BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH
Trương Thị Hoa
LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
1
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trương Thị Hoa LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.
Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: VHVN – 08 - 010
LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN.
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
Thành phố Hồ Chí Minh – 2011
2
MỤC LỤC
1TMỤC LỤC1T ............................................................................................................................ 3
1TPHẦN DẪN NHẬP 1T .............................................................................................................. 1
1T1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:1T........................................................................................................................ 1
1T2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:1T ................................................................................................................ 2
1T3.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:1T ..................................................................................................... 2
1TIV. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:1T ......................................................................................... 8
1TV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:1T ..................................................................................................... 10
1TCHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG1T ........................................................................ 12
1T1.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển:1T ........................................ 12
1T1.1.1.Khái niệm truyền kì:1T ................................................................................................................. 12
1T1.1.2.Khái niệm truyện truyền kì trung đại Việt Nam:1T ........................................................................ 12
1T1.1.3.Mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện truyền kì ở vùng văn hóa Đông Á:1T ...... 12
1T1.1.3.1.Truyện truyền kì ở Trung Quốc:1T ........................................................................................ 13
1T1.1.3.2.Truyện truyền kì Triều Tiên:1T .............................................................................................. 14
1T1.1.3.3.Truyện truyền kì Nhật Bản:1T ............................................................................................... 14
1T1.1.4.Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện truyền kì Việt Nam:1T ................................ 15
1T1.1.4.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng thụ động từ văn học dân gian ( từ cuối thế kỷ XIV trở về trước):1T ............................................................................................................... 15
1T1.1.4.2.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian ( từ thế kỷ XV trở về sau):1T ......................................................................................................................... 15
1T1.1.4.3. Mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại Việt Nam với văn xuôi lịch sử:1T ..................... 17
1T1.1.4.4. Mối quan hệ giữa hai yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam1T ............ 18
1T*Sự thể hiện yếu tố thực trong thể loại truyền kì Việt Nam:1T .......................................................... 18
1T1.2. Bối cảnh thời đại của Đại Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII:1T ....................................................... 19
1T1.2.1.Bối cảnh Đại Việt thế kỷ XV:1T ................................................................................................... 19
1T1.2.1.1.Sự suy vong của nhà Trần, sự xâm lược của giặc Minh và cuộc kháng chiến chống quân Minh:1T ............................................................................................................................................ 19
1T1.2.1.2.Sự khôi phục và xây dựng đất nước sau thắng lợi: 1T ............................................................. 20
1T1.2.2.Bối cảnh Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:1T .................................................................... 21
1T1.2.2.1.Sự suy sụp của nhà Lê và tình trạng chia cắt đất nước:1T....................................................... 21
1T1.2.1.2. Giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt:1T .................................................. 21
1T1.2.1.3. Phong trào Tây Sơn:1T ......................................................................................................... 22
1T1.3. Vấn đề văn bản và tác giả:1T ............................................................................................................... 23
1T1.3.1. Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. 1T ................... 23
1T1.3.1.1 Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo:1T ............................................................................ 23
1T1.3.1.2. Tình trạng văn bản Truyền kì mạn lục:1T ............................................................................. 24
1T1.3.1.3. Tình trạng văn bản Lan Trì kiến văn lục:1T .......................................................................... 26
1T1.3.2. Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục. 1T ................................... 27
1T1.3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đây:1T ......................................................................... 27
1T1.3.2.2. Ý kiến của tác giả luận văn :1T ............................................................................................. 37
1T1.3.3. Cuộc đời và sự nghiệp các tác giả :1T .......................................................................................... 40
1T1.3.3.1.Lê Thánh Tông : (1442 – 1497).1T ........................................................................................ 40
1T1.3.3.2. Nguyễn Dữ :1T ..................................................................................................................... 44
1T1.3.3.3. Vũ Trinh1T .......................................................................................................................... 45
1T1.4 Vấn đề nhân vật trong tác phẩm văn học :1T......................................................................................... 47
1T1.4.1. Khái niệm nhân vật :1T ................................................................................................................ 47
1T1.4.2. Các kiểu loại nhân vật :1T ............................................................................................................ 47
1T1.4.2.1. Từ góc độ nội dung, tư tưởng :1T.......................................................................................... 47
1T1.4.2.2. Từ góc độ kết cấu – cốt truyện :1T ........................................................................................ 48
1T1.4.2.3. Từ góc độ thể loại :1T ........................................................................................................... 49
1T1.4.2.4 Từ góc độ chất lượng nghệ thuật :1T ...................................................................................... 49
1T1.4.2.5 Từ góc độ cấu trúc nhân vật :1T ............................................................................................. 49
1T1.4.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp xây dựng nhân vật :1T ............................................. 50
1T1.4.3.1.Chi tiết nghệ thuật :1T ........................................................................................................... 50
1TCHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.1T.................... 52
1T2.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên và tôn giáo:1T ................................................................................. 52
1T2.1.1. Khái quát chung:1T ...................................................................................................................... 52
1T2.1.2. Loại hình các nhân vật thần tiên, đạo sĩ:1T ................................................................................... 53
1T2.1.2.1. Loại hình các nhân vật thần tiên:1T ...................................................................................... 53
1T2.1.2.2. Loại hình các nhân vật đạo sĩ:1T ........................................................................................... 57
1T2.1.2.3. Thái độ đối với Đạo giáo của các tác giáo:1T ........................................................................ 59
1T2.1.3. Loại hình các nhân vật nhà sư:1T ................................................................................................. 61
1T2.2. Loại hình các nhân vật bình phàm. 1T .................................................................................................. 65
1T2.2.1. Khái quát chung:1T ...................................................................................................................... 65
1T2.2.2. Loại hình nhân vật quan lại, nho sinh:1T ...................................................................................... 67
1T2.2.2.1. Loại hình nhân vật quan lại:1T .............................................................................................. 67
1T2.2.2.2. Loại hình các nhân vật nho sinh. 1T ....................................................................................... 71
1T2.2.2.3. Thái độ đối với Nho giáo:1T ................................................................................................. 76
1T2.2.3. Loại hình các nhân vật phụ nữ:1T................................................................................................ 79
1T2.2.3.1. Thủy chung yêu thương chồng con :1T ................................................................................. 80
1T2.2.3.2. Hiếu thuận và giàu đức hy sinh :1T ....................................................................................... 84
1T2.2.3.3. Thông minh, tài giỏi :1T ....................................................................................................... 86
1T2.2.3.4. Những khát vọng và bi kịch của nhân vật nữ :1T................................................................... 87
1T2.2.3.5.Thái độ đấu tranh cho hạnh phúc của người phụ nữ :1T ......................................................... 94
1T2.2.4.Loại hình nhân vật thương buôn:1T ............................................................................................... 96
1T2.2.4.1.Giảo quyệt, lừa đảo.1T ........................................................................................................... 96
1T2.2.4.2.Là tác nhân gây ra những đổ vỡ gia đình, băng hoại đạo đức xã hội. 1T .................................. 97
1T2. 3 Loại hình các nhân vật là hiện thân của tác giả:1T ............................................................................... 97
1T2.3.1. Nhân vật là hiện thân của nhà văn:1T ........................................................................................... 97
1T2.3.2. Ý nghĩa của loại hình nhân vật – hiện thân của nhà văn - trong tác phẩm. 1T................................ 98
1T2.3.2.1. Đề cao vai trò cá nhân và ngôi vị chí tôn nhà vua Lê Thánh Tông: 1T.................................... 98
1T2.3.2.2. Đề cao cái tôi ẩn sĩ, lánh đời:1T .......................................................................................... 100
1T2.3.2.3. Lý tưởng sống, thái độ sống của người ẩn sĩ:1T .................................................................. 103
1T2.3.2.4. Nỗi lòng với những kiểu người “thấp cổ bé họng” trong xã hội:1T...................................... 105
1T2.4. Loại hình nhân vật các con vật:1T ..................................................................................................... 107
1T2.4.1. Một số hình ảnh con vật được đề cập đến trong các tác phẩm:1T ................................................ 107
1T2.4.1.1. Số lần xuất hiện:1T ............................................................................................................. 107
1T2.4.1.2. Khái quát chung:1T ............................................................................................................ 108
1T2.4.2. Những bài học nhằm mục đích giáo huấn con người:1T ............................................................. 108
1T2.4.2.1. Bài học luân lý đạo đức:1T ................................................................................................. 108
1T2.4.2.2. Bài học về tình người cao đẹp:1T ........................................................................................ 111
1TCHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC. 1T ........................................................................................................................ 113
1T3.1. Vai trò của loại hình các nhân vật trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục:1T ....................................................................................................................................................... 113
1T3.1.1. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện được hiện thực xã hội đương thời:1T................. 113
1T3.1.1.1. Một xã hội với cuộc sống ấm no hạnh phúc. 1T ................................................................... 113
1T3.1.1.2. Một xã hội đầy những biến động loạn ly:1T ........................................................................ 115
1T3.1.1.3. Một xã hội với những con người mang trong mình bản chất xấu xa, suy đồi đạo đức.1T ..... 117
1T3.1.2. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học1T .................................................................................................................................................. 121
1T3.1.2.1. Niềm tin đối với con người trong xã hội. 1T ....................................................................... 122
1T3.1.2.2. Cái nhìn trân trọng đối với người phụ nữ. 1T ...................................................................... 126
1T3.1.2.3. Sự quan tâm đến con người ở chiều sâu tâm lý:1T .............................................................. 128
1T3.1.3. Loại hình các nhân vật làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm:1T .................................................... 130
1T3.1.3.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên tôn giáo gợi lên một thế giới ly kì đồng thời gửi gắm những quan niệm nhân sinh, đạo lý sâu sắc. 1T ................................................................................ 130
1T3.1.3.2. Loại hình các nhân vật con vật, đồ vật giáo dục con người những bài học ở đời. 1T ............ 132
1T3.1.4. Loại hình các nhân vật có vai trò làm rõ đặc trưng của thể loại truyền kì:1T ............................... 134
1T3.1.4.1. Nhân vật được xây dựng với yếu tố “kì”. 1T ........................................................................ 134
1T3.1.4.2. Nhân vật là người phát ngôn cho ý đồ tác giả. 1T ................................................................ 141
1T3.2. Đóng góp của loại hình các nhân vật đối với thể loại truyền kì và văn học trung đại Việt Nam:1T ..... 142
1T3.2.1. Xây dựng một hệ thống nhân vật đa dạng.1T .............................................................................. 143
1T3.2.2. Lấy số phận nhân vật làm đối tượng chính trong sáng tác của mình. 1T ....................................... 144
1T3.2.3. Xây dựng thành công những nhân vật có đời sống nội tâm rõ rệt.1T ........................................... 146
1T3.2.4. Xây dựng thành công nhân vật là hiện thân của nhà văn:1T ........................................................ 150
1TKẾT LUẬN1T ...................................................................................................................... 153
1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T ............................................................................................... 155
PHẦN DẪN NHẬP
1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Có thể nói văn học trung đại Việt Nam phát triển liền mạch từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Đi
hết chặng đường của mình, văn học trung đại đã góp vào nền văn học nước nhà đầy đủ các thể loại
với những tác phẩm nổi tiếng và các tác giả có tên tuổi. Và bên cạnh những thể loại khác, bộ phận
văn học tự sự đã có những đóng góp nhất định cho văn học trung đại. Như lời nhận định của
Nguyễn Đăng Na: “Văn xuôi tự sự không chỉ là một bộ phận cấu thành văn học dân tộc mà còn là
ảnh xạ phản chiếu trình độ tư duy nghệ thuật của nền văn học đã sản sinh ra nó. Văn xuôi tự sự Việt
Nam thời trung đại cũng vậy, vừa phản ánh tư duy nghệ thuật của Việt Nam vừa gắn liền với lịch sử
văn học dân tộc”[66, tr.3].
Trong các thể loại văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến
thể loại truyền kì – một trong những thể loại góp phần tạo dựng vị thế của văn xuôi trung đại trong
dòng chảy văn học dân tộc. Với đôi cánh truyền kì của mình, thể loại này đã nhanh chóng thâm
nhập vào đời sống con người, đặc biệt là khía cạnh tâm hồn nhân vật. Chính vì vậy, thể loại truyền
kì khi “trình làng” những tác phẩm đầu tay của mình thì đã được sự đón nhận của số đông nhiều
người. Từ đó các tác giả trung đại đã chọn thể loại này để thể hiện tư tưởng cả mình. Đồng thời thể
loại truyền kì cũng mang lại những thành công nhất định cho các nhà văn.
Trước nay khi nói đến thể loại truyền kì Việt Nam thời trung đại, người đọc hay nhắc nhiều đến:
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục. Trong khi đó Lan Trì kiến văn lục vẫn chưa được nhìn nhận
một cách thỏa đáng, mặc dù đây là một tác phẩm có thể xem là tiêu biểu của thể loại truyền kì giai
đoạn sau. Ngoài ra khi nhắc đến những tác phẩm này, phần đông các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm
từng tác phẩm một cách riêng biệt, rời rạc mà chưa có cái nhìn tổng thể cho cả ba tác phẩm trên.
Nếu có sử dụng thì cũng là để làm dẫn chứng cho những vấn đề rộng lớn, mang tính khái quát nhằm
biểu đạt cho ý nghĩa, tư tưởng của mình.
Như chúng ta đã biết cốt truyện và nhân vật là hai yếu tố làm nên cái hồn của tác phẩm. Đặc biệt
là nghệ thuật xây dựng nhân vật trong ba tác phẩm trên có những điểm gặp gỡ, tương đồng và chính
nghệ thuật xây dựng nhân vật đã góp phần làm nên giá trị của các tác phẩm. Thế nhưng chưa có
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về loại hình nhân vật trong ba tác phẩm. Chính vì vậy việc
tìm hiểu loại hình nhân vật trong ba tập truyện là một việc làm hết sức cần thiết. Điều đó sẽ giúp
người đọc có một cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy được
vai trò, vị trí của loại hình các nhân vật trong thể loại truyền kì nói riêng và văn xuôi tự sự trung đại
nói chung. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến người viết quyết định chọn đề tài: “Loại hình các
nhân vật trong truyện truyền kì Việt Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục”.
2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:
Trước nay các nhà nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào việc đánh giá những giá trị nội dung và nghệ
thuật của những tác phẩm truyền kì. Ngoài ra khi đề cập đến hình thức của thể loại này, các tác giả
chủ yếu đi vào tìm hiểu từng tác phẩm riêng lẻ, chứ chưa có cái nhìn toàn diện, cụ thể. Chính vì vậy
trên cơ sở tìm hiểu mối liên hệ giữa các nước trong khu vực của thể loại truyền kì, chúng tôi tiến
hành khảo sát loại hình các nhân vật trong ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Dưới đây chúng tôi xin điểm qua những mục tiêu mà luận văn đã đặt
ra. Đó là:
- Trên cơ sở tiếp xúc tác phẩm, chúng tôi tiến hành nhóm họp những loại hình nhân vật có những
điểm chung lại với nhau. Từ đó đi sâu vào khảo sát từng loại hình nhân vật.
- Từ chỗ tìm ra những điểm chung của loại hình các nhân vật, bài viết đi vào khảo sát đặc trưng
riêng của từng loại hình. Đó cũng là cách để chúng tôi đi vào phân tích từng loại hình nhân vật.
- Dựa vào việc phân tích từng loại hình nhân vật, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu những đóng
góp của chúng. Luận văn của chúng tôi không nhằm chỉ ra những đóng góp của từng tác phẩm riêng
lẻ hay của thể loại truyền kì nói chung mà chỉ tìm hiểu những đóng góp của loại hình các nhân vật
trong ba tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đối với thể loại
truyền kì nói riêng và văn xuôi trung đại nói chung.
3.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:
Căn cứ vào tình hình tư liệu hiện nay, có thể khẳng định rằng loại hình nhân vật trong Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là một vấn đề chưa được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm, xem xét một cách đầy đủ. Mà nếu có cũng chỉ là những bài nghiên cứu về từng tác
phẩm riêng lẻ. Cụ thể các công trình, bài viết có liên quan đến các tác phẩm trên có thể kể như sau:
1. Thánh Tông di thảo:
Trước nay Thánh Tông di thảo cũng được đề cập đến với tư cách một đối tượng nghiên cứu độc
lập. Thế nhưng đa số những bài viết ấy chủ yếu tìm hiểu về niên đại và tác giả của Thánh Tông di
thảo. Bởi lẽ chỉ riêng hai vấn đề này cũng đã gây nên nhiều vấn đề tranh cãi trong giới nghiên cứu
với nhiều ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau. Đó là những công trình:
- Trong “Lời giới thiệu về Thánh Tông di thảo” của Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh trích trong
“Thánh Tông di thảo” Nxb Văn học, 1963; “Văn bản Thánh Tông di thảo” của Trần Thị Băng
Thanh trích trong “Những suy nghĩ từ văn học trung đại”, Viện văn học, Nxb Khoa học xã hội,
1999; “Về sách Thánh Tông di thảo” của Trần Bá Chi, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5, 2006 và
“Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán Việt Nam thời trung đại”,
Phạm Văn Thắm, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học nhân văn, Hà Nội, 1996: các tác giả đều thừa nhận
Thánh Tông di thảo là một tập truyện kí bao gồm tác phẩm của nhiều tác giả, được sáng tác rải rác
có thể là từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Đồng thời các nhà nghiên cứu này cũng cho rằng trong tập
truyện này cũng có những truyện của Lê Thánh Tông nhưng đã được thêm bớt, chỉnh sửa ít nhiều.
- Trong “Thánh Tông di thảo”, trích trong “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học
sử học Việt Nam” (Thư tịch chí Việt Nam), Trần Văn Giáp, Nxb Văn hóa, 1984: tác giả đã dựa vào
một số địa danh như Hà Nội, Đoài Hồ,......, hoặc sự kiện lịch sử hư cấu như nạn lụt Quý Tỵ... hay
thuật ngữ Phó bảng, Cử nhân và cách dùng từ “hoàn cầu”, chỉ xuất hiện từ đời Nguyễn để đi đến kết
luận rằng văn bản này được viết vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
-Trong “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu
vực”, Trần Nghĩa, trích Tạp chí Hán Nôm số 2, 1998: tác giả đã nhận định rằng Thánh Tông di thảo
ra đời là do mô phỏng Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.
- Các tác giả của “Tổng tập Văn học Việt Nam” (tập 4), Nxb Khoa học Xã hội, 2000, đã đưa ra
các giải thích về một số từ ngữ nghi vấn trong Thánh Tông di thảo. Đó là “có một số địa danh hay
danh hiệu quan chức thì hiện nay người ta đoán định hơi vội vã…. “hà nội” là danh từ chung,
không phải là danh từ riêng, còn “Giáo thụ” là Giáo chức Quốc Tử giám thường phụ giảng giúp
“Tu nghiệp”, chứ không phải “Giáo thụ” là một giáo chức đứng đầu đời Nguyễn” (Tr 557). Tuy
vậy các tác giả này vẫn chưa đi đến những kết luận về ai là chủ nhân của Thánh Tông di thảo.
- “Lời giới thiệu về thể loại kí” của Nguyễn Đăng Na, trích trong “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời
trung đại”, tập 2, Nxb giáo dục, 1999: tác giả đã dựa vào bản dịch của Thánh Tông di thảo, xuất bản
năm 1963 và cho rằng nhan đề của sách chứng tỏ sách do người đời sau sưu tập.
Trên đây là một số bài nghiên cứu xoay quanh vấn đề văn bản và tác giả của Thánh Tông di
thảo. Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Về phương diện
này có thể kể đến một số công trình sau:
- “Yếu tố hư ảo trong Thánh Tông di thảo” của Lê Nhật Ký, trích trong “Hoàng đế Lê Thánh
Tông: nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc”, Nguyễn Huệ Chi, Nxb Khoa học xã hội, 1998:
tác giả đã khẳng định yếu tố kì ảo có một vai trò quan trọng và khẳng định yếu tố kì ảo trong Thánh
Tông di thảo được sử dụng một cách linh hoạt và đem đến cho tác phẩm những giá trị nhất định.
- “Thánh Tông di thảo – bước đột khởi trong tiến trình phát triển của thể loại truyện ngắn Việt
Nam trung cổ” của Vũ Thanh, trích trong “Hoàng đế Lê Thánh Tông: nhà chính trị tài năng, nhà
văn hóa lỗi lạc”, Nguyễn Huệ Chi, Nxb Khoa học xã hội, 1998: tác giả đã khẳng định vị trí của
Thánh Tông di thảo trong toàn bộ sự phát triển của truyện ngắn trung đại Việt Nam: “Thánh Tông di
thảo là một bước tiến mới trong xu hướng ngày càng mở rộng khả năng sáng tạo nghệ thuật, từng
bước tiến tới thoát khỏi ảnh hưởng thụ động của lối ghi chép đơn thuần những đền tích gia phả
trong các đền, chùa (kiểu Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh) và những sáng tác dân gian có sẵn
(kiểu Lĩnh Nam chích quái) và là sự bắt đầu của lối tư duy kiểu mới của người sáng tác thật sự
mang bản sắc của nghệ thuật sáng tạo”[15,tr. 422]
- “Những bài kí trong Thánh Tông di thảo” của Phạm Ngọc Lan, trích trong “Hoàng đế Lê
Thánh Tông: nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc”, Nguyễn Huệ Chi, Nxb Khoa học xã hội,
1998: trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đi đến nhận định về sáu bài ký: “Với tính chất có cốt
truyện, thể văn bay bướm của bút ký, cảm hứng trữ tình và giọng điệu tự sự hào hoa, các bài ký đã
đem đến cho người đọc một chất thơ đặc biệt khó quên”.[15,tr. 447]
2. Truyền kì mạn lục:
Khác với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục chủ yếu là những băn khoăn xuất phát từ cách
gọi đúng tên tác giả, về thời gian sống và sáng tác của Nguyễn Dữ, sách hoàn thành vào năm nào?
Đó là những băn khoăn đã được giải đáp ở một số công trình. Có thể kể đến là:
- Trong các bài viết “Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự ?” Nguyễn Nam, Tạp chí Hán Nôm số 2 –
2002; “Vấn đề tên tác giả Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Quang Hồng, Tạp chí Hán Nôm, số 1 –
2002; “Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh” của Nguyễn Đăng Na, Tạp chí Hán Nôm số 6 –
2005 và “Bàn thêm cách gọi tên tác giả và tác phẩm Truyền kì mạn lục” của Phạm Luận, Tạp chí
Nghiên cứu văn học số 3 – 2006; “Bàn thêm tên tác giả - tác phẩm Truyền kì mạn lục” của Lại Văn
Hùng, Tạp chí Văn học số 10 – 2002; “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác
Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Phạm Hùng, Tạp chí Văn học số 1 – 2006: các tác giả đã đi đến
những nhận xét về tên tác giả: Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự, Nguyễn Dư. Theo các tác giả thì cho
rằng đọc “Dữ” hay “Dư” chính là do xem chữ Hán với việc thông qua việc chỉ chú ý vào bộ phận
biểu âm mà trên thực tế từ này đọc theo ba dấu: dữ, dự, dư. Đồng thời các tác giả cũng gọi tên tác
giả theo nhiều cách khác nhau là Nguyễn Tự, hoặc Nguyễn Dư hoặc Nguyễn Dữ. Bên cạnh đó một
số công trình này cũng cho rằng: Nguyễn Dữ sinh vào khoảnh thế kỉ XV và mất vào khoảng thập kỉ
thứ tư của thế kỉ XVI. Nhà văn này có thể lớn hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm vài tuổi nhưng không vì vậy
mà cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người phủ chính Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ.
-Về số lượng tác phẩm của Truyền kì mạn lục, trong “Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện”
của Nguyễn Đăng Na in trên Tạp chí Hán Nôm số 2/1988 thì ông khẳng định Truyền kì mạn lục chỉ
có 20 truyện chứ không phải là 21 hay 22 truyện như Viện nghiên cứu Hán Nôm và Viện sử học đã
ghi chép.
Ngoài ra khi bàn về Truyền kì mạn lục, các nhà nghiên cứu cũng tranh luận về vấn đề nội dung
và nghệ thuật của Truyền kì mạn lục. Đó là các công trình:
- “Lịch sử văn học Việt Nam” tập II, Bùi Văn Nguyên, Tủ sách Đại học sư phạm, NXB Giáo
dục, 1971 nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật của Truyền kì mạn lục như sau: “Truyền kì mạn
lục là một tập văn hay, cái hay ở đây không riêng về nội dung phong phú, chi tiết sinh động, nhưng
cái hay ở đây còn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý, phô diễn ngôn ngữ”. [ 90,
tr.131]
- “Truyền kì mạn lục và những thành tựu của văn xuôi Việt Nam”, Đinh Gia Khánh, trích trong
Tuyển tập tập II, Nxb Giáo dục, 2007: tác giả cũng khẳng định rằng “Truyền kì mạn lục gồm những
truyện ngắn, và với giá trị của một thiên cổ kì thư, tác phẩm đã trở thành mẫu mực cho truyện ngắn
thời xưa”. [49, tr. 504]
- “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ”, Nguyễn Phạm
Hùng, Tạp chí Văn học số 2/1987: “Hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục không phải được phản
ánh một cách nhất quán và đồng bộ. Chúng có những mâu thuẫn và phức tạp nhiều khi khó mà lý
giải được một cách rành rẽ, thậm chí có thể ở một truyện cụ thể. Chắc chắn chúng không thể được
sáng tác cùng một lúc, mà trong một thời gian kéo dài, trong khi đó bản thân tư tưởng, thế giới
quan của Nguyễn Dữ cũng biểu hiện sự vận động đầy phức tạp và không loại trừ khả năng có
những mâu thuẫn nhất định. Nhưng về cơ bản có thể nói các mâu thuẫn, xung đột của nhiều thuyện
được triển khai khá thống nhất, tần số lặp lại các mô thức nghệ thuật trong mối thể hiện các xung
đột ở một loạt các tác phẩm viết về người phụ nữ, người trí thức hay các lực lượng thống trị đã làm
cơ sở đáng tin cậy cho việc xác định khuynh hướng sáng tác của nó”.[45, tr.15]
Bên cạnh đó, một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm bàn luận khi nói về
Truyền kì mạn lục, đó là mối quan hệ giữa Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ với Tiễn đăng tân
thoại của Cù Hựu – một tác giả Trung Quốc đời nhà Minh. Đó là những bài:
-Trong các bài viết “Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kì mạn lục”, Kawamoto
Kurive, Ngân Xuyên dịch từ bản thảo tiếng Pháp, Tạp chí Văn học số 6/1996; “Nghiên cứu so sánh
một tiểu thuyết truyền kì trong Kim ngao tân thoại, Truyền kì mạn lục và Tiễn đăng tân thoại” của
Toàn Huệ Khanh, Tạp chí Văn học số 2/2005; “Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu với
Kim ngao tân thoại của Kim Thời Tập, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và Ca tỳ tử của Asai Rey”
Boisriftin do Phạm Tú Châu dịch, Tạp chí Văn học số 12/2006; “Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì
mạn lục” của K.I.Golugina, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 3/ 2004; “Ca tỳ tử (Otogiboko) và Vũ
nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatan) với Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Thị Oanh, trên Tạp chí Hán
Nôm số 4/1995; “Quá trình truyền nhập và lưu hành Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam” của Nguyễn
Nam, Tạp chí Văn học số 5/2001; “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết
cổ các nước trong khu vực” của Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm số 2/1998; “Đề tài tình yêu trong
Kim ngao tân thoại của Hàn Quốc (So sánh với Truyền kì mạn lục của Việt Nam)” của KimSeona,
Tạp chí Văn học số 10/1995 và “Vế mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục”,
Phạm Tú Châu, Tạp chí Văn học số 3/1987; “So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma trong Tiễn
đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục” của Đinh Thị Khang, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 năm
2007: các tác giả đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”, đó
là “Truyền kì mạn lục” đã chịu ảnh hưởng của “Tiễn đăng tân thoại”. Hầu hết các nhà nghiên cứu
này đều cho rằng: Nguyễn Dữ phần nào đã dựa vào Tiễn đăng tân thoại để viết Truyền kì mạn lục.
Tuy nhiên Truyền kì mạn lục cũng có những nét sáng tạo riêng, gần gũi với con người Việt Nam và
“rất Nguyễn Dữ”
Mặt khác khi đề cập đến Truyền kì mạn lục một số nhà nghiên cứu đã tiến hành khai thác theo
hướng đi vào tìm hiểu một truyện cụ thể, tiêu biểu nhất. Đó là những bài:
- “Một số vấn đề cần lưu ý khi đọc – hiểu văn bản Chuyện người con gái Nam Xương” của
Nguyễn Đăng Na, Văn học và tuổi trẻ, số tháng 10 – 2005.
- “Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên của Nguyễn Dữ” của Lê Trí Viễn, trích trong những
bài giảng văn ở Đại học, NXb Giáo dục, 1982.
- “Góp thêm vài suy nghĩ vế mối quan hệ giữa Chuyện cây gạo và Truyện chiếc đèn mẫu đơn”,
Đinh Phan Cẩm Vân, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2005.
- “Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương”, Nguyễn Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn
học, số 4/2004.
- “Đời sống của nhân vật truyền kì ngoài tác phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt
Nam”, Nguyễn Ngọc Hiệp, Tạp chí Văn học số 5/2005.
3. Lan Trì kiến văn lục:
Nhìn chung về Lan Trì kiến văn lục thì những công trình nghiên cứu về tác phẩm này vẫn còn ít.
Dưới đây chúng tôi xin được đưa ra hai công trình nghiên cứu chủ yếu.
- “Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong dòng truyện truyền kì Việt Nam”, Trần Thị Băng
Thanh, trích trong “Những suy nghĩ từ văn học trung đại”, NXb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1999 và
“Vũ Trinh và Kiến văn lục”, Nguyễn Cẩm Thúy, Tạp chí Văn học, số 3/1983: hai tác giả này chủ
yếu đi sâu phân tích và nhận định về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó đi đến
khẳng định đây là một trong những tác phẩm truyền kì tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.
Bên cạnh đó Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn được đề cập
đến trong một số công trình nghiên cứu dưới dạng nhân bàn về những vấn đề khác lớn hơn. Tuy vậy
trong những công trình này thì Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục vẫn
được khảo sát trên phương diện nội dung và nghệ thuật, nhằm góp thêm một cái nhìn đầy đủ, khái
quát về những vấn đề tổng quát. Vì thế đó là những cái nhìn còn sơ lược về các tác phẩm. Dưới đây
là một số công trình:
- “Các loại truyện từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII” trích trong “Lịch sử văn học Việt Nam sơ giản”,
Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nxb Khoa học Xã hội, 1963.
- “Văn tự sự, truyện kí thế kỉ XV” trích trong “Văn học Việt Nam: thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ
XVIII”, Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Nxb Giáo dục, 1997.
- Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb Khoa học Xã hội, 1986.
- “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung
đại”, Phạm Văn Thắm, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1996.
- “Mấy vấn đề thi pháp học trung đại Việt Nam”, Trần Đình Sử, Nxb Giáo dục, 1999.
- Lời giới thiệu trong “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại”, Nguyễn Đăng Na, Nxb Giáo
dục,1999.
- “Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam”, Vũ Thanh, Tạp
chí văn học số 6/1994.
- “Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì”, Đinh Phan Cẩm Vân, Tạp chí Văn học số 10/2000.
- “Quan niệm về Thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong truyện văn xuôi trung đại”, Trần
Thị An, Tạp chí văn học, số 3/2003.
- “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam danh mục và phân loại”, Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm, số
3/1997.
- “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ thuật”, Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm số
4/1997.
- “Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với tiểu thuyết chữ Hán ở Việt Nam”, Trần Nghĩa, Tạp chí Hán
Nôm, số 4/1999.
- “Từ điển văn học Việt Nam”, Lại Nguyên Ân, Bùi Trọng Cường, Nxb Giáo dục, 1995.
- “Từ điển văn học” (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Nxb Thế giới, 2003.
- “Tìm hiểu truyện Hoa quốc kì duyên” Nguyễn Nam, Tạp chí văn học số 2/1996.
- “Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh
điểm”, Vũ Thanh trích trong “Văn học Việt Nam – thế kỉ X đến XIX, những vấn đề lí luận và lịch
sử”, Trần Ngọc Vương (chủ biên), NXB Giáo dục, 2007.
- “Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam”, Trần Nho Thìn, chuyên luận trích trong “Truyện
ngắn Việt Nam – lịch sử - thi pháp – chân dung”, của Phan Cự Đệ, NXB Giáo dục, 2007.
Nhìn chung hầu hết các tác giả đã nghiên cứu về niên đại, tên tuổi của các tác giả. Đồng thời các
nhà nghiên cứu cũng đi đến những kết luận xoay quanh nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm.
Trong khi đó về nghệ thuật xây dựng nhân vật các nhà nghiên cứu cũng chưa có một bài viết nghiên
cứu đầy đủ, chuyên sâu. Chính vì vậy bài nghiên cứu đi vào nghiên cứu loại hình các nhân vật trong
các tác phẩm của các tác giả trên.
IV. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:
Truyện truyền kì trung đại Việt Nam được xem như là một bước tiến vượt bậc từ khi Thánh
Tông di thảo ra đời, rồi thể loại này được xem là phát triển đến đỉnh điểm khi có sự xuất hiện của
Truyền kì mạn lục. Giai đoạn sau bên cạnh Truyện kì tân phả, Tân truyền kì lục, thì có thể nói sự ra
đời của Lan Trì kiến văn lục cũng mang lại cho thể loại truyện kì những điểm nổi bật. Đó là bởi
khác với Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục, Lan Trì kiến văn lục đã có cách viết ít nhiều khác các
tác giả đi trước và do đó đã đóng góp thêm những nét mới cho thể loại. Và người viết xin mượn lời
nhận định của tác giả Trần Thị Băng Thanh về Lan Trì kiến văn lục để làm lý do chọn tác phẩm này:
“Đấy là đóng góp đáng ghi nhận của Vũ Trinh cho lịch sử thể loại truyền kì nói riêng và thành tựu
của văn học trung đại nói chung” [10, tr.239]. Vì vậy với đề tài này người viết xác định xin phạm
vi nghiên cứu là ở ba tập truyện: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.
3.1. Thánh Tông di thảo:
Mặc dù vấn đề niên đại và tác giả của tác phẩm hiện còn nhiều ý kiến khác nhau song vì mục
đích của đề tài nên người viết quyết định tìm hiểu Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện và 02 phụ
chép. Do đó người viết tiến hành tìm hiểu tập truyện này dựa trên văn bản sau:
“Thánh Tông di thảo” do Nguyễn Bích Ngô dịch vả chú thích, Phạm Văn Thắm giới thiệu (183
trang), NXB Văn học, Hà Nội 2001, gồm 19 truyện và 02 phụ chép:
Truyện yêu nữ Châu Mai Lời phân xử cho anh điếc và anh mù
Truyện dòng dõi con thiềm thừ Ngọc nữ về tay chân chủ
Truyện hai Phật cãi nhau Truyện hai thần hiếu đễ
Truyện người hành khất giàu Truyện chồng dê
Truyện hai nữ thần Người trần ở Thủy Phủ.
Phả ký sơn quân Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc.
Bức thư con muỗi Truyện một giấc mộng
Duyên lạ ở Hoa Quốc Phụ chép 2.
Phụ chép 1. Truyện tinh chuột
Trận cười ở núi Vũ Môn Một dòng chữ lấy được gái thần
Truyện lạ nhà thuyền chài
3.2. Truyền kì mạn lục: Người viết tiến hành tìm hiểu truyện ở văn bản:
“Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” , bản dịch của Trúc Khê, Ngô Văn Triện, (231 trang) NXb
Văn nghệ Hội nghiên cứu giảng dạy văn học tp. Hồ Chí Minh – 1988, gồm 20 truyện:
Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang. Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào.
Câu chuyện ở đền ở Hạng Vương Chuyện yêu quái ở Xương Giang.
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu. Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na.
Chuyện cây gạo. Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào.
Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh Chuyện nàng Túy Tiêu.
Chuyện kì ngộ ở Trại Tây. Chuyện người con gái Nam Xương.
Chuyện đối tụng ở Long Cung. Chuyện Lý Tướng quân.
Chuyện nghiệp oan của Đào Thị. Chuyện Lệ Nương.
Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên. Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa.
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên. Chuyện tướng dạ xoa.
3.3.Lan Trì kiến văn lục: Người viết xin tìm hiểu và khảo sát từ văn bản:
“Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh” (152trang), Hoàng Văn Lâu dịch, NXB Thuận Hóa
trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, gồm 45 truyện.
Dốc Đầu Sấm. Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu
Thần Cửa Cờn. Người đàn bà trinh tiết ở Thạch
Thán.
Đứa con của rắn. Đánh ma
Điềm báo trước Tiên trên đảo.
Nguyễn Danh Nhược. Nguyễn Quỳnh.
Nhớ ba kiếp Phạm Viên
Rắn thiêng Tiên ăn mày
Thầy tướng Con hổ có nghĩa.
Thần đền Chiêu Trưng Đẻ lạ
Hang núi giữa biển. Sống lại
Người khổng lồ Gái biến thành trai
Gấu hổ chọi nhau Thằng trộm.
Câu chuyện tình ở Thanh Trì. Con giải
Ca kĩ họ Nguyễn Ma cổ thụ
Liên Hồ quận quân Cá thần
Con hổ nhân đức Khỉ
Nguyễn Trật. Con hổ hào hiệp
Tháp Báo Ân Bà đồng
Phu nhân Lan quận công. Trạng nguyên họ Nguyễn.
Núi trên biển Nhớ kiếp trước
Đá nổi Thượng thư họ Đỗ.
Mộng lạ. Thần giữ của.
Ma trơi
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:
Phương pháp lịch sử cụ thể: luận văn tìm hiểu loại hình các nhân vật trong Thánh Tông di
thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục tức là đề cập đến tác phẩm của các tác giả cụ thể. Mà
ba tác phẩm này lại là thành quả của một hoàn cảnh cụ thể lịch sử, nằm trong tiến trình phát triển
của lịch sử dân tộc. Do đó người viết vận dụng phương pháp này để tìm hiểu sự tương tác giữa môi
trường văn hóa, thời đại với tác giả để có cái nhìn thấu đáo cặn kẽ và lý giải được những nội dung
và nghệ thuật của tác phẩm.
Phương pháp hệ thống: vận dụng phương pháp hệ thống vào việc sắp xếp các yếu tố vào
một hệ thống, phân tích và lý giải mối liên hệ giữa các yếu tố đó để thấy được tính chỉnh thể của vấn
đề cần khảo sát.
Phương pháp phân loại, thống kê: sử dụng để chỉ ra tần số xuất hiện của các vấn đề cần
khảo sát, đặc biệt là khi tìm hiểu loại hình các nhân vật trong tác phẩm, lấy đó làm căn cứ cho sự lý
giải về những vấn đề đã phản ánh theo tính chất, mức độ, ý nghĩa. Kết quả của việc thống kê số liệu
góp phần tăng thêm tính chính xác và thuyết phục cho luận văn.
Phương pháp so sánh, đối chiếu: chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh lịch đại và đồng
đại để tiến hành so sánh ba tác phẩm với nhau, và ba tác phẩm này với các tác phẩm khác trước
hoặc sau nó hoặc cùng thời với nó. Để từ đó thấy được những đóng góp của ba tác phẩm này.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp trên đây không phải được sử dụng
một cách độc lập mà trong quá trình thực hiện công trình người viết đã sử dụng phối hợp các
phương pháp để có thể đạt được hiệu quả cao nhất.
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
1.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển:
1.1.1.Khái niệm truyền kì:
Khái niệm truyền kì có thể hiểu bằng nhiều cách. Đó là: có khi được giải thích theo tính chất
câu chuyện, khi thì dựa vào đặc điểm thể loại ở một thời kỳ nhất định, khi lại dựa vào lịch sử hoàn
thành của truyện truyền kì, khi lại coi truyền kì là loại văn xuôi tự sự nhưng đã để mất yếu tố kì lạ,
tất cả những điều này đều được đề cập đến trong một số giáo trình, tài liệu. Điển hình như trong “Từ
điển tiếng Việt” có viết về truyền kì: “có tính chất những truyện kì lạ lưu truyền lại” (1087). Trong
“Từ điển văn học” giải thích: “Truyền kì là một thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc
thịnh hành ở đời Đường” (447); hoặc “truyện ngắn đời Đường”; hoặc ký khúc đời Minh Thanh,
hoặc truyện thần kì”. (141).
1.1.2.Khái niệm truyện truyền kì trung đại Việt Nam:
- Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ảnh hưởng nhiều từ truyện truyền kì Trung Quốc đời
Đường. Và theo các nhà nghiên cứu đây cũng là thời kỳ đánh dấu sự chín muồi của thể loại tự sự.
Theo đó, hai chữ truyền kì bao hàm mấy nghĩa sau: Một là: có ý chuộng lạ; hai là: đặc điểm của
truyền kì là chứa đựng nhiểu thể, có thể nhận thấy tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị luận trong tác
phẩm truyền kì.
- Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ngay từ khi ra đời cho đến khi phát triển đến đỉnh điểm,
đã trải qua một quá trình dài học tập để có thể tự hoàn thiện mình. Từ những tác phẩm đầu tiên còn
âm hưởng của văn học dân gian, cho đến lúc thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của nó, thể loại
này đã làm nên những thành công nhất định.
1.1.3.Mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện truyền kì ở vùng văn hóa Đông Á:
Chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng: truyện truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ
truyện truyền kì Trung Quốc và có mối quan hệ với các nước khu vực chữ Hán. Tuy vậy, truyện
truyền kì Việt Nam cũng có một quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn với nền văn hóa dân
gian và văn xuôi lịch sử. Đồng thời trong suốt quá trình hoàn thiện mình, thể loại này vẫn tiếp tục
chịu ảnh hưởng giao lưu với các nước trong khu vực, với Trung Quốc và các nước vùng văn hóa
Đông Á. Dưới đây người viết xin đi vào trình bày sơ lược về đặc điểm của thể loại truyền kì ở các
nước lân cận. Trên cơ sở đó để thấy được mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện
truyền kì các nước trong khu vực văn hóa Đông Á.
1.1.3.1.Truyện truyền kì ở Trung Quốc:
- Theo các nhà nghiên cứu, truyền kì là thể loại văn xuôi nghệ thuật xuất hiện khá sớm trong
văn học cổ điển Trung Quốc. Và theo quan điểm hiện nay, truyện truyền kì được xem là hình thức
đầu tiên của truyện ngắn. Hiện nay có ba quan điểm khác nhau tranh luận về nguồn gốc của thể loại
truyền kì ở Trung Quốc:
+ Loại quan điểm thứ nhất: Một số học giả cho rằng nguồn gốc của truyền kì là các sự tích lịch
sử và truyện ngắn thế kỉ VIII – IX trong văn học Trung Quốc. Như vậy quan điểm này đã dựa vào
tính chất văn - sử - triết bất phân thời trung đại.
+ Loại quan điểm thứ hai: Loại quan điểm này cho rằng nguồn gốc của truyện truyền kì là xuất
phát từ truyện kể đời Đường.
+Loại quan điểm thứ ba: Những nhà nghiên cứu theo quan điểm thứ ba đã khẳng định: nguồn
gốc truyền kì có từ văn xuôi Trung Quốc cổ đại thế kỉ III – VI.
- Đa số các nhà nghiên cứu đồng tình với ý kiến thứ hai. Đó là ở Trung Quốc, truyện truyền kì
đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, mà cụ thể là hình thành ở đầu đời Đường.
Có thể thấy truyện truyền kì đời Đường phát triển qua ba giai đoạn:
+ Thời sơ Đường (618 – 741): Đây là giai đoạn hình thành truyện truyền kì. Nội dung khá đa
dạng: có tác phẩm viết về đề tài tình yêu ma quái, quái dị; có truyện viết về thần tiên, có truyện viết
về động vật được nhân cách hóa. Về bút pháp truyện truyền kì thời này thiên về ghi chép, ít sáng
tạo.
+ Thời trung Đường (742 – 820): Có thể thấy đây là thời kì phát triển rực rỡ của truyền kì. Nội
dung truyện truyền kì thời kỳ này thì có nhiều biến chuyển lớn. Đó là chủ đề về chốn quan trường,
về khát vọng tình yêu và về lịch sử. Loại truyện này chủ yếu phản ánh tính hoang dâm vô độ của
tầng lớp thống trị. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện sự bất mãn của các tác giả đối với đường lối
chính sách đương thời.
+ Thời vãn Đường: (821 – 907): Ở thời kỳ này, thể loại truyền kì đã đi vào chặng suy thoái.
Ngoài ra, cũng cần nói đến truyện truyền kì các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh: Đời Tống -
Nguyên truyện truyền kì tiếp tục rơi vào tình trạng suy thoái dần. Sang đến đời Minh, thể loại truyền
kì hưng thịnh trở lại. Nổi tiếng có tập Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Tiễn đăng dư thoại của Lý
Xương Kỳ….Về hình thức những tác phẩm trên đều bao gồm những truyện ngắn, tương tự như
truyền kì đời Đường. Nó được xem là những tác phẩm mở lối cho sự ra đời của những kiệt tác đời
sau đó.
- Đặc điểm của truyện truyền kì Trung Quốc: căn cứ vào quá trình phát triển của truyện truyền
kì, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số đặc trưng của thể loại này:
+ Truyện truyền kì Trung Quốc ở thời Tống đã cho thấy yếu tố ma quỷ thần quái là đặc điểm cơ
bản của truyền kì.
+ Đi sâu khắc họa hình tượng nhân vật ở cả hai phương diện nội dung và hình thức là đặc trưng
cơ bản cho thể loại truyền kì khi nói về nghệ thuật của nó.
1.1.3.2.Truyện truyền kì Triều Tiên:
Như chúng ta đã biết Triều Tiên thời trung cổ thuộc khối đồng văn. Đây cũng là đất nước có sự
tương đồng về văn hóa với Việt Nam và các nước khu vực Viễn Đông.
- Thời gian và hình thức ra đời của truyện truyền kì Triều Tiên: theo một số nhà nghiên cứu thì
từ thế kỷ XV, trong đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội Triều Tiên có những biến đổi đáng kể do sự
cải cách của triều đại phong kiến đương thời. Và văn học Triều Tiên thế kỷ XV cũng đánh dấu bước
chuyển đáng chú ý.
- Hình thức ra đời: Ngay từ khi ra đời văn xuôi tự sự Triều Tiên chia làm hai dạng rõ rệt. Một
dựa trên truyện tiếu lâm trong văn học dân gian, một dựa vào nguồn thần thoại, cổ tích, truyền
thuyết. Nguồn thứ hai này tạo nên thể loại truyền kì. Nói đến thể loại này, các nhà nghiên cứu nhắc
ngay đến Kim Ngao tân thoại của Kim Si Seup (Kim Thời Tập), tác phẩm truyền kì xuất hiện khá
sớm vào thế kỷ XV và chịu ảnh hưởng sâu sắc Tiễn đăng tân thoại.
1.1.3.3.Truyện truyền kì Nhật Bản:
- Ở Nhật Bản, từ cuối thế kỷ XII đã xuất hiện thể loại truyền kể được kể bởi những nghệ sĩ lãng
tử dưới hình thức trường ca sử thi. Từ đầu thế kỷ XIV và đến thế kỷ XVI văn học Nhật Bản đã thực
sự tồn tại một loại văn xuôi nghệ thuật khác rất xa với dòng chảy tư tưởng chung của thời đại này.
Đó là truyện ngắn, trong đó một số có nguồn gốc phônclo với những cốt truyện cổ tích, một số khác
lấy các cốt truyện từ văn học cổ điển Nhật Bản, từ những Phật thoại và cuối cùng là từ văn học
Trung Quốc. Tới thế kỷ XVI nhiều truyện trong số đó – khoảng gần ba trăm truyện – được ghi chép
và được xuất bản bằng các văn bản khắc ván. Đó là hình thức ban đầu của truyện ngắn Nhật Bản.
- Con đường hình thành truyện truyền kì Nhật Bản theo ba bước. Điểm này không giống với
Việt Nam và Triều Tiên. Nó mang đặc thù của văn học xứ sở hoa anh đào. Tức cuồi thế kỷ XVI,
truyền kì Cù Hựu đã được biết đến ở Nhật Bản. Trước hết các tác giả người Nhật làm quen với Cù
Hựu trong nguyên bản chữ Hán, kế tiếp là dịch những truyện tiêu biểu rồi phóng tác theo Cù Hựu và
cuối cùng là ứng dụng, sáng tạo ra truyện truyền kì người Nhật. Kết cấu truyện chủ yếu vẫn theo lối
tuyến tính nhưng được triển khai trong sự đa dạng của chủ đề, đề tài, nhân vật. Đặc biệt là truyện
thường ngắn gọn, có ý nghĩa vừa là giai thoại vừa là ngụ ngôn. Đỉnh cao của truyện truyền kì Nhật
Bản là Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda Akinari (thế kỉ XVIII).
1.1.4.Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện truyền kì Việt Nam:
Có thể thấy rằng truyện truyền kì Việt Nam phát triển từ những ảnh hưởng thụ động đến
việc tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian.
1.1.4.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng thụ động từ văn học dân gian ( từ cuối thế kỷ XIV trở về trước):
Trên cơ sở những tư liệu mà chúng ta có được, có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam đã bắt đầu
manh nha từ thế kỷ XIII, với tác phẩm Ứng Minh trì dị sự của Vũ Cao, được ghi lại trong Đại Việt
sử lược. Tác phẩm này tuy tình tiết, cốt truyện đơn giản, sơ lược nhưng bố cục chặt chẽ. Điều đáng
chú ý nữa là màu sắc dân gian thuần phác được thể hiện khá rõ nét. Và văn học dân gian đã tác động
đến suốt quá trình hình thành, phát triển của thể loại truyền kì cả về nội dung lẫn nghệ thuật.
- Về cốt truyện: một số cốt truyện trong các tác phẩm của thể loại truyền kì chủ yếu lấy từ những
câu chuyện lưu truyền trong dân gian, từ truyện cổ tích cho đến thần thoại, truyền thuyết về các vị
thần. Không những vậy, các nhà văn luôn trung thành trong sự việc sử dụng những cốt truyện này
mà chưa có sự đổi mới, sáng tạo.
- Về nhân vật: các nhân vật của truyện truyền kì đều có nguyên mẫu từ văn học dân gian. Những
hình tượng gần gũi và quen thuộc nhất của các nhà văn trong thời kỳ đầu chính là từ các truyện thần
thoại, truyền thuyết, cổ tích, thần kì,….Điều này được thể hiện rõ trong Việt điện u linh tập, Lĩnh
Nam chích quái.
- Về giọng điệu: chủ yếu là cách kể, giọng điệu của tác giả dân gian trong văn học dân gian.
1.1.4.2.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian ( từ thế kỷ XV trở về sau):
Từ việc ảnh hưởng một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả truyền kì đã dần dần từng
bước một không chỉ đưa những “đứa con” tinh thần của mình thoát ra khỏi những ảnh hưởng máy
móc ấy, mà còn có ý thức sáng tạo chúng.
* Nội dung phản ánh:
- Tiếp xúc trực tiếp với những tác phẩm truyền kì giai đoạn sau, chúng tôi thấy một số tác
phẩm đã đạt đến một trình độ nhất định. Nếu ở giai đoạn trước, các tác phẩm truyền kì lấy các vị
thần, nhà sư làm đối tượng phản ánh chủ yếu thì ở giai đoạn sau, các tác phẩm lại chủ yếu đề cập
đến con người đời thường, đặc biệt là những con người dưới đáy xã hội. Con người có đủ sức mạnh
và trí tuệ để làm chủ hoàn cảnh, cuộc sống. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn này còn đề
cập đến những nội dung rất thực tế. Nó gắn liền với hiện thực cuộc sống đương thời. Không phải chỉ
là chuyện của ma quái, thần linh mà đó còn là câu chuyện về một mối tình, một thoáng nhớ người
yêu, một khát khao hạnh phúc ở đời và hơn hết còn là mong ước được gắn bó với mảnh đất quê
hương, với xứ sở thân thương nhất. Tất cả những điều ấy rất thực tế, xuất phát từ chính cuộc sống
hằng ngày. Điều này cho thấy sự cách tân trong tư duy nghệ thuật của các nhà văn.
*Phương thức phản ánh: để phù hợp với những nội dung ấy, các tác giả truyền kì cũng làm
mới nghệ thuật cho đứa con tinh thần của mình.
- Cốt truyện: mượn cốt truyện từ văn học dân gian nhưng được viết với một tư tưởng và mục
đích khác hẳn. Những cốt truyện từ trong những tác phẩm của Lí Tế Xuyên và Trần Thế Pháp đã
được thay đổi khi đến tay Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ. Ở đây cốt truyện cũ chỉ là một biện pháp
để nhà văn vin vào đó thể hiện những điều mình muốn gửi gắm. Lúc này tất cả đã được khoác lên
mình những sáng tạo mới. Điều này thể hiện những bước tiến quan trọng của thể loại truyện truyền
kì Việt Nam thời trung đại cũng như những biến đổi rõ nét trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.
- Nhân vật: Càng về sau, truyện truyền kì càng có những cách thể hiện mới, đặc biệt là nhân
vật người kể chuyện. Lúc này người kể chuyện đã mang tính cá thể, đồng thời còn có sự tham gia
của nhà văn như một nhân vật trong tác phẩm. Ở giai đoạn của Lý Tế Xuyên nhân vật còn là nguyên
mẫu trong văn học dân gian. Qua thời Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, kiểu nhân vật mới bắt đầu xuất
hiện. Nhà văn đồng nhất với nhân vật. Điểm này được thể nghiệm thành công ở tác giả của Thánh
Tông di thảo. Đó là sự xuất hiện của nhân vật thứ ba, hiện thân của nhà văn. Đó cũng chính là bước
tiến mới của thể loại, chấm dứt lối ảnh hưởng thụ động, một chiều từ văn học dân gian. Lúc này
nhân vật không đơn giản chỉ được miêu tả ở bên ngoài nữa mà đã được bước sâu vào lãnh địa bên
trong của tâm hồn, được khai thác đời sống nội tâm, khắc họa tính cách. Khi nói về đóng góp này,
các nhà nghiên cứu thường gắn nó với tên tuổi của Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ: “Chú trọng
đến việc phản ánh những xung đột bình thường trong đời sống gia đình, cũng như việc đi sâu khắc
họa nội tâm nhân vật đã xác định được vị trí người mở đường cho loại truyện ngắn thế sự trong lịch
sử văn học dân tộc của Nguyễn Dữ và khiến cho truyện của ông trở nên gần gũi với văn xuôi hiện
đại”. [131, tr. 754].
- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ đối thoại là chủ yếu. Khác hẳn với lối kể chuyện đơn tuyến của văn học
dân gian, các nhà văn truyền kì đã bắt đầu quan tâm đến lối kể chuyện đa tuyến và nó được thể hiện
dày hơn, nhiều hơn trong tác phẩm. Từ ngôn ngữ đối thoại sẽ kéo theo hệ quả là ngôn ngữ mang
tính cá thể. Mỗi nhân vật gắn liền với ngôn ngữ của riêng mình. Và chính điều này đã góp phần làm
nên những thành công rực rỡ cho thể loại truyền kì.
1.1.4.3. Mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại Việt Nam với văn xuôi lịch sử:
*Từ tính chân thực của sử học đến những hình tượng văn học chân thực:
- Cũng như văn học dân gian, văn xuôi lịch sử cũng là một trong những nguồn gốc quan trọng
hình thành nên truyện truyền kì trung đại trong giai đoạn đầu phát triển. Trong con mắt của các nhà
nho thời trung đại thì văn học hư cấu như truyện truyền kì, chí quái là thể loại không được xem
trọng, thậm chí bị coi khinh. Vì vậy mà ở những thử nghiệm đầu tiên, thể loại này đã cố gắng đưa
những sự kiện sử học vào tác phẩm, thậm chí là càng gần sử càng tốt. Do đó, các nhà văn truyền kì
ở thời kì đầu đóng vai trò như một nhà sử học. Họ cố gắng tạo cho tác phẩm của mình tính chân
thực và nghiêm túc của sử học bằng cách trích dẫn hoặc lấy tư liệu cho tác phẩm của mình như một
sự bổ sung thiết yếu cho các tác phẩm sử học. Nhận vật trong những tác phẩm này là những nhân
vật có thật trong lịch sử, đây là phần kể chuyện người. Bên cạnh đó còn phần kể chuyện thần, được
các tác giả ghi chép thêm phần phong tặng của các triều đại.
- Tuy nhiên trong những tác phẩm sử học này đã chứa đựng những câu chuyện, hình ảnh, mô típ
giàu tính nghệ thuật đóng vai trò như những hình mẫu dễ bắt chước của các nhà viết truyện. Có thể
thấy các giá trị văn chương chứa đựng trong các tác phẩm sử học. Và đây cũng là một trong những
nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của truyện truyền kì trung đại.
*Sự phát triển của mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại và văn xuôi lịch sử: Truyện
truyền kì dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn xuôi lịch sử.
- Có thể nói, càng về giai đoạn sau, trong các tập truyện truyền kì không còn các trích đoạn sử
liệu và cũng không còn những đoạn ghi chép về tước hiệu của các vị thần như trong tác phẩm của
các tác giả trước đó. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn sau không còn mang chức năng
hành chính và chức năng tôn giáo như các tập truyện trước nữa
- Cùng với thời gian, truyện truyện kì đã tách ra khỏi mối quan hệ văn - sử - triết bất phân trong
thời trung đại, nhằm hướng đến khẳng định mình trong thế độc lập. Lúc này các nhân vật lịch sử đã
có thêm những yếu tố mới, những khía cạnh mới về nhân cách, về cuộc sống. Ngoài ra không khí
lịch sử trong tác phẩm cũng mang tư tưởng của tác giả. Đặc biệt là ở phần cuối tác phẩm, tác giả
hoặc một ai đó đã viết lời bình cho tác phẩm. Đây là một bước tiến quan trọng của thể loại, giúp thể
loại dần thoát khỏi những ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử.
- Giải phóng khỏi những ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử, các tác giả truyền kì đã đạt được
những thành công nhất định.
+ Một là: truyện truyền kì với những câu chuyện thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn
học dân gian, đã làm xuất hiện trong văn xuôi dân tộc những tác phẩm thuần túy văn học.
+ Hai là: giải phóng khỏi ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử chính là để tạo không gian cho nhà văn
sáng tạo cốt truyện và để tìm kiếm kết cấu mới cho tác phẩm của mình.
1.1.4.4. Mối quan hệ giữa hai yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam
*Sự thể hiện yếu tố thực trong thể loại truyền kì Việt Nam:
- Một khi yếu tố thực được gia tăng thì đồng thời với nó cái “kì” bắt đầu bộc lộ
cái thế yếu và có thể bị thất thế. Nhờ vào đó mà con người trần tục đã khẳng định được tài trí và
uy quyền của mình trước những thế lực siêu nhiên. Nếu các tác phẩm của giai đoạn trước sức mạnh
siêu phàm của thần linh luôn giúp đỡ con người trong việc chiến thắng kẻ thù, thì đến lúc này cái kì
lạ được diễn ra chính là nhờ vào kết quả những hành động bình thường của người trần tục.
- Một trong những nguyên nhân giúp thấy rõ yếu tố thực trong các tác phẩm truyền kì là các tác
giả đã lấy đề tài, cảm hứng từ những sự kiện có thật trong lịch sử, có thật trong thực tế đời sống. Và
khi đề cập đến sự thật lịch sử, các tác giả cũng đi sâu vào khai thác những mặt hạn chế của chế độ
phong kiến đương thời, cũng như những hình ảnh con người bình thường trong xã hội với những
khát vọng rất đỗi bình dị. Chính điểm này đã giúp cho thể loại truyền kì sản sinh ra những tác phẩm
mang hơi thở của cuộc sống.
*Sự thể hiện yếu tố “kì” trong thể loại truyền kì trung đại Việt Nam:
٭ Khái niệm “kì”: “kì” ở đây có nghĩa là kì lạ, kì ảo. Yếu tố kì ảo được sử dụng rộng rãi trong
nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự trung đại. Và “yếu tố kì ảo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc
tổ chức cũng như tạo cho tác phẩm cái vẻ riêng, hấp dẫn, có một sức mê hoặc kì lạ” [14,tr. 449].
٭Yếu tố “kì” trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam phát triển từ thụ động đến ý thức:
- Có thể thấy trong thời kì đầu, cái “kì” trong truyện truyền kì thô phác, mộc mạc, mang tính tự
phát, gần gũi với yếu tố siêu nhiên, cái kì vĩ của thần thoại và cổ tích. Đây là giai đoạn của Việt điện
u linh, Lĩnh Nam chích quái. Ở đây người đọc dễ dàng nhận ra nguồn gốc và mối quan hệ của tác
phẩm với tín ngưỡng dân gian, với niềm tin trong dân chúng về chuyện linh hồn con người tiếp tục
tồn tại sau khi chết và có thể trở về giúp đỡ những người còn sống Cái thần kì trong giai đoạn này
có nhiều nguồn gốc: từ tôn giáo, tín ngưỡng, từ sử ký, truyền thuyết và truyện cổ tích thần
kì….Nhìn chung sự sáng tạo độc đáo ở giai đoạn này còn yếu.
- Từ việc học tập một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả của truyện truyền kì đã có ý
thức trong việc sáng tác yếu tố thần kì trong truyện truyền kì. Giai đoạn sau truyện truyền kì với các
nhân vật thường có hành vi và cuộc đời bí hiểm, cùng với điều đó là nội dung nửa đời thường nửa kì
ảo. Tất cả đã tạo nên những điểm hấp dẫn mới ở truyện truyền kì. Và đây là một trong những điểm
làm nên cái tồn tại lâu dài cho chính thể loại này.
٭Vai trò của yếu tố “kì” trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam:
- Có thể nói trong thể loại truyền kì, yếu tố “kì” giữ một vai trò rất đặc biệt: “Truyền kì là truyện
truyền đi một sự lạ, vì vậy hạt nhân cơ bản của loại tiểu thuyết này là “kì” (……). Truyền kì không
từ chối miêu tả những câu chuyện lạ, những sự việc lạ bởi nếu không lạ thì không truyền”. [123, tr.
48].
- Cái kì trong thể loại truyền kì còn có những vai trò khác. Đó cũng là cách nhận định của Vũ
Thanh: “Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng yếu tố kì không chỉ với chức năng vỏ bọc che
giấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà còn với tư cách một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng
của thể loại.” [ 15,tr.25]. Đồng thời cũng trong bài viết của mình, tác giả Vũ Thanh còn giải thích
sự xuất hiện của yếu tố kì trong truyện truyền kì theo hướng kiến giải riêng: “Truyền kì là một thể
loại văn xuôi độc đáo. Cái kì là một phạm trù của mỹ học Trung Hoa cổ, là đặc thù tư duy của một
giai đoạn lịch sử (…..). Cái kì lạ đầy rẫy trong huyền thoại, tôn giáo, trong sử kí và là một đặc điểm
của tư duy dân gian được phản ánh trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích. Do chưa giải
thích được nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội, đối với con người thời trung cổ. Bên cạnh đời sống
hiện thực còn có một đời sống tâm linh phong phú với các vị thần, với những điều kì lạ, siêu nhiên
và một quan niệm sâu xa về thế giới bên kia. Vì vậy việc phản ánh mặt kì lạ đó chẳng phải là cái gì
đó xa lạ, phi hiện thực; trái lại nó càng giúp ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn của con người trung
cổ.” [15,tr. 25). Chính vì vậy cái “kì” có một vai trò rất quan trọng trong truyện truyền kì. Nó góp phần tạo nên thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.
Như vậy có thể thấy rằng truyện truyền kì Việt Nam đã có mối quan hệ thân thiết với truyền kì
các nước trong khu vực. Tuy có sự ảnh hưởng ít nhiều từ những tác phẩm của các nước lân cận
song nhìn chung cũng mang những đặc trưng rất riêng của Việt Nam. Điều này được tạo nên bởi
nguồn văn học dân gian phong phú và tinh thần, lý tưởng của con người Việt. Chính vì vậy với kho
tàng truyện truyền kì mà văn học để lại, chúng ta có thể viết vào lịch sử văn học nước nhà những
tinh thần mới của dân tộc Việt Nam bên cạnh tinh thần chung của thời đại.
1.2. Bối cảnh thời đại của Đại Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII:
1.2.1.Bối cảnh Đại Việt thế kỷ XV:
1.2.1.1.Sự suy vong của nhà Trần, sự xâm lược của giặc Minh và cuộc kháng chiến chống quân Minh:
- Đến cuối thế kỉ XIV, nhà nước phong kiến trải qua một cuộc khủng hoảng lớn. Hồ Quý
Li có những cải cách táo bạo nhưng thực chất vẫn duy trì đặc quyền của quý tộc quan liêu mà
không mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Vì vậy đến năm 1400, khi Hồ Quý Li cướp ngôi nhà
Trần thì việc ấy lại thiếu cơ sở xã hội vững chắc, do đó Hồ Quý Li vừa có kẻ thù nguy hiểm là các
tầng lớp quý tộc nhà Trần vừa không được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Nhân cơ hội ấy,
giặc Minh đã giả danh “diệt Hồ phục Trần” để đánh lừa nhân dân mà cướp nước ta, đặt ách đô hộ
lên dân tộc ta.
- Ách đô hộ của giặc Minh rất tàn khốc nếu xét về phương diện đời sống của nhân dân và rất
phản động nếu xét về phương diện sự phát triển của lịch sử, cụ thể là: thuế má, phu phen nặng nề,
đốt phá, cướp bóc liên tục xảy ra; nền kinh tế và đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, liên tiếp xảy ra
vỡ đê, lụt lội, mất mùa, đói kém; giặc Minh cố duy trì chế độ đại điền trang và phát triển chế độ
nông nô. Sự thống trị ấy đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của xã hội Đại Việt ở thế kỉ XV.
- Trước ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh, nhân dân đã nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi, trong đó có
cuộc kháng chiến mười năm của Lê Lợi là cuộc chiến đấu gian khổ vào bậc nhất trong lịch sử giữ
nước của dân tộc. Lê Lợi phải vừa đánh giặc vừa xây dựng quân đội, xây dựng chính quyền, cuộc
kháng chiến tuy rất gian khổ nhưng cuối cùng cũng đi đến thắng lợi vì những người lãnh đạo đã biết
dựa vào lực lượng của toàn thể nhân dân. Cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo giải phóng ách
thống trị của giặc Minh, mở đường tiến lên cho lịch sử dân tộc, triều đại nhà Lê được hình thành từ
trong cuộc đấu tranh trên đà thắng lợi đã bắt tay vào việc phục hồi và xây dựng đất nước, quan tâm
giải quyết những vấn đề thuộc đời sống nhân dân.
1.2.1.2.Sự khôi phục và xây dựng đất nước sau thắng lợi:
-Hòa bình lập lại, Lê Thái Tổ xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền trên một cơ sở khác
hẳn với cơ sở thời Trần, sự nghiệp đó được Lê Thánh Tông kế tục và hoàn thành.
- Về khôi phục và phát triển kinh tế, nhà nước phong kiến đã biết sử dụng những điều kiện thuận
lợi của một đất nước vừa giành được độc lập để thúc đẩy việc phục hồi và phát triển kinh tế trong
nước. Đó là chú trọng đổi mới đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp
- Về xây dựng và củng cố chính quyền, nhà nước phong kiến đã thiết lập bộ máy phong kiến tập
quyền. Triều đình thời Lê Thánh Tông là một triều đình quân chủ tập trung cao độ. Hoàng đế toàn
quyền nắm bộ máy quan liêu được tổ chức có hệ thống từ trung ương đến cấp làng xã ở các địa
phương. Thời Lê Thánh Tông quan chế được đặt ra với sự phân chia ngôi thứ rõ rệt, với sự phân
công phụ trách tỉ mỉ, với sự quy định trách nhiệm liên đới và hỗ tương kiểm soát chặt chẽ….
- Về tình hình xã hội, cấu tạo giai cấp trong xã hội có ít nhiều thay đổi, hai giai cấp chính là
nông dân và địa chủ, cùng với thợ thủ công và thương nhân ngày càng đông. Còn nô tỳ ngày càng ít
đi. Cuộc sống của nhân dân nói chung ổn định và thanh bình.
+Về tình hình văn hóa: Giáo dục, khoa cử rất được coi trọng để tuyển chọn nhân tài phục vụ cho
công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước.
+Về tôn giáo, tín ngưỡng: thời này Nho giáo chiếm địa vị độc tôn. Mặc dù bị hạn chế và không
còn được coi trọng như trong đời Lý, Trần nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn có những ảnh hưởng
nhất định trong xã hội, trong đời sống nhân dân.
+ Về văn học: văn học chữ Hán tiếp tục phát triển, chiếm ưu thế. Bên cạnh đó, văn học chữ Nôm
cũng đã giữ một vị trí quan trọng. Không chỉ vậy, đây là thời gian mà chữ Nôm được ưa chuộng để
nho sĩ, quan lại và cả nhà vua dùng sáng tác thơ văn thể hiện những tư tưởng, tình cảm của mình.
1.2.2.Bối cảnh Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:
1.2.2.1.Sự suy sụp của nhà Lê và tình trạng chia cắt đất nước:
- Sự suy sụp của nhà Lê: Đầu thế kỉ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất
dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong kiến tranh chấp lẫn
nhau, mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam. Chiến tranh tiếp tục cho đến
năm 1552 mới tạm yên. Nhưng bấy giờ mọi quyền hành đã thuộc về tay Mạc Đăng Dung. Cuộc
khủng hoảng chính trị đã chứng tỏ sự suy nhược của dòng họ Lê và chính quyền của họ.
- Tình trạng chia cắt đất nước: Sau một thời gian dài nội chiến, năm 1672 hai họ Trịnh - Nguyễn
lấy sông Gianh làm giới hạn, chia cắt đất nước: Đàng Ngoài, Đàng Trong. Và tất nhiên tình hình
chính trị xã hội ở hai miền hoàn toàn khác nhau.
+ Chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài: Năm 1556, sau khi Lê Trung Tông chết, Lê Duy Bang
lên làm vua, song trên thực tế đã hình thành chế độ vua Lê – chúa Trịnh với quyền bính thực sự nằm
trong tay Trịnh Tùng.
+ Chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Cho đến giữa thế kỉ XVIII họ Nguyễn đã làm chủ
một vùng đất rộng lớn từ nam dải Hoành Sơn cho đến mũi Cà Mau. Năm 1614,
Nguyễn Phúc Nguyên thải hồi các quan lại do nhà Lê cử và cải tổ lại bộ máy chính quyền.
Nhìn chung từ Đàng Ngoài cho đến Đàng Trong đời sống nhân dân khốn khổ, kinh tế sa sút.
Đồng thời đây cũng là giai đoạn mà ở Đàng Trong thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển
mạnh.
1.2.1.2. Giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt:
Vào đầu những năm 50 của thế kỷ XVIII, cuộc đấu tranh cùa nông dân tạm thời lắng xuống ở
vùng đồng bằng. Mặc dù chúa Trịnh đã tiến hành sửa đổi một số chính sách về ruộng đất cho dân
song mất mùa, đói kém vẫn xảy ra. Và vì vậy, các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục. Bên
cạnh đó, nội bộ chính quyền Lê – Trịnh ngày càng mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa phe Đặng Thị
Huệ - Trịnh Cán và phe Trịnh Khải sau khi chúa Trịnh Sâm qua đời. Mâu thuẫn này dẫn đến xung
đột gay gắt làm cho tình hình chính trị - xã hội càng lúc càng thêm rối ren, đời sống dân chúng càng
thêm khốn khó. Cuộc khủng hoảng từ Đàng Ngoài nhanh chóng lan cả vào Đàng Trong. Hệ quả của
cuộc khủng hoảng này được lịch sử chép lại bằng hình ảnh quan lại vua chúa ăn chơi xa xỉ còn nhân
dân thì không có ruộng làm ăn sinh sống. Chính trị như thế trở nên thối nát. Chế độ phong kiến cả
Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong bước vào suy tàn, chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại
làm rung chuyển cả đất nước.
1.2.1.3. Phong trào Tây Sơn:
٭Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn:
Cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở đất Tây Sơn với sự lãnh đạo của ba anh em Nguyễn Nhạc,
Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Sau hơn 15 năm khởi nghĩa đánh Nam dẹp Bắc, quân Tây Sơn ngày càng
lớn mạnh đã hoàn thành một sự nghiệp to lớn: đánh đổ hai tập đoàn phong kiến thống trị Trịnh –
Nguyễn làm chủ cả đất nước. Tuy nhiên vào năm 1788, thế lực họ Lê vẫn còn lay lắt và trong bước
đường cùng đã cầu cứu nhà Thanh, còn ở mặt Nam, nhân cuộc xung đột bất hòa của ba anh em họ
Nguyễn và nhân sự thoái hóa của Nguyễn Nhạc, sự bất lực của Nguyễn Lữ, từ đất Xiêm, Nguyễn
Ánh đã trở về mang theo viện binh nước ngoài. Nhưng Nguyễn Huệ đã kịp thời đem quân đánh tan
giặc Xiêm và sau đó lên ngôi, lãnh đạo tướng sĩ trong vòng năm ngày đêm hành quân thần tốc ra
Bắc phá tan quân Thanh với những chiến thắng lừng danh mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Từ đây
tên tuổi của người anh hùng áo vải Quang Trung mãi mãi sáng ngời trong lịch sử kháng chiến
chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt.
٭ Triều đại Nguyễn – Tây Sơn:
Năm 1778, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu Quang Trung. Cuộc kháng chiến chống quân
Thanh kết thúc thắng lợi rực rỡ, triều đại Quang Trung ra đời hoàn toàn thay thế cho nhà nước Lê -
Trịnh. Sự kiện này cũng đánh dấu sự kết thúc thắng lợi của phong trào nông dân.
Về tổ chức chính quyền, năm 1789, triều đại mới được tổ chức quy cũ. Hoàng đế nắm mọi
quyền hành. Bên dưới hình thành một lớp quan cao cấp, công việc nhà nước được phân cho sáu bộ.
Các đơn vị hành chính địa phương vẫn giữ như cũ.
Về phục hồi và phát triển kinh tế, nhà vua chú trọng quan tâm tới hai ngành nông nghiệp và công
thương nghiệp. Bằng những thay đổi của mình, nhà vua đã từng bước phục hồi kinh tế sau chiến
tranh.
Về văn hóa, giáo dục, cũng như các triều đại phong kiến trước, chính quyền Quang Trung vẫn
tôn sùng Nho giáo nhưng vẫn tỏ ra rất rộng rãi với các tôn giáo khác. Chữ Nôm được đề cao lên vị
trí chữ viết chính thức của dân tộc. Quang Trung cũng chủ trương đưa chữ Nôm vào giáo dục và
khoa cử. Chính sách văn hóa, giáo dục cũng như thực trạng học hành thi cử thời Quang Trung đã
thể hiện rõ sự bùng lên của ý thức dân tộc, của mong muốn vươn lên tiên tiến của người dân đương
thời.
Trong khi triều đại Quang Trung đang dần đi vào ổn định với xu thế tiến bộ, cuộc sống của nhân
dân cũng đang dần hồi phục, thì tháng 9 năm 1792, Quang Trung đột ngột mất (năm 39 tuổi). Sau
khi Quang Trung mất, Quang Toản lên ngôi và sau đó ít năm, 1802 triều đại Tây Sơn bị đánh đổ bởi
thế lực của Nguyễn Ánh. Ba mươi năm không phải là một thời gian dài, nhưng phong trào nông dân
Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung đã làm nên cả một sự nghiệp đáng
tự hào, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần suy ngẫm cho các thế hệ mai sau.
Đặt các tác giả truyện truyền kì Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh trong từng hoàn cảnh
lịch sử nhất định là cách để người nghiên cứu hiểu sâu hơn về những tác phẩm văn học của họ.
1.3. Vấn đề văn bản và tác giả:
1.3.1. Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.
1.3.1.1 Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo:
- Nơi lưu trữ: Tác phẩm Thánh Tông di thảo hiện đang lưu giữ với hai văn bản:
+ Một bản chép tay đang được lưu giữ tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A202.
+ Một bản Microflim đang được bảo quản tại Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Ecole
Francaise d’ Extrême d’Orient), kí hiệu M.F 11/6/993.
- Tình trạng văn bản:
+ Đó là một tác phẩm gồm hai quyển: quyển Thượng 13 truyện và quyển Hạ 6 truyện. Hai quyển
Thượng và Hạ đóng chung thành một tập khổ 30 cm x 21cm, dày 198 trang, mỗi trang 9 dòng, mỗi
dòng 19 chữ.
+ Hình thức sao chép của Thánh Tông di thảo được thống nhất cho cả 19 truyện. Mỗi truyện chia
làm hai phần: phần truyện và phần lời bình. Tác giả lời bình có hiệu là Sơn Nam Thúc. Sau lời bình
truyện Hoa quốc kì duyên có truyện phụ chép Kim tằm. Sau truyện Mộng ký có chép thêm hai truyện
nhưng không có nhan đề tạm gọi là Phụ chép hai.
+ Trong văn bản, các dòng chính của mỗi truyện được viết chữ to, dòng chú thích được viết chữ
nhỏ. Nội dung dòng chú thích gồm các vấn đề chú giải chữ nghĩa.
+ Hiện nay có bản dịch Thánh Tông di thảo của Nguyễn Bích Ngô được xuất bản hai lần:
Lần 1: do Nguyễn Văn Tú hiệu đính, Lê Sỹ Thắng giới thiệu, Nxb Văn hóa, Viện Văn học,
1963.
Lần 2: do Phạm Văn Thắm giới thiệu, Nxb Văn học, 2001.
1.3.1.2. Tình trạng văn bản Truyền kì mạn lục:
- Nơi lưu trữ: Truyền kì mạn lục là tác phẩm của Nguyễn Dữ, hiện có nhiều dị bản đang được
lưu giữ ở các thư viện trong nước và trên thế giới.
+ Ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đang có các dị bản sau đây:
Loại văn bản đầy đủ bốn quyển, 20 truyện:
VNv. 704; VNv. 705; VNv. 706; VNv. 707. A. 170. 1-2
VHv. 1491/1-4. VNv. 708; VNv. 709; VNv.
710.
A. 3201/1-4
Loại văn bản chưa đầy đủ:
A. 1021 VHv. 1041.
A. 3165 Bt. 213.
+ Ở Thư viện Quốc gia hiện có dị bản mang kí hiệu P. 109, dị bản này chỉ có quyển 1 và quyển
2, và dị bản mang kí hiệu R. 1450 – 1453, dị bản này có bốn quyển, 20 truyện.
+ Ở Thư viện Đông Dương văn khố Nhật Bản hiện có một bản Truyền kì mạn lục. Văn bản khắc
in năm Vĩnh Thịnh 8 (1712).
+ Ở Thư viện Bắc Kinh Trung Quốc có một dị bản mang tiêu đề Tân biên Truyền kì mạn lục.
văn bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 10 (1714).
+ Ở Thư viện tại Pháp hiện lưu giữ các dị bản mang kí hiệu:
SA.HM. 2236. SA. M8. 29.
MF. 1334 (Tức bản A.176/1- SA. PD. 2339; -b. 21.
2).
Một bản Microflim kí hiệu MF. 15/772.
- Tình trạng văn bản:
+ Căn cứ vào tên gọi Cựu Biên và Tân Biên, chúng ta có thể chia văn bản ra làm hai loại như
sau:
Loại văn bản mang tên Cựu biên: Là văn bản Truyền kì mạn lục khắc in năm Vĩnh Thịnh 8
(1712). Văn bản gốc hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Đông Dương Văn khố Nhật Bản. Trong
nước hiện có hai bản sao được lưu giữ tại gia đình PGS Trần Nghĩa và gia đình bà Nguyễn Thị
Oanh, đều công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Tập văn bản sao có bốn quyển, 20 truyện, một tựa, 1 mục lục. Quyển 1 có 53 tờ; quyển hai có 47
tờ; quyển 3 có 47 tờ; quyển 4 có 41 tờ. Tổng số trang của văn bản là 188 tờ.
Loại văn bản mang tên Tân biên: Căn cứ vào niên đại khắc in của văn bản, chúng ta có thể chia
loại này ra làm bốn nhóm văn bản sau đây:
Nhóm văn bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 10 (1714). Nhóm này hiện có một dị bản lưu giữ tại
Trung Quốc. Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa tiếp cận và có công trình nào bàn về văn
bản này.
Nhóm văn bản khắc in năm Vĩnh Hựu 1 (1730). Nhóm này hiện có một dị bản đang lưu giữ
tại thư viện của Pháp.
Nhóm văn bản khắc in năm Cảnh Hưng 24 (1763). Nhóm này hiện có các dị bản mang kí hiệu
R. 109 và R. 1450 – 1453. Thư viện Hán Nôm có ba dị bản chép tay mang kí hiệu A. 176/1-2; A.
3201/1-4; Bt. 213. Bản Bt. 213 chỉ chép có một truyện. Dưới đây chúng tôi đi vào trình bày tình
trạng hai dị bản chép tay đầy đủ nhất.
Văn bản A. 176/1-2: Văn bản này có hai tập, khổ 15 cm x 25 cm, có 584 trang, một tựa, một
mục lục. Tập một gồm hai quyển.
Văn bản A. 3201/1-4: đây là văn bản sao gồm bốn quyển, 20 truyện, khổ 30 cm x 21 cm, 614
trang, một tựa, một mục lục.
Nhóm văn bản khắc in năm Cảnh Hưng 35 (1774). Căn cứ vào chữ viết, nhóm văn bản này có
thể chia làm hai loại. Loại văn bản khắc in và loại văn bản chép tay. Sau đây là những văn bản đầy
đủ 20 truyện:
Nhóm văn bản khắc in:
Văn bản VNv. 704, VNv. 705; VNv. 706; VNv. 707. Tập văn bản gồm bốn quyển, một tựa, một
mục lục, mỗi kí hiệu là một quyển. Quyển 1 kí hiệu VNv. 704 có 81 tờ . Tờ 1 có ghi 3 dòng chữ:
Tân biên Truyền kì mạn lục, tăng bổ giải âm tập chú, Liễu chàng xã nhân gia tàng bản. Tờ 2: là lời
tựa. Tờ 3: phần mục lục. Sau phần mục lục là phần chính văn. Quyền 1 có 5 truyện. Quyển 2, kí
hiệu VNv. 705, có 5 truyện. Hai tờ cuối của quyển này đã bị mất, tờ mất đã được thay bằng hai tờ
viết tay. Quyển 4, kí hiệu VNv. 707, truyện Xương Giang yêu quái lục mất tờ đầu. Tờ mất đã được
bổ sung bằng tờ viết tay. Quyển này có 5 truyện. Quyển 3: kí hiệu VNv. 706, Truyện Xương Giang
yêu quái lục mất tờ đầu. Tờ mất đã được bổ sung bằng tờ viết tay.
Văn bản VHv. 1491/1-4: văn bản có đầy đủ bốn quyển, một mục lục, một tựa. Bài tựa do Hà
Thiện Hán viết.
Nhóm văn bản chép tay:
Một số nhà nghiên cứu đã sưu tầm được 6 văn bản chép tay. Bản A. 3165: không ghi đầu đề,
không có tựa và mục lục, phần nội dung sao chép chỉ 5 truyện của quyển 1: Hạng Vương từ kí,
Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Mộc miên thu truyện, Trà Đồng giáng đản lục, Tây viên kì ngộ ký.
Bản VNv.708 chép 10 truyện của quyển 1 và quyển 3. Bản VNv. 709 chép 5 truyện của quyển 2.
Bản VNv. 710 chép 5 truyện của quyển 4. Bản VNv. 1840: đây là bản sao gồm 4 quyển 20 truyện, 1
mục lục, 1 tựa.
1.3.1.3. Tình trạng văn bản Lan Trì kiến văn lục:
- Nơi lưu trữ:
+ Lan Trì kiến văn lục là tác phẩm của Vũ Trinh. Tác phẩm được ra đời và hoàn thành trong giai
đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.
+ Lan Trì kiến văn lục còn có tên khai là Kiến văn lục. Tác phẩm hiện có nhiều dị bản
đang được lưu giữ tại các thư viện trong và ngoài nước. Trong đó Thư viện Viện Nghiên cứu
Hán Nôm hiện đang lưu giữ bốn dị bản mang kí hiệu VHv. 1401; VHv. 1155; A.1562; A.31. Ngoài
ra Lan Trì kiến văn lục còn có hai dị bản mang kí hiệu SA. HM. 2173 và MF.2411, một bản
Microflim kí hiệu MF 1/3/337 đều được lưu giữ tại thư viện của Pháp.
- Tình trạng văn bản: Tình trạng từng dị bản ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm như sau:
+ Văn bản VHv. 1401, đây là văn bản chép tay, khổ 27 cm x 17 cm, 108 trang, mỗi trang 8 dòng,
mỗi dòng 30 chữ. Quyển sách có ba bài tựa. Bài tựa thứ nhất của Ngô Thì Hoàng người Tả Thanh
Oai. Bài tựa thứ hai của Tín Như Thị, chưa xác định rõ tên thật là gì? Bài tựa thứ ba của Trần Danh
Lưu, học trò Vũ Trinh. Theo trang mục lục thì Lan Trì kiến văn lục có ba quyển. Quyển một bao
gồm 13 truyện, mở đầu là truyện Lôi thủ ba. Quyển hai có 16 truyện, mở đầu là truyện Thanh Trì
tình trái. Và quyển ba có 15 truyện, mở đầu là truyện Linh xà. Trang 10 của Lan Trì kiến văn lục có
dòng chữ: “Lan Trì ngư giả Nguyên Hanh Vũ Trinh biên tập”. Sách này của thượng thư Nguyễn
Văn Đào đã nghỉ hưu, có dấu của Thư viện hội Khai Trí Tiến Đức.
+ Văn bản A. 1562, văn bản này mang tên Kiến văn lục, chép tay, khổ 29 cm x 17 cm, 108 trang,
mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 25 chữ, với bốn bài tựa. Ngoài ba bài tựa giống ở văn bản VHv. 1041
thì bài tựa thứ tư do Từ Kính, hiệu Hải Đính viết. Quyển một mở đầu là truyện Lôi thủ pha, quyển
hai mở đầu là truyện Thanh Trì tình trái, quyển ba mở đầu là truyện Linh xà.
+ Văn bản VHv. 1155, đây cũng là văn bản chép tay, khổ 25 cm x 14 cm, 90 tờ, mỗi tờ hai trang,
mỗi trang 7 dòng, mỗi dòng 27 chữ, bốn tựa, một mục lục ghi theo từng quyển. Bắt đầu từ tờ năm
có dòng chữ: «Lan Trì kiến văn lục quyển nhất mục». Mục lục ghi 13 truyện. Bản này chữ viết chân
phương, cẩn thận. Tờ 6a, mở đầu là truyện Lôi thủ pha. Quyển này ghi 15 truyện, bắt đầu là truyện
Linh xà. Từ tờ 47 đến tờ 68 là quyển 3. Tờ 69 phụ chép Tây Sơn thực lục.
+ Văn bản A. 31, mang tên Kiến văn lục, viết tay, khổ 28 cm x 15 cm, 72 trang, mỗi trang 8
dòng, mỗi dòng 24 chữ, bốn tựa, một mục lục. Văn bản A. 31 này chỉ có hai quyển: Quyển 1: 13
truyện, mở đầu là truyện Lôi thủ pha, quyển hai: 22 truyện, mở đầu là truyện Thanh Trì tình trái.
Như vậy ở bốn dị bản trên xét về nội dung thì ba trong số bốn bản trên đều gồm có 4 bài
tựa và 45 truyện, cùng 12 lời bàn. Nhìn chung Lan Trì kiến văn lục không có vấn đề lớn về vấn
đề văn bản đặt ra.
1.3.2. Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục.
1.3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đây:
* Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo:
Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo hiện đang là một trong những điểm gây nhiều
bàn luận, tranh cãi trong giới ngữ văn Việt Nam. Có thể thấy về xác định niên đại và tác giả của
Thánh Tông di thảo tuy là hai vấn đề tách bạch nhưng thực tế là chúng có mối quan hệ mật thiết với
nhau. Vì cái này là cơ sở xác định cho cái kia và ngược lại.
1. Trong “Lời giới thiệu Thánh Tông di thảo”, bản dịch của Nguyễn Bích Ngô, Nxb Văn hóa và
Viện văn học, 1963, hai nhà nghiên cứu Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh đã tổng hợp ba loại ý kiến
khác nhau về Thánh Tông di thảo.
- Loại ý kiến thứ nhất: Một số nhà nghiên cứu đã căn cứ vào lối tự xưng, tức là dùng đại từ nhân
xưng ngôi thứ nhất, số ít “dư” tức là tôi. Đồng thời họ cho rằng lối tự xưng này phù hợp với lối tự
xưng của Lê Thánh Tông trong Thiên Nam dư hạ tập. Tác phẩm Thiên Nam dư hạ tập đã được xác
định là của Lê Thánh Tông. Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng đã căn cứ vào cách dùng từ ngữ
trong tác phẩm như “đông cung”, “tiềm để” – đây là hệ thống các từ dùng trong vua chúa, căn cứ
vào nội dung một số bài mà Lê Thánh Tông tự đặt mình vào truyện và đánh giá cao về tác phẩm văn
chương, để đi đến khẳng định Thánh Tông di thảo chính là do Lê Thánh Tông viết.
- Loại ý kiến thứ hai: Một số nhà nghiên cứu đưa ra những chứng cứ là dựa vào các địa danh như
Hà Nội trong Duyên lạ nước hoa, Đoài Hồ (tức Hồ Tây) trong Mai Châu yêu nữ truyện, Lãng Bạc
phùng tiên và Mộng kí; dựa vào các sự kiện lịch sử như nạn lụt năm Quý Tỵ trong Lưỡng phật đấu
thuyết kí và căn cứ vào các danh từ chỉ học vị như: “phó bảng, cử nhân” trong Trần nhân cư thủy
phủ để khẳng định rằng Thánh Tông di thảo không phải là tác phẩm của Lê Thánh Tông, vì những
cứ liệu này xuất hiện vào thời đại sau.
- Loại ý kiến thứ ba: Một số nhà nghiên cứu nhận thấy xen vào những bài văn yếu, có những bài
cứng cát; xen vào những truyện có địa danh, sự việc không thuộc thời Lê Thánh Tông lại có những
truyện phản ánh sự thịnh trị của thời Lê sơ, và cũng có những truyện mà nội dung tư tưởng hoàn
toàn xa lạ với tư tưởng Lê Thánh Tông. Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng dựa vào những truyện
mang đậm “khẩu khí thiên tử” để đi đến kết luận: Trong tập Thánh Tông di thảo có những bài là của
Lê Thánh Tông song cũng có những bài là của người đời sau thêm vào. Quan điểm của hai ông là
Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh có phần nghiêng về ý kiến thứ ba. Đồng thời hai ông còn nhận xét
thêm: “Qua việc nhận xét bút pháp và một vài sự việc, chúng tôi ngờ rằng có một đôi bài được viết
vào thế kỉ XIX”. [ 119, tr. 7].
2. Trong “Thánh Tông di thảo” trích trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học
sử học Việt Nam (Thư tịch chí Việt Nam), Trần Văn Giáp, Nhà xuất bản Văn hóa, 1984, tác giả đã
dựa vào sự mâu thuẫn thể hiện qua văn tự, và trên cơ sở đó đưa ra những cứ liệu lịch sử để đi đến
phủ nhận vai trò của Lê Thánh Tông với tác phẩm này. Trần Văn Giáp đã đi đến một số nhận định
sau:
- “Thánh Tông” là miếu hiệu mà Lê Tư Thành được tôn tặng sau khi mất 10 tháng 23 ngày. Do
vậy Thánh Tông di thảo không phải là của Lê Thánh Tông. Bởi lẽ tên gọi “Thánh Tông” chưa xuất
hiện khi sinh thời của tác giả.
- Bên cạnh đó những địa danh như: Tây Hồ xuất hiện vào năm 1573, sau đó đổi tên thành Đoài
Hồ vào năm 1645 dó kiêng tên tôn hiệu chúa Trịnh Tạc. Vì vậy tên Đoài Hồ xuất hiện sau khi Lê
Thánh Tông qua đời đã khá lâu. Vì thế Lê Thánh Tông không thể đưa những tên ấy vào trong tác
phẩm của mình. Mặt khác, các địa danh: Thượng kinh, Hà Nội xuất hiện ở thời Minh Mạng nên
không thể có từ thời Lê Thánh Tông.
- Các danh từ như “đông cung”, “tiềm để” vốn là những từ chỉ nơi ở của Thái tử, trong khi đó Lê
Thánh Tông húy là Tư Thành vốn là con thứ tư của vua Lê Thái Tông, nhưng không phải là thái tử
do vua Lê Thái Tông lập. Mặt khác Lê Thánh Tông trước khi làm vua là ở Tây để chứ không phải ở
“Đông cung” nên từ “đông cung” không thể gán cho Lê Thánh Tông được.
- Sự kiện lịch sử nạn lụt năm Quý Tỵ trong Lưỡng phật đấu thuyết kí không thấy sử sách ghi xảy
ra vào năm 1473 dưới đời Lê Thánh Tông. Mà nạn lụt lớn xảy ra là vào các năm 1713 và năm 1773.
Từ đó có thể đi đến kết luận “Thánh Tông di thảo hiện có không phải là của Lê Thánh Tông. Nó
chỉ là một tập thần thoại hay đoản thiên tiểu thuyết, đúng tên nó là gì không rõ, viết vào khoảng
giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX. Có thể là sau năm Quý Tỵ niên hiệu Thành Thái thứ năm (1893)
và tác giả bút danh là Sơn Nam Thúc. Một người nào đó vì hiếu kì, hoặc chủ yếu lừa độc giả, đã đặt
cho nó cái tên Thánh Tông di thảo”. [31,tr.178].
3. Trong “Văn bản của Thánh Tông di thảo” của Trần Thị Băng Thanh trích trong Những
suy nghĩ từ văn học trung đại, Viện văn học, Nxb Khoa học xã hội: tác giả cũng đã căn cứ vào
một số cử liệu đáng nghi ngờ về văn bản Thánh Tông di thảo như các nhà nghiên cứu khác. Tuy vậy
Trần Thị Băng Thanh lại có những kiến giải riêng:
- Về vấn đề tác giả của Thánh Tông di thảo, Trần Thị Băng Thanh cho rằng: văn bản hiện còn lại
của Thánh Tông di thảo là một bản chép tay do BEFECO thuê chép vào khoảng thập kỉ 20, 30 của
thế kỷ XX. Vì thế văn bản lưu giữ tại Thư viện Hán Nôm là văn bản mới xuất hiện đầu thế kỉ XX.
Cũng chính vì văn bản được sao đi chép lại nhiều lần nên văn chương không còn được lưu giữ lại
như cũ. Chính vì lẽ đó nên nếu so sánh văn phong tác giả e khó tránh khỏi cảm tính và võ đoán. Do
vậy việc căn cứ vào văn phong để xác định chưa hẳn là một chứng cứ thuyết phục.
- Về vấn đề tác phẩm Thánh Tông di thảo chứa đựng nhiều nội dung, tư tưởng không phù hợp
với Lê Thánh Tông, tác giả công trình cho rằng không nên lấy cách nhìn hiện thời để soi chiếu, đánh
giá tác phẩm, vì con người ngày nay muốn mọi ranh giới phải rách ròi, yêu ghét phải phân định rõ
ràng. Tuy nhiên người xưa không có cái nhìn cực đoan như thế, làm vua, làm quan nhưng không ít
khi cảm thấy sự trói buộc của cương vị, chức phận. Bản thân họ cũng khao khát những phút giây
nhàn tản, mơ về một cõi vĩnh hằng lãng mạn. Các vua Trần sùng Phật song vẫn trọng Nho, còn Lê
Thánh Tông cũng như các nhà Nho đời Trần, Lê và Nguyễn phê phán Đạo và Phật nhưng chủ yếu là
nhằm vào các tệ nạn của tôn giáo. Khi giải thích mâu thuẫn trong Trần nhân cư thủy phủ, tác giả
cho rằng không có gì mâu thuẫn với tư tưởng yêu nước, đề cao Lê Lợi ở các truyện khác vì Nho
giáo rất coi trọng chữ trung. Trong khi đó, Lê Thánh Tông đang xây dựng kỷ cương, phép nước nên
rất cần nêu gương những con người tận trung như vậy. Đồng thời, trong truyện Lê Thánh Tông cũng
đã để cho nhân vật bộc lộ những mặc cảm tội lỗi của mình. Lòng trung thành của kẻ bề tôi ấy đã
làm cho Thượng đế và cả Lê Lợi đều phải vị nể và xót thương.
- Ngoài ra tác giả bài viết còn đưa ra cách kiến giải khác đối với vấn đề tên địa danh, tên học vị
và một số sự kiện lịch sử trong Thánh Tông di thảo. Theo người viết những cứ liệu ấy đều được đưa
vào tác phẩm do sự “bổ chính” trong những lần sao chép hoặc hư cấu trong sáng tác, sự có mặt của
chúng cho thấy thời điểm chúng được gia nhập vào tác phẩm. Đó là trường hợp:
+ Nhất thư thủ thần nữ, Hiếu đễ nhị thần truyện: được sửa chữa, bổ sung trong thời Lê Trung
hưng vì có từ “Hương cống”.
+ Lưỡng phật đấu thuyết kí: truyện có thể được viết sau năm 1713 vì những năm Quý tỵ từ 1473
(đời Hồng Đức) cho đến 1653 (đời Lê Chân Tông) theo lịch sử để lại thì không có nạn lụt nào xảy
ra.
+ Mai Châu yêu nữ truyện, Mộng ký: do có địa danh “Đoài Hồ” nên có thể được sửa chữa hoặc
bổ sung trong thời Trịnh Tạc (1657 – 1682) hoặc sau đó vào thế kỉ XVIII khi Hồ Tây đã là một địa
danh quen thuộc.
+ Hoa quốc kỳ duyên, Trần nhân cư thủy phủ: có các học vị như “cử nhân”, “phó bảng” nên đã
được sửa chữa, bổ sung vào khoảng từ thời Minh Mạng (1820 – 1840) về sau, và địa danh “Hà Nội”
trong nguyên bản là Phủ nên không thể xem đây là địa danh đời Nguyễn.
Do đó theo tác giả: “Thánh Tông di thảo là một tập truyện kí bao gồm tác phẩm của nhiều tác
giả, được sáng tác rải rác trong nhiều thời đại. Trong đó có nhiều truyện của Lê Thánh Tông nhưng
đã bị sửa chữa, thêm bớt trong những lần sao chép”. [109,tr. 494].
- Từ những kiến giải trên, tác giả cũng đã khẳng định: Thánh Tông di thảo không có kết cấu lỏng
lẻo đến mức có thể thêm bớt tùy ý mà đó là một chỉnh thể nghệ thuật có kết cấu thống nhất và có lời
bình của Sơn Nam Thúc. Sơn Nam Thúc luôn ca ngợi khẩu khí đế vương của Thánh Tông di thảo,
khi viết lời bình lại nhắc đến những tác phẩm như Thánh Tông bản kỷ (Đại Việt sử kí toàn thư) và
các tác phẩm của Lê Thánh Tông mà đặc biệt là Thiên Nam dư hạ tập - tác phẩm bị thất lạc, được
tìm thấy vào năm 1767. Vì vậy, theo Trần Thị Băng Thanh, Sơn Nam Thúc viết những lời bình này
chỉ trong khoảng thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XVIII và trong những lời bình ấy vẫn thấy những hào
quang sáng sủa của nhà Lê.
-Trên những cơ sở đó, tác giả công trình cũng đã đi đến kết luận: “Thánh Tông di thảo hoặc là
phải được hình thành ngay trong thời Lê (trước khi Thiên Nam dư hạ bị mất) hoặc là được hoàn
thành vào nửa cuối thế kỉ XVIII sau khi tìm được Thiên Nam dư hạ và trước khi triều Lê sụp đổ.
Ngoài ra khung cảnh xã hội của tác phẩm rất gần gũi với khung cảnh Truyền kì mạn lục, Truyền kì
tân phả, mà không giống với khung cảnh xã hội trong các truyện truyền kì thế kỉ XIX; nghệ thuật
dựng truyện cũng tương đối nhất quán với Truyền kì mạn lục, có cốt truyện, có nhân vật, không
đậm chất kí, tùy bút như nhóm tác phẩm dưới thời Tây Sơn và đầu đời Nguyễn”. [109, tr. 496 –
497].
- Đồng thời tác giả cũng khẳng định Thánh Tông di thảo là một chỉnh thể nghệ thuật do một
người thu thập, cấu tạo thành sách và viết lời bình, đó là Sơn Nam Thúc.
4. Các tác giả của “Tổng tập Văn học Việt Nam” (tập 4), Nxb Khoa học Xã hội, 2000
đã đưa ra các giải thích về một số từ ngữ nghi vấn trong Thánh Tông di thảo. Đó là “có một số
địa danh hay danh hiệu quan chức thì hiện nay người ta đoán định hơi vội vã…. “hà nội” là danh
từ chung, không phải là danh từ riêng, còn “Giáo thụ” là Giáo chức Quốc Tử giám thường phụ
giảng giúp “Tu nghiệp”, chứ không phải “Giáo thụ” là một giáo chức đứng đầu đời Nguyễn” [120,
Tr. 557]. Tuy vậy các tác giả trong công trình nghiên cứu này vẫn chưa có một kết luận rõ ràng,
chắc chắn về tác giả của Thánh Tông di thảo.
5. Trong “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán ở Việt Nam
thời trung đại”, Phạm Văn Thắm, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1996; tác giả
cũng đồng tình với ý kiến: xen vào những bài chính của Lê Thánh Tông, có cả những bài của người
đời sau, và đã đưa ra một số lí lẽ, dẫn chứng làm cơ sở cho những lập luận:
- Phạm Văn Thắm cho rằng văn bản Thánh Tông di thảo có ba bộ phận: phần chính văn, cước
chú và lời bình là những bộ phận góp phần nâng cao giá trị và tầm khái quát của chính văn. Chính vì
vậy, khi xác định niên đại của văn bản chỉ nên căn cứ chủ yếu vào phần chính văn.
- Cũng như các nhà nghiên cứu khác, Phạm Văn Thắm cũng đề cập cụ thể đến vấn đề địa danh
và nhân danh trong hai truyện Hoa quốc kì duyên và Mộng kí.
+ Trong Hoa quốc kì duyên, Phạm Văn Thắm đã căn cứ vào từ “Hoa quốc”, những chi tiết miêu
tả cuộc chiến do Chu Sinh lãnh mệnh triều đình đi dẹp giặc Vũ Văn Hối được nhắc đến trong tác
phẩm và đem so với những sự kiện được viết trong sách Đông Ba vũ thị chép, tác giả nhận thấy:
“Nội dung trong truyện Hoa quốc kì duyên có nhiều tình tiết tương đồng với các tình tiết mà sử sách
đã ghi về cuộc giao tranh ở Hoa quốc (Một vùng thuộc Tuyên Quang đã xảy ra cuộc giao tranh
giữa hai thế lực Lê – Mạc) đầu thế kỉ XVI”. [110,tr.13]. Từ đó tác giả đã đoán định Hoa quốc kì
duyên có thể được viết vào đầu thời Lê – Mạc.
+ Trong Mộng kí, Phạm Văn Thắm lại căn cứ vào sách “Tây Hồ chí” và tấm bia mang tiêu đề
“Trấn Quốc tự bi ký”, kí hiệu N 245 – 246 mang niên đại Dương Hòa 5 (1639) hiện dựng tại chùa
Trấn Quốc ven Hồ Tây nhắc đến sự kiện năm Hoằng Định 16 (1615) triều đình cho đắp một con đê
nhỏ từ Yên Phụ đến An Giang để ngăn hồ, phần phía đông được gọi là hồ Trúc Bạch, để cho rằng
Mộng ký có thể được viết từ năm 1615 trở về sau.
- Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra kết luận: “Một bộ phận của truyện có thể được xuất hiện đầu
thời Lê – Mạc, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”. [110, tr. 22].
6. Trong lời giới thiệu về thể loại kí của Nguyễn Đăng Na, trích trong Văn xuôi tự sự Việt Nam
thời trung đại, tập 2, Nxb giáo dục, 1999: tác giả đã dựa vào bản dịch Thánh Tông di thảo, xuất bản
năm 1963, và cho rằng nhan đề của sách chứng tỏ sách do người đời sau sưu tập. Tác phẩm gồm 19
thiên thì 6 thiên không ghi tên thể loại, 13 thiên còn lại chia làm 6 thể:
-Truyện: (5 thiên) Mai Châu yêu nữ truyện, Phù cái truyện, Nhi thần nữ truyện, Dương phu
truyện, Thử tinh truyện.
- Ký (4 thiên): Thiềm thừ miêu duệ ký, Lưỡng phật đấu thuyết kí, Hiếu đễ nhị thần ký, Mộng ký.
- Lục (1 thiên): Mấn thư lục.
- Phả (1 thiên): Sơn quân phả.
- Chí dị (1 thiên): Ngư gia chí dị.
- Từ (1 thiên): Lung cổ phán từ.
Con số 6/ 19 thiên (31, chiếm 57%) không ghi tên thể loại, chứng tỏ tác phẩm được sao chép
muộn vào khoảng thế kỉ XIX – hậu kỳ trung đại, khi mà tính nghiêm ngặt của thể loại bị loại bỏ
dần. Hiện tượng trên không xảy ra với Truyền kì mạn lục – tác phẩm được khắc in vào giữa thế kỉ
XVI.
Tuy vậy khi bàn đến Truyền kì mạn lục ở góc độ niên đại và tác giả chúng tôi thấy cũng có nhiều
vấn đề đáng bàn.
* Vấn đề niên đại và tác giả của Truyền kì mạn lục:
Một số vấn đề liên quan đến Truyền kì mạn lục mà các nhà nghiên cứu quan tâm là niên đại và
cách đọc tên tác giả của Truyền kì mạn lục thế nào cho đúng. Dưới đây chúng tôi xin điểm sơ qua
một vài ý kiến đánh giá, nhận xét về vấn đề này của các nhà nghiên cứu.
1. Trong Bàn thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kì mạn lục của Lại Văn Hùng, Tạp chí
Văn học số 10/ 2002, trước khi đưa ra ý kiến của mình, tác giả cũng nói đến hai giả thuyết lưu
truyền trước nay về thân thế cuộc đời Nguyễn Dữ.
- Giả thuyết thứ nhất xuất phát từ ý kiến của Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí cho rằng
Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm (sinh 1491, mất 1585).
- Giả thuyết thứ hai là những luận đoán cho rằng Nguyễn Dữ là người đồng thời, thậm chí có thể
lớn tuổi hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm chút ít (tức là phải sinh trước năm 1941).
Khi bàn về năm sinh, năm mất của Nguyễn Dữ, Lại Văn Hùng cũng kiến giải thông qua hai cứ
liệu để lại:
+ Một là: Trong bài tựa Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán, viết năm 1547: “Tập thực lục này
là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều trước
Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy
văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng
được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền. Mới được một năm, ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu,
đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý”.
+ Hai là: Qua ghi chép của Lê Quí Đôn: Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc. Cha
tôi tên là Nguyễn Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496), niên hiệu Hồng Đức làm quan
Thượng thư bộ Hộ”.
Dựa vào hai cứ liệu này, Lại Văn Hùng đã đi đến kết luận: Nguyễn Dữ là người có năm sinh xấp
xỉ với Nguyễn Bỉnh Khiêm và có thể kém Nguyễn Bỉnh Khiêm vài ba tuổi.
- Bên cạnh việc bàn về năm sinh của Nguyễn Dữ, Lại Văn Hùng cũng bàn đến năm mất của
Nguyễn Dữ. Ông cũng dựa vào bài tựa Hà Thiện Hán: “Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ,
người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu”. Từ
bài tựa này, tác giả công trình cho rằng: chắc chắn lúc đó người sinh ra Nguyễn Dữ đã mất, nên Hà
Thiện Hán đã chép thẳng tên: Tường Phiêu. Còn Nguyễn Dữ ? cũng được chép thẳng tên. Đó là điều
lạ. Theo tác giả Lại Văn Hùng là xưa khi viết về một người, các cụ thường tránh gọi thẳng tên, nhất
là khi người đó còn đang sống. Và từ đó, Lại Văn Hùng đã đi đến kết luận: đến năm 1547 thì
Nguyễn Dữ cũng đã mất rồi.
- Từ những tư liệu cùng với việc phân tích các cứ liệu ấy, tác giả công trình đã đi đến nhận định:
Nguyễn Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV và mất khoảng thập niên thứ tư thế kỉ XVI.
- Bàn về con đường hoạn lộ của Nguyễn Dữ, Lại Văn Hùng cũng tán đồng với ý kiến của nhiều
nhà nghiên cứu khác. Đó là Nguyễn Dữ đi thi và làm quan vào trước năm 1527.
- Bên cạnh những kiến giải về tác giả Nguyễn Dữ, nhà nghiên cứu còn bày tỏ quan điểm của
mình về tác phẩm Truyền kì mạn lục mà tác giả gọi là “nói thêm mà thôi”. Trong công trình này, tác
giả đã kiến giải trên các phương diện:
+ Nói đến duyên cớ ra đời tác giả công trình đã phân tích kỹ các ý kiến khác nhau về việc có hay
không sự ảnh hưởng của Cù Hựu với Nguyễn Dữ. Từ đó tác giả khẳng định: “Các
nhận định về duyên cớ ra đời của Truyền kì mạn lục ngày càng có cơ sở khoa học, khách
quan và mở rộng mở về tầm nhìn hơn”.
+ Về thời gian xuất hiện: có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian ra đời của Truyền kì mạn lục.
Trên cơ sở nêu ra những ý kiến đó, tác giả công trình đã đi đến kết luận: “không nghi ngờ gì nữa,
mạn lục phải được xuất hiện chắc chắn là trong khoảng sau 1526 đến trước 1547”.
+ Về ngôn ngữ và tiếp nhận tác phẩm: Lại Văn Hùng đã chỉ ra hai thứ ngôn ngữ chính để sáng
tác và lưu truyền đó chữ Hán và chữ Nôm. Ngoài ra tác giả cũng cho thấy sự tham gia của phương
thức lưu truyền bằng miệng trong việc đưa tác phẩm đến với số đông công chúng.
2. Nguyễn Phạm Hùng trong “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền
kì mạn lục”, Tạp chí Văn học số 1/2006 đã đưa ra một số ý kiến về thân thế Nguyễn Dữ và thời
điểm sáng tác Truyền kì mạn lục từ những ghi chép của các nhà khảo cứu thời trước, sang quan
điểm của các nhà nghiên cứu hiện đại đến ý kiến của các nhà khoa học nước ngoài.
- Trước kết luận của một số nhà nghiên cứu đi trước rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm sửa Truyền kì
mạn lục cho Nguyễn Dữ, tác giả bài viết đã đề xuất một cách hiểu khác. Theo ông căn cứ vào nội
dung tư tưởng tác phẩm của hai ông, tư tưởng thẩm mỹ của hai tác giả thì thấy chúng hoàn toàn
khác nhau. Hơn nữa, nhân sinh quan, thế giới quan của hai ông cũng hoàn toàn khác nhau. Và trên
cơ sở này, tác giả đã đi đến khẳng định: không thể có việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính sách
Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ.
- Về tên tác giả Truyền kì mạn lục thì Nguyễn Phạm Hùng đồng tình với Trần Ích Nguyên cho
rằng nên gọi tên tác giả là Nguyễn Dữ - với nghĩa Dữ là đẹp.
- Về thân thế Nguyễn Dữ, Nguyễn Phạm Hùng cho rằng Nguyễn Dữ đi thi, làm quan đều dưới
triều Lê, cáo quan trước khi nhà Mạc tiếm ngôi (1527) và viết Truyền kì mạn lục trong thời gian mới
cáo quan ở ẩn từ dưới triều Lê. Và Nguyễn Dữ không phải là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.
3. Trong bài viết “Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện?”, Tạp chí Hán Nôm số 2/1988,
Nguyễn Đăng Na đã làm rõ nghi vấn của nhiều ngưới về số lượng tác phẩm của Truyền kì mạn lục.
Ngay những dòng đầu tiên của bài viết, tác giả đã mạnh dạn khẳng định: Truyền kì mạn lục có 20
truyện chứ không phải là 22 truyện. Từ nhận định trên, nhà nghiên cứu cũng chỉ ra chỗ “Tân biên”,
“Cựu biên” của tác phẩm này, mà cụ thể là phần “tăng bổ giải âm tập chú”. Tân biên khác Truyền kì
mạn lục ở chỗ chúng có thêm nội dung tăng bổ giải âm tập chú.
Sau những nhận định ban đầu đó, tác giả Nguyễn Đăng Na đã tiến hành chỉ ra những điểm
không hợp lý khi cho rằng Truyền kì mạn lục có 22 truyện của một số công trình khác. Qua đó nhà
nghiên cứu một lần nữa khẳng định lại rằng: Truyền kì mạn lục chỉ có 20 truyện.
4. Nguyễn Đăng Na trong “Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học”, Tạp chí Văn học
số 6, 2005 cũng đã chỉ ra một số điểm còn nhiều băn khoăn về tác phẩm và tác giả của tác phẩm
này.
Theo Nguyễn Đăng Na thì ông không phải là người đầu tiên lật lại vấn đề đọc cho đúng tên
Nguyễn Dữ. Chẳng hạn: năm 1962 – khi cho xuất bản Tân biên Truyền kì mạn lục, dịch giả Thứ
Lang Bùi Xuân Trang đã ghi tên tác giả Truyền kì mạn lục là Nguyễn Tự. Tiếp đó, năm 1987,
Nguyễn Khắc Kham đã đặt nghi vấn về cách đọc tên tác giả Truyền kì mạn lục. Sau này, Nguyễn
Nam đề nghị gọi tên tác giả là Nguyễn Tự. Và từ đó Nguyễn Đăng Na cũng cho rằng nên gọi tên là
Nguyễn Tự.
Vấn đề được Nguyễn Đăng Na bàn khá kĩ là ý nghĩa của nhan đề Truyền kì mạn lục. Bởi lẽ sự
hiểu biết chưa sâu về tiêu đề của tác phẩm ở một số nhà nghiên cứu sẽ dẫn đến làm hạn chế giá trị
của tác phẩm này. Ở đây, tác giả bài viết đã có một số kiến giải:
- Thứ nhất: Tác giả đi vào giải thích cụm từ Mạn lục. Theo tác giả thì ở một số công trình của
nước ta đã giải thích không đúng nghiã của từ mạn lục. Bởi lẽ nói mạn lục là ghi chép tản mạn có
hai điều bất ổn:
Một là: Truyền kì mạn lục là tác phẩm văn học thuộc loại hình truyện ngắn trung đại. Do đó
không thể coi đấy là tác phẩm ghi chép sẽ khiến người đọc hiểu sai loại hình thể loại tác phẩm và hạ
thấp vai trò sáng tạo của tác giả.
Hai là: Tác phẩm của Nguyễn Tự không hề tản mạn, dù hai chữ tản mạn được dùng theo kiểu tu
từ nói khiêm. Thực ra bản thân từ mạn là tùy ý, không câu thúc.
Từ chỗ chỉ ra những điều bất ổn ở cách giải thích cụm từ mạn lục như ở một số công trình,
Nguyễn Đăng Na đã cho rằng sách Hán ngữ đại từ điển (tập 6, tr. 98) đã giải thích khá chính xác:
“mạn lục là tùy bút kí lục – viết theo cảm hứng”.
- Thứ hai: Nguyễn Đăng Na đã khẳng định truyền kì nếu đứng riêng là một thể tài của truyện
ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình tiết, kết cấu,…của truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người
ta gọi chúng là truyền kì. Nhưng đứng trong cụm từ Truyền kì mạn lục thì với vai trò là định ngữ,
chỉ tính chất của thể mạn lục – truyền kì là một thể tự sự viết tự do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của
tác giả, không bị câu thúc bởi bất kì một lí do gì cả. Từ đó tác giả đi đến kết luận: “Cách đặt nhan
đề tác phẩm như vậy vừa thể hiện sự khiêm tốn của một tác gia trung đại, vừa nói rõ cái chí của
ngươi cầm bút và vừa để khu biệt đặc trưng tác phẩm văn học Việt Nam với tác phẩm văn học
Trung Hoa, Tiễn đăng tân thoại”. [69, tr. 213).
Trước khi tiến hành so sánh Truyền kì mạn lục với Tiễn đăng tân thoại, tác giả công trình đã cho
rằng: Nguyễn Tự là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, là bạn học của Trạng Bùng
Phùng Khắc Khoan.
Công trình đi sâu vào vấn đề có hay không ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Truyền kì
mạn lục. Theo tác giả thì “Truyện truyền kì ở các nước giống nhau hoặc na ná giống nhau là điều
chẳng có gì lạ, bởi chúng đều có nguồn gốc dân gian, đều được khai thác từ dân gian”. [69, 214].
Đó là tác giả dựa vào khả năng về tính đồng loại hình của các nền văn học. Bên cạnh đó, tác giả
cũng khẳng định khi so sánh các tác phẩm cũng cần chú ý tới tâm lí các dân tộc thuộc khu vực đồng
văn. Trên cơ sở đó Nguyễn Đăng Na đã tuyên bố rằng: “Nghiên cứu so sánh văn học phải đào sâu
cách giải quyết vấn đề trong tác phẩm, chú không thể chỉ dừng ở cấp độ so sánh đề tài” [69,tr.
216].
5. Trong “Vấn đề đọc tên tác giả Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Quang Hồng trên Tạp chí
Hán Nôm số 1/2003, tác giả đã đi vào bàn luận về vấn đề tên tác giả của Truyền kì mạn lục.
Theo tác giả để biết được tên tác giả của Truyền kì mạn lục viết như thế nào, nhà nghiên cứu cần
dựa vào tên tác giả viết và giải thích trong các văn bản Hán Nôm. Từ đó Nguyễn Quang Hồng đã
chỉ ra trong một số tài liệu người ta có đề cập đến tên tác giả Truyền kì mạn lục. Đó là bài tựa của
Hà Thiện Hán, tên của nhà văn được giải thích nghĩa là “núi trên bãi giữa biển” in trong hầu hết các
truyền bản Truyền kì mạn lục. Bên cạnh đó còn thấy cách ghi này trong hai đoạn lời bình của các
bản Tân biên Truyền kì mạn lục giải âm (2). Ngoài ra chữ này cũng xuất hiện trong nhiều thư tịch
Hán Nôm quan trọng như Kiến văn tiểu lục (ở chương Tài phẩm) của Lê Quí Đôn (1726 – 1784),
Lịch triều hiến chương loại chí (ở chương Văn tịch chí) của Phan Huy Chú (1755 – 1786), và cả
trong Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề (1697 - ?). Cùng với cách gọi trên là cách gọi đã được
xuất hiện trong Lịch triều hiến chương loại chí (cũng ở chương Văn tịch chí) của Phan Huy Chú với
nghĩa là “ngọc đẹp”. Cũng theo mục “Lưu ý bạn đọc” trong sách Truyền kì mạn lục, do Nxb Văn
nghệ và Hội nghiên cứu và Giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1988 thì cách
viết này cũng xuất hiện trong bản Tân biên Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, in năm 1763.
Từ việc chỉ ra cách gọi tên tác giả Truyền kì mạn lục, tác giả bài viết đã đưa ra nhận định ban đầu:
“Khó có thể phát hiện thêm trong kho Văn tịch Hán Nôm một chữ nào khác đã được dùng để ghi tên
tác giả Truyền kì mạn lục…..Trong điều kiện như vậy, chúng ta có thể tạm “làm việc” với hai chữ
trên đây”. [40, tr. 30]
Tác giả bài viết cũng cho biết có nhiều người đề xướng đọc tên tác giả là “dư”, tức họ căn cứ
vào bộ ngọc trong tên của tác giả của Truyền kì mạn lục. Và điều này chính là do các nhà nghiên
cứu dựa vào bộ phận biểu âm, tức là nghĩa của tên tác giả. Người đề xuất gọi tên tác giả là “dư” là
Nguyễn Khắc Kham, cho rằng nếu căn cứ vào phần biểu âm, thì tên tác giả có thể có ba cách đọc:
Một là: dữ với hai nghĩa: và với, cùng với, so với; cho, góp với.
Hai là: dự tức là tham dự vào.
Ba là: dư nghĩa là từ nghi vấn.
Đồng thời đi sâu vào việc đọc tên tác giả là Dư, theo Nguyễn Khắc Kham còn có hai nguyên
nhân nữa. Thứ nhất, “Dư” là cách đọc mới của chữ “Sơn” trong Tân hoa tự điển (Bắc Kinh, 1972)
là “tiểu đảo – đảo nhỏ”, cũng như cách đọc chữ “Sơn” là “ ngọc đẹp”. Thứ hai, Nguyễn Khắc
Kham cho rằng “thật khó nghĩ được rằng thân sinh tôn quý – Nguyễn Tường Phiêu, một vị đại nho
và trọng thần trong triều lại đặt cho con mình một cái tên chẳng lành là Dữ ”. [40, tr.31]
Trong khi đó, theo Nguyễn Quang Hồng, một số nhà nghiên cứu đề xướng cách gọi tên khác là
Tự. Đó là cách gọi của Bùi Xuân Trang, Nguyễn Nam. Những nhà nghiên cứu này đọc như thế là
dựa vào các phiến thiết đã có trong các vận thư như Từ Lữ thiết, Tượng Lữ thiết, và có thể gần với
thời đại của tác giả Truyền kì mạn lục hơn.
Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Lập Phu khi biên chép lại bài tựa của Hà Thiện Hán đã gọi tên tác
giả là Dữ. Nhìn chung những người đọc tên tác giả là Dữ là dựa vào bộ phận biểu âm. Và đây là âm
đọc có thể là mới hơn.
Trên cơ sở thống kê những cách gọi khác nhau ấy, Nguyễn Quang Hồng đi đến kết luận: không
nên khẳng định hay phủ định cách đọc này hay cách đọc khác bởi như thế là không thỏa đáng,
không bao quát được mọi khía cạnh của hiện tượng thực tế. Từ đó Nguyễn Quang Hồng cũng đã đi
đến đề xuất : “Một cách xử lý khoa học, nghiêm túc mà cũng phù hợp với thực tế đã có, tốt hơn hết
là nên tiếp tục gọi tên ông, tác giả bộ Truyền kì mạn lục của văn học nước nhà là Nguyễn Dữ, khi
cần thiết có thể mở ngoặc thêm:(còn gọi là Nguyễn Tự)”.
6. Nguyễn Nam trong bài “Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự”, in trên Tạp chí Văn học số 1/ 2003, đã
đưa ra một số lý giải về cách gọi tên tác giả của tập truyện này.
- Ngay phần đầu của bài nghiên cứu, tác giả Nguyễn Nam đã băn khoăn rằng: gọi thế nào cho
đúng tên tác giả của Truyền kì mạn lục. Hiện nay đã có ba cách gọi tên: Nguyễn Dự, Nguyễn Dư
hay Nguyễn Tự.
- Trong bài viết này, trên tinh thần điểm qua các cách gọi tên tác giả Truyền kì mạn lục, nhà
nghiên cứu Nguyễn Nam đã mở ra một hướng đọc thế nào cho đúng tên nhà văn này. Đó là cách
đọc của giáo sư Nguyễn Khắc Kham. Theo giáo sư thì đọc tên tác giả này có thể là Nguyễn Tự hay
Nguyễn Dư. Từ đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam cho rằng: tên tác giả tạm thời được giới thiệu là
Nguyễn Tự, biệt danh Nguyễn Dư, hoặc chỉ đọc là Nguyễn Dư.
1.3.2.2. Ý kiến của tác giả luận văn :
* Ý kiến hợp lý của các nhà nghiên cứu trước đây :
1. Thánh Tông di thảo :
Thánh Tông di thảo còn lại một bản sao. Chúng tôi thấy rằng ý kiến của Lê Sỹ Thắng, Hà Thúc
Minh trong Thánh Tông di thảo, bản dịch của Nguyễn Bích Ngô, Nxb Văn hóa và Viện văn học,
1963, và văn bản Thánh Tông di thảo cùng với ý kiến của Trần Thị Băng Thanh trong “Văn bản
Thánh Tông di thảo” trích trong Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học xã hội,
1999 có thể được xem là những ý kiến thỏa đáng nhất đối với vấn đề niên đại và tác giả của Thánh
Tông di thảo.
2. Truyền kì mạn lục :
Bàn về gọi tên và niên đại tác phẩm Truyền kì mạn lục,chúng tôi đồng tình với ý kiến tác giả
Nguyễn Phạm Hùng trong “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì mạn
lục ”, Nghiên cứu Văn học số 1 – 2006.
* Ý kiến của người viết luận văn :
1. Thánh Tông di thảo :
Hiện tại văn bản Thánh Tông di thảo còn lại là bản chép tay nên không thể tránh khỏi việc thêm
thắt vào tác phẩm một số cứ liệu, chi tiết. Điều này trở thành cơ sở để một số nhà nghiên cứu phủ
định việc Lê Thánh Tông viết Thánh Tông di thảo. Văn bản gốc không còn thì căn cứ chính xác
nhất để khẳng định hoặc phủ định tuyệt đối là không có. Do đó không nên có cái nhìn quá cực đoan
đối với vấn đề có liên quan đến từ ngữ của văn bản. Theo chúng tôi trong Thánh Tông di thảo có
một số truyện có nội dung giống với một số điều trong 24 huấn điều. Mà những huấn điều này là do
Lê Thánh Tông đặt ra trong khoảng thời gian trị vì đất nước. Ví dụ trong Hoa quốc kì duyên và
Hiếu đễ nhị thần truyện, tác giả đã đề cập đến hình ảnh những người em làm tròn đạo lý đối với anh
mình, thực hiện đúng bổn phận và nghĩa vụ của tình huynh đệ: thay anh chăm lo, dạy dỗ cháu nên
người. Nội dung này phù hợp với điều mà Lê Thánh Tông đã từng quy định : “Làm kẻ đệ tử nên yêu
mến anh em, hòa thuận với hương đảng, phải lấy lễ nghĩa mà cư xử”. Trong Ngư gia chí dị và Nhất
thư thủ thần nữ, tác giả lại đề cập đến vai trò, bổn phận của một nàng dâu đúng nghĩa. Điểm này
cũng đã được Lê Thánh Tông đề cập đến trong huấn điều : “Làm đàn bà thì phải theo chồng, không
được cậy cha mẹ mình phú quý mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ”.
Trong Hoa quốc kì duyên, Ngư gia chí dị, và Nhất thư thủ thần nữ, tác giả đều thể hiện quan niệm
coi trọng việc trăm năm như chọn ngày tốt để cử hành hôn lễ, giữ gìn danh tiết trước ngày cưới. Tất
cả đều là những điều mà Lê Thánh Tông đã đặt ra : “Việc hôn giá tế tự phải giữ lễ phép, không
được làm càn ”. Điều này đã chứng tỏ trong Thánh Tông di thảo có những tác phẩm thể hiện một
cách gián tiếp những quan điểm, những suy nghĩ, tư tưởng của chính Lê Thánh Tông.
Trong Thánh Tông di thảo dù có sự mâu thuẫn về tư tưởng thì đó vẫn có thể là tác phẩm của Lê
Thánh Tông, vì Lê Thánh Tông là một ông vua rất coi trọng đạo Nho nhưng cũng không vì thế mà
tuyệt giao với đạo Phật và đạo Lão, nhà vua chỉ phê phán những mặt tiêu cực của hai tôn giáo trên
có ảnh hưởng đến việc trị nước. Chính bản thân nhà vua vẫn còn chịu ảnh hưởng nhất định từ hai
tôn giáo này.
Bên cạnh đó chúng tôi cũng cho rằng những truyện dưới đây không thuần nhất là của riêng Lê
Thánh Tông mà có thể được người đời sau thêm thắt hoặc sửa đổi một số chi tiết: Mai Châu yêu nữ
truyện, Lưỡng Phật đấu thuyết kí, Hoa quốc kì duyên, Trần nhân cư thủy phủ, Lãng Bạc phùng tiên,
Nhất thư thủ thần nữ.
2. Truyền kì mạn lục :
Có thể nói cho đến nay những câu hỏi liên quan đến thân thể Nguyễn Dữ vẫn đang là vấn để đặt
ra cho nhiều nhà nghiên cứu. Họ đặt ra những câu hỏi: Nguyễn Dữ đi thi và làm quan ở thời nào? Vì
sao ông cáo quan về ở ẩn? Ông viết Truyền kì mạn lục khi nào? Ông có phải là học trò của Nguyễn
Bỉnh Khiêm không? Nguyễn Dữ có chịu ảnh hưởng tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Bỉnh
Khiêm có sửa chữa để Truyền kì mạn lục trở thành “thiên cổ kì bút” không? Để trả lời những câu
hỏi này, theo chúng tôi căn cứ duy nhất hiện nay là phải dựa vào ghi chép của các nhà khảo cứu thời
trước và một số công trình của các nhà nghiên cứu hiện nay.
Về cách gọi tên tác giả: theo chúng tôi, gọi thế nào cho đúng tên tác giả mặc dù đang là một vấn
đề được nhiều người bàn cãi song nó cũng không ảnh hưởng gì tới tư tưởng, giá trị của tác phẩm.
Tuy nhiên để đi đến một cách thống nhất chung cho cách gọi tên thì chúng ta nên dựa vào đặc điểm
của cách viết và đọc tên tác giả bằng chữ Hán. Từ việc tìm hiểu một số tài liệu để lại về tên Nguyễn
Dữ, chúng tôi nhận thấy người xưa đã dùng hai chữ có tự dạng gần giống nhau là chữ có bộ sơn và
chữ có bộ ngọc để ghi tên tác giả. Giữa hai chữ này thì chữ có bộ sơn được dùng phổ biến nhiều hơn
trong bài Tựa và trong một số công trình nghiên cứu Hán Nôm khác. Chữ này có thể đọc theo hai
cách: Tự hoặc Dữ. Cả hai cách đọc này đều có những căn cứ và lý do xác đáng. Tự là cách đọc cổ,
trung thành với âm của nó được quy định theo phiên thiết trong các vận thư, và có thể gần với thời
đại của tác giả Truyền kì mạn lục hơn. Dữ là âm đọc có thể mới hơn, được hình thành qua thực tế
nhận diện mặt chữ, do áp lực của bộ phận biểu âm trong chữ này là một ngữ tố Hán văn, người đọc
đọc với âm Hán Việt là dữ, và do đó nó dễ được chấp nhận rộng rãi hơn. Vì vậy một mực khẳng
định cách đọc này hay cách đọc khác đều là không thỏa đáng. Tuy nhiên không phải vì vậy mà để
tình trạng lộn xộn khi gọi tên tác giả. Theo chúng tôi một cách gọi tên nghiêm túc mà cũng phù hợp
với thực tế đã có, tốt hơn hết là nên tiếp tục gọi tên ông – tác giả của “thiên cổ kỳ bút” này là
Nguyễn Dữ, khi cần có thể mở ngoặc thêm là Nguyễn Tự.
Về năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ, cũng như có hay không mối quan hệ thầy trò giữa
Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ, chúng tôi cũng đưa ra một số nhận định như sau :
- Thứ nhất : trong lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp nói rằng Nguyễn Dữ không
thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm được, bởi lẽ theo Công dư tiệp ký thì thứ tự Nguyễn Dữ là số
222 đặt trước vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm số 236. Đồng thời theo Lê Quí Đôn khi Nguyễn Dữ đỗ
đạt ra làm quan, viết Truyền kì mạn lục dưới triều Lê thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc đó vẫn còn là một
nho sĩ nghèo nhiều lận đận. Ngoài ra Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được biết đến và được đề cao chủ
yếu là sau khi đỗ Trạng Nguyên và ra làm quan dưới triều Mạc Đăng Doanh. Bản thân Nguyễn Bỉnh
Khiêm là một nhà nho bình dân, suốt thời tuổi trẻ nghèo túng, chưa đỗ đạt, không danh vọng, đi thi
và làm quan khoảng thời gian 1535 – 1542. Với những cứ liệu này khó để khẳng định rằng ông là
thầy học hoặc là người lớn tuổi hơn
Nguyễn Dữ, con một nhà khoa bảng, lại chăm lối cử học và rất thông minh. Mặt khác Nguyễn
Dữ làm quan và cáo quan từ thời Lê, tức là trước khi nhà Mạc ra đời.
- Thứ hai : xét về góc độ tư tưởng thì chúng tôi nhận thấy một số công trình đã chỉ rõ: tư tưởng
thẩm mỹ của hai ông khác nhau, thế giới quan của hai ông cũng không có gì là giống nhau. Nguyễn
Bỉnh Khiêm là người chủ trương cải tạo con người để bảo vệ trật tự chế độ. Còn Nguyễn Dữ lại là
người chủ trương cải tạo chế độ để bảo vệ quyền sống của con người. Chính vì vậy chúng tôi cho
rằng không thể có việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính sách Truyền kì mạn lục để nó có thể trở
thành một áng văn hay, trở thành “thiên cổ kỳ bút ”. Đồng thời chúng tôi cũng cho rằng một số tài
liệu đã cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy và là người sửa Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ là
do hoặc nhầm lẫn hoặc do họ quá nhiều tình cảm với Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Về năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ thì có thể quan tâm đến lời Hà Thiện Hán: “ Tập lục
này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều
trước Nguyễn Tường Phiêu ”. Bài tựa này được viết năm 1547, chắc chắn rằng lúc ấy người sinh ra
Nguyễn Dữ đã mất, nên Hà Thiện Hán chép thẳng tên. Nhưng còn Nguyễn Dữ sao cũng chép thẳng
tên, mà theo người trung đại khi người đó còn sống chỉ gọi theo họ, chức quan, học vị hoặc tên quê.
Như vậy từ bài viết này chúng tôi có căn cứ để cho rằng đến năm 1547 thì Nguyễn Dữ đã không
còn. Từ đó theo đoán định của chúng tôi thì Nguyễn Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV
và mất khoảng thập niên thứ tư thế kỉ XVI, thọ khoảng 50 tuổi.
1.3.3. Cuộc đời và sự nghiệp các tác giả :
1.3.3.1.Lê Thánh Tông : (1442 – 1497).
*. Cuộc đời :
Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là con thứ tư của vua Lê Thái Tông, tên là Hiệu, lại có tên là Tư
Thành, hiệu là Thiên Nam động chủ, vua thứ tư triều Hậu Lệ, trị vì 38 năm (1459 -1497).
Vì sự lục đục trong nội bộ hoàng gia nên tuổi nhỏ Lê Thánh Tông phải sống bên ngoài cung bốn
năm với tư cách con dân thường. Đó là vốn quý để về sau ông hiểu biết và quan tâm nhiều đến đời
sống của nhân dân. Sau khi Nghi Dân cướp ngôi được tám tháng thì các quan đại thần trong triều
mưu giết đi vì tính hay nghe lời dua nịnh, chém giết đại thần; sau đó rước con thứ tư vua Thái Tông
là Bình Nguyên Vương Tư Thành lên làm vua, tức vua Lê Thánh Tông. Thánh Tông lên ngôi lấy
niên hiệu là Quang Thuận (1460 – 1469), sau đó đổi là Hồng Đức (1470 – 1497). Thời đại Lê Thánh
Tông là thời đại thịnh trị nhất của chế độ phong kiến nước ta, chế độ quân chủ tập trung cũng đạt tới
hình thái trọn vẹn và nhất là văn học thời đó cũng thịnh đạt nhất so với các thời đại trước. Lê Thánh
Tông là người thông minh, sáng dạ, lại cần cù, chịu khó. Đức tính cần cù chăm học ấy đã trở thành
thói quen theo ông suốt đời; ngay cả khi lên ngôi vua, rất bận rộn với công việc chính sự nhưng ông
vẫn chịu khó trau dồi kiến thức cho mình. Lê Thánh Tông đã đưa đất nước đến với sự thịnh trị, đời
sống nhân dân ấm no. Và tất nhiên để làm được điều này, nhà vua đã đổi mới rất nhiều. Ở đây
chúng tôi trình bày rõ về tư tưởng, giáo dục, tôn giáo cuả Lê Thánh Tông.
Về việc giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức, Lê Thánh Tông là người ý thức được sự cần thiết
phải có một lực lượng trí thức làm định hướng cho xã hội quân chủ tập quyền mà ông là người chủ
soái. Vì vậy các khoa thi thời Lê Thánh Tông rất chú trọng đến việc trình bày tính tình, phong thái,
quan niệm.....của người sĩ phu đỗ đạt, và mối quan hệ giữa họ với nhà vua. Ông đã định phép thi
hương, sửa phép thi hội để chọn nhân tài, đồng thời ban hành nhiều quy định quan trọng có ý nghĩa
thúc đẩy ý thức học tập trong mọi tầng lớp nhân dân, chẳng hạn lập ra lệ xướng danh các Tiến sĩ và
lệ cho về vinh quy bái tổ sau khi thi đỗ... Mặt khác Lê Thánh Tông là một ông vua hay chữ nên ông
đòi hỏi rất nghiêm khắc và rất cao ở những người đỗ đạt. Mặc dù vậy dưới triều Lê Thánh Tông vẫn
có một số quan lại địa phương không đỗ đạt mà được bổ dụng do đề cử. Điều đó cho thấy Lê Thánh
Tông không tuyệt đối hóa việc thi cử và không để cho trường thi thành là chắn đối với thiên tài.
Về tư tưởng, tôn giáo: Lê Thánh Tông đề cao Nho học, khuyến khích Nho học, tuyên truyền ý
thức hệ phong kiến một cách rộng rãi nhằm củng cố quyền thống trị của giai cấp phong kiến; đồng
thời hạn chế ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo. Ngoài ra Lê Thánh Tông còn sai Ngô Sĩ Liên
làm bộ Đại Việt sử kí toàn thư với ý thức tự hào về lịch sử và dân tộc Đại Việt.
Những việc làm ấy đã chứng tỏ Lê Thánh Tông là một đấng anh quân. Trong thời gian trị vì,
ông đã làm được rất nhiều việc có lợi cho đất nước, cho nhân dân. Phan Huy Chú đã đánh giá khá
chính xác về nhà vua : “Tư chất và tính khí nhà vua rất cao sáng, ham học không biết mỏi, tay
không rời quyển sách. Về trí thức thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, mở
mang bờ cõi, văn võ tài lược hơn cả các đời ”(Lịch triều hiến chương loại chí). Còn nhà sử học Ngô
Sĩ Liên nhận xét : “Nhà vua thực là bậc anh hùng tài lược, dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà
Đường cũng không hơn được ”(Đại Việt sử kí toàn
Thư)
*. Thơ văn :
Lê Thánh Tông quan niệm văn học phải phục vụ đời sống: một mặt văn học có nhiệm vụ củng
cố đạo lý phong kiến và chế độ chuyên chế, đồng thời văn học cũng phải phục vụ đời sống rộng rãi.
Bài “Tựa” trong Quỳnh uyển cửu ca có đoạn nói về động cơ và mục đích sáng tác : “Ta nhân lúc
muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn, thường xem các sách, vui thích lục nghề, mọi sự huyên
náo lắng xuống, một ngọn đèn sáng thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sạch, ở yên, hứng cao, mới
nghĩ đến khuôn phép lớn của thánh đế minh vương, lòng cẩn thận của trung thần lương bật. Gọi
chàng giấy họ bút, thượng khách mực, trọng thần nghiên đá, bảo đi bảo lại rằng: chân tình ta phát
ra, có anh khí dào dạt thành cách ngôn hay. Các ngươi có thể ghi chép giúp ta được không ”(371).
Đây thực chất là quan niệm “văn dĩ tải đạo” của Nho gia được hiểu từ vị trí người đứng đầu nhà
nước phong kiến. Đạo ở đây là đạo của thánh đế minh vương tức đạo trị nước, đạo của trung thần
lương bật tức đạo thờ vua. Văn ở đây là thơ, thơ là để nói cái chí của mình. Văn học có nhiệm vụ tải
cái đạo ấy, tức là phải phục vụ chế độ phong kiến, đề cao đạo đức phong kiến.
Chữ nghĩa giỏi giang của vua Lê Thánh Tông không phải để ngâm vịnh cho vui mà đã sử dụng
nó để rèn luyện phẩm cách, nâng cao trí tuệ của bản thân, để xứng đáng với vị trí là người lãnh đạo
cao nhất của một đất nước văn hiến. Lê Thánh Tông đã sử dụng tài năng văn chương để chỉ đạo
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Thể hiện quan niệm đó, ông đã có nhiều tác phẩm vừa
mang nội dung đề cao Nho gia, vừa ca ngợi đời sống thái bình, thịnh trị, trong đó chủ yếu là đề ca
ngợi đất nước tươi đẹp và cuộc sống nhân dân ấm no.
Tóm lại, quan niệm văn chương của Lê Thánh Tông không phải là trùng lắp hoàn toàn nhưng
cũng chưa vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm văn học truyền thống của Nho gia, mà cũng là của
văn học trung đại. Điểm riêng của Lê Thánh Tông là ông đã lựa chọn sáng tạo khi vận dụng quan
niệm văn học Nho gia với ba tư cách: người đứng đầu nhà nước phong kiến, anh thợ cả thiết kế và
thi công sáng tác văn học của cả một thời đại, vị chánh nguyên soái một thi xã hoàng gia ở cái thời
hoàng kim của Nho gia và văn học nhà Nho. Tuy rất đề cao văn học Nho gia nhưng Lê Thánh Tông
vẫn có quan điểm khoáng đạt với văn học Nôm, văn học Tiếng Việt.
Lê Thánh Tông lập ra hội Tao Đàn, xướng họa quanh chín đề tài gọi là Quỳnh uyển cửu
ca. Nhà vua là Tao Đàn nguyên súy (hoặc Đô nguyên súy), Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận làm
Tao Đàn phó nguyên súy (hoặc Phó đô nguyên súy). Hội gồm 28 hội viên, gọi là Tao Đàn nhị thập
bát tú. Vua tôi thường làm thơ, ngâm vịnh ca ngợi triều đại nhà Lê và đề cao vai trò của nhà vua.
Hầu hết các tác phẩm của hội Tao Đàn đều được ghi lại trong Thiên Nam dư hạ tập, trước thuật ở
nhiều thể loại. Về thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông có 9 tập trong đó nhiều tập có cả thơ văn của văn
thần họa, bình thơ của nhà vua :
- Anh hoa hiếu trị (1468): nội dung chính bày tỏ lòng hiếu kính đối của con cháu đối với tổ
tiên nhân dịp Lê Thánh Tông cùng với Lê Niệm, Đỗ Nhuận về Thanh Hóa bái yết Lam Kinh.
- Minh lương cẩm tú ( khoảng 1470 – 1471): ca tụng 13 cửa biển và một cửa ải, thể hiện niềm
tự hào về đất nước và nỗi nhớ nhà của tướng sĩ trên đường viễn chinh.
- Văn minh cổ xúy (1491): viết nhân dịp nhà vua, hoàng gia và triều thần đi bái yết Sơn lăng.
Tập thơ thể hiện lòng hiếu kính của nhà vua khi về viếng mộ cha ông và niềm mong mỏi đất nước
phồn vinh, thịnh trị, đế nghiệp bền vững, lâu dài.
- Quỳnh uyển cửu ca (1495): lời đề xướng của vua Lê Thánh Tông và lời đối đáp của nhị thập
bát tú, ca ngợi chế độ, nhà vua, triều thần, tự hào về cuộc sống thái bình, thịnh trị, thể hiện ý thức
trách nhiệm của vua quan đương thời đối với đất nước và nhân dân.
- Cổ tâm bách vịnh (1495): vịnh các nhân vật lịch sử phương Bắc, khen chê theo tiêu chuẩn
đạo đức phong kiến, nhằm giáo huấn người đời.
- Xuân vân thi tập (1496): vịnh phong cảnh núi sông, bến động, cửa biển... của đất nước, bao
hàm niềm yêu mến và tự hào về cảnh đẹp đất nước.
- Cổ kim cung từ thi (1496)
- Châu cơ thắng thưởng thi ( ?): nội dung chủ yếu ca tụng danh lam thắng cảnh và sự thịnh
vượng của đất nước.
Về thơ chữ Nôm, Hồng Đức quốc âm thi tập thể hiện niềm tự hào về lịch sử đất nước, dân tộc và
niềm vui sướng được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị, trong đó có nhiều bài điêu luyện chứa
chan tinh thần dân tộc, màu sắc dân gian, bên cạnh một số bài mang tính chất thù phụng và khuôn
sáo.
Về văn chữ Hán, Lê Thánh Tông có các tác phẩm sau:
- Liệt truyện tạp chí: ghi chép những ý hay tứ lạ khi đọc sự tích, danh ngôn Trung Quốc, rút ra
những bài học về mặt tu dưỡng đạo đức, về đường lối chính trị, giáo dục.....Tác phẩm này thể hiện
khá rõ tư tưởng sùng Nho của Lê Thánh Tông, đồng thời cũng cho thấy sự dung hòa Nho, Phật, Đạo
ở những mặt có lợi cho việc giáo dục tư tưởng và đạo đức phong kiến.
- Lam Sơn Lương thủy phú: khoảng 400 câu với phần chú thích dài, viết về ngọn núi, dòng
sông ở căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ca ngợi sự nghiệp khai quốc của Lê Thái Tổ, miêu
tả khí thế hào hùng của non sông kỳ vĩ và cuộc kháng Minh thần thánh.
- Thánh Tông di thảo: tập truyện gồm 19 truyện, vấn đề tác giả và niên đại vẫn còn nhiều tranh
cãi nhưng tác phẩm được viết với bút pháp đại gia, nghệ thuật vững vàng, cứng cát, nội dung tư
tưởng phù hợp với thời đại và với những tác phẩm khác của Lê Thánh Tông nên có nhiều ý kiến cho
rằng trong đó vẫn có một số truyện là của Lê Thánh Tông.
Về văn chữ Nôm, vua Lê Thánh Tông có Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết theo thể biền
ngẫu : tác phẩm gồm 11 đoạn, đoạn mở đầu và 10 đoạn răn 10 loại cô hồn (Thiền tăng, đạo sĩ, quan
liêu, nho sĩ, tướng quân, lương y, thiên văn địa lý, hoa nương, thương cổ, đãng tử), cuối mỗi bài răn
là những lời bình phẩm và một bài kệ bằng thơ Đường luật. Tác phẩm thể hiện khuynh hướng chính
thống của nhà nước phong kiến đối với mười hạng người trong xã hội nước ta thời đó. Tác giả
không xuất phát từ cảm hứng nhân đạo như Nguyễn Du trong Văn chiêu hồn mà xuất phát từ mục
đích giáo huấn người sống, bút pháp miêu tả vừa hiện thực vừa sắc sảo, lại pha giọng hoạt kê, trào
lộng nên không khí của bài văn sáng sủa, sống động không não nề, ảm đạm.
Nhìn chung trước tác của Lê Thánh Tông tuy số lượng hiện còn không đầy đủ nhưng là khá lớn
và tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác của văn học viết nửa sau thế kỉ XV. Vốn hiểu biết của Lê
Thánh Tông về cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân, về giang sơn đất nước trong những năm sống
hàn vi ngoài cung khuyết, trong những cuộc tuần du hoặc viễn chinh cùng với những hiểu biết về
sách vở khiến Lê Thánh Tông vừa là một nhà thơ chính trị rất thực tiễn, vừa là một nhà thơ giàu tình
cảm.
1.3.3.2. Nguyễn Dữ :
* Cuộc đời :
Mảnh đất Đường Lâm, huyện Gia Phúc, Hồng Châu, nay là xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện,
tỉnh Hải Dương là nơi đã nuôi dưỡng và chứng kiến sự trưởng thành của nhà văn Nguyễn Dữ. Có
thể nói một cách khái quát: Nguyễn Dữ sinh ra trong một giai đoạn rối ren, đầy biến động. Rất tiếc
những tài liệu về Nguyễn Dữ hiện còn không nhiều lắm nên muốn biết về cuộc đời nhà văn, chúng
tôi chỉ có thể tìm qua số tài liệu ít ỏi này và qua “thiên cổ kỳ bút”
của ông. Từ đấy, có thể suy đoán: Nguyễn Dữ có khả năng sinh vào khoảng cuối thế kỉ XV,
sống và sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI. Ông là con trai của Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ
khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức 27 (1496). Nguyễn Tường Phiêu sau khi đỗ được trao chức
Thừa sánh sứ và khi mất được phong chức Thượng thư. Từ gia đình, nhiều nhà nghiên cứu cũng cho
rằng: Nguyễn Dữ chắc chắn một thời gian dài được sống gần cha, một vị quan lớn của nhà Lê, ở
chốn kinh thành nhiều năm ,được chứng kiến những bước thăng trầm của xã hội và con người.
Đồng thời đây cũng là vốn sống quan trọng cho những sáng tác kiệt xuất của ông khi về ẩn cư. Lúc
nhỏ Nguyễn Dữ rất chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp
nhà. Thi Hương tiến, thi Hội Nguyễn Dữ đều đậu và từng giữ chức Tri huyện Thanh Tuyền. Nhưng
chỉ được một năm thì ông từ quan xin về quê phụng dưỡng mẹ già. Nhiều tài liệu để lại minh chứng:
Nguyễn Dữ từ quan về ẩn dật chủ yếu là do bất mãn với kẻ cầm quyền, đặc biệt là với hành động
tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung. Nguyễn Dữ không chọn quê hương, chốn mình sinh ra làm nơi ẩn
dật như bao nhà nho bất mãn khác. Có lẽ lúc đó Hải Dương đang là chiến trường của nhiều cuộc
giao tranh, cũng là đất “phên dậu” của nhà Mạc. Nguyễn Dữ về với núi rừng Thanh Hóa xa xôi và
yên tĩnh. Ông tỏ ra hết sức gắn bó và am hiểu chốn núi rừng này và đã để lại nhiều dấu ấn trong tác
phẩm.
* Sự nghiệp văn chương :
Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Nguyễn Dữ còn để lại duy nhất một tập truyện văn
xuôi chữ Hán là Truyền kì mạn lục.
Về thời điểm ra đời tác phẩm, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận. Tuy vậy theo tài liệu ghi
chép,chúng ta có thể dự đoán Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục trong khoảng thời gian ông về
sống ẩn dật ở quê ngoại.
Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện,chia làm bốn quyển. Truyện được viết bằng văn xuôi chữ Hán
có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn. Ở cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả trừ truyện Kim
Hoa thi thoại kí. Và lời bàn trong truyện không phải bàn về nghệ thuật mà chủ yếu bàn về nội dung,
ý nghĩa đạo đức của truyện
1.3.3.3. Vũ Trinh
* Cuộc đời :
Vũ Trinh (1759 – 1828) tên tự là Duy Chu, hiệu là Nguyên Hanh, biệt hiệu là Lai Sơn, Lan Trì
ngư giả, đạo hiệu Hải Âu hòa thượng. Ông là người làng Xuân Lan, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh
Bắc Ninh.
Vũ Trinh xuất thân từ một gia đình có nề nếp thi thư. Ông nội Vũ Trinh hiệu là Hy Nghi, đỗ
Tiến sĩ đời Lê, làm quan đến Thượng thư bộ binh. Cha ông tên là Triệu, cũng đỗ Hương tiến làm
đến chức Tham nghị. Cũng như Nguyễn Dữ, Vũ Trinh vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ, 17 tuổi đỗ
Hương tiến, được tập ấm chức Tri phủ Quốc Oai, tước Lan Trì bá.
Với tài năng ấy Vũ Trinh có thể thành công trên con đường hoạn lộ, hơn nữa ông còn có thể góp
phần vào sự phát triển đi lên của đất nước. Nhưng chỉ tiếc rằng Vũ Trinh sinh ra không đúng thời,
nên không có đất dụng võ. Ông đã trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời. Từ khi còn rất
trẻ, dưới thời vua Lê, Vũ Trinh làm Tri phủ Quốc Oai. Vào năm 1786, với danh nghĩa “phù Lê diệt
Trịnh”, vua Chiêu Thống được nối ngôi, Vũ Trinh lại được mời về triều. Lần này về với vua Lê, Vũ
Trinh đã làm được một việc có ý nghĩa. Đó là ông khuyên vua Lê không trừ khử Nguyễn Hữu
Chỉnh. Nhờ vậy ông đã góp phần tránh được một sự tổn thất lớn của một cuộc thanh toán nội bộ.
Trong cuộc chạy đua với phong trào Tây Sơn, vua Lê đã hoàn toàn thất thế. Khi Tây Sơn ra Bắc lần
thứ hai diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống đã bỏ ngai vàng tháo chạy giữ lấy thân. Và để thể
hiện chữ trung của mình, Vũ Trinh đã đón vua về nhà, dồn hết tài sản của gia đình lo cho vua. Hơn
nữa khi Lê Chiêu Thống được sự giúp đỡ của Tôn Sĩ Nghị đã đánh trả lại Tây Sơn, thì Vũ Trinh đã
là quân sư trả lời trôi chảy những câu hỏi của quân Thanh. Có thể thấy chữ “trung” của Vũ Trinh
được đặt lên cao cho dù đó là “ngu trung” như lời phán xét của người đời đối với tác giả. Đặc biệt
chữ “ trung” ấy được thể hiện rõ khi vua Quang Trung giành thắng lợi trước vua Lê Chiêu Thống và
quân Thanh. Lúc bấy giờ, mặc dù vua Quang Trung luôn mở cửa chờ đón người hiền ở bên kia
chuyến tuyến, nhưng Vũ Trinh tuyệt đối trung thành với triều đại cũ và không ra làm quan dưới thời
Tây Sơn, di cư ở ẩn. Sau khi Tây Sơn diệt vong, Gia Long ra Bắc, xuống chiếu mời các quan thần
nhà Lê, Vũ Trinh đã tham gia và giữ chức Thị trung học sĩ, theo về Phú Xuân. Dưới trướng Gia
Long, nhưng tình cảm mà Vũ Trinh dành cho vua Lê không bao giờ cạn. Điều này còn được thấy rõ
khi hài cốt vua Chiêu Thống được đưa về nước, Vũ Trinh không chỉ đứng ra xin vua ban lễ hậu và
giữ nguyên tên hiệu cho Chiêu Thống mà còn xin về Bắc Hà để đón tang. Tưởng rằng những sóng
gió thời cuộc không còn “duyên nợ” gì với Vũ Trinh, nhưng không ngờ năm 1816 ông bị bắt vì
triều đình cho là ông “a dua với bọn phản nghịch”. Năm sau, ông được giảm tội chết, đem đi an trí ở
Quảng Nam. Đến chỗ lưu đày, ông giảng sách, dạy học trò, lấy văn chương làm vui, sống ẩn dật giữ
mình. Mười hai năm sau, Minh Mạng tới Quảng Nam, Vũ Trinh sai con dâng biểu trình xin về quê
quán. Sau đó được vua chấp nhận, song do già yếu, về quê được vài ngày thì ông mất. Có thể nói
Vũ Trinh là một bề tôi luôn lấy chữ Trung làm đầu. Mặc dù quan niệm “trung quân ”của ông còn
nhiều hạn chế song trong thời cuộc còn nhiều rối ren, ông vẫn luôn giữ được một tâm hồn trong
sạch và một tấm lòng với nước với dân.
*Sự nghiệp văn chương :
Khi Lê Chiêu Thống chạy theo tàn dư của Tôn Sĩ Nghị sang Bắc Quốc, không theo kịp vua, Vũ
Trinh về lẫn trốn ở vùng thôn dã, không ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Dù vậy ông không bị o ép,
vào khoảng cuối những năm 90 của thế kỉ XVIII Vũ Trinh đã có mặt ở Thăng Long, giao du mật
thiết với nhóm trí thức Thăng Long xung quanh Thiền viện của Ngô Thì Nhậm ở phường Bích Câu.
Họ hoạt động nghiên cứu kinh sách, giáo lý nghiêm túc. Tác phẩm Trúc Lâm Tông chỉ nguyên
thanh chính là thành quả nghiên cứu về Kinh Viên giác của họ. Trong tác phẩm này, Vũ Trinh là
một trong hai người viết phần Thanh chú.
Ngoài danh phận tôi trung của nhà Lê từng phò giúp Lê Chiêu Thống và chức phận một quan
chức cao cấp của nhà Nguyễn, hơn hết Vũ Trinh còn là một nhà văn. Tuy rằng những tác phẩm như
tập thơ Sứ Yên, tập thơ Cung oán đều đã thất lạc và cả những sáng tác ông làm trong thời gian lưu
đày ở Quảng Nam cũng không thấy nhưng những đóng góp còn lại của ông cũng đáng trân trọng.
Mặc dù về văn chương, Vũ Trinh chỉ còn lại lời bình Truyện Kiều của Nguyễn Du, lời chú trong
Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh và đặc biệt là Lan Trì kiến văn lục. Nhưng với những gì để lại, Vũ
Trinh xứng đáng là một cây viết có đóng góp quan trọng trong lịch sử văn xuôi chữ Hán Việt Nam,
đặc biệt là ở thể loại truyện truyền kì. Đó là điều may mắn cho văn học và cho độc giả đời sau, bởi
một tài năng sáng tạo đã không bị quên lãng với thời gian.
1.4 Vấn đề nhân vật trong tác phẩm văn học :
1.4.1. Khái niệm nhân vật :
Nhà văn khi sáng tác luôn phải chú ý đến việc xây dựng nhân vật. Bởi lẽ đó là nơi giải quyết tất
cả những gì trong tác phẩm. Chính vì vậy việc thành hay bại của một nhà văn phụ thuộc nhiều vào
việc xây dựng nhân vật. Có nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đưa ra những khái niệm về nhân
vật, nhưng ở đây chúng tôi chọn khái niệm của Phương Lựu : “Nhân vật văn học là con người được
miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học”. Và “Nhân vật là phương tiện khái quát hiện
thực”.[62, tr.284]
1.4.2. Các kiểu loại nhân vật :
Nhân vật trong một tác phẩm văn học hiện lên thật đa dạng và phong phú, mỗi nhân vật có một
khuôn mặt riêng, không ai giống ai. Và đôi khi nhân vật được xây dựng thành công cũng chính là
cuộc đời nhà văn được gửi gắm vào trong ấy. Tuy nhiên nếu đặt nhân vật trong một cái nhìn hệ
thống, người đọc dễ dàng nhận ra được nhân vật ấy nằm trong kiểu loại nào của nó. Và từ bình
diện nội dung, tư tưởng, kết cấu – cốt truyện, thể loại, cấu trúc, chúng tôi nhóm họp chúng lại. Dưới
đây, chúng tôi tiến hành điểm qua đặc điểm của một số loại thường gặp.
1.4.2.1. Từ góc độ nội dung, tư tưởng :
Căn cứ vào phẩm chất nhân vật, có thể chia ra: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật
trung tâm.
*. Nhân vật chính diện :
Nhân vật chính diện còn được gọi là nhân vật tích cực. Với vai trò thể hiện lý tưởng xã hội và
lý tưởng thẩm mỹ của thời đại mình, nhân vật chính diện thường được xây dựng theo những chuẩn
mực nhất định. Theo Trần Đình Sử : “Nhân vật chính diện là nhân vật thể hiện những giá trị tinh
thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của con người được nhà văn miêu tả, khẳng
định, đề cao trong tác phẩm theo một quan điểm, tư tưởng, một lý tưởng xã hội – thẩm mỹ nhất
định”. [102, tr.227]. Đi ngược lại với nhân vật chính diện là nhân vật phản diện. Và trong cùng một
tác phẩm văn học hai loại nhân vật này thường thể hiện ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm.
*. Nhân vật phản diện:
Trái lại với nhân vật chính diện, “nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa trái với
đạo lý và lí tưởng, đáng lên án và phủ định ”. [62, tr.285]. Từ những quan niệm trừu tượng về bản
chất con người, đôi khi trong các sáng tác văn học, kiểu nhân vật phản diện được xây dựng đơn
giản, máy móc, một chiều. Các nhà văn học hiện thực phê phán thường đưa cái cao cả và cái tầm
thường, cái đẹp với cái lố bịch thống nhất trong nhân vật. Cho nên từ chỗ chỉ ra đâu là phản diện,
đâu là chính diện cho nhân vật ấy, thật không dễ. Và vì thế đôi lúc sự phân biệt nhân vật chính diện,
nhân vật phản diện không phải bao giờ cũng rạch ròi, rõ nét. Đó cũng là cơ sở cho các nhà nghiên
cứu đưa ra kiểu nhân vật trung gian.
*Nhân vật trung gian:
Đứng giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện là nhân vật trung gian. Kiểu nhân vật này
thường không cố định mà luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh. Nhân vật theo từng hoàn cảnh có thể
tốt hoặc xấu đi.
1.4.2.2. Từ góc độ kết cấu – cốt truyện :
Trong tác phẩm văn học thường có một hoặc nhiều nhân vật. Và trong các trường hợp đó, không
phải mọi nhân vật trong tác phẩm văn học đều có vai trò như nhau trong kết cấu và cốt truyện tác
phẩm. Dưới đây là một số kiểu nhân vật nhìn từ góc độ kết cấu – cốt truyện :
*. Nhân vật chính :
Đây là nhân vật xuất hiện nhiều và giữ vị trí then chốt trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư
tưởng tác phẩm. Nhân vật này liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả
triển khai đề tài cơ bản của mình và là nhân vật được khắc họa đầy đặn, có tiểu sử, có nhiều tình
tiết. Nhân vật chính phải là người ở trong xung đột của tác phẩm, đại diện cho một phía của xung
đột tác phẩm, số phận của nó gắn liền với sự phát triển xung đột của truyện.
*. Nhân vật trung tâm :
Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên
suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là
nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Nhận ra nhân vật trung tâm là rất quan trọng. Bởi lẽ
nhận ra được nhân vật trung tâm tức là chúng ta hiểu được vấn đề cơ bản của tác phẩm. Lại có khi
nhân vật trung tâm là nhân vật được nói đến, chứ không phải là nhân vật chính trong cốt truyện.
*. Nhân vật phụ :
Ngoài nhân vật chính, nhân vật trung tâm, còn có nhân vật phụ. Có nhân vật phụ ở bình diện hai,
có tính cách, tình tiết, lại có nhân vật phụ hàng thứ ba, chỉ thấp thoáng trong các tình tiết. Tuy vậy
vẫn không thể coi nhẹ nhân vật phụ. Bởi lẽ chúng chẳng những là một bộ phận không thể thiếu của
bức tranh chung, mà nhiều khi còn hàm chứa những tư tưởng quan trọng của tác phẩm.
1.4.2.3. Từ góc độ thể loại :
Nếu xét từ góc độ thể loại, có thể phân ra ba dạng : nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ
tình.
*. Nhân vật tự sự :
Nhân vật tự sự là nhân vật là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự. Nhân vật này
thường xuất hiện trong các tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, truyện thơ. Đây
là loại nhân vật có thể được miêu tả đầy đặn nhất, phong phú nhất và ít bị hạn chế.
*. Nhân vật kịch :
Nhân vật kịch là nhân vật được miêu tả theo phương thức kịch, chủ yếu xuất hiện ở trong kịch.
Vì kịch viết là để diễn nên bị hạn chế bởi không gian và thời gian; vì thế nên nhân vật kịch chỉ được
miêu tả ở những khâu xung đột căng thẳng nhất. Do đó nhân vật kịch giàu kịch tính, góp phần tạo
nên tính kịch ở vở kịch. Các nhân vật có tính kịch trong tự sự là loại nhân vật gần gũi với nhân vật
kịch.
*. Nhân vật trữ tình :
Nhân vật trữ tình là nhân vật được xây dựng theo phương thức trữ tình, trực tiếp thể hiện cảm
xúc, ý nghĩa trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình thường xuất hiện dưới dạng phiến đoạn trong nhiều
thể loại khác nhau như : thơ trữ tình, bút kí, tùy bút... nhưng chủ yếu là trong thơ trữ tình và thường
được gọi là “cái tôi trữ tình”.
1.4.2.4 Từ góc độ chất lượng nghệ thuật :
Xét từ góc độ chất lượng nghệ thuật, người ta thường dùng cái khái niệm tính cách và điển hình
để chỉ những nhân vật được khắc họa rõ nét. Từ khái niệm nhân vật tới khái niệm tính cách và tính
cách điển hình là những mức độ khác nhau về chất lượng – tư tưởng nghệ thuật của sự thể hiện con
người trong tác phẩm văn học. Tính cách là những nhân vật đã được khắc họa có chiều sâu với
những đặc điểm tâm lí, diện mạo tương đối rõ nét, đủ định hình để nhận ra đặc điểm của nhân vật
đó. Tính cách đạt đến mức độ thật sâu sắc thì trở nên điển hình. Chỉ trong những tác phẩm xuất sắc
mới có những tính cách đạt đến trình độ điển hình.
1.4.2.5 Từ góc độ cấu trúc nhân vật :
Đứng từ góc độ này có thể chia nhân vật ra làm các loại: Nhân vật chức năng, nhân vật loại hình,
nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.
*. Nhân vật chức năng :
Nhân vật này còn gọi là “nhân vật mặt nạ” là loại nhân vật thực hiện một số chức năng nào đó
trong tác phẩm. Các nhân vật chức năng thường được cấu trúc như một phương tiện, công cụ. Do
vậy phẩm chất nhân vật dường như không thay đổi từ đầu đến cuối . Đời sống nội tâm của nhân vật
cũng không được miêu tả. Loại nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn học dân gian và văn
học cổ trung đại.
*. Nhân vật loại hình :
Nhân vật loại hình là nhân vật mà ở đó có một nét tính cách được tô đậm trở nên tiêu biểu cho
loại người nào đó trong xã hội của những thời đại nhất định. Loại nhân vật này dựa trên cơ sở tập
trung miêu tả một nét tính cách nổi bật và thường là nét tính cách trở thành tên gọi của nhân vật.
*Nhân vật tính cách :
Đây là loại nhân vật có cá tính đầy đặn nhiều mặt. Nhân vật tính cách thường được xem như một
nhân cách. Có thể thấy nét khác nhau căn bản giữa nhân vật tính cách và nhân vật loại hình ở chỗ
một bên tính cách đa diện như một cá nhân, còn một bên chỉ có một nét tính cách được tô đậm
thành loại hình.
*. Nhân vật tư tưởng :
Là loại nhân vật giữ chức năng bộc lộ một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Do vậy suy đến
cùng nhân vật tư tưởng cũng là một dạng của nhân vật chức năng. Nhân vật tư tưởng thường giữ vai
trò “cái loa” phát ngôn cho tư tưởng tác giả. Do đó loại nhân vật này rất dễ trở nên công thức minh
họa.
Trên đây là một số kiểu và loại nhân vật thường gặp. Cách phân chia ra các loại kiểu khác nhau
ở trên là tương đối. Trên thực tế không phải bao giờ cũng phân định nhân vật một cách rạch ròi như
vậy được : Tuy nhiên, việc phân chia này cho phép ta nắm bắt dễ dàng hơn, và từ đó thuận lợi hơn
trong việc tìm hiểu, phân tích nhân vật.
1.4.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp xây dựng nhân vật :
Như đã nói ở trên, nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật, miêu tả bằng phương tiện
nghệ thuật. Các phương thức thể hiện nhân vật hết sức đa dạng. Có thể nói văn học đa dạng đến đâu
các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. Dưới đây người viết xin trình bày
những vấn đề chung nhất về các phương thức, phương tiện này.
1.4.3.1.Chi tiết nghệ thuật :
Có thể thấy nhân vật trước hết được miêu tả bằng các chi tiết . Đó là những biểu hiện mọi mặt
của con người mà người ta có thể căn cứ để cảm biết về nó . Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân
dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm, thể hiện những mâu
thuẫn, xung đột, sự kiện. Có thể miêu tả nhân vật một cách trực tiếp, nhưng ,cũng có thể miêu tả
gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối với nhân vật. Nhân vật cũng có thể được
thể hiện bằng các phương tiện khác của văn học như qua lời văn, kết cấu, loại thể. Những phương
tiện này càng làm phong phú thêm các phương thức khắc họa nhân vật.
1.4.3.2.Một phương diện khác cần chú ý là ở những loại hình nhân vật khác nhau có những
phương thức xây dựng khác nhau phù hợp với đặc điểm của loại hình nhân vật. Ngoài ra các thời
đại khác nhau cũng có những cách thức xây dựng nhân vật khác nhau. Có thể nói các biện pháp,
phương tiện xây dựng nhân vật rất phong phú. Sự đa dạng về loại hình nhân vật cũng đòi hỏi có
những phương thức miêu tả phù hợp. Tìm hiểu thế giới phong phú và đa dạng của nhân vật là cần
thiết, bởi lẽ qua đó sẽ hiểu được nội dung nghệ thuật mà nó khái quát
CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.
2.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên và tôn giáo:
2.1.1. Khái quát chung:
Có thể thống kê số lần xuất hiện của loại hình nhân vật siêu nhiên và tôn giáo như sau:
stt Tên tác phẩm Nhà sư Ghi chú
+ +
Truyện một giấc mộng
Truyện hai Phật cãi nhau 01 02 Trận cười ở núi Vũ Môn 03 Ngọc nữ về tay chân chủ Truyện hai thần hiếu đễ 04 05 Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc 06 07 Một dòng chữ lấy được gái thần 08 Chuyện cây gạo 09 Chuyện gã trà đồng giáng sinh 10 Chuyện đối tụng ở Long Cung 11 Chuyện nghiệp oan của Đào thị 12 Chuyện chức phán sự đền Tản Viên 13 Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên 14 Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào 15 Chuyện yêu quái ở Xương Giang 16 Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều 17 Chuyện Lý tướng quân 18 Chuyện tướng dạ xoa 19 Thần cửa cờn 20 Tiên trên đảo 21 Phạm Viên 22 Tiên ăn mày 23 Thần giữ của 24 Thần đền Chiêu Trưng 25 Thần tiên + + + + + + + + + + + + + + + Đạ o sĩ + + + + + + + + + + + + +
Từ bảng thống kê, có thể thấy trong tồng số 84 tác phẩm mà chúng tôi khảo sát thì viết về loại
hình nhân vật này là 25 bài, chiếm 20 %. Điều này đã cho thấy hệ thống nhân vật siêu nhiên và tôn
giáo không chiếm số lượng nhiều như trước đây. Như vậy có nghĩa là thể loại truyền kì đến Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã không đơn thuần chỉ có những nhân vật
bước ra từ văn học dân gian và văn xuôi lịch sử nữa. Những ông bụt, ông tiên trong truyện cổ tích
giờ đã nhường chỗ cho những con người bình thường, thậm chí những con người dưới đáy xã hội.
Trong số này nhân vật thần tiên xuất hiện nhiều ở Thánh Tông di thảo và Lan Trì kiến văn lục, còn
Truyền kì mạn lục thì nhân vật đạo sĩ lại chiếm số lượng đông đảo hơn. Điều đó cũng do tư tưởng
của các nhà văn chi phối. Lê Thánh Tông mượn hình ảnh của thần tiên đầy phép mầu để phù trợ
giúp mình trong việc trừ ma, diệt quỷ. Thời đại Vũ Trinh chế độ phong kiến xuống cấp trầm trọng,
nhà văn đưa hình ảnh thần tiên đến như để an ủi những số phận, những con người bất hạnh trong
cuộc đời. Với Nguyễn Dữ thì việc trả ấn từ quan quay về với chốn lâm tuyền giữ tâm hồn trong sạch
lại được gửi gắm qua hình ảnh người ở ẩn. Chính vì những điểm này mà hệ thống các nhân vật
trong tác phẩm được thể hiện đậm nhạt khác nhau. Tuy vậy, có thể nhận thấy điểm chung nhất là
loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã thể hiện những tư tưởng, quan niệm của các tác giả về con
người, về xã hội mà mình đang sống.
2.1.2. Loại hình các nhân vật thần tiên, đạo sĩ:
Người xưa quan niệm: thiên nhân tương cảm, ngụ ý con người và vũ trụ có mối tương quan với
nhau. Chính vì vậy văn chương thời trung đại thường mượn những hình ảnh của siêu nhiên để thể
hiện cách cảm nhận của con người về thế giới, “đã có một thời kì, cái siên nhiên xuất hiện trong một
hình thức truyện ở thế kỷ XV như một xương sống chi phối toàn bộ cốt truyện được gọi là truyền
thuyết và cổ tích” [25,tr.19]. Nếu như nghệ thuật nhân hóa là một phương thức được sử dụng để
nhà văn khoác cho nhân vật vật thể và phi vật thể một tính cách, một cuộc sống như con người, thì
có thể thấy phương thức thần kì hóa lại như là một cứu cánh cho nhân vật truyền kì có một sức
mạnh, một khả năng siêu nhiên. Và điều này có thể thấy rõ nhất qua hệ thống các nhân vật thần tiên,
đạo sĩ.
Loại hình nhân vật thần tiên, đạo sĩ trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến
văn lục ở một mức độ đậm nhạt mang màu sắc của Đạo giáo. Nhân cách, lối sống của các nhân vật
này đều chịu sự chi phối bởi quan niệm của người sáng tác. Nó trực tiếp quy định việc lựa chọn hệ
thống các yếu tố thi pháp miêu tả nhân vật. Đồng thời loại hình nhân vật này cũng cho thấy quan
niệm tam giáo đồng nguyên của người trung đại.
2.1.2.1. Loại hình các nhân vật thần tiên:
Thần tiên là một trong những hình tượng mang dấu ấn của truyện cổ tích khá rõ nét. Người đọc
một thời xa xưa đã quá quen với những ông bụt, ông tiên hiền lành ban phát niềm vui, hạnh phúc
cho những con người bất hạnh. Vì vậy loại hình nhân vật này bao giờ cũng dành được những tình
cảm ưu ái của nhân dân và của nhà văn.
Theo quan niệm văn hóa Phương Đông, con người lý tưởng xét về nguồn gốc là những con
người được vũ trụ, trời đất sinh ra. Trong đó thần tiên là những con người được kết tinh từ những gì
tinh túy nhất của vũ trụ. Và để xây dựng thành công kiểu nhân vật này các nhà văn chủ yếu đi sâu
vào việc miêu tả hình dáng, hành động với màu sắc thần kì, phi thường. Đầu tiên là ngoại hình:
dáng mạo nhân vật thường tuấn tú, thoát tục tiêu biểu cho cốt cách tiên gia. Chân dung của người
thần thổi địch trong Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc của Lê Thánh Tông được miêu tả: “Ta thấy người đó
trạc hai mươi tuổi, tóc xõa chấm vai, môi son mắt phượng, thoang thoảng có mùi hương chi lan.
Người đó đầu đội khăn vuông, mặc áo xanh, vận quần đỏ, ngang thắt lưng đeo một ống địch bằng
trúc” [117,tr.36]. Ở loại hình này vắng bóng việc miêu tả nhân vật bằng các chi tiết cụ thể. Bóng
dáng và trang phục được miêu tả mang tính ước lệ, tượng trưng nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra
được tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Để thấy được sự siêu nhiên, khác người thường của thần tiên, nhà
văn chủ yếu đi sâu miêu tả nhân vật qua những hành động phi thường. Đầu tiên là ở khả năng đi lại
của nhân vật. Thần tiên đi lại bằng những con vật là biểu tượng cho sức mạnh của vũ trụ. Trong
Ngọc nữ về tay chân chủ, Lê Thánh Tông miêu tả nhân vật thần sông, thần núi đi bằng “cưỡi ngựa
vẫy vàng, rẽ nước bay lên”,“cưỡi xe hươu trắng đi thẳng lên cửa nhà trời”, hoặc “ trong ánh sương
mù thấy có một đám những tàn vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt
chân, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc” [117,tr 114]. Cưỡi mây, cưỡi gió cũng là một phương tiện
đi lại thường thấy ở nhân vật thần tiên. Đặc điểm này cho thấy được tầm vóc vũ trụ, ngang với đất
trời của nhân vật. Nói tới sự phi thường, kì vĩ của loại nhân vật thần tiên, các tác giả đã kể ra khả
năng biến hóa khôn lường. Thoắt ẩn thoắt hiện hay thay đổi cảnh vật bằng phép thuật là tất cả
những đặc điểm thể hiện hành động kì vĩ của nhân vật. Đó là hành động hóa phép của thần sông,
thần núi trong Ngọc Nữ về tay chân chủ. Nhân vật ở đây thần thông quãng đại, phép thuật cao
cường, tạo nên sức hấp dẫn cho bạn đọc: “Xua tay lên quãng không, chỉ vào cung khuyết ở trước
mặt Ngọc Hoàng, lập tức biến thành gò núi. Có ngọn lờ mờ như Bích Phong, có chỗ rõ ràng như
Quần Ngọc, có chim đẹp bay đậu, có thú lạ lại qua. Không phải nhích đi một bước mà cảnh tượng
đã khác nghìn vạn lần. Một lát, quỷ khóc thần sầu, núi reo hang ứng, có hổ gầm gấu rống, có thứ
rắn mồm nuốt được con voi, có thứ chim cánh giương như mây phủ. Những người hầu chung
quanh, tai nghe mà tựa hồ không muốn nghe, mắt trông tựa hồ không dám trông” [117,tr. 85].
Tương tự là hình ảnh: “Thủy thần cũng thè lưỡi thổi phù. Bỗng vạn ngõ ngàn cửa biến thành biển.
Nước bạc vỗ trời, sóng to xoáy đất, sóng dâng một lớp, núi chìm ngập đỉnh ngàn tầm, côn nhảy ba
ngàn, nước dựng như trăm cây thước. Hoặc phun lửa như cá cờ, hoặc vuốt râu thành cơn mưa. Một
lát cá rồng vắng vẻ, buồm gấm hoa bay liệng cung trăng; mây sắc bao che, cung Bồng Lai lờ mờ
mặt nước” [117,tr. 86], hay nhân vật nữ trong Nhị nữ thần truyện: “cách đoán số thì chỉ khẽ bấm đốt
ngón tay mà đoán được giàu, nghèo, thọ, yểu, việc sinh tiền, việc tử hậu rất thần linh rõ năm, ngày,
tháng, giờ, chuyện còn mất, chuyện tử sinh…đều đúng cả” (tr 25). Những đặc điểm này đã tạo nên
tính cách kì lạ của thần tiên, chính điều khác thường ấy đã mang lại cho người đọc một cảm giác bí
ẩn, lạ lẫm và sợ hãi. Thông qua hành động phi thường này, có thể phần nào nhận ra đặc điểm về tư
duy con người trung đại. Con người thời trung đại xem hành động kì vĩ, phi thường là một trong
những yếu tố hàng đầu tạo nên tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Đây cũng là cách để con người trung
đại giải thích những hiện tượng tự nhiên lúc bấy giờ, lúc mà những khoa học khám phá về tự nhiên
chưa hề có. Nguyễn Đăng Na đã nhận định về điều này: “Do chưa giải thích được nhiều hiện tượng
tự nhiên và xã hội đối với con người trung đại. Bên cạnh đời sống hiện thực còn có một đời sống
tâm linh phong phú với các vị thần, với những điều kì lạ siêu nhiên và một quan niệm sâu xa về thế
giới bên kia. Vì vậy việc phản ánh mặt kì lạ đó chẳng phải là cái gì đó xa lạ, phi hiện thực, trái lại
nó càng giúp chúng ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn của con người trung đại” [68,tr737]. Ngoài ra,
với việc miêu tả tư thế, công việc của nhân vật, chúng ta có thể hiểu được đời sống của thần tiên:
“Có hai cụ già đang đánh cờ trên đó. Lại có đứa hầu nhỏ pha trà, trên phiến đá đầy la liệt tê
táo…..Hai cụ già vừa uống rượu vừa đánh cờ. Đến khi ván cờ gần tàn, vẫn ra vẻ không hay biết có
Lộc ở đó” [118,tr 30]. Hình ảnh này cho thấy một trạng thái ung dung, tự do, tự tại của nhân vật
Ngợi ca những tốt đẹp của nhân vật thần tiên, các tác giả không chỉ bàn về hành động kì vĩ, phi
thường của họ, mà còn ngợi ca họ ở khía cạnh nhân phẩm. Nói đến tài năng của loại hình nhân vật
này, đầu tiên phải kể đến đầu tiên tài sáng tác văn chương. Theo quan niệm của Nho gia, tài năng
văn chương là một trong những dấu hiệu bộc lộ khả năng thiên phú của nhân vật. Trần Nho Thìn đã
khẳng định: “Nếu dấu hiệu của hổ báo là các vằn đốm trên bộ lông, dấu hiệu của con phượng là sắc
lông sặc sỡ thì dấu hiệu của một thiên tài chính là văn chương” [112,tr 152]. Trong Hiếu đễ nhị
thần truyện, các thần vừa làm thơ vừa uống rượu, mỗi người ngâm lấy một bài thơ làm riêng cho
mình. Và cách làm thơ ở đây là để bình phẩm những bài thơ khác. Như vậy có thể thấy khả năng
sáng tác, đàm đạo văn chương cũng là tiêu chí để đánh giá tài năng nhân vật theo quan điểm của
người trung đại. Hơn thế nữa, qua thơ văn của một nhân vật, người xưa cho là còn có thể đánh giá
được phẩm chất cũng như năng lực hoạt động chính trị - xã hội của nhân vật đó.
Bên cạnh tài năng văn chương, lòng yêu thương con người là một trong những yếu tố cho thấy
nhân cách cao quý của thần tiên, “Điều này cho thấy sự tương thông giữa trời và người đã làm nảy
mầm cái thiện” [1,tr.44]. Giúp đỡ nho sinh là một hành động hiệp nghĩa dễ thấy ở nhân vật này. Đó
là sự giúp đỡ của thần tiên trong Hoa quốc kì duyên. Chàng Chu Sinh nhờ vào việc là cứ hai ba hôm
lại được đến gặp công chúa Hoa quốc một lần mà không cần ăn gì nhưng vẫn sống được: “Miệng
còn sặc hơi rượu, bụng vẫn còn no. Suốt ba ngày liền Sinh thấy mình vẫn no say như thế”
[117,tr.47]). Cũng có khi vị thần đó tiền thân là con người nhưng sau khi chết Thượng Đế xét thấy
có hiếu thảo nên phong cho làm thần. Những vị thần như thế cũng thường giúp đỡ thư sinh: “Hai
phong thư này em nên giấu kĩ. Đợi đến ba ngày trước khi vào phòng thi, xem chữ ghi ở trên, bắt
cháu học thuộc lòng, và có thể đỗ nhỏ đấy. Luật trời rất nghiêm, nếu để lộ cho người ngoài biết thì
hai bên đều bị tội nặng” [117,tr 94]. Và quan tâm đến những kiếp người ở tầng lớp dưới. Trong
truyện Tiên ăn mày của Vũ Trinh, mượn câu chuyện từ dân gian, nhà văn đã cho thấy người nông
dân hiền lành, chất phác, thương yêu con người đã được thần tiên tặng thưởng xứng đáng. Trong khi
đó những con người lừa dối, tham lam thì cuối cùng phải nhận những hình phạt thích đáng. Từ đó
nhà văn gửi gắm đến người đọc một bài học: ở đời đừng tham lam, độc ác và hãy sống thật với bản
chất của mình. Không chỉ giúp đỡ người học trò, anh nông dân nhân vật thần tiên còn được ngợi ca
ở tinh thần giữ gìn tài sản cho dân. Tác phẩm Thần giữ của của Vũ Trinh là một trong những kiểu
như vậy: “Dưới này chôn cất nhiều vàng bạc. Ta là thần giữ của. Nếu anh không chịu đi ngay thì tai
họa không nhỏ đâu” [118,tr 92]. Như vậy có thể thấy phẩm chất của loại hình nhân vật này bộc lộ
chủ yếu ở khía cạnh tình cảm của họ với nhân dân. Phải chăng điều này cũng giúp lý giải tại sao con
người trung đại thường xuyên nghĩ về một đấng tối cao nào đấy khi họ gặp thất bại hay buồn phiền.
Niềm tin của họ vào một thế lực siêu nhiên cũng giúp họ giữ mình sống trong sạch để không bị thần
linh trách phạt. Qua những tác phẩm truyền kì này có thể phần nào hiểu thêm về đời sống tâm linh
của con người trung đại. Mặt khác nhân vật thần tiên này cũng là mảnh đất lý tưởng để các tác giả
thay lời nhân dân bộc lộ những nguyện vọng, những ước mơ về cuộc sống, điều mà trong thực tại
con người không thể đạt được và phải tự an ủi mình bằng cách tìm đến với thế giới của thần tiên.
Ngoài ra một trong những nội dung khiến cho nhân vật thần tiên trong Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục khác với kiểu thần tiên trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam
chích quái là họ cũng có đời sống tình cảm, tính cách như con người. Vương quốc của thần tiên
tưởng như không có bóng dáng của con người trần tục, thì nay đã thấy thấp thoáng. Nói khác đi thần
tiên đã được trần tục hóa. Họ cũng cần tình yêu, cũng có những khát khao hạnh phúc, tiêu biểu là
Giáng Hương trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên. Khi đã kết nghĩa phu thê với Từ Thức, Giáng
Hương trở nên “màu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa” [23,tr 105]. Hay trong Nhị nữ
thần truyện, hai nhân vật nữ ở đây tuy là thần nhưng vẫn mang những tình cảm, nguyện vọng và
phải đau khổ như con người. Cả hai cùng biết yêu thương, cùng nguyện thủy chung với chồng con,
để rồi cùng khổ đau, buồn bã như người phàm tục. Ngọc Hoàng trước nay vốn được xem là đấng
anh minh, tối cao nhất, tuyệt mỹ nhất và đặc biệt là được “trường sinh bất tử”. Vậy mà Ngọc Hoàng
trong Vũ môn tùng tiếu, Ngọc nữ về tay chân chủ cũng có lúc già nua. Điều này đã khẳng định một
chân lý: bất kể ai dù đó là Ngọc Hoàng cũng không thể thoát khỏi quy luật của tạo hóa: tuổi trẻ qua
đi, già nua và cái chết sẽ đến như một tất yếu. Tệ hơn, Ngọc Hoàng cũng có lúc nhầm lẫn, mê muội
trước những lời khoe khoang của kẻ khác: “nếu ngươi không nói ra, trẫm sẽ bị khoe khoang làm mê
hoặc” [23,tr 8]. Nếu thế giới của nhân vật thần tiên trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là
“vùng đất “tịnh thổ”, “nơi các cám dỗ vật chất, những dục vọng nhất là sắc dục của thế giới phàm
tục bị truy đuổi một cách gắt gao” [112,tr 160] thì nhân vật thần tiên ở đây lại được thể hiện cả ở
những mặt tiêu cực của nó. Sơn thần và Thủy thần trong Ngọc nữ về tay chân chủ đều là những kẻ
tự kiêu, tự đại: “Núi là cao, hơn hết mọi nơi. Phượng lâu trúng tuyển, không ta thì ai? (….)Ở nhà, ta
là chúa của điểu thú, ra ngoài ta là Phò mã của Ngọc Hoàng, tôn quý biết dường nào” hoặc “nước
chảy chỗ trũng, việc thường xưa nay. Bình phong bắn sẻ không ta thì ai. (….)dưới nước thì các loài
thủy tộc là thần thiếp của ta, trên trời ta lại làm chủ nhân của Đế nữ, hiển vinh biết nhường nào”
[117tr 84-85]. Các vị thần trong Nhị nữ thần truyện cũng ganh ghét, gian dối như con người trần
tục: “Bốn tháng trước hai thần núi Trương Sơn và Trĩ Sơn vu cáo tội lỗi cho thân phụ thiếp. Thượng
đế trao bản án cho động Hoa Lư xét xử. Chủ động toàn nghe lời gian dối của hai thần kia” [117,tr
177].
Cách thức trần tục hóa thần tiên đã kéo những hình tượng của tín ngưỡng tôn giáo từ trên “bảo
tọa” xuống với người đời. Đầu tiên các nhà văn khẳng định đấy là thần tiên rồi sau đó mới phú cho
nhân vật này những đặc điểm như con người. Người đọc bắt gặp những nét kì lạ, phi thường cũng
như những hành vi đời thường của nhân vật. Chính cách viết từ hư đến thực, từ thần kì đến phàm
tục sẽ làm cho sức truyền cảm của nhân vật cao hơn. Đồng thời với cách viết này, các nhà văn dễ đi
vào những miền cấm kị của tôn giáo, vùng đất mà trước nay chưa có ai đào xới.
2.1.2.2. Loại hình các nhân vật đạo sĩ:
Bùi Duy Tân đã có nhận xét về văn chương nhà Nho thế kỉ XVI, XVII: “Lực lượng sáng tác thời
kì này chủ yếu là người ẩn sĩ, những người đã rút lui khỏi triều đường, hoặc chưa từng ra làm quan,
sống ẩn dật nơi thôn dã. Họ là những người tuy không còn mong thực hiện lý tưởng tu, tề, trị, bình
của kẻ sĩ nhưng giữ được tấm lòng trong sạch” [130,tr143]. Có thể nói đối với những nhà nho chọn
con đường ẩn dật thì tư tưởng Lão –Trang hấp dẫn hơn tư tưởng Phật giáo. Bởi lẽ Lão Trang khuyến
khích tìm tự do, lạc thú ở thiên nhiên, ở cuộc sống yên bình, vắng bóng lợi danh, tiền tài, quyền lực,
“đã khép áo, lui chân, người ẩn dật trong trạng thái đối diện với chính mình thường xuyên đã lần
lần tiếp nhận ảnh hưởng của Lão Trang, của Thiền” [130,tr144].
Tuy vậy nói về nhân vật đạo sĩ, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục trước hết là ngợi ca tài năng của họ. Khả năng xuất quỷ nhập thần là một trong những
khả năng quan trọng của một đạo sĩ. Bởi từ khả năng này họ mới có thể hành đạo giúp đời. Nếu
nhân vật thần tiên phi thường qua chân dung, hành động thì nhân vật đạo sĩ lại khác người ở tài
năng. Đấy là một đạo nhân xuất hiện chỉ trong chốc lát: “ông mới sực nhớ đến lời đạo nhân, bèn
theo như cách đã dặn mà gọi tên ông ta. Thoắt chốc quả thấy một cỗ xe mây bay đến, đứng dừng lại
ở trên không” [117,tr46]. Không chỉ vậy, đạo sĩ còn có phép thần thông, hô phong hoán vũ. Với khả
năng khác người thường ấy, nhân vật đạo sĩ dễ dàng hơn trong việc diệt trừ yêu ma, bảo vệ dân
lành. Nhân vật trừ ma trong Chuyện cây gạo là một ví dụ điển hình. Sau khi Trình Trung Ngộ vì yêu
ma mà chết đi, chúng cùng nhau trở về “làm yêu làm quái” và “hễ ai động đến cành lá cây gạo thì
dao gẫy, rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được” [117,tr 35]. Năm Canh Ngọ (1330), niên hiệu Khai
Hựu nhà Trần, một đạo sĩ thấy cảnh ấy đã ra tay cứu giúp: “Đạo nhân họp với người làng, lập một
đàn tràng cúng tế, viết ba đạo bùa, một đạo đóng vào cây gạo, một đạo thả chìm xuống sông, còn
một đạo đốt ở giữa giời; đoạn phát to lên rằng: Những tên dâm quỷ càn dỡ đã lâu, nhờ các thần
linh, trừ loài nhơ bẩn, phép không chậm trễ, hỏa tốc phụng hành” [117,tr 36]. Đó còn là khả năng
biết trước được mọi việc và giúp đỡ người nho sĩ để họ tránh được những tai ương, phiền toái: “Ông
làm tể tướng, kể thì không có lỗi lầm gì. Chỉ có rằng tại chức lâu ngày, hay yêu người này ghét
người khác. Nay thì sự thù oán đã sâu cay lắm, hồn oan đã đầy dẫy ở ngoài đường rồi” [117,tr 44].
Đạo sĩ thường là những người có thể hóa thân thành người khác. Đó có thể là người “khăn cũ giầy
rách, ăn mặc lôi thôi đi vào” hay là lão tiều phu đốn củi, người giả dạng đi xem bói. Dù xuất hiện ở
dạng nào họ cũng có thể trừ được yêu ma: “Người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái liền
ngã bổ nhào xuống đất thành ra một đốt xương trắng” [117,tr 125]. Như vậy điều đầu tiên có thể
thấy ở nhân vật này là khả năng diệt trừ yêu ma của họ. Đây là công việc không phải bất cứ ai cũng
có thể làm được.
Không chỉ đề cập đến tài năng của các đạo sĩ, các tác giả còn ngợi ca đức độ của họ. Đó là sự vô
tư, không tính toán lợi lộc với nhân dân: “Người làng đem rất nhiều tiền của để tạ ơn vị đạo nhân
nhưng đạo nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tí gì cả” [1177,tr 37]. Đó cũng là cách hành
xử của vị đạo nhân vì tình nghĩa mà ra lời khuyên ngăn Thiên Tích chứ không vì vàng bạc: “Đạo
nhân nói như vậy đến mấy nghìn lời, đều ngụ cái ý khuyên răn cả. Ông Dương rất vui vẻ nghe theo.
Sáng hôm sau trong lúc lâm biệt, ông đem 10 đĩnh vàng tốt để tiễn chân. Đạo nhân cười mà rằng:
Hà tất như thế để làm gì! Tôi chỉ khuyên ông cố làm điều lành, để tôi khỏi trở lại gặp ông lần nữa,
đó tức là ông đã cho cố nhân nhiều lắm” [117,tr 45]. Là đạo nhân đi đây đi đó trừ yêu ma cứu
người, nhân vật được miêu tả thường không mang màu sắc dục vọng. Họ gắn liền với hình ảnh xuất
hiện trừ bạo xong rồi lại phất áo ra đi, không màng gì đến ơn nghĩa: “Lũ mày đắm đuối, nghiệp
chướng nặng nề, biết thủa nào thôi! Sao không rửa ruột đổi lòng, quay về đường chính. Ta sẽ tâu
lên Thượng Đế, tẩy hết những oan hồn đi cho. Chúng quỷ nghe nói đều sung sướng nhảy nhót rồi
trong chốc lát tan giãn đi cả. Ông Dương khẩn khoản khuyên mời xe tiên giáng xuống để được hỏi
han mọi việc sau, nhưng trong thoắt chốc đã không thấy gì nữa” [117,tr 46]. Họ luôn thiên về đời
sống tinh thần, cốt sống cho tâm hồn mình thanh thản, không thấy xấu hổ với cuộc đời. Họ sống tiêu
dao cùng với thiên nhiên: “Trong am đặt một cái giường mây, trên tường để đàn sáo và chiếc gối
dựa. Hai bên bức vách đông tây đề hai bài ca, một bài “Thích ngủ”, một bài là Thích cờ” [118,tr
134 – 135].
Có thể thấy yếu tố thần kì đã được thể hiện rõ qua hai loại hình nhân vật thần tiên và đạo sĩ. Hai
loại hình nhân vật này phản ánh một thực tế là: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì
kiến văn lục cũng chịu không ít ảnh hưởng của Đạo giáo mà chủ yếu là tư tưởng Lão Trang, mặc dù
cả ba nhà văn này đều là Nho gia. Nhân vật đạo sĩ có thể nói là hình mẩu lý tưởng về một người có
thể trừ yêu, diệt bạo mang lại một cuộc sống yên bình cho nhân dân.
2.1.2.3. Thái độ đối với Đạo giáo của các tác giáo:
“Khi gặp thời thì dựa vào Nho, khi thất thế thì theo Đạo, lúc cùng quẫn thì đi theo Phật. Và
trong mối quan hệ bộc lộ một khía cạnh của cái tôi cá nhân, con người” [103,tr15]. Chính vì vậy ở
thời trung đại có khi Phật giáo là quốc giáo, lại có lúc Nho giáo thịnh hành, lên ngôi và cũng có giai
đoạn Đạo giáo ảnh hưởng nhiều đến văn chương. Điều này được thể hiện khá rõ ở Thánh Tông di
thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Bên cạnh ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, ba
tác phẩm truyền kì trên còn chịu ảnh hưởng không ít của Đạo giáo. Trong đó đề cao tư tưởng phóng
dật của Đạo giáo là một trong những biểu hiện thấy rõ nhất của các tác phẩm. Các tác giả cùng xuất
phát từ quan niệm cuộc đời như phù vân, đời người như bóng câu qua cửa sổ, danh lợi thật mong
manh và dễ vỡ như sương khói nên chủ trương thoát tục. Do vậy thuyết vô hình của triết thuyết Lão
Trang đã bổ sung cho họ một tinh thần phóng túng, tự do, một màu sắc lãng mạn, thi vị. Lãng bạc
phùng tiên có thể xem là minh chúng tiêu biểu cho điều này. Qua tác phẩm, tác giả đã ngợi ca lối
sống nhàn tản, tiêu dao của nhân vật: “Bấy giờ đang mùa hạ tháng năm, hoa sen nở rộ, vừng trăng
soi sáng giữa trời. Ta sai tiểu tốt chèo chiếc thuyền tam bản, trong thuyền đặt một bầu rượu, nhằm
chỗ có nhiều hoa sen nhất mà bơi đến. Khí nóng đã dịu, lòng trần lâng lâng, ta ở trong thuyền
ngâm lên rằng:
Con thuyền vui dạo cảnh ban chiều
Lơ lửng từng không bóng nguyệt treo
Mình ở trên hoa, mình thấy nhẹ.
Một mình hào khí nước trong veo” [117,tr134].
Lê Thánh Tông là một ông vua song ở tác phẩm này vẫn khẳng định rằng ngôi vị cửu ngũ chí
tôn thua xa cuộc sống lạc thú của thần tiên. Một cánh hoa tàn, một nhành hoa mới nở hay âm thanh
du dương của tiếng sáo cũng khiến nhà vua xao xuyến bồi hồi. Lối sống ngao du sơn thủy này được
nhắc đến nhiều trong Truyền kì mạn lục. Có lẽ đến thời của Nguyễn Dữ, Đạo giáo đã có ngôi vị hơn
so với thời Lê Thánh Tông. Đó là lão tiều phu trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na:
“Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu bụi trần không bén tới chân người không
bước tới. Hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu cốt
được no say chứ không lấy một đồng tiền nào” [23,tr 132]. Đạo sĩ thường là những con người đi
đây đi đó, hưởng thụ cuộc sống thiên nhiên với không gian của núi rừng, của đồng quê: “Bèn cởi trả
ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn, nhân làm nhà tại đấy để ở.
Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang theo mấy quyển
thơ của Đào Uyên Minh hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý hửng ngã rượu ra uống” (tr 101). Họ sống ở
đấy và thoát tục không màng đến thế sự. Nhận ra được sự thanh thản trong tâm hồn là đích đến của
cuộc đời, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng đi sâu
ngợi ca cảnh lạc thú của tiên giới. Gắn bó với cuộc sống cảnh bồng lai, kiểu nhân vật này nhận ra
những vẻ đẹp ở nơi tiên cảnh: “Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong
36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với gió
mưa, như các ngọn Bồng Lai, co duỗi theo với sóng giợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam Nhạc là
Ngụy phu nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩ sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên
mới dám làm phiền mời chàng đến đây” [23,tr 103]. Chính vì nhận ra những cảnh lạc thú ở chốn
thần tiên là tuyệt đỉnh, cho nên nhân vật mong muốn học tập cách thức tu tiên để thành tiên hoặc
biết được phép thuật của thần tiên: “rồng hổ quấn vạc, đao khuê vào miệng, giữa ban ngày mọc
cánh bay cao, tuy quên đời tự cao, nhưng đối với thời thì vô dụng. Huống chi lúc bẩm sinh đã có
sẵn thanh cốt, khi thành hình lại giữ trọng linh cơ, tất nhiên ngũ quan không tập thói xa hoa, chín
vạc mới thành công tu luyện. Nhưng đã trót sa xuống giếng trần, pha nhiều niềm tục, cho nên chưa
thể thoát hình biến hóa bay lên ngay giữa ban ngày. Những bậc như thế xưa nay đã hiếm lắm rồi.
Đại để chỉ có những người núi sông chung đúc, hoa cỏ kết tinh, khi đến có nguồn gốc, khi đi có
duyên cớ, chết thì vía để dưới đất, thần lên trân trời” [117,tr 141]. Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ
Trinh cũng đã hơn một lần nói đến cách thức tu tiên: “Ông thường đọc Liệt tiên truyện, trong lòng
hâm mộ các bậc tiên thánh, liền bỏ cả sách vở, chuyên luyện thuật tu tiên. Lâu dần ông học được
phép tiên”[118, tr 34].
Có thể thấy do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng thoát tục của Đạo giáo nên trong cả
ba tập truyện Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục có hình ảnh con
người quay lưng lại với thực tại để tìm kiếm hạnh phúc trong cõi mộng, chốn thần tiên. Chàng Chu
Sinh mục đích đến Hoa quốc là để thực hiện mối duyên với công chúa bướm theo lời hẹn ước của
cha mẹ. Do đó chàng đã lạc vào cõi mộng và những ngày đi lại với thần ấy chàng không ăn gì mà
vẫn có cảm giác no say. Và cuối cùng chàng đã từ bỏ tất cả bổng lộc của triều đình, chức tước, để
trở về hòa nhập với thế giới thần tiên trong cõi mộng. Nơi đó có ngôi vương chủ, có vợ đẹp và đứa
con ngoan đang đợi chàng. Dường như con người ở đây quá khát khao hạnh phúc trong cõi mộng
nên sẵn sàng đánh đổi mọi thứ, kể cả cuộc sống của họ nơi thế giới trần tục này. Muốn lấy vợ,
chàng trai trong Ngư gia chí dị đã đến với cõi lạ bằng thuật rút đường. Từ đó chàng đã cưới được
Ngọa Vân – một người có thân thế rất thần kì. Đó cũng là hình ảnh của anh học trò nghèo trong
Nhất thư thủ thần nữ cố gắng tu luyện để thành tiên. Và để làm được việc này chàng thư sinh phải:
“vào trong nhà, dạy học như cũ, giữ mình chay tịnh để đợi tin tức” [117, tr 179]. Điều này cũng cho
thấy khát khao được sống ở một thế giới lạ khác với thế giới trần tục. Do vậy dù tu tiên có khó khăn,
gian khổ, con người vẫn không ngại vượt qua: “Đến bến thì mây mù dày đặc. Dưới sông biết bao
loài thuồng luồng ba ba rắn rết, kỳ quái không hình dung nổi. Suối rộng đến mấy trượng, bơi
không nổi”[118,tr 36]. Con đường tu luyện thành tiên rất gian khó, nguy hiểm, đòi hỏi bản lĩnh cao
và Phạm Viên luôn kiên trì cố gắng. Có thể thấy hành trình đến với “cõi lạ” của các nhân vật có
những hình thức và mục đích khác nhau. Khát vọng của con người trần tục không chỉ là đạt đến
hạnh phúc trong cõi mộng, mà còn là được kết hôn với thần tiên. Đó là mối duyên giữa cô gái hiếu
thảo với vị thần tiên đội lốt dê trong Chuyện chồng dê. Trong Hoa quốc kì duyên cũng vậy, đấy là
mối tình giữa chàng nho sinh nghèo khó với công chúa Hoa quốc, và cuối cùng chàng đã từ bỏ công
danh ở chốn trần gian để sống với công chúa mãi mãi. Bên cạnh đó còn có thể kể mối tình của Từ
Thức với Giáng Hương. Từ Thức sau khi lạc vào cõi tiên đã kết duyên cùng tiên nữ. Mối tình này
cũng cho thấy một chân lý ở đời: không chỉ con người cần có tình yêu mà ngay cả thần tiên cũng
cảm thấy bất hạnh, khổ đau nếu họ không được sống trong tình yêu.
Thái độ đối với Đạo giáo còn được các tác giả thể hiện qua việc sắp đặt, an bài những cuộc gặp
gỡ, giao du với con người thông qua những giấc mộng kì lạ. Điều này thấy rõ ở Mộng kí, câu
chuyện kể về hai người con gái đến kêu oan với Lê Thánh Tông trong giấc mộng. Đồng thời đây
cũng là cách mà nhà vua gặp gỡ với vị tiên thổi địch. Thái độ tôn trọng Đạo giáo được thể hiện rõ ỡ
chỗ các nhân vật luôn tôn thờ và làm theo những gì mà các vị tiên đã dặn. Sự giúp đỡ của vị đạo
nhân trong Truyền kì mạn lục luôn được mọi người ngưỡng mộ, làm theo.
Từ chỗ xuất hiện của nhân vật Đạo sĩ cùng với những tư tưởng của Đạo giáo, chúng tôi đi đến
một nhận định: triết lý sống phóng khoáng cùng với cái nhìn thoát tục gần gũi với thiên nhiên của
Đạo giáo đã thực sự hấp dẫn các nhà văn. Điều này đã chứng tỏ rằng: những nhà Nho chân chính
cũng ưa chuộng Đạo giáo và thừa nhận những mặt tích cực của nó đối với con người.
2.1.3. Loại hình các nhân vật nhà sư:
Thời trung đại văn học được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với sử và triết, hình thành nên quan
niệm văn sử triết bất phân. Dù vậy văn học là một lĩnh vực ý thức về đời sống con người. Do đó sẽ
sai lầm nếu chúng ta quy con người trong văn học vào các ô có sẵn của triết học. Cho nên văn học
chịu ảnh hưởng sâu sắc của các phái triết học nhưng không đồng nhất với chúng. Con người theo
đạo Nho là con người của đạo đức, chính trị, nghĩa vụ. Còn Đạo Lão chỉ đề cao tính chất tự do, tự
tại của con người. Trong khi đó Phật giáo cho rằng: cuộc đời là bể khổ, con người trầm luân trong
bể khổ đó và dứt được cái khổ tức là giải thoát. Khác với việc miêu tả thần tiên, đạo sĩ, nhân vật nhà
sư thường được các nhà văn đặc tả ở những tật xấu, những hạn chế của họ. Trước khi đi sâu làm rõ
những tiêu cực của Phật giáo đã được các tác giả phê phán, chúng tôi xin trình bày một số quan
niệm của các tác giả về nhà Phật – những quan niệm này đã được thể hiện trong tác phẩm.
Theo quan niệm của nhà Phật thì con người có kiếp trước kiếp sau. Cho nên kiếp sau là kết quả
của kiếp này. Đó chính là hoàn cảnh của chàng dê trong Dương phu truyện. Lời thanh minh của
chàng trai đội lốt dê với người con gái đã thể hiện rất rõ quan niệm luân hồi của nhà Phật: “Ta
không phải ma quỷ, cũng chẳng phải yêu tinh, mà chỉ là một viên quan đánh xe cho Ngọc Hoàng,
không may trượt chân đánh vỡ viên ngọc “sa kim”. Ngọc Hoàng nổi giận đày xuống hạ giới mười
năm. Còn nhớ ta cùng nàng thường gặp nhau ở Hạnh Hoa Viên, vốn có duyên cũ, nên đội lốt dê
trắng theo về, việc gì mà sợ” [117,tr 98 – 99]. Và anh đồ nghèo trong Nhất thư thủ thần nữ : “vốn
kiếp trước đã từng làm chức thị thư cho chủ động Hoa Lư và rất được tin dùng” [117tr 77, 78].
Trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh cũng tương tự,“Thiên Tích trươc vốn là một gã trà đồng của
đức thượng đế” [117,tr 43]. Từ cách nghĩ có kiếp trước kiếp sau nên nhân vật trong Nhớ ba kiếp đã
vô cùng đau khổ khi nhìn thấy kiếp sống trước kia của mình. Chính vì quan niệm có kiếp trước kiếp
sau nên kiếp này tích luỹ được nhiều phúc đức thì kiếp sau sẽ hạnh phúc, sung sướng, ngược lại nếu
kiếp trước gây ra quá nhiều nghiệp chướng thì chắc chắn phải chịu sự đọa đày, đau khổ ở kiếp này.
Đó chính là quan niệm báo ứng của nhà Phật. Quan niệm này đã quá quen thuộc đối với con người
Việt Nam với một triết lý sống bao đời nay cuả dân tộc: “nhân nào quả ấy”. Nguyễn Dữ cũng đã
luận bàn đến thuyết báo ứng của nhà Phật trong Truyền kì mạn lục. Dương Trạm đã khẳng định:
“trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu” hoặc vị đạo sĩ nhận xét: “Báo ứng dù chậm nhưng lớn
lao….Tuy rằng khó biết sâu xa, nhưng thực không sai tơ tóc” [23,tr 117]. Quan niệm này cũng được
nói đến ở nhân vật Lý tướng quân: “Nay tướng quân có dữ mà không có lành, khinh người mà trọng
của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời, tất
bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai vạ” [23,tr 186]. Không những vậy triết lý sống này cũng
được phát biểu trực tiếp, rõ ràng: “Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không sai chút nào”
[23,tr 186]. Kiếp sống này của tướng quân làm quá nhiều điều ác nên sẽ bị trừng trị ở kiếp sau: “Lý
trông xem thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm, hoặc cầm
thừng chảo, hoặc cầm da cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm ở bên vạc dầu, lấm lét
sợ hãi” [23,tr 186]. Hình ảnh cóc và ếch trong Thiềm thừ miêu duệ ký cũng là biểu hiện tiêu biểu
cho quan niệm báo ứng của nhà Phật. Nếu con cóc luôn chăm chỉ làm việc thiện mang lại lợi ích
cho mọi người nên ai cũng thương không nỡ giết, thì ếch lại hiện lên trong sự độc ác, hoang dâm,
bạo ngược nên “người ta ghét ếch lắm, rủ nhau đi bắt, đem về chặt đầu, lột da, dùng các vị cay nấu
thành món ngon” [117,tr16]. Chính vì ở ác nên ếch phải nhận lấy cái chết thảm hại cho mình. Bên
cạnh đó, cha ông ta cũng từng quan niệm ai mà lúc sống luôn làm điều tốt, có nhiều phúc đức thì khi
chết đi sẽ được trời đất ban thưởng xứng đáng, ngay cả việc có thể hồi sinh trở lại: “Nhà ngươi ngày
thường vốn có tiếng là người lương thiện. Thượng đế khen ngợi, ban cho một người con trai tốt và
cho sống lâu thêm hai kỷ nữa. Nên mau về đi mà cố gắng làm điều ân đức, đừng bảo là trên cõi
minh minh không biết gì đến” [23,tr 39]. Điều này cũng nhận được sự đồng tình của tác giả Thánh
Tông di thảo trong Hiếu đễ nhị thần truyện. Sau khi người anh chết đi: “Thượng Đế thương tình anh
trong đời sống thờ cha mẹ không phạm lỗi gì, mà tiền thân lại không có vị lộc, nên phong làm thần
ở Sơn Âm” [117,tr 93]. Không chỉ người anh mà người em cũng thế vì trong sổ Nam Tào đã ghi rõ
người em thờ cha cũng hiếu thuận giống như anh đã làm lúc sinh thời: “nuôi cháu như con, tình hữu
ái như do tấm lòng thành thực nên cũng được phong làm sơn thần Sơn Dương, ngàn thu khói
hương, muôn năm cúng tế” [117,tr 93]. Đây chính là những phần thưởng dành cho những con người
nhân nghĩa, chân chính, thật thà. Một trường hợp khác tương tự cũng được nói đến trong Trần nhân
cư thủy phủ. Sau khi người tôi trung ấy chết đi, “Thượng Đế thương là người trí và trung, cho phục
chức cũ. Đội ơn Ngọc Hoàng phê có một câu rằng: “Biết chân nhân ở Bạch Thủy, đáng khen Mã
Viện trí minh; liều tử chiến ở Thục Đô, lại giữ Nghiêm Nhan cao tiết” [117,tr 117]. Tuy nhiên cũng
cần nói thêm rằng, bản thân nhà văn có khi cũng không tin lắm vào thuyết báo ứng. Nguyễn Dữ cho
rằng: người “có hạnh mà nghèo” còn kẻ “bất nhân mà khá”, lũ “cúi đầu khom cật, dù hèn hạ cũng
cất nhắc lên; đứa hoạt thằng gian, nhờ đút lót mà được thoát khỏi”, hay đoạn “kẻ làm thiện thường
phải chết về đao binh, kẻ làm ác lại được chết trong nhà cửa. Đạo trời để đâu không biết” [23,tr
187].
Nổi bật hơn hết trong các tác phẩm là thái độ phê phán Phật giáo. Điều này có thể giải thích từ
hai nguyên nhân. Một là: bản thân các nhà văn này đều là những nhà Nho, họ nhìn nhà sư với con
mắt đầy thị phi. Hai là: phải chăng bản thân tôn giáo này cũng có thể đã xuất hiện những mầm mống
tiêu cực, do vậy nó trở thành điểm nóng để các nhà văn bàn luận trên trang giấy.
Như đã biết Phật giáo du nhập vào nước ta sớm hơn Lão và Nho. Khi vào Việt Nam, đạo Phật
cũng đã nhanh chóng nhận được những tình cảm của nhân dân. Có lẽ vì tôn chỉ của Phật giáo đặt ra
là: hướng con người đến với cái thiện và điều này đã bắt được mạch nước ngầm của truyền thống
dân tộc Việt Nam. Mặt khác nếu đạo Nho là đạo của những người trí thức – của tầng lớp quan lại và
nho sinh thì đạo Phật lại là đạo của đa số quần chúng nhân dân. Do vậy nó dễ dàng lan tỏa trong
cuộc sống người Việt. Tuy nhiên có một số tín đồ đã đi ngược lại với tiêu chí của nhà Phật để làm
những việc trái với đạo lý làm người ở đời. Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục, đặc biệt là
Truyền kì mạn lục đã cho thấy hình tượng những nhà sư biến chất, đánh mất đi nhân cách tốt đẹp
của đệ tử nhà Phật. Các tác giả đã đi sâu vạch trần những hành động sai trái của bọn đội lốt thầy tu.
Đó là những hành vi tham lam, tị hiềm ganh ghét nhau. Tiêu biểu có thể kể đến Lưỡng Phật đấu
thuyết ký của Lê Thánh Tông. Khi lũ lụt, dân làng khốn đốn, Phật gỗ và Phật đất không chỉ là những
kẻ tham lam bổng lộc mà còn là những kẻ ganh ghét nhau, tranh giành lộc vị: “Ta nghĩ: trước ngươi
đã bị cảnh ngộ nhường ấy, nay còn mặt mũi nào dám ở trên ta mà hưởng lộc ba phẩm nữa” [117,tr
18]. Đó là lời của Phật bằng đất, còn Phật gỗ thì cũng phát khùng lên nói rằng: “Khi ở trên dòng
nước lũ, ta trông về cảnh chùa mà thương thay cho nhà ngươi gặp bước truân chuyên. Nước đến
chân thì chân ngươi nát rữa, nước đến bụng thì bụng ngươi vỡ lở, nước đến lưng thì vai ngươi sụp
đỗ” [117, tr 18, 19]. Ở đây, Thánh Tông đã sử dụng cái hài như một vũ khí lợi hại để phê phán sư
sãi trong chùa. Không những vậy, Phật Thích Ca còn được vẽ chân dung bằng một bút pháp trào
lộng sâu sắc: “tay cầm bầu rượu, dáng say lảo đảo”. Thì ra các vị chí tôn lúc này cũng chỉ là những
người say mê hưởng thụ. Không những vậy, những kẻ đội lốt thầy tu còn là những kẻ vô trách
nhiệm trước cuộc sống của nhân dân: “Lụt thì ta cũng trôi theo nước lũ, khi nước rút, ta lại trở về
ngôi cũ, dẫu bị xiêu giạt giang hồ, nhưng có hại gì đến chân thân của ta” [117,tr 18]. Tiến sâu hơn
một chút vào lãnh địa của nhà Phật, Nguyễn Dữ đã mạnh dạn chỉ ra rằng: nhà chùa lúc này đã chứa
chấp những kẻ gian dâm, du đãng. Còn thầy chùa phần nhiều là những kẻ đầy dục vọng thấp hèn.
Tiêu biểu cho nội dung này là Chuyện nghiệp oan của Đào thị. Tác phẩm đã cho thấy sự vụng trộm,
tư thông giữa nhà sư Vô Kỉ và Hàn Than – cô gái mới xin vào chùa tu. Mang tiếng là nhà sư và ni
cô song trên thực tế họ đã làm hoen ố cửa thiền: “Hàn Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn
chưa trừ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên,mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son tô má phấn. Cõi
dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng nhau tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa,
chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa” [23,tr
80]. Cửa chùa là chốn tôn nghiêm, thanh tịnh nhất trong tất cả mọi nơi nay trở thành nơi diễn ra
những sinh hoạt chốn phòng the. Và nhà sư tưởng chừng như đã rũ bỏ hết mọi dục trần thì lòng vẫn
vương vấn đến hồng nhan, nhi nữ. Có lẽ đây là một trong những truyện có sức tố cáo mạnh mẽ nhất
đối với những người thực thi tôn chỉ của nhà Phật. Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục còn chỉ ra những tầm thường vô dụng của các vị Phật. Đó là những hành vi tranh lộc,
giả dối và bẻm mép. Lời của hai vị Phật bằng gỗ và Phật bằng đất là minh chứng cho điều này: “nay
còn mặt mũi nào dám ở trên ta hưởng lộc ba phẩm nữa” [117.tr 18]. Hoặc trong Chuyện cái chùa
hoang ở Đông Triều, hai tên Hộ pháp than thở: “Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát
thân. Nhưng bày ra mưu này là tự lão Thủy Thần kia. Hắn là chủ mưu mà được khỏi nạn còn chúng
ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm”[117,tr 151]. Thông qua đây, phải chăng
Nguyễn Dữ muốn gửi đến người đọc một bức thông điệp rằng: con người là chúa tể của muôn loài,
tự mỗi người cần có suy nghĩ, lập trường riêng và tự quyết định số phận cho mình. Cho nên con
người là đối tượng duy nhất có thể lập lại công bằng cho xã hội. Lập lên những nhà chùa như thế
này chỉ làm tổn hại đến sức lực và tiền bạc của nhân dân mà thôi. Sự góp mặt của nhà sư cùng với
tiếng nói tố cáo các tác giả Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã cho thấy sự phát triển của
nhận thức thẩm mỹ văn học trong họ. Đó là văn học không chỉ phản ánh những vấn đề lớn lao mang
tính quốc gia, trọng đại mà cũng cần phải đi sâu, khám phá và phản ánh những vấn đề bình thường
trong cuộc sống. “Dưới một tên gọi tầm thường là một tác phẩm vĩ đại” [130,tr86]).
Nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đi từ mảnh đất của Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh sang lãnh
địa của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã không còn nguyên vẹn nữa.
Lúc này nhân vật vừa mang những đặc điểm của thần nhưng đồng thời cũng được phú thêm diện
mạo của con người trần tục. Chính vì vậy nó được xem là thành công bước đầu của Lê Thánh Tông,
Nguyễn Dữ và Vũ Trinh. Các nhà văn đã dần dần bóc những lớp vỏ bề ngoài của thể loại truyền kì,
đưa người đọc dấn sâu hơn vào cung cấm bên trong của văn học. Truyền kì đến giai đoạn này không
đơn giản chỉ kể lại sự tích của các thần mà còn kể những chuyện gần gũi với con người – chuyện
của chính họ. Có lẽ vì thế mà các nhà văn đã để cho hình ảnh của con người lấn sang tẩm cung của
thần tiên. Điều này đã đánh dấu bước chuyển mới của thể loại truyền kì nói riêng và văn học trung
đại nói chung.
2.2. Loại hình các nhân vật bình phàm.
2.2.1. Khái quát chung:
Có thể thống kê số lần xuất hiện của loại hình các nhân vật là con người bình phàm như sau:
stt Tên tác phẩm Quan Nho Phụ Lái
lại sinh nữ buôn
Truyện yêu nữ Châu Mai 01 +
Truyện hai thần nữ 02 +
Duyên lạ ở Hoa Quốc 03 + +
Truyện lạ nhà thuyền chài 04 + +
Truyện chồng dê 05 +
Người trần ở thủy phủ 06 +
Phụ chép 2 07 + +
Truyện tinh chuột 08 + +
Một dòng chữ lấy được gái thần 09 +
Câu chuyện ở đền Hạng Vương 10 +
Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu 11 + + +
Chuyện cây gạo 12 + +
Chuyện gã trà đồng giáng sinh 13 + +
Chuyện kì ngộ ở Trại Tây 14 + +
Chuyện đối tụng ở Long Cung 15 + +
Chuyện nghiệp oan của Đào thị 16 + + +
Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên 17 +
Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào 18 + +
Chuyện yêu quái ở Xương Giang 19 + +
Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na 20 +
Chuyện nàng Túy Tiêu 21 + + +
Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang 22 +
Chuyện người con người NamXương 23 +
Chuyện Lý tướng quân 24 +
Chuyện Lệ Nương 25 + +
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa 26 + +
Dốc đầu sấm 27 +
Nguyễn Quỳnh 28 +
Phạm Viên 29 +
Đẻ lạ 30 +
Sống lại 31 + +
Ca kĩ họ Nguyễn 32 + +
Câu chuyện tình ở Thanh Trì 33 + +
Phu nhân Lan quận công 34 + +
Thượng thư họ Đỗ 35 +
Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu 36 +
Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Hán 37 +
Điềm báo trước 38 +
Ma cổ thụ 39 + +
Liên hồ quận quân 40 + +
Nguyễn Trật 41 +
42 Tháp Báo ân + +
43 Trạng nguyên họ Nguyễn + +
So sánh với bản thống kê của loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo có thể thấy loại hình nhân
vật bình phàm được nhắc đến trong các tác phẩm này có số lượng nhiều hơn và chiếm vị trí quan
trọng. Trong số 84 tác phẩm khảo sát thì có 43 truyện viết về con người bình phàm. Điểu này chứng
minh rằng: các nhà văn đã ngày càng đưa thể loạị truyền kì tới gần hơn với cuộc sống và những con
người bình thường dung dị. Nếu trước đây Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái nhân vật chủ yếu
bước ra từ lịch sử, từ văn học dân gian, thì đến lúc này vị trị trung tâm đã là hình tượng con người
trần tục. Không những vậy, con người ở đây còn được khai thác ở mọi khía cạnh của cuộc sống với
những khát khao rất đỗi bình thường mang tính người. Con người hiện lên trong cách nhìn tổng thể,
họ không chỉ có trách nhiệm với đời mà còn có những khát vọng, khát khao được yêu thương và
được thỏa mãn những nhu cầu về bản năng con người .Vì vậy theo chúng tôi đến giai đoạn của
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục thì mẫu hình nhà nho – người quân tử
đã bắt đầu thay đổi. Lúc bấy giờ nhà nho – kẻ sĩ được đặt trong những hoàn cảnh có vấn đề để từ đó
họ bộc lộ thái độ, tính cách của mình trước thời thế, trước cuộc đời. Bên cạnh hình ảnh kẻ sĩ thì
ngay lúc này người phụ nữ cũng đã xuất hiện đông đảo trong các tác phẩm với cả số lượng và chất
lượng. Điều này cho thấy khi xã hội cần giải quyết vấn đề về số phận con người - những người
dưới đáy của xã hội phong kiến – thì người phụ nữ là đối tượng cần được sự quan tâm hàng đầu.
Với vai trò tiên phong, Lê Thánh Tông và đặc biệt là Nguyễn Dữ, sau đó là Vũ Trinh được xem là
những người khởi xướng, những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng thành công tòa tháp lâu đài
về bóng dáng người phụ nữ trong văn xuôi trung đại. Và theo khảo sát, có thể thấy hình tượng
người phụ nữ xuất hiện nhiều hơn so với nhân vật quan lại và nho sinh. Loại hình nhân vật này
mang hơi thở của cuộc sống và những xô bồ thời trung đại. Họ là những con người bình thường
nhưng rơi vào những nghịch cảnh không bình thường.
2.2.2. Loại hình nhân vật quan lại, nho sinh:
2.2.2.1. Loại hình nhân vật quan lại:
Bàn đến giai cấp thống trị, lịch sử thường xướng tên tầng lớp quan lại bên cạnh những bậc cửu
ngũ chí tôn. Mỗi thời đại, xã hội khác nhau thì thái độ, cách sống của giai cấp thống trị cũng khác
nhau. Và vì thế cách nhìn, quan niệm của tác giả văn học về họ cũng không hoàn toàn trùng khớp.
Cũng viết về quan lại song thái độ của Lê Thánh Tông khác so với thái độ của Nguyễn Dữ, Vũ
Trinh. Bởi lẽ thời đại của Lê Thánh Tông là thời đại thịnh trị, thời kỳ được xem là vàng son của lịch
sử nước nhà. Trong khi đó, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh lại sinh ra trong thời mà chế độ phong kiến rơi
vào khủng hoảng. Từ đó cách nhìn nhân vật quan lại của các tác giả cũng khác nhau.
* Nhân vật quan lại tốt đáng đề cao:
Trong xã hội phong kiến, kẻ sĩ là rường cột của quốc gia. Và trong số đó, quan lại – những kẻ sĩ
thành danh - được xem là có vai trò thiết yếu trong việc xác lập thể chế xã hội. Ở những giai đoạn
đất nước được bình yên thì quan lại được tuyển chọn qua những kỳ thi để khẳng định tài năng thực
thụ của mình. Còn khi chế độ phong kiến suy thoái, chốn quan trường trở nên nhơ bẩn thì việc thi
cử tuyển chọn quan lại biến thành một việc buôn bán đồi bại. Yếu tố quan trọng hàng đầu để hình
thành nên một vị quan liêm khiết chính là đạo đức, mà trước hết là lòng cương trực. Có đức tính
này, người làm quan mới có thể thực hiện được lý tưởng “trí quân trạch dân” của mình.
Con người luôn luôn được đặt trong nhiều mối quan hệ khác nhau: quan hệ với thiên nhiên, quốc
gia, gia đình và với chính bản thân mình. Những vị quan tốt luôn đặt mối quan hệ với quốc gia lên
hàng đầu. Họ thẳng thắn cương trực trong xử lý công việc đồng thời cũng đầy tình cảm với gia đình.
Nhân vật quan lại hiện lên trong Trần nhân cư thủy phủ của Lê Thánh Tông không phải là nhân vật
chính thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Song hình tượng quan lại ở đây cũng mang những phẩm chất
tốt. Đó là vị quan biết nhận xét tài năng văn chương của anh học trò nghèo: “Bài này mỗi chữ mỗi
câu đều dùng điển tích răng, không những tỏ ra học rộng, mà còn tự trong huyết tính toát ra. Lời lời
rìu búa, chữ chữ châm biếm, đáng được thần răng chiều ý” [117,tr 114]. Am hiểu văn chương kim
cổ, quan thừa chỉ Hồ Tôn Thốc cũng là kiểu nhân vật quan lại có tính tình thẳng thắn: “Lẽ trời việc
người, cũng là đầu cuối. Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân
Mảng vì thế mà bỏ mình. Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ giời, vì thế đã đến táng bại vẫn
không tỉnh ngộ. Tôi bữa nay may mắn được nhà vua vời đến tiếp kiến, muốn xin được nói thẳng
không dấu diếm gì, nhà vua nghĩ thế nào?” [117,tr 11]. Qua lời nhận định về vua quan này, có thể
thấy đây là một người chính trực, không sợ cường quyền bạo lực. Trong bi kịch của Nhị Khanh,
thân phụ của Trọng Quỳ cũng được Nguyễn Dữ nhắc đến với đức tính này: “Nay nghiêm đường vì
tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn
hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa” [23,tr 17].
Theo quan niệm của Nho giáo, lý tưởng cao đẹp nhất trong đời người quân tử là: học hành, thi
đỗ ra làm quan và thực hiện chí nguyện “thượng trí quân” “ hạ trạch dân” của mình. Cho nên người
quân tử nói chung không coi hạnh phúc, cuộc sống yên ấm của riêng mình là cứu cánh. Khi đã làm
quan cần có tấm lòng ưu ái với dân, luôn đặt niềm vui của dân lên trước niềm vui của mình. Vì vậy
đối với công việc, nhân vật quan lại tốt đề cao việc xét xử công bằng, rạch ròi. Chuyện gã trà đồng
giáng sinh giới thiệu đến người đọc một nhân vật quan lại như thế. Nhân vật chính trong tác phẩm là
Dương Đức Công làm quan và “xét rõ mọi điều oan khuất, khiến các vụ án đều được rất công bằng.
Vì sự nhân từ phúc hậu, người thời bấy giờ gọi là Đức Công” [23,tr 38]. Mặc dù tác phẩm không đi
sâu làm rõ những chỗ xét xử công bằng như thế nào song qua lời nhận xét này, người đọc phần nào
biết được nhân cách cao đẹp của một vị quan liêm khiết. Tuy nhiên, khảo sát ba tập truyện chúng tôi
nhận thấy bóng dáng của quan lại tốt xuất hiện khá khiêm tốn. Có lẽ với một xã hội đầy nhiễu
nhương như thời Nguyễn Dữ, Vũ Trinh hiếm gặp những vị quan tuyệt vời như vậy. Phải chăng hai
nhà văn đã “đãi cát tìm vàng” để tự an ủi mình, hay đó chỉ là mơ ước của hai ông về một xã hội vua
sáng tôi hiền.
* Nhân vật quan lại xấu đáng phê phán :
Sản phẩm tất yếu của xã hội phong kiến xuống cấp là những quan lại “thối nát” – áp bức dân
lành, hủy hoại gia phong. Do vậy thời Nguyễn Dữ, Vũ Trinh thì số quan lại xấu chiếm phần nhiều
cũng không có gì là lạ. Lúc này, đồng tiền có sức mạnh vạn năng. Nó đã len lỏi vào trong đời sống
của mỗi gia đình. Đồng tiền đã lăn tròn trên mọi nẻo đường của xã hội, ăn sâu vào cách sống của
mỗi người và đã mua đi những phẩm chất tốt đẹp của giới quan lại lúc này. Nó biến chân lý, pháp
luật thành những công cụ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Do đó luật pháp lúc này là luật
pháp của kẻ mạnh, kẻ có tiền. Còn người dân – những người thấp cổ bé họng sẽ không có bất kỳ
một sự công bằng nào và đời sống của họ ngày một khốn khó hơn. Hiểu và thông cảm được với
những thiệt thòi mà nhân dân phải gánh chịu, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã góp vào văn học giai đoạn
này tiếng nói phê phán, tố cáo xã hội. Các tác giả nhìn thấy cảnh “can qua đầy rẫy, dân khổ về lưu
lạc li tán”, mà không thể trực tiếp “vén mây tối cho sáng lại vầng mặt trời.....cho bốn phương được
yên ổn” nên đã gián tiếp thể hiện lòng mình với dân qua việc vẽ lại bức chân dung của giới quan lại
hư hỏng, biến chất
Nói đến thế giới quan lại xấu, các tác giả đề cập đến dạng quan lại lợi dụng cơ hội đục nước béo
cò. Cơ hội đối với mỗi người là vô cùng quan trọng. Khi ai đó nắm bắt kịp thời cơ hội bằng chính
năng lực của mình, họ có thể đạt được những thành công nhất định. Những thành công ấy đáng để
được ngợi ca, bởi nó thanh cao, tốt đẹp. Trong khi đó, bọn quan lại ở đây lại dựa vào cảnh đất nước
lâm nguy để kiếm lợi riêng cho mình. Đó là câu chuyện của Lý Hữu Chi trong tác phẩm Chuyện Lý
Tướng Quân. Nhà văn đã viết về cơ hội ấy: “Người huyện Đông Thành là Lý Hữu Chi cũng do chân
một người làm ruộng nổi lên, tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận. Quốc công Đặng
Tất tiến cử cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương binh đi đánh giặc.” [23,tr
185]. Như vậy Lý Hữu Chi thật sự không tài cán gì, chỉ nhờ vào sức khỏe, giỏi đánh trận mà được
trọng dụng. Mặc dù vậy, Lý Hữu Chi đã lợi dụng cơ hội đó để giết hại người khác, bóc lột tiền của
nhân dân: “Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi
người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn,
dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho ruộng đất, đi kiếm
những hoa đá lạ từ bên huyện khác đem về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em
đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách rất là khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên không
chút động tâm” [23,tr 185]. Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào ca ngợi tình thầy trò cao đẹp,
đồng thời qua đó, “những con sâu bọ ăn lá” ấy cũng hiện lên rõ nét: “ông mỗ ở ngôi trọng thần mà
tham lam không chán, ông mỗ làm chức sử tư mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều
thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân bị tai họa, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị
ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thì môi mép bẻo lẻo, đến lúc
trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm chí đến không
nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng” [23,tr117]. Tác giả đã vạch
trần những xấu xa mà trước hết là bản chất tham lam của quan lại. Nhưng không chỉ tham lam, bọn
họ còn là những kẻ vô trách nhiệm trước xã hội. Bình thường nói những câu đao to búa lớn, ra vẻ
mình là người hiểu biết nhưng khi giang sơn, tổ quốc lâm nguy thì chẳng thấy thể hiện được chút tài
cán gì.
Loại trừ những ai không phe cánh với mình là một đặc điểm nữa của bọn quan lại bấy giờ. Dù
không phải là tư tưởng chính của tác phẩm, song Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu cũng cho
thấy sự xấu xa của quan lại đương thời: “Đình thần ghét Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm
hại, bèn hùa nhau tiến cử”, và “bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi
vào chỗ tử địa” [23,tr17]. Từ chi tiết này, Nguyễn Dữ đã rút tỉa một kinh nghiệm: những kẻ bất tài
thường có tính đố kị và kèn cựa. Do vậy, người bất tài thường không muốn người khác hơn mình,
và trừ khử những ai không cùng phe cánh với mình. Qua những câu chuyện này, người đọc thấy
được tầng lớp thống trị thời Nguyễn Dữ là những kẻ kết bè kéo cánh, tranh giành quyền lợi, bành
trướng thế lực, ra sức bóc lột, hà hiếp nhân dân. Có thể thấy các tác giả truyền kì đã làm thay vai trò
của nhà sử học: vạch trần và phê phán sự lũng đoạn, suy đồi của tầng lớp thống trị đương thời. “Bản
chất xấu xa của bọn quyền thần được phản ánh trong Truyền kì mạn lục như một tình trạng phổ
biến thời bấy giờ” [131,tr.739].
Đi liền với sự bất tài tham lam, độc ác còn là tính cách hoang dâm vô độ của những kẻ quyền
cao chức trọng. Đằng sau dáng vẻ mũ cao áo rộng là bộ mặt thật dâm dục, tham lam, bần tiện. Lý
Hữu Chi mặc dù đã được khuyên can là “đuổi hết hầu thiếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh quyền,
quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được nhưng cũng có thể giảm trong muôn một” nhưng hắn
ta không những không nghe theo mà “ càng làm những sự dâm cuồng, chém giết không kiêng dè gì
nữa” [23,tr.187]. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, tính chất dâm dục của Lý Hữu Chí được khắc họa
rõ nét. Thâm độc, tàn ác không kém là Trụ quốc họ Thân trong Chuyện nàng Túy Tiêu. Túy Tiêu
vốn là vợ của Dư Nhuận Chí – chàng thư sinh nổi tiếng hay thơ. Trong một lần theo chồng vào kinh
khảo thí, Trụ quốc họ Thân đã “Trông thấy Túy Tiêu đẹp, bắt cướp đem về làm của mình”
[23,tr.187]. Để thỏa mãn thói dâm dụcTrụ quốc họ Thân đã đánh mất đi nhân cách của một vị quan,
dùng quyền lực để bắt vợ người và ép người phải làm thê thiếp của mình. Tuy vậy “uy thế rất lớn,
các tòa, các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử” [23,tr. 166]. Thế nên những kẻ
như hắn càng lộng hành hơn nữa, và do đó thâm độc, tàn ác hơn nữa.
Giáo lý phong kiến đã chỉ ra con đường cho kẻ sĩ là “tu tề trị bình”, để cuối cùng thực hiện được
mục đích “thượng trí quân, hạ trạch dân” nhưng Nguyễn Dữ đã phát hiện ra một sự thật: bọn quan
lại trong thời ông, nhiều kẻ không hề có lý tưởng “trí quân trạch dân” mà còn dùng thủ đoạn xấu xa
trèo lên bậc thang danh vọng để “vinh thân phì gia”.
2.2.2.2. Loại hình các nhân vật nho sinh.
Khi tình hình xã hội thay đổi phức tạp, tiếng nói cá nhân con người cần được phát huy thì những
thể loại như thơ, phú ở trong khuôn khổ nhất định đã không thể diễn tả hết những tâm tư ấy. Từ đó
các tác giả đã tìm đến thử nghiệm ở thể loại truyền kì. Ở xã hội phong kiến thì thi cử con đường
được nhiều người phấn đấu và chọn để theo đuổi. Nho sinh là những đối tượng luôn được xã hội
quan tâm và đặt nhiều hy vọng. Bởi lẽ họ sẽ là rường cột, góp phần vào sự hưng thịnh hay thành bại
của đất nước. Vì vậy ở hầu hết ở các thể loại, nhân vật này đều xuất hiện khá dày đặc. Riêng ở
truyện truyền kì, tầng lớp quan lại và những chàng nho sinh được khắc họa khá rõ nét.
*Nhân vật nho sinh tốt.
Nếu như loại hình nhân vật quan lại xuất hiện nhiều ở Truyền kì mạn lục thì loại hình nhân vật
nho sinh lại là đề tài mà cả ba tác giả quan tâm. Hiện lên trong những tác phẩm với nhiều kiểu khác
nhau song loại hình nhân vật này cũng có những điểm gặp gỡ ở cả ba tập truyện. Nhìn chung nho
sinh được các tác giả ngợi ca bởi những điều tốt đẹp mà họ mang đến cho xã hội. Từ những việc
làm tốt đẹp ấy, họ đáng được xã hội trọng dụng, đề cao. Để thấy được những điểm tốt của nho sinh,
các tác giả đã đặt nhân vật trong những hoàn cảnh túng quẫn, hàn vi. Chính niềm tin và nghị lực
trong cuộc sống đã giúp nho sinh chiến thắng khó khăn và khẳng định mình. Mồ côi là một trong
những mô tip thường gặp trong truyện về chàng nho sinh. Có thể là mồ côi cha hoặc mẹ hoặc mồ
côi cả hai và phải gửi thân ở nhà người quen. Đó là số phận của chàng Chu Sinh trong Hoa quốc kì
duyên: “Động Sơn La, tỉnh Hưng Hóa, có chàng Chu Sinh mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc mới lọt lòng.
Chú ruột đem về nuôi nấng” [117,tr 42]. Đấy cũng chính là cảnh ngộ của Tử Khanh: “ở Sơn Bắc có
Nguyễn Tử Khanh, cha mẹ mất sớm chỉ có một người anh” [117,tr 90]. Hoặc hoàn cảnh mồ côi của
chàng nho sinh: “cha mẹ mất sớm, em trai không có, hai mươi bốn tuổi vẫn chưa có vợ. Nhà nghèo
quá, chỉ nhờ bút nghiên mà sống” [117,tr 169]. Như vậy nhà văn đã đặt nhân vật vào những hoàn
cảnh cần được thử thách. Và vượt qua chướng ngại đầu tiên này đã là một thành công bước đầu của
những nho sinh đương thời. Nghèo khổ, đói rét không làm chùn bước chân đến với cửa Khổng sân
Trình của họ. Một trong những yếu tố bên ngoài giúp đỡ con đường hiển danh cho những chàng nho
sinh là người phụ nữ. Đây là điểm mới của thể loại truyền kì khi đặt nhân vật trong một môi trường
tự nhiên, hiện thực. Nó khẳng định một sự thật của cuộc đời: “Hóa ra chẳng phải do mồ mả táng
đắc địa hay do trời đất ưu ái cấp cho tài năng mà chính là nhờ những người phụ nữ tần tảo buôn
bán chu cấp cho họ ăn học mà họ đỗ đạt” [113,tr171]. Cao cả và sâu sắc là sự chăm sóc của cô ca
kĩ họ Nguyễn đối với chàng Khâm Lân – chàng nho sinh tưởng như đến bước đường cùng vì phải:
“vừa đi vừa xin ăn”. Chàng đã được nàng ca kĩ giúp đỡ tiền gạo để có thể tiếp tục con đường công
danh: “Cô lấy ra mười quan tiền, cùng mấy thứ ăn mặc, đem tặng ông, rồi trân trọng từ biệt” [118,tr
62]. Nhưng sự giúp đỡ của cô gái trở nên vô nghĩa khi Khâm Lân nghe lời cha lấy người khác. Dù
vậy nàng ca kĩ vẫn không hề nhận tiền bạc, báu vật của chàng Nho sinh hậu tặng. Thế mới nói tiền
bạc không thể mua được tình cảm con người. Cũng là sự giúp đỡ của phụ nữ với nho sinh song cô
gái trong Tháp báo ân của Vũ Trinh lại thể hiện bằng cách khác. Đó là cô gái không chỉ giúp ông cử
kinh môn trú ngụ qua đêm mà còn giúp chàng thi đỗ: “đây là bài thi của chồng thiếp, xin ông lấy
bài này” [118,tr 143]. Nếu không có sự giúp đỡ của phụ nữ thì bằng con đường đi ở rể, người nho
sinh cũng có cơ hội vượt qua khó khăn tiếp tục chinh phục con đường công danh. Đó là hoàn cảnh
của Thiên Tích trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh: “gia cảnh nghèo nàn, ăn tiêu không đủ. (…..).
Họ hoàng bèn đón Dương sinh đến làm rễ, phàm những phí tổn về lễ lan khách khứa hết thảy đều tự
bỏ ra cả” [23,tr 41]. Hay trong Phu nhân Lan quận công, Vũ Trinh đã cho thấy chàng nho sinh
nghèo đã được sự giúp đỡ của người con gái út của Thượng thư họ Đàm. Hai người “Chàng đọc
sách, vợ dệt vải, đến khuya vẫn chưa nghỉ ”[118,tr 84].
Thông qua hình ảnh nhân vật nho sinh, các tác giả đã đưa người đọc đến một niềm tin: cuộc đời
của mỗi con người đều gặp những khó khăn, gian khổ, chỉ cần ta có đủ kiên nhẫn để chịu đựng và
vượt qua nó ta sẽ là con người thành công.
Viết về tầng lớp trí thức - nho sinh, các tác giả chủ yếu đi sâu vào quá trình hoàn thiện đạo đức
của họ: “khắc kỷ, phục lễ, thành ý, chính tâm” để “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cho nên
đa phần nhân vật nho sinh hiện lên trong tác phẩm đều là những con người thông minh, học vấn
uyên bác, thâm thúy nho nhã. Hơn nữa sự thông minh ấy còn được thể hiện ngay khi nho sinh ấy
còn rất nhỏ. Chân dung Thiên Tích là “thiên tri cao mại, học vấn rộng rãi, phàm sách vở văn
chương cổ kim, không có gì là không thiệp liệp” [117,tr 39]. Đó cũng là sự thông tuệ đỉnh ngộ của
chàng Tử Hư: “Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm
thúc [23,tr 114]. Qua dáng vẻ tuấn tú bên ngoài của chàng, người đọc có thể đoán được sự thông
minh, sáng suốt ẩn bên trong ấy. Và đây cũng là cách giới thiệu thường gặp của truyện truyền kì khi
nói về nhân vật học trò. Sự thông minh sáng dạ ấy được cụ thể hóa bằng hành động. Loại hình nhân
vật này thường được miêu tả là có học vấn rộng rãi, đối ứng nhanh lẹ. Đó là Phạm Viên trong Lan
Trì kiến văn lục của Vũ Trinh: "Viên là con cả của ông. Viên sinh ra tuấn tú thông minh, đọc sách
một lần là thuộc”[118, tr 34]. Hoặc đó là tài năng của Nguyễn Quỳnh: “ông thường đến luyện văn
ở nhà Quốc học, luôn được xếp hạng ưu nên rất tự đắc” [118,tr 31]. Ở Trạng Nguyên họ Nguyễn,
Vũ Trinh lại đưa người đọc đến với niềm vui cưới vợ của chàng Nguyễn Đăng Đạo. Chàng nho sinh
này lấy được cô tiểu thư nhờ vào trí thông minh, đối ứng nhanh lẹ: “Quan hầu liền cho gọi ông vào,
bắt ông làm văn để thử tài. Ông nhận được đề, chẳng cần suy nghĩ, hạ bút viết liền một mạch xong
ngay” [118,tr 148]. Ngay với cha đẻ của các tác phẩm này cũng vậy, Hoàng đế Lê Thánh Tông
không chỉ thông minh, học rộng am hiểu nhiều mà còn biết áp dụng những điều ở cửa Khồng sân
Trình vào việc trị vì đất nước. Nên ông được xem là một nhà vua mẫu mực, triều đại của ông được
đánh giá là triều đại thịnh trị nhất. Còn Nguyễn Dữ theo lời tựa của Hà Thiện Hán thì: thuở nhỏ
chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, muốn lấy văn chương kế nghiệp nhà, từng thi đỗ hương tiến, nhiều
lần thi hội đều đỗ đạt. Hay nhà văn Vũ Trinh, theo phần tiểu sử có thể thấy, ông thông minh từ nhỏ,
đọc sách qua mắt là thuộc lòng, nổi tiếng thần đồng. Từ bóng dáng của mình, các nhà văn đã ít
nhiều đưa chính phần đời đó vào trang sách, mang theo những hoài bão lớn lao. Đây cũng là một
trong những ước muốn mà các tác giả truyền kì gửi gắm vào tầng lớp nho sinh lúc bấy giờ. Họ sẽ là
những người mang đến cho nhân dân những hy vọng mới về tương lai đất nước. Chính vì vậy ở mọi
thời đại đây là tầng lớp luôn luôn được xã hội quan tâm, bồi dưỡng. Họ - chứ không ai khác, sẽ là
đối tượng gieo vào lòng người dân những tia hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp.
Nói về lớp nho sinh, các nhà văn tập trung nói về tài sáng tác văn chương của họ. Khả năng cảm
thụ và sáng tác văn chương cũng là một trong những tiêu chuẩn để nho sinh có thể thành đạt trên
đường công danh. Trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị của Nguyễn Dữ, nhà văn đã kể về một cậu
học trò khoảng “14, 15 tuổi cũng đến hội họp. Khi bàn về văn chương, mặc dù Hàn Than có ý khinh
song cậu học trò vẫn sáng tác một bài văn mà bài văn làm xong, viết lớn rồi dán ở cửa chùa xa gần
đua nhau chép” [23,tr 79]. Điều này cũng cho thấy sức truyền cảm và những tác động mạnh mẽ của
bài văn. Đấy cũng chính là tài năng của Dư Nhuận Chí: “Dư Nhuận Chí tên là Tạo Tân, có tiếng hay
thơ: nhất là về những bài hát, lại càng nức danh ở kinh kỳ, mỗi bài làm ra, phường hát bội đem tiền
tặng rất hậu để xin lấy” [23,tr 153]. Tài năng văn chương còn cho thấy hoài bão, lý tưởng của các
nho sinh lúc này. Đó là lý tưởng chân chính của kẻ sĩ có tấm lòng ưu ái với đời. Không chỉ có khả
năng sáng tác, bình phẩm thơ ca, họ còn có ý thức giữ gìn, lưu truyền thơ ca cho mọi thế hệ về sau.
Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Mao Tử Biên trong đêm
trú nhờ ở “mấy gian nhà tranh ở giữa khoảng cây cối rậm rạp” và “vô tình nghe được cuộc đàm
đạo thơ văn của những người hay thơ. Chàng đã “tìm đến làng sái tiên sinh, dò hỏi di cảo tập thơ
Lã Đường, thấy gián nhấm mọt gặm, tản mác tất cả. Chàng nhân đi khắp xa gần để hỏi han, hết sức
cóp nhặt, dù nửa câu, một chữ cũng không bỏ sót. Cho nên từ khi triều Lê dựng nghiêp thi sĩ có đến
hơn trăm nhà, mà duy tập thơ của ông Sái thịnh hành, đại khái đều do công sức của Mao Tử Biên
cả” [23,tr 221]. Lời nhận xét ở cuối truyện cho thấy ý thức truyền tụng thơ ca, cùng khát vọng
“mang thi thư dạy cho đời sau” của Mao Tử Biên. Từ đó tác giả Nguyễn Dữ cũng thể hiện mong
muốn của ông: hãy giữ gìn và bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc, trong đó có cả những tác phẩm văn
chương.
Tài năng là một yếu tố vốn cần thiết cho nho sinh thực hiện lý tưởng của mình. Nhưng tài năng
thôi vẫn chưa đủ, cần thiết vẫn là đạo đức của nho sinh. Hai yếu tố tài và đức trong quan niệm của
người trung đại cũng đã chi phối đến những mẫu hình lý tưởng người của quân tử Nho giáo. Người
quân tử quan niệm: muốn đất nước được an bình thì gia đình trước hết phải có trật tự. Và khi nói về
gia đình, họ luôn lấy mình làm gương trước thê tử. Hai chữ hiếu thuận luôn được đặt lên hàng đầu
trong quan hệ huyết thống, gia đình. Chàng thư sinh trong Thử tinh truyện thể hiện khá rõ điều này.
Mặc dù mới cưới vợ, vợ chồng“hương lửa đương nồng” nhưng trước lời khuyên đi học của cha, anh
đã nhận lời. Đó cũng là một cách để cha mẹ già được vui lòng. Ngoài ra truyền thống “tôn sư trọng
đạo” cũng tiếp tục được phát huy trong thể loại truyền kì. Chân thành, trọn nghĩa là những biểu hiện
cho thấy tấm lòng của nho sinh với thầy: “khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy Tử
Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về” [23,tr 114]. Nếu như sự hiếu thảo với
cha mẹ, với thầy là nốt nhạc đậm tình người, thì cách sống trọn nghĩa thủy chung với bạn tình lại là
nốt nhạc thấm đẫm những giọt nước mắt. Sống có trước có sau ở đây được hiểu là nhận ơn và biết
trả ơn. Tháp báo ân lại là cách bày tỏ sự tri ân bằng hành động mang tính tinh thần. Biết tin thi đậu,
chàng nho sinh đã tìm đến cô gái giúp mình đỗ đạt. Nhưng khi biết rõ về bệnh tình và cái chết của
cô gái mắc bệnh phong, chàng đã an táng nàng theo đúng nghĩa vợ chồng và xây dựng một ngọn
tháp đặt là Tháp báo ân. Tình nghĩa ấy ở đời mấy ai có được. Bởi tình cảm là một phạm trù thuộc về
tinh thần. Nó không thể lý giải bằng những con số hay bằng lý trí mà bằng những cảm xúc nhất
định. Thông qua những cảm xúc ấy đời sống tâm hồn của các nhân vật nho sinh càng trở nên phong
phú hơn. Tính cách cần cù của người nho sinh cũng được đề cao trong một số truyện. Nghèo khổ
thậm chí mồ côi vẫn không làm nản chí chàng nho sinh Thiên Tích. Chàng vẫn tìm mọi cách để tự
tạo cơ hội được đi học cho mình: "gia cảnh nghèo nàn, ăn tiêu không đủ. Thường tìm những nhà có
con gái xin vào gửi rể, nhưng chẳng nhận ai cả” [23,tr 40]. Chàng nho sinh Tử Hư thì kiên nhẫn
trong dùi mài kinh sử ngay khi đã trải qua nhiều lần thất bại: “năm 40, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ,
đời Trần sang du học ở Kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ Hồ Tây” [23,tr 114]. Chính sự kiên
nhẫn, cần cù đã rút ngắn con đường đạt thành sự nghiệp của nho sinh hơn.
Nhìn chung nhân vật nho sinh là một trong những nhân vật mang ước mơ lớn nhất của nhà văn
về tầng lớp trí thức có đầy đủ năng lực và phẩm chất. Họ sẽ là rường cột của nước nhà, là người
thực hiện những chí nguyện ở cửa Khổng sân Trình và ra làm quan tốt nhằm đem lại đời sống ấm no
cho nhân dân. Những hoàn cảnh khó khăn, những trở ngại bước đầu được xem như là những thử
thách để thử lòng quyết tâm của người nho sinh. Vượt qua được những thử thách đó không chỉ bằng
tài năng mà còn bằng cả đức độ của nhân vật là điểm đáng ca ngợi nhất.
* Nhân vật nho sinh xấu đáng phê phán:
Bên cạnh nhân vật nho sinh tốt thì vẫn còn tồn tại những nho sinh xấu đáng phê phán. Cái xấu ấy
cho thấy bản chất của nho sinh đã có phần thay đổi, đồng thời cho thấy quan niệm của các nhà văn
về Nho học lúc này. Tuy vậy nho sinh đáng phê phán hiện lên ít hơn so với nhân vật nho sinh tốt
đáng ca ngợi.
Với mong muốn Nho giáo ngày càng tốt đẹp hơn trong mắt mọi người, các tác giả đã chỉ ra
những mặt còn hạn chế của nho sinh, để họ nhìn thấy mà tự suy ngẫm khắc phục. Cụ thể là trong
Phụ chép 2, Lê Thánh Tông đã lên tiếng phê phán những anh học trò ham mê nữ sắc đến quên việc
học hành, chỉ biết đắm mình trong nỗi đam mê nhục dục: “người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp
thuê nhà ở để tiện đến nhà thầy nghe giảng” nhưng khi gặp con ma chổi nữ thì “thấy cô gái có sắc
đẹp, cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũi (....) người học trò từ đó học hành chểnh mảng. Ngày
thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ”. Sau hơn một tháng thì “nhan sắc xanh xao, tinh thần
sút kém” vì bị “gái hư làm mê hoặc” [117,tr 152-153]. Kiểu nhân vật nho sinh ham mê sắc đẹp hơn
là việc tu dưỡng ở học đường, chúng ta còn bắt gặp ở Truyền kì mạn lục. Chuyện kì ngộ ở Trại Tây
với anh học trò Hà Nhân lên “bình ngụ ở kinh sư để tòng học cụ Ức Trai (Nguyễn Trãi)”. [23,tr 48].
Nhân vật này được thể hiện khá chân thực: “Sinh tuy mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản,
son phấn tình nồng. Ngày nào mới buổi xuân dương, thoắt đã trời đông tiết lạnh” [23,tr 48]. Mặc dù
lúc ra đi, chí nguyện của chàng cũng rất hào hùng: “Sinh con trai muốn cho có vợ, sinh con gái
muốn cho có chồng, đó cũng vẫn là lòng cha mẹ mà cũng là phúc của gia đình. Song con nghĩ mình
dòng dõi tấn thân, mà sự học hành chưa thành danh gì cả. Nếu nay có vợ, e không khỏi vui bề chăn
gối mà lãng việc sách đèn. Chi bằng việc cưới xin hãy tạm hoãn, đợi khi con đường mây nhẹ gót,
thỏa nguyện bình sinh, bây giờ hãy tính đến tưởng cũng chưa muộn” [23,tr 58]. Không chỉ dễ sa
ngã, mê đắm sắc đẹp, quên học hành tu dưỡng, một số nho sinh còn có thói xấu khác: tự kiêu tự
mãn trong học tập. Vẻ khiêm tốn điềm đạm mất dần mà thay vào đó là thói hợm hĩnh, tính khoe
khoang. Tiêu biểu là Nguyễn Quỳnh trong Lan Trì kiến văn lục: “văn chương nổi tiếng, tính phóng
túng, không chịu gò bó, rất thích khôi hài. Ông thường đến luyện văn ở nhà Quốc học, luôn được
xếp hạng ưu, nên rất tự đắc” [118,tr 31]. Cho đến khi Nguyễn Quỳnh gặp người hơn mình, chàng
mới vỡ lẽ tất cả. Thói hợm hĩnh ấy đã được thầy Dương Trạm nhận xét “thường để đổi họ để đi học,
thay tên để đi thi; hễ trượt thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường; hơi thành danh thì hợm mình
tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngáo, tính tình tráo trở; thấy thầy nghèo thì lảng tránh, gặp
bạn nghèo thì làm ngơ..”
[23,tr 116]. Chính vì sự xuống cấp về nhân cách của giới nho sinh nên khi Dương Trạm chết đi,
tuy có mấy nghìn học trò mà “không một ai đến viếng mộ”[23,tr 116].
Nhìn chung, nhân vật nho sinh xấu không nhiều, mức độ phê phán phán cũng không quá gay gắt
chẳng qua chỉ là vạch ra những hạn chế, thiếu sót mang tính nông nỗi để nho sinh tự nhìn lại mình mà sửa đổi, sống tốt hơn, xứng đáng với những gì mà họ đã học được ở cửa Khổng sân Trình.
2.2.2.3. Thái độ đối với Nho giáo:
Như chúng ta đã biết Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm. Học thuyết này từ
Trung Quốc theo chân của Sĩ Nhiếp du nhập nước ta vào thế kỷ thứ II. Đến thế kỷ XI, nhà Lý mở
Quốc Tử Giám, lập Văn Miếu, tổ chức khoa thi tạo điều kiện cho Nho giáo phát huy thế mạnh. Vào
cuối thế kỷ XIV Việt Nam đã được biết đến với các nhà nho nổi danh: Chu Văn An, Phạm Sư
Mạnh, Trương Hán Siêu,…..Và mặc dù từ thế kỷ XI đến XIV, nhà Lý và nhà Trần đã tiến hành
truyền bá Nho giáo, nhiều khoa thi được mở, nhiều tiến sĩ Bảng nhãn và Trạng nguyên xuất hiện
song Nho giáo vẫn yếu thế hơn so với Phật giáo và Đạo giáo. Nhưng đến thế kỷ XV, đặc biệt là
dưới thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497) Nho giáo đã ngày càng lớn mạnh và trở thành quốc giáo,
chiếm địa vị độc tôn. Từ đây trở đi Nho giáo chi phối sâu sắc đến các vấn đề của đời sống xã hội,
đến văn hóa và đặc biệt là các sáng tác văn chương. Và tất nhiên là Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng không nằm ngoài sự chi phối, ảnh hưởng ấy.
*Ca ngợi những mặt tích cực của Nho giáo:
Chữ nghĩa thánh hiền là một trong những mục tiêu cao quý nhất mà giới trí thức muốn
đạt tới. Cửa Khổng sân Trình là nơi mà người trí thức tìm đến để gửi gắm lý tưởng sống của mình.
Nho giáo đề cao hành động tu thân, mà biểu hiện rõ nhất là việc học. Cho nên các tác giả đã thể hiện
thái độ sùng thượng Nho giáo thông qua quan niệm coi trọng đạo học. Điều này được thấy rõ ở Hiếu
đễ nhị thần truyện: “nhà tuy túng thiếu mà gia đình vẫn hào mực như thường. Ba đời theo nghiệp
học, chưa có thành tựu đỗ đạt gì” [117,tr 90]. Gia tư dầu nghèo khó song việc học luôn luôn được
coi trọng. Đó cũng chính là hoàn cảnh, số phận của Thiên Tích trong Chuyện gã trà đồng giáng
sinh: “khi đã hết tang, Thiên Tích sớm hôm học hành, không hề trễ biếng. Nhưng gia cảnh nghèo
nàn, ăn tiêu không đủ” [23,tr 40]. Đằng sau sự nghèo túng ấy là một ý chí, nghị lực vượt qua số
phận của nho sinh. Việc coi trọng đạo học còn được thể hiện qua lời dạy con của người cha trong
Thử tinh truyện: “Người xưa nói: trẻ chẳng học, già làm gì? – Mày đang tuổi xanh sức khỏe, chính
là thời kỳ tu tiến. Nếu nặng tình chăn gối, uống phí thời giờ,về sau hối lại cũng chẳng kịp nữa. Con
nên đi học xa, một tháng về một lần cũng được” [117,tr 158]. Từ chỗ coi trọng việc học, người quân
tử coi trọng cả con đường thi cử lập công danh. Bởi lẽ danh chính thì ngôn thuận. Tuy nhiên,
khoảng cách từ cửa Khổng sân Trình đến chốn quan trường luôn là một con đường khó khăn, vất vả
đòi hỏi quá trình rèn luyện kiên trì. Với mục đích chân chính là “trí quân trạch dân”, Nho giáo rèn
người quân tử “khắc kỉ phục lễ” để đạt tới sự toàn thiện trong cuộc sống.
Không chỉ coi trọng đạo học, các tác giả còn đề cao những phẩm chất cao quý của nhà nho. Đó
là tinh thần trọng nghĩa, ý thức trách nhiệm với đời và thái độ coi thường danh lợi. Điều này được
thể hiện rải rác ở Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Trong Nhị nữ thần
truyện, Lê Thánh Tông đã khẳng định: “Ta vốn là một nhà nho tài cao học rộng, buồn vì thời loạn
không ra làm quan. Ngày nay thiên tử đã lên ngôi, nhiều người vui vẻ ra phò vua giúp nước, thì ta
lại già rồi. Người xưa có câu: “bóng chiều đẹp vô hạn, chỉ tiếc sắp hoàng hôn” (.....). Vì vậy ta cố
gậy dựng cho lũ hậu tiến, mong để lại chút ơn nhỏ về đời sau. Hiện nay trong số hơn 200 công thần
thì một nửa là học trò của ta” [117,tr 27]. Nhà nho này đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao với
dân với nước. Tuổi già sức yếu không thể trực tiếp phò vua giúp dân, nhà nho thực hiện lý tưởng ấy
bằng cách truyền lại cho đám hậu sinh ngọn lửa nhiệt huyết ấy của mình. Ngoài ra nhà nho chân
chính cũng luôn tâm niệm giữ mình cao khiết, trong sạch, coi thường danh lợi “ta không thể vì số
lương năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi danh” [23,tr.101]. Trong xã hội phong kiến, nhà
nho từ khi đi học đã được rèn dũa đức tính trọng nghĩa khí của Nho giáo và coi thường danh lợi tiền
tài. Vì vậy đến khi họ trưởng thành ra làm quan, tư tưởng này đã bắt rễ sâu sắc trong lòng họ. Bản
chất trọng nghĩa khí còn thể hiện ở chỗ sống trong nghèo khó họ vẫn giữ gìn khí tiết của một nhà
nho. Chàng nho sinh trong truyện Một dòng chữ lấy được gái thần từ chối nhận lễ vật của một cô
gái xinh đẹp đến xin chữ ký: “thôi nghèo khó những bút này thật không đáng có. Nước thơm, giấy
cống, nhà nho nghèo cũng không dùng đến. Vàng bạc vẫn là quý nhưng ăn mặc đã có tiền học. Nay
đã tặng thêm chẳng hóa ra vô tội mà thành có tội ư? Tôi nhất định không dám nhận” [117,tr 170].
Anh đồ nghèo sống thanh bần, đạm bạc thật song không vì vậy mà tỏ ra tham lam, vụ lợi. Có thể
khẳng định khí tiết trong sạch, tính tình thẳng thắn là những điểm đáng ngợi ca ở những chàng nho
sinh nghèo.
Trong cuộc sống, nhà nho luôn luôn đặt mình vào trong ba mối quan hệ: với vua, với gia đình và
với bản thân. Trong đó chữ “trung” là cách thể hiện mối quan hệ giữa vua và bề tôi. Đây là mối
quan hệ quan trọng nhất, có tính chất quyết định hai mối quan hệ còn lại. “Trung” theo quan niệm
của Nho giáo là “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Đó
là một quan niệm còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Do vậy trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục và Lan Trì kiến văn lục – chữ “trung” đôi khi được xử lý linh hoạt hơn, hợp với đạo lý ở đời
hơn. Nhất là đối với tác phẩm Thánh Tông di thảo, chữ “trung” được nhà vua quan niệm khá cởi
mở. Điều này cho thấy tư tưởng tiến bộ của Lê Thánh Tông. Đặc biệt trong Trần nhân cư thủy phủ,
tác giả đã ngợi ca lòng tận trung của kẻ bề tôi. Một trong những điều cần thấy ở đây là người quân
tử để bảo toàn danh tiết ngay cả cái chết cũng có thể làm: “Ta vì dòng dõi thanh bạch, gặp buổi
trong nước vô chủ, sưu dịch nặng nề, không lấy gì thờ phụng cha mẹ, nuôi nấng con được. Bất đắc
dĩ, bất đắc dĩ lắm, mới coi rẽ thân mình, đi theo vương Đô Hộ (tức Vương Thông) (......). Khi vua Lê
khởi nghĩa Lam Sơn, thường sai người dụ ta trở về giúp nước nhà, phong cho tước vương. Ta khóc
tiễn sứ giả mà nói rằng: Chúa động Lam Sơn nhân ái anh minh, thật là đấng chân chúa. Nhưng tôi
đã trót nhẹ dạ đi theo Vương Thông, nghĩa quân sư không nên bội bạc. Nếu tham phú quý mà chịu
tiếng bất trung, hàng bầy tôi như thế ai cũng phải ghét. Muốn lấy thành mà gần kẻ gian, những bậc
đại phu thuở trước còn cho là không nên, huống chi là bậc thánh thiên tử. Tôi xin cam chịu vạn tội
chết. [117,tr 116-117]. Mặc dù đây là lòng trung của một người làm tướng cho Vương Thông, kẻ
thù của dân tộc, song tấm lòng ấy đã khiến vua Lê Lợi và Ngọc Hoàng Thượng Đế phải cảm động
và khâm phục. Tuy vậy đối với bản thân kẻ bề tôi ấy luôn luôn cảm thấy mặc cảm về tội lỗi của
mình, chỉ dám dặn cháu vài chục “năm sau hãy lập cho ngôi miếu nhỏ với thanh minh:
Việc trước không bàn, tâm địa sạch trong như nước lã
Hối sau sao kịp, phận tôi ngay thẳng có trời cao”. [117,tr 122].
Nội dung này xuất hiện ít, chỉ có trong Thánh Tông di thảo nhưng cũng cho thấy vai trò của nó
trong việc thể hiện cách nhìn của nhà văn về một số quy định của lễ giáo phong kiến dù rằng những
lễ giáo đó đã bộc lộ những mặt hạn chế của nó.
*Phê phán những mặt còn hạn chế của Nho giáo: tính chất vô dụng, viễn vông của những
giáo điều trong kinh điển Nho giáo.
Nội dung này có thể thấy rõ trong Thánh Tông di thảo, còn hai tập truyện còn lại thì không thấy
xuất hiện, có chăng chỉ là thái độ phê phán nhẹ nhàng với nho sinh xấu mà thôi. Có lẽ thời Lê Thánh
Tông khi Nho giáo trở thành quốc giáo cũng là lúc nó bộc lộ những hạn chế nhất định. Cho nên ở
đây nhà văn đã có thái độ phê phán một cách tinh tế, hóm hỉnh đối với ,tính chất vô dụng viễn vông
của những giáo điều trong kinh điển của Nho giáo. Tác phẩm Ngư gia chí dị kể rằng: có một ông
chài muốn cho con trai là Thúc Ngư bỏ nghiệp nhà để đi học đạo Nho nên đã hết lời khuyên nhủ
con nhưng hiệu quả lại trái ngược:
“Thúc Ngư hỏi cha: - Đi học là thế nào?
Cha nói: - Những lời nói và việc làm của thánh hiền đời xưa chép ở trong sách, có học mới biết
mà bắt chước.
Thúc Ngư lại hỏi: - Trong sách có cá không?
Cha rằng: - Không.
Thúc Ngư lại hỏi: - Lấy lời nói và việc làm của thánh hiền mà đánh cá có được không?
Cha nói: - Lời nói chỉ là văn không, cá là vật thật, làm thế nào mà đánh được. Mày nói sao ngu
thế?
Thúc Ngư nói: - Trong sách đã không có cá, lời nói lại không thể đem đánh được cá, còn học
làm gì?’...[117,tr 69]. Những câu hỏi dường như ngớ ngẩn cũng như lời kết luận có vẻ như thiển
cận và thực dụng của Thúc Ngư đã thay tác giả châm biếm một cách sâu sắc lối học sách vở, từ,
chương, phi thực tế lúc bấy giờ. Nho học thế kỷ XV theo phái Tống nho, nặng về từ chương, sách
vở, câu nệ, gò bó tính sáng tạo và tư tưởng của người học, do đó không thể gắn bó với thực tiễn cao.
Phải chăng mong muốn của Lê Thánh Tông khi chú trọng phát triển giáo dục là có được những con
người, những nhân tài biết đem tri thức từ sách vở vận dụng một cách thiết thực, sáng tạo vào công
cuộc xây dựng xã hội giàu mạnh, chế độ phong kiến thịnh trị, do đó tuy có tôn sùng Nho giáo nhưng
nhà vua cũng có cái nhìn tiến bộ đối với một lối học sáng tạo, gắn bó giữa lý thuyết và thực tế.
Như đã trình bày ở trên, nhân vật quan lại và nho sinh là hai kiểu nhân vật mang lý tưởng của
các nhà văn về kẻ sĩ. Có thể ở mỗi giai đoạn khác nhau cách đánh giá của các tác giả về người quân
tử cũng không giống nhau. Song điểm chung ở các nhà văn là họ đều đặt niềm tin vào kẻ sĩ với hy
vọng họ sẽ sống tốt hơn và cống hiến nhiều hơn cho xã hội.
2.2.3. Loại hình các nhân vật phụ nữ:
Người phụ nữ bao đời nay vẫn là đối tượng chịu nhiều hy sinh mất mát hơn cả, nhưng lại có vai
trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại. Vậy mà đã có một thời trong quá khứ, thân phận
của người phụ nữ Việt Nam không hề được xem trọng. Có lẽ vì thế mà viết về người phụ nữ là một
trong những đề tài được các tác giả trung đại quan tâm, thể hiện. Đặc biệt ở thể loại truyền kì, bàn
về giới nữ không chỉ là những nhà văn xuất thân bình thường, mà họ lại bước ra từ tầng lớp quan
lại, thậm chí cả vua chúa. Từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục người
phụ nữ luôn được ưu ái nhất. Bàn về họ, các tác giả này tập trung thể hiện những phẩm chất, tài
năng và khát vọng hạnh phúc cũng như bi kịch của họ. Đây cũng là một nội dung mới của thể loại
truyền kì nói riêng và văn học trung đại nói chung. Trong Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh vấn
đề này chưa hề được đề cập đến. Với các tác phẩm truyền kì, nhân vật người phụ nữ đã mang theo
những quan niệm nhân sinh mới mẻ. Các tác giả đã góp vào trào lưu nhân đạo chủ nghĩa những
khuôn mặt mới với những đứa con tinh thần mang đặc trưng riêng của thể loại.
2.2.3.1. Thủy chung yêu thương chồng con :
Từ ngày xưa, hình tượng người phụ nữ Việt Nam được tạc nên bởi những đức tính tốt đẹp mà họ
dành cho gia đình của mình. Nay những phẩm chất đẹp đẽ, quý báu ấy lại được thể hiện sâu sắc
trong truyện truyền kì. Viết về họ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã đi sâu vào khía cạnh
lòng chung thủy, tình yêu thương cho chồng con của họ.
*Chờ đợi chồng dù trong mọi hoàn cảnh :
Lòng chung thủy với chồng thường được biểu hiện thông qua sự chờ đợi. Người vợ Sơn thần
Đông Ngu trong Nhị nữ thần truyện tựa cửa chờ chồng đã bao mùa mà tin tức về chồng thì bặt vô
âm tín. Vắng chồng, ở nhà người vợ ấy một mình thay chồng cáng đáng “giang sơn này, thần dân
này”. Và ngày qua ngày mòn mỏi đợi chồng: “Thiếp hằng ở trong thạch động, bấm đốt tay, đến nay
đã hơn hai mươi bốn năm. Lòng những e chồng mắc mối phú quý ở trần gian mà quên lời ước cũ,
thiếp mới mượn cớ bói toán, ca hát tìm khắp nơi nơi, may ra phu quân thiếp nghe thấy tiếng ca mà
động lòng chăng”[117,tr. 29- 30]. Trong Hoa quốc kì duyên là tấm chân tình mà Mộng Trang gửi
trọn cho chồng trong buổi chia li khi Hoa quốc gặp biến loạn: “Thiếp lo chàng cô đơn, lạnh lẽo
(…..)…Đêm qua nghe quốc mẫu hạ lệnh khởi hành. Thiếp trằn trọc thâu canh. Của riêng thiếp có
một lá ngọc mềm, thiếp đã để một bài thơ tỏ ý. Giờ xin tặng lại lang quân. Lang quân đeo luôn
trong mình thì cũng như thiếp ở luôn bên cạnh (….)Rồi ta lại đoàn viên, cũng chẳng lấy gì làm
muộn. Thiếp nay hiếu nghĩa hai bề khó vẹn, theo chồng không được mà để chồng theo lại không
nên. Chỉ mong lang quân muôn nghìn trân trọng, giữ lấy sức khỏe, ngủ sớm lúc đêm mưa, dậy muộn
khi trời gió. Ngày vui sau sẽ còn dài” [117,tr 51- 52]. Đó là tấm lòng thương yêu, chung thủy với
chồng của nàng công chúa bướm, khiến người đọc không thể dừng lại dòng cảm xúc đang dâng
trào. Thật không sai, khi ai đó nói rằng: Lê Thánh Tông là ông vua đầu tiên đối xử chân thành với
giới nữ nhất. Có chân thành nhà vua mới thấy được những phẩm chất cao đẹp ấy của họ. Nếu Lê
Thánh Tông là nhà văn châm ngòi cho việc thể hiện lòng ngợi ca phụ nữ thì Nguyễn Dữ lại là người
phóng con tàu ấy vào quỹ đạo của văn học. Bởi lẽ, ở mức độ nào đó, nhân vật nữ của Lê Thánh
Tông còn trộn lẫn với chất thần. Trong khi đó, chân dung người phụ nữ được đề cập đến trong
Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ lại hoàn toàn là người phàm tục. Tiếp xúc với Truyền kì mạn lục,
người đọc không khỏi xót thương cho Từ Nhị Khanh trong Người nghĩa phụ ở Khoái Châu. Nhị
Khanh không chỉ là người phụ nữ “quốc sắc thiên hương”, mà ở nàng còn hội tụ đầy đủ những
phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ. Đặc biệt là tấm lòng thủy chung chờ chồng. Sáu năm
không phải là khoảng thời gian lí tưởng để ngợi ca một nữ thần song nó lại đủ để đánh giá tấm lòng
con người trần tục. Nhất là sáu năm ấy, Nhị Khanh phải một mình đương đầu với biết bao khó khăn.
Đặc biệt là khi bà cô Lưu thị ép nàng lấy tướng quân họ Bạch. Và cuối cùng nàng đã bộc bạch với
người bõ già rằng: “Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ phu lang hãy còn; nếu chàng không còn
thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác”
[23,tr19]. Đó không chỉ là tình cảm đơn thuần mà còn là lòng thủy chung son sắt mà Nhị Khanh
dành cho chồng. Khác với vẻ bề ngoài xinh đẹp của Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết lại hiện lên với một
dáng vẻ bình thường, không lộng lẫy kiêu sa. Nhưng Vũ Thị Thiết lại có tình cảm chân thành, tha
thiết với chồng với con. Trong khoảng thời gian chồng vắng nhà, cô đã thay chồng chăm sóc mẹ già
và con thơ. Hình ảnh “Chiếc bóng” trên tường nói lên tình cảm của nàng đối với Trương Sinh. Yêu
chồng nàng mới thay chồng lo cho mẹ già và đứa con thơ dại chưa biết mặt bố thật chu toàn, trọn
vẹn. Chính vì vậy mà người đời thán phục và ca ngợi họ.
*Chồng chết ở vậy thờ chồng hoặc chết theo chồng:
Hơn thế nữa, người phụ nữ trong Thánh Tông di thảo còn sống đúng mực theo những
quy định luân thường của Nho giáo. Trong trường hợp Dương phu truyện, cô gái hiện lên không chỉ
là một người con hiếu thảo mà còn là một người vợ chung tình. Duy có điều ở tác phẩm này, Lê
Thánh Tông đã đẩy tư tưởng Nho giáo của mình lên mức cao: cô gái đã chết để được lên thiên
đường gặp người yêu: “thiếp nghe chàng nói tiền duyên nên cam chịu tiếng bất chính. Đến nay ba
năm rồi, thiếp vẫn một lòng một dạ mong được ở với nhau trăm năm, trên báo ơn sinh dục, giữa kết
nghĩa gối chăn. Nếu chàng bỏ thiếp mà đi, thiếp tái giá thì mang điều thất tiết, ở vậy thì khó giữ
được mình. Đã không giữ trọn đời thì thà đem hồn đi cùng chàng” [117,tr. 101]. Việc lấy chồng dê
đã là một điều kì lạ, càng kì lạ hơn là cô gái ấy sẵn sàng từ bỏ tất cả để bay về trời với chồng. Điều
này cho thấy quan niệm của tác giả về phụ nữ. Người phụ nữ có nhiều cách để thể hiện lòng chung
thủy với chồng, trong đó có cả việc chọn lấy cái chết, từ bỏ chốn trấn gian để theo chồng. Nhờ đôi
cánh truyền kì, Lê Thánh Tông đã góp phần thể hiện tư tưởng của mình thông qua nhân vật. Cùng
quan niệm với Lê Thánh Tông, Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục cũng cho thấy tâm huyết của
ông đối với phụ nữ. Nhà văn đã tập trung những trang viết của mình vào việc đề cao những đức
tính: công, dung, ngôn, hạnh của nhân vật nữ. Xúc động, xót thương, cảm phục là tất cả những tình
cảm mà người đọc dành cho nhân vật trong Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu. Chồng mất năm bà
hai mươi tuổi, bà tự tử theo chồng – theo quan niệm của Nho gia. Và ngợi ca về bà, nhà văn đã có
một đoạn viết đầy triết lý: “Có ba loại người bất tử. Đó là trung thần, là hiếu tử, là liệt phụ. Những
người đọc sách, hiểu biết đạo lý thì có thể làm được trung thần, hiếu tử nhưng trong vạn người cũng
chỉ thấy được một người thôi. Còn như thân chết theo chồng, coi thường sống chết, cao cả lẫm liệt,
được muôn ngàn đời khâm phục ngưỡng mộ thì ra sao ”.[118, tr. 96]. Tuy nhiên nội dung này đã
cho thấy sự mâu thuẫn trong tư tưởng của các nhà văn. Họ vừa ngợi ca sự tự do trong tình yêu
nhưng lại cổ vũ cho những người sống theo “tam tòng”. Có thể trong con người - nhà nho của họ,
lễ giáo phong kiến đã trở thành cố hữu nên đã ít nhiều chi phối đến quá trình sáng tác.
*Luôn có ý thức giữ gìn phẩm tiết:
Phẩm tiết là yếu tố quan trọng trong cách nhìn của người xưa đối với phụ nữ. Người phụ nữ một
khi đã bị thất tiết thì tức là phẩm hạnh cũng bị hoen ố. Việc giữ tiết trọn vẹn nói lên nhân cách của
người phụ nữ. Trong Thử tinh truyện, người chồng đi học xa, ở nhà có con chuột thành tinh hóa
“chàng từ xa trở về chưa vào chào thầy mẹ, đã vội đế khuê phòng. Sáng mai thầy mẹ biết chuyện,
thành chồng. Con chuột ấy trèo ngay vào buồng vợ. Người vợ tưởng đấy là chồng mình nên đã trách
chả hóa ra chàng là người coi tình yêu hơn đạo hiếu, không phải kẻ học thức, mà thiếp cũng mang
tiếng là người chỉ biết ham vui” [117,tr. 158]. Đó là lời khuyên, lời tâm sự thật lòng của người vợ
biết nghĩ cho chồng. Qua đó cũng thấy được việc giữ gìn phẩm hạnh trong đạo làm vợ, làm dâu của
người phụ nữ thời phong kiến. Giữ gìn chữ trinh với chồng là một biểu hiện quan trọng của phẩm
tiết. Điều này được thể hiện rõ ở nhân vật Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu.
Vợ chồng ly tán, Nhị Khanh kiên quyết giữ lòng trinh tiết với chồng. Dù bị bà cô ép lấy người khác
song cô cự tuyệt và tìm cách để được gặp lại chồng. Cũng như Nhị Khanh, Lệ Nương vì những
xung đột nội chiến và nạn ngoại xâm mà phải chịu cảnh chia ly với chồng. Hết bị triều đình bắt
giam lại bị rơi vào tay giặc ngoại bang, dù vậy, Lệ Nương vẫn là người vợ tuyệt vời. Cuối cùng để
bảo toàn danh tiết với chồng, nàng đã chọn giải pháp là “thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê
hương còn hơn là sang làm những cái vô hồn bên xứ bắc” [23,tr 204]. Trong đức hạnh của người
phụ nữ theo quan niệm của Nho giáo thì chữ trinh luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Là người luôn
có thái độ xem trọng phụ nữ, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ, nhất là chữ trinh, Vũ Trinh
đã thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tác phẩm của mình. Điền hình là Cô ca kĩ họ Nguyễn.
Cô gái ấy đã yêu chàng nho sinh bằng tình yêu cao thượng, sẵn sàng hy sinh vì người mình yêu. Câu
chuyện có thể khiến người đọc vứt bỏ hoàn toàn tư tưởng xem thường con hát của xã hội phong
kiến để thay vào đó bằng lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với cô gái. Nhưng không vì yêu say đắm mà
dễ dàng hiến tặng, cô đã nghiêm nghị nói với Vũ Khâm Lân khi chàng có ý lả lơi : “Nếu thiếp dâm
đãng thì thiên hạ thiếu gì bọn đàn ông? Thiếp tự biết mình là phận con hát, sợ lấy người chẳng
xứng đôi, nên cố tìm tòi trong chốn trần ai. Nếu may mà ngày sau chàng không nỡ phụ thì được
trọn đời nương tựa”[118,tr 62]. Bên cạnh những suy nghĩ táo bạo trong hôn nhân, các tác giả cũng
hết sức coi trọng chữ trinh nơi người phụ nữ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để xã hội
phong kiến đánh giá nhân cách giới nữ.
Có thể nói: lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ được đưa và văn
học với một cảm hứng ngợi ca, trân trọng. Nếu tập quán phong kiến luôn quan niệm “nhất nam viết
hữu thập nữ viết vô ”thì đây Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã làm một cuộc cách mạng
ngược lại để tôn vinh người phụ nữ. Và lòng thủy chung với chồng là điểm đáng quý ở họ.
* Yêu thương con vô bờ bến
Bên cạnh nét đẹp tâm hồn về sự thủy chung, trinh tiết mà người phụ nữ dành cho chồng, vượt
lên tất cả là tình cảm mẹ dành cho con. Lòng mẹ thương con đã được văn học dân gian ngợi ca,
truyền tụng bao đời. Dòng nước mát lành ấy đến thể loại truyền kì lại càng ngọt ngào thắm thiết hơn
nữa. Đọc Nhị nữ thần truyện, người đọc khó có thể quên hình ảnh người mẹ già 36 năm trời tựa cửa
chờ con trai đi báo thù cho cha. Chờ đợi mỏi mòn, không nơi nương tựa cuối cùng người mẹ ấy
đành giả tiếng đi bói toán để tìm con. Khi hay tin con đã chết, người mẹ : “không hát cũng không
xem bói, đoán số, mà nét mặt buồn rười rượi”. Lòng mẹ thương con nhớ con vô bờ và việc ra đi tìm
con là kết tụ tất cả tinh thương ấy. Chính con tim đã thôi thúc mẹ hành động.
Đó còn là sự hy sinh tuổi xuân son trẻ để phụng dưỡng mẹ chồng và “vắng chàng thiếp là phụ
thân”để nuôi dạy con thơ. Ở Vũ Thị Thiết đã hội tụ bốn kiểu người: người con, người mẹ, người vợ,
và còn là người cha. Dỗ dành khi con khóc, Vũ Thị Thiết đã chỉ bóng mình trên tường và nói với
con đó là cha. Niềm vui, hạnh phúc khi con được gặp bố cũng chính là tai họa vô hình đối với nàng.
Những ghen tuông, những lời nhục mạ của chồng với Vũ Thị Thiết đều xuất phát từ nguyên nhân
chính là chiếc bóng. Phải chăng đôi khi tình yêu thương, sự hy sinh của con người cũng có thể được
đền đáp bằng tai họa, thậm chí bằng chính cái chết. Tình mẹ dành cho con không chỉ là sự trải lòng
khi mẹ đang có mặt trên thế gian mà ngay cả khi mẹ không còn, tình yêu ấy vẫn theo con trên mọi
nẻo đường. Tác phẩm Đẻ lạ của Vũ Trinh không đơn giản là chỉ kể lại nhằm gây tò mò mà hơn hết
nhằm bộc lộ niềm cảm phục trước tấm lòng người mẹ: “Trong thôn có một bà già biết người phụ nữ
này từ trước, mở quán trà gần chỗ một chị ta. Mấy ngày sau khi người phụ nữ chết, bà thấy chị ta
đem tiền đến mua bánh kẹo rồi đi. Bà già thấy chị ta đi tới ngôi mộ thì mất. Cứ thế đến gần mười
hôm, bà chủ quán hỏi chị ta mua bánh làm gì thì chị ta nói : cháu mới nở không có sữa, nó khóc
quá không chịu được, mua quà bánh về cho nó ă ”[118,tr 45]. Nhờ vậy mà đứa con sau đó được cứu
sống. Thế mới thấy, lòng mẹ thương con vượt qua cả sóng gió, khổ đau và chiến thắng cả tử thần.
Tất nhiên ở đây Vũ Trinh đã dùng phương thức truyền kì để thể hiện tư tưởng ấy. Nhà văn này đã
vượt qua việc nhìn thấy chép lại để thể hiện lòng ngưỡng mộ dành cho giới nữ.
2.2.3.2. Hiếu thuận và giàu đức hy sinh :
Như một đức tính tốt đẹp vốn có của người phụ nữ Việt Nam, lòng hiếu thảo và đức hy sinh đã
trở thành một vấn đề được nhắc đến nhiều trong truyện truyền kì. Họ thật sự đã tuyệt vời trong tư
cách người vợ, người mẹ. Và đáng khâm phục hơn nữa là cách hành xử của họ trong vai trò một
người con. Chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo cha mẹ, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì cha mẹ là những
đặc điểm về nhân cách của người phụ nữ và nó trở thành cảm hứng ngợi ca của Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.
*Hiếu thảo với cha mẹ ruột :
Bàn về nội dung này trước tiên các tác giả ca ngợi lòng hiếu thảo của con gái đối với chính cha
mẹ của mình. Đó là những biểu hiện của cô gái trong Dương phu truyện. Cha mất, tất cả tình cảm cô
dành cho mẹ. Điều này càng được thể hiện rõ hơn khi người mẹ qua đời, cô đã làm tròn bổn phận
một người con: “Thường mỗi ngày hai buổi cúng cơm, khóc lóc thảm thiết. Tuần trăm ngày cũng
thế, ngày giỗ đầu và ngày giỗ hết tang cũng gào khóc như thế. Tiếng khan người gầy ai nghe tiếng
hoặc trông thấy đều khen là có hiếu ”[117,tr. 97]. Đó cũng là lòng hiếu thảo của Nhị Khanh với cha
mẹ ruột. Sau khi cha mẹ qua đời, thân gái một mình nhưng vẫn đưa song thân về quê an táng theo
đúng nghi lễ. Tuy vậy viết về lòng hiếu thảo của con đối với cha mẹ ruột chỉ dừng lại ở mức độ, các
tác giả chủ yếu đi vào ngợi ca đức hy sinh của những nàng dâu với bố mẹ chồng.
*Chăm sóc, phụng dưỡngcha mẹ chồng và sẵn sàng hy sinh vì gia đình chồng :
Nhà thơ hiện đại Xuân Quỳnh bày tỏ lòng mình với mẹ chồng bằng hình ảnh :
Mẹ nào mẹ của riêng anh
Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi
Mẹ tuy không đẻ không nuôi
Nhưng mà ơn mẹ suốt đời không quên.(Mẹ của anh)
Quay về với văn học trung đại, cách đó hằng mấy trăm năm, các tác giả truyền kì hơn một lần
đã nói đến lòng biết ơn này của nhân vật nữ đối với gia đình chồng. Đó như là một món quà mà
những người con dâu hiếu thảo dành tặng cho bố mẹ chồng. Hiếu thuận cha mẹ ruột đã là điều đáng
trân trọng, phụng dưỡng chu đáo cha mẹ chồng lại càng đáng kính hơn. Có lẽ vì thế mà Thánh Tông
di thảo đã xây dựng thành công nhiều nhân vật nữ hiếu thuận, sẵn lòng hy sinh vì gia đình chồng,
làm tròn đạo hiếu con dâu. Đó là hình ảnh nàng Ngọa Vân trong Ngư gia chí dị. Tác giả đã đặc tả sự
thay đổi trong gia đình chồng từ khi nàng về làm dâu : “mỗi lần buông lưới là toàn được cá ngon,
chốc lát đã đầy nửa thuyền. Chiều đem về chợ bán, thường được giá đắt. Gia tư giàu có
dần”[117,tr 75]. Không dừng lại ở chỗ chăm lo, vun vén trong ngoài cho gia đình chồng, lòng hiếu
thảo ấy còn được nâng lên thành một mức cao hơn. Đó là việc Ngọa Vân sẵn sàng hy sinh bản thân
mình để cứu gia đình nhà chồng qua cơn nguy biến : “dù có mọc lông cánh cũng không bay khỏi ra
ngoài nước được, nên Ngoa Vân thấy tình thế nguy bách quá, tức thì nàng hóa ra một con cá to, dài
độ ngàn thước, mình lớn ước tới 30 quầng, nằm chắn chỗ ngọn nước tràn vào. Vợ chồng ông chài
và Thúc Ngư vin vào râu cá trèo lên. Nhờ thế được bình an vô sự ”[117,tr.75]. Cuối cùng nàng buộc
phải từ biệt gia đình chồng để vĩnh viễn trở về với thế giới của mình bởi nàng đã để lộ bản thân
mình. Cuộc chia ly thật đau xót và đầy xúc động. Không hy sinh thể xác như Ngọa Vân nhưng
người vợ trẻ trong Thử tinh truyện lại hy sinh hạnh phúc cá nhân thay chồng làm tròn đạo hiếu để
chồng yên tâm “dùi mài kinh sử”, gầy dựng tương lai, công danh sự nghiệp : “vợ chồng là duyên
trăm năm, không phải là duyên sớm tối. Chàng đi học xa may ra đỗ đạt, trên thì cha mẹ vẻ vang,
dưới thì vợ con sung sướng, sau này hưởng thụ còn nhiều. Mong chàng hãy tạm gác tình yêu thương
thiếp, ra sức học hành; còn như việc phụng thờ cha mẹ, miếng ngon miếng ngọt, sớm hỏi, tối chào,
thiếp xin đảm đương mong chàng chớ ngại”. [117,tr158]. Cao hơn một mức, thoát khỏi kiểu nhân
vật mang dáng dấp thần của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công những nhân vật
nữ của mình trong mối quan hệ với cha mẹ chồng. Tiêu biểu có thể kể đến là Từ Nhị Khanh trong
Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu. Khi cha Trọng Quỳ đi xa, chẳng nỡ để bố chồng thân già yếu
cô độc ra nơi tử địa, Nhị Khanh đã khuyên chồng khăn gói theo cùng để trông nom phụ thân cho
tròn đạo hiếu. Mặc dù đây là một cử chỉ nhỏ song nó lại thể hiện tình cảm lớn, đó chính là sự quan
tâm của nàng dâu với bố chồng. Cũng như Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết là người con dâu đã vẹn trọn
con đường hiếu thảo. Chồng xông pha trận mạc, ở nhà nàng đã thay chồng lo cho mẹ và chăm con
thơ. Có thể nói khó khăn chồng chất khó khăn nhưng nàng dâu vẫn vượt qua. Khi mẹ chồng qua
đời, nàng vô cùng thương tiếc. Nỗi đau mất mát người thân được tác giả viết bằng cảm xúc
thật : “nàng hết lời thương xót (...), phàm những việc ma chay, tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ sinh
ra” [23,tr.177]. Mượn lời người mẹ chồng nhận xét về con dâu trước lúc lìa xa cõi đời tác giả cho
thấy được đạo làm con của Vũ Thị Thiết : “sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống
dóng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ
mẹ”[23,tr.177]. Nổi bật lên ở tác phẩm của Vũ Trinh là một số truyện vừa mang chất luân lý giáo
huấn, vừa đậm màu sắc nhân văn, nhờ đó có sức truyền cảm cao. Trong số đó có thể kể đến người
đàn bà “thờ cha mẹ chồng rất hiếu thảo, ở với họ hàng, xóm giềng giữ lễ nghĩa, có phong cách,
khuôn khép của dòng họ lớn” [118, tr97]. Đấy cũng là tấm lòng hiếu thảo của người con dâu trong
Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Hán. Khi chồng chết, người đàn bà ấy cũng muốn chết theo cho
tròn đạo vợ chồng, nhưng lại nghĩ : “chết không phải là việc khó. Nhưng nếu ta chết thì cha mẹ già
đôi bên sớm tối biết dựa vào đâu” [118,tr. 101]. Trong vô vàn kiểu người trong xã hội, biết hy sinh
mình vì người khác là kiểu người không nhiều trong cuộc đời này. Do đó họ thật đáng quý, đáng
“Thương chồng nên khóc mụ gia
trân trọng. Ca dao ta thường nói :
Chứ tui với mụ có bà con chi. ”
Nhưng có thể nói những nhân vật nữ trong các tác phẩm không phải vì thương chồng mà khóc
mẹ chồng, nó xuất phát từ chính tình cảm chân thành mà họ dành cho bố mẹ chồng. Đó là lòng hiếu
thảo và khi lòng hiếu thảo đạt đến mức cao, nó biểu hiện ra bằng sự hy sinh.
2.2.3.3. Thông minh, tài giỏi :
Một trong những quy định làm kềm hãm những tài năng của phụ nữ là: giới nữ trong xã hội
phong kiến không được đi học, đi thi. Những ai vi phạm điều cấm này, bản thân họ, thậm chí gia
đình đều bị xử trãm. Chính vì vậy trong quan niệm của các đấng mày râu, người vợ đơn giản chỉ là
người đi sau chồng, nâng khăn sửa túi cho chồng, còn mọi việc từ trong gia đình đến quốc gia đều
do người đàn ông quyết định. Điều này vô hình trung đã làm cản bước chân của người phụ nữ trong
việc xây dựng gia đình cũng như góp phần vào việc xây dựng đất nước. Thấy được những bất công
ấy với giới nữ, đồng thời phát hiện được tài năng thiên phú của họ, các tác giả truyền kì đã ngợi ca
họ không kém một đấng nam nhi trong xã hội đương thời. Hơn thế nữa, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Dữ, Vũ Trinh cho rằng với tài năng ấy người phụ nữ còn xứng đáng tham gia vào việc triều chính.
Và lịch sử đã chứng minh, đất nước ta từ xưa đến nay đã có biết bao tấm gương nữ giới góp sức
mình vào việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
Trong quan niệm của người trung đại, sáng tác thơ văn là một trong những dấu hiệu bộc lộ tài
năng thiên phú. Chính vì vậy ngợi ca người phụ nữ các tác giả đã ngợi ca tài năng thơ ca của họ. Có
thể thấy chủ đề này xuất hiện nhiều ở Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.
Trong khi chế độ phong kiến khinh miệt người phụ nữ thì Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh lại
tôn trọng, ngợi ca họ. Hầu hết các nhân vật nữ của Nguyễn Dữ đều gắn liền với việc sáng tác, đàm
đạo thơ văn. Táo bạo hơn, nhà văn còn để cho nhân vật sáng tác thơ ca về những hoàn cảnh đặc
biệt : cảnh ái ân ở phòng the. Ví như khi hồn ma Nhị Khanh cùng Trình Trung Ngộ “cùng nhau ái
ân hết sức thỏa mãn. Nàng có làm hai bài thơ để ghi về cuộc hoan lạc”[23,tr 30]. Và rồi “Trình vốn
là lái buôn, biết ít chữ nghĩa, nàng giải nghĩa rõ ràng cho hiểu ”[23,tr 31]. Tài sáng tác thơ ca cũng
nổi bật ở Nhu Nương và Hồng Nương “lửa đượm hương nồng, ân ái mười phần thỏa nguyện. Trong
lúc gối êm chăn ấm, sinh bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi. Nàng Liễu ngâm trước”[23,tr49].
Đấy cũng chính là tài năng thơ ca của Hàn Than “thông hiểu âm luật và ngữ nghĩa, ứng khẩu đọc
thơ ngay”[23,tr.155]. Như vậy có thể thấy người phụ nữ cũng có năng khiếu văn chương không
thua kém nam giới. Vậy mà chế độ phong kiến một thời đã dựng lên bức tường thành ngăn cách,
triệt tiêu tài năng ấy.
Nếu xã hội phong kiến coi “con hát” là một trong bốn loại người đáng khinh bỉ nhất trong xã hội
thì Vũ Trinh lại bày tỏ lòng ưu ái đối với cô ca kĩ trong truyện Ca kĩ họ Nguyễn. Tài năng đàn hát
của nàng được miêu tả: “có một kĩ nữ mười bảy, mười tám tuổi , nhan sắc xinh đẹp, tài nghệ tuyệt
trần, mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đều ngây ngất không sao tự kềm chế
nỗi ”[118,tr. 61]. Từ chỗ ca ngợi tài năng ca hát của cô ca kĩ, tác giả đã phát biểu : “đó là người đàn
bà trinh tâm hào khí, khó tìm thấy trong giới quần thoa ”[118,tr.65]. Lời bàn là nơi mà nhà nho cần
giữ mực thước nhất nhưng Vũ Trinh đã dũng cảm ngợi ca người con hát ấy. Tác giả muốn đòi lại
quyền được tôn trọng của phụ nữ, dù họ xuất thân ở tầng lớp nào, làm nghề gì trong xã hội, nếu như
họ thực sự có tài năng và phẩm giá.
Sự thông minh, tài giỏi được thể hiện cao nhất là ở tài năng điều hành việc nước. Tiêu biểu cho
kiểu người phụ nữ điều hành triều chính có thể kể đến Quốc Mẫu, Mộng Trang trong Hoa quốc kì
duyên của Thánh Tông di thảo. Quốc Mẫu có được vẻ oai nghiêm của một bậc nữ vương đứng đầu
một nước lớn “Một bà già ngồi trên sập rồng, tuổi trạc 60, trông có vẻ oai nghiêm đáng
sợ ”[117,tr.45]. Đặc biệt, tài năng ấy càng được thể hiện rõ hơn khi nhân vật được đặt trong hoàn
cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Đó là lúc đất nước khó khăn, có ngoại bang xâm lược. Dù vậy Quốc
Mẫu vẫn vững tay lái chèo chống con thuyền đưa đất nước qua cơn hoạn nạn và ngày càng thịnh
vượng. Người phụ nữ ở đây được coi trọng trong tư thế hoàn toàn bình đẳng với nam giới : “Nước
sẽ chia làm hai : từ bên tả ra phía đông thuộc phần nguyên tử làm chủ, từ bên hữu ra phía Tây
thuộc quyền công chúa làm chủ”[117,tr 60]. Như vậy mới thấy rằng Lê Thánh Tông – người đứng
đầu nhà nước lúc bấy giờ đã có tư tưởng tiến bộ khi nhìn người phụ nữ.
Nhìn chung nét đẹp của người phụ nữ trong các tác phẩm truyền kì không chỉ được thể hiện qua
hình ảnh bên ngoài mà còn được khám phá sâu ở đời sống bên trong. Tuy nhiên tài năng, phẩm
hạnh đã không thể bao bọc cho thân phận của họ. Với những gì đang có, lẽ ra họ phải được sống
hạnh phúc, được đối xử bình đẳng bình quyền, được yêu thương và trân trọng. Song ở xã hội phong
kiến thì họ chỉ là những thân phận nhỏ bé đáng thương. Chính vì vậy mà việc Lê Thánh Tông,
Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đưa hình ảnh họ vào văn học với một thái độ trân trọng ngợi ca đã là một việc
làm đáng để người đời ngưỡng mộ.
2.2.3.4. Những khát vọng và bi kịch của nhân vật nữ :
*Khát vọng tình yêu và hạnh phúc gia đình :
Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đều là những nhà nho lỗi lạc nhưng trong đứa con tinh
thần của họ vẫn bàng bạc những yếu tố phi Nho giáo. Điều này được biểu hiện qua những tư tưởng
tiến bộ về cuộc đời, cách nhìn về người phụ nữ. Họ không chỉ bộc lộ thái độ cảm thông, yêu thương,
trân trọng giới nữ mà còn đấu tranh cho khát vọng tình yêu và hạnh phúc gia đình của nữ giới. Phải
chăng truyền thống nhân hậu, tình yêu thương con người của dân tộc Việt đã ăn sâu vào máu các
nhà văn, do vậy nó đã thắng thế, chế ngự những quy định khắt khe của Nho giáo.
Xã hội phong kiến có những quy định khắt khe đối với người phụ nữ. Đặc biệt những quan niệm
cổ hủ, lạc hậu về hôn nhân đã giết chết hạnh phúc của không biết bao nhiêu cô gái. Lê Thánh Tông
đã tỏ ra thông cảm với người phụ nữ nên phần nào đã để nhân vật của mình tự do đến với tình yêu.
Ngoài ra Nguyễn Dữ và Vũ Trinh ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ cứng nhắc của lễ giáo
phong kiến nên những tác phẩm viết về tình yêu của hai ông cũng khá táo bạo và mãnh liệt.
Tình yêu là một trong những đề tài muôn thủa của văn học và Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Vấn đề này cũng là một trong
những đóng góp lớn mang tính thử nghiệm của Thánh Tông di thảo. Đa phần những truyện viết về
đề tài tình yêu ở đấy đều có pha trộn màu sắc thần kì. Điều này có thể được lý giải từ hai nguyên
nhân: tác giả xuất thân từ tầng lớp vua chúa và người đọc vẫn chưa có tâm thế để tiếp nhận tác
phẩm dạng ngợi ca trong tình yêu. Hoa quốc kì duyên viết về mối tình giữa người và vật biến thành
người. Đó là một tình cảm chủ động, mặn nồng, gắn bó thắm thiết giữa công chúa bướm Mộng
Trang và chàng nho sĩ Lưu Sinh. Thắm thiết đến mức độ khi phải chia tay vì biến loạn, họ lưu luyến
không nỡ rời xa: “Nghĩa vợ chồng sống chết gắn bó, sao nỡ vội biệt ly ? Còn sống thì cùng đi với
nhau, chớ nỡ nào cam chịu trong cảnh cha con, vợ chồng, mỗi người mỗi ngã ”[117,tr. 51]. Chính
vì vậy, sau 15 năm xa cách, khi gặp lạ “bình man đại tướng ” đã bỏ việc vua đi gặp vợ và sau đó từ
quan để chết theo vợ, trở về đoàn tụ cùng vợ trong thế giới của loài bướm. Nhiều câu chuyện về tình
yêu trong Thánh Tông di thảo được kể với một mối duyên tiền định. Ở Dương phu truyện, xuất phát
từ tình yêu, từ khát vọng được yêu thương, người con gái trinh tiết trong câu chuyện đã dũng cảm
bước qua hàng rào lễ giáo phong kiến để trao thân cho người yêu : “Thiếp nghe chàng nói đến tiền
duyên nên cam chịu tiếng bất chính. Đến nay đã ba năm rồi vẫn một lòng một dạ mong được ở với
nhau trăm năm, trên báo ơn sinh dục, giữa kết nghĩa gối chăn. Nếu chàng bỏ thiếp mà đi, thiếp tái
giá thì mang điều thất tiết, ở vậy thì khó giữ được mình. Đã không giữ trọn đời thì thà đem hồn đi
cùng chàng” [117,tr. 101]. Đáp lại sự đằm thắm mặn nồng ấy của cô gái, vị tiên trên trời cũng trân
trọng nâng niu hơn chính cả cuộc sống trên thiên đình : “Tuy trên trời có vui thật, nhưng mối tình
vương vấn của nàng quên sao được ”[117,tr 101]. Vậy ra thần tiên cũng cảm thấy bất hạnh nếu
không có tình yêu. Có thể thấy cả cô gái và vị thần tiên đều ý thức được giá trị của tình yêu trong
cuộc sống. Do đó họ sẵn sàng đánh đổi mọi thứ, kể cả sinh mệnh của mình để được bên người mình
yêu suốt đời. Cũng chính vì vậy mà khi chàng trai kết thúc kiếp nạn của mình ở trần gian thì cô gái
khóc lóc thảm thiết đến nỗi ốm nặng và qua đời. Sau khi chết, nàng được hóa kiếp và trở về với thế
giới thần tiên sống tiếp mối tình còn dang dở ở nhân gian. Tác phẩm đã thể hiện một khát vọng:
vĩnh cửu hóa tình yêu của con người. Tình yêu có một sức mạnh kì lạ, do vậy không chỉ con người
mà ma quỷ cũng bị mê hoặc trước hương vị ngọt ngào của nó. Con ma chổi nữ trong Phụ chép 2 của
Lê Thánh Tông đã thầm yêu trộm nhớ chàng trai gần nhà. Và để bày tỏ tình cảm của mình, con ma
chổi ấy đã chủ động thổ lộ : “Bỗng một đêm khuya thấy một người con gái đẹp đứng ngoài cửa sổ
ném một bài thơ vào :
Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần
Trên cùng Cơ, Vĩ vốn cùng thân
Thường đem quét tước trần ai sạch
Muốn kết ái ân Chu với Trần. ”[117,tr. 152]
Theo tiếng gọi của con tim, con ma chổi ấy đã bất chấp tất cả, trốn cha mẹ, chui ngạch cửa để đến
với người yêu. Giống như Phụ chép 2, nhân vật Nhị Khanh trong Cây gạo của Nguyễn Dữ cũng
sống một cách thoải mái, vượt qua những rào cản của xã hội phong kiến. Bản thân Nhị Khanh luôn
sống với tâm niệm : “cuộc đời chẳng khác gì giấc chiêm bao”. Từ chỗ coi cuộc đời là giấc chiêm
bao thoáng qua nhanh chóng nên Nhị Khanh thường nghĩ “trời để cho sống ngày nào, nên tìm lấy
những thú vui ngày đó ”. Những thú vui mà Nhị Khanh đề cập, đó là thú vui ái ân, thú vui tình dục.
”[23,tr35]. Hình ảnh này như mang đến một thông điệp : đừng chia rẽ hạnh phúc lứa đôi. Và: tình
Mối tình của Trình Trung Ngộ - Nhị Khanh kết lại ở chỗ “dắt tay nhau đi đôi khi khóc, khi hát
yêu là sự rung cảm giữa hai con tim mà hàng rào lễ giáo phong kiến và đạo đức Nho giáo không
thể trói buộc được.
Gắn liền với sự chủ động bao giờ cũng là sự nồng nàn say đắm của nhân vật nữ trong tình yêu.
Nghiệp oan của Đào thị là tác phẩm có nhiều vấn đề đáng bàn. Ở một mức độ nào đó, tác phẩm này
là tiếng nói phê phán những hạn chế của Phật giáo đương thời. Song cũng lại có phần nói đến tình
yêu đôi lứa ở cảm hứng ngợi ca. Đứng trên lập trường tình yêu mà phán xét, chúng ta thấy hình ảnh
cái chết của Đào Hàn Than đã mang đến hai ý nghĩa nhất định. Đó là niềm thương cảm, xót xa cho
thân phận Hàn Than. Và đây cũng chính là tiếng nói tố cáo, đập mạnh vào xã hội đương thời đối với
người phụ nữ. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, tình yêu đôi lứa lại được nói
đến một cách trần trụi, rõ ràng đến vậy.
Trân trọng người phụ nữ, Vũ Trinh trân trọng tình yêu của họ. Đó là những mối tình đắm say,
đẹp đẽ. Họ xuất thân từ những tầng lớp khác nhau nhưng đều chủ động tìm đến tình yêu và đều hy
sinh cho người mình yêu. Nàng ca kĩ được cả tài lẫn sắc, yêu Vũ Khâm Lân từ cái nhìn đầu tiên.
Nàng đã chăm sóc, lo tiền bạc, hành trang cho chàng yên tâm đèn sách. Nhưng khác với một số
nhân vật nữ trong Truyền kì mạn lục, nhân vật của Vũ Trinh yêu nồng nàn, say đắm song không hề
lả lơi đùa hoa cợt liễu : “nếu thiếp là kẻ dâm đãng thì thiên hạ thiếu gì bọn đàn ông ”[118,tr 62].
Hy sinh, lo toan cho người yêu là vậy nhưng cuối cùng nàng cũng bị từ chối, bị phản bội. Dù vậy
nàng vẫn cao thượng, không trách móc chàng trai : «Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp
hèn hạ không xứng hầu khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp ”[118,tr64]. “Đọc truyện
không thể không cảm kích trước phẩm chất cao đẹp của người con gái ấy ”[121, tr320].Người con
gái phú ông trong Thanh Trì tình trái cũng hiện lên với tính cách chủ động và say đắm. Cô gái yêu
tha thiết anh lái đò Nguyễn Sinh có tiếng hát hay, phong tư đẹp nhưng nghèo. Trước những lời cấm
đoán của cha, cô gái đã liều lĩnh ăn cắp hai trăm lạng của gia đình gửi cho người tình làm lễ hỏi. Chỉ
tiếc rằng anh lái đò đã phẫn chí ra đi với niềm mong ước kiếm thật nhiều tiền để về cưới cô gái. Còn
“chết rồi cô biến thành một vật không phải ngọc cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa
cô gái thì : “buồn thương sinh bệnh, hơn một năm sau cô qua đời ”[118tr 65]. Điều kì lạ là ở chỗ
đập không vỡ, trên đó có một chàng trai đang ngả đầu tựa mái chèo nằm hát ”[23,tr6]. Hình ảnh cô
gái đã đưa đến những ý nghĩa đáng suy ngẫm. Tác phẩm lên án tệ phân biệt đẳng cấp, phá vỡ tình
yêu đôi lứa, đồng thời câu chuyện cũng ngợi ca tình cảm cao đẹp mà phụ nữ dành cho người mình
yêu và cổ xúy cho sự tự do trong hôn nhân. Câu chuyện tình bi thảm ấy đã hấp dẫn đối với nhiều thế
hệ bạn đọc.
Tình yêu vốn có lý lẽ riêng của nó cho nên mọi quy định, cấm đoán đều không thể ngăn những
người yêu nhau đến với nhau. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công những mô hình cuộc tình tay ba,
tự do, không qua cưới xin, không qua gia đình. Cuộc kì ngộ ở Trại Tây là một minh chứng tiêu biểu
cho dạng này. Đó là mối tình giữa hai cô gái Nhu Nương và Hồng Nương với chàng thư sinh Hà
Nhân. Cảnh ái ân trai gái được Nguyễn Dữ đặc tả : “Sinh rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình,
chuyện trò đằm thắm. Chàng lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng (....). Sinh khuyên lơn dịu ngọt
rồi cùng tắt đèn đi nằm, lửa đượm hương nồng, ân ái mười phần thỏa nguyện. Trong lúc gối êm
chăn ấm, Sinh bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi ”[23,tr 49]. Không dừng lại ở chỗ tả mối tình
tay ba, mà táo bạo hơn nhà văn còn miêu tả sinh động chuyện ái ân trai gái trong chốn phòng the
qua những bài thơ họ ngâm vịnh cùng nhau. Chính vì vậy tác phẩm này được xem là bệ phóng
phóng con tàu truyện ngắn thế tục lên đến đỉnh cao của văn học tự sự trung đại Việt Nam. Ca ngợi
tình yêu tự do, các tác giả cũng đề cập đến tính cách mạnh mẽ của người phụ nữ. Họ sẵn sàng giúp
đỡ người yêu để có thể thành công và để gia đình chấp nhận hôn sự của họ. Nội dung này được thể
hiện khá rõ ở Lan Trì kiến văn lục, cho thấy tư tưởng tiến bộ của nhà văn trong việc xác định sự
bình đẳng giữa nam và nữ. Trên cơ sở sự bình đẳng ấy, dù là đấng quân tử hay bậc quần thoa thì
cách bày tỏ cảm xúc trong tình yêu cũng giống nhau. Sự liều lĩnh trong tình yêu của người phụ nữ
cũng thể hiện tính cách táo bạo, mãnh liệt của họ trong tình yêu. Cô gái tiểu thư nhà phú ông giàu có
một vùng yêu anh lái đò Nguyễn Sinh nghèo khó. Lão phú ông bần tiện tham lam không đồng ý.
Mong muốn cha chấp nhận hôn sự cô gái đã lấy cắp tiền cho người yêu để anh có tiền làm lễ hỏi,
mong gia đình chấp nhận hôn sự.
Viết về giới nữ, các tác giả trung đại thường đi sâu thể hiện những khát vọng hạnh phúc của họ.
Không chỉ là những khát khao tự do trong tình yêu mà còn là những khát khao hạnh phúc trong đời
sống gia đình. Đây cũng chính là khát vọng muôn đời của người phụ nữ ở mọi thời đại. Lê Thánh
Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã viết về cuộc sống mà điểm xuất phát của nó là gia đình. Để giữ gìn
hạnh phúc gia đình, người phụ nữ thường kiên trì khuyên nhủ, cảm hóa những lạc lối của chồng.
Là một đấng quân vương song trang viết của Lê Thánh Tông về hạnh phúc gia đình lại rất chân
thành, giản dị. Tác giả đã gửi những khát vọng hạnh phúc gia đình vào trong Thử tinh truyện: “Vợ
chồng duyên trăm năm, không phải duyên sớm tối. Chàng đi học xa, may ra đỗ đạt, trên thì cha mẹ
vẻ vang, dưới thì vợ con sung sướng, sau này hưởng thụ còn nhiều [117,tr158]. Đấy là lời khuyên
chí tình của người vợ hãy: chuyên tâm đèn sách đừng vì nhi nữ mà bỏ dở lý tưởng của người quân
tử. Nàng đã biết gác lại hạnh phúc cá nhân, gác lại chuyện tình cảm riêng tư để chồng thực hiện chí
làm trai của mình. Không hạnh phúc bằng cô gái trong Thử tinh truyện nhưng nàng Nhị Khanh vẫn
là người phụ nữ tuyệt vời. Nhị Khanh là nơi hội tụ đầy đủ mọi phẩm chất của một người phụ nữ lý
tưởng : hiếu thảo, cần mẫn, thủy chung, trinh tiết và tích cực vun đắp, gìn giữ hạnh phúc gia đình.
Nhị Khanh đã luôn khuyên nhủ, cản ngăn khi thấy chồng đi sai đường : “Những người lái buôn
phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ; ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi
họ sẽ vét hết của mình cho mà xem ”[23,tr.22]. Đúng như lời tiên đoán của Nhị Khanh, Trọng Quỳ
đã bị tên lái buôn lừa đến độ phải gán vợ mình trong sòng bạc. Niềm hy vọng chồng có thể thay đổi
của nàng đã hoàn toàn tan vỡ. Đáp lại những lời khuyên chí tình của nàng là hành động táng tận
lương tâm của chồng dẫn đến một kết cục bi thảm cho gia đình. Tác phẩm như một lời cảnh tỉnh cho
những người chồng vô tình, bạc nhược như Trọng Quỳ.
Đến với người phụ nữ trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, người
đọc nhận ra rằng : trước những khó khăn, trở ngại của cuộc sống họ không bao giờ cúi đầu, lùi
bước. Chính nét đẹp tâm hồn đã làm nên sức mạnh giúp họ vượt qua chông gai của cuộc đời. Với hy
vọng sẽ đến được với mảnh đất hạnh phúc, người phụ nữ luôn kiên quyết vượt qua những khó khăn,
thử thách. Họ tin rằng: với lòng quyết tâm họ có thể đến được với bến bờ hạnh phúc. Người phụ nữ
trong Truyền kì mạn lục tiêu biểu cho kiểu tính cách này. Bị bà cô Lưu thị ép lấy người khác khi
chồng vắng nhà, Nhị Khanh đã tìm cách từ chối. Khi hết phương trốn thoát khỏi bà cô, Nhị Khanh
đã tìm đến nhờ người bõ già giúp cô qua cơn nguy biến này: “chú có thể vì ta chịu khó lặn lội vào
xứ Nghệ hỏi thăm chồng cho ta không ? ”[23,tr 19]. Xa xôi, cách trở song nàng vẫn kiên quyết tìm
chồng. Và nàng đã thành công, cho dù đó là thành công không trọn vẹn. Nàng Túy Tiêu dù bị quan
Trụ quốc họ Thân bắt song vẫn mang trong lòng niềm hy vọng trở về đoàn tụ với chồng. Ngọn lửa
hy vọng ấy bùng lên khi Dư Nhuận Chí báo tin cho biết chàng vẫn nhớ Túy Tiêu. Do vậy, Túy Tiêu
đã tìm mọi cách để gặp chồng : “Thiếp nghe lệ cũ bản triều, đêm hôm mồng một tết, có đốt cây bông
ở ngoài bờ sông, người trong kinh thành đều kéo ra xem đông nghịt. Nếu chàng chưa nỡ rũ bỏ thì
đêm ấy xin chờ đợi nhau. Loan chia phượng hợp chỉ ở trong một chuyến này. Thiếp hãy xin hoãn để
chờ ” [23,tr .165]. Những lời nhắn nhủ của Túy Tiêu như là sự quyết tâm được đoàn tụ cùng chồng.
Và có thể nói Túy Tiêu là một trong số ít những nhân vật cuối cùng đã đặt chân lên được mảnh đất
hạnh phúc.
*Những bi kịch và bất hạnh :
Sự phân biệt đẳng cấp, quan niệm tam tòng trong chế độ phong kiến đã giết chết bao số phận của
người phụ nữ. Hơn thế nữa, những bi kịch gia đình, bi kịch xã hội đã bào mòn niềm tin vào cuộc
sống, vào tài năng, phẩm chất của giới nữ đương thời. Các tác phẩm truyền kì đã cho thấy một sự
thật nghiệt ngã : nguyên nhân của những bất hạnh ở người phụ nữ không ai khác hơn là đấng mày
râu và chế độ phong kiến lỗi thời.
Nếu Lê Thánh Tông bênh vực người phụ nữ bằng cách ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ, thì
Nguyễn Dữ lại đi sâu phản ánh những tác động bên ngoài đối với phụ nữ. Do đó những câu chuyện
trong Truyền kì mạn lục chủ yếu nói lên bi kịch của giới nữ. Trần Lệ Nương bị bắt vào cung vì có
bà con với Trần Khát Chân, khi xảy ra vạ Trần Khát Chân. Sau đó nàng lại rơi vào tay giặc Minh
khi đất nước bị xâm lăng. Có thể nói thân phận Lệ Nương nổi trôi, vô định. Dù vậy cô vẫn được an
ủi bởi Phật Sinh – người chồng luôn yêu thương, lo lắng cho cô hết mực. Người chồng tội nghiệp ấy
đã tìm mọi cách để cứu vợ nhưng không thành. Chính những cuộc thảm sát nội chiến, những xâm
lược ngoại bang đã làm cho Lệ Nương mất tất cả : tình yêu đổ vỡ, gia đình tan nát, bản thân lênh
đênh, đau khổ. Và cuối cùng để giữ gìn nhân cách của mình, Lệ Nương đã chọn cái chết khi bị đưa
tới biên giới sang phương Bắc. Câu chuyện khép lại qua hình ảnh hồn Lệ Nương hiện về trong dòng
nước mắt đau khổ “nước vỡ nhà tan, lưu li đến độ ”. Người đọc có thể nhận ra thông điệp mà tác
giả muốn gửi gắm qua tác phẩm : Số phận của người đàn bà sinh ra trong cảnh nước nhà loạn li đầy
bất trắc, bi thảm. Và đấy cũng là hiện thực của phụ nữ Việt Nam những năm thế kỉ XVI.
Một trong những biểu hiện dễ thấy của phương thức truyền kì, đó là những người phụ nữ đáng
thương được phép thần phù trợ để được hạnh phúc. Đó có thể là một vị vua, một vị quan công minh
có khả năng cầm cân nảy mực, diệt trừ cái ác bảo vệ dân lành. Nhưng thời Nguyễn Dữ tìm đâu ra
một con người cao đẹp như vậy. Cho nên đó chỉ là ước mơ, là khát vọng của nhà văn. Nàng Túy
Tiêu là một trong những nhân chứng tiêu biểu cho điều này. Túy Tiêu là một cô gái xinh đẹp, thông
tuệ tài hoa. Cô là nạn nhân của tệ nạn cướp bóc gái đẹp của quan lại – mà tiêu biểu là tên trụ quốc
họ Thân. Ở đây đã có sự đấu tranh giữa lý trì và tình cảm nơi tác giả. Lý trí đứng về giáo lý nhà nho
chê trách Dư Nhuận Chí là ngu muội vì đã yêu một ả xướng ca. Nhưng trái tim nhà văn lại bày tỏ
niềm cảm thông về sự khát khao yêu thương và lòng xót thương cho bi kịch của Túy Tiêu. Điều
quan trọng là truyện đã khiến người đọc không thể không yêu mến, đồng tình với hành động của hai
nhân vật. Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Dữ muốn hướng tới.
Nếu người phụ nữ nào may mắn thoát khỏi bi kịch xã hội thì họ lại phải gánh chịu thảm họa từ
gia đình. Mà đối tượng gây nên bất hạnh ấy không ai khác hơn đức ông chồng của mình. Nhị Khanh
với Trọng Quỳ có thể xem là một cặp trời sinh trai tài gái sắc, tuổi cũng suýt soát, lại sống với nhau
hòa hợp. Nhị Khanh kết nghĩa vợ chồng với Trọng Quỳ được một thời gian ngắn, Trọng Quỳ phải
cùng cha đi trấn thủ nơi xa. Chờ đợi mỏi mòn, ngày đoàn tụ với chồng cũng là lúc tiếng chuông báo
hiệu kết thúc cuộc đời nàng. Bởi lẽ bản thân Trọng Quỳ chỉ là một kẻ mê chơi, ham đánh bạc. Tệ
hơn nữa, vì đỏ đen Trọng Quỳ đã gán vợ của mình cho tên lái buôn. Nhị Khanh – người đàn bà trẻ
đẹp đã làm tròn bổn phận của người con dâu tốt đối với bố chồng, người mẹ người vợ hoàn hảo đối
với chồng con – đã chọn cái chết để giải thoát. Từ đây có thể khẳng định rằng :bi kịch gia đình là
một trong những bi kịch đã giết chết cuộc đời người phụ nữ. Cùng số phận bi thương như Nhị
Khanh là người thiếu phụ Nam Xương. Nàng có vẻ “thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp ”. Ngày
tháng Trương Sinh xa nhà đi lính cũng là khoảng thời gian nàng vừa làm mẹ vừa làm con. Và ở vai
trò nào nàng cũng làm tròn bổn phận. Thế mà sau ba năm trở về, nàng lại bị chồng “mắng mỏ nhiếc
móc và đánh đuổi đi ». Đều là xuất phát từ bản tính ghen tuông mù quáng của Trương Sinh. Ngày
chồng trở về, đỉnh cao hạnh phúc tưởng như đang chờ đón Vũ Thị Thiết. Nhưng thực tế lại phũ
phàng, lúc Trương Sinh trở về lại là “thời khắc tiếng chuông đệnh mệnh của nàng vang lên ”. Người
phụ nữ bạc mệnh ấy chỉ còn một con đường duy nhất : “Ra bến Hoàng Giang......., gieo mình xuống
sông mà chết ”. Đấy cũng lại là kết cục của người đàn bà đã làm tròn trách nhiệm người vợ, người
con dâu, người mẹ.
Qua những câu chuyện này có thể thấy ở thời đại của Nguyễn Dữ, hầu như những người đàn bà
sống hiếu hạnh, nết na thì họ đều gặp bi kịch của cuộc đời. Những bi kịch này là tác nhân gây đổ vỡ
hạnh phúc gia đình, cuộc sống bình yên của người phụ nữ. Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh
đã tìm kiếm những hoàn cảnh có thể mang lại hạnh phúc cho người phụ nữ song càng đi vào lãnh
địa này họ càng nhận ra những bi kịch tất yếu của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Trong một xã
hội nhiễu nhương, người phụ nữ không chỉ chịu cuộc đời sương gió bụi trần mà họ còn là một món
hàng không hơn không kém. Món hàng ấy mang lại niềm vui cho mọi người. Viết về nàng Túy
Tiêu, Nguyễn Dữ viết : “ấy tùy ngài kén chọn trong bọn ấy hễ bằng lòng ai thì tôi sin tặng
cho ”[23,tr 153]. Con ma nữ trong Thánh Tông di thảo thì “cho nó mặc gấm vóc, đeo nữ trang vàng
ngọc, muốn làm cho bọn trai trẻ say mê để kiếm được nhều tiền ”[117,tr11]. Hoặc nhân vật nàng ca
kĩ của Vũ Trinh : “mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đầu ngây ngất không sao tự kềm
chế nỗi. Tiền và lụa thưởng rào rào ném lên đầy bàn ”[118,tr60].Cái chết là một trong những cách
mà các tác giả truyền kì chọn để giải quyết số phận của nhân vật nữ. Thông qua đó, các tác giả
muốn nói đến một quy luật ở xã hội phong kiến : người phụ nữ dù sống hiếu hạnh nết na hay tự do,
phá phách thì họ đều có chung một kết cục, đó là cái chết. Hầu hết các nhân vật nữ để kết thúc bi
kịch của chính cuộc đời mình đã tìm đến cái chết và xem đó là một giải pháp. Từ bi kịch gia
đìnhnhư Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết đến bi kịch xã hội như Lệ Nương, họ đều có kết cục giống nhau.
Cái chết của họ gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh con người rằng : xã hội không chỉ chà đạp,
khinh thường mà thậm chí còn hủy hoại cuộc sống của giới nữ.
Vì vậy những khát vọng về hạnh phúc mãi mãi sẽ nằm lại dưới mộ sâu của người phụ nữ khi họ
từ giã cõi đời. Chính vì hiểu được điều này, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục
và Lan Trì kiến văn lục bằng tác phẩm của mình đã khiến cho người đọc phải nhỏ những giọt lệ xót
thương cho số phận bi kịch không thể thoát khỏi của những người phụ nữ.
2.2.3.5.Thái độ đấu tranh cho hạnh phúc của người phụ nữ :
Nếu ví các nhân vật khác hiện lên trong tác phẩm tạo thành một bức tranh thủy mặc thời cổ thì
nhân vật phụ nữ như là một nét chấm phá làm sáng bừng lên vẻ đẹp của bức tranh. Viết về người
phụ nữ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã cho thấy trong xã hội phong kiến dù họ thông
minh, tài giỏi, ngoan hiền hay đức hạnh, thủy chung thì cuối cùng vẫn không tránh khỏi bi kịch cuộc
đời. Tuy nhiên: các tác giả với tấm lòng đồng cảm, yêu thương con người đã không nỡ ngồi nhìn
những người đàn bà có phẩm hạnh phải chết một cách oan ức. An ủi linh hồn, bù đắp những tổn
thương, mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu là ước muốn của các nhà văn truyền kì này. Họ đã
cố gắng đi tìm một phương án để đấu tranh bảo vệ cho người phụ nữ. Đôi cánh truyền kì được
mượn để tạo nên một thế giới ảo dành cho những người phụ nữ bất hạnh. Mặc dù đó là những đấu
tranh còn mang tính cải lương, phải dựa vào phép thần phù trợ, nhưng dù sao ở thế giới ấy, người
phụ nữ còn có thể được giải oan và bày tỏ nỗi thống khổ của mình.
Cách minh oan được thể hiện rõ nhất là sau khi chết có một đối tượng nào đó giúp đỡ họ minh oan.
Sau khi chết, được sự giúp đỡ của công chúa Long Vương, Vũ Thị Thiết được gặp Phan Lang,
người cùng làng với Vũ Thị Thiết. Sau khi tâm sự, nàng nhờ Phan Lang đem chiếc hoa vàng về nói
với chồng : “ nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng
chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về ” [23,tr 182]. Còn Lệ Nương sau khi chết cũng đã được trở về gặp
“Ngán nỗi thân tàn nhiều lỡ dở.
chồng để giải bày nỗi lòng :
Than ôi, vận ách mỗi chồng thêm
Sau lại nỡ cam tâm mà hàng giặc.
Gửi chiếc thân ở trong muôn chết. ” [23,tr 207]
Việc người vợ được trở về gặp chồng sau khi chết là cách nhà văn an ủi họ. Không chỉ người vợ về
với chồng để giải bày mà ngay cả bản thân người chồng cũng muốn gặp vợ để sám hối về tội lỗi của
mình. Cái chết của người thiếu phụ Nam Xương là do người chồng ghen tuông mù quáng mà ra. Vì
vậy sau khi biết được oan ức của vợ, Trương Sinh : “lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng
Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến
50 chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rưc rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, chàng vội gọi,..... ” [23,tr 183].
Không ghen tuông mù quáng nhưng Trọng Quỳ lại là kẻ ham mê cờ bạc, phải gán cả vợ cho cuộc đỏ
“rất ăn năn tội lỗi của mình ”.Sự ăn năn hối lỗi ấy được thể hiện qua hành động cụ thể của chàng
“Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ chăn nuôi hai con cho đến nên người ”[23,tr 27]. Điều
đen. Đến nỗi Nhị Khanh phải chọn cái chết để bảo toàn danh tiết. Sau khi vợ không còn, Trọng Quỳ
này cho thấy thái độ của nhà văn về quyền bình đẳng của người phụ nữ đối với nam giới: những
đấng mày râu cũng cần tự nhìn lại mình, nói lời sám hối với vợ khi cần thiết. Đó cũng chính là một
quan niệm mới về quyền con người của Nguyễn Dữ. Thái độ này càng biểu hiện rõ khi các tác giả
đã để cho người phụ nữ tự bước chân tìm đến với thế giới tình yêu. Đó là sự chủ động của hồn ma
Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo :“Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng
trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối
vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa ” [23,tr 30]. Lời Nhị Khanh thể
hiện một quan niệm táo bạo và mới mẻ về hạnh phúc : không chỉ tự do trong tình yêu mà còn yêu
hết mình và hưởng thụ hết những giây phút có được trong tình yêu. Sự chủ động, bản lĩnh còn được
gặp lại trong Thanh Trì tình trái. Cô gái yêu mà không được cha chấp thuận vì ông chê chàng trai
nghèo. Từ chủ động, cô gái đã tiến sang liều lĩnh ăn cắp vàng của bố giúp đỡ người yêu để mong
được cha chấp thuận. Nhưng người cha tham lam bần tiện đã chối bỏ hôn ước và dẫn đến cái chết
của cô gái.
Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã viết về giới nữ với cả một tấm lòng. Có thể nói những
trang văn viết về phụ nữ là những trang văn thấm đẫm nhiều nước mắt, nhiều tình yêu thương nhất.
Người phụ nữ hiện lên với những số phận bi thương song không kém phần sâu sắc, ngọt ngào. Như
một giai âm nhẹ nhàng của bản giao hưởng, hình ảnh người phụ nữ đã thật sự để lại những ấn tượng
sâu đậm trong lòng bạn đọc.
2.2.4.Loại hình nhân vật thương buôn:
Căn cứ vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy những truyện viết về nhân vật thương buôn
không nhiều. Chủ yếu là ở Truyền kì mạn lục. Bởi thời Nguyễn Dữ sự xuất hiện của tầng lớp thị dân
cùng với sức mạnh của đồng tiền đã làm thay đổi xã hội. Dưới con mắt của các nhà Nho lúc này,
tầng lớp thị dân hiện lên không mấy tốt đẹp, nếu không muốn nói là khá nhiều ác cảm. Có thể thấy
đây là một quan niệm còn nhiều hạn chế.
2.2.4.1.Giảo quyệt, lừa đảo.
Viết về tầng lớp thị dân, các tác giả chủ yếu đi sâu vạch trần sự giảo quyệt, lừa đảo của họ.
Trong Mai Châu yêu nữ truyện, Đó là thủ đoạn kiếm tiền trên thân xác của phụ nữ. Chủ nhà hát
nhận một cô gái và cho cô ấy “mặc gấm vóc, đeo nữ trang vàng ngọc để cho bọn trai trẻ say mê, để
kiếm được nhiều tiền”. Khi cô gái chung tình quyết không tiếp một ai, có ý như chờ đợi ý trung
nhân của mình thì nhà hát “thường ngon ngọt dỗ dành, hoặc xẵng lời dọa dẫm, hết ân lại
uy.....muốn đuổi đi sợ phí công từ trước, muốn giữ lại e không lợi về sau”[23tr12] Nội dung này
cũng được đề cập đến trong Truyện người nghĩa phụ Khoái Châu. Trọng Quỳ chồng của Nhị
Khanh vốn là một kẻ có máu đỏ đen. Trải qua nhiều khó khăn hai vợ chồng mới được đoàn tụ song
bản chất ham mê bài bạc vẫn còn trong anh ta. Trọng Quỳ đốt mình thâu đêm trong những canh bạc
cùng với Đỗ Tam – một lái buôn nhiều tiền. Hắn đi lại với Trọng Quỳ vì Nhị Khanh là một người
con gái đẹp. Điều này cho thấy bản chất xấu xa của Đỗ Tam, chơi với bạn hòng mưu cướp vợ bạn.
Đạo đức làm người không thể chấp nhận được hành vi ấy. Để đạt được mục đích, Đỗ Tam đã lợi
dụng điểm yếu của Trọng Quỳ: “một hôm sinh cùng bạn bè họp nhau đánh bạc tứ sắc, Đỗ bỏ ra
trăm vạn đồng để đánh và đòi sinh đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mùi vẫn được luôn,
chẳng suy nghĩ gì, liền đánh bằng Nhị Khanh” [23,tr 23]. Hậu quả của sự lừa lọc và sự bê tha đó đã
dẫn đến Nhị Khanh phải thắt cổ tự tử chết, gia đình Trọng Quỳ tan nát.
Đề tài này tuy không được đề cập nhiều nhưng sức tố cáo của nó khá mạnh. Mặc dù cách nhìn
về những người thương buôn như thế có phần hơi cứng nhắc song không phải là không có lý do của
nó. Xã hội thời Nguyễn Dữ, đồng tiền đã lăn tròn trên mọi nẻo đường, chính đồng tiền cùng với
những người sở hữu nó đã trở thành những đối tượng gây nên bao bất trắc cho xã hội.
2.2.4.2.Là tác nhân gây ra những đổ vỡ gia đình, băng hoại đạo đức xã hội.
Không chỉ hiện lên là những kẻ lừa lọc, xảo quyệt mà loại hình nhân vật thương buôn còn là
những kẻ sẵn sàng bỏ tiền ra để mua khoái lạc nhằm thỏa mãn những dục vọng về thể xác. Chính vì
vậy họ là tác nhân gây ra những đổ vỡ gia đình, làm băng hoại đạo đức xã hội.
Để có được người đẹp, nhằm thỏa mãn những nhu cầu tình dục của mình, bọn lái buôn sẵn sàng
bỏ ra nhiều tiền. Đỗ Tam là một minh chứng tiêu biểu. Trọng Quỳ “hằng ngày cùng người lái buôn
là Đỗ Tam bê tha lêu lổng, Sinh thì thích Đỗ có nhiều tiền, Đỗ thì ham Sinh có vợ đẹp. Những khi
uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi dữ Sinh. Sinh đánh lần nào cũng được, thấy
kiếm tiền dễ dàng như thò vào túi mình lấy đồ vật vậy” [23,tr 22]. Cuối cùng để giữ gìn phẩm hạnh
của mình, Nhị Khanh đã tìm đến cái chết. Cho nên có thể khẳng định rằng: Đỗ Tam là tác nhân gián
tiếp gây ra cái chết cho Nhị Khanh và làm tan nát một gia đình. Không chỉ thế, bọn lái buôn còn là
những kẻ góp tay vào việc làm băng hoại đạo đức xã hội. Họ không chỉ cậy tiền để cướp vợ người
mà còn quan hệ bừa bãi. Trong Chuyện cây gạo, người lái buôn Trình Trung Ngộ quan hệ với một
cô gái không rõ góc tích và bỏ ngoài tay lời khuyên của bạn bè: “Bác ở chỗ quê người đất khách,
nên biết giữ mình thận trọng , sao nên giở hết gió giăng, quyến phường hoa liễu” [23,tr32 ]. Hai
người cùng nhau ân ái rất thõa mãn. Và Trình Trung Ngộ cuối cùng phải chết. Không chỉ dâm đãng
lúc ở trần gian mà ngay cả khi đã chết, xuống âm phủ anh ta vẫn còn “thân thể lõa lồ lại cùng nhau
cười đùa nô giỡn”[23,tr35].
Cho nên có thể khẳng định rằng: sự dâm đãng của Trình Trung Ngộ nói riêng và của tầng lớp thị
dân nói chung là một trong những nguyên nhân góp phần phá vỡ những chuẩn mực về đạo đức
phong kiến.
2. 3 Loại hình các nhân vật là hiện thân của tác giả:
2.3.1. Nhân vật là hiện thân của nhà văn:
Đây là một thành công lớn của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.
Trước đây với Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, nhà văn chỉ đơn thuần là người góp nhặt
những tích trong dân gian và kể lại cho người khác. Lúc này yếu tố sáng tạo chưa hề có, ý thức đưa
yếu tố cá nhân mà nhất là ý kiến riêng của nhà văn vào tác phẩm cũng chưa thấy xuất hiện. Chỉ đến
khi Thánh Tông di thảo ra đời người đọc mới bắt gặp ở đó một giọng điệu mới, thoát khỏi ảnh
hưởng thụ động của văn học dân gian. Và Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục được chào đón
rộng rãi khi có sự xuất hiện rõ nét của yếu tố cá nhân nhà văn. Đó chính là việc góp mặt của nhân
vật thứ ba, nhà văn đồng nhất với nhân vật và mang tâm trạng của nhân vật. Chính điều này đã làm
cho màu sắc chủ quan đậm đặc trong tác phẩm. Thông qua tác phẩm, nhân vật, người đọc có thể bắt
gặp bóng dáng nhà văn, hiểu được nỗi lòng, tâm sự của chính người tạo ra nó. Loại hình các nhân
vật này đã góp phần đưa chúng tôi đến nhận định: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục xứng đáng là những đại biểu ưu tú của thể loại truyền kì trong văn học trung đại. Với
những cách tân, đổi mới này truyện ngắn trung đại nước nhà ngày một tiến gần hơn đến văn chương
hiện đại.
2.3.2. Ý nghĩa của loại hình nhân vật – hiện thân của nhà văn - trong tác phẩm.
Như đã nói ở trên, loại hình nhân vật này là một trong những thành công bước đầu của thể loại
truyền kì nói riêng và thể loại truyện ngắn nói chung. Cho đến khi Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục và Lan Trì kiến văn lục trình diện trên thi đàn, người đọc mới nhận ra: văn học trung đại
cũng mang đậm màu sắc cá nhân. Tất nhiên với màu sắc ấy, các tác giả trung đại không thể làm
riêng thành phong cách cá nhân cho mình. Song ở một mức độ nhất định, đây là một trong những
đóng góp quan trọng của truyện truyền kì. Nhờ kiểu nhân vật này, nhà văn thông qua đó đã thể hiện
tư tưởng, tâm sự của riêng mình. Đồng thời điều này cũng giúp cho đứa con tinh thần của nhà văn
vượt qua được những tác phẩm tự sự cùng thời khác. Bởi lẽ những tác phẩm tự sự trước đó phần
nhiều chỉ đơn giản là chép lại các tích cũ. Dấu cá nhân vẫn còn mờ nhạt, thậm chí là thiếu vắng. Về
phương diện này, có thể khẳng định Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là
những tác phẩm gần với truyện ngắn hiện đại nhất.
2.3.2.1. Đề cao vai trò cá nhân và ngôi vị chí tôn nhà vua Lê Thánh Tông:
Một trong những nội dung được đề cập đến nhiều nhất trong Thánh Tông di thảo là nhà vua tự
đề cao ngôi vị của chính mình. Có thể thấy với những đóng góp cho sự hưng thịnh của triều đại, của
đất nước, Lê Thánh Tông thật sự xứng đáng với việc tự khẳng định. Trước hết đó là niềm tự hào của
nhà vua về sự cai trị sáng suốt của mình đã đem lại những thành quả tốt đẹp. Trong Nhị nữ thần
truyện, tác giả đã viết: “Sau khi đại định, khách bộ hành sung sướng đi trên đường sá của ta, người
ta buôn bán vui mừng được bày hàng hóa ở chợ của ta”.[117,tr23, 24]. Đây không chỉ là niềm vui
của nhân dân về cuộc sống no đủ mà còn về một đất nước hòa bình tự chủ, không còn bóng giặc
ngoại xâm. Trên đất nước độc lập, con người cũng tự do du lãm những cảnh đẹp của non sông: “Ta
yêu gương nước phía tây thành tám cảnh thanh quang, tìm dấu thiêng của hồ tinh, ngắm đường bay
của sông Cầm. Đêm thanh trăng sáng, thường cởi thuyền nhỏ đi chơi”. [117,tr. 130]. Cuộc sống có
thanh bình, có ấm no, nhà vua mới có được tâm trạng vui vẻ, thoải mái để dạo chơi như vậy.
Xuất phát từ chính vai trò nhà vua, Lê Thánh Tông đã đề cao ngôi vị chí tôn của mình. Có thể
thấy quan điểm chính thống của Nho gia ấy trong Ngọc nữ về tay chân chủ: “Tài trí trong thiên hạ
đều là tài trí của một người (....) Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời, oai trùm biển rộng, nào ai
dám chống. Thiên tử trị bên ngoài, hoàng hậu trị bên trong; hải vật sơn hào, hưởng những vị quý
ngon trong thiên hạ, so với bọn một gáo nước đã khoe nhiều, một nắm đá đã khoe lơn, khác nhau
biết là chừng nào?” [117,tr. 87,88]. Ở đây con người đứng đầu đất nước hiện lên thật hiên ngang,
oai nghiêm. Và người đó không ai xa lạ chính là Hoàng đế Lê Thánh Tông.
Bên cạnh đó tác giả còn tuyệt đối hóa vai trò nhà vua với khả năng giải quyết mọi công việc của
đất nước. Khả năng ấy nói lên tài trị vị đất nước của Lê Thánh Tông: “Khi còn ở Đông cung, một
hôm đi xem phong tục thôn quê, thấy anh điếc anh mù cãi nhau tranh vị thứ trên dưới, từ khi mặt
trời mới mọc đến lúc đứng bóng mà chưa ai chịu ai cả. Ta sai người bắt cả hai anh lại hỏi rằng:
- Các ngươi đều là người tàn tật, còn đáng kể gì vị thứ cao với thấp. Sao cứ chê kém
khoe hơn, đã lâu không quyết định được như thế? Bây giờ mỗi người bày tỏ ý mình, ta sẽ phán xử
cho” [117,tr78]. Nhà vua đã tạo ra cơ hội để phô bày tài năng của mình. Khi cuộc cuộc tranh cãi
đang diễn ra đến cao trào thì Lê Thánh Tông đứng ra phán xử: “Ngạn ngữ có câu “Trăm nghe
không bằng một thấy:
Thư nói nhĩ mục, Dịch chép khảm ly
Thánh nhân đặt chữ, trước sau tinh vi
Giác quan giữ lửa, quan coi một ty
Liêm lại đời Hán, tai điếc hại gì.
Còn như chú mù, thành nghề nhưng vẫn là bậc dưới, chỉ là tiểu đạo, có chút khả quan, nhưng
người quân tử không làm” [117,tr.81]. Đấy không chỉ là lời phán xét, mà còn là lời giáo huấn. Khi
xem xét một sự vật, hiện tượng, con người không thể nhìn nhận ở bề ngoài mà phải đi sâu khám phá
bản chất bên trong. Tác giả nhắc lại kinh nghiệm mà cha ông ta đã để lại: “Trăm nghe không bằng
một thấy”. Những phán quyết, đánh giá, kết luận chỉ đúng đắn và có giá trị khi con người tận mắt
chứng kiến, nhìn thấy vấn đề, hiện tượng. Sẽ cực đoan, phiến diện nếu chỉ nghe kể lại mà không
nhìn thấy, không xem xét tận gốc rễ của nó. Bài học này cần thiết và có ý nghĩa đầu tiên với chính
bản thân tác giả. Bởi lẽ những quyết định của nhà vua sẽ liên quan đến sự sống còn của Tổ quốc. Do
vậy hơn ai hết, trước mọi việc người làm vua phải xem xét tận nơi chứ không nên và không thể tin
vào bọn cận thần. Quan niệm này cho thấy sự anh minh sáng suốt của người đứng đầu thần dân như
Lê Thánh Tông.
Không chỉ biết cách phán xét sự việc đúng đắn, nhà vua còn tự khẳng định khả năng trừ gian
diệt ác của chính bản thân. Điều này cũng cho thấy quan niệm của tác giả: Một vị vua anh minh có
khả năng nhìn thấu suốt mọi vật trong trời đất này. Quan niệm này được thấy rõ nhất là Thử tinh
truyện. Trong lúc cả triều đình đang loạn lên vì không tìm ra cách xử lý để phân biệt đâu là người
chồng thật sự của cô gái, thì Lê Thánh Tông đã nghĩ đến trách nhiệm đứng đầu đất nước của mình:
“Mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét cho ra cái vụ án này, thì bố mẹ người thêm một
đứa con ma. Vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là ma không khỏi sau này sinh ra tai vạ”
[117,tr.165]. Trách nhiệm, bổn phận ấy là của nhà vua song dù sao vua cũng là một người trần mắt
thịt sao có thể một mình dễ dàng chống lại ma. Chính vì vậy vua đã nhờ sự giúp đỡ từ phía các lực
lượng siêu nhiên thần thánh: “Thế rồi ta thắp hương cầu khấn nhờ Đổng Thiên Vương giúp sức. Hơi
nước bốc lên, thiên vương nhập vào con đồng bảo ta rằng: “Ma này là giống tinh chuột đấy. Chuột
già lâu năm ăn tinh khí của các vật , thành giống quỷ quái này. Lửa không hại được, phù chú không
trừ được (.....). Bèn lấy hương thư phù vào hai đạo bùa, sai dán vào sau lưng hai người ấy. Dẫu ma
muốn chạy thoát cũng không được nữa” [117,tr.165,166]. Cùng nội dung với Thử tinh truyện, Mai
Châu yêu nữ truyện là chuyện kể về việc tiêu diệt một yêu nữ: “Khi còn ở tiềm để, ta biết việc ấy,
bèn viết thư sai người đến đền Phù Đổng mượn gươm của Thiên Vương để trừ nó. Nữ yêu kinh sợ,
ẩn trong cỏ rậm ven sông đầm, không dám tác quái như trước nữa” [117,tr.10]. Lại một lần nữa,
nhà vua đã nhận được sữ giúp đỡ của các thế lực thần linh. Thông qua hai truyện trên nhà vua cũng
muốn khẳng định uy quyền của bậc “chân chủ” trước muôn vật, thiên nhiên và trước cả ma quỷ,
thánh thần. Uy quyền ấy một lần nữa được thể hiện trong Mộng ký. Ở đây những oan hồn tự tìm đến
để bày tỏ nỗi oan khuất với nhà vua: “Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua
yêu dấu. Không may vận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lực bắt trộm, định bán chị em thiếp cho
người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em
thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May sao nhà vua đi tuần qua đây, có
lòng thương xót mọi người nên chị em thiếp liều chết đến dâng thư, mong được ra ngoài hang tối,
thấy bóng mặt trời” [117,tr.147]. Trong truyện này, nhà vua nhận được sự giúp đỡ của một vị tiên
thổi địch để giải được oan khiên đó.
Như vậy có thể thấy rằng thần tiên đã đóng vai trò mang phép màu đến cho nhà vua. Nhờ đó vua
mới có khả năng giải quyết mọi công việc, mọi nỗi oan khiên ở đời. Điều này ngầm nói lên đức độ
của nhà vua. Nhờ vua trị nước hợp lòng dân ý trời nên mới được trời giúp đỡ. Từ chỗ đề cao vai trò,
ngôi vị chí tôn của nhà vua, Lê Thánh Tông đã gián tiếp khẳng định uy quyền tuyệt đối của người
đứng đầu nhà nước phong kiến.
Thánh Tông di thảo đã mở đầu cho sự cách tân của thể loại truyền kì. Sự xuất hiện của nhân vật
thứ ba – nhân vật hiện thân của nhà văn đã cho thấy rõ quan niệm về vai trò, trách nhiệm và quyền
năng của một ông vua chân chính. Với sự góp mặt của mình trong tác phẩm, nhà vua đồng thời cũng
khẳng định uy quyền của trước mọi thế lực siêu nhiên.
2.3.2.2. Đề cao cái tôi ẩn sĩ, lánh đời:
Nếu Thánh Tông di thảo chủ yếu ngợi ca người đứng đầu đất nước thì Truyền kì mạn lục
lại thấm đẫm tư tưởng ẩn dật của nhà nho. Một trong những vấn đề được các nhà nho đặt ra khá
bức thiết là trách nhiệm của kẻ sĩ. Tầng lớp này luôn luôn suy nghĩ về cách sống, về trách nhiệm, về
ý nghĩa cuộc sống, cả những lạc thú và hạnh phúc ở đời. Giải đáp cho những băn khoăn ấy các nhà
nho đi đến lựa chọn trong hành động giữa “xuất” và “xử”, ra làm quan hay lui về ẩn dật. Bao giờ
trong sự quyết định họ cũng đặt ra mục tiêu cao nhất cho mình: dù thế nào cũng phải giữ lấy đạo
đức và nhân cách để không hổ thẹn với lòng mình. Chính vì vậy, trong xã hội mà kĩ cương đạo đức
không còn thì nhà nho bao giờ cũng chọn con đường lui về ẩn dật. Hình ảnh nhà nho ẩn dật đã thể
hiện rõ chân dung nhà văn Nguyễn Dữ.
Mô hình chung của kẻ sĩ thời trung đại:
↑ đỗ đạt → làm quan → từ quan
Học→ thi cử ẩn dật. [132,tr 43]
↓ không đỗ đạt → các loại “thầy”
Như đã nói ở trên, nhà nho trong mọi thời đại bao giờ cũng đứng ở ngã ba đường để lựa chọn.
Một là con đường ra làm quan tốt phục vụ cho dân cho nước - liệu có thành công không trong xã
hội đầy rối ren, ô trọc thời Nguyễn Dữ? Hai là con đường hoạn lộ nhơ nhuốc, làm quan để vun vén
cho lợi ích cá nhân, nhũng nhiễu nhân dân. Từ bỏ tất cả, lánh đục về trong, giữ lấy nhân cách của
mình là con đường thứ ba. Nguyễn Dữ đã chọn con đường thứ ba ấy cho cuộc đời mình.
Cho đến nay, những tài liệu liên quan đến thân thế và cuộc đời Nguyễn Dữ vẫn còn rất ít. Dù
vậy với Truyền kì mạn lục, người đọc phần nào thấy được tâm trạng bất mãn của ông. Đó cũng là
tâm trạng chung của sĩ phu thời bấy giờ - chán ghét cảnh thối nát nơi triều đình Lê – Mạc. Là một
người có tài nhưng lại chủ trương xuất thế, tất nhiên là Nguyễn Dữ có lý do của mình. Đó là lý do từ
xã hội, từ chế độ phong kiến đương thời. Câu chuyện của đền Hạng Vương là tác phẩm mở đầu cho
Truyền kì mạn lục, đồng thời cũng là truyện mở đầu cho lý tưởng sống của nhà văn. Tác giả đã
mượn lời quan thừa chỉ Hồ Tôn Thốc trong việc phê phán Hạng Vũ để ám chỉ những kẻ lộng quyền:
“Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không
phải ở bạo. Nhà vua chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức....Cứ những việc của nhà
vua làm thì được lòng người chăng?” [23,tr11]. Lời phê phán khiến người đọc không thể không
nghĩ đến Mạc Đăng Dung – kẻ đã dùng bạo lực để sát hại những người hiền đức lúc bấy giờ. Không
dừng ở lại đó, tác phẩm còn như một bản cáo trạng buộc tội chung cho tất cả các triều đại phong
kiến mục ruỗng, thối nát. Nhà văn M. Tkachov, trong bài viết “Bậc thầy của những chuyện kì diệu
sáng tạo từ đất Hải Dương”, giới thiệu bản dịch Truyền kì mạn lục ở Liên Xô năm 1974 đã có
những ý tưởng tương tự: “Thế có nghĩa là, không phải chỉ có họ Mạc và vương triều của họ trở
thành đối tượng tố cáo của Nguyễn Dữ, ông đã suy tưởng về những phạm trù của thời đại mình,
không phân thời đại đó thành triều đình này hay triều đình khác. Và những ông vua triều nhà Hồ
được Nguyễn Dữ trình hiện không đơn giản chỉ là sự thể hiện bóng bẩy những khuôn mặt cụ thể nào
đấy, mà là hình ảnh khái quát của giới “cầm quyền hủ bại”. Việc xây dựng những hình tượng này đã đánh dấu một bước mới trong sự phát triển văn xuôi Việt Nam”[131,tr191].
Ở một khía cạnh khác của Truyền kì mạn lục, Chuyện tướng dạ xoa lại là tác phẩm nói đến tính
chất thiếu kỷ luật ở xã hội lúc ấy. Tác phẩm tưởng như chỉ nói đến chuyện quỷ thần sống vô tổ
chức, vô kỷ luật và tham nhũng. Song thực chất là tác giả đang nói đến một xã hội rối ren, hỗn độn,
xã hội mà ở đó kỷ cương không được thiết lập: “Các ngươi không được coi khinh mệnh lệnh, không
được quen thói dâm ô, quấy quắc để làm hại mạng của dân, ban ngày không được giả hình, ban
đêm không được kết đảng” [23,tr 224]. Lời phát ngôn của nhân vật nói lên quan điểm của Nguyễn
Dữ: Ở mọi thời đại kỉ cương, phép nước bao giờ cũng cần được thiết lập để tệ quan liêu, tham
nhũng không có đất dung thân. Bởi lẽ nó sẽ như những con sâu, con mọt đục khoét, đào mòn ngân
khố của nhân dân. Cho nên có thể khẳng định: bài học này có ý nghĩa đối với mọi thời đại.
Nhẹ nhàng, kín đáo song không kém phần sâu sắc là tất cả những gì mà Cuộc nói chuyện thơ ở
Kim Hoa mang lại cho độc giả. Tác phẩm tưởng chừng như chỉ dừng lại ở chỗ bình thơ, sáng tác
văn chương. Nhưng đằng sau đó còn có những bí mật về triều đại mà họ đã từng chứng kiến. Tác
phẩm chép rằng: “ Tôi thờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại thờ đức Hiển Tông, nghĩa kết vua tôi,
nhưng tình thật như cha con vậy. Không ngờ vì thế mà những kẻ hiển bạc, bày chuyện nói xằng,
thường làm những câu thơ mỉa giễu” [23,tr 216]. Hay là ở đoạn “xưa nay những người trinh liệt bị
ngòi bút trào phúng làm cho bực mình biết bao nhiêu mà kể” [23,tr216- 217]. Từ cuộc trao đổi này,
tác giả đã phê phán những kẻ xu nịnh, giảo quyệt, đặt điều nói xấu người khác ở những thời đại
trước. Mượn xưa nói nay, tác phẩm đã đạt được mục đích của nhà văn: phê phán những hạn chế của
xã hội đương thời. Khác với Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa,Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang lại
là cuộc đấu trí giữa hai con vật vượn và cáo biến thành người với vua Trần Phế Đế. Trong đó con
cáo nói với Hồ Quý Ly rằng: “Đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân không phải thời,
giày trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt
không phải lễ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá, để khiến người và vật được bình
yên[23,(tr170 ]. Tác phẩm xây dựng cuộc trò chuyện giữa vật với người, tưởng như chỉ nhằm mục
đích bảo vệ các loài động vật ở rừng. Song đằng sau cuộc trò chuyện ấy lại là những vấn đề mang ý
nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là tiếng nói phê phán thói xa hoa hưởng thụ làm tổn hại sứ người sức của
nhân dân của vua quan lúc bấy giờ.
Lý tưởng cao đẹp nhất của nhà nho khi ra làm quan là vì nghĩa, luôn luôn tự tìm những cơ hội
nhằm giúp ích cho đời. Đấy cũng là quan điểm rèn dũa quan lại theo tinh thần của Nho gia. Tuy
nhiên ở những thời đại suy đồi, nhân cách kẻ sĩ tha hóa, người làm quan lại trở thành mối hại cho
dân thật đáng xấu hổ. Vì thế các nhà nho chọn con đường ẩn dật, xem đó là cách để giữ được sự cao
khiết. Mượn xưa nói nay, mượn chuyện người nói chuyện mình là dụng ý khá rõ của tác giả qua
Chuyện đối đáp người tiều phu núi Na. Tác phẩm nói về việc tiếm ngôi của Hồ Quý Ly (1400).
Thời đại Nguyễn Dữ cũng vậy, năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Các nhà Nho theo tư
tưởng chính thống lúc bấy giờ không thể đồng tình với hành động ấy. Nguyễn Dữ đã lấy giai đoạn
lịch sử về Hồ Quý Ly để ám chỉ về Mạc Đăng Dung lúc này. Rõ ràng việc đi ở ẩn là sự phủ định kẻ
đương quyền. Nhân vật trong Chuyện người tiều phu núi Na không chịu “đắm mình vào trong cái
triều đình trọc loạn”, “tham cầu những cái ngoài thân mình” và “để xấu hổ với tiền hiền”. Chọn
con đường ẩn dật vì không muốn danh lợi, tiền bạc che khuất mặt. Ông triều, hay chính tác giả đã
không chịu cúi đầu quỳ gối để mưu cầu công danh, phú quý. Từ chối xuất chính còn là cách để tránh
xa những hành vi đồi bại, những tội lỗi của nhà nước phong kiến đang mục nát, xuống cấp trầm
trọng. Và vì vậy ở ẩn là cách tốt nhất để giữ gìn phẩm tiết của kẻ sĩ.
Chọn con đường ẩn dật không chỉ vì bất mãn với kẻ cầm quyền mà phần nào còn thể hiện ước
nguyện gắn bó đời mình với núi rừng, thiên nhiên. Nhìn chung người xử sĩ thời nào cũng có. Họ tìm
thấy thiên nhiên là nơi nuôi dưỡng và thanh lọc tâm hồn con người. Về với thiên nhiên là về với bạn
tri âm tri kỉ. Nhà nho trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na là một minh chúng tiêu biểu
cho quan niệm sống hài hòa cùng thiên nhiên mang đến sự an lạc trong tâm hồn:“Ta là kẻ ẩn dật
dân trốn đời, ông lão già lánh bụi gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió
rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là rượu nai tôm cá,
quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hen đơn, nằm mây mà ngủ khói, múc khe
mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, là vua quan nào”. [23,tr. 110]
2.3.2.3. Lý tưởng sống, thái độ sống của người ẩn sĩ:
Trả ấn từ quan về với cuộc sống thiên nhiên là cách chọn của những kẻ sĩ bất mãn thời cuộc.
Con đường ấy thoạt nhìn tưởng như tiêu cực nhưng xét kĩ thì ngược lại. Khi xã hội nhiễu nhương
mà bản thân kẻ sĩ không thể thay thời đổi thế thì từ quan là một hành xử tối ưu. Bởi lẽ nếu không từ
quan họ buộc phải phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị thối nát, hà hiếp nhân dân. Hành động
này trái hẳn với chí nguyện làm trai của họ. Vì vậy rời xa xã hội ô trọc ấy để giữ tâm hồn trong
sạch, tinh khiết là đúng lòng người, hợp ý trời.
Với tư tưởng “an bần là cao thượng, mưu lợi là nhục nhã”, nhiều nhà nho đương thời đã trả ấn,
từ quan tìm về với cuộc sống dân dã. Khi chọn con đường ẩn dật, cũng có nghĩa là các nhà nho đã tỏ
rõ một thái độ đối với triều đình. Người đứng đầu đất nước lúc này, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ
hiện lên thật sinh động, rõ nét: “thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dụng cung
Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hòe Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng
như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ
dâng lời ngay thì phải giết đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết” [23,tr 142]. Vua chúa
như vậy, quan lại cũng cậy quyền, dựa thế áp bức dân lành. Đó là trường hợp của Lý Hữu Chi trong
chuyện Lý tướng quân, một tên quan tham lam, hung tợn, hiếu sắc. “Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân
vật Lý Hữu Chi trở thành hình tượng điển hình của bọn quan lại lúc bấy giờ”. [23,tr. 205]. Hoặc
trong Chuyện nàng Túy Tiêu, Thân trụ Quốc hiện lên nham hiểm và thâm độc. Đó là một tên quan
không chỉ cướp vợ người khác mà còn “chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy
chọt, lúc nào cửa cũng rập rập người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy”.
[23,tr165] Như vậy “Nguyễn Dữ đã suy nghĩ có tính phạm trù về thời đại mình qua hàng loạt những
hình tượng điển hình của tầng lớp thống trị đương thời với một đánh giá không thiên vị và nghiêm
khắc”. [131,tr192]. Từ chỗ phản ánh một cách trung thực thời đại mình, Nguyễn Dữ đã từ chối
không hợp tác dưới triều đại ô trọc đó.
Hình tượng người nho sĩ ẩn dật trong Truyền kì mạn lục xét về một phương diện nào đó chính là
“hình ảnh của bản thân Nguyễn Dữ và cũng là một trong những hình tượng cơ bản của tập truyện”
[123,tr202]. Ở đây Nguyễn Dữ rời bỏ chốn quan trường nhơ nhớp với một thái độ bất hợp tác. Cũng
giống như người tiều phu khi được mời ra giúp triều đình đã một mực từ chối và nhất định không
ngồi dưới trướng của vị quan đương thời: “Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng
lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong cái trào đình trọc loạn, lại con toan kéo người khác để cùng
đắm với mình”. [23,tr 144]
Cùng quan niệm ấy là Từ Thức trong chuyện Từ Thức lấy vợ tiên. Nhân vật Từ Thức đã phát
biểu một quan niệm sống: “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi
danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy” [23,tr.101]. Đồng
thời với việc phê phán, tố cáo xã hội cũng là cách bày tỏ thái độ bất hợp tác với triều đình.
Quy ẩn là con đường khép lại cánh cổng đến với lợi danh song nó lại mở ra thênh thang cho
khát vọng sống và giữ gìn nhân cách của kẻ sĩ. Từ Thức từ quan vì không muốn bán nhân cách bằng
năm đấu gạo. Người tiều phu từ chối chốn quan trường vì nơi đó ông không thể giữ mình trong
sạch. Vẫn biết rằng ở ẩn không ra làm quan không phải là một phương án tối ưu cho những nhà nho
muốn giúp dân giúp nước. Nhưng nếu chọn giữa xuất chính mà hại dân và quy ẩn mà giữ mình
trong sạch, không làm tổn thất cho dân thì đó cũng là một cách hành xử của người quân tử. Không
vì danh lợi mà đánh mất nhân cách, đạo đức của mình là cách hành xử đáng để được người đời
ngưỡng mộ, tôn kính.
Tuy nhiên ở ẩn không có nghĩa là các nhà nho rũ bỏ tất cả cuộc sống này. Trong cảnh sống tự
do, nhàn lạc họ vẫn nặng lòng với quê hương, với đất nước. Điều đó cho thấy tinh thần trách nhiệm
của nhà nho với cuộc đời. Từ Thức mặc dù sống trong cảnh tiên thơ mộng, lãng mạn nhưng “những
đêm sương gió thổi, bóng trăng dòm qua cửa sổ,tiếng thủy triều nghe văng vẳng đầu giường, đối
cảnh chạnh lòng một nỗi buồn bâng khuâng quấy nhiễu khiến không sao ngủ được”. [23,tr 111]
Chính vì nỗi nhớ quê hương ấy Từ Thức đã từ biệt cõi tiên để trở về quê cũ.
Người ẩn sĩ sống xa chốn thị thành, gắn bó với rừng núi nhưng những chuyện xảy ra trong dân
gian thì đều biết. Đó là hình bóng của lão tiều trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na:
“hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu, cốt được no
say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông giả trẻ con dưới đồng bằng, lại nói chuyện những
việc trồng dâu trồng gai một cách vui vẻ” [23,tr132]. Người ẩn sĩ không chỉ nhớ quê, bàn chuyện
trồng trọt mà họ còn tỏ ra am hiểu thời cuộc:“ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không
vào đến cung đình nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bấy giờ là người như thế nào. Ông
ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục” [23,tr 142]. Và đi đến kết luận: “chưa thấy ai biết những kế
lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả”.[23,tr.143]. Từ đó có thể khẳng định: nhà văn mang thân
mình về ẩn cư chốn lâm tuyền nhưng tâm trí vẫn luôn thao thức cùng xã tắc. Con đường ẩn dật của
Nguyễn Dữ do đó là một con đường tích cực.
2.3.2.4. Nỗi lòng với những kiểu người “thấp cổ bé họng” trong xã hội:
Nếu đối tượng phê phán chủ yếu của Nguyễn Dữ là vua chúa, quan lại, thì Vũ Trinh lại ít thấy
nhắc đến đối tượng này. Phải chăng với những trải nghiệm trong chính cuộc đời mình, nhà văn đã
nhận ra một sự thật nghiệt ngã rằng: dù có phê phán hay đả kích thì bản chất của tầng lớp thống trị
thời ấy vẫn không thể nào thay đổi. Một cuộc va đập mạnh của lịch sử đã làm Vũ Trinh chán ngán
trước những gì mình đã từng tôn thờ. Nên trong Lan Trì kiến văn lục, người đọc khó tìm thấy hình
ảnh vua quan, có chăng cũng chỉ rải rác ở vài ba truyện mà thôi. Tác phẩm đưa người đọc về với
những con người thân thuộc gần gũi: một thầy đồ dạy học bên lũy tre làng, một người đàn bà góa
chồng, một đứa trẻ bị bỏ rơi trong rừng, một chàng lái đò say đắm trong tình yêu.... Trong Lan Trì
kiến văn lục không thấy hình ảnh nhà văn xuất hiện một cách trực tiếp nhưng tiếp xúc với tác phẩm
vẫn thấy bàng bạc những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm vào trong nhân vật. Người đọc vẫn
nhận thấy khuôn mặt của nhà văn ẩn hiện sau mỗi nhân vật trong truyện như để an ủi, nâng đỡ, chia
sẻ với nỗi đau của họ. Chính vì vậy tác phẩm của Lan Trì ngư giả không ồn ào mà cứ lặng lẽ, âm
thầm chiếm lĩnh tâm hồn mỗi con người.
Vũ Trinh xuất hiện khi trào lưu văn học nhân đạo đang thịnh hành và trở thành trào lưu lớn nhất
Việt Nam thế kỉ XVIII. Giai đoạn văn học thế kỷ XVIII, nửa đầu XIX đã khẳng định hàng loạt
những tên tuổi: Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,
đặc biệt đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh tuy chưa được
biết đến nhiều như những tác phẩm trên nhưng cũng đã có những đóng góp không nhỏ. Quy luật cho
thấy khi một hiện tượng phát triển đến đỉnh cao nhất nó sẽ đi vào hồi kết thúc. Cho nên văn xuôi tự
sự với những Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái như những thử nghiệm đầu tay đã phát triển đến
đỉnh điểm với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, để rồi trước lúc cáo chung nhường chỗ cho
thể loại khác, Lan Trì kiến văn lục đã kịp làm mới cho thể loại truyện kì. Tác phẩm của Vũ Trinh
mặc dù theo tên gọi là ghi lại những điều tai nghe mắt thấy nhưng được xây dựng với những mô tip
lạ của thể loại truyền kì nên nó gần gũi với truyện truyền kì hơn là loại sách cùng tên với nó.
Như đã nói ở trên, người đọc thấy được bóng dáng của Vũ Trinh sau mỗi câu chuyện tuy nhà
văn không hiện lên cụ thể ở một nhân vật nào. Truyện Vũ Trinh vừa mang tính chất giáo huấn vừa
đậm màu sắc nhân văn. Đa phần nó không dừng lại ở việc tự sự đơn thuần, mà còn chứa đựng cách
nhìn, tư tưởng tình cảm của nhà văn nên giàu yếu tố trữ tình. Ở những truyện viết về phụ nữ, tác giả
lên tiếng đòi lại quyền đáng được tôn trọng cho giới nữ. Chỉ cần có tài năng và phẩm giá, người phụ
nữ xuất thân từ tầng lớp nào, làm nghề gì trong xã hội họ cũng cần được tôn trọng. Những nhân vật
nữ của Vũ Trinh thường xuất thân tầm thường: một cô ca kĩ (Cô ca kĩ họ Nguyễn), một người con
gái mắc bệnh hiểm nghèo (Thánh báo ân)...Viết về họ, Vũ Trinh thể hiện mối đồng cảm sâu xa
trước những nỗi thống khổ mà họ phải gánh chịu từ gia đình đến xã hội. Mỗi câu chuyện đều cho
thấy tấm lòng tràn đầy yêu thương và thái độ trân trọng, nâng niu đối với những phẩm chất tốt đẹp
của người phụ nữ. Nhưng làm thế nào để người phụ nữ sống hạnh phúc, số phận của họ sẽ đi về đâu
cũng chỉ là những câu hỏi bỏ lững không tìm ra lời đáp. Ước mơ về một xã hội công bằng trong đó
giới nữ được sống hạnh phúc cuối cùng cũng chỉ là ước mơ mà thôi. Những người phụ nữ trong tác
phẩm đều ra đi, và cái chết là kết quả cuối cùng. Tuổi xuân, tài năng, phẩm chất của họ như những
khối pha lê trong suốt vỡ tan tất cả. Tình yêu, khát vọng hạnh phúc mà họ vun bón cuối cùng cũng
chôn xuống mộ sâu. Người đọc tác phẩm nhận ra không có một viễn cảnh tương lai nào dành cho
người phụ nữ. Tuy nhiên Vũ Trinh đã mang đến cho văn học trung đại hơi thở của cuộc sống hiện
đại qua truyện Phu nhân Lan quận công. Nhân vật ở đây mang những tính cách hiện đại: người cha
độ lượng, không phân biệt đẳng cấp, không ép buộc con gái làm theo ý mình. Còn cô gái không chỉ
dịu dàng, kiên nhẫn mà còn có bản lĩnh. Họ đã làm nên hạnh phúc cho chính mình. Tác phẩm đã
mang lại bài học: hạnh phúc không thể mua bằng tiền mà phải được tạo nên bằng chính bàn tay,
khối óc và trái tim của con người.
Nếu Lê Thánh Tông hiện lên qua nhân vật “ta”, Nguyễn Dữ là hình bóng của người ẩn sĩ thì Vũ
Trinh lại ẩn sau khuôn mặt của nhiều nhân vật. Đó là những nhân vật mà nhà văn đã được gặp từ
trong dân gian và sau mỗi câu chuyện của họ là tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Ví như truyện Vũ
Quỳnh kể về câu chuyện được gặp tiên của một anh học trò có tài song kiêu ngạo. Đằng sau câu
chuyện là một lời cảnh tỉnh của tác giả: người có tài là đáng quý nhưng đừng kiêu ngạo. Hay truyện
Sinh đẻ kì lạ: một phụ nữ nông dân có thai đến tháng sinh thì bị chết, nhà nghèo không sắm được áo
quan, phải gói ghém rồi chôn tạm ngoài đồng. Dưới mồ chị đã sinh con, không có sữa phải đem tiền
âm phủ đi mua bánh cho con. Phát hiện, gia đình đào mộ cứu được con, đứa bé miệng vẫn còn
vương vụn bánh và cuống nhau còn dính với thân thể người mẹ đã bắt đầu thối rữa. Tác phẩm bề
ngoài chỉ là kể lại một câu chuyện kì lạ song đằng sau đó thấm đẫm một tình yêu thương ấm áp của
nhà văn dành cho con người.
Đặc biệt nhân vật thể hiện quan niệm, tình cảm của nhà văn cũng được gửi gắm nhiều qua hệ
thống nhân vật trẻ em. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam nhân vật trẻ em lại xuất hiện với
tầng số cao đến vậy. Và nhóm nhân vật “nhí” cũng được Vũ Trinh dành nhiều ưu ái: một em bé bị
cha bỏ vào rừng để lấy vợ khác; một em bé tuy sống bình thường song mang trên mình chứng tích
đứa con của rắn; một em bé hai lần gặp bất hạnh, tám tuổi đã chết, khi được đầu thai làm người lại
rất đau khổ vì vẫn nhớ về kiếp trước của mình. Đọc những truyện này người đọc không thể nào
quên số phận, cuộc đời của các em. Nhà văn dường như muốn gửi đến người đọc một thông điệp: xã
hội cần quan tâm đến những kiếp người đáng thương nhất là trẻ em.
Nhìn chung loại hình nhân vật là hiện thân của nhà văn đã thể hiện những tâm sự, nỗi lòng và
bộc lộ một cách gián tiếp hình ảnh của nhà văn. Đặc điểm này đã giúp cho Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục mang đậm màu sắc chủ quan, đồng thời loại hình đưa thể
loại truyền kì tiến xa hơn các tác phẩm trước đây.
2.4. Loại hình nhân vật các con vật:
2.4.1. Một số hình ảnh con vật được đề cập đến trong các tác phẩm:
2.4.1.1. Số lần xuất hiện:
STT TÊN TÁC PHẨM CON VẬT
01 Truyện dòng dõi con thiềm thừ +
02 Phả ký sơn quân +
03 Bức thư con muỗi +
04 Phụ lục +
05 Trận cười ở núi Vũ Môn +
06 Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang +
07 Đứa con của rắn +
08 Con hổ có nghĩa +
09 Cá thần +
10 Khỉ +
11 Con hổ hào hiệp +
12 Rắn thiêng +
13 Gấu hổ chọi nhau +
14 Con giải +
15 Con hổ nhân đức +
2.4.1.2. Khái quát chung:
Nhìn bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy loại hình nhân vật con vật xuất hiện trong ba tập truyện
không nhiều, trong số 84 tác phẩm thì chỉ có 15 là viết về con vật. Hình ảnh con vật chủ yếu xuất
hiện trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục còn trong Truyền kì mạn lục thì kiểu nhân vật
này hạn chế hơn. Tuy vậy loại hình nhân vật các con vật cũng mang đến những thông điệp cho
người đọc. Đó là những bài học mang tính chất giáo huấn, lấy hình ảnh con vật để nói đến đời sống
loài người. Có thể khẳng định rằng: tính ngụ ngôn được thể hiện ở loại hình nhân vật này rõ nhất.
2.4.2. Những bài học nhằm mục đích giáo huấn con người:
2.4.2.1. Bài học luân lý đạo đức:
Hình ảnh con vật trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục xuất hiện không phải chỉ để
miêu tả mà đó là những phương tiện nghệ thuật chuyên chở dụng ý của nhà văn. Những bài học đạo
đức – luân lý đã được các tác giả truyền kì chuyển tải qua những câu chuyện ngụ ngôn về con vật.
Dưới hình thức kín đáo này, nhà văn đã hướng đến mục đích chính là giáo huấn, răn dạy con người.
Trong Thiềm thừ miêu duệ ký thông qua câu chuyện con cóc và con ếch, Lê Thánh Tông đã nêu trực
tiếp bài học luân lý, đạo đức dành cho con người: “Ôi thế mới hiểu rõ câu nói của tiên triết:“Phàm
những người ít lòng tham dục mà vẫn bảo toàn được tấm thân, xưa nay cũng hiếm”. Thật là đúng
vậy.” [117,tr 1]). Từ nhân vật con ếch, tác giả muốn nhắn nhủ: Phàm những kẻ lòng tham vô độ thì
cuộc sống sẽ không được an toàn, bình yên. Cùng một hoàn cảnh song những kẻ có lòng tham thì
cuộc đời sẽ bất hạnh. Đây là một hồi chuông cảnh tỉnh đã đánh vào lương tri của con người. Con
người cần nhất là lối sống trung thực, không tham lam, không vướng vào “sân si”. Sơn quân phả đã
vẽ lên hai hình ảnh trái ngược nhau về bản chất trong bức tranh rừng núi: hổ thiện, hổ ác. Qua đó tác
giả lấy việc hổ ác càn rỡ, bạo ngược ra khỏi nơi ẩn náu là cắn người sẽ bị trừng trị để răn đe những
kẻ có lòng dạ như hổ dữ. Đứng trên lập trường của một nhà vua, Lê Thánh Tông dùng hình ảnh “hổ
ác, hổ đẻ, hổ nằm” để ngầm chỉ bọn quan lại hung ác, bạo ngược: “còn như Súng Hầu thì gièm Văn
Vương, Dương Hóa thì trộm rùa lớn, nhãng đề phòng thì phá cũi ra, làm mộng gỡ để ăn cùng bọn;
hổ đẻ, hổ nằm đều có tiếng là hổ dữ. Đó là hổ ác” [117,tr 33]. Ca ngợi sự dũng mảnh, lòng nhân
nghĩa của hổ thiện, tác giả viết: “Lại như giúp Chu Tuyên Vương bình định Hoài Nam, làm ngũ
tướng quân khôi phục nhà Hán, giữ đất Ba Thục để trông vào Trung Nguyên, giúp Tần Mục Công
làm bá chủ chư hầu. Tống Thái Tông giống được bước đi mà làm chủ thiên hạ. Hán Ban Siêu giống
được cái đầu mà được phong làm hầu muôn dặm. Đó là loài hổ thiện” [117,tr 32 – 33]. Đấy là
tượng trưng cho những dũng tướng, những vị quan làm những điều tốt, điều thiện có lợi cho dân cho
nước. Đẩy tư tưởng của tác phẩm lên cao hơn, không dừng lại ở chỗ phê phán loài hổ dữ - bọn tham
quan, lũng bại, tác giả còn cho rằng: “Sơn quân (....)gặp người thì cắn hại. Bởi vậy người ta phải ở
sàn cao và đóng kín cửa để lánh hại, đặt cạm, giặng lưới để trừ nó đi” [117,tr 34]. Điều này chỉ ra
rằng: con người vốn có thể chế ngự được thiên nhiên. Vì vậy tuy hổ dữ song với tài trí, con người sẽ
trị được nó. Người đọc như vỡ ra chân lý mà tác phẩm muốn gửi gắm: những kẻ có lòng dạ như hổ
chắc chắn sẽ bị trừng phạt, bị đẩy ra khỏi cuộc sống của con người.
Trong Thánh Tông di thảo, Văn thư lục là truyện được viết với một bút pháp khá độc đáo. Tất cả
lời khuyên răn, giáo huấn con người được kết tụ lại ở bức thư mà muỗi đồng gửi cho muỗi nhà. Lá
thư ấy có đoạn viết:
“Thưa với hiền huynh
Máu tươi má phấn, bụng còn no chăng
Khí độc khói hun, mắt còn mờ chăng?
Trộm nghĩ: lũ ta sinh ở Bảo Hà
Thân nương gấm vóc
Mỏng manh như tơ trời trong ánh nắng
Nhỏ nhen tựa hạt bụi đầu sợi lông
Đèn lửa chưa soi, trong đêm tối hiện hình ma quỷ
Bay kêu đắc ý, chốn âm phòng được lúc vắng tanh.
Màn cô ả hé ra, nhẹ mình len lỏi
Giấc cậu em thiu ngủ hút máu no nê
Cho nên kẻ tham ăn ban ngày
Nếu không đập tan thây, cũng bị mảnh quạt tống đi xa lắc
Đứa tham ăn buổi tối, chẳng bị khói hun mù mắt, ắt lửa hồng thiêu cháy tấm
thân.[tr117,41].
Những lời tâm tình trong thư của muỗi đồng gửi cho muỗi nhà chính là lời khuyên đối với con
người. Đặc biệt là với những ai đã quen sống trong cảnh ấm êm, quyền quý. Những nơi ấy lại là nơi
chứa nhiều hiểm nguy cạm bẫy và không có tự do. Qua đó nhà văn đã đúc kết: quyền quý, danh
vọng chỉ là phù phiếm, tiền tài, lợi lộc tựa như cát bụi. Không những thế, nó còn làm hại đến thân
mình. Muỗi đồng là hình ảnh ẩn dụ của những con người biết chấp nhận cuộc sống đạm bạc, không
chạy theo danh lợi, phù phiếm xa hoa. Bù lại họ được sống thoải mái, tự do và được làm chủ hoàn
cảnh, quyết định số phận bản thân mình. Cuộc sống ấy thật đáng tự hào ngợi:
“Sao bằng
Ở đầu trâu sừng quật không kinh
Đậu lưng dê, đuổi xua chẳng tới
Đốt lau nát nhưng thân nương vững chắc
Lá sen cụp mà chân nghỉ bình yên” [117,tr 41].
Muỗi đồng sau khi đi thăm muỗi nhà về, đã phát hiện ra một sự thật: khi ta làm chủ được hoàn
cảnh, chủ động trước mọi biến cố xảy ra thì đó chính là sự mĩ mãn về mặt tinh thần. Mĩ mãn, vinh
hiển vì được tự do, được sống như chính mình. Cuối bức thư muỗi đồng đã đưa ra lời cảnh tỉnh với
muỗi nhà:
“Muỗi nhà, muỗi nhà
Ta nói không nghe thì làm than trong lửa, làm bụi trên khói chưa biết ngày nào
đó thôi
Nên mau mau lo liệu” [117,tr 41].
Câu chuyện được đúc kết lại ở bức thư. Tưởng như đó chỉ là lời tâm sự của những con vật với
nhau nhưng thực ra lại là lời khuyên răn của tác giả đối với những ai đang sống trong quyền quý.
Đừng để lợi danh lấn át nhân cách mà cần làm chủ cuộc đời của mình. Với Lê Thánh Tông, khuyên
người cũng là để răn mình, cần sống làm gương cho con dân noi theo.
Tập hợp hầu hết các loài động vật là đặc điểm của Vũ môn tùng tiếu. Thông qua cuộc tranh luận
của các con vật, tác giả đã hướng đến nhiều bài học về cách làm người ở đời. Đầu tiên hiện lên
trong tác phẩm là hình ảnh cua. “Con cua tự mình xưng là “công tử không ruột” huênh hoang nói:
Người quân tử bảo: “Nhanh chân thì được trước. Ta đây trên cất hai đao, dưới duỗi tám chân,
thường ngang tàng trong biển cả. Nay chắc bàn chân lớn, bước những bước dài, Vũ Môn dẫu cao
chỉ nháy mắt là tới. Giật giải khôi nguyên, không ta thì ai” [117,tr 65]. Tuy vậy, hậu quả mà công
tử không ruột phải nhận là “chưa bò lên được một bước đã bị rêu trơn ngã lăn xuống; từ đó đào lỗ ở
dưới đất, thẹn mình trước trót nói càn” [117,tr 60]. Trong khi đó “Ếch nhảy lên nói khoác: Ta sẽ
múa hai đùi mập mạp, chỉ nhảy ba cái là tới đỉnh” [117tr 65]. Nhưng cũng không khác gì số phận
của cóc, ếch cũng rơi vào tình cảnh: “Chàng ếch ta vỗ tay, vừa mới nhảy một cái, hai chân trước đã
bị gãy, từ đó chỉ ngồi nép ở ao bèo, hổ mình mang tật cho thiên hạ cười chê” [117tr 67]. Khoe
khoang cũng là đặc điểm ở hai nhân vật lươn và chạch: “Ta cuộn thân dài rồi quăng mình ba vòng
là đã lên hẳn đỉnh núi” [117,tr 66]. Vậy mà ngay sau đó thì: “Lươn và chạch vừa quằn quại lên
được một bậc đã rơi tỏm xuống bùn lầy” [117,tr 67]. Cùng với chúng là hình ảnh cá rô đang rất tự
đắc: “Tập quen thành tự nhiên. Leo núi là ngón thạo của ta. Ta sẽ giương vây cứng mà rạch lên,
phỏng có khó gì?” [117,tr66]. Nhưng cuối cùng cũng nhận hậu quả tương tự:“Cá rô nghênh ngang
rạch lên được một tầng đã bị đá đè lên đầu” [117,tr 67]. Thấy tất cả các loài đều như thế nên “Tôm
bể cũng hớn hở: công hầu phải có dòng giống. Tiền thân ta vốn bay lên trời. Nay ta chỉ cần co
người lại là giật giải, nào có khó gì?” và kết quả “tôm bể con nào con nấy no kềnh bụng, cong đuôi
nhảy lên, không ngờ đuôi ở trên đầu ở dưới, lá yếm không che được bụng, thành ra chất tanh ở ruột
lộn cả lên đầu” [117,tr 67]. Thông qua cuộc thi tài của những con vật, tác giả muốn gửi đến người
đọc những bài học đắt giá: chớ nên khoe khoang, khoác lác, tự cho mình là tài giỏi hơn người khác.
Thói hợm hĩnh chủ quan ấy sẽ làm cho con người tự chuốc họa vào thân. Nó cũng triệt tiêu tinh thần
cố gắng vượt qua thử thách, chinh phục hoàn cảnh của con người. Đồng thời đó cũng là lời khuyên:
phải biết sống khiêm tốn và biết người biết ta, chớ như “ếch ngồi đáy giếng” mà mua lấy trò cười.
Đây là một trong những nội dung thể hiện rõ những bài học mang tính giáo huấn cao. Qua
những tác phẩm này, các tác giả không chỉ nhằm để tu thân mình mà còn giúp người dân đốn ngộ
những bài học làm người ở đời. Những câu chuyện ngụ ngôn này có ý nghĩa giáo dục cao và qua
bao thời gian vẫn chưa mất đi tính thời sự của nó.
2.4.2.2. Bài học về tình người cao đẹp:
Khác với Thánh Tông di thảo, loại hình các nhân vật con vật trong Lan Trì kiến văn lục lại mang
những thông điệp về tình người. Đa số những câu chuyện về loài vật trong Lan Trì kiến văn lục đều
nhằm ca ngợi những hành động nghĩa hiệp của các con vật. Nhân vật chính thường là vị hổ - chúa
sơn lâm. Đó là Con hổ hào hiệp, Con hổ nhân đức, Con hổ có nghĩa. Trong hầu hết các truyện, chúa
sơn lâm hiện lên với một tấm lòng nhân đức. Trong Con hổ có nghĩa, có một con hổ đã mang ơn bà
đỡ vì bà đã đỡ đẻ cho hổ cái và trả ơn bằng cách cho bà mười lạng bạc, nhờ vậy bà được cứu sống
vì ngay năm mất mùa đói kém. Lại có một câu chuyện về người nông dân cứu một con hổ hết mắc
xương, hổ cũng đã trả ơn: “Một đêm nọ, nghe ngoài cổng có tiếng gầm dài mà sắc. Sáng hôm sau ra
nhìn thấy có một con nai chết ở đó”, rồi sau đó: “Mấy năm sau bác tiều già chết rồi. Khi chôn cất
có một con mãnh hổ đột nhiên tới trước một phủ phục vật vã. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ
xa họ nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài, gầm rống chạy quanh mộ vài vòng rổi bỏ đi” [118,tr
44]. “Cứu vật vật trả ơn” là một kinh nghiệm đúc kết từ bao đời nay được thể hiện rõ trong tác
phẩm. Song không dừng lại ở chỗ ca ngợi con hổ biết lễ nghĩa, hơn hết tác giả còn muốn nhắn nhủ:
Con vật còn biết trả ơn, biết sống nghĩa tình thì con người cũng đừng nên để kém thua con vật. Ở
truyện Con hổ hào hiệp, trước hành động gian ác của người cha, con hổ đã cõng em bé về trước nhà
bà ngoại em, cứu được nhân vật “nhí” này. Dân gian có câu: “Hổ dữ không nỡ ăn thịt con”, vậy mà
người cha trong tác phẩm lại đan tâm vứt bỏ con mình. Con người này thật không bằng loài cầm
thú. Còn đây là sự cảm phục của người đối với vật trong Con hổ nhân đức: “Hôm qua tôi nhìn kĩ,
thấy con hổ này rất giống con hổ xưa đã cứu tôi, tôi hỏi nó, nó nhìn tôi ứa nước mắt, rồi gật đầu hai
lần. Tôi cảm ân đức cứu mệnh của nó, mới sửa một bữa để bày tỏ chút lòng thành của tôi” [118,tr
136]. Có thể rằng viết về con vật cứu người Vũ Trinh đã trung thành với hình ảnh của con hổ. Việc
lấy chúa sơn lâm làm nhân vật trong truyện đã mang đến những ý nghĩa mới cho tác phẩm. Chúa
sơn lâm vẫn được xem là hung ác vậy mà còn động lòng trắc ẩn trước hoàn cảnh con người và ra tay
cứu giúp, thế thì con người tại sao lại nỡ đối xử tàn nhẫn với nhau? Con người cần phải biết yêu
thương, đùm bọc nhau vượt qua hoạn nạn. Chính việc lấy ảnh hổ đã làm cho tác phẩm có tính giáo
dục cao hơn. Đọc những câu chuyện có ý nghĩa giáo dục sâu sắc như vậy, phải chăng con người sẽ
biết yêu thương, biết thay đổi mình để sống tốt hơn.
Một trong những điểm đặc sắc ở tác phẩm truyền kì là đã xây dựng thành công hình ảnh con vật.
Những bài học luân lý, bài học làm người được thể hiện dưới một hình thức mang tính ngụ ngôn
cao. Không trực tiếp khuyên răn, giáo huấn, hình ảnh các con vật cứ nhẹ nhàng đưa người đọc đến
những vùng đất về đạo lý, tình người, về cách sống ở đời. Mục đích của các tác phẩm là giúp cho
con người hiểu được những chân lý về cuộc sống, để thiết lập lại đời sống sao cho đúng đắn và hài
hòa với truyền thống, với đạo đức con người.
CHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.
3.1. Vai trò của loại hình các nhân vật trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục:
Trên cơ sở phân tích những biểu hiện của loại hình các nhân vật trong ba tập truyện ở chương II,
chúng tôi tiến hành tìm hiểu vai trò của chúng đối với ba tập truyện này. Loại hình các nhân vật có
một vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Làm rõ vai trò, vị trí của
loại hình các nhân vật trong tác phẩm sẽ thấy được những thành tựu mà các tác phẩm này mang lại
cho nền văn học nước nhà.
3.1.1. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện được hiện thực xã hội đương thời:
Đọc và nghiên cứu những tác phẩm này, chúng tôi nhận ra rằng những lời nhận định trước đây
về văn học trung đại rằng đây là nền văn học mang tính chức năng, là “văn dĩ tải đạo” có phần như
chưa chính xác. Bởi lẽ những tác phẩm này đã cho ta nhận ra một chân lý: văn học trung đại cũng
đã những có tác phẩm đúng với nghĩa của nó, những “đứa con tinh thần của thời đại”. Nói như cá
tác phẩm truyền kì Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục không đơn giản chỉ
mang chức năng “chở đạo” – vốn là tinh thần chung của văn học trung đại, mà còn đề cập đến
những vấn đề của cuộc sống đương thời, với những kiểu xã hội gắn với từng thời đại nhất định.
Trong các tác phẩm trên, chất liệu huyền thoại, thần kì dần dần mờ nhạt thay vào đó là cuộc
sống hiện tại. Hiện thực cuộc sống với đầy đủ bản chất của nó cứ khiêm tốn lấn tới chiếm chỗ, cho
đến lúc nó trở thành yếu tố chủ đạo trong tác phẩm. Lúc này “hạt nhân hiện thực” vốn đã từng xuất
hiện ở những tác phẩm trước đó, nay càng được mở rộng hơn nữa. Giờ đây cảm hứng sáng tạo của
nhà văn đã trở thành vị trí trung tâm và chi phối việc xây dựng nhân vật và các yếu tố khác trong tác
phẩm. Tất nhiên ở đây cái bình thường được kết hợp xen lẫn với chất liệu thần kì. Ba tác phẩm, ba
màu sắc khác nhau của xã hội phong kiến Việt Nam được thể hiện một cách chân thực, sinh động.
3.1.1.1. Một xã hội với cuộc sống ấm no hạnh phúc.
Trong ba tập truyện này, Thánh Tông di thảo là nơi kết tụ đầy đủ cảm hứng ngợi ca cuộc sống
hạnh phúc, ấm no, thanh bình. Điều này cũng không có gì lạ, bởi thời đại Lê Thánh Tông là một
trong những thời đại thịnh trị nhất của xã hội phong kiến nước ta. Có lẽ vì thế mà xã hội được nói
đến trong Thánh Tông di thảo phần nhiều là một xã hội thịnh trị, công bằng với kỉ cương lễ giáo
được thi hành và bảo vệ một cách nghiêm chỉnh. Có được cuộc sống ấm no của dân chúng là do
cách cai quản đất nước của người đứng đầu. Trong Hoa quốc kì duyên, nhà vua Lê Thánh Tông đã
luận bàn về một đất nước như thế: “Chia nước làm hai, một phần để thái tử cai trị, một phần để
công chúa, nhưng mà từ khi thiên đô dời đến đây, người nhiều của thịnh, công chúa là con gái sợ
không cai trị xiết được” [117,tr60]. Hay đó là cách trù bị phòng ngừa quân địch của nhà vua trong
Mộng ký: “Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải
phòng ngừa. Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát” [117,tr 146]. Ở đây nhà vua với quyết
tâm gìn giữ “từng thước núi, từng tấc sông” của cha ông để lại. Không những đi vào mọi ngõ ngách
để giữ gìn bình yên, mang lại cuộc sống an lành cho nhân dân, nhà vua còn hiện lên là một minh
quân đầy trách nhiệm: “Ta bực mình tự nghĩ rằng: mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét
cho ra cái án này, thì bố mẹ thêm một đứa con ma, vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là
ma sau này không khỏi sinh ra tai vạ” [117,tr 165]. Chính nhờ vào tinh thần trách nhiệm cao mà vị
vua trong Thánh Tông di thảo luôn biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Cho nên khi dân gặp
khó khăn vị vua ấy lại có mặt kịp thời cứu tế giúp dân: “Năm Quý Tỵ lụt to. Những nơi nước đến,
rắn rết bò lên ngọn cây, người ta phải nuôi gà chó trên cành. Đền chùa phần nhiều bị nước cuốn đi
hay đỗ nát. Ngày hai mươi bảy, tháng tám nước rút. Ta đi thuyền xem xét nơi nào bị thiệt hại thì
chẩn cấp cho dân” [117,tr 17]. Đấy cũng là một xã hội mà mọi oan khiên đều được làm sáng tỏ:
“Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt, đều nằm
trong tay. Ai uất ức, đau khổ, ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở địa phương, nếu có u hồn
nào còn uất ức thì bảo chúng cứ thực tâu bày” [117,tr 146]. Nhờ sự anh minh, sáng suốt trong điều
hành việc nước mà vị vua ấy đã có thể mang lại một đời sống ấm no cho dân, cho nước: “Sau khi
đại định, khách bộ hành sung sướng được đi trên đường sá của ta, người buôn bán vui mừng được
bày hàng hóa ở chợ của ta. Thượng Kinh là nơi đô hội” [117,tr 24]. Lòng tự hào dân tộc của tác giả
còn được thể hiện qua lời ca ngợi tấm lòng bao dung và tinh thần nhân đạo của vua Lê Thái Tổ
trong Nhị nữ thần truyện: “Khi vua Lê giảng hòa với Vương Thông, cho Thông được toàn thân về
nước, con tôi nghĩ mệnh vua là trọng, đã không dám trái mệnh vua” [117,tr 28]. Câu chuyện này
nhắc lại sự việc khi đánh thắng giặc Minh, vua Lê Thái Tổ đã không truy đuổi quân giặc đến cùng
mà vẫn tha cho chúng một con đường sống để về nước. Đó cũng chính là truyền thống nhân ái của
người Việt.
Nhìn chung nội dung của Thánh Tông di thảo bên cạnh lời ngợi ca cuộc sống thanh bình của xã
hội phong kiến ở giai đoạn thịnh trị thì chủ yếu là đề cao trật tự phong kiến và ngợi ca các đại biểu
của chính quyền – những rường cột của nhà nước phong kiến. Và đặc biệt trong tác phẩm, có thể
nhận ra hình ảnh của nhà vua – nhân vật “ta” được khắc họa rõ nét. Ẩn sau những câu chuyện về
thần, về người ấy là khuôn mặt từ đức của Lê Thánh Tông. Âm hưởng chủ đạo trong Thánh Tông di
thảo chủ yếu là âm hưởng ngợi ca cuộc sống thanh bình, ngợi ca sự anh minh, sáng suốt của người
đứng đầu. Chính cuộc sống này mới là cảm hứng chủ đạo cho việc phóng bút của nhà văn chứ
không phải là các sự kiện lịch sử hay những câu chuyện trong dân gian. Có thể khẳng định rằng: ở
một mức độ nhất định Lê Thánh Tông đã thoát ra khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn học dân
gian và văn xuôi lịch sử. Nhờ vậy Thánh Tông di thảo đã châm ngòi cho sự bùng nổ mạnh mẽ yếu
tố hiện thực ở những tác phẩm sau này mà tiêu biểu nhất là Truyền kì mạn lục. Điều đó đã làm nên
tên tuổi cho “thiên cổ kì bút” của Nguyễn Dữ.
Có thể thấy: chế độ chuyên chế tập quyền theo Nho giáo trong lịch sử văn học Việt Nam tới đây
đã đạt tới đỉnh cao nhất, tới trạng thái cổ điển, mẫu mực nhất. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên
khi văn chương nhà Nho ở cuối thế kỉ XV nói chung và những sáng tác của Lê Thánh Tông nói
riêng lại chủ yếu là lối văn ca tụng vua sáng, tôi liền, cuộc sống ấm no, thái bình thịnh trị. “Thơ văn
nửa sau thế kỷ XV nêu cao giáo huấn của đạo Nho về cương thường, xuất xử, khí tiết, vạch con
đường kiến thiến quốc gia hùng mạnh, ca tụng những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm, khắc
công ghi ơn anh hùng nghĩa sĩ” [49,tr 134].
Vui mừng, hân hoan là những cảm xúc còn đọng lại khi đọc Thánh Tông di thảo nhưng những
cảm xúc đó không mãnh liệt bằng những rung động do Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục
mang đến. Hai tác phẩm khiến người đọc phải phẫn nộ trước những hành động táng tận lương tâm
của giai cấp thống trị, và sự băng hoại đạo đức của nhiều lớp người trong xã hội phong kiến. Cái ác,
cái xấu cứ lan tỏa khắp nơi khiến người đọc phải day dứt, suy tư.
3.1.1.2. Một xã hội đầy những biến động loạn ly:
Trái ngược lại hoàn toàn xã hội hạnh phúc, an lành trong Thánh Tông di thảo của Lê Thánh
Tông là xã hội của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Có thể thấy Nguyễn
Dữ đã làm đúng vai trò của một nhà nghệ sĩ có tâm và tài. Bởi lẽ tâm ấy được ông gửi gắm trong
việc vẽ lại bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVI - một xã hội đầy rầy những
bất công, ngang trái. Còn tài ấy được thể hiện ở phương diện nghệ thuật miêu tả nhân vật, dẫn dắt
cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định đây là “áng văn hay của
bậc đại gia”. Nguyễn Dữ sinh thành trong giai đoạn mà chế độ phong kiến nước nhà bắt đầu bộc lộ
những suy thoái của nó, vai trò của tầng lớp quan lại, trí thức đã mất dần. Trong số đó có một số
những trí thức đã trở thành những kẻ nô lệ cho đồng tiền. Và vì vậy những người tâm trong sạch,
liêm khiết, cao đẹp không thể cùng hội cùng thuyền được. Họ từ quan về sống chốn lâm tuyền, xem
đó là cách để tự an ủi mình. Ông cũng có mặt trong số đó, từ quan về ở ẩn với lý do nuôi mẹ già,
Nguyễn Dữ đã gửi vào trang sách những điều mình tận mắt chứng kiến khi còn nhậm chức. Chính
vì vậy mà đề cập đến một xã hội đầy những loạn ly, Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục đã được
đánh giá cao.
Dưới con mắt của những nhà nho chân chính thì xã hội rơi vào tình cảnh loạn lạc, ly tán chính từ
tầng lớp thống trị mà ra. Ngay cả nơi có thể xem là yên bình nhất – nơi ngự trị của vua quan - cũng
đã xuất hiện những cuộc cấu xé ngầm: “còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là tuồng nát rượu, phi
là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau, chứ chưa thấy ai biết
những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả” [23,tr 143]. Chính từ chỗ tranh dành ngôi vị, tiền
tài của vua chúa quan lại đã dẫn đến tình trạng kéo bè kết cánh nhằm tìm cách hại nhau: “ta chỉ ghét
những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong cái trào đình trọc loạn, lại còn toan kéo người
khác để cùng đắm với mình” [23,tr 144]. Những kẻ thống trị tin rằng với sức mạnh quân sự trong
tay, họ không sợ bất kì tai họa nào: “ta đã có binh lính có đồn lũy, tay không lúc nào rơi qua mâu,
sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta
sao được”.[23,tr 186]. Xuất phát từ toan tính này mà bọn họ càng “làm những sự dâm cuồng, chém
giết, không kiêng dè gì nữa” [23,tr 187]. Có thể thấy rằng trong thế kỉ XVI mâu thuẫn giai cấp trở
nên gay gắt và trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến diễn ra ác liệt. Tất cả những hiện
thực ấy được phản ánh đầy đủ ở Truyền kì mạn lục. Những cuộc chiến tranh ấy đã khiến bao gia
đình phải chia ly: “cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành,
bắt đến nhiều lính tráng”. [23,tr 176] Xã hội thời Nguyễn Dữ là một xã hội mà không chỉ đối mặt
với những cuộc nội chiến mà còn gánh chịu nạn ngoại xâm. Trong Truyện Lệ Nương, hơn một lần
Nguyễn Dữ đã nói đến hai cuộc chiến như thế. Lệ Nương và Phật Sinh yêu nhau, tuy hôn ước chưa
định nhưng đôi trẻ đã gắn bó với nhau rất mật thiết, tình nghĩa chẳng khác chi vợ chồng. Cuộc nội
chiến bùng nổ, năm 1399 khi cuộc mưu sát Hồ Quý Ly của nhóm Trần Khát Chân không thành.
Những người thuộc gia tộc họ Trần, nhất là phụ nữ đều bị bắt vào cung làm tì thiếp. Lệ Nương là
con gái người họ ngoại của Trần Khát Chân nên phải chịu chung số phận. Nàng đành ngậm ngùi gác
lại mối tình đẹp với Phật Sinh:
“Nguyền xưa tan nát nghĩ mà đau
Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng”[23,tr 198]
Hết nội chiến lại đến giặc Minh sang xâm lược. Nhà Hồ thất thủ, tướng Minh là Lã Nghị ỷ thế
cướp bắt đàn bà Đại Việt. Một lần nữa, Lệ Nương lại bị bắt. Mặc dù Phật Sinh đã hết lòng tìm kiếm,
nhưng không thể cứu được nàng. Cuối cùng Lệ Nương đành tự tử, khi bị đưa tới biên giới và chẳng
còn đường nào khác. Bi kịch của nàng do chính xã hội gây ra. Hồn Lệ Nương hiện về trong nỗi đau
thân phận: “nước mất nhà tan, lưu ly đến độ”. Nỗi đau của nàng Lệ Nương hay chính là lời thương
xót cho số phận người đàn bà sinh ra phải lúc nước nhà loạn lạc, ly tán và cũng là hiện thực của phụ
nữ Đại Việt những năm thế kỉ XVI. Như vậy có thể thấy rằng: Những cuộc nội chiến diễn ra rồi
chiến tranh ngoại xâm lấn đến, nhân dân luôn là đối tượng bị đọa đày, rên xiết dưới gót giày quân
bạo tàn. Trong đó phụ nữ luôn phải chịu cảnh chia lìa đôi lứa, vợ chồng “sinh ly tử biệt”. Chính vì
vậy mà Lệ Nương đã tìm đến cái chết khi bị giặc bắt sang biên giới: “bọn chúng ta vóc mềm tựa
liễu, mệnh bạc như vôi, nước vỡ nhà tan lưu ly đến độ. Nay nếu lại theo họ sang qua cửa ải tức là
đến nước non quê người. Chẳng thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang làm
những cái cô hồn ở bên đất bắc” [23,tr 204]. Số phận Lệ Nương tiêu biểu cho những người phụ nữ
sống trong một xã hội đầy biến động và loạn ly. Đây là hệ quả tất yếu trong một xã hội phong kiến
mà những người đứng đầu chỉ là những kẻ hại dân bán nước. Không chỉ phê phán những cuộc nội
chiến đã dẫn đến đất nước bị ngoại xâm, Nguyễn Dữ còn làm rõ hơn vai trò của những người là trụ
cột của quốc gia. Chính họ đã làm nên những khổ đau, bất hạnh cho con người. Truyện người nghĩa
phụ ở Khoái Châu đã thông qua số phận bi kịch cuả Nhị Khanh vạch ra những cái xấu của tầng lớp
quan lại lúc này. Những rường cột nước nhà ấy đã không đặt vấn đề lợi ích quốc gia lên trên mà
luôn ganh ghét, tìm cách hại nhau: “Đình thần ghét tính Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm
hại, bèn hùa nhau tiến cử”, và nơi họ tiến cử là nơi “không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử
đến chổ hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa” [23,tr 17]. Ngay cả người chồng mà
nàng thương yêu – Trọng Quỳ cũng ham mê cờ bạc, góp tay gây nên cái chết cho nàng. Từ đây
Nguyễn Dữ đã chỉ ra rằng, chính xã hội đầy dẫy những tệ trạng mà Nguyễn Dữ đang sống chứ
không ai khác đã giết chết hạnh phúc, cuộc đời và tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Nguyễn Dữ là
một nhà nho nhưng trong Truyền kì mạn lục người đọc thấy niềm tin của nhà văn vào Nho học đã
gần như tắt lịm. Chính bởi những người có vai trò là đầu mối của Nho học đang dần đi vào lối sống
sa đọa, trụy lạc. Chính những người được xem là rường cột quốc gia ấy chứ không ai khác sẽ dẫn
đến sự sụp đổ như một quy luật tất yếu của xã hội phong kiến.
Có thể thấy thông qua loại hình các nhân vật quan lại, tác giả đã góp phần tố cáo một xã hội loạn
lạc, biến động và là một xã hội đầy những đỗ vỡ, đau thương.
3.1.1.3. Một xã hội với những con người mang trong mình bản chất xấu xa, suy đồi đạo đức.
Cái xấu xa trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ, Vũ Trinh được thể hiện một cách có hệ thống
từ trên xuống, từ vua chúa, quan lại đến những con người bình thường trong xã hội. Đối tượng
trong Truyền kì mạn lục chủ yếu là vua chúa mang bản chất xấu xa. Và những nhân vật bước ra từ
trang sách của ông hiện lên như một bức chân dung biếm họa. Trong xã hội ấy vua quan thì chỉ biết
ăn chơi, hưởng lạc trong khi dân chúng nơi nơi đói kém oán than: “Hiện nay thánh hóa chưa khắp,
bờ cõi chưa yên: Bồng Nga là con chó dại, cắn càn ở Nam Phương, Lý Anh là con hổ đói gầm thét
ở Tây Bắc, Ngô Bệ ngông cuồng tuy đã tắt, Đường Lang lấm lét vẫn còn kia, sao không giương cái
cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào
kiệt làm nanh vuốt, lấy trung tính làm giáp trụ, cẩn thận lồng cũi để giá ngự những tướng khó trị,
sửa chuốt cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng cũi giải về, khiến cho
gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không làm, lại đi lẩn quẩn ở công việc săn bắn dù
được chim muông như núi, chúng tôi cũng lấy làm không phục” [23,tr 171]. Mượn hình ảnh Hồ Quý
Ly, Nguyễn Dữ khiến người đọc phải liên tưởng đến hình ảnh nhà vua đương thời: “Ông ấy thường
dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dóc cạn của kho để mở phố
Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình
ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được” [23,tr 143]. Nguyễn Dữ đã dùng ngòi bút
của mình phanh phui những thối nát, mục ruỗng của tầng lớp thống trị phong kiến. Tác giả không
trực tiếp phê phán vua chúa thời ông mà thông qua đặc trưng của thể loại truyền kì để tố cáo.
Nguyễn Dữ mượn sự kiện, nhân vật khung cảnh các triều đại trước nhưng với những việc làm,
những tội ác mà bọn họ gây ra, người đọc không thể không liên tưởng đến xã hội đương thời. Trong
Chuyện người tiều phu núi Na, ẩn dưới bóng hình người tiều phu đốn củi, tác giả đã tố cáo Hồ Hán
Thương: “dối trá tham dục đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa
Nhai, hao phí gấm là,vung vải châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có
của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì phải giết, kẻ nói điều nịnh thì
được hưởng, lòng dân động lay...Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết”
[23,tr 142-143]. Qua những bộ mặt hôn quân vô đạo ấy, người đọc không khỏi nghĩ đến Lê Uy
Mục, Lê Tương Dực thế kỉ XVI. “Chưa bao giờ trong văn học viết cho tới lúc đó, vua chúa, quan
lại được thể hiện một cách hèn kém, bất tài đến thế” [131,tr 492]. Xã hội ấy loạn từ gốc mà ra, vua
như thế, quan không thể tốt hơn được, Truyền kì mạn lục đã chỉ ra rằng: một ông vua dâm dục vô độ
thì bên cạnh ông ta không thể tồn tại những vị quan liêm khiết được. Chính vì vậy không có gì lạ
khi người đọc nhận ra trong tác phẩm hầu hết là những quan lại xấu. Hai nhân vật tiêu biểu có thể
kể đến là tên quan trụ quốc họ Thân, đại diện cho quan văn và Lý Hữu Chi là đại diện những quan
võ. Trụ quốc họ Thân là kẻ: “chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy chọt, lúc nào
ở cửa cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy. Trừ gặp
phải hỏa tai, của cải trong nhà ấy không biết cách nào tiêu mòn đi được” [23,tr 165-166]. Thì ra
đằng sau ngôi cao, đức trọng là tội ác tham lam không đáy, là nhũng nhiễu và bức hiếp dân lành.
“Dựa vào lũ trộm cướp như tâm phúc, coi người nho sĩ như cừu thù; thích sắc đẹp, ham tiền tài,
tham lam không chán; lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn
đuổi xóm giềng cho rộng đất. Đi kiếm những hoa kì đá lạ từ bên huyện khác đem về ....dâm cuồng
chém giết không kiêng dè gì nữa” [23,tr185] là tất cả những đặc điểm của quan võ Lý Hữu Chi,
không những tham lam mà còn ngang ngược, cướp bóc trắng trợn. Tất cả bọn chúng đều là những
điển hình sắc sảo về tội ác và bản chất xấu xa của tầng lớp thống trị đương thời. Bên cạnh đó còn có
bọn tu hành giả dối, những tên bất lương trộm cướp hay phường giá áo túi cơm lười biếng trốn việc,
núp dưới mái chùa để làm điều xằng bậy: tên sư Vô Kỷ trong Truyện nghiệp oan của Đào thị sống
thiếu trung thực, làm chuyện dâm ô trong nhà chùa. Người đọc hẳn chưa quên hai tên hộ pháp trong
Truyện cái chùa hoang ở Đông Triều với những hành động bỉ ổi “vào bếp để khoắng hũ rượu”,
“vào buồng để ghẹo vợ người”, “khoắng xuống một cái ao, rối bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ đều bỏ
vào mồm mà nhai nuốt hết (....) Dắt nhau lẻn vào vườn mía nhổ trộm mà tước mà hít”[23,tr147].
Ngoài ra còn có sự góp mặt của những tên lái buôn ỷ vào thế lực đồng tiền sống phóng đãng sa đọa:
Đỗ Tam trong Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu; gã phú thương họ Phạm trong Truyện yêu
quái Xương Giang. Hoặc đó là những nho sinh hư hỏng, trụy lạc: Hà Nhân Giả trong Truyện kì ngộ
ở Trại Tây. Đó còn là những đấng mày râu – người có vai trò là trụ cột trong gia đình nhưng lại gây
đổ vỡ cho gia đình: Trọng Quỳ cờ bạc bê tha đến nỗi phải gán vợ cho sòng bạc đẩy người vợ nết na,
thùy mị vào đường cùng thắt cổ chết. Trương Sinh ghen tuông vô cớ đến độ mắng nhiếc, xúc phạm
và dẫn đến cái chết cho người vợ thủy chung. Tất cả những cái xấu xa trong một xã hội phong kiến
đang đi vào suy thoái đã hiển hiện đầy đủ và sắc nét trong tác phẩm, phản ánh trung thực bộ mặt xã
hội thế kỉ XVI.
Bên cạnh hệ thống nhân vật của Nguyễn Dữ với những khuôn mặt dị hình, dị dạng của tầng lớp
quan lại, vua chúa thì nhân vật của Vũ Trinh lại đa dạng hơn với đủ thành phần và tồn tại nhiều vấn
đề tiêu cực. Những cái xấu xa ấy không nghiêm trọng đến lợi ích nhân dân nhưng nó lại làm hỏng
thuần phong mĩ tục của người Việt Nam. Đó là hình ảnh một em bé ba bốn tuổi bị bố bỏ rơi trong
rừng cho hổ ăn thịt để lấy vợ khác trong Chuyện hổ hiệp: “Bà mối liền về nói lại với Hoàng. Hoàng
thích cô ta quá, không bỏ được, nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn cách bỏ đứa con thì mới được cô ta. Thế là
hắn manh tâm làm ác. Mấy hôm sau, hắn mang đứa con vào rừng sâu, nói dối là đi kiếm trái chín
để ăn, bỏ đứa con trong rừng rồi đi đường tắt về nhà. Vùng này có nhiều hổ. Hoàng về tới nhà,
chắc mẩm là con mình đã vào bụng hổ”. [118,tr 76]. Truyện Linh xà ở một khía cạnh khác khuyên
thần linh công minh, chính trực đừng làm những điều trái với mong ước chính đáng của nhân dân:
“Hôm qua em chơi ở ngoài núi, bị một đứa tiểu lại của thừa ty xúc phạm, chắc là nó chạy chưa xa,
em định bắt hắn trị tội cho hả” nhưng vị thần đáp: “Rồng trắng đội lốt cá, còn bị đem bán. Vả lại,
lúc ấy, hắn chỉ biết anh là rắn thôi, hắn lại đang có việc quan, việc gì anh lại chắn đường nó đi để
đến nỗi chuốc oán chịu nhục, đó là lỗi tại anh, lại còn định đuổi theo làm hại nó, sao anh nhỏ nhen
thế. Anh hãy mau trở về đi, cứ làm liều thế này, phép trời đáng sợ lắm.” [118,tr114]. Trong khi đó
Truyện tái sinh, Thanh Trì tình trái lại lên án tệ phân biệt đẳng cấp và ca ngợi tình yêu tự do. Hai
tác phẩm chê trách nhẹ nhàng hai người cha vì tham tiền, vì muốn môn đăng hổ đối nên “bố cô gái
vốn là kẻ ô trọc xuẩn ngốc, thấy Sinh nhà nghèo thì dứt khoát từ chối” [118,tr 49] hoặc xúc phạm
đến danh dự của người khác: “Cửa nhà thế này, con gái yêu kiều như thế này, mà lại có thằng rể lái
đò à? Mụ ăn mày này thực ngu hết chỗ nói” [118,tr 67] . Còn Tiên ăn mày lại cười chê người anh
“tham lam keo kiệt”, và “chị dâu cũng thô bạo xấu xa” đã chiếm hết cả gia tài cha để lại, bỏ người
em với “ruộng xấu” và “gian nhà nát”. Sự tham lam của vợ chồng người anh được đẩy lên cao
mang tính phê phán, châm biếm khi bọn chúng lầm tưởng ông lão “đội mũ vàng, mặc áo rách, khúm
núm đi qua” là tiên nên “Giáp sai vợ giữ chặt tay cụ già, dùng dùi đục phang thật lực vào mũi cụ,
máu chảy lênh láng... (....), cụ già gẫy cả răng, kêu gào cứu mạng” [118,tr 40]. Tính tham lam cố
hữu trong vợ chồng người anh đã khiến cụ già bị đánh chảy máu và hai vợ chồng bị trừng trị thích
đáng. Tác phẩm đồng thời cũng nêu lên một chân lý làm người ở đời: ở đời đừng tham lam, đừng vơ
vét của người khác làm của riêng mình. Trong khi đó, Liên hồ quận Quân lại chê trách người anh
bạc nhược, bất tài: “Quan quận công mất đi, để lại rất nhiều của cải, nhưng gặp người anh chẳng
ra gì, bị bọn xấu dị dỗ, đi vào con đường rượu chè, cờ bạc. Chưa hết tang cha mà cửa nhà đã sạch
nhẵn. Em gái đã đến tuổi trưởng thành, nhưng vì anh du đãng hư hỏng, nên không ai dám hỏi.”
[118,tr 132]. Tệ hại hơn người anh còn lợi dụng em gái: “sau có một viên quan võ dưới quyền cha,
tuổi trung niên chết vợ, người anh hám của, bắt ép em phải lấy” [118,tr 132]. Nếu người cha trong
Chuyện hổ hiệp vì hạnh phúc riêng mình đan tâm để con cho hổ ăn thịt không hề động lòng thì
người anh trong tác phẩm này vì chơi bời lêu lỏng sẵn sàng gán em cho một người luống tuổi để lấy
tiền. Hai nhân vật hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều là những kẻ đạo đức suy đồi. Để thỏa mãn
những nhu cầu cá nhân họ sẵn sàng vứt bỏ người thân thuộc mà lương tâm không hề day dứt.
Truyện Vũ Trinh phần nhiều có ý nghĩa xã hội. Khi viết tác phẩm này, Vũ Trinh đã ít nhiều nói lên
một quan niệm: tác phẩm văn chương không chỉ để mở rộng hiểu biết và chiêm nghiệm lẽ đời, lẽ
trời, để bổ sung cho sử sách, mà còn để giáo huấn, để bày tỏ nỗi lòng. Nếu nhân vật bị phê phán của
Nguyễn Dữ chủ yếu là giai cấp thống trị thì nhân vật bị chê trách của Vũ Trinh lại là những con
người bình thường trong xã hội. Họ mang trong mình những cái xấu, chính họ chứ không ai khác đã
làm đảo lộn những thuần phong mĩ tục, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ bao đời.
Không phải Vũ Trinh không nhìn thấy những hạn chế của giai cấp thống trị mà có lẽ rằng những va
đập của cuộc đời, những sai lầm trên bước đường chính trị đã khiến nhà văn này chới với trước
những biến động của thời cuộc. Vì vậy mà sáng tác của Lan Trì ngư giả chủ yếu lấy cảm hừng từ
con người trong đời thường, chỉ ra những hạn chế ấy của họ với một thái độ nhẹ nhàng, Ngư giả
như muốn những con người ấy thay đổi để sống tốt hơn, đẹp hơn.
Nhìn chung cả Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đều là những con người sinh ra không đúng thời, một thời
đại không có đất dụng võ cho những người có tâm hồn cao khiết, trong sạch như họ. Tuy là không
sinh cùng thời song thời đại của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh cũng có những điểm tương đồng. Thời đại
của Nguyễn Dữ, Vũ Trinh- thời đại sinh ra những ông “vua lợn, quan heo” thì làm sao dân có thể
sống yên lành hạnh phúc, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, đó là chân lý đã đúc kết bao đời. Thời đại
này không chỉ biến động, loạn lạc mà còn sinh ra những tệ lậu, những mầm mống xấu xa cho xã hội.
Họ đã gặp nhau ở mong muốn con người tự ý thức về tài năng và nhu cầu hạnh phúc. Chính điểm
này đã là một điều kiện quan trọng để tác phẩm của hai ông đậm chất nhân văn và làm điều kiện tiên
quyết, quan trọng để tạo nên xu hướng nhân văn và “tiếng kêu cứu” trong văn học giai đoạn thế kỉ
XVIII – XIX.
Có thể thấy rằng thể loại truyền kì không đơn giản chỉ là những tác phẩm chuyển những lời giáo
huấn của các tác giả mà thông qua đó còn là bức tranh xã hội Việt Nam đương thời. Đó có thể là xã
hội thịnh trị, an lành như trong xã hội của Thánh Tông di thảo, hay cũng có khi là xã hội nhiễu
nhương, đầy rẫy những xấu xa trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Có thể khẳng định
rằng hiện thực xã hội trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã chiếm
một vị trí quan trọng làm nên tên tuổi của tác phẩm. Nó vượt qua cách nghĩ của người đời về sự
quái đản, không thật của thể loại truyền kì. Chính vì vậy Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh
cùng với những sản phẩm tinh thần ấy vượt thời gian sống mãi cùng bạn đọc nhiều thế hệ.
3.1.2. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học
Như chúng ta đã biết chủ nghĩa nhân đạo là một trong những nội dung lớn nhất của nghệ thuật
nói chung, văn học nói riêng và trong toàn bộ sự phát triển của loài người. Và vì vậy nó trở thành
một trong những thước đo trình độ phát triển của văn học. “Chủ nghĩa nhân đạo là toàn bộ những
quan điểm đạo đức và chính trị bắt nguồn không phải từ cái gì siêu nhiên kì ảo, từ những nguyên lý
ngoài đời của nhân loại mà từ con người tồn tại thực tế trên mặt đất với những khả năng, những
nhu cầu của mình, những khả năng, nhu cầu ấy đòi hỏi phải được phát triển đầy đủ, phải được thỏa
mãn” [126,tr 246]. Như vậy nói đến nhân đạo là nói đến con người, là ý thức về con người. Và
trong bất kì mọi hình thái xã hội một khi con người được tôn trọng, ngợi ca, tin tưởng, đề cao,
thương yêu bảo vệ, phát huy tài năng thì xã hội đó đã đạt đến chủ nghĩa nhân đạo. Tư tưởng nhân
đạo ấy thấm đượm vào văn học, làm nên những tác phẩm nổi tiếng. Những thời đại lần lượt qua đi,
những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo cũng khác nhau được phản ánh vào văn học. Trong thời
cộng đồng nguyên thủy, chủ nghĩa nhân đạo tồn tại dưới dạng tình thương và đoàn kết cộng đồng.
Rồi khi đất nước hình thành, nạn xâm lăng diễn ra, việc chống ngoại xâm xét từ góc độ nhân đạo
đều có giá trị ca ngợi, đề cao con người nếu không bằng nội dung trực tiếp thì cũng bằng ý nghĩa
khách quan toát ra từ tác phẩm. Thời đất nước hòa bình, chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện bằng
hình ảnh gắn liền với những cá nhân, con người cụ thể. Và đến lúc này, con người được quan tâm
nhiều hơn, nhất là đi sâu vào đời sống tâm hồn. Trước nay nhiều nhà nghiên cứu vẫn đánh giá cao
những tác phẩm thơ và truyện thơ được xem là minh chứng cho chủ nghĩa nhân đạo: Chinh phụ
ngâm của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều và đỉnh cao là Truyện Kiều
của Nguyễn Du. Thế nhưng khi tiếp xúc với thể loại truyện kì, có thể thấy thể loại này cũng đã góp
phần không nhỏ vào trào lưu nhân đạo chung của văn học. Thánh Tông di thảo được xem là tác
phẩm đầu tiên của thể loại truyền kì có xuất hiện yếu tố nhân đạo. Và đến Truyền kì mạn lục thì yếu
tố này đã trở thành trào lưu mạnh mẽ và được tiếp nối đến khi thể loại sắp hoàn thành vai trò lịch sử
với Lan Trì kiến văn lục. Ba tác phẩm xuất hiện ở ba thời kỳ khác nhau, của ba tác giả khác nhau
song họ đã gặp gỡ nhau ở tình thương con người. Những nhà văn ấy từ tác phẩm của mình đã nhỏ
những giọt nước mắt khóc thương cho số phận những con người bất hạnh. Từ đó có thể thấy loại
hình các nhân vật trong tác phẩm đã góp phần cho sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn
học.
3.1.2.1. Niềm tin đối với con người trong xã hội.
Niềm tin đối với con người trần tục, bình thường trong xã hội là một trong những biểu hiện của
chủ nghĩa nhân đạo trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.
Có thể nói Lê Thánh Tông khi sáng tác đã hóa mình vào cỏ cây, hòa vào cuộc đời của nhân vật,
tác giả không còn là một nhà vua nữa mà chỉ đơn thuần là một nhà văn với tấm lòng cao đẹp. Cởi bỏ
chiếc áo bào, Lê Thánh Tông thật sự đã bước chân vào đời sống của nhân dân, hiểu và cảm thông
với những nỗi bất hạnh của họ. Ở Thánh Tông di thảo, tác giả bao giờ cũng có niềm tin rằng: con
người có sức mạnh hơn mọi thứ, con người có thể chiến thắng mọi thứ, kể cả với thần linh. Tác
phẩm Ngọc nữ quy chân chủ là một ví dụ tiêu biểu. Nhân vật chính trong tác phẩm là hình ảnh con
người “dáng rồng, bước hổ, mắt Thuấn mày Nghiêu, có vẻ trịnh trọng như núi, có lượng bào hàm
như biển” [117,tr 86]. Trong cuộc thi kén rể của Ngọc Hoàng, chàng đã trúng tuyển thắng cả thần
sông và thần núi bằng một lời nhận xét: “Quỷ thần ở núi sông chỉ là một vật ở nơi đó thôi. Múa trí
khoe tài, sao đáng điếm xỉa trong vòng trời đất? Sao không xem: ngôi cao vòi vọi mà những người
chiêm ngưỡng chỉ sợ đi sau; lượng biển bao la, mà những kẻ lại chầu tranh nhau đến trước. Tài trí
trong thiên hạ đều là tài trí của một người. Núi đúc khí thiêng, mong được tận trung mọi việc; sông
theo dòng lớn, đâu không hiếu thuận một niềm. Thảng hoặc có thỏ nấp trong núi, kình múa ngoài
khơi, thì sai người văn thần trọng vọng, cử người võ tướng lược thao. Bày trận theo thế Thường
Sơn, hành quân như nước dòng Giang Hán. Núi có thể bạt đi, gò có thể san bằng, nước lớn có thể
bắt lui,sông có thể cắt đứt. Bấy giờ sông yên núi vững, chỉ thấy một vẻ thanh cao. Thái Sơn, Hoàng
Hà ghi lời thề đới lệ; Ngũ Thạc, Tứ Độc, giữ lễ công hầu. Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời,
oai trùm biển rộng, nào ai dám chống” [117,tr 87-88]. Ở đây con người trần mắt thịt đã chiến thắng
những nhân vật uy quyền mang tính huyền thoại. Khẩu khí của nhà văn cho thấy con người ấy thật
vĩ đại và rất đỗi hiên ngang. Điều đặc biệt là con người trần tục không hề có phép lạ mà chỉ có bản
lĩnh, có niềm tin vào chính sức mạnh và vị thế của chính mình trước muôn loài. Cuối cùng kết thúc
cuộc thi, “ngọc nữ” đã về tay một người phàm trần– hình ảnh này nói lên quan niệm của tác giả: con
người dám thách thức và dám dũng cảm thể hiện sức mạnh tài trí của mình trước các lực lượng siêu
nhiên. Đối với lũ yêu ma không chỉ có đạo sĩ mới diệt trừ được mà những con người có chính khí
cũng có uy lực khiến chúng phải khiếp sợ và quy phục. Chẳng hạn như trong Nhị nữ thần truyện,
một nhà nho già trên đường về thăm cha ốm nặng, “trong ánh trăng tàn, cụ nhác trông thấy hai
người ở trên ngọn cây bồ đề đi xuống, bước ung dung không ra dáng leo cây. Nhà nho vốn có chí
khí, nghi là ma, vội chạy lại túm lấy áo hai người ấy định giết. Té ra chính là hai cô thầy bói thường
ngày ở chợ. Nhà nho già quát:
- Ngày ở trong chợ, đêm ở ngọn cây, chúng bay há không phải là yêu tinh ư?
Hai người đàn bà ấp úng không ra lời” [117,tr 26-27]. Hoặc như trong Phụ chép 2, người thầy
dạy học có khả năng đoán định và chế ngự được lũ yêu ma quỉ quái, dâm dục. Người học trò nghèo
nhưng khí phách ngay thẳng cũng không tỏ ra sợ hãi trước sự quấy nhiễu của lũ yêu ma. Những con
người ấy rất tự tin vào chí khí của mình sẽ làm cho bọn ma quỷ phải nể sợ: khi nghe chủ nhà cảnh
báo rằng trong tòa nhà ấy bọn ma quỷ quấy nhiễu khiến người ta không ai dám ở, phải bỏ đi thì anh
học trò đã trả lời rằng: “Thế gian làm gì có ma? Vì bằng có ma thật thì tục ngữ có câu: “Ma hay
trêu người ốm”. Ý hẳn ông sắp hết đời, nên ma mới dám quấy nhiễu như thế. Còn như tôi ở xa đến
đây tìm thầy học tập” [117,tr 155]. Đó cũng là bản lĩnh của Nguyễn Hãn trong Lan Trì kiến văn lục
của Vũ Trinh đã dám đánh ma. Con người trong các tác phẩm vô cùng tài giỏi, có thể giải quyết tất
cả các vấn đề kể cả những vấn đề thuộc về thế giới kì ảo của các lực lượng siêu nhiên. Ngay cả với
thần linh cũng cần đến sự giúp đỡ của con người. Có thể kể đến Nhất thư thủ thần nữ, các vị thần
linh khi gặp kiếp nạn đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của con người trần tục. Và anh đồ chỉ dùng một
dòng chữ của mình mà có thể rửa sạch nỗi oan khuất của một vị thần linh: “Nhà thiếp không phải là
người trần mà là nhà thần. Em gái thiếp không phải con gái người mà là con gái thần. Thân phụ
thiếp có công trừ tai chống nạn, Thượng Đế có lòng thương cho làm chủ một dãy núi. Bốn tháng
trước hai thần núi Tượng Sơn và núi Trĩ Sơn vu cáo tội lỗi cho thân phụ thiếp. Thượng Đế trao bản
án cho động Hoa Lư xét xử. Chủ động toan nghe lời gian dối của hai thần kia. Biết đại nhân trước
kia đã từng làm chức thị thư cho chủ động Hoa Lư, rất được tin dùng, nên chị em thiếp làm một tờ
khiếu bạch nếu được đại nhân chứng nhận thì sự vu cáo của hai thần kia rõ ra, mà tội lỗi thân phụ
thiếp được rửa sạch” [117,tr 177-178)]. Còn trong Trần nhân cư thủy phủ, để giải quyết tình trạng
nguồn nước sinh sống của các loài thủy tộc bị nhiễm quế cay giã nhỏ, người trần đã đưa ra cách giải
quyết như sau: “Cháu nghe vị cam thảo có tính giả chất độc trong các vị thuốc. Cúi xin liệt tổ sai
lính quỷ cải trang làn người trần, đến chợ mua lấy vài trăm cân. Hễ thấy nước quế chảy qua thì tán
nhỏ cam thảo hòa vào. Vị quế dẫu cay, không thể hại được” [117,tr 121]. Thông qua đó, Lê Thánh
Tông đã khẳng định con người giờ đây không chỉ có khả năng nắm giữ vận mệnh của chính mình
mà còn có thể nắm giữ vận mệnh của cả mọi loài. Đề cao vai trò của con người, nhà văn Nguyễn Dữ
còn đi sâu vào diễn tả cuộc đấu tranh của họ trước các thế lực siêu nhiên, thần thánh. Tiêu biểu là
Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Tử Văn đã đốt đền vì không chấp nhận hành vi
“tác yêu tác quái trong dân gian” của hồn viên Bách hộ họ Thôi, không những vậy trước những lời
trách mắng của Diêm vương, Tử Văn đã tâu trình rõ nguồn cơn tội ác của viên Bách hộ với “lời rất
cương chính, không chịu chùn nhùn nhụt nào”. Cuối cùng chàng đã chiến thắng. Tác phẩm không
chỉ dừng lại ở chỗ đề cao sức mạnh con người mà còn ngợi ca tinh thần cứng cỏi của kẻ sĩ trước
sóng gió của cuộc đời. Xem trọng con người hơn thần thánh là một trong những dấu hiệu cho thấy
sự thay đổi tư duy nghệ thuật của các tác giả. Đặc biệt là niềm tin con người có khả năng chinh phục
được những chông gai trước mắt để đi đến bến bờ vinh quang của sự thành công. Tiêu biểu cho kiểu
nhân vật này có thể kể đến những chàng thư sinh nghèo trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn
lục, Lan Trì kiến văn lục. Từ hình ảnh hai anh em trong Hai thần hiếu đễ đến Thiên Tích trong Gã
trà đồng giáng sinh sang Khâm Lân trong Ca kĩ họ Nguyễn là quá trình vượt qua khó khăn thử thách
và chinh phục được đỉnh cao của sự thành công ở những chàng Nho sinh. Hoàn cảnh của họ được
miêu tả khá chân thực, “Ở Sơn Bắc có Nguyễn Tử Khanh, cha mẹ mất sớm chỉ có một người anh”,
lại có người “gia cảnh nghèo nàn, ăn tiêu không đủ”, và cũng có người “mẹ kế ăn ở chẳng lành, bắt
ông bỏ học đi chăn trâu”. Mỗi con người một hoàn cảnh, một cá tính khác nhau song đều xuất thân
nghèo khó, luôn luôn phải đối mặt với những thử thách của cuộc đời. Và rồi những chàng Nho sinh
hàn vi ấy đã dùng chính nghị lực của mình để đi đến những thành công nhất định. Cho nên càng
gian khổ bao nhiêu, thành công của họ càng vinh quang và có ý nghĩa bấy nhiêu.
Trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục, đó đây con người được thể hiện ở những tầng
lớp khác nhau. Đó có thể là một quan lại, một chàng nho sinh nhưng cũng có thể chỉ là những con
người bình thường dưới đáy xã hội. Xuất thân khác nhau, số phận khác nhau song họ luôn có một
niềm tin vào cuộc sống. Trong Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã nhìn thấy những ưu điểm từ con
người bình thường trong cuộc sống. Tác phẩm khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc
không còn nằm ở những tầng lớp thống trị nữa mà tìm thấy nơi những kẻ bị trị, những con người
nhỏ bé bất hạnh. Những con người ấy trong khổ đau, vùi dập vẫn không tắt đi niềm khao khát sống,
khao khát yêu thương và vẫn ngời sáng nét đẹp tâm hồn. Đó là Đào Hàn Than, là Vũ Thị Thiết, là
Lệ Nương, là Túy Tiêu. Trong chừng mực nào đó Nguyễn Dữ được xem là người đã mở đường cho
Nguyễn Du viết Kiều, Hồ Xuân Hương viết về người phụ nữ... Trong khi đó, Vũ Trinh đã nhìn thấy
những con người nghèo khó trong xã hội, những người bất hạnh, những kẻ không nơi nương tựa
mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Một cô gái biết sống đúng mực, biết yêu thật lòng. Một
chàng nho sinh hiếu học, một em bé bị bỏ rơi, tất cả họ đều gợi lên những tình cảnh đáng thương
song đầy tình cảm. Niềm tin vào cuộc sống của con người còn được Vũ Trinh gửi vào trong những
mối tình đẹp. Đấy chính là trường hợp của Phu nhân Lan quận công với câu chuyện tình cảm động
giữa cô con gái út của Thượng thư họ Đàm cùng với chàng trai Nguyễn Trực. Trải qua bao nhiêu
khó khăn, ngoài ba mươi tuổi Nguyễn Trực thi vẫn không đậu. Bỏ ngoài tai những lời chê bai, khinh
khi của hai người chị, vợ chồng cô gái út cuối cùng đã đi đến được của chân trời hạnh phúc và thành
công: “Năm Ất Mùi, niên hiệu Quang Hưng, vua Thế Tông thu phục Kinh thành, mở khoa thi chọn
kẻ sĩ. Nguyễn Trực quả nhiên đỗ thi Hội”. [118,tr 85]. Tác phẩm không chỉ ngợi ca tình nghĩa vợ
chồng mà còn trân trọng những con người biết chắt chiu những niềm tin, những hy vọng để đi đến
đích của sự nghiệp. Câu chuyện tình cùng với nghị lực của nhân vật đã như một thông điệp về niềm
tin vào những kiếp người nhỏ bé trong xã hội nhưng không thôi ước mơ và hy vọng.
Có thể mượn lời nhận xét của Nguyễn Đăng Na đẻ đúc kết vấn đề này:“Cùng với việc trần tục
hóa thánh thần, Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã nâng cao vai trò con người, chúa tể của muôn
loài, trên cả Ngọc Hoàng. Nhưng nếu cường điệu sức mạnh của con người dễ rơi vào tình trạng
thần thánh hóa nhân vật, trở lại với xu hướng thứ hai mà văn xuôi tự sự đang muốn thoát ra, nghĩa
là lại chui vào vòng luẩn quẩn. Để khắc phục hạn chế đó, Nguyễn Dữ hướng ngòi bút của mình vào
việc phản ánh những số phận của con người, chủ yếu là những bi kịch của người phụ nữ. Ông đã
thành công,và chủ nghĩa nhân đạo đã ra đời từ đây. Hạ bệ tiên, phật, thánh và đưa con người với
những số phận đắng cay làm đối tượng của nghệ thuật là cuộc cách mạng trong văn xuôi tự sự thế
kỉ XV – XVI. Tuy nhiên văn xuôi tự sự thời đó vẫn không hoàn toàn đoạn tuyệt với truyện dân gian,
nó vẫn cần dựa vào các motip dân gian để xây dựng lên một loại truyện mới, khác truyện dân gian
về chất. Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã hoàn thành một cách tuyệt vời quá trình này và là cha đẻ
của loại truyện ngắn trung đại theo đúng nghĩa của nó. Trên con đường văn học hóa truyện dân
gian, các tác gia truyện thế tục đã tìm được cho mình một hình thức nghệ thuật phù hợp với yêu cầu
và tâm lí thời đại – hình thức truyền kì”. [67,tr376-377]
Nhân vật trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là những con người nguyên mẫu từ văn
học dân gian và từ lịch sử. Nhân vật chủ yếu hành động theo đúng những quy định của xã hội và
mang tính chất thần tiên, khác người phàm tục. Ở những tác phẩm này thần tiên là đối tượng trực
tiếp chi phối hành động của con người, thần tiên quyết định cuộc sống này. Nhưng Thánh Tông di
thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã góp vào văn học trung đại những gương mặt mới
với những khát vọng sống cao đẹp. Con người có sức mạnh vạn năng, con người có khả năng tự giải
quyết mọi việc chứ không phụ thuộc vào thần linh nữa. Và dù có nghèo đói, khổ đau, bất hạnh trong
họ vẫn có một nghị lực sống tuyệt vời. Nghị lực ấy như một ngọn lửa cứ âm ỉ cháy và nó sẽ bùng
phát khi có điều kiện nhất định. Chính vì vậy mà Lê Thánh Tông, nhất là Nguyễn Dữ và Vũ Trinh
luôn có một niềm tin vào con người, dù là những con người dưới đáy xã hội, những con người bất
hạnh, khổ đau.
3.1.2.2. Cái nhìn trân trọng đối với người phụ nữ.
Chế độ phong kiến vốn không xem trọng người phụ nữ, thậm chí còn có những quy định hà
khắc, cổ hũ với người phụ nữ. Tệ hại hơn, xã hội phong kiến còn cho rằng phụ nữ là tai họa cho
cuộc sống và sự nghiệp của người quân tử. Chính vì vậy, người phụ nữ dưới chế độ phong kiến luôn
bị miệt thị và mất tự do. Đổi mới cách nhìn, cách đánh giá về phụ nữ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ,
Vũ Trinh đã dành những trang viết ngợi ca, trân trọng về giới nữ. Qua tác phẩm của mình, các tác
giả đã chỉ ra rằng: người phụ nữ trong xã hội phong kiến tuy đầy đủ những phẩm chất tuyệt đẹp
như: hiếu thảo, thủy chung, yêu chồng, thương con, giàu đức hy sinh và đầy tài năng, bản lĩnh lại
phải chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội ấy.
Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, Lệ Nương, Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết, mỗi người một hoàn
cảnh nhưng đều là những người đàn bà hiếu hạnh, nết na, luôn sống theo những chuẩn mực của xã
hội. Họ đều là những mảnh đời có thật và khi đi vào tác phẩm cũng rất thật, thật như chính tình cảm
của nhà văn Nguyễn Dữ dành cho họ. Ở đây nhà văn đã chỉ ra: chính sắc đẹp và phẩm hạnh kia đã
là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của người phụ nữ: kết cục của họ đều là cái chết. Từ kết cục này,
phải chăng Nguyễn Dữ muốn nói: người phụ nữ trong xã hội của ông dù hiếu hạnh, nết na, chuẩn
mực song cũng khó có thể được sống hạnh phúc. Đồng thời sự bế tắc và bi kịch của người phụ nữ
cũng chính là bi kịch của những nhà văn có tấm lòng như ông, những người sinh ra không gặp thời.
Thời thế Nguyễn Dữ không có đất dụng võ cho những con người thẳng ngay, liêm chính. Không chỉ
ngợi ca đức tính hiếu hạnh, thủy chung của người phụ nữ, các tác giả còn tỏ ra trân trọng những
khát khao hạnh phúc đời thường của họ. Đó là hạnh phúc được yêu thương của cô gái trong Tháp
báo ân: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu nhìn nhau lúc trời sáng thì một
tối giao hoan đâu mà có được. Ai hay một độ gió xuân lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận
đến suốt đời. Hỡi ơi Lưu lang, với mặt mũi này mà gặp chàng, thiếp chịu đựng sao nỗi” [118,tr
141]. Nho giáo dạy người quân tử “nam nữ thọ thọ bất thân” thì ở đây Vũ Trinh đã vượt qua hàng
rào lễ giáo ấy ngợi ca tình ái ân. Tương tự con ma Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo đã bày tỏ quan
niệm sống: “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào,
nên tìm lấy những thú vui, kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm một
cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa” [23,tr 30]. Ngay cả Lê Thánh Tông – người đưa
Nho giáo lên hàng quốc giáo, cũng ngợi ca niềm hoan lạc lứa đôi: “con gái quá thì lại gặp người
tiên cõi đất, mối tình đằm thắm ví người thường gấp đến mấy lần! Thật là:
“Ngưu nữ cách năm vui thất tịch
Uyên ương gác cổ ngủ liền cành”[117,tr 153].
Cho nên có thể nói viết về phụ nữ ở khía cạnh tình yêu là một trong những đóng góp lớn của
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Khi những tác phẩm này ra đời, người
đọc mới nhận ra chân dung của người phụ nữ một cách trọn vẹn. Họ không chỉ hiện lên qua dáng
điệu bên ngoài, mà còn nổi bật ở đời sống tâm hồn bên trong. Chính điểm này đã làm nên thành
công cho những tác phẩm.
Tình yêu là một trong những nội dung được đề cập nhiều nhưng trong văn học trung đại ngợi ca
tự do trong tình yêu là một điều tối kị, bởi lẽ xã hội phong kiến là xã hội của “cha mẹ đặt đâu con
ngồi đấy”. Vì vậy đề xướng tự do trong hôn nhân là một trong những điểm cho thấy tư tưởng tiến bộ
của nhà văn làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tình yêu làm cho con người sống đẹp hơn, có ý
nghĩa hơn. Họ sẵn sàng hy sinh vì người mình yêu, hy sinh ngay cả khi người ấy phụ bạc cưới
người con gái khác làm vợ: “Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn hạ không xứng hầu
khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp.” [118,tr 64]. Vì tình yêu người phụ nữ sẵn sàng hy
sinh hạnh phúc riêng tư để chồng chuyên tâm đèn sách: “Mong chàng hãy tạm gác tình yêu thương
thiếp, ra sức học hành; còn như việc phụng thờ cha mẹ, miếng ngon miếng ngọt, sớm hỏi, tối chào,
thiếp xin đảm đương, mong chàng chớ ngại.” [117,tr 158], hy sinh để chồng chuyên tâm đánh giặc:
“Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về,
mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi, chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.”
[23,tr 176 -177]. Không đơn giản chỉ là mong muốn người phụ nữ được tự do trong tình yêu, các tác
giả còn đưa họ đến với những cuộc tình gắn liền với hoan lạc, với ái ân mang tính nhục thể. Bởi lẽ
con người cũng cần được thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên mang tính người ấy. Đó là mối tình của
Trình Trung Ngộ với Nhị Khanh, là mối quan hệ tay ba của Hà Nhân Giả với Hồng Nương và Nhu
Nương. Đấy cũng chính là mối tình thoáng qua giữa chàng nho sinh với cô gái mắc bệnh phong, hay
giữa chàng dê và cô gái hiếu thảo. Tình yêu này đã làm nên nét mới cho chủ nghĩa nhân đạo trong
văn học. Không chỉ khao khát được yêu, người phụ nữ còn có niềm tin vào cuộc sống. Người vợ
trong Thử tinh truyện khuyên chồng đi học với một hy vọng chồng sẽ làm rạng danh cho gia đình.
Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu luôn có niềm tin rằng một ngày kia nàng
sẽ được gặp lại chồng. Nếu đức hạnh, thủy chung đã làm nên bi kịch của giới nữ thì tình yêu, niềm
tin vào cuộc sống lại an ủi, giúp họ tìm được chút hạnh phúc của cuộc đời.
Đề cập đến người phụ nữ với một thái độ ngợi ca là một trong những nội dung mới của Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Chính đây là điểm đã đưa những tên tuổi
này có mặt ở chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương. Các tác phẩm ấy đã dọn đường cho Nguyễn Du
viết Truyện Kiều, Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm, Nguyễn Gia Thiều viết Cung Oán ngâm
khúc và Hồ Xuân Hương viết về chính mình. Do đó người phụ nữ trong Thánh Tông di thảo, Truyền
kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã có một vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật của văn
học trung đại Việt Nam.
Nhìn chung bên cạnh lòng yêu nước thì tình thương yêu con người là một trong những nội dung
lớn của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Điều này đã trở thành sợi chỉ
đỏ xuyên suốt quá trình văn học nước nhà. Chính chủ nghĩa nhân đạo đã giúp cho những tác phẩm
của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh dễ dàng gây xúc động với người đọc. Bởi lẽ chính tình
yêu thương, lòng trân trọng của con người – nhất là những con người nghèo khổ, tội nghiệp là một
điểm xuất phát từ truyền thống đạo lí của con người Việt Nam “thương người như thể thương thân”.
3.1.2.3. Sự quan tâm đến con người ở chiều sâu tâm lý:
Viết về số phận con người – đặc biệt là những con người bất hạnh là một trong những thành
công lớn của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trí kiến văn lục. Hơn nữa điều làm nên
tên tuổi cho những sản phẩm tinh thần này là sự góp mặt của nhân vật với một đời sống nội tâm.
Giờ đây, nhà văn đã chú trọng hơn trong việc đi sâu khám phá những suy nghĩ, những trăn trở của
nhân vật. Vượt qua kiểu nhân vật thiên nhiều về hành động trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích
quái, những hệ thống nhân vật của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã hiện lên với những
cảm xúc phong phú.
Mỗi tác phẩm đều có những cách khai thác và thể hiện những tư tưởng khác nhau nhưng nhìn
chung tâm lí nhân vật đều được đặt trong những hoàn cảnh có vấn đề. Chính trong hoàn cảnh ấy tâm
trạng nhân vật được bộc lộ một cách chân thực nhất. Mặc dù chỉ mới là những thử nghiệm bước đầu
nhưng Thánh Tông di thảo đã thật sự xác lập được vị trí của mình khi đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật.
Đó là những suy nghĩ về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trăm họ: “Ta bực mình tự nghĩ
rằng: mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét cho ra cái án này, thì bố mẹ thêm một đứa
con ma, vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là ma sau này không khỏi sinh ra tai vạ”
[117,tr.165]. Diễn biến tâm lí của nhà vua thay đổi thường là trong những hoàn cảnh cần giải quyết
một công việc hay xét xử một sự kiện nào đó. Điều này đã khẳng định trách nhiệm cao của nhà vua
đối với dân với nước. Nhưng không chỉ vậy, đôi khi thả hồn theo cảnh vật thiên nhiên, nhà vua
cũng thấy lòng trống vắng, muốn thoát ra khỏi ngai vàng về với thiên nhiên: “Thật là phóng khoáng
xuất trần, làm cho ta quên cả ngôi cao vạn thặng”. Điều này cho thấy vua Lê Thánh Tông không
chỉ chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia mặc dù nó là chủ đạo. Nhờ thế mà đời sống tinh thần của
nhà văn thêm phần phong phú. Không chỉ hiểu tâm trạng của mình, nhà vua còn thấu suốt tâm trạng
của người khác. Đó là nỗi niềm của cô gái trong Truyện chồng dê: “Thầm nghĩ: ngày tháng thoi
đưa, phút chốc mẹ đã khuất mặt vắng lời, chỉ thấy cỏ xanh một nấm, không biết linh hồn nương tựa
vào đâu? Đau đớn biết dường nào! Lại nghĩ năm nay mình đã 21 tuổi, con gái khó lòng ở một mình,
vườn xuân rồi sẽ có chủ, thì ngày này năm sau, biết ai là người ra mộ cúng bái” [117,tr 98]. Nỗi
đau mất mẹ, sự lo lắng về tương lai là những cảm xúc khác nhau nhưng đều cho thấy được đời sống
tâm hồn người con gái hiếu thảo. Lê Thánh Tông được xem là nhà văn đầu tiên đưa thể loại truyền
kì chuyển sang một hướng khác khi có sự xuất hiện của tâm lí nhân vật trong tác phẩm. Chính điểm
này đã cho thấy Thánh Tông di thảo khác hẳn với các tác phẩm tự sự trước đó. Và khi Nguyễn Dữ
cùng với “thiên cổ kì bút” của ông ra đời, một lần nữa thể loại truyền kì khẳng định chỗ đứng vững
chắc trong lòng văn học dân tộc. Một trong những yếu tố quyết định là tâm lí nhân vật được tác giả
khai thác khá thành công. Đó là tâm trạng khổ đau tột cùng của Vũ Thị Thiết khi bị chồng nghi ngờ:
“kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,
thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào
nước xin được làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa
chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu
khắp mọi người phỉ nhổ” [23,tr 179]. Hay tâm trạng cô đơn, lạnh lẽo của Dư Nhuận Chí khi phải xa
Túy Tiêu: “chúng mày là loài vật nhỏ, còn được suốt ngày quấn quýt với nhau, không phải như ta
lạnh lùng chiếc gối. Ước sao chúng mày nhẹ tung đôi cánh, vì ta đưa đến cho nàng một phong thư”
[23,tr 155]. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục mặc dù xuất hiện muộn hơn song cũng nhanh chóng
để lại vị trí trong lòng bạn đọc bởi những đoạn văn miêu tả tâm trạng nhân vật. Đó là tâm trạng của
người chồng trong Sống lại: “mới đầu, người chồng thấy vợ mình chuyện trò với chàng trai đã có ý
ghen. Đến khi nghe vợ kể hết tình đầu lại còn rơm rớm nước mắt, thì bỗng đâu cơn giận dữ nỗi lên,
hắn giơ cuốc lên phang vợ, không ngờ nặng tay, làm vợ chết. Y sợ hãi đợi đến đêm mới vác xác vợ
về, nói dối là cô bị trúng gió, không cứu được, rồi tự tay khâm liệm chôn cất” [118,tr 50]. Hoặc là
tâm trạng xót thương cho người yêu của cô gái trong Thanh Trì tình trái: “nghe tin Sinh phẫn chí bỏ
đi, không biết là đi đâu, trong lòng âm thầm thương xót. Mỗi khi không có ai, nàng lại nhìn bóng
mình mà nuốt lệ. Dần dà nàng sinh bệnh chân tay rời rã, vóc dáng gầy mòn, trong bụng kết thành
một khối rắn như đá, chữa chạy thế nào cũng không khỏi” [118,tr 68]. Như vậy có thể thấy khác với
Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái, những tác phẩm này đã có sự xuất hiện của những nhân tố
mới. Đó là tâm lí nhân vật được khai thác đi vào chiều sâu. Chính điểm này đã cho thấy những đổi
mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Việc nhà văn đi sâu lột tả tâm trạng nhân vật đã góp phần
làm cho chủ nghĩa nhân đạo ra đời sớm hơn. Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến
văn lục là những tác phẩm văn chương đích thực vì ở những tác phẩm này đã có sự góp mặt của đời
sống tinh thần nhân vật trong đó.
Nói ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong truyện truyền kì, Vũ Thanh đã cho rằng: “Đó
có lẽ cũng là sự khởi đầu cho chủ nghĩa nhân văn với những thành tựu rực rỡ trong văn học giai
đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX sau này. Có thể nói, từ những nhân vật bán thần, ma,
quỷ, những nhân vật có lai lịch và hành vi bí hiểm....trong Thánh Tông di thảo, đến những nhân vật
gần gũi hơn với cuộc đời, có số phận bi kịch trong Truyền kì mạn lục là một bước tiến nghệ thuật
mạnh mẽ của thể loại truyện truyền kì nói riêng và truyện kì ảo Việt Nam trung đại nói chung”
[131,tr775].
3.1.3. Loại hình các nhân vật làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm:
Nghệ thuật xây dựng nhân vật là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.
Dù Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục ngày càng gần hơn với đời sống
hiện thực, mang hơi thở của cuộc sống song chất truyền kì vẫn ít nhiều để lại dấu ấn trong những tác
phẩm đó. Đặc biệt là Lan Trì kiến văn lục, dù đôi cánh truyền kì dường như đã bị “vặt trụi đi” song
chất kì ảo vẫn không hẳn đã hết mà vẫn tồn tại trong hầu hết tập truyện này. Chính chất truyền kì
đậm nhạt vẫn còn hiện hữu trong các tác phẩm đã mang đến cho người đọc sự hấp dẫn, kì thú. Song
đồng thời cái kì lạ kia không đơn giản chỉ có nhiệm vụ mang đến những cảm giác mới lạ cho người
đọc mà quan trọng hơn còn là những bài học mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
3.1.3.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên tôn giáo gợi lên một thế giới ly kì đồng thời gửi gắm những quan niệm nhân sinh, đạo lý sâu sắc.
Như đã trình bày ở trên, loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã xuất hiện khá dày đặc trong
các tác phẩm tự sự trước đó, nay tiếp tục được thể hiện trong Thánh Tông di thảo, Truyền ki mạn lục
và Lan Trì kiến văn lục. Tuy vậy giờ đây loại hình nhân vật này không đơn giản chỉ để thể hiện
những quan niệm của con người trung đại về thiên nhiên, mà còn mang những ý nghĩa nhân sinh tốt
đẹp. Trước hết loại hình nhân vật này gợi lên một thế giới ly kì với người đọc. Người Việt Nam ta
vốn đã quen những nhân vật trong truyện cổ tích như những ông tiên, ông bụt. Đấy còn là những
nhân vật lịch sử được đưa vào trong các truyền thuyết và được thần thánh hóa. Tất cả đều gợi lên
những ly kì, lý thú cho câu chuyện. Những lực lượng siêu nhiên khi đi vào truyện truyền kì lại tiếp
tục phát huy được thế mạnh của mình. Khi đến với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục các nhân vật siêu nhiên, tôn giáo lại mang đến cho người đọc những hấp dẫn mới lạ.
Trong những tác phẩm này, người đọc tưởng chừng như mình đã lạc vào một thế giới khác xa với
thế giới trần tục của con người. Nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã đưa chúng ta đến với những cuộc
du ngoạn vô cùng mạo hiểm, lý thú. Cùng công chúa Bướm hay nàng Ngọa Vân bước vào thế giới
của loài bướm, loài cá với những điều lạ lẫm. Cùng Phạm Tử Hư lên tận chốn thiên Tào, theo nàng
Vũ Thị Thiết xuống chốn Long Cung. Lại cùng với người em trong Truyện hai thần hiếu đễ lên
chốn Thiên cung, hay dõi theo bước chân của chàng Từ Thức đến với thế giới thần tiên. Gần gũi
hơn chút nữa, Lan Trì Ngư Giả đưa ta về với một cây cổ thụ gần làng của chàng Phạm Quỳnh để
gặp ma, hoặc theo chân của người thầy Phạm Viên đến nơi rừng núi đầy thuồng luồng, rắn rết...Tất
cả mang đến cho người đọc những cảm giác khác nhau: lúc sợ hãi, giật mình, khi bay bổng, thơ
mộng. “Biểu hiện của cái kì còn ở tầng sâu hơn chi phối tư duy nghệ thuật của tác giả. Nó xử lý
những yếu tố không gian, thời gian, cách xây dựng hình tượng nhân vật theo một con đường riêng,
nhuốm màu sắc hư ảo, thần kì làm nên cái đẹp nội tại cho truyền kì. Có thể nói truyền kì đã mở tung
cánh cửa không gian”. [123,tr 49] Chính những cảm xúc có được ấy đã khiến người ta khó lòng
quên được bóng dáng của nhân vật. Những nhân vật này đã góp phần làm nên sự đa dạng, phong
phú trong việc thể hiện không gian trong các tác phẩm truyền kì. Đồng thời loại hình nhân vật này
đã giúp cho truyện truyền kì có sức hấp dẫn mạnh mẽ mọi lứa tuổi, mọi thời đại. “Chúng nuôi
dưỡng trong trí nhớ của chúng ta những chuyện mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với
những nỗi lo sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một cách tự
nhiên”[59,tr 43]
Bên cạnh đó, loại hình nhân vật này cũng gửi gắm những bài học làm người, những ý nghĩa nhân
sinh mới mẻ của các nhà văn. Ở Thánh Tông di thảo, kiểu nhân vật thần tiên, tôn giáo như một
phương thức giúp tác giả đề cao con người trần tục. Để trừ được yêu ma, nhân vật “ta” trong tác
phẩm phải nhận được sự giúp đỡ của thần tiên, đạo sĩ nào đó. Song những nhân vật này chỉ là cái cớ
để tác giả tự tôn vinh mình, cho thấy phải là bậc “chân chủ” mới có khả năng giao lưu với thần tiên
và những việc mà nhà vua làm trên thuận ý trời dưới hợp lòng người. Có thể thấy điều này ở Truyện
yêu nữ Châu Mai, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, Mộng ký. Ở những tác phẩm này nhân vật “ta” đã phần
nào khẳng định được vai trò của mình trong trời đất này. Tương tự ở Ngọc nữ về tay chân chủ, con
người chỉ với những lời nói thật lòng của mình đã có thể chiến thắng được cả thần sông và thần núi
để lấy được công chúa: “Núi có thể bạt đi, gò có thể san bằng, nước lớn có thể bắt lui, sông có thể
cắt đứt”. Đó cũng là chân lý khẳng định sức mạnh của con người. Tác giả Thánh Tông di thảo luôn
có niềm tin: con người là chúa tể của muôn loài, con người có thừa khả năng giải quyết mọi việc.
Đề cao vai trò con người cũng là một quan niệm nhân sinh mới mẻ của Nguyễn Dữ. Thế giới của
những nhân vật tôn giáo ở ông là những con người thắng thế được ma quỷ, chế ngự được yêu ma.
Đó là người đạo sĩ trong Chuyện cây gạo, nhà Nho ẩn dật trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh, là
Ngô Tử Văn khẳng khái trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Những kẻ ác độc, tham tàn rồi sẽ
phải chết, những cái xấu không thể cùng tồn tại song song với con người phải chăng là mong ước
của Nguyễn Dữ. Mặt khác nhân vật siêu nhiên, tôn giáo trong Truyền kì mạn lục cũng có những
khát vọng được yêu thương, được thỏa mãn những nhu cầu mang tính bản năng. Đó cũng là tiếng
chuông báo động đối với những quy định khắt khe, cổ hũ của xã hội phong kiến áp chế đời sống
tinh thần của con người. Chính xã hội phong kiến bắt con người sống trong vòng cương tỏa của tam
cương ngũ thường, cho nên quan tâm đến con người là đưa họ thoát ra khỏi những áp chế ấy. Và vì
vậy tiếng nói yêu thương, khát khao hạnh phúc là ước vọng ngàn đời của con người.
Còn ở Lan Trì kiến văn lục, nhân vật thần tiên, tôn giáo mang đến cho ta những khát vọng, ước
mơ về một xã hội tốt đẹp hơn xã hội hiện tại. Đồng thời những nhân vật thần tiên của Lan Trì Ngư
Giả như gửi đến người đọc những băn khoăn của bao thế hệ con người: liệu có thật hay không một
thế giới thần tiên hay chốn yêu ma quỷ dữ? Do vậy hình tượng nhân vật siêu nhiên, tôn giáo mang
những tư tưởng nghệ thuật nhất định.
Loại hình nhân vật siên nhiên, tôn giáo mang những yếu tố kì ảo song đằng sau đó là hiện thực
cuộc sống với những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Với các nhà văn con người là chúa tể của muôn
loài con người có thể tự mình giải quyết mọi việc. Kiểu nhân vật siêu nhiên tôn giáo cũng là mảnh
đất để các nhà văn nói đến cuộc sống ở hiện tại ở thế gian này. Đồng thời đó cũng là khát vọng của
các tác giả về một mảnh đất bình yên, hạnh phúc cho con người trong tương lai.
3.1.3.2. Loại hình các nhân vật con vật, đồ vật giáo dục con người những bài học ở đời.
Hình ảnh con vật có từ văn học dân gian với truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn. Thông qua
chuyện về con vật, các tác giả bình dân gửi gắm nhiều bài học có ý nghĩa. Từ những ảnh hưởng ấy,
loại hình các con vật bước vào trang sách của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ và Vũ Trinh mang những
bài học giáo dục sâu sắc. Trong ba tập truyện truyền kì ấy, loại hình nhân vật con vật, đồ vật xuất
hiện nhiều hơn ở Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục và còn mang nhiều nét mới so với văn
học dân gian.
Đa số những con vật xuất hiện trong Thánh Tông di thảo là những hình tượng chuyên chở đạo lí
làm người. Với hai nhân vật con cóc và con ếch, Thiềm thừ miêu duệ ký khuyên con người đừng
tham lam mà nên sống thật với chính mình. Những kẻ sống trong quyền quý tham lam vô độ thì
sớm muộn sẽ nhận lấy thảm họa. Sơn quân phả thì nhắc nhở bài học ở đời “ác giả ác báo”. Văn thư
lục lưu ý con người khi sống trong nhung lụa giàu sang nếu không giữ mình thì sẽ bị chính cuộc
sống đầy đủ ấy làm hại. Bài học này thật có ý nghĩa trong xã hội hiện đại của chúng ta: cuộc sống
đôi khi càng sung túc, đầy đủ sẽ càng hại cho con người nếu con người không đủ bình tĩnh để chống
chế lại những ham muốn của bản thân mình. Một trong những căn bệnh giết chết con người cũng
được luận bàn đến trong Thánh Tông di thảo là bệnh khoe khoang. Thói khoác lác, tự kiêu của
những kẻ “ếch ngồi đáy giếng” sẽ làm triệt tiêu con đường phấn đấu để tiến bộ của họ và biến họ
thành những kẻ tự đào mồ chôn mình. Đó là bài học sâu sắc rút ra từ Vũ môn tùng tiếu.
Vũ Trinh cũng viết khá nhiều về con vật, đặc biệt là những con vật ở rừng. Con hổ nghĩa hiệp
dạy người đời bài học về tình người. Tác phẩm kể về một người cha vì muốn lấy thêm vợ bé mà đan
tâm vứt bỏ con mình cho hổ ăn thịt. Nhưng con vật vốn hung dữ ấy của rừng thiêng đã mang em bé
trở về với bà ngoại. Hình ảnh ấy gửi gắm một dạy cho chúng ta bài học làm người: con vật còn có
lòng từ bi trắc ẩn huống chi là con người – mà nhất là những người cùng máu mủ. Tình cảm gia
đình là thứ tình cảm thiêng liêng nhất của con người – nhất là tình phụ tử. Hơn nữa những người
làm cha làm mẹ cần làm tròn trách nhiệm mà thượng đế đã giao cho họ. Người cha táng tận lương
tâm trong truyện thật đáng chê trách biết bao! Cùng là hình ảnh con hổ song trong Con hổ có nghĩa
nhà văn Vũ Trinh lại gửi đến đọc giả bức thông điệp về tình nhân ái. Tác phẩm kể về một con hổ
đực vào làng tìm một bà mụ đến đỡ đẻ cho hổ cái: “Lát sau, con hổ đột nhiên lao tới cõng bà đi
(.....). Hổ đực cầm tay bà, nhìn hổ cái mà nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có vật gì động
đậy, biết là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc đỡ đẻ mang theo người bà liền hòa với nước suối cho hổ uống,
thấy hổ cái giảm đau. Bà lại xoa bóp bụng và lưng hổ cái. Lát sau thì hổ cái sinh nở”. Và để trả ơn
cho bà, hổ đực đã “quỳ xuống bên một gốc cây, dùng chân đào lên cục bạc trắng”. [118,tr 42].
Cũng trong tác phẩm này Vũ Trinh cũng đề cập đến một chúa sơn lâm khác bị “khúc xương mắc
trong họng”. Nhờ có sự giúp đỡ của bác tiều “thò vào cổ họng hổ, móc ra một chiếc xương bò to
bằng cánh tay” mà hổ thoát chết. Sau đó con hổ đã đền ơn bác tiều phu bằng “một con nai” [118,tr
44. Hai câu chuyện trong cùng một tác phẩm với hai số phận hai cảnh ngộ khác nhau song điểm
chung là cả hai con hổ gặp nạn, được con người cứu giúp và chúng đã biết ơn, đền ơn cho con
người. Tưởng chừng chỉ vậy thôi, song đằng sau câu chuyện của hổ là bài học dành cho con người:
Con vật còn biết trả ơn, đền ơn khi nhận được sự giúp đỡ vậy thì con người cũng cần phải biết cư xử
như thế nào cho khỏi hổ thẹn. Đề cập đến điều này phải chăng vì thời đại Vũ Trinh đang tồn tại
những điều trái luân thường đạo lí. Những kẻ “gót dày đổi chỗ”, những kẻ thờ ơ trước nỗi đau của
người khác và lạnh lùng trước hành vi hiệp nghĩa của con người ngày càng xuất hiện nhiều. Có lẽ vì
vậy mà câu chuyện đã mang đến bài học có ý nghĩa sâu sắc về tình người. Có thể thấy hổ là một
trong những con vật xuất hiện nhiều trong Lan Trì kiến văn lục: con hồ hào hiệp, con hổ có
nghĩa,con hổ nhân đức. Hầu hết chúa sơn lâm hiện lên trong tác phẩm đều làm những việc tốt, việc
có ích, mang lại an bình cho con người. Phải chăng thông qua hình ảnh này, Vũ Trinh muốn nhắc
nhở: Con người sống với nhau cốt yếu ở tình cảm, tấm lòng. Ví như cha ông thường dạy: “hổ dữ
không nỡ ăn thịt con”. Nay con hổ lại là con vật cứu người. Chính điểm này đã cho thấy rõ thiên
hướng đề cao tình cảm con người, sự thương yêu đùm bọc giữa người với người của Lan Trì kiến
văn lục.
Hình ảnh con vật xuất hiện trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục quả đã mang một ý
nghĩa nhân sinh sâu sắc và những bài học mới. Thông qua những câu chuyện về chúng nhà văn đã
gửi đến người đọc nhiều bức thông điệp về cuộc sống và tình người góp phần vào việc tạo nên giá
trị đặc sắc của tác phẩm.
3.1.4. Loại hình các nhân vật có vai trò làm rõ đặc trưng của thể loại truyền kì:
3.1.4.1. Nhân vật được xây dựng với yếu tố “kì”.
Ở một trình độ cao, kì là một phương thức tư duy nghệ thuật kiểu phương Đông để tạo nên
những kì văn. “Nhìn chung yếu tố kì ảo vốn được sử dụng rộng rãi trong nhiều tác phẩm văn xuôi tự
sự thời trung đại. Một lẽ giản dị: yếu tố kì ảo là sản phẩm của lối tư duy trung đại, được các nhà
văn mặc nhiên thừa nhận là một phương diện nghệ thuật có tính đặc thù. Theo quan niệm truyền
thống, văn chương muốn có sức đi xa phải được chắp đôi cánh của cái kì, cái lạ. Nghê Trác nói: vô
truyền bất kì, vô kì bất truyền”. [15tr 449]. “Yếu tố kì mãi mãi là “dư ba” của văn học trung đại
chất phác, thô sơ, khắc nghiệt nhưng cũng đầy huyền thoại và nên thơ” [25tr 20]. “Nhìn chung yếu
tố kì tạo nên sức hấp dẫn, làm bề nổi cho câu chuyện và truyền kì như khoác một cái áo sặc sỡ, bắt
mắt. Và đó là cái áo trong tay nhà ảo thuật” [113,tr 49].
Để biến các sự vật phi vật thể và vật thể hữu hình thành các nhân vật trong tác phẩm của mình,
các tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa và thần kì hóa. Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng
yếu tố kì không phải chỉ với chức năng vỏ bọc che dấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà còn với tư
cách một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể loại. Các tác giả đã phản ánh hiện thực
qua cái kì lạ.
*Hình thức nhân hóa.
Nhân hóa là một phương thức sử dụng trí tưởng tượng để chuyển những đặc điểm của con người
sang những đối tượng và hiện tượng không phải là đặc tính của con người. Dạng thức đầu tiên có
thể thấy của thủ pháp này là làm cho ma quỷ biến thành những hình dạng đáng sợ hoặc thành người.
Trong Mai Châu yêu nữ truyện, người con gái trong truyện có nguồn gốc là một nữ yêu tinh biến
hình quái gở: “Khi nó hiện ra người đầu to bằng bánh xe, hoặc hai đầu sáu mình ai trông thấy cũng
chết khiếp” [117,tr 9]. Hoặc trong Trần nhân cư thủy phủ, hình dáng lũ yêu quái hiện lên trong thật
đáng sợ: “đứa cụt chân, đứa mất đầu, hình dáng kì quái, phần nhiều không được trọn vẹn”
[117,115]. Nhưng khi biến thành người, yêu tinh lại có hình dáng, dung tư rất đẹp: “Khi nó biến
thành cô gái đẹp hoặc nhẹ như Phi Yến, hoặc béo tốt như Dương Phi, ai say mê tất phải thiệt mạng”
[117,tr 9]. Và “một người con gái đẹp tuyệt trần, trạc mười sáu tuổi, mắt long lanh như nước mùa
thu, môi đỏ như son vẻ, tóc mây mặt hoa, cười nói duyên dáng, làm cho người ta phải động lòng”
[117,tr 10]. Cũng như vậy trong Truyền kì mạn lục, Chuyện cây gạo cũng miêu tả con ma biến thành
cô gái đẹp mê hoặc Trình Trung Ngộ: “dọc đường hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông
thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt
sắc” [23,tr 28]. Kiểu dạng biến hình này cũng xuất hiện trong Lan Trì kiến văn lục, tiêu biểu là hình
ảnh: “Cây đa này có con ma, thường hay hiện hình giữa ban ngày, biến hóa khôn lường. Hễ ai đụng
tới nó, liền bị bệnh tật hoặc chết ngay.” [118,tr 88]. Rồi con ma này biến thành cô gái: “Đến chỗ
cách cây đa chừng hơn mười thước, cúi nhìn thì thấy một người con gái mặc áo trắng, quần đen,
đang ngồi xõa tóc ở dưới gốc đa” [118,tr 89]. Kiểu nhân vật này cũng mang những đặc điểm như
con người trần tục, khi gia nhập vào cuộc sống ở trần gian cũng phải chịu đựng nhiều bất hạnh, ấm
ức giống như con người. Những nhân vật này cũng gắn liền với những khát vọng được yêu thương,
được thỏa mãn những nhu cầu về thể xác. Con ma chổi nữ trong Phụ chép hai là trường hợp tiêu
biểu: “Hôm qua, ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi qua. Đã ưa người đẹp, lại mến tài cao,
nên thiếp bèn chui ngạch cửa đi ra, quên cả hổ thẹn”. [117,tr 152]. Tình yêu có thể làm cho con
người vượt qua mọi khó khăn, rào cản kể cả những ngăn cấm của lễ giáo phong kiến đương thời để
đến với mảnh đất hạnh phúc. Đi từ Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo sang đến Hồng Nương, Nhu
Nương trong Cuộc kì ngộ ở Trại Tây - những nhân vật ma quỷ được nhân hóa tiêu biểu cho khát
vọng được thỏa mãn những nhu cầu mang tính “người”. Nhà văn đã mượn những việc của ma quỷ
để dễ dàng nói đến những việc của con người. Đây là một trong những thủ pháp thường gặp trong
truyện truyền kì để chống lại những búa rìu dư luận của xã hội Nho giáo. Đặc biệt việc đưa các nhân
vật nữ vào vị trí hồn ma cũng là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Những nhân vật nữ này luôn luôn có
khát khao về đời sống nhục thể. Xã hội ấy buộc con người sống theo lý tưởng “quả dục”, “tiết dục”,
thậm chí là “diệt dục”, buộc con người phải “ép phần xác để tỏa sáng phần hồn”. Do vậy dưới vỏ
bọc kì ảo, các tác giả đã có điều kiện đưa cái sinh hoạt thường ngày - chuyện phòng the - vào tác
phẩm. Nói đến con người với những nhu cầu về bản năng là một bước tiến dài trong văn học. Nó đã
khẳng định sự thành công của thể loại tự sự và cũng là một thành quả của tư duy nghệ thuật trong
quan niệm về cuộc sống và con người. Như một con ốc sên với vỏ ngoài cứng cáp, cái kì ảo có thể
che đậy dụng ý sâu xa của nhà văn mà khi có điều kiện nó vẫn lộ ra rõ nét.
Loại nhân vật thứ hai được xây dựng theo thủ pháp này là loại người chết được sống lại. Đó là
những người hoặc khi sống lập nhiều công đức nên khi chết được Ngọc Hoàng Thượng Đế thương
tình cho giữ một chức vụ nào đó. Ví như hình ảnh người tôi trung trong Trần nhân cư thủy phủ của
Lê Thánh Tông. Đó là nhân vật sau khi chết được giữ chức là cai quản một cõi ma quỷ. Hay trường
hợp Gã trà đồng giáng sinh cũng vậy. Đức Công sau khi chết đã được Thượng Đế thương tình cho
sống lại nhờ người này khi sống làm nhiều điều ân đức: “Ta vừa đến một chỗ thành đen vách sắt,
toan bước chân vào thì có một viên chức ngăn lại. Viên ấy dẫn ta đi sang phía hữu, thấy có những
cửa đỏ biển son. Vén áo đi vào cửa này thì thấy san sát những tòa rộng dãy dài, có đến hơn trăm
người thắt đai đứng hầu sau trước. Giữa có hai vị mặc áo bào tía ngồi đối diện nhau ở bên một cái
án,đưa mắt cho viên chức kia bảo lấy sổ son của họ Dương ra xem. (....)Nhà ngươi ngày thường vốn
có tiếng là người lương thiện. Thượng đế khen ngợi, ban cho một người con trai tốt và cho sống lâu
thêm hai kỷ nữa. Nên mau về đi mà cố gắng làm điều âm đức, đừng bảo là trên cõi minh minh
không biết gì đến” [23,tr 39]. Cũng có khi những nhân vật ấy tuy không được hoàn sinh nơi trần thế
nhưng lại được chuyển sang tồn tại trong một thế giới khác, hoặc là những người do chứa dứt nợ với
lương duyên từ kiếp trước nên lại trở thành người dưới một dạng khác để tiếp tục được yêu, được
sống với mối tiền duyên của mình. Tiêu biểu là nhân vật anh chồng dê trong Dương phu truyện. Do
vậy khái niệm sống lại ở đây có nghĩa là nhân vật sau khi chết đi sẽ được tồn tại trong một thế giới
khác, hoặc chết đi nhưng oan hồn còn lẫn khuất không tan biến được mà tụ lại biến thành người với
vóc dáng hoàn toàn khác. Nhìn chung loại nhân vật này có thể trực tiếp nói lên những suy nghĩ có
liên quan đến đời sống con người: những chuyện lịch sử, nhân tình thế thái ở cõi âm hoặc cõi
dương. Loại nhân vật này cũng đã cho thấy quan niệm của con người trung đại: con người không
bao giờ biến mất hoàn toàn, ngay cả khi chết họ vẫn tồn tại ở một dạng khác. Điều này đã cho thấy
khát vọng con người mãi mãi được sống ở thế giới này.
Loại nhân vật thứ ba là loại nhân vật thần tiên, Phật được nhân cách hóa. Thần tiên trong ba tập
truyện không chỉ có dung mạo tuấn tú, thoát tục, khác người mà còn có những phép thần thông
quảng đại, phép thuật cao cường và có thể sống bất tử cùng thời gian. Hai đặc điểm này tạo nên tính
cách kì lạ của loại hình nhân vật thần tiên khác hẳn người thường. Chính cái tính cách kì lạ, phi
thường ấy đã mang lại cho người đọc một sự lạ lẫm, hấp dẫn và bí ẩn. Bên cạnh những đặc điểm phi
thường khác người ấy, nhân vật thần tiên, Phật cũng được các tác giả phú cho những đặc tính như
con người. Có thể thấy các tác giả đã đi ngược lại với truyền thống của thể tự sự có mầm mống
truyền kì trước đó khi trần tục hóa thánh thần, tiên, phật. Với cách này, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Dữ, Vũ Trinh đã kéo những hình tượng của tín ngưỡng tôn giáo từ trên cao xuống với thế giới trần
tục. Kiểu nhân vật thần tiên, Phật mang theo cách nghĩ của các tác giả về cuộc đời của con người.
Trước hết nhà văn thể hiện khát vọng ngàn đời của con người về một cuộc sống bình yên, an lành
như ở thế giới của thần tiên. Ngoài ra kiểu nhân vật này với khát vọng được yêu thương đã khẳng
định một sự thật: tình yêu, nghĩa vợ chồng là những tình cảm đáng trân trọng nhất và thần tiên cũng
sẽ bất hạnh nếu không có nó. Đồng thời đó cũng là ước mơ vĩnh cửu hóa tình yêu của nhà văn.
Chính đây là một trong những nội dung giúp cho Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục vượt xa những tác phẩm có yếu tố “kì” trước đó.
Ngoài ra, cách thức nhân hóa còn được sử dụng với loài vật và đồ vật. Đối với dạng muông thú,
côn trùng biến thành người, tác giả mô tả dáng vẻ, diện mạo của chúng thật đa dạng. Có loài vật
biến thành cô gái đẹp, nét đẹp ấy được miêu tả khá cụ thể: làn da trắng nõn, ngón tay búp măng hay
hàm răng hạt bầu; lại có loài vật biến thành chàng trai trẻ, dáng vẻ đẹp như Tống Ngọc, Phan Lang.
Cũng có khi loài vật biến thành chàng tú tài hoặc người xử sĩ. Hoặc trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây
là hình ảnh hai cô gái từ loài hoa biến thành: “Ngày ngày đi qua, sinh thường thấy hai người con gái
đứng ở bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà
ném cho sinh nữa” [23,tr 48]. Không chỉ loài vật, cây cỏ mà đồ vật cũng có thể biến thành người: đó
có thể là chiếc chổi tre hay đàn tì bà. Có nhiều loài vật, tuy đã biến hóa thành người nhưng dung
mạo vẫn để lộ ra một vài dấu hiệu nhận dạng của loài vật. Điều này chứng tỏ rằng dù tồn tại ờ hình
dạng nào chúng vẫn không thể tách rời hẳn khỏi môi trường sống trước khi hóa thành người. Đó là
trường hợp của nàng Mộng Trang: “nhìn kĩ sau lần áo lót mình, Sinh thấy ở bụng Mộng Trang có
nhiều ngấn ngang” [117,tr 48]. Bởi lẽ Mộng Trang do loài bướm hóa thành nên những ngấn ngang
đó là dấu hiệu của thân bướm. Hoặc trong Ngư gia chí dị: “một ông già dưới cằm có hai cái râu rất
dài” [117,tr 71], do ông là do loài cá biến thành nên hình dáng vẫn còn mang những nét riêng của
loài cá. Nhưng cũng có những con vật khi biến thành người thì giống người như hệt đến cả những
chi tiết nhỏ nhất: con chuột tinh trong Thử tinh truyện biến thành anh chồng giống từ nốt ruồi đỏ ở
cổ, mụn hạt cơm ở trong tai, tiếng nói trong như tiếng khánh, hai môi đỏ như son đến cả tầm thước
lẫn cách ăn mặc. Có thể thấy rõ những quan niệm hay ngụ ý sâu xa của các tác giả thông qua loại
nhân vật này.
Tóm laị nhân hóa là một trong những biện pháp quan trọng được sử dụng nhằm thể hiện đặc
trưng của thể loại truyền kì. Và biện pháp này đã giúp cho nhà văn truyền tải được những điều mình
khó có thể phát ngôn một cách trực tiếp được. Điểm chung của những nhân vật với hình thức nhân
hóa này là: mang những đặc điểm, tính cách như con người và số phận đều là bất hạnh. Thông qua
thân phận nhân vật ma quỷ, con vật, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì
kiến văn lục muốn nói đến cuộc đời, số phận của con người ở chốn trần gian.
*Hình thức thần kì hóa.
Thần kì hóa là cách thức cài vào con người hiện thực một số tính cách siêu phàm, những bản
lĩnh và phép thuật kì lạ hoặc quan niệm sống chết của thần tiên. Đây là những nhân vật thường
xuyên xuất hiện trong mối quan hệ với các nhân vật là thần tiên (Hiếu đễ nhị thần truyện, Nhất thư
thủ thần nữ, Chuyện gã trà đồng giáng sinh, Tiên đảo...). Vì vậy các tác giả đã phú cho loại nhân
vật này những khả năng kì diệu để tạo nên sự tương xứng trong mối quan hệ ấy.
Đặc điểm đầu tiên của loại nhân vật này là có nguồn gốc, lai lịch, hoàn cảnh và chỗ ở “xác
thực”. Mục đích của việc làm ấy là để khẳng định với người đọc: những câu chuyện kì lạ sắp sửa
được kể ra là hoàn toàn có thực. Đó là trường hợp của Hoa quốc kì duyên, chàng Chu Sinh là người
ở “Động Sơn La, tỉnh Hưng Hóa”, “mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc lọt lòng và được chú ruột đưa về
nuôi dưỡng” [117,tr42]. Còn trong Hiếu đễ nhị thần truyện, tác giả kể rằng: “Ở Sơn Bắc có Nguyễn
Tử Khanh, cha mẹ mất sớm, chỉ có một người anh. Khi lớn tuổi anh và chị dậu đều mất cả, để lại
một cháu. Tử Khanh coi như con” [117,tr 90]. Và trong Dương phu truyện cũng xuất hiện địa danh
và sự kiện cụ thể “Làng Thanh Khê có người đàn bà góa chồng sinh được hai con gái. Người em đã
đi lấy chồng. Người chị ở nhà đến năm 19 tuổi thì mẹ mất” [117,tr 97]. Thời gian câu chuyện cũng
có tính chất cụ thể và xác thực như không gian: “Dương Đức Công tên là Tạc, người phủ Thường
Tín xứ Sơn Nam. Về triều vua Huệ Tôn nhà Lý”[23, tr 38], hay “Hà Nhân, người học trò quê ở
Thiên Trường, khoảng năm Thiệu binh ngụ ở kinh sư tòng học cụ Ức Trai” [23, tr 4823, hoặc “Vào
năm Sùng Trinh nhà Mạc ở làng Ông Mặc, huyện Đông Ngàn, có ông họ Đàm, làm Thượng thư đã
trí sĩ” [118,tr 82]. Việc đưa địa chỉ xác thực của từng nhân vật nhằm chứng minh rằng những câu
chuyện được kể là câu chuyện có thật, chứ không phải là chuyện ma quỷ, quái đản.
Đạo giáo cũng tỏ ra có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Đó là quan niệm
thể xác và linh hồn đều sống mãi: ước vọng lớn nhất của tín đồ Đạo giáo. Vị tiên thổi địch mà Lê
Thánh Tông từng gặp ở hồ Lãng Bạc là một ví dụ điển hình. Vị tiên ấy cho rằng con người chết đi
rồi sẽ sống lại: người sau khi chết hoặc sẽ sống nguyên hình, hoặc linh hồn sẽ còn mãi, hoặc chuyển
hóa sang một dạng sống khác. Đạo giáo tin tưởng rằng người đời sau khi chết chẳng những có thể
biến thành những giống có sinh mệnh như hạc, hổ, vượn, ba ba, mà còn có thể biến thành những vật
không có sinh mệnh như cát, đá....Người tuy chết nhưng lại đầu thai hoặc vẫn sống thậm chí trường
tồn. Trong Hoa quốc kì duyên: “Sinh biết mình sắp làm chúa Hoa Quốc, tất nhiên không thể ở lâu
cõi trần,bèn dâng sớ xin về quê liệu việc nhà. Về chưa được một ngày thì mất” [117,tr 61]. Còn như
trong Dương phu truyện: “qua bốn tháng nàng ốm. Biết thế không khỏi được, nàng mới gọi chú họ
bày tỏ sự tình, xong thì tắt nghỉ. Đến hôm đưa đám, người ta nghe trong quan tài có tiếng nhảy
nhót, khiêng lên không được. Mở ra xem thì thấy một con ngỗng vàng mỏ ngậm cành hoa bay lên
trời” [117,tr 102]. Và trường hợp của Nhất thư thủ thần nữ, nhân vật vào “tháng ba năm sau nữa,
vào ngày Thanh Minh, anh gọi các con bảo rằng:
-Đêm nay ta mộng thấy mẹ con về bảo ta rằng: Nợ trần đã trả, còn ở lâu làm gì? Chức Thị thư
khuyết đã lâu rồi, không về tất bị phạt. Mộng đã như thế, có lẽ ta sắp chết chăng?Nói xong nhắm
mắt.Các con xúm đến gọi thì tứ chi đãcứng đờ”. [117,tr 181 – 182].
Có thể nói đó là cái chết của những vị thần tiên sau khi xuống trần làm người trần để thực hiện
nhiệm vụ của mình ở dương gian, hoặc đi tìm hạnh phúc cho mình. Sau khi hoàn thành sứ mệnh thì
nhân vật chết đi để trở về với cõi thần tiên, nên “chết” ở đây là cách thức chuyển hóa từ trạng thái
người trần về trạng thái thần tiên, do đó “đến và đi” đều hợp với lẽ tự nhiên của con người, là quy
luật muôn đời: “có sinh tất có tử”. Trong Nhị nữ thần truyện, vị Sơn Thần Đông Ngu sau khi trả
xong mối thù cho mẹ, tự tay trói kẻ thù giải về cho Lê Lợi để dâng công thì đã xin về dưỡng bệnh ở
núi Tam Đảo, được một năm thì mất, người vợ của sơn thần sau bao ngày tìm kiếm khi nghe được
tin ấy, đang buồn hóa tươi, mỉm cười nói rằng:
“Vợ đi, chồng lại về
Tìm nhau như Sâm, Thương
Biết lòng ông thần núi
Vì thiếp phải vội vàng” [117,tr26].
Còn trong Nhất thư thủ thần nữ, vị thần nữ sau mười năm chung sống với anh đồ ở dương gian
đã phải trở về cõi thần. Sau khi bịn rịn lúc chia tay chồng trong đêm trước khi đi, nàng đi ngủ và
“sáng sớm mai chỉ còn cái xác không mà thôi”, sự việc diễn ra hoàn toàn đúng với lời mà nàng đã
nói với chồng: “Trong khoảng một hai đêm nữa, thiếp sẽ thoát hình người trần mà về cõi trên núi”
[117,tr 181].
Đặc điểm chung của những cái chết này là đều chết vào đúng thời điểm đã định trước hoặc hẹn
trước với một nhân vật khác. Chàng Chu Sinh chết vì đã trót nhận lời hẹn với Quốc Mẫu là giúp
công chúa Mộng Trang cai quản, trị vì Vương quốc, ngăn giặc Ô Thước qua núi Hoa; chết để trở về
Hoa quốc sau 15 năm xa cách như đã hẹn ước với Mộng Trang. Còn Tử Khanh trong Hiếu đễ nhị
thần truyện chết sau khi đã làm tròn trách nhiệm với cháu như lời đã hứa với anh mình và chết đúng
vào thời điểm mà hai anh em đã hẹn nhau vào mười năm trước: “Mười năm sau tháng giêng đúng
ngày Thượng Nguyên, hai miếu thờ đối nhau, thì giờ đi lại chuyện trò còn nhiều” [117,tr 93]. Người
con gái trong Dương phu truyện cũng chết theo đúng lời hẹn ước với chồng dê: trước khi trở về trời,
người chồng giao hẹn với vợ là mỗi lần nhớ đến mình thì khấn gọi mình về và trong lời khấn của họ
luôn có lời giao ước:
“Hãy về từ tạ Ngọc Hoàng
Tình xưa nghĩa cũ dở dang sao đành” [117,tr 102].
Quan niệm sống chết của Đạo giáo cũng thể hiện khá rõ trong Truyền kì mạn lục. Biểu hiện dễ
thấy nhất là người sau khi chết biến thành hồn ma để trăng gió với người đời. Tiêu biểu có thể kể là
Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo. Nhị Khanh là “cháu gái ông cụ Hối, lên hai mươi tuổi, chết đã
nửa năm, hiện quan ở ngoài đồng ngay bên cạnh làng”. Sau khi chết biến thành “một người con gái
xinh đẹp” và đi lại hẹn hò với tên lái buôn Trình Trung Ngộ. Xuất phát từ suy nghĩ “nghĩ đời người
ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao” nên hồn ma Nhị Khanh tìm đến với những “cuộc hoan lạc ái
ân”, nhằm thỏa mãn những thú vui cuộc đời. Cũng có khi con người sau khi chết biến thành quỷ dữ
để báo thù. Đó là trường hợp của Đào Hàn Than, Vô Kỉ trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị. Hai
người không chỉ yêu khi còn sống mà ngay cả khi chết họ vẫn đến với nhau. Các nhân vật này được
xây dựng theo hình thức thần kì hóa thể hiện ước mơ của con người về cuộc sống và tình yêu. Đó là
những điều mà trong hiện tại con người không thể thực hiện được dù họ luôn luôn cố gắng.
Hình tượng người đạo sĩ và người ẩn sĩ cũng thể hiện rõ tư tưởng, quan niệm của Đạo giáo. Đạo
sĩ là những người theo học thuyết của Lão Trang: sống phóng khoáng và thoát ly hiện thực. Người
ẩn sĩ có khi trở thành người đạo sĩ, bởi cả hai muốn trốn đời để giữ khí tiết và biểu thị sự bất hợp tác
với tầng lớp thống trị đương thời. Người đạo sĩ trong Thánh Tông di thảo,Truyền kì mạn lục, Lan
Trì kiến văn lục được khắc họa theo tinh thần lãng mạn: không ai biết họ sống ở đâu, nơi ở của họ
thế nào? Khi thì họ từ trong núi đi ra, khi thì xuất hiện nơi đàn tràng....với hình dáng khắc khổ, đói
rách: “áo rách giày nát, thất thểu đi đến” hoặc “khăn cũ giày rách, ăn mặc lôi thôi đi vào”. Trong
khi đó người ẩn sĩ thích sống nơi tĩnh lặng trong rừng, hoặc nơi vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nơi ở của
nhân vật này cũng thường đơn sơ và giản dị: sống trong am cỏ với những vật dụng đơn giản, bình
thường. Người đạo sĩ có một cuộc sống lang thang, nay đây mai đó lấy việc cứu người làm niềm
vui, hoặc thi thảng làm nghề săn bắn, xem tướng số và tất nhiên là xem thường danh vọng, tiền tài.
Có nhiều căn bệnh để trị, đó là bệnh do ma quỷ mê hoặc, tác oai tác quái. Nhưng đó cũng có thể là
bệnh xã hội, bệnh xuống cấp đạo dức, bệnh là những thói hư tật xấu của con người. Còn hành động
của người ẩn sĩ thường là một lão tiều phu đốn củi, ra chợ đổi đồ chứ không bán lấy tiền. Họ hiện
lên trong vẻ tưởng chừng như thờ ơ với cuộc đời: “ông già lánh bụi, gửi tính mệnh nơi lều tranh
quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách
tục, bạn cùng là hưu nai tôm cá, quấn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn,
nằm mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn” [23,tr 68]. Thế nhưng họ lại tỏ ra am hiểu
sự đời và những gì đang diễn ra trong hiện tại: một ông vua dâm ô, một tên quan tham lam độc ác.
Có thể thấy phương thức thần kì hóa tập trung vào nhân vật người ẩn sĩ và người đạo sĩ.
Hầu hết các tác phẩm truyền kì đều sử dụng một trong hai nghệ thuật: nhân hóa hoặc thần kì hóa.
Yếu tố hoang đường kì ảo như là những lá chắn, bình phong che đậy dụng ý của tác giả đồng thời
với biện pháp “dĩ cổ dụ kim” giúp những đứa con tinh thần của họ không vướng vào vòng cương
tỏa của giai cấp thống trị.
3.1.4.2. Nhân vật là người phát ngôn cho ý đồ tác giả.
Văn chương trung đại có mục đích trọng đại là giáo hóa con người. Nhân vật là sản phẩm tinh
thần của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để khái quát quy luật về đời sống con người và
bộc lộ quan niệm của mình về những con người trong xã hội. Tuy vậy văn học không chỉ là sản
phẩm tinh thần của một nhà văn, mà còn là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử - xã hội, của truyền
thống văn hóa. Vì thế bên cạnh những nét mới Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến
văn lục vẫn không khỏi thể hiện quan niệm của văn chương trung đại: sáng tác là để “tải đạo”. Nơi
một số truyện có thể thấy nhân vật chính là người phát ngôn cho ý đồ tác giả. Ở Thánh Tông di thảo
điều này thể hiện khá rõ. Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm đều nhằm chuyển tải đạo lý. Đó là
đạo đức của bậc làm vua phải biết chăm lo cho con dân của mình. Là trách nhiệm của người làm tôi,
phải trung thành cần mẫn, nhà vua muốn giáo dục nhân dân những đạo lý Nho gia về: quan hệ vua
tôi, nghĩa vợ chồng, đạo cha con.... Đặc biệt tác giả đã mượn nhân vật con vật để gửi đến người đọc
những bài học làm người ở đời, mà tiêu biểu nhất là lời của con muỗi đồng nói với con muỗi nhà
trong Bức thư con muỗi.
Đến Truyền kì mạn lục, vượt thời gian: Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Câu chuyện đối đáp
người tiều phu núi Nưa, Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang....là những truyện tiêu biểu cho những lời
giáo huấn. Nhà văn đứng sau nhân vật, chỉ đạo cho nhân vật hành động và thông qua đối thoại của
nhân vật nói lên những suy nghĩ của mình. Ví như lời của Hồ Tôn Thốc phê phán Hạng Vương: “Lẽ
trời việc người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau. Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước;
bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà xả thây. Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ trời, vì thế
mà đến táng bại vẫn không tỉnh ngộ (.....). Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức;
thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo. Nhà vua chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương
cường làm đức....” [23,tr11]. Hay những lời lẽ hùng biện mà Trương Công đưa ra để khuyên dụ
người tiều phu núi Na: “Ngài cho là hiện thời không đủ để cho ngài làm việc được chăng? Nay có
đấng thánh nhân ngự trị, bốn bề đều ngóng trông....Hiện chỉ còn thiếu các bậc ẩn dật rừng núi ra
mà giúp ...Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước Vụ Quang, Quyên Tử thì cứ như vậy không
sao. Nhưng nếu còn hơi để ý đến đám dân kia thì bỏ lỡ dịp này không ra , tôi sợ rằng sẽ cùng cỏ cây
mai một” [23,tr 142, 143]. Thông qua những đoạn đối thoại, Nguyễn Dữ đã đề cập đến vai trò của
người trị nước và nêu lên quan niệm: trí tuệ và nhân đức là hai yếu tố quan trọng nhất của người
đứng đầu thiên hạ. Tính chính luận đã thể hiện trong đối thoại của nhân vật. “Ở đây nhân vật không
đóng vai trò chính, có khi nhân vật tranh luận, biện minh lẫn nhau, cũng có khi nhân vật tự trao đổi
vai cho nhau: kẻ buộc người mở, kẻ tung người hứng và mục đích cuối cùng đó là chứng minh cho
quan điểm, lập luận, ý kiến của chính nhà văn”.[125,tr 118]. Nhân vật chỉ là phụ, chỉ là cái loa phát
ngôn cho tư tưởng của tác giả. Chính vì vậy ở những tác phẩm này tình tiết đơn giản, chủ yếu là
những đoạn đối thoại của các nhân vật mà thôi. Nhân vật trong những trường hợp này hiếm thấy
bộc lộ nội tâm, suy nghĩ của mình.
Cũng như vậy trong Lan Trì kiến văn lục Vũ Trinh đã dùng nhân vật làm người phát ngôn cho ý
đồ của mình khi sáng tác. Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm đều là những nhân vật mà nhà
văn gặp gỡ ngoài đời và với văn phong ngắn gọn, các nhân vật này tập trung thể hiện lời giáo huấn
của người sáng tác. Có thể thấy “truyện truyền kì lấy thế giới cỏ cây, loài vật để nói ngụ ý về chính
sự, lấy thế giới thần tiên để răn dạy cương thường, lấy thế giới yêu ma để răn dạy kẻ tà dâm”.
[1,tr36]. Là một nhà Nho mang ước vọng hành đạo song không thể thi thố tài năng kinh bang tế thế,
“ông chài ao Lan” đã để lại cho đời những câu chuyện mắt thấy tai nghe với nhiều bài học làm
người sâu sắc. Tiêu biểu như truyện Thằng trộm. Truyện kể về một người ăn trộm chuyên nghiệp
lẻn vào trộm được đồ của một người khách ở trọ. Nhưng khi hắn vừa về đến nhà người bị mất trộm
đã dùng mánh để lấy lại số tiền bị mất. Cả kinh, thán phục trước sự tài giỏi của người bị mất, sáng
hôm sau hắn tìm đến để “xin học những điều chưa làm được”. Lời đáp của người ở tro cũng chính là
bài học đạo đức mà Vũ Trinh gửi đến người đọc: “ông nghĩ coi, việc được mất đêm qua có nghĩa lý
gì. Tôi thề không làm nghề đó đã năm năm nay. Vì có ông, nên tôi mới phải chơi lại trò cũ chút thôi.
Ông việc gì phải học. Ngày nay, khắp nơi đều là chiến trường, kẻ nam nhi nên gắng sức cho triều
đình. Tôi đã là người dưới trướng của phủ đô đốc. Nếu ông theo, tôi sẽ xin cất nhắc cho, đừng luyến
tiếc cái nghề này nữa!” [23,tr 57].
Có thể thấy rằng loại hình các nhân vật trong tác phẩm giữ một vai trò quan trọng trong việc góp
phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn với cuộc đời. Đặc biệt là những nhân vật có những điểm
gặp gỡ tương đồng trong những tác phẩm khác nhau. Điều này cho thấy hệ thống nhân vật trong
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã khái quát lên được những vấn đề
mang ý nghĩa xã hội, cũng như giải quyết những vấn đề con người là những yêu cầu cấp bách mà
các tác giả đặt ra.
3.2. Đóng góp của loại hình các nhân vật đối với thể loại truyền kì và văn học trung đại Việt Nam:
Loại hình các nhân vật đã cho thấy những bước tiến mới trong tư duy nghệ thuật của các tác giả
Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Giờ đây nhân vật được nhìn nhận ở
một góc độ mới, được khoác lên mình những bộ cánh mới. Bên cạnh sự đa dạng, phong phú ở nhiều
kiểu nhân vật còn là việc các tác giả lấy số phận nhân vật làm đối tượng chính trong sáng tác. Yếu
tố cá nhân với một đời sống nội tâm, một phút xao xuyến bồi hồi chính thức bước chân vào văn học.
Nhờ những đóng góp này mà Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã thật
sự thoát khỏi “cuống nhau” của những tác phẩm tự sự mang mầm mống truyền kì trước đó. Không
những vậy với những sản phẩm này Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã khẳng định được vị
trí của mình trong dòng chảy của văn học Việt Nam.
3.2.1. Xây dựng một hệ thống nhân vật đa dạng.
Có một sự đa dạng trong hệ thống các nhân vật của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và
Lan Trì kiến văn lục ở đó không còn là những nhân vật trong truyền thuyết, trong truyện cổ tích nữa
mà là hệ thống các nhân vật đời thường, quen thuộc. Lần đầu tiên, văn đàn Việt Nam hân hoan đón
nhận một hệ thống nhân vật đa dạng, phong phú từ đứa con truyền kì. Đó là những nhân vật bình
thường, thậm chí là những con người dưới đáy xã hội. Có thể thấy sự xuất hiện của người phụ nữ
trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã góp phần mang lại diện mạo
riêng cho thể loại. Thân phận người phụ nữ được chú ý và các tác giả còn quan tâm đến cả những
người phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội: một cô gái lầu xanh, một bà già hành khất cô độc, rồi
những người vợ hiếu thảo, thủy chung, những nàng dâu chăm ngoan giàu đức hạnh. Kiểu nho sinh,
quan lại đã từng xuất hiện trước đây, nay cũng góp mặt trong những sáng tác của Lê Thánh Tông,
Nguyễn Dữ, Vũ Trinh nhưng mang những nội dung mới: không chỉ ngợi ca mà còn có phê phán.
Nhìn chung đội ngũ nhân vật ở đây đông đảo, đa thành phần, bước vào tác phẩm với những nhiệm
vụ riêng của mình.
Một số nhân vật trong Thánh Tông di thảo còn có những hành vi và cuộc đời bí hiểm. Bà già ăn
xin trong Người hành khất giàu khi khuất núi mọi người mới biết là đã chô dấu vô số của cải dưới
nền nhà. Cô kĩ nữ trong Truyện yêu nữ Châu Mai không ai biết từ đâu đến, câu hát của cô mang tâm
trạng như thế nào. Hai người phụ nữ trong Truyện Hai gái thần cũng vậy. Hai người ngồi giữa chợ
xem bói với một hành tung khó hiểu. Rồi người vợ cá trong Truyện lạ nhà thuyền chài đến công
chúa Bướm trong Duyên lạ xứ hoa đều là những nhân vật có một tiền thân bí ẩn. Tất cả họ đều có
những nét giống thần và cũng gần với người. Tuy kiểu nhân vật này mang những đặc điểm của con
người với một đời sống trần tục nhưng họ vẫn chưa làm nên những nét riêng, tiêu biểu cho một kiểu
người nào đó trong xã hội. Chỉ đến khi Truyền kì mạn lục xuất hiện, người ta mới nhận ra bóng
dáng của nhiều loại người trong tác phẩm. Bởi lẽ Truyền kì mạn lục đã trình diện những khuôn mặt
rất thật với đầy những chi tiết sinh động, sắc sảo. Đó là những hôn quân bạo chúa, những tên tham
quan nhũng nhiễu dân lành; là người phụ nữ bị chà đạp, khinh rẻ dù họ ngoan hiền, chung thủy, nết
na. Đó còn là sự xuất hiện của kiểu nhân vật mới: thương buôn. Kiểu nhân vật này đánh dấu sự phát
triển của thương mại và sức mạnh vạn năng của đồng tiền. Sang đến Lan Trì kiến văn lục các kiểu
nhân vật đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh những nhân vật đã xướng tên trong Thánh Tông di
thảo, Truyền kì mạn lục còn có sự góp mặt của hàng loạt những nhân vật mới: từ một kẻ cắp đến
một phú ông, từ anh lái đò cho đến anh nông dân nghèo khổ, một nàng ca kĩ sẵn sàng hy sinh cho
người yêu đến một người mẹ nghèo yêu con ngay cả khi đã chết. Mỗi người họ bước vào trang sách
của Vũ Trinh thật tự nhiên và thật người. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những nhân vật trẻ em cũng
đã giúp cho tác phẩm của ông mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Với sự xuất hiện của hàng loạt
những nhân vật mới như thế, các tác giả đã thật sự xác lập được vị trí của thể loại này trong dòng
chảy văn học dân tộc. Tất cả đã làm nên sự đa dạng, phong phú trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
của các tác giả. Đồng thời nhân vật của mỗi nhà văn cũng mang những đặc trưng riêng. Nhân vật Lê
Thánh Tông có sự giao thoa giữa người và thần. Trong khi đó phần lớn nhân vật của Nguyễn Dữ,
Vũ Trinh lại là những con người bình thường trong xã hội với những khát vọng trần tục. Chính vì
những đặc trưng riêng biệt ấy đã làm nên thành công cho thể loại truyền kì.
3.2.2. Lấy số phận nhân vật làm đối tượng chính trong sáng tác của mình.
Vũ Thanh trong công trình nghiên cứu của mình đã nhận xét: “Hiện thực cuộc sống dưới dưới
ngòi bút của các nhà văn được phản ánh qua cái kì lạ” [131,tr 738]. Bởi lẽ khác với xu hướng văn
học dân gian và văn xuôi lịch sử, đối tượng chủ yếu của truyện truyền kì Thánh Tông di thảo,
Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là con người với những khát khao trần tục. Đó là niềm khát
khao về một mái ấm gia đình, một phút giây hoan lạc ái ân, là ước muốn được sẻ chia, được thông
cảm, được yêu thương: “Dưới vỏ bọc kì ảo, các tác phẩm xuất sắc nhất của giai đoạn như Thánh
Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đã chủ trương đưa cái sinh hoạt thường ngày vào văn chương. Đó
là một bước tiến dài, không những khẳng định thành công của tự sự mà nói rộng ra còn là thành
quả của tư duy nghệ thuật trong quan niệm về cuộc sống và con người. Do đó đây là thời kỳ có
bước chuyển quan trọng về cảm hứng sáng tác chủ đạo – bước chuyển từ cảm hứng yêu nước sang
cảm hứng nhân văn” [131,tr.739].Vì vậy nhân vật trong những tác phẩm này gần với đời thường,
không có sẵn nguyên mẫu từ văn học dân gian và văn xuôi lịch sử. Vấn đề con người và thân phận
con người đã thực sự trở thành đối tượng trung tâm của phản ánh nghệ thuật, từ đó các tác giả gửi
gắm những ý nghĩa nhân sinh mới mẻ về cuộc đời, con người: con người là chúa tể của muôn loài,
có sức mạnh vượt qua được tất cả những khó khăn trong cuộc sống thường nhật. Lê Thánh Tông,
Nguyễn Dữ và sau này là Vũ Trinh đã cho thấy sức mạnh ấy. Từ người thanh niên trong Ngọc nữ về
tay chân chủ, chàng học trò nho nhã thư sinh trong Nhất thư thủ thần nữ, Ngô Tử Văn khẳng khái
đốt đền trong Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên, Văn Dĩ Thành cương trực thẳng thắn trong
Chuyện tướng Dạ xoa, cho đến người học trò của Nguyễn Quỳnh, tất cả những nhân vật này đã phát
biểu một quan niệm nhân sinh khá táo bạo: con người là chúa tể của muôn loài, không bất kì một
thế lực nào có thể chiến thắng lại được sức mạnh của con người.
Với các tác phẩm truyền kì, lần đầu tiên con người với tư cách là những số phận cá nhân đã bước
vào văn học. Từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục, người đọc bắt gặp
những cuộc đời thấp cổ bé họng không bằng “con sâu cái kiến”, những kiếp người bị đọa đày, chà
đạp bước vào làm nhân vật chính trong tác phẩm. Đặc biệt là người phụ nữ - nạn nhân của những bi
kịch do xã hội gây ra. Họ xuất thân từ những hoàn cảnh khác nhau song cùng gặp gỡ ở bi kịch đau
đớn của cuộc đời mình. Các tác giả muốn đập phá những ràng buộc lạc hậu, bất công đối với người
phụ nữ với mong muốn họ được đến với bến bờ của hạnh phúc lứa đôi, của ái ân trần thế. Lúc này
nhân vật không đơn giản được miêu tả theo kiểu cũ - những việc làm khi sống và sự hiển linh sau
khi chết nữa, mà các tác giả chủ yếu khai thác số phận, cuộc đời nhân vật như là trọng tâm của tác
phẩm. Cùng từ đây xuất hiện những cảm nhận mang đậm dấu ấn cá nhân, những nỗi đau nhân tình
thế thái. “Bằng Thánh Tông di thảo, đặc biệt là Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ và Lê Thánh Tông
đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người làm đối
tượng và trung tâm phản ánh” [67,tr 375]. Việc lấy số phận con người làm trung tâm đã giúp cho
các tác phẩm giàu chất hiện thực, đậm chất nhân văn và làm giảm tối đa chất hoang đường.“Đến lúc
này, hiện thực không chỉ còn đóng khung trong những sự kiện lớn lao với những nhân vật quan
trọng mà lúc này từ một chi tiết đời thường với một con người bình thường vô danh cũng làm nền
cho văn học nảy nở. Điều này cũng đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của tư duy mỹ
học và khẳng định vai trò của thể loại truyền kì trong việc phản ánh cuộc sống đương thời”.
[67,tr.377]. Như vậy với cảm hứng lấy số phận con người là trung tâm trong sáng tác của mình, các
tác giả đã chạm đến ngưỡng cửa của văn học hiện đại: con người trong văn học giờ đây là con người
với tư cách cá nhân. Bởi lẽ trong chế độ phong kiến Nho giáo, con người luôn gắn liền với trách
nhiệm của kẻ làm bề tôi, làm con, làm vợ sống theo “tam cương ngũ thường”, chứ không bao giờ là
con người - cá nhân với một đời sống riêng, tâm tư nguyện vọng riêng. Sự xuất hiện của những con
người bình thường trong đời sống đã nói lên rằng: quan niệm về con người trong văn học cần có sự
thay đổi. Con người phải được hiện lên với tất cả những nhu cầu và biểu hiện trong đời sống thường
nhật. Con người không phụ thuộc vào mẫu hình lý tưởng mà là con người tự nhiên, trần tục. Họ vừa
có những ưu điểm vừa cũng tồn tại những hạn chế, nói chung là con người không toàn thiện toàn
mĩ. Do đó ở một mức độ nhất định Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã
không phải là bức minh họa cho đạo đức trung, hiếu, tiết, nghĩa, của Nho giáo. Hiện thực cuộc sống,
con người cá nhân với những khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ đã bàng bạc phản chiếu vào
văn học. Điều này đã đánh dấu bước phát triển đáng kể cho văn xuôi tự sự giai đoạn này. Từ đó có
thể khẳng định: nhu cầu giải phóng tình cảm gắn liền với đề tài tình yêu và sự xuất hiện của hình
ảnh người phụ nữ trong văn học đã đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa nhân đạo đồng thời cũng cho
thấy sự trưởng thành trong nghệ thuật của nhà văn trung đại.
3.2.3. Xây dựng thành công những nhân vật có đời sống nội tâm rõ rệt.
Một trong những yếu tố cho thấy thể loại truyền kì dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động từ
văn học dân gian chính là nghệ thuật miêu tả nhân vật, chủ yếu là nghệ thuật thể hiện đời sống nội
tâm nhân vật. Đây là một giá trị nghệ thuật chưa xuất hiện ở Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích
quái. Trong ba nhà văn thì Lê Thánh Tông được xem là người khởi xướng đầu tiên, Nguyễn Dữ là
người phát triển đến đỉnh điểm và Vũ Trinh là người khép lại nghệ thuật này bằng cách thể hiện
mới. Khác với lối kể chuyện đơn tuyến của văn học dân gian, các tác giả này đã bắt đầu quan tâm
đến những diễn biến, đặc biệt là những bước ngoặc trong đời sống nội tâm nhân vật: “Quan tâm, đề
cao việc phản ánh những xung đột bình thường trong đời sống gia đình, cũng như việc đi sâu khắc
họa nội tâm nhân vật, Nguyễn Dữ đã là người đóng vai trò mở đường cho loại truyện ngắn thế sự
trong lịch sử văn học dân tộc và khiến cho tác phẩm của ông gần với văn xuôi hiện đại”
[131,tr.739]. Điểm này xuất phát ở chỗ để tài mà các nhà văn đề cập đến là những cái bình thường,
mà lại là cái bình thường nảy sinh trong đời sống gia đình. Đó có thể là một nỗi nhớ người yêu, một
lời khuyên can chồng, một tình yêu thủy chung son sắt, một phút ghen tuông giết chết hạnh phúc gia
đình, một câu chuyện về người đàn bà hành khất.. Các tác giả đưa mùi vị riêng tư của cuộc đời với
một trái tim đồng cảm, thương yêu vào văn học. Mặc dù đây chỉ mới là những manh nha mang tính
thử nghiệm song nó cũng đã báo hiệu một kiểu tư duy nghệ thuật mới.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý ở đây thể hiện qua quá trình diễn biến tâm lý nhân vật trong những sự
kiện quan trọng nhất định. Điều này thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lý con người của các tác giả.
Tuy nhiên, cách thể hiện của các tác giả cũng có phần khác nhau, làm nên sự đa dạng trong nghệ
thuật. Trong Thử tinh truyện của Thánh Tông di thảo, Lê Thánh Tông đã cho thấy tài năng khi miêu
tả diễn biến tâm lí nhân vật anh học trò và người vợ của anh. Chính tâm lí nhân vật đã góp phần
thúc đẩy cốt truyện phát triển dần lên đến cao trào. Do đêm nào cũng được gặp gỡ, gần gũi chuột
tinh giả dạng chồng mình nên khi người chồng thật trở về, người vợ tỏ ra lạnh lùng, thờ ơ, thiếu sự
quan tâm cần thiết. Đây là nét tâm lý hoàn toàn phù hợp với lẽ thường. Bởi lẽ đã quá gần gũi với
chồng nên cô không có cảm xúc vồn vã, nhớ thương khi gặp chồng đi xa về. Tâm trạng của người
vợ được miêu tả: “Đêm đã khuya, anh học trò xin phép về phòng nghỉ. Cùng ngồi với vợ, anh hỏi
han vợ nhưng vợ nín lặng”. Sự im lặng, lạnh lùng của người vợ đã đẩy cơn thịnh nộ của anh chồng
lên đến đỉnh điểm. Song song đó khi miêu tả diễn biến tâm lý của anh học trò ở xa về, ngòi bút tá
giả càng tỏ ra tinh tế hơn. Anh học trò xa nhà thực hiện chí nguyện lập công danh, lâu mới được về
gặp vợ nên tâm trạng muốn gần gũi vợ là lẽ đương nhiên. Nhưng sự hờ hững của vợ đã làm anh cảm
thấy bất ngờ. Trước sự lạnh lùng ấy, anh hết ngạc nhiên rồi dỗ dành, sau đó tức giận và đi đến nghi
ngờ tư cách của vợ. Diễn biến này hoàn toàn phù hợp với tâm lý thông thường của con người. Từ
chỗ đó, tâm trạng người vợ uất ức, tức giận rồi đau đớn khi bị chồng ngờ vực là ngoại tình: “Vợ trợn
mắt lên nhìn chồng → vợ khóc ầm lên → vợ khóc và lạy phục xuống đất, trước cha mẹ chồng nàng
thuật hết mọi chuyện→ không nghĩ gì đến xấu hổ nữa người vợ khóc và đập đầu vào cột, toan tự
tử” [117,tr 162-163] Chuyển biến tâm lý của nhân vật đẩy dần lên cao trào: càng tức giận, uất ức thì
hành động càng quyết liệt, mạnh mẽ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ở Thánh Tông di thảo dù là
bước đầu nhưng cũng đã có những thử nghiệm hiệu quả. Trong truyện người cháu dâu Long Vương
khi nghe tin con trai đã chết muốn quay về Thủy phủ ngay nhưng “nghĩ đến cái nghĩa cùng đi với
sơn cô nên không nỡ vội dứt mà nán lại ở mươi ngày nữa” [117,tr 23]. Nhưng lòng thương con vô
hạn vẫn không nguôi nên: “tuy đi cùng với cô gái trẻ, nhưng không hát cũng không xem bói, đoán
số, mà nét mặt buồn rười rượi” [117,tr 26]. Còn người vợ sơn thần Đông Ngu tâm lý cũng thay đổi
đột ngột khi nghe tin chồng mất: “đang buồn hóa tươi, mỉm cười” [117,tr 31]. Thông qua miêu tả
tâm lý nhân vật, tác giả đã thành công trong việc khắc họa chân dung cụ thể của từng nhân vật, làm
cho nhân vật có tính cách và đời sống nội tâm riêng. Chính nghệ thuật này đã được Sơn Nam Thúc
khen ngợi: “tả lúc nói khoác rõ ra trạng thái anh nói khoác; tả đúng lúc hổ thẹn, rõ ra bộ mặt kẻ hổ
thẹn” [117,tr 67]. Điều này đã giúp cho những nhân vật của Thánh Tông di thảo thoát ra khỏi hệ
thống nhân vật nguyên mẫu từ văn học dân gian, góp vào văn học trung đại kiểu nhân vật mới.
Nghệ thuật miêu tả tâm lý với hình thức độc thoại nội tâm của nhân vật được thể hiện ở Thánh Tông
di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng cho thấy những dụng công trong việc xây
dựng nhân vật của các nhà văn. Thông qua nghệ thuật độc thoại nội tâm nhân vật, nhiều đoạn văn
gợi xúc cảm và dễ đi vào lòng người đọc hơn. Chẳng hạn đoạn độc thoại nội tâm của người con gái
hiếu thảo trong Dương phu truyện: “Thầm nghĩ: tháng ngày thoi đưa, phút chốc mẹ đã khuất mặt
vắng lời, chỉ thấy cỏ xanh một nấm, không biết linh hồn nương tựa vào đâu? Đau đớn biết dường
nào! Lại nghĩ năm nay mình đã 21 tuổi, con gái khó lòng ở một mình, vườn xuân rồi sẽ có chủ, thì
ngày này năm sau, biết ai là người ra mộ cúng bái? Thương cảm xiết bao! Lo buồn trăm ngã, thổn
thức không nói nên lời, chỉ sụt sùi trước mồ cho đến khi mặt trời lặn mới ra về” [117,tr 98]. Lời độc
thoại ấy đã cho thấy đời sống nội tâm phong phú, giàu tình cảm của nhân vật. Hay đoạn độc thoại
nội tâm của nhân vật “ta” trong Lãng bạc phùng tiên: “Ta ngồi nghĩ: Đêm nay có khánh tiết gì mà
người ấy lại nói như thế? Hoặc giả nói thác để lấy cớ từ chối chăng? Hay là thần thánh gì đây?
Kinh rợn, lạnh toát cả người, ta bèn sai tiểu tốt quay thuyền lên bờ về phủ nằm nghỉ. Nhưng nằm
không yên giấc, thắp đèn lên ngồi. Một mình bâng khuâng nghĩ rằng: Ta ở địa vị Đông cung là bậc
tôn quý, sau này sẽ lên ngôi nam diện là bậc tôn, cả thiên hạ cung phụng một người, giàu sang còn
gì bằng nữa? Tại sao chỉ nửa thuyền trăng tỏ, khúc địch véo von, đã làm cho ta thay đổi, coi thường
mọi vị trân cam, không bằng một bầu mây nước. Nỗi lòng này là do đâu? Ngồi cho đến sáng không
hề chợp mắt” [117,tr 135-136]. Có thể thấy ngôn ngữ kể chuyện của Thánh Tông di thảo không chỉ
đạt đến độ hấp dẫn mà ngòi bút nhà văn còn hướng tới việc miêu tả tâm lí nhân vật. Đấy là tâm
trạng băn khoăn trăn trở của chàng hoàng tử sau lần giáp mặt với người thổi địch – khách tiên. Đấy
là thứ văn phong khác hẳn so với kiểu kể chuyện dân gian cũng như cách kể chuyện của các tác giả
Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái trước đó. Trong Truyền kì mạn lục, nhân vật tự bộc lộ nội tâm
được thể hiện khá nhiều, với đủ mọi loại nhân vật. Tiêu biểu có thể kể là Vũ Thị Thiết, nhà văn đã
dụng công nhiều trong việc thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật này, đặc biệt ở những lần độc
thoại nội tâm. Đó là những bước ngoặt trong đời sống nội tâm của nhân vật từ chỗ tiễn chồng đi
lính, đến đoạn chồng quay về và nghi ngờ vợ, đặc biệt lúc nàng tìm đến cái chết: “Kẻ bạc mệnh này
duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh,
xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ
Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con,dưới xin làm
mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ”
[23,tr 179]. Lời khấn nguyện hay chính là nỗi lòng nàng trước lúc lìa bỏ cõi trần đã cho thấy lòng
trinh tiết, đức hạnh của Vũ Thị Thiết. Trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ cũng đã thành
công khi miêu tả tâm lý nhân vật Từ Thức: “Từ khi chàng bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm,
ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, bóng trăng sáng nhòm qua cửa sổ, tiếng
thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng quấy nhiễu
khiến không sao ngủ được”. [23,tr102]. Đoạn văn đã diễn tả khá đạt nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương
của nhân vật Từ Thức. Chàng trai ấy khi lạc vào cõi tiên tưởng như đã vứt bỏ duyên phận ở chốn
bụi trần. Song thật không ngờ cảnh đẹp ở tiên giới không thể khiến tâm hồn chàng quên đi cuộc
sống ở kiếp người. Để rồi những đêm trăng sáng, những lúc mờ sương hay khi màu sắc ao sen thay
đổi lòng chàng bỗng trỗi dậy nỗi nhớ quê da diết. Thế mới nói con người thật không dễ dứt áo với
cuộc đời này. Ghi nhận đóng góp đặc sắc này, Vũ Thanh đã viết:“Nhân vật chính trong các tác
phẩm thường là những người có nội tâm phong phú và có những suy nghĩ độc lập riêng mình. Đi
sâu vào mảnh đất tâm hồn, Nguyễn Dữ đã là một trong những người đầu tiên góp phần làm tiền đề
cho sự xuất hiện chủ nghĩa nhân đạo trong văn học.” [26,tr210]. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục
cũng đã tỏ ra am hiểu những khuất khúc của tâm hồn con người khi đi sâu khám phá đời sống nội
tâm phong phú của nhân vật. Chẳng hạn cô gái trong truyện Tháp báo ân: “cô gái từ khi mắc bệnh,
không được sống gần ai, nay bỗng dưng gặp một chàng trai tuổi trẻ tài hoa, rất hợp ý nguyện của
mình. Nhưng rồi nàng bỗng buồn rầu than rằng: đời tàn nhơ bẩn, nay được gặp nhau trong bóng
tối. Nếu nhìn nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được! Ai hay một độ gió xuân lại
tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến su ốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt mũi này mà gặp lại
chàng, thiếp chịu đựng sao nổi.” [118,tr 141]. Cô gái vừa hạnh phúc được yêu, vừa đau khổ vì mặc
cảm mắc bệnh hiễm nghèo, lại vừa lo lắng cho sự mong manh của tình yêu ấy. Nếu trong truyện dân
gian đối thoại giữa các nhân vật rất ít thì ở đây ngôn ngữ đối thoại lại được sử dụng đậm đặc hơn.
Những đoạn đối thoại thể hiện những mâu thuẫn, xung đột trong tâm hồn nhân vật. Như đoạn đối
thoại ngắn giữa bé Đàn và Trương Sinh “Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn
khổ lắm rồi” [23,tr178]. Qua lời thoại này, người đọc có thể thấy Sinh cũng là người có tình cảm
phong phú nhưng vì cả ghen nên đã đẩy vợ mình vào cái chết. Hay đoạn đối thoại của Vũ Thị Thiết
trước sự ngờ vực của chồng thể hiện sâu sắc nỗi đau của một người vợ trinh bạch chịu hàm oan:
“Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc
lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường
hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối
nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp” [23,tr 178]. Thông qua ngôn ngữ đối
thoại, nhà văn đã miêu tả tâm lí của người phụ nữ khi bản thân họ rơi vào bi kịch của chính mình.
Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật mang đến cho tác phẩm những dấu ấn cá nhân sáng tạo nghệ
thuật. Nếu ngôn ngữ kể chuyện, đối thoại trong văn học dân gian ngắn gọn, đơn giản chỉ mang ý
nghĩa thông báo thì ở tác phẩm truyền kì ngôn ngữ đối thoại đã giúp bộc lộ tâm lí nhân vật trong
những hoàn cảnh đầy kịch tính. Chính hoàn cảnh ấy đã giúp nhân vật bộc lộ được tâm trạng của
chính mình: “Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt
lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt, đài dao mệnh đứt, đến nỗi chia bầy, sống còn chưa
được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quít. Mong chàng hiểu câu kệ lục như bỏ cõi
thiên tứ đại tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng, để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu
thai, để trả cho xong một cái nợ oan gia ngày trước” [23,tr 87]. Thể loại truyền kì với những thử
nghiệm đầu tiên không hề có yếu tố tâm lý trong việc xây dựng nhân vật. Chính việc chú trọng miêu
tả hành động hơn miêu tả nội tâm nhân vật đã phần nào hạn chế việc xây dựng nhân vật của các tác
phẩm. Việc Thánh Tông di thảo mà đặc biệt là Truyền kì mạn lục có sự dụng công trong việc thể
hiện tâm lý nhân vật đã phần nào bộc lộ được tính cách của nhân vật. Đây cũng là một trong những
nội dung cho thấy điểm khác biệt cơ bản của Truyền kì mạn lục so với Thánh Tông di thảo, Lan Trì
kiến văn lục. Chính bởi thông qua những đoạn độc thoại nội tâm Nguyễn Dữ đã thể hiện thành công
tính cách của nhân vật. Tiêu biểu như tính cách của Trương Sinh, người đại diện cho những người
đàn ông ghen tuông. Nàng Vũ Nương đại diện cho những người phụ nữ tiết hạnh, thủy chung.
Nhiều tính cách có sự phát triển, có những bước ngoặt trong quá trình đấu tranh để dành sự sống,
đấu tranh dành hạnh phúc như Từ Thức, Đào Than. Cùng với những đoạn đối thoại, độc thoại,
những bài thơ xuất hiện trong tác phẩm cũng mang lại những hiệu quả đáng kể trong việc thể hiện
tâm trạng nhân vật. Có thể khẳng định rằng miêu tả đời sống nội tâm nhân vật là một trong những
điểm làm nên thành công của các tác phẩm.
Sự xuất hiện các tác phẩm truyền kì cho thấy quan niệm về con người trong văn học đã thực sự
thay đổi. Quan niệm về hạnh phúc và lẽ sống của con người không đơn giản chỉ là chí và đạo nữa.
Ngay lúc này hạnh phúc là niềm vui được yêu nhau, được sống đúng với bản chất của một con
người. Giờ đây văn học cũng dung nạp những con người quay lưng lại với lẽ sống vốn đã được rèn
đúc trong lò Khổng Mạnh, đi tìm niềm vui trong ái ân xác thịt, trong tình yêu thiên nhiên.
Khi chế độ phong kiến suy thoái thì thơ văn cũng bắt đầu chuyển hướng sáng tác. Lúc bấy giờ
thơ văn mang âm hưởng phi ngã của ý thức cộng đồng chuyển dần sang âm hưởng hữu ngã của ý
thức cá nhân. Nơi các nhà văn đã có sự phân thân giữa một bên là con người “chức năng phận vị” –
con người của cộng đồng - với một bên là con người cá nhân với một cái tôi cá thể. Khi đứng trên
lập trường con người chức năng, họ sẽ tạo ra những đứa con tinh thần mang nội dung giáo huấn,
song khi đối diện với lòng mình, đối mặt với nỗi đau thân phận, nỗi đau hoàn cảnh thì lúc ấy con
người cá nhân có cơ hội xuất hiện. Đặc biệt đứng trước bi kịch của người phụ nữ, các nhà văn đã có
sự đồng cảm sâu xa và những rung động nghệ thuật đích thực. Lúc này các tác giả tự rời bỏ con
người chức năng phận vị để đến với những suy cảm cá nhân chân thật.
Yêu thương, thông cảm, và đồng cảm là những cảm xúc bộc lộ tiếng nói nhân đạo trong tác
phẩm. Một tác phẩm sẽ bất tử với thời gian khi biết nói lên tiếng nói chung cho cả cộng đồng. Tiếng
nói ấy đi từ những con người cá nhân cụ thể với việc khám phá ra đời sống tinh thần của họ, những
suy tư, trăn trở về cuộc đời của họ. Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã
đạt đến những thành tựu đó.
3.2.4. Xây dựng thành công nhân vật là hiện thân của nhà văn:
Thánh Tông di thảo được xem là tác phẩm tiên phong của thể loại truyền kì đặt nền mống cho
việc ra đời kiểu nhân vật hiện thân tác giả, Truyền kì mạn lục là bước khẳng định vị trị của loại hình
này trong văn học trung đại Việt Nam và Lan Trì kiến văn lục chuyển giao giữa thể loại truyền kì và
thể thể kí. Nhờ kiểu nhân vật này mà câu chuyện của các tác giả mang màu sắc chủ quan, nhà văn
hóa thân vào nhân vật, xem xét thế giới bằng con mắt của một trong những nhân vật trong tác phẩm.
Đa phần những tác phẩm có xuất hiện kiểu nhân vật này đều là những tác phẩm thể hiện chính con
người của các tác giả. Loại hình nhân vật là hiện thân của tác giả cũng đã khẳng định một bản lĩnh
nghệ thuật và đánh dấu sự cách tân trong tư duy nhà văn. “Nói về lẽ sống nhà Nho – thường là nhà
Nho nghệ sĩ – nhiều thời đại, hay có sự dằn vặt, mâu thuẫn giữa con người của chức năng phận vị
và con người cá nhân có lạc thú” [101,tr.36].
Ở Thánh Tông di thảo, nhân vật – tác giả đã can thiệp vào diễn biến của câu chuyện, khẳng định
uy quyền chế ngự muôn vật của mình. Nhân vật này cũng thường là người giải quyết mâu thuẫn của
câu chuyện khi mâu thuẫn ấy đạt đến cao trào. Ở đây nhân vật thường xưng là “ta”. Trong Lung cổ
phán từ, khi cuộc tranh cãi giữa anh mù và anh điếc đi vào thế bất phân thắng bại thì nhân vật “ta”
xuất hiện và đứng ra phân xử, phán xét. Còn trong Thử tinh truyện khi nỗi oan khuất của nhân vật
lên đến đỉnh điểm, không ai có thể giải oan được cho người vợ bất hạnh ấy, thì nhân vật nhà vua đã
đứng ra làm sáng tỏ mọi việc, rửa sạch tiếng oan cho nàng. Và trong Lưỡng phật đấu thuyết ký, sự
xuất hiện của nhân vật “ta” làm cho mâu thuẫn của truyện kết thúc. Như vậy nhân vật nhà vua tức
“ta” thường thắng thế ở cách xử lý các tình huống trong mọi hoàn cảnh. Dù khó khăn đến đâu, nhân
vật “ta” cũng có thể vượt qua. Điều này cũng cho thấy tư tưởng Nho giáo đang có vai trò quan trọng
trong việc trị nước. Ở Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục nhân vật là hiện thân của nhà văn
thường ẩn dấu khuôn mặt mình một cách nhẹ nhàng, kín đáo. Nếu ở Thánh Tông di thảo nhân vật –
tác giả khẳng định vai trò chế ngự muôn vật của mình thì trong Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn
lục đấy lại là người nho sĩ ẩn dật. Thông qua nhân vật người ẩn sĩ, Truyền kì mạn lục gửi gắm quan
niệm nhân sinh của tác giả. Những nhân vật như Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, ông
già đốn củi trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa, người đạo sĩ trong Chuyện Lý tướng
quân..thể hiện tâm trạng bất mãn cũng như triết lý về con đường sống của một bộ phận trí thức
trước hiện trạng thối nát của xã hội đương thời. Đồng thời hình ảnh nhân vật ẩn sĩ dù hiện lên qua
những hình dạng khác nhau song cũng cho thấy tấm lòng của họ với đời. Nói là trả ấn từ quan, là lui
chân khỏi chốn bụi trần nhưng tấm lòng của họ vẫn không nguôi hướng về những con người dưới
đáy xã hội, như để che chở, nâng niu. Tuy nhiên không thể “dấy bão tố từ đáy lọ mực”, họ không
tìm ra lối thoát nào mang tính đột biến để vượt thoát khỏi vòng “thịnh suy trị loạn đắp bồi” mà họ
“nếm trải một cách chán ngán”. Chính vì vậy, tác phẩm của Nguyễn Dữ đã đụng chạm đến một vấn
đề khá cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: vấn đề thân phận con người, những con người
sinh ra không đúng thời. “Giữa một bức tranh xã hội phức tạp, hỗn độn với những con người mũ
cao áo dài nhớp nhúa ngụp lặn trong tiền của lợi danh, máu và nước mắt của nhân dân, nổi lên
hình tượng người ẩn sĩ trong sáng, cao khiết”.[125,Tr 116]
Khác với Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, loại hình nhân vật là hiện thân của tác giả ở Vũ Trinh
không hiện lên một cách rõ nét thông qua bất kì nhân vật nào mà bàn bạc trong nhiều nhân vật của
tác phẩm. Vũ Trinh viết tác phẩm Lan Trì kiến văn lục không chỉ nhằm mở rộng kiến văn cho mình,
cho người mà thông qua đó còn thể hiện nỗi niềm về thân phận con người và sự chiêm nghiệm lẽ
đời. Lan Trì kiến văn lục có truyện viết về những con vật biết giúp đỡ người khác khi hoạn nạn. Tác
giả đã gửi gắm nhiều ý nghĩa nhân sinh cao đẹp thông qua kiểu con vật: loài vật còn biết yêu thương
chia sẻ với nhau huống chi là con người cùng một dân tộc. Hình ảnh người phụ nữ cũng mang dáng
dấp đồng cảm với nhà văn. Nhà văn đã có sự đồng cảm, xót thương cho nhân vật của mình. Rồi còn
hệ thống những nhân vật như: một tên trộm, một em bé ra đời kì lạ, một anh thư sinh nghèo thi đỗ
trong sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Tất cả họ đã hiện lên trong tác phẩm Vũ Trinh cứ như thật, bước
vào trang sách rất tự nhiên và rất thực.
Nhìn chung kiểu nhân vật này trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn
lục cũng đã khẳng định đây là kiểu nhân vật mới – được tạo nên bởi chính trí tưởng tượng và sự
sáng tạo của nhà văn.
Không sáng tác mà sưu tập, hiệu đính và bổ sung các tích cũ từ nguồn tư liệu khác nhau là tất cả
những đặc điểm của Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Đến Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ
Trinh những sản phẩm của họ đã mang một màu sắc chủ quan, nhà văn hóa thân vào nhân vật, quan
sát, nhận xét và đánh giá cuộc sống bằng con mắt của một trong những nhân vật trong tác phẩm. Ở
Thánh Tông di thảo, Lê Thánh Tông đã làm cuộc thử nghiệm đưa hình bóng của mình vào tác
phẩm, dưới danh xưng là “ta”. Đây là giọng điệu đậm màu sắc bề trên, phán truyền. Nhưng cuộc
cách mạng này đã được tiếp tục và thắng lợi mĩ mãn bởi Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và Lan
Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Nguyễn Dữ, Vũ Trinh tỏ ra điêu luyện hơn khi hình ảnh nhà văn ẩn
sau khuôn mặt của các nhân vật mà không một giọng điệu phán xét.
Thánh Tông di thảo là sự tiếp nối của Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái nhưng là sự tiếp nối
quan trọng. Bởi khi Thánh Tông di thảo ra đời, thể loại truyền kì đã thật sự xác lập được chỗ đứng
của mình trong lòng văn học dân tộc. Rồi đến Truyền kì mạn lục xuất hiện, “thiên cổ kì bút” này đã
đưa tên tuổi của truyền kì lên đỉnh cao sáng chói. Và với Lan Trì kiến văn lục, khuôn mặt của thể
loại này đã hiện lên rõ nét lần cuối trước khi kết thúc nhiệm vụ của mình. Với những giá trị đặc sắc
cả về phương diện nghệ thuật lẫn tư tưởng, các tác phẩm trên đã có những đóng góp quan trọng cho
văn học trung đại Việt Nam.
KẾT LUẬN
Từ việc nghiên cứu loại hình các nhân vật trong ba tập truyện Thánh Tông di thảo, Truyền kì
mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, chúng tôi đi đến một số kết luận như sau:
1. Trước hết, về một số vấn đề liên quan đến tác giả và tác phẩm như: tác giả của Thánh Tông
di thảo, cách gọi tên tác giả Truyền kì mạn lục… Chúng tôi cho rằng Thánh Tông di thảo đa phần là
những truyện của Lê Thánh Tông, trong đó cũng có một số truyện không thuần nhất của Lê Thánh
Tông mà có thể được người đời sau thêm thắt hoặc sửa đổi một số chi tiết. Về tác giả Truyền kì mạn
lục, các nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều cách gọi tên; tuy nhiên theo chúng tôi thì nên gọi như từ
trước đến nay là Nguyễn Dữ, khi cần thì chú thích thêm là Nguyễn Tự. Còn về vấn đề có hay không
việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính Truyền kì mạn lục, vấn đề này qua tìm hiểu chúng tôi đi đến
nhận định: thế giới quan của Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn khác nhau nên Nguyễn
Bỉnh Khiêm không thể phủ chính Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ.
2. Trước nay, khi nói đến Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, các
nhà nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm riêng lẻ hoặc chỉ lấy làm
dẫn chứng cho những vấn đề mang tính khái quát. Luận văn chúng tôi lần này tiến hành nghiên cứu
cách thể hiện nhân vật trong ba tác phẩm. Trên cơ sở đó chúng tôi tìm ra những điểm chung cũng
như nét khác biệt trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở ba tác phẩm. Từ đây luận văn chỉ ra bốn loại
hình nhân vật:
- Loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo.
- Loại hình nhân vật bình phàm.
- Loại hình nhân vật là hiện thân của nhà văn.
- Loại hình nhân vật con vật.
3. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy loại hình nhân vật đã phản ánh xã hội, con người thời
trung đaị. Mượn xưa nói nay, mượn chuyện người nói chuyện mình, dẫn chuyện thiên đình, âm phủ,
long cung để nói chuyện trần gian… là đặc điểm nổi bật của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục,
Lan Trì kiến văn lục. Ở mỗi loại nhân vật, các tác giả truyền kì thể hiện cách đánh giá của họ đối với
mỗi kiểu người trong xã hội. Viết về tầng lớp thống trị, các tác giả luôn có một thái độ khen chê rõ
ràng. Đối với những vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, những ông quan có đức như Dương Đức
Công, các tác giả luôn thể hiện sự đồng tình, ngưỡng mộ. Nhưng mặt khác, Lê Thánh Tông, Nguyễn
Dữ, Vũ Trinh cũng nghiêm khắc phê phán, đả kích, lên án những vua quan dâm dục, độc ác hại dân
bán nước. Trong khi đó đến với những kiếp người dưới đáy xã hội, các tác giả truyền kì lại bày tỏ
lòng cảm thông, sự thương xót và niềm tin vào họ. Đặc biệt là tình cảm dành cho người phụ nữ -
những người đáng thương nhất trong xã hội. Đồng thời các tác giả cũng thể hiện niềm tin vào tầng
lớp trí thức trong xã hội đương thời.
4. Một trong những điểm đáng quan tâm ở Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến
văn lục là sự xuất hiện nhân vật thứ ba – nhân vật là hiện thân của tác giả. Chính điểm này làm cho
những tác phẩm trên đậm màu sắc chủ quan. Thông qua tác phẩm người đọc thấy thấp thoáng đâu
đây bóng dáng và tâm hồn của nhà văn. Điều này chưa hề có trong Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u
linh. Đồng thời trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục còn có sư xuất
hiện của loại hình nhân vật con vật, loại hình này mang đến cho người đọc những bài học làm người
ở đời.
5. Truyện truyền kì đã phản ánh hiện thực cuộc sống theo một cách riêng. Và để làm được điều
này thể loại truyền kì xây dựng nhân vật theo đặc trưng riêng của thể loại. Để thể hiện ý đồ sáng tạo
nghệ thuật của mình, các tác giả đã thường xuyên sử dụng phương thức nhân hóa và thần kì hóa.
Nhà văn phú cho vật thể và phi vật thể một tính cách như con người để từ đó nói được những điều
mà lễ giáo phong kiến ngăn cấm, chẳng hạn như tiếng nói yêu đương. Đồng thời nghệ thuật nhân
hóa được sử dụng ở đây cũng nhằm phê phán tầng lớp thống trị và nói lên những mong muốn cao
đẹp của con người. Trong khi đó, nghệ thuật thần kì hóa được thể hiện rõ qua việc phú cho con
người những khả năng khác người như có thể gặp gỡ, trò chuyện với thần linh; những đạo sĩ trừ
được yêu ma; những ẩn sĩ thoắt ẩn thoắt hiện... Điều này thể hiện khát vọng vượt qua sự hữu hạn
của con người để có thể khuyến thiện trừng ác, thực hiện công lý. Bên cạnh đó các tác phẩm truyền
kì còn tạo ra các thế giới siêu nhiên. Đó là thế giới thiên đình, nơi để con người làm những việc tốt
đẹp, tuyệt vời. Hay thế giới âm phủ, nơi để răn dạy, trừng trị những kẻ làm điều ác, điều xấu. Chính
vì vậy có thể thấy nghệ thuật thể hiện yếu tố “kì” trong những tác phẩm này không chỉ làm cho câu
chuyện thêm sức hấp dẫn mà còn để phục vụ cho sự nhận thức về cuộc sống, về xã hội và con
người.
6. Qua thời gian, năm tháng nhưng Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục
vẫn còn nguyên giá trị của nó. Với những đóng góp cho nền văn học nước nhà, các tác phẩm truyền
kì này xứng đáng được xếp vào hàng những tác phẩm của một thời đã qua nhưng không bao giờ
phai nhạt.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị An, Quan niệm về Thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong truyện văn xuôi
trung đại, TCVH số 3. 2003.
2. Aristotle, Nghệ thuật thy ca, NXB Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2007. 3. Lại Nguyên Ân, Từ điển văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994.
4. Boris Riftin, Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc) với Kim ngao tân
thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Cà tỳ tử của Asai Rey (Nhật Bản), NCVH số 12. 2006.
5. Hoàng Hồng Cẩm, Tình hình văn bản “Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú” hiện còn ở thư viện viện nghiên cứu Hán Nôm, TCHN số 1.1996.
6. Hoàng Hồng Cẩm, Tác phẩm Tân biên truyền kì mạn lục với văn học dân gian Việt Nam, TCNCDG số 10/1996.
7. Quốc Chấn, Những vua chúa Việt Nam giỏi văn chương, Nxb Thanh Hóa, 2003. 8. Phạm Tú Châu, Truyền kì chữ Hán ở Hàn Quốc và Việt Nam,Tạp chí Văn học số 10/1995. 9. Phạm Tú Châu, Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm 3/1999.
10. Phạm Tú Châu, Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Tạp chí Văn học số
11. Cho Dong Il, Khái quát văn học cổ điển Triều Tiên, TCVH số 10.1995. 12. Cho Jae Hyun, Quan hệ Hàn - Việt thời trung cận đại, TCVH số 10 – 1995. 13. Nguyễn Huệ Chi, Truyện truyền kỳ Việt Nam, quyển hai, Nxb Giáo dục, 2009. 14. Nguyễn Huệ Chi, Mấy đặc trưng loại biệt của văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Tạp chí Văn học số 3 – 2005.
15. Nguyễn Huệ Chi, Hoàng đế Lê Thánh Tông: nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc”, , Nxb Khoa học xã hội, 1998
16. Trần Bá Chi, Về sách Thánh Tông di thảo, Tạp chí Hán Nôm số 5 – 2006. 17. Nguyễn Đình Chú, Hiện tượng văn – sử - triết bất phân trong văn học Việt Nam thời trung đại, Tạp chí Văn học số 5 – 2002.
18. Lý Xuân Chung, Tìm hiểu đôi nét về văn học chữ Hán Hàn Quốc, Tạp chí Hán Nôm số 6 – 2007.
19. Nguyễn Văn Dân, Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, 1999. 20. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, 2006 21. Nguyễn Văn Dân, Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, 1998. 22. Lê Tiến Dũng, Giáo trình lý luận văn học – phần tác phẩm văn học, Nxb ĐHQG tp. Hồ Chí Minh, 2003.
23. Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, Nxb văn nghệ hội nghiên cứu giảng dạy văn học tp. Hồ Chí Minh, 1988
24. Trần Trọng Dương, Bước đầu tìm hiểu cấu trúc bị động trong Truyền kì mạn lục giải âm, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 2004.
25. Đặng Anh Đào, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, Tạp chí Văn học số 12 – 2006.
26. Phan Cự Đệ, Truyện ngắn Việt Nam – lịch sử - thi pháp – chân dung, Nxb Giáo dục, 2007. 27. Biện Minh Điền, Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam, Nghiên cứu Văn học số 4 – 2000.
28. Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003.
29. Đoàn Lê Giang, Thời trung đại trong văn học các nước khu vực văn hóa chữ Hán, Nghiên cứu Văn học số 12 – 2006.
30. Đoàn Lê Giang, “Thần” trong tư tưởng nghệ thuật cổ Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Văn học số 3 – 2000.
31. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm – nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam (thư tịch chí Việt Nam), tập I, Nxb Văn hóa, 1984.
32. Nguyễn Thị Bích Hải, Truyền thống “hiếu kì” trong tiểu thuyết Trung Quốc, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2007.
33. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn, 2002. 34. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, 2007. 35. Đỗ Đức Hiểu, Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004. 36. Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch và giới thiệu, Nxb Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2007.
37. Nguyễn Ngọc Hiệp, Đời sống của nhân vật truyền kì ngoài tác phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Tạp chí Văn học dân gian.
38. Nguyễn Xuân Hòa, Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, 1998
39. Nguyễn Văn Hoàn, So sánh địa vị chữ Hán ở khu vực Đông Á với địa vị chữ La tinh ở khu vực địa trung hải thời ttung đại, Tạp chí Văn học số 2 – 1995.
40. Nguyễn Quang Hồng, Vấn đề đọc tên tác giả Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 1 – 2003.
41. Lại Văn Hùng, Về bộ ba tác phẩm truyện ngắn – ký – tiểu thuyết chương hồi, Tạp chí Văn học số 3 – 2002.
42. Lại Văn Hùng, Bàn thêm về vấn đề tên tác giả - tác phẩm Truyền kì mạn lục, Tạp chí Văn học số 10 – 2002.
43. Nguyễn Phạm Hùng, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. 44. Nguyễn Phạm Hùng, Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì mạn lục, Nghiên cứu Văn học số 1 – 2006.
45. Nguyễn Phạm Hùng, Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí Văn học số 2/1987.
46. Trần Quang Huy, Thể tài “Tài tử giai nhân” trong truyện Nôm Việt Nam, Tạp chí Văn học số 12- 2002
47. Trần Đình Hượu, Tuyển tập, tập I, Nxb Giáo dục, 2007. 48. Trần Đình Hượu, Tuyển tập, tập II, Nxb Giáo dục, 2007. 49. Đinh Gia Khánh, Tuyển tập tập II, Nxb Giáo dục, 2007. 50. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam ( thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, 1997.
51. Toàn Huệ Khanh, Nghiên cứu so sánh một tiểu thuyết truyền kì trong Kim ngao tân thoại
(Hàn Quốc), Truyền kì mạn lục (Việt Nam) và Tiễn đăng tân thoại (Trung Quốc), Nghiên cứu Văn học số 2 – 2005
52. Kawamoto Kuniye, Bàn về các bản in sách Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 2- 2000. 53. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb văn hóa thông tin, 1999. 54. K. I. Golugina, Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 2004. 55. Kim Heong Kyu, Các lĩnh vực văn học cổ điển của Triều Tiên, Tạp chí Văn học số 10 – 1995 (Kim Seona dịch).
56. Kim Seona, Đề tài tình yêu trong Kim ngao tân thoại của Hàn Quốc (So sánh với Truyền kì mạn lục của Việt Nam), Tạp chí Văn học số 10 – 1995.
57. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 2006.
58. Đặng Thanh Lê, Tiếp cận một số vấn đề tiếp nhận ngôn ngữ và tư tưởng triết học Trung Quốc thời kì trung đại, Tạp chí Văn học số 2 – 1995.
59. Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học, Nghiên cứu Văn học số 9 – 2006
60. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục, 2001. 61. Phương Lựu, Góp phần xác lập hệ thống quan niệm Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.
62. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2006. 63. Phương Lựu, Văn hóa, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội, 1996
64. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần, diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, 2002.
65. Nguyễn Thị Tuyết Mai, Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009.
66. Đặng Văn Minh, Góp phần tìm hiểu “Tân biên Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1996
67. Nguyễn Đăng Na, Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2006. 68. Nguyễn Đăng Na, Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, 1999.
69. Nguyễn Đăng Na, Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1988. 70. Nguyễn Đăng Na, Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện? Tạp chí Văn học số 1 - 2003 71. Nguyễn Nam, “chinh phụ ngâm” trong “Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 2000. 72. Nguyễn Nam, Quá trình truyền nhập và lưu hành Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam, Tạp chí Văn học số 5 – 2001.
73. Nguyễn Nam, Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương (Đọc Chuyện người con gái Nam Xương), Nghiên cứu Văn học số 4 – 2004.
74. Nguyễn Nam, Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự? Tạp chí Văn học số 1 – 2003. 75. Nguyễn Nam, Đọc lời bản dịch Nga văn Truyền kì mạn lục của M. Tkachov, Tạp chí Văn học số 3 – 2002.
76. Đức Ninh, Nghiên cứu văn học Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2004. 77. Nguyễn Kim Ngân, Một công trình khoa học nghiên cứu so sánh tác phẩm truyền kì Đông Á, Tạp chí Văn học số 6 – 2005.
78. Trần Nghĩa, Chỗ khác nhau giữa tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực, Tạp chí Hán Nôm 3/1999.
79. Trần Nghĩa, Việt Nam trong quá khứ đã tiếp nhận những gì ở tư tưởng Đạo gia của Trung Quốc, Tạp chí Hán Nôm 4/2000.
80. Trần Nghĩa, Thử so sánh Truyền kì mạn lục với Tiễn đăng tân thoại, Tạp chí Hán Nôm 1/1987.
81. Trần Nghĩa, Từ những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc, tìm hiểu cách tiếp nhận văn học nước ngoài của cha ông ta, Tạp chí Hán Nôm số 2 - 2005
82. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán của Triều Tiên, Tạp chí Hán Nôm 3/1993. 83. Trần Nghĩa, Lý hoặc luận – bông hoa đầu mùa của Phật giáo luy lâu, Tạp chí Hán Nôm 1/1991.
84. Trần Nghĩa, Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1998.
85. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam – danh mục và phân loại, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 1997.
86. Trần Nghĩa, Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1999
87. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán của Nhật Bản, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1993.
88. Trần Nghĩa, Một bản in Truyền kì mạn lục in năm 1712 vừ tìm thấy, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1985.
89. Trần Nghĩa, Từ “loi” của đạo Cơ Đốc và “Pháp” của đạo Phật, lý giải đạo của Lão Tử, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1994.
90. Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 1978. 91. Nguyễn Văn Nguyên, Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh đầu thế kỉ XV và những chứng tích còn lại, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 2002.
92. Nguyễn Thị Oanh, “Ca tỳ tử” (Otogiboko) và “Vũ nguyệt vật ngữ” (Ugetsumonogatari) với “Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1995.
93. Nguyễn Khắc Phi, Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc – Qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, 2004.
94. Lê Văn Quán, Thử bàn về đạo “Hiếu” của Nho gia, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2003. 95. Lê Văn Quán, Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong truyền thống văn hóa Nho gia, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2004.
96. Lê Văn Quán, Lại bàn về “Tam giáo đồng nguyên”, Tạp chí Văn học số 5 – 2004. 97. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử văn học Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, 2006.
98. Schneider Paul, Khảo cứu bản dịch Nôm Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 1 – 1995 99. Nguyễn Hữu Sơn, Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học số 11 – 2000
100. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thai Mai bàn về quan hệ văn học Việt – Trung thời trung đại, Tạp chí Văn học số 1 – 2003.
101. Nguyễn Kim Sơn, Những chuyển biến của văn học thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX – nhìn từ góc độ sự tác động của Nho học tới văn học, Tạp chí Văn học số 8 – 1998
102. Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập I, Nxb Giáo dục, 2005. 103. Trần Đình Sử, Thời trung đại – cái tôi trong các học thuyết trong đời sống và trong văn học, Tạp chí Văn học số 7 – 1995.
104. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987. 105. Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số thể loại tác giả - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994.
106. Bùi Duy Tân, Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học Nôm ở Việt Nam, Tạp chí Văn học số 2 – 1995.
107. Bùi Duy Tân, Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Đức Duật, Nguyễn Đức Dũng, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, 2006.
108. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Lịch sử văn học Việt Nam (sơ giản), Nxb Khoa học Hà Nội, 1963.
109. Trần Thị Băng Thanh, Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học xã hội, 1999. 110. Phạm Văn Thắm, Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán Việt Nam thời trung đại, Hà Nội, 1996.
111. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học QG Hà Nội, 2006
112. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam – dưới góc nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, 2007. 113. Trần Nho Thìn, Thử phác họa tiến trình văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học số 5 – 2003.
114. Phương Lập Thiên, Về ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc đối với Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2004.
115. Nguyễn Tài Thư, Tam giáo đồng nguyên, hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á, Tạp chí Hán Nôm 3/1993.
116. Bùi Đức Tịnh, Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ XX , Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2005.
117. Lê Thánh Tông – về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2007. 118. Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, Nxb Thuận Hóa trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005.
119. Tủ sách văn học cổ - trung đại Việt Nam, khuyết danh, Thánh Tông di thảo, Nxb Văn học Hà Nội, 2001.
120. Tổng tập Văn học Việt Nam” (tập 4), Nxb Khoa học Xã hội, 2000. 121. Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học 1960 – 1999, tập II, Văn học cổ - cận đại Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999
122. Nguyễn Bằng Tường, Đặc điểm tư duy Việt Nam trong truyền thống, Tạp chí Văn học số 3- 1999.
123. Đinh Phan Cẩm Vân, Cái “kì” trong tiểu thuyết truyền kì, Tạp chí Văn học số 10 – 2000. 124. Đinh Phan Cẩm Vân, Góp thêm vài suy nghĩ về mối quan hệ giữa Chuyện cây gạo và Truyện chiếc đèn mẫu đơn, Nghiên cứu Văn học số 6 – 2005.
125. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Phạm Văn Phúc, Văn học trung đại Việt Nam, (thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục 2008.
126. Lê Trí Viễn, Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.
127. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 1996. 128. Lê Trí Viễn, Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1998 129. Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo nho, Nxb Thế giới Hà Nội, 1993. 130. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.
131. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, 2007.
132. Trần Ngọc Vương, Một số vấn đề liên quan tới tính đặc thù của văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học số 5 – 2003
133. Thân Tài Xuân, Đạo giáo và truyền kì đời Đường, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1998. 134. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu, Văn học trung đại – những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, 2003.