
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thẩm tra là công cụ rất quan trọng, một nguyên tắc cơ bản trong khâu
tìm kiếm, phát hiện, thu thập thông tin, xem xét, tra cứu, đánh giá, phân tích
và sử dụng các chứng cứ nhằm làm rõ bản chất của sự việc và hành vi, nội
dung và đối tượng kiểm tra để kết luận nhằm đảm bảo đúng nguyên tắc. Thực
tiễn cũng cho thấy, nếu thẩm tra chưa chu đáo hoặc thẩm tra chưa rõ ràng thì
kiểm tra chưa thể kết thúc, chưa thể kết luận nội dung để xử lý đối tượng
kiểm tra. Hiện nay, vẫn có tình trạng một số vụ việc tiến hành thẩm tra không
đầy đủ và chưa sâu, chưa tìm kiếm được bằng chứng xác thực và xác đáng,
làm ảnh hưởng đến tính chính xác, khách quan khi kết luận nội dung thẩm
tra. Những hạn chế, bất cập trong thẩm tra dẫn đến quyết định xử lý không
chuẩn xác như oan sai, bỏ lọt các hành vi và đối tượng vi phạm. Nhiều vụ
việc, hành vi của đối tượng thẩm tra liên quan đến pháp luật và các lĩnh vực
khác… Điều đó đòi hỏi hoạt động thẩm tra cần phải có sự cộng tác, phối
hợp của nhiều hoạt động, nhiều tổ chức và mang tính nghiệp vụ cao. Như
vậy, việc đảm bảo chất lượng và kết quả của hoạt động thẩm tra có ý nghĩa
quyết định trực tiếp đến việc kết luận và quyết định xử lý của tổ chức có
thẩm quyền đối với đối tượng thẩm tra. Hoạt động thẩm tra được thực hiện
các khâu: lập kế hoạch thẩm tra và sử dụng kết quả thẩm tra để kết luận và xử
lý nếu có vi phạm theo thẩm quyền được pháp luật quy định.
Đối với thẩm tra viên, đây vốn là một chức danh nghiệp vụ của Tòa án,
nằm trong hệ thống công chức ngành Tòa án. Thẩm tra viên là chức danh đặc
thù. Tuy có hoạt động nghiệp vụ song chưa được quy định rõ ràng trong Luật
tổ chức Tòa án nhân dân hiện hành, nên dẫn đến trên thực tế khó xác định rõ
công sức đóng góp của Thẩm tra viên trong kết quả hoạt động của công tác thi
hành án. Hơn nữa, pháp luật hiện hành về lĩnh vực thi hành án đang còn thiếu