rùa (Kinh) ....................................................................................... 5

4. Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá (Kinh) ......................................................... 5

5. Nàng tiên ốc .......................................................................................................... 6

6. Chàng nhái (Kinh) ................................................................................................. 6

7. Chàng tôm (Kinh) ................................................................................................. 7

8. Cóc tiên (Kinh) ...................................................................................................... 8

9. Chàng hến (Kinh) ................................................................................................. 9

10. Hoàng tử rắn và nàng hoa sen (Kinh) .............................................................. 10

11. Nàng cá măng (Thái) ........................................................................................ 10

12. Chàng rùa (Thái) .............................................................................................. 11

13. Chàng chồn (Thái) ........................................................................................... 12

14. Chuyện con cầy bay (Thái) .............................................................................. 13

15. Chàng dê (Mèo) ............................................................................................... 14

16. Nàng Hơ – Lúi (Ba Na) .................................................................................... 14

17. Cóc và Hơ – Bia Phu (Ba Na) .......................................................................... 15

18. Chàng rể cọp (Dao) .......................................................................................... 16

19. Con chuột lông đỏ (Tày) .................................................................................. 17

20. Cụ vách - ốc sên (Mường) ............................................................................... 18

21. Lấy vợ cóc (Mường) ........................................................................................ 18

22. Con cum (Ếch con) (Mường) ........................................................................... 19

23. Mó nước ấm (Mường) ...................................................................................... 20

24. Lấy chồng rùa (Mường) ................................................................................... 20

25. Anh chàng cá chuối (Mường) .......................................................................... 21

26. Trăn thần (Chàm) ............................................................................................. 22

27. Hoàng tử rắn (Cao Lan) ................................................................................... 23

28. Lấy chồng rắn (H’Mông) ................................................................................. 24

29. Chàng rùa (H’Mông) ........................................................................................ 24

30. Người đội lốt mèo (Tà Ôi) ............................................................................... 25

31. Chuyện chàng cóc (Tà Ôi) ............................................................................... 26

32. Con nai thần (Cơ ho) ........................................................................................ 27

33. Chàng ếch-con trai thần mặt trời (Cơ ho) ........................................................ 28

34. Cô gái lấy chồng trăn (Xê Đăng) ..................................................................... 29

35. Chàng rùa (Xê Đăng) ....................................................................................... 29

36. Nàng tiên cá (Xê Đăng) ................................................................................... 30

37. Nàng út lấy chồng tôm (Churu) ....................................................................... 31

38. Chàng trăn (Churu) .......................................................................................... 31

39. Chàng khỉ và nàng Ma Phun (Churu) .............................................................. 32

40. Chàng ếch (Churu) ........................................................................................... 32

41. Lấy chồng trăn (Vân Kiều) .............................................................................. 33

42. Chàng rể cóc (Vân Kiều) ................................................................................. 33

43. Chàng rể heo (Vân Kiều) ................................................................................. 34

44. Nàng bò tót (Vân Kiều) .................................................................................... 34

45. Truyện chồn và nàng Hơ’Lúi (Gia rai) ............................................................ 35

46. Chàng lợn (Gia rai) .......................................................................................... 36

47. Chàng rắn (Gia rai) .......................................................................................... 36

48. Hrit và cô gái trong lốt da bò (Gia rai) ............................................................. 37

49. H’Bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai) ................................................................ 38

50. Cây tông lông (Gia rai) .................................................................................... 38

51. H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai) ........................................................................ 39

52. Chàng chim cu gáy (Raglai) ............................................................................. 40

53. Phò mã cóc (Raglai) ......................................................................................... 41

54. Lấy chồng rắn (Raglai) .................................................................................... 41

55. Chàng cóc (Kơ Dong) ...................................................................................... 42

56. Chồng cóc (Ê Đê) ............................................................................................. 43

MỘT SỐ TRUYỆN NƯỚC NGOÀI

1. Nàng nhái (Miến Điện) ...................................................................................... 43

2. Con nhái (Pháp) ................................................................................................. 44

3. Con sói trắng (Pháp) .......................................................................................... 45

4. Công chúa ếch (Nga) .......................................................................................... 45

5. Chàng kỵ mã (Mông Cổ) ................................................................................... 46

6. Chàng cóc (Campuchia) ..................................................................................... 47

7. Con lợn trở thành vua (Campuchia) ................................................................... 47

8. Chuyện chàng lợn (Rumani) .............................................................................. 48

LỜI GIỚI THIỆU

Trong kho tàng truyện cổ tích của các dân tộc Việt Nam, với 54 dân

tộc anh em, mỗi dân tộc đều có kho tàng truyện cổ tích của riêng dân tộc mình,

rất phong phú và đa dạng, chúng tôi đã chọn ra 56 truyện cổ tích thuộc kiểu

truyện người lấy vật để phục vụ cho việc nghiên cứu về đề tài này. Tất cả các

truyện sử dụng khảo sát đều được trích từ nguồn các tập truyện cổ tích của các

dân tộc anh em, trong kho tàng truyện cổ tích các dân tộc. Chúng tôi đã tóm tắt

một cách ngắn gọn tất cả 56 truyện cổ tích và sắp xếp chúng theo thứ tự các

dân tộc đã được trình bày trong phần phạm vi nghiên cứu, việc làm này nhằm

tạo điều kiện thuận lợi hơn cho việc nghiên cứu đề tài kiểu truyện người lấy

vật.

Danh mục các tuyển tập truyện cổ tích

1. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Touneh Nai Chanh, Phan Xuân Viện (sưu tầm và

biên soạn) (2006), Truyện cổ Churu, Nxb Văn nghệ.

2. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, (quyển 1, tập

3-4), Nxb Giáo dục.

3. Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (1996), Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam -

phần truyện cổ tích người Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

4. Y Điêng, Hoàng Thao (Sưu tầm – biên soạn) (1978), Truyện Cổ Ê Đê, Nxb

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

5. Ngô Văn Doanh (1995), Truyện cổ Mianma, Nxb Văn hóa thông tin.

6. Ngô Văn Doanh (1995), Truyện cổ Lào, Nxb Văn hóa thông tin.

7. Ngô Văn Doanh (1995), Truyện cổ Campuchia, Nxb Văn hóa thông tin.

8. Phạm Viết Đào – Hoàng Thị Đậu (tuyển chọn và dịch) (1994), Truyện cổ

Rumani, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội.

9. Thu Hương (2006), Truyện cổ Vân Kiều, Nxb Văn hóa thông tin.

10. Thu Hương (2006), Truyện cổ Cơ ho, Nxb Văn hóa thông tin.

11. Thu Hương (2006), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa thông tin

12. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na – Tây Nguyên, (tập 1), Nxb Hà

Nội.

13. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na – Tây Nguyên, (tập 2), Nxb Hà

Nội.

14. Hoàng Anh Nhân (1987), Truyện cổ Mường, Nxb Hà Nội.

15. Doãn Thanh, Thương Nguyễn, Hoàng Thao (1963), Truyện cổ dân tộc

Mèo, Nxb Văn học Hà Nội.

16. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (1978), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa

dân tộc Hà Nội.

17. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (1980), Truyện cổ Thái, Nxb Văn hóa

dân tộc Hà Nội.

18. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (2001), Truyện cổ các dân tộc miền núi

Bắc Miền Trung, Nxb Thuận Hóa - Nghệ An –Thanh Hóa.

19. Truyện cổ Việt Bắc, (1974) (tập 2), Nxb Việt Bắc.

20. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn –Tây

Nguyên, (tập 1), Nxb Văn học Hà Nội.

21. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn –Tây

Nguyên, (tập 2), Nxb Văn học Hà Nội.

22. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ Hmông, Nxb Hà Nội.

23. Viện văn học (1999), Tuyển tập văn học dân gian Việt Nam, (quyển 1, tập

2), Nxb Giáo dục.

24. Lữ Huy Nguyên, Đặng Văn Lung (sưu tầm và biên soạn) (1996), Hợp tuyển

truyện cổ tích Việt Nam, (tập 15- 16), Nxb Văn học.

Ngoài ra, chúng tôi còn sưu tầm và tóm tắt 8 truyện cổ tích thuộc kiểu

truyện người lấy vật của các nước trên thế giới, để phục vụ cho việc nghiên cứu

Tám truyện đó là: Nàng nhái (Miến điện); Con nhái (Pháp); Con sói

của đề tài.

trắng (Pháp); Công chúa ếch (Nga); Chàng kỵ mã (Mông cổ); Chàng lợn

(Campuchia); Con lợn trở thành vua (Campuchia); Chuyện chàng lợn

(Rumani).

Dưới đây là bảng tóm tắt các truyện cổ tích và bảng thống kê của luận

văn.

1/ NGƯỜI LẤY CÓC (KINH)

Ngày xưa, có hai vợ chồng người phú hộ hiếm hoi mãi đến tuổi già xế

bóng, người vợ mới có mang. Hai người bụng mừng khấp khởi nhưng đến ngày

trở dạ, người vợ sinh ra một con cóc. Cả nhà toan đem cóc ném đi cho khuất

mắt. Bỗng cóc cất tiếng nói: “đừng ném con đi, cứ để con lại, con cũng làm

được việc”. Vợ chồng phú ông đành lòng nhận cóc làm con.

Ở gần làng có anh học trò nghèo bố mẹ chết sớm. Một hôm đi ngang qua

đám ruộng lúa chín vàng, thuận tay anh ngắt một bông, bỗng nghe một giọng

nhỏ nhẹ từ phía gốc ruộng: sao chàng lại ngắt lúa nhà em. Anh học trò chỉ nhìn

thấy một con cóc đang ngồi chồm hỗm trên một mô đất cạnh một bụi lúa, hai

người trở nên thân thiết. Anh học trò quyết định cưới cóc làm vợ. Ngày đưa

dâu, cóc lạch bạch nhảy theo về với chồng.

Tin anh học trò lấy vợ cóc chẳng bao lâu bay ra khắp nơi làm đầu đề cho

những câu chuyện mua cười ở các gia đình. Bọn học trò bày mưu làm cho anh

học trò xấu hổ với cô vợ cóc. Họ tổ chức cuộc thi dọn cỗ, anh học trò thắng. Ít

lâu sau, bọn học trò lại bàn nhau mở cuộc thi may quần áo, anh học trò lại

thắng. Và lần thứ ba, bọn học trò bàn nhau xin cụ đồ cho mở cuộc thi vợ đẹp.

Cóc theo anh học trò đến trường chào thầy, lúc sắp đến trường, cóc bảo: chàng

đợi thiếp một chút! Nói xong cóc nhảy ngay vào một bụi cây rậm bên đường

cởi lốt thành một cô gái da trắng môi son, mày ngài mắt phượng làm cho anh

ngơ ngác. Ngoảnh vào bụi anh thấy một tấm da cóc vứt lại một đống lù lù ở

gốc cây. Hiểu ra đó là cái lốt của vợ mình, lập tức anh chạy vào xé nát tấm da

cóc.

Hai vợ chồng sánh vai bước vào cổng trường, mọi con mắt đều tròn xoe

kinh ngạc vì vợ anh học trò mà họ tưởng là cóc thì lại là một tuyệt thế giai

nhân. Từ đó hai vợ chồng quấn quýt với nhau không rời.

2/ LẤY CHỒNG DÊ (KINH)

Ngày xưa ở một vùng gần biển, có hai vợ chồng nhà nọ đầu tóc đã hoa

râm mà vẫn hiếm hoi. Vợ chồng cầu khẩn khấp nơi mong có một mụn con khỏi

phải hiu quạnh lúc tuổi già. Thế rồi, người vợ bỗng mang thai, chín tháng mười

ngày đẻ ra một con dê đực. Chồng bực mình bảo vợ ném quách xuống sông cho

khuất mắt. Trong lòng phiền não, người chồng ốm rồi từ giả cõi đời. Dê mau ăn

chóng lớn, biết trông gà, chăn lợn…

Một hôm, dê bảo mẹ đến hỏi con gái phú ông làng bên cho dê làm vợ.

Vừa nghe nói, phú ông đã đùng đùng nổi giận, quát mắng om sòm, cuối cùng

phú ông cũng cho gọi các con ra và hỏi xem cô nào bằng lòng lấy dê làm chồng

thì ông sẽ gả.

Hỏi cô gái đầu lòng: cô gái quýt mẹ dê một cái rỏ dài rồi hối hả đi vào

không quên buông một câu nói vội: úi dào! Chồng người chả lấy, lại lấy chồng

dê!

Hỏi cô gái thứ hai, cô cũng trả lời như vậy. Đến cô gái thứa ba, cô khép

nép cuối đầu thưa: cha mẹ đặt đâu con xin ngồi đấy! Lão phú ông đành thách

cưới cho rõ nặng. Hắn bèn đòi mẹ dê phải đủ sính lễ: 100 trâu bò, 100 lợn, một

mâm vàng, một mâm bạc mới được đón dâu.

Đêm hôm ấy, dê bước ra sân trút lốt dê thành một chàng trai trẻ, khi

chàng hô lên: “lấy cho ta mọi thứ để làm sính lễ” lập tức các gia nô xuất hiện

rất đông, họ đội đến đủ số vàng bạc và dắt đến đủ số trâu, bò, lợn rồi biến mất.

Chàng trai lại chui trở vào lốt dê, gọi mẹ dậy nhận đủ lễ vật để sửa soạn ngày

mai đưa sang cho phú ông.

Ngày rước dâu, dê bon bon đi trước, còn cô gái út phú ông lẽo đẽo theo

sau cùng với hai chị. Sau khi vào buồng làm lễ hợp cẩn, cô gái bỗng thấy chồng

mình trút lốt dê ra thành một chàng trai tuấn tú thì vừa sợ, vừa mừng. Sáng dậy

chồng lại chui vào lốt dê như cũ rồi ra ngoài. Hai chị dò hỏi em về chồng dê và

khuyên em phá lốt dê đi để chấm dứt cuộc đời đội lốt.

Hơn một năm sau, một hôm, chồng trao vợ một con dao, một hòn đá lửa,

dặn rằng: “tôi có một số công việc phải vượt muôn trùng sóng nước, chưa hẹn

được ngày về, cũng không thể đem nàng đi theo được. Nàng ở nhà nhớ đừng đi

đâu xa. Hai vật hộ thân này hãy luôn luôn mang bên người đừng quên, có khi

dùng được việc”. Dê ra đi. Hai chị đến rủ em đi trẩy hội, cả ba xuống thuyền

thừa lúc em vô ý bất thần hai chị đẩy em xuống biển. Bị con cá kình lao tới đốp

ngay vào bụng, trong bụng cá nàng đâm chém dữ dội, cá kình chết, xác cá giạt

vào một hòn đảo hoang, vợ dê rạch bụng cá chui ra ngoài. Nàng dựng lều, đốt

củi lên sưởi và xẻo thịt cá kình nướng ăn.

Một hôm, vợ dê nhìn ra xa thấy có bóng một cánh buồm trắng, nàng ra

hiệu cầu cứu và vợ chồng dê gặp lại nhau mừng mừng tủi tủi. Khi thuyền về

đến nhà, dê giấu vợ không cho ai biết, rồi dọn cỗ linh đình để cúng vợ. Sau

cùng, dê đưa vợ ra chào hai chị. Hai chị vừa thẹn vừa sợ, len lén bước ra khỏi

cổng, đi được một quảng chúng bị thần sét đánh chết. Hai vợ chồng dê sống

hạnh phúc suốt đời.

3/ ÔNG TRẠNG LẤY RÙA (KINH)

Giáp Hải là một nho sĩ nghèo rất ham học. Ngày nọ, ông qua đò gặp lúc

hai vợ chồng người chèo đò muốn làm thịt con rùa. Giáp Hải mua lại con rùa

đem về nhà nuôi chứ không ăn thịt.

Mỗi buổi đi học về, Giáp Hải thấy nhà cửa ngăn nắp sạch trơn, lại có

mâm cơm dọn sẵn, Giáp Hải thấy làm lạ và không biết ai đã giúp mình. Một

hôm, Giáp Hải giả đi học, rồi quay trở về đứng trước cửa rình xem. Giáp Hải

thấy một cô gái xinh đẹp tuyệt vời từ trong mai rùa chui ra làm các công việc

hàng ngày. Giáp Hải bước vào lấy cái mai rùa giấu đi, Giáp Hải hỏi: nàng là ai

sao lại ở trong cái mai rùa này? Nàng đáp: thiếp là công chúa thủy cung, nhân

đội lốt rùa lên trần ngoạn cảnh chẳng may lọt vào tay vợ chồng người chèo đò,

nhờ chàng đến cứu kịp. Cảm ơn ấy nên ngày ngày thiếp dọn dẹp trong nhà, hầu

hạ cơm nước để trả nghĩa cho chàng…

Công chúa thủy cung đưa Giáp Hải xuống thủy cung, Long Vương đồng ý

gả công chúa cho Giáp Hải nhưng bắt chàng phải nán lại ít lâu học hành với

ông thầy danh tiếng đến khoa thi sẽ về. Giáp Hải thi đỗ Trạng nguyên và làm

đám cưới thật linh đình. Hai vợ chồng sống hạnh phúc với nhau.

4/ NÀNG TIÊN CUA VÀ CHÀNG ĐÁNH CÁ (KINH)

Thuở xa xưa ấy, có một chàng trai mồ côi cả cha lẫn mẹ. Khi cha mẹ qua

đời, để lại cho chàng một gian nhà tranh rách nát, một chiếc thuyền nan và một

số cần câu cá.

Một hôm đang câu cá, chàng thấy một con cua có bộ càng vàng óng và

chiếc chiếc gộp màu hoa đá rất đẹp, bơi lơ lửng trước mặt chàng. Ngồi trên

thuyền, chàng ngắm con cua quên cả việc câu cá, thấy chàng say sưa ngắm

mình, con cua càng thích bơi lượn hơn. Một hôm đang câu cá, con cua đá lại

xuất hiện trước mặt chàng. Chàng thò tay vào vợt bắt cua ra để trên lòng bàn

tay mà ngắm nghía. Lạ thay khi chàng nhìn kỹ vào gộp cua, thì bỗng thấy hình

ảnh một người con gái cười nhìn chàng. Chàng tưởng mình nằm mơ nhưng

đúng là sự thật.

Chàng đặt cua đá vào nuôi trong một vại nước bằng sành đặt ngay ở góc

nhà, cua đá trở thành nguồn vui, nguồn tình cảm thiêng liêng của chàng. Bỗng

một hôm, chàng đi câu về không nhìn thấy cua đá nữa, chàng khóc thê thảm.

Bụt hiện lên và bảo: “ta thương con cần mẫn lao động, sống lương thiện và cô

đơn, nên ta đã đem giấu bộ áo của người bạn gái yêu quý của con, để nàng về

làm vợ con. Hiện giờ nàng đang dạo chơi đâu đó. Ta cất giấu bộ áo khoác

ngoài của nàng ở hang đá kia, lúc nào thấy cần thì con đến đó mà lấy”. Nàng

cua đá đi chơi về, nàng không tìm thấy bộ quần áo ngoài đâu nữa. Họ kết thành

vợ chồng. Hai người ăn ở với nhau thật đầm ấm và hạnh phúc, họ chăm chỉ làm

việc và trở nên giàu có.

Tên nhà giàu sai bọn tay sai đến bắt nàng về làm vợ. Bụt hiện lên giúp hai

người thoát nạn và trở lại cuộc sống như xưa. Tên nhà giàu độc ác bị sét đánh

chết, xác hắn bị gió cuốn tung ra biển khơi làm mồi cho bầy thủy quái.

5/ NÀNG TIÊN ỐC (KINH)

Xưa có người con trai, cha mẹ chết sớm, sống một mình trong túp lều ven

núi. Ngày ngày, anh lên nương gieo lúa, tỉa ngô, hoặc vào rừng lấy củi đem ra

chợ bán. Khi rảnh rỗi, anh lên động săn bắn thế nhưng cuộc sống vẫn đói ăn,

thiếu mặc, thiếu thốn khổ cực trăm đường.

Một hôm ra khe định kiếm con cua con cá, nhưng mãi non trưa, anh chỉ

bắt được một con ốc rất to, vỏ có vân xanh óng ánh. Anh bèn thả vào vò nước

để nuôi. Từ đó anh đi nương về đều có cơm canh dọn sẵn. Thấy sự lạ, anh con

trai cố ý dò xem ai là người tốt bụng nào đến giúp mình. Anh ra đi như thường

ngày nhưng đi được nửa đường anh quay về, nấp rình sau tấm vách. Anh sửng

sốt thấy một người con gái áo xanh, má hồng, da trắng trông rất duyên dáng dịu

dàng, lúi húi dọn dẹp cửa nhà rồi xuống bếp nấu cơm.

Người con trai bối rối nhưng đánh bạo xô liếp bước vào. Cô gái hoảng

hốt, định chạy trốn nhưng không kịp, đành nói thật: em chính là con gái thứ

mười của nhà trời. Trời thấy chàng siêng năng, can đảm mà phải chịu cảnh

nghèo khổ, cô đơn, nên sai em xuống giúp chàng. Chàng trai đập tan vỏ ốc. Hai

người trở thành vợ chồng, ăn ở với nhau rất hòa thuận. Đi đâu, hai người cũng

không rời nhau một bước. Họ sống hạnh phúc bên nhau đến trọn đời.

6/ CHÀNG NHÁI (KINH)

Xưa, có một người đàn bà chồng mất sớm không có con phải sống một

mình. Một hôm, trời nắng nóng, bà xuống sông tắm, thấy có miếng bưởi đang

trôi bèn vớt lên ăn. Về nhà, bà cảm thấy trong người hơi khác và sau đó mang

thai sinh ra một con nhái. Dù rất hoảng hốt và lo sợ trước sự xa lánh, khinh khi

của mọi người đối với hai mẹ con bà. Nhưng bà vẫn cố nuôi Nhái khôn lớn.

Nhái được mười tuổi. Một hôm nhái đòi mẹ cưới vợ cho mình, mẹ nhái

ngạc nhiên nói: con là cóc, con là nhái mà đòi có vợ gì ? Nhái trả lời mẹ: mẹ cứ

cưới vợ cho con đi, nhưng phải là công chúa con vua mới được ! Nhà vua ra

điều kiện cho mẹ nhái: nếu muốn cưới con gái ta thì phải có đủ các món lễ vật

sau: một trăm cái mặt trời, một trăm con voi, một trăm con cọp, một trăm con

sư tử, một trăm con báo. Thứ gì cũng đủ một trăm, nếu không thì hai mẹ con bà

bị chém đầu... Gần đến hẹn, nhái thả hồn về trời kêu tiên trên trời đem mọi thứ

cần thiết xuống trong ngày cưới. Đúng ngày hẹn, trong cung, nhà vua cho gọi

ba công chúa ra đợi mẹ con nhái đến cầu hôn. Nhái liền chỉ ngay nàng công

chúa út tên Thu Nguyệt. Vua đòi sính lễ, nhái vội lấy ra một cái túi nhỏ xíu rồi

quăng xuống sàn cung điện, lập tức các món lễ vật đúng như nhà vua yêu cầu

đua nhau chui ra khỏi túi chật cả cung vua. Vua đồng ý gả công chúa út cho

nhái.

Vợ chồng nhái sống với nhau được hai năm, thì nhái nảy ra ý định muốn

thử tấm lòng của vợ đối với mình bèn xuất hồn lên trời làm như mình đã chết.

Vợ nhái tưởng chồng chết thật nên khóc thương thảm thiết và vẫn sống vậy để

nuôi mẹ chồng trong khi rất nhiều chàng trai đến cầu hôn. Nhái lột bỏ lốt vỏ

nhái hóa thành chàng trai khôi ngô tuấn tú, xuống trần cải trang thành một công

tử phương xa đến hỏi cưới công chúa Thu Nguyệt, nhưng năn nỉ mãi công chúa

vẫn một mực chung thủy với chồng nhái. Lúc này, nhái mới nói thật với nàng.

Chồng của nàng chưa chết đâu, mà chính là ta đây. Nói rồi, chàng liền lấy bộ

da nhái ra và biến thành con nhái như xưa cho vợ tin, sau đó biến trở lại thành

người bình thường và đốt bộ da nhái đi. Từ đó, chàng nhái cùng công chúa

sống hạnh phúc bên nhau suốt đời.

7/ CHÀNG TÔM (KINH)

Ngày xưa, có hai vợ chồng sinh ra một con tôm, nuôi đến mười bảy,

mười tám tuổi vẫn không lớn được bao nhiêu. Một hôm, chàng tôm nói với mẹ

rằng: mẹ hãy đến nhà ông cả xin cho con giữ trâu. Người mẹ đến nhà ông Cả

hỏi, ông nói rằng: hãy dắt con tôm lại đây nếu nó mở cổng thả trâu ra được thì

ta cho nó chăn. Tôm đến nhà ông Cả lấy càng búng dây buộc ra mở cổng rồi

mở dây buộc trâu. Tôm đuổi trâu đi bằng cách búng càng. Ông Cả thấy thế liền

nhận tôm và giao bầy trâu cho anh. Ngày thứ nhất, ông giao cho đứa con gái

lớn đi đưa cơm cho tôm, ngày thứ hai là cô con gái kế của ông, ngày thứ ba là

cô gái út. Một hôm đúng ngày cô út đưa cơm, vì vào tháng hạn vỏ tôm bị ướt

nên tôm cởi vỏ ra phơi và hiện nguyên hình là một chàng trai khôi ngô tuấn tú.

Cô út không chịu đưa cơm cho chàng vì cô không hề biết chàng chính là người

mang lốt con tôm kia, khi nhìn thấy vỏ tôm, cô út mới tin là tôm thực sự. Cô út

quyết định theo chàng về nhà. Chàng tôm không dám dắt nàng út về nhà mà dắt

đi gặt. Tối về ngủ ngoài đống rơm, chàng tôm lột vỏ để ra ngoài. Cô út thấy

vậy bèn lấy vỏ tôm xé ra nhét vào hang chuột. Chàng tôm không còn vỏ để

chui vào phải hiện nguyên hình một chàng trai tuấn tú. Chàng và cô út yêu

nhau và coi nhau như vợ chồng. Sau đó, hai vợ chồng dắt nhau về nhà ông Cả

ở. Hai cô chị thấy chàng tôm đẹp quá cũng muốn có một người chồng như vậy

nên ra chợ mua mỗi người một con tôm về thả nuôi. Ngày hôm sau, tôm của

hai người chị đều chết nên họ tức lắm. Hai vợ chồng chàng tôm sống bên nhau

hạnh phúc trọn đời.

8/ CÓC TIÊN (KINH)

Ngày xửa ngày xưa, Ngọc Hoàng phái một chư tiên xuống trần gian đầu

thai ở các nhà giàu. Nhưng vì mê chơi, đến lúc gà gáy chư tiên không biết đầu

thai vào đâu. Đúng lúc đó, chư tiên thấy một con cóc chết bèn chui vào xác con

cóc và trở thành cóc tiên. Hai vợ chồng già nghèo đi xúc tép. Họ xúc trúng cóc

tiên. Cóc tiên bảo ông mang mình về nhà nuôi. Cóc bảo: Ông bà cứ mang tôi về

nuôi, tôi làm được nhiều việc lắm! Về đến nhà cóc hát cho ông bà nghe. Tiếng

hát của cóc bay đến tai dân làng. Họ đến nghe cóc hát ngày một đông và cho

hai vợ chồng ông lão rất nhiều tiền, gạo, trầu cau. Sống với ông bà được một

thời gian, cóc nói mình muốn lấy công chúa làm vợ. Cóc tha thiết xin ông bà

đến hỏi công chúa cho mình. Vua gọi các con ra hỏi, cô út nhận lời lấy cóc tiên.

Chàng cóc sau khi lấy vợ thì ngày đội lốt xấu xí nhưng đêm lại hóa thành

người ngủ chung với công chúa. Một hôm, chàng cóc muốn thử lòng công chúa

bèn hóa thành một chàng trai đẹp đến chọc ghẹo và nói: sao cô lại thương chi

thằng cóc xấu xí dơ bẩn ấy? Cô hãy thương tôi và đồng ý làm vợ tôi nhé! nàng

không ngần ngừ mà đáp lại: tôi lấy người nào thì tôi chung thủy với người ấy.

Tôi không bao giờ đổi ý cả. Ít lâu sau, ở biên giới có giặc ngoại xâm sang xâm

lấn bờ cõi. Nhà vua liền chọn rể tài đi đánh giặc. Các chàng rể đi trước đều thất

trận trở về. Vua bảo cóc đi đánh giặc. Trước khi từ biệt vợ chàng cóc nói: khi

nào ta trở về nàng hãy cầm chiếc khăn làm hiệu. Nếu có ai đến giật khăn thì

người đó chính là ta.

Sau khi dẹp yên bờ cõi, thắng trận trở về cóc bỏ lốt cũ trở thành một chàng

trai khôi ngô tuấn tú. Chàng được đức vua truyền cho ngôi báu và cùng công

chúa út sống hạnh phúc trọn đời.

9/ CHÀNG HẾN (KINH)

Ngày xưa, có hai vợ chồng nọ sống với nhau mãi không có con phải đi

cầu tự ở nhiều nơi. Một thời gian sau, người vợ sinh được một đứa trẻ rất kỳ lạ,

không giống người mà giống khỉ nên đặt tên là Hến. Hến bảo cha mẹ tới nhà

giàu nhất vùng xin cho mình đi giữ trâu. Ông nhà giàu bảo Hến làm bảy ngày

không lấy tiền công, nếu được ông sẽ nhận. Hến nghe vậy nhanh nhảu nói: tôi

sẽ không lấy tiền công, tôi ở cho ông một năm nhưng chỉ xin lấy đầy hai lỗ tai

lúa thôi. Ông nhà giàu nghĩ thằng này có lỗ tai nhỏ có đáng là bao nhiêu lúa, kệ

mướn nó đại đi. Ở đủ một năm, Hến bảo mẹ đến lấy lúa. Ông nhà giàu thấy

Hến có lỗ tai nhỏ mà thuê nhiều ghe đến chở lúa thì ngạc nhiên, ông cho người

con gái tên Hai của mình lấy muỗng xúc lúa đổ vào tai Hến, nhưng đổ hoài vẫn

chưa đầy. Cô Hai thấy vậy lấy thúng xúc lưng bồ lúa đổ vào tai Hến cũng vẫn

chưa đầy. Hến nghiêng một tai đổ đầy ghe lúa rồi kêu mẹ mang về trước. Ông

nhà giàu thấy vậy, hoảng sợ không dám mướn Hến nữa.

Hến bảo mẹ đến hỏi cưới con gái ông nhà giàu cho mình. Hến kể: hồi

trước, cô út hàng ngày mang cơm ra cho con. Một lần cô ấy thấy con lột bỏ lốt

khỉ trở thành chàng trai khôi ngô tuấn tú đi xuống sông tắm thì đem lòng

thương yêu con. Cô út nhận lời lấy Hến. Ông nhà giàu vì bất đắc dĩ phải gả cô

út cho Hến nên từ đó đăm ra ghét vợ chồng Hến và chỉ cho họ ở chuồng trâu

không được bén mãn lên nhà. Hai chị rình xem và ngạc nhiên khi thấy Hến

không còn là con khỉ nữa mà là một chàng trai đẹp nên tức lắm. Họ tìm cách

hãm hại cô em út để cướp chồng nhưng không thành. Hai cô chị ra bìa rừng

mua hai con khỉ về làm chồng. Khỉ phá phách lung tung, hai cô chị xấu hổ nhảy

xuống sông tự vẫn.

10/ HOÀNG TỬ RẮN VÀ NÀNG HOA SEN (KINH)

Ngày xửa ngày xưa, ở một xứ nọ có vợ chồng vua và hoàng hậu sống với

nhau lâu năm mà không có con. Nhà vua nghe nói lên núi thiên thai cầu con là

có thể sinh được công chúa, thái tử nên cùng vợ lên đường. Trên đường đi, họ

gặp một cái hang rắn hổ có rất nhiều rắn con. Hoàng hậu chứng kiến cảnh âu

yếm của rắn mẹ, rắn cha dành cho rắn con nên rất cảm động thò tay bắt một

con rắn nhỏ lên hôn. Trở về hoàng cung hoàng hậu có mang, hoàng hậu sinh ra

một cái bọc, bên trong là một con rắn. Khi chiếc bọc được sinh ra thì sấm sét

nổ vang rền, triều đình lo ngại đây là quái vật nên đòi giết đi. Nuôi đến lớn

nhưng rắn không ăn uống gì cả.

Ở một làng quê nọ, có một cặp vợ chồng sinh được một cô con gái rất

xinh đẹp, nàng có tên là Hoa Sen. Một ngày kia, có lệnh bắt con của dân làng

cho rắn ăn thịt, nàng Hoa Sen bị bắt đến hoàng cung trong khi đang chăn trâu

ngoài đồng. Một tiên nữ trên trời bay xuống khuyên Hoa Sen nên trét bùn lên

mặt, nhưng tiên nữ nói rằng dù người ta có bắt thì nàng cũng sẽ là mẫu nghi

thiên hạ. Trước khi bị đẩy xuống hầm, nàng trăn trối: cha mẹ đừng quá lo buồn,

đây là số phận của con. Công lao cha mẹ con luôn nghi nhớ.

Nàng bị xô xuống hầm. Bỗng nhiên có một tiếng sấm nổ vang trời, con

rắn lột xác biến thành một vị hoàng tử vô cùng khôi ngô tuấn tú. Chàng kịp giơ

tay đỡ lấy Hoa Sen. Nhà vua thấy thế liền cưới nàng cho con mình và nhường

ngôi lại cho hoàng tử. Nàng Hoa Sen được phong làm hoàng hậu. Hai vợ chồng

sống hạnh phúc bên nhau mãi mãi.

11/ NÀNG CÁ MĂNG (THÁI)

Một anh chàng mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, anh phải sống vất vả quanh

năm suốt tháng. Không có đất, anh đành đến bãi tha ma phát cây, đào đất, làm

ruộng. Anh gieo được mạ non, nhưng lại bị giẫm nát, anh rình bắt được một

đứa bé là Phi Nọi và hai người kết nghĩa anh em.

Một hôm Phi Nọi cùng anh ra sông câu cá, họ không bắt được con cá nào,

mãi đến chiều mới bắt được một con cá nhỏ, anh đem cá về nuôi. Đó là một

con cá măng rất xinh đẹp. Hai anh em vẫn đói nghèo lam lũ.

Một hôm, hai anh em đi làm về, thấy cửa nhà sạch sẽ và có sẵn mâm cơm

canh, người anh thấy lạ. Một hôm đang nửa buổi làm nương, người anh trốn về,

lẻn lên nhà xem sao thì thấy một người con gái có sắc đẹp lạ lùng, cả mấy

mường không cô nào sánh kịp, đang nhóm lửa thổi cơm. Chàng sực nhớ đến

con cá, se sẽ ra nhìn vào cái chum nhưng không thấy cá đâu, chỉ còn là cái xác

cá nổi bồng bềnh. Chàng đoán chắc người con gái ấy chính là con cá măng mà

bấy lâu mình nuôi, chàng đập vỡ chum và nắm xác cá trong tay. Nàng cá măng

bằng lòng ở lại làm vợ chàng. Gia đình chàng sống hạnh phúc.

Nhưng tin nàng Pa Cảo xinh đẹp lọt đến tai một hung thần mường trời,

hắn say Ong vàng, Rắn, Báng đến bắt hồn nàng Pa Cảo về cho hắn làm vợ.

Được sự giúp đỡ của Phi Nọi, nàng Pa Cảo được cứu sống. Phi Nọi về trời. Hai

vợ chồng nàng Pa Cảo sống yên bình hạnh phúc.

12/ CHÀNG RÙA (THÁI)

Ngày xưa, ở một bản nọ tại vùng mường Quén có một bà già, chồng chết,

không con cái, sống cô đơn trong một cái nhà sàn nhỏ bé. Bà sống bằng nghề đi

mò cua bắt ốc. Cả cuộc đời cần cù chăm chỉ làm ăn mà lúc nào bà cũng thiếu

thốn đói nghèo. Một hôm, trời mưa lâm thâm, bà đeo giỏ đi mò cua từ sáng

sớm đến chiều, bà chỉ bắt được một con rùa. Về nhà định làm thịt rùa thì bỗng

nghe tiếng nói: «mẹ ơi, đừng làm thịt con, hãy cố gắng nuôi con, lớn lên con sẽ

giúp mẹ». Bà đặt rùa vào cái mảng sành nuôi nấng tử tế. Rùa lớn nhanh như

thổi và rùa xin mẹ đi phát nương, làm rẫy. Một hôm, rùa bảo mẹ sắm túi đựng

trầu, ống vôi, dao con và mua cho một chiếc khèn bè để rùa đi chơi với con gái.

Tạo mường có bảy cô con gái. Rùa gọi bảy cô thương mình với, nhưng sáu cô

không để ý đến rùa, chỉ có nàng Lả - cô gái út bằng lòng cầm trầu của rùa đưa.

Rùa bảo mẹ đem hai quả dưa già làm quà đến nhà Tạo mường hỏi nàng Lả làm

vợ. Tạo mường rất bực, cầm hai quả dưa ném theo. Quả dưa vỡ nát, văng ra

toàn vàng, bạc. Tạo mường bảo rùa đem đến mười quả dưa nữa, sẽ gả nàng Lả

cho. Sáu cô chị cười em lấy chồng rùa.

Khi Tạo mường đã già, gọi bảy chàng rễ đến bảo: «ta muốn uống nước

nhọt nhoi, muốn ăn thịt hươu nai tái, muốn ăn gỏi cá, muốn ở trong một cái nhà

sàn to, cao, rộng ». Tất cả sáu chàng rể kia không làm được, duy chỉ có rùa làm

được các việc trên. Trời sáng, khi cha mẹ và sáu anh chị dậy, thấy mình nằm

trong một lâu đài cao ráo, đẹp đẽ, ai nấy ngạc nhiên. Tất cả đều yêu quý rùa.

Cha mẹ bảo rùa làm nhà để ở, rùa làm nhà trong một cái hủm hẻo lánh.

Nàng Lả đi theo rình xem chàng rùa làm ra sao. Rùa vừa lột mai thì có hàng

trăm người cầm dao đi vào rừng. Còn rùa là một chàng trai khôi ngô tuấn tú,

cưỡi con ngựa quý, chỉ bảo việc cho mọi người. Nàng Lả xô tới, lấy cái lốt rùa

đem về nhà đốt đi. Rùa nghe mùi khen khét, rùa chạy về nhưng không kịp, cái

xác rùa đã bị đốt cháy gần hết, rùa nói: «nàng ơi, chỉ còn ít ngày nữa, anh sẽ hết

hạn bị đày làm con rùa. Chúng ta sẽ chung sống trong ngôi nhà mà anh đang

làm dở. Nhưng bây giờ nàng đốt mất xác anh rồi. Then biết, then nổi giận. Thôi

anh đi đây... ». Nói xong, rùa chảy nước mắt từ biệt mẹ rồi phi ngựa đi thẳng...

Nàng Lả được ông lão tóc bạc phơ cho cành lá đem về cứu sống chàng rùa.

Hai người sống hạnh phúc cùng dân bản.

13/ CHÀNG CHỒN (THÁI)

Ngày xưa ở vùng mường Khay có một ông chẩu mường giàu có sinh

được chín cô con gái. Tám cô đã lấy chồng, chỉ còn cô Lả -cô gái út, được cha

mẹ cưng nhất chưa lấy ai. Một hôm cô Lả đi thăm rừng mét của nhà mình. Từ

xa vọng lại một điệu sáo kỳ lạ, nghe như nhắn nhủ, nghe như mời chào, nghe

du dương gợi bổng. Cô thấy một chàng trai, mặt mũi khôi ngô đang ngồi tựa

gốc cây thổi sáo. Cô Lả đến gần, họ chuyện trò cùng nhau. Chàng là Thánh

Chồn. Mặt trời sắp khuất sau lặng núi, thánh chồn chào cô gái ra về. Nói xong

chàng biến mất. Bên cạnh nàng bỗng có một con chồn. Con chồn nhìn nàng

quyến luyến. Cô Lả ốm tương tư thánh chồn. Một hôm, tiếng sáo kỳ lạ bỗng

vút lên, cô gái chạy đuổi theo tiếng sáo và đến gốc cây nơi thánh Chồn đang

ngồi thổi sáo. Nàng Lả ôm chầm lấy thánh chồn, nàng nhắm nghiền mắt và

miệng thốt những lời nhớ nhung, nhưng khi mở mắt ra thì trước mắt nàng

không phải là chàng trai mà là một con chồn. Nàng Lả bồng chồn về nhà. Cha

mẹ định đem con chồn làm thịt, nàng nói: Đây là chồng con. Ngày đêm quấn

quýt bên con chồn. Một hôm chẩu mường gọi tất cả các rể đến giao cho mỗi

người ba chục con trâu để mai đi dẫm ruộng. Nàng Lả lo lắng đưa cặp mắt nhìn

chồn. Đêm hôm ấy thánh chồn hiện hình thành chàng trai thổi sáo bảo vợ.

Nàng cứ nhận ba mươi con trâu. Sáng mai ra ruộng, nàng lấy chạc buộc mũi

con trâu đầu đàn cho chắc chắn nhé... Đến non trưa, phần ruộng của chồn đã

xong. Tám anh rể lấy làm lạ. Cha mẹ cũng lấy làm lạ.

Chẩu mường lại muốn ăn thịt nai. Chồn vào rừng biến thành một lực sĩ,

cầm chiếc áo giũ lông ra, mỗi lông biến thành một người lính. Chàng bắt được

hàng chục con nai. Cha mẹ nàng rất bằng lòng.

Bỗng có tin quân giặc đến cướp phá các bản xung quanh vùng mường

Khay, chẩu mường lo sợ, chẩu mường cầu cứu vợ chồng chồn. Chồn bảo kiếm

cho chồn một nghìn giáo sắt và một con ngựa. Quân giặc tới, chồn lại cởi áo

giũ lông ra thành một đoàn quân. Chàng chỉ huy đoàn quân đánh tan bọn giặc

trong chốc lát. Chàng thu quân và không mặc áo lông chồn vào nữa. Oai

nghiêm trên lưng ngựa, chàng trở về trong nỗi vui mừng vô hạn của dân bản.

Chàng và nàng Lả sống hạnh phúc bên nhau.

14/ CHUYỆN CON CẦY BAY (THÁI)

Xưa có cậu bé người Thái, mồ côi cha mẹ từ nhỏ, mang tên là Bun. Bun

sống một mình trong túp lều cỏn con với tất cả gia tài của bố mẹ để lại là một

cái lưỡi câu. Một hôm, Bun vác cần câu ra suối. Bun chỉ câu được một con ốc

bùn, mình phủ đầy rêu. Mang ốc về nhà, Bun bỏ con ốc lên gác bếp và ngủ

thiếp đi.

Sáng hôm sau, Bun dậy sớm đi câu. Nhưng chàng không câu được đến

một vẩy cá. Bun về nhà và rất ngạc nhiên, khi thấy giữa túp lều rách nát lại có

một mâm cơm toàn những thịt những cá và xôi dẻo còn tỏa hơi thơm ngọt. Từ

đó, cứ mỗi lần đi câu về đều có sẵn mâm cơm như thế. Một hôm, sau bữa cơm

chiều, Bun ra ngồi bên cửa hóng mát bất chợt nhớ đến con ốc mà mình đã câu

được bữa trước. Bun lấy ra, chỉ còn là vỏ ốc. Bun vứt xuống gầm sàn và trúng

phải hòn đá, vỏ ốc vỡ tan từng mảnh. Ngay lúc ấy bỗng có một người con gái,

đôi môi đỏ như cánh hoa vàng xuất hiện. Nàng lao từ trong nhà ra túm lấy cổ

tay Bun rồi nàng chúm chím đôi môi: sao anh làm nát mất cái áo của em. Thế

là anh sẽ phải lên tận sau mặt trăng mà mua áo về đền em đấy nhá. Hai người

trở thành vợ chồng, sống bên nhau hạnh phúc. Chẳng bao lâu sao tiếng tăm về

nàng tiên ốc xinh đẹp, tài giỏi lấy Bun làm chồng đã vang xa tới tai cầy bay.

Hồi ấy cầy bay là chúa tể muôn loài. Nó sai bọn tay chân đi tìm bắt nàng tiên

ốc về cho nó làm vợ. Nó sai đười ươi đi, đười ươi bị chàng Bun nhốt vào lồng

định giết, nó xin tha mạng và giúp chàng Bun chống lại cầy bay. Cầy bay sai

rết, Bun giết rết, cầy bay sai tướng rắn, thuồng luồng... đều bị chết dưới tay

Bun. Cuối cùng cầy bay thân chinh xuống bắt nàng tiên ốc. Cầy bay bị trúng kế

của đười ươi, van xin Bun tha chết và hứa trả vợ lại cho Bun. Nàng tiên ốc

sống lại. Hai vợ chồng Bun sống hạnh phúc bên nhau.

15/ CHÀNG DÊ (MÈO)

Ở trong một làng trên đỉnh núi cao chót vót kia có một con dê thần. Dê

thần có nhiều phép lạ, dê xuống núi tìm vợ, dê tìm đến nhà một ông quan to, có

hai người con gái đẹp như mặt trăng mặt trời. Quan cho gọi hai cô con gái ra.

Quan hỏi cô gái lớn. Cô lớn bĩu môi, đỏng đảnh trả lời: “bao nhiêu người

quyền cao chức trọng đến hỏi con, con còn chưa thèm lấy, huống hồ một con

dê bẩn thỉu hôi hám như thế này. Xin cha cho đuổi cổ con dê láo xược này đi”.

Quan hỏi đến cô gái út, cô gái út bằng lòng làm vợ dê. Quan đành thách cưới

thật nhiều vàng bạc châu báu, của ngon vật lạ để thử tài chàng dê. Đến hẹn dê

đem những vật thách cưới đến nhà đến nhà quan, quan vui vẻ bằng lòng. Ngày

cưới dê ở rể nhà quan. Tối đến, hai vợ chồng vào buồng. Cửa buồng vừa khép

chặt, dê đã biến ngay thành một chàng trai tuấn tú khác thường. Da chàng trắng

như trứng bóc, mắt chàng sáng như ông sao trên trời, và miệng chàng cười tươi

như hoa mới nở. Cô dâu sung sướng không nói sao cho đủ lời. Một đêm, lừa

lúc chàng ngủ say, nàng hai lấy da dê đốt ra tro. Đến sáng, chồng thức dậy,

không biến hình thành dê được nữa. Hai vợ chồng chàng trong nhà bước ra, bố

mẹ, họ hàng, làng xóm, ai ai cũng ngạc nhiên và trầm trồ khen ngợi cặp vợ

chồng xứng đôi đẹp lứa. Còn cô chị cũng ao ước lấy được chồng dê như em,

bắt một con dê đi lạc về làm chồng, bị dê húc ngã lăn ra đất. Đau quá cô kêu

khóc ầm nhà. Từ đó cô chị hết thói đỏng đảnh khinh người. Hai vợ chồng dê

sống với nhau hạnh phúc.

16/ NÀNG HƠ - LÚI (BA NA)

Xưa có bà lão sống với người cháu gái xinh đẹp là nàng Hơ – Lúi. Nàng

đẹp như tiên giáng trần. Nước da nàng ngăm ngăm và ửng hồng như màu nắng

đọng trên trái chín. Cặp mắt của nàng trong sáng và huyền bí như mắt thỏ rừng.

Và đặc biệt, mái tóc nàng uốn khúc như một dòng suối xanh vô tận. Hơ –Lúi

vào rừng hái bông, cô quên mang theo nước, do mải mê hái bông cố khát nước

đến khô cả cổ, Hơ –Lúi đi sâu vào rừng tìm nước uống. Tìm mãi nàng gặp một

vũng nước trong vắt dưới gốc cây sung. Nàng uống một hơi, mát cả ruột, nàng

nhìn thấy một dòng sông hiện ra uốn khúc giữa hai sườn đồi, Hơ –Lúi tắm

xong, dòng sông biến mất.

Nàng mang thai và bị người bà đuổi vào rừng ở. Một đêm nàng trở dạ và đẻ

ra một con cóc da vàng, mắt tía. Chú cóc bỗng nghến răng ken két. Trời nổi

gió, mưa sấm chớp đùng đùng. Trong tiếng sấm vang, một tiếng nói ồm ồm

vang động khắp rùng xanh, vang tới buôn làng nơi bà Hơ – Lúi ở. Tiếng nói

vang: “phải mang đứa bé, con của Hơ Lúi về buôn làng; phải nuôi nó từ sống

cho đến chết!” Cóc về ở với bà, buôn làng gặp hạn hán, ông cậu đưa cóc đi

chơi, đến gốc sung năm trước, cóc nghiến răng, trời đổ mưa rào, chưa bao giờ

có một trận mưa lớn đến thế. Sau trận mưa cóc biến thành chàng trai khỏe

mạnh có giọng nói như sấm vang. Chàng cóc về buôn, được tôn lên làm tù

trưởng, cưới vợ. Cóc làm diều lớn đem thả, Mơ tao bằng lòng đổi tất cả súc vật

của mình để lấy con diều cho cô con gái. Chàng cóc dùng ống điếu hút các súc

vật ấy đem về buôn làng mình. Từ đó, buôn làng của chàng càng trở nên giàu

có.

17/ CÓC VÀ HƠ - BIA PHU (BA NA)

Một hôm, bà Dá Xóc-ai đem thóc ra phơi ở ngoài đường lớn, rồi sai con

gái là nàng Bơ-roong-hia ngồi coi. Hôm ấy, chàng Đăm phu từ miền xa có việc

đi qua, lỡ để voi giẫm lên thóc. Bơ –roong-hia tiếc của, mắng ầm ĩ, rồi bỏ chạy

vào nhà hóa thành một chiếc sọt rách. Đăm phu bị mắng, giận lắm, chàng từ

lưng voi nhảy xuống, chạy vào nhà tìm xem ai là kẻ đã mắng mình. Tìm mãi

không thấy, ai, Đăm phu tức giận đái vào ngay nồi cơm trên bếp. Bơ-roong-hia

ăn cơm đó, nàng có chửa, về sau nàng sinh ra một con cóc. Lớn lên cóc biết nói

tiếng người. Cóc chỉ cho mẹ biết còn gạo trong bầu trên gác bếp, cóc dùng gạo

ấy bắt gà trời về đãi khách. Cóc đòi theo Bót Bơ-ga (anh ruột của mẹ cóc)

nhưng Bót Bơ-ga không cho. Cóc dùng mọi cách, Bót Bơ-ga đành phải mang

cóc đi theo, về đến nhà cóc phải ở trong buồng kín để người ta khỏi trông thấy.

Cóc ngồi trong buồng kín là lẩm nhẩm trong miệng. Ước gì các cô gái đẹp đến

đây thăm ta! Các cô gái kéo đến, thấy cóc bẩn thỉu, xấu xí, bọn con gái nhổ

nước bọt rồi bỏ đi. Chỉ riêng nàng Hơ-bia Phu là thương cóc. Nàng là con Bót

Ria giàu có nhất vùng. Nàng cũng là cô gái đẹp nhất. Thấy cóc bẩn thỉu, nàng

xé váy lấy vải lau cho cóc sạch sẽ. Đêm ấy, cóc ước cả buôn đi suốt cá hết chỉ

còn Hơ-bia Phu ở nhà dệt vải. Cóc ra nhà rông, hóa thành một chàng trai tuấn

tú ngồi gảy đàn. Tiếng đàn của cóc vang lên: «tình tính tang, tang tính tình, cô

nàng dệt vải sao không đến nói chuyện cùng ta?». Hơ-bia Phu giả vờ đi về, rồi

nàng nấp ở cạnh nhà rông để rình. Tưởng Hơ-bai Phu đã về, cóc lại biến thành

chàng trai tuấn tú ngồi đánh đàn. Từ đó Hơ-bia Phu đem lòng yêu cóc. Sợ cha

mẹ mình chê cóc, nàng đâm ra ốm tương tư. Bót Ría bắt con gái phải đuổi cóc

đi, nhưng Hơ-bia Phu một hai đòi lấy cóc làm chồng. Bót Ría đành bắt con gà

làm rễ cưới rồi đuổi vợ chồng cóc ra khỏi nhà.

Vợ chồng cóc đi, đến một khu rừng vắng, cóc liền lột xác, hóa thành

chàng trai tuấn tú. Chàng trai cầm một chiếc đũi làm phép, tức thì trước mặt hai

vợ chồng hiện lên đủ nhà cửa, trâu bò, lúa gạo và kẻ hầu người hạ. Vợ chồng

cóc có cuộc sống rất sung sướng trong một tòa lầu bằng vàng lộng lẫy. Năm

sau Hơ-bia Phu sinh được một con trai. Nó giống cha như đúc. Hơ –bia Phu đặt

tên con là Đăm Pen. Một hôm, Hơ-bia Phu sai Đăm Pen về nhà mời ông bà

ngoại sang nhà cóc chơi. Bót Ría bảo phải chàng cóc phải đắp một con đường

từ nhà ông sang nhà cóc và phải có những con voi đứng xếp hàng để ông có thể

đi trên lưng voi mà đến thì ông mới đi, chàng cóc làm đúng như thế. Khi về cóc

biếu cho Bót Ría một con trâu bé xíu, Bót Ría không thèm và lấy ống điếu đập

vào đầu trâu nhưng càng đập trâu càng lớn, Bót Ría rất thích và dẫn trâu

về…Về sau, nhà của chàng càng ngày càng giàu có còn nhà của Bót Ría càng

sa sút mãi, Bót Ría phải chống gậy đến xin của con gái và con rể. Vợ chồng

chàng cóc thương hại quá, họ đã rước hai vợ chồng Bót Ría đến ở với mình.

18/ CHÀNG RỂ CỌP (DAO)

Một ông Vua nọ có ba người con gái xinh đẹp. Cả ba nàng đều được vua

cha cho tự do chọn chồng. Hai người chị chở mảng đi kén được chồng người

đẹp trai. Nàng Ba thấy một người đen đủi, xấu xí và mời người đó lên mảng.

Chàng trai vừa bước lên mảng bỗng biến thành một con cọp vằn, ngồi chễm

chệ đằng trước. Nàng Ba lấy cọp làm chồng. Vua cha thách đố ba chàng rể, ai

lùa được tất cả trâu, bò, dê vào chuồng thì là của người đó. Chàng rể cọp lùa

được tất cả vào chuồng của mình. Vua cha rất yêu quý rể cọp. Ngày sinh của

vua cha, ba chàng rể ra sông chài cá về làm cơm mời cha, hai chàng rể xinh đẹp

không bắt được một con cá nào, chàng rể cọp chài được rất nhiều cá, mang về

cho vợ và dặn rằng: mình có việc đi xa vài ba ngày, khi nào thấy sóng gió nổi

lên là lúc cọp về. Nói xong cọp chạy ra sông và nhảy ùm xuống sông biến mất.

Cọp nhảy xuống sông cởi bỏ lốt cọp trở thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú,

cởi ngựa trở về nhà vừa lúc trời nỗi cơn bão, gió. Biết chồng mình trở về, nàng

Ba ra đón chồng, hai cô chị thấy thế thì xấu hổ, vua cha rất vui, hai chàng rể

đẹp cùng hai cô chị sống cuộc sống cực khổ. Chàng rể cọp và nàng Ba có cuộc

sống giàu sang hạnh phúc. (khi chàng rể cọp và vợ về nhà thì căn nhà bỗng

biến thành tòa lâu đài nguy nga tráng lệ).

19/ CON CHUỘT LÔNG ĐỎ (TÀY)

Ngày xưa, ở làng kia có hai chị em gái, nhà đủ ăn, đủ mặc, cô chị được bố

mẹ nuông chiều làm việc ít, thành người lười, còn em chăm chỉ. Khi lớn hai chị

em xinh đẹp như nhau. Có một hôm bố mẹ cho hai chị em đi làm cỏ lúa trên

nương. Hôm sau lại đi, nương rậm cỏ như cũ như chưa hề làm cỏ. Người chị

ước ao: “làm thế nào có một ai đến giúp mình làm hết cỏ lúa nương, dù không

đẹp mình cũng lấy làm chồng”. Lời nói ấy lọt vào tai con chuột lông đỏ vừa đi

qua bên trên nương. Đêm ấy, con chuột lông đỏ ra sức nhổ hết cỏ trên nương,

lúa lên xanh mơn mởn.

Hai chị em ra nương vô cùng ngạc nhiên và cô chị cất tiếng gọi. Trên đỉnh

nương có người thưa. Ở đây! Anh ở đây, lên đây nhé! Hai chị em trông thấy

con chuột lông đỏ nói tiếng người, mắt lồi, tai to, mõm dài, người chị vùng

chạy trốn, con chuột chạy lao theo, chuột bị lừa xuống suối. Người chị chạy về

nhà. Cô em đến vớt chuột lên, người em khóc, nước mắt tuôn đầy mặt, chuột

thấy vậy nói: cho chuột ăn bát cơm rồi chuột sẽ quay về nhà trên nương. Khi ấy

trời chạng vạng tối, người em mang chuột lông đỏ về giấu trong buồng ngủ.

Người em giấu cơm nuôi chuột, một bát chuột ăn cũng hết, ba bát chuột ăn

cũng hết. Thấy lạ, người em lấy cơm vào buồng rồi dặn chuột là mình đi chợ,

đi được nửa đường, người em quay về, nhẹ nhàng bước nhìn vào buồng thì thấy

một chàng trai tóc hung hung đỏ đang ăn cơm. Hai người biết nhau, dặn dò

không tiết lộ. Người em xin mẹ cho mình lấy chuột làm chồng, bà mẹ không

chịu và mắng con những lời thậm tệ, bảo muốn lấy chuột làm chồng thì rủ nhau

lên rừng mà ở. Ba năm trôi qua, bố mẹ nhớ con gái, cha mẹ lên rừng thăm con,

con gái nói cho mẹ biết chàng là một chàng trai xinh đẹp, tóc hung hung đỏ, khi

có người lạ đến thì lấy áo chuột mặc vào, toàn thân bé nhỏ thành ra chuột thôi.

Mẹ bàn với con gái lấy áo lông chuột đỏ đem đốt đi để chàng thôi biến thành

chuột.

Chàng trai chuột về tìm áo không thấy, và nói rằng anh là con trai thứ năm

của tướng Bắc Đẩu, có lỗi với Ngọc Hoàng bị đày xuống trần làm kiếp chuột

ba năm. Đêm qua anh về trời Ngọc Hoàng xá tội rồi và cho ở lại cõi trần lấy vợ

người tử tế. Họ sống hạnh phúc bên nhau.

20/ CỤ VÁCH VÀ ỐC SÊN (MƯỜNG)

Ở một gia đình nọ có hai người con gái rất đẹp và giống nhau như đúc.

Con trai trong làng cứ ước ao được làm chung nương, ăn chung mâm cơm với

hai nàng. Mỗi lần hai nàng đi suối, con suối cũng phải nghiêng nghiêng mà

ngắm, rồi róc rách ca hát mừng hai nàng. Một hôm họ ra suối cắt rau cải nước

về nấu cho lợn. Mặt trời đã đứng bóng, bụng họ đói lắm, bên bờ suối sẵn có

cây sung chín quả to bằng quả bưởi, họ bảo nhau hái lấy ăn hết mỗi người một

quả. Sung ngọt và thơm, nuốt đến đâu gan ruột mát ra đến đấy. Chiều hôm ấy,

nàng Ả nghe bụng mình khác lạ, rỉ tai hỏi em: Hai ơi, em có nghe cái bụng nó

thế nào không? Ít lâu sau, bụng hai nàng to dần. Hai nàng có mang thật. Một

lần đang cắt rau cải nước thì hai nàng cùng trở dạ. Quằn quại một hồi, nàng Ả

đẻ ra một con Cụ - Vách, nàng Hai đẻ ra một con Ốc Sên. Thấy vậy, dân làng

bàn tán xôn xao, cho rằng họ đẻ ra ma quái. Thế là cả làng cùng hai người mẹ

đẻ ra quái vật kia rủ nhau chạy vào rừng sâu, bỏ Cụ vách - Ốc Sên ở lại làng cũ.

Một hôm, Cụ vách nắm lấy tay Ốc Sên và bảo: Chị Ốc Sên à, chị làm vợ tôi

nhé, chị đừng có chê tôi xấu xí, tuy tôi xấu nhưng bụng tôi ưa chị lắm. Ốc Sên

đồng ý. Họ trở thành đôi vợ chồng. Đêm ấy, trời đất bỗng nỗi cơn gió to làm

xiêu vẹo cả các cây lớn. Cụ vách - Ốc Sên lột xác biến thành người.

Một buổi trưa, hai vợ chồng bỗng nghe đôi chim cu trên cây xoan kháo

nhau: Trong núi người ta không còn bắp, mất mùa ghê gớm thế, họ sẽ chết đói

mất, ta chạy về đây có bắp có thóc của hai người này, sướng quá! Vợ chồng Cụ

vách – Ốc Sên tìm vào rừng núi và gọi dân làng trở về làng cũ sinh sống. Sáng

hôm sau, hai vợ chồng đưa làng lên chín mươi chín quả đồi màu bắp, màu bầu

xanh như rừng cây mà hai vợ chồng vừa hóa phép biến thành. Họ chia cho mỗi

nhà một bên quả đồi để bẻ bắp hái bầu mang về nhà. Từ đấy dân làng sống ở

làng cũ làm ăn, không đi đâu nữa.

21/ LẤY VỢ CÓC (MƯỜNG)

Ngày xưa, ở nhà nọ có hai mẹ con Côi nghèo lắm. Người mẹ già không đi

làm được gì, một mình anh con trai vác thuổng đi đào cua đem về đổi gạo nuôi

mẹ. Cua chết rất nhiều, bàn nhau đi kiện vua trời. Vua trời sai nàng tiên xuống

giúp đỡ Côi. Cuộc sống của Côi trở nên khá giả hơn, lúa Côi tốt lắm. Côi đi

học cùng chúng bạn, một lần đi qua ruộng của mình Côi ngắt một bông lúa, thì

có một con cóc to nhảy đến níu chặt người Côi và đòi Côi phải lấy làm vợ,

không từ chối được Côi đồng ý. Bà mẹ bảo: sao người không lấy mà đi lấy cóc.

Mày rồ rồi đừng ở nhà với tao nữa. Côi phải ra chồi nương ở với cóc. Thầy bảo

anh học trò may áo đẹp cho vua để dự thi, cóc vào buồng riêng cởi lốt thành

một cô gái đẹp mang áo, cóc may hai chiếc áo, một cho chồng, một cho chàng

dự thi. Tiếp đến là thi nấu cơm bằng mía, chàng Côi có vợ cóc cũng thắng.

Cuối cùng thi vợ đẹp, ngày đưa vợ cóc đi thi, trên đường đi, cóc nhảy vào

khóm tre, cởi lốt thành một cô gái tuyệt đẹp chui ra từ lốt con cóc, chàng Côi

mừng rỡ, đập nát vỏ cóc đi. Vua khen vợ Côi đẹp, bắt Côi phải đem vợ cóc vào

cung làm hoàng hậu. Tối hôm đó, trời bỗng mưa xối xả, sấm chớp đùng đùng,

ngoài trời tối hơn hôm khác, Côi thấy vợ cứng đờ, Côi gọi mẹ giúp. Trời gần

sáng, nàng tỉnh dậy, nói với Côi rằng mình đã hết hạn ở với nhau, vua trời bắt

nàng phải về trời. Côi và vua đổi vợ cho nhau. Tạnh cơn mưa vua thấy cô gái

đẹp biến mất, tất cả lâu đài tan hoang, vua đang ở trong một túp lều. Lúc này

Côi cùng vợ vua sống trong căn nhà sang trọng, có quan văn, quan võ đứng

chầu. Chàng Côi đang ngồi trong cung điện, tri vì thiên hạ, nơi nơi sống yên

lành.

22/ CON CUM (ẾCH CON) (MƯỜNG)

Ngày xưa có ba chàng trai nghèo cùng nhau đi làm thuê khi trở về họ trêu

đùa nhau. Người thứ nhất nói,... người thứ ba bị bạn bảo rằng số anh lấy vợ

Cum. Đang lúc thắc mắc bỗng nghe có tiếng «khéo khéo» nhưng nhìn quanh

không thấy gì. Lắng nghe thì tiếng kêu ở trong cái hang ven ruộng, chàng trai

thứ ba móc tay vào, kéo ra được một con ếch Cum. Chàng đem về nhà nuôi,

chàng hỏi xem ếch cum có thể làm vợ chàng được không. Ếch Cum bằng lòng

làm vợ chàng. Từ ngày lấy Cum, khi chàng đi làm về đã có cơm canh chín hết,

dọn sẵn. Một hôm anh đi chợ mua vải, bảo Cum may quần áo...

Năm ấy, Vua loan tin báo cho dân cả nước biết, sắp có hội thi các thứ đẹp,

quí, ai cũng phải dự thi. Cum bảo chàng đưa Cum đi hội. Gần đến cung vua có

cái giếng bỏ đã lâu ngày. Đến đó, Cum bảo chồng: Anh chờ ở đây để em xuống

giếng rửa chân tay đã. Hồi sau, bỗng thấy một cô gái đẹp, quần áo lộng rẫy từ

dưới giếng đi lên, chàng trai nửa tin nửa ngờ, thì cô gái đó nói: Em là Cum đây.

Em xuống thay quần áo thôi mà.

Cô gái đẹp đưa cho chồng một gói đồ mang vào dự thi. Đồ dự thi của vợ

chồng Cum được xếp loại nhất. Vua thưởng cho con ngựa và cho làm quan

trong triều. Vợ chồng Cum thật vui vẻ, đầm ấm.

23/ MÓ NƯỚC ẤM (MƯỜNG)

Ngày xưa nhà ông Cun Peo ở Mường Chẹ, có một người con gái út đẹp

nhất Mường. Hai mắt nàng trong như nước suối, má nàng như quả chu chín

giữa rừng, môi nàng đỏ như bông ve ngọt.

Tiếng đồn nàng út Mường Chẹ đẹp và giỏi đến Thủy Cung. Một hôm,

nước mó Peo đùn lên ùng ục, nước ấm như nước mắt. Bỗng một luồng nước

cuốn cát lên bờ, cuốn theo con gà trống đen, mào nó đỏ như hoa bân. Con gà

gáy lên hai tiếng rồi bay đúng vào ngõ nhà ông Cun Peo. Ngày ngày, nàng Út

lấy hột bắp tung cho đàn gà ăn, lần nào con gà trống đen cũng chạy mổ những

hạt dưới chân nàng, có khi nó còn giẫm lên chân nàng. Một hôm, nàng vào

rừng đốn củi, con gà đen bay theo nàng. Gà đen biến thành một chàng trai khôi

ngô tuấn tú đứng trước mặt nàng. Nàng út vội quay mặt đi, chàng nói: tôi là con

trai thứ thứ tám của vua Thủy Tề. Nghe tiếng nàng vừa đẹp vừa giỏi, tôi biến

thành con gà đen để được ở gần nàng. Chàng bảo cô gái chờ chàng mười năm,

khi nào nhớ chàng thì ra mó mà tìm, nàng nhớ bỏ xuống hai sợ tóc của nàng,

chàng bước lên bờ và trao lại cho nàng cái lông gà đen. Khi vừa về tới nhà,

nàng nghe tiếng nói: sáng mai em phải dấu lông gà vào ổ gà thì ta có thể gặp

nhau mãi mãi. Một hôm, nàng đi nương quên cất lốt lông gà, mẹ nàng đốt lông

gà, chàng hiện ra. Hạn mười năm chưa xong, lại bị mẹ nàng đốt mất xác, chàng

trở về thủy cung và lâm bệnh nặng. Chàng nhờ em trai thứ chín của mình đến

bờ mó nước đưa nàng về thủy cung. Nàng Út ở dưới thủy cung được mười hai

năm và sinh hai đứa con. Vua Thủy Tề cho hai vợ chồng về trần gian sinh

sống. Vua Thủy Tề khóc tiễn con, nước mắt làm ấm cả nước mó Peo. Từ đấy,

hai vợ chồng nàng lên rừng làm nương phát rẫy, trồng bắp, trồng bầu, và mó

Peo được gọi là mó Nước ấm.

24/ LẤY CHỒNG RÙA (MƯỜNG)

Ngày xưa ở xóm nọ, có ba bố con sống với nhau. Đứa con gái ông lang

đến tuổi lấy chồng. Ngày đêm, bố con ông cặm cụi lên rừng phát được nhiều

ngô lắm. bây giờ cỏ mọc xanh um, bố con mưa nắng phải đi phát cỏ. Một hôm

trời nắng gắt, làm cỏ từ sớm, người thấm mệt, mồ hôi chảy nhễ nhại, ông

ngoảnh đi, ngoảnh lại thấy nương vẫn còn cỏ nhiều, ông nói to: «cỏ nhiều thế

này làm thế nào cho cỏ hết, ai làm được ta gả một con gái cho». Có một tiếng

hỏi: có thật không bố. Ông trả lời: thật.

Sáng hôm sau, ba bố con lại đi cỏ nương sớm. Đi đến nương ông ngạc

nhiên thấy cỏ đã hết nhẵn. Ông không thấy một ai, chỉ thấy một con rùa lịch

kịch bò từ trong rừng ra, đến trước mặt ông. Tôi là người làm hết cỏ cái nương

này, hôm nay tôi ra đây xin ông cho biết ngày nào tốt để tôi đem lễ cưới đến.

Rùa đòi lấy cô em. Cô út rất sợ chối đây đẩy. Ông thách cưới rất nặng,

đòi những một trăm con trâu khoang trắng, một trăm con nai chín gạc, một

trăm chiếc vạc tám tai. Chàng rùa nhận lời. Đúng ngày hẹn, chàng rùa đem lễ

vật đến. Ngày tân hôn, cô gái út sợ quá bỏ chạy, cô chị nhận lời lấy rùa thay

em, chàng Rùa cởi lốt rùa thành một chàng trai rất đẹp, cạnh cái xác rùa khô.

Cô em tiếc ngẩn ngơ, hối hận vẫn không kịp nữa. Vợ chồng rùa sống sung

sướng, hạnh phúc.

25/ ANH CHÀNG CÁ CHUỐI (MƯỜNG)

Ngày xưa có người vợ góa, không con, sống một mình. Một hôm, bà đi

phát nương ờ rừng xa, đem gói cơm đi ăn trưa, tối mới về. Bà nghỉ trưa, xuống

suối rửa chân tay để ăn cơm. May quá, có một con cá chuối bị nghẽn ở đoạn

suối cụt, bà xuống bắt đem lên cái nấu, cái nướng để ăn. Chiều tối, bà về đường

xa, khát nước quá, tìm khắp nơi không thấy giọt nào cả, cố nhịn, bà đi mãi gặp

một vết chân trâu có nước đầy, bà ngắt lá vịn lại để múc nước uống. Về nhà,

bụng bà ngày một to ra, bà mới biết mình có mang. Bà mang thay được ba

năm, chín tháng, sinh ra được một bọc thịt, giống như con cá chuối, bà đặt tên

là chuối. Thấy mẹ làm không nổi chuối bảo mẹ đến nhà Lang xin cho chuối đi

chăn trâu. Nhà Lang có hai cô con gái, nàng Ả và nàng Hai. Nàng Hai thấy cá

chuối biết chăn trâu nên thắc mắc, suy nghĩ, nàng khẽ rón rén rình, nàng nghe

tiếng sáo vi vu vẳng lại. Nàng vạch bụi lau xem thì thấy một chàng trai xinh

đẹp, nằm trên chiếc võng đu đưa đang thổi sáo. Tiếng sáo của chàng làm cho

cảnh vật tưng bừng, bầy chim thi nhau nhảy nhót theo tiếng sáo. Nàng hai liền

cất tiếng gọi: anh chàng chuối hỡi, anh chàng chuối à, lại đây mà lấy cơm. Em

cứ để đó cho anh, anh đây chính là chàng chuối, thấy em hiền hậu muốn cùng

kết bạn trăm năm, chẳng biết có được chăng ? Chàng chuối về bảo mẹ đến nhà

lang dạm hỏi nàng Hai cho chàng. Nàng Hai đồng ý, lão đành cắt của nặng.

Lão cắt những chín chục vò rượu kê mèn, chín chục trâu đen, bò đớm trắng,

chín chục con nai chín gạc, chín chục vạc tám tai, hàng đàn hổ báo. Chuối bảo

mẹ đừng lo, tới ngày cưới khắc sẽ có đủ.

Tối đêm cùng ngày, trời tối mịt hơn mọi ngày, sấm sét, mưa đùng đùng. Bà

chiêm bao thấy cái cầu vồng ngũ sắc vắt ngang từ trên trời xuống đất. Trong

giấc mơ, bà thấy con là một chàng trai cưỡi con ngựa tía đi trước, theo sau

người dắt trâu, bò, gánh rượu... Rồi cái cầu vồng oằn xuống gãy đánh rắc, hất

tất cả xuống đất... bà giật mình, ngồi xổm dậy, thấy con trai bà là một chàng

trai đẹp đẽ. Chuối lại chui vào lột quẫy đi đến nhà lang. Lão lang đang đợi sẵn

ở sập để nhận vật lễ, lão đã điếm đủ duy chỉ còn thiếu hổ và báo hoa. Lão vừa

dứt lời, đám hổ và báo hoa ở rừng lao thẳng vào nhà lão, kêu ầm ĩ, lão lùi dần,

lùi dần ngã sầm xuống sàn. Ngày tân hôn, hai vợ chồng em thì thầm ở trong

buồng, nàng Ả rất băn khoăn, không biết người với cá chuối ăn ở với nhau ra

sao? Ả khẽ nhón chân đến vách buồng em, ghé mắt nhìn qua lỗ vách thấy em

gái mình ngồi cạnh chàng trai, sau nó là cái lột cá khô. Ả bàng hoàng, choáng

váng. Ra cá chuối là người. Nàng Ả bắt con cá chuối to nhất làm chồng. Cá

chuối chết, mồm nàng sưng húp.

Hết hạn ở rể, mẹ chàng chuối đem lễ vật đến xin con về nhà không ở rễ

nữa. Chuối vẫn chưa chịu bỏ cái lột ấy. Một hôm chàng bảo rằng: ta là con trời

sắp đến hạn lên chầu, nàng đi đâu cũng phải dắt con dao và quả trứng trong

người nhé. Sáng hôm sau chàng đi thật. Ả đến nhà nàng rủ em đi gội đầu ở bến

bãi, chải chấy ở bờ sông. Trước khi đi nàng vội dắt dao vào cạp váy, bỏ trứng

vào cạp váy theo chị. Nàng Ả đẩy chiếc mảng trôi đi. Mảng trôi đến vùng đất

hoang, nàng Hai lấy dao dựng lều và đào củ rừng ăn. Quả trứng nàng vùi dưới

cát nóng nở ra được con gà trống. Hết hạn chầu trời, trên đường về chàng ghé

vào. Hai vợ chồng vui mừng gặp lại nhau. Họ sống với nhau đến trọn đời.

26/ TRĂN THẦN (CHÀM)

Hai mẹ con người đàn bà góa nọ sống rất nghèo, sống trong một túp lều

xiêu vẹo ở đầu làng. Ngày ngày họ phải vào rẫy làm lúc ông mặt trời chưa thức

giấc, đến lúc ông phải đi ngủ mới về nhà, cô gái hiếu thảo luôn nhường phần ăn

của mình cho mẹ. Một hôm, hai mẹ con ra rẫy rất sớm, mãi đến trưa khi ăn

cơm xong, người mẹ ngồi nghỉ, còn cô con gái ra lấy thuổng tiếp tục làm. Bỗng

cô rú lên một tiếng thất thanh: ôi con Trăn. Một con trăn to đang quấn lấy cái

thuổng. Con trăn có vẻ hiền từ. Cô gái đuổi trăn bò vào bụi rậm. Đến chiều con

trăn lại bò ra. Cô gái mang trăn về nhà.

Đêm hôm đó, bà mẹ nằm nhà ngoài, cô gái nằm nhà trong như thường lệ.

Nữa đêm, cô gái giật mình thức giấc, nhìn thấy ở góc nhà có ánh sáng rực rỡ,

cô rón rén lại nơi có ánh sáng, bỗng ánh sáng vụt tắt và một chàng trai tuấn tú

xuất hiện đứng gần cô và nói: Buổi chiều em mang anh về, cho anh ăn cơm, em

là người tốt. Từ nay anh sẽ ở mãi với em. Anh sẽ là người chồng xứng đáng

của em. Anh là con trai thần núi, thấy em nghèo mà tốt bụng, nên anh đến kết

duyên cùng em....

Chàng trai bảo cô gái đem đốt cái vỏ trăn kia đi. Từ đó hai vợ chồng trẻ

sống với bà mẹ già rất đầm ấm. Trong làng có mụ đàn bà góa chồng cũng có

một cô con gái. Mẹ con mụ ngày ngày chỉ biết ngắm vuốt sắc đẹp, không biết

làm gì cả. Mẹ con mụ sai đầy tớ bắt con trăn đem về làm chồng người con gái.

Tối đến, con trăn nuốt con gái mụ vào bụng, mụ lăn ra chết ngất.

27/ HOÀNG TỬ RẮN (CAO LAN)

Ở làng nọ có một người góa vợ, có ba cô con gái. Một năm nắng hạn

kéo dài không thể nào cấy được lúa ăn, ông ta nghĩ mãi mới nảy ra ý định ngăn

lấy nước sông để tưới ruộng. Từ đó ngày nào ông ta cũng đào và gánh đất để

ngăn sông đưa nước vào ruộng. Nhưng khốn nổi ông đắp bao nhiêu lại nước lại

cuốn trôi đi bấy nhiêu. Ông bẩy những tảng đá to ngăn nước. Một hôm ông

đang hì hục bẩy lấy một tảng đá to thì một con rắn hổ mang to bằng cột nhà

quấn lấy chân ông giữ chặt. Này, tại sao ông lại phá nhà của tôi, tôi phải cắn

chết ông mới được. Ông già van xin rắn tha mạng và bảo: bây giờ mày thả tao

ra, tao có ba đứa con gái, tùy mày chọn một trong ba đứa làm vợ. Ông già đành

dẫn con rắn về nhà. Người bố hỏi ba cô con gái xem ai chịu lấy rắn làm chồng.

Cô cả và cô hai không đồng ý lấy rắn, chỉ có cô út vì cứu cha nên chấp nhận

làm vợ rắn. Rắn đưa vợ về thủy cung và cởi lốt thành một chàng trai khôi ngô

tuấn tú, không kém gì những chàng trai đẹp nhất mà nàng từng gặp ở các hội

tung còn múa xuân. Đây là nhà của anh, cung điện vua Thủy Tề. Anh là hoàng

tử độc nhất của vua cha. Hai vợ chồng sống với nhau được ba năm, đứa con

của họ vừa tròn hai tuổi. Nàng út xin trở về thăm cha. Cha đã chết, cô chị cả

độc ác hại chết nàng út và thay nàng xuống thủy cung sống cùng hoàng tử.

Nàng út chết hóa thành chim bay xuống thủy cung cùng chồng con. Người chị

bóp chết chim rồi quăng xuống nước, nàng út sống lại. Trên đường về thủy

cung, nàng út bị con quỷ nhiều tay bắt về làm vợ. Hoàng tử rắn thương nhớ vợ

đi tìm khắp nơi, cuối cùng hoàng tử cũng giết chết được tên quỷ nhiều tay cứu

vợ. Tuy biết người chị cả hại mình, nhưng nàng út thương tình chị em, tha cho

người chị cả. Nàng út hiểu được nổi khổ của người dân làm ruộng không có

nước. Nàng út cùng với chồng thường biến thành hai con rồng đen hút nước

biển phun lên trời thành những đám mây dày đặc. Tạo thành những trận mưa

như trút nước tưới ruộng nương, cây quả cho con người.

28/ LẤY CHỒNG RẮN (H’MÔNG)

Vợ chồng nọ sinh được bốn người con gái xinh đẹp, họ thèm thuồng một

mụn con trai nhưng không có phúc. Một hôm ông lão ra đồng cành ruộng, ông

lão không lật nổi hòn đá và than rằng: «giá như ai có sức vóc hơn lão vần giúp

tảng đá, lão sẽ gả con cho»! cụ phải giữ lời đấy nhá – một con rắn màu đất nhỏ

như ngón tay cái, hiền lành, cất tiếng nói. Chưa kịp châm thuốc hút, ông lão

ngẩn lên thì hòn đá đả biến mất. Rắn vẩy đuôi ba cái, hòn đá từ từ di chuyển.

Lão dẫn rắn về nhà, cô cả, cô hai, cô ba từ chối rắn, cô út (N-xei N-zở) đồng ý

lấy rắn. Trước khi theo rắn cô út xin mẹ một nhúm hạt cải và dặn rằng khi nào

cải ra bông, mẹ lần theo hoa cải thăm con. Rắn dẫn cô út đến một hồ nước lớn

và dặn vợ ở đó chờ mình, khi thấy những bộ quần áo cũ sặc sở trôi trên dòng

nước thì dừng có vớt, cô út nhúng tay xuống nước xem là cái gì thì bị da rắn

cuốn vào tay.

Chàng Rắn cởi lốt thành chàng trai khôi ngô tuấn tú – là hoàng tử con

Long Vương, hoàng tử đưa vợ đi. Mẹ cô út theo dấu hoa cải tìm con, chàng rắn

còn biếu mẹ nhiều vàng bạc... Ba cô chị ganh tị với em, và mỗi người chọn cho

mình một người chồng: cô Cả bắt được một con rắn cạp nong làm chồng, nhốt

vào trong chum. Cô Hai bắt được con thằn lằn; cô Ba bắt được con chim ri-xú

và chăm sóc chúng. Cô Cả bị rắn cắn chết, thằn lằn bò vào rừng, chim bay đi.

Hai cô chị và cô em xấu hổ.

29/ CHÀNG RÙA (H’ MÔNG)

Xưa, vợ chồng nhà kia lấy nhau đã lâu mà vẫn hiếm hoi. Đẻ lần nào cũng

không nuôi được. Một hôm, đầu gối người vợ tấy sưng to, không sao chữa

khỏi. Sau cơn nhức nhói như điên dại, chị ta thấy da rạn nứt. Một chú rùa từ

chỗ nứt bò ra. Rùa nói ngay: con là con của bố mẹ. Rùa ăn ít như mèo, ăn xong

lại ngủ một xó. Vua bắt gia đình nào cũng phải đi phu vác đất, vác đá, chặt gỗ

cho vua xây nhà. Người mẹ nghèo buồn rầu than thân: người ta thì có con đi

làm thay bố mẹ, mình không có con thì người già phải đi! Rùa bảo mẹ: mẹ yên

tâm, để con đi làm cho vua, thay bố mẹ. Rùa bảo mẹ lấy dao buộc vào lưng cho

mình như người đi rừng. Rùa cần mẫn làm việc. Rùa muốn lấy con gái đẹp của

vua. Vua bí quá, cuối cùng cũng nhận lời, đúng như lời rùa nói, chỉ trong một

buổi, nhà đã dựng xong. Vua quên hẳn lời đã hứa với rùa. Mẹ rùa đến hỏi vua,

vua bảo: muốn lấy con gái ta cũng được, phải lo đủ ba thùng to thịt lợn, ba

chum to rượu ngon. Lại phải lấy vải hao các màu rải từ nhà rùa tới đây. Vua

yên trí thách cưới như vậy là từ chối được. Tối ấy, rùa bảo mẹ đi nói với bà con

xóm bản cắt giúp rùa thật nhiều lá chuối rồi mẹ trải đều từ nhà ta tới nhà mới

của vua. Mẹ nhờ các bác, các chú trong xóm đụi nước đổ đầy ba chum to, chặt

bí giúp, xếp đầy ba thùng lớn. Cần nhất là chuối phải tươi, lành lặn, nước phải

sạch, bí không thối. Vua đồng ý gả con gái, vua bảo con mang theo bao đá và

dặn: ngựa đi một bước, con ném rùa một hòn. Hết túi đá, rùa chết, con về với

bố. Cô gái không làm theo lời vua.

Mùa xuân đã về, cô gái rủ chồng đi chơi. Ngày thứ nhất, rùa nằm im ở nhà.

Ngày thứ hai, để vợ đi trước, rùa trút mai, vươn vai ba lần bỗng rùa hóa thành

chàng thanh niên khỏe mạnh, đẹp trai, vác khèn đi chơi hội núi. Hai cô hàng

xóm biết chuyện lẻn sang giấu mai rùa đi và báo cho vợ rùa biết. Vợ rùa nắm

lấy đuôi áo rùa, rùa chạy nhanh về nhà. Song đuôi áo chàng bị rách toạc một

mảnh trong tay cô gái. Rùa không vào vừa mai nữa, vì áo đã rách. Chàng làm

người. Vợ chồng rùa làm tiệc mời vua đến dự. Vua tò mò muốn thử vào nằm

trong mai rùa, con rễ bỗng nói: khép lại, khép lại, tự nhiên mai rùa đóng chặt,

vua nằm gọn trong mai rùa. Rùa vốn là con trời, được trời cho xuống trần chơi.

Nay hết hạn phải về. Rùa gọi vợ theo. Còn tên vua gian xảo, dại dột phải tự bò

lên rừng kiếm mộc nhỉ ăn.

30/ NGƯỜI ĐỘI LỐT MÈO (TÀ ÔI)

Đã lâu lắm rồi, những cụ ông, cụ bà Tà Ôi không ai con nhớ nữa. Họ chỉ

biết ở bản nọ, có hai anh em mồ côi sống với nhau rất hòa thuận. Người anh có

sức khỏe phi thường ngày ngày dẫn em gái của mình vào rừng đặt bẫy, bẻ

măng, hái rau, để sống qua ngày. Một hôm người em vào rừng thấy có một bàn

chân to kì lạ, cô gái đưa bàn chân mình lên ướm thử. Từ đó cô gái có thai

nhưng không dám nói với ai cả. Đúng một năm sau, cô gái sinh ra một cái bọc

nhỏ xíu. Bên trong chiếc bọc ấy là con mèo hoi thối.

Dân làng đuổi cô gái vào rừng sống, cô gái đau khổ tột cùng. Một hôm

con mèo bỗng dưng nói tiếng người: thưa cậu, thế thì mẹ cháu giờ ở đâu, cháu

rất muốn được gặp mẹ cháu... Mèo chạy thật nhanh vào rừng tìm mẹ. Mèo cõng

mẹ chạy như bay đến bên bờ suối có hang rộng và sâu. Mèo cởi lốt thành một

chàng trai khôi ngô tuấn tú, thân hình vạm vỡ. Hai mẹ con mèo ở lại trong

rừng. Hai mẹ con có cuộc sống thật hạnh phúc. Một hôm mèo nói với mẹ: Mẹ

ơi con muốn lấy vợ. Mẹ hãy đến nhà ông cậu hỏi cô gái út cho con làm vợ. Ông

cậu không đồng ý gả con gái út cho mèo. Mèo đến nhà ông cậu, tìm gặp cô gái

út, mèo cào cào vào tay của cô gái để lại một vết xước bảo rằng làm dấu người

yêu.

Mèo trở về lột xác thành chàng trai xinh đẹp và làm cho mẹ một ngôi nhà

mới, kín đáo và đầy đủ đồ dùng. Mèo nói rằng, mèo đi khoảng nữa năm sau sẽ

về và có nhiều niềm vui nữa. Mèo ra đi, đến mỗi làng nó lại yêu một người đẹp

của làng đó, và đều bị dân làng xua đuổi, mèo không quên cào vào tay người

đẹp để làm dấu. Đến cô gái thứ mười, cô gái suốt ngày suốt tháng chỉ ở trên

chòi cao, mèo ngồi dưới gốc cây nhìn lên. Tối đó mèo lột xác thành một chàng

trai đẹp đẽ, cô gái thấy thế liền tâm sự. Cô gái là con nhà trời. Cô gái đưa chàng

trai về trời, đúng một tháng, bố mẹ cô gái đồng ý gả cô cho chàng trai mèo.

Chàng trai mèo được dạy rất nhiều phép thuật để phòng thân. Hai người trở lại

trần gian, mèo có được cả thảy là chín người vợ và dẫn về nhà. Mèo chạy về

nhà ông cậu đưa người vợ thứ mười về nhà chung sống. Một hôm, Mèo bảo các

vợ đun cho mình một nồi nước sôi lớn để mèo lột xác, và dặn các vợ hãy cất

cẩn thận tấm da mèo phòng khi có giặc đến mà dùng.

Năm năm sau, chàng trai khôi ngô tuấn tú ấy có đến mười con trai. Chàng

nằm mơ thấy chiếc áo mèo báo mộng rằng : Thôn bản của chàng và vợ con

chàng sắp có người đến đánh và cướp phá, chàng hãy chuẩn bị. Quân giặc kéo

đến đông như kiến. Chàng trai chỉ huy trận đánh. Quân giặc thua sạch chỉ còn

vài tên ngoan cố không muốn rút lui. Chàng trai liền rút tấm áo mèo ra và hô

một tiếng, từ trong chiếc áo mèo có một chiếc đao thần bay ra, nó tìm những

tên còn sống sót chém sạch. Thôn bản phút chốc yên bình trở lại, dân làng cho

phép chàng đưa gia đình về lại nhà xưa.

31/ CHUYỆN CHÀNG CÓC (TÀ ÔI)

Hai anh em mồ côi cha mẹ, một ngày kia bỗng trời đổ mưa giông, các côn

trùng bay vào nhà tứ tung. Có một chú cóc to lớn lạ thường nhảy nhanh vào

nhà. Cô gái lấy chân đá con cóc ấy đi, nhưng kì lạ thay con cóc ấy lại nhảy vào

nhà nhanh hơn và lần này nó nhảy lên cao ngay trên bụng cô gái, cóc đái trên

bụng cô gái rồi nhảy ra ngoài.

Ba ngày sau, cô cảm thấy trong người mình khó chịu và một tháng sau cô

biết mình có mang. Sợ già làng bắt tội, cô gái ra đi vào rừng sâu, cô gái gặp hai

bà cháu, và cô gái lấy người cháu trai của người bà làm chồng. Đến hai năm

sau cô sinh ra một chú cóc con. Đúng lúc ấy, bên ngoài cô nghe văng vẳng

tiếng cóc kêu. Trong lúc ngủ, cô mơ thấy một người đàn ông khỏe mạnh đến

bên dặn dò hãy chăm sóc con cẩn thận, sau này sẽ nhờ nhiều vào nó. Cóc con

rất ngoan hiền. Ông cậu lên thăm gia đình cóc, cóc về chơi với ông cậu một

tháng, cóc thầm thương con gái chúa làng và bảo bố mẹ đến hỏi cưới con gái

chúa làng về làm vợ. Bị từ chối nhưng cóc không bỏ cuộc. Cóc bảo bố mẹ đến

hỏi lần nữa và nói rằng cho hai người gặp nhau nói vài lời từ biệt. Gia đình cô

gái cùng bố mẹ đến nhà cóc. Nhà cóc rất xinh đẹp, to lớn. Cóc cởi lốt thành

một chàng trai khỏe mạnh, xinh đẹp, từ tay chàng tấm áo cóc bỗng dưng bốc

cháy và chàng cóc thành hôn với con gái chúa làng.

32/ CON NAI THẦN (CƠ HO)

Ngày xưa ở một làng Ca Don có một bà cụ già rất nghèo, rất tốt bụng,

chồng chết sớm, bà nuôi đứa con gái độc nhất của mình. Cô gái lớn lên như

búp măng giữa rừng, xinh đẹp không ai sánh kịp. Bà ngày một ốm yếu không

đủ sức làm nuôi con. Cô gái phải đi làm cho chúa làng để lấy cơm nuôi mẹ.

Hàng ngày cô phải ăn cơm nhạt. Đến bửa, cô lấy phần cơm của mình vào chiếc

giỏ mây, rồi ra một gốc nhà ngồi ăn với vài hạt muối.

Một hôm, cô vừa ngồi xuống định ăn thì một cơn gió nổi lên. Gió ầm ầm

cuốn phăng cả cái giỏ cơm của cô, cô chạy đuổi theo, chạy mãi cô quên đường

về, xung quanh cô là rừng âm u, cây cối um tùm. Cô gục đầu vào gốc cây to và

khóc. Chúa Nai nghe cất tiếng hỏi: «ai dám đứng khóc trước cửa nhà ta thế»?

Cô gái phân trần mọi việc, chúa Nai bảo: «đường về bây giờ xa lắm, trời lại tối

rồi, con voi, con cọp nó chực bên đường, cô về thì nguy hiểm lắm. Hay là cô ở

lại đây với ta, lấy ta làm chồng, đời cô sẽ sung sướng». Cô gái đành ở lại với

Nai, Chúa Nai hóa phép thành tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ. Trước mắt cô

không còn là một con nai rừng sừng nhọn mà là một chàng trai Ca Don khỏe

mạnh, hiên ngang. Vai đeo ná, tay cầm khiên, lũ trai làng không một ai sánh

nổi.

Hai vợ chồng trẻ sống hạnh phúc bên nhau, cô gái nhớ mẹ và xin Nai đưa

cô về thăm mẹ... Nai đưa cô gái về nhà. Cô gái kể lại sự tình cho mẹ nghe. Bà

mẹ vô cùng mừng rỡ, bà tổ chức lễ cưới thật linh đình cho con gái. Sau đó, bà

cũng đến ở với con gái, con rể. Họ sống bên nhau hòa thuận, hạnh phúc, êm ấm

suốt đời. Như lời cầu nguyện xa xưa của bà già nghèo khổ.

33/ CHÀNG ẾCH – CON TRAI THẦN MẶT TRỜI (CƠ HO)

Vị thần cai quản khắp thế gian mọi người gọi là thần mặt trời. Có hai

người con trai đều đến tuổi trưởng thành. Cả hai đều khỏe mạnh, tài giỏi, tốt

bụng. Người em vô tình nhìn xuống thế gian và thấy có một đôi vợ chồng già

không có con cái, sống rất nghèo khổ, phải bắt cua bắt cá hàng ngày ở ven suối

để ăn thay cơm. Người em van xin cha mẹ cho mình xuống giúp họ. Chàng đầu

thai vào nhà đôi vợ chồng già. Bà cụ đột nhiên mang thai và sinh ra một con

ếch. Dân làng tha hồ chê bay, dè bỉu, làm cho hai ông bà thêm hổ thẹn buồn

rầu. Chú ếch tên là K’ươr. Vua Chàm yêu cầu đưa K’ươr về chăn trâu cho nhà

vua. Một hôm, K’ươr cởi chiếc áo ếch bé nhỏ biến thành một chàng trai khỏe

mạnh, mặc khố đẹp, trên đầu có gài những chiếc lông chim lay lay trước gió.

Chàng trai rút bên mình ra hai chiếc áo dài, cắm mỗi bên một chiếc, đàn trâu

chỉ gặm cỏ trong cánh đồng đó không đi đâu.

Nhà vua có hai nàng công chúa xinh đẹp, công chúa út được nhiều người

yêu mến hơn vì nết na hiền lành và hay giúp đỡ người nghèo khổ. Một hôm,

nàng mang cơm ra đồng cho K’ươr, tìm mãi nàng không thấy K’ươr đâu mà chỉ

thấy một tấm da ếch nhỏ xíu, nghĩ là của K’ươr bỏ quên, liền tinh nghịch giấu

vào bụi cỏ. Nàng trông thấy có một chàng trai đẹp từ dưới suối đi lên, tay cầm

một ống sáo nhỏ, cô út hỏi có thấy chú ếch chăn trâu bé nhỏ của tôi đâu không?

Chàng van vỉ xin cô út trả tấm da ếch cho mình và chui vào lốt ếch, lùa trâu về

nhà. K’ươr hết hạn đi ở, cởi lốt thành chàng trai đẹp, mang một hạt lúa của vua

về nhà. K’ươr dựng nhà mới và sống hạnh phúc với cô công chúa út.

Những tên nhà giàu ghen tức với hạnh phúc của K’ươr, bọn chúng bàn

nhau cách hại chàng. Chúng bắt chàng phải bắc một cây cầu qua dòng sông

rộng hàng nghìn sải. Tối hôm ấy, trời lại nổi cơn giông rất lớn làm cho mọi

người hoảng sợ. Sáng hôm sau đã có một chiếc cầu rất đẹp bắc ngang dòng

sông. Bọn nhà giàu tranh nhau chạy ra giữa cầu ngắm nghía, chiếc cầu gãy

ngang, cả bọn rơi xuống nước. K’ươr tiêu diệt được bọn hung ác trở về làng

sống hạnh phúc.

34/ CÔ GÁI LẤY CHỒNG TRĂN (XÊ ĐĂNG)

Một bà già nghèo chăm chỉ làm ăn, bà góa chồng từ thuở còn trẻ, có hai

người con gái xinh đẹp, tươi tắn, y hệt mặt trăng. Một hôm, bà mẹ mang rổ ra

xúc cá, bị một con trăn lớn lao đến quấn chặt lấy hai chân, bà van xin trăn cho

bà sống, trăn bảo bà: «tôi sẽ tha cho bà nhưng bà hứa gả con gái cho tôi». Khi

hai cô con gái chạy đến khóc lóc, bà mẹ hỏi cô chị, cô chị không bằng lòng, bà

lão lại hỏi cô em, cô em khẽ cúi đầu thưa: «thôi mẹ ơi, con đành nhận lời làm

vợ con ác thú để cứu mẹ! Mẹ và chị hãy về đi». Đêm đó, cô gái nhỏ theo trăn

về hang làm vợ nó, nàng sợ sệt và buồn khổ, lúc trời sắp sáng khi đã thiếp,

nàng cảm thấy một bàn tay ai thật mát đặt nhẹ lên trán và cả hơi thở ấm nồng.

Nàng tỉnh dậy, trước mắt nàng là một chàng trai khỏe mạnh, tuấn tú. Chàng dịu

dàng nói với nàng: «em à! Đừng có sợ! Ta là chồng của em đây, ta là chàng

Trăn!»

Cô gái bàng hoàng, nàng sung sướng vô kể, dụi mắt nhìn lại chàng trai trẻ

đẹp, xinh xắn, còn da trăn mốc meo thì ở góc hang. Từ đó hai vợ chồng cô gái

út sống với nhau rất hạnh phúc. Cô chị hay tin em mình lấy được chồng trăn trẻ

đẹp, hạnh phúc, ghen tị và trốn nhà vào rừng tìm trăn, cô chị gặp một con trăn

già nằm ở gốc cây và cô hỏi trăn có ưng bụng lấy cô làm vợ, trăn già dẫn cô chị

về hang, quật chết và nuốt vào bụng. Chàng Trăn cùng mẹ đến tìm chị, chàng

trăn giết con trăn già mổ bụng cứu cô chị sống lại. Từ đó cô chị làm ăn chăm

chỉ, thương mẹ và quý mến em gái.

35/ CHÀNG RÙA (XÊ ĐĂNG)

Hai vợ chồng sinh được mười đứa con gái, người mẹ chết sớm, ông bố ra

bờ sông bắt cá. Ông nghe tiếng Rùa huýt sáo và bảo rùa sửa lại cái khe kẽ bờ

kia để đặt lờ, ông sẽ thưởng cho chú rùa một cô con gái. Các cô chị đều từ chối

lấy rùa và khinh bỉ rùa, cô em út đồng ý lấy rùa.

Về sau các cô chị đều lần lược lấy chồng. Họ không biết rằng, ngay từ

đêm đầu tiên sống với vợ, Rùa đã lột xác thành một chàng trai tuấn tú. Mỗi lần

rùa hóa thân thành người thì phòng cô lại sáng rực lên, các cô chị tưởng phòng

em bị cháy, kêu la ầm ỉ. Ông lão bị bệnh, gọi tất cả con rể lại và đòi ăn óc cá,

chàng rùa làm phép bắt một con cá hay gây sự, lấy óc cá gói vào một mảnh lá

nhỏ mang về và bảo dân làng chuẩn bị thật nhiều nong để đựng óc cá. Đến mấy

chục cái nong cũng không đủ đựng óc cá, ông lão ăn và khỏe lại. Ông còn

thách đố thi trâu, xây nhà, chàng rùa thắng.

Chàng rùa sang Lào buôn bán, vợ có mang, khi đi chàng kiếm đủ mọi thứ

vợ cần, đưa cho vợ một quả trứng gà, một trái dừa, một con dao và dặn lúc nào

cũng để bên mình. Các cô chị ghen ghét em tìm cách giết em, các cô bảo em đi

đánh đu, chặt gốc cây cô em ngã xuống sông chết, cá nuốt xác vào bụng, cô em

sống lại và sinh con trong bụng cá, mổ bụng cá chui ra, vùi trứng gà vào cát, gà

nở thành con, dừa mọc chồi, lớn nhanh như thổi, chàng Rùa trở về, hai vợ

chồng gặp nhau. Chàng rùa nhất quyết trả thù các cô chị. Đưa cho con một nắm

kim chăm và bảo đứa con khi các cô đưa mắt vào gùi thì dùng kim đâm thủng

mắt chị. Người thì thành gà, chó, heo giữ nhà cho vợ chồng rùa.

36/ NÀNG TIÊN CÁ (XÊ ĐĂNG)

Ngày xưa có một anh chàng đánh cá làm một túp lều nhỏ bé ở ngay cạnh

một cái hồ lớn. Anh rất nghèo, hàng ngày phải vác lưới đi kiếm cá ăn. Ngồi

trên chiếc thuyền cũ nát, bơi ra giữa hồ rộng, anh vừa quăng lưới kiếm cá vừa

gõ chiếc chiêng đem theo để đỡ buồn, anh thích ca hát và gõ chiêng. Bỗng có

một giọng nói trong trẻo như tiếng chiêng anh ngõ: chàng đánh cá yêu mến của

em ơi! Em xin chàng hãy thả em ra, chàng hãy để em được tự do! Anh chàng

đánh cá cũng tỏ ra sợ hãi và kinh ngạc. Anh kéo lưới lên và thấy trong lưới có

một người con gái rất xinh đẹp với nước da trắng như bạc, tóc đen mượt như

than, cô vùng vẫy trong nước mãi mà không sao thoát ra được. Anh sung sướng

ngắm cô gái đẹp hồi lâu rồi không hiểu sao, anh buông thả tay ra. Cô gái quẫy

nhẹ như chào anh rồi lẩn nhẹ vào làn nước trong veo. Người con gái đẹp ấy

chính là nàng tiên cá. Về thủy cung và trong lòng không khỏi nhớ anh chàng

nghèo thuần hậu. Anh chàng đánh cá trở về nghỉ trong lều nhỏ và anh nghĩ

mình đã yêu người người con gái kia mất rồi. Một đêm trăng đẹp, nàng quyết

định rời bỏ chốn thủy cung, lên thẳng bờ. Nàng nhẹ nhàng đến lều nhỏ của

chàng đánh cá nghèo. Hai người bày tỏ nỗi niềm rồi cưới nhau thành chồng vợ.

Họ sống hạnh phúc và sinh được hai đứa con trai rất xinh đẹp. Cuộc sống thanh

bình yên ả diễn ra bên hồ.

Bỗng một đêm, bão lớn nổi lên. Mưa to, gió lớn đầy trời và nàng tiên cá

bị cuốn mất tăm ra hồ. Chàng đánh cá nghèo đau đớn kêu gọi mà không thấy

vợ yêu. Chàng ốm nặng và chết bên bờ hồ vào một buổi chiều. Người ta chôn

xác chàng ngay bên căn lều cũ nát thuở xưa. Chàng đánh cá chết được ít hôm

thì nàng tiên cá xuất hiện. Nàng tìm đến túp lều xưa. Túp lều vắng vẻ, quạnh

hiu dưới trăng suông. Từ đó, đêm nào nàng cũng đến đấy khóc than, nhưng

cũng như chàng đánh cá trước kia, tiếng khóc của nàng không bao giờ làm

chàng trai nghèo đánh cá sống lại được.

37/ NÀNG ÚT LẤY CHỒNG TÔM (CHURU)

Nhà nọ có ba cô con gái rất đẹp, nhà ở ven suối. Cô út nhỏ và ốm chỉ bắt

được một con tôm nhỏ mắc cạn trên bờ suối. Hai cô chị đã bắt được rất nhiều

cá. Nàng út nâng niu chăm sóc con tôm của mình, trên đường về, chân cô út

vướng vào một gốc cây làm cô giật mình thốt lên. Tôi yêu

KachâyHơĐar!(Tôm). Hai người chị bật cười, cha cô không đồng ý và sai hai

người cậu đưa cô út vào rừng giết chết. Cậu không nỡ giết cháu, làm một cái

chòi cho cháu ở trong rừng, giết chó đem tim, gan về đưa cho người cha. Muôn

thú đến vây quanh và giúp đỡ cô. Khi cô giật mình thức giấc thì thấy có một

chàng trai khôi ngô tuấn tú bên cạnh, chàng trai làm phép cầu thần ban cho nhà

đẹp, tôi tớ, sai người đến rước nàng út về ở. Cho giết trâu bò ăn mừng, máu dơ

chảy xuống dòng suối đổ về hạ nguồn, cha cô tức giận dẫn lính vua Chăm đến

giết cô. Muôn thú trong nhà xông ra cắn chết lính vua, ông cậu xin cháu tha cho

cha. Cha, mẹ, hai chị ở lại làm tôi tớ cho cô, họ sống hạnh phúc.

38/ CHÀNG TRĂN (CHURU)

Hai vợ chồng có hai người con gái: cô em hiền lành chân thật, xinh đẹp

hay thương người và loài vật. Cô chị là người vừa xấu xí và đanh đá, chua

ngoa, hay ganh tị với em. Một hôm cô em xin ra đồng tát cá, đến chiều cô

không bắt được con cá nào. Trên đường về cô gặp một con trăn nằm vùi dưới

đống lá mục, cô vội lấy gùi úp lại và bắt về nuôi, cô giấu nó trong buồng của

mình và nuôi bằng cá đánh bắt được mỗi ngày. Đến một đêm, trong khi cô

đang nữa tỉnh, nữa mê, trăn thay hình thành một chàng trai trẻ đẹp, trắng trẻo từ

trong gùi bước ra và đến trò chuyện cùng cô gái. Họ thành vợ chồng sống với

nhau hạnh phúc. Cô chị sinh nghi ngờ và thù ghét. Cha mẹ cô không đồng ý

chàng rể trăn. Cô buồn rầu kể lại cho chàng trăn nghe lời cha mẹ. Chàng trăn

hôn cô rồi từ biệt, trăn ra đi. Cô chị vì mơ ước chàng trai trăn đẹp, đi tìm và gặp

một con trăn to. Cô chị bị trăn nuốt vào bụng, cô chị chết. Cô em sau này lấy

được con trai một vị trưởng làng. Họ giàu có và sống với nhau hạnh phúc.

39/ CHÀNG KHỈ VÀ NÀNG MA PHUN (CHURU)

Hai vợ chồng sinh ba người con, hai trai và một cô gái út. Có đàn khỉ ăn

và phá hại đậu bắp của mình, người anh cả và người em kế không sao đuổi

được khỉ, cô em gái út đến rẫy, đàn khỉ bỏ đi hết, chỉ còn lại một con khỉ đầu

đàn, Ma Phun lấy dây buộc vào khỉ và dẫn về nhà, hai anh và cha mẹ tức giận

bỏ mặc Ma Phun. Ma Phun ngày ngày ở với khỉ, chăm lo cho khỉ, cả hai thành

vợ thành chồng. Ban ngày khỉ và cô gái cùng nhau phát nương làm rẫy. Tối

đến, vào nữa đêm, khỉ đổi dạng là một chàng trai rất đẹp đến ngủ với Ma Phun,

họ sống rất hạnh phúc. Ông cậu mở tiệc cúng mừng nhà mới, mời Ma Phun đến

dự tiệc, đến dọc đường khỉ biến mất, Ma Phun buồn rầu. Trong lúc mọi người

đang vui vẻ ăn uống, cả nhà hết sức ngạc nhiên khi thấy một chàng trai khôi

ngô tuấn tú cưỡi ngựa đến. Chàng trai nói: xin hãy lấy cho tôi ba lá trầu đã quét

vôi, khi tôi tung lá trầu trúng ai thì tôi sẽ lấy người đó làm vợ, cả ba lá trầu đều

bay đến chỗ Ma Phun đang ngồi buồn rầu. Chàng trai đến cầm tay Ma Phun và

họ nhận ra nhau. Sau buổi tiệc, chàng Khỉ cùng Ma Phun cưỡi ngựa thần bay

đến tận chân trời và bên nhau hạnh phúc.

40/ CHÀNG ẾCH (CHURU)

Ngày xưa, tại một làng nọ có đôi vợ chồng trẻ sống với nhau rất hạnh

phúc. Trong khi người vợ đang mang thai thì đột nhiên người chồng bệnh nặng

qua đời. Đến ngày, người vợ sinh ra con ếch. Thời gian trôi qua, ếch lớn lên

như cỏ cây bên mẹ mà chẳng giúp được việc gì. Ếch bảo mẹ đến nhà già làng

xin cho ếch đi chăn trâu, ếch chăn trâu không mất một con nào. Ếch bảo mẹ lấy

cái bồ to đựng lúa. Ếch nói với già làng để mình mang lúa về nhà, ếch bảo cứ

đổ lúa vào đầy tai con là được. Già làng sai người đổ lúa vào tai của Ếch.

Người ta đổ hơn một kho lúa mới đầy hai tai của ếch. Ếch đi chăn trâu đồng xa,

cô con gái út già làng mang cơm cho ếch. Cô không thấy ếch đâu, chỉ thấy một

chàng trai khôi ngô tuấn tú đang tắm dưới ao. Chàng trai biến lại thành ếch, cô

gái đem lòng yêu ếch. Cô gái muốn lấy ếch làm chồng, nhưng ếch bảo không

được vì người và ếch không thể lấy nhau được. Cô gái nói: em biết anh không

phải là ếch. Anh là người. Anh chỉ cần cởi một lớp áo ra là thành người thôi.

Ếch bảo nếu cởi áo ra thì tôi chết mất. Từ đó, hai người thành vợ thành chồng

một thời gian, già làng biết chuyện và cấm không cho cô gái yêu ếch.

Ếch không chăn trâu nữa. Già làng trả công cho ếch bằng một tai lúa. Ếch

mang lúa về cho mẹ xong và biến mất. Cô gái vì thương nhớ ếch nên sinh bệnh

mà chết. Từ đó không ai gặp ếch đâu nữa.

41/ LẤY CHỒNG TRĂN (VÂN KIỀU)

Một bà mẹ có mười một đứa con gái. Ngày ngày các cô gái lên rừng, lên

rẫy làm lụng, con bà mẹ thì làm việc quanh quẩn ở nương nhà. Nương nhà bà

trồng nhiều chuối tiêu. Bà mẹ đẵn cây chuối tiêu chín, gặp con trăn hoa nằm

trong buồng chuối, con trăn nói: bà mẹ ơi! Có gì phải sợ? Bà mẹ mang tôi về

nhà đi! Bà mẹ đặt chiếc gùi vào cạnh buồng chuối, con trăn trườn vào nằm gọn

trong gùi. Trăn bảo bà mẹ gọi các cô gái về nhà. Trăn muốn lấy một cô gái làm

vợ. Các cô chị đều từ chối lấy trăn, còn cô út chỉ nhìn thấy một anh con trai đẹp

đang đưa mắt liếc nhìn mình. Cô đồng ý lấy trăn làm chồng. Trăn lấy cô con

gái út tên A-Chung làm vợ. Hai vợ chồng trăn sinh được một đứa con trai, một

lần lên rẫy trăn cởi lốt thành một chàng trai xinh đẹp, đốt rẫy. Hai con quạ theo

lời A-Chung cắp chiếc lốt trăn cho vào lửa đốt mất, chàng trăn trở lại thành

người con Dàng. Hai vợ chồng A-Chung mang con về thăm mẹ. Người chị cả

ghen tỵ với hạnh phúc của em. Người chị cả khóc lóc, bảo mẹ đi tìm cho mình

một con trăn mang về làm chồng. Người chị tham lam, bị trăn ác ăn thịt, chồng

A-Chung dành được xác chị, giết chết con trăn ác. Mọi người càng yêu mến

nhau hơn.

42/ CHÀNG RỂ CÓC (VÂN KIỀU)

Vợ chồng Ca Đeng không có con, họ cúng Dàng mất nhiều lợn vẫn không

ăn thua gì. Một hôm, hai vợ chồng đi rẫy về thấy có một dấu chân nhỏ in trước

ngõ, người vợ liền ướm thử bàn chân mình vào đó, ít lâu sau, bà có thai và sinh

ra một con cóc. Hết năm đổi rẫy, cóc lớn bằng bắp chân. Cóc nói tiếng người

bảo mẹ đến nhà A –Nha cưới vợ cho cóc. Cóc vào nhà mang một giỏ bạc giấu

trong trấu. Người con gái lớn của A –Nha nhặt hoài không hết số bạc trắng trên

nền nhà, người con gái út nhặt tiếp, cả bạc xoay tròn và chạy vào giỏ cô gái út.

Cô con gái út được cóc cưới về làm vợ.

Cô gái út cùng cóc sống được một năm, một đêm trăng sáng có người con

trai đẹp hiện ra bên cạnh và thử lòng cô gái. Cóc biến thành anh con trai xinh

đẹp, cô gái nhanh tay vớ lấy ném luôn vào bếp lửa đang cháy rực cái lốt da cóc

của chồng. Hai vợ chồng cóc sinh được đứa con trai. Người chị ghen tị với

hạnh phúc của em, muốn cướp chồng em, lừa em lên rẫy và lừa chồng cóc về

nhà. Hai vợ chồng cóc đến một nơi xa làm rụng nuôi con, đứa con lớn nhanh,

mập mạp, chú bé rất siêng năng. Hai cha con cóc trở về tìm diệt lũ nhắc. Hai

cha con giết được con nhắc pụt (quỷ đầu đàn) và được A –Nha cho làm chủ cả

vùng. Dân làng ăn mừng người tài giỏi.

43/ CHÀNG RỂ HEO (VÂN KIỀU)

Một người đàn bà hóa lại có mang, sinh ra một con heo đực. Heo đực

chóng lớn. Chẳng mấy tuần trăng nó đã to múp míp. Một hôm, con heo đực bảo

mẹ sang nhà A-Nha hỏi cưới con gái A-Nha về làm vợ. Heo đực bảo mẹ mang

giỏ cám, trái bí đao sang làm lễ bỏ của. A – Nha nghe nói thì tức giận, vớ lấy

chiếc rìu phang ngang vào lưng người đàn bà. Bà ta né được, cán rìu đập trúng

giỏ cám, làm quai giỏ đứt tung. Giỏ cám rơi xuống đất bung ra thành một khối

vàng. A-Nha thấy vàng thì lóa cả mặt, bảo lũ con gái nhặt. Các cô gái lớn nhặt

hoài không hết, đồng bạc nhặt lên lại lăn tròn xuống đất, mãi đến chiều cô út đi

rẫy về nhặt một thoáng là xong. A-Nha thách cưới bằng cách: bảo heo rắc bạc

trắng liền từ chân nhà sàn nhà bà đến chân nhà sàn nhà ta, thì ta gả con gái út

cho. Heo đực bảo mẹ sang nhà bảo A-Nha: trải chiếu từ chân nhà sàn bên nhà

A-Nha sang chân nhà sàn nhà ta để con rải bạc rải vàng. Nhà A-Nha giàu có đủ

áo chu-he, váy ta mục rải đầy trên chiếu thì A-Nha lấy hết bạc vàng ta. Bằng

như A-Nha không đủ áo, váy phải gả con gái út cho ta làm vợ. Số vải của nhà

A-Nha chỉ che đủ nửa số vàng bạc của chàng heo đực. Cô gái út về làm vợ

chàng heo đực. Một hôm bên bếp lửa, xuất hiện một chàng trai đẹp đến tán tỉnh

cô gái út, được chuột cho biết chính là chồng mình – chàng heo đực đang thử

lòng cô gái. Lần thứ hai lại biến thành chàng trai khác. Cô gái út nhờ chuột tha

tấm lốt heo ném vào bếp lửa dưới sàn, chàng heo thành người (người con trai

đẹp). Hai vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc.

44/ NÀNG BÒ TÓT (VÂN KIỀU)

Hai bà cháu anh mồ côi ra đặt bẫy ở một cánh rừng, giết được một con bò

tót. Họ làm thịt con bò và chia cho bà con dân bản, chỉ giữ lại một đùi phần

mình. Hai bà cháu ăn hết thịt, còn lại cái chân, anh côi gác lên sàn bếp.

Một hôm đi làm về, thấy nhà cửa sạch sẽ, bếp lò còn đỏ than, giữa sạp sàn

bày một ra cơm với một nồi canh. Thấy lạ, hai bà cháu bàn nhau tìm xem ai đã

giúp mình. Anh mồ côi giả vờ đi nương, được một quãng, anh quay lại và núp

vào một mô đất cao quan sát. Anh ngạc nhiên khi thấy một người con gái đẹp

từ đâu hiện ra, dọn dẹp trong ngoài... Anh lẹ làng men đến nắm lấy mớ tóc dài

của cô vấn ba vòng vào tay mình... Anh mồ côi hỏi cô gái có bằng lòng làm

chồng vợ với anh không, hai người nên vợ nên chồng. Ba bà cháu sống hòa

thuận, hạnh phúc.

Một hôm, có đàn bò tót đạp rào vào phá ngô ở nương nhà. Anh mồ côi lấy

ná toan bắn thì vợ can ngăn, van xin, người chồng không nghe... Người vợ ẵm

hai con lao thẳng vào giữa đàn bò và cũng biến thành một con bò mẹ và hai con

bê con. Anh mồ côi mất vợ, mất con, hối hận và buồn khổ.

45/ TRUYỆN CHỒN VÀ NÀNG H’LÚI (GIA RAI)

Hai vợ chồng nọ sinh được hai người con trai, một hôm hai người con trai

ăn hết con chồn nướng, bị cha mẹ phát hiện và đã đuổi người em ra đi. Người

em đi vào rừng, buồn tủi và gặp được một đàn chồn đang nhặt quả vả, đàn chồn

sau khi biết được sự tình đã yêu cầu người em trai ở lại và đã cho người em trai

một bộ lông chồn như thật và sống như một con chồn thật sự. Một hôm, chồn

đang nằm trên cây, nghe thấy tiếng nói của cô con gái Mtao rằng “nếu ai lấy

cho ta được một gùi quả vả kia thì ta sẽ lấy làm chồng”. Chồn đã lấy được và

theo cô gái về nhà Mtao. Từ đó, chồn trở thành chồng cô gái. Mtao không chấp

nhận và đuổi đi. Chồn và H’Lúi đi mang theo một cây rựa cùn và mấy cái vái

rách. Họ đến một cái nương, có một cái chòi cũ. H’Lúi thấy đói bụng chồn bảo

nàng tìm xem có gạo, nồi, nước, củi…. hai người có gạo đủ để ăn trong vài

ngày. Chồn bảo vợ đi phát rẫy, còn mình vào rừng hái quả, chồn vào rừng đã

cởi bỏ lốt vật trở thành một chàng trai khỏe mạnh xinh đẹp. Chàng không hái

quả mà phát nương, đốt nương, đám cháy đã làm cho vợ chồng Mtao hốt hoảng

chui vào hang nhím. H’Lúi sinh được con. Đến ngày lễ cầu mùa, chồn bảo vợ

về nhà xin cha mẹ một con gà, một con lợn, một con trâu, một ché rượu để làm

lễ và dặn chỉ xin con vật bằng nắm tay thôi, còn ché rượu bằng cái chén cũng

được.

Vợ chồng Mtao cùng con trai đến dự lễ, lạ lùng thay những món ăn, rượu

uống cách nào cũng không bao giờ hết. Mtao hốt hoảng. Chàng Chồn bị vợ phá

bỏ cái lốt chồn và trở lại thành người, hai vợ chồng sống vui vẻ, hạnh phúc,

giàu có.

46/ CHÀNG LỢN (GIA RAI)

Ngày xưa có một cụ bà tên là Giá Pôm ở với một cháu gái tên là Lúi. Hồi

ấy, trời làm hạn hán rất lâu, suối nước trong rừng đều khô cạn cả. một hôm hai

bà cháu đi hái bông trên nương. Trời nắng gắt, hai người đều khát nước. Chịu

không được, Lúi phải bỏ việc đi tìm nước uống. Tìm mãi, H’Lúi thấy một cây

nấm to có đọng ít nước. Đó là nước đái của con lợn rừng. H’Lúi uống nước,

nàng có thai đến ngày đến tháng sinh ra một chú lợn rừng. Giá Pôm đem chôn

nhưng mỗi lần chôn xong quay trở về thì thấy lợn đã ở nhà. Pơtao đến xem, lợn

theo Pơtao về nhà. Một hôm cả nhà Pơtao đi xúc cá ngoài suối, Pơtao bảo Hbia

ở nhà đi chăn trâu, nhưng Hbia không muốn đi. Bỗng lợn nói: để tôi đi chăn

trâu cho. Trâu của Pơtao hàng trăm con, nhưng chiều hôm ấy về chuồng, con

nào cũng đều no căng bụng. Hbia có ý nghi ngờ. Hôm sau Hbia lẻn đi theo sau,

lợn đuổi trâu vào rừng rồi lột xác thành chàng trai rất đẹp ngồi hát trên lưng

trâu. Hbia biết đây không phải là một con lợn thường, HBia đem lòng yêu lợn.

HBia xin cha cưới lợn cho mình. Ngày cưới, lợn bảo chặt cho mình một ống

nứa để đi lấy nước. Ống nước của lợn chẳng to mấy, nhưng lạ thay, nước ở

trong ống rót đầy cả chum rồi mà vẫn cứ còn. Một đêm trong khi mọi người

đang ngủ yên. Lợn chui ra khỏi xác, giở gương ra soi và so sánh sắc đẹp của

mình với vợ.

Chỉ trong một ngày lợn đã săn không biết bao nhiêu là hươu nai. Ba

người xẻ thịt ra nướng và nhét thịt vào ống nứa mang về nhà. Lợn bảo Pơtao

hãy cho bịt hết những lỗ hổng trên sàn nhà để lợn đổ thịt ra. Lợn liền dốc ống

và gùi đổ thịt ra. Quả nhiên thịt nhiều đên nổi ùn lên đầy cả gian nhà. Lợn đi

săn voi, dẫn cả một đàn voi lớn về làng. Pơtao mở tiệc ăn mừng, ăn uống xong,

thấy trong mình nóng nực, HBia rủ lợn đi tắm. HBia bảo lợn tắm trước. Tắm

xong lợn lột xác thành một chàng người. Pơtao thấy con gái trở về cùng với

một chàng trai khỏe, đẹp thì cho rằng HBia đã giết lợn và theo người khác.

HBia kể lại đầu đuôi câu chuyện, Pơtao rất vui mừng. Về già, Pơtao giao lại

quyền và tất cả của cải cho chàng lợn.

47/ CHÀNG RẮN (GIA RAI)

Mtao có hai người con gái H’bia Ngo và H’bia Lúi. Mơ tao lên rừng chặt

luồng về làm khung cửi dệt vải. Mơ tao vác dao vào rừng. Chẳng may khi Mơ

tao chặt luồng xong thì trời đổ một cơn mưa lớn. Nước lũ dâng lên cuồn cuộn,

chiếc cầu bắc qua suối bị cuốn trôi mất. Trời tối, lại không có đường về, Mơ

tao lẩm bẩm một mình: bây giờ ai bắc cầu cho tôi sang sông, tôi sẽ gả con gái

cho. Một con rắn to, dài, từ dưới nước ngoi lên hỏi, Mơ tao chối mãi không

được đành phải nhận rằng mình hứa gả con gái cho ai bắc được cầu, đưa mình

sang sông. Rắn bèn nằm, vắt ngang qua suối thành một cái cầu cho Mơ tao đi

qua. H’bia Lúi thương cha quá nên đồng ý lấy rắn làm chồng.

Ở với nhau ít lâu rắn rủ H’bia Lúi đi tắm. Tới sông, rắn bảo Lúi tắm trước, Lúi

không chịu, rắn bèn lao xuống sông tắm trước. Tắm xong, rắn trút bỏ lốt bên

ngoài, biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú. H’bia Ngo ghen tức với em.

Lúi có mang, rắn bèn dặn vợ: tôi sẽ sang Lào đi buôn một chuyến. Ở nhà, em

nên giữ gìn cẩn thận, chờ tôi về. H’bia Ngo muốn cướp chồng em, bèn rủ em đi

sang sông hái chanh. Hai chị em mang theo dao và muối đi. Ngo đẩy Lúi xuống

nước, tay Lúi vẫn còn cầm dao và ống muối, H’bia Lúi bị con cá to nuốt vào

bụng. Ở trong bụng cá, Lúi sinh được một đứa con trai, đứa trẻ biết đi, biết nói.

Hỏi mẹ và lấy dao rạch bụng cá, xát muối vào làm cá chết trôi vào bờ. Hai mẹ

con H’Lúi vào rừng dựng liều sống tạm qua ngày.

Chàng rắn trở về mang theo rất nhiều của cải, trâu bò và người hầu hạ.

Qua khu rừng, nghe tiếng gà gáy, chàng ghé vào túp liều nghỉ tạm thì gặp vợ

con mình. Chàng rắn trở về thăm bố vợ, Ngo tưởng Lúi đã chết nên đón tiếp

rắn hết sức vồn vã, rồi ngỏ ý muốn lấy rắn thay em. Chàng rắn không chịu,

Ngo bảo rắn phải tìm cho mình một chàng rắn khác. Đêm ấy, rắn tỉnh rượu và

nuốt luôn H’bia Ngo vào bụng bò xuống sông mất tích. Chàng rắn thương tình,

vội lần xuống nước kéo rắn lên. Người ta mổ bụng rắn, cứu Ngo sống lại. Từ

đó, H’bia Ngo hối hận và không dám làm việc ác nữa.

48/ HRIT VÀ CÔ GÁI TRONG LỐT DA BÒ (GIA RAI)

Hrít chàng trai ốm yếu, bệnh tật, xấu xí, nhưng siêng năng làm lụng.

Nàng Bò từ trên trời bay xuống rẫy của Hrit đạp phá mọi thứ trong rẫy. Cô gái

bò ăn phá chán chê xong rồi lần ra giọt nước để tắm. Nàng tháo bỏ lớp da bò

móc vào một cành cây, Hrit lén lấy chiếc áo da bò giấu nơi khác, cô gái tìm áo,

không thấy áo, đành theo Hrit về nhà. Cô gái bò lấy Hrit làm chồng. Họ có một

đứa con gái. Một hôm, Hrit đi săn xa nhà, cô gái bò tìm thấy áo da bò của mình

và mặc áo bay về trời. Khi trở về, không thấy vợ đâu, chàng biết vợ đã tìm

được áo và bay về trời, Hrit buồn bã. Chàng cùng con gái và mang theo con

chó, mèo lấy đôi cánh bay lên trời tìm vợ, Hrit gặp lại cô gái bò. Hrit cùng cô

gái bò đi tắm ở suối. Hrit tắm phía đầu nguồn, còn vợ tắm phía dưới, Hrit cởi

lốt xấu xí thành một chàng trai oai phong, khỏe mạnh, đẹp như thần linh. Hai

người sống với nhau hạnh phúc.

49/ H’BIA RÁC LẤY CHỒNG CHỒN (GIA RAI)

Có hai ông bà già nghèo khổ sinh được hai người con gái. Cô chị càng

lớn càng đẹp, cha mẹ đặt tên là Rác. Một hôm hai chị em vào rừng phát nương.

Nắng quá họ rủ nhau xuống suối tắm, nước suối trong vắt, hai chị em định về.

H’rác đứng lên, càng cựa quậy, chân càng thụt sâu, Rác sợ quá, gọi em, cô em

cố kéo chân chị lên nhưng không được, cả cha mẹ, trai tráng trong làng đến

điều không thể nào cứu được. Ông kêu rằng: «ôi dân làng, chân H’Bia Rác bị

kẹt dưới suối. Ai cứu được tôi gả nó cho»! Trời gần sáng, H’Rác rét quá đã lả

đi. Bỗng một chú chồn xuất hiện, nhảy xuống suối tóm mấy con cá, rồi đi lại

gần đóng lửa, xin nướng cá. Chồn nướng xong cá to, đem mời hai ông bà và

hỏi nguyên do hai ông bà ở đây. Nghe xong, Chồn chạy về nhà lấy áo choàng

ra khoác cho Rác đỡ lạnh, rồi lặn xuống gở từng viên đá. Chồn gở một ngày,

ném lên bờ chồng đá cao gần bằng trái núi. Rác rút chân ra được, chồn cõng

Rác lên bờ. Người cha chỉ vào chồn bảo: «chồng mày đó, mày phải lo chăm

sóc cho nó».

Chồn bị cảm lạnh, H’bia Rác vào rừng hái thuốc sắc cho chồng uống,

nhưng chồn không khỏi bệnh, chồn bảo H’bia Rác đi tìm mật gấu, nước bọt hổ

mới trị bệnh cho chàng. H’bia Rác vào rừng tìm gấu, và ngỏ ý xin một ít mật về

cứu chồng. Vừa nói xong bỗng xuất hiện một chàng trai khỏe mạnh, đẹp đẽ

giơ lên trước mặt gấu và hổ một cái áo. Cả hai nhận ra là người có phép lạ, liền

cho mật và nước bọt. Chồn khỏe lại, Rác đưa chồn ra suối tắm. Chồn cởi lốt ra,

hiện nguyên hình là chàng trai khỏe mạnh giống như người mà nàng đã gặp hai

lần trước. H’bia Rác dẫn chồng về thưa với bố mẹ, họ sống với nhau hạnh

phúc.

50/ CÂY TÔNG LÔNG (GIA RAI)

Hai vợ chồng người nghèo hiếm con. Người vợ vào rừng làm nương khát

nước, uống nước trong gốc cây tông lông, về nhà mang thai và sinh ra hai hạt

tông lông. Đêm trồng sau nhà, mọc thành hai cây tông lông mập mạp, lớn

nhanh lạ thường. Chim phượng hoàng bay đến làm tổ trên cây và đẻ ra một

trứng vuông không ai vác nổi, gió to trứng rơi xuống đất nở thành chim con.

Chim con biết nói, xin làm con nuôi hai người nông dân. Chim mau lớn, ăn

nhiều, mới bữa đầu tiên đã ăn hết phần cơm của hai vợ chồng người nông dân.

Đến khi mọc lông, chim cao to đụng nóc nhà. Cha mẹ không nuôi nổi nên bảo

chim phải tự vào rừng tìm thức ăn. Chim bay vào rừng cởi lốt thành một chàng

trai khỏe mạnh. Chàng chặt cây tông lông làm ná, chặt cành tông lông làm tên,

chàng diệt được con chim ác lớn chuyên ăn thịt dân làng, cứu một cô gái trẻ và

lấy nàng làm vợ. Nhưng vợ không giã kịp gạo nấu cho chàng ăn. Chàng quyết

định vào rừng lấy bộ lông chim khoác vào mình, chàng gọi ba tiếng trở thành

chim, đi tìm gặp nàng mặt trời, xin hỏi cưới nàng mặt trời. Lần thứ nhất, chàng

bị thần sét, chồng nàng mặt trời đánh trọng thương, nhờ cây tông lông cứu

sống. Lần thứ hai, chàng giết được thần sét và sống hạnh phúc với nàng mặt

trời mãi mãi.

51/ H’LÚI LẤY CHỒNG CHỒN (GIA RAI)

Bảy cô gái trong làng rủ H’Lúi đi xúc cá. Bảy nàng xúc, lần nào cũng

được nhiều tôm, cua, cá, chỉ có H’Lúi xúc suốt ngày chẳng được con cá nào mà

lại chỉ được toàn xương ống. H’Lúi bực lắm, lấy xương ống đập vào đá, xương

ống bảo H’Lúi: «sao cô lại đập chúng tôi? Chúng tôi muốn cô được thành

người giàu có cơ mà»? Thấy xương ống nói được tiếng người. H’Lúi sợ quá bỏ

chạy, không kịp gọi bảy cô bạn gái. Thấy H’Lúi chạy, lũ xương ống gọi theo:

H’Lúi, chúng tao muốn ăn thịt mày. H’Lúi mày chạy không thoát đâu. Cứ thế,

trên đường đuổi theo H’Lúi, lũ xương ống lần lượt gặp trâu rừng, cọp, voi, đều

bị lũ xương ống ăn thịt. Cuối cùng H’Lúi gặp một con chồn. Nàng nghe tiếng

kèn của chồn thổi trên cây, H’Lúi kêu lên. Chồn ơi! anh giấu em với! lũ xương

ống đuổi theo em để ăn thịt kia kìa. Chồn bảo: nếu em bằng lòng lấy anh làm

chồng anh sẽ tìm cách giấu được em ngay. H’Lúi đáp: thôi được, chồn ạ! Miễn

sao em còn sống là chúng mình sẽ lấy nhau. Lũ xương ống nối đuôi nhau trèo

lên cây theo vệt đái của chồn, chồn tiêu diệt được lũ xương ống.

Từ đó, chồn và H’Lúi vui sướng sống cùng với nhau. H’Lúi bảo với chồn

là mình muốn về thăm cha mẹ, chồn đi theo H’Lúi về nhà. Cả gia đình đoàn tụ

vui vẻ, chồn và H’Lúi được ở trên nhà để lúa để khỏi bị chó cắn. Đêm ấy, khi

chồn tưởng rằng hai chị em đã ngủ say, chàng chồn liền cởi tấm da chồn, biến

thành một chàng trai có thân hình rất đẹp, lại phát ra ánh sáng rực rỡ như một

ngọn đèn. Chàng biến thành một chàng trai khôi ngô tuấn tú, chứ không còn là

một con chồn xấu xí khi trước. Hai chị em được ngắm nhìn chàng trai thỏa

thích.

Đến sáng, hai vợ chồng chồn chuẩn bị nước cơm nước gạo để gội đầu,

chảy tóc. Đi đến bờ suối, H’Lúi bảo chồng xuống tắm trước, nàng tắm sau. Vì

chàng chồn không chịu nên H’Lúi phải xuống tắm trước ở bên dưới. Chàng

chồn thì tắm ở đoạn suối phía trên. Vừa xuống nước, tấm da chồn đã tuột ra,

trôi trên mặt nước, H’Lúi liền nhảy theo để vớt lấy. H’Lúi bị cành cây đâm

trúng ngực chết. Chàng chồn cầu khẩn các vị thần cứu sống vợ. Hai người trở

về buôn, người trong buôn đứng ngắm hai người không biết chán.

Đến mùa khô, trời đất nóng như thiêu như đốt, lũ em trai của H’Lúi ra rẫy

nhắm bắn những trái mướp khô trên cây. Chàng chồn bị các em bắn chết,

chúng đốt xác anh rể và ăn thịt anh rể. H’Lúi khóc thương chồng, H’Lúi lấy

xương mày thành một chiếc dùi nhọn, đâm ngay vào trái tim mình, nàng chết

bên đống xương chồng.

52/ CHÀNG CHIM CU GÁY (RAGLAI)

Ngày xửa ngày xưa, tại một làng Raglai nọ, có hai vợ chồng sống với

nhau đã lâu lắm rồi mà vẫn không có con. Người chồng buồn lắm, ông chia tay

vợ để đi buôn đi bán núi này núi kia cho khuây khỏa. Ngày chia tay ở cầu thang

nhà sàn, một con ruồi bay lọt vào trong miệng bà vợ. Vài ngày sau người vợ đã

thấy nặng tay, nặng chân. Bà biết mình có thai vì chú ruồi chui vào miệng.

Đúng tháng đúng tháng, bà sinh được một con chim Cu Gáy, vừa sinh ra

chim đã nói chuyện với mẹ mình và tự đặt cho mình tên là Chíp Catrơu (Chim

Cu Gáy). Chim Cu gáy lớn nhanh như thổi. Chàng chim Cu gáy biết được nàng

TiLinq, con gái của một vị cận thần của thần Mặt trời thường tắm ở con sông

thần Dadưng mỗi tuần một lần. Chàng chim Cu gáy cùng vui đùa với nàng

công chúa trên dòng nước, khi nàng công chúa rượt đuổi với ý định bắt chàng

chim Cu gáy về nuôi, nàng công chúa bị trượt chân ngã xuống và chết. Chàng

chim Cu gáy cứu sống công chúa và họ nên vợ nên chồng. Hai vợ chồng sau

khi làm lễ cưới xong dẫn nhau ra tắm trên con sông Dadưng thần, đúng nơi hai

người đã tắm cùng nhau lần đầu tiên. Lạ lùng thay. Dòng nước con sông làm

trôi tuột đi hết lớp lông trên mình chú chim Cu gáy. Trong phúc chốc, chú chim

biến thành chàng trai Raglai vạm vỡ. Hai người rất vui sướng cùng dẫn nhau về

nhà.

53/ PHÒ MÃ CÓC (RAGLAI)

Ngày xưa, có hai vợ chồng già không có con, chỉ có con nuôi ở trên trời.

Hàng ngày ông bà cầu xin trời có một đứa con dưới trần. Một hôm, bà đi tắm

suối thấy có một trái chanh trôi từ trên nguồn xuống. Bà bảo: «lại ôi, chanh đón

bà nè!» Bà nhặt quả chanh lên để ngửi rồi định ăn nhưng lại thôi, bà mang quả

chanh về nhà. Bà già ăn quả chanh và mang thai và sinh ra một con cóc. Lớn

lên cóc bảo mẹ xin cho cóc đi chăn trâu cho vua Chăm. Cóc nằn nặc đòi đi.

Cuối cùng cha mẹ cũng cho cóc đi. Khi người cha dắt cóc đến nhà vua Chăm

thì họ liền từ chối không nhận thuê người như cóc. Thấy vậy, cóc liền nhảy đi

lấy một thúng bắp kêu gà cho ăn, cóc còn đem lúa ra sân giã. Vua nhận cóc vào

chăn trâu. Ngày ngày, sáng ra cóc mở cửa chuồng cho đàn trâu có đến 50 con

đi trước, cóc nhảy theo sau lùa trâu lên núi ăn cỏ đến chiều tối mới về đến nhà,

vua Chăm kiểm tra không thấy mất con trâu nào. Ngày nào cũng vậy, cô con

gái út của vua Chăm mang cơm cho cóc ở trên núi. Một hôm, nàng mang cơm

đến nơi mà không có cóc đâu cả chỉ thấy có một chàng trai tuấn tú đang ngồi

vắt vẻo trên cây thổi sáo. Hai người trò chuyện làm quen một lúc rồi nàng ra

về.

Vua Chăm mở hội kén chồng cho cô gái út, công chúa gieo quả tú cầu lại

rơi trúng vào người cóc. Đúng lúc ấy cóc hóa thành chàng trai xinh đẹp chính

là chàng trai mà nàng út đã gặp và làm quen ở trên núi. Vua cha cho làm lễ

cưới của họ trong 7 ngày 7 đêm. Nghe tin công chúa út xinh đẹp của Vua Chăm

lấy chồng cóc, các hoàng tử của các nước láng giềng kéo quân sang đánh, đều

bị phò mã cóc dùng phép thuật đánh bại. Cóc được Vua cha nhường ngôi lên

làm vua Chăm sống hạnh phúc suốt đời với hoàng hậu.

54/ LẤY CHỒNG RẮN (RAGLAI)

Ngày xưa, có nhà kia sinh được hai cô con gái, cô chị tên là M’Nga, cô

em tên là M’Đi thắm thoát hai cô đều đến tuổi lấy chồng. Hàng ngày người cha

thường vào rừng bắn chim để làm thức ăn. Một hôm, trong khi ông mãi mê bắn

chim thì có một con rắn to xuất hiện. Nó lần lượt tha những con chim bị bắn rơi

gom lại một chỗ. Khi ông già leo xuống để nhặt chim, không thấy chim đâu,

chỉ thấy một con rắn to. Ông già run bần bật vì quá sợ. Rắn nói: «xin ông đừng

sợ tôi không ăn thịt ông đâu! Nhưng muốn có chim đem về nhà thì ông phải

đem con gái đến đổi cho tôi». Ông già đồng ý. Về nhà ông bảo cô con gái lớn

M’Nga đi hái cà, rắn dùng đuôi quất nhẹ vào ngực cô khiến cô sợ quá bỏ chạy

về nhà. Ông lại bảo cô em M’Đi đi hái cà, đến nơi rắn cũng dùng đuôi quất vào

ngực cô, nhưng cô không sợ. Lúc bấy giờ, rắn mới cởi lốt, biến thành một

chàng trai khôi ngô tuấn tú. M’Đi và chàng Rắn ngồi nói chuyện với nhau. Sau

đó, chàng rắn đội lại lốt rắn như cũ cùng về nhà với M’Đi.

Đến đêm, M’Đi cùng rắn ngủ trong buồng, còn cha mẹ cô thì ngủ ở

ngoài. Một đêm kia, người mẹ trông thấy buồng của M’Đi có cái gì sáng lên

như ánh lửa. Bà lật đật mang nước để dập tắt lửa. Thì ra, lúc ấy chàng rắn đã

cởi lốt, biến thành người và ánh sáng ấy từ người chàng tỏa ra. Thấy cô em lấy

được chồng đẹp, M’Nga bắt chước đi tìm rắn để lấy làm chồng. Cô bắt được

một con trăn to, mang về nhà làm chồng. M’Nga bị trăn ăn thịt. Vợ chồng

chàng rắn đi tìm và cứu sống cô chị, cả ba cùng về nhà. Cô chị xấu hổ với mọi

người, lúc nào cũng lấy gùi chụp lên đầu, hóa thành tổ mối.

55/ CHÀNG CÓC (KƠ DONG)

Một gia đình có chín người con gái sàn sàn như nhau, đều rất đẹp. Có cô

gái gọi là Di Dật (cô thứ ba) là xinh đẹp nhất. Một hôm Di Dật vào rừng cắt cỏ

tranh về lợp nhà. Trời nắng chang chang, mọi người lại quên mang theo nước.

Di Dật khát khô cả cổ. May sao giữa tảng đá lớn đen xì to như con voi nằm

giữa rừng lại có một hốc nhỏ chứa đầy nước trong vắt. Di Dật lấy tay vốc uống.

Nước ngọt và thơm, uống đến đâu, gan ruột mát đến đấy. Di Dật về nhà thấy

trong người khác lạ, chị có mang và sinh ra một con cóc. Mọi người dè bỉu, bảo

chị vứt con cóc đi, các chị em Di Dật định quật chết con cóc, sợ nó sẽ gây tai

họa về sau. Di Dật và cóc vào rừng ở, cóc đi phát rẫy, biến thành một chàng

trai cao lớn, đẹp đẽ lạ thường. Cóc hóa phép, tức thì một đoàn chừng ba trăm

người hiện ra trước mắt. Anh giao cho họ phát cây làm cỏ, rồi cuốc đất trồng

lúa, trồng khoai. Chiều tối công việc đã xong, anh lại khoác tấm da cóc vào

người, rồi nhảy về nhà. Cóc bảo mẹ đến nhà chủ làng xin cho cóc đi chăn trâu.

Hết hạn chăn trâu, cóc bảo mẹ đến nhà chủ làng xin con gà trắng mang về. Cóc

đi câu cá mang về cho mẹ nấu cháo và dặn chỉ nấu nửa con thôi, nhưng khi mở

nồi cháo ra xem, lạ thay không phải nửa con cá mà là một nồi cá. Đến mùa hội

đâm trâu, cóc xin mẹ cho đi lấy nước. Lúc đi cóc cầm theo ống nhỏ trong đựng

ít gạo. Mỗi lần qua sông, cóc lại bỏ ống nứa xuống nước và nói: nếu có cha tôi

ở dưới sông thì ông nứa này chìm xuống. Cóc tìm được cha.Thần nước là cha

của cóc. Cóc đưa mẹ đến tòa lâu đài mà chàng đã hóa phép dựng từ trước. Thần

nước đến ở cùng mẹ con Di Dật.

Một hôm cóc bảo mẹ: mẹ ơi con muốn lấy vợ. Cóc cởi lốt thành một

chàng trai rất tuấn tú rất đẹp đi tìm hỏi con gái của Vu-Dơ-Ria làm vợ, nhưng

đã bị Dơ-Róc, Dơ-Rây (con trời) đến trước. Cóc đánh nhau và chém đầu hai

người con trời. Sau đó cóc tiêu diệt được năm người con trời hung ác và cuối

cùng trở về được nhà mình, biến thành chàng trai khôi ngô tuấn tú cưới hai cô

gái con Vu-Dơ-Ria về làm vợ, hai làng hòa thuận vui vẻ.

56/ CHỒNG CÓC (Ê ĐÊ)

Một hôm Y-Rít làm rẫy bắt được một con cóc vàng, nói về nhà ăn thịt.

Nghe thế cóc tự nhiên nói tiếng người: «anh ơi, anh để cho tôi sống, tôi sẽ giúp

anh trông gà, giữ lúa... ». Rít mừng rỡ đem cóc về nhà nuôi. Ngày ngày cóc ở

nhà đuổi gà phơi lúa, trông có mây mưa thì đem thóc vào. Bên nhà Y-Rít có

một cô gái đẹp. Một hôm trời lình thình đổ ập mưa. Hối hả, cóc gọi Hơ-Bia

(tên cô gái láng giềng nhà bên) sang chuyển thóc hộ. Hơ –bia không đáp chỉ

lặng lẽ chạy qua nhìn xem thử. Gọi mãi không được, cóc hóa ra một chàng trai

xinh đẹp nhất làng, đưa lúa vào nhà. Xong việc cóc trở lại lốt cóc. Cô gái về

ốm tương tư. Mẹ tra gạn mãi mới biết là Hơ-bia mê cóc. Can gián mãi không

được, cha mẹ Hơ-bia cho cô hai cái nồi cũ đã rạn và đuổi đi! Đến một nơi rừng

hoang, lều cũ. Cóc làm phép hóa ra cả một tòa lâu đài rất đẹp, có đủ cây cỏ súc

vật và có cả người chăm sóc ruộng nương. Tới một con sông, cóc bỏ lốt, xuống

tắm. Hơ-bia rình xé lốt cóc, cóc phải biến thành người. Từ đó cóc thành người

rất giàu có, có rất nhiều chiêng, ché, nồi đồng quí giá do chàng lấy từ lòng đất

lên. Cuộc sống của họ thật đầm ấm và hạnh phúc.

MỘT SỐ TRUYỆN CỦA THẾ GIỚI

1. NÀNG NHÁI (MIẾN ĐIỆN)

Có hai vợ chồng già hiếm hoi, đẻ được một con nhái. Họ giữ lại nuôi,

người ta gọi là «cô bé nhái». Mẹ cô chết, người bố lấy vợ kế có hai con riêng,

chúng nó xấu bụng ghét nhái. Hồi ấy hoàng tử thứ tư làm lễ kén vợ bằng cách

ném hoa. Các tiểu thư được gọi vào cung. Nhái cũng đòi đi, chúng chế giễu

không cho vào cửa. Nhái nói khéo, được lính cho vào. Các cô tiểu thư xõa tóc.

Hoàng tử tung hoa huệ lên trời, không ngờ hoa rơi trúng đầu nhái. Hoàng tử

đành kết hôn với nhái, người ta gọi là «bà chúa nhái». Một hôm vua cha muốn

truyền ngôi cho con, mới mở một cuộc thi tìm bắt nai vàng. Các hoàng tử khác

chỉ tìm được những con nai thường, chỉ có chồng nhái nhờ có nhái, tìm được

nai vàng. Vua cha lại mở cuộc thi đem đến thức ăn sống nhưng sau buổi lễ, gạo

phải không mốc, thịt không ôi. Các hoàng tử đem gạo thịt nấu sẵn, chỉ có nhái

đưa gạo thịt sống đến, trải qua mấy ngày vẫn tươi. Lần thứ ba, vua thi vợ đẹp.

Thấy hoàng tử lo lắng định đi tìm một cô gái đẹp, nhái bảo: «cứ đưa em đến là

được!» Khi đến nơi bước lên điện, nhái vẫn là nhái. Hoàng tử thứ tư đỏ mặt khi

vua hỏi: «tiểu thư xinh đẹp của con đâu?» Nhưng nhái đã bước ra nói: «thưa

con đây!». Nói rồi cởi da nhái hóa thành cô gái xinh đẹp như tiên. Hoàng tử vội

chụp lấy tấm da ném vào lửa.

2. CON NHÁI (PHÁP)

Một người đàn bà đang muốn tìm vợ cho hai con trai. Những cô gái xung

quanh đều từ chối. Một hôm hai anh em bàn nhau bói vợ bằng cách mỗi người

bắn một phát tên, gặp ai lấy nấy. Mũi tên của người anh rơi vào chuồng gà, gần

đấy có cô gái xinh đẹp mười tám tuổi. Còn mũi tên của em không may rơi bùn,

một con nhái nhảy ra.

Người em đành phải lấy nhái làm vợ. Nhái đưa chồng về sống chung trong

một căn lầu, không người lai vãng. Một hôm hai anh em tìm đến nhà người chú

là một vị vua cai trị nhiều nước. Người chú ra một cuộc thi vui nhộn, hẹn mỗi

người đem chó đến, chó của ai chạy qua mấy hàng chai lọ mà không đổ thì cho

cai quản một nước. Nhái đưa chồng một cái hộp, mở hộp ra có một con chó

con, chó chạy lon xon tránh né rất gọn, không có một chai lọ nào đổ cả, trong

khi đó chó của người anh thì làm đổ lung tung. Thế là chồng nhái được cai

quản một nước. Lần thứ hai chú lại mở cuộc thi: ai đưa đến một sợi dây nắm

chặt trong tay, nhưng có thể quấn quanh lâu đài ba vòng thì cho cai quản một

nước khác. Dây của người anh chỉ quấn được hai vòng, còn dây của chồng nhái

quấn đến năm vòng. Lần thứ ba người chú lại thi vợ đẹp. Vợ nhái chuẩn bị một

cái xe to bằng quả quýt có bốn con chuột kéo và một con mối (thạch sùng) cầm

cương. Trước khi lên đường, nhái nhảy xuống bùn một lát, bước lên là một cô

gái rất xinh, mặc áo đẹp, xe của nhái hóa thành cỗ xe bốn ngựa có người xà ích

ăn mặc sang trọng. Thế là được chú cho cai quản một nước thứ ba.

3. CON SÓI TRẮNG (PHÁP)

Một người sắp đi du lịch, cô con gái cả xin cha đưa về cho mình một cái

áo đẹp, cô thứ hai cũng thế, chỉ có cô thứ ba thì xin một đóa hoa hồng biết nói.

Hỏi khắp nơi không ai biết cả, người ấy tự nghĩ: «nếu không có thì sao con ta

lại đòi». Cuối cùng đi tới một lâu đài nghe trong có tiếng hát. Tìm mãi mới thấy

cửa, ông tiến vào sâu, chỉ thấy có một cây hoa hồng có hoa đang hát, khắp nơi

không một bóng người. Ông ngắt một bông. Bỗng có một con sói trắng hiện ra

nói: «ai cho phép ngươi đến đây hái hoa, vậy là ngươi phải chết!». Đáp: «tôi

xin trả lại hoa». «Không được, đã bẻ thì phải chết». Thấy người nọ phân trần

mình hái cho con gái sói nói: «ta tha cho, nhưng phải đem đến đây người mà

ngươi gặp đầu tiên lúc về». Người mà ông gặp đầu tiên không ngờ lại là con

gái út. Nghe bố kể xong, cô nói: «con sẽ đi chết thay cha». Cha con lại dắt nhau

đến. Sói bảo: «ta là Tiên, bị giam, thành ra thế này, vậy phải hết sức giữ bí

mật». Cha con vào phòng có cơm dọn sẵn cho ăn. Đêm sói hóa thành ông chúa

đẹp, sáng trở lại thành sói. Vài ngày sau người cha về. Ai hỏi, ông cũng không

nói, nhưng sau không thể giấu được nữa, nói hoặc tất cả. Bỗng nghe một tiếng

rú rùng rợn: một con sói trắng ngã lăn dưới chân.

4. CÔNG CHÚA ẾCH (NGA)

Một ông vua có ba hoàng tử, lúc họ đến tuổi lấy vợ cũng có cuộc bói vợ

bằng cách bắn mỗi người một phát tên, hễ cô nào nhặt được tên của ai thì sẽ là

vợ người ấy. Kết quả có hai cô gái nhặt được mũi tên của hai hoàng tử anh, còn

mũi tên của hoàng tử thứ ba thì được một con ếch nhặt được, đành phải tuân

theo số mệnh. Một hôm vua cha muốn biết tài may vá của các nàng dâu, lần thứ

hai muốn biết tài nấu nướng và lần cuối cùng là tài khiêu vũ trong dạ hội. Hai

lần thi đầu, nàng dâu ếch làm đẹp lòng vua cha. Lần thứ ba thấy chồng buồn,

ếch bảo đừng lo, rồi trút lốt thành một cô gái tuyệt đẹp sánh vai chồng vào dạ

hội. Khi ăn tiệc, ếch bỏ những miếng xương và rượu thừa vào ống tay áo. Hai

chị dâu cũng bắt chước. Khi nhảy, ếch vung tay áo, có hàng đàn chim bay ra

cùng cảnh núi sông xuất hiện rất đẹp mắt. Khi hai chị vung tay áo thì xương

xẩu cùng những giọt nước tung tóe vào khách. Hết dạ hội, hoàng tử thứ ba đi

tìm cái lốt ếch đốt đi. Vợ về tìm mãi không được, chỉ kịp cho chồng biết rằng

một khi mất lốt, hai người sẽ chịu cảnh chia lìa, đoạn biến mất.

Được hơn một năm, chồng nhớ vợ bỏ nhà đi tìm. Tìm mãi mới biết vợ

mình đang bị biến thành chiếc quạt vàng của một bà tiên. Hoàng tử cướp được

quạt, bẻ gãy chuôi thì công chúa ếch hiện ra. Ếch cho chồng biết chỉ một tí nữa

là mình sẽ bị buộc đi lấy chồng. Lập tức hai vợ chồng ngồi lên tấm thảm bay.

Bay được một chốc, chú rể mới biết tin đuổi theo. Đuổi gần kịp thì tấm thảm đã

đưa hai vợ chồng vào nước Nga, mọi người ở đây đổ xô ra đón tiếp hai vợ

chồng. Từ đấy, không có gì làm cho họ chia lìa nhau nữa.

5. CHÀNG KỴ MÃ (MÔNG CỔ)

Hai vợ chồng nhà nọ nghèo, hiếm hoi, cầu thần mãi mới có mang nhưng

lại sinh ra được một con nhái. Được ba năm, một hôm nhái bảo mẹ làm bánh

cho mình tới dạm một trong ba cô gái con quan làm vợ. Gặp quan, nhái ngỏ lời

cầu hôn nhưng thấy quan từ chối, nhái bảo: «nếu quan không bằng lòng thì tôi

sẽ cười». Quan sẵn sàng cho nhái cười, không ngờ mỗi tiếng cười của nhái làm

cho đất rung chuyển, nhà cửa cơ hồ muốn đổ, quan buộc phải hứa gả con gái để

nhái thôi cười. Nhưng cô gái lớn không bằng lòng nên lúc theo nhái về, cô cho

ngựa nhảy vào người nhái để ngựa dẫm cho chết, lại ném thớt cối vào người

nhái. Nhưng nhái tránh được và dẫn cô trả lại quan, đòi gả cô khác, không thì

sẽ khóc. Khi nhái khóc thì trời mù mịt, nước đổ ầm ầm tràn ngập khắp nơi,

quan buộc phải gả cô gái thứ hai. Cũng như cô chị, cô thứ hai lúc theo nhái về

cho ngựa giẫm và ném thớt cối vào người nhái. Nhái lại dắt cô đi trả và đòi gả

cô thứ ba, không thì sẽ nhảy. Rồi nhái nhảy làm cho núi lở cát bay, nhà cửa lâu

đài lung lay. Quan đành phải gả cô thứ ba. Cô này bằng lòng lấy nhái. Một hôm

trong vùng mở hội, cả nhà đều đi dự, trừ nhái. Đến ngày cuối cùng có cuộc đua

ngựa nước rút, người ta thấy xuất hiện một chàng trai áo xanh cởi ngựa xanh,

có yên cương quý đến đua với các kỵ sĩ đã thắng cuộc. Chàng đi sau, nhưng về

đích trước tiên. Không những thế, trong khi đua, chàng còn ba lần bắn chết ba

con diều hâu và hai lần xuống ngựa ngắt hoa ném tặng người dự.

Năm sau đến ngày hội, mọi việc cũng xảy ra như trên làm cho vợ nhái ngờ

ngợ đó là chồng mình. Năm sau nữa, đến ngày hội cũng thế, nhưng vợ nhái

thình lình nửa chừng về nhà thì thấy chồng vắng mặt, chỉ bỏ lại một tấm da

nhái. Nàng bèn đốt cháy tấm da. Khi chàng áo xanh – chồng nàng – cưỡi ngựa

trở về thì da đã hóa tro. Chàng nhái cho vợ biết chàng là con thần đất, vì sức

lực còn non, không có da sẽ không chịu nổi giá rét, trừ ra nếu đi cầu thần được

ba việc thì sẽ sống. Thần hứa cho vợ nhái nhưng lại bắt nàng phải đem ba điều

đó thông báo từng nhà cho mọi người biết trước khi trời sáng mới được. Việc

báo tin này, vợ nhái không làm tròn vì bị bố nàng cản trở. Thế là chàng nhái

chết, vợ nhái cũng biến thành đống đá trước mộ.

6. CHÀNG CÓC (CAMPUCHIA)

Ngày xưa có vợ chồng hai ông bà nghèo, đã già rồi mà không con, không

cháu. Ngày ngày hai vợ chồng già đi bắt cá để nuôi thân. Một hôm, hai ông bà

đi bắt cá ở hồ xa. Tấm lưới nhỏ đã cũ rách, ông bà chăng kéo mãi mà chỉ được

một con cóc. Tức mình ông quang con cóc xuống nước rồi lại tiếp tục tìm bắt

cá, lưới kéo lên lần này vẫn là con cóc ấy! Giận lắm, nhưng chưa kịp làm gì

cho hả giận thì cóc đã nói: xin ông bà đừng vứt cháu đi. Ông bà cứ đem cháu

về nuôi, cháu xin được ăn ở với ông bà, cháu có thể giúp ông bà nhiều việc.

Hai vợ chồng đem cóc về nuôi. Cóc giúp đỡ ông bà mọi việc có ích. Ngày qua

ngày, cóc đã trưởng thành và muốn lấy vợ. Ông bà nghĩ, hãy tìm cho nó một

con cóc cái! nhưng cậu không chịu mà đòi lấy con gái nhà phú ông trong làng

ấy. Ông bà biện lễ đến nhà phú ông ngỏ ý xin cưới con gái nhà ấy cho cóc. Nhà

giàu cho là chuyện rồ dại bèn thách thức: «tôi bằng lòng gả con gái cho cóc

đấy. Nhưng ông bà phải làm một chiếc cầu bằng vàng bắc từ nhà ông bà đến

nhà tôi. Con gái tôi sẽ đi trên chiếc cầu ấy về nhà chồng». Cóc bảo ông bà đừng

lo, chỉ ngày mai là cóc làm xong. Quả nhiên, sáng hôm sau chiếc cầu vàng bắc

từ nhà ông bà đến nhà phú ông đã hiện ra chói lọi. Nhà giàu phải giữ lời hứa gả

con gái cho cóc.

It lâu sau, nước nhà bị giặc ngoại xâm. Thế giặc mạnh như thác lũ tràn

ngập cả biên cương. Cóc xin đi đánh giặc. Nhà vua nghĩ hẳn đây là điềm lạ mà

trời phật ban cho, bèn ưng thuận. Chàng cóc ra trận với tất cả nghi thức của vị

đại tướng. Trên bành voi trận hùng dũng xông lên, viên ngọc thần trên đầu cóc

– bảo vật từng giúp cóc thực hiện mọi ý muốn – không ngừng phát ra sức mạnh

làm quân giặc tan tác. Chẳng bao lâu, tướng cóc với viên ngọc phép đã quét

sạch quân xâm lăng ra ngoài bờ cõi nước mình. Chiến thắng trở về, cóc bỏ lốt

cũ, biến thành một chàng trai xinh đẹp, chung sống hạnh phúc với vợ.

7. CON LỢN TRỞ THÀNH VUA (CAMPUCHIA)

Ngày xưa có một nhà triệu phú, có rất nhiều của cải, nhưng chỉ được độc

một đứa con là lợn. Lợn lớn lên, biết nói, biết đi rất sớm, lại có vẻ thông minh.

Lợn biết làm nhiều việc trong nhà giúp bố mẹ. Một hôm, lợn nói với bố mẹ: bố

mẹ ơi, nay con đã lớn rồi, bố mẹ lấy vợ cho con. Lợn đòi lấy vợ người và nói

với cha mẹ rằng mình tự đi hỏi vợ lấy vậy. Ít lâu sau, lợn lẳng lặng đi khỏi nhà,

bố mẹ tìm khắp nơi nhưng không thấy. Lợn vào rừng và gặp một bà già nghèo

khổ đang đi trong rừng. Lợn đến gần và hỏi: bà ơi, bà đi kiếm gì thế? bà đã

kiếm được chưa? Lợn giúp bà tìm củ rừng, lợn xin theo bà về nhà ở. Lợn sống

trong nhà với ba mẹ con bà già một thời gian sau, ai nấy đều quý mến lợn.

Riêng cô gái nhỏ tỏ ra thân mật với lợn hơn. Bà mẹ hỏi con gái lớn có bằng

lòng lấy lợn làm chồng không? cô gái lớn trả lời không muốn, khi bà hỏi cô gái

nhỏ, cô trả lời tùy mẹ. Lợn vui mừng lắm, bà tổ chức lễ cưới cho con gái và lợn

theo phong tục.

Một hôm, vợ rủ lợn đi xem dàn nhạc biểu diễn ở huyện, lợn giả không đi.

Khi vợ đi xa rồi, lợn ra khỏi lốt, hiện nguyên hình người rồi đi nhanh đến nơi

biểu diễn nhạc. Anh chơi nhạc rất hay, khi chơi xong anh về nhà rất nhanh và

chui vào lốt lợn. Vợ sinh nghi từ trước, tìm cách làm cho rõ chuyện. Cô giả vờ

đi xem hội, đi được một quãng rồi quay lại nấp ngoài vách rình xem. Bỗng cô

thấy chồng mình ra khỏi lốt lợn, rồi hiện nguyên hình là một chàng trai tuấn tú,

xinh đẹp, mà lại chính là người biểu diễn rất hay hôm trước. Cô chạy vào ôm

chặt lấy chồng, không cho chui vào lốt lợn nữa. Lợn bảo vợ cất lốt lợn cẩn

thận. Hai vợ chồng sống với nhau rất hạnh phúc. Ở một xứ xa xôi, xứ này đang

không có vua. Các quan trong triều tổ chức cuộc lễ khẩn cầu tìm người hiền tài

lên ngôi. Chàng lợn lên làm vua. Vua cùng hoàng hậu tìm về quê cũ, tìm rước

tất cả cha mẹ và chị về hoàng cung cùng chung hưởng vinh quang, hạnh phúc.

8. CHUYỆN CHÀNG LỢN (RUMANI)

Ngày xửa ngày xưa, có hai ông bà già nọ, tuổi đến non trăm, ai cũng bảo

hai ông bà có phúc. Riêng hai ông bà lúc nào cũng âu sầu, ủ rũ, nhất là bà cụ.

Họ không có con.

Một hôm, bà nói với ông như sau: sáng sớm mai, ông dậy sớm, đi về

hướng mặt trời, gặp bất cứ vật gì trước tiên, dù là người, dù là rắn rết, miễn là

vật sống thì ông cứ đem về đây, chúng ta sẽ nuôi nấng, săn sóc nó. Nó sẽ là con

của chúng ta. Ông đang đi thì gặp một đàn lợn, tất cả lợn chạy hết chỉ còn một

con lợn bé nhất, yếu ớt nhất không chạy được nên nằm nép lại trên luống đất.

Ông cụ vui mừng bắt lấy, ôm về lều cho bà cụ. Một thời gian sau, nhà vua cho

yết bảng kén phò mã. Ai mà làm được chiếc cầu vàng, giát ngọc quý từ nhà

mình đến cung vua, rồi hai bên cầu lại có hai hàng cây, trên cây có đủ loài chim

lạ, thế thì được lấy công chúa và được chia nửa giang sơn. Chàng lợn xin đi

làm cầu cho vua. Vua giận quát nếu sáng mai không có cầu, sẽ chặt đầu hai cha

con lợn. Đêm ấy, hai vợ chồng ông lão nghèo mất ngủ vì lo, gần sáng mệt quá

mới thiếp đi. Chàng lợn lên ổ nằm của mình, mở cửa sổ và thổi hai luồng hơi

đỏ như lửa từ nhà lợn đến cung vua. Loáng cái đã hóa thành một chiếc cầu

bằng vàng, hai bên là hai hàng cây đậu đầy các loài chim quý. Căn lều nát đã

biến thành một tòa lâu đài còn đẹp hơn cả cung điện vua. Đêm ấy, khi cha mẹ

đã đi ngủ, công chúa về phòng mình, chàng lợn theo sau. Bỗng chàng lột tấm

da lợn và biến thành một chàng trai tuấn tú, đẹp hơn tất cả mọi chàng trai đã

đến cầu hôn nàng. Mẹ nàng bảo nàng đốt lốt lợn. Chàng lợn buồn rầu bảo

không thể nào gặp gỡ nhau được nữa, bỗng công chúa thấy có một vành sắt

đánh ngang bụng nàng. Chàng lợn nói: ta là Hoàng tử trên trời nếu tìm ta thì

đến Thánh đường Trầm hương sẽ gặp! Công chúa quyết ra đi tìm chồng. Sau ba

năm đi tìm, cuối cùng công chúa cũng đến được Thánh đường Trầm hương với

ba món quà mà Thánh Chủ Nhật đã cho nàng. Cuối cùng hoàng tử cũng tỉnh

giấc, nàng hạ sinh một đứa con trai bốn tuổi. Mụ phù thủy bị trị tội, hoàng tử

mở tiệc mừng, có cả cha mẹ công chúa và ông bà lão nghèo khổ xưa kia đã

nuôi lợn.

Bảng thống kê các hình thức nhân vật ra đời

Nhân vật ra đời

TT Tên truyện cổ tích Ướm chân, Cầu khẩn Nhặt Tình huống

ăn, uống,... thần linh được khác

1 Chàng rể cóc (Vân Kiều) +

2 Lấy chồng dê (Kinh) +

3 Cóc tiên (Kinh) +

4 Chuyện chàng cóc (Tà Ôi) +

5 Cây tông lông (Gia rai) +

6 Chàng nhái (Kinh) +

7 Chàng rể heo (Vân Kiều) +

8 Nàng Hơ lúi (Ba Na) +

9 Chàng rùa (H’Mông +

10 Chàng lợn (Gia rai) +

11 Chàng cóc (Kơ Dong) +

12 Chàng tôm (Kinh) +

13 Cụ vách - ốc sên (Mường) +

14 Chàng ếch-con trai thần mặt +

trời (Cơ ho)

15 Chàng ếch (Churu) +

16 Người đội lốt mèo (Tà Ôi) +

17 Anh chàng cá chuối (Mường) +

18 Chàng hến (Kinh) +

19 Phò mã cóc (Raglai) +

20 Hoàng tử rắn và nàng hoa sen +

(Kinh)

21 Người lấy cóc (Kinh) +

22 Chàng chim cu gáy (Raglai) +

23 Cóc và Hơ bia Phu (Ba Na) +

24 Chàng rùa (Thái) +

Tổng 12 7 2 3

Bảng thống kê hình thức các lốt vật

Bảng thống kê về các loại thử thách

Thử thách

TT Tên truyện cổ tích Khả năng Sức khỏe Tài săn Sính lễ

làm việc hơn người bắt quý hiếm

1 Người lấy cóc (Kinh) +

2 Lấy chồng dê (Kinh) +

3 Lấy chồng rắn (H’Mông) +

4 Chàng chồn (Thái) + +

5 Chàng nhái (Kinh) +

6 Chàng rể cọp (Dao) + +

7 Chàng rắn (Gia rai) +

8 Chàng lợn (Gia rai) + +

9 Chàng dê (Mèo) +

10 Lấy chồng rùa (Mường) + +

11 Con cum (ếch con) (Mường) +

12 Chàng rể cóc (Vân Kiều) +

+ 13 H’bia Rác lấy chồng chồn +

(Gia rai)

14 Chàng rùa (Xê Đăng) + +

15 Chàng ếch-con trai thần mặt +

trời (Cơ ho)

16 Người đội lốt mèo (Tà Ôi) +

17 Anh chàng cá chuối (Mường) +

18 Truyện chồn và nàng Hơ Lúi +

(Gia rai)

19 Chàng rùa (H’Mông) +

20 Chàng hến (Kinh) +

21 Cóc và Hơ Bia Phu (Ba Na) +

22 Chàng rùa (Thái) +

23 Chàng rể heo (Vân Kiều) +

Tổng 14 3 4 8

Bảng thống kê về tài năng thần kỳ

TT

Tên truyện cổ tích Có phép thuật, Có sức mạnh

1 Lấy chồng dê (Kinh)

được giúp đỡ

2 Người lấy cóc (Kinh)

+

3 Chàng nhái (Kinh)

+

4 Chàng tôm (Kinh)

+

5 Cóc tiên (Kinh)

+

6 Chàng hến (Kinh)

+

7 Nàng Hơ Lúi (Ba Na)

+

8 Con chuột lông đỏ (Tày)

+

9 Cóc và Hơ bia Phu (Ba Na)

+

10 Chàng dê (Mèo)

11 Chàng rể cọp (Dao)

+

12 Cụ vách - ốc sên (Mường)

+

+

13 Lấy vợ cóc (Mường)

14 Con cum (ếch con) (Mường)

+

15 Lấy chồng rùa (Mường)

+

16 Anh chàng cá chuối (Mường)

+

17 H’bia Rác lấy chồng chồn (Gia rai)

+

18 Người đội lốt mèo (Tà Ôi)

+

19 Chuyện chàng cóc (Tà Ôi)

+

20 Hoàng tử rắn (Cao Lan)

+

21 Lấy chồng rắn (H’Mông)

+

22

+

23 Chàng ếch- con trai thần mặt trời (Cơ ho)

Con nai thần (Cơ ho) +

24 Chàng rùa (Xê Đăng)

+

25 Cô gái lấy chồng trăn (Xê Đăng)

+

26 Nàng út lấy chồng tôm (Chu ru)

+

27 Truyện chồn và nàng Hơ Lúi (Gia rai)

+

28 Phò mã cóc (Raglai)

+

29 Chàng khỉ và nàng Ma Phun (Churu)

+

30 Chàng ếch (Churu)

+

31 Lấy chồng trăn (Vân Kiều)

+

32 Chàng rể cóc (Vân Kiều)

+

33 Chàng rể heo (Vân Kiều)

+

34 Chồng cóc (Ê Đê)

+

35 Chàng rùa (H’Mông)

+

36 Chàng lợn (Gia rai)

+

+

37 Chàng rắn (Gia rai)

+

38 Cây tông lông (Gia rai)

39 H’Lúi lấy chồng chồn (Gia rai)

+

+

40 Chàng chim cu gáy (Raglai)

41 Lấy chồng rắn (Raglai)

+

42 Chàng cóc (Kơ Dong)

+

+

43 Chàng chồn (Thái)

+

44 Chàng rùa (Thái)

+

39 5 Tổng

Bảng thống kê các hình thức hủy lốt vật

Các hình thức hủy lốt vật TT Tên truyện cổ tích

Giấu Đập Đốt Xé Phá

1 Người lấy cóc (Kinh) +

2 Lấy chồng dê (Kinh) +

3 Ông trạng lấy rùa (Kinh) +

4 Nàng tiên cua và anh chàng đánh cá + (Kinh)

5 Nàng tiên ốc (Kinh) +

6 Chàng nhái (Kinh)

7 Chàng tôm (Kinh) +

8 Chàng rùa (Thái) +

9 Chuyện con cầy bay (Thái) +

10 Chàng dê (Mèo) +

11 Con chuột lông đỏ (Tày) +

12 Mó nước ấm (Mường) +

13 Trăn thần (Chàm) +

14 Chuyện chàng cóc (Tà Ôi) +

15 Chàng ếch- con trai thần Mặt trời +

(Cơ ho)

16 Lấy chồng trăn (Vân Kiều) +

17 Chàng rể cóc (Vân Kiều) +

18 Chàng rể heo (Vân Kiều) +

19 Truyện chồn và nàng H’Lúi (Gia rai) +

20 Chồng cóc (Ê Đê) +

Tổng 2 3 10 3 2

Bảng thống kê về “vật” là thần linh, con thần linh

Thần linh Con các vị thần linh TT Tên truyện cổ tích

Con trai Con gái

+ 1 Cóc tiên (Kinh)

2 Nàng tiên cua và anh chàng +

đánh cá (Kinh)

+ 3 Chàng rùa (Thái)

4 Chàng chồn (Thái) +

5 Nàng tiên ốc (Kinh) +

+ 6 Chàng dê (Mèo)

7 Chuyện con cầy bay (Thái) +

+ 8 Con chuột lông đỏ (Tày)

+ 9 Trăn thần (Chàm)

+ 10 Chàng rùa (H’Mông)

11 Lấy vợ cóc (Mường) +

12 Nàng tiên cá (Xê Đăng) +

13 Con nai thần (Cơ ho) +

+ 14 Chàng ếch-con trai thần

mặt trời (Cơ ho)

+ 15 Anh chàng cá chuối (Mường)

+ 16 Chàng cóc (Kơ Dong)

17 Nàng cá măng (Thái) +

9 Tổng 2 6

Bảng thống kê về địa vị của nhân vật đội lốt sau khi kết hôn

Địa vị của nhân vật đội lốt sau khi kết hôn

Con

Con

Con

Con

Con

Con

Con

Con

T

Con

Làm

Tên truyện cổ tích

T

rể

rể

rể

rể

rể

rể

rể

rể

rể

vua

Quan

Thần

Phú

Chẩu

A-

Tạo

Chúa

Vua

tao

ông

mường

Nha

mường

làng

1 Chàng nhái (Kinh)

2 Chàng chim cu gáy

+

+

3 Chàng lợn (Gia rai)

(Raglai)

4 Chàng rùa(H’Mông)

+

5 Chàng dê (Mèo)

+

6 Lấy vợ cóc (Mường)

+

7 Chàng rắn (Gia rai)

+

+

8 Chàng ếch – con trai

+

thần mặt trời

9 Truyện chồn và

(Cơ ho)

+

10 Chàng rùa (Thái)

nàng H’Lúi (Gia rai)

11 Cóc tiên (Kinh)

+

12 Chàng hến (Kinh)

+

13 Chàng chồn (Thái)

+

14 Chàng tôm (Kinh)

+

15 Chàng rể heo

+

+

16 Mó nước ấm

(Vân Kiều)

+

17 Lấy chồng dê (Kinh)

(Mường)

18 Chàng rể cọp (Dao)

+

19 Chàng rể cóc

+

+

20 Anh chàng cá chuối

(Vân Kiều)

+

21 Phò mã cóc (Raglai)

(Mường)

22 Hoàng tử rắn và

+

+

23 Cóc và Hơ Bia Phu

nàng hoa sen (Kinh)

+

24 Chuyện chàng cóc

(Ba Na)

+

(Tà Ôi)

Tổng 1 4 3 4 1 1 2 1 3 4

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Lê Thị Thanh An (2008), Kiểu truyện người em út trong kho tàng truyện cổ

tích Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học khoa học xã hội và nhân văn.

2. Nguyễn Thị Ngọc Anh, Touneh Nai Chanh, Phan Xuân Viện (sưu tầm và

biên soạn) (2006), Truyện cổ Churu, Nxb Văn nghệ.

3. Xuân Bách (tuyển chọn) (2010), Kho tàng truyện cổ tích thế giới, Nxb

Đồng Nai.

4. Phan Xuân Biên, Phan An, Phan Văn Dốp, Võ Công Nguyện, Nguyễn Văn

Huệ (1998), Văn hóa xã hội người Raglai ở Việt Nam, Nxb Khoa học

xã hội.

5. Nguyễn Đổng Chi (1993), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (5tập), Nxb

Trẻ.

6. Chu Xuân Diên (2011), Văn học dân gian Bạc Liêu, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội.

7. Chu Xuân Diên – Lê Chí Quế (1996), Tuyển tập Truyện cổ tích Việt Nam -

phần truyện cổ tích người Việt, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

8. Chu Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, Nxb

Đại học tổng hợp Tp Hồ Chí Minh.

9. Chu Xuân Diên (1997), “Về phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn

hóa dân gian”, Tạp chí văn học số (9).

10. Chu Xuân Diên (2008), Nghiên cứu văn học dân gian phương lịch sử, thể

loại, Nxb Giáo dục.

11. Ngô Văn Doanh (1995), Truyện cổ Mianma, Nxb Văn hóa thông tin.

12. Ngô Văn Doanh (1995), Truyện cổ Lào, Nxb Văn hóa thông tin.

13. Ngô Văn Doanh (1995), Truyện cổ Campuchia, Nxb Văn hóa thông tin.

14. Phạm Viết Đào – Hoàng Thị Đậu (tuyển chọn và dịch) (1994), Truyện cổ

Rumani, Nxb Văn hóa dân tộc Hà Nội.

15. Nguyễn Định (2010), Yếu tố thần kỳ trong truyền thuyết và cổ tích người

Việt ở Nam Trung Bộ, Nxb Khoa học xã hội.

16. Nguyễn Tấn Đắc (2001), Truyện kể dân gian đọc bằng Type và Motif,

Nxb Khoa học xã hội.

17. Nguyễn Tấn Đắc (2010), Văn hóa Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội.

18. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb

Khoa học xã hội.

19. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,

Nxb Khoa học xã hội.

20. Cao Huy Đỉnh (1962), “Quan hệ giữa tư tưởng của giai cấp thống trị và

nhân dân trong xã hội phong kiến qua một vài truyện cổ”, Nghiên cứu

văn học số (6).

21. Y Điêng, Hoàng Thao (Sưu tầm – biên soạn) (1978), Truyện Cổ Ê Đê,

Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

22. Jean Chevalier Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng thế giới, Nxb

Đà Nẵng.

23. Nguyễn Bích Hà (1998), Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong truyện

cổ Việt Nam và Đông Nam Á, Nxb Giáo dục.

24. Nguyễn Thị Bích Hà (2005), “Vận dụng lí thuyết văn học văn học so sánh

tìm hiểu kiểu truyện người em trong truyện cổ tích Việt Nam và Châu

Âu”, Nghiên cứu văn học số (4).

25. Nguyễn Bích Hà (1998), “Mô típ“sự ra đời thần kỳ”trong truyện Thạch

Sanh”, Tạp chí văn học số (6).

26. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1997), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội.

27. Lại Phi Hùng (2004), So sánh tương quan giữa loại truyện chàng trai

khỏe của Lào với loại truyện cùng tên của Việt Nam, Nxb Khoa học xã

hội.

28. Nguyễn Thị Huế (1996), Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích

các dân tộc Việt Nam, Đại học khoa học xã hội và nhân văn.

29. Nguyễn Thị Huế (1995), “Năm mươi năm ngành cổ tích học Việt Nam”,

Tạp chí văn học số (11).

30. Nguyễn Thị Huế (1997), “Người mang lốt – mô típ đặc trưng của kiểu

truyện cổ tích về nhân vật xấu xí mà tài ba”, Tạp chí văn học số (3).

31. Thu Hương (2006), Truyện cổ Cơ Ho, Nxb Văn hóa thông tin.

32. Thu Hương (2006), Truyện cổ Vân-Kiều, Nxb Văn hóa thông tin.

33. Đinh Gia Khánh (chủ biên) (2002), Văn học dân gian Việt Nam, Nxb

Giáo dục.

34. Đinh Gia Khánh (2007), Tuyển tập – tập 3, Nxb Giáo dục.

35. Đinh Gia Khánh (1977), “Để có thể nắm bắt thực chất của văn học dân

gian”, Tạp chí văn học số (6).

36. Đặng Văn Lung (2010), Phong tục tập quán đa dân tộc, Nxb Khoa học xã

hội Việt Nam.

37. Thanh Liêm (biên soạn) (2007), Phong tục thế giới, Nxb Văn hóa - thông

tin.

38. Tăng Kim Ngân (1997), Cổ tích thần kỳ người Việt – đặc điểm cấu tạo

cốt truyện, Nxb Giáo dục.

39. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Văn học.

40. Nguyễn Hữu Nghĩa (2004), Nhân vật chàng trai khỏe trong truyện cổ tích

Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh.

41. Lữ Huy Nguyên, Đặng Văn Lung (1996), Hợp tuyển truyện cổ tích Việt

Nam, (sưu tầm và biên soạn), Nxb Văn học.

42. Bùi Văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na -Tây Nguyên, tập 1, 2, Nxb Hà

Nội.

43. Phan Đăng Nhật (1981), “Phương pháp nghiên cứu văn học dân gian

trong hệ thống của các tác phẩm”, Tạp chí văn học số (5).

44. Phan Đăng Nhật (1981), Quá trình hình thành biểu tượng bọc thai chung

(đồng bào) với ý thức cộng đồng hòa hợp dân tộc, luận văn thạc sĩ,

Đại học tổng hợp Hà Nội.

45. Phan Đăng Nhật (1981), Văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam (trước

cách mạng thánh Tám), Nxb Văn hóa.

46. Hoàng Anh Nhân (1987), Truyện cổ Mường, Nxb Hà Nội.

47. Võ Quang Nhơn (1983), Văn học dân gian các dân tộc ít người ở Việt

Nam, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp Hà Nội.

48. Bùi Mạnh Nhị (1998), “Thời gian nghệ thuật trong ca dao – Dân ca trữ

tình”, Tạp chí văn học số (4).

49. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên) (2000), Văn học Việt Nam - văn học dân gian,

những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục.

50. Vũ Ngọc Phan (1977), “Những bước tìm hiểu văn học dân gian Việt

Nam”, Tạp chí văn học số (6).

51. Trần Thế Pháp (2011), Lĩnh nam chích quái, Nxb Trẻ.

52. Hoàng Phê (chủ biên) (1984) và nhiều tác giả, Từ điển văn học, (tập 2),

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

53. Lê Hồng Phong (2006), Tìm hiểu truyện cổ Tây Nguyên: Trường hợp Mạ

và K’ho, Nxb Văn học.

54. Nguyễn Thị Ngân Sương (2007), Những hình thức thưởng phạt trong

truyện cổ tích Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Tp Hồ Chí

Minh.

55. Trần Đình Thêm (2010), Văn hóa các dân tộc Tây Nguyên, Nxb Thanh

niên.

56. Nguyễn Thị Bích Thủy (2011), So sánh một số kiểu truyện cổ tích của các

tộc người sử dụng ngữ hệ Nam Đảo ở Việt Nam và Indonesia, luận văn

thạc sĩ, Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh.

57. Đặng Thái Thuyên (1983), “Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kỳ

Mường”, Tạp chí văn học số (5).

58. Nguyễn Duy Thiệu (chủ biên) (1997), Các dân tộc ở Đông Nam Á, Nxb

Văn hóa dân tộc Hà Nội.

59. Nguyễn Thị Hồng Tin (1999), Vấn đề giảng dạy truyện cổ tích thần kỳ

trong nhà trường phổ thông, báo cáo tốt nghiệp, Đại học sư phạm Tp

Hồ Chí Minh.

60. Phạm Huyền Trâm (2010), Hình tượng rắn trong truyện kể dân gian Việt

Nam luận văn thạc sĩ, Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh.

61. Đỗ Bình Trị (2006), Truyện cổ tích thần kỳ Việt đọc theo hình thái học

của truyện cổ tích của Propp, Nxb Đại học quốc gia Tp HồChí Minh.

62. Phạm Hải Triều (1996), “Thử phân tích vài biểu hiện của đặc điểm nhân

ái trong truyện cổ tích Việt Nam”, Tạp chí văn hóa dân gian số (1).

63. Vũ Anh Tuấn (1991), Khảo sát cấu trúc và ý nghĩa một số típ truyện kể

dân gian Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam, luận văn thạc sĩ, Đại học

tổng hợp.

64. Nhiều tác giả (1986), Truyện cổ Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội.

65. Doãn Thanh, Thương Nguyễn, Hoàng Thao (1963), Truyện cổ dân tộc

Mèo, Nxb Văn học Hà Nội.

66. Y Thi (1984), Truyện cổ Mnông, tập 1, Sở văn hóa thông tin Darlak.

67. Nhiều tác giả (Sưu tầm –biên soạn) (1980), Truyện cổ Thái, Nxb Văn hóa

dân tộc Hà Nội.

68. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (1974), Truyện cổ các dân tộc miền

núi Bắc Miền Trung, Nxb Thuận Hóa - Nghệ An –Thanh Hóa.

79. Nhiều tác giả, (Sưu tầm –biên soạn) (1978), Truyện cổ Dao, Nxb Văn hóa

dân tộc Hà Nội.

70. Đặng Nghiêm Vạn (2010), Văn hóa Việt Nam – đa tộc người, Nxb Văn

học.

71. Đặng Nghiêm Vạn (1985), Truyện cổ các dân tộc Trường Sơn – Tây

Nguyên, tập 1, 2, Nxb Văn học Hà Nội.

72. Nguyễn Thị Thu Vân (2005), Khảo sát truyện cổ dân tộc Chăm, luận án

tiến sĩ, Đại học sư phạm Tp Hồ Chí Minh.

73. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2011), Cơ sơ văn hóa Việt Nam, Nxb Giáo

dục.

74. Lê Trung Vũ (1991), Khảo sát về dạng truyện người mồ côi trong truyện

cổ H’Mông, luận văn thạc sĩ, Đại học tổng hợp.

75. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ Hmông, Nxb Hà Nội.

76. Truyện cổ Việt Bắc, tập 2 (1974), Nxb Việt Bắc.

77. Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Viện nghiên cứu văn hóa (2009), Tổng

tập văn học dân gian các dân tộc thiểu số Việt Nam, (tập 14, 15, 16),

(truyện cổ tích), Nxb Khoa học xã hội.

78. Viện Khoa học xã hội Việt Nam (2000), Tổng tập Văn học dân gian

người Việt (tập 6, 7) (truyện cổ tích), Nxb Khoa học xã hội.