BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

Trương Thị Hoa

LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH Trương Thị Hoa LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN TRUYỀN KÌ VIỆT NAM QUA BA TÁC PHẨM TIÊU BIỂU: THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: VHVN – 08 - 010

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. ĐOÀN THỊ THU VÂN.

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

Thành phố Hồ Chí Minh – 2011

2

MỤC LỤC

1TMỤC LỤC1T ............................................................................................................................ 3

1TPHẦN DẪN NHẬP 1T .............................................................................................................. 1

1T1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:1T........................................................................................................................ 1

1T2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:1T ................................................................................................................ 2

1T3.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:1T ..................................................................................................... 2

1TIV. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:1T ......................................................................................... 8

1TV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:1T ..................................................................................................... 10

1TCHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG1T ........................................................................ 12

1T1.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển:1T ........................................ 12

1T1.1.1.Khái niệm truyền kì:1T ................................................................................................................. 12

1T1.1.2.Khái niệm truyện truyền kì trung đại Việt Nam:1T ........................................................................ 12

1T1.1.3.Mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện truyền kì ở vùng văn hóa Đông Á:1T ...... 12

1T1.1.3.1.Truyện truyền kì ở Trung Quốc:1T ........................................................................................ 13

1T1.1.3.2.Truyện truyền kì Triều Tiên:1T .............................................................................................. 14

1T1.1.3.3.Truyện truyền kì Nhật Bản:1T ............................................................................................... 14

1T1.1.4.Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện truyền kì Việt Nam:1T ................................ 15

1T1.1.4.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng thụ động từ văn học dân gian ( từ cuối thế kỷ XIV trở về trước):1T ............................................................................................................... 15

1T1.1.4.2.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian ( từ thế kỷ XV trở về sau):1T ......................................................................................................................... 15

1T1.1.4.3. Mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại Việt Nam với văn xuôi lịch sử:1T ..................... 17

1T1.1.4.4. Mối quan hệ giữa hai yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam1T ............ 18

1T*Sự thể hiện yếu tố thực trong thể loại truyền kì Việt Nam:1T .......................................................... 18

1T1.2. Bối cảnh thời đại của Đại Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII:1T ....................................................... 19

1T1.2.1.Bối cảnh Đại Việt thế kỷ XV:1T ................................................................................................... 19

1T1.2.1.1.Sự suy vong của nhà Trần, sự xâm lược của giặc Minh và cuộc kháng chiến chống quân Minh:1T ............................................................................................................................................ 19

1T1.2.1.2.Sự khôi phục và xây dựng đất nước sau thắng lợi: 1T ............................................................. 20

1T1.2.2.Bối cảnh Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:1T .................................................................... 21

1T1.2.2.1.Sự suy sụp của nhà Lê và tình trạng chia cắt đất nước:1T....................................................... 21

1T1.2.1.2. Giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt:1T .................................................. 21

1T1.2.1.3. Phong trào Tây Sơn:1T ......................................................................................................... 22

1T1.3. Vấn đề văn bản và tác giả:1T ............................................................................................................... 23

1T1.3.1. Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. 1T ................... 23

1T1.3.1.1 Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo:1T ............................................................................ 23

1T1.3.1.2. Tình trạng văn bản Truyền kì mạn lục:1T ............................................................................. 24

1T1.3.1.3. Tình trạng văn bản Lan Trì kiến văn lục:1T .......................................................................... 26

1T1.3.2. Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục. 1T ................................... 27

1T1.3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đây:1T ......................................................................... 27

1T1.3.2.2. Ý kiến của tác giả luận văn :1T ............................................................................................. 37

1T1.3.3. Cuộc đời và sự nghiệp các tác giả :1T .......................................................................................... 40

1T1.3.3.1.Lê Thánh Tông : (1442 – 1497).1T ........................................................................................ 40

1T1.3.3.2. Nguyễn Dữ :1T ..................................................................................................................... 44

1T1.3.3.3. Vũ Trinh1T .......................................................................................................................... 45

1T1.4 Vấn đề nhân vật trong tác phẩm văn học :1T......................................................................................... 47

1T1.4.1. Khái niệm nhân vật :1T ................................................................................................................ 47

1T1.4.2. Các kiểu loại nhân vật :1T ............................................................................................................ 47

1T1.4.2.1. Từ góc độ nội dung, tư tưởng :1T.......................................................................................... 47

1T1.4.2.2. Từ góc độ kết cấu – cốt truyện :1T ........................................................................................ 48

1T1.4.2.3. Từ góc độ thể loại :1T ........................................................................................................... 49

1T1.4.2.4 Từ góc độ chất lượng nghệ thuật :1T ...................................................................................... 49

1T1.4.2.5 Từ góc độ cấu trúc nhân vật :1T ............................................................................................. 49

1T1.4.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp xây dựng nhân vật :1T ............................................. 50

1T1.4.3.1.Chi tiết nghệ thuật :1T ........................................................................................................... 50

1TCHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.1T.................... 52

1T2.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên và tôn giáo:1T ................................................................................. 52

1T2.1.1. Khái quát chung:1T ...................................................................................................................... 52

1T2.1.2. Loại hình các nhân vật thần tiên, đạo sĩ:1T ................................................................................... 53

1T2.1.2.1. Loại hình các nhân vật thần tiên:1T ...................................................................................... 53

1T2.1.2.2. Loại hình các nhân vật đạo sĩ:1T ........................................................................................... 57

1T2.1.2.3. Thái độ đối với Đạo giáo của các tác giáo:1T ........................................................................ 59

1T2.1.3. Loại hình các nhân vật nhà sư:1T ................................................................................................. 61

1T2.2. Loại hình các nhân vật bình phàm. 1T .................................................................................................. 65

1T2.2.1. Khái quát chung:1T ...................................................................................................................... 65

1T2.2.2. Loại hình nhân vật quan lại, nho sinh:1T ...................................................................................... 67

1T2.2.2.1. Loại hình nhân vật quan lại:1T .............................................................................................. 67

1T2.2.2.2. Loại hình các nhân vật nho sinh. 1T ....................................................................................... 71

1T2.2.2.3. Thái độ đối với Nho giáo:1T ................................................................................................. 76

1T2.2.3. Loại hình các nhân vật phụ nữ:1T................................................................................................ 79

1T2.2.3.1. Thủy chung yêu thương chồng con :1T ................................................................................. 80

1T2.2.3.2. Hiếu thuận và giàu đức hy sinh :1T ....................................................................................... 84

1T2.2.3.3. Thông minh, tài giỏi :1T ....................................................................................................... 86

1T2.2.3.4. Những khát vọng và bi kịch của nhân vật nữ :1T................................................................... 87

1T2.2.3.5.Thái độ đấu tranh cho hạnh phúc của người phụ nữ :1T ......................................................... 94

1T2.2.4.Loại hình nhân vật thương buôn:1T ............................................................................................... 96

1T2.2.4.1.Giảo quyệt, lừa đảo.1T ........................................................................................................... 96

1T2.2.4.2.Là tác nhân gây ra những đổ vỡ gia đình, băng hoại đạo đức xã hội. 1T .................................. 97

1T2. 3 Loại hình các nhân vật là hiện thân của tác giả:1T ............................................................................... 97

1T2.3.1. Nhân vật là hiện thân của nhà văn:1T ........................................................................................... 97

1T2.3.2. Ý nghĩa của loại hình nhân vật – hiện thân của nhà văn - trong tác phẩm. 1T................................ 98

1T2.3.2.1. Đề cao vai trò cá nhân và ngôi vị chí tôn nhà vua Lê Thánh Tông: 1T.................................... 98

1T2.3.2.2. Đề cao cái tôi ẩn sĩ, lánh đời:1T .......................................................................................... 100

1T2.3.2.3. Lý tưởng sống, thái độ sống của người ẩn sĩ:1T .................................................................. 103

1T2.3.2.4. Nỗi lòng với những kiểu người “thấp cổ bé họng” trong xã hội:1T...................................... 105

1T2.4. Loại hình nhân vật các con vật:1T ..................................................................................................... 107

1T2.4.1. Một số hình ảnh con vật được đề cập đến trong các tác phẩm:1T ................................................ 107

1T2.4.1.1. Số lần xuất hiện:1T ............................................................................................................. 107

1T2.4.1.2. Khái quát chung:1T ............................................................................................................ 108

1T2.4.2. Những bài học nhằm mục đích giáo huấn con người:1T ............................................................. 108

1T2.4.2.1. Bài học luân lý đạo đức:1T ................................................................................................. 108

1T2.4.2.2. Bài học về tình người cao đẹp:1T ........................................................................................ 111

1TCHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC. 1T ........................................................................................................................ 113

1T3.1. Vai trò của loại hình các nhân vật trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục:1T ....................................................................................................................................................... 113

1T3.1.1. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện được hiện thực xã hội đương thời:1T................. 113

1T3.1.1.1. Một xã hội với cuộc sống ấm no hạnh phúc. 1T ................................................................... 113

1T3.1.1.2. Một xã hội đầy những biến động loạn ly:1T ........................................................................ 115

1T3.1.1.3. Một xã hội với những con người mang trong mình bản chất xấu xa, suy đồi đạo đức.1T ..... 117

1T3.1.2. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học1T .................................................................................................................................................. 121

1T3.1.2.1. Niềm tin đối với con người trong xã hội. 1T ....................................................................... 122

1T3.1.2.2. Cái nhìn trân trọng đối với người phụ nữ. 1T ...................................................................... 126

1T3.1.2.3. Sự quan tâm đến con người ở chiều sâu tâm lý:1T .............................................................. 128

1T3.1.3. Loại hình các nhân vật làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm:1T .................................................... 130

1T3.1.3.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên tôn giáo gợi lên một thế giới ly kì đồng thời gửi gắm những quan niệm nhân sinh, đạo lý sâu sắc. 1T ................................................................................ 130

1T3.1.3.2. Loại hình các nhân vật con vật, đồ vật giáo dục con người những bài học ở đời. 1T ............ 132

1T3.1.4. Loại hình các nhân vật có vai trò làm rõ đặc trưng của thể loại truyền kì:1T ............................... 134

1T3.1.4.1. Nhân vật được xây dựng với yếu tố “kì”. 1T ........................................................................ 134

1T3.1.4.2. Nhân vật là người phát ngôn cho ý đồ tác giả. 1T ................................................................ 141

1T3.2. Đóng góp của loại hình các nhân vật đối với thể loại truyền kì và văn học trung đại Việt Nam:1T ..... 142

1T3.2.1. Xây dựng một hệ thống nhân vật đa dạng.1T .............................................................................. 143

1T3.2.2. Lấy số phận nhân vật làm đối tượng chính trong sáng tác của mình. 1T ....................................... 144

1T3.2.3. Xây dựng thành công những nhân vật có đời sống nội tâm rõ rệt.1T ........................................... 146

1T3.2.4. Xây dựng thành công nhân vật là hiện thân của nhà văn:1T ........................................................ 150

1TKẾT LUẬN1T ...................................................................................................................... 153

1TTÀI LIỆU THAM KHẢO1T ............................................................................................... 155

PHẦN DẪN NHẬP

1.LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI:

Có thể nói văn học trung đại Việt Nam phát triển liền mạch từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX. Đi

hết chặng đường của mình, văn học trung đại đã góp vào nền văn học nước nhà đầy đủ các thể loại

với những tác phẩm nổi tiếng và các tác giả có tên tuổi. Và bên cạnh những thể loại khác, bộ phận

văn học tự sự đã có những đóng góp nhất định cho văn học trung đại. Như lời nhận định của

Nguyễn Đăng Na: “Văn xuôi tự sự không chỉ là một bộ phận cấu thành văn học dân tộc mà còn là

ảnh xạ phản chiếu trình độ tư duy nghệ thuật của nền văn học đã sản sinh ra nó. Văn xuôi tự sự Việt

Nam thời trung đại cũng vậy, vừa phản ánh tư duy nghệ thuật của Việt Nam vừa gắn liền với lịch sử

văn học dân tộc”[66, tr.3].

Trong các thể loại văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại, chúng ta không thể không nhắc đến

thể loại truyền kì – một trong những thể loại góp phần tạo dựng vị thế của văn xuôi trung đại trong

dòng chảy văn học dân tộc. Với đôi cánh truyền kì của mình, thể loại này đã nhanh chóng thâm

nhập vào đời sống con người, đặc biệt là khía cạnh tâm hồn nhân vật. Chính vì vậy, thể loại truyền

kì khi “trình làng” những tác phẩm đầu tay của mình thì đã được sự đón nhận của số đông nhiều

người. Từ đó các tác giả trung đại đã chọn thể loại này để thể hiện tư tưởng cả mình. Đồng thời thể

loại truyền kì cũng mang lại những thành công nhất định cho các nhà văn.

Trước nay khi nói đến thể loại truyền kì Việt Nam thời trung đại, người đọc hay nhắc nhiều đến:

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục. Trong khi đó Lan Trì kiến văn lục vẫn chưa được nhìn nhận

một cách thỏa đáng, mặc dù đây là một tác phẩm có thể xem là tiêu biểu của thể loại truyền kì giai

đoạn sau. Ngoài ra khi nhắc đến những tác phẩm này, phần đông các nhà nghiên cứu chỉ quan tâm

từng tác phẩm một cách riêng biệt, rời rạc mà chưa có cái nhìn tổng thể cho cả ba tác phẩm trên.

Nếu có sử dụng thì cũng là để làm dẫn chứng cho những vấn đề rộng lớn, mang tính khái quát nhằm

biểu đạt cho ý nghĩa, tư tưởng của mình.

Như chúng ta đã biết cốt truyện và nhân vật là hai yếu tố làm nên cái hồn của tác phẩm. Đặc biệt

là nghệ thuật xây dựng nhân vật trong ba tác phẩm trên có những điểm gặp gỡ, tương đồng và chính

nghệ thuật xây dựng nhân vật đã góp phần làm nên giá trị của các tác phẩm. Thế nhưng chưa có

công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về loại hình nhân vật trong ba tác phẩm. Chính vì vậy việc

tìm hiểu loại hình nhân vật trong ba tập truyện là một việc làm hết sức cần thiết. Điều đó sẽ giúp

người đọc có một cái nhìn đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tác phẩm. Đồng thời cũng cho thấy được

vai trò, vị trí của loại hình các nhân vật trong thể loại truyền kì nói riêng và văn xuôi tự sự trung đại

nói chung. Đó cũng là nguyên nhân chính khiến người viết quyết định chọn đề tài: “Loại hình các

nhân vật trong truyện truyền kì Việt Nam qua ba tác phẩm tiêu biểu Thánh Tông di thảo,

Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục”.

2.MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU:

Trước nay các nhà nghiên cứu chủ yếu đi sâu vào việc đánh giá những giá trị nội dung và nghệ

thuật của những tác phẩm truyền kì. Ngoài ra khi đề cập đến hình thức của thể loại này, các tác giả

chủ yếu đi vào tìm hiểu từng tác phẩm riêng lẻ, chứ chưa có cái nhìn toàn diện, cụ thể. Chính vì vậy

trên cơ sở tìm hiểu mối liên hệ giữa các nước trong khu vực của thể loại truyền kì, chúng tôi tiến

hành khảo sát loại hình các nhân vật trong ba tác phẩm tiêu biểu: Thánh Tông di thảo, Truyền kì

mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Dưới đây chúng tôi xin điểm qua những mục tiêu mà luận văn đã đặt

ra. Đó là:

- Trên cơ sở tiếp xúc tác phẩm, chúng tôi tiến hành nhóm họp những loại hình nhân vật có những

điểm chung lại với nhau. Từ đó đi sâu vào khảo sát từng loại hình nhân vật.

- Từ chỗ tìm ra những điểm chung của loại hình các nhân vật, bài viết đi vào khảo sát đặc trưng

riêng của từng loại hình. Đó cũng là cách để chúng tôi đi vào phân tích từng loại hình nhân vật.

- Dựa vào việc phân tích từng loại hình nhân vật, chúng tôi sẽ tiến hành tìm hiểu những đóng

góp của chúng. Luận văn của chúng tôi không nhằm chỉ ra những đóng góp của từng tác phẩm riêng

lẻ hay của thể loại truyền kì nói chung mà chỉ tìm hiểu những đóng góp của loại hình các nhân vật

trong ba tác phẩm Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đối với thể loại

truyền kì nói riêng và văn xuôi trung đại nói chung.

3.LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ:

Căn cứ vào tình hình tư liệu hiện nay, có thể khẳng định rằng loại hình nhân vật trong Thánh

Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là một vấn đề chưa được nhiều nhà nghiên

cứu quan tâm, xem xét một cách đầy đủ. Mà nếu có cũng chỉ là những bài nghiên cứu về từng tác

phẩm riêng lẻ. Cụ thể các công trình, bài viết có liên quan đến các tác phẩm trên có thể kể như sau:

1. Thánh Tông di thảo:

Trước nay Thánh Tông di thảo cũng được đề cập đến với tư cách một đối tượng nghiên cứu độc

lập. Thế nhưng đa số những bài viết ấy chủ yếu tìm hiểu về niên đại và tác giả của Thánh Tông di

thảo. Bởi lẽ chỉ riêng hai vấn đề này cũng đã gây nên nhiều vấn đề tranh cãi trong giới nghiên cứu

với nhiều ý kiến hoàn toàn trái ngược nhau. Đó là những công trình:

- Trong “Lời giới thiệu về Thánh Tông di thảo” của Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh trích trong

“Thánh Tông di thảo” Nxb Văn học, 1963; “Văn bản Thánh Tông di thảo” của Trần Thị Băng

Thanh trích trong “Những suy nghĩ từ văn học trung đại”, Viện văn học, Nxb Khoa học xã hội,

1999; “Về sách Thánh Tông di thảo” của Trần Bá Chi, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 5, 2006 và

“Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán Việt Nam thời trung đại”,

Phạm Văn Thắm, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học nhân văn, Hà Nội, 1996: các tác giả đều thừa nhận

Thánh Tông di thảo là một tập truyện kí bao gồm tác phẩm của nhiều tác giả, được sáng tác rải rác

có thể là từ thế kỷ X đến thế kỷ XIX. Đồng thời các nhà nghiên cứu này cũng cho rằng trong tập

truyện này cũng có những truyện của Lê Thánh Tông nhưng đã được thêm bớt, chỉnh sửa ít nhiều.

- Trong “Thánh Tông di thảo”, trích trong “Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học

sử học Việt Nam” (Thư tịch chí Việt Nam), Trần Văn Giáp, Nxb Văn hóa, 1984: tác giả đã dựa vào

một số địa danh như Hà Nội, Đoài Hồ,......, hoặc sự kiện lịch sử hư cấu như nạn lụt Quý Tỵ... hay

thuật ngữ Phó bảng, Cử nhân và cách dùng từ “hoàn cầu”, chỉ xuất hiện từ đời Nguyễn để đi đến kết

luận rằng văn bản này được viết vào khoảng cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.

-Trong “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu

vực”, Trần Nghĩa, trích Tạp chí Hán Nôm số 2, 1998: tác giả đã nhận định rằng Thánh Tông di thảo

ra đời là do mô phỏng Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ.

- Các tác giả của “Tổng tập Văn học Việt Nam” (tập 4), Nxb Khoa học Xã hội, 2000, đã đưa ra

các giải thích về một số từ ngữ nghi vấn trong Thánh Tông di thảo. Đó là “có một số địa danh hay

danh hiệu quan chức thì hiện nay người ta đoán định hơi vội vã…. “hà nội” là danh từ chung,

không phải là danh từ riêng, còn “Giáo thụ” là Giáo chức Quốc Tử giám thường phụ giảng giúp

“Tu nghiệp”, chứ không phải “Giáo thụ” là một giáo chức đứng đầu đời Nguyễn” (Tr 557). Tuy

vậy các tác giả này vẫn chưa đi đến những kết luận về ai là chủ nhân của Thánh Tông di thảo.

- “Lời giới thiệu về thể loại kí” của Nguyễn Đăng Na, trích trong “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời

trung đại”, tập 2, Nxb giáo dục, 1999: tác giả đã dựa vào bản dịch của Thánh Tông di thảo, xuất bản

năm 1963 và cho rằng nhan đề của sách chứng tỏ sách do người đời sau sưu tập.

Trên đây là một số bài nghiên cứu xoay quanh vấn đề văn bản và tác giả của Thánh Tông di

thảo. Ngoài ra còn một số bài nghiên cứu về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Về phương diện

này có thể kể đến một số công trình sau:

- “Yếu tố hư ảo trong Thánh Tông di thảo” của Lê Nhật Ký, trích trong “Hoàng đế Lê Thánh

Tông: nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc”, Nguyễn Huệ Chi, Nxb Khoa học xã hội, 1998:

tác giả đã khẳng định yếu tố kì ảo có một vai trò quan trọng và khẳng định yếu tố kì ảo trong Thánh

Tông di thảo được sử dụng một cách linh hoạt và đem đến cho tác phẩm những giá trị nhất định.

- “Thánh Tông di thảo – bước đột khởi trong tiến trình phát triển của thể loại truyện ngắn Việt

Nam trung cổ” của Vũ Thanh, trích trong “Hoàng đế Lê Thánh Tông: nhà chính trị tài năng, nhà

văn hóa lỗi lạc”, Nguyễn Huệ Chi, Nxb Khoa học xã hội, 1998: tác giả đã khẳng định vị trí của

Thánh Tông di thảo trong toàn bộ sự phát triển của truyện ngắn trung đại Việt Nam: “Thánh Tông di

thảo là một bước tiến mới trong xu hướng ngày càng mở rộng khả năng sáng tạo nghệ thuật, từng

bước tiến tới thoát khỏi ảnh hưởng thụ động của lối ghi chép đơn thuần những đền tích gia phả

trong các đền, chùa (kiểu Việt điện u linh, Thiền uyển tập anh) và những sáng tác dân gian có sẵn

(kiểu Lĩnh Nam chích quái) và là sự bắt đầu của lối tư duy kiểu mới của người sáng tác thật sự

mang bản sắc của nghệ thuật sáng tạo”[15,tr. 422]

- “Những bài kí trong Thánh Tông di thảo” của Phạm Ngọc Lan, trích trong “Hoàng đế Lê

Thánh Tông: nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc”, Nguyễn Huệ Chi, Nxb Khoa học xã hội,

1998: trong bài nghiên cứu này, tác giả đã đi đến nhận định về sáu bài ký: “Với tính chất có cốt

truyện, thể văn bay bướm của bút ký, cảm hứng trữ tình và giọng điệu tự sự hào hoa, các bài ký đã

đem đến cho người đọc một chất thơ đặc biệt khó quên”.[15,tr. 447]

2. Truyền kì mạn lục:

Khác với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục chủ yếu là những băn khoăn xuất phát từ cách

gọi đúng tên tác giả, về thời gian sống và sáng tác của Nguyễn Dữ, sách hoàn thành vào năm nào?

Đó là những băn khoăn đã được giải đáp ở một số công trình. Có thể kể đến là:

- Trong các bài viết “Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự ?” Nguyễn Nam, Tạp chí Hán Nôm số 2 –

2002; “Vấn đề tên tác giả Truyền kì mạn lục”, Nguyễn Quang Hồng, Tạp chí Hán Nôm, số 1 –

2002; “Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh” của Nguyễn Đăng Na, Tạp chí Hán Nôm số 6 –

2005 và “Bàn thêm cách gọi tên tác giả và tác phẩm Truyền kì mạn lục” của Phạm Luận, Tạp chí

Nghiên cứu văn học số 3 – 2006; “Bàn thêm tên tác giả - tác phẩm Truyền kì mạn lục” của Lại Văn

Hùng, Tạp chí Văn học số 10 – 2002; “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác

Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Phạm Hùng, Tạp chí Văn học số 1 – 2006: các tác giả đã đi đến

những nhận xét về tên tác giả: Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự, Nguyễn Dư. Theo các tác giả thì cho

rằng đọc “Dữ” hay “Dư” chính là do xem chữ Hán với việc thông qua việc chỉ chú ý vào bộ phận

biểu âm mà trên thực tế từ này đọc theo ba dấu: dữ, dự, dư. Đồng thời các tác giả cũng gọi tên tác

giả theo nhiều cách khác nhau là Nguyễn Tự, hoặc Nguyễn Dư hoặc Nguyễn Dữ. Bên cạnh đó một

số công trình này cũng cho rằng: Nguyễn Dữ sinh vào khoảnh thế kỉ XV và mất vào khoảng thập kỉ

thứ tư của thế kỉ XVI. Nhà văn này có thể lớn hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm vài tuổi nhưng không vì vậy

mà cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là người phủ chính Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ.

-Về số lượng tác phẩm của Truyền kì mạn lục, trong “Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện”

của Nguyễn Đăng Na in trên Tạp chí Hán Nôm số 2/1988 thì ông khẳng định Truyền kì mạn lục chỉ

có 20 truyện chứ không phải là 21 hay 22 truyện như Viện nghiên cứu Hán Nôm và Viện sử học đã

ghi chép.

Ngoài ra khi bàn về Truyền kì mạn lục, các nhà nghiên cứu cũng tranh luận về vấn đề nội dung

và nghệ thuật của Truyền kì mạn lục. Đó là các công trình:

- “Lịch sử văn học Việt Nam” tập II, Bùi Văn Nguyên, Tủ sách Đại học sư phạm, NXB Giáo

dục, 1971 nhận xét chung về nội dung và nghệ thuật của Truyền kì mạn lục như sau: “Truyền kì mạn

lục là một tập văn hay, cái hay ở đây không riêng về nội dung phong phú, chi tiết sinh động, nhưng

cái hay ở đây còn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật, phân tích tâm lý, phô diễn ngôn ngữ”. [ 90,

tr.131]

- “Truyền kì mạn lục và những thành tựu của văn xuôi Việt Nam”, Đinh Gia Khánh, trích trong

Tuyển tập tập II, Nxb Giáo dục, 2007: tác giả cũng khẳng định rằng “Truyền kì mạn lục gồm những

truyện ngắn, và với giá trị của một thiên cổ kì thư, tác phẩm đã trở thành mẫu mực cho truyện ngắn

thời xưa”. [49, tr. 504]

- “Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ”, Nguyễn Phạm

Hùng, Tạp chí Văn học số 2/1987: “Hai mươi truyện của Truyền kì mạn lục không phải được phản

ánh một cách nhất quán và đồng bộ. Chúng có những mâu thuẫn và phức tạp nhiều khi khó mà lý

giải được một cách rành rẽ, thậm chí có thể ở một truyện cụ thể. Chắc chắn chúng không thể được

sáng tác cùng một lúc, mà trong một thời gian kéo dài, trong khi đó bản thân tư tưởng, thế giới

quan của Nguyễn Dữ cũng biểu hiện sự vận động đầy phức tạp và không loại trừ khả năng có

những mâu thuẫn nhất định. Nhưng về cơ bản có thể nói các mâu thuẫn, xung đột của nhiều thuyện

được triển khai khá thống nhất, tần số lặp lại các mô thức nghệ thuật trong mối thể hiện các xung

đột ở một loạt các tác phẩm viết về người phụ nữ, người trí thức hay các lực lượng thống trị đã làm

cơ sở đáng tin cậy cho việc xác định khuynh hướng sáng tác của nó”.[45, tr.15]

Bên cạnh đó, một trong những vấn đề được các nhà nghiên cứu quan tâm bàn luận khi nói về

Truyền kì mạn lục, đó là mối quan hệ giữa Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ với Tiễn đăng tân

thoại của Cù Hựu – một tác giả Trung Quốc đời nhà Minh. Đó là những bài:

-Trong các bài viết “Những vấn đề khác nhau liên quan đến Truyền kì mạn lục”, Kawamoto

Kurive, Ngân Xuyên dịch từ bản thảo tiếng Pháp, Tạp chí Văn học số 6/1996; “Nghiên cứu so sánh

một tiểu thuyết truyền kì trong Kim ngao tân thoại, Truyền kì mạn lục và Tiễn đăng tân thoại” của

Toàn Huệ Khanh, Tạp chí Văn học số 2/2005; “Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu với

Kim ngao tân thoại của Kim Thời Tập, Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và Ca tỳ tử của Asai Rey”

Boisriftin do Phạm Tú Châu dịch, Tạp chí Văn học số 12/2006; “Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì

mạn lục” của K.I.Golugina, đăng trên Tạp chí Hán Nôm số 3/ 2004; “Ca tỳ tử (Otogiboko) và Vũ

nguyệt vật ngữ (Ugetsumonogatan) với Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Thị Oanh, trên Tạp chí Hán

Nôm số 4/1995; “Quá trình truyền nhập và lưu hành Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam” của Nguyễn

Nam, Tạp chí Văn học số 5/2001; “Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết

cổ các nước trong khu vực” của Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm số 2/1998; “Đề tài tình yêu trong

Kim ngao tân thoại của Hàn Quốc (So sánh với Truyền kì mạn lục của Việt Nam)” của KimSeona,

Tạp chí Văn học số 10/1995 và “Vế mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục”,

Phạm Tú Châu, Tạp chí Văn học số 3/1987; “So sánh chuyện tình giữa người và hồn ma trong Tiễn

đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục” của Đinh Thị Khang, Tạp chí Nghiên cứu văn học số 4 năm

2007: các tác giả đã nhấn mạnh mối quan hệ giữa “Tiễn đăng tân thoại” và “Truyền kì mạn lục”, đó

là “Truyền kì mạn lục” đã chịu ảnh hưởng của “Tiễn đăng tân thoại”. Hầu hết các nhà nghiên cứu

này đều cho rằng: Nguyễn Dữ phần nào đã dựa vào Tiễn đăng tân thoại để viết Truyền kì mạn lục.

Tuy nhiên Truyền kì mạn lục cũng có những nét sáng tạo riêng, gần gũi với con người Việt Nam và

“rất Nguyễn Dữ”

Mặt khác khi đề cập đến Truyền kì mạn lục một số nhà nghiên cứu đã tiến hành khai thác theo

hướng đi vào tìm hiểu một truyện cụ thể, tiêu biểu nhất. Đó là những bài:

- “Một số vấn đề cần lưu ý khi đọc – hiểu văn bản Chuyện người con gái Nam Xương” của

Nguyễn Đăng Na, Văn học và tuổi trẻ, số tháng 10 – 2005.

- “Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên của Nguyễn Dữ” của Lê Trí Viễn, trích trong những

bài giảng văn ở Đại học, NXb Giáo dục, 1982.

- “Góp thêm vài suy nghĩ vế mối quan hệ giữa Chuyện cây gạo và Truyện chiếc đèn mẫu đơn”,

Đinh Phan Cẩm Vân, Tạp chí Nghiên cứu văn học, số 6/2005.

- “Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương”, Nguyễn Nam, Tạp chí Nghiên cứu văn

học, số 4/2004.

- “Đời sống của nhân vật truyền kì ngoài tác phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt

Nam”, Nguyễn Ngọc Hiệp, Tạp chí Văn học số 5/2005.

3. Lan Trì kiến văn lục:

Nhìn chung về Lan Trì kiến văn lục thì những công trình nghiên cứu về tác phẩm này vẫn còn ít.

Dưới đây chúng tôi xin được đưa ra hai công trình nghiên cứu chủ yếu.

- “Vũ Trinh và Lan Trì kiến văn lục trong dòng truyện truyền kì Việt Nam”, Trần Thị Băng

Thanh, trích trong “Những suy nghĩ từ văn học trung đại”, NXb Khoa học Xã hội Hà Nội, 1999 và

“Vũ Trinh và Kiến văn lục”, Nguyễn Cẩm Thúy, Tạp chí Văn học, số 3/1983: hai tác giả này chủ

yếu đi sâu phân tích và nhận định về giá trị nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Từ đó đi đến

khẳng định đây là một trong những tác phẩm truyền kì tiêu biểu của văn học trung đại Việt Nam.

Bên cạnh đó Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục còn được đề cập

đến trong một số công trình nghiên cứu dưới dạng nhân bàn về những vấn đề khác lớn hơn. Tuy vậy

trong những công trình này thì Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục vẫn

được khảo sát trên phương diện nội dung và nghệ thuật, nhằm góp thêm một cái nhìn đầy đủ, khái

quát về những vấn đề tổng quát. Vì thế đó là những cái nhìn còn sơ lược về các tác phẩm. Dưới đây

là một số công trình:

- “Các loại truyện từ thế kỉ XV đến thế kỉ XVII” trích trong “Lịch sử văn học Việt Nam sơ giản”,

Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Nxb Khoa học Xã hội, 1963.

- “Văn tự sự, truyện kí thế kỉ XV” trích trong “Văn học Việt Nam: thế kỉ X đến nửa đầu thế kỉ

XVIII”, Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Nxb Giáo dục, 1997.

- Thơ văn Lê Thánh Tông, Nxb Khoa học Xã hội, 1986.

- “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán ở Việt Nam thời trung

đại”, Phạm Văn Thắm, Luận án Phó tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1996.

- “Mấy vấn đề thi pháp học trung đại Việt Nam”, Trần Đình Sử, Nxb Giáo dục, 1999.

- Lời giới thiệu trong “Văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung đại”, Nguyễn Đăng Na, Nxb Giáo

dục,1999.

- “Những biến đổi của yếu tố kì và thực trong truyện ngắn truyền kỳ Việt Nam”, Vũ Thanh, Tạp

chí văn học số 6/1994.

- “Cái kì trong tiểu thuyết truyền kì”, Đinh Phan Cẩm Vân, Tạp chí Văn học số 10/2000.

- “Quan niệm về Thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong truyện văn xuôi trung đại”, Trần

Thị An, Tạp chí văn học, số 3/2003.

- “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam danh mục và phân loại”, Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm, số

3/1997.

- “Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, nội dung và nghệ thuật”, Trần Nghĩa, Tạp chí Hán Nôm số

4/1997.

- “Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với tiểu thuyết chữ Hán ở Việt Nam”, Trần Nghĩa, Tạp chí Hán

Nôm, số 4/1999.

- “Từ điển văn học Việt Nam”, Lại Nguyên Ân, Bùi Trọng Cường, Nxb Giáo dục, 1995.

- “Từ điển văn học” (bộ mới), Đỗ Đức Hiểu chủ biên, Nxb Thế giới, 2003.

- “Tìm hiểu truyện Hoa quốc kì duyên” Nguyễn Nam, Tạp chí văn học số 2/1996.

- “Thể loại truyện kì ảo Việt Nam thời trung đại – quá trình nảy sinh và phát triển đến đỉnh

điểm”, Vũ Thanh trích trong “Văn học Việt Nam – thế kỉ X đến XIX, những vấn đề lí luận và lịch

sử”, Trần Ngọc Vương (chủ biên), NXB Giáo dục, 2007.

- “Thi pháp truyện ngắn trung đại Việt Nam”, Trần Nho Thìn, chuyên luận trích trong “Truyện

ngắn Việt Nam – lịch sử - thi pháp – chân dung”, của Phan Cự Đệ, NXB Giáo dục, 2007.

Nhìn chung hầu hết các tác giả đã nghiên cứu về niên đại, tên tuổi của các tác giả. Đồng thời các

nhà nghiên cứu cũng đi đến những kết luận xoay quanh nội dung và nghệ thuật của các tác phẩm.

Trong khi đó về nghệ thuật xây dựng nhân vật các nhà nghiên cứu cũng chưa có một bài viết nghiên

cứu đầy đủ, chuyên sâu. Chính vì vậy bài nghiên cứu đi vào nghiên cứu loại hình các nhân vật trong

các tác phẩm của các tác giả trên.

IV. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU:

Truyện truyền kì trung đại Việt Nam được xem như là một bước tiến vượt bậc từ khi Thánh

Tông di thảo ra đời, rồi thể loại này được xem là phát triển đến đỉnh điểm khi có sự xuất hiện của

Truyền kì mạn lục. Giai đoạn sau bên cạnh Truyện kì tân phả, Tân truyền kì lục, thì có thể nói sự ra

đời của Lan Trì kiến văn lục cũng mang lại cho thể loại truyện kì những điểm nổi bật. Đó là bởi

khác với Truyền kì tân phả, Tân truyền kì lục, Lan Trì kiến văn lục đã có cách viết ít nhiều khác các

tác giả đi trước và do đó đã đóng góp thêm những nét mới cho thể loại. Và người viết xin mượn lời

nhận định của tác giả Trần Thị Băng Thanh về Lan Trì kiến văn lục để làm lý do chọn tác phẩm này:

“Đấy là đóng góp đáng ghi nhận của Vũ Trinh cho lịch sử thể loại truyền kì nói riêng và thành tựu

của văn học trung đại nói chung” [10, tr.239]. Vì vậy với đề tài này người viết xác định xin phạm

vi nghiên cứu là ở ba tập truyện: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.

3.1. Thánh Tông di thảo:

Mặc dù vấn đề niên đại và tác giả của tác phẩm hiện còn nhiều ý kiến khác nhau song vì mục

đích của đề tài nên người viết quyết định tìm hiểu Thánh Tông di thảo gồm 19 truyện và 02 phụ

chép. Do đó người viết tiến hành tìm hiểu tập truyện này dựa trên văn bản sau:

“Thánh Tông di thảo” do Nguyễn Bích Ngô dịch vả chú thích, Phạm Văn Thắm giới thiệu (183

trang), NXB Văn học, Hà Nội 2001, gồm 19 truyện và 02 phụ chép:

Truyện yêu nữ Châu Mai Lời phân xử cho anh điếc và anh mù

Truyện dòng dõi con thiềm thừ Ngọc nữ về tay chân chủ

Truyện hai Phật cãi nhau Truyện hai thần hiếu đễ

Truyện người hành khất giàu Truyện chồng dê

Truyện hai nữ thần Người trần ở Thủy Phủ.

Phả ký sơn quân Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc.

Bức thư con muỗi Truyện một giấc mộng

Duyên lạ ở Hoa Quốc Phụ chép 2.

Phụ chép 1. Truyện tinh chuột

Trận cười ở núi Vũ Môn Một dòng chữ lấy được gái thần

Truyện lạ nhà thuyền chài

3.2. Truyền kì mạn lục: Người viết tiến hành tìm hiểu truyện ở văn bản:

“Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ” , bản dịch của Trúc Khê, Ngô Văn Triện, (231 trang) NXb

Văn nghệ Hội nghiên cứu giảng dạy văn học tp. Hồ Chí Minh – 1988, gồm 20 truyện:

Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang. Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào.

Câu chuyện ở đền ở Hạng Vương Chuyện yêu quái ở Xương Giang.

Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu. Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na.

Chuyện cây gạo. Chuyện cái chùa hoang ở huyện Đông Trào.

Chuyện gã Trà Đồng giáng sinh Chuyện nàng Túy Tiêu.

Chuyện kì ngộ ở Trại Tây. Chuyện người con gái Nam Xương.

Chuyện đối tụng ở Long Cung. Chuyện Lý Tướng quân.

Chuyện nghiệp oan của Đào Thị. Chuyện Lệ Nương.

Chuyện chức Phán sự ở đền Tản Viên. Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa.

Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên. Chuyện tướng dạ xoa.

3.3.Lan Trì kiến văn lục: Người viết xin tìm hiểu và khảo sát từ văn bản:

“Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh” (152trang), Hoàng Văn Lâu dịch, NXB Thuận Hóa

trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, gồm 45 truyện.

Dốc Đầu Sấm. Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu

Thần Cửa Cờn. Người đàn bà trinh tiết ở Thạch

Thán.

Đứa con của rắn. Đánh ma

Điềm báo trước Tiên trên đảo.

Nguyễn Danh Nhược. Nguyễn Quỳnh.

Nhớ ba kiếp Phạm Viên

Rắn thiêng Tiên ăn mày

Thầy tướng Con hổ có nghĩa.

Thần đền Chiêu Trưng Đẻ lạ

Hang núi giữa biển. Sống lại

Người khổng lồ Gái biến thành trai

Gấu hổ chọi nhau Thằng trộm.

Câu chuyện tình ở Thanh Trì. Con giải

Ca kĩ họ Nguyễn Ma cổ thụ

Liên Hồ quận quân Cá thần

Con hổ nhân đức Khỉ

Nguyễn Trật. Con hổ hào hiệp

Tháp Báo Ân Bà đồng

Phu nhân Lan quận công. Trạng nguyên họ Nguyễn.

Núi trên biển Nhớ kiếp trước

Đá nổi Thượng thư họ Đỗ.

Mộng lạ. Thần giữ của.

Ma trơi

V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU:

 Phương pháp lịch sử cụ thể: luận văn tìm hiểu loại hình các nhân vật trong Thánh Tông di

thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục tức là đề cập đến tác phẩm của các tác giả cụ thể. Mà

ba tác phẩm này lại là thành quả của một hoàn cảnh cụ thể lịch sử, nằm trong tiến trình phát triển

của lịch sử dân tộc. Do đó người viết vận dụng phương pháp này để tìm hiểu sự tương tác giữa môi

trường văn hóa, thời đại với tác giả để có cái nhìn thấu đáo cặn kẽ và lý giải được những nội dung

và nghệ thuật của tác phẩm.

 Phương pháp hệ thống: vận dụng phương pháp hệ thống vào việc sắp xếp các yếu tố vào

một hệ thống, phân tích và lý giải mối liên hệ giữa các yếu tố đó để thấy được tính chỉnh thể của vấn

đề cần khảo sát.

 Phương pháp phân loại, thống kê: sử dụng để chỉ ra tần số xuất hiện của các vấn đề cần

khảo sát, đặc biệt là khi tìm hiểu loại hình các nhân vật trong tác phẩm, lấy đó làm căn cứ cho sự lý

giải về những vấn đề đã phản ánh theo tính chất, mức độ, ý nghĩa. Kết quả của việc thống kê số liệu

góp phần tăng thêm tính chính xác và thuyết phục cho luận văn.

 Phương pháp so sánh, đối chiếu: chủ yếu sử dụng phương pháp so sánh lịch đại và đồng

đại để tiến hành so sánh ba tác phẩm với nhau, và ba tác phẩm này với các tác phẩm khác trước

hoặc sau nó hoặc cùng thời với nó. Để từ đó thấy được những đóng góp của ba tác phẩm này.

 Phương pháp phân tích, tổng hợp: Những phương pháp trên đây không phải được sử dụng

một cách độc lập mà trong quá trình thực hiện công trình người viết đã sử dụng phối hợp các

phương pháp để có thể đạt được hiệu quả cao nhất.

PHẦN NỘI DUNG

CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG

1.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam – quá trình hình thành và phát triển:

1.1.1.Khái niệm truyền kì:

Khái niệm truyền kì có thể hiểu bằng nhiều cách. Đó là: có khi được giải thích theo tính chất

câu chuyện, khi thì dựa vào đặc điểm thể loại ở một thời kỳ nhất định, khi lại dựa vào lịch sử hoàn

thành của truyện truyền kì, khi lại coi truyền kì là loại văn xuôi tự sự nhưng đã để mất yếu tố kì lạ,

tất cả những điều này đều được đề cập đến trong một số giáo trình, tài liệu. Điển hình như trong “Từ

điển tiếng Việt” có viết về truyền kì: “có tính chất những truyện kì lạ lưu truyền lại” (1087). Trong

“Từ điển văn học” giải thích: “Truyền kì là một thể loại tự sự ngắn cổ điển của văn học Trung Quốc

thịnh hành ở đời Đường” (447); hoặc “truyện ngắn đời Đường”; hoặc ký khúc đời Minh Thanh,

hoặc truyện thần kì”. (141).

1.1.2.Khái niệm truyện truyền kì trung đại Việt Nam:

- Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ảnh hưởng nhiều từ truyện truyền kì Trung Quốc đời

Đường. Và theo các nhà nghiên cứu đây cũng là thời kỳ đánh dấu sự chín muồi của thể loại tự sự.

Theo đó, hai chữ truyền kì bao hàm mấy nghĩa sau: Một là: có ý chuộng lạ; hai là: đặc điểm của

truyền kì là chứa đựng nhiểu thể, có thể nhận thấy tài viết sử, tài làm thơ, tài nghị luận trong tác

phẩm truyền kì.

- Truyện truyền kì trung đại Việt Nam ngay từ khi ra đời cho đến khi phát triển đến đỉnh điểm,

đã trải qua một quá trình dài học tập để có thể tự hoàn thiện mình. Từ những tác phẩm đầu tiên còn

âm hưởng của văn học dân gian, cho đến lúc thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của nó, thể loại

này đã làm nên những thành công nhất định.

1.1.3.Mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện truyền kì ở vùng văn hóa Đông Á:

Chúng ta không thể phủ nhận một điều rằng: truyện truyền kì Việt Nam vốn có nguồn gốc từ

truyện truyền kì Trung Quốc và có mối quan hệ với các nước khu vực chữ Hán. Tuy vậy, truyện

truyền kì Việt Nam cũng có một quá trình hình thành và phát triển nội sinh gắn với nền văn hóa dân

gian và văn xuôi lịch sử. Đồng thời trong suốt quá trình hoàn thiện mình, thể loại này vẫn tiếp tục

chịu ảnh hưởng giao lưu với các nước trong khu vực, với Trung Quốc và các nước vùng văn hóa

Đông Á. Dưới đây người viết xin đi vào trình bày sơ lược về đặc điểm của thể loại truyền kì ở các

nước lân cận. Trên cơ sở đó để thấy được mối quan hệ giữa truyện truyền kì Việt Nam với truyện

truyền kì các nước trong khu vực văn hóa Đông Á.

1.1.3.1.Truyện truyền kì ở Trung Quốc:

- Theo các nhà nghiên cứu, truyền kì là thể loại văn xuôi nghệ thuật xuất hiện khá sớm trong

văn học cổ điển Trung Quốc. Và theo quan điểm hiện nay, truyện truyền kì được xem là hình thức

đầu tiên của truyện ngắn. Hiện nay có ba quan điểm khác nhau tranh luận về nguồn gốc của thể loại

truyền kì ở Trung Quốc:

+ Loại quan điểm thứ nhất: Một số học giả cho rằng nguồn gốc của truyền kì là các sự tích lịch

sử và truyện ngắn thế kỉ VIII – IX trong văn học Trung Quốc. Như vậy quan điểm này đã dựa vào

tính chất văn - sử - triết bất phân thời trung đại.

+ Loại quan điểm thứ hai: Loại quan điểm này cho rằng nguồn gốc của truyện truyền kì là xuất

phát từ truyện kể đời Đường.

+Loại quan điểm thứ ba: Những nhà nghiên cứu theo quan điểm thứ ba đã khẳng định: nguồn

gốc truyền kì có từ văn xuôi Trung Quốc cổ đại thế kỉ III – VI.

- Đa số các nhà nghiên cứu đồng tình với ý kiến thứ hai. Đó là ở Trung Quốc, truyện truyền kì

đã trải qua một quá trình hình thành và phát triển lâu dài, mà cụ thể là hình thành ở đầu đời Đường.

Có thể thấy truyện truyền kì đời Đường phát triển qua ba giai đoạn:

+ Thời sơ Đường (618 – 741): Đây là giai đoạn hình thành truyện truyền kì. Nội dung khá đa

dạng: có tác phẩm viết về đề tài tình yêu ma quái, quái dị; có truyện viết về thần tiên, có truyện viết

về động vật được nhân cách hóa. Về bút pháp truyện truyền kì thời này thiên về ghi chép, ít sáng

tạo.

+ Thời trung Đường (742 – 820): Có thể thấy đây là thời kì phát triển rực rỡ của truyền kì. Nội

dung truyện truyền kì thời kỳ này thì có nhiều biến chuyển lớn. Đó là chủ đề về chốn quan trường,

về khát vọng tình yêu và về lịch sử. Loại truyện này chủ yếu phản ánh tính hoang dâm vô độ của

tầng lớp thống trị. Đồng thời tác phẩm cũng thể hiện sự bất mãn của các tác giả đối với đường lối

chính sách đương thời.

+ Thời vãn Đường: (821 – 907): Ở thời kỳ này, thể loại truyền kì đã đi vào chặng suy thoái.

Ngoài ra, cũng cần nói đến truyện truyền kì các đời Tống, Nguyên, Minh, Thanh: Đời Tống -

Nguyên truyện truyền kì tiếp tục rơi vào tình trạng suy thoái dần. Sang đến đời Minh, thể loại truyền

kì hưng thịnh trở lại. Nổi tiếng có tập Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, Tiễn đăng dư thoại của Lý

Xương Kỳ….Về hình thức những tác phẩm trên đều bao gồm những truyện ngắn, tương tự như

truyền kì đời Đường. Nó được xem là những tác phẩm mở lối cho sự ra đời của những kiệt tác đời

sau đó.

- Đặc điểm của truyện truyền kì Trung Quốc: căn cứ vào quá trình phát triển của truyện truyền

kì, một số nhà nghiên cứu đã chỉ ra một số đặc trưng của thể loại này:

+ Truyện truyền kì Trung Quốc ở thời Tống đã cho thấy yếu tố ma quỷ thần quái là đặc điểm cơ

bản của truyền kì.

+ Đi sâu khắc họa hình tượng nhân vật ở cả hai phương diện nội dung và hình thức là đặc trưng

cơ bản cho thể loại truyền kì khi nói về nghệ thuật của nó.

1.1.3.2.Truyện truyền kì Triều Tiên:

Như chúng ta đã biết Triều Tiên thời trung cổ thuộc khối đồng văn. Đây cũng là đất nước có sự

tương đồng về văn hóa với Việt Nam và các nước khu vực Viễn Đông.

- Thời gian và hình thức ra đời của truyện truyền kì Triều Tiên: theo một số nhà nghiên cứu thì

từ thế kỷ XV, trong đời sống kinh tế - văn hóa – xã hội Triều Tiên có những biến đổi đáng kể do sự

cải cách của triều đại phong kiến đương thời. Và văn học Triều Tiên thế kỷ XV cũng đánh dấu bước

chuyển đáng chú ý.

- Hình thức ra đời: Ngay từ khi ra đời văn xuôi tự sự Triều Tiên chia làm hai dạng rõ rệt. Một

dựa trên truyện tiếu lâm trong văn học dân gian, một dựa vào nguồn thần thoại, cổ tích, truyền

thuyết. Nguồn thứ hai này tạo nên thể loại truyền kì. Nói đến thể loại này, các nhà nghiên cứu nhắc

ngay đến Kim Ngao tân thoại của Kim Si Seup (Kim Thời Tập), tác phẩm truyền kì xuất hiện khá

sớm vào thế kỷ XV và chịu ảnh hưởng sâu sắc Tiễn đăng tân thoại.

1.1.3.3.Truyện truyền kì Nhật Bản:

- Ở Nhật Bản, từ cuối thế kỷ XII đã xuất hiện thể loại truyền kể được kể bởi những nghệ sĩ lãng

tử dưới hình thức trường ca sử thi. Từ đầu thế kỷ XIV và đến thế kỷ XVI văn học Nhật Bản đã thực

sự tồn tại một loại văn xuôi nghệ thuật khác rất xa với dòng chảy tư tưởng chung của thời đại này.

Đó là truyện ngắn, trong đó một số có nguồn gốc phônclo với những cốt truyện cổ tích, một số khác

lấy các cốt truyện từ văn học cổ điển Nhật Bản, từ những Phật thoại và cuối cùng là từ văn học

Trung Quốc. Tới thế kỷ XVI nhiều truyện trong số đó – khoảng gần ba trăm truyện – được ghi chép

và được xuất bản bằng các văn bản khắc ván. Đó là hình thức ban đầu của truyện ngắn Nhật Bản.

- Con đường hình thành truyện truyền kì Nhật Bản theo ba bước. Điểm này không giống với

Việt Nam và Triều Tiên. Nó mang đặc thù của văn học xứ sở hoa anh đào. Tức cuồi thế kỷ XVI,

truyền kì Cù Hựu đã được biết đến ở Nhật Bản. Trước hết các tác giả người Nhật làm quen với Cù

Hựu trong nguyên bản chữ Hán, kế tiếp là dịch những truyện tiêu biểu rồi phóng tác theo Cù Hựu và

cuối cùng là ứng dụng, sáng tạo ra truyện truyền kì người Nhật. Kết cấu truyện chủ yếu vẫn theo lối

tuyến tính nhưng được triển khai trong sự đa dạng của chủ đề, đề tài, nhân vật. Đặc biệt là truyện

thường ngắn gọn, có ý nghĩa vừa là giai thoại vừa là ngụ ngôn. Đỉnh cao của truyện truyền kì Nhật

Bản là Vũ nguyệt vật ngữ của Ueda Akinari (thế kỉ XVIII).

1.1.4.Quá trình hình thành và phát triển của thể loại truyện truyền kì Việt Nam:

Có thể thấy rằng truyện truyền kì Việt Nam phát triển từ những ảnh hưởng thụ động đến

việc tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian.

1.1.4.1.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam chịu ảnh hưởng thụ động từ văn học dân gian ( từ cuối thế kỷ XIV trở về trước):

Trên cơ sở những tư liệu mà chúng ta có được, có thể nói, truyện truyền kì Việt Nam đã bắt đầu

manh nha từ thế kỷ XIII, với tác phẩm Ứng Minh trì dị sự của Vũ Cao, được ghi lại trong Đại Việt

sử lược. Tác phẩm này tuy tình tiết, cốt truyện đơn giản, sơ lược nhưng bố cục chặt chẽ. Điều đáng

chú ý nữa là màu sắc dân gian thuần phác được thể hiện khá rõ nét. Và văn học dân gian đã tác động

đến suốt quá trình hình thành, phát triển của thể loại truyền kì cả về nội dung lẫn nghệ thuật.

- Về cốt truyện: một số cốt truyện trong các tác phẩm của thể loại truyền kì chủ yếu lấy từ những

câu chuyện lưu truyền trong dân gian, từ truyện cổ tích cho đến thần thoại, truyền thuyết về các vị

thần. Không những vậy, các nhà văn luôn trung thành trong sự việc sử dụng những cốt truyện này

mà chưa có sự đổi mới, sáng tạo.

- Về nhân vật: các nhân vật của truyện truyền kì đều có nguyên mẫu từ văn học dân gian. Những

hình tượng gần gũi và quen thuộc nhất của các nhà văn trong thời kỳ đầu chính là từ các truyện thần

thoại, truyền thuyết, cổ tích, thần kì,….Điều này được thể hiện rõ trong Việt điện u linh tập, Lĩnh

Nam chích quái.

- Về giọng điệu: chủ yếu là cách kể, giọng điệu của tác giả dân gian trong văn học dân gian.

1.1.4.2.Truyện truyền kì trung đại Việt Nam tiếp thu một cách có ý thức văn học dân gian ( từ thế kỷ XV trở về sau):

Từ việc ảnh hưởng một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả truyền kì đã dần dần từng

bước một không chỉ đưa những “đứa con” tinh thần của mình thoát ra khỏi những ảnh hưởng máy

móc ấy, mà còn có ý thức sáng tạo chúng.

* Nội dung phản ánh:

- Tiếp xúc trực tiếp với những tác phẩm truyền kì giai đoạn sau, chúng tôi thấy một số tác

phẩm đã đạt đến một trình độ nhất định. Nếu ở giai đoạn trước, các tác phẩm truyền kì lấy các vị

thần, nhà sư làm đối tượng phản ánh chủ yếu thì ở giai đoạn sau, các tác phẩm lại chủ yếu đề cập

đến con người đời thường, đặc biệt là những con người dưới đáy xã hội. Con người có đủ sức mạnh

và trí tuệ để làm chủ hoàn cảnh, cuộc sống. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn này còn đề

cập đến những nội dung rất thực tế. Nó gắn liền với hiện thực cuộc sống đương thời. Không phải chỉ

là chuyện của ma quái, thần linh mà đó còn là câu chuyện về một mối tình, một thoáng nhớ người

yêu, một khát khao hạnh phúc ở đời và hơn hết còn là mong ước được gắn bó với mảnh đất quê

hương, với xứ sở thân thương nhất. Tất cả những điều ấy rất thực tế, xuất phát từ chính cuộc sống

hằng ngày. Điều này cho thấy sự cách tân trong tư duy nghệ thuật của các nhà văn.

*Phương thức phản ánh: để phù hợp với những nội dung ấy, các tác giả truyền kì cũng làm

mới nghệ thuật cho đứa con tinh thần của mình.

- Cốt truyện: mượn cốt truyện từ văn học dân gian nhưng được viết với một tư tưởng và mục

đích khác hẳn. Những cốt truyện từ trong những tác phẩm của Lí Tế Xuyên và Trần Thế Pháp đã

được thay đổi khi đến tay Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ. Ở đây cốt truyện cũ chỉ là một biện pháp

để nhà văn vin vào đó thể hiện những điều mình muốn gửi gắm. Lúc này tất cả đã được khoác lên

mình những sáng tạo mới. Điều này thể hiện những bước tiến quan trọng của thể loại truyện truyền

kì Việt Nam thời trung đại cũng như những biến đổi rõ nét trong tư duy nghệ thuật của nhà văn.

- Nhân vật: Càng về sau, truyện truyền kì càng có những cách thể hiện mới, đặc biệt là nhân

vật người kể chuyện. Lúc này người kể chuyện đã mang tính cá thể, đồng thời còn có sự tham gia

của nhà văn như một nhân vật trong tác phẩm. Ở giai đoạn của Lý Tế Xuyên nhân vật còn là nguyên

mẫu trong văn học dân gian. Qua thời Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, kiểu nhân vật mới bắt đầu xuất

hiện. Nhà văn đồng nhất với nhân vật. Điểm này được thể nghiệm thành công ở tác giả của Thánh

Tông di thảo. Đó là sự xuất hiện của nhân vật thứ ba, hiện thân của nhà văn. Đó cũng chính là bước

tiến mới của thể loại, chấm dứt lối ảnh hưởng thụ động, một chiều từ văn học dân gian. Lúc này

nhân vật không đơn giản chỉ được miêu tả ở bên ngoài nữa mà đã được bước sâu vào lãnh địa bên

trong của tâm hồn, được khai thác đời sống nội tâm, khắc họa tính cách. Khi nói về đóng góp này,

các nhà nghiên cứu thường gắn nó với tên tuổi của Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ: “Chú trọng

đến việc phản ánh những xung đột bình thường trong đời sống gia đình, cũng như việc đi sâu khắc

họa nội tâm nhân vật đã xác định được vị trí người mở đường cho loại truyện ngắn thế sự trong lịch

sử văn học dân tộc của Nguyễn Dữ và khiến cho truyện của ông trở nên gần gũi với văn xuôi hiện

đại”. [131, tr. 754].

- Ngôn ngữ: Ngôn ngữ đối thoại là chủ yếu. Khác hẳn với lối kể chuyện đơn tuyến của văn học

dân gian, các nhà văn truyền kì đã bắt đầu quan tâm đến lối kể chuyện đa tuyến và nó được thể hiện

dày hơn, nhiều hơn trong tác phẩm. Từ ngôn ngữ đối thoại sẽ kéo theo hệ quả là ngôn ngữ mang

tính cá thể. Mỗi nhân vật gắn liền với ngôn ngữ của riêng mình. Và chính điều này đã góp phần làm

nên những thành công rực rỡ cho thể loại truyền kì.

1.1.4.3. Mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại Việt Nam với văn xuôi lịch sử:

*Từ tính chân thực của sử học đến những hình tượng văn học chân thực:

- Cũng như văn học dân gian, văn xuôi lịch sử cũng là một trong những nguồn gốc quan trọng

hình thành nên truyện truyền kì trung đại trong giai đoạn đầu phát triển. Trong con mắt của các nhà

nho thời trung đại thì văn học hư cấu như truyện truyền kì, chí quái là thể loại không được xem

trọng, thậm chí bị coi khinh. Vì vậy mà ở những thử nghiệm đầu tiên, thể loại này đã cố gắng đưa

những sự kiện sử học vào tác phẩm, thậm chí là càng gần sử càng tốt. Do đó, các nhà văn truyền kì

ở thời kì đầu đóng vai trò như một nhà sử học. Họ cố gắng tạo cho tác phẩm của mình tính chân

thực và nghiêm túc của sử học bằng cách trích dẫn hoặc lấy tư liệu cho tác phẩm của mình như một

sự bổ sung thiết yếu cho các tác phẩm sử học. Nhận vật trong những tác phẩm này là những nhân

vật có thật trong lịch sử, đây là phần kể chuyện người. Bên cạnh đó còn phần kể chuyện thần, được

các tác giả ghi chép thêm phần phong tặng của các triều đại.

- Tuy nhiên trong những tác phẩm sử học này đã chứa đựng những câu chuyện, hình ảnh, mô típ

giàu tính nghệ thuật đóng vai trò như những hình mẫu dễ bắt chước của các nhà viết truyện. Có thể

thấy các giá trị văn chương chứa đựng trong các tác phẩm sử học. Và đây cũng là một trong những

nguồn gốc và động lực thúc đẩy sự phát triển của truyện truyền kì trung đại.

*Sự phát triển của mối quan hệ giữa truyện truyền kì trung đại và văn xuôi lịch sử: Truyện

truyền kì dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn xuôi lịch sử.

- Có thể nói, càng về giai đoạn sau, trong các tập truyện truyền kì không còn các trích đoạn sử

liệu và cũng không còn những đoạn ghi chép về tước hiệu của các vị thần như trong tác phẩm của

các tác giả trước đó. Không chỉ vậy, thể loại truyền kì giai đoạn sau không còn mang chức năng

hành chính và chức năng tôn giáo như các tập truyện trước nữa

- Cùng với thời gian, truyện truyện kì đã tách ra khỏi mối quan hệ văn - sử - triết bất phân trong

thời trung đại, nhằm hướng đến khẳng định mình trong thế độc lập. Lúc này các nhân vật lịch sử đã

có thêm những yếu tố mới, những khía cạnh mới về nhân cách, về cuộc sống. Ngoài ra không khí

lịch sử trong tác phẩm cũng mang tư tưởng của tác giả. Đặc biệt là ở phần cuối tác phẩm, tác giả

hoặc một ai đó đã viết lời bình cho tác phẩm. Đây là một bước tiến quan trọng của thể loại, giúp thể

loại dần thoát khỏi những ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử.

- Giải phóng khỏi những ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử, các tác giả truyền kì đã đạt được

những thành công nhất định.

+ Một là: truyện truyền kì với những câu chuyện thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn

học dân gian, đã làm xuất hiện trong văn xuôi dân tộc những tác phẩm thuần túy văn học.

+ Hai là: giải phóng khỏi ảnh hưởng của văn xuôi lịch sử chính là để tạo không gian cho nhà văn

sáng tạo cốt truyện và để tìm kiếm kết cấu mới cho tác phẩm của mình.

1.1.4.4. Mối quan hệ giữa hai yếu tố kì và thực trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam

*Sự thể hiện yếu tố thực trong thể loại truyền kì Việt Nam:

- Một khi yếu tố thực được gia tăng thì đồng thời với nó cái “kì” bắt đầu bộc lộ

cái thế yếu và có thể bị thất thế. Nhờ vào đó mà con người trần tục đã khẳng định được tài trí và

uy quyền của mình trước những thế lực siêu nhiên. Nếu các tác phẩm của giai đoạn trước sức mạnh

siêu phàm của thần linh luôn giúp đỡ con người trong việc chiến thắng kẻ thù, thì đến lúc này cái kì

lạ được diễn ra chính là nhờ vào kết quả những hành động bình thường của người trần tục.

- Một trong những nguyên nhân giúp thấy rõ yếu tố thực trong các tác phẩm truyền kì là các tác

giả đã lấy đề tài, cảm hứng từ những sự kiện có thật trong lịch sử, có thật trong thực tế đời sống. Và

khi đề cập đến sự thật lịch sử, các tác giả cũng đi sâu vào khai thác những mặt hạn chế của chế độ

phong kiến đương thời, cũng như những hình ảnh con người bình thường trong xã hội với những

khát vọng rất đỗi bình dị. Chính điểm này đã giúp cho thể loại truyền kì sản sinh ra những tác phẩm

mang hơi thở của cuộc sống.

*Sự thể hiện yếu tố “kì” trong thể loại truyền kì trung đại Việt Nam:

٭ Khái niệm “kì”: “kì” ở đây có nghĩa là kì lạ, kì ảo. Yếu tố kì ảo được sử dụng rộng rãi trong

nhiều tác phẩm văn xuôi tự sự trung đại. Và “yếu tố kì ảo đã đóng một vai trò quan trọng trong việc

tổ chức cũng như tạo cho tác phẩm cái vẻ riêng, hấp dẫn, có một sức mê hoặc kì lạ” [14,tr. 449].

٭Yếu tố “kì” trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam phát triển từ thụ động đến ý thức:

- Có thể thấy trong thời kì đầu, cái “kì” trong truyện truyền kì thô phác, mộc mạc, mang tính tự

phát, gần gũi với yếu tố siêu nhiên, cái kì vĩ của thần thoại và cổ tích. Đây là giai đoạn của Việt điện

u linh, Lĩnh Nam chích quái. Ở đây người đọc dễ dàng nhận ra nguồn gốc và mối quan hệ của tác

phẩm với tín ngưỡng dân gian, với niềm tin trong dân chúng về chuyện linh hồn con người tiếp tục

tồn tại sau khi chết và có thể trở về giúp đỡ những người còn sống Cái thần kì trong giai đoạn này

có nhiều nguồn gốc: từ tôn giáo, tín ngưỡng, từ sử ký, truyền thuyết và truyện cổ tích thần

kì….Nhìn chung sự sáng tạo độc đáo ở giai đoạn này còn yếu.

- Từ việc học tập một cách thụ động văn học dân gian, các tác giả của truyện truyền kì đã có ý

thức trong việc sáng tác yếu tố thần kì trong truyện truyền kì. Giai đoạn sau truyện truyền kì với các

nhân vật thường có hành vi và cuộc đời bí hiểm, cùng với điều đó là nội dung nửa đời thường nửa kì

ảo. Tất cả đã tạo nên những điểm hấp dẫn mới ở truyện truyền kì. Và đây là một trong những điểm

làm nên cái tồn tại lâu dài cho chính thể loại này.

٭Vai trò của yếu tố “kì” trong truyện truyền kì trung đại Việt Nam:

- Có thể nói trong thể loại truyền kì, yếu tố “kì” giữ một vai trò rất đặc biệt: “Truyền kì là truyện

truyền đi một sự lạ, vì vậy hạt nhân cơ bản của loại tiểu thuyết này là “kì” (……). Truyền kì không

từ chối miêu tả những câu chuyện lạ, những sự việc lạ bởi nếu không lạ thì không truyền”. [123, tr.

48].

- Cái kì trong thể loại truyền kì còn có những vai trò khác. Đó cũng là cách nhận định của Vũ

Thanh: “Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng yếu tố kì không chỉ với chức năng vỏ bọc che

giấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà còn với tư cách một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng

của thể loại.” [ 15,tr.25]. Đồng thời cũng trong bài viết của mình, tác giả Vũ Thanh còn giải thích

sự xuất hiện của yếu tố kì trong truyện truyền kì theo hướng kiến giải riêng: “Truyền kì là một thể

loại văn xuôi độc đáo. Cái kì là một phạm trù của mỹ học Trung Hoa cổ, là đặc thù tư duy của một

giai đoạn lịch sử (…..). Cái kì lạ đầy rẫy trong huyền thoại, tôn giáo, trong sử kí và là một đặc điểm

của tư duy dân gian được phản ánh trong thần thoại, truyền thuyết, truyện cổ tích. Do chưa giải

thích được nhiều hiện tượng tự nhiên và xã hội, đối với con người thời trung cổ. Bên cạnh đời sống

hiện thực còn có một đời sống tâm linh phong phú với các vị thần, với những điều kì lạ, siêu nhiên

và một quan niệm sâu xa về thế giới bên kia. Vì vậy việc phản ánh mặt kì lạ đó chẳng phải là cái gì

đó xa lạ, phi hiện thực; trái lại nó càng giúp ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn của con người trung

cổ.” [15,tr. 25). Chính vì vậy cái “kì” có một vai trò rất quan trọng trong truyện truyền kì. Nó góp phần tạo nên thành công và sức hấp dẫn cho tác phẩm.

Như vậy có thể thấy rằng truyện truyền kì Việt Nam đã có mối quan hệ thân thiết với truyền kì

các nước trong khu vực. Tuy có sự ảnh hưởng ít nhiều từ những tác phẩm của các nước lân cận

song nhìn chung cũng mang những đặc trưng rất riêng của Việt Nam. Điều này được tạo nên bởi

nguồn văn học dân gian phong phú và tinh thần, lý tưởng của con người Việt. Chính vì vậy với kho

tàng truyện truyền kì mà văn học để lại, chúng ta có thể viết vào lịch sử văn học nước nhà những

tinh thần mới của dân tộc Việt Nam bên cạnh tinh thần chung của thời đại.

1.2. Bối cảnh thời đại của Đại Việt từ thế kỷ XV đến thế kỷ XVIII:

1.2.1.Bối cảnh Đại Việt thế kỷ XV:

1.2.1.1.Sự suy vong của nhà Trần, sự xâm lược của giặc Minh và cuộc kháng chiến chống quân Minh:

- Đến cuối thế kỉ XIV, nhà nước phong kiến trải qua một cuộc khủng hoảng lớn. Hồ Quý

Li có những cải cách táo bạo nhưng thực chất vẫn duy trì đặc quyền của quý tộc quan liêu mà

không mang lại lợi ích thiết thực cho nhân dân. Vì vậy đến năm 1400, khi Hồ Quý Li cướp ngôi nhà

Trần thì việc ấy lại thiếu cơ sở xã hội vững chắc, do đó Hồ Quý Li vừa có kẻ thù nguy hiểm là các

tầng lớp quý tộc nhà Trần vừa không được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân. Nhân cơ hội ấy,

giặc Minh đã giả danh “diệt Hồ phục Trần” để đánh lừa nhân dân mà cướp nước ta, đặt ách đô hộ

lên dân tộc ta.

- Ách đô hộ của giặc Minh rất tàn khốc nếu xét về phương diện đời sống của nhân dân và rất

phản động nếu xét về phương diện sự phát triển của lịch sử, cụ thể là: thuế má, phu phen nặng nề,

đốt phá, cướp bóc liên tục xảy ra; nền kinh tế và đời sống nhân dân vô cùng khổ cực, liên tiếp xảy ra

vỡ đê, lụt lội, mất mùa, đói kém; giặc Minh cố duy trì chế độ đại điền trang và phát triển chế độ

nông nô. Sự thống trị ấy đã gây nhiều cản trở cho sự phát triển của xã hội Đại Việt ở thế kỉ XV.

- Trước ách đô hộ tàn bạo của giặc Minh, nhân dân đã nổi dậy khởi nghĩa khắp nơi, trong đó có

cuộc kháng chiến mười năm của Lê Lợi là cuộc chiến đấu gian khổ vào bậc nhất trong lịch sử giữ

nước của dân tộc. Lê Lợi phải vừa đánh giặc vừa xây dựng quân đội, xây dựng chính quyền, cuộc

kháng chiến tuy rất gian khổ nhưng cuối cùng cũng đi đến thắng lợi vì những người lãnh đạo đã biết

dựa vào lực lượng của toàn thể nhân dân. Cuộc kháng chiến do Lê Lợi lãnh đạo giải phóng ách

thống trị của giặc Minh, mở đường tiến lên cho lịch sử dân tộc, triều đại nhà Lê được hình thành từ

trong cuộc đấu tranh trên đà thắng lợi đã bắt tay vào việc phục hồi và xây dựng đất nước, quan tâm

giải quyết những vấn đề thuộc đời sống nhân dân.

1.2.1.2.Sự khôi phục và xây dựng đất nước sau thắng lợi:

-Hòa bình lập lại, Lê Thái Tổ xây dựng một nhà nước phong kiến tập quyền trên một cơ sở khác

hẳn với cơ sở thời Trần, sự nghiệp đó được Lê Thánh Tông kế tục và hoàn thành.

- Về khôi phục và phát triển kinh tế, nhà nước phong kiến đã biết sử dụng những điều kiện thuận

lợi của một đất nước vừa giành được độc lập để thúc đẩy việc phục hồi và phát triển kinh tế trong

nước. Đó là chú trọng đổi mới đối với nông nghiệp, thủ công nghiệp và thương nghiệp

- Về xây dựng và củng cố chính quyền, nhà nước phong kiến đã thiết lập bộ máy phong kiến tập

quyền. Triều đình thời Lê Thánh Tông là một triều đình quân chủ tập trung cao độ. Hoàng đế toàn

quyền nắm bộ máy quan liêu được tổ chức có hệ thống từ trung ương đến cấp làng xã ở các địa

phương. Thời Lê Thánh Tông quan chế được đặt ra với sự phân chia ngôi thứ rõ rệt, với sự phân

công phụ trách tỉ mỉ, với sự quy định trách nhiệm liên đới và hỗ tương kiểm soát chặt chẽ….

- Về tình hình xã hội, cấu tạo giai cấp trong xã hội có ít nhiều thay đổi, hai giai cấp chính là

nông dân và địa chủ, cùng với thợ thủ công và thương nhân ngày càng đông. Còn nô tỳ ngày càng ít

đi. Cuộc sống của nhân dân nói chung ổn định và thanh bình.

+Về tình hình văn hóa: Giáo dục, khoa cử rất được coi trọng để tuyển chọn nhân tài phục vụ cho

công cuộc khôi phục và xây dựng đất nước.

+Về tôn giáo, tín ngưỡng: thời này Nho giáo chiếm địa vị độc tôn. Mặc dù bị hạn chế và không

còn được coi trọng như trong đời Lý, Trần nhưng Phật giáo và Đạo giáo vẫn có những ảnh hưởng

nhất định trong xã hội, trong đời sống nhân dân.

+ Về văn học: văn học chữ Hán tiếp tục phát triển, chiếm ưu thế. Bên cạnh đó, văn học chữ Nôm

cũng đã giữ một vị trí quan trọng. Không chỉ vậy, đây là thời gian mà chữ Nôm được ưa chuộng để

nho sĩ, quan lại và cả nhà vua dùng sáng tác thơ văn thể hiện những tư tưởng, tình cảm của mình.

1.2.2.Bối cảnh Đại Việt từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII:

1.2.2.1.Sự suy sụp của nhà Lê và tình trạng chia cắt đất nước:

- Sự suy sụp của nhà Lê: Đầu thế kỉ XVI, nhất là sau khi Lê Hiến Tông mất, xã hội Đại Việt mất

dần cảnh thịnh trị, kinh tế sa sút, nhân dân sống cực khổ, các thế lực phong kiến tranh chấp lẫn

nhau, mở đầu cho một giai đoạn mới của chế độ phong kiến Việt Nam. Chiến tranh tiếp tục cho đến

năm 1552 mới tạm yên. Nhưng bấy giờ mọi quyền hành đã thuộc về tay Mạc Đăng Dung. Cuộc

khủng hoảng chính trị đã chứng tỏ sự suy nhược của dòng họ Lê và chính quyền của họ.

- Tình trạng chia cắt đất nước: Sau một thời gian dài nội chiến, năm 1672 hai họ Trịnh - Nguyễn

lấy sông Gianh làm giới hạn, chia cắt đất nước: Đàng Ngoài, Đàng Trong. Và tất nhiên tình hình

chính trị xã hội ở hai miền hoàn toàn khác nhau.

+ Chính quyền Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài: Năm 1556, sau khi Lê Trung Tông chết, Lê Duy Bang

lên làm vua, song trên thực tế đã hình thành chế độ vua Lê – chúa Trịnh với quyền bính thực sự nằm

trong tay Trịnh Tùng.

+ Chính quyền chúa Nguyễn ở Đàng Trong: Cho đến giữa thế kỉ XVIII họ Nguyễn đã làm chủ

một vùng đất rộng lớn từ nam dải Hoành Sơn cho đến mũi Cà Mau. Năm 1614,

Nguyễn Phúc Nguyên thải hồi các quan lại do nhà Lê cử và cải tổ lại bộ máy chính quyền.

Nhìn chung từ Đàng Ngoài cho đến Đàng Trong đời sống nhân dân khốn khổ, kinh tế sa sút.

Đồng thời đây cũng là giai đoạn mà ở Đàng Trong thủ công nghiệp và thương nghiệp phát triển

mạnh.

1.2.1.2. Giai đoạn khủng hoảng của chế độ phong kiến Đại Việt:

Vào đầu những năm 50 của thế kỷ XVIII, cuộc đấu tranh cùa nông dân tạm thời lắng xuống ở

vùng đồng bằng. Mặc dù chúa Trịnh đã tiến hành sửa đổi một số chính sách về ruộng đất cho dân

song mất mùa, đói kém vẫn xảy ra. Và vì vậy, các cuộc khởi nghĩa của nông dân lại tiếp tục. Bên

cạnh đó, nội bộ chính quyền Lê – Trịnh ngày càng mâu thuẫn. Đó là mâu thuẫn giữa phe Đặng Thị

Huệ - Trịnh Cán và phe Trịnh Khải sau khi chúa Trịnh Sâm qua đời. Mâu thuẫn này dẫn đến xung

đột gay gắt làm cho tình hình chính trị - xã hội càng lúc càng thêm rối ren, đời sống dân chúng càng

thêm khốn khó. Cuộc khủng hoảng từ Đàng Ngoài nhanh chóng lan cả vào Đàng Trong. Hệ quả của

cuộc khủng hoảng này được lịch sử chép lại bằng hình ảnh quan lại vua chúa ăn chơi xa xỉ còn nhân

dân thì không có ruộng làm ăn sinh sống. Chính trị như thế trở nên thối nát. Chế độ phong kiến cả

Đàng Ngoài lẫn Đàng Trong bước vào suy tàn, chuẩn bị cho một cuộc khởi nghĩa nông dân vĩ đại

làm rung chuyển cả đất nước.

1.2.1.3. Phong trào Tây Sơn:

٭Cuộc khởi nghĩa Tây Sơn:

Cuộc khởi nghĩa đã bùng nổ ở đất Tây Sơn với sự lãnh đạo của ba anh em Nguyễn Nhạc,

Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ. Sau hơn 15 năm khởi nghĩa đánh Nam dẹp Bắc, quân Tây Sơn ngày càng

lớn mạnh đã hoàn thành một sự nghiệp to lớn: đánh đổ hai tập đoàn phong kiến thống trị Trịnh –

Nguyễn làm chủ cả đất nước. Tuy nhiên vào năm 1788, thế lực họ Lê vẫn còn lay lắt và trong bước

đường cùng đã cầu cứu nhà Thanh, còn ở mặt Nam, nhân cuộc xung đột bất hòa của ba anh em họ

Nguyễn và nhân sự thoái hóa của Nguyễn Nhạc, sự bất lực của Nguyễn Lữ, từ đất Xiêm, Nguyễn

Ánh đã trở về mang theo viện binh nước ngoài. Nhưng Nguyễn Huệ đã kịp thời đem quân đánh tan

giặc Xiêm và sau đó lên ngôi, lãnh đạo tướng sĩ trong vòng năm ngày đêm hành quân thần tốc ra

Bắc phá tan quân Thanh với những chiến thắng lừng danh mùa xuân năm Kỷ Dậu (1789). Từ đây

tên tuổi của người anh hùng áo vải Quang Trung mãi mãi sáng ngời trong lịch sử kháng chiến

chống ngoại xâm bảo vệ tổ quốc của dân tộc Việt.

٭ Triều đại Nguyễn – Tây Sơn:

Năm 1778, Nguyễn Huệ lên ngôi lấy niên hiệu Quang Trung. Cuộc kháng chiến chống quân

Thanh kết thúc thắng lợi rực rỡ, triều đại Quang Trung ra đời hoàn toàn thay thế cho nhà nước Lê -

Trịnh. Sự kiện này cũng đánh dấu sự kết thúc thắng lợi của phong trào nông dân.

Về tổ chức chính quyền, năm 1789, triều đại mới được tổ chức quy cũ. Hoàng đế nắm mọi

quyền hành. Bên dưới hình thành một lớp quan cao cấp, công việc nhà nước được phân cho sáu bộ.

Các đơn vị hành chính địa phương vẫn giữ như cũ.

Về phục hồi và phát triển kinh tế, nhà vua chú trọng quan tâm tới hai ngành nông nghiệp và công

thương nghiệp. Bằng những thay đổi của mình, nhà vua đã từng bước phục hồi kinh tế sau chiến

tranh.

Về văn hóa, giáo dục, cũng như các triều đại phong kiến trước, chính quyền Quang Trung vẫn

tôn sùng Nho giáo nhưng vẫn tỏ ra rất rộng rãi với các tôn giáo khác. Chữ Nôm được đề cao lên vị

trí chữ viết chính thức của dân tộc. Quang Trung cũng chủ trương đưa chữ Nôm vào giáo dục và

khoa cử. Chính sách văn hóa, giáo dục cũng như thực trạng học hành thi cử thời Quang Trung đã

thể hiện rõ sự bùng lên của ý thức dân tộc, của mong muốn vươn lên tiên tiến của người dân đương

thời.

Trong khi triều đại Quang Trung đang dần đi vào ổn định với xu thế tiến bộ, cuộc sống của nhân

dân cũng đang dần hồi phục, thì tháng 9 năm 1792, Quang Trung đột ngột mất (năm 39 tuổi). Sau

khi Quang Trung mất, Quang Toản lên ngôi và sau đó ít năm, 1802 triều đại Tây Sơn bị đánh đổ bởi

thế lực của Nguyễn Ánh. Ba mươi năm không phải là một thời gian dài, nhưng phong trào nông dân

Tây Sơn và người anh hùng áo vải Nguyễn Huệ - Quang Trung đã làm nên cả một sự nghiệp đáng

tự hào, đồng thời cũng đặt ra nhiều vấn đề cần suy ngẫm cho các thế hệ mai sau.

Đặt các tác giả truyện truyền kì Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh trong từng hoàn cảnh

lịch sử nhất định là cách để người nghiên cứu hiểu sâu hơn về những tác phẩm văn học của họ.

1.3. Vấn đề văn bản và tác giả:

1.3.1. Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.

1.3.1.1 Tình trạng văn bản Thánh Tông di thảo:

- Nơi lưu trữ: Tác phẩm Thánh Tông di thảo hiện đang lưu giữ với hai văn bản:

+ Một bản chép tay đang được lưu giữ tại Thư viện Viện nghiên cứu Hán Nôm, ký hiệu A202.

+ Một bản Microflim đang được bảo quản tại Thư viện Trường Viễn Đông Bác cổ Pháp (Ecole

Francaise d’ Extrême d’Orient), kí hiệu M.F 11/6/993.

- Tình trạng văn bản:

+ Đó là một tác phẩm gồm hai quyển: quyển Thượng 13 truyện và quyển Hạ 6 truyện. Hai quyển

Thượng và Hạ đóng chung thành một tập khổ 30 cm x 21cm, dày 198 trang, mỗi trang 9 dòng, mỗi

dòng 19 chữ.

+ Hình thức sao chép của Thánh Tông di thảo được thống nhất cho cả 19 truyện. Mỗi truyện chia

làm hai phần: phần truyện và phần lời bình. Tác giả lời bình có hiệu là Sơn Nam Thúc. Sau lời bình

truyện Hoa quốc kì duyên có truyện phụ chép Kim tằm. Sau truyện Mộng ký có chép thêm hai truyện

nhưng không có nhan đề tạm gọi là Phụ chép hai.

+ Trong văn bản, các dòng chính của mỗi truyện được viết chữ to, dòng chú thích được viết chữ

nhỏ. Nội dung dòng chú thích gồm các vấn đề chú giải chữ nghĩa.

+ Hiện nay có bản dịch Thánh Tông di thảo của Nguyễn Bích Ngô được xuất bản hai lần:

Lần 1: do Nguyễn Văn Tú hiệu đính, Lê Sỹ Thắng giới thiệu, Nxb Văn hóa, Viện Văn học,

1963.

Lần 2: do Phạm Văn Thắm giới thiệu, Nxb Văn học, 2001.

1.3.1.2. Tình trạng văn bản Truyền kì mạn lục:

- Nơi lưu trữ: Truyền kì mạn lục là tác phẩm của Nguyễn Dữ, hiện có nhiều dị bản đang được

lưu giữ ở các thư viện trong nước và trên thế giới.

+ Ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm hiện đang có các dị bản sau đây:

Loại văn bản đầy đủ bốn quyển, 20 truyện:

VNv. 704; VNv. 705; VNv. 706; VNv. 707. A. 170. 1-2

VHv. 1491/1-4. VNv. 708; VNv. 709; VNv.

710.

A. 3201/1-4

Loại văn bản chưa đầy đủ:

A. 1021 VHv. 1041.

A. 3165 Bt. 213.

+ Ở Thư viện Quốc gia hiện có dị bản mang kí hiệu P. 109, dị bản này chỉ có quyển 1 và quyển

2, và dị bản mang kí hiệu R. 1450 – 1453, dị bản này có bốn quyển, 20 truyện.

+ Ở Thư viện Đông Dương văn khố Nhật Bản hiện có một bản Truyền kì mạn lục. Văn bản khắc

in năm Vĩnh Thịnh 8 (1712).

+ Ở Thư viện Bắc Kinh Trung Quốc có một dị bản mang tiêu đề Tân biên Truyền kì mạn lục.

văn bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 10 (1714).

+ Ở Thư viện tại Pháp hiện lưu giữ các dị bản mang kí hiệu:

SA.HM. 2236. SA. M8. 29.

MF. 1334 (Tức bản A.176/1- SA. PD. 2339; -b. 21.

2).

Một bản Microflim kí hiệu MF. 15/772.

- Tình trạng văn bản:

+ Căn cứ vào tên gọi Cựu Biên và Tân Biên, chúng ta có thể chia văn bản ra làm hai loại như

sau:

Loại văn bản mang tên Cựu biên: Là văn bản Truyền kì mạn lục khắc in năm Vĩnh Thịnh 8

(1712). Văn bản gốc hiện đang được lưu giữ tại Thư viện Đông Dương Văn khố Nhật Bản. Trong

nước hiện có hai bản sao được lưu giữ tại gia đình PGS Trần Nghĩa và gia đình bà Nguyễn Thị

Oanh, đều công tác tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm.

Tập văn bản sao có bốn quyển, 20 truyện, một tựa, 1 mục lục. Quyển 1 có 53 tờ; quyển hai có 47

tờ; quyển 3 có 47 tờ; quyển 4 có 41 tờ. Tổng số trang của văn bản là 188 tờ.

Loại văn bản mang tên Tân biên: Căn cứ vào niên đại khắc in của văn bản, chúng ta có thể chia

loại này ra làm bốn nhóm văn bản sau đây:

Nhóm văn bản khắc in năm Vĩnh Thịnh 10 (1714). Nhóm này hiện có một dị bản lưu giữ tại

Trung Quốc. Hiện nay nhiều nhà nghiên cứu cũng chưa tiếp cận và có công trình nào bàn về văn

bản này.

Nhóm văn bản khắc in năm Vĩnh Hựu 1 (1730). Nhóm này hiện có một dị bản đang lưu giữ

tại thư viện của Pháp.

Nhóm văn bản khắc in năm Cảnh Hưng 24 (1763). Nhóm này hiện có các dị bản mang kí hiệu

R. 109 và R. 1450 – 1453. Thư viện Hán Nôm có ba dị bản chép tay mang kí hiệu A. 176/1-2; A.

3201/1-4; Bt. 213. Bản Bt. 213 chỉ chép có một truyện. Dưới đây chúng tôi đi vào trình bày tình

trạng hai dị bản chép tay đầy đủ nhất.

Văn bản A. 176/1-2: Văn bản này có hai tập, khổ 15 cm x 25 cm, có 584 trang, một tựa, một

mục lục. Tập một gồm hai quyển.

Văn bản A. 3201/1-4: đây là văn bản sao gồm bốn quyển, 20 truyện, khổ 30 cm x 21 cm, 614

trang, một tựa, một mục lục.

Nhóm văn bản khắc in năm Cảnh Hưng 35 (1774). Căn cứ vào chữ viết, nhóm văn bản này có

thể chia làm hai loại. Loại văn bản khắc in và loại văn bản chép tay. Sau đây là những văn bản đầy

đủ 20 truyện:

Nhóm văn bản khắc in:

Văn bản VNv. 704, VNv. 705; VNv. 706; VNv. 707. Tập văn bản gồm bốn quyển, một tựa, một

mục lục, mỗi kí hiệu là một quyển. Quyển 1 kí hiệu VNv. 704 có 81 tờ . Tờ 1 có ghi 3 dòng chữ:

Tân biên Truyền kì mạn lục, tăng bổ giải âm tập chú, Liễu chàng xã nhân gia tàng bản. Tờ 2: là lời

tựa. Tờ 3: phần mục lục. Sau phần mục lục là phần chính văn. Quyền 1 có 5 truyện. Quyển 2, kí

hiệu VNv. 705, có 5 truyện. Hai tờ cuối của quyển này đã bị mất, tờ mất đã được thay bằng hai tờ

viết tay. Quyển 4, kí hiệu VNv. 707, truyện Xương Giang yêu quái lục mất tờ đầu. Tờ mất đã được

bổ sung bằng tờ viết tay. Quyển này có 5 truyện. Quyển 3: kí hiệu VNv. 706, Truyện Xương Giang

yêu quái lục mất tờ đầu. Tờ mất đã được bổ sung bằng tờ viết tay.

Văn bản VHv. 1491/1-4: văn bản có đầy đủ bốn quyển, một mục lục, một tựa. Bài tựa do Hà

Thiện Hán viết.

Nhóm văn bản chép tay:

Một số nhà nghiên cứu đã sưu tầm được 6 văn bản chép tay. Bản A. 3165: không ghi đầu đề,

không có tựa và mục lục, phần nội dung sao chép chỉ 5 truyện của quyển 1: Hạng Vương từ kí,

Khoái Châu nghĩa phụ truyện, Mộc miên thu truyện, Trà Đồng giáng đản lục, Tây viên kì ngộ ký.

Bản VNv.708 chép 10 truyện của quyển 1 và quyển 3. Bản VNv. 709 chép 5 truyện của quyển 2.

Bản VNv. 710 chép 5 truyện của quyển 4. Bản VNv. 1840: đây là bản sao gồm 4 quyển 20 truyện, 1

mục lục, 1 tựa.

1.3.1.3. Tình trạng văn bản Lan Trì kiến văn lục:

- Nơi lưu trữ:

+ Lan Trì kiến văn lục là tác phẩm của Vũ Trinh. Tác phẩm được ra đời và hoàn thành trong giai

đoạn cuối thế kỉ XVIII đầu thế kỉ XIX.

+ Lan Trì kiến văn lục còn có tên khai là Kiến văn lục. Tác phẩm hiện có nhiều dị bản

đang được lưu giữ tại các thư viện trong và ngoài nước. Trong đó Thư viện Viện Nghiên cứu

Hán Nôm hiện đang lưu giữ bốn dị bản mang kí hiệu VHv. 1401; VHv. 1155; A.1562; A.31. Ngoài

ra Lan Trì kiến văn lục còn có hai dị bản mang kí hiệu SA. HM. 2173 và MF.2411, một bản

Microflim kí hiệu MF 1/3/337 đều được lưu giữ tại thư viện của Pháp.

- Tình trạng văn bản: Tình trạng từng dị bản ở Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm như sau:

+ Văn bản VHv. 1401, đây là văn bản chép tay, khổ 27 cm x 17 cm, 108 trang, mỗi trang 8 dòng,

mỗi dòng 30 chữ. Quyển sách có ba bài tựa. Bài tựa thứ nhất của Ngô Thì Hoàng người Tả Thanh

Oai. Bài tựa thứ hai của Tín Như Thị, chưa xác định rõ tên thật là gì? Bài tựa thứ ba của Trần Danh

Lưu, học trò Vũ Trinh. Theo trang mục lục thì Lan Trì kiến văn lục có ba quyển. Quyển một bao

gồm 13 truyện, mở đầu là truyện Lôi thủ ba. Quyển hai có 16 truyện, mở đầu là truyện Thanh Trì

tình trái. Và quyển ba có 15 truyện, mở đầu là truyện Linh xà. Trang 10 của Lan Trì kiến văn lục có

dòng chữ: “Lan Trì ngư giả Nguyên Hanh Vũ Trinh biên tập”. Sách này của thượng thư Nguyễn

Văn Đào đã nghỉ hưu, có dấu của Thư viện hội Khai Trí Tiến Đức.

+ Văn bản A. 1562, văn bản này mang tên Kiến văn lục, chép tay, khổ 29 cm x 17 cm, 108 trang,

mỗi trang 8 dòng, mỗi dòng 25 chữ, với bốn bài tựa. Ngoài ba bài tựa giống ở văn bản VHv. 1041

thì bài tựa thứ tư do Từ Kính, hiệu Hải Đính viết. Quyển một mở đầu là truyện Lôi thủ pha, quyển

hai mở đầu là truyện Thanh Trì tình trái, quyển ba mở đầu là truyện Linh xà.

+ Văn bản VHv. 1155, đây cũng là văn bản chép tay, khổ 25 cm x 14 cm, 90 tờ, mỗi tờ hai trang,

mỗi trang 7 dòng, mỗi dòng 27 chữ, bốn tựa, một mục lục ghi theo từng quyển. Bắt đầu từ tờ năm

có dòng chữ: «Lan Trì kiến văn lục quyển nhất mục». Mục lục ghi 13 truyện. Bản này chữ viết chân

phương, cẩn thận. Tờ 6a, mở đầu là truyện Lôi thủ pha. Quyển này ghi 15 truyện, bắt đầu là truyện

Linh xà. Từ tờ 47 đến tờ 68 là quyển 3. Tờ 69 phụ chép Tây Sơn thực lục.

+ Văn bản A. 31, mang tên Kiến văn lục, viết tay, khổ 28 cm x 15 cm, 72 trang, mỗi trang 8

dòng, mỗi dòng 24 chữ, bốn tựa, một mục lục. Văn bản A. 31 này chỉ có hai quyển: Quyển 1: 13

truyện, mở đầu là truyện Lôi thủ pha, quyển hai: 22 truyện, mở đầu là truyện Thanh Trì tình trái.

Như vậy ở bốn dị bản trên xét về nội dung thì ba trong số bốn bản trên đều gồm có 4 bài

tựa và 45 truyện, cùng 12 lời bàn. Nhìn chung Lan Trì kiến văn lục không có vấn đề lớn về vấn

đề văn bản đặt ra.

1.3.2. Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục.

1.3.2.1. Ý kiến của các nhà nghiên cứu trước đây:

* Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo:

Vấn đề niên đại và tác giả của Thánh Tông di thảo hiện đang là một trong những điểm gây nhiều

bàn luận, tranh cãi trong giới ngữ văn Việt Nam. Có thể thấy về xác định niên đại và tác giả của

Thánh Tông di thảo tuy là hai vấn đề tách bạch nhưng thực tế là chúng có mối quan hệ mật thiết với

nhau. Vì cái này là cơ sở xác định cho cái kia và ngược lại.

1. Trong “Lời giới thiệu Thánh Tông di thảo”, bản dịch của Nguyễn Bích Ngô, Nxb Văn hóa và

Viện văn học, 1963, hai nhà nghiên cứu Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh đã tổng hợp ba loại ý kiến

khác nhau về Thánh Tông di thảo.

- Loại ý kiến thứ nhất: Một số nhà nghiên cứu đã căn cứ vào lối tự xưng, tức là dùng đại từ nhân

xưng ngôi thứ nhất, số ít “dư” tức là tôi. Đồng thời họ cho rằng lối tự xưng này phù hợp với lối tự

xưng của Lê Thánh Tông trong Thiên Nam dư hạ tập. Tác phẩm Thiên Nam dư hạ tập đã được xác

định là của Lê Thánh Tông. Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng đã căn cứ vào cách dùng từ ngữ

trong tác phẩm như “đông cung”, “tiềm để” – đây là hệ thống các từ dùng trong vua chúa, căn cứ

vào nội dung một số bài mà Lê Thánh Tông tự đặt mình vào truyện và đánh giá cao về tác phẩm văn

chương, để đi đến khẳng định Thánh Tông di thảo chính là do Lê Thánh Tông viết.

- Loại ý kiến thứ hai: Một số nhà nghiên cứu đưa ra những chứng cứ là dựa vào các địa danh như

Hà Nội trong Duyên lạ nước hoa, Đoài Hồ (tức Hồ Tây) trong Mai Châu yêu nữ truyện, Lãng Bạc

phùng tiên và Mộng kí; dựa vào các sự kiện lịch sử như nạn lụt năm Quý Tỵ trong Lưỡng phật đấu

thuyết kí và căn cứ vào các danh từ chỉ học vị như: “phó bảng, cử nhân” trong Trần nhân cư thủy

phủ để khẳng định rằng Thánh Tông di thảo không phải là tác phẩm của Lê Thánh Tông, vì những

cứ liệu này xuất hiện vào thời đại sau.

- Loại ý kiến thứ ba: Một số nhà nghiên cứu nhận thấy xen vào những bài văn yếu, có những bài

cứng cát; xen vào những truyện có địa danh, sự việc không thuộc thời Lê Thánh Tông lại có những

truyện phản ánh sự thịnh trị của thời Lê sơ, và cũng có những truyện mà nội dung tư tưởng hoàn

toàn xa lạ với tư tưởng Lê Thánh Tông. Ngoài ra các nhà nghiên cứu cũng dựa vào những truyện

mang đậm “khẩu khí thiên tử” để đi đến kết luận: Trong tập Thánh Tông di thảo có những bài là của

Lê Thánh Tông song cũng có những bài là của người đời sau thêm vào. Quan điểm của hai ông là

Lê Sỹ Thắng và Hà Thúc Minh có phần nghiêng về ý kiến thứ ba. Đồng thời hai ông còn nhận xét

thêm: “Qua việc nhận xét bút pháp và một vài sự việc, chúng tôi ngờ rằng có một đôi bài được viết

vào thế kỉ XIX”. [ 119, tr. 7].

2. Trong “Thánh Tông di thảo” trích trong Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, nguồn tư liệu văn học

sử học Việt Nam (Thư tịch chí Việt Nam), Trần Văn Giáp, Nhà xuất bản Văn hóa, 1984, tác giả đã

dựa vào sự mâu thuẫn thể hiện qua văn tự, và trên cơ sở đó đưa ra những cứ liệu lịch sử để đi đến

phủ nhận vai trò của Lê Thánh Tông với tác phẩm này. Trần Văn Giáp đã đi đến một số nhận định

sau:

- “Thánh Tông” là miếu hiệu mà Lê Tư Thành được tôn tặng sau khi mất 10 tháng 23 ngày. Do

vậy Thánh Tông di thảo không phải là của Lê Thánh Tông. Bởi lẽ tên gọi “Thánh Tông” chưa xuất

hiện khi sinh thời của tác giả.

- Bên cạnh đó những địa danh như: Tây Hồ xuất hiện vào năm 1573, sau đó đổi tên thành Đoài

Hồ vào năm 1645 dó kiêng tên tôn hiệu chúa Trịnh Tạc. Vì vậy tên Đoài Hồ xuất hiện sau khi Lê

Thánh Tông qua đời đã khá lâu. Vì thế Lê Thánh Tông không thể đưa những tên ấy vào trong tác

phẩm của mình. Mặt khác, các địa danh: Thượng kinh, Hà Nội xuất hiện ở thời Minh Mạng nên

không thể có từ thời Lê Thánh Tông.

- Các danh từ như “đông cung”, “tiềm để” vốn là những từ chỉ nơi ở của Thái tử, trong khi đó Lê

Thánh Tông húy là Tư Thành vốn là con thứ tư của vua Lê Thái Tông, nhưng không phải là thái tử

do vua Lê Thái Tông lập. Mặt khác Lê Thánh Tông trước khi làm vua là ở Tây để chứ không phải ở

“Đông cung” nên từ “đông cung” không thể gán cho Lê Thánh Tông được.

- Sự kiện lịch sử nạn lụt năm Quý Tỵ trong Lưỡng phật đấu thuyết kí không thấy sử sách ghi xảy

ra vào năm 1473 dưới đời Lê Thánh Tông. Mà nạn lụt lớn xảy ra là vào các năm 1713 và năm 1773.

Từ đó có thể đi đến kết luận “Thánh Tông di thảo hiện có không phải là của Lê Thánh Tông. Nó

chỉ là một tập thần thoại hay đoản thiên tiểu thuyết, đúng tên nó là gì không rõ, viết vào khoảng

giữa thế kỉ XIX đến đầu thế kỷ XX. Có thể là sau năm Quý Tỵ niên hiệu Thành Thái thứ năm (1893)

và tác giả bút danh là Sơn Nam Thúc. Một người nào đó vì hiếu kì, hoặc chủ yếu lừa độc giả, đã đặt

cho nó cái tên Thánh Tông di thảo”. [31,tr.178].

3. Trong “Văn bản của Thánh Tông di thảo” của Trần Thị Băng Thanh trích trong Những

suy nghĩ từ văn học trung đại, Viện văn học, Nxb Khoa học xã hội: tác giả cũng đã căn cứ vào

một số cử liệu đáng nghi ngờ về văn bản Thánh Tông di thảo như các nhà nghiên cứu khác. Tuy vậy

Trần Thị Băng Thanh lại có những kiến giải riêng:

- Về vấn đề tác giả của Thánh Tông di thảo, Trần Thị Băng Thanh cho rằng: văn bản hiện còn lại

của Thánh Tông di thảo là một bản chép tay do BEFECO thuê chép vào khoảng thập kỉ 20, 30 của

thế kỷ XX. Vì thế văn bản lưu giữ tại Thư viện Hán Nôm là văn bản mới xuất hiện đầu thế kỉ XX.

Cũng chính vì văn bản được sao đi chép lại nhiều lần nên văn chương không còn được lưu giữ lại

như cũ. Chính vì lẽ đó nên nếu so sánh văn phong tác giả e khó tránh khỏi cảm tính và võ đoán. Do

vậy việc căn cứ vào văn phong để xác định chưa hẳn là một chứng cứ thuyết phục.

- Về vấn đề tác phẩm Thánh Tông di thảo chứa đựng nhiều nội dung, tư tưởng không phù hợp

với Lê Thánh Tông, tác giả công trình cho rằng không nên lấy cách nhìn hiện thời để soi chiếu, đánh

giá tác phẩm, vì con người ngày nay muốn mọi ranh giới phải rách ròi, yêu ghét phải phân định rõ

ràng. Tuy nhiên người xưa không có cái nhìn cực đoan như thế, làm vua, làm quan nhưng không ít

khi cảm thấy sự trói buộc của cương vị, chức phận. Bản thân họ cũng khao khát những phút giây

nhàn tản, mơ về một cõi vĩnh hằng lãng mạn. Các vua Trần sùng Phật song vẫn trọng Nho, còn Lê

Thánh Tông cũng như các nhà Nho đời Trần, Lê và Nguyễn phê phán Đạo và Phật nhưng chủ yếu là

nhằm vào các tệ nạn của tôn giáo. Khi giải thích mâu thuẫn trong Trần nhân cư thủy phủ, tác giả

cho rằng không có gì mâu thuẫn với tư tưởng yêu nước, đề cao Lê Lợi ở các truyện khác vì Nho

giáo rất coi trọng chữ trung. Trong khi đó, Lê Thánh Tông đang xây dựng kỷ cương, phép nước nên

rất cần nêu gương những con người tận trung như vậy. Đồng thời, trong truyện Lê Thánh Tông cũng

đã để cho nhân vật bộc lộ những mặc cảm tội lỗi của mình. Lòng trung thành của kẻ bề tôi ấy đã

làm cho Thượng đế và cả Lê Lợi đều phải vị nể và xót thương.

- Ngoài ra tác giả bài viết còn đưa ra cách kiến giải khác đối với vấn đề tên địa danh, tên học vị

và một số sự kiện lịch sử trong Thánh Tông di thảo. Theo người viết những cứ liệu ấy đều được đưa

vào tác phẩm do sự “bổ chính” trong những lần sao chép hoặc hư cấu trong sáng tác, sự có mặt của

chúng cho thấy thời điểm chúng được gia nhập vào tác phẩm. Đó là trường hợp:

+ Nhất thư thủ thần nữ, Hiếu đễ nhị thần truyện: được sửa chữa, bổ sung trong thời Lê Trung

hưng vì có từ “Hương cống”.

+ Lưỡng phật đấu thuyết kí: truyện có thể được viết sau năm 1713 vì những năm Quý tỵ từ 1473

(đời Hồng Đức) cho đến 1653 (đời Lê Chân Tông) theo lịch sử để lại thì không có nạn lụt nào xảy

ra.

+ Mai Châu yêu nữ truyện, Mộng ký: do có địa danh “Đoài Hồ” nên có thể được sửa chữa hoặc

bổ sung trong thời Trịnh Tạc (1657 – 1682) hoặc sau đó vào thế kỉ XVIII khi Hồ Tây đã là một địa

danh quen thuộc.

+ Hoa quốc kỳ duyên, Trần nhân cư thủy phủ: có các học vị như “cử nhân”, “phó bảng” nên đã

được sửa chữa, bổ sung vào khoảng từ thời Minh Mạng (1820 – 1840) về sau, và địa danh “Hà Nội”

trong nguyên bản là Phủ nên không thể xem đây là địa danh đời Nguyễn.

Do đó theo tác giả: “Thánh Tông di thảo là một tập truyện kí bao gồm tác phẩm của nhiều tác

giả, được sáng tác rải rác trong nhiều thời đại. Trong đó có nhiều truyện của Lê Thánh Tông nhưng

đã bị sửa chữa, thêm bớt trong những lần sao chép”. [109,tr. 494].

- Từ những kiến giải trên, tác giả cũng đã khẳng định: Thánh Tông di thảo không có kết cấu lỏng

lẻo đến mức có thể thêm bớt tùy ý mà đó là một chỉnh thể nghệ thuật có kết cấu thống nhất và có lời

bình của Sơn Nam Thúc. Sơn Nam Thúc luôn ca ngợi khẩu khí đế vương của Thánh Tông di thảo,

khi viết lời bình lại nhắc đến những tác phẩm như Thánh Tông bản kỷ (Đại Việt sử kí toàn thư) và

các tác phẩm của Lê Thánh Tông mà đặc biệt là Thiên Nam dư hạ tập - tác phẩm bị thất lạc, được

tìm thấy vào năm 1767. Vì vậy, theo Trần Thị Băng Thanh, Sơn Nam Thúc viết những lời bình này

chỉ trong khoảng thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XVIII và trong những lời bình ấy vẫn thấy những hào

quang sáng sủa của nhà Lê.

-Trên những cơ sở đó, tác giả công trình cũng đã đi đến kết luận: “Thánh Tông di thảo hoặc là

phải được hình thành ngay trong thời Lê (trước khi Thiên Nam dư hạ bị mất) hoặc là được hoàn

thành vào nửa cuối thế kỉ XVIII sau khi tìm được Thiên Nam dư hạ và trước khi triều Lê sụp đổ.

Ngoài ra khung cảnh xã hội của tác phẩm rất gần gũi với khung cảnh Truyền kì mạn lục, Truyền kì

tân phả, mà không giống với khung cảnh xã hội trong các truyện truyền kì thế kỉ XIX; nghệ thuật

dựng truyện cũng tương đối nhất quán với Truyền kì mạn lục, có cốt truyện, có nhân vật, không

đậm chất kí, tùy bút như nhóm tác phẩm dưới thời Tây Sơn và đầu đời Nguyễn”. [109, tr. 496 –

497].

- Đồng thời tác giả cũng khẳng định Thánh Tông di thảo là một chỉnh thể nghệ thuật do một

người thu thập, cấu tạo thành sách và viết lời bình, đó là Sơn Nam Thúc.

4. Các tác giả của “Tổng tập Văn học Việt Nam” (tập 4), Nxb Khoa học Xã hội, 2000

đã đưa ra các giải thích về một số từ ngữ nghi vấn trong Thánh Tông di thảo. Đó là “có một số

địa danh hay danh hiệu quan chức thì hiện nay người ta đoán định hơi vội vã…. “hà nội” là danh

từ chung, không phải là danh từ riêng, còn “Giáo thụ” là Giáo chức Quốc Tử giám thường phụ

giảng giúp “Tu nghiệp”, chứ không phải “Giáo thụ” là một giáo chức đứng đầu đời Nguyễn” [120,

Tr. 557]. Tuy vậy các tác giả trong công trình nghiên cứu này vẫn chưa có một kết luận rõ ràng,

chắc chắn về tác giả của Thánh Tông di thảo.

5. Trong “Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán ở Việt Nam

thời trung đại”, Phạm Văn Thắm, Luận án Phó Tiến sĩ Khoa học Ngữ văn, Hà Nội, 1996; tác giả

cũng đồng tình với ý kiến: xen vào những bài chính của Lê Thánh Tông, có cả những bài của người

đời sau, và đã đưa ra một số lí lẽ, dẫn chứng làm cơ sở cho những lập luận:

- Phạm Văn Thắm cho rằng văn bản Thánh Tông di thảo có ba bộ phận: phần chính văn, cước

chú và lời bình là những bộ phận góp phần nâng cao giá trị và tầm khái quát của chính văn. Chính vì

vậy, khi xác định niên đại của văn bản chỉ nên căn cứ chủ yếu vào phần chính văn.

- Cũng như các nhà nghiên cứu khác, Phạm Văn Thắm cũng đề cập cụ thể đến vấn đề địa danh

và nhân danh trong hai truyện Hoa quốc kì duyên và Mộng kí.

+ Trong Hoa quốc kì duyên, Phạm Văn Thắm đã căn cứ vào từ “Hoa quốc”, những chi tiết miêu

tả cuộc chiến do Chu Sinh lãnh mệnh triều đình đi dẹp giặc Vũ Văn Hối được nhắc đến trong tác

phẩm và đem so với những sự kiện được viết trong sách Đông Ba vũ thị chép, tác giả nhận thấy:

“Nội dung trong truyện Hoa quốc kì duyên có nhiều tình tiết tương đồng với các tình tiết mà sử sách

đã ghi về cuộc giao tranh ở Hoa quốc (Một vùng thuộc Tuyên Quang đã xảy ra cuộc giao tranh

giữa hai thế lực Lê – Mạc) đầu thế kỉ XVI”. [110,tr.13]. Từ đó tác giả đã đoán định Hoa quốc kì

duyên có thể được viết vào đầu thời Lê – Mạc.

+ Trong Mộng kí, Phạm Văn Thắm lại căn cứ vào sách “Tây Hồ chí” và tấm bia mang tiêu đề

“Trấn Quốc tự bi ký”, kí hiệu N 245 – 246 mang niên đại Dương Hòa 5 (1639) hiện dựng tại chùa

Trấn Quốc ven Hồ Tây nhắc đến sự kiện năm Hoằng Định 16 (1615) triều đình cho đắp một con đê

nhỏ từ Yên Phụ đến An Giang để ngăn hồ, phần phía đông được gọi là hồ Trúc Bạch, để cho rằng

Mộng ký có thể được viết từ năm 1615 trở về sau.

- Trên cơ sở đó, tác giả đã đưa ra kết luận: “Một bộ phận của truyện có thể được xuất hiện đầu

thời Lê – Mạc, từ thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII”. [110, tr. 22].

6. Trong lời giới thiệu về thể loại kí của Nguyễn Đăng Na, trích trong Văn xuôi tự sự Việt Nam

thời trung đại, tập 2, Nxb giáo dục, 1999: tác giả đã dựa vào bản dịch Thánh Tông di thảo, xuất bản

năm 1963, và cho rằng nhan đề của sách chứng tỏ sách do người đời sau sưu tập. Tác phẩm gồm 19

thiên thì 6 thiên không ghi tên thể loại, 13 thiên còn lại chia làm 6 thể:

-Truyện: (5 thiên) Mai Châu yêu nữ truyện, Phù cái truyện, Nhi thần nữ truyện, Dương phu

truyện, Thử tinh truyện.

- Ký (4 thiên): Thiềm thừ miêu duệ ký, Lưỡng phật đấu thuyết kí, Hiếu đễ nhị thần ký, Mộng ký.

- Lục (1 thiên): Mấn thư lục.

- Phả (1 thiên): Sơn quân phả.

- Chí dị (1 thiên): Ngư gia chí dị.

- Từ (1 thiên): Lung cổ phán từ.

Con số 6/ 19 thiên (31, chiếm 57%) không ghi tên thể loại, chứng tỏ tác phẩm được sao chép

muộn vào khoảng thế kỉ XIX – hậu kỳ trung đại, khi mà tính nghiêm ngặt của thể loại bị loại bỏ

dần. Hiện tượng trên không xảy ra với Truyền kì mạn lục – tác phẩm được khắc in vào giữa thế kỉ

XVI.

Tuy vậy khi bàn đến Truyền kì mạn lục ở góc độ niên đại và tác giả chúng tôi thấy cũng có nhiều

vấn đề đáng bàn.

* Vấn đề niên đại và tác giả của Truyền kì mạn lục:

Một số vấn đề liên quan đến Truyền kì mạn lục mà các nhà nghiên cứu quan tâm là niên đại và

cách đọc tên tác giả của Truyền kì mạn lục thế nào cho đúng. Dưới đây chúng tôi xin điểm sơ qua

một vài ý kiến đánh giá, nhận xét về vấn đề này của các nhà nghiên cứu.

1. Trong Bàn thêm về vấn đề tác giả - tác phẩm Truyền kì mạn lục của Lại Văn Hùng, Tạp chí

Văn học số 10/ 2002, trước khi đưa ra ý kiến của mình, tác giả cũng nói đến hai giả thuyết lưu

truyền trước nay về thân thế cuộc đời Nguyễn Dữ.

- Giả thuyết thứ nhất xuất phát từ ý kiến của Vũ Phương Đề trong Công dư tiệp kí cho rằng

Nguyễn Dữ là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm (sinh 1491, mất 1585).

- Giả thuyết thứ hai là những luận đoán cho rằng Nguyễn Dữ là người đồng thời, thậm chí có thể

lớn tuổi hơn Nguyễn Bỉnh Khiêm chút ít (tức là phải sinh trước năm 1941).

Khi bàn về năm sinh, năm mất của Nguyễn Dữ, Lại Văn Hùng cũng kiến giải thông qua hai cứ

liệu để lại:

+ Một là: Trong bài tựa Truyền kì mạn lục của Hà Thiện Hán, viết năm 1547: “Tập thực lục này

là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều trước

Nguyễn Tường Phiêu. Lúc nhỏ rất chăm lối học cử nghiệp, đọc rộng nhớ nhiều, lập chí ở việc lấy

văn chương truyền nghiệp nhà. Sau khi đậu Hương tiến, nhiều lần thi Hội đỗ trúng trường, từng

được bổ làm tri huyện Thanh Tuyền. Mới được một năm, ông từ quan về nuôi mẹ cho tròn đạo hiếu,

đến mấy năm không đặt chân đến chốn thị thành, thế rồi ông viết ra tập lục này để ngụ ý”.

+ Hai là: Qua ghi chép của Lê Quí Đôn: Nguyễn Dữ, người xã Đỗ Tùng, huyện Gia Phúc. Cha

tôi tên là Nguyễn Tường Phiêu, đỗ Tiến sĩ khoa Bính Thìn (1496), niên hiệu Hồng Đức làm quan

Thượng thư bộ Hộ”.

Dựa vào hai cứ liệu này, Lại Văn Hùng đã đi đến kết luận: Nguyễn Dữ là người có năm sinh xấp

xỉ với Nguyễn Bỉnh Khiêm và có thể kém Nguyễn Bỉnh Khiêm vài ba tuổi.

- Bên cạnh việc bàn về năm sinh của Nguyễn Dữ, Lại Văn Hùng cũng bàn đến năm mất của

Nguyễn Dữ. Ông cũng dựa vào bài tựa Hà Thiện Hán: “Tập lục này là trứ tác của Nguyễn Dữ,

người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều trước Nguyễn Tường Phiêu”. Từ

bài tựa này, tác giả công trình cho rằng: chắc chắn lúc đó người sinh ra Nguyễn Dữ đã mất, nên Hà

Thiện Hán đã chép thẳng tên: Tường Phiêu. Còn Nguyễn Dữ ? cũng được chép thẳng tên. Đó là điều

lạ. Theo tác giả Lại Văn Hùng là xưa khi viết về một người, các cụ thường tránh gọi thẳng tên, nhất

là khi người đó còn đang sống. Và từ đó, Lại Văn Hùng đã đi đến kết luận: đến năm 1547 thì

Nguyễn Dữ cũng đã mất rồi.

- Từ những tư liệu cùng với việc phân tích các cứ liệu ấy, tác giả công trình đã đi đến nhận định:

Nguyễn Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV và mất khoảng thập niên thứ tư thế kỉ XVI.

- Bàn về con đường hoạn lộ của Nguyễn Dữ, Lại Văn Hùng cũng tán đồng với ý kiến của nhiều

nhà nghiên cứu khác. Đó là Nguyễn Dữ đi thi và làm quan vào trước năm 1527.

- Bên cạnh những kiến giải về tác giả Nguyễn Dữ, nhà nghiên cứu còn bày tỏ quan điểm của

mình về tác phẩm Truyền kì mạn lục mà tác giả gọi là “nói thêm mà thôi”. Trong công trình này, tác

giả đã kiến giải trên các phương diện:

+ Nói đến duyên cớ ra đời tác giả công trình đã phân tích kỹ các ý kiến khác nhau về việc có hay

không sự ảnh hưởng của Cù Hựu với Nguyễn Dữ. Từ đó tác giả khẳng định: “Các

nhận định về duyên cớ ra đời của Truyền kì mạn lục ngày càng có cơ sở khoa học, khách

quan và mở rộng mở về tầm nhìn hơn”.

+ Về thời gian xuất hiện: có nhiều ý kiến khác nhau về thời gian ra đời của Truyền kì mạn lục.

Trên cơ sở nêu ra những ý kiến đó, tác giả công trình đã đi đến kết luận: “không nghi ngờ gì nữa,

mạn lục phải được xuất hiện chắc chắn là trong khoảng sau 1526 đến trước 1547”.

+ Về ngôn ngữ và tiếp nhận tác phẩm: Lại Văn Hùng đã chỉ ra hai thứ ngôn ngữ chính để sáng

tác và lưu truyền đó chữ Hán và chữ Nôm. Ngoài ra tác giả cũng cho thấy sự tham gia của phương

thức lưu truyền bằng miệng trong việc đưa tác phẩm đến với số đông công chúng.

2. Nguyễn Phạm Hùng trong “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền

kì mạn lục”, Tạp chí Văn học số 1/2006 đã đưa ra một số ý kiến về thân thế Nguyễn Dữ và thời

điểm sáng tác Truyền kì mạn lục từ những ghi chép của các nhà khảo cứu thời trước, sang quan

điểm của các nhà nghiên cứu hiện đại đến ý kiến của các nhà khoa học nước ngoài.

- Trước kết luận của một số nhà nghiên cứu đi trước rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm sửa Truyền kì

mạn lục cho Nguyễn Dữ, tác giả bài viết đã đề xuất một cách hiểu khác. Theo ông căn cứ vào nội

dung tư tưởng tác phẩm của hai ông, tư tưởng thẩm mỹ của hai tác giả thì thấy chúng hoàn toàn

khác nhau. Hơn nữa, nhân sinh quan, thế giới quan của hai ông cũng hoàn toàn khác nhau. Và trên

cơ sở này, tác giả đã đi đến khẳng định: không thể có việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính sách

Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ.

- Về tên tác giả Truyền kì mạn lục thì Nguyễn Phạm Hùng đồng tình với Trần Ích Nguyên cho

rằng nên gọi tên tác giả là Nguyễn Dữ - với nghĩa Dữ là đẹp.

- Về thân thế Nguyễn Dữ, Nguyễn Phạm Hùng cho rằng Nguyễn Dữ đi thi, làm quan đều dưới

triều Lê, cáo quan trước khi nhà Mạc tiếm ngôi (1527) và viết Truyền kì mạn lục trong thời gian mới

cáo quan ở ẩn từ dưới triều Lê. Và Nguyễn Dữ không phải là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm.

3. Trong bài viết “Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện?”, Tạp chí Hán Nôm số 2/1988,

Nguyễn Đăng Na đã làm rõ nghi vấn của nhiều ngưới về số lượng tác phẩm của Truyền kì mạn lục.

Ngay những dòng đầu tiên của bài viết, tác giả đã mạnh dạn khẳng định: Truyền kì mạn lục có 20

truyện chứ không phải là 22 truyện. Từ nhận định trên, nhà nghiên cứu cũng chỉ ra chỗ “Tân biên”,

“Cựu biên” của tác phẩm này, mà cụ thể là phần “tăng bổ giải âm tập chú”. Tân biên khác Truyền kì

mạn lục ở chỗ chúng có thêm nội dung tăng bổ giải âm tập chú.

Sau những nhận định ban đầu đó, tác giả Nguyễn Đăng Na đã tiến hành chỉ ra những điểm

không hợp lý khi cho rằng Truyền kì mạn lục có 22 truyện của một số công trình khác. Qua đó nhà

nghiên cứu một lần nữa khẳng định lại rằng: Truyền kì mạn lục chỉ có 20 truyện.

4. Nguyễn Đăng Na trong “Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh văn học”, Tạp chí Văn học

số 6, 2005 cũng đã chỉ ra một số điểm còn nhiều băn khoăn về tác phẩm và tác giả của tác phẩm

này.

Theo Nguyễn Đăng Na thì ông không phải là người đầu tiên lật lại vấn đề đọc cho đúng tên

Nguyễn Dữ. Chẳng hạn: năm 1962 – khi cho xuất bản Tân biên Truyền kì mạn lục, dịch giả Thứ

Lang Bùi Xuân Trang đã ghi tên tác giả Truyền kì mạn lục là Nguyễn Tự. Tiếp đó, năm 1987,

Nguyễn Khắc Kham đã đặt nghi vấn về cách đọc tên tác giả Truyền kì mạn lục. Sau này, Nguyễn

Nam đề nghị gọi tên tác giả là Nguyễn Tự. Và từ đó Nguyễn Đăng Na cũng cho rằng nên gọi tên là

Nguyễn Tự.

Vấn đề được Nguyễn Đăng Na bàn khá kĩ là ý nghĩa của nhan đề Truyền kì mạn lục. Bởi lẽ sự

hiểu biết chưa sâu về tiêu đề của tác phẩm ở một số nhà nghiên cứu sẽ dẫn đến làm hạn chế giá trị

của tác phẩm này. Ở đây, tác giả bài viết đã có một số kiến giải:

- Thứ nhất: Tác giả đi vào giải thích cụm từ Mạn lục. Theo tác giả thì ở một số công trình của

nước ta đã giải thích không đúng nghiã của từ mạn lục. Bởi lẽ nói mạn lục là ghi chép tản mạn có

hai điều bất ổn:

Một là: Truyền kì mạn lục là tác phẩm văn học thuộc loại hình truyện ngắn trung đại. Do đó

không thể coi đấy là tác phẩm ghi chép sẽ khiến người đọc hiểu sai loại hình thể loại tác phẩm và hạ

thấp vai trò sáng tạo của tác giả.

Hai là: Tác phẩm của Nguyễn Tự không hề tản mạn, dù hai chữ tản mạn được dùng theo kiểu tu

từ nói khiêm. Thực ra bản thân từ mạn là tùy ý, không câu thúc.

Từ chỗ chỉ ra những điều bất ổn ở cách giải thích cụm từ mạn lục như ở một số công trình,

Nguyễn Đăng Na đã cho rằng sách Hán ngữ đại từ điển (tập 6, tr. 98) đã giải thích khá chính xác:

“mạn lục là tùy bút kí lục – viết theo cảm hứng”.

- Thứ hai: Nguyễn Đăng Na đã khẳng định truyền kì nếu đứng riêng là một thể tài của truyện

ngắn trung đại. Do các nhân vật, tình tiết, kết cấu,…của truyện phần lớn là lạ kì đặc biệt, nên người

ta gọi chúng là truyền kì. Nhưng đứng trong cụm từ Truyền kì mạn lục thì với vai trò là định ngữ,

chỉ tính chất của thể mạn lục – truyền kì là một thể tự sự viết tự do, tùy hứng theo ý đồ sáng tác của

tác giả, không bị câu thúc bởi bất kì một lí do gì cả. Từ đó tác giả đi đến kết luận: “Cách đặt nhan

đề tác phẩm như vậy vừa thể hiện sự khiêm tốn của một tác gia trung đại, vừa nói rõ cái chí của

ngươi cầm bút và vừa để khu biệt đặc trưng tác phẩm văn học Việt Nam với tác phẩm văn học

Trung Hoa, Tiễn đăng tân thoại”. [69, tr. 213).

Trước khi tiến hành so sánh Truyền kì mạn lục với Tiễn đăng tân thoại, tác giả công trình đã cho

rằng: Nguyễn Tự là học trò giỏi của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, là bạn học của Trạng Bùng

Phùng Khắc Khoan.

Công trình đi sâu vào vấn đề có hay không ảnh hưởng của Tiễn đăng tân thoại đối với Truyền kì

mạn lục. Theo tác giả thì “Truyện truyền kì ở các nước giống nhau hoặc na ná giống nhau là điều

chẳng có gì lạ, bởi chúng đều có nguồn gốc dân gian, đều được khai thác từ dân gian”. [69, 214].

Đó là tác giả dựa vào khả năng về tính đồng loại hình của các nền văn học. Bên cạnh đó, tác giả

cũng khẳng định khi so sánh các tác phẩm cũng cần chú ý tới tâm lí các dân tộc thuộc khu vực đồng

văn. Trên cơ sở đó Nguyễn Đăng Na đã tuyên bố rằng: “Nghiên cứu so sánh văn học phải đào sâu

cách giải quyết vấn đề trong tác phẩm, chú không thể chỉ dừng ở cấp độ so sánh đề tài” [69,tr.

216].

5. Trong “Vấn đề đọc tên tác giả Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Quang Hồng trên Tạp chí

Hán Nôm số 1/2003, tác giả đã đi vào bàn luận về vấn đề tên tác giả của Truyền kì mạn lục.

Theo tác giả để biết được tên tác giả của Truyền kì mạn lục viết như thế nào, nhà nghiên cứu cần

dựa vào tên tác giả viết và giải thích trong các văn bản Hán Nôm. Từ đó Nguyễn Quang Hồng đã

chỉ ra trong một số tài liệu người ta có đề cập đến tên tác giả Truyền kì mạn lục. Đó là bài tựa của

Hà Thiện Hán, tên của nhà văn được giải thích nghĩa là “núi trên bãi giữa biển” in trong hầu hết các

truyền bản Truyền kì mạn lục. Bên cạnh đó còn thấy cách ghi này trong hai đoạn lời bình của các

bản Tân biên Truyền kì mạn lục giải âm (2). Ngoài ra chữ này cũng xuất hiện trong nhiều thư tịch

Hán Nôm quan trọng như Kiến văn tiểu lục (ở chương Tài phẩm) của Lê Quí Đôn (1726 – 1784),

Lịch triều hiến chương loại chí (ở chương Văn tịch chí) của Phan Huy Chú (1755 – 1786), và cả

trong Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề (1697 - ?). Cùng với cách gọi trên là cách gọi đã được

xuất hiện trong Lịch triều hiến chương loại chí (cũng ở chương Văn tịch chí) của Phan Huy Chú với

nghĩa là “ngọc đẹp”. Cũng theo mục “Lưu ý bạn đọc” trong sách Truyền kì mạn lục, do Nxb Văn

nghệ và Hội nghiên cứu và Giảng dạy văn học Thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1988 thì cách

viết này cũng xuất hiện trong bản Tân biên Truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, in năm 1763.

Từ việc chỉ ra cách gọi tên tác giả Truyền kì mạn lục, tác giả bài viết đã đưa ra nhận định ban đầu:

“Khó có thể phát hiện thêm trong kho Văn tịch Hán Nôm một chữ nào khác đã được dùng để ghi tên

tác giả Truyền kì mạn lục…..Trong điều kiện như vậy, chúng ta có thể tạm “làm việc” với hai chữ

trên đây”. [40, tr. 30]

Tác giả bài viết cũng cho biết có nhiều người đề xướng đọc tên tác giả là “dư”, tức họ căn cứ

vào bộ ngọc trong tên của tác giả của Truyền kì mạn lục. Và điều này chính là do các nhà nghiên

cứu dựa vào bộ phận biểu âm, tức là nghĩa của tên tác giả. Người đề xuất gọi tên tác giả là “dư” là

Nguyễn Khắc Kham, cho rằng nếu căn cứ vào phần biểu âm, thì tên tác giả có thể có ba cách đọc:

Một là: dữ với hai nghĩa: và với, cùng với, so với; cho, góp với.

Hai là: dự tức là tham dự vào.

Ba là: dư nghĩa là từ nghi vấn.

Đồng thời đi sâu vào việc đọc tên tác giả là Dư, theo Nguyễn Khắc Kham còn có hai nguyên

nhân nữa. Thứ nhất, “Dư” là cách đọc mới của chữ “Sơn” trong Tân hoa tự điển (Bắc Kinh, 1972)

là “tiểu đảo – đảo nhỏ”, cũng như cách đọc chữ “Sơn” là “ ngọc đẹp”. Thứ hai, Nguyễn Khắc

Kham cho rằng “thật khó nghĩ được rằng thân sinh tôn quý – Nguyễn Tường Phiêu, một vị đại nho

và trọng thần trong triều lại đặt cho con mình một cái tên chẳng lành là Dữ ”. [40, tr.31]

Trong khi đó, theo Nguyễn Quang Hồng, một số nhà nghiên cứu đề xướng cách gọi tên khác là

Tự. Đó là cách gọi của Bùi Xuân Trang, Nguyễn Nam. Những nhà nghiên cứu này đọc như thế là

dựa vào các phiến thiết đã có trong các vận thư như Từ Lữ thiết, Tượng Lữ thiết, và có thể gần với

thời đại của tác giả Truyền kì mạn lục hơn.

Còn nhà nghiên cứu Nguyễn Lập Phu khi biên chép lại bài tựa của Hà Thiện Hán đã gọi tên tác

giả là Dữ. Nhìn chung những người đọc tên tác giả là Dữ là dựa vào bộ phận biểu âm. Và đây là âm

đọc có thể là mới hơn.

Trên cơ sở thống kê những cách gọi khác nhau ấy, Nguyễn Quang Hồng đi đến kết luận: không

nên khẳng định hay phủ định cách đọc này hay cách đọc khác bởi như thế là không thỏa đáng,

không bao quát được mọi khía cạnh của hiện tượng thực tế. Từ đó Nguyễn Quang Hồng cũng đã đi

đến đề xuất : “Một cách xử lý khoa học, nghiêm túc mà cũng phù hợp với thực tế đã có, tốt hơn hết

là nên tiếp tục gọi tên ông, tác giả bộ Truyền kì mạn lục của văn học nước nhà là Nguyễn Dữ, khi

cần thiết có thể mở ngoặc thêm:(còn gọi là Nguyễn Tự)”.

6. Nguyễn Nam trong bài “Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự”, in trên Tạp chí Văn học số 1/ 2003, đã

đưa ra một số lý giải về cách gọi tên tác giả của tập truyện này.

- Ngay phần đầu của bài nghiên cứu, tác giả Nguyễn Nam đã băn khoăn rằng: gọi thế nào cho

đúng tên tác giả của Truyền kì mạn lục. Hiện nay đã có ba cách gọi tên: Nguyễn Dự, Nguyễn Dư

hay Nguyễn Tự.

- Trong bài viết này, trên tinh thần điểm qua các cách gọi tên tác giả Truyền kì mạn lục, nhà

nghiên cứu Nguyễn Nam đã mở ra một hướng đọc thế nào cho đúng tên nhà văn này. Đó là cách

đọc của giáo sư Nguyễn Khắc Kham. Theo giáo sư thì đọc tên tác giả này có thể là Nguyễn Tự hay

Nguyễn Dư. Từ đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Nam cho rằng: tên tác giả tạm thời được giới thiệu là

Nguyễn Tự, biệt danh Nguyễn Dư, hoặc chỉ đọc là Nguyễn Dư.

1.3.2.2. Ý kiến của tác giả luận văn :

* Ý kiến hợp lý của các nhà nghiên cứu trước đây :

1. Thánh Tông di thảo :

Thánh Tông di thảo còn lại một bản sao. Chúng tôi thấy rằng ý kiến của Lê Sỹ Thắng, Hà Thúc

Minh trong Thánh Tông di thảo, bản dịch của Nguyễn Bích Ngô, Nxb Văn hóa và Viện văn học,

1963, và văn bản Thánh Tông di thảo cùng với ý kiến của Trần Thị Băng Thanh trong “Văn bản

Thánh Tông di thảo” trích trong Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học xã hội,

1999 có thể được xem là những ý kiến thỏa đáng nhất đối với vấn đề niên đại và tác giả của Thánh

Tông di thảo.

2. Truyền kì mạn lục :

Bàn về gọi tên và niên đại tác phẩm Truyền kì mạn lục,chúng tôi đồng tình với ý kiến tác giả

Nguyễn Phạm Hùng trong “Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì mạn

lục ”, Nghiên cứu Văn học số 1 – 2006.

* Ý kiến của người viết luận văn :

1. Thánh Tông di thảo :

Hiện tại văn bản Thánh Tông di thảo còn lại là bản chép tay nên không thể tránh khỏi việc thêm

thắt vào tác phẩm một số cứ liệu, chi tiết. Điều này trở thành cơ sở để một số nhà nghiên cứu phủ

định việc Lê Thánh Tông viết Thánh Tông di thảo. Văn bản gốc không còn thì căn cứ chính xác

nhất để khẳng định hoặc phủ định tuyệt đối là không có. Do đó không nên có cái nhìn quá cực đoan

đối với vấn đề có liên quan đến từ ngữ của văn bản. Theo chúng tôi trong Thánh Tông di thảo có

một số truyện có nội dung giống với một số điều trong 24 huấn điều. Mà những huấn điều này là do

Lê Thánh Tông đặt ra trong khoảng thời gian trị vì đất nước. Ví dụ trong Hoa quốc kì duyên và

Hiếu đễ nhị thần truyện, tác giả đã đề cập đến hình ảnh những người em làm tròn đạo lý đối với anh

mình, thực hiện đúng bổn phận và nghĩa vụ của tình huynh đệ: thay anh chăm lo, dạy dỗ cháu nên

người. Nội dung này phù hợp với điều mà Lê Thánh Tông đã từng quy định : “Làm kẻ đệ tử nên yêu

mến anh em, hòa thuận với hương đảng, phải lấy lễ nghĩa mà cư xử”. Trong Ngư gia chí dị và Nhất

thư thủ thần nữ, tác giả lại đề cập đến vai trò, bổn phận của một nàng dâu đúng nghĩa. Điểm này

cũng đã được Lê Thánh Tông đề cập đến trong huấn điều : “Làm đàn bà thì phải theo chồng, không

được cậy cha mẹ mình phú quý mà khinh nhà chồng, nếu không như thế thì bắt tội đến cha mẹ”.

Trong Hoa quốc kì duyên, Ngư gia chí dị, và Nhất thư thủ thần nữ, tác giả đều thể hiện quan niệm

coi trọng việc trăm năm như chọn ngày tốt để cử hành hôn lễ, giữ gìn danh tiết trước ngày cưới. Tất

cả đều là những điều mà Lê Thánh Tông đã đặt ra : “Việc hôn giá tế tự phải giữ lễ phép, không

được làm càn ”. Điều này đã chứng tỏ trong Thánh Tông di thảo có những tác phẩm thể hiện một

cách gián tiếp những quan điểm, những suy nghĩ, tư tưởng của chính Lê Thánh Tông.

Trong Thánh Tông di thảo dù có sự mâu thuẫn về tư tưởng thì đó vẫn có thể là tác phẩm của Lê

Thánh Tông, vì Lê Thánh Tông là một ông vua rất coi trọng đạo Nho nhưng cũng không vì thế mà

tuyệt giao với đạo Phật và đạo Lão, nhà vua chỉ phê phán những mặt tiêu cực của hai tôn giáo trên

có ảnh hưởng đến việc trị nước. Chính bản thân nhà vua vẫn còn chịu ảnh hưởng nhất định từ hai

tôn giáo này.

Bên cạnh đó chúng tôi cũng cho rằng những truyện dưới đây không thuần nhất là của riêng Lê

Thánh Tông mà có thể được người đời sau thêm thắt hoặc sửa đổi một số chi tiết: Mai Châu yêu nữ

truyện, Lưỡng Phật đấu thuyết kí, Hoa quốc kì duyên, Trần nhân cư thủy phủ, Lãng Bạc phùng tiên,

Nhất thư thủ thần nữ.

2. Truyền kì mạn lục :

Có thể nói cho đến nay những câu hỏi liên quan đến thân thể Nguyễn Dữ vẫn đang là vấn để đặt

ra cho nhiều nhà nghiên cứu. Họ đặt ra những câu hỏi: Nguyễn Dữ đi thi và làm quan ở thời nào? Vì

sao ông cáo quan về ở ẩn? Ông viết Truyền kì mạn lục khi nào? Ông có phải là học trò của Nguyễn

Bỉnh Khiêm không? Nguyễn Dữ có chịu ảnh hưởng tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Bỉnh

Khiêm có sửa chữa để Truyền kì mạn lục trở thành “thiên cổ kì bút” không? Để trả lời những câu

hỏi này, theo chúng tôi căn cứ duy nhất hiện nay là phải dựa vào ghi chép của các nhà khảo cứu thời

trước và một số công trình của các nhà nghiên cứu hiện nay.

Về cách gọi tên tác giả: theo chúng tôi, gọi thế nào cho đúng tên tác giả mặc dù đang là một vấn

đề được nhiều người bàn cãi song nó cũng không ảnh hưởng gì tới tư tưởng, giá trị của tác phẩm.

Tuy nhiên để đi đến một cách thống nhất chung cho cách gọi tên thì chúng ta nên dựa vào đặc điểm

của cách viết và đọc tên tác giả bằng chữ Hán. Từ việc tìm hiểu một số tài liệu để lại về tên Nguyễn

Dữ, chúng tôi nhận thấy người xưa đã dùng hai chữ có tự dạng gần giống nhau là chữ có bộ sơn và

chữ có bộ ngọc để ghi tên tác giả. Giữa hai chữ này thì chữ có bộ sơn được dùng phổ biến nhiều hơn

trong bài Tựa và trong một số công trình nghiên cứu Hán Nôm khác. Chữ này có thể đọc theo hai

cách: Tự hoặc Dữ. Cả hai cách đọc này đều có những căn cứ và lý do xác đáng. Tự là cách đọc cổ,

trung thành với âm của nó được quy định theo phiên thiết trong các vận thư, và có thể gần với thời

đại của tác giả Truyền kì mạn lục hơn. Dữ là âm đọc có thể mới hơn, được hình thành qua thực tế

nhận diện mặt chữ, do áp lực của bộ phận biểu âm trong chữ này là một ngữ tố Hán văn, người đọc

đọc với âm Hán Việt là dữ, và do đó nó dễ được chấp nhận rộng rãi hơn. Vì vậy một mực khẳng

định cách đọc này hay cách đọc khác đều là không thỏa đáng. Tuy nhiên không phải vì vậy mà để

tình trạng lộn xộn khi gọi tên tác giả. Theo chúng tôi một cách gọi tên nghiêm túc mà cũng phù hợp

với thực tế đã có, tốt hơn hết là nên tiếp tục gọi tên ông – tác giả của “thiên cổ kỳ bút” này là

Nguyễn Dữ, khi cần có thể mở ngoặc thêm là Nguyễn Tự.

Về năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ, cũng như có hay không mối quan hệ thầy trò giữa

Nguyễn Bỉnh Khiêm và Nguyễn Dữ, chúng tôi cũng đưa ra một số nhận định như sau :

- Thứ nhất : trong lược truyện các tác gia Việt Nam, Trần Văn Giáp nói rằng Nguyễn Dữ không

thể là học trò của Nguyễn Bỉnh Khiêm được, bởi lẽ theo Công dư tiệp ký thì thứ tự Nguyễn Dữ là số

222 đặt trước vị trí của Nguyễn Bỉnh Khiêm số 236. Đồng thời theo Lê Quí Đôn khi Nguyễn Dữ đỗ

đạt ra làm quan, viết Truyền kì mạn lục dưới triều Lê thì Nguyễn Bỉnh Khiêm lúc đó vẫn còn là một

nho sĩ nghèo nhiều lận đận. Ngoài ra Nguyễn Bỉnh Khiêm còn được biết đến và được đề cao chủ

yếu là sau khi đỗ Trạng Nguyên và ra làm quan dưới triều Mạc Đăng Doanh. Bản thân Nguyễn Bỉnh

Khiêm là một nhà nho bình dân, suốt thời tuổi trẻ nghèo túng, chưa đỗ đạt, không danh vọng, đi thi

và làm quan khoảng thời gian 1535 – 1542. Với những cứ liệu này khó để khẳng định rằng ông là

thầy học hoặc là người lớn tuổi hơn

Nguyễn Dữ, con một nhà khoa bảng, lại chăm lối cử học và rất thông minh. Mặt khác Nguyễn

Dữ làm quan và cáo quan từ thời Lê, tức là trước khi nhà Mạc ra đời.

- Thứ hai : xét về góc độ tư tưởng thì chúng tôi nhận thấy một số công trình đã chỉ rõ: tư tưởng

thẩm mỹ của hai ông khác nhau, thế giới quan của hai ông cũng không có gì là giống nhau. Nguyễn

Bỉnh Khiêm là người chủ trương cải tạo con người để bảo vệ trật tự chế độ. Còn Nguyễn Dữ lại là

người chủ trương cải tạo chế độ để bảo vệ quyền sống của con người. Chính vì vậy chúng tôi cho

rằng không thể có việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính sách Truyền kì mạn lục để nó có thể trở

thành một áng văn hay, trở thành “thiên cổ kỳ bút ”. Đồng thời chúng tôi cũng cho rằng một số tài

liệu đã cho rằng Nguyễn Bỉnh Khiêm là thầy và là người sửa Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ là

do hoặc nhầm lẫn hoặc do họ quá nhiều tình cảm với Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Về năm sinh và năm mất của Nguyễn Dữ thì có thể quan tâm đến lời Hà Thiện Hán: “ Tập lục

này là trứ tác của Nguyễn Dữ, người Gia Phúc, Hồng Châu. Ông là con trưởng vị Tiến sĩ triều

trước Nguyễn Tường Phiêu ”. Bài tựa này được viết năm 1547, chắc chắn rằng lúc ấy người sinh ra

Nguyễn Dữ đã mất, nên Hà Thiện Hán chép thẳng tên. Nhưng còn Nguyễn Dữ sao cũng chép thẳng

tên, mà theo người trung đại khi người đó còn sống chỉ gọi theo họ, chức quan, học vị hoặc tên quê.

Như vậy từ bài viết này chúng tôi có căn cứ để cho rằng đến năm 1547 thì Nguyễn Dữ đã không

còn. Từ đó theo đoán định của chúng tôi thì Nguyễn Dữ sinh vào khoảng thập niên cuối thế kỉ XV

và mất khoảng thập niên thứ tư thế kỉ XVI, thọ khoảng 50 tuổi.

1.3.3. Cuộc đời và sự nghiệp các tác giả :

1.3.3.1.Lê Thánh Tông : (1442 – 1497).

*. Cuộc đời :

Lê Thánh Tông (1442 – 1497) là con thứ tư của vua Lê Thái Tông, tên là Hiệu, lại có tên là Tư

Thành, hiệu là Thiên Nam động chủ, vua thứ tư triều Hậu Lệ, trị vì 38 năm (1459 -1497).

Vì sự lục đục trong nội bộ hoàng gia nên tuổi nhỏ Lê Thánh Tông phải sống bên ngoài cung bốn

năm với tư cách con dân thường. Đó là vốn quý để về sau ông hiểu biết và quan tâm nhiều đến đời

sống của nhân dân. Sau khi Nghi Dân cướp ngôi được tám tháng thì các quan đại thần trong triều

mưu giết đi vì tính hay nghe lời dua nịnh, chém giết đại thần; sau đó rước con thứ tư vua Thái Tông

là Bình Nguyên Vương Tư Thành lên làm vua, tức vua Lê Thánh Tông. Thánh Tông lên ngôi lấy

niên hiệu là Quang Thuận (1460 – 1469), sau đó đổi là Hồng Đức (1470 – 1497). Thời đại Lê Thánh

Tông là thời đại thịnh trị nhất của chế độ phong kiến nước ta, chế độ quân chủ tập trung cũng đạt tới

hình thái trọn vẹn và nhất là văn học thời đó cũng thịnh đạt nhất so với các thời đại trước. Lê Thánh

Tông là người thông minh, sáng dạ, lại cần cù, chịu khó. Đức tính cần cù chăm học ấy đã trở thành

thói quen theo ông suốt đời; ngay cả khi lên ngôi vua, rất bận rộn với công việc chính sự nhưng ông

vẫn chịu khó trau dồi kiến thức cho mình. Lê Thánh Tông đã đưa đất nước đến với sự thịnh trị, đời

sống nhân dân ấm no. Và tất nhiên để làm được điều này, nhà vua đã đổi mới rất nhiều. Ở đây

chúng tôi trình bày rõ về tư tưởng, giáo dục, tôn giáo cuả Lê Thánh Tông.

Về việc giáo dục và đào tạo đội ngũ trí thức, Lê Thánh Tông là người ý thức được sự cần thiết

phải có một lực lượng trí thức làm định hướng cho xã hội quân chủ tập quyền mà ông là người chủ

soái. Vì vậy các khoa thi thời Lê Thánh Tông rất chú trọng đến việc trình bày tính tình, phong thái,

quan niệm.....của người sĩ phu đỗ đạt, và mối quan hệ giữa họ với nhà vua. Ông đã định phép thi

hương, sửa phép thi hội để chọn nhân tài, đồng thời ban hành nhiều quy định quan trọng có ý nghĩa

thúc đẩy ý thức học tập trong mọi tầng lớp nhân dân, chẳng hạn lập ra lệ xướng danh các Tiến sĩ và

lệ cho về vinh quy bái tổ sau khi thi đỗ... Mặt khác Lê Thánh Tông là một ông vua hay chữ nên ông

đòi hỏi rất nghiêm khắc và rất cao ở những người đỗ đạt. Mặc dù vậy dưới triều Lê Thánh Tông vẫn

có một số quan lại địa phương không đỗ đạt mà được bổ dụng do đề cử. Điều đó cho thấy Lê Thánh

Tông không tuyệt đối hóa việc thi cử và không để cho trường thi thành là chắn đối với thiên tài.

Về tư tưởng, tôn giáo: Lê Thánh Tông đề cao Nho học, khuyến khích Nho học, tuyên truyền ý

thức hệ phong kiến một cách rộng rãi nhằm củng cố quyền thống trị của giai cấp phong kiến; đồng

thời hạn chế ảnh hưởng của Phật giáo và Đạo giáo. Ngoài ra Lê Thánh Tông còn sai Ngô Sĩ Liên

làm bộ Đại Việt sử kí toàn thư với ý thức tự hào về lịch sử và dân tộc Đại Việt.

Những việc làm ấy đã chứng tỏ Lê Thánh Tông là một đấng anh quân. Trong thời gian trị vì,

ông đã làm được rất nhiều việc có lợi cho đất nước, cho nhân dân. Phan Huy Chú đã đánh giá khá

chính xác về nhà vua : “Tư chất và tính khí nhà vua rất cao sáng, ham học không biết mỏi, tay

không rời quyển sách. Về trí thức thì vua tôn trọng Nho thuật, cất nhắc anh tài, sáng lập chế độ, mở

mang bờ cõi, văn võ tài lược hơn cả các đời ”(Lịch triều hiến chương loại chí). Còn nhà sử học Ngô

Sĩ Liên nhận xét : “Nhà vua thực là bậc anh hùng tài lược, dù Vũ Đế nhà Hán, Thái Tông nhà

Đường cũng không hơn được ”(Đại Việt sử kí toàn

Thư)

*. Thơ văn :

Lê Thánh Tông quan niệm văn học phải phục vụ đời sống: một mặt văn học có nhiệm vụ củng

cố đạo lý phong kiến và chế độ chuyên chế, đồng thời văn học cũng phải phục vụ đời sống rộng rãi.

Bài “Tựa” trong Quỳnh uyển cửu ca có đoạn nói về động cơ và mục đích sáng tác : “Ta nhân lúc

muôn việc được rỗi, nửa ngày được nhàn, thường xem các sách, vui thích lục nghề, mọi sự huyên

náo lắng xuống, một ngọn đèn sáng thơm tho, thị dục ít, tinh thần trong sạch, ở yên, hứng cao, mới

nghĩ đến khuôn phép lớn của thánh đế minh vương, lòng cẩn thận của trung thần lương bật. Gọi

chàng giấy họ bút, thượng khách mực, trọng thần nghiên đá, bảo đi bảo lại rằng: chân tình ta phát

ra, có anh khí dào dạt thành cách ngôn hay. Các ngươi có thể ghi chép giúp ta được không ”(371).

Đây thực chất là quan niệm “văn dĩ tải đạo” của Nho gia được hiểu từ vị trí người đứng đầu nhà

nước phong kiến. Đạo ở đây là đạo của thánh đế minh vương tức đạo trị nước, đạo của trung thần

lương bật tức đạo thờ vua. Văn ở đây là thơ, thơ là để nói cái chí của mình. Văn học có nhiệm vụ tải

cái đạo ấy, tức là phải phục vụ chế độ phong kiến, đề cao đạo đức phong kiến.

Chữ nghĩa giỏi giang của vua Lê Thánh Tông không phải để ngâm vịnh cho vui mà đã sử dụng

nó để rèn luyện phẩm cách, nâng cao trí tuệ của bản thân, để xứng đáng với vị trí là người lãnh đạo

cao nhất của một đất nước văn hiến. Lê Thánh Tông đã sử dụng tài năng văn chương để chỉ đạo

công cuộc xây dựng, phát triển đất nước. Thể hiện quan niệm đó, ông đã có nhiều tác phẩm vừa

mang nội dung đề cao Nho gia, vừa ca ngợi đời sống thái bình, thịnh trị, trong đó chủ yếu là đề ca

ngợi đất nước tươi đẹp và cuộc sống nhân dân ấm no.

Tóm lại, quan niệm văn chương của Lê Thánh Tông không phải là trùng lắp hoàn toàn nhưng

cũng chưa vượt ra ngoài khuôn khổ quan niệm văn học truyền thống của Nho gia, mà cũng là của

văn học trung đại. Điểm riêng của Lê Thánh Tông là ông đã lựa chọn sáng tạo khi vận dụng quan

niệm văn học Nho gia với ba tư cách: người đứng đầu nhà nước phong kiến, anh thợ cả thiết kế và

thi công sáng tác văn học của cả một thời đại, vị chánh nguyên soái một thi xã hoàng gia ở cái thời

hoàng kim của Nho gia và văn học nhà Nho. Tuy rất đề cao văn học Nho gia nhưng Lê Thánh Tông

vẫn có quan điểm khoáng đạt với văn học Nôm, văn học Tiếng Việt.

Lê Thánh Tông lập ra hội Tao Đàn, xướng họa quanh chín đề tài gọi là Quỳnh uyển cửu

ca. Nhà vua là Tao Đàn nguyên súy (hoặc Đô nguyên súy), Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận làm

Tao Đàn phó nguyên súy (hoặc Phó đô nguyên súy). Hội gồm 28 hội viên, gọi là Tao Đàn nhị thập

bát tú. Vua tôi thường làm thơ, ngâm vịnh ca ngợi triều đại nhà Lê và đề cao vai trò của nhà vua.

Hầu hết các tác phẩm của hội Tao Đàn đều được ghi lại trong Thiên Nam dư hạ tập, trước thuật ở

nhiều thể loại. Về thơ chữ Hán, Lê Thánh Tông có 9 tập trong đó nhiều tập có cả thơ văn của văn

thần họa, bình thơ của nhà vua :

- Anh hoa hiếu trị (1468): nội dung chính bày tỏ lòng hiếu kính đối của con cháu đối với tổ

tiên nhân dịp Lê Thánh Tông cùng với Lê Niệm, Đỗ Nhuận về Thanh Hóa bái yết Lam Kinh.

- Minh lương cẩm tú ( khoảng 1470 – 1471): ca tụng 13 cửa biển và một cửa ải, thể hiện niềm

tự hào về đất nước và nỗi nhớ nhà của tướng sĩ trên đường viễn chinh.

- Văn minh cổ xúy (1491): viết nhân dịp nhà vua, hoàng gia và triều thần đi bái yết Sơn lăng.

Tập thơ thể hiện lòng hiếu kính của nhà vua khi về viếng mộ cha ông và niềm mong mỏi đất nước

phồn vinh, thịnh trị, đế nghiệp bền vững, lâu dài.

- Quỳnh uyển cửu ca (1495): lời đề xướng của vua Lê Thánh Tông và lời đối đáp của nhị thập

bát tú, ca ngợi chế độ, nhà vua, triều thần, tự hào về cuộc sống thái bình, thịnh trị, thể hiện ý thức

trách nhiệm của vua quan đương thời đối với đất nước và nhân dân.

- Cổ tâm bách vịnh (1495): vịnh các nhân vật lịch sử phương Bắc, khen chê theo tiêu chuẩn

đạo đức phong kiến, nhằm giáo huấn người đời.

- Xuân vân thi tập (1496): vịnh phong cảnh núi sông, bến động, cửa biển... của đất nước, bao

hàm niềm yêu mến và tự hào về cảnh đẹp đất nước.

- Cổ kim cung từ thi (1496)

- Châu cơ thắng thưởng thi ( ?): nội dung chủ yếu ca tụng danh lam thắng cảnh và sự thịnh

vượng của đất nước.

Về thơ chữ Nôm, Hồng Đức quốc âm thi tập thể hiện niềm tự hào về lịch sử đất nước, dân tộc và

niềm vui sướng được sống trong cảnh thái bình, thịnh trị, trong đó có nhiều bài điêu luyện chứa

chan tinh thần dân tộc, màu sắc dân gian, bên cạnh một số bài mang tính chất thù phụng và khuôn

sáo.

Về văn chữ Hán, Lê Thánh Tông có các tác phẩm sau:

- Liệt truyện tạp chí: ghi chép những ý hay tứ lạ khi đọc sự tích, danh ngôn Trung Quốc, rút ra

những bài học về mặt tu dưỡng đạo đức, về đường lối chính trị, giáo dục.....Tác phẩm này thể hiện

khá rõ tư tưởng sùng Nho của Lê Thánh Tông, đồng thời cũng cho thấy sự dung hòa Nho, Phật, Đạo

ở những mặt có lợi cho việc giáo dục tư tưởng và đạo đức phong kiến.

- Lam Sơn Lương thủy phú: khoảng 400 câu với phần chú thích dài, viết về ngọn núi, dòng

sông ở căn cứ địa của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, ca ngợi sự nghiệp khai quốc của Lê Thái Tổ, miêu

tả khí thế hào hùng của non sông kỳ vĩ và cuộc kháng Minh thần thánh.

- Thánh Tông di thảo: tập truyện gồm 19 truyện, vấn đề tác giả và niên đại vẫn còn nhiều tranh

cãi nhưng tác phẩm được viết với bút pháp đại gia, nghệ thuật vững vàng, cứng cát, nội dung tư

tưởng phù hợp với thời đại và với những tác phẩm khác của Lê Thánh Tông nên có nhiều ý kiến cho

rằng trong đó vẫn có một số truyện là của Lê Thánh Tông.

Về văn chữ Nôm, vua Lê Thánh Tông có Thập giới cô hồn quốc ngữ văn viết theo thể biền

ngẫu : tác phẩm gồm 11 đoạn, đoạn mở đầu và 10 đoạn răn 10 loại cô hồn (Thiền tăng, đạo sĩ, quan

liêu, nho sĩ, tướng quân, lương y, thiên văn địa lý, hoa nương, thương cổ, đãng tử), cuối mỗi bài răn

là những lời bình phẩm và một bài kệ bằng thơ Đường luật. Tác phẩm thể hiện khuynh hướng chính

thống của nhà nước phong kiến đối với mười hạng người trong xã hội nước ta thời đó. Tác giả

không xuất phát từ cảm hứng nhân đạo như Nguyễn Du trong Văn chiêu hồn mà xuất phát từ mục

đích giáo huấn người sống, bút pháp miêu tả vừa hiện thực vừa sắc sảo, lại pha giọng hoạt kê, trào

lộng nên không khí của bài văn sáng sủa, sống động không não nề, ảm đạm.

Nhìn chung trước tác của Lê Thánh Tông tuy số lượng hiện còn không đầy đủ nhưng là khá lớn

và tiêu biểu cho khuynh hướng sáng tác của văn học viết nửa sau thế kỉ XV. Vốn hiểu biết của Lê

Thánh Tông về cuộc sống, sinh hoạt của nhân dân, về giang sơn đất nước trong những năm sống

hàn vi ngoài cung khuyết, trong những cuộc tuần du hoặc viễn chinh cùng với những hiểu biết về

sách vở khiến Lê Thánh Tông vừa là một nhà thơ chính trị rất thực tiễn, vừa là một nhà thơ giàu tình

cảm.

1.3.3.2. Nguyễn Dữ :

* Cuộc đời :

Mảnh đất Đường Lâm, huyện Gia Phúc, Hồng Châu, nay là xã Đoàn Tùng, huyện Thanh Miện,

tỉnh Hải Dương là nơi đã nuôi dưỡng và chứng kiến sự trưởng thành của nhà văn Nguyễn Dữ. Có

thể nói một cách khái quát: Nguyễn Dữ sinh ra trong một giai đoạn rối ren, đầy biến động. Rất tiếc

những tài liệu về Nguyễn Dữ hiện còn không nhiều lắm nên muốn biết về cuộc đời nhà văn, chúng

tôi chỉ có thể tìm qua số tài liệu ít ỏi này và qua “thiên cổ kỳ bút”

của ông. Từ đấy, có thể suy đoán: Nguyễn Dữ có khả năng sinh vào khoảng cuối thế kỉ XV,

sống và sáng tác vào khoảng nửa đầu thế kỉ XVI. Ông là con trai của Nguyễn Tường Phiêu, Tiến sĩ

khoa Bính Thìn, niên hiệu Hồng Đức 27 (1496). Nguyễn Tường Phiêu sau khi đỗ được trao chức

Thừa sánh sứ và khi mất được phong chức Thượng thư. Từ gia đình, nhiều nhà nghiên cứu cũng cho

rằng: Nguyễn Dữ chắc chắn một thời gian dài được sống gần cha, một vị quan lớn của nhà Lê, ở

chốn kinh thành nhiều năm ,được chứng kiến những bước thăng trầm của xã hội và con người.

Đồng thời đây cũng là vốn sống quan trọng cho những sáng tác kiệt xuất của ông khi về ẩn cư. Lúc

nhỏ Nguyễn Dữ rất chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, từng ôm ấp lý tưởng lấy văn chương nối nghiệp

nhà. Thi Hương tiến, thi Hội Nguyễn Dữ đều đậu và từng giữ chức Tri huyện Thanh Tuyền. Nhưng

chỉ được một năm thì ông từ quan xin về quê phụng dưỡng mẹ già. Nhiều tài liệu để lại minh chứng:

Nguyễn Dữ từ quan về ẩn dật chủ yếu là do bất mãn với kẻ cầm quyền, đặc biệt là với hành động

tiếm ngôi của Mạc Đăng Dung. Nguyễn Dữ không chọn quê hương, chốn mình sinh ra làm nơi ẩn

dật như bao nhà nho bất mãn khác. Có lẽ lúc đó Hải Dương đang là chiến trường của nhiều cuộc

giao tranh, cũng là đất “phên dậu” của nhà Mạc. Nguyễn Dữ về với núi rừng Thanh Hóa xa xôi và

yên tĩnh. Ông tỏ ra hết sức gắn bó và am hiểu chốn núi rừng này và đã để lại nhiều dấu ấn trong tác

phẩm.

* Sự nghiệp văn chương :

Theo những tư liệu được biết cho đến nay, Nguyễn Dữ còn để lại duy nhất một tập truyện văn

xuôi chữ Hán là Truyền kì mạn lục.

Về thời điểm ra đời tác phẩm, hiện nay vẫn còn nhiều ý kiến tranh luận. Tuy vậy theo tài liệu ghi

chép,chúng ta có thể dự đoán Nguyễn Dữ viết Truyền kì mạn lục trong khoảng thời gian ông về

sống ẩn dật ở quê ngoại.

Truyền kì mạn lục gồm 20 truyện,chia làm bốn quyển. Truyện được viết bằng văn xuôi chữ Hán

có xen những bài thơ, ca, từ, biền văn. Ở cuối mỗi truyện đều có lời bình của tác giả trừ truyện Kim

Hoa thi thoại kí. Và lời bàn trong truyện không phải bàn về nghệ thuật mà chủ yếu bàn về nội dung,

ý nghĩa đạo đức của truyện

1.3.3.3. Vũ Trinh

* Cuộc đời :

Vũ Trinh (1759 – 1828) tên tự là Duy Chu, hiệu là Nguyên Hanh, biệt hiệu là Lai Sơn, Lan Trì

ngư giả, đạo hiệu Hải Âu hòa thượng. Ông là người làng Xuân Lan, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh

Bắc Ninh.

Vũ Trinh xuất thân từ một gia đình có nề nếp thi thư. Ông nội Vũ Trinh hiệu là Hy Nghi, đỗ

Tiến sĩ đời Lê, làm quan đến Thượng thư bộ binh. Cha ông tên là Triệu, cũng đỗ Hương tiến làm

đến chức Tham nghị. Cũng như Nguyễn Dữ, Vũ Trinh vốn nổi tiếng thông minh từ nhỏ, 17 tuổi đỗ

Hương tiến, được tập ấm chức Tri phủ Quốc Oai, tước Lan Trì bá.

Với tài năng ấy Vũ Trinh có thể thành công trên con đường hoạn lộ, hơn nữa ông còn có thể góp

phần vào sự phát triển đi lên của đất nước. Nhưng chỉ tiếc rằng Vũ Trinh sinh ra không đúng thời,

nên không có đất dụng võ. Ông đã trải qua những sóng gió, thăng trầm của cuộc đời. Từ khi còn rất

trẻ, dưới thời vua Lê, Vũ Trinh làm Tri phủ Quốc Oai. Vào năm 1786, với danh nghĩa “phù Lê diệt

Trịnh”, vua Chiêu Thống được nối ngôi, Vũ Trinh lại được mời về triều. Lần này về với vua Lê, Vũ

Trinh đã làm được một việc có ý nghĩa. Đó là ông khuyên vua Lê không trừ khử Nguyễn Hữu

Chỉnh. Nhờ vậy ông đã góp phần tránh được một sự tổn thất lớn của một cuộc thanh toán nội bộ.

Trong cuộc chạy đua với phong trào Tây Sơn, vua Lê đã hoàn toàn thất thế. Khi Tây Sơn ra Bắc lần

thứ hai diệt Nguyễn Hữu Chỉnh, Lê Chiêu Thống đã bỏ ngai vàng tháo chạy giữ lấy thân. Và để thể

hiện chữ trung của mình, Vũ Trinh đã đón vua về nhà, dồn hết tài sản của gia đình lo cho vua. Hơn

nữa khi Lê Chiêu Thống được sự giúp đỡ của Tôn Sĩ Nghị đã đánh trả lại Tây Sơn, thì Vũ Trinh đã

là quân sư trả lời trôi chảy những câu hỏi của quân Thanh. Có thể thấy chữ “trung” của Vũ Trinh

được đặt lên cao cho dù đó là “ngu trung” như lời phán xét của người đời đối với tác giả. Đặc biệt

chữ “ trung” ấy được thể hiện rõ khi vua Quang Trung giành thắng lợi trước vua Lê Chiêu Thống và

quân Thanh. Lúc bấy giờ, mặc dù vua Quang Trung luôn mở cửa chờ đón người hiền ở bên kia

chuyến tuyến, nhưng Vũ Trinh tuyệt đối trung thành với triều đại cũ và không ra làm quan dưới thời

Tây Sơn, di cư ở ẩn. Sau khi Tây Sơn diệt vong, Gia Long ra Bắc, xuống chiếu mời các quan thần

nhà Lê, Vũ Trinh đã tham gia và giữ chức Thị trung học sĩ, theo về Phú Xuân. Dưới trướng Gia

Long, nhưng tình cảm mà Vũ Trinh dành cho vua Lê không bao giờ cạn. Điều này còn được thấy rõ

khi hài cốt vua Chiêu Thống được đưa về nước, Vũ Trinh không chỉ đứng ra xin vua ban lễ hậu và

giữ nguyên tên hiệu cho Chiêu Thống mà còn xin về Bắc Hà để đón tang. Tưởng rằng những sóng

gió thời cuộc không còn “duyên nợ” gì với Vũ Trinh, nhưng không ngờ năm 1816 ông bị bắt vì

triều đình cho là ông “a dua với bọn phản nghịch”. Năm sau, ông được giảm tội chết, đem đi an trí ở

Quảng Nam. Đến chỗ lưu đày, ông giảng sách, dạy học trò, lấy văn chương làm vui, sống ẩn dật giữ

mình. Mười hai năm sau, Minh Mạng tới Quảng Nam, Vũ Trinh sai con dâng biểu trình xin về quê

quán. Sau đó được vua chấp nhận, song do già yếu, về quê được vài ngày thì ông mất. Có thể nói

Vũ Trinh là một bề tôi luôn lấy chữ Trung làm đầu. Mặc dù quan niệm “trung quân ”của ông còn

nhiều hạn chế song trong thời cuộc còn nhiều rối ren, ông vẫn luôn giữ được một tâm hồn trong

sạch và một tấm lòng với nước với dân.

*Sự nghiệp văn chương :

Khi Lê Chiêu Thống chạy theo tàn dư của Tôn Sĩ Nghị sang Bắc Quốc, không theo kịp vua, Vũ

Trinh về lẫn trốn ở vùng thôn dã, không ra làm quan cho nhà Tây Sơn. Dù vậy ông không bị o ép,

vào khoảng cuối những năm 90 của thế kỉ XVIII Vũ Trinh đã có mặt ở Thăng Long, giao du mật

thiết với nhóm trí thức Thăng Long xung quanh Thiền viện của Ngô Thì Nhậm ở phường Bích Câu.

Họ hoạt động nghiên cứu kinh sách, giáo lý nghiêm túc. Tác phẩm Trúc Lâm Tông chỉ nguyên

thanh chính là thành quả nghiên cứu về Kinh Viên giác của họ. Trong tác phẩm này, Vũ Trinh là

một trong hai người viết phần Thanh chú.

Ngoài danh phận tôi trung của nhà Lê từng phò giúp Lê Chiêu Thống và chức phận một quan

chức cao cấp của nhà Nguyễn, hơn hết Vũ Trinh còn là một nhà văn. Tuy rằng những tác phẩm như

tập thơ Sứ Yên, tập thơ Cung oán đều đã thất lạc và cả những sáng tác ông làm trong thời gian lưu

đày ở Quảng Nam cũng không thấy nhưng những đóng góp còn lại của ông cũng đáng trân trọng.

Mặc dù về văn chương, Vũ Trinh chỉ còn lại lời bình Truyện Kiều của Nguyễn Du, lời chú trong

Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh và đặc biệt là Lan Trì kiến văn lục. Nhưng với những gì để lại, Vũ

Trinh xứng đáng là một cây viết có đóng góp quan trọng trong lịch sử văn xuôi chữ Hán Việt Nam,

đặc biệt là ở thể loại truyện truyền kì. Đó là điều may mắn cho văn học và cho độc giả đời sau, bởi

một tài năng sáng tạo đã không bị quên lãng với thời gian.

1.4 Vấn đề nhân vật trong tác phẩm văn học :

1.4.1. Khái niệm nhân vật :

Nhà văn khi sáng tác luôn phải chú ý đến việc xây dựng nhân vật. Bởi lẽ đó là nơi giải quyết tất

cả những gì trong tác phẩm. Chính vì vậy việc thành hay bại của một nhà văn phụ thuộc nhiều vào

việc xây dựng nhân vật. Có nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam cũng đưa ra những khái niệm về nhân

vật, nhưng ở đây chúng tôi chọn khái niệm của Phương Lựu : “Nhân vật văn học là con người được

miêu tả trong văn học bằng phương tiện văn học”. Và “Nhân vật là phương tiện khái quát hiện

thực”.[62, tr.284]

1.4.2. Các kiểu loại nhân vật :

Nhân vật trong một tác phẩm văn học hiện lên thật đa dạng và phong phú, mỗi nhân vật có một

khuôn mặt riêng, không ai giống ai. Và đôi khi nhân vật được xây dựng thành công cũng chính là

cuộc đời nhà văn được gửi gắm vào trong ấy. Tuy nhiên nếu đặt nhân vật trong một cái nhìn hệ

thống, người đọc dễ dàng nhận ra được nhân vật ấy nằm trong kiểu loại nào của nó. Và từ bình

diện nội dung, tư tưởng, kết cấu – cốt truyện, thể loại, cấu trúc, chúng tôi nhóm họp chúng lại. Dưới

đây, chúng tôi tiến hành điểm qua đặc điểm của một số loại thường gặp.

1.4.2.1. Từ góc độ nội dung, tư tưởng :

Căn cứ vào phẩm chất nhân vật, có thể chia ra: nhân vật chính diện, nhân vật phản diện, nhân vật

trung tâm.

*. Nhân vật chính diện :

Nhân vật chính diện còn được gọi là nhân vật tích cực. Với vai trò thể hiện lý tưởng xã hội và

lý tưởng thẩm mỹ của thời đại mình, nhân vật chính diện thường được xây dựng theo những chuẩn

mực nhất định. Theo Trần Đình Sử : “Nhân vật chính diện là nhân vật thể hiện những giá trị tinh

thần, những phẩm chất đẹp đẽ, những hành vi cao cả của con người được nhà văn miêu tả, khẳng

định, đề cao trong tác phẩm theo một quan điểm, tư tưởng, một lý tưởng xã hội – thẩm mỹ nhất

định”. [102, tr.227]. Đi ngược lại với nhân vật chính diện là nhân vật phản diện. Và trong cùng một

tác phẩm văn học hai loại nhân vật này thường thể hiện ý nghĩa, tư tưởng của tác phẩm.

*. Nhân vật phản diện:

Trái lại với nhân vật chính diện, “nhân vật phản diện lại mang những phẩm chất xấu xa trái với

đạo lý và lí tưởng, đáng lên án và phủ định ”. [62, tr.285]. Từ những quan niệm trừu tượng về bản

chất con người, đôi khi trong các sáng tác văn học, kiểu nhân vật phản diện được xây dựng đơn

giản, máy móc, một chiều. Các nhà văn học hiện thực phê phán thường đưa cái cao cả và cái tầm

thường, cái đẹp với cái lố bịch thống nhất trong nhân vật. Cho nên từ chỗ chỉ ra đâu là phản diện,

đâu là chính diện cho nhân vật ấy, thật không dễ. Và vì thế đôi lúc sự phân biệt nhân vật chính diện,

nhân vật phản diện không phải bao giờ cũng rạch ròi, rõ nét. Đó cũng là cơ sở cho các nhà nghiên

cứu đưa ra kiểu nhân vật trung gian.

*Nhân vật trung gian:

Đứng giữa nhân vật chính diện và nhân vật phản diện là nhân vật trung gian. Kiểu nhân vật này

thường không cố định mà luôn luôn thay đổi theo hoàn cảnh. Nhân vật theo từng hoàn cảnh có thể

tốt hoặc xấu đi.

1.4.2.2. Từ góc độ kết cấu – cốt truyện :

Trong tác phẩm văn học thường có một hoặc nhiều nhân vật. Và trong các trường hợp đó, không

phải mọi nhân vật trong tác phẩm văn học đều có vai trò như nhau trong kết cấu và cốt truyện tác

phẩm. Dưới đây là một số kiểu nhân vật nhìn từ góc độ kết cấu – cốt truyện :

*. Nhân vật chính :

Đây là nhân vật xuất hiện nhiều và giữ vị trí then chốt trong việc thể hiện đề tài, chủ đề và tư

tưởng tác phẩm. Nhân vật này liên quan đến các sự kiện chủ yếu của tác phẩm, là cơ sở để tác giả

triển khai đề tài cơ bản của mình và là nhân vật được khắc họa đầy đặn, có tiểu sử, có nhiều tình

tiết. Nhân vật chính phải là người ở trong xung đột của tác phẩm, đại diện cho một phía của xung

đột tác phẩm, số phận của nó gắn liền với sự phát triển xung đột của truyện.

*. Nhân vật trung tâm :

Trong các nhân vật chính của tác phẩm lại có thể thấy nổi lên những nhân vật trung tâm xuyên

suốt tác phẩm từ đầu đến cuối về mặt ý nghĩa. Đó là nơi quy tụ các mối mâu thuẫn của tác phẩm, là

nơi thể hiện vấn đề trung tâm của tác phẩm. Nhận ra nhân vật trung tâm là rất quan trọng. Bởi lẽ

nhận ra được nhân vật trung tâm tức là chúng ta hiểu được vấn đề cơ bản của tác phẩm. Lại có khi

nhân vật trung tâm là nhân vật được nói đến, chứ không phải là nhân vật chính trong cốt truyện.

*. Nhân vật phụ :

Ngoài nhân vật chính, nhân vật trung tâm, còn có nhân vật phụ. Có nhân vật phụ ở bình diện hai,

có tính cách, tình tiết, lại có nhân vật phụ hàng thứ ba, chỉ thấp thoáng trong các tình tiết. Tuy vậy

vẫn không thể coi nhẹ nhân vật phụ. Bởi lẽ chúng chẳng những là một bộ phận không thể thiếu của

bức tranh chung, mà nhiều khi còn hàm chứa những tư tưởng quan trọng của tác phẩm.

1.4.2.3. Từ góc độ thể loại :

Nếu xét từ góc độ thể loại, có thể phân ra ba dạng : nhân vật tự sự, nhân vật kịch, nhân vật trữ

tình.

*. Nhân vật tự sự :

Nhân vật tự sự là nhân vật là nhân vật được miêu tả theo phương thức tự sự. Nhân vật này

thường xuất hiện trong các tác phẩm tự sự như tiểu thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, truyện thơ. Đây

là loại nhân vật có thể được miêu tả đầy đặn nhất, phong phú nhất và ít bị hạn chế.

*. Nhân vật kịch :

Nhân vật kịch là nhân vật được miêu tả theo phương thức kịch, chủ yếu xuất hiện ở trong kịch.

Vì kịch viết là để diễn nên bị hạn chế bởi không gian và thời gian; vì thế nên nhân vật kịch chỉ được

miêu tả ở những khâu xung đột căng thẳng nhất. Do đó nhân vật kịch giàu kịch tính, góp phần tạo

nên tính kịch ở vở kịch. Các nhân vật có tính kịch trong tự sự là loại nhân vật gần gũi với nhân vật

kịch.

*. Nhân vật trữ tình :

Nhân vật trữ tình là nhân vật được xây dựng theo phương thức trữ tình, trực tiếp thể hiện cảm

xúc, ý nghĩa trong tác phẩm. Nhân vật trữ tình thường xuất hiện dưới dạng phiến đoạn trong nhiều

thể loại khác nhau như : thơ trữ tình, bút kí, tùy bút... nhưng chủ yếu là trong thơ trữ tình và thường

được gọi là “cái tôi trữ tình”.

1.4.2.4 Từ góc độ chất lượng nghệ thuật :

Xét từ góc độ chất lượng nghệ thuật, người ta thường dùng cái khái niệm tính cách và điển hình

để chỉ những nhân vật được khắc họa rõ nét. Từ khái niệm nhân vật tới khái niệm tính cách và tính

cách điển hình là những mức độ khác nhau về chất lượng – tư tưởng nghệ thuật của sự thể hiện con

người trong tác phẩm văn học. Tính cách là những nhân vật đã được khắc họa có chiều sâu với

những đặc điểm tâm lí, diện mạo tương đối rõ nét, đủ định hình để nhận ra đặc điểm của nhân vật

đó. Tính cách đạt đến mức độ thật sâu sắc thì trở nên điển hình. Chỉ trong những tác phẩm xuất sắc

mới có những tính cách đạt đến trình độ điển hình.

1.4.2.5 Từ góc độ cấu trúc nhân vật :

Đứng từ góc độ này có thể chia nhân vật ra làm các loại: Nhân vật chức năng, nhân vật loại hình,

nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng.

*. Nhân vật chức năng :

Nhân vật này còn gọi là “nhân vật mặt nạ” là loại nhân vật thực hiện một số chức năng nào đó

trong tác phẩm. Các nhân vật chức năng thường được cấu trúc như một phương tiện, công cụ. Do

vậy phẩm chất nhân vật dường như không thay đổi từ đầu đến cuối . Đời sống nội tâm của nhân vật

cũng không được miêu tả. Loại nhân vật chức năng chủ yếu xuất hiện trong văn học dân gian và văn

học cổ trung đại.

*. Nhân vật loại hình :

Nhân vật loại hình là nhân vật mà ở đó có một nét tính cách được tô đậm trở nên tiêu biểu cho

loại người nào đó trong xã hội của những thời đại nhất định. Loại nhân vật này dựa trên cơ sở tập

trung miêu tả một nét tính cách nổi bật và thường là nét tính cách trở thành tên gọi của nhân vật.

*Nhân vật tính cách :

Đây là loại nhân vật có cá tính đầy đặn nhiều mặt. Nhân vật tính cách thường được xem như một

nhân cách. Có thể thấy nét khác nhau căn bản giữa nhân vật tính cách và nhân vật loại hình ở chỗ

một bên tính cách đa diện như một cá nhân, còn một bên chỉ có một nét tính cách được tô đậm

thành loại hình.

*. Nhân vật tư tưởng :

Là loại nhân vật giữ chức năng bộc lộ một tư tưởng, một quan niệm nào đó. Do vậy suy đến

cùng nhân vật tư tưởng cũng là một dạng của nhân vật chức năng. Nhân vật tư tưởng thường giữ vai

trò “cái loa” phát ngôn cho tư tưởng tác giả. Do đó loại nhân vật này rất dễ trở nên công thức minh

họa.

Trên đây là một số kiểu và loại nhân vật thường gặp. Cách phân chia ra các loại kiểu khác nhau

ở trên là tương đối. Trên thực tế không phải bao giờ cũng phân định nhân vật một cách rạch ròi như

vậy được : Tuy nhiên, việc phân chia này cho phép ta nắm bắt dễ dàng hơn, và từ đó thuận lợi hơn

trong việc tìm hiểu, phân tích nhân vật.

1.4.3. Các phương thức, phương tiện và biện pháp xây dựng nhân vật :

Như đã nói ở trên, nhân vật văn học chỉ xuất hiện qua sự trần thuật, miêu tả bằng phương tiện

nghệ thuật. Các phương thức thể hiện nhân vật hết sức đa dạng. Có thể nói văn học đa dạng đến đâu

các phương thức, phương tiện thể hiện nhân vật đa dạng đến đó. Dưới đây người viết xin trình bày

những vấn đề chung nhất về các phương thức, phương tiện này.

1.4.3.1.Chi tiết nghệ thuật :

Có thể thấy nhân vật trước hết được miêu tả bằng các chi tiết . Đó là những biểu hiện mọi mặt

của con người mà người ta có thể căn cứ để cảm biết về nó . Văn học dùng chi tiết để miêu tả chân

dung, ngoại hình, tả hành động, tâm trạng, thể hiện những quá trình nội tâm, thể hiện những mâu

thuẫn, xung đột, sự kiện. Có thể miêu tả nhân vật một cách trực tiếp, nhưng ,cũng có thể miêu tả

gián tiếp qua sự cảm nhận của mọi người xung quanh đối với nhân vật. Nhân vật cũng có thể được

thể hiện bằng các phương tiện khác của văn học như qua lời văn, kết cấu, loại thể. Những phương

tiện này càng làm phong phú thêm các phương thức khắc họa nhân vật.

1.4.3.2.Một phương diện khác cần chú ý là ở những loại hình nhân vật khác nhau có những

phương thức xây dựng khác nhau phù hợp với đặc điểm của loại hình nhân vật. Ngoài ra các thời

đại khác nhau cũng có những cách thức xây dựng nhân vật khác nhau. Có thể nói các biện pháp,

phương tiện xây dựng nhân vật rất phong phú. Sự đa dạng về loại hình nhân vật cũng đòi hỏi có

những phương thức miêu tả phù hợp. Tìm hiểu thế giới phong phú và đa dạng của nhân vật là cần

thiết, bởi lẽ qua đó sẽ hiểu được nội dung nghệ thuật mà nó khái quát

CHƯƠNG 2: PHÂN LOẠI VÀ ĐẶC ĐIỂM CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC, LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.

2.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên và tôn giáo:

2.1.1. Khái quát chung:

Có thể thống kê số lần xuất hiện của loại hình nhân vật siêu nhiên và tôn giáo như sau:

stt Tên tác phẩm Nhà sư Ghi chú

+ +

Truyện một giấc mộng

Truyện hai Phật cãi nhau 01 02 Trận cười ở núi Vũ Môn 03 Ngọc nữ về tay chân chủ Truyện hai thần hiếu đễ 04 05 Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc 06 07 Một dòng chữ lấy được gái thần 08 Chuyện cây gạo 09 Chuyện gã trà đồng giáng sinh 10 Chuyện đối tụng ở Long Cung 11 Chuyện nghiệp oan của Đào thị 12 Chuyện chức phán sự đền Tản Viên 13 Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên 14 Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào 15 Chuyện yêu quái ở Xương Giang 16 Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na Chuyện cái chùa hoang ở Đông Triều 17 Chuyện Lý tướng quân 18 Chuyện tướng dạ xoa 19 Thần cửa cờn 20 Tiên trên đảo 21 Phạm Viên 22 Tiên ăn mày 23 Thần giữ của 24 Thần đền Chiêu Trưng 25 Thần tiên + + + + + + + + + + + + + + + Đạ o sĩ + + + + + + + + + + + + +

Từ bảng thống kê, có thể thấy trong tồng số 84 tác phẩm mà chúng tôi khảo sát thì viết về loại

hình nhân vật này là 25 bài, chiếm 20 %. Điều này đã cho thấy hệ thống nhân vật siêu nhiên và tôn

giáo không chiếm số lượng nhiều như trước đây. Như vậy có nghĩa là thể loại truyền kì đến Thánh

Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã không đơn thuần chỉ có những nhân vật

bước ra từ văn học dân gian và văn xuôi lịch sử nữa. Những ông bụt, ông tiên trong truyện cổ tích

giờ đã nhường chỗ cho những con người bình thường, thậm chí những con người dưới đáy xã hội.

Trong số này nhân vật thần tiên xuất hiện nhiều ở Thánh Tông di thảo và Lan Trì kiến văn lục, còn

Truyền kì mạn lục thì nhân vật đạo sĩ lại chiếm số lượng đông đảo hơn. Điều đó cũng do tư tưởng

của các nhà văn chi phối. Lê Thánh Tông mượn hình ảnh của thần tiên đầy phép mầu để phù trợ

giúp mình trong việc trừ ma, diệt quỷ. Thời đại Vũ Trinh chế độ phong kiến xuống cấp trầm trọng,

nhà văn đưa hình ảnh thần tiên đến như để an ủi những số phận, những con người bất hạnh trong

cuộc đời. Với Nguyễn Dữ thì việc trả ấn từ quan quay về với chốn lâm tuyền giữ tâm hồn trong sạch

lại được gửi gắm qua hình ảnh người ở ẩn. Chính vì những điểm này mà hệ thống các nhân vật

trong tác phẩm được thể hiện đậm nhạt khác nhau. Tuy vậy, có thể nhận thấy điểm chung nhất là

loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã thể hiện những tư tưởng, quan niệm của các tác giả về con

người, về xã hội mà mình đang sống.

2.1.2. Loại hình các nhân vật thần tiên, đạo sĩ:

Người xưa quan niệm: thiên nhân tương cảm, ngụ ý con người và vũ trụ có mối tương quan với

nhau. Chính vì vậy văn chương thời trung đại thường mượn những hình ảnh của siêu nhiên để thể

hiện cách cảm nhận của con người về thế giới, “đã có một thời kì, cái siên nhiên xuất hiện trong một

hình thức truyện ở thế kỷ XV như một xương sống chi phối toàn bộ cốt truyện được gọi là truyền

thuyết và cổ tích” [25,tr.19]. Nếu như nghệ thuật nhân hóa là một phương thức được sử dụng để

nhà văn khoác cho nhân vật vật thể và phi vật thể một tính cách, một cuộc sống như con người, thì

có thể thấy phương thức thần kì hóa lại như là một cứu cánh cho nhân vật truyền kì có một sức

mạnh, một khả năng siêu nhiên. Và điều này có thể thấy rõ nhất qua hệ thống các nhân vật thần tiên,

đạo sĩ.

Loại hình nhân vật thần tiên, đạo sĩ trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến

văn lục ở một mức độ đậm nhạt mang màu sắc của Đạo giáo. Nhân cách, lối sống của các nhân vật

này đều chịu sự chi phối bởi quan niệm của người sáng tác. Nó trực tiếp quy định việc lựa chọn hệ

thống các yếu tố thi pháp miêu tả nhân vật. Đồng thời loại hình nhân vật này cũng cho thấy quan

niệm tam giáo đồng nguyên của người trung đại.

2.1.2.1. Loại hình các nhân vật thần tiên:

Thần tiên là một trong những hình tượng mang dấu ấn của truyện cổ tích khá rõ nét. Người đọc

một thời xa xưa đã quá quen với những ông bụt, ông tiên hiền lành ban phát niềm vui, hạnh phúc

cho những con người bất hạnh. Vì vậy loại hình nhân vật này bao giờ cũng dành được những tình

cảm ưu ái của nhân dân và của nhà văn.

Theo quan niệm văn hóa Phương Đông, con người lý tưởng xét về nguồn gốc là những con

người được vũ trụ, trời đất sinh ra. Trong đó thần tiên là những con người được kết tinh từ những gì

tinh túy nhất của vũ trụ. Và để xây dựng thành công kiểu nhân vật này các nhà văn chủ yếu đi sâu

vào việc miêu tả hình dáng, hành động với màu sắc thần kì, phi thường. Đầu tiên là ngoại hình:

dáng mạo nhân vật thường tuấn tú, thoát tục tiêu biểu cho cốt cách tiên gia. Chân dung của người

thần thổi địch trong Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc của Lê Thánh Tông được miêu tả: “Ta thấy người đó

trạc hai mươi tuổi, tóc xõa chấm vai, môi son mắt phượng, thoang thoảng có mùi hương chi lan.

Người đó đầu đội khăn vuông, mặc áo xanh, vận quần đỏ, ngang thắt lưng đeo một ống địch bằng

trúc” [117,tr.36]. Ở loại hình này vắng bóng việc miêu tả nhân vật bằng các chi tiết cụ thể. Bóng

dáng và trang phục được miêu tả mang tính ước lệ, tượng trưng nhưng người đọc vẫn có thể nhận ra

được tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Để thấy được sự siêu nhiên, khác người thường của thần tiên, nhà

văn chủ yếu đi sâu miêu tả nhân vật qua những hành động phi thường. Đầu tiên là ở khả năng đi lại

của nhân vật. Thần tiên đi lại bằng những con vật là biểu tượng cho sức mạnh của vũ trụ. Trong

Ngọc nữ về tay chân chủ, Lê Thánh Tông miêu tả nhân vật thần sông, thần núi đi bằng “cưỡi ngựa

vẫy vàng, rẽ nước bay lên”,“cưỡi xe hươu trắng đi thẳng lên cửa nhà trời”, hoặc “ trong ánh sương

mù thấy có một đám những tàn vàng kiệu ngọc bay lên trên không; kế lại có một cỗ xe nạm hạt

chân, kẻ theo hầu cũng rất chững chạc” [117,tr 114]. Cưỡi mây, cưỡi gió cũng là một phương tiện

đi lại thường thấy ở nhân vật thần tiên. Đặc điểm này cho thấy được tầm vóc vũ trụ, ngang với đất

trời của nhân vật. Nói tới sự phi thường, kì vĩ của loại nhân vật thần tiên, các tác giả đã kể ra khả

năng biến hóa khôn lường. Thoắt ẩn thoắt hiện hay thay đổi cảnh vật bằng phép thuật là tất cả

những đặc điểm thể hiện hành động kì vĩ của nhân vật. Đó là hành động hóa phép của thần sông,

thần núi trong Ngọc Nữ về tay chân chủ. Nhân vật ở đây thần thông quãng đại, phép thuật cao

cường, tạo nên sức hấp dẫn cho bạn đọc: “Xua tay lên quãng không, chỉ vào cung khuyết ở trước

mặt Ngọc Hoàng, lập tức biến thành gò núi. Có ngọn lờ mờ như Bích Phong, có chỗ rõ ràng như

Quần Ngọc, có chim đẹp bay đậu, có thú lạ lại qua. Không phải nhích đi một bước mà cảnh tượng

đã khác nghìn vạn lần. Một lát, quỷ khóc thần sầu, núi reo hang ứng, có hổ gầm gấu rống, có thứ

rắn mồm nuốt được con voi, có thứ chim cánh giương như mây phủ. Những người hầu chung

quanh, tai nghe mà tựa hồ không muốn nghe, mắt trông tựa hồ không dám trông” [117,tr. 85].

Tương tự là hình ảnh: “Thủy thần cũng thè lưỡi thổi phù. Bỗng vạn ngõ ngàn cửa biến thành biển.

Nước bạc vỗ trời, sóng to xoáy đất, sóng dâng một lớp, núi chìm ngập đỉnh ngàn tầm, côn nhảy ba

ngàn, nước dựng như trăm cây thước. Hoặc phun lửa như cá cờ, hoặc vuốt râu thành cơn mưa. Một

lát cá rồng vắng vẻ, buồm gấm hoa bay liệng cung trăng; mây sắc bao che, cung Bồng Lai lờ mờ

mặt nước” [117,tr. 86], hay nhân vật nữ trong Nhị nữ thần truyện: “cách đoán số thì chỉ khẽ bấm đốt

ngón tay mà đoán được giàu, nghèo, thọ, yểu, việc sinh tiền, việc tử hậu rất thần linh rõ năm, ngày,

tháng, giờ, chuyện còn mất, chuyện tử sinh…đều đúng cả” (tr 25). Những đặc điểm này đã tạo nên

tính cách kì lạ của thần tiên, chính điều khác thường ấy đã mang lại cho người đọc một cảm giác bí

ẩn, lạ lẫm và sợ hãi. Thông qua hành động phi thường này, có thể phần nào nhận ra đặc điểm về tư

duy con người trung đại. Con người thời trung đại xem hành động kì vĩ, phi thường là một trong

những yếu tố hàng đầu tạo nên tầm vóc vũ trụ của nhân vật. Đây cũng là cách để con người trung

đại giải thích những hiện tượng tự nhiên lúc bấy giờ, lúc mà những khoa học khám phá về tự nhiên

chưa hề có. Nguyễn Đăng Na đã nhận định về điều này: “Do chưa giải thích được nhiều hiện tượng

tự nhiên và xã hội đối với con người trung đại. Bên cạnh đời sống hiện thực còn có một đời sống

tâm linh phong phú với các vị thần, với những điều kì lạ siêu nhiên và một quan niệm sâu xa về thế

giới bên kia. Vì vậy việc phản ánh mặt kì lạ đó chẳng phải là cái gì đó xa lạ, phi hiện thực, trái lại

nó càng giúp chúng ta hiểu rõ hơn chiều sâu tâm hồn của con người trung đại” [68,tr737]. Ngoài ra,

với việc miêu tả tư thế, công việc của nhân vật, chúng ta có thể hiểu được đời sống của thần tiên:

“Có hai cụ già đang đánh cờ trên đó. Lại có đứa hầu nhỏ pha trà, trên phiến đá đầy la liệt tê

táo…..Hai cụ già vừa uống rượu vừa đánh cờ. Đến khi ván cờ gần tàn, vẫn ra vẻ không hay biết có

Lộc ở đó” [118,tr 30]. Hình ảnh này cho thấy một trạng thái ung dung, tự do, tự tại của nhân vật

Ngợi ca những tốt đẹp của nhân vật thần tiên, các tác giả không chỉ bàn về hành động kì vĩ, phi

thường của họ, mà còn ngợi ca họ ở khía cạnh nhân phẩm. Nói đến tài năng của loại hình nhân vật

này, đầu tiên phải kể đến đầu tiên tài sáng tác văn chương. Theo quan niệm của Nho gia, tài năng

văn chương là một trong những dấu hiệu bộc lộ khả năng thiên phú của nhân vật. Trần Nho Thìn đã

khẳng định: “Nếu dấu hiệu của hổ báo là các vằn đốm trên bộ lông, dấu hiệu của con phượng là sắc

lông sặc sỡ thì dấu hiệu của một thiên tài chính là văn chương” [112,tr 152]. Trong Hiếu đễ nhị

thần truyện, các thần vừa làm thơ vừa uống rượu, mỗi người ngâm lấy một bài thơ làm riêng cho

mình. Và cách làm thơ ở đây là để bình phẩm những bài thơ khác. Như vậy có thể thấy khả năng

sáng tác, đàm đạo văn chương cũng là tiêu chí để đánh giá tài năng nhân vật theo quan điểm của

người trung đại. Hơn thế nữa, qua thơ văn của một nhân vật, người xưa cho là còn có thể đánh giá

được phẩm chất cũng như năng lực hoạt động chính trị - xã hội của nhân vật đó.

Bên cạnh tài năng văn chương, lòng yêu thương con người là một trong những yếu tố cho thấy

nhân cách cao quý của thần tiên, “Điều này cho thấy sự tương thông giữa trời và người đã làm nảy

mầm cái thiện” [1,tr.44]. Giúp đỡ nho sinh là một hành động hiệp nghĩa dễ thấy ở nhân vật này. Đó

là sự giúp đỡ của thần tiên trong Hoa quốc kì duyên. Chàng Chu Sinh nhờ vào việc là cứ hai ba hôm

lại được đến gặp công chúa Hoa quốc một lần mà không cần ăn gì nhưng vẫn sống được: “Miệng

còn sặc hơi rượu, bụng vẫn còn no. Suốt ba ngày liền Sinh thấy mình vẫn no say như thế”

[117,tr.47]). Cũng có khi vị thần đó tiền thân là con người nhưng sau khi chết Thượng Đế xét thấy

có hiếu thảo nên phong cho làm thần. Những vị thần như thế cũng thường giúp đỡ thư sinh: “Hai

phong thư này em nên giấu kĩ. Đợi đến ba ngày trước khi vào phòng thi, xem chữ ghi ở trên, bắt

cháu học thuộc lòng, và có thể đỗ nhỏ đấy. Luật trời rất nghiêm, nếu để lộ cho người ngoài biết thì

hai bên đều bị tội nặng” [117,tr 94]. Và quan tâm đến những kiếp người ở tầng lớp dưới. Trong

truyện Tiên ăn mày của Vũ Trinh, mượn câu chuyện từ dân gian, nhà văn đã cho thấy người nông

dân hiền lành, chất phác, thương yêu con người đã được thần tiên tặng thưởng xứng đáng. Trong khi

đó những con người lừa dối, tham lam thì cuối cùng phải nhận những hình phạt thích đáng. Từ đó

nhà văn gửi gắm đến người đọc một bài học: ở đời đừng tham lam, độc ác và hãy sống thật với bản

chất của mình. Không chỉ giúp đỡ người học trò, anh nông dân nhân vật thần tiên còn được ngợi ca

ở tinh thần giữ gìn tài sản cho dân. Tác phẩm Thần giữ của của Vũ Trinh là một trong những kiểu

như vậy: “Dưới này chôn cất nhiều vàng bạc. Ta là thần giữ của. Nếu anh không chịu đi ngay thì tai

họa không nhỏ đâu” [118,tr 92]. Như vậy có thể thấy phẩm chất của loại hình nhân vật này bộc lộ

chủ yếu ở khía cạnh tình cảm của họ với nhân dân. Phải chăng điều này cũng giúp lý giải tại sao con

người trung đại thường xuyên nghĩ về một đấng tối cao nào đấy khi họ gặp thất bại hay buồn phiền.

Niềm tin của họ vào một thế lực siêu nhiên cũng giúp họ giữ mình sống trong sạch để không bị thần

linh trách phạt. Qua những tác phẩm truyền kì này có thể phần nào hiểu thêm về đời sống tâm linh

của con người trung đại. Mặt khác nhân vật thần tiên này cũng là mảnh đất lý tưởng để các tác giả

thay lời nhân dân bộc lộ những nguyện vọng, những ước mơ về cuộc sống, điều mà trong thực tại

con người không thể đạt được và phải tự an ủi mình bằng cách tìm đến với thế giới của thần tiên.

Ngoài ra một trong những nội dung khiến cho nhân vật thần tiên trong Thánh Tông di thảo,

Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục khác với kiểu thần tiên trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam

chích quái là họ cũng có đời sống tình cảm, tính cách như con người. Vương quốc của thần tiên

tưởng như không có bóng dáng của con người trần tục, thì nay đã thấy thấp thoáng. Nói khác đi thần

tiên đã được trần tục hóa. Họ cũng cần tình yêu, cũng có những khát khao hạnh phúc, tiêu biểu là

Giáng Hương trong Truyện Từ Thức lấy vợ tiên. Khi đã kết nghĩa phu thê với Từ Thức, Giáng

Hương trở nên “màu da hồng hào, chứ không khô gầy như trước nữa” [23,tr 105]. Hay trong Nhị nữ

thần truyện, hai nhân vật nữ ở đây tuy là thần nhưng vẫn mang những tình cảm, nguyện vọng và

phải đau khổ như con người. Cả hai cùng biết yêu thương, cùng nguyện thủy chung với chồng con,

để rồi cùng khổ đau, buồn bã như người phàm tục. Ngọc Hoàng trước nay vốn được xem là đấng

anh minh, tối cao nhất, tuyệt mỹ nhất và đặc biệt là được “trường sinh bất tử”. Vậy mà Ngọc Hoàng

trong Vũ môn tùng tiếu, Ngọc nữ về tay chân chủ cũng có lúc già nua. Điều này đã khẳng định một

chân lý: bất kể ai dù đó là Ngọc Hoàng cũng không thể thoát khỏi quy luật của tạo hóa: tuổi trẻ qua

đi, già nua và cái chết sẽ đến như một tất yếu. Tệ hơn, Ngọc Hoàng cũng có lúc nhầm lẫn, mê muội

trước những lời khoe khoang của kẻ khác: “nếu ngươi không nói ra, trẫm sẽ bị khoe khoang làm mê

hoặc” [23,tr 8]. Nếu thế giới của nhân vật thần tiên trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là

“vùng đất “tịnh thổ”, “nơi các cám dỗ vật chất, những dục vọng nhất là sắc dục của thế giới phàm

tục bị truy đuổi một cách gắt gao” [112,tr 160] thì nhân vật thần tiên ở đây lại được thể hiện cả ở

những mặt tiêu cực của nó. Sơn thần và Thủy thần trong Ngọc nữ về tay chân chủ đều là những kẻ

tự kiêu, tự đại: “Núi là cao, hơn hết mọi nơi. Phượng lâu trúng tuyển, không ta thì ai? (….)Ở nhà, ta

là chúa của điểu thú, ra ngoài ta là Phò mã của Ngọc Hoàng, tôn quý biết dường nào” hoặc “nước

chảy chỗ trũng, việc thường xưa nay. Bình phong bắn sẻ không ta thì ai. (….)dưới nước thì các loài

thủy tộc là thần thiếp của ta, trên trời ta lại làm chủ nhân của Đế nữ, hiển vinh biết nhường nào”

[117tr 84-85]. Các vị thần trong Nhị nữ thần truyện cũng ganh ghét, gian dối như con người trần

tục: “Bốn tháng trước hai thần núi Trương Sơn và Trĩ Sơn vu cáo tội lỗi cho thân phụ thiếp. Thượng

đế trao bản án cho động Hoa Lư xét xử. Chủ động toàn nghe lời gian dối của hai thần kia” [117,tr

177].

Cách thức trần tục hóa thần tiên đã kéo những hình tượng của tín ngưỡng tôn giáo từ trên “bảo

tọa” xuống với người đời. Đầu tiên các nhà văn khẳng định đấy là thần tiên rồi sau đó mới phú cho

nhân vật này những đặc điểm như con người. Người đọc bắt gặp những nét kì lạ, phi thường cũng

như những hành vi đời thường của nhân vật. Chính cách viết từ hư đến thực, từ thần kì đến phàm

tục sẽ làm cho sức truyền cảm của nhân vật cao hơn. Đồng thời với cách viết này, các nhà văn dễ đi

vào những miền cấm kị của tôn giáo, vùng đất mà trước nay chưa có ai đào xới.

2.1.2.2. Loại hình các nhân vật đạo sĩ:

Bùi Duy Tân đã có nhận xét về văn chương nhà Nho thế kỉ XVI, XVII: “Lực lượng sáng tác thời

kì này chủ yếu là người ẩn sĩ, những người đã rút lui khỏi triều đường, hoặc chưa từng ra làm quan,

sống ẩn dật nơi thôn dã. Họ là những người tuy không còn mong thực hiện lý tưởng tu, tề, trị, bình

của kẻ sĩ nhưng giữ được tấm lòng trong sạch” [130,tr143]. Có thể nói đối với những nhà nho chọn

con đường ẩn dật thì tư tưởng Lão –Trang hấp dẫn hơn tư tưởng Phật giáo. Bởi lẽ Lão Trang khuyến

khích tìm tự do, lạc thú ở thiên nhiên, ở cuộc sống yên bình, vắng bóng lợi danh, tiền tài, quyền lực,

“đã khép áo, lui chân, người ẩn dật trong trạng thái đối diện với chính mình thường xuyên đã lần

lần tiếp nhận ảnh hưởng của Lão Trang, của Thiền” [130,tr144].

Tuy vậy nói về nhân vật đạo sĩ, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục trước hết là ngợi ca tài năng của họ. Khả năng xuất quỷ nhập thần là một trong những

khả năng quan trọng của một đạo sĩ. Bởi từ khả năng này họ mới có thể hành đạo giúp đời. Nếu

nhân vật thần tiên phi thường qua chân dung, hành động thì nhân vật đạo sĩ lại khác người ở tài

năng. Đấy là một đạo nhân xuất hiện chỉ trong chốc lát: “ông mới sực nhớ đến lời đạo nhân, bèn

theo như cách đã dặn mà gọi tên ông ta. Thoắt chốc quả thấy một cỗ xe mây bay đến, đứng dừng lại

ở trên không” [117,tr46]. Không chỉ vậy, đạo sĩ còn có phép thần thông, hô phong hoán vũ. Với khả

năng khác người thường ấy, nhân vật đạo sĩ dễ dàng hơn trong việc diệt trừ yêu ma, bảo vệ dân

lành. Nhân vật trừ ma trong Chuyện cây gạo là một ví dụ điển hình. Sau khi Trình Trung Ngộ vì yêu

ma mà chết đi, chúng cùng nhau trở về “làm yêu làm quái” và “hễ ai động đến cành lá cây gạo thì

dao gẫy, rìu mẻ, không thể nào đẵn phạt được” [117,tr 35]. Năm Canh Ngọ (1330), niên hiệu Khai

Hựu nhà Trần, một đạo sĩ thấy cảnh ấy đã ra tay cứu giúp: “Đạo nhân họp với người làng, lập một

đàn tràng cúng tế, viết ba đạo bùa, một đạo đóng vào cây gạo, một đạo thả chìm xuống sông, còn

một đạo đốt ở giữa giời; đoạn phát to lên rằng: Những tên dâm quỷ càn dỡ đã lâu, nhờ các thần

linh, trừ loài nhơ bẩn, phép không chậm trễ, hỏa tốc phụng hành” [117,tr 36]. Đó còn là khả năng

biết trước được mọi việc và giúp đỡ người nho sĩ để họ tránh được những tai ương, phiền toái: “Ông

làm tể tướng, kể thì không có lỗi lầm gì. Chỉ có rằng tại chức lâu ngày, hay yêu người này ghét

người khác. Nay thì sự thù oán đã sâu cay lắm, hồn oan đã đầy dẫy ở ngoài đường rồi” [117,tr 44].

Đạo sĩ thường là những người có thể hóa thân thành người khác. Đó có thể là người “khăn cũ giầy

rách, ăn mặc lôi thôi đi vào” hay là lão tiều phu đốn củi, người giả dạng đi xem bói. Dù xuất hiện ở

dạng nào họ cũng có thể trừ được yêu ma: “Người ấy lấy một đạo bùa ném ra, người con gái liền

ngã bổ nhào xuống đất thành ra một đốt xương trắng” [117,tr 125]. Như vậy điều đầu tiên có thể

thấy ở nhân vật này là khả năng diệt trừ yêu ma của họ. Đây là công việc không phải bất cứ ai cũng

có thể làm được.

Không chỉ đề cập đến tài năng của các đạo sĩ, các tác giả còn ngợi ca đức độ của họ. Đó là sự vô

tư, không tính toán lợi lộc với nhân dân: “Người làng đem rất nhiều tiền của để tạ ơn vị đạo nhân

nhưng đạo nhân phất áo đi vào non sâu, không lấy một tí gì cả” [1177,tr 37]. Đó cũng là cách hành

xử của vị đạo nhân vì tình nghĩa mà ra lời khuyên ngăn Thiên Tích chứ không vì vàng bạc: “Đạo

nhân nói như vậy đến mấy nghìn lời, đều ngụ cái ý khuyên răn cả. Ông Dương rất vui vẻ nghe theo.

Sáng hôm sau trong lúc lâm biệt, ông đem 10 đĩnh vàng tốt để tiễn chân. Đạo nhân cười mà rằng:

Hà tất như thế để làm gì! Tôi chỉ khuyên ông cố làm điều lành, để tôi khỏi trở lại gặp ông lần nữa,

đó tức là ông đã cho cố nhân nhiều lắm” [117,tr 45]. Là đạo nhân đi đây đi đó trừ yêu ma cứu

người, nhân vật được miêu tả thường không mang màu sắc dục vọng. Họ gắn liền với hình ảnh xuất

hiện trừ bạo xong rồi lại phất áo ra đi, không màng gì đến ơn nghĩa: “Lũ mày đắm đuối, nghiệp

chướng nặng nề, biết thủa nào thôi! Sao không rửa ruột đổi lòng, quay về đường chính. Ta sẽ tâu

lên Thượng Đế, tẩy hết những oan hồn đi cho. Chúng quỷ nghe nói đều sung sướng nhảy nhót rồi

trong chốc lát tan giãn đi cả. Ông Dương khẩn khoản khuyên mời xe tiên giáng xuống để được hỏi

han mọi việc sau, nhưng trong thoắt chốc đã không thấy gì nữa” [117,tr 46]. Họ luôn thiên về đời

sống tinh thần, cốt sống cho tâm hồn mình thanh thản, không thấy xấu hổ với cuộc đời. Họ sống tiêu

dao cùng với thiên nhiên: “Trong am đặt một cái giường mây, trên tường để đàn sáo và chiếc gối

dựa. Hai bên bức vách đông tây đề hai bài ca, một bài “Thích ngủ”, một bài là Thích cờ” [118,tr

134 – 135].

Có thể thấy yếu tố thần kì đã được thể hiện rõ qua hai loại hình nhân vật thần tiên và đạo sĩ. Hai

loại hình nhân vật này phản ánh một thực tế là: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì

kiến văn lục cũng chịu không ít ảnh hưởng của Đạo giáo mà chủ yếu là tư tưởng Lão Trang, mặc dù

cả ba nhà văn này đều là Nho gia. Nhân vật đạo sĩ có thể nói là hình mẩu lý tưởng về một người có

thể trừ yêu, diệt bạo mang lại một cuộc sống yên bình cho nhân dân.

2.1.2.3. Thái độ đối với Đạo giáo của các tác giáo:

“Khi gặp thời thì dựa vào Nho, khi thất thế thì theo Đạo, lúc cùng quẫn thì đi theo Phật. Và

trong mối quan hệ bộc lộ một khía cạnh của cái tôi cá nhân, con người” [103,tr15]. Chính vì vậy ở

thời trung đại có khi Phật giáo là quốc giáo, lại có lúc Nho giáo thịnh hành, lên ngôi và cũng có giai

đoạn Đạo giáo ảnh hưởng nhiều đến văn chương. Điều này được thể hiện khá rõ ở Thánh Tông di

thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Bên cạnh ảnh hưởng của Nho giáo và Phật giáo, ba

tác phẩm truyền kì trên còn chịu ảnh hưởng không ít của Đạo giáo. Trong đó đề cao tư tưởng phóng

dật của Đạo giáo là một trong những biểu hiện thấy rõ nhất của các tác phẩm. Các tác giả cùng xuất

phát từ quan niệm cuộc đời như phù vân, đời người như bóng câu qua cửa sổ, danh lợi thật mong

manh và dễ vỡ như sương khói nên chủ trương thoát tục. Do vậy thuyết vô hình của triết thuyết Lão

Trang đã bổ sung cho họ một tinh thần phóng túng, tự do, một màu sắc lãng mạn, thi vị. Lãng bạc

phùng tiên có thể xem là minh chúng tiêu biểu cho điều này. Qua tác phẩm, tác giả đã ngợi ca lối

sống nhàn tản, tiêu dao của nhân vật: “Bấy giờ đang mùa hạ tháng năm, hoa sen nở rộ, vừng trăng

soi sáng giữa trời. Ta sai tiểu tốt chèo chiếc thuyền tam bản, trong thuyền đặt một bầu rượu, nhằm

chỗ có nhiều hoa sen nhất mà bơi đến. Khí nóng đã dịu, lòng trần lâng lâng, ta ở trong thuyền

ngâm lên rằng:

Con thuyền vui dạo cảnh ban chiều

Lơ lửng từng không bóng nguyệt treo

Mình ở trên hoa, mình thấy nhẹ.

Một mình hào khí nước trong veo” [117,tr134].

Lê Thánh Tông là một ông vua song ở tác phẩm này vẫn khẳng định rằng ngôi vị cửu ngũ chí

tôn thua xa cuộc sống lạc thú của thần tiên. Một cánh hoa tàn, một nhành hoa mới nở hay âm thanh

du dương của tiếng sáo cũng khiến nhà vua xao xuyến bồi hồi. Lối sống ngao du sơn thủy này được

nhắc đến nhiều trong Truyền kì mạn lục. Có lẽ đến thời của Nguyễn Dữ, Đạo giáo đã có ngôi vị hơn

so với thời Lê Thánh Tông. Đó là lão tiều phu trong Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na:

“Núi có cái động, dài mà hẹp, hiểm trở mà quạnh hiu bụi trần không bén tới chân người không

bước tới. Hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu cốt

được no say chứ không lấy một đồng tiền nào” [23,tr 132]. Đạo sĩ thường là những con người đi

đây đi đó, hưởng thụ cuộc sống thiên nhiên với không gian của núi rừng, của đồng quê: “Bèn cởi trả

ấn tín, bỏ quan mà về. Vốn yêu cảnh hang động ở huyện Tống Sơn, nhân làm nhà tại đấy để ở.

Thường dùng một thằng nhỏ đem một bầu rượu, một cây đàn đi theo, mình thì mang theo mấy quyển

thơ của Đào Uyên Minh hễ gặp chỗ nào thích ý thì hý hửng ngã rượu ra uống” (tr 101). Họ sống ở

đấy và thoát tục không màng đến thế sự. Nhận ra được sự thanh thản trong tâm hồn là đích đến của

cuộc đời, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng đi sâu

ngợi ca cảnh lạc thú của tiên giới. Gắn bó với cuộc sống cảnh bồng lai, kiểu nhân vật này nhận ra

những vẻ đẹp ở nơi tiên cảnh: “Chàng biết sao được. Đây là núi Phù Lai, một động tiên thứ 6 trong

36 động, bồng bềnh ở ngoài bể cả, dưới không có bám bíu, như hai núi La Phù tan hợp theo với gió

mưa, như các ngọn Bồng Lai, co duỗi theo với sóng giợn, mà tôi tức là địa tiên ở Nam Nhạc là

Ngụy phu nhân. Vì thấy chàng là người cao nghĩ sẵn lòng cứu giúp sự nguy khốn cho người, nên

mới dám làm phiền mời chàng đến đây” [23,tr 103]. Chính vì nhận ra những cảnh lạc thú ở chốn

thần tiên là tuyệt đỉnh, cho nên nhân vật mong muốn học tập cách thức tu tiên để thành tiên hoặc

biết được phép thuật của thần tiên: “rồng hổ quấn vạc, đao khuê vào miệng, giữa ban ngày mọc

cánh bay cao, tuy quên đời tự cao, nhưng đối với thời thì vô dụng. Huống chi lúc bẩm sinh đã có

sẵn thanh cốt, khi thành hình lại giữ trọng linh cơ, tất nhiên ngũ quan không tập thói xa hoa, chín

vạc mới thành công tu luyện. Nhưng đã trót sa xuống giếng trần, pha nhiều niềm tục, cho nên chưa

thể thoát hình biến hóa bay lên ngay giữa ban ngày. Những bậc như thế xưa nay đã hiếm lắm rồi.

Đại để chỉ có những người núi sông chung đúc, hoa cỏ kết tinh, khi đến có nguồn gốc, khi đi có

duyên cớ, chết thì vía để dưới đất, thần lên trân trời” [117,tr 141]. Trong Lan Trì kiến văn lục, Vũ

Trinh cũng đã hơn một lần nói đến cách thức tu tiên: “Ông thường đọc Liệt tiên truyện, trong lòng

hâm mộ các bậc tiên thánh, liền bỏ cả sách vở, chuyên luyện thuật tu tiên. Lâu dần ông học được

phép tiên”[118, tr 34].

Có thể thấy do chịu ảnh hưởng sâu sắc từ tư tưởng thoát tục của Đạo giáo nên trong cả

ba tập truyện Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục có hình ảnh con

người quay lưng lại với thực tại để tìm kiếm hạnh phúc trong cõi mộng, chốn thần tiên. Chàng Chu

Sinh mục đích đến Hoa quốc là để thực hiện mối duyên với công chúa bướm theo lời hẹn ước của

cha mẹ. Do đó chàng đã lạc vào cõi mộng và những ngày đi lại với thần ấy chàng không ăn gì mà

vẫn có cảm giác no say. Và cuối cùng chàng đã từ bỏ tất cả bổng lộc của triều đình, chức tước, để

trở về hòa nhập với thế giới thần tiên trong cõi mộng. Nơi đó có ngôi vương chủ, có vợ đẹp và đứa

con ngoan đang đợi chàng. Dường như con người ở đây quá khát khao hạnh phúc trong cõi mộng

nên sẵn sàng đánh đổi mọi thứ, kể cả cuộc sống của họ nơi thế giới trần tục này. Muốn lấy vợ,

chàng trai trong Ngư gia chí dị đã đến với cõi lạ bằng thuật rút đường. Từ đó chàng đã cưới được

Ngọa Vân – một người có thân thế rất thần kì. Đó cũng là hình ảnh của anh học trò nghèo trong

Nhất thư thủ thần nữ cố gắng tu luyện để thành tiên. Và để làm được việc này chàng thư sinh phải:

“vào trong nhà, dạy học như cũ, giữ mình chay tịnh để đợi tin tức” [117, tr 179]. Điều này cũng cho

thấy khát khao được sống ở một thế giới lạ khác với thế giới trần tục. Do vậy dù tu tiên có khó khăn,

gian khổ, con người vẫn không ngại vượt qua: “Đến bến thì mây mù dày đặc. Dưới sông biết bao

loài thuồng luồng ba ba rắn rết, kỳ quái không hình dung nổi. Suối rộng đến mấy trượng, bơi

không nổi”[118,tr 36]. Con đường tu luyện thành tiên rất gian khó, nguy hiểm, đòi hỏi bản lĩnh cao

và Phạm Viên luôn kiên trì cố gắng. Có thể thấy hành trình đến với “cõi lạ” của các nhân vật có

những hình thức và mục đích khác nhau. Khát vọng của con người trần tục không chỉ là đạt đến

hạnh phúc trong cõi mộng, mà còn là được kết hôn với thần tiên. Đó là mối duyên giữa cô gái hiếu

thảo với vị thần tiên đội lốt dê trong Chuyện chồng dê. Trong Hoa quốc kì duyên cũng vậy, đấy là

mối tình giữa chàng nho sinh nghèo khó với công chúa Hoa quốc, và cuối cùng chàng đã từ bỏ công

danh ở chốn trần gian để sống với công chúa mãi mãi. Bên cạnh đó còn có thể kể mối tình của Từ

Thức với Giáng Hương. Từ Thức sau khi lạc vào cõi tiên đã kết duyên cùng tiên nữ. Mối tình này

cũng cho thấy một chân lý ở đời: không chỉ con người cần có tình yêu mà ngay cả thần tiên cũng

cảm thấy bất hạnh, khổ đau nếu họ không được sống trong tình yêu.

Thái độ đối với Đạo giáo còn được các tác giả thể hiện qua việc sắp đặt, an bài những cuộc gặp

gỡ, giao du với con người thông qua những giấc mộng kì lạ. Điều này thấy rõ ở Mộng kí, câu

chuyện kể về hai người con gái đến kêu oan với Lê Thánh Tông trong giấc mộng. Đồng thời đây

cũng là cách mà nhà vua gặp gỡ với vị tiên thổi địch. Thái độ tôn trọng Đạo giáo được thể hiện rõ ỡ

chỗ các nhân vật luôn tôn thờ và làm theo những gì mà các vị tiên đã dặn. Sự giúp đỡ của vị đạo

nhân trong Truyền kì mạn lục luôn được mọi người ngưỡng mộ, làm theo.

Từ chỗ xuất hiện của nhân vật Đạo sĩ cùng với những tư tưởng của Đạo giáo, chúng tôi đi đến

một nhận định: triết lý sống phóng khoáng cùng với cái nhìn thoát tục gần gũi với thiên nhiên của

Đạo giáo đã thực sự hấp dẫn các nhà văn. Điều này đã chứng tỏ rằng: những nhà Nho chân chính

cũng ưa chuộng Đạo giáo và thừa nhận những mặt tích cực của nó đối với con người.

2.1.3. Loại hình các nhân vật nhà sư:

Thời trung đại văn học được đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với sử và triết, hình thành nên quan

niệm văn sử triết bất phân. Dù vậy văn học là một lĩnh vực ý thức về đời sống con người. Do đó sẽ

sai lầm nếu chúng ta quy con người trong văn học vào các ô có sẵn của triết học. Cho nên văn học

chịu ảnh hưởng sâu sắc của các phái triết học nhưng không đồng nhất với chúng. Con người theo

đạo Nho là con người của đạo đức, chính trị, nghĩa vụ. Còn Đạo Lão chỉ đề cao tính chất tự do, tự

tại của con người. Trong khi đó Phật giáo cho rằng: cuộc đời là bể khổ, con người trầm luân trong

bể khổ đó và dứt được cái khổ tức là giải thoát. Khác với việc miêu tả thần tiên, đạo sĩ, nhân vật nhà

sư thường được các nhà văn đặc tả ở những tật xấu, những hạn chế của họ. Trước khi đi sâu làm rõ

những tiêu cực của Phật giáo đã được các tác giả phê phán, chúng tôi xin trình bày một số quan

niệm của các tác giả về nhà Phật – những quan niệm này đã được thể hiện trong tác phẩm.

Theo quan niệm của nhà Phật thì con người có kiếp trước kiếp sau. Cho nên kiếp sau là kết quả

của kiếp này. Đó chính là hoàn cảnh của chàng dê trong Dương phu truyện. Lời thanh minh của

chàng trai đội lốt dê với người con gái đã thể hiện rất rõ quan niệm luân hồi của nhà Phật: “Ta

không phải ma quỷ, cũng chẳng phải yêu tinh, mà chỉ là một viên quan đánh xe cho Ngọc Hoàng,

không may trượt chân đánh vỡ viên ngọc “sa kim”. Ngọc Hoàng nổi giận đày xuống hạ giới mười

năm. Còn nhớ ta cùng nàng thường gặp nhau ở Hạnh Hoa Viên, vốn có duyên cũ, nên đội lốt dê

trắng theo về, việc gì mà sợ” [117,tr 98 – 99]. Và anh đồ nghèo trong Nhất thư thủ thần nữ : “vốn

kiếp trước đã từng làm chức thị thư cho chủ động Hoa Lư và rất được tin dùng” [117tr 77, 78].

Trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh cũng tương tự,“Thiên Tích trươc vốn là một gã trà đồng của

đức thượng đế” [117,tr 43]. Từ cách nghĩ có kiếp trước kiếp sau nên nhân vật trong Nhớ ba kiếp đã

vô cùng đau khổ khi nhìn thấy kiếp sống trước kia của mình. Chính vì quan niệm có kiếp trước kiếp

sau nên kiếp này tích luỹ được nhiều phúc đức thì kiếp sau sẽ hạnh phúc, sung sướng, ngược lại nếu

kiếp trước gây ra quá nhiều nghiệp chướng thì chắc chắn phải chịu sự đọa đày, đau khổ ở kiếp này.

Đó chính là quan niệm báo ứng của nhà Phật. Quan niệm này đã quá quen thuộc đối với con người

Việt Nam với một triết lý sống bao đời nay cuả dân tộc: “nhân nào quả ấy”. Nguyễn Dữ cũng đã

luận bàn đến thuyết báo ứng của nhà Phật trong Truyền kì mạn lục. Dương Trạm đã khẳng định:

“trồng dưa được dưa, trồng đậu được đậu” hoặc vị đạo sĩ nhận xét: “Báo ứng dù chậm nhưng lớn

lao….Tuy rằng khó biết sâu xa, nhưng thực không sai tơ tóc” [23,tr 117]. Quan niệm này cũng được

nói đến ở nhân vật Lý tướng quân: “Nay tướng quân có dữ mà không có lành, khinh người mà trọng

của, mượn oai quyền để làm bạo ngược, buông tham dục để thỏa ngông cuồng, đã trái lòng trời, tất

bị trời phạt, còn cách nào mà trốn khỏi tai vạ” [23,tr 186]. Không những vậy triết lý sống này cũng

được phát biểu trực tiếp, rõ ràng: “Điều thiện ác tích lâu sẽ rõ, sự báo ứng không sai chút nào”

[23,tr 186]. Kiếp sống này của tướng quân làm quá nhiều điều ác nên sẽ bị trừng trị ở kiếp sau: “Lý

trông xem thấy trong đó có lò lửa, vạc sôi, bên cạnh có những người đầu quỷ ghê gớm, hoặc cầm

thừng chảo, hoặc cầm da cưa, mình thì đương bị gông xiềng, bò khúm núm ở bên vạc dầu, lấm lét

sợ hãi” [23,tr 186]. Hình ảnh cóc và ếch trong Thiềm thừ miêu duệ ký cũng là biểu hiện tiêu biểu

cho quan niệm báo ứng của nhà Phật. Nếu con cóc luôn chăm chỉ làm việc thiện mang lại lợi ích

cho mọi người nên ai cũng thương không nỡ giết, thì ếch lại hiện lên trong sự độc ác, hoang dâm,

bạo ngược nên “người ta ghét ếch lắm, rủ nhau đi bắt, đem về chặt đầu, lột da, dùng các vị cay nấu

thành món ngon” [117,tr16]. Chính vì ở ác nên ếch phải nhận lấy cái chết thảm hại cho mình. Bên

cạnh đó, cha ông ta cũng từng quan niệm ai mà lúc sống luôn làm điều tốt, có nhiều phúc đức thì khi

chết đi sẽ được trời đất ban thưởng xứng đáng, ngay cả việc có thể hồi sinh trở lại: “Nhà ngươi ngày

thường vốn có tiếng là người lương thiện. Thượng đế khen ngợi, ban cho một người con trai tốt và

cho sống lâu thêm hai kỷ nữa. Nên mau về đi mà cố gắng làm điều ân đức, đừng bảo là trên cõi

minh minh không biết gì đến” [23,tr 39]. Điều này cũng nhận được sự đồng tình của tác giả Thánh

Tông di thảo trong Hiếu đễ nhị thần truyện. Sau khi người anh chết đi: “Thượng Đế thương tình anh

trong đời sống thờ cha mẹ không phạm lỗi gì, mà tiền thân lại không có vị lộc, nên phong làm thần

ở Sơn Âm” [117,tr 93]. Không chỉ người anh mà người em cũng thế vì trong sổ Nam Tào đã ghi rõ

người em thờ cha cũng hiếu thuận giống như anh đã làm lúc sinh thời: “nuôi cháu như con, tình hữu

ái như do tấm lòng thành thực nên cũng được phong làm sơn thần Sơn Dương, ngàn thu khói

hương, muôn năm cúng tế” [117,tr 93]. Đây chính là những phần thưởng dành cho những con người

nhân nghĩa, chân chính, thật thà. Một trường hợp khác tương tự cũng được nói đến trong Trần nhân

cư thủy phủ. Sau khi người tôi trung ấy chết đi, “Thượng Đế thương là người trí và trung, cho phục

chức cũ. Đội ơn Ngọc Hoàng phê có một câu rằng: “Biết chân nhân ở Bạch Thủy, đáng khen Mã

Viện trí minh; liều tử chiến ở Thục Đô, lại giữ Nghiêm Nhan cao tiết” [117,tr 117]. Tuy nhiên cũng

cần nói thêm rằng, bản thân nhà văn có khi cũng không tin lắm vào thuyết báo ứng. Nguyễn Dữ cho

rằng: người “có hạnh mà nghèo” còn kẻ “bất nhân mà khá”, lũ “cúi đầu khom cật, dù hèn hạ cũng

cất nhắc lên; đứa hoạt thằng gian, nhờ đút lót mà được thoát khỏi”, hay đoạn “kẻ làm thiện thường

phải chết về đao binh, kẻ làm ác lại được chết trong nhà cửa. Đạo trời để đâu không biết” [23,tr

187].

Nổi bật hơn hết trong các tác phẩm là thái độ phê phán Phật giáo. Điều này có thể giải thích từ

hai nguyên nhân. Một là: bản thân các nhà văn này đều là những nhà Nho, họ nhìn nhà sư với con

mắt đầy thị phi. Hai là: phải chăng bản thân tôn giáo này cũng có thể đã xuất hiện những mầm mống

tiêu cực, do vậy nó trở thành điểm nóng để các nhà văn bàn luận trên trang giấy.

Như đã biết Phật giáo du nhập vào nước ta sớm hơn Lão và Nho. Khi vào Việt Nam, đạo Phật

cũng đã nhanh chóng nhận được những tình cảm của nhân dân. Có lẽ vì tôn chỉ của Phật giáo đặt ra

là: hướng con người đến với cái thiện và điều này đã bắt được mạch nước ngầm của truyền thống

dân tộc Việt Nam. Mặt khác nếu đạo Nho là đạo của những người trí thức – của tầng lớp quan lại và

nho sinh thì đạo Phật lại là đạo của đa số quần chúng nhân dân. Do vậy nó dễ dàng lan tỏa trong

cuộc sống người Việt. Tuy nhiên có một số tín đồ đã đi ngược lại với tiêu chí của nhà Phật để làm

những việc trái với đạo lý làm người ở đời. Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục, đặc biệt là

Truyền kì mạn lục đã cho thấy hình tượng những nhà sư biến chất, đánh mất đi nhân cách tốt đẹp

của đệ tử nhà Phật. Các tác giả đã đi sâu vạch trần những hành động sai trái của bọn đội lốt thầy tu.

Đó là những hành vi tham lam, tị hiềm ganh ghét nhau. Tiêu biểu có thể kể đến Lưỡng Phật đấu

thuyết ký của Lê Thánh Tông. Khi lũ lụt, dân làng khốn đốn, Phật gỗ và Phật đất không chỉ là những

kẻ tham lam bổng lộc mà còn là những kẻ ganh ghét nhau, tranh giành lộc vị: “Ta nghĩ: trước ngươi

đã bị cảnh ngộ nhường ấy, nay còn mặt mũi nào dám ở trên ta mà hưởng lộc ba phẩm nữa” [117,tr

18]. Đó là lời của Phật bằng đất, còn Phật gỗ thì cũng phát khùng lên nói rằng: “Khi ở trên dòng

nước lũ, ta trông về cảnh chùa mà thương thay cho nhà ngươi gặp bước truân chuyên. Nước đến

chân thì chân ngươi nát rữa, nước đến bụng thì bụng ngươi vỡ lở, nước đến lưng thì vai ngươi sụp

đỗ” [117, tr 18, 19]. Ở đây, Thánh Tông đã sử dụng cái hài như một vũ khí lợi hại để phê phán sư

sãi trong chùa. Không những vậy, Phật Thích Ca còn được vẽ chân dung bằng một bút pháp trào

lộng sâu sắc: “tay cầm bầu rượu, dáng say lảo đảo”. Thì ra các vị chí tôn lúc này cũng chỉ là những

người say mê hưởng thụ. Không những vậy, những kẻ đội lốt thầy tu còn là những kẻ vô trách

nhiệm trước cuộc sống của nhân dân: “Lụt thì ta cũng trôi theo nước lũ, khi nước rút, ta lại trở về

ngôi cũ, dẫu bị xiêu giạt giang hồ, nhưng có hại gì đến chân thân của ta” [117,tr 18]. Tiến sâu hơn

một chút vào lãnh địa của nhà Phật, Nguyễn Dữ đã mạnh dạn chỉ ra rằng: nhà chùa lúc này đã chứa

chấp những kẻ gian dâm, du đãng. Còn thầy chùa phần nhiều là những kẻ đầy dục vọng thấp hèn.

Tiêu biểu cho nội dung này là Chuyện nghiệp oan của Đào thị. Tác phẩm đã cho thấy sự vụng trộm,

tư thông giữa nhà sư Vô Kỉ và Hàn Than – cô gái mới xin vào chùa tu. Mang tiếng là nhà sư và ni

cô song trên thực tế họ đã làm hoen ố cửa thiền: “Hàn Than tuy ở chốn thanh tịnh nhưng nết cũ vẫn

chưa trừ bỏ. Mỗi lúc ở nhà dưới đi lên,mặc áo lụa, mang quần là, điểm môi son tô má phấn. Cõi

dục đã gần, máy thiền dễ chạm, bèn cùng nhau tư thông. Hai người đã yêu nhau, mê đắm say sưa,

chẳng khác nào con bướm gặp xuân, trận mưa cửu hạn, chẳng còn để ý gì đến kinh kệ nữa” [23,tr

80]. Cửa chùa là chốn tôn nghiêm, thanh tịnh nhất trong tất cả mọi nơi nay trở thành nơi diễn ra

những sinh hoạt chốn phòng the. Và nhà sư tưởng chừng như đã rũ bỏ hết mọi dục trần thì lòng vẫn

vương vấn đến hồng nhan, nhi nữ. Có lẽ đây là một trong những truyện có sức tố cáo mạnh mẽ nhất

đối với những người thực thi tôn chỉ của nhà Phật. Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục còn chỉ ra những tầm thường vô dụng của các vị Phật. Đó là những hành vi tranh lộc,

giả dối và bẻm mép. Lời của hai vị Phật bằng gỗ và Phật bằng đất là minh chứng cho điều này: “nay

còn mặt mũi nào dám ở trên ta hưởng lộc ba phẩm nữa” [117.tr 18]. Hoặc trong Chuyện cái chùa

hoang ở Đông Triều, hai tên Hộ pháp than thở: “Vẫn tưởng kiếm cho no bụng, ai ngờ phải đến nát

thân. Nhưng bày ra mưu này là tự lão Thủy Thần kia. Hắn là chủ mưu mà được khỏi nạn còn chúng

ta theo hắn mà phải chịu vạ, thật cũng đáng phàn nàn lắm”[117,tr 151]. Thông qua đây, phải chăng

Nguyễn Dữ muốn gửi đến người đọc một bức thông điệp rằng: con người là chúa tể của muôn loài,

tự mỗi người cần có suy nghĩ, lập trường riêng và tự quyết định số phận cho mình. Cho nên con

người là đối tượng duy nhất có thể lập lại công bằng cho xã hội. Lập lên những nhà chùa như thế

này chỉ làm tổn hại đến sức lực và tiền bạc của nhân dân mà thôi. Sự góp mặt của nhà sư cùng với

tiếng nói tố cáo các tác giả Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã cho thấy sự phát triển của

nhận thức thẩm mỹ văn học trong họ. Đó là văn học không chỉ phản ánh những vấn đề lớn lao mang

tính quốc gia, trọng đại mà cũng cần phải đi sâu, khám phá và phản ánh những vấn đề bình thường

trong cuộc sống. “Dưới một tên gọi tầm thường là một tác phẩm vĩ đại” [130,tr86]).

Nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đi từ mảnh đất của Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh sang lãnh

địa của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã không còn nguyên vẹn nữa.

Lúc này nhân vật vừa mang những đặc điểm của thần nhưng đồng thời cũng được phú thêm diện

mạo của con người trần tục. Chính vì vậy nó được xem là thành công bước đầu của Lê Thánh Tông,

Nguyễn Dữ và Vũ Trinh. Các nhà văn đã dần dần bóc những lớp vỏ bề ngoài của thể loại truyền kì,

đưa người đọc dấn sâu hơn vào cung cấm bên trong của văn học. Truyền kì đến giai đoạn này không

đơn giản chỉ kể lại sự tích của các thần mà còn kể những chuyện gần gũi với con người – chuyện

của chính họ. Có lẽ vì thế mà các nhà văn đã để cho hình ảnh của con người lấn sang tẩm cung của

thần tiên. Điều này đã đánh dấu bước chuyển mới của thể loại truyền kì nói riêng và văn học trung

đại nói chung.

2.2. Loại hình các nhân vật bình phàm.

2.2.1. Khái quát chung:

Có thể thống kê số lần xuất hiện của loại hình các nhân vật là con người bình phàm như sau:

stt Tên tác phẩm Quan Nho Phụ Lái

lại sinh nữ buôn

Truyện yêu nữ Châu Mai 01 +

Truyện hai thần nữ 02 +

Duyên lạ ở Hoa Quốc 03 + +

Truyện lạ nhà thuyền chài 04 + +

Truyện chồng dê 05 +

Người trần ở thủy phủ 06 +

Phụ chép 2 07 + +

Truyện tinh chuột 08 + +

Một dòng chữ lấy được gái thần 09 +

Câu chuyện ở đền Hạng Vương 10 +

Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu 11 + + +

Chuyện cây gạo 12 + +

Chuyện gã trà đồng giáng sinh 13 + +

Chuyện kì ngộ ở Trại Tây 14 + +

Chuyện đối tụng ở Long Cung 15 + +

Chuyện nghiệp oan của Đào thị 16 + + +

Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên 17 +

Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi Thiên Tào 18 + +

Chuyện yêu quái ở Xương Giang 19 + +

Câu chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na 20 +

Chuyện nàng Túy Tiêu 21 + + +

Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang 22 +

Chuyện người con người NamXương 23 +

Chuyện Lý tướng quân 24 +

Chuyện Lệ Nương 25 + +

Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa 26 + +

Dốc đầu sấm 27 +

Nguyễn Quỳnh 28 +

Phạm Viên 29 +

Đẻ lạ 30 +

Sống lại 31 + +

Ca kĩ họ Nguyễn 32 + +

Câu chuyện tình ở Thanh Trì 33 + +

Phu nhân Lan quận công 34 + +

Thượng thư họ Đỗ 35 +

Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu 36 +

Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Hán 37 +

Điềm báo trước 38 +

Ma cổ thụ 39 + +

Liên hồ quận quân 40 + +

Nguyễn Trật 41 +

42 Tháp Báo ân + +

43 Trạng nguyên họ Nguyễn + +

So sánh với bản thống kê của loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo có thể thấy loại hình nhân

vật bình phàm được nhắc đến trong các tác phẩm này có số lượng nhiều hơn và chiếm vị trí quan

trọng. Trong số 84 tác phẩm khảo sát thì có 43 truyện viết về con người bình phàm. Điểu này chứng

minh rằng: các nhà văn đã ngày càng đưa thể loạị truyền kì tới gần hơn với cuộc sống và những con

người bình thường dung dị. Nếu trước đây Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái nhân vật chủ yếu

bước ra từ lịch sử, từ văn học dân gian, thì đến lúc này vị trị trung tâm đã là hình tượng con người

trần tục. Không những vậy, con người ở đây còn được khai thác ở mọi khía cạnh của cuộc sống với

những khát khao rất đỗi bình thường mang tính người. Con người hiện lên trong cách nhìn tổng thể,

họ không chỉ có trách nhiệm với đời mà còn có những khát vọng, khát khao được yêu thương và

được thỏa mãn những nhu cầu về bản năng con người .Vì vậy theo chúng tôi đến giai đoạn của

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục thì mẫu hình nhà nho – người quân tử

đã bắt đầu thay đổi. Lúc bấy giờ nhà nho – kẻ sĩ được đặt trong những hoàn cảnh có vấn đề để từ đó

họ bộc lộ thái độ, tính cách của mình trước thời thế, trước cuộc đời. Bên cạnh hình ảnh kẻ sĩ thì

ngay lúc này người phụ nữ cũng đã xuất hiện đông đảo trong các tác phẩm với cả số lượng và chất

lượng. Điều này cho thấy khi xã hội cần giải quyết vấn đề về số phận con người - những người

dưới đáy của xã hội phong kiến – thì người phụ nữ là đối tượng cần được sự quan tâm hàng đầu.

Với vai trò tiên phong, Lê Thánh Tông và đặc biệt là Nguyễn Dữ, sau đó là Vũ Trinh được xem là

những người khởi xướng, những người đặt viên gạch đầu tiên xây dựng thành công tòa tháp lâu đài

về bóng dáng người phụ nữ trong văn xuôi trung đại. Và theo khảo sát, có thể thấy hình tượng

người phụ nữ xuất hiện nhiều hơn so với nhân vật quan lại và nho sinh. Loại hình nhân vật này

mang hơi thở của cuộc sống và những xô bồ thời trung đại. Họ là những con người bình thường

nhưng rơi vào những nghịch cảnh không bình thường.

2.2.2. Loại hình nhân vật quan lại, nho sinh:

2.2.2.1. Loại hình nhân vật quan lại:

Bàn đến giai cấp thống trị, lịch sử thường xướng tên tầng lớp quan lại bên cạnh những bậc cửu

ngũ chí tôn. Mỗi thời đại, xã hội khác nhau thì thái độ, cách sống của giai cấp thống trị cũng khác

nhau. Và vì thế cách nhìn, quan niệm của tác giả văn học về họ cũng không hoàn toàn trùng khớp.

Cũng viết về quan lại song thái độ của Lê Thánh Tông khác so với thái độ của Nguyễn Dữ, Vũ

Trinh. Bởi lẽ thời đại của Lê Thánh Tông là thời đại thịnh trị, thời kỳ được xem là vàng son của lịch

sử nước nhà. Trong khi đó, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh lại sinh ra trong thời mà chế độ phong kiến rơi

vào khủng hoảng. Từ đó cách nhìn nhân vật quan lại của các tác giả cũng khác nhau.

* Nhân vật quan lại tốt đáng đề cao:

Trong xã hội phong kiến, kẻ sĩ là rường cột của quốc gia. Và trong số đó, quan lại – những kẻ sĩ

thành danh - được xem là có vai trò thiết yếu trong việc xác lập thể chế xã hội. Ở những giai đoạn

đất nước được bình yên thì quan lại được tuyển chọn qua những kỳ thi để khẳng định tài năng thực

thụ của mình. Còn khi chế độ phong kiến suy thoái, chốn quan trường trở nên nhơ bẩn thì việc thi

cử tuyển chọn quan lại biến thành một việc buôn bán đồi bại. Yếu tố quan trọng hàng đầu để hình

thành nên một vị quan liêm khiết chính là đạo đức, mà trước hết là lòng cương trực. Có đức tính

này, người làm quan mới có thể thực hiện được lý tưởng “trí quân trạch dân” của mình.

Con người luôn luôn được đặt trong nhiều mối quan hệ khác nhau: quan hệ với thiên nhiên, quốc

gia, gia đình và với chính bản thân mình. Những vị quan tốt luôn đặt mối quan hệ với quốc gia lên

hàng đầu. Họ thẳng thắn cương trực trong xử lý công việc đồng thời cũng đầy tình cảm với gia đình.

Nhân vật quan lại hiện lên trong Trần nhân cư thủy phủ của Lê Thánh Tông không phải là nhân vật

chính thể hiện tư tưởng của tác phẩm. Song hình tượng quan lại ở đây cũng mang những phẩm chất

tốt. Đó là vị quan biết nhận xét tài năng văn chương của anh học trò nghèo: “Bài này mỗi chữ mỗi

câu đều dùng điển tích răng, không những tỏ ra học rộng, mà còn tự trong huyết tính toát ra. Lời lời

rìu búa, chữ chữ châm biếm, đáng được thần răng chiều ý” [117,tr 114]. Am hiểu văn chương kim

cổ, quan thừa chỉ Hồ Tôn Thốc cũng là kiểu nhân vật quan lại có tính tình thẳng thắn: “Lẽ trời việc

người, cũng là đầu cuối. Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước; bảo trời sinh đức, Tân

Mảng vì thế mà bỏ mình. Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ giời, vì thế đã đến táng bại vẫn

không tỉnh ngộ. Tôi bữa nay may mắn được nhà vua vời đến tiếp kiến, muốn xin được nói thẳng

không dấu diếm gì, nhà vua nghĩ thế nào?” [117,tr 11]. Qua lời nhận định về vua quan này, có thể

thấy đây là một người chính trực, không sợ cường quyền bạo lực. Trong bi kịch của Nhị Khanh,

thân phụ của Trọng Quỳ cũng được Nguyễn Dữ nhắc đến với đức tính này: “Nay nghiêm đường vì

tính nói thẳng mà bị người ta ghen ghét, không để lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử đến chốn

hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa” [23,tr 17].

Theo quan niệm của Nho giáo, lý tưởng cao đẹp nhất trong đời người quân tử là: học hành, thi

đỗ ra làm quan và thực hiện chí nguyện “thượng trí quân” “ hạ trạch dân” của mình. Cho nên người

quân tử nói chung không coi hạnh phúc, cuộc sống yên ấm của riêng mình là cứu cánh. Khi đã làm

quan cần có tấm lòng ưu ái với dân, luôn đặt niềm vui của dân lên trước niềm vui của mình. Vì vậy

đối với công việc, nhân vật quan lại tốt đề cao việc xét xử công bằng, rạch ròi. Chuyện gã trà đồng

giáng sinh giới thiệu đến người đọc một nhân vật quan lại như thế. Nhân vật chính trong tác phẩm là

Dương Đức Công làm quan và “xét rõ mọi điều oan khuất, khiến các vụ án đều được rất công bằng.

Vì sự nhân từ phúc hậu, người thời bấy giờ gọi là Đức Công” [23,tr 38]. Mặc dù tác phẩm không đi

sâu làm rõ những chỗ xét xử công bằng như thế nào song qua lời nhận xét này, người đọc phần nào

biết được nhân cách cao đẹp của một vị quan liêm khiết. Tuy nhiên, khảo sát ba tập truyện chúng tôi

nhận thấy bóng dáng của quan lại tốt xuất hiện khá khiêm tốn. Có lẽ với một xã hội đầy nhiễu

nhương như thời Nguyễn Dữ, Vũ Trinh hiếm gặp những vị quan tuyệt vời như vậy. Phải chăng hai

nhà văn đã “đãi cát tìm vàng” để tự an ủi mình, hay đó chỉ là mơ ước của hai ông về một xã hội vua

sáng tôi hiền.

* Nhân vật quan lại xấu đáng phê phán :

Sản phẩm tất yếu của xã hội phong kiến xuống cấp là những quan lại “thối nát” – áp bức dân

lành, hủy hoại gia phong. Do vậy thời Nguyễn Dữ, Vũ Trinh thì số quan lại xấu chiếm phần nhiều

cũng không có gì là lạ. Lúc này, đồng tiền có sức mạnh vạn năng. Nó đã len lỏi vào trong đời sống

của mỗi gia đình. Đồng tiền đã lăn tròn trên mọi nẻo đường của xã hội, ăn sâu vào cách sống của

mỗi người và đã mua đi những phẩm chất tốt đẹp của giới quan lại lúc này. Nó biến chân lý, pháp

luật thành những công cụ phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị. Do đó luật pháp lúc này là luật

pháp của kẻ mạnh, kẻ có tiền. Còn người dân – những người thấp cổ bé họng sẽ không có bất kỳ

một sự công bằng nào và đời sống của họ ngày một khốn khó hơn. Hiểu và thông cảm được với

những thiệt thòi mà nhân dân phải gánh chịu, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã góp vào văn học giai đoạn

này tiếng nói phê phán, tố cáo xã hội. Các tác giả nhìn thấy cảnh “can qua đầy rẫy, dân khổ về lưu

lạc li tán”, mà không thể trực tiếp “vén mây tối cho sáng lại vầng mặt trời.....cho bốn phương được

yên ổn” nên đã gián tiếp thể hiện lòng mình với dân qua việc vẽ lại bức chân dung của giới quan lại

hư hỏng, biến chất

Nói đến thế giới quan lại xấu, các tác giả đề cập đến dạng quan lại lợi dụng cơ hội đục nước béo

cò. Cơ hội đối với mỗi người là vô cùng quan trọng. Khi ai đó nắm bắt kịp thời cơ hội bằng chính

năng lực của mình, họ có thể đạt được những thành công nhất định. Những thành công ấy đáng để

được ngợi ca, bởi nó thanh cao, tốt đẹp. Trong khi đó, bọn quan lại ở đây lại dựa vào cảnh đất nước

lâm nguy để kiếm lợi riêng cho mình. Đó là câu chuyện của Lý Hữu Chi trong tác phẩm Chuyện Lý

Tướng Quân. Nhà văn đã viết về cơ hội ấy: “Người huyện Đông Thành là Lý Hữu Chi cũng do chân

một người làm ruộng nổi lên, tính vốn dữ tợn nhưng có sức khỏe, giỏi đánh trận. Quốc công Đặng

Tất tiến cử cho Lý được làm chức tướng quân, sai cầm một cánh hương binh đi đánh giặc.” [23,tr

185]. Như vậy Lý Hữu Chi thật sự không tài cán gì, chỉ nhờ vào sức khỏe, giỏi đánh trận mà được

trọng dụng. Mặc dù vậy, Lý Hữu Chi đã lợi dụng cơ hội đó để giết hại người khác, bóc lột tiền của

nhân dân: “Quyền vị đã cao, Lý bèn làm những việc trái phép, dựa lũ trộm cướp như lòng ruột, coi

người nho sĩ như cừu thù, thích sắc đẹp ham tiền tài, tham lam không chán, lại tậu ruộng vườn,

dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn đuổi xóm giềng cho ruộng đất, đi kiếm

những hoa đá lạ từ bên huyện khác đem về. Người trong vùng phục dịch nhọc nhằn, anh nghỉ thì em

đi, chồng về thì vợ đổi, ai nấy đều vai sưng tay rách rất là khổ sở nhưng hắn vẫn điềm nhiên không

chút động tâm” [23,tr 185]. Chuyện Phạm Tử Hư lên chơi thiên tào ca ngợi tình thầy trò cao đẹp,

đồng thời qua đó, “những con sâu bọ ăn lá” ấy cũng hiện lên rõ nét: “ông mỗ ở ngôi trọng thần mà

tham lam không chán, ông mỗ làm chức sử tư mà mô phạm không đủ, ông mỗ coi lễ mà lễ nhiều

thiếu thốn, ông mỗ chăn dân mà dân bị tai họa, ông mỗ chấm văn mà lấy đỗ thiên vị, ông mỗ trị

ngục mà buộc tội oan uổng; lại còn những người lúc thường bàn nói thì môi mép bẻo lẻo, đến lúc

trù tính, quyết định kế lớn của quốc gia thì mờ mịt như ngồi trong đám mây mù, thậm chí đến không

nói theo danh, không xét theo thực, không trung với đấng quân thượng” [23,tr117]. Tác giả đã vạch

trần những xấu xa mà trước hết là bản chất tham lam của quan lại. Nhưng không chỉ tham lam, bọn

họ còn là những kẻ vô trách nhiệm trước xã hội. Bình thường nói những câu đao to búa lớn, ra vẻ

mình là người hiểu biết nhưng khi giang sơn, tổ quốc lâm nguy thì chẳng thấy thể hiện được chút tài

cán gì.

Loại trừ những ai không phe cánh với mình là một đặc điểm nữa của bọn quan lại bấy giờ. Dù

không phải là tư tưởng chính của tác phẩm, song Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu cũng cho

thấy sự xấu xa của quan lại đương thời: “Đình thần ghét Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm

hại, bèn hùa nhau tiến cử”, và “bề ngoài vờ tiến cử đến chốn hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi

vào chỗ tử địa” [23,tr17]. Từ chi tiết này, Nguyễn Dữ đã rút tỉa một kinh nghiệm: những kẻ bất tài

thường có tính đố kị và kèn cựa. Do vậy, người bất tài thường không muốn người khác hơn mình,

và trừ khử những ai không cùng phe cánh với mình. Qua những câu chuyện này, người đọc thấy

được tầng lớp thống trị thời Nguyễn Dữ là những kẻ kết bè kéo cánh, tranh giành quyền lợi, bành

trướng thế lực, ra sức bóc lột, hà hiếp nhân dân. Có thể thấy các tác giả truyền kì đã làm thay vai trò

của nhà sử học: vạch trần và phê phán sự lũng đoạn, suy đồi của tầng lớp thống trị đương thời. “Bản

chất xấu xa của bọn quyền thần được phản ánh trong Truyền kì mạn lục như một tình trạng phổ

biến thời bấy giờ” [131,tr.739].

Đi liền với sự bất tài tham lam, độc ác còn là tính cách hoang dâm vô độ của những kẻ quyền

cao chức trọng. Đằng sau dáng vẻ mũ cao áo rộng là bộ mặt thật dâm dục, tham lam, bần tiện. Lý

Hữu Chi mặc dù đã được khuyên can là “đuổi hết hầu thiếp, phá hết vườn ao, trút bỏ binh quyền,

quy đầu phúc địa, tuy tội chưa thể khỏi được nhưng cũng có thể giảm trong muôn một” nhưng hắn

ta không những không nghe theo mà “ càng làm những sự dâm cuồng, chém giết không kiêng dè gì

nữa” [23,tr.187]. Dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ, tính chất dâm dục của Lý Hữu Chí được khắc họa

rõ nét. Thâm độc, tàn ác không kém là Trụ quốc họ Thân trong Chuyện nàng Túy Tiêu. Túy Tiêu

vốn là vợ của Dư Nhuận Chí – chàng thư sinh nổi tiếng hay thơ. Trong một lần theo chồng vào kinh

khảo thí, Trụ quốc họ Thân đã “Trông thấy Túy Tiêu đẹp, bắt cướp đem về làm của mình”

[23,tr.187]. Để thỏa mãn thói dâm dụcTrụ quốc họ Thân đã đánh mất đi nhân cách của một vị quan,

dùng quyền lực để bắt vợ người và ép người phải làm thê thiếp của mình. Tuy vậy “uy thế rất lớn,

các tòa, các sở đều tránh kẻ quyền hào, gác bút không dám xét xử” [23,tr. 166]. Thế nên những kẻ

như hắn càng lộng hành hơn nữa, và do đó thâm độc, tàn ác hơn nữa.

Giáo lý phong kiến đã chỉ ra con đường cho kẻ sĩ là “tu tề trị bình”, để cuối cùng thực hiện được

mục đích “thượng trí quân, hạ trạch dân” nhưng Nguyễn Dữ đã phát hiện ra một sự thật: bọn quan

lại trong thời ông, nhiều kẻ không hề có lý tưởng “trí quân trạch dân” mà còn dùng thủ đoạn xấu xa

trèo lên bậc thang danh vọng để “vinh thân phì gia”.

2.2.2.2. Loại hình các nhân vật nho sinh.

Khi tình hình xã hội thay đổi phức tạp, tiếng nói cá nhân con người cần được phát huy thì những

thể loại như thơ, phú ở trong khuôn khổ nhất định đã không thể diễn tả hết những tâm tư ấy. Từ đó

các tác giả đã tìm đến thử nghiệm ở thể loại truyền kì. Ở xã hội phong kiến thì thi cử con đường

được nhiều người phấn đấu và chọn để theo đuổi. Nho sinh là những đối tượng luôn được xã hội

quan tâm và đặt nhiều hy vọng. Bởi lẽ họ sẽ là rường cột, góp phần vào sự hưng thịnh hay thành bại

của đất nước. Vì vậy ở hầu hết ở các thể loại, nhân vật này đều xuất hiện khá dày đặc. Riêng ở

truyện truyền kì, tầng lớp quan lại và những chàng nho sinh được khắc họa khá rõ nét.

*Nhân vật nho sinh tốt.

Nếu như loại hình nhân vật quan lại xuất hiện nhiều ở Truyền kì mạn lục thì loại hình nhân vật

nho sinh lại là đề tài mà cả ba tác giả quan tâm. Hiện lên trong những tác phẩm với nhiều kiểu khác

nhau song loại hình nhân vật này cũng có những điểm gặp gỡ ở cả ba tập truyện. Nhìn chung nho

sinh được các tác giả ngợi ca bởi những điều tốt đẹp mà họ mang đến cho xã hội. Từ những việc

làm tốt đẹp ấy, họ đáng được xã hội trọng dụng, đề cao. Để thấy được những điểm tốt của nho sinh,

các tác giả đã đặt nhân vật trong những hoàn cảnh túng quẫn, hàn vi. Chính niềm tin và nghị lực

trong cuộc sống đã giúp nho sinh chiến thắng khó khăn và khẳng định mình. Mồ côi là một trong

những mô tip thường gặp trong truyện về chàng nho sinh. Có thể là mồ côi cha hoặc mẹ hoặc mồ

côi cả hai và phải gửi thân ở nhà người quen. Đó là số phận của chàng Chu Sinh trong Hoa quốc kì

duyên: “Động Sơn La, tỉnh Hưng Hóa, có chàng Chu Sinh mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc mới lọt lòng.

Chú ruột đem về nuôi nấng” [117,tr 42]. Đấy cũng chính là cảnh ngộ của Tử Khanh: “ở Sơn Bắc có

Nguyễn Tử Khanh, cha mẹ mất sớm chỉ có một người anh” [117,tr 90]. Hoặc hoàn cảnh mồ côi của

chàng nho sinh: “cha mẹ mất sớm, em trai không có, hai mươi bốn tuổi vẫn chưa có vợ. Nhà nghèo

quá, chỉ nhờ bút nghiên mà sống” [117,tr 169]. Như vậy nhà văn đã đặt nhân vật vào những hoàn

cảnh cần được thử thách. Và vượt qua chướng ngại đầu tiên này đã là một thành công bước đầu của

những nho sinh đương thời. Nghèo khổ, đói rét không làm chùn bước chân đến với cửa Khổng sân

Trình của họ. Một trong những yếu tố bên ngoài giúp đỡ con đường hiển danh cho những chàng nho

sinh là người phụ nữ. Đây là điểm mới của thể loại truyền kì khi đặt nhân vật trong một môi trường

tự nhiên, hiện thực. Nó khẳng định một sự thật của cuộc đời: “Hóa ra chẳng phải do mồ mả táng

đắc địa hay do trời đất ưu ái cấp cho tài năng mà chính là nhờ những người phụ nữ tần tảo buôn

bán chu cấp cho họ ăn học mà họ đỗ đạt” [113,tr171]. Cao cả và sâu sắc là sự chăm sóc của cô ca

kĩ họ Nguyễn đối với chàng Khâm Lân – chàng nho sinh tưởng như đến bước đường cùng vì phải:

“vừa đi vừa xin ăn”. Chàng đã được nàng ca kĩ giúp đỡ tiền gạo để có thể tiếp tục con đường công

danh: “Cô lấy ra mười quan tiền, cùng mấy thứ ăn mặc, đem tặng ông, rồi trân trọng từ biệt” [118,tr

62]. Nhưng sự giúp đỡ của cô gái trở nên vô nghĩa khi Khâm Lân nghe lời cha lấy người khác. Dù

vậy nàng ca kĩ vẫn không hề nhận tiền bạc, báu vật của chàng Nho sinh hậu tặng. Thế mới nói tiền

bạc không thể mua được tình cảm con người. Cũng là sự giúp đỡ của phụ nữ với nho sinh song cô

gái trong Tháp báo ân của Vũ Trinh lại thể hiện bằng cách khác. Đó là cô gái không chỉ giúp ông cử

kinh môn trú ngụ qua đêm mà còn giúp chàng thi đỗ: “đây là bài thi của chồng thiếp, xin ông lấy

bài này” [118,tr 143]. Nếu không có sự giúp đỡ của phụ nữ thì bằng con đường đi ở rể, người nho

sinh cũng có cơ hội vượt qua khó khăn tiếp tục chinh phục con đường công danh. Đó là hoàn cảnh

của Thiên Tích trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh: “gia cảnh nghèo nàn, ăn tiêu không đủ. (…..).

Họ hoàng bèn đón Dương sinh đến làm rễ, phàm những phí tổn về lễ lan khách khứa hết thảy đều tự

bỏ ra cả” [23,tr 41]. Hay trong Phu nhân Lan quận công, Vũ Trinh đã cho thấy chàng nho sinh

nghèo đã được sự giúp đỡ của người con gái út của Thượng thư họ Đàm. Hai người “Chàng đọc

sách, vợ dệt vải, đến khuya vẫn chưa nghỉ ”[118,tr 84].

Thông qua hình ảnh nhân vật nho sinh, các tác giả đã đưa người đọc đến một niềm tin: cuộc đời

của mỗi con người đều gặp những khó khăn, gian khổ, chỉ cần ta có đủ kiên nhẫn để chịu đựng và

vượt qua nó ta sẽ là con người thành công.

Viết về tầng lớp trí thức - nho sinh, các tác giả chủ yếu đi sâu vào quá trình hoàn thiện đạo đức

của họ: “khắc kỷ, phục lễ, thành ý, chính tâm” để “tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ”. Cho nên

đa phần nhân vật nho sinh hiện lên trong tác phẩm đều là những con người thông minh, học vấn

uyên bác, thâm thúy nho nhã. Hơn nữa sự thông minh ấy còn được thể hiện ngay khi nho sinh ấy

còn rất nhỏ. Chân dung Thiên Tích là “thiên tri cao mại, học vấn rộng rãi, phàm sách vở văn

chương cổ kim, không có gì là không thiệp liệp” [117,tr 39]. Đó cũng là sự thông tuệ đỉnh ngộ của

chàng Tử Hư: “Phạm Tử Hư quê ở Cẩm Giàng, là một người tuấn sảng hào mại không ưa kiềm

thúc [23,tr 114]. Qua dáng vẻ tuấn tú bên ngoài của chàng, người đọc có thể đoán được sự thông

minh, sáng suốt ẩn bên trong ấy. Và đây cũng là cách giới thiệu thường gặp của truyện truyền kì khi

nói về nhân vật học trò. Sự thông minh sáng dạ ấy được cụ thể hóa bằng hành động. Loại hình nhân

vật này thường được miêu tả là có học vấn rộng rãi, đối ứng nhanh lẹ. Đó là Phạm Viên trong Lan

Trì kiến văn lục của Vũ Trinh: "Viên là con cả của ông. Viên sinh ra tuấn tú thông minh, đọc sách

một lần là thuộc”[118, tr 34]. Hoặc đó là tài năng của Nguyễn Quỳnh: “ông thường đến luyện văn

ở nhà Quốc học, luôn được xếp hạng ưu nên rất tự đắc” [118,tr 31]. Ở Trạng Nguyên họ Nguyễn,

Vũ Trinh lại đưa người đọc đến với niềm vui cưới vợ của chàng Nguyễn Đăng Đạo. Chàng nho sinh

này lấy được cô tiểu thư nhờ vào trí thông minh, đối ứng nhanh lẹ: “Quan hầu liền cho gọi ông vào,

bắt ông làm văn để thử tài. Ông nhận được đề, chẳng cần suy nghĩ, hạ bút viết liền một mạch xong

ngay” [118,tr 148]. Ngay với cha đẻ của các tác phẩm này cũng vậy, Hoàng đế Lê Thánh Tông

không chỉ thông minh, học rộng am hiểu nhiều mà còn biết áp dụng những điều ở cửa Khồng sân

Trình vào việc trị vì đất nước. Nên ông được xem là một nhà vua mẫu mực, triều đại của ông được

đánh giá là triều đại thịnh trị nhất. Còn Nguyễn Dữ theo lời tựa của Hà Thiện Hán thì: thuở nhỏ

chăm học, đọc rộng, nhớ nhiều, muốn lấy văn chương kế nghiệp nhà, từng thi đỗ hương tiến, nhiều

lần thi hội đều đỗ đạt. Hay nhà văn Vũ Trinh, theo phần tiểu sử có thể thấy, ông thông minh từ nhỏ,

đọc sách qua mắt là thuộc lòng, nổi tiếng thần đồng. Từ bóng dáng của mình, các nhà văn đã ít

nhiều đưa chính phần đời đó vào trang sách, mang theo những hoài bão lớn lao. Đây cũng là một

trong những ước muốn mà các tác giả truyền kì gửi gắm vào tầng lớp nho sinh lúc bấy giờ. Họ sẽ là

những người mang đến cho nhân dân những hy vọng mới về tương lai đất nước. Chính vì vậy ở mọi

thời đại đây là tầng lớp luôn luôn được xã hội quan tâm, bồi dưỡng. Họ - chứ không ai khác, sẽ là

đối tượng gieo vào lòng người dân những tia hy vọng về một cuộc sống tốt đẹp.

Nói về lớp nho sinh, các nhà văn tập trung nói về tài sáng tác văn chương của họ. Khả năng cảm

thụ và sáng tác văn chương cũng là một trong những tiêu chuẩn để nho sinh có thể thành đạt trên

đường công danh. Trong Chuyện nghiệp oan của Đào thị của Nguyễn Dữ, nhà văn đã kể về một cậu

học trò khoảng “14, 15 tuổi cũng đến hội họp. Khi bàn về văn chương, mặc dù Hàn Than có ý khinh

song cậu học trò vẫn sáng tác một bài văn mà bài văn làm xong, viết lớn rồi dán ở cửa chùa xa gần

đua nhau chép” [23,tr 79]. Điều này cũng cho thấy sức truyền cảm và những tác động mạnh mẽ của

bài văn. Đấy cũng chính là tài năng của Dư Nhuận Chí: “Dư Nhuận Chí tên là Tạo Tân, có tiếng hay

thơ: nhất là về những bài hát, lại càng nức danh ở kinh kỳ, mỗi bài làm ra, phường hát bội đem tiền

tặng rất hậu để xin lấy” [23,tr 153]. Tài năng văn chương còn cho thấy hoài bão, lý tưởng của các

nho sinh lúc này. Đó là lý tưởng chân chính của kẻ sĩ có tấm lòng ưu ái với đời. Không chỉ có khả

năng sáng tác, bình phẩm thơ ca, họ còn có ý thức giữ gìn, lưu truyền thơ ca cho mọi thế hệ về sau.

Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa là một minh chứng tiêu biểu cho điều này. Mao Tử Biên trong đêm

trú nhờ ở “mấy gian nhà tranh ở giữa khoảng cây cối rậm rạp” và “vô tình nghe được cuộc đàm

đạo thơ văn của những người hay thơ. Chàng đã “tìm đến làng sái tiên sinh, dò hỏi di cảo tập thơ

Lã Đường, thấy gián nhấm mọt gặm, tản mác tất cả. Chàng nhân đi khắp xa gần để hỏi han, hết sức

cóp nhặt, dù nửa câu, một chữ cũng không bỏ sót. Cho nên từ khi triều Lê dựng nghiêp thi sĩ có đến

hơn trăm nhà, mà duy tập thơ của ông Sái thịnh hành, đại khái đều do công sức của Mao Tử Biên

cả” [23,tr 221]. Lời nhận xét ở cuối truyện cho thấy ý thức truyền tụng thơ ca, cùng khát vọng

“mang thi thư dạy cho đời sau” của Mao Tử Biên. Từ đó tác giả Nguyễn Dữ cũng thể hiện mong

muốn của ông: hãy giữ gìn và bảo vệ di sản văn hóa của dân tộc, trong đó có cả những tác phẩm văn

chương.

Tài năng là một yếu tố vốn cần thiết cho nho sinh thực hiện lý tưởng của mình. Nhưng tài năng

thôi vẫn chưa đủ, cần thiết vẫn là đạo đức của nho sinh. Hai yếu tố tài và đức trong quan niệm của

người trung đại cũng đã chi phối đến những mẫu hình lý tưởng người của quân tử Nho giáo. Người

quân tử quan niệm: muốn đất nước được an bình thì gia đình trước hết phải có trật tự. Và khi nói về

gia đình, họ luôn lấy mình làm gương trước thê tử. Hai chữ hiếu thuận luôn được đặt lên hàng đầu

trong quan hệ huyết thống, gia đình. Chàng thư sinh trong Thử tinh truyện thể hiện khá rõ điều này.

Mặc dù mới cưới vợ, vợ chồng“hương lửa đương nồng” nhưng trước lời khuyên đi học của cha, anh

đã nhận lời. Đó cũng là một cách để cha mẹ già được vui lòng. Ngoài ra truyền thống “tôn sư trọng

đạo” cũng tiếp tục được phát huy trong thể loại truyền kì. Chân thành, trọn nghĩa là những biểu hiện

cho thấy tấm lòng của nho sinh với thầy: “khi Dương Trạm chết, các học trò đều tản đi cả, duy Tử

Hư làm lều ở mả để chầu chực, sau ba năm rồi mới trở về” [23,tr 114]. Nếu như sự hiếu thảo với

cha mẹ, với thầy là nốt nhạc đậm tình người, thì cách sống trọn nghĩa thủy chung với bạn tình lại là

nốt nhạc thấm đẫm những giọt nước mắt. Sống có trước có sau ở đây được hiểu là nhận ơn và biết

trả ơn. Tháp báo ân lại là cách bày tỏ sự tri ân bằng hành động mang tính tinh thần. Biết tin thi đậu,

chàng nho sinh đã tìm đến cô gái giúp mình đỗ đạt. Nhưng khi biết rõ về bệnh tình và cái chết của

cô gái mắc bệnh phong, chàng đã an táng nàng theo đúng nghĩa vợ chồng và xây dựng một ngọn

tháp đặt là Tháp báo ân. Tình nghĩa ấy ở đời mấy ai có được. Bởi tình cảm là một phạm trù thuộc về

tinh thần. Nó không thể lý giải bằng những con số hay bằng lý trí mà bằng những cảm xúc nhất

định. Thông qua những cảm xúc ấy đời sống tâm hồn của các nhân vật nho sinh càng trở nên phong

phú hơn. Tính cách cần cù của người nho sinh cũng được đề cao trong một số truyện. Nghèo khổ

thậm chí mồ côi vẫn không làm nản chí chàng nho sinh Thiên Tích. Chàng vẫn tìm mọi cách để tự

tạo cơ hội được đi học cho mình: "gia cảnh nghèo nàn, ăn tiêu không đủ. Thường tìm những nhà có

con gái xin vào gửi rể, nhưng chẳng nhận ai cả” [23,tr 40]. Chàng nho sinh Tử Hư thì kiên nhẫn

trong dùi mài kinh sử ngay khi đã trải qua nhiều lần thất bại: “năm 40, Tử Hư đi thi vẫn chưa đỗ,

đời Trần sang du học ở Kinh, ngụ ở trong một nhà dân bên bờ Hồ Tây” [23,tr 114]. Chính sự kiên

nhẫn, cần cù đã rút ngắn con đường đạt thành sự nghiệp của nho sinh hơn.

Nhìn chung nhân vật nho sinh là một trong những nhân vật mang ước mơ lớn nhất của nhà văn

về tầng lớp trí thức có đầy đủ năng lực và phẩm chất. Họ sẽ là rường cột của nước nhà, là người

thực hiện những chí nguyện ở cửa Khổng sân Trình và ra làm quan tốt nhằm đem lại đời sống ấm no

cho nhân dân. Những hoàn cảnh khó khăn, những trở ngại bước đầu được xem như là những thử

thách để thử lòng quyết tâm của người nho sinh. Vượt qua được những thử thách đó không chỉ bằng

tài năng mà còn bằng cả đức độ của nhân vật là điểm đáng ca ngợi nhất.

* Nhân vật nho sinh xấu đáng phê phán:

Bên cạnh nhân vật nho sinh tốt thì vẫn còn tồn tại những nho sinh xấu đáng phê phán. Cái xấu ấy

cho thấy bản chất của nho sinh đã có phần thay đổi, đồng thời cho thấy quan niệm của các nhà văn

về Nho học lúc này. Tuy vậy nho sinh đáng phê phán hiện lên ít hơn so với nhân vật nho sinh tốt

đáng ca ngợi.

Với mong muốn Nho giáo ngày càng tốt đẹp hơn trong mắt mọi người, các tác giả đã chỉ ra

những mặt còn hạn chế của nho sinh, để họ nhìn thấy mà tự suy ngẫm khắc phục. Cụ thể là trong

Phụ chép 2, Lê Thánh Tông đã lên tiếng phê phán những anh học trò ham mê nữ sắc đến quên việc

học hành, chỉ biết đắm mình trong nỗi đam mê nhục dục: “người học trò quẩy tráp đi học, đến ấp

thuê nhà ở để tiện đến nhà thầy nghe giảng” nhưng khi gặp con ma chổi nữ thì “thấy cô gái có sắc

đẹp, cùng nhau ngâm họa rồi lân la gần gũi (....) người học trò từ đó học hành chểnh mảng. Ngày

thì ngủ say, đêm thì vui đùa với con yêu nữ”. Sau hơn một tháng thì “nhan sắc xanh xao, tinh thần

sút kém” vì bị “gái hư làm mê hoặc” [117,tr 152-153]. Kiểu nhân vật nho sinh ham mê sắc đẹp hơn

là việc tu dưỡng ở học đường, chúng ta còn bắt gặp ở Truyền kì mạn lục. Chuyện kì ngộ ở Trại Tây

với anh học trò Hà Nhân lên “bình ngụ ở kinh sư để tòng học cụ Ức Trai (Nguyễn Trãi)”. [23,tr 48].

Nhân vật này được thể hiện khá chân thực: “Sinh tuy mượn tiếng du học, nhưng bút nghiên chí nản,

son phấn tình nồng. Ngày nào mới buổi xuân dương, thoắt đã trời đông tiết lạnh” [23,tr 48]. Mặc dù

lúc ra đi, chí nguyện của chàng cũng rất hào hùng: “Sinh con trai muốn cho có vợ, sinh con gái

muốn cho có chồng, đó cũng vẫn là lòng cha mẹ mà cũng là phúc của gia đình. Song con nghĩ mình

dòng dõi tấn thân, mà sự học hành chưa thành danh gì cả. Nếu nay có vợ, e không khỏi vui bề chăn

gối mà lãng việc sách đèn. Chi bằng việc cưới xin hãy tạm hoãn, đợi khi con đường mây nhẹ gót,

thỏa nguyện bình sinh, bây giờ hãy tính đến tưởng cũng chưa muộn” [23,tr 58]. Không chỉ dễ sa

ngã, mê đắm sắc đẹp, quên học hành tu dưỡng, một số nho sinh còn có thói xấu khác: tự kiêu tự

mãn trong học tập. Vẻ khiêm tốn điềm đạm mất dần mà thay vào đó là thói hợm hĩnh, tính khoe

khoang. Tiêu biểu là Nguyễn Quỳnh trong Lan Trì kiến văn lục: “văn chương nổi tiếng, tính phóng

túng, không chịu gò bó, rất thích khôi hài. Ông thường đến luyện văn ở nhà Quốc học, luôn được

xếp hạng ưu, nên rất tự đắc” [118,tr 31]. Cho đến khi Nguyễn Quỳnh gặp người hơn mình, chàng

mới vỡ lẽ tất cả. Thói hợm hĩnh ấy đã được thầy Dương Trạm nhận xét “thường để đổi họ để đi học,

thay tên để đi thi; hễ trượt thì đổ lỗi mờ quáng cho quan chấm trường; hơi thành danh thì hợm mình

tài giỏi hơn cả tiền bối, chí khí ngông ngáo, tính tình tráo trở; thấy thầy nghèo thì lảng tránh, gặp

bạn nghèo thì làm ngơ..”

[23,tr 116]. Chính vì sự xuống cấp về nhân cách của giới nho sinh nên khi Dương Trạm chết đi,

tuy có mấy nghìn học trò mà “không một ai đến viếng mộ”[23,tr 116].

Nhìn chung, nhân vật nho sinh xấu không nhiều, mức độ phê phán phán cũng không quá gay gắt

chẳng qua chỉ là vạch ra những hạn chế, thiếu sót mang tính nông nỗi để nho sinh tự nhìn lại mình mà sửa đổi, sống tốt hơn, xứng đáng với những gì mà họ đã học được ở cửa Khổng sân Trình.

2.2.2.3. Thái độ đối với Nho giáo:

Như chúng ta đã biết Nho giáo được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm. Học thuyết này từ

Trung Quốc theo chân của Sĩ Nhiếp du nhập nước ta vào thế kỷ thứ II. Đến thế kỷ XI, nhà Lý mở

Quốc Tử Giám, lập Văn Miếu, tổ chức khoa thi tạo điều kiện cho Nho giáo phát huy thế mạnh. Vào

cuối thế kỷ XIV Việt Nam đã được biết đến với các nhà nho nổi danh: Chu Văn An, Phạm Sư

Mạnh, Trương Hán Siêu,…..Và mặc dù từ thế kỷ XI đến XIV, nhà Lý và nhà Trần đã tiến hành

truyền bá Nho giáo, nhiều khoa thi được mở, nhiều tiến sĩ Bảng nhãn và Trạng nguyên xuất hiện

song Nho giáo vẫn yếu thế hơn so với Phật giáo và Đạo giáo. Nhưng đến thế kỷ XV, đặc biệt là

dưới thời Lê Thánh Tông (1460 – 1497) Nho giáo đã ngày càng lớn mạnh và trở thành quốc giáo,

chiếm địa vị độc tôn. Từ đây trở đi Nho giáo chi phối sâu sắc đến các vấn đề của đời sống xã hội,

đến văn hóa và đặc biệt là các sáng tác văn chương. Và tất nhiên là Thánh Tông di thảo, Truyền kì

mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng không nằm ngoài sự chi phối, ảnh hưởng ấy.

*Ca ngợi những mặt tích cực của Nho giáo:

Chữ nghĩa thánh hiền là một trong những mục tiêu cao quý nhất mà giới trí thức muốn

đạt tới. Cửa Khổng sân Trình là nơi mà người trí thức tìm đến để gửi gắm lý tưởng sống của mình.

Nho giáo đề cao hành động tu thân, mà biểu hiện rõ nhất là việc học. Cho nên các tác giả đã thể hiện

thái độ sùng thượng Nho giáo thông qua quan niệm coi trọng đạo học. Điều này được thấy rõ ở Hiếu

đễ nhị thần truyện: “nhà tuy túng thiếu mà gia đình vẫn hào mực như thường. Ba đời theo nghiệp

học, chưa có thành tựu đỗ đạt gì” [117,tr 90]. Gia tư dầu nghèo khó song việc học luôn luôn được

coi trọng. Đó cũng chính là hoàn cảnh, số phận của Thiên Tích trong Chuyện gã trà đồng giáng

sinh: “khi đã hết tang, Thiên Tích sớm hôm học hành, không hề trễ biếng. Nhưng gia cảnh nghèo

nàn, ăn tiêu không đủ” [23,tr 40]. Đằng sau sự nghèo túng ấy là một ý chí, nghị lực vượt qua số

phận của nho sinh. Việc coi trọng đạo học còn được thể hiện qua lời dạy con của người cha trong

Thử tinh truyện: “Người xưa nói: trẻ chẳng học, già làm gì? – Mày đang tuổi xanh sức khỏe, chính

là thời kỳ tu tiến. Nếu nặng tình chăn gối, uống phí thời giờ,về sau hối lại cũng chẳng kịp nữa. Con

nên đi học xa, một tháng về một lần cũng được” [117,tr 158]. Từ chỗ coi trọng việc học, người quân

tử coi trọng cả con đường thi cử lập công danh. Bởi lẽ danh chính thì ngôn thuận. Tuy nhiên,

khoảng cách từ cửa Khổng sân Trình đến chốn quan trường luôn là một con đường khó khăn, vất vả

đòi hỏi quá trình rèn luyện kiên trì. Với mục đích chân chính là “trí quân trạch dân”, Nho giáo rèn

người quân tử “khắc kỉ phục lễ” để đạt tới sự toàn thiện trong cuộc sống.

Không chỉ coi trọng đạo học, các tác giả còn đề cao những phẩm chất cao quý của nhà nho. Đó

là tinh thần trọng nghĩa, ý thức trách nhiệm với đời và thái độ coi thường danh lợi. Điều này được

thể hiện rải rác ở Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Trong Nhị nữ thần

truyện, Lê Thánh Tông đã khẳng định: “Ta vốn là một nhà nho tài cao học rộng, buồn vì thời loạn

không ra làm quan. Ngày nay thiên tử đã lên ngôi, nhiều người vui vẻ ra phò vua giúp nước, thì ta

lại già rồi. Người xưa có câu: “bóng chiều đẹp vô hạn, chỉ tiếc sắp hoàng hôn” (.....). Vì vậy ta cố

gậy dựng cho lũ hậu tiến, mong để lại chút ơn nhỏ về đời sau. Hiện nay trong số hơn 200 công thần

thì một nửa là học trò của ta” [117,tr 27]. Nhà nho này đã thể hiện tinh thần trách nhiệm cao với

dân với nước. Tuổi già sức yếu không thể trực tiếp phò vua giúp dân, nhà nho thực hiện lý tưởng ấy

bằng cách truyền lại cho đám hậu sinh ngọn lửa nhiệt huyết ấy của mình. Ngoài ra nhà nho chân

chính cũng luôn tâm niệm giữ mình cao khiết, trong sạch, coi thường danh lợi “ta không thể vì số

lương năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi danh” [23,tr.101]. Trong xã hội phong kiến, nhà

nho từ khi đi học đã được rèn dũa đức tính trọng nghĩa khí của Nho giáo và coi thường danh lợi tiền

tài. Vì vậy đến khi họ trưởng thành ra làm quan, tư tưởng này đã bắt rễ sâu sắc trong lòng họ. Bản

chất trọng nghĩa khí còn thể hiện ở chỗ sống trong nghèo khó họ vẫn giữ gìn khí tiết của một nhà

nho. Chàng nho sinh trong truyện Một dòng chữ lấy được gái thần từ chối nhận lễ vật của một cô

gái xinh đẹp đến xin chữ ký: “thôi nghèo khó những bút này thật không đáng có. Nước thơm, giấy

cống, nhà nho nghèo cũng không dùng đến. Vàng bạc vẫn là quý nhưng ăn mặc đã có tiền học. Nay

đã tặng thêm chẳng hóa ra vô tội mà thành có tội ư? Tôi nhất định không dám nhận” [117,tr 170].

Anh đồ nghèo sống thanh bần, đạm bạc thật song không vì vậy mà tỏ ra tham lam, vụ lợi. Có thể

khẳng định khí tiết trong sạch, tính tình thẳng thắn là những điểm đáng ngợi ca ở những chàng nho

sinh nghèo.

Trong cuộc sống, nhà nho luôn luôn đặt mình vào trong ba mối quan hệ: với vua, với gia đình và

với bản thân. Trong đó chữ “trung” là cách thể hiện mối quan hệ giữa vua và bề tôi. Đây là mối

quan hệ quan trọng nhất, có tính chất quyết định hai mối quan hệ còn lại. “Trung” theo quan niệm

của Nho giáo là “quân sử thần tử, thần bất tử bất trung; phụ sử tử vong, tử bất vong bất hiếu”. Đó

là một quan niệm còn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Do vậy trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn

lục và Lan Trì kiến văn lục – chữ “trung” đôi khi được xử lý linh hoạt hơn, hợp với đạo lý ở đời

hơn. Nhất là đối với tác phẩm Thánh Tông di thảo, chữ “trung” được nhà vua quan niệm khá cởi

mở. Điều này cho thấy tư tưởng tiến bộ của Lê Thánh Tông. Đặc biệt trong Trần nhân cư thủy phủ,

tác giả đã ngợi ca lòng tận trung của kẻ bề tôi. Một trong những điều cần thấy ở đây là người quân

tử để bảo toàn danh tiết ngay cả cái chết cũng có thể làm: “Ta vì dòng dõi thanh bạch, gặp buổi

trong nước vô chủ, sưu dịch nặng nề, không lấy gì thờ phụng cha mẹ, nuôi nấng con được. Bất đắc

dĩ, bất đắc dĩ lắm, mới coi rẽ thân mình, đi theo vương Đô Hộ (tức Vương Thông) (......). Khi vua Lê

khởi nghĩa Lam Sơn, thường sai người dụ ta trở về giúp nước nhà, phong cho tước vương. Ta khóc

tiễn sứ giả mà nói rằng: Chúa động Lam Sơn nhân ái anh minh, thật là đấng chân chúa. Nhưng tôi

đã trót nhẹ dạ đi theo Vương Thông, nghĩa quân sư không nên bội bạc. Nếu tham phú quý mà chịu

tiếng bất trung, hàng bầy tôi như thế ai cũng phải ghét. Muốn lấy thành mà gần kẻ gian, những bậc

đại phu thuở trước còn cho là không nên, huống chi là bậc thánh thiên tử. Tôi xin cam chịu vạn tội

chết. [117,tr 116-117]. Mặc dù đây là lòng trung của một người làm tướng cho Vương Thông, kẻ

thù của dân tộc, song tấm lòng ấy đã khiến vua Lê Lợi và Ngọc Hoàng Thượng Đế phải cảm động

và khâm phục. Tuy vậy đối với bản thân kẻ bề tôi ấy luôn luôn cảm thấy mặc cảm về tội lỗi của

mình, chỉ dám dặn cháu vài chục “năm sau hãy lập cho ngôi miếu nhỏ với thanh minh:

Việc trước không bàn, tâm địa sạch trong như nước lã

Hối sau sao kịp, phận tôi ngay thẳng có trời cao”. [117,tr 122].

Nội dung này xuất hiện ít, chỉ có trong Thánh Tông di thảo nhưng cũng cho thấy vai trò của nó

trong việc thể hiện cách nhìn của nhà văn về một số quy định của lễ giáo phong kiến dù rằng những

lễ giáo đó đã bộc lộ những mặt hạn chế của nó.

*Phê phán những mặt còn hạn chế của Nho giáo: tính chất vô dụng, viễn vông của những

giáo điều trong kinh điển Nho giáo.

Nội dung này có thể thấy rõ trong Thánh Tông di thảo, còn hai tập truyện còn lại thì không thấy

xuất hiện, có chăng chỉ là thái độ phê phán nhẹ nhàng với nho sinh xấu mà thôi. Có lẽ thời Lê Thánh

Tông khi Nho giáo trở thành quốc giáo cũng là lúc nó bộc lộ những hạn chế nhất định. Cho nên ở

đây nhà văn đã có thái độ phê phán một cách tinh tế, hóm hỉnh đối với ,tính chất vô dụng viễn vông

của những giáo điều trong kinh điển của Nho giáo. Tác phẩm Ngư gia chí dị kể rằng: có một ông

chài muốn cho con trai là Thúc Ngư bỏ nghiệp nhà để đi học đạo Nho nên đã hết lời khuyên nhủ

con nhưng hiệu quả lại trái ngược:

“Thúc Ngư hỏi cha: - Đi học là thế nào?

Cha nói: - Những lời nói và việc làm của thánh hiền đời xưa chép ở trong sách, có học mới biết

mà bắt chước.

Thúc Ngư lại hỏi: - Trong sách có cá không?

Cha rằng: - Không.

Thúc Ngư lại hỏi: - Lấy lời nói và việc làm của thánh hiền mà đánh cá có được không?

Cha nói: - Lời nói chỉ là văn không, cá là vật thật, làm thế nào mà đánh được. Mày nói sao ngu

thế?

Thúc Ngư nói: - Trong sách đã không có cá, lời nói lại không thể đem đánh được cá, còn học

làm gì?’...[117,tr 69]. Những câu hỏi dường như ngớ ngẩn cũng như lời kết luận có vẻ như thiển

cận và thực dụng của Thúc Ngư đã thay tác giả châm biếm một cách sâu sắc lối học sách vở, từ,

chương, phi thực tế lúc bấy giờ. Nho học thế kỷ XV theo phái Tống nho, nặng về từ chương, sách

vở, câu nệ, gò bó tính sáng tạo và tư tưởng của người học, do đó không thể gắn bó với thực tiễn cao.

Phải chăng mong muốn của Lê Thánh Tông khi chú trọng phát triển giáo dục là có được những con

người, những nhân tài biết đem tri thức từ sách vở vận dụng một cách thiết thực, sáng tạo vào công

cuộc xây dựng xã hội giàu mạnh, chế độ phong kiến thịnh trị, do đó tuy có tôn sùng Nho giáo nhưng

nhà vua cũng có cái nhìn tiến bộ đối với một lối học sáng tạo, gắn bó giữa lý thuyết và thực tế.

Như đã trình bày ở trên, nhân vật quan lại và nho sinh là hai kiểu nhân vật mang lý tưởng của

các nhà văn về kẻ sĩ. Có thể ở mỗi giai đoạn khác nhau cách đánh giá của các tác giả về người quân

tử cũng không giống nhau. Song điểm chung ở các nhà văn là họ đều đặt niềm tin vào kẻ sĩ với hy

vọng họ sẽ sống tốt hơn và cống hiến nhiều hơn cho xã hội.

2.2.3. Loại hình các nhân vật phụ nữ:

Người phụ nữ bao đời nay vẫn là đối tượng chịu nhiều hy sinh mất mát hơn cả, nhưng lại có vai

trò quan trọng trong sự phát triển của nhân loại. Vậy mà đã có một thời trong quá khứ, thân phận

của người phụ nữ Việt Nam không hề được xem trọng. Có lẽ vì thế mà viết về người phụ nữ là một

trong những đề tài được các tác giả trung đại quan tâm, thể hiện. Đặc biệt ở thể loại truyền kì, bàn

về giới nữ không chỉ là những nhà văn xuất thân bình thường, mà họ lại bước ra từ tầng lớp quan

lại, thậm chí cả vua chúa. Từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục người

phụ nữ luôn được ưu ái nhất. Bàn về họ, các tác giả này tập trung thể hiện những phẩm chất, tài

năng và khát vọng hạnh phúc cũng như bi kịch của họ. Đây cũng là một nội dung mới của thể loại

truyền kì nói riêng và văn học trung đại nói chung. Trong Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh vấn

đề này chưa hề được đề cập đến. Với các tác phẩm truyền kì, nhân vật người phụ nữ đã mang theo

những quan niệm nhân sinh mới mẻ. Các tác giả đã góp vào trào lưu nhân đạo chủ nghĩa những

khuôn mặt mới với những đứa con tinh thần mang đặc trưng riêng của thể loại.

2.2.3.1. Thủy chung yêu thương chồng con :

Từ ngày xưa, hình tượng người phụ nữ Việt Nam được tạc nên bởi những đức tính tốt đẹp mà họ

dành cho gia đình của mình. Nay những phẩm chất đẹp đẽ, quý báu ấy lại được thể hiện sâu sắc

trong truyện truyền kì. Viết về họ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã đi sâu vào khía cạnh

lòng chung thủy, tình yêu thương cho chồng con của họ.

*Chờ đợi chồng dù trong mọi hoàn cảnh :

Lòng chung thủy với chồng thường được biểu hiện thông qua sự chờ đợi. Người vợ Sơn thần

Đông Ngu trong Nhị nữ thần truyện tựa cửa chờ chồng đã bao mùa mà tin tức về chồng thì bặt vô

âm tín. Vắng chồng, ở nhà người vợ ấy một mình thay chồng cáng đáng “giang sơn này, thần dân

này”. Và ngày qua ngày mòn mỏi đợi chồng: “Thiếp hằng ở trong thạch động, bấm đốt tay, đến nay

đã hơn hai mươi bốn năm. Lòng những e chồng mắc mối phú quý ở trần gian mà quên lời ước cũ,

thiếp mới mượn cớ bói toán, ca hát tìm khắp nơi nơi, may ra phu quân thiếp nghe thấy tiếng ca mà

động lòng chăng”[117,tr. 29- 30]. Trong Hoa quốc kì duyên là tấm chân tình mà Mộng Trang gửi

trọn cho chồng trong buổi chia li khi Hoa quốc gặp biến loạn: “Thiếp lo chàng cô đơn, lạnh lẽo

(…..)…Đêm qua nghe quốc mẫu hạ lệnh khởi hành. Thiếp trằn trọc thâu canh. Của riêng thiếp có

một lá ngọc mềm, thiếp đã để một bài thơ tỏ ý. Giờ xin tặng lại lang quân. Lang quân đeo luôn

trong mình thì cũng như thiếp ở luôn bên cạnh (….)Rồi ta lại đoàn viên, cũng chẳng lấy gì làm

muộn. Thiếp nay hiếu nghĩa hai bề khó vẹn, theo chồng không được mà để chồng theo lại không

nên. Chỉ mong lang quân muôn nghìn trân trọng, giữ lấy sức khỏe, ngủ sớm lúc đêm mưa, dậy muộn

khi trời gió. Ngày vui sau sẽ còn dài” [117,tr 51- 52]. Đó là tấm lòng thương yêu, chung thủy với

chồng của nàng công chúa bướm, khiến người đọc không thể dừng lại dòng cảm xúc đang dâng

trào. Thật không sai, khi ai đó nói rằng: Lê Thánh Tông là ông vua đầu tiên đối xử chân thành với

giới nữ nhất. Có chân thành nhà vua mới thấy được những phẩm chất cao đẹp ấy của họ. Nếu Lê

Thánh Tông là nhà văn châm ngòi cho việc thể hiện lòng ngợi ca phụ nữ thì Nguyễn Dữ lại là người

phóng con tàu ấy vào quỹ đạo của văn học. Bởi lẽ, ở mức độ nào đó, nhân vật nữ của Lê Thánh

Tông còn trộn lẫn với chất thần. Trong khi đó, chân dung người phụ nữ được đề cập đến trong

Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ lại hoàn toàn là người phàm tục. Tiếp xúc với Truyền kì mạn lục,

người đọc không khỏi xót thương cho Từ Nhị Khanh trong Người nghĩa phụ ở Khoái Châu. Nhị

Khanh không chỉ là người phụ nữ “quốc sắc thiên hương”, mà ở nàng còn hội tụ đầy đủ những

phẩm chất tốt đẹp nhất của người phụ nữ. Đặc biệt là tấm lòng thủy chung chờ chồng. Sáu năm

không phải là khoảng thời gian lí tưởng để ngợi ca một nữ thần song nó lại đủ để đánh giá tấm lòng

con người trần tục. Nhất là sáu năm ấy, Nhị Khanh phải một mình đương đầu với biết bao khó khăn.

Đặc biệt là khi bà cô Lưu thị ép nàng lấy tướng quân họ Bạch. Và cuối cùng nàng đã bộc bạch với

người bõ già rằng: “Ta sở dĩ nhịn nhục mà sống là vì nghĩ phu lang hãy còn; nếu chàng không còn

thì ta đã liều mình chứ quyết không mặc áo xiêm của chồng để đi làm đẹp với người khác”

[23,tr19]. Đó không chỉ là tình cảm đơn thuần mà còn là lòng thủy chung son sắt mà Nhị Khanh

dành cho chồng. Khác với vẻ bề ngoài xinh đẹp của Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết lại hiện lên với một

dáng vẻ bình thường, không lộng lẫy kiêu sa. Nhưng Vũ Thị Thiết lại có tình cảm chân thành, tha

thiết với chồng với con. Trong khoảng thời gian chồng vắng nhà, cô đã thay chồng chăm sóc mẹ già

và con thơ. Hình ảnh “Chiếc bóng” trên tường nói lên tình cảm của nàng đối với Trương Sinh. Yêu

chồng nàng mới thay chồng lo cho mẹ già và đứa con thơ dại chưa biết mặt bố thật chu toàn, trọn

vẹn. Chính vì vậy mà người đời thán phục và ca ngợi họ.

*Chồng chết ở vậy thờ chồng hoặc chết theo chồng:

Hơn thế nữa, người phụ nữ trong Thánh Tông di thảo còn sống đúng mực theo những

quy định luân thường của Nho giáo. Trong trường hợp Dương phu truyện, cô gái hiện lên không chỉ

là một người con hiếu thảo mà còn là một người vợ chung tình. Duy có điều ở tác phẩm này, Lê

Thánh Tông đã đẩy tư tưởng Nho giáo của mình lên mức cao: cô gái đã chết để được lên thiên

đường gặp người yêu: “thiếp nghe chàng nói tiền duyên nên cam chịu tiếng bất chính. Đến nay ba

năm rồi, thiếp vẫn một lòng một dạ mong được ở với nhau trăm năm, trên báo ơn sinh dục, giữa kết

nghĩa gối chăn. Nếu chàng bỏ thiếp mà đi, thiếp tái giá thì mang điều thất tiết, ở vậy thì khó giữ

được mình. Đã không giữ trọn đời thì thà đem hồn đi cùng chàng” [117,tr. 101]. Việc lấy chồng dê

đã là một điều kì lạ, càng kì lạ hơn là cô gái ấy sẵn sàng từ bỏ tất cả để bay về trời với chồng. Điều

này cho thấy quan niệm của tác giả về phụ nữ. Người phụ nữ có nhiều cách để thể hiện lòng chung

thủy với chồng, trong đó có cả việc chọn lấy cái chết, từ bỏ chốn trấn gian để theo chồng. Nhờ đôi

cánh truyền kì, Lê Thánh Tông đã góp phần thể hiện tư tưởng của mình thông qua nhân vật. Cùng

quan niệm với Lê Thánh Tông, Vũ Trinh trong Lan Trì kiến văn lục cũng cho thấy tâm huyết của

ông đối với phụ nữ. Nhà văn đã tập trung những trang viết của mình vào việc đề cao những đức

tính: công, dung, ngôn, hạnh của nhân vật nữ. Xúc động, xót thương, cảm phục là tất cả những tình

cảm mà người đọc dành cho nhân vật trong Người con gái trinh liệt ở Cổ Trâu. Chồng mất năm bà

hai mươi tuổi, bà tự tử theo chồng – theo quan niệm của Nho gia. Và ngợi ca về bà, nhà văn đã có

một đoạn viết đầy triết lý: “Có ba loại người bất tử. Đó là trung thần, là hiếu tử, là liệt phụ. Những

người đọc sách, hiểu biết đạo lý thì có thể làm được trung thần, hiếu tử nhưng trong vạn người cũng

chỉ thấy được một người thôi. Còn như thân chết theo chồng, coi thường sống chết, cao cả lẫm liệt,

được muôn ngàn đời khâm phục ngưỡng mộ thì ra sao ”.[118, tr. 96]. Tuy nhiên nội dung này đã

cho thấy sự mâu thuẫn trong tư tưởng của các nhà văn. Họ vừa ngợi ca sự tự do trong tình yêu

nhưng lại cổ vũ cho những người sống theo “tam tòng”. Có thể trong con người - nhà nho của họ,

lễ giáo phong kiến đã trở thành cố hữu nên đã ít nhiều chi phối đến quá trình sáng tác.

*Luôn có ý thức giữ gìn phẩm tiết:

Phẩm tiết là yếu tố quan trọng trong cách nhìn của người xưa đối với phụ nữ. Người phụ nữ một

khi đã bị thất tiết thì tức là phẩm hạnh cũng bị hoen ố. Việc giữ tiết trọn vẹn nói lên nhân cách của

người phụ nữ. Trong Thử tinh truyện, người chồng đi học xa, ở nhà có con chuột thành tinh hóa

“chàng từ xa trở về chưa vào chào thầy mẹ, đã vội đế khuê phòng. Sáng mai thầy mẹ biết chuyện,

thành chồng. Con chuột ấy trèo ngay vào buồng vợ. Người vợ tưởng đấy là chồng mình nên đã trách

chả hóa ra chàng là người coi tình yêu hơn đạo hiếu, không phải kẻ học thức, mà thiếp cũng mang

tiếng là người chỉ biết ham vui” [117,tr. 158]. Đó là lời khuyên, lời tâm sự thật lòng của người vợ

biết nghĩ cho chồng. Qua đó cũng thấy được việc giữ gìn phẩm hạnh trong đạo làm vợ, làm dâu của

người phụ nữ thời phong kiến. Giữ gìn chữ trinh với chồng là một biểu hiện quan trọng của phẩm

tiết. Điều này được thể hiện rõ ở nhân vật Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu.

Vợ chồng ly tán, Nhị Khanh kiên quyết giữ lòng trinh tiết với chồng. Dù bị bà cô ép lấy người khác

song cô cự tuyệt và tìm cách để được gặp lại chồng. Cũng như Nhị Khanh, Lệ Nương vì những

xung đột nội chiến và nạn ngoại xâm mà phải chịu cảnh chia ly với chồng. Hết bị triều đình bắt

giam lại bị rơi vào tay giặc ngoại bang, dù vậy, Lệ Nương vẫn là người vợ tuyệt vời. Cuối cùng để

bảo toàn danh tiết với chồng, nàng đã chọn giải pháp là “thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê

hương còn hơn là sang làm những cái vô hồn bên xứ bắc” [23,tr 204]. Trong đức hạnh của người

phụ nữ theo quan niệm của Nho giáo thì chữ trinh luôn luôn được đặt lên hàng đầu. Là người luôn

có thái độ xem trọng phụ nữ, ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ, nhất là chữ trinh, Vũ Trinh

đã thể hiện tư tưởng nhân văn cao đẹp trong tác phẩm của mình. Điền hình là Cô ca kĩ họ Nguyễn.

Cô gái ấy đã yêu chàng nho sinh bằng tình yêu cao thượng, sẵn sàng hy sinh vì người mình yêu. Câu

chuyện có thể khiến người đọc vứt bỏ hoàn toàn tư tưởng xem thường con hát của xã hội phong

kiến để thay vào đó bằng lòng ngưỡng mộ sâu xa đối với cô gái. Nhưng không vì yêu say đắm mà

dễ dàng hiến tặng, cô đã nghiêm nghị nói với Vũ Khâm Lân khi chàng có ý lả lơi : “Nếu thiếp dâm

đãng thì thiên hạ thiếu gì bọn đàn ông? Thiếp tự biết mình là phận con hát, sợ lấy người chẳng

xứng đôi, nên cố tìm tòi trong chốn trần ai. Nếu may mà ngày sau chàng không nỡ phụ thì được

trọn đời nương tựa”[118,tr 62]. Bên cạnh những suy nghĩ táo bạo trong hôn nhân, các tác giả cũng

hết sức coi trọng chữ trinh nơi người phụ nữ. Đó là một trong những yếu tố quan trọng để xã hội

phong kiến đánh giá nhân cách giới nữ.

Có thể nói: lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam hình ảnh người phụ nữ được đưa và văn

học với một cảm hứng ngợi ca, trân trọng. Nếu tập quán phong kiến luôn quan niệm “nhất nam viết

hữu thập nữ viết vô ”thì đây Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã làm một cuộc cách mạng

ngược lại để tôn vinh người phụ nữ. Và lòng thủy chung với chồng là điểm đáng quý ở họ.

* Yêu thương con vô bờ bến

Bên cạnh nét đẹp tâm hồn về sự thủy chung, trinh tiết mà người phụ nữ dành cho chồng, vượt

lên tất cả là tình cảm mẹ dành cho con. Lòng mẹ thương con đã được văn học dân gian ngợi ca,

truyền tụng bao đời. Dòng nước mát lành ấy đến thể loại truyền kì lại càng ngọt ngào thắm thiết hơn

nữa. Đọc Nhị nữ thần truyện, người đọc khó có thể quên hình ảnh người mẹ già 36 năm trời tựa cửa

chờ con trai đi báo thù cho cha. Chờ đợi mỏi mòn, không nơi nương tựa cuối cùng người mẹ ấy

đành giả tiếng đi bói toán để tìm con. Khi hay tin con đã chết, người mẹ : “không hát cũng không

xem bói, đoán số, mà nét mặt buồn rười rượi”. Lòng mẹ thương con nhớ con vô bờ và việc ra đi tìm

con là kết tụ tất cả tinh thương ấy. Chính con tim đã thôi thúc mẹ hành động.

Đó còn là sự hy sinh tuổi xuân son trẻ để phụng dưỡng mẹ chồng và “vắng chàng thiếp là phụ

thân”để nuôi dạy con thơ. Ở Vũ Thị Thiết đã hội tụ bốn kiểu người: người con, người mẹ, người vợ,

và còn là người cha. Dỗ dành khi con khóc, Vũ Thị Thiết đã chỉ bóng mình trên tường và nói với

con đó là cha. Niềm vui, hạnh phúc khi con được gặp bố cũng chính là tai họa vô hình đối với nàng.

Những ghen tuông, những lời nhục mạ của chồng với Vũ Thị Thiết đều xuất phát từ nguyên nhân

chính là chiếc bóng. Phải chăng đôi khi tình yêu thương, sự hy sinh của con người cũng có thể được

đền đáp bằng tai họa, thậm chí bằng chính cái chết. Tình mẹ dành cho con không chỉ là sự trải lòng

khi mẹ đang có mặt trên thế gian mà ngay cả khi mẹ không còn, tình yêu ấy vẫn theo con trên mọi

nẻo đường. Tác phẩm Đẻ lạ của Vũ Trinh không đơn giản là chỉ kể lại nhằm gây tò mò mà hơn hết

nhằm bộc lộ niềm cảm phục trước tấm lòng người mẹ: “Trong thôn có một bà già biết người phụ nữ

này từ trước, mở quán trà gần chỗ một chị ta. Mấy ngày sau khi người phụ nữ chết, bà thấy chị ta

đem tiền đến mua bánh kẹo rồi đi. Bà già thấy chị ta đi tới ngôi mộ thì mất. Cứ thế đến gần mười

hôm, bà chủ quán hỏi chị ta mua bánh làm gì thì chị ta nói : cháu mới nở không có sữa, nó khóc

quá không chịu được, mua quà bánh về cho nó ă ”[118,tr 45]. Nhờ vậy mà đứa con sau đó được cứu

sống. Thế mới thấy, lòng mẹ thương con vượt qua cả sóng gió, khổ đau và chiến thắng cả tử thần.

Tất nhiên ở đây Vũ Trinh đã dùng phương thức truyền kì để thể hiện tư tưởng ấy. Nhà văn này đã

vượt qua việc nhìn thấy chép lại để thể hiện lòng ngưỡng mộ dành cho giới nữ.

2.2.3.2. Hiếu thuận và giàu đức hy sinh :

Như một đức tính tốt đẹp vốn có của người phụ nữ Việt Nam, lòng hiếu thảo và đức hy sinh đã

trở thành một vấn đề được nhắc đến nhiều trong truyện truyền kì. Họ thật sự đã tuyệt vời trong tư

cách người vợ, người mẹ. Và đáng khâm phục hơn nữa là cách hành xử của họ trong vai trò một

người con. Chăm sóc, phụng dưỡng chu đáo cha mẹ, thậm chí sẵn sàng hy sinh vì cha mẹ là những

đặc điểm về nhân cách của người phụ nữ và nó trở thành cảm hứng ngợi ca của Thánh Tông di thảo,

Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.

*Hiếu thảo với cha mẹ ruột :

Bàn về nội dung này trước tiên các tác giả ca ngợi lòng hiếu thảo của con gái đối với chính cha

mẹ của mình. Đó là những biểu hiện của cô gái trong Dương phu truyện. Cha mất, tất cả tình cảm cô

dành cho mẹ. Điều này càng được thể hiện rõ hơn khi người mẹ qua đời, cô đã làm tròn bổn phận

một người con: “Thường mỗi ngày hai buổi cúng cơm, khóc lóc thảm thiết. Tuần trăm ngày cũng

thế, ngày giỗ đầu và ngày giỗ hết tang cũng gào khóc như thế. Tiếng khan người gầy ai nghe tiếng

hoặc trông thấy đều khen là có hiếu ”[117,tr. 97]. Đó cũng là lòng hiếu thảo của Nhị Khanh với cha

mẹ ruột. Sau khi cha mẹ qua đời, thân gái một mình nhưng vẫn đưa song thân về quê an táng theo

đúng nghi lễ. Tuy vậy viết về lòng hiếu thảo của con đối với cha mẹ ruột chỉ dừng lại ở mức độ, các

tác giả chủ yếu đi vào ngợi ca đức hy sinh của những nàng dâu với bố mẹ chồng.

*Chăm sóc, phụng dưỡngcha mẹ chồng và sẵn sàng hy sinh vì gia đình chồng :

Nhà thơ hiện đại Xuân Quỳnh bày tỏ lòng mình với mẹ chồng bằng hình ảnh :

Mẹ nào mẹ của riêng anh

Mẹ là mẹ của chúng mình đấy thôi

Mẹ tuy không đẻ không nuôi

Nhưng mà ơn mẹ suốt đời không quên.(Mẹ của anh)

Quay về với văn học trung đại, cách đó hằng mấy trăm năm, các tác giả truyền kì hơn một lần

đã nói đến lòng biết ơn này của nhân vật nữ đối với gia đình chồng. Đó như là một món quà mà

những người con dâu hiếu thảo dành tặng cho bố mẹ chồng. Hiếu thuận cha mẹ ruột đã là điều đáng

trân trọng, phụng dưỡng chu đáo cha mẹ chồng lại càng đáng kính hơn. Có lẽ vì thế mà Thánh Tông

di thảo đã xây dựng thành công nhiều nhân vật nữ hiếu thuận, sẵn lòng hy sinh vì gia đình chồng,

làm tròn đạo hiếu con dâu. Đó là hình ảnh nàng Ngọa Vân trong Ngư gia chí dị. Tác giả đã đặc tả sự

thay đổi trong gia đình chồng từ khi nàng về làm dâu : “mỗi lần buông lưới là toàn được cá ngon,

chốc lát đã đầy nửa thuyền. Chiều đem về chợ bán, thường được giá đắt. Gia tư giàu có

dần”[117,tr 75]. Không dừng lại ở chỗ chăm lo, vun vén trong ngoài cho gia đình chồng, lòng hiếu

thảo ấy còn được nâng lên thành một mức cao hơn. Đó là việc Ngọa Vân sẵn sàng hy sinh bản thân

mình để cứu gia đình nhà chồng qua cơn nguy biến : “dù có mọc lông cánh cũng không bay khỏi ra

ngoài nước được, nên Ngoa Vân thấy tình thế nguy bách quá, tức thì nàng hóa ra một con cá to, dài

độ ngàn thước, mình lớn ước tới 30 quầng, nằm chắn chỗ ngọn nước tràn vào. Vợ chồng ông chài

và Thúc Ngư vin vào râu cá trèo lên. Nhờ thế được bình an vô sự ”[117,tr.75]. Cuối cùng nàng buộc

phải từ biệt gia đình chồng để vĩnh viễn trở về với thế giới của mình bởi nàng đã để lộ bản thân

mình. Cuộc chia ly thật đau xót và đầy xúc động. Không hy sinh thể xác như Ngọa Vân nhưng

người vợ trẻ trong Thử tinh truyện lại hy sinh hạnh phúc cá nhân thay chồng làm tròn đạo hiếu để

chồng yên tâm “dùi mài kinh sử”, gầy dựng tương lai, công danh sự nghiệp : “vợ chồng là duyên

trăm năm, không phải là duyên sớm tối. Chàng đi học xa may ra đỗ đạt, trên thì cha mẹ vẻ vang,

dưới thì vợ con sung sướng, sau này hưởng thụ còn nhiều. Mong chàng hãy tạm gác tình yêu thương

thiếp, ra sức học hành; còn như việc phụng thờ cha mẹ, miếng ngon miếng ngọt, sớm hỏi, tối chào,

thiếp xin đảm đương mong chàng chớ ngại”. [117,tr158]. Cao hơn một mức, thoát khỏi kiểu nhân

vật mang dáng dấp thần của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công những nhân vật

nữ của mình trong mối quan hệ với cha mẹ chồng. Tiêu biểu có thể kể đến là Từ Nhị Khanh trong

Chuyện người nghĩa phụ Khoái Châu. Khi cha Trọng Quỳ đi xa, chẳng nỡ để bố chồng thân già yếu

cô độc ra nơi tử địa, Nhị Khanh đã khuyên chồng khăn gói theo cùng để trông nom phụ thân cho

tròn đạo hiếu. Mặc dù đây là một cử chỉ nhỏ song nó lại thể hiện tình cảm lớn, đó chính là sự quan

tâm của nàng dâu với bố chồng. Cũng như Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết là người con dâu đã vẹn trọn

con đường hiếu thảo. Chồng xông pha trận mạc, ở nhà nàng đã thay chồng lo cho mẹ và chăm con

thơ. Có thể nói khó khăn chồng chất khó khăn nhưng nàng dâu vẫn vượt qua. Khi mẹ chồng qua

đời, nàng vô cùng thương tiếc. Nỗi đau mất mát người thân được tác giả viết bằng cảm xúc

thật : “nàng hết lời thương xót (...), phàm những việc ma chay, tế lễ lo liệu như đối với cha mẹ sinh

ra” [23,tr.177]. Mượn lời người mẹ chồng nhận xét về con dâu trước lúc lìa xa cõi đời tác giả cho

thấy được đạo làm con của Vũ Thị Thiết : “sau này trời giúp người lành, ban cho phúc trạch, giống

dóng tươi tốt, con cháu đông đàn, xanh kia quyết chẳng phụ con cũng như con đã chẳng nỡ phụ

mẹ”[23,tr.177]. Nổi bật lên ở tác phẩm của Vũ Trinh là một số truyện vừa mang chất luân lý giáo

huấn, vừa đậm màu sắc nhân văn, nhờ đó có sức truyền cảm cao. Trong số đó có thể kể đến người

đàn bà “thờ cha mẹ chồng rất hiếu thảo, ở với họ hàng, xóm giềng giữ lễ nghĩa, có phong cách,

khuôn khép của dòng họ lớn” [118, tr97]. Đấy cũng là tấm lòng hiếu thảo của người con dâu trong

Người đàn bà trinh tiết ở Thạch Hán. Khi chồng chết, người đàn bà ấy cũng muốn chết theo cho

tròn đạo vợ chồng, nhưng lại nghĩ : “chết không phải là việc khó. Nhưng nếu ta chết thì cha mẹ già

đôi bên sớm tối biết dựa vào đâu” [118,tr. 101]. Trong vô vàn kiểu người trong xã hội, biết hy sinh

mình vì người khác là kiểu người không nhiều trong cuộc đời này. Do đó họ thật đáng quý, đáng

“Thương chồng nên khóc mụ gia

trân trọng. Ca dao ta thường nói :

Chứ tui với mụ có bà con chi. ”

Nhưng có thể nói những nhân vật nữ trong các tác phẩm không phải vì thương chồng mà khóc

mẹ chồng, nó xuất phát từ chính tình cảm chân thành mà họ dành cho bố mẹ chồng. Đó là lòng hiếu

thảo và khi lòng hiếu thảo đạt đến mức cao, nó biểu hiện ra bằng sự hy sinh.

2.2.3.3. Thông minh, tài giỏi :

Một trong những quy định làm kềm hãm những tài năng của phụ nữ là: giới nữ trong xã hội

phong kiến không được đi học, đi thi. Những ai vi phạm điều cấm này, bản thân họ, thậm chí gia

đình đều bị xử trãm. Chính vì vậy trong quan niệm của các đấng mày râu, người vợ đơn giản chỉ là

người đi sau chồng, nâng khăn sửa túi cho chồng, còn mọi việc từ trong gia đình đến quốc gia đều

do người đàn ông quyết định. Điều này vô hình trung đã làm cản bước chân của người phụ nữ trong

việc xây dựng gia đình cũng như góp phần vào việc xây dựng đất nước. Thấy được những bất công

ấy với giới nữ, đồng thời phát hiện được tài năng thiên phú của họ, các tác giả truyền kì đã ngợi ca

họ không kém một đấng nam nhi trong xã hội đương thời. Hơn thế nữa, Lê Thánh Tông, Nguyễn

Dữ, Vũ Trinh cho rằng với tài năng ấy người phụ nữ còn xứng đáng tham gia vào việc triều chính.

Và lịch sử đã chứng minh, đất nước ta từ xưa đến nay đã có biết bao tấm gương nữ giới góp sức

mình vào việc tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.

Trong quan niệm của người trung đại, sáng tác thơ văn là một trong những dấu hiệu bộc lộ tài

năng thiên phú. Chính vì vậy ngợi ca người phụ nữ các tác giả đã ngợi ca tài năng thơ ca của họ. Có

thể thấy chủ đề này xuất hiện nhiều ở Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.

Trong khi chế độ phong kiến khinh miệt người phụ nữ thì Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh lại

tôn trọng, ngợi ca họ. Hầu hết các nhân vật nữ của Nguyễn Dữ đều gắn liền với việc sáng tác, đàm

đạo thơ văn. Táo bạo hơn, nhà văn còn để cho nhân vật sáng tác thơ ca về những hoàn cảnh đặc

biệt : cảnh ái ân ở phòng the. Ví như khi hồn ma Nhị Khanh cùng Trình Trung Ngộ “cùng nhau ái

ân hết sức thỏa mãn. Nàng có làm hai bài thơ để ghi về cuộc hoan lạc”[23,tr 30]. Và rồi “Trình vốn

là lái buôn, biết ít chữ nghĩa, nàng giải nghĩa rõ ràng cho hiểu ”[23,tr 31]. Tài sáng tác thơ ca cũng

nổi bật ở Nhu Nương và Hồng Nương “lửa đượm hương nồng, ân ái mười phần thỏa nguyện. Trong

lúc gối êm chăn ấm, sinh bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi. Nàng Liễu ngâm trước”[23,tr49].

Đấy cũng chính là tài năng thơ ca của Hàn Than “thông hiểu âm luật và ngữ nghĩa, ứng khẩu đọc

thơ ngay”[23,tr.155]. Như vậy có thể thấy người phụ nữ cũng có năng khiếu văn chương không

thua kém nam giới. Vậy mà chế độ phong kiến một thời đã dựng lên bức tường thành ngăn cách,

triệt tiêu tài năng ấy.

Nếu xã hội phong kiến coi “con hát” là một trong bốn loại người đáng khinh bỉ nhất trong xã hội

thì Vũ Trinh lại bày tỏ lòng ưu ái đối với cô ca kĩ trong truyện Ca kĩ họ Nguyễn. Tài năng đàn hát

của nàng được miêu tả: “có một kĩ nữ mười bảy, mười tám tuổi , nhan sắc xinh đẹp, tài nghệ tuyệt

trần, mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đều ngây ngất không sao tự kềm chế

nỗi ”[118,tr. 61]. Từ chỗ ca ngợi tài năng ca hát của cô ca kĩ, tác giả đã phát biểu : “đó là người đàn

bà trinh tâm hào khí, khó tìm thấy trong giới quần thoa ”[118,tr.65]. Lời bàn là nơi mà nhà nho cần

giữ mực thước nhất nhưng Vũ Trinh đã dũng cảm ngợi ca người con hát ấy. Tác giả muốn đòi lại

quyền được tôn trọng của phụ nữ, dù họ xuất thân ở tầng lớp nào, làm nghề gì trong xã hội, nếu như

họ thực sự có tài năng và phẩm giá.

Sự thông minh, tài giỏi được thể hiện cao nhất là ở tài năng điều hành việc nước. Tiêu biểu cho

kiểu người phụ nữ điều hành triều chính có thể kể đến Quốc Mẫu, Mộng Trang trong Hoa quốc kì

duyên của Thánh Tông di thảo. Quốc Mẫu có được vẻ oai nghiêm của một bậc nữ vương đứng đầu

một nước lớn “Một bà già ngồi trên sập rồng, tuổi trạc 60, trông có vẻ oai nghiêm đáng

sợ ”[117,tr.45]. Đặc biệt, tài năng ấy càng được thể hiện rõ hơn khi nhân vật được đặt trong hoàn

cảnh “ngàn cân treo sợi tóc”. Đó là lúc đất nước khó khăn, có ngoại bang xâm lược. Dù vậy Quốc

Mẫu vẫn vững tay lái chèo chống con thuyền đưa đất nước qua cơn hoạn nạn và ngày càng thịnh

vượng. Người phụ nữ ở đây được coi trọng trong tư thế hoàn toàn bình đẳng với nam giới : “Nước

sẽ chia làm hai : từ bên tả ra phía đông thuộc phần nguyên tử làm chủ, từ bên hữu ra phía Tây

thuộc quyền công chúa làm chủ”[117,tr 60]. Như vậy mới thấy rằng Lê Thánh Tông – người đứng

đầu nhà nước lúc bấy giờ đã có tư tưởng tiến bộ khi nhìn người phụ nữ.

Nhìn chung nét đẹp của người phụ nữ trong các tác phẩm truyền kì không chỉ được thể hiện qua

hình ảnh bên ngoài mà còn được khám phá sâu ở đời sống bên trong. Tuy nhiên tài năng, phẩm

hạnh đã không thể bao bọc cho thân phận của họ. Với những gì đang có, lẽ ra họ phải được sống

hạnh phúc, được đối xử bình đẳng bình quyền, được yêu thương và trân trọng. Song ở xã hội phong

kiến thì họ chỉ là những thân phận nhỏ bé đáng thương. Chính vì vậy mà việc Lê Thánh Tông,

Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đưa hình ảnh họ vào văn học với một thái độ trân trọng ngợi ca đã là một việc

làm đáng để người đời ngưỡng mộ.

2.2.3.4. Những khát vọng và bi kịch của nhân vật nữ :

*Khát vọng tình yêu và hạnh phúc gia đình :

Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đều là những nhà nho lỗi lạc nhưng trong đứa con tinh

thần của họ vẫn bàng bạc những yếu tố phi Nho giáo. Điều này được biểu hiện qua những tư tưởng

tiến bộ về cuộc đời, cách nhìn về người phụ nữ. Họ không chỉ bộc lộ thái độ cảm thông, yêu thương,

trân trọng giới nữ mà còn đấu tranh cho khát vọng tình yêu và hạnh phúc gia đình của nữ giới. Phải

chăng truyền thống nhân hậu, tình yêu thương con người của dân tộc Việt đã ăn sâu vào máu các

nhà văn, do vậy nó đã thắng thế, chế ngự những quy định khắt khe của Nho giáo.

Xã hội phong kiến có những quy định khắt khe đối với người phụ nữ. Đặc biệt những quan niệm

cổ hủ, lạc hậu về hôn nhân đã giết chết hạnh phúc của không biết bao nhiêu cô gái. Lê Thánh Tông

đã tỏ ra thông cảm với người phụ nữ nên phần nào đã để nhân vật của mình tự do đến với tình yêu.

Ngoài ra Nguyễn Dữ và Vũ Trinh ít nhiều không bị gò bó trong khuôn khổ cứng nhắc của lễ giáo

phong kiến nên những tác phẩm viết về tình yêu của hai ông cũng khá táo bạo và mãnh liệt.

Tình yêu là một trong những đề tài muôn thủa của văn học và Thánh Tông di thảo, Truyền kì

mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng không phải là trường hợp ngoại lệ. Vấn đề này cũng là một trong

những đóng góp lớn mang tính thử nghiệm của Thánh Tông di thảo. Đa phần những truyện viết về

đề tài tình yêu ở đấy đều có pha trộn màu sắc thần kì. Điều này có thể được lý giải từ hai nguyên

nhân: tác giả xuất thân từ tầng lớp vua chúa và người đọc vẫn chưa có tâm thế để tiếp nhận tác

phẩm dạng ngợi ca trong tình yêu. Hoa quốc kì duyên viết về mối tình giữa người và vật biến thành

người. Đó là một tình cảm chủ động, mặn nồng, gắn bó thắm thiết giữa công chúa bướm Mộng

Trang và chàng nho sĩ Lưu Sinh. Thắm thiết đến mức độ khi phải chia tay vì biến loạn, họ lưu luyến

không nỡ rời xa: “Nghĩa vợ chồng sống chết gắn bó, sao nỡ vội biệt ly ? Còn sống thì cùng đi với

nhau, chớ nỡ nào cam chịu trong cảnh cha con, vợ chồng, mỗi người mỗi ngã ”[117,tr. 51]. Chính

vì vậy, sau 15 năm xa cách, khi gặp lạ “bình man đại tướng ” đã bỏ việc vua đi gặp vợ và sau đó từ

quan để chết theo vợ, trở về đoàn tụ cùng vợ trong thế giới của loài bướm. Nhiều câu chuyện về tình

yêu trong Thánh Tông di thảo được kể với một mối duyên tiền định. Ở Dương phu truyện, xuất phát

từ tình yêu, từ khát vọng được yêu thương, người con gái trinh tiết trong câu chuyện đã dũng cảm

bước qua hàng rào lễ giáo phong kiến để trao thân cho người yêu : “Thiếp nghe chàng nói đến tiền

duyên nên cam chịu tiếng bất chính. Đến nay đã ba năm rồi vẫn một lòng một dạ mong được ở với

nhau trăm năm, trên báo ơn sinh dục, giữa kết nghĩa gối chăn. Nếu chàng bỏ thiếp mà đi, thiếp tái

giá thì mang điều thất tiết, ở vậy thì khó giữ được mình. Đã không giữ trọn đời thì thà đem hồn đi

cùng chàng” [117,tr. 101]. Đáp lại sự đằm thắm mặn nồng ấy của cô gái, vị tiên trên trời cũng trân

trọng nâng niu hơn chính cả cuộc sống trên thiên đình : “Tuy trên trời có vui thật, nhưng mối tình

vương vấn của nàng quên sao được ”[117,tr 101]. Vậy ra thần tiên cũng cảm thấy bất hạnh nếu

không có tình yêu. Có thể thấy cả cô gái và vị thần tiên đều ý thức được giá trị của tình yêu trong

cuộc sống. Do đó họ sẵn sàng đánh đổi mọi thứ, kể cả sinh mệnh của mình để được bên người mình

yêu suốt đời. Cũng chính vì vậy mà khi chàng trai kết thúc kiếp nạn của mình ở trần gian thì cô gái

khóc lóc thảm thiết đến nỗi ốm nặng và qua đời. Sau khi chết, nàng được hóa kiếp và trở về với thế

giới thần tiên sống tiếp mối tình còn dang dở ở nhân gian. Tác phẩm đã thể hiện một khát vọng:

vĩnh cửu hóa tình yêu của con người. Tình yêu có một sức mạnh kì lạ, do vậy không chỉ con người

mà ma quỷ cũng bị mê hoặc trước hương vị ngọt ngào của nó. Con ma chổi nữ trong Phụ chép 2 của

Lê Thánh Tông đã thầm yêu trộm nhớ chàng trai gần nhà. Và để bày tỏ tình cảm của mình, con ma

chổi ấy đã chủ động thổ lộ : “Bỗng một đêm khuya thấy một người con gái đẹp đứng ngoài cửa sổ

ném một bài thơ vào :

Thiếp vốn sao trời xuống dưới trần

Trên cùng Cơ, Vĩ vốn cùng thân

Thường đem quét tước trần ai sạch

Muốn kết ái ân Chu với Trần. ”[117,tr. 152]

Theo tiếng gọi của con tim, con ma chổi ấy đã bất chấp tất cả, trốn cha mẹ, chui ngạch cửa để đến

với người yêu. Giống như Phụ chép 2, nhân vật Nhị Khanh trong Cây gạo của Nguyễn Dữ cũng

sống một cách thoải mái, vượt qua những rào cản của xã hội phong kiến. Bản thân Nhị Khanh luôn

sống với tâm niệm : “cuộc đời chẳng khác gì giấc chiêm bao”. Từ chỗ coi cuộc đời là giấc chiêm

bao thoáng qua nhanh chóng nên Nhị Khanh thường nghĩ “trời để cho sống ngày nào, nên tìm lấy

những thú vui ngày đó ”. Những thú vui mà Nhị Khanh đề cập, đó là thú vui ái ân, thú vui tình dục.

”[23,tr35]. Hình ảnh này như mang đến một thông điệp : đừng chia rẽ hạnh phúc lứa đôi. Và: tình

Mối tình của Trình Trung Ngộ - Nhị Khanh kết lại ở chỗ “dắt tay nhau đi đôi khi khóc, khi hát

yêu là sự rung cảm giữa hai con tim mà hàng rào lễ giáo phong kiến và đạo đức Nho giáo không

thể trói buộc được.

Gắn liền với sự chủ động bao giờ cũng là sự nồng nàn say đắm của nhân vật nữ trong tình yêu.

Nghiệp oan của Đào thị là tác phẩm có nhiều vấn đề đáng bàn. Ở một mức độ nào đó, tác phẩm này

là tiếng nói phê phán những hạn chế của Phật giáo đương thời. Song cũng lại có phần nói đến tình

yêu đôi lứa ở cảm hứng ngợi ca. Đứng trên lập trường tình yêu mà phán xét, chúng ta thấy hình ảnh

cái chết của Đào Hàn Than đã mang đến hai ý nghĩa nhất định. Đó là niềm thương cảm, xót xa cho

thân phận Hàn Than. Và đây cũng chính là tiếng nói tố cáo, đập mạnh vào xã hội đương thời đối với

người phụ nữ. Có thể nói lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam, tình yêu đôi lứa lại được nói

đến một cách trần trụi, rõ ràng đến vậy.

Trân trọng người phụ nữ, Vũ Trinh trân trọng tình yêu của họ. Đó là những mối tình đắm say,

đẹp đẽ. Họ xuất thân từ những tầng lớp khác nhau nhưng đều chủ động tìm đến tình yêu và đều hy

sinh cho người mình yêu. Nàng ca kĩ được cả tài lẫn sắc, yêu Vũ Khâm Lân từ cái nhìn đầu tiên.

Nàng đã chăm sóc, lo tiền bạc, hành trang cho chàng yên tâm đèn sách. Nhưng khác với một số

nhân vật nữ trong Truyền kì mạn lục, nhân vật của Vũ Trinh yêu nồng nàn, say đắm song không hề

lả lơi đùa hoa cợt liễu : “nếu thiếp là kẻ dâm đãng thì thiên hạ thiếu gì bọn đàn ông ”[118,tr 62].

Hy sinh, lo toan cho người yêu là vậy nhưng cuối cùng nàng cũng bị từ chối, bị phản bội. Dù vậy

nàng vẫn cao thượng, không trách móc chàng trai : «Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp

hèn hạ không xứng hầu khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp ”[118,tr64]. “Đọc truyện

không thể không cảm kích trước phẩm chất cao đẹp của người con gái ấy ”[121, tr320].Người con

gái phú ông trong Thanh Trì tình trái cũng hiện lên với tính cách chủ động và say đắm. Cô gái yêu

tha thiết anh lái đò Nguyễn Sinh có tiếng hát hay, phong tư đẹp nhưng nghèo. Trước những lời cấm

đoán của cha, cô gái đã liều lĩnh ăn cắp hai trăm lạng của gia đình gửi cho người tình làm lễ hỏi. Chỉ

tiếc rằng anh lái đò đã phẫn chí ra đi với niềm mong ước kiếm thật nhiều tiền để về cưới cô gái. Còn

“chết rồi cô biến thành một vật không phải ngọc cũng chẳng phải đá, nó trong như gương, búa

cô gái thì : “buồn thương sinh bệnh, hơn một năm sau cô qua đời ”[118tr 65]. Điều kì lạ là ở chỗ

đập không vỡ, trên đó có một chàng trai đang ngả đầu tựa mái chèo nằm hát ”[23,tr6]. Hình ảnh cô

gái đã đưa đến những ý nghĩa đáng suy ngẫm. Tác phẩm lên án tệ phân biệt đẳng cấp, phá vỡ tình

yêu đôi lứa, đồng thời câu chuyện cũng ngợi ca tình cảm cao đẹp mà phụ nữ dành cho người mình

yêu và cổ xúy cho sự tự do trong hôn nhân. Câu chuyện tình bi thảm ấy đã hấp dẫn đối với nhiều thế

hệ bạn đọc.

Tình yêu vốn có lý lẽ riêng của nó cho nên mọi quy định, cấm đoán đều không thể ngăn những

người yêu nhau đến với nhau. Nguyễn Dữ đã xây dựng thành công những mô hình cuộc tình tay ba,

tự do, không qua cưới xin, không qua gia đình. Cuộc kì ngộ ở Trại Tây là một minh chứng tiêu biểu

cho dạng này. Đó là mối tình giữa hai cô gái Nhu Nương và Hồng Nương với chàng thư sinh Hà

Nhân. Cảnh ái ân trai gái được Nguyễn Dữ đặc tả : “Sinh rủ rê hai ả đến chơi chỗ trọ của mình,

chuyện trò đằm thắm. Chàng lả lơi cợt ghẹo, hai ả thẹn thò nói rằng (....). Sinh khuyên lơn dịu ngọt

rồi cùng tắt đèn đi nằm, lửa đượm hương nồng, ân ái mười phần thỏa nguyện. Trong lúc gối êm

chăn ấm, Sinh bảo hai nàng cùng làm thơ ngâm chơi ”[23,tr 49]. Không dừng lại ở chỗ tả mối tình

tay ba, mà táo bạo hơn nhà văn còn miêu tả sinh động chuyện ái ân trai gái trong chốn phòng the

qua những bài thơ họ ngâm vịnh cùng nhau. Chính vì vậy tác phẩm này được xem là bệ phóng

phóng con tàu truyện ngắn thế tục lên đến đỉnh cao của văn học tự sự trung đại Việt Nam. Ca ngợi

tình yêu tự do, các tác giả cũng đề cập đến tính cách mạnh mẽ của người phụ nữ. Họ sẵn sàng giúp

đỡ người yêu để có thể thành công và để gia đình chấp nhận hôn sự của họ. Nội dung này được thể

hiện khá rõ ở Lan Trì kiến văn lục, cho thấy tư tưởng tiến bộ của nhà văn trong việc xác định sự

bình đẳng giữa nam và nữ. Trên cơ sở sự bình đẳng ấy, dù là đấng quân tử hay bậc quần thoa thì

cách bày tỏ cảm xúc trong tình yêu cũng giống nhau. Sự liều lĩnh trong tình yêu của người phụ nữ

cũng thể hiện tính cách táo bạo, mãnh liệt của họ trong tình yêu. Cô gái tiểu thư nhà phú ông giàu có

một vùng yêu anh lái đò Nguyễn Sinh nghèo khó. Lão phú ông bần tiện tham lam không đồng ý.

Mong muốn cha chấp nhận hôn sự cô gái đã lấy cắp tiền cho người yêu để anh có tiền làm lễ hỏi,

mong gia đình chấp nhận hôn sự.

Viết về giới nữ, các tác giả trung đại thường đi sâu thể hiện những khát vọng hạnh phúc của họ.

Không chỉ là những khát khao tự do trong tình yêu mà còn là những khát khao hạnh phúc trong đời

sống gia đình. Đây cũng chính là khát vọng muôn đời của người phụ nữ ở mọi thời đại. Lê Thánh

Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã viết về cuộc sống mà điểm xuất phát của nó là gia đình. Để giữ gìn

hạnh phúc gia đình, người phụ nữ thường kiên trì khuyên nhủ, cảm hóa những lạc lối của chồng.

Là một đấng quân vương song trang viết của Lê Thánh Tông về hạnh phúc gia đình lại rất chân

thành, giản dị. Tác giả đã gửi những khát vọng hạnh phúc gia đình vào trong Thử tinh truyện: “Vợ

chồng duyên trăm năm, không phải duyên sớm tối. Chàng đi học xa, may ra đỗ đạt, trên thì cha mẹ

vẻ vang, dưới thì vợ con sung sướng, sau này hưởng thụ còn nhiều [117,tr158]. Đấy là lời khuyên

chí tình của người vợ hãy: chuyên tâm đèn sách đừng vì nhi nữ mà bỏ dở lý tưởng của người quân

tử. Nàng đã biết gác lại hạnh phúc cá nhân, gác lại chuyện tình cảm riêng tư để chồng thực hiện chí

làm trai của mình. Không hạnh phúc bằng cô gái trong Thử tinh truyện nhưng nàng Nhị Khanh vẫn

là người phụ nữ tuyệt vời. Nhị Khanh là nơi hội tụ đầy đủ mọi phẩm chất của một người phụ nữ lý

tưởng : hiếu thảo, cần mẫn, thủy chung, trinh tiết và tích cực vun đắp, gìn giữ hạnh phúc gia đình.

Nhị Khanh đã luôn khuyên nhủ, cản ngăn khi thấy chồng đi sai đường : “Những người lái buôn

phần nhiều là giảo quyệt, đừng nên chơi thân với họ; ban đầu tuy họ thả cho mình được, nhưng rồi

họ sẽ vét hết của mình cho mà xem ”[23,tr.22]. Đúng như lời tiên đoán của Nhị Khanh, Trọng Quỳ

đã bị tên lái buôn lừa đến độ phải gán vợ mình trong sòng bạc. Niềm hy vọng chồng có thể thay đổi

của nàng đã hoàn toàn tan vỡ. Đáp lại những lời khuyên chí tình của nàng là hành động táng tận

lương tâm của chồng dẫn đến một kết cục bi thảm cho gia đình. Tác phẩm như một lời cảnh tỉnh cho

những người chồng vô tình, bạc nhược như Trọng Quỳ.

Đến với người phụ nữ trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, người

đọc nhận ra rằng : trước những khó khăn, trở ngại của cuộc sống họ không bao giờ cúi đầu, lùi

bước. Chính nét đẹp tâm hồn đã làm nên sức mạnh giúp họ vượt qua chông gai của cuộc đời. Với hy

vọng sẽ đến được với mảnh đất hạnh phúc, người phụ nữ luôn kiên quyết vượt qua những khó khăn,

thử thách. Họ tin rằng: với lòng quyết tâm họ có thể đến được với bến bờ hạnh phúc. Người phụ nữ

trong Truyền kì mạn lục tiêu biểu cho kiểu tính cách này. Bị bà cô Lưu thị ép lấy người khác khi

chồng vắng nhà, Nhị Khanh đã tìm cách từ chối. Khi hết phương trốn thoát khỏi bà cô, Nhị Khanh

đã tìm đến nhờ người bõ già giúp cô qua cơn nguy biến này: “chú có thể vì ta chịu khó lặn lội vào

xứ Nghệ hỏi thăm chồng cho ta không ? ”[23,tr 19]. Xa xôi, cách trở song nàng vẫn kiên quyết tìm

chồng. Và nàng đã thành công, cho dù đó là thành công không trọn vẹn. Nàng Túy Tiêu dù bị quan

Trụ quốc họ Thân bắt song vẫn mang trong lòng niềm hy vọng trở về đoàn tụ với chồng. Ngọn lửa

hy vọng ấy bùng lên khi Dư Nhuận Chí báo tin cho biết chàng vẫn nhớ Túy Tiêu. Do vậy, Túy Tiêu

đã tìm mọi cách để gặp chồng : “Thiếp nghe lệ cũ bản triều, đêm hôm mồng một tết, có đốt cây bông

ở ngoài bờ sông, người trong kinh thành đều kéo ra xem đông nghịt. Nếu chàng chưa nỡ rũ bỏ thì

đêm ấy xin chờ đợi nhau. Loan chia phượng hợp chỉ ở trong một chuyến này. Thiếp hãy xin hoãn để

chờ ” [23,tr .165]. Những lời nhắn nhủ của Túy Tiêu như là sự quyết tâm được đoàn tụ cùng chồng.

Và có thể nói Túy Tiêu là một trong số ít những nhân vật cuối cùng đã đặt chân lên được mảnh đất

hạnh phúc.

*Những bi kịch và bất hạnh :

Sự phân biệt đẳng cấp, quan niệm tam tòng trong chế độ phong kiến đã giết chết bao số phận của

người phụ nữ. Hơn thế nữa, những bi kịch gia đình, bi kịch xã hội đã bào mòn niềm tin vào cuộc

sống, vào tài năng, phẩm chất của giới nữ đương thời. Các tác phẩm truyền kì đã cho thấy một sự

thật nghiệt ngã : nguyên nhân của những bất hạnh ở người phụ nữ không ai khác hơn là đấng mày

râu và chế độ phong kiến lỗi thời.

Nếu Lê Thánh Tông bênh vực người phụ nữ bằng cách ngợi ca những phẩm chất tốt đẹp của họ, thì

Nguyễn Dữ lại đi sâu phản ánh những tác động bên ngoài đối với phụ nữ. Do đó những câu chuyện

trong Truyền kì mạn lục chủ yếu nói lên bi kịch của giới nữ. Trần Lệ Nương bị bắt vào cung vì có

bà con với Trần Khát Chân, khi xảy ra vạ Trần Khát Chân. Sau đó nàng lại rơi vào tay giặc Minh

khi đất nước bị xâm lăng. Có thể nói thân phận Lệ Nương nổi trôi, vô định. Dù vậy cô vẫn được an

ủi bởi Phật Sinh – người chồng luôn yêu thương, lo lắng cho cô hết mực. Người chồng tội nghiệp ấy

đã tìm mọi cách để cứu vợ nhưng không thành. Chính những cuộc thảm sát nội chiến, những xâm

lược ngoại bang đã làm cho Lệ Nương mất tất cả : tình yêu đổ vỡ, gia đình tan nát, bản thân lênh

đênh, đau khổ. Và cuối cùng để giữ gìn nhân cách của mình, Lệ Nương đã chọn cái chết khi bị đưa

tới biên giới sang phương Bắc. Câu chuyện khép lại qua hình ảnh hồn Lệ Nương hiện về trong dòng

nước mắt đau khổ “nước vỡ nhà tan, lưu li đến độ ”. Người đọc có thể nhận ra thông điệp mà tác

giả muốn gửi gắm qua tác phẩm : Số phận của người đàn bà sinh ra trong cảnh nước nhà loạn li đầy

bất trắc, bi thảm. Và đấy cũng là hiện thực của phụ nữ Việt Nam những năm thế kỉ XVI.

Một trong những biểu hiện dễ thấy của phương thức truyền kì, đó là những người phụ nữ đáng

thương được phép thần phù trợ để được hạnh phúc. Đó có thể là một vị vua, một vị quan công minh

có khả năng cầm cân nảy mực, diệt trừ cái ác bảo vệ dân lành. Nhưng thời Nguyễn Dữ tìm đâu ra

một con người cao đẹp như vậy. Cho nên đó chỉ là ước mơ, là khát vọng của nhà văn. Nàng Túy

Tiêu là một trong những nhân chứng tiêu biểu cho điều này. Túy Tiêu là một cô gái xinh đẹp, thông

tuệ tài hoa. Cô là nạn nhân của tệ nạn cướp bóc gái đẹp của quan lại – mà tiêu biểu là tên trụ quốc

họ Thân. Ở đây đã có sự đấu tranh giữa lý trì và tình cảm nơi tác giả. Lý trí đứng về giáo lý nhà nho

chê trách Dư Nhuận Chí là ngu muội vì đã yêu một ả xướng ca. Nhưng trái tim nhà văn lại bày tỏ

niềm cảm thông về sự khát khao yêu thương và lòng xót thương cho bi kịch của Túy Tiêu. Điều

quan trọng là truyện đã khiến người đọc không thể không yêu mến, đồng tình với hành động của hai

nhân vật. Phải chăng đó là điều mà Nguyễn Dữ muốn hướng tới.

Nếu người phụ nữ nào may mắn thoát khỏi bi kịch xã hội thì họ lại phải gánh chịu thảm họa từ

gia đình. Mà đối tượng gây nên bất hạnh ấy không ai khác hơn đức ông chồng của mình. Nhị Khanh

với Trọng Quỳ có thể xem là một cặp trời sinh trai tài gái sắc, tuổi cũng suýt soát, lại sống với nhau

hòa hợp. Nhị Khanh kết nghĩa vợ chồng với Trọng Quỳ được một thời gian ngắn, Trọng Quỳ phải

cùng cha đi trấn thủ nơi xa. Chờ đợi mỏi mòn, ngày đoàn tụ với chồng cũng là lúc tiếng chuông báo

hiệu kết thúc cuộc đời nàng. Bởi lẽ bản thân Trọng Quỳ chỉ là một kẻ mê chơi, ham đánh bạc. Tệ

hơn nữa, vì đỏ đen Trọng Quỳ đã gán vợ của mình cho tên lái buôn. Nhị Khanh – người đàn bà trẻ

đẹp đã làm tròn bổn phận của người con dâu tốt đối với bố chồng, người mẹ người vợ hoàn hảo đối

với chồng con – đã chọn cái chết để giải thoát. Từ đây có thể khẳng định rằng :bi kịch gia đình là

một trong những bi kịch đã giết chết cuộc đời người phụ nữ. Cùng số phận bi thương như Nhị

Khanh là người thiếu phụ Nam Xương. Nàng có vẻ “thùy mị nết na lại thêm tư dung tốt đẹp ”. Ngày

tháng Trương Sinh xa nhà đi lính cũng là khoảng thời gian nàng vừa làm mẹ vừa làm con. Và ở vai

trò nào nàng cũng làm tròn bổn phận. Thế mà sau ba năm trở về, nàng lại bị chồng “mắng mỏ nhiếc

móc và đánh đuổi đi ». Đều là xuất phát từ bản tính ghen tuông mù quáng của Trương Sinh. Ngày

chồng trở về, đỉnh cao hạnh phúc tưởng như đang chờ đón Vũ Thị Thiết. Nhưng thực tế lại phũ

phàng, lúc Trương Sinh trở về lại là “thời khắc tiếng chuông đệnh mệnh của nàng vang lên ”. Người

phụ nữ bạc mệnh ấy chỉ còn một con đường duy nhất : “Ra bến Hoàng Giang......., gieo mình xuống

sông mà chết ”. Đấy cũng lại là kết cục của người đàn bà đã làm tròn trách nhiệm người vợ, người

con dâu, người mẹ.

Qua những câu chuyện này có thể thấy ở thời đại của Nguyễn Dữ, hầu như những người đàn bà

sống hiếu hạnh, nết na thì họ đều gặp bi kịch của cuộc đời. Những bi kịch này là tác nhân gây đổ vỡ

hạnh phúc gia đình, cuộc sống bình yên của người phụ nữ. Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh

đã tìm kiếm những hoàn cảnh có thể mang lại hạnh phúc cho người phụ nữ song càng đi vào lãnh

địa này họ càng nhận ra những bi kịch tất yếu của người phụ nữ dưới thời phong kiến. Trong một xã

hội nhiễu nhương, người phụ nữ không chỉ chịu cuộc đời sương gió bụi trần mà họ còn là một món

hàng không hơn không kém. Món hàng ấy mang lại niềm vui cho mọi người. Viết về nàng Túy

Tiêu, Nguyễn Dữ viết : “ấy tùy ngài kén chọn trong bọn ấy hễ bằng lòng ai thì tôi sin tặng

cho ”[23,tr 153]. Con ma nữ trong Thánh Tông di thảo thì “cho nó mặc gấm vóc, đeo nữ trang vàng

ngọc, muốn làm cho bọn trai trẻ say mê để kiếm được nhều tiền ”[117,tr11]. Hoặc nhân vật nàng ca

kĩ của Vũ Trinh : “mỗi khi lên sân khấu cất giọng ca thì người xem đầu ngây ngất không sao tự kềm

chế nỗi. Tiền và lụa thưởng rào rào ném lên đầy bàn ”[118,tr60].Cái chết là một trong những cách

mà các tác giả truyền kì chọn để giải quyết số phận của nhân vật nữ. Thông qua đó, các tác giả

muốn nói đến một quy luật ở xã hội phong kiến : người phụ nữ dù sống hiếu hạnh nết na hay tự do,

phá phách thì họ đều có chung một kết cục, đó là cái chết. Hầu hết các nhân vật nữ để kết thúc bi

kịch của chính cuộc đời mình đã tìm đến cái chết và xem đó là một giải pháp. Từ bi kịch gia

đìnhnhư Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết đến bi kịch xã hội như Lệ Nương, họ đều có kết cục giống nhau.

Cái chết của họ gióng lên một hồi chuông cảnh tỉnh con người rằng : xã hội không chỉ chà đạp,

khinh thường mà thậm chí còn hủy hoại cuộc sống của giới nữ.

Vì vậy những khát vọng về hạnh phúc mãi mãi sẽ nằm lại dưới mộ sâu của người phụ nữ khi họ

từ giã cõi đời. Chính vì hiểu được điều này, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục

và Lan Trì kiến văn lục bằng tác phẩm của mình đã khiến cho người đọc phải nhỏ những giọt lệ xót

thương cho số phận bi kịch không thể thoát khỏi của những người phụ nữ.

2.2.3.5.Thái độ đấu tranh cho hạnh phúc của người phụ nữ :

Nếu ví các nhân vật khác hiện lên trong tác phẩm tạo thành một bức tranh thủy mặc thời cổ thì

nhân vật phụ nữ như là một nét chấm phá làm sáng bừng lên vẻ đẹp của bức tranh. Viết về người

phụ nữ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã cho thấy trong xã hội phong kiến dù họ thông

minh, tài giỏi, ngoan hiền hay đức hạnh, thủy chung thì cuối cùng vẫn không tránh khỏi bi kịch cuộc

đời. Tuy nhiên: các tác giả với tấm lòng đồng cảm, yêu thương con người đã không nỡ ngồi nhìn

những người đàn bà có phẩm hạnh phải chết một cách oan ức. An ủi linh hồn, bù đắp những tổn

thương, mất mát mà người phụ nữ phải gánh chịu là ước muốn của các nhà văn truyền kì này. Họ đã

cố gắng đi tìm một phương án để đấu tranh bảo vệ cho người phụ nữ. Đôi cánh truyền kì được

mượn để tạo nên một thế giới ảo dành cho những người phụ nữ bất hạnh. Mặc dù đó là những đấu

tranh còn mang tính cải lương, phải dựa vào phép thần phù trợ, nhưng dù sao ở thế giới ấy, người

phụ nữ còn có thể được giải oan và bày tỏ nỗi thống khổ của mình.

Cách minh oan được thể hiện rõ nhất là sau khi chết có một đối tượng nào đó giúp đỡ họ minh oan.

Sau khi chết, được sự giúp đỡ của công chúa Long Vương, Vũ Thị Thiết được gặp Phan Lang,

người cùng làng với Vũ Thị Thiết. Sau khi tâm sự, nàng nhờ Phan Lang đem chiếc hoa vàng về nói

với chồng : “ nếu còn nhớ chút tình xưa, nên lập một đàn giải oan ở bến sông, đốt cây thần đăng

chiếu xuống nước, tôi sẽ hiện về ” [23,tr 182]. Còn Lệ Nương sau khi chết cũng đã được trở về gặp

“Ngán nỗi thân tàn nhiều lỡ dở.

chồng để giải bày nỗi lòng :

Than ôi, vận ách mỗi chồng thêm

Sau lại nỡ cam tâm mà hàng giặc.

Gửi chiếc thân ở trong muôn chết. ” [23,tr 207]

Việc người vợ được trở về gặp chồng sau khi chết là cách nhà văn an ủi họ. Không chỉ người vợ về

với chồng để giải bày mà ngay cả bản thân người chồng cũng muốn gặp vợ để sám hối về tội lỗi của

mình. Cái chết của người thiếu phụ Nam Xương là do người chồng ghen tuông mù quáng mà ra. Vì

vậy sau khi biết được oan ức của vợ, Trương Sinh : “lập một đàn tràng ba ngày đêm ở bến Hoàng

Giang. Rồi quả thấy Vũ Nương ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau lại có đến

50 chiếc xe nữa, cờ tàn tán lọng, rưc rỡ đầy sông, lúc ẩn lúc hiện, chàng vội gọi,..... ” [23,tr 183].

Không ghen tuông mù quáng nhưng Trọng Quỳ lại là kẻ ham mê cờ bạc, phải gán cả vợ cho cuộc đỏ

“rất ăn năn tội lỗi của mình ”.Sự ăn năn hối lỗi ấy được thể hiện qua hành động cụ thể của chàng

“Trọng Quỳ bèn không lấy ai nữa, chăm chỉ chăn nuôi hai con cho đến nên người ”[23,tr 27]. Điều

đen. Đến nỗi Nhị Khanh phải chọn cái chết để bảo toàn danh tiết. Sau khi vợ không còn, Trọng Quỳ

này cho thấy thái độ của nhà văn về quyền bình đẳng của người phụ nữ đối với nam giới: những

đấng mày râu cũng cần tự nhìn lại mình, nói lời sám hối với vợ khi cần thiết. Đó cũng chính là một

quan niệm mới về quyền con người của Nguyễn Dữ. Thái độ này càng biểu hiện rõ khi các tác giả

đã để cho người phụ nữ tự bước chân tìm đến với thế giới tình yêu. Đó là sự chủ động của hồn ma

Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo :“Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng

trời để sống ngày nào, nên tìm lấy những thú vui. Kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối

vàng, dù có muốn tìm cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa ” [23,tr 30]. Lời Nhị Khanh thể

hiện một quan niệm táo bạo và mới mẻ về hạnh phúc : không chỉ tự do trong tình yêu mà còn yêu

hết mình và hưởng thụ hết những giây phút có được trong tình yêu. Sự chủ động, bản lĩnh còn được

gặp lại trong Thanh Trì tình trái. Cô gái yêu mà không được cha chấp thuận vì ông chê chàng trai

nghèo. Từ chủ động, cô gái đã tiến sang liều lĩnh ăn cắp vàng của bố giúp đỡ người yêu để mong

được cha chấp thuận. Nhưng người cha tham lam bần tiện đã chối bỏ hôn ước và dẫn đến cái chết

của cô gái.

Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã viết về giới nữ với cả một tấm lòng. Có thể nói những

trang văn viết về phụ nữ là những trang văn thấm đẫm nhiều nước mắt, nhiều tình yêu thương nhất.

Người phụ nữ hiện lên với những số phận bi thương song không kém phần sâu sắc, ngọt ngào. Như

một giai âm nhẹ nhàng của bản giao hưởng, hình ảnh người phụ nữ đã thật sự để lại những ấn tượng

sâu đậm trong lòng bạn đọc.

2.2.4.Loại hình nhân vật thương buôn:

Căn cứ vào bảng thống kê trên, chúng tôi nhận thấy những truyện viết về nhân vật thương buôn

không nhiều. Chủ yếu là ở Truyền kì mạn lục. Bởi thời Nguyễn Dữ sự xuất hiện của tầng lớp thị dân

cùng với sức mạnh của đồng tiền đã làm thay đổi xã hội. Dưới con mắt của các nhà Nho lúc này,

tầng lớp thị dân hiện lên không mấy tốt đẹp, nếu không muốn nói là khá nhiều ác cảm. Có thể thấy

đây là một quan niệm còn nhiều hạn chế.

2.2.4.1.Giảo quyệt, lừa đảo.

Viết về tầng lớp thị dân, các tác giả chủ yếu đi sâu vạch trần sự giảo quyệt, lừa đảo của họ.

Trong Mai Châu yêu nữ truyện, Đó là thủ đoạn kiếm tiền trên thân xác của phụ nữ. Chủ nhà hát

nhận một cô gái và cho cô ấy “mặc gấm vóc, đeo nữ trang vàng ngọc để cho bọn trai trẻ say mê, để

kiếm được nhiều tiền”. Khi cô gái chung tình quyết không tiếp một ai, có ý như chờ đợi ý trung

nhân của mình thì nhà hát “thường ngon ngọt dỗ dành, hoặc xẵng lời dọa dẫm, hết ân lại

uy.....muốn đuổi đi sợ phí công từ trước, muốn giữ lại e không lợi về sau”[23tr12] Nội dung này

cũng được đề cập đến trong Truyện người nghĩa phụ Khoái Châu. Trọng Quỳ chồng của Nhị

Khanh vốn là một kẻ có máu đỏ đen. Trải qua nhiều khó khăn hai vợ chồng mới được đoàn tụ song

bản chất ham mê bài bạc vẫn còn trong anh ta. Trọng Quỳ đốt mình thâu đêm trong những canh bạc

cùng với Đỗ Tam – một lái buôn nhiều tiền. Hắn đi lại với Trọng Quỳ vì Nhị Khanh là một người

con gái đẹp. Điều này cho thấy bản chất xấu xa của Đỗ Tam, chơi với bạn hòng mưu cướp vợ bạn.

Đạo đức làm người không thể chấp nhận được hành vi ấy. Để đạt được mục đích, Đỗ Tam đã lợi

dụng điểm yếu của Trọng Quỳ: “một hôm sinh cùng bạn bè họp nhau đánh bạc tứ sắc, Đỗ bỏ ra

trăm vạn đồng để đánh và đòi sinh đánh bằng Nhị Khanh. Trọng Quỳ quen mùi vẫn được luôn,

chẳng suy nghĩ gì, liền đánh bằng Nhị Khanh” [23,tr 23]. Hậu quả của sự lừa lọc và sự bê tha đó đã

dẫn đến Nhị Khanh phải thắt cổ tự tử chết, gia đình Trọng Quỳ tan nát.

Đề tài này tuy không được đề cập nhiều nhưng sức tố cáo của nó khá mạnh. Mặc dù cách nhìn

về những người thương buôn như thế có phần hơi cứng nhắc song không phải là không có lý do của

nó. Xã hội thời Nguyễn Dữ, đồng tiền đã lăn tròn trên mọi nẻo đường, chính đồng tiền cùng với

những người sở hữu nó đã trở thành những đối tượng gây nên bao bất trắc cho xã hội.

2.2.4.2.Là tác nhân gây ra những đổ vỡ gia đình, băng hoại đạo đức xã hội.

Không chỉ hiện lên là những kẻ lừa lọc, xảo quyệt mà loại hình nhân vật thương buôn còn là

những kẻ sẵn sàng bỏ tiền ra để mua khoái lạc nhằm thỏa mãn những dục vọng về thể xác. Chính vì

vậy họ là tác nhân gây ra những đổ vỡ gia đình, làm băng hoại đạo đức xã hội.

Để có được người đẹp, nhằm thỏa mãn những nhu cầu tình dục của mình, bọn lái buôn sẵn sàng

bỏ ra nhiều tiền. Đỗ Tam là một minh chứng tiêu biểu. Trọng Quỳ “hằng ngày cùng người lái buôn

là Đỗ Tam bê tha lêu lổng, Sinh thì thích Đỗ có nhiều tiền, Đỗ thì ham Sinh có vợ đẹp. Những khi

uống rượu với nhau rồi đánh bạc, Đỗ thường lấy lợi dữ Sinh. Sinh đánh lần nào cũng được, thấy

kiếm tiền dễ dàng như thò vào túi mình lấy đồ vật vậy” [23,tr 22]. Cuối cùng để giữ gìn phẩm hạnh

của mình, Nhị Khanh đã tìm đến cái chết. Cho nên có thể khẳng định rằng: Đỗ Tam là tác nhân gián

tiếp gây ra cái chết cho Nhị Khanh và làm tan nát một gia đình. Không chỉ thế, bọn lái buôn còn là

những kẻ góp tay vào việc làm băng hoại đạo đức xã hội. Họ không chỉ cậy tiền để cướp vợ người

mà còn quan hệ bừa bãi. Trong Chuyện cây gạo, người lái buôn Trình Trung Ngộ quan hệ với một

cô gái không rõ góc tích và bỏ ngoài tay lời khuyên của bạn bè: “Bác ở chỗ quê người đất khách,

nên biết giữ mình thận trọng , sao nên giở hết gió giăng, quyến phường hoa liễu” [23,tr32 ]. Hai

người cùng nhau ân ái rất thõa mãn. Và Trình Trung Ngộ cuối cùng phải chết. Không chỉ dâm đãng

lúc ở trần gian mà ngay cả khi đã chết, xuống âm phủ anh ta vẫn còn “thân thể lõa lồ lại cùng nhau

cười đùa nô giỡn”[23,tr35].

Cho nên có thể khẳng định rằng: sự dâm đãng của Trình Trung Ngộ nói riêng và của tầng lớp thị

dân nói chung là một trong những nguyên nhân góp phần phá vỡ những chuẩn mực về đạo đức

phong kiến.

2. 3 Loại hình các nhân vật là hiện thân của tác giả:

2.3.1. Nhân vật là hiện thân của nhà văn:

Đây là một thành công lớn của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục.

Trước đây với Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u linh, nhà văn chỉ đơn thuần là người góp nhặt

những tích trong dân gian và kể lại cho người khác. Lúc này yếu tố sáng tạo chưa hề có, ý thức đưa

yếu tố cá nhân mà nhất là ý kiến riêng của nhà văn vào tác phẩm cũng chưa thấy xuất hiện. Chỉ đến

khi Thánh Tông di thảo ra đời người đọc mới bắt gặp ở đó một giọng điệu mới, thoát khỏi ảnh

hưởng thụ động của văn học dân gian. Và Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục được chào đón

rộng rãi khi có sự xuất hiện rõ nét của yếu tố cá nhân nhà văn. Đó chính là việc góp mặt của nhân

vật thứ ba, nhà văn đồng nhất với nhân vật và mang tâm trạng của nhân vật. Chính điều này đã làm

cho màu sắc chủ quan đậm đặc trong tác phẩm. Thông qua tác phẩm, nhân vật, người đọc có thể bắt

gặp bóng dáng nhà văn, hiểu được nỗi lòng, tâm sự của chính người tạo ra nó. Loại hình các nhân

vật này đã góp phần đưa chúng tôi đến nhận định: Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục xứng đáng là những đại biểu ưu tú của thể loại truyền kì trong văn học trung đại. Với

những cách tân, đổi mới này truyện ngắn trung đại nước nhà ngày một tiến gần hơn đến văn chương

hiện đại.

2.3.2. Ý nghĩa của loại hình nhân vật – hiện thân của nhà văn - trong tác phẩm.

Như đã nói ở trên, loại hình nhân vật này là một trong những thành công bước đầu của thể loại

truyền kì nói riêng và thể loại truyện ngắn nói chung. Cho đến khi Thánh Tông di thảo, Truyền kì

mạn lục và Lan Trì kiến văn lục trình diện trên thi đàn, người đọc mới nhận ra: văn học trung đại

cũng mang đậm màu sắc cá nhân. Tất nhiên với màu sắc ấy, các tác giả trung đại không thể làm

riêng thành phong cách cá nhân cho mình. Song ở một mức độ nhất định, đây là một trong những

đóng góp quan trọng của truyện truyền kì. Nhờ kiểu nhân vật này, nhà văn thông qua đó đã thể hiện

tư tưởng, tâm sự của riêng mình. Đồng thời điều này cũng giúp cho đứa con tinh thần của nhà văn

vượt qua được những tác phẩm tự sự cùng thời khác. Bởi lẽ những tác phẩm tự sự trước đó phần

nhiều chỉ đơn giản là chép lại các tích cũ. Dấu cá nhân vẫn còn mờ nhạt, thậm chí là thiếu vắng. Về

phương diện này, có thể khẳng định Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là

những tác phẩm gần với truyện ngắn hiện đại nhất.

2.3.2.1. Đề cao vai trò cá nhân và ngôi vị chí tôn nhà vua Lê Thánh Tông:

Một trong những nội dung được đề cập đến nhiều nhất trong Thánh Tông di thảo là nhà vua tự

đề cao ngôi vị của chính mình. Có thể thấy với những đóng góp cho sự hưng thịnh của triều đại, của

đất nước, Lê Thánh Tông thật sự xứng đáng với việc tự khẳng định. Trước hết đó là niềm tự hào của

nhà vua về sự cai trị sáng suốt của mình đã đem lại những thành quả tốt đẹp. Trong Nhị nữ thần

truyện, tác giả đã viết: “Sau khi đại định, khách bộ hành sung sướng đi trên đường sá của ta, người

ta buôn bán vui mừng được bày hàng hóa ở chợ của ta”.[117,tr23, 24]. Đây không chỉ là niềm vui

của nhân dân về cuộc sống no đủ mà còn về một đất nước hòa bình tự chủ, không còn bóng giặc

ngoại xâm. Trên đất nước độc lập, con người cũng tự do du lãm những cảnh đẹp của non sông: “Ta

yêu gương nước phía tây thành tám cảnh thanh quang, tìm dấu thiêng của hồ tinh, ngắm đường bay

của sông Cầm. Đêm thanh trăng sáng, thường cởi thuyền nhỏ đi chơi”. [117,tr. 130]. Cuộc sống có

thanh bình, có ấm no, nhà vua mới có được tâm trạng vui vẻ, thoải mái để dạo chơi như vậy.

Xuất phát từ chính vai trò nhà vua, Lê Thánh Tông đã đề cao ngôi vị chí tôn của mình. Có thể

thấy quan điểm chính thống của Nho gia ấy trong Ngọc nữ về tay chân chủ: “Tài trí trong thiên hạ

đều là tài trí của một người (....) Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời, oai trùm biển rộng, nào ai

dám chống. Thiên tử trị bên ngoài, hoàng hậu trị bên trong; hải vật sơn hào, hưởng những vị quý

ngon trong thiên hạ, so với bọn một gáo nước đã khoe nhiều, một nắm đá đã khoe lơn, khác nhau

biết là chừng nào?” [117,tr. 87,88]. Ở đây con người đứng đầu đất nước hiện lên thật hiên ngang,

oai nghiêm. Và người đó không ai xa lạ chính là Hoàng đế Lê Thánh Tông.

Bên cạnh đó tác giả còn tuyệt đối hóa vai trò nhà vua với khả năng giải quyết mọi công việc của

đất nước. Khả năng ấy nói lên tài trị vị đất nước của Lê Thánh Tông: “Khi còn ở Đông cung, một

hôm đi xem phong tục thôn quê, thấy anh điếc anh mù cãi nhau tranh vị thứ trên dưới, từ khi mặt

trời mới mọc đến lúc đứng bóng mà chưa ai chịu ai cả. Ta sai người bắt cả hai anh lại hỏi rằng:

- Các ngươi đều là người tàn tật, còn đáng kể gì vị thứ cao với thấp. Sao cứ chê kém

khoe hơn, đã lâu không quyết định được như thế? Bây giờ mỗi người bày tỏ ý mình, ta sẽ phán xử

cho” [117,tr78]. Nhà vua đã tạo ra cơ hội để phô bày tài năng của mình. Khi cuộc cuộc tranh cãi

đang diễn ra đến cao trào thì Lê Thánh Tông đứng ra phán xử: “Ngạn ngữ có câu “Trăm nghe

không bằng một thấy:

Thư nói nhĩ mục, Dịch chép khảm ly

Thánh nhân đặt chữ, trước sau tinh vi

Giác quan giữ lửa, quan coi một ty

Liêm lại đời Hán, tai điếc hại gì.

Còn như chú mù, thành nghề nhưng vẫn là bậc dưới, chỉ là tiểu đạo, có chút khả quan, nhưng

người quân tử không làm” [117,tr.81]. Đấy không chỉ là lời phán xét, mà còn là lời giáo huấn. Khi

xem xét một sự vật, hiện tượng, con người không thể nhìn nhận ở bề ngoài mà phải đi sâu khám phá

bản chất bên trong. Tác giả nhắc lại kinh nghiệm mà cha ông ta đã để lại: “Trăm nghe không bằng

một thấy”. Những phán quyết, đánh giá, kết luận chỉ đúng đắn và có giá trị khi con người tận mắt

chứng kiến, nhìn thấy vấn đề, hiện tượng. Sẽ cực đoan, phiến diện nếu chỉ nghe kể lại mà không

nhìn thấy, không xem xét tận gốc rễ của nó. Bài học này cần thiết và có ý nghĩa đầu tiên với chính

bản thân tác giả. Bởi lẽ những quyết định của nhà vua sẽ liên quan đến sự sống còn của Tổ quốc. Do

vậy hơn ai hết, trước mọi việc người làm vua phải xem xét tận nơi chứ không nên và không thể tin

vào bọn cận thần. Quan niệm này cho thấy sự anh minh sáng suốt của người đứng đầu thần dân như

Lê Thánh Tông.

Không chỉ biết cách phán xét sự việc đúng đắn, nhà vua còn tự khẳng định khả năng trừ gian

diệt ác của chính bản thân. Điều này cũng cho thấy quan niệm của tác giả: Một vị vua anh minh có

khả năng nhìn thấu suốt mọi vật trong trời đất này. Quan niệm này được thấy rõ nhất là Thử tinh

truyện. Trong lúc cả triều đình đang loạn lên vì không tìm ra cách xử lý để phân biệt đâu là người

chồng thật sự của cô gái, thì Lê Thánh Tông đã nghĩ đến trách nhiệm đứng đầu đất nước của mình:

“Mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét cho ra cái vụ án này, thì bố mẹ người thêm một

đứa con ma. Vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là ma không khỏi sau này sinh ra tai vạ”

[117,tr.165]. Trách nhiệm, bổn phận ấy là của nhà vua song dù sao vua cũng là một người trần mắt

thịt sao có thể một mình dễ dàng chống lại ma. Chính vì vậy vua đã nhờ sự giúp đỡ từ phía các lực

lượng siêu nhiên thần thánh: “Thế rồi ta thắp hương cầu khấn nhờ Đổng Thiên Vương giúp sức. Hơi

nước bốc lên, thiên vương nhập vào con đồng bảo ta rằng: “Ma này là giống tinh chuột đấy. Chuột

già lâu năm ăn tinh khí của các vật , thành giống quỷ quái này. Lửa không hại được, phù chú không

trừ được (.....). Bèn lấy hương thư phù vào hai đạo bùa, sai dán vào sau lưng hai người ấy. Dẫu ma

muốn chạy thoát cũng không được nữa” [117,tr.165,166]. Cùng nội dung với Thử tinh truyện, Mai

Châu yêu nữ truyện là chuyện kể về việc tiêu diệt một yêu nữ: “Khi còn ở tiềm để, ta biết việc ấy,

bèn viết thư sai người đến đền Phù Đổng mượn gươm của Thiên Vương để trừ nó. Nữ yêu kinh sợ,

ẩn trong cỏ rậm ven sông đầm, không dám tác quái như trước nữa” [117,tr.10]. Lại một lần nữa,

nhà vua đã nhận được sữ giúp đỡ của các thế lực thần linh. Thông qua hai truyện trên nhà vua cũng

muốn khẳng định uy quyền của bậc “chân chủ” trước muôn vật, thiên nhiên và trước cả ma quỷ,

thánh thần. Uy quyền ấy một lần nữa được thể hiện trong Mộng ký. Ở đây những oan hồn tự tìm đến

để bày tỏ nỗi oan khuất với nhà vua: “Chị em thiếp trước thờ vua Lý Cao Tông, rất được nhà vua

yêu dấu. Không may vận rủi thời suy, bị kẻ gian là Trần Lực bắt trộm, định bán chị em thiếp cho

người ta bằng một giá đắt, nhưng bị người láng giềng trông thấy, nó sợ tội nặng, nên đem chị em

thiếp giam ở địa phương này. Tới nay đã hơn hai trăm năm. May sao nhà vua đi tuần qua đây, có

lòng thương xót mọi người nên chị em thiếp liều chết đến dâng thư, mong được ra ngoài hang tối,

thấy bóng mặt trời” [117,tr.147]. Trong truyện này, nhà vua nhận được sự giúp đỡ của một vị tiên

thổi địch để giải được oan khiên đó.

Như vậy có thể thấy rằng thần tiên đã đóng vai trò mang phép màu đến cho nhà vua. Nhờ đó vua

mới có khả năng giải quyết mọi công việc, mọi nỗi oan khiên ở đời. Điều này ngầm nói lên đức độ

của nhà vua. Nhờ vua trị nước hợp lòng dân ý trời nên mới được trời giúp đỡ. Từ chỗ đề cao vai trò,

ngôi vị chí tôn của nhà vua, Lê Thánh Tông đã gián tiếp khẳng định uy quyền tuyệt đối của người

đứng đầu nhà nước phong kiến.

Thánh Tông di thảo đã mở đầu cho sự cách tân của thể loại truyền kì. Sự xuất hiện của nhân vật

thứ ba – nhân vật hiện thân của nhà văn đã cho thấy rõ quan niệm về vai trò, trách nhiệm và quyền

năng của một ông vua chân chính. Với sự góp mặt của mình trong tác phẩm, nhà vua đồng thời cũng

khẳng định uy quyền của trước mọi thế lực siêu nhiên.

2.3.2.2. Đề cao cái tôi ẩn sĩ, lánh đời:

Nếu Thánh Tông di thảo chủ yếu ngợi ca người đứng đầu đất nước thì Truyền kì mạn lục

lại thấm đẫm tư tưởng ẩn dật của nhà nho. Một trong những vấn đề được các nhà nho đặt ra khá

bức thiết là trách nhiệm của kẻ sĩ. Tầng lớp này luôn luôn suy nghĩ về cách sống, về trách nhiệm, về

ý nghĩa cuộc sống, cả những lạc thú và hạnh phúc ở đời. Giải đáp cho những băn khoăn ấy các nhà

nho đi đến lựa chọn trong hành động giữa “xuất” và “xử”, ra làm quan hay lui về ẩn dật. Bao giờ

trong sự quyết định họ cũng đặt ra mục tiêu cao nhất cho mình: dù thế nào cũng phải giữ lấy đạo

đức và nhân cách để không hổ thẹn với lòng mình. Chính vì vậy, trong xã hội mà kĩ cương đạo đức

không còn thì nhà nho bao giờ cũng chọn con đường lui về ẩn dật. Hình ảnh nhà nho ẩn dật đã thể

hiện rõ chân dung nhà văn Nguyễn Dữ.

Mô hình chung của kẻ sĩ thời trung đại:

↑ đỗ đạt → làm quan → từ quan

Học→ thi cử ẩn dật. [132,tr 43]

↓ không đỗ đạt → các loại “thầy”

Như đã nói ở trên, nhà nho trong mọi thời đại bao giờ cũng đứng ở ngã ba đường để lựa chọn.

Một là con đường ra làm quan tốt phục vụ cho dân cho nước - liệu có thành công không trong xã

hội đầy rối ren, ô trọc thời Nguyễn Dữ? Hai là con đường hoạn lộ nhơ nhuốc, làm quan để vun vén

cho lợi ích cá nhân, nhũng nhiễu nhân dân. Từ bỏ tất cả, lánh đục về trong, giữ lấy nhân cách của

mình là con đường thứ ba. Nguyễn Dữ đã chọn con đường thứ ba ấy cho cuộc đời mình.

Cho đến nay, những tài liệu liên quan đến thân thế và cuộc đời Nguyễn Dữ vẫn còn rất ít. Dù

vậy với Truyền kì mạn lục, người đọc phần nào thấy được tâm trạng bất mãn của ông. Đó cũng là

tâm trạng chung của sĩ phu thời bấy giờ - chán ghét cảnh thối nát nơi triều đình Lê – Mạc. Là một

người có tài nhưng lại chủ trương xuất thế, tất nhiên là Nguyễn Dữ có lý do của mình. Đó là lý do từ

xã hội, từ chế độ phong kiến đương thời. Câu chuyện của đền Hạng Vương là tác phẩm mở đầu cho

Truyền kì mạn lục, đồng thời cũng là truyện mở đầu cho lý tưởng sống của nhà văn. Tác giả đã

mượn lời quan thừa chỉ Hồ Tôn Thốc trong việc phê phán Hạng Vũ để ám chỉ những kẻ lộng quyền:

“Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức; thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không

phải ở bạo. Nhà vua chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương cường làm đức....Cứ những việc của nhà

vua làm thì được lòng người chăng?” [23,tr11]. Lời phê phán khiến người đọc không thể không

nghĩ đến Mạc Đăng Dung – kẻ đã dùng bạo lực để sát hại những người hiền đức lúc bấy giờ. Không

dừng ở lại đó, tác phẩm còn như một bản cáo trạng buộc tội chung cho tất cả các triều đại phong

kiến mục ruỗng, thối nát. Nhà văn M. Tkachov, trong bài viết “Bậc thầy của những chuyện kì diệu

sáng tạo từ đất Hải Dương”, giới thiệu bản dịch Truyền kì mạn lục ở Liên Xô năm 1974 đã có

những ý tưởng tương tự: “Thế có nghĩa là, không phải chỉ có họ Mạc và vương triều của họ trở

thành đối tượng tố cáo của Nguyễn Dữ, ông đã suy tưởng về những phạm trù của thời đại mình,

không phân thời đại đó thành triều đình này hay triều đình khác. Và những ông vua triều nhà Hồ

được Nguyễn Dữ trình hiện không đơn giản chỉ là sự thể hiện bóng bẩy những khuôn mặt cụ thể nào

đấy, mà là hình ảnh khái quát của giới “cầm quyền hủ bại”. Việc xây dựng những hình tượng này đã đánh dấu một bước mới trong sự phát triển văn xuôi Việt Nam”[131,tr191].

Ở một khía cạnh khác của Truyền kì mạn lục, Chuyện tướng dạ xoa lại là tác phẩm nói đến tính

chất thiếu kỷ luật ở xã hội lúc ấy. Tác phẩm tưởng như chỉ nói đến chuyện quỷ thần sống vô tổ

chức, vô kỷ luật và tham nhũng. Song thực chất là tác giả đang nói đến một xã hội rối ren, hỗn độn,

xã hội mà ở đó kỷ cương không được thiết lập: “Các ngươi không được coi khinh mệnh lệnh, không

được quen thói dâm ô, quấy quắc để làm hại mạng của dân, ban ngày không được giả hình, ban

đêm không được kết đảng” [23,tr 224]. Lời phát ngôn của nhân vật nói lên quan điểm của Nguyễn

Dữ: Ở mọi thời đại kỉ cương, phép nước bao giờ cũng cần được thiết lập để tệ quan liêu, tham

nhũng không có đất dung thân. Bởi lẽ nó sẽ như những con sâu, con mọt đục khoét, đào mòn ngân

khố của nhân dân. Cho nên có thể khẳng định: bài học này có ý nghĩa đối với mọi thời đại.

Nhẹ nhàng, kín đáo song không kém phần sâu sắc là tất cả những gì mà Cuộc nói chuyện thơ ở

Kim Hoa mang lại cho độc giả. Tác phẩm tưởng chừng như chỉ dừng lại ở chỗ bình thơ, sáng tác

văn chương. Nhưng đằng sau đó còn có những bí mật về triều đại mà họ đã từng chứng kiến. Tác

phẩm chép rằng: “ Tôi thờ đức Thánh Tông lâu năm rồi lại thờ đức Hiển Tông, nghĩa kết vua tôi,

nhưng tình thật như cha con vậy. Không ngờ vì thế mà những kẻ hiển bạc, bày chuyện nói xằng,

thường làm những câu thơ mỉa giễu” [23,tr 216]. Hay là ở đoạn “xưa nay những người trinh liệt bị

ngòi bút trào phúng làm cho bực mình biết bao nhiêu mà kể” [23,tr216- 217]. Từ cuộc trao đổi này,

tác giả đã phê phán những kẻ xu nịnh, giảo quyệt, đặt điều nói xấu người khác ở những thời đại

trước. Mượn xưa nói nay, tác phẩm đã đạt được mục đích của nhà văn: phê phán những hạn chế của

xã hội đương thời. Khác với Cuộc nói chuyện thơ ở Kim Hoa,Chuyện bữa tiệc đêm ở Đà Giang lại

là cuộc đấu trí giữa hai con vật vượn và cáo biến thành người với vua Trần Phế Đế. Trong đó con

cáo nói với Hồ Quý Ly rằng: “Đương mùa hạ mà giở những công việc khổ dân không phải thời,

giày trên lúa để thỏa cái ham thích săn bắn không phải chỗ; quanh đầm mà vây, bọc núi mà đốt

không phải lễ, ngài sao không tâu với thánh minh, tạm quay xa giá, để khiến người và vật được bình

yên[23,(tr170 ]. Tác phẩm xây dựng cuộc trò chuyện giữa vật với người, tưởng như chỉ nhằm mục

đích bảo vệ các loài động vật ở rừng. Song đằng sau cuộc trò chuyện ấy lại là những vấn đề mang ý

nghĩa xã hội sâu sắc. Đó là tiếng nói phê phán thói xa hoa hưởng thụ làm tổn hại sứ người sức của

nhân dân của vua quan lúc bấy giờ.

Lý tưởng cao đẹp nhất của nhà nho khi ra làm quan là vì nghĩa, luôn luôn tự tìm những cơ hội

nhằm giúp ích cho đời. Đấy cũng là quan điểm rèn dũa quan lại theo tinh thần của Nho gia. Tuy

nhiên ở những thời đại suy đồi, nhân cách kẻ sĩ tha hóa, người làm quan lại trở thành mối hại cho

dân thật đáng xấu hổ. Vì thế các nhà nho chọn con đường ẩn dật, xem đó là cách để giữ được sự cao

khiết. Mượn xưa nói nay, mượn chuyện người nói chuyện mình là dụng ý khá rõ của tác giả qua

Chuyện đối đáp người tiều phu núi Na. Tác phẩm nói về việc tiếm ngôi của Hồ Quý Ly (1400).

Thời đại Nguyễn Dữ cũng vậy, năm 1527 Mạc Đăng Dung cướp ngôi nhà Lê. Các nhà Nho theo tư

tưởng chính thống lúc bấy giờ không thể đồng tình với hành động ấy. Nguyễn Dữ đã lấy giai đoạn

lịch sử về Hồ Quý Ly để ám chỉ về Mạc Đăng Dung lúc này. Rõ ràng việc đi ở ẩn là sự phủ định kẻ

đương quyền. Nhân vật trong Chuyện người tiều phu núi Na không chịu “đắm mình vào trong cái

triều đình trọc loạn”, “tham cầu những cái ngoài thân mình” và “để xấu hổ với tiền hiền”. Chọn

con đường ẩn dật vì không muốn danh lợi, tiền bạc che khuất mặt. Ông triều, hay chính tác giả đã

không chịu cúi đầu quỳ gối để mưu cầu công danh, phú quý. Từ chối xuất chính còn là cách để tránh

xa những hành vi đồi bại, những tội lỗi của nhà nước phong kiến đang mục nát, xuống cấp trầm

trọng. Và vì vậy ở ẩn là cách tốt nhất để giữ gìn phẩm tiết của kẻ sĩ.

Chọn con đường ẩn dật không chỉ vì bất mãn với kẻ cầm quyền mà phần nào còn thể hiện ước

nguyện gắn bó đời mình với núi rừng, thiên nhiên. Nhìn chung người xử sĩ thời nào cũng có. Họ tìm

thấy thiên nhiên là nơi nuôi dưỡng và thanh lọc tâm hồn con người. Về với thiên nhiên là về với bạn

tri âm tri kỉ. Nhà nho trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na là một minh chúng tiêu biểu

cho quan niệm sống hài hòa cùng thiên nhiên mang đến sự an lạc trong tâm hồn:“Ta là kẻ ẩn dật

dân trốn đời, ông lão già lánh bụi gửi tính mệnh ở lều tranh quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió

rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách tục, bạn cùng ta là rượu nai tôm cá,

quẩn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hen đơn, nằm mây mà ngủ khói, múc khe

mà uống, bới núi mà ăn, chứ có biết gì đâu ở ngoài là triều đại nào, là vua quan nào”. [23,tr. 110]

2.3.2.3. Lý tưởng sống, thái độ sống của người ẩn sĩ:

Trả ấn từ quan về với cuộc sống thiên nhiên là cách chọn của những kẻ sĩ bất mãn thời cuộc.

Con đường ấy thoạt nhìn tưởng như tiêu cực nhưng xét kĩ thì ngược lại. Khi xã hội nhiễu nhương

mà bản thân kẻ sĩ không thể thay thời đổi thế thì từ quan là một hành xử tối ưu. Bởi lẽ nếu không từ

quan họ buộc phải phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị thối nát, hà hiếp nhân dân. Hành động

này trái hẳn với chí nguyện làm trai của họ. Vì vậy rời xa xã hội ô trọc ấy để giữ tâm hồn trong

sạch, tinh khiết là đúng lòng người, hợp ý trời.

Với tư tưởng “an bần là cao thượng, mưu lợi là nhục nhã”, nhiều nhà nho đương thời đã trả ấn,

từ quan tìm về với cuộc sống dân dã. Khi chọn con đường ẩn dật, cũng có nghĩa là các nhà nho đã tỏ

rõ một thái độ đối với triều đình. Người đứng đầu đất nước lúc này, dưới ngòi bút của Nguyễn Dữ

hiện lên thật sinh động, rõ nét: “thường dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dụng cung

Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hòe Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng

như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ

dâng lời ngay thì phải giết đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết” [23,tr 142]. Vua chúa

như vậy, quan lại cũng cậy quyền, dựa thế áp bức dân lành. Đó là trường hợp của Lý Hữu Chi trong

chuyện Lý tướng quân, một tên quan tham lam, hung tợn, hiếu sắc. “Nguyễn Dữ đã xây dựng nhân

vật Lý Hữu Chi trở thành hình tượng điển hình của bọn quan lại lúc bấy giờ”. [23,tr. 205]. Hoặc

trong Chuyện nàng Túy Tiêu, Thân trụ Quốc hiện lên nham hiểm và thâm độc. Đó là một tên quan

không chỉ cướp vợ người khác mà còn “chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy

chọt, lúc nào cửa cũng rập rập người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy”.

[23,tr165] Như vậy “Nguyễn Dữ đã suy nghĩ có tính phạm trù về thời đại mình qua hàng loạt những

hình tượng điển hình của tầng lớp thống trị đương thời với một đánh giá không thiên vị và nghiêm

khắc”. [131,tr192]. Từ chỗ phản ánh một cách trung thực thời đại mình, Nguyễn Dữ đã từ chối

không hợp tác dưới triều đại ô trọc đó.

Hình tượng người nho sĩ ẩn dật trong Truyền kì mạn lục xét về một phương diện nào đó chính là

“hình ảnh của bản thân Nguyễn Dữ và cũng là một trong những hình tượng cơ bản của tập truyện”

[123,tr202]. Ở đây Nguyễn Dữ rời bỏ chốn quan trường nhơ nhớp với một thái độ bất hợp tác. Cũng

giống như người tiều phu khi được mời ra giúp triều đình đã một mực từ chối và nhất định không

ngồi dưới trướng của vị quan đương thời: “Không phải là ta cố chấp. Ta chỉ ghét những kẻ miệng

lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong cái trào đình trọc loạn, lại con toan kéo người khác để cùng

đắm với mình”. [23,tr 144]

Cùng quan niệm ấy là Từ Thức trong chuyện Từ Thức lấy vợ tiên. Nhân vật Từ Thức đã phát

biểu một quan niệm sống: “Ta không thể vì số lương năm đấu gạo đó mà buộc mình trong áng lợi

danh. Âu là một mái chèo về, nước biếc non xanh vốn chẳng phụ gì ta đâu vậy” [23,tr.101]. Đồng

thời với việc phê phán, tố cáo xã hội cũng là cách bày tỏ thái độ bất hợp tác với triều đình.

Quy ẩn là con đường khép lại cánh cổng đến với lợi danh song nó lại mở ra thênh thang cho

khát vọng sống và giữ gìn nhân cách của kẻ sĩ. Từ Thức từ quan vì không muốn bán nhân cách bằng

năm đấu gạo. Người tiều phu từ chối chốn quan trường vì nơi đó ông không thể giữ mình trong

sạch. Vẫn biết rằng ở ẩn không ra làm quan không phải là một phương án tối ưu cho những nhà nho

muốn giúp dân giúp nước. Nhưng nếu chọn giữa xuất chính mà hại dân và quy ẩn mà giữ mình

trong sạch, không làm tổn thất cho dân thì đó cũng là một cách hành xử của người quân tử. Không

vì danh lợi mà đánh mất nhân cách, đạo đức của mình là cách hành xử đáng để được người đời

ngưỡng mộ, tôn kính.

Tuy nhiên ở ẩn không có nghĩa là các nhà nho rũ bỏ tất cả cuộc sống này. Trong cảnh sống tự

do, nhàn lạc họ vẫn nặng lòng với quê hương, với đất nước. Điều đó cho thấy tinh thần trách nhiệm

của nhà nho với cuộc đời. Từ Thức mặc dù sống trong cảnh tiên thơ mộng, lãng mạn nhưng “những

đêm sương gió thổi, bóng trăng dòm qua cửa sổ,tiếng thủy triều nghe văng vẳng đầu giường, đối

cảnh chạnh lòng một nỗi buồn bâng khuâng quấy nhiễu khiến không sao ngủ được”. [23,tr 111]

Chính vì nỗi nhớ quê hương ấy Từ Thức đã từ biệt cõi tiên để trở về quê cũ.

Người ẩn sĩ sống xa chốn thị thành, gắn bó với rừng núi nhưng những chuyện xảy ra trong dân

gian thì đều biết. Đó là hình bóng của lão tiều trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Na:

“hàng ngày trong động có người tiều phu gánh củi đi ra, đem đánh đổi lấy cá và rượu, cốt được no

say chứ không lấy một đồng tiền nào. Hễ gặp ông giả trẻ con dưới đồng bằng, lại nói chuyện những

việc trồng dâu trồng gai một cách vui vẻ” [23,tr132]. Người ẩn sĩ không chỉ nhớ quê, bàn chuyện

trồng trọt mà họ còn tỏ ra am hiểu thời cuộc:“ta tuy chân không bước đến thị thành, mình không

vào đến cung đình nhưng vẫn thường được nghe tiếng ông vua bấy giờ là người như thế nào. Ông

ấy thường dối trá, tính nhiều tham dục” [23,tr 142]. Và đi đến kết luận: “chưa thấy ai biết những kế

lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả”.[23,tr.143]. Từ đó có thể khẳng định: nhà văn mang thân

mình về ẩn cư chốn lâm tuyền nhưng tâm trí vẫn luôn thao thức cùng xã tắc. Con đường ẩn dật của

Nguyễn Dữ do đó là một con đường tích cực.

2.3.2.4. Nỗi lòng với những kiểu người “thấp cổ bé họng” trong xã hội:

Nếu đối tượng phê phán chủ yếu của Nguyễn Dữ là vua chúa, quan lại, thì Vũ Trinh lại ít thấy

nhắc đến đối tượng này. Phải chăng với những trải nghiệm trong chính cuộc đời mình, nhà văn đã

nhận ra một sự thật nghiệt ngã rằng: dù có phê phán hay đả kích thì bản chất của tầng lớp thống trị

thời ấy vẫn không thể nào thay đổi. Một cuộc va đập mạnh của lịch sử đã làm Vũ Trinh chán ngán

trước những gì mình đã từng tôn thờ. Nên trong Lan Trì kiến văn lục, người đọc khó tìm thấy hình

ảnh vua quan, có chăng cũng chỉ rải rác ở vài ba truyện mà thôi. Tác phẩm đưa người đọc về với

những con người thân thuộc gần gũi: một thầy đồ dạy học bên lũy tre làng, một người đàn bà góa

chồng, một đứa trẻ bị bỏ rơi trong rừng, một chàng lái đò say đắm trong tình yêu.... Trong Lan Trì

kiến văn lục không thấy hình ảnh nhà văn xuất hiện một cách trực tiếp nhưng tiếp xúc với tác phẩm

vẫn thấy bàng bạc những tư tưởng, tình cảm mà nhà văn gửi gắm vào trong nhân vật. Người đọc vẫn

nhận thấy khuôn mặt của nhà văn ẩn hiện sau mỗi nhân vật trong truyện như để an ủi, nâng đỡ, chia

sẻ với nỗi đau của họ. Chính vì vậy tác phẩm của Lan Trì ngư giả không ồn ào mà cứ lặng lẽ, âm

thầm chiếm lĩnh tâm hồn mỗi con người.

Vũ Trinh xuất hiện khi trào lưu văn học nhân đạo đang thịnh hành và trở thành trào lưu lớn nhất

Việt Nam thế kỉ XVIII. Giai đoạn văn học thế kỷ XVIII, nửa đầu XIX đã khẳng định hàng loạt

những tên tuổi: Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,

đặc biệt đỉnh cao là Truyện Kiều của Nguyễn Du. Lan Trì kiến văn lục của Vũ Trinh tuy chưa được

biết đến nhiều như những tác phẩm trên nhưng cũng đã có những đóng góp không nhỏ. Quy luật cho

thấy khi một hiện tượng phát triển đến đỉnh cao nhất nó sẽ đi vào hồi kết thúc. Cho nên văn xuôi tự

sự với những Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái như những thử nghiệm đầu tay đã phát triển đến

đỉnh điểm với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, để rồi trước lúc cáo chung nhường chỗ cho

thể loại khác, Lan Trì kiến văn lục đã kịp làm mới cho thể loại truyện kì. Tác phẩm của Vũ Trinh

mặc dù theo tên gọi là ghi lại những điều tai nghe mắt thấy nhưng được xây dựng với những mô tip

lạ của thể loại truyền kì nên nó gần gũi với truyện truyền kì hơn là loại sách cùng tên với nó.

Như đã nói ở trên, người đọc thấy được bóng dáng của Vũ Trinh sau mỗi câu chuyện tuy nhà

văn không hiện lên cụ thể ở một nhân vật nào. Truyện Vũ Trinh vừa mang tính chất giáo huấn vừa

đậm màu sắc nhân văn. Đa phần nó không dừng lại ở việc tự sự đơn thuần, mà còn chứa đựng cách

nhìn, tư tưởng tình cảm của nhà văn nên giàu yếu tố trữ tình. Ở những truyện viết về phụ nữ, tác giả

lên tiếng đòi lại quyền đáng được tôn trọng cho giới nữ. Chỉ cần có tài năng và phẩm giá, người phụ

nữ xuất thân từ tầng lớp nào, làm nghề gì trong xã hội họ cũng cần được tôn trọng. Những nhân vật

nữ của Vũ Trinh thường xuất thân tầm thường: một cô ca kĩ (Cô ca kĩ họ Nguyễn), một người con

gái mắc bệnh hiểm nghèo (Thánh báo ân)...Viết về họ, Vũ Trinh thể hiện mối đồng cảm sâu xa

trước những nỗi thống khổ mà họ phải gánh chịu từ gia đình đến xã hội. Mỗi câu chuyện đều cho

thấy tấm lòng tràn đầy yêu thương và thái độ trân trọng, nâng niu đối với những phẩm chất tốt đẹp

của người phụ nữ. Nhưng làm thế nào để người phụ nữ sống hạnh phúc, số phận của họ sẽ đi về đâu

cũng chỉ là những câu hỏi bỏ lững không tìm ra lời đáp. Ước mơ về một xã hội công bằng trong đó

giới nữ được sống hạnh phúc cuối cùng cũng chỉ là ước mơ mà thôi. Những người phụ nữ trong tác

phẩm đều ra đi, và cái chết là kết quả cuối cùng. Tuổi xuân, tài năng, phẩm chất của họ như những

khối pha lê trong suốt vỡ tan tất cả. Tình yêu, khát vọng hạnh phúc mà họ vun bón cuối cùng cũng

chôn xuống mộ sâu. Người đọc tác phẩm nhận ra không có một viễn cảnh tương lai nào dành cho

người phụ nữ. Tuy nhiên Vũ Trinh đã mang đến cho văn học trung đại hơi thở của cuộc sống hiện

đại qua truyện Phu nhân Lan quận công. Nhân vật ở đây mang những tính cách hiện đại: người cha

độ lượng, không phân biệt đẳng cấp, không ép buộc con gái làm theo ý mình. Còn cô gái không chỉ

dịu dàng, kiên nhẫn mà còn có bản lĩnh. Họ đã làm nên hạnh phúc cho chính mình. Tác phẩm đã

mang lại bài học: hạnh phúc không thể mua bằng tiền mà phải được tạo nên bằng chính bàn tay,

khối óc và trái tim của con người.

Nếu Lê Thánh Tông hiện lên qua nhân vật “ta”, Nguyễn Dữ là hình bóng của người ẩn sĩ thì Vũ

Trinh lại ẩn sau khuôn mặt của nhiều nhân vật. Đó là những nhân vật mà nhà văn đã được gặp từ

trong dân gian và sau mỗi câu chuyện của họ là tư tưởng, tình cảm của nhà văn. Ví như truyện Vũ

Quỳnh kể về câu chuyện được gặp tiên của một anh học trò có tài song kiêu ngạo. Đằng sau câu

chuyện là một lời cảnh tỉnh của tác giả: người có tài là đáng quý nhưng đừng kiêu ngạo. Hay truyện

Sinh đẻ kì lạ: một phụ nữ nông dân có thai đến tháng sinh thì bị chết, nhà nghèo không sắm được áo

quan, phải gói ghém rồi chôn tạm ngoài đồng. Dưới mồ chị đã sinh con, không có sữa phải đem tiền

âm phủ đi mua bánh cho con. Phát hiện, gia đình đào mộ cứu được con, đứa bé miệng vẫn còn

vương vụn bánh và cuống nhau còn dính với thân thể người mẹ đã bắt đầu thối rữa. Tác phẩm bề

ngoài chỉ là kể lại một câu chuyện kì lạ song đằng sau đó thấm đẫm một tình yêu thương ấm áp của

nhà văn dành cho con người.

Đặc biệt nhân vật thể hiện quan niệm, tình cảm của nhà văn cũng được gửi gắm nhiều qua hệ

thống nhân vật trẻ em. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam nhân vật trẻ em lại xuất hiện với

tầng số cao đến vậy. Và nhóm nhân vật “nhí” cũng được Vũ Trinh dành nhiều ưu ái: một em bé bị

cha bỏ vào rừng để lấy vợ khác; một em bé tuy sống bình thường song mang trên mình chứng tích

đứa con của rắn; một em bé hai lần gặp bất hạnh, tám tuổi đã chết, khi được đầu thai làm người lại

rất đau khổ vì vẫn nhớ về kiếp trước của mình. Đọc những truyện này người đọc không thể nào

quên số phận, cuộc đời của các em. Nhà văn dường như muốn gửi đến người đọc một thông điệp: xã

hội cần quan tâm đến những kiếp người đáng thương nhất là trẻ em.

Nhìn chung loại hình nhân vật là hiện thân của nhà văn đã thể hiện những tâm sự, nỗi lòng và

bộc lộ một cách gián tiếp hình ảnh của nhà văn. Đặc điểm này đã giúp cho Thánh Tông di thảo,

Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục mang đậm màu sắc chủ quan, đồng thời loại hình đưa thể

loại truyền kì tiến xa hơn các tác phẩm trước đây.

2.4. Loại hình nhân vật các con vật:

2.4.1. Một số hình ảnh con vật được đề cập đến trong các tác phẩm:

2.4.1.1. Số lần xuất hiện:

STT TÊN TÁC PHẨM CON VẬT

01 Truyện dòng dõi con thiềm thừ +

02 Phả ký sơn quân +

03 Bức thư con muỗi +

04 Phụ lục +

05 Trận cười ở núi Vũ Môn +

06 Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang +

07 Đứa con của rắn +

08 Con hổ có nghĩa +

09 Cá thần +

10 Khỉ +

11 Con hổ hào hiệp +

12 Rắn thiêng +

13 Gấu hổ chọi nhau +

14 Con giải +

15 Con hổ nhân đức +

2.4.1.2. Khái quát chung:

Nhìn bảng thống kê, chúng tôi nhận thấy loại hình nhân vật con vật xuất hiện trong ba tập truyện

không nhiều, trong số 84 tác phẩm thì chỉ có 15 là viết về con vật. Hình ảnh con vật chủ yếu xuất

hiện trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục còn trong Truyền kì mạn lục thì kiểu nhân vật

này hạn chế hơn. Tuy vậy loại hình nhân vật các con vật cũng mang đến những thông điệp cho

người đọc. Đó là những bài học mang tính chất giáo huấn, lấy hình ảnh con vật để nói đến đời sống

loài người. Có thể khẳng định rằng: tính ngụ ngôn được thể hiện ở loại hình nhân vật này rõ nhất.

2.4.2. Những bài học nhằm mục đích giáo huấn con người:

2.4.2.1. Bài học luân lý đạo đức:

Hình ảnh con vật trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục xuất hiện không phải chỉ để

miêu tả mà đó là những phương tiện nghệ thuật chuyên chở dụng ý của nhà văn. Những bài học đạo

đức – luân lý đã được các tác giả truyền kì chuyển tải qua những câu chuyện ngụ ngôn về con vật.

Dưới hình thức kín đáo này, nhà văn đã hướng đến mục đích chính là giáo huấn, răn dạy con người.

Trong Thiềm thừ miêu duệ ký thông qua câu chuyện con cóc và con ếch, Lê Thánh Tông đã nêu trực

tiếp bài học luân lý, đạo đức dành cho con người: “Ôi thế mới hiểu rõ câu nói của tiên triết:“Phàm

những người ít lòng tham dục mà vẫn bảo toàn được tấm thân, xưa nay cũng hiếm”. Thật là đúng

vậy.” [117,tr 1]). Từ nhân vật con ếch, tác giả muốn nhắn nhủ: Phàm những kẻ lòng tham vô độ thì

cuộc sống sẽ không được an toàn, bình yên. Cùng một hoàn cảnh song những kẻ có lòng tham thì

cuộc đời sẽ bất hạnh. Đây là một hồi chuông cảnh tỉnh đã đánh vào lương tri của con người. Con

người cần nhất là lối sống trung thực, không tham lam, không vướng vào “sân si”. Sơn quân phả đã

vẽ lên hai hình ảnh trái ngược nhau về bản chất trong bức tranh rừng núi: hổ thiện, hổ ác. Qua đó tác

giả lấy việc hổ ác càn rỡ, bạo ngược ra khỏi nơi ẩn náu là cắn người sẽ bị trừng trị để răn đe những

kẻ có lòng dạ như hổ dữ. Đứng trên lập trường của một nhà vua, Lê Thánh Tông dùng hình ảnh “hổ

ác, hổ đẻ, hổ nằm” để ngầm chỉ bọn quan lại hung ác, bạo ngược: “còn như Súng Hầu thì gièm Văn

Vương, Dương Hóa thì trộm rùa lớn, nhãng đề phòng thì phá cũi ra, làm mộng gỡ để ăn cùng bọn;

hổ đẻ, hổ nằm đều có tiếng là hổ dữ. Đó là hổ ác” [117,tr 33]. Ca ngợi sự dũng mảnh, lòng nhân

nghĩa của hổ thiện, tác giả viết: “Lại như giúp Chu Tuyên Vương bình định Hoài Nam, làm ngũ

tướng quân khôi phục nhà Hán, giữ đất Ba Thục để trông vào Trung Nguyên, giúp Tần Mục Công

làm bá chủ chư hầu. Tống Thái Tông giống được bước đi mà làm chủ thiên hạ. Hán Ban Siêu giống

được cái đầu mà được phong làm hầu muôn dặm. Đó là loài hổ thiện” [117,tr 32 – 33]. Đấy là

tượng trưng cho những dũng tướng, những vị quan làm những điều tốt, điều thiện có lợi cho dân cho

nước. Đẩy tư tưởng của tác phẩm lên cao hơn, không dừng lại ở chỗ phê phán loài hổ dữ - bọn tham

quan, lũng bại, tác giả còn cho rằng: “Sơn quân (....)gặp người thì cắn hại. Bởi vậy người ta phải ở

sàn cao và đóng kín cửa để lánh hại, đặt cạm, giặng lưới để trừ nó đi” [117,tr 34]. Điều này chỉ ra

rằng: con người vốn có thể chế ngự được thiên nhiên. Vì vậy tuy hổ dữ song với tài trí, con người sẽ

trị được nó. Người đọc như vỡ ra chân lý mà tác phẩm muốn gửi gắm: những kẻ có lòng dạ như hổ

chắc chắn sẽ bị trừng phạt, bị đẩy ra khỏi cuộc sống của con người.

Trong Thánh Tông di thảo, Văn thư lục là truyện được viết với một bút pháp khá độc đáo. Tất cả

lời khuyên răn, giáo huấn con người được kết tụ lại ở bức thư mà muỗi đồng gửi cho muỗi nhà. Lá

thư ấy có đoạn viết:

“Thưa với hiền huynh

Máu tươi má phấn, bụng còn no chăng

Khí độc khói hun, mắt còn mờ chăng?

Trộm nghĩ: lũ ta sinh ở Bảo Hà

Thân nương gấm vóc

Mỏng manh như tơ trời trong ánh nắng

Nhỏ nhen tựa hạt bụi đầu sợi lông

Đèn lửa chưa soi, trong đêm tối hiện hình ma quỷ

Bay kêu đắc ý, chốn âm phòng được lúc vắng tanh.

Màn cô ả hé ra, nhẹ mình len lỏi

Giấc cậu em thiu ngủ hút máu no nê

Cho nên kẻ tham ăn ban ngày

Nếu không đập tan thây, cũng bị mảnh quạt tống đi xa lắc

Đứa tham ăn buổi tối, chẳng bị khói hun mù mắt, ắt lửa hồng thiêu cháy tấm

thân.[tr117,41].

Những lời tâm tình trong thư của muỗi đồng gửi cho muỗi nhà chính là lời khuyên đối với con

người. Đặc biệt là với những ai đã quen sống trong cảnh ấm êm, quyền quý. Những nơi ấy lại là nơi

chứa nhiều hiểm nguy cạm bẫy và không có tự do. Qua đó nhà văn đã đúc kết: quyền quý, danh

vọng chỉ là phù phiếm, tiền tài, lợi lộc tựa như cát bụi. Không những thế, nó còn làm hại đến thân

mình. Muỗi đồng là hình ảnh ẩn dụ của những con người biết chấp nhận cuộc sống đạm bạc, không

chạy theo danh lợi, phù phiếm xa hoa. Bù lại họ được sống thoải mái, tự do và được làm chủ hoàn

cảnh, quyết định số phận bản thân mình. Cuộc sống ấy thật đáng tự hào ngợi:

“Sao bằng

Ở đầu trâu sừng quật không kinh

Đậu lưng dê, đuổi xua chẳng tới

Đốt lau nát nhưng thân nương vững chắc

Lá sen cụp mà chân nghỉ bình yên” [117,tr 41].

Muỗi đồng sau khi đi thăm muỗi nhà về, đã phát hiện ra một sự thật: khi ta làm chủ được hoàn

cảnh, chủ động trước mọi biến cố xảy ra thì đó chính là sự mĩ mãn về mặt tinh thần. Mĩ mãn, vinh

hiển vì được tự do, được sống như chính mình. Cuối bức thư muỗi đồng đã đưa ra lời cảnh tỉnh với

muỗi nhà:

“Muỗi nhà, muỗi nhà

Ta nói không nghe thì làm than trong lửa, làm bụi trên khói chưa biết ngày nào

đó thôi

Nên mau mau lo liệu” [117,tr 41].

Câu chuyện được đúc kết lại ở bức thư. Tưởng như đó chỉ là lời tâm sự của những con vật với

nhau nhưng thực ra lại là lời khuyên răn của tác giả đối với những ai đang sống trong quyền quý.

Đừng để lợi danh lấn át nhân cách mà cần làm chủ cuộc đời của mình. Với Lê Thánh Tông, khuyên

người cũng là để răn mình, cần sống làm gương cho con dân noi theo.

Tập hợp hầu hết các loài động vật là đặc điểm của Vũ môn tùng tiếu. Thông qua cuộc tranh luận

của các con vật, tác giả đã hướng đến nhiều bài học về cách làm người ở đời. Đầu tiên hiện lên

trong tác phẩm là hình ảnh cua. “Con cua tự mình xưng là “công tử không ruột” huênh hoang nói:

Người quân tử bảo: “Nhanh chân thì được trước. Ta đây trên cất hai đao, dưới duỗi tám chân,

thường ngang tàng trong biển cả. Nay chắc bàn chân lớn, bước những bước dài, Vũ Môn dẫu cao

chỉ nháy mắt là tới. Giật giải khôi nguyên, không ta thì ai” [117,tr 65]. Tuy vậy, hậu quả mà công

tử không ruột phải nhận là “chưa bò lên được một bước đã bị rêu trơn ngã lăn xuống; từ đó đào lỗ ở

dưới đất, thẹn mình trước trót nói càn” [117,tr 60]. Trong khi đó “Ếch nhảy lên nói khoác: Ta sẽ

múa hai đùi mập mạp, chỉ nhảy ba cái là tới đỉnh” [117tr 65]. Nhưng cũng không khác gì số phận

của cóc, ếch cũng rơi vào tình cảnh: “Chàng ếch ta vỗ tay, vừa mới nhảy một cái, hai chân trước đã

bị gãy, từ đó chỉ ngồi nép ở ao bèo, hổ mình mang tật cho thiên hạ cười chê” [117tr 67]. Khoe

khoang cũng là đặc điểm ở hai nhân vật lươn và chạch: “Ta cuộn thân dài rồi quăng mình ba vòng

là đã lên hẳn đỉnh núi” [117,tr 66]. Vậy mà ngay sau đó thì: “Lươn và chạch vừa quằn quại lên

được một bậc đã rơi tỏm xuống bùn lầy” [117,tr 67]. Cùng với chúng là hình ảnh cá rô đang rất tự

đắc: “Tập quen thành tự nhiên. Leo núi là ngón thạo của ta. Ta sẽ giương vây cứng mà rạch lên,

phỏng có khó gì?” [117,tr66]. Nhưng cuối cùng cũng nhận hậu quả tương tự:“Cá rô nghênh ngang

rạch lên được một tầng đã bị đá đè lên đầu” [117,tr 67]. Thấy tất cả các loài đều như thế nên “Tôm

bể cũng hớn hở: công hầu phải có dòng giống. Tiền thân ta vốn bay lên trời. Nay ta chỉ cần co

người lại là giật giải, nào có khó gì?” và kết quả “tôm bể con nào con nấy no kềnh bụng, cong đuôi

nhảy lên, không ngờ đuôi ở trên đầu ở dưới, lá yếm không che được bụng, thành ra chất tanh ở ruột

lộn cả lên đầu” [117,tr 67]. Thông qua cuộc thi tài của những con vật, tác giả muốn gửi đến người

đọc những bài học đắt giá: chớ nên khoe khoang, khoác lác, tự cho mình là tài giỏi hơn người khác.

Thói hợm hĩnh chủ quan ấy sẽ làm cho con người tự chuốc họa vào thân. Nó cũng triệt tiêu tinh thần

cố gắng vượt qua thử thách, chinh phục hoàn cảnh của con người. Đồng thời đó cũng là lời khuyên:

phải biết sống khiêm tốn và biết người biết ta, chớ như “ếch ngồi đáy giếng” mà mua lấy trò cười.

Đây là một trong những nội dung thể hiện rõ những bài học mang tính giáo huấn cao. Qua

những tác phẩm này, các tác giả không chỉ nhằm để tu thân mình mà còn giúp người dân đốn ngộ

những bài học làm người ở đời. Những câu chuyện ngụ ngôn này có ý nghĩa giáo dục cao và qua

bao thời gian vẫn chưa mất đi tính thời sự của nó.

2.4.2.2. Bài học về tình người cao đẹp:

Khác với Thánh Tông di thảo, loại hình các nhân vật con vật trong Lan Trì kiến văn lục lại mang

những thông điệp về tình người. Đa số những câu chuyện về loài vật trong Lan Trì kiến văn lục đều

nhằm ca ngợi những hành động nghĩa hiệp của các con vật. Nhân vật chính thường là vị hổ - chúa

sơn lâm. Đó là Con hổ hào hiệp, Con hổ nhân đức, Con hổ có nghĩa. Trong hầu hết các truyện, chúa

sơn lâm hiện lên với một tấm lòng nhân đức. Trong Con hổ có nghĩa, có một con hổ đã mang ơn bà

đỡ vì bà đã đỡ đẻ cho hổ cái và trả ơn bằng cách cho bà mười lạng bạc, nhờ vậy bà được cứu sống

vì ngay năm mất mùa đói kém. Lại có một câu chuyện về người nông dân cứu một con hổ hết mắc

xương, hổ cũng đã trả ơn: “Một đêm nọ, nghe ngoài cổng có tiếng gầm dài mà sắc. Sáng hôm sau ra

nhìn thấy có một con nai chết ở đó”, rồi sau đó: “Mấy năm sau bác tiều già chết rồi. Khi chôn cất

có một con mãnh hổ đột nhiên tới trước một phủ phục vật vã. Những người đưa đám bỏ chạy cả. Từ

xa họ nhìn thấy hổ dùng đầu dụi vào quan tài, gầm rống chạy quanh mộ vài vòng rổi bỏ đi” [118,tr

44]. “Cứu vật vật trả ơn” là một kinh nghiệm đúc kết từ bao đời nay được thể hiện rõ trong tác

phẩm. Song không dừng lại ở chỗ ca ngợi con hổ biết lễ nghĩa, hơn hết tác giả còn muốn nhắn nhủ:

Con vật còn biết trả ơn, biết sống nghĩa tình thì con người cũng đừng nên để kém thua con vật. Ở

truyện Con hổ hào hiệp, trước hành động gian ác của người cha, con hổ đã cõng em bé về trước nhà

bà ngoại em, cứu được nhân vật “nhí” này. Dân gian có câu: “Hổ dữ không nỡ ăn thịt con”, vậy mà

người cha trong tác phẩm lại đan tâm vứt bỏ con mình. Con người này thật không bằng loài cầm

thú. Còn đây là sự cảm phục của người đối với vật trong Con hổ nhân đức: “Hôm qua tôi nhìn kĩ,

thấy con hổ này rất giống con hổ xưa đã cứu tôi, tôi hỏi nó, nó nhìn tôi ứa nước mắt, rồi gật đầu hai

lần. Tôi cảm ân đức cứu mệnh của nó, mới sửa một bữa để bày tỏ chút lòng thành của tôi” [118,tr

136]. Có thể rằng viết về con vật cứu người Vũ Trinh đã trung thành với hình ảnh của con hổ. Việc

lấy chúa sơn lâm làm nhân vật trong truyện đã mang đến những ý nghĩa mới cho tác phẩm. Chúa

sơn lâm vẫn được xem là hung ác vậy mà còn động lòng trắc ẩn trước hoàn cảnh con người và ra tay

cứu giúp, thế thì con người tại sao lại nỡ đối xử tàn nhẫn với nhau? Con người cần phải biết yêu

thương, đùm bọc nhau vượt qua hoạn nạn. Chính việc lấy ảnh hổ đã làm cho tác phẩm có tính giáo

dục cao hơn. Đọc những câu chuyện có ý nghĩa giáo dục sâu sắc như vậy, phải chăng con người sẽ

biết yêu thương, biết thay đổi mình để sống tốt hơn.

Một trong những điểm đặc sắc ở tác phẩm truyền kì là đã xây dựng thành công hình ảnh con vật.

Những bài học luân lý, bài học làm người được thể hiện dưới một hình thức mang tính ngụ ngôn

cao. Không trực tiếp khuyên răn, giáo huấn, hình ảnh các con vật cứ nhẹ nhàng đưa người đọc đến

những vùng đất về đạo lý, tình người, về cách sống ở đời. Mục đích của các tác phẩm là giúp cho

con người hiểu được những chân lý về cuộc sống, để thiết lập lại đời sống sao cho đúng đắn và hài

hòa với truyền thống, với đạo đức con người.

CHƯƠNG 3: VAI TRÒ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA LOẠI HÌNH CÁC NHÂN VẬT TRONG THÁNH TÔNG DI THẢO, TRUYỀN KÌ MẠN LỤC VÀ LAN TRÌ KIẾN VĂN LỤC.

3.1. Vai trò của loại hình các nhân vật trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục:

Trên cơ sở phân tích những biểu hiện của loại hình các nhân vật trong ba tập truyện ở chương II,

chúng tôi tiến hành tìm hiểu vai trò của chúng đối với ba tập truyện này. Loại hình các nhân vật có

một vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung, tư tưởng của tác phẩm. Làm rõ vai trò, vị trí của

loại hình các nhân vật trong tác phẩm sẽ thấy được những thành tựu mà các tác phẩm này mang lại

cho nền văn học nước nhà.

3.1.1. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện được hiện thực xã hội đương thời:

Đọc và nghiên cứu những tác phẩm này, chúng tôi nhận ra rằng những lời nhận định trước đây

về văn học trung đại rằng đây là nền văn học mang tính chức năng, là “văn dĩ tải đạo” có phần như

chưa chính xác. Bởi lẽ những tác phẩm này đã cho ta nhận ra một chân lý: văn học trung đại cũng

đã những có tác phẩm đúng với nghĩa của nó, những “đứa con tinh thần của thời đại”. Nói như cá

tác phẩm truyền kì Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục không đơn giản chỉ

mang chức năng “chở đạo” – vốn là tinh thần chung của văn học trung đại, mà còn đề cập đến

những vấn đề của cuộc sống đương thời, với những kiểu xã hội gắn với từng thời đại nhất định.

Trong các tác phẩm trên, chất liệu huyền thoại, thần kì dần dần mờ nhạt thay vào đó là cuộc

sống hiện tại. Hiện thực cuộc sống với đầy đủ bản chất của nó cứ khiêm tốn lấn tới chiếm chỗ, cho

đến lúc nó trở thành yếu tố chủ đạo trong tác phẩm. Lúc này “hạt nhân hiện thực” vốn đã từng xuất

hiện ở những tác phẩm trước đó, nay càng được mở rộng hơn nữa. Giờ đây cảm hứng sáng tạo của

nhà văn đã trở thành vị trí trung tâm và chi phối việc xây dựng nhân vật và các yếu tố khác trong tác

phẩm. Tất nhiên ở đây cái bình thường được kết hợp xen lẫn với chất liệu thần kì. Ba tác phẩm, ba

màu sắc khác nhau của xã hội phong kiến Việt Nam được thể hiện một cách chân thực, sinh động.

3.1.1.1. Một xã hội với cuộc sống ấm no hạnh phúc.

Trong ba tập truyện này, Thánh Tông di thảo là nơi kết tụ đầy đủ cảm hứng ngợi ca cuộc sống

hạnh phúc, ấm no, thanh bình. Điều này cũng không có gì lạ, bởi thời đại Lê Thánh Tông là một

trong những thời đại thịnh trị nhất của xã hội phong kiến nước ta. Có lẽ vì thế mà xã hội được nói

đến trong Thánh Tông di thảo phần nhiều là một xã hội thịnh trị, công bằng với kỉ cương lễ giáo

được thi hành và bảo vệ một cách nghiêm chỉnh. Có được cuộc sống ấm no của dân chúng là do

cách cai quản đất nước của người đứng đầu. Trong Hoa quốc kì duyên, nhà vua Lê Thánh Tông đã

luận bàn về một đất nước như thế: “Chia nước làm hai, một phần để thái tử cai trị, một phần để

công chúa, nhưng mà từ khi thiên đô dời đến đây, người nhiều của thịnh, công chúa là con gái sợ

không cai trị xiết được” [117,tr60]. Hay đó là cách trù bị phòng ngừa quân địch của nhà vua trong

Mộng ký: “Nhân Tông gặp loạn Nghi Dân. Ta mới lên ngôi, nghĩ đến việc trước mà luôn luôn phải

phòng ngừa. Thường dàn sáu quân thân hành đi kiểm soát” [117,tr 146]. Ở đây nhà vua với quyết

tâm gìn giữ “từng thước núi, từng tấc sông” của cha ông để lại. Không những đi vào mọi ngõ ngách

để giữ gìn bình yên, mang lại cuộc sống an lành cho nhân dân, nhà vua còn hiện lên là một minh

quân đầy trách nhiệm: “Ta bực mình tự nghĩ rằng: mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét

cho ra cái án này, thì bố mẹ thêm một đứa con ma, vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là

ma sau này không khỏi sinh ra tai vạ” [117,tr 165]. Chính nhờ vào tinh thần trách nhiệm cao mà vị

vua trong Thánh Tông di thảo luôn biết đặt lợi ích của nhân dân lên trên hết. Cho nên khi dân gặp

khó khăn vị vua ấy lại có mặt kịp thời cứu tế giúp dân: “Năm Quý Tỵ lụt to. Những nơi nước đến,

rắn rết bò lên ngọn cây, người ta phải nuôi gà chó trên cành. Đền chùa phần nhiều bị nước cuốn đi

hay đỗ nát. Ngày hai mươi bảy, tháng tám nước rút. Ta đi thuyền xem xét nơi nào bị thiệt hại thì

chẩn cấp cho dân” [117,tr 17]. Đấy cũng là một xã hội mà mọi oan khiên đều được làm sáng tỏ:

“Trẫm trên nhờ oai linh của tổ tông, dưới dựa vào bầy tôi giúp sức, sinh, sát, thưởng, phạt, đều nằm

trong tay. Ai uất ức, đau khổ, ta có thể nêu lên được. Khấn với các thần ở địa phương, nếu có u hồn

nào còn uất ức thì bảo chúng cứ thực tâu bày” [117,tr 146]. Nhờ sự anh minh, sáng suốt trong điều

hành việc nước mà vị vua ấy đã có thể mang lại một đời sống ấm no cho dân, cho nước: “Sau khi

đại định, khách bộ hành sung sướng được đi trên đường sá của ta, người buôn bán vui mừng được

bày hàng hóa ở chợ của ta. Thượng Kinh là nơi đô hội” [117,tr 24]. Lòng tự hào dân tộc của tác giả

còn được thể hiện qua lời ca ngợi tấm lòng bao dung và tinh thần nhân đạo của vua Lê Thái Tổ

trong Nhị nữ thần truyện: “Khi vua Lê giảng hòa với Vương Thông, cho Thông được toàn thân về

nước, con tôi nghĩ mệnh vua là trọng, đã không dám trái mệnh vua” [117,tr 28]. Câu chuyện này

nhắc lại sự việc khi đánh thắng giặc Minh, vua Lê Thái Tổ đã không truy đuổi quân giặc đến cùng

mà vẫn tha cho chúng một con đường sống để về nước. Đó cũng chính là truyền thống nhân ái của

người Việt.

Nhìn chung nội dung của Thánh Tông di thảo bên cạnh lời ngợi ca cuộc sống thanh bình của xã

hội phong kiến ở giai đoạn thịnh trị thì chủ yếu là đề cao trật tự phong kiến và ngợi ca các đại biểu

của chính quyền – những rường cột của nhà nước phong kiến. Và đặc biệt trong tác phẩm, có thể

nhận ra hình ảnh của nhà vua – nhân vật “ta” được khắc họa rõ nét. Ẩn sau những câu chuyện về

thần, về người ấy là khuôn mặt từ đức của Lê Thánh Tông. Âm hưởng chủ đạo trong Thánh Tông di

thảo chủ yếu là âm hưởng ngợi ca cuộc sống thanh bình, ngợi ca sự anh minh, sáng suốt của người

đứng đầu. Chính cuộc sống này mới là cảm hứng chủ đạo cho việc phóng bút của nhà văn chứ

không phải là các sự kiện lịch sử hay những câu chuyện trong dân gian. Có thể khẳng định rằng: ở

một mức độ nhất định Lê Thánh Tông đã thoát ra khỏi những ảnh hưởng thụ động của văn học dân

gian và văn xuôi lịch sử. Nhờ vậy Thánh Tông di thảo đã châm ngòi cho sự bùng nổ mạnh mẽ yếu

tố hiện thực ở những tác phẩm sau này mà tiêu biểu nhất là Truyền kì mạn lục. Điều đó đã làm nên

tên tuổi cho “thiên cổ kì bút” của Nguyễn Dữ.

Có thể thấy: chế độ chuyên chế tập quyền theo Nho giáo trong lịch sử văn học Việt Nam tới đây

đã đạt tới đỉnh cao nhất, tới trạng thái cổ điển, mẫu mực nhất. Cho nên chẳng có gì đáng ngạc nhiên

khi văn chương nhà Nho ở cuối thế kỉ XV nói chung và những sáng tác của Lê Thánh Tông nói

riêng lại chủ yếu là lối văn ca tụng vua sáng, tôi liền, cuộc sống ấm no, thái bình thịnh trị. “Thơ văn

nửa sau thế kỷ XV nêu cao giáo huấn của đạo Nho về cương thường, xuất xử, khí tiết, vạch con

đường kiến thiến quốc gia hùng mạnh, ca tụng những chiến công oanh liệt chống ngoại xâm, khắc

công ghi ơn anh hùng nghĩa sĩ” [49,tr 134].

Vui mừng, hân hoan là những cảm xúc còn đọng lại khi đọc Thánh Tông di thảo nhưng những

cảm xúc đó không mãnh liệt bằng những rung động do Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục

mang đến. Hai tác phẩm khiến người đọc phải phẫn nộ trước những hành động táng tận lương tâm

của giai cấp thống trị, và sự băng hoại đạo đức của nhiều lớp người trong xã hội phong kiến. Cái ác,

cái xấu cứ lan tỏa khắp nơi khiến người đọc phải day dứt, suy tư.

3.1.1.2. Một xã hội đầy những biến động loạn ly:

Trái ngược lại hoàn toàn xã hội hạnh phúc, an lành trong Thánh Tông di thảo của Lê Thánh

Tông là xã hội của Nguyễn Dữ trong Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Có thể thấy Nguyễn

Dữ đã làm đúng vai trò của một nhà nghệ sĩ có tâm và tài. Bởi lẽ tâm ấy được ông gửi gắm trong

việc vẽ lại bức tranh xã hội phong kiến Việt Nam giai đoạn thế kỉ XVI - một xã hội đầy rầy những

bất công, ngang trái. Còn tài ấy được thể hiện ở phương diện nghệ thuật miêu tả nhân vật, dẫn dắt

cốt truyện, sử dụng ngôn ngữ. Vì vậy nhiều nhà nghiên cứu đã nhận định đây là “áng văn hay của

bậc đại gia”. Nguyễn Dữ sinh thành trong giai đoạn mà chế độ phong kiến nước nhà bắt đầu bộc lộ

những suy thoái của nó, vai trò của tầng lớp quan lại, trí thức đã mất dần. Trong số đó có một số

những trí thức đã trở thành những kẻ nô lệ cho đồng tiền. Và vì vậy những người tâm trong sạch,

liêm khiết, cao đẹp không thể cùng hội cùng thuyền được. Họ từ quan về sống chốn lâm tuyền, xem

đó là cách để tự an ủi mình. Ông cũng có mặt trong số đó, từ quan về ở ẩn với lý do nuôi mẹ già,

Nguyễn Dữ đã gửi vào trang sách những điều mình tận mắt chứng kiến khi còn nhậm chức. Chính

vì vậy mà đề cập đến một xã hội đầy những loạn ly, Nguyễn Dữ với Truyền kì mạn lục đã được

đánh giá cao.

Dưới con mắt của những nhà nho chân chính thì xã hội rơi vào tình cảnh loạn lạc, ly tán chính từ

tầng lớp thống trị mà ra. Ngay cả nơi có thể xem là yên bình nhất – nơi ngự trị của vua quan - cũng

đã xuất hiện những cuộc cấu xé ngầm: “còn ngoài ra phi là đồ tham tiền thì là tuồng nát rượu, phi

là đồ chỉ lấy yên vui làm thích thì là tuồng lấy thế vị mà khuynh loát nhau, chứ chưa thấy ai biết

những kế lạ mưu sâu để lo tính cho dân chúng cả” [23,tr 143]. Chính từ chỗ tranh dành ngôi vị, tiền

tài của vua chúa quan lại đã dẫn đến tình trạng kéo bè kết cánh nhằm tìm cách hại nhau: “ta chỉ ghét

những kẻ miệng lưỡi bẻo lẻo, đã đắm mình vào trong cái trào đình trọc loạn, lại còn toan kéo người

khác để cùng đắm với mình” [23,tr 144]. Những kẻ thống trị tin rằng với sức mạnh quân sự trong

tay, họ không sợ bất kì tai họa nào: “ta đã có binh lính có đồn lũy, tay không lúc nào rơi qua mâu,

sức có thể đuổi kịp gió chớp, trời dù có giỏi cũng sẽ phải tránh ta không kịp, còn giáng họa cho ta

sao được”.[23,tr 186]. Xuất phát từ toan tính này mà bọn họ càng “làm những sự dâm cuồng, chém

giết, không kiêng dè gì nữa” [23,tr 187]. Có thể thấy rằng trong thế kỉ XVI mâu thuẫn giai cấp trở

nên gay gắt và trật tự phong kiến lung lay, chiến tranh phong kiến diễn ra ác liệt. Tất cả những hiện

thực ấy được phản ánh đầy đủ ở Truyền kì mạn lục. Những cuộc chiến tranh ấy đã khiến bao gia

đình phải chia ly: “cuộc đoàn viên chưa được mấy lâu thì nhà nước có việc đi đánh Chiêm Thành,

bắt đến nhiều lính tráng”. [23,tr 176] Xã hội thời Nguyễn Dữ là một xã hội mà không chỉ đối mặt

với những cuộc nội chiến mà còn gánh chịu nạn ngoại xâm. Trong Truyện Lệ Nương, hơn một lần

Nguyễn Dữ đã nói đến hai cuộc chiến như thế. Lệ Nương và Phật Sinh yêu nhau, tuy hôn ước chưa

định nhưng đôi trẻ đã gắn bó với nhau rất mật thiết, tình nghĩa chẳng khác chi vợ chồng. Cuộc nội

chiến bùng nổ, năm 1399 khi cuộc mưu sát Hồ Quý Ly của nhóm Trần Khát Chân không thành.

Những người thuộc gia tộc họ Trần, nhất là phụ nữ đều bị bắt vào cung làm tì thiếp. Lệ Nương là

con gái người họ ngoại của Trần Khát Chân nên phải chịu chung số phận. Nàng đành ngậm ngùi gác

lại mối tình đẹp với Phật Sinh:

“Nguyền xưa tan nát nghĩ mà đau

Kiếp ấy lỡ làng sinh cũng uổng”[23,tr 198]

Hết nội chiến lại đến giặc Minh sang xâm lược. Nhà Hồ thất thủ, tướng Minh là Lã Nghị ỷ thế

cướp bắt đàn bà Đại Việt. Một lần nữa, Lệ Nương lại bị bắt. Mặc dù Phật Sinh đã hết lòng tìm kiếm,

nhưng không thể cứu được nàng. Cuối cùng Lệ Nương đành tự tử, khi bị đưa tới biên giới và chẳng

còn đường nào khác. Bi kịch của nàng do chính xã hội gây ra. Hồn Lệ Nương hiện về trong nỗi đau

thân phận: “nước mất nhà tan, lưu ly đến độ”. Nỗi đau của nàng Lệ Nương hay chính là lời thương

xót cho số phận người đàn bà sinh ra phải lúc nước nhà loạn lạc, ly tán và cũng là hiện thực của phụ

nữ Đại Việt những năm thế kỉ XVI. Như vậy có thể thấy rằng: Những cuộc nội chiến diễn ra rồi

chiến tranh ngoại xâm lấn đến, nhân dân luôn là đối tượng bị đọa đày, rên xiết dưới gót giày quân

bạo tàn. Trong đó phụ nữ luôn phải chịu cảnh chia lìa đôi lứa, vợ chồng “sinh ly tử biệt”. Chính vì

vậy mà Lệ Nương đã tìm đến cái chết khi bị giặc bắt sang biên giới: “bọn chúng ta vóc mềm tựa

liễu, mệnh bạc như vôi, nước vỡ nhà tan lưu ly đến độ. Nay nếu lại theo họ sang qua cửa ải tức là

đến nước non quê người. Chẳng thà chết rấp ở ngòi lạch, gần gũi quê hương, còn hơn là sang làm

những cái cô hồn ở bên đất bắc” [23,tr 204]. Số phận Lệ Nương tiêu biểu cho những người phụ nữ

sống trong một xã hội đầy biến động và loạn ly. Đây là hệ quả tất yếu trong một xã hội phong kiến

mà những người đứng đầu chỉ là những kẻ hại dân bán nước. Không chỉ phê phán những cuộc nội

chiến đã dẫn đến đất nước bị ngoại xâm, Nguyễn Dữ còn làm rõ hơn vai trò của những người là trụ

cột của quốc gia. Chính họ đã làm nên những khổ đau, bất hạnh cho con người. Truyện người nghĩa

phụ ở Khoái Châu đã thông qua số phận bi kịch cuả Nhị Khanh vạch ra những cái xấu của tầng lớp

quan lại lúc này. Những rường cột nước nhà ấy đã không đặt vấn đề lợi ích quốc gia lên trên mà

luôn ganh ghét, tìm cách hại nhau: “Đình thần ghét tính Lập Ngôn tính hay nói thẳng, ý muốn làm

hại, bèn hùa nhau tiến cử”, và nơi họ tiến cử là nơi “không để ở lại nơi khu yếu, bề ngoài vờ tiến cử

đến chổ hùng phiên, bề trong thực dồn đuổi vào chỗ tử địa” [23,tr 17]. Ngay cả người chồng mà

nàng thương yêu – Trọng Quỳ cũng ham mê cờ bạc, góp tay gây nên cái chết cho nàng. Từ đây

Nguyễn Dữ đã chỉ ra rằng, chính xã hội đầy dẫy những tệ trạng mà Nguyễn Dữ đang sống chứ

không ai khác đã giết chết hạnh phúc, cuộc đời và tuổi thanh xuân của người phụ nữ. Nguyễn Dữ là

một nhà nho nhưng trong Truyền kì mạn lục người đọc thấy niềm tin của nhà văn vào Nho học đã

gần như tắt lịm. Chính bởi những người có vai trò là đầu mối của Nho học đang dần đi vào lối sống

sa đọa, trụy lạc. Chính những người được xem là rường cột quốc gia ấy chứ không ai khác sẽ dẫn

đến sự sụp đổ như một quy luật tất yếu của xã hội phong kiến.

Có thể thấy thông qua loại hình các nhân vật quan lại, tác giả đã góp phần tố cáo một xã hội loạn

lạc, biến động và là một xã hội đầy những đỗ vỡ, đau thương.

3.1.1.3. Một xã hội với những con người mang trong mình bản chất xấu xa, suy đồi đạo đức.

Cái xấu xa trong truyện truyền kì của Nguyễn Dữ, Vũ Trinh được thể hiện một cách có hệ thống

từ trên xuống, từ vua chúa, quan lại đến những con người bình thường trong xã hội. Đối tượng

trong Truyền kì mạn lục chủ yếu là vua chúa mang bản chất xấu xa. Và những nhân vật bước ra từ

trang sách của ông hiện lên như một bức chân dung biếm họa. Trong xã hội ấy vua quan thì chỉ biết

ăn chơi, hưởng lạc trong khi dân chúng nơi nơi đói kém oán than: “Hiện nay thánh hóa chưa khắp,

bờ cõi chưa yên: Bồng Nga là con chó dại, cắn càn ở Nam Phương, Lý Anh là con hổ đói gầm thét

ở Tây Bắc, Ngô Bệ ngông cuồng tuy đã tắt, Đường Lang lấm lét vẫn còn kia, sao không giương cái

cung thánh nhân, tuốt lưỡi gươm thiên tử, lấy nhân làm yên khấu, lấy nghĩa làm chèo lái, lấy hào

kiệt làm nanh vuốt, lấy trung tính làm giáp trụ, cẩn thận lồng cũi để giá ngự những tướng khó trị,

sửa chuốt cung tên để dọa nạt những nước bất phục, tóm bắt giặc giã, đóng cũi giải về, khiến cho

gần xa quang sạch. Cớ sao bỏ những việc ấy không làm, lại đi lẩn quẩn ở công việc săn bắn dù

được chim muông như núi, chúng tôi cũng lấy làm không phục” [23,tr 171]. Mượn hình ảnh Hồ Quý

Ly, Nguyễn Dữ khiến người đọc phải liên tưởng đến hình ảnh nhà vua đương thời: “Ông ấy thường

dối trá, tính nhiều tham dục, đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dóc cạn của kho để mở phố

Hoa Nhai, phao phí gấm là, vung vãi châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình

ngục có của đút là xong, quan chức có tiền mua là được” [23,tr 143]. Nguyễn Dữ đã dùng ngòi bút

của mình phanh phui những thối nát, mục ruỗng của tầng lớp thống trị phong kiến. Tác giả không

trực tiếp phê phán vua chúa thời ông mà thông qua đặc trưng của thể loại truyền kì để tố cáo.

Nguyễn Dữ mượn sự kiện, nhân vật khung cảnh các triều đại trước nhưng với những việc làm,

những tội ác mà bọn họ gây ra, người đọc không thể không liên tưởng đến xã hội đương thời. Trong

Chuyện người tiều phu núi Na, ẩn dưới bóng hình người tiều phu đốn củi, tác giả đã tố cáo Hồ Hán

Thương: “dối trá tham dục đem hết sức dân để dựng cung Kim Âu, dốc cạn của kho để mở phố Hoa

Nhai, hao phí gấm là,vung vải châu ngọc, dùng vàng như cỏ rác, tiêu tiền như đất bùn, hình phạt có

của đút là xong, quan chức có tiền mua là được, kẻ dâng lời ngay thì phải giết, kẻ nói điều nịnh thì

được hưởng, lòng dân động lay...Vậy mà các kẻ đình thần trên dưới theo hùa, trước sau nối vết”

[23,tr 142-143]. Qua những bộ mặt hôn quân vô đạo ấy, người đọc không khỏi nghĩ đến Lê Uy

Mục, Lê Tương Dực thế kỉ XVI. “Chưa bao giờ trong văn học viết cho tới lúc đó, vua chúa, quan

lại được thể hiện một cách hèn kém, bất tài đến thế” [131,tr 492]. Xã hội ấy loạn từ gốc mà ra, vua

như thế, quan không thể tốt hơn được, Truyền kì mạn lục đã chỉ ra rằng: một ông vua dâm dục vô độ

thì bên cạnh ông ta không thể tồn tại những vị quan liêm khiết được. Chính vì vậy không có gì lạ

khi người đọc nhận ra trong tác phẩm hầu hết là những quan lại xấu. Hai nhân vật tiêu biểu có thể

kể đến là tên quan trụ quốc họ Thân, đại diện cho quan văn và Lý Hữu Chi là đại diện những quan

võ. Trụ quốc họ Thân là kẻ: “chỉ là đồ yếu hèn mà làm đến bậc Vệ Hoắc, kêu xin chạy chọt, lúc nào

ở cửa cũng rộn rịp những người ra vào, vàng bạc châu báu trong nhà chồng chất đầy rẫy. Trừ gặp

phải hỏa tai, của cải trong nhà ấy không biết cách nào tiêu mòn đi được” [23,tr 165-166]. Thì ra

đằng sau ngôi cao, đức trọng là tội ác tham lam không đáy, là nhũng nhiễu và bức hiếp dân lành.

“Dựa vào lũ trộm cướp như tâm phúc, coi người nho sĩ như cừu thù; thích sắc đẹp, ham tiền tài,

tham lam không chán; lại tậu ruộng vườn, dựng nhiều nhà cửa, khai đào đồng nội để làm ao, dồn

đuổi xóm giềng cho rộng đất. Đi kiếm những hoa kì đá lạ từ bên huyện khác đem về ....dâm cuồng

chém giết không kiêng dè gì nữa” [23,tr185] là tất cả những đặc điểm của quan võ Lý Hữu Chi,

không những tham lam mà còn ngang ngược, cướp bóc trắng trợn. Tất cả bọn chúng đều là những

điển hình sắc sảo về tội ác và bản chất xấu xa của tầng lớp thống trị đương thời. Bên cạnh đó còn có

bọn tu hành giả dối, những tên bất lương trộm cướp hay phường giá áo túi cơm lười biếng trốn việc,

núp dưới mái chùa để làm điều xằng bậy: tên sư Vô Kỷ trong Truyện nghiệp oan của Đào thị sống

thiếu trung thực, làm chuyện dâm ô trong nhà chùa. Người đọc hẳn chưa quên hai tên hộ pháp trong

Truyện cái chùa hoang ở Đông Triều với những hành động bỉ ổi “vào bếp để khoắng hũ rượu”,

“vào buồng để ghẹo vợ người”, “khoắng xuống một cái ao, rối bất cứ vớ được cá lớn cá nhỏ đều bỏ

vào mồm mà nhai nuốt hết (....) Dắt nhau lẻn vào vườn mía nhổ trộm mà tước mà hít”[23,tr147].

Ngoài ra còn có sự góp mặt của những tên lái buôn ỷ vào thế lực đồng tiền sống phóng đãng sa đọa:

Đỗ Tam trong Truyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu; gã phú thương họ Phạm trong Truyện yêu

quái Xương Giang. Hoặc đó là những nho sinh hư hỏng, trụy lạc: Hà Nhân Giả trong Truyện kì ngộ

ở Trại Tây. Đó còn là những đấng mày râu – người có vai trò là trụ cột trong gia đình nhưng lại gây

đổ vỡ cho gia đình: Trọng Quỳ cờ bạc bê tha đến nỗi phải gán vợ cho sòng bạc đẩy người vợ nết na,

thùy mị vào đường cùng thắt cổ chết. Trương Sinh ghen tuông vô cớ đến độ mắng nhiếc, xúc phạm

và dẫn đến cái chết cho người vợ thủy chung. Tất cả những cái xấu xa trong một xã hội phong kiến

đang đi vào suy thoái đã hiển hiện đầy đủ và sắc nét trong tác phẩm, phản ánh trung thực bộ mặt xã

hội thế kỉ XVI.

Bên cạnh hệ thống nhân vật của Nguyễn Dữ với những khuôn mặt dị hình, dị dạng của tầng lớp

quan lại, vua chúa thì nhân vật của Vũ Trinh lại đa dạng hơn với đủ thành phần và tồn tại nhiều vấn

đề tiêu cực. Những cái xấu xa ấy không nghiêm trọng đến lợi ích nhân dân nhưng nó lại làm hỏng

thuần phong mĩ tục của người Việt Nam. Đó là hình ảnh một em bé ba bốn tuổi bị bố bỏ rơi trong

rừng cho hổ ăn thịt để lấy vợ khác trong Chuyện hổ hiệp: “Bà mối liền về nói lại với Hoàng. Hoàng

thích cô ta quá, không bỏ được, nghĩ đi nghĩ lại, chỉ còn cách bỏ đứa con thì mới được cô ta. Thế là

hắn manh tâm làm ác. Mấy hôm sau, hắn mang đứa con vào rừng sâu, nói dối là đi kiếm trái chín

để ăn, bỏ đứa con trong rừng rồi đi đường tắt về nhà. Vùng này có nhiều hổ. Hoàng về tới nhà,

chắc mẩm là con mình đã vào bụng hổ”. [118,tr 76]. Truyện Linh xà ở một khía cạnh khác khuyên

thần linh công minh, chính trực đừng làm những điều trái với mong ước chính đáng của nhân dân:

“Hôm qua em chơi ở ngoài núi, bị một đứa tiểu lại của thừa ty xúc phạm, chắc là nó chạy chưa xa,

em định bắt hắn trị tội cho hả” nhưng vị thần đáp: “Rồng trắng đội lốt cá, còn bị đem bán. Vả lại,

lúc ấy, hắn chỉ biết anh là rắn thôi, hắn lại đang có việc quan, việc gì anh lại chắn đường nó đi để

đến nỗi chuốc oán chịu nhục, đó là lỗi tại anh, lại còn định đuổi theo làm hại nó, sao anh nhỏ nhen

thế. Anh hãy mau trở về đi, cứ làm liều thế này, phép trời đáng sợ lắm.” [118,tr114]. Trong khi đó

Truyện tái sinh, Thanh Trì tình trái lại lên án tệ phân biệt đẳng cấp và ca ngợi tình yêu tự do. Hai

tác phẩm chê trách nhẹ nhàng hai người cha vì tham tiền, vì muốn môn đăng hổ đối nên “bố cô gái

vốn là kẻ ô trọc xuẩn ngốc, thấy Sinh nhà nghèo thì dứt khoát từ chối” [118,tr 49] hoặc xúc phạm

đến danh dự của người khác: “Cửa nhà thế này, con gái yêu kiều như thế này, mà lại có thằng rể lái

đò à? Mụ ăn mày này thực ngu hết chỗ nói” [118,tr 67] . Còn Tiên ăn mày lại cười chê người anh

“tham lam keo kiệt”, và “chị dâu cũng thô bạo xấu xa” đã chiếm hết cả gia tài cha để lại, bỏ người

em với “ruộng xấu” và “gian nhà nát”. Sự tham lam của vợ chồng người anh được đẩy lên cao

mang tính phê phán, châm biếm khi bọn chúng lầm tưởng ông lão “đội mũ vàng, mặc áo rách, khúm

núm đi qua” là tiên nên “Giáp sai vợ giữ chặt tay cụ già, dùng dùi đục phang thật lực vào mũi cụ,

máu chảy lênh láng... (....), cụ già gẫy cả răng, kêu gào cứu mạng” [118,tr 40]. Tính tham lam cố

hữu trong vợ chồng người anh đã khiến cụ già bị đánh chảy máu và hai vợ chồng bị trừng trị thích

đáng. Tác phẩm đồng thời cũng nêu lên một chân lý làm người ở đời: ở đời đừng tham lam, đừng vơ

vét của người khác làm của riêng mình. Trong khi đó, Liên hồ quận Quân lại chê trách người anh

bạc nhược, bất tài: “Quan quận công mất đi, để lại rất nhiều của cải, nhưng gặp người anh chẳng

ra gì, bị bọn xấu dị dỗ, đi vào con đường rượu chè, cờ bạc. Chưa hết tang cha mà cửa nhà đã sạch

nhẵn. Em gái đã đến tuổi trưởng thành, nhưng vì anh du đãng hư hỏng, nên không ai dám hỏi.”

[118,tr 132]. Tệ hại hơn người anh còn lợi dụng em gái: “sau có một viên quan võ dưới quyền cha,

tuổi trung niên chết vợ, người anh hám của, bắt ép em phải lấy” [118,tr 132]. Nếu người cha trong

Chuyện hổ hiệp vì hạnh phúc riêng mình đan tâm để con cho hổ ăn thịt không hề động lòng thì

người anh trong tác phẩm này vì chơi bời lêu lỏng sẵn sàng gán em cho một người luống tuổi để lấy

tiền. Hai nhân vật hai hoàn cảnh khác nhau nhưng đều là những kẻ đạo đức suy đồi. Để thỏa mãn

những nhu cầu cá nhân họ sẵn sàng vứt bỏ người thân thuộc mà lương tâm không hề day dứt.

Truyện Vũ Trinh phần nhiều có ý nghĩa xã hội. Khi viết tác phẩm này, Vũ Trinh đã ít nhiều nói lên

một quan niệm: tác phẩm văn chương không chỉ để mở rộng hiểu biết và chiêm nghiệm lẽ đời, lẽ

trời, để bổ sung cho sử sách, mà còn để giáo huấn, để bày tỏ nỗi lòng. Nếu nhân vật bị phê phán của

Nguyễn Dữ chủ yếu là giai cấp thống trị thì nhân vật bị chê trách của Vũ Trinh lại là những con

người bình thường trong xã hội. Họ mang trong mình những cái xấu, chính họ chứ không ai khác đã

làm đảo lộn những thuần phong mĩ tục, những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt từ bao đời.

Không phải Vũ Trinh không nhìn thấy những hạn chế của giai cấp thống trị mà có lẽ rằng những va

đập của cuộc đời, những sai lầm trên bước đường chính trị đã khiến nhà văn này chới với trước

những biến động của thời cuộc. Vì vậy mà sáng tác của Lan Trì ngư giả chủ yếu lấy cảm hừng từ

con người trong đời thường, chỉ ra những hạn chế ấy của họ với một thái độ nhẹ nhàng, Ngư giả

như muốn những con người ấy thay đổi để sống tốt hơn, đẹp hơn.

Nhìn chung cả Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đều là những con người sinh ra không đúng thời, một thời

đại không có đất dụng võ cho những người có tâm hồn cao khiết, trong sạch như họ. Tuy là không

sinh cùng thời song thời đại của Nguyễn Dữ và Vũ Trinh cũng có những điểm tương đồng. Thời đại

của Nguyễn Dữ, Vũ Trinh- thời đại sinh ra những ông “vua lợn, quan heo” thì làm sao dân có thể

sống yên lành hạnh phúc, “thượng bất chính, hạ tắc loạn”, đó là chân lý đã đúc kết bao đời. Thời đại

này không chỉ biến động, loạn lạc mà còn sinh ra những tệ lậu, những mầm mống xấu xa cho xã hội.

Họ đã gặp nhau ở mong muốn con người tự ý thức về tài năng và nhu cầu hạnh phúc. Chính điểm

này đã là một điều kiện quan trọng để tác phẩm của hai ông đậm chất nhân văn và làm điều kiện tiên

quyết, quan trọng để tạo nên xu hướng nhân văn và “tiếng kêu cứu” trong văn học giai đoạn thế kỉ

XVIII – XIX.

Có thể thấy rằng thể loại truyền kì không đơn giản chỉ là những tác phẩm chuyển những lời giáo

huấn của các tác giả mà thông qua đó còn là bức tranh xã hội Việt Nam đương thời. Đó có thể là xã

hội thịnh trị, an lành như trong xã hội của Thánh Tông di thảo, hay cũng có khi là xã hội nhiễu

nhương, đầy rẫy những xấu xa trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Có thể khẳng định

rằng hiện thực xã hội trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã chiếm

một vị trí quan trọng làm nên tên tuổi của tác phẩm. Nó vượt qua cách nghĩ của người đời về sự

quái đản, không thật của thể loại truyền kì. Chính vì vậy Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh

cùng với những sản phẩm tinh thần ấy vượt thời gian sống mãi cùng bạn đọc nhiều thế hệ.

3.1.2. Loại hình các nhân vật trong tác phẩm thể hiện sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học

Như chúng ta đã biết chủ nghĩa nhân đạo là một trong những nội dung lớn nhất của nghệ thuật

nói chung, văn học nói riêng và trong toàn bộ sự phát triển của loài người. Và vì vậy nó trở thành

một trong những thước đo trình độ phát triển của văn học. “Chủ nghĩa nhân đạo là toàn bộ những

quan điểm đạo đức và chính trị bắt nguồn không phải từ cái gì siêu nhiên kì ảo, từ những nguyên lý

ngoài đời của nhân loại mà từ con người tồn tại thực tế trên mặt đất với những khả năng, những

nhu cầu của mình, những khả năng, nhu cầu ấy đòi hỏi phải được phát triển đầy đủ, phải được thỏa

mãn” [126,tr 246]. Như vậy nói đến nhân đạo là nói đến con người, là ý thức về con người. Và

trong bất kì mọi hình thái xã hội một khi con người được tôn trọng, ngợi ca, tin tưởng, đề cao,

thương yêu bảo vệ, phát huy tài năng thì xã hội đó đã đạt đến chủ nghĩa nhân đạo. Tư tưởng nhân

đạo ấy thấm đượm vào văn học, làm nên những tác phẩm nổi tiếng. Những thời đại lần lượt qua đi,

những biểu hiện của chủ nghĩa nhân đạo cũng khác nhau được phản ánh vào văn học. Trong thời

cộng đồng nguyên thủy, chủ nghĩa nhân đạo tồn tại dưới dạng tình thương và đoàn kết cộng đồng.

Rồi khi đất nước hình thành, nạn xâm lăng diễn ra, việc chống ngoại xâm xét từ góc độ nhân đạo

đều có giá trị ca ngợi, đề cao con người nếu không bằng nội dung trực tiếp thì cũng bằng ý nghĩa

khách quan toát ra từ tác phẩm. Thời đất nước hòa bình, chủ nghĩa nhân đạo được thể hiện bằng

hình ảnh gắn liền với những cá nhân, con người cụ thể. Và đến lúc này, con người được quan tâm

nhiều hơn, nhất là đi sâu vào đời sống tâm hồn. Trước nay nhiều nhà nghiên cứu vẫn đánh giá cao

những tác phẩm thơ và truyện thơ được xem là minh chứng cho chủ nghĩa nhân đạo: Chinh phụ

ngâm của Đặng Trần Côn, Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều và đỉnh cao là Truyện Kiều

của Nguyễn Du. Thế nhưng khi tiếp xúc với thể loại truyện kì, có thể thấy thể loại này cũng đã góp

phần không nhỏ vào trào lưu nhân đạo chung của văn học. Thánh Tông di thảo được xem là tác

phẩm đầu tiên của thể loại truyền kì có xuất hiện yếu tố nhân đạo. Và đến Truyền kì mạn lục thì yếu

tố này đã trở thành trào lưu mạnh mẽ và được tiếp nối đến khi thể loại sắp hoàn thành vai trò lịch sử

với Lan Trì kiến văn lục. Ba tác phẩm xuất hiện ở ba thời kỳ khác nhau, của ba tác giả khác nhau

song họ đã gặp gỡ nhau ở tình thương con người. Những nhà văn ấy từ tác phẩm của mình đã nhỏ

những giọt nước mắt khóc thương cho số phận những con người bất hạnh. Từ đó có thể thấy loại

hình các nhân vật trong tác phẩm đã góp phần cho sự xuất hiện của chủ nghĩa nhân đạo trong văn

học.

3.1.2.1. Niềm tin đối với con người trong xã hội.

Niềm tin đối với con người trần tục, bình thường trong xã hội là một trong những biểu hiện của

chủ nghĩa nhân đạo trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.

Có thể nói Lê Thánh Tông khi sáng tác đã hóa mình vào cỏ cây, hòa vào cuộc đời của nhân vật,

tác giả không còn là một nhà vua nữa mà chỉ đơn thuần là một nhà văn với tấm lòng cao đẹp. Cởi bỏ

chiếc áo bào, Lê Thánh Tông thật sự đã bước chân vào đời sống của nhân dân, hiểu và cảm thông

với những nỗi bất hạnh của họ. Ở Thánh Tông di thảo, tác giả bao giờ cũng có niềm tin rằng: con

người có sức mạnh hơn mọi thứ, con người có thể chiến thắng mọi thứ, kể cả với thần linh. Tác

phẩm Ngọc nữ quy chân chủ là một ví dụ tiêu biểu. Nhân vật chính trong tác phẩm là hình ảnh con

người “dáng rồng, bước hổ, mắt Thuấn mày Nghiêu, có vẻ trịnh trọng như núi, có lượng bào hàm

như biển” [117,tr 86]. Trong cuộc thi kén rể của Ngọc Hoàng, chàng đã trúng tuyển thắng cả thần

sông và thần núi bằng một lời nhận xét: “Quỷ thần ở núi sông chỉ là một vật ở nơi đó thôi. Múa trí

khoe tài, sao đáng điếm xỉa trong vòng trời đất? Sao không xem: ngôi cao vòi vọi mà những người

chiêm ngưỡng chỉ sợ đi sau; lượng biển bao la, mà những kẻ lại chầu tranh nhau đến trước. Tài trí

trong thiên hạ đều là tài trí của một người. Núi đúc khí thiêng, mong được tận trung mọi việc; sông

theo dòng lớn, đâu không hiếu thuận một niềm. Thảng hoặc có thỏ nấp trong núi, kình múa ngoài

khơi, thì sai người văn thần trọng vọng, cử người võ tướng lược thao. Bày trận theo thế Thường

Sơn, hành quân như nước dòng Giang Hán. Núi có thể bạt đi, gò có thể san bằng, nước lớn có thể

bắt lui,sông có thể cắt đứt. Bấy giờ sông yên núi vững, chỉ thấy một vẻ thanh cao. Thái Sơn, Hoàng

Hà ghi lời thề đới lệ; Ngũ Thạc, Tứ Độc, giữ lễ công hầu. Bước lên núi cao tỏ lòng trung với trời,

oai trùm biển rộng, nào ai dám chống” [117,tr 87-88]. Ở đây con người trần mắt thịt đã chiến thắng

những nhân vật uy quyền mang tính huyền thoại. Khẩu khí của nhà văn cho thấy con người ấy thật

vĩ đại và rất đỗi hiên ngang. Điều đặc biệt là con người trần tục không hề có phép lạ mà chỉ có bản

lĩnh, có niềm tin vào chính sức mạnh và vị thế của chính mình trước muôn loài. Cuối cùng kết thúc

cuộc thi, “ngọc nữ” đã về tay một người phàm trần– hình ảnh này nói lên quan niệm của tác giả: con

người dám thách thức và dám dũng cảm thể hiện sức mạnh tài trí của mình trước các lực lượng siêu

nhiên. Đối với lũ yêu ma không chỉ có đạo sĩ mới diệt trừ được mà những con người có chính khí

cũng có uy lực khiến chúng phải khiếp sợ và quy phục. Chẳng hạn như trong Nhị nữ thần truyện,

một nhà nho già trên đường về thăm cha ốm nặng, “trong ánh trăng tàn, cụ nhác trông thấy hai

người ở trên ngọn cây bồ đề đi xuống, bước ung dung không ra dáng leo cây. Nhà nho vốn có chí

khí, nghi là ma, vội chạy lại túm lấy áo hai người ấy định giết. Té ra chính là hai cô thầy bói thường

ngày ở chợ. Nhà nho già quát:

- Ngày ở trong chợ, đêm ở ngọn cây, chúng bay há không phải là yêu tinh ư?

Hai người đàn bà ấp úng không ra lời” [117,tr 26-27]. Hoặc như trong Phụ chép 2, người thầy

dạy học có khả năng đoán định và chế ngự được lũ yêu ma quỉ quái, dâm dục. Người học trò nghèo

nhưng khí phách ngay thẳng cũng không tỏ ra sợ hãi trước sự quấy nhiễu của lũ yêu ma. Những con

người ấy rất tự tin vào chí khí của mình sẽ làm cho bọn ma quỷ phải nể sợ: khi nghe chủ nhà cảnh

báo rằng trong tòa nhà ấy bọn ma quỷ quấy nhiễu khiến người ta không ai dám ở, phải bỏ đi thì anh

học trò đã trả lời rằng: “Thế gian làm gì có ma? Vì bằng có ma thật thì tục ngữ có câu: “Ma hay

trêu người ốm”. Ý hẳn ông sắp hết đời, nên ma mới dám quấy nhiễu như thế. Còn như tôi ở xa đến

đây tìm thầy học tập” [117,tr 155]. Đó cũng là bản lĩnh của Nguyễn Hãn trong Lan Trì kiến văn lục

của Vũ Trinh đã dám đánh ma. Con người trong các tác phẩm vô cùng tài giỏi, có thể giải quyết tất

cả các vấn đề kể cả những vấn đề thuộc về thế giới kì ảo của các lực lượng siêu nhiên. Ngay cả với

thần linh cũng cần đến sự giúp đỡ của con người. Có thể kể đến Nhất thư thủ thần nữ, các vị thần

linh khi gặp kiếp nạn đã phải nhờ đến sự giúp đỡ của con người trần tục. Và anh đồ chỉ dùng một

dòng chữ của mình mà có thể rửa sạch nỗi oan khuất của một vị thần linh: “Nhà thiếp không phải là

người trần mà là nhà thần. Em gái thiếp không phải con gái người mà là con gái thần. Thân phụ

thiếp có công trừ tai chống nạn, Thượng Đế có lòng thương cho làm chủ một dãy núi. Bốn tháng

trước hai thần núi Tượng Sơn và núi Trĩ Sơn vu cáo tội lỗi cho thân phụ thiếp. Thượng Đế trao bản

án cho động Hoa Lư xét xử. Chủ động toan nghe lời gian dối của hai thần kia. Biết đại nhân trước

kia đã từng làm chức thị thư cho chủ động Hoa Lư, rất được tin dùng, nên chị em thiếp làm một tờ

khiếu bạch nếu được đại nhân chứng nhận thì sự vu cáo của hai thần kia rõ ra, mà tội lỗi thân phụ

thiếp được rửa sạch” [117,tr 177-178)]. Còn trong Trần nhân cư thủy phủ, để giải quyết tình trạng

nguồn nước sinh sống của các loài thủy tộc bị nhiễm quế cay giã nhỏ, người trần đã đưa ra cách giải

quyết như sau: “Cháu nghe vị cam thảo có tính giả chất độc trong các vị thuốc. Cúi xin liệt tổ sai

lính quỷ cải trang làn người trần, đến chợ mua lấy vài trăm cân. Hễ thấy nước quế chảy qua thì tán

nhỏ cam thảo hòa vào. Vị quế dẫu cay, không thể hại được” [117,tr 121]. Thông qua đó, Lê Thánh

Tông đã khẳng định con người giờ đây không chỉ có khả năng nắm giữ vận mệnh của chính mình

mà còn có thể nắm giữ vận mệnh của cả mọi loài. Đề cao vai trò của con người, nhà văn Nguyễn Dữ

còn đi sâu vào diễn tả cuộc đấu tranh của họ trước các thế lực siêu nhiên, thần thánh. Tiêu biểu là

Tử Văn trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Tử Văn đã đốt đền vì không chấp nhận hành vi

“tác yêu tác quái trong dân gian” của hồn viên Bách hộ họ Thôi, không những vậy trước những lời

trách mắng của Diêm vương, Tử Văn đã tâu trình rõ nguồn cơn tội ác của viên Bách hộ với “lời rất

cương chính, không chịu chùn nhùn nhụt nào”. Cuối cùng chàng đã chiến thắng. Tác phẩm không

chỉ dừng lại ở chỗ đề cao sức mạnh con người mà còn ngợi ca tinh thần cứng cỏi của kẻ sĩ trước

sóng gió của cuộc đời. Xem trọng con người hơn thần thánh là một trong những dấu hiệu cho thấy

sự thay đổi tư duy nghệ thuật của các tác giả. Đặc biệt là niềm tin con người có khả năng chinh phục

được những chông gai trước mắt để đi đến bến bờ vinh quang của sự thành công. Tiêu biểu cho kiểu

nhân vật này có thể kể đến những chàng thư sinh nghèo trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn

lục, Lan Trì kiến văn lục. Từ hình ảnh hai anh em trong Hai thần hiếu đễ đến Thiên Tích trong Gã

trà đồng giáng sinh sang Khâm Lân trong Ca kĩ họ Nguyễn là quá trình vượt qua khó khăn thử thách

và chinh phục được đỉnh cao của sự thành công ở những chàng Nho sinh. Hoàn cảnh của họ được

miêu tả khá chân thực, “Ở Sơn Bắc có Nguyễn Tử Khanh, cha mẹ mất sớm chỉ có một người anh”,

lại có người “gia cảnh nghèo nàn, ăn tiêu không đủ”, và cũng có người “mẹ kế ăn ở chẳng lành, bắt

ông bỏ học đi chăn trâu”. Mỗi con người một hoàn cảnh, một cá tính khác nhau song đều xuất thân

nghèo khó, luôn luôn phải đối mặt với những thử thách của cuộc đời. Và rồi những chàng Nho sinh

hàn vi ấy đã dùng chính nghị lực của mình để đi đến những thành công nhất định. Cho nên càng

gian khổ bao nhiêu, thành công của họ càng vinh quang và có ý nghĩa bấy nhiêu.

Trong Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục, đó đây con người được thể hiện ở những tầng

lớp khác nhau. Đó có thể là một quan lại, một chàng nho sinh nhưng cũng có thể chỉ là những con

người bình thường dưới đáy xã hội. Xuất thân khác nhau, số phận khác nhau song họ luôn có một

niềm tin vào cuộc sống. Trong Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ đã nhìn thấy những ưu điểm từ con

người bình thường trong cuộc sống. Tác phẩm khẳng định những phẩm chất đẹp đẽ của dân tộc

không còn nằm ở những tầng lớp thống trị nữa mà tìm thấy nơi những kẻ bị trị, những con người

nhỏ bé bất hạnh. Những con người ấy trong khổ đau, vùi dập vẫn không tắt đi niềm khao khát sống,

khao khát yêu thương và vẫn ngời sáng nét đẹp tâm hồn. Đó là Đào Hàn Than, là Vũ Thị Thiết, là

Lệ Nương, là Túy Tiêu. Trong chừng mực nào đó Nguyễn Dữ được xem là người đã mở đường cho

Nguyễn Du viết Kiều, Hồ Xuân Hương viết về người phụ nữ... Trong khi đó, Vũ Trinh đã nhìn thấy

những con người nghèo khó trong xã hội, những người bất hạnh, những kẻ không nơi nương tựa

mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp. Một cô gái biết sống đúng mực, biết yêu thật lòng. Một

chàng nho sinh hiếu học, một em bé bị bỏ rơi, tất cả họ đều gợi lên những tình cảnh đáng thương

song đầy tình cảm. Niềm tin vào cuộc sống của con người còn được Vũ Trinh gửi vào trong những

mối tình đẹp. Đấy chính là trường hợp của Phu nhân Lan quận công với câu chuyện tình cảm động

giữa cô con gái út của Thượng thư họ Đàm cùng với chàng trai Nguyễn Trực. Trải qua bao nhiêu

khó khăn, ngoài ba mươi tuổi Nguyễn Trực thi vẫn không đậu. Bỏ ngoài tai những lời chê bai, khinh

khi của hai người chị, vợ chồng cô gái út cuối cùng đã đi đến được của chân trời hạnh phúc và thành

công: “Năm Ất Mùi, niên hiệu Quang Hưng, vua Thế Tông thu phục Kinh thành, mở khoa thi chọn

kẻ sĩ. Nguyễn Trực quả nhiên đỗ thi Hội”. [118,tr 85]. Tác phẩm không chỉ ngợi ca tình nghĩa vợ

chồng mà còn trân trọng những con người biết chắt chiu những niềm tin, những hy vọng để đi đến

đích của sự nghiệp. Câu chuyện tình cùng với nghị lực của nhân vật đã như một thông điệp về niềm

tin vào những kiếp người nhỏ bé trong xã hội nhưng không thôi ước mơ và hy vọng.

Có thể mượn lời nhận xét của Nguyễn Đăng Na đẻ đúc kết vấn đề này:“Cùng với việc trần tục

hóa thánh thần, Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã nâng cao vai trò con người, chúa tể của muôn

loài, trên cả Ngọc Hoàng. Nhưng nếu cường điệu sức mạnh của con người dễ rơi vào tình trạng

thần thánh hóa nhân vật, trở lại với xu hướng thứ hai mà văn xuôi tự sự đang muốn thoát ra, nghĩa

là lại chui vào vòng luẩn quẩn. Để khắc phục hạn chế đó, Nguyễn Dữ hướng ngòi bút của mình vào

việc phản ánh những số phận của con người, chủ yếu là những bi kịch của người phụ nữ. Ông đã

thành công,và chủ nghĩa nhân đạo đã ra đời từ đây. Hạ bệ tiên, phật, thánh và đưa con người với

những số phận đắng cay làm đối tượng của nghệ thuật là cuộc cách mạng trong văn xuôi tự sự thế

kỉ XV – XVI. Tuy nhiên văn xuôi tự sự thời đó vẫn không hoàn toàn đoạn tuyệt với truyện dân gian,

nó vẫn cần dựa vào các motip dân gian để xây dựng lên một loại truyện mới, khác truyện dân gian

về chất. Lê Thánh Tông và Nguyễn Dữ đã hoàn thành một cách tuyệt vời quá trình này và là cha đẻ

của loại truyện ngắn trung đại theo đúng nghĩa của nó. Trên con đường văn học hóa truyện dân

gian, các tác gia truyện thế tục đã tìm được cho mình một hình thức nghệ thuật phù hợp với yêu cầu

và tâm lí thời đại – hình thức truyền kì”. [67,tr376-377]

Nhân vật trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái là những con người nguyên mẫu từ văn

học dân gian và từ lịch sử. Nhân vật chủ yếu hành động theo đúng những quy định của xã hội và

mang tính chất thần tiên, khác người phàm tục. Ở những tác phẩm này thần tiên là đối tượng trực

tiếp chi phối hành động của con người, thần tiên quyết định cuộc sống này. Nhưng Thánh Tông di

thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã góp vào văn học trung đại những gương mặt mới

với những khát vọng sống cao đẹp. Con người có sức mạnh vạn năng, con người có khả năng tự giải

quyết mọi việc chứ không phụ thuộc vào thần linh nữa. Và dù có nghèo đói, khổ đau, bất hạnh trong

họ vẫn có một nghị lực sống tuyệt vời. Nghị lực ấy như một ngọn lửa cứ âm ỉ cháy và nó sẽ bùng

phát khi có điều kiện nhất định. Chính vì vậy mà Lê Thánh Tông, nhất là Nguyễn Dữ và Vũ Trinh

luôn có một niềm tin vào con người, dù là những con người dưới đáy xã hội, những con người bất

hạnh, khổ đau.

3.1.2.2. Cái nhìn trân trọng đối với người phụ nữ.

Chế độ phong kiến vốn không xem trọng người phụ nữ, thậm chí còn có những quy định hà

khắc, cổ hũ với người phụ nữ. Tệ hại hơn, xã hội phong kiến còn cho rằng phụ nữ là tai họa cho

cuộc sống và sự nghiệp của người quân tử. Chính vì vậy, người phụ nữ dưới chế độ phong kiến luôn

bị miệt thị và mất tự do. Đổi mới cách nhìn, cách đánh giá về phụ nữ, Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ,

Vũ Trinh đã dành những trang viết ngợi ca, trân trọng về giới nữ. Qua tác phẩm của mình, các tác

giả đã chỉ ra rằng: người phụ nữ trong xã hội phong kiến tuy đầy đủ những phẩm chất tuyệt đẹp

như: hiếu thảo, thủy chung, yêu chồng, thương con, giàu đức hy sinh và đầy tài năng, bản lĩnh lại

phải chịu nhiều thiệt thòi nhất trong xã hội ấy.

Trong tác phẩm của Nguyễn Dữ, Lệ Nương, Nhị Khanh, Vũ Thị Thiết, mỗi người một hoàn

cảnh nhưng đều là những người đàn bà hiếu hạnh, nết na, luôn sống theo những chuẩn mực của xã

hội. Họ đều là những mảnh đời có thật và khi đi vào tác phẩm cũng rất thật, thật như chính tình cảm

của nhà văn Nguyễn Dữ dành cho họ. Ở đây nhà văn đã chỉ ra: chính sắc đẹp và phẩm hạnh kia đã

là nguyên nhân dẫn đến bi kịch của người phụ nữ: kết cục của họ đều là cái chết. Từ kết cục này,

phải chăng Nguyễn Dữ muốn nói: người phụ nữ trong xã hội của ông dù hiếu hạnh, nết na, chuẩn

mực song cũng khó có thể được sống hạnh phúc. Đồng thời sự bế tắc và bi kịch của người phụ nữ

cũng chính là bi kịch của những nhà văn có tấm lòng như ông, những người sinh ra không gặp thời.

Thời thế Nguyễn Dữ không có đất dụng võ cho những con người thẳng ngay, liêm chính. Không chỉ

ngợi ca đức tính hiếu hạnh, thủy chung của người phụ nữ, các tác giả còn tỏ ra trân trọng những

khát khao hạnh phúc đời thường của họ. Đó là hạnh phúc được yêu thương của cô gái trong Tháp

báo ân: “Đời tàn nhơ bẩn, may được gặp nhau trong bóng tối. Nếu nhìn nhau lúc trời sáng thì một

tối giao hoan đâu mà có được. Ai hay một độ gió xuân lại tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận

đến suốt đời. Hỡi ơi Lưu lang, với mặt mũi này mà gặp chàng, thiếp chịu đựng sao nỗi” [118,tr

141]. Nho giáo dạy người quân tử “nam nữ thọ thọ bất thân” thì ở đây Vũ Trinh đã vượt qua hàng

rào lễ giáo ấy ngợi ca tình ái ân. Tương tự con ma Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo đã bày tỏ quan

niệm sống: “Nghĩ đời người ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao. Chi bằng trời để sống ngày nào,

nên tìm lấy những thú vui, kẻo một sớm chết đi, sẽ thành người của suối vàng, dù có muốn tìm một

cuộc hoan lạc ái ân, cũng không thể được nữa” [23,tr 30]. Ngay cả Lê Thánh Tông – người đưa

Nho giáo lên hàng quốc giáo, cũng ngợi ca niềm hoan lạc lứa đôi: “con gái quá thì lại gặp người

tiên cõi đất, mối tình đằm thắm ví người thường gấp đến mấy lần! Thật là:

“Ngưu nữ cách năm vui thất tịch

Uyên ương gác cổ ngủ liền cành”[117,tr 153].

Cho nên có thể nói viết về phụ nữ ở khía cạnh tình yêu là một trong những đóng góp lớn của

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Khi những tác phẩm này ra đời, người

đọc mới nhận ra chân dung của người phụ nữ một cách trọn vẹn. Họ không chỉ hiện lên qua dáng

điệu bên ngoài, mà còn nổi bật ở đời sống tâm hồn bên trong. Chính điểm này đã làm nên thành

công cho những tác phẩm.

Tình yêu là một trong những nội dung được đề cập nhiều nhưng trong văn học trung đại ngợi ca

tự do trong tình yêu là một điều tối kị, bởi lẽ xã hội phong kiến là xã hội của “cha mẹ đặt đâu con

ngồi đấy”. Vì vậy đề xướng tự do trong hôn nhân là một trong những điểm cho thấy tư tưởng tiến bộ

của nhà văn làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm. Tình yêu làm cho con người sống đẹp hơn, có ý

nghĩa hơn. Họ sẵn sàng hy sinh vì người mình yêu, hy sinh ngay cả khi người ấy phụ bạc cưới

người con gái khác làm vợ: “Tiền trình của chàng còn xa muôn dặm, thiếp hèn hạ không xứng hầu

khăn lược cho chàng. Đó là số phận của thiếp.” [118,tr 64]. Vì tình yêu người phụ nữ sẵn sàng hy

sinh hạnh phúc riêng tư để chồng chuyên tâm đèn sách: “Mong chàng hãy tạm gác tình yêu thương

thiếp, ra sức học hành; còn như việc phụng thờ cha mẹ, miếng ngon miếng ngọt, sớm hỏi, tối chào,

thiếp xin đảm đương, mong chàng chớ ngại.” [117,tr 158], hy sinh để chồng chuyên tâm đánh giặc:

“Lang quân đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn hầu, trở về quê cũ, chỉ xin ngày về,

mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi, chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường.”

[23,tr 176 -177]. Không đơn giản chỉ là mong muốn người phụ nữ được tự do trong tình yêu, các tác

giả còn đưa họ đến với những cuộc tình gắn liền với hoan lạc, với ái ân mang tính nhục thể. Bởi lẽ

con người cũng cần được thỏa mãn những nhu cầu tự nhiên mang tính người ấy. Đó là mối tình của

Trình Trung Ngộ với Nhị Khanh, là mối quan hệ tay ba của Hà Nhân Giả với Hồng Nương và Nhu

Nương. Đấy cũng chính là mối tình thoáng qua giữa chàng nho sinh với cô gái mắc bệnh phong, hay

giữa chàng dê và cô gái hiếu thảo. Tình yêu này đã làm nên nét mới cho chủ nghĩa nhân đạo trong

văn học. Không chỉ khao khát được yêu, người phụ nữ còn có niềm tin vào cuộc sống. Người vợ

trong Thử tinh truyện khuyên chồng đi học với một hy vọng chồng sẽ làm rạng danh cho gia đình.

Nhị Khanh trong Chuyện người nghĩa phụ ở Khoái Châu luôn có niềm tin rằng một ngày kia nàng

sẽ được gặp lại chồng. Nếu đức hạnh, thủy chung đã làm nên bi kịch của giới nữ thì tình yêu, niềm

tin vào cuộc sống lại an ủi, giúp họ tìm được chút hạnh phúc của cuộc đời.

Đề cập đến người phụ nữ với một thái độ ngợi ca là một trong những nội dung mới của Thánh

Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục. Chính đây là điểm đã đưa những tên tuổi

này có mặt ở chủ nghĩa nhân đạo trong văn chương. Các tác phẩm ấy đã dọn đường cho Nguyễn Du

viết Truyện Kiều, Đặng Trần Côn viết Chinh phụ ngâm, Nguyễn Gia Thiều viết Cung Oán ngâm

khúc và Hồ Xuân Hương viết về chính mình. Do đó người phụ nữ trong Thánh Tông di thảo, Truyền

kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã có một vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật của văn

học trung đại Việt Nam.

Nhìn chung bên cạnh lòng yêu nước thì tình thương yêu con người là một trong những nội dung

lớn của văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Điều này đã trở thành sợi chỉ

đỏ xuyên suốt quá trình văn học nước nhà. Chính chủ nghĩa nhân đạo đã giúp cho những tác phẩm

của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh dễ dàng gây xúc động với người đọc. Bởi lẽ chính tình

yêu thương, lòng trân trọng của con người – nhất là những con người nghèo khổ, tội nghiệp là một

điểm xuất phát từ truyền thống đạo lí của con người Việt Nam “thương người như thể thương thân”.

3.1.2.3. Sự quan tâm đến con người ở chiều sâu tâm lý:

Viết về số phận con người – đặc biệt là những con người bất hạnh là một trong những thành

công lớn của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trí kiến văn lục. Hơn nữa điều làm nên

tên tuổi cho những sản phẩm tinh thần này là sự góp mặt của nhân vật với một đời sống nội tâm.

Giờ đây, nhà văn đã chú trọng hơn trong việc đi sâu khám phá những suy nghĩ, những trăn trở của

nhân vật. Vượt qua kiểu nhân vật thiên nhiều về hành động trong Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích

quái, những hệ thống nhân vật của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã hiện lên với những

cảm xúc phong phú.

Mỗi tác phẩm đều có những cách khai thác và thể hiện những tư tưởng khác nhau nhưng nhìn

chung tâm lí nhân vật đều được đặt trong những hoàn cảnh có vấn đề. Chính trong hoàn cảnh ấy tâm

trạng nhân vật được bộc lộ một cách chân thực nhất. Mặc dù chỉ mới là những thử nghiệm bước đầu

nhưng Thánh Tông di thảo đã thật sự xác lập được vị trí của mình khi đi sâu miêu tả tâm lí nhân vật.

Đó là những suy nghĩ về vai trò, trách nhiệm của người đứng đầu trăm họ: “Ta bực mình tự nghĩ

rằng: mình là người đứng đầu thần dân, nếu không xét cho ra cái án này, thì bố mẹ thêm một đứa

con ma, vợ người thêm một thằng chồng ma. Đã gọi là ma sau này không khỏi sinh ra tai vạ”

[117,tr.165]. Diễn biến tâm lí của nhà vua thay đổi thường là trong những hoàn cảnh cần giải quyết

một công việc hay xét xử một sự kiện nào đó. Điều này đã khẳng định trách nhiệm cao của nhà vua

đối với dân với nước. Nhưng không chỉ vậy, đôi khi thả hồn theo cảnh vật thiên nhiên, nhà vua

cũng thấy lòng trống vắng, muốn thoát ra khỏi ngai vàng về với thiên nhiên: “Thật là phóng khoáng

xuất trần, làm cho ta quên cả ngôi cao vạn thặng”. Điều này cho thấy vua Lê Thánh Tông không

chỉ chịu ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia mặc dù nó là chủ đạo. Nhờ thế mà đời sống tinh thần của

nhà văn thêm phần phong phú. Không chỉ hiểu tâm trạng của mình, nhà vua còn thấu suốt tâm trạng

của người khác. Đó là nỗi niềm của cô gái trong Truyện chồng dê: “Thầm nghĩ: ngày tháng thoi

đưa, phút chốc mẹ đã khuất mặt vắng lời, chỉ thấy cỏ xanh một nấm, không biết linh hồn nương tựa

vào đâu? Đau đớn biết dường nào! Lại nghĩ năm nay mình đã 21 tuổi, con gái khó lòng ở một mình,

vườn xuân rồi sẽ có chủ, thì ngày này năm sau, biết ai là người ra mộ cúng bái” [117,tr 98]. Nỗi

đau mất mẹ, sự lo lắng về tương lai là những cảm xúc khác nhau nhưng đều cho thấy được đời sống

tâm hồn người con gái hiếu thảo. Lê Thánh Tông được xem là nhà văn đầu tiên đưa thể loại truyền

kì chuyển sang một hướng khác khi có sự xuất hiện của tâm lí nhân vật trong tác phẩm. Chính điểm

này đã cho thấy Thánh Tông di thảo khác hẳn với các tác phẩm tự sự trước đó. Và khi Nguyễn Dữ

cùng với “thiên cổ kì bút” của ông ra đời, một lần nữa thể loại truyền kì khẳng định chỗ đứng vững

chắc trong lòng văn học dân tộc. Một trong những yếu tố quyết định là tâm lí nhân vật được tác giả

khai thác khá thành công. Đó là tâm trạng khổ đau tột cùng của Vũ Thị Thiết khi bị chồng nghi ngờ:

“kẻ bạc mệnh này duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ,

thần sông có linh, xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào

nước xin được làm ngọc Mị Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa

chồng dối con, dưới xin làm mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu

khắp mọi người phỉ nhổ” [23,tr 179]. Hay tâm trạng cô đơn, lạnh lẽo của Dư Nhuận Chí khi phải xa

Túy Tiêu: “chúng mày là loài vật nhỏ, còn được suốt ngày quấn quýt với nhau, không phải như ta

lạnh lùng chiếc gối. Ước sao chúng mày nhẹ tung đôi cánh, vì ta đưa đến cho nàng một phong thư”

[23,tr 155]. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục mặc dù xuất hiện muộn hơn song cũng nhanh chóng

để lại vị trí trong lòng bạn đọc bởi những đoạn văn miêu tả tâm trạng nhân vật. Đó là tâm trạng của

người chồng trong Sống lại: “mới đầu, người chồng thấy vợ mình chuyện trò với chàng trai đã có ý

ghen. Đến khi nghe vợ kể hết tình đầu lại còn rơm rớm nước mắt, thì bỗng đâu cơn giận dữ nỗi lên,

hắn giơ cuốc lên phang vợ, không ngờ nặng tay, làm vợ chết. Y sợ hãi đợi đến đêm mới vác xác vợ

về, nói dối là cô bị trúng gió, không cứu được, rồi tự tay khâm liệm chôn cất” [118,tr 50]. Hoặc là

tâm trạng xót thương cho người yêu của cô gái trong Thanh Trì tình trái: “nghe tin Sinh phẫn chí bỏ

đi, không biết là đi đâu, trong lòng âm thầm thương xót. Mỗi khi không có ai, nàng lại nhìn bóng

mình mà nuốt lệ. Dần dà nàng sinh bệnh chân tay rời rã, vóc dáng gầy mòn, trong bụng kết thành

một khối rắn như đá, chữa chạy thế nào cũng không khỏi” [118,tr 68]. Như vậy có thể thấy khác với

Việt điện u linh và Lĩnh nam chích quái, những tác phẩm này đã có sự xuất hiện của những nhân tố

mới. Đó là tâm lí nhân vật được khai thác đi vào chiều sâu. Chính điểm này đã cho thấy những đổi

mới trong tư duy nghệ thuật của nhà văn. Việc nhà văn đi sâu lột tả tâm trạng nhân vật đã góp phần

làm cho chủ nghĩa nhân đạo ra đời sớm hơn. Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến

văn lục là những tác phẩm văn chương đích thực vì ở những tác phẩm này đã có sự góp mặt của đời

sống tinh thần nhân vật trong đó.

Nói ngắn gọn về nghệ thuật miêu tả nhân vật trong truyện truyền kì, Vũ Thanh đã cho rằng: “Đó

có lẽ cũng là sự khởi đầu cho chủ nghĩa nhân văn với những thành tựu rực rỡ trong văn học giai

đoạn nửa cuối thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX sau này. Có thể nói, từ những nhân vật bán thần, ma,

quỷ, những nhân vật có lai lịch và hành vi bí hiểm....trong Thánh Tông di thảo, đến những nhân vật

gần gũi hơn với cuộc đời, có số phận bi kịch trong Truyền kì mạn lục là một bước tiến nghệ thuật

mạnh mẽ của thể loại truyện truyền kì nói riêng và truyện kì ảo Việt Nam trung đại nói chung”

[131,tr775].

3.1.3. Loại hình các nhân vật làm nên sức hấp dẫn cho tác phẩm:

Nghệ thuật xây dựng nhân vật là một trong những yếu tố hàng đầu quyết định sự thành công của

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục.

Dù Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục ngày càng gần hơn với đời sống

hiện thực, mang hơi thở của cuộc sống song chất truyền kì vẫn ít nhiều để lại dấu ấn trong những tác

phẩm đó. Đặc biệt là Lan Trì kiến văn lục, dù đôi cánh truyền kì dường như đã bị “vặt trụi đi” song

chất kì ảo vẫn không hẳn đã hết mà vẫn tồn tại trong hầu hết tập truyện này. Chính chất truyền kì

đậm nhạt vẫn còn hiện hữu trong các tác phẩm đã mang đến cho người đọc sự hấp dẫn, kì thú. Song

đồng thời cái kì lạ kia không đơn giản chỉ có nhiệm vụ mang đến những cảm giác mới lạ cho người

đọc mà quan trọng hơn còn là những bài học mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

3.1.3.1. Loại hình các nhân vật siêu nhiên tôn giáo gợi lên một thế giới ly kì đồng thời gửi gắm những quan niệm nhân sinh, đạo lý sâu sắc.

Như đã trình bày ở trên, loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã xuất hiện khá dày đặc trong

các tác phẩm tự sự trước đó, nay tiếp tục được thể hiện trong Thánh Tông di thảo, Truyền ki mạn lục

và Lan Trì kiến văn lục. Tuy vậy giờ đây loại hình nhân vật này không đơn giản chỉ để thể hiện

những quan niệm của con người trung đại về thiên nhiên, mà còn mang những ý nghĩa nhân sinh tốt

đẹp. Trước hết loại hình nhân vật này gợi lên một thế giới ly kì với người đọc. Người Việt Nam ta

vốn đã quen những nhân vật trong truyện cổ tích như những ông tiên, ông bụt. Đấy còn là những

nhân vật lịch sử được đưa vào trong các truyền thuyết và được thần thánh hóa. Tất cả đều gợi lên

những ly kì, lý thú cho câu chuyện. Những lực lượng siêu nhiên khi đi vào truyện truyền kì lại tiếp

tục phát huy được thế mạnh của mình. Khi đến với Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục các nhân vật siêu nhiên, tôn giáo lại mang đến cho người đọc những hấp dẫn mới lạ.

Trong những tác phẩm này, người đọc tưởng chừng như mình đã lạc vào một thế giới khác xa với

thế giới trần tục của con người. Nhân vật siêu nhiên, tôn giáo đã đưa chúng ta đến với những cuộc

du ngoạn vô cùng mạo hiểm, lý thú. Cùng công chúa Bướm hay nàng Ngọa Vân bước vào thế giới

của loài bướm, loài cá với những điều lạ lẫm. Cùng Phạm Tử Hư lên tận chốn thiên Tào, theo nàng

Vũ Thị Thiết xuống chốn Long Cung. Lại cùng với người em trong Truyện hai thần hiếu đễ lên

chốn Thiên cung, hay dõi theo bước chân của chàng Từ Thức đến với thế giới thần tiên. Gần gũi

hơn chút nữa, Lan Trì Ngư Giả đưa ta về với một cây cổ thụ gần làng của chàng Phạm Quỳnh để

gặp ma, hoặc theo chân của người thầy Phạm Viên đến nơi rừng núi đầy thuồng luồng, rắn rết...Tất

cả mang đến cho người đọc những cảm giác khác nhau: lúc sợ hãi, giật mình, khi bay bổng, thơ

mộng. “Biểu hiện của cái kì còn ở tầng sâu hơn chi phối tư duy nghệ thuật của tác giả. Nó xử lý

những yếu tố không gian, thời gian, cách xây dựng hình tượng nhân vật theo một con đường riêng,

nhuốm màu sắc hư ảo, thần kì làm nên cái đẹp nội tại cho truyền kì. Có thể nói truyền kì đã mở tung

cánh cửa không gian”. [123,tr 49] Chính những cảm xúc có được ấy đã khiến người ta khó lòng

quên được bóng dáng của nhân vật. Những nhân vật này đã góp phần làm nên sự đa dạng, phong

phú trong việc thể hiện không gian trong các tác phẩm truyền kì. Đồng thời loại hình nhân vật này

đã giúp cho truyện truyền kì có sức hấp dẫn mạnh mẽ mọi lứa tuổi, mọi thời đại. “Chúng nuôi

dưỡng trong trí nhớ của chúng ta những chuyện mà chúng ta nghe từ thuở ấu thơ và thích thú với

những nỗi lo sợ bí mật, những nỗi sợ hãi mà trí óc con người phải lệ thuộc vào nó một cách tự

nhiên”[59,tr 43]

Bên cạnh đó, loại hình nhân vật này cũng gửi gắm những bài học làm người, những ý nghĩa nhân

sinh mới mẻ của các nhà văn. Ở Thánh Tông di thảo, kiểu nhân vật thần tiên, tôn giáo như một

phương thức giúp tác giả đề cao con người trần tục. Để trừ được yêu ma, nhân vật “ta” trong tác

phẩm phải nhận được sự giúp đỡ của thần tiên, đạo sĩ nào đó. Song những nhân vật này chỉ là cái cớ

để tác giả tự tôn vinh mình, cho thấy phải là bậc “chân chủ” mới có khả năng giao lưu với thần tiên

và những việc mà nhà vua làm trên thuận ý trời dưới hợp lòng người. Có thể thấy điều này ở Truyện

yêu nữ Châu Mai, Gặp tiên ở hồ Lãng Bạc, Mộng ký. Ở những tác phẩm này nhân vật “ta” đã phần

nào khẳng định được vai trò của mình trong trời đất này. Tương tự ở Ngọc nữ về tay chân chủ, con

người chỉ với những lời nói thật lòng của mình đã có thể chiến thắng được cả thần sông và thần núi

để lấy được công chúa: “Núi có thể bạt đi, gò có thể san bằng, nước lớn có thể bắt lui, sông có thể

cắt đứt”. Đó cũng là chân lý khẳng định sức mạnh của con người. Tác giả Thánh Tông di thảo luôn

có niềm tin: con người là chúa tể của muôn loài, con người có thừa khả năng giải quyết mọi việc.

Đề cao vai trò con người cũng là một quan niệm nhân sinh mới mẻ của Nguyễn Dữ. Thế giới của

những nhân vật tôn giáo ở ông là những con người thắng thế được ma quỷ, chế ngự được yêu ma.

Đó là người đạo sĩ trong Chuyện cây gạo, nhà Nho ẩn dật trong Chuyện gã trà đồng giáng sinh, là

Ngô Tử Văn khẳng khái trong Chuyện chức phán sự đền Tản Viên. Những kẻ ác độc, tham tàn rồi sẽ

phải chết, những cái xấu không thể cùng tồn tại song song với con người phải chăng là mong ước

của Nguyễn Dữ. Mặt khác nhân vật siêu nhiên, tôn giáo trong Truyền kì mạn lục cũng có những

khát vọng được yêu thương, được thỏa mãn những nhu cầu mang tính bản năng. Đó cũng là tiếng

chuông báo động đối với những quy định khắt khe, cổ hũ của xã hội phong kiến áp chế đời sống

tinh thần của con người. Chính xã hội phong kiến bắt con người sống trong vòng cương tỏa của tam

cương ngũ thường, cho nên quan tâm đến con người là đưa họ thoát ra khỏi những áp chế ấy. Và vì

vậy tiếng nói yêu thương, khát khao hạnh phúc là ước vọng ngàn đời của con người.

Còn ở Lan Trì kiến văn lục, nhân vật thần tiên, tôn giáo mang đến cho ta những khát vọng, ước

mơ về một xã hội tốt đẹp hơn xã hội hiện tại. Đồng thời những nhân vật thần tiên của Lan Trì Ngư

Giả như gửi đến người đọc những băn khoăn của bao thế hệ con người: liệu có thật hay không một

thế giới thần tiên hay chốn yêu ma quỷ dữ? Do vậy hình tượng nhân vật siêu nhiên, tôn giáo mang

những tư tưởng nghệ thuật nhất định.

Loại hình nhân vật siên nhiên, tôn giáo mang những yếu tố kì ảo song đằng sau đó là hiện thực

cuộc sống với những ý nghĩa nhân sinh cao đẹp. Với các nhà văn con người là chúa tể của muôn

loài con người có thể tự mình giải quyết mọi việc. Kiểu nhân vật siêu nhiên tôn giáo cũng là mảnh

đất để các nhà văn nói đến cuộc sống ở hiện tại ở thế gian này. Đồng thời đó cũng là khát vọng của

các tác giả về một mảnh đất bình yên, hạnh phúc cho con người trong tương lai.

3.1.3.2. Loại hình các nhân vật con vật, đồ vật giáo dục con người những bài học ở đời.

Hình ảnh con vật có từ văn học dân gian với truyện cổ tích và truyện ngụ ngôn. Thông qua

chuyện về con vật, các tác giả bình dân gửi gắm nhiều bài học có ý nghĩa. Từ những ảnh hưởng ấy,

loại hình các con vật bước vào trang sách của Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ và Vũ Trinh mang những

bài học giáo dục sâu sắc. Trong ba tập truyện truyền kì ấy, loại hình nhân vật con vật, đồ vật xuất

hiện nhiều hơn ở Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục và còn mang nhiều nét mới so với văn

học dân gian.

Đa số những con vật xuất hiện trong Thánh Tông di thảo là những hình tượng chuyên chở đạo lí

làm người. Với hai nhân vật con cóc và con ếch, Thiềm thừ miêu duệ ký khuyên con người đừng

tham lam mà nên sống thật với chính mình. Những kẻ sống trong quyền quý tham lam vô độ thì

sớm muộn sẽ nhận lấy thảm họa. Sơn quân phả thì nhắc nhở bài học ở đời “ác giả ác báo”. Văn thư

lục lưu ý con người khi sống trong nhung lụa giàu sang nếu không giữ mình thì sẽ bị chính cuộc

sống đầy đủ ấy làm hại. Bài học này thật có ý nghĩa trong xã hội hiện đại của chúng ta: cuộc sống

đôi khi càng sung túc, đầy đủ sẽ càng hại cho con người nếu con người không đủ bình tĩnh để chống

chế lại những ham muốn của bản thân mình. Một trong những căn bệnh giết chết con người cũng

được luận bàn đến trong Thánh Tông di thảo là bệnh khoe khoang. Thói khoác lác, tự kiêu của

những kẻ “ếch ngồi đáy giếng” sẽ làm triệt tiêu con đường phấn đấu để tiến bộ của họ và biến họ

thành những kẻ tự đào mồ chôn mình. Đó là bài học sâu sắc rút ra từ Vũ môn tùng tiếu.

Vũ Trinh cũng viết khá nhiều về con vật, đặc biệt là những con vật ở rừng. Con hổ nghĩa hiệp

dạy người đời bài học về tình người. Tác phẩm kể về một người cha vì muốn lấy thêm vợ bé mà đan

tâm vứt bỏ con mình cho hổ ăn thịt. Nhưng con vật vốn hung dữ ấy của rừng thiêng đã mang em bé

trở về với bà ngoại. Hình ảnh ấy gửi gắm một dạy cho chúng ta bài học làm người: con vật còn có

lòng từ bi trắc ẩn huống chi là con người – mà nhất là những người cùng máu mủ. Tình cảm gia

đình là thứ tình cảm thiêng liêng nhất của con người – nhất là tình phụ tử. Hơn nữa những người

làm cha làm mẹ cần làm tròn trách nhiệm mà thượng đế đã giao cho họ. Người cha táng tận lương

tâm trong truyện thật đáng chê trách biết bao! Cùng là hình ảnh con hổ song trong Con hổ có nghĩa

nhà văn Vũ Trinh lại gửi đến đọc giả bức thông điệp về tình nhân ái. Tác phẩm kể về một con hổ

đực vào làng tìm một bà mụ đến đỡ đẻ cho hổ cái: “Lát sau, con hổ đột nhiên lao tới cõng bà đi

(.....). Hổ đực cầm tay bà, nhìn hổ cái mà nhỏ nước mắt. Bà nhìn kĩ bụng hổ cái như có vật gì động

đậy, biết là hổ sắp đẻ. Sẵn có thuốc đỡ đẻ mang theo người bà liền hòa với nước suối cho hổ uống,

thấy hổ cái giảm đau. Bà lại xoa bóp bụng và lưng hổ cái. Lát sau thì hổ cái sinh nở”. Và để trả ơn

cho bà, hổ đực đã “quỳ xuống bên một gốc cây, dùng chân đào lên cục bạc trắng”. [118,tr 42].

Cũng trong tác phẩm này Vũ Trinh cũng đề cập đến một chúa sơn lâm khác bị “khúc xương mắc

trong họng”. Nhờ có sự giúp đỡ của bác tiều “thò vào cổ họng hổ, móc ra một chiếc xương bò to

bằng cánh tay” mà hổ thoát chết. Sau đó con hổ đã đền ơn bác tiều phu bằng “một con nai” [118,tr

44. Hai câu chuyện trong cùng một tác phẩm với hai số phận hai cảnh ngộ khác nhau song điểm

chung là cả hai con hổ gặp nạn, được con người cứu giúp và chúng đã biết ơn, đền ơn cho con

người. Tưởng chừng chỉ vậy thôi, song đằng sau câu chuyện của hổ là bài học dành cho con người:

Con vật còn biết trả ơn, đền ơn khi nhận được sự giúp đỡ vậy thì con người cũng cần phải biết cư xử

như thế nào cho khỏi hổ thẹn. Đề cập đến điều này phải chăng vì thời đại Vũ Trinh đang tồn tại

những điều trái luân thường đạo lí. Những kẻ “gót dày đổi chỗ”, những kẻ thờ ơ trước nỗi đau của

người khác và lạnh lùng trước hành vi hiệp nghĩa của con người ngày càng xuất hiện nhiều. Có lẽ vì

vậy mà câu chuyện đã mang đến bài học có ý nghĩa sâu sắc về tình người. Có thể thấy hổ là một

trong những con vật xuất hiện nhiều trong Lan Trì kiến văn lục: con hồ hào hiệp, con hổ có

nghĩa,con hổ nhân đức. Hầu hết chúa sơn lâm hiện lên trong tác phẩm đều làm những việc tốt, việc

có ích, mang lại an bình cho con người. Phải chăng thông qua hình ảnh này, Vũ Trinh muốn nhắc

nhở: Con người sống với nhau cốt yếu ở tình cảm, tấm lòng. Ví như cha ông thường dạy: “hổ dữ

không nỡ ăn thịt con”. Nay con hổ lại là con vật cứu người. Chính điểm này đã cho thấy rõ thiên

hướng đề cao tình cảm con người, sự thương yêu đùm bọc giữa người với người của Lan Trì kiến

văn lục.

Hình ảnh con vật xuất hiện trong Thánh Tông di thảo, Lan Trì kiến văn lục quả đã mang một ý

nghĩa nhân sinh sâu sắc và những bài học mới. Thông qua những câu chuyện về chúng nhà văn đã

gửi đến người đọc nhiều bức thông điệp về cuộc sống và tình người góp phần vào việc tạo nên giá

trị đặc sắc của tác phẩm.

3.1.4. Loại hình các nhân vật có vai trò làm rõ đặc trưng của thể loại truyền kì:

3.1.4.1. Nhân vật được xây dựng với yếu tố “kì”.

Ở một trình độ cao, kì là một phương thức tư duy nghệ thuật kiểu phương Đông để tạo nên

những kì văn. “Nhìn chung yếu tố kì ảo vốn được sử dụng rộng rãi trong nhiều tác phẩm văn xuôi tự

sự thời trung đại. Một lẽ giản dị: yếu tố kì ảo là sản phẩm của lối tư duy trung đại, được các nhà

văn mặc nhiên thừa nhận là một phương diện nghệ thuật có tính đặc thù. Theo quan niệm truyền

thống, văn chương muốn có sức đi xa phải được chắp đôi cánh của cái kì, cái lạ. Nghê Trác nói: vô

truyền bất kì, vô kì bất truyền”. [15tr 449]. “Yếu tố kì mãi mãi là “dư ba” của văn học trung đại

chất phác, thô sơ, khắc nghiệt nhưng cũng đầy huyền thoại và nên thơ” [25tr 20]. “Nhìn chung yếu

tố kì tạo nên sức hấp dẫn, làm bề nổi cho câu chuyện và truyền kì như khoác một cái áo sặc sỡ, bắt

mắt. Và đó là cái áo trong tay nhà ảo thuật” [113,tr 49].

Để biến các sự vật phi vật thể và vật thể hữu hình thành các nhân vật trong tác phẩm của mình,

các tác giả đã sử dụng thủ pháp nhân hóa và thần kì hóa. Trong truyện truyền kì các tác giả sử dụng

yếu tố kì không phải chỉ với chức năng vỏ bọc che dấu dụng ý sâu xa của nhà văn mà còn với tư

cách một bút pháp nghệ thuật mang tính đặc trưng của thể loại. Các tác giả đã phản ánh hiện thực

qua cái kì lạ.

*Hình thức nhân hóa.

Nhân hóa là một phương thức sử dụng trí tưởng tượng để chuyển những đặc điểm của con người

sang những đối tượng và hiện tượng không phải là đặc tính của con người. Dạng thức đầu tiên có

thể thấy của thủ pháp này là làm cho ma quỷ biến thành những hình dạng đáng sợ hoặc thành người.

Trong Mai Châu yêu nữ truyện, người con gái trong truyện có nguồn gốc là một nữ yêu tinh biến

hình quái gở: “Khi nó hiện ra người đầu to bằng bánh xe, hoặc hai đầu sáu mình ai trông thấy cũng

chết khiếp” [117,tr 9]. Hoặc trong Trần nhân cư thủy phủ, hình dáng lũ yêu quái hiện lên trong thật

đáng sợ: “đứa cụt chân, đứa mất đầu, hình dáng kì quái, phần nhiều không được trọn vẹn”

[117,115]. Nhưng khi biến thành người, yêu tinh lại có hình dáng, dung tư rất đẹp: “Khi nó biến

thành cô gái đẹp hoặc nhẹ như Phi Yến, hoặc béo tốt như Dương Phi, ai say mê tất phải thiệt mạng”

[117,tr 9]. Và “một người con gái đẹp tuyệt trần, trạc mười sáu tuổi, mắt long lanh như nước mùa

thu, môi đỏ như son vẻ, tóc mây mặt hoa, cười nói duyên dáng, làm cho người ta phải động lòng”

[117,tr 10]. Cũng như vậy trong Truyền kì mạn lục, Chuyện cây gạo cũng miêu tả con ma biến thành

cô gái đẹp mê hoặc Trình Trung Ngộ: “dọc đường hay gặp một người con gái xinh đẹp, từ Đông

thôn đi ra, đằng sau có một ả thị nữ theo hầu. Chàng liếc mắt trông, thấy là một giai nhân tuyệt

sắc” [23,tr 28]. Kiểu dạng biến hình này cũng xuất hiện trong Lan Trì kiến văn lục, tiêu biểu là hình

ảnh: “Cây đa này có con ma, thường hay hiện hình giữa ban ngày, biến hóa khôn lường. Hễ ai đụng

tới nó, liền bị bệnh tật hoặc chết ngay.” [118,tr 88]. Rồi con ma này biến thành cô gái: “Đến chỗ

cách cây đa chừng hơn mười thước, cúi nhìn thì thấy một người con gái mặc áo trắng, quần đen,

đang ngồi xõa tóc ở dưới gốc đa” [118,tr 89]. Kiểu nhân vật này cũng mang những đặc điểm như

con người trần tục, khi gia nhập vào cuộc sống ở trần gian cũng phải chịu đựng nhiều bất hạnh, ấm

ức giống như con người. Những nhân vật này cũng gắn liền với những khát vọng được yêu thương,

được thỏa mãn những nhu cầu về thể xác. Con ma chổi nữ trong Phụ chép hai là trường hợp tiêu

biểu: “Hôm qua, ngẫu nhiên nhìn qua khe cửa, thấy chàng đi qua. Đã ưa người đẹp, lại mến tài cao,

nên thiếp bèn chui ngạch cửa đi ra, quên cả hổ thẹn”. [117,tr 152]. Tình yêu có thể làm cho con

người vượt qua mọi khó khăn, rào cản kể cả những ngăn cấm của lễ giáo phong kiến đương thời để

đến với mảnh đất hạnh phúc. Đi từ Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo sang đến Hồng Nương, Nhu

Nương trong Cuộc kì ngộ ở Trại Tây - những nhân vật ma quỷ được nhân hóa tiêu biểu cho khát

vọng được thỏa mãn những nhu cầu mang tính “người”. Nhà văn đã mượn những việc của ma quỷ

để dễ dàng nói đến những việc của con người. Đây là một trong những thủ pháp thường gặp trong

truyện truyền kì để chống lại những búa rìu dư luận của xã hội Nho giáo. Đặc biệt việc đưa các nhân

vật nữ vào vị trí hồn ma cũng là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Những nhân vật nữ này luôn luôn có

khát khao về đời sống nhục thể. Xã hội ấy buộc con người sống theo lý tưởng “quả dục”, “tiết dục”,

thậm chí là “diệt dục”, buộc con người phải “ép phần xác để tỏa sáng phần hồn”. Do vậy dưới vỏ

bọc kì ảo, các tác giả đã có điều kiện đưa cái sinh hoạt thường ngày - chuyện phòng the - vào tác

phẩm. Nói đến con người với những nhu cầu về bản năng là một bước tiến dài trong văn học. Nó đã

khẳng định sự thành công của thể loại tự sự và cũng là một thành quả của tư duy nghệ thuật trong

quan niệm về cuộc sống và con người. Như một con ốc sên với vỏ ngoài cứng cáp, cái kì ảo có thể

che đậy dụng ý sâu xa của nhà văn mà khi có điều kiện nó vẫn lộ ra rõ nét.

Loại nhân vật thứ hai được xây dựng theo thủ pháp này là loại người chết được sống lại. Đó là

những người hoặc khi sống lập nhiều công đức nên khi chết được Ngọc Hoàng Thượng Đế thương

tình cho giữ một chức vụ nào đó. Ví như hình ảnh người tôi trung trong Trần nhân cư thủy phủ của

Lê Thánh Tông. Đó là nhân vật sau khi chết được giữ chức là cai quản một cõi ma quỷ. Hay trường

hợp Gã trà đồng giáng sinh cũng vậy. Đức Công sau khi chết đã được Thượng Đế thương tình cho

sống lại nhờ người này khi sống làm nhiều điều ân đức: “Ta vừa đến một chỗ thành đen vách sắt,

toan bước chân vào thì có một viên chức ngăn lại. Viên ấy dẫn ta đi sang phía hữu, thấy có những

cửa đỏ biển son. Vén áo đi vào cửa này thì thấy san sát những tòa rộng dãy dài, có đến hơn trăm

người thắt đai đứng hầu sau trước. Giữa có hai vị mặc áo bào tía ngồi đối diện nhau ở bên một cái

án,đưa mắt cho viên chức kia bảo lấy sổ son của họ Dương ra xem. (....)Nhà ngươi ngày thường vốn

có tiếng là người lương thiện. Thượng đế khen ngợi, ban cho một người con trai tốt và cho sống lâu

thêm hai kỷ nữa. Nên mau về đi mà cố gắng làm điều âm đức, đừng bảo là trên cõi minh minh

không biết gì đến” [23,tr 39]. Cũng có khi những nhân vật ấy tuy không được hoàn sinh nơi trần thế

nhưng lại được chuyển sang tồn tại trong một thế giới khác, hoặc là những người do chứa dứt nợ với

lương duyên từ kiếp trước nên lại trở thành người dưới một dạng khác để tiếp tục được yêu, được

sống với mối tiền duyên của mình. Tiêu biểu là nhân vật anh chồng dê trong Dương phu truyện. Do

vậy khái niệm sống lại ở đây có nghĩa là nhân vật sau khi chết đi sẽ được tồn tại trong một thế giới

khác, hoặc chết đi nhưng oan hồn còn lẫn khuất không tan biến được mà tụ lại biến thành người với

vóc dáng hoàn toàn khác. Nhìn chung loại nhân vật này có thể trực tiếp nói lên những suy nghĩ có

liên quan đến đời sống con người: những chuyện lịch sử, nhân tình thế thái ở cõi âm hoặc cõi

dương. Loại nhân vật này cũng đã cho thấy quan niệm của con người trung đại: con người không

bao giờ biến mất hoàn toàn, ngay cả khi chết họ vẫn tồn tại ở một dạng khác. Điều này đã cho thấy

khát vọng con người mãi mãi được sống ở thế giới này.

Loại nhân vật thứ ba là loại nhân vật thần tiên, Phật được nhân cách hóa. Thần tiên trong ba tập

truyện không chỉ có dung mạo tuấn tú, thoát tục, khác người mà còn có những phép thần thông

quảng đại, phép thuật cao cường và có thể sống bất tử cùng thời gian. Hai đặc điểm này tạo nên tính

cách kì lạ của loại hình nhân vật thần tiên khác hẳn người thường. Chính cái tính cách kì lạ, phi

thường ấy đã mang lại cho người đọc một sự lạ lẫm, hấp dẫn và bí ẩn. Bên cạnh những đặc điểm phi

thường khác người ấy, nhân vật thần tiên, Phật cũng được các tác giả phú cho những đặc tính như

con người. Có thể thấy các tác giả đã đi ngược lại với truyền thống của thể tự sự có mầm mống

truyền kì trước đó khi trần tục hóa thánh thần, tiên, phật. Với cách này, Lê Thánh Tông, Nguyễn

Dữ, Vũ Trinh đã kéo những hình tượng của tín ngưỡng tôn giáo từ trên cao xuống với thế giới trần

tục. Kiểu nhân vật thần tiên, Phật mang theo cách nghĩ của các tác giả về cuộc đời của con người.

Trước hết nhà văn thể hiện khát vọng ngàn đời của con người về một cuộc sống bình yên, an lành

như ở thế giới của thần tiên. Ngoài ra kiểu nhân vật này với khát vọng được yêu thương đã khẳng

định một sự thật: tình yêu, nghĩa vợ chồng là những tình cảm đáng trân trọng nhất và thần tiên cũng

sẽ bất hạnh nếu không có nó. Đồng thời đó cũng là ước mơ vĩnh cửu hóa tình yêu của nhà văn.

Chính đây là một trong những nội dung giúp cho Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục vượt xa những tác phẩm có yếu tố “kì” trước đó.

Ngoài ra, cách thức nhân hóa còn được sử dụng với loài vật và đồ vật. Đối với dạng muông thú,

côn trùng biến thành người, tác giả mô tả dáng vẻ, diện mạo của chúng thật đa dạng. Có loài vật

biến thành cô gái đẹp, nét đẹp ấy được miêu tả khá cụ thể: làn da trắng nõn, ngón tay búp măng hay

hàm răng hạt bầu; lại có loài vật biến thành chàng trai trẻ, dáng vẻ đẹp như Tống Ngọc, Phan Lang.

Cũng có khi loài vật biến thành chàng tú tài hoặc người xử sĩ. Hoặc trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây

là hình ảnh hai cô gái từ loài hoa biến thành: “Ngày ngày đi qua, sinh thường thấy hai người con gái

đứng ở bên trong bức tường đổ nhí nhoẻn cười đùa, hoặc hái những quả ngon, bẻ bông hoa đẹp mà

ném cho sinh nữa” [23,tr 48]. Không chỉ loài vật, cây cỏ mà đồ vật cũng có thể biến thành người: đó

có thể là chiếc chổi tre hay đàn tì bà. Có nhiều loài vật, tuy đã biến hóa thành người nhưng dung

mạo vẫn để lộ ra một vài dấu hiệu nhận dạng của loài vật. Điều này chứng tỏ rằng dù tồn tại ờ hình

dạng nào chúng vẫn không thể tách rời hẳn khỏi môi trường sống trước khi hóa thành người. Đó là

trường hợp của nàng Mộng Trang: “nhìn kĩ sau lần áo lót mình, Sinh thấy ở bụng Mộng Trang có

nhiều ngấn ngang” [117,tr 48]. Bởi lẽ Mộng Trang do loài bướm hóa thành nên những ngấn ngang

đó là dấu hiệu của thân bướm. Hoặc trong Ngư gia chí dị: “một ông già dưới cằm có hai cái râu rất

dài” [117,tr 71], do ông là do loài cá biến thành nên hình dáng vẫn còn mang những nét riêng của

loài cá. Nhưng cũng có những con vật khi biến thành người thì giống người như hệt đến cả những

chi tiết nhỏ nhất: con chuột tinh trong Thử tinh truyện biến thành anh chồng giống từ nốt ruồi đỏ ở

cổ, mụn hạt cơm ở trong tai, tiếng nói trong như tiếng khánh, hai môi đỏ như son đến cả tầm thước

lẫn cách ăn mặc. Có thể thấy rõ những quan niệm hay ngụ ý sâu xa của các tác giả thông qua loại

nhân vật này.

Tóm laị nhân hóa là một trong những biện pháp quan trọng được sử dụng nhằm thể hiện đặc

trưng của thể loại truyền kì. Và biện pháp này đã giúp cho nhà văn truyền tải được những điều mình

khó có thể phát ngôn một cách trực tiếp được. Điểm chung của những nhân vật với hình thức nhân

hóa này là: mang những đặc điểm, tính cách như con người và số phận đều là bất hạnh. Thông qua

thân phận nhân vật ma quỷ, con vật, các tác giả của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì

kiến văn lục muốn nói đến cuộc đời, số phận của con người ở chốn trần gian.

*Hình thức thần kì hóa.

Thần kì hóa là cách thức cài vào con người hiện thực một số tính cách siêu phàm, những bản

lĩnh và phép thuật kì lạ hoặc quan niệm sống chết của thần tiên. Đây là những nhân vật thường

xuyên xuất hiện trong mối quan hệ với các nhân vật là thần tiên (Hiếu đễ nhị thần truyện, Nhất thư

thủ thần nữ, Chuyện gã trà đồng giáng sinh, Tiên đảo...). Vì vậy các tác giả đã phú cho loại nhân

vật này những khả năng kì diệu để tạo nên sự tương xứng trong mối quan hệ ấy.

Đặc điểm đầu tiên của loại nhân vật này là có nguồn gốc, lai lịch, hoàn cảnh và chỗ ở “xác

thực”. Mục đích của việc làm ấy là để khẳng định với người đọc: những câu chuyện kì lạ sắp sửa

được kể ra là hoàn toàn có thực. Đó là trường hợp của Hoa quốc kì duyên, chàng Chu Sinh là người

ở “Động Sơn La, tỉnh Hưng Hóa”, “mồ côi cả cha lẫn mẹ từ lúc lọt lòng và được chú ruột đưa về

nuôi dưỡng” [117,tr42]. Còn trong Hiếu đễ nhị thần truyện, tác giả kể rằng: “Ở Sơn Bắc có Nguyễn

Tử Khanh, cha mẹ mất sớm, chỉ có một người anh. Khi lớn tuổi anh và chị dậu đều mất cả, để lại

một cháu. Tử Khanh coi như con” [117,tr 90]. Và trong Dương phu truyện cũng xuất hiện địa danh

và sự kiện cụ thể “Làng Thanh Khê có người đàn bà góa chồng sinh được hai con gái. Người em đã

đi lấy chồng. Người chị ở nhà đến năm 19 tuổi thì mẹ mất” [117,tr 97]. Thời gian câu chuyện cũng

có tính chất cụ thể và xác thực như không gian: “Dương Đức Công tên là Tạc, người phủ Thường

Tín xứ Sơn Nam. Về triều vua Huệ Tôn nhà Lý”[23, tr 38], hay “Hà Nhân, người học trò quê ở

Thiên Trường, khoảng năm Thiệu binh ngụ ở kinh sư tòng học cụ Ức Trai” [23, tr 4823, hoặc “Vào

năm Sùng Trinh nhà Mạc ở làng Ông Mặc, huyện Đông Ngàn, có ông họ Đàm, làm Thượng thư đã

trí sĩ” [118,tr 82]. Việc đưa địa chỉ xác thực của từng nhân vật nhằm chứng minh rằng những câu

chuyện được kể là câu chuyện có thật, chứ không phải là chuyện ma quỷ, quái đản.

Đạo giáo cũng tỏ ra có ảnh hưởng lớn trong việc xây dựng hình tượng nhân vật. Đó là quan niệm

thể xác và linh hồn đều sống mãi: ước vọng lớn nhất của tín đồ Đạo giáo. Vị tiên thổi địch mà Lê

Thánh Tông từng gặp ở hồ Lãng Bạc là một ví dụ điển hình. Vị tiên ấy cho rằng con người chết đi

rồi sẽ sống lại: người sau khi chết hoặc sẽ sống nguyên hình, hoặc linh hồn sẽ còn mãi, hoặc chuyển

hóa sang một dạng sống khác. Đạo giáo tin tưởng rằng người đời sau khi chết chẳng những có thể

biến thành những giống có sinh mệnh như hạc, hổ, vượn, ba ba, mà còn có thể biến thành những vật

không có sinh mệnh như cát, đá....Người tuy chết nhưng lại đầu thai hoặc vẫn sống thậm chí trường

tồn. Trong Hoa quốc kì duyên: “Sinh biết mình sắp làm chúa Hoa Quốc, tất nhiên không thể ở lâu

cõi trần,bèn dâng sớ xin về quê liệu việc nhà. Về chưa được một ngày thì mất” [117,tr 61]. Còn như

trong Dương phu truyện: “qua bốn tháng nàng ốm. Biết thế không khỏi được, nàng mới gọi chú họ

bày tỏ sự tình, xong thì tắt nghỉ. Đến hôm đưa đám, người ta nghe trong quan tài có tiếng nhảy

nhót, khiêng lên không được. Mở ra xem thì thấy một con ngỗng vàng mỏ ngậm cành hoa bay lên

trời” [117,tr 102]. Và trường hợp của Nhất thư thủ thần nữ, nhân vật vào “tháng ba năm sau nữa,

vào ngày Thanh Minh, anh gọi các con bảo rằng:

-Đêm nay ta mộng thấy mẹ con về bảo ta rằng: Nợ trần đã trả, còn ở lâu làm gì? Chức Thị thư

khuyết đã lâu rồi, không về tất bị phạt. Mộng đã như thế, có lẽ ta sắp chết chăng?Nói xong nhắm

mắt.Các con xúm đến gọi thì tứ chi đãcứng đờ”. [117,tr 181 – 182].

Có thể nói đó là cái chết của những vị thần tiên sau khi xuống trần làm người trần để thực hiện

nhiệm vụ của mình ở dương gian, hoặc đi tìm hạnh phúc cho mình. Sau khi hoàn thành sứ mệnh thì

nhân vật chết đi để trở về với cõi thần tiên, nên “chết” ở đây là cách thức chuyển hóa từ trạng thái

người trần về trạng thái thần tiên, do đó “đến và đi” đều hợp với lẽ tự nhiên của con người, là quy

luật muôn đời: “có sinh tất có tử”. Trong Nhị nữ thần truyện, vị Sơn Thần Đông Ngu sau khi trả

xong mối thù cho mẹ, tự tay trói kẻ thù giải về cho Lê Lợi để dâng công thì đã xin về dưỡng bệnh ở

núi Tam Đảo, được một năm thì mất, người vợ của sơn thần sau bao ngày tìm kiếm khi nghe được

tin ấy, đang buồn hóa tươi, mỉm cười nói rằng:

“Vợ đi, chồng lại về

Tìm nhau như Sâm, Thương

Biết lòng ông thần núi

Vì thiếp phải vội vàng” [117,tr26].

Còn trong Nhất thư thủ thần nữ, vị thần nữ sau mười năm chung sống với anh đồ ở dương gian

đã phải trở về cõi thần. Sau khi bịn rịn lúc chia tay chồng trong đêm trước khi đi, nàng đi ngủ và

“sáng sớm mai chỉ còn cái xác không mà thôi”, sự việc diễn ra hoàn toàn đúng với lời mà nàng đã

nói với chồng: “Trong khoảng một hai đêm nữa, thiếp sẽ thoát hình người trần mà về cõi trên núi”

[117,tr 181].

Đặc điểm chung của những cái chết này là đều chết vào đúng thời điểm đã định trước hoặc hẹn

trước với một nhân vật khác. Chàng Chu Sinh chết vì đã trót nhận lời hẹn với Quốc Mẫu là giúp

công chúa Mộng Trang cai quản, trị vì Vương quốc, ngăn giặc Ô Thước qua núi Hoa; chết để trở về

Hoa quốc sau 15 năm xa cách như đã hẹn ước với Mộng Trang. Còn Tử Khanh trong Hiếu đễ nhị

thần truyện chết sau khi đã làm tròn trách nhiệm với cháu như lời đã hứa với anh mình và chết đúng

vào thời điểm mà hai anh em đã hẹn nhau vào mười năm trước: “Mười năm sau tháng giêng đúng

ngày Thượng Nguyên, hai miếu thờ đối nhau, thì giờ đi lại chuyện trò còn nhiều” [117,tr 93]. Người

con gái trong Dương phu truyện cũng chết theo đúng lời hẹn ước với chồng dê: trước khi trở về trời,

người chồng giao hẹn với vợ là mỗi lần nhớ đến mình thì khấn gọi mình về và trong lời khấn của họ

luôn có lời giao ước:

“Hãy về từ tạ Ngọc Hoàng

Tình xưa nghĩa cũ dở dang sao đành” [117,tr 102].

Quan niệm sống chết của Đạo giáo cũng thể hiện khá rõ trong Truyền kì mạn lục. Biểu hiện dễ

thấy nhất là người sau khi chết biến thành hồn ma để trăng gió với người đời. Tiêu biểu có thể kể là

Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo. Nhị Khanh là “cháu gái ông cụ Hối, lên hai mươi tuổi, chết đã

nửa năm, hiện quan ở ngoài đồng ngay bên cạnh làng”. Sau khi chết biến thành “một người con gái

xinh đẹp” và đi lại hẹn hò với tên lái buôn Trình Trung Ngộ. Xuất phát từ suy nghĩ “nghĩ đời người

ta, thật chẳng khác gì giấc chiêm bao” nên hồn ma Nhị Khanh tìm đến với những “cuộc hoan lạc ái

ân”, nhằm thỏa mãn những thú vui cuộc đời. Cũng có khi con người sau khi chết biến thành quỷ dữ

để báo thù. Đó là trường hợp của Đào Hàn Than, Vô Kỉ trong Chuyện nghiệp oan của Đào Thị. Hai

người không chỉ yêu khi còn sống mà ngay cả khi chết họ vẫn đến với nhau. Các nhân vật này được

xây dựng theo hình thức thần kì hóa thể hiện ước mơ của con người về cuộc sống và tình yêu. Đó là

những điều mà trong hiện tại con người không thể thực hiện được dù họ luôn luôn cố gắng.

Hình tượng người đạo sĩ và người ẩn sĩ cũng thể hiện rõ tư tưởng, quan niệm của Đạo giáo. Đạo

sĩ là những người theo học thuyết của Lão Trang: sống phóng khoáng và thoát ly hiện thực. Người

ẩn sĩ có khi trở thành người đạo sĩ, bởi cả hai muốn trốn đời để giữ khí tiết và biểu thị sự bất hợp tác

với tầng lớp thống trị đương thời. Người đạo sĩ trong Thánh Tông di thảo,Truyền kì mạn lục, Lan

Trì kiến văn lục được khắc họa theo tinh thần lãng mạn: không ai biết họ sống ở đâu, nơi ở của họ

thế nào? Khi thì họ từ trong núi đi ra, khi thì xuất hiện nơi đàn tràng....với hình dáng khắc khổ, đói

rách: “áo rách giày nát, thất thểu đi đến” hoặc “khăn cũ giày rách, ăn mặc lôi thôi đi vào”. Trong

khi đó người ẩn sĩ thích sống nơi tĩnh lặng trong rừng, hoặc nơi vùng quê xa xôi hẻo lánh. Nơi ở của

nhân vật này cũng thường đơn sơ và giản dị: sống trong am cỏ với những vật dụng đơn giản, bình

thường. Người đạo sĩ có một cuộc sống lang thang, nay đây mai đó lấy việc cứu người làm niềm

vui, hoặc thi thảng làm nghề săn bắn, xem tướng số và tất nhiên là xem thường danh vọng, tiền tài.

Có nhiều căn bệnh để trị, đó là bệnh do ma quỷ mê hoặc, tác oai tác quái. Nhưng đó cũng có thể là

bệnh xã hội, bệnh xuống cấp đạo dức, bệnh là những thói hư tật xấu của con người. Còn hành động

của người ẩn sĩ thường là một lão tiều phu đốn củi, ra chợ đổi đồ chứ không bán lấy tiền. Họ hiện

lên trong vẻ tưởng chừng như thờ ơ với cuộc đời: “ông già lánh bụi, gửi tính mệnh nơi lều tranh

quán cỏ, tìm sinh nhai trong búa gió rìu trăng, ngày có lối vào làng say, cửa vắng vết chân khách

tục, bạn cùng là hưu nai tôm cá, quấn bên là tuyết nguyệt phong hoa, chỉ biết đông kép mà hè đơn,

nằm mây mà ngủ khói, múc khe mà uống, bới núi mà ăn” [23,tr 68]. Thế nhưng họ lại tỏ ra am hiểu

sự đời và những gì đang diễn ra trong hiện tại: một ông vua dâm ô, một tên quan tham lam độc ác.

Có thể thấy phương thức thần kì hóa tập trung vào nhân vật người ẩn sĩ và người đạo sĩ.

Hầu hết các tác phẩm truyền kì đều sử dụng một trong hai nghệ thuật: nhân hóa hoặc thần kì hóa.

Yếu tố hoang đường kì ảo như là những lá chắn, bình phong che đậy dụng ý của tác giả đồng thời

với biện pháp “dĩ cổ dụ kim” giúp những đứa con tinh thần của họ không vướng vào vòng cương

tỏa của giai cấp thống trị.

3.1.4.2. Nhân vật là người phát ngôn cho ý đồ tác giả.

Văn chương trung đại có mục đích trọng đại là giáo hóa con người. Nhân vật là sản phẩm tinh

thần của nhà văn. Nhà văn sáng tạo ra nhân vật là để khái quát quy luật về đời sống con người và

bộc lộ quan niệm của mình về những con người trong xã hội. Tuy vậy văn học không chỉ là sản

phẩm tinh thần của một nhà văn, mà còn là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử - xã hội, của truyền

thống văn hóa. Vì thế bên cạnh những nét mới Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến

văn lục vẫn không khỏi thể hiện quan niệm của văn chương trung đại: sáng tác là để “tải đạo”. Nơi

một số truyện có thể thấy nhân vật chính là người phát ngôn cho ý đồ tác giả. Ở Thánh Tông di thảo

điều này thể hiện khá rõ. Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm đều nhằm chuyển tải đạo lý. Đó là

đạo đức của bậc làm vua phải biết chăm lo cho con dân của mình. Là trách nhiệm của người làm tôi,

phải trung thành cần mẫn, nhà vua muốn giáo dục nhân dân những đạo lý Nho gia về: quan hệ vua

tôi, nghĩa vợ chồng, đạo cha con.... Đặc biệt tác giả đã mượn nhân vật con vật để gửi đến người đọc

những bài học làm người ở đời, mà tiêu biểu nhất là lời của con muỗi đồng nói với con muỗi nhà

trong Bức thư con muỗi.

Đến Truyền kì mạn lục, vượt thời gian: Câu chuyện ở đền Hạng Vương, Câu chuyện đối đáp

người tiều phu núi Nưa, Chuyện bữa tiệc đêm Đà Giang....là những truyện tiêu biểu cho những lời

giáo huấn. Nhà văn đứng sau nhân vật, chỉ đạo cho nhân vật hành động và thông qua đối thoại của

nhân vật nói lên những suy nghĩ của mình. Ví như lời của Hồ Tôn Thốc phê phán Hạng Vương: “Lẽ

trời việc người, cũng là đầu cuối lẫn cho nhau. Bảo mệnh ở trời, Thương Trụ vì thế mà mất nước;

bảo trời sinh đức, Tân Mãng vì thế mà xả thây. Nay nhà vua bỏ việc người mà đi bàn lẽ trời, vì thế

mà đến táng bại vẫn không tỉnh ngộ (.....). Phàm xoay cái thế thiên hạ, ở trí chứ không phải ở sức;

thu tấm lòng thiên hạ, ở nhân chứ không phải ở bạo. Nhà vua chỉ lấy quát thét làm oai, lấy cương

cường làm đức....” [23,tr11]. Hay những lời lẽ hùng biện mà Trương Công đưa ra để khuyên dụ

người tiều phu núi Na: “Ngài cho là hiện thời không đủ để cho ngài làm việc được chăng? Nay có

đấng thánh nhân ngự trị, bốn bề đều ngóng trông....Hiện chỉ còn thiếu các bậc ẩn dật rừng núi ra

mà giúp ...Ngài nếu định trọn đời ẩn lánh, bắt chước Vụ Quang, Quyên Tử thì cứ như vậy không

sao. Nhưng nếu còn hơi để ý đến đám dân kia thì bỏ lỡ dịp này không ra , tôi sợ rằng sẽ cùng cỏ cây

mai một” [23,tr 142, 143]. Thông qua những đoạn đối thoại, Nguyễn Dữ đã đề cập đến vai trò của

người trị nước và nêu lên quan niệm: trí tuệ và nhân đức là hai yếu tố quan trọng nhất của người

đứng đầu thiên hạ. Tính chính luận đã thể hiện trong đối thoại của nhân vật. “Ở đây nhân vật không

đóng vai trò chính, có khi nhân vật tranh luận, biện minh lẫn nhau, cũng có khi nhân vật tự trao đổi

vai cho nhau: kẻ buộc người mở, kẻ tung người hứng và mục đích cuối cùng đó là chứng minh cho

quan điểm, lập luận, ý kiến của chính nhà văn”.[125,tr 118]. Nhân vật chỉ là phụ, chỉ là cái loa phát

ngôn cho tư tưởng của tác giả. Chính vì vậy ở những tác phẩm này tình tiết đơn giản, chủ yếu là

những đoạn đối thoại của các nhân vật mà thôi. Nhân vật trong những trường hợp này hiếm thấy

bộc lộ nội tâm, suy nghĩ của mình.

Cũng như vậy trong Lan Trì kiến văn lục Vũ Trinh đã dùng nhân vật làm người phát ngôn cho ý

đồ của mình khi sáng tác. Hầu hết những nhân vật trong tác phẩm đều là những nhân vật mà nhà

văn gặp gỡ ngoài đời và với văn phong ngắn gọn, các nhân vật này tập trung thể hiện lời giáo huấn

của người sáng tác. Có thể thấy “truyện truyền kì lấy thế giới cỏ cây, loài vật để nói ngụ ý về chính

sự, lấy thế giới thần tiên để răn dạy cương thường, lấy thế giới yêu ma để răn dạy kẻ tà dâm”.

[1,tr36]. Là một nhà Nho mang ước vọng hành đạo song không thể thi thố tài năng kinh bang tế thế,

“ông chài ao Lan” đã để lại cho đời những câu chuyện mắt thấy tai nghe với nhiều bài học làm

người sâu sắc. Tiêu biểu như truyện Thằng trộm. Truyện kể về một người ăn trộm chuyên nghiệp

lẻn vào trộm được đồ của một người khách ở trọ. Nhưng khi hắn vừa về đến nhà người bị mất trộm

đã dùng mánh để lấy lại số tiền bị mất. Cả kinh, thán phục trước sự tài giỏi của người bị mất, sáng

hôm sau hắn tìm đến để “xin học những điều chưa làm được”. Lời đáp của người ở tro cũng chính là

bài học đạo đức mà Vũ Trinh gửi đến người đọc: “ông nghĩ coi, việc được mất đêm qua có nghĩa lý

gì. Tôi thề không làm nghề đó đã năm năm nay. Vì có ông, nên tôi mới phải chơi lại trò cũ chút thôi.

Ông việc gì phải học. Ngày nay, khắp nơi đều là chiến trường, kẻ nam nhi nên gắng sức cho triều

đình. Tôi đã là người dưới trướng của phủ đô đốc. Nếu ông theo, tôi sẽ xin cất nhắc cho, đừng luyến

tiếc cái nghề này nữa!” [23,tr 57].

Có thể thấy rằng loại hình các nhân vật trong tác phẩm giữ một vai trò quan trọng trong việc góp

phần thể hiện tư tưởng, thái độ của nhà văn với cuộc đời. Đặc biệt là những nhân vật có những điểm

gặp gỡ tương đồng trong những tác phẩm khác nhau. Điều này cho thấy hệ thống nhân vật trong

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã khái quát lên được những vấn đề

mang ý nghĩa xã hội, cũng như giải quyết những vấn đề con người là những yêu cầu cấp bách mà

các tác giả đặt ra.

3.2. Đóng góp của loại hình các nhân vật đối với thể loại truyền kì và văn học trung đại Việt Nam:

Loại hình các nhân vật đã cho thấy những bước tiến mới trong tư duy nghệ thuật của các tác giả

Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục. Giờ đây nhân vật được nhìn nhận ở

một góc độ mới, được khoác lên mình những bộ cánh mới. Bên cạnh sự đa dạng, phong phú ở nhiều

kiểu nhân vật còn là việc các tác giả lấy số phận nhân vật làm đối tượng chính trong sáng tác. Yếu

tố cá nhân với một đời sống nội tâm, một phút xao xuyến bồi hồi chính thức bước chân vào văn học.

Nhờ những đóng góp này mà Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã thật

sự thoát khỏi “cuống nhau” của những tác phẩm tự sự mang mầm mống truyền kì trước đó. Không

những vậy với những sản phẩm này Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ Trinh đã khẳng định được vị

trí của mình trong dòng chảy của văn học Việt Nam.

3.2.1. Xây dựng một hệ thống nhân vật đa dạng.

Có một sự đa dạng trong hệ thống các nhân vật của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục và

Lan Trì kiến văn lục ở đó không còn là những nhân vật trong truyền thuyết, trong truyện cổ tích nữa

mà là hệ thống các nhân vật đời thường, quen thuộc. Lần đầu tiên, văn đàn Việt Nam hân hoan đón

nhận một hệ thống nhân vật đa dạng, phong phú từ đứa con truyền kì. Đó là những nhân vật bình

thường, thậm chí là những con người dưới đáy xã hội. Có thể thấy sự xuất hiện của người phụ nữ

trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã góp phần mang lại diện mạo

riêng cho thể loại. Thân phận người phụ nữ được chú ý và các tác giả còn quan tâm đến cả những

người phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội: một cô gái lầu xanh, một bà già hành khất cô độc, rồi

những người vợ hiếu thảo, thủy chung, những nàng dâu chăm ngoan giàu đức hạnh. Kiểu nho sinh,

quan lại đã từng xuất hiện trước đây, nay cũng góp mặt trong những sáng tác của Lê Thánh Tông,

Nguyễn Dữ, Vũ Trinh nhưng mang những nội dung mới: không chỉ ngợi ca mà còn có phê phán.

Nhìn chung đội ngũ nhân vật ở đây đông đảo, đa thành phần, bước vào tác phẩm với những nhiệm

vụ riêng của mình.

Một số nhân vật trong Thánh Tông di thảo còn có những hành vi và cuộc đời bí hiểm. Bà già ăn

xin trong Người hành khất giàu khi khuất núi mọi người mới biết là đã chô dấu vô số của cải dưới

nền nhà. Cô kĩ nữ trong Truyện yêu nữ Châu Mai không ai biết từ đâu đến, câu hát của cô mang tâm

trạng như thế nào. Hai người phụ nữ trong Truyện Hai gái thần cũng vậy. Hai người ngồi giữa chợ

xem bói với một hành tung khó hiểu. Rồi người vợ cá trong Truyện lạ nhà thuyền chài đến công

chúa Bướm trong Duyên lạ xứ hoa đều là những nhân vật có một tiền thân bí ẩn. Tất cả họ đều có

những nét giống thần và cũng gần với người. Tuy kiểu nhân vật này mang những đặc điểm của con

người với một đời sống trần tục nhưng họ vẫn chưa làm nên những nét riêng, tiêu biểu cho một kiểu

người nào đó trong xã hội. Chỉ đến khi Truyền kì mạn lục xuất hiện, người ta mới nhận ra bóng

dáng của nhiều loại người trong tác phẩm. Bởi lẽ Truyền kì mạn lục đã trình diện những khuôn mặt

rất thật với đầy những chi tiết sinh động, sắc sảo. Đó là những hôn quân bạo chúa, những tên tham

quan nhũng nhiễu dân lành; là người phụ nữ bị chà đạp, khinh rẻ dù họ ngoan hiền, chung thủy, nết

na. Đó còn là sự xuất hiện của kiểu nhân vật mới: thương buôn. Kiểu nhân vật này đánh dấu sự phát

triển của thương mại và sức mạnh vạn năng của đồng tiền. Sang đến Lan Trì kiến văn lục các kiểu

nhân vật đa dạng, phong phú hơn. Bên cạnh những nhân vật đã xướng tên trong Thánh Tông di

thảo, Truyền kì mạn lục còn có sự góp mặt của hàng loạt những nhân vật mới: từ một kẻ cắp đến

một phú ông, từ anh lái đò cho đến anh nông dân nghèo khổ, một nàng ca kĩ sẵn sàng hy sinh cho

người yêu đến một người mẹ nghèo yêu con ngay cả khi đã chết. Mỗi người họ bước vào trang sách

của Vũ Trinh thật tự nhiên và thật người. Bên cạnh đó, sự xuất hiện của những nhân vật trẻ em cũng

đã giúp cho tác phẩm của ông mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Với sự xuất hiện của hàng loạt

những nhân vật mới như thế, các tác giả đã thật sự xác lập được vị trí của thể loại này trong dòng

chảy văn học dân tộc. Tất cả đã làm nên sự đa dạng, phong phú trong nghệ thuật xây dựng nhân vật

của các tác giả. Đồng thời nhân vật của mỗi nhà văn cũng mang những đặc trưng riêng. Nhân vật Lê

Thánh Tông có sự giao thoa giữa người và thần. Trong khi đó phần lớn nhân vật của Nguyễn Dữ,

Vũ Trinh lại là những con người bình thường trong xã hội với những khát vọng trần tục. Chính vì

những đặc trưng riêng biệt ấy đã làm nên thành công cho thể loại truyền kì.

3.2.2. Lấy số phận nhân vật làm đối tượng chính trong sáng tác của mình.

Vũ Thanh trong công trình nghiên cứu của mình đã nhận xét: “Hiện thực cuộc sống dưới dưới

ngòi bút của các nhà văn được phản ánh qua cái kì lạ” [131,tr 738]. Bởi lẽ khác với xu hướng văn

học dân gian và văn xuôi lịch sử, đối tượng chủ yếu của truyện truyền kì Thánh Tông di thảo,

Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục là con người với những khát khao trần tục. Đó là niềm khát

khao về một mái ấm gia đình, một phút giây hoan lạc ái ân, là ước muốn được sẻ chia, được thông

cảm, được yêu thương: “Dưới vỏ bọc kì ảo, các tác phẩm xuất sắc nhất của giai đoạn như Thánh

Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đã chủ trương đưa cái sinh hoạt thường ngày vào văn chương. Đó

là một bước tiến dài, không những khẳng định thành công của tự sự mà nói rộng ra còn là thành

quả của tư duy nghệ thuật trong quan niệm về cuộc sống và con người. Do đó đây là thời kỳ có

bước chuyển quan trọng về cảm hứng sáng tác chủ đạo – bước chuyển từ cảm hứng yêu nước sang

cảm hứng nhân văn” [131,tr.739].Vì vậy nhân vật trong những tác phẩm này gần với đời thường,

không có sẵn nguyên mẫu từ văn học dân gian và văn xuôi lịch sử. Vấn đề con người và thân phận

con người đã thực sự trở thành đối tượng trung tâm của phản ánh nghệ thuật, từ đó các tác giả gửi

gắm những ý nghĩa nhân sinh mới mẻ về cuộc đời, con người: con người là chúa tể của muôn loài,

có sức mạnh vượt qua được tất cả những khó khăn trong cuộc sống thường nhật. Lê Thánh Tông,

Nguyễn Dữ và sau này là Vũ Trinh đã cho thấy sức mạnh ấy. Từ người thanh niên trong Ngọc nữ về

tay chân chủ, chàng học trò nho nhã thư sinh trong Nhất thư thủ thần nữ, Ngô Tử Văn khẳng khái

đốt đền trong Chuyện chức phán sự ở đền Tản Viên, Văn Dĩ Thành cương trực thẳng thắn trong

Chuyện tướng Dạ xoa, cho đến người học trò của Nguyễn Quỳnh, tất cả những nhân vật này đã phát

biểu một quan niệm nhân sinh khá táo bạo: con người là chúa tể của muôn loài, không bất kì một

thế lực nào có thể chiến thắng lại được sức mạnh của con người.

Với các tác phẩm truyền kì, lần đầu tiên con người với tư cách là những số phận cá nhân đã bước

vào văn học. Từ Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục đến Lan Trì kiến văn lục, người đọc bắt gặp

những cuộc đời thấp cổ bé họng không bằng “con sâu cái kiến”, những kiếp người bị đọa đày, chà

đạp bước vào làm nhân vật chính trong tác phẩm. Đặc biệt là người phụ nữ - nạn nhân của những bi

kịch do xã hội gây ra. Họ xuất thân từ những hoàn cảnh khác nhau song cùng gặp gỡ ở bi kịch đau

đớn của cuộc đời mình. Các tác giả muốn đập phá những ràng buộc lạc hậu, bất công đối với người

phụ nữ với mong muốn họ được đến với bến bờ của hạnh phúc lứa đôi, của ái ân trần thế. Lúc này

nhân vật không đơn giản được miêu tả theo kiểu cũ - những việc làm khi sống và sự hiển linh sau

khi chết nữa, mà các tác giả chủ yếu khai thác số phận, cuộc đời nhân vật như là trọng tâm của tác

phẩm. Cùng từ đây xuất hiện những cảm nhận mang đậm dấu ấn cá nhân, những nỗi đau nhân tình

thế thái. “Bằng Thánh Tông di thảo, đặc biệt là Truyền kì mạn lục, Nguyễn Dữ và Lê Thánh Tông

đã phóng thành công con tàu văn xuôi tự sự vào quỹ đạo nghệ thuật: văn học lấy con người làm đối

tượng và trung tâm phản ánh” [67,tr 375]. Việc lấy số phận con người làm trung tâm đã giúp cho

các tác phẩm giàu chất hiện thực, đậm chất nhân văn và làm giảm tối đa chất hoang đường.“Đến lúc

này, hiện thực không chỉ còn đóng khung trong những sự kiện lớn lao với những nhân vật quan

trọng mà lúc này từ một chi tiết đời thường với một con người bình thường vô danh cũng làm nền

cho văn học nảy nở. Điều này cũng đánh dấu một giai đoạn mới trong sự phát triển của tư duy mỹ

học và khẳng định vai trò của thể loại truyền kì trong việc phản ánh cuộc sống đương thời”.

[67,tr.377]. Như vậy với cảm hứng lấy số phận con người là trung tâm trong sáng tác của mình, các

tác giả đã chạm đến ngưỡng cửa của văn học hiện đại: con người trong văn học giờ đây là con người

với tư cách cá nhân. Bởi lẽ trong chế độ phong kiến Nho giáo, con người luôn gắn liền với trách

nhiệm của kẻ làm bề tôi, làm con, làm vợ sống theo “tam cương ngũ thường”, chứ không bao giờ là

con người - cá nhân với một đời sống riêng, tâm tư nguyện vọng riêng. Sự xuất hiện của những con

người bình thường trong đời sống đã nói lên rằng: quan niệm về con người trong văn học cần có sự

thay đổi. Con người phải được hiện lên với tất cả những nhu cầu và biểu hiện trong đời sống thường

nhật. Con người không phụ thuộc vào mẫu hình lý tưởng mà là con người tự nhiên, trần tục. Họ vừa

có những ưu điểm vừa cũng tồn tại những hạn chế, nói chung là con người không toàn thiện toàn

mĩ. Do đó ở một mức độ nhất định Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã

không phải là bức minh họa cho đạo đức trung, hiếu, tiết, nghĩa, của Nho giáo. Hiện thực cuộc sống,

con người cá nhân với những khát vọng về tình yêu, hạnh phúc, tuổi trẻ đã bàng bạc phản chiếu vào

văn học. Điều này đã đánh dấu bước phát triển đáng kể cho văn xuôi tự sự giai đoạn này. Từ đó có

thể khẳng định: nhu cầu giải phóng tình cảm gắn liền với đề tài tình yêu và sự xuất hiện của hình

ảnh người phụ nữ trong văn học đã đánh dấu sự ra đời của chủ nghĩa nhân đạo đồng thời cũng cho

thấy sự trưởng thành trong nghệ thuật của nhà văn trung đại.

3.2.3. Xây dựng thành công những nhân vật có đời sống nội tâm rõ rệt.

Một trong những yếu tố cho thấy thể loại truyền kì dần thoát khỏi những ảnh hưởng thụ động từ

văn học dân gian chính là nghệ thuật miêu tả nhân vật, chủ yếu là nghệ thuật thể hiện đời sống nội

tâm nhân vật. Đây là một giá trị nghệ thuật chưa xuất hiện ở Việt điện u linh và Lĩnh Nam chích

quái. Trong ba nhà văn thì Lê Thánh Tông được xem là người khởi xướng đầu tiên, Nguyễn Dữ là

người phát triển đến đỉnh điểm và Vũ Trinh là người khép lại nghệ thuật này bằng cách thể hiện

mới. Khác với lối kể chuyện đơn tuyến của văn học dân gian, các tác giả này đã bắt đầu quan tâm

đến những diễn biến, đặc biệt là những bước ngoặc trong đời sống nội tâm nhân vật: “Quan tâm, đề

cao việc phản ánh những xung đột bình thường trong đời sống gia đình, cũng như việc đi sâu khắc

họa nội tâm nhân vật, Nguyễn Dữ đã là người đóng vai trò mở đường cho loại truyện ngắn thế sự

trong lịch sử văn học dân tộc và khiến cho tác phẩm của ông gần với văn xuôi hiện đại”

[131,tr.739]. Điểm này xuất phát ở chỗ để tài mà các nhà văn đề cập đến là những cái bình thường,

mà lại là cái bình thường nảy sinh trong đời sống gia đình. Đó có thể là một nỗi nhớ người yêu, một

lời khuyên can chồng, một tình yêu thủy chung son sắt, một phút ghen tuông giết chết hạnh phúc gia

đình, một câu chuyện về người đàn bà hành khất.. Các tác giả đưa mùi vị riêng tư của cuộc đời với

một trái tim đồng cảm, thương yêu vào văn học. Mặc dù đây chỉ mới là những manh nha mang tính

thử nghiệm song nó cũng đã báo hiệu một kiểu tư duy nghệ thuật mới.

Nghệ thuật miêu tả tâm lý ở đây thể hiện qua quá trình diễn biến tâm lý nhân vật trong những sự

kiện quan trọng nhất định. Điều này thể hiện sự am hiểu sâu sắc tâm lý con người của các tác giả.

Tuy nhiên, cách thể hiện của các tác giả cũng có phần khác nhau, làm nên sự đa dạng trong nghệ

thuật. Trong Thử tinh truyện của Thánh Tông di thảo, Lê Thánh Tông đã cho thấy tài năng khi miêu

tả diễn biến tâm lí nhân vật anh học trò và người vợ của anh. Chính tâm lí nhân vật đã góp phần

thúc đẩy cốt truyện phát triển dần lên đến cao trào. Do đêm nào cũng được gặp gỡ, gần gũi chuột

tinh giả dạng chồng mình nên khi người chồng thật trở về, người vợ tỏ ra lạnh lùng, thờ ơ, thiếu sự

quan tâm cần thiết. Đây là nét tâm lý hoàn toàn phù hợp với lẽ thường. Bởi lẽ đã quá gần gũi với

chồng nên cô không có cảm xúc vồn vã, nhớ thương khi gặp chồng đi xa về. Tâm trạng của người

vợ được miêu tả: “Đêm đã khuya, anh học trò xin phép về phòng nghỉ. Cùng ngồi với vợ, anh hỏi

han vợ nhưng vợ nín lặng”. Sự im lặng, lạnh lùng của người vợ đã đẩy cơn thịnh nộ của anh chồng

lên đến đỉnh điểm. Song song đó khi miêu tả diễn biến tâm lý của anh học trò ở xa về, ngòi bút tá

giả càng tỏ ra tinh tế hơn. Anh học trò xa nhà thực hiện chí nguyện lập công danh, lâu mới được về

gặp vợ nên tâm trạng muốn gần gũi vợ là lẽ đương nhiên. Nhưng sự hờ hững của vợ đã làm anh cảm

thấy bất ngờ. Trước sự lạnh lùng ấy, anh hết ngạc nhiên rồi dỗ dành, sau đó tức giận và đi đến nghi

ngờ tư cách của vợ. Diễn biến này hoàn toàn phù hợp với tâm lý thông thường của con người. Từ

chỗ đó, tâm trạng người vợ uất ức, tức giận rồi đau đớn khi bị chồng ngờ vực là ngoại tình: “Vợ trợn

mắt lên nhìn chồng → vợ khóc ầm lên → vợ khóc và lạy phục xuống đất, trước cha mẹ chồng nàng

thuật hết mọi chuyện→ không nghĩ gì đến xấu hổ nữa người vợ khóc và đập đầu vào cột, toan tự

tử” [117,tr 162-163] Chuyển biến tâm lý của nhân vật đẩy dần lên cao trào: càng tức giận, uất ức thì

hành động càng quyết liệt, mạnh mẽ. Nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật ở Thánh Tông di thảo dù là

bước đầu nhưng cũng đã có những thử nghiệm hiệu quả. Trong truyện người cháu dâu Long Vương

khi nghe tin con trai đã chết muốn quay về Thủy phủ ngay nhưng “nghĩ đến cái nghĩa cùng đi với

sơn cô nên không nỡ vội dứt mà nán lại ở mươi ngày nữa” [117,tr 23]. Nhưng lòng thương con vô

hạn vẫn không nguôi nên: “tuy đi cùng với cô gái trẻ, nhưng không hát cũng không xem bói, đoán

số, mà nét mặt buồn rười rượi” [117,tr 26]. Còn người vợ sơn thần Đông Ngu tâm lý cũng thay đổi

đột ngột khi nghe tin chồng mất: “đang buồn hóa tươi, mỉm cười” [117,tr 31]. Thông qua miêu tả

tâm lý nhân vật, tác giả đã thành công trong việc khắc họa chân dung cụ thể của từng nhân vật, làm

cho nhân vật có tính cách và đời sống nội tâm riêng. Chính nghệ thuật này đã được Sơn Nam Thúc

khen ngợi: “tả lúc nói khoác rõ ra trạng thái anh nói khoác; tả đúng lúc hổ thẹn, rõ ra bộ mặt kẻ hổ

thẹn” [117,tr 67]. Điều này đã giúp cho những nhân vật của Thánh Tông di thảo thoát ra khỏi hệ

thống nhân vật nguyên mẫu từ văn học dân gian, góp vào văn học trung đại kiểu nhân vật mới.

Nghệ thuật miêu tả tâm lý với hình thức độc thoại nội tâm của nhân vật được thể hiện ở Thánh Tông

di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục cũng cho thấy những dụng công trong việc xây

dựng nhân vật của các nhà văn. Thông qua nghệ thuật độc thoại nội tâm nhân vật, nhiều đoạn văn

gợi xúc cảm và dễ đi vào lòng người đọc hơn. Chẳng hạn đoạn độc thoại nội tâm của người con gái

hiếu thảo trong Dương phu truyện: “Thầm nghĩ: tháng ngày thoi đưa, phút chốc mẹ đã khuất mặt

vắng lời, chỉ thấy cỏ xanh một nấm, không biết linh hồn nương tựa vào đâu? Đau đớn biết dường

nào! Lại nghĩ năm nay mình đã 21 tuổi, con gái khó lòng ở một mình, vườn xuân rồi sẽ có chủ, thì

ngày này năm sau, biết ai là người ra mộ cúng bái? Thương cảm xiết bao! Lo buồn trăm ngã, thổn

thức không nói nên lời, chỉ sụt sùi trước mồ cho đến khi mặt trời lặn mới ra về” [117,tr 98]. Lời độc

thoại ấy đã cho thấy đời sống nội tâm phong phú, giàu tình cảm của nhân vật. Hay đoạn độc thoại

nội tâm của nhân vật “ta” trong Lãng bạc phùng tiên: “Ta ngồi nghĩ: Đêm nay có khánh tiết gì mà

người ấy lại nói như thế? Hoặc giả nói thác để lấy cớ từ chối chăng? Hay là thần thánh gì đây?

Kinh rợn, lạnh toát cả người, ta bèn sai tiểu tốt quay thuyền lên bờ về phủ nằm nghỉ. Nhưng nằm

không yên giấc, thắp đèn lên ngồi. Một mình bâng khuâng nghĩ rằng: Ta ở địa vị Đông cung là bậc

tôn quý, sau này sẽ lên ngôi nam diện là bậc tôn, cả thiên hạ cung phụng một người, giàu sang còn

gì bằng nữa? Tại sao chỉ nửa thuyền trăng tỏ, khúc địch véo von, đã làm cho ta thay đổi, coi thường

mọi vị trân cam, không bằng một bầu mây nước. Nỗi lòng này là do đâu? Ngồi cho đến sáng không

hề chợp mắt” [117,tr 135-136]. Có thể thấy ngôn ngữ kể chuyện của Thánh Tông di thảo không chỉ

đạt đến độ hấp dẫn mà ngòi bút nhà văn còn hướng tới việc miêu tả tâm lí nhân vật. Đấy là tâm

trạng băn khoăn trăn trở của chàng hoàng tử sau lần giáp mặt với người thổi địch – khách tiên. Đấy

là thứ văn phong khác hẳn so với kiểu kể chuyện dân gian cũng như cách kể chuyện của các tác giả

Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái trước đó. Trong Truyền kì mạn lục, nhân vật tự bộc lộ nội tâm

được thể hiện khá nhiều, với đủ mọi loại nhân vật. Tiêu biểu có thể kể là Vũ Thị Thiết, nhà văn đã

dụng công nhiều trong việc thể hiện diễn biến tâm trạng của nhân vật này, đặc biệt ở những lần độc

thoại nội tâm. Đó là những bước ngoặt trong đời sống nội tâm của nhân vật từ chỗ tiễn chồng đi

lính, đến đoạn chồng quay về và nghi ngờ vợ, đặc biệt lúc nàng tìm đến cái chết: “Kẻ bạc mệnh này

duyên phận hẩm hiu, chồng con rẫy bỏ, điều đâu bay buộc, tiếng chịu nhuốc nhơ, thần sông có linh,

xin ngài chứng giám. Thiếp nếu đoan trang giữ tiết, trinh bạch gìn lòng, vào nước xin làm ngọc Mỵ

Nương, xuống đất xin làm cỏ Ngu mỹ. Nhược bằng lòng chim dạ cá, lừa chồng dối con,dưới xin làm

mồi cho cá tôm, trên xin làm cơm cho diều quạ, chẳng những là chịu khắp mọi người phỉ nhổ”

[23,tr 179]. Lời khấn nguyện hay chính là nỗi lòng nàng trước lúc lìa bỏ cõi trần đã cho thấy lòng

trinh tiết, đức hạnh của Vũ Thị Thiết. Trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, Nguyễn Dữ cũng đã thành

công khi miêu tả tâm lý nhân vật Từ Thức: “Từ khi chàng bỏ nhà đi thấm thoát đã được một năm,

ao sen đã đổi thay màu biếc. Những đêm sương sa gió thổi, bóng trăng sáng nhòm qua cửa sổ, tiếng

thủy triều nghe vẳng đầu giường, đối cảnh chạnh lòng, một mối buồn bâng khuâng quấy nhiễu

khiến không sao ngủ được”. [23,tr102]. Đoạn văn đã diễn tả khá đạt nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương

của nhân vật Từ Thức. Chàng trai ấy khi lạc vào cõi tiên tưởng như đã vứt bỏ duyên phận ở chốn

bụi trần. Song thật không ngờ cảnh đẹp ở tiên giới không thể khiến tâm hồn chàng quên đi cuộc

sống ở kiếp người. Để rồi những đêm trăng sáng, những lúc mờ sương hay khi màu sắc ao sen thay

đổi lòng chàng bỗng trỗi dậy nỗi nhớ quê da diết. Thế mới nói con người thật không dễ dứt áo với

cuộc đời này. Ghi nhận đóng góp đặc sắc này, Vũ Thanh đã viết:“Nhân vật chính trong các tác

phẩm thường là những người có nội tâm phong phú và có những suy nghĩ độc lập riêng mình. Đi

sâu vào mảnh đất tâm hồn, Nguyễn Dữ đã là một trong những người đầu tiên góp phần làm tiền đề

cho sự xuất hiện chủ nghĩa nhân đạo trong văn học.” [26,tr210]. Vũ Trinh với Lan Trì kiến văn lục

cũng đã tỏ ra am hiểu những khuất khúc của tâm hồn con người khi đi sâu khám phá đời sống nội

tâm phong phú của nhân vật. Chẳng hạn cô gái trong truyện Tháp báo ân: “cô gái từ khi mắc bệnh,

không được sống gần ai, nay bỗng dưng gặp một chàng trai tuổi trẻ tài hoa, rất hợp ý nguyện của

mình. Nhưng rồi nàng bỗng buồn rầu than rằng: đời tàn nhơ bẩn, nay được gặp nhau trong bóng

tối. Nếu nhìn nhau lúc sáng trời thì một tối giao hoan đâu mà có được! Ai hay một độ gió xuân lại

tăng thêm một lớp hận phong lưu vô tận đến su ốt đời! Hỡi ơi Lưu lang, với mặt mũi này mà gặp lại

chàng, thiếp chịu đựng sao nổi.” [118,tr 141]. Cô gái vừa hạnh phúc được yêu, vừa đau khổ vì mặc

cảm mắc bệnh hiễm nghèo, lại vừa lo lắng cho sự mong manh của tình yêu ấy. Nếu trong truyện dân

gian đối thoại giữa các nhân vật rất ít thì ở đây ngôn ngữ đối thoại lại được sử dụng đậm đặc hơn.

Những đoạn đối thoại thể hiện những mâu thuẫn, xung đột trong tâm hồn nhân vật. Như đoạn đối

thoại ngắn giữa bé Đàn và Trương Sinh “Con nín đi, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn

khổ lắm rồi” [23,tr178]. Qua lời thoại này, người đọc có thể thấy Sinh cũng là người có tình cảm

phong phú nhưng vì cả ghen nên đã đẩy vợ mình vào cái chết. Hay đoạn đối thoại của Vũ Thị Thiết

trước sự ngờ vực của chồng thể hiện sâu sắc nỗi đau của một người vợ trinh bạch chịu hàm oan:

“Thiếp vốn nhà nghèo, được vào cửa tía. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc

lửa binh. Cách biệt ba năm giữ gìn một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguội lòng, ngõ liễu tường

hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin trần bạch để cởi mối

nghi ngờ. Mong chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp” [23,tr 178]. Thông qua ngôn ngữ đối

thoại, nhà văn đã miêu tả tâm lí của người phụ nữ khi bản thân họ rơi vào bi kịch của chính mình.

Nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật mang đến cho tác phẩm những dấu ấn cá nhân sáng tạo nghệ

thuật. Nếu ngôn ngữ kể chuyện, đối thoại trong văn học dân gian ngắn gọn, đơn giản chỉ mang ý

nghĩa thông báo thì ở tác phẩm truyền kì ngôn ngữ đối thoại đã giúp bộc lộ tâm lí nhân vật trong

những hoàn cảnh đầy kịch tính. Chính hoàn cảnh ấy đã giúp nhân vật bộc lộ được tâm trạng của

chính mình: “Thiếp buổi trước ngàn dâu xế bóng, cửa Phật nương mình, đáng cười thay chưa dứt

lòng trần, thêm ngán nỗi còn vương nợ nghiệt, đài dao mệnh đứt, đến nỗi chia bầy, sống còn chưa

được thỏa yêu đương, chết xuống sẽ cùng nhau quấn quít. Mong chàng hiểu câu kệ lục như bỏ cõi

thiên tứ đại tạm rời cảnh Phật, về chốn suối vàng, để thiếp được ngửa nhờ Phật lực, thác hóa đầu

thai, để trả cho xong một cái nợ oan gia ngày trước” [23,tr 87]. Thể loại truyền kì với những thử

nghiệm đầu tiên không hề có yếu tố tâm lý trong việc xây dựng nhân vật. Chính việc chú trọng miêu

tả hành động hơn miêu tả nội tâm nhân vật đã phần nào hạn chế việc xây dựng nhân vật của các tác

phẩm. Việc Thánh Tông di thảo mà đặc biệt là Truyền kì mạn lục có sự dụng công trong việc thể

hiện tâm lý nhân vật đã phần nào bộc lộ được tính cách của nhân vật. Đây cũng là một trong những

nội dung cho thấy điểm khác biệt cơ bản của Truyền kì mạn lục so với Thánh Tông di thảo, Lan Trì

kiến văn lục. Chính bởi thông qua những đoạn độc thoại nội tâm Nguyễn Dữ đã thể hiện thành công

tính cách của nhân vật. Tiêu biểu như tính cách của Trương Sinh, người đại diện cho những người

đàn ông ghen tuông. Nàng Vũ Nương đại diện cho những người phụ nữ tiết hạnh, thủy chung.

Nhiều tính cách có sự phát triển, có những bước ngoặt trong quá trình đấu tranh để dành sự sống,

đấu tranh dành hạnh phúc như Từ Thức, Đào Than. Cùng với những đoạn đối thoại, độc thoại,

những bài thơ xuất hiện trong tác phẩm cũng mang lại những hiệu quả đáng kể trong việc thể hiện

tâm trạng nhân vật. Có thể khẳng định rằng miêu tả đời sống nội tâm nhân vật là một trong những

điểm làm nên thành công của các tác phẩm.

Sự xuất hiện các tác phẩm truyền kì cho thấy quan niệm về con người trong văn học đã thực sự

thay đổi. Quan niệm về hạnh phúc và lẽ sống của con người không đơn giản chỉ là chí và đạo nữa.

Ngay lúc này hạnh phúc là niềm vui được yêu nhau, được sống đúng với bản chất của một con

người. Giờ đây văn học cũng dung nạp những con người quay lưng lại với lẽ sống vốn đã được rèn

đúc trong lò Khổng Mạnh, đi tìm niềm vui trong ái ân xác thịt, trong tình yêu thiên nhiên.

Khi chế độ phong kiến suy thoái thì thơ văn cũng bắt đầu chuyển hướng sáng tác. Lúc bấy giờ

thơ văn mang âm hưởng phi ngã của ý thức cộng đồng chuyển dần sang âm hưởng hữu ngã của ý

thức cá nhân. Nơi các nhà văn đã có sự phân thân giữa một bên là con người “chức năng phận vị” –

con người của cộng đồng - với một bên là con người cá nhân với một cái tôi cá thể. Khi đứng trên

lập trường con người chức năng, họ sẽ tạo ra những đứa con tinh thần mang nội dung giáo huấn,

song khi đối diện với lòng mình, đối mặt với nỗi đau thân phận, nỗi đau hoàn cảnh thì lúc ấy con

người cá nhân có cơ hội xuất hiện. Đặc biệt đứng trước bi kịch của người phụ nữ, các nhà văn đã có

sự đồng cảm sâu xa và những rung động nghệ thuật đích thực. Lúc này các tác giả tự rời bỏ con

người chức năng phận vị để đến với những suy cảm cá nhân chân thật.

Yêu thương, thông cảm, và đồng cảm là những cảm xúc bộc lộ tiếng nói nhân đạo trong tác

phẩm. Một tác phẩm sẽ bất tử với thời gian khi biết nói lên tiếng nói chung cho cả cộng đồng. Tiếng

nói ấy đi từ những con người cá nhân cụ thể với việc khám phá ra đời sống tinh thần của họ, những

suy tư, trăn trở về cuộc đời của họ. Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục đã

đạt đến những thành tựu đó.

3.2.4. Xây dựng thành công nhân vật là hiện thân của nhà văn:

Thánh Tông di thảo được xem là tác phẩm tiên phong của thể loại truyền kì đặt nền mống cho

việc ra đời kiểu nhân vật hiện thân tác giả, Truyền kì mạn lục là bước khẳng định vị trị của loại hình

này trong văn học trung đại Việt Nam và Lan Trì kiến văn lục chuyển giao giữa thể loại truyền kì và

thể thể kí. Nhờ kiểu nhân vật này mà câu chuyện của các tác giả mang màu sắc chủ quan, nhà văn

hóa thân vào nhân vật, xem xét thế giới bằng con mắt của một trong những nhân vật trong tác phẩm.

Đa phần những tác phẩm có xuất hiện kiểu nhân vật này đều là những tác phẩm thể hiện chính con

người của các tác giả. Loại hình nhân vật là hiện thân của tác giả cũng đã khẳng định một bản lĩnh

nghệ thuật và đánh dấu sự cách tân trong tư duy nhà văn. “Nói về lẽ sống nhà Nho – thường là nhà

Nho nghệ sĩ – nhiều thời đại, hay có sự dằn vặt, mâu thuẫn giữa con người của chức năng phận vị

và con người cá nhân có lạc thú” [101,tr.36].

Ở Thánh Tông di thảo, nhân vật – tác giả đã can thiệp vào diễn biến của câu chuyện, khẳng định

uy quyền chế ngự muôn vật của mình. Nhân vật này cũng thường là người giải quyết mâu thuẫn của

câu chuyện khi mâu thuẫn ấy đạt đến cao trào. Ở đây nhân vật thường xưng là “ta”. Trong Lung cổ

phán từ, khi cuộc tranh cãi giữa anh mù và anh điếc đi vào thế bất phân thắng bại thì nhân vật “ta”

xuất hiện và đứng ra phân xử, phán xét. Còn trong Thử tinh truyện khi nỗi oan khuất của nhân vật

lên đến đỉnh điểm, không ai có thể giải oan được cho người vợ bất hạnh ấy, thì nhân vật nhà vua đã

đứng ra làm sáng tỏ mọi việc, rửa sạch tiếng oan cho nàng. Và trong Lưỡng phật đấu thuyết ký, sự

xuất hiện của nhân vật “ta” làm cho mâu thuẫn của truyện kết thúc. Như vậy nhân vật nhà vua tức

“ta” thường thắng thế ở cách xử lý các tình huống trong mọi hoàn cảnh. Dù khó khăn đến đâu, nhân

vật “ta” cũng có thể vượt qua. Điều này cũng cho thấy tư tưởng Nho giáo đang có vai trò quan trọng

trong việc trị nước. Ở Truyền kì mạn lục và Lan Trì kiến văn lục nhân vật là hiện thân của nhà văn

thường ẩn dấu khuôn mặt mình một cách nhẹ nhàng, kín đáo. Nếu ở Thánh Tông di thảo nhân vật –

tác giả khẳng định vai trò chế ngự muôn vật của mình thì trong Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn

lục đấy lại là người nho sĩ ẩn dật. Thông qua nhân vật người ẩn sĩ, Truyền kì mạn lục gửi gắm quan

niệm nhân sinh của tác giả. Những nhân vật như Từ Thức trong Chuyện Từ Thức lấy vợ tiên, ông

già đốn củi trong Chuyện đối đáp của người tiều phu núi Nưa, người đạo sĩ trong Chuyện Lý tướng

quân..thể hiện tâm trạng bất mãn cũng như triết lý về con đường sống của một bộ phận trí thức

trước hiện trạng thối nát của xã hội đương thời. Đồng thời hình ảnh nhân vật ẩn sĩ dù hiện lên qua

những hình dạng khác nhau song cũng cho thấy tấm lòng của họ với đời. Nói là trả ấn từ quan, là lui

chân khỏi chốn bụi trần nhưng tấm lòng của họ vẫn không nguôi hướng về những con người dưới

đáy xã hội, như để che chở, nâng niu. Tuy nhiên không thể “dấy bão tố từ đáy lọ mực”, họ không

tìm ra lối thoát nào mang tính đột biến để vượt thoát khỏi vòng “thịnh suy trị loạn đắp bồi” mà họ

“nếm trải một cách chán ngán”. Chính vì vậy, tác phẩm của Nguyễn Dữ đã đụng chạm đến một vấn

đề khá cơ bản của chủ nghĩa nhân đạo trong văn học: vấn đề thân phận con người, những con người

sinh ra không đúng thời. “Giữa một bức tranh xã hội phức tạp, hỗn độn với những con người mũ

cao áo dài nhớp nhúa ngụp lặn trong tiền của lợi danh, máu và nước mắt của nhân dân, nổi lên

hình tượng người ẩn sĩ trong sáng, cao khiết”.[125,Tr 116]

Khác với Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, loại hình nhân vật là hiện thân của tác giả ở Vũ Trinh

không hiện lên một cách rõ nét thông qua bất kì nhân vật nào mà bàn bạc trong nhiều nhân vật của

tác phẩm. Vũ Trinh viết tác phẩm Lan Trì kiến văn lục không chỉ nhằm mở rộng kiến văn cho mình,

cho người mà thông qua đó còn thể hiện nỗi niềm về thân phận con người và sự chiêm nghiệm lẽ

đời. Lan Trì kiến văn lục có truyện viết về những con vật biết giúp đỡ người khác khi hoạn nạn. Tác

giả đã gửi gắm nhiều ý nghĩa nhân sinh cao đẹp thông qua kiểu con vật: loài vật còn biết yêu thương

chia sẻ với nhau huống chi là con người cùng một dân tộc. Hình ảnh người phụ nữ cũng mang dáng

dấp đồng cảm với nhà văn. Nhà văn đã có sự đồng cảm, xót thương cho nhân vật của mình. Rồi còn

hệ thống những nhân vật như: một tên trộm, một em bé ra đời kì lạ, một anh thư sinh nghèo thi đỗ

trong sự ngạc nhiên, ngỡ ngàng. Tất cả họ đã hiện lên trong tác phẩm Vũ Trinh cứ như thật, bước

vào trang sách rất tự nhiên và rất thực.

Nhìn chung kiểu nhân vật này trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn

lục cũng đã khẳng định đây là kiểu nhân vật mới – được tạo nên bởi chính trí tưởng tượng và sự

sáng tạo của nhà văn.

Không sáng tác mà sưu tập, hiệu đính và bổ sung các tích cũ từ nguồn tư liệu khác nhau là tất cả

những đặc điểm của Lý Tế Xuyên, Vũ Quỳnh và Kiều Phú. Đến Lê Thánh Tông, Nguyễn Dữ, Vũ

Trinh những sản phẩm của họ đã mang một màu sắc chủ quan, nhà văn hóa thân vào nhân vật, quan

sát, nhận xét và đánh giá cuộc sống bằng con mắt của một trong những nhân vật trong tác phẩm. Ở

Thánh Tông di thảo, Lê Thánh Tông đã làm cuộc thử nghiệm đưa hình bóng của mình vào tác

phẩm, dưới danh xưng là “ta”. Đây là giọng điệu đậm màu sắc bề trên, phán truyền. Nhưng cuộc

cách mạng này đã được tiếp tục và thắng lợi mĩ mãn bởi Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ và Lan

Trì kiến văn lục của Vũ Trinh. Nguyễn Dữ, Vũ Trinh tỏ ra điêu luyện hơn khi hình ảnh nhà văn ẩn

sau khuôn mặt của các nhân vật mà không một giọng điệu phán xét.

Thánh Tông di thảo là sự tiếp nối của Việt điện u linh, Lĩnh Nam chích quái nhưng là sự tiếp nối

quan trọng. Bởi khi Thánh Tông di thảo ra đời, thể loại truyền kì đã thật sự xác lập được chỗ đứng

của mình trong lòng văn học dân tộc. Rồi đến Truyền kì mạn lục xuất hiện, “thiên cổ kì bút” này đã

đưa tên tuổi của truyền kì lên đỉnh cao sáng chói. Và với Lan Trì kiến văn lục, khuôn mặt của thể

loại này đã hiện lên rõ nét lần cuối trước khi kết thúc nhiệm vụ của mình. Với những giá trị đặc sắc

cả về phương diện nghệ thuật lẫn tư tưởng, các tác phẩm trên đã có những đóng góp quan trọng cho

văn học trung đại Việt Nam.

KẾT LUẬN

Từ việc nghiên cứu loại hình các nhân vật trong ba tập truyện Thánh Tông di thảo, Truyền kì

mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, chúng tôi đi đến một số kết luận như sau:

1. Trước hết, về một số vấn đề liên quan đến tác giả và tác phẩm như: tác giả của Thánh Tông

di thảo, cách gọi tên tác giả Truyền kì mạn lục… Chúng tôi cho rằng Thánh Tông di thảo đa phần là

những truyện của Lê Thánh Tông, trong đó cũng có một số truyện không thuần nhất của Lê Thánh

Tông mà có thể được người đời sau thêm thắt hoặc sửa đổi một số chi tiết. Về tác giả Truyền kì mạn

lục, các nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều cách gọi tên; tuy nhiên theo chúng tôi thì nên gọi như từ

trước đến nay là Nguyễn Dữ, khi cần thì chú thích thêm là Nguyễn Tự. Còn về vấn đề có hay không

việc Nguyễn Bỉnh Khiêm phủ chính Truyền kì mạn lục, vấn đề này qua tìm hiểu chúng tôi đi đến

nhận định: thế giới quan của Nguyễn Dữ và Nguyễn Bỉnh Khiêm hoàn toàn khác nhau nên Nguyễn

Bỉnh Khiêm không thể phủ chính Truyền kì mạn lục cho Nguyễn Dữ.

2. Trước nay, khi nói đến Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục, các

nhà nghiên cứu chủ yếu tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của từng tác phẩm riêng lẻ hoặc chỉ lấy làm

dẫn chứng cho những vấn đề mang tính khái quát. Luận văn chúng tôi lần này tiến hành nghiên cứu

cách thể hiện nhân vật trong ba tác phẩm. Trên cơ sở đó chúng tôi tìm ra những điểm chung cũng

như nét khác biệt trong nghệ thuật xây dựng nhân vật ở ba tác phẩm. Từ đây luận văn chỉ ra bốn loại

hình nhân vật:

- Loại hình nhân vật siêu nhiên, tôn giáo.

- Loại hình nhân vật bình phàm.

- Loại hình nhân vật là hiện thân của nhà văn.

- Loại hình nhân vật con vật.

3. Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy loại hình nhân vật đã phản ánh xã hội, con người thời

trung đaị. Mượn xưa nói nay, mượn chuyện người nói chuyện mình, dẫn chuyện thiên đình, âm phủ,

long cung để nói chuyện trần gian… là đặc điểm nổi bật của Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục,

Lan Trì kiến văn lục. Ở mỗi loại nhân vật, các tác giả truyền kì thể hiện cách đánh giá của họ đối với

mỗi kiểu người trong xã hội. Viết về tầng lớp thống trị, các tác giả luôn có một thái độ khen chê rõ

ràng. Đối với những vị vua anh minh như Lê Thánh Tông, những ông quan có đức như Dương Đức

Công, các tác giả luôn thể hiện sự đồng tình, ngưỡng mộ. Nhưng mặt khác, Lê Thánh Tông, Nguyễn

Dữ, Vũ Trinh cũng nghiêm khắc phê phán, đả kích, lên án những vua quan dâm dục, độc ác hại dân

bán nước. Trong khi đó đến với những kiếp người dưới đáy xã hội, các tác giả truyền kì lại bày tỏ

lòng cảm thông, sự thương xót và niềm tin vào họ. Đặc biệt là tình cảm dành cho người phụ nữ -

những người đáng thương nhất trong xã hội. Đồng thời các tác giả cũng thể hiện niềm tin vào tầng

lớp trí thức trong xã hội đương thời.

4. Một trong những điểm đáng quan tâm ở Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến

văn lục là sự xuất hiện nhân vật thứ ba – nhân vật là hiện thân của tác giả. Chính điểm này làm cho

những tác phẩm trên đậm màu sắc chủ quan. Thông qua tác phẩm người đọc thấy thấp thoáng đâu

đây bóng dáng và tâm hồn của nhà văn. Điều này chưa hề có trong Lĩnh Nam chích quái, Việt điện u

linh. Đồng thời trong Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục còn có sư xuất

hiện của loại hình nhân vật con vật, loại hình này mang đến cho người đọc những bài học làm người

ở đời.

5. Truyện truyền kì đã phản ánh hiện thực cuộc sống theo một cách riêng. Và để làm được điều

này thể loại truyền kì xây dựng nhân vật theo đặc trưng riêng của thể loại. Để thể hiện ý đồ sáng tạo

nghệ thuật của mình, các tác giả đã thường xuyên sử dụng phương thức nhân hóa và thần kì hóa.

Nhà văn phú cho vật thể và phi vật thể một tính cách như con người để từ đó nói được những điều

mà lễ giáo phong kiến ngăn cấm, chẳng hạn như tiếng nói yêu đương. Đồng thời nghệ thuật nhân

hóa được sử dụng ở đây cũng nhằm phê phán tầng lớp thống trị và nói lên những mong muốn cao

đẹp của con người. Trong khi đó, nghệ thuật thần kì hóa được thể hiện rõ qua việc phú cho con

người những khả năng khác người như có thể gặp gỡ, trò chuyện với thần linh; những đạo sĩ trừ

được yêu ma; những ẩn sĩ thoắt ẩn thoắt hiện... Điều này thể hiện khát vọng vượt qua sự hữu hạn

của con người để có thể khuyến thiện trừng ác, thực hiện công lý. Bên cạnh đó các tác phẩm truyền

kì còn tạo ra các thế giới siêu nhiên. Đó là thế giới thiên đình, nơi để con người làm những việc tốt

đẹp, tuyệt vời. Hay thế giới âm phủ, nơi để răn dạy, trừng trị những kẻ làm điều ác, điều xấu. Chính

vì vậy có thể thấy nghệ thuật thể hiện yếu tố “kì” trong những tác phẩm này không chỉ làm cho câu

chuyện thêm sức hấp dẫn mà còn để phục vụ cho sự nhận thức về cuộc sống, về xã hội và con

người.

6. Qua thời gian, năm tháng nhưng Thánh Tông di thảo, Truyền kì mạn lục, Lan Trì kiến văn lục

vẫn còn nguyên giá trị của nó. Với những đóng góp cho nền văn học nước nhà, các tác phẩm truyền

kì này xứng đáng được xếp vào hàng những tác phẩm của một thời đã qua nhưng không bao giờ

phai nhạt.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Thị An, Quan niệm về Thần và việc văn bản hóa truyền thuyết trong truyện văn xuôi

trung đại, TCVH số 3. 2003.

2. Aristotle, Nghệ thuật thy ca, NXB Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2007. 3. Lại Nguyên Ân, Từ điển văn học Việt Nam – từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994.

4. Boris Riftin, Thử so sánh Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu (Trung Quốc) với Kim ngao tân

thoại của Kim Thời Tập (Triều Tiên), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ (Việt Nam) và Cà tỳ tử của Asai Rey (Nhật Bản), NCVH số 12. 2006.

5. Hoàng Hồng Cẩm, Tình hình văn bản “Tân biên truyền kì mạn lục tăng bổ giải âm tập chú” hiện còn ở thư viện viện nghiên cứu Hán Nôm, TCHN số 1.1996.

6. Hoàng Hồng Cẩm, Tác phẩm Tân biên truyền kì mạn lục với văn học dân gian Việt Nam, TCNCDG số 10/1996.

7. Quốc Chấn, Những vua chúa Việt Nam giỏi văn chương, Nxb Thanh Hóa, 2003. 8. Phạm Tú Châu, Truyền kì chữ Hán ở Hàn Quốc và Việt Nam,Tạp chí Văn học số 10/1995. 9. Phạm Tú Châu, Vài suy nghĩ về tiểu thuyết tình dục chữ Hán của Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm 3/1999.

10. Phạm Tú Châu, Về mối quan hệ giữa Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Tạp chí Văn học số

11. Cho Dong Il, Khái quát văn học cổ điển Triều Tiên, TCVH số 10.1995. 12. Cho Jae Hyun, Quan hệ Hàn - Việt thời trung cận đại, TCVH số 10 – 1995. 13. Nguyễn Huệ Chi, Truyện truyền kỳ Việt Nam, quyển hai, Nxb Giáo dục, 2009. 14. Nguyễn Huệ Chi, Mấy đặc trưng loại biệt của văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIX, Tạp chí Văn học số 3 – 2005.

15. Nguyễn Huệ Chi, Hoàng đế Lê Thánh Tông: nhà chính trị tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc”, , Nxb Khoa học xã hội, 1998

16. Trần Bá Chi, Về sách Thánh Tông di thảo, Tạp chí Hán Nôm số 5 – 2006. 17. Nguyễn Đình Chú, Hiện tượng văn – sử - triết bất phân trong văn học Việt Nam thời trung đại, Tạp chí Văn học số 5 – 2002.

18. Lý Xuân Chung, Tìm hiểu đôi nét về văn học chữ Hán Hàn Quốc, Tạp chí Hán Nôm số 6 – 2007.

19. Nguyễn Văn Dân, Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng, Nxb Giáo dục, 1999. 20. Nguyễn Văn Dân, Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Khoa học xã hội, 2006 21. Nguyễn Văn Dân, Lý luận văn học so sánh, Nxb Khoa học xã hội, 1998. 22. Lê Tiến Dũng, Giáo trình lý luận văn học – phần tác phẩm văn học, Nxb ĐHQG tp. Hồ Chí Minh, 2003.

23. Nguyễn Dữ, Truyền kì mạn lục, Nxb văn nghệ hội nghiên cứu giảng dạy văn học tp. Hồ Chí Minh, 1988

24. Trần Trọng Dương, Bước đầu tìm hiểu cấu trúc bị động trong Truyền kì mạn lục giải âm, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 2004.

25. Đặng Anh Đào, Vai trò của cái kì ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam, Tạp chí Văn học số 12 – 2006.

26. Phan Cự Đệ, Truyện ngắn Việt Nam – lịch sử - thi pháp – chân dung, Nxb Giáo dục, 2007. 27. Biện Minh Điền, Vấn đề tác giả và loại hình tác giả văn học trung đại Việt Nam, Nghiên cứu Văn học số 4 – 2000.

28. Hà Minh Đức, Đỗ Văn Khang, Phạm Quang Long, Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2003.

29. Đoàn Lê Giang, Thời trung đại trong văn học các nước khu vực văn hóa chữ Hán, Nghiên cứu Văn học số 12 – 2006.

30. Đoàn Lê Giang, “Thần” trong tư tưởng nghệ thuật cổ Trung Quốc và Việt Nam, Tạp chí Văn học số 3 – 2000.

31. Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm – nguồn tư liệu văn học, sử học Việt Nam (thư tịch chí Việt Nam), tập I, Nxb Văn hóa, 1984.

32. Nguyễn Thị Bích Hải, Truyền thống “hiếu kì” trong tiểu thuyết Trung Quốc, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2007.

33. Dương Quảng Hàm, Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Hội nhà văn, 2002. 34. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi, Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, 2007. 35. Đỗ Đức Hiểu, Từ điển văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, 2004. 36. Lưu Hiệp, Văn tâm điêu long, Phan Ngọc dịch và giới thiệu, Nxb Lao động trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2007.

37. Nguyễn Ngọc Hiệp, Đời sống của nhân vật truyền kì ngoài tác phẩm và trong lòng tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Tạp chí Văn học dân gian.

38. Nguyễn Xuân Hòa, Ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ Trung Quốc đến tiểu thuyết cổ Việt Nam, Nxb Thuận Hóa, 1998

39. Nguyễn Văn Hoàn, So sánh địa vị chữ Hán ở khu vực Đông Á với địa vị chữ La tinh ở khu vực địa trung hải thời ttung đại, Tạp chí Văn học số 2 – 1995.

40. Nguyễn Quang Hồng, Vấn đề đọc tên tác giả Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 1 – 2003.

41. Lại Văn Hùng, Về bộ ba tác phẩm truyện ngắn – ký – tiểu thuyết chương hồi, Tạp chí Văn học số 3 – 2002.

42. Lại Văn Hùng, Bàn thêm về vấn đề tên tác giả - tác phẩm Truyền kì mạn lục, Tạp chí Văn học số 10 – 2002.

43. Nguyễn Phạm Hùng, Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001. 44. Nguyễn Phạm Hùng, Đoán định lại thân thế Nguyễn Dữ và thời điểm sáng tác Truyền kì mạn lục, Nghiên cứu Văn học số 1 – 2006.

45. Nguyễn Phạm Hùng, Tìm hiểu khuynh hướng sáng tác trong truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Tạp chí Văn học số 2/1987.

46. Trần Quang Huy, Thể tài “Tài tử giai nhân” trong truyện Nôm Việt Nam, Tạp chí Văn học số 12- 2002

47. Trần Đình Hượu, Tuyển tập, tập I, Nxb Giáo dục, 2007. 48. Trần Đình Hượu, Tuyển tập, tập II, Nxb Giáo dục, 2007. 49. Đinh Gia Khánh, Tuyển tập tập II, Nxb Giáo dục, 2007. 50. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chương, Văn học Việt Nam ( thế kỉ X – nửa đầu thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, 1997.

51. Toàn Huệ Khanh, Nghiên cứu so sánh một tiểu thuyết truyền kì trong Kim ngao tân thoại

(Hàn Quốc), Truyền kì mạn lục (Việt Nam) và Tiễn đăng tân thoại (Trung Quốc), Nghiên cứu Văn học số 2 – 2005

52. Kawamoto Kuniye, Bàn về các bản in sách Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 2- 2000. 53. Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược, Nxb văn hóa thông tin, 1999. 54. K. I. Golugina, Tiễn đăng tân thoại và Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 2004. 55. Kim Heong Kyu, Các lĩnh vực văn học cổ điển của Triều Tiên, Tạp chí Văn học số 10 – 1995 (Kim Seona dịch).

56. Kim Seona, Đề tài tình yêu trong Kim ngao tân thoại của Hàn Quốc (So sánh với Truyền kì mạn lục của Việt Nam), Tạp chí Văn học số 10 – 1995.

57. Đinh Xuân Lâm, Nguyễn Văn Khánh, Nguyễn Đình Lễ, Đại cương lịch sử Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 2006.

58. Đặng Thanh Lê, Tiếp cận một số vấn đề tiếp nhận ngôn ngữ và tư tưởng triết học Trung Quốc thời kì trung đại, Tạp chí Văn học số 2 – 1995.

59. Lê Nguyên Long, Về khái niệm cái kì ảo và văn học kì ảo trong nghiên cứu văn học, Nghiên cứu Văn học số 9 – 2006

60. Nguyễn Lộc, Văn học Việt Nam (nửa cuối thế kỉ XVIII – hết thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục, 2001. 61. Phương Lựu, Góp phần xác lập hệ thống quan niệm Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục.

62. Phương Lựu (chủ biên), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, 2006. 63. Phương Lựu, Văn hóa, văn học Trung Quốc cùng một số liên hệ ở Việt Nam, Nxb Hà Nội, 1996

64. Nguyễn Công Lý, Văn học Phật giáo thời Lý – Trần, diện mạo và đặc điểm, Nxb ĐHQG Tp. Hồ Chí Minh, 2002.

65. Nguyễn Thị Tuyết Mai, Quan niệm của Nho giáo về con người, về giáo dục và đào tạo con người, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2009.

66. Đặng Văn Minh, Góp phần tìm hiểu “Tân biên Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1996

67. Nguyễn Đăng Na, Con đường giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb Giáo dục, 2006. 68. Nguyễn Đăng Na, Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại – những vấn đề văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, 1999.

69. Nguyễn Đăng Na, Truyền kì mạn lục dưới góc độ so sánh, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1988. 70. Nguyễn Đăng Na, Truyền kì mạn lục có 20 hay 22 truyện? Tạp chí Văn học số 1 - 2003 71. Nguyễn Nam, “chinh phụ ngâm” trong “Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 2000. 72. Nguyễn Nam, Quá trình truyền nhập và lưu hành Tiễn đăng tân thoại ở Việt Nam, Tạp chí Văn học số 5 – 2001.

73. Nguyễn Nam, Cái bóng và những khoảng trống trong văn chương (Đọc Chuyện người con gái Nam Xương), Nghiên cứu Văn học số 4 – 2004.

74. Nguyễn Nam, Nguyễn Dữ hay Nguyễn Tự? Tạp chí Văn học số 1 – 2003. 75. Nguyễn Nam, Đọc lời bản dịch Nga văn Truyền kì mạn lục của M. Tkachov, Tạp chí Văn học số 3 – 2002.

76. Đức Ninh, Nghiên cứu văn học Đông Nam Á, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 2004. 77. Nguyễn Kim Ngân, Một công trình khoa học nghiên cứu so sánh tác phẩm truyền kì Đông Á, Tạp chí Văn học số 6 – 2005.

78. Trần Nghĩa, Chỗ khác nhau giữa tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực, Tạp chí Hán Nôm 3/1999.

79. Trần Nghĩa, Việt Nam trong quá khứ đã tiếp nhận những gì ở tư tưởng Đạo gia của Trung Quốc, Tạp chí Hán Nôm 4/2000.

80. Trần Nghĩa, Thử so sánh Truyền kì mạn lục với Tiễn đăng tân thoại, Tạp chí Hán Nôm 1/1987.

81. Trần Nghĩa, Từ những tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam có nguồn gốc Trung Quốc, tìm hiểu cách tiếp nhận văn học nước ngoài của cha ông ta, Tạp chí Hán Nôm số 2 - 2005

82. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán của Triều Tiên, Tạp chí Hán Nôm 3/1993. 83. Trần Nghĩa, Lý hoặc luận – bông hoa đầu mùa của Phật giáo luy lâu, Tạp chí Hán Nôm 1/1991.

84. Trần Nghĩa, Lược đồ quan hệ tiểu thuyết Hán Nôm Việt Nam và tiểu thuyết cổ các nước trong khu vực, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1998.

85. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam – danh mục và phân loại, Tạp chí Hán Nôm số 3 – 1997.

86. Trần Nghĩa, Ảnh hưởng của Đạo giáo đối với tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1999

87. Trần Nghĩa, Tiểu thuyết chữ Hán của Nhật Bản, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1993.

88. Trần Nghĩa, Một bản in Truyền kì mạn lục in năm 1712 vừ tìm thấy, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1985.

89. Trần Nghĩa, Từ “loi” của đạo Cơ Đốc và “Pháp” của đạo Phật, lý giải đạo của Lão Tử, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 1994.

90. Bùi Văn Nguyên, Lịch sử văn học Việt Nam, tập II, Nxb Giáo dục, 1978. 91. Nguyễn Văn Nguyên, Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh đầu thế kỉ XV và những chứng tích còn lại, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 2002.

92. Nguyễn Thị Oanh, “Ca tỳ tử” (Otogiboko) và “Vũ nguyệt vật ngữ” (Ugetsumonogatari) với “Truyền kì mạn lục”, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1995.

93. Nguyễn Khắc Phi, Mối quan hệ giữa văn học Việt Nam và văn học Trung Quốc – Qua cái nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, 2004.

94. Lê Văn Quán, Thử bàn về đạo “Hiếu” của Nho gia, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2003. 95. Lê Văn Quán, Bước đầu tìm hiểu luân lý đạo đức trong truyền thống văn hóa Nho gia, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2004.

96. Lê Văn Quán, Lại bàn về “Tam giáo đồng nguyên”, Tạp chí Văn học số 5 – 2004. 97. Trương Hữu Quýnh, Phan Đại Doãn, Nguyễn Cảnh Minh, Đại cương lịch sử văn học Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, 2006.

98. Schneider Paul, Khảo cứu bản dịch Nôm Truyền kì mạn lục, Tạp chí Hán Nôm số 1 – 1995 99. Nguyễn Hữu Sơn, Về thi pháp và việc nghiên cứu văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học số 11 – 2000

100. Nguyễn Hữu Sơn, Đặng Thai Mai bàn về quan hệ văn học Việt – Trung thời trung đại, Tạp chí Văn học số 1 – 2003.

101. Nguyễn Kim Sơn, Những chuyển biến của văn học thế kỉ XVIII – đầu thế kỉ XIX – nhìn từ góc độ sự tác động của Nho học tới văn học, Tạp chí Văn học số 8 – 1998

102. Trần Đình Sử, Tuyển tập, tập I, Nxb Giáo dục, 2005. 103. Trần Đình Sử, Thời trung đại – cái tôi trong các học thuyết trong đời sống và trong văn học, Tạp chí Văn học số 7 – 1995.

104. Trần Đình Sử, Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội, 1987. 105. Bùi Duy Tân, Khảo và luận một số thể loại tác giả - tác phẩm văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1994.

106. Bùi Duy Tân, Văn học chữ Hán trong mối tương quan với văn học Nôm ở Việt Nam, Tạp chí Văn học số 2 – 1995.

107. Bùi Duy Tân, Nguyễn Hữu Sơn, Phạm Đức Duật, Nguyễn Đức Dũng, Hợp tuyển văn học trung đại Việt Nam, tập I, Nxb Giáo dục, 2006.

108. Văn Tân, Nguyễn Hồng Phong, Lịch sử văn học Việt Nam (sơ giản), Nxb Khoa học Hà Nội, 1963.

109. Trần Thị Băng Thanh, Những suy nghĩ từ văn học trung đại, Nxb Khoa học xã hội, 1999. 110. Phạm Văn Thắm, Nghiên cứu văn bản và đánh giá thể loại truyền kì viết bằng chữ Hán Việt Nam thời trung đại, Hà Nội, 1996.

111. Bùi Việt Thắng, Truyện ngắn những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học QG Hà Nội, 2006

112. Trần Nho Thìn, Văn học trung đại Việt Nam – dưới góc nhìn so sánh, Nxb Giáo dục, 2007. 113. Trần Nho Thìn, Thử phác họa tiến trình văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học số 5 – 2003.

114. Phương Lập Thiên, Về ảnh hưởng của Phật giáo Trung Quốc đối với Triều Tiên, Nhật Bản và Việt Nam, Tạp chí Hán Nôm số 2 – 2004.

115. Nguyễn Tài Thư, Tam giáo đồng nguyên, hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á, Tạp chí Hán Nôm 3/1993.

116. Bùi Đức Tịnh, Lược khảo lịch sử văn học Việt Nam từ khởi thủy đến cuối thế kỉ XX , Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh, 2005.

117. Lê Thánh Tông – về tác giả và tác phẩm, Nxb Giáo dục, 2007. 118. Vũ Trinh, Lan Trì kiến văn lục, Nxb Thuận Hóa trung tâm văn hóa ngôn ngữ Đông Tây, 2005.

119. Tủ sách văn học cổ - trung đại Việt Nam, khuyết danh, Thánh Tông di thảo, Nxb Văn học Hà Nội, 2001.

120. Tổng tập Văn học Việt Nam” (tập 4), Nxb Khoa học Xã hội, 2000. 121. Tuyển tập 40 năm Tạp chí Văn học 1960 – 1999, tập II, Văn học cổ - cận đại Việt Nam, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999

122. Nguyễn Bằng Tường, Đặc điểm tư duy Việt Nam trong truyền thống, Tạp chí Văn học số 3- 1999.

123. Đinh Phan Cẩm Vân, Cái “kì” trong tiểu thuyết truyền kì, Tạp chí Văn học số 10 – 2000. 124. Đinh Phan Cẩm Vân, Góp thêm vài suy nghĩ về mối quan hệ giữa Chuyện cây gạo và Truyện chiếc đèn mẫu đơn, Nghiên cứu Văn học số 6 – 2005.

125. Đoàn Thị Thu Vân, Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Phạm Văn Phúc, Văn học trung đại Việt Nam, (thế kỉ X – cuối thế kỉ XIX), Nxb Giáo dục 2008.

126. Lê Trí Viễn, Đặc điểm lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội, 1987.

127. Lê Trí Viễn, Đặc trưng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Hà Nội, 1996. 128. Lê Trí Viễn, Quy luật phát triển lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, 1998 129. Nguyễn Khắc Viện, Bàn về đạo nho, Nxb Thế giới Hà Nội, 1993. 130. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam, dòng riêng giữa nguồn chung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 1999.

131. Trần Ngọc Vương, Văn học Việt Nam thế kỉ X – XIX – những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo dục, 2007.

132. Trần Ngọc Vương, Một số vấn đề liên quan tới tính đặc thù của văn học trung đại Việt Nam, Tạp chí Văn học số 5 – 2003

133. Thân Tài Xuân, Đạo giáo và truyền kì đời Đường, Tạp chí Hán Nôm số 4 – 1998. 134. Lê Thu Yến, Đoàn Thị Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn Nhu, Văn học trung đại – những công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục, 2003.