BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH MAI SƠN TÙNG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN Thành phố Hồ Chí Minh - 2011

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH MAI SƠN TÙNG

THẾ GIỚI NGHỆ THUẬT TRONG TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU

Chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60 22 32

LUẬN VĂN THẠC SĨ NGỮ VĂN NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. NGUYỄN HOÀI THANH Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Hoài Thanh.

Công trình này chưa công bố dưới bất kì hình thức nào.

Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về công trình này.

Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 01 tháng 08 năm 2011

Mai Sơn Tùng

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời tri ân sâu sắc đến TS. Nguyễn Hoài Thanh, người thầy đã

luôn khích lệ và tận tình hướng dẫn tôi trong suốt quá trình thực hiện luận văn

này.

Để hoàn thành luận văn, tôi cũng đã nhận được nhiều sự giúp đỡ của gia

đình, đồng nghiệp trường THPT Ngô Quyền (Bà Rịa – Vũng Tàu), và quí thầy cô

công tác tại Phòng KHCN & SĐH trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí

Minh.

Xin cảm ơn tất cả mọi người

Mai sơn Tùng

0TLỜI CAM ĐOAN0T ................................................................................................................. 1

0TLỜI CẢM ƠN0T ...................................................................................................................... 2

0TMỤC LỤC0T ............................................................................................................................ 3

0TDẪN LUẬN0T .......................................................................................................................... 5

0T1. Lí do chọn đề tài0T................................................................................................................................... 5

0T2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu0T ......................................................................................................... 6

0T3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề0T .................................................................................................................... 7

0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ...................................................................................................................... 9

0T5. Cấu trúc luận văn0T ................................................................................................................................. 9

0TChương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU0T .................................. 11

0T1.1 Về thể loại tùy bút 0T ............................................................................................................................ 11

0T1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút 0T .................................................................................................... 11

0T1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút 0T ........................................................................................ 12

0T1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút 0T .................................................................................... 14

0T1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu0T ......................................................... 15

0T1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu0T .................................................................................. 19

0T1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật0T .............................................................................................. 19

0T1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu0T ........................................................ 20

0T1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương0T .......................................................... 20

0T1.3.2.2 Chân dung người chiến sĩ, người nghệ sĩ và trí thức bác học0T .............................................. 28

0T1.3.2.3 Hình tượng con người Việt Nam theo dòng lịch sử0T ............................................................ 41

0TChương 2: CÁI TÔI ĐỖ CHU TRONG TÙY BÚT0T ........................................................ 46

0T2.1 Cái tôi trữ tình0T .................................................................................................................................. 46

0T2.1.1 Cái tôi trữ tình công dân0T ............................................................................................................ 46

0T2.1.2 Cái tôi trữ tình đời thường0T ......................................................................................................... 51

0T2.1.3 Cái tôi trữ tình hoài niệm về tuổi thơ và quê nhà yêu dấu0T .......................................................... 53

0T2.2 Cái tôi triết luận0T ................................................................................................................................ 56

0T2.2.1 Cảm quan về cuộc đời0T ............................................................................................................... 56

0T2.2.2 Những quan niệm về văn chương0T .............................................................................................. 59

0T2.2.3 Những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội đương thời0T ............................................................. 63

0T2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác0T ................................................................................................................... 67

0T2.3.1 Tầm hiểu biết sâu rộng0T .............................................................................................................. 67

0T2.3.2 Những trích dẫn đa dạng, phong phú0T ......................................................................................... 70

0T2.2.3 Sự cảm nhận thiên nhiên tinh tế, tài hoa0T .................................................................................... 71

0TChương 3: NGHỆ THUẬT TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU0T ......................................................... 74

MỤC LỤC

0T3.1 Kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa chân dung0T .............................................................................. 74

0T3.1.1 Kết cấu0T ..................................................................................................................................... 74

0T3.1.1.1 Kết cấu giản dị, tự nhiên0T .................................................................................................... 74

0T3.1.1.2 Kết cấu lồng và xâu chuỗi nhiều chuyện kể trong cùng một tác phẩm0T ................................ 79

0T3.1.2 Ngôi kể0T ..................................................................................................................................... 81

0T3.1.3 Nghệ thuật khắc họa chân dung0T ................................................................................................. 83

0T3.2 Nhịp điệu và giọng điệu0T.................................................................................................................... 88

0T3.2.1 Nhịp điệu0T .................................................................................................................................. 88

0T3.2.2 Giọng điệu0T ................................................................................................................................ 90

0T3.3 Ngôn từ nghệ thuật 0T ........................................................................................................................... 97

0T3.3.1 Ngôn từ trong trẻo, giàu chất thơ0T ............................................................................................... 98

0T3.3.2 Câu văn giàu tính nhạc, nhiều liên tưởng, so sánh0T ................................................................... 101

0T3.3.3 Thành phần lời văn nghệ thuật0T ................................................................................................ 104

0TKẾT LUẬN0T ...................................................................................................................... 108

0TTÀI LIỆU THAM KHẢO0T ............................................................................................... 109

DẪN LUẬN

1. Lí do chọn đề tài

Truyện ngắn Ao làng được trích in trên tạp chí Văn nghệ quân đội năm 1961 đã đánh

dấu bước đầu khởi nghiệp văn chương của cậu học sinh tên Chu Bá Trình. Tính đến nay đã

ngót năm mươi năm, cậu học sinh trường trung học Hàn Thuyên năm ấy giờ đã là một nhà

văn lão thành, có những cống hiến không nhỏ cho nền văn học dân tộc. Sau những năm

miệt mài sáng tạo, ông đã có trong tay trên chín tập truyện ngắn và ba tập tùy bút. Có thể

nói, Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với thể loại truyện ngắn và được đông đảo độc giả

biết đến qua các tập truyện ngắn. Trước năm 2004, người ta biết một Đỗ Chu với những

truyện ngắn mang giọng điệu nhẹ nhàng sâu lắng và giàu sức biểu cảm. Ông được vinh dự

nhận Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật vào năm 2001 với bộ ba tác phẩm

Hương cỏ mật, Phù sa, Mảnh vườn xưa hoang vắng, và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam

năm 2003 với tác phẩm Một loài chim trên sóng, đặc biệt cũng với tập truyện ngắn này Đỗ

Chu cũng vinh dự nhận Giải thưởng Văn học ASEAN năm 2004. Với các giải thưởng này,

tài năng, tâm huyết và những đóng góp của văn Đỗ Chu về thể loại truyện ngắn đã

được ghi nhận, tôn vinh. Đồng thời, tên tuổi của ông cũng có vị trí nhất định trong nền văn

học hiện đại Việt Nam và khu vực.

Quả là một trường hợp hiếm thấy, khi nhà văn vừa bước sang tuổi lục tuần, cái tuổi đã

trông thấy rõ rệt sự mệt mỏi và già nua, nhà văn của thể loại truyện ngắn lại bất ngờ làm

một cuộc chuyển hướng đột ngột sang thể loại tùy bút với tác phẩm Tản mạn trước đèn,

xuất bản lần đầu năm 2004. Tập tùy bút này được đông đảo giới nghiên cứu – phê bình và

độc giả đón nhận nồng nhiệt. Từ đây, Đỗ Chu chính thức được biết đến trong tư cách của

tác giả tùy bút. Và lịch sử nghiên cứu về thể loại tùy bút đã ghi nhận cái tên Đỗ Chu khá

nổi bật giữa các nhà văn trước đó và đương đại. Năm 2008, Đỗ Chu lại tiếp tục trình làng

tác phẩm tùy bút Thăm thẳm bóng người với số lượng đầu sách xuất bản ấn tượng 2500

cuốn. So với Tản mạn trước đèn, tùy bút Thăm thẳm bóng người là tác phẩm đi sâu hơn, xa

hơn, có sức lan tỏa rộng hơn và thể hiện một tài năng nghệ thuật đã đến độ chín muồi của

nhà văn xứ Kinh Bắc. Như lời tâm sự của nhà văn với Hà Khái Hưng trên báo Văn nghệ

Công an, cả hai tập sách đều là những kỉ niệm dấu yêu, những điều tác giả đã nghe thấy, đã

trải qua. Với các tác phẩm ấy, tên tuổi của Đỗ Chu được nâng lên một tầm cao mới, xứng

đáng là cây bút văn xuôi nổi bật trong nền văn học hiện đại Việt Nam.

Về việc nghiên cứu tác phẩm của ông, đã có một số bài báo, bài nghiên cứu viết về Đỗ

Chu. Và cũng có một số học viên cao học lấy truyện ngắn nói riêng, văn xuôi của ông nói

chung làm đề tài nghiên cứu. Tuy nhiên, cho đến thời điểm này vẫn chưa có một công trình

khoa học nào nghiên cứu tập trung, chuyên sâu về tùy bút của nhà văn. Vì vậy, chúng tôi

mạnh dạn đi sâu nghiên cứu tùy bút của ông với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút

của Đỗ Chu”

Chọn nghiên cứu đề tài này, chúng tôi muốn tìm hiểu giá trị nghệ thuật – thẩm mĩ đã

làm nên nét độc đáo trong sáng tác tùy bút của ông. Trên cơ sở đó, chúng tôi muốn muốn

góp thêm một tiếng nói khẳng định những cống hiến của Đỗ Chu cho nền văn học hiện đại

Việt Nam nói chung, cho thể loại tùy bút nói riêng.

Đây là công trình khoa học tập trung nghiên cứu chuyên sâu về đặc trưng tùy bút của

Đỗ Chu. Cố gắng chỉ ra những nét độc đáo làm nên diện mạo sáng tạo tùy bút của nhà văn,

chúng tôi mong muốn góp thêm tiếng nói khẳng định vai trò và vị trí của Đỗ Chu trong tiến

trình văn học Việt Nam với tư cách là tác giả tùy bút có những nét đặc trưng riêng biệt và là

một trong những đại diện tiêu biểu cho thể loại tùy bút đương đại. Trong chừng mực nhất

định, người viết cũng hi vọng chỉ ra được những đóng góp riêng của Đỗ Chu trong việc

mang lại diện mạo mới cho thể loại tùy bút.

Mặt khác, chúng tôi hi vọng rằng luận văn này sẽ là tài liệu tham khảo cần thiết cho

sinh viên, các giáo viên Ngữ văn bật phổ thông và những ai quan tâm đến tùy bút đương đại

Việt Nam.

2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu”, chúng tôi sẽ lấy ba tập tùy

bút Những chân trời của các anh (1986), Tản mạn trước đèn (2004 và Thăm thẳm bóng

người (2008) làm đối tượng nghiên cứu.

Do đặc điểm của đề tài nên chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu thể loại tùy bút của nhà

văn Đỗ Chu. Phạm vi của luận văn này là đi vào thế giới nghệ thuật và một số đặc điểm

chính của ba tập tùy bút trên.

3. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

Trừ tập Những chân trời của các anh, hai tập tùt bút còn lại là những tác phẩm mới

được xuất bản. Hiện nay có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và trên mạng

Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu,

Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa, Hà Khái Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn

Thanh Kim…Tuy nhiên đó cũng chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ có tính ấn tượng ban đầu

và tính thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong hệ thống tùy bút Việt Nam để

phân tích, nghiên cứu và tìm ra được đặc trưng riêng của nó. Đa số các tác giả đều cho rằng

Đỗ Chu đến với tùy bút như một hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết

cùng những suy tư, trăn trở của mình trước hiện thực cuộc sống hôm nay và hôm qua. Đỗ

Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh co của dòng sông văn học, lúc này đang chứng kiến một

thời kì mới của sáng tác với nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực

và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt” [22; 21].

Phan Huy Dũng khi giới thiệu về tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa,

tinh tế trong văn phong tùy bút của Đỗ Chu như sau: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn

vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tính tế, tài hoa

những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm

giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn

cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin

ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh” [22; 21]. Phan Huy Dũng cũng nhấn mạnh bản

lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của Đỗ Chu: “Khi viết Tản mạn

trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận

mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi

tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao

thoát khỏi mê lầm” [22; 22].

Thạch Linh lại thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng

của Đỗ Chu: “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian và bác học, lịch sử,

huyền tích, cái trông thấy và nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra

bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói

ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ

nhàng, sâu lắng” [66; 14].

Hà Khái Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngôn

ngữ và phong cách tùy bút trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài

việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội…, ông còn chú trọng đến những khoảng

lặng của của cảm xúc và đặt biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn” [53]. Ông

còn nhận ra cái tạng cảm xúc “vừa trữ tình vừa hóm hỉnh”. Theo Hà Khái Hưng thì Đỗ Chu

có một giọng kể chuyện đa sắc: “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lem, cả

cười nhưng cũng có lắm chỗ chạnh buồn, chua chát…kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất

báo” [53; 18].

Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hi vọng về những điều tốt đẹp đã ca

ngợi Đỗ Chu như sau: “Văn Đỗ Chu viết kĩ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân

tình” [44]. Ông còn những nét đặc sắc trong nghệ thuật trần thuật: “Đoạn văn nào cũng đầy

ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo,

những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lí thì cũng rất khoáng đạt, độc

đáo…Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút

người đọc” [44]. Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra những nét hạn chế trong lối văn

miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc: “Tuỳ bút Đỗ Chu thường mở đầu một

cách “chật vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại đọc” [44].

Trong bài Cái tôi tùy bút, Nguyễn La đã chỉ ra được một nét kết cấu độc đáo trong tùy

bút của Đỗ Chu. Đó là kết cấu theo kiểu “hình xương cá”. Sau đó ông khen sự uyên thâm

của Đỗ Chu: “Đỗ Chu viết tùy bút bằng sự hiểu đời của chính ông, tôi gọi văn ông là thứ

văn biết đời – dựa theo cách nói của Cao Bá Quát nhận định về Truyện Kiều là thứ văn hiểu

đời. Tất nhiên từ biết đến hiểu là khoảng cách rất xa. Nói thế để thấy rằng nhận định thứ

văn biết đời của Đỗ Chu cũng có chừng mực chứ không đề cao một cách quá đáng. Đỗ Chu

biết nhiều lắm, biết nhiều nên làm người đọc thích thú với một câu ca dao cổ được tái hiện

trong văn cảnh phù hợp, một câu đối chữ Nho được cắt nghĩa làm rõ cái thâm thúy của các

cụ ngày trước, một phong tục xứ Kinh Bắc quê ông, mà bóc đi cái vỏ tưởng là mê tín dị

đoan lại là cái nhân đậm đà tình người…” [62]. Cuối cùng, Nguyễn La khen sự liên tưởng,

nhập thân vào nhân vật của Đỗ Chu trong quá trình trần thuật: “Đỗ Chu là người chéo

thuyền giỏi, cái tình – phần nào tôi đã nói ở trên, cái tài là cái duyên của văn anh thể hiện rõ

ở sự liên tưởng nhiều khi độc đáo, đột xuất; ở sự nhập vai nhập thân vào nhân vật để kể, lúc

bấy giờ giọng Đỗ Chu hay giọng nhân vật khó mà phân biệt. Thi pháp gọi đó là song điệu,

tôi gọi đó là giọng nhập vai, bề ngoài vẫn là giọng Đỗ Chu nhưng lại là tiếng nói, tư tưởng

của nhân vật” [62].

Ngũ Nhị Song Hiền đã tìm ra được những cảm hứng chính trong ba tập sách của Đỗ

Chu. Ngoài ra, cô còn phát hiện ra chất thơ và chất truyện, phân loại được những giọng

điệu khác nhau trong tùy bút của ông: “Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn

hiện thức phức hợp, đa chiều của văn học thời kì đổi mới đã giúp Đỗ Chu cảm nhận cuộc

sống ở nhiều cung bậc khác nhau, mang đến sự đa sắc trong giọng điệu” [43; 136].

Nhìn chung, tùy bút của Đỗ Chu có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khi

bình luận vừa có khen và vừa có đôi chút không hài lòng. Song cái chỗ không hài lòng ấy

cũng rất nhẹ nhàng vì theo họ đây là điều thuộc về cái “tạng” của nhà văn, là đặc trưng

riêng của phong cách cá nhân. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy sự thống nhất ở một điểm là

tùy bút của ông thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, chuẩn mực, mĩ lệ… Dù có

đông đảo nhiều bài viết về tùy bút của ông nhưng đó cũng chỉ là những nhận định khái

quát, hoặc riêng lẻ một tập tùy bút mà thôi. Chúng tôi lựa chọn đề tài “Thế giới nghệ thuật

trong tùy bút của Đỗ Chu” với tham vọng tìm ra được nét đặc trưng trong thể loại tùy bút

của ông. Và đây cũng là công trình khoa học đầu tay của một người mới bước những bước

đầu tiên trong việc nghiên cứu văn học.

4. Phương pháp nghiên cứu

Luận văn này chủ yếu nghiên cứu theo phương pháp nghiên cứu thi pháp thể loại.

Trên cơ sở lí thuyết về đặc trưng thể loại tùy bút, người viết đi sâu vào tìm hiểu thế giới

nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu. Từ những dấu hiệu nổi bật, người viết đi đến khái quát

thành những luận điểm phù hợp, cố gắng lọc ra những yếu tố tiêu biểu nhất để làm cơ sở

tổng hợp, đánh giá. Để hỗ trợ cho việc nghiên cứu đạt kết quả cao nhất, chúng tôi còn sử

dụng các phương pháp bổ trợ khác như phương pháp thống kê, phương pháp phân tích -

tổng hợp, phương pháp so sánh…

5. Cấu trúc luận văn

Ngoài phần dẫn nhập và phần kết luận, luận văn được chia thành ba chương chính tập

trung giải quyết các vấn đề sau:

Chương 1: Thể loại tùy bút và tùy bút của Đỗ Chu

1.1 Về thể loại tùy bút

1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu

1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu

Chương 2: Cái tôi Đỗ Chu trong tùy bút

2.1 Cái tôi trữ tình

2.2 Cái tôi triết luận

2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác

Chương 3: Nghệ thuật tùy bút của Đỗ Chu

3.1 Kết cấu, ngôi kể và nghệ thuật khắc họa chân dung

3.2 Nhịp điệu và giọng điệu

3.3 Ngôn từ nghệ thuật

Kết luận

Tài liệu tham khảo

Chương 1: THỂ LOẠI TÙY BÚT VÀ TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU

1.1 Về thể loại tùy bút

1.1.1 Khái niệm về thể loại tùy bút

Tùy bút là một trong những thể loại thuộc thể kí, một trong năm thể loại của văn học.

Ngoài những tính chung, tùy bút còn có những đặc trưng riêng biệt. Có vẻ như cách hiểu

đơn giản theo cảm tính: tùy bút là những trang văn xuôi mà ở đó nhà văn tùy theo ngòi bút

mà đưa đẩy – lâu nay đã được nhiều người yên tâm thừa nhận. Ngay cả Nguyễn Tuân – nhà

văn sáng tác tùy bút hàng đầu của Việt Nam – cũng có lần thừa nhận: “Nguyên tắc quan

trọng của tùy bút là không có nguyên tắc gì cả”. Cách hiểu này đặt cơ sở trên một nét đặt

trưng của tùy bút là luôn coi trọng và phát huy tối đa cảm xúc, quan điểm chủ quan ở người

nghệ sĩ. Tuy nhiên, những điểm bất cập và chưa thỏa đáng cũng nảy sinh từ chính những

điều đơn giản ấy.

Bất kì sáng tác văn chương nào cũng đều bắt đầu từ một nguồn cảm hứng của cá nhân

người nghệ sĩ, chứ không chỉ riêng tùy bút. Tuy nhiên, với thể loại tùy bút, người nghệ sĩ

phải lưu trữ nguồn cảm xúc mãnh liệt thì mới có thể thăng hoa trong quá trình sáng tác.

Một cách hiểu không thỏa đáng về khái niệm tùy bút sẽ dễ dẫn đến lẫn lộn lối viết tự do,

phóng khoáng với lối viết lan man, tản mạn, bịa đặt tùy tiện. Bởi vì “những sự việc, những

con người trong tùy bút tuy có thể không kết thành một hệ thống theo một cốt truyện, hay

theo một tư duy luận lí chặt chẽ, nhưng tất cả vẫn phải tuân thủ trật tự của dòng cảm xúc,

cái logíc bên trong của cảm hứng tác giả. Và tất nhiên là sự việc được kể lọc qua cách nhìn

của chủ thể thẩm mĩ vẫn phải chân thật” [39; 1888].

Nếu coi tùy bút là một cách viết hay một kiểu bút pháp thì mới chỉ dừng lại ở mức độ

cảm tính trong nhận thức, chưa bao quát hết đối tượng. Tùy bút còn là một thể loại văn học

có những đặc trưng rõ nét cả về nội dung và hình thức biểu hiện, đủ sức tồn tại ngang hàng

với những thể loại văn xuôi nghệ thuật khác.

Từ góc nhìn từ nguyên học có thể tìm thấy những giả thiết đáng tin cậy, góp phần xác

định khái niệm thể loại và phân định loại hình tùy bút. Trong Hán Việt từ điển giản yếu, từ

“tùy bút” được Đào Duy Anh giải nghĩa là “tùy thời mà chép”. Nghĩa là thể loại này không

chỉ bộc lộ cảm xúc chủ quan của người viết mà còn phải chịu sự chi phối từ hoàn cảnh

khách quan. Còn từ “bút”, ngoài nghĩa cái dùng để viết, có thêm nét nghĩa nữa là “biên

chép”. Vào buổi sơ khai của việc phân loại, một số nhà lí luận Trung Quốc đã chia văn

chương ra làm hai loại: có vần và không vần. Ở chương Tổng thuật của tác phẩm Văn tâm

điêu long, Lưu Hiệp có viết: “Kim chi thường ngôn, hữu Văn hữu Bút, dĩ vi vô vận giả Bút

dã, hữu vận giả Văn dã” (Ngày nay thường nói: có Văn có Bút, cho không vần là bút, có

vần là Văn . Thời Lưu Tống, trong Nhan Quang Lộc tập, Nhan Diên chia văn chương ra

làm ba loại: Ngôn, Bút, Văn. Trong đó, “Bút” có phạm vi rộng hơn, bao gồm cả truyện ký.

Dù mới là giả thiết, nhưng thiết nghĩ những thông tin trên đủ cơ sở để củng cố mối

hoài nghi mang ý nghĩa khoa học: không thể tiếp tục hiểu rằng “bút” là ngòi bút và “tùy

bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Từ trong nguồn gốc phương Đông, tùy bút đã được

xác định là một thể loại văn xuôi thực sự tự do, phóng túng, không bị ràng buộc bởi những

khuôn khổ có tính qui phạm, cả về nội dung tư tưởng và cách thức thể hiện.

Nét nổi bật của tùy bút là qua việc ghi chép những con người và những việc cụ thể có

thực, tác giả tùy bút đặc biệt chú ý việc bộc lộ cảm xúc, suy tư và nhận thức đánh giá của

mình về con người và cuộc đời. Được gọi là tùy bút, là những tác phẩm mà ở đó nổi lên

trên bình diện thứ nhất những phẩm chất riêng, cốt cách riêng của tác giả. Chỉ những người

muốn làm rõ cái giọng điệu độc đáo riêng của mình, những người thích tự biểu hiện, tự

phân tích, đồng thời những bút pháp vừa giàu chất hình tượng, vừa có khả năng viết chặt

chẽ như châm ngôn…những người đó mới đi vào thể loại tùy bút.

So với các thể loại khác, đội ngũ sáng tác của tùy bút còn khá khiêm tốn: Trong văn

học Việt Nam từ trước Cách mạng đến nay, số lượng nhà văn đứng được ở thể tùy bút

không nhiều. Nhưng rõ ràng với tư cách một thể loại văn chương, tùy bút đã có quá trình

hình thành và phát triển, kế thừa và cách tân, với những đặc trưng nghệ thuật chịu ảnh

hưởng sâu sắc cả về phương Đông lẫn phương Tây. Còn có thể hiểu “tùy bút” như là một

bút pháp tự do, phóng túng, tài hoa, không thuộc sở hữu riêng của sáng tác văn chương.

Cách hiểu này không phổ biến và chỉ có ý nghĩa gợi mở thêm hướng nghiên cứu.

1.1.2 Xác định loại hình nghệ thuật tùy bút

Mặc dù là một thể loại văn xuôi mang rõ nét khá nhiều đặc trưng nghệ thuật, nhưng

trên thực tế hầu như chưa có công trình nghiên cứu nào cho thể loại tùy bút. Trong các tác

phẩm lí luận văn học, do những biểu hiện có tính chất trung gian, tùy bút bao giờ cũng

được nhắc tới với tư cách là một tiểu loại của thể loại kí, bằng sự dè dặt nhất định. Quan

điểm trong việc xác định loại hình của tùy bút vẫn chưa thấy có sự nhất trí cần thiết. Có thể

thấy nổi lên hai quan điểm vừa tương đồng vừa có chỗ chưa nhất trí với nhau về vấn đề

này: 1- Tùy bút là một tiểu loại văn xuôi giàu chất trữ tình, nhưng phát sinh từ thể kí (một

biến thể của tự sự); 2- Tùy bút là một thể văn xuôi thuộc loại trữ tình. Như vậy, cả hai quan

điểm trên đều thừa nhận sự tồn tại thường trực của chất trữ tình trong tùy bút, nhưng cách

nhìn nhận về vai trò, mức độ của yếu tố tự sự có điểm khác nhau.

Các tác giả của quyển Văn học Việt Nam thế kỉ XX đã xếp tùy bút vào loại kí: “Tùy bút

là một thể thuộc loại hình kí có lối viết phóng khoáng, tự do và chủ quan nhất…So với các

tiểu loại khác, tùy bút giàu chất trữ tình hơn cả, tuy vẫn không ít yếu tố chính luận và chất

suy tưởng triết lí” [30; 234]. Trong quyển Lí luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, Nguyễn

Văn Hạnh cũng xếp tùy bút vào hệ thống thể kí: “Các thể kí chủ yếu có mặt cả trong văn

học cổ điển và hiện đại là kí sự, tùy bút, bút kí, nhật kí” [43; 99]. Khác hẳn với các ý kiến

trên, trong cuốn Lí luận văn học, Nguyễn Xuân Nam lại xếp tùy bút vào loại trữ tình: “Tác

phẩm trữ tình không phải chỉ có thơ trữ tình, mặc dù nó là tiêu biểu nhất. Ngoài thơ trữ tình

còn có tùy bút, thơ văn xuôi, ca trù, từ khúc,…Tùy bút là thể loại văn xuôi phóng khoáng.

Nhà văn theo ngọn bút mà suy tưởng, trần thuật, nhưng thực chất là thả người theo dòng

liên tưởng, cảm xúc mà tả người, kể việc” [67; 188].

Văn chương bao giờ cũng phải mang tính khuynh hướng, thể hiện rõ nhất ở cách

người nghệ sĩ tiếp cận và nghiền ngẫm hiện thực. Đằng sau mỗi bức tranh đời sống bao giờ

cũng thấm đẫm nỗi niềm, mối suy tư, sự day dứt của nhà văn…Nhưng riêng với thể loại tùy

bút – một thể loại thường xuyên xuất hiện những chất liệu còn phập phồng hơi thở cuộc

sống – thì việc xếp yếu tố khách quan xuống hàng thứ yếu, chỉ có ý nghĩa như một phương

tiện để giãi bày, có vẻ chưa thỏa đáng. Bản thân các chi tiết, sự kiện, số phận,…đã tồn tại

như một cấp độ ý nghĩa trong nhận thức, nhiều khi hết sức sâu sắc và mối liên hệ nội tại với

cái mạch trữ tình của tác phẩm.

Mặt khác, dù có màu sắc trữ tình đậm đà, tùy bút vẫn chưa hội đủ điều kiện để được

công nhận là một thể văn xuôi thuộc loại trữ tình. Bởi vì, trong tác phẩm trữ tình không có

sự mở rộng các chi tiết, hành vi, quan hệ qua lại của con người mà chỉ có thể hiện trực tiếp

yếu tố chủ quan của người nghệ sĩ. Hêghen cũng khẳng định tính chất trực tiếp của sự biểu

cảm là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm trữ tình: “Anh ta (nhà thơ trữ tình)

có thể kiếm tìm sự kích thích sáng tạo và tìm kiếm nội dung bên trong bản thân mình, tập

trung vào những tình thế, trạng thái, xúc cảm và dục vọng nội tại của trái tim và tinh thần

mình. Ở đây bản thân con người trong đời sống nội tâm chủ quan của nó trở thành tác

phẩm nghệ thuật” [76; 327]. Trong khi đó, biểu cảm ở tùy bút thường ít nhiều có màu sắc

gián tiếp, thông qua việc miêu tả chân thật và sinh động bức tranh đời sống.

Vì những lí do vừa nêu, có lẽ không thể tiếp tục hiểu một cách đơn giản rằng “bút” là

ngòi bút và “tuỳ bút” là “tùy theo ngòi bút mà đưa đẩy”. Tùy bút – từ trong bản chất của thể

loại – là những tác phẩm văn xuôi phát sinh từ kí (gần với tự sự) và được viết chủ yếu theo

mạch cảm xúc chủ quan của tác giả (gần với trữ tình).

Vậy thì tùy bút nằm ở đâu trong hệ thống phân loại văn học truyền thống? Có lẽ đặt ở

vị trí trung gian giữa tự sự và trữ tình là phù hợp nhất. Các loại hình văn học không bao giờ

tồn tại một cách tách biệt với nhau, với những ranh giới không thể vượt qua. Và các cách

phân chia văn học cũng chỉ mang tính chất tương đối.

Đến đây, thiết nghĩ đã có đủ cơ sở để khẳng định: tùy bút là một thể văn xuôi thuộc

loại tự sự – trữ tình. Vấn đề sẽ phức tạp hơn khi vận dụng quan điểm này để xem xét các

tác phẩm cụ thể. Nhưng không thể vì thế mà muốn có được sự tường minh về lí thuyết mà

lại gò ép thực tiễn sinh động vào tác phẩm không phù hợp.

1.1.3 Vẻ đẹp lưỡng hợp trong thể loại tùy bút

Tính lưỡng hợp trong tác phẩm tùy bút có cội nguồn từ một lối viết ở nhiều khía cạnh

như cách nhận thức vấn đề, cách xây dựng tình huống, giọng điệu văn chương…Hơn nữa,

tùy bút là loại văn rất cần sự hiện diện của lí trí tỉnh táo, lối tư duy về các vấn đề xã hội

nhưng cũng không thể loại trừ nhịp đập của con tim với những rung động mãnh liệt, đầy

hứng thú trước các hiện tượng của cuộc sống. Nếu không có lí trí tỉnh táo, ngòi bút của

người viết sẽ tung hứng lên chín tầng mây mà không tìm được nẻo về và rồi cũng đồng thời

rơi vào trạng thái mông muội dẫn tới bịa đặt, suy diễn lan man, không hợp với thực tế. Có

khi, chính cái trạng thái ngất ngây không có sự kiểm soát của lí trí, người viết sa vào lối văn

duy mĩ, dẫn người đọc vào trò chơi chữ nghĩa. Cái kiểu “chén đĩa mùa đi nhịp hải hà” ban

đầu có thể tạo ra một lực hút, đem lại sự khoái cảm thẩm mĩ nhưng sau đó thì người ta sẽ

nhận ra đây chỉ là sự khoe mẽ, phô trương ngôn từ rỗng tuếch, vô nghĩa. Ngược lại, nếu bài

tùy bút qua nặng về lí trí, chú trọng thông tin, liệt kê chính xác từng sự kiện, dữ liệu thì sẽ

biến văn bản thành một thể khác như phóng sự, kí sự...Hơn nữa, việc thiếu sự gọt giũa ngôn

từ, nghệ thuật hóa dữ kiện, loại trừ cảm xúc sẽ làm trang viết trở thành một loại văn bản

khô khan, cứng nhắc, mờ nhạt tính chất, đặc trưng của văn chương.

Vì thế, để có được những trang tùy bút hay, người nghệ sĩ phải vừa say mà lại vừa

tỉnh, vừa xúc cảm nhưng cũng vừa suy tư. Kết quả của cuộc hôn phối của xúc cảm và lí trí

sẽ là tác phẩm tùy bút, một thực thể sinh động mang vẻ đẹp lưỡng hợp dung hòa hai yếu tố

trên. Cái trọng tâm của sự sáng tạo trong thể loại tùy bút không phải là ở sự hư cấu những

hình tượng vốn không hiện hữu trong thực tế mà là cách sắp xếp, trình bày, điều phối sự

kiện hay vấn đề nào đó, không những mang lại giá trị nhận thức mà còn đem lại những rung

động thẩm mĩ thực sự. Tài năng của người viết tùy bút giống như hình ảnh ngưòi nghệ sĩ đi

xiếc trên dây cần một thế cân bằng giữa hai bờ vực. Đồng thời, người nghệ sĩ còn phải biết

chuyển tải cảm xúc và hiện thực bằng một lối văn riêng của chính mình. Không tạo được

giọng điệu, tác phẩm dễ rơi vào quên lãng, rồi thì sẽ dần mất tích trong vô số tác phẩm ấn

tượng hơn. Nhà văn phải để lại trong lòng độc giả một dư vị nào đấy, một nỗi ám ảnh nào

đấy bằng một thiên tư không thể nhầm lẫn thì mới hiện hữu lâu bền giữa lòng văn học.

1.2 Thể loại tùy bút trong sự nghiệp sáng tác văn học của Đỗ Chu

Đỗ Chu là nhà văn sớm bén duyên với văn học từ những năm 60 của thế kỉ XX. Những

sáng tác của Đỗ Chu trong mấy mươi năm cầm bút chủ yếu thuộc thể loại truyện ngắn. Tính

cho đến năm 2002, Đỗ Chu đã cho ra ra đời mười tập truyện ngắn, trong đó có những tập

truyện lưu dấu đậm nét trong lòng độc giả. Một lối viết văn đã thành văn hiệu với chất

giọng say đắm, nồng nàn, da diết. Đó là thứ văn xuôi giàu chất thơ, chảy tràn nơi lòng

người những dòng cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng, đậm đà ý vị nhân sinh. Ta tìm thấy nơi

ông phảng phất nét cổ điển và lãng mạn của Môpatxăng, sự tinh tế tìm vào nội tâm và cảm

giác của Thạch Lam, chút bâng khuâng xa vắng của Thanh Tịnh, nét u hoài, sầu cảm của

Hồ Dzếnh, Xuân Diệu…Có thể thấy truyện ngắn của Đỗ Chu có cội nguồn nối tiếp, cộng

hưởng, lan tỏa từ những nhà văn đi trước, đồng thời phát huy tối đa cái tôi nghệ sĩ của mình

đã tạo nên được một đặc trưng riêng không kém phần nổi bật và độc đáo.

Sau năm 1975, bước vào thời kì mới, với vốn sống và bản lĩnh văn chương, Đỗ Chu đã

phát triển sự nghiệp sáng tác của mình bằng một thể loại văn học khác. Những chân trời

của các anh là tập tùy bút đầu tay được bắt đầu viết từ thời kháng chiến chống Mĩ và trải

dài ngót mười năm sau ngày đất nước giải phóng, được xuất bản vào năm 1986. Tác phẩm

gồm mười bốn bài tùy bút viết về đề tài chiến tranh, về công cuộc chiến đấu và kiến thiết

đất nước. Nhân vật chủ yếu trong tập sách này là những chiến sĩ. Họ là những người tiên

phong và hết mình vì sự nghiệp chung của dân tộc, dám lấy sự sống và hạnh phúc cá nhân

đổi lấy nền độc lập cho nước nhà. Viết về họ, Đỗ Chu mang một tình cảm ngưỡng vọng và

yêu mến sâu sắc, chân thành. Đỗ Chu như một người thư kí thời đại ghi lại hình ảnh con

người Việt Nam trong thời kì bão táp chiến tranh. Nhìn chung, đây là tập tùy bút mang màu

sắc của bút kí và truyện ngắn. Sự pha tạp ấy cũng là điều dễ lí giải. Nguyên ủy, Đỗ Chu là

cây bút của thể loại truyện ngắn vững vàng và đã định hình được cho mình một lối viết

riêng. Hơn nữa, ranh giới giữa truyện ngắn và tùy bút cũng rất gần nhau. Tuy tác phẩm

chưa tạo được tiếng vang mạnh mẽ trong lòng người đọc nhưng lại chính là bước thử

nghiệm để nhà văn phát triển sở trường văn chương của mình ở một thể loại văn học mới.

Tản mạn trước đèn là tập tùy bút thứ hai được xuất bản năm 2004. Tác phẩm như là sự

trở lại với thể loại tùy bút sau tám năm kể từ khi ông cho ra đời tập tùy bút đầu tiên. Với

bốn mươi năm cầm bút, cộng với những trải nghiệm đã mang lại cho Tản mạn trước đèn

một sức nặng về phản ánh và nhận thức nhưng không vì thế mà làm cho cuốn sách mất đi

chất thơ ngọt ngào, đằm thắm…Đã có lúc ông viết những câu văn xuôi như thơ, viết rất thơ

về cát nóng ở Quảng Bình, hình dung nó như “một bản giao hưởng cát”. Rồi có lúc ông lại

mơ về một mối tình với cô gái chăn trâu thuở nào, một sự trào lộng về chính con người

mình…bao năm mới có được sự tản mạn như thế, và ngẫm được điều đó, ta thấy trân trọng

hơn những trang viết của nhà văn. Đỗ Chu từng tâm sự: “Bốn mươi năm cầm bút thì có lẽ

chỉ có bốn tháng được làm nhà văn thực sự”. Là người khó tính lại cầu toàn, ông tự nhận:

“Trong một tác phẩm có khi đoạn trước là nhà văn nhưng lúc sau không còn đưôc là nhà

văn nữa”. Người cầm bút mà cứ phải phân vân, e ngại hay chiếu cố một điều gì thì sẽ không

còn là mình nữa. Đọc Tản mạn trước đèn của ông, tập tùy bút hơn ba trăm trang, người ta

thấy ông không nói suông, không chiếu cố những chuyện chính bản thân mình. Nó dẫn

người đọc vào một trạng thái tâm lí triền miên phải suy nghĩ, thấm thía và nhiều khi có sự

nhìn lại mình. Trong trang sách, Đỗ Chu hiện lên thật rõ những yêu ghét rạch ròi.

Tùy bút của ông khiến người ta nhận thấy trước tiên là thái độ cẩn trọng và có trách

nhiệm với những gì mình viết ra. Dù chỉ là một câu chuyện tếu nhưng câu chuyện ấy sử

dụng vào mục đích gì, và đọc xong sẽ khiến người ta nghĩ gì cũng là điều khiến ông phải

cân nhắc. Tập hợp các bài viết trên báo trong suốt hai mươi năm qua, nhà văn xếp lại theo ý

tưởng của mình để từ đó phác họa một Đỗ Chu trăn trở và trưởng thành qua từng giai đoạn

cuộc sống. Cái đáng quí của cuốn sách là ở mỗi câu chuyện, mỗi một tản mạn, người viết

luôn đặt mình trong các mối quan hệ với giới văn nghệ sĩ để từ đó thấy được hình ảnh sống

động của văn đàn. Từ khi mười sáu, mười bảy tuổi cắp sách theo hầu các cụ Nguyễn Tuân,

Tô Hoài, ông đã được dạy là phải viết cho ra viết, nên những câu chuyện rất bình dị trong

cuộc sống chiến đấu, hay những câu chuyện đời thường bao giờ cũng được viết ra thấm

nhuần tinh thần ấy.

Mười chín chân dung các nghệ sĩ đương thời trong các trang viết là cảm nhận riêng

trong suy nghĩ của Đỗ Chu. Đó là một Nguyên Hồng với trái tim nhạy cảm, giàu lòng yêu

thương. Đó là một Hoàng Cầm sống lãng đãng trong thế giới của hư và thực. Đó là một

Kim Lân với thứ văn xuôi thô nháp nhưng chan chứa tình đời, tình người…Cảm hứng thế

sự là nguồn mạch chính tuôn chảy trên khắp các trang văn của ông. Sự xuất hiện trở lại với

tập tùy bút dày công lực cho thấy trách nhiệm của một con người đối với đất nước và chân

dung một nghệ sĩ tâm huyết luôn trăn trở có được những trang viết hay dành tặng bạn đọc.

Tuy nhiên, tập tùy bút này ít nhiều mang tính chính luận với những vấn đề mang tầm quốc

gia đại sự, hoặc các vấn đề xã hội lớn lao.

Tiếp nối mạch nguồn thế sự, năm 2008, Đỗ Chu cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng

người. Đây là tác phẩm thể hiện độ chín muồi trong tài năng của Đỗ Chu. Nhà nghiên cứu

Hoàng Ngọc Hiến đã đáng giá: “Thăm thẳm bóng người là “một thành tựu” và cho rằng đây

là “trang sách của người thắp lửa”. Đọc tùy bút này “có một cảm giác thăng hoa như vừa

uống rượu quí” [47; 20].

Vẫn tiếp nối đề tài về đất nước, con người và những vấn đề xã hội đương thời nhưng

cách viết có phần nhẹ nhàng, gần gũi và thấm thía hơn. Những bài học về đối nhân xử thế,

về những giá trị nhân văn cũng được khơi gợi một cách tự nhiên, thâm trầm mà không kém

phần sâu sắc. Thạch Linh đã nhận xét: “Lối kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho

những điều ông nói ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều rất khó nói cũng được

nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng” [66].

Tập tùy bút được viết theo từng phần, trong mỗi phần có nhiều mục được đánh dấu theo

số thứ tự. Phần đầu mang tên Hoa bờ giậu, một cái tên nghe thật mộc mạc, khiêm nhường

nhưng mang ý nghĩa sâu xa, thấm thía về tình người. Đó là những câu chuyện về những

người “vô danh tánh” nhưng có vẻ đẹp giản dị và có sức sống bền bỉ như loài hoa bờ giậu.

Phần hai của tập tùy bút là Thăm thẳm bóng người, tập hợp viết về cuộc đời, những con

người xưa và nay, trong nước và ngoài nước, những vấn đề từ quá khứ đến hiện tại. Tất cả

được khơi lên, tái hiện lại bằng một thứ văn phong giản dị, đậm đà cảm xúc và mang nhiều

dư vị triết lí. Nhà văn đau đáu đi tìm bóng người thăm thẳm trong niềm hoài vọng thiết tha.

Phần ba của tập sách có đề tựa là Về quê đốt lửa. Đây là phần được nhà văn viết chủ yếu

trong mạch cảm hứng hoài niệm. Quê nhà yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sự

sáng tạo. Bởi lẽ nơi ấy có những người bình thường nhưng vĩ đại, có tuổi thơ lam lũ, cơ bần

nhưng tràn ngập niềm vui và kỉ niệm…Đỗ Chu gửi gắm vào đấy những tình ấm áp nhất,

ngọt lành nhất, thân thương nhất.

Xuyên suốt cả ba phần là chiều dài thời gian lịch sử của một dân tộc, có những đời

người, những thân phận vinh quang có, cay đắng có, nổi danh có, âm thầm có, là chiều rộng

không gian của nước Việt mở ra đến những bờ bến lạ, những xứ sở xa xôi. Đọc sách này

mới thấy Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền

tích, cái trông thấy, cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn lại tất cả vào mình rồi rút ra

bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói

ra đọng lại day dứt, ngậm ngùi…

Chúng ta đang sống trong thời đại mà nhịp sống bị dồn đẩy rất gấp gáp. Con người

thích tìm đọc những cuốn sách có tính chuyên đề phục vụ cho sở thích riêng cũng như

chuyên môn hẹp của mình. Trong bối cảnh ấy, những loại sách có chủ đề tản mạn, bát ngát

và cách nhìn nhận, đánh giá phần nào mang dấu ấn chủ quan của tác giả như Thăm thẳm

bóng người, thoạt xem có vẻ như một món quà hơi xa xỉ với một số người. Tuy nhiên, nhìn

một cách tổng thể thì đó thực sự là một loại sách hữu ích.

Nhìn chung, qua ba tập sách, ta thấy tùy bút của Đỗ Chu hoàn toàn có sắc thái riêng.

Ông không có chất ngông như tùy bút của Nguyễn Tuân, cũng không gợi buồn u uẩn như

tùy bút của Vũ bằng, không tài hoa lịch thiệp như tùy bút Hoàng Phủ Ngọc Tường…Tùy

bút của Đỗ Chu dung dị, đôn hậu mà không kém phần sâu sắc, mượt mà, trữ tình nhưng lại

thấm nhập ý vị triết lí nhân sinh. Đỗ Chu luôn hết mình với những trang viết để chuyển đến

cho con người những bức thông điệp của ngoại giới và nội tâm. Ba tập tùy bút với dung

lượng ngàn trang tuy chưa phải là đồ sộ nhưng đủ sức đi sâu vào lòng người và làm cho tên

tuổi nhà văn Đỗ Chu sống lâu hơn với thời gian.

1.3 Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu

1.3.1 Quan niệm về thế giới nghệ thuật

Đây là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của thể của sáng tác nghệ thuật. Thế giới nghệ

thuật là thế giới khác với thế giới thực tại bên ngoài hay thế giới tâm hồn con người, được

dựng lên theo những nguyên tắc tư tưởng để phản ánh các thế giới ấy. Thế giới nghệ thuật sở

hữu không gian riêng, qui luật tâm lí riêng, quan niệm đạo đức riêng...

Thế giới nghệ thuật là khái niệm thường hay được đề cập đến trong nghiên cứu văn

học nghệ thuật. Từ thời cổ đại, Aristote đã hình dung chỉnh thể tác phẩm như một cấu tạo.

Nếu như người ta thay đổi hay lấy đi bớt một bộ phận thì toàn thể sẽ thay đổi hay vận động.

Đến thời trung đại, quan điểm xem tác phẩm là một khách thể toàn vẹn ấy vẫn còn phổ biến.

Bước vào thời kì chủ nghĩa lãng mạn, người ta đã nhìn tác phẩm văn học như một thế giới có

tổ chức và có sự hấp dẫn riêng, phụ thuộc vào ý thức của các nhà nghệ sĩ.

Ở Việt nam, chuyên gia lí luận văn học Trần Đình Sử có quan niệm khá dày dặn về

khái niệm thế giới nghệ thuật: “Thế giới nghệ thuật trước hết xác định tính độc lập tương đối

của sáng tạo nghệ thuật so với thế giới tự nhiên hay thực tại xã hội là sự thừa nhận quyền

sáng tạo của nghệ sĩ đối với tác phẩm, không phải sao chép, lệ thuộc máy móc vào thực tại

vật chất bên ngoài nghệ thuật. Thứ hai, thế giới nghệ thuật là sản phẩm tinh thần, kết quả của

trí tưởng tượng sáng tạo, chỉ có trong các tác phẩm nghệ thuật. Thứ ba, thế giới này là một

mô hình nghệ thuật có cấu trúc riêng, qui luật riêng, thể hiện ở đặc điểm con người, tâm lí,

không gian, thời gian, đồ vật, xã hội…, gắn liền với một quan niệm về chúng của tác giả.

Thế giới nghệ thuật tương ứng với thế giới quan, nhân sinh quan, vũ trụ quan, lịch sử quan,

hay cảm nhận thế giới của chủ thể sáng tạo. Do đó, thế giới nghệ thuật bao quát sâu rộng hơn

hình tượng nghệ thuật, ví như hình tượng nhân vật, phong cảnh…Điều này làm cho mỗi hiện

tượng, chi tiết trong tác phẩm văn học đều mang một ý nghĩa đặc thù, không giống với ý

nghĩa của các hiện tượng, chi tiết tương ứng trong thực tại. Con người trong văn học chẳng

những không giống với con người trong thực tại về tâm lí, hoạt động mà còn có ý nghĩa khái

quát tượng trưng, ngay cả trong các sáng tác được gọi là hiện thực xã hội chủ nghĩa. Cái

giếng, cây đa, con đò, bến sông, hoa sen, hoa nhài…trong văn học có ý nghĩa khác hẳn với

các thứ ấy trong thực tại. Và do đó nghiên cứu thế giới nghệ thuật cũng khác với phân tích

hình tượng nghệ thuật. Thứ tư, thế giới nghệ thuật là một thực tại tinh thần mà người đọc mở

vào khi sống với tác phẩm. Nhưng đó không đơn giản là một tồn tại khác của thực tại, mà là

một thế giới đã đột phá tính hữu hạn của thực tại để mở vào chiều sâu vô hạn của ý nghĩa,

làm thành một thế giới ước lệ, tượng trưng” [48; 1660-1661].

Trong lịch sử văn học, những nhà văn có tầm đều tạo ra cho mình một thế giới nghệ

thuật riêng. Mỗi thể loại văn học cũng có thế giới nghệ thuật với qui luật riêng của nó. Tính

sáng tạo của nhà văn chính là yếu tố quan trọng hàng đầu làm nên thế giới nghệ thuật. Đọc

ba tập tùy bút của Đỗ Chu, chúng tôi có dịp đi vào một thế giới nghệ thuật rộng rãi, thoáng

đạt với nhiều cảnh sắc ở các vùng miền, nhiều con người ở những không gian và thời gian

khác nhau, nhiều sự hiện xã hội trải dài theo dòng lịch sử... Trong Miền sáng tạo của mỗi

nhà văn, Đỗ Chu tâm đắc với lời độc thoại cũng là lời tâm sự của nhà văn Nguyễn Minh

Châu: “Mỗi thằng nhà văn phải có một miền quê của mình. Nơi ấy chưa phải là quê cha đất

tổ, cũng chả phải là chỗ nó sinh ra. Nhưng trong nó, nơi ấy không bao giờ quên nổi, nơi ấy

ngày đêm cứ trăn trở cựa quậy trong lòng. Đấy là thánh địa mà nó gửi gắm hồn mình” [17;

145]. Không phải ngẫu nhiên mà Đỗ Chu viện lời dẫn của Nguyễn Minh Châu, Với ông, quê

hương xứ sở luôn là nguồn cảm xúc bất tận tràn đầy nỗi thương yêu. Nó là cội nguồn của

cảm hứng nghệ thuật. Mỗi lần đặt bút viết là một lần nhà văn thực hiện cuộc hành trình tìm

về với hồn dân tộc, dù rằng chưa một ngày Đỗ Chu rời xa, chưa một lần xem quê hương

mình, đất nước mình trong cái nhìn xa lạ.

Đỗ Chu viết nhiều về những con người Việt Nam trong đấu tranh chống giặc ngoại

xâm cũng như trong công cuộc kiến thiết đất nước với cảm hứng yêu mến, ngợi ca và tri âm

chân thành và sâu sắc. Xin được mượn chính lời văn nghệ thuật của nhà văn để nói về cái

tình sâu nặng của ông đối với con người: “Tôi lại thích bắt đầu từ người, đến đâu tôi chỉ

muốn được gặp người, bàn chuyện về người, những kiếp người. Còn như phong cảnh cho

dù có lạ đến mấy cũng vầy vậy thôi, nó là chuyện chóng nhớ chóng quên” [17; 71].

1.3.2 Khái quát về thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu

1.3.2.1 Miền quê Kinh Bắc và những vùng đất thân thương

Ai trong chúng ta cũng đều có một quê nhà yêu dấu, nơi đó có tuổi thơ hồn nhiên, tinh

nghịch, có dáng mẹ hôm sớm tảo tần, có dòng sông, bến nước, con đò… Nhà thơ Đỗ Trung

Quân từng định nghĩa về quê hương trong những vần thơ giàu hình ảnh : “Quê hương là

chùm khế ngọt / Cho ta trèo hái mỗi ngày / Quê hương là đường đi học / Con về rợp bướm

vàng bay…”. Quả thế, trong tâm thức của mỗi người, quê hương luôn là miền kí ức đẹp và

thân ái. Đỗ Chu sinh ra và lớn lên từ cái nôi của quê hương Kinh Bắc. Và chính vì lẽ đó,

Kinh Bắc, một miền đất giàu bản sắc văn hoá, đã đi vào trong viết của ông một cách hết sức

tự nhiên, sống động và thấm đẫm nhiều xúc cảm. Có thể thấy một không gian văn hóa với

những đặc trưng vùng miền đã được nhà văn tạo dựng qua thế giới nghệ thuật tùy bút của

ông. Quê hương hiện lên trong trang viết của Đỗ Chu là miền đất từ phủ Thuận Thành

xuống Gia Bình, qua Liễu Ngạn đến phủ Từ Sơn. Xưa nay, Kinh Bắc nổi tiếng với nhiều

đền chùa, miếu mạo. Có ngôi chùa Dâu gắn liền với câu chuyện nhà sư “quê gốc ở Tây vực,

theo gia đình qua đây buôn bán làm ăn, gặp cảnh cha mẹ mất sớm, nhà sư còn nhỏ tuổi đã

được gửi vào chùa tu và đắc đạo tại chùa này” [18; 318]. Trước đây hai ngàn năm, chùa

Dâu là trung tâm thương mại sầm uất, phồn thịnh. Con sông Dâu chảy mãi rồi cũng chịu đổ

vào sông Hồng chở nặng sắc đỏ của phù sa. Ngoài ngôi chùa mang màu sắc cổ kính ấy, tùy

bút của Đỗ Chu còn nhắc tới những đền chùa khác như chùa Bút Tháp, đền thờ Sĩ Nhiếp

Nam giao học tổ, đền thờ cụ Lê Văn Thịnh Nam quốc khai khoa đệ nhất nhân, đền thờ

người anh hùng thời An Dương Vương tên là Cao Lỗ. Có thể nói, ít có nơi nào có nhiều

đền chùa cổ kính và nổi tiếng như quê hương Kinh Bắc.

Đây cũng là miền đất có cảnh trí và cảnh sắc đẹp. Đến với thiên nhiên Kinh Bắc,

người đọc có thể thưởng ngắm hàng giờ những hàng lau sậy tiếp nối mênh mang một điệu

hồn muôn thuở trên những bờ bãi vào mùa nước rút, thả hồn theo dòng trôi êm đềm của con

sông Đuống đã đi vào thơ Hoàng Cầm trong những năm tháng kháng chiến chống Pháp, lại

có con sông Cầu và con sông Thương rất đỗi nên thơ, hay những cảnh sắc bình dị, thân

thương như bờ bãi ngô khoai, dâu, mía… và cả những vạt cỏ giàu sức sống hồn nhiên xanh

ngát giữa trời đất mênh mang... Miền quê của tác giả là miền đệm trung du, dốc thoai thoải,

có vài quả núi nhỏ bất chợt nhô lên chơ vơ tựa như những điểm nhấn làm cho bức tranh

làng cảnh thêm sống động và ấn tượng. Các nhà địa chất gọi chúng là “những hòn núi sót,

là dấu chấm hết cho diễn thế một dải địa tầng” [18; 269]. Cái thế đất như chênh chao hóa

ra lại là điểm đặc biệt tạo cho Kinh Bắc một địa thế đa dạng, phong phú, vừa có đồng cao

vừa có vùng chiêm trũng. Vào mùa nước nổi, “sóng vỗ ì oạp, thuyền câu trôi nổi, qua Ninh

Khánh, Núi Hiểu, Bài Xanh, Trúc Tay, xuống mãi Lục Đầu”. Quê hương của Đỗ Chu có

một dòng sông máng lấy nước từ Thái Nguyên chảy qua Hiệp Hòa, Yên Thế, Lạng Giang,

Tân Yên, Việt Yên, đến vùng Kinh Bắc là chấm hết. Dòng nước từ sông máng về đến làng

thì đổ xuống những dãy ao trước làng. Kinh Bắc còn còn có những bờ khe dẫn nước từ tận

chân núi voi chảy về, chạy quanh co trên cánh đồng. Không rõ những khe nước ấy có tự

bao giờ mà lại hiền hòa, thân thương đến vậy. Mùa khô, “nước đọng thành vũng trong lòng

khe, mùa mưa, nước khắp các cánh đồng đều dồn cả xuống đấy, cái khe bỗng hóa thành

suối ồn ào, răm ba ngày, đổ nước lung tung ra những dộc đất thấp, xong xuôi, khe lại hoàn

khe” [18; 273].

Quê hương của tác giả là vùng đất có lịch sử văn hóa lâu đời, nơi sản sinh ra các danh

nhân văn hóa lịch sử như Nguyễn Trãi, Cao Bá Quát…cũng là miền đất ươm mầm cho

những tài năng nghệ thuật như Nguyễn Khải, Hoàng Cầm, Nguyễn Huy Tưởng, Ngô Tất

Tố, Nguyễn Địch Dũng, Kim Lân , Nguyên Hồng…và là nơi hun đúc những trí thức tài giỏi

như Trần Đức Thảo, Ngô Ngọc Quản, Đỗ Đình Chất…

Trong tùy bút của Đỗ Chu, quê hương còn là miền đất của tuổi thơ, của mộng tưởng

hồn nhiên trong sáng. Thấp thoáng hiện đến trong trang văn của Đỗ Chu là những đàn trâu

chen lấn nhau trên những con đường nhỏ để ra đồng gặm cỏ. Chúng đuổi nhau, húc nhau,

ghì đầu nhau xuống đất. Theo sau chúng là những đứa trẻ với những trò chơi của tuổi nhỏ

đầy hồn nhiên, phấn khích, tinh nghịch, vụng dại : “Đám con gái chia bài tam cúc, lũ con

trai đánh đáo đánh khăn, có hôm trẻ con làng nọ ném nhau với trẻ con làng kia, đuổi nhau

dọc bờ sông máng, trên những luống cày, những cục đất khô khốc cứng như những cục

gạch tương cả vào đầu nhau máu chảy ròng ròng” [18; 272]. Ở miền quê, nhất là những

vùng có ao hồ sông suối, một trong những sở thích của trẻ nhỏ là được lặn ngụp dưới dòng

nước trong trẻo, mát lành. Những đứa trẻ chăn trâu ở làng Mật Ninh “lên năm lên bảy, cởi

truồng nhao xuống một loáng, lúc nhô lên đã thấy hai con cá”. Cuộc sống gần gũi, hài hòa

với thiên nhiên đã đào tạo chúng thành những thợ lặn tài tình. Bên dòng sông máng cạn

nước, “trẻ con gọi nhau vơ cành khô, lá khô, rơm rạ, vơ tất cả những gì có thể vơ, càm cả

xuống lòng máng đốt cho khói um lên làm nước mắt ràn rụa” [18; 271]. Những trang văn

viết về tuổi thơ khiến người đọc liên tưởng đến một khúc đồng dao dân dã, mộc mạc, mang

lấy tinh thần vui tươi, trong trẻo: “Ai bảo chăn trâu là khổ, chăn trâu sướng lắm chứ…”

ngân nga trong tuổi thơ với niềm vui giản dị, tươi sáng, …Nhớ về tuổi thơ ở làng quê, tác

giả còn mang nỗi ám ảnh về những mùa đông rét buốt của xứ hàn phương Bắc. Cái khí hậu

khắc nghiệt làm “chân tay nẻ toác, má đứa nào cũng thấy ram ráp như da rắn” [18; 271].

Rồi những buổi sớm, “tôi ngồi trước thềm, hai tay bó gối, bên mảnh sân nổi rêu, những lùm

nhãn um tùm tối sẫm, hàng cau nhè nhẹ đung đưa” [18; 266]. Một thoáng buồn nhớ mênh

mang hòa lẫn trong tiếng cuốc còn sót lại vọng về từ đâu đó. Ngọn lửa ai đốt trên ngọn núi

xa lúc ẩn lúc hiện, chập chờn tựa như một giấc chiêm bao…

Ống kính hoài niệm của nhà văn còn thu về bức tranh cảnh làng quê Kinh Bắc những

ngày giặc Pháp tấn công, tàn phá gợi lại bao nỗi đau cho một dân tộc bị ngoại bang xâm

chiếm. Trong đó có hình ảnh bi thương của người anh trai đương tuổi xé núi dời non, đi làm

du kích, bị giặc bắn chết ngoài bãi sông trong khi làm nhiệm vụ. Cái chết của người anh để

lại trong tâm hồn thơ trẻ của tác giả một nỗi đau khó thể nào nguôi ngoai. Đã qua mấy

mươi năm mà tiếng khóc nức nở, bi thiết của người mẹ mất con vẫn còn văng vẳng bên tai

như một nỗi ám ảnh thương tâm về cảnh làng quê ngày ấy. Một nhân vật khác nữa cũng

được nhắc đến trong dòng hồi tưởng của nhà văn, đó là chị Gái. Không ai ngờ cô bé quanh

năm suốt tháng chỉ biết quẩn quanh với vo gạo, chẻ củi, chăn lợn chăn gà, gánh phân ra

đồng ném vào những dõng khoai dõng bí mà trở lại thành Việt Minh. Cô bé đã kiên cường

vượt qua nòng súng của kẻ thù để vào căn cứ kháng chiến. Hành động gan dạ, anh hùng của

cô bé trở thành nỗi kinh ngạc cho những kẻ tầm thường, nhát gan: “Con bé kia liệu có điên

không nhỉ, nó đâm đầu vào chỗ ấy lúc này để ăn bổng ăn giải gì, một viên đạn găm vào đầu

là cuối năm đừng lấy chồng nữa” [18; 279].

Giọng nói của người làng Mật Ninh làm toát lên bản sắc con người Kinh Bắc. Giọng

nói ấy “không trộn vào đâu được, nghe nặng lắm, mà nói to lắm”. Có thể người khác miền

xem đấy là một trở ngại trong giao tiếp, có khi cảm thấy kì khôi, khó chịu nhưng đối với

người Kinh Bắc, đó là những âm điệu mặn mà, thân thương, không kém phần quí phái, sang

trọng… Cũng nhờ giọng nói quê nhà mà người cùng quê có thể nhận biết nhau, chạy đến

tìm nhau trên bước đường tha hương cầu thực: “Năm trước vợ chồng tôi sang thăm Hàng

Châu, có ông bạn Trung Quốc vừa gặp đã ôm lấy tôi mà bảo, đồng tính đấy nhé, phải uống

rượu tại đây theo phong tục gặp họ mới được” [18; 275]. Cái đáng yêu đáng quý của con

người Kinh Bắc là họ còn mang nét thuần hậu, luôn có ý thức về đối nhân xử thế và cũng

như giữ gìn tâm hồn: “…đàn ông, đàn bà nhìn chung đều đon đả mau mắn” [18; 274];

“những nụ cười đôn hậu, những cách khu xử mặn mà vừa phải mà tin cậy vững vàng, có lề

thói, đủ biết lui tới, đủ biết ý tứ ngượng ngùng, biết xấu hổ biết tự trọng, không dễ gì sa vào

những cạm bẫy của ham hố tham lam, của quàng xiên viển vong và rối loạn” [18; 265].

Quê hương Kinh Bắc còn là vùng miền lưu giữ những giá trị văn hóa phi vật thể của

văn hóa Việt. Điệu hồn xứ sở Kinh Bắc là những làn điệu dân ca quan họ ngọt ngào, ru hồn

người vào thế giới của tình người, thế giới của nghệ thuật. Lời ca nhạc điệu của dân ca

Kinh Bắc có một sức lôi cuốn, hấp dẫn lạ lùng mà không nơi nào có được: “Mỗi lần ngồi

vào chiếu nghe canh quan họ là y như rằng thêm một lần được dẫn dắt vào mê cung của

những tình cảm vừa lịch lãm vừa đằm thắm. Những khúc thức nhặt khoan vững chãi, những

giai điệu vương giả bay lượn. Kìa những lời than thở mới bùi ngùi làm sao. Đời sống một

vùng đất vùng người mặn mà hiện ra với bao lớp lang tầng vỉa, ta chìm vào đấy để bắt gặp

tinh thần quê nhà” [18; 301]. Cũng từ những câu hát mê say ấy mà tác giả nhận ra cái tình

người muôn thuở, cái “sức sống phồn thực của dân tộc được cất giấu trong những luyến láy

í a…”. Những câu hát “Chàng buông dải áo em ra / Để em đi chợ kẽo mà chợ trưa…”

không biết có tự bao giờ mà dễ thương, ngọt ngào, làm duyên dáng thêm cho nét đẹp của

con người xứ Bắc, khiến cho ai đó phải ngẩn ngơ kiếm tìm, chờ đợi… Giai điệu mượt mà

cùng với sắc áo mang vẻ đẹp truyền thống: “áo sống mớ năm mớ bảy những mận những

đào”, gắn liền với những cử chỉ điệu nghệ, nhập thần khi diễn xướng: “những cái cổ nghểnh

lên để nhả lời, thon thả và kiêu kì như những cọng lan cọng huệ, con mắt lấp lánh lửa,

gương mặt ngời ngợi nồng nàn” [18; 302]. Những giá trị ấy là những giá trị truyền thống

góp phần tạo nên nét độc đáo cho văn hóa vùng miền Kinh Bắc. Quả thế, nói về các làn

điệu dân ca Bắc bộ, trước hết phải nhắc đến quan họ Bắc Ninh. Đó đâu chỉ là âm nhạc mà

đó còn là điệu hồn của xứ sở, là bóng dáng quê hương, một quê hương Kinh Bắc u hoài mà

lộng lẫy, thâm trầm mà dìu dặt, bình dị nhưng cũng rất đỗi sang trọng…

Đọc Đỗ Chu, người ta được đến với nhiên nhiên, con người và cuộc sống của một

miền quê không giàu về vật chất như những nơi khác nhưng lại rất giàu có về tình người và

các giá trị văn hóa, đặc biệt là văn hóa dân gian và huyền tích. Quê hương Kinh Bắc là một

phần máu thịt trong tâm hồn nhà văn, thấm sâu vào trong những trang văn và tuôn chảy

thành dòng xúc cảm những cảm xúc ngọt ngào, sâu lắng…. Có thể nói, Kinh Bắc, đó là

thánh địa thiêng liêng để bất cứ những người con xa xứ có thể tìm về bất cứ lúc nào trước

những bộn bề, lo toan và thăng trầm của cuộc sống.

Không chỉ có Kinh Bắc, trang viết của nhà văn Đỗ Chu còn mở ra những miền đất

khác. Đó là những nơi mà tác giả đã từng đi đến, đã từng có những trải nghiệm với những

kỉ niệm khó phôi pha… Lưu lại trong tâm tưởng của người nghệ sĩ, những miền đất ấy trở

thành cội nguồn của sáng tạo nghệ thuật, khơi nguồn cho cảm xúc và suy tư… Có một điều

khá thú vị là những vùng đất ấy dẫu có những khác biệt về địa lí, lịch sử, văn hóa …nhưng

chúng cùng được tụ họp lại trong tâm hồn tác giả, được tác giả yêu dấu, nhung nhớ và

mang theo bên mình.

Ở tùy bút Cát nóng, người đọc được giới thiệu về Quảng Nam – Đà Nẵng, một dải đất

thuộc miền Trung đầy nắng và gió. Mở đầu tác phẩm, những cồn cát dần dần hiện ra, nhanh

chóng tạo ra ấn tượng sâu đậm về những đồi cát, núi cát, đồng cát, sông cát và biển cát…

Đâu đâu cũng có sự hiện diện của cát. Không nơi nào nhiều cát như ở miền Trung. Cát lại

có một sức sống mãnh liệt, “mặc cho đạn bom tha hồ cày xới, cát vẫn cứ trơ ra, cát không

bao giờ chết, nó chỉ biết nóng lên và nguội đi” [17; 65]. Trong cuộc đọ sức để giành lấy sự

thanh bình với kẻ thù, máu của những người yêu nước đã bao lần “loang đỏ trên cát, thấm

vào lòng cát” [17; 65]. Người ta còn “cất nhà dựng cửa, yêu thương nhau trên cát, khi nhắm

mắt lại vùi vào cát, mọi kỉ vật vùi nhau vào cát, mọi kỉ vật buồn vui đều có cát tham dự”

[17; 66]. Rõ ràng, cát gắn bó với con người trong những sinh hoạt đời thường cũng như

trong những biến cố quan trọng, cát trở thành máu thịt, thành tâm hồn của người dân Quảng

– Đà. Ý văn của Đỗ Chu có gì đó rất giống với sự chiêm nghiệm của Tố Hữu trong những

vần thơ: “Sống trong cát chết vùi trong cát / Những trái tim như ngọc sáng ngời” (Mẹ Tơm).

Dưới ngòi bút của Đỗ Chu, cát chính là biểu tượng nghệ thuật sinh động và mang ý nghĩa

sâu sắc. Cát là bản giao hưởng trầm hùng mà không nơi nào có được. Cảnh sắc miền Trung

không chỉ có nắng, gió, cát mà còn có những “núi cao bão lớn và biển mặn sóng dữ” [17;

66].

Từ xưa đến nay, miền Trung luôn được nhắc đến là dải đất khắc nghiệt và dữ dội, là

điểm hẹn của giông bão, thiên tai. Cái hoàn cảnh khắc nghiệt ở một phương diện nào đó đôi

khi lại là môi trường tốt để thử thách rèn luyện ý chí, bản lĩnh cho con người. Sống lâu

trong gió bão thiên tai, con người nơi đây không không biết tự lúc nào đã trở nên không còn

biết cúi đầu chịu khuất phục trước những tai ương, thử thách, không còn biết mềm yếu.

Như thế, hoàn cảnh và điều kiện sống khắc nghiệt đã tạo cho họ một bản lĩnh cứng cỏi, một

nghị lực sống vô cùng mạnh mẽ. Để rồi khi đứng trước ngoại xâm, một hiện thân của tai

ương, họ luôn giữ vững tinh thần bất khuất, hiên ngang, dám lấy sự sống cá nhân để hi sinh

cho dân tộc. Con số “ba ngàn mẹ được phong Mẹ Việt Nam Anh hùng lần đầu và hai ngàn

bà mẹ được phong lần sau” [17; 66] chỉ là những con số tượng trưng chứ thực tế những

người cha anh hùng, những người con anh hùng và cả những người phụ nữ âm thầm cống

hiến cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc là không thể nào thống kê hết. Có một căn

cứ nằm trong vòng vây địch, người ta gọi đó là vùng lõm. Dân số chỉ có sáu ngàn nhưng sau

những mấy chục năm dài chiến đấu đã chi sinh hết một phần ba. Trong số hai ngàn hộ thì

đã có chín trăm hộ thuộc diện gia đình thương binh liệt sĩ. Quả thật, mảnh đất này là mảnh

đất của những người con anh hùng và cũng là mảnh đất gánh chịu những hi sinh mất mát vô

cùng to lớn mà không gì có thể bù đắp được. Đó thật sự là vùng đất anh hùng với những

con người anh hùng, những anh hùng lặng lẽ lớn lên, lặng lẽ chiến đấu, lặng lẽ hi sinh giữa

lòng dân tộc.

Đất nước được giải phóng, thống nhất, cũng là lúc mọi người quay về với cuộc sống

mưu sinh với bao nỗi lo toan vất vả canh cánh đè nặng trên vai, phải chống chọi với bao

sức ép về kinh tế, nhất là phải đối mặt với cái nghèo. Con đường duy nhất của họ thoát

nghèo là dùng nghị lực, bàn tay và khối óc để thay đổi hoàn cảnh, biến vùng đất cát nóng

rãy khắc nghiệt, nhiều những khó khăn thành một vùng nước non kì vĩ thu hút khách du

lịch trong nước và quốc tế. Bán đảo Sơn Trà, sông Hàn, sông Thu Bồn…, một ngày không

xa sẽ trở thành điểm dừng chân của du khách, đem lại nguồn lợi to lớn cho tỉnh nhà.

Điện Biên, một miền đất nằm ở phía tây bắc của Tổ quốc, nơi đã từng diễn ra những

trận đánh và làm nên những chiến thắng vang dội được Đỗ Chu nhắc đến một cách tập

trung trong tùy bút Trời Điện Biên mây trắng. Cái đề tựa làm cho người đọc mường tượng

một không gian có những áng mây trắng phiêu du cùng gió ngàn sương núi. Ở tác phẩm

này, Điện Biên được nói tới như là nguồn cội của âm nhạc cách mạng, từng nâng hồn chắp

cánh cho nhiều nhạc sĩ như Hoàng Vân, Đỗ Nhuận, Huy Du… bay vào khung trời nghệ

thuật sáng tác và làm nên nhiều tác phẩm âm nhạc để đời. Những bài ca như Hò kéo pháo,

Trên đồi Him Lam, Giải phóng Điện Biên…đã ra đời trong hào khí bừng bừng của dân tộc

ta trong những năm tháng diễn ra trận đánh tại Điện Biên. Trong tâm hồn của người nghệ sĩ

lão thành Huy Du, “Điện Biên vẫn đang vẫy gọi chúng ta ở phía trước, chưa bao giờ Điện

Biên ở phía sau, chưa bao giờ Điện Biên là quá khứ” [17; 94]. Điện Biên mang tầm vóc và

ý nghĩa lớn lao, có sức vang vọng, thúc đẩy chuyển động rất mạnh và rất xa. Bởi vì, để có

ngày vui chiến thắng, để có ngày về lại thủ đô, rất nhiều chiến sĩ đã phải nằm lại vĩnh viễn

nơi cánh đồng Điện Biên. Đến đây, người viết chợt nhớ đến một tứ thơ của nhà thơ Chế

Lan Viên: “Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất / Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân” (Tiếng hát

con tàu). Điện Biên của hôm qua là Điện Biên của quá khứ hào hùng. Còn hôm nay, Điện

Biên từ một vùng đất bị bom đạn cày xới đã trở thành một sân cảng ngang tầm khu vực, có

một đội ngũ cán bộ, nhân viên làm việc hăng say để ngày càng hoàn thiện và vững vàng của

ngành hàng không.

Mở đầu tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn, Đỗ Chu đã giới thiệu ngay: “Tây Nguyên

không phải là vùng đất mới, rất cổ xưa và nguyên sinh, từ trong lịch sử của nó đã mang tố

chất bi hùng và mẫn tiệp” [17; 47]. Người nghệ sĩ đưa người đọc đến “những vạt đất mênh

mông, rừng mênh mông, cỏ mênh mông” [17; 36]. Không gian Tây Nguyên mở ra với

khung cảnh xanh ngời, bao la, rộng lớn. Không những thế, Tây nguyên còn có những khu

rừng già: “Nghe nói bên dãy núi kia có một khu rừng bằng phẳng, từ những thảm rêu dày

đâm lên hàng ngàn những cây trăm tuổi nhưng cây nào cũng chỉ ngập vai người, lính ta

quen gọi nơi ấy là rừng lùn. Bá hương, thông ngàn, cẩm lai, táu mật…đủ cả. Trên đó gió

táp dữ dội và rất lạnh” [17; 44]. Vẻ đẹp của khu rừng trăm tuổi kia là vẻ đẹp nguyên sơ,

trầm mặc, vừa thơ mộng vừa uy hùng. Và tự trong nội lực, chúng có một bản năng sinh tồn

mạnh mẽ.

Quả là một thiếu sót nếu như nhà văn không nói về những thác nước nơi đây. Trong

nhiều thác nước ở Buôn Mê Thuộc, Đỗ Chu chú ý nhiều nhất đến thác có một cái tên rất

Tây Nguyên – thác Đrai sák. Nó “xuất hiện đột ngột giữa một vùng trời đất mênh mang như

sương như gió lại như mưa” [17; 44]. Nhà văn miêu tả khá tỉ mỉ, chi tiết dòng chảy của nó

từ phía trên cao đổ về phía cánh đồng: “Dòng nước từ trong núi ào ào đổ xuống chia thành

nhiều nhánh tràn ra phủ kín vách đá. Chân thác là một cánh đồng đá lô xô, nước sôi sục,

nước len lỏi tỏa thành trăm ngả như trăm con rồng vật mình uốn lượn và bọt tung trắng

xóa” [17; 44]. Con thác Đrai sák mặc dù không được tạc vẽ công phu để nổi bật thuộc tính

phức hợp hung bạo và trữ tình như dòng thác trên sông Đà trong tùy bút Người lái đò sông

Đà của Nguyễn Tuân nhưng nó cũng có một âm hưởng dữ dội và cái dáng nét độc đáo uốn

lượn uyển chuyển ở chốn đại ngàn Tây Nguyên. Âm vang của nó tựa như một khúc tráng ca

đầy kiêu hãnh thể hiện sức sống và trầm tích văn hóa của con người Tây Nguyên. Buôn Mê

Thuộc còn có dòng sông Sêrêpốc chảy qua hướng tây để gặp dòng sông lớn Mê-kông.

Nguyên ủy của dòng sông này là hai nhánh sông Krông Nô và Krông Na. Có lẽ trong tâm

thức của con người Tây Nguyên, sự hợp lưu của hai nhánh sông kia là một cuộc hôn phối kì

diệu giữa chàng trai và cô gái. Qua đây, ta nhận ra rằng, thiên nhiên Tây Nguyên cũng ẩn

chứa bao nỗi niềm và khát vọng về tình yêu, về hạnh phúc đôi lứa mang tính nhân bản sâu

sắc. Cánh đồng Krông Pông nối liền giữa hai nhánh sông kia được ví như “mâm xôi Giàng

ban cho dân chúng vùng này”. Ngoài ra Buôn Mê Thuộc còn có những cánh đồng phì

nhiêu, xanh tốt khác cung cấp lương thực cho dân như Yasúp, Ecao, Lắc…

Tây Nguyên mẫn tiệp còn chứa chất một kho tàng văn hóa dân gian phong phú. Nơi

đây “qua những dòng sử thi truyền từ đời này sang đời khác người ta tìm thấy những phẩm

chất hết sức thuần phác của một vùng người vùng đất, của một vùng lịch sử đã được hình

thành với đầy đủ sức mạnh để đi tới, bất chấp mọi thử thách” [17; 43]. Không chỉ có những

bản khan nổi tiếng, những điệu cồng chiên mang âm hưởng núi rừng, những điệu nhảy đậm

chất hoang dã…mà còn có bao nhiêu chuyện xưa tích cũ đầy ý nghĩa, làm nên những huyền

thoại về con người Tây Nguyên.

Không những thế, Tây Nguyên huyền bí đã hun đúc, nuôi dưỡng những người con núi

rừng mang phẩm chất mộc mạc nhưng giàu lòng nhân hậu như ông Y Bí Alêô, Y Blốc

Eban…Nơi ấy có những con người hội tụ trong trí tuệ và tâm hồn những giá trị văn hóa của

Tây Nguyên như cụ Điểu Câu, cụ giáo Thấu. Họ là những “đại biểu của văn hóa Tây

Nguyên, là một thực thể văn hóa sống động, là bộ bách khoa toàn thư, là cuốn từ điển của

nhiều ngôn ngữ, là người có đôi tai thần, là cái lưỡi khôn ngoan và một trí tuệ hiếm thấy”

[17; 45]. Những cụ già ấy là cả một triết lí sống và là một bí ẩn như chính vùng đất mà họ

đã sống. Vẻ đẹp của núi rừng Tây nguyên còn được thể hiện ở vẻ đẹp nơi các thiếu nữ, một

vẻ đẹp không tân kì, lộng lẫy như minh tinh màng bạc mà hoang sơ, kì bí và thần thiêng,

đầy sức quyến rũ: “Các cô gái Tây Nguyên nhìn chung rất nhiều cô đẹp, nét đẹp của thần

Siva, mê hoặc và bùng nổ say đắm, một vị thần mang sức mạnh hủy diệt và sáng tạo” [17;

54].

Cùng với tác giả đi qua những vùng miền như Tây Nguyên, Điện Biên, Quảng Nam –

Đà Nẵng, người đọc như thấy mình được mở rộng tầm nhìn, yêu mến thêm cảnh sắc, con

người và văn hóa của đất nước ta.

1.3.2.2 Chân dung người chiến sĩ, người nghệ sĩ và trí thức bác học

Khi viết về giai đoạn này, văn học đã cố gắng đi sâu vào việc giáo dục, đào tạo,

xây dựng con người mới, phát hiện con người cộng đồng trong mỗi cá nhân. Thuở ấy, con

người như là sản phẩm hoàn hảo của hiện thực cách mạng. Văn học đóng vai trò là mặt trận

tư tưởng. Nhà văn thông qua con người để biểu hiện lịch sử, con người trở thành phương

tiện để khám phá lịch sử. Chiến tranh đặt ra vấn đề sống còn của dân tộc, mọi quyền lợi,

mọi ứng xử phải có sự thống nhất muôn người như một. Cá nhân tự nguyện hòa tan trong

cộng đồng. Và chính những con người đó đã góp phần vào cuộc đấu tranh thống nhất nước

nhà, làm nên chủ nghĩa anh hùng, mang lại vẻ vang cho dân tộc. Hầu hết các nhà văn thiên

về khuynh hướng ca ngợi. Đỗ Chu cũng hòa chung vào tiếng nói văn học ấy. Cũng là một

nhà văn mang áo lính nên ông có lẽ hiểu rằng Tổ quốc và nhân dân, nhất là những con

người đang trực tiếp tham gia vào các sự kiện lịch sử là đối tượng thẩm mĩ khơi nguồn cảm

hứng sáng tạo.

Trong bộ ba tùy bút, nhất là tùy bút Những chân trời của các anh, Đỗ Chu đã dành rất

nhiều trang văn ghi lại chân dung của người lính. Không phải chỉ trong tùy bút mới có hình

tượng này mà ở thể loại truyện ngắn loại nhân vật này có rất nhiều như trong các tác phẩm

Ngọn lửa, Khoảng xanh, Trung du và còn nhiều truyện ngắn khác nữa… Đa số họ là những

thanh niên ưu tú mang trong mình lí tưởng sống cao đẹp, gánh trên vai vân mệnh của dân

tộc, hăng hái lên đường với bầu nhiệt huyết sôi sục của tuổi trẻ, gác lại bao chuyện riêng tư

đối với gia đình, người thân…Trong trái tim anh mang một lòng căm thù giặc sâu sắc, một

quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù: “Anh chiến sĩ chiều nay lên biên giới hành lí

quá gọn gàng, hình như anh chẳng mang theo gì ngoài một quả tim đã nặng trĩu tình yêu

quê hương xứ sở, ngoài một ngọn lửa chưa bao giờ nguội lạnh trong lòng – ngọn lửa tình

yêu cuộc sống” [14; 93]. Từ đây những chàng trai mang chí lớn bước vào cuộc đời chinh

chiến với bao khó khăn thiếu thốn: “…các chiến sĩ của mình đã lăn ra ngủ trên khắp những

hành lang dài hun hút, họ nằm ngổn ngang đầu gối lên ba lô, lên súng, lên cả những hòm

đạn, ngủ mà mồ hôi vẫn chảy ròng ròng khắp mặt khắp cổ. Những khuôn mặt măng tơ,

những khuôn mặt dầu dãi, áo quần tất cả đều lấm láp, đó là tấm áo chiến bào của trên nửa

thế kỉ trường chinh gian khổ” [18; 178-179]. Không những thế, sống trong nhà tù, đôi khi

người chiến sĩ phải chịu cảnh sinh hoạt khắc nghiệt. Khát quá, họ uống cả thứ nước không

lấy làm vệ sinh trong những ống tre vốn dùng để đựng phân và nước tiểu của tù nhân.

Những đêm cuối mùa đông, các chiến sĩ đóng quân ở rẻo cao phải chịu đựng cái giá rét tê

người vì không có đủ áo ấm: “Tháng chạp trên Cao Bằng có tuyết. Trời lạnh xuống 0 độ,

các chiến sĩ mang súng lên điểm tựa tiền tiêu đôi gác, phong phanh một chiếc áo mỏng, rét

từ trong bụng rét ra, rét đến đỏ tai, đỏ mắt” [14; 87].

Chân dung người chiến sĩ thật sự nổi bật khi các anh xuất hiện giữa chiến trường ác

liệt, dữ dội trong tư thế hiên ngang, anh hùng. Chính tình yêu non sông và lòng căm thù

giặc đã tạo cho các anh một nghị lực phi thường để các anh có thể vượt qua cuộc sống gian

khổ, để khi đối diện với kẻ thù các anh nhằm thẳng chúng mà tiêu diệt: “Khuyến, pháo thủ

số 5 nạp đạn vào nòng cho khẩu đội bắn, thật khó nói trong lòng các anh tình yêu thương

gia đình, làng xóm và lòng căm thù lũ giặc Mỹ đằng nào lớn hơn. Chỉ có một điều chắc

chắn là chính tình yêu mà các anh mang ra trận nhóm lửa cho sự căm thù bùng cháy” [14;

57]. Nòng súng của người chiến sĩ quả cảm đã bao phen khiến kẻ thù phải tan xác trên bầu

trời, chỉ còn lại vết đạn đỏ rực, vun vút lao lên nền trời lóa nắng. Cứ mặc cho khói lửa mịt

mù, bom đạn của đế quốc Mỹ cày xới không ngừng, không một tấm lá chắn, những người

lính vẫn giữ vững tinh thần chiến đấu: “Trong tiếng máy bay gầm rú điên loạn trên đầu,

trong tiếng bom nổ xung quanh, các chiến sĩ vẫn vững vàng trên mâm pháo, đánh trả quyết

liệt” [14; 56]. Cảm động thay hình ảnh người lính pháo thủ đã nhanh chóng cởi chiếc áo

đang mặc đem nhúng bùn để bịt mấy lỗ dò trên vỏ đạn, ngăn chặn kịp thời quả đạn phát nổ.

Cuộc đọ sức với kẻ thù diễn ra vô cùng gây cấn, cam go, nguy hiểm: “Cánh đồng bị bom

đạn cày xới ngổn ngang, mấy lần Trường vấp ngã, mấy lần lăn xuống hố sâu, lại vùng lao

đi. Lẫn trong bùn ruộng, trong bóng đêm là khói bom khét lẹt, không gian dày đặc tiếng

gầm rú của phản lực, mặt đất rung lên giận dữ. Giữa tình thế ấy trong anh dường như có

một sức mạnh phi thường. Cố lê cái chân phải bị liệt, tì vai lên vách hầm, nửa nằm nửa

ngồi, anh thét to trong máy: “Xê hai báo cáo, tất cả đã sẵn sàng” [14; 63]. Ranh giới giữa

cõi sống và cõi chết lúc ấy xem ra chỉ là gang tất, người lính trở nên rất nhỏ bé, mong manh

trước sự truy kích của kẻ thù. Không cần phải lật giở những trang sử thời ấy, ai trong chúng

ta cũng thấy rằng, trong cuộc đánh chiếm Việt Nam, Mỹ đã sử dụng những vũ khí hết sức

tối tân, phát huy tối đa sức mạnh và uy lực của chúng. Lính Mỹ có thể tàn phá hàng loạt các

làng mạc, nhà cửa, biến trận địa thành bình địa, lấy đi vô số sinh mạng con người một cách

dễ dàng. Thế nhưng có một thứ mà chúng không san bằng, tàn phá nổi, đó là tinh thần chiến

đấu anh dũng, ngoan cường của con người Việt Nam. Cái sức mạnh, cái uy vũ kia trở nên

vô hiệu hóa trước những con người nhỏ bé về hình thể nhưng lớn lao, vĩ đại trong tâm hồn.

Cũng chính vì thế mà tổn thất to lớn của ta là không để nào tránh khỏi, người người ra

trận hi sinh, nhà nhà tiễn người thân ra trận mà không có được ngày đón họ quay về. Bao

người lính đã phải nằm lại nơi chiến trường đương độ tuổi thanh xuân: “Ở huyện Gia

Lương, tôi mới được gặp được bà mẹ một người anh hùng. Anh ngã xuống vào năm hai

mươi sáu tuổi, đi từ năm mười bảy, chưa một lần hò hẹn yêu đương, trước khi đánh trận

cuối cùng trên người anh đã có hai mươi vết thương lớn nhỏ” [17; 52]. Những cái vết

thương ấy chính là hiện thân vết thương của cả dân tộc, sự chịu đựng của anh là hiện thân

của một dân tộc quá đỗi kiên gan, quá đỗi bền lòng trong những ngày tháng đánh giặc

Mỹ…Chìm sâu trong dòng hồi tưởng của người cựu chiến binh Mỹ về cuộc chiến ở Ban

Mê, có người chiến sĩ bị thương, anh ta là đối tượng nguy hiểm trong con mắt kẻ thù. Khi

bị bắt lên máy bay, “anh lấy hết sức nhỏm dậy, nhìn xuống vùng trời xanh dưới kia, thình

lình anh ấy nhoài người ra khỏi cửa. Lúc chúng em hiểu ra thì đã thấy bóng anh ấy mất hút

trong khoảng không, dưới ấy chỉ là một vùng rừng xanh thẳm trùng điệp đang vùn vụt lướt

nhanh” [17; 36]. Phi công Vũ Xuân Thiều trong tùy bút Kìa đàn hồng hạc là người anh

hùng đã ở lại mãi mãi với bầu trời: “Ba mươi năm trước trong một đêm tháng Chạp, Hà Nội

rực cháy, mặt đất rung lên từng cơn trong ánh chớp của bom Mỹ của tên lửa và đạn pháo

cao xạ ta, có một người con trai Hà Nội đã bay lên đối mặt với những chiếc pháo đài bay

B.52. Anh lao vào chúng làm một trận đánh cảm tử, làm một chiến công góp phần kết thúc

cuộc oanh kích cực kì dữ dằn” [17; 8].

Mãi mãi, vẻ đẹp cao cả, kì vĩ, bi hùng của những người chiến sĩ sẽ có sức sống bền bỉ

trong lòng dân tộc, trở thành đuốc hồng soi sáng đường cho các thế hệ mai sau, và là niềm

kiêu hãnh của dân tộc trong hành trình đấu tranh giành lại độc lập và xây dựng đất nước.

Chân dung người lính cũng chính là chân dung của dân tộc ta trong những tháng ngày đánh

Mỹ: kiên cường, bất khuất, quyết tâm đánh thắng kẻ thù, dù phải trải qua bao gian nan, hi

sinh trên bước đường tranh đấu.

Những nghệ sĩ được nói đến trong các tập tùy bút của nhà văn Đỗ Chu không phải

được chọn lọc theo một công thức hay tiêu chí nào mà chủ yếu theo những ấn tượng chủ

quan và cảm hứng thẩm mĩ rất riêng tư của nhà văn. Vì thế đây không phải là những bài

nghiên cứu, khảo cứu về tác giả văn học – nghệ thuật mà chủ yếu là những bài tuỳ bút

nhằm để giãi bày xúc cảm và suy tư trước nghệ thuật và cuộc đời ngang qua những đối

tượng thẩm mĩ là những người nghệ sĩ.

Ở lĩnh vực nghệ thuật ngôn từ, đối với tác giả văn xuôi, Đỗ Chu dành riêng ba bài tùy

bút cho ba nhà văn. Người đầu tiên phải nhắc đến, cũng là tác giả luôn tạo cho người đọc

những ấn tượng mạnh mẽ, đó là Nguyễn Tuân. Mở đầu bài tùy bút số 5 trong Thăm thẳm

bóng người, giữa đại gia đình của Hội nhà văn, Nguyễn Tuân được trân trọng xưng tụng

bằng danh hiệu “vị trưởng lão kì tài”. Khi tùy bút này ra đời, Nguyễn Tuân ra đi đã được

hai mươi năm nhưng những kỉ niệm và ấn tượng về cây viết bậc thầy về văn xuôi hiện đại

Việt Nam vẫn còn tươi nguyên, gần gũi. Theo cảm nhận của Nguyễn Minh Châu, Nguyễn

Tuân đã hiện diện giữa văn đàn bằng một phong thái sang trọng, khác xa với vẻ lấm láp của

số đông nghệ sĩ. Phong thái sang trọng kia là gì nếu không phải là tư chất tài hoa vượt trội

của người nghệ sĩ. Nó là cái thiên bẩm quí báu mà không phải ai cũng có được. Chính nét

tài hoa đã tạo ra một sức thu hút lạ lùng ngay cả trong những lần kể về những chuyện

không đâu tại một quán cóc lấm láp bụi đường trên một vỉa hè nào đó. Nguyễn Tuân không

phải là nhà khảo cổ học cũng tuyệt nhiên không phải là kẻ ngẩn ngơ vô công rỗi nghề khi

mà hằng ngày ông đi thu thập tẩu thuốc cổ, lọ tăm tre, cái bút máy, cuốn sổ ghi chép, một

chút rượu, một con mực nướng…vào trong cái túi vải thô một đời xách theo mình. Hành

động ấy của ông rất đỗi lạ lùng. Nhưng kì diệu thay, chính những cái tưởng như tầm

thường, đơn giản kia lại trở thành đối tượng thẩm mĩ độc đáo cho những sáng tác văn

chương. Có thể nói hành trình đi cóp nhặt lạ lẫm đó là hành trình sáng tạo nghệ thuật tuy

âm thầm nhưng rất đỗi phấn khích của người nghệ sĩ tài hoa hết lòng vì nghệ thuật. Đỗ Chu

khẳng định rằng, mọi thứ sẽ qua đi, nhưng tác phẩm và con người Nguyễn Tuân mãi mãi là

những giá trị trường tồn. Hiểu Nguyễn Tuân là không dễ, bởi vì trong ông là cả một thế giới

bí ẩn, càng ngắm càng nhận ra nơi ông có nhiều cái lạ, một cái lạ không phải ở cái dáng

kiêu bên ngoài mà là ở cái cốt kiêu thuộc về bề sâu.

Đôi khi những tác phẩm xuất sắc vượt quá tầm đón đợi thẩm mĩ thường rất gian nan

trong quá trình xuất bản, lưu hành. Tùy bút Tờ hoa chính là một ví dụ tiêu biểu cho trường

hợp này. Suýt nữa nó đã bị bóp chết và làm ảnh hưởng luôn đến việc xuất bản của những

tác phẩm khác. Nguyễn Tuân tỏ ra rất kiên định trong việc giữ lại Tờ hoa trong tập sách.

Cho mãi về sau này, khi Tờ hoa được đón nhận nồng nhiệt, người ta mới vỡ ra một điều:

“Nguyễn Tuân đâu phải người cố chấp hay kiêu ngạo, ông chỉ là một người biết giữ nguyên

tắc sống của mình, không thể khoan nhượng trước mọi u tối, lẩn quẩn, luôn luôn biết điều

và khoan hòa, trong việc lớn nhỏ ông đều đã khu xử đàng hoàng nhiều tự trọng” [18; 87].

Tác phẩm của Nguyễn Tuân trải qua bao biến động của thời cuộc vậy mà vẫn luôn giữ

được mới mẻ, luôn có sức hút và lay động mạnh mẽ tâm hồn người với một phong cách độc

đáo và một tinh thần thuần Việt. Mãi mãi Nguyễn Tuân luôn là niềm yêu mến và ngưỡng

mộ đối với những ai yêu mến loại hình nghệ thuật này và nhất là những hậu sinh kế tục thế

hệ ông trong việc làm cho cuộc đời đẹp thêm bằng các sáng tác văn chương.

Kim Lân là một gương mặt quen thuộc với những sáng tác hiện thực chủ nghĩa. Nếu

Nguyễn Tuân hướng đến cái mĩ thì Kim Lân lại chú ý đến cái chân, một cái chân mộc mạc

quê kiểng nhưng có sức hút lạ lùng. Độc giả xem đây là dấu hiệu duy nhất để nhận biết về

ông. Không những Kim Lân có những trang viết chân thật mà ông còn có một nguồn cảm

hứng chân thật. Nguồn cảm hứng trong con người nghệ sĩ Kim Lân không biết cố gắng

gượng ép trước những thúc bách bởi những nhu cầu của bản thân và xã hội. Quả là một cái

tôi nghệ sĩ hết sức hồn nhiên và trong sáng, thấu suốt những nguyên tắc trước sau trong

sáng tạo nghệ thuật. Vì thế mặc dù số lượng những đứa con tinh thần của ông không nhiều

nhưng mỗi tác phẩm ông viết ra luôn có chỗ đứng trong lòng người đọc. Kim Lân viết về

những con người nghèo khổ nhưng vẫn giữ được nét cao quí bên trong tâm hồn. Nó có ý

nghĩa gì nếu không ngoài việc thể hiện tình yêu, sự đồng cảm, niềm trân trọng của người

nghệ sĩ đối với những mảnh đời bất hạnh.

Bình sinh, Kim Lân không bao giờ chịu trú vào một lớp vỏ bọc giả tạo, một thứ phẩm

cách thanh khiết thuộc về hình thức. Ông sống thật thà với như chính con người của mình

giữa thanh thiên bạch nhật. Hơn nữa, Kim Lân còn là một minh chứng cho “chân lí không

thể sống nhạt, sống tồi mà lại có văn chương” [18; 71] và là “sự bí hiểm chẳng khác nào

những chiếc lọ được ông bày la liệt trong phòng khách chật chội” [18; 74].

Có một nhà văn cùng thế hệ với Đỗ Chu, xuất hiện biệt lập trong bài số 6 thuộc phần

Hoa bờ giậu, đó là nhà văn của tuổi nhỏ – Trần Hoài Dương. Viết về Trần Hoài Dương, Đỗ

Chu ghi lại khá nổi bật sự gian truân của người nghệ sĩ trên bước đường tìm đến chân trời

nghệ thuật. Dám từ bỏ cuộc sống êm đềm tại báo Văn Nghệ, Trần Hoài Dương quyết chí

thực hiện một chuyến đi thực tế để tích lũy vốn sống khơi nguồn cho sáng tạo nghệ thuật.

Người nghệ sĩ ấy đến với một miền đất mới, nhận lấy một công tác mới tại một trường giáo

dưỡng chuyên dạy trẻ em hư vị thành niên. Bước đường của Trần Hoài Dương trong cái

nhìn của Đỗ Chu thật “lắm đoạn trường”. Điều này biểu hiện rằng, nhà văn trẻ Trần Hoài

Dương thuở ấy là người nghệ sĩ ủ ấp khát vọng lớn lao, có ý thức trong việc dấn thân để

phụng sự cho nghệ thuật chân chính, lấy nghệ thuật làm lẽ sống và làm mục tiêu vươn tới.

Thiết nghĩ rằng, phải là người có bản lĩnh hơn đời, hơn người thì mới có một sự dấn thân cá

thể như thế.

Và ông đã được đền bù. Hai tập sách Miền xanh thẳm và Truyện chọn lọc, hoa trái của

những tháng ngày gian truân, miệt mài trên miền đất sáng tạo nghệ thuật sắp được tái bản.

Những trang viết giàu chất liệu hiện thực và hơi thở cuộc sống đã đưa ông đến với đông

đảo độc giả, nhất là độc giả nhỏ tuổi. Mỗi tác phẩm của nhà văn là bài học giúp người đọc

quay về với lòng nhân ái, trung hậu, nuôi dưỡng tâm hồn trẻ thơ giữa một thế giới dần đi

vào lối sống thực dụng, vô cảm. Cái hay trong văn của Trần Hoài Dương là cái hay của sự

“yên ả, không ồn ào, đẹp một cách mong manh dung dị, như cây cỏ lan kia đang lặng lẽ tỏa

hương nơi u cốc” [18; 95]. Về bút pháp, “sáng tác của anh không nằm ngoài qui luật chung,

anh viết những chuyện rất bình thuờng bằng một bút pháp không tầm thường”.

Thấp thoáng trong các tập tùy bút của Đỗ Chu còn có một Nguyễn Minh Châu từng

trải, về cuối đời vẫn còn chưa thôi niềm khao khát cho ra đời những tác phẩm hay; một Mai

Ngữ khiêm nhường có giọng văn nhát gừng, lừng khà lừng khừng nhưng khiến người đọc

bao bao lần cười ra nước mắt; một Phan Hồng Giang có những tác phẩm dịch góp phần đưa

người đọc đến gần hơn với văn học Nga; một ngôi sao văn học mới lên, Nguyễn Ngọc Tư

có giọng văn mộc mạc, nhân cách vững vàng, tự tin và đằm thắm.

Đối với các tác giả thơ hiện đại, cũng giống như ở văn xuôi, Đỗ Chu cũng dành ba bài

tùy bút để giới thiệu về ba nhà thơ. Đó là Phạm Tiến Duật, Nguyễn Xuân Thâm và Chính

Hữu.

Phạm Tiến Duật, tác giả của những bài thơ nổi tiếng hiện lên với hai con người riêng

biệt nhưng rất thống nhất với nhau - con người nghệ sĩ và con người chiến sĩ. Câu chuyện

về chàng thanh niên đang học năm cuối khoa Ngữ văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội,

theo tiếng gọi của tổ quốc, từ giã giảng đường lên đường ra trận được Đỗ Chu kể lại thật

cảm động. Mà đâu chỉ là cảm động thuần tuý, sự quyết tâm dấn thân của con người trẻ ấy

còn làm ta mến yêu và ngưỡng vọng sâu xa... Thực sự không quá khó khăn khi nhà văn

phát hiện ra trong thơ ông có một thế giới nghệ thuật tràn ngập ánh lửa. Lửa ấy vừa là hiện

thực cách mạng, hiện thực cuộc sống đầy khói thuốc nổ mà còn là lửa tâm hồn, lửa của tuổi

trẻ, lửa của tình yêu mến đất nước nồng nàn, cháy bỏng… Lửa trở thành một hiện tượng

thẩm mĩ, một biểu tượng nghệ thuật sống động, lung linh trong thơ ông. Thơ ca giai đoạn

này bay bổng với cảm hứng lãng mạn cách mạng. Và thơ của Phạm Tiến Duật cũng hòa

vào nguồn cảm hứng ấy. Tác phẩm của ông được đón nhận nồng nhiệt, nhất là thành phần

thanh niên xung phong đang sống đời chinh chiến. Cũng dễ hiểu thôi, vì “anh là một người

làm thơ cho lính đọc, anh chưa bao giờ sắm vai người nói hộ, khóc hộ, lo âu hộ” [18; 55].

Tiếng nói thi ca cất lên từ chính những trải nghiệm dày dạn, từ những xúc cảm chân thành.

Vì nó khởi đi từ trái tim nên nó cũng sẽ dễ dàng đến với nhiều trái tim để tìm sự đồng điệu.

Không những thế, con người nghệ sĩ trong Phạm Tiến Duật còn có sự bản lĩnh mà không

phải người cầm bút nào cũng có: “…anh vẫn luôn luôn là người dám hát, dám sống và viết

như chính mình nghĩ thế, cảm nghĩ về những năm tháng mà mình đã đi qua” [18; 56]. Cuộc

gặp gỡ giữa nhà văn với đội nữ thanh niên xung phong giúp ta nhận ra rằng, Phạm Tiến

Duật là một thần tượng thơ ca của những người lính trong những tháng năm dài đánh Mỹ.

Với Chế Lan Viên, Phạm Tiến Duật được coi như một sự kiện lớn của thơ ca kháng chiến;

còn theo Hoài Thanh, “sự xuất hiện của anh trên văn đàn là sự xuất hiện của một bút pháp

có sức đột phá, có sức khai mở một thi pháp” [18; 50]. Sau lần được vinh danh với giải

thưởng thơ do báo Văn nghệ tổ chức, ông bị đánh vì bài Vòng trắng, theo một số người

lãnh đạo có vấn đề !

Phạm Tiến Duật có quan niệm rất đúng đắn về thơ: “Thơ với anh như một thứ nhật kí,

thấy ngay, nghĩ ngay và viết ngay” [18; 59]. Với quan điểm ấy nên thơ đã nở hoa theo mỗi

bước chân khi ông qua những vùng miền, đất nước khác nhau. Ở Lào, ông có Ngủ ở Ăng

Khăm nghe tiếng vượn; đến Nga, ông có Tuyên bố chung với hàng cây Matxcơva; sang Bắc

Âu, ông có Yên tĩnh Copenhaghen; đặt chân trên đất Mỹ, ông có Lạm tóc của gia đình

Hakin. Phần cuối bài tùy bút, tác giả đã hết lời đề cao Phạm Tiến Duật – “một hiện tượng

không dễ gặp trong đời sống thi ca cũng như trong đời sống xã hội”.

Nguyễn Xuân Thâm không phải là nhà thơ được nhiều người biết đến. Cái tình riêng

sâu sắc là nguồn cảm hứng mạnh mẽ chắp bút cho Đỗ Chu có bài viết khá dày dặn về ông.

Là nhà nghiên cứu ngành hóa học, Nguyễn Xuân Thâm có trên bốn mươi năm làm giảng

viên Đại học Bách khoa. Thật thú vị khi ông là nhà khoa học tài danh mà cũng có tư chất

nghệ sĩ và niềm đam mê đối với thơ ca. Cái năng khiếu thơ ca thể hiện ngay từ lúc ông còn

là một cậu học sinh trường Quốc học với bút danh Dao ca. Ông “tình nguyện làm một

người hát rong trên đời và làm những bài đồng dao cho trẻ nhỏ của các làng mạc xa xôi vừa

nhảy lò cò vừa hát” [18; 110]. Những vần thơ ngày ấy đậm chất học trò, hồn nhiên, mộng

mơ nhưng cũng đủ khiến nhóm nữ sinh Đồng Khánh “hồi hộp không sao thở được”. Nhà

văn Đỗ Chu bắt đầu biết đến ông qua tập Đồng xanh, in chung với Nguyễn Nhã từ những

năm sáu mươi của thế kỉ XX. Theo sự cảm nhận của nhà văn, “càng về già thơ anh càng

khởi sắc, chất trữ tình trong thơ anh càng đằm, ngôn từ nhiều tìm tòi và rất chắt lọc” [17;

112]. Điều này cũng thật dễ hiểu, vì một người chung thủy và hết lòng với thơ như anh thì

không lẽ nào thơ ca đóng sập cánh cửa sáng tạo trong ông được. Nguyễn Xuân Thâm đã

được vinh danh khi ông được nhận Giải thưởng văn học của Hội nhà văn vào năm 2001.

Tài hoa bạc mệnh, điều này dường như rất ứng hợp với Nguyễn Xuân Thâm. Ông bị

ung thư hàm, phải phẫu thuật nhiều lần. Căn bệch quái ác làm héo hắt và méo mó cả hình

hài: “Anh gầy xọp, đôi mắt lồi ra như sắp rụng xuống đất, hình tướng nhàu nát dị dạng,

tiếng nói cũng bị méo đi, nghe rất khó” [18; 112-113]. Có một dự cảm rằng nhà thơ của

chúng ta sẽ không thoát được cái nạn này. Nhưng hình như ông trời vẫn còn muốn Nguyễn

Xuân Thâm hiện diện giữa cuộc đời nên đã cho ông được trở về lại với người thân, bằng

hữu và thơ ca, trả lại cho ông một khuôn mặt bình thường, một giọng nói trong và ấm.

Một nhà thơ được đề cập ở sau bài viết về nhà thơ Nguyễn Xuân Thâm, đó là Chính

Hữu, quê gốc ở Can Lộc – Hà Tĩnh. Mười chín tuổi, sau khi nhận bằng tú tài, Chính Hữu

nhanh chóng hòa vào dòng người tham gia kháng chiến. Ông là người chín chắn từ trẻ, lại

có khả năng tự học tốt. Về việc sáng tác, Chính Hữu không phải là người ham viết nhiều,

viết dài nhưng “bài nào ra bài ấy, câu chữ nào ra câu chữ ấy, như những hạt ngô hạt thóc

mẩy trên sàng”. Có lẽ để có được những “hạt ngô hạt thóc” ấy, Chính Hữu đã phải nhiều

chắt chiu trên cánh đồng nghệ thuật với một tinh thần miệt mài, cần mẫn… Trong lịch sử

văn chương không hiếm có những trường hợp hoa lạ trái mùa và tác giả của nó cũng được

sống mãi giữa lòng nghệ thuật cùng với những tác phẩm ấy. Chính Hữu là một trong số ít

có được cái may mắn ấy. Đỗ Chu nhận ra rằng, cảm hứng chủ đạo trong thơ Chính Hữu là

“tình đồng chí, đồng đội và đất nước”. Để chuyển chở được cái tính ấy, nhà thơ đã vận

dụng một bút pháp gợi mở, giản dị và sâu lắng. Đây là một kiểu thơ nhẹ nhàng, mang nét

duyên thầm, rất đáng quí và đáng yêu.

Khi nói về mối quan hệ giữa văn học và hội họa, người xưa từng có câu: “Thi trung

hữu họa”. Người nghệ sĩ ngôn từ và người nghệ sĩ màu sắc xem ra rất gần nhau. Trong các

tập tùy bút, Linh Chi là nghệ sĩ được Đỗ Chu viết dài nhất, công phu nhất. Cái bút hiệu

Linh Chi làm cho nhà văn liên tưởng đến một loài nấm quí có giá trị y học và một loài thảo

mộc gắn liền với câu chuyện đầy màu sắc huyền thoại. Ở phần đầu, nhà văn giới thiệu rất

chi tiết về dòng tộc, gia đình, nơi sinh sống của họa sĩ Linh Chi. Ngay từ lúc nhỏ, ông là

người có năng khiếu và tình yêu đối với hội họa. Tình yêu ấy lớn dần theo thời gian, cho

đến một ngày ông quyết định tìm thầy học vẽ, để lại sau lưng sự học dở dang. Linh chi đã

đi theo tiếng gọi của nghệ thuật, lấy nghệ thuật làm sự nghiệp cho riêng mình. Và ông đã

sớm gặt hái được những thành công nhất định, bốn mươi ba bức sơn dầu và bột màu được

bày triển lãm tại Phòng thông tin Tràng Tiền khi ông vừa qua tuổi hai mươi bốn. Tuy nhiên,

đó cũng chỉ là bước khởi đầu, một bệ phóng khích lệ Linh Chi đi sâu vào thế giới hội họa.

Sự nghiệp sáng tác của Linh Chi kinh qua nhiều giai đoạn. Sau Cách mạng tháng Tám,

ông trở về quê nhà là Nọi Doi trong những ngày đói kém. Đây là khoảng thời gian Linh Chi

mang giá vẽ đi khắp quê hương: “vẽ con sông cạn bò ngoằn ngoèo đến chân núi Dạm, ra bờ

sông Cầu vẽ những cánh buồm no gió từ mạn Phả Lại đang đẩy thuyền củi, thuyền than lên

bến Đáp Cầu. Vẽ những cô du kích cầm mã tấu đứng gác ở cổng làng, vẽ những đứa trẻ cầu

bơ cầu bất mót khoai mót sắn” [18; 217]. Rõ ràng, cảm hứng nghệ thuật của người họa sĩ

gắn bó mật thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người . Nó khác xa với những khuynh

hướng nghệ thuật thoát li cuộc sống hay xem cuộc sống chỉ là thứ yếu. Rồi đầu năm 1947,

Linh Chi một lần nữa đã lên đường để tham gia kháng chiến. Đây là một trong những bước

ngoặt quan trọng của linh Chi. Từ đây, nét cọ của người nghệ sĩ không chỉ gắn bó với hiện

thực cuộc sống mà còn gắn bó với hiện thực cách mạng, không chỉ phụng sự cho nghệ thuật

mà còn phụng sự cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà. Linh

Chi bước vào cuộc sống mới với bao gian khổ, đắng cay, với bao thử thách đang đón chờ

ông ở phía trước. Những trải nghiệm đã biến ông trở thành một họa sĩ giàu nội lực, có cốt

cách vững chãi. Ông đạt được những thành công lớn. Nhiều lần tranh của Linh Chi được

triển lãm, có sức lan toả rộng rãi không chỉ trong nước mà còn ở nước bạn.

Qua bài tùy bút này, độc giả nhận ra rằng, Linh Chi không chỉ là họa sĩ tài ba, giàu

tâm huyết mà còn là một người hết sức nặng lòng với dân tộc, mang khát vọng lớn trước

nghệ thuật và cuộc đời. Mặc dù đạt được nhiều thành tựu, Linh Chi vẫn âm thầm đi về trên

những nét cọ, từng ngày vượt qua những khó khăn, thiếu thốn của đời thường để tiếp tục

sáng tạo và cống hiến. Đáng quí hơn, ông còn có tình bạn bè thân hữu, không ồn ào, phô

trương mà luôn chu đáo, chân thành, sâu lắng.

Một họa sĩ nữa, đó là Mai Văn Hiến. Ông là người vẽ tiền nhưng lại có cuộc sống

quá đỗi túng quẫn, quá đỗi nghèo khổ, thêm vào đó là chứng bệnh tắt động mạch chi làm

cho hai chân ông teo tóp dần. Căn phòng méo mó, ẩm thấp, rộng mươi mét vuông là chỗ

sinh hoạt duy nhất của gia đình ông. Mọi chuyện buồn vui đều diễn ra tại không gian chật

chội đó. Nghèo là thế mà con cháu vẫn đông đúc, đề huề như ai, cái tình bạn không vì thế

mà trở nên hiếm hoi: “Anh Hiến có nhiều bạn, đời anh lấy sự nhiều bạn làm giàu. Già có,

trẻ có, đủ các tầng lớp nghề nghiệp, nhiều người tiện qua thì tạt gặp nhau một thoáng, có

người mấy chục năm nay lặn mất tăm, không rõ còn sống hay đã mất, cũng chẳng hiểu gia

cảnh giờ đã ra sao, vậy mà bỗng đột ngột hiện ra, đứng chắn ngang cửa ra vào, lù lù như

một đống rạ, hỏi anh có nhận ra ai không” [17; 171]. Câu văn có pha chút hài hước mà sao

nghe thấy lòng rưng rưng về tình cảm bạn bè đáng quí, đáng yêu.

Cùng thời với Linh Chi, họa sĩ Mai Văn Hiến cũng là người được nhà văn dành nhiều

tình cảm yêu mến và ngưỡng mộ. Trong những năm tháng kháng chiến, họa sĩ Mai Văn

Hiến cũng góp sức vào việc tranh đấu. Anh vẽ áp phích, khẩu hiệu kêu gọi địch ra hàng.

Rồi khi ta bắt tay vào xây dựng Nhà nước, ông được giao công việc vẽ tiền. Thế là, “anh

lẳng lặng lên khu gang thép Thái Nguyên vẽ ống khói lò cao, ra Hòn Gai vẽ cần cẩu xúc

than và tờ bạc nào anh cũng vẽ hình cụ Hồ” [17; 182].

Trong tùy bút Một con người đã ra đi, bức chân dung của Văn Cao được khắc họa với

tư cách ba con người nghệ sĩ: thi sĩ, họa sĩ và nhạc sĩ. Đó là “một người nói năng thủng

thẳng, nói năng quá ôn tồn, vừa nói vừa ngẫm” [17; 187]. Phải là một người điềm đạm, có

đời sống nội tâm phong phú và sâu sắc thì mới có thể có những biểu hiện như thế. Phong

thái ấy làm tác giả liên tưởng đến bức chân dung của nhà văn Đốt-xtôi-ep- xki, đại văn hào

của nền văn học Nga. Trải qua bao biến động, Văn Cao vẫn giữ được cái nét ấy: “vẫn

thủng thẳng thế, nhưng rất nhân hậu và chân thành” [17; 193], vẫn “sống dai dẳng, âm thầm

và ngoan cường” [17; 193]. Tranh của ông được đón nhận nồng nhiệt: “vẽ đến đâu được

người ta rước đến đấy” [17; 193]. Ngoài công việc vẽ tranh, Văn Cao còn nhận vẽ trang bìa

cho các tác phẩm văn học. Ông có những vần thơ giàu chất triết luận: “Đêm đêm cầu

nguyện bên đèn, chưa thấy ngày mai hửng sáng, chỉ thấy những xác thiêu thân, chết trên

mặt bìa những cuốn sách kinh, những pho tượng không bao giờ nói, hai con mắt nhìn an ủi”

[17; 188]. Nhà xuất bản Văn học mới vừa làm hợp tuyển cho Văn Cao, cũng là để tôn vinh

và ghi nhận những cống hiến của ông về thể loại thơ. Bài tùy bút mở ra nhiều khung cảnh

gặp gỡ với Đỗ Chu, lần nào cũng có hương rượu nồng nàn chắp thêm nguồn cảm hứng, làm

cho lòng người miên man chợt nghĩ, chợt nhớ xa xăm…

Ngoài Văn Cao, Đỗ Chu còn nhắc đến một nghệ sĩ đa tài khác, đó là Trịnh Công Sơn.

Trong bài viết, Hoa trước thềm văn, Đỗ Chu đánh giá rất cao tài năng nghệ thuật của Trịnh

Công Sơn: “Anh không chỉ là một nhạc sĩ lớn, nhưng với tôi, anh còn là một nghệ sĩ lớn

nữa”. Những nghệ sĩ lớn thường tạo cho mình một phong cách không trùng lặp với bất kì

một ai. Thế giới nghệ thuật của ông đầy những trăn trở, ưu tư, có lúc quằn quại trong nỗi

đau của riêng chung: “Anh Sơn như một con chim lạ từ khoảng sáng nhân văn, từ cõi nhân

ái nào rất xa đã bay về nước non Việt Nam, nó kêu khắc khoải, nó kêu thổn thức, mùa lại

mùa, nó hát lên những khúc thơ đau và thương về số phận trầm luân nhiều máu và nước

mắt của dân tộc mình” [17; 243].

Qua những bức chân dung về những người làm nghệ thuật, độc giả được tiếp xúc với

thế giới của những người tài hoa, giàu tư chất nghệ sĩ. Nhìn chung, họ sống trong bão táp

chiến tranh với bao bất ổn không thuận lợi cho sáng tác nghệ thuật. Nhưng chính hiện thực

cách mạng là mảnh đất màu mỡ khơi nguồn cho sáng tạo nghệ thuật, giúp họ có những tác

phẩm để đời và sống mãi cùng năm tháng. Mỗi người một hoàn cảnh, một kiểu sống, một

phong cách nghệ thuật, song tất cả đều có ý thức cống hiến hết mình, dâng hiến hết mình

cho nghệ thuật và cuộc đời. Đa số những người được nói đến đã ra đi về một miền khác, dù

thế, tên tuổi và tác phẩm của họ mãi mãi vang bóng trong lòng dân tộc.

Bên cạnh chân dung nghệ sĩ, tùy bút của Đỗ Chu còn có chân dung những trí thức bác

học. So với các nghệ sĩ, những trí thức bác học có phần ít và chiếm dung lượng khiêm tốn

hơn. Họ sống ở những miền đất khác nhau, có năng lực khoa học khác nhau, có những hoàn

cảnh khác nhau. Tuy nhiên, trong nguồn cảm hứng miên man, bất tận của tác giả, họ cùng

qui tụ, châu tuần trên những trang tùy bút.

Đồng hương với tác giả, Ngô Đức Thảo có quê gốc ở làng Song Tháp, xã Châu Khê,

phủ Từ Sơn. Ông xuất thân trong một gia đình có cha làm viên chức bưu điện. Học ở Lycée

Albert Saurrant, hết bật tú tài, ông sang Pháp du học. Nhìn chung, con đường học vấn của

Trần Đức Thảo khá êm đềm, suông sẻ, không phải gặp những trở ngại do hoàn cảnh xã hội

đưa tới. So với Trần Đức Thảo, ông Châu Kim Quới, người Cần Thơ có một điều kiện sống

thăng trầm hơn. Ông là Việt kiều Thái Lan và đã có mấy mươi năm sống và làm việc nơi xứ

người. Châu Kim Quới giống như một cánh chim lạc ngàn nhưng lúc nào cánh chim ấy

cũng hướng về tổ ấm thân thuộc. Còn cụ giáo Nguyễn Hữu Thấu là gốc xứ Huế nhưng

được sinh ra ở Thanh Hóa, khi lớn lên thì học ở hai nơi, vừa ở Thanh Hóa vừa ở Huế. Năm

1936, cụ Thấu từ ngoài Huế vào Hà Nội để xin vào học trường Thăng Long, sau một năm

thi đỗ Secondaire thì lại chào Huế thi vào trường Sư phạm. Cụ học lớp cấp tốc một năm,

học xong lại được điều lên Ban Mê Thuộc, thế là thành gắn bó lâu dài với nơi này, quần áo

trắng, mũ trắng, giày tất trắng. Thanh xuân và nghị lực, thầy giáo Thấu mau chóng hoà

nhập vối cuộc sống mối tại vùng đất hoang sơ này.

Tuy nhiên, bên cạnh những khác biệt ấy, ở họ còn có những nét tương đồng trong

phẩm chất và lí tưởng sống. Họ là những trí thức uyên bác có trình độ cao, có khả năng tự

học tốt, đầy tâm huyết và đạt được những thành tựu nhất định trong sự nghiệp riêng mình.

Châu Kim Quới là người có năng khiếu về ngoại ngữ. Nhờ khả năng tự học, ông đã thông

thạo cả bốn thứ tiếng Anh, Pháp, Thái, Việt. Thế nhưng sở hữu được nhiều ngoại ngữ như

thế không phải là điều dễ dàng, ông phải trải qua những tháng ngày miệt mài với việc tự

học tiếng Thái, rồi tham gia những công việc xã hội bằng tiếng Thái như làm báo, giao

tiếp… Chính từ những điều đó đã giúp ông đi sâu và trở thành chuyên gia nghiên cứu ngôn

ngữ Thái. Mấy năm sau đó, ông được trường đại học Xiêngmay mời làm giảng viên của

khoa ngôn ngữ, dạy cho bậc sinh viên, rồi dạy lên cả bậc thạc sĩ. Một người Việt giao tiếp

thông thạo với người Thái đã là giỏi lắm, còn ở đây ông Quý lại trở thành thầy dạy về chính

ngôn ngữ của người Thái, không phải ở trình độ sơ cấp mà ở tận trình độ cao học. Ông

cũng là người có công tạo ra mấy chục phông chữ cho cụm ngôn ngữ Thái. Trong sự

nghiệp nghiên cứu về ngôn ngữ của mình, ông Quý đã có gần hai chục cuốn sách và gần

năm chục bài báo. Sách của ông còn được thư viện Bangkok lưu trữ. Đây không chỉ là niềm

vinh dự của riêng ông mà là niềm vinh dự của chúng ta.

Nếu sở trường của Châu Kim Quới là ngôn ngữ Thái thì sở trường của cụ giáo Thấu là

ngôn ngữ Tây Nguyên và văn hóa Tây Nguyên: “Cụ giáo Thấu là người am hiểu Tây

Nguyên như một trí thức có một đời gắn bó với nó” [17; 54]. Cụ đến với Tây Nguyên như

một cái duyên. Sau hiệp định Giơnèvơ năm 1954, cụ bắt đầu học lại tiếng Ê-đê để làm

phương tiện nghiên cứu văn hoá Tây Nguyên. Gắn bó với Tây Nguyên hơn ba mươi năm,

với hàng trăm lần đi về để nghiên cứu, tìm hiểu văn hóa - văn học, cụ giáo Thấu đã thực sự

trở thành nhà văn hóa học và nhà ngôn ngữ học, có thể cho ra mắt độc giả khắp nơi những

bản kể khan mang điệu hồn muôn thuở của con người và núi rừng Tây Nguyên. Cũng có

thể thấy một nét đẹp con người trí giả nơi ông, đó là lòng biết ơn và thái độ khiêm tốn chân

thành trước những công trình của những người đi trước mà ông ít nhiều thừa hưởng: “Cụ

không quên ghi vào phần khan Đăm Săn tên người dịch tiếng Pháp L. Sabatier, 1933. Và

tên người người đã dịch tiếng Việt: Đào Tử Chí, 1959 – 1977. Còn cụ là người hiệu đính

dịch thuật, 1988. Ở phần khan Đăm Ktek Mlan cụ để tên người kể khan lên trước tên mình:

Y Yung Adrông, 1965. Cụ là người sưu tầm, chỉnh lí dịch thuật” [17; 63]. Cụ giáo Nguyễn

Hữu Thấu có thể yên tâm mà hưởng nhàn sau mấy mươi năm miệt mài lao động quên thời

gian, quên cái tuổi già chợt đến. Khép lại tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn, tác giả khẳng

định tài năng và những cống hiến của cụ giáo: “Những gì cụ Nguyễn Hữu Thấu gặt hái

được, hay nói đúng hơn, những gì mà cụ để lại cho chúng ta là những thành tựu mang giá

trị rất bền vững” [17; 64].

Còn với TS. Hồ Ngọc Đại, sau nhiều năm du học tại đại học Lômônôxốp, ông quyết

định quay trở về nước, không phải để tranh thủ giữ một chiếc ghế nào đó ở Bộ Giáo dục mà

để nhận nhiệm vụ dạy học thực nghiệm ở cấp tiểu học. Từ đây, ông Đại cùng các cộng sự

của mình bắt tay vào công việc cao quí, quan trọng nhưng không kém phần gian nan, đòi

hỏi nhiều công sức và sự kiên nhẫn. Hồ Ngọc Đại mang lấy một tinh thần lãng mạn trí tuệ,

đặt trọn tài năng và tâm huyết để đào tạo một thế hệ trẻ có sự phát triển phẩm chất một cách

toàn diện: “có cốt cách vững vàng, có hiểu biết chắc chắn, có tự trọng cao, biết yêu mình,

yêu người, có lòng tự hào dân tộc, biết hoà nhập tốt đẹp vào đời sống chung đang còn nhiều

gian khổ và biết lao động cống hiến, biết sống trung thực” [17; 296].

Trong miền cảm hứng riêng tư của nhà văn Đỗ Chu, những những trí thức, học giả ấy

chỉ là những đại diện tiêu biểu cho trí thức, học giả Việt Nam. Họ chính là những mẫu hình

lí tưởng cho trí thức, học giả mang lẽ sống đẹp, biết cho đi những tinh túy, những lao nhọc

của đời để làm cho cuộc đời thêm giàu đẹp.

1.3.2.3 Hình tượng con người Việt Nam theo dòng lịch sử

Hướng về quá khứ, Đỗ Chu hồi tưởng lại những hình bóng người xưa nay chỉ còn lưu

danh trong sử sách. Ông đi giữa lòng cuộc sống hôm nay mà nhớ về quá khứ, khơi lại hình

ảnh những danh nhân văn hoá, lịch sử để thể hiện tài năng và nhân cách sáng ngời của họ.

Nguyễn Du xuất hiện trên trang viết của Đỗ Chu như một nốt nhạc trầm, với một đời nếm

trải bao nỗi bể dâu. Nhưng có lẽ tất cả những điều ấy tích tụ lại và hóa thành nguồn cảm

hứng nghệ thuật giúp ông cảm hứng viết lên Truyện Kiều lưu truyền muôn thuở. Phải chăng

Nguyễn Du thuộc loại người như sách Mạnh Tử viết: “Khi ông trời muốn giao trọng trách

cho một ai thì trước hết sẽ làm khổ cái tâm, mệt cái chí, cùng túng cái thân người ấy, hễ làm

gì thì cũng nghịch với ý muốn, như vậy cốt là để động viên cái tâm, kiên nhẫn cái tính,

thêm ích cho những điều chưa hay làm được” ? [17; 235].

Đỗ Chu nhắc nhiều đến các bậc Nho sĩ tầm học uyên thâm và nhân cách ngời sáng,

khiến ai cũng phải kính nể. Cụ Vũ Phạm Hàm, thám hoa đất Hải Dương, là người thông

minh và đầy bản lĩnh. Cụ đã dạy cho tên viên quan thực dân Pháp một bài học thâm thúy về

tiếng Việt để điều chỉnh tính tự kiêu của ông ta. Hay cụ Nguyễn Văn Siêu, người gốc Hà

Nội, “chỉ đỗ phó bảng thời Minh Mệnh, là trên cử nhân dưới tiến sĩ, nhưng tài học thì ít ai

bằng, thiên hạ xem cụ là thần” [17; 270]. Cụ không chỉ là mệnh quan trong triều mà cụ còn

là một nhà văn hóa lớn, một người nghệ sĩ có lối thơ văn “giản dị cốt cách, vừa sâu sắc lại

vừa phóng túng, hiện đại” [17; 270]. Còn cụ Bùi Kỷ đậu phó bảng năm hai mươi bảy tuổi,

“danh thơm nức vùng, đèn lồng treo cao pháo kêu dậy đất” [18; 244]. Lẫy lừng là thế,

nhưng trong đời thường cụ là người giản dị, khiêm cung, nhân ái. Thêm một nét đáng kính

ở cụ là việc giáo dục con cái rất nghiêm khắc. Cụ đã thức tỉnh lòng khiêm nhường trong

anh con trai đang là Cục trưởng: “ …cục gì thì lần từ sau về nhà cũng nhớ phải đi bộ, tránh

đừng rầm rộ” [18; 243]. Riêng cụ Hoa Bằng ở đất Hà Thành là người nặng lòng với nước

nhà, thấu đáo kiếp sống đọa đày của người dân quê với những phong tục tối tăm đang trói

buộc họ. Xuất thân trong một gia đình khoa bảng buổi tao loạn, cụ không có cơ hộ ứng thí

để làm rạng danh sự học của mình. Và suốt đời cụ vẫn dành một tình yêu cho sử sách, cho

tiếng Việt, cho những danh lam thắng cảnh mang cái hồn Việt muôn thuở. Bóng cụ giờ đã

quá xa nhưng con cháu ngày nay vẫn luôn nhớ lời truyền dạy của cụ : “ … phải ngày ngày

cố gắng tu thân, phải nhớ sống ở đời cần biết giữ gìn phẩm hạnh. Phải biết sợ dư luận, phải

biết xấu hổ, biết nể trọng xung quanh. Làm người cái cốt yếu là sự nể trọng, thiên hạ người

ta luôn nhìn, luôn chỉ vào mình, ngại lắm” [18; 299].

Bên cạnh các nhân sĩ khả kính ấy, đọc tùy bút của Đỗ Chu còn thấy thấp thoáng một

Nguyễn Trãi có nhân cách cao đẹp nhưng lại có kết cục bi thảm bởi mưu sâu kế độc của

bọn loạn thần; một Phan Huy Chú không có lấy một mảnh bằng, song đã để lại cho đời

cuốn Lịch triều hiến chương loại chí đầy giá trị; một Hoàng Diệu tận trung với nước nên

chọn cho mình cái chết sau khi thành bị thất thủ; một Trần Bích San nuốt giấy bản mà chết

sau khi được vua Tự Đức cử để cắt ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp; một Phan Thanh

Giản bị dồn ép đến hành động bán nước phải tự tìm đến cái chết bằng thuốc độc….Mặc dù

bóng các cụ đã đi vào cõi xa mờ nhưng mãi mãi các cụ luôn là tấm gương ngời sáng, trở

thành động lực thúc đẩy cháu con hướng tới những lẽ sống tốt đẹp .

Đỗ Chu còn dành nhiều trang viết bồi hồi, xúc động về Bác. Trước vận nước ngàn cân

treo sợi tóc, ta thấy hình ảnh vị lãnh tụ dân tộc trầm ngâm, lo lắng để tìm ra những giải

pháp sớm đưa con thuyền đất ước vượt qua những thác ghềnh. Những ngày tháng đó, ta

hiểu vì sao Bác rất kiệm lời. Vậy mà năm 1946, một cán bộ cao cấp đã viết trong bài báo:

“Còn nhân nhượng là còn phản bội, còn tiếp tục lùi nữa là bán nước”. Bài báo đã làm dậy

lên trong Bác cơn xúc động dữ dội. Người đặt tay lên ngực, rơm rớm nước mắt: “Hồ Chí

Minh không bao giờ bán nước”. Đỗ Chu kể chuyện Bác nhưng cũng muốn khẳng định một

điều: yêu nước là một tình cảm cao đẹp, quí giá nhưng còn phải biết yêu nước nữa. Có được

như thế thì mới hiểu được tấm lòng và nỗi đau của Bác trước vận nước lâm nguy.

Trở về với thế giới hiện đại, Đỗ Chu còn nhớ đến những con người bình thường nhưng

có phẩm chất hết sức cao đẹp. Đó là ông lão ở vùng sông Tiền, sông Hậu mang tấm lòng

yêu nước, yêu quê hương tha thiết. Ông dùng những năm tháng cuối đời mình để phục vụ

cho kháng chiến, rồi bị địch bắt, bị tra khảo, cuối cùng bị giết chết. Cái chết của ông làm

đau lòng những người còn sống nhưng với ông, đó là quà tặng quí giá sau cùng mà ông

dành cho đất nước. Vì thế, trước khi chết, ở ông vẫn ánh lên niềm vui và sự thỏa nguyện.

Và một lần nữa, ta lại thấy hình ảnh người Việt Nam trong chiến tranh hi sinh với dáng dấp

bình dị, bi thương nhưng vẫn toát lên sự kiên cường, anh hùng và đầy kiêu hãnh trong tư

thế: “Ngực thấm ướt những máu, ông còn cố gắng nằm ấp mình xuống cỏ, mắt nhắm lại

như người đang ngủ, cỏ xanh và đất xanh như còn kể lại mãi, hát lên khe khẽ về cuộc đời

một lão nông dân yêu nước” [14; 126]. Đó là cái chết làm giàu cho sự sống, là nơi bắt đầu

của sự sống, một cái chết mang tinh thần sử thi hoành tráng và cả sự lãng mạn anh hùng

trong chiến đấu.

Đất nước đã được giải phóng, Đỗ Chu lại tiếp tục viết về những con người mới đi ra từ

cuộc chiến vừa qua. Đó là cô gái Thục Trinh kiên cường ở bưng biền nay trở thành một cán

bộ quản lí văn hóa, giữ chức vụ Phó Giám đốc Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

Đó là Hai Sang, một chiến sĩ đã từng vào sinh ra tử, nay trở thành Phó Giám đốc Công ty

Phát triển Công nghiệp Tân Thuận. Còn Hai Dưỡng là một Giám đốc có tầm nhìn xa trông

rộng. Hai con người ấy hợp lại thành một đôi ăn ý, bổ sung cho nhau trong công việc, cùng

hướng tới việc thực hiện mơ ước: “Sớm có một cảng biển qua sông qui mô lớn hơn nhiều

lần cảng Sài Gòn hiện nay” [17; 11]. Bằng sự quyết tâm và nỗ lực của những con người đầy

khát vọng, ước mơ đã trở thành hiện thực: “Và khu công nghiệp Tân Thuận vừa được quốc

tế ghi nhận là một trong những đơn vị có chất lượng kinh doanh đứng đầu Đông Nam Á”

[17; 16].

Ngồi nhìn lại những thành tựu đã đạt được, Đỗ Chu thấy những tấm gương lao động

tiêu biểu chính là nhân tố quan trọng làm cho đất nước phát ngày càng triển. Gần hai chục

năm từ sau giải phóng, những con người ấy loay hoay đổi mới phương thức làm ăn, không

ngại những thất bại hay thử thách. Hết hô hào nhau chặt rừng trồng sắn, chặt cà phê trồng

sắn lại cùng hưởng ứng phong trào nhổ sắn trồng cà phê, trồng rừng. Họ cứ cắm mặt mà

làm, mải miết mà đi. Chính sự kiên trì nhẫn nại, dám nghĩ dám làm của họ mà đất nước

ngày một hồi sinh, cuộc sống mỗi ngày thêm khởi sắc.

Tùy bút Đỗ Chu đã viết về những cuộc đời như “cây mận trổ hoa trắng ngát bên vách

đá dựng đứng trước biển. Ngày lại ngày cây mận cắm sâu rễ bám chặt lấy vách đá, nó hút

dần từng chút muối biển để sống” [17; 111]. Đó là cuộc đời của ông giáo Đỗ Đình Chất,

“suốt đời đi xe đạp cà tàng nhưng hết lòng vì quê hương, được nhân dân tin yêu”. Đó là kĩ

sư Ngô Ngọc Quản. Trải qua một thời gian dài bị đẩy đưa hết nơi này sang nơi khác trong

Bộ Giao thông, lăn lộn trên những công trường hết quãng đường này đến quãng đường

khác, ông vẫn cần mẫn, từ tốn, chẳng nề hà bất cứ một việc gì. Những người ấy được Đỗ

Chu ví như cây mận trắng trên vách núi bên biển cả, kiên gan, bền bĩ, bởi “vị mặn chát của

năm tháng đã thấm vào cây mận ấy khiến nó có những phẩm chất mà không một thứ cây

nào có nổi” [17; 111]

Đỗ Chu còn viết về những lương y danh đức ngời sáng. Cụ lang Bách là người có tâm

đức nghề nghiệp và nhân ái trong cách sống. Ông cụ là người của thế hệ Nho gia, luôn sống

theo tinh thần của tiền nhân truyền lại: “Cái gốc phải là có đức lớn, có đấy rồi mới dám bàn

đến cái tâm, đến trí, đến dũng, đến khiêm” [17; 208]. Cụ có cách nghĩ rất thâm thúy:

“Người đủ bản lĩnh để thiên hạ có thể tì vịn tin cậy thường là người phải có cái cốt kiêu, cái

dáng nhiều khi rất thanh giản, mộc mạc, kẻ học đòi thích đua cái dáng kiêu, bắt quá chỉ là

con dẻ cùi tốt mã mà thôi” [17; 208]. Tuy chưa phải là xuất chúng nhưng phong thái đĩnh

đạc và tâm đức ân tình của cụ đối với đời thì “không ai dám bảo đấy không phải là người

đáng kính ái” [17; 30]. Cũng như cụ lang Bách, cụ Thiên Tích làm việc tận tụy, không biết

mệt mỏi, nghỉ hưu rồi mà vẫn còn muốn tiếp tục cứu trị cho dân, đào tạo học trò. Cụ còn để

lại cho đời những bài học rất đáng quí: “Người thâm hậu đến độ siêu phàm là người quên

võ, chẳng còn nhớ miếng nào vào miếng nào, chẳng còn biết mình thuộc môn phái trường

phái nào, họ biết thu mình nín nhịn, ôn nhu nhúng nhường, ấy vậy mà chỉ cần một hơi thở

dài là hoa rụng lả tả, ho lên một tiếng là cá sông nổi lên, vỗ nhẹ tay một cái là nhạn sa

xuống đất. Thầy đang nghĩ nghề thuốc cũng vậy, nghề giáo cũng vậy, muôn nghề đều

thế,… một khi đã thành vô chiêu thì những gì hôm qua được xem là quan trọng sống còn

nay hóa thành trò trẻ” [18; 336].

Thấp thoáng trong những tranh tùy bút của Đỗ Chu là hình ảnh người phụ nữ Việt

Nam mang nét đẹp truyền thống: kiên trinh, trung hậu, đảm đang. Đó là người đàn bà ngoài

bảy mươi có chồng hi sinh ở chiến trường Điện Biên, còn con trai thì hi sinh trong Quảng

Trị. Đó là là những Mẹ Việt Nam Anh hùng mà hình tượng của họ góp phần xây dựng nên

bức chân dung về non nước đau thương song rất đỗi anh hùng, đưa đất nước thoát khỏi

vòng nô lệ của kẻ thù.

Tất cả những nội dung mà Đỗ Chu thể hiện qua ngàn trang tùy bút là một tập hợp

không nhỏ những vấn đề xã hội trước và sau 1975. Điều đó chứng tỏ năng lực nhận thức và

phản ánh sinh động thế giới hiện thực của Đỗ Chu vô cùng dồi dào. Nếu ai đó bảo ông tham

lam thì đó cũng chỉ là sự tham lam của một người mà tầm nhận thức và cảm hứng sáng tạo

đã đến độ chín muồi chuyển thành những trang văn giàu giá trị. Ngồn ngộn là thế, đa dạng,

phong phú là thế, nhưng vẫn không rơi vào phô bày một cách giản đơn, cứng nhắc. Bởi lẽ,

tất cả những nội dung của ba tập tùy bút đều đã được nghệ thuật hóa bằng thi pháp đặc

trưng của thể loại mà chúng tôi sẽ làm rõ ở chương ba.

Chương 2: CÁI TÔI ĐỖ CHU TRONG TÙY BÚT

Đặc điểm của tùy bút là sự xuất hiện cái tôi của nhà văn. Ẩn sau những vấn đề được

phản ánh, nhận thức bao giờ cũng có sự hiện diện của một cái tôi của người nghệ sĩ. Trong

tùy bút, cái tôi ấy hiện lên đa diện, hội tụ nhiều vẻ đẹp, nhiều giá trị. Đó có thể là cái tôi trữ

tình, cái tôi triết luận, cái tôi tài hoa, cái tôi uyên bác…Chúng tôi xin dành trọn một chương

để nghiên cứu vấn đề cái tôi trong tùy bút của Đỗ Chu. Có thể nói, tùy bút là thánh địa của

cái tôi. Cái tôi ấy không phải là cái tôi như nhân vật tôi trong truyện ngắn hay tiểu thuyết

mà hoàn toàn là cái tôi sáng tạo của người nghệ sĩ. Cái tôi ấy có khi bộc lộ những tình cảm,

quan niệm…một cách trực tiếp nhưng cũng có khi bộc lộ gián tiếp qua những vấn đề được

phản ánh. Ở đây đòi hỏi người nghệ sĩ phải có sức sáng tạo dồi dào thì mới có thể khắc họa

chân dung, tường thuật sự việc, khai triển tình huống, sử dụng câu chữ…một cách tài hoa

được. Hơn nữa, cái tôi trong tùy bút phải là một cái tôi không được ám ảnh với những cái

tôi của ai khác, không được khư giữ hay ngộ nhận người khác là mình, mà phải thực sự là

của chính mình với những nét độc đáo không trùng lặp. Nó là một cõi riêng, một thế giới

riêng. Cái tôi tùy bút đi về giữa những trang văn như một chủ thể đầy quyền năng. Qua

nghiên cứu, chúng tôi xác định được trong tùy bút của Đỗ Chu nổi bật lên ba cái tôi: cái tôi

trữ tình, cái tôi triết luận, cái tôi tài hoa - uyên bác.

2.1 Cái tôi trữ tình

2.1.1 Cái tôi trữ tình công dân

Nhìn chung, nội dung cảm xúc của loại này là người nghệ sĩ bày tỏ tình cảm của mình

đối với xã hội và chế độ chính trị. Cái tôi trữ tình công dân thường cổ vũ, ca ngợi sự nghiệp

chung của nhân dân, lên án đả kích kẻ thù chung. Nhất là khi vận mệnh cả dân tộc lâm vào

cơn thử thách, nguy nan, khi mọi người quan tâm đến vấn đề sống còn của đất nước, cái tôi

trữ tình công dân hơn lúc nào hết được biểu hiện rõ nét và phổ biến trong tác phẩm văn học.

Cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu bàng bạc khắp ba tập tùy bút nhưng đậm nét nhất

là ở tập Những chân trời của các anh. Tiếng nói nghệ thuật của ông chính là tiếng nói của

lòng yêu nước thiết tha, nồng nàn. Vì thế những sự kiện thời chiến mà ông từng tham gia

hay có dịp chứng kiến bao giờ cũng chan chứa một xúc cảm dào dạt, chân thành, không hề

phô trương hay cố gồng lên. Cái tôi công dân trong ông ít biểu hiện một cách trực tiếp mà

chủ yếu biểu hiện gián tiếp thông qua hình tượng được nghệ thuật. Cần thấy rằng văn học

nước ta khi phản ánh về thời kháng chiến chống đế quốc xâm lược Mỹ, cái tôi trữ tình công

dân trở thành một một nội dung tình cảm chủ đạo, cao đẹp, tích cực phù hợp với tiếng nói

của dân tộc và thời đại. Và hiện thực mà nhà văn Đỗ Chu phản ánh ở đây chính là hiện thực

chiến đấu và kiến thiết đất nước.

Đầu tiên, cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu biểu hiện ở tình cảm vui tươi, sảng

khoái, phấn khởi trước vẻ đẹp của bức tranh thiên nhiên và những thành tựu trong công

cuộc chiến đấu và xây dựng. Người đọc dễ dàng nhận thấy, khởi đầu cho bức tranh cuộc

sống thường là một vài nét chấm phá về thiên nhiên, một thứ thiên nhiên vào độ xuân tràn

đầy màu sắc và sức sống. Hãy lắng nghe những giai điệu mùa xuân trong đoạn văn đậm

chất thơ sau đây: “Chim ri đã từng đàn từ đâu tìm về bay nhảy trong mấy lùm nhãn ở trước

nhà. Và chúng hót, chúng ồn ã chuyện trò. Tôi ngồi bên cửa sổ hàng giờ lắng nghe tiếng

chim ngoài vườn hót và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ một cách quá

công khai, nhưng ngoài chúng ra chẳng ai hiểu nổi” [14; 5]. Không những thế, niềm vui của

tác giả còn gửi vào những cái nhìn, những nụ cười: “Những cái nhìn lúng liếng, những nụ

cười, những câu hát lúng liếng và cuộc sống lúng liếng giờ đây cùng với những cơn gió

xanh rờn ùa tới với tôi, đạp vỗ trong tôi là những cảm xúc, là những ấn tượng còn tươi

nguyên sau một chuyến về thăm lại quê nhà” [14; 6]. Đỗ Chu say sưa nhìn ngắm chồi lộc

xanh non: “Tôi ngắm nhìn không biết chán những chồi non nhú trên các cành cây ngoài

đường, cả thành phố sớm nay là một vườn lộc” [14; 50]. Thiên nhiên trong văn của Đỗ Chu

không phải là loại thiên nhiên thuần túy để thưởng lãm hay để mộng mơ theo kiểu vu vơ mà

nó chính là phương tiện, là điểm tựa, là phông nền để chủ thể trữ tình bộc bạch xúc cảm đối

với đất nước. Có khi tác giả như reo lên một cách hồn nhiên, trong trẻo: “Chính là mùa

xuân đến rồi” [14; 50]. Những cảnh sắc thiên nhiên ùa vào trong hồn khiến tác giả phải

ngây ngất, mê say. Ông nhìn ngắm những thay đổi quan trọng, vượt bậc, lớn lao của kinh tế

sản xuất: một xí nghiệp cơ khí với gần ba trăm người thợ trẻ, đã bằng vai, bằng bắp tay và

bằng mọi phương tiện vận chuyển khác, di chuyển xong cả một nhà máy từ nơi sơ tán về lại

Đáp Cầu; một vùng đất khô cằn sau mấy năm được cải tạo đã trở thành nơi có mấy chục cái

hồ nước phục vụ cho sản xuất; hàng triệu viên ngói đỏ đã được ra khỏi lò nhờ rất nhiều bàn

tay của các cô gái trẻ trẻ không ngại bùn đất lấm lem; những chiếc cầu mới được xây cất

bắc qua sông …Tuy không hoàn toàn là cảm hứng hồi sinh nhưng không gian nghệ thuật

trong tác phẩm lại khiến lòng người phấn khởi trước đà phát triển vượt trội của một vùng

đất đầy những khó khăn. Tâm hồn nhà văn như có đôi cánh thiên thần bay qua những cánh

bãi phù sa, những dòng sông êm đềm lửng lờ trôi. Nhà văn mở rộng đến cực độ tầm mắt để

thưởng ngắm những gì nhân dân đang dựng xây trong gian lao, khổ nhọc…Trong tùy bút

Vầng sáng trong đêm, người đọc thấy vầng sáng rạng ngời chiếu tỏa từ công trình nhà máy

nhiệt điện Phả Lại. Thiết tưởng ánh sáng ấy được thắp lên bởi hai nguồn năng lượng, thứ

nhất là năng lượng tự nhiên, thứ hai là năng lượng xúc cảm đang tồn trữ trong tâm hồn của

tác giả. Ánh sánh từ công trường lại thắp lên trong nhà văn niềm hi vọng về một cuộc sống

tốt đẹp hơn, tươi sáng hơn: “Không bao lâu nữa phố phường, làng mạc gần xa quanh đây sẽ

bừng lên, quê hương chúng ta bừng lên, bóng tối đang bị dồn đuổi, đói nghèo dốt nát bị dồn

đuổi” [14; 86]. Đỗ Chu cứ say sưa ca ngợi tưởng chừng như không thể nào vơi cạn nguồn

cảm hứng. Dòng cảm xúc trong cái tôi Đỗ Chu không ồ ạt, mạnh mẽ khiến ta phải choáng

ngợp, bối rối…Ông cứ thì thầm kể chuyện, thì thầm ca hát khúc nhạc dựng xây, thì thầm

vui sướng. Thì thầm, không phải là yếu ớt, ít cảm xúc hay đơn điệu mà là một trạng thái

cảm xúc đã đạt đến độ sâu sắc của một con người từng trải, từng kinh qua những thăng trầm

của cuộc sống…Những sự thay đổi ấy ai cũng nhìn thấy nhưng lại mấy ai có được niềm vui

đẹp đẽ như thế, dạt dào như thế. Hơn nữa, ông không vui cho mình mà vui cho đất nước,

vui cho dân tộc. Cái tôi của Đỗ Chu thật sự đã hòa làm một với cái ta chung của dân tộc.

Nếu không thực sự hòa quyện, hòa nhập chắc chắn nhà văn không có những cảm xúc tự

nhiên, hồn nhiên đến thế.

Không những thế, cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu còn được biểu hiện khi ông ghi

lại những chiến công mà bộ đội ta lập được. Trong tùy bút Từ một trang nhật kí chiến đấu,

Đỗ Chu trở thành người thư kí của trận mạc: “Năm qua, đại đội 5 pháo cao xạ đã hành quân

hơn hai ngàn kí-lô-mét và đã đánh gần 100 trận. Trong chiến công chung miền Bắc bắn rơi

2000 máy bay, đại đội 5 góp vào đó 13 chiếc (…) Anh chiến sĩ trẻ đếm miết và đến chiếc

thứ 13 mà đại đội anh bắn rơi thì, con số máy bay giặc Mỹ bị quân và dân miền Bắc bắn

rơi đã vượt quá con số 1500 chiếc rồi; 13 chiếc đại đội anh bắn đều rơi vào con số lẻ. Vả lại

ai cũng biết, so với con số 2000 thì con số 13 rất nhỏ bé. Nhưng anh thấy anh cũng như

đồng đội rất có quyền tự hào, vì một lẽ giản đơn, nếu không bắt đầu từ những chiến công

nhỏ góp lại thì làm sao có được chiến công lớn. Mỗi con số đều chỉ một trận thắng, đều có

mang ý nghĩa lịch sử đẹp” [14; 52]. Dầu thế, những chiến công quân đội ta lập được phải

trả bằng bao gian khổ, nguy nan và rất nhiều những hi sinh mất mát. Nhà văn tỏ ra trân

trọng đối với những chiến công, dẫu có khi chỉ là chiến công nhỏ bé. Không những thế, ông

còn hết sức kiêu hãnh, tự hào: “Như một tỉ lệ thuận, cùng với lòng yêu nước và chí căm thù

giặc Mỹ của các chiến sĩ, con số máy bay Mỹ bị bắn rơi sẽ tăng đến một tốc độ khiến chúng

ta và loài người tiến bộ ngày càng thêm kiêu hãnh, và kẻ thù phải khiếp sợ” [14; 58].

Viết về những năm tháng mưa bom bão đạn, Đỗ Chu không phải chỉ có những xúc

cảm, phơi phới tươi hồng ấy. Lòng yêu nước đã khiến ông bao lần phải đau đớn trước cảnh

quê hương ta bị giặc tàn phá và những mất mát to lớn. Đỗ Chu nhiều lần ghi lại tội ác của

kẻ thù trên những trang viết thấm đẫm nỗi đau và lòng căm thù, thấm đẫm máu và nước

mắt của dân tộc: “Quả bom Mỹ lần đầu ném xuống Hà Nội trong chiến tranh phá hoại đã

rơi vào phố Huế mùa Hạ 1967, còn những trái sau cùng là những chùm đã trút xuống khu

Khâm Thiên vào đêm thánh Chạp 1972. Những năm ấy gần như vòm trời trên đầu chúng ta

lúc nào cũng xanh đến nóng ruột (…) Hậu phương miền Bắc ngày đó đã nằm trong bom

lửa…” [17; 341]. Lời văn bỗng trở nên đanh thép khi nhà văn kể lại tội ác của lũ ngoại

xâm. Cả một Hà Nội ngày ấy quằn quại dưới gọng kìm của đế quốc Mỹ hiện lên trong

người đọc với bao nỗi đau thương. Chúng nhẫn tâm giết người nông dân trên đồng ruộng,

chúng phá đem bom thả xuống làm đổ sập những ngôi nhà làm chết bao người vô tội. Bom

Mỹ không hề biết tránh né nhà trẻ, trường học, và nhà tù của Mỹ bao giờ cũng có các cỡ

cùm dành cho trẻ con. Nhà văn lại vô cùng đau đớn khi kể lại những câu chuyện hi sinh của

quân đội ta, đồng bào ta. Đau thương nhất là câu chuyện về mùa hè 1972 ở Quảng Trị, mỗi

ngày là một đại đội có đến 200 người phải ra đi, kéo dài suốt tám mươi mốt ngày.

Nếu ai đã đọc tùy bút Những chân trời của các anh một cách kĩ lưỡng thì sẽ nhận ra

hình tượng xuyên suốt tác phẩm chính là những người lính. Và hình tượng này cũng bàng

bạc trong hai tập tùy bút còn lại. Đỗ Chu rất tỏ ra rất gần gũi với họ, bởi đơn giản ông cũng

là một người lính, một người từng là lính phòng không. Chân dung người lính đã được

chúng tôi khai thác khá kĩ ở chương một. Ở đây chỉ dành để nói về cảm hứng của nhà văn

khi chấp bút sáng tạo nên những hình tượng văn chương. Ta thấy rằng, hình tượng người

lính trong văn xuôi của ông nói chung và trong tùy bút nói riêng luôn hiện ra với những vẻ

đẹp lí tưởng. Đó là những con người một lòng yêu mến nước non, xứ sở, quyết tâm chiến

đấu tiêu diệt kẻ thù giải phóng dân tộc. Họ là những anh hùng của thế kỉ hai mươi, là Phù

Đổng của thời đại…Tình cảm của nhà văn dành cho các chiến sĩ hết sức tốt đẹp và chân

thành. Viết về họ, cái tôi trữ tình công dân của Đỗ Chu biểu hiện hết sức phong phú, đa

diện. Ông ca ngợi họ, tìm thấy nơi họ những vẻ đẹp cao cả, thiêng liêng. Hình bóng của họ

cứ ám ảnh nhà văn khôn nguôi: “Tôi nghĩ tới những đội quân hôm qua cầm tiểu liên chạy

lên các chiến trường, giờ đây lại trở về với những công trình mới mẻ, họ vẫn đang đi tới,

bằng mồ hôi, bằng trí tuệ, bằng những hi sinh không hề tính toán và sẽ để lại phía sau mình

những con đường táo bạo, những dòng thác được chinh phục, những cánh rừng được cứu

sống. Tôi nghĩ tới những người bạn chiến đấu của mười năm qua, giờ đây đang đứng gác

trên một hòn đảo nhỏ giữa trùng khơi” [14; 49]. Những khi viết về chiến công của bộ đội ta,

trong ông lại dậy lên niềm vui sướng lẫn tự hào, phấn khích. Điều này làm cho tác phẩm

mang khuynh hướng sử thi đậm nét, rất gần với những tác phẩm của Tố Hữu, Chế Lan Viên

, Lê Anh Xuân…Khi nói về những hi sinh, lời văn của Đỗ Chu bề ngoài là tự sự nhưng

chiều sâu trong câu chữ là nỗi đau xót, ngậm ngùi: “Người anh hùng ở lại mãi mãi với bầu

trời. Anh gửi lại trong thành phố người mẹ một lần tiễn chồng ra trận, một lần tiễn con trai

duy nhất ra trận, cả hai đều không trở về. Vợ anh còn rất trẻ, họ cũng vừa mới cưới nhau

được ít lâu, chị cũng là một sinh viên kinh tế vừa mới ra trường” [14; 8]. Suy nghĩ về những

hi sinh cao cả của người chiến sĩ, Đỗ Chu cảm thấy mình thật nhỏ bé, tầm thường và thành

thật tự thú những yếu đuối cá nhân: “Tôi trông lên dãy núi kia, cũng như tôi đã trông vào

những cồn cát ở ven biển, tự hỏi nếu những năm tháng ấy mình được đưa vào mặt trận này

thì liệu mình có nhấc nổi chân lên mà theo kịp đồng đội lấy vài ba tháng. Đừng có nói

khoác, không dễ dàng gì đâu” [17; 76]. Chính tình cảm ngưỡng vọng, yêu mến cùng bao

nỗi tiếc thương đã tạo nơi Đỗ Chu chủ nghĩa anh hùng cách mạng, giúp ông xây dựng

những tượng đài nghệ thuật kì vĩ, lớn lao…

Đỗ Chu còn có những trang viết đầy xúc động dành cho Bác Hồ kính yêu. Ông thấu

hiểu được nỗi trăn trở ưu tư của Người khi vận nước đang trong tình thế ngàn cân treo sợi

tóc. Ông nhìn thấy Bác trầm ngâm suy nghĩ để đưa con thuyền đất nước vượt qua những

thác ghềnh. Nhà văn nhận ra rằng trong nước mắt, khổ đau, “đời mình từ lâu rồi đã có và có

một cái gì thiêng liêng, một điểm tựa vô cùng vững chãi, khó có thể mất được” [14; 13].

Quả thế, trong tâm hồn Đỗ Chu, Bác là cả niềm tin và hi vọng cho cả dân tộc để từ đó mọi

người có thể “bình tâm sống, mạnh mẽ sống, kiêu hãnh sống”. Nhà văn cảm thấy sung

sướng khi được ướm tầm vóc bình thường của mình vào cái mức chuẩn cao quí của Bác.

Với Đỗ Chu, Bác không chỉ là một vị anh hùng dân tộc đáng quí, đáng ngưỡng vọng như

một quả núi cao càng nhìn càng khó thấy đỉnh. Cần phải thấy rằng, ca ngợi Hồ Chủ tịch

không phải là nguồn cảm hứng khan hiếm mà rất phổ biến không chỉ trong văn học mà còn

có trong các loại hình nghệ thuật khác. Ngay trong văn học cũng có rất nhiều cây bút thành

công với cảm hứng này như Tố Hữu, Chế Lan Viên, Trần Đăng Khoa….Tuy nhiên, cái tôi

trữ tình của Đỗ Chu vẫn có một sắc thái riêng, một sức hút riêng không hề mờ nhạt một

chút nào. Phải chăng tình cảm chân thành làm thành một cái đà vững chắc giúp ông luôn

lướt thắng và vượt qua những cái tưởng chừng như phổ biến và khó có thể tạo được dấu ấn

riêng ?

2.1.2 Cái tôi trữ tình đời thường

Trong cuộc sống đời thường, Đỗ Chu là người có nhiều mối quan hệ thân tình, thích

giao lưu và đón nhận những tình cảm đẹp. Chớ hiểu nhầm ông là người hướng ngoại

chuộng những gì chóng đến rồi lại chóng qua, hời hợt và nông cạn. Ông là bạn thâm niên

của rất nhiều người, mến thương nhiều người và cũng được nhiều người thương mến.

Những người đi qua cuộc đời ông đều đáng để thương mến, nhung nhớ bởi vì họ đều là

những người ưu tú, sống có lí tưởng và hoài bão.

Ở chương một, chúng tôi đã xác định, phân tích, khá rõ ràng trên phương diện nội

dung phản ánh. Trong đó, đối tượng phản ánh chủ yếu là những nghệ sĩ và trí thức bác học

và tản mạn một số nhân vật gần gũi với nhà văn. Có thể xếp những bài tùy bút về những đề

tài này vào loại tùy bút chân dung. Ở đây nhà văn không có chủ đích viết tiểu sử và sự

nghiệp của những tác giả có tác phẩm hay những công trình khoa học. Từ người thật, việc

thật, ông dựng lên các bức chân dung bằng những ấn tượng chủ quan và bằng nguồn cảm

hứng riêng tư giữa ông và đối tượng được phản ánh. Hình tượng chân dung được soi bóng

dưới dòng cảm xúc nhẹ nhàng, sâu lắng nhưng không kém phần sâu sắc và thắm thiết. Nhờ

thế cái tôi đời trữ tình đời thường được biểu hiện khá sống động qua những bức chân dung.

Ẩn dưới những trang văn đầy chất tự sự là tình cảm hết sức nồng hậu, chân thành. Những

nhân vật cùng trang lứa với ông như Thavi Quý, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu, Trần Hoài

Dương, Linh Chi…hay những người thuộc thế hệ đàn anh như Văn Cao, Huy Du, Kim Lân,

Nguyễn Tuân…đều hội tụ về đông đảo trên trang viết. Đỗ Chu dành cho họ một thứ tình

cảm thật dịu dàng, ấm áp. Dày đặc trong trang văn của ông là những kỉ niệm khó quên giữa

nhà văn và bạn hữu. Với Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu có nhiều kỉ niệm đẹp nhưng có lẽ xúc

động nhất là kỉ niệm ở bờ suối nào đó tại đại ngàn Trường Sơn: “Một hôm chúng tôi rủ

nhau ra suối tắm, khi lên bờ thiếu quần đùi để thay, anh đã chạy về tìm một cái mang ra cho

tôi, Chu mặc tạm, anh nói ngọt ngào. Tôi đã mặc chiếc quần đùi của anh đến Bản Đông rồi

quay về Hà Nội” [18; 56]. Cũng chỉ có vậy thôi nhưng ta đã cảm nhận đầy đủ tình thân ái,

sự ân cần mà họ dành cho nhau. Một chút quan tâm chân thành nơi người khác, với Đỗ Chu

chính là quà tặng quí giá của cuộc sống, có khi làm ông thương nhớ cả một đời…Rồi khi

Phạm Tiến Duật kết hôn, vì không thể có mặt để dự lễ thành hôn, Đỗ Chu đã ra Phú Thọ

trước ngày thành hôn để chúc mừng hạnh phúc cho bạn mình. Sự ân cần, chu đáo trong

cách khu xử trở thành một nét đẹp trong tình bạn, là chất keo kết dính lòng người đến suốt

cuộc đời. Đỗ chu không khỏi bàng hoàng, đau xót khi nghe tin Phạm Tiến Duật mắc chứng

bệnh hiểm nghèo: “Cuộc đời anh Duật lại có thể dừng lại một cách vô lí đến thế này sao,

không phải chỉ mình tôi nghĩ thế, rất nhiều người đang nghĩ thế. Những ông thầy thuốc Tây

y, Đông y đang xem đây như một thách thức lớn với họ” [18; 65]. Đó đâu chỉ là thách thức

của y học mà đó còn là thách thức của một mối thân tình sắp phải có một cuộc chia lìa vĩnh

viễn.

Nhà văn chăm chỉ thăm viếng những người mà ông yêu mến, vì ông thích được gần

họ, muốn được nghe họ tâm sự về văn chương, về nghệ thuật, về thú tiêu dao, về nhân tình

thế thái…Cảm động nhất là những lần Đỗ Chu thăm viếng bạn hữu lâm bệnh thập tử nhất

sinh: “Lần này anh ốm nặng, tôi vội vào viện thăm, cầm tay rất lâu, tay tôi đã lạnh, tay anh

còn lạnh hơn. Lúc sắp ra về tôi ghé tai hỏi anh, anh có dặn gì bọn em không, anh Chính

Hữu nháy nháy má mấy cái liền rồi bảo, cố gắng bảo nhau viết cho sang, sống cho sang,

thiếu yêu thương thì không thể sang được” [18; 126]. Hãy cùng nghe lời thương cảm của

tác giả dành cho linh hồn Chính Hữu: “Bây giờ thì anh đã đi rồi, ra đi ôm một khối u trong

lòng mà mấy ai đã biết, ra đi trong nỗi đau chỉ mình anh chịu, không một lời than thở,

không một tiếng rên, cứ nuốt vào lòng, cứ bình thản mà đi” [18; 130]. Lời văn đọc lên cứ

rưng rưng, nghẹn ngào, vừa cảm thông vừa thương xót cho người nghệ sĩ tài hoa nhưng

luôn hứng chịu nhiều nỗi đau trong cuộc đời. Một lần khác Đỗ Chu thăm Kim Lân, cũng là

lần sau cùng nhà văn được gặp gỡ nhà văn, tác giả của những truyện ngắn đặc sắc: “Một

sớm nghe người con trai thứ của ông nói thầy em vừa ra viện, đang ngồi một mình ở nhà,

tôi vội tạt vào một lúc, khi chia tay tôi rút trong túi ra tờ một trăm gài vào túi áo ngực ông,

chợt thấy cái ngực lép nhô ra nhọn như ngực con cuốc héo. Ông nhón hai tay cặp lấy tờ

giấy bạc nhìn ngắm rồi nhè nhẹ cười, nom cứ thấy dài dại thế nào, tiền giấy mà lại không

phải tiền giấy nhỉ. Đến lúc thấy tiền mà dửng dưng là cũng sắp kính chào tất cả rồi đây.

Năm nay lập thu sớm, tiết trời nghe chừng cũng lạ” [18; 73]. Có thể nói tình cảm thương

mến Đỗ Chu dành cho thân hữu là đến cùng, không vơi cạn, sống thì thương yêu, gắn bó,

thác rồi thì ngậm ngùi thương nhớ…

Tình cảm Đỗ Chu dành cho nghệ sĩ, trí thức bác học vô cùng phong phú. Ông có sự

ngưỡng mộ đặc biệt đối với sở trường thiên tư của họ. Đỗ Chu nghiêng mình trước tài văn

chương của Nguyễn Tuân, Nguyễn Minh Châu, Kim Lân, Phạm Tiến Duật…; cũng như bái

phục khả năng ngoại ngữ thiên bẩm của Thavi Quý; năng lực tư duy triết học sắc sảo của

Trần Đức Thảo; tâm huyết giáo dục của tiến sĩ Hồ Ngọc Đại; kính phục tầm hiểu biết sâu

rộng văn hoá Tây Nguyên của cụ giáo Thấu, cụ Điểu Câu…Nhà văn đánh giá rất cao trí tuệ

và tài hoa của những người đã cống hiến cho đời những tác phẩm có giá trị cao và những

thành tựu vượt trội. Khiêm nhường trước tài năng, đó cũng là thái độ đáng quí, đáng trọng

biểu hiện một nhân cách trong sáng, trưởng thành. Đứng bên cạnh họ, Đỗ Chu cảm thấy

mình bé nhỏ, muốn được noi gương học hỏi.

Viết về họ, nhà văn còn bày tỏ niềm cảm thông và tri âm sâu sắc. Ông thấu hiểu nỗi

khao khát của Trần Hoài Dương lúc rời bỏ tòa soạn để lên đường đi tìm nguồn cảm hứng

cho nghệ thuật, thông cảm cho hoàn cảnh xa cách gia đình của Nguyễn Minh Châu, thấy

được nỗi lòng xa xứ của Thavi Quý…Lúc nào cũng thế, trang viết của Đỗ Chu luôn là tiếng

lòng thấu cảm, tri âm và thông suốt, biết trân trọng những tình cảm chân thành.

Tóm lại, cái tôi trữ tình đời thường của Đỗ Chu chủ yếu hướng tới những mối quan hệ

thân tình mà vô cùng rộng rãi. Ai cũng được ông dành cho những dòng tâm tình đẹp đẽ,

đáng quí. Mới thấy rằng, giữa cuộc sống xô bồ này vẫn còn có những người biết sống hiền

hòa, thân ái, sâu sắc, biết mến yêu những giá trị đích thực, biết gìn giữ, nâng niu những tình

cảm chân thành. Chưa một lần ta thấy nhà văn tỏ ra cay cú hay bất mãn với ai đó. Nếu có

chăng thì cũng chỉ là một cái tôi trữ tình đời thường vô cùng đa cảm, dễ nhạy cảm với

những hiện tượng cuộc sống và luôn có những tình cảm chân thành, sâu sắc.

2.1.3 Cái tôi trữ tình hoài niệm về tuổi thơ và quê nhà yêu dấu

Cái tôi trữ tình hoài niệm của Đỗ Chu tản mác khắp các trang tùy bút, gửi gắm bao

tình cảm ấm áp, thiêng liêng về miền quê yêu dấu và tuổi thơ hồn nhiên nhiều mơ mộng.

Đỗ Chu đi giữa lòng cuộc sống hiện tại nhưng lại mê mải tìm về những tháng ngày cũ, giữ

nguyên vẹn những kỉ niệm êm đềm của thời niên thiếu. Phải thấy rằng nhà văn là người

may mắn vì ông có một tuổi thơ với nhiều kỉ niệm đẹp, có một thế giới hồn nhiên để tìm về,

mơ về mỗi khi thấy lòng trống trải, cô đơn…

Thế giới mà nhà văn tìm về, mơ về thật bình dị, quê kiểng mà hết sức gần gũi và thấm

đẫm tình người. Đó là mảnh vườn xưa hoang vắng có hương lá hương cây: “Đêm mùa xuân

dìu dịu hương cây, hương lá, dìu dịu những nỗi niềm, những ý tưởng, tôi tìm về tổ ấm, với

một mảnh vườn xưa thân ái của mình” [14; 87]. Đó là vùng đất trù phú, xinh đẹp tựa như

một bức tranh sơn thủy: “một vùng đất trù phú, mênh mang lau sậy mênh mang bờ bãi đang

khô ráo dần. Trước mặt là bể Đông, sau lưng là miền đất thoai thoải rồi chập chùng núi cao

rừng đại ngàn nguyên thủy sẫm đen chim kêu vượn hót. Từng đàn trâu gặm cỏ trong thung

lũng khe, hổ cọp ngồi bên mép nước, ngoài sông, trong đầm là thuồng luồng ma Nam, là

những con dải mép vàng” [18; 319]. Hình ảnh những con trâu gặm cỏ trên bờ bãi, hình ảnh

những đứa trẻ ngây ngô mặt mũi lúc nào cũng lấm lem bùn đất í ới gọi nhau tham gia

những trò chơi tuổi nhỏ…cứ cư ngụ mãi trong lòng ông như một nỗi ám ảnh da diết.

Thấp thoáng trong dòng hoài niệm về miền tuổi thơ của tác giả còn là hình ảnh của

những người thân yêu. Đó là người bà già nua, lẩm cẩm, suốt đêm rên rỉ, tỉ tê gọi đứa cháu

mà theo bà rất đỗi vô tâm: “Nằm trong buồng một đêm mấy lần bà tôi rên rỉ, Gái ơi thức

hay ngủ, nghe như đứa nào bẻ nhãn đấy. Gái ơi, sao con lợn hôm nay nó kêu khác thế. Gái

ơi, con gái mà ngủ say li bì như cái cối đá thì đứa nào nó thèm rước, dậy xem đã đóng cửa

chuồng gà chưa” [18; 280]. Đó là người chị tên Gái nhanh nhẹn, tưởng như vô tâm, trẻ con

nhưng lại có một tấm lòng yêu nước nồng nàn, nhanh nhẹn và hết sức gan dạ. Đó là người

em gái bên nhà hàng xóm ngày ngày cùng tác giả dắt trâu ra đồng. Thuở ấy, nhà văn có một

niềm mơ ước cháy bỏng là được thành đôi với cô bé: “Đấy là cái mơ ước một đời của tôi,

tôi chỉ có một mơ ước ấy, suốt đời được thế, được giữ một chân theo em ra đồng bốc phân

trâu bón vào những gốc bầu, gốc mướp, vậy mà cũng không xong. Loạn li bèo dạt mây trôi

làm mỗi đứa một ngả, xa nhau là xa nhau cả một đời, lấy vợ là lấy người lạ hoắc ngoài

thiên hạ, rồi cũng phải sinh con đẻ cái với người ta chứ biết còn xoay xở thế nào” [18; 301].

Cái mơ ước ấy đã biến tác giả thành một chàng trai trưởng thành mang hình hài thơ bé. Vậy

mà những thăng trầm của cuộc sống đã không để cho mơ ước ấy trở thành hiện thực để nhà

văn suốt đời khư giữ một tình yêu trong niềm hoài vọng, tiếc nuối…

Tùy bút của Đỗ Chu luôn bám lấy cái gốc chữ tình, trong đó đậm đà nhất là cái tình

quê mà phần ba của tập sách Về quê đốt lửa rất rõ cái tình ấy. Mỗi người đều có một cõi

quê sống trong kí ức, càng về cuối đời nó càng hiện về rõ hơn, da diết hơn. Hình như các cụ

ta triết lí về điều này qua thành ngữ “lá rụng về cội”, thật ngắn về chữ mà thật dài rộng và

sâu sắc về ý tình. Đỗ Chu nặng lòng với vùng đất Kinh Bắc, một miền quê giàu truyền

thống văn hóa, xứ sở của làn điệu dân ca quan họ làm mê đắm hồn người.

Trong hai tập tùy bút Tản mạn trước đèn và Thăm thẳm bóng người, cái tôi hoài niệm

về quá khứ được thể hiện rõ nét hơn. Nhất là khi nhà văn thân hành âm thầm tìm về với

cảnh xưa vườn cũ thì cái tôi ấy khiến người ta phải cùng ông ngậm ngùi, xót xa trước

những thay đổi quá lớn lao và nhanh chóng. Đỗ Chu lần tìm về những giá trị đích thực,

miên man đi tìm bóng người, bóng cảnh thăm thẳm…. Có người bảo đó là cái tôi xê dịch.

Nếu quả là như thế thì cũng không phải hoàn toàn là xê dịch để khám phá, tìm tòi những cái

mới lạ nhằm thỏa thị hiếu mà cốt là để tìm về với gốc gác, với bản lai diện mục. Cái sở

thích được lang thang đó đây cũng là một sắc thái của cái tôi hoài niệm: “Lớn lên tôi có một

thời thích lang thang trong nhiều xóm ngõ của làng Niềm để tìm dấu xưa, hay đứng ngẩn

ngơ trước một cái cổng lớn có đắp chữ Nho làm Đại tự, có mảnh sân đắp gạch Bát Tràng,

có ao sen, có hòn non bộ, có bóng hoàng lan, hỏi liệu đây có phải nhà bà Hồng, bà Tuyết

ngày xưa không, người ta lắc đầu bảo là nhà ông Phán Cư, con cháu giờ đang ở bên Pháp,

bên Mỹ không thấy ai buồn về dòm ngó nữa” [17; 357].

Nhà văn tìm về với bến sông Tương, cái bến sông nhiều lần đã đi vào thi ca: “Gánh

vàng đi đổ sông Ngô / Đêm nằm mơ tưởng đi mò sông Tương”. Giờ đây trong cảm hứng

hoài niệm, nó trở thành vẻ đẹp xưa để kiếm tìm trong khắc khoải: “Đêm đêm trước đèn

mình thức với mình, tôi vẫn mông lung đi tìm cái dòng Tương muôn thuở ấy. Tôi vẫn tin là

đang có nó, nó vẫn đang chảy trong lòng đời sống dân tộc. Nó là dòng sông của thi ca, là

tình yêu là nguồn cảm hứng vô tận để chúng ta sống và sáng tạo, là nguồn trí tuệ đáng tin

cậy nhất trong sứ mệnh dẫn đường” [17; 272]. Ai đó cho rằng không nên sống mãi với quá

khứ, cần phải rũ bỏ quá khứ để sống cho thanh thản và mạnh mẽ. Đỗ Chu chưa một lần trực

tiếp phát biểu quan niệm của mình nhưng qua những gì ông viết, ta cũng đủ thấy ông là

người rất nặng lòng với quá khứ, quá khứ làm cho tâm hồn ông thêm giàu có và phong phú.

Với ông, tìm về với quá khứ là tìm về với chính mình, tìm về với cái tình người, tình đời.

Quá khứ cũng chính là điểm tựa nâng bổng tâm hồn ông bay lên với những giá trị nhân văn

cao đẹp.

2.2 Cái tôi triết luận

2.2.1 Cảm quan về cuộc đời

Người ta thấy một Đỗ Chu hay triết lí và biết triết lí bằng sáng tác nghệ thuật. Đằng

sau mỗi văn nhân là một triết nhân. Không cao siêu, thần bí, dấu ấn triết luận trong tùy bút

của ông rất đỗi gần gũi với nhân sinh, thấp thoáng dáng hình và phập phồng hơi thở cuộc

sống. Có lẽ những tư tưởng triết lí ấy được chắt chiu từ chính những trải nghiệm dày dạn

của nhà văn sau bao tháng năm miệt mài sống và sáng tạo. Về hình thức biểu đạt, Đỗ Chu

không để những triết lí xuất hiện một cách độc lập thành một văn bản dài mà bao giờ cũng

gắn vào chúng một ngữ cảnh, một câu chuyện cụ thể, điểm xuyết vào dòng tự sự, mở ra

trước mắt người đọc chiều rộng của đời sống hiện thực và chiều sâu của những chiêm

nghiệm, suy tư.

Bản chất và mối quan hệ giữa thời gian và cuộc đời con người không phải là một vấn

đề mới mẻ trong triết học cổ kim của nhân loại. Viết về vấn đề này, Đỗ Chu phải vượt qua

tâm lí quen thuộc tồn tại trong tầm đón đợi của độc giả. Cách đây mấy thế kỉ, Hê-ra-clít đã

có một nhận thức tài tình về vấn đề này: “Không ai có thể tắm hai lần trên một dòng sông”.

Mỗi khoảnh khắc thời gian vùn vụt trôi qua và không bao giờ ngừng lại và lặp lại. Đứng

trước mùa xuân, Đỗ Chu đã thốt lên: “Thời tiết và không gian thì lặp lại như thế, nó quay

tròn, nhưng thời gian cũng như cuộc đời của con người thì không, nó cứ trôi đi mãi. Với ý

nghĩa thời gian, mỗi mùa xuân trong cuộc đời của con người là một sự mới mẻ hoàn toàn,

không thể có hai lần được gặp lại nó, thật là quí giá” [14; 9]. Triết học Mác – Lênin cho

rằng: “Vận động là phương thức cố hữu của vật chất, là phương thức tồn tại của vật chất”.

Mọi sự trong thế giới này luôn vận động và biến đổi không ngừng, đó là chân lí khách quan

mà con người không thể nào thay đổi. Thời gian là vô thủy vô chung, thước đo thời gian

cũng vô cùng vô tận, còn con người thì hữu hạn, ngắn ngủi và mong manh. Từ đó, Đỗ Chu

mới phát hiện ra tuổi xuân và mùa xuân trong cuộc đời con người thật hiếm hoi và quí giá.

Thời gian sẽ làm con người ngày càng già đi về thể lí nhưng cũng bồi đắp cho tâm hồn

thêm những trải nghiệm phong phú, “thêm nhựa sống để sinh hoa kết kết trái, thêm nghị lực

để vượt qua tinh thần thử thách”. Ẩn giấu trong triết lí mang tính biện chứng về thời gian và

cuộc đời là cái nhìn lạc quan của Thiền Sư Mãn Giác: “Chớ bảo xuân tàn hoa rụng hết /

Đêm qua sân trước một nhành mai”. Giữa buổi sớm cuối xuân, bất thần nở trên cành những

cánh hoa mai ngan ngát trắng, mảnh mai mà kiêu hãnh, lặng lẽ nhún nhường mà vẫn rạo

rực. Cảm thức về chân lí mối quan hệ giữa thời gian và đời người không những không làm

tác giả rơi vào bi quan, hoảng hốt… mà còn đưa nhà văn đến một sự chiêm nghiệm đích

thực: một sức sống mới đang bừng lên giữa những sự vật tưởng chừng như tàn tạ, già nua.

Lóe sáng trong tâm hồn Đỗ Chu một niềm vui triết học lạc quan tràn đầy.

Bày tỏ nhân sinh quan, Đỗ Chu còn bàn luận về qui luật tâm hồn con người. Ông cho

rằng, cuộc đời con người: “có cả vui lẫn buồn, mà chừng cái buồn muốn nhiều hơn cái vui

thì phải. Còn biết buồn vui chính là bởi còn yêu, còn gắn bó. Ví phỏng không yêu, không

gắn bó với đời thì còn vui buồn làm gì nữa, lúc ấy hẳn lòng người sẽ hóa băng giá, sẽ dửng

dưng hết tất thảy. Cho nên sự vui buồn hằng ngày chính là tình cảm, là nhựa sống, là cái đủ

sức nâng con người ta dậy, là cả một quấn bện, nghĩ ngợi, vân vi” [17; 148]. Quả là như

thế, cõi đời tựa như một bản hợp xướng đa thanh phức điệu. Theo nhà văn, nguyên nhân

khiến người ta sầu lụy chính là tình yêu và lòng khao khát mãnh liệt đối với những gì thuộc

về cuộc sống. Đây là một kiểu quan niệm nhập thế, có ý nghĩa tích cực thúc đẩy con người

gắn bó nhiều hơn với cuộc đời, dẫu nhiều khi ta phải đối diện những điều trái ngược với

mong muốn và sự chờ đợi của ta. Nó hoàn toàn khác biệt với quan niệm nhà Phật, một tôn

giáo khuyên con người rũ áo bụi trần tìm đến nương nhờ cửa thiền, từ bỏ dục vọng, xa lánh

những mối tình nhân thế…Chiều sâu tư tưởng ấy của Đỗ Chu không chỉ có ý nghĩa nhân

sinh mà còn mang sắc màu tư duy hiện đại. Rõ ràng, khi thể hiện cảm quan về cuộc đời, Đỗ

Chu một mặt có sự kế thừa sinh động, mặt khác có những quan niệm riêng phù hợp với tinh

thần nhân bản của cuộc sống hôm nay.

Hơn một lần ta được nghe Nguyễn Bỉnh Khiêm bày giãi quan niệm và lí tưởng sống

của ông trong bài Nhàn: “Ta dại, ta tìm nơi vắng vẻ / Người khôn, người đến chốn lao xao”.

“Dại” – “khôn” chính là cả một triết lí sống của Bạch Vân cư sĩ mang tâm hồn thanh khiết,

thông suốt mọi lẽ thiệt – hơn, được – mất, tốt – xấu …của đời người. Nhà văn Đỗ Chu tiếp

bước người xưa cũng nhận thức về vấn đề dại khôn, đúng sai: “Con người ta sống trong trời

đất là ngổn ngang những khôn dại, đúng sai, hết đứng dậy lại vấp ngã; lẫn lộn những kiêu

hãnh và tầm thường, đầu óc lúc quang lúc tối, khi nó mở ra thì khôn ngoan vượt cả Khổng

Minh, Hàn Tín, mà khi nó đóng lại thì mờ mịt yếu đuối như con vờ ngoài sông vào lúc

chiều tà. Sự hơn kém nhau có lẽ là chỉ ở chỗ người ấy có chịu nhớ hay không chịu nhớ

mình là ai, mình từ đâu đến và mình đi về đâu” [17; 112]. Cái nhìn triết học có tính biện

chứng, toàn diện của nhà văn mang đến cho người đọc bức chân dung sống động, chân thật

về con người. Những xu hướng trái chiều luôn tồn tại trong tâm hồn mỗi người, khiến con

người nhận thức và hành động có khi không thống nhất và đồng nhất. Nhưng theo nhà văn,

tất cả những điều đó không quan trọng. Cái quan trọng hàng đầu trong đời sống này chính

là cái đẹp: “Cái đúng sai quả là chưa mấy can hệ, cái khôn dại, được mất nào có gì đáng

bàn, bất quá chỉ là những cái để đám người đang tất tưởi ngoài đường kia quan tâm. Với

người cầm bút thì không chỉ có thế, tầm tư tưởng phải dám vượt qua những gì thuộc về tầng

hình nhi hạ để bước vào miền hình nhi thượng, ở đó làm gì có đúng sai khôn dại nữa, ở đó

chỉ còn có những gì thuộc về cái đẹp thuần khiết, nó nhẹ tênh như mờ tỏ xa xăm và bay

lượn” [17; 112]. Như thế, cuộc đời người nghệ sĩ là phải luôn qui hướng về cái đẹp, một cái

đẹp không bị lệ thuộc vật chất, danh lợi, một cái đẹp vượt lên trên tất cả mọi nhu cầu tầm

thường để cất cánh bay lên.

Song song với vấn đề trên, Đỗ Chu còn bàn luận đến ý nghĩa xã hội của đồng tiền:

“Đồng tiền ở chỗ này là đầu tiên nhưng đến một chỗ kia lại khó có thể là đầu tiên được nữa,

thế mới là hợp lẽ. Đợi đến lúc nó sẽ là đầu tiên ở mọi việc, mọi chỗ, ấy sẽ là lúc hỏng bét,

hỏng không cứu vãn nổi, là vì con người đã bị đồng tiền làm hư hỏng hết rồi. Đồng tiền mà

làm ở vị trí đầy tớ thì nó sẽ là một đầy tớ tốt, nhưng để nó làm ông chủ còn mình chuyển

xuống làm đầy tớ cho nó thì nó sẽ là một ông chủ tồi” [17; 145]. Đỗ Chu nhìn ra được hai

mặt khác nhau xung quanh vấn đề thái độ của con người trong mối tương quan với đồng

tiền. Đó cũng là một trong những biểu hiện quan trọng của nhân cách sống. Hạnh phúc ở

đời này không phải làm sao kiếm cho thật nhiều tiền, tích góp cho thật nhiều của cải mà là

phải tích trữ kho báu yêu thương người thân và đồng loại. Mỗi ngày ta sống là một ngày

nếm trải, có khi phải cố gắng sống, phải bỏ qua nhiều chuyện để mà sống. Có lẽ hạnh phúc

ở đời này không gì khác chính là tình yêu cuộc sống, một tình yêu cao cả và vị tha. Có thể

nói bài học cuộc đời quan trọng nhất chính là bài học yêu thương. Nhà văn kể câu chuyện

một người sau khi chết đi đã đến gặp Phật Tổ. Nhà Phật yêu cầu anh ta phải bỏ lại con chó

anh đang bồng trên tay thì mới nhập tịch nhưng anh ta nhất định không đồng ý. Với anh,

con vật kia không phải là con vật bình thường mà đó là một người bạn thân thiết mà anh

không thể nào phản bội được. Câu chuyện kết thúc khá bất ngờ và để lại nhiều dư vị về bài

học làm người. Anh cùng với chú chó nhỏ được vào Niết bàn. Muợn câu chuyện giàu sắc

màu huyền thoại, Đỗ Chu muốn khẳng định rằng cái mà con người phải mang theo trên

đường đời xa lắc chính là tình thương và lòng chung thủy, ngoài ra mọi thứ đều trở nên

không cần thiết. Do đó, cần biết sống yêu thương và loại trừ điều ác ra khỏi thế gian. Bởi

vì, “chừng nào thế gian này còn lắm âm mưu lừa gạt, lắm tham vọng cay nghiệt, lắm đói

nghèo tăm tối, lắm xô đẩy đâm chém thì tiếng nói nhân đạo, những hành vi, tư tưởng nhân

đạo cũng là cái có bao nhiêu cũng là còn thiếu trong cuộc sống con người. Nó chẳng khác

nào nước lã đối với muôn loài vậy” [17; 314].

Đỗ Chu còn phát hiện ra một nguyên lí khác. Đó là được tôi rèn trong môi trường

khắc nghiệt, con người sẽ trở nên vững vàng trước những khó khăn của đời sống, không

biết khuất phục hay đầu hàng trước hoàn cảnh. Nhà văn đã diễn đạt nguyên lí này qua hình

ảnh cây mận trắng bên vách núi: “Đời người giống như cây mận nở hoa trắng ngát bên vách

đá đứng dựng trước biển. Ngày lại ngày cây mận bám sâu rễ cắm chặt lấy vách đá, nó hút

dần từng chút muối biển để sống. Có người thợ khéo chặt lấy một nhánh rễ mận mang về

đẽo gọt thành chiếc tẩu thuốc, rồi chiếc tẩu ấy một lần rơi vào tay ta. Đêm đông thức dậy

nhồi một mồi thuốc vào tẩu, xòe một que dim, lắng nghe làn khói thơm ngào ngạt trong

bóng tối, ngắm nhìn ngọn lửa lập lòe sưởi ấm nơi bàn tay và chợt hỏi nó là thứ gỗ gì vậy, vì

sao nó không sợ lửa. Chính là muối mặn đã nuôi thứ gỗ ấy. Vị mặn chát của năm tháng đã

thấm vào cây mận ấy khiến nó có những phẩm chất mà không một thứ cây nào có nổi” [17;

124-125]. Tính cách con người do bởi hoàn cảnh cá nhân tạo nên, “không ai sống hộ ai

được và cũng không ai dám nói trước, các cụ đã dặn có thân thì phải lo lấy thân, mỗi người

đang có một chương trình”. Tuy nhiên, sống trong môi trường xã hội, nhân cách con người

chịu sự chi phối, chịu sự tác động rất mạnh mẽ từ người khác, thậm chí từ các thế hệ tiền

nhân: “Những cuộc đời như rượu tăm để lâu, dành cho con cháu đến sau. Đó thực là vô giá

với những ai biết cảm nhận giá trị của nó” [17; 122].

Nhìn chung, nhân sinh quan của Đỗ Chu được thể hiện trên các trang tùy bút chưa tập

trung thành hệ thống luận nhưng tất cả cái nhìn của ông về cuộc đời chắc chắn có ý nghĩa

nhất định để ta nhìn đời thêm sâu sắc, phong phú và toàn diện.

2.2.2 Những quan niệm về văn chương

Đây không phải là địa hạt của người sáng tác mà là của các nhà lí luận, phê bình văn

học. Tuy nhiên, trong lịch sử văn học nhân loại nói chung, lịch sử văn học Việt nam nói

riêng đã có nhiều nhận định mang tính lí luận của những người sáng tác đóng góp hữu ích

cho chuyên ngành Lí luận văn học. Chắt lọc từ ngàn trang tùy bút của Đỗ Chu, chúng tôi

tập hợp được một số vấn đề thật sự có giá trị hữu ích cho việc sáng tác và nghiên cứu văn

học. Trong đó nổi bật lên hai luận điểm chủ đạo, đó là quan niệm về tác phẩm văn chương

và phẩm cách của người nhà văn.

Xưa nay có rất nhiều luận thuyết bàn về bản chất của tác phẩm văn học. Ở đây, ta có

dịp nghiên cứu quan niệm về văn chương của tác giả văn học. Có lẽ những vấn đề lí luận

mà Đỗ Chu đưa ra được chưng cất từ chính cuộc đời mấy mươi năm làm nghệ thuật. Vì thế

chúng không phải là mớ lí thuyết suông mà chính là tâm huyết và lập trường của người

nghệ sĩ. Trong lĩnh vực văn học có vô số những kiến giải về đặc trưng của tác phẩm văn

chương. Nhà văn Đỗ Chu chỉ nói lên quan niệm của mình bằng ấn tượng chủ quan: “Văn

học là tiếng nói của cõi lòng tìm đến cõi lòng, cho nên một khi đã dối giả, đã hời hợt, đã láu

lỉnh uốn éo là rất khó nói chuyện” [17; 225]. Những điều viết ra nếu như không được khởi

đi từ trái tim thì không thể trở thành tác phẩm nghệ thuật. Hơn nữa, tình cảm thẩm mĩ trong

văn chương phải là loại tình cảm chân thành và sâu sắc, xuất phát từ trái tim đa cảm. Ông

cho rằng, linh hồn của tác phẩm chính là xúc cảm, không có xúc cảm dẫu có có gắng dụng

công cũng thành vô ích, vô nghĩa: “Cứ việc hão huyền, cứ đại ngôn, tha hồ tinh tướng, tha

hồ mê mụ, tha hồ yếm trá, tất cả đều được thêu dệt ẩn giấu sau tấm lụa ngôn từ bóng bẩy

nhưng hết sức xiêu vẹo yếu đuối, do vậy một cái chết đang chờ đợi sẵn cho các tác phẩm vô

hồn là không sao tránh khỏi” [18; 103]. Như vậy, những văn bản không hội tụ những đặc

trưng của nghệ thuật chân chính sớm hay muộn cũng bị đào thải và có một kết cục không ra

gì. Còn đối với những tác phẩm chạm được vào cõi lòng con người, dẫu có trải qua bao

thăng trầm, nó vẫn bền vững, bất diệt, bất hoại, “đem đốt không cháy, dìm xuống nước

không rã”. Đấy mới gọi là văn chương đích thực.

Vấn đề chính yếu thứ hai tác giả bàn luận, kiến giải là phẩm chất và năng lực sáng tạo

của người nghệ sĩ. Có thể thấy rằng, đây cũng là vấn đề Đỗ Chu tỏ ra rất hứng thú của Đỗ

Chu. Vì vậy nhiều lần ông trở đi trở lại để bàn luận nhiều khía cạnh của một vấn đề thực ra

không mới nhưng luôn luôn là vấn đề hàng đầu trong sáng tạo nghệ thuật. Một người giàu

tâm huyết và có những cống hiến nhất định cho nền văn học nước nhà như ông có lẽ hơn ai

hết hằng luôn ưu tư trước trang viết về phẩm chất và năng lực sáng tạo của người cầm bút.

Chính vì thế, những luận thuyết của Đỗ Chu rất sống động, giàu ngữ khí và sắc điệu tình

cảm. Ông như cật vấn chính mình với câu hỏi nhà văn là ai. Theo ông, “nhà văn là người

dùng tác phẩm đề giãi bày tâm sự, để nói ra bằng chữ những rung động, những suy tư trước

nhiều cảnh huống mà mình đả trải, đã cảm nhận” [17; 250]. Đơn giản thế thôi. Nhưng để

làm được điều đó, nhà văn phải miệt mài lao động, không ngừng phấn đấu, không ngừng

tìm tòi để tạo được cho mình phong cách riêng. Người nghệ sĩ “cần tìm cho mình một bút

pháp trước đây chưa ai từng có”. “Nếu không thì viết làm gì. Không gì tầm thường nhàm

chán hơn sự sao chép, sự bắt chước, cho dù việc đó làm khôn khéo đến đâu. Ông trời không

hề bắt người ta phải nhai lại, chỗ này đặt cho ta một nguyên tắc nghiêm ngặt và lâu dài

trong quá trình học hỏi những tác gia lớn” [17; 250]. Dường như Đỗ Chu muốn phê phán

một bộ phận người cầm bút đã coi thường vai trò sáng tạo của mình, chỉ có giỏi mô phỏng

hay kế thừa ý tưởng của người khác.

Để có những tác phẩm có sức lan tỏa, người nghệ sĩ phải không ngừng trau dồi, phải

có một cuộc lên đường đầy gian nan, vất vả, “phải đi nhiều, học nhiều, từng trải nhiều” [17;

254]. Đỗ Chu đòi hỏi bản thân và đồng nghiệp phải thực sự chuyên tâm và nghiêm túc

trong công việc sáng tạo: “Mỗi người viết càng phải tự đòi hỏi nghiêm khắc ở mình hơn

nữa, viết khó nhọc kĩ lưỡng hơn nữa, chứ không sống tùy thời, ăn theo, nói theo. Sống cho

một lúc, viết cho một lúc thì không thể có sức sống lâu bền. Mà văn học đồng nghĩa với

những gì được xem là lâu bền. Kị nhất là sự ăn xổi ở thì, quan tám cũng ừ, quan tư cũng

gật” [17; 59]. Và trước nhiều vấn đề nhạy cảm như hôm nay, người nghệ sĩ không được cho

phép mình a dua, ba phải, lập trường còn lờ mờ chưa rõ ràng. Đỗ Chu xác định rằng đã là

nghệ sĩ thì lúc nào cũng luôn giữ cái nhìn đầy tỉnh táo để nhận thức và phản ánh chân xác

những vấn đề xã hội: “Là người cầm bút mà thờ ơ được sao. Sự rờ rẫm ma mụ là biểu hiện

của những nhân cách uơng hèn, viết viếc gì, bất quá chỉ là mớ chữ gà bới của đám học trò

vô sư vô sách” [17; 259].

Tác phẩm văn học là bằng chứng cụ thể nhất cho tâm huyết và tài năng sáng tạo của

người nghệ sĩ. Đó còn là niềm hạnh phúc, là sự đền bù cho những tháng ngày lao động

nghệ thuật miệt mài, khó nhọc. Không cần kể đến hạng người tạo ra những cuốn sách đồi

trụy, phản động, người cầm bút nếu cả đời viết văn mà không có lấy nổi một tác phẩm hay,

chí ít một trang sách để làm cho người ta nhung nhớ thì thật là đáng để ta phải suy nghĩ:

“Không ai nghĩ rằng tất cả các nhà văn đều viết ra những tác phẩm tội lỗi đó, nhưng người

ta vẫn có quyền trách một khi anh chưa có nổi những cuốn sách đủ sức hấp dẫn, đủ sức thu

hút nhiều bạn đọc” [17; 260].

Có thể nói trong muôn vàn nghề nghiệp thì nghề văn là một trong những nghề không

cho phép người lao động đặt chữ lợi lên hàng đầu. Đến với văn chương mà chỉ có một mục

đích mưu cầu lợi danh là điều hết sức thấp hèn, kém cỏi. Đỗ Chu bày tỏ thái độ khá gay gắt

đối với những hiện tượng thực dụng hóa văn chương: “Tôi thường vẫn tự hỏi mình sao cổ

nhân dặn lập thân tối hạ thị văn chương? Ở đời có nhiều cách lập thân, có cách chưa được

sang lắm, tuy nhiên nếu dám đem cả văn chương ra để kiếm tìm cái danh cái lợi thì đấy mới

thực là tồi tệ. Lúc ấy, nguời cầm bút đã đặt mình xuống đẳng cấp thấp, còn văn chương anh

ta thì chẳng biết nói thế nào nữa” [18; 101]. Người nghệ sĩ phải đến với văn chương bằng

cả tâm hồn trong sáng, thoát li hẳn với những nhu cầu tầm thường thấp kém mới là nghệ sĩ

đích thực. Chứa trong đầu óc một mớ bòng bông những lo lắng vặt vãnh, những ý nghĩ đổi

chác, người ấy sẽ chẳng bao giờ bước lên đài hoa nghệ thuật chân chính được: “Tôi chưa

thấy ai ngồi vào bàn cầm bút mà mà lòng dạ cồn cào những ham muốn, những mưu toan

tầm thường mà rồi những tác phẩm anh ta viết ra lại được thiên hạ chào đón mặn mà” [18;

102]. Nhà văn gọi đấy là “một bí mật thiêng liêng trong văn học”.

Một nghệ sĩ suốt đời xem nghệ thuật là duyên nghiệp, là niềm đam mê không thể nào

dứt ra nổi, là bản năng, âm thầm lao sáng tạo không ngừng chắc chắn sẽ có được những tác

phẩm tạo được dấu ấn trong lòng độc giả. Không những thế, ngay cả khi tuổi đời của nhà

văn đã dừng lại, nhưng kì diệu thay anh ta vẫn còn sống mãi nơi lòng người đọc qua những

tác phẩm nghệ thuật, thành quả của tài năng và tâm huyết của một đời cầm bút. Những tác

phẩm ấy được xem như một thứ di sản tinh thần vô giá mà nhà văn gửi lại cho đời. Người

nghệ sĩ tựa như một cánh chim đang mất hút vào cõi hư không mà bóng dáng của nó vẫn

còn thấp thoáng trong hồn người. “Cái nó gửi lại chẳng phải là cái có thể cầm nắm được,

mà chính là hơi ấm tâm linh, là niềm an ủi dặn dò, là niềm kiêu hãnh cho bao người đã và

sẽ đến làm người” [17; 253]. Lịch sử văn chương nhân loại là một minh chứng sống động

cho qui luật tồn vong của những tác phẩm nghệ thuật trong lòng độc giả.

Nhìn chung, một số vấn đề mang tính lí luận về văn học của Đỗ Chu chưa có tính hệ

thống, tập trung như một chuyên luận khoa học. Nó chỉ xuất hiện, rải rác, giữ vai trò dẫn

dắt, khái quát, liên tưởng…nhằm làm nổi bật nội dung chủ đạo của bài tùy bút. Tuy nhiên,

những vấn đề ấy góp phần không nhỏ vào việc xây dựng hình tượng tác giả, để ta thấy thêm

rằng, ngoài một Đỗ Chu đa cảm, tài hoa và uyên bác, còn có một Đỗ Chu rất sâu sắc với

những biểu hiện trước cuộc sống và trước văn chương. Với vốn văn hóa của mình, Đỗ Chu

đã xác lập được những quan niệm, khái niệm văn chương mới bằng những luận lí sinh

động. Có được điều này rất khó, ngay cả những giáo sư đầu ngành suốt một đời cặm cụi có

khi chả tạo ra cho mình một thật ngữ riêng, khái niệm riêng. Chả thế mà một vị giáo sư văn

học có uy tín đã mượn mấy chữ cốt kiêu, dáng kiêu của Đỗ Chu để làm đầu đề cho một bài

báo khoa học in trên Văn nghệ số ra gần đây. Mấy mươi năm cầm bút với một số lượng tác

phẩm dày dặn, Đỗ Chu hoàn toàn có đủ tư cách lấy tâm huyết, kinh nghiệm của cá nhân mà

truyền đến cho mọi người, nhất là những những cây viết trẻ, niềm hi vọng của nền văn học

nước nhà.

2.2.3 Những suy tư, trăn trở về các vấn đề xã hội đương thời

Đỗ Chu không ít lần đưa người đọc đến với dải đất nối liền hai miền Nam – Bắc, một

dải đất thắt thỏm đôi bờ vốn đã rất khắc nghiệt về khí hậu và thổ nhưỡng lại còn hứng chịu

những cơn bão lũ khủng khiếp diễn ra hằng năm không báo trước. Ở tùy bút Hoa trước

thềm văn, chỉ vài dòng tự sự ngắn, nhà văn đã làm hiển hiện trước mắt người đọc bức tranh

điêu thương, đói khổ của khúc ruột miền Trung: “Suốt mùa hạ và mùa thu cả khu vực miền

Trung gặp bão lụt lớn. Một con bão lụt mang ý nghĩa thế kỷ với sức tàn phá hơn bất kì một

trận bom nào thời chiến. Đây cũng là một bài học đau xót cho sự tàn phá rừng đầu nguồn,

bài học đau đớn cho sự tàn phá môi trường sinh thái kéo dài liên miên” [17; 284]. Không

chỉ có miền Trung, vùng sông nước Tây Nam Bộ cũng là vùng lãnh thổ hằng năm phải

hứng chịu dòng nước lũ từ khắp nơi đổ về gây thiệt hại to lớn về người và của, đẩy những

người dân vào cảnh sống bi đát: “Suốt mấy tháng mùa hạ tôi đi ngang dọc trên vùng đất ấy,

thấy đâu đâu cũng là làm ăn, bỗng sang thu dồn dập tin lũ, vườn tược nhà cửa chìm ngập,

mức nước dâng cao trên cả những năm tháng đáng ghi nhớ” [17; 240]. Nhà văn cảm thương

cho những phận người một đời chí thú làm ăn, bán mặt cho đất bán lưng cho trời nay phải

sống trong cảnh màn trời chiếu đất, u ám ở hiện tại, mờ mịt trong tương lai. Ông còn nhận

ra khoảng cách giàu nghèo càng kéo dài thêm: “Đất nước vài chục năm lại đây năm nào

cũng là chỗ này ấm chỗ kia lạnh, người này no kẻ kia đói. Cái chăn đắp chung còn rất chật

hẹp, sự ổn định xem chừng chưa vững bền, lòng người hình như đang còn nhiều phấp

phỏng” [17; 240 ].

Thiên tai lũ lụt là hậu quả của việc con người tàn phá môi trường sinh thái. Do đó cần

có những hình thức để xử lí nghiêm minh với những kẻ tra tay làm hại đến cuộc sống an

bình của con người: “Đây là bài học đau xót cho sự tàn phá rừng đầu nguồn, bài học cho sự

tàn phá môi trường sinh thái kéo dài liên miên. Một đe dọa có ý nghĩa thường trực là cái

nghèo đói đang đe dọa rình rập trước cửa mỗi nhà, và do đó, cái mệnh lệnh dứt khoát sẽ có

kỷ luật nghiêm khắc đối với cán bộ chủ chốt ở các địa phương nếu dân chết đói, cũng là

một mệnh lệnh không phải chỉ có hiệu lực trong vòng một năm” [17; 284]. Tiếng nói của

Đỗ Chu cũng chính là tiếng nói chung của nhân dân và của các cơ quan chức năng. Một lần

nữa, trong chiều sâu suy tư của nhà văn lại chứa ẩn cả một tấm lòng thiết tha đối với dân

tộc.

Một vấn đề nữa liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân là tình hình kinh tế trong

thời kì đổi mới. Nhà văn đưa ra các số liệu cụ thể để chứng minh một điều là mặc dù kinh

tế nước ta đang ngày càng đi lên nhưng so với tình hình phát triển chung của toàn cầu, nước

ta có xu hướng tụt lùi: “Năm năn về trước, trong một cuộc điều tra của dân số thế giới, nền

kinh tế của chúng ta được xếp hàng thứ 47 trong 58 nước được xem đến. Năm vừa qua, con

tàu Việt Nam vẫn đang tiếp tục tiến lên với tốc độ tăng trưởng 7,04 % so với năm trước,

nhưng vẫn với cuộc điều tra qui mô toàn cầu, chúng ta lại tụt xuống sáu bậc, đứng hàng thứ

53 trong 58 nước. Những con số ấy đủ để chúng ta phải giật mình giữa bối cảnh chung,

trước sự quật khởi của thiên hạ trong cuộc làm ăn xây dựng và hòa nhập nói chung” [17; 7].

Rõ ràng, Đỗ Chu đã có một cái nhìn khá toàn diện về tình hình kinh tế. Ông không giấu nổi

sự lo lắng trước sức ép trong cuộc chạy đua kinh tế trong thời kì hội nhập. Tự tin và giữ

vững bản lĩnh sẽ giúp ta vượt qua những thách thức, bước lên vị trí cao trong khu vực và

trên thế giới: “Trước mắt chúng ta là những cơ hội cùng những thách thức, những xô đẩy

lớn, vượt qua nó chúng ta sẽ càng thêm hiểu mình, hiểu người, thêm sự nếm trải cần thiết

để trở nên sâu sắc và vững vàng” [17; 7].

Một lĩnh vực quan trọng và đầy nhạy cảm trong nền kinh tế nước ta chính là tiền tệ.

Mấy năm gần đây, Việt Nam và các nước khu vực đang đối diện với hiện trạng khủng

hoảng tiền tệ. Nhà văn gọi đó là “cơn bão tiền tệ”. Nó có một sức tàn phá kém so với thiên

tai bão lũ. Xoay quanh vấn đề này có nhiều ý kiến khác nhau: “Hiện nay đang có hai xu

hướng dự báo song song tồn tại: xu hướng thứ nhất cho rằng nó đã lui dần, bức tranh toàn

cảnh của nền kinh tế các nước Đông Nam Á cũng như cả thế giới là khả quan; xu hướng

thứ hai, vẫn nhìn nhận nó như một nguy cơ còn nguyên, với những biến thái phức tạp,

không mấy phấn khởi” [17; 284]. Bên ánh đèn mờ tỏ, người nghệ sĩ nặng tình với nhân dân

hằn sâu nỗi lo lắng, trăn trở về sự mất giá của Việt Nam đồng: “Lập tức trong đời sống xã

hội xuất hiện một câu hỏi tất nhiên, giá cả thị trường sẽ ra sao, liệu chừng đồng tiền của ta

có đủ sức đứng vững trong cơn bão dễ sợ này ? Một câu hỏi liên quan thiết thực tới sự sống

còn của mỗi gia đình và chỉnh thể” [17; 285]. Hơn nữa, theo Đỗ Chu, nền tài chính nước ta

còn rất non kém, tuy nhiên cũng đóng góp không nhỏ vào sự phát triển sự nghiệp chung.

Nó đang tự hoàn thiện mình để trở nên lành và mạnh hơn nữa. Nhà văn gọi đó là một cuộc

chiến đấu toàn diện và đầy cam go trong công cuộc quản lí một nền kinh tế từ đơn ngành

lên đa ngành, từ cơ chế bao cấp xin – cho đã lỗi thời bước vào nền kinh tế thị trường mới

mẻ với nhiều phức tạp nhưng lại cũng rất hấp dẫn. Ông bày tỏ niềm tin vào những phẩm

chất tốt đẹp và năng lực dồi dào của nhân dân: “Chúng ta tin vào những sáng tạo, tài năng

và bản lĩnh vốn đã trở thành truyền thống của một nền tài chính mang tính nhân dân, của

dân, do dân, và vì dân như lịch sử ghi nhận nửa thế kỉ qua” [17; 286].

Tuy nhiên, trong dòng người yêu nước đang từng ngày ra sức xây dựng, phát triển đất

nước, vẫn có một bộ phận quan chức lạm quyền trục lợi gây ra tệ nạn tham nhũng và những

hiện tượng nhiễu nhương khác. Những căn bệnh trầm kha của những kẻ rời xa lí tưởng cách

mạng biểu hiện thành muôn vàn những hành vi tiêu cực như tham nhũng, hoang phí, ngông

cuồng, cửa quyền, kiêu ngạo…Đỗ Chu cho đó là những hành vi bất chấp đạo lí, bất nhân,

bất nghĩa. Tai hại hơn nữa, chính bộ phận này làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân

vào Đảng và Nhà nước. Đỗ Chu gọi đó cũng là một thách thức hiểm nghèo, là nội dung rất

chủ yếu của những năm tháng này.

Ngoài ra, cái tôi ưu tư của nhà văn Đỗ Chu, dưới ngọn đèn khuya lại lo lắng, phiền

muộn về lối sống thực dụng, đồi trụy… trong bộ phận nhân dân. Cảnh tượng xấu diễn ra

ngay trước mắt mọi người: “Trên con đê sông Hồng nay đã thành đường phố, nhà tầng mọc

lên nhấp nhô, phần lớn là nhà nghỉ, cửa đóng im ỉm, nom rất bí hiểm. nhà nào cũng có treo

biển đề tên, cái là Hoa Hồng, Bông Sen, cái là Hoa Mơ, Hoa Sim, cái là Chiều Tím, Đêm

Sương…Những chữ mập mờ khơi gợi, nghe nửa bẩn nửa sạch, nửa tin cậy, nửa rất đáng

nghi ngờ, giống như những ông bà trẻ tuổi trưa từ các nhiệm sở gọi nhau đi ăn cơm bụi

xong là dắt nhau qua đó” [17; 152]. Những tệ nạn ấy ảnh hưởng nguy hại đến đời sống tinh

thần của nhân dân. Nó ẩn náu, thâm nhập vào từng thôn làng ngõ xóm. Cái làng Niềm trước

kia rất giàu bản sắc văn hóa, nay đã đầy rẫy những tệ nạn như mại dâm, hút chích ma túy.

Một cô bé mới mười lăm, mười sáu tuổi đã sống buông thả, trở thành gái không chồng có

con, nhẫn tâm đem bán những đứa con của mình mà không một lần cật vấn lương tâm để

biết tủi hổ, thương xót, thức tỉmh. Lại nữa, cô gái còn tuyên phán một câu dạy khôn nhằm

biểu hiện sự sành đời, trải đời : “Chú là nhà văn mà lẩn thẩn thế, theo kịp làm sao bước đi

của thời đại, bị cuộc sống bỏ lại tụt hậu là cái chắc” [17; 321]. Những giá trị truyền thống,

những thuần phong mĩ tục của người Việt ta nay bị một thành phần, nhất là giới trẻ làm

lung lay, phai mờ khiến người nghệ sĩ không khỏi băn khoăn trăn trở…

Giáo dục bao giờ cũng là nền tảng căn yếu của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc. Vì thế, từ

xưa đến nay, vấn đề giáo dục luôn đứng ở những vị trí đầu trong chương trình xây dựng và

phát triển đất nước. Cha ông ta luôn quan tâm, chăm lo cho đạo học ngày càng vững bền,

bởi vì “nhìn vào sự thịnh suy của Đạo học mà thấy ra sự thịnh suy của xã tắc”. Sự hưng

thịnh của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào tầng lớp trí thức hiền tài, rường cột của đất

nước mà còn phụ thuộc chủ yếu vào mặt bằng dân trí chung: “Chung qui trăm sự vẫn là vấn

đề dân trí, nó vừa là cái trần lại vừa là cái nền, một khi cái trần và cái nền đều còn thấp thì

hết thảy đặt nó trên đều thấp theo, không thể tính chuyện nhảy vọt chặn đầu đi tắt bỏ qua

giai đoạn, tính toán thế là tự lừa mình, giống như câu chuyện tếu lâm, có anh nhà quê nóng

ruột vì càng nhìn vào ruộng nhà mình càng thấy lúa lên chậm quá, anh ta bèn lội xuống

nắm thân lúa kéo lên, được mấy hôm ruộng lúa héo vì đứt hết rễ” [18; 309]. Chính vì vậy,

ngay từ những năm tháng mới dành được độc lập, tự do, thành lập nước Việt Nam Dân chủ

Cộng hòa, Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân bắt tay vào việc tiêu diệt “giặc đói và giặc dốt”.

Phong trào bình dân học vụ được phát động sâu rộng trong quần chúng đã đạt được những

kết quả khả quan. Đỗ Chu đã nhắc lại bài học đó như để khẳng định giáo dục luôn là quốc

sách hàng đầu.

Trở về với hiện tại, nhà văn chỉ ra những yếu kém của nền giáo dục nước ta. Đó là tư

tưởng trọng hình thức hơn là năng lực. Hễ có bằng cấp cao thì tức khắc sẽ được trọng dụng

mà không hề để tâm đến năng lực lao động. Chính vì thế mới có hiện tượng mua bán bằng

giả. Nó làm thui chột ý thức phấn đấu của con người, nhất là thế hệ trẻ. Nhà văn cho rằng

cần phải có những biện pháp ngăn chặn và xử lí nghiêm khắc đối với những kẻ tham gia

vào tệ nạn này. Có như thế thì “các cô các cậu con nhà quyền quý sẽ trở nên lễ phép

nghiêm ngắn, các anh các chị con nhà thứ dân sẽ biết thân biết phận mà dùi mài học hỏi tu

thân vượt lên làm những người xuất chúng có ích cho đời, để được đời kính trọng, chứ

không thể yên lòng vào cái lí lịch ba đời nghèo khó theo cách nhìn hết sức vớ vẩn…” [17;

291]. Lúc ấy, người ta sẽ lo thân mà cố gắng tự học, tự rèn luyện để trở thành người thực

học, thực tài phục vụ cho đất nước. Đỗ Chu mạnh dạn đề ra một đường hướng giáo dục:

“Cơ sở vững chãi nhất để ta có thể đặt niềm tin vào một hướng đi bởi thấy đó là một

phương pháp giáo dục mang tính hệ thống cao. Không vội vã, không khoa trương ầm ĩ, sẵn

lòng lắng nghe mọi sự nhắc nhở, dọc đường đi kiên quyết từ chối mọi hình thức tụng ca, đề

cao thực học, coi trọng những giá trị thật, khe khắt đòi hỏi ở chính mình, đấy chính là phẩm

chất quý báu trong Đạo học” [17; 297]. Và việc chọn mặt gửi vàng là điều tối cần thiết, như

Đỗ Chu phân tích: “Chọn lựa những cái gì để dạy là vô cùng khó. Người ta gọi đó là lập

chương trình, là công việc của các ông thầy lớn, không phải bạ ai cũng gọi về giao phó

được” [17; 300]. Đồng thời, đội ngũ giáo viên cũng phải có lương tâm nhà giáo, có đủ năng

lực và phẩm chất cao quý: “ …không chỉ cần có tinh thần trách nhiệm cao trước sự nghiệp

giáo dục nước nhà là đủ, mà còn cần phải có đầy đủ lòng dũng cảm, phải có đầy đủ ý chí và

nghị lực, phải có đức hi sinh lớn, phải có phẩm chất nhẫn của tri thức có tầm nhìn xa” [17;

295]. Có như thế thì nền giáo dục nước ta mới thoát khỏi sự bế tắc, lạc hậu, vững vàng

bước lên phía trước.

2.3 Cái tôi tài hoa, uyên bác

2.3.1 Tầm hiểu biết sâu rộng

Tùy bút là thể loại văn học thể hiện rõ nét tầm hiểu biết của nhà văn về các vấn đề xã

hội. Trong đó, tri thức của người viết trở thành nguồn chất liệu quan trọng để nhà văn có

được những trang tùy bút vừa có giá trị thẩm mĩ vừa có giá trị nhận thức, mang lại cho

người đọc những rung cảm dồi dào và mở ra những chân trời tri thức. Lượng thông tin chứa

đựng trong tùy bút có chính xác và phong phú hay không là tùy thuộc rất nhiều vào vốn

kiến thức mà người nghệ sĩ tích lũy được. Đọc tùy bút của Đỗ Chu, cái tôi uyên bác trong

ông thể hiện một cách gián tiếp thông qua những gì ông phản ánh. Đó là các đề tài về quê

hương, người lính, nghệ sĩ, trí thức bác học…Mỗi đề tài, ông đều có một cái nhìn tường

tận, sự am hiểu sâu sắc, thấu đáo. Có lẽ với các đề tài ấy, nhà văn vừa là người trong cuộc

vừa là người thu thập thông tin. Ta chưa bao giờ thấy Đỗ Chu cố viết những gì xa lạ hay

mơ hồ trong nhận thức và xúc cảm. Với các đề tài ấy, rất nhiều những nhân vật được Đỗ

Chu tái hiện trên trang giấy, ai ai cũng rõ nét, ấn tượng và có chiều sâu. Nhất là các bài tùy

bút chân dung, ông có sự hiểu biết toàn diện, từ hình dáng tướng mạo đến cốt cách, cá tính,

từ cuộc sống đời thường đến lĩnh vực nghề nghiệp…

Qua các trang tùy bút, người đọc nhận thấy Đỗ Chu có sự am tường sâu rộng về văn

hóa, nhất là văn hóa dân gian. Quê hương được tác giả nói đến là vùng quê Kinh Bắc. Cả

vỉa tầng văn hóa được Đỗ Chu khơi lên, từ đình chùa miếu mạo, đến những cái cổng làng,

từ những câu chuyện huyền thoại đến những danh nhân văn hóa, từ những câu ca dao đến

làn điệu dân ca ngọt ngào, quyến rũ…..

Không những thế, Đỗ Chu còn giới thiệu cho người đọc về sinh vật, thổ nhưỡng và

văn hóa vùng đất Tây Nguyên. Ống kính nghệ thuật của nhà văn nhẹ nhàng lướt qua từng

cánh đồng, dòng sông, ngọn đồi: “Dòng sông Sêpêpốc chảy qua hướng Tây để gặp sông lớn

Mê Kông, nó là hợp lưu của hai nhánh sông Krông Nô và Krông Ana. Nô là chàng trai, Ana

là cô gái. Cánh đồng Krông Pông bát ngát chính là lưu vực của hai dòng sông đó” [17; 27].

Ở đây, kiến thức về địa lí đã được hòa trộn với kiến thức văn hóa huyền sử và giai thoại

Tây Nguyên. Ông tỏ ra rất am tường về những cánh đồng được tạo nên bởi những nhánh

sông lớn ở Tây Nguyên: “Cùng với cánh đồng Krông Pông còn có mấy cánh đồng khác

nữa, chúng nằm thanh thản bình yên sau những miền đồi núi hùng vĩ, cánh đồng nào lúa

cũng thơm gạo cũng ngon” [17; 47]. Chính những cánh đồng xanh tốt, hào phóng ấy là

nguồn cung cấp lương thực chính cho người dân nơi đây.

Tây Nguyên nổi tiếng với những khu rừng nguyên sinh bạt ngàn, bất tận. Nơi đó có

nhiều loài cây lạ. Nhà văn Đỗ Chu khi miêu tả những cánh rừng Tây nguyên đã giới thiệu

cho người đọc về hai loài cây chỉ có ở miền đất này. Đó là cây khộp và cây Ktung Ktang.

“Cây khộp thuộc họ cây dầu, rừng khộp thoáng sạch như rừng Châu Âu. Sức sống rất mạnh

mẽ, nhiều cánh rừng bị đốt phá, bị khai thác trần trụi chỉ vài năm quay lại đều đã thấy các

gốc đều trổ mầm xanh um, vài năm nữa lại đã gặp một cánh rừng tái sinh đẹp nao lòng”

[17; 31]. Sức sống và khả năng sinh tồn mạnh mẽ chính là vẻ đẹp độc đáo của loài cây ở xứ

rừng Tây Nguyên. Một loài cây khác nữa mà nhà văn giới thiệu với người đọc là cây

Ktung, Ktang. “Nó là loài cây họ bấc, ngày xưa mọc rất nhiều trong rừng sâu. Tới mùa, quả

bấc rơi đầu suối, đàn cá bong Klong đua nhau nhảy lên đớp ăn tùm tũm trên mặt nước.

Ktung, Ktang được gọi theo hình những trái quả. Cùng với cây thì giống cá Bong Klong

cũng mất rồi” [17; 50].

Nói về Tây Nguyên chừng ấy xem ra vẫn chưa đủ, nhà văn còn mang vào những trang

viết của mình những kiến thức về văn hóa – văn học của vùng đất này. Dân cư ở Tây

Nguyên có đặc điểm độc đáo không giống với bất kì một miền đất nào: “Nơi ấy là một tập

hợp lạ, phong phú, quần tụ nhiều dân tộc anh em, mặc dù có sự phát triển không đồng đều,

có dân tộc còn non yếu như vừa thời nguyên thủy bước ra, lại có những dân tộc đã đạt tới

trình độ cao” [17; 48]. Đời sống tinh thần của họ cũng rất đỗi phong phú và giàu có. Tây

Nguyên có sẵn một kho tàng văn học dân gian. Đỗ Chu không phải là người nghiên cứu sử

thi nhưng ông tỏ ra rất am tường lịch sử dịch thuật khá thăng trầm và phức tạp của khan

Đăm Săn: “Trường ca Đăm Săn hay khan Đăm Săn là một bộ sử thi truyền miệng lớn của

dân tộc Êđê, được nhiều người quan tâm nên đã có nhiều bản dịch mới ra đời. Được phát

hiện vào năm 1924, đến năm 1927 nó đã có mặt ở Paris cùng với lời giới thiệu trang trọng

của L. Sabatier. Năm 1957 tại Hà Nội, trường ca Đăm Săn đã được nhà nghiên cứu Đào Tử

Chí giới thiệu dịch ra tiếng Việt. Ông Chí là người am hiểu Tây Nguyên đã từng sống ở

Tây Nguyên từ 1941. Ngoài ra còn có những dị bản gốc Êđê, như bản của Y Vông Mơno,

một cán bộ miền Nam ra Bắc tập kết, đây là bản có độ tin cậy, chính ông Y Ngông

Niêkdam cũng cho là như vậy. Ngoài ra còn có một bản nữa của Y Dung, một bản nữa của

Y Bí Alêô” [17; 55- 56].

Tầm hiểu biết sâu rộng của Đỗ Chu còn được thể hiện ở những đoạn mô tả, lí giải các

vấn đề thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau. Trong câu chuyện của ông Trần Nhị và bà Đạm,

nhà văn cho nhân vật lí giải về cấu tạo và cơ chế hoạt động của hệ thống xương bàn chân:

“Cũng giống hệt bàn tay, bàn chân cũng có xương năm ngón, tính từ trong ra thì chỉ có

ngón số một, tức là ngón cái gồm hai xương, còn từ ngón hai đến ngón năm, ngón nào cũng

gồm ba xương. Ngoài các xương ngón lại có xương hộp, xương sên, xương ghe, xương gót,

xương chày, xương mác, xương chèm một, chèm hai. Rồi bên trên gót lại có xương trụ

trước, trụ sau, bao quanh các xương là các cơ, các cơ níu được vào các khớp bằng các

gân…” [17; 39]. Rồi bàn về nghệ thuật làm gốm sứ, nhà văn cũng tỏ là là người rất sành về

các yếu tố quan trọng để tạo nên sản phẩm chất lượng, đẹp mắt: “Đứng về kĩ thuật mà nhìn

nhận một cái lọ thì phải theo một một tiêu chuẩn khác, nhất xương nhì da thứ ba đến lửa.

Lửa phải hoàn nguyên mới ra được những men quí như men ngọc hoặc men thúy hồng.

Một cái lọ có men chìm mờ sẽ hơn hẳn những đồ bóng loáng phù quang. Có lẽ thuật xem

người cũng vậy mà xem văn cũng vậy, xem tranh cũng vậy. Là cái lọ đất nung tưởng tầm

thường mà thực quí, thực sang, trong khi màu mè xanh đỏ lại chứng tỏ nhà quê. Nó là

chuyện đời vậy. Xương ở đây là đất, còn men được gọi là da” [17; 140].

Tác giả hào hứng đi vào giải thích các từ ngữ và khái niệm tồn tại trong cuộc sống

quanh ta nhưng ta lại ít khi lưu tâm đến. Ông giải thích tường tận, không bỏ qua một nét

nghĩa nào như Kì nghiêm hồ, tổ chức, tứ hóa…Những lí giải Đỗ Chu đưa ra bao giờ cũng

sáng tỏ, đầy đủ và chính xác. Đỗ Chu thực sự đã tích lũy cho mình một nguồn kiến thức sâu

rộng, dày dặn mà không phải nhà văn nào cũng có được.

2.3.2 Những trích dẫn đa dạng, phong phú

Đọc tùy bút của Đỗ Chu, ai cũng thừa nhận rằng, ông có năng lực trích dẫn thi ca

cũng như trích dẫn các tư tưởng lớn vào trong tác phẩm của mình. Trích dẫn vốn là thao tác

được sử dụng rất nhiều trong các công trình nghiên cứu khoa học. Rất ít khi ta thấy các

trích dẫn trong sáng tác văn chương. Các trích dẫn của nhà văn đưa vào không phải với

dụng ý chứng minh, lí giải vấn đề mà nó như là một sự ngẫu hứng nghệ thuật để dẫn dắt,

làm tăng ấn tượng chủ quan đối với những đối tượng thẩm mĩ mà ông đang hướng đến.

Có thể chia các trích dẫn có trong tùy bút của ông thành hai loại: trích dẫn thơ ca và

trích dẫn các tư tưởng lớn. Đối với thơ ca Việt Nam, ta được gặp gỡ các nhà thơ như Cao

Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Chu Mạnh Trinh, Tản Đà, Văn Cao, Chế Lan Viên, Nguyễn

Đình Thi, Phạm Tiến Duật, Chính Hữu, Hữu Thỉnh, Hoàng Cầm, Lâm Huy Nhuận, Anh

Thơ, Đồng Đức Bốn, Trần Anh Thái, Nguyễn Xuân Thâm, Nguyễn Văn Hạnh, Trần Hoàng

Cương…Đối với thơ ca nước ngoài, Đỗ Chu trích dẫn các sáng tác của Giả Đảo, Đỗ Phủ,

Trần Tử Ngang, Guillaume.…Nhà văn còn trích dẫn các tư tưởng lớn như Các Mác, Mạnh

Tử, Kinh Thánh, Ngũ Lăng nghiêm kinh…

Các trích dẫn có sức phát huy hiệu quả lớn trong ý đồ nghệ thuật của tác giả. Ở các

bài tùy bút chân dung, chủ yếu các trích dẫn đưa vào nhằm khắc họa tính cách và tài năng

của nhân vật. Khi viết về Phạm tiến Duật, Đỗ Chu đưa vào rất nhiều những bài thơ làm nên

dấu ấn của nhà thơ trên thi đàn văn học Cách mạng như bài Cô bộ đội ấy đã đi rồi, Trường

Sơn Đông, Trường Sơn Tây và cả Thủ Lăng nghiêm kinh, Nhã ca trong Kinh Thánh…Để

khẳng định và làm nổi bật tài năng thơ ca của Chính Hữu, Đỗ Chu đã trích dẫn các bài thơ

của ông như Truy kích, Gửi mẹ và các tác phẩm nổi tiếng của Trần Tử Ngang, của

Guillaume Apollinaire. Hay để nói về tính cách khiêm nhường, xuề xòa của Kim Lân, Đỗ

Chu cũng đã phải viện đến bài thơ tứ tuyệt của Giả Đảo.

Nhìn chung, Đỗ Chu đưa rất nhiều trích dẫn vào các bài tùy bút nhưng không phải

lạm dụng hay dễ dãi mà bao giờ cũng đúng vai trò, đúng lúc và vừa phải. Cho nên, với các

trích dẫn, giá trị thẩm mĩ của các bài tùy bút được nâng cao, tạo những ấn tượng đẹp trong

lòng độc giả. Một số lượng khá lớn những bài thơ và tư tưởng được đưa vào chính xác là cả

một một tầm hiểu biết về văn hóa và văn học. Không những thế, với các trích dẫn ấy, Đỗ

Chu còn thể hiện sự mĩ cảm của mình một cách tài hoa.

2.2.3 Sự cảm nhận thiên nhiên tinh tế, tài hoa

Xưa nay, người nghệ sĩ thường được người đời phong tặng cho danh hiệu: những

người tài hoa. Đã là nghệ sĩ thì phải có tố chất tài hoa, không tài hoa không thể sáng tác

nghệ thuật. Cái tài hoa của người nghệ sĩ thường biểu hiện ở lối viết, ở việc xây dựng hình

tượng, ở việc cảm nhận khách thể bên ngoài…Trong văn học Việt Nam, nhắc đến cái tôi tài

hoa trong tùy bút thì phải kể đến Nguyễn Tuân, Thạch Lam, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Vũ

Bằng, Băng Sơn…Đậm nhạt khác nhau, nhưng những tác giả kể trên là những người đã

định hình được được phong cách cũng như sớm thể hiện cái tôi tài hoa. Bắt đầu từ tùy bút

Những chân trời của các anh, xuất bản năm 1986, cái tôi tùy bút của Đỗ Chu còn rất mờ

nhạt. Thời ấy, nhắc đến Đỗ Chu, người ta nghĩ đến ông là cây bút truyện ngắn với văn

phong chuẩn mực, mượt mà, sâu lắng… chứ mấy ai đặt ông vào vị trí của một tác giả tùy

bút. Thế nhưng, từ năm 2004, Đỗ Chu bất ngờ cho ra mắt độc giả tập Tùy bút Tản mạn

trước đèn, bắt đầu cho sự gia nhập của một Đỗ Chu trong lãnh địa tùy bút. Năm 2008, ông

tiếp tục cho ra đời tập tùy bút Thăm thẳm bóng người, tác phẩm đưa Đỗ Chu lên đỉnh cao

của tài năng nghệ thuật. Cho tới thời điểm chúng tôi thực hiện luận văn này, tuổi đời của tác

phẩm Thăm thẳm bóng người chưa tròn ba năm. Điều đáng mừng là về cuối hành trình sáng

tác nghệ thuật, Đỗ Chu kịp tạo dựng thêm cho sự nghiệp văn chương của mình một thể loại

văn học mới phù hợp với cái tôi nghệ sĩ của nhà văn và đạt được những thành công rực rỡ.

Có thể nói, đó là những bông hoa nở muộn, lan tỏa và phô phang hương sắc sau một hành

trình dài tích lũy và ấp ủ. Từ đây trong lãnh địa tùy bút, nhắc đến cái tôi tài hoa phải nhắc

đến Đỗ Chu. Có thể sự tài hoa của Đỗ Chu chưa thể vượt qua nổi những cây đại thụ trong

nền văn học hiện đại như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Thạch Lam, Hoàng Phủ Ngọc Tường…

nhưng nói Đỗ Chu có sự cảm nhận tinh tế, tài hoa chắc chắn ai cũng phải gật đầu thừa

nhận.

Nhà văn tỏ ra rất nhạy cảm với vẻ đẹp của thiên nhiên, nắm bắt những biến đổi dù là

nhỏ nhất trong thiên nhiên. Đứng trước mùa xuân, Đỗ Chu lắng nghe tiếng chim ri hót,

chuyện trò trong mấy lùm nhãn. Ông gọi cái thanh âm trong trẻo ấy là những lời tình tứ của

đôi lứa yêu nhau. Đó là thông điệp riêng tư mà chỉ có những con chim ấy mới có thể hiểu

nổi. Nhà văn còn nghe cả tiếng gà gáy văng vẳng báo hiệu một ngày mới đang ló dạng.

Trong không khí náo nức của buổi sớm mai, nhà văn reo lên: “Chính mùa xuân đến rồi”.

Vậy là giai điệu của loài chim rừng, những hạt mưa lất phất, chỉ cần có thế, nhà văn đã biết

mùa xuân đang đến rất gần với tất cả tạo vật. Nhiều lần, với sự cảm nhận đầy tài hoa của

mình, Đỗ Chu đã vẽ lên những bức tranh bằng ngôn từ rất đẹp: “Và, lại vẫn là những cây

gạo đang mùa trổ hoa, những đám hoa như những vồng lửa thắp lên, cháy lên, đó là một

loại cây dâng hiến hết mình, yêu thương hết mình” [18; 300]. Đỗ Chu yêu thiên nhiên, đến

với thiên nhiên bằng xúc cảm tươi tắn, hồn nhiên nên không ít lần ông có được những bức

tranh văn xuôi giàu sắc thái và sinh động: “Những chùm hoa lên men màu vàng chanh, hoa

mà nom cứ như lá, hoa lá một hình giống nhau, giá không quen chả ai dám bảo đâu là hoa

đâu là lá. Sớm ra có nắng là nức mùi hoa men, chiều xuống mặt trời lặn là có mùi cây cơm

nếp. Trong bóng đêm choàng phủ mênh mông, khắp đường làng ngõ xóm, mùi cơm nếp

dâng lên ngào ngạt” [18; 258]. Bức tranh thiên nhiên của Đỗ Chu thật đa sắc, vừa có màu

vàng của hoa lá, của nắng vừa có mùi hương của hương hoa men, của cây cơm nếp. Nó

được nhà văn cảm nhận đa chiều với nhiều loại cảm giác khác nhau. Nhà văn phát hiện ra

có sự lan tỏa, xôn xao, phô bày hương sắc trong các loài thảo một tưởng chừng như bất

động, lặng lẽ, vô tình. Ai đến với tùy bút Hoa bờ giậu cũng sẽ đi ngang qua những giậu hoa

dại bên tường rêu phủ kín. Có lẽ, chính tâm hồn nhạy cảm, ẩn chứa nhiều tâm sự và triết lí

nhân sinh đã đưa người viết tìm đến những loài hoa dại: “Không thiếu những loài hoa đang

bò lan khắp bờ rào nhà ta. Những dây hoa mỏng manh yếu đuối tự trình bày thân phận của

mình một cách kín đáo bằng những chùm hoa nhỏ li ti, màu sắc âm thầm thì càng dễ ưa.

Chúng có hương thơm không thì chỉ có gió mới biết, những loài hoa dại khó lòng để có

hương thơm, nhưng sao vẫn thấy có đàn bướm bay lên đậu xuống, buớm hoa hoa bướm,

hoa bướm lẫn lộn, khiến rặng rào xao động hẳn lên” [18; 5-6]. Nhà văn đến với loài

hoa dại không chỉ bằng tình yêu cái đẹp dân dã, mộc mạc mà con bằng cả triết lí nhân sinh.

Hoa dại là thế đấy mà vẫn sở hữu được vẻ đẹp, khoe hương tỏa sắc với bướm ong, tạo ra

một không gian hò hẹn vô cùng tình tứ, thơ mộng. Có thể nói, nhà văn không quan sát

thiên nhiên bằng con mắt bình thường mà bằng cả sự nhạy cảm tinh tế và mạnh mẽ trước

thiên nhiên. Chính sự cảm nhận tinh tế, tài hoa mà thiên nhiên trong tùy bút của ông đã thơ

hóa những trang văn xuôi, tô điểm thêm nhiều màu sắc trong thế giới nghệ thuật tùy bút của

nhà văn Đỗ Chu.

Có thể nói rằng, cái tôi tùy bút của Đỗ Chu chưa làm cho người đọc phải say mê vì

những cá tính sáng tạo siêu phàm, vượt trội. Cái tôi tùy bút ấy rất lặng lẽ, khiêm nhường, ít

công phá, đậm chất thơ và sắc màu suy tưởng. Nhưng trong vô số những người viết tuỳ bút

ở nền văn học đương đại Việt Nam thì Đỗ Chu là một trong số ít người để lại dấu ấn rõ nét

và lâu bền nhất.

Chương 3: NGHỆ THUẬT TÙY BÚT CỦA ĐỖ CHU

Tùy bút của Đỗ Chu có sự pha trộn giữa thơ và truyện. Chính sự pha trộn này làm

nên vẻ đẹp lưỡng hợp cho các bài tùy bút mà trong đó hai yếu tố tự sự và trữ tình hòa nhập

vào nhau. Có thể thấy những thi pháp thường gặp của một tác phẩm truyện được kiến tạo và

sử dụng nhuần nhị. Cũng dễ hiểu thôi, vì Đỗ Chu vốn là nhà văn nổi danh với các tập

truyện ngắn già dặn. Việc xây dựng kết cấu, xác lập ngôi kể hay khắc họa chân dung với

ông không phải là xa lạ. Cho nên, Đỗ Chu có những đặc điểm nghệ thuật thuộc về thi pháp

truyện rất vững chắc, mang giá trị thẩm mĩ cao. Bên cạnh chất truyện, tác phẩm tùy bút của

Đỗ Chu mang một lối văn đậm chất thi ca. Đó là nhịp điệu và giọng điệu thi ca, ngôn từ thi

ca, hình ảnh thi ca…Cuộc hôn phối giữa thơ và truyện đã tạo sinh những trang văn mang vẻ

đẹp lưỡng hợp.

3.1 Kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa chân dung

3.1.1 Kết cấu

Nếu cốt truyện là hình thức tổ chức sơ đẳng nhất của truyện thì “kết cấu là toàn bộ tổ

chức tác phẩm phục tùng đặc trưng nghệ thuật và nhiệm vụ nghệ thuật cụ thể mà nhà văn tự

đặt ra cho mình” [67; 295]. Nó chính là một tổ chức sinh động và tạo ra hiệu quả tư tưởng

thẩm mĩ. Và như vậy có nghĩa kết cấu là sự tạo thành và liên kết các bộ phận trong bố cục

của tác phẩm, là sự tổ chức sắp xếp các yếu tố, các chất liệu tạo thành nội dung của tác

phẩm trên cơ sở đời sống khách quan và theo một chiều hướng tư tưởng nhất định.

3.1.1.1 Kết cấu giản dị, tự nhiên

Đối với phần lớn các nhà văn thì xây dựng kết cấu cho tác phẩm là một việc làm quan

trọng và tốn nhiều thời gian, công sức thể hiện quá trình vật lộn, thai nghén của nhà văn với

tài liệu sống. Nhưng với nhà văn Đỗ Chu thì lại khác, ông đã từng tâm sự: “với tôi cốt

truyện không thành vấn đề lắm”, nên khi xây dựng kết cấu cho tác phẩm nghiêng về trữ

tình của mình, nhà văn không cần nhiều tâm lực, kĩ thuật. Theo như lời bộc bạch của Đỗ

Chu, nhà văn dường như không có thói quen xây dựng kết cấu tác phẩm trước khi viết, mà

kết cấu ra đời cùng một lúc với ý đồ nghệ thuật của tác giả.

Nói đến kết cấu giản dị, tự nhiên trong tùy bút của Đỗ Chu trước hết phải đề cập đến

lối mở đầu và kết thúc tác phẩm. Dẫn vào đoạn mở đầu, bao giờ Đỗ Chu cũng lấy một đề

tựa thật ngắn gọn, dễ hiểu, chân phương. Trong số ba mươi hai tựa đề thì không có một tựa

đề nào đi ngược với sự giản dị, tự nhiên, tỏ ý làm duyên làm dáng, gợi sự tò mò hay khêu

gợi cho mọi người cuộc săn lùng lí thú. Những cái tên như Quê ngoại, Ghi chép ở Ban Mê,

Cát nóng, Một con người đã ra đi, Tản mạn trước đèn…xuất hiện trước phần mở đầu như

một dấu hiệu thẩm mĩ của một khúc dạo đầu nhẹ nhàng, giản dị. Người đọc có thể thấy một

số kiểu mở đầu thường hay xuất hiện trong tùy bút của Đỗ Chu. Đó là kiểu mở đầu bằng

những chiêm nghiệm về lẽ đời: “Con người ta tưởng vậy chứ không dễ mỗi lúc đã được gọi

cho ra đúng về nhau. Như anh Mai Ngữ đấy, nhà văn Mai Ngữ, quen biết nhau đã có trên

bốn chục năm, vậy mà đến lúc muốn viết về anh lấy dăm ba trang thì thật là khó. Không

phải anh nhạt, cũng không phải vì chưa hiểu anh, vậy là làm sao, là thế nào.” [17; 149];

“Hình như khi về già người ta đều muốn lui vào, cho nên nhà ông lang Bách mới nằm trong

một ngõ nhỏ của phố Tràng Tiền, ông Hoàng Cầm lại ở trong một các hẻm khác trên đường

Lí Quốc Sư, còn ông Kim Lân là xóm Hà Hồi.” [17; 129]; “Hình như mỗi nhà văn chúng ta,

ở mọi thế hệ đều đã cầm bút trong những điều kiện không mấy thuận lợi, rất nhiều người

sống chật vật. Hoàn cảnh xã hội lại càng bấp bênh” [17; 257]…Với kiểu mở đầu ấy, Đỗ

Chu đã tìm cho mình một cái cớ để dẫn chuyện, đồng thời tạo cho người đọc mối đồng

cảm, cùng trăn trở, suy tư ngay với ông ngay từ những câu văn đầu tiên của tác phẩm. Cái

vấn đề tưởng như vu vơ ấy hóa ra lại có một cái duyên lạ để bắt vần cho phần mở đầu của

một bài tùy bút. Có những bài tùy bút lại mở đầu theo kiểu hoài niệm: “Vậy mà đã trọn một

năm kể từ nhà văn Nguyễn Đình Thi qua đời. Giờ đây mỗi chúng ta vẫn như đang còn thấy

bóng dáng anh quẩn quanh đâu đó. Phảng phất trong hơi may, phảng phất trong mưa bụi,

trong hoa cỏ giêng hai quê nhà vẫn như có hồn anh” [17; 209]; “Vào cuối đời của Nguyễn

Minh Châu, ta thấy anh thường lặng lẽ mò vào Quảng Trị, chuyến lên núi, chuyến xuống

biển.” [17; 163]. Đây là một kiểu mở đầu cho những bài tùy bút viết về những nhân vật đã

qua đời nhưng trước đó từng in sâu vào tâm khảm nhà văn những kỉ niệm đẹp. Niềm

thương nhớ trở thành điểm tựa để tác giả tái hiện chân dung những người đã ra đi, làm

thành mạch xúc cảm chủ đạo xuyên suốt khắp tác phẩm.

Nhà văn Đỗ Chu cũng hay bắt đầu cho tác phẩm của mình bằng một vài nét chấm phá

cảnh sắc thiên nhiên: “Chim ri đã từng đàn từ đâu bay về nhảy trong mấy lùm nhãn trước

nhà. Và chúng hót, chúng ồn ã chuyện trò. Tôi ngồi bên cửa sổ hàng giờ lắng nghe tiếng

chim ngoài vườn và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ một cách qua công

khai nhưng ngoài chúng có lẽ chẳng ai trên đời này hiểu nổi.” [14; 5]; “Người Hà Nội bước

đi trên hè phố, nhìn thấy qua những lùm sấu quả chín vàng là một vòm trời bao giờ cũng

nhiều nắng.” [14; 79]; “Gió cứ mãi thổi ngoài kia. Mưa còn đang bay lây rây làm ướt nhão

mảnh vườn, vậy mà xuân thì đã lại.” [14; 104]. Ngoài ra còn nhiều kiểu mở đầu khác nữa.

Dù là kiểu mở đầu nào, Đỗ Chu vẫn luôn giữ một lối dẫn nhập hết sức tự nhiên, khác xa với

kiểu mở đầu hoa mĩ tạo ấn tượng mạnh mẽ như ta thường thấy ở một số cây bút khác.

Thống nhất với phần mở đầu tác phẩm, Đỗ Chu có những đoạn văn khép lại cũng

ngắn gọn, nhẹ nhàng, lấy sự dư ba làm mục đích thẩm mĩ. Ta thường thấy, phần cuối tác

phẩm thường là phần người đọc chờ đợi kết quả sau cùng, điểm mở nút, nhất là ở thể loại

truyện ngắn và tiểu thuyết. Nếu đọc tác phẩm văn chương chỉ để xem hồi kết của câu

chuyện như thế nào thì người ta sẽ gặp thất vọng hoàn toàn khi đọc tùy bút của nhà văn Đỗ

Chu. Bởi vì phần lớn đoạn kết tác phẩm thường là những dòng suy tư thâm trầm hòa với

những xúc cảm lắng đọng, mênh mang, khơi gợi những bài học về nhân sinh: “Cứ mỗi năm

lại thấy quanh mình vắng đi một vài người thân thiết, rồi trông vào gương thấy tóc mình

cũng đã bạc trắng cả, lòng không khỏi cô quạnh. Lại càng thấy phải biết yêu quí, lại càng

thấy phải biết nhường nhịn và có lẽ cũng sắp phải học lấy sự lặng lẽ lịch lãm của anh.” [17;

216]; “Những trái sấu thảng thốt rơi trên mái làm lòng ta bâng khuâng vì hiểu rằng mùa thu

đang về. Mùa thu năm nay là mùa thu nặng nề đối với mỗi người cầm bút trước sự rơi

xuống của một trong những trái cây cuối cùng của một mùa văn học kháng chiến. Sự ra đi

của anh Chính Hữu, một đại biểu xuất sắc của văn học đương đại Việt Nam là sự ra đi

mang ý nghĩa đó.” [18; 131]. Đỗ Chu thường gửi gắm bao nỗi suy tư cùng với điệu xúc cảm

nhẹ nhàng, sâu lắng, lan tỏa giữa những dòng văn giàu chất thơ trước khi khép lại tác phẩm.

Ai đó từng bảo: “Ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi người, cái bất ngờ cũng vẫn

thường tới”. Kết cấu hệ thống nhân vật và sự kiện trong tùy bút của Đỗ Chu cũng khá đơn

giản, mang tính đơn tuyến, hiếm có những mâu thuẫn, xung đột giữa các nhân vật. Nhìn

chung, đối tượng thẩm mĩ mà nhà văn hướng đến chủ yếu là những nhân vật ưu tú, có

những nhân cách đẹp, tài năng và tài hoa. Trong các tác phẩm tự sự hiện đại, hệ thống nhân

vật xuất hiện dưới dạng thức đa tuyến, đa chiều, phát triển tối đa những xung đột với môi

trường xung quanh và trong nội tại của chính mình. Số lượng các nhân vật chính trong một

bài tùy bút của Đỗ Chu không nhiều. Nhất là các tùy bút chân dung, ông chỉ tập trung viết

về nhân vật chính, các nhân vật khác nếu có xuất hiện chỉ là phương thức để làm nổi bật

nhân vật chính. Bài tùy bút số 2 trong phần Hoa bờ giậu, Đỗ Chu viết về Việt kiều Thái tên

là Châu Kim Qưới. Hơn mười sáu trang, Đỗ Chu chỉ tập trung viết về cuộc sống và quá

trình phấn đấu của nhân vật trên nước Thái từ lúc còn trẻ cho đến khi về già. Nhà văn có

nhắc đến một số nhân vật khác như vợ của Thavi Quý, Bằng Việt, Trần Văn Giàu, Nguyễn

Văn Tạo, Nguyễn Đức Quỳ… cũng chỉ với dụng ý làm nổi bật chân dung của nhân vật

Thavi Quý mà thôi. Hay ở bài tùy bút số 6 cùng phần với tùy bút số 2 ở trên, nhà văn Trần

Hoài Dương hiện lên với tất cả những sự kiện cốt yếu trong cuộc sống đời thường và trong

sự nghiệp cầm bút của ông. Từ sự kiện Trần Hoài Dương rời bỏ báo Văn nghệ vào Nam

nhận công tác đến việc ông có mặt tại trường giáo dưỡng trẻ vị thành niên, rồi những cuốn

sách ra đời từ những trải nghiệm trong khoảng thời gian dài….Tất cả dần dần hiện lên tự

nhiên mà không cần đến những xung đột hay mâu thuẫn dữ dội từ bên ngoài hay bên trong

nhân vật. Theo đó, những khái niệm thắt nút, mở nút, phát triển, cao trào hầu như không

được vận dụng trong sáng tác tùy bút của Đỗ Chu. Chuỗi sự kiện phản ánh quan hệ xã hội

và bản chất của nhân vật, phản ánh sự vận động của nhân vật. Tuy nhiên, sự kiện trong tùy

bút của Đỗ Chu chủ yếu có tính chất đơn nhất, giũ vai trò bổ sung, hỗ trợ cho nhau, góp

phần làm sáng tỏ chân dung nhân vật. Tổng hợp các sự kiện, người đọc có cái nhìn toàn

diện về các nhân vật mà nhà văn xây dựng

Hơn nữa các hệ thống sự kiện cũng được tái hiện hết sức tự nhiên, tưởng chừng như

rời rạc, không có mối liên hệ với nhau nhưng lại được chi phối bởi một mạch cảm hứng chủ

đạo tạo nên sự thống nhất, kết dính với nhau theo dòng ý thức tự sự hết sức liền mạch. Nhà

văn như một người thích ngao du đó đây, từ hiện tại lùi về quá khứ rồi từ quá khứ lại trở về

hiện tại, hòa trộn, đan xen hiện tại và quá khứ trong không gian nghệ thuật rất riêng của nhà

văn. Nhà văn hết đến với thế giới con người này lại đến với thế giới con người khác, hết tả

cảnh rồi đến kể chuyện con người, chốc chốc lại bày tỏ xúc cảm hay nỗi trăn trở về nhân

tình thế thái, rồi nghiệm ra những nghĩa lí của cuộc đời…Trong tùy bút Quê ngoại, nhà văn

bắt đầu từ nhân vật Nguyễn Khải, sau đó kể lại cuộc thăm thú cảnh vật Thuận Thành, song

song đó là những nhận xét về nhà văn Nguyễn Khải. Dần dần, Đỗ Chu đề cập đến các nhân

vật tài danh ở xứ Kinh Bắc qua dòng hồi tưởng như Trần Đức Thảo, Đỗ Đình Chất, Ngô

Ngọc Quản…Cảnh và người Kinh Bắc cứ thế hiện lên tự nhiên và sống động, cuối cùng

nhà văn trở về với hiện tại thấy vùng đất Kinh Bắc, chiếc nôi nuôi dưỡng nhiều danh nhân

văn hóa. Từ đó ông thêm yêu, thêm tự hào, thêm gắn bó với miền quê Kinh Bắc dấu yêu.

Cái sự thoải mái, tung tăng trong cảm xúc và ý tưởng của chủ thể sáng tạo góp phần quan

trọng tạo nên đặc trưng cho thể loại này.

Có thể thấy bố cục trần thuật cũng hết sức tự do, không t heo một khuôn mẫu nào,

mang tính năng động, linh hoạt. Những đoạn văn dài ngắn khác nhau, lúc thì mang một nội

dung lớn, lúc chỉ là một điểm nhấn của cảm xúc, giọng điệu. Khảo sát một số đoạn văn,

chúng tôi thấy có đoạn rất dày những tình tiết, sự việc như đoạn văn nói về cuộc sống gia

đình của thầy giáo Vũ Đình Chất gồm 35 dòng (Quê Ngoại, trang 123 đến trang 125), đoạn

văn nói việc họa sĩ Linh Chi gồm 42 dòng (Bài tùy bút số 3 trong Thăm thẳm bóng người,

từ trang 126 đến trang 127), đoạn văn nói về nhà văn Mai Ngữ gồm 41 dòng (Lời mai trò

chuyện, từ trang 157 đến trang 159)…Bên cạnh đó là những tiểu đoạn, có khi chỉ là một

câu: “Ung dung biết mấy, điềm tĩnh cứng cỏi biết mấy. [17; 147]; “Rồi ông Nguyễn Huyến

cũng bày tranh với những bức sơn dầu lớn, mang phong cách hiện thực, bút pháp cổ điển

chắc chắn. [18; 214] ; “Cụ Thiên Tích ngồi lặng lẽ trước bàn, chén nước cầm trong tay

nguội lâu rồi, ánh mắt đặt vào một nơi xa xôi” [18; 317]… Có thể nói, không chỉ những chi

tiết và các nhân vật xuất hiện tự nhiên, tùy hứng mà số lượng câu trong một đoạn văn, số

đoạn văn trong một bài tùy bút, dung lượng của các bài tùy bút cũng không theo một sự qui

định nào mà hoàn toàn tự nhiên, tùy thuộc vào mạch cảm hứng. Có lẽ, mạch cảm xúc đến

đâu thì bố cục nối bước theo đến đó. Nhờ thế mà kết cấu tác phẩm mang tính tự nhiên, giản

dị.

Một điểm cuối ở phần này là điểm nhìn trần thuật của nhà văn Đỗ Chu qua nghìn

trang tùy bút. Ở đây có một sự nhất quán trong điểm nhìn trần thuật. Xét trên phương diện

trường nhìn trần thuật, tức là điểm nhìn bao quát cái phần thế giới được nhìn từ một chỗ

đứng nào đó, có thể chia làm hai loại: trường nhìn tác giả và trường nhìn nhân vật. Tùy bút

của Đỗ Chu là tác phẩm tự sự nhưng mang đậm chất trữ tình. Người đọc dễ nhận ra các tác

phẩm tùy bút của ông có trường nhìn nhân vật. Cần lưu ý rằng, nhân vật này chính là tác

giả, là cái tôi tùy bút của Đỗ Chu. Nhờ thế, tác giả dễ dàng thể hiện quan điểm riêng, sắc

thái tâm lí, cá tính, tình cảm khiến tác phẩm đậm chất thơ. Cái tôi tùy bút Đỗ Chu nhìn sự

kiện, nhân vật dưới nhiều góc độ và góc cạnh khác nhau, nhiều chiều kích khác nhau, có

khi hòa trộn những cái tưởng chừng như cách xa nhau vào một khối thống nhất. Chính sự

phối hợp các thành phần trần thuật, sự đan xen, luân phiên các sự kiện, và các đoạn tả cảnh

và các đoạn bộc lộ trực tiếp suy nghĩ và tâm trạng, các đoạn hồi tưởng… đã tạo nên một

nhịp điệu trần thuật đa sắc nhưng lại tự nhiên, thoải mái.

3.1.1.2 Kết cấu lồng và xâu chuỗi nhiều chuyện kể trong cùng một tác phẩm

Lồng chuyện là kiểu tự sự trong đó trên cái nền của một chuyện kể chạy dọc từ mở

đầu đến kết thúc tác phẩm, nhà văn đã đính vào trong cái câu chuyện cơ bản một số câu

chuyện nhỏ khác nhằm bổ sung ý nghĩa cho vấn đề tự sự. Có thể khái quát kiểu kết cấu này

theo mô hình sau: một câu chuyện chính + một hay nhiều câu chuyện phụ. Đó là mô hình

xương cá. Như thế có nghĩa là trong dòng tự sự đã được phân chia thành từng tầng bậc lớn

nhỏ, chính phụ. Còn xâu chuỗi chuyện là kiểu tự sự mà trong đó người viết tập hợp nhiều

câu chuyện khác nhau nhưng cùng cấp độ trong cùng một tác phẩm nhằm làm nổi bật một

chủ đề nào đó. Đối với tùy bút, kiểu kết cấu này khá phổ biến, thể hiện đặc trưng thể loại.

Người viết có thể kể chuyện nọ xọ chuyện kia, pha trộn nhiều loại không gian và thời gian

khác nhau một cách tự do, phóng túng.

Qua nghiên cứu, chúng tôi thấy tùy bút của Đỗ Chu sử dụng kiểu trần thuật như trên

khá phổ biến. Tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn là tác phẩm sử dụng kết cấu chuyện lồng

chuyện. Xuyên suốt tác phẩm là câu chuyện về cụ giáo Thấu, một người đam mê nghiên

cứu và sưu tầm văn hóa – văn học Tây Nguyên, nhất là sử thi Đăm Săn. Cụ giáo Thấu là

người gốc Huế, tính tình phóng khoáng thích bay nhảy hoạt động, sớm tham gia phong trào

Hướng đạo sinh. Năm 1936, cụ Thấu từ Huế ngồi tàu hỏa ra Hà Nội xin vào trường học

Thăng Long, sau một năm thi đỗ Secondaire, lại chào Hà nội về Huế kịp thi vào trường Sư

phạm. Cụ học cấp tốc một năm, học xong lại được điều lên Ban Mê Thuộc. Và thế là thành

gắn bó lâu dài với nơi này, quần áo trắng, mũ trắng, giày tất trắng, thanh xuân và nghị lực,

thầy giáo Thấu nhanh chóng hòa nhập vào cuộc sống nơi miền đất lạ. Sau ngày đất nước

thống nhất, cụ về sống tại Hà Nội, vẫn lặng lẽ đi về với Tây Nguyên. Hạnh phúc nhất là cụ

đã hoàn thành công trình dịch thuật và hiệu đính bộ khan Đăn Săn. Đó là chuyện đóng vai

trò chủ đạo, được triển khai xuyên suốt tác phẩm. Men theo câu chuyện về cụ Thấu, còn có

những câu chuyện khác với vai trò phụ bổ trợ. Khi đề cập đến các vị tiền bối có công trong

việc sưu tầm, nghiên cứu sử thi Tây Nguyên, nhà văn còn kể về cụ Điểu Câu. Đóng góp to

lớn của cụ là những bộ sách lớn viết về văn hóa Tây Nguyên trong mấy thập kỉ qua. Cụ

xứng đáng là đại biểu của văn hóa Tây Nguyên. Nhiều người nhờ sự giúp đỡ của cụ mà có

được những công trình khoa học thành công. Ở một chi tiết khác, khi nói về truyền thống

yêu nước nồng nàn của người dân Tây Nguyên, nhà văn đã kể về câu chuyện chiến đấu của

những nhân vật tiêu biểu như Kpa Thiên, Rơ Chăm Yon, Y Đon, Y Blốc Êban…Họ đã

dũng cảm hi sinh trong tư thế tuyệt vời của người anh hùng. Một câu chuyện thứ ba được

lồng vào là chuyện về Lé on Sabatier. Ông là người Pháp, được chính quyền điều sang

Đông Dương để làm quan cai trị. Do quá yêu Tây Nguyên mà ông quên mục đích mà thực

dân Pháp đưa ông đến đây. Ông bị cách chức điệu về nước. Sau đó, ông đã cho ra mắt đọc

giả những công trình nghiên cứu, kết quả của những năm tháng ông sống và tìm hiểu Tây

Nguyên. Như thế, tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn có đến bốn câu chuyện, trong đó có

một chuyện chính và ba chuyện phụ.

Tùy bút số 3 trong Thăm thẳm bóng người là bài viết Đỗ Chu dành riêng cho họa sĩ

Linh Chi. Toàn bộ tác phẩm là cuộc tái hiện cuộc đời và sự nghiệp nghệ thuật của họa sĩ

Linh Chi. Ông là người Vĩnh Thành, Vĩnh Yên. Linh Chi có một người anh cả và một chị

gái, sau ông còn có một người em nữa, đó là nhà văn Trọng Hứa. Học xong lớp nhất, Linh

Chi cùng em thi vào trường Gia Long. Năm 1942, Linh Chi có bằng Diplomè, rồi chuẩn bị

thi vào Beaux arts de Lindochine. Sau đó Linh Chi tham gia kháng chiến, dùng cả tài năng

và tâm huyết phục vụ kháng chiến. Họa sĩ Linh Chi từng có những cuộc triển lãm tranh ấn

tượng. Khi tuổi về già, ông cùng người vợ sống bên đàn con cháu vui hưởng cảnh sum vầy,

đề huề. Bên cạnh câu chuyện về Linh Chi là một chuỗi những câu chuyện phụ khác. Liên

quan đến việc Linh Chi rút ra khỏi biên chế nhà nước, nhà văn muốn nêu một xu hướng

xem trọng chỗ đứng trong biên chế thời bao cấp bằng hai câu chuyện. Thứ nhất là chuyện

đôi vợ chồng đem nhau ra tòa bởi một lí do kì quặc là anh chồng mắc phải chứng bệnh ăn

khỏe ! Câu chuyện thứ hai là về một thiếu nữ phải lấy người mà cô không hề yêu thương.

Nguyên nhân khiến gia đình cô ép gả cho anh chàng mặt rỗ là vì anh ta có chỗ đứng vững

vàn trong biên chế. Từ cái xương sống của câu chuyện chính về Phạm Tiến Duật, nhà văn

rẽ ngang nói về nhiều nhà văn khác như Ngô Văn Phú, Vũ Thị Thường, Nguyễn Khắc

Phục, Xuân Quỳnh…, về nhiều câu chuyện khác, chuyện trao giải, chuyện tiếp nhận thơ,

chuyện về những bà mẹ. Tất cả những câu chuyện ăn theo trở thành phụ đề quan trọng góp

phần làm câu chuyện chính đi sâu hơn vào lòng người đọc.

Một kiểu khác rất gần với kiểu kết cấu lồng truyện là kết cấu xâu chuỗi. Nghĩa là các

câu chuyện được nối kết với nhau để làm nổi bật một chủ đề của tác phẩm trong mối quan

hệ song hành, bình đẳng. Quê ngoại là một trong những tùy bút tiêu biểu cho kết cấu này.

Tác phẩm bắt đầu từ cuộc trở về thăm quê hương của tác giả và nhà văn Nguyễn Khải.

Nhân đó, ông kể về Nguyễn Khải, một người suốt đời khắt khe đòi hỏi bản thân, trong cách

sống cũng như cách viết. Với tư cách là người cầm bút, Nguyễn Khải sẵn sàng can thiệp,

thúc đẩy mọi người đi tới, nhiều khi không còn biết kiêng nể. Suốt nửa thế kỉ, ông là người

làm việc không mệt mỏi. Những trang văn của ông mang hơi thở của hiện thực cuộc sống,

có sức tỏa sáng và có trọng lượng trên văn đàn. Tiếp đến là câu chuyện về nhà văn Kim

Lân. Ông là nhà văn của người nghèo, không chỉ nổi tiếng với các truyện ngắn viết về

người nông dân mà còn có những tác phẩm cuốn hút những độc giả nhỏ tuổi nữa. Nhân

đây, Đỗ Chu đã lồng câu chuyện về chàng hiệp sĩ gỗ vào câu chuyện về Kim Lân. Đây là

một kiểu kết cấu lồng chuyện theo mối quan hệ chính phụ. Tiếp đến, nhà văn kể về nhà

nghiên cứu triết học Trần Đức Thảo. Một đoạn văn khá dài nói về gốc gác, quá trình du

học, quá trình nghiên cứu, dịch thuật và giảng dạy của ông. Đoạn tiếp theo, nhà văn dành để

đề cập đến cuốn sách nổi tiếng của Trần Đức Thảo, tác phẩm Nguồn gốc của ý thức và

ngôn ngữ. Sau đó, nhà văn nhắc lại đôi kỉ niệm sinh thời của Trần Đức Thảo. Chuyện thứ

ba là chuyện về thầy giáo Đỗ Đình Chất và chuyện thứ tư là chuyện về kĩ sư Ngô Ngọc

Quản. Như vậy, trong tùy bút Quê ngoại có bốn chuyện chính được xâu chuỗi theo kiểu

song hành và một chuyện có kết cấu theo kiểu lồng chuyện.

Nét chung của kết cấu lồng và xâu chuỗi chuyện trong tùy bút của Đỗ Chu là có một

khúc đoạn chuyện ở hiện tại có tính chất giới thiệu, gợi hứng, là cái cớ để dẫn dắt người

đọc đi vào những chuyện và những khúc đoạn tiếp theo, trong đó có chuyện ở quá khứ, sau

đó lại trở về về hiện tại. Tuy nhiên, dù quá khứ hay hiện tại, dù vai trò giới thiệu hay bộc lộ

chủ đề, thì tất cả đều có sự thống nhất, cùng chung một mục đích nhấn mạnh hay khắc họa

nội dung tư tưởng, tình cảm mà tác giả gửi gắm. Cần lưu ý rằng, kết cấu này chịu sự chi

phối bởi cái tôi tùy bút mang đậm màu sắc cá nhân và ấn tượng chủ quan. Thế nhưng, nó

hoàn toàn không phá vỡ sự giản dị, tự nhiên như đã đề cập ở phần trên. Nó làm cho tuỳ bút

của Đỗ Chu có một thế giới đa diện, đa sắc như chính cuộc sống đời thường vốn có nhiều

nẻo quanh co, uốn khúc.

3.1.2 Ngôi kể

Hiểu một cách đơn giản đây chính là cách nhân vật đứng ra là người trần thuật, tổ chức

thế giới nghệ thuật của tác phẩm tự sự, vì phương diện cơ bản của phương thức tự sự là giới

thiệu, khái quát thuyết minh, miêu tả đối với sự vật, sự việc, hoàn cảnh, sự vật theo cách

nhìn của người trần thuật nhất định. Như vậy nghĩa là bất cứ một nhà văn nào khi kiến tạo

tác phẩm cũng phải lựa chọn cho mình một chỗ đứng thích hợp, bởi nghệ sĩ không thể miêu

tả, trần thuật sự kiện về đời sống được, nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với

sự vật hiện tượng. Việc lựa chọn một chỗ đứng thích hợp tham gia trực tiếp hay đứng ngoài

sự việc tự sự sao cho cuốn hút người đọc là một trong những thước đo để khẳng định tài

năng nghệ thuật và tạo ra nét độc đáo cho người nghệ sĩ. Nó vừa chịu sự qui định về chủ đề,

tư tưởng nhà văn muốn trình bày trong tác phẩm, vừa chi phối cách lựa chọn chi tiết, sắp

xếp bố cục…Từ đó, chúng ta có thể thấy, nghệ thuật kể chuyện không chỉ giúp nhà văn xây

dựng được một chỉnh thể nghệ thuật mà còn là một trong những yếu tố góp phần tạo nên

phong cách nghệ thuật của nhà văn.

Với Đỗ Chu điều đó không ngoại lệ. Để tạo nên phong cách nghệ thuật cho riêng

mình, Đỗ Chu không bao giờ sử dụng thuần nhất một kiểu trần thuật. Trong toàn bộ sáng

tác của Đỗ Chu, chúng tôi nhận thấy luôn có sự thâm nhập, đan xen, phối hợp, dịch chuyển

nhiều kiểu trần thuật, tạo nên sự hấp dẫn, uyển chuyển, linh hoạt trong nghệ thuật dẫn

truyện. Văn xuôi Đỗ Chu nhìn chung sử dụng chủ yếu ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba để trần

thuật. Riêng ở thể loại tùy bút, Đỗ Chu trần thuật chủ yếu ở ngôi thứ nhất.

Sử dụng ngôi kể thứ nhất, nhân vật kể chuyện xưng tôi trong tác phẩm tuỳ bút, cũng

là chủ thể sáng tạo – cái tôi người nghệ sĩ. Có thể gọi đó là cái tôi tự thuật về chuyện đời,

chuyện người. Khác với hình thức tự sự ở ngôi thứ ba, chủ thể kể chuyện trong tùy bút

được đặt trong chính các sự kiện hay có mối liên hệ và hiểu rất rõ đối tượng mình phản ánh.

Và với hình thức tự sự ở ngôi thứ nhất, nhà văn có điều kiện bộc lộ trực tiếp tư tưởng, tình

cảm của mình một cách trọn vẹn, dồi dào và phong phú.

Với ba muơi hai bài tùy bút, Đỗ Chu đã khơi dậy cả một thế giới rộng lớn bên ngoài

tác giả và thể hiện chiều sâu nội cảm của chính mình. Chưa lúc nào thấy cái tôi tùy bút

trong ông ngừng sôi nổi hay lãnh đạm với những hiện tượng, mà luôn luôn tỉnh thức để

nhận thức và rung cảm. Hơn nữa, cái tôi ngôi thứ nhất ấy cũng có sự gắn bó sâu sắc và mật

thiết với cuộc sống và có ý thức thẩm mĩ cao.

Sử dụng ngôi thứ nhất để trần thuật, Đỗ Chu dễ dàng hiện thực hóa những cái xảy ra

trong quá khứ. Đó là cái tôi kí ức. Nó cho phép người trần thuật cất lên tiếng nói thầm kín

trong tâm hồn và mở ra cuộc đối thoại với chính mình và với cuộc đời. Nhà văn ngược

dòng thời gian đến với cái đã qua và trở về với chính mình. Khảo sát lại ngôn từ nhân xưng

dành cho ngôi thứ hai và ngôi thứ ba, chúng tôi nhận thấy vô cùng phong phú, đa dạng. Khi

thì tác giả gọi nhân vật của mình – đối tượng phản ánh là cụ như cụ Hoa Bằng, cụ Bùi Kỉ,

cụ lang Bách, cụ giáo Thấu, cụ Điểu Câu…; khi thì gọi là ông như ông Kim Lân, ông

Nguyễn Tuân, ông Nguyễn Công Hoan…; khi thì gọi là anh như anh Chính Hữu, anh

Duật, anh Linh Chi, anh Mai Ngữ, anh Thâm, anh Hiến, anh Đa…Mỗi một lớp đối tượng,

ngôi thứ nhất tự sự đều có kiểu gọi phù hợp, thể hiện được thái độ tình cảm của người kể

chuyện.

Với ngôi thứ nhất, người trần thuật có thể tự do đi về trên bất cứ một sự kiện nào, một

chân dung nào. Nhờ thế mà cái tôi tùy bút giãi bày được tất cả những gì mà mình đã trải

qua, đã trông thấy, đã cảm nhận. Cái tôi ở ngôi thứ nhất còn mở đường cho tác giả đi vào

phản ánh, ghi lại một cách một cách trọn vẹn những gì mà ông lưu tâm đến.

Như vậy, có thể nhận thấy qua các tác phẩm tùy bút của Đỗ Chu, tự sự ở ngôi thứ nhất

theo cái nhìn đa tuyến đã được khai thác một cách triệt để. Cái tôi ở ngôi thứ nhất tồn tại

với tư cách chủ thể sáng tạo, vừa phản ánh vừa giãi bày, giao hòa giữa tự sự và trữ tình,

giữa đối tượng thẩm mĩ và chủ thể thẩm mĩ. Nói tới lối kể chuyện ở ngôi thứ nhất, bên cạnh

những ưu điểm của nó, người ta thường nói tới mặt hạn chế: đem lại cho người đọc cảm

giác đơn điệu, nhàm chán, bởi khi trần thuật, tác phẩm thường dừng lại ở một góc nhìn của

người kể chuyện. Nhưng sáng tác của Đỗ Chu đã vượt qua được những hạn chế đó. Bởi vì

điểm nhìn trần thuật của ông luôn có sự thay đổi đối tượng thẩm mĩ, tạo nên một thế giới đa

dạng, nhiều màu sắc và không bị trùng lặp về nội dung phản ánh cũng như những sắc điệu

tình cảm của chính người kể chuyện.

3.1.3 Nghệ thuật khắc họa chân dung

Như đã nghiên cứu ở chương một, phần lớn hình tượng thẩm mĩ trong tùy bút của Đỗ

Chu là các chân dung: chân dung người lính, chân dung nghệ sĩ, chân dung trí thức bác học,

chân dung Bác Hồ, chân dung người mẹ, chân dung các em bé Kinh Bắc…Những chân

dung ấy hiện lên thật sống động và có giá trị tạo hình cao. Kiểu khắc họa tính cách nhân vật

trong tùy bút vốn có sự khu biệt rất lớn so với truyện ngắn và tiểu thuyết, bởi một bên là

hoàn toàn hư cấu, còn một bên là những nhân vật có thật được nghệ thuật hóa theo ý đồ

nghệ thuật của nhà văn. Mức độ hư cấu trong tùy bút vì thế rất ít ỏi, hạn chế, chỉ dừng lại ở

nghệ thuật tổ chức, sắp xếp, sử dụng ngôn từ nghệ thuật mà tái tạo lại những con người thật

trở thành hình tượng thẩm mĩ. Chân dung trong tùy bút của Đỗ Chu mặc dù không hoàn

toàn là hư cấu nhưng lại có tính khái quát cao, thể hiện những hiểu biết, những khát khao,

ước vọng của nhà văn về con người. Trong phạm vi nghiên cứu của công trình này, chúng

tôi chỉ tập trung tìm hiểu nghệ thuật sử dụng chi tiết, nghệ thuật tái hiện dòng độc thoại nội

tâm và nghệ thuật cá thể hóa ngôn ngữ nhân vật.

Có thể thấy tính cách, tâm trạng của nhân vật được khắc họa bằng nhiều chi tiết. Mỗi

loại chân dung lại có một hệ thống chi tiết khác nhau. Phải nói rằng Đỗ Chu là người có

tầm hiểu biết sâu rộng, tích trữ riêng cho mình một vốn kiến thức đồ sộ. Chính những hiểu

biết và trải nghiệm quí báu ấy là chất liệu để ông nhào nặn thành những chi tiết đắt giá làm

nổi bật chân dung. Ông đã sử dụng rất nhiều chi tiết hay, phù hợp với tính cách, tâm trạng

của nhân vật. Khi viết về nhà thơ Phạm Tiến Duật, để người đọc thấy một Phạm Tiến Duật

tài hoa, giàu tư chất nghệ sĩ, nhà văn đã lấy chi tiết các cô thanh niên xung phong háo hức

muốn nghe thơ ông trong cuộc gặp gỡ giữa Đỗ Chu với họ. Nhờ nhớ mấy câu trong bài thơ

Cô bộ đội ấy đã đi rồi của Phạm Tiến Duật mà nhà văn được các nàng đón tiếp niềm nở,

nồng hậu. Chi tiết Phạm Tiến Duật được nhận giải nhất về thơ do báo Văn nghệ tổ chức,

chi tiết nhà thơ cảm hứng viết nhiều bài thơ trong những lần đi đó đây, chi tiết nói về quan

niệm sáng tác của nhà thơ, tất cả cũng đều có giá trị khắc họa sở trường thơ ca của Phạm

Tiến Duật. Viết về TS. Hồ Ngọc Đại, nhà văn gợi lại cái sở nguyện của ông với Thủ tướng

là được dạy cấp một. Cái chi tiết đắt giá ấy làm cho chân dung nhân vật bỗng hiện lên đẹp

rạng ngời. Hóa ra, sự học của ông không nhằm mục đích để được đền bù bằng địa vị, danh

lợi mà nhằm để góp phần cải thiện, nâng cao công tác giáo dục. Đỗ Chu còn bổ sung vào

tính cách trong sáng, đầy nhiệt huyết của ông Đại qua các chi tiết nói về thực tế và kết quả

dạy học của ông và nhóm thầy cô tận tâm với nghề dạy trẻ. Với các chân dung, Đỗ Chu

không có thói quen nói suông mà nói với chúng ta về nhân vật bằng các chi tiết và thông

qua các chi tiết. Cần lưu ý rằng những chi tiết này là những chi tiết có thật nhưng đã được

nghệ thuật hóa. Dù vậy, nhà văn cũng không để cho chi tiết trở nên quá nhiều dẫn đến thừa

thải hay đi đến xu hướng minh họa tính cách. Do đó, mỗi lần chi tiết xuất hiện thì bao giờ

cũng gắn liền với một ngữ cảnh cụ thể. Có khi chỉ với một chi tiết thôi, Đỗ Chu cũng vén

mở được một nhân cách sống đẹp. Họa sĩ Linh Chi, một nghệ sĩ tài hoa, có mối quan hệ khá

thân tình với Đỗ Chu. Trong một lần đến chơi, ông có cảm hứng vẽ chân dung Đỗ Chu.

Thời gian đưa thoi, bao biến động riêng chung xảy đến, một lần tao ngộ, Linh Chi đã đem

bức vẽ năm nào tặng cho Đỗ Chu. Thế mới biết, Linh Chi không chỉ là họa sĩ tài hoa mà

còn là người trọng tình cảm và có cách khu xử đầy cảm động đối với bạn bè thân hữu. Với

chi tiết Kim Lân từ chối cụ lang Bách tặng bài thơ có vẻ đài các, tr ang trọng chỉ vì hình

tượng nhân vật trữ tình trong bài thơ ấy quá tầm thước, đĩnh đạc. Tính cách khiêm nhường,

chân thành, không thích làm ra dáng vẻ cao đạo, mẫu mực mà thích xuề xòa, gần gũi của

Kim Lân được biểu hiện rõ nét.

Tính cách nhân vật trong tác phẩm tùy bút của Đỗ Chu, trừ một số bài viết về trận

chiến thì hầu như không có những chi tiết mâu thuẫn, xung đột giữa các tuyến nhân vật. Có

chăng chỉ là những yếu tố môi trường, điều kiện sống để các nhân vật của ông hiện lên

không giống nhau. Trong phần tùy bút Thăm thẳm bóng người, ở bài số 2, ý chí vươn lên

của Việt kiều Thái, ông Thavi Quý, được tô đậm khá rõ nét: “Năm 1951, cơ quan này phải

đóng cửa, ông Quỳ về nước để nhận nhiệm vụ khác còn anh Quý thì xin phép được ở lại,

định cư hẳn bên Thái. Thân cô thế cô, bắt đều bằng một thời lang bạt với hai bàn tay trắng

và một cái túi rỗng lặn lội sống giữa xứ người” [18; 30].

Việc nhà văn miêu tả thành công tâm lí của chân dung nhân vật phải kể đến dòng độc

thoại nội tâm. Đây là một phương tiện giúp nhà văn đi sâu vào thế giới nội cảm của nhân

vật. Tùy bút Ghi chép ở Ban Mê kể câu chuyện xúc động về người chiến sĩ xích vệ năm xưa

nay tìm về mảnh đất Tây Nguyên nơi lưu dấu những kỉ niệm một thời. Ở đó, ông đã từng

chiến đấu và sống những năm tháng cơ cực. Hành trình tìm về với vùng đất này là tìm về

trả nợ những người đã cưu mang, cứu sống ông như hai ông cháu người dân tộc Y Bí Alêô.

Đỗ Chu ghi lại những xúc cảm dạt dào của ông Đắc khi tìm về chốn xưa qua dòng độc thoại

nội tâm. Cảnh đổi thay, người xưa vắng. Người xích vệ ngẩn ngơ nhớ đến đồng đội cũ.

Nghe bài Độc huyền cầm của một ông bạn nhạc sĩ, ông Đắc cảm thấy xót xa, thương cho sự

cô đơn, lẻ loi của mình: “Độc huyền cầm buồn lắm mấy ai tri ân, độc huyền cầm lẻ loi

ngang cánh chim hồng, bất phong kì tả tơi, Lĩnh nam cầm lả lơi, khách anh hùng còn ai tri

âm, độc huyền cầm, gió mây ngàn bể đông cũng thu về một bóng, tráng sĩ ngồi lặng câm tri

âm độc huyền cầm” [17; 25]. Đôi khi ông Đắc tự hỏi sao mình lại thương nhớ mảnh đất

Tây Nguyên này. Phải chăng phần đời trai trẻ của ông đã nằm lại nơi đây, cả đứa con trai

của ông cũng chết trên mảnh đất này mà chưa tìm thấy xác ? Chính mảnh đất thiêng liêng

này đã nợ ông một món nợ lớn. Đôi lúc buồn cho thân phận, ông tự buông xuôi: “Thôi thì

mặc kệ đời, nước trôi thuyền trôi, ta đâu phải là người đội đá vá trời. Hãy cứ cố mà sống

thêm lấy dăm mười năm thử xem đời sẽ đi về đâu” [17; 25]. Lúc nào ông cũng mang nặng

nỗi thướng nhớ Tây Nguyên: “Con người ta rất có thể sinh một nơi, chết một nơi và suốt

đời lại mang một lòng thương nhớ về một nơi khác” [17; 25]. Và ông phải tự tìm thấy niềm

vui bằng việc nâng niu, gìn giữ kí ức: “Như là số phận vậy, hạnh phúc mà ta tìm thấy ở nơi

này có lẽ không gì khác hơn là ta biết yêu thương nó” [17; 44]. Hình như tuổi già mang đến

cho người ta những suy nghĩ hướng vào thế giới tinh thần nhiều hơn, tự soi bóng mình

trong mặt nước thời gian tĩnh lặng phảng phất hơi sương của kí ức. Đọc tùy bút Ông già

ngồi dịch Đăm săn, người đọc thường trông thấy hình dáng cụ giáo Thấu lặng lẽ trong

không gian nhỏ quen thuộc sau mấy mươi năm rong ruổi kiếm tìm nét đẹp văn hóa của

miền đất Tây Nguyên bao la, rộng lớn: “Cụ Thấu toan ngồi vào bàn thì có tiếng kẹt cửa, cụ

bà đang nhòm vào, chắc là bà ấy xem mình có còn ngồi đây nữa hay không chứ gì, bà cứ

yên tâm đi. Thấu này vẫn còn tiếp tục ngồi, nó còn ngồi đây lâu (…) Hôm nay mà Thấu này

còn chưa được vui thì hỏi còn là hôm nào đây. Cụ nhìn ra ngoài cửa sổ, mưa bụi đang làm

mờ mịt một vùng thành phố. Đầu óc lại chợt muốn quay về với những ngày đã xa, cụ lại

nghĩ đến họ, những học trò, những đồng chí của cụ. Tất cả đều được cụ điểm danh, từng

khuôn mặt đều được cụ gọi về. Thấu này vẫn đang sống xứng đáng với các bạn, Thấu này

vẫn đang làm việc và nó đang bước đến gần, nó đang sờ thấy kết quả của công việc” [17;

62]. Như thế, dòng tâm tư miên man của cụ giáo Thấu đưa người đọc đến với thế giới nội

tâm của ông, một người từng kinh qua những năm tháng tìm tòi, cống hiến không mệt mỏi.

Những năm tháng ấy không ngừng bồi đắp lên tâm hồn người thầy giáo ấy bao kỉ nệm thân

thương, ấm áp. Cụ lặng lẽ ngắm mình sau ba mươi năm ròng rã gắn bó với Tây Nguyên dấu

yêu và phập phồng nghĩ về công trình nghiên cứu, dịch thuật, hiệu đính sử thi Đăm Săn của

mình sắp được ra mặt độc giả. Rõ ràng, với dòng độc thoại nội tâm, nhà văn khơi sâu, khắc

họa có chiều sâu hơn đời sống nội tâm của nhân vật.

Một thành công khác trong nghệ thuật khắc họa chân dung là nhà văn sử dụng một hệ

thống ngôn từ đắc địa, ấn tượng, thâu tóm thần thái, tính cách cũng như những đặc điểm

thuộc về nhân vật. Vì thế, ấn tượng về mỗi nhân vật không bao giờ bị trùng lập hay chồng

chéo. Nhà văn sáng tạo ra những câu chữ giàu sức biểu hiện theo cái nhìn rất riêng tư của

tác giả. Sau khi viết về chặng đường mà nhà văn Trần Hoài Dương đã trải qua, những dấn

thân và phấn đấu không ngừng trong sự nghiệp cầm bút, Đỗ Chu dành những lời cảm nhận

về văn phong của ông: “Hay một cách yên ả, không ồn ào, đẹp một cách mong manh dung

dị như cây cỏ lan kia đang lặng lẽ tỏa hương nơi u cốc (…) Anh đã nói được với họ nhiều

lắm, đã nói được điều có ý nghĩa rất chính yếu, rất căn bản, đó là việc ngày ngày chăm chỉ

nuôi dưỡng lòng trung hậu, lòng nhân ái” [17; 95]. Hãy xem tính cách nhà văn Nguyễn

Minh Châu hiện rõ qua dòng miêu tả với ngôn từ giàu giá trị tạo hình: “Anh nghển cổ lên

như chọt nghe thấy tiếng ai đang thì thầm, rồi anh nhìn thấy người đang ngồi xung quanh,

nở một nụ cười buồn bã. Không ai có cái cười vô duyên như anh. Rồi bằng một giọng nằng

nặng khê khê của người vùng biển Quỳnh Lưu, anh bắt đầu độc thoại” [17; 145]. Đến với

Nguyễn Tuân, Đỗ Chu luôn dành cho ông một cái nhìn ngưỡng mộ, yêu mến. Hình ảnh

người nghệ sĩ giàu cá tính và phong cách sáng tác độc đáo hiện lên qua ngôn từ miêu tả cử

chỉ tỉ mỉ, cà kê, có vẻ lẩn thẩn, kì quặc: “Ông cụ thường đổ ra la liệt ra chiếu để tìm một

vật gì đó, hết ngắm nghía cái này cái nọ một lúc lại ném tuốt cất đi. Một chiếc tẩu cổ với

một hợp thuốc lá vụn, một lọ tăm tre với mươi chiếc tăm vót công phu, cái bút máy và cuốn

sổ ghi chép, chút rượu đế và chút thức nhắm khô được gói cầu kỳ, nhiều khi trong đó chỉ là

một con mực nướng. Ông đã mang cái túi ấy đi khắp gầm trời này, đã lang thang cùng nó

rong chơi một đời và cũng đã để lại sau lưng mình một sự nghiệp sáng tạo âm thầm và khó

nhọc với những cuốn sách ở đẳng cấp cao” [18; 83]. Nguyễn Tuân thật nặng nợ với văn

chương. Có thể nói văn chương chính là cuộc sống của ông, cá tính trong đời thường thống

nhất với cá tính trong sáng tạo nghệ thuật. Ở ông, con người xã hội và con người nghệ sĩ

không có sự tách bạch mà luôn thống nhất trong cùng một bản thể.

Mỗi nhân vật, Đỗ Chu dành cho một kiểu ngôn từ riêng sao cho xứng hợp với từng cá

thể, nhất là cá thể đó là người có cá tính. Nhờ thế mà nhân vật trên trang viết của ông mang

một thần thái riêng, một cá tính riêng, một phong cách riêng. Thông qua các câu chuyện

làng văn mà Đỗ Chu kể, chân dung người nghệ sĩ hiện lên sống động: một Nguyễn Tuân tài

hoa mà tính cách chỉ tóm gọn trong hai chữ dáng kiêu và cốt kiêu; một Nguyễn Khải thông

minh và tỉnh táo, dám nói những điều người khác không dám; một Kim Lân quê mùa, mộc

mạc, hồn hậu; một Chế Lan Viên uyên bác, duy lí, nhưng đôi khi cả nghĩ và dễ tủi thân;

một Hoàng Cầm lãng mạn và hồn nhiên nhưng bên trong luôn chứa nhiều u uẩn và nỗi

niềm xa xăm…Tất cả đều là hiệu quả thẩm mĩ của sự cảm nhận, lối miêu tả độc đáo và hệ

thống ngôn từ sống động, tài hoa.

3.2 Nhịp điệu và giọng điệu

3.2.1 Nhịp điệu

Nhịp điệu là phương tiện quan trọng để cấu tạo hình thức nghệ thuật trong văn học, dựa

trên sự lặp lại có tính chất chu kì, cách quãng hoặc luân phiên của các yếu tố có quan hệ

tương đồng trong thời gian hay quá trình nhằm chia tách và kết hợp các ấn tượng thẩm mĩ.

Trong văn học, nhịp điệu là sự lặp lại cách quãng đều đặn và có thay đổi của các hiện tượng

ngôn ngữ, hình ảnh, mô típ, nhằm thể hiện sự cảm nhận thẩm mĩ về thế giới, tạo ra cảm

giác vận động của sự sống chống lại sự đơn nhất, đơn điệu của văn bản nghệ thuật. Như

vậy, nhịp điệu là sự cảm nhận của nhà văn về sự vận động của cuộc sống được miêu tả

trong tác phẩm. Thực ra viết văn là để đi tìm và tiến đến nhịp điệu. Và “trong tác phẩm tự

sự, nhịp điệu trần thuật chủ yếu được xác định được bởi tiến trình nhanh hay chậm của các

tình tiết, biến cố” [50; 45]. Ở phương diện này, chúng ta thường nhắc tới nhịp điệu trần

thuật nhanh, căng thẳng, gấp gáp được tạo nên bởi liên tiếp các sự kiện, biến cố xảy ra dồn

dập đối với cuộc đời các nhân vật, trong các tác phẩm của các cây bút hiện thực phê phán

như Tắt đèn (Ngô Tất Tố), Giông tố (Vũ Trọng Phụng), Bước đường cùng (Nguyễn Công

Hoan); còn nhịp điệu chậm rãi, thong thả trong các tác phẩm của các cây bút văn xuôi trữ

tình như Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ DZếnh.

Một nhà văn nước ngoài từng nói: “Viết văn là cảm thấy một nhịp điệu, là tiến gần đến

nhịp điệu ấy”. Văn xuôi nói chung, tùy bút của Đỗ Chu nói riêng là một thứ văn có nhịp

điệu. Nhịp điệu đó được thể hiện ở khắp tác phẩm. Người đọc văn Đỗ Chu cũng cảm thấy

có cảm tình ở nhịp điệu lời văn. Nhìn chung, nhịp điệu trần thuật tùy bút của Đỗ Chu phổ

biến là nhịp điệu khoan thai, chậm rãi,sâu lắng...

Ba mươi hai bài tùy bút của ông có vô số chi tiết, sự kiện nhưng hầu như không có

biến cố gì trọng đại, chủ yếu là kể chuyện đời chuyện người, miêu tả cảnh sắc thiên nhiên.

Như chúng tôi đã nhận xét, tính cách nhân vật trong tùy bút của Đỗ Chu không được xây

dựng trên mối xung đột hay mâu thuẫn cá nhân, giai cấp và dân tộc. Nó chủ yếu được khắc

họa bằng giọng kể nhẹ nhàng, sâu lắng với những câu chuyện đời thường gần gũi. Hoạt

động của các nhân vật cũng diễn ra một cách chậm rãi, khẽ khàng. Không có hoạt động hay

biến cố thật lớn diễn ra trong một khoảng thời gian rất ngắn để gây ấn tượng về sự vận

động nhanh chóng của sự vật và thời gian kéo theo nhịp điệu nhanh, gấp. Chính vì biến cố

ít nên ấn tượng về sự chậm chạp, rề rà trong tùy bút của Đỗ Chu là tất yếu. Tùy bút Lời mai

trò chuyện cũng chỉ với nội dung giới thiệu về tên tuổi, nhân cái tuổi mà bàn rộng chuyện

rồng trong quan niệm nhân gian, rồi tiếp đến nói về tính cách điềm đạm, khề khà, nhát gừng

…của Mai Ngữ, quá trình tham gia kháng chiến và những cảm nhận về văn chương của

ông. Đồng thời, những lời nói và hoạt động của nhà văn Mai Ngữ đều được gián tiếp kể lại,

miêu tả lại trong lối tự sự từ tốn của nhà văn Đỗ Chu. Chính lối tự sự gián tiếp này cũng đã

làm chậm lại các sự kiện.

Ít các biến cố, nhà văn Đỗ Chu còn chiêm vào câu chuyện những tình cảm, nhận xét,

đánh giá đối với các đối tượng được phản ánh và những chiêm nghiệm, suy tư về nghệ

thuật và cuộc đời. Đó là những ngoại đề trữ tình. Chúng “là hình thức của ngôn từ tác giả;

là ngôn từ của tác giả kiêm người trần thuật, bị chệch ra ngoài việc miêu tả các sự kiện

trong cốt truyện, nhằm bình luận và đánh giá về chúng, hoặc điều khác không trực tiếp gắn

với hành động của tác phẩm” [40; 222]. Trong tùy bút Một con người ra đi, trước sự kiện

Văn Cao qua đời, Đỗ Chu có đến ba đoạn văn suy niệm về cuộc ra đi của người nghệ sĩ tài

hoa ấy. Ở đây chỉ trích dẫn đoạn thứ hai, một đoạn văn mang nhịp điệu trầm tư, sâu lắng:

“Làm người là hữu thân hữu khổ, hữu hình, hữu hoại. Vậy thì sướng hay khổ chưa phải là

lẽ lớn, được hay mất cũng chưa lớn, sống hay chết cũng chưa phải là chuyện gì quá ghê

gớm. Những toan tính tầm thường, những mưu sự xoàng xĩnh chẳng qua cũng chỉ là vơ bèo

gạt tép, nào có cao giá nỗi gì. Văn Cao vụng dại và xin chắp tay chịu thua, ông không có sự

chuẩn bị để làm những việc ấy, ngay từ lúc sinh ra bên cây mận trắng đầu nhà. Ông sinh ra

là để hát giữa nhân dân mình và cùng nhân dân mình vật vã đứng dậy giành chính quyền

làm người” [17; 198]. Những ngoại đề trữ tình tồn tại song song với những câu chuyện

được nhà văn trần thuật, khi thì ở vai trò dẫn dắt, khi thì dùng để đưa người đọc đi vào thế

giới của xúc cảm và chiêm nghiệm sâu xa của chủ thể sáng tạo. Chỉ có điều chúng không

xuất hiện suông, độc lập mà luôn luôn gắn kết, hài hòa, pha trộn nhuần nhị với chi tiết, sự

việc. Có thể nói những ngoại đề trữ tình là sở trường của tác giả và cũng là một nội dung

thẩm mĩ quan trọng, chính yếu tạo nên đặc trưng cho tùy bút của Đỗ Chu. Giả sử nếu không

có những ngoại đề trữ tình chắc chắn các tác phẩm tùy bút của ông sẽ mất đi phong vị rất

riêng của thể loại. Cho nên, ẩn sau mỗi câu chuyện là cái tôi tùy bút Đỗ Chu, một cái tôi

không những làm nên sự hấp dẫn cho tác phẩm mà còn trì hoãn thời gian, níu kéo sự kiện

tạo ra những khoảng tâm tư để xúc cảm và suy tư. Đây cũng là một trong những yếu tố làm

cho nhịp điệu trần thuật trong tùy bút của Đỗ Chu ít khi dồn dập, gấp gáp.

Một nguyên nhân nữa khiến cho tùy bút của Đỗ Chu mang nhịp điệu slow là nhà văn

có sử dụng phổ biến lối trần thuật hồi cố. Theo Galperin: “Hồi cố là một phép lặp độc đáo.

Lặp lại ý nghĩa khiến tiến trình kể chuyện đương nhiên chậm lại” [40; 35] . Những dòng hồi

tưởng của tác giả thường chiếm một nội dung khá lớn trong truyện ngắn cũng như trong tùy

bút của Đỗ Chu. Cái tôi hay hoài niệm về quá khứ đưa ông đến với lối viết hồi cố. Tùy bút

Về quê đốt lửa là tác phẩm được viết bằng kiểu trần thuật hồi cố, trong đó tất cả những

chuyện kể được khơi lên từ một miền kí ức xa xưa, cảnh đất cảnh người được bao bọc trong

vầng ánh sáng của nỗi thương nhớ miên man sâu thẳm. Cái tình đối với quê hương xứ sở

biến những cái tầm thường, dung dị, giản đơn thành những trang văn giàu chất thơ. Ta như

thấy Đỗ Chu một mình lặng lẽ thả hồn về giấc mơ tuổi thơ, chậm rãi đi trên những con

đường làng, những bãi đê xanh ngời sắc cỏ… Hết tìm về kỉ niệm chăn trâu, tắm sông, mơ

màng với tiếng gà gáy gắn liền hình ảnh người bà già nua, nghèo khổ, nhà văn lại nhớ quay

quắt hình ảnh cô bé nhỏ năm nào…Mới đó mà đã mấy mươi năm trời có lẽ. Tất cả dòng hồi

tưởng của nhà văn được trải ra theo nhịp điệu chậm rãi, nhẹ nhàng, lãng đãng như khói

sương huyền hoặc…Không những thế, Đỗ Chu tái hiện lại chân dung như chân dung người

lính, chân dung nghệ sĩ, chân dung trí thức uyên bác…cũng bằng cảm thức hoài niệm, nhớ

thương. Một ngòi bút luôn tìm về với quá khứ thì không thể chuộng lối viết gấp gáp hay

mạnh mẽ, dồn dập được. Có thể nói, những dòng hồi cố khá phổ biến và đậm đặc trong tùy

bút của Đỗ Chu như cỗ phanh hãm tiến trình vận động các tình tiết, sự việc trong tác phẩm

làm nên nhịp điệu êm ả, chậm rãi như một nét phong cách nổi bật của nhà văn.

3.2.2 Giọng điệu

Giọng điệu là một phạm trù thẩm mĩ của văn học, là một trong những yếu tố quan

trọng của tác phẩm văn học, thể hiện phong cách, cá tính sáng tạo của nhà văn.

Khrapchenco quan niệm: “Những đặc tính cơ bản của lĩnh vực giọng điệu trong tác phẩm

nghệ thuật của nhà văn, sự ưu tiên của phong cách cũng có liên quan mật thiết đến cảm

hứng chủ đạo trong sáng tác của nhà văn” [58; 105]. Ngoài ra, ông còn cho rằng: “Đề tài, tư

tuởng, hình tượng chỉ được thể hiện bằng một môi trường giọng điệu nhất định, trong phạm

vi một thái độ cảm xúc nhất định đối với đối tượng sáng tác, đối với những mặt khác nhau

của nó, hiệu xuất cảm xúc, lối kể chuyện…lời lẽ trữ tình trước hết thể hiện ở giọng điệu chủ

yếu vốn là đặc trưng của tác phẩm văn học với tư cách là một chỉnh thể thống nhật hoàn

chỉnh” [58; 106]. Còn tác giả của Từ điển thuật ngữ văn học thì quan niệm: “Giọng điệu có

vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn” [39; 134]. Vì nó “với giọng điệu trời

phú của mỗi tác giả, nhưng mang nội dung khái quát nghệ thuật phù hợp với đối tượng thể

hiện” [39; 134]. Turghenhep cũng đưa ra nhận định: “Cái quan trọng trong văn học là tiếng

nói của mình, là giọng điệu riêng biệt của chính mình không thể tìm thấy trong cổ họng của

bất kì một người nào khác” [50; 168].

Như vậy, đặc trưng nổi bật của giọng điệu là màu sắc cảm xúc trong mối liên hệ mật

thiết với các yếu tố thuộc nội dung cũng như hình thức tác phẩm. Tìm hiểu thế giới nghệ

thuật trong tùy bút của Đỗ Chu không thể bỏ qua yếu tố giọng điệu, một trong những biểu

hiện mối quan hệ giữa chủ thể sáng tạo và khách thể phản ánh trong hệ thống tùy bút của

nhà văn. Đỗ Chu là người sớm định hình cho mình một phong cách riêng. Trong đó giọng

điệu là yếu tố quan trọng góp phần làm nên phong cách văn xuôi của ông.

Trong các nhà văn đương đại, nếu Nguyễn Khải mang giọng điệu sắc sảo, góc cạnh,

thấm đẫm chất triết luận, Nguyễn Huy Thiệp mang giọng điệu suồng sã đầy cá tính thì Đỗ

Chu trong văn xuôi nói chung, tùy bút nói riêng lại có giọng điệu đa âm, đa sắc. Giọng điệu

trong tùy bút của ông là một bản hợp âm hòa phối nhiều giọng điệu như giọng điệu trữ tình

sâu lắng, giọng điệu suy tư – triết luận, giọng điệu sử thi hào hùng, giọng điệu hài hước,

châm biếm. Trong bản hợp xướng đa âm đó thì trữ tình sâu lắng và suy tư – triết luận là

những giọng điệu giữ vai trò chủ âm.

Đến với tùy bút của Đỗ Chu, xét trên bình diện âm hưởng, giọng điệu của các trang văn

thường ngân lên những nốt trầm bình tâm tình, sâu lắng. Nhà văn tự sự nhưng không phải

theo kiểu thuần túy mà bao giờ cũng ẩn chứa những sắc điệu tình cảm, được thể hiện qua

giọng văn. Một niềm vui lan tỏa trong tâm hồn khi từ trên cao tác giả nhìn xuống núi đồi

Tây Nguyên: “Một lúc thì bay vào vùng trời Tây Nguyên. Tôi nhìn xuống thấy những vạt

đất mênh mông, rừng mênh mông, cỏ mênh mông, vài ba chú bò sữa nhởn nhơ trong nắng

vàng thật thanh bình” [17; 35-36]. Cảm giác dễ chịu, thoáng đãng được truyền đến từ

những âm tiết sử dụng khá nhiều thanh bằng dịu nhẹ. Có cảm tưởng như chúng lướt nhẹ

bay lên không trung cao vòi vọi hòa cùng tiếng gió ngàn cất lên khúc hát về Tây Nguyên.

Tất cả những đối tượng được ông đưa vào tác phẩm phần lớn là những người thân thiết

với nhà văn. Tình cảm yêu mến cũng được gửi gắm rất nhiều vào trong giọng điệu. Viết về

Trần Hoài Dương, nhà văn Đỗ Chu dành cho ông những lời tâm tình, thân ái: “Đến bây giờ,

tóc anh Trần Hoài Dương đã bạc trắng cả rồi, vợ chồng nhìn vào mắt nhau đều thấy sắp qua

một kiếp người rồi, thôi thì sống ở đời nào có mấy ai ít cay đắng gian nan, điều đó có sá gì,

nhưng chắc chắn là đã trông thấy một kết cục làm ta có thể vui mừng được, hoàn toàn có

thể lấy làm trang trọng và thanh thản, ấy là anh chị đã có một đứa con trai khôn lớn nên

người và cùng với nó là những cuốn sách có sức sống lâu bền giữa một thời cuộc cơ chừng

còn là lắm bể dâu” [18; 94]. Sự đồng cảm với Trần Hoài Dương khiến lời văn của Đỗ Chu

khẽ nhẹ như gió thoảng qua vườn nhà ai. Nó vừa lặng lẽ trầm ngâm lại vừa hé mở một niềm

vui xôn xao về những gì Trần Hoài Dương có được sau một đời gian nan khi bóng chiều

tuổi tác đã đổ lên vai áo. Lời tâm tình của tác giả tùy bút nói với bạn, nói về bạn mà như

cũng để trải lòng mình, tự bạch bao nỗi niềm trước cuộc đời dâu bể, đa đoan. Nhà văn Đỗ

Chu có là người có nhiều bạn hữu thân thiết. Ông có cả một trời kỉ niệm và mỗi khi nhớ về

những kỉ niệm, lời văn lại cất lên những giai điệu ngọt ngào, ấm áp. Với nhà thơ Phạm Tiến

Duật, có lẽ kỉ niệm được giữ mãi trong tâm hồn ông là nghĩa cử ân cần, chu đáo mà nhà thơ

đã dành cho ông trong một chuyến lưu lại rừng Trường Sơn: “Hôm chúng tôi rủ nhau ra

suối tắm, khi lên bờ tôi thiếu quần đùi để thay, anh đã chạy về hầm tìm một chiếc mang ra

cho tôi, Chu mặc tạm, anh nói ngọt ngào. Tôi đã mang chiếc quần đùi của anh tới bản Đông

rồi trở về Hà Nội” [18; 56]. Giọng văn lại rưng rưng một niềm thương cảm khi ông nghĩ về

người bạn của mình, nhà thơ Chính Hữu đã vĩnh viễn ra đi: “Bây giờ thì anh đã đi rồi, ra đi

ôm một khối u trong lòng mà mấy ai đã biết, ra đi trong nỗi đau chỉ mình anh chịu, không

một lời than thở, không một tiếng rên, cứ nuốt vào lòng thế, cứ thế mà đi ( …) Những trái

sấu thảng thốt rơi trên mái làm lòng ta bâng khuâng hiểu rằng mùa thu đang về” [18; 130-

131]. Cụm từ mùa thu đang về với bốn thanh bằng mang âm sắc dìu dịu như toả ra cái hơi

lạnh se se của tiết chớm thu, của nỗi trống vắng, cô đơn, sầu muộn trong lòng tác giả…

Cái tôi triết luận là nội dung bên trong đưa nhà văn đi đến sáng tạo ra những câu văn

xuôi mang âm hưởng, giọng điệu trầm mặc của những triết thuyết. Lý Hoài Thu có nhận xét

rất chính xác về văn phong của Đỗ Chu: “Trong tùy bút của Đỗ Chu, người đọc lại bắt gặp

một thứ ngôn từ giản dị, chân phương, nhẹ nhàng song vẫn đượm chất triết lý, suy tư” [80;

85]. Giọng văn của Đỗ Chu thường nặng trĩu mối lo ngại về những vấn đề trong cuộc sống,

nào là vấn đề giáo dục, nào là sự sa sút phẩm chất của một bộ phận quan chức, nào là lối

sống buông thả đang lộng hành trong giới trẻ…hay là vấn đề phát triển kinh tế miền Trung

đầy nắng gió, vấn đề hội nhập kinh tế….Dường như nhà văn chất đầy những mối lo lắng

bận tâm lên trên vầng trán ưa suy nghĩ, ưa ưu tư của mình. Hãy đến với một đoạn văn ngắn

mang giọng điệu trăn trở của nhà văn về vấn đề phát triển kinh tế: “Sức ép dân số đang đặt

ra không biết bao nhiêu vấn đề bức xúc trong xã hội, trong mối quan hệ giữa các dân tộc

anh em, đây chính là một vấn đề lớn đặt ra cho mọi ngành, cho cả nước, nhưng trong đó

ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn chắc chắn phải đóng vai trò gánh vác chủ yếu.

Cắm mặt mà làm, mải miết mà đi, lúc ngẩn lên nhìn thấy nhau đều đã già thật rồi” [17; 38-

39]. Nếu giọng điệu trữ tình hướng vào nội tâm, sâu lắng, lãng đãng, mơ màng… thì ở

giọng điệu suy tư, nhà văn lại tỏ ra hết sức tỉnh táo, có khả năng phân tích và nhận định vấn

đề một cách sắc sảo, phù hợp với thực tế cuộc sống. Chính vì thế, bên cạnh một Đỗ Chu đa

cảm, còn có một Đỗ Chu quan tâm đến thời cuộc, luôn bận rộn những suy nghĩ về tương lai

đất nước. Cách nói của ông vì vậy nhiều lúc có phần duy lý, nặng về những tính toán của

một nhà kinh tế học, thống kê học, xã hội học: “Năm năm về trước, trong một cuộc điều tra

của thế giới, nền kinh tế của chúng ta được xếp ở hàng thứ 47 trong 58 nước được xem đến.

Năm vừa qua, con tàu Việt Nam vẫn đang tiếp tục tiến lên với tốc độ tăng trưởng 7,04% so

với năm trước, nhưng vẫn trong cuộc điều tra qui mô toàn cầu, chúng ta lại tụt xuống sáu

bậc, đứng ở hàng thứ 53 trong 58 nước” [17; 27]. Những thuật ngữ chuyên môn ngành kinh

tế học được Đỗ Chu sử dụng nhuần nhị, chính xác giúp ông diễn đạt rõ ý tưởng. Có thể lọc

ra một số thuật ngữ ấy như điều tra qui mô toàn cầu, hội nhập, tốc độ tăng trưởng, cơ hội,

thách thức, vận hội mới…

Giọng văn tỉnh táo, mang tính tư duy cao, đầy sức thuyết phục còn được thể hiện khi

Đỗ Chu trình bày các quan niệm về tác phẩm và nhà văn. Câu văn không còn nhẹ nhàng,

trầm lắng mà trở nên sôi nổi, cao giọng, nghiêm nghị, thậm chí gay gắt khi ông cật vấn, phê

bình, đối với những nhà văn không làm tròn thiên chức của người cầm bút: “Đời sống hôm

nay đang đặt ra, mọc ra nhiều vấn đề quá lạ lùng, những vấn đề khiến những ai đang sống

đều phải biết nhạy cảm. Là người cầm bút mà thờ ơ được sao. Sự rờ rẫm ma mụ là biểu

hiện của những nhân cách ươn hèn, viết viếc gì, bất quá cũng chỉ là một mớ chữ gà bới của

đám học trò vô sư vô sách, không được dạy bảo đến nơi đến chốn” [17; 259]. Âm hưởng

câu văn dồn dập, gấp rút, căng thẳng mang nội dung là những vấn đề có tính bức thiết của

những người mang danh la nhà văn: “Trách nhiệm của nhà văn trước thực trạng này ra sao

? Không ai nghĩ rằng tất cả các nhà văn đều viết ra những cuốn sách tội lỗi đó, nhưng người

ta vẫn có quyền trách một khi anh chưa có nổi những cuốn sách đủ sức hấp dẫn, đủ sức thu

hút thật nhiều bạn đọc” [17; 260].

Khi bày tỏ quan niệm về nhân sinh, giọng điệu văn chương của nhà văn lại chuyển

sang âm sắc thâm trầm, không phải cái trầm lắng của thi nhân mà là cái trầm ngâm của một

triết nhân. Câu văn không dàn trải mà cô đúc trong những câu chữ thật chắc, thật chặt mang

giá trị tư tuởng triết lí cao: “Một ngày ta sống với nó là một ngày đầy nếm trải, có khi phải

cố mà sống, phải bỏ qua nhiều chuyện để mà sống, đến lúc vừa hiểu được nó thì tóc trên

đầu đã điểm bạc. Như là số phận vậy hạnh phúc mà ta tìm thấy ở nơi này có lẽ không gì

khác hơn là ta biết yêu thương nó” [17; 44]. Và còn nhiều câu văn, đoạn văn bày tỏ những

chiêm nghiệm cũng mang giọng điệu trầm ngâm, vững chãi làm người đọc liên tưởng đến

một triết nhân rảo qua khắp nẻo đường cuộc sống, chốc chốc lại thốt ra những những suy

niệm về nhân thế…

Tập tùy bút Những chân trời của các anh có nhiều đoạn văn mang giọng sử thi hào

hùng, trong đó chúng tôi nhận thấy Đỗ Chu có một tone cao vút, mạnh mẽ, tươi sáng, hào

sảng…Những sắc điệu ấy cốt yếu để diễn tả niềm lạc quan trước sự hồi sinh của đất nước:

“Đất nước sinh sôi những công trường, những nhà máy, những con đường vượt rừng,

những con đường ra biển. Đất nước sinh sôi những thế hệ nối tiếp nhau biết cắm lá cờ đỏ

lên dinh lũy cuối cùng của sự nghèo đói và lạc hậu của những cách sống quẩn quanh và ti

tiện. Để hùng dũng bay lên, để khuôn mặt nhân dân bừng sáng hơn bao giờ hết” [14; 51].

Nó còn để ca ngợi, tự hào bản lĩnh, sự chính nghĩa của dân tộc ta và kết tội, coi khinh sự

hèn kém, phi nghĩa của kẻ thù: “Chúng điên dại mà ta thì sáng láng, chúng dữ dằn độc địa

mà ta thì vẫn cứ bình tĩnh. Chúng là lửa mà ta là nước. Ta bước vào cuộc chiến đấu với tư

cách là một người luôn luôn trung thực và chúng không thể nào gọi khác hơn là quân phản

bội, phản bội các dân tộc láng giếng, phản bội chính cả nhân dân chúng. Cho nên chúng

đông quân lắm mà không hề mạnh, ta ít hơn, nghèo hơn mà vẫn cứ không hề yếu” [14; 23].

Điệp từ chúng được dùng như là một thủ pháp nghệ thuật đắc địa, phát huy tối đa sức mạnh

của câu chữ để thể hiện thái độ quyết liệt trước kẻ thù. Và giọng điệu ấy còn được thấy

trong bức chân dung về người chiến sĩ: “Các anh phải đội mưa bom và đạn pháo của kẻ thù

giữ vững một vùng đất rất hẹp. Giờ vẫn vậy, các anh vẫn giữ một mảnh đất rất hẹp. Nhưng

đó lại là mảnh đất Tổ quốc, mà đã là Tổ quốc thì không thể lớn hay nhỏ” [14; 50]. Ta còn

thấy giọng điệu khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng trong cuộc bảo vệ biên giới phía

Bắc năm 1979: “Ta nhân danh Tổ quốc. Nhân danh Đảng ta, nhân danh sức mạnh vô địch

của chủ nghĩa xã hội, của anh em đồng chí. Lại những năm tháng trường kì gian khổ, lại

những ngày tháng vất vả lao lung, nhưng có hề gì, một khi ta đã hiểu đời ta sẽ không thể

nào sống nổi nếu quay lại kiếp người nô lệ (…) Tự lòng ta sâu thẳm vang lên, át mọi thứ

kèn thứ súng, vang lên hai tiếng Việt Nam” [14; 28].

Để tạo ra giọng điệu sử thi hào hùng, Đỗ Chu vận dụng nhiều thủ pháp nghệ thuật, nhất

là sử dụng cấu trúc câu đảo ngữ, điệp ngữ: “Chưa bao giờ hết khó khăn, chưa bao giờ

không nghèo túng, nhưng quả thật chưa bao giờ thôi gan góc và bền bỉ” [14; 25]. Điệp ngữ

chưa bao giờ lặp lại đến ba lần trong một câu văn không dài lắm. Hiệu quả nghệ thuật của

nó là dùng phủ định làm đòn bẩy để nâng cao tầm vóc, chí khí, bản lĩnh của dân tộc ta trong

cuộc đọ súng với kẻ thù để giành lại non sông. Không chỉ bó hẹp trong phạm vi một câu,

một vế câu, hình thức nghệ thuật này còn được sử dụng ở cấp độ rộng hơn. Đó là phạm vi

tương liên giữa các câu văn: “Tất cả giờ đây đã thay đổi, bây giờ nơi đó là một công trình

nhiệt điện. Một nhà máy nhiết điện có cỡ không còn bao lâu nữa sẽ ra đời. Không còn bao

lâu nữa phố phường, làng mạc gần xa quanh đây đều sẽ bừng lên, quê hương chúng ta bừng

lên, bóng tối bị dồn đuổi, đói nghèo dốt nát bị dồn đuổi” [14; 86]. Điệp ngữ liên cú pháp

biến câu văn như một khúc hoan ca thể hiện bao niềm tin và hi vọng về một tương lai mởi

mẻ, rực rỡ. Điêu luyện hơn, nhà văn còn dùng phép đảo ngữ kết hợp với điệp ngữ để phát

huy được tối đa giá trị biểu đạt, biểu cảm: “Đã sống lại mãnh liệt một dân tộc vốn hôm qua

còn quằn quại, đã nghiêm trang một khuôn mặt nhân hậu vốn hôm qua còn tăm tối. Đã thu

về một mối giang sơn vốn từ bao nhiêu thế kỉ trước vẫn luôn luôn bị giằng xé tả tơi và hồn

nước, hồn người, tên nước, tên người, tất cả đã hiện về trong tự do” [14; 96]. Ta còn thấy

nhà văn nhân danh cái tôi dân tộc hô hào, kêu gọi bằng giọng điệu hào sảng với cấu trúc

câu cầu khiến: “Ấm dần lên đi những ngón tay trẻ thơ mảnh mai. Hé dần lên đi, rực sáng

lên đi những nụ hoa lặng lẽ” [14; 104]. Hay khép lại tùy bút Một cành đào nở sớm, nhà văn

cất cao giọng gọi sắc xuân trên cành đào thắm xinh: “Cành đào buổi ấy vẫn còn đây, cùng

với nó là ngọn lửa của những ngày tháng Tám quang vinh, là sức mạnh của một thời đại

bão táp, chúng ta bước vào mùa xuân của nửa thập kỉ 80. Trước mặt là những năm không

thể lùi bước. Chẳng còn bao lâu nữa là thế kỉ 21. Những năm tháng này xiết bao hệ trọng,

xiết bao trang nghiêm. Thời gian đi, chúng ta đi và ngọn lửa không bao giờ tàn lụi và cành

đào ơi, hãy nở sớm mai này” [14; 111]. Trong trích dẫn vừa rồi, ta cảm nhận ra không khí

thời đại như guồng bánh xe mạnh mẽ tiến về phía trước. Cấu trúc câu mệnh lệnh cùng phép

lặp ngữ chính là những yếu tố quan trọng làm cho giọng điệu văn chương trở nên sôi nổi,

mạnh mẽ, giàu sinh khí. Trong dòng độc thoại, nhà văn đã hứng khởi cất lên lời gọi mời:

“Tôi đã thấy và tôi đã nghe như thế. Những năm đó chắc anh đang còn rất trẻ, anh chưa lên

đường, chưa bay lên trời như sau này anh bay, và hẳn anh, một đứa con sinh thành trên

mảnh đất đó, anh phải nghe, phải thấy được nhiều hơn tôi” [14; 129-130]. Có thể thấy với

giọng điệu sử thi, nhà văn thể hiện cảm hứng yêu nước trong những hình tượng thật hoành

tráng.

Tùy bút của Đỗ Chu còn mang một giọng điệu nữa, đó là giọng điệu hài hước, châm

biếm. Thi thoảng ta vẫn thấy Đỗ Chu ẩn giấu những nụ cười trào lộng tươi vui trong cái

giọng điệu ấy. Nụ cười hài hước thường được xuất hiện trong những trạng huống gắn liền

với suy nghĩ hài hước của nhân vật trước sự việc đáng cười. Nhìn chung nhà văn khai thác

tiếng cười hài hước chủ yếu ở lối diễn đạt có trong lời nói và dòng ý thức của nhân vật. Ở

bài tùy bút Kìa đàn hồng hạc, sau khi điểm lại những con số nói lên tình hình phát triển

kinh tế, nhà văn kêu gọi mọi người bước vào một mùa xuân mới đầy tự tin và bản lĩnh bằng

một câu văn trào tếu: “Bước đi mùa xuân này của chúng ta là một bước đi trưởng thành đầy

tự tin như thể một thiếu phụ nhận ra rằng muốn có con để bế thì không được sợ đàn ông

vậy” [17; 7]. Đúng là một kiểu liên tưởng – so sánh mộc mạc, thật thà nhưng thật thú vị,

khiến cho những ai nghiêm nghị nhất cũng phải mở một nụ cười sảng khoái. Cũng trong bài

tùy bút ấy, Đỗ Chu còn tiếp thêm cho độc giả một tiếng cười khác dài hơn, giòn giã hơn:

“Mười tám tuổi tôi bắt đầu cầm bút, mẹ tôi mát mẻ bảo: Mẹ nghe chừng anh muốn viết văn,

cũng được, nhưng phải viết thế nào để được như nhà chị gì sáng sáng vẫn có lời mở đầu

cho Đài Tiếng nói Việt Nam thì mới giỏi. Thật là trang trọng, mà lại cảm động. Anh vào

đời cố mà gặp một người như thế để lấy làm vợ thì đấy mới thật là cái phúc lớn cho cả nhà,

cả họ, cả tổng nhà anh” [17; 8]. Cái lời lẽ quê kiểng, chân chất, thô mộc của bà mẹ thuần

phác, nửa đùa nửa thật làm mọi người phải tủm tỉm cười nụ. Ở tùy bút Cát nóng, bên cạnh

giọng điệu có vẻ hệ trọng, nghiêm túc trong việc nói về mảnh đất và con người miền Trung

đầy nắng và gió, như chừng cảm thấy giữ cái giọng điệu ấy lâu sẽ làm mọi người căng

thẳng, nhà văn đã xen vào một giọng điệu vui tươi, dí dỏm trong dòng suy nghĩ hài hước

của bà giám đốc khách sạn trước những ông khách đạo mạo, lịch thiệp nhưng lại có hành

động hết sức kì quặt: “Bà giám đốc khách sạn quay đi giấu một nụ cười mỉm. Khách phải

gió, thuốc lá không hút nhưng lại hút thuốc lào, bày bừa cả một căn phòng hạng nhất, rồi

bây giờ người ta mang tiền tới thết tiệc thì lại gọi mỗi người một con cua mặn” [17; 80].

Bên cạnh tiếng cười hài hước, tùy bút của Đỗ Chu còn vang lên tiếng cười trào phúng

phê bình, phê phán những hiện tượng không tốt, oái oăm trong xã hội đương thời. Nhà văn

nói về hiện tượng nhốn nháo, kệch cỡm của một số người khi tình hình giá đất bỗng dưng

tăng vọt: “Lấp ló đứng sau những những bờ ruộng ngoài cánh đồng giờ đây không phải là

những người nông dân một nắng hai sương mà là những ai đó, trong số đó có không ít

những người đang được gọi là cán bộ, miệng nói như rồng cuốn, nhưng xem binh tình này

thì chẳng còn bao lâu nữa sẽ vênh váo bước ra đặt vào tay mỗi chúng ta một tấm các tự giới

thiệu về mình, có kẻ là ông nọ bà kia, kẻ thành cò quay dẫn dắt, hớt hải chạy lên chạy

xuống, gầy gầy béo béo, tưởng vậy mà nhìn kỹ vẫn thấy gượng gạo nhớn nhác thế nào”

[17; 329]. Đỗ Chu còn phản ánh những vấn đề bức xúc, những hạn chế, bất cập ở các lĩnh

vực văn hóa, giáo dục, điện ảnh. Chính việc lựa chọn những câu từ đắc địa, đầy hàm ý, lối

nói nửa như đùa nửa như thật khiến ai đọc lên cũng không nhịn được cười: “Diễn viên nói

chung là xinh, nhưng thường hay bị lột quần, xé áo, mà lại hay ngất nữa, mà Nam bộ gọi là

té xỉu”, hay “sở dĩ chưa làm nổi những bộ phim lịch sử nói về đời Lý, đời Trần, là do đến

một con ngựa cho ra ngựa chúng ta cũng thiếu” sau đó là tiếng cười khẩy: “Hay nhỉ, nhưng

lịch sử dân tộc chúng ta đâu có bắt đầu từ mấy con ngựa” [17; 156-157]. Dù không phải là

chủ đạo nhưng giọng điệu hài hước, châm biếm và giọng điệu sử thi cũng góp phần làm cho

âm sắc, giọng điệu văn chương của Đỗ Chu thêm đa dạng, phong phú, đưa những trang viết

của ông tránh được kiểu một giọng đơn điệu khiến cho đọc giả cảm thấy nhàm chán.

3.3 Ngôn từ nghệ thuật

Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. M.Goocki cũng cho rằng: “Ngôn ngữ là yếu tố thứ

nhất của văn học”. Các tác giả trong Từ điển thuật ngữ văn học khẳng định: “Ngôn ngữ là

công cụ, là chất liệu cơ bản của văn học”, là “một trong những yếu tố quan trọng thể hiện

cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn” mà “tính chính xác, tính hàm súc, tính

đa nghĩa, tính tạo hình và biểu cảm là những thuộc tính của ngôn ngữ văn học” [41; 324].

Như vậy, có nghĩa không có ngôn ngữ thì không thể có tác phẩm văn học, bởi chính ngôn

ngữ chứ không phải cái gì khác đã cụ thể hóa chủ đề, tư tưởng, tình cảm…Ngôn ngữ vừa là

yếu tố đầu tiên được nhà văn sử dụng để kiến tạo tác phẩm cũng lại là yếu tố đầu tiên trong

sự tiếp xúc của người đọc với tác phẩm. Tuy nhiên, ở mỗi loại thể, mỗi nhà văn thì sắc thái

chữ nghĩa văn chương lại có sự khu biệt nhất định nào đó. Xét ngay những nhà văn cùng

thời, nếu Nguyễn Khải có lối văn sắc sảo, góc cạnh, mang đậm tính triết luận; lời văn của

Nguyễn Huy Thiệp có phần suồng sã mang tính cá thể hóa cao thì lời văn nghệ thuật của

Đỗ Chu vừa mực thước vừa giàu chất thơ, chất nhạc. Đỗ Chu quan niệm rằng: “Nhà văn

phải chăm sóc tới từng chữ. Câu chữ phải trở nên như có nhung có tuyết. Kể cả làm ra vẻ

trần trụi, thì đó cũng là sự trần trụi chọn lọc, mà không được xác vờ như khố tải” [54]. Ta

hiểu vì sao có khi “nhà văn đã loay hoay mãi để chờ một chữ”, “viết rồi lại xóa”[54]. Ông

còn cho biết thêm: “đã gọi là văn chương thì trước hết phải hay,…và hay nhất là ở chỗ nó là

văn chương” [54], “cái ma lực do ngôn ngữ tạo ra”. Bên cạnh đó, chất văn của Đỗ Chu còn

được làm nên bởi những hun đúc, ảnh hưởng của cái nôi văn hóa Kinh Bắc, cùng với di sản

văn học thế giới tiếp thu được ở nhà trường, mà theo Nguyễn Hoàng Sơn: “Trong số đệ tử

của ông thầy Nga (Pautôpxki) ấy, Đỗ Chu là nguời nắm được bí kiếp hơn cả” [78; 34].

Nhìn lại toàn bộ hệ thống ngôn từ trong thế giới nghệ thuật văn xuôi của Đỗ Chu, nhất

là ở thể loại tùy bút, ta mới thấy hết sự thống nhất hài hòa giữa quan niệm nghệ thuật và

thực tế sáng tác của nhà văn. Thứ ngôn từ trong trẻo, đầy chất thơ trong văn phong ngọt

ngào, tinh tế cứ bàng bạc khắp các tác phẩm. Sự khổ công tìm tòi trong hành trình sáng tạo

của người nghệ sĩ đã trả cho ông những trang viết mà ngôn từ nghệ thuật đã lên đến đỉnh

cao của sự sáng tạo.

3.3.1 Ngôn từ trong trẻo, giàu chất thơ

Không ít những nhà nghiên cứu, phê bình và người sáng tác đều cho rằng những tác

phẩm văn chương của Đỗ Chu có dải ngôn từ đẹp như thơ, tươi rói như anh tân binh mới

nhận quân phục, đuợc cả làng văn và bạn đọc đón nhận, và là những “bài thơ bằng văn

xuôi” đã “đi rất ngọt vào lòng người đọc”. Bởi đó cái duyên ở câu văn, cách bố trí khi dài

khi ngắn, âm điệu bằng trắc thế nào, Đỗ Chu gần như có được từ bản năng. Các chi tiết, sự

kiện, cảnh trí…đều được nhà văn tái hiện bằng một hệ thống ngôn từ giàu chất trữ tình, gần

gũi với ngôn ngữ thi ca.

Ngôn ngữ thơ tùy bút của Đỗ Chu được gieo rắc trên những áng văn phong cảnh lấp

lánh màu sắc, ánh sáng và âm thanh: “Chim ri đã từng đàn từ đâu bay về bay nhảy trong

mấy lùm nhãn ở trước nhà. Và chúng hót, chúng ồn ã chuyện trò. Tôi ngồi bên cửa sổ hàng

giờ, lắng nghe tiếng chim ngoài vườn và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ

một cách quá công khai, nhưng ngoài chúng có lẽ chẳng ai trên đời này đã hiểu nổi. Đêm

xuống. Trời chuyển rét. Và bất chợt, những tiếng mưa khe khẽ. Khe khẽ mưa. Tôi lắng

nghe tiếng mưa vang vỡ trong đêm (…) Tiếng gà gáy văng vẳng. Rồi khung cửa sổ hiện

lêm mờ mờ, sau cùng, nó hiện ra đầy khơi gợi trong sớm mai. Ùa qua khung cửa ấy là

những làn gió trong trẻo, là tiếng những con chim cũng vừa thức dậy, là tiếng mưa, những

hạt mưa chênh chếch thật bình yên” [14; 5]. Nhà văn dựng lại bức tranh phong cảnh mùa

xuân bằng những nét vẽ ngôn từ thật mềm mại, tinh tế và sinh động. Tất cả cảnh sắc, âm

thanh của buổi bình minh như ngời lên, vang lên những gì là tinh khôi nhất, mới mẻ nhất.

Những từ gợi hình ảnh như lờ mờ, sớm mai, khung cửa, làn gió trong trẻo… làm hiển thị

trong hồn người một buổi sớm mùa xuân đẹp, mát dịu, đem lại cảm giác bình yên. Bên

cạnh đó, những từ gợi âm thanh như ồn ã, véo von, khe khẽ, vang vỡ…cũng làm ngân lên

những thanh âm trong trẻo, rộn ràng. Những câu văn ngắn hài hòa với những câu dài khiến

đoạn văn tựa như một bài thơ được làm theo thể tự do tuôn tràn mạch cảm xúc trong trẻo,

ngọt lành. Khả năng hòa phối giữa màu sắc, ánh sáng và âm thanh làm bức tranh thiên

nhiên có một không gian sinh động, tràn đầy sức sống, chan hòa hương sắc. Nhà văn như

phát hiện ra những biến thái tinh vi của tạo vật, nắm bắt được những khoảnh khắc quí giá

lúc giao mùa. Cái gì cũng nhẹ nhàng, hiền lành và có xu hướng dung hòa để cùng nhau làm

thành một bức tranh mùa xuân đẹp, thanh bình. Đọc Đỗ Chu, chúng tôi chợt nhớ đến những

bức tranh mĩ lệ, thơ mộng được thêu dệt bằng tâm hồn lãng mạn và ngôn ngữ rất giàu chất

thơ của nhà văn của xứ sở bạch dương Pauxtốpxki: “Nhưng đẹp nhất là những lúc trời còn

tranh tối tranh sáng và mặt trăng mờ mờ hơi sương vừa nhô lên khỏi những khu rừng bạch

dương ẩm thấp. Trên bầu trời buổi tối hằn rõ bóng những cành liễu mảnh dẻ. Những đêm

mây trắng đứng yên trên rừng và tỏa một ánh sáng yếu ớt trong bầu không khí màu xám

đen phơn phớt xanh. Rồi đêm tràn ngập không khí mát mẻ và mùi nước đưa hương bắt đầu

ngự trị trên mặt đất bao la đã trở nên im lặng” [57; 77]. Hai nhà văn cùng gặp nhau trong

một thế giới nghệ thuật đầy lãng mạn với những nét vẽ bằng ngôn từ mang dáng dấp thi ca

đã dựng nên bức tranh thiên nhiên thơ mộng, êm đềm, thanh khiết.

Đọng lại nhiều hơn trên trang tùy bút của Đỗ Chu viết về thiên nhiên là hình ảnh bờ cỏ

non, dòng sông, cổng làng, hương nhãn, vạt rừng xanh thẳm, tiếng gà gáy…Trong tùy bút

Về quê đốt lửa, tác giả bồi hồi nhớ cảnh sắc và con người nơi quê nhà. Trong nguồn cảm

hứng hoài niệm ấy, những câu văn xuôi với ngôn ngữ trong trẻo đã gợi lại được một không

gian hiền hòa, yên ả: “Sương mù đục trắng như khói bếp, u uẩn khắp trời đất, một màng

sương có thấm nhè nhẹ mùi thơm thơm chua chua của cây hoa men màu vàng chanh, hoa

mà nom như lá, hoa lá một hình giống nhau, giá không quen chả ai dám bảo đâu là hoa đâu

là lá. Sớm ra có nắng là nức mùi hoa men, chiều xuống mặt trời lặn là có mùi cây cơm nếp.

Trong bóng đêm choàng phủ mênh mông, khắp đường làng ngõ xóm, mùi cơm nếp dâng

lên ngào ngạt” [18; 258]. Tất cả đều giàu sức gợi. Những cảnh sắc ấy bắt nguồn từ một tình

yêu thiên nhiên sâu sắc và một tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, nhạy cảm dễ rung động với những

biến thái tinh vi diễn ra xung quanh.

Ngôn ngữ giàu trong trẻo, giàu chất thơ còn được thấy ở những dòng văn chắp bút từ

cảm hứng hoài niệm về thời thơ ấu của tác giả. Những lúc ấy, bao nhiêu là kỉ niệm trong

sáng, hồn nhiên chợt ùa về. Cảnh làng quê, dòng hoài niệm về tuổi thơ dấy lên trong lòng

tác giả những xúc cảm mượt mà, sâu lắng và được thể hiện bằng một lối viết đầy chất thơ:

“Dòng sông Hồng vừa thoát ra khỏi hai bờ thành phố đã mau chóng tìm lại được vẻ trầm

tĩnh của mình. Nó nhoài trôi lặng lẽ giữa miền đồng bằng thân thuộc. Những mảnh đất đang

được cày xới, những luống đất nâu chạy ngang chạy dọc từ chân đê ra tới mép nước. Rau

tháng ba xanh rờn, hoa cải vàng hào phóng nở rộn ràng như không cần biết ai là người đang

nhìn ngắm nó” [18; 333]. Ngôn từ trong đoạn văn trên không phải là loại ngôn từ mang dấu

vết của sự mài giũa, gọt đẽo công phu mà là thứ ngôn từ nghệ thuật gần gũi, giữ được

phong vị của dân dã, quê kiểng. Vậy mà khi đọc lên, ta như thấy dòng sông Hồng chở đầy

sắc đỏ đang nghiêng mình chảy giữa miền đồng bằng châu thổ làm cho vùng đất này căng

tràn sức sống và mang vẻ đẹp nên thơ. Nhà văn đã xâu chuỗi thứ ngôn từ giàu giá trị tạo

hình để kiến tạo thành một bức tranh làng quê thanh bình, yên ả, gieo vào lòng người cảm

xúc yêu mến và thức dậy những tình cảm hồn nhiên, trong sáng đối với đất quê.

Xu hướng giãi bày cảm xúc trên những trang tùy bút cũng làm cho văn xuôi Đỗ Chu

trở thành những trang thơ văn xuôi: “Còn với tôi thì sao, với tôi hình bóng một người chị

tất tả chạy lên hướng có tiếng súng hôm nào ở cánh đồng làng và những ánh lửa bập bùng

trong tuổi thơ đã là quá đủ để tôi mang theo suốt một kiếp người, ai đó đã nói hành trang

càng nhẹ thì đường đi càng dài. Trong tư cách là một người cầm bút tôi nói, với tôi quê nhà

yêu dấu bao giờ cũng là cội nguồn của mọi sáng tạo” [18; 283]. Cái tình của nhà văn đối

với đất quê là cái tình muôn thuở có thể viết mãi mà vẫn dâng tràn một niềm cảm hứng dào

dạt, bất tận.

Đỗ Chu không bao giờ làm xiết ngôn từ hay có xu hướng bị chữ nghĩa đưa tới trường

hợp duy mĩ. Vậy mà mỗi lần đặt bút viết, ông luôn có những trang văn đẹp, cái đẹp của sự

giản dị, nhẹ nhàng, chân phương. Có thể nói rằng, Đỗ Chu không chuộng lối viết kĩ thuật

hóa nhưng bao giờ ngôn từ nghệ thuật của ông cũng được dìm trong bể cảm xúc ngập tràn.

Vì thế, ông có một loại ngôn từ nghệ thuật lung linh ánh sắc, hòa phối hình ảnh, màu sắc

âm thanh, nhịp điệu cùng với những liên tưởng so sánh giàu sức gợi theo qui luật của cái

đẹp. Bởi vậy, nó lưu giữ mãi trong tâm hồn người đọc những câu thơ bằng văn xuôi mà

không phải người nghệ sĩ ngôn từ nào cũng diễm phúc sở hữu được.

3.3.2 Câu văn giàu tính nhạc, nhiều liên tưởng, so sánh

Văn học, nhất là các tác phẩm trữ tình vốn gắn bó chặt chẽ với âm nhạc. Ở nhiều tác

phẩm trữ tình nhiều khi ranh giới giữa văn học và âm nhạc bị xóa bỏ. Rõ ràng, không nên

đồng nhất âm nhạc và văn học nhưng văn thơ không tách rời với âm nhạc là điều hiển

nhiên. Bởi vì, trong quá trình hình thành ý đồ sáng tác, người nghệ sĩ thường mang một tâm

trạng có màu sắc nhạc tính. Và ứng với mỗi trạng thái tình cảm thì sẽ có một giọng nói, một

cách nói, tốc độ nói thích hợp như thế. Tính nhạc trong văn văn xuôi thường thể hiện ở lối

đặt câu và sự phối hợp chúng trong một liên khúc, thể hiện ở sự phối thanh, đôi khi còn

thấy trong cách hiệp vần theo cấu trúc ngang. Các đoạn văn được nhà văn triển khai như

một cuộc diễu binh hùng tráng.

Đối với văn xuôi Đỗ Chu, gần như nhà văn không quá chú trọng, nhấn mạnh đến vai

trò của tính nhạc như tùy bút Nguyễn Tuân, bút kí nghệ thuật của Hoàng phủ Ngọc Tường

nhưng nơi ông có một nguồn cảm xúc luôn rào rạt chảy không ngừng và phát ra những giai

điệu giàu nhạc tính.

Tính nhạc trong câu văn của Đỗ Chu có trong cấu trúc câu phức mà trong đó thành

phần vị ngữ được mở rộng biên độ đến mức tối đa. Sự tương tác, cộng hưởng giữa các vế

nối đuôi nhau, lặp lại nhau, bổ sung cho nhau đã tạo cho lời văn một giọng điệu giàu tính

nhạc: “Anh tên là Trần Nhị, cũng gốc quê choa, đi khắp trần gian này gặp đồng hương quê

choa là yên trí lớn, đói có ăn khát có uống, gian nan đùm bọc lẫn nhau, sống chết có nhau,

đó là cái nghĩa, cái cách sống mà già trẻ người nào cũng có sẵn, không thế không phải là

người xứ Nghệ” [17; 32]. Nó mang âm hưởng của một kiểu văn biền ngẫu trong văn học

trung đại Việt Nam. Những dấu phẩy tựa như quãng âm ngắn tưởng là tồn tại độc lập nhưng

hóa ra lại hưởng ứng nhau về ngữ nghĩa và âm sắc. Chúng được móc xích trong một chuỗi

thể hiện được cái ngữ khí sôi nổi, hứng khởi của nhà văn khi nói về tình đồng hương mặn

mà, sâu đậm. Tương tự thế, trong tùy bút Quê ngoại, tác giả cũng có vẫn sử dụng kiểu cấu

trúc này, mang lại nhạc tính cao: “Con người ta sống trong trời đất là ngổn ngang những

khôn dại đúng sai, hết đứng dậy lại vấp ngã, lẫn lộn những kiêu hãnh và tầm thường, đầu óc

lúc quang lúc tối, khi nó mở ra thì khôn ngoan vượt cả Khổng Minh, Hàn Tín, mà khi nó

đóng lại thì mở mịt yếu đuối như con vờ ngoài sông vào lúc chiều tà” [17; 112]. Lối suy

nghĩ liền mạch, muốn đi tới tận cùng những nghĩa lí của vấn đề là một trong những yếu tố

mang lại ngữ điệu. Trong nội bộ một câu, Đỗ Chu viết những câu có vẻ như hơi rườm rà,

dây cà dây muống mà đọc kĩ thì chỉ còn thấy một mạch suy tư, xúc cảm liền mạch trào

dâng mà ai cũng có thể hiểu được ý tình. Có thể nói, những câu dài như một con dao hai

lưỡi, nếu non tay sẽ dễ dẫn tới hiện tượng sai cấu trúc, chập cấu trúc, mơ hồ, khiến người

đọc có cảm giác đi vào mê cung chữ nghĩa. Ngược lại, người nghệ sĩ không chỉ tạo ra được

một chuỗi vế câu có tác dụng chuyển tải trọn vẹn ý tưởng mà còn nhạc hóa cú pháp văn

xuôi. Đỗ Chu là người thuộc trường hợp thứ hai, vì ông xây dựng những câu văn vừa có

sức biểu đạt, biểu cảm cao mà vừa có sức tác động nơi độc giả những âm vang, nhạc điệu

của câu chữ nghệ thuật. Đỗ Chu còn có khuynh hướng giải thể vai trò của chủ thể đã xuất

hiện ở câu trước để làm nổi bật một vấn đề nào đó, đồng thời trùng điệp hóa những vế câu

dài: “Là cứu cánh, là hạt nổ, là khởi thủy của mọi điều hệ trọng cho giờ đây con cháu luận

bàn, chiêm nghiệm, là những đốm lửa lấp lóa xa xa trong một đêm đông, là những người

móc lửa trong tim mình ra mà thắp sáng, là những viên đá dài lát đường, là phong thanh áo

vải lặn xuống mở cửa đập, là thác lũ, là êm đềm một con sông lớn, là bản giao hưởng lớn

với giai điệu trầm hùng của buổi nhân dân bước vào lịch sử, là của thật không gì có thể lẫn

lộn được” [14; 102]. Ngữ khí của câu văn giúp tác giả khẳng định mạnh mẽ, xác tín mạnh

mẽ điều mà ông suy tư. Sức thuyết phục vì thế cũng rất cao trong một hình thức cấu trúc

trùng điệp như một đoàn binh xung trận với khí thế háo hức, mê say.

Đỗ Chu cũng thường bắt đầu các câu văn, các vế câu trong một câu, một cụm câu bằng

cùng một từ hoặc một ngữ: “Chào sông Hàn. Chào Sơn Trà. Chào những người anh em

với những khuôn mặt quen thuộc, những khuôn mặt mới mẻ, những người tôi đã từng gặp,

những người tôi mới chỉ được biết trong chuyến đi này” [17; 87].

Tính nhạc của câu văn còn là hiệu quả thẩm mĩ của việc điều phối, sắp xếp các câu

dài xen câu ngắn và những câu có cấu trúc khác nhau kết hợp với nghệ thuật điệp từ, điệp

ngữ tạo ra một hợp âm đa thanh: “Mùa hạ trời miền Trung xanh thật là xanh. Và nắng dữ,

cát nóng. Nhưng người thì hình như rất dịu dàng’ [17; 87]; “Anh em chúng tôi lớn lên ở hai

bên bờ sông Hồng, ở những cánh đồng mở ra bát ngát, màu mỡ phù sa, ở những làng quê có

tre xanh, có ngói đỏ, có rơm mùa chất đống trước sân nhà. Ao sen tỏa hương mùa hạ, nếp

cơm theo mùa thu. Chiều chiều tiếng người về đồng, tiếng trâu bò đi ngang ngoài đường,

tiếng chày giã gạo bên hàng xóm, xôn xao, huyên náo khắp ngõ. Và, những lời dân ca mộc

mạc tắm mát như những mạch nước thấm sâu vào trong lòng đất” [14; 71]. Trong tùy bút

Đứng trước mùa xuân, ở phần mở đầu, Đỗ Chu có một đoạn văn được viết theo mô hình

phối hợp những câu dài ngắn đan xen với nhau: “Tôi ngồi bên cửa sổ hằng giờ lắng nghe

tiếng chim ngoài vườn và tự hỏi, chúng đang véo von những gì vậy, tình tứ một cách quá

công khai, nhưng ngoài chúng có lẽ chẳng ai trên đời này hiểu nổi. Đêm xuống. Trời

chuyển rét. Và bất chợt những tiếng mưa nho nhỏ, nhè nhẹ reo lên mái nhà như rây bột.

Mưa khe khẽ. Khe khẽ mưa. Tôi lắng nghe tiếng mưa vang vỡ trong đêm. Đôi mắt mở to,

đầy tỉnh táo” [14; 5]. Trong đoạn văn trên có tám câu, trong đó độ dài ngắn của các sau

được mô hình hóa như sau: câu 1 (dài) - câu 2 (ngắn) - câu 3 (ngắn) - câu 4 (vừa) – câu 5

(ngắn) – câu 6 (ngắn) – câu 7 (vừa) – câu 8 (ngắn). Số lượng các câu ngắn có phần đông

đảo hơn, dày hơn đem lại cảm giác về âm thanh của sự thay đổi đột ngột, nhanh nhanh

chóng của thời tiết, những giọt mưa ngắn, nhỏ bé rơi đều trong đêm như một khúc ca trầm

buồn khiến cho lòng ai phải tỉ tê, lạnh giá…Đồng thời những từ gợi thanh như vang vỡ, nho

nhỏ, nhè nhẹ có tác dụng mô phỏng âm thanh tiếng nhạc mưa trong đêm khuya quạnh

vắng…

Trong quá trình tự sự, công việc chính của nhà văn là phải tái hiện, miêu tả sự kiện,

biểu lộ thái độ tình cảm hay quan niệm riêng tư của mình. Nhưng đây là tác phẩm nghệ

thuật. Nhà văn chỉ có thể đưa trang viết đi sâu vào lòng độc giả khi anh ta biết cách tự sự và

có nghệ thuật tự sự. Trong hàng loạt những thủ pháp, phương pháp nghệ thuật thì phải kể

đến sự liên tưởng và thủ pháp so sánh. Tuy nhiên nếu không có sức sáng tạo dồi dào, người

viết rất dễ làm cho tác phẩm của mình rơi vào hiện tượng sáo mòn, kệch cỡm, gây ra phản

cảm. Đỗ Chu dường như là người thích chêm xen vào trong dòng tự sự của mình những

liên tưởng, so sánh. Và bao giờ cũng ông cũng đạt được những giá trị thẩm mĩ nhất định.

Bởi lẽ mỗi lần liên tưởng, so sánh là một lần nữa nhà văn thể hiện sự sáng tạo của mình. Vì

thế, có vô số những liên tưởng, so sánh trong các tập tùy bút nhưng không hề thấy sự trùng

lặp hay sáo mòn. Không những thế, với biện pháp liên tưởng, so sánh, Đỗ Chu luôn khiến

cho người đọc phải bất ngờ và thú vị. Trường liên tưởng và so sánh trong trang viết của Đỗ

Chu có sắc thái khác so với Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường. Với Nguyễn Tuân,

sự liên tưởng luôn ấn tượng đến mức kinh ngạc, mang dấu ấn của cái tôi độc đáo, đầy cá

tính. Còn với Hoàng Phủ Ngọc Tường, sự liên tưởng có thiên về chất lãng mạn, hướng nội,

đẹp một cách mê đắm lòng người.

Thông thường trong tùy bút của Đỗ Chu, so sánh và liên tưởng là cặp đôi luôn sánh

bước bên nhau, so sánh là phương tiện để liên tưởng. Có vô số những liên tưởng, so sánh

theo kiểu này: “Nơi ấy sen súng mới nhiều làm sao, chúng mọc bát ngát khắp cánh đồng,

đang là mùa hoa, sen nở trắng hồng, còn súng thì tím đỏ, đỏ như máu như lửa” [17; 98];

“Vùng hồ Lắc dấu tích muôn đời của núi lửa giờ nằm yên ả như một mảng sương soi bóng

những tầng mây trắng, in bóng đàn nhạn núi đang bay về” [17; 44]; “Miền Trung là một

bản giao hưởng cát. Quảng Nam – Đà Nẵng là một chương trầm hùng của bản giao hưởng

đó” [17; 66]. Các hình ảnh so sánh, liên tưởng ở tùy bút Đỗ Chu có phần nhẹ nhàng, xuất

hiện đơn tính nhưng không đơn điệu, mờ nhạt. Nó có một phong vị riêng thấm mãi vào

lòng người.

3.3.3 Thành phần lời văn nghệ thuật

Lời văn của tác phẩm được cấu tạo bởi hai thành phần chính: lời trực tiếp và lời gián

tiếp. Lời trực tiếp là lời do nhân vật hoặc tác giả - những người trực tiếp nói lên trong tác

phẩm. Lời gián tiếp là toàn bộ phần lời của tác giả, của người trần thuật, hoặc người kể

chuyện có chức năng trình bày toàn bộ thế giới hình tượng, kể cả các yếu tố nội dung, hình

thức của lời nhân vật cho người đọc. Lời gián tiếp có hai loại lớn: lời gián tiếp một giọng và

lời gián tiếp hai giọng. Trong lời gián tiếp hai giọng có lời nửa trực tiếp, lời gián tiếp phong

cách hóa, lời gián tiếp của người kể chuyện. Trong giới hạn nghiên cứu của đề tài, chúng

tôi xin đi vào nghiên cứu lời trực tiếp của nhân vật và lời gián tiếp song điệu (lời nửa trực

tiếp) trong tùy bút của Đỗ Chu.

Lời trực tiếp của nhân vật trong tác phẩm tùy bút không phải là hiện tượng phổ biến.

Các lời đối thoại trong tùy bút của Đỗ Chu chỉ xuất hiện với một tỉ lệ rất ít so với toàn bộ

lời văn nghệ thuật của ông. Tuy nhiên, không vì thế mà chúng không có chức năng và hiệu

quả thẩm mĩ nhất định. Chức năng phản ánh hiện thực của lời nhân vật trong tùy bút của

ông mang tính chất thông báo, trần thuật, miêu tả rất giản đơn, mang tính chủ quan rất đậm.

Trong tùy bút Từ một trang nhật kí chiến đấu, Đỗ Chu để cho lời của nhân vật thực hiện

chức năng này rất nhiều:

- Tại N đại đội bắn tan xác chiếc thứ 712, kiểu A – D6.

- Tại A bắn cháy chiếc F. 105 bắt sống giặc lái, đây là chiếc thứ 975.

- Báo cáo thủ trưởng, tôi có mặt.

- Khuyến đấy à, vào đây. Nghe nói quê cậu ở vùng này phải không ?

- Vâng ạ, làng tôi cách đây 15 ki- lô- mét thôi ạ.

- Cụ vá lưới khuya thế ạ.

- Vâng, mời anh vào trong này.

Những lời trực tiếp ấy phản ánh hiện thực bên ngoài nhân vật. Đó là hiện thực chiến

đấu, là chiến công, là sự hiện diện kịp lúc của người chiến sĩ, là khoảng cách từ chỗ đóng

quân đến quê nhà, là bà mẹ đêm khuya ngồi vá lưới, là lời mời mọc ân cần. Và chúng cho

thấy sự hiện diện của các nhân vật trong không gian nhất định, như ở trên là không gian

chiến khu, không gian quê nhà. Trong chức năng này, lời nói của nhân vật vô cùng tự

nhiên, giống với khẩu ngữ nên chúng có giá trị tạo hình cao. Và rất nhiều lời hội thoại của

các nhân vật có ở các bài tùy bút khác thực hiện chức năng này như Bên kia sông Hồng,

Sông Hồng sắc đỏ, Vòm trời quen thuộc, Vầng sáng trong đêm…

Trong chức năng thể hiện nội tâm, lời trực tiếp được thể hiện thông qua các mẫu lời nói

của một quá trình nội tâm, hoặc thể hiện dưới hình thức độc thoại nội tâm mở rộng. Trong

chức năng này, Đỗ Chu thường để cho nhân vật tự bộc lộ tâm lí, đời sống nội tâm tinh tế.

Lời của bà cụ trong tùy bút Hoa bờ giậu là một loại như thế: “ …có nhà anh mới nhầm, tôi

là người ngồi bên những đàm hoa bờ giậu cho đến lúc chết, hỏi nhầm sao được. Gió đưa

cây cải về trời, rau răm ở lại chịu nhời đắng cay” [18; 8]. Có một quá trình im lặng đằng

sau vầng trán nhăn nheo của bà già hàng nước. Đó là cái im lặng của một người đàn bà đã

sống mỏi mòn, tạm bợ, đơn chiếc. Đó là cái im lặng để nhân vật cất lên lời ru hời nỉ non,

sầu bi….Và đó là thái độ xác minh một cuộc đời lay lắt mà chính bà là một nhân chứng

sống. Mượn thân thảo mộc hoang dại, bà lão bày giãi thân phận nhỏ bé, mỏng manh, yếu

đuối của mình giữa cuộc đời.

Cũng là lời của một bà lão, người mẹ có đưa con đi kháng chiến, hôm nay bất ngờ được

con về thăm. Nỗi vui mừng rưng rưng cùng với niềm tri ân lóe lên trong giọng nói đầy yếu

ớt của bà: “Mày cho u hỏi thăm sức khoẻ cái anh chỉ huy cho mày về thăm nhà ấy. Việc

quân đang bận mà anh ấy còn chiếu cố hoàn cảnh cho mày về, thế là quí lắm” [14; 55]. Khi

ông Bách có nhã ý đề tặng bài thơ Đường, nhà văn Kim Lân đã nói những lời như sau: “Tôi

chẳng dám liệt mình vào đám người đó, tôi làm đếch gì phải giấu mình. Tôi cứ sống như tôi

đang sống, giữa thanh thiên bạch nhật, thích thì làm, lười thì đừng làm, nào có ai bắt ai

giục, mà bản thân mình thì cũng có thèm khát nỗi gì, như thế là thanh thản, là biết dừng.

Tôi cũng chẳng cần một chữ tâm, một chữ nhẫn mà thiên hạ đang tìm như một cái mốt vậy.

Ông cứ nghĩ cho kĩ đi đã, nhất định ông sẽ có mấy chữ thật hay để tặng tôi năm nay, viết

cho thật phóng túng tít mù nom mới hả” [17; 143]. Chỉ qua một lời thoại, Kim Lân đã bộc

lộ quan điểm sống hết sức rạch ròi của mình: chú trọng thực chất hơn là việc tô vẽ bên

ngoài, sống tự do tự tại không bị ràng buộc bởi búa rìu dư luận, tự hài lòng với những gì

đang có ở hiện tại. Đỗ Chu biết cách để cho nhân vật tự thể hiện chiều sâu tâm trạng, đời

sống tâm lí bằng lời của chính họ.

Ở lời văn gián tiếp hai giọng, lời nửa trực tiếp hay còn gọi là lời văn song điệu cũng là

một đặc điểm độc đáo trong những bài tùy bút. Lời nửa trực tiếp là lời gián tiếp bao hàm

các yếu tố khác nhau của lời trực tiếp. Nhân vật ông Đắc trong tác phẩm Ghi chép ở Ban

Mê được nhà văn kể lại dòng hồi tưởng về quá khứ trong một lần trở lại Ban Mê: “Thế là

thế nào nhỉ, ông Đắc vừa tự hỏi mình vừa lặng lẽ nhìn về cuối thềm. Mảnh sân tù ngày

trước là chỗ các ông vài ba ngày được phép lê ra đó một lần, ngồi túm tụm thành một đám

rách rưới, bắt chấy bắt rận và phơi nắng. Nay thì nó biến thành mấy vạt sắn xanh um tùm.

Thôi thì mặc kệ đời, nước trôi thuyền trôi, ta đâu phải là người có thể đội đá vá trời. Hãy cứ

cố mà sống thêm lấy dăm mười năm thử xem đời sẽ đi về đâu” [17; 25]. Vẫn là lời gián tiếp

nhưng ý thức, ngữ điệu là của nhân vật. Đỗ Chu vừa miêu tả dòng hồi tưởng của ông Đắc

vừa để cho ông Đắc thể hiện nỗi ngậm ngùi của mình khi nhớ về ngày trước. Cái kỉ niệm

của một thời khổ nhục giờ trở thành những thước phim quay chậm lên dòng kí ức khiến cho

ông nghiệm ra bao điều sâu sắc. Dường như nhà văn để cho nhân vật tìm kiếm những cái đã

qua và cho họ nhận ra những biến thiên lớn lao mà con người không thể nào cưỡng lại nổi.

Những bạn tù ngày ấy đâu rồi, kẻ mất người còn, nhưng trong số còn ấy có mấy ai lưu giữ

những kỉ niệm yêu thương ấy chăng, hay đã thành ông nọ bà kia lùa kỉ niệm vào một xó

xỉnh nào đó trong kí ức. Suy nghĩ của nhân vật song hành với lời tự sự của nhà văn đã làm

nên hiện tượng song điệu trong trần thuật. Đến với tùy bút Ông già ngồi dịch Đăm Săn,

người đọc có dịp đi sâu vào đời sống nội cảm của cụ giáo Thấu qua những lời văn song

điệu: “Cụ bật dim, từ từ nhả cho làn khói bay nhẹ lên trần. Hôm nay mà Thấu này còn chưa

được vui thì hỏi còn hôm nào đây. Cụ nhìn ra ngoài cửa sổ, mưa bụi đang làm mờ mịt một

vùng thành phố. Đầu óc lại chợt muốn quay về với những ngày đã xa, cụ lại nghĩ đến họ,

những học trò, những đồng chí của cụ. Tất cả đều được cụ điểm danh, từng khuôn mặt được

cụ gọi về. Thấu này vẫn đang sống xứng đáng với các bạn, Thấu này vẫn đang làm việc và

nó đang bước đến gần, nó đã sờ thấy kết quả của công việc” [17; 62]. Hình ảnh một ông già

đang ngồi ôn lại chuyện cũ, khơi lên những gì thân thuộc nhất, thân thương nhất. Cái hiện

tại hòa vào quá khứ, bỗng chốc dậy lên bao nỗi niềm, bao trầm tư mặc tưởng trong tâm hồn

con người đã từng một thời gắn bó máu thịt với xứ rừng Tây Nguyên. Cái độc đáo của Đỗ

Chu là ông vừa tả cảnh mưa bụi đang bay đầy trời vừa miêu tả nhân vật, đi sâu vào cõi lòng

của nhân vật bằng chính dòng ý thức của nhân vật. Với lời văn song điệu, Đỗ Chu tái hiện,

miêu tả cảnh vật và con người rất sinh động, đào sâu vào sâu thế giới nội tâm của nhân vật.

Ông tỏ ra đồng cảm, tri âm sâu sắc với những nhân vật. Có thể nói, lời văn song điệu là một

trong những phương thức qua trọng để nhà văn phản ánh thế giới khách quan và biểu hiện

được những rung cảm tinh tế nhất, sâu sắc nhất của đối tượng tự sự và chủ thể sáng tạo. Nó

trở thành một đặc trưng nổi bật trong văn xuôi nói chung, thể loại tùy bút của Đỗ Chu nói

riêng.

Như thế, phong cách nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu vừa mang chất thơ vừa mang

chất truyện. Điều này làm cho tùy bút của ông mang đặc điểm tự sự - trữ tình trong một

kiểu văn xuôi tự nhiên, giản dị nhưng lại mang nhiều dấu ấn nghệ thuật đặc sắc. Đỗ Chu đã

chinh phục bạn đọc ở nhiều phương diện, trong đó kết cấu, ngôi kể, nghệ thuật khắc họa

chân dung, giọng điệu và nhịp điệu, ngôn từ nghệ thuật góp phần quan trọng tạo nên phong

cách sáng tạo tùy bút riêng. Đồng thời, hệ thống nghệ thuật đặc trưng ấy giúp nhà văn

chuyển tải được tất cả những đề tài mà nhà văn ấp ủ, bày giãi tư tưởng và tình cảm một

cách trọn vẹn, sinh động.

KẾT LUẬN

Hơn bốn mươi năm cầm bút, với mười tập truyện ngắn, một tuyển tập và ba tập tùy

bút, Đỗ Chu đã thực sự khẳng định tài năng của mình trong nền văn học hiện đại và đương

đại Việt Nam. Riêng với thể loại tùy bút, Đỗ Chu đã góp cho vườn hoa tùy bút thêm nhiều

hương sắc bằng những tác phẩm thật sự có giá trị. Đây cũng là những tác phẩm kết tinh cao

nhất tài năng và tâm huyết văn học của Đỗ Chu tựa những đóa hoa cuối mùa hết mình dâng

hiến trọn vẹn hương sắc cho cuộc đời

Về mặt cảm hứng, Đỗ Chu có một nguồn cảm hứng đa dạng, phong phú, dào dạt và ổn

định. Trải qua bao thăng trầm của cuộc đời mà trang viết của ông vẫn không biết thế nào là

chối bỏ những cái gì gọi là quen thuộc. Nguồn cảm hứng trong tùy bút của ông luôn gắn

liền với quê hương, đất nước và con người. Nhất là chân dung con người, nơi ấy Đỗ Chu

cũng đã phần nào làm hiện lên vẻ đẹp của con người nơi đất Việt. Hơn nữa, những vấn đề

mà nhà văn đưa vào trong tác phẩm của mình hoàn toàn là những vấn đề mà công chúng

quan tâm. Để thấy rằng, trang viết của Đỗ Chu mang tính nhân dân, tính dân tộc rõ nét.

Nói về chủ thể sáng tạo, tùy bút của Đỗ Chu bên cạnh nhận thức, phản ánh hiện thực

bên ngoài còn bộc lộ một cái tôi Đỗ Chu đa diện, đa sắc : trữ tình – triết luận – tài hoa –

uyên bác. Cấp độ đậm nhạt dẫu có khác nhau nhưng nhìn chung đó là một cái tôi đáng

trọng, đáng quí. Qua ba tập tùy bút, ta nhìn thấy chân dung một Đỗ Chu vừa đa cảm, ưu

đời mẫn thế, vừa có tầm văn hóa sâu rộng.

Cuối cùng, Đỗ Chu có một lối viết tùy bút mang tính lưỡng hợp với sự kết hợp giữa thi

pháp truyện và thi pháp thơ làm nên một sự độc đáo, có tính khu biệt rõ với các cây bút

trước đây và đương thời. Đỗ Chu xứng đáng được xưng tụng là nhà văn có phong cách

trong thể loại tùy bút.

Với đề tài “Thế giới nghệ thuật trong tùy bút của Đỗ Chu”, chúng tôi đã đi vào ba

phương diện một chỉnh thể nghệ thuật bộ ba tùy bút. Chắc chắn có chỗ chưa được thỏa

đáng và hợp lí, mong được chia sẻ với mọi người công trình khoa học đầu tay nhằm có

những nghiên cứu sâu hơn về đề tài hấp dẫn và thú vị này.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Tạ Duy Anh (chủ biên) (2001), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, NXB Thanh niên, Hà

Nội.

2. Vũ Tuấn Anh (2001), Văn học Việt Nam hiện đại, nhận thức và thẩm định, NXB Khoa

học xã hội, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (1984), Văn học và phê bình, NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (1996), Loại hình tác giả văn học và vấn đề phương pháp nghiên cứu,

tạp chí Văn học, số 2.

5. Lê Huy Bắc (1998), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, tạp chí Văn học, số 9,

1998.

6. Đỗ Chu (1963), Hương cỏ mật, NXB Quân đội nhân dân.

7. Đỗ Chu (1969), Tháng hai, NXB Quân đội nhân dân.

8. Đỗ Chu (1969), Vòm trời quen thuộc, NXB Quân đội nhân dân.

9. Đỗ Chu (1970), Đám cháy trước mặt, NXB Quân đội nhân dân.

101. Đỗ Chu (1971), Gió qua thung lũng, NXB Quân đội nhân dân.

11. Đỗ Chu (1977), Trung du, NXB Văn học, Hà Nội.

12. Đỗ Chu (1978), Nơi con đường gặp biển, NXB Phụ Nữ.

13. Đỗ Chu (1982), Phù sa, NXB Văn học, Hà Nội.

14. Đỗ Chu (1986), Những chân trời của các anh, NXB Quân đội nhân dân.

15. Đỗ Chu (1989), Mảnh vườn xưa hoang vắng, NXB Văn học, Hà Nội.

16. Đỗ Chu (2004), Một loài chim trên sóng, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

17. Đỗ Chu (2006), Tản mạn trước đèn, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

18. Đỗ Chu (2008), Thăm thẳm bóng người, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội.

19. Tào Dư Chương (chủ biên) (2003), Những phong cách nghệ thuật, NXB TP.Hồ Chí

Minh.

20. Nguyễn Văn Dân (2004), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, NXB Khoa học xã

hội, Hà Nội.

21. Trương Đăng Dung (2004), Tác phẩm như là quá trình, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

22. Phan Huy Dũng (2007), Đỗ Chu chiêm nghiệm con người và nghệ thuật, tạp chí Nhà

văn, số tháng 3.

23. Lê Tiến Dũng (2007), Nhà văn và phong cách, NXB Đại học Quốc gia, TP.HCM.

24. Lê Tiến Dũng, (1999) Phê bình và cái roi ngựa, NXB Đại học Quốc gia TP.HCM.

25. Đức Dũng (1996), Các thể báo chí, NXB Văn hóa - thông tin, Hà Nội.

26. Trần Thanh Đạm (2003), Trước thềm 2003, nghĩ tiếp về văn học thế kỉ XX và rộng hơn,

tạp chí Nhà văn, tháng 1.

27. Đặng Anh Đào (1994), Tài năng và người thưởng thức, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

28. Đặng Anh Đào (1994), Văn học Pháp và sự gặp gỡ với văn học Việt Nam 1930 – 1945,

tạp chí Văn học, số 7.

29. Phan Cự Đệ (1983), Nhà văn Việt Nam (1945 – 1975), tập 2, NXB Đại học & Trung

học chuyên nghiệp, Hà Nội.

30. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, NXB Giáo dục.

31. Kim Định (1973), Nguồn gốc văn hóa Việt Nam, NXB Nguồn sáng, Sài Gòn.

32. Kim Định (1974), Những dị biệt giữa hai nền triết lí Đông Tây, NXB Ca dao, Sài Gòn.

33. Đỗ Đức (2008), Ngày xuân đọc “Thăm thẳm bóng người của Đỗ Chu”, tạp chí Nhà văn,

số 1.

34. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lý luận văn học, NXB Giáo dục.

35. Hoàng Thị Hồng Hà (2003), Những đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Việt Nam cuối những

năn 80 đầu những năm 90, Luận án Tiến sĩ, ĐHKHXH & NV, TP.HCM.

36. Nguyễn Thị Hồng Hà (2004), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, Luận án Tiến sĩ,

ĐHKHXH & NV, TP.HCM.

37. Thu Hà (2007), Đỗ Chu: Tản mạn trước đèn, 0TUhttp://tintuc.xalo.vnU0TU.

38. Vũ Hà (1987), Nguyễn Tuân ở trong tôi, Hà Nội mới, số 2.

39. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (chủ biên) (1992), Từ điển thuật ngữ văn

học, NXB Giáo dục.

40. Đàm Thị Mỹ Hạnh (1980), Một số nét về truyện ngắn 1979, NXB Văn học, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Hạnh (2004), Chuyện văn, chuyện đời, NXB Giáo dục.

42. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,

NXB Giáo dục.

43. Ngũ Nhị Song Hiền (2010), Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, Luận văn Thạc sĩ,

Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh.

44. Nguyễn Hòa (1998), Văn chương – hi vọng về những điều tốt

đẹp, 0TUhttp://203.162.0.19:8080/show-content.plU0TU.

45. Tô Hoàng (2006), Nhà văn Đỗ Chu trong con mắt bạn bè, Văn nghệ Công an, số 27/2

46. Tô Hoàng (17/05/2009), Đỗ Chu, nhà văn bình nhì của chúng

tôi, Uhttp://www.sggp.org.vn.

47. Hoàng Ngọc Hiến (2008), Thăm thẳm bóng người – một thành tựu, tạp chí Nhà văn, số

11.

48. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học

(bộ mới), NXB Thế giới mới.

49. Đỗ Đức Hiểu (1993), Đổi mới phê bình văn học, NXB khoa học xã hội và NXB Cà

Mau.

50. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp học hiện đại, NXB Hội nhà văn, Hà Nội.

51. Bùi Công Hùng (1982), Vấn đề phong cách trong sáng tác văn học, tạp chí Văn học, số

3.

52. Nguyễn Thanh Hùng (1994), Văn học và nhân cách, NXB Văn học, Hà Nội.

53. Hà Khái Hưng, Dấu ấn Đỗ Chu trong “Thăm thẳm bóng

người”, 0TUhttp://vncad.cand.com.vnU0TU.

54. Hà Khái Hưng, Nhà văn Đỗ Chu: Dù được nhớ tới thể loại nào cũng là

quý, Uhttp://vnca.cand.com.vn.

55. Nguyễn Thị Dư Khánh (1995), Phân tích tác phẩm văn học từ góc độ thi pháp, NXB

Giáo dục, Hà Nội.

56. K. Pauxtốpxki (2001), Bông hồng vàng, NXB Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

57. K. Pauxtốpxki (1987), Bình minh mưa, NXB Văn học, Hà Nội.

58. M.B. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học,

NXB Tác phẩm mới, Hà Nội.

59. M.B.Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận văn học, NXB

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

60. M.B.Khrapchenko (1985), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người (tập 2), NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

61. Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu không thích sự ầm ĩ, Tiền

phong, 0TUhttp://vietbao.vnU0T

62. Nguyễn La, Cái tôi trong tùy bút, 0TUhttp://vannghequandoi.com.vnU0T.

63. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, NXB Giáo dục.

64. Thạch Lam (1988), Tuyển tập Thạch Lam, NXB Văn học, Hà Nội.

65. Thạch Lam (1988), Hà Nội băm sáu phố phường, NXB Văn nghệ, TP. HCM.

66.Thạch Linh, Đỗ Chu: “Thăm thẳm bóng người”, Uhttp://thethaovanhoa.vn.

67. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, NXB Giáo dục.

68. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB

Giáo dục.

69. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Nhà văn Việt Nam hiện đại: chân dung và phong cách,

NXB Trẻ, TP.HCM.

70. Nguyễn Đăng Mạnh (2005), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB Đại học Quốc gia

TP. HCM.

71. Phùng Quí Nhâm (1992), Thẩm định văn học, NXB Văn nghệ, TP. HCM.

72. Phùng Quí Nhâm, Lâm Vinh (1994), Tiếp cận văn học, Đại học Sư phạm TP. HCM.

73. Nhiều tác giả (2004), Tự sự học – một số vấn đề lí luận và lịch sử, NXB Đại học Sư

phạm, Hà Nội.

74. Huỳnh Như Phương (1986), Dẫn vào tác phẩm văn chương, Đại học Tổng hợp

TP.HCM.

75. Huỳnh Như Phương (2007), Trường phái hình thức Nga, NXB Đại học Quốc gia TP.

HCM.

76. G.N. Pôxpêlôp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, NXB Giáo dục.

77. Hồng Thanh Quang ( 2004 ), Nhà văn Đỗ Chu: Cô đơn được càng tốt, An ninh thế giới

cuối tháng, 0TUhttp://www.chungta.comU0T.

78. Nguyễn Hoàng Sơn (2003), Nhà văn Đỗ Chu: “ Tôi không bán giấy”, Văn đàn, thời sự

và bình luận, NXB Văn học.

79. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học, Vụ Giáo viên, Hà Nội.

80. Lý Hoài Thu (2008), Hồi kí và bút kí thời kì đổi mới, tạp chí văn học, số 10.

81. Nguyễn Thành Thi (2001), Phong cách văn xuôi nghệ thuật Thạch Lam, Luận án Tiến

sĩ, ĐHKHXH & NV, TP. HCM.

82. Lê Thủy (2005), Đỗ Chu với tùy bút, Lao động, ngày 06/02.

83. Lê Ngọc Trà (2005), Lí luận và văn học, NXB Trẻ, TP. HCM.

84. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, Thẩm mĩ và Văn hóa, NXB Giáo dục.

85. Lê Ngọc Trà (2001), Văn hóa Việt Nam: đặc trưng và cách tiếp cận, NXB Giáo dục.

86. Hoàng Trinh (1997), Từ kí hiệu đến thi pháp học, NXB Đà Nẵng.

87. Cù Đình Tú (1983), Phong cách học và đặc điểm tu từ tiếng Việt, NXB Đại học và

trung học chuyên nghiệp, Hà nội.

88. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I, NXB Văn học, Hà Nội.

89. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập II, NXB Văn học, Hà Nội.

90. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, NXB Văn học, Hà Nội.

91. Hoàng Phủ Ngọc Tường (1985), Ai đã đặt tên cho dòng sông ?, NXB Thuận Hóa, Huế.

92. Tzetan Todorov (2005), Thi pháp văn xuôi, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội.