Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
lượt xem 3
download
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu giới thiệu tới các bạn về thể loại tùy bút và tùy bút của Đỗ Chu; cái tôi Đỗ Chu trong tùy bút; nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu. Với các bạn chuyên ngành Văn học thì đây là tài liệu hữu ích.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH MAI SƠN TÙNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2011
- BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH MAI SƠN TÙNG THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32 LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
- LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hoài Thanh. Công trình này chưa công bố dưới bất kì hình thức nào. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình này. Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 08 năm 2011 Mai Sơn Tùng
- LỜI CẢM ƠN Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoài Thanh, người thầy đã luôn khích lệ và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn này. Để hoàn thành luận văn, tôi cũng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của gia đình, đồng nghiệp trường THPT Ngô Quyền (Bà Rịa – Vũng Tàu), và quí thầy cô công tác tại Phòng KHCN & SĐH trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Xin cảm ơn tất cả mọi người Mai sơn Tùng
- MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ................................................................................................................. 1 0T 0T LỜI CẢM ƠN ...................................................................................................................... 2 0T T 0 MỤC LỤC ............................................................................................................................ 3 0T T 0 DẪN LUẬN .......................................................................................................................... 5 0T T 0 1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................................... 5 0T 0T 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ......................................................................................................... 6 0T 0T 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................................................... 7 0T 0T 4. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................................................................... 9 0T 0T 5. Cấu trúc luận văn ................................................................................................................................. 9 0T 0T Chương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU .................................. 11 0T T 0 1.1 Về thể loại tùy bút ............................................................................................................................ 11 0T 0T 1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút .................................................................................................... 11 T 0 0T 1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút ........................................................................................ 12 T 0 T 0 1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút .................................................................................... 14 T 0 T 0 1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu ......................................................... 15 0T T 0 1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu .................................................................................. 19 0T T 0 1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật .............................................................................................. 19 T 0 0T 1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu ........................................................ 20 T 0 T 0 1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương .......................................................... 20 T 0 T 0 1.3.2.2 Chân dung người chiến sĩ, người nghệ sĩ và trí thức bác học .............................................. 28 T 0 T 0 1.3.2.3 Hình tượng con người Việt Nam theo dòng lịch sử ............................................................ 41 T 0 T 0 Chương 2: CÁI TÔI ĐỖ CHU TRONG TÙY BÚT ........................................................ 46 0T T 0 2.1 Cái tôi trữ tình .................................................................................................................................. 46 0T 0T 2.1.1 Cái tôi trữ tình công dân............................................................................................................ 46 T 0 0T 2.1.2 Cái tôi trữ tình đời thường ......................................................................................................... 51 T 0 0T 2.1.3 Cái tôi trữ tình hoài niệm về tuổi thơ và quê nhà yêu dấu .......................................................... 53 T 0 T 0 2.2 Cái tôi triết luận................................................................................................................................ 56 0T 0T 2.2.1 Cảm quan về cuộc đời ............................................................................................................... 56 T 0 0T 2.2.2 Những quan niệm về văn chương .............................................................................................. 59 T 0 0T 2.2.3 Những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội đương thời ............................................................. 63 T 0 T 0 2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác ................................................................................................................... 67 0T 0T 2.3.1 Tầm hiểu biết sâu rộng .............................................................................................................. 67 T 0 0T 2.3.2 Những trích dẫn đa dạng, phong phú ......................................................................................... 70 T 0 T 0 2.2.3 Sự cảm nhận thiên nhiên tinh tế, tài hoa .................................................................................... 71 T 0 T 0 Chương 3: NGHỆ THUẬT TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU ......................................................... 74 0T T 0
- 3.1 Kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa chân dung .............................................................................. 74 0T T 0 3.1.1 Kết cấu ..................................................................................................................................... 74 T 0 0T 3.1.1.1 Kết cấu giản dị, tự nhiên .................................................................................................... 74 T 0 0T 3.1.1.2 Kết cấu lồng và xâu chuỗi nhiều chuyện kể trong cùng một tác phẩm ................................ 79 T 0 T 0 3.1.2 Ngôi kể ..................................................................................................................................... 81 T 0 0T 3.1.3 Nghệ thuật khắc họa chân dung ................................................................................................. 83 T 0 0T 3.2 Nhịp điệu và giọng điệu.................................................................................................................... 88 0T 0T 3.2.1 Nhịp điệu .................................................................................................................................. 88 T 0 0T 3.2.2 Giọng điệu ................................................................................................................................ 90 T 0 0T 3.3 Ngôn từ nghệ thuật ........................................................................................................................... 97 0T 0T 3.3.1 Ngôn từ trong trẻo, giàu chất thơ ............................................................................................... 98 T 0 0T 3.3.2 Câu văn giàu tính nhạc, nhiều liên tưởng, so sánh ................................................................... 101 T 0 T 0 3.3.3 Thành phần lời văn nghệ thuật ................................................................................................ 104 T 0 0T KẾT LUẬN ...................................................................................................................... 108 0T T 0 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 109 0T 0T
- DẪN LUẬN 1. Lí do chọn đề tài Truyện ngắn Ao làng được trích in trên tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1961 đã đánh dấu bước đầu khởi nghiệp văn chương của cậu học sinh tên Chu Bá Trình. Tính đến nay đã ngót năm mươi năm, cậu học sinh trường trung học Hàn Thuyên năm ấy giờ đã là một nhà văn lão thành, có những cống hiến không nhỏ cho nền văn học dân tộc. Sau những năm miệt mài sáng tạo, ông đã có trong tay trên chín tập truyện ngắn và ba tập tùy bút. Có thể nói, Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với thể loại truyện ngắn và được đông đảo độc giả biết đến qua các tập truyện ngắn. Trước năm 2004, người ta biết một Đỗ Chu với những truyện ngắn mang giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng và giàu sức biểu cảm. Ông được vinh dự nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào năm 2001 với bộ ba tác phẩm Hương cỏ mật, Phù sa, Mảnh vườn xưa hoang vắng, và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2003 với tác phẩm Một loài chim trên sóng, đặc biệt cũng với tập truyện ngắn này Đỗ Chu cũng vinh dự nhận Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2004. Với các giải thưởng này, tài năng, tâm huyết và những đóng góp của văn Đỗ Chu về thể loại truyện ngắn đã được ghi nhận, tôn vinh. Đồng thời, tên tuổi của ông cũng có vị trí nhất định trong nền văn học hiện đại Việt Nam và khu vực. Quả là một trường hợp hiếm thấy, khi nhà văn vừa bước sang tuổi lục tuần, cái tuổi đã trông thấy rõ rệt sự mệt mỏi và già nua, nhà văn của thể loại truyện ngắn lại bất ngờ làm một cuộc chuyển hướng đột ngột sang thể loại tùy bút với tác phẩm Tản mạn trước đèn, xuất bản lần đầu năm 2004. Tập tùy bút này được đông đảo giới nghiên cứu – phê bình và độc giả đón nhận nồng nhiệt. Từ đây, Đỗ Chu chính thức được biết đến trong tư cách của tác giả tùy bút. Và lịch sử nghiên cứu về thể loại tùy bút đã ghi nhận cái tên Đỗ Chu khá nổi bật giữa các nhà văn trước đó và đương đại. Năm 2008, Đỗ Chu lại tiếp tục trình làng tác phẩm tùy bút Thăm thẳm bóng người với số lượng đầu sách xuất bản ấn tượng 2500 cuốn. So với Tản mạn trước đèn, tùy bút Thăm thẳm bóng người là tác phẩm đi sâu hơn, xa hơn, có sức lan tỏa rộng hơn và thể hiện một tài năng nghệ thuật đã đến độ chín muồi của nhà văn xứ Kinh Bắc. Như lời tâm sự của nhà văn với Hà Khái Hưng trên báo Văn nghệ Công an, cả hai tập sách đều là những kỉ niệm dấu yêu, những điều tác giả đã nghe thấy, đã trải qua. Với các tác phẩm ấy, tên tuổi của Đỗ Chu được nâng lên một tầm cao mới, xứng đáng là cây bút văn xuôi nổi bật trong nền văn học hiện đại Việt Nam.
- Về việc nghiên cứu tác phẩm của ông, đã có một số bài báo, bài nghiên cứu viết về Đỗ Chu. Và cũng có một số học viên cao học lấy truyện ngắn nói riêng, văn xuôi của ông nói chung làm đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về tùy bút của nhà văn. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tùy bút của ông với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu” Chọn nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ đã làm nên nét độc đáo trong sáng tác tùy bút của ông. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn muốn góp thêm một tiếng nói khẳng định những cống hiến của Đỗ Chu cho nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung, cho thể loại tùy bút nói riêng. Đây là công trình khoa học tập trung nghiên cứu chuyên sâu về đặc trưng tùy bút của Đỗ Chu. Cố gắng chỉ ra những nét độc đáo làm nên diện mạo sáng tạo tùy bút của nhà văn, chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói khẳng định vai trò và vị trí của Đỗ Chu trong tiến trình văn học Việt Nam với tư cách là tác giả tùy bút có những nét đặc trưng riêng biệt và là một trong những đại diện tiêu biểu cho thể loại tùy bút đương đại. Trong chừng mực nhất định, người viết cũng hi vọng chỉ ra được những đóng góp riêng của Đỗ Chu trong việc mang lại diện mạo mới cho thể loại tùy bút. Mặt khác, chúng tôi hi vọng rằng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho sinh viên, các giáo viên Ngữ văn bật phổ thông và những ai quan tâm đến tùy bút đương đại Việt Nam. 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu”, chúng tôi sẽ lấy ba tập tùy bút Những chân trời của các anh (1986), Tản mạn trước đèn (2004 và Thăm thẳm bóng người (2008) làm đối tượng nghiên cứu. Do đặc điểm của đề tài nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thể loại tùy bút của nhà văn Đỗ Chu. Phạm vi của luận văn này là đi vào thế giới nghệ thuật và một số đặc điểm chính của ba tập tùy bút trên.
- 3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Trừ tập Những chân trời của các anh, hai tập tùt bút còn lại là những tác phẩm mới được xuất bản. Hiện nay có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và trên mạng Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu, Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa, Hà Khái Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn Thanh Kim…Tuy nhiên đó cũng chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ có tính ấn tượng ban đầu và tính thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong hệ thống tùy bút Việt Nam để phân tích, nghiên cứu và tìm ra được đặc trưng riêng của nó. Đa số các tác giả đều cho rằng Đỗ Chu đến với tùy bút như một hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết cùng những suy tư, trăn trở của mình trước hiện thực cuộc sống hôm nay và hôm qua. Đỗ Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh co của dòng sông văn học, lúc này đang chứng kiến một thời kì mới của sáng tác với nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt” [22; 21]. Phan Huy Dũng khi giới thiệu về tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa, tinh tế trong văn phong tùy bút của Đỗ Chu như sau: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tính tế, tài hoa những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh” [22; 21]. Phan Huy Dũng cũng nhấn mạnh bản lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của Đỗ Chu: “Khi viết Tản mạn trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao thoát khỏi mê lầm” [22; 22]. Thạch Linh lại thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng của Đỗ Chu: “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian và bác học, lịch sử, huyền tích, cái trông thấy và nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng” [66; 14].
- Hà Khái Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngôn ngữ và phong cách tùy bút trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội…, ông còn chú trọng đến những khoảng lặng của của cảm xúc và đặt biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn” [53]. Ông còn nhận ra cái tạng cảm xúc “vừa trữ tình vừa hóm hỉnh”. Theo Hà Khái Hưng thì Đỗ Chu có một giọng kể chuyện đa sắc: “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lem, cả cười nhưng cũng có lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất báo” [53; 18]. Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hi vọng về những điều tốt đẹp đã ca ngợi Đỗ Chu như sau: “Văn Đỗ Chu viết kĩ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân tình” [44]. Ông còn những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật: “Đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo, những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lí thì cũng rất khoáng đạt, độc đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút người đọc” [44]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra những nét hạn chế trong lối văn miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc: “Tuỳ bút Đỗ Chu thường mở đầu một cách “chật vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại đọc” [44]. Trong bài Cái tôi tùy bút, Nguyễn La đã chỉ ra được một nét kết cấu độc đáo trong tùy bút của Đỗ Chu. Đó là kết cấu theo kiểu “hình xương cá”. Sau đó ông khen sự uyên thâm của Đỗ Chu: “Đỗ Chu viết tùy bút bằng sự hiểu đời của chính ông, tôi gọi văn ông là thứ văn biết đời – dựa theo cách nói của Cao Bá Quát nhận định về Truyện Kiều là thứ văn hiểu đời. Tất nhiên từ biết đến hiểu là khoảng cách rất xa. Nói thế để thấy rằng nhận định thứ văn biết đời của Đỗ Chu cũng có chừng mực chứ không đề cao một cách quá đáng. Đỗ Chu biết nhiều lắm, biết nhiều nên làm người đọc thích thú với một câu ca dao cổ được tái hiện trong văn cảnh phù hợp, một câu đối chữ Nho được cắt nghĩa làm rõ cái thâm thúy của các cụ ngày trước, một phong tục xứ Kinh Bắc quê ông, mà bóc đi cái vỏ tưởng là mê tín dị đoan lại là cái nhân đậm đà tình người…” [62]. Cuối cùng, Nguyễn La khen sự liên tưởng, nhập thân vào nhân vật của Đỗ Chu trong quá trình trần thuật: “Đỗ Chu là người chéo thuyền giỏi, cái tình – phần nào tôi đã nói ở trên, cái tài là cái duyên của văn anh thể hiện rõ ở sự liên tưởng nhiều khi độc đáo, đột xuất; ở sự nhập vai nhập thân vào nhân vật để kể, lúc bấy giờ giọng Đỗ Chu hay giọng nhân vật khó mà phân biệt. Thi pháp gọi đó là song điệu,
- tôi gọi đó là giọng nhập vai, bề ngoài vẫn là giọng Đỗ Chu nhưng lại là tiếng nói, tư tưởng của nhân vật” [62]. Ngũ Nhị Song Hiền đã tìm ra được những cảm hứng chính trong ba tập sách của Đỗ Chu. Ngoài ra, cô còn phát hiện ra chất thơ và chất truyện, phân loại được những giọng điệu khác nhau trong tùy bút của ông: “Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn hiện thức phức hợp, đa chiều của văn học thời kì đổi mới đã giúp Đỗ Chu cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau, mang đến sự đa sắc trong giọng điệu” [43; 136]. Nhìn chung, tùy bút của Đỗ Chu có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khi bình luận vừa có khen và vừa có đôi chút không hài lòng. Song cái chỗ không hài lòng ấy cũng rất nhẹ nhàng vì theo họ đây là điều thuộc về cái “tạng” của nhà văn, là đặc trưng riêng của phong cách cá nhân. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy sự thống nhất ở một điểm là tùy bút của ông thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, chuẩn mực, mĩ lệ… Dù có đông đảo nhiều bài viết về tùy bút của ông nhưng đó cũng chỉ là những nhận định khái quát, hoặc riêng lẻ một tập tùy bút mà thôi. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu” với tham vọng tìm ra được nét đặc trưng trong thể loại tùy bút của ông. Và đây cũng là công trình khoa học đầu tay của một người mới bước những bước đầu tiên trong việc nghiên cứu văn học. 4. Phương pháp nghiên cứu Luận văn này chủ yếu nghiên cứu theo phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại. Trên cơ sở lí thuyết về đặc trưng thể loại tùy bút, người viết đi sâu vào tìm hiểu thế giới nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu. Từ những dấu hiệu nổi bật, người viết đi đến khái quát thành những luận điểm phù hợp, cố gắng lọc ra những yếu tố tiêu biểu nhất để làm cơ sở tổng hợp, đánh giá. Để hỗ trợ cho việc nghiên cứu đạt kết quả cao nhất, chúng tôi còn sử dụng các phương pháp bổ trợ khác như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp so sánh… 5. Cấu trúc luận văn Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương chính tập trung giải quyết các vấn đề sau: Chương 1: Thể loại tùy bút và tùy bút của Đỗ Chu
- 1.1 Về thể loại tùy bút 1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu 1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu Chương 2: Cái tôi Đỗ Chu trong tùy bút 2.1 Cái tôi trữ tình 2.2 Cái tôi triết luận 2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác Chương 3: Nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu 3.1 Kết cấu, ngôi kể và nghệ thuật khắc họa chân dung 3.2 Nhịp điệu và giọng điệu 3.3 Ngôn từ nghệ thuật Kết luận Tài liệu tham khảo
- Chương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU 1.1 Về thể loại tùy bút 1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút Tùy bút là một trong những thể loại thuộc thể kí, một trong năm thể loại của văn học. Ngoài những tính chung, tùy bút còn có những đặc trưng riêng biệt. Có vẻ như cách hiểu đơn giản theo cảm tính: tùy bút là những trang văn xuôi mà ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy – lâu nay đã được nhiều người yên tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân – nhà văn sáng tác tùy bút hàng đầu của Việt Nam – cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan trọng của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặt trưng của tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan ở người nghệ sĩ. Tuy nhiên, những điểm bất cập và chưa thỏa đáng cũng nảy sinh từ chính những điều đơn giản ấy. Bất kì sáng tác văn chương nào cũng đều bắt đầu từ một nguồn cảm hứng của cá nhân người nghệ sĩ, chứ không chỉ riêng tùy bút. Tuy nhiên, với thể loại tùy bút, người nghệ sĩ phải lưu trữ nguồn cảm xúc mãnh liệt thì mới có thể thăng hoa trong quá trình sáng tác. Một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ dễ dẫn đến lẫn lộn lối viết tự do, phóng khoáng với lối viết lan man, tản mạn, bịa đặt tùy tiện. Bởi vì “những sự việc, những con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay theo một tư duy luận lí chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc, cái logíc bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn của chủ thể thẩm mĩ vẫn phải chân thật” [39; 1888]. Nếu coi tùy bút là một cách viết hay một kiểu bút pháp thì mới chỉ dừng lại ở mức độ cảm tính trong nhận thức, chưa bao quát hết đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học có những đặc trưng rõ nét cả về nội dung và hình thức biểu hiện, đủ sức tồn tại ngang hàng với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác. Từ góc nhìn từ nguyên học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin cậy, góp phần xác định khái niệm thể loại và phân định loại hình tùy bút. Trong Hán Việt từ điển giản yếu, từ “tùy bút” được Đào Duy Anh giải nghĩa là “tùy thời mà chép”. Nghĩa là thể loại này không chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của người viết mà còn phải chịu sự chi phối từ hoàn cảnh
- khách quan. Còn từ “bút”, ngoài nghĩa cái dùng để viết, có thêm nét nghĩa nữa là “biên chép”. Vào buổi sơ khai của việc phân loại, một số nhà lí luận Trung Quốc đã chia văn chương ra làm hai loại: có vần và không vần. Ở chương Tổng thuật của tác phẩm Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp có viết: “Kim chi thường ngôn, hữu Văn hữu Bút, dĩ vi vô vận giả Bút dã, hữu vận giả Văn dã” (Ngày nay thường nói: có Văn có Bút, cho không vần là bút, có vần là Văn . Thời Lưu Tống, trong Nhan Quang Lộc tập, Nhan Diên chia văn chương ra làm ba loại: Ngôn, Bút, Văn. Trong đó, “Bút” có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả truyện ký. Dù mới là giả thiết, nhưng thiết nghĩ những thông tin trên đủ cơ sở để củng cố mối hoài nghi mang ý nghĩa khoa học: không thể tiếp tục hiểu rằng “bút” là ngòi bút và “tùy bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Từ trong nguồn gốc phương Đông, tùy bút đã được xác định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không bị ràng buộc bởi những khuôn khổ có tính qui phạm, cả về nội dung tư tưởng và cách thức thể hiện. Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và những việc cụ thể có thực, tác giả tùy bút đặc biệt chú ý việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của mình về con người và cuộc đời. Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo riêng của mình, những người thích tự biểu hiện, tự phân tích, đồng thời những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt chẽ như châm ngôn…những người đó mới đi vào thể loại tùy bút. So với các thể loại khác, đội ngũ sáng tác của tùy bút còn khá khiêm tốn: Trong văn học Việt Nam từ trước Cách mạng đến nay, số lượng nhà văn đứng được ở thể tùy bút không nhiều. Nhưng rõ ràng với tư cách một thể loại văn chương, tùy bút đã có quá trình hình thành và phát triển, kế thừa và cách tân, với những đặc trưng nghệ thuật chịu ảnh hưởng sâu sắc cả về phương Đông lẫn phương Tây. Còn có thể hiểu “tùy bút” như là một bút pháp tự do, phóng túng, tài hoa, không thuộc sở hữu riêng của sáng tác văn chương. Cách hiểu này không phổ biến và chỉ có ý nghĩa gợi mở thêm hướng nghiên cứu. 1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút Mặc dù là một thể loại văn xuôi mang rõ nét khá nhiều đặc trưng nghệ thuật, nhưng trên thực tế hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào cho thể loại tùy bút. Trong các tác phẩm lí luận văn học, do những biểu hiện có tính chất trung gian, tùy bút bao giờ cũng được nhắc tới với tư cách là một tiểu loại của thể loại kí, bằng sự dè dặt nhất định. Quan
- điểm trong việc xác định loại hình của tùy bút vẫn chưa thấy có sự nhất trí cần thiết. Có thể thấy nổi lên hai quan điểm vừa tương đồng vừa có chỗ chưa nhất trí với nhau về vấn đề này: 1- Tùy bút là một tiểu loại văn xuôi giàu chất trữ tình, nhưng phát sinh từ thể kí (một biến thể của tự sự); 2- Tùy bút là một thể văn xuôi thuộc loại trữ tình. Như vậy, cả hai quan điểm trên đều thừa nhận sự tồn tại thường trực của chất trữ tình trong tùy bút, nhưng cách nhìn nhận về vai trò, mức độ của yếu tố tự sự có điểm khác nhau. Các tác giả của quyển Văn học Việt Nam thế kỉ XX đã xếp tùy bút vào loại kí: “Tùy bút là một thể thuộc loại hình kí có lối viết phóng khoáng, tự do và chủ quan nhất…So với các tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn không ít yếu tố chính luận và chất suy tưởng triết lí” [30; 234]. Trong quyển Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn Văn Hạnh cũng xếp tùy bút vào hệ thống thể kí: “Các thể kí chủ yếu có mặt cả trong văn học cổ điển và hiện đại là kí sự, tùy bút, bút kí, nhật kí” [43; 99]. Khác hẳn với các ý kiến trên, trong cuốn Lí luận văn học, Nguyễn Xuân Nam lại xếp tùy bút vào loại trữ tình: “Tác phẩm trữ tình không phải chỉ có thơ trữ tình, mặc dù nó là tiêu biểu nhất. Ngoài thơ trữ tình còn có tùy bút, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc,…Tùy bút là thể loại văn xuôi phóng khoáng. Nhà văn theo ngọn bút mà suy tưởng, trần thuật, nhưng thực chất là thả người theo dòng liên tưởng, cảm xúc mà tả người, kể việc” [67; 188]. Văn chương bao giờ cũng phải mang tính khuynh hướng, thể hiện rõ nhất ở cách người nghệ sĩ tiếp cận và nghiền ngẫm hiện thực. Đằng sau mỗi bức tranh đời sống bao giờ cũng thấm đẫm nỗi niềm, mối suy tư, sự day dứt của nhà văn…Nhưng riêng với thể loại tùy bút – một thể loại thường xuyên xuất hiện những chất liệu còn phập phồng hơi thở cuộc sống – thì việc xếp yếu tố khách quan xuống hàng thứ yếu, chỉ có ý nghĩa như một phương tiện để giãi bày, có vẻ chưa thỏa đáng. Bản thân các chi tiết, sự kiện, số phận,…đã tồn tại như một cấp độ ý nghĩa trong nhận thức, nhiều khi hết sức sâu sắc và mối liên hệ nội tại với cái mạch trữ tình của tác phẩm. Mặt khác, dù có màu sắc trữ tình đậm đà, tùy bút vẫn chưa hội đủ điều kiện để được công nhận là một thể văn xuôi thuộc loại trữ tình. Bởi vì, trong tác phẩm trữ tình không có sự mở rộng các chi tiết, hành vi, quan hệ qua lại của con người mà chỉ có thể hiện trực tiếp yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Hêghen cũng khẳng định tính chất trực tiếp của sự biểu cảm là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm trữ tình: “Anh ta (nhà thơ trữ tình) có thể kiếm tìm sự kích thích sáng tạo và tìm kiếm nội dung bên trong bản thân mình, tập
- trung vào những tình thế, trạng thái, xúc cảm và dục vọng nội tại của trái tim và tinh thần mình. Ở đây bản thân con người trong đời sống nội tâm chủ quan của nó trở thành tác phẩm nghệ thuật” [76; 327]. Trong khi đó, biểu cảm ở tùy bút thường ít nhiều có màu sắc gián tiếp, thông qua việc miêu tả chân thật và sinh động bức tranh đời sống. Vì những lí do vừa nêu, có lẽ không thể tiếp tục hiểu một cách đơn giản rằng “bút” là ngòi bút và “tuỳ bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Tùy bút – từ trong bản chất của thể loại – là những tác phẩm văn xuôi phát sinh từ kí (gần với tự sự) và được viết chủ yếu theo mạch cảm xúc chủ quan của tác giả (gần với trữ tình). Vậy thì tùy bút nằm ở đâu trong hệ thống phân loại văn học truyền thống? Có lẽ đặt ở vị trí trung gian giữa tự sự và trữ tình là phù hợp nhất. Các loại hình văn học không bao giờ tồn tại một cách tách biệt với nhau, với những ranh giới không thể vượt qua. Và các cách phân chia văn học cũng chỉ mang tính chất tương đối. Đến đây, thiết nghĩ đã có đủ cơ sở để khẳng định: tùy bút là một thể văn xuôi thuộc loại tự sự – trữ tình. Vấn đề sẽ phức tạp hơn khi vận dụng quan điểm này để xem xét các tác phẩm cụ thể. Nhưng không thể vì thế mà muốn có được sự tường minh về lí thuyết mà lại gò ép thực tiễn sinh động vào tác phẩm không phù hợp. 1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút Tính lưỡng hợp trong tác phẩm tùy bút có cội nguồn từ một lối viết ở nhiều khía cạnh như cách nhận thức vấn đề, cách xây dựng tình huống, giọng điệu văn chương…Hơn nữa, tùy bút là loại văn rất cần sự hiện diện của lí trí tỉnh táo, lối tư duy về các vấn đề xã hội nhưng cũng không thể loại trừ nhịp đập của con tim với những rung động mãnh liệt, đầy hứng thú trước các hiện tượng của cuộc sống. Nếu không có lí trí tỉnh táo, ngòi bút của người viết sẽ tung hứng lên chín tầng mây mà không tìm được nẻo về và rồi cũng đồng thời rơi vào trạng thái mông muội dẫn tới bịa đặt, suy diễn lan man, không hợp với thực tế. Có khi, chính cái trạng thái ngất ngây không có sự kiểm soát của lí trí, người viết sa vào lối văn duy mĩ, dẫn người đọc vào trò chơi chữ nghĩa. Cái kiểu “chén đĩa mùa đi nhịp hải hà” ban đầu có thể tạo ra một lực hút, đem lại sự khoái cảm thẩm mĩ nhưng sau đó thì người ta sẽ nhận ra đây chỉ là sự khoe mẽ, phô trương ngôn từ rỗng tuếch, vô nghĩa. Ngược lại, nếu bài tùy bút qua nặng về lí trí, chú trọng thông tin, liệt kê chính xác từng sự kiện, dữ liệu thì sẽ biến văn bản thành một thể khác như phóng sự, kí sự...Hơn nữa, việc thiếu sự gọt giũa ngôn
- từ, nghệ thuật hóa dữ kiện, loại trừ cảm xúc sẽ làm trang viết trở thành một loại văn bản khô khan, cứng nhắc, mờ nhạt tính chất, đặc trưng của văn chương. Vì thế, để có được những trang tùy bút hay, người nghệ sĩ phải vừa say mà lại vừa tỉnh, vừa xúc cảm nhưng cũng vừa suy tư. Kết quả của cuộc hôn phối của xúc cảm và lí trí sẽ là tác phẩm tùy bút, một thực thể sinh động mang vẻ đẹp lưỡng hợp dung hòa hai yếu tố trên. Cái trọng tâm của sự sáng tạo trong thể loại tùy bút không phải là ở sự hư cấu những hình tượng vốn không hiện hữu trong thực tế mà là cách sắp xếp, trình bày, điều phối sự kiện hay vấn đề nào đó, không những mang lại giá trị nhận thức mà còn đem lại những rung động thẩm mĩ thực sự. Tài năng của người viết tùy bút giống như hình ảnh ngưòi nghệ sĩ đi xiếc trên dây cần một thế cân bằng giữa hai bờ vực. Đồng thời, người nghệ sĩ còn phải biết chuyển tải cảm xúc và hiện thực bằng một lối văn riêng của chính mình. Không tạo được giọng điệu, tác phẩm dễ rơi vào quên lãng, rồi thì sẽ dần mất tích trong vô số tác phẩm ấn tượng hơn. Nhà văn phải để lại trong lòng độc giả một dư vị nào đấy, một nỗi ám ảnh nào đấy bằng một thiên tư không thể nhầm lẫn thì mới hiện hữu lâu bền giữa lòng văn học. 1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với văn học từ những năm 60 của thế kỉ XX. Những sáng tác của Đỗ Chu trong mấy mươi năm cầm bút chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Tính cho đến năm 2002, Đỗ Chu đã cho ra ra đời mười tập truyện ngắn, trong đó có những tập truyện lưu dấu đậm nét trong lòng độc giả. Một lối viết văn đã thành văn hiệu với chất giọng say đắm, nồng nàn, da diết. Đó là thứ văn xuôi giàu chất thơ, chảy tràn nơi lòng người những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm đà ý vị nhân sinh. Ta tìm thấy nơi ông phảng phất nét cổ điển và lãng mạn của Môpatxăng, sự tinh tế tìm vào nội tâm và cảm giác của Thạch Lam, chút bâng khuâng xa vắng của Thanh Tịnh, nét u hoài, sầu cảm của Hồ Dzếnh, Xuân Diệu…Có thể thấy truyện ngắn của Đỗ Chu có cội nguồn nối tiếp, cộng hưởng, lan tỏa từ những nhà văn đi trước, đồng thời phát huy tối đa cái tôi nghệ sĩ của mình đã tạo nên được một đặc trưng riêng không kém phần nổi bật và độc đáo. Sau năm 1975, bước vào thời kì mới, với vốn sống và bản lĩnh văn chương, Đỗ Chu đã phát triển sự nghiệp sáng tác của mình bằng một thể loại văn học khác. Những chân trời của các anh là tập tùy bút đầu tay được bắt đầu viết từ thời kháng chiến chống Mĩ và trải dài ngót mười năm sau ngày đất nước giải phóng, được xuất bản vào năm 1986. Tác phẩm
- gồm mười bốn bài tùy bút viết về đề tài chiến tranh, về công cuộc chiến đấu và kiến thiết đất nước. Nhân vật chủ yếu trong tập sách này là những chiến sĩ. Họ là những người tiên phong và hết mình vì sự nghiệp chung của dân tộc, dám lấy sự sống và hạnh phúc cá nhân đổi lấy nền độc lập cho nước nhà. Viết về họ, Đỗ Chu mang một tình cảm ngưỡng vọng và yêu mến sâu sắc, chân thành. Đỗ Chu như một người thư kí thời đại ghi lại hình ảnh con người Việt Nam trong thời kì bão táp chiến tranh. Nhìn chung, đây là tập tùy bút mang màu sắc của bút kí và truyện ngắn. Sự pha tạp ấy cũng là điều dễ lí giải. Nguyên ủy, Đỗ Chu là cây bút của thể loại truyện ngắn vững vàng và đã định hình được cho mình một lối viết riêng. Hơn nữa, ranh giới giữa truyện ngắn và tùy bút cũng rất gần nhau. Tuy tác phẩm chưa tạo được tiếng vang mạnh mẽ trong lòng người đọc nhưng lại chính là bước thử nghiệm để nhà văn phát triển sở trường văn chương của mình ở một thể loại văn học mới. Tản mạn trước đèn là tập tùy bút thứ hai được xuất bản năm 2004. Tác phẩm như là sự trở lại với thể loại tùy bút sau tám năm kể từ khi ông cho ra đời tập tùy bút đầu tiên. Với bốn mươi năm cầm bút, cộng với những trải nghiệm đã mang lại cho Tản mạn trước đèn một sức nặng về phản ánh và nhận thức nhưng không vì thế mà làm cho cuốn sách mất đi chất thơ ngọt ngào, đằm thắm…Đã có lúc ông viết những câu văn xuôi như thơ, viết rất thơ về cát nóng ở Quảng Bình, hình dung nó như “một bản giao hưởng cát”. Rồi có lúc ông lại mơ về một mối tình với cô gái chăn trâu thuở nào, một sự trào lộng về chính con người mình…bao năm mới có được sự tản mạn như thế, và ngẫm được điều đó, ta thấy trân trọng hơn những trang viết của nhà văn. Đỗ Chu từng tâm sự: “Bốn mươi năm cầm bút thì có lẽ chỉ có bốn tháng được làm nhà văn thực sự”. Là người khó tính lại cầu toàn, ông tự nhận: “Trong một tác phẩm có khi đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau không còn đưôc là nhà văn nữa”. Người cầm bút mà cứ phải phân vân, e ngại hay chiếu cố một điều gì thì sẽ không còn là mình nữa. Đọc Tản mạn trước đèn của ông, tập tùy bút hơn ba trăm trang, người ta thấy ông không nói suông, không chiếu cố những chuyện chính bản thân mình. Nó dẫn người đọc vào một trạng thái tâm lí triền miên phải suy nghĩ, thấm thía và nhiều khi có sự nhìn lại mình. Trong trang sách, Đỗ Chu hiện lên thật rõ những yêu ghét rạch ròi. Tùy bút của ông khiến người ta nhận thấy trước tiên là thái độ cẩn trọng và có trách nhiệm với những gì mình viết ra. Dù chỉ là một câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử dụng vào mục đích gì, và đọc xong sẽ khiến người ta nghĩ gì cũng là điều khiến ông phải cân nhắc. Tập hợp các bài viết trên báo trong suốt hai mươi năm qua, nhà văn xếp lại theo ý
- tưởng của mình để từ đó phác họa một Đỗ Chu trăn trở và trưởng thành qua từng giai đoạn cuộc sống. Cái đáng quí của cuốn sách là ở mỗi câu chuyện, mỗi một tản mạn, người viết luôn đặt mình trong các mối quan hệ với giới văn nghệ sĩ để từ đó thấy được hình ảnh sống động của văn đàn. Từ khi mười sáu, mười bảy tuổi cắp sách theo hầu các cụ Nguyễn Tuân, Tô Hoài, ông đã được dạy là phải viết cho ra viết, nên những câu chuyện rất bình dị trong cuộc sống chiến đấu, hay những câu chuyện đời thường bao giờ cũng được viết ra thấm nhuần tinh thần ấy. Mười chín chân dung các nghệ sĩ đương thời trong các trang viết là cảm nhận riêng trong suy nghĩ của Đỗ Chu. Đó là một Nguyên Hồng với trái tim nhạy cảm, giàu lòng yêu thương. Đó là một Hoàng Cầm sống lãng đãng trong thế giới của hư và thực. Đó là một Kim Lân với thứ văn xuôi thô nháp nhưng chan chứa tình đời, tình người…Cảm hứng thế sự là nguồn mạch chính tuôn chảy trên khắp các trang văn của ông. Sự xuất hiện trở lại với tập tùy bút dày công lực cho thấy trách nhiệm của một con người đối với đất nước và chân dung một nghệ sĩ tâm huyết luôn trăn trở có được những trang viết hay dành tặng bạn đọc. Tuy nhiên, tập tùy bút này ít nhiều mang tính chính luận với những vấn đề mang tầm quốc gia đại sự, hoặc các vấn đề xã hội lớn lao. Tiếp nối mạch nguồn thế sự, năm 2008, Đỗ Chu cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng người. Đây là tác phẩm thể hiện độ chín muồi trong tài năng của Đỗ Chu. Nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã đáng giá: “Thăm thẳm bóng người là “một thành tựu” và cho rằng đây là “trang sách của người thắp lửa”. Đọc tùy bút này “có một cảm giác thăng hoa như vừa uống rượu quí” [47; 20]. Vẫn tiếp nối đề tài về đất nước, con người và những vấn đề xã hội đương thời nhưng cách viết có phần nhẹ nhàng, gần gũi và thấm thía hơn. Những bài học về đối nhân xử thế, về những giá trị nhân văn cũng được khơi gợi một cách tự nhiên, thâm trầm mà không kém phần sâu sắc. Thạch Linh đã nhận xét: “Lối kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều rất khó nói cũng được nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng” [66]. Tập tùy bút được viết theo từng phần, trong mỗi phần có nhiều mục được đánh dấu theo số thứ tự. Phần đầu mang tên Hoa bờ giậu, một cái tên nghe thật mộc mạc, khiêm nhường nhưng mang ý nghĩa sâu xa, thấm thía về tình người. Đó là những câu chuyện về những người “vô danh tánh” nhưng có vẻ đẹp giản dị và có sức sống bền bỉ như loài hoa bờ giậu.
- Phần hai của tập tùy bút là Thăm thẳm bóng người, tập hợp viết về cuộc đời, những con người xưa và nay, trong nước và ngoài nước, những vấn đề từ quá khứ đến hiện tại. Tất cả được khơi lên, tái hiện lại bằng một thứ văn phong giản dị, đậm đà cảm xúc và mang nhiều dư vị triết lí. Nhà văn đau đáu đi tìm bóng người thăm thẳm trong niềm hoài vọng thiết tha. Phần ba của tập sách có đề tựa là Về quê đốt lửa. Đây là phần được nhà văn viết chủ yếu trong mạch cảm hứng hoài niệm. Quê nhà yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sự sáng tạo. Bởi lẽ nơi ấy có những người bình thường nhưng vĩ đại, có tuổi thơ lam lũ, cơ bần nhưng tràn ngập niềm vui và kỉ niệm…Đỗ Chu gửi gắm vào đấy những tình ấm áp nhất, ngọt lành nhất, thân thương nhất. Xuyên suốt cả ba phần là chiều dài thời gian lịch sử của một dân tộc, có những đời người, những thân phận vinh quang có, cay đắng có, nổi danh có, âm thầm có, là chiều rộng không gian của nước Việt mở ra đến những bờ bến lạ, những xứ sở xa xôi. Đọc sách này mới thấy Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền tích, cái trông thấy, cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn lại tất cả vào mình rồi rút ra bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi… Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhịp sống bị dồn đẩy rất gấp gáp. Con người thích tìm đọc những cuốn sách có tính chuyên đề phục vụ cho sở thích riêng cũng như chuyên môn hẹp của mình. Trong bối cảnh ấy, những loại sách có chủ đề tản mạn, bát ngát và cách nhìn nhận, đánh giá phần nào mang dấu ấn chủ quan của tác giả như Thăm thẳm bóng người, thoạt xem có vẻ như một món quà hơi xa xỉ với một số người. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì đó thực sự là một loại sách hữu ích. Nhìn chung, qua ba tập sách, ta thấy tùy bút của Đỗ Chu hoàn toàn có sắc thái riêng. Ông không có chất ngông như tùy bút của Nguyễn Tuân, cũng không gợi buồn u uẩn như tùy bút của Vũ bằng, không tài hoa lịch thiệp như tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường…Tùy bút của Đỗ Chu dung dị, đôn hậu mà không kém phần sâu sắc, mượt mà, trữ tình nhưng lại thấm nhập ý vị triết lí nhân sinh. Đỗ Chu luôn hết mình với những trang viết để chuyển đến cho con người những bức thông điệp của ngoại giới và nội tâm. Ba tập tùy bút với dung lượng ngàn trang tuy chưa phải là đồ sộ nhưng đủ sức đi sâu vào lòng người và làm cho tên tuổi nhà văn Đỗ Chu sống lâu hơn với thời gian.
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Dạy học truyện ngắn Việt Nam hiện đại trong chương trình Ngữ văn lớp 11 theo đặc trưng loại thể
0 p | 429 | 70
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Lỗi chính tả của học sinh Tiểu học tại thành phố Hồ Chí Minh
122 p | 346 | 49
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Một số phương tiện và biện pháp tu từ trong ca dao Nam Bộ
128 p | 184 | 33
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm từ ngữ Nam Bộ trong truyện ngắn của Sơn Nam
123 p | 117 | 28
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề tiếp nhận văn học đương đại và thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên ngày nay (Qua khảo sát tình hình đọc sách của sinh viên trường Đại học Cần Thơ)
142 p | 134 | 24
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Không gian nghệ thuật trong Tây Du Ký
86 p | 192 | 21
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Bình Nguyên Lộc
120 p | 87 | 20
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tiếng cười trong thơ ngụ ngôn La Fontaine
88 p | 103 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Cảm hứng, hình ảnh và ngôn từ nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương
143 p | 107 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tinh thần nhân văn trong thơ Thiền Tuệ Trung
129 p | 127 | 18
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vấn đề dạy học “Nguyễn Du và Truyện Kiều” trong chương trình Văn ở trường trung học phổ thông
123 p | 133 | 16
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Can
105 p | 105 | 12
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Các đặc trưng ngôn ngữ - văn hóa trong luật tục Ê Đê
181 p | 19 | 9
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Tìm hiểu ẩn dụ tiếng Việt từ góc độ ngôn ngữ học tri nhận
145 p | 21 | 7
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Ngôn ngữ nghệ thuật của thể du kí trên Nam phong tạp chí (1917 – 1934)
100 p | 43 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Quan hệ trái nghĩa trong tiếng Việt
93 p | 16 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Vai trò của hư từ trong việc hình thành hàm ý trong ngôn ngữ Nguyễn Công Hoan
127 p | 19 | 4
-
Tóm tắt Luận văn Thạc sĩ Ngữ văn: Đặc điểm ký Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh
26 p | 78 | 3
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn