BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH MAI SƠN TÙNG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH MAI SƠN TÙNG
THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU
Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32
LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hoài Thanh.
Công trình này chưa công bố dưới bất kì hình thức nào.
Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 08 năm 2011
Mai Sơn Tùng
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoài Thanh, người thầy đã
luôn khích lệ và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn
này.
Để hoàn thành luận văn, tôi cũng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của gia
đình, đồng nghiệp trường THPT Ngô Quyền (Bà Rịa – Vũng Tàu), và quí thầy cô
công tác tại Phòng KHCN & SĐH trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Minh.
Xin cảm ơn tất cả mọi người
Mai sơn Tùng
0TLỜI CAM ĐOAN0T ................................................................................................................. 1
0TLỜI CẢM ƠN0T ...................................................................................................................... 2
0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................................ 3
0TDẪN LUẬN0T .......................................................................................................................... 5
0T1. Lí do chọn đề tài0T................................................................................................................................... 5
0T2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu0T ......................................................................................................... 6
0T3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề0T .................................................................................................................... 7
0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ...................................................................................................................... 9
0T5. Cấu trúc luận văn0T ................................................................................................................................. 9
0TChương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU0T .................................. 11
0T1.1 Về thể loại tùy bút 0T ............................................................................................................................ 11
0T1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút 0T .................................................................................................... 11
0T1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút 0T ........................................................................................ 12
0T1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút 0T .................................................................................... 14
0T1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu0T ......................................................... 15
0T1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu0T .................................................................................. 19
0T1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật0T .............................................................................................. 19
0T1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu0T ........................................................ 20
0T1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương0T .......................................................... 20
0T1.3.2.2 Chân dung người chiến sĩ, người nghệ sĩ và trí thức bác học0T .............................................. 28
0T1.3.2.3 Hình tượng con người Việt Nam theo dòng lịch sử0T ............................................................ 41
0TChương 2: CÁI TÔI ĐỖ CHU TRONG TÙY BÚT0T ........................................................ 46
0T2.1 Cái tôi trữ tình0T .................................................................................................................................. 46
0T2.1.1 Cái tôi trữ tình công dân0T ............................................................................................................ 46
0T2.1.2 Cái tôi trữ tình đời thường0T ......................................................................................................... 51
0T2.1.3 Cái tôi trữ tình hoài niệm về tuổi thơ và quê nhà yêu dấu0T .......................................................... 53
0T2.2 Cái tôi triết luận0T ................................................................................................................................ 56
0T2.2.1 Cảm quan về cuộc đời0T ............................................................................................................... 56
0T2.2.2 Những quan niệm về văn chương0T .............................................................................................. 59
0T2.2.3 Những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội đương thời0T ............................................................. 63
0T2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác0T ................................................................................................................... 67
0T2.3.1 Tầm hiểu biết sâu rộng0T .............................................................................................................. 67
0T2.3.2 Những trích dẫn đa dạng, phong phú0T ......................................................................................... 70
0T2.2.3 Sự cảm nhận thiên nhiên tinh tế, tài hoa0T .................................................................................... 71
0TChương 3: NGHỆ THUẬT TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU0T ......................................................... 74
MỤC LỤC
0T3.1 Kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa chân dung0T .............................................................................. 74
0T3.1.1 Kết cấu0T ..................................................................................................................................... 74
0T3.1.1.1 Kết cấu giản dị, tự nhiên0T .................................................................................................... 74
0T3.1.1.2 Kết cấu lồng và xâu chuỗi nhiều chuyện kể trong cùng một tác phẩm0T ................................ 79
0T3.1.2 Ngôi kể0T ..................................................................................................................................... 81
0T3.1.3 Nghệ thuật khắc họa chân dung0T ................................................................................................. 83
0T3.2 Nhịp điệu và giọng điệu0T.................................................................................................................... 88
0T3.2.1 Nhịp điệu0T .................................................................................................................................. 88
0T3.2.2 Giọng điệu0T ................................................................................................................................ 90
0T3.3 Ngôn từ nghệ thuật 0T ........................................................................................................................... 97
0T3.3.1 Ngôn từ trong trẻo, giàu chất thơ0T ............................................................................................... 98
0T3.3.2 Câu văn giàu tính nhạc, nhiều liên tưởng, so sánh0T ................................................................... 101
0T3.3.3 Thành phần lời văn nghệ thuật0T ................................................................................................ 104
0TKẾT LUẬN0T ...................................................................................................................... 108
0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ............................................................................................... 109
DẪN LUẬN
1. Lí do chọn đề tài
Truyện ngắn Ao làng được trích in trên tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1961 đã đánh
dấu bước đầu khởi nghiệp văn chương của cậu học sinh tên Chu Bá Trình. Tính đến nay đã
ngót năm mươi năm, cậu học sinh trường trung học Hàn Thuyên năm ấy giờ đã là một nhà
văn lão thành, có những cống hiến không nhỏ cho nền văn học dân tộc. Sau những năm
miệt mài sáng tạo, ông đã có trong tay trên chín tập truyện ngắn và ba tập tùy bút. Có thể
nói, Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với thể loại truyện ngắn và được đông đảo độc giả
biết đến qua các tập truyện ngắn. Trước năm 2004, người ta biết một Đỗ Chu với những
truyện ngắn mang giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng và giàu sức biểu cảm. Ông được vinh dự
nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào năm 2001 với bộ ba tác phẩm
Hương cỏ mật, Phù sa, Mảnh vườn xưa hoang vắng, và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam
năm 2003 với tác phẩm Một loài chim trên sóng, đặc biệt cũng với tập truyện ngắn này Đỗ
Chu cũng vinh dự nhận Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2004. Với các giải thưởng này,
tài năng, tâm huyết và những đóng góp của văn Đỗ Chu về thể loại truyện ngắn đã
được ghi nhận, tôn vinh. Đồng thời, tên tuổi của ông cũng có vị trí nhất định trong nền văn
học hiện đại Việt Nam và khu vực.
Quả là một trường hợp hiếm thấy, khi nhà văn vừa bước sang tuổi lục tuần, cái tuổi đã
trông thấy rõ rệt sự mệt mỏi và già nua, nhà văn của thể loại truyện ngắn lại bất ngờ làm
một cuộc chuyển hướng đột ngột sang thể loại tùy bút với tác phẩm Tản mạn trước đèn,
xuất bản lần đầu năm 2004. Tập tùy bút này được đông đảo giới nghiên cứu – phê bình và
độc giả đón nhận nồng nhiệt. Từ đây, Đỗ Chu chính thức được biết đến trong tư cách của
tác giả tùy bút. Và lịch sử nghiên cứu về thể loại tùy bút đã ghi nhận cái tên Đỗ Chu khá
nổi bật giữa các nhà văn trước đó và đương đại. Năm 2008, Đỗ Chu lại tiếp tục trình làng
tác phẩm tùy bút Thăm thẳm bóng người với số lượng đầu sách xuất bản ấn tượng 2500
cuốn. So với Tản mạn trước đèn, tùy bút Thăm thẳm bóng người là tác phẩm đi sâu hơn, xa
hơn, có sức lan tỏa rộng hơn và thể hiện một tài năng nghệ thuật đã đến độ chín muồi của
nhà văn xứ Kinh Bắc. Như lời tâm sự của nhà văn với Hà Khái Hưng trên báo Văn nghệ
Công an, cả hai tập sách đều là những kỉ niệm dấu yêu, những điều tác giả đã nghe thấy, đã
trải qua. Với các tác phẩm ấy, tên tuổi của Đỗ Chu được nâng lên một tầm cao mới, xứng
đáng là cây bút văn xuôi nổi bật trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
Về việc nghiên cứu tác phẩm của ông, đã có một số bài báo, bài nghiên cứu viết về Đỗ
Chu. Và cũng có một số học viên cao học lấy truyện ngắn nói riêng, văn xuôi của ông nói
chung làm đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình
khoa học nào nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về tùy bút của nhà văn. Vì vậy, chúng tôi
mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tùy bút của ông với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút
của Đỗ Chu”
Chọn nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ đã
làm nên nét độc đáo trong sáng tác tùy bút của ông. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn muốn
góp thêm một tiếng nói khẳng định những cống hiến của Đỗ Chu cho nền văn học hiện đại
Việt Nam nói chung, cho thể loại tùy bút nói riêng.
Đây là công trình khoa học tập trung nghiên cứu chuyên sâu về đặc trưng tùy bút của
Đỗ Chu. Cố gắng chỉ ra những nét độc đáo làm nên diện mạo sáng tạo tùy bút của nhà văn,
chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói khẳng định vai trò và vị trí của Đỗ Chu trong tiến
trình văn học Việt Nam với tư cách là tác giả tùy bút có những nét đặc trưng riêng biệt và là
một trong những đại diện tiêu biểu cho thể loại tùy bút đương đại. Trong chừng mực nhất
định, người viết cũng hi vọng chỉ ra được những đóng góp riêng của Đỗ Chu trong việc
mang lại diện mạo mới cho thể loại tùy bút.
Mặt khác, chúng tôi hi vọng rằng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho
sinh viên, các giáo viên Ngữ văn bật phổ thông và những ai quan tâm đến tùy bút đương đại
Việt Nam.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu”, chúng tôi sẽ lấy ba tập tùy
bút Những chân trời của các anh (1986), Tản mạn trước đèn (2004 và Thăm thẳm bóng
người (2008) làm đối tượng nghiên cứu.
Do đặc điểm của đề tài nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thể loại tùy bút của nhà
văn Đỗ Chu. Phạm vi của luận văn này là đi vào thế giới nghệ thuật và một số đặc điểm
chính của ba tập tùy bút trên.
3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Trừ tập Những chân trời của các anh, hai tập tùt bút còn lại là những tác phẩm mới
được xuất bản. Hiện nay có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và trên mạng
Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu,
Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa, Hà Khái Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn
Thanh Kim…Tuy nhiên đó cũng chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ có tính ấn tượng ban đầu
và tính thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong hệ thống tùy bút Việt Nam để
phân tích, nghiên cứu và tìm ra được đặc trưng riêng của nó. Đa số các tác giả đều cho rằng
Đỗ Chu đến với tùy bút như một hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết
cùng những suy tư, trăn trở của mình trước hiện thực cuộc sống hôm nay và hôm qua. Đỗ
Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh co của dòng sông văn học, lúc này đang chứng kiến một
thời kì mới của sáng tác với nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực
và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt” [22; 21].
Phan Huy Dũng khi giới thiệu về tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa,
tinh tế trong văn phong tùy bút của Đỗ Chu như sau: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn
vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tính tế, tài hoa
những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm
giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn
cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin
ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh” [22; 21]. Phan Huy Dũng cũng nhấn mạnh bản
lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của Đỗ Chu: “Khi viết Tản mạn
trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận
mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi
tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao
thoát khỏi mê lầm” [22; 22].
Thạch Linh lại thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng
của Đỗ Chu: “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian và bác học, lịch sử,
huyền tích, cái trông thấy và nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra
bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói
ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ
nhàng, sâu lắng” [66; 14].
Hà Khái Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngôn
ngữ và phong cách tùy bút trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài
việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội…, ông còn chú trọng đến những khoảng
lặng của của cảm xúc và đặt biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn” [53]. Ông
còn nhận ra cái tạng cảm xúc “vừa trữ tình vừa hóm hỉnh”. Theo Hà Khái Hưng thì Đỗ Chu
có một giọng kể chuyện đa sắc: “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lem, cả
cười nhưng cũng có lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất
báo” [53; 18].
Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hi vọng về những điều tốt đẹp đã ca
ngợi Đỗ Chu như sau: “Văn Đỗ Chu viết kĩ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân
tình” [44]. Ông còn những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật: “Đoạn văn nào cũng đầy
ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo,
những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lí thì cũng rất khoáng đạt, độc
đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút
người đọc” [44]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra những nét hạn chế trong lối văn
miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc: “Tuỳ bút Đỗ Chu thường mở đầu một
cách “chật vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại đọc” [44].
Trong bài Cái tôi tùy bút, Nguyễn La đã chỉ ra được một nét kết cấu độc đáo trong tùy
bút của Đỗ Chu. Đó là kết cấu theo kiểu “hình xương cá”. Sau đó ông khen sự uyên thâm
của Đỗ Chu: “Đỗ Chu viết tùy bút bằng sự hiểu đời của chính ông, tôi gọi văn ông là thứ
văn biết đời – dựa theo cách nói của Cao Bá Quát nhận định về Truyện Kiều là thứ văn hiểu
đời. Tất nhiên từ biết đến hiểu là khoảng cách rất xa. Nói thế để thấy rằng nhận định thứ
văn biết đời của Đỗ Chu cũng có chừng mực chứ không đề cao một cách quá đáng. Đỗ Chu
biết nhiều lắm, biết nhiều nên làm người đọc thích thú với một câu ca dao cổ được tái hiện
trong văn cảnh phù hợp, một câu đối chữ Nho được cắt nghĩa làm rõ cái thâm thúy của các
cụ ngày trước, một phong tục xứ Kinh Bắc quê ông, mà bóc đi cái vỏ tưởng là mê tín dị
đoan lại là cái nhân đậm đà tình người…” [62]. Cuối cùng, Nguyễn La khen sự liên tưởng,
nhập thân vào nhân vật của Đỗ Chu trong quá trình trần thuật: “Đỗ Chu là người chéo
thuyền giỏi, cái tình – phần nào tôi đã nói ở trên, cái tài là cái duyên của văn anh thể hiện rõ
ở sự liên tưởng nhiều khi độc đáo, đột xuất; ở sự nhập vai nhập thân vào nhân vật để kể, lúc
bấy giờ giọng Đỗ Chu hay giọng nhân vật khó mà phân biệt. Thi pháp gọi đó là song điệu,
tôi gọi đó là giọng nhập vai, bề ngoài vẫn là giọng Đỗ Chu nhưng lại là tiếng nói, tư tưởng
của nhân vật” [62].
Ngũ Nhị Song Hiền đã tìm ra được những cảm hứng chính trong ba tập sách của Đỗ
Chu. Ngoài ra, cô còn phát hiện ra chất thơ và chất truyện, phân loại được những giọng
điệu khác nhau trong tùy bút của ông: “Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn
hiện thức phức hợp, đa chiều của văn học thời kì đổi mới đã giúp Đỗ Chu cảm nhận cuộc
sống ở nhiều cung bậc khác nhau, mang đến sự đa sắc trong giọng điệu” [43; 136].
Nhìn chung, tùy bút của Đỗ Chu có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khi
bình luận vừa có khen và vừa có đôi chút không hài lòng. Song cái chỗ không hài lòng ấy
cũng rất nhẹ nhàng vì theo họ đây là điều thuộc về cái “tạng” của nhà văn, là đặc trưng
riêng của phong cách cá nhân. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy sự thống nhất ở một điểm là
tùy bút của ông thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, chuẩn mực, mĩ lệ… Dù có
đông đảo nhiều bài viết về tùy bút của ông nhưng đó cũng chỉ là những nhận định khái
quát, hoặc riêng lẻ một tập tùy bút mà thôi. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật
trong tùy bút của Đỗ Chu” với tham vọng tìm ra được nét đặc trưng trong thể loại tùy bút
của ông. Và đây cũng là công trình khoa học đầu tay của một người mới bước những bước
đầu tiên trong việc nghiên cứu văn học.
4. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn này chủ yếu nghiên cứu theo phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại.
Trên cơ sở lí thuyết về đặc trưng thể loại tùy bút, người viết đi sâu vào tìm hiểu thế giới
nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu. Từ những dấu hiệu nổi bật, người viết đi đến khái quát
thành những luận điểm phù hợp, cố gắng lọc ra những yếu tố tiêu biểu nhất để làm cơ sở
tổng hợp, đánh giá. Để hỗ trợ cho việc nghiên cứu đạt kết quả cao nhất, chúng tôi còn sử
dụng các phương pháp bổ trợ khác như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích -
tổng hợp, phương pháp so sánh…
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương chính tập
trung giải quyết các vấn đề sau:
Chương 1: Thể loại tùy bút và tùy bút của Đỗ Chu
1.1 Về thể loại tùy bút
1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu
1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
Chương 2: Cái tôi Đỗ Chu trong tùy bút
2.1 Cái tôi trữ tình
2.2 Cái tôi triết luận
2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác
Chương 3: Nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu
3.1 Kết cấu, ngôi kể và nghệ thuật khắc họa chân dung
3.2 Nhịp điệu và giọng điệu
3.3 Ngôn từ nghệ thuật
Kết luận
Tài liệu tham khảo
Chương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU
1.1 Về thể loại tùy bút
1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút
Tùy bút là một trong những thể loại thuộc thể kí, một trong năm thể loại của văn học.
Ngoài những tính chung, tùy bút còn có những đặc trưng riêng biệt. Có vẻ như cách hiểu
đơn giản theo cảm tính: tùy bút là những trang văn xuôi mà ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút
mà đưa đẩy – lâu nay đã được nhiều người yên tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân – nhà
văn sáng tác tùy bút hàng đầu của Việt Nam – cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan
trọng của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặt
trưng của tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan ở người
nghệ sĩ. Tuy nhiên, những điểm bất cập và chưa thỏa đáng cũng nảy sinh từ chính những
điều đơn giản ấy.
Bất kì sáng tác văn chương nào cũng đều bắt đầu từ một nguồn cảm hứng của cá nhân
người nghệ sĩ, chứ không chỉ riêng tùy bút. Tuy nhiên, với thể loại tùy bút, người nghệ sĩ
phải lưu trữ nguồn cảm xúc mãnh liệt thì mới có thể thăng hoa trong quá trình sáng tác.
Một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ dễ dẫn đến lẫn lộn lối viết tự do,
phóng khoáng với lối viết lan man, tản mạn, bịa đặt tùy tiện. Bởi vì “những sự việc, những
con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay
theo một tư duy luận lí chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc,
cái logíc bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn
của chủ thể thẩm mĩ vẫn phải chân thật” [39; 1888].
Nếu coi tùy bút là một cách viết hay một kiểu bút pháp thì mới chỉ dừng lại ở mức độ
cảm tính trong nhận thức, chưa bao quát hết đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học
có những đặc trưng rõ nét cả về nội dung và hình thức biểu hiện, đủ sức tồn tại ngang hàng
với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác.
Từ góc nhìn từ nguyên học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin cậy, góp phần xác
định khái niệm thể loại và phân định loại hình tùy bút. Trong Hán Việt từ điển giản yếu, từ
“tùy bút” được Đào Duy Anh giải nghĩa là “tùy thời mà chép”. Nghĩa là thể loại này không
chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của người viết mà còn phải chịu sự chi phối từ hoàn cảnh
khách quan. Còn từ “bút”, ngoài nghĩa cái dùng để viết, có thêm nét nghĩa nữa là “biên
chép”. Vào buổi sơ khai của việc phân loại, một số nhà lí luận Trung Quốc đã chia văn
chương ra làm hai loại: có vần và không vần. Ở chương Tổng thuật của tác phẩm Văn tâm
điêu long, Lưu Hiệp có viết: “Kim chi thường ngôn, hữu Văn hữu Bút, dĩ vi vô vận giả Bút
dã, hữu vận giả Văn dã” (Ngày nay thường nói: có Văn có Bút, cho không vần là bút, có
vần là Văn . Thời Lưu Tống, trong Nhan Quang Lộc tập, Nhan Diên chia văn chương ra
làm ba loại: Ngôn, Bút, Văn. Trong đó, “Bút” có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả truyện ký.
Dù mới là giả thiết, nhưng thiết nghĩ những thông tin trên đủ cơ sở để củng cố mối
hoài nghi mang ý nghĩa khoa học: không thể tiếp tục hiểu rằng “bút” là ngòi bút và “tùy
bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Từ trong nguồn gốc phương Đông, tùy bút đã được
xác định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không bị ràng buộc bởi những
khuôn khổ có tính qui phạm, cả về nội dung tư tưởng và cách thức thể hiện.
Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và những việc cụ thể có
thực, tác giả tùy bút đặc biệt chú ý việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của
mình về con người và cuộc đời. Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên
trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người
muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo riêng của mình, những người thích tự biểu hiện, tự
phân tích, đồng thời những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt
chẽ như châm ngôn…những người đó mới đi vào thể loại tùy bút.
So với các thể loại khác, đội ngũ sáng tác của tùy bút còn khá khiêm tốn: Trong văn
học Việt Nam từ trước Cách mạng đến nay, số lượng nhà văn đứng được ở thể tùy bút
không nhiều. Nhưng rõ ràng với tư cách một thể loại văn chương, tùy bút đã có quá trình
hình thành và phát triển, kế thừa và cách tân, với những đặc trưng nghệ thuật chịu ảnh
hưởng sâu sắc cả về phương Đông lẫn phương Tây. Còn có thể hiểu “tùy bút” như là một
bút pháp tự do, phóng túng, tài hoa, không thuộc sở hữu riêng của sáng tác văn chương.
Cách hiểu này không phổ biến và chỉ có ý nghĩa gợi mở thêm hướng nghiên cứu.
1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút
Mặc dù là một thể loại văn xuôi mang rõ nét khá nhiều đặc trưng nghệ thuật, nhưng
trên thực tế hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào cho thể loại tùy bút. Trong các tác
phẩm lí luận văn học, do những biểu hiện có tính chất trung gian, tùy bút bao giờ cũng
được nhắc tới với tư cách là một tiểu loại của thể loại kí, bằng sự dè dặt nhất định. Quan
điểm trong việc xác định loại hình của tùy bút vẫn chưa thấy có sự nhất trí cần thiết. Có thể
thấy nổi lên hai quan điểm vừa tương đồng vừa có chỗ chưa nhất trí với nhau về vấn đề
này: 1- Tùy bút là một tiểu loại văn xuôi giàu chất trữ tình, nhưng phát sinh từ thể kí (một
biến thể của tự sự); 2- Tùy bút là một thể văn xuôi thuộc loại trữ tình. Như vậy, cả hai quan
điểm trên đều thừa nhận sự tồn tại thường trực của chất trữ tình trong tùy bút, nhưng cách
nhìn nhận về vai trò, mức độ của yếu tố tự sự có điểm khác nhau.
Các tác giả của quyển Văn học Việt Nam thế kỉ XX đã xếp tùy bút vào loại kí: “Tùy bút
là một thể thuộc loại hình kí có lối viết phóng khoáng, tự do và chủ quan nhất…So với các
tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn không ít yếu tố chính luận và chất
suy tưởng triết lí” [30; 234]. Trong quyển Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn
Văn Hạnh cũng xếp tùy bút vào hệ thống thể kí: “Các thể kí chủ yếu có mặt cả trong văn
học cổ điển và hiện đại là kí sự, tùy bút, bút kí, nhật kí” [43; 99]. Khác hẳn với các ý kiến
trên, trong cuốn Lí luận văn học, Nguyễn Xuân Nam lại xếp tùy bút vào loại trữ tình: “Tác
phẩm trữ tình không phải chỉ có thơ trữ tình, mặc dù nó là tiêu biểu nhất. Ngoài thơ trữ tình
còn có tùy bút, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc,…Tùy bút là thể loại văn xuôi phóng khoáng.
Nhà văn theo ngọn bút mà suy tưởng, trần thuật, nhưng thực chất là thả người theo dòng
liên tưởng, cảm xúc mà tả người, kể việc” [67; 188].
Văn chương bao giờ cũng phải mang tính khuynh hướng, thể hiện rõ nhất ở cách
người nghệ sĩ tiếp cận và nghiền ngẫm hiện thực. Đằng sau mỗi bức tranh đời sống bao giờ
cũng thấm đẫm nỗi niềm, mối suy tư, sự day dứt của nhà văn…Nhưng riêng với thể loại tùy
bút – một thể loại thường xuyên xuất hiện những chất liệu còn phập phồng hơi thở cuộc
sống – thì việc xếp yếu tố khách quan xuống hàng thứ yếu, chỉ có ý nghĩa như một phương
tiện để giãi bày, có vẻ chưa thỏa đáng. Bản thân các chi tiết, sự kiện, số phận,…đã tồn tại
như một cấp độ ý nghĩa trong nhận thức, nhiều khi hết sức sâu sắc và mối liên hệ nội tại với
cái mạch trữ tình của tác phẩm.
Mặt khác, dù có màu sắc trữ tình đậm đà, tùy bút vẫn chưa hội đủ điều kiện để được
công nhận là một thể văn xuôi thuộc loại trữ tình. Bởi vì, trong tác phẩm trữ tình không có
sự mở rộng các chi tiết, hành vi, quan hệ qua lại của con người mà chỉ có thể hiện trực tiếp
yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Hêghen cũng khẳng định tính chất trực tiếp của sự biểu
cảm là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm trữ tình: “Anh ta (nhà thơ trữ tình)
có thể kiếm tìm sự kích thích sáng tạo và tìm kiếm nội dung bên trong bản thân mình, tập
trung vào những tình thế, trạng thái, xúc cảm và dục vọng nội tại của trái tim và tinh thần
mình. Ở đây bản thân con người trong đời sống nội tâm chủ quan của nó trở thành tác
phẩm nghệ thuật” [76; 327]. Trong khi đó, biểu cảm ở tùy bút thường ít nhiều có màu sắc
gián tiếp, thông qua việc miêu tả chân thật và sinh động bức tranh đời sống.
Vì những lí do vừa nêu, có lẽ không thể tiếp tục hiểu một cách đơn giản rằng “bút” là
ngòi bút và “tuỳ bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Tùy bút – từ trong bản chất của thể
loại – là những tác phẩm văn xuôi phát sinh từ kí (gần với tự sự) và được viết chủ yếu theo
mạch cảm xúc chủ quan của tác giả (gần với trữ tình).
Vậy thì tùy bút nằm ở đâu trong hệ thống phân loại văn học truyền thống? Có lẽ đặt ở
vị trí trung gian giữa tự sự và trữ tình là phù hợp nhất. Các loại hình văn học không bao giờ
tồn tại một cách tách biệt với nhau, với những ranh giới không thể vượt qua. Và các cách
phân chia văn học cũng chỉ mang tính chất tương đối.
Đến đây, thiết nghĩ đã có đủ cơ sở để khẳng định: tùy bút là một thể văn xuôi thuộc
loại tự sự – trữ tình. Vấn đề sẽ phức tạp hơn khi vận dụng quan điểm này để xem xét các
tác phẩm cụ thể. Nhưng không thể vì thế mà muốn có được sự tường minh về lí thuyết mà
lại gò ép thực tiễn sinh động vào tác phẩm không phù hợp.
1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút
Tính lưỡng hợp trong tác phẩm tùy bút có cội nguồn từ một lối viết ở nhiều khía cạnh
như cách nhận thức vấn đề, cách xây dựng tình huống, giọng điệu văn chương…Hơn nữa,
tùy bút là loại văn rất cần sự hiện diện của lí trí tỉnh táo, lối tư duy về các vấn đề xã hội
nhưng cũng không thể loại trừ nhịp đập của con tim với những rung động mãnh liệt, đầy
hứng thú trước các hiện tượng của cuộc sống. Nếu không có lí trí tỉnh táo, ngòi bút của
người viết sẽ tung hứng lên chín tầng mây mà không tìm được nẻo về và rồi cũng đồng thời
rơi vào trạng thái mông muội dẫn tới bịa đặt, suy diễn lan man, không hợp với thực tế. Có
khi, chính cái trạng thái ngất ngây không có sự kiểm soát của lí trí, người viết sa vào lối văn
duy mĩ, dẫn người đọc vào trò chơi chữ nghĩa. Cái kiểu “chén đĩa mùa đi nhịp hải hà” ban
đầu có thể tạo ra một lực hút, đem lại sự khoái cảm thẩm mĩ nhưng sau đó thì người ta sẽ
nhận ra đây chỉ là sự khoe mẽ, phô trương ngôn từ rỗng tuếch, vô nghĩa. Ngược lại, nếu bài
tùy bút qua nặng về lí trí, chú trọng thông tin, liệt kê chính xác từng sự kiện, dữ liệu thì sẽ
biến văn bản thành một thể khác như phóng sự, kí sự...Hơn nữa, việc thiếu sự gọt giũa ngôn
từ, nghệ thuật hóa dữ kiện, loại trừ cảm xúc sẽ làm trang viết trở thành một loại văn bản
khô khan, cứng nhắc, mờ nhạt tính chất, đặc trưng của văn chương.
Vì thế, để có được những trang tùy bút hay, người nghệ sĩ phải vừa say mà lại vừa
tỉnh, vừa xúc cảm nhưng cũng vừa suy tư. Kết quả của cuộc hôn phối của xúc cảm và lí trí
sẽ là tác phẩm tùy bút, một thực thể sinh động mang vẻ đẹp lưỡng hợp dung hòa hai yếu tố
trên. Cái trọng tâm của sự sáng tạo trong thể loại tùy bút không phải là ở sự hư cấu những
hình tượng vốn không hiện hữu trong thực tế mà là cách sắp xếp, trình bày, điều phối sự
kiện hay vấn đề nào đó, không những mang lại giá trị nhận thức mà còn đem lại những rung
động thẩm mĩ thực sự. Tài năng của người viết tùy bút giống như hình ảnh ngưòi nghệ sĩ đi
xiếc trên dây cần một thế cân bằng giữa hai bờ vực. Đồng thời, người nghệ sĩ còn phải biết
chuyển tải cảm xúc và hiện thực bằng một lối văn riêng của chính mình. Không tạo được
giọng điệu, tác phẩm dễ rơi vào quên lãng, rồi thì sẽ dần mất tích trong vô số tác phẩm ấn
tượng hơn. Nhà văn phải để lại trong lòng độc giả một dư vị nào đấy, một nỗi ám ảnh nào
đấy bằng một thiên tư không thể nhầm lẫn thì mới hiện hữu lâu bền giữa lòng văn học.
1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu
Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với văn học từ những năm 60 của thế kỉ XX. Những
sáng tác của Đỗ Chu trong mấy mươi năm cầm bút chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Tính
cho đến năm 2002, Đỗ Chu đã cho ra ra đời mười tập truyện ngắn, trong đó có những tập
truyện lưu dấu đậm nét trong lòng độc giả. Một lối viết văn đã thành văn hiệu với chất
giọng say đắm, nồng nàn, da diết. Đó là thứ văn xuôi giàu chất thơ, chảy tràn nơi lòng
người những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm đà ý vị nhân sinh. Ta tìm thấy nơi
ông phảng phất nét cổ điển và lãng mạn của Môpatxăng, sự tinh tế tìm vào nội tâm và cảm
giác của Thạch Lam, chút bâng khuâng xa vắng của Thanh Tịnh, nét u hoài, sầu cảm của
Hồ Dzếnh, Xuân Diệu…Có thể thấy truyện ngắn của Đỗ Chu có cội nguồn nối tiếp, cộng
hưởng, lan tỏa từ những nhà văn đi trước, đồng thời phát huy tối đa cái tôi nghệ sĩ của mình
đã tạo nên được một đặc trưng riêng không kém phần nổi bật và độc đáo.
Sau năm 1975, bước vào thời kì mới, với vốn sống và bản lĩnh văn chương, Đỗ Chu đã
phát triển sự nghiệp sáng tác của mình bằng một thể loại văn học khác. Những chân trời
của các anh là tập tùy bút đầu tay được bắt đầu viết từ thời kháng chiến chống Mĩ và trải
dài ngót mười năm sau ngày đất nước giải phóng, được xuất bản vào năm 1986. Tác phẩm
gồm mười bốn bài tùy bút viết về đề tài chiến tranh, về công cuộc chiến đấu và kiến thiết
đất nước. Nhân vật chủ yếu trong tập sách này là những chiến sĩ. Họ là những người tiên
phong và hết mình vì sự nghiệp chung của dân tộc, dám lấy sự sống và hạnh phúc cá nhân
đổi lấy nền độc lập cho nước nhà. Viết về họ, Đỗ Chu mang một tình cảm ngưỡng vọng và
yêu mến sâu sắc, chân thành. Đỗ Chu như một người thư kí thời đại ghi lại hình ảnh con
người Việt Nam trong thời kì bão táp chiến tranh. Nhìn chung, đây là tập tùy bút mang màu
sắc của bút kí và truyện ngắn. Sự pha tạp ấy cũng là điều dễ lí giải. Nguyên ủy, Đỗ Chu là
cây bút của thể loại truyện ngắn vững vàng và đã định hình được cho mình một lối viết
riêng. Hơn nữa, ranh giới giữa truyện ngắn và tùy bút cũng rất gần nhau. Tuy tác phẩm
chưa tạo được tiếng vang mạnh mẽ trong lòng người đọc nhưng lại chính là bước thử
nghiệm để nhà văn phát triển sở trường văn chương của mình ở một thể loại văn học mới.
Tản mạn trước đèn là tập tùy bút thứ hai được xuất bản năm 2004. Tác phẩm như là sự
trở lại với thể loại tùy bút sau tám năm kể từ khi ông cho ra đời tập tùy bút đầu tiên. Với
bốn mươi năm cầm bút, cộng với những trải nghiệm đã mang lại cho Tản mạn trước đèn
một sức nặng về phản ánh và nhận thức nhưng không vì thế mà làm cho cuốn sách mất đi
chất thơ ngọt ngào, đằm thắm…Đã có lúc ông viết những câu văn xuôi như thơ, viết rất thơ
về cát nóng ở Quảng Bình, hình dung nó như “một bản giao hưởng cát”. Rồi có lúc ông lại
mơ về một mối tình với cô gái chăn trâu thuở nào, một sự trào lộng về chính con người
mình…bao năm mới có được sự tản mạn như thế, và ngẫm được điều đó, ta thấy trân trọng
hơn những trang viết của nhà văn. Đỗ Chu từng tâm sự: “Bốn mươi năm cầm bút thì có lẽ
chỉ có bốn tháng được làm nhà văn thực sự”. Là người khó tính lại cầu toàn, ông tự nhận:
“Trong một tác phẩm có khi đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau không còn đưôc là nhà
văn nữa”. Người cầm bút mà cứ phải phân vân, e ngại hay chiếu cố một điều gì thì sẽ không
còn là mình nữa. Đọc Tản mạn trước đèn của ông, tập tùy bút hơn ba trăm trang, người ta
thấy ông không nói suông, không chiếu cố những chuyện chính bản thân mình. Nó dẫn
người đọc vào một trạng thái tâm lí triền miên phải suy nghĩ, thấm thía và nhiều khi có sự
nhìn lại mình. Trong trang sách, Đỗ Chu hiện lên thật rõ những yêu ghét rạch ròi.
Tùy bút của ông khiến người ta nhận thấy trước tiên là thái độ cẩn trọng và có trách
nhiệm với những gì mình viết ra. Dù chỉ là một câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử
dụng vào mục đích gì, và đọc xong sẽ khiến người ta nghĩ gì cũng là điều khiến ông phải
cân nhắc. Tập hợp các bài viết trên báo trong suốt hai mươi năm qua, nhà văn xếp lại theo ý
tưởng của mình để từ đó phác họa một Đỗ Chu trăn trở và trưởng thành qua từng giai đoạn
cuộc sống. Cái đáng quí của cuốn sách là ở mỗi câu chuyện, mỗi một tản mạn, người viết
luôn đặt mình trong các mối quan hệ với giới văn nghệ sĩ để từ đó thấy được hình ảnh sống
động của văn đàn. Từ khi mười sáu, mười bảy tuổi cắp sách theo hầu các cụ Nguyễn Tuân,
Tô Hoài, ông đã được dạy là phải viết cho ra viết, nên những câu chuyện rất bình dị trong
cuộc sống chiến đấu, hay những câu chuyện đời thường bao giờ cũng được viết ra thấm
nhuần tinh thần ấy.
Mười chín chân dung các nghệ sĩ đương thời trong các trang viết là cảm nhận riêng
trong suy nghĩ của Đỗ Chu. Đó là một Nguyên Hồng với trái tim nhạy cảm, giàu lòng yêu
thương. Đó là một Hoàng Cầm sống lãng đãng trong thế giới của hư và thực. Đó là một
Kim Lân với thứ văn xuôi thô nháp nhưng chan chứa tình đời, tình người…Cảm hứng thế
sự là nguồn mạch chính tuôn chảy trên khắp các trang văn của ông. Sự xuất hiện trở lại với
tập tùy bút dày công lực cho thấy trách nhiệm của một con người đối với đất nước và chân
dung một nghệ sĩ tâm huyết luôn trăn trở có được những trang viết hay dành tặng bạn đọc.
Tuy nhiên, tập tùy bút này ít nhiều mang tính chính luận với những vấn đề mang tầm quốc
gia đại sự, hoặc các vấn đề xã hội lớn lao.
Tiếp nối mạch nguồn thế sự, năm 2008, Đỗ Chu cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng
người. Đây là tác phẩm thể hiện độ chín muồi trong tài năng của Đỗ Chu. Nhà nghiên cứu
Hoàng Ngọc Hiến đã đáng giá: “Thăm thẳm bóng người là “một thành tựu” và cho rằng đây
là “trang sách của người thắp lửa”. Đọc tùy bút này “có một cảm giác thăng hoa như vừa
uống rượu quí” [47; 20].
Vẫn tiếp nối đề tài về đất nước, con người và những vấn đề xã hội đương thời nhưng
cách viết có phần nhẹ nhàng, gần gũi và thấm thía hơn. Những bài học về đối nhân xử thế,
về những giá trị nhân văn cũng được khơi gợi một cách tự nhiên, thâm trầm mà không kém
phần sâu sắc. Thạch Linh đã nhận xét: “Lối kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho
những điều ông nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều rất khó nói cũng được
nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng” [66].
Tập tùy bút được viết theo từng phần, trong mỗi phần có nhiều mục được đánh dấu theo
số thứ tự. Phần đầu mang tên Hoa bờ giậu, một cái tên nghe thật mộc mạc, khiêm nhường
nhưng mang ý nghĩa sâu xa, thấm thía về tình người. Đó là những câu chuyện về những
người “vô danh tánh” nhưng có vẻ đẹp giản dị và có sức sống bền bỉ như loài hoa bờ giậu.
Phần hai của tập tùy bút là Thăm thẳm bóng người, tập hợp viết về cuộc đời, những con
người xưa và nay, trong nước và ngoài nước, những vấn đề từ quá khứ đến hiện tại. Tất cả
được khơi lên, tái hiện lại bằng một thứ văn phong giản dị, đậm đà cảm xúc và mang nhiều
dư vị triết lí. Nhà văn đau đáu đi tìm bóng người thăm thẳm trong niềm hoài vọng thiết tha.
Phần ba của tập sách có đề tựa là Về quê đốt lửa. Đây là phần được nhà văn viết chủ yếu
trong mạch cảm hứng hoài niệm. Quê nhà yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sự
sáng tạo. Bởi lẽ nơi ấy có những người bình thường nhưng vĩ đại, có tuổi thơ lam lũ, cơ bần
nhưng tràn ngập niềm vui và kỉ niệm…Đỗ Chu gửi gắm vào đấy những tình ấm áp nhất,
ngọt lành nhất, thân thương nhất.
Xuyên suốt cả ba phần là chiều dài thời gian lịch sử của một dân tộc, có những đời
người, những thân phận vinh quang có, cay đắng có, nổi danh có, âm thầm có, là chiều rộng
không gian của nước Việt mở ra đến những bờ bến lạ, những xứ sở xa xôi. Đọc sách này
mới thấy Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền
tích, cái trông thấy, cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn lại tất cả vào mình rồi rút ra
bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói
ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi…
Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhịp sống bị dồn đẩy rất gấp gáp. Con người
thích tìm đọc những cuốn sách có tính chuyên đề phục vụ cho sở thích riêng cũng như
chuyên môn hẹp của mình. Trong bối cảnh ấy, những loại sách có chủ đề tản mạn, bát ngát
và cách nhìn nhận, đánh giá phần nào mang dấu ấn chủ quan của tác giả như Thăm thẳm
bóng người, thoạt xem có vẻ như một món quà hơi xa xỉ với một số người. Tuy nhiên, nhìn
một cách tổng thể thì đó thực sự là một loại sách hữu ích.
Nhìn chung, qua ba tập sách, ta thấy tùy bút của Đỗ Chu hoàn toàn có sắc thái riêng.
Ông không có chất ngông như tùy bút của Nguyễn Tuân, cũng không gợi buồn u uẩn như
tùy bút của Vũ bằng, không tài hoa lịch thiệp như tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường…Tùy
bút của Đỗ Chu dung dị, đôn hậu mà không kém phần sâu sắc, mượt mà, trữ tình nhưng lại
thấm nhập ý vị triết lí nhân sinh. Đỗ Chu luôn hết mình với những trang viết để chuyển đến
cho con người những bức thông điệp của ngoại giới và nội tâm. Ba tập tùy bút với dung
lượng ngàn trang tuy chưa phải là đồ sộ nhưng đủ sức đi sâu vào lòng người và làm cho tên
tuổi nhà văn Đỗ Chu sống lâu hơn với thời gian.
1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật
Đây là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ
thuật là thế giới khác với thế giới thực tại bên ngoài hay thế giới tâm hồn con người, được
dựng lên theo những nguyên tắc tư tưởng để phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật sở
hữu không gian riêng, qui luật tâm lí riêng, quan niệm đạo đức riêng...
Thế giới nghệ thuật là khái niệm thường hay được đề cập đến trong nghiên cứu văn
học nghệ thuật. Từ thời cổ đại, Aristote đã hình dung chỉnh thể tác phẩm như một cấu tạo.
Nếu như người ta thay đổi hay lấy đi bớt một bộ phận thì toàn thể sẽ thay đổi hay vận động.
Đến thời trung đại, quan điểm xem tác phẩm là một khách thể toàn vẹn ấy vẫn còn phổ biến.
Bước vào thời kì chủ nghĩa lãng mạn, người ta đã nhìn tác phẩm văn học như một thế giới có
tổ chức và có sự hấp dẫn riêng, phụ thuộc vào ý thức của các nhà nghệ sĩ.
Ở Việt nam, chuyên gia lí luận văn học Trần Đình Sử có quan niệm khá dày dặn về
khái niệm thế giới nghệ thuật: “Thế giới nghệ thuật trước hết xác định tính độc lập tương đối
của sáng tạo nghệ thuật so với thế giới tự nhiên hay thực tại xã hội là sự thừa nhận quyền
sáng tạo của nghệ sĩ đối với tác phẩm, không phải sao chép, lệ thuộc máy móc vào thực tại
vật chất bên ngoài nghệ thuật. Thứ hai, thế giới nghệ thuật là sản phẩm tinh thần, kết quả của
trí tưởng tượng sáng tạo, chỉ có trong các tác phẩm nghệ thuật. Thứ ba, thế giới này là một
mô hình nghệ thuật có cấu trúc riêng, qui luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm lí,
không gian, thời gian, đồ vật, xã hội…, gắn liền với một quan niệm về chúng của tác giả.
Thế giới nghệ thuật tương ứng với thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan, lịch sử quan,
hay cảm nhận thế giới của chủ thể sáng tạo. Do đó, thế giới nghệ thuật bao quát sâu rộng hơn
hình tượng nghệ thuật, ví như hình tượng nhân vật, phong cảnh…Điều này làm cho mỗi hiện
tượng, chi tiết trong tác phẩm văn học đều mang một ý nghĩa đặc thù, không giống với ý
nghĩa của các hiện tượng, chi tiết tương ứng trong thực tại. Con người trong văn học chẳng
những không giống với con người trong thực tại về tâm lí, hoạt động mà còn có ý nghĩa khái
quát tượng trưng, ngay cả trong các sáng tác được gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cái
giếng, cây đa, con đò, bến sông, hoa sen, hoa nhài…trong văn học có ý nghĩa khác hẳn với
các thứ ấy trong thực tại. Và do đó nghiên cứu thế giới nghệ thuật cũng khác với phân tích
hình tượng nghệ thuật. Thứ tư, thế giới nghệ thuật là một thực tại tinh thần mà người đọc mở
vào khi sống với tác phẩm. Nhưng đó không đơn giản là một tồn tại khác của thực tại, mà là
một thế giới đã đột phá tính hữu hạn của thực tại để mở vào chiều sâu vô hạn của ý nghĩa,
làm thành một thế giới ước lệ, tượng trưng” [48; 1660-1661].
Trong lịch sử văn học, những nhà văn có tầm đều tạo ra cho mình một thế giới nghệ
thuật riêng. Mỗi thể loại văn học cũng có thế giới nghệ thuật với qui luật riêng của nó. Tính
sáng tạo của nhà văn chính là yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên thế giới nghệ thuật. Đọc
ba tập tùy bút của Đỗ Chu, chúng tôi có dịp đi vào một thế giới nghệ thuật rộng rãi, thoáng
đạt với nhiều cảnh sắc ở các vùng miền, nhiều con người ở những không gian và thời gian
khác nhau, nhiều sự hiện xã hội trải dài theo dòng lịch sử... Trong Miền sáng tạo của mỗi
nhà văn, Đỗ Chu tâm đắc với lời độc thoại cũng là lời tâm sự của nhà văn Nguyễn Minh
Châu: “Mỗi thằng nhà văn phải có một miền quê của mình. Nơi ấy chưa phải là quê cha đất
tổ, cũng chả phải là chỗ nó sinh ra. Nhưng trong nó, nơi ấy không bao giờ quên nổi, nơi ấy
ngày đêm cứ trăn trở cựa quậy trong lòng. Đấy là thánh địa mà nó gửi gắm hồn mình” [17;
145]. Không phải ngẫu nhiên mà Đỗ Chu viện lời dẫn của Nguyễn Minh Châu, Với ông, quê
hương xứ sở luôn là nguồn cảm xúc bất tận tràn đầy nỗi thương yêu. Nó là cội nguồn của
cảm hứng nghệ thuật. Mỗi lần đặt bút viết là một lần nhà văn thực hiện cuộc hành trình tìm
về với hồn dân tộc, dù rằng chưa một ngày Đỗ Chu rời xa, chưa một lần xem quê hương
mình, đất nước mình trong cái nhìn xa lạ.
Đỗ Chu viết nhiều về những con người Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại
xâm cũng như trong công cuộc kiến thiết đất nước với cảm hứng yêu mến, ngợi ca và tri âm
chân thành và sâu sắc. Xin được mượn chính lời văn nghệ thuật của nhà văn để nói về cái
tình sâu nặng của ông đối với con người: “Tôi lại thích bắt đầu từ người, đến đâu tôi chỉ
muốn được gặp người, bàn chuyện về người, những kiếp người. Còn như phong cảnh cho
dù có lạ đến mấy cũng vầy vậy thôi, nó là chuyện chóng nhớ chóng quên” [17; 71].
1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương
Ai trong chúng ta cũng đều có một quê nhà yêu dấu, nơi đó có tuổi thơ hồn nhiên, tinh
nghịch, có dáng mẹ hôm sớm tảo tần, có dòng sông, bến nước, con đò… Nhà thơ Đỗ Trung
Quân từng định nghĩa về quê hương trong những vần thơ giàu hình ảnh : “Quê hương là
chùm khế ngọt / Cho ta trèo hái mỗi ngày / Quê hương là đường đi học / Con về rợp bướm
vàng bay…”. Quả thế, trong tâm thức của mỗi người, quê hương luôn là miền kí ức đẹp và
thân ái. Đỗ Chu sinh ra và lớn lên từ cái nôi của quê hương Kinh Bắc. Và chính vì lẽ đó,
Kinh Bắc, một miền đất giàu bản sắc văn hoá, đã đi vào trong viết của ông một cách hết sức
tự nhiên, sống động và thấm đẫm nhiều xúc cảm. Có thể thấy một không gian văn hóa với
những đặc trưng vùng miền đã được nhà văn tạo dựng qua thế giới nghệ thuật tùy bút của
ông. Quê hương hiện lên trong trang viết của Đỗ Chu là miền đất từ phủ Thuận Thành
xuống Gia Bình, qua Liễu Ngạn đến phủ Từ Sơn. Xưa nay, Kinh Bắc nổi tiếng với nhiều
đền chùa, miếu mạo. Có ngôi chùa Dâu gắn liền với câu chuyện nhà sư “quê gốc ở Tây vực,
theo gia đình qua đây buôn bán làm ăn, gặp cảnh cha mẹ mất sớm, nhà sư còn nhỏ tuổi đã
được gửi vào chùa tu và đắc đạo tại chùa này” [18; 318]. Trước đây hai ngàn năm, chùa
Dâu là trung tâm thương mại sầm uất, phồn thịnh. Con sông Dâu chảy mãi rồi cũng chịu đổ
vào sông Hồng chở nặng sắc đỏ của phù sa. Ngoài ngôi chùa mang màu sắc cổ kính ấy, tùy
bút của Đỗ Chu còn nhắc tới những đền chùa khác như chùa Bút Tháp, đền thờ Sĩ Nhiếp
Nam giao học tổ, đền thờ cụ Lê Văn Thịnh Nam quốc khai khoa đệ nhất nhân, đền thờ
người anh hùng thời An Dương Vương tên là Cao Lỗ. Có thể nói, ít có nơi nào có nhiều
đền chùa cổ kính và nổi tiếng như quê hương Kinh Bắc.
Đây cũng là miền đất có cảnh trí và cảnh sắc đẹp. Đến với thiên nhiên Kinh Bắc,
người đọc có thể thưởng ngắm hàng giờ những hàng lau sậy tiếp nối mênh mang một điệu
hồn muôn thuở trên những bờ bãi vào mùa nước rút, thả hồn theo dòng trôi êm đềm của con
sông Đuống đã đi vào thơ Hoàng Cầm trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, lại
có con sông Cầu và con sông Thương rất đỗi nên thơ, hay những cảnh sắc bình dị, thân
thương như bờ bãi ngô khoai, dâu, mía… và cả những vạt cỏ giàu sức sống hồn nhiên xanh
ngát giữa trời đất mênh mang... Miền quê của tác giả là miền đệm trung du, dốc thoai thoải,
có vài quả núi nhỏ bất chợt nhô lên chơ vơ tựa như những điểm nhấn làm cho bức tranh
làng cảnh thêm sống động và ấn tượng. Các nhà địa chất gọi chúng là “những hòn núi sót,
là dấu chấm hết cho diễn thế một dải địa tầng” [18; 269]. Cái thế đất như chênh chao hóa
ra lại là điểm đặc biệt tạo cho Kinh Bắc một địa thế đa dạng, phong phú, vừa có đồng cao
vừa có vùng chiêm trũng. Vào mùa nước nổi, “sóng vỗ ì oạp, thuyền câu trôi nổi, qua Ninh
Khánh, Núi Hiểu, Bài Xanh, Trúc Tay, xuống mãi Lục Đầu”. Quê hương của Đỗ Chu có
một dòng sông máng lấy nước từ Thái Nguyên chảy qua Hiệp Hòa, Yên Thế, Lạng Giang,
Tân Yên, Việt Yên, đến vùng Kinh Bắc là chấm hết. Dòng nước từ sông máng về đến làng
thì đổ xuống những dãy ao trước làng. Kinh Bắc còn còn có những bờ khe dẫn nước từ tận
chân núi voi chảy về, chạy quanh co trên cánh đồng. Không rõ những khe nước ấy có tự
bao giờ mà lại hiền hòa, thân thương đến vậy. Mùa khô, “nước đọng thành vũng trong lòng
khe, mùa mưa, nước khắp các cánh đồng đều dồn cả xuống đấy, cái khe bỗng hóa thành
suối ồn ào, răm ba ngày, đổ nước lung tung ra những dộc đất thấp, xong xuôi, khe lại hoàn
khe” [18; 273].
Quê hương của tác giả là vùng đất có lịch sử văn hóa lâu đời, nơi sản sinh ra các danh
nhân văn hóa lịch sử như Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát…cũng là miền đất ươm mầm cho
những tài năng nghệ thuật như Nguyễn Khải, Hoàng Cầm, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Tất
Tố, Nguyễn Địch Dũng, Kim Lân , Nguyên Hồng…và là nơi hun đúc những trí thức tài giỏi
như Trần Đức Thảo, Ngô Ngọc Quản, Đỗ Đình Chất…
Trong tùy bút của Đỗ Chu, quê hương còn là miền đất của tuổi thơ, của mộng tưởng
hồn nhiên trong sáng. Thấp thoáng hiện đến trong trang văn của Đỗ Chu là những đàn trâu
chen lấn nhau trên những con đường nhỏ để ra đồng gặm cỏ. Chúng đuổi nhau, húc nhau,
ghì đầu nhau xuống đất. Theo sau chúng là những đứa trẻ với những trò chơi của tuổi nhỏ
đầy hồn nhiên, phấn khích, tinh nghịch, vụng dại : “Đám con gái chia bài tam cúc, lũ con
trai đánh đáo đánh khăn, có hôm trẻ con làng nọ ném nhau với trẻ con làng kia, đuổi nhau
dọc bờ sông máng, trên những luống cày, những cục đất khô khốc cứng như những cục
gạch tương cả vào đầu nhau máu chảy ròng ròng” [18; 272]. Ở miền quê, nhất là những
vùng có ao hồ sông suối, một trong những sở thích của trẻ nhỏ là được lặn ngụp dưới dòng
nước trong trẻo, mát lành. Những đứa trẻ chăn trâu ở làng Mật Ninh “lên năm lên bảy, cởi
truồng nhao xuống một loáng, lúc nhô lên đã thấy hai con cá”. Cuộc sống gần gũi, hài hòa
với thiên nhiên đã đào tạo chúng thành những thợ lặn tài tình. Bên dòng sông máng cạn
nước, “trẻ con gọi nhau vơ cành khô, lá khô, rơm rạ, vơ tất cả những gì có thể vơ, càm cả
xuống lòng máng đốt cho khói um lên làm nước mắt ràn rụa” [18; 271]. Những trang văn
viết về tuổi thơ khiến người đọc liên tưởng đến một khúc đồng dao dân dã, mộc mạc, mang
lấy tinh thần vui tươi, trong trẻo: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ…”
ngân nga trong tuổi thơ với niềm vui giản dị, tươi sáng, …Nhớ về tuổi thơ ở làng quê, tác
giả còn mang nỗi ám ảnh về những mùa đông rét buốt của xứ hàn phương Bắc. Cái khí hậu
khắc nghiệt làm “chân tay nẻ toác, má đứa nào cũng thấy ram ráp như da rắn” [18; 271].
Rồi những buổi sớm, “tôi ngồi trước thềm, hai tay bó gối, bên mảnh sân nổi rêu, những lùm
nhãn um tùm tối sẫm, hàng cau nhè nhẹ đung đưa” [18; 266]. Một thoáng buồn nhớ mênh
mang hòa lẫn trong tiếng cuốc còn sót lại vọng về từ đâu đó. Ngọn lửa ai đốt trên ngọn núi
xa lúc ẩn lúc hiện, chập chờn tựa như một giấc chiêm bao…
Ống kính hoài niệm của nhà văn còn thu về bức tranh cảnh làng quê Kinh Bắc những
ngày giặc Pháp tấn công, tàn phá gợi lại bao nỗi đau cho một dân tộc bị ngoại bang xâm
chiếm. Trong đó có hình ảnh bi thương của người anh trai đương tuổi xé núi dời non, đi làm
du kích, bị giặc bắn chết ngoài bãi sông trong khi làm nhiệm vụ. Cái chết của người anh để
lại trong tâm hồn thơ trẻ của tác giả một nỗi đau khó thể nào nguôi ngoai. Đã qua mấy
mươi năm mà tiếng khóc nức nở, bi thiết của người mẹ mất con vẫn còn văng vẳng bên tai
như một nỗi ám ảnh thương tâm về cảnh làng quê ngày ấy. Một nhân vật khác nữa cũng
được nhắc đến trong dòng hồi tưởng của nhà văn, đó là chị Gái. Không ai ngờ cô bé quanh
năm suốt tháng chỉ biết quẩn quanh với vo gạo, chẻ củi, chăn lợn chăn gà, gánh phân ra
đồng ném vào những dõng khoai dõng bí mà trở lại thành Việt Minh. Cô bé đã kiên cường
vượt qua nòng súng của kẻ thù để vào căn cứ kháng chiến. Hành động gan dạ, anh hùng của
cô bé trở thành nỗi kinh ngạc cho những kẻ tầm thường, nhát gan: “Con bé kia liệu có điên
không nhỉ, nó đâm đầu vào chỗ ấy lúc này để ăn bổng ăn giải gì, một viên đạn găm vào đầu
là cuối năm đừng lấy chồng nữa” [18; 279].
Giọng nói của người làng Mật Ninh làm toát lên bản sắc con người Kinh Bắc. Giọng
nói ấy “không trộn vào đâu được, nghe nặng lắm, mà nói to lắm”. Có thể người khác miền
xem đấy là một trở ngại trong giao tiếp, có khi cảm thấy kì khôi, khó chịu nhưng đối với
người Kinh Bắc, đó là những âm điệu mặn mà, thân thương, không kém phần quí phái, sang
trọng… Cũng nhờ giọng nói quê nhà mà người cùng quê có thể nhận biết nhau, chạy đến
tìm nhau trên bước đường tha hương cầu thực: “Năm trước vợ chồng tôi sang thăm Hàng
Châu, có ông bạn Trung Quốc vừa gặp đã ôm lấy tôi mà bảo, đồng tính đấy nhé, phải uống
rượu tại đây theo phong tục gặp họ mới được” [18; 275]. Cái đáng yêu đáng quý của con
người Kinh Bắc là họ còn mang nét thuần hậu, luôn có ý thức về đối nhân xử thế và cũng
như giữ gìn tâm hồn: “…đàn ông, đàn bà nhìn chung đều đon đả mau mắn” [18; 274];
“những nụ cười đôn hậu, những cách khu xử mặn mà vừa phải mà tin cậy vững vàng, có lề
thói, đủ biết lui tới, đủ biết ý tứ ngượng ngùng, biết xấu hổ biết tự trọng, không dễ gì sa vào
những cạm bẫy của ham hố tham lam, của quàng xiên viển vong và rối loạn” [18; 265].
Quê hương Kinh Bắc còn là vùng miền lưu giữ những giá trị văn hóa phi vật thể của
văn hóa Việt. Điệu hồn xứ sở Kinh Bắc là những làn điệu dân ca quan họ ngọt ngào, ru hồn
người vào thế giới của tình người, thế giới của nghệ thuật. Lời ca nhạc điệu của dân ca
Kinh Bắc có một sức lôi cuốn, hấp dẫn lạ lùng mà không nơi nào có được: “Mỗi lần ngồi
vào chiếu nghe canh quan họ là y như rằng thêm một lần được dẫn dắt vào mê cung của
những tình cảm vừa lịch lãm vừa đằm thắm. Những khúc thức nhặt khoan vững chãi, những
giai điệu vương giả bay lượn. Kìa những lời than thở mới bùi ngùi làm sao. Đời sống một
vùng đất vùng người mặn mà hiện ra với bao lớp lang tầng vỉa, ta chìm vào đấy để bắt gặp
tinh thần quê nhà” [18; 301]. Cũng từ những câu hát mê say ấy mà tác giả nhận ra cái tình
người muôn thuở, cái “sức sống phồn thực của dân tộc được cất giấu trong những luyến láy
í a…”. Những câu hát “Chàng buông dải áo em ra / Để em đi chợ kẽo mà chợ trưa…”
không biết có tự bao giờ mà dễ thương, ngọt ngào, làm duyên dáng thêm cho nét đẹp của
con người xứ Bắc, khiến cho ai đó phải ngẩn ngơ kiếm tìm, chờ đợi… Giai điệu mượt mà
cùng với sắc áo mang vẻ đẹp truyền thống: “áo sống mớ năm mớ bảy những mận những
đào”, gắn liền với những cử chỉ điệu nghệ, nhập thần khi diễn xướng: “những cái cổ nghểnh
lên để nhả lời, thon thả và kiêu kì như những cọng lan cọng huệ, con mắt lấp lánh lửa,
gương mặt ngời ngợi nồng nàn” [18; 302]. Những giá trị ấy là những giá trị truyền thống
góp phần tạo nên nét độc đáo cho văn hóa vùng miền Kinh Bắc. Quả thế, nói về các làn
điệu dân ca Bắc bộ, trước hết phải nhắc đến quan họ Bắc Ninh. Đó đâu chỉ là âm nhạc mà
đó còn là điệu hồn của xứ sở, là bóng dáng quê hương, một quê hương Kinh Bắc u hoài mà
lộng lẫy, thâm trầm mà dìu dặt, bình dị nhưng cũng rất đỗi sang trọng…
Đọc Đỗ Chu, người ta được đến với nhiên nhiên, con người và cuộc sống của một
miền quê không giàu về vật chất như những nơi khác nhưng lại rất giàu có về tình người và
các giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân gian và huyền tích. Quê hương Kinh Bắc là một
phần máu thịt trong tâm hồn nhà văn, thấm sâu vào trong những trang văn và tuôn chảy
thành dòng xúc cảm những cảm xúc ngọt ngào, sâu lắng…. Có thể nói, Kinh Bắc, đó là
thánh địa thiêng liêng để bất cứ những người con xa xứ có thể tìm về bất cứ lúc nào trước
những bộn bề, lo toan và thăng trầm của cuộc sống.
Không chỉ có Kinh Bắc, trang viết của nhà văn Đỗ Chu còn mở ra những miền đất
khác. Đó là những nơi mà tác giả đã từng đi đến, đã từng có những trải nghiệm với những
kỉ niệm khó phôi pha… Lưu lại trong tâm tưởng của người nghệ sĩ, những miền đất ấy trở
thành cội nguồn của sáng tạo nghệ thuật, khơi nguồn cho cảm xúc và suy tư… Có một điều
khá thú vị là những vùng đất ấy dẫu có những khác biệt về địa lí, lịch sử, văn hóa …nhưng
chúng cùng được tụ họp lại trong tâm hồn tác giả, được tác giả yêu dấu, nhung nhớ và
mang theo bên mình.
Ở tùy bút Cát nóng, người đọc được giới thiệu về Quảng Nam – Đà Nẵng, một dải đất
thuộc miền Trung đầy nắng và gió. Mở đầu tác phẩm, những cồn cát dần dần hiện ra, nhanh
chóng tạo ra ấn tượng sâu đậm về những đồi cát, núi cát, đồng cát, sông cát và biển cát…
Đâu đâu cũng có sự hiện diện của cát. Không nơi nào nhiều cát như ở miền Trung. Cát lại
có một sức sống mãnh liệt, “mặc cho đạn bom tha hồ cày xới, cát vẫn cứ trơ ra, cát không
bao giờ chết, nó chỉ biết nóng lên và nguội đi” [17; 65]. Trong cuộc đọ sức để giành lấy sự
thanh bình với kẻ thù, máu của những người yêu nước đã bao lần “loang đỏ trên cát, thấm
vào lòng cát” [17; 65]. Người ta còn “cất nhà dựng cửa, yêu thương nhau trên cát, khi nhắm
mắt lại vùi vào cát, mọi kỉ vật vùi nhau vào cát, mọi kỉ vật buồn vui đều có cát tham dự”
[17; 66]. Rõ ràng, cát gắn bó với con người trong những sinh hoạt đời thường cũng như
trong những biến cố quan trọng, cát trở thành máu thịt, thành tâm hồn của người dân Quảng
– Đà. Ý văn của Đỗ Chu có gì đó rất giống với sự chiêm nghiệm của Tố Hữu trong những
vần thơ: “Sống trong cát chết vùi trong cát / Những trái tim như ngọc sáng ngời” (Mẹ Tơm).
Dưới ngòi bút của Đỗ Chu, cát chính là biểu tượng nghệ thuật sinh động và mang ý nghĩa
sâu sắc. Cát là bản giao hưởng trầm hùng mà không nơi nào có được. Cảnh sắc miền Trung
không chỉ có nắng, gió, cát mà còn có những “núi cao bão lớn và biển mặn sóng dữ” [17;
66].
Từ xưa đến nay, miền Trung luôn được nhắc đến là dải đất khắc nghiệt và dữ dội, là
điểm hẹn của giông bão, thiên tai. Cái hoàn cảnh khắc nghiệt ở một phương diện nào đó đôi
khi lại là môi trường tốt để thử thách rèn luyện ý chí, bản lĩnh cho con người. Sống lâu
trong gió bão thiên tai, con người nơi đây không không biết tự lúc nào đã trở nên không còn
biết cúi đầu chịu khuất phục trước những tai ương, thử thách, không còn biết mềm yếu.
Như thế, hoàn cảnh và điều kiện sống khắc nghiệt đã tạo cho họ một bản lĩnh cứng cỏi, một
nghị lực sống vô cùng mạnh mẽ. Để rồi khi đứng trước ngoại xâm, một hiện thân của tai
ương, họ luôn giữ vững tinh thần bất khuất, hiên ngang, dám lấy sự sống cá nhân để hi sinh
cho dân tộc. Con số “ba ngàn mẹ được phong Mẹ Việt Nam Anh hùng lần đầu và hai ngàn
bà mẹ được phong lần sau” [17; 66] chỉ là những con số tượng trưng chứ thực tế những
người cha anh hùng, những người con anh hùng và cả những người phụ nữ âm thầm cống
hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là không thể nào thống kê hết. Có một căn
cứ nằm trong vòng vây địch, người ta gọi đó là vùng lõm. Dân số chỉ có sáu ngàn nhưng sau
những mấy chục năm dài chiến đấu đã chi sinh hết một phần ba. Trong số hai ngàn hộ thì
đã có chín trăm hộ thuộc diện gia đình thương binh liệt sĩ. Quả thật, mảnh đất này là mảnh
đất của những người con anh hùng và cũng là mảnh đất gánh chịu những hi sinh mất mát vô
cùng to lớn mà không gì có thể bù đắp được. Đó thật sự là vùng đất anh hùng với những
con người anh hùng, những anh hùng lặng lẽ lớn lên, lặng lẽ chiến đấu, lặng lẽ hi sinh giữa
lòng dân tộc.
Đất nước được giải phóng, thống nhất, cũng là lúc mọi người quay về với cuộc sống
mưu sinh với bao nỗi lo toan vất vả canh cánh đè nặng trên vai, phải chống chọi với bao
sức ép về kinh tế, nhất là phải đối mặt với cái nghèo. Con đường duy nhất của họ thoát
nghèo là dùng nghị lực, bàn tay và khối óc để thay đổi hoàn cảnh, biến vùng đất cát nóng
rãy khắc nghiệt, nhiều những khó khăn thành một vùng nước non kì vĩ thu hút khách du
lịch trong nước và quốc tế. Bán đảo Sơn Trà, sông Hàn, sông Thu Bồn…, một ngày không
xa sẽ trở thành điểm dừng chân của du khách, đem lại nguồn lợi to lớn cho tỉnh nhà.
Điện Biên, một miền đất nằm ở phía tây bắc của Tổ quốc, nơi đã từng diễn ra những
trận đánh và làm nên những chiến thắng vang dội được Đỗ Chu nhắc đến một cách tập
trung trong tùy bút Trời Điện Biên mây trắng. Cái đề tựa làm cho người đọc mường tượng
một không gian có những áng mây trắng phiêu du cùng gió ngàn sương núi. Ở tác phẩm
này, Điện Biên được nói tới như là nguồn cội của âm nhạc cách mạng, từng nâng hồn chắp
cánh cho nhiều nhạc sĩ như Hoàng Vân, Đỗ Nhuận, Huy Du… bay vào khung trời nghệ
thuật sáng tác và làm nên nhiều tác phẩm âm nhạc để đời. Những bài ca như Hò kéo pháo,
Trên đồi Him Lam, Giải phóng Điện Biên…đã ra đời trong hào khí bừng bừng của dân tộc
ta trong những năm tháng diễn ra trận đánh tại Điện Biên. Trong tâm hồn của người nghệ sĩ
lão thành Huy Du, “Điện Biên vẫn đang vẫy gọi chúng ta ở phía trước, chưa bao giờ Điện
Biên ở phía sau, chưa bao giờ Điện Biên là quá khứ” [17; 94]. Điện Biên mang tầm vóc và
ý nghĩa lớn lao, có sức vang vọng, thúc đẩy chuyển động rất mạnh và rất xa. Bởi vì, để có
ngày vui chiến thắng, để có ngày về lại thủ đô, rất nhiều chiến sĩ đã phải nằm lại vĩnh viễn
nơi cánh đồng Điện Biên. Đến đây, người viết chợt nhớ đến một tứ thơ của nhà thơ Chế
Lan Viên: “Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất / Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân” (Tiếng hát
con tàu). Điện Biên của hôm qua là Điện Biên của quá khứ hào hùng. Còn hôm nay, Điện
Biên từ một vùng đất bị bom đạn cày xới đã trở thành một sân cảng ngang tầm khu vực, có
một đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc hăng say để ngày càng hoàn thiện và vững vàng của
ngành hàng không.
Mở đầu tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn, Đỗ Chu đã giới thiệu ngay: “Tây Nguyên
không phải là vùng đất mới, rất cổ xưa và nguyên sinh, từ trong lịch sử của nó đã mang tố
chất bi hùng và mẫn tiệp” [17; 47]. Người nghệ sĩ đưa người đọc đến “những vạt đất mênh
mông, rừng mênh mông, cỏ mênh mông” [17; 36]. Không gian Tây Nguyên mở ra với
khung cảnh xanh ngời, bao la, rộng lớn. Không những thế, Tây nguyên còn có những khu
rừng già: “Nghe nói bên dãy núi kia có một khu rừng bằng phẳng, từ những thảm rêu dày
đâm lên hàng ngàn những cây trăm tuổi nhưng cây nào cũng chỉ ngập vai người, lính ta
quen gọi nơi ấy là rừng lùn. Bá hương, thông ngàn, cẩm lai, táu mật…đủ cả. Trên đó gió
táp dữ dội và rất lạnh” [17; 44]. Vẻ đẹp của khu rừng trăm tuổi kia là vẻ đẹp nguyên sơ,
trầm mặc, vừa thơ mộng vừa uy hùng. Và tự trong nội lực, chúng có một bản năng sinh tồn
mạnh mẽ.
Quả là một thiếu sót nếu như nhà văn không nói về những thác nước nơi đây. Trong
nhiều thác nước ở Buôn Mê Thuộc, Đỗ Chu chú ý nhiều nhất đến thác có một cái tên rất
Tây Nguyên – thác Đrai sák. Nó “xuất hiện đột ngột giữa một vùng trời đất mênh mang như
sương như gió lại như mưa” [17; 44]. Nhà văn miêu tả khá tỉ mỉ, chi tiết dòng chảy của nó
từ phía trên cao đổ về phía cánh đồng: “Dòng nước từ trong núi ào ào đổ xuống chia thành
nhiều nhánh tràn ra phủ kín vách đá. Chân thác là một cánh đồng đá lô xô, nước sôi sục,
nước len lỏi tỏa thành trăm ngả như trăm con rồng vật mình uốn lượn và bọt tung trắng
xóa” [17; 44]. Con thác Đrai sák mặc dù không được tạc vẽ công phu để nổi bật thuộc tính
phức hợp hung bạo và trữ tình như dòng thác trên sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông
Đà của Nguyễn Tuân nhưng nó cũng có một âm hưởng dữ dội và cái dáng nét độc đáo uốn
lượn uyển chuyển ở chốn đại ngàn Tây Nguyên. Âm vang của nó tựa như một khúc tráng ca
đầy kiêu hãnh thể hiện sức sống và trầm tích văn hóa của con người Tây Nguyên. Buôn Mê
Thuộc còn có dòng sông Sêrêpốc chảy qua hướng tây để gặp dòng sông lớn Mê-kông.
Nguyên ủy của dòng sông này là hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na. Có lẽ trong tâm
thức của con người Tây Nguyên, sự hợp lưu của hai nhánh sông kia là một cuộc hôn phối kì
diệu giữa chàng trai và cô gái. Qua đây, ta nhận ra rằng, thiên nhiên Tây Nguyên cũng ẩn
chứa bao nỗi niềm và khát vọng về tình yêu, về hạnh phúc đôi lứa mang tính nhân bản sâu
sắc. Cánh đồng Krông Pông nối liền giữa hai nhánh sông kia được ví như “mâm xôi Giàng
ban cho dân chúng vùng này”. Ngoài ra Buôn Mê Thuộc còn có những cánh đồng phì
nhiêu, xanh tốt khác cung cấp lương thực cho dân như Yasúp, Ecao, Lắc…
Tây Nguyên mẫn tiệp còn chứa chất một kho tàng văn hóa dân gian phong phú. Nơi
đây “qua những dòng sử thi truyền từ đời này sang đời khác người ta tìm thấy những phẩm
chất hết sức thuần phác của một vùng người vùng đất, của một vùng lịch sử đã được hình
thành với đầy đủ sức mạnh để đi tới, bất chấp mọi thử thách” [17; 43]. Không chỉ có những
bản khan nổi tiếng, những điệu cồng chiên mang âm hưởng núi rừng, những điệu nhảy đậm
chất hoang dã…mà còn có bao nhiêu chuyện xưa tích cũ đầy ý nghĩa, làm nên những huyền
thoại về con người Tây Nguyên.
Không những thế, Tây Nguyên huyền bí đã hun đúc, nuôi dưỡng những người con núi
rừng mang phẩm chất mộc mạc nhưng giàu lòng nhân hậu như ông Y Bí Alêô, Y Blốc
Eban…Nơi ấy có những con người hội tụ trong trí tuệ và tâm hồn những giá trị văn hóa của
Tây Nguyên như cụ Điểu Câu, cụ giáo Thấu. Họ là những “đại biểu của văn hóa Tây
Nguyên, là một thực thể văn hóa sống động, là bộ bách khoa toàn thư, là cuốn từ điển của
nhiều ngôn ngữ, là người có đôi tai thần, là cái lưỡi khôn ngoan và một trí tuệ hiếm thấy”
[17; 45]. Những cụ già ấy là cả một triết lí sống và là một bí ẩn như chính vùng đất mà họ
đã sống. Vẻ đẹp của núi rừng Tây nguyên còn được thể hiện ở vẻ đẹp nơi các thiếu nữ, một
vẻ đẹp không tân kì, lộng lẫy như minh tinh màng bạc mà hoang sơ, kì bí và thần thiêng,
đầy sức quyến rũ: “Các cô gái Tây Nguyên nhìn chung rất nhiều cô đẹp, nét đẹp của thần
Siva, mê hoặc và bùng nổ say đắm, một vị thần mang sức mạnh hủy diệt và sáng tạo” [17;
54].
Cùng với tác giả đi qua những vùng miền như Tây Nguyên, Điện Biên, Quảng Nam –
Đà Nẵng, người đọc như thấy mình được mở rộng tầm nhìn, yêu mến thêm cảnh sắc, con
người và văn hóa của đất nước ta.
1.3.2.2 Chân dung người chiến sĩ, người nghệ sĩ và trí thức bác học
Khi viết về giai đoạn này, văn học đã cố gắng đi sâu vào việc giáo dục, đào tạo,
xây dựng con người mới, phát hiện con người cộng đồng trong mỗi cá nhân. Thuở ấy, con
người như là sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng. Văn học đóng vai trò là mặt trận
tư tưởng. Nhà văn thông qua con người để biểu hiện lịch sử, con người trở thành phương
tiện để khám phá lịch sử. Chiến tranh đặt ra vấn đề sống còn của dân tộc, mọi quyền lợi,
mọi ứng xử phải có sự thống nhất muôn người như một. Cá nhân tự nguyện hòa tan trong
cộng đồng. Và chính những con người đó đã góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất nước
nhà, làm nên chủ nghĩa anh hùng, mang lại vẻ vang cho dân tộc. Hầu hết các nhà văn thiên
về khuynh hướng ca ngợi. Đỗ Chu cũng hòa chung vào tiếng nói văn học ấy. Cũng là một
nhà văn mang áo lính nên ông có lẽ hiểu rằng Tổ quốc và nhân dân, nhất là những con
người đang trực tiếp tham gia vào các sự kiện lịch sử là đối tượng thẩm mĩ khơi nguồn cảm
hứng sáng tạo.
Trong bộ ba tùy bút, nhất là tùy bút Những chân trời của các anh, Đỗ Chu đã dành rất
nhiều trang văn ghi lại chân dung của người lính. Không phải chỉ trong tùy bút mới có hình
tượng này mà ở thể loại truyện ngắn loại nhân vật này có rất nhiều như trong các tác phẩm
Ngọn lửa, Khoảng xanh, Trung du và còn nhiều truyện ngắn khác nữa… Đa số họ là những
thanh niên ưu tú mang trong mình lí tưởng sống cao đẹp, gánh trên vai vân mệnh của dân
tộc, hăng hái lên đường với bầu nhiệt huyết sôi sục của tuổi trẻ, gác lại bao chuyện riêng tư
đối với gia đình, người thân…Trong trái tim anh mang một lòng căm thù giặc sâu sắc, một
quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù: “Anh chiến sĩ chiều nay lên biên giới hành lí
quá gọn gàng, hình như anh chẳng mang theo gì ngoài một quả tim đã nặng trĩu tình yêu
quê hương xứ sở, ngoài một ngọn lửa chưa bao giờ nguội lạnh trong lòng – ngọn lửa tình
yêu cuộc sống” [14; 93]. Từ đây những chàng trai mang chí lớn bước vào cuộc đời chinh
chiến với bao khó khăn thiếu thốn: “…các chiến sĩ của mình đã lăn ra ngủ trên khắp những
hành lang dài hun hút, họ nằm ngổn ngang đầu gối lên ba lô, lên súng, lên cả những hòm
đạn, ngủ mà mồ hôi vẫn chảy ròng ròng khắp mặt khắp cổ. Những khuôn mặt măng tơ,
những khuôn mặt dầu dãi, áo quần tất cả đều lấm láp, đó là tấm áo chiến bào của trên nửa
thế kỉ trường chinh gian khổ” [18; 178-179]. Không những thế, sống trong nhà tù, đôi khi
người chiến sĩ phải chịu cảnh sinh hoạt khắc nghiệt. Khát quá, họ uống cả thứ nước không
lấy làm vệ sinh trong những ống tre vốn dùng để đựng phân và nước tiểu của tù nhân.
Những đêm cuối mùa đông, các chiến sĩ đóng quân ở rẻo cao phải chịu đựng cái giá rét tê
người vì không có đủ áo ấm: “Tháng chạp trên Cao Bằng có tuyết. Trời lạnh xuống 0 độ,
các chiến sĩ mang súng lên điểm tựa tiền tiêu đôi gác, phong phanh một chiếc áo mỏng, rét
từ trong bụng rét ra, rét đến đỏ tai, đỏ mắt” [14; 87].
Chân dung người chiến sĩ thật sự nổi bật khi các anh xuất hiện giữa chiến trường ác
liệt, dữ dội trong tư thế hiên ngang, anh hùng. Chính tình yêu non sông và lòng căm thù
giặc đã tạo cho các anh một nghị lực phi thường để các anh có thể vượt qua cuộc sống gian
khổ, để khi đối diện với kẻ thù các anh nhằm thẳng chúng mà tiêu diệt: “Khuyến, pháo thủ
số 5 nạp đạn vào nòng cho khẩu đội bắn, thật khó nói trong lòng các anh tình yêu thương
gia đình, làng xóm và lòng căm thù lũ giặc Mỹ đằng nào lớn hơn. Chỉ có một điều chắc
chắn là chính tình yêu mà các anh mang ra trận nhóm lửa cho sự căm thù bùng cháy” [14;
57]. Nòng súng của người chiến sĩ quả cảm đã bao phen khiến kẻ thù phải tan xác trên bầu
trời, chỉ còn lại vết đạn đỏ rực, vun vút lao lên nền trời lóa nắng. Cứ mặc cho khói lửa mịt
mù, bom đạn của đế quốc Mỹ cày xới không ngừng, không một tấm lá chắn, những người
lính vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu: “Trong tiếng máy bay gầm rú điên loạn trên đầu,
trong tiếng bom nổ xung quanh, các chiến sĩ vẫn vững vàng trên mâm pháo, đánh trả quyết
liệt” [14; 56]. Cảm động thay hình ảnh người lính pháo thủ đã nhanh chóng cởi chiếc áo
đang mặc đem nhúng bùn để bịt mấy lỗ dò trên vỏ đạn, ngăn chặn kịp thời quả đạn phát nổ.
Cuộc đọ sức với kẻ thù diễn ra vô cùng gây cấn, cam go, nguy hiểm: “Cánh đồng bị bom
đạn cày xới ngổn ngang, mấy lần Trường vấp ngã, mấy lần lăn xuống hố sâu, lại vùng lao
đi. Lẫn trong bùn ruộng, trong bóng đêm là khói bom khét lẹt, không gian dày đặc tiếng
gầm rú của phản lực, mặt đất rung lên giận dữ. Giữa tình thế ấy trong anh dường như có
một sức mạnh phi thường. Cố lê cái chân phải bị liệt, tì vai lên vách hầm, nửa nằm nửa
ngồi, anh thét to trong máy: “Xê hai báo cáo, tất cả đã sẵn sàng” [14; 63]. Ranh giới giữa
cõi sống và cõi chết lúc ấy xem ra chỉ là gang tất, người lính trở nên rất nhỏ bé, mong manh
trước sự truy kích của kẻ thù. Không cần phải lật giở những trang sử thời ấy, ai trong chúng
ta cũng thấy rằng, trong cuộc đánh chiếm Việt Nam, Mỹ đã sử dụng những vũ khí hết sức
tối tân, phát huy tối đa sức mạnh và uy lực của chúng. Lính Mỹ có thể tàn phá hàng loạt các
làng mạc, nhà cửa, biến trận địa thành bình địa, lấy đi vô số sinh mạng con người một cách
dễ dàng. Thế nhưng có một thứ mà chúng không san bằng, tàn phá nổi, đó là tinh thần chiến
đấu anh dũng, ngoan cường của con người Việt Nam. Cái sức mạnh, cái uy vũ kia trở nên
vô hiệu hóa trước những con người nhỏ bé về hình thể nhưng lớn lao, vĩ đại trong tâm hồn.
Cũng chính vì thế mà tổn thất to lớn của ta là không để nào tránh khỏi, người người ra
trận hi sinh, nhà nhà tiễn người thân ra trận mà không có được ngày đón họ quay về. Bao
người lính đã phải nằm lại nơi chiến trường đương độ tuổi thanh xuân: “Ở huyện Gia
Lương, tôi mới được gặp được bà mẹ một người anh hùng. Anh ngã xuống vào năm hai
mươi sáu tuổi, đi từ năm mười bảy, chưa một lần hò hẹn yêu đương, trước khi đánh trận
cuối cùng trên người anh đã có hai mươi vết thương lớn nhỏ” [17; 52]. Những cái vết
thương ấy chính là hiện thân vết thương của cả dân tộc, sự chịu đựng của anh là hiện thân
của một dân tộc quá đỗi kiên gan, quá đỗi bền lòng trong những ngày tháng đánh giặc
Mỹ…Chìm sâu trong dòng hồi tưởng của người cựu chiến binh Mỹ về cuộc chiến ở Ban
Mê, có người chiến sĩ bị thương, anh ta là đối tượng nguy hiểm trong con mắt kẻ thù. Khi
bị bắt lên máy bay, “anh lấy hết sức nhỏm dậy, nhìn xuống vùng trời xanh dưới kia, thình
lình anh ấy nhoài người ra khỏi cửa. Lúc chúng em hiểu ra thì đã thấy bóng anh ấy mất hút
trong khoảng không, dưới ấy chỉ là một vùng rừng xanh thẳm trùng điệp đang vùn vụt lướt
nhanh” [17; 36]. Phi công Vũ Xuân Thiều trong tùy bút Kìa đàn hồng hạc là người anh
hùng đã ở lại mãi mãi với bầu trời: “Ba mươi năm trước trong một đêm tháng Chạp, Hà Nội
rực cháy, mặt đất rung lên từng cơn trong ánh chớp của bom Mỹ của tên lửa và đạn pháo
cao xạ ta, có một người con trai Hà Nội đã bay lên đối mặt với những chiếc pháo đài bay
B.52. Anh lao vào chúng làm một trận đánh cảm tử, làm một chiến công góp phần kết thúc
cuộc oanh kích cực kì dữ dằn” [17; 8].
Mãi mãi, vẻ đẹp cao cả, kì vĩ, bi hùng của những người chiến sĩ sẽ có sức sống bền bỉ
trong lòng dân tộc, trở thành đuốc hồng soi sáng đường cho các thế hệ mai sau, và là niềm
kiêu hãnh của dân tộc trong hành trình đấu tranh giành lại độc lập và xây dựng đất nước.
Chân dung người lính cũng chính là chân dung của dân tộc ta trong những tháng ngày đánh
Mỹ: kiên cường, bất khuất, quyết tâm đánh thắng kẻ thù, dù phải trải qua bao gian nan, hi
sinh trên bước đường tranh đấu.
Những nghệ sĩ được nói đến trong các tập tùy bút của nhà văn Đỗ Chu không phải
được chọn lọc theo một công thức hay tiêu chí nào mà chủ yếu theo những ấn tượng chủ
quan và cảm hứng thẩm mĩ rất riêng tư của nhà văn. Vì thế đây không phải là những bài
nghiên cứu, khảo cứu về tác giả văn học – nghệ thuật mà chủ yếu là những bài tuỳ bút
nhằm để giãi bày xúc cảm và suy tư trước nghệ thuật và cuộc đời ngang qua những đối
tượng thẩm mĩ là những người nghệ sĩ.
Ở lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ, đối với tác giả văn xuôi, Đỗ Chu dành riêng ba bài tùy
bút cho ba nhà văn. Người đầu tiên phải nhắc đến, cũng là tác giả luôn tạo cho người đọc
những ấn tượng mạnh mẽ, đó là Nguyễn Tuân. Mở đầu bài tùy bút số 5 trong Thăm thẳm
bóng người, giữa đại gia đình của Hội nhà văn, Nguyễn Tuân được trân trọng xưng tụng
bằng danh hiệu “vị trưởng lão kì tài”. Khi tùy bút này ra đời, Nguyễn Tuân ra đi đã được
hai mươi năm nhưng những kỉ niệm và ấn tượng về cây viết bậc thầy về văn xuôi hiện đại
Việt Nam vẫn còn tươi nguyên, gần gũi. Theo cảm nhận của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn
Tuân đã hiện diện giữa văn đàn bằng một phong thái sang trọng, khác xa với vẻ lấm láp của
số đông nghệ sĩ. Phong thái sang trọng kia là gì nếu không phải là tư chất tài hoa vượt trội
của người nghệ sĩ. Nó là cái thiên bẩm quí báu mà không phải ai cũng có được. Chính nét
tài hoa đã tạo ra một sức thu hút lạ lùng ngay cả trong những lần kể về những chuyện
không đâu tại một quán cóc lấm láp bụi đường trên một vỉa hè nào đó. Nguyễn Tuân không
phải là nhà khảo cổ học cũng tuyệt nhiên không phải là kẻ ngẩn ngơ vô công rỗi nghề khi
mà hằng ngày ông đi thu thập tẩu thuốc cổ, lọ tăm tre, cái bút máy, cuốn sổ ghi chép, một
chút rượu, một con mực nướng…vào trong cái túi vải thô một đời xách theo mình. Hành
động ấy của ông rất đỗi lạ lùng. Nhưng kì diệu thay, chính những cái tưởng như tầm
thường, đơn giản kia lại trở thành đối tượng thẩm mĩ độc đáo cho những sáng tác văn
chương. Có thể nói hành trình đi cóp nhặt lạ lẫm đó là hành trình sáng tạo nghệ thuật tuy
âm thầm nhưng rất đỗi phấn khích của người nghệ sĩ tài hoa hết lòng vì nghệ thuật. Đỗ Chu
khẳng định rằng, mọi thứ sẽ qua đi, nhưng tác phẩm và con người Nguyễn Tuân mãi mãi là
những giá trị trường tồn. Hiểu Nguyễn Tuân là không dễ, bởi vì trong ông là cả một thế giới
bí ẩn, càng ngắm càng nhận ra nơi ông có nhiều cái lạ, một cái lạ không phải ở cái dáng
kiêu bên ngoài mà là ở cái cốt kiêu thuộc về bề sâu.
Đôi khi những tác phẩm xuất sắc vượt quá tầm đón đợi thẩm mĩ thường rất gian nan
trong quá trình xuất bản, lưu hành. Tùy bút Tờ hoa chính là một ví dụ tiêu biểu cho trường
hợp này. Suýt nữa nó đã bị bóp chết và làm ảnh hưởng luôn đến việc xuất bản của những
tác phẩm khác. Nguyễn Tuân tỏ ra rất kiên định trong việc giữ lại Tờ hoa trong tập sách.
Cho mãi về sau này, khi Tờ hoa được đón nhận nồng nhiệt, người ta mới vỡ ra một điều:
“Nguyễn Tuân đâu phải người cố chấp hay kiêu ngạo, ông chỉ là một người biết giữ nguyên
tắc sống của mình, không thể khoan nhượng trước mọi u tối, lẩn quẩn, luôn luôn biết điều
và khoan hòa, trong việc lớn nhỏ ông đều đã khu xử đàng hoàng nhiều tự trọng” [18; 87].
Tác phẩm của Nguyễn Tuân trải qua bao biến động của thời cuộc vậy mà vẫn luôn giữ
được mới mẻ, luôn có sức hút và lay động mạnh mẽ tâm hồn người với một phong cách độc
đáo và một tinh thần thuần Việt. Mãi mãi Nguyễn Tuân luôn là niềm yêu mến và ngưỡng
mộ đối với những ai yêu mến loại hình nghệ thuật này và nhất là những hậu sinh kế tục thế
hệ ông trong việc làm cho cuộc đời đẹp thêm bằng các sáng tác văn chương.
Kim Lân là một gương mặt quen thuộc với những sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Nếu
Nguyễn Tuân hướng đến cái mĩ thì Kim Lân lại chú ý đến cái chân, một cái chân mộc mạc
quê kiểng nhưng có sức hút lạ lùng. Độc giả xem đây là dấu hiệu duy nhất để nhận biết về
ông. Không những Kim Lân có những trang viết chân thật mà ông còn có một nguồn cảm
hứng chân thật. Nguồn cảm hứng trong con người nghệ sĩ Kim Lân không biết cố gắng
gượng ép trước những thúc bách bởi những nhu cầu của bản thân và xã hội. Quả là một cái
tôi nghệ sĩ hết sức hồn nhiên và trong sáng, thấu suốt những nguyên tắc trước sau trong
sáng tạo nghệ thuật. Vì thế mặc dù số lượng những đứa con tinh thần của ông không nhiều
nhưng mỗi tác phẩm ông viết ra luôn có chỗ đứng trong lòng người đọc. Kim Lân viết về
những con người nghèo khổ nhưng vẫn giữ được nét cao quí bên trong tâm hồn. Nó có ý
nghĩa gì nếu không ngoài việc thể hiện tình yêu, sự đồng cảm, niềm trân trọng của người
nghệ sĩ đối với những mảnh đời bất hạnh.
Bình sinh, Kim Lân không bao giờ chịu trú vào một lớp vỏ bọc giả tạo, một thứ phẩm
cách thanh khiết thuộc về hình thức. Ông sống thật thà với như chính con người của mình
giữa thanh thiên bạch nhật. Hơn nữa, Kim Lân còn là một minh chứng cho “chân lí không
thể sống nhạt, sống tồi mà lại có văn chương” [18; 71] và là “sự bí hiểm chẳng khác nào
những chiếc lọ được ông bày la liệt trong phòng khách chật chội” [18; 74].
Có một nhà văn cùng thế hệ với Đỗ Chu, xuất hiện biệt lập trong bài số 6 thuộc phần
Hoa bờ giậu, đó là nhà văn của tuổi nhỏ – Trần Hoài Dương. Viết về Trần Hoài Dương, Đỗ
Chu ghi lại khá nổi bật sự gian truân của người nghệ sĩ trên bước đường tìm đến chân trời
nghệ thuật. Dám từ bỏ cuộc sống êm đềm tại báo Văn Nghệ, Trần Hoài Dương quyết chí
thực hiện một chuyến đi thực tế để tích lũy vốn sống khơi nguồn cho sáng tạo nghệ thuật.
Người nghệ sĩ ấy đến với một miền đất mới, nhận lấy một công tác mới tại một trường giáo
dưỡng chuyên dạy trẻ em hư vị thành niên. Bước đường của Trần Hoài Dương trong cái
nhìn của Đỗ Chu thật “lắm đoạn trường”. Điều này biểu hiện rằng, nhà văn trẻ Trần Hoài
Dương thuở ấy là người nghệ sĩ ủ ấp khát vọng lớn lao, có ý thức trong việc dấn thân để
phụng sự cho nghệ thuật chân chính, lấy nghệ thuật làm lẽ sống và làm mục tiêu vươn tới.
Thiết nghĩ rằng, phải là người có bản lĩnh hơn đời, hơn người thì mới có một sự dấn thân cá
thể như thế.
Và ông đã được đền bù. Hai tập sách Miền xanh thẳm và Truyện chọn lọc, hoa trái của
những tháng ngày gian truân, miệt mài trên miền đất sáng tạo nghệ thuật sắp được tái bản.
Những trang viết giàu chất liệu hiện thực và hơi thở cuộc sống đã đưa ông đến với đông
đảo độc giả, nhất là độc giả nhỏ tuổi. Mỗi tác phẩm của nhà văn là bài học giúp người đọc
quay về với lòng nhân ái, trung hậu, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ giữa một thế giới dần đi
vào lối sống thực dụng, vô cảm. Cái hay trong văn của Trần Hoài Dương là cái hay của sự
“yên ả, không ồn ào, đẹp một cách mong manh dung dị, như cây cỏ lan kia đang lặng lẽ tỏa
hương nơi u cốc” [18; 95]. Về bút pháp, “sáng tác của anh không nằm ngoài qui luật chung,
anh viết những chuyện rất bình thuờng bằng một bút pháp không tầm thường”.
Thấp thoáng trong các tập tùy bút của Đỗ Chu còn có một Nguyễn Minh Châu từng
trải, về cuối đời vẫn còn chưa thôi niềm khao khát cho ra đời những tác phẩm hay; một Mai
Ngữ khiêm nhường có giọng văn nhát gừng, lừng khà lừng khừng nhưng khiến người đọc
bao bao lần cười ra nước mắt; một Phan Hồng Giang có những tác phẩm dịch góp phần đưa
người đọc đến gần hơn với văn học Nga; một ngôi sao văn học mới lên, Nguyễn Ngọc Tư
có giọng văn mộc mạc, nhân cách vững vàng, tự tin và đằm thắm.
Đối với các tác giả thơ hiện đại, cũng giống như ở văn xuôi, Đỗ Chu cũng dành ba bài
tùy bút để giới thiệu về ba nhà thơ. Đó là Phạm Tiến Duật, Nguyễn Xuân Thâm và Chính
Hữu.
Phạm Tiến Duật, tác giả của những bài thơ nổi tiếng hiện lên với hai con người riêng
biệt nhưng rất thống nhất với nhau - con người nghệ sĩ và con người chiến sĩ. Câu chuyện
về chàng thanh niên đang học năm cuối khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội,
theo tiếng gọi của tổ quốc, từ giã giảng đường lên đường ra trận được Đỗ Chu kể lại thật
cảm động. Mà đâu chỉ là cảm động thuần tuý, sự quyết tâm dấn thân của con người trẻ ấy
còn làm ta mến yêu và ngưỡng vọng sâu xa... Thực sự không quá khó khăn khi nhà văn
phát hiện ra trong thơ ông có một thế giới nghệ thuật tràn ngập ánh lửa. Lửa ấy vừa là hiện
thực cách mạng, hiện thực cuộc sống đầy khói thuốc nổ mà còn là lửa tâm hồn, lửa của tuổi
trẻ, lửa của tình yêu mến đất nước nồng nàn, cháy bỏng… Lửa trở thành một hiện tượng
thẩm mĩ, một biểu tượng nghệ thuật sống động, lung linh trong thơ ông. Thơ ca giai đoạn
này bay bổng với cảm hứng lãng mạn cách mạng. Và thơ của Phạm Tiến Duật cũng hòa
vào nguồn cảm hứng ấy. Tác phẩm của ông được đón nhận nồng nhiệt, nhất là thành phần
thanh niên xung phong đang sống đời chinh chiến. Cũng dễ hiểu thôi, vì “anh là một người
làm thơ cho lính đọc, anh chưa bao giờ sắm vai người nói hộ, khóc hộ, lo âu hộ” [18; 55].
Tiếng nói thi ca cất lên từ chính những trải nghiệm dày dạn, từ những xúc cảm chân thành.
Vì nó khởi đi từ trái tim nên nó cũng sẽ dễ dàng đến với nhiều trái tim để tìm sự đồng điệu.
Không những thế, con người nghệ sĩ trong Phạm Tiến Duật còn có sự bản lĩnh mà không
phải người cầm bút nào cũng có: “…anh vẫn luôn luôn là người dám hát, dám sống và viết
như chính mình nghĩ thế, cảm nghĩ về những năm tháng mà mình đã đi qua” [18; 56]. Cuộc
gặp gỡ giữa nhà văn với đội nữ thanh niên xung phong giúp ta nhận ra rằng, Phạm Tiến
Duật là một thần tượng thơ ca của những người lính trong những tháng năm dài đánh Mỹ.
Với Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật được coi như một sự kiện lớn của thơ ca kháng chiến;
còn theo Hoài Thanh, “sự xuất hiện của anh trên văn đàn là sự xuất hiện của một bút pháp
có sức đột phá, có sức khai mở một thi pháp” [18; 50]. Sau lần được vinh danh với giải
thưởng thơ do báo Văn nghệ tổ chức, ông bị đánh vì bài Vòng trắng, theo một số người
lãnh đạo có vấn đề !
Phạm Tiến Duật có quan niệm rất đúng đắn về thơ: “Thơ với anh như một thứ nhật kí,
thấy ngay, nghĩ ngay và viết ngay” [18; 59]. Với quan điểm ấy nên thơ đã nở hoa theo mỗi
bước chân khi ông qua những vùng miền, đất nước khác nhau. Ở Lào, ông có Ngủ ở Ăng
Khăm nghe tiếng vượn; đến Nga, ông có Tuyên bố chung với hàng cây Matxcơva; sang Bắc
Âu, ông có Yên tĩnh Copenhaghen; đặt chân trên đất Mỹ, ông có Lạm tóc của gia đình
Hakin. Phần cuối bài tùy bút, tác giả đã hết lời đề cao Phạm Tiến Duật – “một hiện tượng
không dễ gặp trong đời sống thi ca cũng như trong đời sống xã hội”.
Nguyễn Xuân Thâm không phải là nhà thơ được nhiều người biết đến. Cái tình riêng
sâu sắc là nguồn cảm hứng mạnh mẽ chắp bút cho Đỗ Chu có bài viết khá dày dặn về ông.
Là nhà nghiên cứu ngành hóa học, Nguyễn Xuân Thâm có trên bốn mươi năm làm giảng
viên Đại học Bách khoa. Thật thú vị khi ông là nhà khoa học tài danh mà cũng có tư chất
nghệ sĩ và niềm đam mê đối với thơ ca. Cái năng khiếu thơ ca thể hiện ngay từ lúc ông còn
là một cậu học sinh trường Quốc học với bút danh Dao ca. Ông “tình nguyện làm một
người hát rong trên đời và làm những bài đồng dao cho trẻ nhỏ của các làng mạc xa xôi vừa
nhảy lò cò vừa hát” [18; 110]. Những vần thơ ngày ấy đậm chất học trò, hồn nhiên, mộng
mơ nhưng cũng đủ khiến nhóm nữ sinh Đồng Khánh “hồi hộp không sao thở được”. Nhà
văn Đỗ Chu bắt đầu biết đến ông qua tập Đồng xanh, in chung với Nguyễn Nhã từ những
năm sáu mươi của thế kỉ XX. Theo sự cảm nhận của nhà văn, “càng về già thơ anh càng
khởi sắc, chất trữ tình trong thơ anh càng đằm, ngôn từ nhiều tìm tòi và rất chắt lọc” [17;
112]. Điều này cũng thật dễ hiểu, vì một người chung thủy và hết lòng với thơ như anh thì
không lẽ nào thơ ca đóng sập cánh cửa sáng tạo trong ông được. Nguyễn Xuân Thâm đã
được vinh danh khi ông được nhận Giải thưởng văn học của Hội nhà văn vào năm 2001.
Tài hoa bạc mệnh, điều này dường như rất ứng hợp với Nguyễn Xuân Thâm. Ông bị
ung thư hàm, phải phẫu thuật nhiều lần. Căn bệch quái ác làm héo hắt và méo mó cả hình
hài: “Anh gầy xọp, đôi mắt lồi ra như sắp rụng xuống đất, hình tướng nhàu nát dị dạng,
tiếng nói cũng bị méo đi, nghe rất khó” [18; 112-113]. Có một dự cảm rằng nhà thơ của
chúng ta sẽ không thoát được cái nạn này. Nhưng hình như ông trời vẫn còn muốn Nguyễn
Xuân Thâm hiện diện giữa cuộc đời nên đã cho ông được trở về lại với người thân, bằng
hữu và thơ ca, trả lại cho ông một khuôn mặt bình thường, một giọng nói trong và ấm.
Một nhà thơ được đề cập ở sau bài viết về nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm, đó là Chính
Hữu, quê gốc ở Can Lộc – Hà Tĩnh. Mười chín tuổi, sau khi nhận bằng tú tài, Chính Hữu
nhanh chóng hòa vào dòng người tham gia kháng chiến. Ông là người chín chắn từ trẻ, lại
có khả năng tự học tốt. Về việc sáng tác, Chính Hữu không phải là người ham viết nhiều,
viết dài nhưng “bài nào ra bài ấy, câu chữ nào ra câu chữ ấy, như những hạt ngô hạt thóc
mẩy trên sàng”. Có lẽ để có được những “hạt ngô hạt thóc” ấy, Chính Hữu đã phải nhiều
chắt chiu trên cánh đồng nghệ thuật với một tinh thần miệt mài, cần mẫn… Trong lịch sử
văn chương không hiếm có những trường hợp hoa lạ trái mùa và tác giả của nó cũng được
sống mãi giữa lòng nghệ thuật cùng với những tác phẩm ấy. Chính Hữu là một trong số ít
có được cái may mắn ấy. Đỗ Chu nhận ra rằng, cảm hứng chủ đạo trong thơ Chính Hữu là
“tình đồng chí, đồng đội và đất nước”. Để chuyển chở được cái tính ấy, nhà thơ đã vận
dụng một bút pháp gợi mở, giản dị và sâu lắng. Đây là một kiểu thơ nhẹ nhàng, mang nét
duyên thầm, rất đáng quí và đáng yêu.
Khi nói về mối quan hệ giữa văn học và hội họa, người xưa từng có câu: “Thi trung
hữu họa”. Người nghệ sĩ ngôn từ và người nghệ sĩ màu sắc xem ra rất gần nhau. Trong các
tập tùy bút, Linh Chi là nghệ sĩ được Đỗ Chu viết dài nhất, công phu nhất. Cái bút hiệu
Linh Chi làm cho nhà văn liên tưởng đến một loài nấm quí có giá trị y học và một loài thảo
mộc gắn liền với câu chuyện đầy màu sắc huyền thoại. Ở phần đầu, nhà văn giới thiệu rất
chi tiết về dòng tộc, gia đình, nơi sinh sống của họa sĩ Linh Chi. Ngay từ lúc nhỏ, ông là
người có năng khiếu và tình yêu đối với hội họa. Tình yêu ấy lớn dần theo thời gian, cho
đến một ngày ông quyết định tìm thầy học vẽ, để lại sau lưng sự học dở dang. Linh chi đã
đi theo tiếng gọi của nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm sự nghiệp cho riêng mình. Và ông đã
sớm gặt hái được những thành công nhất định, bốn mươi ba bức sơn dầu và bột màu được
bày triển lãm tại Phòng thông tin Tràng Tiền khi ông vừa qua tuổi hai mươi bốn. Tuy nhiên,
đó cũng chỉ là bước khởi đầu, một bệ phóng khích lệ Linh Chi đi sâu vào thế giới hội họa.
Sự nghiệp sáng tác của Linh Chi kinh qua nhiều giai đoạn. Sau Cách mạng tháng Tám,
ông trở về quê nhà là Nọi Doi trong những ngày đói kém. Đây là khoảng thời gian Linh Chi
mang giá vẽ đi khắp quê hương: “vẽ con sông cạn bò ngoằn ngoèo đến chân núi Dạm, ra bờ
sông Cầu vẽ những cánh buồm no gió từ mạn Phả Lại đang đẩy thuyền củi, thuyền than lên
bến Đáp Cầu. Vẽ những cô du kích cầm mã tấu đứng gác ở cổng làng, vẽ những đứa trẻ cầu
bơ cầu bất mót khoai mót sắn” [18; 217]. Rõ ràng, cảm hứng nghệ thuật của người họa sĩ
gắn bó mật thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người . Nó khác xa với những khuynh
hướng nghệ thuật thoát li cuộc sống hay xem cuộc sống chỉ là thứ yếu. Rồi đầu năm 1947,
Linh Chi một lần nữa đã lên đường để tham gia kháng chiến. Đây là một trong những bước
ngoặt quan trọng của linh Chi. Từ đây, nét cọ của người nghệ sĩ không chỉ gắn bó với hiện
thực cuộc sống mà còn gắn bó với hiện thực cách mạng, không chỉ phụng sự cho nghệ thuật
mà còn phụng sự cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Linh
Chi bước vào cuộc sống mới với bao gian khổ, đắng cay, với bao thử thách đang đón chờ
ông ở phía trước. Những trải nghiệm đã biến ông trở thành một họa sĩ giàu nội lực, có cốt
cách vững chãi. Ông đạt được những thành công lớn. Nhiều lần tranh của Linh Chi được
triển lãm, có sức lan toả rộng rãi không chỉ trong nước mà còn ở nước bạn.
Qua bài tùy bút này, độc giả nhận ra rằng, Linh Chi không chỉ là họa sĩ tài ba, giàu
tâm huyết mà còn là một người hết sức nặng lòng với dân tộc, mang khát vọng lớn trước
nghệ thuật và cuộc đời. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, Linh Chi vẫn âm thầm đi về trên
những nét cọ, từng ngày vượt qua những khó khăn, thiếu thốn của đời thường để tiếp tục
sáng tạo và cống hiến. Đáng quí hơn, ông còn có tình bạn bè thân hữu, không ồn ào, phô
trương mà luôn chu đáo, chân thành, sâu lắng.
Một họa sĩ nữa, đó là Mai Văn Hiến. Ông là người vẽ tiền nhưng lại có cuộc sống
quá đỗi túng quẫn, quá đỗi nghèo khổ, thêm vào đó là chứng bệnh tắt động mạch chi làm
cho hai chân ông teo tóp dần. Căn phòng méo mó, ẩm thấp, rộng mươi mét vuông là chỗ
sinh hoạt duy nhất của gia đình ông. Mọi chuyện buồn vui đều diễn ra tại không gian chật
chội đó. Nghèo là thế mà con cháu vẫn đông đúc, đề huề như ai, cái tình bạn không vì thế
mà trở nên hiếm hoi: “Anh Hiến có nhiều bạn, đời anh lấy sự nhiều bạn làm giàu. Già có,
trẻ có, đủ các tầng lớp nghề nghiệp, nhiều người tiện qua thì tạt gặp nhau một thoáng, có
người mấy chục năm nay lặn mất tăm, không rõ còn sống hay đã mất, cũng chẳng hiểu gia
cảnh giờ đã ra sao, vậy mà bỗng đột ngột hiện ra, đứng chắn ngang cửa ra vào, lù lù như
một đống rạ, hỏi anh có nhận ra ai không” [17; 171]. Câu văn có pha chút hài hước mà sao
nghe thấy lòng rưng rưng về tình cảm bạn bè đáng quí, đáng yêu.
Cùng thời với Linh Chi, họa sĩ Mai Văn Hiến cũng là người được nhà văn dành nhiều
tình cảm yêu mến và ngưỡng mộ. Trong những năm tháng kháng chiến, họa sĩ Mai Văn
Hiến cũng góp sức vào việc tranh đấu. Anh vẽ áp phích, khẩu hiệu kêu gọi địch ra hàng.
Rồi khi ta bắt tay vào xây dựng Nhà nước, ông được giao công việc vẽ tiền. Thế là, “anh
lẳng lặng lên khu gang thép Thái Nguyên vẽ ống khói lò cao, ra Hòn Gai vẽ cần cẩu xúc
than và tờ bạc nào anh cũng vẽ hình cụ Hồ” [17; 182].
Trong tùy bút Một con người đã ra đi, bức chân dung của Văn Cao được khắc họa với
tư cách ba con người nghệ sĩ: thi sĩ, họa sĩ và nhạc sĩ. Đó là “một người nói năng thủng
thẳng, nói năng quá ôn tồn, vừa nói vừa ngẫm” [17; 187]. Phải là một người điềm đạm, có
đời sống nội tâm phong phú và sâu sắc thì mới có thể có những biểu hiện như thế. Phong
thái ấy làm tác giả liên tưởng đến bức chân dung của nhà văn Đốt-xtôi-ep- xki, đại văn hào
của nền văn học Nga. Trải qua bao biến động, Văn Cao vẫn giữ được cái nét ấy: “vẫn
thủng thẳng thế, nhưng rất nhân hậu và chân thành” [17; 193], vẫn “sống dai dẳng, âm thầm
và ngoan cường” [17; 193]. Tranh của ông được đón nhận nồng nhiệt: “vẽ đến đâu được
người ta rước đến đấy” [17; 193]. Ngoài công việc vẽ tranh, Văn Cao còn nhận vẽ trang bìa
cho các tác phẩm văn học. Ông có những vần thơ giàu chất triết luận: “Đêm đêm cầu
nguyện bên đèn, chưa thấy ngày mai hửng sáng, chỉ thấy những xác thiêu thân, chết trên
mặt bìa những cuốn sách kinh, những pho tượng không bao giờ nói, hai con mắt nhìn an ủi”
[17; 188]. Nhà xuất bản Văn học mới vừa làm hợp tuyển cho Văn Cao, cũng là để tôn vinh
và ghi nhận những cống hiến của ông về thể loại thơ. Bài tùy bút mở ra nhiều khung cảnh
gặp gỡ với Đỗ Chu, lần nào cũng có hương rượu nồng nàn chắp thêm nguồn cảm hứng, làm
cho lòng người miên man chợt nghĩ, chợt nhớ xa xăm…
Ngoài Văn Cao, Đỗ Chu còn nhắc đến một nghệ sĩ đa tài khác, đó là Trịnh Công Sơn.
Trong bài viết, Hoa trước thềm văn, Đỗ Chu đánh giá rất cao tài năng nghệ thuật của Trịnh
Công Sơn: “Anh không chỉ là một nhạc sĩ lớn, nhưng với tôi, anh còn là một nghệ sĩ lớn
nữa”. Những nghệ sĩ lớn thường tạo cho mình một phong cách không trùng lặp với bất kì
một ai. Thế giới nghệ thuật của ông đầy những trăn trở, ưu tư, có lúc quằn quại trong nỗi
đau của riêng chung: “Anh Sơn như một con chim lạ từ khoảng sáng nhân văn, từ cõi nhân
ái nào rất xa đã bay về nước non Việt Nam, nó kêu khắc khoải, nó kêu thổn thức, mùa lại
mùa, nó hát lên những khúc thơ đau và thương về số phận trầm luân nhiều máu và nước
mắt của dân tộc mình” [17; 243].
Qua những bức chân dung về những người làm nghệ thuật, độc giả được tiếp xúc với
thế giới của những người tài hoa, giàu tư chất nghệ sĩ. Nhìn chung, họ sống trong bão táp
chiến tranh với bao bất ổn không thuận lợi cho sáng tác nghệ thuật. Nhưng chính hiện thực
cách mạng là mảnh đất màu mỡ khơi nguồn cho sáng tạo nghệ thuật, giúp họ có những tác
phẩm để đời và sống mãi cùng năm tháng. Mỗi người một hoàn cảnh, một kiểu sống, một
phong cách nghệ thuật, song tất cả đều có ý thức cống hiến hết mình, dâng hiến hết mình
cho nghệ thuật và cuộc đời. Đa số những người được nói đến đã ra đi về một miền khác, dù
thế, tên tuổi và tác phẩm của họ mãi mãi vang bóng trong lòng dân tộc.
Bên cạnh chân dung nghệ sĩ, tùy bút của Đỗ Chu còn có chân dung những trí thức bác
học. So với các nghệ sĩ, những trí thức bác học có phần ít và chiếm dung lượng khiêm tốn
hơn. Họ sống ở những miền đất khác nhau, có năng lực khoa học khác nhau, có những hoàn
cảnh khác nhau. Tuy nhiên, trong nguồn cảm hứng miên man, bất tận của tác giả, họ cùng
qui tụ, châu tuần trên những trang tùy bút.
Đồng hương với tác giả, Ngô Đức Thảo có quê gốc ở làng Song Tháp, xã Châu Khê,
phủ Từ Sơn. Ông xuất thân trong một gia đình có cha làm viên chức bưu điện. Học ở Lycée
Albert Saurrant, hết bật tú tài, ông sang Pháp du học. Nhìn chung, con đường học vấn của
Trần Đức Thảo khá êm đềm, suông sẻ, không phải gặp những trở ngại do hoàn cảnh xã hội
đưa tới. So với Trần Đức Thảo, ông Châu Kim Quới, người Cần Thơ có một điều kiện sống
thăng trầm hơn. Ông là Việt kiều Thái Lan và đã có mấy mươi năm sống và làm việc nơi xứ
người. Châu Kim Quới giống như một cánh chim lạc ngàn nhưng lúc nào cánh chim ấy
cũng hướng về tổ ấm thân thuộc. Còn cụ giáo Nguyễn Hữu Thấu là gốc xứ Huế nhưng
được sinh ra ở Thanh Hóa, khi lớn lên thì học ở hai nơi, vừa ở Thanh Hóa vừa ở Huế. Năm
1936, cụ Thấu từ ngoài Huế vào Hà Nội để xin vào học trường Thăng Long, sau một năm
thi đỗ Secondaire thì lại chào Huế thi vào trường Sư phạm. Cụ học lớp cấp tốc một năm,
học xong lại được điều lên Ban Mê Thuộc, thế là thành gắn bó lâu dài với nơi này, quần áo
trắng, mũ trắng, giày tất trắng. Thanh xuân và nghị lực, thầy giáo Thấu mau chóng hoà
nhập vối cuộc sống mối tại vùng đất hoang sơ này.
Tuy nhiên, bên cạnh những khác biệt ấy, ở họ còn có những nét tương đồng trong
phẩm chất và lí tưởng sống. Họ là những trí thức uyên bác có trình độ cao, có khả năng tự
học tốt, đầy tâm huyết và đạt được những thành tựu nhất định trong sự nghiệp riêng mình.
Châu Kim Quới là người có năng khiếu về ngoại ngữ. Nhờ khả năng tự học, ông đã thông
thạo cả bốn thứ tiếng Anh, Pháp, Thái, Việt. Thế nhưng sở hữu được nhiều ngoại ngữ như
thế không phải là điều dễ dàng, ông phải trải qua những tháng ngày miệt mài với việc tự
học tiếng Thái, rồi tham gia những công việc xã hội bằng tiếng Thái như làm báo, giao
tiếp… Chính từ những điều đó đã giúp ông đi sâu và trở thành chuyên gia nghiên cứu ngôn
ngữ Thái. Mấy năm sau đó, ông được trường đại học Xiêngmay mời làm giảng viên của
khoa ngôn ngữ, dạy cho bậc sinh viên, rồi dạy lên cả bậc thạc sĩ. Một người Việt giao tiếp
thông thạo với người Thái đã là giỏi lắm, còn ở đây ông Quý lại trở thành thầy dạy về chính
ngôn ngữ của người Thái, không phải ở trình độ sơ cấp mà ở tận trình độ cao học. Ông
cũng là người có công tạo ra mấy chục phông chữ cho cụm ngôn ngữ Thái. Trong sự
nghiệp nghiên cứu về ngôn ngữ của mình, ông Quý đã có gần hai chục cuốn sách và gần
năm chục bài báo. Sách của ông còn được thư viện Bangkok lưu trữ. Đây không chỉ là niềm
vinh dự của riêng ông mà là niềm vinh dự của chúng ta.
Nếu sở trường của Châu Kim Quới là ngôn ngữ Thái thì sở trường của cụ giáo Thấu là
ngôn ngữ Tây Nguyên và văn hóa Tây Nguyên: “Cụ giáo Thấu là người am hiểu Tây
Nguyên như một trí thức có một đời gắn bó với nó” [17; 54]. Cụ đến với Tây Nguyên như
một cái duyên. Sau hiệp định Giơnèvơ năm 1954, cụ bắt đầu học lại tiếng Ê-đê để làm
phương tiện nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên. Gắn bó với Tây Nguyên hơn ba mươi năm,
với hàng trăm lần đi về để nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa - văn học, cụ giáo Thấu đã thực sự
trở thành nhà văn hóa học và nhà ngôn ngữ học, có thể cho ra mắt độc giả khắp nơi những
bản kể khan mang điệu hồn muôn thuở của con người và núi rừng Tây Nguyên. Cũng có
thể thấy một nét đẹp con người trí giả nơi ông, đó là lòng biết ơn và thái độ khiêm tốn chân
thành trước những công trình của những người đi trước mà ông ít nhiều thừa hưởng: “Cụ
không quên ghi vào phần khan Đăm Săn tên người dịch tiếng Pháp L. Sabatier, 1933. Và
tên người người đã dịch tiếng Việt: Đào Tử Chí, 1959 – 1977. Còn cụ là người hiệu đính
dịch thuật, 1988. Ở phần khan Đăm Ktek Mlan cụ để tên người kể khan lên trước tên mình:
Y Yung Adrông, 1965. Cụ là người sưu tầm, chỉnh lí dịch thuật” [17; 63]. Cụ giáo Nguyễn
Hữu Thấu có thể yên tâm mà hưởng nhàn sau mấy mươi năm miệt mài lao động quên thời
gian, quên cái tuổi già chợt đến. Khép lại tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn, tác giả khẳng
định tài năng và những cống hiến của cụ giáo: “Những gì cụ Nguyễn Hữu Thấu gặt hái
được, hay nói đúng hơn, những gì mà cụ để lại cho chúng ta là những thành tựu mang giá
trị rất bền vững” [17; 64].
Còn với TS. Hồ Ngọc Đại, sau nhiều năm du học tại đại học Lômônôxốp, ông quyết
định quay trở về nước, không phải để tranh thủ giữ một chiếc ghế nào đó ở Bộ Giáo dục mà
để nhận nhiệm vụ dạy học thực nghiệm ở cấp tiểu học. Từ đây, ông Đại cùng các cộng sự
của mình bắt tay vào công việc cao quí, quan trọng nhưng không kém phần gian nan, đòi
hỏi nhiều công sức và sự kiên nhẫn. Hồ Ngọc Đại mang lấy một tinh thần lãng mạn trí tuệ,
đặt trọn tài năng và tâm huyết để đào tạo một thế hệ trẻ có sự phát triển phẩm chất một cách
toàn diện: “có cốt cách vững vàng, có hiểu biết chắc chắn, có tự trọng cao, biết yêu mình,
yêu người, có lòng tự hào dân tộc, biết hoà nhập tốt đẹp vào đời sống chung đang còn nhiều
gian khổ và biết lao động cống hiến, biết sống trung thực” [17; 296].
Trong miền cảm hứng riêng tư của nhà văn Đỗ Chu, những những trí thức, học giả ấy
chỉ là những đại diện tiêu biểu cho trí thức, học giả Việt Nam. Họ chính là những mẫu hình
lí tưởng cho trí thức, học giả mang lẽ sống đẹp, biết cho đi những tinh túy, những lao nhọc
của đời để làm cho cuộc đời thêm giàu đẹp.
1.3.2.3 Hình tượng con người Việt Nam theo dòng lịch sử
Hướng về quá khứ, Đỗ Chu hồi tưởng lại những hình bóng người xưa nay chỉ còn lưu
danh trong sử sách. Ông đi giữa lòng cuộc sống hôm nay mà nhớ về quá khứ, khơi lại hình
ảnh những danh nhân văn hoá, lịch sử để thể hiện tài năng và nhân cách sáng ngời của họ.
Nguyễn Du xuất hiện trên trang viết của Đỗ Chu như một nốt nhạc trầm, với một đời nếm
trải bao nỗi bể dâu. Nhưng có lẽ tất cả những điều ấy tích tụ lại và hóa thành nguồn cảm
hứng nghệ thuật giúp ông cảm hứng viết lên Truyện Kiều lưu truyền muôn thuở. Phải chăng
Nguyễn Du thuộc loại người như sách Mạnh Tử viết: “Khi ông trời muốn giao trọng trách
cho một ai thì trước hết sẽ làm khổ cái tâm, mệt cái chí, cùng túng cái thân người ấy, hễ làm
gì thì cũng nghịch với ý muốn, như vậy cốt là để động viên cái tâm, kiên nhẫn cái tính,
thêm ích cho những điều chưa hay làm được” ? [17; 235].
Đỗ Chu nhắc nhiều đến các bậc Nho sĩ tầm học uyên thâm và nhân cách ngời sáng,
khiến ai cũng phải kính nể. Cụ Vũ Phạm Hàm, thám hoa đất Hải Dương, là người thông
minh và đầy bản lĩnh. Cụ đã dạy cho tên viên quan thực dân Pháp một bài học thâm thúy về
tiếng Việt để điều chỉnh tính tự kiêu của ông ta. Hay cụ Nguyễn Văn Siêu, người gốc Hà
Nội, “chỉ đỗ phó bảng thời Minh Mệnh, là trên cử nhân dưới tiến sĩ, nhưng tài học thì ít ai
bằng, thiên hạ xem cụ là thần” [17; 270]. Cụ không chỉ là mệnh quan trong triều mà cụ còn
là một nhà văn hóa lớn, một người nghệ sĩ có lối thơ văn “giản dị cốt cách, vừa sâu sắc lại
vừa phóng túng, hiện đại” [17; 270]. Còn cụ Bùi Kỷ đậu phó bảng năm hai mươi bảy tuổi,
“danh thơm nức vùng, đèn lồng treo cao pháo kêu dậy đất” [18; 244]. Lẫy lừng là thế,
nhưng trong đời thường cụ là người giản dị, khiêm cung, nhân ái. Thêm một nét đáng kính
ở cụ là việc giáo dục con cái rất nghiêm khắc. Cụ đã thức tỉnh lòng khiêm nhường trong
anh con trai đang là Cục trưởng: “ …cục gì thì lần từ sau về nhà cũng nhớ phải đi bộ, tránh
đừng rầm rộ” [18; 243]. Riêng cụ Hoa Bằng ở đất Hà Thành là người nặng lòng với nước
nhà, thấu đáo kiếp sống đọa đày của người dân quê với những phong tục tối tăm đang trói
buộc họ. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng buổi tao loạn, cụ không có cơ hộ ứng thí
để làm rạng danh sự học của mình. Và suốt đời cụ vẫn dành một tình yêu cho sử sách, cho
tiếng Việt, cho những danh lam thắng cảnh mang cái hồn Việt muôn thuở. Bóng cụ giờ đã
quá xa nhưng con cháu ngày nay vẫn luôn nhớ lời truyền dạy của cụ : “ … phải ngày ngày
cố gắng tu thân, phải nhớ sống ở đời cần biết giữ gìn phẩm hạnh. Phải biết sợ dư luận, phải
biết xấu hổ, biết nể trọng xung quanh. Làm người cái cốt yếu là sự nể trọng, thiên hạ người
ta luôn nhìn, luôn chỉ vào mình, ngại lắm” [18; 299].
Bên cạnh các nhân sĩ khả kính ấy, đọc tùy bút của Đỗ Chu còn thấy thấp thoáng một
Nguyễn Trãi có nhân cách cao đẹp nhưng lại có kết cục bi thảm bởi mưu sâu kế độc của
bọn loạn thần; một Phan Huy Chú không có lấy một mảnh bằng, song đã để lại cho đời
cuốn Lịch triều hiến chương loại chí đầy giá trị; một Hoàng Diệu tận trung với nước nên
chọn cho mình cái chết sau khi thành bị thất thủ; một Trần Bích San nuốt giấy bản mà chết
sau khi được vua Tự Đức cử để cắt ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp; một Phan Thanh
Giản bị dồn ép đến hành động bán nước phải tự tìm đến cái chết bằng thuốc độc….Mặc dù
bóng các cụ đã đi vào cõi xa mờ nhưng mãi mãi các cụ luôn là tấm gương ngời sáng, trở
thành động lực thúc đẩy cháu con hướng tới những lẽ sống tốt đẹp .
Đỗ Chu còn dành nhiều trang viết bồi hồi, xúc động về Bác. Trước vận nước ngàn cân
treo sợi tóc, ta thấy hình ảnh vị lãnh tụ dân tộc trầm ngâm, lo lắng để tìm ra những giải
pháp sớm đưa con thuyền đất ước vượt qua những thác ghềnh. Những ngày tháng đó, ta
hiểu vì sao Bác rất kiệm lời. Vậy mà năm 1946, một cán bộ cao cấp đã viết trong bài báo:
“Còn nhân nhượng là còn phản bội, còn tiếp tục lùi nữa là bán nước”. Bài báo đã làm dậy
lên trong Bác cơn xúc động dữ dội. Người đặt tay lên ngực, rơm rớm nước mắt: “Hồ Chí
Minh không bao giờ bán nước”. Đỗ Chu kể chuyện Bác nhưng cũng muốn khẳng định một
điều: yêu nước là một tình cảm cao đẹp, quí giá nhưng còn phải biết yêu nước nữa. Có được
như thế thì mới hiểu được tấm lòng và nỗi đau của Bác trước vận nước lâm nguy.
Trở về với thế giới hiện đại, Đỗ Chu còn nhớ đến những con người bình thường nhưng
có phẩm chất hết sức cao đẹp. Đó là ông lão ở vùng sông Tiền, sông Hậu mang tấm lòng
yêu nước, yêu quê hương tha thiết. Ông dùng những năm tháng cuối đời mình để phục vụ
cho kháng chiến, rồi bị địch bắt, bị tra khảo, cuối cùng bị giết chết. Cái chết của ông làm
đau lòng những người còn sống nhưng với ông, đó là quà tặng quí giá sau cùng mà ông
dành cho đất nước. Vì thế, trước khi chết, ở ông vẫn ánh lên niềm vui và sự thỏa nguyện.
Và một lần nữa, ta lại thấy hình ảnh người Việt Nam trong chiến tranh hi sinh với dáng dấp
bình dị, bi thương nhưng vẫn toát lên sự kiên cường, anh hùng và đầy kiêu hãnh trong tư
thế: “Ngực thấm ướt những máu, ông còn cố gắng nằm ấp mình xuống cỏ, mắt nhắm lại
như người đang ngủ, cỏ xanh và đất xanh như còn kể lại mãi, hát lên khe khẽ về cuộc đời
một lão nông dân yêu nước” [14; 126]. Đó là cái chết làm giàu cho sự sống, là nơi bắt đầu
của sự sống, một cái chết mang tinh thần sử thi hoành tráng và cả sự lãng mạn anh hùng
trong chiến đấu.
Đất nước đã được giải phóng, Đỗ Chu lại tiếp tục viết về những con người mới đi ra từ
cuộc chiến vừa qua. Đó là cô gái Thục Trinh kiên cường ở bưng biền nay trở thành một cán
bộ quản lí văn hóa, giữ chức vụ Phó Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
Đó là Hai Sang, một chiến sĩ đã từng vào sinh ra tử, nay trở thành Phó Giám đốc Công ty
Phát triển Công nghiệp Tân Thuận. Còn Hai Dưỡng là một Giám đốc có tầm nhìn xa trông
rộng. Hai con người ấy hợp lại thành một đôi ăn ý, bổ sung cho nhau trong công việc, cùng
hướng tới việc thực hiện mơ ước: “Sớm có một cảng biển qua sông qui mô lớn hơn nhiều
lần cảng Sài Gòn hiện nay” [17; 11]. Bằng sự quyết tâm và nỗ lực của những con người đầy
khát vọng, ước mơ đã trở thành hiện thực: “Và khu công nghiệp Tân Thuận vừa được quốc
tế ghi nhận là một trong những đơn vị có chất lượng kinh doanh đứng đầu Đông Nam Á”
[17; 16].
Ngồi nhìn lại những thành tựu đã đạt được, Đỗ Chu thấy những tấm gương lao động
tiêu biểu chính là nhân tố quan trọng làm cho đất nước phát ngày càng triển. Gần hai chục
năm từ sau giải phóng, những con người ấy loay hoay đổi mới phương thức làm ăn, không
ngại những thất bại hay thử thách. Hết hô hào nhau chặt rừng trồng sắn, chặt cà phê trồng
sắn lại cùng hưởng ứng phong trào nhổ sắn trồng cà phê, trồng rừng. Họ cứ cắm mặt mà
làm, mải miết mà đi. Chính sự kiên trì nhẫn nại, dám nghĩ dám làm của họ mà đất nước
ngày một hồi sinh, cuộc sống mỗi ngày thêm khởi sắc.
Tùy bút Đỗ Chu đã viết về những cuộc đời như “cây mận trổ hoa trắng ngát bên vách
đá dựng đứng trước biển. Ngày lại ngày cây mận cắm sâu rễ bám chặt lấy vách đá, nó hút
dần từng chút muối biển để sống” [17; 111]. Đó là cuộc đời của ông giáo Đỗ Đình Chất,
“suốt đời đi xe đạp cà tàng nhưng hết lòng vì quê hương, được nhân dân tin yêu”. Đó là kĩ
sư Ngô Ngọc Quản. Trải qua một thời gian dài bị đẩy đưa hết nơi này sang nơi khác trong
Bộ Giao thông, lăn lộn trên những công trường hết quãng đường này đến quãng đường
khác, ông vẫn cần mẫn, từ tốn, chẳng nề hà bất cứ một việc gì. Những người ấy được Đỗ
Chu ví như cây mận trắng trên vách núi bên biển cả, kiên gan, bền bĩ, bởi “vị mặn chát của
năm tháng đã thấm vào cây mận ấy khiến nó có những phẩm chất mà không một thứ cây
nào có nổi” [17; 111]
Đỗ Chu còn viết về những lương y danh đức ngời sáng. Cụ lang Bách là người có tâm
đức nghề nghiệp và nhân ái trong cách sống. Ông cụ là người của thế hệ Nho gia, luôn sống
theo tinh thần của tiền nhân truyền lại: “Cái gốc phải là có đức lớn, có đấy rồi mới dám bàn
đến cái tâm, đến trí, đến dũng, đến khiêm” [17; 208]. Cụ có cách nghĩ rất thâm thúy:
“Người đủ bản lĩnh để thiên hạ có thể tì vịn tin cậy thường là người phải có cái cốt kiêu, cái
dáng nhiều khi rất thanh giản, mộc mạc, kẻ học đòi thích đua cái dáng kiêu, bắt quá chỉ là
con dẻ cùi tốt mã mà thôi” [17; 208]. Tuy chưa phải là xuất chúng nhưng phong thái đĩnh
đạc và tâm đức ân tình của cụ đối với đời thì “không ai dám bảo đấy không phải là người
đáng kính ái” [17; 30]. Cũng như cụ lang Bách, cụ Thiên Tích làm việc tận tụy, không biết
mệt mỏi, nghỉ hưu rồi mà vẫn còn muốn tiếp tục cứu trị cho dân, đào tạo học trò. Cụ còn để
lại cho đời những bài học rất đáng quí: “Người thâm hậu đến độ siêu phàm là người quên
võ, chẳng còn nhớ miếng nào vào miếng nào, chẳng còn biết mình thuộc môn phái trường
phái nào, họ biết thu mình nín nhịn, ôn nhu nhúng nhường, ấy vậy mà chỉ cần một hơi thở
dài là hoa rụng lả tả, ho lên một tiếng là cá sông nổi lên, vỗ nhẹ tay một cái là nhạn sa
xuống đất. Thầy đang nghĩ nghề thuốc cũng vậy, nghề giáo cũng vậy, muôn nghề đều
thế,… một khi đã thành vô chiêu thì những gì hôm qua được xem là quan trọng sống còn
nay hóa thành trò trẻ” [18; 336].
Thấp thoáng trong những tranh tùy bút của Đỗ Chu là hình ảnh người phụ nữ Việt
Nam mang nét đẹp truyền thống: kiên trinh, trung hậu, đảm đang. Đó là người đàn bà ngoài
bảy mươi có chồng hi sinh ở chiến trường Điện Biên, còn con trai thì hi sinh trong Quảng
Trị. Đó là là những Mẹ Việt Nam Anh hùng mà hình tượng của họ góp phần xây dựng nên
bức chân dung về non nước đau thương song rất đỗi anh hùng, đưa đất nước thoát khỏi
vòng nô lệ của kẻ thù.
Tất cả những nội dung mà Đỗ Chu thể hiện qua ngàn trang tùy bút là một tập hợp
không nhỏ những vấn đề xã hội trước và sau 1975. Điều đó chứng tỏ năng lực nhận thức và
phản ánh sinh động thế giới hiện thực của Đỗ Chu vô cùng dồi dào. Nếu ai đó bảo ông tham
lam thì đó cũng chỉ là sự tham lam của một người mà tầm nhận thức và cảm hứng sáng tạo
đã đến độ chín muồi chuyển thành những trang văn giàu giá trị. Ngồn ngộn là thế, đa dạng,
phong phú là thế, nhưng vẫn không rơi vào phô bày một cách giản đơn, cứng nhắc. Bởi lẽ,
tất cả những nội dung của ba tập tùy bút đều đã được nghệ thuật hóa bằng thi pháp đặc
trưng của thể loại mà chúng tôi sẽ làm rõ ở chương ba.
Chương 2: CÁI TÔI ĐỖ CHU TRONG TÙY BÚT
Đặc điểm của tùy bút là sự xuất hiện cái tôi của nhà văn. Ẩn sau những vấn đề được
phản ánh, nhận thức bao giờ cũng có sự hiện diện của một cái tôi của người nghệ sĩ. Trong
tùy bút, cái tôi ấy hiện lên đa diện, hội tụ nhiều vẻ đẹp, nhiều giá trị. Đó có thể là cái tôi trữ
tình, cái tôi triết luận, cái tôi tài hoa, cái tôi uyên bác…Chúng tôi xin dành trọn một chương
để nghiên cứu vấn đề cái tôi trong tùy bút của Đỗ Chu. Có thể nói, tùy bút là thánh địa của
cái tôi. Cái tôi ấy không phải là cái tôi như nhân vật tôi trong truyện ngắn hay tiểu thuyết
mà hoàn toàn là cái tôi sáng tạo của người nghệ sĩ. Cái tôi ấy có khi bộc lộ những tình cảm,
quan niệm…một cách trực tiếp nhưng cũng có khi bộc lộ gián tiếp qua những vấn đề được
phản ánh. Ở đây đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sức sáng tạo dồi dào thì mới có thể khắc họa
chân dung, tường thuật sự việc, khai triển tình huống, sử dụng câu chữ…một cách tài hoa
được. Hơn nữa, cái tôi trong tùy bút phải là một cái tôi không được ám ảnh với những cái
tôi của ai khác, không được khư giữ hay ngộ nhận người khác là mình, mà phải thực sự là
của chính mình với những nét độc đáo không trùng lặp. Nó là một cõi riêng, một thế giới
riêng. Cái tôi tùy bút đi về giữa những trang văn như một chủ thể đầy quyền năng. Qua
nghiên cứu, chúng tôi xác định được trong tùy bút của Đỗ Chu nổi bật lên ba cái tôi: cái tôi
trữ tình, cái tôi triết luận, cái tôi tài hoa - uyên bác.
2.1 Cái tôi trữ tình
2.1.1 Cái tôi trữ tình công dân
Nhìn chung, nội dung cảm xúc của loại này là người nghệ sĩ bày tỏ tình cảm của mình
đối với xã hội và chế độ chính trị. Cái tôi trữ tình công dân thường cổ vũ, ca ngợi sự nghiệp
chung của nhân dân, lên án đả kích kẻ thù chung. Nhất là khi vận mệnh cả dân tộc lâm vào
cơn thử thách, nguy nan, khi mọi người quan tâm đến vấn đề sống còn của đất nước, cái tôi
trữ tình công dân hơn lúc nào hết được biểu hiện rõ nét và phổ biến trong tác phẩm văn học.
Cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu bàng bạc khắp ba tập tùy bút nhưng đậm nét nhất
là ở tập Những chân trời của các anh. Tiếng nói nghệ thuật của ông chính là tiếng nói của
lòng yêu nước thiết tha, nồng nàn. Vì thế những sự kiện thời chiến mà ông từng tham gia
hay có dịp chứng kiến bao giờ cũng chan chứa một xúc cảm dào dạt, chân thành, không hề
phô trương hay cố gồng lên. Cái tôi công dân trong ông ít biểu hiện một cách trực tiếp mà
chủ yếu biểu hiện gián tiếp thông qua hình tượng được nghệ thuật. Cần thấy rằng văn học
nước ta khi phản ánh về thời kháng chiến chống đế quốc xâm lược Mỹ, cái tôi trữ tình công
dân trở thành một một nội dung tình cảm chủ đạo, cao đẹp, tích cực phù hợp với tiếng nói
của dân tộc và thời đại. Và hiện thực mà nhà văn Đỗ Chu phản ánh ở đây chính là hiện thực
chiến đấu và kiến thiết đất nước.
Đầu tiên, cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu biểu hiện ở tình cảm vui tươi, sảng
khoái, phấn khởi trước vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và những thành tựu trong công
cuộc chiến đấu và xây dựng. Người đọc dễ dàng nhận thấy, khởi đầu cho bức tranh cuộc
sống thường là một vài nét chấm phá về thiên nhiên, một thứ thiên nhiên vào độ xuân tràn
đầy màu sắc và sức sống. Hãy lắng nghe những giai điệu mùa xuân trong đoạn văn đậm
chất thơ sau đây: “Chim ri đã từng đàn từ đâu tìm về bay nhảy trong mấy lùm nhãn ở trước
nhà. Và chúng hót, chúng ồn ã chuyện trò. Tôi ngồi bên cửa sổ hàng giờ lắng nghe tiếng
chim ngoài vườn hót và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ một cách quá
công khai, nhưng ngoài chúng ra chẳng ai hiểu nổi” [14; 5]. Không những thế, niềm vui của
tác giả còn gửi vào những cái nhìn, những nụ cười: “Những cái nhìn lúng liếng, những nụ
cười, những câu hát lúng liếng và cuộc sống lúng liếng giờ đây cùng với những cơn gió
xanh rờn ùa tới với tôi, đạp vỗ trong tôi là những cảm xúc, là những ấn tượng còn tươi
nguyên sau một chuyến về thăm lại quê nhà” [14; 6]. Đỗ Chu say sưa nhìn ngắm chồi lộc
xanh non: “Tôi ngắm nhìn không biết chán những chồi non nhú trên các cành cây ngoài
đường, cả thành phố sớm nay là một vườn lộc” [14; 50]. Thiên nhiên trong văn của Đỗ Chu
không phải là loại thiên nhiên thuần túy để thưởng lãm hay để mộng mơ theo kiểu vu vơ mà
nó chính là phương tiện, là điểm tựa, là phông nền để chủ thể trữ tình bộc bạch xúc cảm đối
với đất nước. Có khi tác giả như reo lên một cách hồn nhiên, trong trẻo: “Chính là mùa
xuân đến rồi” [14; 50]. Những cảnh sắc thiên nhiên ùa vào trong hồn khiến tác giả phải
ngây ngất, mê say. Ông nhìn ngắm những thay đổi quan trọng, vượt bậc, lớn lao của kinh tế
sản xuất: một xí nghiệp cơ khí với gần ba trăm người thợ trẻ, đã bằng vai, bằng bắp tay và
bằng mọi phương tiện vận chuyển khác, di chuyển xong cả một nhà máy từ nơi sơ tán về lại
Đáp Cầu; một vùng đất khô cằn sau mấy năm được cải tạo đã trở thành nơi có mấy chục cái
hồ nước phục vụ cho sản xuất; hàng triệu viên ngói đỏ đã được ra khỏi lò nhờ rất nhiều bàn
tay của các cô gái trẻ trẻ không ngại bùn đất lấm lem; những chiếc cầu mới được xây cất
bắc qua sông …Tuy không hoàn toàn là cảm hứng hồi sinh nhưng không gian nghệ thuật
trong tác phẩm lại khiến lòng người phấn khởi trước đà phát triển vượt trội của một vùng
đất đầy những khó khăn. Tâm hồn nhà văn như có đôi cánh thiên thần bay qua những cánh
bãi phù sa, những dòng sông êm đềm lửng lờ trôi. Nhà văn mở rộng đến cực độ tầm mắt để
thưởng ngắm những gì nhân dân đang dựng xây trong gian lao, khổ nhọc…Trong tùy bút
Vầng sáng trong đêm, người đọc thấy vầng sáng rạng ngời chiếu tỏa từ công trình nhà máy
nhiệt điện Phả Lại. Thiết tưởng ánh sáng ấy được thắp lên bởi hai nguồn năng lượng, thứ
nhất là năng lượng tự nhiên, thứ hai là năng lượng xúc cảm đang tồn trữ trong tâm hồn của
tác giả. Ánh sánh từ công trường lại thắp lên trong nhà văn niềm hi vọng về một cuộc sống
tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn: “Không bao lâu nữa phố phường, làng mạc gần xa quanh đây sẽ
bừng lên, quê hương chúng ta bừng lên, bóng tối đang bị dồn đuổi, đói nghèo dốt nát bị dồn
đuổi” [14; 86]. Đỗ Chu cứ say sưa ca ngợi tưởng chừng như không thể nào vơi cạn nguồn
cảm hứng. Dòng cảm xúc trong cái tôi Đỗ Chu không ồ ạt, mạnh mẽ khiến ta phải choáng
ngợp, bối rối…Ông cứ thì thầm kể chuyện, thì thầm ca hát khúc nhạc dựng xây, thì thầm
vui sướng. Thì thầm, không phải là yếu ớt, ít cảm xúc hay đơn điệu mà là một trạng thái
cảm xúc đã đạt đến độ sâu sắc của một con người từng trải, từng kinh qua những thăng trầm
của cuộc sống…Những sự thay đổi ấy ai cũng nhìn thấy nhưng lại mấy ai có được niềm vui
đẹp đẽ như thế, dạt dào như thế. Hơn nữa, ông không vui cho mình mà vui cho đất nước,
vui cho dân tộc. Cái tôi của Đỗ Chu thật sự đã hòa làm một với cái ta chung của dân tộc.
Nếu không thực sự hòa quyện, hòa nhập chắc chắn nhà văn không có những cảm xúc tự
nhiên, hồn nhiên đến thế.
Không những thế, cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu còn được biểu hiện khi ông ghi
lại những chiến công mà bộ đội ta lập được. Trong tùy bút Từ một trang nhật kí chiến đấu,
Đỗ Chu trở thành người thư kí của trận mạc: “Năm qua, đại đội 5 pháo cao xạ đã hành quân
hơn hai ngàn kí-lô-mét và đã đánh gần 100 trận. Trong chiến công chung miền Bắc bắn rơi
2000 máy bay, đại đội 5 góp vào đó 13 chiếc (…) Anh chiến sĩ trẻ đếm miết và đến chiếc
thứ 13 mà đại đội anh bắn rơi thì, con số máy bay giặc Mỹ bị quân và dân miền Bắc bắn
rơi đã vượt quá con số 1500 chiếc rồi; 13 chiếc đại đội anh bắn đều rơi vào con số lẻ. Vả lại
ai cũng biết, so với con số 2000 thì con số 13 rất nhỏ bé. Nhưng anh thấy anh cũng như
đồng đội rất có quyền tự hào, vì một lẽ giản đơn, nếu không bắt đầu từ những chiến công
nhỏ góp lại thì làm sao có được chiến công lớn. Mỗi con số đều chỉ một trận thắng, đều có
mang ý nghĩa lịch sử đẹp” [14; 52]. Dầu thế, những chiến công quân đội ta lập được phải
trả bằng bao gian khổ, nguy nan và rất nhiều những hi sinh mất mát. Nhà văn tỏ ra trân
trọng đối với những chiến công, dẫu có khi chỉ là chiến công nhỏ bé. Không những thế, ông
còn hết sức kiêu hãnh, tự hào: “Như một tỉ lệ thuận, cùng với lòng yêu nước và chí căm thù
giặc Mỹ của các chiến sĩ, con số máy bay Mỹ bị bắn rơi sẽ tăng đến một tốc độ khiến chúng
ta và loài người tiến bộ ngày càng thêm kiêu hãnh, và kẻ thù phải khiếp sợ” [14; 58].
Viết về những năm tháng mưa bom bão đạn, Đỗ Chu không phải chỉ có những xúc
cảm, phơi phới tươi hồng ấy. Lòng yêu nước đã khiến ông bao lần phải đau đớn trước cảnh
quê hương ta bị giặc tàn phá và những mất mát to lớn. Đỗ Chu nhiều lần ghi lại tội ác của
kẻ thù trên những trang viết thấm đẫm nỗi đau và lòng căm thù, thấm đẫm máu và nước
mắt của dân tộc: “Quả bom Mỹ lần đầu ném xuống Hà Nội trong chiến tranh phá hoại đã
rơi vào phố Huế mùa Hạ 1967, còn những trái sau cùng là những chùm đã trút xuống khu
Khâm Thiên vào đêm thánh Chạp 1972. Những năm ấy gần như vòm trời trên đầu chúng ta
lúc nào cũng xanh đến nóng ruột (…) Hậu phương miền Bắc ngày đó đã nằm trong bom
lửa…” [17; 341]. Lời văn bỗng trở nên đanh thép khi nhà văn kể lại tội ác của lũ ngoại
xâm. Cả một Hà Nội ngày ấy quằn quại dưới gọng kìm của đế quốc Mỹ hiện lên trong
người đọc với bao nỗi đau thương. Chúng nhẫn tâm giết người nông dân trên đồng ruộng,
chúng phá đem bom thả xuống làm đổ sập những ngôi nhà làm chết bao người vô tội. Bom
Mỹ không hề biết tránh né nhà trẻ, trường học, và nhà tù của Mỹ bao giờ cũng có các cỡ
cùm dành cho trẻ con. Nhà văn lại vô cùng đau đớn khi kể lại những câu chuyện hi sinh của
quân đội ta, đồng bào ta. Đau thương nhất là câu chuyện về mùa hè 1972 ở Quảng Trị, mỗi
ngày là một đại đội có đến 200 người phải ra đi, kéo dài suốt tám mươi mốt ngày.
Nếu ai đã đọc tùy bút Những chân trời của các anh một cách kĩ lưỡng thì sẽ nhận ra
hình tượng xuyên suốt tác phẩm chính là những người lính. Và hình tượng này cũng bàng
bạc trong hai tập tùy bút còn lại. Đỗ Chu rất tỏ ra rất gần gũi với họ, bởi đơn giản ông cũng
là một người lính, một người từng là lính phòng không. Chân dung người lính đã được
chúng tôi khai thác khá kĩ ở chương một. Ở đây chỉ dành để nói về cảm hứng của nhà văn
khi chấp bút sáng tạo nên những hình tượng văn chương. Ta thấy rằng, hình tượng người
lính trong văn xuôi của ông nói chung và trong tùy bút nói riêng luôn hiện ra với những vẻ
đẹp lí tưởng. Đó là những con người một lòng yêu mến nước non, xứ sở, quyết tâm chiến
đấu tiêu diệt kẻ thù giải phóng dân tộc. Họ là những anh hùng của thế kỉ hai mươi, là Phù
Đổng của thời đại…Tình cảm của nhà văn dành cho các chiến sĩ hết sức tốt đẹp và chân
thành. Viết về họ, cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu biểu hiện hết sức phong phú, đa
diện. Ông ca ngợi họ, tìm thấy nơi họ những vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng. Hình bóng của họ
cứ ám ảnh nhà văn khôn nguôi: “Tôi nghĩ tới những đội quân hôm qua cầm tiểu liên chạy
lên các chiến trường, giờ đây lại trở về với những công trình mới mẻ, họ vẫn đang đi tới,
bằng mồ hôi, bằng trí tuệ, bằng những hi sinh không hề tính toán và sẽ để lại phía sau mình
những con đường táo bạo, những dòng thác được chinh phục, những cánh rừng được cứu
sống. Tôi nghĩ tới những người bạn chiến đấu của mười năm qua, giờ đây đang đứng gác
trên một hòn đảo nhỏ giữa trùng khơi” [14; 49]. Những khi viết về chiến công của bộ đội ta,
trong ông lại dậy lên niềm vui sướng lẫn tự hào, phấn khích. Điều này làm cho tác phẩm
mang khuynh hướng sử thi đậm nét, rất gần với những tác phẩm của Tố Hữu, Chế Lan Viên
, Lê Anh Xuân…Khi nói về những hi sinh, lời văn của Đỗ Chu bề ngoài là tự sự nhưng
chiều sâu trong câu chữ là nỗi đau xót, ngậm ngùi: “Người anh hùng ở lại mãi mãi với bầu
trời. Anh gửi lại trong thành phố người mẹ một lần tiễn chồng ra trận, một lần tiễn con trai
duy nhất ra trận, cả hai đều không trở về. Vợ anh còn rất trẻ, họ cũng vừa mới cưới nhau
được ít lâu, chị cũng là một sinh viên kinh tế vừa mới ra trường” [14; 8]. Suy nghĩ về những
hi sinh cao cả của người chiến sĩ, Đỗ Chu cảm thấy mình thật nhỏ bé, tầm thường và thành
thật tự thú những yếu đuối cá nhân: “Tôi trông lên dãy núi kia, cũng như tôi đã trông vào
những cồn cát ở ven biển, tự hỏi nếu những năm tháng ấy mình được đưa vào mặt trận này
thì liệu mình có nhấc nổi chân lên mà theo kịp đồng đội lấy vài ba tháng. Đừng có nói
khoác, không dễ dàng gì đâu” [17; 76]. Chính tình cảm ngưỡng vọng, yêu mến cùng bao
nỗi tiếc thương đã tạo nơi Đỗ Chu chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giúp ông xây dựng
những tượng đài nghệ thuật kì vĩ, lớn lao…
Đỗ Chu còn có những trang viết đầy xúc động dành cho Bác Hồ kính yêu. Ông thấu
hiểu được nỗi trăn trở ưu tư của Người khi vận nước đang trong tình thế ngàn cân treo sợi
tóc. Ông nhìn thấy Bác trầm ngâm suy nghĩ để đưa con thuyền đất nước vượt qua những
thác ghềnh. Nhà văn nhận ra rằng trong nước mắt, khổ đau, “đời mình từ lâu rồi đã có và có
một cái gì thiêng liêng, một điểm tựa vô cùng vững chãi, khó có thể mất được” [14; 13].
Quả thế, trong tâm hồn Đỗ Chu, Bác là cả niềm tin và hi vọng cho cả dân tộc để từ đó mọi
người có thể “bình tâm sống, mạnh mẽ sống, kiêu hãnh sống”. Nhà văn cảm thấy sung
sướng khi được ướm tầm vóc bình thường của mình vào cái mức chuẩn cao quí của Bác.
Với Đỗ Chu, Bác không chỉ là một vị anh hùng dân tộc đáng quí, đáng ngưỡng vọng như
một quả núi cao càng nhìn càng khó thấy đỉnh. Cần phải thấy rằng, ca ngợi Hồ Chủ tịch
không phải là nguồn cảm hứng khan hiếm mà rất phổ biến không chỉ trong văn học mà còn
có trong các loại hình nghệ thuật khác. Ngay trong văn học cũng có rất nhiều cây bút thành
công với cảm hứng này như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Trần Đăng Khoa….Tuy nhiên, cái tôi
trữ tình của Đỗ Chu vẫn có một sắc thái riêng, một sức hút riêng không hề mờ nhạt một
chút nào. Phải chăng tình cảm chân thành làm thành một cái đà vững chắc giúp ông luôn
lướt thắng và vượt qua những cái tưởng chừng như phổ biến và khó có thể tạo được dấu ấn
riêng ?
2.1.2 Cái tôi trữ tình đời thường
Trong cuộc sống đời thường, Đỗ Chu là người có nhiều mối quan hệ thân tình, thích
giao lưu và đón nhận những tình cảm đẹp. Chớ hiểu nhầm ông là người hướng ngoại
chuộng những gì chóng đến rồi lại chóng qua, hời hợt và nông cạn. Ông là bạn thâm niên
của rất nhiều người, mến thương nhiều người và cũng được nhiều người thương mến.
Những người đi qua cuộc đời ông đều đáng để thương mến, nhung nhớ bởi vì họ đều là
những người ưu tú, sống có lí tưởng và hoài bão.
Ở chương một, chúng tôi đã xác định, phân tích, khá rõ ràng trên phương diện nội
dung phản ánh. Trong đó, đối tượng phản ánh chủ yếu là những nghệ sĩ và trí thức bác học
và tản mạn một số nhân vật gần gũi với nhà văn. Có thể xếp những bài tùy bút về những đề
tài này vào loại tùy bút chân dung. Ở đây nhà văn không có chủ đích viết tiểu sử và sự
nghiệp của những tác giả có tác phẩm hay những công trình khoa học. Từ người thật, việc
thật, ông dựng lên các bức chân dung bằng những ấn tượng chủ quan và bằng nguồn cảm
hứng riêng tư giữa ông và đối tượng được phản ánh. Hình tượng chân dung được soi bóng
dưới dòng cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng không kém phần sâu sắc và thắm thiết. Nhờ
thế cái tôi đời trữ tình đời thường được biểu hiện khá sống động qua những bức chân dung.
Ẩn dưới những trang văn đầy chất tự sự là tình cảm hết sức nồng hậu, chân thành. Những
nhân vật cùng trang lứa với ông như Thavi Quý, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu, Trần Hoài
Dương, Linh Chi…hay những người thuộc thế hệ đàn anh như Văn Cao, Huy Du, Kim Lân,
Nguyễn Tuân…đều hội tụ về đông đảo trên trang viết. Đỗ Chu dành cho họ một thứ tình
cảm thật dịu dàng, ấm áp. Dày đặc trong trang văn của ông là những kỉ niệm khó quên giữa
nhà văn và bạn hữu. Với Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu có nhiều kỉ niệm đẹp nhưng có lẽ xúc
động nhất là kỉ niệm ở bờ suối nào đó tại đại ngàn Trường Sơn: “Một hôm chúng tôi rủ
nhau ra suối tắm, khi lên bờ thiếu quần đùi để thay, anh đã chạy về tìm một cái mang ra cho
tôi, Chu mặc tạm, anh nói ngọt ngào. Tôi đã mặc chiếc quần đùi của anh đến Bản Đông rồi
quay về Hà Nội” [18; 56]. Cũng chỉ có vậy thôi nhưng ta đã cảm nhận đầy đủ tình thân ái,
sự ân cần mà họ dành cho nhau. Một chút quan tâm chân thành nơi người khác, với Đỗ Chu
chính là quà tặng quí giá của cuộc sống, có khi làm ông thương nhớ cả một đời…Rồi khi
Phạm Tiến Duật kết hôn, vì không thể có mặt để dự lễ thành hôn, Đỗ Chu đã ra Phú Thọ
trước ngày thành hôn để chúc mừng hạnh phúc cho bạn mình. Sự ân cần, chu đáo trong
cách khu xử trở thành một nét đẹp trong tình bạn, là chất keo kết dính lòng người đến suốt
cuộc đời. Đỗ chu không khỏi bàng hoàng, đau xót khi nghe tin Phạm Tiến Duật mắc chứng
bệnh hiểm nghèo: “Cuộc đời anh Duật lại có thể dừng lại một cách vô lí đến thế này sao,
không phải chỉ mình tôi nghĩ thế, rất nhiều người đang nghĩ thế. Những ông thầy thuốc Tây
y, Đông y đang xem đây như một thách thức lớn với họ” [18; 65]. Đó đâu chỉ là thách thức
của y học mà đó còn là thách thức của một mối thân tình sắp phải có một cuộc chia lìa vĩnh
viễn.
Nhà văn chăm chỉ thăm viếng những người mà ông yêu mến, vì ông thích được gần
họ, muốn được nghe họ tâm sự về văn chương, về nghệ thuật, về thú tiêu dao, về nhân tình
thế thái…Cảm động nhất là những lần Đỗ Chu thăm viếng bạn hữu lâm bệnh thập tử nhất
sinh: “Lần này anh ốm nặng, tôi vội vào viện thăm, cầm tay rất lâu, tay tôi đã lạnh, tay anh
còn lạnh hơn. Lúc sắp ra về tôi ghé tai hỏi anh, anh có dặn gì bọn em không, anh Chính
Hữu nháy nháy má mấy cái liền rồi bảo, cố gắng bảo nhau viết cho sang, sống cho sang,
thiếu yêu thương thì không thể sang được” [18; 126]. Hãy cùng nghe lời thương cảm của
tác giả dành cho linh hồn Chính Hữu: “Bây giờ thì anh đã đi rồi, ra đi ôm một khối u trong
lòng mà mấy ai đã biết, ra đi trong nỗi đau chỉ mình anh chịu, không một lời than thở,
không một tiếng rên, cứ nuốt vào lòng, cứ bình thản mà đi” [18; 130]. Lời văn đọc lên cứ
rưng rưng, nghẹn ngào, vừa cảm thông vừa thương xót cho người nghệ sĩ tài hoa nhưng
luôn hứng chịu nhiều nỗi đau trong cuộc đời. Một lần khác Đỗ Chu thăm Kim Lân, cũng là
lần sau cùng nhà văn được gặp gỡ nhà văn, tác giả của những truyện ngắn đặc sắc: “Một
sớm nghe người con trai thứ của ông nói thầy em vừa ra viện, đang ngồi một mình ở nhà,
tôi vội tạt vào một lúc, khi chia tay tôi rút trong túi ra tờ một trăm gài vào túi áo ngực ông,
chợt thấy cái ngực lép nhô ra nhọn như ngực con cuốc héo. Ông nhón hai tay cặp lấy tờ
giấy bạc nhìn ngắm rồi nhè nhẹ cười, nom cứ thấy dài dại thế nào, tiền giấy mà lại không
phải tiền giấy nhỉ. Đến lúc thấy tiền mà dửng dưng là cũng sắp kính chào tất cả rồi đây.
Năm nay lập thu sớm, tiết trời nghe chừng cũng lạ” [18; 73]. Có thể nói tình cảm thương
mến Đỗ Chu dành cho thân hữu là đến cùng, không vơi cạn, sống thì thương yêu, gắn bó,
thác rồi thì ngậm ngùi thương nhớ…
Tình cảm Đỗ Chu dành cho nghệ sĩ, trí thức bác học vô cùng phong phú. Ông có sự
ngưỡng mộ đặc biệt đối với sở trường thiên tư của họ. Đỗ Chu nghiêng mình trước tài văn
chương của Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu, Kim Lân, Phạm Tiến Duật…; cũng như bái
phục khả năng ngoại ngữ thiên bẩm của Thavi Quý; năng lực tư duy triết học sắc sảo của
Trần Đức Thảo; tâm huyết giáo dục của tiến sĩ Hồ Ngọc Đại; kính phục tầm hiểu biết sâu
rộng văn hoá Tây Nguyên của cụ giáo Thấu, cụ Điểu Câu…Nhà văn đánh giá rất cao trí tuệ
và tài hoa của những người đã cống hiến cho đời những tác phẩm có giá trị cao và những
thành tựu vượt trội. Khiêm nhường trước tài năng, đó cũng là thái độ đáng quí, đáng trọng
biểu hiện một nhân cách trong sáng, trưởng thành. Đứng bên cạnh họ, Đỗ Chu cảm thấy
mình bé nhỏ, muốn được noi gương học hỏi.
Viết về họ, nhà văn còn bày tỏ niềm cảm thông và tri âm sâu sắc. Ông thấu hiểu nỗi
khao khát của Trần Hoài Dương lúc rời bỏ tòa soạn để lên đường đi tìm nguồn cảm hứng
cho nghệ thuật, thông cảm cho hoàn cảnh xa cách gia đình của Nguyễn Minh Châu, thấy
được nỗi lòng xa xứ của Thavi Quý…Lúc nào cũng thế, trang viết của Đỗ Chu luôn là tiếng
lòng thấu cảm, tri âm và thông suốt, biết trân trọng những tình cảm chân thành.
Tóm lại, cái tôi trữ tình đời thường của Đỗ Chu chủ yếu hướng tới những mối quan hệ
thân tình mà vô cùng rộng rãi. Ai cũng được ông dành cho những dòng tâm tình đẹp đẽ,
đáng quí. Mới thấy rằng, giữa cuộc sống xô bồ này vẫn còn có những người biết sống hiền
hòa, thân ái, sâu sắc, biết mến yêu những giá trị đích thực, biết gìn giữ, nâng niu những tình
cảm chân thành. Chưa một lần ta thấy nhà văn tỏ ra cay cú hay bất mãn với ai đó. Nếu có
chăng thì cũng chỉ là một cái tôi trữ tình đời thường vô cùng đa cảm, dễ nhạy cảm với
những hiện tượng cuộc sống và luôn có những tình cảm chân thành, sâu sắc.
2.1.3 Cái tôi trữ tình hoài niệm về tuổi thơ và quê nhà yêu dấu
Cái tôi trữ tình hoài niệm của Đỗ Chu tản mác khắp các trang tùy bút, gửi gắm bao
tình cảm ấm áp, thiêng liêng về miền quê yêu dấu và tuổi thơ hồn nhiên nhiều mơ mộng.
Đỗ Chu đi giữa lòng cuộc sống hiện tại nhưng lại mê mải tìm về những tháng ngày cũ, giữ
nguyên vẹn những kỉ niệm êm đềm của thời niên thiếu. Phải thấy rằng nhà văn là người
may mắn vì ông có một tuổi thơ với nhiều kỉ niệm đẹp, có một thế giới hồn nhiên để tìm về,
mơ về mỗi khi thấy lòng trống trải, cô đơn…
Thế giới mà nhà văn tìm về, mơ về thật bình dị, quê kiểng mà hết sức gần gũi và thấm
đẫm tình người. Đó là mảnh vườn xưa hoang vắng có hương lá hương cây: “Đêm mùa xuân
dìu dịu hương cây, hương lá, dìu dịu những nỗi niềm, những ý tưởng, tôi tìm về tổ ấm, với
một mảnh vườn xưa thân ái của mình” [14; 87]. Đó là vùng đất trù phú, xinh đẹp tựa như
một bức tranh sơn thủy: “một vùng đất trù phú, mênh mang lau sậy mênh mang bờ bãi đang
khô ráo dần. Trước mặt là bể Đông, sau lưng là miền đất thoai thoải rồi chập chùng núi cao
rừng đại ngàn nguyên thủy sẫm đen chim kêu vượn hót. Từng đàn trâu gặm cỏ trong thung
lũng khe, hổ cọp ngồi bên mép nước, ngoài sông, trong đầm là thuồng luồng ma Nam, là
những con dải mép vàng” [18; 319]. Hình ảnh những con trâu gặm cỏ trên bờ bãi, hình ảnh
những đứa trẻ ngây ngô mặt mũi lúc nào cũng lấm lem bùn đất í ới gọi nhau tham gia
những trò chơi tuổi nhỏ…cứ cư ngụ mãi trong lòng ông như một nỗi ám ảnh da diết.
Thấp thoáng trong dòng hoài niệm về miền tuổi thơ của tác giả còn là hình ảnh của
những người thân yêu. Đó là người bà già nua, lẩm cẩm, suốt đêm rên rỉ, tỉ tê gọi đứa cháu
mà theo bà rất đỗi vô tâm: “Nằm trong buồng một đêm mấy lần bà tôi rên rỉ, Gái ơi thức
hay ngủ, nghe như đứa nào bẻ nhãn đấy. Gái ơi, sao con lợn hôm nay nó kêu khác thế. Gái
ơi, con gái mà ngủ say li bì như cái cối đá thì đứa nào nó thèm rước, dậy xem đã đóng cửa
chuồng gà chưa” [18; 280]. Đó là người chị tên Gái nhanh nhẹn, tưởng như vô tâm, trẻ con
nhưng lại có một tấm lòng yêu nước nồng nàn, nhanh nhẹn và hết sức gan dạ. Đó là người
em gái bên nhà hàng xóm ngày ngày cùng tác giả dắt trâu ra đồng. Thuở ấy, nhà văn có một
niềm mơ ước cháy bỏng là được thành đôi với cô bé: “Đấy là cái mơ ước một đời của tôi,
tôi chỉ có một mơ ước ấy, suốt đời được thế, được giữ một chân theo em ra đồng bốc phân
trâu bón vào những gốc bầu, gốc mướp, vậy mà cũng không xong. Loạn li bèo dạt mây trôi
làm mỗi đứa một ngả, xa nhau là xa nhau cả một đời, lấy vợ là lấy người lạ hoắc ngoài
thiên hạ, rồi cũng phải sinh con đẻ cái với người ta chứ biết còn xoay xở thế nào” [18; 301].
Cái mơ ước ấy đã biến tác giả thành một chàng trai trưởng thành mang hình hài thơ bé. Vậy
mà những thăng trầm của cuộc sống đã không để cho mơ ước ấy trở thành hiện thực để nhà
văn suốt đời khư giữ một tình yêu trong niềm hoài vọng, tiếc nuối…
Tùy bút của Đỗ Chu luôn bám lấy cái gốc chữ tình, trong đó đậm đà nhất là cái tình
quê mà phần ba của tập sách Về quê đốt lửa rất rõ cái tình ấy. Mỗi người đều có một cõi
quê sống trong kí ức, càng về cuối đời nó càng hiện về rõ hơn, da diết hơn. Hình như các cụ
ta triết lí về điều này qua thành ngữ “lá rụng về cội”, thật ngắn về chữ mà thật dài rộng và
sâu sắc về ý tình. Đỗ Chu nặng lòng với vùng đất Kinh Bắc, một miền quê giàu truyền
thống văn hóa, xứ sở của làn điệu dân ca quan họ làm mê đắm hồn người.
Trong hai tập tùy bút Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người, cái tôi hoài niệm
về quá khứ được thể hiện rõ nét hơn. Nhất là khi nhà văn thân hành âm thầm tìm về với
cảnh xưa vườn cũ thì cái tôi ấy khiến người ta phải cùng ông ngậm ngùi, xót xa trước
những thay đổi quá lớn lao và nhanh chóng. Đỗ Chu lần tìm về những giá trị đích thực,
miên man đi tìm bóng người, bóng cảnh thăm thẳm…. Có người bảo đó là cái tôi xê dịch.
Nếu quả là như thế thì cũng không phải hoàn toàn là xê dịch để khám phá, tìm tòi những cái
mới lạ nhằm thỏa thị hiếu mà cốt là để tìm về với gốc gác, với bản lai diện mục. Cái sở
thích được lang thang đó đây cũng là một sắc thái của cái tôi hoài niệm: “Lớn lên tôi có một
thời thích lang thang trong nhiều xóm ngõ của làng Niềm để tìm dấu xưa, hay đứng ngẩn
ngơ trước một cái cổng lớn có đắp chữ Nho làm Đại tự, có mảnh sân đắp gạch Bát Tràng,
có ao sen, có hòn non bộ, có bóng hoàng lan, hỏi liệu đây có phải nhà bà Hồng, bà Tuyết
ngày xưa không, người ta lắc đầu bảo là nhà ông Phán Cư, con cháu giờ đang ở bên Pháp,
bên Mỹ không thấy ai buồn về dòm ngó nữa” [17; 357].
Nhà văn tìm về với bến sông Tương, cái bến sông nhiều lần đã đi vào thi ca: “Gánh
vàng đi đổ sông Ngô / Đêm nằm mơ tưởng đi mò sông Tương”. Giờ đây trong cảm hứng
hoài niệm, nó trở thành vẻ đẹp xưa để kiếm tìm trong khắc khoải: “Đêm đêm trước đèn
mình thức với mình, tôi vẫn mông lung đi tìm cái dòng Tương muôn thuở ấy. Tôi vẫn tin là
đang có nó, nó vẫn đang chảy trong lòng đời sống dân tộc. Nó là dòng sông của thi ca, là
tình yêu là nguồn cảm hứng vô tận để chúng ta sống và sáng tạo, là nguồn trí tuệ đáng tin
cậy nhất trong sứ mệnh dẫn đường” [17; 272]. Ai đó cho rằng không nên sống mãi với quá
khứ, cần phải rũ bỏ quá khứ để sống cho thanh thản và mạnh mẽ. Đỗ Chu chưa một lần trực
tiếp phát biểu quan niệm của mình nhưng qua những gì ông viết, ta cũng đủ thấy ông là
người rất nặng lòng với quá khứ, quá khứ làm cho tâm hồn ông thêm giàu có và phong phú.
Với ông, tìm về với quá khứ là tìm về với chính mình, tìm về với cái tình người, tình đời.
Quá khứ cũng chính là điểm tựa nâng bổng tâm hồn ông bay lên với những giá trị nhân văn
cao đẹp.
2.2 Cái tôi triết luận
2.2.1 Cảm quan về cuộc đời
Người ta thấy một Đỗ Chu hay triết lí và biết triết lí bằng sáng tác nghệ thuật. Đằng
sau mỗi văn nhân là một triết nhân. Không cao siêu, thần bí, dấu ấn triết luận trong tùy bút
của ông rất đỗi gần gũi với nhân sinh, thấp thoáng dáng hình và phập phồng hơi thở cuộc
sống. Có lẽ những tư tưởng triết lí ấy được chắt chiu từ chính những trải nghiệm dày dạn
của nhà văn sau bao tháng năm miệt mài sống và sáng tạo. Về hình thức biểu đạt, Đỗ Chu
không để những triết lí xuất hiện một cách độc lập thành một văn bản dài mà bao giờ cũng
gắn vào chúng một ngữ cảnh, một câu chuyện cụ thể, điểm xuyết vào dòng tự sự, mở ra
trước mắt người đọc chiều rộng của đời sống hiện thực và chiều sâu của những chiêm
nghiệm, suy tư.
Bản chất và mối quan hệ giữa thời gian và cuộc đời con người không phải là một vấn
đề mới mẻ trong triết học cổ kim của nhân loại. Viết về vấn đề này, Đỗ Chu phải vượt qua
tâm lí quen thuộc tồn tại trong tầm đón đợi của độc giả. Cách đây mấy thế kỉ, Hê-ra-clít đã
có một nhận thức tài tình về vấn đề này: “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”.
Mỗi khoảnh khắc thời gian vùn vụt trôi qua và không bao giờ ngừng lại và lặp lại. Đứng
trước mùa xuân, Đỗ Chu đã thốt lên: “Thời tiết và không gian thì lặp lại như thế, nó quay
tròn, nhưng thời gian cũng như cuộc đời của con người thì không, nó cứ trôi đi mãi. Với ý
nghĩa thời gian, mỗi mùa xuân trong cuộc đời của con người là một sự mới mẻ hoàn toàn,
không thể có hai lần được gặp lại nó, thật là quí giá” [14; 9]. Triết học Mác – Lênin cho
rằng: “Vận động là phương thức cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất”.
Mọi sự trong thế giới này luôn vận động và biến đổi không ngừng, đó là chân lí khách quan
mà con người không thể nào thay đổi. Thời gian là vô thủy vô chung, thước đo thời gian
cũng vô cùng vô tận, còn con người thì hữu hạn, ngắn ngủi và mong manh. Từ đó, Đỗ Chu
mới phát hiện ra tuổi xuân và mùa xuân trong cuộc đời con người thật hiếm hoi và quí giá.
Thời gian sẽ làm con người ngày càng già đi về thể lí nhưng cũng bồi đắp cho tâm hồn
thêm những trải nghiệm phong phú, “thêm nhựa sống để sinh hoa kết kết trái, thêm nghị lực
để vượt qua tinh thần thử thách”. Ẩn giấu trong triết lí mang tính biện chứng về thời gian và
cuộc đời là cái nhìn lạc quan của Thiền Sư Mãn Giác: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết /
Đêm qua sân trước một nhành mai”. Giữa buổi sớm cuối xuân, bất thần nở trên cành những
cánh hoa mai ngan ngát trắng, mảnh mai mà kiêu hãnh, lặng lẽ nhún nhường mà vẫn rạo
rực. Cảm thức về chân lí mối quan hệ giữa thời gian và đời người không những không làm
tác giả rơi vào bi quan, hoảng hốt… mà còn đưa nhà văn đến một sự chiêm nghiệm đích
thực: một sức sống mới đang bừng lên giữa những sự vật tưởng chừng như tàn tạ, già nua.
Lóe sáng trong tâm hồn Đỗ Chu một niềm vui triết học lạc quan tràn đầy.
Bày tỏ nhân sinh quan, Đỗ Chu còn bàn luận về qui luật tâm hồn con người. Ông cho
rằng, cuộc đời con người: “có cả vui lẫn buồn, mà chừng cái buồn muốn nhiều hơn cái vui
thì phải. Còn biết buồn vui chính là bởi còn yêu, còn gắn bó. Ví phỏng không yêu, không
gắn bó với đời thì còn vui buồn làm gì nữa, lúc ấy hẳn lòng người sẽ hóa băng giá, sẽ dửng
dưng hết tất thảy. Cho nên sự vui buồn hằng ngày chính là tình cảm, là nhựa sống, là cái đủ
sức nâng con người ta dậy, là cả một quấn bện, nghĩ ngợi, vân vi” [17; 148]. Quả là như
thế, cõi đời tựa như một bản hợp xướng đa thanh phức điệu. Theo nhà văn, nguyên nhân
khiến người ta sầu lụy chính là tình yêu và lòng khao khát mãnh liệt đối với những gì thuộc
về cuộc sống. Đây là một kiểu quan niệm nhập thế, có ý nghĩa tích cực thúc đẩy con người
gắn bó nhiều hơn với cuộc đời, dẫu nhiều khi ta phải đối diện những điều trái ngược với
mong muốn và sự chờ đợi của ta. Nó hoàn toàn khác biệt với quan niệm nhà Phật, một tôn
giáo khuyên con người rũ áo bụi trần tìm đến nương nhờ cửa thiền, từ bỏ dục vọng, xa lánh
những mối tình nhân thế…Chiều sâu tư tưởng ấy của Đỗ Chu không chỉ có ý nghĩa nhân
sinh mà còn mang sắc màu tư duy hiện đại. Rõ ràng, khi thể hiện cảm quan về cuộc đời, Đỗ
Chu một mặt có sự kế thừa sinh động, mặt khác có những quan niệm riêng phù hợp với tinh
thần nhân bản của cuộc sống hôm nay.
Hơn một lần ta được nghe Nguyễn Bỉnh Khiêm bày giãi quan niệm và lí tưởng sống
của ông trong bài Nhàn: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ / Người khôn, người đến chốn lao xao”.
“Dại” – “khôn” chính là cả một triết lí sống của Bạch Vân cư sĩ mang tâm hồn thanh khiết,
thông suốt mọi lẽ thiệt – hơn, được – mất, tốt – xấu …của đời người. Nhà văn Đỗ Chu tiếp
bước người xưa cũng nhận thức về vấn đề dại khôn, đúng sai: “Con người ta sống trong trời
đất là ngổn ngang những khôn dại, đúng sai, hết đứng dậy lại vấp ngã; lẫn lộn những kiêu
hãnh và tầm thường, đầu óc lúc quang lúc tối, khi nó mở ra thì khôn ngoan vượt cả Khổng
Minh, Hàn Tín, mà khi nó đóng lại thì mờ mịt yếu đuối như con vờ ngoài sông vào lúc
chiều tà. Sự hơn kém nhau có lẽ là chỉ ở chỗ người ấy có chịu nhớ hay không chịu nhớ
mình là ai, mình từ đâu đến và mình đi về đâu” [17; 112]. Cái nhìn triết học có tính biện
chứng, toàn diện của nhà văn mang đến cho người đọc bức chân dung sống động, chân thật
về con người. Những xu hướng trái chiều luôn tồn tại trong tâm hồn mỗi người, khiến con
người nhận thức và hành động có khi không thống nhất và đồng nhất. Nhưng theo nhà văn,
tất cả những điều đó không quan trọng. Cái quan trọng hàng đầu trong đời sống này chính
là cái đẹp: “Cái đúng sai quả là chưa mấy can hệ, cái khôn dại, được mất nào có gì đáng
bàn, bất quá chỉ là những cái để đám người đang tất tưởi ngoài đường kia quan tâm. Với
người cầm bút thì không chỉ có thế, tầm tư tưởng phải dám vượt qua những gì thuộc về tầng
hình nhi hạ để bước vào miền hình nhi thượng, ở đó làm gì có đúng sai khôn dại nữa, ở đó
chỉ còn có những gì thuộc về cái đẹp thuần khiết, nó nhẹ tênh như mờ tỏ xa xăm và bay
lượn” [17; 112]. Như thế, cuộc đời người nghệ sĩ là phải luôn qui hướng về cái đẹp, một cái
đẹp không bị lệ thuộc vật chất, danh lợi, một cái đẹp vượt lên trên tất cả mọi nhu cầu tầm
thường để cất cánh bay lên.
Song song với vấn đề trên, Đỗ Chu còn bàn luận đến ý nghĩa xã hội của đồng tiền:
“Đồng tiền ở chỗ này là đầu tiên nhưng đến một chỗ kia lại khó có thể là đầu tiên được nữa,
thế mới là hợp lẽ. Đợi đến lúc nó sẽ là đầu tiên ở mọi việc, mọi chỗ, ấy sẽ là lúc hỏng bét,
hỏng không cứu vãn nổi, là vì con người đã bị đồng tiền làm hư hỏng hết rồi. Đồng tiền mà
làm ở vị trí đầy tớ thì nó sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng để nó làm ông chủ còn mình chuyển
xuống làm đầy tớ cho nó thì nó sẽ là một ông chủ tồi” [17; 145]. Đỗ Chu nhìn ra được hai
mặt khác nhau xung quanh vấn đề thái độ của con người trong mối tương quan với đồng
tiền. Đó cũng là một trong những biểu hiện quan trọng của nhân cách sống. Hạnh phúc ở
đời này không phải làm sao kiếm cho thật nhiều tiền, tích góp cho thật nhiều của cải mà là
phải tích trữ kho báu yêu thương người thân và đồng loại. Mỗi ngày ta sống là một ngày
nếm trải, có khi phải cố gắng sống, phải bỏ qua nhiều chuyện để mà sống. Có lẽ hạnh phúc
ở đời này không gì khác chính là tình yêu cuộc sống, một tình yêu cao cả và vị tha. Có thể
nói bài học cuộc đời quan trọng nhất chính là bài học yêu thương. Nhà văn kể câu chuyện
một người sau khi chết đi đã đến gặp Phật Tổ. Nhà Phật yêu cầu anh ta phải bỏ lại con chó
anh đang bồng trên tay thì mới nhập tịch nhưng anh ta nhất định không đồng ý. Với anh,
con vật kia không phải là con vật bình thường mà đó là một người bạn thân thiết mà anh
không thể nào phản bội được. Câu chuyện kết thúc khá bất ngờ và để lại nhiều dư vị về bài
học làm người. Anh cùng với chú chó nhỏ được vào Niết bàn. Muợn câu chuyện giàu sắc
màu huyền thoại, Đỗ Chu muốn khẳng định rằng cái mà con người phải mang theo trên
đường đời xa lắc chính là tình thương và lòng chung thủy, ngoài ra mọi thứ đều trở nên
không cần thiết. Do đó, cần biết sống yêu thương và loại trừ điều ác ra khỏi thế gian. Bởi
vì, “chừng nào thế gian này còn lắm âm mưu lừa gạt, lắm tham vọng cay nghiệt, lắm đói
nghèo tăm tối, lắm xô đẩy đâm chém thì tiếng nói nhân đạo, những hành vi, tư tưởng nhân
đạo cũng là cái có bao nhiêu cũng là còn thiếu trong cuộc sống con người. Nó chẳng khác
nào nước lã đối với muôn loài vậy” [17; 314].
Đỗ Chu còn phát hiện ra một nguyên lí khác. Đó là được tôi rèn trong môi trường
khắc nghiệt, con người sẽ trở nên vững vàng trước những khó khăn của đời sống, không
biết khuất phục hay đầu hàng trước hoàn cảnh. Nhà văn đã diễn đạt nguyên lí này qua hình
ảnh cây mận trắng bên vách núi: “Đời người giống như cây mận nở hoa trắng ngát bên vách
đá đứng dựng trước biển. Ngày lại ngày cây mận bám sâu rễ cắm chặt lấy vách đá, nó hút
dần từng chút muối biển để sống. Có người thợ khéo chặt lấy một nhánh rễ mận mang về
đẽo gọt thành chiếc tẩu thuốc, rồi chiếc tẩu ấy một lần rơi vào tay ta. Đêm đông thức dậy
nhồi một mồi thuốc vào tẩu, xòe một que dim, lắng nghe làn khói thơm ngào ngạt trong
bóng tối, ngắm nhìn ngọn lửa lập lòe sưởi ấm nơi bàn tay và chợt hỏi nó là thứ gỗ gì vậy, vì
sao nó không sợ lửa. Chính là muối mặn đã nuôi thứ gỗ ấy. Vị mặn chát của năm tháng đã
thấm vào cây mận ấy khiến nó có những phẩm chất mà không một thứ cây nào có nổi” [17;
124-125]. Tính cách con người do bởi hoàn cảnh cá nhân tạo nên, “không ai sống hộ ai
được và cũng không ai dám nói trước, các cụ đã dặn có thân thì phải lo lấy thân, mỗi người
đang có một chương trình”. Tuy nhiên, sống trong môi trường xã hội, nhân cách con người
chịu sự chi phối, chịu sự tác động rất mạnh mẽ từ người khác, thậm chí từ các thế hệ tiền
nhân: “Những cuộc đời như rượu tăm để lâu, dành cho con cháu đến sau. Đó thực là vô giá
với những ai biết cảm nhận giá trị của nó” [17; 122].
Nhìn chung, nhân sinh quan của Đỗ Chu được thể hiện trên các trang tùy bút chưa tập
trung thành hệ thống luận nhưng tất cả cái nhìn của ông về cuộc đời chắc chắn có ý nghĩa
nhất định để ta nhìn đời thêm sâu sắc, phong phú và toàn diện.
2.2.2 Những quan niệm về văn chương
Đây không phải là địa hạt của người sáng tác mà là của các nhà lí luận, phê bình văn
học. Tuy nhiên, trong lịch sử văn học nhân loại nói chung, lịch sử văn học Việt nam nói
riêng đã có nhiều nhận định mang tính lí luận của những người sáng tác đóng góp hữu ích
cho chuyên ngành Lí luận văn học. Chắt lọc từ ngàn trang tùy bút của Đỗ Chu, chúng tôi
tập hợp được một số vấn đề thật sự có giá trị hữu ích cho việc sáng tác và nghiên cứu văn
học. Trong đó nổi bật lên hai luận điểm chủ đạo, đó là quan niệm về tác phẩm văn chương
và phẩm cách của người nhà văn.
Xưa nay có rất nhiều luận thuyết bàn về bản chất của tác phẩm văn học. Ở đây, ta có
dịp nghiên cứu quan niệm về văn chương của tác giả văn học. Có lẽ những vấn đề lí luận
mà Đỗ Chu đưa ra được chưng cất từ chính cuộc đời mấy mươi năm làm nghệ thuật. Vì thế
chúng không phải là mớ lí thuyết suông mà chính là tâm huyết và lập trường của người
nghệ sĩ. Trong lĩnh vực văn học có vô số những kiến giải về đặc trưng của tác phẩm văn
chương. Nhà văn Đỗ Chu chỉ nói lên quan niệm của mình bằng ấn tượng chủ quan: “Văn
học là tiếng nói của cõi lòng tìm đến cõi lòng, cho nên một khi đã dối giả, đã hời hợt, đã láu
lỉnh uốn éo là rất khó nói chuyện” [17; 225]. Những điều viết ra nếu như không được khởi
đi từ trái tim thì không thể trở thành tác phẩm nghệ thuật. Hơn nữa, tình cảm thẩm mĩ trong
văn chương phải là loại tình cảm chân thành và sâu sắc, xuất phát từ trái tim đa cảm. Ông
cho rằng, linh hồn của tác phẩm chính là xúc cảm, không có xúc cảm dẫu có có gắng dụng
công cũng thành vô ích, vô nghĩa: “Cứ việc hão huyền, cứ đại ngôn, tha hồ tinh tướng, tha
hồ mê mụ, tha hồ yếm trá, tất cả đều được thêu dệt ẩn giấu sau tấm lụa ngôn từ bóng bẩy
nhưng hết sức xiêu vẹo yếu đuối, do vậy một cái chết đang chờ đợi sẵn cho các tác phẩm vô
hồn là không sao tránh khỏi” [18; 103]. Như vậy, những văn bản không hội tụ những đặc
trưng của nghệ thuật chân chính sớm hay muộn cũng bị đào thải và có một kết cục không ra
gì. Còn đối với những tác phẩm chạm được vào cõi lòng con người, dẫu có trải qua bao
thăng trầm, nó vẫn bền vững, bất diệt, bất hoại, “đem đốt không cháy, dìm xuống nước
không rã”. Đấy mới gọi là văn chương đích thực.
Vấn đề chính yếu thứ hai tác giả bàn luận, kiến giải là phẩm chất và năng lực sáng tạo
của người nghệ sĩ. Có thể thấy rằng, đây cũng là vấn đề Đỗ Chu tỏ ra rất hứng thú của Đỗ
Chu. Vì vậy nhiều lần ông trở đi trở lại để bàn luận nhiều khía cạnh của một vấn đề thực ra
không mới nhưng luôn luôn là vấn đề hàng đầu trong sáng tạo nghệ thuật. Một người giàu
tâm huyết và có những cống hiến nhất định cho nền văn học nước nhà như ông có lẽ hơn ai
hết hằng luôn ưu tư trước trang viết về phẩm chất và năng lực sáng tạo của người cầm bút.
Chính vì thế, những luận thuyết của Đỗ Chu rất sống động, giàu ngữ khí và sắc điệu tình
cảm. Ông như cật vấn chính mình với câu hỏi nhà văn là ai. Theo ông, “nhà văn là người
dùng tác phẩm đề giãi bày tâm sự, để nói ra bằng chữ những rung động, những suy tư trước
nhiều cảnh huống mà mình đả trải, đã cảm nhận” [17; 250]. Đơn giản thế thôi. Nhưng để
làm được điều đó, nhà văn phải miệt mài lao động, không ngừng phấn đấu, không ngừng
tìm tòi để tạo được cho mình phong cách riêng. Người nghệ sĩ “cần tìm cho mình một bút
pháp trước đây chưa ai từng có”. “Nếu không thì viết làm gì. Không gì tầm thường nhàm
chán hơn sự sao chép, sự bắt chước, cho dù việc đó làm khôn khéo đến đâu. Ông trời không
hề bắt người ta phải nhai lại, chỗ này đặt cho ta một nguyên tắc nghiêm ngặt và lâu dài
trong quá trình học hỏi những tác gia lớn” [17; 250]. Dường như Đỗ Chu muốn phê phán
một bộ phận người cầm bút đã coi thường vai trò sáng tạo của mình, chỉ có giỏi mô phỏng
hay kế thừa ý tưởng của người khác.
Để có những tác phẩm có sức lan tỏa, người nghệ sĩ phải không ngừng trau dồi, phải
có một cuộc lên đường đầy gian nan, vất vả, “phải đi nhiều, học nhiều, từng trải nhiều” [17;
254]. Đỗ Chu đòi hỏi bản thân và đồng nghiệp phải thực sự chuyên tâm và nghiêm túc
trong công việc sáng tạo: “Mỗi người viết càng phải tự đòi hỏi nghiêm khắc ở mình hơn
nữa, viết khó nhọc kĩ lưỡng hơn nữa, chứ không sống tùy thời, ăn theo, nói theo. Sống cho
một lúc, viết cho một lúc thì không thể có sức sống lâu bền. Mà văn học đồng nghĩa với
những gì được xem là lâu bền. Kị nhất là sự ăn xổi ở thì, quan tám cũng ừ, quan tư cũng
gật” [17; 59]. Và trước nhiều vấn đề nhạy cảm như hôm nay, người nghệ sĩ không được cho
phép mình a dua, ba phải, lập trường còn lờ mờ chưa rõ ràng. Đỗ Chu xác định rằng đã là
nghệ sĩ thì lúc nào cũng luôn giữ cái nhìn đầy tỉnh táo để nhận thức và phản ánh chân xác
những vấn đề xã hội: “Là người cầm bút mà thờ ơ được sao. Sự rờ rẫm ma mụ là biểu hiện
của những nhân cách uơng hèn, viết viếc gì, bất quá chỉ là mớ chữ gà bới của đám học trò
vô sư vô sách” [17; 259].
Tác phẩm văn học là bằng chứng cụ thể nhất cho tâm huyết và tài năng sáng tạo của
người nghệ sĩ. Đó còn là niềm hạnh phúc, là sự đền bù cho những tháng ngày lao động
nghệ thuật miệt mài, khó nhọc. Không cần kể đến hạng người tạo ra những cuốn sách đồi
trụy, phản động, người cầm bút nếu cả đời viết văn mà không có lấy nổi một tác phẩm hay,
chí ít một trang sách để làm cho người ta nhung nhớ thì thật là đáng để ta phải suy nghĩ:
“Không ai nghĩ rằng tất cả các nhà văn đều viết ra những tác phẩm tội lỗi đó, nhưng người
ta vẫn có quyền trách một khi anh chưa có nổi những cuốn sách đủ sức hấp dẫn, đủ sức thu
hút nhiều bạn đọc” [17; 260].
Có thể nói trong muôn vàn nghề nghiệp thì nghề văn là một trong những nghề không
cho phép người lao động đặt chữ lợi lên hàng đầu. Đến với văn chương mà chỉ có một mục
đích mưu cầu lợi danh là điều hết sức thấp hèn, kém cỏi. Đỗ Chu bày tỏ thái độ khá gay gắt
đối với những hiện tượng thực dụng hóa văn chương: “Tôi thường vẫn tự hỏi mình sao cổ
nhân dặn lập thân tối hạ thị văn chương? Ở đời có nhiều cách lập thân, có cách chưa được
sang lắm, tuy nhiên nếu dám đem cả văn chương ra để kiếm tìm cái danh cái lợi thì đấy mới
thực là tồi tệ. Lúc ấy, nguời cầm bút đã đặt mình xuống đẳng cấp thấp, còn văn chương anh
ta thì chẳng biết nói thế nào nữa” [18; 101]. Người nghệ sĩ phải đến với văn chương bằng
cả tâm hồn trong sáng, thoát li hẳn với những nhu cầu tầm thường thấp kém mới là nghệ sĩ
đích thực. Chứa trong đầu óc một mớ bòng bông những lo lắng vặt vãnh, những ý nghĩ đổi
chác, người ấy sẽ chẳng bao giờ bước lên đài hoa nghệ thuật chân chính được: “Tôi chưa
thấy ai ngồi vào bàn cầm bút mà mà lòng dạ cồn cào những ham muốn, những mưu toan
tầm thường mà rồi những tác phẩm anh ta viết ra lại được thiên hạ chào đón mặn mà” [18;
102]. Nhà văn gọi đấy là “một bí mật thiêng liêng trong văn học”.
Một nghệ sĩ suốt đời xem nghệ thuật là duyên nghiệp, là niềm đam mê không thể nào
dứt ra nổi, là bản năng, âm thầm lao sáng tạo không ngừng chắc chắn sẽ có được những tác
phẩm tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Không những thế, ngay cả khi tuổi đời của nhà
văn đã dừng lại, nhưng kì diệu thay anh ta vẫn còn sống mãi nơi lòng người đọc qua những
tác phẩm nghệ thuật, thành quả của tài năng và tâm huyết của một đời cầm bút. Những tác
phẩm ấy được xem như một thứ di sản tinh thần vô giá mà nhà văn gửi lại cho đời. Người
nghệ sĩ tựa như một cánh chim đang mất hút vào cõi hư không mà bóng dáng của nó vẫn
còn thấp thoáng trong hồn người. “Cái nó gửi lại chẳng phải là cái có thể cầm nắm được,
mà chính là hơi ấm tâm linh, là niềm an ủi dặn dò, là niềm kiêu hãnh cho bao người đã và
sẽ đến làm người” [17; 253]. Lịch sử văn chương nhân loại là một minh chứng sống động
cho qui luật tồn vong của những tác phẩm nghệ thuật trong lòng độc giả.
Nhìn chung, một số vấn đề mang tính lí luận về văn học của Đỗ Chu chưa có tính hệ
thống, tập trung như một chuyên luận khoa học. Nó chỉ xuất hiện, rải rác, giữ vai trò dẫn
dắt, khái quát, liên tưởng…nhằm làm nổi bật nội dung chủ đạo của bài tùy bút. Tuy nhiên,
những vấn đề ấy góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình tượng tác giả, để ta thấy thêm
rằng, ngoài một Đỗ Chu đa cảm, tài hoa và uyên bác, còn có một Đỗ Chu rất sâu sắc với
những biểu hiện trước cuộc sống và trước văn chương. Với vốn văn hóa của mình, Đỗ Chu
đã xác lập được những quan niệm, khái niệm văn chương mới bằng những luận lí sinh
động. Có được điều này rất khó, ngay cả những giáo sư đầu ngành suốt một đời cặm cụi có
khi chả tạo ra cho mình một thật ngữ riêng, khái niệm riêng. Chả thế mà một vị giáo sư văn
học có uy tín đã mượn mấy chữ cốt kiêu, dáng kiêu của Đỗ Chu để làm đầu đề cho một bài
báo khoa học in trên Văn nghệ số ra gần đây. Mấy mươi năm cầm bút với một số lượng tác
phẩm dày dặn, Đỗ Chu hoàn toàn có đủ tư cách lấy tâm huyết, kinh nghiệm của cá nhân mà
truyền đến cho mọi người, nhất là những những cây viết trẻ, niềm hi vọng của nền văn học
nước nhà.
2.2.3 Những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội đương thời
Đỗ Chu không ít lần đưa người đọc đến với dải đất nối liền hai miền Nam – Bắc, một
dải đất thắt thỏm đôi bờ vốn đã rất khắc nghiệt về khí hậu và thổ nhưỡng lại còn hứng chịu
những cơn bão lũ khủng khiếp diễn ra hằng năm không báo trước. Ở tùy bút Hoa trước
thềm văn, chỉ vài dòng tự sự ngắn, nhà văn đã làm hiển hiện trước mắt người đọc bức tranh
điêu thương, đói khổ của khúc ruột miền Trung: “Suốt mùa hạ và mùa thu cả khu vực miền
Trung gặp bão lụt lớn. Một con bão lụt mang ý nghĩa thế kỷ với sức tàn phá hơn bất kì một
trận bom nào thời chiến. Đây cũng là một bài học đau xót cho sự tàn phá rừng đầu nguồn,
bài học đau đớn cho sự tàn phá môi trường sinh thái kéo dài liên miên” [17; 284]. Không
chỉ có miền Trung, vùng sông nước Tây Nam Bộ cũng là vùng lãnh thổ hằng năm phải
hứng chịu dòng nước lũ từ khắp nơi đổ về gây thiệt hại to lớn về người và của, đẩy những
người dân vào cảnh sống bi đát: “Suốt mấy tháng mùa hạ tôi đi ngang dọc trên vùng đất ấy,
thấy đâu đâu cũng là làm ăn, bỗng sang thu dồn dập tin lũ, vườn tược nhà cửa chìm ngập,
mức nước dâng cao trên cả những năm tháng đáng ghi nhớ” [17; 240]. Nhà văn cảm thương
cho những phận người một đời chí thú làm ăn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời nay phải
sống trong cảnh màn trời chiếu đất, u ám ở hiện tại, mờ mịt trong tương lai. Ông còn nhận
ra khoảng cách giàu nghèo càng kéo dài thêm: “Đất nước vài chục năm lại đây năm nào
cũng là chỗ này ấm chỗ kia lạnh, người này no kẻ kia đói. Cái chăn đắp chung còn rất chật
hẹp, sự ổn định xem chừng chưa vững bền, lòng người hình như đang còn nhiều phấp
phỏng” [17; 240 ].
Thiên tai lũ lụt là hậu quả của việc con người tàn phá môi trường sinh thái. Do đó cần
có những hình thức để xử lí nghiêm minh với những kẻ tra tay làm hại đến cuộc sống an
bình của con người: “Đây là bài học đau xót cho sự tàn phá rừng đầu nguồn, bài học cho sự
tàn phá môi trường sinh thái kéo dài liên miên. Một đe dọa có ý nghĩa thường trực là cái
nghèo đói đang đe dọa rình rập trước cửa mỗi nhà, và do đó, cái mệnh lệnh dứt khoát sẽ có
kỷ luật nghiêm khắc đối với cán bộ chủ chốt ở các địa phương nếu dân chết đói, cũng là
một mệnh lệnh không phải chỉ có hiệu lực trong vòng một năm” [17; 284]. Tiếng nói của
Đỗ Chu cũng chính là tiếng nói chung của nhân dân và của các cơ quan chức năng. Một lần
nữa, trong chiều sâu suy tư của nhà văn lại chứa ẩn cả một tấm lòng thiết tha đối với dân
tộc.
Một vấn đề nữa liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân là tình hình kinh tế trong
thời kì đổi mới. Nhà văn đưa ra các số liệu cụ thể để chứng minh một điều là mặc dù kinh
tế nước ta đang ngày càng đi lên nhưng so với tình hình phát triển chung của toàn cầu, nước
ta có xu hướng tụt lùi: “Năm năn về trước, trong một cuộc điều tra của dân số thế giới, nền
kinh tế của chúng ta được xếp hàng thứ 47 trong 58 nước được xem đến. Năm vừa qua, con
tàu Việt Nam vẫn đang tiếp tục tiến lên với tốc độ tăng trưởng 7,04 % so với năm trước,
nhưng vẫn với cuộc điều tra qui mô toàn cầu, chúng ta lại tụt xuống sáu bậc, đứng hàng thứ
53 trong 58 nước. Những con số ấy đủ để chúng ta phải giật mình giữa bối cảnh chung,
trước sự quật khởi của thiên hạ trong cuộc làm ăn xây dựng và hòa nhập nói chung” [17; 7].
Rõ ràng, Đỗ Chu đã có một cái nhìn khá toàn diện về tình hình kinh tế. Ông không giấu nổi
sự lo lắng trước sức ép trong cuộc chạy đua kinh tế trong thời kì hội nhập. Tự tin và giữ
vững bản lĩnh sẽ giúp ta vượt qua những thách thức, bước lên vị trí cao trong khu vực và
trên thế giới: “Trước mắt chúng ta là những cơ hội cùng những thách thức, những xô đẩy
lớn, vượt qua nó chúng ta sẽ càng thêm hiểu mình, hiểu người, thêm sự nếm trải cần thiết
để trở nên sâu sắc và vững vàng” [17; 7].
Một lĩnh vực quan trọng và đầy nhạy cảm trong nền kinh tế nước ta chính là tiền tệ.
Mấy năm gần đây, Việt Nam và các nước khu vực đang đối diện với hiện trạng khủng
hoảng tiền tệ. Nhà văn gọi đó là “cơn bão tiền tệ”. Nó có một sức tàn phá kém so với thiên
tai bão lũ. Xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau: “Hiện nay đang có hai xu
hướng dự báo song song tồn tại: xu hướng thứ nhất cho rằng nó đã lui dần, bức tranh toàn
cảnh của nền kinh tế các nước Đông Nam Á cũng như cả thế giới là khả quan; xu hướng
thứ hai, vẫn nhìn nhận nó như một nguy cơ còn nguyên, với những biến thái phức tạp,
không mấy phấn khởi” [17; 284]. Bên ánh đèn mờ tỏ, người nghệ sĩ nặng tình với nhân dân
hằn sâu nỗi lo lắng, trăn trở về sự mất giá của Việt Nam đồng: “Lập tức trong đời sống xã
hội xuất hiện một câu hỏi tất nhiên, giá cả thị trường sẽ ra sao, liệu chừng đồng tiền của ta
có đủ sức đứng vững trong cơn bão dễ sợ này ? Một câu hỏi liên quan thiết thực tới sự sống
còn của mỗi gia đình và chỉnh thể” [17; 285]. Hơn nữa, theo Đỗ Chu, nền tài chính nước ta
còn rất non kém, tuy nhiên cũng đóng góp không nhỏ vào sự phát triển sự nghiệp chung.
Nó đang tự hoàn thiện mình để trở nên lành và mạnh hơn nữa. Nhà văn gọi đó là một cuộc
chiến đấu toàn diện và đầy cam go trong công cuộc quản lí một nền kinh tế từ đơn ngành
lên đa ngành, từ cơ chế bao cấp xin – cho đã lỗi thời bước vào nền kinh tế thị trường mới
mẻ với nhiều phức tạp nhưng lại cũng rất hấp dẫn. Ông bày tỏ niềm tin vào những phẩm
chất tốt đẹp và năng lực dồi dào của nhân dân: “Chúng ta tin vào những sáng tạo, tài năng
và bản lĩnh vốn đã trở thành truyền thống của một nền tài chính mang tính nhân dân, của
dân, do dân, và vì dân như lịch sử ghi nhận nửa thế kỉ qua” [17; 286].
Tuy nhiên, trong dòng người yêu nước đang từng ngày ra sức xây dựng, phát triển đất
nước, vẫn có một bộ phận quan chức lạm quyền trục lợi gây ra tệ nạn tham nhũng và những
hiện tượng nhiễu nhương khác. Những căn bệnh trầm kha của những kẻ rời xa lí tưởng cách
mạng biểu hiện thành muôn vàn những hành vi tiêu cực như tham nhũng, hoang phí, ngông
cuồng, cửa quyền, kiêu ngạo…Đỗ Chu cho đó là những hành vi bất chấp đạo lí, bất nhân,
bất nghĩa. Tai hại hơn nữa, chính bộ phận này làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân
vào Đảng và Nhà nước. Đỗ Chu gọi đó cũng là một thách thức hiểm nghèo, là nội dung rất
chủ yếu của những năm tháng này.
Ngoài ra, cái tôi ưu tư của nhà văn Đỗ Chu, dưới ngọn đèn khuya lại lo lắng, phiền
muộn về lối sống thực dụng, đồi trụy… trong bộ phận nhân dân. Cảnh tượng xấu diễn ra
ngay trước mắt mọi người: “Trên con đê sông Hồng nay đã thành đường phố, nhà tầng mọc
lên nhấp nhô, phần lớn là nhà nghỉ, cửa đóng im ỉm, nom rất bí hiểm. nhà nào cũng có treo
biển đề tên, cái là Hoa Hồng, Bông Sen, cái là Hoa Mơ, Hoa Sim, cái là Chiều Tím, Đêm
Sương…Những chữ mập mờ khơi gợi, nghe nửa bẩn nửa sạch, nửa tin cậy, nửa rất đáng
nghi ngờ, giống như những ông bà trẻ tuổi trưa từ các nhiệm sở gọi nhau đi ăn cơm bụi
xong là dắt nhau qua đó” [17; 152]. Những tệ nạn ấy ảnh hưởng nguy hại đến đời sống tinh
thần của nhân dân. Nó ẩn náu, thâm nhập vào từng thôn làng ngõ xóm. Cái làng Niềm trước
kia rất giàu bản sắc văn hóa, nay đã đầy rẫy những tệ nạn như mại dâm, hút chích ma túy.
Một cô bé mới mười lăm, mười sáu tuổi đã sống buông thả, trở thành gái không chồng có
con, nhẫn tâm đem bán những đứa con của mình mà không một lần cật vấn lương tâm để
biết tủi hổ, thương xót, thức tỉmh. Lại nữa, cô gái còn tuyên phán một câu dạy khôn nhằm
biểu hiện sự sành đời, trải đời : “Chú là nhà văn mà lẩn thẩn thế, theo kịp làm sao bước đi
của thời đại, bị cuộc sống bỏ lại tụt hậu là cái chắc” [17; 321]. Những giá trị truyền thống,
những thuần phong mĩ tục của người Việt ta nay bị một thành phần, nhất là giới trẻ làm
lung lay, phai mờ khiến người nghệ sĩ không khỏi băn khoăn trăn trở…
Giáo dục bao giờ cũng là nền tảng căn yếu của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Vì thế, từ
xưa đến nay, vấn đề giáo dục luôn đứng ở những vị trí đầu trong chương trình xây dựng và
phát triển đất nước. Cha ông ta luôn quan tâm, chăm lo cho đạo học ngày càng vững bền,
bởi vì “nhìn vào sự thịnh suy của Đạo học mà thấy ra sự thịnh suy của xã tắc”. Sự hưng
thịnh của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào tầng lớp trí thức hiền tài, rường cột của đất
nước mà còn phụ thuộc chủ yếu vào mặt bằng dân trí chung: “Chung qui trăm sự vẫn là vấn
đề dân trí, nó vừa là cái trần lại vừa là cái nền, một khi cái trần và cái nền đều còn thấp thì
hết thảy đặt nó trên đều thấp theo, không thể tính chuyện nhảy vọt chặn đầu đi tắt bỏ qua
giai đoạn, tính toán thế là tự lừa mình, giống như câu chuyện tếu lâm, có anh nhà quê nóng
ruột vì càng nhìn vào ruộng nhà mình càng thấy lúa lên chậm quá, anh ta bèn lội xuống
nắm thân lúa kéo lên, được mấy hôm ruộng lúa héo vì đứt hết rễ” [18; 309]. Chính vì vậy,
ngay từ những năm tháng mới dành được độc lập, tự do, thành lập nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân bắt tay vào việc tiêu diệt “giặc đói và giặc dốt”.
Phong trào bình dân học vụ được phát động sâu rộng trong quần chúng đã đạt được những
kết quả khả quan. Đỗ Chu đã nhắc lại bài học đó như để khẳng định giáo dục luôn là quốc
sách hàng đầu.
Trở về với hiện tại, nhà văn chỉ ra những yếu kém của nền giáo dục nước ta. Đó là tư
tưởng trọng hình thức hơn là năng lực. Hễ có bằng cấp cao thì tức khắc sẽ được trọng dụng
mà không hề để tâm đến năng lực lao động. Chính vì thế mới có hiện tượng mua bán bằng
giả. Nó làm thui chột ý thức phấn đấu của con người, nhất là thế hệ trẻ. Nhà văn cho rằng
cần phải có những biện pháp ngăn chặn và xử lí nghiêm khắc đối với những kẻ tham gia
vào tệ nạn này. Có như thế thì “các cô các cậu con nhà quyền quý sẽ trở nên lễ phép
nghiêm ngắn, các anh các chị con nhà thứ dân sẽ biết thân biết phận mà dùi mài học hỏi tu
thân vượt lên làm những người xuất chúng có ích cho đời, để được đời kính trọng, chứ
không thể yên lòng vào cái lí lịch ba đời nghèo khó theo cách nhìn hết sức vớ vẩn…” [17;
291]. Lúc ấy, người ta sẽ lo thân mà cố gắng tự học, tự rèn luyện để trở thành người thực
học, thực tài phục vụ cho đất nước. Đỗ Chu mạnh dạn đề ra một đường hướng giáo dục:
“Cơ sở vững chãi nhất để ta có thể đặt niềm tin vào một hướng đi bởi thấy đó là một
phương pháp giáo dục mang tính hệ thống cao. Không vội vã, không khoa trương ầm ĩ, sẵn
lòng lắng nghe mọi sự nhắc nhở, dọc đường đi kiên quyết từ chối mọi hình thức tụng ca, đề
cao thực học, coi trọng những giá trị thật, khe khắt đòi hỏi ở chính mình, đấy chính là phẩm
chất quý báu trong Đạo học” [17; 297]. Và việc chọn mặt gửi vàng là điều tối cần thiết, như
Đỗ Chu phân tích: “Chọn lựa những cái gì để dạy là vô cùng khó. Người ta gọi đó là lập
chương trình, là công việc của các ông thầy lớn, không phải bạ ai cũng gọi về giao phó
được” [17; 300]. Đồng thời, đội ngũ giáo viên cũng phải có lương tâm nhà giáo, có đủ năng
lực và phẩm chất cao quý: “ …không chỉ cần có tinh thần trách nhiệm cao trước sự nghiệp
giáo dục nước nhà là đủ, mà còn cần phải có đầy đủ lòng dũng cảm, phải có đầy đủ ý chí và
nghị lực, phải có đức hi sinh lớn, phải có phẩm chất nhẫn của tri thức có tầm nhìn xa” [17;
295]. Có như thế thì nền giáo dục nước ta mới thoát khỏi sự bế tắc, lạc hậu, vững vàng
bước lên phía trước.
2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác
2.3.1 Tầm hiểu biết sâu rộng
Tùy bút là thể loại văn học thể hiện rõ nét tầm hiểu biết của nhà văn về các vấn đề xã
hội. Trong đó, tri thức của người viết trở thành nguồn chất liệu quan trọng để nhà văn có
được những trang tùy bút vừa có giá trị thẩm mĩ vừa có giá trị nhận thức, mang lại cho
người đọc những rung cảm dồi dào và mở ra những chân trời tri thức. Lượng thông tin chứa
đựng trong tùy bút có chính xác và phong phú hay không là tùy thuộc rất nhiều vào vốn
kiến thức mà người nghệ sĩ tích lũy được. Đọc tùy bút của Đỗ Chu, cái tôi uyên bác trong
ông thể hiện một cách gián tiếp thông qua những gì ông phản ánh. Đó là các đề tài về quê
hương, người lính, nghệ sĩ, trí thức bác học…Mỗi đề tài, ông đều có một cái nhìn tường
tận, sự am hiểu sâu sắc, thấu đáo. Có lẽ với các đề tài ấy, nhà văn vừa là người trong cuộc
vừa là người thu thập thông tin. Ta chưa bao giờ thấy Đỗ Chu cố viết những gì xa lạ hay
mơ hồ trong nhận thức và xúc cảm. Với các đề tài ấy, rất nhiều những nhân vật được Đỗ
Chu tái hiện trên trang giấy, ai ai cũng rõ nét, ấn tượng và có chiều sâu. Nhất là các bài tùy
bút chân dung, ông có sự hiểu biết toàn diện, từ hình dáng tướng mạo đến cốt cách, cá tính,
từ cuộc sống đời thường đến lĩnh vực nghề nghiệp…
Qua các trang tùy bút, người đọc nhận thấy Đỗ Chu có sự am tường sâu rộng về văn
hóa, nhất là văn hóa dân gian. Quê hương được tác giả nói đến là vùng quê Kinh Bắc. Cả
vỉa tầng văn hóa được Đỗ Chu khơi lên, từ đình chùa miếu mạo, đến những cái cổng làng,
từ những câu chuyện huyền thoại đến những danh nhân văn hóa, từ những câu ca dao đến
làn điệu dân ca ngọt ngào, quyến rũ…..
Không những thế, Đỗ Chu còn giới thiệu cho người đọc về sinh vật, thổ nhưỡng và
văn hóa vùng đất Tây Nguyên. Ống kính nghệ thuật của nhà văn nhẹ nhàng lướt qua từng
cánh đồng, dòng sông, ngọn đồi: “Dòng sông Sêpêpốc chảy qua hướng Tây để gặp sông lớn
Mê Kông, nó là hợp lưu của hai nhánh sông Krông Nô và Krông Ana. Nô là chàng trai, Ana
là cô gái. Cánh đồng Krông Pông bát ngát chính là lưu vực của hai dòng sông đó” [17; 27].
Ở đây, kiến thức về địa lí đã được hòa trộn với kiến thức văn hóa huyền sử và giai thoại
Tây Nguyên. Ông tỏ ra rất am tường về những cánh đồng được tạo nên bởi những nhánh
sông lớn ở Tây Nguyên: “Cùng với cánh đồng Krông Pông còn có mấy cánh đồng khác
nữa, chúng nằm thanh thản bình yên sau những miền đồi núi hùng vĩ, cánh đồng nào lúa
cũng thơm gạo cũng ngon” [17; 47]. Chính những cánh đồng xanh tốt, hào phóng ấy là
nguồn cung cấp lương thực chính cho người dân nơi đây.
Tây Nguyên nổi tiếng với những khu rừng nguyên sinh bạt ngàn, bất tận. Nơi đó có
nhiều loài cây lạ. Nhà văn Đỗ Chu khi miêu tả những cánh rừng Tây nguyên đã giới thiệu
cho người đọc về hai loài cây chỉ có ở miền đất này. Đó là cây khộp và cây Ktung Ktang.
“Cây khộp thuộc họ cây dầu, rừng khộp thoáng sạch như rừng Châu Âu. Sức sống rất mạnh
mẽ, nhiều cánh rừng bị đốt phá, bị khai thác trần trụi chỉ vài năm quay lại đều đã thấy các
gốc đều trổ mầm xanh um, vài năm nữa lại đã gặp một cánh rừng tái sinh đẹp nao lòng”
[17; 31]. Sức sống và khả năng sinh tồn mạnh mẽ chính là vẻ đẹp độc đáo của loài cây ở xứ
rừng Tây Nguyên. Một loài cây khác nữa mà nhà văn giới thiệu với người đọc là cây
Ktung, Ktang. “Nó là loài cây họ bấc, ngày xưa mọc rất nhiều trong rừng sâu. Tới mùa, quả
bấc rơi đầu suối, đàn cá bong Klong đua nhau nhảy lên đớp ăn tùm tũm trên mặt nước.
Ktung, Ktang được gọi theo hình những trái quả. Cùng với cây thì giống cá Bong Klong
cũng mất rồi” [17; 50].
Nói về Tây Nguyên chừng ấy xem ra vẫn chưa đủ, nhà văn còn mang vào những trang
viết của mình những kiến thức về văn hóa – văn học của vùng đất này. Dân cư ở Tây
Nguyên có đặc điểm độc đáo không giống với bất kì một miền đất nào: “Nơi ấy là một tập
hợp lạ, phong phú, quần tụ nhiều dân tộc anh em, mặc dù có sự phát triển không đồng đều,
có dân tộc còn non yếu như vừa thời nguyên thủy bước ra, lại có những dân tộc đã đạt tới
trình độ cao” [17; 48]. Đời sống tinh thần của họ cũng rất đỗi phong phú và giàu có. Tây
Nguyên có sẵn một kho tàng văn học dân gian. Đỗ Chu không phải là người nghiên cứu sử
thi nhưng ông tỏ ra rất am tường lịch sử dịch thuật khá thăng trầm và phức tạp của khan
Đăm Săn: “Trường ca Đăm Săn hay khan Đăm Săn là một bộ sử thi truyền miệng lớn của
dân tộc Êđê, được nhiều người quan tâm nên đã có nhiều bản dịch mới ra đời. Được phát
hiện vào năm 1924, đến năm 1927 nó đã có mặt ở Paris cùng với lời giới thiệu trang trọng
của L. Sabatier. Năm 1957 tại Hà Nội, trường ca Đăm Săn đã được nhà nghiên cứu Đào Tử
Chí giới thiệu dịch ra tiếng Việt. Ông Chí là người am hiểu Tây Nguyên đã từng sống ở
Tây Nguyên từ 1941. Ngoài ra còn có những dị bản gốc Êđê, như bản của Y Vông Mơno,
một cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết, đây là bản có độ tin cậy, chính ông Y Ngông
Niêkdam cũng cho là như vậy. Ngoài ra còn có một bản nữa của Y Dung, một bản nữa của
Y Bí Alêô” [17; 55- 56].
Tầm hiểu biết sâu rộng của Đỗ Chu còn được thể hiện ở những đoạn mô tả, lí giải các
vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong câu chuyện của ông Trần Nhị và bà Đạm,
nhà văn cho nhân vật lí giải về cấu tạo và cơ chế hoạt động của hệ thống xương bàn chân:
“Cũng giống hệt bàn tay, bàn chân cũng có xương năm ngón, tính từ trong ra thì chỉ có
ngón số một, tức là ngón cái gồm hai xương, còn từ ngón hai đến ngón năm, ngón nào cũng
gồm ba xương. Ngoài các xương ngón lại có xương hộp, xương sên, xương ghe, xương gót,
xương chày, xương mác, xương chèm một, chèm hai. Rồi bên trên gót lại có xương trụ
trước, trụ sau, bao quanh các xương là các cơ, các cơ níu được vào các khớp bằng các
gân…” [17; 39]. Rồi bàn về nghệ thuật làm gốm sứ, nhà văn cũng tỏ là là người rất sành về
các yếu tố quan trọng để tạo nên sản phẩm chất lượng, đẹp mắt: “Đứng về kĩ thuật mà nhìn
nhận một cái lọ thì phải theo một một tiêu chuẩn khác, nhất xương nhì da thứ ba đến lửa.
Lửa phải hoàn nguyên mới ra được những men quí như men ngọc hoặc men thúy hồng.
Một cái lọ có men chìm mờ sẽ hơn hẳn những đồ bóng loáng phù quang. Có lẽ thuật xem
người cũng vậy mà xem văn cũng vậy, xem tranh cũng vậy. Là cái lọ đất nung tưởng tầm
thường mà thực quí, thực sang, trong khi màu mè xanh đỏ lại chứng tỏ nhà quê. Nó là
chuyện đời vậy. Xương ở đây là đất, còn men được gọi là da” [17; 140].
Tác giả hào hứng đi vào giải thích các từ ngữ và khái niệm tồn tại trong cuộc sống
quanh ta nhưng ta lại ít khi lưu tâm đến. Ông giải thích tường tận, không bỏ qua một nét
nghĩa nào như Kì nghiêm hồ, tổ chức, tứ hóa…Những lí giải Đỗ Chu đưa ra bao giờ cũng
sáng tỏ, đầy đủ và chính xác. Đỗ Chu thực sự đã tích lũy cho mình một nguồn kiến thức sâu
rộng, dày dặn mà không phải nhà văn nào cũng có được.
2.3.2 Những trích dẫn đa dạng, phong phú
Đọc tùy bút của Đỗ Chu, ai cũng thừa nhận rằng, ông có năng lực trích dẫn thi ca
cũng như trích dẫn các tư tưởng lớn vào trong tác phẩm của mình. Trích dẫn vốn là thao tác
được sử dụng rất nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Rất ít khi ta thấy các
trích dẫn trong sáng tác văn chương. Các trích dẫn của nhà văn đưa vào không phải với
dụng ý chứng minh, lí giải vấn đề mà nó như là một sự ngẫu hứng nghệ thuật để dẫn dắt,
làm tăng ấn tượng chủ quan đối với những đối tượng thẩm mĩ mà ông đang hướng đến.
Có thể chia các trích dẫn có trong tùy bút của ông thành hai loại: trích dẫn thơ ca và
trích dẫn các tư tưởng lớn. Đối với thơ ca Việt Nam, ta được gặp gỡ các nhà thơ như Cao
Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Văn Cao, Chế Lan Viên, Nguyễn
Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu, Hữu Thỉnh, Hoàng Cầm, Lâm Huy Nhuận, Anh
Thơ, Đồng Đức Bốn, Trần Anh Thái, Nguyễn Xuân Thâm, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Hoàng
Cương…Đối với thơ ca nước ngoài, Đỗ Chu trích dẫn các sáng tác của Giả Đảo, Đỗ Phủ,
Trần Tử Ngang, Guillaume.…Nhà văn còn trích dẫn các tư tưởng lớn như Các Mác, Mạnh
Tử, Kinh Thánh, Ngũ Lăng nghiêm kinh…
Các trích dẫn có sức phát huy hiệu quả lớn trong ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ở các
bài tùy bút chân dung, chủ yếu các trích dẫn đưa vào nhằm khắc họa tính cách và tài năng
của nhân vật. Khi viết về Phạm tiến Duật, Đỗ Chu đưa vào rất nhiều những bài thơ làm nên
dấu ấn của nhà thơ trên thi đàn văn học Cách mạng như bài Cô bộ đội ấy đã đi rồi, Trường
Sơn Đông, Trường Sơn Tây và cả Thủ Lăng nghiêm kinh, Nhã ca trong Kinh Thánh…Để
khẳng định và làm nổi bật tài năng thơ ca của Chính Hữu, Đỗ Chu đã trích dẫn các bài thơ
của ông như Truy kích, Gửi mẹ và các tác phẩm nổi tiếng của Trần Tử Ngang, của
Guillaume Apollinaire. Hay để nói về tính cách khiêm nhường, xuề xòa của Kim Lân, Đỗ
Chu cũng đã phải viện đến bài thơ tứ tuyệt của Giả Đảo.
Nhìn chung, Đỗ Chu đưa rất nhiều trích dẫn vào các bài tùy bút nhưng không phải
lạm dụng hay dễ dãi mà bao giờ cũng đúng vai trò, đúng lúc và vừa phải. Cho nên, với các
trích dẫn, giá trị thẩm mĩ của các bài tùy bút được nâng cao, tạo những ấn tượng đẹp trong
lòng độc giả. Một số lượng khá lớn những bài thơ và tư tưởng được đưa vào chính xác là cả
một một tầm hiểu biết về văn hóa và văn học. Không những thế, với các trích dẫn ấy, Đỗ
Chu còn thể hiện sự mĩ cảm của mình một cách tài hoa.
2.2.3 Sự cảm nhận thiên nhiên tinh tế, tài hoa
Xưa nay, người nghệ sĩ thường được người đời phong tặng cho danh hiệu: những
người tài hoa. Đã là nghệ sĩ thì phải có tố chất tài hoa, không tài hoa không thể sáng tác
nghệ thuật. Cái tài hoa của người nghệ sĩ thường biểu hiện ở lối viết, ở việc xây dựng hình
tượng, ở việc cảm nhận khách thể bên ngoài…Trong văn học Việt Nam, nhắc đến cái tôi tài
hoa trong tùy bút thì phải kể đến Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Vũ
Bằng, Băng Sơn…Đậm nhạt khác nhau, nhưng những tác giả kể trên là những người đã
định hình được được phong cách cũng như sớm thể hiện cái tôi tài hoa. Bắt đầu từ tùy bút
Những chân trời của các anh, xuất bản năm 1986, cái tôi tùy bút của Đỗ Chu còn rất mờ
nhạt. Thời ấy, nhắc đến Đỗ Chu, người ta nghĩ đến ông là cây bút truyện ngắn với văn
phong chuẩn mực, mượt mà, sâu lắng… chứ mấy ai đặt ông vào vị trí của một tác giả tùy
bút. Thế nhưng, từ năm 2004, Đỗ Chu bất ngờ cho ra mắt độc giả tập Tùy bút Tản mạn
trước đèn, bắt đầu cho sự gia nhập của một Đỗ Chu trong lãnh địa tùy bút. Năm 2008, ông
tiếp tục cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng người, tác phẩm đưa Đỗ Chu lên đỉnh cao
của tài năng nghệ thuật. Cho tới thời điểm chúng tôi thực hiện luận văn này, tuổi đời của tác
phẩm Thăm thẳm bóng người chưa tròn ba năm. Điều đáng mừng là về cuối hành trình sáng
tác nghệ thuật, Đỗ Chu kịp tạo dựng thêm cho sự nghiệp văn chương của mình một thể loại
văn học mới phù hợp với cái tôi nghệ sĩ của nhà văn và đạt được những thành công rực rỡ.
Có thể nói, đó là những bông hoa nở muộn, lan tỏa và phô phang hương sắc sau một hành
trình dài tích lũy và ấp ủ. Từ đây trong lãnh địa tùy bút, nhắc đến cái tôi tài hoa phải nhắc
đến Đỗ Chu. Có thể sự tài hoa của Đỗ Chu chưa thể vượt qua nổi những cây đại thụ trong
nền văn học hiện đại như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Thạch Lam, Hoàng Phủ Ngọc Tường…
nhưng nói Đỗ Chu có sự cảm nhận tinh tế, tài hoa chắc chắn ai cũng phải gật đầu thừa
nhận.
Nhà văn tỏ ra rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, nắm bắt những biến đổi dù là
nhỏ nhất trong thiên nhiên. Đứng trước mùa xuân, Đỗ Chu lắng nghe tiếng chim ri hót,
chuyện trò trong mấy lùm nhãn. Ông gọi cái thanh âm trong trẻo ấy là những lời tình tứ của
đôi lứa yêu nhau. Đó là thông điệp riêng tư mà chỉ có những con chim ấy mới có thể hiểu
nổi. Nhà văn còn nghe cả tiếng gà gáy văng vẳng báo hiệu một ngày mới đang ló dạng.
Trong không khí náo nức của buổi sớm mai, nhà văn reo lên: “Chính mùa xuân đến rồi”.
Vậy là giai điệu của loài chim rừng, những hạt mưa lất phất, chỉ cần có thế, nhà văn đã biết
mùa xuân đang đến rất gần với tất cả tạo vật. Nhiều lần, với sự cảm nhận đầy tài hoa của
mình, Đỗ Chu đã vẽ lên những bức tranh bằng ngôn từ rất đẹp: “Và, lại vẫn là những cây
gạo đang mùa trổ hoa, những đám hoa như những vồng lửa thắp lên, cháy lên, đó là một
loại cây dâng hiến hết mình, yêu thương hết mình” [18; 300]. Đỗ Chu yêu thiên nhiên, đến
với thiên nhiên bằng xúc cảm tươi tắn, hồn nhiên nên không ít lần ông có được những bức
tranh văn xuôi giàu sắc thái và sinh động: “Những chùm hoa lên men màu vàng chanh, hoa
mà nom cứ như lá, hoa lá một hình giống nhau, giá không quen chả ai dám bảo đâu là hoa
đâu là lá. Sớm ra có nắng là nức mùi hoa men, chiều xuống mặt trời lặn là có mùi cây cơm
nếp. Trong bóng đêm choàng phủ mênh mông, khắp đường làng ngõ xóm, mùi cơm nếp
dâng lên ngào ngạt” [18; 258]. Bức tranh thiên nhiên của Đỗ Chu thật đa sắc, vừa có màu
vàng của hoa lá, của nắng vừa có mùi hương của hương hoa men, của cây cơm nếp. Nó
được nhà văn cảm nhận đa chiều với nhiều loại cảm giác khác nhau. Nhà văn phát hiện ra
có sự lan tỏa, xôn xao, phô bày hương sắc trong các loài thảo một tưởng chừng như bất
động, lặng lẽ, vô tình. Ai đến với tùy bút Hoa bờ giậu cũng sẽ đi ngang qua những giậu hoa
dại bên tường rêu phủ kín. Có lẽ, chính tâm hồn nhạy cảm, ẩn chứa nhiều tâm sự và triết lí
nhân sinh đã đưa người viết tìm đến những loài hoa dại: “Không thiếu những loài hoa đang
bò lan khắp bờ rào nhà ta. Những dây hoa mỏng manh yếu đuối tự trình bày thân phận của
mình một cách kín đáo bằng những chùm hoa nhỏ li ti, màu sắc âm thầm thì càng dễ ưa.
Chúng có hương thơm không thì chỉ có gió mới biết, những loài hoa dại khó lòng để có
hương thơm, nhưng sao vẫn thấy có đàn bướm bay lên đậu xuống, buớm hoa hoa bướm,
hoa bướm lẫn lộn, khiến rặng rào xao động hẳn lên” [18; 5-6]. Nhà văn đến với loài
hoa dại không chỉ bằng tình yêu cái đẹp dân dã, mộc mạc mà con bằng cả triết lí nhân sinh.
Hoa dại là thế đấy mà vẫn sở hữu được vẻ đẹp, khoe hương tỏa sắc với bướm ong, tạo ra
một không gian hò hẹn vô cùng tình tứ, thơ mộng. Có thể nói, nhà văn không quan sát
thiên nhiên bằng con mắt bình thường mà bằng cả sự nhạy cảm tinh tế và mạnh mẽ trước
thiên nhiên. Chính sự cảm nhận tinh tế, tài hoa mà thiên nhiên trong tùy bút của ông đã thơ
hóa những trang văn xuôi, tô điểm thêm nhiều màu sắc trong thế giới nghệ thuật tùy bút của
nhà văn Đỗ Chu.
Có thể nói rằng, cái tôi tùy bút của Đỗ Chu chưa làm cho người đọc phải say mê vì
những cá tính sáng tạo siêu phàm, vượt trội. Cái tôi tùy bút ấy rất lặng lẽ, khiêm nhường, ít
công phá, đậm chất thơ và sắc màu suy tưởng. Nhưng trong vô số những người viết tuỳ bút
ở nền văn học đương đại Việt Nam thì Đỗ Chu là một trong số ít người để lại dấu ấn rõ nét
và lâu bền nhất.
Chương 3: NGHỆ THUẬT TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU
Tùy bút của Đỗ Chu có sự pha trộn giữa thơ và truyện. Chính sự pha trộn này làm
nên vẻ đẹp lưỡng hợp cho các bài tùy bút mà trong đó hai yếu tố tự sự và trữ tình hòa nhập
vào nhau. Có thể thấy những thi pháp thường gặp của một tác phẩm truyện được kiến tạo và
sử dụng nhuần nhị. Cũng dễ hiểu thôi, vì Đỗ Chu vốn là nhà văn nổi danh với các tập
truyện ngắn già dặn. Việc xây dựng kết cấu, xác lập ngôi kể hay khắc họa chân dung với
ông không phải là xa lạ. Cho nên, Đỗ Chu có những đặc điểm nghệ thuật thuộc về thi pháp
truyện rất vững chắc, mang giá trị thẩm mĩ cao. Bên cạnh chất truyện, tác phẩm tùy bút của
Đỗ Chu mang một lối văn đậm chất thi ca. Đó là nhịp điệu và giọng điệu thi ca, ngôn từ thi
ca, hình ảnh thi ca…Cuộc hôn phối giữa thơ và truyện đã tạo sinh những trang văn mang vẻ
đẹp lưỡng hợp.
3.1 Kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa chân dung
3.1.1 Kết cấu
Nếu cốt truyện là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện thì “kết cấu là toàn bộ tổ
chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự
đặt ra cho mình” [67; 295]. Nó chính là một tổ chức sinh động và tạo ra hiệu quả tư tưởng
thẩm mĩ. Và như vậy có nghĩa kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục
của tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác
phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.
3.1.1.1 Kết cấu giản dị, tự nhiên
Đối với phần lớn các nhà văn thì xây dựng kết cấu cho tác phẩm là một việc làm quan
trọng và tốn nhiều thời gian, công sức thể hiện quá trình vật lộn, thai nghén của nhà văn với
tài liệu sống. Nhưng với nhà văn Đỗ Chu thì lại khác, ông đã từng tâm sự: “với tôi cốt
truyện không thành vấn đề lắm”, nên khi xây dựng kết cấu cho tác phẩm nghiêng về trữ
tình của mình, nhà văn không cần nhiều tâm lực, kĩ thuật. Theo như lời bộc bạch của Đỗ
Chu, nhà văn dường như không có thói quen xây dựng kết cấu tác phẩm trước khi viết, mà
kết cấu ra đời cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật của tác giả.
Nói đến kết cấu giản dị, tự nhiên trong tùy bút của Đỗ Chu trước hết phải đề cập đến
lối mở đầu và kết thúc tác phẩm. Dẫn vào đoạn mở đầu, bao giờ Đỗ Chu cũng lấy một đề
tựa thật ngắn gọn, dễ hiểu, chân phương. Trong số ba mươi hai tựa đề thì không có một tựa
đề nào đi ngược với sự giản dị, tự nhiên, tỏ ý làm duyên làm dáng, gợi sự tò mò hay khêu
gợi cho mọi người cuộc săn lùng lí thú. Những cái tên như Quê ngoại, Ghi chép ở Ban Mê,
Cát nóng, Một con người đã ra đi, Tản mạn trước đèn…xuất hiện trước phần mở đầu như
một dấu hiệu thẩm mĩ của một khúc dạo đầu nhẹ nhàng, giản dị. Người đọc có thể thấy một
số kiểu mở đầu thường hay xuất hiện trong tùy bút của Đỗ Chu. Đó là kiểu mở đầu bằng
những chiêm nghiệm về lẽ đời: “Con người ta tưởng vậy chứ không dễ mỗi lúc đã được gọi
cho ra đúng về nhau. Như anh Mai Ngữ đấy, nhà văn Mai Ngữ, quen biết nhau đã có trên
bốn chục năm, vậy mà đến lúc muốn viết về anh lấy dăm ba trang thì thật là khó. Không
phải anh nhạt, cũng không phải vì chưa hiểu anh, vậy là làm sao, là thế nào.” [17; 149];
“Hình như khi về già người ta đều muốn lui vào, cho nên nhà ông lang Bách mới nằm trong
một ngõ nhỏ của phố Tràng Tiền, ông Hoàng Cầm lại ở trong một các hẻm khác trên đường
Lí Quốc Sư, còn ông Kim Lân là xóm Hà Hồi.” [17; 129]; “Hình như mỗi nhà văn chúng ta,
ở mọi thế hệ đều đã cầm bút trong những điều kiện không mấy thuận lợi, rất nhiều người
sống chật vật. Hoàn cảnh xã hội lại càng bấp bênh” [17; 257]…Với kiểu mở đầu ấy, Đỗ
Chu đã tìm cho mình một cái cớ để dẫn chuyện, đồng thời tạo cho người đọc mối đồng
cảm, cùng trăn trở, suy tư ngay với ông ngay từ những câu văn đầu tiên của tác phẩm. Cái
vấn đề tưởng như vu vơ ấy hóa ra lại có một cái duyên lạ để bắt vần cho phần mở đầu của
một bài tùy bút. Có những bài tùy bút lại mở đầu theo kiểu hoài niệm: “Vậy mà đã trọn một
năm kể từ nhà văn Nguyễn Đình Thi qua đời. Giờ đây mỗi chúng ta vẫn như đang còn thấy
bóng dáng anh quẩn quanh đâu đó. Phảng phất trong hơi may, phảng phất trong mưa bụi,
trong hoa cỏ giêng hai quê nhà vẫn như có hồn anh” [17; 209]; “Vào cuối đời của Nguyễn
Minh Châu, ta thấy anh thường lặng lẽ mò vào Quảng Trị, chuyến lên núi, chuyến xuống
biển.” [17; 163]. Đây là một kiểu mở đầu cho những bài tùy bút viết về những nhân vật đã
qua đời nhưng trước đó từng in sâu vào tâm khảm nhà văn những kỉ niệm đẹp. Niềm
thương nhớ trở thành điểm tựa để tác giả tái hiện chân dung những người đã ra đi, làm
thành mạch xúc cảm chủ đạo xuyên suốt khắp tác phẩm.
Nhà văn Đỗ Chu cũng hay bắt đầu cho tác phẩm của mình bằng một vài nét chấm phá
cảnh sắc thiên nhiên: “Chim ri đã từng đàn từ đâu bay về nhảy trong mấy lùm nhãn trước
nhà. Và chúng hót, chúng ồn ã chuyện trò. Tôi ngồi bên cửa sổ hàng giờ lắng nghe tiếng
chim ngoài vườn và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ một cách qua công
khai nhưng ngoài chúng có lẽ chẳng ai trên đời này hiểu nổi.” [14; 5]; “Người Hà Nội bước
đi trên hè phố, nhìn thấy qua những lùm sấu quả chín vàng là một vòm trời bao giờ cũng
nhiều nắng.” [14; 79]; “Gió cứ mãi thổi ngoài kia. Mưa còn đang bay lây rây làm ướt nhão
mảnh vườn, vậy mà xuân thì đã lại.” [14; 104]. Ngoài ra còn nhiều kiểu mở đầu khác nữa.
Dù là kiểu mở đầu nào, Đỗ Chu vẫn luôn giữ một lối dẫn nhập hết sức tự nhiên, khác xa với
kiểu mở đầu hoa mĩ tạo ấn tượng mạnh mẽ như ta thường thấy ở một số cây bút khác.
Thống nhất với phần mở đầu tác phẩm, Đỗ Chu có những đoạn văn khép lại cũng
ngắn gọn, nhẹ nhàng, lấy sự dư ba làm mục đích thẩm mĩ. Ta thường thấy, phần cuối tác
phẩm thường là phần người đọc chờ đợi kết quả sau cùng, điểm mở nút, nhất là ở thể loại
truyện ngắn và tiểu thuyết. Nếu đọc tác phẩm văn chương chỉ để xem hồi kết của câu
chuyện như thế nào thì người ta sẽ gặp thất vọng hoàn toàn khi đọc tùy bút của nhà văn Đỗ
Chu. Bởi vì phần lớn đoạn kết tác phẩm thường là những dòng suy tư thâm trầm hòa với
những xúc cảm lắng đọng, mênh mang, khơi gợi những bài học về nhân sinh: “Cứ mỗi năm
lại thấy quanh mình vắng đi một vài người thân thiết, rồi trông vào gương thấy tóc mình
cũng đã bạc trắng cả, lòng không khỏi cô quạnh. Lại càng thấy phải biết yêu quí, lại càng
thấy phải biết nhường nhịn và có lẽ cũng sắp phải học lấy sự lặng lẽ lịch lãm của anh.” [17;
216]; “Những trái sấu thảng thốt rơi trên mái làm lòng ta bâng khuâng vì hiểu rằng mùa thu
đang về. Mùa thu năm nay là mùa thu nặng nề đối với mỗi người cầm bút trước sự rơi
xuống của một trong những trái cây cuối cùng của một mùa văn học kháng chiến. Sự ra đi
của anh Chính Hữu, một đại biểu xuất sắc của văn học đương đại Việt Nam là sự ra đi
mang ý nghĩa đó.” [18; 131]. Đỗ Chu thường gửi gắm bao nỗi suy tư cùng với điệu xúc cảm
nhẹ nhàng, sâu lắng, lan tỏa giữa những dòng văn giàu chất thơ trước khi khép lại tác phẩm.
Ai đó từng bảo: “Ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi người, cái bất ngờ cũng vẫn
thường tới”. Kết cấu hệ thống nhân vật và sự kiện trong tùy bút của Đỗ Chu cũng khá đơn
giản, mang tính đơn tuyến, hiếm có những mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật. Nhìn
chung, đối tượng thẩm mĩ mà nhà văn hướng đến chủ yếu là những nhân vật ưu tú, có
những nhân cách đẹp, tài năng và tài hoa. Trong các tác phẩm tự sự hiện đại, hệ thống nhân
vật xuất hiện dưới dạng thức đa tuyến, đa chiều, phát triển tối đa những xung đột với môi
trường xung quanh và trong nội tại của chính mình. Số lượng các nhân vật chính trong một
bài tùy bút của Đỗ Chu không nhiều. Nhất là các tùy bút chân dung, ông chỉ tập trung viết
về nhân vật chính, các nhân vật khác nếu có xuất hiện chỉ là phương thức để làm nổi bật
nhân vật chính. Bài tùy bút số 2 trong phần Hoa bờ giậu, Đỗ Chu viết về Việt kiều Thái tên
là Châu Kim Qưới. Hơn mười sáu trang, Đỗ Chu chỉ tập trung viết về cuộc sống và quá
trình phấn đấu của nhân vật trên nước Thái từ lúc còn trẻ cho đến khi về già. Nhà văn có
nhắc đến một số nhân vật khác như vợ của Thavi Quý, Bằng Việt, Trần Văn Giàu, Nguyễn
Văn Tạo, Nguyễn Đức Quỳ… cũng chỉ với dụng ý làm nổi bật chân dung của nhân vật
Thavi Quý mà thôi. Hay ở bài tùy bút số 6 cùng phần với tùy bút số 2 ở trên, nhà văn Trần
Hoài Dương hiện lên với tất cả những sự kiện cốt yếu trong cuộc sống đời thường và trong
sự nghiệp cầm bút của ông. Từ sự kiện Trần Hoài Dương rời bỏ báo Văn nghệ vào Nam
nhận công tác đến việc ông có mặt tại trường giáo dưỡng trẻ vị thành niên, rồi những cuốn
sách ra đời từ những trải nghiệm trong khoảng thời gian dài….Tất cả dần dần hiện lên tự
nhiên mà không cần đến những xung đột hay mâu thuẫn dữ dội từ bên ngoài hay bên trong
nhân vật. Theo đó, những khái niệm thắt nút, mở nút, phát triển, cao trào hầu như không
được vận dụng trong sáng tác tùy bút của Đỗ Chu. Chuỗi sự kiện phản ánh quan hệ xã hội
và bản chất của nhân vật, phản ánh sự vận động của nhân vật. Tuy nhiên, sự kiện trong tùy
bút của Đỗ Chu chủ yếu có tính chất đơn nhất, giũ vai trò bổ sung, hỗ trợ cho nhau, góp
phần làm sáng tỏ chân dung nhân vật. Tổng hợp các sự kiện, người đọc có cái nhìn toàn
diện về các nhân vật mà nhà văn xây dựng
Hơn nữa các hệ thống sự kiện cũng được tái hiện hết sức tự nhiên, tưởng chừng như
rời rạc, không có mối liên hệ với nhau nhưng lại được chi phối bởi một mạch cảm hứng chủ
đạo tạo nên sự thống nhất, kết dính với nhau theo dòng ý thức tự sự hết sức liền mạch. Nhà
văn như một người thích ngao du đó đây, từ hiện tại lùi về quá khứ rồi từ quá khứ lại trở về
hiện tại, hòa trộn, đan xen hiện tại và quá khứ trong không gian nghệ thuật rất riêng của nhà
văn. Nhà văn hết đến với thế giới con người này lại đến với thế giới con người khác, hết tả
cảnh rồi đến kể chuyện con người, chốc chốc lại bày tỏ xúc cảm hay nỗi trăn trở về nhân
tình thế thái, rồi nghiệm ra những nghĩa lí của cuộc đời…Trong tùy bút Quê ngoại, nhà văn
bắt đầu từ nhân vật Nguyễn Khải, sau đó kể lại cuộc thăm thú cảnh vật Thuận Thành, song
song đó là những nhận xét về nhà văn Nguyễn Khải. Dần dần, Đỗ Chu đề cập đến các nhân
vật tài danh ở xứ Kinh Bắc qua dòng hồi tưởng như Trần Đức Thảo, Đỗ Đình Chất, Ngô
Ngọc Quản…Cảnh và người Kinh Bắc cứ thế hiện lên tự nhiên và sống động, cuối cùng
nhà văn trở về với hiện tại thấy vùng đất Kinh Bắc, chiếc nôi nuôi dưỡng nhiều danh nhân
văn hóa. Từ đó ông thêm yêu, thêm tự hào, thêm gắn bó với miền quê Kinh Bắc dấu yêu.
Cái sự thoải mái, tung tăng trong cảm xúc và ý tưởng của chủ thể sáng tạo góp phần quan
trọng tạo nên đặc trưng cho thể loại này.
Có thể thấy bố cục trần thuật cũng hết sức tự do, không t heo một khuôn mẫu nào,
mang tính năng động, linh hoạt. Những đoạn văn dài ngắn khác nhau, lúc thì mang một nội
dung lớn, lúc chỉ là một điểm nhấn của cảm xúc, giọng điệu. Khảo sát một số đoạn văn,
chúng tôi thấy có đoạn rất dày những tình tiết, sự việc như đoạn văn nói về cuộc sống gia
đình của thầy giáo Vũ Đình Chất gồm 35 dòng (Quê Ngoại, trang 123 đến trang 125), đoạn
văn nói việc họa sĩ Linh Chi gồm 42 dòng (Bài tùy bút số 3 trong Thăm thẳm bóng người,
từ trang 126 đến trang 127), đoạn văn nói về nhà văn Mai Ngữ gồm 41 dòng (Lời mai trò
chuyện, từ trang 157 đến trang 159)…Bên cạnh đó là những tiểu đoạn, có khi chỉ là một
câu: “Ung dung biết mấy, điềm tĩnh cứng cỏi biết mấy. [17; 147]; “Rồi ông Nguyễn Huyến
cũng bày tranh với những bức sơn dầu lớn, mang phong cách hiện thực, bút pháp cổ điển
chắc chắn. [18; 214] ; “Cụ Thiên Tích ngồi lặng lẽ trước bàn, chén nước cầm trong tay
nguội lâu rồi, ánh mắt đặt vào một nơi xa xôi” [18; 317]… Có thể nói, không chỉ những chi
tiết và các nhân vật xuất hiện tự nhiên, tùy hứng mà số lượng câu trong một đoạn văn, số
đoạn văn trong một bài tùy bút, dung lượng của các bài tùy bút cũng không theo một sự qui
định nào mà hoàn toàn tự nhiên, tùy thuộc vào mạch cảm hứng. Có lẽ, mạch cảm xúc đến
đâu thì bố cục nối bước theo đến đó. Nhờ thế mà kết cấu tác phẩm mang tính tự nhiên, giản
dị.
Một điểm cuối ở phần này là điểm nhìn trần thuật của nhà văn Đỗ Chu qua nghìn
trang tùy bút. Ở đây có một sự nhất quán trong điểm nhìn trần thuật. Xét trên phương diện
trường nhìn trần thuật, tức là điểm nhìn bao quát cái phần thế giới được nhìn từ một chỗ
đứng nào đó, có thể chia làm hai loại: trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật. Tùy bút
của Đỗ Chu là tác phẩm tự sự nhưng mang đậm chất trữ tình. Người đọc dễ nhận ra các tác
phẩm tùy bút của ông có trường nhìn nhân vật. Cần lưu ý rằng, nhân vật này chính là tác
giả, là cái tôi tùy bút của Đỗ Chu. Nhờ thế, tác giả dễ dàng thể hiện quan điểm riêng, sắc
thái tâm lí, cá tính, tình cảm khiến tác phẩm đậm chất thơ. Cái tôi tùy bút Đỗ Chu nhìn sự
kiện, nhân vật dưới nhiều góc độ và góc cạnh khác nhau, nhiều chiều kích khác nhau, có
khi hòa trộn những cái tưởng chừng như cách xa nhau vào một khối thống nhất. Chính sự
phối hợp các thành phần trần thuật, sự đan xen, luân phiên các sự kiện, và các đoạn tả cảnh
và các đoạn bộc lộ trực tiếp suy nghĩ và tâm trạng, các đoạn hồi tưởng… đã tạo nên một
nhịp điệu trần thuật đa sắc nhưng lại tự nhiên, thoải mái.
3.1.1.2 Kết cấu lồng và xâu chuỗi nhiều chuyện kể trong cùng một tác phẩm
Lồng chuyện là kiểu tự sự trong đó trên cái nền của một chuyện kể chạy dọc từ mở
đầu đến kết thúc tác phẩm, nhà văn đã đính vào trong cái câu chuyện cơ bản một số câu
chuyện nhỏ khác nhằm bổ sung ý nghĩa cho vấn đề tự sự. Có thể khái quát kiểu kết cấu này
theo mô hình sau: một câu chuyện chính + một hay nhiều câu chuyện phụ. Đó là mô hình
xương cá. Như thế có nghĩa là trong dòng tự sự đã được phân chia thành từng tầng bậc lớn
nhỏ, chính phụ. Còn xâu chuỗi chuyện là kiểu tự sự mà trong đó người viết tập hợp nhiều
câu chuyện khác nhau nhưng cùng cấp độ trong cùng một tác phẩm nhằm làm nổi bật một
chủ đề nào đó. Đối với tùy bút, kiểu kết cấu này khá phổ biến, thể hiện đặc trưng thể loại.
Người viết có thể kể chuyện nọ xọ chuyện kia, pha trộn nhiều loại không gian và thời gian
khác nhau một cách tự do, phóng túng.
Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy tùy bút của Đỗ Chu sử dụng kiểu trần thuật như trên
khá phổ biến. Tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn là tác phẩm sử dụng kết cấu chuyện lồng
chuyện. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện về cụ giáo Thấu, một người đam mê nghiên
cứu và sưu tầm văn hóa – văn học Tây Nguyên, nhất là sử thi Đăm Săn. Cụ giáo Thấu là
người gốc Huế, tính tình phóng khoáng thích bay nhảy hoạt động, sớm tham gia phong trào
Hướng đạo sinh. Năm 1936, cụ Thấu từ Huế ngồi tàu hỏa ra Hà Nội xin vào trường học
Thăng Long, sau một năm thi đỗ Secondaire, lại chào Hà nội về Huế kịp thi vào trường Sư
phạm. Cụ học cấp tốc một năm, học xong lại được điều lên Ban Mê Thuộc. Và thế là thành
gắn bó lâu dài với nơi này, quần áo trắng, mũ trắng, giày tất trắng, thanh xuân và nghị lực,
thầy giáo Thấu nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống nơi miền đất lạ. Sau ngày đất nước
thống nhất, cụ về sống tại Hà Nội, vẫn lặng lẽ đi về với Tây Nguyên. Hạnh phúc nhất là cụ
đã hoàn thành công trình dịch thuật và hiệu đính bộ khan Đăn Săn. Đó là chuyện đóng vai
trò chủ đạo, được triển khai xuyên suốt tác phẩm. Men theo câu chuyện về cụ Thấu, còn có
những câu chuyện khác với vai trò phụ bổ trợ. Khi đề cập đến các vị tiền bối có công trong
việc sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên, nhà văn còn kể về cụ Điểu Câu. Đóng góp to
lớn của cụ là những bộ sách lớn viết về văn hóa Tây Nguyên trong mấy thập kỉ qua. Cụ
xứng đáng là đại biểu của văn hóa Tây Nguyên. Nhiều người nhờ sự giúp đỡ của cụ mà có
được những công trình khoa học thành công. Ở một chi tiết khác, khi nói về truyền thống
yêu nước nồng nàn của người dân Tây Nguyên, nhà văn đã kể về câu chuyện chiến đấu của
những nhân vật tiêu biểu như Kpa Thiên, Rơ Chăm Yon, Y Đon, Y Blốc Êban…Họ đã
dũng cảm hi sinh trong tư thế tuyệt vời của người anh hùng. Một câu chuyện thứ ba được
lồng vào là chuyện về Lé on Sabatier. Ông là người Pháp, được chính quyền điều sang
Đông Dương để làm quan cai trị. Do quá yêu Tây Nguyên mà ông quên mục đích mà thực
dân Pháp đưa ông đến đây. Ông bị cách chức điệu về nước. Sau đó, ông đã cho ra mắt đọc
giả những công trình nghiên cứu, kết quả của những năm tháng ông sống và tìm hiểu Tây
Nguyên. Như thế, tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn có đến bốn câu chuyện, trong đó có
một chuyện chính và ba chuyện phụ.
Tùy bút số 3 trong Thăm thẳm bóng người là bài viết Đỗ Chu dành riêng cho họa sĩ
Linh Chi. Toàn bộ tác phẩm là cuộc tái hiện cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của họa sĩ
Linh Chi. Ông là người Vĩnh Thành, Vĩnh Yên. Linh Chi có một người anh cả và một chị
gái, sau ông còn có một người em nữa, đó là nhà văn Trọng Hứa. Học xong lớp nhất, Linh
Chi cùng em thi vào trường Gia Long. Năm 1942, Linh Chi có bằng Diplomè, rồi chuẩn bị
thi vào Beaux arts de Lindochine. Sau đó Linh Chi tham gia kháng chiến, dùng cả tài năng
và tâm huyết phục vụ kháng chiến. Họa sĩ Linh Chi từng có những cuộc triển lãm tranh ấn
tượng. Khi tuổi về già, ông cùng người vợ sống bên đàn con cháu vui hưởng cảnh sum vầy,
đề huề. Bên cạnh câu chuyện về Linh Chi là một chuỗi những câu chuyện phụ khác. Liên
quan đến việc Linh Chi rút ra khỏi biên chế nhà nước, nhà văn muốn nêu một xu hướng
xem trọng chỗ đứng trong biên chế thời bao cấp bằng hai câu chuyện. Thứ nhất là chuyện
đôi vợ chồng đem nhau ra tòa bởi một lí do kì quặc là anh chồng mắc phải chứng bệnh ăn
khỏe ! Câu chuyện thứ hai là về một thiếu nữ phải lấy người mà cô không hề yêu thương.
Nguyên nhân khiến gia đình cô ép gả cho anh chàng mặt rỗ là vì anh ta có chỗ đứng vững
vàn trong biên chế. Từ cái xương sống của câu chuyện chính về Phạm Tiến Duật, nhà văn
rẽ ngang nói về nhiều nhà văn khác như Ngô Văn Phú, Vũ Thị Thường, Nguyễn Khắc
Phục, Xuân Quỳnh…, về nhiều câu chuyện khác, chuyện trao giải, chuyện tiếp nhận thơ,
chuyện về những bà mẹ. Tất cả những câu chuyện ăn theo trở thành phụ đề quan trọng góp
phần làm câu chuyện chính đi sâu hơn vào lòng người đọc.
Một kiểu khác rất gần với kiểu kết cấu lồng truyện là kết cấu xâu chuỗi. Nghĩa là các
câu chuyện được nối kết với nhau để làm nổi bật một chủ đề của tác phẩm trong mối quan
hệ song hành, bình đẳng. Quê ngoại là một trong những tùy bút tiêu biểu cho kết cấu này.
Tác phẩm bắt đầu từ cuộc trở về thăm quê hương của tác giả và nhà văn Nguyễn Khải.
Nhân đó, ông kể về Nguyễn Khải, một người suốt đời khắt khe đòi hỏi bản thân, trong cách
sống cũng như cách viết. Với tư cách là người cầm bút, Nguyễn Khải sẵn sàng can thiệp,
thúc đẩy mọi người đi tới, nhiều khi không còn biết kiêng nể. Suốt nửa thế kỉ, ông là người
làm việc không mệt mỏi. Những trang văn của ông mang hơi thở của hiện thực cuộc sống,
có sức tỏa sáng và có trọng lượng trên văn đàn. Tiếp đến là câu chuyện về nhà văn Kim
Lân. Ông là nhà văn của người nghèo, không chỉ nổi tiếng với các truyện ngắn viết về
người nông dân mà còn có những tác phẩm cuốn hút những độc giả nhỏ tuổi nữa. Nhân
đây, Đỗ Chu đã lồng câu chuyện về chàng hiệp sĩ gỗ vào câu chuyện về Kim Lân. Đây là
một kiểu kết cấu lồng chuyện theo mối quan hệ chính phụ. Tiếp đến, nhà văn kể về nhà
nghiên cứu triết học Trần Đức Thảo. Một đoạn văn khá dài nói về gốc gác, quá trình du
học, quá trình nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy của ông. Đoạn tiếp theo, nhà văn dành để
đề cập đến cuốn sách nổi tiếng của Trần Đức Thảo, tác phẩm Nguồn gốc của ý thức và
ngôn ngữ. Sau đó, nhà văn nhắc lại đôi kỉ niệm sinh thời của Trần Đức Thảo. Chuyện thứ
ba là chuyện về thầy giáo Đỗ Đình Chất và chuyện thứ tư là chuyện về kĩ sư Ngô Ngọc
Quản. Như vậy, trong tùy bút Quê ngoại có bốn chuyện chính được xâu chuỗi theo kiểu
song hành và một chuyện có kết cấu theo kiểu lồng chuyện.
Nét chung của kết cấu lồng và xâu chuỗi chuyện trong tùy bút của Đỗ Chu là có một
khúc đoạn chuyện ở hiện tại có tính chất giới thiệu, gợi hứng, là cái cớ để dẫn dắt người
đọc đi vào những chuyện và những khúc đoạn tiếp theo, trong đó có chuyện ở quá khứ, sau
đó lại trở về về hiện tại. Tuy nhiên, dù quá khứ hay hiện tại, dù vai trò giới thiệu hay bộc lộ
chủ đề, thì tất cả đều có sự thống nhất, cùng chung một mục đích nhấn mạnh hay khắc họa
nội dung tư tưởng, tình cảm mà tác giả gửi gắm. Cần lưu ý rằng, kết cấu này chịu sự chi
phối bởi cái tôi tùy bút mang đậm màu sắc cá nhân và ấn tượng chủ quan. Thế nhưng, nó
hoàn toàn không phá vỡ sự giản dị, tự nhiên như đã đề cập ở phần trên. Nó làm cho tuỳ bút
của Đỗ Chu có một thế giới đa diện, đa sắc như chính cuộc sống đời thường vốn có nhiều
nẻo quanh co, uốn khúc.
3.1.2 Ngôi kể
Hiểu một cách đơn giản đây chính là cách nhân vật đứng ra là người trần thuật, tổ chức
thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, vì phương diện cơ bản của phương thức tự sự là giới
thiệu, khái quát thuyết minh, miêu tả đối với sự vật, sự việc, hoàn cảnh, sự vật theo cách
nhìn của người trần thuật nhất định. Như vậy nghĩa là bất cứ một nhà văn nào khi kiến tạo
tác phẩm cũng phải lựa chọn cho mình một chỗ đứng thích hợp, bởi nghệ sĩ không thể miêu
tả, trần thuật sự kiện về đời sống được, nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với
sự vật hiện tượng. Việc lựa chọn một chỗ đứng thích hợp tham gia trực tiếp hay đứng ngoài
sự việc tự sự sao cho cuốn hút người đọc là một trong những thước đo để khẳng định tài
năng nghệ thuật và tạo ra nét độc đáo cho người nghệ sĩ. Nó vừa chịu sự qui định về chủ đề,
tư tưởng nhà văn muốn trình bày trong tác phẩm, vừa chi phối cách lựa chọn chi tiết, sắp
xếp bố cục…Từ đó, chúng ta có thể thấy, nghệ thuật kể chuyện không chỉ giúp nhà văn xây
dựng được một chỉnh thể nghệ thuật mà còn là một trong những yếu tố góp phần tạo nên
phong cách nghệ thuật của nhà văn.
Với Đỗ Chu điều đó không ngoại lệ. Để tạo nên phong cách nghệ thuật cho riêng
mình, Đỗ Chu không bao giờ sử dụng thuần nhất một kiểu trần thuật. Trong toàn bộ sáng
tác của Đỗ Chu, chúng tôi nhận thấy luôn có sự thâm nhập, đan xen, phối hợp, dịch chuyển
nhiều kiểu trần thuật, tạo nên sự hấp dẫn, uyển chuyển, linh hoạt trong nghệ thuật dẫn
truyện. Văn xuôi Đỗ Chu nhìn chung sử dụng chủ yếu ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba để trần
thuật. Riêng ở thể loại tùy bút, Đỗ Chu trần thuật chủ yếu ở ngôi thứ nhất.
Sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm tuỳ bút, cũng
là chủ thể sáng tạo – cái tôi người nghệ sĩ. Có thể gọi đó là cái tôi tự thuật về chuyện đời,
chuyện người. Khác với hình thức tự sự ở ngôi thứ ba, chủ thể kể chuyện trong tùy bút
được đặt trong chính các sự kiện hay có mối liên hệ và hiểu rất rõ đối tượng mình phản ánh.
Và với hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất, nhà văn có điều kiện bộc lộ trực tiếp tư tưởng, tình
cảm của mình một cách trọn vẹn, dồi dào và phong phú.
Với ba muơi hai bài tùy bút, Đỗ Chu đã khơi dậy cả một thế giới rộng lớn bên ngoài
tác giả và thể hiện chiều sâu nội cảm của chính mình. Chưa lúc nào thấy cái tôi tùy bút
trong ông ngừng sôi nổi hay lãnh đạm với những hiện tượng, mà luôn luôn tỉnh thức để
nhận thức và rung cảm. Hơn nữa, cái tôi ngôi thứ nhất ấy cũng có sự gắn bó sâu sắc và mật
thiết với cuộc sống và có ý thức thẩm mĩ cao.
Sử dụng ngôi thứ nhất để trần thuật, Đỗ Chu dễ dàng hiện thực hóa những cái xảy ra
trong quá khứ. Đó là cái tôi kí ức. Nó cho phép người trần thuật cất lên tiếng nói thầm kín
trong tâm hồn và mở ra cuộc đối thoại với chính mình và với cuộc đời. Nhà văn ngược
dòng thời gian đến với cái đã qua và trở về với chính mình. Khảo sát lại ngôn từ nhân xưng
dành cho ngôi thứ hai và ngôi thứ ba, chúng tôi nhận thấy vô cùng phong phú, đa dạng. Khi
thì tác giả gọi nhân vật của mình – đối tượng phản ánh là cụ như cụ Hoa Bằng, cụ Bùi Kỉ,
cụ lang Bách, cụ giáo Thấu, cụ Điểu Câu…; khi thì gọi là ông như ông Kim Lân, ông
Nguyễn Tuân, ông Nguyễn Công Hoan…; khi thì gọi là anh như anh Chính Hữu, anh
Duật, anh Linh Chi, anh Mai Ngữ, anh Thâm, anh Hiến, anh Đa…Mỗi một lớp đối tượng,
ngôi thứ nhất tự sự đều có kiểu gọi phù hợp, thể hiện được thái độ tình cảm của người kể
chuyện.
Với ngôi thứ nhất, người trần thuật có thể tự do đi về trên bất cứ một sự kiện nào, một
chân dung nào. Nhờ thế mà cái tôi tùy bút giãi bày được tất cả những gì mà mình đã trải
qua, đã trông thấy, đã cảm nhận. Cái tôi ở ngôi thứ nhất còn mở đường cho tác giả đi vào
phản ánh, ghi lại một cách một cách trọn vẹn những gì mà ông lưu tâm đến.
Như vậy, có thể nhận thấy qua các tác phẩm tùy bút của Đỗ Chu, tự sự ở ngôi thứ nhất
theo cái nhìn đa tuyến đã được khai thác một cách triệt để. Cái tôi ở ngôi thứ nhất tồn tại
với tư cách chủ thể sáng tạo, vừa phản ánh vừa giãi bày, giao hòa giữa tự sự và trữ tình,
giữa đối tượng thẩm mĩ và chủ thể thẩm mĩ. Nói tới lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất, bên cạnh
những ưu điểm của nó, người ta thường nói tới mặt hạn chế: đem lại cho người đọc cảm
giác đơn điệu, nhàm chán, bởi khi trần thuật, tác phẩm thường dừng lại ở một góc nhìn của
người kể chuyện. Nhưng sáng tác của Đỗ Chu đã vượt qua được những hạn chế đó. Bởi vì
điểm nhìn trần thuật của ông luôn có sự thay đổi đối tượng thẩm mĩ, tạo nên một thế giới đa
dạng, nhiều màu sắc và không bị trùng lặp về nội dung phản ánh cũng như những sắc điệu
tình cảm của chính người kể chuyện.
3.1.3 Nghệ thuật khắc họa chân dung
Như đã nghiên cứu ở chương một, phần lớn hình tượng thẩm mĩ trong tùy bút của Đỗ
Chu là các chân dung: chân dung người lính, chân dung nghệ sĩ, chân dung trí thức bác học,
chân dung Bác Hồ, chân dung người mẹ, chân dung các em bé Kinh Bắc…Những chân
dung ấy hiện lên thật sống động và có giá trị tạo hình cao. Kiểu khắc họa tính cách nhân vật
trong tùy bút vốn có sự khu biệt rất lớn so với truyện ngắn và tiểu thuyết, bởi một bên là
hoàn toàn hư cấu, còn một bên là những nhân vật có thật được nghệ thuật hóa theo ý đồ
nghệ thuật của nhà văn. Mức độ hư cấu trong tùy bút vì thế rất ít ỏi, hạn chế, chỉ dừng lại ở
nghệ thuật tổ chức, sắp xếp, sử dụng ngôn từ nghệ thuật mà tái tạo lại những con người thật
trở thành hình tượng thẩm mĩ. Chân dung trong tùy bút của Đỗ Chu mặc dù không hoàn
toàn là hư cấu nhưng lại có tính khái quát cao, thể hiện những hiểu biết, những khát khao,
ước vọng của nhà văn về con người. Trong phạm vi nghiên cứu của công trình này, chúng
tôi chỉ tập trung tìm hiểu nghệ thuật sử dụng chi tiết, nghệ thuật tái hiện dòng độc thoại nội
tâm và nghệ thuật cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật.
Có thể thấy tính cách, tâm trạng của nhân vật được khắc họa bằng nhiều chi tiết. Mỗi
loại chân dung lại có một hệ thống chi tiết khác nhau. Phải nói rằng Đỗ Chu là người có
tầm hiểu biết sâu rộng, tích trữ riêng cho mình một vốn kiến thức đồ sộ. Chính những hiểu
biết và trải nghiệm quí báu ấy là chất liệu để ông nhào nặn thành những chi tiết đắt giá làm
nổi bật chân dung. Ông đã sử dụng rất nhiều chi tiết hay, phù hợp với tính cách, tâm trạng
của nhân vật. Khi viết về nhà thơ Phạm Tiến Duật, để người đọc thấy một Phạm Tiến Duật
tài hoa, giàu tư chất nghệ sĩ, nhà văn đã lấy chi tiết các cô thanh niên xung phong háo hức
muốn nghe thơ ông trong cuộc gặp gỡ giữa Đỗ Chu với họ. Nhờ nhớ mấy câu trong bài thơ
Cô bộ đội ấy đã đi rồi của Phạm Tiến Duật mà nhà văn được các nàng đón tiếp niềm nở,
nồng hậu. Chi tiết Phạm Tiến Duật được nhận giải nhất về thơ do báo Văn nghệ tổ chức,
chi tiết nhà thơ cảm hứng viết nhiều bài thơ trong những lần đi đó đây, chi tiết nói về quan
niệm sáng tác của nhà thơ, tất cả cũng đều có giá trị khắc họa sở trường thơ ca của Phạm
Tiến Duật. Viết về TS. Hồ Ngọc Đại, nhà văn gợi lại cái sở nguyện của ông với Thủ tướng
là được dạy cấp một. Cái chi tiết đắt giá ấy làm cho chân dung nhân vật bỗng hiện lên đẹp
rạng ngời. Hóa ra, sự học của ông không nhằm mục đích để được đền bù bằng địa vị, danh
lợi mà nhằm để góp phần cải thiện, nâng cao công tác giáo dục. Đỗ Chu còn bổ sung vào
tính cách trong sáng, đầy nhiệt huyết của ông Đại qua các chi tiết nói về thực tế và kết quả
dạy học của ông và nhóm thầy cô tận tâm với nghề dạy trẻ. Với các chân dung, Đỗ Chu
không có thói quen nói suông mà nói với chúng ta về nhân vật bằng các chi tiết và thông
qua các chi tiết. Cần lưu ý rằng những chi tiết này là những chi tiết có thật nhưng đã được
nghệ thuật hóa. Dù vậy, nhà văn cũng không để cho chi tiết trở nên quá nhiều dẫn đến thừa
thải hay đi đến xu hướng minh họa tính cách. Do đó, mỗi lần chi tiết xuất hiện thì bao giờ
cũng gắn liền với một ngữ cảnh cụ thể. Có khi chỉ với một chi tiết thôi, Đỗ Chu cũng vén
mở được một nhân cách sống đẹp. Họa sĩ Linh Chi, một nghệ sĩ tài hoa, có mối quan hệ khá
thân tình với Đỗ Chu. Trong một lần đến chơi, ông có cảm hứng vẽ chân dung Đỗ Chu.
Thời gian đưa thoi, bao biến động riêng chung xảy đến, một lần tao ngộ, Linh Chi đã đem
bức vẽ năm nào tặng cho Đỗ Chu. Thế mới biết, Linh Chi không chỉ là họa sĩ tài hoa mà
còn là người trọng tình cảm và có cách khu xử đầy cảm động đối với bạn bè thân hữu. Với
chi tiết Kim Lân từ chối cụ lang Bách tặng bài thơ có vẻ đài các, tr ang trọng chỉ vì hình
tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ ấy quá tầm thước, đĩnh đạc. Tính cách khiêm nhường,
chân thành, không thích làm ra dáng vẻ cao đạo, mẫu mực mà thích xuề xòa, gần gũi của
Kim Lân được biểu hiện rõ nét.
Tính cách nhân vật trong tác phẩm tùy bút của Đỗ Chu, trừ một số bài viết về trận
chiến thì hầu như không có những chi tiết mâu thuẫn, xung đột giữa các tuyến nhân vật. Có
chăng chỉ là những yếu tố môi trường, điều kiện sống để các nhân vật của ông hiện lên
không giống nhau. Trong phần tùy bút Thăm thẳm bóng người, ở bài số 2, ý chí vươn lên
của Việt kiều Thái, ông Thavi Quý, được tô đậm khá rõ nét: “Năm 1951, cơ quan này phải
đóng cửa, ông Quỳ về nước để nhận nhiệm vụ khác còn anh Quý thì xin phép được ở lại,
định cư hẳn bên Thái. Thân cô thế cô, bắt đều bằng một thời lang bạt với hai bàn tay trắng
và một cái túi rỗng lặn lội sống giữa xứ người” [18; 30].
Việc nhà văn miêu tả thành công tâm lí của chân dung nhân vật phải kể đến dòng độc
thoại nội tâm. Đây là một phương tiện giúp nhà văn đi sâu vào thế giới nội cảm của nhân
vật. Tùy bút Ghi chép ở Ban Mê kể câu chuyện xúc động về người chiến sĩ xích vệ năm xưa
nay tìm về mảnh đất Tây Nguyên nơi lưu dấu những kỉ niệm một thời. Ở đó, ông đã từng
chiến đấu và sống những năm tháng cơ cực. Hành trình tìm về với vùng đất này là tìm về
trả nợ những người đã cưu mang, cứu sống ông như hai ông cháu người dân tộc Y Bí Alêô.
Đỗ Chu ghi lại những xúc cảm dạt dào của ông Đắc khi tìm về chốn xưa qua dòng độc thoại
nội tâm. Cảnh đổi thay, người xưa vắng. Người xích vệ ngẩn ngơ nhớ đến đồng đội cũ.
Nghe bài Độc huyền cầm của một ông bạn nhạc sĩ, ông Đắc cảm thấy xót xa, thương cho sự
cô đơn, lẻ loi của mình: “Độc huyền cầm buồn lắm mấy ai tri ân, độc huyền cầm lẻ loi
ngang cánh chim hồng, bất phong kì tả tơi, Lĩnh nam cầm lả lơi, khách anh hùng còn ai tri
âm, độc huyền cầm, gió mây ngàn bể đông cũng thu về một bóng, tráng sĩ ngồi lặng câm tri
âm độc huyền cầm” [17; 25]. Đôi khi ông Đắc tự hỏi sao mình lại thương nhớ mảnh đất
Tây Nguyên này. Phải chăng phần đời trai trẻ của ông đã nằm lại nơi đây, cả đứa con trai
của ông cũng chết trên mảnh đất này mà chưa tìm thấy xác ? Chính mảnh đất thiêng liêng
này đã nợ ông một món nợ lớn. Đôi lúc buồn cho thân phận, ông tự buông xuôi: “Thôi thì
mặc kệ đời, nước trôi thuyền trôi, ta đâu phải là người đội đá vá trời. Hãy cứ cố mà sống
thêm lấy dăm mười năm thử xem đời sẽ đi về đâu” [17; 25]. Lúc nào ông cũng mang nặng
nỗi thướng nhớ Tây Nguyên: “Con người ta rất có thể sinh một nơi, chết một nơi và suốt
đời lại mang một lòng thương nhớ về một nơi khác” [17; 25]. Và ông phải tự tìm thấy niềm
vui bằng việc nâng niu, gìn giữ kí ức: “Như là số phận vậy, hạnh phúc mà ta tìm thấy ở nơi
này có lẽ không gì khác hơn là ta biết yêu thương nó” [17; 44]. Hình như tuổi già mang đến
cho người ta những suy nghĩ hướng vào thế giới tinh thần nhiều hơn, tự soi bóng mình
trong mặt nước thời gian tĩnh lặng phảng phất hơi sương của kí ức. Đọc tùy bút Ông già
ngồi dịch Đăm săn, người đọc thường trông thấy hình dáng cụ giáo Thấu lặng lẽ trong
không gian nhỏ quen thuộc sau mấy mươi năm rong ruổi kiếm tìm nét đẹp văn hóa của
miền đất Tây Nguyên bao la, rộng lớn: “Cụ Thấu toan ngồi vào bàn thì có tiếng kẹt cửa, cụ
bà đang nhòm vào, chắc là bà ấy xem mình có còn ngồi đây nữa hay không chứ gì, bà cứ
yên tâm đi. Thấu này vẫn còn tiếp tục ngồi, nó còn ngồi đây lâu (…) Hôm nay mà Thấu này
còn chưa được vui thì hỏi còn là hôm nào đây. Cụ nhìn ra ngoài cửa sổ, mưa bụi đang làm
mờ mịt một vùng thành phố. Đầu óc lại chợt muốn quay về với những ngày đã xa, cụ lại
nghĩ đến họ, những học trò, những đồng chí của cụ. Tất cả đều được cụ điểm danh, từng
khuôn mặt đều được cụ gọi về. Thấu này vẫn đang sống xứng đáng với các bạn, Thấu này
vẫn đang làm việc và nó đang bước đến gần, nó đang sờ thấy kết quả của công việc” [17;
62]. Như thế, dòng tâm tư miên man của cụ giáo Thấu đưa người đọc đến với thế giới nội
tâm của ông, một người từng kinh qua những năm tháng tìm tòi, cống hiến không mệt mỏi.
Những năm tháng ấy không ngừng bồi đắp lên tâm hồn người thầy giáo ấy bao kỉ nệm thân
thương, ấm áp. Cụ lặng lẽ ngắm mình sau ba mươi năm ròng rã gắn bó với Tây Nguyên dấu
yêu và phập phồng nghĩ về công trình nghiên cứu, dịch thuật, hiệu đính sử thi Đăm Săn của
mình sắp được ra mặt độc giả. Rõ ràng, với dòng độc thoại nội tâm, nhà văn khơi sâu, khắc
họa có chiều sâu hơn đời sống nội tâm của nhân vật.
Một thành công khác trong nghệ thuật khắc họa chân dung là nhà văn sử dụng một hệ
thống ngôn từ đắc địa, ấn tượng, thâu tóm thần thái, tính cách cũng như những đặc điểm
thuộc về nhân vật. Vì thế, ấn tượng về mỗi nhân vật không bao giờ bị trùng lập hay chồng
chéo. Nhà văn sáng tạo ra những câu chữ giàu sức biểu hiện theo cái nhìn rất riêng tư của
tác giả. Sau khi viết về chặng đường mà nhà văn Trần Hoài Dương đã trải qua, những dấn
thân và phấn đấu không ngừng trong sự nghiệp cầm bút, Đỗ Chu dành những lời cảm nhận
về văn phong của ông: “Hay một cách yên ả, không ồn ào, đẹp một cách mong manh dung
dị như cây cỏ lan kia đang lặng lẽ tỏa hương nơi u cốc (…) Anh đã nói được với họ nhiều
lắm, đã nói được điều có ý nghĩa rất chính yếu, rất căn bản, đó là việc ngày ngày chăm chỉ
nuôi dưỡng lòng trung hậu, lòng nhân ái” [17; 95]. Hãy xem tính cách nhà văn Nguyễn
Minh Châu hiện rõ qua dòng miêu tả với ngôn từ giàu giá trị tạo hình: “Anh nghển cổ lên
như chọt nghe thấy tiếng ai đang thì thầm, rồi anh nhìn thấy người đang ngồi xung quanh,
nở một nụ cười buồn bã. Không ai có cái cười vô duyên như anh. Rồi bằng một giọng nằng
nặng khê khê của người vùng biển Quỳnh Lưu, anh bắt đầu độc thoại” [17; 145]. Đến với
Nguyễn Tuân, Đỗ Chu luôn dành cho ông một cái nhìn ngưỡng mộ, yêu mến. Hình ảnh
người nghệ sĩ giàu cá tính và phong cách sáng tác độc đáo hiện lên qua ngôn từ miêu tả cử
chỉ tỉ mỉ, cà kê, có vẻ lẩn thẩn, kì quặc: “Ông cụ thường đổ ra la liệt ra chiếu để tìm một
vật gì đó, hết ngắm nghía cái này cái nọ một lúc lại ném tuốt cất đi. Một chiếc tẩu cổ với
một hợp thuốc lá vụn, một lọ tăm tre với mươi chiếc tăm vót công phu, cái bút máy và cuốn
sổ ghi chép, chút rượu đế và chút thức nhắm khô được gói cầu kỳ, nhiều khi trong đó chỉ là
một con mực nướng. Ông đã mang cái túi ấy đi khắp gầm trời này, đã lang thang cùng nó
rong chơi một đời và cũng đã để lại sau lưng mình một sự nghiệp sáng tạo âm thầm và khó
nhọc với những cuốn sách ở đẳng cấp cao” [18; 83]. Nguyễn Tuân thật nặng nợ với văn
chương. Có thể nói văn chương chính là cuộc sống của ông, cá tính trong đời thường thống
nhất với cá tính trong sáng tạo nghệ thuật. Ở ông, con người xã hội và con người nghệ sĩ
không có sự tách bạch mà luôn thống nhất trong cùng một bản thể.
Mỗi nhân vật, Đỗ Chu dành cho một kiểu ngôn từ riêng sao cho xứng hợp với từng cá
thể, nhất là cá thể đó là người có cá tính. Nhờ thế mà nhân vật trên trang viết của ông mang
một thần thái riêng, một cá tính riêng, một phong cách riêng. Thông qua các câu chuyện
làng văn mà Đỗ Chu kể, chân dung người nghệ sĩ hiện lên sống động: một Nguyễn Tuân tài
hoa mà tính cách chỉ tóm gọn trong hai chữ dáng kiêu và cốt kiêu; một Nguyễn Khải thông
minh và tỉnh táo, dám nói những điều người khác không dám; một Kim Lân quê mùa, mộc
mạc, hồn hậu; một Chế Lan Viên uyên bác, duy lí, nhưng đôi khi cả nghĩ và dễ tủi thân;
một Hoàng Cầm lãng mạn và hồn nhiên nhưng bên trong luôn chứa nhiều u uẩn và nỗi
niềm xa xăm…Tất cả đều là hiệu quả thẩm mĩ của sự cảm nhận, lối miêu tả độc đáo và hệ
thống ngôn từ sống động, tài hoa.
3.2 Nhịp điệu và giọng điệu
3.2.1 Nhịp điệu
Nhịp điệu là phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật trong văn học, dựa
trên sự lặp lại có tính chất chu kì, cách quãng hoặc luân phiên của các yếu tố có quan hệ
tương đồng trong thời gian hay quá trình nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mĩ.
Trong văn học, nhịp điệu là sự lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện tượng
ngôn ngữ, hình ảnh, mô típ, nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mĩ về thế giới, tạo ra cảm
giác vận động của sự sống chống lại sự đơn nhất, đơn điệu của văn bản nghệ thuật. Như
vậy, nhịp điệu là sự cảm nhận của nhà văn về sự vận động của cuộc sống được miêu tả
trong tác phẩm. Thực ra viết văn là để đi tìm và tiến đến nhịp điệu. Và “trong tác phẩm tự
sự, nhịp điệu trần thuật chủ yếu được xác định được bởi tiến trình nhanh hay chậm của các
tình tiết, biến cố” [50; 45]. Ở phương diện này, chúng ta thường nhắc tới nhịp điệu trần
thuật nhanh, căng thẳng, gấp gáp được tạo nên bởi liên tiếp các sự kiện, biến cố xảy ra dồn
dập đối với cuộc đời các nhân vật, trong các tác phẩm của các cây bút hiện thực phê phán
như Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Giông tố (Vũ Trọng Phụng), Bước đường cùng (Nguyễn Công
Hoan); còn nhịp điệu chậm rãi, thong thả trong các tác phẩm của các cây bút văn xuôi trữ
tình như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh.
Một nhà văn nước ngoài từng nói: “Viết văn là cảm thấy một nhịp điệu, là tiến gần đến
nhịp điệu ấy”. Văn xuôi nói chung, tùy bút của Đỗ Chu nói riêng là một thứ văn có nhịp
điệu. Nhịp điệu đó được thể hiện ở khắp tác phẩm. Người đọc văn Đỗ Chu cũng cảm thấy
có cảm tình ở nhịp điệu lời văn. Nhìn chung, nhịp điệu trần thuật tùy bút của Đỗ Chu phổ
biến là nhịp điệu khoan thai, chậm rãi,sâu lắng...
Ba mươi hai bài tùy bút của ông có vô số chi tiết, sự kiện nhưng hầu như không có
biến cố gì trọng đại, chủ yếu là kể chuyện đời chuyện người, miêu tả cảnh sắc thiên nhiên.
Như chúng tôi đã nhận xét, tính cách nhân vật trong tùy bút của Đỗ Chu không được xây
dựng trên mối xung đột hay mâu thuẫn cá nhân, giai cấp và dân tộc. Nó chủ yếu được khắc
họa bằng giọng kể nhẹ nhàng, sâu lắng với những câu chuyện đời thường gần gũi. Hoạt
động của các nhân vật cũng diễn ra một cách chậm rãi, khẽ khàng. Không có hoạt động hay
biến cố thật lớn diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn để gây ấn tượng về sự vận
động nhanh chóng của sự vật và thời gian kéo theo nhịp điệu nhanh, gấp. Chính vì biến cố
ít nên ấn tượng về sự chậm chạp, rề rà trong tùy bút của Đỗ Chu là tất yếu. Tùy bút Lời mai
trò chuyện cũng chỉ với nội dung giới thiệu về tên tuổi, nhân cái tuổi mà bàn rộng chuyện
rồng trong quan niệm nhân gian, rồi tiếp đến nói về tính cách điềm đạm, khề khà, nhát gừng
…của Mai Ngữ, quá trình tham gia kháng chiến và những cảm nhận về văn chương của
ông. Đồng thời, những lời nói và hoạt động của nhà văn Mai Ngữ đều được gián tiếp kể lại,
miêu tả lại trong lối tự sự từ tốn của nhà văn Đỗ Chu. Chính lối tự sự gián tiếp này cũng đã
làm chậm lại các sự kiện.
Ít các biến cố, nhà văn Đỗ Chu còn chiêm vào câu chuyện những tình cảm, nhận xét,
đánh giá đối với các đối tượng được phản ánh và những chiêm nghiệm, suy tư về nghệ
thuật và cuộc đời. Đó là những ngoại đề trữ tình. Chúng “là hình thức của ngôn từ tác giả;
là ngôn từ của tác giả kiêm người trần thuật, bị chệch ra ngoài việc miêu tả các sự kiện
trong cốt truyện, nhằm bình luận và đánh giá về chúng, hoặc điều khác không trực tiếp gắn
với hành động của tác phẩm” [40; 222]. Trong tùy bút Một con người ra đi, trước sự kiện
Văn Cao qua đời, Đỗ Chu có đến ba đoạn văn suy niệm về cuộc ra đi của người nghệ sĩ tài
hoa ấy. Ở đây chỉ trích dẫn đoạn thứ hai, một đoạn văn mang nhịp điệu trầm tư, sâu lắng:
“Làm người là hữu thân hữu khổ, hữu hình, hữu hoại. Vậy thì sướng hay khổ chưa phải là
lẽ lớn, được hay mất cũng chưa lớn, sống hay chết cũng chưa phải là chuyện gì quá ghê
gớm. Những toan tính tầm thường, những mưu sự xoàng xĩnh chẳng qua cũng chỉ là vơ bèo
gạt tép, nào có cao giá nỗi gì. Văn Cao vụng dại và xin chắp tay chịu thua, ông không có sự
chuẩn bị để làm những việc ấy, ngay từ lúc sinh ra bên cây mận trắng đầu nhà. Ông sinh ra
là để hát giữa nhân dân mình và cùng nhân dân mình vật vã đứng dậy giành chính quyền
làm người” [17; 198]. Những ngoại đề trữ tình tồn tại song song với những câu chuyện
được nhà văn trần thuật, khi thì ở vai trò dẫn dắt, khi thì dùng để đưa người đọc đi vào thế
giới của xúc cảm và chiêm nghiệm sâu xa của chủ thể sáng tạo. Chỉ có điều chúng không
xuất hiện suông, độc lập mà luôn luôn gắn kết, hài hòa, pha trộn nhuần nhị với chi tiết, sự
việc. Có thể nói những ngoại đề trữ tình là sở trường của tác giả và cũng là một nội dung
thẩm mĩ quan trọng, chính yếu tạo nên đặc trưng cho tùy bút của Đỗ Chu. Giả sử nếu không
có những ngoại đề trữ tình chắc chắn các tác phẩm tùy bút của ông sẽ mất đi phong vị rất
riêng của thể loại. Cho nên, ẩn sau mỗi câu chuyện là cái tôi tùy bút Đỗ Chu, một cái tôi
không những làm nên sự hấp dẫn cho tác phẩm mà còn trì hoãn thời gian, níu kéo sự kiện
tạo ra những khoảng tâm tư để xúc cảm và suy tư. Đây cũng là một trong những yếu tố làm
cho nhịp điệu trần thuật trong tùy bút của Đỗ Chu ít khi dồn dập, gấp gáp.
Một nguyên nhân nữa khiến cho tùy bút của Đỗ Chu mang nhịp điệu slow là nhà văn
có sử dụng phổ biến lối trần thuật hồi cố. Theo Galperin: “Hồi cố là một phép lặp độc đáo.
Lặp lại ý nghĩa khiến tiến trình kể chuyện đương nhiên chậm lại” [40; 35] . Những dòng hồi
tưởng của tác giả thường chiếm một nội dung khá lớn trong truyện ngắn cũng như trong tùy
bút của Đỗ Chu. Cái tôi hay hoài niệm về quá khứ đưa ông đến với lối viết hồi cố. Tùy bút
Về quê đốt lửa là tác phẩm được viết bằng kiểu trần thuật hồi cố, trong đó tất cả những
chuyện kể được khơi lên từ một miền kí ức xa xưa, cảnh đất cảnh người được bao bọc trong
vầng ánh sáng của nỗi thương nhớ miên man sâu thẳm. Cái tình đối với quê hương xứ sở
biến những cái tầm thường, dung dị, giản đơn thành những trang văn giàu chất thơ. Ta như
thấy Đỗ Chu một mình lặng lẽ thả hồn về giấc mơ tuổi thơ, chậm rãi đi trên những con
đường làng, những bãi đê xanh ngời sắc cỏ… Hết tìm về kỉ niệm chăn trâu, tắm sông, mơ
màng với tiếng gà gáy gắn liền hình ảnh người bà già nua, nghèo khổ, nhà văn lại nhớ quay
quắt hình ảnh cô bé nhỏ năm nào…Mới đó mà đã mấy mươi năm trời có lẽ. Tất cả dòng hồi
tưởng của nhà văn được trải ra theo nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng, lãng đãng như khói
sương huyền hoặc…Không những thế, Đỗ Chu tái hiện lại chân dung như chân dung người
lính, chân dung nghệ sĩ, chân dung trí thức uyên bác…cũng bằng cảm thức hoài niệm, nhớ
thương. Một ngòi bút luôn tìm về với quá khứ thì không thể chuộng lối viết gấp gáp hay
mạnh mẽ, dồn dập được. Có thể nói, những dòng hồi cố khá phổ biến và đậm đặc trong tùy
bút của Đỗ Chu như cỗ phanh hãm tiến trình vận động các tình tiết, sự việc trong tác phẩm
làm nên nhịp điệu êm ả, chậm rãi như một nét phong cách nổi bật của nhà văn.
3.2.2 Giọng điệu
Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của văn học, là một trong những yếu tố quan
trọng của tác phẩm văn học, thể hiện phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn.
Khrapchenco quan niệm: “Những đặc tính cơ bản của lĩnh vực giọng điệu trong tác phẩm
nghệ thuật của nhà văn, sự ưu tiên của phong cách cũng có liên quan mật thiết đến cảm
hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn” [58; 105]. Ngoài ra, ông còn cho rằng: “Đề tài, tư
tuởng, hình tượng chỉ được thể hiện bằng một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm
vi một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau
của nó, hiệu xuất cảm xúc, lối kể chuyện…lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ
yếu vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một chỉnh thể thống nhật hoàn
chỉnh” [58; 106]. Còn tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học thì quan niệm: “Giọng điệu có
vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn” [39; 134]. Vì nó “với giọng điệu trời
phú của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể
hiện” [39; 134]. Turghenhep cũng đưa ra nhận định: “Cái quan trọng trong văn học là tiếng
nói của mình, là giọng điệu riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của
bất kì một người nào khác” [50; 168].
Như vậy, đặc trưng nổi bật của giọng điệu là màu sắc cảm xúc trong mối liên hệ mật
thiết với các yếu tố thuộc nội dung cũng như hình thức tác phẩm. Tìm hiểu thế giới nghệ
thuật trong tùy bút của Đỗ Chu không thể bỏ qua yếu tố giọng điệu, một trong những biểu
hiện mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và khách thể phản ánh trong hệ thống tùy bút của
nhà văn. Đỗ Chu là người sớm định hình cho mình một phong cách riêng. Trong đó giọng
điệu là yếu tố quan trọng góp phần làm nên phong cách văn xuôi của ông.
Trong các nhà văn đương đại, nếu Nguyễn Khải mang giọng điệu sắc sảo, góc cạnh,
thấm đẫm chất triết luận, Nguyễn Huy Thiệp mang giọng điệu suồng sã đầy cá tính thì Đỗ
Chu trong văn xuôi nói chung, tùy bút nói riêng lại có giọng điệu đa âm, đa sắc. Giọng điệu
trong tùy bút của ông là một bản hợp âm hòa phối nhiều giọng điệu như giọng điệu trữ tình
sâu lắng, giọng điệu suy tư – triết luận, giọng điệu sử thi hào hùng, giọng điệu hài hước,
châm biếm. Trong bản hợp xướng đa âm đó thì trữ tình sâu lắng và suy tư – triết luận là
những giọng điệu giữ vai trò chủ âm.
Đến với tùy bút của Đỗ Chu, xét trên bình diện âm hưởng, giọng điệu của các trang văn
thường ngân lên những nốt trầm bình tâm tình, sâu lắng. Nhà văn tự sự nhưng không phải
theo kiểu thuần túy mà bao giờ cũng ẩn chứa những sắc điệu tình cảm, được thể hiện qua
giọng văn. Một niềm vui lan tỏa trong tâm hồn khi từ trên cao tác giả nhìn xuống núi đồi
Tây Nguyên: “Một lúc thì bay vào vùng trời Tây Nguyên. Tôi nhìn xuống thấy những vạt
đất mênh mông, rừng mênh mông, cỏ mênh mông, vài ba chú bò sữa nhởn nhơ trong nắng
vàng thật thanh bình” [17; 35-36]. Cảm giác dễ chịu, thoáng đãng được truyền đến từ
những âm tiết sử dụng khá nhiều thanh bằng dịu nhẹ. Có cảm tưởng như chúng lướt nhẹ
bay lên không trung cao vòi vọi hòa cùng tiếng gió ngàn cất lên khúc hát về Tây Nguyên.
Tất cả những đối tượng được ông đưa vào tác phẩm phần lớn là những người thân thiết
với nhà văn. Tình cảm yêu mến cũng được gửi gắm rất nhiều vào trong giọng điệu. Viết về
Trần Hoài Dương, nhà văn Đỗ Chu dành cho ông những lời tâm tình, thân ái: “Đến bây giờ,
tóc anh Trần Hoài Dương đã bạc trắng cả rồi, vợ chồng nhìn vào mắt nhau đều thấy sắp qua
một kiếp người rồi, thôi thì sống ở đời nào có mấy ai ít cay đắng gian nan, điều đó có sá gì,
nhưng chắc chắn là đã trông thấy một kết cục làm ta có thể vui mừng được, hoàn toàn có
thể lấy làm trang trọng và thanh thản, ấy là anh chị đã có một đứa con trai khôn lớn nên
người và cùng với nó là những cuốn sách có sức sống lâu bền giữa một thời cuộc cơ chừng
còn là lắm bể dâu” [18; 94]. Sự đồng cảm với Trần Hoài Dương khiến lời văn của Đỗ Chu
khẽ nhẹ như gió thoảng qua vườn nhà ai. Nó vừa lặng lẽ trầm ngâm lại vừa hé mở một niềm
vui xôn xao về những gì Trần Hoài Dương có được sau một đời gian nan khi bóng chiều
tuổi tác đã đổ lên vai áo. Lời tâm tình của tác giả tùy bút nói với bạn, nói về bạn mà như
cũng để trải lòng mình, tự bạch bao nỗi niềm trước cuộc đời dâu bể, đa đoan. Nhà văn Đỗ
Chu có là người có nhiều bạn hữu thân thiết. Ông có cả một trời kỉ niệm và mỗi khi nhớ về
những kỉ niệm, lời văn lại cất lên những giai điệu ngọt ngào, ấm áp. Với nhà thơ Phạm Tiến
Duật, có lẽ kỉ niệm được giữ mãi trong tâm hồn ông là nghĩa cử ân cần, chu đáo mà nhà thơ
đã dành cho ông trong một chuyến lưu lại rừng Trường Sơn: “Hôm chúng tôi rủ nhau ra
suối tắm, khi lên bờ tôi thiếu quần đùi để thay, anh đã chạy về hầm tìm một chiếc mang ra
cho tôi, Chu mặc tạm, anh nói ngọt ngào. Tôi đã mang chiếc quần đùi của anh tới bản Đông
rồi trở về Hà Nội” [18; 56]. Giọng văn lại rưng rưng một niềm thương cảm khi ông nghĩ về
người bạn của mình, nhà thơ Chính Hữu đã vĩnh viễn ra đi: “Bây giờ thì anh đã đi rồi, ra đi
ôm một khối u trong lòng mà mấy ai đã biết, ra đi trong nỗi đau chỉ mình anh chịu, không
một lời than thở, không một tiếng rên, cứ nuốt vào lòng thế, cứ thế mà đi ( …) Những trái
sấu thảng thốt rơi trên mái làm lòng ta bâng khuâng hiểu rằng mùa thu đang về” [18; 130-
131]. Cụm từ mùa thu đang về với bốn thanh bằng mang âm sắc dìu dịu như toả ra cái hơi
lạnh se se của tiết chớm thu, của nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn trong lòng tác giả…
Cái tôi triết luận là nội dung bên trong đưa nhà văn đi đến sáng tạo ra những câu văn
xuôi mang âm hưởng, giọng điệu trầm mặc của những triết thuyết. Lý Hoài Thu có nhận xét
rất chính xác về văn phong của Đỗ Chu: “Trong tùy bút của Đỗ Chu, người đọc lại bắt gặp
một thứ ngôn từ giản dị, chân phương, nhẹ nhàng song vẫn đượm chất triết lý, suy tư” [80;
85]. Giọng văn của Đỗ Chu thường nặng trĩu mối lo ngại về những vấn đề trong cuộc sống,
nào là vấn đề giáo dục, nào là sự sa sút phẩm chất của một bộ phận quan chức, nào là lối
sống buông thả đang lộng hành trong giới trẻ…hay là vấn đề phát triển kinh tế miền Trung
đầy nắng gió, vấn đề hội nhập kinh tế….Dường như nhà văn chất đầy những mối lo lắng
bận tâm lên trên vầng trán ưa suy nghĩ, ưa ưu tư của mình. Hãy đến với một đoạn văn ngắn
mang giọng điệu trăn trở của nhà văn về vấn đề phát triển kinh tế: “Sức ép dân số đang đặt
ra không biết bao nhiêu vấn đề bức xúc trong xã hội, trong mối quan hệ giữa các dân tộc
anh em, đây chính là một vấn đề lớn đặt ra cho mọi ngành, cho cả nước, nhưng trong đó
ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chắc chắn phải đóng vai trò gánh vác chủ yếu.
Cắm mặt mà làm, mải miết mà đi, lúc ngẩn lên nhìn thấy nhau đều đã già thật rồi” [17; 38-
39]. Nếu giọng điệu trữ tình hướng vào nội tâm, sâu lắng, lãng đãng, mơ màng… thì ở
giọng điệu suy tư, nhà văn lại tỏ ra hết sức tỉnh táo, có khả năng phân tích và nhận định vấn
đề một cách sắc sảo, phù hợp với thực tế cuộc sống. Chính vì thế, bên cạnh một Đỗ Chu đa
cảm, còn có một Đỗ Chu quan tâm đến thời cuộc, luôn bận rộn những suy nghĩ về tương lai
đất nước. Cách nói của ông vì vậy nhiều lúc có phần duy lý, nặng về những tính toán của
một nhà kinh tế học, thống kê học, xã hội học: “Năm năm về trước, trong một cuộc điều tra
của thế giới, nền kinh tế của chúng ta được xếp ở hàng thứ 47 trong 58 nước được xem đến.
Năm vừa qua, con tàu Việt Nam vẫn đang tiếp tục tiến lên với tốc độ tăng trưởng 7,04% so
với năm trước, nhưng vẫn trong cuộc điều tra qui mô toàn cầu, chúng ta lại tụt xuống sáu
bậc, đứng ở hàng thứ 53 trong 58 nước” [17; 27]. Những thuật ngữ chuyên môn ngành kinh
tế học được Đỗ Chu sử dụng nhuần nhị, chính xác giúp ông diễn đạt rõ ý tưởng. Có thể lọc
ra một số thuật ngữ ấy như điều tra qui mô toàn cầu, hội nhập, tốc độ tăng trưởng, cơ hội,
thách thức, vận hội mới…
Giọng văn tỉnh táo, mang tính tư duy cao, đầy sức thuyết phục còn được thể hiện khi
Đỗ Chu trình bày các quan niệm về tác phẩm và nhà văn. Câu văn không còn nhẹ nhàng,
trầm lắng mà trở nên sôi nổi, cao giọng, nghiêm nghị, thậm chí gay gắt khi ông cật vấn, phê
bình, đối với những nhà văn không làm tròn thiên chức của người cầm bút: “Đời sống hôm
nay đang đặt ra, mọc ra nhiều vấn đề quá lạ lùng, những vấn đề khiến những ai đang sống
đều phải biết nhạy cảm. Là người cầm bút mà thờ ơ được sao. Sự rờ rẫm ma mụ là biểu
hiện của những nhân cách ươn hèn, viết viếc gì, bất quá cũng chỉ là một mớ chữ gà bới của
đám học trò vô sư vô sách, không được dạy bảo đến nơi đến chốn” [17; 259]. Âm hưởng
câu văn dồn dập, gấp rút, căng thẳng mang nội dung là những vấn đề có tính bức thiết của
những người mang danh la nhà văn: “Trách nhiệm của nhà văn trước thực trạng này ra sao
? Không ai nghĩ rằng tất cả các nhà văn đều viết ra những cuốn sách tội lỗi đó, nhưng người
ta vẫn có quyền trách một khi anh chưa có nổi những cuốn sách đủ sức hấp dẫn, đủ sức thu
hút thật nhiều bạn đọc” [17; 260].
Khi bày tỏ quan niệm về nhân sinh, giọng điệu văn chương của nhà văn lại chuyển
sang âm sắc thâm trầm, không phải cái trầm lắng của thi nhân mà là cái trầm ngâm của một
triết nhân. Câu văn không dàn trải mà cô đúc trong những câu chữ thật chắc, thật chặt mang
giá trị tư tuởng triết lí cao: “Một ngày ta sống với nó là một ngày đầy nếm trải, có khi phải
cố mà sống, phải bỏ qua nhiều chuyện để mà sống, đến lúc vừa hiểu được nó thì tóc trên
đầu đã điểm bạc. Như là số phận vậy hạnh phúc mà ta tìm thấy ở nơi này có lẽ không gì
khác hơn là ta biết yêu thương nó” [17; 44]. Và còn nhiều câu văn, đoạn văn bày tỏ những
chiêm nghiệm cũng mang giọng điệu trầm ngâm, vững chãi làm người đọc liên tưởng đến
một triết nhân rảo qua khắp nẻo đường cuộc sống, chốc chốc lại thốt ra những những suy
niệm về nhân thế…
Tập tùy bút Những chân trời của các anh có nhiều đoạn văn mang giọng sử thi hào
hùng, trong đó chúng tôi nhận thấy Đỗ Chu có một tone cao vút, mạnh mẽ, tươi sáng, hào
sảng…Những sắc điệu ấy cốt yếu để diễn tả niềm lạc quan trước sự hồi sinh của đất nước:
“Đất nước sinh sôi những công trường, những nhà máy, những con đường vượt rừng,
những con đường ra biển. Đất nước sinh sôi những thế hệ nối tiếp nhau biết cắm lá cờ đỏ
lên dinh lũy cuối cùng của sự nghèo đói và lạc hậu của những cách sống quẩn quanh và ti
tiện. Để hùng dũng bay lên, để khuôn mặt nhân dân bừng sáng hơn bao giờ hết” [14; 51].
Nó còn để ca ngợi, tự hào bản lĩnh, sự chính nghĩa của dân tộc ta và kết tội, coi khinh sự
hèn kém, phi nghĩa của kẻ thù: “Chúng điên dại mà ta thì sáng láng, chúng dữ dằn độc địa
mà ta thì vẫn cứ bình tĩnh. Chúng là lửa mà ta là nước. Ta bước vào cuộc chiến đấu với tư
cách là một người luôn luôn trung thực và chúng không thể nào gọi khác hơn là quân phản
bội, phản bội các dân tộc láng giếng, phản bội chính cả nhân dân chúng. Cho nên chúng
đông quân lắm mà không hề mạnh, ta ít hơn, nghèo hơn mà vẫn cứ không hề yếu” [14; 23].
Điệp từ chúng được dùng như là một thủ pháp nghệ thuật đắc địa, phát huy tối đa sức mạnh
của câu chữ để thể hiện thái độ quyết liệt trước kẻ thù. Và giọng điệu ấy còn được thấy
trong bức chân dung về người chiến sĩ: “Các anh phải đội mưa bom và đạn pháo của kẻ thù
giữ vững một vùng đất rất hẹp. Giờ vẫn vậy, các anh vẫn giữ một mảnh đất rất hẹp. Nhưng
đó lại là mảnh đất Tổ quốc, mà đã là Tổ quốc thì không thể lớn hay nhỏ” [14; 50]. Ta còn
thấy giọng điệu khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng trong cuộc bảo vệ biên giới phía
Bắc năm 1979: “Ta nhân danh Tổ quốc. Nhân danh Đảng ta, nhân danh sức mạnh vô địch
của chủ nghĩa xã hội, của anh em đồng chí. Lại những năm tháng trường kì gian khổ, lại
những ngày tháng vất vả lao lung, nhưng có hề gì, một khi ta đã hiểu đời ta sẽ không thể
nào sống nổi nếu quay lại kiếp người nô lệ (…) Tự lòng ta sâu thẳm vang lên, át mọi thứ
kèn thứ súng, vang lên hai tiếng Việt Nam” [14; 28].
Để tạo ra giọng điệu sử thi hào hùng, Đỗ Chu vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, nhất
là sử dụng cấu trúc câu đảo ngữ, điệp ngữ: “Chưa bao giờ hết khó khăn, chưa bao giờ
không nghèo túng, nhưng quả thật chưa bao giờ thôi gan góc và bền bỉ” [14; 25]. Điệp ngữ
chưa bao giờ lặp lại đến ba lần trong một câu văn không dài lắm. Hiệu quả nghệ thuật của
nó là dùng phủ định làm đòn bẩy để nâng cao tầm vóc, chí khí, bản lĩnh của dân tộc ta trong
cuộc đọ súng với kẻ thù để giành lại non sông. Không chỉ bó hẹp trong phạm vi một câu,
một vế câu, hình thức nghệ thuật này còn được sử dụng ở cấp độ rộng hơn. Đó là phạm vi
tương liên giữa các câu văn: “Tất cả giờ đây đã thay đổi, bây giờ nơi đó là một công trình
nhiệt điện. Một nhà máy nhiết điện có cỡ không còn bao lâu nữa sẽ ra đời. Không còn bao
lâu nữa phố phường, làng mạc gần xa quanh đây đều sẽ bừng lên, quê hương chúng ta bừng
lên, bóng tối bị dồn đuổi, đói nghèo dốt nát bị dồn đuổi” [14; 86]. Điệp ngữ liên cú pháp
biến câu văn như một khúc hoan ca thể hiện bao niềm tin và hi vọng về một tương lai mởi
mẻ, rực rỡ. Điêu luyện hơn, nhà văn còn dùng phép đảo ngữ kết hợp với điệp ngữ để phát
huy được tối đa giá trị biểu đạt, biểu cảm: “Đã sống lại mãnh liệt một dân tộc vốn hôm qua
còn quằn quại, đã nghiêm trang một khuôn mặt nhân hậu vốn hôm qua còn tăm tối. Đã thu
về một mối giang sơn vốn từ bao nhiêu thế kỉ trước vẫn luôn luôn bị giằng xé tả tơi và hồn
nước, hồn người, tên nước, tên người, tất cả đã hiện về trong tự do” [14; 96]. Ta còn thấy
nhà văn nhân danh cái tôi dân tộc hô hào, kêu gọi bằng giọng điệu hào sảng với cấu trúc
câu cầu khiến: “Ấm dần lên đi những ngón tay trẻ thơ mảnh mai. Hé dần lên đi, rực sáng
lên đi những nụ hoa lặng lẽ” [14; 104]. Hay khép lại tùy bút Một cành đào nở sớm, nhà văn
cất cao giọng gọi sắc xuân trên cành đào thắm xinh: “Cành đào buổi ấy vẫn còn đây, cùng
với nó là ngọn lửa của những ngày tháng Tám quang vinh, là sức mạnh của một thời đại
bão táp, chúng ta bước vào mùa xuân của nửa thập kỉ 80. Trước mặt là những năm không
thể lùi bước. Chẳng còn bao lâu nữa là thế kỉ 21. Những năm tháng này xiết bao hệ trọng,
xiết bao trang nghiêm. Thời gian đi, chúng ta đi và ngọn lửa không bao giờ tàn lụi và cành
đào ơi, hãy nở sớm mai này” [14; 111]. Trong trích dẫn vừa rồi, ta cảm nhận ra không khí
thời đại như guồng bánh xe mạnh mẽ tiến về phía trước. Cấu trúc câu mệnh lệnh cùng phép
lặp ngữ chính là những yếu tố quan trọng làm cho giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi,
mạnh mẽ, giàu sinh khí. Trong dòng độc thoại, nhà văn đã hứng khởi cất lên lời gọi mời:
“Tôi đã thấy và tôi đã nghe như thế. Những năm đó chắc anh đang còn rất trẻ, anh chưa lên
đường, chưa bay lên trời như sau này anh bay, và hẳn anh, một đứa con sinh thành trên
mảnh đất đó, anh phải nghe, phải thấy được nhiều hơn tôi” [14; 129-130]. Có thể thấy với
giọng điệu sử thi, nhà văn thể hiện cảm hứng yêu nước trong những hình tượng thật hoành
tráng.
Tùy bút của Đỗ Chu còn mang một giọng điệu nữa, đó là giọng điệu hài hước, châm
biếm. Thi thoảng ta vẫn thấy Đỗ Chu ẩn giấu những nụ cười trào lộng tươi vui trong cái
giọng điệu ấy. Nụ cười hài hước thường được xuất hiện trong những trạng huống gắn liền
với suy nghĩ hài hước của nhân vật trước sự việc đáng cười. Nhìn chung nhà văn khai thác
tiếng cười hài hước chủ yếu ở lối diễn đạt có trong lời nói và dòng ý thức của nhân vật. Ở
bài tùy bút Kìa đàn hồng hạc, sau khi điểm lại những con số nói lên tình hình phát triển
kinh tế, nhà văn kêu gọi mọi người bước vào một mùa xuân mới đầy tự tin và bản lĩnh bằng
một câu văn trào tếu: “Bước đi mùa xuân này của chúng ta là một bước đi trưởng thành đầy
tự tin như thể một thiếu phụ nhận ra rằng muốn có con để bế thì không được sợ đàn ông
vậy” [17; 7]. Đúng là một kiểu liên tưởng – so sánh mộc mạc, thật thà nhưng thật thú vị,
khiến cho những ai nghiêm nghị nhất cũng phải mở một nụ cười sảng khoái. Cũng trong bài
tùy bút ấy, Đỗ Chu còn tiếp thêm cho độc giả một tiếng cười khác dài hơn, giòn giã hơn:
“Mười tám tuổi tôi bắt đầu cầm bút, mẹ tôi mát mẻ bảo: Mẹ nghe chừng anh muốn viết văn,
cũng được, nhưng phải viết thế nào để được như nhà chị gì sáng sáng vẫn có lời mở đầu
cho Đài Tiếng nói Việt Nam thì mới giỏi. Thật là trang trọng, mà lại cảm động. Anh vào
đời cố mà gặp một người như thế để lấy làm vợ thì đấy mới thật là cái phúc lớn cho cả nhà,
cả họ, cả tổng nhà anh” [17; 8]. Cái lời lẽ quê kiểng, chân chất, thô mộc của bà mẹ thuần
phác, nửa đùa nửa thật làm mọi người phải tủm tỉm cười nụ. Ở tùy bút Cát nóng, bên cạnh
giọng điệu có vẻ hệ trọng, nghiêm túc trong việc nói về mảnh đất và con người miền Trung
đầy nắng và gió, như chừng cảm thấy giữ cái giọng điệu ấy lâu sẽ làm mọi người căng
thẳng, nhà văn đã xen vào một giọng điệu vui tươi, dí dỏm trong dòng suy nghĩ hài hước
của bà giám đốc khách sạn trước những ông khách đạo mạo, lịch thiệp nhưng lại có hành
động hết sức kì quặt: “Bà giám đốc khách sạn quay đi giấu một nụ cười mỉm. Khách phải
gió, thuốc lá không hút nhưng lại hút thuốc lào, bày bừa cả một căn phòng hạng nhất, rồi
bây giờ người ta mang tiền tới thết tiệc thì lại gọi mỗi người một con cua mặn” [17; 80].
Bên cạnh tiếng cười hài hước, tùy bút của Đỗ Chu còn vang lên tiếng cười trào phúng
phê bình, phê phán những hiện tượng không tốt, oái oăm trong xã hội đương thời. Nhà văn
nói về hiện tượng nhốn nháo, kệch cỡm của một số người khi tình hình giá đất bỗng dưng
tăng vọt: “Lấp ló đứng sau những những bờ ruộng ngoài cánh đồng giờ đây không phải là
những người nông dân một nắng hai sương mà là những ai đó, trong số đó có không ít
những người đang được gọi là cán bộ, miệng nói như rồng cuốn, nhưng xem binh tình này
thì chẳng còn bao lâu nữa sẽ vênh váo bước ra đặt vào tay mỗi chúng ta một tấm các tự giới
thiệu về mình, có kẻ là ông nọ bà kia, kẻ thành cò quay dẫn dắt, hớt hải chạy lên chạy
xuống, gầy gầy béo béo, tưởng vậy mà nhìn kỹ vẫn thấy gượng gạo nhớn nhác thế nào”
[17; 329]. Đỗ Chu còn phản ánh những vấn đề bức xúc, những hạn chế, bất cập ở các lĩnh
vực văn hóa, giáo dục, điện ảnh. Chính việc lựa chọn những câu từ đắc địa, đầy hàm ý, lối
nói nửa như đùa nửa như thật khiến ai đọc lên cũng không nhịn được cười: “Diễn viên nói
chung là xinh, nhưng thường hay bị lột quần, xé áo, mà lại hay ngất nữa, mà Nam bộ gọi là
té xỉu”, hay “sở dĩ chưa làm nổi những bộ phim lịch sử nói về đời Lý, đời Trần, là do đến
một con ngựa cho ra ngựa chúng ta cũng thiếu” sau đó là tiếng cười khẩy: “Hay nhỉ, nhưng
lịch sử dân tộc chúng ta đâu có bắt đầu từ mấy con ngựa” [17; 156-157]. Dù không phải là
chủ đạo nhưng giọng điệu hài hước, châm biếm và giọng điệu sử thi cũng góp phần làm cho
âm sắc, giọng điệu văn chương của Đỗ Chu thêm đa dạng, phong phú, đưa những trang viết
của ông tránh được kiểu một giọng đơn điệu khiến cho đọc giả cảm thấy nhàm chán.
3.3 Ngôn từ nghệ thuật
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. M.Goocki cũng cho rằng: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ
nhất của văn học”. Các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “Ngôn ngữ là
công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học”, là “một trong những yếu tố quan trọng thể hiện
cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” mà “tính chính xác, tính hàm súc, tính
đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học” [41; 324].
Như vậy, có nghĩa không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học, bởi chính ngôn
ngữ chứ không phải cái gì khác đã cụ thể hóa chủ đề, tư tưởng, tình cảm…Ngôn ngữ vừa là
yếu tố đầu tiên được nhà văn sử dụng để kiến tạo tác phẩm cũng lại là yếu tố đầu tiên trong
sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Tuy nhiên, ở mỗi loại thể, mỗi nhà văn thì sắc thái
chữ nghĩa văn chương lại có sự khu biệt nhất định nào đó. Xét ngay những nhà văn cùng
thời, nếu Nguyễn Khải có lối văn sắc sảo, góc cạnh, mang đậm tính triết luận; lời văn của
Nguyễn Huy Thiệp có phần suồng sã mang tính cá thể hóa cao thì lời văn nghệ thuật của
Đỗ Chu vừa mực thước vừa giàu chất thơ, chất nhạc. Đỗ Chu quan niệm rằng: “Nhà văn
phải chăm sóc tới từng chữ. Câu chữ phải trở nên như có nhung có tuyết. Kể cả làm ra vẻ
trần trụi, thì đó cũng là sự trần trụi chọn lọc, mà không được xác vờ như khố tải” [54]. Ta
hiểu vì sao có khi “nhà văn đã loay hoay mãi để chờ một chữ”, “viết rồi lại xóa”[54]. Ông
còn cho biết thêm: “đã gọi là văn chương thì trước hết phải hay,…và hay nhất là ở chỗ nó là
văn chương” [54], “cái ma lực do ngôn ngữ tạo ra”. Bên cạnh đó, chất văn của Đỗ Chu còn
được làm nên bởi những hun đúc, ảnh hưởng của cái nôi văn hóa Kinh Bắc, cùng với di sản
văn học thế giới tiếp thu được ở nhà trường, mà theo Nguyễn Hoàng Sơn: “Trong số đệ tử
của ông thầy Nga (Pautôpxki) ấy, Đỗ Chu là nguời nắm được bí kiếp hơn cả” [78; 34].
Nhìn lại toàn bộ hệ thống ngôn từ trong thế giới nghệ thuật văn xuôi của Đỗ Chu, nhất
là ở thể loại tùy bút, ta mới thấy hết sự thống nhất hài hòa giữa quan niệm nghệ thuật và
thực tế sáng tác của nhà văn. Thứ ngôn từ trong trẻo, đầy chất thơ trong văn phong ngọt
ngào, tinh tế cứ bàng bạc khắp các tác phẩm. Sự khổ công tìm tòi trong hành trình sáng tạo
của người nghệ sĩ đã trả cho ông những trang viết mà ngôn từ nghệ thuật đã lên đến đỉnh
cao của sự sáng tạo.
3.3.1 Ngôn từ trong trẻo, giàu chất thơ
Không ít những nhà nghiên cứu, phê bình và người sáng tác đều cho rằng những tác
phẩm văn chương của Đỗ Chu có dải ngôn từ đẹp như thơ, tươi rói như anh tân binh mới
nhận quân phục, đuợc cả làng văn và bạn đọc đón nhận, và là những “bài thơ bằng văn
xuôi” đã “đi rất ngọt vào lòng người đọc”. Bởi đó cái duyên ở câu văn, cách bố trí khi dài
khi ngắn, âm điệu bằng trắc thế nào, Đỗ Chu gần như có được từ bản năng. Các chi tiết, sự
kiện, cảnh trí…đều được nhà văn tái hiện bằng một hệ thống ngôn từ giàu chất trữ tình, gần
gũi với ngôn ngữ thi ca.
Ngôn ngữ thơ tùy bút của Đỗ Chu được gieo rắc trên những áng văn phong cảnh lấp
lánh màu sắc, ánh sáng và âm thanh: “Chim ri đã từng đàn từ đâu bay về bay nhảy trong
mấy lùm nhãn ở trước nhà. Và chúng hót, chúng ồn ã chuyện trò. Tôi ngồi bên cửa sổ hàng
giờ, lắng nghe tiếng chim ngoài vườn và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ
một cách quá công khai, nhưng ngoài chúng có lẽ chẳng ai trên đời này đã hiểu nổi. Đêm
xuống. Trời chuyển rét. Và bất chợt, những tiếng mưa khe khẽ. Khe khẽ mưa. Tôi lắng
nghe tiếng mưa vang vỡ trong đêm (…) Tiếng gà gáy văng vẳng. Rồi khung cửa sổ hiện
lêm mờ mờ, sau cùng, nó hiện ra đầy khơi gợi trong sớm mai. Ùa qua khung cửa ấy là
những làn gió trong trẻo, là tiếng những con chim cũng vừa thức dậy, là tiếng mưa, những
hạt mưa chênh chếch thật bình yên” [14; 5]. Nhà văn dựng lại bức tranh phong cảnh mùa
xuân bằng những nét vẽ ngôn từ thật mềm mại, tinh tế và sinh động. Tất cả cảnh sắc, âm
thanh của buổi bình minh như ngời lên, vang lên những gì là tinh khôi nhất, mới mẻ nhất.
Những từ gợi hình ảnh như lờ mờ, sớm mai, khung cửa, làn gió trong trẻo… làm hiển thị
trong hồn người một buổi sớm mùa xuân đẹp, mát dịu, đem lại cảm giác bình yên. Bên
cạnh đó, những từ gợi âm thanh như ồn ã, véo von, khe khẽ, vang vỡ…cũng làm ngân lên
những thanh âm trong trẻo, rộn ràng. Những câu văn ngắn hài hòa với những câu dài khiến
đoạn văn tựa như một bài thơ được làm theo thể tự do tuôn tràn mạch cảm xúc trong trẻo,
ngọt lành. Khả năng hòa phối giữa màu sắc, ánh sáng và âm thanh làm bức tranh thiên
nhiên có một không gian sinh động, tràn đầy sức sống, chan hòa hương sắc. Nhà văn như
phát hiện ra những biến thái tinh vi của tạo vật, nắm bắt được những khoảnh khắc quí giá
lúc giao mùa. Cái gì cũng nhẹ nhàng, hiền lành và có xu hướng dung hòa để cùng nhau làm
thành một bức tranh mùa xuân đẹp, thanh bình. Đọc Đỗ Chu, chúng tôi chợt nhớ đến những
bức tranh mĩ lệ, thơ mộng được thêu dệt bằng tâm hồn lãng mạn và ngôn ngữ rất giàu chất
thơ của nhà văn của xứ sở bạch dương Pauxtốpxki: “Nhưng đẹp nhất là những lúc trời còn
tranh tối tranh sáng và mặt trăng mờ mờ hơi sương vừa nhô lên khỏi những khu rừng bạch
dương ẩm thấp. Trên bầu trời buổi tối hằn rõ bóng những cành liễu mảnh dẻ. Những đêm
mây trắng đứng yên trên rừng và tỏa một ánh sáng yếu ớt trong bầu không khí màu xám
đen phơn phớt xanh. Rồi đêm tràn ngập không khí mát mẻ và mùi nước đưa hương bắt đầu
ngự trị trên mặt đất bao la đã trở nên im lặng” [57; 77]. Hai nhà văn cùng gặp nhau trong
một thế giới nghệ thuật đầy lãng mạn với những nét vẽ bằng ngôn từ mang dáng dấp thi ca
đã dựng nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, êm đềm, thanh khiết.
Đọng lại nhiều hơn trên trang tùy bút của Đỗ Chu viết về thiên nhiên là hình ảnh bờ cỏ
non, dòng sông, cổng làng, hương nhãn, vạt rừng xanh thẳm, tiếng gà gáy…Trong tùy bút
Về quê đốt lửa, tác giả bồi hồi nhớ cảnh sắc và con người nơi quê nhà. Trong nguồn cảm
hứng hoài niệm ấy, những câu văn xuôi với ngôn ngữ trong trẻo đã gợi lại được một không
gian hiền hòa, yên ả: “Sương mù đục trắng như khói bếp, u uẩn khắp trời đất, một màng
sương có thấm nhè nhẹ mùi thơm thơm chua chua của cây hoa men màu vàng chanh, hoa
mà nom như lá, hoa lá một hình giống nhau, giá không quen chả ai dám bảo đâu là hoa đâu
là lá. Sớm ra có nắng là nức mùi hoa men, chiều xuống mặt trời lặn là có mùi cây cơm nếp.
Trong bóng đêm choàng phủ mênh mông, khắp đường làng ngõ xóm, mùi cơm nếp dâng
lên ngào ngạt” [18; 258]. Tất cả đều giàu sức gợi. Những cảnh sắc ấy bắt nguồn từ một tình
yêu thiên nhiên sâu sắc và một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm dễ rung động với những
biến thái tinh vi diễn ra xung quanh.
Ngôn ngữ giàu trong trẻo, giàu chất thơ còn được thấy ở những dòng văn chắp bút từ
cảm hứng hoài niệm về thời thơ ấu của tác giả. Những lúc ấy, bao nhiêu là kỉ niệm trong
sáng, hồn nhiên chợt ùa về. Cảnh làng quê, dòng hoài niệm về tuổi thơ dấy lên trong lòng
tác giả những xúc cảm mượt mà, sâu lắng và được thể hiện bằng một lối viết đầy chất thơ:
“Dòng sông Hồng vừa thoát ra khỏi hai bờ thành phố đã mau chóng tìm lại được vẻ trầm
tĩnh của mình. Nó nhoài trôi lặng lẽ giữa miền đồng bằng thân thuộc. Những mảnh đất đang
được cày xới, những luống đất nâu chạy ngang chạy dọc từ chân đê ra tới mép nước. Rau
tháng ba xanh rờn, hoa cải vàng hào phóng nở rộn ràng như không cần biết ai là người đang
nhìn ngắm nó” [18; 333]. Ngôn từ trong đoạn văn trên không phải là loại ngôn từ mang dấu
vết của sự mài giũa, gọt đẽo công phu mà là thứ ngôn từ nghệ thuật gần gũi, giữ được
phong vị của dân dã, quê kiểng. Vậy mà khi đọc lên, ta như thấy dòng sông Hồng chở đầy
sắc đỏ đang nghiêng mình chảy giữa miền đồng bằng châu thổ làm cho vùng đất này căng
tràn sức sống và mang vẻ đẹp nên thơ. Nhà văn đã xâu chuỗi thứ ngôn từ giàu giá trị tạo
hình để kiến tạo thành một bức tranh làng quê thanh bình, yên ả, gieo vào lòng người cảm
xúc yêu mến và thức dậy những tình cảm hồn nhiên, trong sáng đối với đất quê.
Xu hướng giãi bày cảm xúc trên những trang tùy bút cũng làm cho văn xuôi Đỗ Chu
trở thành những trang thơ văn xuôi: “Còn với tôi thì sao, với tôi hình bóng một người chị
tất tả chạy lên hướng có tiếng súng hôm nào ở cánh đồng làng và những ánh lửa bập bùng
trong tuổi thơ đã là quá đủ để tôi mang theo suốt một kiếp người, ai đó đã nói hành trang
càng nhẹ thì đường đi càng dài. Trong tư cách là một người cầm bút tôi nói, với tôi quê nhà
yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sáng tạo” [18; 283]. Cái tình của nhà văn đối
với đất quê là cái tình muôn thuở có thể viết mãi mà vẫn dâng tràn một niềm cảm hứng dào
dạt, bất tận.
Đỗ Chu không bao giờ làm xiết ngôn từ hay có xu hướng bị chữ nghĩa đưa tới trường
hợp duy mĩ. Vậy mà mỗi lần đặt bút viết, ông luôn có những trang văn đẹp, cái đẹp của sự
giản dị, nhẹ nhàng, chân phương. Có thể nói rằng, Đỗ Chu không chuộng lối viết kĩ thuật
hóa nhưng bao giờ ngôn từ nghệ thuật của ông cũng được dìm trong bể cảm xúc ngập tràn.
Vì thế, ông có một loại ngôn từ nghệ thuật lung linh ánh sắc, hòa phối hình ảnh, màu sắc
âm thanh, nhịp điệu cùng với những liên tưởng so sánh giàu sức gợi theo qui luật của cái
đẹp. Bởi vậy, nó lưu giữ mãi trong tâm hồn người đọc những câu thơ bằng văn xuôi mà
không phải người nghệ sĩ ngôn từ nào cũng diễm phúc sở hữu được.
3.3.2 Câu văn giàu tính nhạc, nhiều liên tưởng, so sánh
Văn học, nhất là các tác phẩm trữ tình vốn gắn bó chặt chẽ với âm nhạc. Ở nhiều tác
phẩm trữ tình nhiều khi ranh giới giữa văn học và âm nhạc bị xóa bỏ. Rõ ràng, không nên
đồng nhất âm nhạc và văn học nhưng văn thơ không tách rời với âm nhạc là điều hiển
nhiên. Bởi vì, trong quá trình hình thành ý đồ sáng tác, người nghệ sĩ thường mang một tâm
trạng có màu sắc nhạc tính. Và ứng với mỗi trạng thái tình cảm thì sẽ có một giọng nói, một
cách nói, tốc độ nói thích hợp như thế. Tính nhạc trong văn văn xuôi thường thể hiện ở lối
đặt câu và sự phối hợp chúng trong một liên khúc, thể hiện ở sự phối thanh, đôi khi còn
thấy trong cách hiệp vần theo cấu trúc ngang. Các đoạn văn được nhà văn triển khai như
một cuộc diễu binh hùng tráng.
Đối với văn xuôi Đỗ Chu, gần như nhà văn không quá chú trọng, nhấn mạnh đến vai
trò của tính nhạc như tùy bút Nguyễn Tuân, bút kí nghệ thuật của Hoàng phủ Ngọc Tường
nhưng nơi ông có một nguồn cảm xúc luôn rào rạt chảy không ngừng và phát ra những giai
điệu giàu nhạc tính.
Tính nhạc trong câu văn của Đỗ Chu có trong cấu trúc câu phức mà trong đó thành
phần vị ngữ được mở rộng biên độ đến mức tối đa. Sự tương tác, cộng hưởng giữa các vế
nối đuôi nhau, lặp lại nhau, bổ sung cho nhau đã tạo cho lời văn một giọng điệu giàu tính
nhạc: “Anh tên là Trần Nhị, cũng gốc quê choa, đi khắp trần gian này gặp đồng hương quê
choa là yên trí lớn, đói có ăn khát có uống, gian nan đùm bọc lẫn nhau, sống chết có nhau,
đó là cái nghĩa, cái cách sống mà già trẻ người nào cũng có sẵn, không thế không phải là
người xứ Nghệ” [17; 32]. Nó mang âm hưởng của một kiểu văn biền ngẫu trong văn học
trung đại Việt Nam. Những dấu phẩy tựa như quãng âm ngắn tưởng là tồn tại độc lập nhưng
hóa ra lại hưởng ứng nhau về ngữ nghĩa và âm sắc. Chúng được móc xích trong một chuỗi
thể hiện được cái ngữ khí sôi nổi, hứng khởi của nhà văn khi nói về tình đồng hương mặn
mà, sâu đậm. Tương tự thế, trong tùy bút Quê ngoại, tác giả cũng có vẫn sử dụng kiểu cấu
trúc này, mang lại nhạc tính cao: “Con người ta sống trong trời đất là ngổn ngang những
khôn dại đúng sai, hết đứng dậy lại vấp ngã, lẫn lộn những kiêu hãnh và tầm thường, đầu óc
lúc quang lúc tối, khi nó mở ra thì khôn ngoan vượt cả Khổng Minh, Hàn Tín, mà khi nó
đóng lại thì mở mịt yếu đuối như con vờ ngoài sông vào lúc chiều tà” [17; 112]. Lối suy
nghĩ liền mạch, muốn đi tới tận cùng những nghĩa lí của vấn đề là một trong những yếu tố
mang lại ngữ điệu. Trong nội bộ một câu, Đỗ Chu viết những câu có vẻ như hơi rườm rà,
dây cà dây muống mà đọc kĩ thì chỉ còn thấy một mạch suy tư, xúc cảm liền mạch trào
dâng mà ai cũng có thể hiểu được ý tình. Có thể nói, những câu dài như một con dao hai
lưỡi, nếu non tay sẽ dễ dẫn tới hiện tượng sai cấu trúc, chập cấu trúc, mơ hồ, khiến người
đọc có cảm giác đi vào mê cung chữ nghĩa. Ngược lại, người nghệ sĩ không chỉ tạo ra được
một chuỗi vế câu có tác dụng chuyển tải trọn vẹn ý tưởng mà còn nhạc hóa cú pháp văn
xuôi. Đỗ Chu là người thuộc trường hợp thứ hai, vì ông xây dựng những câu văn vừa có
sức biểu đạt, biểu cảm cao mà vừa có sức tác động nơi độc giả những âm vang, nhạc điệu
của câu chữ nghệ thuật. Đỗ Chu còn có khuynh hướng giải thể vai trò của chủ thể đã xuất
hiện ở câu trước để làm nổi bật một vấn đề nào đó, đồng thời trùng điệp hóa những vế câu
dài: “Là cứu cánh, là hạt nổ, là khởi thủy của mọi điều hệ trọng cho giờ đây con cháu luận
bàn, chiêm nghiệm, là những đốm lửa lấp lóa xa xa trong một đêm đông, là những người
móc lửa trong tim mình ra mà thắp sáng, là những viên đá dài lát đường, là phong thanh áo
vải lặn xuống mở cửa đập, là thác lũ, là êm đềm một con sông lớn, là bản giao hưởng lớn
với giai điệu trầm hùng của buổi nhân dân bước vào lịch sử, là của thật không gì có thể lẫn
lộn được” [14; 102]. Ngữ khí của câu văn giúp tác giả khẳng định mạnh mẽ, xác tín mạnh
mẽ điều mà ông suy tư. Sức thuyết phục vì thế cũng rất cao trong một hình thức cấu trúc
trùng điệp như một đoàn binh xung trận với khí thế háo hức, mê say.
Đỗ Chu cũng thường bắt đầu các câu văn, các vế câu trong một câu, một cụm câu bằng
cùng một từ hoặc một ngữ: “Chào sông Hàn. Chào Sơn Trà. Chào những người anh em
với những khuôn mặt quen thuộc, những khuôn mặt mới mẻ, những người tôi đã từng gặp,
những người tôi mới chỉ được biết trong chuyến đi này” [17; 87].
Tính nhạc của câu văn còn là hiệu quả thẩm mĩ của việc điều phối, sắp xếp các câu
dài xen câu ngắn và những câu có cấu trúc khác nhau kết hợp với nghệ thuật điệp từ, điệp
ngữ tạo ra một hợp âm đa thanh: “Mùa hạ trời miền Trung xanh thật là xanh. Và nắng dữ,
cát nóng. Nhưng người thì hình như rất dịu dàng’ [17; 87]; “Anh em chúng tôi lớn lên ở hai
bên bờ sông Hồng, ở những cánh đồng mở ra bát ngát, màu mỡ phù sa, ở những làng quê có
tre xanh, có ngói đỏ, có rơm mùa chất đống trước sân nhà. Ao sen tỏa hương mùa hạ, nếp
cơm theo mùa thu. Chiều chiều tiếng người về đồng, tiếng trâu bò đi ngang ngoài đường,
tiếng chày giã gạo bên hàng xóm, xôn xao, huyên náo khắp ngõ. Và, những lời dân ca mộc
mạc tắm mát như những mạch nước thấm sâu vào trong lòng đất” [14; 71]. Trong tùy bút
Đứng trước mùa xuân, ở phần mở đầu, Đỗ Chu có một đoạn văn được viết theo mô hình
phối hợp những câu dài ngắn đan xen với nhau: “Tôi ngồi bên cửa sổ hằng giờ lắng nghe
tiếng chim ngoài vườn và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ một cách quá
công khai, nhưng ngoài chúng có lẽ chẳng ai trên đời này hiểu nổi. Đêm xuống. Trời
chuyển rét. Và bất chợt những tiếng mưa nho nhỏ, nhè nhẹ reo lên mái nhà như rây bột.
Mưa khe khẽ. Khe khẽ mưa. Tôi lắng nghe tiếng mưa vang vỡ trong đêm. Đôi mắt mở to,
đầy tỉnh táo” [14; 5]. Trong đoạn văn trên có tám câu, trong đó độ dài ngắn của các sau
được mô hình hóa như sau: câu 1 (dài) - câu 2 (ngắn) - câu 3 (ngắn) - câu 4 (vừa) – câu 5
(ngắn) – câu 6 (ngắn) – câu 7 (vừa) – câu 8 (ngắn). Số lượng các câu ngắn có phần đông
đảo hơn, dày hơn đem lại cảm giác về âm thanh của sự thay đổi đột ngột, nhanh nhanh
chóng của thời tiết, những giọt mưa ngắn, nhỏ bé rơi đều trong đêm như một khúc ca trầm
buồn khiến cho lòng ai phải tỉ tê, lạnh giá…Đồng thời những từ gợi thanh như vang vỡ, nho
nhỏ, nhè nhẹ có tác dụng mô phỏng âm thanh tiếng nhạc mưa trong đêm khuya quạnh
vắng…
Trong quá trình tự sự, công việc chính của nhà văn là phải tái hiện, miêu tả sự kiện,
biểu lộ thái độ tình cảm hay quan niệm riêng tư của mình. Nhưng đây là tác phẩm nghệ
thuật. Nhà văn chỉ có thể đưa trang viết đi sâu vào lòng độc giả khi anh ta biết cách tự sự và
có nghệ thuật tự sự. Trong hàng loạt những thủ pháp, phương pháp nghệ thuật thì phải kể
đến sự liên tưởng và thủ pháp so sánh. Tuy nhiên nếu không có sức sáng tạo dồi dào, người
viết rất dễ làm cho tác phẩm của mình rơi vào hiện tượng sáo mòn, kệch cỡm, gây ra phản
cảm. Đỗ Chu dường như là người thích chêm xen vào trong dòng tự sự của mình những
liên tưởng, so sánh. Và bao giờ cũng ông cũng đạt được những giá trị thẩm mĩ nhất định.
Bởi lẽ mỗi lần liên tưởng, so sánh là một lần nữa nhà văn thể hiện sự sáng tạo của mình. Vì
thế, có vô số những liên tưởng, so sánh trong các tập tùy bút nhưng không hề thấy sự trùng
lặp hay sáo mòn. Không những thế, với biện pháp liên tưởng, so sánh, Đỗ Chu luôn khiến
cho người đọc phải bất ngờ và thú vị. Trường liên tưởng và so sánh trong trang viết của Đỗ
Chu có sắc thái khác so với Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Với Nguyễn Tuân,
sự liên tưởng luôn ấn tượng đến mức kinh ngạc, mang dấu ấn của cái tôi độc đáo, đầy cá
tính. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sự liên tưởng có thiên về chất lãng mạn, hướng nội,
đẹp một cách mê đắm lòng người.
Thông thường trong tùy bút của Đỗ Chu, so sánh và liên tưởng là cặp đôi luôn sánh
bước bên nhau, so sánh là phương tiện để liên tưởng. Có vô số những liên tưởng, so sánh
theo kiểu này: “Nơi ấy sen súng mới nhiều làm sao, chúng mọc bát ngát khắp cánh đồng,
đang là mùa hoa, sen nở trắng hồng, còn súng thì tím đỏ, đỏ như máu như lửa” [17; 98];
“Vùng hồ Lắc dấu tích muôn đời của núi lửa giờ nằm yên ả như một mảng sương soi bóng
những tầng mây trắng, in bóng đàn nhạn núi đang bay về” [17; 44]; “Miền Trung là một
bản giao hưởng cát. Quảng Nam – Đà Nẵng là một chương trầm hùng của bản giao hưởng
đó” [17; 66]. Các hình ảnh so sánh, liên tưởng ở tùy bút Đỗ Chu có phần nhẹ nhàng, xuất
hiện đơn tính nhưng không đơn điệu, mờ nhạt. Nó có một phong vị riêng thấm mãi vào
lòng người.
3.3.3 Thành phần lời văn nghệ thuật
Lời văn của tác phẩm được cấu tạo bởi hai thành phần chính: lời trực tiếp và lời gián
tiếp. Lời trực tiếp là lời do nhân vật hoặc tác giả - những người trực tiếp nói lên trong tác
phẩm. Lời gián tiếp là toàn bộ phần lời của tác giả, của người trần thuật, hoặc người kể
chuyện có chức năng trình bày toàn bộ thế giới hình tượng, kể cả các yếu tố nội dung, hình
thức của lời nhân vật cho người đọc. Lời gián tiếp có hai loại lớn: lời gián tiếp một giọng và
lời gián tiếp hai giọng. Trong lời gián tiếp hai giọng có lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp phong
cách hóa, lời gián tiếp của người kể chuyện. Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng
tôi xin đi vào nghiên cứu lời trực tiếp của nhân vật và lời gián tiếp song điệu (lời nửa trực
tiếp) trong tùy bút của Đỗ Chu.
Lời trực tiếp của nhân vật trong tác phẩm tùy bút không phải là hiện tượng phổ biến.
Các lời đối thoại trong tùy bút của Đỗ Chu chỉ xuất hiện với một tỉ lệ rất ít so với toàn bộ
lời văn nghệ thuật của ông. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng không có chức năng và hiệu
quả thẩm mĩ nhất định. Chức năng phản ánh hiện thực của lời nhân vật trong tùy bút của
ông mang tính chất thông báo, trần thuật, miêu tả rất giản đơn, mang tính chủ quan rất đậm.
Trong tùy bút Từ một trang nhật kí chiến đấu, Đỗ Chu để cho lời của nhân vật thực hiện
chức năng này rất nhiều:
- Tại N đại đội bắn tan xác chiếc thứ 712, kiểu A – D6.
- Tại A bắn cháy chiếc F. 105 bắt sống giặc lái, đây là chiếc thứ 975.
- Báo cáo thủ trưởng, tôi có mặt.
- Khuyến đấy à, vào đây. Nghe nói quê cậu ở vùng này phải không ?
- Vâng ạ, làng tôi cách đây 15 ki- lô- mét thôi ạ.
- Cụ vá lưới khuya thế ạ.
- Vâng, mời anh vào trong này.
Những lời trực tiếp ấy phản ánh hiện thực bên ngoài nhân vật. Đó là hiện thực chiến
đấu, là chiến công, là sự hiện diện kịp lúc của người chiến sĩ, là khoảng cách từ chỗ đóng
quân đến quê nhà, là bà mẹ đêm khuya ngồi vá lưới, là lời mời mọc ân cần. Và chúng cho
thấy sự hiện diện của các nhân vật trong không gian nhất định, như ở trên là không gian
chiến khu, không gian quê nhà. Trong chức năng này, lời nói của nhân vật vô cùng tự
nhiên, giống với khẩu ngữ nên chúng có giá trị tạo hình cao. Và rất nhiều lời hội thoại của
các nhân vật có ở các bài tùy bút khác thực hiện chức năng này như Bên kia sông Hồng,
Sông Hồng sắc đỏ, Vòm trời quen thuộc, Vầng sáng trong đêm…
Trong chức năng thể hiện nội tâm, lời trực tiếp được thể hiện thông qua các mẫu lời nói
của một quá trình nội tâm, hoặc thể hiện dưới hình thức độc thoại nội tâm mở rộng. Trong
chức năng này, Đỗ Chu thường để cho nhân vật tự bộc lộ tâm lí, đời sống nội tâm tinh tế.
Lời của bà cụ trong tùy bút Hoa bờ giậu là một loại như thế: “ …có nhà anh mới nhầm, tôi
là người ngồi bên những đàm hoa bờ giậu cho đến lúc chết, hỏi nhầm sao được. Gió đưa
cây cải về trời, rau răm ở lại chịu nhời đắng cay” [18; 8]. Có một quá trình im lặng đằng
sau vầng trán nhăn nheo của bà già hàng nước. Đó là cái im lặng của một người đàn bà đã
sống mỏi mòn, tạm bợ, đơn chiếc. Đó là cái im lặng để nhân vật cất lên lời ru hời nỉ non,
sầu bi….Và đó là thái độ xác minh một cuộc đời lay lắt mà chính bà là một nhân chứng
sống. Mượn thân thảo mộc hoang dại, bà lão bày giãi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, yếu
đuối của mình giữa cuộc đời.
Cũng là lời của một bà lão, người mẹ có đưa con đi kháng chiến, hôm nay bất ngờ được
con về thăm. Nỗi vui mừng rưng rưng cùng với niềm tri ân lóe lên trong giọng nói đầy yếu
ớt của bà: “Mày cho u hỏi thăm sức khoẻ cái anh chỉ huy cho mày về thăm nhà ấy. Việc
quân đang bận mà anh ấy còn chiếu cố hoàn cảnh cho mày về, thế là quí lắm” [14; 55]. Khi
ông Bách có nhã ý đề tặng bài thơ Đường, nhà văn Kim Lân đã nói những lời như sau: “Tôi
chẳng dám liệt mình vào đám người đó, tôi làm đếch gì phải giấu mình. Tôi cứ sống như tôi
đang sống, giữa thanh thiên bạch nhật, thích thì làm, lười thì đừng làm, nào có ai bắt ai
giục, mà bản thân mình thì cũng có thèm khát nỗi gì, như thế là thanh thản, là biết dừng.
Tôi cũng chẳng cần một chữ tâm, một chữ nhẫn mà thiên hạ đang tìm như một cái mốt vậy.
Ông cứ nghĩ cho kĩ đi đã, nhất định ông sẽ có mấy chữ thật hay để tặng tôi năm nay, viết
cho thật phóng túng tít mù nom mới hả” [17; 143]. Chỉ qua một lời thoại, Kim Lân đã bộc
lộ quan điểm sống hết sức rạch ròi của mình: chú trọng thực chất hơn là việc tô vẽ bên
ngoài, sống tự do tự tại không bị ràng buộc bởi búa rìu dư luận, tự hài lòng với những gì
đang có ở hiện tại. Đỗ Chu biết cách để cho nhân vật tự thể hiện chiều sâu tâm trạng, đời
sống tâm lí bằng lời của chính họ.
Ở lời văn gián tiếp hai giọng, lời nửa trực tiếp hay còn gọi là lời văn song điệu cũng là
một đặc điểm độc đáo trong những bài tùy bút. Lời nửa trực tiếp là lời gián tiếp bao hàm
các yếu tố khác nhau của lời trực tiếp. Nhân vật ông Đắc trong tác phẩm Ghi chép ở Ban
Mê được nhà văn kể lại dòng hồi tưởng về quá khứ trong một lần trở lại Ban Mê: “Thế là
thế nào nhỉ, ông Đắc vừa tự hỏi mình vừa lặng lẽ nhìn về cuối thềm. Mảnh sân tù ngày
trước là chỗ các ông vài ba ngày được phép lê ra đó một lần, ngồi túm tụm thành một đám
rách rưới, bắt chấy bắt rận và phơi nắng. Nay thì nó biến thành mấy vạt sắn xanh um tùm.
Thôi thì mặc kệ đời, nước trôi thuyền trôi, ta đâu phải là người có thể đội đá vá trời. Hãy cứ
cố mà sống thêm lấy dăm mười năm thử xem đời sẽ đi về đâu” [17; 25]. Vẫn là lời gián tiếp
nhưng ý thức, ngữ điệu là của nhân vật. Đỗ Chu vừa miêu tả dòng hồi tưởng của ông Đắc
vừa để cho ông Đắc thể hiện nỗi ngậm ngùi của mình khi nhớ về ngày trước. Cái kỉ niệm
của một thời khổ nhục giờ trở thành những thước phim quay chậm lên dòng kí ức khiến cho
ông nghiệm ra bao điều sâu sắc. Dường như nhà văn để cho nhân vật tìm kiếm những cái đã
qua và cho họ nhận ra những biến thiên lớn lao mà con người không thể nào cưỡng lại nổi.
Những bạn tù ngày ấy đâu rồi, kẻ mất người còn, nhưng trong số còn ấy có mấy ai lưu giữ
những kỉ niệm yêu thương ấy chăng, hay đã thành ông nọ bà kia lùa kỉ niệm vào một xó
xỉnh nào đó trong kí ức. Suy nghĩ của nhân vật song hành với lời tự sự của nhà văn đã làm
nên hiện tượng song điệu trong trần thuật. Đến với tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn,
người đọc có dịp đi sâu vào đời sống nội cảm của cụ giáo Thấu qua những lời văn song
điệu: “Cụ bật dim, từ từ nhả cho làn khói bay nhẹ lên trần. Hôm nay mà Thấu này còn chưa
được vui thì hỏi còn hôm nào đây. Cụ nhìn ra ngoài cửa sổ, mưa bụi đang làm mờ mịt một
vùng thành phố. Đầu óc lại chợt muốn quay về với những ngày đã xa, cụ lại nghĩ đến họ,
những học trò, những đồng chí của cụ. Tất cả đều được cụ điểm danh, từng khuôn mặt được
cụ gọi về. Thấu này vẫn đang sống xứng đáng với các bạn, Thấu này vẫn đang làm việc và
nó đang bước đến gần, nó đã sờ thấy kết quả của công việc” [17; 62]. Hình ảnh một ông già
đang ngồi ôn lại chuyện cũ, khơi lên những gì thân thuộc nhất, thân thương nhất. Cái hiện
tại hòa vào quá khứ, bỗng chốc dậy lên bao nỗi niềm, bao trầm tư mặc tưởng trong tâm hồn
con người đã từng một thời gắn bó máu thịt với xứ rừng Tây Nguyên. Cái độc đáo của Đỗ
Chu là ông vừa tả cảnh mưa bụi đang bay đầy trời vừa miêu tả nhân vật, đi sâu vào cõi lòng
của nhân vật bằng chính dòng ý thức của nhân vật. Với lời văn song điệu, Đỗ Chu tái hiện,
miêu tả cảnh vật và con người rất sinh động, đào sâu vào sâu thế giới nội tâm của nhân vật.
Ông tỏ ra đồng cảm, tri âm sâu sắc với những nhân vật. Có thể nói, lời văn song điệu là một
trong những phương thức qua trọng để nhà văn phản ánh thế giới khách quan và biểu hiện
được những rung cảm tinh tế nhất, sâu sắc nhất của đối tượng tự sự và chủ thể sáng tạo. Nó
trở thành một đặc trưng nổi bật trong văn xuôi nói chung, thể loại tùy bút của Đỗ Chu nói
riêng.
Như thế, phong cách nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu vừa mang chất thơ vừa mang
chất truyện. Điều này làm cho tùy bút của ông mang đặc điểm tự sự - trữ tình trong một
kiểu văn xuôi tự nhiên, giản dị nhưng lại mang nhiều dấu ấn nghệ thuật đặc sắc. Đỗ Chu đã
chinh phục bạn đọc ở nhiều phương diện, trong đó kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa
chân dung, giọng điệu và nhịp điệu, ngôn từ nghệ thuật góp phần quan trọng tạo nên phong
cách sáng tạo tùy bút riêng. Đồng thời, hệ thống nghệ thuật đặc trưng ấy giúp nhà văn
chuyển tải được tất cả những đề tài mà nhà văn ấp ủ, bày giãi tư tưởng và tình cảm một
cách trọn vẹn, sinh động.
KẾT LUẬN
Hơn bốn mươi năm cầm bút, với mười tập truyện ngắn, một tuyển tập và ba tập tùy
bút, Đỗ Chu đã thực sự khẳng định tài năng của mình trong nền văn học hiện đại và đương
đại Việt Nam. Riêng với thể loại tùy bút, Đỗ Chu đã góp cho vườn hoa tùy bút thêm nhiều
hương sắc bằng những tác phẩm thật sự có giá trị. Đây cũng là những tác phẩm kết tinh cao
nhất tài năng và tâm huyết văn học của Đỗ Chu tựa những đóa hoa cuối mùa hết mình dâng
hiến trọn vẹn hương sắc cho cuộc đời
Về mặt cảm hứng, Đỗ Chu có một nguồn cảm hứng đa dạng, phong phú, dào dạt và ổn
định. Trải qua bao thăng trầm của cuộc đời mà trang viết của ông vẫn không biết thế nào là
chối bỏ những cái gì gọi là quen thuộc. Nguồn cảm hứng trong tùy bút của ông luôn gắn
liền với quê hương, đất nước và con người. Nhất là chân dung con người, nơi ấy Đỗ Chu
cũng đã phần nào làm hiện lên vẻ đẹp của con người nơi đất Việt. Hơn nữa, những vấn đề
mà nhà văn đưa vào trong tác phẩm của mình hoàn toàn là những vấn đề mà công chúng
quan tâm. Để thấy rằng, trang viết của Đỗ Chu mang tính nhân dân, tính dân tộc rõ nét.
Nói về chủ thể sáng tạo, tùy bút của Đỗ Chu bên cạnh nhận thức, phản ánh hiện thực
bên ngoài còn bộc lộ một cái tôi Đỗ Chu đa diện, đa sắc : trữ tình – triết luận – tài hoa –
uyên bác. Cấp độ đậm nhạt dẫu có khác nhau nhưng nhìn chung đó là một cái tôi đáng
trọng, đáng quí. Qua ba tập tùy bút, ta nhìn thấy chân dung một Đỗ Chu vừa đa cảm, ưu
đời mẫn thế, vừa có tầm văn hóa sâu rộng.
Cuối cùng, Đỗ Chu có một lối viết tùy bút mang tính lưỡng hợp với sự kết hợp giữa thi
pháp truyện và thi pháp thơ làm nên một sự độc đáo, có tính khu biệt rõ với các cây bút
trước đây và đương thời. Đỗ Chu xứng đáng được xưng tụng là nhà văn có phong cách
trong thể loại tùy bút.
Với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu”, chúng tôi đã đi vào ba
phương diện một chỉnh thể nghệ thuật bộ ba tùy bút. Chắc chắn có chỗ chưa được thỏa
đáng và hợp lí, mong được chia sẻ với mọi người công trình khoa học đầu tay nhằm có
những nghiên cứu sâu hơn về đề tài hấp dẫn và thú vị này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tạ Duy Anh (chủ biên) (2001), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh niên, Hà
Nội.
2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định, NXB Khoa
học xã hội, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (1996), Loại hình tác giả văn học và vấn đề phương pháp nghiên cứu,
tạp chí Văn học, số 2.
5. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, tạp chí Văn học, số 9,
1998.
6. Đỗ Chu (1963), Hương cỏ mật, NXB Quân đội nhân dân.
7. Đỗ Chu (1969), Tháng hai, NXB Quân đội nhân dân.
8. Đỗ Chu (1969), Vòm trời quen thuộc, NXB Quân đội nhân dân.
9. Đỗ Chu (1970), Đám cháy trước mặt, NXB Quân đội nhân dân.
101. Đỗ Chu (1971), Gió qua thung lũng, NXB Quân đội nhân dân.
11. Đỗ Chu (1977), Trung du, NXB Văn học, Hà Nội.
12. Đỗ Chu (1978), Nơi con đường gặp biển, NXB Phụ Nữ.
13. Đỗ Chu (1982), Phù sa, NXB Văn học, Hà Nội.
14. Đỗ Chu (1986), Những chân trời của các anh, NXB Quân đội nhân dân.
15. Đỗ Chu (1989), Mảnh vườn xưa hoang vắng, NXB Văn học, Hà Nội.
16. Đỗ Chu (2004), Một loài chim trên sóng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
17. Đỗ Chu (2006), Tản mạn trước đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
18. Đỗ Chu (2008), Thăm thẳm bóng người, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.
19. Tào Dư Chương (chủ biên) (2003), Những phong cách nghệ thuật, NXB TP.Hồ Chí
Minh.
20. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã
hội, Hà Nội.
21. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm như là quá trình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.
22. Phan Huy Dũng (2007), Đỗ Chu chiêm nghiệm con người và nghệ thuật, tạp chí Nhà
văn, số tháng 3.
23. Lê Tiến Dũng (2007), Nhà văn và phong cách, NXB Đại học Quốc gia, TP.HCM.
24. Lê Tiến Dũng, (1999) Phê bình và cái roi ngựa, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.
25. Đức Dũng (1996), Các thể báo chí, NXB Văn hóa - thông tin, Hà Nội.
26. Trần Thanh Đạm (2003), Trước thềm 2003, nghĩ tiếp về văn học thế kỉ XX và rộng hơn,
tạp chí Nhà văn, tháng 1.
27. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
28. Đặng Anh Đào (1994), Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam 1930 – 1945,
tạp chí Văn học, số 7.
29. Phan Cự Đệ (1983), Nhà văn Việt Nam (1945 – 1975), tập 2, NXB Đại học & Trung
học chuyên nghiệp, Hà Nội.
30. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo dục.
31. Kim Định (1973), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, NXB Nguồn sáng, Sài Gòn.
32. Kim Định (1974), Những dị biệt giữa hai nền triết lí Đông Tây, NXB Ca dao, Sài Gòn.
33. Đỗ Đức (2008), Ngày xuân đọc “Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu”, tạp chí Nhà văn,
số 1.
34. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.
35. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), Những đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Việt Nam cuối những
năn 80 đầu những năm 90, Luận án Tiến sĩ, ĐHKHXH & NV, TP.HCM.
36. Nguyễn Thị Hồng Hà (2004), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, Luận án Tiến sĩ,
ĐHKHXH & NV, TP.HCM.
37. Thu Hà (2007), Đỗ Chu: Tản mạn trước đèn, 0TUhttp://tintuc.xalo.vnU0TU.
38. Vũ Hà (1987), Nguyễn Tuân ở trong tôi, Hà Nội mới, số 2.
39. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn
học, NXB Giáo dục.
40. Đàm Thị Mỹ Hạnh (1980), Một số nét về truyện ngắn 1979, NXB Văn học, Hà Nội.
41. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn, chuyện đời, NXB Giáo dục.
42. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,
NXB Giáo dục.
43. Ngũ Nhị Song Hiền (2010), Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, Luận văn Thạc sĩ,
Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.
44. Nguyễn Hòa (1998), Văn chương – hi vọng về những điều tốt
đẹp, 0TUhttp://203.162.0.19:8080/show-content.plU0TU.
45. Tô Hoàng (2006), Nhà văn Đỗ Chu trong con mắt bạn bè, Văn nghệ Công an, số 27/2
46. Tô Hoàng (17/05/2009), Đỗ Chu, nhà văn bình nhì của chúng
tôi, Uhttp://www.sggp.org.vn.
47. Hoàng Ngọc Hiến (2008), Thăm thẳm bóng người – một thành tựu, tạp chí Nhà văn, số
11.
48. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học
(bộ mới), NXB Thế giới mới.
49. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB khoa học xã hội và NXB Cà
Mau.
50. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp học hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.
51. Bùi Công Hùng (1982), Vấn đề phong cách trong sáng tác văn học, tạp chí Văn học, số
3.
52. Nguyễn Thanh Hùng (1994), Văn học và nhân cách, NXB Văn học, Hà Nội.
53. Hà Khái Hưng, Dấu ấn Đỗ Chu trong “Thăm thẳm bóng
người”, 0TUhttp://vncad.cand.com.vnU0TU.
54. Hà Khái Hưng, Nhà văn Đỗ Chu: Dù được nhớ tới thể loại nào cũng là
quý, Uhttp://vnca.cand.com.vn.
55. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, NXB
Giáo dục, Hà Nội.
56. K. Pauxtốpxki (2001), Bông hồng vàng, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
57. K. Pauxtốpxki (1987), Bình minh mưa, NXB Văn học, Hà Nội.
58. M.B. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học,
NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.
59. M.B.Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận văn học, NXB
Đại học Quốc gia, Hà Nội.
60. M.B.Khrapchenko (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người (tập 2), NXB
Khoa học xã hội, Hà Nội.
61. Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu không thích sự ầm ĩ, Tiền
phong, 0TUhttp://vietbao.vnU0T
62. Nguyễn La, Cái tôi trong tùy bút, 0TUhttp://vannghequandoi.com.vnU0T.
63. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục.
64. Thạch Lam (1988), Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, Hà Nội.
65. Thạch Lam (1988), Hà Nội băm sáu phố phường, NXB Văn nghệ, TP. HCM.
66.Thạch Linh, Đỗ Chu: “Thăm thẳm bóng người”, Uhttp://thethaovanhoa.vn.
67. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.
68. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB
Giáo dục.
69. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách,
NXB Trẻ, TP.HCM.
70. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Đại học Quốc gia
TP. HCM.
71. Phùng Quí Nhâm (1992), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, TP. HCM.
72. Phùng Quí Nhâm, Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM.
73. Nhiều tác giả (2004), Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học Sư
phạm, Hà Nội.
74. Huỳnh Như Phương (1986), Dẫn vào tác phẩm văn chương, Đại học Tổng hợp
TP.HCM.
75. Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái hình thức Nga, NXB Đại học Quốc gia TP.
HCM.
76. G.N. Pôxpêlôp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục.
77. Hồng Thanh Quang ( 2004 ), Nhà văn Đỗ Chu: Cô đơn được càng tốt, An ninh thế giới
cuối tháng, 0TUhttp://www.chungta.comU0T.
78. Nguyễn Hoàng Sơn (2003), Nhà văn Đỗ Chu: “ Tôi không bán giấy”, Văn đàn, thời sự
và bình luận, NXB Văn học.
79. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học, Vụ Giáo viên, Hà Nội.
80. Lý Hoài Thu (2008), Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, tạp chí văn học, số 10.
81. Nguyễn Thành Thi (2001), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án Tiến
sĩ, ĐHKHXH & NV, TP. HCM.
82. Lê Thủy (2005), Đỗ Chu với tùy bút, Lao động, ngày 06/02.
83. Lê Ngọc Trà (2005), Lí luận và văn học, NXB Trẻ, TP. HCM.
84. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, Thẩm mĩ và Văn hóa, NXB Giáo dục.
85. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hóa Việt Nam: đặc trưng và cách tiếp cận, NXB Giáo dục.
86. Hoàng Trinh (1997), Từ kí hiệu đến thi pháp học, NXB Đà Nẵng.
87. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và
trung học chuyên nghiệp, Hà nội.
88. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I, NXB Văn học, Hà Nội.
89. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập II, NXB Văn học, Hà Nội.
90. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB Văn học, Hà Nội.
91. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1985), Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, NXB Thuận Hóa, Huế.
92. Tzetan Todorov (2005), Thi pháp văn xuôi, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.

