BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

TRẦN VĂN THỊNH

VẤN ĐỀ

TIẾP NHẬN LEP TÔNXTÔI

TẠI MIỀN NAM VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954 - 1975

Chuyên ngành: Lý luận văn học

Mã số: 5. 04. 05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LÝ LUẬN VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

TS. HUỲNH VĂN VÂN

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH - 2005

MỞ ĐẦU

Lep Tônxtôi là một trong những nhà văn Nga thế kỉ XIX có ảnh hưởng lớn đến văn học thế giới

và văn học Việt Nam. Uy tín và tiếng tăm của nhà văn này luôn được các nhà phê bình và nghiên cứu

văn học đánh giá rất cao. Sự xuất hiện của Chiến tranh và hoà bình, Anna Karênina và Phục sinh cùng

với những tác phẩm tôn giáo đã nâng tên tuổi của Lep Tônxtôi lên hàng vĩ nhân của nền văn học nhân

loại. Sự xuất hiện của Chiến tranh và hoà bình được xem như một sự kiện văn học lớn của nền văn học

Nga và thế giới thế kỉ XIX với tư cách như là sự xuất hiện của một thể loại tiểu thuyết mới: tiểu thuyết

sử thi. Sự xuất hiện của Anna Karênina một lần nữa lại trở thành một sự kiện văn học lớn khi nó được

xem như là một trong những tác phẩm đã đột phá thể loại tiểu thuyết gia đình đương thời. Lep Tônxtôi

nghiễm nhiên trở thành một nhà văn mà tác phẩm của ông hiện diện khắp nơi trên thế giới, Chiến tranh

và hoà bình, Anna Karênina hầu như có mặt trong mọi thư viện gia đình.

Không chỉ là một nhà văn lớn, Lep Tônxtôi còn là một nhà tư tưởng lớn. Nói đến nhà văn Lep

Tônxtôi, không thể không biết đến nhà cải cách Lep Tônxtôi và càng không thể không biết nhà tư

tưởng Lep Tônxtôi. Chủ nghĩa Lep Tônxtôi trở thành một học thuyết tôn giáo-xã hội mà ảnh hưởng của

nó chắc chắn đã có tác động rất lớn đến sự vận động và biến đổi của lịch sử thế giới. Gandhi- một vị

thánh sống của Ấn Độ, đã từng khẳng định mình đã học hỏi và vận dụng học thuyết Lep Tônxtôi vào

con đường tranh đấu cách mạng nhằm giải phóng và thống nhất Ấn Độ. Đương thời, tên tuổi và học

thuyết tôn giáo-xã hội của Lep Tônxtôi đã quyến rũ hàng ngàn người trên thế giới hành hương đến

Iaxnaia, quê hương của “giáo chủ” Lep Tônxtôi. Ảnh hưởng của Lep Tônxtôi đến tinh thần của loài

người trên thế giới là không gì có thể đo đếm được. Điều này cũng hoàn toàn đúng đối với người Việt

Nam nói chung, người miền Nam nói riêng.

Nguyễn Ái Quốc được xem là người Việt Nam đầu tiên tiếp xúc với sáng tác của Lep Tônxtôi

(khi Người đang ở Pháp). Người cũng tự nhận mình là người học trò nhỏ của đại văn hào Lep Tônxtôi.

Ở miền Bắc, những tác phẩm của Lep Tônxtôi được đón nhận nồng nhiệt mà thái độ của độc giả khá

thống nhất trên tinh thần tiếp nhận của Lênin đối với Lep Tônxtôi vào thập niên đầu tiên của thế kỉ XX.

Ở miền Nam, những tác phẩm của Lep Tônxtôi cũng được đón nhận không kém phần hào hứng.

Trên tinh thần thời đại và điều kiện kinh tế-chính trị-văn hoá-xã hội miền Nam, sự tiếp nhận của độc

giả ở miền Nam có sự khác biệt so với sự tiếp nhận của độc giả miền Bắc Việt Nam, tuy vậy với tư

cách như là những công trình nghệ thuật đích thuật và có giá trị nghệ thuật lớn lao, sự tiếp nhận của

công chúng miền Nam đối với sáng tác và tư tưởng của Lep Tônxtôi vẫn tương đối thống nhất. Sự phân

hoá độc giả trong quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi tuy có tồn tại nhưng chưa bao giờ là một sự phân hoá

lớn và sâu sắc.

1. Lý do chọn đề tài:

Chúng tôi chọn đề tài Vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975

bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau, cả khách quan lẫn chủ quan, nhưng nguyên nhân chính vẫn là

xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của đề tài. Nhìn chung, chúng tôi có một số lý do như sau:

-Văn học Nga là một trong những nền văn học tiên tiến và vĩ đại của thế giới. Những tên tuổi và

tác phẩm của nền văn học này từ lâu đã quen thuộc với độc giả bình dân và giới trí thức Việt Nam hơn

nửa thế kỉ nay. Ảnh hưởng nền văn học này đến nền văn học thế giới nói chung và văn học Việt Nam

nói riêng là rất lớn và từ lâu đã được khẳng định. Kí ức người Việt từ lâu luôn dành một vị trí trang

trọng cho những giá trị bất diệt của nền văn học giàu tính triết lý và tinh thần nhân văn này. Vì những

lý do đó, việc tiếp cận và nghiên cứu về những biểu hiện của nền văn học này là hết sức cần thiết.

-Cùng với các tên tuổi Puskin, Gôgôn, Tuôcghênhep, Đôxtôiepxki, Tsêkhôp,… nhà văn Lep

Tônxtôi là một trong những tinh hoa của đội ngũ các nhà văn Nga và đồng thời cũng là một trong số

những nhà văn lớn của văn học thế giới. Do tầm vóc, uy tín cũng như vai trò của Lep Tônxtôi to lớn

như thế nên việc tìm hiểu về sáng tác cũng như những vấn đề liên quan đến sự nghiệp của ông vẫn luôn

là một yêu cầu đối với sự nhận thức văn học nghệ thuật của mọi thời đại. Mặt khác, Lep Tônxtôi trong

thế giới tinh thần người Việt Nam hiện đại có một vị trí cực kì quan trọng nên việc tìm hiểu về ông là

một cách để hiểu thêm về chính chúng ta. Sự hiểu biết này không bao giờ là thừa.

-Xã hội miền Nam trước 1975 đối với đa số chúng ta đã là quá khứ. Tuy nhiên, hiểu biết về quá

khứ để nắm bắt thực tại và định hướng tương lai vẫn là một việc làm có ý nghĩa. Đối với một lĩnh vực

tinh thần như văn học nghệ thuật, việc tìm hiểu thế giới tinh thần của người miền Nam trước 1975 sẽ có

ý nghĩa thực tiễn trong việc định hướng tinh thần người miền Nam nói riêng, người Việt Nam nói

chung trong thời kì hiện đại.

-Lý thuyết tiếp nhận từ khi ra đời đến nay vẫn luôn là một lĩnh vực mới của lý luận văn học. Từ

lý thuyết tiếp nhận, tiếp cận một nhà văn và nhà tư tưởng có tiếng tăm lớn như Lep Tônxtôi là một

công việc mà các nhà nghiên cứu trước đây chưa thực hiện đầy đủ. Đề tài luận văn này sẽ góp một

hướng tiếp cận mới bổ sung vào một số khiếm khuyết mà lý luận văn học trước đây đã bỏ sót đối với

Lep Tônxtôi.

2. Lịch sử vấn đề:

Tìm hiểu lịch sử vấn đề của đề tài Vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai

đoạn 1954-1975, chúng ta thấy có không nhiều những bài báo hoặc công trình nghiên cứu về Lep

Tônxtôi. Nhìn chung, chúng tôi nhận thấy bài viết Lep Tônxtôi tại các đô thị miền Nam trước 1975 của

tác giả Trần Thị Quỳnh Nga (in trong Khoa Ngữ Văn một phần tư thế kỷ, Khoa Ngữ Văn ĐHSP

TPHCM) và Luận văn thạc sĩ Văn học Nga tại các thành thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 của tác

giả Phạm Thị Phương (một số phần đã được trích in như: Thống kê đầu sách dịch và bài viết về văn

học Nga tại miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TPHCM, 1995; Văn

học Nga tại thành thị miền Nam giai đoạn 1954-1975, Kỷ yếu khoa học 1998, Khoa Ngữ Văn ĐHSP

TPHCM) là đáng quan tâm hơn hết.

Luận văn thạc sĩ Văn học Nga tại các thành thị miền Nam giai đoạn 1954-1975 của tác giả

Phạm Thị Phương là công trình đầu tiên đề cập đến trường hợp tiếp nhận của độc giả miền Nam đối

với Lep Tônxtôi trước 1975. Công trình này lấy việc nghiên cứu tiếp nhận văn học Nga-Xô và trường

hợp tiếp nhận Đôxtôiepxki làm đối tượng nghiên cứu chính nên trường hợp tiếp nhận Lep Tônxtôi chỉ

là một trong những đối tượng được đề cập đến. Điều này đã chi phối kết quả nghiên cứu đối với trường

hợp tiếp nhận Lep Tônxtôi. Nhìn chung, đối với trường hợp tiếp nhận Lep Tônxtôi, tác giả Phạm Thị

Phương đã có những nhận định và minh chứng mang tính chất khái quát nhưng do Lep Tônxtôi không

phải là đối tượng nghiên cứu trọng tâm nên tác giả không đi vào phân tích cụ thể. Xem việc tiếp nhận

Lep Tônxtôi như một trong những biểu hiện của tiến trình tiếp nhận của độc giả miền Nam trước 1975

đối với nền văn học Nga –Xô, tác giả công trình đã đặt việc tiếp nhận Lep Tônxtôi bên cạnh

Đôxtôiepxki và đã có những nhận định chính xác về vị trí của hai nhà văn này trong mắt độc giả miền

Nam :

Lev Tolstoi và Dostoievski có một vị trí quan trọng giữa các nhà văn cổ điển nước ngoài được

giới thiệu vào miền Nam. Về phương diện tư liệu ta thấy tổng số các danh tác của hai nhà văn này

được chuyển dịch và xuất bản nhiều hơn so với các nhà văn Nga khác. Trong các bài nghiên cứu, phê

bình văn học tên tuổi của Lev Tolstoi và Dostoievski được nhắc đến khá thường xuyên. Ở hai nhà văn

này, người ta thường đi khai thác những tư tưởng triết học, tôn giáo phù hợp với tinh thần Đông

phương. Về dịch thuật, các danh tác của hai nhà văn này cũng có phần công phu hơn, điển hình là

trường hợp Nguyễn Hiến Lê với bản dịch “Chiến tranh và hoà bình” [47, 37]

Khi so sánh sự tiếp nhận của độc giả miền Nam đối với hai nhà văn này tác giả Phạm Thị

phương cũng có những nhận định chí lý: Nhìn chung giới độc giả thành thị miền Nam cho rằng Lev là

một nghệ sĩ hoàn toàn hơn, dễ hiểu hơn Dostoievski: đối với tâm hồn người Việt Nam, tinh thần của

Lep Tônxtôi dễ tiếp thu hơn. [47, 39]. Có lẽ vì thế mà tác giả Phạm Thị Phương cho rằng: So với Lev

Tolstoi, thành phần độc giả của Dostoievski ở thành thị miền Nam dường như thu hẹp hơn. [47, 39]

Đánh giá về ảnh hưởng của phong cách viết của Lep Tônxtôi đối với quá trình tiếp nhận của độc

giả miền Nam, tác giả Phạm Thị Phương lưu ý rằng: “Phong cách cổ điển rất mực trong sáng, hài hoà

của Lep Tônxtôi gây được cảm tình lớn đối với những nhà văn, những bạn đọc vốn từng hấp thụ truyền

thống văn học cổ điển và lãng mạn Pháp và được đào luyện trong tinh thần Nho giáo. Phong cách ấy

thấm dần, trở thành mẫu mực để người ta noi theo, “rèn cách viết”. [47, 38]

Tác giả Phạm Thị Phương cũng không quên đề cập đến một trong những đặc điểm quan trọng

nhất của quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi, đó là cách thức tiếp nhận có vấn đề của một số ít độc giả. Tác

giả công trình cho rằng: “Ở Sài Gòn đôi khi người ta có xu hướng nhìn nhận Lep Tônxtôi với cặp mắt

Hiện sinh chủ nghĩa. Một số người thích khai thác một cách thái quá những chi tiết đời sống thường

nhật của nhà văn. Họ hay dùng những từ ngữ, những khái niệm của lý thuyết Hiện sinh để bàn đến nhà

văn và tác phẩm.” [47, 38]. Để minh chứng cho luận điểm này, tác giả dẫn lại và nhấn mạnh những từ

ngữ, khái niệm mà nhà xuất bản Phù Sa đã sử dụng khi giới thiệu tác phẩm “Vùng đất hồi sinh”: “ý

niệm khai phóng”, “mặc cả vô hiệu”, “ẩn ức”, “trả giá”.

Bài viết Lev Tolstoi tại các đô thị miền Nam trước 1975 [42] của tác giả Trần Thị Quỳnh Nga

tiếp cận vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi trước 1975 tại các thành thị miền Nam tương đối khái quát và cụ

thể hơn. Đây cũng là lẽ đương nhiên bởi lẽ đối tượng được đề cập chính trong bài nghiên cứu này chính

là Lep Tônxtôi. Tiếp cận Lep Tônxtôi, tác giả Trần Thị Quỳnh Nga đặt trọng tâm ở hai phương diện

chính: tình hình dịch thuật và tình hình nghiên cứu.

Đề cập đến tình hình dịch thuật Lep Tônxtôi ở các đô thị miền Nam trước 1975, tác giả Trần

Thị Quỳnh Nga đã cho thấy toàn bộ tình hình dịch Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn này. Tác giả cho

rằng người đọc miền Nam đã quen thuộc với Lep Tônxtôi từ những năm 50: Trên tư liệu dịch thuật,

Tolstoi trở nên quen thuộc với độc giả miền Nam vào những năm 50. Cuối những năm 50, bạn đọc Sài

Gòn tiếp xúc với tác phẩm Hạnh phúc gia đình, Bản sonat tặng Kreutzer và một số đoạn trích Chiến

tranh và hoà bình qua bản dịch của Bảo Sơn [42, 192]. Tình hình dịch vào những năm 60 và 70 cũng

được tác giả đề cập khá cụ thể.

Chất lượng dịch thuật cũng được tác giả bài viết đề cập. Theo Trần Thị Quỳnh Nga, “những tác

phẩm của Lep Tônxtôi được giới thiệu ở miền Nam đã góp phần vào việc giới thiệu sáng tác của nhà

văn cổ điển này, song chất lượng các bản dịch còn là vấn đề cần xem xét bởi hầu hết các tác phẩm của

L.Tolstoi cũng như văn học Nga nói chung đều được dịch qua một ngôn ngữ trung gian là tiếng Anh

hoặc tiếng Pháp (mà tiếng Pháp là chủ yếu). Đó là chưa kể một số dịch giả tuỳ tiện thay đổi nhan đề

tác phẩm, Việt hoá các tên nhân vật, ngôn ngữ dịch nghèo nàn, thiếu chính xác.” [42, 194]

Về tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi, tác giả Trần Thị Quỳnh Nga đã đề cập đến những nhận

định, nghiên cứu chung về bản thân nhà văn Lep Tônxtôi và mảng sáng tác của ông. Những nhận định

của Nguyễn Hiến Lê đặc biệt được tác giả bài viết lưu ý. Tác giả cũng không quên tìm hiểu một cách

sơ lược những nguyên nhân, tiền đề nhằm lý giải cho tình hình dịch thuật và nghiên cứu Lep Tônxtôi.

Nhìn chung, trong bài viết của mình, tác giả Trần Thị Quỳnh Nga đã cố gắng giới thiệu một

cách cụ thể nhất về Lep Tônxtôi trong khuôn khổ của một bài khảo cứu sơ bộ. Tuy nhiên, do khuôn

khổ của một bài báo nên tác giả chưa có điều kiện đi sâu tìm hiểu những vấn đề cụ thể và rộng lớn hơn.

Dù vậy, bài viết này đã có những gợi mở rất quan trọng trong việc định hướng nghiên cứu Lep Tônxtôi.

3. Mục đích nghiên cứu

Với đề tài Vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, chúng tôi

sẽ tiến hành tiếp cận một số vấn đề sau:

-Chúng tôi đề cập một số nét về sự ra đời, tình hình nghiên cứu lý luận tiếp nhận trên thế giới và

ở Việt Nam cũng như những khái niệm cơ bản và tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận đối với lý

luận văn học. Trên cơ sở những tiếp cận đó, chúng tôi muốn nhấn mạnh đến lý thuyết tiếp nhận như là

một lĩnh vực mới mẻ đồng thời thể hiện cách hiểu của mình về một số khái niệm và đó cũng là cơ sở để

tiếp cận một nhà văn lớn như Lep Tônxtôi.

-Đề tài Vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 sẽ được triển

khai theo hướng làm rõ một số đặc điểm của quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi của độc giả miền Nam

trước 1975. Trên cơ sở những vấn đề được đề cập, một mặt chúng tôi sẽ triển khai lý giải thực trạng

tiếp nhận Lep Tônxtôi đồng thời làm rõ sự ảnh hưởng và tác động qua lại giữa các nhân tố độc giả-tác

phẩm-hiện thực xã hội cũng như một số vấn đề thuộc về lý thuyết tiếp nhận và ứng dụng chúng vào

trường hợp tiếp nhận cụ thể.

- Những kết quả tiếp nhận Lep Tônxtôi sẽ được chúng tôi xem như là những kinh nghiệm tiếp

nhận để từ đó gợi ý quá trình tiếp nhận thực tế ở miền Nam cũng như đối với độc giả Việt Nam nói

chung hiện nay.

Nhìn chung, với đề tài Vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-

1975, chúng tôi không có tham vọng tìm hiểu toàn bộ tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi của độc giả

miền Nam mà chỉ tiếp cận một số vấn đề có liên quan đến việc độc giả tiếp nhận tác gia này để sơ bộ lý

giải và làm cơ sở định hướng cho những nghiên cứu dài hơi hơn. Những vấn đề như công việc dịch,

vấn đề chuyển mã văn bản sang Tiếng Việt không được đề cập cụ thể trong đề tài này. Những vấn đề

như ảnh hưởng của Lep Tônxtôi đối với sáng tác của các văn nghệ sĩ miền Nam, cũng như ảnh hưởng

của nhà văn này đến các lĩnh vực sáng tác nghệ thuật cũng không được đề cập. Việc tiếp cận một cách

toàn diện tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi của độc giả miền Nam trước 1975 sẽ được thực hiện trong

một công trình nghiên cứ dài hơi hơn. Với đề tài này, kết quả nghiên cứu có thể được dùng làm tài liệu

tham khảo cho học sinh, sinh viên và nhiều đối tượng khác có nhu cầu tìm hiểu những vấn đề có liên

quan đến lý thuyết tiếp nhận và một số vấn đề nổi bật trong tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền

Nam giai đoạn 1954-1975. Ngoài ra, công trình còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho

những nhà quản lý văn hoá và xuất bản sách, người đọc và cả giới sáng tác.

4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu:

Phạm vi đề tài của chúng tôi là sơ bộ tiếp cận một số vấn đề có liên quan đến quá trình tiếp nhận

Lep Tônxtôi của độc giả ở miền Nam giai đoạn 1954-1975. Những vấn đề mà chúng tôi đề cập trong

luận văn này không phải là toàn bộ các vấn đề của lý thuyết tiếp nhận. Phạm vi mà chúng tôi đề cập chỉ

là một số vấn đề. Những vấn đề được đề cập sẽ được chúng tôi triển khai theo hướng phân tích thực

tiễn để đúc rút thành những vấn đề có tính lý luận.

Đây là một đề tài có phạm vi nghiên cứu hẹp, chúng tôi sẽ chỉ quan tâm đến công chúng miền

Nam tiếp nhận Lep Tônxtôi như thế nào, những ảnh hưởng xã hội học, ảnh hưởng văn học… đối với họ

như thế nào.

Đối tượng nghiên cứu chính của chúng tôi trong luận văn này chính là những nhận định, phản

ứng trực tiếp hoặc gián tiếp của người đọc đối với trường hợp cụ thể là Lep Tônxtôi trong giai đoạn

1954-1975 ở miền Nam. Chúng tôi ý thức được đây là những đối tượng hết sức cụ thể đồng thời cũng

hết sức khó xác định. Thời kì mà chúng tôi tiếp cận nghiên cứu là một thời kì đã qua, thời kì đã lui vào

dĩ vãng, những biểu hiện tiếp nhận của độc giả đối với Lep Tônxtôi nói riêng, với nhiều tác gia văn học

khác nói chung đã thất lạc hoặc ít tồn tại dưới dạng vật chất. Những tài liệu dùng để nghiên cứu hết sức

hạn hẹp và không thể tránh được thiếu sót. Đó là một trong những khó khăn chính của chúng tôi khi

tiếp cận đề tài này.

5. Phương pháp nghiên cứu:

Từ đặc điểm của đối tượng nghiên cứu và mục đích nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử dụng

những thao tác cũng như những phương pháp khả dĩ có thể đem đến những kết quả nghiên cứu tốt nhất.

Phân tích các tư liệu được xem như là thao tác trọng tâm trong việc triển khai đề tài và giúp

chúng tôi phát hiện cũng như làm rõ hơn các vấn đề liên quan đến độc giả tiếp nhận và kết quả tiếp

nhận của độc giả đối với Lep Tônxtôi. Các thao tác diễn dịch, quy nạp cũng được chúng tôi sử dụng

thường xuyên trong quá trình nghiên cứu và triển khai đề tài.

Sử dụng phương pháp lịch sử chức năng, chúng tôi hy vọng tìm thấy sự hỗ trợ của nó trong việc

xác định các vấn đề xã hội có liên quan đến quá trình tiếp nhận của độc giả miền Nam trước 1975 đối

với Lep Tônxtôi. Xác định các tiền đề kinh tế-chính trị-văn hoá-xã hội để từ đó làm rõ sự ảnh hưởng

của chúng đến sự vận động, biến đổi và phát triển của độc giả trong quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi là

một trong những mục tiêu của luận văn, điều này chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở có sự trợ giúp

của phương pháp lịch sử chức năng.

Sử dụng phương pháp xã hội học, chúng tôi có điều kiện đề cập đến những vấn đề thuộc về thị

hiếu thẩm mỹ, tầm đón nhận của độc giả. Phương pháp này còn cho phép chúng tôi lý giải những vấn

đề liên quan đến đặc điểm của độc giả tiếp nhận.

Nhìn chung, tuỳ theo yêu cầu của từng nội dung và mục tiêu, đối tượng của luận văn mà chúng

tôi sử dụng những thao tác, phương pháp phù hợp.

6. Đóng góp của luận văn:

-Làm rõ hơn một số vấn đề lý luận của lý thuyết tiếp nhận trên cơ sở phân tích thực tế tiếp nhận.

-Vận dụng lý thuyết tiếp nhận để làm sáng tỏ một số phương diện của tiến trình tiếp nhận Lep

Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

- Kết quả nghiên cứu cho phép chúng tôi rút ra những kinh nghiệm cho việc định hướng hoạt

động tiếp nhận hiện nay với tư cách như là những gợi ý.

7. Kết cấu luận văn:

Luận văn gồm 122 trang chính văn. Ngoài phần Mở đầu (10 trang), Kết luận (4 trang), nội dung

luận văn được triển khai trong ba chương như sau:

Chương 1: Một số vấn đề chung về lý thuyết tiếp nhận văn học

1.1. Lý thuyết tiếp nhận - một lĩnh vực mới của lý luận văn học

1.2. Lý thuyết tiếp nhận và sự vận dụng nó ở Việt Nam

Chương 2: Một số vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi qua lĩnh vực dịch thuật, xuất bản

và nghiên cứu

2.1. Lĩnh vực dịch thuật và xuất bản

2.2. Lĩnh vực nghiên cứu

Chương 3: Một số vấn đề về các yếu tố quy định tiếp nhận trong tiếp nhận Lep Tônxtôi

3.1.Vấn đề độc giả trong tiếp nhận Lep Tônxtôi

3.2. Vấn đề tiền đề xã hội trong tiếp nhận Lep Tônxtôi

3.3. Vấn đề đặc trưng đối tượng tiếp nhận trong tiếp nhận Lep Tônxtôi

3.4. Vấn đề kích hoạt tiếp nhận trong tiếp nhận Lep Tônxtôi

CHƯƠNG 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG

VỀ LÝ THUYẾT TIẾP NHẬN VĂN HỌC

1. Lý thuyết tiếp nhận văn học - một lĩnh vực mới của lý luận văn học:

1.1. Lịch sử ra đời của lý thuyết tiếp nhận:

Lấy việc nghiên cứu sự tiếp nhận của người đọc làm nhiệm vụ trung tâm, lý thuyết tiếp nhận ra

đời vào giữa thế kỉ XX là một bước tiến quan trọng của nền lý luận văn học. Tuy nhiên, trước khi lý

thuyết tiếp nhận ra đời thì nhân loại đã có những tiếp cận nhất định đối với vấn đề này. Thời cổ đại,

Aristote đã từng đề cập đến khái niệm “Catharsis” trong cảm xúc thẩm mỹ của đối tượng. Khi ông

định nghĩa bi kịch như sự thanh lọc tình cảm thông qua xót thương (pitie) và sợ hãi (terreus) thì cũng

có nghĩa là ông đã đụng chạm đến nhân tố người đọc. Sau Aristote, Kant cũng đề cập đến khái niệm

“thị hiếu” trong các tác phẩm của mình. Đến Hêghen, vấn đề tiếp nhận đã được đề cập một cách khá cụ

thể. Ông cho rằng: “Tác phẩm nghệ thuật tồn tại để (…) cho công chúng, những người muốn nhìn thấy

trong đối tượng miêu tả bản thân mình cùng với những tín ngưỡng, tình cảm và trí tưởng tượng của

mình, và để cho công chúng có khả năng trở thành đồng vọng với vật thể được miêu tả…” (Hêghen,

Mỹ học, T.1 )

Nhà phê bình lý luận Nga Biêlinxki cũng nhiều lần nhắc đến nhân tố người đọc. Ông cho rằng,

văn học không thể tồn tại thiếu công chúng, cũng như công chúng không thể thiếu văn học. Khi bàn về

Puskin, ông nhấn mạnh đến sự lưu chuyển, sự biến đổi, những quan niệm của độc giả về các hiện tượng

văn học: “Puskin thuộc về những hiện tượng sống động và chuyển biến không ngừng, những hiện

tượng không chấm hết tại thời điểm cái chết của nhà văn mà vẫn tiếp tục phát triển trong ý thức xã hội.

Mỗi thời đại nhìn nhận những hiện tượng như thế dường như chưa được đầy đủ, chính xác, mặc dù đã

có cố gắng phát biểu về chúng một điều gì mới mẻ hơn, đúng đắn hơn, nhưng rút cuộc không thời đại

nào phát triển hết những mới mẻ đó” [24]. Ở đây, nhà phê bình Biêlinxki đã nhìn thấy những khả năng

bất tận của các tác phẩm Puskin trong mối liên hệ với người đọc. Đặt trong mối liên hệ biện chứng với

người đọc, tác phẩm của Puskin sẽ không đứng yên mà luôn luôn biến đổi theo sự tiếp nhận của người

đọc.

Với những ý tưởng tinh tế và tiên tri như vậy, lẽ ra người ta phải sớm phát triển và tìm hiểu

chúng, nhưng mãi đến sau này, những ý tưởng đó của Bêlinxki mới được người ta đọc lại và tìm hiểu.

Như vậy, không nhiều thì ít, trong quá khứ lý luận tiếp nhận đã được đề cập ở những mức độ

nhất định. Sự ra đời của nó chắc hẳn phải là sự phản ứng lại quan niệm về tính tự trị của tác phẩm và

quan niệm xem tác phẩm, văn bản tác phẩm là duy nhất, bất biến và tách khỏi văn cảnh. Tuy nhiên, để

nói đến tiền đề vững chắc cho sự ra đời của lý thuyết tiếp nhận thì trước hết cần phải nhắc đến vai trò

của chủ nghĩa cấu trúc trường phái Prague và hàng loạt những trường phái khác như:giải thích học, chủ

nghĩa hình thức Nga những năm 1910 - 1920, xã hội học văn học...

Chủ nghĩa cấu trúc ra đời trên cơ sở phát triển những thành tựu của chủ nghĩa hình thức Nga.

Khái niệm “lạ hoá” của Skhlôpxki lần đầu tiên đã nhấn mạnh đến vai trò người đọc. Xuất phát từ nhân

tố người đọc, ông đã đề xuất cách miêu tả làm cho sự vật trở nên mới lạ, hấp dẫn người đọc.

Chủ nghĩa cấu trúc tiếp tục nhấn mạnh vai trò của người đọc. Chủ nghĩa cấu trúc cho rằng, khi

người đọc tiếp xúc với một tác phẩm, không phải là đang đối diện với một văn bản mang một hàm

nghĩa nào đó, mà chỉ là một văn bản được đan dệt một cách có nghệ thuật những lời văn thế thôi, và

bạn đọc, do đó, mỗi người sẽ có một cách lý giải khác nhau đối với tác phẩm. Ở đây, sự phủ nhận cực

đoan nội dung tác phẩm văn học đã tạo tiền đề cho sự tôn vinh hoá vai trò người đọc ở lý thuyết tiếp

nhận. Đến chủ nghĩa hậu cấu trúc, Jacques Derrida một lần nữa tạo tiền đề cho sự ra đời của lý thuyết

tiếp nhận khi cho rằng “cái được biểu đạt” có thể chuyển hoá thành “cái biểu đạt”- tức là, “cái biểu đạt”

sẽ tạo ra hàng loạt những “cái được biểu đạt” tuỳ theo sự tiếp nhận của người đọc.

Bên cạnh chủ nghĩa cấu trúc, các nhà nghiên cứu thuộc trường phái hiện tượng luận (như

Roman Ingarden) và giải thích học (như Hans Georg Gadamer) cũng nhấn mạnh đến vai trò của người

đọc. Những nhận định của họ đã góp phần tạo ra tiền đề cho sự ra đời của mỹ học tiếp nhận.

Đến những năm năm mươi của thế kỉ XX, mô hình “mỹ học tiếp nhận” tương đối hoàn chỉnh

đã ra đời với người chủ soái là Hans Robert Jauss.

Hans Robert Jauss có một cái nhìn độc đáo về “tính lịch sử của văn học”. Theo ông, sự thật của

tác phẩm phải bao gồm sự thể hiện ý đồ sáng tạo của nhà văn và sự tiếp nhận thực tế của người đọc. Do

đó, lịch sử của văn học không chỉ là lịch sử của nhà văn mà còn bao gồm cả lịch sử tiếp nhận của người

đọc. Hans Robert Jauss khẳng định: “Tính lịch sử của văn học không phải ở chỗ chỉnh lý sắp xếp

những sự thực văn học “post festum” mà ở những trải nghiệm vốn có của bạn đọc đối với tác phẩm

văn học” ( Lịch sử văn học như là sự thách thức đối với khoa học văn học). Tác phẩm văn học được

ông quan niệm: Tác phẩm văn học = văn học + sự tiếp nhận của công chúng.

Với những khái niệm trọng tâm như “tầm đón nhận”, “khoảng cách thẩm mỹ”...Hans Robert

Jauss và cả trường phái Konstanz đã tạo lập được một định thức biểu thị sự hoàn tất quá trình sáng tạo

của nhà văn, nhà thơ từ sáng tác đến tiếp nhận.

Ngoài Hans Robert Jauss, Wolfang Iser cũng là một trong những người đặt nền móng đầu tiên

cho lý thuyết tiếp nhận. Khác với Jauss (Jauss triển khai vấn đề tiếp nhận trên một bối cảnh xã hội và

văn học rộng lớn), Iser chỉ tập trung nghiên cứu sự tiếp nhận trong một hoạt động đọc cụ thể. Hai công

trình nghiên cứu tiêu biểu của ông là kết cấu vẫy gọi của văn bản và hoạt động đọc.

Như vậy, lý thuyết tiếp nhận ra đời trên cơ sở kế thừa, phát triển và kết hợp những lý luận của

nhiều trường phái lý luận khác nhau trước nó. Sự ra đời của nó thật sự đã đánh dấu một bước phát triển

mới của lý luận văn học cũng như khẳng định một đường hướng mới, một phương diện tiếp cận mới

hoàn toàn về chất đối với văn học nghệ thuật. Tuy nhiên, hiện tại lý thuyết tiếp nhận vẫn chưa có một

hệ thống lý thuyết thật sự hoàn chỉnh. G.Grimn nhận xét, những khó khăn gắn với việc xây dựng một

lý thuyết tiếp nhận thống nhất, có gốc rễ ở tính phức tạp và đa thành phần của chính đối tượng nghiên

cứu, cần phải đòi hỏi một sự tiếp cận phân tích liên ngành và đa ngành trong tương lai. Rõ ràng, lý

thuyết tiếp nhận ra đời đã mấy thập kỉ nhưng đến nay nó vẫn đang trên đường được bổ sung để tiến đến

sự hoàn chỉnh. Một lý thuyết về lý thuyết tiếp nhận hoàn chỉnh hơn trong tương lai sẽ là một tất yếu

không thể phủ nhận. Tuy nhiên, để thực hiện điều này, các nhà nghiên cứu tiếp nhận cần triển khai

nghiên cứu nhiều hơn những trường hợp tiếp nhận cụ thể, từ đó mới tiến dần đến sự khái quát về mặt lý

luận nhằm làm giàu thêm cho lý thuyết tiếp nhận.

1.2. Một số khái niệm và phạm trù cơ bản của lý thuyết tiếp nhận:

Lý thuyết tiếp nhận có một hệ thống những khái niệm. Song song với sự phát triển của lý thuyết

tiếp nhận trước đây, những khái niệm này cũng đang dần dần hoàn chỉnh qua quá trình vận dụng thực

tế. Dưới đây là một số những khái niệm và phạm trù cơ bản của lý thuyết tiếp nhận có liên quan đến

những vấn đề được nghiên cứu ở luận văn này.

1.2.1. Tầm đón nhận:

Hans Robert Jauss đã cố gắng phát triển khái niệm “tầm đón nhận” và biến nó thành một phạm

trù quan trọng của mỹ học tiếp nhận. Ông cho rằng, tầm đón nhận là những nhu cầu và trình độ thưởng

thức kết tinh từ kinh nghiệm sống, hứng thú, lý tưởng của từng người đọc. Nó chính là tầm văn hoá do

điều kiện lịch sử- xã hội và thời đại quy định. Tầm văn hoá đó hình thành trong quá trình tiếp thu các

sáng tác mang năng lượng thẩm mỹ của nhà văn đồng thời với sự rèn luyện về mặt văn hoá. Nó gắn

liền với hệ thống chuẩn mực nghệ thuật tương đối ổn định. Cho đến khi người đọc tiếp nhận những tác

phẩm văn học mới với năng lượng thẩm mỹ mới và chất lượng nghệ thuật mới hẳn thì lúc đó có thể

người đọc sẽ bị thuyết phục bởi những chuẩn mực mới và do đó tầm đón nhận cũng được nâng lên.

Ngược lại, nếu như nhà văn chỉ sáng tác những tác phẩm thấp kém và người đọc bị cám dỗ bởi những

tác phẩm này thì tầm đón nhận sẽ bị kéo xuống.

Như vậy, khái niệm “tầm đón nhận” là một khái niệm có khả năng chỉ ra mối liên hệ giữa sáng

tác và tiếp nhận. Thông qua tầm đón nhận mà ta nhận ra sự tác động và chi phối mạnh mẽ của tiếp nhận

đối với sáng tác. Ở một mức độ nào đó, những nguyên tắc nghệ thuật của tác phẩm phải phù hợp với

những đòi hỏi, nhu cầu và tiếp nhận của người đọc. Nhưng tiếp nhận của người đọc thì lại được quy

định bởi những quan niệm thẩm mỹ, đạo đức,… của từng thời đại và thậm chí những cả điều kiện

thuộc về mỗi cá nhân tiếp nhận như tâm sinh lý, nghề nghiệp, lứa tuổi, nhân sinh- thế giới quan... cho

nên đời sống, số phận của từng tác phẩm, thậm chí cả di sản của một nhà văn cũng được nhìn nhận hết

sức khác nhau. Khrapchenko đã đưa ra một ví dụ: “Tác động của những tác phẩm của Lep Tônxtôi và

Đôxtôiepxki trong những điều kiện dân tộc khác nhau cũng phức tạp không đồng đều. Ở đây chỉ nêu

lên sự cảm thụ đặc biệt với Tônxtôi ở Ấn Độ và một số nước phương Đông khác, nơi người ta đánh giá

cao ông với tư cách là một triết gia tôn giáo, hoặc chỉ cần nêu lên việc một số nước phương Tây ra sức

đề cao tư tưởng của Đôxtôiepxki về bi kịch vĩnh cửu của kiếp sống con người, về sự quy phục, nhằm

đối lập lại những yếu tố phê phán trong sáng tác của nhà văn…” [24]

Có thể nói, tầm đón nhận được lý thuyết tiếp nhận xem như là một thước đo nhà văn và người

đọc đồng thời cũng chính là phẩm chất mà nhà nghiên cứu cần xác định ở người đọc trong mối quan hệ

với phẩm chất nghệ thuật của nhà văn, bên cạnh đó nó cũng là một trong những mục tiêu nhân bản và

tiến bộ mà xã hội cần hướng tới trong lĩnh vực văn học nghệ thuật nhằm đào tạo và xây dựng nhân

cách con người.

Liên quan đến tầm đón nhận của người đọc, các nhà nghiên cứu cũng cần lưu ý đến “tầm đón

nhận” của tác phẩm, nói chính xác hơn, đó là tầm thẩm mỹ của tác phẩm. Tầm thẩm mỹ của tác phẩm

chính là cái tạo nên giá trị của tác phẩm trong mối tương quan với những giá trị thẩm mỹ được người

đọc xác lập. Tầm thẩm mỹ của tác phẩm có một ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc xác định

khoảng cách thẩm mỹ giữa tầm đón nhận giữa người đọc và tầm thẩm mỹ của tác phẩm. Mối liên hệ

giữa tầm đón nhận của người đọc (cũng có thể tạm gọi là tầm thẩm mỹ của người đọc) và tầm thẩm mỹ

của tác phẩm (cũng có thể gọi là tầm đón nhận, tầm đón đợi của tác phẩm) là một mối liên hệ biện

chứng và tác động lẫn nhau, thúc đẩy lẫn nhau trong tiến trình phát triển của văn học nghệ thuật.

Về khái niệm “tầm đón nhận” được sử dụng trong luận văn này, chúng tôi không tiếp thu toàn

bộ nội hàm của khái niệm đã được lý thuyết tiếp nhận khẳng định. Nội hàm tầm đón nhận mà chúng tôi

quan tâm ở đây chỉ là tổng thể những khác biệt ở người đọc do những yếu tố xã hội tạo nên. Tầm đón

nhận được đề cập ở đây không hướng đến việc xác định tầm đón nhận của người đọc ở đây là cao hay

thấp, có tác động tiêu cực hay tích cực đến tác phẩm và nhà văn...mà là nhằm xác định dạng người đọc

của Lep Tônxtôi trong mối tương quan với các dạng người đọc của một số tác giả khác.

1.2.3. Người đọc:

Một trong những phạm trù quan trọng của lý thuyết tiếp nhận mà người ta thường vận dụng vào

nghiên cứu cụ thể những hiện tượng văn học là phạm trù “người đọc”. Đối với lý thuyết tiếp nhận,

người đọc chính là cái tạo nên lịch sử văn học. Viết lại lịch sử văn học chính là viết lại lịch sử tiếp nhận

của người đọc đối với văn chương nghệ thuật. Với ý nghĩa này, công chúng đóng một vai trò vô cùng

quan trọng và ta thấy nổi bật lên vai trò của người đọc với tất cả sự chủ động sáng tạo của nó. Sự chủ

động sáng tạo này chính là cái tạo nên đời sống đích thực của tác phẩm và tác phẩm trở thành một “khả

năng” chứ không phải là một sự khẳng định cuối cùng. Thật vậy, trước hết người đọc căn cứ vào tầm

đón nhận của mình mà quyết định thái độ tiếp nhận ban đầu đối với tác phẩm. Quá trình đọc tiếp theo

sẽ là quá trình giải mã mà kết quả của nó không phải là cái mã nguyên si bất biến mà tác giả đã đưa

vào, nó phụ thuộc vào tầm đón nhận của người đọc. Bên cạnh đó, nhà văn không thể nói hết mọi

chuyện mà người đọc sẽ phải tưởng tượng thêm, sáng tạo thêm trên cơ sở văn bản tác phẩm, vì thế mà

tác phẩm trong lòng người đọc sẽ khác nhau với những mức độ khác nhau. Nói tóm lại, tác phẩm

trường tồn hay chết yểu, tất cả đều do người đọc quyết định.

Nhìn chung, khi nghiên cứu vai trò nổi bật của người đọc, các nhà khoa học đi đến nhận định

rằng:

-Một tác phẩm văn học sẽ phát huy tác dụng trong chừng mực nó phù hợp với thái độ, quan

điểm của người tiếp nhận đã có từ trước, đến nay được bổ sung thêm.

-Sự đánh giá chủ quan của người đọc có ảnh hưởng quyết định đến hiệu quả giao tiếp văn học.

-Sự lựa chọn và cách tiếp thụ nội dung, hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học tuỳ thuộc

vào tư tưởng và mối quan tâm của người đọc

-Mạng lưới quan hệ giữa các thế hệ, cá nhân người đọc tác động không nhỏ đối với kết quả tiếp

nhận.

Những nhận định trên cho phép chúng ta đi đến kết luận rằng, nghiên cứu tiếp nhận để đi đến

những kết quả khoa học thì phải biết lắng nghe tiếng nói sáng tạo của độc giả. Tiếp nhận văn học

không thể chỉ dừng lại theo cách khảo sát và nghiên cứu người đọc thông qua văn bản tác phẩm của

nhà văn.

Người đọc quy định sự tồn tại hay chết yểu của tác phẩm chứ không phải là nhà văn (một cách

tương đối), tuy nhiên, do có nhiều loại độc giả nên những giá trị quy định sự trường tồn hay chết yểu

đối với tác phẩm vẫn khá tương đối. Như chúng ta đã biết, đối với loại độc giả này, giá trị này của tác

phẩm sẽ làm cho nó trở nên bất tử trong lòng họ nhưng đối với loại độc giả khác, một giá trị khác của

tác phẩm-đôi khi trái ngược với giá trị kia-sẽ quy định sự sống còn của tác phẩm. Chính những khuynh

hướng tiếp nhận khác nhau đó sẽ góp phần đáng kể cho việc tạo nên lịch sử của tác phẩm. Tất cả những

điều đó cho thấy vai trò của người đọc là rất quan trọng.

Tiếp cận phạm trù người đọc, người ta có thể thấy những dạng công chúng khác nhau đối với

sáng tác của tác giả, tức là đối tượng mà nhà văn muốn tác động, giao tiếp trong quá trình sáng tác

cũng như chịu sự tác động ngược trở lại từ phía đối tượng. Nói đến loại người đọc là nói đến các dạng

người đọc được phân loại theo cách thức tiếp nhận, theo tầm đón nhận… nhưng xét cho cùng thì khái

niệm “loại người đọc” là chỉ ra khả năng, hiệu quả tác động của sáng tác đối với người đọc và ngược

lại. Thật vậy, các sáng tác của nhà văn tuỳ theo năng lượng thẩm mỹ, tư tưởng chứa đựng trong tác

phẩm mà có những loại người đọc khác nhau, nhưng đồng thời, những loại người đọc khác nhau cũng

tạo ra những hiệu quả tiếp nhận khác nhau đối với từng tác phẩm cụ thể. Ở đây, nội dung tư tưởng,

nghệ thuật, cấu trúc của tác phẩm cũng như sự khác nhau về giới, về lứa tuổi, về đặc điểm tâm lý, về

địa vị xã hội, về văn hoá, về dân tộc… ở người đọc đóng một vai trò quan trọng trong việc tạo nên

những dạng công chúng khác nhau. Chẳng hạn, người ta có thể chia ra ba loại người đọc: 1) Người đọc

thực tế, 2) Người đọc giả định, 3) Người đọc tinh hoa. Ba loại người đọc này tạo ra sự không đồng nhất

trong tiếp nhận. Thông qua sự tiếp nhận của công chúng, người ta có thể tái lập lại một cách tương đối

đầy đủ về một thời đại xác định cùng với những đặc điểm chung về tâm lý, thị hiếu, trình độ văn hoá,

quan điểm giai cấp …và ngược lại. Dĩ nhiên, vấn đề công chúng là một vấn đề cực kì phức tạp của lý

thuyết tiếp nhận đồng thời đó cũng là vấn đề trọng tâm. Nếu như trước đây lịch sử văn học được xem là

lịch sử của nội dung văn học hoặc hình thức văn học thì trong mối tương quan với công chúng, lý

thuyết tiếp nhận đã có tham vọng muốn viết lại lịch sử văn học với tư cách như là lịch sử tiếp nhận của

người đọc cả theo hướng đồng đại và lịch đại. Mặt khác, nếu như trước đây người ta chỉ lưu ý đến vấn

đề phân loại công chúng dựa trên sự khu biệt về tâm sinh lý, về lứa tuổi, về địa vị, về các mức độ tiếp

nhận, về cách thức tiếp nhận, về tầm đón nhận khác nhau đối với tác phẩm thì hiện nay chúng ta cũng

cần lưu ý đến sự phân loại người đọc căn cứ vào mối quan hệ giữa người đọc với người đọc cũng như

căn cứ vào chức năng tiếp nhận của họ để làm rõ tiến trình tiếp nhận của từng trường hợp cụ thể. Đó

cũng là một trong những điều kiện để lý thuyết tiếp nhận ngày càng phát triển và dần hoàn thiện.

1.2.4. Khoảng cách thẩm mỹ:

“Khoảng cách thẩm mỹ” là khái niệm xác định mức độ bất ngờ của tác phẩm đối với độc giả và

xác định giá trị thi học của nó. Theo quan niệm của lý thuyết tiếp nhận, một trong những tiêu chuẩn để

xác nhận giá trị thẩm mỹ của một tác phẩm nghệ thuật chính là biểu hiện của trạng thái tâm lý dưới

dạng thất vọng hay ngạc nhiên của người tiếp nhận tác phẩm đó. Sự thất vọng, thờ ơ hay khoan khoái,

ngạc nhiên ở đây chính là biểu hiện tâm lý của người tiếp nhận khi mà khoảng cách giữa tầm đón nhận

của độc giả và tầm chờ đợi của tác phẩm có những giá trị khác nhau. Nếu như khoảnh cách giữa tầm

đón nhận của độc giả, tức là những cái thuộc về kinh nghiệm thẩm mỹ đã trải qua và tầm đón nhận của

tác phẩm có một độ chênh tương đối lớn thì kết quả của độ chênh đó sẽ biểu hiện bằng trạng thái tâm lý

cực đoan của người đọc khi tiếp nhận tác phẩm. Cụ thể, khi tầm đón nhận của độc giả lớn hơn tầm đón

đợi của tác phẩm thì người đọc sẽ có trạng thái tâm lý thờ ơ, thất vọng, dửng dưng, vô cảm. Còn nếu

tầm đón nhận của độc giả không nhỏ hơn quá so với “tầm đón đợi” của tác phẩm thì ở người đọc sẽ

xuất hiện trạng thái ngạc nhiên, sửng sốt, hứng khởi, sung sướng… Đương nhiên, nếu như tầm đón đợi

của tác phẩm quá lớn so với tầm đón nhận của người đọc thì có thể ở người đọc cũng xuất hiện trạng

thái do dự, lưỡng lự do không thể đánh giá được tầm thẩm mỹ của tác phẩm.

Một số khái niệm vừa trình bày ở trên là những khái niệm thuộc loại quan trọng của lý thuyết

tiếp nhận. Bên cạnh những khái niệm đó, chúng ta thấy lý thuyết tiếp nhận còn có những khái niệm như:

văn cảnh, cụ thể hoá, đồng nhất hoá, hiện thời hoá, tính bất định giao tiếp, tính xác định giao tiếp, tính

phi tình thế, chiến lược văn bản, nghĩa ảo, lập nghĩa, kinh nghiệm thẩm mỹ... Tuy nhiên, nghiên cứu sự

tiếp nhận không chỉ dừng lại ở những khái niệm trung tâm đó mà vấn đề là làm sao tiếp cận một cách

chi tiết, cụ thể những con đường khác nhau của tiếp nhận. Nghiên cứu tiếp nhận có thể là nghiên cứu

những tiền đề của tiếp nhận, những con đường của tiếp nhận, đối tượng tiếp nhận, những phương thức

tiếp nhận, cách thức tiếp nhận, hình thức tiếp nhận, nội dung tiếp nhận, những nguyên tắc tiếp nhận…

từ đó mà hiểu rõ được quá trình tiếp nhận cũng như đề ra được những khái niệm mới cho lý thuyết tiếp

nhận để thâm nhập sâu hơn vào tiến trình tiếp nhận của lịch sử văn học, vừa triển khai được những vấn

đề cụ thể của tiếp nhận, vừa bổ sung thêm về mặt lý thuyết cho lý luận tiếp nhận, đó mới là nghiên cứu

thực tế lý thuyết tiếp nhận và thúc đẩy lý thuyết tiếp nhận phát triển.

1.3. Tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận:

Nói đến tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận, tức là chúng ta phải xem xét vị trí, vai trò của lý

thuyết tiếp nhận trong đời sống văn học.

Lý thuyết tiếp nhận chiếm một vị trí cực kì quan trọng trong nghiên cứu văn học. Nếu như xem

hoạt động nghiên cứu văn học trước đây chỉ đề cập chủ yếu đến tác phẩm và tác giả mà ở đó người ta

cố gắng nghiên cứu một cách có hệ thống mối quan hệ giữa bối cảnh lịch sử xã hội với nội dung các tác

phẩm và mối quan hệ giữa nhà văn với tác phẩm thì với lý thuyết tiếp nhận, mối quan hệ giữa người

đọc với các nhân tố khác của quá trình văn học mới được triển khai một cách có hệ thống và khá cụ thể.

Với vai trò đó, lý thuyết tiếp nhận đã có một vị trí quan trọng trong lý luận văn học, cũng nhờ đó lý

luận văn học trở nên đầy đủ hơn, hợp lý hơn, quá trình văn học nhờ đó mà được soi sáng hơn, được

nhìn nhận nhiều chiều, nhiều hướng và tổng quát hơn. Không có lý thuyết tiếp nhận, lý luận văn học

cũng như đời sống văn học sẽ thiếu một mảng lớn mà không gì có thể thay thế được.

Nói đến tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận, cũng không thể không nói đến sự trưởng thành

của lý luận về tiếp nhận cũng như ý nghĩa của sự trưởng thành đó.

Trong suốt lịch sử của lý luận văn học, lý luận về tiếp nhận luôn tồn tại và phát triển nhưng chỉ

đến khi lý thuyết tiếp nhận ra đời thì những lý luận đó mới trở nên có hệ thống và được triển khai cụ

thể vào trong nghiên cứu bên cạnh những lý thuyết khác về văn học. Do đó, sự xuất hiện của lý thuyết

tiếp nhận chính là một biểu hiện của sự phát triển mang tính bước ngoặc của lý luận văn học.

Cũng liên quan đến tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận, chúng ta không thể không nhìn nhận

sự đóng góp của lý thuyết tiếp nhận vào quá trình nghiên cứu văn học hiện nay. Trên cơ sở của lý

thuyết tiếp nhận, hiện nay đã có nhiều công trình nghiên cứu về văn học ra đời, cũng như sẽ có nhiều

công trình ra đời trong tương lai. Điều đó sẽ dự báo tầm quan trọng của lý thuyết tiếp nhận trong việc

làm phong phú thêm những công trình nghiên cứu, làm nảy sinh và đặt ra nhiều vấn đề mà các lý

thuyết văn học khác đã tỏ ra cạn kiệt về mặt lý luận cũng như ứng dụng.

Với tầm vị trí và tầm quan trọng như trên, lý thuyết tiếp nhận chắc hẳn sẽ còn phát triển và cần

thiết cho sự phát triển của lý luận văn học nói riêng, văn học nói chung.

1.2. Lý thuyết tiếp nhận và sự vận dụng ở Việt Nam:

1.2.1. Nghiên cứu lý luận tiếp nhận ở Việt Nam:

Ở Việt Nam, lý luận tiếp nhận phát triển khá muộn màng. Người đầu tiên nói đến vấn đề tiếp

nhận là nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hạnh. Trong bài Ý kiến của Lênin về mối quan hệ giữa văn học và

đời sống (Tạp chí Văn học, số 4, 1971), ông đã chỉ ra:

- Mối liên quan giữa giá trị của tác phẩm với phạm vi “thưởng thức” tác phẩm của người đọc.

- Trong khâu sáng tác, giá trị là cố định; trong khâu thưởng thức, giá trị mới hiện thực và luôn

biến đổi.

Những ý kiến nói trên đã bước đầu xác lập những bước tiếp cận đầu tiên đối với vấn đề tiếp

nhận trên nền tảng của lý luận macxit. Tuy nhiên, chỉ mãi đến gần bảy năm sau, lần đầu tiên, một số

vấn đề của lý thuyết tiếp nhận mới được giới thiệu ở Việt Nam qua bản dịch bài viết “Song đề của mỹ

học tiếp nhận” mang tính chất phê phán của Manfred Nauman, một trong những chuyên gia hàng đầu

thế giới về nghiên cứu tiếp nhận trên lĩnh vực lý thuyết. Đến 1980, Hoàng Trinh tiếp cận những vấn đề

tiếp nhận trong bài viết Văn học so sánh và những vấn đề tiếp nhận văn học (Tạp chí văn học, số 4,

1980 ). Năm 1990, những vấn đề của lý thuyết tiếp nhận được đề cập và làm rõ trong các bài viết Quan

hệ văn học-hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp thẩm mỹ, Nhà văn, bạn đọc và hàng

hoá sách hay văn học và sự dị trị của Huỳnh Vân. Năm 1991, Nguyễn Văn Dân tổng hợp một số bài

viết có liên quan đến tiếp nhận và được Viện thông tin Khoa học xã hội xuất bản dưới nhan đề Văn học

nghệ thuật và sự tiếp nhận.

Trong bài viết Giao tiếp trong văn hoá của Hoàng Trinh đăng trên Tạp chí Văn học, số 4, 1986,

ông đã xem xét phạm trù người đọc trong mối quan hệ với nghệ thuật. Ông cho rằng, mỗi một thế hệ

sáng tạo mới sẽ tạo ra những tác phẩm nghệ thuật chứa đựng những năng lượng thẩm mỹ mới. Điều

này đòi hỏi phải có một lớp người đọc mới xuất hiện có khả năng giải mã được nguồn năng lượng thẩm

mỹ ấy. Và như vậy, tương ứng với một thế hệ sáng tác mới sẽ là sự xuất hiện của một lớp công chúng

tương ứng có khả năng và khát vọng mới về nghệ thuật nhất định.

Các nhà nghiên cứu Trần Đình Sử, Nguyễn Văn Dân, Huỳnh Vân, Nguyễn Thanh Hùng…khi

tiếp cận lý thuyết tiếp nhận đã có những nghiên cứu ban đầu đối với vấn đề này. Về mặt lý luận, các

nhà nghiên cứu này đều cho rằng lý luận tiếp nhận là một mảng lớn của lý luận văn học nhưng chưa

được đề cập, nghiên cứu cũng như vận dụng một cách đúng mức. Nhà lý luận Trần Đình Sử cho rằng:

“Nếu xem hoạt động của văn học gồm hai mảng lớn: sáng tác và tiếp nhận, thì bản thân sự tiếp nhận

văn học đã hàm chứa một nửa lý luận văn học (…) Nếu lý luận văn học về sáng tác gắn liền với ý thức

về cá tính sáng tạo của nhà văn, thì lý luận tiếp nhận đề cập đến tính sáng tạo của người đọc.” [54]

Huỳnh Vân trong một số bài có liên quan đến lý luận tiếp nhận hay vận dụng cách tiếp cận theo

lý luận tiếp nhận đã đặt ra những vấn đề về mối quan hệ giữa nhà văn, tác phẩm, người đọc, hiện thực,

theo đó, đây là mối quan hệ biện chứng không thể tách rời, trong đó của người đọc có vị trí vô cùng

quan trọng trong đời sống của một tác phẩm cũng như đối với sự nghiệp của một tác gia cụ thể. Huỳnh

Vân cho rằng khoa học văn học không thể dừng lại ở mối quan hệ giữa nhà văn và hiện thực, nhà văn

và tác phẩm mà còn phải chú ý đến mối quan hệ giữa nhà văn- người đọc, tác phẩm-người đọc, một

vấn đề mà lý luận văn học ở ta lâu nay đã bỏ quên và việc bỏ quên đó đã làm cho lý luận văn học,

nghiên cứu văn học trở nên không hoàn chỉnh. Một số nhà nghiên cứu khác nhấn mạnh đến sự tương

đồng giữa lý thuyết tiếp nhận và lý thuyết sản xuất- tiêu dùng của Các Mác, theo đó quá trình sáng tác

của nhà văn và tiếp nhận của công chúng thuộc về lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng tinh thần chứ không

phải vật chất, do đó nó mang những đặc điểm đặc biệt của lĩnh vực sản xuất và tiêu dùng tinh thần.

Nguyễn Thanh Hùng thì lưu ý: “Tiếp tục phát triển lý thuyết tiếp nhận đi liền với sự đánh giá một cách

khoa học những thành tựu mà lý thuyết đó đã đạt được, đồng thời không quên chỉ ra những cách nhìn

phiến diện hoặc cực đoan và giáo điều của luận giải học (Gađame), của hiện tượng học (Ingácđen),

của mỹ học tiếp nhận (Giauxơ), của cấu trúc luận (Bácthơ),… là một cách khẳng định những thành tựu

đã được thừa nhận của mỹ học mácxít.” [21, 229]

Ở trên là vài nét sơ lược về những tìm hiểu bước đầu về lý thuyết tiếp nhận ở Việt Nam. Nhìn

chung, về mặt lý luận, các nhà lý luận Việt Nam đã chủ động tiếp thu các thành tựu của lý thuyết tiếp

nhận hiện đại trên cơ sở dung hợp với lý luận Macxit. Chính vì thế mà lý thuyết tiếp nhận ở Việt Nam

không rơi vào sự cực đoan hoá. Tuy nhiên, liệu sự dung hợp đó có đến mức độ nào thì hợp lý, nó còn

có thể tạo nên những động lực thúc đẩy lý thuyết tiếp nhận phát triển đúng hướng và mạnh mẽ nữa hay

không, đó còn là một vấn đề của thời gian.

Có thể nói, hiện nay ở Việt Nam, những vấn đề chính của lý thuyết tiếp nhận vẫn chưa được các

nhà lý luận Việt Nam đề cập và phân tích một cách thật đầy đủ trên cơ sở kết hợp với lý luận mácxit.

Tuy nhiên, ngoài những khái niệm và những vấn đề chính yếu của lý thuyết tiếp nhận đã được tiếp

nhận, những vấn đề khác của lý thuyết tiếp nhận như vấn đề tiếp nhận tiêu cực và tiếp nhận tích cực,

tiếp nhận đích thực và nguỵ tiếp nhận, vấn đề loại hình độc giả định hướng, vấn đề xu thế tiếp nhận,

vấn đề đặc trưng của đối tượng tiếp nhận, vấn đề nguyên tắc tiếp nhận... là chưa được đề cập cụ thể và

chưa được làm rõ trong từng trường hợp tiếp nhận cụ thể.

1.2.2. Vận dụng lý luận tiếp nhận ở Việt Nam:

Đối với việc vận dụng những thành tựu của lý thuyết tiếp nhận hiện đại vào việc khảo sát các

hiện tượng văn học cụ thể, chúng ta đã đạt được những thành công nhất định. Tìm hiểu lịch sử tiếp

nhận của một tác phẩm cụ thể, chúng ta cũng đã có những công trình nghiên cứu bước đầu về phương

diện này. Để dẫn chứng, chúng ta có thể nói đến công trình Lịch sử tiếp nhận truyện Kiều của Phan

Công Khanh. Tìm hiểu về lịch sử tiếp nhận sự nghiệp sáng tác của một tác gia, chúng ta cũng đã có

những công trình nghiên cứu nhất định. Các tác gia đã được nghiên cứu có thể kể đến là Puskin, Gôgôn,

Đôxtôiepxki, Sêkhôp, Gorki…

Trong công trình Lịch sử tiếp nhận truyện Kiều, tác giả Phan Công Khanh đã chỉ ra những cách

thức tiếp nhận Truyện Kiều khác nhau và khá cụ thể của từng loại người đọc cũng như sự biến đổi của

tác phẩm Truyện Kiều qua sự tiếp nhận tiêu cực hay tích cực của từng loại người đọc trong cùng một

hoàn cảnh lịch sử cụ thể và cả từng thời kì lịch sử khác nhau. Bên cạnh đó, tác giả còn chỉ ra sự ảnh

hưởng tiêu cực và tích cực của Truyện Kiều đối với các lĩnh vực xã hội khác nhau như văn học và các

loại hình nghệ thuật, chính trị, văn hoá, xã hội. Nhìn chung, công trình là một thành tựu rất đáng quý

trong buổi đầu nghiên cứu tiếp nhận ở Việt Nam. Những vấn đề như những ảnh hưởng lẫn nhau giữa

các loại người đọc trong quá trình tiếp nhận, vấn đề tiếp nhận sáng tạo và tiếp nhận tiêu cực, vấn đề

định hướng tiếp nhận… tuy chưa được triển khai cụ thể về mặt lý thuyết (do luận án không lấy đó làm

trọng tâm) nhưng đã có những đề cập mang tính định hướng rất đáng quý đối với quá trình nghiên cứu

tiếp nhận sau này.

Trong công trình Văn học Nga tại các thành thị miền Nam trước 1975- trường hợp Đôxtôiepxki,

tác giả Phạm Thị Phương đã chỉ ra một số đặc điểm tiếp nhận của độc giả miền Nam đối với một số tác

phẩm của các tác giả Nga tiêu biểu như Puskin, Tônxtôi, Sêkhôp, Pasternac... Điều đáng kể trong công

trình này là tác giả đã cố gắng chỉ ra một cách khái quát và cụ thể việc độc giả miền Nam đã tiếp nhận

văn học Nga giai đoạn 1954-1975 như thế nào. Bên cạnh đó, tác giả công trình còn tiếp cận quá trình

tiếp nhận Đôxtôiepxki thông qua việc tìm hiểu cơ sở tiếp nhận, tiền đề tiếp nhận, cũng như cách thức

độc giả miền Nam tiếp nhận một số nội dung tư tưởng trong tác phẩm của nhà văn này. Nhìn chung,

đây là một công trình chủ yếu đề cập đến lịch sử tiếp nhận của một tác giả ở một giai đoạn lịch sử nhất

định, nói cách khác, tác giả nghiên cứu lịch sử tiếp nhận Đôxtôiepxki theo hướng đồng đại. Công trình

này được xem như là công trình đầu tiên nghiên cứu lịch sử tiếp nhận về một tác giả nước ngoài ở miền

Nam trong một giai đoạn lịch sử nhất định.

Trong công trình tiếp theo Vấn đề tiếp nhận Đôxtôiepxki của tác giả Phạm Thị Phương, tác giả

đã tìm hiểu sâu sắc và cụ thể hơn về lịch sử tiếp nhận tác giả Đôxtôiepxki theo hướng lịch đại. Song

song với hướng nghiên cứu này, ở đây tác giả cũng không quên việc kết hợp với nghiên cứu đồng đại.

Tác giả không dừng lại ở việc nghiên cứu sự tiếp nhận của độc giả miền Nam mà còn nghiên cứu sự

tiếp nhận của độc giả miền Bắc ở những giai đoạn lịch sử khác nhau và trên cơ sở đó tiến hành so sánh,

đánh giá quá trình tiếp nhận của độc giả. Có thể nói, ở công trình này, tác giả Phạm Thị Phương đã tiến

hành nghiên cứu cả theo hướng đồng đại và lịch đại. Cách tiếp cận như thế là toàn diện đối với việc

nghiên cứu lịch sử tiếp nhận tác giả.

Nhìn chung, công trình này là một trong những thành tựu đáng kể của việc vận dụng lý thuyết

tiếp nhận ở Việt Nam. Lịch sử tiếp nhận một tác gia nước ngoài lần đầu tiên được tác giả trình bày một

cách toàn diện. Một số vấn đề như cách thức mà người đọc tiếp cận tư duy nghệ thuật của tác giả, đặc

điểm đối tượng tiếp nhận chi phối tiếp nhận… dù chưa được xem là mục tiêu nghiên cứu nhưng tác giả

cũng đã có những gợi ý quan trọng cho quá trình nghiên cứu tiếp theo.

Nhìn chung, các công trình này đặt trọng tâm nghiên cứu là một hay một vài tác gia tiêu biểu,

một hay một vài tác phẩm nổi tiếng. Đây là những công trình có định hướng nghiên cứu lịch sử tiếp

nhận nên chưa đặt nặng vấn đề nghiên cứu về mặt lý luận tiếp nhận. Qua thực tiễn nghiên cứu tiếp

nhận ở Việt Nam, chúng tôi cho rằng cần mở rộng thêm phạm vi nghiên cứu lĩnh vực này.

CHƯƠNG 2

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN LEP TÔNXTÔI

QUA LĨNH VỰC DỊCH THUẬT, XUẤT BẢN VÀ NGHIÊN CỨU

2.1. Lĩnh vực dịch thuật và xuất bản:

2.1.1. Tình hình dịch thuật và xuất bản:

Ở miền Nam trước 1975, trong sự tương quan với các ấn phẩm thuộc các nền văn học Pháp, Mỹ,

Trung Quốc, văn học Nga tuy không được giới thiệu, nghiên cứu rộng rãi nhưng nó cũng có một vị trí

đáng kể. Theo số liệu của Trần Trọng Đăng Đàn trong Văn hoá văn nghệ thực dân mới tại miền Nam

Việt Nam, (Nhà Xuất bản Long An, 1990, trang 309) các ấn phẩm văn học nước ngoài và các bài

nghiên cứu, giới thiệu có liên quan được xuất bản ở miền Nam Việt Nam trước 1975 được thống kê

như sau:

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Đức: 57 đầu sách.

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Ý: 58 đầu sách. .

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Nhật: 71 đầu sách..

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Anh: 91 đầu sách..

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Mỹ: 273 đầu sách..

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Pháp: 499 đầu sách..

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông: 358 đầu

sách. .

Dịch và giới thiệu các tác phẩm của nền văn học Nga-Liên Xô: 120 đầu sách. .

Ngoài ra còn có 156 đầu sách của 38 nước không thuộc các nước nêu trên.

Số liệu trên cho chúng ta thấy văn học Nga chiếm một tỉ lệ không lớn nhưng cũng không quá

nhỏ so với các nền văn học khác ở miền Nam Việt Nam. Tên tuổi các nhà văn Nga xuất hiện trên văn

đàn miền Nam như F.Đôxtôiepxki, A.Tsêkhôp, M.Gorki, M.Sôlôkhôp, B.Pasternak...qua các bản dịch

hoặc các bài nghiên cứu của giới học giả Sài Gòn đã minh chứng cho vị trí của nền văn học Nga. Tuy

nhiên, vẫn còn nhiều tên tuổi lớn của văn học Nga vẫn chưa được giới thiệu đầy đủ. Puskin,

Lecmôntôp, Nhêcraxôp, Êxênhin, Maiacôpxki còn khá xa lạ với độc giả Sài Gòn khi mà những thi

phẩm của họ chưa đến được với bạn đọc. Với sự nghiệp của Puskin, độc giả miền Nam chỉ mới tiếp

xúc với một vài tác phẩm thuộc thể loại văn xuôi, chẳng hạn, tác phẩm Phát đạn đăng trên Bách Khoa

số 73 năm 1960. Với tên tuổi Maiacôpxki, độc giả cũng chỉ biết về ông qua quyển sách có độ dày

khiêm tốn Maiakovski- thi sĩ Nga và mối tình câm. Về kịch của A.Tsêkhôp, độc giả Sài Gòn cũng chưa

biết nhiều. Có một số bài phê bình về kịch của A.Tsêkhôp nhằm khẳng định vị trí của A.Tsêkhôp đối

với nền kịch nghệ Nga cổ điển nhưng chưa có vở kịch nào của ông được dịch sang tiếng Việt

Không giống với các tên tuổi của nền văn học Nga như A.Tsêkhôp, M.Gorki, M.Sôlôkhôp,...

Lep Tônxtôi được các nhà xuất bản ở miền Nam quan tâm dịch và giới thiệu khá rầm rộ. Từ cuối

những năm 50, độc giả miền Nam bắt đầu tiếp xúc với khá nhiều tác phẩm của Lep Tônxtôi như Tình

nghĩa vợ chồng (Nxb Phượng Giang, 1958), Một bản đàn (Văn hoá ngày nay, 1958, các số 1, 2, 3, 4, 5,

6, 7, 8, 9, 10, 11), những đoạn trích từ tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình như: Mối tình chớm nở (Văn

hoá ngày nay, 1958, số 8), Cái chết của An Đễ, Tâm trạng một thương binh (Văn hoá ngày nay, 1959,

số 8), Buổi dạ hội đầu tiên (Tạp chí Tân Phong, tập I, 1958).

Đến những năm 60, bên cạnh hai bản dịch Tình nghĩa vợ chồng, Một bản đàn do Bảo Sơn dịch,

được Nhà xuất bản Đời Nay tái bản 1961, xuất hiện bản dịch Cái chết của Ivan Ilitch của Vũ Đình Lưu,

Nhà xuất bản Thời Mới ấn hành năm 1963. Truyện ngắn Số đất cần cho con người được Nguyễn Vạn

Hộ dịch đăng trên tạp chí Bách Khoa số 172 năm 1964 và truyện Ba người thánh thiện do Nguyễn Kim

Phượng dịch đăng trên Bách Khoa số 240 năm 1967. Năm 1966 ở Sài Gòn xuất hiện bản dịch truyện

ngắn Ba cái chết do Vũ Minh Thiều dịch đo nhà xuất bản Khai Trí ấn hành. Năm 1969 ở Sài Gòn xuất

hiện bản dịch Chiến tranh và hoà bình của Nguyễn Hiến Lê kèm theo phần giới thiệu khá chi tiết về

Lep Tônxtôi. Bản dịch này trọn bộ bốn tập do Nhà xuất bản Lá Bối ấn hành. Bên cạnh đó còn có bản

dịch của Nguyễn Đan Tâm (dựa trên bản dịch rút ngắn của Manel Komroff, trong số đó có bỏ một số

chương bàn về tôn giáo, triết lý chiến tranh và lịch sử) do Nhà xuất bản Miền Nam công bố. Trong dịp

này, tạp chí Văn đã ra số đặc biệt về Lep Tônxtôi để “độc giả của Văn - những bạn ưa thích văn học

dịch – làm quen với Tolstoi, biết tới sự xuất hiện của một tác phẩm cổ điển giá trị, đã từng được phiên

dịch ra nhiều thứ tiếng, phổ biến khắp hoàn cầu: Chiến tranh và hoà bình” [13, 79]. Tạp chí Văn cũng

đã giới thiệu dịch giả trẻ Nguyễn Kim Phượng qua bản dịch một số truyện ngắn của Lep Tônxtôi như:

Ba cái chết, Các cô bé khôn hơn người lớn, Người ta sống bởi gì?, Cái xấu cám dỗ, những cái tốt tồn

tại, Việc làm, sự chết và bệnh tật. Ngoài ra, tạp chí này còn đăng Thiện ác đáo đầu do Lạc Nhân dịch.

Sang những năm 1970, bên cạnh sự lên ngôi của các tác phẩm của các nhà văn mang tính thời

sự như Đôxtôiepxki, Pasternak, Soljenitsyn... tác phẩm của Lep Tônxtôi tiếp tục xuất hiện qua các bản

dịch An na Kha Lệ Ninh (Anna Karênina) do Vũ Ngọc Phan và Vũ Minh Thiều dịch, (Nxb Khai Trí

xuất bản 1970) Sơn lâm êm đềm (Những người Côdắc) của Nguyễn Trọng Đạt (Nxb Trí Đăng, 1970),

Đời tôi do Vũ Minh Thiều dịch (Nxb Khai Trí, 1970, 1971, 1972), Khúc nhạc mê ly (Bản Sonat tặng

Kreutzer) do Nguyễn Văn Điền dịch (Nxb Đất Sống, 1973), tác phẩm Vùng đất hồi sinh (Phục sinh) do

Nguyễn Đan Tâm và Vũ Kim Thư dịch (Nxb Phù Sa, 1973), tác phẩm Vùng đất hoang vu (Những người

Côdắc) do Mặc Đỗ dịch (Nxb Đất Sống, 1973), tác phẩm Tình trong chiến hào (Những mẫu chuyện

Sébastopol) do Hoàng Hải Thuỷ dịch (Nxb Đất Mới, 1973, 1974). Ngoài những tác phẩm trên, một số

tác phẩm hoặc đoạn trích từ các sáng tác dài hơi của Lep Tônxtôi cũng được dịch và đăng trong các

tuyển tập, tập truyện. Chẳng hạn, trong tập truyện ngắn quốc tế Tử thần chờ đợi do Xuân Hoàng tuyển

dịch (Nxb Tự Lực, 1974) có in đoạn trích tác phẩm Cái chết của Ivan Ilitch; tập 101 truyện ngắn hay

nhất thế giới do Nguyên Hùng tuyển dịch (Nxb Sống Mới, 1970) in truyện Lạc giữa đồng tuyết; tập

truyện ngắn nước ngoài Mãi mãi yêu người do Vũ Đình Lân tuyển dịch in truyện Một lần trong đời.

2.1.2 Một số vấn đề rút ra từ tình hình dịch thuật và xuất bản tác phẩm của Lep Tônxtôi:

Căn cứ vào tình hình dịch thuật và xuất bản, tái bản tác phẩm của Lep Tônxtôi ở miền Nam

trước 1975, chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề liên quan đến hoạt động tiếp nhận cần làm rõ để nhận

diện tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi của độc giả miền Nam. Dưới đây chúng tôi sẽ đi vào làm rõ một

số vấn đề.

2.1.2.1. Tình hình dịch thuật và xuất bản Lep Tônxtôi cho thấy, cuối những năm 50, một số tác

phẩm của Lep Tônxtôi đã bắt đầu được dịch và xuất bản ở miền Nam với sự tham gia hạn chế của một

số nhà xuất bản và tạp chí. Điều này đặt ra vấn đề về thực tế tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam trong

giai đoạn đó. Vấn đề nêu trên đặt ra nhiều câu hỏi như: Những tác phẩm của Lep Tônxtôi xuất hiện

trong thời gian này đóng vai trò gì? Ý nghĩa của chúng đối với việc nhận dạng tiến trình tiếp nhận Lep

Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-1975? Tầm quan trọng của chúng đối với việc hình thành lực

lượng độc giả của Lep Tônxtôi vào những năm 60? Lý giải những câu hỏi đó sẽ giúp chúng ta nhận

diện rõ hơn về tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi.

Như chúng ta đã biết, vào những năm 50, một số tác phẩm của Lep Tônxtôi đã đến với bạn đọc

miền Nam. Đó là tác phẩm Tình nghĩa vợ chồng (Nxb Phượng Giang, 1958), Một bản đàn (Văn hoá

ngày nay, 1958, các số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 7, 8, 9, 10, 11), đoạn trích Buổi dạ hội đầu tiên (Tạp chí Tân

Phong,Tập I, 1958) Cái chết của Anđrây, tâm trạng một thương binh (Văn hoá ngày nay, 1958, số 8) từ

tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình. Đối chiếu với sự nghiệp sáng tác đồ sộ của Lep Tônxtôi, chúng ta

dễ dàng nhận ra đây chỉ là những tác phẩm chưa tiêu biểu cho sự nghiệp của Lep Tônxtôi. Một bản đàn,

Tình nghĩa vợ chồng chỉ mới là những đoản tác của đại văn hào, còn Cái chết của An Đễ, Tâm trạng

một thương binh, Buổi dạ hội đầu tiên chỉ là những đoạn trích từ tiểu thuyết đồ sộ Chiến tranh và hoà

bình. Những tác phẩm lớn của Lep Tônxtôi như Chiến tranh và hoà bình, Anna Karênina, Phục sinh…

chưa hề được dịch và giới thiệu với bạn đọc. Số lượng các nhà xuất bản và tạp chí tham gia vào việc

giới thiệu tác phẩm của Lep Tônxtôi lúc này rất khiêm tốn với những cái tên như nhà xuất bản Phượng

Giang, Văn hoá ngày nay, Tạp chí Tân Phong. Vì vậy, ta có thể nói rằng, sự xuất hiện những tác phẩm

của Lep Tônxtôi vào những năm 50 cần được xem là giai đoạn giới thiệu Lep Tônxtôi với bạn đọc. Đó

là giai đoạn khởi đầu, giai đoạn thăm dò, khảo sát thị hiếu độc giả miền Nam.

Với sự xuất hiện khiêm tốn một số tác phẩm của Lep Tônxtôi như trên thì thực tế tiếp nhận của

độc giả miền Nam diễn ra như thế nào? Về mặt lý thuyết, thực tế trên cho thấy hoạt động tiếp nhận Lep

Tônxtôi vào giai đoạn này của độc giả ở miền Nam cũng chỉ mới là sự làm quen, sự tiếp xúc ban đầu.

Với những sáng tác được xuất bản khiêm tốn như thế, thật khó để độc giả có một sự tiếp cận đầy đủ,

toàn diện đối với sự nghiệp của Lep Tônxtôi. Về mặt lý thuyết, với những tác phẩm xuất hiện đầu tiên

ở miền Nam, sự tiếp nhận của độc giả miền Nam nói chung chỉ mới là sự khởi đầu, sự làm quen với

một tên tuổi còn mới mẻ, dù đó là một đại văn hào của văn học thế giới đã xuất hiện trước đó hơn một

thế kỉ.

Sự xuất hiện những đoản tác và đoạn trích tác phẩm của Lep Tônxtôi tuy khiêm tốn như vậy

nhưng cũng mang một ý nghĩa to lớn trong việc chuẩn bị cho sự hình thành lực lượng độc giả đông đảo

của Lep Tônxtôi. Điều này có thể lý giải cho sự xuất hiện lực lượng độc giả hùng hậu của Lep Tônxtôi

vào những năm 60, 70.

Khảo sát hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi trong giai đoạn ban đầu này, chúng tôi nhận ra một

thực tế thú vị: nếu như độc giả đa số chỉ mới được tiếp xúc với những đoản tác và đoạn trích của Lep

Tônxtôi thì ở miền Nam đã có sẵn những độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi. Chúng ta cần biết

rằng, độc giả miền Nam của Lep Tônxtôi không phải chỉ là người bản địa, người miền Nam. Sau 1954,

có rất nhiều người miền Bắc đã di cư vào Nam và họ là những người đã từng tiếp xúc với tác phẩm của

Lep Tônxtôi. Chẳng hạn, Nguyễn Hiến Lê- một trong những độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi-

là người miền Bắc, thời niên thiếu đã học ở trường Bưởi và đã đọc Chiến tranh và hoà bình qua bản cắt

bớt của nhà Hachette mua ở nhà sách Taupin ở phố Trường Tiền (Hà Nội). Nguyễn Hiến Lê hồi tưởng:

“Lần đầu tiên tôi đọc Chiến tranh và hoà bình là hồi 15 hay 16 tuổi (...) Bản tôi đọc hồi đó là một bản

cắt bớt của nhà Hachette trong loại sách Meilleurs livre khổ nhỏ, in rất xấu, nhà sách Taupin ở phố

Trường Tiền (Hà Nội) bán có hai xu một cuốn (...)” [29, 18]

Nhất Linh, Vũ Bằng cũng là những trường hợp tiêu biểu cho độc giả của Lep Tônxtôi di cư từ

Bắc vào Nam. Bên cạnh đó, các sáng tác của Lep Tônxtôi bản Pháp ngữ của miền Bắc Việt Nam cũng

đã xuất hiện ở Sài Gòn từ trước. Ngoài ra, một độc giả kì cựu của Lep Tônxtôi là Trần Phong Giao

cũng đã tiếp xúc với tác phẩm của ông từ trước. Ông Trần Phong Giao nhớ lại: “Thuở nhỏ, hồi bắt đầu

theo học ban trung học, tôi đọc Tolstoi do lời khuyên của người anh” [13, 82]. Điều đó đã tạo nên sự

tuyển mộ âm thầm các độc giả của Lep Tônxtôi ở những người miền Nam chính gốc.

2.1.2.2. Sau giai đoạn giới thiệu một số tác phẩm của Lep Tônxtôi có tính chất khảo sát thị hiếu

độc giả vào cuối những năm 50, liên tục và hàng loạt những sáng tác từ đoản tác cho đến tiểu thuyết

của Lep Tônxtôi đã lần lượt xuất hiện thậm chí xuất hiện cùng một lượt ở miền Nam. Thực tế này cho

thấy việc dịch và xuất bản các tác phẩm của Lep Tônxtôi bắt đầu có sự nở rộ vào những năm 60 và vào

đầu những năm 70.

Sự xuất hiện hàng loạt những tác phẩm của Lep Tônxtôi như trên đã cho thấy hoạt động tiếp

nhận (tiếp xúc) với Lep Tônxtôi đã bắt đầu diễn ra mạnh mẽ. Độc giả ở miền Nam đã có điều kiện tiếp

xúc với Lep Tônxtôi nhiều hơn, toàn diện hơn. Điều này chắc chắn có tác động đến sự phong phú trong

hoạt động tiếp nhận của độc giả miền Nam cũng như sự hình thành nhanh chóng lực lượng độc giả của

Lep Tônxtôi. Trên lý thuyết, sự xuất hiện hàng loạt những tác phẩm của Lep Tônxtôi như thế chắc chắn

sẽ tạo ra sự tuyển mộ độc giả của Lep Tônxtôi một cách mạnh mẽ và cũng tạo ra những khuynh hướng

tiếp nhận khác nhau. Bên cạnh đó, thực tế dịch thuật và xuất bản đó còn cho thấy nhu cầu to lớn của

độc giả ở miền Nam trong việc tìm đến tác phẩm của Lep Tônxtôi. Sự xuất hiện với tần số cao các tác

phẩm của Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam trong khoảng thời gian này có thể được xem là một đặc

điểm của tiến trình tiếp nhận LepTônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 đồng thời cũng là một vấn

đề cần lý giải. Dưới đây chúng tôi thử tìm hiểu những nhân tố có tác động đến sự xuất hiện mang tính

chất đột phá của các sáng tác của Lep Tônxtôi.

-Thứ nhất, sự xuất hiện với tần số cao các tác phẩm của Lep Tônxtôi, việc phát hành liên tục

của các nhà xuất bản, tạp chí có thể được lý giải từ sự đáp ứng thị hiếu và nhu cầu của lực lượng độc

giả của Lep Tônxtôi ở miền Nam vốn đã tiềm tàng từ trước. Như chúng ta đã biết, ở miền Nam từ trước

và sau những năm 50 đã có sự hình thành hai lớp độc giả của Lep Tônxtôi là những người di cư từ Bắc

vào Nam và những người ở miền Nam đã làm quen với các tác phẩm của Lep Tônxtôi được du nhập từ

nơi khác đến (từ miền Bắc vào là chủ yếu). Lực lượng độc giả tiềm năng này của Lep Tônxtôi có điều

kiện phát triển mạnh hơn qua việc giới thiệu một số đoản tác của Lep Tônxtôi của một số nhà xuất bản,

tạp chí và bài giới thiệu Lev Tolstoi-một Á thánh của Nguyễn Hiến Lê vào cuối những năm 50. Chính

sự hình thành lớp độc giả này đã dẫn đến nhu cầu xuất bản các tác phẩm của Lep Tônxtôi để đáp ứng

thị hiếu và nhu cầu của họ. Tạp chí Văn khi ra số đặc biệt giới thiệu về Lep Tônxtôi cũng đã đề cập đến

nhu cầu này như sau: “Số Văn này được đặc biệt chuẩn bị ấn hành, một cách gấp rút. Để độc giả của

Văn - những bạn ưa thích đọc văn dịch - làm quen với Tolstoi, biết tới sự xuất hiện của một tác phẩm

cổ điển giá trị, đã từng được phiên dịch ra nhiều thứ tiếng, phổ biến trên khắp hoàn cầu: Chiến tranh

và hoà bình” [13, 79]

Trong số độc giả hình thành từ trước ở miền Nam, chúng ta nên lưu ý đến vai trò của loại độc

giả chuyên nghiệp vốn di cư từ Bắc vào Nam. Việc xuất hiện các tác phẩm của Lep Tônxtôi không chỉ

để đáp ứng thị hiếu của họ mà họ còn là những người chủ động tham gia tích cực vào việc dịch và xuất

bản các tác phẩm của Lep Tônxtôi để phục vụ nhu cầu độc giả đa số.

-Thứ hai, việc phát hành hàng loạt các sáng tác của Lep Tônxtôi có thể lý giải từ xu hướng của

nền học thuật miền Nam lúc bấy giờ. Xu hướng này chính là xu hướng mở đường cho sự giới thiệu

những tác phẩm của nền văn học thế giới trong đó có Lep Tônxtôi. Văn học chính thống miền Nam lúc

bấy giờ chính là sự nối tiếp văn học trước cách mạng tháng Tám vốn đang trên đường tiếp xúc với

phương Tây, đang trên đường hiện đại hoá. Nếu như ở miền Bắc, do những điều kiện lịch sử nhất định

mà nền văn học vốn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ bởi văn học Pháp, phương Tây đã chuyển hướng đột

ngột sang nền văn học cách mạng, nền văn học phục vụ những yêu cầu của hoàn cảnh chiến tranh trong

đó khuynh hướng nổi bật là khuynh hướng trữ tình chính trị thì văn học chính thống ở miền Nam lại

tiếp tục đi theo hướng chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây, văn học Mỹ do ảnh hưởng bởi chế độ

chính trị ở miền Nam. Nếu như ở miền Bắc người ta đến với Puskin, Gôgôn, Tuôcghênhép, Sêkhôp,

Gorki, Sôlôkhôp, Mác, Lênin thì ở miền Nam người ta tìm đến với Gớt, Đicken, Sếchpia, Alêchxanđ

Đuma, Vito Hugo, Đôxtôiepxki, Stefan Zweig, Camus, Nietzsche, Freud... Chính khuynh hướng văn

học miền Nam như thế đã tạo nên những tiền đề để tiếp nhận Lep Tônxtôi.

Như thế, việc xuất bản các danh tác của Lep Tônxtôi có nguyên nhân sâu xa từ xu hướng của

nền văn học miền Nam, xu hướng này là sự kết nối với văn học trước cách mạng tháng Tám. Điều này

cũng có nghĩa là việc giới thiệu Lep Tônxtôi ở miền Nam là một điều dễ hiểu cũng như văn học cách

mạng miền Bắc tiếp nhận Gorki, Sôlôkhôp... Vấn đề còn lại ở đây chỉ là tìm hiểu xem văn học miền

Nam tiếp xúc với những tác phẩm nào của Lep Tônxtôi, tiếp nhận từ ông cái gì, loại bỏ nội dung nào...

-Thứ ba, việc giới thiệu các sáng tác của Lep Tônxtôi với bạn đọc miền Nam cùng nằm trong

khuynh hướng dịch thuật ồ ạt văn học, văn hoá nước ngoài ở miền Nam vào những năm 60 -70. Vào

thời gian này, họ dịch hàng trăm tác phẩm của gần một trăm tác giả thuộc nhiều khuynh hướng nghệ

thuật, tư tưởng khác nhau ở khắp nơi trên thế giới. Nhà nghiên cứu Trần Hữu Tá nói về hiện tượng đặc

biệt này như sau:

“Hơn một trăm tác phẩm của non năm mươi tác giả thuộc nhiều quốc tịch khác nhau ở hầu

khắp các đại châu, thuộc nhiều khuynh hướng nghệ thuật khác nhau được in ra. Từ những cây bút

“chống cộng” cũ rích như An-đrê Git (A. Gidê), Ac-tơ Kơt- slơ (A. Koestler) đến những cây bút phản

bội mới tinh như A-lêch-xăng Xôn-giơ-nhit-xưn (Alexandr Soljenitsyne). Từ cha đẻ của những chuyện

tình mùi mẫn như E-rich Xê-gan (Erich Ségal), Tô-mat Hac-đi (Thomas Hardy) phương Tây đến Từ

Tốc, La Lan, Quỳnh Dao phương Đông. Từ những tác gia cổ điển tiêu biểu như Tônx-tôi (L. Tolstoi),

Ta-go (H. Tagore) đến những nhà văn hiện đại chủ nghĩa “thời danh” như Kap-ka(Kafka), Pha-nông

(F.Fanon)... Và, thật là trái khoáy, có cả Go-rki (M. Gorki), Sô-lô-khôp (M. Cholokhov) và Lỗ Tấn!”

[52, 383-384]. Hiện tượng dịch thuật ồ ạt này xuất phát từ những nguyên nhân chính sau:

Trước hết, đó là do quy luật thị trường chi phối. Các nhà xuất bản ở Sài Gòn làm ăn theo quy

luật của thị trường. Họ triển khai những tác phẩm, những tên tuổi có thể tìm được nguồn tiêu thụ, tìm

được người mua. Các sáng tác, ấn phẩm trong nước lúc bấy giờ gặp phải sự kiểm duyệt gắt gao của

chính quyền Sài gòn nên các nhà xuất bản đã chủ động tìm đến sách dịch nước ngoài để dễ bề kinh

doanh, tìm kiếm lợi nhuận. Những ấn phẩm, tác phẩm của các tên tuổi nổi tiếng hoặc có khả năng đáp

ứng được các loại thị hiếu của nhiều loại độc giả khác nhau sẽ được xuất bản. Chẳng hạn, tác phẩm

Guồng máy của nhà hiện sinh chủ nghĩa Sartre được dịch và tái bản nhiều lần, những tiểu thuyết của

Đôxtôiepxki như Tội ác và hình phạt, Anh em nhà Karamadov cũng được tái bản... Những danh tác của

Lep Tônxtôi hiển nhiên đương thời là những sáng tác có thể đáp ứng nhu cầu khách hàng, vừa là sản

phẩm của một nền văn hoá đang được khao khát khám phá… nên các nhà xuất bản có thể hy vọng vào

sự thành công của lợi nhuận.

Thứ hai, khuynh hướng dịch thuật ồ ạt này xuất phát từ chính chiêu bài, đường lối chính trị của

nguỵ quyền Sài Gòn. Khi đề cập đến việc xuất bản và giới thiệu của đặc san Văn, Trần Hữu Tá đã nhận

định:

“Mặc dù những người chủ trương tập san cố ý gây cho người đọc một ấn tượng rằng họ có một

quan điểm cởi mở, phóng khoáng, không bị chi phối bởi một đường lối chính trị, rằng họ vô tư hồn

nhiên trong thưởng thức và đánh giá văn học nước ngoài, nhưng thực tế họ không che giấu được động

cơ sâu kín bên trong. Quan điểm chính trị của tập san này từ lâu vốn khá rõ ràng. Nói chung, họ dịch

ai, giới thiệu ai, tại sao đề cao nhà văn này, đả kích nhà văn kia, đều có mục đích sâu xa cả” [52, 386-

387]. Ở đây, Trần Hữu Tá đã nhận ra tính chất chính trị đã chi phối việc xuất bản và dịch thuật của các

nhà xuất bản, báo chí ở Sài Gòn lúc bấy giờ.

Những đường lối chính trị khác nhau chi phối việc phổ biến nhiều tác giả, tác phẩm thuộc nhiều

khuynh hướng khác nhau trong đó đường lối chính trị hướng theo phương Tây có một tác động lớn lao.

Đường lối chính trị nầy đã chi phối phần lớn các nhà xuất bản, các tạp chí đương thời. Có thể nói, sự

du nhập những tư tưởng tự do tư sản hiện đại trong xã hội miền Nam trước 1975, ở một mức độ nhất

định, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình dịch thuật các sáng tác của Lep Tônxtôi nói riêng, các

sáng tác của nền văn học Nga –Xô nói chung. Trên mặt dịch thuật, chủ trương này được thực hiện rộng

rãi không chỉ giới hạn ở một vài nền văn học “thân Mỹ” mà còn mở rộng đến các nền văn học khác.

Thực tế này được chứng minh qua sự xuất hiện hàng loạt các tác phẩm thuộc nhiều thể loại như triết

học, văn học, tôn giáo của nhiều nền văn học văn hoá khác nhau.

Như vậy, sự phổ biến và tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam cùng nằm trong dòng lưu tiếp nhận

và phổ biến hàng loạt những tên tuổi khác thuộc những khuynh hướng khác nhau, thậm chí đối lập

nhau. Nhờ vào dòng lưu phổ biến và tiếp nhận này mà tác phẩm của Lep Tônxtôi có dịp đến với bạn

đọc. Đây có thể xem là một trong những đặc điểm của tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam

Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

-Thứ tư, sự đòi hỏi của các lực lượng độc giả của Lep Tônxtôi hiện giờ có thể lý giải cho sự

xuất hiện ồ ạt các tác phẩm lớn của Lep Tônxtôi. Như chúng ta đã biết, việc phổ biến các tác phẩm của

Lep Tônxtôi trước hết xuất phát từ nhu cầu và đòi hỏi của độc giả. Xét về mặt tư tưởng, ở miền Nam

lúc bấy giờ có sự tồn tại của ba lực lượng độc giả với những đường lối tư tưởng, mục đích khác nhau

nhưng có cùng chung mong muốn tìm đến Lep Tônxtôi.

Lực lượng thứ nhất là những người trí thức chịu ảnh hưởng và sùng bái tư tưởng phương Tây.

Họ sùng bái văn học phương Tây vì thế mà họ không thể bỏ qua văn học Nga vốn mang dáng dấp của

văn học phương Tây. Họ tiếp xúc và tiếp thu những tư tưởng của Đôxtôiepxki, Camus, Sartre,

Heidegger... lẽ đương nhiên họ cũng phải tìm hiểu Lep Tônxtôi.

Lực lượng độc giả thứ hai là những người có mong muốn tiếp xúc và tìm hiểu về một nền văn

học vốn xa lạ và chưa được tiếp xúc. Đối với họ, văn học Nga là một nền văn học lớn, có ảnh hưởng

đáng kể đối với nền văn học thế giới nhưng họ chưa được tiếp xúc. Họ khao khát tìm đến nền văn học

này với tư cách như là khao khát tìm kiếm những giá trị, tư tưởng văn học mới mẻ, chưa được khám

phá.

Lực lượng độc giả thứ ba là những người trí thức có tâm huyết đối với văn học và học thuật

hoặc ít nhiều chịu ảnh hưởng bởi âm hưởng của cuộc cách mạng tháng mười Nga hoặc những tư tưởng

cách mạng tiến bộ ở miền Bắc và miền Nam lúc bấy giờ. Họ đứng giữa hai tuyến lửa và cố giữ nhân

cách của mình cũng như muốn đóng góp sức mình cho đất nước. Thái độ thoát ly chính trị của họ có

tác động lớn đến quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi. Họ đến với tác phẩm của Lep Tônxtôi không đơn

thuần là nhằm để giải trí mà mong muốn tìm kiếm những giá trị hữu ích trong các danh tác của Lep

Tônxtôi.

Đọc Chiến tranh và hoà bình, lực lượng độc giả này nhận ra đây là bản anh hùng ca bất diệt ca

ngợi tinh thần yêu nước của nhân nhân Nga trong cuộc chiến tranh chống quân xâm lược Pháp năm

1912. Tác phẩm đã tái hiện lại những sự kiện lịch sử vĩ đại của nước Nga với sự hiện diện của hàng

loạt những nhân vật lịch sử có thật: đại đế Napôlêông, tổng tư lệnh Nga Kutudôp, Nga hoàng...và

những trận đánh đi vào lịch sử nhân loại: trận Auxteclic, trận Bôrôđinô... Bằng việc tái hiện những sự

kiện lịch sử, Lep Tônxtôi đã tôn vinh và khẳng định tinh thần yêu nước bất diệt của nhân dân Nga, ca

ngợi “tư tưởng nhân dân” đồng thời phê phán cuộc chiến tranh phi nghĩa và tư tưởng độc tài, cá nhân vị

kỉ của “thiên tài” Napôlêông...

Bên cạnh những sự kiện lịch sử, họ còn có thể bắt gặp những con người bằng xương bằng thịt

với tất cả những ước mơ và khát vọng, nỗi đam mê, tình yêu chân thành, bồng bột, lãng mạn cũng như

những thất bại, đau khổ và dằn vặt, trăn trở của tuổi trẻ- những người mà lớp độc giả này tìm thấy sự

đồng cảm với bản thân mình. Họ có thể có những tính cách khác nhau, nhưng dù đó là là chàng thanh

niên nghiêm nghị Anđrây, anh chàng bồng bột vui tính Pie hay cô gái sùng đạo Maria, cô gái hồn nhiên

yêu đời Natasa thì tất cả đều là những con người khao khát tìm kiếm ý nghĩa cuộc sống. Họ nếm trải

hết thất bại này đến thất bại khác, họ có đau khổ đến tột cùng vì đánh mất tình yêu, đánh mất người vợ

yêu, đánh mất người thân, đánh mất công danh sự nghiệp...nhưng rồi họ vẫn dám đối đầu và dám sống

để tìm ra ý nghĩa đích thực của cuộc sống. Họ không bao giờ đầu hàng số phận và khuất phục thất bại.

Họ chỉ sợ một điều duy nhất: sống vô nghĩa. Qua họ, người ta tìm thấy tất cả những gì tượng trưng cho

dòng đời muôn thuở, bất diệt của con người: tuổi thanh niên và tình yêu bồng bột, những vấp ngã của

thời trai trẻ, những gì đã trở thành dĩ vãng và kỉ niệm giúp con người sống tốt hơn, chín chắn hơn trước

cuộc đời.

Có thể nói, tiếp xúc với Chiến tranh và hoà bình, lớp độc giả thứ ba mong muốn tìm thấy ở đó

tinh thần yêu nước, chống giặc ngoại xâm mãnh liệt của những con người chân chính Anđrây, Pie,

Kutudôp, những “gã mugic” như Platôn và những nông nô, những con người nhỏ bé... Họ mong muốn

tìm kiếm những tư tưởng tiến bộ qua hình tượng những con người đi tìm ý nghĩa cuộc sống như

Anđrây, Pie... Họ muốn nhận ra cuộc chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa qua lịch sử nước Nga mà

Lep Tônxtôi đã phản ánh.

Tương tự tác phẩm Chiến tranh và hoà bình, lớp độc giả này khi đọc Anna Karênina chắc hẳn

không chỉ nhìn thấy đây là “một cuốn tiểu thuyết tâm lý sâu sắc, một bức hoạ vĩ đại về xã hội Nga và

qua tất cả những trang này, sự phấn đấu của một tâm hồn tìm kiếm chân lý của cuộc đời” [83, 26] mà

họ còn tìm thấy ở đó tư tưởng giải phóng phụ nữ, tư tưởng đấu tranh vì quyền sống của phụ nữ, tư

tưởng phê phán và đấu tranh cải tạo xã hội... Bi kịch của Anna đối với họ không đơn giản chỉ là bi kịch

của một cá nhân, một gia đình mà là bi kịch của cả xã hội, một bi kịch cần được giải quyết ngay tức

khắc. Hình tượng Lêvin trong tác phẩm không đơn giản là hình tượng đi tìm hạnh phúc cá nhân, hạnh

phúc gia đình riêng tư mà còn là hình tượng tiêu biểu cho khát vọng xây dựng một xã hội hoà đồng,

hạnh phúc.

Có thể nói, sự tồn tại của những lực lượng độc giả khác nhau của Lep Tônxtôi đã đóng một vai

trò quan trọng trong việc kích thích sự phổ biến các tác phẩm của Lep Tônxtôi. Trong sự tương quan

giữa các lực lượng độc giả của Lep Tônxtôi, lực lượng độc giả thứ ba có một vị trí vô cùng quan trọng

trong việc thúc đẩy quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi theo hướng tích cực. Lực lượng này khi hướng đến

những giá trị tư tưởng tiến bộ trong các kiệt tác của Lep Tônxtôi đồng thời cũng nhận chân ra những

giá trị nghệ thuật đích thực của tác phẩm Lep Tônxtôi.

-Thứ năm, một trong những nguyên nhân không kém phần quan trọng khiến các sáng tác tiêu

biểu của Lep Tônxtôi xuất hiện ở miền Nam vào cuối những năm 60 là do sự tranh đua của giới học giả

và dịch thuật miền Nam trước sự phổ biến của các sáng tác lớn của Lep Tônxtôi tại các nước và kể cả ở

miền Bắc Việt Nam lúc bấy giờ. Chẳng hạn, Nguyễn Hiến Lê đã phàn nàn là một tác phẩm lớn như

Chiến tranh và hoà bình mà người miền Nam không biết đến trong khi ở Trung Quốc người ta đã dịch

nó trên ba mươi năm, ở miền Bắc Việt Nam đã xuất hiện bản dịch từ lâu…

-Thứ sáu, bên cạnh việc lý giải sự xuất bản và dịch thuật ồ ạt các tác phẩm của Lep Tônxtôi từ

những điều kiện khách quan, sự xuất hiện với tần số cao các tác phẩm của Lep Tônxtôi trong một

khoảng thời gian ngắn ở miền Nam còn có thể được lý giải bằng những đặc điểm của chính đối tượng

được tiếp nhận; trong đó nội dung tư tưởng, những vấn đề đặt ra trong các sáng tác của Lep Tônxtôi,

giá trị nghệ thuật của các tác phẩm của Lep Tônxtôi và uy tín, tiếng tăm, nhân cách, tài năng của Lep

Tônxtôi cũng đóng một vai trò không nhỏ.

Về nội dung tư tưởng, những vấn đề đặt ra trong các sáng tác của Lep Tônxtôi, chúng ta biết

rằng, các tác phẩm của Lep Tônxtôi có khả năng khơi gợi hoặc trả lời cho một số độc giả ở miền Nam

trong việc đi tìm lời giải đáp cho xã hội tao loạn miền Nam. Vấn đề này sẽ được chúng tôi đề cập rõ

hơn trong phần tìm hiểu về độc giả không chuyên trong chương 3.

Giá trị của các tác phẩm của Lep Tônxtôi và uy tín, tiếng tăm, nhân cách, tài năng của ông

cũng là một đặc điểm của đối tượng tiếp nhận có tác động mạnh mẽ đến sự phổ biến và tiếp nhận Lep

Tônxtôi. Cũng giống như nhiều tên tuổi nổi tiếng khác, trước hết Lep Tônxtôi là một nhà văn lớn của

văn học Nga, là đại diện tiêu biểu của nền văn học Nga thế kỉ XIX, là đại văn hào của thế giới. Tiếng

tăm, tài năng và uy tín văn học của ông đã được khẳng định trước đó hơn một thế kỉ. Những sáng tác

của ông là những kiệt tác không chỉ của riêng nền văn học Nga mà là của cả nền văn học thế giới.

Chiến tranh và hoà bình luôn được xem như là một kiệt tác văn học thế giới, là đại diện cho một thể

loại tiểu thuyết mới - tiểu thuyết sử thi, là một đỉnh cao của tiểu thuyết cổ điển. Những giá trị tư tưởng

và nghệ thuật của kiệt tác này không gì có thể thay thế và so sánh. Tiểu thuyết Anna Karênina cũng nổi

tiếng không kém khi mà nó được xem như là một đột phá của tiểu thuyết gia đình đương thời. Nhà xuất

bản Khai Trí khi giới thiệu về tác phẩm này đã từng khẳng định đây là “một cuốn tiểu thuyết tâm lý sâu

sắc, một bức hoạ vĩ đại về xã hội Nga và qua tất cả những trang này, sự phấn đấu của một tâm hồn tìm

kiếm chân lý của cuộc đời [83, 26]. Tiểu thuyết Phục sinh của Lep Tônxtôi khi xuất hiện cũng được

người ta ca ngợi, yêu thích, bàn tán: “truyện có sức lôi cuốn làm cho chúng ta phẫn uất trước những

bất công của xã hội. Tcheskhov khen là tuyệt, nhiều đoạn đọc muốn nghẹt thở.(...) Truyện được độc giả

rất hoan nghênh. Đâu đâu người ta cũng bàn tán, phê phán các nhân vật trong truyện.” [66,64]. Thế

giới khẳng định đây là kiệt tác cuối cùng của Lep Tônxtôi.

Những tác phẩm của ông không chỉ là những tác phẩm gây tiếng vang lớn mà nó còn là những

đỉnh cao của văn học thế giới, những mẫu mực không thể thay thế, từ đó các văn nghệ sĩ có thể học hỏi

rất nhiều điều về nghệ thuật sáng tác. Nguyễn Hiến Lê cũng đã không ngớt lời khen cách kết cấu của

truyện, theo ông lối kết của Chiến tranh và hoà bình là lối kết hay nhất mà ông từng được biết. Hoặc

giả nhà văn Nhất Linh cũng đã từng thú nhận đã học hỏi rất nhiều từ nghệ thuật sáng tác của Lep

Tônxtôi. Ông viết: “Tác giả như là một đấng tạo hoá đã mở cửa cho mình thấy những cái mà mình

không bao giờ tự thấu hiểu được”[35, 15]

Bên cạnh những giá trị lớn lao của các tác phẩm của Lep Tônxtôi, các nhà xuất bản, tạp chí ở

miền Nam quan tâm nhiều đến Lep Tônxtôi bởi vì ông còn là một nhà tư tưởng, một “giáo chủ” chủ

trương một học thuyết tôn giáo, một nhà cải cách xã hội có ảnh hưởng lớn đến lịch sử thế giới trong

quá khứ và hiện tại. Sinh thời, chủ thuyết tôn giáo của Lep Tônxtôi đã quyến rũ hàng ngàn người trên

thế giới đến điền trang Iaxnaia Pôliana. Đầu thế kỷ XX, tên tuổi Lep Tônxtôi càng lừng lẫy hơn khi mà

học thuyết bất bạo động của ông gắn liền với Thánh Gandhi, người đã thực hành thuyết bất bạo động

của Lep Tônxtôi và gây tiếng vang lớn trên thế giới. Đối chiếu với hoàn cảnh xã hội miền Nam lúc bấy

giờ, tư tưởng “bất bạo động” của Lep Tônxtôi có một vị trí quan trọng trong tinh thần và tư tưởng của

thời đại. Nó phù hợp với tinh thần của đạo Phật, Thiên chúa giáo và tinh thần phản đối chiến tranh

đang phổ biến ở miền Nam lúc bấy giờ. Có lẽ tất cả những điều này đã tác động đến nhu cầu cần phải

phổ biến, xuất bản hàng loạt các tác phẩm của Lep Tônxtôi.

Không những là một nhà văn và nhà tư tưởng lớn của thế giới, nhân cách sống của Lep Tônxtôi

cũng là một sự kiện để người ta tìm đến với ông, học hỏi ở ông. Tư tưởng của Lep Tônxtôi: “Để sống

trung thực, cần phải xông xáo, mắc mớ, quẫy đạp, lầm lẫn, bắt đầu rồi bỏ đấy, rồi lại bắt đầu và lại bỏ

đấy, mãi mãi đấu tranh và luôn chịu mất mát. Còn sự bình ổn - là táng tận lương tâm” [88, 36] khiến

người ta khâm phục. Người ta suy tôn ông là Á thánh bởi vì ông dám sống trung thực, không sợ thất

bại, không an phận. Nguyễn Hiến Lê tiếp cận và giới thiệu con người Lep Tônxtôi và các nhà xuất bản

tham gia vào việc phát hành các bài viết đó có lẽ vì muốn giới độc giả học hỏi nhân cách của một danh

nhân, một bậc trí giả của nhân loại.

Như thế, những nhân tố dẫn đến việc dịch và xuất bản ồ ạt các sáng tác của Lep Tônxtôi không

chỉ xuất phát từ những điều kiện xã hội bên ngoài mà còn bị chi phối bởi sự tác động của chính đối

tượng được tiếp nhận. Nói cách khác, việc giới thiệu, tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam lúc này chính

là kết quả của sự tương tác giữa những điều kiện khách quan từ bên ngoài xã hội và chính bản thân đối

tượng được tiếp nhận. Sự hô ứng giữa những tác phẩm, tư tưởng của Lep Tônxtôi với điều kiện xã hội

miền Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phổ biến các sáng tác của Lep Tônxtôi mà các nhà văn

khác như Sêkhôp, Gorki, Gôgôn, Tuôghênhep... không thể có được. 2.1.2.3. Trong xu thế xuất bản

hàng loạt các tác phẩm của các nhà văn mang tính thời sự cao như Đôxtôiepxki, Pasternak,

Soljenitsyn... các tác phẩm của Lep Tônxtôi vẫn tiếp tục được xuất bản với nhiều đầu sách, ở nhiều thể

loại sáng tác. Đây chính là một đặc điểm của tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn

1954-1975.

Như chúng ta đã biết, từ giữa những năm 60 đầu những năm 70, tình hình dịch thuật có sự

chuyển hướng từ việc phổ biến các tác phẩm cổ điển sang các tác phẩm hiện đại. Các tiểu thuyết cổ

điển dần dần nhường chỗ cho tiểu thuyết mới mà tiêu biểu là sự xuất hiện hàng loạt những danh tác của

Đôxtôiepxki. Trong xu hướng đó, lẽ ra các sáng tác mang tính cổ điển của Lep Tônxtôi phải nhường

chỗ cho các sáng tác của của Đôxtôiepxki, Kapka, Pasternak, Soljenitsyn... Thế nhưng, trên thực tế

dịch thuật và xuất bản, tái bản cuối những năm 60 đầu những năm 70, những danh tác của Lep Tônxtôi

như Chiến tranh và hoà bình, Anna Karênina, Phục sinh cũng như những đoản tác vẫn được ấn hành

và phổ biến. Thực tế dịch thuật và xuất bản, phổ biến những tác phẩm của Lep Tônxtôi như thế có thể

xem như là một hiện tượng tiếp nhận đặc biệt đối với trường hợp của Lep Tônxtôi. Vậy nguyên nhân

nào đã dẫn đến hiện tượng độc đáo đó?

-Thứ nhất, như chúng ta đã biết, văn phong của Lep Tônxtôi mặc dù mang tính cổ điển mẫu

mực như nhiều người khẳng định (điều này được thể hiện ở bút pháp tả chân, ở giọng văn... ) nhưng

nghệ thuật miêu tả tâm lý, nghệ thuật chuyển cảnh,… nhằm khắc hoạ tính cách nhân vật vẫn gần gũi

với văn chương hiện đại. “Phép biện chứng tâm hồn”, “thủ pháp dòng ý thức” của Lep Tônxtôi vẫn có

một sức hút đáng kể đối với các nhà văn hiện đại. Nghệ thuật phân tích tâm lý nhân vật của Lep

Tônxtôi đương thời được nhiều người thán phục và học hỏi. Hoàng Vũ Đức Vân, Nhất Linh, Nguyễn

Hiến Lê cho rằng Lep Tônxtôi đã có ảnh hưởng lớn đến mình. Đó là nguyên nhân thứ nhất.

Nguyên nhân thứ hai dẫn đến hiện tượng nêu trên là do những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của

Lep Tônxtôi cũng như tư tưởng nghệ thuật của Lep Tônxtôi phù hợp với nhu cầu thời đại. Người ta đến

với tác phẩm của Lep Tônxtôi không đơn thuần do thích tính cổ điển hay hiện đại. Một trong những lý

do để người đọc tìm đến tác phẩm của Lep Tônxtôi là do chính những tư tưởng và vấn đề đặt ra trong

tác phẩm. Nhìn bề ngoài, người ta đối lập Lep Tônxtôi với Đôxtôiepxki, họ xem Đôxtôiepxki là một

đối cực của Lep Tônxtôi. Chẳng hạn, họ cho rằng Đôxtôiepxki thể hiện rõ một nước Nga phương Tây

thì Lep Tônxtôi thể hiện rất rõ một nước Nga phương Đông. Nguyễn Hữu Hiệu dựa trên những nhận

định của triết gia Nga Nicolas Berdiaeff đã so sánh Lep Tônxtôi với Đôxtôiepxki như sau:

“…Dostoievski là truyền lệnh sứ của tinh thần cách mạng đang trên đường thực hiện, bản chất

năng động phi thường, hướng về Biến dịch, là người tuyên xưng ràng buộc với quê hương, kẻ khẳng

định đức tính của những truyền thống lịch sử, của những di sản thiêng liêng, chấp nhận quyền thống trị

và Giáo Hội chính thống Nga. Tolstoi, trái lại, không bao giờ là tinh thần cách mạng cả; ông là học sĩ

của chất liệu tĩnh, của môi trường xã hội như nó đã và đang hiện hữu; tầm mắt của ông còn quay về

quá khứ chứ chưa hướng tới tương lai. Tuy nhiên chính ông là kẻ nổi loạn chống lại tất cả truyền

thống lịch sử và tôn giáo, chính ông là kẻ ngoan cố đầu tiên, chối bỏ chính thống giáo và chối bỏ Đế

chính, không muốn chấp nhận ngay cả địa vị tối thượng của văn hoá. Dostoievski cho thấy tính chất

sâu xa của hư vô chủ nghĩa Nga. Chính Tolstoi tự nhận mình là kẻ theo hư vô chủ nghĩa, kẻ phá hoại

thánh tích và tất cả mọi giá trị. Dostoievski biết cuộc cách mạng sắp tựu thành và đang khởi lên(…)

Tolstoi, ông không biết rằng cách mạng đang khởi lên (…) Tóm lại, có thể Tolstoi là một nghệ sĩ hoàn

toàn hơn Dostoievski…Nhưng Dostoievski lại là một tư tưởng gia hơn vĩ đại hơn Tolstoi.” [19, VII-

VIII].

Tuy nhiên, nhìn nhận ở bề sâu, cả hai đại văn hào này đều có điểm chung ở tư tưởng nghệ thuật,

ở tư tưởng hướng thiện, tôn vinh cái chân, thiện, mỹ của con người. Họ có nhiều điểm chung trong việc

giải quyết những vấn đề cốt lõi của nhân loại. Cả hai đều nhận ra những mâu thuẫn của thời đại và có

cùng chủ trương dùng đạo đức, tinh thần để hoà giải nhân loại chứ không dùng bạo lực. Nguyễn Hiến

Lê cũng nhận ra sự giống nhau giữa hai nhà văn có nhiều cái riêng này: “Lạ thay! Cả hai văn hào bậc

nhất của Nga, Tolstoi và Dostoievski đều dùng tiểu thuyết để dạy cho ta đạo khiêm tốn và bác ái”

[27,82-83]

Có thể nói, nếu như những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của Đôxtôiepxki, tư tưởng nghệ thuật

của Đôxtôiepxki tìm được sự hô ứng của độc giả miền Nam thì với Lep Tônxtôi, tình hình cũng tương

tự. Sự giống nhau trong sâu thẳm tư tưởng giữa hai bậc hiền minh đã dẫn đến thái độ tiếp nhận khá

giống nhau. Điều này nói lên một thực tế, việc tiếp nhận Lep Tônxtôi và Đôxtôiepxki ở miền Nam là

một sự tiếp nhận diễn ra ở bề sâu ý thức chứ không phải là sự tiếp nhận hời hợt. Độc giả miền Nam đã

thấu hiểu khá sâu sắc một phần tư tưởng nghệ thuật của Lep Tônxtôi và Đôxtôiepxki chứ không phải là

sự tiếp nhận bề ngoài, xu thời.

Nguyên nhân tiếp theo dẫn đến hiện tượng đã nêu còn có thể được lý giải từ sự đối lập tư tưởng

bất bạo động của Lep Tônxtôi với tư tưởng cộng sản. Tác phẩm của Lep Tônxtôi thể hiện giải pháp tiến

hành cách mạng bất bạo động để xây dựng một xã hội tốt đẹp hơn nên đối lập với đường lối cách mạng

ở miền Nam lúc bấy giờ. Chính vì sự đối lập này mà tác phẩm của Lep Tônxtôi tránh được sự kiểm

duyệt và thậm chí được khuyến khích phát triển bởi nhà cầm quyền ở miền Nam.

Sự đối kháng giữa chủ nghĩa hiện thực truyền thống mà Lep Tônxtôi là đại diện tiêu biểu với

các trào lưu, khuynh hướng văn học hiện đại mới được du nhập vào miền Nam có thể còn là cách lý

giải cho sự xuất hiện hàng loạt những tác phẩm của Lep Tônxtôi vào những năm 60, 70. Như chúng ta

đã biết, vào những năm 60, 70, phong trào dịch thuật văn học nước ngoài mà chủ yếu là những tác

phẩm của Đôxtôiepxki và các loại tác phẩm được gọi là “tiểu thuyết mới” diễn ra ồ ạt và thống lĩnh văn

đàn văn học miền Nam. Cùng với sự xuất hiện các “tiểu thuyết mới” của Đôxtôiepxki, Kafka, Malraux,

ở miền Nam đã xuất hiện một loạt nhà văn chuyển từ phong cách cổ điển sang phong cách hiện đại như:

Dương Nghiễm Mậu, Nhã Ca, Thế Uyên, Duy Lam… Trong xu hướng chuyển pha “theo thời” đó, sự

xuất hiện hàng loạt tác phẩm cổ điển của Lep Tônxtôi phải chăng là một sự đối kháng lại xu hướng đó?

Rất có thể âm hưởng của tiểu thuyết cổ điển cũng như những ưu thế không thể thay thế của nó vẫn còn

được một số trí thức có tâm huyết với nền văn học nước nhà và một số không nhỏ độc giả ở miền Nam

ưa chuộng và gìn giữ. Họ thích khuynh hướng văn học mang tính giáo huấn và khẳng định chân lý hơn

là thứ văn học hiện đại chỉ có khả năng tái hiện lại “bi kịch lịch sử” rồi “bỏ đó”.

2.1.2.4. Có nhiều nhà xuất bản, nhiều tạp chí ở miền Nam tham gia của vào việc phát hành các

sáng tác của Lep Tônxtôi. Đây cũng là một thực tế rút ra từ sự khảo sát tình hình xuất bản Lep Tônxtôi.

Các nhà xuất bản, các tạp chí này có đặc điểm là không thống nhất về đường lối, chủ trương. Chẳng

hạn, nhà xuất bản Lá Bối là một nhà xuất bản của Phật giáo, họ chủ trương xuất bản các ấn phẩm có thể

truyền bá Phật giáo chứ không thuần tuý xuất bản các tác phẩm văn chương. Nhà xuất bản Khai Trí thì

chủ trương xuất bản các loại sách đông tây kim cổ. Tạp chí Văn thì lại là một tạp chí khá chuyên về

công việc giới thiệu văn chương... Nhiều nhà xuất bản có những chủ trương, mục đích khác nhau như

thế nhưng cùng tham gia vào việc phát hành các tác phẩm của Lep Tônxtôi có thể được xem như một

đặc điểm của hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

Lý giải sự xuất hiện nhiều nhà xuất bản tham gia phát hành các tác phẩm của Lep Tônxtôi, ngoài

những nguyên nhân đã nêu, chúng ta cũng cần lưu ý đến xu hướng tôn giáo của văn hoá văn nghệ miền

Nam có ảnh hưởng tích cực đến sự tham gia của nhiều nhà xuất bản đối với sáng tác của Lep Tônxtôi.

Như chúng ta đã biết, văn hoá văn nghệ miền Nam trước 1975 có đặc điểm là mang xu hướng tôn giáo,

cả tôn giáo phương Tây lẫn tôn giáo phương Đông. Lê Văn Hảo nhận xét về thực trạng này như sau:

“Miền Nam là mảnh vườn cho sự đua nở của triết học duy tâm, duy linh của Á đông, của Âu Tây cổ đại

và cận đại, của Thiên Chúa và Phật giáo cùng những luồng tư tưởng mới đang được nhắc nhiều tại các

nước tư bản Âu Mỹ hiện nay.” [17,41]. Xu hướng tôn giáo đa phương này chắc hẳn đã tìm thấy ở Lep

Tônxtôi sự tương đồng của những tư tưởng Phật giáo đang phổ biến ở miền Nam với tư tưởng bất bạo

động trong các sáng tác của Lep Tônxtôi. Như chúng ta đã biết, Nhà xuất bản Lá Bối khi ấn hành bộ

tiểu thuyết Chiến tranh và hoà bình “đã phải đi vay nợ, lãi, của nhiều người” [13,79] là không chỉ đơn

thuần muốn biết đến một tác phẩm cổ điển có giá trị. Họ dịch Chiến tranh và hoà bình chắc hẳn còn vì

lý do tôn giáo, muốn phổ biến những tư tưởng bất bạo động, gần gũi với tinh thần của đạo Phật đang

thịnh hành lúc bấy giờ.

Sự tham gia của nhiều nhà xuất bản, tạp chí vào việc phổ biến các sáng tác của Lep Tônxtôi như

trên đã chỉ ra nhiều thực tế tiếp nhận của độc giả miền Nam đối với Lep Tônxtôi. Sự tham gia của

nhiều nhà xuất bản, tạp chí với những đường lối chính trị, tư tưởng khác nhau đã cho thấy sự đa dạng

trong cách tiếp nhận Lep Tônxtôi. Điều này cũng có nghĩa là tác phẩm của ông một lần nữa thể hiện

được giá trị của nó trong tính đa nghĩa, nhiều tầng lớp ý nghĩa. Lep Tônxtôi càng được nhìn nhận là

một nhà văn lớn của thế giới và không thuộc về một ai, một chế độ chính trị nào mà là của chung nhân

loại.

2.1.2.5. Tình hình dịch thuật cho thấy có nhiều dịch giả tham gia dịch tác phẩm của Lep Tônxtôi

nhưng chất lượng dịch thuật không đồng đều.

Tình hình dịch thuật đã cho thấy hoạt động dịch thuật diễn ra khá sôi nổi và có sự tham gia của

nhiều dịch giả. Đây là một dấu hiệu đáng mừng đối với việc phổ biến các danh tác của Lep Tônxtôi. Sự

tham gia của nhiều dịch giả đối với các tác phẩm của Lep Tônxtôi đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt, sự

tiếp nhận mạnh mẽ Lep Tônxtôi ở miền Nam bên cạnh các sáng tác của các nhà văn mang tính thời sự

cao như Đôxtôiepxki, Kapka, Pasternak, Soljenitsyn...

Sự tham gia của nhiều dịch giả tham gia dịch Lep Tônxtôi một mặt đã phản ánh thái độ tiếp

nhận tích cực Lep Tônxtôi đồng thời cũng thể hiện sự không đồng nhất trong hoạt động dịch thuật. Còn

tồn tại nhiều vấn đề liên quan đến hoạt động dịch thuật. Nếu như dịch giả Nguyễn Hiến Lê là một dịch

giả thật sự nghiêm túc trong công việc dịch và kết quả của ông là bản dịch Chiến tranh và hoà bình

hiện nay vẫn còn giữ được giá trị thì hàng loạt những bản dịch khác (bản dịch Chiến tranh và hoà bình

của Nguyễn Đan Tâm chẳng hạn) lại không đạt yêu cầu. Điều đó thể hiện sự không đồng đều trong giới

dịch giả cũng như thái độ tiếp nhận và hiệu quả tiếp nhận của họ. Bản dịch Chiến tranh và hoà bình

của Nguyễn Đan Tâm thì không đầy đủ do căn cứ trên bản rút ngắn của Manel Komroff, trong đó đã bỏ

một số chương bàn về tôn giáo, triết lý chiến tranh và lịch sử. Bản dịch An-na Kha-lệ-ninh của Vũ

Ngọc Phan và Vũ Minh Thiều cũng có nhiều vấn đề do cách phiên âm tên nhân vật cũng như trong

cách sử dụng giọng văn. Nhan đề của nhiều tác phẩm của Lep Tônxtôi khi được dịch cũng đặt ra nhiều

vấn đề về cách phiên dịch (thể hiện quan niệm tiếp nhận). Chẳng hạn tác phẩm Những người Côdắc

được chuyển thành Sơn lâm êm đềm hoặc Vùng đất hoang vu, Bản Sonat tặng Kreutzer được chuyển

thành Khúc nhạc mê ly hoặc Một bản đàn, Phục sinh được chuyển thành Vùng đất hồi sinh, Những mẩu

chuyện Sébastopol được dịch là Tình trong chiến hào... Cách phiên dịch tên nhan đề tác phẩm có sự

“biến dạng” như trên rõ ràng đã chịu ảnh hưởng lớn bởi không khí thời đại của xã hội miền Nam trước

1975 vốn chịu chi phối bởi những xu hướng thẩm mỹ mang tính thị trường cũng như những trào lưu

triết học lúc bấy giờ. Đây là một đặc điểm, một vấn đề trong hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền

Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

2.1.2.6. Các sáng tác của Lep Tônxtôi được dịch và xuất bản ở miền Nam hầu hết là những sáng

tác có giá trị và khá tiêu biểu cho sự nghiệp văn học của đại văn hào Lep Tônxtôi. Nếu tính riêng từng

nhà xuất bản thì có thể họ không xuất bản tất cả những sáng tác tiêu biểu của Lep Tônxtôi. Nhưng trên

tổng thể, hầu hết những tác phẩm lớn của Lep Tônxtôi như Chiến tranh và hoà bình, Anna Karênina,

Phục sinh cũng như những tác phẩm có tiếng vang như Cái chết của Ivan Ilich, Những người Côdắc,

Bản Sonat tặng Kreutzer, Người ta sống bởi gì?...đều được dịch hoặc xuất bản ở miền Nam. Sự xuất

hiện hàng loạt những sáng tác tiêu biểu cho sự nghiệp của Lep Tônxtôi như trên đã cho thấy người

miền Nam đã tiếp xúc với Lep Tônxtôi một cách khá toàn diện, ít nhất là ở phương diện tiếp xúc với

tác phẩm. Đây có thể được xem như là một đặc điểm của hoạt động tiếp nhận tác gia này ở miền Nam

mà theo đó ta có thể so sánh với sự tiếp nhận hạn chế các sáng tác của Puskin, Tuôcghênhep,

Sêkhôp...tức là những tên tuổi cổ điển của văn học Nga thế kỉ XIX. Vấn đề đặt ra ở đây là tại sao hầu

hết các tác phẩm của Lep Tônxtôi được dịch ở miền Nam là những tác phẩm tiêu biểu cho văn nghiệp

của ông chứ không phải là những tác phẩm không tiêu biểu, những tác phẩm phục vụ cho đường lối

chính trị của chính quyền Sài Gòn?

Ở trên chúng tôi đã lưu ý đến sự xuất hiện ào ạt các tác phẩm của Lep Tônxtôi và đã lý giải

những nguyên nhân khả dĩ có thể tác động đến hiện tượng đó, tuy nhiên chúng tôi chưa đề cập đến một

trong những nhận xét rút ra từ thực tế khảo sát tình hình dịch thuật và xuất bản các tác phẩm của Lep

Tônxtôi: các tác phẩm của Lep Tônxtôi được xuất bản và giới thiệu ở miền Nam không chỉ nhiều về số

lượng mà còn khá tiêu biểu cho văn nghiệp của Lep Tônxtôi. Điều này cho thấy sự tiếp nhận Lep

Tônxtôi là tiếp nhận có chọn lựa chứ không phải ngẫu nhiên và tự phát. Các nhà xuất bản và các cơ

quan phát hành cũng như các dịch giả có khuynh hướng chọn lựa những tác phẩm lớn và nổi tiếng của

Lep Tônxtôi để ra mắt bạn đọc chứ không phải giới thiệu tràn lan. Điều này có thể được lý giải từ hai

nguyên nhân chính như sau:

Thứ nhất, sự tiếp nhận của độc giả miền Nam phụ thuộc lớn vào nội dung bên trong tác phẩm

của Lep Tônxtôi. Trong khi đó, nội dung, tư tưởng nghệ thuật chủ yếu của Lep Tônxtôi lại tập trung và

cô đọng trong hầu hết danh tác của ông chứ không phân tán trong nhiều đoản tác khác nhau. Điều này

cũng có nghĩa là người đọc miền Nam tiếp nhận, tìm đến nội dung tư tưởng của Lep Tônxtôi tức là

phải tìm đến những danh tác tiêu biểu của ông. Điều này phần nào lý giải cho việc xuất hiện hàng loạt

những tác phẩm tiêu biểu cho văn nghiệp sáng tác của Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-1975.

Thứ hai, trong nhiều lớp độc giả của Lep Tônxtôi ở miền Nam, lớp độc giả thứ ba- tức những

độc giả có cảm tình với những khuynh hướng tư tưởng tiến bộ từ âm hưởng của cuộc cách mạng tháng

Mười Nga, cách mạng tháng Tám năm 1945… cũng như một số trí thức có nhân cách, lương tâm muốn

cống hiến cho nền văn học nước nhà- có một vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy sự phổ biến các tác

phẩm của Lep Tônxtôi. Chính họ đã có công trong việc chọn lọc và dịch các danh tác tiêu biểu của Lep

Tônxtôi. Học giả Nguyễn Hiến Lê là một ví dụ tiêu biểu. Nhận thấy Chiến tranh và hoà bình là một

danh tác của Lep Tônxtôi, là một kiệt tác của nhân loại, ông đã nhiều lần đề nghị được dịch và khi lời

đề nghị được chấp nhận, ông đã dồn hết tâm huyết để dịch tác phẩm với một thái độ thật sự nghiêm túc.

Có thể nói, với lớp độc giả này, nhu cầu tìm kiếm những tư tưởng tiến bộ, những giá trị nghệ thuật đích

thực (theo quan niệm tiến bộ của họ) đã thúc đẩy việc xuất bản các kiệt tác, các danh tác tiêu biểu của

Lep Tônxtôi. Đây là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến việc xuất bản các tác phẩm tiêu

biểu của Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-1975.

Tóm lại, những tác phẩm của Lep Tônxtôi được dịch và xuất bản ở miền Nam đã góp phần vào

việc nhận diện tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-1975. Tuy còn nhiều vấn

đề tồn tại (chất lượng dịch thuật, quan điểm dịch thuật…) nhưng tình hình dịch thuật và xuất bản Lep

Tônxtôi ở miền Nam đã cho ta thấy sự quan tâm đặc biệt của xã hội miền Nam và con người miền Nam

đến một tác gia cổ điển nổi tiếng của văn học Nga và văn học thế giới. Điều này đã gợi mở nhiều điều

lý thú về hoạt động tiếp nhận của độc giả miền Nam đối với Lep Tônxtôi trong một hoàn cảnh xã hội

đặc biệt.

2.2. Lĩnh vực nghiên cứu:

2.2.1. Tình hình nghiên cứu:

Bên cạnh hoạt động dịch và xuất bản các tác phẩm của Lep Tônxtôi, hoạt động nghiên cứu Lep

Tônxtôi cũng diễn ra khá sôi nổi. Từ những năm 50, trên văn đàn văn nghệ - phê bình miền Nam đã bắt

đầu rải rác xuất hiện những bài viết, giới thiệu, khảo cứu về Lep Tônxtôi. Nhìn lại quá trình xuất hiện

các bài giới thiệu và khảo cứu về Lep Tônxtôi của giới học thuật miền Nam trước 1975, đầu tiên chúng

ta phải kể đến bài giới thiệu khá công phu của học giả Nguyễn Hiến Lê: Lev Tolstoi - một Á Thánh

đăng trên bách Khoa số 48 xuất bản năm 1959. Đây có thể được xem là bài giới thiệu khá công phu đầu

tiên về tác gia này và rất có thể chính bài viết này đã khơi mào cho sự xuất hiện hàng loạt những sáng

tác của Lep Tônxtôi ở miền Nam vào những năm 60. Đến năm 1963, Tràng Thiên giới thiệu với bạn

đọc miền Nam một bài viết mang tính chất khảo cứu: Một đề tài của Tolstoi: cái chết. Trong bài viết

này, Tràng Thiên khảo sát nội dung tư tưởng trong sáng tác của Lep Tônxtôi dưới góc độ một đề tài

mang tính thời sự trong bối cảnh miền Nam tao loạn: cái chết. Năm 1964, Hoàng Vũ Đức Vân lại đưa

tên tuổi của Lep Tônxtôi đến với người đọc qua bài viết: Lep Tônxtôi trong tác phẩm Chiến tranh và

hoà bình. Năm 1969 có thể được xem là năm có nhiều bài giới thiệu và khảo cứu về Lep Tônxtôi mà

tiêu biểu là những bài viết của Nguyễn Hiến Lê như: Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản (Văn, số 128), Lời

giới thiệu Chiến tranh và hoà bình ( Nxb lá Bối, 1969), Bốn lối kết trong tiểu thuyết, bốn nhân sinh

quan (Bách Khoa, số 290-291). Bên cạnh đó còn có bài giới thiệu của Trần Phong Giao trên Văn số

128: Vài cảm nghĩ xuôi dòng. Đến đầu những năm 70, việc giới thiệu Lep Tônxtôi với người đọc có

một sự khác biệt so với trước đó. Nếu như trrước kia việc giới thiệu Lep Tônxtôi có sự hỗ trợ từ cả hai

loại bài viết: giới thiệu và khảo cứu, thì bây giờ chỉ còn những bài giới thiệu trực tiếp hoặc những bài

giới thiệu về những nhà văn khác trong đó có so sánh với Lep Tônxtôi. Cụ thể, nhà sách Khai Trí giới

thiệu về Lep Tônxtôi và các sáng tác của ông (trong đó nhấn mạnh đến tác phẩm Anna Karênina) trong

lời tựa tác phẩm An- na Kha- Lệ- Ninh (xuất bản 1970). Nhà xuất bản Phù Sa cũng có bài giới thiệu về

Lep Tônxtôi trong lời tựa tác phẩm Vùng đất hồi sinh (xuất bản năm 1973). Khi giới thiệu về sự nghiệp

sáng tác của Đôxtôiepxki trong phần Khai từ (xuất bản 1972, Nxb Nguồn sáng) cho tác phẩm Anh em

nhà Karamadôp, Nguyễn Hữu Hiệu cũng có đề cập đến Lep Tônxtôi trong sự đối chiếu với

Đôxtôiepxki. Trong một số công trình khác, chẳng hạn, trong Ý thức mới trong văn nghệ và triết học

của Phạm Công Thiện (An Tiêm tái bản lần thứ tư, 1970) Lep Tônxtôi cũng được nhắc đến nhưng chỉ

dưới dạng minh chứng cho một vài luận điểm của tác giả. Những bài viết, nghiên cứu về Lep Tônxtôi

nêu trên có một vai trò quan trọng trong việc giúp người đọc miền Nam hiểu biết sâu sắc hơn về một

đại văn hào của nền văn học thế giới. Chính những bài viết này phần nào giúp cho chúng ta hiểu rõ hơn

về tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-1975. Dưới đây chúng tôi sẽ tìm hiểu

nội dung một số bài viết của một số tác giả nhằm tìm hiểu hoạt động tiếp nhận của họ cũng như khảo

sát khuynh hướng tiếp nhận của độc giả miền Nam đối với Lep Tônxtôi mà những tác giả đó là đại

diện.

Nội dung một số bài viết tiêu biểu về Lep Tônxtôi:

*Bài viết Lev Tolstoi, một Á Thánh của Nguyễn Hiến Lê, đăng trên Bách Khoa số 48, năm

1959:

Mở đầu bài viết, Nguyễn Hiến Lê đã nêu bật lý do giới thiệu Lep Tônxtôi với độc giả miền

Nam:

“Trong khoảng một trăm năm nay, khắp thế giới có một người được nhân loại tôn sùng vào bực

thánh sống: ông Gandhi và một người nữa được sắp vào hàng á thánh: ông Leson Tolstoi (...) Cả hai

đều là bậc chí nhân, đều có một lòng thương người vô biên, đều chủ trương bất bạo động; nhưng từ

hình dáng đến tính tình, thì khác nhau xa biết bao” [30,21]

Rõ ràng với những nhận định mang tính chất giới thiệu như trên, Nguyễn Hiến Lê không những

đã nêu lên được lý do tiếp xúc với một tên tuổi lớn của thế giới mà còn thể hiện được sự nhìn nhận và

tiếp nhận của của mình đối với Lep Tônxtôi. Ông lý giải mâu thuẫn của Lep Tônxtôi như sau: “Tâm

hồn ông rất thanh mà bẩm tính ông lại rất trọc. Hai phần đó luôn luôn mâu thuẫn nhau; càng về già,

mâu thuẫn càng mạnh, làm cho suốt đời, ông sống trong một cơn dông tố gần như bất tuyệt” [30, 22].

Sự lý giải này bị đánh giá là chưa chính xác nhưng theo chúng tôi, nó đã thể hiện một cách nói đầy tinh

ý và sâu sắc của Nguyễn Hiến Lê về Lep Tônxtôi.

Đi vào triển khai bài viết, Nguyễn Hiến Lê đã cố gắng tái hiện lại những sự kiện chính trong

cuộc đời của Lep Tônxtôi bằng chính những hành động, suy nghĩ của Lep Tônxtôi, đặc biệt là những

hành động và suy nghĩ “bất thường” để chứng minh cho nhân cách vĩ đại của đại văn hào. Qua phần tái

hiện đó, Nguyễn Hiến Lê nhận định về Lep Tônxtôi: “Ông nhu nhược, cũng như phần đông chúng ta.

Mà chúng ta mến ông cũng vì lẽ đó. Ông là một thiên tài thật, nhưng không phải là một thiên tài kiêu

căng, đứng trên cao mà ngó xuống thiên hạ ở dưới chân. Ông chỉ là người anh người bạn của chúng ta

như ông thường tự xưng trong nhiều bức thư của ông.” [30, 33]

Từ những dẫn chứng sinh động về nhân cách vĩ đại của Lep Tônxtôi, Nguyễn Hiến Lê đã có một

kết luận: “Chỉ do tấm lòng thành thực, thành thực nhận tội mình và thành thực cứu vớt nhân loại, mà

ông được người đời tôn sùng là một á thánh” [30, 33]. Chính nhờ nhân cách này mà Lep Tônxtôi được

thanh niên Pháp đương thời tôn xưng là vị cha già. Nguyễn Hiến Lê dẫn lại lời của Romain Rolland:

“Chúng tôi - tức cả thế hệ Rolland - không phải chỉ tán thưởng những tác phẩm của ông (Tolstoi) mà

còn sống với nó, như nó là tác phẩm của chúng tôi... Đời sống nhiệt thành của ông, tấm lòng trẻ trung

của ông cũng là của chúng tôi. Những mộng bác ái và hoà bình của ông cũng là của chúng tôi. Lời

buộc tội ghê gớm của ông khi ông mạt sát những giả dối của văn minh cũng là của chúng tôi” [30, 31].

Phải chăng khi viết bài giới thiệu này về Lep Tônxtôi, Nguyễn Hiến Lê cũng có ý định muốn thanh

niên miền Nam không chỉ biết tán thưởng những tác phẩm của nhà văn mà còn phải học hỏi nhân cách

của ông, tình cảm của ông, mơ ước, khát khao và trăn trở của ông như thế hệ thanh niên Pháp -thế hệ

Rolland- đã tìm thấy ở ông hình ảnh của một người hướng đạo tinh thần?

Trong bài giới thiệu của mình, Nguyễn Hiến Lê đã lấy việc giới thiệu về nhân cách của Lep

Tônxtôi là chính, tuy nhiên không vì thế mà ông bỏ qua việc giới thiệu các tác phẩm và tư tưởng của

Lep Tônxtôi. Hầu hết những danh tác của Lep Tônxtôi đều được Nguyễn Hiến Lê đề cập trong bài viết

này dưới dạng rút gọn một cách đặt biệt. Chúng luôn được Nguyễn Hiến Lê đề cập đến trong mối quan

hệ mật thiết với nhân cách, cuộc sống của nhà văn và đặc biệt là thuyết bất bạo động của ông chứ

không phải bị tách rời. Chẳng hạn, khi nói về việc Lep Tônxtôi viết cuốn Chúng ta phải làm gì?,

Nguyễn Hiến Lê viết:

“Trong nhật ký, ông (Lep Tônxtôi) tự thú: tôi đã giết người ở mặt trận... tôi đã cờ bạc, điếm

đàng, tôi đã phung phí những số tiền mà nông dân cực khổ đóng góp cho tôi... tôi đã trừng phạt họ...

nói dối, ăn cắp, tham lam, không có tội nào mà tôi không mắc phải. Tôi viết sách vì tham danh, vì tham

tiền, vì kiêu căng... Không thể tiếp tục sống như vậy được nữa. Phải tìm một lối thoát. Ông đọc lại

những sách về triết lý, tôn giáo. Ông suy nghĩ, tìm cách giải quyết và viết cuốn: Chúng ta phải làm gì?

(1884-1886) trong đó ông trút trách nhiệm lên hạng phú hào, hạng cầm quyền và giáo hội” [30, 27]

Lep Tônxtôi chủ trương “nghệ thuật phải diễn ý thức tôn giáo của thời đại. Ý thức đó là ý thức

tứ hải giai huynh đệ; vì ông tin rằng loài người chỉ có mỗi một con đường để tiến tới hạnh phúc là con

đương tương thân tương ái.” [30, 30]

Khi giới thiệu về Chiến tranh và hoà bình, Nguyễn Hiến Lê giới thiệu một cách ngắn gọn tác

phẩm trong mối quan hệ với tác giả nhưng cũng không quên nhận định về nội dung và nghệ thuật của

tác phẩm:

“Bộ đó, viết xong năm 1869, được xếp vào hạng tiểu thuyết tràng giang vô tiền trong văn học

thế giới. Trong truyện, Tolstoi tả sự biến chuyển của xã hội Nga, nhất là giới quý phái, hồi Nã Phá

Luân xâm lăng. Đời sống phù phiếm vô ý nghĩa của các Lãnh Chúa, các bà Hoàng, cảnh chiến trường

mênh mông, cảnh Moscou cháy ngùn ngụt, cảnh rút lui của quân đội Pháp trong cơn bão tuyết, nhất

nhất được ghi lại bằng những nét sắc sảo của một bút pháp tả chân và tấm lòng nhiệt thành của một

nghệ sĩ mơ mộng. Khéo nhất là sau những bối cảnh đó, ta thấy hiện lên sự bình tĩnh của những luật bất

dịch của định mạng, nó làm cho tác phẩm giữ được tính cách nhất trí. Ba nhân vật ta mến nhất là

Natacha trong sạch cả những khi tội lỗi, Anđré cao thượng và hiền từ, và Pierre Besoukhov ngây thơ

vụng về, ráng tìm hạnh phúc và rốt cuộc thấy nó trong tình thương và lòng tin tưởng. Pierre một phần

là ông và Natacha là một hình ảnh gần đúng của bà.” [30, 25-26]

Ở đây, “nghệ thuật tả chân và tấm lòng nhiệt thành của một nghệ sĩ mơ mộng” hay “sự bình

tĩnh của những luật bất dịch của định mạng, nó làm cho tác phẩm giữ được tính cách nhất trí” chính là

những nhận định cũng như cách tiếp nhận, đánh giá của Nguyễn Hiến Lê về nghệ thuật và tư tưởng

nghệ thuật của tác phẩm này.

Hoặc khi giới thiệu tiểu thuyết Anna Karênina, Nguyễn Hiến Lê cũng gắn tác phẩm này với tư

tưởng bất bạo động và thế giới tinh thần của Lep Tônxtôi:

“Trong cuốn Anna Karénine (1873-1877), một tiểu thuyết có tính cách tự truyện và tả tâm trạng

một người có ngoại tình, ông đã cho Constantin Levine, nhân vật chính, diễn những tư tưởng của ông,

như câu: “Lý trí không dạy cho tôi biết chút gì cả; hết thảy những điều tôi biết là do trái tim phát giác

cho tôi”. Tác phẩm đó tuy già giặn, nhưng thiếu giọng nồng nàn của thời niên thiếu. Ông đã hết tin ở

hạnh phúc gia đình, lại thấy đời là trống rỗng, là ghê tởm, lại muốn chết.” [30, 26]

Trong bày viết này ta thấy Nguyễn Hiến Lê rất nhiều lần đề cập đến Lep Tônxtôi trong mối

quan hệ với tư tưởng bất bạo động của ông. Chẳng hạn ông miêu tả suy nghĩ và phản ứng của Lep

Tônxtôi khi đến Paris: “Nhưng chẳng bao lâu ông thất vọng và mất lòng tin ở tiến hoá. Nhìn vẻ mặt và

dáng điệu của hạng người đầu cơ ở Thị trường hối đoái, ông muốn khạc, nhổ; đi coi Điện Phế Binh,

nơi chôn di hài Nã-Phá-Luân, ông ghê tởm cho một dân tộc đã thần thánh hoá một kẻ bạo tàn. Xúc

động nhất là lần ông nhìn đầu một kẻ bị tử hình rớt từ máy chém vào trong một cái giỏ và ông tự hỏi

không hiểu làm sao loài người lại có thể biện hộ cho một hành vi như vậy được” [30, 24]. Ở một góc

độ khác, Nguyễn Hiến Lê dường như muốn lưu ý người đọc về những tình tiết nhỏ nhặt của nhà văn

nhưng thể hiện được tư tưởng bất bạo động của ông: “Rồi một buổi sáng mùa xuân, thơ thẩn trong

rừng một mình, đột nhiên ông tìm lại được lòng tin ở Chúa. Về nhà ông đọc lại Phúc Âm và kiếm được

trong bài Thuyết giáo trên núi của Chúa bốn quy tắc cho đời sống hàng ngày:

Yêu Chúa và người khác như yêu mình.

Không giận dữ.

Không gian dâm.

Không lấy ác chống với ác.” [30, 26]

Có thể nói, qua bài viết này của Nguyễn Hiến Lê, chúng ta thấy ông tiếp nhận Lep Tônxtôi cũng

theo hướng: đề cao nhân cách của Lep Tônxtôi - một nhân cách luôn đấu tranh và tự dằn vặt một cách

thành thực để trở thành người tốt- và đề cao thuyết tương thân tương ái, chủ trương bất bạo động mà

Gandhi đã tiếp thu và thực hành. Cách tiếp nhận này hoàn toàn khác với cách tiếp nhận của Lênin và

các nhà nghiên cứu văn học Nga đương thời ở miền Bắc khi cho rằng tác phẩm của Lep chính là “tấm

gương phản chiếu cách mạng Nga”.

* Bài viết Một đề tài của Tolstoi: cái chết của Tràng Thiên, đăng trên Bách Khoa số 163,

năm 1963:

Trong bài viết này, Tràng Thiên đi vào khảo sát một trong những đề tài mang tính thời sự trong

bối cảnh miền Nam tao loạn: cái chết. Lý giải cái chết trong mối quan hệ giữa cuộc đời Lep Tônxtôi và

những tác phẩm của ông trở thành nội dung chính của bài khảo cứu này.

Mở đầu bài khảo cứu, Tràng Thiên giới thiệu những sự kiện chính trong cuộc đời của Lep

Tônxtôi từ khi ông mới được sinh ra cho đến khi ông mất. Trong phần này tác giả cố gắng tái hiện một

cách cô đọng nhất những giai đoạn khủng hoảng tinh thần của Lep Tônxtôi cùng với sự ra đời của

những tác phẩm mang tính bước ngoặc, đặc biệt là những tác phẩm có liên quan đến đề tài cái chết.

Phần này chủ yếu cung cấp thông tin ngắn gọn về tiểu sử của Lep Tônxtôi, tuy nhiên tác giả đã cố gắng

khơi gợi và kích thích trí tò mò của người đọc khi đi vào nhấn mạnh những kiệt tác của Lep Tônxtôi

đồng thời nêu bật những trăn trở, khủng hoảng tinh thần của một nhà văn nổi tiếng của văn học Nga và

thế giới.

Trong phần nội dung, Tràng Thiên đã tìm kiếm những nguyên nhân dẫn Lep Tônxtôi đến với đề

tài cái chết. Theo tác giả vài viết, Lep Tônxtôi tìm đến đề tài cái chết là bởi vì ông bị ám ảnh bởi cái

chết, “vì Tolstoi bận tâm về cái chết nhiều hơn các tác giả khác” [58, 68]. Nguyên nhân khiến Lep

Tônxtôi bận tâm nhiều về cái chết, theo Tràng Thiên, là bởi vì ông có tất cả những cái mà người đời

muốn có nhưng không được. Từ đó, Tràng Thiên kết luận:

“Tolstoi giàu để thấy đồng tiền là đáng ghét, nổi tiếng để thấy cái phiền luỵ vì danh vọng, viết

truyện tuyệt hay để rồi cho rằng đó là việc nhảm nhí, có sức lực cường tráng để nhận ra bao nhiêu

nhuỵ luỵ tội lỗi do những đòi hỏi thể xác ấy. Tolstoi khoẻ mạnh, đầy sức sống, và có lẽ tại vì thế mà đối

với cái chết ông lo lắng và sợ hãi hơn các nhà văn khác.” [58, 67]

Theo Tràng Thiên, chính “mối kinh hãi” cái chết đã ám ảnh Lep Tônxtôi lâu ngày và nó “là một

đề tài quan trọng trong văn-phẩm ông” [58, 68]. Tràng Thiên đã dẫn ra hàng loạt tác phẩm của Lep

Tônxtôi từ những tác phẩm đầu tay cho đến những tác phẩm được sáng tác vào cuối đời có mối quan hệ

chặt chẽ với nỗi kinh sợ cái chết. Tràng Thiên cho rằng, “ngay trong cuốn hồi ký đầu tay viết về thời

thơ ấu Tolstoi đã nói đến nỗi kinh hoàng bất ngờ giữa đám tang thân mẫu ông khi cử chỉ của một đứa

bé chợt gợi ông nghĩ đến sự thối rữa của một thể xác thân yếu, đến một hiện-tượng tối ư phi lý (!) xảy

ra ngay trước mắt ông, không thể chối cãi” [58, 68]. Trong Chiến tranh và hoà bình, Tràng Thiên cho

rằng Lep Tônxtôi miêu tả nhiều cái chết là do nỗi ám ảnh, do nỗi bận tâm nhiều của Lep Tônxtôi với

cái chết: “trong hai pho truyện “Chiến tranh và hoà bình”, “Anna Karénine”, pho nào cũng có nhân

vật luôn luôn thắc mắc về ý nghĩa sự sống chết ở đời: Pierre Bezoukhov, Lévine. Và ở những tác phẩm

ấy có mấy nhân vật chết, mỗi cái chết đều được tác giả theo dõi tỉ mỉ tường tận lạ lùng. Hoặc ông cụ

thân sinh ra hoàng thân André, hoặc thân phụ Bezoukhov, hoặc chính hoàng thân André, hoặc anh

Nicolas của nhân vật Lévine..., ở mỗi người phút lâm chung đều kéo dài trên dưới mười trang sách, có

khi (trường hợp Nicolas) kéo dài đến ngót mười lăm trang. Lẽ dĩ nhiên không phải là vì nhân vật của

Tolstoi chết khó khăn hơn những nhân-vật tiểu-thuyết khác, nhưng là vì Tolstoi đã nhìn vào cái chết

bằng cái nhìn đầy lo ngại, nhìn lâu như không rời nổi đi được, nhìn quá kỹ như mong được thấu suốt

về cái bí mật ấy, vì Tolstoi đã bận tâm về cái chết nhiều hơn các tác giả khác.” [58, 68-69]. Đề cập đến

cái chết trong các tác phẩm này, Tràng Thiên cũng rất tinh ý khi nhận ra rằng: “Lại mỗi lần một nhân

vật của Tolstoi chết đi như thế, không phải họ chỉ gây nên sự xót xa đau khổ cho người thân. Mỗi lần

như thế, họ gieo một nỗi kinh hoàng, một niềm hoang mang mênh mông, làm dao động xao xuyến cả

tâm hồn các nhân vật sống bên cạnh họ.”

Trong phần cuối của bài khảo cứu, tác phẩm Cái chết của Ivan Ilitch được Tràng Thiên chú

trọng để minh chứng cho nỗi ám ảnh và bận tâm về cái chết của chính Lep Tônxtôi. Tràng Thiên viết:

“Tác phẩm này tuy ngắn, nhưng đề tài của nó là một trong những mối bận tâm trọng yếu nhất

của Tolstoi. Có biết nỗi kinh hãi đột nhiên xâm chiếm cậu bé Tolstoi thuở thơ ấu, biết những gì xảy

đến trong cái đêm khủng khiếp ở Arzamas, những gì ông cảm thấy trong cái nhìn dò hỏi ngơ ngác của

Mitenka, trong câu hỏi: “Cái gì thế?” của Nicolenka trước khi chết (câu đó về sau ông lại đặt vào

miệng Ivan Ilitch), biết cái công việc kiên nhẫn ông tiến hành trên tập nhật ký từng đêm từng đêm hết

năm này qua năm nọ v.v..., có theo dõi tất cả những nỗi khắc khoải suốt đời của Tolstoi xung quanh ý

tưởng về cái chết, ta mới hiểu vì sao câu chuyện thuật lại một trường hợp rất tầm thường này lại có

khả năng kích động đến chừng ấy. Vì cái chết của Ivan Ilitch quả thực là tầm thường. Ivan Ilitch đã là

một người tầm thường, có thể lẫn lộn với bất cứ người nào khác trong tầng lớp của ông, sống tầm

thường, phát bệnh vì một cớ cũng nhỏ nhặt tầm thường, rồi chết cái chết cũng rất tầm thường trên

giường bệnh, giữa đám vợ con và gia nhân của mình. Tolstoi chiếu một cái nhìn tỉ mỉ và sáng suốt trên

cuộc sống và cái chết ấy, thong thả trình bày lại từng chi tiết. Và tự nhiên từ câu chuyện tầm thường ấy

vang một run sợ mênh mông huyền bí” [58, 70-71]

Tràng Thiên nhận xét: “Cái chết trong tác phẩm của Tolstoi không phải chỉ là một biến cố đau

thương trong gia đình, dường như bao giờ nó cũng khơi động đến cái gì rộng lớn hơn: định mệnh con

người.” [58, 69]

Bài khảo cứu của Tràng Thiên đã thể hiện được sự quan tâm đến một trong những vấn đề đặt ra

trong tác phẩm của Lep Tônxtôi cũng như cách tiếp nhận của tác giả đối với một số mặt trong sự

nghiệp của Lep Tônxtôi. Mối bận tâm của Tràng Thiên đối với vấn đề cái chết trong sáng tác của Lep

Tônxtôi đã thể hiện được cách nhìn nhận của ông đối với một đề tài khá tiêu biểu của nhà văn. Theo đó,

Lep Tônxtôi viết nhiều về đề tài cái chết là bởi vì nỗi bất an, nỗi ám ảnh về cái chết xuất hiện trong

lòng ông do sự mâu thuẫn trong chính bản thân ông. Sự nhìn nhận và lý giải của Tràng Thiên đối với

vấn đề cái chết trong sáng tác của Lep Tônxtôi ở đây đã thể hiện quan điểm tiếp nhận: dùng hoàn cảnh

hẹp, tiểu sử của nhà văn để lý giải tư tưởng tác phẩm một cách cơ học, máy móc. Đây có thể được xem

là một trong những cách tiếp cận còn nhiều hạn chế. Thật ra, đề tài cái chết trong sáng tác của Lep

Tônxtôi phải được lý giải từ chính xã hội khủng hoảng Nga, lý giải từ sự bất mãn của Lep Tônxtôi đối

với cách sống vô nghĩa của giới quý tộc đương thời, từ khao khát muốn cải tạo con người, cải tạo xã

hội và vươn tới một cuộc sống có nghĩa. Những kết luận về cái cảm giác: “run sợ mênh mông huyền

bí” hay “dường như bao giờ nó cũng khơi động đến cái gì rộng lớn hơn: định mệnh con người” của

Tràng Thiên chỉ là một sự lý giải cơ sở mối liên hệ tác phẩm -tiểu sử tác giả và dưới ảnh hưởng bởi âm

hưởng của những trào lưu triết học và tôn giáo đang phổ biến ở miền Nam lúc bấy giờ hơn là một sự lý

giải cuối cùng.

Có thể nói, lý do để Tràng Thiên tiếp cận Lep Tônxtôi trong bài viết này chính là uy tín và tên

tuổi của nhà văn đồng thời cũng từ vấn đề mang tính thời sự trong bối cảnh miền Nam tao loạn vốn

đang chịu ảnh hưởng bởi nhiều khuynh hướng triết học và tôn giáo duy linh.

* Bài Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản của Nguyễn Hiến Lê đăng trên tạp chí Văn, số 128:

Nguyễn Hiến Lê đã một lần nữa giới thiệu Lep Tônxtôi với bạn đọc miền Nam đồng thời cũng

bộc lộ cách tiếp nhận Lep Tônxtôi của mình qua bài Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản Theo lời ông kể lại

trong bài viết này, ông đã từng tiếp nhận tác phẩm của Lep Tônxtôi từ khi mới 15, 16 tuổi, khi ông học

ở trường Bưởi, miền Bắc. Ông đã nhiều lần đọc danh tác Chiến tranh và hoà bình mà cảm nhận của

ông là trừ “Truyện Kiều” chưa có tiểu thuyết nào tôi đọc ba lần mà vẫn thích như tác phẩm bất hủ đó

của Tolstoi [29, 18]. Hoạt động đọc và sự cảm nhận của ông đối với tác phẩm Chiến tranh và hoà bình

như trên có thể được xem như một sự tiếp nhận tích cực đối với Lep Tônxtôi đồng thời những lời bộc

lộ chân thành đó cũng đóng vai trò như là lời khẳng định uy tín và tài năng của nhà văn, giá trị nghệ

thuật của Chiến tranh và hoà bình ở một độc giả tiêu biểu của ông.

Trong phần tiếp theo của bài viết, Nguyễn Hiến Lê đã cho chúng ta thấy hoạt động tiếp nhận

Lep Tônxtôi đã diễn ra khá sôi nổi ở nhiều nơi: “Lại năm sáu năm nữa-1961 hay 1962, một ông bạn ở

Pháp cho hay nhà xuất bản Văn Hoá ở Hà Nội đã dịch Chiến tranh và hoà bình, còn người Trung Hoa

thì đã dịch từ ba chục năm trước” [29, 18]. Chính hoạt động tiếp nhận sôi nổi đó đã thôi thúc Nguyễn

Hiến Lê dịch Chiến tranh và hoà bình, tìm đến Chiến tranh và hoà bình. Ông tâm sự:

Chỉ tại mình phải học nhờ tiếng Pháp, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ cho nên mình mới đi

sau Trung Hoa trên một phần tư thế kỉ như vậy. Bây giờ tiếng Việt đã được dùng làm chuyển ngữ, số

thanh niên thông tiếng Pháp không được bao nhiêu, đã đến lúc nên dịch “Chiến tranh và hoà bình”

[29, 18-19]

Không dừng lại ở đó, Nguyễn Hiến Lê đã mạnh dạn đề nghị với hai nhà xuất bản lớn ở Sài Gòn

để mình dịch Chiến tranh và hoà bình và khi lời đề nghị đầy tâm huyết này không được đáp ứng, ông

đã nhiều lần nhắc đi nhắc lại trên báo. Ông nhớ lại: Tới tháng 9/1966, lời đề nghị đó vẫn chưa được hai

nhà đó xét (...) Trong bài “Đả phá dễ hay xây dựng dễ” đăng trên tạp chí Tin Văn số 7 ngày 15.9.1966,

tôi nhắc lại lời đề nghị đó nữa [29, 19]. Có thể nói, Nguyễn Hiến Lê chính là người đầu tiên có tâm

huyết đưa Lep Tônxtôi đến với độc giả miền Nam khi mà ông nhận thấy Lep Tônxtôi có vai trò quan

trọng đối với nhu cầu thẩm mỹ của độc giả miền Nam. Ông kể lại:

“Bài đăng được khoảng một tháng thì một hôm, một vị sư mà tôi chưa hề gặp mặt lần nào lại

thăm tôi, tự giới thiệu là giám đốc nhà xuất bản Lá Bối, tặng tôi ít cuốn sách, và nhân đọc bài của tôi

trên Tin Văn mà nhờ tôi dịch cho bộ “Chiến tranh và hoà bình”.

Tôi nhận lời, hứa trong hai năm sẽ xong. Nửa tháng sau, một nhà xuất bản nữa cũng lại nhờ

dịch. Về sau hai nhà nữa tỏ ý tiếc rằng tôi đã nhận lời cho nhà xuất bản Lá Bối. Quả đã tới lúc độc

giả đòi hỏi loại sách đó.” [29, 19]

Có thể nói, qua một số lời kể của học giả Nguyễn Hiến Lê, chúng ta thấy nhu cầu tiếp nhận Lep

Tônxtôi ở miền Nam là một thực tế không thể phủ nhận. Nhu cầu này được sự tiếp tay bởi một số học

giả, nhà xuất bản có uy tín nên có khả năng phát triển mạnh. Điều này có thể lý giải cho việc xuất bản

hàng loạt và kéo dài những danh tác của Lep Tônxtôi ở miền Nam cho đến trước 1975.

Trong phần tiếp theo của bài viết, Nguyễn Hiến Lê cho người đọc biết hoạt động dịch của ông

diễn ra nghiêm túc, khó khăn và thận trọng như thế nào. Qua phần giới thiệu về công việc dịch, chúng

ta có thể nhận ra Nguyễn Hiến Lê là một dịch giả có lương tâm, uy tín và tâm huyết với nghề nghiệp.

Điều này thể hiện một thái độ tiếp nhận tích cực và mang tính chuyên nghiệp, có ý nghĩa lớn trong việc

giúp người đọc miền Nam lúc bấy có cơ hội tiếp xúc với những bản dịch có chất lượng cao, có khả

năng chuyển tải những giá trị thật sự nghệ thuật của Lep Tônxtôi.

Trong phần cuối của bài viết, thông qua cảm nhận của Nguyễn Hiến Lê về tác phẩm Chiến

tranh và hoà bình sau khi ông đã đọc kỹ, đã dịch, ông đã có những nhận định thể hiện sự tiếp nhận tích

cực và sáng tạo khi cho rằng: “Ôn lại thời gian sống với “Chiến tranh và hoà bình”, tôi thấy trên hai

năm đó tôi đã hiểu Tolstoi hơn mà cũng hiểu tôi hơn nữa (...) Mấy lần trước đọc tác phẩm vĩ đại ấy, tôi

không hề để ý tới chương XIV phần IV, quyển IV. Tới khi dịch tôi mới thấy thêm một khía cạnh nữa của

thiên tài Tolstoi. Sinh trước Dale Carnegie cả trăm năm, không hề nghiên cứu về phép xử thế mà

Tolstoi có những nhận xét về thuật Đắc nhân tâm y hệt Carnegie. Chương XIV có thể coi là một phần

trong cuốn Đắc nhân tâm tiểu thuyết hoá. (...) Tôi cũng hiểu thêm nhân sinh quan của Tolstoi trong

phần kết của truyện mà Somerset Maugham hết lời tán thưởng.(...) Và tôi nhận thấy tính tình hơi thay

đổi nhờ dịch - nghĩa là đọc kỹ - “Chiến tranh và hoà bình” (...) Phải đọc kỹ, đọc vài ba lần; những tác

phẩm bất hủ đó càng đọc kỹ càng thấy thích, càng già càng thấy bổ ích ” [29, 22]

Sự tiếp nhận sáng tạo của Nguyễn Hiến Lê ở đây đã thể hiện được một trong những phẩm chất

của tác phẩm của Lep Tônxtôi: tính đa nghĩa của một kiệt tác văn chương. Ít đề cập đến tư tưởng yêu

nước, tư tưởng giải phóng nông dân, tư tưởng phê phán chiến tranh phi nghĩa... Nguyễn Hiến Lê tiếp

nhận và nhấn mạnh một trong những nội dung của Chiến tranh và hoà bình chính là hành trình của con

người đi tìm ý nghĩa, bản chất của chính mình cũng như “Thuật Đắc nhân tâm” mà Lep Tônxtôi đã

miêu tả. Với Nguyễn Hiến Lê, Chiến tranh và hoà bình chính là tấm gương lớn để con người soi mình

vào đó mà sửa mình, càng nhìn lâu, nhìn nhiều lần càng nhận ra mình rõ hơn, chân thật hơn. Mục đích

ông giới thiệu kiệt tác này với thanh niên miền Nam có lẽ không ngoài lý do muốn xây dựng những

nhân cách tốt đẹp trong hoàn cảnh xã hội nhiễu nhương lúc bấy giờ.

Bên cạnh bài viết Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản, Nguyễn Hiến Lê còn giới thiệu Lep Tônxtôi với

bạn đọc miền Nam qua phần giới thiệu khá công phu: Lời giới thiệu Chiến tranh và hoà bình. Bài giới

thiệu dài hơi này được in kèm bản dịch Chiến tranh và hoà bình do chính Nguyễn Hiến Lê dịch (Lá

Bối xuất bản, 1969) và cũng được đăng trên Bách Khoa ở nhiều số liên tiếp.

Bài viết được hình thành trên cơ sở Nguyễn Hiến Lê tập hợp và chọn lọc nhiều tư liệu có uy tín.

Điều đó cho thấy Nguyễn Hiến Lê rất nghiêm túc trong hoạt động tiếp nhận một đại văn hào của văn

học thế giới đồng thời cũng cho thấy lý do ông viết bài này là nhằm giới thiệu và giới thiệu kỹ nhà văn

này với độc giả miền Nam.

Để giới thiệu chi tiết về cuộc đời và văn nghiệp của Lep Tônxtôi với độc giả, Nguyễn Hiến Lê

đã dành 64 trang in để cung cấp những thông tin chi tiết, chi ly về Lep Tônxtôi (phần Tác giả). Giới

thiệu và tiếp cận nhà văn từ khi ông mới được sinh ra cho đến khi ông mất, từ dòng họ của Lep Tônxtôi

cho đến những người thân của nhà văn và cả những bạn văn, bạn đời, đối thủ của ông... cho đến sau

Cách mạng tháng Mười Nga, Nguyễn Hiến Lê đã thể hiện một sự quan tâm đặc biệt của mình trong

việc chuyển tải những thông tin quý báu về nhà văn đến với bạn đọc. Bên cạnh việc cung cấp những

thông tin về tiểu sử của Lep Tônxtôi, Nguyễn Hiến Lê kết hợp giới thiệu thêm nội dung, ý nghĩa, giá trị,

tầm vóc, ảnh hưởng của những tác phẩm của Lep Tônxtôi cũng như ý nghĩa của nó trong cuộc đời của

chính nhà văn. Có thể nói, qua phần giới thiệu chi ly dài 64 trang in này, hoàn cảnh rộng, hoàn cảnh

hẹp của Lep Tônxtôi được soi rọi một cách kỹ càng, thế giới tinh thần của ông được nhìn nhận và miêu

tả như là nguyên nhân dẫn đến hàng loạt những tác phẩm của ông, con người, nhân cách, tâm hồn của

ông được soi rọi và miêu tả cụ thể, chi tiết như một tiểu thuyết hoá và dưới dáng dấp một tác phẩm

nghệ thuật.

Có thể nói, qua phần Tác giả, Nguyễn Hiến Lê đã hết sức quan tâm đến chức năng giáo dục và

định hướng độc giả khi đề cập rất nhiều đến con người, nhân cách và ý chí của đại văn hào Lep

Tônxtôi. Bên cạnh đó, bài viết còn thể hiện tác giả có một thái độ tôn trọng độc giả đặc biệt. Không chỉ

đem kiệt tác Chiến tranh và hoà bình đến với người đọc, Nguyễn Hiến Lê còn chú trọng đến hiệu quả

tiếp nhận của độc giả khi biết rằng việc giới thiệu cụ thể về toàn bộ tiểu sử và văn nghiệp của Lep

Tônxtôi là cực kỳ cần thiết. Thái độ đối với độc giả, nhận thức về tầm vóc và ảnh hưởng của Lep

Tônxtôi, nhận thức về giá trị của các tác phẩm của ông... đó chính là một số trong nhiều nhân tố lý giải

cho sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Hiến Lê trong việc tiếp nhận Lep Tônxtôi.

Thái độ tiếp nhận của Nguyễn Hiến Lê rất đáng trân trọng, tuy nhiên nội dung tiếp nhận trong

phần giới thiệu cũng có vài vấn đề cần lưu ý. Từ nhân cách, cuộc đời của Lep Tônxtôi, Nguyễn Hiến

Lê đã đi đến lý giải sự xuất hiện của các tác phẩm của Lep Tônxtôi. Mặc dù Nguyễn Hiến Lê đã cố

gắng tiếp cận tác phẩm và tìm kiếm những nhân tố chi phối các sáng tác của Lep Tônxtôi, chi phối nội

dung sáng tác của nhà văn, tuy nhiên những lý giải của Nguyễn Hiến Lê vẫn nghiêng về cách lý giải

lấy đời tư nhà văn để lý giả tác phẩm. Đây chỉ là một trong những cách lý giải chứ chưa phải là hoàn

toàn chính xác. Hoàn cảnh xã hội Nga nửa sau thế kỷ XIX lẽ ra phải được chú trọng và được coi là

nhân tố quan trọng để lý giải nội dung các sáng tác cũng như thế giới tinh thần của Lep Tônxtôi như

Lênin đã từng lưu ý nhưng Nguyễn Hiến Lê dường như ít quan tâm mà chỉ quan tâm nhiều đến hoàn

cảnh hẹp, đến những nhân tố tinh thần mang tính cá nhân, đến công việc sáng tác, trước tác của Lep

Tônxtôi. Giới thiệu Anna Karênina, Nguyễn Hiến Lê ít quan tâm đến ý nghĩa bi kịch của Anna mà chỉ

đề cập đến những sự kiện xảy ra trong quá trình viết tác phẩm. Khi nói về đề tài trong tác phẩm Phục

sinh, Nguyễn Hiến Lê cho rằng: “Tolstoi mượn đề tài đó để giải toả ẩn ức và thú tội (Ông không cưới

Axinia, không nhận đứa con hoang Timothée nó đánh xe cho ông)” [66, 63]. Tuy cách lý giả tác phẩm

có hạn chế như thế, nhưng không phải Nguyễn Hiến Lê hoàn toàn bỏ qua những ý nghĩa tư tưởng quan

trọng của tác phẩm. Nói về Anna Karênina, Nguyễn Hiến Lê nhận định: “Đáng để ý nhất là Tolstoi

càng tả nhân vật Anna, càng có cảm tình với Anna; cơ hồ như ông sống thực với nàng, mỗi ngày một

hiểu nàng; và đọc truyện ta cũng như tác giả chỉ thương Anna chứ không ghét.” [66, 47]. Nhận định về

Phục sinh, Nguyễn Hiến Lê cũng cho rằng: “Ông đả kích toàn thể xã hội thượng lưu đương thời từ giới

đại thần, phán quan tới giới tu sĩ, công chức cao thấp mà ông cho là một bọn quỷ, và làm nổi bật lên

đức giản dị, an phận của giới bình dân.” [66, 63]

Có thể nói, Nguyễn Hiến Lê không hoàn toàn bỏ qua những lý giải mang tính xã hội sâu sắc, chỉ

có điều, những lý giải này, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, đã không được tác giả

nhấn mạnh mà chỉ nhấn mạnh đến học thuyết bất bạo động, đến “đức giản dị, an phận của giới bình

dân” [66, 63]

Trong phần tiếp theo, phần giới thiệu về tác phẩm Chiến tranh và hoà bình, Nguyễn Hiến Lê đã

cung cấp cho người đọc những thông đầy đủ về quá trình sáng tác tác phẩm, từ khi nhà văn hình thành

ý đồ sáng tác cho đến công việc sưu tầm, tìm kiếm tư liệu, nguyên mẫu cho đến công việc chỉnh sửa,

bổ sung trong khi viết bản thảo… Những thông tin mà Nguyễn Hiến Lê cung cấp cho người đọc không

chỉ mang tính chất thông tin thông thường mà còn là sự lưu ý của Nguyễn Hiến Lê đối với độc giả về

quá trình sáng tác của một nhà văn lớn. Quá trình đó không diễn ra đơn giản mà hết sức công phu,

nghiêm túc và khó khăn. Điều này cũng có nghĩa là độc giả cần và phải đọc Chiến tranh và hoà bình,

một tác phẩm chứa đựng nhiều công sức và năng lượng thẩm mỹ của nhà văn.

Bên cạnh đó, Nguyễn Hiến Lê còn cung cấp cho người đọc bản tóm tắt tác phẩm kèm theo

những nhận định về nội dung tác phẩm. Nhận xét về nội dung tác phẩm, Nguyễn Hiến Lê cho rằng,

trong phần Chung cuộc, Lep Tônxtôi “cực tả hạnh phúc trong hai gia đình (…) cả nhà đoàn tụ, già trẻ

lớn bé uống trà, bàn chuyện nhà cửa, thời thế, vợ chồng tâm sự với nhau, cha con đùa giỡn với nhau.

Kết như vậy thực là có hậu, có hậu quá, thành thử cảnh vui thú đó như có một chút bi đát” [66, 85-86]

nhưng “như vậy mới đúng với sự thật: hạnh phúc chân chính của con người ở trong cuộc sống tầm

thường như vậy, trong trẻo, lặng lẽ như nền trời xanh và những cụm mây trắng mà André thấy trong

khi bị thương nằm trên trận địa Austerlitz” [66, 86]

Từ lối kết của tác phẩm mà nhận ra được nội dung, tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, ở

một góc độ nào đó, là một hiện tượng thú vị (cách tiếp cận này Nguyễn Hiến Lê có trình bày kỹ trong

bài Bốn lối kết trong tiểu thuyết, bốn nhân sinh quan đăng trên Bách khoa số 290-291). Tiếp cận nội

dung tác phẩm trên cơ sở khám phá những yếu tố hình thức và thi pháp nghệ thuật như trên của

Nguyễn Hiến Lê có thể được xem là một hiện tượng lạ khi mà đương thời người ta có khuynh hướng

tiếp nhận tách rời nội dung và hình thức nghệ thuật của tác phẩm. Điều này đã thể hiện một sự tiếp

nhận có phương pháp đối với tác phẩm của Lep Tônxtôi. Bên cạnh đó, căn cứ trên sự tiếp nhận nội

dung tư tưởng của Chiến tranh và hoà bình, chúng ta có thể nói rằng, Nguyễn Hiến Lê không tiếp nhận

Chiến tranh và hoà bình theo khuynh hướng tiếp nhận của miền Bắc trên tinh thần tiếp nhận của Lênin

mà tiếp nhận theo khuynh hướng của tinh thần tôn giáo phương Đông ở miền Nam. Ở đây, thuyết

tương thân tương ái, tứ hải gia huynh đệ, thuyết bất bạo động, sống hoà hợp với thiên nhiên lại được

Nguyễn Hiến Lê cảm nhận và tâm đắc.

Bên cạnh việc tiếp cận nội dung tác phẩm, Nguyễn Hiến Lê còn chỉ cho người đọc giá trị nghệ

thuật cũng như những thủ pháp nghệ thuật mà Lep Tônxtôi đã sử dụng để xây dựng và khắc hoạ tính

cách nhân vật một cách hiệu quả. Nguyễn Hiến Lê đã cố gắng đi vào lý giải và trả lời câu hỏi: “Tolstoi

đã dùng thuật nào mà khắc sâu hình ảnh các nhân vật vào óc ta như vậy?” [66, 89]

Đối với những nhân vật tưởng tượng, Nguyễn Hiến Lê cho rằng, trước hết nhà văn tìm kiếm và

kết hợp những tính cách, những nét được chọn lựa ở các nguyên mẫu, sau đó thì nhà văn sử dụng bốn

phương pháp sau:

a)Tả bề ngoài của nhân vật, ông kiếm vài nét đặc biệt nào đó rồi lặp đi lặp lại, để nó khắc sâu

vào trí nhớ của ta. [66, 91]

b)Tả tính tình của một nhân vật, ông dùng thuật gián tiếp, để các nhân vật khác nhận xét về

nhận đó. [66, 93]

c) Kỹ thuật thứ ba của Tolstoi là cho tâm lý các nhân vật thay đổi theo hoàn cảnh và thời gian.

[66, 95]

d) Thủ thuật thứ tư của Tolstoi là dùng thế song hành và thế tương phản. [66, 63]

Bốn phương pháp mà Nguyễn Hiến Lê đề cập ở trên có thể được xem như là những khám phá

của Nguyễn Hiến Lê trong quá trình tiếp nhận nghệ thuật sáng tác của Lep Tônxtôi mà sau này nhiều

nhà văn ở miền Nam Việt Nam đã học hỏi. Sự khám phá ra những thủ pháp nghệ thuật nêu trên đã

chứng minh cho sự tiếp nhận khá tường tận của độc giả miền Nam đối với nghệ thuật, thi pháp sáng tác

của đại văn hào Lep Tônxtôi. Điều này cho chúng ta thấy, các học giả ở miền Nam đã hiểu biết rất

nhiều về Lep Tônxtôi chứ không phải chỉ là sự hiểu biết hời hợt. Sự tiếp nhận và hiểu biết của họ đối

với Lep Tônxtôi tuy chưa đầy đủ nhưng đã là một sự tiếp nhận hoàn toàn nghiêm túc và đang diễn ra

theo khuynh hướng tích cực, khuynh hướng tiếp nhận những giá trị nghệ thuật đích thực và tiến bộ.

Đối với các nhân vật lịch sử, Nguyễn Hiến Lê dẫn lại ý của Tônxtôi để lý giải thủ pháp miêu tả

“quá phóng túng” các nhân vật lịch sử của Lep. Theo đó, Lep Tônxtôi miêu tả các nhân vật lịch sử là

“miêu tả một con người” chứ không miêu tả một “vĩ nhân”. Lep Tônxtôi không chấp nhận quan niệm

“vĩ nhân”, “chẳng có ai là vĩ nhân cả, vì ai cũng chỉ là công cụ của Lịch sử” [66, 97]. Trên cơ sở đó,

Nguyễn Hiến Lê cho rằng, Lep Tônxtôi miêu tả Napôlêông, Kutudôp hay một số nhân vật lịch sử là

dựa trên thiên kiến của ông đối với những con người này. Nguyễn Hiến Lê cho rằng: Tolstoi có ác cảm

với nhiều nhân vật như Speramki, mà ông cho là con người giả dối, Rostoptchine mà ông cho là ngu

xuẩn, hèn nhát… Ông thâm oán Napoléon và ông nổi giận lên mỗi khi nhớ lại lần đi thăm điện Phế

binh ở Paris thấy dân tộc Pháp sùng bái “một kẻ sát nhân”, kẻ thù của dân tộc ông, cho nên trong

“Chiến tranh và hoà bình”, ông đã bôi nhọ Hoàng đế Pháp [66, 97]. Nguyễn Hiến Lê kết luận: “Vậy

cái gì ở phía Nga cũng là màu hồng hết, còn ở phía Pháp thì toàn là một màu đen” [66, 99]. Sự lý giải

trên của Nguyễn Hiến Lê có thể nói là có một sự hợp lý nhất định nhưng chưa thật sự chính xác. Lẽ ra

Nguyễn Hiến Lê cũng nên lưu ý đến lập trường của Lep Tônxtôi khi miêu tả các nhân vật là lập trường

đạo đức. Lep Tônxtôi nhìn vào đạo đức để đánh giá, phán xét và miêu tả con người chứ không hoàn

toàn căn cứ trên thành kiến cá nhân của mình. Tuy nhiên, cách tiếp nhận của Nguyễn Hiến Lê ở đây

cũng rất đáng ghi nhận vì dầu sao nó cũng có một sự hợp lý nhất định. Đó nên xem là một trong những

cách tiếp cận Chiến tranh và hoà bình trong giai đoạn 1954-1975 ở miền Nam.

Trong phần tiếp theo của bài giới thiệu, Nguyễn Hiến Lê đã chỉ ra hàng loạt những đoạn văn hay,

xuất sắc của Lep Tônxtôi mà theo ông là nên học hỏi và thưởng thức nhiều lần. Nguyễn Hiến Lê cũng

chỉ cho người đọc những trang hay nhất của Chiến tranh và hoà bình. Qua đó, tác giả bài viết một lần

nữa khẳng định một trong những giá trị lớn lao của Chiến tranh và hoà bình chính là sự tái hiện và

miêu tả cái đẹp: cái đẹp hùng tráng, cái đẹp trữ tình, thơ mộng, cái đẹp của đời sống thực, bình

dị…Những cái đẹp đó đã góp phần tạo nên tầm vóc và sự bất tử cho tác phẩm. Mặt khác sự giới thiệu

và trích dẫn lại những cảnh được coi là hay nhất trong Chiến tranh và hoà bình có thể nói là một việc

làm vô tiền khoáng hậu trong hoạt động định hướng tiếp nhận văn học của Nguyễn Hiến Lê. Dường

như chưa có bài giới thiệu nào lại chi ly và công phu và quan tâm đến người đọc như vậy.

Trong phần tiếp theo của bài giới thiệu, Nguyễn Hiến Lê tiếp tục cung cấp cho người đọc những

thông tin về công việc dịch của ông. Nhìn chung, qua phần này, chúng ta dễ dàng nhận ra Nguyễn Hiến

Lê là một độc giả, dịch giả nghiêm túc. Ông thật sự đã nhận biết được Chiến tranh và hoà bình là một

tác phẩm vô tiền khoáng hậu của văn chương thế giới, giá trị, tầm vóc và ảnh hưởng của nó vô cùng

lớn lao nên nhận thức của ông về tác phẩm này gắn liền với sự nghiêm túc trong hoạt động dịch của

ông. Ông viết: Vì “Chiến tranh và hoà bình” là một tác phẩm bất hủ của nhân loại nên chúng tôi dịch

trọn, không bỏ một hàng nào, và theo sát lối hành văn của tác giả [66, 111]. Có thể nói, thái độ nghiêm

túc trong hoạt động dịch của Nguyễn Hiến Lê ở đây là một điều rất đáng quý trong bối cảnh dịch thuật

tràn lan và kém chất lượng. Tìm hiểu hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi thông qua hoạt động dịch của

các dịch giả thì điều đầu tiên cần ghi nhận là một trong những danh tác của Lep Tônxtôi là Chiến tranh

và hoà bình đã có được một bản dịch chất lượng cao, được giới thiệu đầy đủ về tác giả, tác phẩm. Điều

này tạo điều kiện rất thuận lợi cho độc giả, kể cả những độc giả khó tính nhất khi muốn tiếp cận

nghiêm túc những tác phẩm nghệ thuật của đại văn hào Lep Tônxtôi.

Bên cạnh việc giới thiệu công việc dịch của mình, ở phần cuối của bài giới thiệu, Nguyễn Hiến

Lê đã có một sự quan tâm đặc biệt đối với độc giả khi ông cung cấp cho người đọc Bảng tên họ các

nhân vật chính, Bảng gia hệ và liên hệ của các nhân vật chính. Ở cuối mỗi tập, ông cung cấp cho người

đọc phần tóm tắt các chương, ở cuối bộ ông cung cấp cho người đọc một biểu biên niên đời Léon

Tolstoi, một bảng danh từ lịch sử và địa lý.

Việc cung cấp cho người đọc những thông tin, phương tiện nhằm giúp người đọc dễ nắm bắt tác

giả và tác phẩm như trên đã cho thấy sự quan tâm đặc biệt của Nguyễn Hiến Lê nói riêng, giới học giả

nói chung, đối với hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi của bạn đọc miền Nam. Sự mong muốn người đọc

miền Nam có dịp tiếp xúc và tiếp xúc một cách dễ dàng, cặn kẽ, cả tác phẩm lẫn tác giả Lep Tônxtôi, là

một thực tế không thể phủ nhận. Những bài giới thiệu cũng như bản dịch chất lượng cao của Nguyễn

Hiến Lê là một hoạt động hướng đến mong muốn và nhu cầu đó đồng thời cũng kích thích và hiện thực

hoá nhu cầu đó. Đó có được xem là một biểu hiện của tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam

Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

*Bài viết Vài cảm nghĩ xuôi dòng của Trần Phong Giao trên tạp chí Văn số 128, 1969:

Mở đầu bài viết, Trần Phong Giao cho người đọc biết lý do xuất bản tạp chí Văn số 128- một số

đặc biệt chuyên về Lep Tônxtôi. Ông viết: do một sự tình cờ, chúng tôi được biết thày Từ Mẫn, người

trông coi nhà xuất bản Lá Bối, đã phải đi vay nợ lãi, của nhiều người, mới đủ số vốn để ấn hành bản

dịch “Chiến tranh và hoà bình” (…) Xúc động trước sự hy sinh cho văn hoá (…) của bậc chân tu, anh

em chúng tôi đã bàn nhau, tìm cách “tiếp tay” với nhà Lá Bối. Do đó, số Văn này được đặc biệt chuẩn

bị ấn hành một cách gấp rút. Để độc giả của Văn - những bạn ưa thích đọc văn dịch - làm quen với

Tolstoi, biết tới sự xuất hiện của một tác phẩm cổ điển giá trị, đã từng được phiên dịch ra nhiều thứ

tiếng, phổ biến trên khắp hoàn cầu: “Chiến tranh và hoà bình.” [13, 79]

Lý do Trần Phong Giao đưa ra đã cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin về hoạt động tiếp nhận

Lep Tônxtôi. Việc nhà sư Từ Mẫn đi vay nợ lãi để ấn hành Chiến tranh và hoà bình rõ ràng đã thể hiện

một thái độ, một mục đích tiếp nhận Lep Tônxtôi. Nhà xuất bản Lá Bối đương thời là một nhà xuất bản

của Phật giáo và việc họ chịu vay nợ lãi để ấn hành Chiến tranh và hoà bình đã thể hiện sự quan tâm

đặc biệt của Phật giáo đối với tác phẩm của Lep Tônxtôi cũng như mối quan hệ đặc biệt giữa nội dung

tư tưởng của Chiến tranh và hoà bình và tinh thần Phật giáo. Rõ ràng việc phát hành Chiến tranh và

hoà bình ở đây là hoàn toàn có mục đích đặc biệt chứ không phải đơn thuần là vì mục đích thương mại,

lợi nhuận hay giả trí thông thường. Bên cạnh lý do tôn giáo, Trần Phong Giao còn hé mở cho chúng ta

thấy nguyên nhân và lý do để bạn đọc miền Nam phải tìm đến tác phẩm của Lep: đó là tầm vóc, uy tín,

tiếng tăm và ảnh hưởng của kiệt tác Chiến tranh và hoà bình.

Trong phần tiếp theo, Trần Phong Giao tiếp tục giới thiệu uy tín, tiếng tăm, tài năng của Lep

Tônxtôi và ảnh hưởng của sáng tác của ông đối với văn học thế giới. Song song đó, tác giả bài viết còn

đề cập đến hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi tấp nập ở nhiều nơi trên thế giới để thấy rõ sự cần thiết

phải dịch và tiếp nhận tác phẩm của Lep Tônxtôi. Không những thế, ông còn giới thiệu hoạt động dịch

và tiếp nhận Lep Tônxtôi ở Việt Nam trước 1945 và ở miền Nam vào những năm 60. Theo ông, việc

tiếp nhận, dịch thuật Lep Tônxtôi như thế là chưa đủ, cần có sự bổ sung thêm những kiệt tác của Lep

như Anna Karênina, Phục sinh.

Trần Phong Giao còn cung cấp thông tin: “Anna Karénine” thì anh bạn Nguyễn Minh-Hoàng

dịch xong đã từ lâu lắm. Nhiều lần chúng tôi ngỏ ý xin được in, anh Hoàng nói để còn coi lại. Nay,

thấy nhà Lá Bối rao trước là sắp in. Chúng tôi mong dịch giả sẽ sớm giao bản thảo cho nhà xuất bản,

để sách sớm được ra mắt bạn đọc [13, 81-82]. Thông tin này cho thấy ngoài Chiến tranh và hoà bình

được quan tâm tiếp nhận, kiệt tác Anna Karênina cũng được đón nhận và chuyển dịch từ trước. Điều

này chứng tỏ độc giả miền Nam đã quen thuộc với Lep Tônxtôi và đã nhận ra tầm vóc to lớn của nhà

văn này từ lâu. Nhu cầu xuất bản, chuyển dịch những kiệt tác của Lep Tônxtôi là một nhu cầu tiềm

tàng và đang phát triển trong giới độc giả miền Nam.

Trong phần cuối bài viết, cũng giống như Nguyễn Hiến Lê giới thiệu về Lep Tônxtôi, Trần

Phong Giao cũng cung cấp cho người đọc những kinh nghiệm tiếp nhận Lep Tônxtôi: “đọc Tolstoi

không nên đọc một lần, vì mỗi lần đọc lại chúng ta lại khám phá ra được một điều gì mới mẻ tiềm ẩn

trong tác phẩm” [13, 82]. Và Trần Phong Giao cũng cho ta thấy ông tiếp nhận tích cực những giá trị ở

nhân cách, con người của Lep Tônxtôi như sau:

Tolstoi nổi tiếng lẫy lừng khắp hoàn vũ như một bậc thánh. Vậy mà ông không có phép nhiệm

mầu gì. Ông sống, làm việc, chết như mọi người trên mặt đất. Vậy cái gì đã đưa ông lên ngôi cao thần

thánh? Phải chăng, nhờ ở, trọn đời ông, ông đã giữ được đức tính chân thật và ưa suy nghĩ. Đức tính

ấy đã giúp ông tự vấn những việc làm của ông, nó giúp ông thấu đáo được cảm tình đồng loại, nó giúp

ông vượt được chỗ tầm thường(…) Ngoài ra, một cách gián tiếp, tôi đã nhờ Tolstoi mà luyện được tính

thận trọng. [13, 82-83]

Ở đây, Trần Phong Giao đã tiếp nhận Lep Tônxtôi không phải từ văn nghiệp của ông, không

phải từ những tư tưởng nghệ thuật ông thể hiện trong tác phẩm mà tiếp nhận từ cuộc đời, nhân cách của

Lep Tônxtôi. Đây cũng là một cách tiếp nhận phổ biến ở miền Nam lúc bấy giờ, như Nguyễn Hiến Lê

đã từng tiếp nhận Lep Tônxtôi với tư cách như là tiếp nhận một vị thánh sống của nhân loại.

*Lời Tựa của An-na Kha-Lệ -Ninh do nhà sách Khai Trí ấn hành, năm 1970:

Cũng giống như tất cả những bài viết mang tính chất giới thiệu, lời Tựa bắt đầu từ việc giới

thiệu quá trình hình thành ý đồ sáng tác An-na Kha-Lệ -Ninh. Đề cập đến quá trình này, lời Tựa chủ

yếu lưu ý đến những sự kiện mang tính chất cá nhân đã tác động đến sáng tác của Lep Tônxtôi chứ

chưa quan tâm đến sự tác động của hoàn cảnh xã hội rộng lớn đến Lep Tônxtôi, tức quan tâm đến yếu

tố xã hội như Lênin đã từng lưu ý. Đây là một sự tiếp nhận còn hạn chế tuy nhiên vẫn rất đáng lưu ý

bởi lẽ nó cung cấp cho người đọc những thông tin liên quan đến hoạt động sáng tác của Lep Tônxtôi

cũng như nó thể hiện khuynh hướng tiếp nhận của một bộ phận độc giả miền Nam..

Tuy không lý giải sự hình thành tác phẩm từ yếu tố xã hội, nhưng trong quá trình tiếp cận tư

tưởng nghệ thuật, nội dung tác phẩm, lời Tựa đã ít nhiều đề cập đến những tư tưởng mang tính khái

quát xã hội của tác phẩm.

Đề cập đến bi kịch của Anna, lời Tựa đã có những lý giải khá hợp lý khi cho rằng bi kịch của

nàng xuất phát từ sự mâu thuẫn giữa cá nhân và xã hội: “Cái xã hội thượng lưu có nàng ở trong, khoan

thứ những tình trạng giả dối nhất (…) vì được giấu giếm, tôn trọng quy tắc xã hội. Còn An-na, nàng

không thể giả đạo đức ghét sự dối trá và bất chấp xã hội. Xã hội này không tha thứ nàng và cái buổi

tối khi nàng đến hí viện, những bè bạn quen thuộc đã tỏ rõ cho nàng thấy điều này. Như vậy, nàng thấy

một xã hội không xứng đáng “xét xử” nàng. Riêng trong tâm lý của Tolstoi, chỉ có nền Công lý của

Thượng đế có thể kết tội nàng vì đã bỏ chồng bỏ con.” [83, 12-13]. Lời Tựa đi đến kết luận: “Như vậy

trong một xã hội đồi bại như Tolstoi đã phác hoạ, không ai có quyền buộc tội An-na hay nói tới sự

khiêu khích của nàng đối với xã hội bởi sự ham mê thành thật và ý chí cương quyết của nàng. Cảnh

xung đột trong gia đình lúc thoạt đầu, ta thấy, biến thành sự xung đột giữa cá nhân và xã hội.” [83, 14]

Như thế, bi kịch của Anna, theo lời Tựa, là sự xung đột “bởi sự ham mê thành thật và ý chí

cương quyết” của bản thân Anna và sự giả dối của xã hội, là do Anna không chấp nhận sự phán xét của

xã hội, của những người xung quanh nàng. Đối với nàng, chỉ có Chúa là có quyền phán xét. Ngoài ra

không có ai có tư cách đó. Có thể nói, sự lý giải này của lời Tựa đã phần nào nói lên được cách hiểu tư

tưởng của tác phẩm thông qua bi kịch của Anna: bi kịch của Anna chính là vì nàng đã đi ngược lại giáo

lý của tôn giáo, đi ngược lại ý Chúa, nàng dám xây dựng hạnh phúc trên bất hạnh của kẻ khác. Tuy

nhiên, theo chúng tôi, bao nhiêu đó là chưa đủ, chưa đầy đủ ý nghĩa của bi kịch Anna. Bi kịch của

Anna ở đây không chỉ là sự phản ánh sự xung đột giữa cá nhân và xã hội mà còn là tiếng nói đanh thép

đòi quyền sống cho phụ nữ, là tiếng nói đòi quyền tự do, tiếng nói của chủ nghĩa nhân văn. Bi kịch

Anna chính là tiếng nói phê phán, tố cáo xã hội chuyên chế Nga đã cướp mất quyền sống của con

người. Xã hội đó cần được thay đổi và phải thay đổi bằng chính bạo lực, bằng sự đánh đổ tất cả cái cũ.

Anna tìm kiếm tình yêu đích thực, tìm kiếm hôn nhân dựa trên tình yêu, tìm kiếm một sự chân thật và

chạy trốn sự dối trá, giả đạo đức. Nhưng nàng không thể thoát khỏi sự giả dối, bởi sự giả dối ở đây là

do chính xã hội, là do cả xã hội giả dối gây ra.

Có thể thấy, lời Tựa đã hé mở cho người đọc biết đến một trong những nội dung của Anna

Karênina là nội dung phê phán xã hội chuyên chế, tuy nhiên lời Tựa còn cho ta biết thêm một trong

những giá trị của tác phẩm khi so sánh Lep Tônxtôi với các nhà văn của Âu Châu. Họ viết: “Việc chỉ

trích một xã hội trong đó tiền bạc tạo ra một hố sâu giữa những tầng lớp xã hội, như người ta biết, đã

là một điểm đặc biệt của nền văn chương Âu-châu về thế kỷ XIX. Ta thấy điều này còn gay gắt hơn

nhiều ở Balzac, Flaubert và cố nhiên ở Zola, chớ không riêng gì ở tác phẩm An-na Kha-Lệ -Ninh.

Nhưng người ta có thể nói rằng Tolstoi khác hẳn những nhà văn miêu tả “tấn hài kịch nhân loại” vì

yếu tố chủ quan ông đưa vào tiểu thuyết của ông, dành một vị trí trọng yếu, khiến tác phẩm vừa xúc

động, vừa linh động hơn.” [83, 18-19]. Sự tiếp nhận nội dung Anna Karênina như thế đã thể hiện được

sự tiếp nhận chính xác một trong những giá trị cơ bản của các kiệt tác của Lep Tônxtôi. Nếu như khi đề

cập đến những chương bàn về triết lý chiến tranh, triết lý lịch sử trong Chiến tranh và hoà bình, một số

học giả trong đó có Nguyễn Hiến Lê đã cho rằng điều đó không có gì mới lạ nhưng rất đáng trân trọng

vì nhiệt thành của tác giả, thì ở đây, lời Tựa cũng nhận ra được đặc điểm đó của Tônxtôi trong Anna

Karênina.

Trong phần còn lại của lời Tựa, tác giả đã dành rất nhiều trang viết để bàn về nhân vật Lêvin.

Trong mối tương quan với sự tiếp cận nhân vật Anna, thì sự tiếp cận Lêvin như thế đã cho thấy tác giả

lời Tựa quan tâm đến Lêvin nhiều hơn và Lêvin xuất hiện trong bài viết này như là nhân vật trọng tâm

của bài viết.

Lêvin được tác giả lời Tựa cho là hình ảnh của Lep Tônxtôi. Tác giả cho rằng, “Qua nhân vật

Lê-vinh, ông (Tolstoi) cho chúng ta biết những phản ứng chính của ông trước tấn thảm kịch đương thời,

ông tham gia vào sự phê bình đang diễn tiến và chính ông cũng là nguyên nhân” [83, 19]. Tác giả lời

Tựa còn nhìn thấy ở Lêvin hình tượng con người đi tìm chân lý như chính con người và cuộc đời của

Lep Tônxtôi. Theo lời Tựa thì Lêvin đã tìm thấy chân lý như Lep Tônxtôi từng nghĩ rằng mình đã tìm

thấy: “không một giáo điều nào của Giáo hội có thể làm tổn thương đến điều chủ yếu: đức tin ở

Thượng đế, tin ở điều thiện, coi như mục đích duy nhất của con người” [83, 24]. “Nếu bằng chứng

chính xác tỏ rõ rằng có Thượng đế là biểu lộ điều thiện thì tại sao sự biểu lộ này chỉ giới hạn trong

Giáo hội Ki-tô? Tất cả những tín đồ của tất cả các tôn giáo: Do Thái, Phật giáo, Hồi giáo và các tôn

giáo khác nữa đều có thể có sự biểu lộ này, do thế tất cả mọi người đều phải coi nhau như anh em” [83,

24]

Tác giả lời Tựa dẫn lại ghi nhận của nhà phê bình Vogue để khẳng định lại ý nghĩa của tác

phẩm qua hình tượng đi tìm chân lý của Lêvin: “Đó là kết cấu một tấn thảm kịch tinh thần trong cảnh

hạnh phúc huyền bí, một bản thánh ca hoan lạc, trong đó duy lý luận tuyên xướng sự phá sản của lý

trí” [83, 25]. Và lời Tựa kết luận: “Niềm hân hoan đón nhận đức tin quả thế, ở Lê-vinh đã thắng sự

phán đoán về lý trí thuần khiết; tin tưởng ở dân chúng, những mối hoài nghi của chàng đều tiêu tan.”

[83, 25]

Có thể nói, sự tiếp nhận ý nghĩa tác phẩm qua hình tượng Lêvin như thế đã thể hiện cách nhìn

nhận tư tưởng tác phẩm Anna Karênina theo hướng phát huy và tiếp thu tư tưởng bất bạo động của Lep

Tônxtôi. Cái ý nghĩa “niềm trìu mến đối với tất cả những người đang sáng tạo cuộc sống bằng sức lao

động của chính mình” [6, 414] ở Lêvin dường như bị bỏ qua, kể cả “cái mở ra những cơ sở của tiểu

thuyết (…) là những hoạt động kinh tế” [6, 414] của Lêvin cũng không được đề cập. Cách tiếp nhận

như thế một mặt thể hiện sự tiếp nhận không đầy đủ những nội dung tư tưởng của tác phẩm, mặt khác

thể hiện cách tiếp cận theo xu hướng của một số học giả trí thức ở miền Nam đối với Lep Tônxtôi, tức

là tiếp nhận Lep Tônxtôi ở học thuyết bác ái, bất bạo động.

Kết luận cuối cùng về toàn bộ kiệt tác Anna Karênina, lời Tựa khẳng định: Cạnh “Chiến tranh

và hoà bình”, “An-na Kha-Lệ -Ninh” được coi như là một cuốn tiểu thuyết tâm lý sâu sắc, một bức hoạ

vĩ đại về xã hội Nga vào một thời kỳ biến chuyển trong lịch sử Nga và qua tất cả những trang này, sự

phấn đấu của một tâm hồn tìm kiếm chân lý [83, 26]. Kết luận này về ý nghĩa tác phẩm Anna Karênina

một lần nữa thể hiện sự không quan tâm đến bi kịch Anna như là bi kịch thể hiện nội dung chính của

tác phẩm. Tuy vậy, những kết luận trên vẫn phần nào thể hiện một sự tiếp nhận tương đối những giá trị

của Anna Karênina, vẫn khẳng định được tầm vóc và giá trị của tiểu thuyết này như là một tiểu thuyết

lớn của văn học Nga và thế giới.

2.2.2 Một số vấn đề rút ra từ tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi:

Trong buổi đầu tiếp nhận sáng tác của một nhà văn, mà nhất là một nhà văn lớn của nền văn học

thế giới như Lep Tônxtôi, những bài giới thiệu hoặc khảo cứu dù ở mức độ nào cũng đều có một vị trí

và ý nghĩa lớn lao đối với quá trình tiếp nhận của người đọc. Giới thiệu Lep Tônxtôi với độc giả miền

Nam, những bài giới thiệu công phu của Nguyễn Hiến Lê, của các nhà xuất bản hay của các nhà nghiên

cứu khác, ở một mức độ nhất định, đã phản ánh phần nào hoạt động tiếp nhận của họ cũng như định

hướng hoạt động tiếp nhận của độc giả miền Nam.

Căn cứ vào tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi như chúng tôi đã tìm hiểu ở phần trên, dưới đây

chúng tôi sẽ rút ra một số kết luận có tính chất lý luận liên quan đến hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi.

2.2.2.1. Xét về quy mô, số lượng những bài khảo cứu về Lep Tônxtôi khá khiêm tốn, trong

đó những bài mang tính chất giới thiệu chiếm ưu thế:

Cùng với việc đưa các tác phẩm tiêu biểu của Lep Tônxtôi đến với người đọc miền Nam, các

nhà nghiên cứu và xuất bản ở miền Nam cũng không quên giới thiệu và “chào hàng” với độc giả của

mình bằng những bài giới thiệu hoặc nghiên cứu ở nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Có thể nói, giới

nghiên cứu miền Nam tiếp cận Lep Tônxtôi từ nhiều hướng và nhiều mức độ: từ những bài chỉ mang

tính chất giới thiệu đơn thuần cho đến những bài giới thiệu có xen cả khảo cứu và có cả những bài khảo

cứu. Góc độ tiếp cận cũng đa dạng: tiếp cận tiểu sử nhà văn, tiếp cận sự nghiệp sáng tác, tiếp cận nội

dung và nghệ thuật của từng tác phẩm cụ thể, tiếp cận tư tưởng nghệ thuật của nhà văn, tiếp cận Lep

Tônxtôi với tư cách là nhà tư tưởng, nhà cải cách…Tuy nhiên, dù dưới dạng nào, thì xét về quy mô, số

lượng những bài khảo cứu về Lep Tônxtôi có thể nói là khá khiêm tốn. Trong số những bài viết khá

khiêm tốn đó, những bài thật sự mang tính chất “nghiên cứu về Lep Tônxtôi” chiếm một số lượng ít ỏi

trong khi đó số lượng những bài viết mang tính chất giới thiệu chiếm một tỉ lệ khá lớn và giữ một vị trí

trọng yếu trong việc thể hiện hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi. Về những bài nghiên cứu, hầu như ta

chỉ thấy bài viết Một đề tài của Tolstoi, cái chết của Tràng Thiên là có dáng dấp nghiên cứu hơn cả.

Những bài viết của Nguyễn Hiến Lê như Bốn lối kết trong tiểu thuyết, bốn nhân sinh quan, phần sau

của Phần giới thiệu về tác phẩm Chiến tranh và hoà bình tuy có dáng dấp của bài nghiên cứu do tác giả

có đưa vào những nhận định mang tính chất khái quát nhưng nhìn chung vẫn là một bài giới thiệu. Về

những bài mang tính chất giới thiệu, ta thấy chúng chiếm một số lượng áp đảo với hàng loạt những bài

viết của Nguyễn Hiến Lê, Trần Phong Giao, Hoàng Vũ Đức Vân, những bài Tựa trong các tiểu thuyết

An-na Kha-Lệ -Ninh, Vùng đất hồi sinh…Có thể nói, thực tế nghiên cứu đó đã cho chúng ta nhận diện

được hoạt động nghiên cứu Lep Tônxtôi ở miền Nam vào lúc này. Đó là tính chất giới thiệu trong hoạt

động nghiên cứu Lep Tônxtôi. Nói cách khác, ở miền Nam Việt Nam lúc này chưa có những công trình,

những bài nghiên cứu Lep Tônxtôi nào tương xứng với tầm vóc của Lep Tônxtôi cũng như chưa có

nhà nghiên cứu nào chuyên về Tônxtôi. Hoạt động nghiên cứu về ông hầu như chỉ diễn ra ở lĩnh vực

giới thiệu nhằm quảng bá tác phẩm chứ chưa quan tâm đến ông như một hiện tượng văn học cần khảo

sát, nghiên cứu kĩ lưỡng.

Tìm hiểu những nguyên nhân dẫn đến thực trạng này, chúng ta dễ nhận ra rằng, hoàn cảnh xã

hội đã có một sự tác động rất lớn đến hoạt động tìm hiểu, nghiên cứu về Lep Tônxtôi. Sự xuất hiện

những tác phẩm, danh tác của Lep Tônxtôi một cách ồ ạt và tập trung trong một giai đoạn ngắn vào

cuối những năm 60 đầu những năm 70 tuy thể hiện sự quan tâm của độc giả cũng như giới xuất bản

đến tác phẩm của Lep Tônxtôi, nhưng đó chỉ mới là một khoảng thời gian ngắn ngủi, là khoảng thời

gian tiếp nhận, làm quen với Lep Tônxtôi chứ chưa đủ để các học giả miền Nam có dịp tiếp cận cặn kẽ

các danh tác của ông. Cái mà họ làm được lúc này chỉ là tiếp cận tác phẩm và những nhận định, những

bài viết của các tác giả nước ngoài. Mặt khác, do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân liên

quan đến vấn đề chính trị: Lep Tônxtôi được yêu thích và giảng dạy ở miền Bắc với tư cách là nhà văn

của nền văn học cách mạng, nhà văn đã đề cao tư tưởng yêu nước, chống giặc ngoại xâm, phê phán

chiến tranh phi nghĩa, tôn vinh lao động, tôn vinh tầng lớp bình dân - giai cấp nông dân, vì vậy mà các

học giả ở miền Nam rất dè dặt trong việc thể hiện chính kiến của mình. Nếu có tiếp cận, họ cũng tiếp

cận trên tinh thần khác với tinh thần tiếp cận của miền Bắc. Bên cạnh hai nguyên nhân trên, ta còn thấy

xu hướng học thuật ở miền Nam lúc bấy giờ không có lợi cho việc nghiên cứu Lep Tônxtôi khi mà

người ta đang chạy theo những trào lưu triết học châu Âu như thuyết hiện sinh, phân tâm học, hiện

tượng luận. Những thuyết này phù hợp với Đôxtôiepxki hơn là phù hợp với Lep Tônxtôi.

2.2.2.2. Nội dung tiếp nhận trong các bài nghiên cứu về Lep Tônxtôi chứa đựng cả mặt tích

cực và mặt hạn chế:

a. Mặt tích cực trong nội dung tiếp nhận Lep Tônxtôi:

Nội dung các bài nghiên cứu về Lep Tônxtôi như đã phân tích ở trên cho thấy những mặt tích

cực của một số học giả miền Nam trong việc tiếp nhận Lep Tônxtôi. Mặt tích cực này biểu hiện rõ ở

một số nội dung tiếp nhận đối với tác giả và một số tác phẩm của Lep Tônxtôi. Những đánh giá và tiếp

nhận tích cực đó đã cho thấy hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi diễn ra khá phong phú và đồng thời cũng

chịu tác động từ nhiều phía, cả khách quan lẫn chủ quan, cả từ phía tác phẩm lẫn hoàn cảnh xã hội và

độc giả.

Đầu tiên, về phía tác giả, chúng ta thấy một số độc giả của Lep Tônxtôi đã nhận ra và ý thức

được vị trí và tầm quan trọng của Lep Tônxtôi đối với văn học Nga và thế giới cũng như văn học Việt

Nam. Những nhận định của các học giả như Nguyễn Hiến Lê, Trần Phong Giao, Nhất Linh, Tràng

Thiên, Nguyễn Hữu Hiệu…về Lep Tônxtôi đã cho thấy họ đã hoàn toàn nhận ra vai trò và tầm quan

trọng cũng như ý nghĩa thế giới của Lep Tônxtôi. Họ đã mặc nhiên xem ông như là đại diện xuất sắc

nhất của dòng văn học cổ điển thế giới: “Lep Tônxtôi là một nhà văn lớn (...) Điều đó không ai chối cãi.

Tác phẩm của ông được dịch ra nhiều thứ tiếng, được đưa lên màn ảnh, phổ biến rộng rãi khắp năm

châu bốn bể, đã nâng ông lên hàng vĩ nhân, hơn là của một dân tộc, mà còn chung của cả nhân loại”

[13, 82]. Ông được nhắc tới với tư cách là tác giả của những tác phẩm đồ sộ: Chiến tranh và hoà bình,

Anna Karênina, Phục sinh.

Trong phần Khai từ cho tác phẩm Anh em nhà Karamadôp, Nguyễn Hữu Hiệu cũng khẳng định

tầm vóc và uy tín của Lep Tônxtôi khi đặt ông bên cạnh Đôxtôiepxki: “người nào chịu được

Đôxtôiepxki ắt không chịu được Lev Tolstoi” [19, VII], hoặc “Hãy hỏi một người xem hắn thích Tolstoi

hay Dostoievski và bạn sẽ biết niềm bí ẩn của tâm hồn hắn” [19, VII]. Khi so sánh Lep Tônxtôi với

Đôxtôiepxki, học giả này cũng cho rằng: “…có thể Tolstoi là một nghệ sĩ hoàn toàn hơn Dostoievski”

[19, VIII]

Bên cạnh việc nhận ra vị trí và tầm quan trọng của Lep Tônxtôi đối với văn học Nga, văn học

thế giới, một số học giả miền Nam còn nhận ra con người và nhân cách của Lep Tônxtôi cũng có ý

nghĩa lớn lao như tác phẩm của ông. Bài viết của Nguyễn Hiến Lê: Léon Tolstoi, một Á thánh xuất hiện

vào cuối những năm 50 có thể được xem như là một minh chứng cho nhận định này.

Ngoài những đánh giá, nhận định tích cực đó, các trí thức miền Nam còn nhận ra Lep Tônxtôi

với tư cách như là một nhà cải cách xã hội, nhà tư tưởng có ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của

lịch sử. Nhấn mạnh mặt này, họ thường đặt Lep Tônxtôi trong mối quan hệ với Gandhi, lãnh tụ tinh

thần của nhân dân Ấn Độ.

Thứ hai, về phía những tác phẩm tiêu biểu của Lep Tônxtôi, nhìn chung, giới nghiên cứu miền

Nam cũng rất tinh ý khi nhận ra một số những giá trị trong các tác phẩm này, tức là họ đã có một sự

tiếp nhận tích cực nhất định đối với các tác phẩm của Lep Tônxtôi.

Đối với tác phẩm Chiến tranh và hoà bình, một trong những kiệt tác của Lep Tônxtôi, các học

giả miền Nam cũng nhận ra một số giá trị của tác phẩm này. Ngoài những nhận định, đánh giá của

Nguyễn Hiến Lê về vị trí và tầm vóc của tác phẩm này trong nền văn chương thế giới cũng như ý nghĩa

giáo dục và nghệ thuật của nó thì một số học giả khác cũng xem đây là tác phẩm bộc lộ đầy đủ, trọn

vẹn nhất sức mạnh thiên tài nghệ thuật của Lep Tônxtôi. Tài năng phân tích và miêu tả thế giới nội tâm

bí ẩn của con người ở Lep Tônxtôi thì khiến nhà văn Nhất Linh khâm phục: “Tác giả như là một đấng

tạo hoá đã mở cửa cho mình thấy những cái mà mình không bao giờ tự thấu hiểu được” [35, 15].

Hoàng Vũ Đức Vân cũng cho rằng: “Mặc dù ông không tả đời sống bên trong của các nhân vật mà

chúng ta vẫn cảm thấy rõ rệt đời sống bên trong ấy như được phân tách thật tỉ mỉ kĩ lưỡng” [90, 38].

Có thể nói, một số nhà nghiên cứu và giới sáng tác đều cho rằng Chiến tranh và hoà bình là một kiệt

tác văn học và họ có thể nhận ra, thưởng thức và học hỏi rất nhiều cái hay, cái đẹp trong những trang

văn đậm đà tính cổ điển này của Lep Tônxtôi. Những điều đó đã thể hiện những yếu tố tích cực trong

nội dung tiếp nhận Chiến tranh và hoà bình.

Đối với Anna Karênina, một số học giả miền Nam cũng có những đánh giá, nhận định chính

xác về vị trí, tầm vóc, nội dung, tư tưởng và nghệ thuật của tác phẩm. Chẳng hạn, họ cho rằng:“Anna

Karênina” là tác phẩm nổi danh nhất của Tolstoi sau “Chiến tranh và hoà bình”; có người cho là kĩ

thuật già giặn hơn “Chiến tranh và hoà bình”. Già giặn hơn thật: ít rườm rà hơn, tác giả cũng đưa

vào truyện nhiều ý kiến của mình về ý nghĩ cuộc đời, về sự giáo dục trẻ em, về kinh tế nông thôn, về sự

cưỡng chế quân dịch, và cả chục vấn đề khác nữa nhưng lần này ông không tự thuyết giáo mà để cho

nhân vật nói. [66, 46]. Khi so sánh tác phẩm này với các sáng tác khác cùng thời ở châu Âu, Nhà sách

Khai trí cũng đồng ý với quan niệm cho rằng một trong những nét độc đáo và cũng đồng thời là giá trị

của Anna Karênina chính là yếu tố chủ quan mà tác giả đưa vào trong tác phẩm. Chính yếu tố chủ quan

này đã làm cho tác phẩm: “vừa xúc động, vừa linh động hơn”. Nói một cách khác, “Qua nhân vật Lê-

vinh, ông (Lev Tolstoi) cho chúng ta biết những phản ứng chính của ông trước tấn thảm kịch đương

thời, ông tham gia vào sự phê phán đang diễn tiến và chính ông cũng chính là nguyên nhân.” [83, 19]

Sự đánh giá, nhận định, tiếp nhận của một số học giả miền Nam tuy chưa đầy đủ nhưng cũng có

thể được xem là một trong những biểu hiện tích cực trong tiếp nhận tác phẩm Anna Karênina.

Đối với tác phẩm Phục Sinh, người ta cũng nhấn mạnh đến tầm vóc và giá trị của nó. Họ cho

rằng, Phục Sinh vượt được thời gian lẫn không gian, “sống luôn hai thế kỉ và có mặt khắp nơi trên thế

giới” là bởi chính những vấn đề đặt ra trong tác phẩm, tức là nội dung tiến bộ và mang tính thời đại của

tác phẩm chính là cái làm nên giá trị của tác phẩm.

Nhìn chung, những yếu tố tiến bộ, tích cực trong nội dung tiếp nhận của một số học giả miền

Nam đã cho thấy Lep Tônxtôi được quan tâm tiếp nhận khá nghiêm túc. Tuy nhiên, một thực tế không

thể phủ nhận là những yếu tố tích cực ở đây chỉ là một bộ phận trong toàn thể những giá trị mà cuộc

đời và tác phẩm của Lep Tônxtôi đã cống hiến cho nhân loại. Những yếu tố tích cực được nhấn mạnh ở

đây chỉ là những yếu tố phi chính trị hoặc hạn hẹp về khuynh hướng chính trị chứ chưa bao hàm tất cả

những giá trị (dưới quan điểm chính trị, đôi khi những giá trị này lại đối lập nhau). Chẳng hạn, về việc

một số học giả miền Nam khẳng định cuộc đời “ngoại hạng” của Lep Tônxtôi hay nhấn mạnh tầm vóc,

tài năng, vị trí, ảnh hưởng của Lep Tônxtôi đối với văn học thế giới thì tất cả những cái đó không hoặc

ít liên quan đến quan điểm nhìn nhận, đến “cái nhìn dưới lập trường chính trị”. Vị trí, tầm vóc, tài năng

của Lep Tônxtôi thì bất cứ chế độ chính trị nào, bất cứ nhà cầm quyền nào cũng có thể thừa nhận mà

không hề dè dặt. Tất cả những điều này đã cho thấy sự tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam mang những

đặc điểm riêng biệt, khác với sự tiếp nhận Đôxtôiepxki - một tác gia cùng thời với Lep Tônxtôi.

Nhìn chung, dù còn nhiều giá trị về nội dung, nghệ thuật trong các sáng tác của Lep Tônxtôi

chưa được khẳng định và nhìn nhận một cách đầy đủ nhưng những nhận định của một số học giả miền

Nam đã nêu trên, ở một mức độ nhất định, được xem như là những yếu tố tích cực trong việc tiếp nhận

Lep Tônxtôi.

b. Mặt hạn chế trong nội dung tiếp nhận Lep Tônxtôi:

Bên cạnh việc khẳng định một số giá trị chân thật trong các sáng tác cũng như cuộc đời, tư

tưởng của Lep Tônxtôi, hoạt động tiếp nhận này của học giả miền Nam nói riêng, độc giả miền Nam

nói chung vẫn còn nhiều hạn chế. Những biểu hiện của cách tiếp nhận chưa chính xác và chưa đầy đủ

của một số học giả miền Nam vẫn là một thực tế không thể phủ nhận.

Khi tiếp cận với Vùng đất hồi sinh, kiệt tác cuối cùng của Lep Tônxtôi, nhà xuất bản Phù Sa đã

dùng những khái niệm, từ ngữ của học thuyết hiện sinh để để bàn về tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm.

Chẳng hạn, họ cho rằng, Vùng đất hồi sinh là “một thử thách của ý niệm khai phóng xã hội nông

nghiệp, một mặc cả vô hiệu giữa điền chủ và nông nô, những ẩn ức của kẻ làm chính trị mà không nghĩ

mình làm chính trị, một sự trả giá giữa con người và thượng đế” [71, 14]

Khi nói về những mâu thuẫn trong thế giới quan của Lep Tônxtôi, họ cho rằng đó không phải là

“sự phản ánh các điều kiện, các ảnh hưởng xã hội, các truyền thống xã hội hết sức phức tạp và trái

ngược, tức là những cái đã quyết định tâm lý của các giai cấp và của các tầng lớp trong xã hội vào

thời kì sau cải cách, nhưng trước cách mạng” như Lênin đã đánh giá, mà chỉ là kết quả của sự phức

hợp trong bản thân Lep Tônxtôi. Ở đây, họ chưa hoặc không muốn nói đến những vấn đề sâu rộng từ

hoàn cảnh xã hội đã tác động tới thế giới quan của nhà văn như Lênin đã nhìn thấy.

Khi đánh giá một số nhân vật lịch sử trong Chiến tranh và hoà bình, Nguyễn Hiến Lê cũng chưa

chú ý đến lập trường tiếp cận và xây dựng nhân vật của Lep Tônxtôi. Nguyễn Hiến Lê cho rằng Lep

Tônxtôi “thâm oán Napoleon…kẻ thù của dân tộc ông, cho nên trong Chiến tranh và hoà bình ông đã

bôi nhọ hoàng đế Pháp” [66, 97]. Ở đây, Nguyễn Hiến Lê đã lý giải hình tượng lịch sử trên cơ sở thành

kiến dân tộc chứ không xuất phát từ lập trường đạo đức mà Lep Tônxtôi đã dùng nó để xây dựng các

nhân vật hư cấu khác

Một trong những biểu hiện của sự tiếp nhận sai lệch những giá trị trong các sáng tác của Lep

Tônxtôi còn được biểu hiện trong các bài khảo luận của học giả miền Nam mà tiêu biểu là bài viết Một

đề tài của Tolstoi: cái chết của Tràng Thiên. Cái chết là một đề tài lớn của Lep Tônxtôi trong quá trình

sáng tác. Trong Chiến tranh và hoà bình, trong Anna Karênina, trong Cái chết của Ivan Ilitch và nhiều

tác phẩm khác, Lep Tônxtôi đã xem cái chết như là một trong những đối tượng miêu tả nghệ thuật độc

đáo của riêng ông. Cái chết quả là một bí mật mà suốt đời Lep Tônxtôi muốn khám phá, tìm hiểu nhằm

giải đáp câu hỏi quan trọng nhất của con người: Sống là gì? Chết là gì? Và cần phải sống như thế nào?

Vậy mà Tràng Thiên lại cho rằng tác phẩm Cái chết của Ivan Ilitch là sự thể hiện nỗi khắc khoải suốt

đời của Lep Tônxtôi xung quanh ý tưởng về cái chết, về nỗi sợ hãi cái chết và chỉ đơn giản là cái chết.

Tràng Thiên chỉ quan tâm đến khía cạnh huyền bí và định mệnh của cái chết: “Tolstoi chiếu một cái

nhìn tỉ mỉ và sáng suốt trên cuộc sống và cái chết ấy, thong thả trình bày lại từng chi tiết. Và tự nhiên

từ câu chuyện tầm thường ấy vang một run sợ mênh mông huyền bí.” [58, 67]

Tiếp cận những giá trị của Chiến tranh và hoà bình, các học giả miền Nam dường như chỉ quan

tâm nhiều đến nghệ thuật (nghệ thuật miêu tả tâm lí, khắc hoạ nhân vật, miêu tả thiên nhiên, lối kết…)

chứ chưa quan tâm đúng mức đến những nội dung tư tưởng toát ra từ toàn bộ hình tượng trong tác

phẩm. Nếu như tư tưởng chủ đạo của Chiến tranh và hoà bình là “chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc và chủ

nghĩa yêu nước nồng nàn” [52] thì trong các bài viết của giới học thuật sài Gòn lại không thấy ai nhắc

đến.Việc tiếp nhận của họ dường như là sự tiếp nhận để học hỏi về kinh nghiệm sáng tác và thưởng

thức “cái đẹp hình thức” hơn là sự tiếp nhận những tư tưởng cách mạng và nhân bản trong tác phẩm.

Tiếp cận kiệt tác Anna Karênina, giới học giả Sài Gòn cũng ít quan tâm đến bi kịch của Anna

mà chỉ tập trung vào nhân vật Lêvin. Họ coi tác phẩm này chỉ là “sự phấn đấu của một tâm hồn tìm

kiếm chân lý của cuộc đời” [83, 26]. Họ nhấn mạnh nhân vật Lêvin trong sự tương đồng với tác giả:

“Sự cố gắng giúp đỡ dân quê, niềm tin vào Chúa, tình yêu nhân loại, nỗi thôi thúc suốt đời muốn sống

tốt hơn lên” [83, 26] tức là tinh thần bất bạo động chứ không nhấn mạnh đến tư tưởng tố cáo xã hội mà

chủ nghĩa hiện thực tỉnh táo của Lep Tônxtôi đã đem lại. Trong Anna Karênina, tư tưởng chính là tư

tưởng nhân đạo, tư tưởng giải phóng con người, giải phóng phụ nữ và tư tưởng phê phán xã hội chuyên

chế… thì ở đây những tư tưởng này không được nhấn mạnh.

Như vậy, những biểu hiện của yếu tố hạn chế trong việc tiếp nhận Lep Tônxtôi của giới học giả

miền Nam như đã nêu trên chủ yếu thể hiện ở việc nhấn mạnh những giá trị, những vấn đề, tư tưởng

không cơ bản của các sáng tác của Lep Tônxtôi cũng như cách tiếp cận và lý giải tư tưởng nghệ thuật

chưa đầy đủ, phiếm diện và đôi khi gượng ép. Tiếp cận tác phẩm của Lep Tônxtôi, hình như họ chỉ

quan tâm đến những “phát biểu” của nhà văn, tức “giải pháp” mà Lep Tônxtôi đưa ra hơn là vấn đề mà

Lep Tônxtôi đã đặt ra, tức là cái toát ra từ toàn bộ tác phẩm. Vấn đề tác phẩm đặt ra mà lẽ ra tương ứng

với cái giải pháp để giải quyết nó là tiến hành bạo lực cách mạng thì họ lại tránh né.

Nhìn chung, thực tế tiếp nhận tích cực và hạn chế của một số học giả miền Nam đặt ra những

vấn đề lý giải như sau:

-Thứ nhất, thực tế tiếp nhận trên đã phản ánh giai đoạn tiếp nhận ban đầu của một số học giả ở

miền Nam. Mặc dù độc giả miền Nam đã có một giai đoạn chuẩn bị để tiếp nhận Lep Tônxtôi, tuy

nhiên, đó vẫn chỉ là một khoảng thời gian hết sức hạn hẹp. Cả giai đoạn 1954-1975 tuy là hai mươi

năm nhưng vẫn chỉ là một khoảng thời gian hết sức ngắn ngủi để có thể có những nghiên cứu sâu sắc

về Lep Tônxtôi. Mặc khác, trong những năm 60, 70, sự phổ biến các tác phẩm văn học nước ngoài

thuộc những khuynh hướng văn học hiện đại chiếm lĩnh văn đàn văn nghệ miền Nam, mặc dù rất nhiều

tác phẩm của Lep Tônxtôi được dịch, xuất bản và tái bản nhưng đó không phải là một hiện tượng văn

học nổi bật duy nhất. Điều này dẫn đến tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi cũng diễn ra khá khiêm tốn

với sự xuất hiện những bài viết mang tính chất giới thiệu chung về vị trí, tầm vóc của Lep Tônxtôi hơn

là những nghiên cứu sâu sắc và toàn diện.

-Thứ hai, sự ảnh hưởng của những khuynh hướng tiếp nhận phương Tây có ảnh hưởng lớn đến

thực tế tiếp nhận trên. Như chúng ta đã biết, ngay từ khâu dịch thuật, các dịch giả ở miền Nam đã tiếp

xúc với các bản dịch tiếng Pháp chứ không phải từ nguyên bản tiếng Nga. Những tài liệu mà họ sử

dụng để viết lời giới thiệu về tác giả, tác phẩm thì cũng là tài liệu có nguồn gốc từ phương Tây. Trong

khi đó, cách tiếp nhận của phương Tây lại hoàn toàn khác với cách tiếp nhận của Liên Xô và các nước

thuộc chế độ xã hội chủ nghĩa. Phương Tây, dưới ảnh hưởng của các khuynh hướng triết học tư sản và

tôn giáo duy tâm, chủ trương nhấn mạnh thuyết bác ái của Lep Tônxtôi chứ không phải là tinh thần

cách mạng trong các tác phẩm của ông. Có lẽ vì thế mà khi tiếp cận các tài liệu này, một số học giả

miền Nam đã ít nhiều chịu ảnh hưởng, cả về nội dung lẫn phương pháp tiếp cận.

-Thứ ba, sự tiếp cận tác phẩm một cách phiến diện cũng lý giải cho thực tế tiếp nhận trên. Có thể

xem đây là hệ quả của nguyên nhân nêu trên. Ở đây, phương pháp luận nghiên cứu tác gia văn học của

một số học giả miền Nam đối lập với phương pháp mácxít. Tiếp cận tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm,

họ hướng đến việc nắm bắt “cái loa” tư tưởng của tác giả được thể hiện trực tiếp qua một số hình tượng

nhân vật trong tác phẩm hơn là tìm hiểu tư tưởng từ toàn thể thế giới hình tượng. Họ quan tâm đến cách

giải quyết mà nhà văn đưa ra trong tác phẩm chứ không quan tâm đến những vấn đề mà tác giả đặt ra.

Nói cách khác, họ căn cứ vào tư tưởng chủ quan của tác giả để đánh giá tư tưởng tác phẩm chứ không

căn cứ vào tư tưởng khách quan toát ra từ toàn bộ tác phẩm. Điều này lý giải sự tiếp nhận còn hạn chế

của một số học giả miền Nam.

Một số nguyên nhân khác dẫn đến thực tế tiếp nhận trên sẽ được chúng tôi trình bày trong các

phần liên quan tiếp theo.

2.2.2.3. Khuynh hướng tiếp nhận thuyết bất bạo động và tiếp nhận nghệ thuật chiếm vị trí

trọng yếu trong nội dung tiếp nhận của học giả miền Nam:

Qua khảo sát tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi, chúng tôi thấy rằng, đối với Lep Tônxtôi,

người ta chủ yếu tiếp nhận thuyết bất bạo động và nghệ thuật sáng tác của nhà văn chứ ít quan tâm đến

những nội dung tư tưởng đã được Lênin đề cập trong các bài viết về Lep Tônxtôi.

a. Khuynh hướng tiếp nhận thuyết bất bạo động:

Về khuynh hướng tiếp nhận thuyết bất bạo động của Lep Tônxtôi, chúng ta thấy hầu như các

học giả miền Nam đều đề cao tư tưởng này. Tiếp nhận tư tưởng nghệ thuật của Anna Karênina, họ ít

chú ý đến tư tưởng giải phóng phụ nữ mà chỉ chú ý đến hành trình tìm lại cuộc sống đồng quê chất

phác của Lêvin. Đánh giá tác phẩm Phục sinh, họ nhấn mạnh đến sự an phận trong lao động của người

nông dân được miêu tả trong tác phẩm hơn là tư tưởng phê phán xã hội. Tiếp cận Chiến tranh và hoà

bình, họ đề cao những luật bất di bất dịch của định mệnh đã chi phối sự nhất quán của tác phẩm. Nhận

định về Cái chết của Ivan Ilitch, họ chỉ lưu ý đến tính chất định mệnh của cái chết và sự tìm về xác tín

nơi Chúa, nơi cuộc sống giản dị, bình thường trong niềm an vui như là giải pháp duy nhất. Khi lý giải

tác phẩm từ cuộc đời, tiểu sử của nhà văn, hình như các học giả miền Nam cũng đều nhấn mạnh đến sự

chi phối của tinh thần bất bạo động ở Lep Tônxtôi đối với tác phẩm hơn là từ ảnh hưởng của hoàn cảnh

xã hội. Trong bài viết Léon Tolstoi, một Á thánh, Nguyễn Hiến Lê đã rất nhiều lần nhấn mạnh đến học

thuyết bất bạo động của Lep Tônxtôi: “Trong khoảng một trăm năm nay, khắp thế giới có một người

được nhân loại tôn sùng vào bực thánh sống: ông Gandhi và một người nữa được sắp vào hàng á

thánh: ông Leson Tolstoi (...) Cả hai đều là bậc chí nhân, đều có một lòng thương người vô biên, đều

chủ trương bất bạo động” [30, 21]. Trong Lời giới thiệu Chiến tranh và hoà bình, Nguyễn Hiến Lê

cũng nhiều lần nhấn mạnh tư tưởng này khi nói về tiểu sử và tác phẩm của Lep Tônxtôi.

Vậy nguyên nhân nào dẫn đến khuynh hướng tiếp nhận trên?

Thực tế cho thấy có những nhân tố khách quan và chủ quan tác động đến khuynh hướng tiếp

nhận này. Về mặt khách quan, ta thấy có những nhân tố sau:

-Thứ nhất, như chúng tôi vừa đề cập ở trên, một số học giả miền Nam chịu ảnh hưởng rất lớn từ

khuynh hướng tiếp nhận Lep Tônxtôi ở phương Tây. Phương Tây đề cao thuyết bác ái, thuyết bất bạo

động của Lep Tônxtôi nên một số học giả miền Nam nhấn mạnh đến thuyết này cũng là lẽ đương nhiên.

-Thứ hai, hoàn cảnh tao loạn miền Nam tạo điều kiện cho việc đề cao thuyết bất bạo động của

Lep Tônxtôi. Hoàn cảnh chiến tranh ở miền Nam thường dẫn người ta đi đến một thái độ, một mong

muốn thoát ly thực tại hoặc tìm kiếm một giải pháp hoà bình, êm dịu hơn là dùng bạo lực để chống lại

bạo lực.

-Thứ ba, sự tồn tại của những khuynh hướng triết học duy linh phương Tây và sự phát triển

mạnh của Thiên Chúa giáo, Phật giáo đã tạo điều kiện cho sự phát huy thuyết bác ái, nhẫn nhịn và bất

bạo động trong tác phẩm của Lep Tônxtôi. Sự ra đời bản dịch Chiến tranh và hoà bình của Nguyễn

Hiến Lê phần nào có sự trợ giúp của Phật giáo khi họ có ý định truyền bá và phát huy những tư tưởng

bác ái, hoà bình, xuất thế của Lep Tônxtôi - những tư tưởng có sự tương đồng với tư tưởng Phật giáo.

-Thứ tư, nội dung thuyết bất bạo động, xét ở phương diện đạo đức, vẫn là một học thuyết bác ái

và có ý nghĩa nhân văn lớn lao. Người ta không thể xây dựng tháp Babel trên đống xương nhân loại.

Người ta không có quyền xây dựng hạnh phúc trên bất hạnh của kẻ khác. Hạnh phúc nhân loại không

thể được xây dựng trên quyền lực và sức mạnh… Với ý nghĩa đó, học thuyết này đã hướng đến việc

kêu gọi lòng yêu thương con người, phục hồi đạo đức, xây dựng hạnh phúc con người trong cảnh thiên

nhiên yên bình. Nó thể hiện ước mơ xây dựng một thế giới hoà đồng, một thế giới không có tội ác,

không có đổ máu, ở đó mọi người yêu thương nhau, tất cả đều là huynh đệ.

Học thuyết bất bạo động của Lep Tônxtôi có thể là không tưởng, nhưng đứng ở khía cạnh nhân

văn, nó thể hiện ước mơ hướng thiện hướng mỹ của con người thời đại. Chẳng thế mà đương thời

người ta ca ngợi Gandhi và tôn ông thành vị thánh sống khi ông dám dứng ra đấu tranh vì hạnh phúc

bằng con đường hoà giải, bất bạo động. Ở một phương diện nào đó, học thuyết này chính là tiếng nói

phản chiến chống chiến tranh. Nó kêu gọi giải quyết vấn đề miền Nam bằng con đường hoà bình, hoà

giải. Nó chính là sức mạnh đề kháng lại xu hướng bạo lực và hận thù đang lan tràn ở miền Nam. Có thể

ta phê phán học thuyết bác ái này là uỷ mỵ, là triệt tiêu lòng tranh đấu (sự phê phán này cũng hợp lý)

của nhân dân miền Nam, nhưng xét trong bối cảnh miền Nam đã mấy mươi năm liên tục chiến tranh,

chết chóc, thì tiếng nói kêu gọi xoá bỏ thù hận (bản chất sâu xa của “thù hận” ở đây là mâu thuẫn dân

tộc) của Lep Tônxtôi là tiếng nói mang một ý nghĩa di dưỡng tinh thần rất lớn. Tất cả những lý do đó

có thể lý giải cho xu hướng đề cao thuyết bất bạo động trong các sáng tác của Lep Tônxtôi.

-Thứ năm, chúng ta cần nhìn nhận một thực tế là tác phẩm của Lep Tônxtôi có sự mâu thuẫn và

đa nghĩa về nội dung tư tưởng. Bên cạnh những tư tưởng mà Lênin và các nhà nghiên cứu văn học ở

miền Nam khẳng định như tư tưởng yêu nước nồng nàn, tư tưởng giải phóng phụ nữ, giải phóng con

người thì tư tưởng bất bạo động, tư tưởng kêu gọi tình yêu thương và cải tạo xã hội trên tinh thần tu

khổ hạnh của tôn giáo trong các tác phẩm của Lep Tônxtôi là hoàn toàn có thực và chiếm một vị trí

quan trọng trong các sáng tác của ông. Cùng trên một tác phẩm nhưng trên cơ sở tính đa nghĩa, đa nội

dung, việc tiếp nhận cái gì, loại bỏ cái gì còn phụ thuộc vào hoàn cảnh của người đọc nên sự tiếp nhận

một mặt trong nội dung sáng tác của Lep Tônxtôi như trên cũng là điều dễ hiểu.

Như vậy, những nhân tố khách quan, tức hoàn cảnh xã hội miền Nam và đặc điểm của chính tác

phẩm, đã thúc đẩy việc tiếp nhận thuyết bác ái của Lep Tônxtôi, nói cách khác, hoàn cảnh xã hội và tác

phẩm đã có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi. Điều này cho thấy, việc tìm

hiểu những khuynh hướng tiếp nhận cần được xem xét kỹ lưỡng trong mối quan hệ với hoàn cảnh, với

tâm lý thời đại, với tác phẩm.

Về mặt chủ quan, ta thấy có những tác động sau:

-Thứ nhất, sự cổ suý thuyết bất bạo động của Lep Tônxtôi có thể là một cách tiếp cận của học

giả miền Nam nhằm tránh sự kiểm duyệt của chính quyền Sài Gòn. Trong hoàn cảnh xã hội như thế,

cách tiếp nhận theo hướng có lợi cho cách mạng giải phóng như miền Bắc đã tiếp nhận theo tinh thần

của Lênin là không thể có vị trí chính thống và công khai.

-Thứ hai, xét về tư tưởng ở những tác giả của các bài viết về Lep Tônxtôi, ta cũng thấy có những

động cơ dẫn đến việc tiếp nhận và đề cao thuyết bất bạo động của Lep Tônxtôi. Khuynh hướng phi

chính trị của một số học giả muốn giữ nhân cách và bản lĩnh của mình trước thời cuộc đảo điên là một

trong những lý do giải thích việc tiếp nhận thuyết bác ái của Lep Tônxtôi. Những ngưòi này đứng giữa

lằn ranh của cuộc chiến nên họ muốn tỏ rõ bản lĩnh cũng như nhân cách của mình bằng đường lối phi

chính trị. Nguyễn Hiến Lê làm một ví dụ. Ông không ham công danh địa vị, chức tước. Ở con người

ông “có một cái gì đó rất gần với tâm trạng của dân tộc mình, một cái gì đó thuộc nhân bản của con

người cầu tiến luôn hướng tới mục đích cao thượng và hoàn mỹ” [33, 8]. Chính vì khuynh hướng phi

chính trị mà khi tiếp cận tư tưởng tác phẩm của Lep Tônxtôi, các học giả này hướng đến tiếp nhận

những tư tưởng ít mang tính tả khuynh. Những tư tưởng đó thường là có ích cho con người phi giai cấp,

phi tầng lớp. Xét trong bối cảnh chính trị miền Nam thì nó không hoặc ít phục vụ cho cách mạng hay

Mỹ - nguỵ. Nó chỉ phục vụ cho con người nói chung, con người thuộc về hai chiến tuyến hoặc không

thuộc về chiến tuyến nào cả. Chính vì thế mà đối với Lep Tônxtôi, các học giả này chỉ chú ý đến thuyết

bác ái, đến cái tư tưởng hướng thiện mà bất cứ xã hội nào, bất cứ tôn chỉ của tôn giáo nào cũng hướng

tới. Tư tưởng này không thuộc về cách mạng hay nhà cầm quyền miền Nam mà nó mang tính chất phi

chính trị (một cách tương đối), nó thuộc về nhân loại.

-Thứ ba, xu hướng đề cao chủ thuyết bất bạo động cũng là một trong những chủ trương, lập

trường chính trị của một số học giả miền Nam. Tiến hành một cuộc cách mạng trên cơ sở một nền đạo

đức học là điều mà nhiều trí thức miền Nam mong muốn nhằm giải quyết cuộc chiến đã kéo dài nhiều

năm. Chẳng hạn Lý Chánh Trung viết: “Mặc dầu một cuộc cách mạng bất bạo động theo kiểu Gandhi

chưa thể thực hiện được, nó vẫn là một cái lý tưởng phải thực hiện nếu cách mạng là một cuộc đấu

tranh của con người.”[87, 117]. Những tìm tòi về một cuộc cách mạng cần tiến hành ở miền Nam mà

không thông qua bạo lực của một số học giả miền Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho thuyết bác ái, bất

bạo động của Lep Tônxtôi.

Như vậy, khuynh hướng tiếp nhận tư tưởng bất bạo động của Lep Tônxtôi không chỉ có cơ sở từ

những yếu tố khách quan mà còn xuất phát từ chính sự chủ quan, sự quan tâm của một số học giả miền

Nam. Điều này cho thấy hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi diễn ra dưới sự chi phối của hàng loạt những

yếu tố chủ quan, khách quan đan xen lẫn nhau chứ không phải thuần nhất.

b. Khuynh hướng tiếp nhận nghệ thuật:

Về khuynh hướng tiếp nhận nghệ thuật sáng tác của Lep Tônxtôi, chúng ta dễ dàng nhận ra

khuynh hướng này có mặt ở hầu hết các bài nghiên cứu và giới thiệu. Nghệ thuật sáng tác của tác phẩm

Chiến tranh và hoà bình được nhiều học giả đề cập đến. Từ giọng văn, cách dùng từ, kết cấu cho đến

cách chuyển cảnh, nghệ thuật khắc hoạ tính cách, tài phân tích tâm lý, tài khắc hoạ cái đẹp của thiên

nhiên… đều được các tác giả đề cập (chúng tôi đã trình bày trong các phần trước). Nghệ thuật xây

dựng tiểu thuyết Anna Karênina cũng được nhiều tác giả khẳng định. Chẳng hạn tác giả lời Tựa An-na

Kha-Lệ -Ninh nhận định: “Kết cấu của cuốn tiểu thuyết được mở rộng, có những nhân vật mới xuất

hiện. Cả những đoạn phụ mới nữa (…) Cũng như trong “Chiến tranh và hoà bình”, người ta thấy

tường thuật song song số phận của ba cặp, liên kết với nhau bằng những dây rợ họ hàng” [83, 9], hoặc:

“Tác phẩm sở dĩ bất hủ nhờ phân tích tâm lý giới quý tộc một cách sâu sắc, và nhờ những đoạn miêu tả

cảnh thiên nhiên, thú vật rất gợi cảm, có lẽ cũng nhờ cái không khí u ám, lo âu trong truyện, rất thích

hợp với đề tài” [83, 47]. Ở đây, khuynh hướng tiếp nhận nghệ thuật có thể được xem là một trong

những khuynh hướng chính trong các khuynh hướng tiếp nhận Lep Tônxtôi. Tuy nhiên, nghệ thuật

được tiếp nhận ở đây vẫn chỉ là những đánh giá, cảm nhận ban đầu. Một công trình nghiên cứu toàn

diện về nghệ thuật, thi pháp tiểu thuyết của Lep Tônxtôi vẫn chưa xuất hiện. Điều này cho thấy sự tiếp

nhận mặt nghệ thuật trong sáng tác của Lep Tônxtôi của một số độc giả miền Nam tuy đạt được những

thành tựu nhất định nhưng vẫn chưa đầy đủ. Cái gọi là phương pháp sáng tác của chủ nghĩa hiện thực

phê phán vẫn chưa được đề cập một cách đúng mức. Tuy nhiên, dù sao thì sự tiếp nhận mặt nghệ thuật

cũng là một khuynh hướng tiếp nhận rất đáng quan tâm và cần được lý giải.

Lý giải sự tồn tại khuynh hướng tiếp nhận này, chúng tôi cho rằng có hai nguyên nhân chính:

-Thứ nhất, Lep Tônxtôi là một tác giả mang tính lưỡng cực. Không giống như Đôxtôiepxki chỉ

được tiếp nhận ở miền Nam Việt Nam, Lep Tônxtôi còn được tiếp nhận ở miền Bắc Việt Nam và là tên

tuổi được ca tụng nhiều ở miền Bắc do một số tư tưởng nghệ thuật tiến bộ và phù hợp với nền văn học

cách mạng. Do đó, khi tác phẩm của Lep Tônxtôi được phổ biến ở miền Nam, lẽ đương nhiên những tư

tưởng tiến bộ mang tính cách mạng không thể nào được phát huy do sự kiểm duyệt của chính quyền.

Điều này cũng có nghĩa là giới học giả miền Nam chọn “giải pháp” trung lập: tiếp thu nghệ thuật sáng

tác của Lep Tônxtôi. Điều này cũng có nghĩa là khuynh hướng chính trị có tác động đến việc chọn lọc

trong tiếp nhận. Ở đây, khuynh hướng phi chính trị như chúng tôi đã phân tích ở trên có một vai trò

quan trọng trong việc lý giải thực tế tiếp nhận này. Chính nó quyết định các học giả nên chọn tiếp nhận

cái gì và không tiếp nhận cái gì. Đó là lý do thứ nhất.

-Thứ hai, Lep Tônxtôi là một nhà văn có tài năng thật sự. Với một bút pháp cổ điển mẫu mực,

nghệ thuật của Lep Tônxtôi cần được học hỏi và phát huy trong xu thế tràn ngập các phương pháp sáng

tác hiện đại vốn xa lạ với tư duy của đại đa số độc giả miền Nam. Sự tiếp thu và nhấn mạnh những

điểm ưu việt trong nghệ thuật sáng tác của Lep Tônxtôi có thể được xem như là một phản ứng tích cực

của một số học giả muốn gìn giữ và bảo vệ tầm thẩm mỹ của đa số độc giả trước sự tấn công của các

xu hướng thẩm mỹ hiện đại phương Tây.

-Ngoài những nguyên nhân trên, chúng ta cũng cần lưu ý đến một nhân tố không kém phần quan

trọng, đó là lập trường nghệ thuật của những người chủ trương tiếp nhận nghệ thuật sáng tác Lep

Tônxtôi. Chúng ta cần biết rằng, những người tiếp nhận nghệ thuật Lep Tônxtôi phần lớn là những độc

giả vốn chịu ảnh hưởng của văn phong cổ điển, vốn đã từng ở miền Bắc Việt Nam như Nguyễn Hiến

Lê, Nhất Linh, Vũ Bằng… Cho nên họ chủ trương tìm đến và ca ngợi, học hỏi nghệ thuật sáng tác của

Lep Tônxtôi cũng là điều dễ hiểu. Điều này cho thấy một bộ phận độc giả miền Nam vẫn còn chịu ảnh

hưởng bởi âm hưởng của văn chương cổ điển. Những người này có xu hướng quay về với chủ nghĩa

hiện thực “cổ diển” trước sự tấn công của các khuynh hướng văn học hiện đại khác.

-Cuối cùng, Lep Tônxtôi là một nhà văn lớn và có tài năng nên một số độc giả miền Nam có xu

hướng tìm kiếm để thưởng thức, chiêm ngưỡng và học hỏi. Cách chuyển cảnh, cách xây dựng kết cấu,

nghệ thuật xây dựng nhân vật, nghệ thuật miêu tả tâm lý nhân vật… tất cả những cái đó quyến rũ các

nhà văn, các nhà nghiên cứu tìm đến nghệ thuật của Lep Tônxtôi.

Nhìn chung, sự nhấn mạnh mặt nghệ thuật trong sáng tác của Lep Tônxtôi là hoàn toàn có thể lý

giải được từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trong đó, tính “phi chính trị” của nghệ thuật và những sáng

tạo mới về nghệ thuật có thể được xem là những nguyên nhân chính tác động đến việc tiếp nhận có

chọn lựa các giá trị trong tác phẩm của Lep Tônxtôi.

2.2.2.4. Đời tư tác giả được đặc biệt quan tâm tiếp nhận:

Quan tâm đến đời tư hơn là nội dung tác phẩm, đó cũng là đặc điểm của hoạt động nghiên cứu

Lep Tônxtôi của giới học giả miền Nam. Thử nhìn lại hầu hết những bài viết của Nguyễn Hiến Lê như

Léon Tolstoi, một Á thánh, Lời giới thiệu chiến tranh và hoà bình, Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản… và

những bài nghiên cứu khác như Vài cảm nghĩ xuôi dòng, Lev Tolstoi, người chạy trốn gia đình, Những

giờ phút cuối cùng của đại văn hào Lep Tônxtôi ta dễ dàng nhận thấy nội dung những bài này chủ yếu

đề cập đến cuộc đời của Lep Tônxtôi hơn là đi vào giới thiệu hoặc khảo sát. Ngay cả bài viết mang tính

chất khảo cứu Một đề tài của Tolstoi, cái chết của Tràng Thiên cũng chủ yếu đề cập đến đời tư tác giả.

Nói về cái chết trong các tác phẩm của Lep Tônxtôi, nhưng dường như Tràng Thiên chỉ đề cập đến cái

chết trong mối quan hệ với những cảm nhận của nhà văn, đến tiểu sử, bản thân của nhà văn. Nhận định

về thực trạng này, tác giả Trần Thị Quỳnh Nga cho rằng, giới học giả Sài Gòn đã quan tâm đến thứ yếu

mà bỏ mất những vấn đề thực chất. Nhận định đó khá chính xác, tuy nhiên, theo chúng tôi, các học giả

miền Nam có lý do để làm như thế. Đó là những lý do sau:

-Trong hoàn cảnh xã hội miền Nam loạn lạc, trong không khí dịch thuật và phổ biến hàng loạt

những tác phẩm thuộc xu hướng văn học hiện đại cũng như chỉ trong một khoảng thời gian hạn hẹp,

các học giả miền Nam không thể nào có điều kiện nghiên cứu một cách kỹ lưỡng, sâu sắc và đầy đủ về

tác phẩm. Họ không thể làm việc đó cho nên cái mà họ quan tâm lúc này là giới thiệu và cung cấp

thông tin về công việc sáng tác, trước tác của tác giả cho độc giả. Việc cung cấp những thông tin này sẽ

giúp cho độc giả tiếp nhận tốt hơn những tác phẩm trường thiên nổi tiếng của Lep Tônxtôi vốn được

xem là những tác phẩm đa nghĩa và “khó đọc”. Bên cạnh việc cung cấp thông tin về tác giả nhằm giúp

cho độc giả dễ dàng tiếp cận tác phẩm, các học giả miền Nam còn muốn kích thích sự khao khát, tò mò

khám phá và tìm đến sự nghiệp sáng tác của Lep Tônxtôi.

-Như chúng tôi đã đề cập ở các phần trước, tiếp cận đời tư để nắm bắt tư tưởng tác phẩm là một

mục đích mà các học giả miền Nam muốn đem đến cho bạn đọc. Phương pháp tiếp cận tác giả, tác

phẩm này nhìn chung khá phổ biến ở miền Nam. Những tiểu luận của Stefan Zweig như Ba bậc thầy:

Dostoievski, Banzac, Dikens; Tư duy sống động của Léon Tolstoi hoặc những quyển viết về tiểu sử

Victor Hugo, Proust, Alain, Balzac, Dumas… của André Maurois xuất hiện ở miền Nam vào những

năm 60 có thể đã ảnh hưởng đến xu hướng tiếp nhận này và cả khuynh hướng đề cao nhân cách Lep

Tônxtôi mà chúng tôi sắp trình bày trong phần tiếp theo.

2.2.2.5. Khuynh hướng đề cao nhân cách Lep Tônxtôi:

Khuynh hướng đề cao nhân cách Lep Tônxtôi được thể hiện rất rõ trong các bài viết về Tônxtôi.

Bài Léon Tolstoi, một Á thánh là một ví dụ tiêu biểu. Trong bài viết này, Nguyễn Hiến Lê cho người

đọc tiếp xúc với một nhân cách, một tâm hồn của một bậc vĩ nhân, một vị thánh hơn là tiếp xúc với tiểu

sử đơn thuần của một nhà văn. Trong Vài cảm nghĩ xuôi dòng, Trần Phong Giao tiếp tục khẳng định về

nhân cách của Lep Tônxtôi: “Tolstoi nổi tiếng lẫy lừng khắp hoàn vũ như một bậc thánh. Vậy mà ông

không có phép nhiệm mầu gì. Ông sống, làm việc, chết như mọi người trên mặt đất. Vậy cái gì đã đưa

ông lên ngôi cao thần thánh? Phải chăng, nhờ ở, trọn đời ông, ông đã giữ được đức tính chân thật và

ưa suy nghĩ. Đức tính ấy đã giúp ông tự vấn những việc làm của ông, nó giúp ông thấu đáo được cảm

tình đồng loại, nó giúp ông vượt được chỗ tầm thường”. [13, 83]

Học hỏi nhân cách Lep Tônxtôi vừa được xem là lý do để lý giải việc xuất hiện các sáng tác của

Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam, đồng thời khuynh hướng tiếp nhận trên còn cho chúng ta thấy

quan niệm tiếp cận tác phẩm thông qua tiếp cận cuộc đời nhà văn là một trong những khuynh hướng

của các học giả miền Nam khi tiếp cận sự nghiệp sáng tác của Lep Tônxtôi. Khuynh hướng này, ở một

góc độ nhất định, có sự gần gũi với khuynh hướng tiếp cận văn học trên cơ sở thuyết Phân tâm học

đang phổ biến ở miền Nam lúc bấy giờ. Mặt khác, ở một phương diện nào đó, những học thuyết đương

thời như thuyết hiện sinh, hiện tượng luận, Phật giáo và Thiên chúa giáo đang có tác động mạnh đến lý

tưởng và ý thức thanh niên, đến việc hành thành nhân cách của họ lúc bấy giờ cũng có ảnh hưởng đến

sự tiếp nhận Lep Tônxtôi theo khuynh hướng trên. Câu nói của Phạm Công Thiện “Lep Tônxtôi có

những điệu bộ nào vào lúc già khiến cho tâm hồn ta phải xao động lạ lùng như vậy” [60, 79] đã cho

thấy có mối quan hệ giữa thực tế tiếp nhận các học thuyết triết học đương thời với việc tiếp nhận cuộc

đời Lep Tônxtôi.

Ngoài những lý do nêu trên, chúng ta còn thấy một lý do không kém phần quan trọng chi phối

việc đề cao nhân cách Lep Tônxtôi. Đó là khuynh hướng nhấn mạnh đến chức năng giáo dục thông qua

cuộc đời và tác phẩm của ông. Có thể nói, tiếp nhận nhân cách Lep Tônxtôi không phải là trường hợp

riêng biệt, duy nhất. Đương thời, chức năng giáo dục được một số học giả miền Nam đề cao thông qua

việc giới thiệu hàng loạt cuộc đời và sự nghiệp của các danh nhân kim cổ. Những tên tuổi như

Schlieman, Gandhi, Vương Dương Minh, Quản Trọng… đều được giới thiệu rộng rãi.. Những người

này đều có đặc điểm chung là đều có tài và có đức. Những người có tài mà không có đức cũng không

được chọn lọc. Nguyễn Hiến Lê không giới thiệu Thành Cát Tư Hãn hay Napoléon cũng vì lý do đó.

Có thể nói, tiếp xúc với cuộc đời, sự nghiệp và nhân cách của các bậc thánh nhân đó, con người miền

Nam vốn sống trong một hoàn cảnh đầy bạo lực và rất dễ đánh mất nhân cách sẽ học hỏi rất nhiều

trong việc kiến tạo và di dưỡng nhân cách, tư tưởng của mình. Ở đây, sự tiếp nhận theo khuynh hướng

trên đã cho thấy ẩn ý sâu xa của một bộ phận học giả tiến bộ trong việc định hướng và xây dựng nhân

cách, cách sống có ý nghĩa cho thanh niên miền Nam lúc bấy giờ. Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cho rằng

những tác phẩm quan trọng nhất của Nguyễn Hiến Lê chính là “những tác phẩm nho nhỏ ông viết

nhằm mục đích giáo dục thanh niên, hướng dẫn họ trong sự huấn luyện trí, đức (…) và nhất là bộ

Gương danh nhân” [43] trong đó có Lep Tônxtôi. Đỗ Hồng Ngọc nhận định về độc giả của những

quyển sách mang tính giáo dục này: “Mà họ là ai? Là những thanh niên thất chí bán hàng xén như tôi

thuở đó, là anh thợ may (…), là một giáo viên, một y tá hương thôn, một thư ký nghèo trong một công

sở nào đó… Họ là những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học, nhưng vì hoàn cảnh mà lỡ

dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bấy giờ, trong lòng họ nhen lên ngọn lửa nồng, và

dù có không “thành công” nhiều thì đời sống họ cũng sẽ được nâng cao, ít ra là về mặt tinh thần” [43]

Như vậy, trong nhiều nguyên nhân chi phối việc đề cao nhân cách của Lep trong quá trình tiếp

nhận Lep Tônxtôi, chúng ta phải lưu ý đến một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến việc tiếp

nhận có chọn lọc này là khuynh hướng nhấn mạnh chức năng giáo dục của văn học. Điều này một lần

nữa cho thấy hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi diễn ra hết sức phức tạp dưới ảnh hưởng của hàng loạt

nhân tố.

2.2.2.6. Hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi còn thể hiện ở sự đa dạng và phong phú qua một

số phương diện khác:

Ngoài những biểu hiện của hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi của giới học giả miền Nam mà

chúng tôi đã đề cập, tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi còn thể hiện sự đa dạng và phong phú ở nhiều

phương diện khác. Chẳng hạn, giới học giả miền Nam khi tiếp cận Lep Tônxtôi thường đặt ông trong

mối tương quan với Đôxtôiepxki, một nhà văn cùng thời với ông. Khi tiếp nhận F. Đôxtôiepxki và Lev

Tolstoi, họ nhận ra nhiều điều thú vị. Nếu như F. Đôxtôiepxki thể hiện rõ một nước Nga phương Tây

thì Lep Tônxtôi thể hiện rất rõ một nước Nga phương Đông. Nguyễn Hữu Hiệu dựa trên những nhận

định của triết gia Nga Nicolas Berdiaeff đã so sánh Lep Tônxtôi với Đôxtôiepxki như sau:

“Dostoievski là truyền lệnh sứ của tinh thần cách mạng đang trên đường thực hiện, bản chất

năng động phi thường, hướng về Biến dịch, là người tuyên xưng ràng buộc với quê hương, kẻ khẳng

định đức tính của những truyền thống lịch sử, của những di sản thiêng liêng, chấp nhận quyền thống trị

và Giáo hội chính thống Nga. Tolstoi, trái lại, không bao giờ là tinh thần cách mạng cả; ông là họa sĩ

của chất liệu tĩnh, của môi trường xã hội như nó đã và đang hiện hữu; tầm mắt của ông còn quay về

quá khứ chứ chưa hướng tới tương lai. Tuy nhiên chính ông là kẻ nổi loạn chống lại tất cả truyền

thống lịch sử và tôn giáo, chính ông là kẻ ngoan cố đầu tiên, chối bỏ chính thống giáo và chối bỏ Đế

chính, không muốn chấp nhận ngay cả địa vị tối thượng của văn hoá. Dostoievski cho thấy tính chất

sâu xa của hư vô chủ nghĩa Nga. Chính Tolstoi tự nhận mình là kẻ theo hư vô chủ nghĩa, kẻ phá hoại

thánh tích và tất cả mọi giá trị. Dostoievski biết cuộc cách mạng sắp tựu thành và đang khởi lên (…)

Tolstoi, ông không biết rằng cách mạng đang khởi lên (…) Tóm lại, có thể Tolstoi là một nghệ sĩ hoàn

toàn hơn Dostoievski…Nhưng Dostoievski lại là một tư tưởng gia vĩ đại hơn Tolstoi.” [19, VII-VIII]

Một thực tế tiếp nhận khác giữa Lep Tônxtôi và Đôxtôiepxki mà chúng ta cũng cần lưu ý là tuy

cả hai ít nhiều đều được nhìn nhận dưới cái nhìn của học thuyết hiện sinh nhưng có lẽ chỉ có

Đôxtôiepxki mới được tiếp cận dưới góc độ hiện sinh sâu sắc hơn cả khi mà Sartre xem ông như là

người tiên phong của triết thuyết hiện sinh với câu nói “Nếu thượng đế không hiện hữu, tất cả đều được

phép”.

Khi so sánh giữa nhà văn hiện đại đã đạt giải Nobel 1970 Soljenitsyn, học giả miền Nam đánh

giá Soljenitsyn ngang hàng với F. Đôxtôiepxki và Lev Tolstoi. Tuy nhiên họ không che giấu xu hướng

tuyên truyền chính trị quyết liệt, lộ liễu nhằm mục đích bài Xô chống cộng và tìm kiếm cái gọi là “sự

thật sau bức màn thép”. Còn đối với Lep Tônxtôi, cách đánh giá của giới dịch thuật, nghiên cứu phê

bình Sài Gòn có phần thuần nhất, ít bị chi phối bởi quan điểm chính trị- xã hội.

Nhìn chung, Lep Tônxtôi khi đến miền Nam thì giới học thuật đã mặc nhiên xem ông như là

một nhà văn vĩ đại của dòng văn học cổ điển thế giới. Việc tiếp cận tác phẩm của ông với tâm thế học

hỏi và chiêm ngưỡng là một điều hiển nhiên. Chính điều này đã quy định sự tiếp nhận của giới học

thuật đối với Lep Tônxtôi. Sự đánh giá và nghiên cứu về Lep Tônxtôi, có chăng chỉ là sự khẳng định

lại một cách chọn lọc những giá trị trong tác phẩm của ông sao cho phù hợp với thực tế xã hội và mục

tiêu tiếp nhận. Sự tương tác giữa những vấn đề đặt ra trong tác phẩm của Lep Tônxtôi và những vấn đề

của xã hội tao loạn miền Nam lúc bấy giờ, đó chính là vấn đề đã tạo kết quả tiếp nhận như ta đã phân

tích.

Chương 3

MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ CÁC YẾU TỐ

QUY ĐỊNH TIẾP NHẬN

TRONG TIẾP NHẬN LEP TÔNXTÔI

Qua phần trình bày tình hình dịch thuật, xuất bản và nghiên cứu Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt

Nam trước 1975, chúng tôi nhận thấy có nhiều vấn đề liên quan đến quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi

cần phải đề cập nhằm hiểu thêm về thực tế tiếp nhận của độc giả cũng như về mặt lý thuyết. Dưới đây

chúng tôi sẽ triển khai những vấn đề mà chúng tôi cho là quan trọng, cần tìm hiểu, khảo sát và đặt nghi

vấn.

3.1.Vấn đề độc giả trong tiếp nhận Lep Tônxtôi:

Tìm hiểu những vấn đề tiếp nhận không thể không đề cập tới những vấn đề liên quan đến các

lớp độc giả tiếp nhận. Trong phần này, chúng tôi sẽ tiếp cận một số vấn đề có liên quan đến độc giả của

Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

3.1.1. Vấn đề sự hình thành độc giả của Lep Tônxtôi trong giai đoạn tiếp xúc ban đầu:

Như chúng tôi đã đề cập, những năm 50 được xem như là thời điểm chính thức có một số đoản

tác và đoạn trích từ các tác phẩm của Lep Tônxtôi được tiến hành dịch và một số nhà xuất bản ở miền

Nam chính thức ấn hành. Thời điểm này có thể được xem là thời điểm mà lực lượng độc giả của Lep

Tônxtôi bắt đầu hình thành. Sự khởi đầu của những đoản tác như Một bản đàn, Cái chết của Ivan Ilitch,

những đoạn trích Cái chết của An-Đễ, Tâm trạng một thương binh từ tác phẩm trường thiên Chiến

tranh và hoà bình có thể được xem là một thuận lợi đối với sự hình thành lực lượng độc giả của Lep

Tônxtôi khi mà những tác phẩm này mang một thứ văn phong cổ điển với nghệ thuật tả chân tiêu biểu

của Lep Tônxtôi. Thứ văn phong này có lẽ tìm được sự ăn ý với cái khuynh hướng yêu thích văn

chương tả thực của giới đọc sách bình dân lúc bấy giờ (vốn chịu ảnh hưởng bởi những tác phẩm tả

chân của Hồ Biểu Chánh - phần lớn được phỏng tác từ những tác phẩm cổ điển của văn học Pháp, tác

phẩm của Lê Văn Trương cũng như của Tự lực văn đoàn). Sự thuần khiết của thị hiếu yêu thích văn

chương cổ điển của văn học Pháp giai đoạn 1930-1945 có lẽ vẫn còn hơi hướng ở giới đọc sách bình

dân do khuynh hướng ái mộ “tiểu thuyết mới” chưa được khuếch trương mạnh mẽ ở miền Nam lúc bấy

giờ. Ta cần nhớ lại rằng, cái khuynh hướng sùng bái “tiểu thuyết mới” chỉ phát triển mạnh mẽ ở miền

Nam vào cuối những năm 60 đầu những năm 70 với sự xuất bản hàng loạt những tiểu thuyết của

Đôxtôiepxki (mà ngay cả khi khuynh hướng này trở nên mạnh mẽ thì những độc giả yêu thích sự trong

sáng của văn chương cổ điển vẫn không bị thủ tiêu. Nguyễn Hiến Lê là một trường hợp tiêu biểu. Điều

này góp phần lý giải phần nào sự xuất bản và tái bản những tác phẩm của Lep Tônxtôi song song với

sự xuất bản các sáng tác của các nhà tiểu thuyết mới).

Bên cạnh thuận lợi vừa nêu, chúng ta còn thấy sự hình thành độc giả của Lep Tônxtôi trong

giai đoạn ban đầu còn tìm thấy sự thuận lợi ở sự “sẵn có” một số độc giả của Lep Tônxtôi từ trước.

Trong chương hai, chúng tôi đã nói đến sự tồn tại của những độc giả của Lep Tônxtôi di cư từ miền

Bắc vào Nam do những điều kiện xã hội như Nhất Linh, Vũ Bằng, Nguyễn Hiến Lê, những người này

có thể được xem như là những người đại diện cho giới độc giả của miền Nam lần đầu tiên tiếp xúc với

Lep Tônxtôi. Bên cạnh những tên tuổi vừa nêu, chúng ta còn có thể nói đến hàng loạt những trí thức

miền Bắc, những người có lẽ đã làm quen với Lep Tônxtôi qua những bản dịch bằng tiếng Pháp lúc bấy

giờ ở miền Bắc, do quan điểm chính trị đã di cư hàng loạt vào Nam và đã tạo nên một loạt những độc

giả của Lep Tônxtôi. Thị hiếu thẩm mỹ của những người này cũng như sự tác động của họ đến các lớp

độc giả khác chính là một trong những điều kiện thuận lợi cho sự hình thành lực lượng độc giả của Lep

Tônxtôi trong giai đoạn ban đầu. Trong trường hợp này, Nguyễn Hiến Lê là minh chứng tiêu biểu khi

mà ông cho giới thiệu Lep Tônxtôi qua bài giới thiệu khá công phu và đầy quyến rũ, khiêu khích người

đọc: Léon Tolstoi, một Á thánh trên tạp chí Bách Khoa, một tạp chí có sức phổ biến rất lớn đối với

người đọc miền Nam. Bên cạnh những người đã từng tiếp xúc với Lep Tônxtôi ở miền Bắc, lực lượng

độc giả sẵn có của Lep Tônxtôi còn được hình thành ngay tại các trường trung học, đại học và các

trung tâm học thuật ở Sài Gòn và những thành thị miền Nam. Đây là một thực tế bởi lẽ không chỉ các

trí thức miền Bắc mới có dịp đọc những bản dịch tiếng Pháp tác phẩm của Lep Tônxtôi mà những trí

thức ở miền Nam, do xu hướng giao lưu và phổ biến văn hoá, văn học lúc bấy giờ, (chủ yếu là thời gian

trước 1945) cũng có dịp tiếp xúc với những bản dịch này. Chúng tôi không xác định được Trần Phong

Giao là người miền Nam hay miền Bắc, nhưng lời xác nhận của ông về việc ông đã đọc Lep Tônxtôi

khi ông còn học trung học là một ví dụ về sự tồn tại của lực lượng độc giả của Lep Tônxtôi từ trước. Sự

hình thành lớp độc giả của Lep Tônxtôi ngay tại miền Nam nhờ sự phổ biến những bản dịch tiếng Pháp

có thể được xem là một điều kiện cho sự hình thành lực lương độc giả ban đầu của Lep Tônxtôi. Mặt

khác, sự xuất hiện của bài viết của Nguyễn Hiến Lê cũng có một ý nghĩa rất lớn đối với sự hình thành

độc giả của Lep Tônxtôi trong giai đoạn ban đầu. Thật vậy, do độc giả của loại bài viết “học làm

người” này là rất lớn nên nó cũng đồng thời giúp cho sự mở rộng lực lượng độc giả của Lep Tônxtôi

đến mọi tầng lớp khác.

Tất cả những điều này đã nói lên rằng, ngay khi nhà xuất bản Phượng Giang và Văn hoá ngày

nay cho xuất bản những bản tiếng Việt tác phẩm của Lep Tônxtôi thì ở miền Nam đã có một lực lượng

độc giả tiềm tàng bao gồm nhiều thành phần, xuất thân khác nhau, bên cạnh một lực lượng mới hình

thành khá hùng hậu. Đây là một điều kiện thuận lợi để tác phẩm của Lep Tônxtôi có điều kiện được

phổ biến hàng loạt và lực lượng độc giả của Lep Tônxtôi cũng phát triển nhanh chóng sau đó.

Nhân đây chúng tôi cũng xin đề cập đến thái độ của độc giả miền Nam khi lần đầu tiếp xúc với

tác phẩm của Lep Tônxtôi. Như chúng tôi đã trình bày ở trên, những tác phẩm lần đầu tiên được dịch

và xuất bản ở miền Nam chỉ mới là những đoản tác và những đoạn trích trong sự nghiệp sáng tác đồ sộ

của Lep Tônxtôi. Nhìn chung đây chỉ là những tác phẩm không quá khó đối với người đọc, mà nhất là

đối với giới đọc sách bình dân. Mặc khác, văn phong cổ điển cùng với nghệ thuật tả chân của Lep

Tônxtôi trong các tác phẩm này cũng không xa lạ mấy với văn phong của các tác phẩm văn học hiện

đại Việt Nam vào đầu thế kỷ như Tự lực văn đoàn, Hồ Biểu Chánh hoặc văn phong của các nhà văn

Pháp như Alexandr Dumas… Điều này cho thấy tầm thẩm mỹ của các tác phẩm của Lep Tônxtôi vào

giai đoạn này là không cao hơn mấy so với tầm đón nhận của đa số độc giả miền Nam. Chính sự chênh

lệch tầm đón nhận vừa phải đó tạo nên một khoảng cách thẩm mỹ mà hiệu ứng của khoảng cách thẩm

mỹ này là thái độ ngạc nhiên, vui sướng chứ không phải hờ hững, vô cảm của độc giả của Lep Tônxtôi.

Thực tế này cho thấy độc giả của Lep Tônxtôi khi mới tiếp xúc với văn ông đã có những điều kiện để

có một thái độ tích cực trong tiếp nhận. Sự tiếp nhận Lep Tônxtôi trong giai đoạn ban đầu của độc giả

đa số ở miền Nam nhìn chung là không quá khó khăn như họ đã tiếp nhận các tác phẩm của

Đôxtôiepxki vốn có tầm thẩm mỹ quá dị biệt .

3.1.2.Vấn đề độc giả chuyên nghiệp và không chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi:

3.1.2.1.Vấn đề độc giả chuyên nghiệp:

Lep Tônxtôi có một lớp độc giả đặc biệt: độc giả chuyên nghiệp. Đây là loại độc giả chiếm số

lượng khiêm tốn nhưng có ảnh hưởng rất lớn đối với độc giả không chuyên nghiệp, nhất là loại độc giả

có tầm đón nhận thấp và trung bình. Độc giả loại này có tầm đón nhận cao và có một vai trò rất quan

trọng trong việc điều chỉnh và hướng dẫn dư luận đối với các lớp độc giả khác.

Đối với trường hợp tiếp nhận Lep Tônxtôi, các nhà xuất bản, nhà nghiên cứu, giới thiệu, khảo

luận về Lep Tônxtôi có thể được xem là lớp độc giả chuyên nghiệp. Họ hiện diện qua những bài viết,

bài nghiên cứu, bài giới thiệu về Lep Tônxtôi. Những tên tuổi như Nguyễn Hiến Lê, Trần Phong Giao,

Võ Phiến, Nhất Linh, Cô Liêu, Nhà xuất bản Phù Sa, Nhà sách Khai Trí, Nguồn Sáng…có thể được

xem là độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi. Về mặt lý thuyết, đây là loại độc giả mà họ vừa có vai

trò là người tiên phong tiếp nhận tác phẩm vừa có chức năng là người định hướng, hướng dẫn cho các

lớp độc giả khác - mà đặc biệt là các lớp độc giả có tầm đón nhận thấp hoặc lớp độc giả mới làm quen,

tiếp xúc với Lep Tônxtôi. Họ chính là những người tiên phong trong việc tiếp nhận Lep Tônxtôi nên

những nhận định hoặc những thông tin của họ về Lep Tônxtôi có một vai trò rất quan trọng trong việc

nối kết bạn đọc với tác phẩm của ông. Chính vì lý do đó mà ta cũng có thể gọi họ là “độc giả định

hướng”. Thật ra, ta gọi họ là “độc giả định hướng” bởi lẽ họ có những bài viết được phổ biến trên các

phương tiện thông tin đại chúng chứ không hề dựa vào việc họ “chủ động” hay “cố ý” tác động đến độc

giả. Có thể trong số độc giả mà ta cho là lớp “độc giả định hướng” có thể có nhiều người khi công bố

sự tiếp nhận của mình về Lep Tônxtôi trên các báo, tạp chí... họ không hề có ý định định hướng người

đọc. Đó là một thực tế. Tuy nhiên, việc đưa ra khái niệm “độc giả định hướng” ở đây vẫn có một ý

nghĩa trong việc xác định ý nghĩa và vai trò của những bài viết mang tính chuyên nghiệp của lớp độc

giả này đối với dư luận xã hội.

Về vấn đề phân loại độc giả chuyên nghiệp, về mặt lý thuyết có thể chia lớp độc giả này thành

hai loại trên cơ sở căn cứ vào ý nghĩa tích cực của nội dung được tiếp nhận trong các bài viết của họ:

-Loại tiếp nhận được một số nội dung tích cực, tiến bộ và tiêu biểu về đối tượng được tiếp nhận.

-Loại tiếp nhận và định hướng những vấn đề không tiêu biểu hoặc còn sai lệch về đối tượng

được tiếp nhận.

Đối chiếu sự phân loại này vào trường hợp độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi, về mặt lý

thuyết ta thấy có thể chia độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi thành hai loại như trên. Cơ sở để

phân loại ở đây là do ta hoàn toàn có thể nhận ra được những nội dung tích cực và không tích cực trong

các bài viết của họ. Tuy nhiên trên thực tế, ta không thể phân loại được bởi vì trong cùng một bài viết

của họ tồn tại cả hai khuynh hướng tích cực và hạn chế, tiêu biểu và không tiêu biểu. Điều này cũng có

nghĩa là ta không thể phân chia độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi thành hai loại một cách rạch

ròi, phân minh. Ta không thể nói Nguyễn Hiến Lê thuộc loại thứ nhất còn Tràng Thiên thuộc loại thứ

hai. Đây chính là một đặc điểm của lớp độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi.

Ngoài cách phân loại như trên, ta còn có thể chia độc giả chuyên nghiệp thành những loại khác

nhau tuỳ theo khuynh hướng nội dung mà họ tiếp nhận. Chẳng hạn, cùng là tiếp nhận tác phẩm của

Đôxtôiepxki, nhưng tuỳ thuộc vào việc họ tiếp nhận tác phẩm theo khuynh hướng nào, theo trường

phái nào, theo phân tâm học, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng luận hay xã hội học… mà ta có những

nhóm độc giả chuyên nghiệp khác nhau. Đối với trường hợp của Lep Tônxtôi, chúng ta thấy rằng, hình

như sự tiếp nhận của các độc giả chuyên nghiệp ở miền Nam đều thống nhất trong cách đánh giá nội

dung, nghệ thuật của Lep Tônxtôi. Với họ, tư tưởng nghệ thuật trong các sáng tác của Lep Tônxtôi

chính là chủ thuyết bất bạo động, là nỗi khát khao của con người đi tìm kiếm hạnh phúc và chân lý

trong cuộc sống giản dị, hoà hợp với thiên nhiên, nghệ thuật của Lep Tônxtôi là nghệ thuật viết tiểu

thuyết vừa mang tính cổ điển vừa mang tính hiện đại rất cần được học hỏi. Thực tế đó cho thấy không

có sự phân nhóm độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi ở miền Nam. Điều này cũng có nghĩa là có

sự khá thống nhất (không phải hoàn toàn) trong cách tiếp nhận Lep Tônxtôi của độc giả chuyên nghiệp

ở miền Nam. Nếu có phân loại theo cách trên, thì chỉ có thể phân loại theo kiểu: độc giả chuyên nghiệp

của Lep Tônxtôi ở miền Nam là một loại và độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi ở miền Bắc là một

loại.

Song song với những cách phân loại độc giả chuyên nghiệp như trên, chúng ta còn có một cách

phân loại khác dựa trên tiêu chí chức năng, động cơ tác động, định hướng dư luận. Tiêu chí này xác lập

hai loại độc giả chuyên nghiệp như sau:

-Loại độc giả chuyên nghiệp phản ánh chân thực kết quả tiếp nhận.

-Loại độc giả chuyên nghiệp cố tình đánh tráo nội dung tiếp nhận, hướng người đọc theo chủ

trương chính trị hoặc vì những mục đích phi nghệ thuật.

Theo cách phân loại này thì theo sự hiểu biết của chúng tôi ở miền Nam chỉ có một loại độc giả

chuyên nghiệp duy nhất, đó là loại độc giả chuyên nghiệp phản ánh chân thực kết quả tiếp nhận. Sự

phân tích các bài viết của các độc giả chuyên nghiệp cho thấy, dù họ có tiếp nhận một số nội dung

không tiêu biểu của Lep Tônxtôi nhưng những nội dung đó vẫn có thể lý giải được trên cơ sở tác phẩm

của Lep Tônxtôi. Chẳng hạn, tư tưởng bất bạo động (chúng ta thường phê phán tư tưởng này) của Lep

Tônxtôi được họ nhấn mạnh thường xuyên nhưng đây vẫn là một trong những tư tưởng nghệ thuật của

Lep Tônxtôi, xuất phát từ ý đồ sáng tác và có thực trong tác phẩm của Lep Tônxtôi. Có nghi ngờ chăng

là nghi ngờ trường hợp của Tràng Thiên khi ông ta viết bài Một đề tài của Tolstoi, cái chết. Trong bài

này, khi Tràng Thiên nói về ý nghĩa của cái chết, ông có nhấn mạnh đến tính “mênh mông huyền bí” và

ý nghĩa “định mệnh con người” trong tác phẩm Cái chết của Ivan Ilitch. Tuy nhiên, theo thiển ý của

chúng tôi, từ cuộc đời của Lep Tônxtôi và từ tác phẩm Cái chết của Ivan Ilitch, chúng ta hoàn toàn có

cơ sở để dẫn đến cách cảm nhận như Tràng Thiên đã cảm nhận (dĩ nhiên cách cảm nhận này chưa

chính xác).

Có thể nói, sự phân hoá độc giả định hướng thành hai loại độc giả như trên (theo tiêu chí chức

năng, động cơ) trong một số trường hợp tiếp nhận văn học là hoàn toàn có thể xảy ra và đã xảy ra. Việc

mượn tác phẩm văn học nhằm vụ mục tiêu chính trị là một thực tế tương đối phổ biến. Trường hợp tiếp

nhận Đôxtôiepxki ở miền Nam là một ví dụ điển hình khi một số độc giả chuyên nghiệp ở miền Nam

hướng sự phê phán của Đôxtôiepxki đối với chủ nghĩa duy lý cực đoan sang địa chỉ chủ nghĩa cộng sản,

chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, trong trường hợp tiếp nhận Lep Tônxtôi, chúng tôi không thấy hiện tượng

trên xảy ra, hoặc nếu có xảy ra (hiện tại chúng tôi chưa xác định) thì chỉ ở một phạm vi hẹp. Đây có thể

được xem là một trong những đặc điểm của lớp độc giả chuyên nghiệp của Lep Tônxtôi ở miền Nam.

3.1.2.2.Vấn đề độc giả không chuyên nghiệp:

Căn cứ trên những tài liệu, chúng tôi nhận thấy có những nhận định khẳng định về sự hiện

diện của một lực lượng độc giả lớn của Lep Tônxtôi mà chúng tôi tạm gọi là “lớp độc giả không

chuyên nghiệp”. Nhà xuất bản Phù Sa khi giới thiệu tác phẩm Vùng đất hồi sinh đã cho rằng bóng dáng

to lớn của Lep Tônxtôi “sừng sững trong các thư viện quốc gia và dềnh dàng trong các tủ sách gia

đình; không một người nào biết đọc lại không đọc Tolstoi” [71]. Trần Phong Giao khi giới thiệu về Lep

Tônxtôi trên tạp chí Văn số 128, 1969 (số chuyên về Lep Tônxtôi) cũng đã lưu ý đến sự hiện diện của

lớp độc giả này khi cho rằng thực tế dịch thuật và xuất bản ba tác phẩm tiêu biểu của Lep Tônxtôi (Một

bản đàn, Cái chết của Ivan Ilitch và Chến tranh và hoà bình) là nhằm phục vụ nhu cầu và thị hiếu của

độc giả không chuyên. Ông khẳng định: “việc phiên dịch toàn bộ tác phẩm của ông chỉ có ích cho

những ai cần khảo cứu về ông (...) Riêng với độc giả Việt-nam..., ba tác phẩm đã được phiên dịch dẫn

trên là ba tác phẩm chính, cần dịch. Ngoài ra, nếu muốn dịch thêm, có lẽ chúng ta nên chọn thêm hai

cuốn nữa: Anna Karénina và Résurrection (Phục sinh)” [13, 81]. Khi nhận định về sự tiếp nhận của

độc giả miền Nam đối với tác phẩm Phục sinh, Trần Phong Giao cũng nhấn mạnh: “Résurrection nặng

về triết lý nhưng cũng rất nên dịch. Còn nhớ cách đây ít năm, phim ảnh quay theo truyện này đem

chiếu tại Việt-nam, đã rất được hoan nghênh. Có lẽ vì người ta đã tìm thấy trong “Phục- sinh” rất

nhiều tính chất “người” và mặc dù tác phẩm đặt ra một vấn nạn rất gay go (con người trước lương

tâm, con người trước Thượng-đế) nhưng cũng đã lôi cuốn được người xem (và người đọc nữa) nhờ

những tình tiết hấp dẫn...” [13, 82]. Rõ ràng ở đây, loại người đọc “bị” “tính chất “người”” và “những

tình tiết hấp dẫn” lôi kéo đến với Phục sinh mà Trần Phong Giao đã nhắc đến thì đó chỉ có thể là loại

người đọc bình dân, thành phần chiếm số lượng lớn trong lực lượng những người đọc không chuyên

nghiệp.

Nguyễn Hiến Lê trong bài viết Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản trên Văn số 128 cũng ám chỉ đến

việc dịch Chiến tranh và hoà bình là nhằm phục vụ cho đại đa số công chúng, những người không

thông tiếng Pháp: “Chỉ tại mình phải học nhờ tiếng Pháp, dùng tiếng Pháp làm chuyển ngữ cho nên

mình mới đi sau Trung Hoa trên một phần tư thế kỉ như vậy. Bây giờ tiếng Việt đã được dùng làm

chuyển ngữ, số thanh niên thông tiếng Pháp không được bao nhiêu, đã đến lúc nên dịch Chiến tranh và

hoà bình.” [29, 18-19]

Những nhận xét và đánh giá của các học giả trước và sau 1975 đã hé mở về một lực lượng độc

giả hùng hậu của Lep Tônxtôi. Lớp độc giả này, do những điều kiện nhất định đã tìm thấy sự hoà hợp

của những thị hiếu, nhu cầu thẩm mỹ của mình với bản thân tác phẩm của Lep Tônxtôi. Thành phần

của họ có thể bao gồm những độc giả giống như những độc giả của Đôxtôiepxki - một nhà văn cùng

thời với Lep Tônxtôi (những người thuộc tầng lớp trí thức bậc trung trở lên như là các anh chị em sinh

viên, các giáo sư trung học và đại học, các nhà nghiên cứu và phê bình, các nhà văn…) nhưng không

chỉ có thế. Họ chiếm số lượng khá lớn so với độc giả của Đôxtôiepxki. Về mục đích tiếp nhận, ta thấy

họ tiếp nhận với nhiều mục đích khác nhau: tiếp nhận để giải trí, tiếp nhận để tự giáo dục, tự rèn luyện

nhân cách và tâm đức, tiếp nhận để khám phá cái mới lạ chưa từng được tiếp xúc, tiếp nhận để tìm

kiếm sự tri âm về cuộc đời, tiếp nhận để suy tư (thành phần độc giả hướng đến mục đích này khá khiêm

tốn, thường là những bậc học giả hơn là độc giả thông thường)… Nhìn chung, đó có thể được xem là

một số đặc điểm của lớp độc giả không chuyên của Lep Tônxtôi.

3.1.3. Vấn đề thành phần độc giả của Lep Tônxtôi:

Toàn bộ độc giả của Lep Tônxtôi bao gồm những lực lượng độc giả nào? Đó cũng là một vấn đề

cần làm rõ để tiếp cận và lý giải các khuynh hướng tiếp nhận Lep Tônxtôi.

Khi đề cập đến thành phần và lực lượng độc giả của Đôxtôiepxki - một nhà văn cùng thời với

Lep Tônxtôi và cũng được giới thiệu rầm rộ ở miền Nam lúc bấy giờ - trong luận văn tiến sĩ của mình,

tác giả Phạm Thị Phương cho rằng: “độc giả của Dostoievski ở thị miền Nam thường phải là trí thức

bậc trung trở lên, trong số đó có những người được trang bị một vốn kiến thức triết học hiện đại nhất

định. Đó là các sinh viên, giáo sư trung học, đại học, các nhà văn, các nhà nghiên cứu văn học… Có lẽ

cũng cần kể thêm hàng ngũ binh lính, sĩ quan trong quân đội Sài Gòn. Nhiều người trong số họ vốn

từng là học sinh, sinh viên, một thời ngồi trên ghế giảng đường đại học, nay bị thời cuộc ném vào trận

chiến bất đắc dĩ, mang trong mình nỗi uất nghẹn và hoài nghi. Lại có cả những trí thức, sĩ quan “quý

tộc” tu nghiệp ở Mỹ, đem theo về học vấn và nếp tư duy ngoại quốc.” [51, 81-82]. Độc giả của Lep

Tônxtôi với tính chất đòi hỏi trình độ tương đối có lẽ cũng bao hàm cả những thành phần độc giả như

độc giả của Đôxtôiepxki như trên, tức là bao gồm những trí thức nặng lòng với thời cuộc, với văn

chương phương Tây. Tuy nhiên, thành phần độc giả của Lep Tônxtôi ở giai đoạn đầu tiếp xúc chắc hẳn

có sự khác biệt so với thành phần độc giả của Đôxtôiepxki. Nếu như trong giai đoạn tiếp xúc ban đầu

với với tác phẩm của mình, Đôxtôiepxki “không thể có độc giả đại trà” [51, 81] do trong giai đoạn đầu,

“sách của Dostoievski được giới thiệu nơi đây không phải nhằm cho giới đọc sách bình dân” [51, 81]

thì ở Lep Tônxtôi, với những tác phẩm xuất hiện ban đầu như Hạnh phúc gia đình, Một bản đàn,

những đoạn trích mang tên: Cái chết của An-Đễ, Tâm trạng một thương binh, Lep Tônxtôi sẽ có thêm

lớp độc giả bình dân ngoài những thành phần độc giả đã nêu. Thành phần độc giả bình dân này, theo

chúng tôi, không nhất thiết phải là người có trình độ cao. Những người nào có thể đọc được văn Hồ

Biểu Chánh, Lê Văn Trương đều có thể là độc giả của Lep Tônxtôi.

Như vậy, thành phần độc giả của Lep Tônxtôi mở rộng và phong phú hơn thành phần độc giả

của Đôxtôiepxki rất nhiều. Điều này cũng dễ hiểu bởi lẽ văn của Đôxtôiepxki phức tạp và chưa phù

hợp với phần đông độc giải bình dân lúc bấy giờ. Trong khi đó, với những đoản tác như Hạnh phúc gia

đình, Một bản đàn, Cái chết của IvanIlitch, Tình trong chiến hào, chưa kể những tiểu thuyết trường

thiên cũng tương đối dễ đọc như Anna Karênina, Phục sinh, Chiến tranh và hoà bình… thì rõ ràng tác

phẩm của Lep Tônxtôi không đòi hỏi trình độ cao và một thị hiếu thẩm mỹ thật sự đặc biệt như ở

trường hợp Đôxtôiepxki. Lep Tônxtôi có độc giả hạng sang, những người có trình độ cao, nhưng đồng

thời còn có những thành phần độc giả bình dân hơn, chiếm số lượng đông đúc và dễ tính hơn. Thành

phần độc giả của Lep Tônxtôi đa dạng, phong phú và rộng rãi hơn độc giả của Đôxtôiepxki, đó cũng là

một trong những đặc điểm của thành phần độc giả của Lep Tônxtôi.

Xét về mặt lập trường tư tưởng và mục đích tiếp nhận, ta có thể nhận ra ba thành phần độc giả

lớn ở miền Nam như sau:

-Lực lượng độc giả thứ nhất là những người trí thức chịu ảnh hưởng và sùng bái văn hoá văn

học và tư tưởng phương Tây. Họ tìm hiểu văn học Nga bởi lẽ nền văn học này vốn cũng là một phần

của văn học phương Tây. Mục đích tiếp nhận của họ có thể là sự tiếp nhận bởi nhu cầu “thời thượng”,

muốn chứng tỏ mình là bậc trí thức hoặc cũng có thể là muốn tiếp nhận và truyền bá những tư tưởng có

thể phục vụ cho đường lối thân Mỹ, thân phương Tây.

-Lực lượng độc giả thứ hai là những trí thức có mong muốn tiếp xúc và tìm hiểu về văn học Nga.

Đối với họ, văn học Nga là một nền văn học lớn, có ảnh hưởng đáng kể đối với nền văn học thế giới

nhưng họ chưa được tiếp xúc. Họ khao khát tìm đến nền văn học này với tư cách như là khao khát tìm

kiếm những giá trị, tư tưởng văn học mới mẻ, chưa được khám phá. Nhu cầu khám phá văn học Nga

trong đó có Lep Tônxtôi như là nhu cầu khám phá những “sự thật” của một nền văn học vốn còn xa lạ

với họ. Miền Nam dưới sự đô hộ của đế quốc Mỹ đã phải đi theo con đường tư bản chủ nghĩa do đó mà

đối đầu với phe xã hội chủ nghĩa. Nền văn học Nga thế kỉ XIX trong đó có Lep Tônxtôi vốn là một

phần quá khứ của chủ nghĩa xã hội vì thế mà được đặc biệt quan tâm đến như là một nền văn học cần

được tìm hiểu và khám phá.

-Lực lượng độc giả thứ ba là những người có xu hướng tôn trọng những giá trị đích thực của

cuộc cách mạng tháng mười Nga hoặc những tư tưởng tiến bộ đương thời đồng thời họ cũng có thể là

những trí thức có nhân cách, có tâm huyết với nghệ thuật, với nền văn hoá, văn học nước nhà. Họ đến

với tác phẩm của Lep Tônxtôi không đơn thuần là nhằm để giải trí hay đả phá mà mong muốn tìm kiếm

những tư tưởng nghệ thuật tiến bộ (tiến bộ theo quan niệm của họ) trong các danh tác của Lep Tônxtôi,

thậm chí đó là những tư tưởng nghệ thuật mà Lênin đã đề cập trong các bài viết của mình về Lep

Tônxtôi.

Với ba lực lượng độc giả như trên, chúng ta thấy, tuỳ theo khuynh hướng, nhu cầu tiếp nhận,

nhu cầu thẩm mỹ của từng lực lượng mà có những khuynh hướng tiếp nhận khác nhau. Với đặc điểm

của mình, lực lượng độc giả thứ nhất rất có thể sẽ có những hướng tiếp nhận khá đa dạng, phức tạp,

bao hàm cả mặt hạn chế và tích cực khi họ tiếp nhận Lep Tônxtôi trong xu thế so sánh với văn học

phương Tây hoặc nhìn nhận Lep Tônxtôi dưới nhiều lăng kính triết học khác nhau, thậm chí khuếch đại

những mặt yếu kếm hoặc cả những cái không hề tồn tại trong tác phẩm để phủ nhận những giá trị đích

thực của tác phẩm nhằm phục vụ cho đường lối chính trị đương thời, cũng có thể không nhằm phục vụ

cho ai cả…

Với những đặc điểm riêng của mình, lực lượng độc giả thứ hai sẽ có khuynh hướng tiếp nhận

khá trung lập. Cái khao khát khám phá của họ chắc hẳn sẽ giúp họ nhận ra được phần nào những đặc

điểm của nền văn học Nga và sự nghiệp sáng tác của Lep Tônxtôi. Tuy nhiên, cũng trên tinh thần tìm

hiểu, khám phá “cái lạ” đó, chắc hẳn sẽ có những đánh giá khen chê mang tính chất chủ quan.

Với lực lượng độc giả thứ ba, việc tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ và những giá trị trong tác

phẩm của Lep Tônxtôi sẽ dễ dàng và thuận lợi hơn. Chính lực lượng này sẽ là lực lượng tác động trực

tiếp hoặc gián tiếp dẫn đến sự tiếp nhận những giá trị thực sự trong các tác phẩm của Lep Tônxtôi. Họ

đóng vai trò điều tiết, cân bằng trong hoạt động tiếp nhận của các lực lượng, họ tạo ra động lực phổ

biến các tác phẩm có giá trị của Lep Tônxtôi. Tuy nhiên, lực lượng độc giả này phần lớn là độc giả tiếp

nhận ngầm. Họ không thể nói lên tiếng nói, quan điểm tiếp nhận một cách công khai như các lực

lượng khác vì sự kiểm duyệt của chính quyền.

Như vậy, sự tồn tại của những lực lượng độc giả khác nhau (lấy tiêu chuẩn lập trường tư tưởng,

làm tiêu chí xác định) của Lep Tônxtôi đã đóng một vai trò quan trọng trong việc kích thích sự phổ

biến các tác phẩm của Lep Tônxtôi. Chính những lực lượng này đã có một sự tác động rất lớn đến sự

tiếp nhận phong phú trong lòng độc giả của Lep Tônxtôi. Chẳng hạn, các lực lượng độc giả này sẽ quy

định việc họ tiếp nhận những tư tưởng tiến bộ, trung lập hay không tiến bộ trong các tác phẩm của Lep

Tônxtôi. Chính họ quy định việc tiếp nhận những tư tưởng cách mạng của Lep Tônxtôi hay là tiếp nhận

cá tính nhà văn, tiếp nhận tinh thần tôn giáo ở Lep Tônxtôi. Ngoài ra họ còn có thể quyết định chiều

hướng tiếp nhận công khai hay không công khai. Thực tế cho thấy, trên diễn đàn công khai, chỉ có tư

tưởng tôn giáo được tiếp nhận. Có thể nói, chính những thành phần độc giả này đã tạo nên những

khuynh hướng tiếp nhận khác nhau, tạo nên sự tranh luận ngấm ngầm giữa các quan điểm tiếp nhận và

vì thế mà giúp cho sự phổ biến tác phẩm của Lep Tônxtôi được mạnh mẽ và thuận lợi. Trong mối

tương quan giữa các lực lượng, lực lượng độc giả thứ ba khi hướng đến những giá trị tư tưởng tiến bộ

trong các kiệt tác của Lep Tônxtôi chính là lực lượng đã tạo động lực cho sự tiếp nhận các tác phẩm

theo chiều hướng tiến bộ, đồng thời cũng là lực lượng nhận chân ra một số giá trị nghệ thuật đích thực

của nhà đại văn hào này.

Ở trên chỉ là một trong những cách để xác định các thành phần độc giả của Lep Tônxtôi ở miền

Nam. Thật ra, chúng ta có thể căn cứ vào nhiều tiêu chí để xác định các thành phần độc giả này. Nếu

lấy tiêu chí lứa tuổi để xác định chẳng hạn, ta sẽ có những thế hệ độc giả của Lep Tônxtôi, mỗi thế hệ

này sẽ có những đặc điểm riêng. Chẳng hạn, nếu là thế hệ tiền bối, tức những người chịu ảnh hưởng

bởi nền học vấn Nho học, thì họ sẽ tiếp nhận tác phẩm của Lep Tônxtôi theo kiểu phương Đông. Nếu là

thế hệ trẻ, tức những người chịu ảnh hưởng văn hoá phương Tây thì họ cũng sẽ tiếp nhận Lep Tônxtôi

theo cách của phương Tây. Hoặc nếu lấy tiêu chí nhu cầu tiếp nhận để xác định thành phần thì ta sẽ có

thành phần độc giả đọc Lep Tônxtôi để giải trí, thành phần độc giả đọc Lep Tônxtôi để khám phá cái

mới, cái lạ, thành phần độc giả đọc Lep Tônxtôi để suy tư, suy ngẫm, thành phần đọc Lep Tônxtôi để

nghiên cứu, để phổ biến tác phẩm đến với người đọc. Nếu lấy tiêu chí trình độ để phân loại thì ta cũng

sẽ có nhiều thành phần: độc giả trí thức và đọc giả bình dân. Hai loại này cũng sẽ có cách tiếp nhận Lep

Tônxtôi khác nhau. Có thể nói, sự phong phú, đa dạng về thành phần của lực lượng độc giả Lep

Tônxtôi có lẽ là một thực tế. Vấn đề là làm sao lý giải tốt nhất sự xuất hiện một lực lượng độc giả lớn

của Lep Tônxtôi ở miền Nam. Dưới đây chúng tôi thử dựa vào tiêu chí đặc điểm tầm đón nhận (bao

gồm thị hiếu, nhu cầu…) để xác định các thành phần độc giả của Lep Tônxtôi để rồi từ đó lý giả sự

xuất hiện đông đảo lực lượng của Lep Tônxtôi.

Thứ nhất, điều đầu tiên mà chúng tôi nhận thấy là phần đông độc giả ở miền Nam có khuynh

hướng thích văn phong cổ điển (chúng tôi đã phân tích vấn đề này ở chương hai, tuy nhiên ở đây chúng

tôi tiếp cận lại vấn đề này nhằm xác định đặc điểm tầm thẩm mỹ của họ). Chính vì có khẩu vị quen với

thứ văn phong cổ điển mà họ tìm thấy chất cổ điển của Lep Tônxtôi thể hiện ở tính chân thực, cụ thể,

chuẩn xác và linh động trong các trang văn của ông. Họ tìm thấy nghệ thuật miêu tả thiên nhiên, con

người, tâm lý con người là mẫu mực của văn phong cổ điển thế giới (mà Lep Tônxtôi là một trong

những đại diện tiêu biểu nhất). Bên cạnh đó, khuynh hướng thích thứ văn chương mang tính giáo huấn,

giáo dục cũng như thứ văn chương thuộc trường phái hiện thực phê phán cổ điển vừa tả thực vừa chứa

đựng yếu tố lãng mạn theo kiểu A. Dumas hay văn của Tự lực văn đoàn, Hồ Biểu Chánh, tức là thứ văn

chương có những kết cục có hậu cũng là một hiện tượng có thực ở các độc giả này. Điều này có cơ sở

bởi lẽ phần đông độc giả ở miền Nam vốn gắn bó với nền văn học lãng mạn và hiện thực trước 1945.

Họ đã quen thuộc với văn của Tự Lực văn đoàn, Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương, họ chính là lớp độc

giả vốn đã được “uốn nắn từ nhỏ cái nếp sống bình dị, thuần hậu của Nho, Lão, Phật.”[27]

Liên quan đến thị hiếu của độc giả miền Nam, Võ Phiến cũng có những nhận xét cho thấy độc

giả không chuyên miền Nam với xu hướng thiên về “hướng ngoại” rất thích hợp với văn phong của

Lep Tônxtôi: “Giọng văn của tác giả trong Nam có vẻ gì rất khoẻ khoắn, nhanh nhẹn, mau mắn, hoạt

bát như tính cách người miền Nam. Cho đến cách xây dựng cốt truyện cũng vậy. Truyện của cụ Đồ

Chiểu, tiểu thuyết của Hồ Biểu Chánh cách kết cấu không có gì chặt chẽ, công phu, nhưng bao giờ

cũng linh động”. (dẫn lại [47, 39-40])

Bên cạnh những đặc điểm vừa nêu, phần lớn độc giả của Lep Tônxtôi ở miền Nam - mà nhất là

thành phần độc giả bình dân- là những người có khuynh hướng tìm đến thứ văn chương “độc thoại”.

Đây là một đặc điểm của một bộ phận lớn độc giả ở miền Nam xét về khía cạnh thi pháp nghệ thuật mà

họ ưa chuộng. Đây cũng là một sự thật về tầm đón nhận của một bộ phận độc giả ở miền Nam. Họ

thích đọc Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương, Nguyễn Tuân, Khái Hưng, Nhất Linh, tức là những thứ văn

chương “độc thoại” có kết cấu gắn liền với tư tưởng nghệ thuật chứ không phải là những tác phẩm của

Đôxtôiepxki vốn mang tính đa thanh, phức điệu.

Lý giải sự tương thích của thị hiếu độc giả bình dân miền Nam với tác phẩm của Lep Tônxtôi

dưới góc độ thi pháp, chúng ta cũng có thể tìm thấy con đường để một bộ phận khá lớn độc giả miền

Nam tìm đến tác phẩm của Lep Tônxtôi. Nói cách khác, thi pháp tác phẩm Lep Tônxtôi có khả năng

cho phép phần lớn độc giả miền Nam tiếp cận dễ dàng và thuận lợi hơn gấp bội, so với thi pháp của

Đôxtôiepxki. Chẳng hạn, như chúng ta đã biết, một bộ phận độc giả ở miền Nam rất ưa chuộng những

tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương, dưới góc độ thi pháp, chúng ta thấy đây là những tác

phẩm có thi pháp rất gần với thi pháp tác phẩm của Lep Tônxtôi. Với những tác phẩm này, người đọc

có thể tiếp nhận tác phẩm chủ yếu thông qua cốt truyện, kết cấu của tác phẩm. Chỉ cần nghe kể lại câu

chuyện, nghe kể lại những diễn biến của truyện thì người đọc đã có thể nắm bắt được tính cách nhân

vật và từ đó mà nắm bắt được một phần tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm. Điều này cũng có thể lý giải

vì sao mà người tiếp nhận Lep Tônxtôi không nhất thiết phải là người biết đọc biết viết. Điều này hoàn

toàn khác với việc tiếp nhận các sáng tác của Đôxtôiepxki. Tác phẩm của Đôxtôiepxki lấy đối tượng

miêu tả là ý thức, sự tự ý thức và thông qua ngôn ngữ đối thoại của nhân vật mà miêu tả ý thức, sự tự ý

thức nên ý nghĩa của cốt truyện trong các tác phẩm của Đôxtôiepxki không mang ý nghĩa nghệ thuật

như cốt truyện của Lep Tônxtôi. Lấy một ví dụ, để hiểu về tư tưởng nhân dân cũng như triết lý đi tìm ý

nghĩa cuộc sống, không chấp nhận an phận trong các tác phẩm của Lep Tônxtôi, người đọc bình dân

chỉ cần nghe người khác kể lại những hành động, những diễn biến xảy ra trong cuộc đời của Anđrây,

Pie (Chiến tranh và hoà bình) hoặc Lêvin, Anna (Anna Karênina ) là có thể nắm bắt được những nội

dung nghệ thuật trên. Trong khi đó, với cốt truyện, kết cấu trong tác phẩm của Đôxtôiepxki, người đọc

bình dân thật khó để nắm bắt được tư tưởng nghệ thuật trong tác phẩm của ông (chẳng thế mà những

bản lược dịch tác phẩm của Đôxtôiepxki có chất lượng rất kém). Khi nói về cốt truyện và kết cấu của

Đầu xanh tuổi trẻ (Chàng trai niên thiếu) Nguyễn Hữu Hiệu cũng cho rằng “đó chỉ là bối cảnh sơ sài

của câu chuyện. Đôxtôiepxki là một tâm lý gia của chiều sâu. Nhân vật của ông được đào xới tận cùng

cho đến khi bị dìm ngập xuống khỏi bề mặt, mở ra những vực thẳm sâu hút của tâm hồn nhân loại.”

[19, LXXXIII]. Chuyên gia về Lep Tônxtôi là M.Bakhtin cũng cho rằng tác phẩm của Lep Tônxtôi có

hình thức thể loại và kết cấu cốt truyện thuộc tiểu thuyết tiểu sử, tâm lý - xã hội, tiểu thuyết sinh hoạt

và tiểu thuyết gia đình; trong khi đó hình thức thể loại và kết cấu cốt truyện của tác phẩm Đôxtôiepxki

thuộc thể loại tiểu thuyết đa thanh. M Bakhtin cho rằng cốt truyện của tiểu thuyết tiểu sử (tiểu thuyết

của Lep Tônxtôi thuộc thể loại này) “dựa vào sự xác định của nhân vật về mặt xã hội và về mặt tính

cách, hoàn toàn dựa vào việc nhân vật bộc lộ hết mình trong cuộc sống. Giữa tính cách nhân vật và

cốt truyện về cuộc đời nó phải có sự thống nhất hữu cơ sâu sắc.”[2, 109]. Căn cứ vào đặc điểm nghệ

thuật của hình thức thể loại và kết cấu cốt truyện của tiểu thuyết tiểu sử đã nêu thì rõ ràng là độc giả

bình dân có lợi thế để đến với tác phẩm của Lep Tônxtôi hơn là đến với Đôxtôiepxki.

Bên cạnh việc xác định tầm đón nhận của một số độc giả miền Nam dưới góc độ thi pháp- mà

nhất là độc giả bình dân- chúng ta cũng cần lưu ý đến một trong những đặc điểm của họ là: họ không

thích việc miêu tả tâm lý nhân vật quá rối rắm, phức tạp, họ chỉ thích thứ việc miêu tả tâm lý một cách

nhẹ nhàng và hợp lẽ hơn. Chính vì vậy mà khi đi tìm nguyên nhân dẫn đến thực tế Lep Tônxtôi có lực

lượng độc giả hùng hậu còn Đôxtôiepxki thì không có, các học giả trước 1975 cũng đã từng lưu ý đến

sự khác biệt giữa sáng tác của Lep Tônxtôi và Đôxtôiepxki. Nguyễn Hiến Lê lý giải: “Đối với dân tộc

ta, Dostoievski còn khó hiểu hơn. Chúng ta thấy nhân vật của ông kì dị quá, du côn, tàn bạo, truỵ lạc,

cuồng loạn, điên khùng, tưởng đâu như bọn quỷ ở Âm-ty hiện lên. Ta không nhận ra được họ, họ hành

động, suy nghĩ khác xa ta quá, ta ghê sợ, không có thiện cảm chút nào. Phần đông chúng ta quen với

những nhân vật của Tự lực văn đoàn hay với Nguyễn Tuân, gần đây của Võ Phiến, có thích chăng là

thích “Le Grand Meaulnes” của Alain Fournier, chứ chưa hiểu nỗi tâm trạng Dmitri, Ivan” [27].

Tràng Thiên cũng có nhận định tương tự: “Hầu hết các nhân vật của Dostoievski đều có vẻ kì quặc, khó

hiểu. Họ bệnh hoạn, mê sảng, quá khích. Thường họ nói rất nhiều, nói ba hoa thiên địa, phát ngôn quá

trớn, lộn xộn. Họ hành động đột ngột, quyết định một cách bất ngờ (...) không thể cắt nghĩa bằng

những động cơ tâm lý thông thường (...) Họ là những kẻ dị thường” [59, 77]

Bên cạnh thị hiếu hướng về thứ văn chương mang văn phong “rất mực cổ điển” của một số độc

giả miền Nam, thị hiếu của một số độc giả miền Nam còn được thể hiện ở bình diện tư tưởng. Thực tế

cho thấy, phần đông độc giả miền Nam có khuynh hướng tìm đến những tác phẩm mang tính giáo huấn,

những tác phẩm mà qua đó họ có thể tự giáo dục, tự suy ngẫm về cuộc đời và suy ngẫm về bản thân, về

ý nghĩa cuộc sống. Bên cạnh đó họ còn có khuynh hướng tìm kiếm trong tác phẩm chính cuộc đời của

mình, sự trùng hợp với cuộc đời mình hoặc ít nhất cũng là cái ước mơ chưa thực hiện hoặc không thể

thực hiện nhưng có thực trong thế giới tinh thần của mình. Một cảnh yên vui trong sự hoà hợp với cảnh

sắc thiên nhiên thơ mộng? một ước mơ trở thành một hành giả đi tìm ý nghĩa cuộc sống? một sự phấn

đấu suốt đời để ít ra mình cũng là một nhân cách, một con người thành thực với chính mình? Những

điều này là những điều hoàn toàn có thực ở phần đông độc giả-nhất là những độc giả phải sống trong

một hoàn cảnh luôn luôn phải đối diện với lằn ranh giữa cái chết và sự sống, giữa nhân cách và phi

nhân cách như độc giả miền Nam. Với sở thích và nhu cầu này thì rõ ràng họ đã tìm thấy trong các tác

phẩm của Lep Tônxtôi người bạn đường và là người hướng đạo tinh thần của mình. Như chúng ta đã

biết, những tác phẩm của Lep Tônxtôi đã thể hiện một tinh thần phục hồi đạo đức sâu sắc, ở đó vấn đề

đạo đức của con người xã hội được đặt ra một cách cấp thiết và được xem như là một trong những con

đường cứu chuộc khả dĩ có thể phục hồi và xây dựng một xã hội hoà đồng. Tư tưởng đi tìm “cây gậy

xanh”, cây gậy đạo đức để thực hiện một thế giới hoà đồng của cậu bé Lep Tônxtôi ngày thơ được thể

hiện một cách trọn vẹn bằng cả cuộc đời và văn nghiệp của ông. Có thể nói, lập trường đạo đức là một

trong những lập trường cơ bản của Lep Tônxtôi trong cách tiếp cận con người và xã hội cũng như thể

hiện triết lý của ông. Lập trường đạo đức này sẽ được phát huy với những độc giả cũng có cùng nhu

cầu và thị hiếu tương ứng.

Bên cạnh nội dung đạo đức, tác phẩm của Lep Tônxtôi còn tìm thấy sự tương hợp với nhu cầu

thẩm mỹ của độc giả miền Nam ở tính triết lý về con người và cuộc sống. Những tác phẩm của Lep

Tônxtôi thể hiện tính triết lý sâu sắc về đời người, về chiến tranh và hoà bình, cái chết và sự phục sinh,

tội ác và phục sinh, về hành trình của con người đi tìm hạnh phúc, niềm tin. Doãn Quốc Sĩ cho rằng

Chiến tranh và hoà bình thể hiện những cái tượng trưng cho dòng đời muôn thuở: tuổi thanh niên và

tình yêu bồng bột, những vấp ngã của thời trai trẻ, những cái mà rồi sẽ thành dĩ vãng, kỷ niệm, giúp

cho con người sống hài hoà, mực thước hơn: “Nếu như trái cây chín cùng mưa nắng, con người cũng

chín dần với kinh nghiệm, để rồi khi tuổi “tứ thập nhi lập” hay “ngũ thập tri thiên mệnh”, thì cảm thấy

lòng thanh thản, rộng mở, chừng mực, hiền hoà, vui vẻ và yêu với những gì mình có.” [57, 92].

Bên cạnh những nhu cầu thẩm mỹ và thị hiếu nêu trên, một bộ phận độc giả miền Nam, mà nhất

là những người có tinh thần tiến bộ, họ cũng có những nhu cầu và thị hiếu giống như những nhu cầu và

thị hiếu của số đông độc giả miền Bắc: yêu thích cái hào khí của những sự kiện lịch sử to lớn, vĩ đại và

tinh thần yêu nước, tinh thần phản đối chiến chiến tranh xâm lược và tinh thần hướng về cộng đồng sâu

sắc. Điều này hoàn toàn có cơ sở bởi lẽ cũng giống như miền Bắc Việt Nam, hầu hết những người miền

Nam cũng đã từng có cái hào khí yêu nước ngút trời, cái tinh thần chống giặc Pháp xâm lược với sự

hiện diện của những tổ chức quần chúng như “Thanh niên cứu quốc”, “Thanh niên tiền phong”… Cái

hào khí yêu nước này vẫn không hề mất đi khi Mỹ đánh chiếm miền Nam. Thậm chí nó còn phát triển

ngấm ngầm và mạnh mẽ hơn. Chỉ có điều, trên diễn đàn công khai, người ta không thể bày tỏ chính

kiến của mình bởi lý do chính trị, bởi sự đàn áp của Mỹ nguỵ. Tuy vậy, cái hào khí này vẫn có cơ sở để

tồn tại công khai: họ có quyền thể hiện công khai niềm tự hào dân tộc, tinh thần phản chiến đối với sự

xâm lược của Pháp bên cạnh tinh thần chống Mỹ nhấm ngầm. Tất cả những điều này độc giả có thể

hoàn toàn thoả mãn với Chiến tranh và hoà bình, một tác phẩm mà biến cố lịch sử cuộc chiến tranh vệ

quốc vĩ đại năm 1812 của dân tộc Nga được thể hiện một cách hoành tráng, oai hùng, chủ nghĩa yêu

nước và tinh thần chống giặc ngoại xâm cũng như tư tưởng cộng đồng được tập trung thể hiện hết sức

sâu sắc và mang tính chủ đạo.

Đề cập đến nhu cầu của phần lớn độc giả đương thời, có lẽ cũng nên lưu ý đến sự tương thích

giữa những cái được miêu tả trong tác phẩm của Lep Tônxtôi với thực tại miền Nam tao loạn. Có lẽ có

không ít độc giả có cùng suy nghĩ với Nguyễn Hiến Lê khi cho rằng Chiến tranh và hoà bình cũng thể

hiện những cảnh tượng tiêu điều của miền Nam: “Những cảnh tan nát ở Sài Gòn, Huế, Hà Nội, những

cảnh tản cư lũ lượt, những cảnh cướp bóc, nổi loạn… như chồng lên những hình ảnh của Mousco,

Smolensk, của con đường Kalouga, Mitichi một thế kỉ rưỡi trước” [66, 106]. Đọc Tình trong chiến hào

(Những mẩu chuyện Xêvaxtôpôn), có lẽ độc giả miền Nam cũng bắt gặp những cái đã và đang ám ảnh

tinh thần của mình. Điều này cho thấy, ở miền Nam có thể có một bộ phận độc giả không chuyên có

nhu cầu muốn chia sẻ và lý giải thực tại. Họ có xu hướng tìm đến chức năng phản ánh hiện thực của tác

phẩm. Đó cũng là một trong những đặc điểm của độc giả không chuyên.

Ở trên là một vài đặc điểm thể hiện tầm đón nhận của một vài thành phần độc giả của Lep

Tônxtôi. Nếu có phân loại thì có thể xem mỗi đặc điểm về tầm đón nhận nêu trên sẽ là một thành phần

độc giả tương ứng. Điều đó cho thấy có sự đa dạng trong lực lượng độc giả của Lep Tônxtôi ở miền

Nam Việt Nam. Điều đó có thể lý giải được nguyên nhân vì sao mà Lep Tônxtôi có được lớp độc giả

đặc biệt chiếm số lượng lớn như vậy.

3.2. Vấn đề tiền đề xã hội trong tiếp nhận Lep Tônxtôi:

Quá trình tiếp nhận bị chi phối bởi người đọc, mà người đọc lại bị chi phối bởi những điều

kiện kinh tế- chính trị- văn hoá- xã hội nhất định, do đó, quá trình tiếp nhận một trường hợp cụ thể

đương nhiên một phần sẽ chịu ảnh hưởng từ những điều kiện kinh tế-chính trị-văn hoá nhất định. Vấn

đề còn lại là xác định mức độ ảnh hưởng và quy luật tác động của những điều kiện xã hội đến sự tiếp

nhận cũng như sự biến đổi của những quy luật tiếp nhận trong những điều kiện xã hội nhất định như

thế nào. Thực tế cho thấy, quá trình tiếp nhận một phần chịu sự chi phối bởi những điều kiện xã hội.

Đây cũng là một điều hiển nhiên bởi một điều hết sức đơn giản là trong một xã hội nhất định, chỉ riêng

về mặt tác động của chính trị (một biểu hiện của hoàn cảnh xã hội) đối với tiếp nhận, ta cũng đã thấy sự

biến thiên liên tục của quá trình tiếp nhận dưới sự chi phối của chính trị. Điều này đặt ra một vấn đề hết

sức quan trọng, đó là vấn đề “chính trị hoá tiếp nhận”. Nói như vậy không phải bất cứ sự tiếp nhận có

sự can thiệp nào của chính trị cũng là hoàn toàn xấu, hoàn toàn dẫn đến hiện tượng tiếp nhận tiêu cực

cũng như dẫn đến hiện tượng nguỵ tiếp nhận. Quá trình tiếp nhận ở đây phụ thuộc vào đường lối cởi

mở hay cứng rắn, tiến bộ hay phản động, phóng khoáng hay cực đoan của chính trị. Một đường lối

chính trị đúng đắn và cởi mở sẽ giúp cho quá trình định hướng tiếp nhận diễn ra suôn sẻ, tiến bộ và

phát triển, tầm đón nhận của độc giả sẽ ngày càng được nâng cao. Ngược lại, một đường lối chính trị

quá cứng rắn, quá cực đoan, phản động và áp đặt sẽ dẫn đến sự định hướng tiếp nhận nguỵ tạo, mưu đồ,

thực dụng và đầu độc độc giả. Và sự tiếp nhận của một bộ phận độc giả định hướng tương ứng với thể

chế chính trị đó sẽ là “nguỵ tiếp nhận”. Quá trình tiếp nhận lúc này sẽ mất đi sự phong phú, thuần phác,

tự nhiên và kết quả cuối cùng là tác phẩm, nhà văn sẽ được tiếp nhận sai so với sự thật bên cạnh sự suy

sụp và phân hoá tầm đón nhận của độc giả.

Đó là sự ảnh hưởng của chế độ chính trị đối với quá trình tiếp nhận. Bên cạnh tư tưởng chính

trị, sự ổn định của xã hội cũng ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiếp nhận của độc giả cũng như quá

trình nghiên cứu tiếp nhận của người nghiên cứu. Một xã hội ổn định và phát triển, tiến bộ sẽ tạo điều

kiện rất tốt cho quá trình tiếp nhận của độc giả diễn ra suôn sẻ, tầm đón nhận của độc giả sẽ được nâng

cao, giá trị của tác phẩm sẽ được tiêu hoá và thẩm định. Ngược lại, một xã hội loạn lạc, bất ổn, tan vỡ

sẽ dẫn đến sự tiếp nhận lộn xộn và nếu có định hướng thì đó là sự định hướng cực đoan bên cạnh các

khuynh hướng định hướng khác. Mặt khác, một xã hội như thế cũng sẽ dẫn đến trình trạng hỗn loạn về

tiếp nhận và sự thất thoát kết quả tiếp nhận trầm trọng cho nghiên cứu tiếp nhận. Nếu như có sự gìn giữ

những kết quả tiếp nhận một cách đầy đủ và toàn vẹn ở một chế độ chính trị nhất định, thậm chí đó là

chế độ chính trị phản động, thì về mặt lợi ích khoa học và tiến bộ, các nhà nghiên cứu sẽ có điều kiện

để hiểu rõ hơn về mặt tinh thần, tâm linh của con người trong xã hội đó, từ đó mà có sự định hướng

tương lai cho xã hội cũng như định hướng quá trình tiếp nhận hiện tại.

Nhìn chung, quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi diễn ra trong bối cảnh xã hội miền Nam giai đoạn

1954- 1975 như sau:

- Xã hội miền Nam giai đoạn 1954-1975 là một xã hội tao loạn. Chiến tranh dẫn đến chết chóc,

đói khổ, thất học, gia đình li tán cũng như trộm cướp, tệ nạn xã hội, suy đồi đạo đức…là những vấn đề

thực tế.

- Miền Nam dưới sự xâm lược của Mỹ đã thực hiện việc truyền bá tôn giáo, các học thuyết, tư

tưởng cực đoan phương Tây. Về văn hoá, họ tiến hành việc đô hộ và đầu độc người miền Nam nhằm

mục đích biến miền Nam thành một chế độ đặt dưới sự điều khiển của Mỹ.

- Văn học Nga - Xô là một nền văn học khá lạ lẫm với độc giả miền Nam bởi lẽ nó được xem là

nền văn học của chế độ xã hội đối nghịch với chế độ tư bản chủ nghĩa ở miền Nam - chế độ xã hội chủ

nghĩa. Nền văn học này khi xuất hiện ở miền Nam đã được chính quyền khai thác như là một công cụ

chính trị nhằm đả phá chế độ đối lập, phơi bày những cái xấu của chế độ đối lập.

Từ bối cảnh xã hội nêu trên, chúng tôi cho rằng xã hội miền Nam có những tiền đề cho sự tiếp

nhận Lep Tônxtôi như sau:

-Thứ nhất, ở miền Nam đã hình thành một tầng lớp độc giả yêu thích văn hoá văn học phương

Tây, quý trọng tinh hoa văn học thế giới. Văn học Nga, trong đó có đại văn hào Lep Tônxtôi, được coi

là một trong những bộ phận cấu thành của văn hoá phương Tây. Nhiều nhà văn Nga trong đó có

Tônxtôi được nhìn nhận trong tinh thần đón nhận những tinh hoa và những cái “mới mẻ” đó. Tiền đề

này đã tạo điều kiện cho sự du nhập những sáng tác và tư tưởng của các nhà văn nổi tiếng của phương

Tây và thế giới trong đó có Lep Tônxtôi. Nó cũng tạo tiền đề cho sự tiếp nhận tích cực các giá trị văn

chương đích thực, tiến bộ.

-Thứ hai, từ đặc điểm của một chế độ chính trị thân Mỹ, các học giả, nghệ sĩ miền Nam lưu tâm

đến văn học Nga - Xô viết như đến một vùng đất lạ, có xu hướng đi tìm những cái mà họ gọi là bí ẩn

bên trong “bức màn thép”. Vấn đề nổi cộm ở đây trước hết phải kể đến động cơ bất hợp tác với miền

Bắc trên mọi lĩnh vực trong đó có văn hoá. Trong xu thế đó, Lep Tônxtôi được tiếp nhận không đơn

thuần như một nghệ sĩ thuần tuý, một văn hào lớn của thế giới với toàn những cái tiến bộ. Sự nhìn nhận

ông với những góc độ khả dĩ có thể phù hợp với chế độ Sài Gòn hoặc ít nhất là trung lập là một thực tế

không thể phủ nhận. Điều này có thể lý giải cho sự xuất hiện các hiện tượng tiếp nhận các nội dung

không cơ bản hoặc không giống với sự tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Bắc Việt Nam.

-Thứ ba, mục đích thương mại có ảnh hưởng nhất định đến việc dịch và xuất bản các tác phẩm

của văn học nước ngoài, trong đó có các tác phẩm của Lep Tônxtôi. Từ những năm 1970 trở đi do tác

phẩm trong nước gặp khó khăn trong khâu kiểm duyệt, các nhà xuất bản chuyển hướng sang kinh

doanh sách dịch. Đó cũng là yếu tố, về phương diện nào đó, thúc đẩy việc dịch và giới thiệu một loạt

các nhà văn cổ điển cũng như hiện đại Nga, trong đó có Tônxtôi. Tiền đề này cũng đã có sự tác động

rất lớn đến sự quảng bá tác phẩm, giới thiệu đầy đủ và hấp dẫn về tác phẩm, nhà văn... để người đọc có

thể tìm đến được tác phẩm. Từ thực tế quảng bá và kinh doanh đó, các xu hướng tiếp nhận cũng trở

nên đa dạng, phức tạp; sự lẫn lộn giữa các xu hướng tiếp nhận, định hướng tích cực lẫn tiêu cực cũng

như tiêu biểu và không tiêu biểu là hoàn toàn có thể hiểu được.

Với các tiền đề xã hội như trên, những tác phẩm cũng như tư tưởng của Lep Tônxtôi được tiếp

nhận ít nhiều dưới sự ảnh hưởng của môi trường xã hội này. Chẳng hạn, trên cơ sở tiền đề thứ nhất, ta

nhận ra sự tác động của lớp độc giả ái mộ những tinh hoa phương Tây đến sự tiếp thu những mặt tích

cực trong sáng tác và cuộc đời của Lep Tônxtôi là rất lớn. Khảo sát những bài nghiên cứu của lớp độc

giả chuyên nghiệp, ta thấy hàng loạt những đánh giá phản ánh được giá trị cuộc đời và tác phẩm của

Lep Tônxtôi. Ý nghĩa thế giới, vị trí và tầm quan trọng của tư tưởng Lep Tônxtôi, tác phẩm của Lep

Tônxtôi, nghệ thuật tiểu thuyết của Lep Tônxtôi, tất cả được nhìn nhận một cách khá khách quan và

chân thành. Điều này rõ ràng đã thể hiện sự tác động rất lớn của tiền đề thứ nhất đến sự tiếp nhận Lep

Tônxtôi.

Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, tiền đề thứ nhất cũng tạo điều kiện cho một số cách

tiếp nhận cần xem xét lại. Cách tiếp cận của nhà xuất bản Phù Sa và Tràng Thiên là một số trường hợp

tiêu biểu.

Nhà xuất bản Phù Sa đã tiếp nhận Phục sinh theo hướng học thuyết hiện sinh- một học thuyết ít

quan hệ với Lep Tônxtôi - khi dùng ngôn từ của thuyết hiện sinh để bàn về tác phẩm này. Tràng Thiên

tiếp nhận những sáng tác của Lep Tônxtôi về đề tài cái chết theo tinh thần của các học thuyết triết học

và tôn giáo duy linh lúc bấy giờ.

Tác động đến khuynh hướng tiếp nhận tích cực hay hạn chế các tác phẩm của Lep Tônxtôi, tiền

đề thứ nhất đã tạo điều kiện cho sự phổ biến các tác phẩm của Lep Tônxtôi. Những tên tuổi như

Nguyễn Hiến Lê, Trần Phong Giao, nhà sư Từ Mẫn… đã góp phần thúc đẩy hoạt động dịch và phổ

biến các tác phẩm của Lep Tônxtôi bên cạnh các tác phẩm của các nền văn học phương Tây khác.

Tiền đề xã hội thứ hai cũng cho chúng ta những lý giải về hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi vào

thời gian này ở miền Nam. Chúng ta biết rằng, khuynh hướng tiếp nhận Lep Tônxtôi chủ yếu ở miền

Nam là tiếp nhận tinh thần tôn giáo bất bạo động và nghệ thuật sáng tác của Lep Tônxtôi. Về khuynh

hướng tiếp nhận tư tưởng bất bạo động, ta nhận ra đây là một khuynh hướng tiếp nhận đối lập với

khuynh hướng tiếp nhận ở miền Bắc. Trên cơ sở tiếp nhận của Lênin, miền Bắc phê phán tư tưởng bất

bạo động, thoả hiệp và cải cách cải lương của Lep Tônxtôi, phê phán tinh thần an phận, sống giản dị,

khổ hạnh của ông. Trong khi đó ở miền Nam lại chọn cách tiếp nhận đối lập. Các học giả ở miền Nam,

dưới ảnh hưởng của chế độ chính trị đối lập, họ đề cao chủ thuyết bất bạo động của Lep Tônxtôi, họ đề

cao đức tin, họ cho phần kết của Chiến tranh và hoà bình là “một khúc âu ca nhắc nhở loài người sống

giản dị và hoà hợp với nhau trong cảnh thiên nhiên” [66, 86], họ đề cao ý thức tôn giáo mà Lep

Tônxtôi đã từng chủ xướng: “nghệ thuật phải diễn ý thức tôn giáo của thời đại. Ý thức đó là ý thức tứ

hải giai huynh đệ; (…) rằng loài người chỉ có mỗi một con đường để tiến tới hạnh phúc là con đường

tương thân tương ái.” [30, 30]. Sự đối lập giữa miền Bắc và miền Nam trong cách tiếp nhận tư tưởng

Lep Tônxtôi đã chỉ ra mối quan hệ giữa tiền đề xã hội nêu trên với khuynh hướng tiếp nhận.

Về khuynh hướng tiếp nhận nghệ thuật sáng tác thông qua các tác phẩm của Lep Tônxtôi, chúng

ta cũng dễ nhận ra đây là một khuynh hướng tiếp nhận chịu ảnh hưởng bởi hoàn cảnh xã hội (tiền đề

thứ hai). Chúng ta biết rằng, nghệ thuật sáng tác của Lep Tônxtôi vốn mang tính trung lập trong mối

tương quan với chính trị (không phải tuyệt đối), cho nên nó không ảnh hưởng mấy đến sự tiếp thu của

người thuộc chế độ chính trị này hay người thuộc chế độ chính trị kia. Điều này đã lý giải cho sự tiếp

thu nghệ thuật tương đối giống nhau ở hai miền Nam, Bắc đối với nghệ thuật của Lep Tônxtôi. Từ đây

ta có thể lý giải tại sao nghệ thuật sáng tác của Lep Tônxtôi được miền Nam tiếp thu một cách chủ

động, tự nhiên và nghiêm túc như vậy.

Tiền đề xã hội thứ ba lại cho chúng ta tiếp cận những đặc điểm khác của tiến trình tiếp nhận Lep

Tônxtôi ở miền Nam trước đây. Như chúng ta đã biết, tình hình dịch thuật và xuất bản ồ ạt các tác

phẩm của Lep Tônxtôi vào những năm 60, 70 tương ứng với thời điểm các nhà xuất bản ở miền Nam

đang hoạt động theo cơ chế thị trường. Mục tiêu của họ không chỉ đơn thuần hướng đến mục tiêu

truyền bá tri thức mà còn vì mục tiêu lợi nhuận. Những tác phẩm của các nhà văn nổi tiếng thế giới lúc

này hứa hẹn nhiều độc giả và lẽ đương nhiên là các nhà xuất bản này sẽ tìm kiếm được nhiều khách

hàng. Bình Nguyên Lộc nói về thực trạng này như sau: “tôi rất tiếc là nhiều nhà xuất bản cứ in lại

những quyển sách dịch đã được in bán từ lâu, trong khi ta cần đọc tác phẩm mới. Họ thì họ nghĩ đến

việc bán chạy hay không. Họ là nhà thương mãi, họ nghĩ như vậy cũng chánh đáng…”[Phỏng vấn 10,

trang 2, 1973]. Chính điều này là một trong những nguyên nhân thúc đẩy việc dịch, xuất bản và tái bản

các danh tác của nền văn học thế giới. Song song đó, sự khó khăn trong kiểm duyệt các tác phẩm trong

nước (mang nội dung đả phá chế độ hoặc thân cộng) đã thúc đẩy các nhà xuất bản vốn làm ăn theo quy

luật thị trường tìm đến các danh tác văn học của thế giới trong đó có các danh tác của Lep Tônxtôi.

Đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến sự xuất hiện các tác phẩm lớn của Lep Tônxtôi.

Trên cơ sở những tiền đề xã hội, một số nhà nghiên cứu khi đề cập đến thực tế xuất bản các tác

phẩm văn học nước ngoài ở miền Nam trước đây cũng đã có những lý giải tương tự. Chẳng hạn, lý giải

về sự xuất hiện các sáng tác của các nhà văn tiến bộ, trong đó có sáng tác của Lep Tônxtôi, bên cạnh

các tác phẩm phản động ở miền Nam trước 1975, dưới góc độ chính trị - xã hội, tác giả Trần Hữu Tá

cho rằng đó là “thủ đoạn ném hoả mù của những tay cầm đầu guồng máy văn nghệ Sài Gòn, làm cho

người đọc lẫn lộn tốt xấu, không nhìn ra bản chất đích thực của cái kĩ nghệ văn chương cũng như thủ

đoạn đầu độc nhân dân của chúng” [52, 384]. Cũng nói về sự tác động của điều kiện chính trị - xã hội

đối với sự tiếp nhận và định hướng Tônxtôi, tác giả Trần Hữu Tá cho rằng: “Hãy xem họ (chính quyền

Sài Gòn) giới thiệu các nhà văn Nga và Đông Âu. Đề cao Lep Tôn-xtôi, họ dịch những truyện ngắn

hoàn toàn không tiêu biểu và không nhấn mạnh đến chủ nghĩa nhân đạo sâu sắc cũng như tinh thần

yêu nước nồng nhiệt của ông trong các kiệt tác “Sống Lại”, “Anna Karênina”, “Chiến tranh và hoà

bình”. Nghiên cứu Đôxtôiepxki, họ khoét sâu mặt tiêu cực của nhà văn và đề cao ông là “bậc tiền

phong của văn chương hiện đại phương Tây” là “nhà văn đã chú trọng đến cái sâu thẳm, tối tăm của

cảm xúc con người”. Đôxtôiepxki bị xuyên tạc!” [52]

Như vậy, những tiền đề xã hội đã tạo những điều kiện nhất định đến sự hình thành các khuynh

hướng tiếp nhận cũng như tạo nên những điều kiện để phổ biến và tiếp nhận tác phẩm của Lep Tônxtôi.

Trong trường hợp tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam, những tiền đề xã hội một mặt thúc đẩy sự du

nhập các tác phẩm của Lep Tônxtôi, một mặt đã tác động đến sự tiếp nhận tích cực và cả hạn chế các

tác phẩm của ông.

Tóm lại, tiếp cận những tiền đề xã hội miền Nam có thể cho chúng ta những nhận định cũng như

có cái nhìn sáng suốt hơn về quá trình tiếp nhận của độc giả miền Nam đối với các tác phẩm của Lep

Tônxtôi. Từ hướng tiếp cận này, chúng ta có thể có điều kiện tìm hiểu cụ thể hơn về các vấn đề tiếp

nhận một tác giả cụ thể (không chỉ riêng trường hợp Lep Tônxtôi) trong mối quan hệ với hoàn cảnh xã

hội, từ đó mà có cái nhìn toàn diện về tiến trình tiếp nhận một tác gia cụ thể.

3.3. Vấn đề đặc trưng đối tượng tiếp nhận trong tiếp nhận Lep Tônxtôi:

Trong các công trình nghiên cứu về tiếp nhận trước đây ở Việt Nam, đối tượng tiếp nhận chưa

được đề cập một cách đúng mức và đúng vai trò, đúng vị trí. Tình trạng đánh đồng các đối tượng tiếp

nhận trong nghiên cứu quá trình tiếp nhận các tác gia, tác phẩm khác nhau đã dẫn đến việc phủ nhận

một trong những quy luật khá quan trọng của lý luận tiếp nhận: đặc trưng của đối tượng tiếp nhận có

vai trò định hướng và quyết định quá trình tiếp nhận của độc giả. Người ta không thể nào chỉ ra một

cách đầy đủ quá trình tiếp nhận của độc giả, nguyên nhân và cách thức tiếp nhận của độc giả nếu như

không lưu ý đến đặc trưng của cái mà người đọc cần tiếp nhận. Nói đến quá trình tiếp nhận, ta không

chỉ nói đến việc người ta tiếp nhận như thế nào, kết quả tiếp nhận ra sao mà còn phải lý giải tại sao

người ta tiếp nhận như thế, lý giải cái gì đã chi phối quá trình tiếp nhận. Do đó, nghiên cứu quá trình

tiếp nhận thì công việc đầu tiên là phải khám phá ra những đặc trưng của đối tượng được tiếp nhận. Có

biết được đặc trưng của đối tượng tiếp nhận thì mới lý giải được những vấn đề có liên quan đến quá

trình tiếp nhận và kết quả tiếp nhận của độc giả một cách thấu đáo và đầy đủ.

Như vậy, nghiên cứu quá trình tiếp nhận không thể bỏ qua việc nghiên cứu đặc trưng của đối

tượng tiếp nhận. Nhưng vấn đề ở đây là tìm hiểu đặc trưng của đối tượng tiếp nhận là tìm hiểu đặc

trưng nào. Bất cứ sự vật, đối tượng nào cũng có những đặc trưng riêng. Đối tượng tiếp nhận cũng thế,

nó cũng có những đặc trưng riêng. Nhưng không phải bất cứ đặc trưng nào của nó cũng đều được nhà

nghiên cứu tiếp nhận quan tâm. Cái mà người nghiên cứu tiếp nhận cần quan tâm ở đối tượng tiếp nhận

là những đặc trưng của đối tượng tiếp nhận có ảnh hưởng và chi phối mạnh mẽ đến quá trình tiếp nhận

của người đọc. Chẳng hạn, một tác phẩm hoàn thiện, có tính nghệ thuật cao sẽ được tiếp nhận khác với

một tác phẩm có tính nghệ thuật thấp. Một tác phẩm viết cho thị hiếu thông thường của độc giả sẽ được

tiếp nhận khác với một tác phẩm nghệ thuật đích thực, do đó, tính nghệ thuật của một tác phẩm là một

đặc trưng cũng cần lưu ý trong nghiên cứu tiếp nhận... Rõ ràng ở đây, nhà nghiên cứu tiếp nhận cần

phải có một cái nhìn tinh ý để nhận ra những tính chất, đặc điểm, đặc trưng đặc biệt của đối tượng để lý

giải quá trình tiếp nhận chứ không phải là quan tâm đến tất cả những đặc điểm, đặc trưng của đối

tượng. Việc chọn lựa những đặc trưng của đối tượng tiếp nhận một cách phù hợp sẽ là một trong những

nhân tố quan trọng đầu tiên giúp cho nhà nghiên cứu tiếp nhận thành công.

Trong những vấn đề đã nêu, nghiên cứu đối tượng tiếp nhận cần thiết phải đặc biệt lưu ý đến

mối quan hệ: tác giả- tác phẩm- độc giả- thời gian. Tiếp cận phương diện này, chúng ta thấy nổi lên

một số vấn đề sau:

-Nếu thời gian tiếp nhận của độc giả diễn ra và phản hồi trong thời gian tác giả còn sống thì sự

tiếp nhận sẽ diễn ra theo chiều hướng tác động đến quá trình sáng tác của nhà văn đó và kết quả là

những tác phẩm xuất hiện sau của tác giả đó sẽ rất có khả năng mang dấu ấn của sự phản hồi tiếp nhận

từ phía độc giả.

-Nếu thời gian tiếp nhận của độc giả diễn ra sau khi tác giả của tác phẩm đã qua đời và tác phẩm

đã đủ uy tín nghệ thuật thì khi tiếp nhận, độc giả không quan tâm nhiều đến quá trình định hướng sáng

tác của tác giả đó mà chỉ tập trung vào sự thẩm định đơn thuần giá trị tác phẩm. Sự định hướng xuất

hiện từ quá trình tiếp nhận của độc giả đối với sáng tác nghệ thuật chỉ diễn ra đối với các nhà văn

đương thời và vị lai.

Hai vấn đề nêu trên đã chỉ ra một đặc điểm quan trọng trong quy luật tiếp nhận: đối với một nhà

văn, không phải bao giờ sự tiếp nhận của độc giả cũng thực hiện chức năng định hướng sáng tác cho

tác giả của nó. Sự định hướng từ quá trình tiếp nhận của độc giả chỉ xuất hiện trong một khoảng thời

gian tương đối ngắn: thời gian tác phẩm được tiếp nhận và được phản hồi khi nhà văn còn sống.

Nghiên cứu quá trình tiếp nhận các tác phẩm của Lep Tônxtôi ở miền Nam giai đoạn 1954-

1975 đương nhiên cũng không thể nào bỏ qua việc tiếp cận và nghiên cứu đặc trưng đối tượng tiếp

nhận là bản thân tác gia Lep Tônxtôi và các tác phẩm của ông. Vấn đề đặt ra ở đây là đặc trưng nào của

các tác phẩm của Tônxtôi và bản thân ông đã ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận của độc giả miền Nam

trước 1975. Qua khảo sát, chúng tôi thấy một số đặc trưng của tác phẩm Lep Tônxtôi (đối tượng tiếp

nhận) đã ảnh hưởng đến quá trình tiếp nhận của độc giả miền Nam như sau:

-Tác gia Lep Tônxtôi đã là một nhà văn tài năng, uy tín và nổi tiếng trước khi tên tuổi và các tác

phẩm của ông đến với độc giả miền Nam. Nói cách khác, yếu tố thời gian và tầm vóc, uy tín của nhà

văn là một đặc trưng cần lưu ý. Lep Tônxtôi nổi tiếng từ rất sớm và sinh thời đã là một nghệ sĩ đồng

thời cũng là một tư tưởng gia tiếng tăm vang dội khắp Châu Âu. Những bài viết của Bêlinxki, Ghecxen

đương thời và nhất là những bài viết của Lênin về vai trò và vị trí của Tônxtôi đối với cách mạng Nga,

cách mạng thế giới và văn học thế giới, cũng như những tiểu luận của Stefan Zweig đã khẳng định tầm

vóc khổng lồ của tác gia cổ điển này.

Với đặc trưng này của Lep Tônxtôi, chúng tôi cho rằng, độc giả miền Nam tiếp nhận Lep

Tônxtôi phải khác với những tên tuổi mới xuất hiện hoặc chưa nổi tiếng. Những sáng tác của ông đã

được thời gian khẳng định một cách chắc chắn do đó không có vấn đề đặt lại những câu hỏi đại loại

như: Tác phẩm của Lep Tônxtôi có tiếng vang và có giá trị nghệ thuật hay không? Tên tuổi của Lep

Tônxtôi đã được khẳng định chưa?... Cách mà độc giả miền Nam tiếp nhận Lep Tônxtôi có lẽ là sự tiếp

nhận theo chiều hướng học hỏi và chiêm ngưỡng hơn là đánh giá và thẩm định lại những sáng tác của

ông. Cụ thể:

Với uy tín và tiếng tăm của mình, Lep Tônxtôi sẽ được đón nhận một cách phóng khoáng trên

tinh thần ngưỡng mộ và nghiêm chỉnh. Giới phê bình, nghiên cứu sẽ quan tâm nhiều đến ông và đặt

ông ở một vị trí của một bậc tiền bối. Thái độ tiếp cận của họ sẽ rất dè dặt và những lời khen sẽ che

khuất những ý kiến phê phán. Độc giả bình dân khi tiếp cận tác phẩm của ông sẽ rất nghiêm túc trong

hoạt động đọc. Họ đọc tác phẩm của ông với một thái độ trân trọng và chú trọng đến việc thưởng thức,

tận hưởng những giá trị nghệ thuật đích thực hơn là đọc với mục đích gải trí thông thường.

Với tài năng của ông, giới phê bình sẽ rất quan tâm đến những đóng góp và ảnh hưởng của ông

đối với các nền văn học. Các nhà văn sẽ tìm đến tác phẩm của ông với khuynh hướng tiếp nhận nghệ

thuật sáng tác nhằm hoàn thiện “tay nghề” của mình.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần lưu ý rằng, uy tín, tiếng tăm và sự nổi tiếng của Lep Tônxtôi đôi

khi cũng là một nhân tố bị sử dụng cho mục đích chính trị. Điều này là một thực tế khi mà người ta sử

dụng danh tiếng như là một phương tiện để đề cao, nhấn mạnh những mặt tiêu cực và phê phán, xuyên

tạc những giá trị chân chính.

-Đặc trưng thứ hai của Lep Tônxtôi là cuộc đời và tiểu sử cũng như tính cách, nhân cách của

ông có sự “khác lạ” dẫn đến sự tò mò của độc giả, kích thích sự tìm hiểu của giới nghiên cứu và độc

giả. Chúng ta dễ dàng nhận ra điều này qua hàng loạt những bài giới thiệu, nghiên cứu về cuộc đời

“ngoại hạng” của Lep Tônxtôi. Nhân cách vĩ đại của Lep Tônxtôi cùng với tính cách khác người của

ông đã ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động tiếp nhận của độc giả miền Nam khi họ tôn sùng ông là một á

thánh.

-Đặc trưng thứ ba mà chúng ta cần lưu ý về đối tượng tiếp nhận là tác giả Tônxtôi là một tác gia

văn học và là một tư tưởng gia của nước Nga - một đất nước có nền văn học tiên tiến và to lớn trong

nền văn học thế giới đồng thời cũng là một nền văn học của chế độ đối nghịch với chế độ miền Nam

lúc bấy giờ. Việc tiếp nhận Lep Tônxtôi - ở một phương diện nào đó - chính là sự tiếp cận với diện mạo

và tinh hoa của nền văn học vĩ đại cũng như tiếp nhận những giá trị của một nền văn học thuộc về một

chế độ chính trị khác (dĩ nhiên Lep Tônxtôi xuất hiện trước chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô).

Đặc trưng này của Lep Tônxtôi đã quy định chiều hướng tiếp nhận của độc giả miền Nam theo

hướng tìm hiểu những tinh hoa của một nền văn học lớn đồng thời cũng khám phá những bí mật về một

sự thật sau “bức màn thép”. Người đọc sẽ tiếp nhận Lep Tônxtôi trong sự tương quan với các tác gia

của nền văn học phương Tây chứ không tiếp nhận “một chiều” như đối với các tác gia phương Tây.

-Đặc trưng thứ tư mà chúng ta cần lưu ý khi nghiên cứu lịch sử tiếp nhận Lep Tônxtôi là tầm

vóc to lớn của các tác phẩm của ông. Những tác phẩm được độc giả miền Nam tiếp nhận như Chiến

tranh và hoà bình, Anna Karênina, Phục sinh, Vùng đất hoang vu...là những tác phẩm đã được thẩm

định và được độc giả đánh giá là những tác phẩm xuất sắc của nền văn học Nga cũng như văn học thế

giới. Những tác phẩm này khi đến tay độc giả miền Nam thì nó đã là những tác phẩm đã vượt qua thời

gian thở thách trên dưới một thế kỉ và đã được xem là những tác phẩm kinh điển, mẫu mực của văn học

thế giới.

Với đặc trưng này, độc giả miền Nam chắc hẳn phải tiếp nhận những kiệt tác của Lep Tônxtôi

như là những tác phẩm kinh điển và vĩ đại của nền văn học thế giới. Xu hướng chiêm ngưỡng và

thưởng thức những giá trị nghệ thuật đích thực có lẽ trở thành xu hướng chính của độc giả miền Nam

dưới ảnh hưởng của đặc trưng này. Bên cạnh đó, những giá trị thật sự của các kiệt tác của Lep Tônxtôi

có lẽ sẽ giúp cho tầm đón nhận của độc giả miền Nam có sự điều chỉnh, đề kháng trước sự lấn át của

những ấn phẩm phản động, suy đồi lúc bấy giờ ở miền Nam.

-Đặc trưng thứ năm mà chúng ta cần lưu ý khi nghiên cứu vấn đề tiếp nhận Lep Tônxtôi là đặc

điểm thi pháp tác phẩm của Lep Tônxtôi. Có thể nói, trước khi đến miền Nam, những tiểu thuyết lớn

của Tônxtôi đều được đánh giá là những tiểu thuyết mang văn phong cổ điển. Tính “độc thoại” của các

tác phẩm này có cùng “tính chất” với các tác phẩm của Hồ Biểu Chánh, Lê Văn Trương và một số tác

phẩm của nhóm Tự Lực văn đoàn cũng như những tác phẩm của các nhà văn Pháp (như A.Dumas) mà

độc giả bình dân miền Nam rất yêu thích. Điều này có lẽ sẽ quy định về thành phần độc giả của Lep

Tônxtôi trên cơ sở hoà hợp về thị hiếu, tầm thẩm mỹ. Trong thực tế, do đặc trưng này của các tác phẩm

của Lep Tônxtôi mà số lượng độc giả của Lep Tônxtôi đông đúc hơn độc giả của Đôxtôiepxki cả về

thành phần lẫn số lượng, thị hiếu thẩm mỹ của độc giả của Lep Tônxtôi khác với thị hiếu thẩm mỹ của

độc giả của Đôxtôiepxki.

-Đặc trưng thứ sáu của đối tượng tiếp nhận còn là tính hợp thời của nội dung tư tưởng (không

phải tất cả tư tưởng) tác phẩm của Lep Tônxtôi với nhu cầu tinh thần của phần lớn độc giả miền Nam.

Đặc trưng này cùng với tất cả những đặc trưng vừa nêu đã góp phần thúc đẩy hoạt động dịch thuật, phổ

biến và tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam.

-Đặc trưng thứ bảy của đối tượng tiếp nhận ở đây là tính đa nghĩa và mâu thuẫn trong tư tưởng

nghệ thuật của các tác phẩm. Tác phẩm của Lep Tônxtôi vừa mang tư tưởng bất bạo động vừa thể hiện

tinh thần bạo động. Nói về điều này, Romain Rolland viết: “Cái gì ở Tolstoi cũng là bạo động, kể cả

thuyết bất bạo động của ông” [30, 22]. Lep Tônxtôi chủ trương bất bạo động, tuy nhiên tác phẩm của

ông lại mang tinh thần phê phán, tố cáo dữ dội đối với xã hội. Chính vì đặc điểm này mà tác phẩm của

Lep Tônxtôi đã tạo ra những lực lượng độc giả khác nhau về thị hiếu thẩm mỹ. Nếu như những người

cách mạng ở miền Bắc và miền Nam tìm thấy ở tác phẩm của ông tinh thần phản kháng, tinh thần cách

mạng thì ở miền Nam, người ta lại ca ngợi tư tưởng bất bạo động của Lep Tônxtôi. Ở đây, bản thân tác

phẩm của Lep Tônxtôi đã tiềm tàng những loại độc giả khác nhau về thị hiếu và điều kiện xã hội đã

góp phần thúc đẩy tạo ra hai loại độc giả như chúng ta đã biết.

-Đặc trưng thứ tám của đối tượng tiếp nhận mà chúng tôi muốn đề cập ở đây là sự hiện diện của

độ lệch nghệ thuật hiển nhiên do sự tiếp nhận được thực hiện không thông qua ngôn ngữ nghệ thuật

gốc. Như chúng ta đã biết, phần lớn những tác phẩm của Tônxtôi được tiếp nhận ở miền Nam là những

tác phẩm được chuyển dịch từ bản tiếng Pháp, tiếng Anh trong khi nguyên bản tác phẩm của Lep

Tônxtôi là tiếng Nga. Sự chuyển dịch của các tác phẩm từ tiếng Nga sang tiếng Anh hay Pháp, dù dịch

giả có nghiêm túc và tài năng đến mấy, thì cũng không thể nào chuyển tải nguyên vẹn nguyên tác. Sự

xuất hiện một độ lệch nghệ thuật là điều hiển nhiên của bất cứ bản dịch nào. Nguyễn Hiến Lê khi nói

về công việc dịch Chiến tranh và hoà bình cũng đã đề cập đến hiện tượng cùng một nguyên tác nhưng

có hàng chục bản dịch mà bản nào cũng khác xa nhau. Nói về một trong những bản dịch công phu: bản

dịch Chiến tranh và hoà bình của nhà xuất bản Văn Hoá, Hà Nội năm 1961, ông chú thích: “Chúng tôi

có cảm tưởng rằng họ chia nhau mỗi người dịch một phần, vì bản dịch không nhất trí: cùng một tiếng,

trên dịch khác, dưới dịch khác; và lời dịch có chỗ xuôi có chỗ trúc trắc” [66, 108]. Có thể nói, tiếp

nhận từ bản dịch sẽ có sự khác biệt nhất định so với việc tiếp nhận nguyên tác. Huống chi, có những tác

phẩm của Tônxtôi trong quá trình chuyển dịch lại được dịch rút gọn, cắt xén - chẳng hạn tác phẩm An-

na Kha-Lệ -Ninh do nhà sách Khai Trí xuất bản năm 1970. Về mặt lý thuyết, điều này làm xuất hiện

một độ lệch nghệ thuật là vấn đề không cần phải bàn cãi. Đặc trưng này của các tác phẩm dịch của Lep

Tônxtôi ở miền Nam đã quy định một phần khá lớn về chất lượng tiếp nhận của độc giả miền Nam đối

với các tác phẩm của Lev Tolstoi.

Những đặc trưng của Lep Tônxtôi vốn có ảnh hưởng rất lớn đến quá trình tiếp nhận của độc giả

miền Nam. Tuy nhiên, trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi chỉ quan tâm một số đặc trưng tiêu

biểu để hiểu rõ hơn sự chi phối của một số yếu tố đến tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi của độc giả miền

Nam.

3.4. Vấn đề kích thích hoạt động tiếp nhận trong tiếp nhận Lep Tônxtôi:

Nếu hoạt động tiếp nhận được định hướng mà không khơi gợi ở người đọc nhu cầu tiếp xúc tác

phẩm thì sự định hướng đó cũng không thể phát huy được tác dụng. Từ thực tế đó, chúng tôi nhận thấy

kích thích hoạt động tiếp nhận là một trong những hoạt động rất cần thiết cho quá trình tiếp nhận. Khi

tiếp cận hoạt động tiếp nhận của độc giả miền Nam trước 1975 đối với Lep Tônxtôi, chúng tôi nhận

thấy hoạt động kích hoạt tiếp nhận đã được quan tâm với nhiều biểu hiện đa dạng. Dưới đây chúng tôi

sẽ làm rõ một số một số vấn đề liên quan.

Như chúng ta đã biết, việc dịch và xuất bản, phát hành hàng loạt các ấn phẩm của các nhà văn

nước ngoài trong thời điểm trước 1975 ở miền Nam là một thực tế. Để tiêu thụ cũng như để thực hiện

mục tiêu đưa tác phẩm đến với người đọc, ngưòi ta đã hết sức quan tâm đến hoạt động kích thích hoạt

động tiếp nhận của người đọc. Tiếp xúc với các hoạt động tiếp nhận đặc biệt này, chúng ta có thể nhận

ra các cách thức kích hoạt sau:

+Sử dụng các bài giới thiệu trực tiếp trên ấn phẩm được phát hành. Đây là hình thức kích hoạt

phổ biến và hiệu quả của các nhà xuất bản, nhà sách. Hình thức này có ưu điểm là cung cấp cho người

đọc những thông tin liên quan đến tác phẩm, tác giả. Những bài giới thiệu của Nguyễn Hiến Lê trong

bộ Chiến tranh và hoà bình, các lời tựa của Nhà xuất bản Phù Sa trong Vùng đất hồi sinh, lời tựa trong

An na Kha Lệ Ninh... là những ví dụ tiêu biểu. Khi dịch Chiến tranh và hoà bình, Nguyễn Hiến Lê đã

cung cấp cho người đọc hàng loạt những thông tin về cuộc đời và sự nghiệp của Lep Tônxtôi, về các

tác phẩm của ông và nhất là về nội dung và nghệ thuật kiệt tác Chiến tranh và hoà bình. Chúng ta có

thể xem hình thức kích hoạt tiếp nhận này là một trong những hình thức kích hoạt mà chúng ta cần phải

học hỏi để tác phẩm đến với người đọc một cách tốt nhất. Thực tế hiện nay cho thấy, tác phẩm được

xuất bản thường không có lời giới thiệu, không có những thông tin về tác phẩm cũng như không có

thông tin nào về tầm vóc, vị trí, tiểu sử... của tác giả. Điều này làm người đọc không sao xác định được

những thông tin liên quan đến việc chọn lựa tác phẩm cho phù hợp với nhu cầu và thị hiếu của mình.

+Sử dụng các bài giới thiệu trên các báo, tạp chí có nội dung giới thiệu những tác phẩm đã và

sắp được xuất bản. Bài viết Vài cảm nghĩ xuôi dòng của Trần Phong Giao là một ví dụ. Hình thức kích

hoạt tiếp nhận này giống với các bài giới thiệu sách hiện nay trên các báo.

+Giới thiệu những ấn phẩm đã và sắp được xuất bản trên các ấn phẩm đang phát hành. Đây là

một hình thức kích hoạt tiếp nhận mà ngôn ngữ thường được sử dụng là ngôn ngữ mang nặng tính

quảng cáo.

+Giới thiệu hàng loạt những tác phẩm của Lep Tônxtôi theo chuyên đề trên một báo hoặc nhiều

báo khác nhau. Chúng ta có thể xem Văn số 128, 1969 chuyên đề Lep Tônxtôi cũng như nhiều bài viết

về Lep Tônxtôi xuất hiện trong năm này là một ví dụ.

Đi sâu vào nội dung và ngôn ngữ của các bài giới thiệu, chúng ta thấy họ sử dụng những cách

thức sau:

+Đánh vào trí tò mò của độc giả. Lep Tônxtôi được họ giới thiệu như là đại diện lớn của nền

văn học “cổ điển” thế giới và là tiền nhân của nền văn học Xô viết. Có lẽ vì thế mà người đọc tìm kiếm

ở ông những cái mà mình cần biết.

+Đánh vào sở thích triết học và tư tưởng thời thượng đương thời. Đặt tư tưởng Lep Tônxtôi

trong sự đối chiếu với những học thuyết, tư tưởng đương thời (thuyết hiện sinh, thuyết bất bạo động)

như là một cách để người đọc tìm đến tác phẩm của Lep Tônxtôi.

+Khơi gợi độc giả bằng những câu chuyện đời tư hấp dẫn của Lep Tônxtôi. Cuộc đời Lep

Tônxtôi với những sự kiện, biến cố và hành động li kì, hấp dẫn được nhấn mạnh và phân tích kĩ lưỡng

như một cách đánh vào lòng ham khám phá và tính hiếu kì của độc giả.

+Khẳng định nhiều lần về tầm vóc, vị trí, sự nổi tiếng của nhà văn cũng như tầm vóc, giá trị của

tác phẩm. Sự nổi tiếng cũng như tầm vóc, ảnh hưởng của Lep Tônxtôi và các tác phẩm của ông được

nhấn mạnh nhiều lần như một cách để buộc độc giả phải biết đến ông.

+Đặt Lep Tônxtôi bên cạnh và so sánh ông với các nhà văn nổi tiếng khác. So sánh Lep Tônxtôi

với Đôxtôiepxki như là một cách để độc giả của Lep Tônxtôi phải biết đến Đôxtôiepxki và độc giả của

Đôxtôiepxki phải biết đến Lep Tônxtôi.

+Sử dụng thứ ngôn ngữ phù hợp. Tuỳ theo từng đối tượng và mục đích tiếp nhận mà người ta sử

dụng những phong cách ngôn ngữ khác nhau. Chẳng hạn, Nguyễn Hiến Lê sử dụng thứ bút pháp tự

nhiên, thành thực, bình dị để phục vụ thị hiếu và tầm văn hoá của người đọc. Ông viết: “vấn đề là diễn

được đúng những cái chúng ta muốn diễn đạt và gây được trong lòng độc giả những cảm xúc như

chính ta cảm xúc” [33, 483]. Dùng thứ ngôn ngữ giản dị để người đọc dễ đọc, dễ hiểu, đó là một cách

để mọi thành phần độc giả có thể tiếp cận và tiêu hoá.

Như vậy, tiếp cận vấn đề này, chúng ta nhận thấy hoạt động kích hoạt tiếp nhận của các nhà xuất

bản, nhà sách, độc giả định hướng đối với người đọc miền Nam trước 1975 diễn ra khá mạnh mẽ với

nhiều hình thức, cách thức đa dạng, phong phú. Điều này thể hiện một thực tế là giới phát hành, các

học giả rất quan tâm đối với sự tiếp nhận của người đọc. Đặc biệt, hình thức sử dụng các bài giới thiệu

về tác giả và tác phẩm bằng một thứ ngôn ngữ bình dân, dễ hiểu đi kèm với ấn phẩm phát hành là một

trong những hình thức kích thích hoạt động tiếp nhận mang nhiều ý nghĩa mà chúng ta cần phải tiếp

nhận và học hỏi.

Bên cạnh những vấn đề vừa đề cập, chúng ta cũng nên lưu ý đến sự kích hoạt tiếp nhận tiêu

dùng bình thường vì mục đích kinh tế và kích hoạt tiếp nhận vì mục tiêu nghệ thuật, truyền bá tri thức,

nâng cao tầm đón nhận cho độc giả. Phân biệt được sự khác nhau giữa hai loại kích hoạt tiếp nhận này

sẽ giúp chúng ta trong việc xác định phương hướng hoạt động kích hoạt tiếp nhận hiện nay.

KẾT LUẬN

Đến với đề tài tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975, trong luận

văn này chúng tôi đi vào tiếp cận những vấn đề như: vấn đề dịch thuật, xuất bản và vấn đề nghiên cứu,

giới thiệu Lep Tônxtôi; một số vấn đề khác có liên quan đến quá trình tiếp nhận Lep Tônxtôi như vấn

đề độc giả của Lep Tônxtôi, vấn đề tiền đề xã hội, vấn đề đặc trưng đối tượng tiếp nhận và vấn đề kích

thích hoạt động tiếp nhận Lep Tônxtôi. Trên cơ sở tiếp cận những vấn đề trên, chúng tôi rút ra một số

kết luận sau:

1. Lep Tônxtôi là một hiện tượng lớn của nền văn học thế giới và có ảnh hưởng lớn lao đến các

nền văn học trên thế giới. Cuộc đời của ông hàm chứa nhiều ý nghĩa đối với người đọc và những tác

phẩm của ông chứa đựng những nội dung tư tưởng mang tính đa trị, đa nghĩa, nghệ thuật trong đó được

xem là hết sức điêu luyện và mới mẻ rất cần để được khám phá, chiêm ngưỡng, thưởng thức và học hỏi.

Vì vậy, việc tìm hiểu, nghiên cứu và khám phá sự tiếp nhận của các thế hệ độc giả đối với Lep Tônxtôi

là việc làm rất cần thiết.

2. Trên cơ sở tính đa trị, đa nghĩa trong các tác phẩm của Lep Tônxtôi, quá trình tiếp nhận Lep

Tônxtôi chịu sự chi phối mạnh mẽ bởi yếu tố xã hội. Xã hội miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975

với những điều kiện kinh tế-chính trị-văn hoá đặc biệt đã ảnh hưởng và tác động rất lớn tiến trình tiếp

nhận Lep Tônxtôi. Tìm hiểu sự tiếp nhận của độc giả đối với Lep Tônxtôi cũng như sự tác động qua lại

giữa tác phẩm và độc giả trong môi trường xã hội miền Nam lúc này sẽ là một việc làm rất cần thiết

trong việc nhận diện diện mạo tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam nói riêng, ở Việt Nam và

thế giới nói chung.

3. Khảo sát tình hình dịch thuật và xuất bản Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-

1975, chúng tôi nhận thấy những tác phẩm của ông và nhất là những tác phẩm tiêu biểu đã có một vị trí

đáng kể bên cạnh nhiều tác phẩm của các nhà văn lớn của Nga và thế giới. Lực lượng tham gia vào

việc dịch và xuất bản tác phẩm của ông cũng hết sức hùng hậu. Điều này cho thấy Lep Tônxtôi được

độc giả miền Nam đặc biệt quan tâm. Lý giải thực tế tiếp nhận này, chúng tôi nhận ra sự tác động tích

cực từ nhiều phía, trong đó sự phù hợp của bản thân tác phẩm của Lep Tônxtôi (nội dung, nghệ thuật…)

với những đòi hỏi của xã hội là một trong những nguyên nhân quan trọng nhất.

4. Tiếp cận vấn đề độc giả của Lep Tônxtôi, chúng tôi nhận ra nhiều đặc điểm về các loại độc

giả của Lep Tônxtôi. Về sự hình thành độc giả của Lep Tônxtôi trong giai đoạn ban đầu, chúng tôi

nhận thấy có những nhân tố thuận lợi cho việc tiếp nhận Lep Tônxtôi. Điều đó có thể lý giải cho sự

xuất hiện hàng loạt những sáng tác của Lep Tônxtôi trong một thời gian ngắn.

Tiếp cận vấn đề độc giả, chúng tôi còn nhận ra những đặc điểm của một số loại độc giả tiêu biểu

của Lep Tônxtôi. Sự hiểu biết này giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về các yếu tố chi phối tiếp nhận cũng như

về tiến trình tiếp nhận Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975.

Cũng trên tinh thần tiếp nhận này, chúng tôi còn nhận ra sự chi phối mạnh mẽ của những nhân

tố như văn hoá, chính trị, tư tưởng, xã hội đến sự hình thành các thành phần độc giả của Lep Tônxtôi.

Các thành phần độc giả này không thuần nhất mà đan xen lẫn nhau tạo nên sự phong phú trong tiếp

nhận.

Thực tế tiếp cận này còn đặt ra vấn đề mang tính cấp thiết: cần xây dựng những lực lượng độc

giả mang tính định hướng theo khuynh hướng tiến bộ nhằm điều chỉnh, cân bằng, thậm chí đề kháng

với các lực lượng độc giả còn hạn chế nhằm vừa đảm bảo được sự nâng cao tầm đón nhận cho đa số

độc giả vừa đảm bảo sự phong phú, đa dạng trong tiếp nhận.

5. Khảo sát tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi ở miền Nam Việt Nam giai đoạn 1954-1975 cho

thấy, ở miền Nam vào lúc này chưa có những chuyên gia, nhà nghiên cứu “đích thực” về Lep Tônxtôi.

Việc giới thiệu và tìm hiểu Lep Tônxtôi chỉ do một số học giả không chuyên, một số dịch giả và một số

nhà xuất bản đảm nhiệm. Điều này cho thấy trong giai đoạn tiếp xúc tương đối ngắn ngủi, Lep Tônxtôi

chủ yếu đến với độc giả thông qua tác phẩm và qua những bài giới thiệu có tính chất cung cấp thông tin

khái quát.

Khảo sát tình hình nghiên cứu Lep Tônxtôi, chúng tôi nhận ra qua các bài viết một số khuynh

hướng tiếp nhận Lep Tônxtôi rất đặc biệt. Khuynh hướng này, một cách tương đối, mang tính trung lập

hoặc đối lập với những khuynh hướng tiếp nhận ở miền Bắc Vệt Nam cùng thời. Tư tưởng tác phẩm

được phần lớn độc giả miền Nam tiếp nhận lúc này là những tư tưởng được Lep Tônxtôi phát biểu trực

tiếp hoặc thông qua giải pháp mà ông đặt ra trong tác phẩm chứ không phải là toát ra từ toàn bộ tác

phẩm. Nói cách khác, miền Nam chỉ tiếp nhận một phương diện, một mặt trong sáng tác của Lep

Tônxtôi, họ chỉ tiếp nhận cách giải quyết vấn đề đặt ra trong tác phẩm chứ không tiếp nhận vấn đề đặt

ra trong đó hoặc tiếp nhận toàn bộ tư tưởng của tác phẩm. Điều này cho thấy khuynh hướng tiếp nhận

của phần lớn độc giả miền Nam chịu ảnh hưởng lớn từ hoàn cảnh xã hội, nhất là từ những khuynh

hướng triết học, tôn giáo lúc bấy giờ.

6. Tiếp cận vấn đề sự ảnh hưởng của đặc trưng đối tượng (Lep Tônxtôi và các tác phẩm của ông)

đến sự tiếp nhận của độc giả miền Nam, chúng tôi cho rằng một trong những nguyên tắc để tiếp cận

quá trình tiếp nhận là quan tâm đến sự tác động của đặc trưng đối tượng tiếp nhận đến chủ thể tiếp nhận.

Thực tế tiếp nhận của độc giả miền Nam trước 1975 đối với Lep Tônxtôi cho thấy, sự tiếp nhận của

độc giả miền Nam chịu sự tác động rất lớn từ đặc điểm của đối tượng tiếp nhận là Lep Tônxtôi và các

tác phẩm của ông. Điều này đặt ra vấn đề tiếp cận đối tượng tiếp nhận như thế nào trong quá trình

nghiên cứu tiếp nhận cũng như trong quá trình phổ biến tác phẩm đến với người đọc.

7. Tiếp cận vấn đề kích hoạt tiếp nhận trong tiếp nhận Lep Tônxtôi, chúng tôi cho rằng một

trong những vấn đề để phát triển hoạt động tiếp nhận của độc giả là cần có sự quan tâm của các nhà

xuất bản, những người làm văn hoá, đến quá trình tiếp nhận của người đọc. Thực tế tiếp nhận Lep

Tônxtôi cho thấy, trước 1975, người ta rất quan tâm đến người đọc, quan tâm đến cách làm thế nào để

người đọc tiếp cận và đến với nhà văn và tác phẩm. Để tác phẩm đến với người đọc, để người đọc biết

đến và có mong muốn khám phá tác phẩm, người ta sử dụng nhiều cách thức để cung cấp những thông

tin cần thiết cũng như những thông tin kích thích sự khám phá của người đọc. Những bài giới thiệu đó

có thể có vấn đề về nội dung định hướng như chưa mang tính chuyên môn cao, chưa phục vụ cho

nghiên cứu chuyên sâu, nhưng xét về phương diện kích thích người đọc tìm đến tác phẩm thì đây cũng

là một kinh nghiệm cần lưu ý trong hoạt động văn hoá, văn học.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. M. Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ văn hoá thông tin và thể thao - Trường

viết văn Nguyễn Du, Hà Nội

2. M. Bakhtin (1993), Những vấn đề thi pháp Dostoievski, NXB Giáo dục, Hà Nội.

3. I. Bochenski, (1969) Triết học Tây phương hiện đại, Ca dao xuất bản.

4. Dorothy Brewster, John Angus Burrell (2003), Tiểu thuyết hiện đại, Dương Thanh Bình dịch,

NXB Lao động, Hà Nội.

5. Thu Oanh Nguyễn Duy Cần (1971), Văn hoá giáo dục miền Nam Việt Nam đi về đâu?, NXB

Nam Hà, Sài Gòn.

6. Đỗ Hồng Chung và những người khác (1997), Lịch sử văn học Nga, NXB Giáo dục, Hà Nội.

7. Phạm Vĩnh Cư (1982), “Lời giới thiệu”, Tội ác và hình phạt, NXB Văn học, Hà Nội.

8. Trương Đình Cử (1972), “Lời nói đầu”, Tội ác và hình phạt, NXB Khai Trí, Sài Gòn.

9. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học – lý luận và ứng dụng, NXB Giáo dục, Hà Nội.

10. Nguyễn Văn Dân (1991), Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận, Viện thông tin KHXH..

11. Trần Trọng Đăng Đàn (1991), Văn học thực dân mới Mỹ ở miền Nam những năm 1954 – 1975,

NXB Sự thật, Hà Nội.

12. Trần Độ và các tác giả khác (1979), Văn hoá văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ-Nguỵ, tập 2,

NXB Văn hoá.

13. Trần Phong Giao (1969), Vài cảm nghĩ xuôi dòng, Văn 128.

14. Nguyễn Hải Hà (1992), Thi pháp tiểu thuyết L.Tolstoi, NXB Giáo dục, Hà Nội.

15. Nguyễn Văn Hạnh (1971), “Ý kiến của Lê nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống”, Tạp

chí Văn học, số 4, Hà Nội.

16. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1998), Lý luận văn học - vấn đề và suy nghĩ, NXB

Giáo dục.

17. Lê Văn Hảo (1969), “Thực trạng KHXH vùng đô thị miền Nam”, Nghiên cứu lịch sử (6), Sài

Gòn.

18. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

19. Nguyễn Hữu Hiệu (1972), “Dostoievski”, Anh em nhà Karamazov, Nguồn Sáng, Sài Gòn.

20. Lưu Hiệp (1996), “Văn tâm điêu long” – Phan Ngọc dịch và giới thiệu, Văn học nước ngoài (3),

Hội Nhà văn Việt Nam, Hà Nội.

21. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, NXB Giáo dục.

22. Waiter Kaufmann (1967), Nghệ thuật truyền thống và chân lý, Ca dao xuất bản.

23. Phan Công Khanh, “Lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều”, Luận văn tiến sĩ, ĐHSP TPHCM.

24. Khrapchenko (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, NXB Tác

phẩm mới, Hà Nội.

25. Khrapchenko (1984), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người (2 tập), NXB KHXH, Hà Nội.

26. Lê Đình Kỵ (1987), Nhìn lại tư tưởng văn nghệ thời Mỹ nguỵ, NXB TPHồ Chí Minh.

27. Nguyễn Hiến Lê (1960), “Dostoievski một con người suốt đời chịu khổ để viết”, Bách khoa

(82,83), Sài Gòn.

28. Nguyễn Hiến Lê (1990), Gương thành công, NXB Tổng hợp Đồng Nai.

29. Nguyễn Hiến Lê (1969), “Lời cảm ơn gởi nhà xuất bản”, Văn (128).

30. Nguyễn Hiến Lê (1959), “Léon Tolstoi- một Á Thánh”, Bách Khoa (48).

31. Nguyễn Hiến Lê (1968), “Dịch văn ngoại quốc”, “Sự thuần khiết trong ngôn ngữ”, Bách Khoa

(281, 282).

32. Nguyễn Hiến Lê (1969), “Chiến tranh và hoà bình”, Bách Khoa (288).

33. Nguyễn Hiến Lê (2001), Hồi ký Nguyễn Hiến Lê, NXB Văn nghệ TPHCM.

34. Nguyễn Hiến Lê (2001), Để tôi đọc lại, NXB Văn học.

35. Nhất Linh (1960), “Viết và đọc tiểu thuyết”, Văn hoá Ngày nay (3), Sài Gòn.

36. Cao Việt Linh, (1972) “Đốt lửa và lên tiếng”, Vượt thoát, Nhà in Đuốc miền Tây.

37. Phương Lựu chủ biên (1986-1988), Lý luận văn học, NXB Giáo dục, Hà Nội.

38. Phương Lựu (2001), Lí luận phê bình văn học phương Tây thế kỉ XX, NXB Văn học.

39. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, NXB Giáo dục,

Hà Nội.

40. K.Marx, F.Engels, Lênin (1977), Về văn học và nghệ thuật, NXB Sự thật, Hà Nội.

41. Maufret Nauman (1987), “Song đề của lý luận tiếp nhận”, Tạp chí Văn học (4), Hà Nội.

42. Trần Thị Quỳnh Nga (2001), “L. Tolstoi tại các đô thị miền Nam giai đoạn trước 1975”, Khoa

Ngữ Văn một phần tư thế kỷ, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TPHCM.

43. Đỗ Hồng Ngọc, “Ông Nguyễn Hiến Lê và tôi”, Bách Khoa (436).

44. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, NXB KHXH, TPHồ Chí Minh.

45. Võ Phiến (1961), “Nhân vật tiểu thuyết”, Văn nghệ, số 1.

46. Phạm Thị Phương (1995), “Thống kê đầu sách dịch và bài viết về văn học Nga tại miền Nam

Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975” - Phần phụ lục luận văn Cao học Ngữ Văn Văn học Nga tại

thành thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TPHCM.

47. Phạm Thị Phương (1995), “Văn học Nga tại thành thị miền Nam giai đoạn 1954 – 1975”, Luận

văn Cao học, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TPHCM.

48. Phạm Thị Phương(1996), “Những cơ sở cho việc tiếp nhận Dostoievski ở miền Nam Việt Nam

trước 1975”, Kỷ yếu Hai mươi năm một chặng đường nghiên cứu, Khoa Ngữ Văn, ĐHSP

TPHCM.

49. Phạm Thị Phương(1998), “Văn học Nga tại thành thị miền Nam giai đoạn 1954-1975”, Kỷ yếu

khoa học 1998, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TPHCM.

50. Phạm Thị Phương(1999), “Những tiếp xúc đầu tiên với Dostoievski của độc giả Sài Gòn”, Kỷ

yếu khoa học 1999, Khoa Ngữ Văn ĐHSP TPHCM.

51. Phạm Thị Phương (2002), “Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam”, Luận văn tiến sĩ, Viện

KHXH TPHCM.

52. Thạch Phương, Trần Hữu Tá chủ biên (1977), Văn hoá, văn nghệ miền Nam dưới chế độ Mỹ -

nguỵ, NXB Văn hoá, Hà Nội.

53. G.Pospelov chủ biên (1985), Dẫn luận nghiên cứu văn học (2 tập) NXB Giáo dục, Hà Nội.

54. Trần Đình Sử (1991), “Mấy vấn đề tiếp nhận văn học”, Cái mới trong KHXH (11).

55. Phạm Văn Sỹ (1986), Về tư tưởng và văn học phương Tây hiện đại, NXB ĐH & THCN, Hà Nội.

56. Phạm Văn Sỹ (1975), Văn học giải phóng miền Nam 1954 – 1975, Hà Nội.

57. Doãn Quốc Sỹ (1973), “Văn học Nga và tiểu thuyết”, Sáng tạo, Sài Gòn.

58. Tràng Thiên (1963), “Một đề tài của Tolstoi: Cái chết”, Bách Khoa, số 163.

59. Tràng Thiên (1963), “Tiểu thuyết hiện đại”, Thời mới, Sài Gòn.

60. Phạm Công Thiện (1970), Ý thức mới trong văn nghệ và triết học, NXB Lá Bối, Sài Gòn.

61. Thuý Toàn (1999), Không phải của riêng ai, NXB Văn học.

62. Lep Tônxtôi (1958), Tình nghĩa vợ chồng, Bảo Sơn dịch, in lần thứ hai, NXB Phượng Giang,

Sài Gòn.

63. Lep Tônxtôi (1961), Tình nghĩa vợ chồng, Bảo Sơn dịch, NXB Đời Nay, Sài Gòn.

64. Lep Tônxtôi (1961), Một bản đàn, Bảo Sơn dịch, NXB Đời Nay, Sài Gòn.

65. Lep Tônxtôi (1973), Khúc nhạc mê ly, Trần Văn Điền dịch, NXB Đất Sống, Lá Bối, Sài Gòn.

66. Lep Tônxtôi (1969), Chiến tranh và hòa bình, Nguyễn Hiến Lê dịch, NXB Lá Bối.

67. Lep Tônxtôi (1969), Chiến tranh và hoà bình, Nguyễn Đan Tâm phỏng dịch và rút ngắn, NXB

Miền Nam.

68. Lep Tônxtôi (1971, 1972, 1973), Đời tôi, Vũ Minh Thiều dịch, NXB Khai Trí, Sài Gòn.

69. Lep Tônxtôi (1973), Anna Karenina, Mạc Thế Phong dịch, NXB Đất sống, Sài Gòn.

70. Lep Tônxtôi (1973), Vùng đất hoang vu, Mạc Đỗ dịch, NXB Đất Sống, Sài Gòn.

71. Lep Tônxtôi (1973), Vùng đất hồi sinh, Nguyễn Đan Tâm, Vũ Minh Thư dịch, NXB Phù Sa,

Sài Gòn.

72. Lep Tônxtôi (1973, 1974), Tình trong chiến hào, Hoàng Hải Thuỳ dịch Tử thần chờ đợi, NXB

Đất Mới, Sài Gòn.

73. Lep Tônxtôi (1974) Cái chết của Ivan Ilich, in trong Tập truyện ngắn nước ngoài, Xuân Hoàng

dịch, NXB Tự Lực, Sài Gòn.

74. Lep Tônxtôi, Một lần trong đời, in trong tập truyện ngắn nước ngoài Mãi mãi yêu người, Võ

Đình Lân tuyển dịch.

75. Lep Tônxtôi (1958-1959), “Một bản đàn”, Văn hoá ngày nay, số 1,2,3,4,5,6,7,10,11.

76. Lep Tônxtôi (1958), “Mối tình chớm nở”, Văn hóa ngày nay (8).

77. Lep Tônxtôi (1959), “Cái chết của An-đễ”, Văn hoá ngày nay (8).

78. Lep Tônxtôi (1959), “Tâm trạng của một thương binh”, Văn hoá ngày nay ( 8.)

79. Lep Tônxtôi (1959), “Buổi dạ hội đầu tiên”, Tân phong, Tập 1.

80. Lep Tônxtôi (1964), “Số đất cần cho con người”, Nguyễn Vạng Hộ dịch, Bách Khoa, số 172.

81. Lep Tônxtôi (1967), “Ba người thánh thiện”, Nguyễn Kim Phượng dịch, Bách Khoa, số 240.

82. Lep Tônxtôi (1969), “Ba cái chết”, “Các cô bé khôn hơn người lớn”, “Người ta sống bởi gì?”,

“Cái xấu cám dỗ, nhưng cái tốt tồn tại”, “Việc làm, sự chết và bệnh tật”, “Thiện ác đáo đầu”,

Nguyễn Kim Phượng và Lạc Nhân dịch, Văn, số 128.

83. Lep Tônxtôi (1970), An-na Kha-Lệ-Ninh, Nhà sách Khai Trí, Sài Gòn.

84. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận và văn học, NXB Trẻ, TPHCM.

85. Hoàng Trinh (1980), “Văn học so sánh và vấn đề tiếp nhận văn học, Tạp chí Văn học (4), Hà

Nội.

86. Hoàng Trinh (1986), “Giao tiếp trong văn học”, Tạp chí Văn học (số 4), Hà Nội.

87. Lý Chánh Trung (1960), Cách mạng và đạo đức, Nxb Nam Sơn, Sài Gòn

88. Lưu Đức Trung chủ biên (2003), Chân dung các nhà văn thế giới, tập 3, NXB Giáo dục, Nà Nội.

89. Nguyễn Văn Trung (1964), Nhận đinh II, Nam Sơn xuất bản.

90. Hoàng Vũ Đức Vân (1964), Leon Tolstoi trong tác phẩm Chiến tranh và hoà bình, Văn học (22)

91. Huỳnh Vân (1990), “Quan hệ văn học - hiện thực với vấn đề tiếp nhận, tác động và giao tiếp

thẩm mỹ”, Văn học và hiện thực, NXB KHXH.

92. Huỳnh Vân (1990), “Nhà văn - bạn đọc và hàng hoá sách hay văn học và sự dị trị”, Tạp chí Văn

học (6), Hà Nội.

93. Đào Văn Vỹ (1960), “Quan niệm về con người qua các giai phẩm của thời đại”, Quê hương

(18), Sài Gòn.

94. Zweig (1996), Ba bậc thầy: Dostoievski, Banzac, Dikens, NXB Giáo dục, Hà Hội.