BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Thanh Duy
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN TRUYỆN KIỀU
TRÊN THẾ GIỚI
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Lê Thanh Duy
VẤN ĐỀ TIẾP NHẬN TRUYỆN KIỀU
TRÊN THẾ GIỚI
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam
Mã ngành
: 8220121
LUẬN VĂN THẠC SĨ
NGÔN NGỮ, VĂN HỌC VÀ VĂN HÓA VIỆT NAM
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. LÊ THU YẾN
Thành phố Hồ Chí Minh – 2019
LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan những luận điểm được trình bày trong Luận văn này là kết
quả của quá trình học tập và nghiên cứu của tôi. Tôi xin hoàn toàn chịu trách
nhiệm về những luận điểm khoa học mà tôi nêu ra trong Luận văn này.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 03 năm 2019
Người thực hiện
Lê Thanh Duy
LỜI CẢM ƠN
Luận văn này là kết quả sau thời gian học tập và nghiên cứu của tôi tại
khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí Minh. Để hoàn
thành luận văn này, cho phép tôi được gửi lời cảm ơn chân thành và sâu sắc đến
Phòng Sau đại học, các thầy cô giáo trong khoa Ngữ văn đã giúp đỡ tôi trong
suốt quá trình học tập và nghiên cứu tại trường. Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết
ơn sâu sắc đến cô – PGS.TS. Lê Thu Yến, người đã hết lòng giúp đỡ, động viên
và hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 29 tháng 03 năm 2019
Người thực hiện
Lê Thanh Duy
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Lời cảm ơn
Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIẾP NHẬN VĂN HỌC
VÀ NGUYỄN DU – TRUYỆN KIỀU ..................................... 8
1.1. Khái lược về lí thuyết tiếp nhận văn học ................................................. 8
1.1.1. Sự ra đời của lý thuyết tiếp nhận văn học ......................................... 8
1.1.2. Những quan điểm về tiếp nhận văn học trên thế giới ..................... 15
1.1.3. Những đặc trưng của tiếp nhận văn học .......................................... 18
1.1.4. Tình hình nghiên cứu tiếp nhận văn học ở Việt Nam ..................... 20
1.2. Về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều .................................. 26
1.2.1. Đôi nét về tác giả Nguyễn Du ......................................................... 26
1.2.2. Về tác phẩm Truyện Kiều ................................................................ 35
1.3. Khái quát tình hình tiếp nhận Truyện Kiều trên thế giới ....................... 37
Tiểu kết Chương 1 ......................................................................................... 40
Chương 2. TRUYỆN KIỀU TRONG SỰ TIẾP NHẬN CỦA CÁC
NHÀ NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH Ở CHÂU Á................. 41
2.1. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở khu vực Đông Bắc Á ......................... 41
2.1.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Trung Quốc ................................................................... 41
2.1.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Đài Loan ....................................................................... 70
2.1.3. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Nhật Bản ....................................................................... 74
2.1.4. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Hàn Quốc ...................................................................... 80
2.2. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở Đông Nam Á ..................................... 83
Tiểu kết Chương 2 ......................................................................................... 85
Chương 3. TRUYỆN KIỀU TRONG SỰ TIẾP NHẬN CỦA CÁC
NHÀ NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH Ở CHÂU ÂU,
CHÂU MỸ VÀ CHÂU ÚC ....................................................... 86
3.1. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Âu ............................................. 86
3.1.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở khu vực Tây Âu ............................................................ 86
3.1.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở khu vực Đông Âu ......................................................... 98
3.2. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Mỹ ........................................... 106
3.2.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Mỹ ............................................................................... 106
3.2.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Cuba ............................................................................ 111
3.3. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Úc ........................................... 112
Tiểu kết Chương 3 ....................................................................................... 115
KẾT LUẬN ................................................................................................... 117
TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................................... 121
PHỤ LỤC
1
MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Vấn đề tiếp nhận văn học đã và đang nhận được nhiều sự quan tâm, chú ý
của nhiều nhà nghiên cứu trên thế giới trong thời gian gần đây. Theo đó việc
khẳng định vai trò của người đọc trong việc đề xuất các kiến giải nghĩa cho tác
phẩm đã trở thành một luận điểm được đề cao và nhấn mạnh. Sáng tác và tiếp
nhận là hai vấn đề có mối quan hệ chặt chẽ trong đời sống văn học. Nếu không
có sáng tác sẽ không có đối tượng của tiếp nhận, và ngược lại, nếu một tác
phẩm không thu hút được nhiều sự tiếp nhận thì chứng tỏ tác phẩm không đủ
sức hấp dẫn dài lâu. Khi mới xuất hiện, nghiên cứu tiếp nhận đã gây nên làn
sóng tranh cãi dữ dội; tuy nhiên cho đến nay hướng nghiên cứu này đã dần
khẳng định vị trí và vai trò của mình. Và ở Việt Nam, trong những năm gần
đây, các nhà nghiên cứu đã dần bắt kịp được xu thế nghiên cứu ấy. Những nhà
lí luận văn học như Hoàng Trinh, Nguyễn Văn Hạnh, Mai Quốc Liên, Trần
Đình Sử, Phương Lựu, Nguyễn Văn Dân, Huỳnh Văn Vân, Nguyễn Lai,
Nguyễn Thanh Hùng, Huỳnh Như Phương, hay gần đây là Hoàng Phong
Tuấn,...đã mang lí thuyết tiếp nhận của thế giới về Việt Nam, đề cập đến tầm
quan trọng của việc nghiên cứu tiếp nhận văn học, mối quan hệ giữa sáng tác và
tiếp nhận, giữa tác phẩm và người đọc, vai trò của tiếp nhận đối với sự phát
triển của văn học và số phận của tác phẩm, đồng thời áp dụng vào những tác
phẩm cụ thể của nền văn học nước nhà.
Tuy nhiên, việc áp dụng lí thuyết tiếp nhận vào các tác phẩm cụ thể ở Việt
Nam vẫn còn nhiều hạn chế về số lượng. Từ những khoảng trống trong nghiên
cứu này đã thôi thúc chúng tôi quan tâm đến việc nghiên cứu tiếp nhận văn học,
cụ thể là vấn đề tiếp nhận một tác phẩm cụ thể trong một phạm vi địa lý. Chúng
tôi muốn mở rộng không gian địa lý này để không chỉ dừng lại trong biên giới
của một quốc gia sinh ra tác phẩm đó mà còn là các quốc gia khác đối với cùng
một tác phẩm.
2
Đến với Truyện Kiều, một tác phẩm chưa bao giờ mất đi sức thu hút đối
với các nhà nghiên cứu và bạn đọc bao thế hệ, việc nghiên cứu vấn đề tiếp nhận
Truyện Kiều trên thế giới sẽ góp phần giúp ta hiểu hơn về giá trị lớn lao của tác
phẩm đã vượt ra khỏi biên giới nước ta. Tuy nhiên, việc nghiên cứu vấn đề tiếp
nhận Truyện Kiều hiện nay đa phần chỉ dừng lại trong phạm vi quốc gia. Điều
này để lại một khoảng trống lớn trong việc nghiên cứu. Đó cũng chính là sức
hấp dẫn của việc tìm hiểu nhằm khỏa lấp khoảng trống này. Vì thế trong luận
văn này, chúng tôi mong muốn đem đến một cái nhìn khái quát về vấn đề tiếp
nhận Truyện Kiều trên thế giới nhằm đóng góp thêm một mảnh ghép vào bức
tranh đời sống sinh động của một kiệt tác văn chương đã trở thành một trong
những di sản của nhân loại.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Trong giới hạn của luận văn, chúng tôi tập trung khảo sát những công trình
nghiên cứu đã được công bố rộng rãi của các tác giả trên thế giới đã được công
bố và dịch sang tiếng Việt. Với tư liệu mà chúng tôi sưu tầm được tập trung chủ
yếu ở các nước như Nga, Mỹ, Pháp, Đức, Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan,
Hàn Quốc, Tiệp Khắc, Rumani, Lào, Thái Lan, chúng tôi hy vọng sẽ hệ thống
lại và khái quát được phần nào về vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên thế giới ở
khía cạnh tiếp nhận của các nhà nghiên cứu, phê bình. Vấn đề dịch thuật và tiếp
nhận của bộ phận người đọc đại chúng cũng có vai trò quan trọng trong việc
nghiên cứu tiếp nhận một tác phẩm ở các nước khác nhưng do vấn đề này rất
rộng và liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nên người nghiên cứu chưa thể đi sâu
vào phân tích, đánh giá. Đây cũng là một cánh cửa khác nhiều tiềm năng để đi
sâu vào khám phá thế giới muôn màu của vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên thế
giới.
3. Lịch sử vấn đề
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy hiện nay chưa có một
công trình nào nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên thế
3
giới mà chủ yếu tập trung vào hai hướng chính đó là điểm qua về tình hình dịch
thuật cũng như nghiên cứu Truyện Kiều trên thế giới chứ chưa có công trình
nào đánh giá, phân tích cụ thể; hướng thứ hai là chỉ khái quát tình hình dịch
thuật, nghiên cứu Truyện Kiều ở một quốc gia cụ thể hoặc một trường hợp tiếp
nhận của một đối tượng.
Đầu tiên có thể kể đến bài viết “Truyện Kiều với người ngoại quốc”
(1958) của Vũ Đức Trinh. Tác giả của bài viết chỉ phân loại người đọc Truyện
Kiều trên thế giới thành ba hạng người: 1) hạng người biết vừa rộng vừa sâu; 2)
hạng người biết khá giỏi; 3) hạng người biết sơ sài. Và ở mỗi hạng người, tác
giả chỉ điểm qua một vài nhân vật chứa chưa đi sâu vào lí giải và đánh giá.
Bài viết “Nhân dân thế giới kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ Nguyễn
Du của chúng ta” nhân kỷ niệm ngày sinh Nguyễn Du của Nguyễn Văn Hoàn
vào năm 1965. Trong bài viết này, tác giả đã khái quát quá trình dịch thuật và
nghiên cứu Truyện Kiều ở các nước cho đến năm 1965 và các sự kiện chào
mừng kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du ở các nước. Tác giả chỉ điểm
qua một số công trình nghiên cứu đến năm 1965 mà không có phân tích cụ
thể. Bài viết “Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản” (1999) của
tác giả Đoàn Lê Giang. Trong bài viết này, tác giả chia thành hai phần: phần
một, tác giả khảo sát tình hình dịch thuật Truyện Kiều ở Nhật Bản, và ở phần
hai, tác giả tiến hành so sánh hai tác phẩm của Việt Nam và Nhật Bản: Kim
Kiều truyện và Kim Ngư truyện.
Với công trình “Tổng thuật tình hình nghiên cứu Truyện Kiều tại Trung
Quốc trong giai đoạn 2000-2007” (2007) của Nguyễn Thị Mai Phương, tác giả
đã tập trung nghiên cứu tình hình tiếp nhận Truyện Kiều trong phạm vi một
nước và trong một giai đoạn cụ thể.
Công trình nghiên cứu tiếp theo là “Nguyễn Du và Truyện Kiều ở nước
ngoài” (2009) của Từ Thị Loan. Ở công trình này, tác giả đã khái quát về tình
hình dịch thuật và nghiên cứu Truyện Kiều ở các nước như: Pháp, Trung Quốc,
4
Đài Loan, Nga, Mỹ, Nhật, Hàn Quốc, Tiệp Khắc. Đây cũng là một công trình
rất công phu tuy nhiên chỉ dừng lại ở việc giới thiệu khái quát.
Năm 2012, Trịnh Thị Thanh Huyền đã bảo vệ thành công luận văn thạc sĩ
“Một số đặc điểm của Truyện Kiều dưới cái nhìn của một người Pháp: Qua bài
viết “Truyện Kiều và xã hội Á Đông” của René Crayssac”. Với luận văn này,
tác giả đã tiến hành nghiên cứu so sánh tác phẩm theo hướng liên văn hóa, văn
học Đông - Tây để giải mã một số vấn đề của Truyện Kiều và văn học trung đại
Việt Nam nói chung. Công trình này chủ yếu tập trung vào một hiện tượng tiếp
nhận cụ thể, làm rõ những kiến giải của họ rồi từ đó khái quát về một hướng
tiếp nhận mới đó là nghiên cứu đặc trưng thi pháp theo hướng so sánh Đông-
Tây. Cùng hướng nghiên cứu cách tiếp nhận của một trường hợp cụ thể với
Trịnh Thị Thanh Huyền đó là công trình của Nguyễn Thị Diệu Linh và Nguyễn
Thanh Tùng: “Đọc “Kim Vân Kiều truyện: Dịch thuật và nghiên cứu” của
Triệu Ngọc Lan” (2015) được in trong Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa
Nguyễn Du. Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Trong bài viết
này, các tác giả cũng tập trung phân tích, nhận xét về cách tiếp nhận Truyện
Kiều cụ thể là Triệu Ngọc Lan, người đã có công dịch Truyện Kiều sang tiếng
Trung và có rất nhiều công trình nghiên cứu về tác phẩm của Nguyễn Du.
Bên cạnh đó, còn công trình “Nghiên cứu Truyện Kiều và Nguyễn Du tại
Trung Quốc, hiện trạng và triển vọng” (2015) của Lưu Chí Cường (TS Văn
học Đại học Bắc Kinh, GS Đại học Dân tộc Quảng Tây - Trung Quốc). Đây là
một nhà nghiên cứu ở Trung Quốc nên có thể nói công trình của ông đã có đóng
góp rất lớn trong việc phản ánh tình hình thực tế nghiên cứu Truyện Kiều ở
Trung Quốc.
Bài viết “Hành trình Nguyễn Du đến với thế giới” (2015) của tác giả Lê
Thu Yến. Ở bài viết này, tác giả đã nhìn lại tình hình dịch thuật, nghiên cứu
Truyện Kiều bao quát hơn. Gồm có các nước: Pháp, Mỹ, Nga, Đức, Nhật,
Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, giới thiệu một vài công trình ở Tiệp Khắc,
5
Rumani, Cu ba, Lào, Thái Lan. Bài viết còn cung cấp thêm về các hình thức
tiếp nhận Truyện Kiều khác như lẫy Kiều của các chính khách nước ngoài,
Truyện Kiều trong cảm hứng sáng tác của các tác giả nước ngoài, ...
Công trình “Các bản dịch Truyện Kiều ở Nhật Bản: đa dạng người dịch,
đa dạng phong cách” (2015) của tác giả Đoàn Lê Giang đã cung cấp cho chúng
ta những thông tin quý giá về tình hình dịch thuật Truyện Kiều ở Nhật Bản
trong khoảng thời gian hơn 60 năm.
Gần đây là công trình “Nghiên cứu của học giả Trung Quốc và lãnh thổ
Đài Loan về Truyện Kiều trong mười năm trở lại đây” (2015) của tác giả Phan
Thu Vân. Tác giả đã tổng kết quá trình nghiên cứu Truyện Kiều ở Trung Quốc
và Đài Loan trong giai đoạn 2006 – 2015 và rút ra những thành tựu cơ bản của
giai đoạn này. Bên cạnh đó, tác giả cũng làm rõ một số quan điểm nổi bật của
các nhà nghiên cứu ở Trung Quốc và Đài Loan giai đoạn này.
Công trình “Tình hình nghiên cứu Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài
Nhân) và Truyện Kiều (Nguyễn Du) của giới học thuật Trung Quốc” (2015)
của Bùi Thị Thúy Phương và Nguyễn Thị Diệu Linh đã trình bày tương đối chi
tiết về trào lưu nghiên cứu Kim Vân Kiều truyện tại Trung Quốc bắt nguồn từ sự
nổi tiếng của Truyện Kiều ở Việt Nam. Phần sau của công trình các tác giả tập
trung giới thiệu các công trình nghiên cứu theo hướng so sánh hai tác phẩm.
Như vậy với công trình này, các tác giả cũng chưa khát quát toàn bộ quá trình
nghiên cứu Truyện Kiều ở Trung Quốc.
Công trình “Tìm hiểu việc dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh” (2016) của
tác giả Trần Lê Hoa Tranh trên Tạp chí Văn học số 1 năm 2016 đã cung cấp cho
chúng ta những hiểu biết về tình hình dịch thuật Truyện Kiều sang tiếng Anh.
Bên cạnh đó, tác giả cũng cung cấp một số công trình nghiên cứu mới có liên
quan đến Truyện Kiều trên thế giới như: quyển sách của George Dutton
“Voices of Southeast Asia: 2014: Essential Readings from Antiquity to the
Present”; bài viết “Confucian and Buddhist values in Nguyen Du's the Tale of
Kieu” của Sheidon Mary F. nghiên cứu về tư tưởng Nho giáo và Phật giáo
6
trong Truyện Kiều. Bài phân tích một bộ phim của Trịnh Thị Minh Hà dựa theo
mô típ Truyện Kiều có tên A Tale of Love (giống như A Tale of Kiều), bài viết
có tên: “Creating New Spaces in Third Cinema: Trinh T. Minh Ha Rewrites the
Narrative of Nationalism with Love của Loran Marsan, một NCS của trường
Đại học UCLA.
Như vậy, với những công trình trên, chúng ta có thể thấy các nhà nghiên
cứu tập trung khảo sát tình hình dịch thuật hoặc tình hình nghiên cứu Truyện
Kiều ở một phạm vi lãnh thổ nhất định (Pháp, Nga, Trung Quốc, Đài Loan)
hoặc một trường hợp tiếp nhận cụ thể (René Crayssac, Triệu Ngọc Lan) hay chỉ
điểm qua tình hình nghiên cứu Truyện Kiều trên thế giới mà chưa có một công
trình nào tổng kết và phân tích tình hình tiếp nhận Truyện Kiều trên phạm vi
rộng hơn. Chúng tôi mong muốn sẽ tiếp bước những người đi trước để góp
phần cập nhật tình hình tiếp nhận tác phẩm kinh điển của nền văn học nước nhà
trên thế giới, đồng thời giúp người Việt Nam có thể tự hào hơn nền thơ ca của
dân tộc.
4. Đóng góp của đề tài
Đối với vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên thế giới, chúng tôi nhận thấy đã
có một số công trình đề cập đến nhưng chủ yếu chỉ dừng lại ở mức độ khái quát,
điểm qua hoặc chỉ nghiên cứu tình hình tiếp nhận ở một khu vực, một quốc gia
hay một trường hợp tiếp nhận cụ thể mà chưa có sự đi sâu và hệ thống. Vì thế,
chúng tôi mong muốn khái quát tình hình tiếp nhận đặc biệt là của đối tượng
nhà nghiên cứu, phê bình văn học trên thế giới thông qua những công trình
nghiên cứu tiêu biểu đồng thời hệ thống thành các xu hướng tiếp nhận cơ bản
đối với tác phẩm kinh điển của văn học Việt Nam - Truyện Kiều. Chúng tôi hy
vọng sẽ góp thêm một mảnh ghép vào bức tranh đời sống vốn đã rất sinh động
của Truyện Kiều. Thông qua đó, một lần nữa khẳng định sức sống mạnh mẽ
cũng như sức ảnh hưởng của Truyện Kiều đã không chỉ ở phạm vi trong nước
mà còn vươn ra thế giới.
7
5. Phương pháp nghiên cứu
Đối với đề tài này, chúng tôi xin sử dụng kết hợp các phương pháp sau:
Phương pháp hệ thống: Chúng tôi đã hệ thống lại quá trình tiếp nhận
Truyện Kiều trên thế giới vào hệ thống nghiên cứu Truyện Kiều ở các nước và
hệ thống nghiên cứu Truyện Kiều ở các châu lục.
Phương pháp thực chứng - lịch sử: Chúng tôi dựa vào ngữ cảnh lịch sử,
mục tiêu văn hóa để có cái nhìn tổng quan về quá trình tiếp nhận Truyện Kiều
trên thế giới.
Phương pháp so sánh: Với phương pháp này, chúng tôi sẽ ứng dụng trong
việc nhận xét mối tương quan giữa các công trình nghiên cứu, sự tương đồng và
khác nhau trong các quan điểm tiếp nhận Truyện Kiều.
Phương pháp thống kê: Phương pháp này giúp chúng tôi thống kê số
lượng bản dịch cũng như thống kê các công trình nghiên cứu Truyện Kiều ở các
nước để có đặt vào hệ thống tiếp nhận ở các châu lục.
Phương pháp mỹ học tiếp nhận: Đây là phương pháp được chúng tôi vận
dụng để lí giải các quan điểm tiếp nhận hay sự khác nhau trong việc tiếp nhận
Truyện Kiều ở các khu vực, các châu lục.
Phương pháp tiếp cận văn hóa học: Luận văn đặt vấn đề tìm hiểu ý kiến
của nhà phê bình trên thế giới trong ngữ cảnh giao lưu văn hóa giữa Việt Nam
và các nước.
6. Bố cục luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, Luận văn
gồm có 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về tiếp nhận văn học và Nguyễn Du –
Truyện Kiều.
Chương 2: Truyện Kiều trong sự tiếp nhận của các nhà nghiên cứu và phê
bình ở Châu Á.
Chương 3: Truyện Kiều trong sự tiếp nhận của các nhà nghiên cứu và phê
bình ở Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Úc.
8
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ TIẾP NHẬN VĂN
HỌC VÀ NGUYỄN DU – TRUYỆN KIỀU
1.1. Khái lược về lí thuyết tiếp nhận văn học
Những năm gần đây, vấn đề tiếp nhận văn học bắt đầu được các nhà
nghiên cứu quan tâm và dành nhiều công sức khai thác. Trong xu thế mới, vấn
đề tiếp nhận văn học diễn ra theo nhiều hướng và việc nghiên cứu đi từ nhiều
góc độ khác nhau. Chẳng hạn tiếp nhận văn học từ góc nhìn thi pháp học, ngôn
ngữ học, đặc trưng thể loại hay từ văn hóa học, xã hội học, mĩ học… Mỗi một
cách tiếp nhận khai thác từng phương diện, soi sáng từ nhiều khía cạnh để làm
nổi bật giá trị cũng như chân lí nghệ thuật của tác phẩm. Chính vì vai trò to lớn
của việc tiếp nhận đối với dòng chảy của văn học đã thúc đẩy các nhà nghiên
cứu hệ thống những quan điểm liên quan đến vấn đề tiếp nhận văn học thành
một lý thuyết mới với những nguyên tắc và phương pháp riêng. Vì giới hạn của
luận văn nên chúng tôi chỉ xin trình bày khái quát những vấn đề chính của lý
thuyết tiếp nhận văn học như sự ra đời của lý thuyết tiếp nhận, những quan
điểm về tiếp nhận văn học trên thế giới và tình hình nghiên cứu tiếp nhận văn
học ở Việt Nam.
1.1.1. Sự ra đời của lý thuyết tiếp nhận văn học
Văn học từ lúc sinh ra phải luôn được đặt trong mối quan hệ hiện thực -
nhà văn - tác phẩm - người đọc. Tuy nhiên ở từng giai đoạn của lịch sử thì có
khi mối quan hệ giữa nhà văn và tác phẩm, tác phẩm và hiện thực được chú
trọng. Lí luận văn học từ trước tới nay chủ yếu tập trung nghiên cứu khâu sáng
tác, hoặc xem xét sáng tác tách rời với các quy luật tiếp nhận, hầu như không ai
chú ý hay ít chú trọng đến khâu tiếp nhận văn học. Theo Bùi Thanh Hiền, nếu
như lí luận văn học với tư cách là một khoa học ra đời vào buổi giao thời thế kỉ
XVIII - XIX, thì phải đến nửa cuối thế kỉ XX lí luận tiếp nhận văn học mới
được chú ý (Bùi Thanh Hiền, 2013).
9
Tuy nhiên, thực tế lại cho thấy rằng lịch sử tiếp nhận văn học đã bắt đầu
ngay từ khi văn học ra đời. Nhưng đến nửa đầu thế kỷ XIX ở phương Tây, phê
bình văn học mới xuất hiện với tư cách là một bộ môn của khoa học văn học.
Kể từ đây, tác phẩm văn học đã trở thành đối tượng được nghiên cứu từ nhiều
góc độ khác nhau với nhiều phương pháp đa dạng như phương pháp tiểu sử,
phương pháp so sánh... Việc phê bình văn học cũng từ đó mà phân chia thành
nhiều trường phái khác nhau. Nổi bật trong số đó là một số trường phái có sức
ảnh hưởng lớn như trường phái văn hóa - lịch sử, trường phái hình thức Nga,
trường phái văn học so sánh...
Khoảng đầu thế kỷ XX, trường phái phê bình theo phản ứng của bạn đọc
(reader – reponsecriticism) ra đời ở Hoa Kỳ. Theo Phương Lựu, khuynh hướng
phê bình theo phản ứng của người đọc (reader – reponsecriticism) cho rằng:
“mặc dù ý nghĩa nằm trong hệ thống phù hiệu ngôn ngữ của văn bản, nhưng
không tồn tại độc lập, mà phải dựa vào bạn đọc. Ý nghĩa, do đó là kết quả phản
ứng của bạn đọc đối với tác phẩm” (Phương Lựu, 2002). John Dewey đã từng
khẳng định rằng chỉ khi nào được công chúng thưởng thức, tiếp nhận thì sáng
tác của nhà văn mới trở thành tác phẩm nghệ thuật. Tác phẩm không có ý nghĩa
cố định, mà phụ thuộc vào sự giao thoa diễn biến giữa các điểm nhìn trong lịch
sử. Công trình “Lịch sử văn học như là sự thách thức khoa học văn học” (1970)
của Hans Robert Jauss được xem như công trình đầu tiên đề cập đến việc đề cao
vai trò của người tiếp nhận. Mỹ học tiếp nhận đã chuyển giao vị trí trung tâm từ
văn bản sang người đọc và lịch sử văn học, do đó, không phải là lịch sử của tác
giả với những tác phẩm, mà là lịch sử tiếp nhận của người đọc (Phương Lựu,
2002). Cứ như thế, lý thuyết tiếp nhận dần trở thành một bản tuyên ngôn học
thuật và được áp dụng rộng rãi trên khắp thế giới.
Ban đầu giới nghiên cứu đặt ra một nhiệm vụ dành cho lý thuyết tiếp nhận
đó là “xem xét lại quá khứ và tìm kiếm một con đường mới” (Vũ Thị Huế,
2013). Lý thuyết tiếp nhận đã góp phần vào việc đánh giá lại và thu hút sự quan
10
tâm của công chúng đối với những tác phẩm kinh điển đã bị những lý thuyết cũ
lãng quên. Như Jauss đã từng nhận định rằng: “Lý thuyết tiếp nhận được coi là
giải pháp cho cuộc khủng hoảng phương pháp luận văn học” và “đáp ứng kịp
thời yêu cầu của thời đại” (Vũ Thị Huế, 2013).
Tuy nhiên, từ những quan điểm đề cao vai trò của người đọc, đã có một
khoảng thời gian, các nhà nghiên cứu đã làm mất đi sự cân bằng trong mối quan
hệ giữa hiện thực với nhà văn và người đọc. Những năm gần đây, những nhà
phê bình văn học đương đại đã nhận ra được sự mất cân bằng ấy và dung hòa lại
mối quan hệ giữa các yếu tố. Họ nhận ra rằng “ngay khi sáng tác thì nhà văn đã
có sự đối thoại với bạn đọc trong tưởng tượng” hay “trong tiếp nhận, có sáng
tạo của người đọc, nhưng không thể tùy tiện” và “tác giả không thể không xuất
hiện với tư cách là người đọc đầu tiên của tác phẩm của mình” (Phương Lựu,
2002).
Theo Từ điển thuật ngữ văn học năm 1996 của nhà xuất bản Giáo dục :
“Tiếp nhận văn học là hoạt động chiếm lĩnh các giá trị tư tưởng, thẩm mĩ của
tác phẩm văn học, bắt đầu từ sự cảm thụ văn bản ngôn từ, hình tượng nghệ
thuật, tư tưởng, cảm hứng, quan niệm nghệ thuật, tài nghệ tác giả cho đến sản
phẩm sau khi đọc: cách hiểu, ấn tượng trong trí nhớ, ảnh hưởng trong hoạt
động sáng tạo, bản dịch, chuyển thể, ...” (Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn
Khắc Phi, 1996). Việc tiếp nhận giúp tác phẩm văn học được hiện thực hóa về
mặt thẩm mĩ và trở thành đối tượng thẩm mĩ trong ý thức của người đọc. Giá trị
của một tác phẩm là những đại lượng biến đổi theo thời gian bởi vì những tiêu
chí, chuẩn mực đánh giá của sự lĩnh hội thẩm mĩ luôn thay đổi theo từng giai
đoạn, từng thời điểm, từng đối tượng. Do đó, nhiệm vụ của nhà nghiên cứu là
phải luôn theo sát quá trình tồn tại của các tác phẩm văn học mới có thể có sự
nhìn nhận, đánh giá đúng đắn nhất về giá trị của chúng. Nhà nghiên cứu văn
học được xem như những “người đọc đặc biệt” của văn học bởi vì họ mang
trong mình trọng trách lớn lao đó là không chỉ hiểu được cái hay cái dở của tác
11
phẩm mà họ còn phải thật tỉnh táo để phân tích cặn kẽ bằng những kiến thức
chuyên môn để đánh giá một cách đúng đắn nhất. Đôi khi họ sẽ là người giúp
tác giả giải đáp cho người đọc đại chúng những câu hỏi trong quá trình tiếp cận
tác phẩm. Việc phê bình văn học sẽ làm nảy sinh những đòi hỏi đối với việc
sáng tạo văn học và những tác phẩm phê bình trở thành những nguồn tài liệu
phong phú cho việc ra đời những tác phẩm mới. Đỗ Lai Thúy cho rằng văn hóa
hậu hiện đại cho phép người đọc (nhà phê bình) hiểu và giải thích một cách tự
do và sáng tạo mọi văn bản: “Phê bình vừa là một khoa học, vừa là một nghệ
thuật... Tác phẩm phê bình là một diễn giải độc đáo sáng tác của nhà văn và
bằng sự kiến tạo nghĩa mới này gia tăng chiều kích tác phẩm” (Đỗ Lai Thúy,
cần làm hơn chính là tranh đấu cho một trật tự mới, cái trật tự vừa mới chớm, chưa
được nhiều người thấy và chưa được ủng hộ” (Nguyễn Hưng Quốc, 2015).
2010). Nguyễn Hưng Quốc cũng khẳng định: “Một điều mà nhà phê bình văn học
Bakhtin từng khẳng định: “Tác phẩm sống và có ý nghĩa trong thế giới -
cái thế giới cũng sống động và cũng nặng trĩu những giá trị nhận thức, xã hội,
chính trị, kinh tế, tôn giáo” (Phạm Vĩnh Cư, 2012). Chính vì thế, công việc của
nhà nghiên cứu chính là vận dụng những phương pháp để khám phá đến tận
cùng cái thế giới ấy một cách đa diện nhiều chiều. Tuy nhiên, Hồ Thế Hà đã
đưa ra những lưu ý đối với giới nghiên cứu văn học rằng việc sáng tạo trong
nghiên cứu phải phù hợp với giới hạn cho phép mà tác phẩm “gợi mở, vẫy gọi”.
(Hồ Thế Hà, 2014). Như vậy, việc phê bình văn học tuy mang tính chất tự do,
sáng tạo nhưng phải đặt trên những cơ sở, những giới hạn nhất định.
Hiện nay, bên cạnh việc nghiên cứu những tác phẩm đương đại thì xu
hướng nghiên cứu những tác phẩm trong quá khứ là vấn đề đang thu hút nhiều
nhà nghiên cứu quan tâm. Bởi lẽ, những tác phẩm đã trở thành kinh điển trong
quá khứ vẫn luôn có một sức hấp dẫn thôi thúc những nhà nghiên cứu ở những
giai đoạn sau khai thác. Khi đó tác phẩm trong quá khứ đã trở thành những tác
động, động lực và đặt ra những câu hỏi lớn đòi hỏi các nhà nghiên cứu phải lí
12
giải để góp phần giúp cho dòng chảy của văn học được tiếp nối. Tuy vậy,
hướng nghiên cứu này cũng có rất nhiều thách thức đối với các nhà nghiên cứu
bởi vì nhũng tác phẩm ấy không phải là mảnh đất màu mỡ chưa được khai phá
mà đã được cày xới rất nhiều lần qua thời gian. Nhưng sở dĩ lịch sử tác động có
thể thực hiện vai trò của nó là do sự nảy sinh những góc nhìn mới từ hiện tại, từ
nhu cầu bức thiết phải thoát ra khỏi những cái bóng lớn có từ truyền thống.
Chính những góc nhìn “viễn tượng” mới nảy sinh từ hiện tại đã soi rọi lại
những tác phẩm trong quá khứ, diễn giải lại tính lịch sử và tính thẩm mĩ
của nó, thúc đẩy những sáng tạo mới vượt qua nó, tạo thành những liên kết
văn học theo nhãn quan lịch sử mới (Hoàng Phong Tuấn, 2017).
Chúng tôi đồng tình với quan điểm của Hoàng Phong Tuấn khi ông cho rằng:
Cũng theo nhà nghiên cứu, “một tác phẩm được xem là cổ điển trở thành
chuẩn mực tất yếu, vượt qua tất cả những quan điểm phê bình khác nhau về nó
trong lịch sử và do đó, là một mẫu mực cho mọi sáng tạo sau này” (Hoàng
Phong Tuấn, 2017). Trong bài viết “Mục tiêu của phê bình”, Nguyễn Hưng
Quốc cũng khẳng định: sự khám phá của các nhà phê bình văn học sẽ khiến
chúng ta “thay đổi cách đọc cũng như cách chúng ta nhìn về văn học” từ đó
những tác phẩm trong quá khứ sẽ “xuất hiện dưới một diện mạo khác”
(Nguyễn Hưng Quốc, 2015). Theo quan điểm của Jauss, “người đọc trong hiện
tại không phải là một ý thức thụ động đón nhận tất cả di sản của quá khứ, mà là
một ý thức chủ động, chọn lựa, trả lời câu hỏi”. Từ đó ông cũng khẳng định vai
trò của người đọc đó là “sáng tạo những cách hiểu mới, góp phần thúc đẩy sự
sáng tạo những tác phẩm mới, làm cho truyền thống có thể tiến đến tương lai
bằng bước chân của hiện tại”. Chúng ta rất dễ dàng kể tên rất nhiều những điển
hình như thế trong suốt chiều dài lịch sử văn học thế giới như: Những người
khốn khổ, Romeo và Juliet hay Hamlet... trong suốt quá trình từ lúc chào đời
đến nay, những tác phẩm ấy đã được tiếp nhận từ rất nhiều phương diện và
13
quan điểm. Thế nhưng dù ở thời điểm nào đi nữa thì chúng vẫn luôn có sức hấp
dẫn với rất nhiều nhà nghiên cứu.
Ngày nay, văn học của mỗi quốc gia không còn bị bó hẹp trong phạm vi
lãnh thổ của một quốc gia nữa, mà trong xu thế toàn cầu hóa, văn học của mỗi
dân tộc đã trở thành tài sản chung của nhân loại. Văn học là gương mặt của văn
hóa và một đặc điểm nổi bật của văn chương đó là nó có khả năng gắn kết con
người lại với nhau dù có cách xa nhau về địa lí hay khác biệt nhau về văn hóa.
Vì thế, các nhà nghiên cứu ngày càng có xu hướng mở rộng mảnh đất cày xới ra
ngoài biên giới của quốc gia mình. Việc quốc gia này nghiên cứu văn học của
quốc gia khác trở thành một việc làm phổ biến. Vấn đề này đã xuất hiện từ
nhiều thế kỉ trước, tuy nhiên sự giao lưu chỉ giới hạn trong phạm vi những quốc
gia có mối quan hệ ngoại giao thân thiết trong một khu vực hoặc giữa các nước
có ảnh hưởng với nhau về văn hóa như Việt Nam – Trung Quốc, Nhật Bản –
Trung Quốc… Trong sự giao lưu ấy, các tác phẩm tiêu biểu của một quốc gia sẽ
được mang ra làm “gương mặt đại diện” cho nền văn học của quốc gia ấy. Khi
một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới quê hương mình để vươn đến những vùng
đất mới thì số phận của nó đã hoàn toàn thay đổi. Như ông bà ta thường nói:
“nhập gia tùy tục”, tác phẩm văn học cũng vậy, ở mỗi quốc gia sẽ có những
chuẩn mực đánh giá khác nhau về văn học nên sự tiếp nhận ở mỗi nơi mỗi khác,
tác phẩm văn học cũng sẽ được nhìn nhận bằng những lăng kính khác nhau.
Theo Rainer Warning, “tiếng vang” mà một tác phẩm tạo ra ở giới độc giả và
phê bình ở môi trường xa lạ thường hoàn toàn khác với “tiếng vang” trong môi
trường quê hương của nó do có sự cách biệt về văn hóa (Huỳnh Vân, 2016).
Mỗi ngữ cảnh lịch sử xã hội có các chiến lược tu từ văn hóa hình thành nên
các diễn ngôn chi phối hoạt động giao tiếp, truyền thông, đặc biệt là hoạt
động lý giải và định giá văn bản văn học. Tu từ văn hóa có một quyền lực
Theo Steven Mailloux:
14
đối với các diễn ngôn xã hội: quyền lực tu từ. Không chỉ hoạt động tiếp
nhận mà ngay cả hoạt động nghiên cứu tiếp nhận cũng vận động bên trong
các chiến lược tu từ và quy ước tu từ, hay nói các khác là nó vận động
trong những xu hướng tu từ của cộng đồng diễn giải, những cộng đồng lấy
các quy chuẩn nào đó để giải thích và điều chỉnh các thực hành diễn giải
trong một ngữ cảnh văn hóa xã hội cụ thể (Hoàng Phong Tuấn. 2017).
Vì vậy, những tác phẩm có giá trị thẩm mĩ cao không chỉ có ảnh hưởng ở
một phạm vi lãnh thổ mà còn có khả năng lan tỏa, vươn xa cả về không gian lẫn
thời gian. Và Truyện Kiều của Việt Nam là một trường hợp như thế. Từ thực
trạng trên đã đặt ra một yêu cầu dành cho các nhà nghiên cứu đó là phải luôn
dõi theo quá tình tiếp nhận văn học ở một “môi trường văn học xa lạ”.
Như vậy, trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy rằng các nhà
nghiên cứu đều có cùng quan điểm trong việc khẳng định tiếp nhận là khâu
quan trọng giúp tác phẩm tồn tại, nếu không có tiếp nhận thì văn học sẽ chết.
Như Huỳnh Vân nhận định: “Ngay khi một tác phẩm văn học được công bố hay
được phổ biến thì nó trở thành tài sản của công chúng, nó được họ tiếp nhận từ
quan niệm của sự cảm thụ nghệ thuật hiện tại của họ” (Huỳnh Vân, 2016). Tác
phẩm văn học khi nó ra đời dù nó được đón nhận hay phủ nhận, dù nhận được
sự đồng tình, tán thưởng hay phản bác, vùi dập thì tác phẩm ấy vẫn đang được
mọi người quan tâm đến. Hay nói cách khác, đó chính là tác phẩm đang “sống
và tồn tại” trong lòng người đọc. Theo Nguyễn Thanh Tâm, công chúng là
“một hợp thể những thị hiếu thẩm mỹ, nhu cầu văn hóa hết sức đa dạng”
(Nguyễn Thanh Tâm, 2012). Vì thế, việc khen chê là điều tất yếu trong cơ chế
tiếp nhận của công chúng khi các giá trị không tìm được tiếng nói đồng thuận.
Con đường đi lên của văn học phải chấp nhận điều đó như một quy luật. Quy
luật của sự hình thành và phát triển. Qua đó cho thấy rằng việc tiếp nhận có ý
15
nghĩa rất quan trọng, quyết định sự sống còn của tác phẩm. Một tác phẩm có tồn
tại hay không tồn tại phụ thuộc vào việc nó có để lại được dấu ấn trong lòng
công chúng hay không. Thêm vào đó, người tiếp nhận đóng vai trò quan trọng
trong việc sàng lọc những tác phẩm có chất lượng thật sự để góp phần bảo tồn
tác phẩm và giúp cho lịch sử văn học được tiếp diễn.
1.1.2. Những quan điểm về tiếp nhận văn học trên thế giới
Cũng giống như các lý thuyết khác, lý thuyết tiếp nhận từ khi ra đời đến
nay cũng có nhiều quan điểm khác nhau. Có rất nhiều nhà lí luận đã bắt tay vào
thiết lập hệ thống luận điểm về lí thuyết mới này và nổi bật trong số đó là hai
nhà lý luận có ảnh hưởng lớn của trường phái Konstans: Wolfgang Iser và
Hands Robert Jauss. Hai nhà nghiên cứu đã tạo nên cột mốc quan trong trong
lịch sử nghiên cứu tiếp nhận văn học như Hoàng Phong Tuấn nhận xét:
“Wolfgang Iser là lý thuyết gia tiêu biểu của trường phái Konstanz, nước Đức.
Cùng với Hans Robert Jauss, ông tạo nên những chuyển biến trong nhận thức
về văn học từ góc độ tiếp nhận” (Hoàng Phong Tuấn, 2013). Tuy hai người có
Cùng dựa trên cách đặt vấn đề nhận thức luận của hiện tượng học và thông
diễn học để xem xét mối quan hệ giữa chân trời (tiếng Đức: horizont) của
văn bản, biên mục quy chiếu (repertoire) của văn bản và chân trời chờ đợi
(tiếng Đức: Erwartungshorizont) của người đọc, tạo tiền đề cho sự cụ thể
hóa của người đọc, qua đó họ tự chuyển đổi kinh nghiệm đọc của mình,
tạo cơ sở cho sự chuyển biến của lịch sử văn học (Huỳnh Văn Vân, 2016).
những hướng tiếp cận khác nhau nhưng đều gặp gỡ nhau ở chỗ:
Trường phái Konstanz đã dấy lên một trào lưu nghiên cứu văn học sôi nổi
với nhiều công trình nghiên cứu suốt một thập kỷ từ cuối thế kỷ XX đến đầu thế
kỷ XXI. Sau đó vấn đề nghiên cứu tiếp nhận đã chuyển sang khu vực Anh - Mỹ
với xu hướng “nhìn nhận, phản tư trở lại các định đề của lý thuyết tiếp nhận
16
các giai đoạn trước dựa trên những thành tựu nghiên cứu của các lý thuyết
truyền thông hiện đại và cách đặt vấn đề về diễn ngôn của các triết gia Đức
như Karl Otto Apel và Jurgen Habermas” (Huỳnh Văn Vân, 2016). Bên cạnh
đó cũng có một số đóng góp quan trọng của các nhà nghiên cứu khác. Đầu thế
kỷ XXI, bên cạnh việc kế thừa những quan điểm của người đi trước, lý thuyết
tiếp nhận có sự phát triển những góc nhìn mới như: truyền thông, ngôn ngữ, đạo
đức học, …
Trong công trình “Văn học, người đọc, định chế - Tiếp nhận văn học: giới
thiệu lý thuyết, nghiên cứu và dịch thuật”, Hoàng Phong Tuấn đã trình bày
những luận điểm chính của Iser về tiếp nhận văn học như sau: Thứ nhất, Iser đề
cao tính sáng tạo của người đọc. Theo ông, người đọc luôn có cho mình một
kinh nghiệm đọc và khi tiếp cận tác phẩm mới họ sẽ làm cho tác phẩm bộc lộ
những ý nghĩa tiềm tàng. Thứ hai, ông đặc biệt nhấn mạnh về tính hư cấu của
văn bản văn học. Văn học không tái hiện thực tế, không đưa người đọc về thực
tại mà nó “thức tỉnh học khỏi thực tại hằng ngày”. Một tác phẩm có giá trị phải
có sức mời gọi và khiến cho người đọc cảm thấy bất ngờ so với những mong
đợi trước đó và đưa người đọc trải nghiệm một kinh nghiệm khác biệt. Trải
nghiệm của quá trình đọc cũng giống như tiếp thu một kinh nghiệm mới. Nó
giúp ta mở rộng biên giới kinh nghiệm và phơi bày những góc khuất của tâm
hồn mình. Thứ ba, ông cho rằng văn học đặt cơ sở cho tính linh hoạt và mềm
dẻo của con người. Con người đến với văn học như đến với một “lễ hội miên
man với vô số trò chơi mà mỗi trò chơi là một sự dàn dựng”, họ sẽ trải nghiệm
các trò chơi để thử thách năng lực tìm kiếm chính mình. Văn học làm cho con
người biểu hiện mình, nhận thức mình trong nhiều thế giới. Hành trình lý
thuyết của Iser, như ông tổng kết, là đi “từ sự hồi ứng của người đọc đến nhân
học văn học”. Xuyên suốt hành trình ấy là mối quan tâm của ông đến đặc trưng
của văn bản tạo nên mối quan hệ tương tác giữa văn bản và người đọc (Hoàng
Phong Tuấn, 2017).
17
Đối với Hans Robert Jauss, theo ông, điều quan trọng tạo nên sức hấp dẫn
của tác phẩm đó là nó sẽ gợi ra chân trời chờ đợi của người đọc về những tác
phẩm đã đọc trước đó rồi sau đó đưa vào thêm những yếu tố mới lạ để chuyển
đổi chân trời chờ đợi này của họ. Bên cạnh đó, không chỉ người đọc mới có
chân trời chờ đợi mà ngay chính bản thân tác phẩm đã có một chân trời đề xuất
phạm vi diễn giải ý nghĩa gợi ý cho người đọc nó. Theo Jauss, khoảng cách với
công chúng đương thời mới là thước đo giá trị tác phẩm và việc hiểu văn học
không phải là quá trình hội nhập vào tác phẩm, mà là quá trình người đọc trải
nghiệm về sự khác biệt và khoảng cách giữa chân trời quá khứ của tác phẩm và
chân trời hiện tại của họ. Ông cũng khẳng định rằng văn học không tự tạo ra
tính lịch sử và giá trị thẩm mĩ của nó mà phải dựa vào sự tiếp nhận của chủ thể
kinh nghiệm thẩm mĩ. Theo ông, những tác phẩm văn học trong quá khứ hiện
lên là những tác động, động lực và là những câu hỏi lớn được con người thời đại
đón nhận và có trách nhiệm trả lời, để cho lịch sử văn học có thể tiếp tục. Điều
quan trọng là có sự nảy sinh những góc nhìn mới từ hiện tại, thoát khỏi những
cái bóng lớn có từ truyền thống. Tác phẩm văn học không phải “một khách thể
tồn tại riêng nó”, nó không trình ra cho mọi người quan sát ở mọi thời kỳ một
dạng như nhau, nó không phải là “một tượng đài phô bày cái bản chất vô thời
hạn của nó bằng sự độc thoại”. Ông quan niệm tác phẩm văn học như là một
“tổ khúc” nhằm đến sự cộng hưởng luôn luôn đổi mới của việc đọc. Điều này
cho thấy nét nổi bật trong hệ thống lập luận của Jauss là quan hệ đối thoại được
triệt để thay cho sự độc thoại vốn tiêu biểu cho các quan niệm văn học trước
nay (Hoàng Phong Tuấn, 2017).
Trên đây là hai quan điểm nổi bật đã đặt nền móng cho lí thuyết tiếp nhận
và được nhiều nhà nghiên cứu đồng tình và trở thành cơ sở lí thuyết trong rất
nhiều nghiên cứu về tiếp nhận văn học trên thế giới.
18
1.1.3. Những đặc trưng của tiếp nhận văn học
Lí thuyết tiếp nhận văn học đến nay đã cơ bản hoàn thiện và có ảnh hưởng
lớn đối với việc nghiên cứu văn học. Dựa vào những tài liệu tìm được, chúng
tôi xin rút ra một số đặc trưng cơ bản của lí thuyết tiếp nhận như sau:
Đặc điểm thứ nhất, tiếp nhận là giai đoạn cuối cùng của quá trình sáng tác.
Như tất cả chúng ta đều biết rằng sự tiếp nhận dù sao đi nữa vẫn luôn đi sau sự
sản xuất. Tuy nhiên, chúng ta cũng không thể phủ nhận vị trí và vai trò của tiếp
nhận, phủ nhận sự hiện thực hóa văn bản thông qua người đọc và sự tác động
trở lại của nó đối với sản xuất.
Thứ hai, tiếp nhận văn chương là sử dụng thế giới tinh thần (tư tưởng - tình
cảm…) trong văn chương. Thế giới tinh thần được tạo ra thông qua các hình
tượng cụ thể xây dựng bởi chất liệu ngôn ngữ. Việc mua bán tác phẩm văn
chương đương nhiên không phải là tiếp nhận văn chương. Việc đọc văn chương
để tìm hiểu những cứ liệu lịch sử, địa lí, tâm lí, ngôn ngữ v.v… cũng không
phải là tiếp nhận văn chương đích thực. Mặc dầu cùng đọc những quyển sách
được viết ra bằng những con chữ cả, nhưng đọc văn không phải như đọc tác
phẩm chính trị hay triết học.
Thứ ba, tiếp nhận văn học phụ thuộc vào các yếu tố lịch sử xã hội. Mỗi
ngữ cảnh lịch sử xã hội sẽ có những quy tắc riêng chi phối các hoạt động giao
tiếp, truyền thông và nhất là hoạt động lí giải, đánh giá văn bản văn học. Theo
đó, chúng ta có rất nhiều cách để phân loại người đọc. Điều này dẫn đến việc
nghiên cứu tiếp nhận văn học cũng có sự ảnh hưởng theo. Thậm chí, theo
Rainer Warning, sự khác biệt nhất định thuộc về thế hệ (chuẩn mực của con cái,
cha mẹ, ông bà) cũng có ảnh hưởng đến việc tiếp nhận văn học.
Thứ tư, người đọc các tác phẩm văn chương phải đặt mình trong tâm thế
lắng nghe. Các quy ước trong văn bản chỉ là điểm tựa để văn bản từng bước phá
hủy chờ đợi của người đọc, những chờ đợi có được từ kinh nghiệm đọc và kinh
19
nghiệm đời sống trước đó. Như vậy, văn bản không dẫn người đọc về lại thực
tại mà thức tỉnh họ khỏi thực tại hằng ngày.
Thứ năm, tiếp nhận văn chương phải mang tính chất khách quan. Khi tiếp
nhận bất kì một tác phẩm nào đó thì đầu tiên phải xuất phát từ tình cảm của
người đọc dành cho tác phẩm đó. Như G. Lanson đã khẳng định: “Văn học
không phải là đối tượng để nhận thức: đó là sự thực hành, sự thưởng thức.
Người ta không thể biết nó, không thể học nó, mà người ta thực hành nó, nuôi
dưỡng và yêu mến nó”. Tuy nhiên, khi nghiên cứu tác phẩm thì người đọc phải
luôn tỉnh táo để đưa ra những nhận xét khách quan, khoa học và thể hiện được
Khi nghiên cứu, chúng ta không thể dùng những phương pháp hay những
thể nghiệm mà ai cũng có thể sử dụng để thu được những kết quả giống hệt
nhau, ngược lại, chúng ta phải áp dụng những khả năng của riêng mình,
không giống với người khác, do vậy mà kết quả đạt được bao giờ cũng chỉ
tương đối, không tuyệt đối đúng (Phạm Quang Trung, 2013).
quan điểm riêng của mình. G. Lanson cũng nhấn mạnh rằng:
Cuối cùng, một đặc điểm nổi bật nhất của việc tiếp nhận văn học đó là tính
sáng tạo. Theo Huỳnh Phan Anh: “Có lẽ không ai phủ nhận rằng, người ta viết
để được đọc. Một tác phẩm dường như lúc nào cũng chờ được đọc tới. Nó là lời
kêu gọi gởi gắm đến mọi người, như một nỗi dở dang đang chờ được hoàn
thành, như một lỗ hổng cần được lấp đầy” (Huỳnh Phan Anh, 1972). Đó là việc
người đọc lấp đầy những khoảng trống trong tác phẩm, tái tạo nó bằng những
cảm xúc, suy nghĩ riêng của họ. R. Ingarden đã nhấn mạnh rằng tác phẩm văn
học sẽ được “cụ thể hóa”thông qua quá trình tiếp nhận. Trần Đình Sử cũng
Có nhiều cách đọc và sẽ không có một người đọc duy nhất đúng. Những
cách đọc tác phẩm bằng cách trích dẫn ý kiến thưởng thức của các tác giả
nhận định rằng:
20
có uy tín đi trước rồi xem là duy nhất đúng chẳng có gì hơn là một sự lặp
lại đơn thuần. Người đọc văn học được xem là kẻ đồng sáng tạo ra tác
phẩm không phải chỉ với tư cách làm sống dậy tác phẩm trong cảm thụ
(như bù đắp, chắp nối, liên tưởng, cụ thể hóa...) mà còn phát hiện ý nghĩa
mới và mối liên hệ chỉnh thể tương ứng với nó. Như vậy, chỉ cần có căn cứ
đầy đủ thì mọi cách đọc đều là những cách mở ra các cánh cửa chìm của
tác phẩm (Trần Đình Sử, 1999).
Tuy nhiên, sáng tạo nhưng không được quá xa rời, võ đoán ngoài văn bản
hay rất xa với nghĩa gốc của văn bản. Theo Hồ Thế Hà, việc tiếp nhận sáng tạo
“chỉ đúng và có giá trị trong giới hạn cho phép mà tác phẩm gợi mở, vẫy gọi”
Lý luận tiếp nhận ngày nay giải phóng cho sức sáng tạo của người đọc, mở
cửa cho sự phê bình nhiều phía nhiều chiều, nhưng cũng đòi hỏi hơn bao
giờ hết sự cẩn trọng. Nó dập tắt cái tư tưởng chỉ sùng bái một vài cây bút
được gọi là quyền uy, mặc dù tài năng không phải là thứ được chia đều cho
mọi người (Trần Đình Sử, 1999).
(Hồ Thế Hà, 2014). Trần Đình Sử cũng lưu ý rằng:
Như vậy, trong quá trình hoạt động văn học, tác giả và độc giả đều có vai
trò cộng hưởng quan trọng của mình và tác phẩm văn học là đối tượng trưng
tâm của quá trình sáng tạo và tiếp nhận văn học.
1.1.4. Tình hình nghiên cứu tiếp nhận văn học ở Việt Nam
Trong khoảng hai thập niên gần đây, các nhà nghiên cứu văn học ở nước ta
bắt đầu có sự quan tâm và giới thiệu lí thuyết tiếp nhận đến công chúng Việt
Nam thông qua các bài viết trên báo, tạp chí hay các chuyên khảo về văn học.
Trong bài viết “Lý thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam - Một cái nhìn chung”,
Lê Văn Hỷ đã khái quát quá trình giới thiệu và vận dụng lí thuyết tiếp nhận tại
21
Việt Nam từ những năm 1970 đến nay. Trong bài viết “Mỹ học tiếp nhận ở Việt
Nam”, Đỗ Văn Hiểu cũng đã khái quát quá trình du nhập của lí thuyết tiếp nhận
ở Việt Nam (Đỗ Văn Hiểu, 2012).
Ở đây chúng tôi xin chỉ tổng hợp liệt kê ra các công trình tiêu biểu chứ
không đi sâu vào trình bày nội dung hay những đóng góp của các công trình.
Theo Nguyễn Ngọc Thiện trong bài viết “Vấn đề người đọc - Tiếp nhận
trong lý luận tiểu thuyết ở Việt Nam từ nửa sau TK XX cho đến nay”, người đầu
tiên đặt nền tảng cho lý thuyết tiếp nhận ở nước ta đó là Nguyễn Văn Trung.
Tác phẩm như con quay… Nó chỉ thực sự là tác phẩm, trong lúc nó được
đọc, được xây dựng lại trong trí óc của độc giả, cũng như con quay chỉ là
con quay thực sự trong lúc nó quay. Tác phẩm văn chương thiết yếu đòi
hỏi có sự tham dự của độc giả… Độc giả là một yếu tố cấu tạo của tác
phẩm, vì nếu không có độc giả, thì không thể có tác phẩm được. Tác giả,
tác phẩm, độc giả là một, hay nói cách khác là những yếu tố cấu tạo vũ trụ
văn chương (Nguyễn Ngọc Thiện, 2011).
Trong cuốn Lược khảo văn học tập I (1963), Nguyễn Văn Trung đã viết:
Theo Lê Văn Hỷ, người đầu tiên đề cập đến khâu tiếp nhận như là một
phương pháp nghiên cứu mới ở Việt Nam là Nguyễn Văn Hạnh với bài viết: “Ý
kiến của Lê-nin về mối quan hệ giữa văn học và đời sống”. Ông nhận định:
“Giá trị của một tác phẩm thật ra không phải chỉ đóng khung lại trong phạm vi
sáng tác mà còn lan rộng ra đến phạm vi thưởng thức” (Nguyễn Văn Hạnh,
1971). Chính nhờ khâu “thưởng thức” tác phẩm mới có ý nghĩa xã hội thực tế
của nó. Quan điểm này đã đánh dấu một bước phát triển mới trong việc nghiên
cứu văn học và hứa hẹn sẽ có những tiêu chuẩn đánh giá mới đối với tác phẩm,
những phương pháp tiếp cận tác phẩm mới. Đỗ Văn Hiểu cũng cho rằng bài
22
viết này của Nguyễn Văn Hạnh “mang tính chất khởi động về vấn đề tiếp nhận
văn học ở Việt Nam” (Lê Văn Hỷ, 2012).
Năm 1976, nhà phê bình Hoài Thanh đã từng khẳng định trên Báo Văn
nghệ rằng: “Cần tôn trọng và phát huy hơn nữa quyền làm chủ của người đọc”
(Hoài Thanh, 1976). Theo Phạm Quang Trung thì đây là một nhận định “giàu
tính tiên phong” (Phạm Quang Trung, 2013). Từ đó đã đặt ra rất nhiều vấn đề
cần được giải đáp.
Năm 1978, bài viết Song đề của “Mỹ học tiếp nhận” của Manfred
Nowman do Huỳnh Vân dịch được đăng trên Tạp chí Văn học. Bài viết này đã
góp phần giới thiệu với công chúng Việt Nam về một quan điểm mới về vấn đề
tiếp nhận văn học. Tác giả đã phản bác lại quan điểm của H.R. Jauss về vấn đề
tiếp nhận, cũng như về chức năng thanh lọc của tác phẩm đối với người đọc
trong quá trình tiếp nhận (Lê Văn Hỷ, 2015).
Năm 1979, Hoàng Ngọc Hiến với bài viết “Về một đặc điểm của văn học
và nghệ thuật ở ta trong giai đoạn vừa qua” đã đặt ra một vấn đề đó là xem quá
trình nghệ thuật như là quá trình phản ánh và thông báo. Bài viết thể hiện một
cái nhìn tiến bộ, khách quan của nhà nghiên cứu thể hiện sự hài hòa giữa lý
thuyết sáng tạo và lý thuyết tiếp nhận (Hoàng Ngọc Hiến, 1979).
Năm 1982, Vương Anh Tuấn đã khẳng định rằng người đọc có một vị trí
và vai trò tích cực trong đời sống văn học (Vị trí và vai trò tích cực của người
đọc trong đời sống văn học). Người viết đã nêu lên và phân tích một số hình
thái, đặc điểm chung của người đọc, làm tiền đề cho những nghiên cứu sâu và
cụ thể hơn.
Năm 1985, mỹ học tiếp nhận của trường phái Konstanz đã được Nguyễn
Văn Dân giới thiệu tổng quan thông qua bài viết “Tiếp nhận “Mĩ học tiếp
nhận” như thế nào?” trên tạp chí Thông tin khoa học xã hội. Năm 1986, với bài
viết “Nghiên cứu sự tiếp nhận văn học trên quan điểm liên ngành”, Nguyễn
Văn Dân đề xuất một khái niệm mới trong tiếp nhận văn học đó là: ngưỡng tâm
23
lý. Năm 1991, ông giới thiệu chuyên đề “Văn học nghệ thuật và sự tiếp nhận”.
Chuyên đề này đề cập đến những khái niệm quan trọng của tiếp nhận văn học:
người đọc, tầm đón nhận, khoảng cách thẩm mỹ, ngưỡng tiếp nhận, phản tiếp
nhận… Năm 1999, ông nhận được giải thưởng lý luận phê bình năm 2000 của
Hội Nhà văn Việt Nam với tập tiểu luận tổng hợp các bài viết trước đó của
mình: “Nghiên cứu văn học lý luận và ứng dụng”. Năm 2004, tác giả Nguyễn
Văn Dân giới thiệu chuyên luận “Phương pháp luận nghiên cứu văn học”. Như
vậy, chúng ta có thể nhận thấy được những đóng góp rất lớn của Nguyễn Văn
Dân đối với việc giới thiệu lí thuyết tiếp nhận ở nước ta.
Năm 1986, Công trình “Lí luận văn học - Tập 1” của nhà xuất bản Giáo
dục được thực hiện nhằm mục đích dùng cho các trường đại học sư phạm.
Trong cuốn sách này có một chương về “bạn đọc và tiếp nhận văn học” do
Trần Đình Sử phụ trách. Trong phần này, người viết trình bày một số đặc điểm
về tiếp nhận văn học cũng như bản chất của nó đồng thời đề cao vai trò của
người đọc trong lịch sử văn học.
Năm 1990, Trần Đình Sử công bố bài viết “Xung quanh việc tiếp nhận văn
học hiện nay”. Với bài viết này, ông tập trung vào loại người đọc đặc biệt là
nhà chuyên môn – nhà phê bình trong việc đánh giá chính xác tác phẩm, tránh
sự không hiểu nhau giữa nhà văn, nhà phê bình và công chúng bạn đọc đông
đảo.
Năm 1990, trong công trình “Văn học và hiện thực” của Viện Văn học có
bài “Quan hệ văn học – hiện thực và vấn đề tác động, tiếp nhận và giao tiếp
thẩm mỹ” của Huỳnh Vân. Ông cho rằng: “phải nghiên cứu trên cả hai mặt lý
luận và lịch sử văn học vấn đề tác động và tiếp nhận văn học và nghệ thuật”
(Huỳnh Vân, 1990, tr.221). Cùng năm đó, tác giả tiếp tục công bố bài “Nhà
văn, bạn đọc và hàng hóa sách hay văn học và sự dị trị” trên Tạp chí Văn học.
Trong bài viết này, ông khẳng định sự tác động của những yếu tố kinh tế đến
mối quan hệ giữa sáng tác và tiếp nhận.
24
Năm 1990, Nguyễn Lai có bài “Tiếp nhận văn học một vấn đề thời sự”
trên Báo Văn nghệ số 27 (ngày 7-7-1990) và Nguyễn Thanh Hùng viết “Trao
đổi thêm về tiếp nhận văn học trên” Báo Văn nghệ số 42 (ngày 10-10-1990).
Cả hai đều nhấn mạnh đến tính chất chủ quan năng động của người đọc.
Năm 1991, Viện thông tin khoa học xã hội cho xuất bản cuốn “Văn học
nghệ thuật và sự tiếp nhận” ra đời trong đó nổi bật là hai bài viết của Trần Đình
Sử (Mấy vấn đề lí luận tiếp nhận văn học) và của Nguyễn Văn Dân (Lý luận
tiếp nhận văn học với sự tiếp nhận văn học – nghệ thuật thế giới ở Việt Nam ta
hiện nay). Còn lại là các công trình dịch thuật lý thuyết của các tác giả khác.
Năm 1992, lý thuyết tiếp nhận văn học bắt đầu được giảng dạy trong
chương trình Ngữ Văn 12 - tập 2 với bài “Các giá trị văn học và tiếp nhận văn
học” do Trần Đình Sử viết. Đến năm 2000, sau khi chỉnh sửa lại sách giáo khoa
thì Lê Ngọc Trà vẫn giữ lại phần này.
Năm 1997, Phương Lựu cho xuất bản giáo trình “Tiếp nhận văn học” sau
đó là “Mười trường phái lý luận phê bình văn học phương Tây đương đại”, “Lý
luận phê bình văn học phương Tây thế kỷ XX” và gần đây là công trình do ông
chủ biên “Lý luận văn học – văn học – nhà văn – bạn đọc”.
Năm 1998 xuất hiện chuyên luận Từ văn bản đến tác phẩm văn học của
Trương Đăng Dung.
Năm 1999 có bài “Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học” của Trần
Đình Sử trên Tạp chí Sông Hương số 124 tháng 06-1999.
Năm 2009, Huỳnh Vân trở lại vấn đề mỹ học tiếp nhận qua bài “Vấn đề
Tầm đón nhận và xác định tính nghệ thuật trong mỹ học tiếp nhận của Hans
Robert Jauss” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học. Như tiêu đề bài viết đã
cho biết, bài viết lý giải khá sâu về một trong những khái niệm then chốt của mỹ
học tiếp nhận: tầm đón đợi. Năm 2010, Huỳnh Vân tiếp tục công bố trên tạp chí
Nghiên cứu Văn học bài viết: “Hans Robert Jauss: lịch sử văn học là lịch sử
tiếp nhận”. Với bài viết này, ông đã cung cấp thêm cho người đọc những quan
25
điểm của H. R. Jauss về việc đổi mới lịch sử văn học trở thành lịch sử văn học
của người đọc. Theo nhận xét của Lê Văn Hỷ, Huỳnh Vân là người nghiên cứu
chuyên sâu về lý thuyết tiếp nhận trên thế giới vì thế những công trình nghiên
cứu của ông rất đáng tin cậy (Lê Văn Hỷ. 2012).
Năm 2011, Nguyễn Văn Dân với bài viết “Một số phương pháp chủ yếu
được vận dụng trong văn học so sánh” đã đề cập đến phương pháp xã hội học
tiếp nhận cũng như phương pháp tâm lý học tiếp nhận.
Bên cạnh đó còn có các đề tài khoa học cấp bộ về tiếp nhận văn học Mỹ tại
Việt Nam của Nguyễn Hữu Hiếu – 2001, về tiếp nhận L. Tolstoi của Nguyễn
Văn Kha – 2004.
Các luận án, luận văn như: “Lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều” của Phan
Công Khanh - 2001; “Vấn đề tiếp nhận Dostoievski tại Việt Nam” của Phạm
Thị Phương - 2002; “Thơ Pushkin trong đời sống văn học Việt Nam (từ góc độ
dịch nghệ thuật và tiếp nhận văn học)”, luận văn thạc sỹ Ngữ văn, Đại học
KHXH và NV TP.HCM (2000) của Vũ Xuân Hương; “Việc tiếp nhận văn xuôi
cổ điển Nga thế kỷ XIX ở Việt Nam” của Trần Thị Quỳnh Nga – 2005, luận án
này in thành sách năm 2010 có tiêu đề “Tiếp nhận văn xuôi Nga thế kỷ XIX ở
Việt Nam”. Bản thân những vấn đề của lý thuyết tiếp nhận như mối quan hệ
giữa văn bản và người đọc cũng được bước đầu giải quyết qua luận án Tác
phẩm văn học nhìn từ mối quan hệ giữa văn bản và người đọc của Lê Thị Hồng
Vân – 2007, Vấn đề chủ thể tiếp nhận qua lịch sử tiếp nhận Thơ mới của Mai
Thị Liên Giang – 2008… cũng đã góp phần giới thiệu một cách toàn diện lí
thuyết tiếp nhận văn học ở Việt Nam (Lê Văn Hỷ, 2012).
Vấn đề tiếp nhận văn học đang là mảnh đất màu mỡ nhiều tiềm năng để
các nhà nghiên cứu khai thác. Trong phạm vi của đề tài này, chúng tôi chỉ xin
trình bày một cách khái lược về những khái niệm cơ bản, những quan niệm nổi
bật cũng như những vấn đề liên quan tới đề tài. Vẫn còn rất nhiều điểm chưa
được đề cập tới, chúng tôi sẽ khai thác trong những công trình sau.
26
1.2. Về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều
Vì trọng tâm nghiên cứu của luận văn là vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên
thế giới nên ở phần này chúng tôi chỉ xin điểm qua những thông tin cơ bản nhất
về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều.
1.2.1. Đôi nét về tác giả Nguyễn Du
1.2.1.1. Gia thế và cuộc đời của Nguyễn Du
Đối với cuộc đời của Nguyễn Du, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu
chuyên sâu của những nhà nghiên cứu nổi tiếng như Nguyễn Bách Khoa
(Nguyễn Du và Truyện Kiều. 1942), Hoài Thanh (Quyền sống của con người
trong Truyện Kiều của Nguyễn Du. 1949), Vũ Hoàng Chương – Nguyễn Sỹ Tế
– Nguyễn Văn Trung – Trần Bích Lan – Đinh Hùng – Doãn Quốc Sỹ – Việt Tử
– Trần Thanh Hiệp – Phạm Thếng – Thanh Tâm Tuyền – Vũ Khắc Khoan –
Nguyễn Thị Sâm (Chân Dung Nguyễn Du. 1960), Mai Quốc Liên - Nguyễn
Minh Hoàng (Nguyễn Du toàn tập. 1996), Nguyễn Thạch Giang - Trương
Chính (Nguyễn Du - niên phổ và tác phẩm. Nxb Văn hóa thông tin. 2000),
Trịnh Bá Dĩnh (Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm. Nxb Giáo dục. 2002),
Trần Đình Sử (Địa vị lịch sử của thi hào Nguyễn Du trong văn học Việt Nam),
Đinh Sĩ Hồng (Họ Nguyễn Tiên Điền và khu Di tích Nguyễn Du. Nxb Nghệ
An. 2005), Phan Huy Đông (Giai thoại Tổ nội - Tổ ngoại của Đại thi hào
Nguyễn Du. Nxb Thông tin và Truyền thông. 2015), Nguyễn Đình Chú (Lại nói
về côi nguồn của họ Nguyễn Tiên Điền. 2015)… Trên đây là một số nhà nghiên
cứu cũng như những công trình tiêu biểu nghiên cứu về cuộc đời của Đại thi
hào dân tộc Nguyễn Du, vẫn còn rất nhiều các công trình khác mà chúng tôi
chưa thể kể hết ở đây. Trên cơ sở các kết quả nghiên cứu của người đi trước,
chúng tôi xin khái lược về gia thế và cuộc đời của Nguyễn Du như sau:
Về gia thế, Nguyễn Du là con cháu họ Nguyễn Tiên Điền thuộc dòng dõi
quý tộc, có gia thế lớn bậc nhất huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Cho đến ngày
27
nay, tại vùng đất hội tụ địa linh nhân kiệt – Hà Tĩnh, người dân vẫn còn lưu
truyền câu ca dao:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cây
Sông Rum hết nước, họ này hết quan”
(Ca dao)
Vào thời Lê sơ, họ Nguyễn ở làng Canh Hoạch, huyện Thanh Oai, tỉnh Hà
Đông (nay là huyện Thanh Oai, Hà Nội), có nguồn gốc là Đại tộc Nguyễn Đình.
Nguyễn Đình Địch đậu Thám hoa năm 1481. Đến đời Mạc, lại có Nguyễn
Thiến đậu Trạng nguyên khoa Nhâm Thìn niên hiệu Đại Chính (1532), làm
quan đến chức Thượng thư Bộ Lại Đông Các Đại học sỹ, được phong tước Thư
quận công. Hai người con của ông là Nguyễn Quyện và Nguyễn Miễn đều được
phong tước Công. Khi Nguyễn Thiến mất, hai người con không giúp gì được
cho nhà Lê nhưng có âm mưu tạo phản. Việc không thành, cả nhà bị giết hại,
chỉ duy nhất Nguyễn Nhiệm (con trai Nguyễn Miễn) chạy thoát được vào làng
Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh mai danh ẩn tích. Nguyễn Nhiệm có
công đầu trong việc khai hóa đất hoang, nên được người đời gọi là Nam Dương
Công và được xem là tổ khải tổ của họ Nguyễn Tiên Điền. Từ đời Nam Dương
Công Nguyễn Nhiệm đến đời Nguyễn Nghiễm – phụ thân của Nguyễn Du – tất
cả là sáu đời.
Cha của Nguyễn Du là Nguyễn Nghiễm (1708 – 1776), tự là Hy Di, hiệu
Nghi Hiên. Nhờ học rộng tài cao con đường hoạn lộ của ông thăng tiến vượt
bậc, từng giữ Tể tướng trong triều đình. Sau khi mất ông được truy tặng tước
Huân dụ Đô hiến đại vương, Thượng đẳng phúc thần. Mẹ của Nguyễn Du là bà
Trần Thị Tần (1740 – 1778), vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm. Bà có xuất thân từ
làng Hoa Thiều, huyện Tiên Du (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Bà xuất thân từ nơi
nổi tiếng với những làn điệu quan họ ngọt ngào với những con người giàu xúc
cảm và chân thành. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng có lẽ đây là yếu tố đã ảnh
hưởng nhiều phần đến Nguyễn Du.
28
Dòng họ của Nguyễn Du có nhiều người làm quan dưới triều Lê – Trịnh.
Các anh của Nguyễn Du có Nguyễn Khản làm quan đến chức Tham tụng,
Nguyễn Điều làm trấn thủ Sơn Tây, Nguyễn Nễ làm quan trong phủ Chúa...
Ngoài ra Nguyễn Du còn có bác là Nguyễn Huệ (anh của Nguyễn Nghiễm) đỗ
Tiến sĩ, làm quan đồng triều với Nguyễn Nghiễm.
Gia thế Nguyễn Du không chỉ có những người làm quan to mà còn nhiều
người viết sách, làm văn… Đây là một gia đình có truyền thống văn học.
Nguyễn Quỳnh – ông nội của Nguyễn Du – là một nhà triết học chuyên nghiên
cứu Kinh dịch. Thân phụ Nguyễn Du, Nguyễn Nghiễm, là một sử gia, đồng thời
là nhà thơ, còn để lại: “Việt sử bị lãm” cùng hai tập thơ “Xuân Đình tạp vịnh”
và “Quân trung liên vịnh”; lại có sở trường quốc văn đương thời, từng làm bài
phú ứng chế “Khổng Tử mộng Chu Công” nay còn được truyền tụng. Nguyễn
Khản cũng có tiếng là giỏi thơ Nôm, thi từ còn chép lại trong “Nguyễn gia
phong vận tộc”, thường làm thơ đối đáp với Trịnh Sâm. Nguyễn Nễ còn để lại:
“Quế hiên giáp ất tập”, “Hoa trình hậu thi tập”. Khi đi sứ Tàu, ông còn xướng
họa với nhiều người Trung Quốc và Triều Tiên. Nguyễn Thiện còn để lại
“Đông phủ thi tập”, “Huyền cơ đạo thuật bí thư”: lại có nhuận sắc sách “Hoa
tiên ký” của Nguyễn Huy Tự. Nguyễn Đạm có hai tập thơ “Quan hải tập” và
“Minh quyên phổ” cùng sách “Thiên địa nhân vật sự thi”. Trong đó, có chú
cháu là Nguyễn Du và Nguyễn Hành là hai trong An Nam ngũ tuyệt (Nguyễn
Đình Chú, 2015).
Vì được sinh ra và lớn lên trong môi trường như vậy, nên Nguyễn Du đã
được thừa hưởng dòng máu kết hợp với sự ý thức sớm về tài năng của mình đã
góp phần tạo nên một Nguyễn Du – niềm tự hào của dân tộc.
Về cuộc đời Nguyễn Du, ông có tên chữ là Tố Như, tên hiệu là Thanh
Hiên, sinh ngày mồng 3 tháng 1 năm 1766 (tức ngày 23 tháng 11 năm Ất Dậu),
tại phường Bích Câu - Thăng Long (nay thuộc Hà Nội), là con thứ bảy trong gia
đình.
29
Năm 1783, Nguyễn Du thi Hương ở trường Sơn Nam, đậu Tam trường
(Tú tài). Ông lấy vợ là con gái Đoàn Nguyễn Thục và ông được tập ấm chức
Chánh thủ hiệu quân hùng hậu của cha nuôi họ Hà ở Thái Nguyên. Cũng trong
năm này anh cùng mẹ của Nguyễn Du là Nguyễn Đề đỗ đầu kỳ thi Hương ở
điện Phụng Thiên (cử Nhân) và Nguyễn Khản được thăng chức Tham tụng.
Năm 1789, Nguyễn Huệ đại phá quân Thanh. Khi Nguyễn Huệ lên ngôi khép
lại số phận của nhà Lê - Trịnh thì Nguyễn Du về sống nhờ quê vợ Thái Bình.
Trong suốt mười năm sống tại đây, ông đã phải trải qua rất nhiều khó khăn,
khổn cực, thiếu thốn tuy nhiên cũng trong thời gian này ông đã có cơ hội sống
gần gũi hơn với những người dân cùng khổ. Khi người vợ mất thì trở về Hà
Tĩnh sống cuộc đời an nhàn. Sau đó khi nhà Nguyễn lên ngôi thì ông ra làm
quan cho vua Gia Long, được tin dùng và thăng chức nhiều lần nhưng ông
không mấy thiết tha với hoạn lộ.
Tháng 10/1791, anh thứ tư cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du là Nguyễn
Quýnh do chống Tây Sơn nên bị bắt và bị giết, dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền
- Hà Tĩnh bị Tây Sơn phá hủy. Năm 1793, Nguyễn Du về thăm quê Tiên Điền
và đến cuối năm ông vào kinh đô Phú Xuân thăm anh là Nguyễn Đề đang làm
thái tử ở viện cơ mật và anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn. Năm 1794, Nguyễn Đề
được thăng Tả phụng nghi bộ Binh và vào Quy Nhơn giữ chức Hiệp tán nhung
vụ. Đến năm 1795, Nguyễn Đề đi sứ sang Yên Kinh dự lễ nhường ngôi của vua
Càn Long nhà Thanh và năm 1796 trở về được thăng chức Tả Đồng Nghị Trung
Thư Sảnh.
Năm 1796, Nguyễn Du trốn vào Gia Định theo Nguyễn Ánh, nhưng bị
Quận công Nguyễn Thận bắt giam ba tháng ở Nghệ An. Sau khi được tha ông
về sống ở Tiên Điền. Trong thời gian bị giam ông có làm thơ “My trung mạn
hứng” (Cảm hứng trong tù). Năm 1802, Vua Gia Long diệt nhà Tây Sơn.
Nguyễn Du ra làm quan Tri huyện Phù Dung, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam
(nay thuộc tỉnh Hưng Yên). Mấy tháng sau thăng Tri Phủ Thường Tín, trấn Sơn
30
Nam Thượng (nay thuộc Hà Nội). Năm 1803, Nguyễn Du được cử lên ải Nam
Quan tiếp sứ nhà Thanh sang phong sắc cho vua Gia Long. Năm 1805, ông
được thăng Đông Các Đại Học Sĩ (hàm Ngũ phẩm), tức Du Đức hầu và vào
nhận chức ở kinh đô Phú Xuân. Năm 1807, ông được cử làm giám khảo kỳ thi
Hương ở Hải Dương. Mùa thu năm 1808 ông xin về quê. Năm 1809 ông được
bổ chức Cai bạ (hàm Tứ phẩm) ở Quảng Bình. Năm 1813, ông được thăng Cần
chánh điện học sĩ và được cử làm Chánh sứ sang nhà Thanh. Năm 1814 ông đi
sứ về, được thăng Hữu tham chi bộ Lễ (hàm Tam phẩm).
Năm 1820, vua Gia Long qua đời, Minh Mạng nối ngôi. Lúc này Nguyễn
Du được cử đi làm chánh sứ sang nhà Thanh báo tang và cầu phong, nhưng
chưa kịp đi thì ông bị bệnh dịch chết ngày mồng 10 tháng 8 năm Canh Thìn
(18-9-1820) thọ 54 tuổi. Mộ ông nguyên táng tại làng An Ninh, huyện Hương
Trà (gần sau chùa Thiện Mụ). Năm 1824, người ta cải táng ông và đưa về quê
nhà Tiên Điền, Hà Tĩnh.
Năm 1965 ông được Hội đồng hòa bình thế giới của UNESCO công nhận
là danh nhân văn hóa thế giới và quyết định kỉ niệm trọng thể nhân dịp 200 năm
năm sinh của ông.
Nguyễn Du đã sống một cuộc đời nhiều thăng trầm. Ông sinh ra ở một giai
đoạn lịch sử nhiều biến cố, nhiều cuộc chuyển giao quyền lực diễn ra. Nhất là
khi gia đình rơi vào biến cố, bị mất tất cả, cuộc đời ông rơi vào một khoảng tối
tăm, mù mịt. Thế nhưng, những khó khăn vất vả mà cuộc đời đem lại không
làm ông chùn bước mà có lẽ bi kịch lớn nhất của cuộc đời ông đó chính là
không được thỏa chí vẫy vùng bốn phương. Khoảng thời gian lưu lạc ấy đã
mang lại cho ông rất nhiều vốn hiểu biết về đời sống nhân sinh từ đó hình thành
trong ông một nỗi cảm thương sâu sắc đối với những kiếp người nhỏ bé. Ông
nhìn đời với con mắt của một người từng trải kết hợp với một tâm hồn giàu lòng
trắc ẩn đã góp phần làm cho những sáng tác của ông chứa đựng những giá trị
nhân văn sâu sắc.
31
1.2.1.2. Sự nghiệp sáng tác của Nguyễn Du
Bên cạnh những đóng góp lớn về mặt chính trị, Nguyễn Du còn là một nhà
thơ kiệt xuất. Tác phẩm của ông không nhiều về số lượng nhưng rất chất lượng,
bao gồm cả tác phẩm chữ Hán lẫn chữ Nôm.
Năm 1959, sự nghiệp thơ chữ Hán của Nguyễn Du được ba nhà Nho là:
Bùi Kỷ, Phan Võ và Nguyễn Khắc Hanh sưu tầm, phiên dịch, chú thích và giới
thiệu tập: “Thơ chữ Hán Nguyễn Du” (Nxb Văn hóa, 1959) gồm có 102 bài.
Đến năm 1965, Nxb Văn học đã xuất bản cuốn “Thơ chữ Hán Nguyễn Du - tập
mới” do Lê Thước và Trương Chính sưu tầm, chú thích, phiên dịch, sắp xếp,
gồm 249 bài được chia thành ba tập như sau:
“Thanh Hiên thi tập” còn gọi là “Thanh Hiền tiền hậu tập” (Tập thơ của
Thanh Hiên) gồm 78 bài thơ trong giai đoạn 1786-1804, gồm 10 năm gió bụi,
ông sống ở Thái Bình quê vợ, 6 năm trở lại nhà dưới chân núi Hồng, và 2 năm
làm chi huyện ở huyện Bắc Hà. Tập thơ là các bài viết chủ yếu trong những
năm tháng trước khi làm quan nhà Nguyễn.
“Nam trung tạp ngâm” (Ngâm nga lặt vặt lúc ở miền Nam) gồm 40 bài,
giai đoạn 1805-1812, ông được thăng hàm Đông các đại học sĩ, làm quan ở
Kinh Đô 5 năm và làm cai bạ ở Quảng Bình 3 năm
“Bắc hành tạp lục” (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc)
gồm 131 bài thơ, giai đoạn 1813-1814, viết trong chuyến đi sứ sang Trung
Quốc.
Tuy nhiên mảng sáng tác chữ Nôm lại góp phần mang tên tuổi của Nguyễn
Du vươn xa hơn. Nổi bật nhất trong số đó là tác phẩm“Đoạn trường tân thanh”
(Tiếng kêu mới nghe đứt ruột) hay được nhân dân gọi bằng cái tên thân thuộc
“Truyện Kiều”, được viết bằng chữ Nôm theo thể thơ lục bát, gồm 3254 câu.
Tác phẩm thứ hai là “Văn chiêu hồn” (tức “Văn tế thập loại chúng sinh”, dịch
nghĩa: Văn tế mười loại chúng sinh), còn có tên gọi khác “Văn tế chiêu hồn”,
được làm theo thể song thất lục bát, gồm 184 câu thơ chữ Nôm. Ngoài ra, sáng
32
tác chữ Nôm của Nguyễn Du còn có: “Thác lời trai phường nón”, 48 câu, được
viết bằng thể lục bát. Và “Văn tế sống Trường Lưu nhị nữ”, 98 câu, viết theo lối
văn tế.
Với số lượng tác phẩm không quá đồ sộ nhưng Nguyễn Du đã có những
đóng góp to lớn về mặt tư tưởng, nghệ thuật cho giai đoạn văn học trung đại nói
riêng và văn học Việt Nam nói chung, xứng đáng là Đại thi hào của dân tộc.
Về phương diện tư tưởng, ông đã để lại cho hậu thế những tác phẩm có giá
trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Các tác phẩm thơ chữ Hán của Nguyễn
Du được xem như những trang nhật ký đời sống mà ở đó nhà thơ ghi chép lại
mọi thứ đang diễn ra xung quanh cuộc sống mình. Ở đó ghi lại một cách chân
thực nhất những năm tháng đói khổ, bệnh tật cũng những tâm tư tình cảm của
nhà thơ trước thực tại lịch sử. Có thể kể đến những bài thơ như “Thu dạ - Bài
II”, “Hành lạc từ”. Đặc biệt trong tập “Bắc hành tạp lục”, đã không ít lần
Nguyễn Du phơi bày bộ mặt của xã hội phong kiến Trung Quốc. Thay vì ca
ngợi sự phồn vinh của đại quốc, ông đã chọn hướng về những người cùng khổ.
Đó là những anh đẩy xe, những xác chết đói bên đường, những người hành khất
nghèo đói,… Trong bài viết “Địa vị lịch sử của thi hào Nguyễn Du trong văn
học Việt Nam”, Trần Đình Sử có đoạn phân tích về hiện thực được phơi bày
Nguyễn Du đã vẽ lên một bức tranh hiện thực ghê rợn: “Thành quách thế,
nhân dân khác hẳn, Bụi bay, trông nhơ bẩn áo người. Vênh vang xe cộ, lâu
đài, Đứng ngồi bàn tán sánh vai Cao, Quì. Họ ngoài mặt không thò nanh
vuốt, Cấu xé người nhai nuốt ngọt ngon. Hồ Nam kia mấy trăm chòm, Gầy
còm xơ xác, không còn thịt da”. Và Nguyễn Du khuyên Khuất Nguyên
chớ trở về, bởi “Đời sau ai ai cũng đều là Thượng Quan, Mặt đất đâu đâu
cũng là sông Mịch La. Cá rồng không ăn thịt thì hùm sói cũng không tha”.
trong bài thơ “Phản chiêu hồn” của Nguyễn Du như sau:
33
Nguyễn Du đã bày tỏ một lập trường không khoan nhượng đối với thực tại
đen tối (Trần Đình Sử, 2015).
Thơ Nôm của Nguyễn Du: Truyện Kiều, Văn Chiêu hồn là những câu hỏi
về xã hội, về đời người, kiếp người. Thơ chữ Hán của Nguyễn Du cũng là
một câu hỏi mãi mãi; ở trên là hỏi chung cho mọi người, ở dưới là hỏi cho
mình nữa, hỏi thiết thân đến mình, nhưng mình đây chẳng qua là một bản
người cụ thể, cá thể trong loài và kiếp người chung (Xuân Diệu, 2001).
Xuân Diệu cũng từng nhận xét rằng:
Trước những hiện thực phũ phàng ấy của cuộc đời đã khơi dậy ở Nguyễn
Du sự đồng cảm đối với những kiếp người nhỏ bé trong xã hội. Trong thơ chữ
Hán Nguyễn Du có những bài thể hiện lóng xót thương vô hạn đối với những
người phụ nữ tài sắc chịu số phận oan trái trong cuộc biến động của lịch sử. Bài
thơ “Bài ca người gẩy đàn ở Long Thành” kể về số phận đáng thương của một
người gẩy đàn tài hoa xinh đẹp trong cung ngày trước, sau cơn đổi thay triều
đại, nay trở thành người đàn bà tiều tuỵ: “Tiệc hoa đủ những mặt hoa, Phía sau
có một bóng già hoa râm, Võ vàng khô héo sắc thần, Đôi mày liễu úa, sắc thân
mai gầy, Tài danh thời đó ai hay, Tiếng ca nghe đúng khúc này năm xưa. Lệ tôi
tầm tã tuôn mưa, Nhớ ra người cũ bên hồ bấy lâu”. Cả bài thơ thấm đẫm một
giọng ngậm ngùi, ai oán. Trong quan niệm về tài hoa bạc mệnh, trước hết
Nguyễn Du ý thức mạnh mẽ về số phận của chính mình. Trong bài “Độc Tiểu
Thanh kí”. Nguyễn Du mượn câu chuyện về nàng Tiểu Thanh tài sắc mà bạc
mệnh để liên hệ tới số phận của mình: “Bất tri tam cách dư niên hậu/ Thiên hạ
hà nhân khấp Tố Như”. Cảm hứng về người tài hoa bạc mệnh luôn hiện diện
trong suốt cuộc đời của Nguyễn Du. Đó là “một tình cảm xót thương giành cho
những giá trị hiếm hoi của nhân loại, một lời nhắn gửi đối với hậu thế hãy xót
thương, trân trọng người tài” (Trần Đình Sử, 2015). Chính vì thế mà Nguyễn
34
Du được xem là gương mặt tiêu biểu nhất của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa trong
giai đoạn văn học trung đại nói riêng và văn học Việt Nam nói chung. Khi công
nhận Nguyễn Du là danh nhân văn hóa thế giới, bà Katherine Muller Marin,
trưởng đại diện tổ chức UNESCO tại Việt Nam, cũng đã khẳng định những
đóng góp của Nguyễn Du về tư tưởng nhân đạo, tinh thần nhân văn mang tầm
vóc quốc tế, đấu tranh cho cuộc sống hòa bình, hạnh phúc của con người, góp
phần rất lớn vào sự phát triển của văn học dân tộc và của cả nhân loại.
Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Du vốn là nhà thơ có học vấn uyên
bác, nắm vững nhiều thể thơ cũng như thi pháp của văn học Trung Quốc (ngũ
ngôn cổ thi, ngũ ngôn luật, thất ngôn luật, ca, hành...). Do đó ở thể thơ nào, ông
cũng để lại những bài xuất sắc. Bên cạnh đó, ông cũng là người góp phần gìn
giữ và phát huy thể thơ dân tộc đó là lục bát và song thất lục bát. Điều đặc biệt
cần nhấn mạnh đó chính là việc Nguyễn Du đã đưa ngôn ngữ dân tộc lên một
tầm cao mới. Khi nhận xét về ngôn ngữ thơ Nguyễn Du, Đoàn Lê Giang có
Truyện Kiều đã đưa tiếng Việt trở thành một thứ ngôn ngữ văn hóa sánh
ngang với các ngôn ngữ lớn nhất trên thế giới. Truyện Kiều là bằng chứng
hùng hồn nhất cho sức sống tiềm tàng của ngôn ngữ dân tộc, của văn hóa
dân tộc, và cũng là của bản lĩnh dân tộc - một dân tộc dù gian khổ, tủi nhục
bao nhiêu, nhưng vẫn không bao giờ chịu bị đồng hóa, không chịu cúi đầu
(Đoàn Lê Giang, 2015).
viết:
Thơ Nguyễn Du không chỉ là tiếng lòng của cá nhân nhà thơ nữa mà nó
như được cất lên từ bất kì số phận nào trong cuộc đời. Đỉnh cao của nghệ thuật
ngôn từ được Nguyễn Du thể hiện ở Truyện Kiều. Tác phẩm mà đối với ông là
để “mua vui cũng được một vài trống canh” ngày nay đã trở thành quốc bảo
35
của nền thơ ca nước nhà. Không phải ngẫu nhiên mà Phạm Quỳnh đã nhận xét:
“Truyện Kiều còn, tiếng ta còn, tiếng ta còn, nước ta còn” (Hoài Thanh, 1942).
1.2.2. Về tác phẩm Truyện Kiều
Truyện Kiều được xem là đỉnh cao nghệ thuật của Nguyễn Du. Tác phẩm
có vị trí và tầm ảnh hưởng lớn nhất định đối với văn học Việt Nam. Truyện
Kiều có tên gốc là Đoạn trường tân thanh (Tiếng kêu mới nghe đứt ruột).
Truyện Kiều là cách gọi do nhân dân đặt, vốn lấy tên nhân vật chính để đặt cho
truyện nhằm dễ nhớ dễ thuộc. Truyện Kiều được viết bằng chữ Nôm, gồm 3254
câu thơ theo thể lục bát. Cốt truyện của tác phẩm dựa theo Kim Vân Kiều truyện
của Thanh Tâm Tài Nhân, vốn là một tiểu thuyết chương hồi tại Trung Quốc.
Nội dung chính của truyện xoay quanh cuộc đời của Thúy Kiều, một cô gái có
tài sắc nhưng bạc mệnh. Từ nhân vật này cùng tương quan với các nhân vật
xung quanh Kiều, Nguyễn Du thể hiện nhân sinh quan về cuộc đời, về thời
cuộc, đồng thời bộc lộ tiếng nói nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm được chia thành ba
phần: Gặp gỡ và đính ước - Gia biến và lưu lạc - Đoàn viên.
Truyện Kiều ra đời vào khoảng cuối thế kỷ XIX. Hiện nay, các nhà nghiên
cứu vẫn chưa tìm thấy chính xác Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều vào thời
điểm nào. Trong bài viết “Nguyễn Du và Truyện Kiều trong truyền thống dân
gian” (1965), Lê Văn Hảo đã tổng hợp được ba giả thuyết như sau: Quan điểm
thứ nhất dựa vào “Đại Nam chính biên liệt truyện” cho rằng Nguyễn Du sáng
tác Truyện Kiều sau khi đi sứ Trung Quốc về (nghĩa là sau năm 1813). Quan
điểm thứ hai là của Đào Duy Anh, Hoàng Xuân Hãn và Hoài Thanh, các nhà
nghiên cứu cho rằng Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều trong những năm mới ra
làm quan với nhà Nguyễn (từ 1802 đến 1809). Quan điểm thứ ba do Trương
Chính chứng minh đó là Truyện Kiều được sáng tác trong khoảng thời gian
Nguyễn Du sống ẩn dật trước khi ra làm quan cho nhà Nguyễn (từ 1796 đến
1801) (Lê Xuân Lít, 2005). Đa số các nhà nghiên cứu đồng tình với quan điểm
36
thứ ba. Đây là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu đi tìm câu trả lời trong suốt
thời gian vừa qua nhưng vẫn còn bỏ ngõ.
Về phương diện nội dung, các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng Truyện
Kiều là tác phẩm thể hiện giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Tác phẩm
được xem như một bản cáo trạng dành cho xã hội phong kiến với sức mạnh của
đồng tiền đã chà đạp lên quyền sống của những số phận nhỏ bé. Như Hoài
Thanh từng nhận xét: “Quan lại vì tiền mà bất chấp công lí, sai nha vì tiền mà
tra tấn cha con Vương Ông, Tú Bà, Mã Giám Sinh vì tiền mà làm nghề buôn thịt
bán người, Sở Khanh vì tiền mà táng tận lương tâm, Khuyển Ưng vì tiền mà lao
vào tội ác, cả một xã hội chạy theo đồng tiền”. Từ hiện thực ấy, Nguyễn Du đã
cất lên tiếng nói đồng cảm sâu sắc đối với những tầng lớp bị đàn áp trong xã
hội, đặc biệt là người phụ nữ. Bên cạnh đó, ông còn đề cao tinh thần đấu tranh
đòi lại quyền tự do, hạnh phúc cho con người. Chính vì thế mà Truyện Kiều
mang giá trị tư tưởng tầm vóc quốc tế và được giới nghiên cứu trên thế giới
quan tâm đến.
Về phương diện nghệ thuật, Nguyễn Du chọn thể loại truyện thơ Nôm,
một thể loại văn học truyền thống của dân tộc có nguồn gốc từ truyện thơ dân
gian, để chuyên chở nội dung của mình song ông đã có những cải biên đối với
thể loại này nhằm làm cho nó mang tính chất bác học hơn. Nhắc đến Truyện
Kiều thì ta không khỏi ấn tượng bởi ngôn ngữ thơ cô đọng, hàm súc, giàu tính
gợi hình, gợi cảm, được chọn lọc, gọt giũa kĩ càng, sử dụng nhiều điển tích điển
cố của Trung Quốc nhưng không kém phần bình dị, gần gũi với lời ăn tiếng nói
hằng ngày của người Việt. Truyện Kiều đã thật sự đưa ngôn ngữ dân tộc lên một
tầm cao mới. Thể thơ lục bát dân tộc được Nguyễn Du vận dụng một cách triệt
để. Ở đây, Nguyễn Du không đơn thuần là kể chuyện nữa mà ông còn lồng ghép
vào những đoạn miêu tả cảnh cũng như nội tâm nhân vật làm cho tác phẩm giàu
tình cảm hơn. Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng các bút pháp của thơ xưa vào tác
phẩm của mình như bút pháp chấm phá, tả cảnh ngụ tình... Bên cạnh đó,
37
Nguyễn Du đã sử dụng nghệ thuật xây dựng nhân vật tài tình để tạo ra những
hình tượng nhân vật điển hình là đại diện cho những hạng người khác nhau
trong xã hội trong đó bút pháp ước lệ tượng trung được ông sử dụng rất thành
công.
1.3. Khái quát tình hình tiếp nhận Truyện Kiều trên thế giới
Theo Trần Nho Thìn, Truyện Kiều là tác phẩm có một “lịch sử tiếp nhận
phong phú nhất và phức tạp nhất” trong lịch sử văn học Việt Nam (Trần Nho
Thìn, 2015). Nhà nghiên cứu Phong Lê đã từng nhận xét rằng: “200 năm không
lúc nào ngừng nghỉ việc nói, kể, nghe, đọc, bàn, luận, khen - chê, tranh cãi về
Kiều trên rất nhiều quan niệm, nhiều chỗ đứng khác nhau; nhưng dẫu có giống
nhau, khác nhau, hoặc đối lập nhau thì thế giới người đọc Truyện Kiều vẫn
luôn luôn là sự mở mang, sự nhân rộng, sự cuốn hút trước một đối tượng, càng
theo thời gian càng khẳng định giá trị trường tồn và bất hủ” (Phong Lê, 2011).
Nhà văn Chế Lan Viên từng viết: “Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành
văn” (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?). Văn ở đây là cái đẹp, đất nước đẹp
thêm lên nhờ Truyện Kiều. Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng Truyện Kiều là tấm
danh thiếp văn hóa của Việt Nam để đi ra thế giới.
Trong bài phát biểu tại Lễ kỷ niệm 250 năm ngày sinh Đại thi hào Nguyễn
Du, bà Katherine Muller Marin đã nhận xét: “Chúng ta nhớ đến những cống
hiến của Nguyễn Du cho nền văn hóa nghệ thuật của Việt Nam và nhớ đến tác
phẩm nổi tiếng của ông - Truyện Kiều - một trong những tác phẩm văn hóa trứ
danh trên thế giới”. Bà cũng đưa ra năm mối liên hệ giữa tác phẩm của Nguyễn
Du với các hoạt động đặc trưng của UNESCO. Đó là khát vọng hòa bình, chủ
nghĩa nhân văn, giá trị gia đình, truyền thống văn hóa và bình đẳng giới. Kết
thúc bài phát biểu bà đã đọc hai câu Kiều: “Thiện căn ở tại lòng ta/ Chữ tâm kia
mới bằng ba chữ tài”.
Theo Đặng Thai Mai thì “mỗi một thời đại, mỗi một giai tầng xã hội đều
đã nhận xét tác phẩm của Nguyễn Du theo một quan niệm riêng biệt” (Đặng
38
Thai Mai, 1955). Trần Nho Thìn cũng có những lưu ý khi áp dụng những lí
thuyết mới của phương Tây và nghiên cứu Truyện Kiều: “Văn học Việt Nam
trong đó có Truyện Kiều là thực tế văn học phương Đông, cần hiểu đúng thực
tế của nền văn học này trước khi áp dụng các lí thuyết văn học chủ yếu được
khái quát từ nên văn học phương Tây” (Trần Nho Thìn, 2015).
Về vấn đề phân chia giai đoạn lịch sử tiếp nhận Truyện Kiều ở Việt Nam
được Trần Nho Thìn trình bày trong công trình “Các vấn đề tiếp nhận Truyện
Kiều qua lịch sử tiếp nhận hai thế kỷ” bao gồm 4 giai đoạn:
Giai đoạn 1 (thế kỷ XIX) là giai đoạn mang dấu ấn của quan niệm mỹ học
trung đại trong thế kỷ XIX nên việc tiếp nhận chủ yếu trên phương diện cảm
nhận chủ quan, tìm kiếm sự đồng điệu. Giai đoạn 2 (nửa đầu thế kỷ XX) là đọc
chịu ảnh hưởng của các lý thuyết phương Tây với sự hình thành của một kiểu
người đọc mới - nhà phê bình, đánh dấu bước phát triển mới trong lĩnh vực
nghiên cứu văn học. Giai đoạn 3 là giai đoạn mà việc đọc chịu ảnh hưởng chủ
yếu của lý luận văn học Nga Xô - viết. Giai đoạn 4 (sau năm 1975) là giai đoạn
việc đọc được đa dạng hóa với nhiều lý thuyết, nhiều phương pháp nghiên cứu
tác phẩm hơn (Trần Nho Thìn, 2015).
Đối với vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên thế giới, theo các nghiên cứu
của Đoàn Lê Giang Và Trần Nho Thìn, cho đến nay Truyện Kiều đã được dịch
sang 23 thứ tiếng với trên 70 bản dịch. Thêm vào đó, Truyện Kiều đã được đưa
vào Bộ Từ điển các tác phẩm của tất cả các thời đại và các xứ sở (Dictionnaire
des oeuvres de Tous les Temps et de Tous les Pays) (Lê Thu Yến, 2015).
Những sự kiện trên đã đánh dấu một bước phát triển vượt bật trong hành trình
vươn ra thế giới của một tác phẩm ở một đất nước bé nhỏ. Có lẽ những trăn
trở của Đại thi hào dân tộc: “Bất tri tam bách dư niên hậu, Thiên hạ hà nhân
khấp Tố Như” (Độc Tiểu Thanh ký) đã dần trở thành hiện thực. Và “thiên hạ”
ở đây không dừng lại ở phạm vi lãnh thổ của Việt Nam nữa mà đã mở rộng ra
khắp năm châu bốn bể.
39
Những năm gần đây, vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở nước ngoài đang
được các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm và dành nhiều tâm
huyết. Có thể kể đến các tên tuổi như Vũ Đức Trinh, Nguyễn Văn Hoàn, Đoàn
Lê Giang, Nguyễn Thị Mai Phương, Từ Thị Loan, Trịnh Thị Thanh Huyền,
Lưu Chí Cường, Lê Thu Yến, Phan Thu Vân, Trần Lê Hoa Tranh, Bùi Thị
Thúy Phương, Nguyễn Thị Diệu Linh, Nguyễn Thanh Tùng, …
Theo thống kê của chúng tôi, hiện tại Truyện Kiều đã được nghiên cứu ở
các nước thuộc châu Á, châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Trong đó, tình hình tiếp
nhận sôi nổi nhất là khu vực châu Á bởi có sự gặp gỡ nhau về văn hóa và gần
gũi nhau về địa lí. Tuy nhiên, nơi mà Truyện Kiều đặt chân đến đầu tiên lại là
châu Âu, cụ thể là nước Pháp (1884). Ở châu Mỹ và châu Úc tuy chưa có nhiều
công trình nghiên cứu Truyện Kiều nhưng hứa hẹn sẽ mang lại những hướng
tiếp nhận mới mẻ đối với tác phẩm của Nguyễn Du.
40
Tiểu kết Chương 1
Như vậy, lí thuyết tiếp nhận văn học đã du nhập vào Việt Nam và tạo nên
một hướng nghiên cứu mới nhiều hứa hẹn đối với giới nghiên cứu văn học ở
nước ta. Các nhà nghiên cứu văn học ở Việt Nam cũng bắt đầu quan tâm nhiều
hơn đến việc tiếp nhận văn học và dần khẳng định vai trò quan trọng của nó đối
với việc kiến giải những giá trị của tác phẩm văn học. Các nhà nghiên cứu tiếp
nhận trên thế giới đều khẳng định rằng việc tiếp nhận văn học có vai trò quyết
định đối với sự tồn tại của tác phẩm. Đặc biệt là tiếp nhận văn học có ý nghĩa
lớn trong việc nhìn nhận những tác phẩm trong quá khứ.
Đối với vấn đề tác giả và tác phẩm, vì đây là vấn đề đã được nghiên cứu rất
chi tiết và chuyên sâu ở nhiều công trình trước đây nên chúng tôi chỉ xin điểm
qua một vài nét cơ bản về tác giả Nguyễn Du và tác phẩm Truyện Kiều. Trong
Chương 1, chúng tôi xin tập trung vào việc khái quát tình hình tiếp nhận tác
phẩm Truyện Kiều trên thế giới. Qua đó cho thấy Truyện Kiều đã được giới
nghiên cứu trên thế giới quan tâm từ rất sớm. Truyện Kiều đã được dịch ra
nhiều thứ tiếng và được nghiên cứu rất sôi nổi trên văn đàn thế giới.
41
Chương 2. TRUYỆN KIỀU TRONG SỰ TIẾP NHẬN
CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH Ở CHÂU Á
2.1. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở khu vực Đông Bắc Á
2.1.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Trung Quốc
Hành trình du nhập của Truyện Kiều vào Trung Quốc đã trải qua không ít
thăng trầm giống như cuộc đời Kiều. Năm 1959, bản dịch Truyện Kiều đầu tiên
của Hoàng Dật Cầu được giới thiệu tại Trung Quốc đánh dấu cột mốc quan
trọng trong quan hệ giao lưu văn hóa giữa hai nước và số phận của tác phẩm.
Trước đây, hầu hết các tác phẩm của Trung Quốc - một nền văn hóa khổng lồ,
đều được dịch và giảng dạy ở Việt Nam mà không có chiều ngược lại. Đây là sự
kiện đặt ra cho chúng ta một câu hỏi lớn về vai trò và tầm vóc của một tác phẩm
của ở một quốc gia nhỏ bé lại gây được tiếng vang và tạo được sự chú ý của đại
quốc. Sau một khoảng thời gian dài tồn tại ở Trung Quốc, đến những năm 80
của thế kỷ XX, giới học thuật đã bắt đầu có những nghiên cứu đầu tiên về mối
quan hệ giữa hai tác phẩm Trung - Việt.
Theo Trần Đình Sử: “Truyện Kiều không hề đơn giản là tác phẩm vay
mượn. Truyện Kiều trước hết là sản phẩm của đời sống tinh thần Việt Nam, là
kết quả logic của quá trình văn học Việt Nam, sự phát triển nội tại của nhận
thức đời sống, của tiếng Việt nghệ thuật, sự chín muồi về thể thơ lục bát và
truyện thơ Nôm” (Trần Đình Sử, 1998). Nhận định trên đã được nhiều nhà
nghiên ở Việt Nam đồng thuận. Tuy nhiên, đối với một nước lớn như Trung
Quốc thì việc chấp nhận quan điểm ấy là cả một hành trình dài của ý thức tiếp
nhận.
Mối quan hệ về văn hóa và văn học giữa hai nước Việt - Trung đã được
thiết lập từ rất lâu đời. Chính về thế, sự gặp gỡ về mặt tinh thần giữa các nhà
văn của hai nước là điều hiển nhiên, như một quy luật tất yếu. Quá trình du
42
nhập của Truyện Kiều và Trung Quốc được ví như một sự trở về với nguồn cội
của mình. Hành trình ấy đã được nhiều nhà nghiên cứu ở cả Trung Quốc và
Việt Nam phân chia thành các giai đoạn tiếp nhận Truyện Kiều ở Trung Quốc.
Chúng tôi nhận thấy có nhiều quan điểm phân chia khác nhau. Đầu tiên phải kể
đến đó là quan điểm của Lưu Chí Cường: giai đoạn 1 từ những năm 50 – 60 đến
những năm 80 của thế kỷ XX, giai đoạn 2 từ những năm 80 đến những năm 90
của thế kỷ XX, giai đoạn 3 từ những năm 90 của thế kỷ XX đến nay (Lưu Chí
Cường, 2015). Nhà nghiên cứu Wang Xiaolin cũng cùng quan điểm rằng từ
khoảng thập niên 50 của thế kỷ XX mối quan hệ giữa hai tác phẩm Trung - Việt
được giới học giả Trung Quốc quan tâm rất nhiều (Wang Xiaolin, 2015). Hai
nhà nghiên cứu Bùi Thị Thúy Phương và Nguyễn Thị Diệu Linh trong bài viết
“Tình hình nghiên cứu Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện
Kiều (Nguyễn Du) của giới học thuật Trung Quốc” đã chia thành hai giai đoạn:
giai đoạn đầu từ những năm 80 của thế kỷ XX đến cuối thế kỷ XX và giai đoạn
hai từ những năm 2000 đến nay (Bùi Thị Thúy Phương, Nguyễn Thị Diệu Linh,
2015). Nguyễn Nam trong bài viết “Những thẩm định mới về Kim Vân Kiều
truyện của Thanh Tâm Tài Nhân” đã chia việc nghiên cứu Truyện Kiều ở Trung
Quốc thành 4 giai đoạn: Giai đoạn 1 (những năm 50 của thế kỷ XX), Giai đoạn
2 (những năm 1960-1970), Giai đoạn 3 (những năm 80 của thế kỷ XX), Giai
đoạn 4 (Những năm 90 của thế kỷ XX đến nay) (Nguyễn Nam, 2016).
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy cách chia quá trình tiếp
nhận Truyện Kiều ở Trung Quốc thành 3 giai đoạn là hợp lí nhất. Chúng tôi xin
đặt tên cho ba giai đoạn ấy như sau: Giai đoạn 1 (những năm 50 - 60 của thế kỷ
XX): Quá trình du nhập và bước đầu nghiên cứu; Giai đoạn 2 (những năm 80
của thế kỷ XX): Truyện Kiều và những thăng trầm; Giai đoạn 3 (những năm 90
của thế kỷ XX đến nay): Truyện Kiều và những thành tựu nghiên cứu.
Các nhà nghiên cứu đều có cùng quan điểm về một thực tế rằng từ khi có
sự xuất hiện của bản dịch Truyện Kiều của Hoàng Dật Cầu ở Trung Quốc thì
43
giới nghiên cứu văn học ở đây mới bắt đầu quan tâm đến tác phẩm của Thanh
Tâm Tài Nhân. Từ đó, họ đã tiến hành rất nhiều cuộc khảo cứu nguồn gốc cũng
như lịch sử phát triển của tác phẩm ấy với lòng tự tôn dân tộc cao. Bên cạnh đó,
các học giả Trung Quốc đã bước đầu có những so sánh hai tác phẩm này. Sau
khi hoàn thành công việc khảo cứu và trải qua một khoảng thời gian dài với
nhiều quan điểm tranh luận sôi nổi thì cuối cùng các nhà nghiên cứu Trung
Quốc cũng đã có những lí giải khách quan về mối quan hệ giữa hai tác phẩm.
2.1.1.1. Giai đoạn 1 (những năm 50 - 60 của thế kỷ XX): Quá trình du
nhập và bước đầu nghiên cứu
Ở giai đoạn này, sự kiện quan trọng đánh dấu bước ngoặc lớn trong hành
trình tiếp nhận Truyện Kiều ở Trung Quốc đó là bản dịch sang tiếng Trung đầu
tiên được công bố năm 1958. Và chính nhờ bản dịch cùng những công trình
nghiên cứu của Hoàng Dật Cầu mà Truyện Kiều được giới nghiên cứu Trung
Quốc biết đến.
Năm 1957, trong Hội nghị nghiên cứu khoa học Hoa Nam, Hoàng Dật
Cầu đã có một bài báo cáo mang tên “Nhà thơ Nguyễn Du và kiệt tác của
Truyện Kiều”. Năm 1958, Học báo trường Đại học Hoa Nam đã đăng lại bài
báo cáo ấy. Đây được xem như công trình đầu tiên nghiên một cách hoàn chỉnh
tác phẩm Truyện Kiều ở Trung Quốc. Bài viết gồm có 5 phần: Tiểu sử, thời đại
và trước tác của Nguyễn Du; Quá trình sáng tác và lai lịch Truỵện Kiều; Bố cục
Truyện Kiều; Ý nghĩa tiến bộ và thành tựu nghệ thuật của Truỵện Kiều và Kết
luận (Nguyễn Văn Hoàn, 1965). Như vậy, với công trình này, tác giả đã bước
đầu tiếp xúc với hệ thống hình tượng của tác phẩm và có những nhận xét cơ bản
về giá trị của tác phẩm. Mặc dù tác giả chưa đi sâu phân tích những thành công
về nghệ thuật của tác phẩm nhưng thông qua những đánh giá ấy chúng ta cũng
nhận thấy được tình cảm của nhà nghiên cứu đối với Truyện Kiều, đây cũng là
một yếu tố cơ bản của sự tiếp nhận.
44
Trong bài viết “Vài lời sau khi dịch” (1959), tác giả đã trình bày những
nguyên nhân thúc đẩy ông tiến hành dịch Truyện Kiều sang tiếng Trung. Đầu
tiên đó là vì ông nhận thấy sự tương đồng thú vị giữa tác phẩm này với văn học
sử của nước mình. Ông nhận xét rằng: “Truyện Kim Vân Kiều là tác phẩm vĩ
đại nhất, xuất sắc nhất trong văn học cổ điển Việt Nam, cũng là tác phẩm có
quan hệ mật thiết với văn học sử Trung Quốc” (Hoàng Dật Cầu, 1958). Nguyên
nhân thứ hai là do Việt Nam có sự tiếp thu văn hóa Trung Quốc một cách sâu
sắc và ngôn ngữ của hai nước có sự gần gũi nhau nên việc dịch tác phẩm của
Việt Nam sẽ có sự thuận lợi hơn so với các tác phẩm phương Tây. Tuy nhiên,
khi bàn về vấn đề chú thích, chúng tôi nhận thấy tác giả có phần chủ quan khi
nhận định rằng những điển cố của Trung Quốc được Nguyễn Du sử dụng thì
không cần phải chú thích. Chúng ta đều biết rằng mặc dù Nguyễn Du tiếp thu
những điển cố của Trung Quốc nhưng lại Việt hóa chúng để phù hợp với ngữ
cảnh và có một số điển cố khi du nhập sang Việt Nam nghĩa của nó đã thay đổi
theo cách cảm của người Việt. Qua đó, chúng ta có thể thấy rằng tác giả chưa
đảm bảo được tính chất khách quan trong tiếp nhận văn học. Điều này có thể
xuất phát từ khoảng cách về ngôn ngữ và văn hóa đã dẫn đến việc tiếp nhận
chưa thật sự chính xác đối với tác phẩm.
Trong giai đoạn này còn có một công trình nghiên cứu đáng chú ý của hai
tác giả Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương đó là “Nguyễn Du - nhà thơ kiệt xuất
Việt Nam và Truyện Kiều của ông” (1965). Với bài viết này, các tác giả đã sử
dụng phương pháp thực chứng lịch sử và phương pháp so sánh và chọn hướng
tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du ở phương diện nghệ thuật. Bài viết được
các tác giả chia thành hai phần. Ở phần thứ nhất, các tác giả chủ yếu đề cập đến
nội dung của tác phẩm mang tính chất phê phán xã hội phong kiến. Các tác giả
chỉ hướng đến việc đề cao giá trị hiện thực của tác phẩm. Ở phần thứ hai, họ bàn
về mối quan hệ giữa Truyện Kiều với Kim Vân Kiều truyện của Trung Quốc và
có sự đối sánh giữa hai tác phẩm. Qua đó, các tác giả đề cao tài năng nghệ thuật
45
thiên tài của Nguyễn Du trong việc cải biên tác phẩm của Trung Quốc thành
một kiệt tác văn chương. Họ cũng đưa ra một số nguyên nhân như Truyện Kiều
được viết bằng thể thơ lục bát của dân tộc, việc sử dụng ngôn ngữ một cách tài
tình, nghệ thuật miêu tả cảnh vật và miêu tả nội tâm nhân vật đỉnh cao. Các tác
giả cũng đề cao khả năng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du trong việc tiếp thu
và vận dụng sáng tạo ngôn ngữ nước ngoài kết hợp với ngôn ngữ dân tộc tạo
nên một sự “hài hòa, thống nhất”. Những kết quả nghiên cứu của các nhà
nghiên cứu tuy không mới nhưng ưu điểm của công trình này đó là tính khách
quan được thể hiện rõ rệt. Các tác giả đã gạt bỏ những định kiến trong việc tiếp
nhận tác phẩm của Việt Nam. Những nhận xét đánh giá trong công trình đều có
minh chứng cụ thể và cơ bản khái quá được những giá trị nghệ thuật của Truyện
Kiều.
Như vậy, các công trình nghiên cứu trong giai đoạn này chỉ mới bước đầu
thể hiện sự tiếp nhận Truyện Kiều trên phương diện nội dung và nghệ thuật và
chỉ có những đánh giá sơ lược. Tuy nhiên, sự tiếp nhận ban đầu này có vai trò
rất lớn trong việc đặt ra những vấn đề thú vị thôi thúc các nhà nghiên cứu Trung
Quốc dành một sự quan tâm đặc biệt đối với tác phẩm của Việt Nam. Một trong
những định hướng quan trọng của việc tiếp nhận Truyện Kiều trong giới nghiên
cứu phê bình ở Trung Quốc được đặt ra đó là hướng tiếp nhận trên cơ sở đối
sánh tác phẩm của Nguyễn Du với nguyên tác của nó.
2.1.1.2. Giai đoạn 2 (những năm 80 của thế kỷ XX): Truyện Kiều và những
thăng trầm
Ở giai đoạn này, từ trường hợp tiếp nhận của Đổng Văn Thành (1986) đã
dấy lên một làn sóng tranh luận sôi nổi xoay quanh Truyện Kiều của Nguyễn
Du ở Trung Quốc. Trước đó, trong công trình “Giới thiệu văn học Việt Nam”
(1984) đăng trên Tạp chí văn học nước ngoài (số 1), Lô Úy Thu và Triệu Ngọc
Lan đã bước đầu đề cập đến mối tương quan giữa Truyện Kiều với văn học
46
Trung Quốc. Công trình này đã mở đầu cho một trào lưu tiếp nhận Truyện Kiều
từ góc độ so sánh văn học.
Năm 1986, bài viết “So sánh truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt
Nam” của Đổng Văn Thành được công bố trong “Minh Thanh tiểu thuyết luận
tùng”. Trong bài viết của mình, Đổng Văn Thành đã chia thành hai phần. Phần
thứ nhất tác giả tiến hành so sánh hai tác phẩm Trung - Việt trên các phương
diện như sức ảnh hưởng của hai tác phẩm, nhân vật, cốt truyện và tư tưởng chủ
đề. Ở phần thứ hai, tác giả trình bày những điểm khác biệt giữa hai tác phẩm và
đưa ra một số nguyên nhân. Công trình được tác giả thực hiện dựa vào phần bản
dịch của Hoàng Dật Cầu để so sánh.
Đầu tiên, tác giả khảo sát mức độ ảnh hưởng của Truyện Kiều ở Việt Nam
đặc biệt là trong giới nghiên cứu để từ đó rút ra nhận định về việc tác phẩm của
Trung Quốc bị lãng quên là một sự “đối xử không công bằng”. Tác giả đặt ra
một nghi vấn đó là: “Phải chăng tác giả Trung Quốc Thanh Tâm Tài Nhân -
con người “tầm thường”, “không thể cứu chữa” - đã làm hỏng đề tài Vương
Thúy Kiều đến nỗi không một chỗ nào coi được, phải hoàn toàn nhờ sự gia
công “thiên tài” của tác giả Việt Nam Nguyễn Du mới biến miếng sắt bỏ đi
thành vàng ròng lấp lánh?”. Từ đó xuyên suốt bài nghiên cứu của mình, tác giả
cố gắng minh chứng rằng tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân có những ưu
điểm nổi trội hơn so với tác phẩm của Nguyễn Du.
Trong phần so sánh hai tác phẩm ở phương diện nội dung, tác giả đã tìm ra
những điểm tương đồng giữa hai tác phẩm về nhân vật và cốt truyện. Tác giả đã
rút ra kết luận rằng nhân vật chính trong hai tác phẩm hoàn toàn giống nhau, kể
cả kết cấu tự sự cũng không có sự khác biệt. Ở phần này, mặc dù tác giả có ý
thức trong việc sử dụng bản dịch Truyện Kiều của Hoàng Dật Cầu nhưng lại vội
vàng rút ra nhận xét điểm khác nhau chỉ ở chỗ: “Truyện Kiều của Trung Quốc
có bản 12 hồi và bản 20 hồi, còn Truyện Kiều Việt Nam chỉ có bản bao gồm 12
quyển, không có bản 20 quyển”. Chúng tôi nhận thấy đây là điểm khiến cho bài
47
nghiên cứu giảm đi mức độ tin cậy. Bởi lẽ, Nguyễn Du không hề chia tác phẩm
của mình thành từng quyển. Chúng tôi cũng nhận thấy, tác giả có phần quá lời
khi nói về sự ảnh hưởng của tác phẩm Trung Quốc đối với tác phẩm Việt Nam.
Tác giả cho rằng: “Nguyễn Du chẳng những mượn đề tài mà còn “bê nguyên
xi” tác phẩm của Trung Quốc. Về mặt thuật lại sự từng trải của nhân vật và viết
truyện Nguyễn Du không có bất kì một sáng tạo mới nào, chỉ chuyển thuật khá
trung thực nội dung tiểu thuyết của Thanh Tâm Tài Nhân mà thôi”. Trong phần
kết luận của phần một, tác giả khẳng định: “Nhìn tổng thể, tôi thấy Truyện Kiều
của Nguyễn Du bất luận về nội dung hay nghệ thuật đều không vượt được trình
độ của bản gốc - Truyện Kiều của Trung Quốc - mà nó mô phỏng”. Nhận xét
trên của tác giả có phần quá vội vàng và cảm tính, chưa thật sự khách quan và
không có bằng chứng cụ thể. Trong phần này, tác giả chủ yếu sử dụng phương
pháp cấu trúc, phương pháp thực chứng - lịch sử và phương pháp so sánh, …
Theo tác giả, tư tưởng chủ đạo trong Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân đó là “giai nhân bạc mệnh, hồng phấn trái thời”, còn ở Truyện Kiều
của Nguyễn Du thì tác giả cho rằng vì cuộc đời cụ Nguyễn gặp nhiều biến cố,
có tài nhưng vô mệnh nên tác phẩm của ông chỉ gửi gắm nỗi niềm ấy mà thôi.
Trong phần sau, tác giả đã thống kê những chi tiết giống nhau và khác
nhau giữa hai tác phẩm. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số lí giải về nguyên
nhân của sự “dị đồng” ấy. Những điểm mà tác giả cho rằng Nguyễn Du đã làm
giả đi giá trị của tác phẩm đó là: Đầu tiên, về cách xây dựng nhân vật, theo
Đổng Văn thành: “Nguyễn Du đã in dấu ý thức chủ quan của mình cho một số
nhân vật, làm tổn hại sự hoàn chỉnh và thống nhất về tính cách của những nhân
vật ấy ở mức độ nhất định”. Thứ hai, Đổng Văn Thành cho rằng Nguyễn Du đã
“tô vẽ cho tội ác của quý tộc phong kiến, che đậy phần miêu tả mâu thuẫn giai
cấp của nguyên tác”.
Đối với nguyên nhân của sự tương đồng thì theo tác giả đó là do Nguyễn
Du dành một sự “tán thưởng và thích thú” với nguyên tác. Vì thế, về hệ thống
48
hình tượng, cốt truyện theo tác giả nhận định là Nguyễn Du hoàn toàn bám sát
đó. Còn sự khác biệt giữa hai tác phẩm, theo tác giả lí giải đó là do Nguyễn Du
đã để lại dấu ấn giai cấp của mình trong các hình tượng nhân vật và sự ảnh
hưởng tư tưởng văn học của Nguyễn Du đối với hình thức nghệ thuật của tác
phẩm.
Dù kết quả nghiên cứu của Đổng Văn Thành chưa thể hiện tính khách
quan, khoa học nhưng chúng ta vẫn phải công nhận vai trò tiên phong của Đổng
Văn Thành trong hướng tiếp nhận tác phẩm từ góc độ so sánh. Ông đã dành
nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu một cách đầy đủ nhất về tác phẩm
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và các phiên bản của tác phẩm
này cả ở trong lẫn ngoài nước. Theo Bùi Thị Thúy Phương và Nguyễn Thị Diệu
Linh trong bài viết “Tình hình nghiên cứu Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm
Tài Nhân) và Truyện Kiều (Nguyễn Du) của giới học thuật Trung Quốc” đã
Đối với hướng nghiên cứu so sánh Kim Vân Kiều truyện và Truyện Kiều,
bài viết của ông cũng được coi là có công “khai sơn phá thạch”. Do những
luận điểm đề cao Kim Vân Kiều truyện và đánh giá thấp Truyện Kiều, bài
viết của Đổng Văn Thành đã trở thành đối tượng chỉ trích của nhiều học
giả Việt Nam (Bùi Thị Thúy Phương, Nguyễn Thị Diệu Linh, 2015).
nhận xét:
Qua trường hợp tiếp nhận của Đổng Văn Thành, chúng ta càng cần phải
nhìn lại vấn đề sáng tạo trong tiếp nhận văn học. Đó là việc sáng tạo, khám phá
những phương diện mới của tác phẩm nhưng không được đi quá xa với những
gì mà tác phẩm gợi mở, không được có những nhận xét võ đoán, thiếu cơ sở
khoa học. Và một điều đáng lưu ý nữa đó là trong việc tiếp nhận văn học từ góc
độ so sánh, chúng ta cần phải nhìn nhận và đánh giá một cách khách quan, tránh
“hạ bệ” tác phẩm này để nhằm làm nổi bật tác phẩm kia. Người nghiên cứu cần
49
tránh tình trạng quá tôn sùng đối tượng nghiên cứu mà đưa ra những nhận xét
thiên lệch.
Bên cạnh công trình của Đổng Văn Thành, ở giai đoạn này còn có các
công trình “Tiểu thuyết thông tục Trung Quốc ở Việt Nam” (1987) của Lô Úy
Thu và “Văn học sử nước ngoài (Quyển Châu Á và Châu Phi) (1988) của Chu
Duy Tri. Cả hai công trình đều có phần giới thiệu về Truyện Kiều với những
nhận định khái quát về giá trị của Truyện Kiều.
2.1.1.3. Giai đoạn 3 (những năm 90 của thế kỷ XX đến nay): Truyện Kiều
và những thành tựu nghiên cứu
Đây là giai đoạn mà tình hình tiếp nhận Truyện Kiều diễn ra sôi nổi hơn cả
trong giới nghiên cứu văn học ở Trung Quốc với rất nhiều công trình nghiên
cứu được công bố. Trong đó nổi bật lên các hướng tiếp nhận Truyện Kiều từ độ
như ngôn ngữ văn học, so sánh văn học, xã hội học, … với các tên tuổi như
Trần Ích Nguyên, Lưu Chí Cường, Lã Vĩnh, Hà Kim Lan, Lâm Minh Hoa, La
Trường Sơn, Khâu Giang Ninh, Vương Ngọc Linh, Hoàng Linh, Lưu Thế Đức,
Lý Tu Chương, Triệu Ngọc Lan, Lý Vị Túy, Phùng Quân, Lý Quần, Hà Minh
Trí, Vi Mậu Bân, Kỳ Quảng Mưu, Trương Huy, …
Đầu tiên phải kể đến đó là công trình “Một số nhận xét về Kim Vân Kiều
truyện với Đoạn trường tân thanh” (1993) của nhóm tác giả bao gồm Nguyễn
Thạch Giang (Việt Nam), Triệu Ngọc Lan, Lô Úy Thu (Trung Quốc). Các tác
giả đã tiến hành so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ở phương diện
ngôn ngữ học. Các tác giả đã tiến hành thống kê số câu Nguyễn Du sáng tạo so
với nguyên tác từ đó rút ra nhận xét: Nguyễn Du chỉ giữ lại 72 trang trên tổng số
214 trang của Kim Vân Kiều truyện để viết thành 1313 câu trong Truyện Kiều.
Còn lại 1941 câu là do Nguyễn Du sáng tạo nên. Các tác giả thống kê được
Nguyễn Du đã lược bỏ đi hai phần ba cuốn truyện Kim Vân Kiều truyện bao
gồm những bài xướng họa, những lời thề thốt, những lời đối đáp rườm rà,
những gì không phù hợp tính cách nhân vật đều bị lược bỏ, thậm chí là lược bỏ
50
một số lượng lớn những nhân vật không góp phần thể hiện tư tưởng mà tác giả
mong muốn. Từ đó các tác giả khẳng định Truyện Kiều không phải là một tác
phẩm dịch.
Về phương diện nghệ thuật, các nhà nghiên cứu công nhận khả năng sử
dụng ngôn ngữ tài tình cùng nghệ thuật xây dựng nhân vật của Nguyễn Du:
“Nguyễn Du đã mô tả nhân vật của mình rất dụng công, trân trọng trong từng
chi tiết, nhằm làm sao cho tính cách của nhân vật nổi bật lên”. Đặc biệt là tài
năng miêu tả thiên nhiên và nội tâm nhân vật của Nguyễn Du, các tác giả đã
nhấn mạnh: “qua thiên nhiên, chúng ta có thể hình dung được tâm sự của nhân
vật”.
Về phương diện nội dung, các nhà nghiên cứu khẳng định hình tượng
nhân vật Thúy Kiều với những sóng gió cuộc đời chính là hình ảnh của Nguyễn
Du vì thế mà tiếng nói đồng cảm của Nguyễn Du sâu sắc hơn tác phẩm của
Thanh Tâm Tài Nhân. Đây cũng là hướng nghiên cứu đã được nhiều nhà
nghiên cứu ở Việt Nam thực hiện. Thêm một vấn đề khác nhau giữa hai tác
phẩm được các tác giả phát hiện đó là quan niệm về chữ “Mệnh” và chữ
“Nghiệp”. Ở Nguyễn Du vẫn có điều gì đó băn khoăn, phân vân. Các tác giả
nhận xét: “Cái đè nặng lên ta không phải là cái “Mệnh”, cái “Nghiệp”, mà
chính là cái bạo tàn của thế lực xã hội phong kiến”. Đây cũng là quan điểm
được nhiều nhà nghiên cứu theo chủ nghĩa hiện thực đồng thuận.
Cuối cùng các tác giả khẳng định, trong số 1313 câu Truyện Kiều được
viết theo ý của Thanh Tâm Tài Nhân, “trên căn bản vẫn có phần sáng tạo đáng
kể của Nguyễn Du”. Và Đoạn trường tân thanh là “một kiệt tác” có sự khác
biệt sâu sắc từ bên trong so với nguyên tác, đó là tiếng nói đồng cảm trong xã
hội phong kiến chà đạp lên số phận con người. Đây là hướng tiếp nhận từ góc
độ so sánh trên phương diện ngôn ngữ. Công trình đã cải thiện những thiếu sót
mà Đổng Văn Thành mắc phải bằng cách phân tích và lí giải những khác biệt từ
51
những kết quả khảo sát những khác biệt về ngôn ngữ học từ đó đi sau vào
những phương diện nghệ thuật khác của tác phẩm.
Năm 1994, Đổng Văn Thành đã tổng hợp các công trình đã công bố trước
đó, bao gồm các phần khảo cứu, bổ sung khảo văn bản Kim Vân Kiều truyện,
diễn tiến của câu chuyện Vương Thúy Kiều, khảo nguyên hình tượng nhân vật,
xây dựng hình tượng bi kịch của Vương Thúy Kiều, so sánh Kim Vân Kiều
truyện của Trung Quốc và Việt Nam và liên hệ mối quan hệ với văn học Giang
Hộ hậu kỳ của Nhật Bản. Tất cả được tổng hợp thành tập “Thanh đại Việt Nam
luận cảo”. Qua đó cho thấy sư quan tâm đặc biệt của ông đến mối quan hệ giữa
Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân và Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Tuy nhiên, việc so sánh hai phẩm của ông lại có những bất cập cần được
nhìn nhận một cách đúng đắn hơn. Như Nguyễn Hữu Sơn đã nhận xét: “Những
thiên kiến, định kiến và cả hạn chế trong việc tiếp nhận Truyện Kiều đã khiến
ông Đổng không đánh giá đúng tính chất năng sản và giá trị của tác phẩm này
khi so sánh với Kim Vân Kiều truyện” (Nguyễn Hữu Sơn, 2015). Năm 1999,
Đổng Văn Thành tiếp tục công bố công trình “Kim Vân Kiều truyện” (Nxb
Xuân Phong văn nghệ) góp phần nghiên cứu sâu hơn về tác phẩm của Thanh
Tâm Tài Nhân và khẳng định giá trị của tác phẩm này. Tuy nhiên, Nguyễn Hữu
Sơn nhận xét, mặc dù Đổng Văn Thành đã cố công chứng minh giá trị của Kim
Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân nhưng cho đến nay, số phận của tác
phẩm này vẫn không có gì thay đổi. Trong các công trình của mình, Đổng Văn
Thành lại chỉ so sánh trên phương diện nội dung và các tín hiệu nghệ thuật
chung nhất chứ không chú ý đến các yếu tố như sự khác biệt về đặc trưng thể
loại, tâm lý tiếp nhận của dân tộc Việt Nam đối với ngôn ngữ Truyện Kiều.
Đổng Văn Thành cũng không quan tâm đến tâm hồn Việt thể hiện qua thể thơ
lục bát truyền thống. Ông cũng không lý giải được thực tế vì sao Truyện Kiều
lại phổ biến tới khắp mọi miền quê, vừa là lời ru vừa trở thành một loại kinh
sách để có thể bói Kiều, tập Kiều, lẩy Kiều và thực sự là một kiệt tác trong nền
52
văn học Việt Nam và thế giới (Nguyễn Hữu Sơn, 2015). Nguyễn Huệ Chi cũng
nhận xét về vấn đề này như sau: “Chính nhờ Truyện Kiều của Nguyễn Du ngày
một nổi tiếng, vượt ra khỏi biên giới nước mình, mới là một động cơ để những
học giả như ông Đổng Văn Thành cố gắng làm cho Kim Vân Kiều truyện
được độc giả trong và ngoài Trung Hoa quan tâm trở lại” (Nguyễn Huệ Chi,
2013). Đổng Văn Thành đã giữ vững quan điểm tiếp nhận của mình dù đã có
những phản biện hợp lí của các nhà nghiên cứu khác. Lý thuyết tiếp nhận yêu
cầu nhà nghiên cứu phải thể hiện quan điểm rõ ràng trong việc tiếp nhận tác
phẩm tuy nhiên nếu quan điểm ấy còn nhiều bất cập, thậm chí đối nghịch với
xu hướng tiếp nhận chung về tác phẩm và đi quá xa những gì tác phẩm muốn
thể hiện thì nhà nghiên cứu phải linh hoạt thay đổi.
Năm 1997, Lã Vĩnh công bố bài viết “Thành tựu nghệ thuật và ý nghĩa
hiện thực của hai truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam” trên Tạp chí
Đại học Tương Đàm. Trong bài viết, tác giả trình bày ba nội dung chính: nguồn
gốc Truyện Kim Vân Kiều, thành tựu nghệ thuật của Truyện Kim Vân Kiều và ý
nghĩa hiện thực của Truyện Kim Vân Kiều. Ở phần thứ nhất, tác giả đã dùng
phương pháp thực chứng lịch sử để khái quát lại nguồn gốc của câu chuyện về
Vương Thúy Kiều cũng như hành trình lưu truyền của câu chuyện đến khi được
Thanh Tâm Tài Nhân viết thành tiểu thuyết chương hồi. Tác giả cũng khẳng
định mặc dù tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân “có ảnh hưởng trong giới tiểu
thuyết và giới hý khúc” trong nước nhưng “so sánh ảnh hưởng của truyện ở
nước ngoài vượt rất xa ở trong nước”. Tác giả cho rằng Nguyễn Du đã viết
Truyện Kiều trong thời gian “không muốn làm quan” cho triều Nguyễn. Tác
giả cũng cung cấp những thông tin về việc đã từng có ý kiến cho rằng Nguyễn
Du đã lấy đề tài từ tiểu thuyết Vương Thúy Kiều của Dư Hoài. Đến những năm
80 thì tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân đã được xuất bản thì các nhà nghiên
cứu mới chú ý đến và tìm hiểu mối quan hệ giữa tác phẩm ấy với Truyện Kiều
của Nguyễn Du. Tuy nhiên, trong bài viết tác giả vẫn sử dụng cách gọi tên
53
Truyện Kim Vân Kiều của hai nước Trung - Việt. Phần thứ hai tác giả đưa ra
bốn đặc điểm chung: Một là tuy tả kỹ nữ nhưng không dâm ô, hai là tính kịch và
tính phê phán, ba là kết cấu tác phẩm và tính cách nhân vật v.v... Lã Vĩnh đánh
giá cao Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam, cho đây là một bộ “trường thi tự
sự” với các tình tiết lắt léo, nhân vật sống động, kết cấu đồ sộ nhưng chặt chẽ.
Bên cạnh đó, tác giả còn thể hiện quan điểm về những điểm chưa hay ở cả
hai tác phẩm: Thứ nhất là theo tác giả cả hai tác phẩm đều “truyền bá thuyết tài
mệnh tương đố” mà không nhận thấy chính xã hội phong kiến đã đẩy Thúy
Kiều vào bi kịch. Đối với luận điểm này, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy rằng
nhà nghiên cứu đã bỏ qua những câu thơ giàu tính đả kích xã hội phong kiến
trong Truyện Kiều như “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi” hay “Đã đưa đến
trước cửa công/ Ngoài thì là lí nhưng trong là tình” hay rất nhiều lần Kiều
thống thiết kêu oan nhưng chẳng ai đứng ra: “Tiếng oan dậy đất, án ngờ lòa
mây”, “Oan này còn một kêu trời nhưng xa”, “Tiếng oan đã muốn vạch trời
kêu lên”, “Vuốt đâu xuống đất, cánh đâu lên trời”... Nguyễn Du đã vạch trần
xã hội đề cao đồng tiền:
- “Làm cho khốc hại chẳng qua vì tiền”,
- “Có ba trăm lạng việc này mới xuôi”,
- “Máu tham hễ thấy hơi đồng thì mê”
- “Tiền lưng đã sẵn việc gì chẳng xong”
- “Tờ hoa đã kí, cân vàng mới trao”
- “Trong tay sẵn có đồng tiền
Dù lòng đổi trắng thay đen khó gì”
- “Có ba mươi lạng trao tay
Không dưng chi có chuyện này trò kia”
- “Thấy nàng mặn phấn tươi son
Mừng thầm được chốn bán buôn có lời”...
54
Bấy nhiêu thôi cũng đủ để minh chứng rằng Nguyễn Du không chỉ tuyên
truyền cho thuyết tài mệnh tương đố.
Thứ hai, theo tác giả, cả hai tác phẩm đều “vẽ rắn thêm chân”, đưa thêm
những chi tiết, đặc biệt là cái kết “đoàn viên”. Tuy nhiên việc đánh đồng cái kết
của hai tác phẩm như vậy là chưa hợp lí. Bởi vì ở Truyện Kiều mặc dù bên
ngoài người đọc nhìn vào sẽ thấy đó là một cái kết có hậu thế nhưng thực chất
quyết định “đem tình cầm sắc đổi ra cầm cờ” của Thúy Kiều đã tạo ra một cái
kết đoàn viên không trọ vẹn. Qua đó, Nguyễn Du đã thay đổi số phận cho nhân
vật của mình đồng thời thể hiện cái nhìn mới mẻ về nhân vật này. Nguyễn Du
đã làm tăng thêm vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều một cách tuyệt đối.
Thứ ba, theo Lã Vĩnh, hình tượng nhân vật Từ Hải mà hai tác giả xây dựng
sai với nguyên mẫu trong lịch sử và nhân vật Thúy Kiều thì chưa tạo nên sự
chuyển biến tích cực trong tư tưởng để thấy được lòng yêu nước.
Tuy tác giả có nhấn mạnh ba dấu tì vết đó không có ảnh hưởng đến sự
thành công của hai tác phẩm, nhưng theo chúng tôi, những nhận định ấy chưa
thật sự đúng đối với Truyện Kiều của Nguyễn Du.
Trong phần cuối của bài nghiên cứu, tác giả đã phân tích giá trị hiện thực
của Truyện Kim Vân Kiều. Tác giả đồng tình với quan điểm cho rằng văn học
phản ánh cuộc sống hiện thực trong đầu nhà văn. Tác giả cũng nói thêm rằng
hai tác phẩm đều nói đến nghề kỹ nữ nhưng không mang tính dâm mà đề cao tài
năng, nhân phẩm của nhân vật. Đây cũng chính là đóng góp lớn của tác phẩm.
Như vậy, cùng nghiên cứu so sánh hai tác phẩm Trung - Việt nhưng Lã
Vĩnh đã có những cái nhìn khách quan hơn so với Đổng Văn Thành. Tuy còn
một vài chỗ, tác giả đánh đồng hai tác phẩm chưa hợp lí. Song, công trình đã
thể hiện một bước phát triển mới việc tiếp nhận Truyện Kiều ở Trung Quốc nhất
là trong nghiên cứu so sánh hai tác phẩm Trung - Việt. Tác giả đã thể hiện tính
sáng tạo của mình trong việc khám phá và lí giải thêm những vấn đề xoay
quanh những giai thoại về các nhân vật trong tác phẩm trong lịch sử. Bên cạnh
55
đó, tính khách quan thể hiện ở việc tác giả đưa ra những thành công cũng như
những hạn chế của cả hai tác phẩm.
Năm 1997, trong bài viết “So sánh Kim Vân Kiều truyện Trung - Việt”
trên Tạp chí Trung Quốc Đông Nam Á nghiên cứu hội thông tấn số 1, Trương
Huy cũng tiếp nhận tác phẩm của Nguyễn Du theo hướng so sánh hai tác phẩm
Trung - Việt trên các phương diện: quá trình hình thành của hai tác phẩm,
phương diện nội dung và hình thức của hai tác phẩm (Bùi Thị Thúy Phương,
Nguyễn Thị Diệu Linh, 2015). Năm 2001, Lý Quần công bố bài viết “Kim Vân
Kiều truyện: từ tiểu thuyết Trung Quốc đến danh tác Việt Nam” trên tạp chí
Học viện dân tộc Quảng Tây (số chuyên đề Khoa học xã hội nhân văn số 6). Bài
viết trình bày mối liên hệ mật thiết giữa hai tác phẩm và khẳng định thành tựu
nghệ thuật của Truyện Kiều trên các mặt xây dựng nhân vật, hình thức nghệ
thuật và thể tài. Năm 2004, trong bài “Vẻ đẹp nữ tính lý tưởng của Trung Quốc
– Sự khác biệt về thẩm mỹ dân tộc qua so sánh Kim Vân Kiều truyện của Việt
Nam và Trung Quốc” (in trong tạp chí Nghiên cứu tiểu thuyết Minh Thanh số
4), Vương Ngọc Linh đã phân tích sự khác biệt về quan niệm thẩm mỹ giữa hai
dân tộc thông qua hình tượng Thúy Kiều và lý giải một số nguyên nhân của sự
khác biệt là do các yếu tố như truyền thống văn học, hiện thực xã hội, văn hóa
đạo đức, … (Bùi Thị Thúy Phương, Nguyễn Thị Diệu Linh, 2015).
Năm 2005, Triệu Ngọc Lan với công trình “Truyện Kiều - tác phẩm kinh
điển của sự hòa quyện văn hóa Trung - Việt” (in trong tạp chí Nghiên cứu văn
học số 8- 2005) cũng tìm ra một số điểm tương đồng và khác biệt giữa hai tác
phẩm. Tác giả nhận xét rằng hai tác phẩm giống nhau về nội dung, nhân vật và
tình tiết nhưng tác phẩm của Nguyễn Du lại có tầm ảnh hưởng và được lưu
truyền rộng rãi hơn. Nguyễn Du sử dụng tài tình và sáng tạo những điển tích,
điển cố của Trung Quốc kết hợp với thể thơ lục bát của dân tộc đã tạo nên một
sự hài hòa khiến người Việt cảm thấy thích thú. Tác phẩm của Nguyễn Du bắt
nguồn từ văn hóa dân tộc, kết tinh tinh thần dân tộc vừa thanh tao vừa dân dã.
56
Chính vì thế mức độ ảnh hưởng của Truyện Kiều đối với người dân Việt Nam
vượt ngoài mức tưởng tượng. Tác giả cũng đưa ra lưu ý khi dịch tác phẩm của
Nguyễn Du sang tiếng Trung đó là “không tiến hành phục hồi nguyên trạng
một cách giản đơn các câu thơ có xuất xứ Trung Quốc, cũng không thể lắp
ghép một cách khiên cưỡng các câu ca dao tục ngữ Việt Nam vào bản dịch
tiếng Trung”. Cuối cùng, tác giả cũng khẳng định Truyện Kiều của Nguyễn đã
trở thành đại diện tiêu biểu nhất trong việc xây dựng mối quan hệ cho hai nền
văn hóa Trung - Việt.
Năm 2011, Lý Quần công bố bài viết “Ngọn bút kỳ diệu của Nguyễn Du”
trích trong “Kim Vân Kiều truyện - từ tiểu thuyết trung Quốc đến danh tác Việt
Nam” trên Chuyên tập Khoa học xã hội nhân văn tháng 6/2011. Trong bài viết,
để chứng minh cho luận điểm “Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng xuất sắt hơn
tiểu thuyết nguyên tác về mặt biểu hiện nghệ thuật” của mình, tác giả đã tiến
hành nghiên cứu so sánh hai tác phẩm trên phương diện nghệ thuật và sự tiếp
nhận của Truyện Kiều ở Việt Nam.
Ở phương diện nghệ thuật, tác giả đã phân tích nghệ thuật xây dựng nhân
vật và thể tài của hai tác phẩm. Về cách xây dựng nhân vật của Nguyễn Du, tác
giả đã so sánh hình tượng Thúy Kiều ở hai tác phẩm Trung - Việt và rút ra một
số nhận xét: Nhân vật trong tiểu thuyết Trung Quốc có tính cách hơn, tuy nhiên
theo tác giả thì “bông hoa tuy đẹp nhưng lá úa lại nhiều”, nhân vật chính
không thể gánh vác nổi cả sự thành công của toàn tác phẩm. Tác giả cho rằng,
qua ngòi bút tinh tế của Nguyễn Du thì nhân vật này lại có một giá trị thẩm mĩ
cao hơn. Ở Thúy Kiều có sự “ngoan cường kiên nghị trong tính cách”. Nếu
trong tiểu thuyết Trung Quốc, Kiều là một cô gái “tài mạo xuất chúng, thuần
hậu lương thiện nhưng yếu đuối” thì Kiều của Việt Nam lại có sự “đầy đặn và
xuất sắc hơn”. Tác giả đã chứng minh nhận định trên bằng cách dẫn ra một số
đoạn trong Truyện Kiều của Nguyễn Du và khẳng định một lần nữa về sức
tuyền cảm nghệ thuật trong Truyện Kiều. Về thể tài, tác giả đưa ra những khác
57
biệt của tiểu thuyết chương hồi và thơ lục bát. Theo đó, tiểu thuyết chương hồi
có lợi thế trong việc miêu tả chi tiết các sự kiện, có sự tiện lợi cho việc đọc và
hiểu của quần chúng, tuy nhiên lại có mặt hạn chế trong việc tả cảnh, tình. Còn
thơ lục bát của Việt Nam thì là hình thức thơ của dân tộc, có khả năng sử dụng
đa dạng với ưu thế nổi trong việc tả cảnh và miêu tả thế giới nội tâm của nhân
vật nhưng có mặt hạn chế là do phải đáp ứng quy tắc về âm vần nên không thể
kể mọi chi tiết. Tác giả kết luận rằng: “Hình tượng nhân vật sinh động, ngôn
ngữ giản khiết, cô đọng, âm điệu thánh thót dễ nghe, giàu mĩ cảm âm nhạc, vì
thế truyện trở thành tác phẩm mẫu mực về thể thơ lục bát của dân tộc Việt Nam,
được người dân Việt Nam yêu thích phổ biến”.
Ở phần tiếp theo, tác giả đã phân tích sức ảnh hưởng của Truyện Kiều ở
Việt Nam từ phương diện tiếp nhận văn học. Thứ nhất, Truyện Kiều có địa vị
cao trong văn học sử Việt Nam. Thứ hai, Truyện Kiều cũng chiếm một vị thế
cao trong văn học thế giới. Thứ ba, Truyện Kiều là tác phẩm mà người dân Việt
Nam nào cũng thích đọc. Tác giả cũng cho rằng bên cạnh giá trị hiện thực thì
tác phẩm đạt được thành công như thế còn nhờ vào khả năng sáng tác của
Nguyễn Du. Cuối cùng là về mặt truyền bá của tác phẩm, tác giả cũng đánh giá
cao việc tác phẩm có một đời sống tiếp nhận rất phong phú.
Ở phần kết của bài viết, tác giả khẳng định Truyện Kiều của Nguyễn Du
không phải là một tác phẩm dịch, không vay mượn một cách máy móc mà bằng
tài năng của Nguyễn Du, ông đã “tái sáng tác” trở thành một tác phẩm có giá
trị nghệ thuật rất cao.
Với bài viết “Kim Vân Kiều truyện - Từ tiểu thuyết Trung Quốc đến truyện
Nôm Việt Nam”, Lâm Minh Hoa đã chọn hướng nghiên cứu so sánh có kết hợp
phương pháp thống kê và thực chứng lịch sử. Đây là hướng tiếp cận chủ yếu ở
phương diện hình thức. Trong bài viết, tác giả đã tiến hành so sánh hai tác phẩm
trên các phương diện: kết cấu, sự khác biệt, sự ảnh hưởng. Về kết cấu, theo tác
giả các bộ phận làm nên kết cấu không tồn tại độc lập ở ngoài kết cấu. Nhà
58
nghiên cứu cần phải quan tâm đến mối quan hệ giữa chỉnh thể và bộ phận trong
việc lí giải tác phẩm văn bản. Trước khi so sánh tác giả tiến hành tách chỉnh thể
văn bản của hai tác phẩm thành mười phần rồi sau đó lập bảng thống kê số câu
mà mỗi tác giả sử dụng cho mỗi phần. Tác giả còn lập một bảng thống kê để
thấy tình hình đối chiếu và độ chênh lệch giữa mức kỳ vọng và mức quan sát
các phần của Truyện Kiều. Từ hai bảng thông kê, tác giả nhận ra rằng Nguyễn
Du đã lược bỏ bớt và sáng tạo thêm so với tác phẩm của Trung Quốc. Từ đó đặt
ra một vấn đề về động cơ cũng như ý nghĩa của việc gia công của Nguyễn Du.
Phần tiếp theo, tác giả tiến hành so sánh những chi tiết khác nhau giữa hai tác
Bất kể sửa chữa hay tăng thêm về nội dung, đều không làm biến đổi sự
tương đồng cơ bản về tình tiết câu chuyện và tư tưởng chủ đề của truyện
Nôm và tiểu thuyết. Tuy nhiên, do xóa bỏ, tăng thêm và sửa chữa, nội
dung cụ thể của truyện Nôm dù sao ở mức độ nhất định cũng mang đặc sắc
khác với nguyên tác (Lâm Minh Hoa, 2015).
phẩm. Tác giả nhận xét rằng:
Tác giả cũng cho rằng nguyên tắc của Nguyễn Du là “giảm bớt tình tiết,
tăng thêm tình cảm”. Tác giả đã lí giải thêm về thành công của Truyện Kiều là
nhờ vào thể thơ lục bát: “Tiểu thuyết cũng không cách gì đọ được với công
năng “ngôn chí duyên tình” của thơ mà thể lục bát cũng có đầy đủ công năng
như vậy”. Theo tác giả: “tiếp thu là tiền đề sản sinh ra ảnh hưởng”. Tác giả đã
chứng minh sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc trong sáng tác của Nguyễn
Du. Từ đó tác giả đưa ra hai điểm giống nhau cơ bản khiến Nguyễn Du “tiếp
thu” tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân. Thứ nhất là về động cơ sáng tác của
hai tác giả có sự trùng hợp là đều sáng tác vào lúc đất nước có những biến cố
nên tác giả xem đây là nguyên nhân và động cơ thứ nhất. Thứ hai là sự từng trải
cuộc đời tương tự nhau giữa Nguyễn Du và Vương Thúy Kiều. Cả hai đều trải
59
qua cuộc đời lưu lạc, đều mang kiếp tài tử. Tác giả đã chỉ ra những câu thơ nói
lên tiếng lòng của nhà thơ, không chỉ nói về cuộc đời Kiều mà còn phản ánh
cuộc đời truân chuyên của nhà thơ. Và người nghiên cứu cho rằng chính điều
này đã góp phần tại nên sự khác biệt và thành công cho Truyện Kiều. Cuối cùng
tác giả kết luận gồm bốn ý: Thứ nhất là Nguyễn Du mượn câu chuyện trong tiểu
thuyết của Trung Quốc để phản ánh xã hội Việt Nam. Thứ hai là ở truyện Nôm
của Việt Nam mang “sắc thái dân tộc đậm đặc”. Ba là Nguyễn Du có sự “cải
tạo về cấu trúc và nội dung”, “làm đẹp ngôn ngữ và dân tộc hóa về mặt thể
tài”. Bốn là “truyện thơ Kim Vân Kiều là kết tinh của giao lưu văn hóa Trung -
Việt, là thành quả to lớn mà hai nước cùng tạo nên”. Trong những kết luận
trên, chúng tôi nhận thấy kết luận cuối cùng của tác giả có phần chưa khách
quan bởi vì thứ nhất tác giả vẫn gọi là “truyện thơ Kim Vân Kiều” chứ không
gọi đúng tên tác phẩm là “Đoạn trường tân thanh” hay “Truyện Kiều”. Điểm
thứ hai chưa hợp lí đó là tác giả khẳng định thành công của “truyện thơ Kim
Vân Kiều là thành quả lớn do văn hóa hai nước cùng tạo nên”.
Năm 2015, Zhao Yanqiu, Song Yaling cùng thực hiện bài nghiên cứu
“Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân kế thừa và biến đổi”. Trong bài viết, các tác giả đã đi tìm mối quan hệ
giữa hai tác phẩm Trung - Việt và trên cở sở những khác biệt để chứng minh tác
phẩm sau có “sự vượt trội” hơn so với tác phẩm trước. Từ đó giúp công chúng
hiểu hơn về sự “tương tác văn hóa” giữa hai nước. Về sự kế thừa, theo các tác
giả, Nguyễn Du đã kế thừa Thanh Tâm Tài Nhân trên các phương diện như:
khung truyện, hình tượng nhân vật, thái độ sáng tác, tinh thần phê phán hiện
thực. Về mặt tư tưởng thì hai tác giả cũng có sự gặp nhau trong quan niệm
“hồng nhan bạc mệnh”, đó là “sự nhận thức về số mệnh”. Đối với sự biến đổi
của Nguyễn Du, các tác giả cũng đồng quan điểm với phần lớn những nhà
nghiên cứu đó là Truyện Kiều không đơn thuần là một bản dịch rập khuôn mà
Nguyễn Du đã sáng tạo ra một Truyện Kiều hoàn toàn khác phù hợp với “thói
60
quen thưởng thức và tiêu chuẩn thẩm mĩ của dân tộc”. Các tác giả đã chỉ ra bốn
điểm khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm: Thứ nhất là sự thay đổi các tình tiết,
thêm hoặc bớt để phù hợp với phẩm chất của nhân vật. Thứ hai là sự khác nhau
về “khuynh hướng thẩm mĩ” và “quan điểm về tình yêu”. Sự khác trên được
các tác giả lí giải là do sự khác nhau về văn hóa tư tưởng nội tại giữa hai dân
tộc. Về khuynh hướng thẩm mĩ, các tác giả đưa ra những dẫn chứng cho thấy
hai tác phẩm sáng tác nhằm hướng đến những nhu cầu tiếp nhận khác nhau.
Kim Vân Kiều truyện được sáng tác trong trào lưu tiểu thuyết tài tử - giai nhân
đang rất thịnh hành vì thế tác giả đã cố tình diễn tả những chi tiết gợi cảm, kích
thích, thu hút người đọc. Những chi tiết ấy đều được Nguyễn Du lược bỏ hoặc
nói tránh đi. Thêm vào đó, quan niệm về tình yêu của hai tác giả cũng có sự
khác biệt rõ rệt. Nếu như Thanh Tâm Tài Nhân chú trọng đến sự hòa hợp giữa
thể xác và tâm hồn thì Nguyễn Du lại giữa tinh thần bảo thủ. Từ đó cho thấy
Nguyễn Du đã “thấm đẫm tư tưởng luân lí cương thường của lễ giáo Nho gia”.
Thứ ba là sự khác nhau trong việc xây dựng các hình tượng nhân vật. Các tác
giả nhận định rằng: “Cá tính nhân vật trong Thanh bản phù hợp hơn với xu
hướng giải phóng tư tưởng ngầm chảy trong thời đại Minh Thanh, còn nhân vật
trong Nguyễn bản hoàn toàn tuân thủ theo tư tưởng và lí tưởng phong kiến”.
Thứ tư là sự khác biệt về mặt thể loại tất yếu ảnh hưởng đến việc thể hiện nội
dung tác phẩm. Theo đó, tiểu thuyết có ưu điểm là miêu tả chi tiết các sự kiện,
còn truyện thơ thì có khả năng vừa kể chuyện vừa trữ tình. Chính vì thế mà
Nguyễn Du đã vận dụng tối đa ưu điểm của thể loại kết hợp với tài năng sử
dụng ngôn ngữ của mình để viết nên một tác phẩm dạt dào cảm xúc. Nguyên
nhân của sự tương đồng và khác biệt trên được các tác giả trình bày thành bốn
nguyên nhân cơ bản: Thứ nhất là do nền tảng văn hóa của hai nước đã có ảnh
hưởng đến kết quả sáng tác vừa giống lại vừa khác nhau. Thứ hai là hai tác
phẩm có bối cảnh sáng tác và động cơ sáng tác giống nhau. Thứ ba là do việc
thay đổi thể loại. Thứ tư là do ý thức sáng tác và ý thức phục vụ cho độc giả của
61
hai nhà văn. Với những kết quả nghiên cứu trên, chúng ta càng nhận thấy sự
quan tâm đặc biệt của các học giả Trung Quốc đối với Truyện Kiều của Nguyễn
Du. Họ đã dành rất nhiều thời gian và tâm huyết để nghiên cứu so sánh hai tác
phẩm trên tinh thần khách quan, khoa học. Qua đó càng khẳng định vị thế của
Truyện Kiều ngày càng được công nhận ở Trung Quốc.
Về vấn đề so sánh, đối chiếu hai tác phẩm Trung - Việt còn có các công
trình của Hà Minh Trí, Vi Mậu Bân (2007) và Vi Hồng Bình (2008). Các tác giả
Hà Minh Trí, Vi Mậu Bân với bài viết “So sánh cách viết hai bộ Kim Vân Kiều
truyện Trung Việt” (tạp chí Nghiên cứu văn bản số 2) đã tiến hành so sánh hai
tác phẩm trên các phương diện nội dung và nghệ thuật cũng như vị trí hai tác
phẩm trong nền văn học mỗi dân tộc, từ đó khẳng định thành công của Nguyễn
Du. Năm 2008, bài viết “Đối chiếu Kim Vân Kiều truyện Trung Việt” của tác
giả Vi Hồng Bình (tạp chí Đông Nam Á tung hoành số 3) đã dùng những tương
đồng trong nội dung, hình thức và bối cảnh thời đại cũng như những dị biệt về
thể tài, thời đại sáng tác và hoàn cảnh xã hội để lý giải vị trí khác nhau của hai
tác phẩm trong nền văn học hai nước: trong khi Kim Vân Kiều truyện rất ít được
biết đến ở Trung Quốc thì Truyện Kiều lại được coi là tác phẩm kinh điển của
văn học Việt Nam. Vẫn còn rất nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến vấn đề này,
song, trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ xin phân tích những công trình
tiêu biểu để làm nổi bật những xu hướng tiếp nhận này ở Trung Quốc. Thêm
vào đó, lịch sử tiếp nhận từ góc độ so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện
đã được nhiều nhà nghiên cứu Việt Nam nghiên cứu chuyên sâu. Do đó, chúng
tôi xin tiếp thu những kết quả nghiên cứu của những người đi trước và bổ sung
một số nhận xét.
Như vậy, với xu hướng tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du từ góc độ
so sánh với tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân ở Trung Quốc đã có một bước
phát triển và hoàn thiện dần trong những quan điểm của giới nghiên cứu. Qua
62
đó đã góp phần cho thấy giá trị đích thực của một tác phẩm sẽ luôn trường tồn
dù cho có bị “vùi dập” ra sao.
Bên cạnh khuynh hướng tiếp nhận Truyện Kiều từ góc độ so sánh văn
học Trung - Việt, ở Trung Quốc còn có một số xu hướng tiếp nhận khác như:
Năm 1997, ở Trung Quốc xuất hiện thêm một hướng tiếp nhận Truyện
Kiều mới đó là nghiên cứu tác phẩm theo đặc trưng loại hình truyện Nôm. Đó
là bài viết “Bàn về truyền thống văn học và giá trị nghệ thuật của tiểu thuyết
chữ Nôm Việt Nam – thành tựu nghệ thuật Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn
Du” của Kỳ Quảng Mưu. Ông đã đặt tác phẩm vào hệ thống các tác phẩm chữ
Nôm của Việt Nam để lí giải sức ảnh hưởng của tác phẩm đối với mọi lĩnh
vực đời sống của người Việt Nam như ngâm Kiều, kể Kiều hay ảnh hưởng
của Truyện Kiều đối với các nhà văn giai đoạn sau, trong văn hóa dân gian
(bói Kiều). Không những thế, tác phẩm của Nguyễn Du còn được dịch ra
nhiều thứ tiếng trong đó có cả tiếng Trung Quốc và có một vị trí nhất định
trên văn đàn thế giới. Trong khi tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân lại có ảnh
hưởng rất thấp, thậm chí bị quên lãng ở Trung Quốc, “không thâm nhập được
vào đời sống nhân dân” (Bùi Thị Thúy Phương, Nguyễn Thị Diệu Linh,
2015). Theo tác giả, đặc điểm nổi bật tạo nên thành công cho Kim Vân Kiều
truyện của Nguyễn Du đó là việc “xây dựng hình tượng nhân vật và vận dụng
xuất sắc ngôn ngữ dân tộc”. Với hướng tiếp nhận từ góc độ loại hình này, tác
giả đã chứng minh được thành công của Truyện Kiều còn được tạo nên bởi sự
kế thừa và phát huy loại hình văn học dân tộc.
Năm 2007, Hà Kim Lan với bài viết “Từ các khái niệm “tính khả độc”,
“tính khả tả”, “tính khả truyền” thử tìm hiểu hai tác phẩm Kim Vân Kiều
truyện và Đoạn trường tân thanh” đã áp dụng những khái niệm trên cơ sở lí
thuyết của Roland Barthes vào việc tiếp nhận Truyện Kiều từ góc độ so sánh hai
tác phẩm Trung - Việt. Ở phần đầu bài viết, tác giả đã khái lược cơ sở lí thuyết
về sự khác biệt trong ngôn ngữ, văn hóa, vốn hiểu biết văn học, hoàn cảnh xã
63
hội, điều kiện chính trị của tác giả và độc giả ảnh hưởng đến việc phiên dịch và
nghiên cứu văn học. Phần tiếp theo, tác giả trình bày mối quan hệ giữa Đoạn
trường tân thanh và Kim Vân Kiều truyện. Tác giả khái quát về lịch sử hình
thành của chữ Nôm. Tác giả khẳng định vị trí và tầm ảnh hưởng của Truyện
Kiều so với tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân. Để lí giải điều này, tác giả đã
đặt vấn đề liên quan đến “tính khả độc”, “tính khả tả” và “tính khả truyền” mà
Roland Barthes đã đề xuất trong bài viết “Cái chết của tác giả” năm 1968. Đây
là hướng nghiên cứu dựa vào lí thuyết tiếp nhận văn học.
Về “tính khả độc” của văn bản và “tính khả độc” của bản dịch, tác giả
phân tích những quan điểm của Tôn Khải Đệ, Lý Trí Trung, Đổng Văn Thành,
Vương Thiên Nghi để khẳng định sự tiếp nhận của mỗi độc giả đều có sự khác
nhau. Nếu Tôn Khải Đệ đánh giá không cao Kim Vân Kiều truyện cũng như tài
năng của Thanh Tâm Tài Nhân thì Lý Trí Trung đã nhận thấy được một số ưu
điểm của tác phẩm về mặt nghệ thuật nhưng ông cũng không khẳng định sự
thành công của tác phẩm. Trái lại, Đổng Văn Thành lại đánh giá rất cao và dành
rất nhiều mĩ từ tác phẩm và tác giả. Hà Kim Lan cũng thể hiện sự bức xúc khi
Đổng Văn Thành thực hiện việc so sánh giữa Kim Vân Kiều truyện và Đoạn
trường tân thanh nhưng lại chỉ đọc tác phẩm của Nguyễn Du thông qua bản
dịch Hán văn. Theo Đổng Văn Thành thì Kim Vân Kiều truyện có tính khả độc
cao, trong khi Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du lại “không có tính khả
độc”. Tiếp thu quan điểm ấy của Đổng Văn Thành, trong luận văn thạc sĩ của
mình, Vương Thiên Nghi đã mạnh dạn khẳng định Đoạn trường tân thanh hoàn
toàn giống với Kim Vân Kiều truyện không có gì sáng tạo. Trước những nhận
định ấy, Hà Kim Lan tỏ ra “hoài nghi” về việc “chỉ thông qua bản dịch để so
sánh thì làm sao có thể thấy được “trình độ miêu tả”, “trình độ thuật chuyện”,
“trình độ nghệ thuật” của Nguyễn Du trong toàn bộ tác phẩm Đoạn trường tân
thanh của ông”. Từ đó Hà Kim Lan đã đặt ra một số lưu ý khi nghiên cứu so
sánh hai tác phẩm. Thứ nhất là về phương diện ngôn ngữ. Đoạn trường tân
64
thanh được viết bằng chữ Nôm mang “những sắc thái dân tộc của Việt Nam”.
Thể thơ lục bát cũng là một điểm cần lưu ý. Tiếp theo là phải chú ý đến hoàn
cảnh sáng tác, cuộc đời tác giả. Bà cũng nhận xét rằng đây là sự “thiếu công
bằng đối với Nguyễn Du và cả đối với dịch giả”. Để lí giải thực trạng trên, tác
giả đã đưa ra nguyên nhân đó là: “Nếu độc giả thuộc dân tộc khác nhau, quốc
tịch khác nhau, thì sau khi đọc cùng một văn bản, phản ứng tiếp nhận rất có thể
sẽ ngược lại”. Bằng chứng là tác giả đã đưa ra những nhận định của các nhà
phê bình ở Việt Nam như Hoài Thanh, Đào Duy Anh, Dương Quảng Hàm,
Nguyễn Lộc, Hà Như Chi, Trần Quang Huy để rút ra một nhận xét rằng ở Đoạn
trường tân thanh có cái “tình điệu dân tộc mà trong Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân không có”. Từ đó tác giả cũng đặt một vấn đề rằng:
“Người làm nghiên cứu khi nhận xét đánh giá văn bản phải chăng là nên chú ý
đến sự “đọc” và trình độ “tiếp nhận” của người thuộc dân tộc khác nhau?”.
Trong phần “tính khả tả” của văn bản, tác giả đã nhận định rằng Đoạn
trường tân thanh của Nguyễn Du đã tạo nên “tính khả tả” cho Kim Vân Kiều
truyện. Và chính nhờ “tính khả độc của văn bản Nguyễn Du đã khiến cho lịch
sử văn học, lịch sử học thuật, lịch sử nghệ thuật Việt Nam có được những công
trình “viết” đáng quý sau khi đã đọc văn bản đó”. Đối với “tính khả truyền”
thì theo tác giả tuy Đoạn trường tân thanh ra đời sau nhưng lại tạo được tiếng
vang hơn, được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam quan tâm nhiều hơn, đặc biệt là
sau khi được chuyển sang chữ la tinh thì càng dễ dàng tiếp cận đến mọi tầng lớp
nhân dân hơn. Tác giả cho rằng: một ưu thế là các nhà nghiên cứu Việt Nam khi
tiến hành so sánh hai tác phẩm đã tiếp cận nguyên văn chữ Hán của Kim Vân
Kiều truyện. Kết hợp phương pháp thực chứng lịch sử, tác giả chứng minh rằng
“tính khả tả” của Đoạn trường tân thanh là vô cùng sâu rộng. Như vậy, với bài
viết này, việc so sánh hai tác phẩm đã có một bước tiến mới trong việc tác giả
vận dụng lí thuyết của phương Tây để có những góc nhìn mới mẻ hơn.
65
Kỳ Quảng Mưu với bài viết “Bàn về thành tựu nghệ thuật truyện Kim Vân
Kiều của Nguyễn Du” đã chọn cách tiếp nhận tác phẩm của Nguyễn Du từ
phương diện nghệ thuật. Thứ nhất là việc xây dựng hình tượng nhân vật điển
hình. Thứ hai là việc vận dụng ngôn ngữ dân tộc, thể thơ lục bát. Tác giả cũng
nêu ra một số những nhận xét của Đổng Văn Thành và nhận xét rằng đó là
những nhận xét “thiên lệch”. Từ đó, cho thấy sức ảnh hưởng và sự thành công
của Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện. Bài viết tuy không có những
khám phá mới mẻ nhưng cũng đã cho thấy cái nhìn mới của các học giả Trung
Quốc khi nhìn nhận một cách khách quan.
Trong bài viết “Phân tích thi học văn hóa Kim Vân Kiều truyện và Chinh
phụ ngâm khúc”, Triệu Ngọc Lan đã sử dụng một hướng nghiên cứu mới đó
là thi học văn hóa trong việc tiếp nhận Truyện Kiều (Nguyễn Thị Diệu Linh,
Nguyễn Thanh Tùng, 2015). Hướng nghiên cứu này một mặt khẳng định ảnh
hưởng sâu sắc của các thành tố văn hóa Trung Quốc đến văn học (cổ trung
đại) các quốc gia như Nhật Bản, Hàn Quốc, Triều Tiên và Việt Nam, mặt
khác cũng lý giải sức mạnh văn hóa bản địa đã dung hợp với các yếu tố ngoại
lai như thế nào. Chính nhờ vào tính chất “dân tộc hóa” này mà tác phẩm của
Nguyễn Du dễ dàng được nhiều thế hệ người Việt Nam tiếp nhận và yêu
chuộng (Nguyễn Thị Diệu Linh, Nguyễn Thanh Tùng, 2015). Tác giả cũng
phân tích về nguyên nhân Truyện Kiều được công chúng Việt Nam đón nhận
nồng nhiệt là bởi tác phẩm này có sự hòa quyện giữa văn hóa Trung Quốc và
yếu tố dân tộc (ngôn ngữ, thể thơ) (Triệu Ngọc Lan, 2013).
Năm 2015, Lưu Chí Cường có bài viết “Nghiên cứu Truyện Kiều và
Nguyễn Du tại Trung Quốc: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng” tại Hội thảo
“Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du: Di sản và các giá
trị xuyên thời đại”. Đây là bài viết mang tính chất khái quát lịch sử tiếp nhận
Truyện Kiều của giới nghiên cứu tại Trung Quốc từ những năm 50 của thế kỉ
XX đến hiện nay. Trong bài viết, tác giả đã có cái nhìn khách quan khi đưa ra
66
những hạn chế của các nhà nghiên cứu Trung Quốc về Truyện Kiều. Quá trình
tiếp nhận Truyện Kiều của Nguyễn Du ở Trung Quốc được tác giả phân chia
thành ba giai đoạn. Giai đoạn thứ nhất (từ những năm 50 đến những năm 60 của
thế kỷ XX), theo tác giả đây là thời kì mà quan hệ giữa hai nước Trung - Việt
phát triển rất tốt đẹp nên nhiều tác phẩm của Việt Nam được các dịch giả Trung
Quốc chú ý. Và người đầu tiên có công trong việc giới thiệu Truyện Kiều ở
Trung Quốc đó là Hoàng Dật Cầu. Vì đây là bản dịch đầu tiên nên khó tránh
khỏi những sơ sót và một điểm đáng lưu ý đó là tác giả đã dịch lại từ bản dịch
tiếng Pháp của Nguyễn Văn Vĩnh chứ không dịch trực tiếp từ tiếng Việt. Do trải
qua nhiều trung gian như thế nên việc bản dịch dấy lên một làn sóng tranh luận
sôi nổi trong giới nghiên cứu Trung - Việt cũng là điều dễ hiểu. Mặc dù có
nhiều thiếu sót về bản dịch nhưng chúng ta cũng không thể không công nhận
vai trò tiên phong của bản dịch ấy, bởi vì nó đã góp phần mang Truyện Kiều đến
với giới nghiên cứu ở Trung Quốc. Bên cạnh đó, Hoàng Dật cầu cũng đã có
những nghiên cứu “tương đối hệ thống” tác phẩm của Nguyễn Du. Đây cũng là
nguồn tài liệu để các nhà nghiên cứu khác ở Trung Quốc làm cở sở cho những
nghiên cứu của mình. Giai đoạn thứ hai (những năm 80 của thế kỉ XX) có sự
xuất hiện của Đổng Văn Thành một nhà nghiên cứu chuyên nghiên cứu tiểu
thuyết Minh, Thanh. Nhờ bản dịch của Hoàng Dật Cầu mà ông biết đến Truyện
Kiều của Nguyễn Du, từ đó ông đã dành rất nhiều thời gian cũng như công sức
cho việc so sánh hai tác phẩm có mối quan hệ mật thiết này. Những nghiên cứu
của ông được nhiều học giả ở Trung Quốc công nhận thậm chí dùng làm tài tiệu
nghiên cứu cho những công trình của mình. Tuy nhiên, từ những thiếu sót của
bản dịch mà tác giả không nhận thấy được đã dẫn đến những kết quả nghiên
cứu của tác giả chưa thật sự chính xác. Theo Lưu Chí Cường, những nhà nghiên
cứu thông thạo tiếng Việt ở Trung Quốc cho rằng kết quả nghiên cứu của Đổng
Văn Thành quá võ đoán. Bởi lẽ ông là người không biết tiếng Việt. Trong giai
đoạn này còn có sự xuất hiện của các nhà nghiên cứu Lô Úy Thu và Triệu Ngọc
67
Lan. Hai học giả này đã có những nhận xét khách quan hơn về Truyện Kiều và
được nhiều người tán đồng hơn. Một yêu cầu mà Lưu Chí Cường đặt ra đó là
nhà nghiên cứu văn học so sánh phải thông thạo hai thứ tiếng thì kết quả nghiên
cứu mới đáng tin cậy và có khả năng thuyết phục. Yêu cầu này thật sự quá lí
tưởng, bởi lẽ dù có thành thạo một ngôn ngữ khác thì nhà nghiên cứu cũng khó
lòng hiểu hết những yếu tố về văn hóa. Giai đoạn thứ ba (từ những năm 90 đến
nay), tác giả đã thống kê có thêm 3 bản dịch mới của La Trường Sơn, Tề Quảng
Mưu và Triệu Ngọc Lan, gần 100 bài nghiên cứu, bình luận về Truyện Kiều và
Nguyễn Du và được giảng dạy ở bậc đại học như một đại diện duy nhất của văn
học trung đại Đông Nam Á. Tác giả cũng giới thiệu 3 cuốn sách nghiên cứu tiêu
biểu được đánh giá cao: “Nghiên cứu truyện Vương Thúy Kiều” của Trần Ích
Nguyên, “Văn học cổ điển Việt Nam - Tứ đại danh tác” của Lưu Chí Cường và
luận văn tiến sĩ “So sánh văn học dân tộc xuyên quốc gia giữa Trung Quốc và
Việt Nam” của Hoàng Linh. Tác giả cũng khẳng định rằng nhờ Truyện Kiều mà
việc giao lưu văn hóa Trung – Việt ngày càng được thắt chặt hơn. Trong phần
cuối của bài nghiên cứu, tác giả đã trình bày những quan điểm cá nhân và vấn
đề nghiên cứu Truyện Kiều trong quá khứ và đưa ra những triển vọng nghiên
cứu trong tương lai. Theo tác giả vấn đề cốt lõi cần phải khắc phục trong việc
nghiên cứu văn học so sánh giữa hai nước đó là các nhà nghiên cứu cần bổ túc
kiến thức về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Cho dù có được bản dịch hay
nhưng nhà nghiên cứu không am hiểu gì về tiếng Việt và lịch sử văn hóa Việt
Nam thì kết quả nghiên cứu cũng không đáng tin cậy. Tác giả cũng đề xuất
những phương thức góp phần phát triển ngành Kiều học và Nguyễn Du học ở
Trung Quốc như: tổ chức hội thảo định kỳ, in lại và tổng hợp nguồn tài liệu về
Truyện Kiều và Nguyễn Du, lập một website dành cho giới nghiên cứu hai
nước.
68
Trong bài viết “Bàn về việc tiếp biến văn hóa Trung Quốc trong Kim Vân
Kiều truyện của Việt Nam” (2015), nhà nghiên cứu Wang Xiaolin đã tiếp thu
Tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Nguyễn Du sáng tạo trên cơ sở tiếp
thu suối nguồn dưỡng chất từ bản tiểu thuyết chữ Hán của Thanh Tâm Tài
Nhân. Nguyễn Du đã sử dụng ngôn ngữ dân tộc, thể thức của ca dao dân ca
Việt Nam và sự thuần phục của cá nhân nhà thơ tỏng việc vận dụng điển cố
Trung Quốc đem nội dung tác phẩm chuyển tải một cách hết sức hoàn mỹ
vào những câu thơ lục bát gọn gàng ngăn nắp (Wang Xiaolin, 2015).
quan điểm của Hoàng Dật Cầu khi cho rằng:
Tác giả đã khái quát quá tình nghiên cứu so sánh hai tác phẩm Trung - Việt
từ những năm 80 của thế kỷ XX. Theo tác giả, các công trình nghiên cứu ấy có
thể chia thành hai hướng. Thứ nhất là các công trình nghiên cứu xoay quanh
vấn đề: “Nên đánh giá ra sao về hai tác phẩm?”. Ở hướng đi này, tác giả nhận
thấy có hai quan điểm hoàn toàn đối lập nhau giữa hai nhóm nghiên cứu. Nhóm
thứ nhất cho rằng Truyện Kiều của Nguyễn Du không thể sánh bằng Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân gồm có Đổng Văn Thành và Vương
Thiên Nghi. Nhóm còn lại có quan điểm đối lập đó là nhóm các nhà nghiên cho
rằng tác phẩm của Việt Nam hoàn toàn có sự vượt trội và tạo được tiếng vang
hơn so với nguyên tác gồm có Trần Quang Huy, Phạm Thú Châu, Kỳ Quảng
Mưu, Lý Quần, Hà Minh Trí và Vi Mậu Bân. Thứ hai là hướng so sánh hai tác
phẩm Trung - Việt. Trong hướng nghiên cứu này, theo tác giả có các phân
nhánh nhỏ: so sánh tất cả các phương diện, so sánh về nội dung và so sánh về
nghệ thuật. Cuối cùng, tác giả đã có những kết luận rằng tác phẩm của Nguyễn
Du đã trở thành “tác phẩm kinh điển của văn học thế giới, được công nhận trên
toàn thế giới” bởi lẽ ở tác phẩm hội tụ các yếu tố về tác giả, ngữ cảnh truyền bá
69
và chất lượng của bản thân tác phẩm. Đây cũng là vấn đề mà tác giả đặt ra đòi
hỏi cần tiếp tục đẩy mạnh nghiên cứu chuyên sâu hơn
Như vậy, về vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều của giới nghiên cứu ở Trung
Quốc, chúng tôi xin khái quát thành hai hướng tiếp nhận cơ bản. Đó là: hướng
tiếp nhận từ góc độ so sánh với tác phẩm Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm
Tài Nhân và hướng tiếp nhận Truyện Kiều một cách độc lập. Tuy nhiên trong
quá trình nghiên cứu Truyện Kiều một cách độc lập các tác giả vẫn có liên hệ so
sánh với nguyên tác. Qua đó, chúng ta có thể nhận thấy rằng kể từ khi Truyện
Kiều của Nguyễn Du được dịch và giới thiệu ở Trung Quốc nó đã trở thành một
sự kiện đánh dấu một bước ngoặc lớn đối với hành trình vượt ra khỏi biên giới
của tác phẩm. Bởi lẽ, Trung Quốc có mối quan hệ vô cùng mật thiết đối với tác
phẩm của Nguyễn Du trước hết là ở đề tài và cốt truyện, sau đó là đến các yếu tố
của ngôn ngữ, văn hóa, … Kể từ đó, giới nghiên cứu văn học ở Trung Quốc đã
bắt đầu một cuộc đại khảo cứu. Hàng loạt các cuộc truy tìm nguồn gốc của câu
chuyện được các học giả Trung Quốc thực hiện với một sự đầu tư cả về công
sức lẫn tâm sức. Cũng chính nhờ tiếng vang mà Truyện Kiều của Nguyễn Du
tạo nên đã góp phần thôi thúc các nhà nghiên cứu Trung Quốc thể hiện lòng tự
tôn dân tộc. Và tác phẩm được xem là nguyên tác của Truyện Kiều được tìm
thấy và được vực sống dậy, được tái sinh sau một thời gian dài bị chìm vào
quên lãng ở Trung Quốc. Và việc nghiên cứu so sánh hai tác phẩm Trung – Việt
như một lẽ tất yếu. Nhiều nhà nghiên cứu dành thời gian và công sức để nghiên
cứu so sánh sự giống và khác nhau giữa hai tác phẩm. Như chúng ta đã thấy,
trong suốt một khoảng thời gian đầu, giới nghiên cứu ở Trung Quốc đều cùng
đưa hai tác phẩm lên bàn cân để tìm ra những điểm hơn kém nhau giữa chúng.
Tuy nhiên, vẫn có những nhà nghiên cứu thực hiện việc nghiên cứu một cách
khách quan, tiếp cận tác phẩm từ nhiều góc độ (ngôn ngữ, văn hóa, thi pháp...)
và có những nhận xét đánh giá công nhận những thành công vượt bậc của
Truyện Kiều. Trên cơ sở những hướng tiếp nhận phong phú của các học giả
70
Trung Quốc, điều đáng chú ý là để các học giả Trung Quốc với tinh thần tự tôn
dân tộc cao thì việc chấp nhận một tác phẩm được sáng tác dựa vào tác phẩm
của nước mình và ca ngợi nó là một điều không hề dễ dàng. Từ đó, chúng ta
càng có cơ sở hơn để khẳng định về sức ảnh hưởng của Truyện Kiều trên văn
đàn thế giới. Hiện nay, quá trình nghiên cứu tác phẩm của Nguyễn Du ở Trung
Quốc vẫn đang tiếp diễn và hứa hẹn sẽ có những góc nhìn mới hơn.
2.1.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Đài Loan
Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở Đài Loan có sự ảnh hưởng nhất định bởi
những quan điểm tiếp nhận của các nhà phê bình ở Trung Quốc. Theo chúng tôi
nhận thấy, vấn đề nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều ở Đài Loan chủ yếu tập
trung vào hai hai xu hướng chính. Đó là xu hướng kế thừa quan điểm của Đổng
Văn Thành và xu hướng đối lập với quan điểm ấy. Với các nhà nghiên cứu tiêu
biểu như Trần Ích Nguyên, Trần Quang Huy, …
Năm 1958, Trần Ích Nguyên công bố bài viết “Nghiên cứu so sánh Kim
Vân Kiều truyện của Trung Quốc, Việt Nam và tranh luận” trích trong “Vương
Thúy Kiều cố sự nghiên cứu” của Hoa Nam Sư phạm Học viện học báo. Trong
bài viết, Trần Ích Nguyên đã trình bày cuộc tranh luận giữa Phạm Tú Châu và
Đổng Văn Thành. Tác giả đưa ra một số nguyên nhân bắt nguồn từ việc Đổng
Văn Thành bình luận phần đầu của tác phẩm. Ông cho rằng Nguyễn Du không
tỏ ra thương xót mà lại xem bi kịch của người phụ nữ chỉ là chuyện tầm thường.
Phạm Tú Châu đã phản biện lại những nhận định của Đổng Văn Thành bằng
cách đưa ra những minh chứng đối chiếu bản dịch của Hoàng Dật Cầu với một
số bản dịch của các dịch giả người Việt. Theo Phạm Tú Châu, việc Đổng Văn
Thành đưa ra những kết quả nghiên cứu ấy là do ông quá tin tưởng vào bản dịch
mà không có sự tham khảo các bản dịch của các dịch giả Việt Nam. Với công
trình này, tác giả đã thể hiện được sự khách quan trong việc nhìn nhận lại những
quan điểm tiếp nhận của hai nhà nghiên cứu đi trước. Tuy nhiên công trình chỉ
71
dừng lại ở việc trình bày quan điểm của các nhà nghiên cứu chứ cho có những
khám phá mới mẻ về tác phẩm.
Năm 1973, Trần Quang Huy đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ “Việt
Nam Nôm truyện dữ Trung Quốc tiểu thuyết quan hệ chi nghiên cứu” tại Đại
học Quốc lập Đài Loan. Tuy tác giả là người Việt Nam du học tại Đài Loan,
nhưng công trình của ông đã có những ảnh hưởng nhất định trong giới nghiên
cứu tại nơi đây. Công trình của ông cũng trở thành nguồn tài liệu tham khảo uy
tín được các nhà nghiên cứu ở Việt Nam, Trung Quốc và Đài Loan trích dẫn. Ở
phần đầu của luận văn, tác giả trình bày những kết quả nghiên cứu về lịch sử
câu chuyện Vương Thúy Kiều và tác giả cũng nhận định rằng tác phẩm của
Thanh Tâm Tài Nhân là hoàn chỉnh nhất. Ở phần sau, tác giả trình bày mối
quan hệ giữa Kim Vân Kiều truyện và Đoạn trường tân thanh. Tác giả cũng
khẳng định sự sáng tạo của Nguyễn Du đã mang lại tiếng vang lớn cho câu
chuyện Vương Thúy Kiều. Tác giả cũng trình bày những tình tiết khác biệt giữa
hai tác phẩm và chứng minh rằng: “Nguyễn Du trong khi diễn thuật Kim Vân
Kiều truyện đã có được một lập trường sáng tác độc đáo riêng, không cứ nhất
nhất y theo các tình tiết trong bản gốc”. Về nhân vật, tác giả cũng đưa ra một số
điểm hạn chế trong tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân: nhân vật thiếu nhất
quán; lời nói và hành động không phù hợp với số phận của nhân vật; cá tính
nhân vật chưa thật sinh động, rõ ràng; khắc họa tâm lí nhân vật sơ lược. Tác giả
khẳng định đối với những thiếu sót trên của Kim Vân Kiều truyện thì Nguyễn
Du đã “san cải”. Ở các khía cạnh ngôn ngữ, cử chỉ, ngoại hình nhân vật, tác giả
cũng cho rằng Nguyễn Du có sự chọn lọc phù hợp và thống nhất với hình tượng
nhân vật mà mình xây dựng. Tác giả đặc biệt nhấn mạnh thành công của
Nguyễn Du đó chính là xây dựng thế giới nội tâm của nhân vật. Về tư tưởng, tác
giả cho rằng nếu Kim Vân Kiều truyện thể hiện tư tưởng “tài mệnh tương đố”
thì Đoạn trường tân thanh lại “in đậm” mối quan hệ giữa “tâm và tài”. Theo
tác giả:
72
Kim Vân Kiều truyện chỉ là một bộ tiểu thuyết tả sự, kể chuyện bình
thường, trong khi Đoạn trường tân thanh là tác phẩm huyển tải được chiều
sâu sắc thái nhân bản chủ nghĩa” còn “Đoạn trường tân thanh đã hết sức tu
chỉnh hình ảnh một Thúy Kiều thô phác trong nguyên tác, muốn cải biến
nàng thành một thiếu nữ đoan trang cao quý, tuy đưa đến cho nàng một đời
sống tinh thần tự nhiên mà vẫn chưa thể xây dựng được thành nhân vật lí
tưởng hóa (Trần Quang Huy, 1973)
Theo tác giả, dưới ngòi bút của Nguyễn Du, Thúy Kiều hiện ra là một con
người trọng tình cảm vẫn những mặt hạn chế như những con người bình
thường. Tác giả viết: “Có thể nói bản chất mối quan hệ giữa “lý” và “tình” ở
Kim Vân Kiều truyện và Đoạn trường tân thanh là khác biệt nhau. Đồng thời
cũng có thể ghi nhận Đoạn trường tân thanh là một bộ tiểu thuyết tình cảm
thành công, so với Hồng lâu mộng cũng chẳng kém gì”. Ở đây tác giả chỉ nhấn
mạnh về khía cạnh tình cảm nên việc so sánh này là hợp lí. Về phương diện
phản ánh thời đại và các giá trị nhân sinh, nếu tác giả Kim Vân Kiều truyện chỉ
thuật lại những sự kiện, biến cố xoay quanh cuộc đời Kiều và mỗi cảnh ngộ là
một ý nghĩa nhân sinh thì trong tác phẩm của Nguyễn Du, hiện thực đời sống
được phản ánh một cách sâu sắc và trong phạm vi rộng lớn hơn và bi kịch của
Thúy Kiều trở thành “tấn bi kịch chung cho cõi nhân sinh rộng lớn”. Bởi lẽ
những câu chữ trong Đoạn trường tân thanh khi tách ra khỏi tác phẩm nó vẫn
thể hiện được những cung bậc tình cảm cảm xúc của bất kì người nào trong
cuộc sống thường ngày. Về phương diện nghệ thuật, tác giả đã cho rằng
Nguyễn Du đã kết hợp tài tình nhiều thủ pháp nghệ thuật của văn học cổ điển
Trung Quốc và thơ ca dân tộc vì thế thơ của ông vừa mang tính bác học nhưng
cũng mang tính bình dân. Đó cũng chính là lí do vì sao tất cả mọi tầng lớp nhân
dân đều yêu thích đọc Truyện Kiều. Tác giả cũng cùng quan điểm với các nhà
73
nghiên cứu khác, sở dĩ Đoạn trường tân thanh chứa chan tình cảm là do
Nguyễn du đã kí thác nỗi niềm tâm sự của chính mình vào nhân vật Thúy Kiều
hay khát vọng của mình và nhân vật Từ Hải. Cuối cùng tác giả nhấn mạnh lại
một lần nữa về vai trò của Nguyễn Du trong việc tiếp nhận và sáng tạo: “Con
tằm văn chương Việt Nam tiếp nhận món lá dâu văn học Trung Quốc đã tự nhả
được những sợi tơ óng chuốt”. Đây có thể được xem như công trình nghiên cứu
so sánh Truyện Kiều Trung - Việt hoàn chỉnh nhất với quan điểm thống nhất và
cái nhìn khách quan.
Năm 2003, K. C. Leung với bài viết “Chu trình diễn hóa của Kiều: Lại
bàn về kế thừa và sáng tạo” đã tiếp nhận tác phẩm của Nguyễn Du trong mối
tương quan với những câu chuyện về nàng Vương Thúy Kiều ở Trung Quốc.
Tác giả đã trình bày những khác nhau trong cốt truyện của các tác phẩm liên
quan đến nàng Kiều. Bắt đầu từ một câu chuyện được lưu truyền trong nhân
gian sau đó được chép lại. Tác giả cũng sử dụng kết quả nghiên cứu của Đổng
Văn Thành đó là có 11 tác phẩm liên quan đến đề tài này. Theo tác giả, điều dễ
nhận thấy nhất trong diễn tiến của câu chuyện đó chính là sự thay đổi về ngoại
hình ngày càng được tô điểm hoàn hảo của nhân vật chính. Tác giả cũng cho
rằng tuy Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân đã có kết thừa và phát
triển câu chuyện Vương Thúy Kiều tương đối hoàn thiện. Tuy nhiên đây không
phải là tác phẩm tài tử - giai nhân điển hình do nó có những chi tiết vượt ngoài
sự mong đợi của người đọc.
Bên cạnh đó còn có luận văn thạc sĩ của Vương Thiên Nghi “Nghiên cứu
Kim Vân Kiều truyện” (1988). Tuy nhiên hiện chúng tôi chưa tìm thấy bản
dịch.
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy được hành trình tiếp nhận Truyện Kiều
ở Đài Loan chủ yếu kế thừa và phát triển các quan điểm của giới nghiên cứu
Trung Quốc trên cơ sở có chọn lọc. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu của các
nhà nghiên cứu ở Đài Loan cũng cho thấy được tình cảm đặc biệt mà họ dành
74
cho Truyện Kiều của Việt Nam. Việc tiếp nhận thể hiện tính khách quan của các
nhà nghiên cứu nơi đây đã góp phần chứng minh về giá trị lớn lao của Truyện
Kiều.
2.1.3. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Nhật Bản
Trong những năm gần đây, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đang ngày càng
được thắt chặt và tiến tới mối quan hệ hợp tác chiến lược. Mối quan hệ tốt đẹp
này là kết quả của một quá trình hợp tác, xây dựng từ rất lâu đời. Nó bắt nguồn
từ nguyên nhân sâu xa là những nét tương đồng về văn hóa Đông Á. Hiện nay,
quan hệ Việt Nam - Nhật Bản nói chung và quan hệ văn hóa giữa hai nước
nói riêng, luôn là đề tài hấp dẫn thu hút sự quan tâm của các nhà nghiên cứu
Việt Nam, Nhật Bản và các nước khác. Và không năm ngoài xu hướng ấy,
văn học của hai nước đã sớm được các nhà nghiên cứu hai nước quan tâm. Sự
giao lưu về văn học không chỉ dừng lại ở việc dịch thuật, giới thiệu tác phẩm
mà còn là những công trình nghiên cứu, phê bình có nhiều phát hiện mới mẻ
và góp phần cho thấy được sự gắn bó của văn hóa Việt - Nhật. Và vấn đề tiếp
nhận Truyện Kiều ở quốc gia này cũng diễn ra sôi nổi với nhiều công trình
đáng lưu ý.
Theo thống kê của Đoàn Lê Giang, đến năm 2017, ở Nhật Bản đã có 5
bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Nhật và Nhật Bản cũng là đất nước có bản
dịch Truyện Kiều sớm thứ hai sau bản dịch tiếng Pháp. Đó là bản dịch của nhà
văn - dịch giả Komatsu Kiyoshi được giới thiệu vào năm 1942. Tiếp theo là
bản dịch Truyện Kiều do GS.Takeuchi Yonosuke thực hiện và chú thích kỹ
càng ra thơ tiếng Nhật được xuất bản năm 1975. Sau đó, năm 1985, giáo sư
Takeuchi có biên soạn lại theo kiểu giáo khoa để làm tài liệu tham khảo cho
sinh viên. Năm 1996, Akiyama Tokio công bố bản dịch Truyện Kiều của
mình. Đến năm 2005, Bản dịch Truyện Kiều của Sato Seiji và Kuroda
Yoshiko đã ra đời (Đoàn Lê Giang, 2017). Chính vì được dịch từ rất sớm nên
75
Truyện Kiều sớm được các nhà nghiên cứu Nhật Bản quan tâm. Và từ đó giới
nghiên cứu hai nước có một phát hiện thú vị về mối quan hệ giữa tác phẩm
kinh điển của Việt Nam - Truyện Kiều với tác phẩm Kim Ngư Truyện của
Bakin.
Chúng tôi nhận thấy quá trình nghiên cứu, phê bình Truyện Kiều ở Nhật
Bản đã diễn ra với các xu hướng chính là tiếp nhận Truyện Kiều từ phương diện
lí giải nguồn gốc, góc nhìn so sánh trong tương quan với văn học Đông Á và
văn học Edo, … với các tác giả tiêu biểu như Kawawuchi Kenichi, Hatakenaka
Toshiro, Komatsu Kiyoshi, Kuroda Yoshino.
Người nghiên cứu Truyện Kiều sớm nhất ở Nhật Bản đó là Kawawuchi
KenichiNăm 2000, Kawawuchi Kenichi đã có bài viết “Văn học Việt Nam ở
Nhật Bản” trong cuốn sách “Một trăm năm phiên dịch: Văn học nước ngoài và
Nhật Bản cận đại”. Trong bài viết này, ông đã trình bày về lịch sử tiếp nhận
văn học Việt Nam ở Nhật Bản trong đó có Truyện Kiều. Theo tác giả, Kim Vân
Kiều (Nguyễn Du viết, Komatsu Kiyoshi dịch) là một trong ba cuốn sách dịch
văn học Việt Nam sang tiếng Nhật đầu tiên vào năm 1942. Đây là bản dịch
Truyện Kiều từ một bản dịch tiếng Pháp. Đến năm 1975 thì ở Nhật mới có bản
dịch trực tiếp từ nguyên tác, đó là bản dịch của Takeuchi Yonosuke. Tác giả
cũng trình bày một số nhận xét về Truyện Kiều của các nhà nghiên cứu ở Nhật.
Đầu tiên là nhận xét của Suzuki Mutsuro, ông cho rằng Kim Vân Kiều là một
thành tựu về văn học của Việt Nam có thể so sánh với Truyện Genji của Nhật
Bản. Suzuki Mutsuro cũng nhấm mạnh về mức độ nổi tiếng của Truyện Kiều ở
Việt Nam. Kawawuchi Kenichi cũng dành một phần giới thiệu về Nguyễn Du
cũng như hoàn cảnh ra đời của Truyện Kiều và khẳng định Truyện Kiều là tác
phẩm đỉnh cao của quốc dân Việt Nam.
Năm 2004, trong “Bài bạt Kim Vân Kiều” trên tạp chí Nghiên cứu văn
học số 11, tác giả Komatsu Kiyoshicho đã cho rằng: “Có thể thông qua tác
phẩm này mà tìm hiểu cái bí mật của hồn dân tộc An Nam” bởi lẽ nó là “tấm
76
gương phản chiếu tâm hồn người An Nam”. Ông trân trọng gọi Truyện Kiều là
“tập thơ quốc dân” hay “tập thơ trữ tình vĩ đại”. Ông cũng cùng quan điểm với
nhiều nhà nghiên cứu khác khi cho rằng Nguyễn Du đã phản ánh số phận của
dân tộc Việt Nam thông qua cuộc đời Kiều. Tác giả cũng đề cập đến vấn đề đời
sống của Truyện Kiều trong lòng người dân Việt Nam và so sánh việc người
Việt Nam đọc tác phẩm ấy của Nguyễn Du cũng giống như “người Ý đọc
Dante, người Anh đọc Shakespeare, người Pháp đọc Racine, người Đức đọc
Goethe”. Tuy bài viết chưa đi sâu vào phân tích từng vấn đề nhưng cũng đã góp
phần cho thấy được quan điểm của tác giả đối với Truyện Kiều và gợi mở cho
các công trình nghiên cứu tiếp theo về Truyện Kiều ở Nhật Bản.
Năm 2004, Kuroda Yoshiko đã khơi gợi một hướng tiếp nhận mới - vấn
đề văn hóa tâm linh - trong bài viết “Truyện Kiều - Thế giới của lời thề”. Theo
tác giả, chính nhờ những lời thề trong Truyện Kiều đã giúp tác giả giải đáp
những trăn trở về tình trạng bị “lung lạc, mất phương hướng” trong đời sống
tinh thần của người Nhật. Những lời thề đã gợi nhắc về những âm hưởng xưa
cũ và sự nghiêm khắc. Bởi lẽ lời thề đối với người xưa giống như là một sự
thỏa hiệp với một đấng tối cao nào đó và một khi đã thề thì không thể làm trái
được. Và theo tác giả, trong đời sống thực, những thay đổi thường xuyên theo
từng tình hình cụ thể thì đó có thể gọi là lời thề hay không? Thông qua câu
Lời nói có sức nặng ngàn cân, có khả năng chi phối con người, tuy nhiên
có những người tốt, thề ước với tất cả sự thành thực của mình và cảm
thấy đau khổ khi không giữ được chúng thì cũng có những kẻ xấu, tạo
nên những lời thề giả dối để đánh lừa người khác. Chính những người
thận trọng và đau khổ khi không thực hiện được lời thề của mình như
Thúy Kiều, không nghi ngờ gì, chính là người có thể đứng vào vị trí
chuyện về cuộc đời Kiều. Tác giả đã rút ra một kết luận rằng:
77
phán xét những kẻ xấu. Chỉ đến khi những kẻ dễ dàng buông lời thề
nhằm mục đích lừa dối người khác bị trừng phạt thật khủng khiếp như
những gì chúng đã thề, chính là lúc chúng hiểu được sức nặng ngàn cân
của “lời thề đã trao”, mới tin rằng có sự phán xét của Trời trên cõi đời
này (Kuroda Yoshiko, 2004).
Theo tác giả, lời thề như những nguyên tắc và đôi khi sự nghiêm khắc,
nguyên tắc sẽ giúp chúng ta không lạc lối trong cuộc sống. Bên cạnh lời thề,
tác giả còn bị tác phẩm lôi cuốn ở tư tưởng kiếp trước. Quan niệm này tuy
quen thuộc nhưng có ai có thể giải thích được hết. Khi sọi rọi vào cuộc đời
Kiều, tư tưởng kiếp trước sẽ giúp chúng ta lí giải một số chi tiết mà từ lâu đã
trở thành những câu hỏi “tại sao” chưa được giải đáp. Cuối cùng tác giải kết
Câu chuyện khiến chúng ta cảm nhận được mặt đau khổ của cuộc đời
một con người, khiến độc giả có thể cùng rơi nước mắt trước nỗi khổ của
một cô gái bất hạnh. Nhưng đồng thời cũng là một tác phẩm khiến chúng
ta có thể mang lại cái nhìn vũ trụ quan mà trong đó mỗi cuộc đời của
chúng ta như những cái kén nhỏ nhoi trôi trong khoảng không gian vô
định (Kuroda Yoshiko, 2004).
luận:
Như vậy, tác giả đã chọn hướng tiếp nhận từ góc độ văn hóa tâm linh từ
một chi tiết trong tác phẩm để từ đó khái quát nên tư tưởng lớn lao của tác
phẩm. Hướng tiếp nhận này sau này các nhà nghiên cứu đã mở rộng ra thành
những vấn đề về văn hóa tâm linh trong Truyện Kiều. Chúng tôi cũng có cùng
quan điểm rằng chính những yếu tố tâm linh ấy đã góp phần tạo ra cho Truyện
Kiều một lớp sương khói mờ ảo mà nếu chúng ta muốn khám phá tác phẩm
nhất định phải vượt qua lớp màn ấy. Tác giả đã thể hiện tình cảm đối với một
78
tác phẩm nước ngoài và khả năng tìm tòi khám phá trong quá trình tiếp nhận
của mình trong việc phát hiện một góc nhìn mới mẻ cho tác phẩm.
Năm 2015, tại Hội thảo “Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế
giới Nguyễn Du: di sản và các giá trị xuyên thời đại”, Kawaguchi Kenichi đã
công bố công trình nghiên cứu “Truyện Kiều từ góc độ văn học so sánh Đông
Á”. Đây là hướng nghiên cứu đã được nhiều nhà nghiên cứu thực hiện. Bởi lẽ
văn hóa các nước Đông Á có một sự giao thoa đặc biệt vì cùng chung một sự
ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa. Tuy nhiên, ở mỗi quốc gia, trong quá trình
phát triển đã hình thành những nét riêng biệt trên cơ sở nền tảng chung ấy.
Trong bài viết, tác giả đã tiến hành so sánh hai tác phẩm Truyện Kiều của
Nguyễn Du và Kim Ngư truyện của Bakin trong mối tương quan về văn hóa. Cụ
thể là trên các phương diện tên gọi địa danh và nhân vật, cốt truyện, đoạn kết, tư
tưởng và cuối cùng là những đánh giá chung về hai tác phẩm. Tác giả chủ yếu
so sánh về nội dung, sự khác biệt về các tình tiết của hai tác phẩm chứ chưa đề
cập nhiều đến những đặc sắc nghệ thuật. Điểm tương đồng dễ dàng nhận thấy
đó là cả hai tác phẩm đều dựa theo Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài
Nhân. Tuy nhiên nếu Kim Vân Kiều truyện đã được giới thiệu ở Nhật Bản vào
thời Bakin thì ở Việt Nam vào thời Nguyễn Du thì tác phẩm này vẫn chưa được
biết đến. Tác giả đã đưa ra một số điểm khác nhau cơ bản giữa hai tác phẩm như
sau: Thứ nhất, về hệ thống các địa danh và nhân vật giữa hai tác phẩm có sự
khác nhau rõ rệt. Ở tác phẩm của Nguyễn Du cơ bản giữ lại những tên địa danh
và nhân vật (có lược bỏ vì tác giả cảm thấy không phù hợp), còn Kim Ngư
truyện thì đã thay đổi toàn bộ hệ thống địa danh và nhân vật cho phù hợp với
văn hóa Nhật Bản. Tác giả cũng liệt kê một số thay đổi về nhân vật ở hai tác
phẩm so với nguyên tác. Thứ hai là động cơ sáng tác của hai tác phẩm khác
nhau. Thứ ba là điểm nghệ thuật duy nhất mà tác giả so sánh đó là một tác phẩm
được viết bằng văn xuôi, còn tác phẩm còn lại thì viết bằng văn vần. Thứ tư là
mặc dù cả hai đều có sự ảnh hưởng bởi tư tưởng Nho giáo nhưng nếu Kim Ngư
79
truyện mang quan niệm về đạo nghĩa, “khuyến thiện trừng ác” thì Truyện Kiều
của Nguyễn Du thể hiện quan điểm về “thuyết tài mệnh tương đố” bên cạnh đó
còn hướng có những quan điểm tư tưởng riêng của tác giả mà các nhà nghiên
cứu “còn đang tìm hiểu đích xác”. Chúng tôi nhận thấy, bài viết chủ yếu điểm
qua những điểm tương đồng và khác biệt cơ bản giữa hai tác phẩm Nhật - Việt
với nguyên tác của Thanh Tâm Tài Nhân chứ chưa có những phân tích, lí giải
sâu hơn. Tuy nhiên, bài viết cũng góp phần giúp Truyện Kiều của Nguyễn Du
được độc giả ở Nhật Bản hiểu hơn bởi lẽ nó có quan hệ mật thiết với tác phẩm
nổi tiếng của họ. Bài viết cũng nói lên những tương quan trong văn học giữa các
nước Đông Á. Ngoài ra, Kawaguchi Kenichi còn có công trình: “Một số vấn
đề xung quanh hai tác phẩm của Nguyễn Du và Bakin” trên Tạp chí Nghiên
cứu Nhật Bản và tiếng Nhật, Trung tâm Nghiên cứu Nhật Bản Quốc tế của
Đại học Ngoại ngữ Tokyo, số 3 năm 2013 (Đoàn Lê Giang, 2018).
Như vậy, vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều của giới nghiên cứu, phê bình ở
Nhật Bản đã diễn ra trên cơ sở tìm hiểu những tương đồng về văn hóa giữa hai
nước. Qua đó, với nhiều hướng tiếp nhận phong phú, các nhà nghiên cứu ở
Nhật Bản cũng góp phần vào việc khẳng định giá trị của Truyện Kiều cùng sức
ảnh hưởng vượt ra ngoài biên giới của nó. Trong quá trình nghiên cứu, chúng
tôi còn được biết một số công trình do nhà nghiên cứu Đoàn Lê Giang thống kê
như: Hatakenaka Toshio với “On Kim Van Kieu, China, Viet Nam, Japan”
(1972); “Kim Vân Kiều tân truyện trong lịch sử văn học Việt Nam” của
Takeuchi Yonosuke; “Nguyễn Du và Kim Vân Kiều tân truyện” của Takeuchi
Yonosuke; “Kim Vân Kiều và văn học Edo” của Hatakenaka Toshiro, “Một
số vấn đề xung quanh thời gian sáng tác Kim Vân Kiều tân truyện” của
Kawamoto Kunie, Akiyama Tokio với “Đi tìm nguyên gốc Truyện Kiều”,
Ishii Kôsei với “Biến tấu Kim Vân Kiều”. Tuy nhiên chúng tôi vẫn chưa tìm
thấy bản dịch của công trình này được giới thiệu ở Việt Nam vì thế chúng tôi
chưa trình bày trong Luận văn này.
80
2.1.4. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Hàn Quốc
Năm 1992, hai nước Việt - Hàn bắt đầu thiết lập mối quan hệ ngoại giao
với nhau. Cũng từ đây, sự giao lưu về văn hóa giữa hai nước diễn ra rất sôi nổi,
trong đó, việc giao lưu về văn học cũng được đẩy mạnh với nhiều bản dịch các
tác phẩm của hai nước được giới thiệu. Cũng giống như Nhật Bản, Hàn Quốc
và nước ta có nhiều nét tương đồng về văn hóa và có sự ảnh hưởng sâu sắc bởi
văn hóa Trung Hoa. Ngay khi mối quan hệ ngoại giao giữa hai nước được thiết
lập thì các nhà nghiên cứu văn học ở Hàn Quốc đã chú ý đến tác phẩm kinh điển
của văn học Việt Nam - Truyện Kiều có mối quan hệ gần gũi với tác phẩm Xuân
Hương truyện được lưu truyền trong dân gian ở nước mình. Ngay năm ấy, nhà
nghiên cứu Valentin Lý đã công bố bài viết “Truyện Xuân Hương của Triều
Tiên và Truyện Kiều của Nguyễn Du”. Ba năm sau, Yang So Bae (1995) đã
thực hiện công trình “Bước đầu nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và truyện
Xuân Hương”. Năm 2000, Jang Soo Bae đã thực hiện luận án tiến sĩ với đề tài
“So sánh Truyện Kiều và truyện Xuân Hương”. Tuy nhiên, đến năm 2004 bản
dịch Truyện Kiều sang tiếng Hàn mới được các dịch giả hoàn thành và giới
thiệu. Điều đáng lưu ý là trong năm 2004 đã có hai bản dịch xuất hiện do Ahn
Kyong Hwan và Choi Kwi Muk thực hiện. Ngay từ khi bản dịch Truyện Kiều
xuất hiện, giới nghiên cứu văn học ở Hàn Quốc nhanh chóng nhận thấy nét
tương đồng giữa tác phẩm này với tác phẩm Xuân Hương truyện của dân tộc
mình. Cũng chính vì thế mà quá trình nghiên cứu Truyện Kiều của Nguyễn Du
ở Hàn Quốc chủ yếu được đặt vào mối quan hệ với Xuân Hương truyện. Hướng
nghiên cứu so sánh, lí giải mối quan hệ giữa Truyện Kiều và Xuân Hương
truyện được các tác giả tiêu biểu như Valentin Lý, Yang Soo Bae, Ahn Kyong
Hwan, … dành nhiều thời gian nghiên cứu.
Trong bài viết “Truyện Xuân Hương của Triều Tiên và Truyện Kiều của
Nguyễn Du” (1992), Valentin Lý tiến hành so sánh hai tác phẩm trên các
81
phương diện nguồn gốc, chủ đề, nhân vật, thể loại, cốt truyện. Theo tác giả, hai
tác phẩm có sự khác nhau ở nguồn gốc hình thành. Xuân Hương truyện là một
thành phần của hệ thống các tác phẩm viết theo motif foklore ở phương Đông.
Truyện Kiều thì dựa vào cốt truyện của cuốn tiểu thuyết Trung Quốc Kim Vân
Kiều truyện. Tiếp theo, tác giả tóm lược lại nội dung chính của Xuân Hương
truyện rồi rút ra kết luận rằng cả hai truyện đều ca ngợi tình yêu vượt lên trên
vòng kìm kẹp của lễ giáo phong kiến để hướng tới khát vọng công bằng, tự do.
Đồng thời, cả hai tác phẩm cũng góp phần phản ánh bộ mặt của xã hội phong
kiến chà đạp lên những số phận nhỏ bé. Về thể loại thì Truyện Xuân Hương lúc
đầu được sáng tác dưới hình thức thơ, sau mới được viết lại bằng văn xuôi. Do
đó tác giả nhận thấy về thể loại hai tác phẩm vẫn có sự gặp gỡ trùng hợp. Về
phương diện tiếp nhận, cả hai tác phẩm đều nhận được rất nhiều tình cảm của
nhân dân và trở thành đại diện cho nền văn học mỗi nước. Cả hai tác phẩm đều
có sự ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác ở trong nước như điện ảnh, kịch. Cuối
cùng, tác giả khẳng định hai tác phẩm vẫn có những tiếng nói “đồng vọng” với
cuộc sống hiện đại. Điều đó cho thấy được tầm vóc cũng như giá trị xuyên thời
gian của cả hai tác phẩm đối với hai nước. Với công trình này, tác giả đã mở
đầu cho xu hướng tiếp nhận so sánh giữa hai tác phẩm Việt - Hàn.
Tiếp nối những gợi mở ban đầu của Valentin Lý trong tiếp nhận Truyện
Kiều của Nguyễn Du từ góc độ so sánh với “truyện Xuân Hương”, bài viết
“Bước đầu nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và truyện Xuân Hương” (1995)
của Yang So Bae đã có những so sánh cụ thể hơn về hai tác phẩm trên các
phương diện hoàn cảnh sáng tác, nguồn gốc, hệ thống nhân vật và chủ đề. Ở
phần đầu, tác giả tiến hành phương pháp thực chứng - lịch sử để so sánh hoàn
cảnh sáng tác của hai tác phẩm. Qua đó tác giả nhận thấy được điểm tương
đồng đó là cả hai đều được sáng tác vào một giai đoạn đầy biến động của xã hội
phong kiến. Theo tác giả, nguồn gốc của hai tác phẩm có sự khác nhau rõ rệt
nhất. Nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du có nguồn gốc là tác phẩm của Trung
82
Quốc thì Xuân Hương truyện lại có nguồn gốc từ dân gian và tác giả khuyết
danh. Điều này giống với nhận xét của Valentin Lý. Tác giả cho rằng từ sự
tương đồng về đề tài, cốt truyện sẽ dẫn đến nhiều nét tương đồng về nghệ thuật
như thể lại, chủ đề, nhân vật và cảm hứng chủ đạo. Tác giả tiến hành so sánh hệ
thống nhân vật của hai tác phẩm. Ông nhận thấy cả hai tác phẩm đều có hệ
thống nhân vật phong phú thuộc nhiều tầng lớp trong xã hội. Có nhân vật trung
tâm đều là người phụ nữ. Đều đặt nhân vật trung tâm vào mối quan hệ tài tử -
giai nhân. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận thấy được sự khác nhau đó là nếu ở
Xuân Hương truyện chỉ có cặp quan hệ tài tử - giai nhân thì ở Truyện Kiều của
Nguyễn Du bên cạnh mối tình Kim - Kiều còn có mối tình giữa Từ Hải và Thúy
Kiều. Đó là mối quan hệ anh hùng - thuyền quyên. Cả hai nhân vật trung tâm
của hai tác phẩm để mang tính chất tượng trưng cho “tình yêu chung thủy, kiên
định, bất chấp mọi trở ngại thử thách khắc nghiệt nhất”. Đối với chủ đề thì cả
hai tác phẩm đều hướng đến số phận đau khổ của những con người nhỏ bé trong
xã hội phong kiến từ đó hướng tới khát vọng công lí và tự do. Với những nét
tương đồng ấy, tác giả khẳng định sự gặp gỡ sâu xa hơn đó chính là “cảm hứng
nhân văn” sâu sắc ở hai tác phẩm. Tóm lại, với bài viết này, tác giả đã góp phần
giúp công chúng biết thêm về mối quan hệ thân thiết và sự giao thoa văn hóa
giữa các nước trong vùng Đông Á.
Năm 2000, Jang Soo Bae đã mở rộng vấn đề trên trong luận án tiến sĩ của
mình với tên là “So sánh Truyện Kiều và truyện Xuân Hương”. Trong luận án,
tác giả đã nghiên cứu rất chi tiết về hai tác phẩm Hàn - Việt cũng như đưa ra
những so sánh và lí giải khách quan, khoa học. Luận án chia thành ba chương:
Chương 1: Bối cảnh xã hội và văn hóa thời đại Truyện Kiều và Truyện Xuân
Hương; Chương 2: Nguồn gốc đề tài cốt truyện, thể loại và phương thức phản
ánh cuộc sống của Truyện Kiều, Truyện Xuân Hương; Chương 3: Thế giới
Hình tượng nhân vật qua nghệ thuật tự sự và ngọn nguồn cảm hứng sáng tác
trong Truyện Kiều và Truyện Xuân Hương. Tác giả tiến hành so sánh và lí giải
83
hai tác phẩm dựa vào những nguyên nhân lịch sử xã hội, văn hóa tư tưởng và
văn học liên quan đến hai tác phẩm. Trong luận văn, tác giả tập trung phân tích
thế giới hình tượng nhân vật trong hai tác phẩm. Tác giả cũng phân tích ý nghĩa
giá trị của mối quan hệ văn học giữa hai tác phẩm. Luận án là một công trình có
nhiều đóng góp cho việc nghiên cứu mối tương quan trong văn hóa hai nước,
góp phần khẳng định giá trị của hai tác phẩm ở mỗi quốc gia. Như vậy, hướng
tiếp nhận từ góc độ so sánh tác phẩm Việt - Hàn đã có một bước phát triển và
hoàn thiện trên nhiều phương diện. Qua đó thể hiện những đánh giá khách quan
trên cơ sở khẳng định mối quan hệ giữa nền văn học của hai nước.
Năm 2005, Ahn Kyong Hwan đã tham gia Hội thảo khoa học “Đai thi hào
Nguyễn Du” với bài viết “Việc biên dịch và xuất bản Truyện Kiều ở Hàn
Quốc”. Với tham luận này, tác giả đã trình bày quá trình dịch và giới thiệu
Truyện Kiều của Nguyễn Du ở Hàn Quốc. Tác giả nhận xét rằng: “Mỗi trang
Truyện Kiều là một hạt ngọc”. Tuy bài viết không phân tích hay đánh giá về tác
phẩm nhưng thông qua bài viết chúng ta hiểu hơn về tình cảm của một độc giả
ở nước ngoài dành cho tác phẩm kinh điển của Việt Nam.
Như vậy, quá trình tiếp nhận Truyện Kiều của giới nghiên cứu, phê bình
văn học ở Hàn Quốc có nhiều nét tương đồng với ở Nhật Bản. Các nhà nghiên
cứu đều chọn hướng tiếp nhận so sánh Truyện Kiều với tác phẩm của nước
mình. Thông qua việc so sánh, các nhà nghiên cứu đã có những đánh giá khách
quan về Truyện Kiều của Nguyễn Du.
2.2. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở Đông Nam Á
Hiện nay, ở các nước Đông Nam Á, chúng tôi khảo sát được ở Lào và Thái
Lan đã bước đầu có những nghiên cứu về Truyện Kiều.
Ở Lào, nhà nghiên cứu Bountheng Souksavatd ở Viện Khoa học Xã hội
Quốc gia Lào đã có công trình nghiên cứu “Người Việt ở Lào với Truyện Kiều
của Nguyễn Du” đã có nhận xét rằng: “Truyện Kiều của Nguyễn Du vẫn luôn
tồn tại và thắp sáng trong mỗi con người Việt ở Lào, cho dù là người già hay
người trẻ mà hiếm có tác giả và tác phẩm nào ngấm vào máu thịt của họ và có
84
sức sống lâu bền đến vậy”. Tác giả cũng nhận thấy trong Truyện Kiều có sự gần
gũi với người Lào về văn hóa tôn giáo, đặc biệt là tôn giáo đạo Phật tiểu thừa
bởi lẽ mái chùa chính là nơi đã cưu mang Kiều và giúp nàng vượt qua những
khổ đau, bi đát. Thêm vào đó, tác giả cũng đã có nhận xét về giá trị của tác
phẩm kinh điển này: “Truyện Kiều hàm chứa nhiều quan niệm nhân sinh, triết
học tôn giáo, thực trạng xã hội và khía cạnh tâm lý của con người, đầy đủ các
phương tiện tốt - xấu, khen - chê, vinh - nhục, thịnh - suy, thiện - ác... muôn màu
sắc khó mà diễn tả hết được”. Tuy bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Lào vẫn
chưa được phổ biến rộng rãi nhưng với công trình này của Bountheng
Souksavatd đã giúp chúng ta tin tưởng rằng trong một tương lai không xa,
Truyện Kiều của nước ta sẽ được giới nghiên cứu văn học ở đất nước láng giềng
quan tâm nhiều hơn.
Ở Thái Lan, tại giảng đường khoa Ngữ văn trường Đại học Chulalongkorn
đã giới thiệu Truyện Kiều của Nguyễn Du trong một nghiên cứu so sánh về
cuộc đời và sự nghiệp với đại thi hào dân tộc Sunthoon Phuu của Thái Lan. Với
công trình này, các tác giả đã nghiên cứu so sánh hai nhà thơ từ góc độ sử học,
ngôn ngữ và văn chương. Theo Lê Thu Yến, ở Thái Lan còn có một công trình
khác cũng chọn hướng so sánh hai đại thi hào của Việt - Thái, đó là công trình
“Nghiên cứu so sánh văn học Việt - Thái từ góc nhìn nhân văn” của Pornpen
Hantrakool ở Đại học Sinlapakorn (Lê Thu Yến, 2015). Với công trình này,
Pornpen Hantrakool đã làm nổi bật chủ nghĩa nhân đạo cao cả thông qua đối
chiếu, phân tích những điểm tương đồng và khác nhau trong tư tưởng, đề tài và
phong cách sáng tạo của hai tác giả đặt trong tương quan chặt chẽ với những
biến động xã hội của hai nước giai đoạn thế kỷ 18-19. (Theo vnexpress.net).
Sunthoon Phuu (1786-1855) là nhà thơ vĩ đại của dân tộc Thái Lan, danh nhân
văn hóa thế giới có ảnh hưởng lớn đối với đời sống văn hóa của người Thái. Cả
Truyện Kiều và tác phẩm Phra Aphai Mani đều có ảnh hưởng lớn trong lòng
mỗi dân tộc Việt Nam và Thái Lan, không chỉ từ sự hoàn mỹ nghệ thuật mà còn
bởi tính giản dị, gần gũi, dễ đi vào lòng người.
85
Tiểu kết Chương 2
Như vậy, chúng ta có thể nhận thấy rằng vấn đề nghiên cứu Truyện Kiều ở
châu Á diễn ra rất sôi nổi và đạt được nhiều thành tựu. Do có sự gần gũi nhau về
mặt địa lí, có nhiều điểm tương đồng về văn hóa nên Truyện Kiều đến với các
quốc gia ở châu Á một cách rất tự nhiên và kết quả của việc tiếp nhận cũng rất
gần với những gì mà các nhà nghiên cứu ở Việt Nam nhìn nhận về Truyện Kiều.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy có định hướng tiếp nhận
Truyện Kiều ở châu Á được các nhà nghiên cứu sử dụng chủ yếu tập trung vào
các vấn đề sau: hướng so sánh mối tương quan về văn hóa, hướng nghiên cứu
giá trị về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm, hướng khảo cứu về lịch sử của câu
chuyện Kim Vân Kiều, … Việc dịch thuật Truyện Kiều cũng được đẩy mạnh
góp phần rất lớn vào việc quảng bá Truyện Kiều ngày một rộng rãi hơn.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi còn tìm thấy ở Xiri có bản dịch của
Abdul Mouine Mallouky, tạp chí Văn học Xiri, Đamatx, 1977. Tuy nhiên,
chúng tôi vẫn chưa thấy công trình nào nghiên cứu về bản dịch hay nghiên cứu
về Truyện Kiều ở nước này. Cho đến nay, bản dịch Truyện Kiều sang ngôn ngữ
khác sau cùng là bản dịch sang tiếng Mông Cổ, do Giáo sư S. Dashtsevel (Viện
Nghiên cứu quốc tế thuộc Viện Hàn lâm khoa học Mông Cổ) thực hiện và xuất
bản năm 2009 ở Ulan Bato.
Qua quá trình tiếp nhận Truyện Kiều ở các nước đã cho thấy nàng Kiều
của chúng ta đã đặt chân đến khắp các quốc gia ở châu Á, được người dân và
giới nghiên cứu khắp châu Á quan tâm, dành một tình cảm đặc biệt đối với kiệt
tác của dân tộc Việt Nam. Thông qua đó, chúng ta càng có cơ sở để khẳng định
tư tưởng lớn lao của đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du
ngày càng được các nước ghi nhận. Từ thực tế tiếp nhận trên, chúng tôi nhận
thấy giới nghiên cứu cần có những công trình tìm hiểu kĩ hơn về vấn tiếp nhận
Truyện Kiều ở khu vực Đông Nam Á để góp phần vào việc khẳng định sức ảnh
hưởng của Truyện Kiều ở khu vực và rộng hơn là toàn cầu.
86
Chương 3. TRUYỆN KIỀU TRONG SỰ TIẾP NHẬN
CỦA CÁC NHÀ NGHIÊN CỨU VÀ PHÊ BÌNH Ở CHÂU ÂU,
CHÂU MỸ VÀ CHÂU ÚC
3.1. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Âu
3.1.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở khu vực Tây Âu
3.1.1.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình văn
học ở Pháp
Pháp là đất nước có mối liên hệ lịch sử đặc biệt với Việt Nam. Tạm gạc bỏ
qua những mất mát, đau thương mà chiến tranh đã gây ra, ngày hôm nay chúng
ta cần nhìn nhận một cách khách quan về mối quan hệ giữa hai nước, nhất là sự
giao lưu về văn hóa. Văn hóa phương Tây đã mang tới cho đất nước ta một làn
gió mới để từ đó thay đổi toàn bộ ý thức hệ tư tưởng của một bộ phận trí thức rồi
sau đó lan rộng ra khắp các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có văn học.
Văn học Pháp du nhập vào nước ta và được đón nhận nồng hậu, ngược lại, văn
học Việt Nam cũng được người Pháp quan tâm đến. Bằng chứng là các tác
phẩm của văn học Việt Nam được dịch sang tiếng Pháp từ rất sớm trong đó có
Truyện Kiều. Năm 1884, bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp đầu tiên do
Abel des Michels thực hiện được công bố. Đến năm 1925, bản dịch thứ hai ra
đời do Léo Massé với bút danh Thu Giang thực hiện. Tuy nhiên đến bản dịch
thứ ba ra đời năm 1926 của René Crayssac mới tạo nên được tiếng vang ở Pháp.
Bản dịch gần đây nhất đó là bản dịch của Marcel Robbe được xuất bản tại Hà
Nội năm 1943, với bút danh là M.R. Năm 1961, bản dịch của Paul Schneider
(với bút danh Xuân Phúc) được xuất bản. Bên cạnh đó, các học giả Việt Nam
cũng bắt tay vào việc dịch tác phẩm của Nguyễn Du sang tiếng Pháp như
Nguyễn Văn Vĩnh, Nguyễn Khắc Viện, Lê Cao Phán và Lưu Hoài. Cho đến
nay, theo thống kê mới nhất của Bùi Mạnh Nhị (2018) chúng ta đã có khoảng
87
15 bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Pháp và đây cũng là thứ tiếng có nhiều bản
dịch Truyện Kiều nhất. Chính nhờ vào số lượng bản dịch phong phú như vậy đã
góp phần giúp cho người Pháp dễ dàng tiếp cận với tác phẩm hơn. Đồng thời
các nhà nghiên cứu cũng có nhiều nguồn tư liệu hơn về Truyện Kiều để có
những nghiên cứu chính xác.
Việc nghiên cứu Truyện Kiều ở Pháp nhanh chóng được diễn ra kể từ khi
Pháp đến Việt Nam. Văn hóa phương Đông với người Pháp là hoàn toàn xa lạ
vì thế càng hấp dẫn họ tìm hiểu và nghiên cứu. Đến Việt Nam, người Pháp nhận
ra muốn hiểu được người dân nơi đây thì tất yếu phải thông qua tác phẩm văn
học kinh điển của họ đó là Truyện Kiều. Quá trình nghiên cứu Truyện Kiều ở
Pháp không có những cuộc tranh luận sôi nổi nhưng lại cung cấp cho chúng ta
nhiều góc nhìn mới từ lăng kính của những nhà nghiên cứu phương Tây với các
nhà nghiên cứu tiêu biểu như, Abel Des Michels, René Crayssac, Joocjơ
Buđaren, Maurice Durand, Charles Fourniau, Guille Alain, ...
Năm 1884, trong “Lời giới thiệu bản dịch tiếng Pháp Kim Vân Kiều tân
truyện”, Abel Des Michels cũng có nhấn mạnh về nguồn gốc Trung Hoa của
tác phẩm. Tác giả cho rằng tư tưởng chính của tác phẩm chịu ảnh hưởng sâu sắc
bởi tư tưởng Phật giáo. Tuy nhiên, ông cũng nhận thấy những nét sáng tạo của
Nguyễn Du so với nguyên tác. Tác giả chủ yếu nghiên cứu trên phương diện
hình thức của Truyện Kiều. Ông đã dựa vào những đặc điểm về hình thức của
tác phẩm như việc sử dụng từ ngữ, thành ngữ khác với cách sử dụng của người
miền Nam để kết luận rằng đặc trưng bút pháp mà Nguyễn Du sử dụng là của
miền Bắc nước ta. Ông cho rằng chính nhờ những đặc sắc về hình thức thể loại,
sự hiệp vần, nhịp điệu đã góp phần tạo nên sự thành công của Truyện Kiều. Và
ngôn ngữ cũng chính là nguyên nhân gây trở ngại lớn nhất cho việc dịch Truyện
Kiều sang tiếng Pháp. Ông đặc biệt nhấn mạnh rằng: “Ngôn ngữ thơ An Nam
không biểu thị tính cố định như ngôn ngữ thơ trong tiếng châu Âu”. Bên cạnh
đó, khi trình bày về những khó khăn trong việc dịch Truyện Kiều sang tiếng
88
Pháp, tác giả cũng nhận ra sự cách biệt văn hóa Đông - Tây cũng khiến ông gặp
nhiều khó khăn khi dịch. Như vậy, trong bài viết này, tác giả chủ yếu đề cập đến
phương diện nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt là về ngôn ngữ (Abel Des
Michels, 1884).
Từ vấn đề những cách biệt về văn hóa mà Abel Des Michels đã đặt ra
trước đó nhưng chưa phân tích, năm 1926 với công trình “Truyện Kiều và xã
hội Á Đông”, René Crayssac đã dành rất nhiều công sức khi tiến hành nghiên
cứu Truyện Kiều trong mối tương quan với văn học thế giới nhìn từ góc độ văn
hóa Á Đông. Tác giả đã chọn hướng tiếp cận tác phẩm của Nguyễn Du từ góc
độ văn hóa và tâm lí học. Tác giả khẳng định Truyện Kiều của Nguyễn Du là
một đại diện tiêu biểu cho văn hóa Á Đông bởi lẽ ở tác phẩm này chứa đựng
đầy đủ những đặc trưng về ngôn ngữ, tư tưởng, … của người phương Đông.
Điều này cũng đã được Hoàng Phong Tuấn nhấn mạnh khi trình bày về quan
Những công trình văn hóa, nhất là những kiệt tác viết bằng ngôn ngữ,
chẳng hạn như văn bản Truyện Kiều, là một phần tạo nên ngôn ngữ và thế
giới quan của mỗi cá nhân. Ngôn ngữ trong văn bản truyền thống tạo điều
kiện để ta hiểu thế giới lịch sử văn hóa mà ta sống, đồng thời tạo điều kiện
để ta hiểu được tiếng nói riêng của truyền thống trong các văn bản (Hoàng
Phong Tuấn, 2017).
điểm quan điểm của Gadamer rằng:
Đầu tiên đó là những quan niệm về “luật quân bình”, về “hình phạt” và
tư tưởng “nghiệp báo” của văn hóa Á Đông. Tác giả còn nhận thấy tư tưởng
của Nguyễn Du có sự gặp gỡ với Lão học thông qua việc tả cảnh thiên nhiên
phong phú. Để minh chứng cho những cách biệt về văn hóa Đông - Tây, tác giả
đã tiến hành so sánh văn chương và diễn kịch trong văn hóa Đông - Tây. Tác
giả đưa ra hai dẫn chứng cơ bản nhất cho sự khác biệt đó là: Thứ nhất là trong
89
việc tả người, nếu ở phương Tây người ta miêu tả chi tiết từ ngoại hình, hành
động, lời nói, … còn ở phương Đông thì việc tả người rất hiếm mà chủ yếu là tả
thần. Thứ hai là trong cách sống, người phương Tây đặt “quyền lợi” lên trên,
còn người Á Đông lại đặt “nghĩa vụ” hàng đầu. Theo tác giả, đối với người Á
Đông, Thúy Kiều phải chọn giữa bên hiếu và bên tình như là một chuyện bình
thường chứ không coi như là thâm trầm. Văn chương Á Đông đề cao tính giáo
huấn, ngụ ý. Và sự xung đột giữa nghĩa vụ với ái tình như một xung đột phổ
biến. Những minh chứng mang tính chất khái quát trên được tác giả dùng làm
tiền đề cho những phân tích cụ thể ở phần sau.
Ở phần tiếp theo, tác giả đi sâu vào tác phẩm Truyện Kiều để làm rõ hơn
những sự khác biệt trong tư tưởng Đông - Tây. Thứ nhất, trong tình huống gia
đình Kiều gặp nạn, phần trách nhiệm giúp đỡ gia đình lúc hoạn nạn rất khác
biệt. Thứ hai là trong tình yêu, trong mối quan hệ vợ chồng. Đặc biệt là trong
mối quan hệ giữa Thúy Kiều với Kim Trọng, Thúc Sinh và Từ Hải. Tác giả đã lí
giải cho những thắc mắc của độc giả phương Tây về lí do vì sao đối với Kim
Trọng thì Kiều nhất mực thủy chung. Đó là bởi vì người phương Đông rất quan
trọng lời thề. Đối với họ, lời thề đã được trời đất minh giám là một sự ràng
buộc. Kim - Kiều đã thề nguyền cùng nhau dưới ánh trăng vì thế “lời thệ hải
minh sơn” ấy đã đi theo Thúy Kiều trong suốt cuộc đời nàng. Còn với Thúc
Sinh và Từ Hải thì tác giả nhận thấy đó là một quyết định đầy tính nhân văn của
Nguyễn Du bởi lẽ đó là hai người mà Thúy Kiều mang ơn. Ân nghĩa đối với
người Á Đông cũng quan trọng không kém. Cuối cùng là kết thúc của tác phẩm,
tác giả lí giải rằng nếu như người phương Tây với chủ nghĩa cá nhân cho rằng
việc Kim Trọng chờ đợi là một việc làm phí công và họ sẽ thấy thương, thấy tội
cho chàng, thì đối với xã hội Á Đông, đây là một kết thúc rất xác đáng với tư
tưởng yêu chuộng sự đoàn viên, viên mãn.
Về thành công của Truyện Kiều, René Crayssac nhấn mạnh quan điểm của
mình rằng: “Truyện Kiều có thể so sánh với các kiệt tác của bất cứ nước nào”.
90
Theo ông, nếu có ai thấy Truyện Kiều không hấp dẫn thì chắc chắn là do người
dịch không đủ tài. Cũng theo tác giả, dấu ấn của một tác phẩm được tạo nên bởi
sự khác biệt và Truyện Kiều bên cạnh việc phản ánh những tư tưởng Á Đông thì
điều đáng chú ý hơn đó chính là những khác biệt mà Nguyễn Du đã tạo ra cho
nó. Và điều khác biệt đó, theo René Crayssac, việc Nguyễn Du đã chọn một
hướng đi phù hợp với tâm lí đón nhận của dân tộc, với tính tình của người Việt
Nam đó là trọng chữ hiếu với một giọng văn giản dị, gần gũi đã tạo nên thành
công cho tác phẩm. Ông viết: “Ngày nay không có một người An Nam nào
ngâm Truyện Kiều mà không thấy trong lòng xôn xao cảm động, lặng lẽ buồn
rầu”. Ông cũng bày tỏ sự ngạc nhiên khi Truyện Kiều đã ăn sâu vào đời sống
văn hóa của người Việt khi nó trở thành một quyển sách bói được mọi người tin
tưởng. Về phương diện nghệ thuật, ông cho rằng sự chặt chẽ của kết cấu kết
hợp với bút pháp miêu tả tài tình của Nguyễn Du đã làm cho tác phẩm trở nên
hoàn hảo.
Về việc phóng tác của Nguyễn Du, René Crayssac khẳng định đây là vấn
đề thường gặp trên thế giới. Tác giả cho rằng: “Phàm xét văn chương không cần
phải xét rằng sự tích là mượn của ngoài hay là từ tác giả đặt ra, chỉ nên xét
rằng tác giả kết cấu truyện ấy ra tiếng nước mình có thêm được cái đặc sắc gì
không. Nay Truyện Kiều của cụ Nguyễn Du thật là có cái tinh thần đặc biệt của
nước Nam đó”. Ông cũng chứng minh việc Nguyễn Du sử dụng quá nhiều điển
tích của Trung Quốc trong Truyện Kiều là một việc làm bình thường và các nhà
văn phương Tây vẫn hay trích dẫn, phóng tác như thế. Ở cuối bài viết, tác giả
tiếp tục bác bỏ thêm một quan điểm cho rằng Truyện Kiều là một áng dâm thư.
Ông nhấn mạnh: “một tác phẩm biểu dương lòng hiếu thảo mà cho là dâm thư
thì quả thật đáng lên án”.
René Crayssac đã thực hiện một công trình nghiên cứu rất tâm huyết dành
cho Truyện Kiều. Những nhận xét này của ông càng góp phần khẳng định vị thế
của Truyện Kiều trên văn đàn thế giới. Ông nhấn mạnh rằng: “Trong tất cả các
91
nền văn chương Pháp không một tác phẩm nào được phổ thông, được toàn dân
sùng kính và yêu chuộng bằng quyển truyện này ở Việt Nam”. Và ông kết luận:
“Sung sướng thay bậc thi sĩ với một tác phẩm độc nhất vô nhị đã làm rung động
và ca vang tất cả tâm hồn của một dân tộc” (Tạp chí Quê Hương, 2008). Trịnh
Thị Thanh Huyền trong luận văn thạc sĩ của mình cũng đã có nhận xét rằng:
“Bài viết Truyện Kiều và xã hội Á Đông của René Crayssac là một sự kiến giải
mới lạ, độc đáo về nội dung và thi pháp Truyện Kiều” (Trịnh Thị Thanh Huyền,
2012). Công trình này của René Crayssac đã góp phần rất lớn vào việc giới
thiệu Truyện Kiều ở Pháp nói riêng và phương Tây nói chung, định hướng lại
những quan điểm chưa đúng về tác phẩm của Nguyễn Du, giúp người phương
Tây hiểu hơn về văn hóa Việt Nam nói riêng và văn hóa Á đông nói chung.
Năm 1966, Georges Boudarel với bài viết “Nguyễn Du và Đoạn trường
tân thanh” đăng trên Tạp chí Đông Phương mới số tháng 1 đã bước đầu có
những nhận xét đánh giá về giá trị của Truyện Kiều. Mở đầu bài viết, ông khẳng
định sự ảnh hưởng sâu rộng của Truyện Kiều đến mọi tầng lớp trong xã hội Việt
Nam: “Ít nhà thơ trên thế giới có khả năng đạt được tiếng vang sâu đậm trong
dân chúng của mình như Nguyễn Du ở Việt Nam. Truyện Kiều của ông là cuốn
sách kinh điển của văn chương Việt Nam nhưng là một thứ kinh điển mọi người
đều biết, không có ai là ngoại lệ”. Tiếp theo, tác giả trình bày nguồn gốc của
câu chuyện Thúy Kiều từ thế kỷ XVI đến khi được Nguyễn Du tìm thấy và
dùng làm đề tài cho tác phẩm kinh điển của mình. Tác giả đã nhận xét: “Thiên
tài của nhà thơ là ở chỗ từ một cuốn tiểu thuyết Trung Quốc, ông rút ra được
một tác phẩm điển hình Việt Nam mà vẫn giữ được trung thành mọi tình tiết”.
Tác giả vận dụng phương pháp thực chứng lịch sử để có những kiến giải tác
phẩm dựa theo một số chi tiết của cuộc đời nhà thơ. Tác giả đã trình bày những
nguyên nhân tạo nên sự thành công vang dội cho tác phẩm. Tác giả cũng khẳng
định ở Truyện Kiều có tinh thần nhân đạo sâu sắc, là “bản tình ca ca ngợi người
phụ nữ”. Ông cho rằng Nguyễn Du đã vượt qua mọi rào cản của tư tưởng
92
Khổng giáo để tạo nên hình tượng Thúy Kiều chủ động trong tình yêu. Tác giả
cũng lí giải lí do Truyện Kiều sống mãi trong lòng người dân Việt Nam là vì tác
phẩm mang tiếng nói của nhân dân. Bên cạnh đó tác giả đặc biệt đề cao tính
hiện thực của tác phẩm khi nhận xét rằng: “Đối với người Việt Nam trước kia,
Truyện Kiều là hình ảnh những nỗi đau khổ của họ, là tấm gương phản chiếu
những nỗi đau khổ của bản thân họ”. Cuối bài viết tác giả một lần nữa nhấn
mạnh về sức sống của Truyện Kiều trong lòng mọi người dân Việt Nam. Ông so
sánh việc người dân Việt Nam ngâm nga Truyện Kiều cũng giống như những
bài hát dân ca được các nghệ sĩ hát rong ở miền Nam nước Pháp thời trung cổ
(Georges Boudarel, 1966). Qua đó, chúng ta nhận thấy rằng tác giả đã dành rất
nhiều tâm sức vào việc nghiên cứu Truyện Kiều và đã có những đánh giá sâu
sắc về tác phẩm.
Ở một góc nhìn khác của một nhà sử học, Charles Fourniau với công trình
“Một nhà thơ và chiến tranh” được đăng trên báo Phê Bình Mới số 175, tháng
4/1966 đã chứng minh mối liên hệ giữa Truyện Kiều và tinh thần dân tộc Việt
Nam. Tác giả mạnh mẽ khẳng định vai trò của Truyện Kiều và bản lĩnh, ý chí
Trong lúc những máy bay siêu âm, một trong những thành tựu phức tạp
nhất của kỹ thuật hiện đại còn tung bom xuống Tiên Điền, làng quê của
Nguyễn Du, ở giờ phút mà nhân dân Việt Nam nổi tiếng, bất chấp tất cả,
vẫn tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ dân tộc của mình. Toàn
thế giới thấy rõ chính nghĩa ở về bên nào, tự do và hòa bình ở về bên nào
(Charles Fourniau, 1966).
của nhân dân Việt Nam:
Tác phẩm này dường như trở thành chỗ dựa tinh thần cho người Việt Nam
trong những năm tháng chiến tranh. Công trình này tiêu biểu cho những quan
điểm tiếp nhận Truyện Kiều trong mối liên hệ với lịch sử của dân tộc.
93
Maurice Durand cũng là người đã dành nhiều tâm sức để nghiên cứu văn
học Việt Nam và đặc biệt làm Truyện Kiều. Ông được xem như chuyên gia
hàng đầu của Pháp trong việc nghiên cứu về Việt Nam học. Năm 1966, ông đã
có công trình nghiên cứu rất chi tiết về Truyện Kiều đó là công trình “Truyện
Kim Vân Kiều” (Le Kim Van Kieu). Trong công trình này, ông tiến hành
nghiên cứu đặc tính nhân cách Nguyễn Du, cung cấp thông tin về các bản
Truyện Kiều, nguồn gốc Truyện Kiều, các bản Truyện Kiều bằng chữ Nôm và
các cuộc tranh luận về Truyện Kiều. Chúng tôi nhận thấy trong bài viết của tác
giả có một số điểm đáng chú ý như sau: Thứ nhất, ông nghiên cứu Truyện Kiều
trong tương quan với loại hình truyện thơ Nôm ở Việt Nam. Theo ông việc
Truyện Kiều và các tác phẩm tuyện thơ Nôm được đón nhận nồng nhiệt ở Việt
Nam là do tác phẩm được sáng tác bằng thể thơ dân tộc, mang một tinh thần dân
tộc. Thứ hai, ông khẳng định những truyện thơ lục bát của Việt Nam là phóng
tác chứ không phải là một tác phẩm dịch. Ông cho rằng các nhà văn Việt Nam
đã xử lí các đề tài vay mượn của Tàu rất độc đáo vào bổ sung vào đó tinh thần
Việt Nam, đưa các nhân vật có nguồn gốc Trung Hoa vào “một bầu không khí
hoàn toàn Việt Nam”. Tác giả cũng đưa ra thêm một số nguyên nhân đó là:
Truyện Kiều là một “tấn tuồng bi thảm” gợi nên cho người đọc những sự đồng
cảm sâu sắc; Nguyễn Du có sự phân tích tình cảm một cách tỉ mỉ; Truyện Kiều
gần gũi với văn học dân gian ở quan niệm đạo đức răn đời. Cuối cùng, tác giả
đặc biệt nhấn mạnh về kĩ thuật làm thơ của Nguyễn Du và nghệ thuật của tác
phẩm đã góp phần tạo nên cái thi vị mà người dân Việt Nam nào cũng cảm nhận
được. Ở các phần về tác giả, nguồn gốc tác phẩm, các văn bản Truyện Kiều tác
giả chủ yếu tiếp nhận và tổng hợp các quan điểm của những người đi trước. Tác
giả cũng nhấn mạnh ở phần cuối của bài viết: “Rất nhiều người châu Âu không
được đọc Truyện Kiều qua nguyên bản tiếng Việt, thấy ở đấy một giai thoại khá
vô vị kể về cuộc sống của một người đàn bà không cá tính và thậm chí đáng ngờ
về mặt đạo đức”. Qua đó chúng ta càng nhận thấy tầm quan trọng của các bản
94
dịch, nó quyết định số phận của tác phẩm được dịch có được đón nhận ở các
quốc gia sử dụng ngôn ngữ ấy hay không.
Cùng năm 1966, công trình “Truyện Kim Vân Kiều và tinh thần dân chúng
Việt Nam ở thế kỷ XIX – XX” của hai tác giả Jean Chesneaux và Georges
Boudarel được Maurice Durand giới thiệu trong công trình “Mélanges sur
Nguyen Du”. Trong bài viết này, Jean Chesneaux và Georges Boudarel đã trình
bày kết quả nghiên cứu của mình về ba vấn đề chính. Thứ nhất là những cuộc
tranh luận xung quanh Truyện Kiều trước 1945. Thứ hai, các tác giả đã khái
quát về tình hình lịch sử xã hội. Thứ ba là lòng thủy chung của dân chúng với
Truyện Kiều. Các tác giả đã khẳng định vị thế của Truyện Kiều đối với văn học
dân tộc Việt Nam. Theo các tác giả, đây là một tác phẩm đã gây ra nhiều tranh
cãi trong suốt quá trình tồn tại của nó. Các tác giả tiến hành khảo sát các cuộc
tranh luận về Truyện Kiều đến năm 1963. Thông qua các cuộc tranh luận, các
tác giả đã rút ra tám vấn đề trọng yếu về Truyện Kiều được nhiều nhà nghiên
cứu quan tâm đến đó là: 1. Vấn đề tính độc đáo của Truyện Kiều so với hình
mẫu Trung Quốc; 2. Vấn đề tính độc đáo của Truyện Kiều theo các nhà Mác -
xít ở Việt Nam; 3. Những lí do thúc đẩy Nguyễn Du sáng tác Truyện Kiều; 4.
Truyện Kiều có thể được xem như một bản cáo trạng chống phong kiến ở chừng
mực nào; 5. Truyện Kiều có phải chỉ là một tiếng kêu đau đớn; 6. Vấn đề tính
mấu thuẫn sâu sắc của tác phẩm; 7. Vấn đề chủ nghĩa nhân đạo trong tác phẩm;
8. Các vấn đề tính thẩm mĩ văn học mà Truyện Kiều đặt ra. Trong phần “Sự
thủy chung của dân chúng với Truyện Kiều”, các tác giả đã phản ánh đời sống
của tác phẩm trong cuộc sống của người dân Việt Nam thông qua một cuộc
khảo sát về “xã hội học văn chương”. Kết quả là các tác giả nhận thấy Truyền
Kiều có một sức ảnh hưởng rất lớn đối với cuộc sống của người dân Việt Nam
như bói Kiều, tranh dân gian về Kiều, cải lương về Kiều, những gắn bó của
Truyện Kiều đối với kí ức của nhà thơ Xuân Diệu, sự ảnh hưởng của Truyện
Kiều đến lời ăn tiếng nói của người Việt, tác phẩm có nhiều dị bản do quá trình
95
lưu truyền rộng rãi. Cuối cùng, các tác giả khẳng định về tính hiện đại của
Truyện Kiều và cho rằng Truyện Kiều có thể đương đầu với sự chuyển qua xã
hội hiện đại để tiếp tục được toàn thể công chúng Việt Nam thời hiện đại quan
tâm và có những lí giải mới mẻ về các vấn đều được đặt ra trong tác phẩm
(Phùng Văn Tửu, Nguyễn Minh Hoàng, 2015).
Năm 1998, công trình “Thế giới truyện Nôm” của Maurice Durand được
công bố. Theo Nguyễn Thị Ngọc Bích, trong công trình này ông đã dành 45
trang để nói về Truyện Kiều “khá chi tiết, sâu sắc và đầy đủ”. (Nguyễn Thị
Ngọc Bích, 2014). Trong công trình “Imagerie populaire vietnamienne”
(Tranh dân gian Việt Nam sưu tầm và nghiên cứu, 2017), ông cũng đã có một
phần giới thiệu chi tiết về Truyện Kiều trong phần tranh “Văn học Việt Nam”
(Maurece Durand, 2017).
Hiện nay, quá trình tiếp nhận Truyện Kiều ở Pháp vẫn còn đang tiếp diễn
với nhiều nhà nghiên cứu và những công trình nghiên cứu chưa được giới thiệu
tại Việt Nam. Ngoài những công trình chúng tôi đã trình bày, theo nhà nghiên
cứu Lê Thu Yến, ở Pháp còn có hai công trình khác của tiến sĩ Guille Alain ở
Trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp và giáo sư Tôn Thất Thanh Vân ở Đại học
Paris Est Cretril. Guille Alain đã nghiên cứu Truyện Kiều từ điểm nhìn lịch sử
học và xã hội học. Còn Tôn Thất Thanh Vân thì nghiên cứu Truyện Kiều trong
tương quan với kiểu nữ nhân vật bi kịch, cụ thể là ManonLescaut và Marianne
(Lê Thu Yến, 2015). Qua đó cho thấy Truyện Kiều đã tạo nên một làn sóng
nghiên cứu mạnh mẽ ở Pháp. Trong phạm vi bài viết, chúng tôi chỉ trình bày
những công trình tiêu biểu có sức ảnh hưởng lớn đến việc nghiên cứu Truyện
Kiều.
3.1.1.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình văn
học ở Đức
Năm 1975, Việt Nam và Cộng hòa Dân chủ Đức bắt đầu thiết lập mối
quan hệ ngoại giao. Năm 1990, hai nước đã hý hiệp định về văn hóa. Tuy nhiên,
96
ở Đức, năm 1964, bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Đức đầu tiên đã được công
bố do vợ chồng dịch giả Irene và Franz Faber thực hiện. Ngay sau đó, Truyện
Kiều đã được giới nghiên cứu ở đây chú ý và tìm hiểu. Trong công trình “Lịch
sử văn học thế giới minh họa” của Johannes Scherr (xuất bản lần đầu năm
1851) đã có nhắc tới văn học Việt Nam trong tương quan với văn học An Nam
và một trong ba tác phẩm được nhắc đến đó chính là Kim Vân Kiều tân truyện.
Năm 1964, GS. TS. Johannes Dieckmann, Chủ tịch Quốc hội Cộng hòa Dân
chủ Đức đã nhận định: “Với tác phẩm này người đọc Đức sẽ tiếp cận một thế
giới văn hoá xa lạ cho đến nay: Mở ra trước mắt chúng ta, ở “Nàng Kiều”, là
cả một kho báu của chủ nghĩa nhân đạo và vẻ đẹp của nền văn hoá của nhân
dân Việt Nam” (Nguyễn Hoàng, 2016). Nhà phê bình Thuỵ Sỹ Johannes
Nhà thơ đã làm cho những nhân vật của ông thân thuộc tới mức khiến ta
quên bẵng rằng thực ra đây là một thế giới ‘xa lạ’… Nàng Kiều cũng giúp
chúng ta có được một cảm quan lịch sử xác thực. Tác phẩm này điều chỉnh
lại “thế giới quan” của người đàn ông da trắng ít nhiều vẫn còn lẩn khuất
trong mỗi chúng ta (Trương Hồng Quang, 2018).
Schellenberger trong bài viết phê bình bản dịch tiếng Đức năm 1964 đã viết:
Năm 2015, một dự án “Truyện Kiều song ngữ Đức - Việt” do nhà ngôn
ngữ học Trương Hồng Quang cùng những người cộng sự thực hiện tại Đức. Dự
án đã tái bản bản dịch tiếng Đức “Truyện Kiều” (Das Mädchen Kiều) của vợ
chồng dịch giả Irene và Franz Faber bên cạnh bản gốc tiếng Việt, với sự hỗ trợ
của nhà thiết kế sách Angelika Schulze và hình minh họa bìa của nữ họa sĩ
Claudia Việt - Đức Brochers và thành lập một website (Nguồn:
https://dasmaedchenkieu.wordpress.com/). Dự án được thực hiện nhân kỷ niệm
40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Việt - Đức và kỷ niệm 250 năm ngày sinh
97
của Nguyễn Du này đã góp phần quảng bá tác phẩm của Việt Nam đến gần hơn
với độc giả ở Đức.
Năm 2018, trong bài viết “Nguyễn Du: Nàng Kiều”, Johannes
Schellenberger khẳng định Truyện Kiều là tác phẩm trường ca dân tộc kinh
điển của Nguyễn Du. Ông cũng nhận thấy sự tương đồng giữa tác phẩm của
Nguyễn Du với tác phẩm “Hermann và Dorothea” của Goethe ở những rung
động tình yêu dịu dàng và các vẻ đẹp thiên nhiên. Ông cũng khẳng định
Nguyễn Du đã sáng tạo nên một tác phẩm “mang tính hiện thực cao độ đối với
xã hội đương thời”. Theo tác giả, Truyện Kiều của Nguyễn Du như một “bản
trường ca sâu đậm tinh thần nhân đạo chủ nghĩa”. Trong tác phẩm, Nguyễn
Du đã lựa chọn những hình ảnh xác thực, cô đọng kết hợp với những âm giai
nhịp điệu và hành động kịch tính chọn lọc tạo ra một sự hài hòa, vừa phải. Tác
giả cũng nhấn mạnh rằng: “bao nhiêu cảm xúc, ý tưởng và minh triết dân gian
đã được kết tinh lại trong những câu thơ cô đọng và dường như không có dấu
vết của một sự dụng công nào! Tính chuẩn xác của các hình ảnh khiến người
đọc thường xuyên có cảm giác mê hoặc”. Tác giả còn đặt một vấn đề về mối
liên quan giữa Truyện Kiều và “Hermann và Dorothea” ở tinh thần “cao
thượng, tương ái và nhân từ”. Qua đó, tác giả đút kết lại rằng: tác phẩm của
Nguyễn Du đã có những tác động nhất định đối với “thế giới quan” của “người
đàn ông da trắng” và góp phần làm cho người Việt Nam trở nên gần gũi hơn
với người Đức trên phương diện nhân sinh và tinh thần đấu tranh chống những
kẻ áp bức (Johannes Schellenberger, 2018).
Như vậy, quá trình tiếp nhận Truyện Kiều của giới nghiên cứu ở Đức chủ
yếu tập trung vào việc khẳng định giá trị nhân đạo cao cả của tác phẩm đã có
những tác động nhất định đối với cách nhìn nhận của người Đức về Việt Nam.
Từ đó cho thấy, sức ảnh hưởng của một tác phẩm văn học có thể tạo nên những
kết nối giữa người với người dù có cách xa về mặt địa lí.
98
3.1.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở khu vực Đông Âu
3.1.2.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình văn
học ở Nga
Từ những năm 60 của thế kỷ XX, khi mối quan hệ giữa Việt Nam và Liên
Xô trở nên thắt chặt thì việc giao lưu văn hóa, đặc biệt là văn học giữa hai nước
được quan tâm nhiều hơn. Trong vòng 20 năm đã có hàng loạt các tác giả, tác
phẩm của Việt Nam được giới thiệu ở Liên Xô. Thậm chí họ còn lập các Khoa
tiếng Việt và các Trung tâm nghiên cứu Việt Nam tại Liên Xô. Năm 1959,
Truyện Kiều được đưa vào dạy lần đầu tiên ở đại học Tổng hợp Matxcova. Đặc
biệt, họ luôn xem Nguyễn Du và Truyện Kiều là biểu tượng cho đất nước và con
người Việt Nam. Cho đến nay, Truyện Kiều vẫn được giảng dạy và nghiên cứu
ở nhiều trường đại học có khoa Tiếng Việt như Đại học Quan hệ quốc tế, Đại
học Tổng hợp Vladivostok, Đại học Tổng hợp Xanh Peterburg, Đại học Khoa
học Xã hội Matxcơva.
Trong bài viết “Truyện Kiều ở Nga” (2015), Nguyễn Minh Hoàng đã khái
quát về tình hình dịch thuật, nghiên cứu và giảng dạy Truyện Kiều ở Nga. Bài
viết được chia thành ba phần: Vài nét về việc giới thiệu văn học Việt Nam ở
Liên bang Nga, Vấn đề nghiên cứu, giảng dạy Truyện Kiều ở Liên bang Nga,
Một số trao đổi xung quanh việc dịch Truyện Kiều ra tiếng Nga. Theo tác giả,
các bộ từ điển nổi tiếng ở Nga như Từ điển Bách khoa toàn thư Liên Xô (1967),
Đại từ điển bách khoa toàn thư (1969), Từ điển chú giải, Từ điển văn học
(1971), Từ điển Ngôn ngữ học đều có đưa vào mục Nguyễn Du và Truyện Kiều.
Tác giả cũng cung cấp thêm thông tin về cuốn giáo trình văn học đáng chú ý
nhất ở Nga được xem như “công trình nghiên cứu đầy đủ nhất về văn học Việt
Nam và Truyện Kiều” đó là cuốn “Lịch sử văn học thế giới” do G.P.
Berdnhikov là chủ biên, Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô xuất bản năm 1988.
Trong cuốn giáo trình này, các tác giả đã tiến hành so sánh mối tương quan giữa
99
Truyện Kiều với các tác phẩm nổi tiếng trên thế giới để chứng minh vị trí và vai
trò của Nguyễn Du đối với nền văn học Việt Nam và nhân loại. (Nguyễn Minh
Hoàng, 2015). Trong việc giảng dạy Truyện Kiều ở Nga, đáng chú ý là giáo sư
Remartruc V.V, ông đã dành nhiều tâm huyết cho việc dịch, phân tích và giảng
dạy Truyện Kiều nhiều năm liền. Bên cạnh đó, Truyện Kiều của Nguyễn Du
cũng được nhiều sinh viên các khoa Ngữ Văn dung làm đề tài nghiên cứu cho
luận văn, luận án của mình. Theo đánh giá của tác giả, trong số các bản dịch
Truyện Kiều ở Nga, có hai bản dịch nổi tiếng nhất đó là bản dịch của Larin V.P
và Arkadi Steinberg.
Năm 2015, nhân kỉ niệm 250 năm ngày sinh của Nguyễn Du, nhóm dịch
giả Việt - Nga đã công bố bản dịch mới nhất của Truyện Kiều sang tiếng Nga.
Công trình này do tiến sĩ, nhà thơ Nguyễn Huy Hoàng là người đứng ra tổ chức.
Trong đó, người dịch ra văn xuôi tiếng Nga là dịch giả Vũ Thế Khôi và người
chuyển thể bản từ văn xuôi sang thơ tiếng Nga là Vasili Popov, một nhà thơ trẻ
nhưng đã thành danh. Phần hiệu đính và dịch thuật do dịch giả Đoàn Tử Huyến
và nhà Việt Nam học người Nga - Phó Giáo sư Ngôn ngữ học Anatoli Sokolov
phụ trách.
Khi nghiên cứu về vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở Nga thì người mà
chúng ta không thể không nhắc đến đó là tiến sĩ N. I. Niculin. Ông được coi là
người đầu tiên có đóng góp rất lớn cho việc giới thiệu và nghiên cứu Truyện
Kiều ở Nga. Ông đã từng nhận định rằng: “Văn học Việt Nam ở Nga cần phải
hiện diện ngay bằng những kiệt tác, cần phải giành được uy tín và sự thừa
nhận. Do đó đề tài luận án phó tiến sỹ của tôi và cũng là cuốn sách đầu tiên về
văn học Việt Nam bằng tiếng Nga là sáng tác của nhà thơ vĩ đại Nguyễn Du.”
(Hoài Nam, 2008). Theo Lưu Khánh Thơ từng nhận xét, khi nghiên cứu về
Nguyễn Du và Truyện Kiều nói riêng và văn học trung đại Việt Nam nói chung,
“N. I. Niculin đã đưa ra những cách hình dung mới mẻ, chỉ ra những mối liên
hệ và so sánh đầy thuyết phục” (Lưu Khánh Thơ, 2012).
100
Năm 1959, Niculin công bố bài viết đầu tiên của mình về Truyện Kiều. Bài
viết “Nguyễn Du - nhà thơ nhân đạo lỗi lạc” được đăng trên tập san Lịch sử văn
hóa thế giới, số 4, tháng 7-8 năm 1959 của Hệ sử học - Viện Hàn lâm khoa học
Liên-xô. Với ông, Nguyễn Du là một “nhà thơ nhân đạo lỗi lạc”. Trong mối
tương quan giữa Truyện Kiều với tác phẩm của Trung Quốc, ông nhận định
rằng: “Đối chiếu thiên trường ca của Nguyễn Du với cuốn truyện của Thanh
Tâm Tài Nhân thì thấy rõ rằng tuy mượn đề tài của người khác, nhà thơ
Việt-nam vẫn sáng tạo ra một tác phẩm độc đáo lạ thường, đậm đà bản sắc dân
tộc”. Theo ông, Nguyễn Du đã đi theo con đường đi sâu vào nghiên cứu tâm lý
con người. Niculin chứng minh điều này thông qua việc so sánh các nhân vật
giữa hai tác phẩm Trung - Việt và đi đến kết luận rằng: “Mặc dù cuốn truyện -
của Thanh tâm tài nhân đọc rất hấp dẫn, nội dung nó vẫn thiếu chiều sâu và
hình thức của nó vẫn thiếu phần trau chuốt, mà đó chính là những phẩm chất
tiêu biểu trong thiên trường ca của Nguyễn Du”. Thêm vào đó, theo tác giả:
“sự xung đột giữa cái bản chất nhân đạo tươi sáng của con người với những
lực lượng vô nhân đạo của xã hội, cái tác động bi thảm và nghiệt ngã, không
sao thoát khỏi của những lực lượng ấy, chính là những yếu tố đã làm nên cái
thần của thiên trường ca”. Một yếu tố nữa tạo nên tính nhân đạo sâu sắc ở tác
phẩm của Nguyễn Du là lòng mơ ước hạnh phúc của con người. Trong tác
phẩm, dù nhân vật chính có bị đẩy đến bước đường cùng thì đâu đó vẫn phản
phất một tinh thần lạc quan, vẫn có những tia sáng phát ra nơi bức màn u ám.
Như vậy, trong bài viết này, Niculin đã nêu ra những biểu hiện của chủ nghĩa
nhân đạo ở Nguyễn Du đó chính là chú trọng vào tâm lí của con người, tố cáo
xã hội đen tối và khát vọng tự do, hướng tới ánh sáng của con người.
Năm 1960, trong bài viết “Vị trí của Truyện Kiều trong nền thi ca Việt
Nam” đăng trên tạp chí “Những vấn đề văn học Phương Đông” ông còn nhấn
mạnh rằng nhà thơ của Việt Nam với tác phẩm của mình có thể so sánh với
“Evghenhi Onheghin” của Puskin.
101
Năm 1965, N. I. Niculin đã thực hiện công trình “Nguyễn Du, nhà thơ vĩ
đại Việt Nam” nhân kỷ niệm 200 năm ngày sinh của Nguyễn Du. Bài viết được
đăng trên tạp chí Văn học Nghệ thuật ở Matxcova. Trong bài viết, ông đã vinh
danh Nguyễn Du là nhà thơ lớn nhất của dân tộc Việt Nam. Ông đề cao giá trị
hiện thực và giá trị nhân đạo cao cả của Nguyễn Du trong bối cảnh xã hội Việt
Nam thế kỷ XVII – XVIII. Về tính sáng tạo của Nguyễn Du trong tác phẩm ông
đã khẳng định: “Truyện Kiều không phải là một tác phẩm mô phỏng, không
phải là một bản dịch Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân mà là một
tiểu thuyết bằng thơ đầy sáng tạo, viết theo thể loại lục bát truyền thống, là
đỉnh cao của văn học hiện thực Việt Nam”. Sau này, trong nhiều công trình
nghiên cứu của mình, ông cũng đặt Truyện Kiều trong tổng quan văn học Việt
Nam và cho rằng đó là kết quả của một nền văn hóa có bề dày hàng ngàn năm,
là kết quả lao động của một thiên tài “vô tiền, khoáng hậu”. Ông cũng đồng
tình quan điểm với các nhà nghiên cứu đi trước rằng Truyện Kiều có đề tài vay
mượn từ tác phẩm của Thanh Tâm Tài Nhân. Và ông cũng nhận thấy rằng đây
là một “tập quán thông thường” trong giai đoạn văn học trung đại. Sự thành
công của Truyện Kiều so với Kim Vân Kiều truyện còn nhờ vào bút pháp tài tình
của Nguyễn Du trong việc xây dựng kết cấu chặt chẽ, giản lược những chi tiết
rườm rà. Cách xây dựng nhân vật trong Truyện Kiều đặc sắc bởi mỗi nhân vật
đều có “cái thần” riêng, tác giả đã chứng minh thông qua nhân vật Thúy Kiều
và Từ Hải. Tác giả cũng nhận xét Kim Vân Kiều truyện thiếu chiều sâu và hình
thức thiếu trau chuốc. Ở Truyện Kiều toát ra tinh thần nhân đạo sâu sắc và đề
cập đến những xung đột xã hội vì thế tác phẩm khiến cho người đọc có sự đồng
cảm hơn. Theo ông, trong Truyện Kiều những yếu tố thuộc về thuyết định mệnh
chỉ góp phần giúp nhà thơ phản ánh hiện thực và Truyện Kiều là một “bức
tranh tố cáo lớn lao”. Từ đó ông khơi gợi một hướng tiếp cận đề cao tính chất
hiện thực trong tác phẩm.
102
Trong bài viết “Nhân vật Từ Hải”, Niculin đã trình bày quan điểm của
mình về một nhân vật có vai trò đặc biệt trong Truyện Kiều - Từ Hải. Ông
chứng minh rằng Từ Hải là một nhân vật có số phận lịch sử chứ không phải là
một hình tượng “ẩn dụ tượng trưng cho một tư tưởng”. Ông nhận thấy ở nhân
vật này có những đặc điểm ngoại hình, tính cách như những con người bình
thường. Điều đáng nói hơn là Từ Hải có một tâm hồn cao thượng, lãng mạn và
thấu hiểu khác với các hình tượng về người anh hùng chí lớn trong thơ xưa.
Ông cũng tiến hành so sánh với hình tượng đối lập với nhân vật này, đó là Hồ
Tôn Hiến. Ông đưa ra sự khác nhau khi Nguyễn Du khắc họa hai hình tượng
này trên các phương diện: ngoài hình, hành động, tính cách, phẩm chất. Theo
ông, nếu như khi xây dựng hình tượng nhân vật Từ Hải, Nguyễn Du chỉ nhắc
đến những khát khao, hoài bão, những phẩm chất cao quý thì ở Hồ Tôn Hiến,
Nguyễn Du chỉ nhấn mạnh khía cạnh địa vị xã hội của y. Tác giả cũng nhấn
mạnh rằng: Dù hình tượng Từ Hải có gần gũi với Nguyễn Du đến thế nào đi
chăng nữa thì thái độ của nhà thơ đối với nhân vật này cũng có hai mặt và
không nên cho rằng nhân vật Từ Hải là lý tưởng của Nguyễn Du. Tác giả cũng
bác bỏ những quan điểm cho rằng việc Nguyễn Du tán thành với cuộc khỏi
nghĩa Tây Sơn. N. I. Niculin cũng nhận định rằng Từ Hải “có phần nào mang
bóng dáng hùng vĩ của Nguyễn Huệ” nhưng “Từ Hải chỉ là một cá nhân riêng
biệt chứ không phải là một người lãnh tụ của nông dân khởi nghĩa” (Lê Xuân
Lít, 2005)
Theo Nguyễn Hữu Sơn, khi so sánh Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện,
Niculin “không chỉ dựa trên cơ sở các chi tiết, sự kiện và nội dung xã hội, mà
đã đi sâu so sánh các đặc trưng thể loại, loại hình và truyền thống thi ca Việt
Nam”. Niculin đã nhấn mạnh khả năng diễn tả tâm lý nhân vật và vai trò tiếng
nói trữ tình ngoại đề của tác giả: “Nguyễn Du phát triển và trau chuốt kỹ lưỡng
những đoạn nào giúp ông bộc lộ cái thế giới bên trong của các nhân vật. Nhờ
đó mà kết cấu của thiên trường ca có được tính chất chặt chẽ và trọn vẹn”.
103
Niculin đã chỉ ra những nguyên nhân tạo nên sự cách biệt về mức độ thành công
giữa hai tác phẩm Trung - Việt đó là bên cạnh sự khác nhau về thể loại thì ở
Truyện Kiều của Nguyễn còn “thừa hưởng và nối tiếp truyền thống của thơ ca
cổ điển và thơ ca dân gian Việt Nam”. Nguyễn Du đã sử dụng rất nhiều hình
ảnh của ca dao để sáng tạo ra một hệ thống hình tượng riêng, độc đáo và đa màu
sắc. Chính vì thế mà tác phẩm đã tác động mạnh mẽ đến tình cảm của người
Như thế, việc xác định bản sắc truyền thống văn hóa dân tộc như là điểm
tựa cho khả năng tiếp nhận - sáng tạo lại cốt truyện nước ngoài và cho
chính định hướng nghiên cứu so sánh loại hình - thể loại giữa Truyện Kiều
và Kim Vân Kiều truyện là một quan điểm học thuật đúng đắn, đã và đang
tiếp tục gợi mở nhiều vấn đề thú vị (Nguyễn Hữu Sơn, 2006).
đọc. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Sơn đã kết luận rằng:
Lưu Khánh Thơ trong bài viết “Nửa thế kỷ đồng hành với văn học Việt
N. I. Niculin đã đến với văn học Việt Nam không chỉ như một chuyên gia,
mà còn như một sứ giả của tình hữu nghị. Với những đóng góp xuất sắc,
ông đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Hữu nghị cao quý.
Ông thực sự là người bạn lớn thủy chung của nhân dân Việt Nam. Hơn nửa
thế kỷ gắn bó cùng văn học Việt Nam, ông đã mang theo vào cõi vĩnh hằng
tâm hồn Nga hòa quyện với tâm hồn Việt Nam (Lưu Khánh Thơ, 2012).
Nam” cũng nhận xét rằng:
Như vậy, với những kết quả nghiên cứu trên, chúng ta có thể khẳng định
những đóng góp to lớn của Niculin trong việc tiếp cận tác phẩm từ nhiều
phương diện, quảng bá tác phẩm của Nguyễn Du đến gần hơn với độc giả ở Nga
và góp phần xây dựng mối quan hệ văn hóa giữa Nga - Việt thêm khăng khít.
104
Bên cạnh Niculin, Marian Tkatrov - nhà nghiên cứu đồng thời cũng là một
dịch giả, cũng có những đánh giá về Truyện Kiều như một chuẩn mực của ngôn
ngữ tiếng Việt trong sáng nhất. Từ góc độ của một dịch giả, ông đã cho rằng
“đóng góp của Nguyễn Du đối với sự bảo tồn và phát triển tiếng Việt Nam,
cũng giống như là Puskin đối với tiếng Nga vậy”.
Theo Lê Thu Yến, Tại Nga, Truyện Kiều được giới thiệu và nghiên cứu
khá dày, bên cạnh N. I. Niculin còn có một số nhà nghiên cứu khác như A.
Steinberg, M. Tcachiov, T. N. Philimonova… Chính vì thế, tên tuổi của
Nguyễn Du cùng Truyện Kiều ngày càng được nhân dân nước Nga yêu quý.
Hơn thế, nhà thơ Nguyễn Đỗ Lưu cũng bày tỏ sự ngạc nhiên và tự hào khi bước
vào một thư viện của nước Nga: “Tôi chợt gặp Nguyễn Du/ Trang nghiêm trong
thư viện/ Nguyễn Du đến đây từ miền xa gió nắng/ Nỗi đau Kiều là của mọi
lương tâm... hay Những cô gái Nga nhìn tôi rất thân/ Cười nụ cười rất trẻ/ Lời
các cô như sóng Vonga nhè nhẹ/ Nguyễn Du đã vào trong mọi trái tim Nga”
(trích Gặp Nguyễn Du ở Moscow).
Tóm lại, vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở Nga đã được thể hiện ở rất nhiều
phương diện từ vấn đề chủ nghĩa nhân đạo, chủ nghĩa hiện thực trong tác phẩm
cho đến hướng tiếp cận văn hóa, ngôn ngữ, … Qua đó cho thấy sự quan tâm đặc
biệt của các nhà nghiên cứu ở nơi đây đối với tác phẩm kinh điển của Việt Nam
và góp phần khẳng định thêm sức ảnh hưởng to lớn của Truyện Kiều đối với
giới nghiên cứu trên thế giới.
3.2.1.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình văn
học ở Tiệp Khắc, Hungary và Rumani
Theo dịch giả Jan Komárek, hiện nay có hai bản dịch Truyện Kiều bằng
tiếng Tiệp. Thứ nhất là bản dịch của Gustav Franck xuất bản ở Praha năm 1957.
Thứ hai là bản phỏng dịch ra văn xuôi của Antosin Hoocxki vào năm 1965,
quyển Tám trong “Tủ sách hay nên đọc” của nhà xuất bản Poroc, Praha. Tuy
nhiên theo Nguyễn Văn Hoàn bản dịch này đã được công bố năm 1926 và năm
105
1965, nhân dịp kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du thì các nhà nghiên cứu ở
Tiệp Khắc đã chụp ảnh bản dịch để gửi tặng nước ta. Vì thế ông đã khẳng định
rằng Tiệp Khắc là nước đầu tiên đã phiên dịch Truyện Kiều ở khu vực Đông
Âu (Nguyễn Văn Hoàn, 1965). Jan Komárek đã thực hiện một khóa luận của
nhân về Truyện Kiều, từ đó tác giả đã quyết định công việc dịch tác phẩm và trở
thành người đầu tiên dịch Truyện Kiều từ tiếng Việt sang tiếng Séc. Năm 2015,
tại hội thảo về Nguyễn Du, đã công bố công trình dịch thuật của mình bao gồm
200 câu thơ và Jan Komárek cũng khẳng định rằng giá trị lớn nhất của Truyện
Kiều là ở ngôn ngữ.
Ở Hungary, năm 1984 bản dịch Truyện Kiều đầu tiên sang tiếng Hungary
được Tandori Dézsö và Trương Đăng Dung công bố (Kieu története. Nxb
Európa. Budapest. 1984). Chính sự kết hợp đặc biệt giữa một dịch giả người
Việt Nam và một nhà thơ nổi tiếng của Hungary đã tạo ra một bản dịch Truyện
Kiều rất thành công.
Ở Ba Lan, theo Hoàng Thúy Toàn: “bản dịch Truyện Kiều đầu tiên xuất
hiện văn 1965 tại Varsava đã ấn hành bản trích dịch nhân dịp kỷ niệm 200 năm
sinh Nguyễn Du và tháng 3/1975 lại ấn hành bản dịch Truyện Kiều ra văn xuôi
của Roman Konietxki dựa theo một bản dịch tiếng Pháp” (Hoàng Thúy Toàn,
2003).
Theo Phan Duy Nhân, năm 1967 bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Rumani
đầu tiên được xuất bản bởi nhà xuất bản Văn học Bucuresti (Rumani), được
dịch giả Radu Moureanu dịch từ bản dịch tiếng Pháp của Nguyễn Văn Vĩnh (Lê
Hường, 2016).
Hiện tại về công trình nghiên cứu ở các nước này chúng tôi vẫn chưa có
điều kiện tìm thấy. Do đó, chúng tôi chỉ xin khái quát về tình tình dịch thuật
Truyện Kiều ở các nước trên. Tuy nhiên chúng ta có thể tin tưởng rằng với tầm
ảnh hưởng của mình, Truyện Kiều sẽ tiếp tục hành trình vươn xa hơn và được
giới nghiên cứu ở các nước này quan tâm trong một tương lai không xa. Và
106
chắc chắn đó sẽ là những hướng tiếp cận mới mẻ góp phần vào đời sống vốn đã
phong phú của Truyện Kiều. Chúng tôi hy vọng sẽ sớm quay lại vấn đề này
trong những công trình sau.
3.2. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Mỹ
3.2.1. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Mỹ
Khi Việt Nam và Mỹ thiết lập mối quan hệ ngoại giao sau khi cuộc chiến
tranh kết thúc (1995), sự giao lưu về văn hóa từ đó cũng diễn ra rất sôi nổi. Đặc
biệt trong lĩnh vực văn học, hai nước đều có giảng dạy các tác phẩm văn học
của nhau ở các trường học. Trong đó, Truyện Kiều là tác phẩm đã sớm để lại ấn
tượng rất lớn đối với người Mỹ. Khi cuộc chiến tranh còn đang diễn ra, tờ báo
The Washingtonian số 4 của Mỹ có đăng bài viết về Truyện Kiều “Một tài liệu
ly kỳ vừa bắt được tiết lộ tinh thần của địch”. Tác giả bài viết nhấn mạnh rằng:
“Giá như Tổng thống Johnson đã đọc Truyện Kiều thì chắc chắn đã không phải
lâm vào tình trạng rắc rối như ngày nay” (Bùi Mạnh Nhị, 2018). Qua đó cho
thấy người Mỹ đã sớm nhận ra giá trị của tinh thần dân tộc Việt Nam trong
Truyện Kiều và sức mạnh tiềm ẩn của tác phẩm đã luôn sát cánh cùng người
Việt Nam đi qua những cuộc chiến tranh ác liệt.
Năm 1973, bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh đầu tiên do Huỳnh Sanh
Thông (giảng viên trường Đại học Yale) thực hiện được nhà xuất bản Random
House giới thiệu với tên “The Tale of Kieu”. Năm 1983 ông đã có chỉnh sửa và
hiệu đính lại với tên là “The Tale of Kiều”. Bản dịch Truyện Kiều năm 1973
của ông được trao giải MacArthur Fellowship danh tiếng vào năm 1987 (Trần
Lê Hoa Tranh, 2017). Cũng từ năm 1973, một số trường đại học ở Mỹ đã bắt
đầu đưa Truyện Kiều vào chương trình giảng dạy của mình.
Năm 1998, giáo sư John Swensson chính thức đưa Truyện Kiều vào giảng
dạy tại Trường De Anza bang California. Đến nay Trường De Anza có thêm
4-5 giáo viên khác cũng đang dạy Truyện Kiều sau sự khởi xướng của ông.
107
Giáo sư John Swensson đã nhấn mạnh rằng: “Muốn tìm hiểu con người Việt
Nam thì hãy tìm hiểu Truyện Kiều…” (Bùi Mạnh Nhị, 2018).
To the Vietnamese people themselves, THE TALE OF KIEU is much
more that just a glorious heirloom from their literary past. It has become a
kind of continuing emotional laboratory in which all the great and timeless
issues of personal morality and political obligation are tested and resolved
(or left unresolved) for each new generation. Western readers who are
curious about Vietnam and the Vietnamese may well gain more real
wisdom from cultivating a discriminating appreciation of this poem than
they will from reading the entire library of scholarly and journalistic
writings upon modern Vietnam which has accumulated in the West in the
past two decades (John Swensson, 1998).
Trong phần giới thiệu về bài giảng của mình, John Swensson có viết:
Tạm dịch: Đối với người dân Việt Nam, Truyện Kiều không chỉ là một gia
tài quý báu. Tác phẩm này đã trở thành nơi hòa trộn những nếp nghĩ, nếp cảm
của người Việt và thể hiện những quan niệm về đạo đức cũng như nghĩa vụ của
con người trong xã hội. Những độc giả phương Tây tò mò về Việt Nam và
người Việt Nam (ở nước ngoài) sẽ có ý thức trong việc nâng cao sự đánh giá
phân biệt đối với bài thơ này so với việc họ đọc toàn bộ các công trình nghiên
cứu và báo chí về Việt Nam hiện đại đã tích lũy ở phương Tây nhiều thập kỷ.
Với nhận xét ấy, tác giả đã góp phần khẳng định vị trí của Truyện Kiều đối với
nền văn học Việt Nam cũng như sức hấp dẫn của Truyện Kiều đối với các nhà
nghiên cứu ở phương Tây (Các bài giảng của các giảng viên về Truyện Kiều
được tổng hợp trên trang: https:// www.deanza.edu/ faculty/swenssonjohn/
kieu/index.html).
108
Bên cạnh bản dịch của Huỳnh Sanh Thông được giới nghiên cứu cho là
dịch rất đúng và rất sát nghĩa với bản gốc. Ngoài ra, ở Mỹ còn có các bản dịch
của Lê Xuân Thủy, Lê Cao Phan và Michael Counsell (Lê Thu Yến, 2015).
Năm 1997, Mariam B. Lam đã có một công trình nghiên cứu “Truyện
Kiều dưới góc nhìn văn học nữ quyền” trên Tạp chí American Journal. Tác giả
đã vận dụng một lí thuyết mới trong nghiên cứu văn học đó là lý thuyết nữ
quyền để phản biện lại các xu hướng nghiên cứu Truyện Kiều gắn với dân tộc,
đất nước. Bà cho rằng “cách sử dụng thân thể người phụ nữ để tái hiện các giá
trị dân tộc” là một cách nhìn nhận áp đặt và bất công với người phụ nữ. Từ góc
nhìn nữ quyền, tác giả đã đưa ra những nhìn nhận, đánh giá về ba chủ đề trong
nghiên cứu Truyện Kiều được nhiều nhà nghiên cứu trước đây khai thác đó là
lòng tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu nước, quyền lực của ngôn ngữ dân tộc và
các xu hướng đạo đức tôn giáo bằng cách xem xét nghệ thuật xây dựng nhân vật
phụ nữ trong tác phẩm kinh điển của Truyện Kiều. Theo tác giả, nhiều nhà
nghiên cứu ở Mĩ cũng nhìn nhận Truyện Kiều chính là một “ẩn dụ cho sự thống
nhất thỏa hiệp của Nguyễn Du với dân tộc”. Từ đó tác giả đặt ra mục đích
nghiên cứu của mình đó là khám phá “các giá trị và truyền thống dân tộc được
lưu giữ, chuyển hóa (chuyển nhập) và viết lại trên hình ảnh người phụ nữ Việt
Nam như thế nào”.
Ở chủ đề thứ nhất, lòng tự hào dân tộc và chủ nghĩa yêu nước trong Truyện
Kiều, tác giả đã đặt ra một vấn đề đó là có phải Truyện Kiều chỉ ẩn dụ cho dân
tộc Việt Nam mà không quan tâm đến chủ thể của cá nhân người phụ nữ. Theo
tác giả, chúng ta vẫn thường cố gắng tìm mối liên kết giữa câu chuyện của Kiều
với những vấn đề của dân tộc mà quên đi những giá trị tự thân của người phụ
nữ. Tác giả đã nhìn nhận tầm tư tưởng đi trước thời đại của Nguyễn Du đó là
ông dám tạo nên “một cái cá thể” trong bối cảnh xã hội phong kiến. Tuy nhiên,
cái cá thể ấy bấy lâu nay đã bị gắn chặt với “kinh nghiệm dân tộc”. Để minh
chứng cho tính cá nhân được thể hiện trong Truyện Kiều, tác giả đã chỉ ra rằng
109
Thúy Kiều vẫn có lí trí và có sự chủ động trong một số tình huống chứ không
thụ động chấp nhận số phận. Và theo tác giả, ở những lần Kiều dùng lí trí thì
nàng luôn được “nhấn mạnh khía cạnh tinh thần, cái “tính nữ tính” của nàng”.
Từ góc nhìn nữ quyền, tác giả cho rằng: “Việc đồng nhất người phụ nữ Việt
Nam với cá nhân người Việt Nam đã lờ đi những nỗ lực thực sự mà phụ nữ Việt
Nam đối đầu trong đời sống hàng ngày”. Từ đó, tác giả yêu cầu giới nghiên
cứu cần nhìn nhận lại việc áp đặt lên cuộc đời Kiều những cách nhìn dựa vào
lịch sử đầy biến động hay dựa vào những quyền uy. Và theo tác giả, chúng ta
chỉ cần nhìn nhận người phụ nữ bằng những chính giá trị vốn có của họ. Từ
những thực trạng nghiên cứu trên, tác giả đã khẳng định rằng chính vì những
“sự ưu tiên đối với chủ nghĩa dân tộc” bấy lâu nay mà “câu chuyện về Kiều
không thể là một bài thơ mang tính nữ quyền”.
Chủ đề thứ hai đó là việc nghiên cứu những giá trị thông qua nghệ thuật sử
dụng ngôn ngữ của Nguyễn Du. Tác giả nhận thấy nghệ thuật sử dụng ngôn từ
của Nguyễn Du đã kiến tạo nên những giá trị dân tộc Việt Nam. Thứ nhất là
ngôn ngữ thơ của Nguyễn Du đã chinh phục được mọi tầng lớp trong xã hội từ
giới trí thức đến người bình dân và cũng từ đó mà người ta chỉ chú ý đến cái bản
sắc dân tộc mà Truyện Kiều đang lưu giữ nhất là khi tác phẩm được viết vào
một giai đoạn đầy biến động ở Việt Nam. Thứ hai là do đặc trưng của thể loại
thơ và sứ mệnh dân tộc của nó trong bối cảnh xã hội đương thời. Thứ ba là do
địa vị của Nguyễn Du trong xã hội đã cấp cho ông một thẩm quyền văn hóa để
sáng tác một bài thơ về sự gắn kết cộng đồng trong một giai đoạn rối ren và
phân chia. Thứ tư đó là việc lựa chọn hình tượng nhân vật thuộc tầng lớp thấp
trong xã hội đã cho thấy đóng góp của Nguyễn Du đối với việc lưu giữ những
phẩm chất của dân tộc. Cuối cùng là việc lựa chọn nhân vật là nữ của Nguyễn
Du đã thể hiện trách nhiệm đặt lên vai của người phụ nữ - người mẹ của dân tộc,
người kiến tạo dân tộc và bẳn sắc hóa cộng đồng. Chính những quan niệm nhìn
nhận về sự đồng hóa giữa Kiều và dân tộc như vậy đã khiến tác phẩm không thể
110
là một bài thơ mang tính nữ quyền. Theo tác giả, những ràng buộc trong tư
tưởng áp đặt lên người phụ nữ khiến họ ngày càng trở nên bất lực trong xã hội.
Chủ đề phổ biến thứ ba của văn học Việt Nam theo tác giả đó là việc thể
hiện niềm tin tôn giáo và đạo đức thông qua hình tượng Thúy Kiều. Theo tác
giả, vấn đề số mệnh, trách nhiệm và bổn phận đã điều khiển toàn bộ câu chuyện
trong Truyện Kiều. Nó khiến con người kìm nén những khát khao về tình dục,
khiến con người phải hy sinh sự tự do cá nhân vì con đường của hòa bình dân
tộc. Thêm vào đó, bổn phận và trách nhiệm đối với gia đình đã dân Kiều đến
với con đường lưu lạc trôi nổi.
Từ những luận điểm trên, tác giả đã đi đến một kết luận rằng: “người phụ
nữ trong Truyện Kiều là nhân vật mang tính dân tộc” và bài thơ của Nguyễn
Du “đang giới thiệu cho người đọc về một người mẹ Việt Nam”.
Như vậy, từ việc tiếp nhận Truyện Kiều ở góc nhìn nữ quyền, tác giả nhận
thấy những hạn chế trong tư tưởng của Truyện Kiều và điều này không phải do
sự yếu kém của Nguyễn Du mà do những ràng buộc của xã hội. Với công trình
này, tác giả đã cho thấy sự sáng tạo trong quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học
của quá khứ với góc nhìn của con người hiện đại. Từ đó tác giả đã đặt ra một
vấn đề rất đáng lưu ý về cách đánh giá tác phẩm của Nguyễn Du. Đây là một
cách tiếp nhận rất mới mẻ và cần được nghiên cứu chuyên sâu hơn.
Năm 1999, Trịnh Thị Minh Hà giáo sư tại Đại học California tại Berkele,
là nhà nghiên cứu về văn học và điện ảnh. Năm 1995, bà đã thực hiện một bộ
phim lấy cảm hứng từ Truyện Kiều mang tên “A Tale of Love”. Năm 2006, nhà
nghiên cứu Loran Marsan có một bài viết đánh giá về bộ phim “A Tale of
Love” của Trịnh Thị Minh Hà tên là “Creating New Spaces in Third Cinema:
Trinh T. Minh-Ha Rewrites the Narrative of Nationalism With Love”. Trong
bài viết, tác giả đã nhận xét Truyện Kiều là biểu tượng quốc gia của Việt Nam
và là câu chuyện luôn mở ra những cách giải thích mới. Tuy chưa có tác giả
chưa có công trình nào nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu về Truyện Kiều
111
nhưng đánh giá ấy cũng góp phần phản ánh sự quan tâm của tác giả đối với tác
phẩm của Nguyễn Du. Đây cũng là một hướng tiếp nhận mới thể hiện sự sáng
tạo của tác giả trong việc tiếp nhận Truyện Kiều. Tác phẩm như được một lần
tái sinh với diện mạo rất khác. Song điều này không làm giảm đi giá trị của tác
phẩm mà còn góp phần làm tăng thêm sức ảnh hưởng sâu rộng của nó trong các
lĩnh vực nghệ thuật khác.
Bên cạnh những việc tiếp nhận Truyện Kiều của các nhà phê bình văn học,
việc tiếp nhận Truyện Kiều ở Mỹ còn có một điểm đáng lưu ý, đó là khi các
chính khách của nước Mỹ luôn dành một sự quan tâm đặc biệt dành cho tác
phẩm của Nguyễn Du. Theo Bùi Mạnh Nhị thống kê, đã có ba lần các chính
khách nước này đã trích lời thơ của Nguyễn Du trong bài phát biểu của mình.
Đó là Tổng thống Bill Clinton, Phó Tổng thống Mỹ Joe Binden và Tổng thống
Barack Obama. Sự kiện này đã góp phần khẳng định vị thế của Truyện Kiều đối
với văn hóa Việt Nam và vai trò của tác phẩm đối với việc thiết lập quan hệ
ngoại giao giữa Việt Nam với các nước khác.
3.2.2. Truyện Kiều trong tiếp nhận của giới nghiên cứu và phê bình
văn học ở Cuba
Năm 1960, Việt Nam và Cuba bắt đầu thiết lập mối quan hệ ngoại giao, từ
đó đến nay, hai nước vẫn luôn duy trì mối quan hệ “anh em” đặc biệt này như
môt biểu tượng của thời đại. Cũng trong năm 1960 bản dịch Truyện Kiều sang
tiếng Tây Ban Nha được giới thiệu ở Cuba. Bản dịch hoàn thành nhờ sự kết hợp
giữa Nguyễn Mạnh Tứ và Feliz Pita Rodriguez (thư ký riêng của Chủ tịch Fidel
Castro). Theo Feliz, việc dịch toàn bộ Truyện Kiều là một việc khó khăn lớn bởi
ngôn ngữ, điển tích, biểu đạt tình cảm qua hình ảnh…, nhưng ông vẫn kiên trì
tiến hành bởi đây là một kiệt tác có giá trị về văn hóa, mang ý nghĩa xã hội rộng
lớn (Chu Huy Sơn, 2013).
Trong bài viết “Nguyễn Du - nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam”, Feliz
Pita Rodriguez đã nhấn mạnh về những hạn chế trong việc dịch đối với Truyện
112
Kiều đó là: “Sự đẹp đẽ về hình thức, những giá trị biểu hiện tinh vi, nhạc điệu
diệu kì của trong những ngôn nhiều chất thơ nhất, đã không còn nữa khi người
ta chuyển nó qua một ngôn ngữ khác và chúng ta đành phải bằng lòng với một
hình bóng rất xa với nguyên bản” (Feliz Pita Rodriguez, 1967). Trong bài viết,
ông cũng có những đánh giá về Nguyễn Du cũng như những giá trị của Truyện
Kiều. Theo ông, chính nhờ vào tài năng kiệt xuất của Nguyễn Du mà văn học
Việt Nam cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX đã có được “thời hoàng kim rực rỡ
trong giai đoạn văn học trung đại Việt Nam” (Từ Thị Loan, 2008). Hướng tiếp
nhận này tuy không mới, nhưng đối với hành trình vươn ra thế giới của Truyện
Kiều thì nó lại không hề dư thừa. Đây được xem như một sự khởi đầu đặt nền
tảng cho những nghiên cứu tiếp theo hứa hẹn sẽ có nhiều góc nhìn mới hơn về
tác phẩm của Việt Nam. Đồng thời giúp cho quan hệ giữa hai nước ngày càng
gắn bó hơn không chỉ về mặt chính trị mà còn về văn hóa.
3.3. Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Úc
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi đã tìm thấy một trường hợp tiếp
nhận Truyện Kiều khá độc đáo ở Úc, đó là công trình nghiên cứu của một giảng
viên đại học Australian National University - Leslie Barnes.
Năm 2013, Leslie Barnes đã công bố một bài viết với nhan đề “A Modern
Kiều: Immigration and the Ethics of Sexuality in John Duigan’s Careless
Love”. Leslie Barnes đã nhận thấy giữa hai tác phẩm có mối liên hệ rất gần gũi
nhau. Trong bài viết, tác giả đã so sánh khá kỹ bộ phim của John Duigan với
Truyện Kiều ở các phương diện nhân vật và các vấn đề đạo đức, tình dục. Hiện
tại bài viết vẫn chưa có bản dịch Tiếng Việt, vì thế, trong phần này chúng tôi chỉ
trích dịch một số luận điểm chính. Chúng tôi hy vọng bài viết sẽ sớm được giới
thiệu để bổ sung vào kho tàng những nghiên cứu, phê bình về Truyện Kiều của
Nguyễn Du.
Bộ phim của John Duigan nói về vấn đề nhập cư của người Việt ở Úc với
nội dung xoay quanh câu chuyện về cuộc đời Linh - một du học sinh Việt Nam
113
ở Úc. Trong bài nghiên cứu, Leslie Barnes đã khái quát về Truyện Kiều của
Nguyễn Du như sau: Bài thơ dựa trên truyền thống văn học, triết học, văn hóa
của Trung Quốc và Việt Nam, kể lại những khổ nạn của một người phụ nữ trẻ
đẹp và đạo đức, hy sinh danh dự của mình để cứu lấy gia đình. Cha của Kiều đã
bị án oan và bị bắt. Để trả các khoản nợ của gia đình, Kiều đồng ý bị bán mình
vào một cuộc hôn nhân. Tuy nhiên, cô sớm phát hiện ra rằng mình đã vô tình bị
bán mình vào nghề mại dâm, và phần lớn phần còn lại của bài thơ theo cô từ
nhà thổ đến những cuộc hôn nhân không hạnh phúc đến những nỗ lực tự tử, và
cuối cùng, trở về nhà. Tác giả nhận thấy cuộc đời của Linh và Thúy Kiều có nét
tương đồng với nhau ở những biến cố.
Bên cạnh đó, theo Leslie Barnes, bộ phim của John Duigan còn có sự gặp
gỡ với Truyện Kiều ở tư tưởng trung tâm: đạo đức về tình dục và sự hy sinh.
Tuy nhiên tác giả cũng nhấn mạnh, tư tưởng của bộ phim vẫn không thể vượt
qua mức độ khái quát của Truyện Kiều bởi lẽ ở tác phẩm của Nguyễn Du đã đặt
ra một câu hỏi lớn hơn về đạo đức (Kiều's experiences open onto broader
ethical questions in The Tale of Kiều).
Một số điểm tương đồng giữa tác phẩm điện ảnh và kiệt tác thơ ca Việt
Nam được tác giả rút ra đó là: Thứ nhất, tác giả nhận thấy được hai tác phẩm
đều có sự kết nối giữa mại dâm với sự mất mát tiềm tàng của gia đình, sự hy
sinh của nhân vật chính không chỉ gắn liền với lý tưởng về lòng hiếu thảo, mà
còn bị kết thúc bởi những tai ương tài chính của người cha. Tuy nhiên, nếu
khoản nợ mà gia đình Kiều phải gánh chịu là do vụ án oan thì những khoản nợ
lờ mờ đối với gia đình Linh lại thuộc loại trần tục hơn. Cha cô không phải là
nạn nhân của tham nhũng, mà là dư thừa: ông đã mất việc và không còn có thể
trả tiền thế chấp. Hơn nữa, chính quyền địa phương cướp ngôi nhà của gia đình
đang gặp rắc rối trong bài thơ Việt Nam được đại diện trong bộ phim của
Duigan bởi một nhân viên ngân hàng người Úc đơn độc, người giả vờ nhân từ
trong khi đe dọa sẽ chiếm lại ngôi nhà. Thứ hai đó là ý thức trách nhiệm đã
114
khiến cả hai nhân vật quyết định thỏa hiệp với đạo đức. Tuy nhiên tác giả cũng
nói thêm rằng ở Truyện Kiều, mặc dù đã cam kết với các nghĩa vụ hiếu thảo của
mình, Kiều đã trở về từ sự bất hạnh của mình chỉ để bị trừng phạt bởi một hệ
thống tư tưởng gia trưởng chỉ quan tâm đến sự nhơ nhớp của Kiều hơn là sự hy
sinh của nàng (Leslie Barnes, 2013). Với hướng tiếp nhận liên văn bản này, tác
giả đã mở ra thêm một cánh cửa để đi vào thế giới nghệ thuật của Truyện Kiều.
Tác phẩm đã không chỉ có ảnh hưởng trong lĩnh vực văn học mà còn có ảnh
hưởng đến nhiều lĩnh vực khác và điện ảnh đang là môi trường hứa hẹn sẽ giúp
cho Truyện Kiều ngày càng được yêu mến hơn. Như Trần Đình Sử đã nhận xét:
“Chỉ cần có căn cứ đầy đủ thì mọi cách đọc đều là những cách mở ra các cánh
cửa chìm của tác phẩm” (Trần Đình Sử, 1999). Đây là một trường hợp tiếp
nhận như thế.
115
Tiểu kết Chương 3
Tóm lại, chúng tôi nhận thấy việc tiếp nhận Truyện Kiều ở các nước châu
Âu đã diễn ra từ rất sớm. Năm 1884, với bản dịch sang tiếng Pháp và cũng là
bản dịch Truyện Kiều sang tiếng nước ngoài đầu tiên đã mở đầu cho hành trình
du nhập của một tác phẩm nơi Á Đông xa xôi vào Âu châu. Thời gian đầu, các
nhà nghiên cứu chủ yếu tập trung vào việc dịch thuật với số lượng bản dịch rất
nhiều, riêng nước Pháp đã có 15 bản dịch. Các nhà nghiên cứu ở châu Âu đã
nhìn nhận Truyện Kiều như một kiệt tác tiêu biểu của phương Đông, từ đó
khẳng định vị thế của tác phẩm đối với văn học Việt Nam nói riêng và văn học
thế giới nói chung. Với hướng tiếp nhận từ phương diện nội dung, nghệ thuật
cho đến hướng tiếp nhận từ góc nhìn văn hóa, ngôn ngữ, so sánh, … đã góp
phần rất lớn trong việc khẳng định giá trị của Truyện Kiều cũng như tài năng
của Nguyễn Du.
Đối với quá trình tiếp nhận Truyện Kiều ở châu Mỹ và châu Úc chúng tôi
nhận thấy chỉ với một công trình nghiên cứu thì không đủ sức để khái quát về
tình hình tiếp nhận một tác phẩm ở một quốc gia hay một khu vực, vì thế, trong
phần này, chúng tôi chỉ xin tạm kết luận đối với công trình của Loran Marsan,
Feliz Pita Rodriguez và Leslie Barnes. Các công trình này đã cung cấp cho
chúng ta một hướng tiếp cận mới về Truyện Kiều của Nguyễn Du, đó là hướng
nghiên cứu phê bình nữ quyền, nghiên cứu liên văn bản cũng như mối liên hệ
giữa văn học và điện ảnh. Đây là xu hướng nghiên cứu văn học được nhiều nhà
nghiên cứu văn học trên thế giới quan tâm trong những năm gần đây. Hướng
tiếp cận này đã góp phần khẳng định sức ảnh hưởng của Truyện Kiều đã vượt ra
khỏi biên giới lĩnh vực văn học. Qua đó càng chứng minh sức sống tiềm tàng
của Truyện Kiều vẫn luôn mạnh mẽ dù có được soi rọi bởi những góc nhìn của
con người hiện đại với những lí thuyết phê bình mới.
Vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở các nước châu Mỹ và châu Úc tuy chưa có
nhiều công trình được công bố và giới thiệu ở Việt Nam nhưng thông qua một
116
số công trình đã được trình bày ở trên, chúng ta vẫn thấy được sự quan tâm đặc
biệt của các nhà nghiên cứu đối với kiệt tác văn học của Việt Nam, đặc biệt
Truyện Kiều đã được chọn để giảng dạy tại các trường đại học ở Mỹ đã thể hiện
được sức ảnh hưởng của tác phẩm đang ngày càng lan rộng khắp thế giới và
hứa hẹn sẽ còn nhiều công trình nghiên cứu sớm được thực hiện.
117
KẾT LUẬN
Như vậy, vấn đề tiếp nhận văn học đang trở thành một hướng nghiên cứu
phổ biến trong những năm gần đây. Tiếp nhận văn học đã góp phần mở ra nhiều
con đường để tiếp cận tác phẩm hơn. Các nhà nghiên cứu trên thế giới đều nhận
thấy rằng tiếp nhận văn học có ý nghĩa rất quan trọng và quyết định sự sống còn
của tác phẩm. Thực tế cho thấy một tác phẩm có tồn tại hay không tồn tại phụ
thuộc vào việc nó có để lại được dấu ấn trong lòng công chúng hay không. Với
những khái quát về lí thuyết tiếp nhận ở Chương 1, chúng tôi mong muốn giới
thiệu những đặc điểm cơ bản của lí thuyết này. Ở đây, chúng tôi đặc biệt nhấn
mạnh vai trò của tiếp nhận văn học trong việc tìm hiểu những tác phẩm văn học
trong quá khứ. Nó đã góp thêm nhiều góc nhìn mới mẻ cho những tác phẩm
này. Và những tác phẩm kinh điển có giá trị cao sẽ còn tồn tại và đáp ứng mọi
yêu cầu của công chúng ỏ bất kì thời điểm nào. Truyện Kiều của Nguyễn Du là
một trường hợp như thế. Gần đây, các nhà nghiên cứu ở Việt Nam bắt đầu quan
tâm đến lí thuyết tiếp nhận và vận dụng nó vào nhiều công trình nghiên cứu. Và
tất nhiên, tác phẩm được xem như kiệt tác của văn học trung đại Việt Nam –
Truyện Kiều cũng được khảo sát về việc tiếp nhận của công chúng qua nhiều
giai đoạn. Các nhà nghiên cứu đều nhận thấy Truyện Kiều có một đời sống vô
cùng phong phú không chỉ ở trong nước mà còn được công chúng trên thế giới
quan tâm rất nhiều. Và việc nghiên cứu vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều trên thế
giới đã góp phần giúp ta hiểu hơn về giá trị lớn lao của tác phẩm. Về lịch sử của
vấn đề này, chúng tôi nhận thấy các công trình của những người đi trước chỉ
dừng lại ở việc khảo sát tình hình tiếp nhận Truyện Kiều ở một quốc gia, một
khu vực, một trường hợp tiếp nhận cụ thể hoặc chỉ khái lược tình hình tiếp nhận
Truyện Kiều trên thế giới nhưng chỉ điểm qua về việc dịch thuật và một số công
trình nghiên cứu ở các nước. Trên cơ sở đó, luận văn đã khái quát tình hình tiếp
nhận Truyện Kiều của giới nghiên cứu văn học trên thế giới, phân tích một số
118
công trình nghiên cứu nổi bật từ đó khái quát thành những xu hướng chính
trong việc tiếp nhận Truyện Kiều trên thế giới.
Đối với khu vực châu Á, vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều diễn ra rất sôi nổi,
đặc biệt là ở Trung Quốc. Nhận thấy số lượng phong phú các công trình nghiên
cứu cùng đông đảo các nhà nghiên cứu, phê bình văn học với các xu hướng
nghiên cứu có sự khác biệt nhất định so với châu Âu, châu Mỹ và châu Úc nên
chúng tôi đã dành một chương để trình bày vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều ở
châu Á. Các xu hướng tiếp nhận ở các nước châu Á tập trung vào các vấn đề
sau: khảo cứu về nguồn gốc của tác phẩm, so sánh tác phẩm với nguyên tác, so
sánh tác phẩm với các tác phẩm có cùng chủ đề ở các nước, nghiên cứu về tư
tưởng nhân đạo của tác phẩm, khái quát tình hình dịch thuật và nghiên cứu ở
các nước, văn hóa học,… Thông qua các hướng nghiên cứu này, các nhà nghiên
cứu ở các nước đã có những nhận xét, đánh giá Truyện Kiều của Nguyễn Du từ
nhiều quan điểm khác nhau, tán dương có, phê phán cũng có. Tiêu biểu là
những cuộc tranh luận của giới nghiên cứu ở Trung Quốc với hai quan điểm đối
nghịch nhau của Đổng Văn Thành với Lưu Thế Đức và Lý Tu Chương. Tuy
nhiên, đa số các nhà nghiên cứu Trung Quốc đã có cái nhìn khách quan, gạt bỏ
qua những định kiến để chứng minh giá trị vượt bậc của Truyện Kiều cũng như
vị thế của tác phẩm này trên văn đàn thế giới so với nguyên tác. Giới nghiên
cứu ở Đài Loan, Nhật Bản, Hàn Quốc đều có những công trình công nhận tài
năng của Nguyễn Du cũng như giá trị về nội dung và nghệ thuật của Truyện
Kiều. Truyện Kiều cũng đã được đưa vào giảng dạy ở một số trường học ở các
nước. Đối với khu vực Đông Nam Á, tuy gần gũi nhau về mặt địa lý nhưng cho
đến nay vẫn chúng tôi vẫn chưa tìm thấy nhiều công trình nghiên cứu về Truyện
Kiều. Tuy nhiên, Truyện Kiều cũng đã được dịch sang các nước như Lào, Thái
Lan nên chúng ta có thể tin tưởng rằng trong tương lai không xa, với sức ảnh
hưởng của Truyện Kiều, giới nghiên cứu ở Đông Nam Á sẽ sớm có nhiều công
trình nghiên cứu hơn. Từ thực tế đó đã góp phần tạo nên một bức tranh tiếp
119
nhận Truyện Kiều vô cùng sinh động và phong phú. Từ đó cho thấy sức ảnh
hưởng của Truyện Kiều đang ngày càng được lan rộng hơn.
Đối với khu vực châu Âu, châu Mỹ và châu Úc, việc nghiên cứu và phê
bình Truyện Kiều cũng diễn ra sôi nổi không kém. Bằng chứng là bản dịch sang
tiếng nước đầu tiên của Truyện Kiều đó là tiếng Pháp. Nước Pháp cũng là quốc
gia đầu tiên mà Truyện Kiều đặt chân đến trong hành trình vươn mình ra thế
giới. Đã có rất nhiều công trình giới thiệu về Nguyễn Du và Truyện Kiều được
công bố ở Pháp, Đức, Nga. Với những công trình này, các tác giả đều có cùng
quan điểm cho rằng Truyện Kiều là kiệt tác bậc nhất của văn học Việt Nam và
là đại diện tiêu biểu cho văn hóa Á Đông. Bên cạnh đó là các xu hướng nghiên
cứu mới như văn hóa học, phê bình nữ quyền, liên văn bản, … Tuy có nhiều
cách biệt về địa lí cũng như khác biệt về văn hóa những giới nghiên cứu ở châu
Âu, châu Mỹ và châu Úc đều cố gắng khám phá những nét đặc sắc của một tác
phẩm nơi Á Đông xa xôi. Các nhà nghiên cứu ở những khu vực này đều đánh
giá cao về giá trị nội dung và nghệ thuật của Truyện Kiều cũng như tư tưởng
nhân đạo cao cả của Nguyễn Du. Tuy ở châu Mỹ và châu Úc chúng tôi chưa tìm
thấy nhiều công trình nghiên cứu về Truyện Kiều nhưng chúng tôi nhận thấy
chắc chắn ở đâu đó vẫn có những nhà nghiên cứu quan tâm đến Truyện Kiều
của Việt Nam. Do đó, chúng đặt một niềm tin rằng trong thời gian sắp tới,
những nơi này sẽ là những môi trường dịch thuật và nghiên cứu Truyện Kiều
với nhiều góc nhìn mới mẻ.
Như vậy, việc nghiên cứu Truyện Kiều giữa các nước thuộc khu vực châu
Á có nhiều nét tương đồng với nhau và với các nhà nghiên cứu tại Việt Nam do
có sự gần gũi nhau về khoảng cách địa lí và có nhiều nét tương đồng về văn
hóa. Còn việc nghiên cứu Truyện Kiều ở các khu vực châu Âu, châu Mỹ và
châu Úc lại tập trung khai thác những góc nhìn mới, vận dụng những lí thuyết
mới vào việc khám phá tác phẩm của Việt Nam.
120
Thông qua những kết quả nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi càng có
cơ sở hơn để khẳng định về sức sống mãnh liệt của Truyện Kiều dù có trải qua
bao nhiêu “cuộc bể dâu” trong suốt chiều dài lịch sử. Truyện Kiều của Nguyễn
Du không chỉ được nghiên cứu trong nước mà đã trở thành đề tài bàn luận sôi
nổi trên thế giới. Qua đó chúng ta càng thêm tự hào về nền văn học nước nhà có
thể sánh vai cùng các nước khắp năm châu.
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy vẫn còn một số công
trình nghiên cứu Truyện Kiều ở các nước chưa được tìm thấy hoặc chưa có bản
dịch sang tiếng Việt. Do đó, chắc chắn bức tranh về vấn đề tiếp nhận Truyện
Kiều trên thế giới vẫn chưa thể hoàn thiện và đòi hỏi phải được tiếp tục nghiên
cứu. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn này, chúng tôi chỉ trình bày về vấn
đề tiếp nhận Truyện Kiều của giới nghiên cứu, phê bình văn học. Vấn đề tiếp
nhận Truyện Kiều của các loại người đọc khác trên thế giới vẫn là vấn đề chưa
có nhiều người nghiên cứu. Bên cạnh đó, vấn đề đánh giá các bản dịch Truyện
Kiều sang các ngôn ngữ khác trên thế giới cũng cần có sự quan tâm nhiều hơn
của giới nghiên cứu ở Việt Nam. Trên đây là một số định hướng nghiên cứu tiếp
theo của luận văn này.
121
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bùi Mạnh Nhị. (2018). Truyện Kiều trong diễn văn của các tổng thống Mỹ.
Nguồn:http://www.hcmup.edu.vn/index.php?option=com_content&view
=article&id=24685%3A2018-09-22-06-43-41&catid=119%3Avan-hoc-v
iet-nam&Itemid=7201&lang = zh&site = 30
Bùi Thanh Hiền. (2013). Tiếp nhận văn học từ góc độ mĩ học - một hướng
nghiên cứu cần thiết. nhiều triển vọng. Tạp chí khoa học ĐHSP số 49 năm
2013. Nguồn: http:// www.vjol.info/ index.php/ sphcm/article/ viewFile/
11243/10218)
Bùi Thị Thúy Phương, Nguyễn Thị Diệu Linh. (2015). Tình hình nghiên cứu
Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều (Nguyễn Du)
của giới học thuật Trung Quốc. In trong Đại thi hào dân tộc, danh nhân
văn hóa Nguyễn Du. Nxb Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Bùi Thị Thúy Phương. Nguyễn Thị Diệu Linh (2015). Tình hình nghiên cứu
Kim Vân Kiều truyện (Thanh Tâm Tài Nhân) và Truyện Kiều (Nguyễn Du)
của giới học thuật Trung Quốc. Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa
Nguyễn Du. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Chu Huy Sơn. (2013). Phêlích Pita Rôđrighết. Nguồn: http:// vanhien.vn/
news/Phelich-Pita-Rodrighet-39459
Đặng Thai Mai. (1955). Đặc sắc của văn học cổ điển Việt Nam qua nội dung
Truyện Kiều. Tập san Đại học Sư phạm Hà Nội, số 3, tháng 8-9-10-1955.
In lại trong Đặng Thai Mai, Trên đường nghiên cứu và giảng dạy tác
phẩm văn chương. (2002). Hà Nội: Nxb Giáo dục. tr. 316.
Đào Duy Anh. (1974). Từ điển Truyện Kiều. Hà Nội: Nxb Văn hóa thông tin.
Đinh Sĩ Hồng. (2005). Họ Nguyễn Tiên Điền và khu Di tích Nguyễn Du. In
trong Lê Xuân Lít. (2005). Hai trăm năm nghiên cứu – bàn luận Truyện
Kiều. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Giáo dục.
122
Đỗ Văn Hiểu. (2012). Mỹ học tiếp nhận ở Việt Nam. Tạp chí Khoa học và phát
triển công nghệ. ĐHQG TP.HCM. Nguồn: https://
dovanhieu.wordpress.com/ 2014/08/04/mi-hoc-tiep-nhan-o-viet-nam/
Đoàn Lê Giang. (1999). Truyện Kiều và Kim Vân Kiều truyện ở Nhật Bản:
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_conten
t&view=article&id=277:truyn-kiu-va-kim-van-kiu-truyn-nht-bn-&catid=
64:vn-hc-nc-ngoai-va-vn-hc-so-sanh&Itemid=108)
Đoàn Lê Giang. (2015). Các bản dịch Truyện Kiều ở Nhật Bản: đa dạng người
dịch. đa dạng phong cách. Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn
Du. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Đoàn Lê Giang. (2015). Nguyễn Du và những giá trị vượt thời gian. Nguồn:
http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/nghien-cuu/v%C4%83n-h%E1%BB
%8Dc-vi%E1%BB%87t-nam/6156-nguyen-du-va-nhung-gia-tri-vuot-th
oi-gian.html
Đoàn Lê Giang, Huỳnh Như Phương. (2015). Đại thi hào dân tộc, danh nhân
văn hóa Nguyễn Du. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Đoàn Lê Giang (2016). Bước đầu so sánh Kim ngư truyện của K. Bakin và
Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tạp chí Nghiên cứu văn học số 1/2016.
Đoàn Lê Giang. (2017). Truyện Kiều: Thế giới của lời thề (dịch và nghiên
cứu Truyện Kiều ở Nhật Bản gần đây). Nguồn:
http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung
-goc-nhin-van-hoa/truyen-kieu-the-gioi-cua-loi-the-dich-va-nghien-cuu-t
ruyen-kieu-o-nhat-ban-gan-day
Đoàn Lê Giang. (2018). Nghiên cứu, giới thiệu văn học Việt Nam ở Nhật Bản.
Nguồn: http:// www.vns.edu.vn/index.php/vi/ nghien-cuu/
van-hoa-viet-nam/732-nghien-cuu-gioi-thieu-van-hoc-viet-nam-o-nhat-b
an
123
Hồ Thế Hà. (2014). Mối quan hệ tương tác trong sáng tạo và tiếp nhận văn học.
Nguồn: http://www.qdnd.vn/ van-hoa-giao-duc/ doi-song-van-hoa/
moi-quan-he-tuong-tac-trong-sang-tao-va-tiep-nhan-van-hoc-414364
Hoài Nam. (2008). Cái nhỏ có sẵn trong mục đích. Nguồn:
http://daibieunhandan.vn/ONA_BDT/NewsPrint.aspx?newsId=52831
Hoài Thanh. (1942). Thi nhân Việt Nam. Hà Nội: Nxb Văn học in lại năm 2005.
Hoàng Ngọc Hiến. (1979). Về một đặc điểm của văn học và nghệ thuật ở ta
trong giai đoạn vừa qua. Nguồn: https://phebinhvanhoc.com.vn/
ve-mot-dac-diem-cua-van-hoc-va-nghe-thuat-o-ta-trong-giai-doan-vua-
qua/
Hoàng Phong Tuấn. (2013). Một số điểm chính trong lý thuyết tiếp nhận của
Wolfgang Iser. Nguồn: https:// phebinhvanhoc.com.vn/
mot-so-diem-chinh-trong-ly-thuyet-tiep-nhan-cua-wolfgang-iser/
Hoàng Phong Tuấn. (2017). Văn học – Người đọc – Định chế. tiếp nhận văn
học: giới thiệu lý thuyết. nghiên cứu và dịch thuật. Hà Nội: Nxb Khoa học
xã hội.
Hoàng Thúy Toàn. (2003). Dịch văn học Việt Nam: Những người dịch Truyện
Kiều (Nguyễn Du) và những người dịch Nhật ký trong tù (Hồ Chí Minh).
In trong Kỷ yếu cuộc gặp gỡ quốc tế lần thứ nhất những người dịch văn
họcViệt Nam. Hà Nội.
Huỳnh Phan Anh. (1972). Đi tìm tác phẩm văn chương. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nxb Đồng Tháp.
Huỳnh Sanh Thông (translated). (1979). The tale of Kieu (by Nguyen Du).
Historical background by Alexander B. Woodside. Preface by Gloria
Emerson. Yale University Press. New Haven and London.
Huỳnh Vân. (2016). Lịch sử tiếp nhận các tác phẩm văn học. Tạp chí khoa
học Đại học Sài Gòn. số 21(46). tháng 10/2016. Dịch từ sách
124
“Rezeptionsaesthetik – Theorie und Praxis”. Rainer Warning chủ biên.
NXB. Wilhelm Fink. Muenchen 1975.
Huỳnh Vân. (2016). Lịch sử tiếp nhận các tác phẩm văn học. Dịch từ sách
“Rezeptionsaesthetik – Theorie und Praxis”. Rainer Warning chủ biên.
Nxb. Wilhelm Fink. Muenchen 1975. Nguồn: Tạp chí khoa học Đại học
Sài Gòn số 21(46) tháng 10/2016.
John Swensson. (1998). Vietnam's Epic National Poem “Truyen Kieu” (Bài
thơ của Việt Nam - Truyện Kiều). Nguồn: https://www.deanza.edu/
faculty/swenssonjohn/kieu/index.html
Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi. (1996). Từ điển thuật ngữ văn
học. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Lê Cao Phan. (2012). Người đã dịch Truyện Kiều sang ba thứ tiếng Pháp. Anh
và Esperanto. trang web của Quốc tế ngữ. ra ngày 21/12/2012. Nguồn:
http://vea.vn/view/1606_--le-cao-phan-nguoi-da-dich-truyen-kieu-sang-3
-thu-tieng-phap-anh-va-esperanto.htm
Lê Hường. (2016). Độc đáo Truyện Kiều bằng tiếng Rumani. Nguồn:
https://ngaynay.vn/van-hoa/doc-dao-truyen-kieu-bang-tieng-rumani-254
2.html
Lê Thu Yến. (2001). Nguyễn Du và Truyện Kiều trong cảm hứng thơ người đời
sau. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Giáo dục.
Lê Thu Yến. (2015). Hành trình Nguyễn Du và Truyện Kiều đến với thế giới. In
trong Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Nxb Đại học
Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Lê Văn Hỷ. (2012). Lý thuyết tiếp nhận văn học tại Việt Nam. Tạp chí Khoa
học xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. Số 06 (166) – 2012. trang 29-37.
Nguồn: http:// vannghiep.vn/ ly-thuyet-tiep-nhan- van-hoc-tai-viet-nam-
mot-cai-nhin-chung.
125
Lê Xuân Lít. (2005). Hai trăm năm nghiên cứu – bàn luận Truyện Kiều. Thành
phố Hồ Chí Minh: Nxb Giáo dục.
Loran Marsan. (2006). Creating New Spaces in Third Cinema: Trinh T.
Minh-Ha Rewrites the Narrative of Nationalism With Love. Nguồn:
http://refractory.unimelb.edu.au/2006/07/04/creating-new-spaces-in-third-
cinema-trinh-t-minh-ha-rewrites-the-narrative-of-nationalism-with-love-l
oran-marsan/
Lưu Khánh Thơ. (2012). GS. TS. N. I. Niculin - Nửa thế kỷ đồng hành với văn
học Việt Nam. Nguồn: http:// www.daibieunhandan.vn/
ONA_BDT/NewsPrint.aspx?newsId=263004
Mai Quốc Liên. (2015). Kiều học tinh hoa. Nxb Văn học. Hà Nội.
Maurice Durand. (2017). “Tranh dân gian Việt Nam sưu tầm và nghiên cứu”.
Nguyễn Thị Hiệp dịch. Nguồn: https://www.academia.edu/
36493105/M.Durand-Tranh_Da_n_Gian_Vie_t_Nam-O.Tessier_Nguyen
_Thi_Hiep_M._Durand_Ph._Papin
Nguyễn Đình Chú. (2015). Lại nói về cội nguồn của họ Nguyễn Tiên Điền. Tạp
chí Sông Hương. Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn
/tin-tuc/p2/c14/n21871/Lai-noi-ve-coi-nguon-cua-ho-Nguyen-Tien-Dien.
html
Nguyễn Đỗ An Nhiên. (2015). Kyokutei Bakin. Kim ngư truyện và các tác
phẩm của ông. Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Thành
phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Nguyễn Đức Trinh. (1958). Truyện Kiều với người ngoại quốc. Tạp chí Văn
hóa Á châu. Sài Gòn. số 2. 5-1958.
Nguyễn Hoàng. (2016). Đưa nàng Kiều trở lại nước Đức. Nguồn:
https://dulich.dantri.com.vn/kieu-bao/dua-nang-kieu-tro-lai-nuoc-duc-20
160309103352275.htm
126
Nguyễn Huệ Chi. (2013). Trở lại câu chuyện so sánh Kim Vân Kiều truyện
với Truyện Kiều của ông Đổng Văn Thành. In trong Văn học Cổ cận đại
Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật. Thành phố Hồ
Chí Minh: Nxb Giáo dục.
Nguyễn Hưng Quốc. (2015). Mục tiêu của phê bình.
https://www.voatiengviet.com/a/muc-tieu-cua-phe-binh/2685563.html
Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu). (2015). Truyện Kiều – so sánh và
luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Nguyễn Hữu Sơn. (2015). Với Kim Văn Kiều Truyện của ông Đồng Văn Thành.
Nguồn: http:// www.vanhoanghean.com.vn/
chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/voi-kim-van-ki
eu-truyen-cua-ong-dong-van-thanh
Nguyễn Hữu Sơn. (?). Nhà Việt học N. I. Niculin và nửa thế kỷ đồng hành
cùng văn học Việt Nam. Nguồn: http://nguoibienden.org.vn/
trang-chu/gioi-thieu-tac-gia-tac-pham/op=detail&maa=916
Nguyễn Huy Hoàng. (2015). Lời nói đầu Truyện Kiều bản tiếng Nga - tiếng
Việt. Nguồn: https://hoingovanchuong.wordpress.com/
2015/11/03/ra-mat-truyen-kieu-ban-tieng-nga-tieng-viet/
Nguyễn Huy Hoàng. (2015). Truyện Kiều ở Nga. Nguồn:
http://vovworld.vn/vi-VN/tap-chi-van-nghe/truyen-kieu-o-nuoc-nga-361
093.vov
Nguyễn Nam. (1994). “The take of Kieu” and its Heroine as lotus in the mire:
some reflection upon Charles E. Benoit. Jrs Dissertation – The evolution
of the Wang Cuiqiao tale from historical event in China to liberary
masterpiece in Viet Nam. Tập san Khoa học Đại học Tổng hợp. Thành
phố Hồ Chí Minh (số 1).
Nguyễn Nam. (2016). Những thẩm định mới về Kim Vân Kiều truyện của
Thanh Tâm Tài Nhân. Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/
127
chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/nhung-tham-din
h-moi-ve-kim-van-kieu-truyen-cua-thanh-tam-tai-nhan
Nguyễn Ngọc Thiện. (2011). Vấn đề người đọc - Tiếp nhận trong lý luận tiểu
thuyết ở Việt Nam từ nửa sau thế kỷ XX cho đến nay. Nguồn:
http://toquoc.vn/van-de-nguoi-doc-tiep-nhan-trong-ly-luan-tieu-thuyet-o-
viet-nam-tu-nua-sau-tk-xx-cho-den-nay-2-99105947.htm
Nguyễn Thanh Tâm. (2012). Thời sự văn học: Một số hiện tượng văn học nổi
bật thời kỳ đổi mới. Nguồn: https:// vanchuongplusvn.blogspot.com/
2012/11/nguyen-thanh-tam-mot-so-hien-tuong-van.html
Nguyễn Thị Diệu Linh, Nguyễn Thanh Tùng. (2015). Đọc “Kim Vân Kiều
truyện: Dịch thuật và nghiên cứu” của Triệu Ngọc Lan. In trong Đại thi
hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Nxb Đại học Quốc gia Thành
phố Hồ Chí Minh.
Nguyễn Thị Diệu Linh. Nguyễn Thanh Tùng. (2015). Đọc “Kim Vân Kiều
truyện: dịch thuật và nghiên cứu” của Triệu Ngọc Lan. In trong Đại thi
hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Thành phố Hồ Chí Minh:
Nxb Đại học Quốc gia.
Nguyễn Thị Mai Phương. (2007). Tổng thuật tình hình nghiên cứu Truyện Kiều
tại Trung Quốc giai đoạn 2000-2007. Truyện Kiều – so sánh và luận bình.
Hà Nội: Nxb Văn học.
Nguyễn Thị Ngọc Bích. (2014). “Thế giới truyện Nôm” của Maurice Durand.
Nguồn: http://cothommagazine.com/CoThompdf/CT66/CT66D.pdf
Nguyễn Thị Ngọc Bích. (2014). Thế giới truyện Nôm của Maurice Durand.
Nguồn: http://cothommagazine.com/CoThompdf/CT66/CT66D.pdf
Nguyễn Văn Hoàn. (1965). Nhân dân thế giới kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà
thơ Nguyễn Du của chúng ta. Nguồn: http://www.nguyendu.com.vn
vi/nhan-dan-the-gioi-ky-niem-200-nam-nam-sinh-nha-tho-nguyen-du-cu
a-chung-ta-33F12831AD0A5AA58A9F99E66805317B.html
128
Nguyễn Văn Hoàn. (2013). Những bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh. Tạp
chí Hồn Việt số 76 (tháng 12-2013).
Nguyễn Văn Hoàn. (2014). Gặp Vladislav Zhukov. người Úc. tác giả bản dịch
nổi tiếng về Truyện Kiều sang tiếng Anh. Tạp chí Hồn Việt số 83. 7/2014.
tr. 46.
Phạm Quang Trung. (2013). Lý thuyết tiếp nhận: không chỉ là vấn đền học
thuật. Nguồn: https:// www.vanchuongviet.org/ index.php?
comp=tacpham&action=detail&id=20124
Phạm Quang Trung. (2013). Thực chất của tiếp nhận văn chương. Nguồn:
https://sites.google.com/site/pqtrungdlu/tac-pham-moi/thc-cht-ca-tip-nhn
-vn-chng
Phạm Tú Châu. (1997). Sóng gió bất kì từ một bản dịch. Tạp chí Văn học nước
ngoài. số 5-1997. tr.222-230. In lại trong Hai trăm năm nghiên cứu bàn
luận Truyện Kiều. Hà Nội: Nxb Giáo dục.
Phạm Tú Châu. (2015). Nghiên cứu bước đầu bản dịch Truyện Kiều sang
Trung văn của Kỳ Quảng Mưu. In trong Đại thi hào dân tộc. danh nhân
văn hóa Nguyễn Du. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Phạm Tú Châu. (2015). Bàn về dịch Truyện Kiều của đại thi hào Nguyễn Du ra
Trung văn. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb
Văn học.
Phạm Vĩnh Cư. (2012). Vấn đề nội dung. chất liệu và hình thức trong sáng tạo
nghệ thuật ngôn từ. Dịch từ bản tiếng Nga: M. Bakhtin. (1975). Các vấn
đề văn học và mỹ học (Voprosy literatury i estetiki). Moscow. Nguồn:
https://phebinhvanhoc.com.vn/van-de-noi-dung-chat-lieu-va-hinh-thuc-tr
ong-sang-tao-nghe-thuat-ngon-tu-1-2/
Phan Huy Đông. (2015). Giai thoại Tổ nội - Tổ ngoại của Đại thi hào Nguyễn
Du. Hà Nội: Nxb Thông tin và Truyền thông.
129
Phan Thu Vân. (2015). Nghiên cứu của học giả Trung Quốc. lãnh thổ Đài Loan
về Truyện Kiều trong 10 năm trở lại đây. In trong Đại thi hào dân tộc,
danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học
Quốc gia.
Phong Lê. (2011). Nếu có một Hội Kiều học. Bài viết nhân Đại hội Hội Kiều
học Việt Nam tổ chức tại Hà Nội ngày 3/11/2011.
Phương Lựu. (2002). Lý luận văn học. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb Đại học
Sư phạm.
Phương Thúy. (2015). Dịch Truyện Kiều và câu chuyện của chàng trai trẻ
người Séc. Nguồn: https:// vov.vn/ van-hoa/van-hoc/
dich-truyen-kieu-va-cau-chuyen-cua-chang-trai-tre-nguoi-sec-422174.
vov
Tạp chí Quê hương. (2008). Nguyễn Du và kiệt tác Truyện Kiều. Nguồn:
http://quehuongonline.vn/con-nguoi-viet-nam/nguyen-du-va-kiet-tac-tru
yen-kieu-6523.htm
Trần Đình Sử. (1998). Truyện Kiều và văn hóa Trung Quốc. Nguồn:
https://phebinhvanhoc.com.vn/truyen-kieu-va-van-hoa-trung-quoc/
Trần Đình Sử. (1999). Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học. Tạp chí Sông
Hương. số 124. 6/1999. Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/
tap-chi/c193/n4283/Ly-thuyet-tiep-nhan-va-phe-binh-van-hoc.html.
Trần Đình Sử. (1999). Lý thuyết tiếp nhận và phê bình văn học. Tạp chí Sông
Hương. số 124. 6/1999. Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/
tap-chi/c193/n4283/Ly-thuyet-tiep-nhan-va-phe-binh-van-hoc.html
Trần Đình Sử. (2002). Thi pháp Truyện Kiều. Thành phố Hồ Chí Minh: Nxb
Giáo dục (tái bản).
Trần Đình Sử. (2015). Địa vị lịch sử của thi hào Nguyễn Du trong văn học Việt
Nam. Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/ chuyen-muc-goc-
130
nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/dia-vi-lich-su-cua-thi-hao-nguye
n-du-trong-van-hoc-viet-nam
Trần Lê Hoa Tranh. (2015). Tìm hiểu các bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh.
Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nxb Đại học Quốc gia.
Trần Lê Hoa Tranh. (2016). Tìm hiểu các bản dịch Truyện Kiều sang tiếng Anh.
Nguồn: http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/ nghien-cuu/
ket-noi-van-hoa-viet/6543-t%C3%ACm-hi%E1%BB%83u-c%C3%A1c-
b%E1%BA%A3n-d%E1%BB%8Bch-truy%E1%BB%87n-ki%E1%BB
%81u-sang-ti%E1%BA%BFng-anh.html
Trần Nho Thìn. (2015). Các vấn đề tiếp nhận Truyện Kiều qua lịch sử tiếp nhận
hai thế kỷ. Nguồn: http://www.vanhoanghean.com.vn/
chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/cac-van-de-cua-
truyen-kieu-qua-lich-su-tiep-nhan-hai-the-ky
Trần Thị Phương Phương. (2015). Cốt truyện lưu chuyển trong văn học cổ điển
(so sánh trường hợp Truyện Kiều của Nguyễn Du và Le Cide của Pierre
Corneille). Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Thành phố
Hồ Chí Minh: Nxb Đại học Quốc gia,
Trịnh Bá Dĩnh. (2002). Nguyễn Du về tác gia và tác phẩm. Thành phố Hồ Chí
Minh: Nxb Giáo dục.
Trịnh Thị Thanh Huyền. (2012). Một số đặc điểm của Truyện Kiều dưới cái
nhìn của một người Pháp: Qua bài viết “Truyện Kiều và xã hội Á Đông”
của René Crayssac. Luận văn thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn. Hà Nội.
TTXVN. (2002). Nghiên cứu Nguyễn Du và Truyện Kiều ở Thái Lan.
Nguồn: https:// vnexpress.net/ giai-tri/ nghien-cuu-nguyen-du-va-
truyen-kieu-o-thai-lan-1875829.html
131
Từ Thị Loan. (2008). Nguyễn Du và Truyện Kiều ở nước ngoài. Nghiên cứu
Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ XXI (Nguyễn Xuân Lam sưu tầm.
tuyển chọn). Hà Nội: Nxb Giáo dục. Tr.1251.
Wang Xiaolin. (2011). Nguyễn Đình Phức dịch. Bàn về việc tiếp biến văn hóa
Trung Quốc trong Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam. Nguồn:
http://www.khoavanhoc-ngonngu.edu.vn/home/index.php?option=com_
content&view=article&id=2343:ban-v-vic-tip-bin-vn-hoa-trung-quc-tron
g-kim-van-kiu-truyn-ca-vit-nam-&catid=121:ht-vit-nam-trung-quc-nhng
-quan-h-vn-hoa-vn&Itemid=187
Xuân Diệu. (2001). Con người Nguyễn Du trong thơ chữ Hán. Trích trong
“Toàn tập Xuân Diệu - tập 6”. Nxb Văn học. Nguồn:
http://vanvn.net/ong-kinh-phe-binh/con-nguoi-nguyen-du-trong-tho-chu-
han/123\
PL1
PHỤ LỤC
1. Mục đích xây dựng phụ lục
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy Truyện Kiều đã được rất
nhiều nhà nghiên cứu, phê bình văn học trên thế giới quan tâm và nghiên cứu.
Tuy nhiên trong phạm vi của luận văn này, chúng tôi chỉ chọn những công trình
tiêu biểu để nghiên cứu. Do đó, chúng tôi nhận thấy cần phải có một danh mục
hệ thống các công trình tiếp nhận Truyện Kiều của các nhà nghiên cứu tiêu biểu
ở các khu vực được chúng tôi sử dụng để người đọc dễ dàng tìm kiếm. Vì vậy,
nhằm góp phần minh họa cụ thể, hệ thống và chặt chẽ cho các vấn đề triển khai
nghiên cứu, chúng tôi tiến hành xây dựng phụ lục.
2. Nội dung phụ lục
Danh mục các công trình nghiên cứu Truyện Kiều trên thế giới được sử
dụng trong luận văn
PL2
PHỤ LỤC: DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU
TRUYỆN KIỀU TRÊN THẾ GIỚI ĐƯỢC SỬ DỤNG TRONG
LUẬN VĂN
1. Các công trình nghiên cứu Truyện Kiều ở châu Á
Trung Quốc
Chu Duy Tri. (1988). Văn học sử nước ngoài (quyển Châu Á và Châu Phi). Nxb
Đại học Nam Khai.
Đổng Văn Thành. (1986). Phạm Tú Châu dịch. So sánh truyện Kim Vân Kiều
Trung Quốc và Việt Nam. In lại trong Truyện Kiều – so sánh và luận bình.
Hà Nội: Nxb Văn học.
Đổng Văn Thành. (1994). Thanh đại Việt Nam luận cảo. Thẩm Dương: Nxb
Xuân Phong văn nghệ.
Đổng Văn Thành. (1999), Kim Vân Kiều truyện. Nxb Xuân Phong văn nghệ.
Hà Kim Lan. (2007). Phạm Thị Hảo dịch. (2008). Từ các khái niệm “tính khả
độc”, “tính khả tả”, “tính khả truyền” thử tìm hiểu hai tác phẩm Kim
Vân Kiều truyện và Đoạn trường tân thanh. In lại trong Truyện Kiều - so
sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Hoàng Dật Cầu. (1958). “Nhà thơ Nguyễn Du và kiệt tác của Truyện Kiều”.
Học báo trường Đại học Hoa Nam.
Hoàng Dật Cầu. (1959). Vài lời sau khi dịch. In trong Kim Vân Kiều truyện.
Bắc Kinh: Nxb Văn học Nhân dân Bắc Kinh.
Kỳ Quảng Mưu. (?). Phạm Tú Châu dịch. (2015). Bàn về thành tựu nghệ thuật
truyện Kim Vân Kiều của Nguyễn Du. In trong Dịch và nghiên cứu Kim
Vân Kiều lục. Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học xã hội. In lại trong Truyện
Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Lã Vĩnh. (1997). (Phạm Tú Châu dịch). Thành tựu nghệ thuật và ý nghĩa hiện
thực của hai truyện Kim Vân Kiều Trung Quốc và Việt Nam. Tạp chí Đại
PL3
học Tương Đàm, số Khoa học xã hội triết học. In trong Dịch và nghiên
cứu Kim Vân Kiều lục. (2015). Nxb Khoa học xã hội. TP.HCM.
Lâm Minh Hoa. (?) (Phạm Tú Châu dịch). (2015). Kim Vân Kiều truyện - Từ
tiểu thuyết Trung Quốc đến truyện Nôm Việt Nam. Dịch và nghiên cứu
Kim Vân Kiều lục. Hồ Chí Minh: Nxb Khoa học xã hội. In lại trong
Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Lô Úy Thu, Triệu Ngọc Lan. (1984). Giới thiệu văn học Việt Nam. Tạp chí
văn học nước ngoài (số 1).
Lô Úy Thu. (1987). Tiểu thuyết thông tục Trung Quốc ở Việt Nam. Tập luận
văn văn học so sánh phương Đông (tr. 286). Hồ Nam: Nxb Văn Nghệ.
Lưu Thế Đức, Lý Tu Chương. (1965). Cao Hữu Lạng dịch. (2001). Nguyễn
Du - nhà thơ kiệt xuất Việt Nam và Truyện Kiều của ông. In lại trong
Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Lưu Chí Cường. (2015). Nghiên cứu Truyện Kiều và Nguyễn Du tại Trung
Quốc: Lịch sử, hiện trạng và triển vọng. Tham luận Hội thảo “Đại thi hào
dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới Nguyễn Du: Di sản và các giá trị
xuyên thời đại”. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội:
Nxb Văn học.
Lý Quần. (2001). Kim Vân Kiều truyện: từ tiểu thuyết Trung Quốc đến danh
tác Việt Nam. Tạp chí Học viện dân tộc Quảng Tây (số chuyên đề Khoa
học xã hội nhân văn số 6).
Lý Quần. (2011). Ngọn bút kỳ diệu của Nguyễn Du. Trích trong Kim Vân Kiều
truyện - từ tiểu thuyết Trung Quốc đến danh tác Việt Nam. Chuyên tập
Khoa học xã hội nhân văn tháng 6/2011. In lại trong Truyện Kiều - so
sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Nguyễn Thạch Giang (Việt Nam), Triệu Ngọc Lan, Lô Úy Thu (Trung Quốc).
(1993). Một số nhận xét về Kim Vân Kiều truyện với Đoạn Trường Tân
PL4
Thanh. Tạp chí Sông Hương. Số 2 – 1994. In lại trong Truyện Kiều - so
sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Triệu Ngọc Lan. (2005). Truyện Kiều - tác phẩm kinh điển của sự hòa quyện
văn hóa Trung - Việt. In trong tạp chí Nghiên cứu văn học số 8- 2005
(tr49-58). In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb
Văn học.
Triệu Ngọc Lan. (2013). Phân tích thi học văn hóa Kim Vân Kiều truyện và
Chinh phụ ngâm khúc. Nxb Đại học Bắc Kinh.
Trương Huy. (1997). So sánh Kim Vân Kiều truyện Trung - Việt. Tạp chí Trung
Quốc Đông Nam Á nghiên cứu hội thông tấn số 1.
Vương Ngọc Linh. (2004). Vẻ đẹp nữ tính lý tưởng của Trung Quốc – Sự khác
biệt về thẩm mỹ dân tộc qua so sánh Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam
và Trung Quốc. Tạp chí Nghiên cứu tiểu thuyết Minh Thanh số 4.
Wang Xiaolin. (2015). Nguyễn Đình Phức dịch. Bàn về việc tiếp biến văn hóa
Trung Quốc trong Kim Vân Kiều truyện của Việt Nam. Đại thi hào dân
tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Nxb Đại học Quốc gia.
Zhao Yanqiu, Song Yaling. (2015). Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân
Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân kế thừa và biến đổi. Phan Thu
Vân dịch. In lại trong Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn
Du. Nxb Đại học Quốc gia.
Đài Loan
K.C. Leung. (2003). Nguyễn Nam lược dịch. Chu trình diễn hóa của Kiều: Lại
bàn về kế thừa và sáng tạo. Tạp chí Văn học. Số 9 – 2003. In lại trong
Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Trần Ích Nguyên. (1958). Phạm Tú Châu dịch. (2004). Nghiên cứu so sánh Kim
Vân Kiều truyện của Trung Quốc, Việt Nam và tranh luận. Trích trong
Vương Thúy Kiều cố sự nghiên cứu. Hoa Nam Sư phạm Học viện học
PL5
báo. Số 4. [tr.161-185]. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình.
Hà Nội: Nxb Văn học.
Trần Quang Huy. (1973). Nguyễn Hữu Sơn dịch. Từ Kim Vân Kiều truyện đến
Đoạn trường tân thanh. Trích trong “Việt Nam Nôm truyện dữ Trung
Quốc tiểu thuyết quan hệ chi nghiên cứu”. Luận án tiến sĩ. Đại học Quốc
lập Đài Loan. (tr56-82). In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình.
Hà Nội: Nxb Văn học.
Nhật Bản
Kawaguchi Kennichi. (2000). Đoàn Lê Giang dịch. Văn học Việt Nam ở Nhật
Bản. In trong Một trăm năm phiên dịch: Văn học nước ngoài và Nhật Bản
cận đại. Tokyo: Daishùkan shoten.
Kawaguchi Kenichi. (2015). Truyện Kiều từ góc độ văn học so sánh Đông Á.
Tham luận tại Hội thảo “Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới
Nguyễn Du: di sản và các giá trị xuyên thời đại”. In lại trong Truyện Kiều
- so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Komatsu Kiyoshi. (1942). Đoàn Lê Giang dịch. (2004). Bài bạt Kim Vân Kiều.
Nghiên cứu văn học. Số 11 – 2004. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và
luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Kuroda Yoshiko. (2004). Nguyễn Thu Hương dịch. Truyện Kiều - Thế giới của
lời thề. In trong Đại thi hào dân tộc, danh nhân văn hóa Nguyễn Du. Nxb
Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh.
Hàn Quốc
Ahn Kyong Hwan. (2005). Việc biên dịch và xuất bản Truyện Kiều ở Hàn
Quốc. Tham luận tại Hội thảo khoa học toàn quốc “Đại thi hào Nguyễn
Du” in trong “Nghiên cứu Truyện Kiều những năm đầu thế kỷ XXI”. Nxb
Giáo dục. (2009). In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội:
Nxb Văn học.
PL6
Jang Soo Bae. (2000). So sánh Truyện Kiều và truyện Xuân Hương. Luận án
Tiến sĩ. Đại học Sư phạm Hà Nội.
Valentin Lý. (1992). Ngân Xuyên dịch. Truyện Xuân Hương của Triều Tiên và
Truyện Kiều của Nguyễn Du. Tạp chí Văn học số 3 – 1992. In lại trong
Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Yang So Bae. (1995) “Bước đầu nghiên cứu so sánh Truyện Kiều và truyện
Xuân Hương”. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội:
Nxb Văn học.
2. Các công trình nghiên cứu Truyện Kiều ở châu Âu
Pháp
Abel Des Michels (Nguyễn Thị Thanh Xuân dịch). (1884). Lời giới thiệu bản
dịch tiếng Pháp Kim Vân Kiều tân truyện. In lại trong Truyện Kiều - so
sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Charles Fourniau. (1966). Một nhà thơ và chiến tranh. Kỷ niệm 200 năm năm
sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu). Hà Nội: Nxb Khoa Học Xã Hội.
Georges Boudarel (Lê Xuân Ninh dịch). (1966). Nguyễn Du và Đoạn trường
tân thanh. Tạp chí Đông Phương mới số tháng 1 – 1996. In lại trong
Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Maurice Durand. (1966). Truyện Kim Vân Kiều. Phùng Văn Tửu và Nguyễn
Minh Hoàng dịch. In trong Mai Quốc Liên. (2015). Kiều học tinh hoa -
Tập 2. Hà Nội: Nxb Văn học.
René Crayssac. (1926). Thương Chi dịch. Truyện Kiều và xã hội Á Đông. Tạp
chí Nam phong. Số 112 tháng 12. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và
luận bình. Hà Nội: Nxb Văn học.
Đức
Johannes Schellenberger. (2018). Trương Hồng Quang dịch. Nguyễn Du:
TruyệnKiều.Nguồn:http://www.vanhoanghean.com.vn/chuyen-muc-goc
-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/nguyen-du-nang-kieu
PL7
Nga
N. I. Niculin. (1960). Nguyễn Du, nhà thơ nhân đạo lỗi lạc. Nghiên cứu Văn
học số 10 – 1960. In lại trong Truyện Kiều - so sánh và luận bình. Hà Nội:
Nxb Văn học.
N.I. Niculin. (Lê Sơn dịch). (1967). Nhân vật Từ Hải. In trong Kỷ niệm 200
năm năm sinh Nguyễn Du. Hà Nội: Nxb Khoa học Xã hội.
N.I. Niculin. (1999). Văn học Việt Nam (tiểu luận tóm tắt). Phòng nghiên cứu
khoa học trường ĐHSP TPHCM.
N.I. Niculin. (2003). Truyện thơ Việt Nam thế kỷ XVIII – giữa thế kỷ XIX và tiểu
thuyết hiện đại (Trần Thị Phương Phương dịch). Văn học so sánh:
Nghiên cứu và dịch thuật. Hà Nội: Nxb Đại học Quốc gia.
3. Các công trình nghiên cứu Truyện Kiều ở châu Mỹ
Mỹ
Mariam B. Lam. (2014). Phạm Chi dịch. Truyện Kiều dưới góc nhìn văn học
nữ quyền. Nguồn: http:/ /www.vanhoanghean.com.vn/
chuyen-muc-goc-nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/truyen-kieu-du
oi-goc-nhin-van-hoc-nu-quyen-1
Cuba
Feliz Pita Rodriguez. (1967). Nguyễn Du - nhà thơ vĩ đại của dân tộc Việt Nam.
In lại trong 200 năm năm sinh Nguyễn Du. Hà Nội: Nxb Khoa học Tự
nhiên.
4. Các công trình nghiên cứu Truyện Kiều ở châu Úc
Leslie Barnes. (2013). A Modern Kiều: Immigration and the Ethics of
Sexuality in John Duigan’s Careless Love. Nguồn:
http://www.screeningthepast.com/2013/06/a-modern-ki%E1%BB%81u-
immigration-and-the-ethics-of-sexuality-in-john-duigan%E2%80%99s-
careless-love/