ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------
LÊ NGỌC HÀ
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRONG TẢN VĂN CỦACÁC NHÀ VĂN HÀ NỘI (QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ, ĐỖ PHẤN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ...) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Lý luận văn học Hà Nội - 2015
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------
LÊ NGỌC HÀ
ĐỀ TÀI ĐÔ THỊ HIỆN ĐẠI TRONG TẢN VĂN CỦACÁC NHÀ VĂN HÀ NỘI (QUA SÁNG TÁC CỦA NGUYỄN VIỆT HÀ, ĐỖ PHẤN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ...) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lý luận văn học Mã số: 60220120
Người hướng dẫn: Tiến sĩ Nguyễn Văn Nam Hà Nội - 2015
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ....................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ........................................................................................... 3
3. Đối tượng, mục đích, phạm vi nghiên cứu ................................................ 5
4. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 6
5. Cấu trúc luận văn ...................................................................................... 7
CHƢƠNG 1. VĂN CHƢƠNG VIẾT VỀ HÀ NỘI VÀ HÀNH TRÌNH
SÁNG TÁC CỦA ĐỖ PHẤN, NGUYỄN VIỆT HÀ, NGUYỄN NGỌC
TIẾN, NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ ................................................................. 8
1.1. Truyền thống văn chương viết về Hà Nội .............................................. 8
1.1.1. Từ trong truyền thống ..................................................................... 8
1.1.2. Trong văn học trước 1945 ............................................................. 17
1.1.3. Trong văn học kháng chiến ........................................................... 23
1.2. Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến và Nguyễn Trương Quý
trong góc nhìn văn chương viết về Hà Nội thời kỳ đổi mới ....................... 26
CHƢƠNG 2. BỨC TRANH ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG TẢN VĂN
VIẾT VỀ HÀ NỘI ......................................................................................... 31
2.1. Ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa ......................................... 31
2.2. Vẻ đẹp của đời sống đô thị thời kỳ đổi mới ......................................... 37
2.3. Nguy cơ đánh mất bản sắc ................................................................... 46
2.4. Sự xuống cấp về văn hóa và lối sống ................................................... 49
2.5. Đô thị hiện đại và sự cô đơn của con người......................................... 52
CHƢƠNG 3. ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN ............... 56
3.1. Ngôi kể và điểm nhìn ........................................................................... 56
3.1.1. Ngôi kể........................................................................................... 56
3.1.2. Điểm nhìn ...................................................................................... 60
3.2. Ngôn ngữ giọng điệu ............................................................................ 64
3.2.1. Giọng hoài niệm trữ tình ............................................................... 65
3.2.2. Giọng suy tư, triết lý ...................................................................... 69
3.2.3. Giọng trào lộng ............................................................................. 73
3.2.4. Giọng tự nhiên, dí dỏm.................................................................. 76
3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật ......................................................... 79
3.3.1. Không gian nghệ thuật .................................................................. 79
3.3.2. Thời gian nghệ thuật ..................................................................... 85
KẾT LUẬN .................................................................................................... 91
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................ 93
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Luận văn của chúng tôi lựa chọn đề tài Đề tài đô thị hiện đại trong tản
văn của các nhà văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn,
Nguyễn Trương Quý...) với các lý do sau:
Thứ nhất: Hà Nội là thành phố có lịch sử lâu đời. Với chiều dài lịch sử
lâu đời, Hà Nội mang trong mình những nét đẹp truyền thống của cả một dân
tộc. Từ cảnh vật, kiến trúc đến con người, dường như ai đã từng đặt chân lên
mảnh đất ngàn năm văn hiến này đều không thể quên. Người Hà Nội mang
trong mình phẩm chất cao quý đặc trưng mà cái nổi lên rõ nhất là “thanh
lịch”. Điều này không những thể hiện trong đời sống vật chất mà trong cả đời
sống tinh thần của người Kinh kỳ. Đó là sự trang nhã, thanh cao trong tư duy,
tình cảm, tâm hồn; là sự lịch lãm trong ứng xử mang tính văn hóa, chuẩn mực
và tinh tế từ trong cuộc sống thường ngày cho đến những hoạt động văn hóa
đỉnh cao.
Cũng chính vì những nét văn hóa đặc trưng mà từ xưa đến nay, Hà Nội
luôn là nguồn cảm hứng sáng tạo văn chương. Ta có thể dễ dàng đọc được
những câu thơ ca ngợi về mảnh đất Kinh kì trong thơ của Nguyễn Du, Bà
Huyện Thanh Quan, Hồ Xuân Hương; và cho đến tận bây giờ, trải qua hơn
1000 năm văn hiến, Hà Nội vẫn luôn dành được sự ưu ái của các nhà văn, nhà
thơ. Hà Nội đã và đang thay đổi từng ngày cùng sự phát triển chung của đất
nước. Tuy nhiên, sự phát triển về kinh tế ngoài việc góp phần làm thay đổi về
trình độ học vấn còn tác động không nhỏ vào đời sống tinh thần của con
người, nó ảnh hưởng trực tiếp tới nhận thức, suy nghĩ và cảm xúc của toàn xã
hội, đặc biệt là đối với những đô thị hiện đại như Hà Nội. Chính những điều
này, bên cạnh những tác động mạnh mẽ và tích cực đưa cuộc sống tiến lên, đã
vô hình thêm vào cuộc sống của con người những gì là ngột ngạt, xuống cấp
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 1
về đạo đức.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Thứ hai: Tản văn viết về cuộc sống đô thị hiện đại của Hà Nội có
những đặc sắc riêng về thể loại. Trước hết, khởi nguồn của tản văn bắt nguồn
từ Trung Quốc, thể loại tản văn ra đời để phân biệt với vận văn và biền văn.
Có nghĩa là những bài viết không phải thơ, từ, ca, phú, khúc đều có thể được
gọi là tản văn. Còn theo từ điển thuật ngữ văn học: “Tản văn là loại văn xuôi
ngắn gọn, hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc
hoạ nhân vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá
không nhất thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có
cấu tứ độc đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái
hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp
tình cảm, ý nghĩ mang đậm bản sắc cá tính tác giả... Tản văn là loại văn tự do,
dài ngắn tuỳ ý, cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến
và cá tính tác giả" [13; 293]. Ngay cả ranh giới của các thể loại như tản văn,
tạp văn, tạp bút, tản mạn cũng đã nhoà dần, ngược lại cũng chính vì điều đó
mà tản văn đã không bị gò bó, thậm chí đã nới rộng ranh giới thể loại, và làm
phong phú đề tài chủ đề. Thể tản văn đã trở nên “quen thuộc” với người đọc.
Họ tìm thấy ở tản văn những vấn đề của đời sống và con người đương đại: Từ
chuyện nhỏ đến chuyện lớn, từ quá khứ đến hiện tại, từ những khoảnh khắc
bất chợt, thoáng chốc đến những vấn đề muôn thuở, từ những sự vật hiện hữu
đến những ấn tượng vô hình trong thế giới của ý niệm, vùng mờ tâm linh. Hệ
thống hình ảnh, chi tiết trong tản văn được sử dụng hết sức tinh lọc, súc tích
với sự liên kết các chi tiết, bộc lộ thông điệp mà người viết gửi gắm. Do vậy,
có thể nói, một trong những đặc thù của tản văn là tính chủ quan, cá nhân
trong cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề. Là một thể văn có sự hòa trộn giữa tự
sự và trữ tình, nên vai trò của sự thật đời sống trong tản văn chỉ như những
vật liệu dùng để cụ thể hóa, hình tượng hóa cái chủ quan của tác giả, thể hiện
trực tiếp cái tôi của người viết, là nơi chân dung tinh thần của chủ thể sáng tác
hiện ra một cách trực diện và chân thực. Tản văn khi bước vào đời sống văn
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 2
học Việt Nam đã chứng tỏ sự nhanh nhạy của mình. Những tác giả viết tản
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội văn có thể kể đến Băng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc Tường, Đỗ Chu… Một góc
phố nhỏ, một con đường trồng nhiều hoa muồng, Hồ Gươm một ngày xuân,…
tất cả đều có thể được phản ánh trên tản văn. Tản văn nhanh chóng nắm bắt
những góc cạnh trong đời sống, tâm lý, sinh hoạt con người Hà Nội trong thời
kỳ đô thị hóa.
Thứ ba: Khai thác chủ đề về cuộc sống đô thị ở Hà Nội, nhiều tác giả
đã khẳng định được tên tuổi của mình bằng những tác phẩm có giá trị nghệ
thuật, phản ánh chân thực bức tranh toàn cảnh về Hà Nội ở các góc độ khác
nhau. Và có lẽ đối với những tác giả được sinh ra, lớn lên tại Hà Nội thì cảm
xúc về Hà Nội, về những đổi thay của Hà Nội lại càng mãnh liệt. Những nhà
văn như Băng Sơn, Đỗ Phấn, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trương Quý,
Nguyễn Việt Hà đã có cái nhìn sâu sắc về Hà Nội đang biến đổi từng ngày,
từng giờ. Hà Nội không chỉ là mảnh đất họ gắn bó trong cuộc sống, sinh hoạt
mà còn là một thực thể có tâm hồn. Hà Nội trong những sáng tác của họ là
một thủ đô đầy màu sắc, một đô thị vắt mình qua những biến đổi của lịch sử
nhưng vẫn giữ cho mình phong thái của mảnh đất kinh kỳ.
Chọn đề tài Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà
Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn Trương Quý...),
chúng tôi tiến hành nghiên cứu, phân tích các tác phẩm viết về cuộc sống đô
thị tại Hà Nội của các tác giả đã từng sinh ra và lớn lên ở mảnh đất này để
hiểu rõ hơn về nét văn hóa đặc trưng Hà Nội cũng như sự thay đổi của Hà Nội
trong thời kỳ hiện đại hóa.
2. Lịch sử vấn đề
Nghiên cứu văn chương viết về Hà Nội được nhiều tác giả quan tâm và
khai thác. Điển hình là các bài nghiên cứu của Lê Thu Yến, Huệ Chi,
Vương Trí Nhàn…
Trong bài nghiên cứu Thăng Long trong thơ xưa của Lê Thu Yến, in
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 3
trong Hội thảo Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long, tháng 8/2010,
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội do Hội Phật Giáo kết hợp với Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Thành
phố Hồ Chí Minh tổ chức, tác giả đã cho chúng ta thấy cái nhìn tổng quan về
Thăng Long trong thơ xưa. Từ văn học dân gian đến văn học viết, Thăng
Long - Hà Nội là đề tài rộng lớn. Bài viết là quá trình khảo cứu, thống kê chi
tiết trong sáng tác của nhiều tác giả Trần Quang Khải, Trần Lâu, Vũ Mộng
Nguyên, Trịnh Sâm, Nguyễn Công Trứ, Ninh Tốn, Đoàn Nguyễn Tuấn, Bùi
Huy Bích, Dương Khuê, Phạm Quý Thích, Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu,
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh quan…
Huệ Chi trong cuốn sách Gương mặt văn học Thăng Long (nhà xuất
bản Hà Nội xuất bản năm 2010) cũng đã nhận diện văn học Thăng Long và
nhóm tác giả trong giai đoạn này. So với nghiên cứu của Lê Thu Yến, Huệ
Chi có biên độ nghiên cứu rộng hơn với cái nhìn tổng quan về văn học Thăng
Long mười thế kỷ. Người đọc có thể nhận diện sự vận động của văn học
Thăng Long trong suốt chiều dài của lịch sử với những giá trị mới được hình
thành và những giá trị cũ được bảo lưu trong nền văn học nước nhà.
Trong cuốn sách Một số nhà văn Việt Nam hôm nay với Hà Nội của
Vương Trí Nhàn do nhà xuất bản Hà Nội ấn hành năm 1986, tác giả đã tìm
hiểu văn chương hiện đại viết về Hà Nội giai đoạn từ trước 1945 đến nay.
Cuốn sách đã nhận diện những nhà văn tiêu biểu cho mỗi giai đoạn với những
tác phẩm gắn liền với Hà Nội. Vương Trí Nhàn đã thể hiện sức khám phá,
nghiên cứu tỉ mỉ về văn chương hiện đại viết về Hà Nội. Như tên gọi của cuốn
sách, tác giả đi vào tìm hiểu ảnh hưởng của Hà Nội đối với đời sống các nhà
văn Việt Nam hôm nay. Qua các tài liệu văn học sử cũng như qua các hồi ức,
kỷ niệm của các nhà văn, và chủ yếu là qua chuyện trò trực tiếp với các nhà
văn đang sống, tác giả cuốn sách có dịp trình bày tình cảm thiêng liêng của
nhiều nhà văn với Hà Nội: đây là nơi họ học nghề, trưởng thành dần về nghề
nghiệp. Nhưng quan trọng hơn, đây là nơi họ có dịp tiếp xúc với các vấn đề
quan trọng của đời sống xã hội, từ đó xác định cho mình một hướng viết đúng
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 4
đắn. Người đọc có thể tìm hiểu, biết thêm một số nét tiểu sử cũng như tác
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội phẩm của hơn 50 nhà văn thuộc các thế hệ khác nhau viết về Hà Nội, từ
Hoàng Ngọc Phách, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Xuân
Diệu, đến Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu, Chính Hữu, Hồ Phương,
Nguyễn Quang Sáng, Nguyễn Thành Long tới Bùi Minh Quốc, Đỗ Chu, Lưu
Quang Vũ, Bằng Việt, Phạm Tiến Duật, Trần Đăng Khoa …
Trong quá trình tìm hiểu của chúng tôi, chưa có công trình nghiên cứu lớn
nào về Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội.
3. Đối tƣợng, mục đích, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Một số tản văn viết về đời sống đô thị Hà Nội
hiện đại của các tác giả: Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến và
Nguyễn Trương Quý... Ngoài ra, trong luận văn chúng tôi còn sử dụng, trích
dẫn những công trình nghiên cứu khoa học, các bài tham luận về đề tài Thăng
Long - Hà Nội; các sách lý luận văn học, từ điển văn học, giáo trình văn học,
luận văn thạc sĩ. Ở quy mô nhỏ hơn là các bài tiểu luận nghiên cứu khoa học
trên các tạp chí hoặc các trang mạng về các tác giả nêu trên.
Mục đích nghiên cứu: Luận văn hướng đến mục đích tiếp cận mang
tính bước đầu với các tác phẩm từ truyền thống đến đương đại viết về Hà Nội,
một trong nhiều đề tài làm nên sự phong phú của nền văn học Việt Nam. Từ
đó nhận biết được mối quan hệ giữa dòng văn học viết về Hà Nội, thấy được
sự tồn tại có mối liên kết chặt chẽ giữa truyền thống và hiện đại. Đi sâu
nghiên cứu Hà Nội - đô thị hiện đại, năng động nhưng vẫn giữ được vẻ đẹp,
giá trị truyền thống, cùng với đó là những tồn tại tiêu cực đang gây hại cho
đời sống văn hóa đô thị hiện đại của Hà Nội qua những tản văn của các tác
giả Đỗ Phấn, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Trương Quý...
Luận văn cũng hướng đến việc nhận diện phong cách văn chương một số tác
giả Hà Nội trong các tác phẩm nổi bật về đề tài đô thị của họ. Do điều kiện
thời gian làm luận văn có hạn nên chúng tôi không thể bao quát được những
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 5
bài nghiên cứu, những bài báo đăng lẻ tẻ hoặc một số cuốn sách khác có
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội những nội dung liên quan. Tuy nhiên, chúng tôi cố gắng không bỏ sót các
công trình, ý kiến, nhận định quan trọng. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng muốn
cung cấp cho người đọc một luận văn thực sự có ý nghĩa khi nghiên cứu về
tản văn viết về cuộc sống đô thị Hà Nội. Chúng tôi hi vọng, luận văn sẽ mang
đến cho người đọc cái nhìn tổng quan về tản văn viết về cuộc sống đô thị Hà
Nội với những phong cách sáng tác đặc thù.
Phạm vi nghiên cứu:
- Về mặt nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích bối cảnh
Hà Nội hiện đại ở các tác phẩm và những đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện
của mỗi tác giả.
- Về mặt tư liệu: Do thời gian và điều kiện cũng như năng lực nghiên
cứu của bản thân còn hạn chế nên chúng tôi chỉ xin nghiên cứu một số tập tản
văn viết về Hà Nội của các tác giả trên như: Hà Nội thì không có tuyết (tác giả
Đỗ Phấn); Con giai phố cổ (tác giả Nguyễn Việt Hà); Đi ngang Hà Nội (tác giả
Nguyễn Ngọc Tiến), Ăn phở rất khó thấy ngon (tác giả Nguyễn Trương Quý)...
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để thực hiện các nhiệm vụ đã đề ra, chúng tôi sử dụng các phương
pháp nghiên cứu sau đây:
Trước hết, chúng tôi sử dụng phương pháp thống kê tài liệu có liên
quan như sách, báo, các bài viết, nghiên cứu kết hợp với phương pháp tiểu sử
để tiếp cận vấn đề một cách toàn diện. Trên cơ sở đó, chúng tôi sử dụng
phương pháp phân tích và so sánh để tìm ra những điểm chung, điểm riêng
trong tản văn viết về Hà Nội của từng tác giả.
Trên bình diện thao tác, chúng tôi chủ yếu sử dụng phương pháp phân
tích; ngoài ra, cũng phối hợp sử dụng các phương pháp thống kê, mô tả, tổng
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 6
hợp, lư giải, phương pháp tiểu sử, phương pháp tiếp cận văn hóa...
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Trong quá trình thực hiện, chúng tôi cố gắng có quan điểm khách quan,
toàn diện và thống nhất cố gắng để đưa đến một cái nhìn có hệ thống về bức
tranh đời sống đô thị Hà Nội trong tản văn của các tác giả đã lựa chọn. Bên
cạnh đó, chúng tôi đưa ra những ý kiến riêng của mình nhằm hệ thống hóa các
vấn đề đặt ra. Từ đó góp phần hữu ích cho việc phê bình nghiên cứu, giảng
dạy và học tập, tham khảo.
5. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu và phần kết luận, Luận văn của chúng tôi được tổ
chức thành ba chương:
Chương 1: Văn chương viết về Hà Nội và hành trình sáng tác của Đỗ
Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến, Nguyễn Trương Quý
Chương 2: Bức tranh đời sống đô thị trong tản văn viết về Hà Nội
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 7
Chương 3: Đặc sắc trong nghệ thuật thể hiện
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
VĂN CHƢƠNG VIẾT VỀ HÀ NỘI VÀ HÀNH TRÌNH SÁNG TÁC
CỦA ĐỖ PHẤN, NGUYỄN VIỆT HÀ, NGUYỄN NGỌC TIẾN,
NGUYỄN TRƢƠNG QUÝ
1.1. Truyền thống văn chƣơng viết về Hà Nội
1.1.1. Từ trong truyền thống
Nguyễn Huệ Chi trong tác phẩm Gương mặt văn học Thăng Long đã
đưa ra khái niệm về vùng văn học Thăng Long. Văn học Thăng Long hay văn
học viết về Thăng Long - Hà Nội đều dựa trên đặc điểm về một vùng không
gian địa lý đặc biệt. Hà Nội xưa vốn đã nổi bật với nền văn minh sông Hồng
trù phú, có sự liên đới của cả văn hóa tiền Đông Sơn và văn hóa Đông Sơn.
Thăng Long - Hà Nội có sức hút đặc biệt, lực “hút tâm” thu hút các
vùng lân cận của xứ Đông, xứ Đoài, kể cả các vùng biên viễn được gọi là
“trại”. Đặc biệt khi Lý Thánh Tông (1023 - 1072) quyết định cho xây dựng
Văn Miếu năm 1070, Lý Nhân Tông (1066 - 1127) cho lập trường Quốc Tử
Giám năm 1076, Thăng Long - Hà Nội trở thành trung tâm của chế độ khoa
cử, thu hút nhân tài của đất nước tập trung về tham dự thi cử. Khi bộ máy
hành chính trung ương của chế độ quân chủ được thiết lập với quy chế khoa
cử nhằm tuyển lựa người tài thì việc bổ sung cho đội ngũ văn nhân nghệ sĩ
của Thăng Long bằng nhân tài cả nước đã trở thành một cơ chế được vận
hành như một tất yếu. Cùng với đó là các vị quan từng trải, học vấn uyên
thâm, sau nhiều năm nhậm chức ở các địa phương, được Triều đình tuyển về
làm quan tại Kinh đô và trở thành người Thăng Long một cách tự nguyện
trong nếp sống cũng như trong sáng tác văn chương mới là vế đáng nói hơn
nhiều. Chính điều này đã biến Thăng Long thành đối tượng cho các danh sĩ
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 8
xưa sáng tác. Lực lượng sáng tác cũng trở nên đông đảo, không chỉ của những
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội người sinh ra và lớn lên ở Thăng Long mà còn cả những danh sĩ đến học tập
và làm việc ở mảnh đất Kinh kỳ. Thăng Long trở thành miền đất hứa thu hút
các tinh hoa của mọi vùng miền trên cả nước.
Điểm lại dòng chảy lịch sử, Chiếu dời đô của Lý Thái Tổ (974 - 1028),
là tác phẩm khởi đầu của văn học sáng tác về Thăng Long - Hà Nội. Tác
phẩm là áng văn chính luận mẫu mực, đánh dấu bước ngoặt cho sự ra đời của
Thủ đô nghìn năm văn hiến, cũng là khởi đầu cho dòng sáng tác về Hà Nội.
Chiếu dời đô đã khắc họa một Hà Nội là trung tâm của cả nước, thuận lợi cho
việc phát triển lâu dài của đất nước: “Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao
Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam
bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng
phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn
vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực
là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi
muôn đời” [28; 230]. Nối tiếp bước khởi đầu vững chắc, những danh sĩ các
triều đại đã sáng tác những áng văn chương bất hủ về mảnh đất Kinh kỳ.
Thăng Long thế kỉ XIII, XIV có sự góp mặt của đông đảo vua quan,
danh sĩ triều Trần. Từ Trần Thái Tông (1218 - 1277), Trần Tung (1230 -
1291), Trần Quốc Tuấn (1232 - 1300), Trần Quang Khải (1241 - 1294), Trần
Thánh Tông (1240 - 1290), Trần Nhân Tông (1258 - 1308), Trần Anh Tông
(1276 - 1320), Mạc Đĩnh Chi (1280 - 1346), Chu Văn An (1292 - 1370), Trần
Minh Tông (1300 - 1357), Trương Hán Siêu (? - 1354), Trần Nguyên Đán
(1325 - 1390), Trần Lâu (? - ?)... Văn học sáng tác về Thăng Long có sự hòa
quyện cả ba sắc màu Phật, Nho, Đạo và tràn đầy âm hưởng chiếu, hịch, ngữ
lục, luận thuyết, thi ca…Từ một thời đã qua, đã xa, kinh thành Thăng Long
vẫn là nơi hoài vọng của bao người. Những địa danh gắn với lịch sử như
Chương Dương, Hàm Tử (trong thơ Trần Quang Khải, Trần Lâu). Trong tác
phẩm Tòng giá hoàn kinh sư, Trần Quang Khải hồi tưởng về chiến trường xưa
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 9
để liên hệ với bài học xây dựng đất nước:
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Phiên âm:
Đoạt sáo Chương Dương độ,
Cầm hồ Hàm Tử quan
Thái bình tu nỗ lực
Vạn cổ thử gian san.
Bản dịch của Trần Trọng Kim:
Chương Dương cướp giáo giặc,
Hàm Tử bắt quân thù
Thái bình nên gắng sức
Non nước vẫn nghìn thu [28; 320].
Trần Lâu trong Quá Hàm Tử quan từng bồi hồi khi đứng trước chiến
trường xưa cũ đã lui vào dĩ vãng:
Phiên âm:
Thuyết trước sa trường cảm khái đa,
Như kim Hàm Tử mạn kinh qua.
Cổ chinh hung dũng triều thanh cấp,
Kỳ bái sâm si trúc ảnh tà.
Vương đạo hồi xuân nùng cổ thụ,
Hồ quân bão hận sấu hàn ba.
Toa Đô thụ thủ tri hà xứ,
Thuỷ lục sơn thanh nhập vọng xa
Dịch nghĩa:
Từng nghe trận đánh ở đây, lòng ta rất cảm khái,
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 10
Đến nay ta mới đi qua chốn Hàm Tử này.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Tiếng sóng ồn ào như trống chiêng nổi dậy,
Bóng tre nghiêng ngả như cờ quạt tung bay.
Nhà vua trở về làm cây cối xuân tươi,
Quân Hồ ôm hận rút lui giống làn sóng lạnh.
Toa Đô nộp đầu chẳng biết nơi nào,
Nước biếc non xanh trông vời xa ngút [9].
Thăng Long thế kỉ XV, có sự xuất hiện nổi bật của Nguyễn Trãi
(1380 - 1442) và Lê Thánh Tông (1442 - 1497). Cả hai ngoài dấu ấn chính trị,
đều là những tác giả kỳ tài, bậc nhất đương thời, góp phần làm giàu thơ Nôm
dân tộc. Nguyễn Trãi ngoài đóng góp về việc tìm hiểu địa lý Hà Nội, các sáng
tác của ông cũng mang dấu ấn của địa vật Hà Nội. Đông Quan (Hà Nội) được
nhắc đến trong thơ ông trong quá trình sáng tác: “Góc thành Nam, lều một
gian,/ No nước uống, thiếu cơm ăn”. Lê Thánh Tông là một nhà thơ lớn, tác
phẩm ông để lại rất phong phú, vừa thơ, vừa văn xuôi, vừa Hán, vừa Nôm,
hiện còn được sao chép trong các tập: Thiên Nam dư hạ (trong đó có bài phú
nổi tiếng Lam Sơn Lương Thủy phú), Châu Cơ thắng thưởng Chinh Tây kỷ
hành, Minh lương cẩm tú, Văn minh cổ xúy, Quỳnh uyển cửu ca, Cổ tâm bách
vịnh, Thập giới cô hồn quốc ngữ văn... Đứng đầu hội văn học Tao Đàn (Thập
nhị Bát tú: Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lương Thế Vinh…), Lê Thánh
Tông cũng dẫn đầu phong trào sáng tác. Thơ Lê Thánh Tông để lại khá nhiều
và có giá trị cao về nội dung tư tưởng. Các sáng tác ca ngợi “vua sáng tôi
hiền”, “giang sơn cẩm tú”, trong đó có những tác phẩm sáng tác về cảnh vật,
con người Hà Nội.
Thăng Long thế kỉ XVIII có sự xuất hiện của một loạt tác giả sáng tác
về mảnh đất Kinh kỳ. Đây là thời điểm rối ren của lịch sử với những cuộc
binh biến, chiến tranh liên miên. Lê Hữu Trác (1720 - 1791) với Thượng Kinh
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 11
ký sự, dòng họ Ngô Thì với Hoàng Lê nhất thống chí, Phạm Đình Hổ (1768 -
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội 1839), Nguyễn Án (1770 - 1815) với Tang thương ngẫu lục vẽ lên bộ mặt
kinh thành Thăng Long trong cơn giông bão của lịch sử Việt Nam. Kinh
thành Thăng Long hiện lên với những màu sắc đa diện của đời sống sinh hoạt,
chính trị; những góc khuất của bộ mặt phong kiến thời kỳ suy tàn.
Thăng Long thế kỉ XIX, xuất hiện đông đảo các tác giả sáng tác về
mảnh đất Kinh kỳ. Nối tiếp dòng văn học trước, các tác giả thời kỳ này có cái
nhìn chiêm nghiệm về mảnh đất nghìn năm văn hiến, trải qua bao cảnh dâu
bể. Có thể kể đến những hạt nhân như Nguyễn Du (1756 - 1820), Phạm Quý
Thích (1760 - 1825), Nguyễn Công Trứ (1778 - 1858), Nguyễn Văn Siêu
(1799 - 1872), Cao Bá Quát (1809 - 1855),… và cũng lần đầu tiên xuất hiện
những tác giả là nữ sĩ như nữ sĩ Đoàn Thị Điểm (1705 - 1748), Bà Huyện
Thanh Quan (1805 - 1848), Hồ Xuân Hương (1772-1822),…
Nguyễn Du là người có tuổi thơ gắn chặt với Thăng Long do vậy ông
am hiểu mảnh đất này hơn ai hết. Năm 1789, Tây Sơn kéo quân ra Bắc,
Nguyễn Du lánh về quê vợ ở Thái Bình. Sau này, năm 1802, khi được mời ra
làm quan cho triều Nguyễn ông có dịp trở lại Thăng Long. Lúc này không còn
thành Thăng Long nữa, mà là một tòa thành mới xây. Nguyễn Du ngơ ngác
trên đất cõi thành xưa, ông làm hai bài thơ về Thăng Long.
Thăng Long bài 1
Phiên âm:
Tân lĩnh lô giang tuế tuế đồng
Bạch đầu do đắc kiến Thăng Long
Thiên niên cự thất thành quan đạo
Nhất phiến tân thành một cố cung,
Tương thức mỹ nhân khan bão tử
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 12
Đồng du hiệp thiếu tẫn thành ông
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Quan tâm nhất dạ khổ vô thụy
Doãn địch thanh thanh minh nguyệt trung [26].
Dịch nghĩa: Núi Tản và sông Lô (tức sông Hồng) đời đời vẫn thế, ta
đầu bạc rồi còn được thấy Thăng Long, nhưng dinh thự đồ sộ ngàn xưa nay đã
bị san phẳng làm lối đi, một mẫu thành cỏn con (phiến) mới xây trên nền cố
cung xưa, các co gái xinh đẹp quen biết nay đã con bế con bồng, các bạn hào
hiệp lúc trẻ nay đã thành các ông lão, suốt đêm thao thức không ngủ được,
văng vẳng nghe tiếng sáo giữa đêm thanh vắng.
Thăng Long bài 2
Phiên âm:
Cổ thời minh nguyệt chiếu tân thành
Đô thị Thăng Long cựu đế kinh
Cù hạng tứ khai mê cựu tích
Quản huyền nhất biến tạp tân thanh
Thiên niên phú quý cùng tranh đoạt
Tảo tuế than bằng bán tử sinh
Thế sự phù trầm hưu thán túc
Tự gia đầu bạch việc tinh tinh [26].
Dịch nghĩa: Mảnh trăng sáng xưa kia rọi xuống tòa thành mới, đây vẫn
là Thăng Long kinh đô của các triều vua trước; đường sá ngang dọc làm mất
các dấu tích cũ, tiếng đàn sáo mới khác xưa âm thanh hỗ tạp, phú quý ngàn
xưa như miếng mồi để tranh cướp, bạn bè thời trẻ nay nửa mất nửa còn, thôi
cho qua đi sự đời chìm nổi, ngẫm nhìn mái tóc trên đầu đã lốm đốm bạc.
Ngoài hai bài về Thăng Long, Nguyễn Du còn có bài Thăng Long cầm
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 13
giả ca, gồm một bài phi lộ và 50 câu thơ, nói về việc sau 20 năm trở lại Thăng
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Long, được nghe lại tiếng đàn của một ca nhi. Tâm sự là nội dung chủ đạo
của bài thơ, chỉ có bốn câu thơ nói về Thăng Long đã thay đổi:
Thành quách suy di nhiều sự cai
Kỷ xứ tang điền biến thương hải
Tây sơn cơ nghiệp tận tiêu vong
Ca vũ không di nhất nhân tại
Tạm dịch:
Thành quách đổi người nay khác cả
Bao nương dâu giờ hóa biển xanh
Tây Sơn sự nghiệp tan tành
Mà làng ca hát một mình còn suông [26].
Trong sáng tác của Nguyễn Du, có thể thống kê các bài viết về Thăng
Long như sau:
Số lần xuất hiện Tác phẩm
3 bài xuất hiện địa danh “Thăng Ngẫu hứng (bài 5)
Long” Long Thành cầm giả ca
Thăng Long (hai bài)
4 bài xuất hiện địa danh “Trường Sơn cư mạn hứng
An”: Ký giang bắc Huyền Hư tử
Giang Đình hữu cảm
Ký hữu.
2 bài viết về các sự việc với những Đại nhân hý bút (bến sông Nhĩ
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 14
địa danh cụ thể ở kinh đô: Thuỷ)
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Mộng đắc thái liên (Hồ Tây)
3 bài phiếm chỉ Thăng Long bằng các U cư (bài 2)
từ quốc, cố quốc: Độ Long Vĩ giang
Hoạ Hải Ông Đoàn Nguyễn Tuấn
“Giáp Dần phụng mệnh nhập Phú
Xuân kinh, đăng trình lưu biệt chư
hữu” chi tác.
Trong ký ức của những người con Thăng Long, nơi đây từng ghi dấu
những đổi thay lớn. Những tòa thành mới thay thế những cung điện cũ, là
những đường cái quan ngang dọc xóa hết dấu vết của những ngôi nhà đồ sộ
cũ là những vương cung, đế miếu có rồi mất… tất cả những điều đó dẫu sao
cũng là niềm tự hào của đất Thăng Long.
Bà Huyện Thanh Quan hơn ai hết thao thiết hoài niệm về một thời quá
vãng đã khắc sâu trong tâm hồn bà cũng như đối với mỗi người trên đất
Thăng Long:
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Nền cũ lâu đài bóng tịch dương
(Thăng Long hoài cổ)
Câu thơ tiêu tao ấy gợi nhớ những gì xưa cũ với lối cũ rêu phong, với
hồn thu thảo, với bóng tịch dương… Lâu đài, xe ngựa tượng trưng cho quyền
lực và cơ đồ cao ngất của các tiên triều giờ chỉ còn chập chờn trong ảo mộng.
Nguyễn Công Trứ cũng đã đi tìm thành quách, vương cung, đế miếu của một
thời huy hoàng:
Đất Trường An là cổ đế kinh
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 15
Nước non một dải hữu tình
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
…Đã mấy độ sao dời vật đổi
Nào vương cung đế miếu ở đâu nào?
(Cảnh Hà Nội)
Cao Bá Quát nặng lòng trước con đường xa giá vua đã từng qua bây
giờ chỉ còn trơ lại mảnh đất không. Đàn tế giao xung quanh cây cỏ lấp đầy,
mặc gió thu thổi tràn:
Cờ quạt đường ngự đi, nay chỉ còn là mảnh đất không
Cây cỏ ở đàn tế giao, mặc cho gió thu thổi
(Quá Thiên Quang tự, thương Lê triều cố cung)
Hay:
Đây là kinh đô cũ, nơi phồn hoa bậc nhất xưa kia
Núi Nùng, sông Nhị rất mực cao thanh
Nghìn năm thành quách, từng qua mấy độ cổ kim
Mười dặm phố phường, nối tiếp bao lớp người sống thác
(Đăng Long Thành lãm thắng hữu cảm)
Một thuở phồn hoa đông vui, tấp nập, ngựa xe như nước… ngày nào
bây giờ không còn nữa, lòng người đau xót buồn rầu nhìn dương liễu héo hon,
trúc gầy đi. Sắc cỏ xanh bên đường, vết xe thuở đó như còn đâu đây:
Dương liễu héo hon, trúc gầy, khói như thuở nào
Mấy chốn đình đài gạch ngói đổ nát
Buồn rầu nhìn sắc cỏ xanh trên đường
Như còn ghi lại rành rành vết xe thuở đó
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 16
(Kinh quá Lý cố thành di chỉ - Miên Thẩm)
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Từ những bài ca dao về nét đẹp văn hóa Tràng An như: “Chẳng thơm
cũng thể hoa nhài / Dẫu không thanh lịch cũng người Trường An” hay tác
phẩm đầu tiên sáng tác về Thăng Long là Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn, đến
những tác phẩm nối tiếp sáng tác bằng chữ Nôm, chữ Hán đã để lại cho văn
chương viết về Thăng Long - Hà Nội một kho tàng đồ sộ. Tất cả là nguồn cứ
liệu độc đáo về Thăng Long xưa và tạo dựng truyền thống viết về Thăng Long
- Hà Nội cho tác giả đời sau sáng tác.
1.1.2. Trong văn học trước 1945
Từ 1945 về trước, mặc dù bị thực dân Pháp tìm đủ cách hạn chế, thủ đô
Hà Nội vẫn là một trung tâm văn hoá lớn, nơi sinh hoạt văn học luôn luôn sôi
nổi, mà cũng là nơi có nhiều cơ quan báo chí và xuất bản có uy tín. Bởi vậy,
đời văn của nhiều cây bút nổi tiếng đều gắn bó với Hà Nội. Những sáng tác
của họ gắn bó với mảnh đất Kinh kỳ với tình cảm ưu ái cũ nhưng bằng hình
thức mới, thế giới quan mới gắn bó với sự biến đổi của mảnh đất nơi đây.
Chúng ta có thể nhận diện nhà văn Hoàng Ngọc Phách (1896 -
1973) với tác phẩm Tố Tâm với những nhân vật mang đậm tính cách Hà Nội.
Năm 1973, trong bài viết nhân dịp Hoàng Ngọc Phách qua đời, nhà phê bình
Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Những nhân vật trong Tố Tâm đều phảng phất
giống những thanh niên Hà Nội năm xưa ấy. Tố Tâm “nền” lắm. Cô là con
nhà gia giáo, nên bao giờ cũng đi xe sắt - tức xe kéo bánh sắt - chứ không bao
giờ đi xe cao su như bọn me tây. Cô rất diện nhưng cũng chỉ diện tới mức bịt
khăn lụa đen, thứ khăn mốt nhất thời bấy giờ”. Hình ảnh về con người Hà Nội
với cuộc sống sinh hoạt những năm đầu thế kỉ XX được phác họa một cách
chân thực và rõ nét.
Sau phát súng khai cuộc của Hoàng Ngọc Phách, văn chương viết về
Hà Nội trước 1945 trở nên rộn ràng. Một loạt các tác giả như Nguyễn Công
Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Tô Hoài,
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 17
Xuân Diệu, Mạnh Phú Tư, Chế Lan Viên, Tế Hanh, Bùi Hiển, Nguyên Hồng,
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Nam Cao… có những sáng tác về cuộc sống con người Hà Nội. Có thể nhận
diện Hà Nội trong sáng tác của các tác giả trên với những góc cạnh sau:
Góc cạnh thứ nhất, Hà Nội với những bất công, ngang trái của xã hội
nửa thực dân, nửa phong kiến trong ngòi bút hiện thực của Nguyễn Công Hoan,
Vũ Trọng Phụng, Tam Lang. Điểm chung của các tác giả trên đều là những
nhà văn, nhà báo. Họ có điều kiện đi sâu vào đời sống xã hội của Hà Nội để
khai thác đa diện những góc nhìn.
Trước hết là Nguyễn Công Hoan với vốn liếng phong phú về “chốn thị
thành” với nhiều lớp người, kiếp người khác nhau, sống vật vờ lay lắt chốn
Kinh kỳ. Người phu xe, nhà thổ nghèo, không có cả chỗ hành nghề (Người
ngựa ngựa người); các loại ăn mày, ăn cắp “nghiệp dư” bất đắc dĩ (Bữa no
đòn, Cái vốn để sinh nhai); dân đi ở ngu ngơ bị cả chủ lừa (Thằng Quýt); các
loại me tây hoặc lưu manh mới nẩy nòi làm giàu, học đòi (Báo hiếu trả nghĩa
cha, Báo hiếu trả nghĩa mẹ, Cô Kều gái tân thời). Ngoài ra, Nguyễn Công
Hoan còn miêu tả cảnh đào kép ở các rạp hát rẻ tiền hoặc lớp công chức nhỉnh
hơn một chút (Tôi cũng không hiểu tại làm sao v.v…). Những năm cuối đời,
Nguyễn Công Hoan còn để lại cho văn chương viết về Hà Nội những hình
ảnh như thước phim tài liệu quý giá về con người và cuộc sống nơi đây trong
các tập Đời viết văn của tôi, Nhớ và ghi. Đó là một Hà Nội giàu có nhưng vẫn
đi xe ngựa, thầy giáo trường Bưởi đội khăn xếp, đi giày ta với bít tất trắng,
những hiệu cho thuê xe đạp để tập đi…
Cùng với Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng nổi bật với những tác
phẩm khai thác bộ mặt nhố nhăng đô thị nửa mùa của Hà Nội trong những
năm trước cách mạng. Vở kịch Không một tiếng vang; các phóng sự: Cạm bẫy
người (1933), Kỹ nghệ lấy Tây (1934); bốn cuốn tiểu thuyết: Giông tố, Số
đỏ, Vỡ đê, Làm đĩ đã làm nên một Vũ Trọng Phụng nổi bật với giọng văn
hiện thực phê phán. Tác giả là nhà văn Việt Nam đầu tiên đã phanh phui “thú
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 18
tính” nơi con người, kể cả những người được coi là “hiền lành, chân thật”.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Hà Nội trong sáng tác của Vũ Trọng Phụng chứa đầy những lừa lọc, dối trá,
những kiếp người khổ cực, lưu manh hóa.
Góc cạnh thứ hai, Hà Nội của những ký ức xưa cũ, với vẻ đẹp thơm
mùi sách sử. Các tác giả trong quá trình sáng tác về Hà Nội cũng không quên
lưu giữ những nét đẹp còn “vang bóng” đến ngày nay. Đó là Ngô Tất Tố,
Nguyễn Tuân với những trang viết mang tính chất chắt lọc từ những câu
chuyện “cảo thơm” lần dở.
Trong Lều Chõng của Ngô Tất Tố, chúng ta thấy Hà Nội hiện lên với
nhiều nét đẹp, người Hà Nội từ những cô hàng bán giấy bút, cho đến ông chủ
quán trọ cũng đều hết sức tài hoa, lịch thiệp.
Với Nguyễn Tuân, Hà Nội là nơi còn in lại nhiều dấu vết lịch sử “vang
bóng một thời”. Truyện Hương cuội là nền nếp gia phong, là cách uống rượu,
ngâm thơ, thưởng hoa của các nhà nho Hà Nội; hay trong Những chiếc ấm
đất, Chén trà sương miêu tả việc uống trà là triết lý của người có văn hóa.
Các tác phẩm của Nguyễn Tuân cho chúng ta hiểu tại sao tuy đây đó tác phẩm
của ông có đượm chút “hoài cổ” song lại là những trang sách có ích bởi nó
cho thấy “bề dầy” của Hà Nội, giúp ta trân trọng những khía cạnh truyền
thống tốt đẹp.
Góc cạnh thứ ba, Hà Nội với màu sắc lãng mạn, buồn ảm đạm, phong
vị trữ tình quyến luyến giữa cảnh vật và tình người. Người đọc có thể nhận
thấy đặc điểm này qua những trang viết của Thạch Lam, Xuân Diệu,
Nguyễn Bính…
Với Thạch Lam, Hà Nội bình dị qua từng nét vẽ, con người Hà Nội
thanh lịch, dịu dàng, chậm dãi bước vào hành trình cuộc sống. Mô-tip lặp lại
nhiều lần trong truyện ngắn Thạch Lam là một người thành phố về thăm quê
hương của mình. Trong Trở về, Dưới bóng hoàng lan, Những ngày mới, nhân
vật chính đều rất thiết tha với quê hương. Họ tìm thấy ở đấy những gì tượng
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 19
trưng cho sự trong sạch, sự bền chắc trong tình cảm. Đó là một Hà Nội nhạy
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội cảm tế nhị, giàu lòng thương xót người khác, một Hà Nội rất tử tế, sang trọng.
Trong Một cơn giận, nhân vật xưng tội tự kể về một tình thế trớ trêu: do bực
mình, nóng nảy, lạnh lùng, một trạng thái tâm lý không bình thường, anh đã
vô tình đẩy người khác vào bước đường bất hạnh. Nhưng sự tỉnh táo đến rất
nhanh, kèm theo là sự xót xa ân hận và đã có những hành động cụ thể, để sửa
chữa, vớt vát lại tình thế, khiến người đọc truyện không khỏi cảm động.
Qua Một cơn giận, tác giả cho thấy cách nhìn vào đời sống thấu đáo, biết
thông cảm với mọi lầm lẫn của mình và xung quanh. Con người Hà Nội, con
người thành thị ở đây có những nét đáng yêu, đáng trân quý như thế trong
ngòi bút Thạch Lam. Thạch Lam được đánh giá là tác giả viết về Hà Nội nổi
bật trong giai đoạn trước cách mạng tháng Tám. Ngòi bút của ông khi viết về
Hà Nội sâu sắc, ý nhị và giàu chất trữ tình.
Với Xuân Diệu, Hà Nội là những vỉa tầng tâm lý đa dạng của tình yêu
nhiệt thành, cháy bỏng với mảnh đất mới. Trong tâm trí nhà thơ, Hà Nội phải
đặt trên bối cảnh toàn miền đồng bằng Bắc Bộ, mới thật rõ cá tính. Trong tùy
bút Việt Nam đại hội, tác giả viết: “Thưa chị, trải bốn ngàn năm, chị lại càng
tươi tốt hơn bao giờ. Chị vẫn trẻ mãi như thế. Mấy thời đại qua, sông Nhị Hà
vẫn là một con sông trẻ... Núi Tản Viên tinh khiết như màu trời sắt lại, hồ Ba
Bể trăng soi lánh lỏi, Vịnh Hạ Long rồng nổi mây sa, con sông Thương nước
chảy đôi dòng. Nhưng huyền diệu nhất là mùa đông của chị. Ở tận miền Nam,
em ao ước đến luôn: em cố tưởng tượng cái rét thế nào, cái sương gió thế nào.
Những hôm mưa vừa mới tạnh, một trận gió lạnh bỗng xảy đến, đôi chút
sương kỳ diệu phơ phất các tán cây, thành phố Sài Gòn của em nhớ thương
Hà Nội hơn lúc nào hết”.
Hà Nội trước cách mạng có những nét khác biệt đậm nét trong cảm
nhận của Xuân Diệu. Một Hà Nội mờ nhạt, êm đềm, pha chút gì buồn trên
từng câu chữ: “Tôi biết nói cái gì trước bây giờ? Cái gì cũng buồn như nhau.
Con đường sắc xanh không rải nhựa, dãy phố lặng lẽ, gian nhà không chút
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 20
đặc biệt của ông chủ, căn phòng không sáng sủa của bạn tôi... Mọi vật đều
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội buồn một cách lưng chừng, xui lòng tôi không đủ cớ mà buồn nữa kia, phải
chịu ngùi ngùi một cách vô lý”.
Và đây nữa, cái chất lưng chừng, vừa phải của một mảng đời thành
phố, qua sự cảm nhận của Xuân Diệu: “Đoạn đường chạy qua không đủ rộng
để làm một đường phố, cũng không đủ hẹp để làm một ngõ hẻm, đá không
chịu lởm chởm, mà chỉ hơi gập ghềnh. Nhà không chịu xấu, không chịu tồi
mà lại chưng một vẻ phong lưu nghèo nghèo một ít. Ánh sáng không chịu
sáng, giữa hai dãy lầu khéo đứng để ngăn mặt trời, cả ngày chỉ là một buổi
chiều dài. ở chợ Hôm đang náo nhiệt bao nhiêu, thế mà vừa đi một trăm bước
để vào con đường này, cuộc đời bỗng quạnh hiu, làm cho nhà cửa ngơ ngẩn”.
Với Nguyễn Bính, Hà Nội mang vẻ mộc mạc, đáng yêu. Tác giả xem
xét Hà Nội với góc nhìn của người chân quê tiếp xúc với chốn phồn hoa đô
thị. Hà Nội trong ông tươi mới, thản nhiên:
Sáng nay sau một cơn mưa lớn
Hà Nội bừng lên dưới nắng vàng [20; 71]
Hay:
Nhà em ở cuối kinh thành
Bên hồ Trúc Bạch nước xanh men chàm [20; 119].
Hà Nội trong ông không gây ra một ngạc nhiên chấn động gì đáng kể,
mà chỉ là nơi ông sống, làm việc, yêu đương như các nơi khác. Tác giả nhận
“tôi đi gian díu với kinh thành”. Gian díu có nghĩa là không lâu bền, có thể
tan vỡ bất cứ lúc nào. Bấy giờ, Hà Nội trong Nguyễn Bính chỉ còn mờ mờ ảo
ảo, không rõ rệt. Đây là những câu thơ trong bài Một con sông lạnh:
Chưa say, em đã say gì
Chúng tôi còn uống còn nghe em đàn
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 21
Rưng rưng ánh nến hoa vàng
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Đôi dây nức nở muôn ngàn nhớ thương
Đôi dây như thế đôi đường
Em ơi! Hà Nội là phương hướng nào [20; 195]
Góc cạnh thứ tƣ, Hà Nội sục sôi nhiệt huyết, chuyển mình chuẩn bị
cho cách mạng tháng Tám. Các tác giả nổi bật là Tô Hoài, Vũ Ngọc Phan,
Nguyên Hồng. Tác phẩm nổi bật là Chuyện Hà Nội của Vũ Ngọc Phan, Xóm
giếng của Tô Hoài. Trong Xóm giếng có đoạn: “Người ta ước ao làm một trận
mưa rào. Mưa rào xuống cho lòng hả hê và cho trời quang đãng. Những cái gì
bực tức được gạt bỏ. Trong khoảng mênh mông xanh nhởn kia sẽ phủ một
không khí tốt lành và tự do”.
Nguyên Hồng có cái nhìn về Hà Nội rất rạch ròi. Ông xa lạ một thứ
kinh thành hoa lệ của bọn nhà giàu. Nhưng ông càng thêm yêu một Hà Nội
khác, Hà Nội tranh đấu, đầy sức sống: “Chiều hôm ấy dịu nắng thì có gió.
Trời mây và các mặt nước Hồ Tây, hồ Hoàn Kiếm, các đường cây, các tầng
khối kiến trúc, các ống khói, các nhịp cầu, các bờ bãi sông Hồng cùng với phù
sa chảy lừ lừ đang đợi các lũ nguồn chưa bao giờ lại đẹp, rực rỡ trong nắng
chiều và gió thổi lộng như bây giờ. Các đường phố Hà Nội như đang có một
thứ máu mới dạt dào vậy”.
Hà Nội nhếch nhác, đau khổ và khi bị ném bom, khi nạn đói đổ tới, thì
càng thảm hại hơn. Ngòi bút Nguyên Hồng lại có dịp cực tả, từ những đống
người đắp chiếu bên đường, đến cả thành phố ốm o, bệnh tật trông nhiều nhà
như bỏ hoang hay có người điên bị giam giữ, người ốm yếu bại liệt đang hấp
hối: “Cả Hà Nội ầm ĩ rần rật, nung nấu… Con sông Hồng ở bên kia đường
trước cửa nhà tôi ngồi viết càng cuồn cuộn, ì ầm phù sa nước lũ. Chiều chiều,
các đỉnh Tam Đảo, Ba Vì mây trắng lung linh, rực rỡ, vang âm, như có cờ
bay, quân trẩy, súng dậy ngựa reo… Hà Nội như một ngõ núi lửa rình phục”.
Tác phẩm của các nhà văn, nhà thơ viết về Hà Nội giai đoạn này là
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 22
những chứng tích có ý nghĩa lịch sử không thể lặp lại trong văn chương.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
1.1.3. Trong văn học kháng chiến
Ngày 2/9/1945, giữa Ba Đình đầy nắng, Chủ tịch Hồ Chí Minh trang
trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng
hòa. Đất nước còn non trẻ, lại phải đối mặt với thù trong giặc ngoài, thực dân
Pháp quyết trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Ngày 19/12/1946, Chủ tịch
Hồ Chí Minh phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến. Cả nước tập trung
cho kháng chiến trường kỳ, trải qua kháng chiến chống Pháp, kháng chiến
chống Mỹ. Văn chương viết về Hà Nội cũng hòa chung nhịp đập đất nước.
Ở cuộc kháng chiến chống Pháp, Hà Nội trong những trang văn chương
là không khí ngút trời của tinh thần lạc quan, lên đường chiến đấu, hi sinh cho
Thủ đô, cho đất nước. Các tác giả nổi bật có thể kể đến là Nguyễn Đình Thi,
Nguyễn Huy Tưởng, Chính Hữu, Kim Lân, Nguyên Hồng, Vũ Cao…
Nguyễn Đình Thi là cây bút nổi bật trong giai đoạn kháng chiến chống
Pháp. Hà Nội trong các tác phẩm của ông như cuốn lịch sử bằng văn chương
về Hà Nội. Trong các cuốn tiểu thuyết Xung kích, Vỡ bờ, Mặt trận trên cao,
kịch Nguyễn Trãi ở Đông Quan, Tiếng sóng, Giấc mơ… tác phẩm nào của
ông cũng có hình bóng những người thanh niên của vùng đất ngàn năm văn
vật. Trong tác phẩm của Nguyễn Đình Thi, Hà Nội xuất hiện với những đổ
nát trong ngày đầu của cuộc kháng chiến, vất vả, đau thương:
Bức tường đầy vết đạn
Ôm bóng tối đổ nghiêng
...Hà Nội nát người trong gai sắt
Máu chảy hồng tươi bất khuất
(Hà Nội đêm nay)
Tiếp xúc với nhiều bài thơ của Nguyễn Đình Thi như các bài Không
nói, Mưa xuân, Nhớ, Bài thơ viết cạnh đồn Tây, chúng ta không sao quên
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 23
được hình ảnh một lớp thanh niên Hà Nội, những người con trai trên đường ra
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội trận, những người con gái bồi hồi xúc động muốn chia xẻ với người yêu của
mình mọi gian nan vất vả. Những chiến sĩ trong buổi đầu nhận nhiệm vụ
mang hơi thở của Hà Nội trong đó:
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may.
(Đất nước)
Đọng lại trong tâm trí người đọc là nụ cười, nụ cười của những người
đã ngã xuống, của những người đang sống, nụ cười mang “niềm hi vọng xóa
thương đau”, nụ cười của ngày trở về, ngày chiến thắng:
“Bóng cờ bát ngát ngày vui, nước non reo cười, trên môi người cười
Tiếng cười
Ngày về”
(Người Hà Nội)
Nguyễn Huy Tưởng từng được Vương Trí Nhàn tôn vinh là “một trong
những người xứng đáng nhất với danh hiệu nhà văn Hà Nội”. Không phải
ngẫu nhiên mà nhà văn Nguyễn Tuân trong lời bạt cuốn tiểu thuyết đã cảm
nhận: “Đọc lại tiểu thuyết lịch sử, kể cả Sống mãi với thủ đô, người đọc vẫn
thấy gây gây mùi khói vương vấn ngàn năm Thăng Long chốn cũ”. Trong
Sống mãi với Thủ đô, tác giả ca ngợi rừng bàng Yên Thái hay bến trúc Nghi
Tàm “hàng vạn cây trúc thân vàng soi bóng xuống nước hồ biếc”… Cùng với
đó là những đoạn viết về khu phố trung tâm thủ đô như: quanh hồ Hoàn
Kiếm, Hàng Đào, chợ Đồng Xuân, các đại lộ lớn hiện nay như Bà Triệu, Hai
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 24
Bà Trưng, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo,… Nguyễn Huy Tưởng luôn tâm
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội niệm: “Không vụ tài liệu mà chú trọng đến con người”, đến những khía cạnh
có chiều sâu nhân bản. Đi suốt chiều dài của thiên tiểu thuyết là Trần Văn,
một trí thức yêu nước, hiểu biết sâu sắc truyền thống lịch sử của dân tộc,
khinh bỉ giàu sang, tự nguyện ở lại Hà Nội tham gia chiến đấu nhưng “tự đáy
lòng, anh ghét chiến tranh, ghét cả cái tên của nó”. Cũng như Trần Văn, các
học trò của anh trước giờ phút lâm nguy của thủ đô đã quyết sống chết không
rời Hà Nội. Với ngòi bút hào hoa, mẫn cảm, Nguyễn Huy Tưởng đã diễn tả
được những nét sang trọng, lịch sự của người Hà Nội, sang trọng, lịch sự mà
vẫn yêu nước, ghét chiến tranh, điều đó làm nên hương vị và màu sắc riêng,
không lẫn với những bộ tiểu thuyết cùng thời.
Ở cuộc kháng chiến chống Mỹ, Hà Nội là trái tim của cả nước, trung
tâm của những cuộc tập kích phá hoại của kẻ địch. Văn chương viết về Hà
Nội ca ngợi vẻ đẹp của con người và mảnh đất anh hùng trong chiến đấu,
chiến thắng. Hà Nội trong Nguyễn Đình Thi là những cuộc chia tay lưu luyến
nhưng không bịn rịn mà vững tin vào chiến thắng:
Anh nắm cánh tay em và đứng lại
Ôi anh không còn biết đang ở đâu
Nhớ nhau chân cứng đá mềm em nhé
Hẹn đánh Mỹ xong sẽ về tìm nhau
Chào Hà Nội của ta sáng đẹp
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mông
Thành phố tình yêu thành phố thép
Ta chào trái tim đất nước anh hùng
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 25
(Chia tay trong đêm Hà Nội)
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Viết về Hà Nội, Nguyễn Tuân có rât nhiều tác phẩm có giá trị. Tiêu
biểu trong giai đoạn kháng chiến chống Mỹ ông có tập bút ký Hà Nội ta đánh
Mỹ giỏi. Đây có thể coi là tráng ca viết về những năm tháng hào hùng của thủ
đô. Tập tùy bút Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi trong lần in đầu gồm cả thảy 11 bài,
dài ngót hai trăm trang, nội dung cơ bản đề cập tới cuộc đối đầu của quân dân
Hà Nội với không lực Mỹ. Tác giả tự hào với chiến công của Hà Nội: “Hăm
ba con đại bàng Mỹ B.52 là thành tựu chiến thắng chung của Thủ đô trong
chiến dịch mười hai ngày đêm liền Hà Nội chỉ ngủ có một mắt”.
Ngoài Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Tuân, còn những nhà văn, nhà thơ
nổi bật khác như Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Thành Long, Phạm Hổ, Nguyễn
Quang Sáng, Nguyễn Khải, Hữu Mai, Hồ Phương, Nguyễn Minh Châu, Trần
Đăng, Hoàng Lộc, Vũ Cao,… Những tác giả sáng tác về Hà Nội với nhiều thể
loại, đề tài tạo điểm nhấn về một Hà Nội quật cường nhưng cũng rất lịch lãm
trong kháng chiến
Truyền thống văn chương viết về Hà Nội đóng góp một phần không
nhỏ trong bức tranh toàn cảnh văn học Việt Nam. Văn chương viết về Hà Nội
là tập hợp “lịch sử viết bằng văn chương”, người đọc có thể khám phá, đánh
giá bức tranh Hà Nội qua bước chuyển mình của lịch sử. Đây cũng là nguồn
tư liệu quý giá để các nhà văn đương đại khai thác, tìm hiểu khi sáng tác về
Hà Nội.
1.2. Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc Tiến và Nguyễn
Trƣơng Quý trong góc nhìn văn chƣơng viết về Hà Nội thời kỳ đổi mới
Hà Nội là thành phố lớn nhất Việt Nam về diện tích với 3328,9 km2,
đồng thời cũng là địa phương đứng thứ nhì về dân số với 7.130.000 người (thống kê của thành phố Hà Nội năm 2012). Mật độ trung bình 2.14 người/m2.
Hiện nay, thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh là đô thị loại đặc biệt
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 26
của Việt Nam. Hà Nội có những bước chuyển mình mạnh mẽ trong thời kỳ
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội đổi mới. Bước phát triển ấy được cập nhật trong mỗi tác phẩm khi viết về
Hà Nội.
Hình ảnh Hà Nội hiện đại và cuốn hút hiện lên trong nhiều tác phẩm
của các nhà văn. Với Băng Sơn, từ quang cảnh đến âm thanh, mùi vị của Hà
Nội đều được miêu tả chi tiết qua ngòi bút của ông trong các tác phẩm như:
Có một Hà Nội âm, Thú ăn chơi của người Hà Nội, Hà Nội rong ruổi quẩn
quanh… Hà Nội cũng hiện ra đầy màu sắc, qua góc nhìn của Tế Hanh với
Hà Nội và hai ta, Gặp xuân ngoại thành, Hồ Thiền Quang; Tô Hoài với
Người ven thành, Lăng Bác Hồ, Chuyện cũ Hà Nội; Nguyễn Khải với Một
người Hà Nội…
Trong âm điệu chung ấy, Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà, Nguyễn Ngọc
Tiến và Nguyễn Trương Quý nổi bật là những cây bút có cách khai thác mới
về thủ đô. Hà Nội dưới trang viết của các tác giả hiện lên đầy màu sắc của đô
thị đang đổi mới với những tích cực và tiêu cực xuất phát từ nội tại.
Đỗ Phấn sinh năm 1956 tại Hà Nội. Tốt nghiệp Đại học Mỹ thuật Hà
Nội năm 1980 và từng giảng dạy mỹ thuật tại Khoa Kiến trúc, Đại học Xây
dựng Hà Nội (1980 - 1989). Ông là tác giả của các tập tản văn: Chuyện vãn
trước gương (2005), Ông ngoại hay cười (2011), Phượng ơi (2012), Hà Nội
thì không có tuyết (2013); các tập truyện ngắn: Kiến đi đằng kiến, Đêm tiền sử
(2009); và các tiểu thuyết: Vắng mặt (2010), Chảy qua bóng tối, Rừng người
(2011), Gần như là sống, Con mắt rỗng (2013). Hình dung về con người và
những trang văn của Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà có khái quát: “Anh như lão
cao bồi già lang thang, đi đi về về trên những đoạn phố cũ. Nơi ấy thấp
thoáng bóng dáng dăm ba tay công chức, những biệt thự dở dang bảng lảng
trong chiều muộn - một không gian đậm chất Hà thành” [51].
Trong cảm nhận của cá nhân tác giả, Hà Nội là sự giằng co giữa ý thức
truyền thống và đổi mới, không ít người cảm thấy lạc lõng giữa nơi mình
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 27
đang sinh sống: “Trong bối cảnh khác xưa, con người cũng phải mới lên để
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội bắt kịp nhịp sống mới. Ở những trang viết của mình, tôi sẽ đi vào khai thác sự
giằng co giữa một bên là ý thức gìn giữ truyền thống và một bên là thôi thúc
đổi mới. Con người làm sao để sống tốt, để cân bằng hai trạng thái ấy? Trong
quá trình tranh đấu đó, chắc hẳn, không ít người sẽ mang cảm giác “lạ phố,
lạc phố” [51].
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến sinh ra và lớn lên ở vùng ven nội thành Hà
Nội (hiện nay thuộc khu phố Vọng, quận Hai Bà Trưng). Ông hiện đang là
phóng viên báo Hà Nội mới và là tác giả của các tác phẩm Phần mềm tình yêu
(2006), 5678 bước chân quanh Hồ Gươm (2008), Đi dọc Hà Nội (2011) và Đi
ngang Hà Nội (2011). Sinh ra ở Hà Nội, sống ở Hà Nội nhưng rất ít người
biết ai là người xây Tháp Rùa, đào Nhật Tân có từ bao giờ, rạp chiếu phim
xuất hiện ở Hà Nội từ khi nào? Đi dọc Hà Nội, Đi ngang Hà Nội giúp chúng
ta có câu trả lời cho những câu hỏi ấy. Đọc những trang sách viết về Hà Nội
của Nguyễn Ngọc Tiến, độc giả như được lật giở từng trang chân thật nhất
về đời sống của người và đất Hà Nội. Tác giả viết đơn giản nhưng có hệ
thống; không màu mè, kiểu cách mà người đọc vẫn thấy rất cuốn hút.
Nguyễn Việt Hà sinh năm 1962 tại Hà Nội. Ông là một gương mặt tiêu
biểu của văn xuôi Việt Nam đương đại. Các tiểu thuyết Cơ hội của Chúa
(1999), Khải huyền muộn (2003); tập truyện ngắn Của rơi (2004); tạp văn
Nhà văn thì chơi với ai (2005), Mặt của đàn ông (2008), Đàn bà uống rượu
(2010), Con giai phố cổ (2013) đều gây được sự chú ý của độc giả. Một số tác
phẩm của ông đã được dịch sang tiếng nước ngoài.
“Hà Nội thật ra chẳng của riêng ai. Nhưng trong từng người, Hà Nội lại
có từng ý riêng, cách nhìn và tình cảm riêng với mảnh đất này” - Nguyễn Việt
Hà trả lời khi được hỏi “Hà Nội của Hà là gì?”. Với Nguyễn Việt Hà, Hà Nội
đâu chỉ là quê hương, là nơi gắn bó về tâm hồn, mà còn là một đề tài cho các
sáng tác: “Hà Nội là một đề tài miên viễn, thời thượng. Tôi may mắn khi viết
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 28
về đời sống thị dân ở đây” [52].
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Trong các tác phẩm của Nguyễn Việt Hà, nhất là trong tiểu thuyết
mới Ba ngôi của người, Hà Nội hiện lên xấu xí, nhốn nháo. Tác giả viết:
“Nhà nghỉ nhiều nhan nhản đã làm cho Hà Nội trở nên một con đĩ thập
thành”; “Hà Nội bây giờ thì buồn quá, nó không quá nghèo nhưng vô đạo và
ít học”; hay “Thành phố đang loay hoay tha hóa”. [52]
Nguyễn Trương Quý cũng như Đỗ Phấn xuất phát điểm không phải là
người theo sáng tác chuyên nghiệp. Tác giả tốt nghiệp Đại học Kiến trúc,
nhưng niềm đam mê và sự ám ảnh của văn chương đã thôi thúc anh bước vào
nhịp điệu văn học nghệ thuật. Người đọc Trương Quý rất dễ nhận ra văn
phong của anh. Ngay ở cách đặt tựa Trương Quý đã có cách nhìn riêng với
các nhà văn cùng thời. Mỗi tên tựa là một khám phá, rất thời sự, dí dỏm, trần
trụi nhưng không hề thiếu chất lãng mạn của văn chương. Đã có ít nhất ba tập
tản văn được in ra đó là: Tự Nhiên như người Hà Nội, Hà Nội là Hà
Nội, và Ăn phở rất khó thấy ngon. Nguyễn Trương Quý là đại diện cho người
trẻ sáng tác về Hà Nội với cách nhìn nhận mới có sự khác biệt tương đối với
các tác giả khác. Dù sao, cách nhìn của người trẻ vẫn luôn đổi mới và thú vị
theo “cá tính” thời gian.
Tiểu kết: Hà Nội là đề tài mà những người nghệ sĩ của nhiều thời đại
theo đuổi. Màu sắc của chốn Kinh kỳ hoa lệ luôn tươi mới trong những trang
viết với đầy đủ cung bậc sắc thái. Hà Nội trong suốt chiều dài 1000 năm lịch
sử, có sự thay đổi của cảnh quan, con người, địa vật nhưng cái hồn của cốt thu
hút đặc biệt của trung tâm ý thức hệ luôn được giữ gìn. Nhìn về Hà Nội là
nhìn về một kiểu, mẫu trung tâm, được trân trọng và bảo lưu qua nhiều thế hệ.
Những nghệ sĩ khi sáng tác về Hà Nội luôn muốn đào sâu, tìm tòi những góc
cạnh này. Hà Nội từ Chiếu dời đô của Lý Công Uẩn đến Hà Nội ta đánh Mỹ
giỏi của Nguyễn Tuân và những tác phẩm đương đại khác đều chung một
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 29
nhịp đập “trái tim của cả nước”.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Góc nhìn Hà Nội, một đô thị đổi mới của các nhà văn đương đại có
những đóng góp riêng cho văn chương viết về Hà Nội. Đó là góc nhìn của
giới trẻ, của những sắc thái đương thời mang tính cập nhật về sự biến đổi của
Hà Nội. Hà Nội thay đổi nhanh, mạnh, Hà Nội không chỉ còn là trái tim của
cả nước mà đã hòa kết với những thành phố lớn trên thế giới. Với văn chương
viết về Hà Nội, mỗi nhà văn đương đại có cách nhìn riêng, đặc biệt khi khai
thác thể loại tản văn, cách nhìn ấy càng trở nên nổi bật: Băng Sơn thương cái
hoài cổ, Đỗ Phấn giùng giằng giữa cái đổi thay, Nguyễn Việt Hà đau cái xô
bồ, cái nhìn khảo cứu của Nguyễn Ngọc Tiến, cái nhìn hóm hỉnh, rộng mở
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 30
của Trần Chiến và tầm nhìn đô thị trẻ của Nguyễn Trương Quý.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
CHƢƠNG 2
BỨC TRANH ĐỜI SỐNG ĐÔ THỊ TRONG
TẢN VĂN VIẾT VỀ HÀ NỘI
2.1. Ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xƣa
Bức tranh đời sống đô thị trong tản văn viết về Hà Nội có sự “ngoái lại”
về ký ức ngàn năm của Hà Nội xưa. Từ điển Tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên
định nghĩa “Ký ức” là: “Quá trình tâm lý phản ánh lại trong óc những hình ảnh
của sự vật đã tri giác được hoặc những tư tưởng, tình cảm, hành động về những
sự vật đó” [36; 669].
Quá trình tri giác được tích tụ qua lăng kính chủ quan của người viết
với hình ảnh về Hà Nội. Hà Nội là vùng đất được người Việt khai thác từ rất
sớm. Vào thời kỳ đồ đá, phần lớn vùng Hà Nội vẫn còn chìm trong nước. Chỉ
có khu vực gò Cây Táo ở làng Triều Khúc là nhô lên trên mặt nước biển, tại
nơi này người ta đã tìm thấy những dấu vết của con người vào đầu thời kỳ đồ
đá cũ, đặc biệt là những mảnh đá mài và những mảnh công cụ. Sau khi nước
biển rút đi, con người bắt đầu đến sinh sống ở khu vực Phúc Thọ, cái nôi nền
văn hóa Phùng Nguyên (2000 - 1500 tr.CN) [35; 14]. Hà Nội vắt mình qua
những thăng trầm của lịch sử, biến đổi từng ngày, từng giờ, nhưng những gì
nổi bật đã tồn tại là nét ký ức được lưu giữ trong quá trình phát triển của
những người trực tiếp sống, làm việc tại mảnh đất ngàn năm văn vật.
Như vậy, vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa là những góc hình của văn
hóa, con người, xã hội, kiến trúc xưa cũ được bảo tồn, lưu giữ qua quá trình
hình thành, phát triển. Mỗi hình ảnh của sự vật được tri giác là ký ức không
thể quên lãng, là dấu ấn của Hà Nội trong quá trình phát triển.
Ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội được phản ánh trực tiếp thông
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 31
qua kiến trúc cổ của Hà Nội. Người đọc không khó để nhận diện cơ tầng văn
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội hóa kiến trúc được các tác giả miêu tả với những nét trân trọng, hoài cổ: “Hà
Nội đã từng có một thẩm mĩ kiến trúc đặc sắc với những ngói nâu tường
trắng, cửa bức bàn và những chiếc đấu đầu hồi vuông vức chắc khỏe đầy chất
tạo hình. Đó có lẽ cũng là chuẩn mực thẩm mĩ kiến trúc đầu tiên và duy nhất
mang tính cộng đồng tự giác của đô thị”. Hay rộng hơn, người đọc có thể hình
dung ra một Hà Nội được nhìn từ bốn phía đã được thu gọn vào tầm mắt của
tác giả: “Đầu những năm sáu mươi thế kỷ trước, nếu đi từ phía tây mà về Hà
Nội, một cột mốc quan trọng khiến ai cũng phải lựa chọn cho định hướng của
mình. Đó là hai chiếc ống khói của nhà máy gạch Đại La ở cuối đường Cát
Linh. Một biểu tượng hiền hòa chất phác và kiêu hãnh của nền văn minh gạch
máy đầu thế kỉ trước. Nếu từ hướng đông về, hẳn điểm mốc đầu tiên khi gặp
Hà Nội phải là cây cầu Long Biên. Nó là điểm cao nhất có thể nhìn thấy khi
cách Hà Nội vài chục cây số. Từ hướng nam nhìn vào thủ đô tương đối bằng
phẳng. Chỉ có thể phát hiện ra cái két nước ở khu tập thể Kim Liên khi đã đến
rất gần. Về từ hướng bắc là hai chiếc cột điện bắc qua sông Hồng mãi trên
Chèm Vẽ. Lúc ấy chưa nối liền với thành phố. Vẫn còn là một vùng quê thuần
nông ngô lúa...” [33; 135, 136].
Qua các tác phẩm được khảo sát, có thể nói kiến trúc được nhắc đến
nhiều nhất, gắn liền với ký ức về Hà Nội cổ và xưa là khuôn viên kiến trúc Hồ
Gươm. Hầu hết các tác giả khi viết về Hà Nội, đều nhắc đến địa danh Hồ
Gươm với những góc tiếp cận khác nhau. Nguyễn Ngọc Tiến khai thác dựa
trên những cứ liệu lịch sử về đền Ngọc Sơn: “Hiện không có tài liệu nào ghi
chính xác chúa Trịnh Giang xây cung Khánh Thụy trên núi Ngọc năm nào.
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Vĩnh Phúc, cung được xây vào năm 1739. Họ
Trịnh suy vong, Lê Chiêu Thống đã trả thù bằng cách đốt cung vào năm 1786.
Sang thế kỷ XIX, một ngôi chùa được dựng lên trên nền cung Khánh Thụy.
Năm 1843 chùa lại đổi thành đền, thờ Văn Xương, Trần Hưng Đạo và Quan
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 32
Vũ (một danh tướng thời Thục Hán - Trung Quốc)” [44; 333].
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Trong khi đó, họa sĩ Đỗ Phấn tập trung vào kiến trúc của Tháp Rùa với
những khám phá đặc biệt: “Tháp Rùa tồn tại bởi lý do thẩm mĩ là chính. Vẻ
đẹp của nó rất khó gọi tên. Không phải thứ thẩm mĩ rạch ròi Đông Tây Kim
Cổ của kiến trúc. Cũng không phải vì kích thước áp đảo của một tòa cao ốc.
Lại càng không phải di tích lịch sử gắn liền với những chiến công hiển hách
của tiền nhân. Đơn giản, nó chỉ như một nét chấm phá tuyệt diệu vào đúng cái
nơi cần có trong khung cảnh mênh mang nước hồ Lục Thủy” [33; 221].
Có thể nhận thấy cùng khai thác ký ức vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội
xưa nhưng trong sáng tác của các nhà văn được khảo sát có cái nhìn trân trọng
và thể hiện niềm tin gắn bó với thực tại, trong khi đó các nhà văn lớp trước
thường gắn bó với những kỉ niệm vang bóng một thời. Giữa mênh mang sóng
nước Hồ Gươm, Băng Sơn chọn cho mình góc nhìn mới nhưng không tách
dời dòng chảy ký ức. Với tác giả, Hồ Gươm là nơi gắn bó với hàng cây trùm
bóng xuống mặt nước xanh rêu: “Có thể gọi các loài xanh cây lá quanh Hồ
Gươm là một đặc sản Hà Nội chăng? Nó không thể thiếu, nó đã đi vào hồn
người nhiều thế hệ, dù bạn là nhạc sĩ tài hoa, nhà nhiếp ảnh kì tài, hay chỉ là
người bình dị hằng ngày bươn chải…”[41; 59]. Hay những người đã xây
dựng cho Hà Nội những nét đẹp trong văn hóa ứng xử, tri thức và tính cách
Hà Nội: “Có nơi nào nhiều danh sĩ như Hà Nội? Cao Bá Quát nhà ở phố Đình
Ngàng, Phạm Đình Hổ cư ngụ nơi phường Hà Khẩu (Hàng Buồm), cả đến
người tung bút gió mưa viết nên bản tuyên ngôn đầu tiên “Nam quốc sơn hà
nam đế cư…” là Ngô Tuấn - Lý Thường Kiệt cho đến một Ức Trai hào hùng
trong “Bình ngô đại cáo”, mà chứng tích còn ghi trong câu thơ “góc thành
Nam lều một gian…”[41; 24]. Đọc Băng Sơn mô tả, có nhắm mắt cũng hình
dung ra được khung cảnh, sự việc và sự vật. Có nhiều sự trùng lập trong lối
mô tả của ông từ bài viết này qua bài viết khác, chứng tỏ tác giả đã “hiểu” Hà
Nội như chính lòng bàn tay mình. Ông viết về Hà Nội như đóng đinh vào trí
nhớ người đọc một cách tinh tế và dạt dào yêu thương. Qua đây có thể thấy
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 33
rõ, ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội trong sáng tác của các tác giả là sự
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội hoài niệm nhưng không u hoài. Ký ức ấy tồn tại trong nếp nghĩ của một thế hệ
nhưng vận động và tìm ra hướng đi phát triển. Ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của
Hà Nội trong sáng tác của họ vẫn tạo dựng được sự kết nối với thực tại, sự
phát triển gắn liền với nhịp đập của đô thị trẻ. Trong cách nhìn của các tác
giả, ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội hiện lên đầy rõ nét, mang sự kết
nối với hiện thực. Ký ức ấy là cầu nối của Hà Nội cổ xưa với Hà Nội hiện đại
đang vận động và không ngừng phát triển.
Vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa còn hiện lên trong ký ức của các tác
giả bằng tiếng leng keng tàu điện: “Chuyến tầu đầu tiên trong ngày bắt đầu
từ 5 giờ sáng. Từ Mơ lên Bờ Hồ toàn các bà mang rau lên chợ Hàng Bè hay
Đồng Xuân. Khách đi tầu tuyến vào Hà Đông, đa phần là sinh viên Tổng
hợp hay Đại học Ngoại ngữ, Kiến trúc. Chuyến ra thường là các bà thu mua
lông gà, lông vịt làng Triều Khúc, họ treo thúng mủng ở phía ngoài của toa
cuối. Dài ngắn cũng vé đồng 5 xu. Khi đến bến, anh bán vé nhanh chóng kéo
dây thừng hạ cần tiếp điện để đảo chiều còn lái tầu thì cầm tay lái chữ Z
bằng đồng vào quán nước. Đầu tay lái hình vuông để tra vào lỗ, khi không
chạy thì nhấc ra, mất là ăn mày luôn. Đặc biệt là chuông điện. Núm dận
chuông ngay gần chỗ lái tầu. Nếu cần báo hiệu cho người đi trong địa phận
đường ray phía trước, lái tầu dận vào núm đồng là phát ra tiếng leng keng.
Trước khi chuyển bánh hoặc đến bến lái tầu cũng dận chuông. Leng keng trở
thành âm thanh đặc trưng của tầu điện, nó không rắt réo, không khoe mẽ như
tầu hỏa, rất chân thành và giản dị. Tiếng leng keng khiến lớp người một thời
khó quên, trong bài hát Nhớ về Hà Nội của nhạc sỹ Hoàng Hiệp có câu “...
và nhớ tiếng leng keng tầu sớm khuya hướng ra Đống Đa, Cầu Giấy...”” [44;
55, 56]. Đó là chuyến tàu chở bao lớp người của một thời quá khứ. Giờ đây,
nhiều cung đường đã thay đổi, những chuyến tàu đã chỉ còn trong ký ức của
bao lớp người nhưng bằng cảm xúc và trí nhớ của mình, Nguyễn Ngọc Tiến
đã giúp người đọc được đứng trên một chuyến tàu điện ký ức luồn lách qua
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 34
nhiều con phố nhỏ của Hà Nội.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Ký ức về vẻ đẹp của Hà Nội xưa còn là hương vị Tết truyền thống len
lỏi trong các phố phường, trong mỗi gia đình: “Thật ngạc nhiên là mình ngày
bé cũng đã từng rất mong đến Tết. Trước hết là được nghỉ học đi chơi. Được
ăn uống tùy ý quá với khẩu phần hàng ngày. Có thể còn được mặc quần áo
mới. Và dĩ nhiên trong túi quần lúc nào cũng hãnh diện có hơn thằng bạn
mươi quá pháo tép nhàu nát tháo ra từ bánh pháo tiêu chuẩn Tết của gia đình”
[33; 27]. Không khí Tết của Đỗ Phấn giản dị và chân thực, đó là cái không
khí Tết truyền thống ngọt ngào len lỏi trong những căn nhà Hà Nội xưa như
vẫn hiển hiện trước mắt người nghệ sĩ già: “Chiều hăm sáu Tết, bà nội trải hai
chiếc nia rộng lên chiếu. Lá dong rửa sạch. Lạt giang lột mỏng. Gạo ngâm, đỗ
đãi, thịt ướp muối tiêu. Cụ dạy con cháu gói bánh chưng. Gói xong bắc bếp.
Đặt nồi cá kho mía bên cạnh. Nổi lửa... Bố tôi lên phố Hàng Trống. Chơi ở
đấy lâu lắm. Tối mang về bức tranh “Lí ngư vọng nguyệt” đã bồi trục cuốn
cẩn thận treo lên bức tường trang trọng nhất trong nhà. Cành đào phai thế “bạt
phong” cắm trong lọ Hán. Khói hương trầm thơm ngát bên mâm ngũ quả đầy
ắp sặc sỡ. Lũ trẻ thao thức ngồi chờ nghe tiếng pháo giao thừa. Cứ ngỡ đó là
hình ảnh vĩnh cửu của một cái Tết phố phường” [33; 50, 51].
Ký ức về vẻ đẹp của Hà Nội xưa cũng là ký ức về những thú vui nho
nhỏ của người Hà Thành. Có những đoạn, Đỗ Phấn đã khiến độc giả chỉ cần
đọc thôi người ta đã thấy cái vị của cà phê dịu đắng trong miệng: “Dân nghiện
cà phê ít người uống ở quán mậu dịch. Họ tìm đến những “Nhân, Nhĩ, Dĩ,
Giảng”. Những quán cà phê nổi tiếng từ thời Pháp thuộc. Mỗi quán một gu
pha cà phê rất dễ nhận thấy khác biệt. Ông Giảng có bí quyết pha cà phê trứng
tuyệt vời. Ông cựu đầu bếp khách sạn Metropole này không chỉ cho trứng vào
cà phê mà còn cho cả vào bột đậu xanh, ca cao và bia nữa. Ông Nhĩ nghe đồn
có cho thêm chút sái thuốc phiện vào cà phê vừa pha. Chẳng biết thực hư thế
nào. Nhưng rất đông khách...” [33; 242]. Trong khi đó, Nguyễn Ngọc Tiến
lại để người đọc cảm thấy phảng phất đâu đây cái không gian cổ kính với mùi
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 35
rượu thơm nồng làm say lòng người: “Trước khi Hà Nội có nhà máy bia thì
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội đàn ông Hà Nội uống rượu Kẻ Mơ, trước nữa uống rượu sen do dân làng
Thụy Chương, một làng nằm bên Hồ Tây nấu. Thế kỷ XVIII và XIX, sỹ phu
Bắc Hà ăn tết “trùng cửu”, trước Tế này là mùa thu nên hoa cúc nhiều và Kẻ
Mơ đã chế ra thứ rượu cúc thơm nhẹ, uống vào thấy người bay bay, thế nên
mới có “Thu ẩm hoàng cúc hoa”. Sĩ phu còn dùng rượu này trong những ngày
tết Nguyên đán”. Sau cái hương rượu ấm nồng ấy là đến những quán bia trong
trung tâm thành phố: “Thập niên 20, từ bến tầu điện Bờ Hồ (bến xe buýt Đinh
Tiên Hoàng hiện nay) đến nhà Khai Trí Tiến Đức (hiện tại là 16 Lê Thái Tổ)
có rất nhiều quán giải khát ven hồ. Người ta chăng dây thừng quanh các gốc
cây, kê ít bàn nhỏ và ghế bán nước chanh chai, hoa quả, bánh gai, bánh quế,
bánh xu xê, bánh cốm. Sau này có quán bán thêm bia chai Hommel” [44; 29,
30].
Trong những trang văn của các tác giả được khảo cứu, Hà Nội hiện lên
độc đáo mang những nét đẹp riêng của ký ức về vẻ đẹp ngàn năm. Nó có sự
thống nhất của nét “sang trọng, quý phái, tinh tế” đã từng là điểm nhấn trong
sáng tác của các thế hệ Vũ Bằng, Thạch Lam, Nguyễn Tuân. Hà Nội luôn
được các nhà văn nhìn dưới góc nhìn văn hóa hết sức chi tiết và kĩ lưỡng.
Hà Nội hiện ra như một đô thị có lịch sử lâu đời, giàu có về sản vật, giàu có
về truyền thống và đặc biệt là giàu có về bản sắc văn hóa mà chúng ta có thể
đọc ra được tinh thần và tâm hồn Hà Nội trong văn học. Có chung sự thống
nhất ấy, nhưng đặc điểm nổi bật của Hà Nội trong sáng tác của các tác giả
được lựa chọn vẫn hiện lên rõ rệt với nhiều chất đời thường bởi không chỉ là
Hà Nội “sang trọng, tinh tế, quý phái” mà còn là “gần gũi, bình dị, tâm tình”.
Hà Nội trong sáng tác họ còn bộc lộ rõ những vẻ đẹp ký ức còn hiện hữu
trong một khoảng thời gian gần mà chúng ta có thể cảm nhận được qua những
góc nhìn cụ thể. Người đọc có thể tri giác nó qua những biểu hiện gần gũi vẫn
thường trực xuất hiện trên những con phố Hà Nội. Đây là nét sáng tạo độc
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 36
đáo trong sáng tác của các tác giả.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa được xây dựng dựa trên
góc nhìn riêng của mỗi tác giả khi tri giác về Hà Nội. Mỗi góc nhìn là một
lát ký ức được tạo dựng theo cảm quan riêng nhưng vẫn thống nhất trong cách
nhìn về Hà Nội. Hà Nội hiện lên đầy đủ với những vẻ đẹp ngàn năm in đọng
trong ký ức của con người từng sinh sống, làm việc và trực tiếp cảm nhận về
mảnh đất ngàn năm này. Hà Nội trong sáng tác của các tác giả tồn tại bóng
dáng của ký ức xưa, cũng là kết nối với Hà Nội hiện đại mà họ đang sinh
sống. Đó là nét khác biệt giữa các tác giả được lựa chọn với các tác giả thế hệ
trước trong cách tái hiện ký ức, hoài niệm của mình về Hà Nội. Với các tác
giả, tôn trọng những nét đẹp, những giá trị văn hóa ngàn năm của Hà Nội
chính là một cách xây dựng và bảo vệ mảnh đất này trong thời kỳ đổi mới.
2.2. Vẻ đẹp của đời sống đô thị thời kỳ đổi mới
Song song với việc tái hiện ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa,
các tác giả viết về Hà Nội cũng hướng ngòi bút của mình đến vẻ đẹp của đời
sống đô thị thời kỳ đổi mới. Hà Nội là Thủ đô của nước Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa từ năm 1945, từ một thành phố tiêu thụ hàng hóa, quy mô nhỏ, nền
công nghiệp chỉ với một vài cơ sở sản xuất hàng tiêu dùng, đời sống vật chất
và tinh thần còn rất khó khăn thì Hà Nội ngày nay không chỉ là Thủ đô, trung
tâm đầu não chính trị, hành chính quốc gia, trung tâm lớn về văn hóa, giáo
dục đào tạo, khoa học công nghệ, kinh tế và giao lưu quốc tế, mà còn là một
đô thị lớn, phát triển theo hướng đa hệ, văn minh và hiện đại.
Sự biến đổi của bộ mặt đô thị mới có những tác động tích cực không
thể chối bỏ. Các tác giả viết về Hà Nội là những người trực tiếp quan sát sự
biến đổi không ngừng nghỉ của Hà Nội. Điều này không mâu thuẫn với sự
trân trọng ký ức về vẻ đẹp ngàn năm của Hà Nội xưa, trái lại, sự hồ hởi đón
nhận những vang động mới từ phát triển của Thủ đô là cách tiếp cận vẻ đẹp
của Hà Nội với những phông nền đa sắc. Như khẳng định của Nguyễn Minh
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 37
Hòa khi nhận định về sự chấp nhận này: “Những quốc gia bị ảnh hưởng bởi
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Nho giáo như Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Việt Nam thường có truyền
thống bảo thủ cũng phải thừa nhận và chấp nhận phần quốc tế hóa này trong
đời sống đô thị như một thứ tất yếu và không thể cưỡng lại được như một quy
luật Nhân - Quả biện chứng” [8; 65].
Nguyên nhân của quá trình tiếp nhận này dựa trên chính đặc điểm của
Hà Nội. Theo nghiên cứu của Đỗ Hương Thảo: “Thăng Long - Hà Nội tuy là
đô thị trung đại Việt Nam tiêu biểu nhưng vẫn gắn bó chặt chẽ với nông thôn
nên quá trình hình thành đô thị Thăng Long - Kẻ Chợ không thuần nhất. Điều
này vừa là thuận lợi, vừa là hạn chế cho văn hóa và lối sống của cư dân
Thăng Long - Hà Nội” [8; 307].
Sự biến đổi của bộ mặt đô thị Hà Nội trong các sáng tác phải nhắc đến
đầu tiên là chợ Đồng Xuân. Hà Nội nổi tiếng là đất Kẻ Chợ, trung tâm buôn
bán xưa của cả nước. Nguyễn Việt Hà cũng từng khẳng định trong Con giai
phố cổ: “Chẳng biết cổ thì oách hơn cũ ở chỗ nào, chỉ biết con giai ở những
phố mang tên Hàng… là đương nhiên đặc sản sang trọng nhất Kẻ Chợ. Đám
lóc nhóc đang lớn ấy tuổi khoảng từ mười sáu đến hai mươi và cho đến bây
giờ vẫn hầu hết là con nhà buôn bán” [12; 25].
Kẻ Chợ xưa có sự biến đổi đột ngột khi có sự xuất hiện của chợ Đồng
Xuân. Đồng Xuân như bước dạo đầu của biến đổi thị trường buôn bán, tập
trung và hiệu quả. Nhưng bộ mặt đô thị Hà Nội thời kỳ đổi mới không chỉ
dừng ở chợ Đồng Xuân, những siêu thị mới với sự đa dạng mặt hàng, giá cả
ưu đãi là dấu ấn mới cho chợ Hà Nội. Đỗ Phấn đã nhận diện bước biến đổi
mạnh mẽ này trong Chợ: “Đô thị ngày một phát triển dài rộng mãi ra. Những
cái chợ cửa ô dần biến mất vào trung tâm để trở thành những siêu thị, những
cao ốc cho thuê văn phòng. Đó là việc tất yếu. Như đứa trẻ con thành phố học
hết lớp 12 là cứ nhiễm nhiên phải học lên lớp trên” [33; 67].
Bộ mặt chợ Hà Nội biến đổi nhanh và có sức hút đáng kinh ngạc đến
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 38
mức Nguyễn Trương Quý phải thốt lên: “Anh chị có nhớ cái ngày mà siêu thị
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Metro khai trương không? Cái ngày mà khiến cho cả Hà Nội phát sốt, phát rét
cho tận mấy tháng sau nữa. Nói ra thì bảo là quá đáng, nhưng nhớ lại mà xem,
Hà Nội năm 2004 mà phải chen lấn xếp hàng hơn bao cấp, họ cãi cọ giành
giật một chỗ để xe” [39; 106]. Ngôn ngữ được Nguyễn Trương Quý sử dụng
trong tác phẩm của mình hiện rõ sự hồ hởi, hân hoan khi bắt gặp những thay
đổi của đô thị mới. Những tình thái từ “ôi”, “chao ôi” được sử dụng với mật
độ dày đặc. Nó thể hiện sự choáng ngợp trước đổi thay nhanh chóng của đô
thị hiện đại. Chợ là bộ mặt thể hiện sự phát triển kinh tế của một đô thị. Sự
biến đổi của chợ Hà Nội mang dấu ấn trong đổi mới về kinh tế hàng hóa. Hà
Nội ngày nay đã và đang chuyển mình và luôn sẵn sàng đón nhận những thay
đổi theo hướng tiện ích, phù hợp với không gian đô thị mới.
Ngoài chợ, nơi tập trung buôn bán, trao đổi hàng hóa thể hiện sự năng
động của đô thị thời kỳ đổi mới còn là sự thay đổi của phương tiện giao thông
với đầy đủ những phát triển, vận động không ngừng. Điểm qua trang sách của
các tác giả viết về Hà Nội nói chung và các tác giả được lựa chọn nói riêng,
chúng ta có thể thấy bộ mặt phương tiện giao thông của Hà Nội có sự thay đổi
mạnh mẽ. Phương tiện giao thông trước đây của Hà Nội có xe kéo, xe ngựa,
đến cuối thế kỷ XIX có sự xuất hiện của xe đạp: “Từ đầu thế kỷ XX đến cuối
những năm 1930, xe đạp ở Hà Nội và nhiều tỉnh thành miền Bắc hầu hết là xe
sản xuất ở nước ngoài với giá thành khá cao so với thu nhập của tầng lớp tiểu
tư sản thành thị. Các nhà tư sản trong nước dù đã nhận ra xe đạp là phương
tiện giao thông cá nhân chiếm vị trí số một của Hà Nội, nhưng đến đầu những
năm 1940 họ mới đủ lực và nắm bắt được công nghệ nên mới đầu tư để cạnh
tranh với xe nhập” [44; 40].
Tiếp sau sự xuất hiện xe đạp là một bước thay đổi lớn trong phương
tiện đi lại khi xuất hiện những chiếc xe máy đầu tiên ở Hà Nội mang nhãn
hiệu Hertal sản xuất tại Bỉ. Xe máy trải qua bao thăng trầm, dần trở thành
phương tiện giao thông cơ giới tiện lợi và được sử dụng rộng rãi: “Bây giờ ở
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 39
Hà Nội, phải nói là trên trời, dưới xe máy. Dân có tiền lại thích chơi rước về
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội xe phân khối lớn giá vài chục nghìn đô la. Hà Nội mới thành lập câu lạc bộ xe
Harley với 59 thành viên, chiếc xe đắt nhất có giá tới 80.000 USD, khiến dân
chơi mô tô mấy nước trong vùng phải lè lưỡi lắc đầu” [44; 231].
Cùng với sự xuất hiện của xe đạp và xe máy, ô tô cũng có mặt rất sớm
ở Hà Nội: “Năm 1886, Hà Nội có hai chiếc xe bốn bánh, một chiếc thùng gỗ
kiểu Malabar de Colombo (một loại xe của Ấn Độ) của Hội truyền giáo để
giám mục Hà Nội Puginier đi lại và chiếc thứ 2 kiểu Victoria của viên chỉ huy
Henri Riviere” [44; 94]. Sự bùng nổ ô tô trong thời kỳ đổi mới ngày càng gia
tăng và phát triển. Ô tô có mặt ở khắp mọi nơi trên đường phố Hà Nội, trở
thành phương tiện giao thông tượng trưng cho sự giàu sang và thịnh vượng
của đô thị phát triển: “Vài năm trở lại đây, số lượng xe tư nhân đăng ký tăng
lên từng ngày. Theo thống kê của một tạp chí ô tô, hiện Việt Nam nói chung
và Hà Nội nói riêng có khoảng 100 mẫu xe của gần 20 hãng trên thế giới. Vào
các buổi tối, quán cà phê lịch lãm dưới mái hiên của khách sạn Metropole
(ngã 3 phố Ngô Quyền - Lê Phụng Hiểu) không đông như các quán khác
nhưng đa phần khách trẻ tuổi. Họ là chủ của những chiếc xe Bentley, Audi
Q7, X6, Lamborghini,… giá vài tỷ đồng trở lên, đỗ bên đường.” [44; 103].
Trong những trang sách của Nguyễn Ngọc Tiến, Hà Nội hiện lên với sự thay
đổi nhanh chóng của bộ mặt đô thị. Tác giả cho thấy sự tỉ mỉ của mình trong
việc sử dụng những tư liệu biết nói không chỉ trên văn bản mà còn qua những
câu chuyện góp nhặt từ nhân chứng lịch sử đã trải qua quãng thời gian ấy.
Nguyễn Ngọc Tiến xây dựng một cách nhìn riêng của một nhà khảo cứu cần
mẫn và ưa thích sự tìm tòi. Những con số tư liệu qua trang văn của ông biến
thành câu chuyện gần gũi và thực tế với cuộc sống Hà Nội hiện đại. Cách
nhìn đặc biệt của tác giả đem đến cho người đọc góc nhìn cụ thể về sự vận
động của đô thị Hà Nội. Không chỉ có vậy, người đọc cũng cảm nhận được
những tình cảm sâu sắc của nhà văn với mảnh đất Kinh kỳ. Từng câu chuyện
nhỏ được Nguyễn Ngọc Tiến xây dựng thành chuỗi hệ thống giúp người đọc
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 40
khám phá mọi ngõ ngách của Hà Nội. Phải là người có tình cảm với mảnh đất
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội nghìn năm văn hiến, tác giả mới có thể viết lên những câu chữ “mắc nợ” với
Hà Nội đến như vậy.
Cùng với sự đổi mới của phương tiện giao thông cá nhân, phương tiện
giao thông công cộng cũng có bước đổi mới mạnh mẽ. Có thể điểm qua các
loại phương tiện được thay đổi chóng mặt: từ xe ngựa, xe tay, xích lô, tàu
điện đến xe bus, tàu hỏa, máy bay… Phương tiện giao thông công cộng giúp
Hà Nội như gần gũi hơn trong những chuyến đi: “Con tàu đã mang hơi thở, sự
sống cho bao người, từ toa chờ khách sơn đỏ, có hai dãy ghế dài, đến toa đen
kín bưng, chở trâu bò, toa đĩa không mui chở đá, chở gỗ, có khi còn có vải bạt
che kín bịt bùng chở gì bí mật ở trong. Ngọn đèn đỏ ở sau toa cuối, cái biển
tròn màu đỏ thay cho ngọn đèn ấy… cũng thành niềm vui của bao người nhờ
nhà ga, nhờ con tàu mà sống. Từ ngày con đường sắt xuyên Việt được phục
hồi, đúng nó là hai sợi dây đàn bắc qua hàng vạn nhịp sắt, phím gỗ, để rung
lên nhịp tơ lòng của miền Bắc gọi miền Nam, miền Nam chờ miền Bắc…
Những phím đàn ấy hòa âm sum họp, chan hòa, mong nhớ…” [41; 69]. Đọc
những trang sách viết về Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến, độc giả được lật giở
từng trang chân thật nhất về đời sống của người và đất Hà Nội. Tác giả viết
đơn giản nhưng có hệ thống; không màu mè, kiểu cách mà người đọc vẫn
thấy rất cuốn hút. Nguyễn Ngọc Tiến là một nhà báo, nhà nghiên cứu, nên
cách tiếp cận vấn đề có lợi thế mang tính rộng mở và bao quát. Tác giả nhìn
nhận sự đổi mới của Hà Nội với đầy đủ những phương diện về con người, cơ
sở hạ tầng, giao thông đô thị… Những trang viết của Nguyễn Ngọc Tiến thực
sự đã mở ra cách tiếp cận mới về Hà Nội, rất khác với các tác giả thế hệ trước
cũng như đương thời. Nếu như Vũ Bằng, Băng Sơn trong các tản văn của
mình thường lựa chọn cách tiếp cận Hà Nội dưới góc nhìn cá nhân của người
trực tiếp sống ở Hà Nội thì Nguyễn Ngọc Tiến chủ yếu dựa trên kiến thức
khảo cứu có chọn lọc từ đó xây dựng cách nhìn về Hà Nội. Những đánh giá
của Nguyễn Ngọc Tiến vì thế thường thiên nhiều về yếu tố khoa học, sự đón
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 41
nhận Hà Nội đổi mới với những góc nhìn có tính quy luật.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Trong sáng tác của mình, Nguyễn Ngọc Tiến thường sử dụng cấu trúc
câu “Từ A đến B” khi đặt nhan đề. Điều này giúp nhấn mạnh sự thay đổi
mang tính đột biến không chỉ ở phương tiện giao thông mà còn nhiều lĩnh vực
khác trong bộ mặt đô thị thời kỳ đổi mới. Ngoài ra, cấu trúc này giúp người
đọc nhận diện quá trình thay đổi của bộ mặt đô thị Hà Nội, nó diễn ra chừng
mực, theo lộ trình mà không hề đột ngột:
STT Tên nhan đề
Từ xe ngựa công cộng đến tàu điện 1
Từ xe tay đến xích lô 2
Từ đồ ta đến đồ Tây 3
Từ xoa bóp đến tẩm quất 4
Từ Đặng Huy Trứ đến Dieulefils và… 5
Từ sân đình tới rạp hát 6
Từ nước giếng đến nước máy 7
Từ phú gia đến tư sản 8
Từ Mơ cơm đến Hàng Cơm 9
10 Từ nhà trọ đến khách sạn hứa
11 Từ thuốc lào đến thuốc lá
Bộ mặt đời sống đô thị Hà Nội hiện đại còn thể hiện ở việc xuất hiện
của những giá trị vật chất mới. Đó là sự vươn lên không ngừng của công nghệ
thông tin khi “mười năm qua, tiến bộ về internet và các dịch vụ trên mạng đã
phát triển không ngừng” [39; 25] tạo nên những giá trị mới của mạng xã hội.
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 42
Đó là cơ tầng những giá trị mới như cửa hàng ăn nhanh, câu chuyện công sở,
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội thời trang, truyền hình, điện ảnh, nhà nghỉ, du lịch… và những khái niệm mới
của đô thị được tích lũy. Sống trong đô thị hiện đại, con người được tiếp xúc
với những giá trị mới, tạo nên những cảm nhận riêng: “Như tôi, cơ quan mới
nằm bên kia đường, đối diện cơ quan cũ! Hai nơi đều dùng bàn Xuân Hòa,
màn hình LG và điều hòa hiệu Panasonic lạnh phát sốt” [39; 188].
Đời sống đô thị hiện đại không chỉ thể hiện ở những giá trị vật chất, mà
còn thể hiện ở chính những con người sống ở Hà Nội. Con người đô thị trong
sáng tác của các tác giả là những khuôn hình khác nhau của bộ mặt đô thị
hiện đại. Trước hết, trong sáng tác của Nguyễn Việt Hà là những câu chuyện
xảy ra với những người đô thị ở thập niên đầu thế kỷ 21, chủ yếu ở một Hà
Nội loay hoay định nghĩa bản sắc, như chuyện bát bún ngon pha tạp lắm thứ
để chiều khách, như cánh đàn ông vật lộn khẳng định tư cách nam nhi trong
xã hội đô thị: “Ăn sáng ở đám đàn ông công chức trung lưu thường là các
quán cà phê máy lạnh đề thêm chữ Internet làm gia vị cho chữ Breakfast. Đa
phần là món khô (món chan nước cũng nhiều nhưng khó nuốt, về độ tinh tế
thì thua xa các gánh ngoài đường), hoặc bánh mì patê trứng ốplết kiểu Tây,
hoặc bánh bao há cảo hủ tíu trộn kiểu Tàu, hoặc bánh cuốn xôi trắng thịt kho
thêm giò chả kiểu ta” [12; 30]. Bằng mạch viết hài hước nửa tin nửa ngờ,
Nguyễn Việt Hà không theo đuổi một chân lý nào, mặc dù dẫn dụ rất nhiều
sách vở, người đọc có thể hoang mang và loay hoay với những lời đùa bỡn
nhưng rất tỉnh: “Tóm lại, cạc là bộ phận không thể thiếu ở những đàn ông quý
phái sang trọng yêu giao tiếp. Trao cạc của mình cho người khác, nhất là
người phụ nữ thì luôn là hành vi văn hóa mang tính vừa tin tưởng, vừa lịch
sự” [12; 43].
Tản văn của Nguyễn Việt Hà níu giữ chân người đọc lâu hơn, bắt họ
nghĩ sâu hơn là nhờ những tự vấn về đạo đức, về sự tồn vong của mỗi cá thể
trong cộng đồng, về cái đẹp, cái tốt và lo âu về sự mỏng manh của chúng.
Đây cũng là điều dễ bắt gặp ở hình ảnh con người đô thị hiện đại trong sáng
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 43
tác của Nguyễn Trương Quý. Tản văn Trương Quý có những đặc sắc nhất
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội định khi tiếp cận thế giới của con người đô thị trên lĩnh vực mạng xã hội:
“Sự phát đạt của ngành dịch vụ hội thoại trực tuyến cho thấy điều kì lạ của
con người chúng ta: ảo hóa con người mình để vào mạng, quanh quẩn mãi
internet rồi lại thấy mình cô độc, bèn đẻ ra chat chít tìm nhau, xong rồi lại
tìm cách thực hóa nhau” [39; 26]. Nguyễn Trương Quý cho thấy sự hồ hởi
trong việc tìm kiếm hình ảnh của con người đô thị hiện đại: “Lần cuối cùng
anh để ý thấy vợ mình cầm thứ gì đó trên tay, không phải hóa đơn điện nước
hay giấy học phí của con là khi nào? Cái gì khiến chị chú tâm vào chỉ sau
mỗi phim truyền hình Hàn Quốc thôi? Thứ mà chị để đầu giường ấy… Và
sau mỗi lần đọc chúng, là chị có khác đi một chút gì đó, tóc xoăn hơn hay
duỗi ra, cơm có thêm món mới chẳng hạn” [39; 72]. Những góc hình của
con người đô thị hiện hữu một cách toàn diện với nhiều góc độ khác nhau.
Những cống hiến, khao khát thành đạt, bon chen và cả lừa lọc dối trá,… con
người đô thị hiện đại bước ra từ những trang văn trở nên gần gũi trong sáng
tác của các tác giả. Họ là bộ mặt mới của Hà Nội, còn vương vấn chút tinh tế
xưa và cũng nhanh nhẹn khi bắt kịp những giá trị mới được tích lũy từ đời
sống đô thị hiện đại.
Hà Nội nhanh chóng tiếp nhận những đổi mới bắt kịp với sự phát triển
của thời đại. Nếu như Hà Nội trong Nguyễn Tuân là bóng dáng thú chơi của
các bậc tao nhân mặc khách trong tác phẩm Vang bóng một thời như: Thưởng
trà, thả thơ, đánh thơ, hát ca trù, thú chơi hoa địa lan…; Thạch Lam là những
món quà quê, những người đi bán hàng trong đêm bằng một hồn thơ đầy cảm
xúc; Vũ Bằng là khung cảnh thiên nhiên, đất trời, cảnh vật, con người, văn
hóa của Hà Nội thì trong sáng tác của các tác giả, Hà Nội không chỉ là ký ức
mà còn là những vang động đầy mới lạ của đời sống đô thị hiện đại. Những
câu văn ngắn, sử dụng nhiều tình thái từ tạo nên âm vang nhộn nhịp và sôi
động của đô thị hiện đại. Các tác giả có cách tiếp cận với những giá trị mới
khác nhau. Đỗ Phấn, Nguyễn Việt Hà thì bình tĩnh đón nhận, chiêm nghiệm
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 44
về những góc nhìn đổi thay; Nguyễn Ngọc Tiến có ý thức khám phá chuyên
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội sâu về sự vận động và biến đối ấy theo suốt tiến trình của lịch sử. Riêng với
Nguyễn Trương Quý, tình cảm ấy là sự hồ hởi của người trẻ khi được tiếp
xúc với sự phát triển của đô thị. Những cách nhìn riêng về đô thị đổi mới
hiện đại đã mang đến những sắc thái tình cảm khác nhau trong khuôn hình
chung của Hà Nội thời kỳ đổi mới. Để chuyển tải những nội dung ấy, các tác
giả mang trong mình ý thức chung khi tiếp nhận những điều tích cực của đô
thị phát triển.
Những cảm xúc khác nhau của tình cảm là sự nối tiếp từ truyền thống,
ý thức chung của người Hà Nội khi nhận diện sự đổi thay: là Vũ Bằng khi viết
“ở cái Hà Nội mến yêu có xe ô tô xi-téc đi tưới đường cho mát mẻ, có những
hàng xê cố gánh đi bán rong ngoài đường, có những hàng kem ở chung quanh
Hồ Gươm thướt tha những cô gái mặc áo hàng mầu đẹp mộc mạc, ngây thơ,
đưa nước ngọt và kem cho khách giải khát mà vẫn khéo chạm vào khách một
cách ý vị và duyên dáng”; là Băng Sơn khi khẳng định “Hà Nội là trung tâm
của cả nước hiểu theo nghĩa trái tim. Hà Nội là tình yêu của bất cứ người Việt
Nam nào từ Lạng Sơn đến Cà Mau”. Như vậy, người đọc có thể thấy rõ
những nét riêng trong các tác giả được lựa chọn khi khám phá đô thị Hà Nội
hiện đại, đổi mới vẫn thống nhất trong nét chung của các tác giả xưa nay viết
về Hà Nội.
Đô thị phát triển với vẻ đẹp riêng là sự đổi mới theo hướng tích cực.
Những giá trị vật chất, cơ sở hạ tầng đáp ứng đời sống người Hà Nội. Trong
từng câu chữ, các nhà văn cho thấy cái nhìn tươi mới, đầy hứa hẹn khi miêu tả
bước phát triển từng ngày của Hà Nội. Hà Nội trong con mắt các tác giả luôn
thường trực niềm tin vào sự phát triển, đổi mới không ngừng nghỉ của đô thị
trẻ. Trong sáng tác của họ, có sự hồ hởi khi đón nhận những đổi mới từng
ngày, điều ít được nhắc đến trong sáng tác của các tác giả thế hệ trước. Tuy
nhiên, ngay trong nội tại của sự phát triển mạnh mẽ ấy, cũng tiềm ẩn những
hạn chế gây nên những ảnh hưởng xấu cho bức tranh đô thị Hà Nội thời kỳ
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 45
đổi mới.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
2.3. Nguy cơ đánh mất bản sắc
Đô thị Hà Nội nổi bật với nhiều vẻ đẹp hiện đại nhưng song song với
nó là nguy cơ đánh mất bản sắc đang âm thầm diễn ra. Mặt trái của nền kinh
tế thị trường cùng với sự thay đổi đột ngột, va chạm giữa các hệ giá trị gây
ra nhiều hệ quả trái chiều. Khi phân tích một số đặc điểm trong tính cách
người Hà Nội, Trần Ngọc Thêm đã nhận xét: “Người Hà Nội hiện tại đang
sống với một hệ tính cách bất thường sinh ra từ một hoàn cảnh bất thường
(chiến tranh, bao cấp), để rồi những tính cách bất thường này tiếp tục tồn tại
trong thời kinh tế thị trường với sự phát triển vượt bậc về qui mô dẫn đến
tình trạng gần như vượt ra khỏi tầm kiểm soát về mặt văn hóa - xã hội” [50;
109]. Những tính cách bất thường này nảy sinh cùng hoàn cảnh mà đôi khi
con người ngộ nhận là nét văn hóa mới. Những tính cách “bất thường” nếu
có thời gian và môi trường có nguy cơ trở thành tính cách “bình thường”. Nó
chính là nguyên nhân gây ra ảnh hưởng, gia tăng nguy cơ đánh mất bản sắc
của bộ mặt Hà Nội.
Các tác giả viết về Hà Nội tiếp xúc với sự biến đổi không ngừng nghỉ
của Thủ đô. Nó diễn ra ở cả không gian đô thị và hệ tính cách của con người
sống trong môi trường ấy.
Trước hết, không gian đô thị có sự biến đổi mạnh mẽ. Sự biến đổi có
một phần nhỏ thiếu tính quy hoạch, không thống nhất mà có sự pha trộn, lai
căng gây ra những sắc màu không đồng đều của bộ mặt đô thị: “Không chỉ di
tích lịch sử - văn hóa mà không gian phố cổ dường như bị xóa sổ bởi các tòa
nhà cao tầng xây dựng không giấy phép, quá phép. Năm 1997, khi dự án liên
doanh với một công ty của Hồng Kông xây Khách sạn Vàng (nay là tòa nhà
Bảo Việt) ở phố Lê Thái Tổ cao tới 23 mét có thể biến hồ Gươm thành cái ao
nên giới kiến trúc, sử học cùng các nhà báo đồng loạt lên tiếng nên dự án bị
đình lại. Nhưng nay thì nó vẫn ngất ngưởng bên công trình kiến trúc Thủy Tạ
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 46
xinh xắn. Rồi tòa nhà „hàm cá mập‟ (nay là trung tâm thương mại đầu phố
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Đinh Tiên Hoàng) không chỉ xấu về kiến trúc mà còn trở thành bức tường
ngăn không gian phố cổ với hồ Gươm. Không chỉ có vậy, trong 76 tuyến phố,
các hộ dân cải tạo, cơi nới với đủ loại vật liệu từ khung nhôm kính, nhựa đến
các vật liệu truyền thống như cót ép, mành... lẫn với mớ dây điện, viễn thông,
cáp truyền hình làm cho không gian phố chắp vá và nhem nhuốc” [44].
Hà Nội ngổn ngang những màu sắc, luộm thuộm và trở nên lộn xộn
trong không gian đô thị mới. Trong mắt các nhà văn, những người đã sống
chết với Hà Nội thanh lịch và gọn gàng, những biến đổi ấy trở nên ngớ ngẩn
và lộn xộn. Không gian đô thị có sự chồng lấn giữa văn hóa truyền thống và
sự pha tạp của văn hóa ngoại lai, việc xây dựng lấn chiếm không gian cộng
đồng ngày càng phổ biến, và việc các di tích lịch sử của Hà Nội bị biến dạng
cũng là lẽ đương nhiên: “Không quá khó để thấy những cảnh tượng đáng
buồn về một Hà Nội hiện đại nhưng xuống cấp, do quá đông dân và chật trội
nên vẫn có nhiều công trình văn hóa vẫn bị chiếm dụng không gian, gây mất
mỹ quan. Chùa Vĩnh Trù ở số 59 Hàng Lược được Bộ Văn hóa, Thể thao và
Du lịch xếp hạng di tích, cổng chùa có tấm biển “Di tích đã được xếp hạng,
cấm được xâm hại”, nhưng không gian chùa đã bị biến thành quán cơm, quán
nước. Chùa Huyền Thiên (54 phố Hàng Khoai) được cho là xây dựng vào thế
kỷ XIV, xưa là một trong tứ quán của Kinh thành Thăng Long, gồm có: Trấn
Vũ (Quán Thánh), Huyền Thiên, Đồng Thiên (đền Kim Cổ) và Đế Thích
(chùa Vua) có kiến trúc đẹp và vừa thờ Phật vừa thờ Mẫu nên Huyền Thiên là
di tích độc đáo của Hà Nội, nhưng nay cổng tam quan bị người dân biến thành
nơi kinh doanh đồ sứ, nên khó mà nhận ra từ xa” [44].
Nguyên nhân đánh mất bản sắc trong quá trình đô thị hóa của Hà Nội
được Đỗ Hương Thảo nhận diện từ các nguyên nhân: “Thứ nhất là lối tư duy
manh mún. Lối tư duy manh mún đang thấy rõ trong cách quản lý đô thị, xây
dựng cơ sở vật chất mang tính chắp vá, lẻ tẻ, hiệu quả thấp, quản lý hành
chính không chuyên nghiệp; thứ hai là tác phong tùy tiện, tính kỉ luật kém.
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 47
Đối với cư dân làm nông nghiệp, chỉ cày cấy trên những mảnh ruộng của
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội mình, ít bị ràng buộc bởi những yếu tố yêu cầu đòi hỏi sự chính xác cao như
trong công nghiệp đã tạo nên thói quen tùy tiện, thiếu tính kỉ luật cao; thứ ba
là tư tưởng bình quân chủ nghĩa; thứ tư là tính thụ động, cầu may” [8; 331].
Như vậy, quá trình đánh mất bản sắc trong không gian đô thị có nguyên
nhân trực tiếp sâu xa từ ý thức của con người. Hệ tính cách của con người gây
ra những biến đổi khi có xung đột trong tiếp nhận văn hóa mới.
Nguyễn Trương Quý đã vạch ra tính cách không phù hợp với con người
Hà Nội: “Phở không ngon vì 100 lý do: cuộc sống phong trần hơn, ăn sướng
mồm hơn, Hà Nội đã bớt hữu tình hơn… nhưng có ai nghĩ là chúng ta đã để
phở xuống giá thê thảm, để chất lượng bát phở đuểnh đoảng đến phát ngán và
món phở, đã không còn là thức trân như thời của những “thương nhớ mười
hai”. Hình như từ món phở này, cách sống với những giá trị của chúng ta soi
từ đấy thấy cũng nông nông, tùy tiện” [39; 153].
Ở góc độ khác, con người đô thị mới có sự cạnh tranh, đố kị đi ngược
với truyền thống đoàn kết của dân tộc. Nó là dấu hiệu của việc đánh mất bản
sắc vốn có của dân tộc, phát sinh từ những mưu toan, cạnh tranh không lành
mạnh của kinh tế thị trường. Nguyễn Trương Quý đã chỉ rõ rằng: “Trong cuộc
sống đầy tính cạnh tranh, ngay chốn văn phòng bề ngoài lờ đờ vô hại nhưng
cũng dễ là nơi có mầm độc của thói ganh ghét và đố kỵ. Chúng ta chỉ muốn
dứt điểm công việc nhưng lại gặp những ách tắc từ vị kế toán không chịu giải
ngân, hay một anh giám sát kĩ thuật nhận định chưa đạt khiến sếp bắt cả đám
làm lại” [39; 122].
Trong con mắt của người Hà Nội, thức quà hàng rong xưa là nét đẹp
của tuổi thơ được gói nhẹ nhàng trong ký ức. Người bán hàng rong là những
người hiền lành, chịu khó và chăm chỉ lao động. Nhưng người bán hàng rong
thời kỳ hội nhập thì đủ loại, tốt có, xấu cũng không ít. Đỗ Phấn đã đau khổ
chỉ ra rằng: “Ở khu phố cổ có đến chín phần là hàng rong giả mạo. Khách của
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 48
họ là những ông tây bà đầm trong trắng yêu thiên nhiên con người đường phố.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Yêu nhầm cả cái sự nồng nhiệt hiếu khách của đám hàng rong gian manh
ngoại tỉnh kéo về. Có khi phải trả mấy trăm nghìn cho một miếng dứa chấm
muối ớt. Và cũng ngần ấy khi người bán hàng nhiệt tình đặt lên vai khách đôi
quang gánh cho bạn bè chụp ảnh” [33; 193].
Không nằm ngoài những thay đổi, Tết Hà Nội cũng đang mất dần nét
đặc trưng riêng: “Khoảng hơn chục năm lại đây, Tết Nguyên Đán ở Hà Nội đã
nuối tiếc bớt đi quá nhiều những màu đáng kể nhất là hoa đào. Không những
cánh của nó bị mỏng lớp mà sắc thắm cũng bị kém hơn nhiều nếu phải so với
đào cũ Nhật Tân, hồi vườn ở đây còn mênh mông trùng điệp gốc đào chưa bị
đám bê tông cốt thép của khu biệt thự liền kề hay chung cư cao cấp hung bạo
lấn. Màu đào không còn nồng nàn thắm thì đương nhiên má của mấy thiếu nữ
đứng bán hoa đào dọc hai bên đường đê Yên Phụ cũng tai tái vắng sắc hồng”
[12]. Quà Tết là thứ con người tri ân đến nhau, không nặng nhẹ giá trị vật
chất. Nhưng trong sự biến đổi mạnh mẽ của kinh tế thị trường, người Hà Nội
nói riêng, người Việt Nam nói chung tự chạy theo những giá trị không có thật,
đánh mất bản sắc của mình. Tất cả đuổi theo những khúc quanh mà Nguyễn
Trương Quý chỉ rõ: “Có khi nhìn món quà đắt giá, người nhận đã nghĩ ngay
đến việc dùng nó dành cho đối tượng xứng đáng hơn chứ chưa chắc đã dám
khui chai rượu bạc triệu ra uống. Quà biếu cuối cùng chỉ còn là một loại gậy
tiếp sức điền kinh, nó chỉ dừng lại khi giao thừa đã điểm” [39; 70].
Nguy cơ đánh mất bản sắc là sự thật đang tồn tại trong từng góc phố Hà
Nội. Hà Nội đang tịnh tiến nhưng cũng có thể đánh mất những giá trị từng là
hồn cốt của Kinh kỳ. Chính nguy cơ đánh mất bản sắc kéo theo vết trượt dài
của văn hóa, lối sống.
2.4. Sự xuống cấp về văn hóa và lối sống
Nhắc đến bản sắc tính cách của người Hà Nội, không thể không trích
dẫn câu thơ của Nguyễn Công Trứ: “Chẳng thơm cũng thể hoa nhài/ Dẫu
không thanh lịch cũng người Tràng An”. Bản sắc tính cách thanh lịch của
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 49
người Tràng An - Hà Nội là mẫu tính cách chung được khẳng định. Đó là một
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội phần của văn hóa và lối sống quy chuẩn được tồn tại lâu dài trong tiến trình
lịch sử. Nhưng nguy cơ bản sắc bị đánh mất đã kéo theo sự xuống cấp về văn
hóa và lối sống. Trần Chiến từng khẳng định: “Người Hà Nội hằng tự hào về
truyền thống thanh lịch, hội tụ, kết tinh, lan tỏa của mình. Điều đó là có thật.
Nhưng còn một sự thật khác, là tứ xứ đổ về đây khai thác, tận dụng, bòn rút
thành phố. Xin không cắt nghĩa nguyên nhân (nông thôn đang trống toang), chỉ
nói rằng nó làm thành phố luộm thuộm, tự phát, nhem nhếch hơn” [7; 277].
Các nhà văn viết về Hà Nội đã thẳng thắn nhìn nhận một thực trạng
không nhỏ đang diễn ra trên đô thị đang phát triển nhưng văn hóa và lối sống
thì ngập ngừng tịnh tiến: “Thôi thì chửi bới, văng tục, đấm đạp để rồi qua
được là xông vào bốc cái này, xem cái kia, cố mà mua cho bằng hết các thứ
để mang về bán lại giá cao. Chỉ có nhà đầu tư là cười sung sướng vì đã bõ
công quảng cáo tuyên truyền rầm rĩ cả hai tháng trời khắp hang cùng ngõ
hẻm, không chỉ Hà Nội mà các vùng lân cận” [39; 107]. Hà Nội xô bồ và ồn
ào. Một Hà Nội thật khác trong những trang văn của Nguyễn Trương Quý. Có
một sự thật là người Hà Nội đang có sự bão hòa về văn hóa và lối sống.
Những hành động chửi bới, văng tục diễn ra ngay giữa trung tâm lớn của một
đô thị hiện đại trong thời kỳ đổi mới.
Con người có thể thay đổi cách nhìn về những giá trị đạo đức.
Nguyễn Việt Hà hoảng hốt khi con người phản bội nhau mà không cần suy
nghĩ đến việc dằn vặt lương tâm: “Ở cuộc sống nhàn nhạt bình thường hôm
nay, những đồng tiền bán bạn không còn tanh mùi máu như thời của thằng
Giu - đa khốn nạn, nên đám đàn ông phản bội thường thanh thản yên tâm
không cần tự thấy là phải đi treo cổ. Khi chân thành sám hối, bọn họ thường
tặc lưỡi, “người chết đã chết rồi nhắc làm gì chuyện cũ. Mắt lim dim đao phủ
ngồi Thiền”, rồi nghẹn ngào mở ví, rút một nắm bạc dày ra sức đút vào những
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 50
hòm công đức” [12; 66].
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Văn hóa, lối sống xưa của người Hà Nội là nét cá tính riêng biệt của
mảnh đất Kinh kỳ. Nó là tiêu chuẩn, mẫu số chung khi nhắc đến giá trị, “lực
hút tâm” của mảnh đất ngàn năm văn vật. Nhưng trong thời kỳ mở cửa những
giá trị đang có nguy cơ mai một, xuống cấp trong từng hành động, cách ứng
xử của con người: “Xã hội văn minh tươi đẹp hôm nay, kinh tế thị trường vũ
bão phát triển. Để y phục xứng kỳ đức, nó không thích những đàn ông biết
quỳ mà chỉ thích những chủ nhân ông tự tin biết bay biết nhảy, biết đoán
trước giá vàng, biết chạy thành quan chức” [12; 70].
Quan niệm về văn hóa, nghệ thuật cũng bị đem ra làm trò đùa trước
những cám dỗ, ma lực của kinh tế thị trường. Thị hiếu của người thưởng thức
bị đem ra thử nghiệm cho những nghệ sĩ tài năng chưa thấy nhưng tâm và đức
đã xuống cấp trầm trọng: “Thậm chí với điện ảnh, vô số đạo diễn tài năng ở ta
luôn coi việc các nữ diễn viên thể hiện cảnh bị nhìn trộm những lúc “hơn cả
tắm” chính là một chi tiết nghệ thuật không thể chối bỏ. Nó hồi hộp quyến rũ
y hệt như việc ghi được bàn thắng ở những trận chung kết bóng đá đỉnh cao.
Tuy nhiên tất cả chẳng là cái đinh gì nếu phải so với truyền thông báo chí. Sự
“hớ hênh hóa” được quảng bá một cách đậm đà vĩ mô trên nhan nhản các
trang báo mạng lẫn báo viết” [12; 143].
Như khẳng định của Phạm Thị Trâm trong Nhận thức và thực tiễn văn
hóa Hà Nội: “Quả thực, văn hóa hiện nay là vấn đề của chung cả nước, nhưng
Hà Nội, với đặc thù của mình là nơi mà sự suy thoái đang diễn ra báo động
nhất. Với sự gia tăng dân số quá nhanh (theo dự báo với tốc độ như hiện nay
đến năm 2020 Thủ đô sẽ có khoảng 13,14 triệu dân trong khi đó theo chiến
lược được Chính phủ phê duyệt đến năm 2020 dự kiến Thủ đô có 9 triệu dân),
đất chật, người đông, cơ sở hạ tầng và các dịch vụ khác đều không đáp ứng
kịp… đã làm con người Thủ đô xấu đi thấy rõ, chưa xứng đáng với vị thế là
nơi tập trung tinh hoa, là bộ mặt văn hóa của cả một đất nước” [50; 113].
Hà Nội cần giữ cho mình hướng đi đúng, là bộ mặt văn hóa của cả một
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 51
đất nước. Sự xuống cấp về văn hóa và lối sống tồn tại ngay trong đời sống đô
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội thị được các nhà văn phản ánh rõ nét trong những tác phẩm của mình. Đó là
cái nhìn thẳng vào sự thật đang tồn tại và không ai khác, chính những người
đang sống tại Thủ đô cần ý thức được hành động của bản thân để xây dựng
Hà Nội là bộ mặt văn hóa của cả nước.
2.5. Đô thị hiện đại và sự cô đơn của con ngƣời
Hà Nội không ngừng biến đổi, sự giao thoa giữa ý thức hệ gây ra
những xung đột âm thầm. Những người có thể dung hòa những xung đột tự
chấp nhận sự tồn tại này như quy luật của cuộc sống. Cũng có những người tự
tách ra khỏi quá trình giao thoa. Họ tìm kiếm chính bản thân mình, cô đơn
giữa Hà Nội thay đổi.
Các tác giả viết về Hà Nội có cách nhìn đặc biệt về sự cô đơn của con
người. Các tác giả đã vạch ra hai đối tượng thể hiện nổi bật sự cô đơn của con
người giữa đô thị hiện đại: những người hoài cổ và những người trẻ chịu áp
lực từ cuộc sống.
Nhóm đối tượng đầu tiên - những người hoài cổ, họ tự tách mình ra
khỏi cuộc sống hiện đại. Cuộc sống của họ là quá khứ, tôn thờ những giá trị
đã mất, không thể quay trở lại. Nguyễn Việt Hà nhận diện họ là những người:
“Thong thả ăn, tinh tế mặc, chầm chậm sống. Có bọn họ, Hà Nội hôm nay
mới có nổi dăm bảy hàng phở ngon, vài ba quán cà phê thị dân sâu lắng. Bọn
họ chẳng chịu là gì, sống bạc nhược nghệ sĩ nửa mùa, rồi trả ơn Hà Nội bằng
cách quyết liệt tự nuôi cho mình những thói quen bao đời Hà Nội” [12; 27].
Họ tách biệt khỏi cuộc sống vội vã, và lạc giữa chính nơi mình sinh
ra: “Loanh quanh gần một giờ đồng hồ, hai anh em đi vào một con đường
cụt ngổn ngang gò đống phế thải xây dựng. Lại quay đầu ra. Ngoài năm
mươi tuổi, đi trên thành phố mình sinh ra và lớn lên, lần đầu tiên tôi bị lạc”
[33; 161]. Những người hoài cổ cô đơn vì không tìm thấy tâm hồn đồng điệu
giữa cuộc sống mới. Họ hoàn toàn bị tách biệt, tự đứng sau rào cản để tiếp
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 52
xúc với thế giới đô thị hiện đại.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Nhóm đối tượng thứ hai - những người trẻ chịu áp lực từ cuộc sống, họ
là những người đại diện cho thế hệ mới. Cuộc sống mới đối diện với những áp
lực khác nhau, hoàn cảnh khiến con người cô đơn giữa thế giới thực tại. Các
tác giả viết về Hà Nội nhắc về họ với sự đồng cảm. Áp lực từ đời sống đô thị
hiện đại tạo nên sức ép quá lớn lên thế hệ trẻ. Con người bị vây bọc bởi bức
tường tâm lý đè nặng.
Con người tự khép kín mình, tách biệt với thế giới xung quanh. Họ thu
mình trong không gian cá nhân sau những ngày làm việc mệt mỏi và đôi khi
họ cô đơn trong chính ngôi nhà của mình. Con người trong cái xã hội ấy trở
nên khép kín, sống giữa bao người nhưng dường như chỉ có một mình, không
gian sống trở nên chật hẹp và ngột ngạt: “nhà anh và căn hộ hai bên và trên
dưới đều có những cái lồng cấy ra thêm tăng diện tích. Sân chơi thì thành chỗ
họp chợ hay chỗ để xe, diện tích chẳng còn gì. Những khoảng lưu không giữ
hai dãy nhà hẹp lại vì các hộ tầng dưới xây lấn ra. Nếu anh viên chức ở nhà
riêng thì cái nhà anh như một hộp diêm kín mít chỉ mở mỗi mặt tiền. Anh vừa
dắt xe ngoài ngõ vào nhà là vội vàng kéo ngay cửa sắt lại, khóa cách biệt với
bên ngoài” [39; 57].
Những hành động lặp lại trở thành thói quen, cũng là tính cách mới hạn
chế quá trình giao tiếp của con người sau thời gian dành cho công việc: “Vì đi
bằng thang máy nên ở những tòa nhà mới này, dân viên chức về đến nơi thì
mắt trước mắt sau tìm mọi cách leo lên căn hộ, nơi sự khép kín đảm bảo tuyệt
đối, và kiểu mẫu mới lúc này là đèn nhà ai nhà nấy rạng. Mà có liếc ra đèn
nhà khác thì cũng chỉ thấy những cánh cửa nằm im lìm quanh sảnh thang
máy” [39; 58].
Giải pháp duy nhất của những người cô đơn là sự trốn chạy. Họ không
tìm thấy mình giữa cuộc sống đô thị mới. Trốn chạy khỏi đô thị, và tự tìm lại
mình giữa cánh đồng hoang sơ nhất: “Thoát khỏi thành thị là thoát khỏi một
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 53
cuộc sống không hẳn đã trì trệ, nhàm chán, nhưng để tìm một cuộc sống khác
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội mới mẻ, năng động hơn cũng chưa hẳn. Nói thẳng dù hơi tuyệt vọng, đó là
điều không thể có. Có lẽ mục tiêu cuối cùng là tìm ra mình, nhặt lại mình trên
từng ngọn gió theo cách nói thi ca, hay tìm thấy mình đang ngồi mê mải say
sưa trong những cảm xúc hồn nhiên nhất như đang ngồi sụp vệ đường mua
cho được chiếc khăn thổ cẩm có họa tiết thật lạ theo hiểu biết của bạn lúc đó”
[39; 83].
Nhiều nhân vật của Nguyễn Trương Quý có nét tương đồng với những
nhân vật trong sáng tác của Albert Camus (1913 - 1960), Jean-Paul Sartre
(1905 - 1980). Họ cảm thấy cô đơn giữa chính mỗi ngôi nhà, đường phố mình
đang sống, sinh hoạt. Cuộc sống là chuỗi tự sự tiêu cực và buồn chán, chứa
đựng đầy nỗi ngờ vực và trĩu nặng suy tư về tồn tại, hư vô. Nét tính cách kỳ lạ
này xuất hiện khi môi trường công nghiệp phát triển mạnh mẽ. Và nếu không
có sự điều hòa trong tính cách, nguy cơ về sự cô đơn gây ra những ức chế tâm
lý và sự thoát ly khỏi tồn tại là yếu tố có thực của con người sống trong đô thị
thời kỳ đổi mới.
Đô thị hiện đại và sự cô đơn của con người là yếu tố mới trong sáng tác
của các tác giả. Nguyên nhân của sự xuất hiện này gắn bó với bước phát triển
nhanh chóng của kinh tế đô thị. Nếu như trước đây, trong các sáng tác của tác
giả thế hệ trước, không có sự xuất hiện của sự cô đơn thì trong nhóm tác giả
được lựa chọn, nó xuất hiện nhiều và trở thành sự lo lắng thường trực trong
những trang viết. Hà Nội trước đây của Vũ Bằng, Băng Sơn là những niềm
vui, hoài niệm với ký ức đầy đủ của Hà Nội được đóng khung trong tâm trí
người đọc. Đến các tác giả được lựa chọn, người đọc cảm nhận rõ về một Hà
Nội khác đang tồn tại giữa đô thị hiện đại. Những bức tường tâm lý cá nhân
ngăn con người với nhau. Hà Nội xuất hiện những căn phòng cá nhân nhiều
hơn, thu hẹp khoảng cách với thế giới hiện thực xung quanh. Các tác có cái
nhìn thực tế khi phát hiện những thay đổi tiêu cực trong tâm lý người Hà Nội.
Họ nhìn thẳng vào vấn đề đang diễn ra, cảm nhận được từng cái nhìn thương
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 54
cảm với Hà Nội rộng về địa lý, nhưng đang có dấu hiệu hẹp về tâm lý con
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội người. Những câu văn trân trọng và thương cảm cho con người, cho Hà Nội
mới đang phát triển nhưng tồn tại những vách ngăn khoảng cách.
Tiểu kết: Bức tranh đời sống đô thị đổi mới của Hà Nội được phản ánh
cụ thể trong những sáng tác của các nhà văn. Bức tranh ấy được tạo dựng sinh
động qua những nét vẽ mô tả vẻ đẹp ký ức ngàn năm của đất Kinh kỳ, cùng
với đó là vẻ đẹp của đô thị thời kỳ đổi mới; nhưng trong bức tranh ấy cũng
tồn tại tiêu cực của nguy cơ đánh mất bản sắc cùng sự xuống cấp của văn hóa,
lối sống; mà biểu hiện cao nhất là sự cô đơn của con người giữa đô thị thời kỳ
đổi mới. Những nét vẽ đậm nhạt khác nhau về đô thị đổi mới tạo nên bản sắc
riêng của Hà Nội trong sự thống nhất với những đặc điểm chung của đô thị
khác trên Thế giới. Các tác giả đã vẽ lên bức tranh toàn cảnh đô thị Hà Nội
trong sự đồng cảm với các thế hệ trước về niềm tin vào sự “sang trọng, tinh
tế, quý phái” nhưng cũng phát hiện ra những giá trị mới “gần gũi, bình dị, tâm
tình” của người Hà Nội. Họ cũng là người trực tiếp nhận diện những biến đổi
tiêu cực trong đời sống đô thị hiện đại với những tình cảm tiếc nuối và thương
cảm. Các tác giả mang đến cho người đọc một Hà Nội đa diện hơn, gần gũi
hơn. Và đây cũng chính là một phát hiện, khám phá mới mang đến cho văn
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 55
chương viết về Hà Nội.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
CHƢƠNG 3
ĐẶC SẮC TRONG NGHỆ THUẬT THỂ HIỆN
3.1. Ngôi kể và điểm nhìn
3.1.1. Ngôi kể
Dựa vào việc sự tồn tại của người kể chuyện được báo hiệu như thế nào
trong văn bản, người ta đã phân biệt người kể chuyện giấu mặt và người kể
chuyện lộ diện. Một người kể chuyện lộ diện (overt narrator) là anh/cô ta tự
nhắc đến mình ở ngôi thứ nhất (“Tôi”, “Chúng tôi”); người trực tiếp hoặc gián
tiếp hướng đến người nghe; một người sẵn sàng biểu hiện thái độ thân thiện với
người đọc bất cứ lúc nào cần đến (khi sử dụng, chức năng diễn ngôn “nỗ lực”,
“thuyết phục”…); người bày tỏ một “thái độ diễn ngôn” hoặc “độ chênh” với
nhân vật và sự kiện, đặc biệt trong cách sử dụng các biện pháp tu từ, hình ảnh,
những cụm từ định giá, sự biểu hiện xúc cảm hoặc chủ quan (“chức năng biểu
hiện”); người “xâm nhập” vào câu chuyện để nói lên những chú giải triết học
hoặc khớp nối trần thuật; là người có một giọng điệu đặc trưng.
Người kể chuyện giấu mặt (covert narrator), ngược lại, là một người
không bày tỏ những đặc điểm công khai như đã nêu trên. Cụ thể là anh ta/cô
ta là người không hướng đến chính mình hay người nhận hoặc người nghe;
một người có giọng điệu và phong cách ít nhiều trung tính (không có đặc tính
rõ rệt); một người mơ hồ về giới tính; một người thể hiện không “có ý muốn
quan tâm” đến bất cứ thứ gì; một người không sẵn sàng bộc lộ dù rất cần
thiết; một người không xâm nhập hay can thiệp; một người để cho các sự kiện
của câu chuyện trải ra theo dòng chảy và nhịp điệu tự nhiên (“hãy để câu
chuyện tự nó nói lên”, vì thông thường không ai dị nghị cả; nói ngắn gọn, một
người mà trần thuật của anh ta không có chức năng bộc lộ ý muốn, thuyết
phục, hay biểu lộ. Trần thuật ngầm ẩn có thể dễ dàng được tạo ra khi hành
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 56
động được nhìn qua con mắt của người quan sát bên trong.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Theo cách của Genette, chúng ta sẽ tiến hành phân biệt về mặt phạm
trù giữa hai kiểu chủ yếu: truyện kể và người kể chuyện ngôi thứ nhất và ngôi
thứ ba. Sự phân biệt dựa trên “quan hệ với câu chuyện” của người kể chuyện
dù anh ta/cô ta hiện diện hay vắng bóng trong câu chuyện.
Trong trần thuật ngôi thứ nhất (homodiegetic) câu chuyện được kể bởi
một người kể chuyện hiện diện như một nhân vật trong truyện. Tiền tố
“homo” chỉ một thực tế rằng người đóng vai trò là người kể chuyện cũng là
một nhân vật trong cấp độ hành động. Một trường hợp đặc biệt của trần thuật
ngôi thứ nhất là tự truyện (autodiegetic narration), trong đó người kể chuyện
là vai chính trong câu chuyện của anh ta/ bà ta. Trong trần thuật ngôi thứ ba
(heterodiegetic) câu chuyện được kể bởi người thứ ba, không phải là nhân vật
trong truyện. Tiền tố “hetero” ám chỉ sự “khác nhau tự nhiên” giữa thế giới
người kể chuyện và thế giới hành động. Thông thường hai kiểu trần thuật này
tương quan với nhau trong cách sử dụng đại từ nhân xưng ngôi thứ nhất và
ngôi thứ ba. Một văn bản được coi là trần thuật ngôi thứ nhất (homodiegetic)
nếu như trong những câu kể lại hành động truyện có một số câu chứa đại từ
nhân xưng ngôi thứ nhất (Tôi đã làm chuyện đó, Tôi nhìn thấy cái này, điều
đó xảy đến với tôi), chứng tỏ rằng người kể chuyện ít nhất là người chứng
kiến hành động. Một văn bản được coi là trần thuật ngôi thứ ba
(heterodiegetic) nếu tất cả những câu thuật lại hành động truyện đều là những
câu ở ngôi thứ ba (Cô ấy làm điều này; điều đó đã xảy ra với anh ấy). Để xác
định kiểu “quan hệ” của trần thuật hay người kể chuyện, người ta phải kiểm
tra sự hiện diện hay vắng mặt của một “cái tôi trải nghiệm” trong những câu
chỉ hành động đơn giản của truyện, nghĩa là những câu kể về một sự kiện có
liên quan đến nhân vật trong truyện.
Với đặc trưng chính của tản văn là ghi chép lại sự kiện, sự vật, con
người, cảnh vật… mà các tác giả đã tìm hiểu hay tiếp xúc qua, các tác giả hay
sử dụng ngôi thứ nhất xưng “tôi” làm sợi dây liên kết những phiên đoạn của sự
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 57
kiện, những mặt nào đó của nhân vật, phương diện nào đó của cảnh vật. Bên
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội cạnh đó, các tác giả cũng thường xuyên dùng ngôi thứ ba thể hiện cách đánh
giá khách quan của mình hay những người khác khi nhìn nhận sự kiện, hiện
tượng. Hai ngôi kể này không cố định mà được vận dụng một cách linh hoạt để
phù hợp với nội dung bàn đến. Ngôi thứ nhất thường được sử dụng khi các tác
giả nhắc đến hồi ức của mình, bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ trước sự thay đổi của
con người, sự vật. Ngôi thứ ba thích hợp trong trường hợp tác giả đưa ra những
đánh giá hay trình bày về sự vật, hiện tượng sau quá trình tìm hiểu.
Trong bốn tác giả có lẽ Đỗ Phấn là nhà văn sử dụng ngôi kể thứ nhất
dày đặc nhất bởi Hà Nội thì không có tuyết là một tản văn nghiêng về cảm
xúc, nghiêng về những ghi chép liên quan đến một thời đã qua. Đỗ Phấn đã
hồi tưởng lại những năm tháng hào hùng Hà Nội cùng cả nước lao vào những
trận đánh, khắp nơi sục sôi khí thế đấu tranh bảo vệ tổ quốc. Tất cả các tầng
lớp nhân dân Hà Nội đều hòa mình sôi nổi trong cuộc kháng chiến ấy. Những
hồi ức quá khứ sống lại trong tác giả chân thực như một cuốn phim quay
chậm từ cảnh cùng cả lớp học sơ tán, đào hầm, và cả những cảm giác không
thể nào quên khi chứng kiến những cái chết cận kề… cho đến giờ những ký
ức ấy vẫn sống động như mới xảy ra ngày hôm qua. “Sống sót kì diệu sau
những trận bom Hà Nội, rất nhiều năm sau tôi vẫn không bỏ được thói quen
làm việc gì cũng hết sức nhanh chóng đến mức có thể. Vẫn cứ ám ảnh cái
chết thực ra rất gần khi công việc còn dang dở. Và luôn sực nhớ vào những
ngày cuối năm. Như ngày xưa, mình sắp có thêm một năm nữa trước mắt…”
[33; 270].
Trực tiếp tham gia và là nhân vật trong câu chuyện, những ghi chép của
tác giả bộc lộ tính chân thật cao. Các sự kiện xảy ra được liên kết chặt chẽ,
gắn liền với chính tác giả, qua đó những trải nghiệm và đúc rút suy nghĩ của
tác giả được thể hiện sâu sắc hơn. Tác giả hay chính là nhân vật xưng “tôi” đã
truyền cho người đọc cảm nhận thấm thía hơn về ý chí quyết tâm chiến đấu
quên mình và sự hi sinh xương máu của thế hệ cha anh ngày trước vì mục
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 58
đích giành được độc lập, tự do cho nước nhà. Đó là những ngày tháng gian
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội nan trong khói lửa, đạn bom nhưng mỗi người dân thủ đô lại thấy ấm lòng
biết bao bởi tinh thần đoàn kết, sự chở che, đùm bọc yêu thương, chia sẻ của
mọi người với nhau. Bằng ngôi kể thứ nhất, tác giả đã kết nối câu chuyện của
mình thật tự nhiên tạo dư âm sâu lắng, đặc biệt đối với những người đã từng
sống trong những ngày tháng lịch sử ấy của thủ đô.
Nguyễn Việt Hà chủ yếu dùng ngôi thứ ba để thể hiện đánh giá của
mình trước mỗi hiện tượng cụ thể từ cảnh vật cho đến lối sống, nếp nghĩ của
con người đô thị. “Một đô thị đã ngoài một nghìn tuổi thì đương nhiên phải có
linh hồn. Hoặc hay hoặc dở đâu có quan trọng, chỉ biết nó thăm thẳm mơ
màng rêu phong tạo riêng một bản sắc. Phố cổ chính là nơi giữ gìn được đôi
chút những mảnh hồn độc đáo ấy.” [12; 56]. Không chỉ riêng tác giả mà
những người Hà Nội vẫn luôn nghĩ về phố cổ bằng một tình yêu gắn bó như
vậy. Bởi phố cổ nhắc nhớ họ về một không gian đầy ắp hoài niệm và kí ức
đẹp đẽ về thủ đô qua hàng thế kỷ tồn tại. Tác giả hay những người con của Hà
Nội hôm nay đều thức thời trước thời cuộc, trước mọi đổi thay, trước nhịp
sống hối hả đang khiến cho mảnh đất này từng ngày “thay da đổi thịt”. Song
Hà Nội trong họ vẫn luôn khác biệt, nó hiện đại, hội nhập mạnh mẽ nhưng
không mất đi những nét truyền thống, cổ xưa đã được bao đời thế hệ lưu giữ.
Vì thế Hà Nội cứ mãi đẹp theo một cách riêng, luôn dung hòa nhịp nhàng, cân
bằng trong trạng thái vừa mới, vừa cũ bởi có những con người yêu nó tha
thiết, chưa bao giờ thôi khắc khoải, đau đáu trước mỗi sự vận động dù là nhỏ
nhất của thành phố.
Với văn phong có nhiều điểm tương đồng Nguyễn Việt Hà, Nguyễn
Trương Quý cũng chủ yếu dùng ngôi kể thứ ba trong những câu chuyện thú vị
của mình. Nhà văn bày tỏ bày sự đồng tình với những người sành ẩm thực ở
Hà Nội, với họ ăn uống cũng cần phải tạo nên một nét văn hóa tinh tế. Không
chỉ quan tâm duy nhất đến mùi vị của món ăn mà không gian, thời gian
thưởng thức cũng có những tác động không nhỏ đến người ăn. “Rất nhiều
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 59
người đều đồng ý phở Hà Nội là ngon nhất và chỉ ăn ở Hà Nội vào một sớm
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội mùa đông sương còn đọng trên cỏ Bờ Hồ là đáng đời nhất. Trải qua một thế
kỷ điều này vẫn không sai” [39; 234] . Tác giả có được khẳng định chắc chắn
bởi nó xuất phát từ sự thử nghiệm của rất nhiều người, thông tin cung cấp
mang tính khách quan có khả năng tạo tin tưởng cho người đọc. Rõ ràng, với
ngôi kể thứ ba tác giả đưa ra nhận định một cách tự nhiên và thoải mái hơn,
không phải chịu áp lực vì ý kiến chủ quan cá nhân. Song nói như vậy không
có nghĩa là những đánh giá của tác giả là dễ dãi, không căn cứ bởi mỗi điều
được ghi chép lại đều trải qua một quá trình quan sát, tìm hiểu tỉ mỉ và nhiều
khi bắt buộc phải trải nghiệm trước khi đưa vào trang sách.
Mỗi tác giả đều khéo léo trong xử lý, lựa chọn ngôi kể phù hợp tránh
tạo ra sự đơn điệu cho tác phẩm. Với sự kết hợp, chuyển đổi nhịp nhàng, đan
xen hợp lý giữa các ngôi kể thứ nhất và thứ ba, các tác giả đã mang đến cho
người đọc những cảm xúc vừa chủ quan vừa khách quan trong cách bình giá,
xem xét quá trình thay đổi của con người và đời sống. Bên cạnh đó, việc lựa
chọn ngôi kể cũng bị chi phối bởi mục đích, ý tưởng thể hiện tác phẩm của
mỗi tác giả. Trong từng trường hợp cụ thể đều có sự cân nhắc để vận dụng
ngôi kể, có thể chỉ sử dụng duy nhất một ngôi kể xuyên suốt tác phẩm song
cũng có thể kết hợp các ngôi kể trong từng phân đoạn khác nhau để tạo hiệu
quả tốt nhất.
3.1.2. Điểm nhìn
Về mặt chức năng, điểm nhìn mang ý nghĩa của sự lựa chọn và giới hạn
thông tin trần thuật, của việc nhìn các sự kiện và cấu trúc của sự kiện từ điểm
nhìn của một người nào đó và của việc tạo ra cái nhìn đồng cảm hoặc mỉa mai
ở người quan sát. Người quan sát (focalier) là một tác nhân mà điểm nhìn của
nó hướng vào văn bản trần thuật. Một tác phẩm bị gắn chặt vào điểm nhìn của
người quan sát khi nó thể hiện (và không vượt quá) những suy nghĩ, nhận xét
và kiến thức, những cảm nhận trong tưởng tượng và ngoài thực tế của ông/bà
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 60
ta cũng như định hướng văn hoá và tư tưởng của ông/bà ta. Trong khi Genette
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội và Chatman chỉ quan tâm đến giới hạn điểm nhìn, đến “nhân vật tiêu điểm”
(focal characters) thì hầu hết các nhà trần thuật học ngày nay lại nương theo
đề xuất của Bal và Rimmon-Kenan rằng một người quan sát có thể hoặc là
“bên ngoài” (một người kể chuyện) hoặc “bên trong” (một nhân vật). Người
quan sát bên ngoài cũng được gọi là “người kể chuyện - quan sát” (narrator-
focalizer); người quan sát bên trong được gọi bởi những thuật ngữ khác nhau
“nhân vật tiêu điểm “, “nhân vật - người quan sát”, “người phản ánh”
(reflector), “nhân vật tiết lộ” (filter characters).
Có thể phân biệt bốn dạng hoặc mô hình chủ yếu của điểm nhìn như
sau: Điểm nhìn cố định: Sự thể hiện các sự việc trần thuật và sự kiện từ điểm
nhìn không thay đổi của người quan sát đơn lẻ. Điểm nhìn thay đổi: Sự thể
hiện các tình tiết khác nhau của câu chuyện được nhìn qua con mắt của một
số người quan sát. Điểm nhìn hỗn hợp: Kỹ thuật trình bày một tình tiết nhiều
lần, mỗi lần nhìn qua con mắt của một người quan sát (bên trong) khác nhau.
Cụ thể hơn, cái được phô diễn bởi kỹ thuật này là cái người khác nhắm tới
lĩnh hội hay giải thích cùng một sự kiện bằng những kiểu căn bản khác nhau.
Tác phẩm được kể bởi hơn một người kể chuyện (tựa như tiểu thuyết viết
bằng thư) tạo nên điểm nhìn hỗn hợp trên cơ sở người quan sát bên ngoài.
Điểm nhìn tập thể: Điểm nhìn thông qua hoặc là người kể chuyện số nhiều
(“chúng tôi kể”) hoặc một nhóm nhân vật (“những phản hưởng tập thể”).
Trong các tập tản văn độc giả thường nhận thấy các tác giả hầu hết đều
xuất phát từ điểm nhìn cố định để quan sát sự vật, hiện tượng. Từ điểm nhìn
này, người viết thể hiện chỗ đứng, vị trí xem xét, bình giá của riêng mình đối
sự vận động của hiện tượng trong thời gian, không gian cụ thể.
Thông thường, khi đánh giá về Tháp Rùa sẽ không ít người nhìn nhận
nó từ góc độ văn hóa, lịch sử gắn liền với những truyền thuyết về quá trình
giữ nước, đồng thời nó cũng là chứng nhân cho biết bao biến cố thăng trầm
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 61
của Hà Nội từ xưa đến nay. Phải chăng do xuất thân là một kiến trúc sư nên vì
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội thế mà Đỗ Phấn phát hiện, cảm nhận vẻ đẹp và giá trị của kiến trúc Tháp Rùa
nghiêng về góc độ thẩm mỹ nhiều hơn. “Tháp Rùa tồn tại bởi lí do thẩm mĩ là
chính. Vẻ đẹp của nó rất khó gọi tên. Không phải thứ thẩm mĩ rạch ròi Đông
Tây Kim Cổ của kiến trúc. Cũng không phải vì kích thước áp đảo của một tòa
cao ốc. Lại càng không phải di tích lịch sử gắn liền với những chiến công hiển
hách của tiền nhân. Đơn giản, nó chỉ như một nét chấm phá tuyệt diệu vào
đúng cái nơi cần có trong khung cảnh mênh mang nước Hồ Lục Thủy” [33;
221, 222]. Điểm nhìn của tác giả là điểm nhìn bên trong gắn liền chặt chẽ với
tư duy thẩm mỹ xuất phát từ nghề nghiệp của chính ông. Do đó điểm nhìn
hướng đến việc đánh giá về vai trò, vẻ đẹp của Tháp Rùa trong cảnh sắc
chung của Hồ Gươm. Đương nhiên đây chỉ là đánh giá mang tính chủ quan
của tác giả bởi không phải ai cũng đồng tình với nhận định này mà có suy
nghĩ, cách nhìn nhận vấn đề khác nhau do xuất phát từ quan điểm và mục
đích tiếp cận khác nhau: “Tiếng guốc rao đêm lắng động hồn phố xa xưa bền
bỉ. Đến bây giờ chẳng còn mấy ai đi guốc nữa, chợt thấy cái cảm giác phố
đêm thanh vắng cũng hư hao đi rất nhiều. Rất phản khoa học nhưng rõ ràng
đó là thứ âm thanh đặc biệt làm nên đêm thành phố yên tĩnh” [33; 210].
Viết về đám cưới ở Hà Nội , Nguyễn Ngọc Tiến không chỉ tìm hiểu về
sự thay đổi của phong tục, nghi thức cưới hỏi qua các thời kỳ mà còn đi vào
cụ thể cách tổ chức của từng đối tượng, từng nghề nghiệp, địa điểm… Tác giả
còn phơi bày những mặt trái của các tiệc cưới trong xã hội hiện nay từ điểm
nhìn bên ngoài. Bởi hiện trạng này không phải chỉ một mình tác giả nhận thấy
và đánh giá từ quan điểm của mình mà nó diễn ra khá phổ biến nên phần lớn
mọi người đều phát hiện thấy do đó tác giả chỉ làm nhiệm vụ tái hiện lại. Tổ
chức đám cưới hoành tráng, tốn kém không khiến cho niềm vui ngày trọng
đại được nhân lên mà chủ yếu là hình thức khoe mẽ của một số gia đình khá
giả để khẳng định vị trí, đẳng cấp đồng thời thu lợi nhuận. Đám cưới mất đi ý
nghĩa thiêng liêng bởi nó không còn chỉ là ngày vui, hạnh phúc của lứa đôi
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 62
khi bắt đầu cùng nhau bước vào cuộc sống hôn nhân trước sự chứng kiến của
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội toàn thể người thân, bạn bè mà nó được tận dụng vào rất nhiều mục đích
thông qua số tiền mừng như một sự trao đổi giữa người mừng và người nhận.
Nguyễn Ngọc Tiến viết: “Đất nước đổi mới, cuộc sống khá dần lên và đám
cưới ở Hà Nội và các tỉnh thành khác có sự thay đổi, sự phô trương trong đám
cưới xưa trở lại. Có nhà coi cưới của con cái là dịp “làm kinh tế” đã khiến
đám cưới mất đi ít nhiều nét văn hóa. Còn cưới con “quan tham” họ cũng coi
đó là một cơ hội để kiếm chác và họ phát giấy mời như bươm bướm. Cũng
không thiếu, kẻ chạy chức chạy quyền coi cưới con xếp là dịp để hối lộ. Không
chỉ bằng tập đô la Mỹ, có người mừng cả đất đai hay căn hộ” [44; 294].
Nguyễn Việt Hà đã đi từ điểm nhìn bên ngoài đến điểm nhìn cố định để
khẳn định sự đổi thay mạnh mẽ của Hà Nội. “Hà Nội những năm gần đây đã
rùng rùng thay đổi, từ một thành phố tinh tế sâu lắng bỗng chốc tấp nập
trưởng thành. Kinh tế nhấp nhổm tăng trưởng còn phong khí văn hóa cũng
loay hoay định hình. Tuy nhiên thay đổi không có nghĩa là đập đi những biệt
thự đẹp như mơ trên đường Hai Bà Trưng, Lý Thường Kiệt rồi để vào đấy
mấy cao ốc kệch cỡm nồng nặc mùi tiền. Xót xa thay cho những cổng gạch
ven ô rêu phong đằm thắm hồn “Thăng Long tứ trấn” chợt bị thô bạo xây
thành mới toanh xám xịt bê tông” [12; 245]. Đó là hiện thực đang diễn ra mà
tất cả mọi người đều nhận thấy, sự phát triển chưa đồng bộ, thiếu nhất quán
khiến Hà Nội không tránh khỏi tình trạng ngổn ngang. Chính điều này đã và
đang làm ảnh hưởng không nhỏ tới hình ảnh của thủ đô hiện tại. Tác giả giữ
cái nhìn khách quan từ vị trí bên ngoài đối với hiện tượng phản ánh bởi nó
xuất phát từ sự nhìn nhận thực tế của mọi người chuyển đến điểm nhìn bên
trong của chính tác giả khi bày tỏ thái độ, suy nghĩ của chính mình trước hiện
thực của thành phố. Có lẽ phải sống ở Hà Nội đủ lâu mới thấm thía được từng
dáng hình Hà Nội biến đổi theo năm tháng, mới khát khao giữ lại cho thủ đô
chút bàng bạc rêu phong riêng biệt ấy. Nguyễn Việt Hà thể hiện nỗi niềm tiếc
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 63
nuối, xót xa khi phải chứng kiến những hình ảnh của một Hà Nội cổ kính
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội đang phải gượng ép khoác lên mình “chiếc áo mới” pha trộn quá nhiều kiểu
dáng làm mất đi sự cân bằng, hài hòa vốn có của thành phố.
Mỗi tác giả nhìn nhận sự việc bằng một điểm nhìn khác nhau. Kết hợp
điểm nhìn bên trong và bên ngoài thông qua sự quan sát của một người hoặc
một nhóm người góp phần tạo nên góc nhìn toàn diện, đầy đủ về hiện tượng.
Không chỉ vậy từ điểm nhìn của mình các tác giả còn đồng thời bộc lộ được
những đánh giá sắc sảo, tinh tế của chính mình trước đối tượng, hiện tượng
được trần thuật. Như vậy, ngôi kể và điểm nhìn có mối quan hệ chặt chẽ với
nhau và đều dựa vào ý đồ thể hiện tác phẩm của tác giả do đó tạo nên sự
thống nhất, hợp lý trong quan điểm nhìn nhận về vấn đề.
3.2. Ngôn ngữ giọng điệu
Một giọng điệu chỉ thâm nhập vào trong tác phẩm thông qua tri giác
tưởng tượng của người đọc; vì vậy, trừ khi văn bản khởi thuỷ là một truyện
truyền miệng hoặc được trình diễn trong bối cảnh đọc cho nhiều người nghe,
giọng điệu đúng ra là một cấu trúc hướng đến độc giả. Trong mô hình trần
thuật học cổ điển, giọng điệu chủ yếu gắn với giọng điệu người kể chuyện.
Trên cơ sở này thì: Giọng điệu thuộc văn bản hoặc trong văn bản là những
giọng điệu của người kể chuyện (tức “giọng điệu trần thuật” của văn bản) và
của các nhân vật.
“Giọng điệu (tiếng anh: tone) là thái độ, tình cảm, lập trường tư tưởng,
đạo đức của nhà văn với hiện tượng được miêu tả thể hiện trong lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa gần,
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay chấm biếm…”. “Giọng điệu là
một yếu tố đặc trưng của hình tượng tác giả trong tác phẩm. Nếu như trong
đời sống, ta thường chỉ nghe giọng nói nhận ra con người thì trong văn học,
giọng điệu giúp chúng ta nhận ra tác giả”. Người đọc có thể nhận thấy tất cả
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 64
chiều sâu tư tưởng, thái độ, vị thế, phong cách, tài năng cũng như sở trường
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội ngôn ngữ, cảm hứng sáng tạo của người nghệ sĩ thông qua giọng điệu. Nền
tảng của giọng điệu là cảm hứng chủ đạo của nhà văn”
Dù chưa một lần đến với Hà Nội nhưng nếu đã cùng đọc và trải nghiệm
với bốn tác giả qua bốn tản văn viết về Hà Nội chắc chắn ai trong chúng ta
cũng sẽ cảm nhận được khá trọn vẹn về một Hà Nội với đầy đủ âm thanh,
hương vị, con người và cảnh vật nơi đây. Các tác giả đều bộc lộ nỗi niềm đau
đáu với Hà Nội qua biết bao thăng trầm của thời gian, qua từng giai đoạn lịch
sử với những đổi thay không ngừng. Mỗi người một giọng điệu khác nhau: đó
là giọng hoài niệm trữ tình trong Hà Nội thì không có tuyết của Đỗ Phấn,
giọng suy tư, triết lý trong Đi ngang Hà Nội của Nguyễn Ngọc Tiến, giọng
trào lộng trong Con giai phố cổ của Nguyễn Việt Hà và Nguyễn Trương Quý
lại đầy dí dỏm, hài hước trong Ăn phở rất khó thấy ngon, song tất cả đều
mang đến cho người đọc những cảm nhận rất rõ nét về Hà Nội xưa và nay
cũng như thể hiện cảm hứng, thái độ, suy nghĩ tình cảm, của các tác giả khi
nhìn nhận và viết về Hà Nội.
3.2.1. Giọng hoài niệm trữ tình
Là một họa sĩ lấn sân sang văn chương, Đỗ Phấn luôn mang đến cho
các độc giả của mình những bức tranh được vẽ bằng chữ nhưng lại gợi lên
những đường nét cụ thể, tỉ mỉ, chân thực. Con mắt quan sát tinh tế của một
họa sĩ đã được ông sử dụng trong văn chương như một lẽ đương nhiên, tạo
nên những mảng màu, những hình ảnh bắt mắt trong tâm trí người đọc. Chính
giọng điệu thiết tha, nhớ nhung, có phần tiếc nuối những gì xưa cũ, đẹp đẽ
của chốn Hà thành đã cuốn người đọc đi theo những trang viết của ông.
Những hoài niệm trong ký ức của một tâm hồn yêu mến, gắn bó sâu sắc với
Hà Nội từ thuở lọt lòng đã tự nó bộc lộ qua giọng điệu tâm tình, đầy thương,
đầy nhớ mà ông thể hiện trong tác phẩm. Song điều đặc biệt ở Đỗ Phấn mà
người đọc cảm nhận được chính là sự pha trộn hài hòa, thú vị trong giọng
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 65
điệu hoài niệm của ông. Lấy giọng điệu hoài niệm làm chủ đạo thể hiện cảm
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội xúc song ở mỗi hoàn cảnh cụ thể giọng điệu ấy lại toát lên những cung bậc,
những màu sắc khác nhau.
Đỗ Phấn đã gợi lên những hình ảnh của Hà Nội xưa bằng giọng điệu
đầy hoài niệm, vấn vương. Từng hành động, từng cảnh vật, con người nơi đây
hiện lên lần lượt như thước phim quay chậm khơi lại trong trí nhớ người đọc
những khoảnh khắc đẹp đẽ, thiêng liêng vào mỗi dịp Tết đến, xuân về.
“Người Hà Nội không mong gì hơn một ngày thường Hà Nội xa xưa. Bây giờ
chỉ vào dịp Tết mới có dăm ngày. Lại được bồi hồi lắng nghe tiếng chuông
chùa Trấn Quốc lan man trên sương khói Hồ Tây. Lại được ngước mắt nhìn
lên những vòm cây ào ạt gió. Được nhìn thấy diện mạo toàn vẹn của một con
phố không người. Được nhìn thấy nhau. Thấy những môi cười hết dấu âu lo.
Thấy lúc trẻ tưng bừng đón xuân trong những bộ quần áo không phải đồng
phục. Thấy những người già thanh thản tự tin dạo bước ở bên ngoài ngôi nhà
của mình [33; 12] hay “Người thành phố cũng dần dà phải bỏ đi những tục lệ
xa xưa. Hiếm còn nhìn thấy cảnh chồng com lê vợ áo dài tha thướt đi chúc tết
họ hàng bạn bè suốt mấy ngày mệt lả. Cũng hiếm thấy cỗ bàn linh đình mâm
trên mâm dưới ngồi xua ruồi đợi khách” [33; 22].
Giọng điệu hoài niệm pha chút vui tươi bộc lộ ra thật tự nhiên khi
những ký ức tuổi thơ ấu tràn về trong hiện tại. Chính ông cũng thấy háo hức
với những kỷ niệm bé thơ đầy hồn nhiên, trong sáng ấy “Thật ngạc nhiên là
mình ngày bé cũng đã từng rất mong đến Tết. Trước hết là được nghỉ học đi
chơi. Được ăn uống tùy ý quá với khẩu phần hằng ngày. Có thể còn được mặc
quần áo mới. Và dĩ nhiên trong túi quần lúc nào cũng hãnh diện với thằng bạn
mươi quả pháo tép nhàu nát tháo ra từ bánh pháo tiêu chuẩn của Tết gia đình”
[33; 27].
Đỗ Phấn sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, chứng kiến biết bao đổi thay
chóng mặt của thành phố, quá trình đô thị hóa mạnh mẽ, mọi thứ đều được
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 66
hiện đại hóa, tất cả đều được làm sẵn, phục vụ sẵn khiến cho con người dường
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội như trở nên lười nhác hơn đã vô tình đẩy những phong tục truyền thống dần
vào lãng quên. Người đọc không ít lần gặp giọng điệu hoài niệm mà ngân nga
đầy tiếc nuối vô cùng. “Chỉ còn mỗi hoa đào thôi khi Tết đến bây giờ người
Hà Nội đã không còn mặn mà với đồ ăn thức uống truyền thống. Bánh chưng
mua hai chiếc thắp hương. Thịt mỡ không có nên cũng chẳng cần đến dưa
hành. Giò chả ăn quanh năm nên chỉ mong sao Tết đến không có nó. Mười
năm cấm pháo cũng quên cả mùi thơm thuốc pháo và những cánh giấy hồng
mỏng manh đẫm ướt dưới mưa phùn. Mới biết trí nhớ con người suy tàn
nhanh đến mức nào. Vài chục năm thôi đã xóa hết gần như toàn bộ những
khái niệm lâu đời về Tết” [33; 39, 40].
Là người từng đi nhiều, am hiểu nhiều và từng trải nhìn cuộc đời bằng
con mắt tinh tường, kỹ lưỡng, Đỗ Phấn chưa bao giờ nguôi day dứt về một Hà
Nội xưa đã phôi pha và chấp nhận những bộn bề, xô bồ của thời hiện tại. Đó
cũng là lúc giọng điệu hoài niệm của nhà văn cất lên đầy chiêm nghiệm, suy
tư sâu sắc. Tác giả cố gọi ra cho hết những điều đang dần bị mất đi nơi phố
phường tấp nập, ồn ào bằng giọng văn vừa man mác nỗi nhớ nhung vừa chất
chứa nỗi buồn thường trực mà không thể định nghĩa. “Người Hà Nội đông lên
gấp mấy chục lần so với giữa thế kỷ trước nhưng thực ra hình như lại vắng đi
rất nhiều. Bắt đầu là vắng đi tiếng còi tầm Nhà Hát Lớn… Tiếp đến là vắng đi
hừng hực tiếng còi xe lửa đầu máy hơi nước ậm ạch từ ga Hàng Cỏ… Tiếp
nữa là vắng đi tiếng chuông leng keng tàu điện những sáng sớm rộn ràng đánh
thức trong veo mặt Hồ Gươm… Vắng đi những người tinh tế khắt khe với ẩm
thực, quà bánh dân dã thời tác phong công nghiệp được gói đựng bằng giấy ni
lông buộc chun… Nhớ đến nao lòng nắm rơm nếp vàng chói giắt cạnh thúng
cốm đậy lá sen xanh ngắt năm nào. Hà Nội đang vắng đi một cái gì đó tựa
như… Hà Nội?” [33; 132].
Đỗ Phấn xuất thân là một họa sĩ. Chính vì vậy câu chữ của ông viết ra
đều gợi dấu ấn của hình ảnh rất nhiều. Mỗi chi tiết ông khắc họa được thể
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 67
hiện qua giọng điệu trữ tình đậm nét. Có những đoạn viết khi đọc lên người
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội đọc dường như cảm nhận đó là thơ được viết bằng văn xuôi bởi từng câu,
từng lời dịu dàng, bay bổng đưa người ta lạc trong không gian mà tác giả vẽ
ra. “Qua tết, người Hà Nội tìm một quán cà phê vắng vẻ trên đường Ngọc Hà
buổi sáng. Kê ghế ngồi ngoài vỉa hè ngắm lên những cây bằng lăng trụi lá.
Những quả khô lốm đốm đen trong đám cành gầy guộc phong sương. Vài
chiếc lá màu cam chói lọi ướt mưa phùn. Có con chim bạc má rét mướt đứng
trên cành rỉa lông cất tiếng kêu sắc lạnh như gió mùa. Gọi xuân. Và xuân đến.
Bắt đầu là những cánh én lơ lửng tầng không xám bạc. Tiếng kêu rời rạc gọi
bầy. Rồi đến đàn khuyên xanh kéo đến hàng cây phượng bên kia đường héo
quắt quả đen treo ngoằn nghèo như những chiếc liềm rỉ. Đàn chim khuyên réo
rắt như những nốt nhạc tự chơi trên khuông nhạc rối. Cà phê thì thầm nhỏ
giọt. Quán có vài người khách tư lự nhìn xa xăm chẳng nói gì. Cái ồn ào của
phố xá dường như được cất kín trong xa xăm ấy. Khói thuốc trong mưa nhẹ
nhàng rơi xuống. Chạm xuân…” [33; 16]. Tác giả đã mê hoặc người đọc bằng
chính giọng văn nhẹ nhàng pha chút thảnh thơi, điềm tĩnh của người nghệ sĩ
đang bình tâm ngắm nhìn sự vận động của cảnh vật và lắng nghe giai điệu của
thành phố trong ngày đầu xuân.
Dường như tác giả luôn ưu ái trong những trang viết về mùa xuân Hà
Nội, về không khí của những ngày đầu năm mới chạm tới mọi ngóc ngách,
ngõ phố của thủ đô yêu dấu. Tác giả truyền cho người đọc cảm hứng mùa
xuân bằng giọng điệu chứa đựng những khát khao. Đó là sự mong mỏi gìn giữ
một nét đẹp quý giá - biểu tượng của Tết miền Bắc, Tết Hà Nội. Hơn tất cả
mọi thứ, hoa đào tự mang trong nó thiên chức thiêng liêng trong dịp đầu xuân
và vì thế nó cần được nâng niu để thực hiện sứ mệnh của riêng mình. “Duy
chỉ còn những cành hoa đào là vẫn bền bỉ e ấp mong manh giữ gìn một sắc
màu rất riêng Hà Nội… Hoa đào rất cần một không gian phố cổ Hà Nội để mà
khoe sắc… Màu hoa đào hồng trên má người con gái đương thì hay môi cười
hàm tiếu thiếu nữ Hà Nội đậu trên những cành nâu sạm màu sương gió cũng
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 68
khó lòng phân biệt?” [33; 38].
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
Giọng trữ tình không chỉ dùng bày tỏ cảm xúc khi ngắm nhìn cảnh vật
mà còn thể hiện sự tiếc thương với một con người đã mãi mãi ra đi. Một con
người bình dị nhưng lại là biểu tượng của sự gìn giữ văn hóa, cất giữ những
tinh túy của ngày Tết dân tộc từ bao đời. Không còn là giọng trữ tình ngọt
ngào, say đắm trước cảnh đẹp mà thay vào đó là giọng trầm lắng xuống chất
chứa nỗi lòng bâng khuâng, da diết. “Từ ngày ông lão mất đi, những khách
hàng quen thuộc vẫn thường quay lại vườn đào ấy để rồi ra về tay không.
Vườn đào xác xơ vẫn còn đấy nhưng không có một cành nào ra hồn. Họ bâng
khuâng đứng bên hồ lắng nghe trong gió những cánh đào xưa cũ vẫn ẩn hiện
đâu đó rất gần. Chỉ thế thôi cũng là…” [33; 35]. Câu văn bỏ lửng giữa chừng
có lẽ dành cho người đọc những giây phút tự lắng đọng cùng đồng cảm với
tác giả trong cảm xúc nghẹn ngào không nói lên lời.
Với Hà Nội thì không có tuyết, Đỗ Phấn không chỉ vẽ ra trước mắt người
đọc một bức tranh Hà Nội đủ bốn mùa xuân, hạ, thu, đông bằng những nét
chấm phá, điểm phác ấn tượng, mà hơn hết còn truyền cho họ cảm xúc về mỗi
mùa Hà Nội thật riêng biệt, không giống bất kỳ nơi đâu. Tất cả hòa quyện trong
giọng điệu hoài niệm trữ tình sâu lắng của tác giả để gợi lên tình cảm yêu mến
và nhớ thương Hà Nội trong trái tim người đọc thật dịu dàng, tự nhiên.
3.2.2. Giọng suy tư, triết lý
Trong các tác phẩm viết về Hà Nội của mình, Nguyễn Ngọc Tiến đã kết
hợp nhuần nhuyễn giữa văn báo chí và văn khảo cứu, do vậy tác phẩm của
ông luôn được độc giả coi như những tư liệu quý giá về văn hóa, lịch sử Hà
Nội. Mỗi sự kiện, mỗi hiện tượng mà ông nhắc đến đều được kể lại bám sát
theo dòng lịch sử từ khi ra đời đến từng giai đoạn phát triển cụ thể. Đi ngang
Hà Nội cho người đọc thấy được cảm hứng chủ đạo của Nguyễn Ngọc Tiến là
không ngừng suy ngẫm, chiêm nghiệm về con người, về đời sống từ quá khứ
đến hiện tại. Vì vậy mà trong lời giới thiệu sách nhà phê bình Nguyễn Hòa có
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 69
viết “Đọc Đi ngang Hà Nội, tôi nhớ về những điều đã trôi vào lãng quên, nghĩ
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội về những điều vẫn hiện hữu nhưng đã khác xưa. Vật đổi sao dời, quá khứ
mang theo nó quá nhiều giá trị, quá nhiều câu chuyện không bao giờ trở lại”.
[44; tr8]. Có lẽ, đây cũng chính là yếu tố chi phối giọng điệu của tác giả.
Giọng văn trầm lắng miên man trong suy tư và vô cùng sắc sảo khi nhận định
vấn đề.
Thương hiệu bia Hà Nội cõ lẽ đã quá nổi tiếng với mọi người không chỉ
ở Hà Nội mà còn ở các tỉnh phía Bắc. Nguyễn Ngọc Tiến đã đưa ngòi bút
khám phá về loại thức uống hấp dẫn đặc biệt với cánh mày râu này. Những
ghi chép của ông không chỉ tản mạn ở cách uống bia, thưởng thức bia, đánh
giá hương vị bia mà nó dường như là một quá trình tìm hiểu có lớp lang tương
đối đầy đủ bao gồm thời điểm xuất hiện loại đồ uống này trên thị trường, giá
cả ra sao, tầng lớp nào tiêu thụ chủ yếu và cả các địa chỉ bán bia tin cậy, chất
lượng… “Cuối thập niên 90, các lò bia tư nhân xuất hiện tràn lan. Người ta
gọi bia nấu thủ công là bia “cỏ”. Và bia “cỏ” có ở hang cùng ngõ hẻm trong
thành phố với giá rẻ nên lôi kéo dân lao động. Chẳng cần ngon, miễn là có tí
men ngủ cho dễ, để mai đi làm. Uống bia bây giờ cũng khác trước vốn tốn ít
mồi thì nay ú hụ đồ nhắm trên bàn. Đầu những năm 2000, quán bia ở Câu lạc
bộ Quân đội bán theo hơi hướng kiểu bao cấp, bia đựng vào bình nhựa, mồi
cũng là những món bình dân. Quán rất đông, hầu hết là dân uống bia chuyên
nghiệp, lý do là bia ở đây không bị pha trộn với các loại bia khác nên mùi vị
vẫn như một thời. Quán ở phố Nguyễn Cảnh Chân có chất lượng rất ổn, mồi
chỉ là lạc luộc nhưng chỉ bán cho cán bộ làm việc ở các cơ quan quanh khu
vực này. Hà Nội không nói là đi nhậu mà là đi uống bia, nhậu nghe có vẻ
loàm nhoàm thức ăn còn uống dù sao nghe có vẻ thanh hơn” [44; 37]. Những
thông tin tác giả cung cấp cụ thể và chi tiết như bản đồ dẫn đường khiến ai
không biết cũng có thể tìm đến một quán bia ngon để thưởng thức. Sau khi
trình bày những tư liệu đã dày công sưu tầm, giọng điệu tác giả như lắng
xuống, nhịp điệu câu văn có sự nhấn nhá thể hiện sự trân trọng, nâng niu và ý
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 70
thức giữ gìn nét thanh lịch của người Hà Nội. Sự nhận định nghe có vẻ hài
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội hước của tác giả nhưng lại thể hiện sự quan sát tinh tế, kỹ lưỡng của ông. Tất
cả đều được tác giả nắm bắt, thu lượm để chiêm nghiệm sâu xa. Chỉ một cách
dùng từ khác nhau trong giao tiếp, sinh hoạt từ chuyện ăn uống hằng ngày
cũng cần được nâng lên ở tầm văn hóa, thể hiện tính cách đặc trưng, riêng biệt
của người Hà Nội. Đối với họ, sự thanh nhã, lịch lãm, kín đáo luôn là yếu tố
hàng đầu cần được thể hiện trong mọi trường hợp.
Khi nhắc tới Hà Nội có lẽ không thể không nhắc tới kem Tràng Tiền -
một thương hiệu kem bình dân nhưng lại có thời gian tồn tại lâu đời cho đến
bây giờ vẫn phổ biến và được yêu thích đặc biệt. Đúng như tác giả miêu tả
“Cho đến tận hôm nay, kem Tràng Tiền vẫn luôn luôn trong tình trạng phải
xếp hàng. Người ăn kem chật cứng gần cả trăm mét vuông vỉa hè cũng là
chuyện có thể ghi vào kỷ lục Việt Nam. Có người thích kem Tràng Tiền nói
quá “Phi thực kem Tràng Tiền, bất thành người Hà Nội”. Kem trở thành
“chuẩn” cho tất cả người ở quê ra Hà Nội, đi đâu làm gì không biết nhưng về
là phải kể chuyện “ăn kem, xem tàu điện”, còn không kể được đi tầu điện thế
nào và ăn kem ra sao coi như nói phét. Hoặc ra Hà Nội mà chưa đến Bách hóa
Tổng hợp Tràng Tiền, chưa ăn kem Bờ Hồ và chưa biết tầu điện coi như chưa
đến Hà Nội” [44; 112]. Xung quanh chuyện ra đời của cây kem còn bao
những câu chuyện khác gắn với Hà Nội. Chẳng ai có thể lý giải tại sao cây
kem Tràng Tiền lại gắn bó với Hà Nội lâu đến như vậy, tự nó đã trở thành
một nét đặc trưng, nét “bản sắc” chỉ Hà Nội mới có, để ai đến với Hà Nội
cũng cố gắng thưởng thức lấy một lần. Bằng cách viết dân dã, giản dị như
thuật lại lời nói hằng ngày kết hợp với giọng điệu dí dỏm nhưng khẳng định
chắc chắn, tác giả đã gợi nên một nét xưa cũ của Hà Nội trong quá khứ và thể
hiện niềm vui trân trọng khi hôm nay những nếp sinh hoạt, nét ẩm thực mang
tên Hà thành vẫn được lưu giữ và phát triển.
Điều đặc biệt ở Nguyễn Ngọc Tiến là khiến người đọc tin tưởng hoàn
toàn về những cảm nhận, đánh giá của ông trước mỗi hiện tượng ông đề cập
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 71
đến. Bởi nó xuất phát từ quá trình tìm hiểu chi tiết gắn liền với từng mốc thời
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội gian chính xác và được đúc kết lại bằng những triết lý sâu sắc mà ông rút ra
sau khi tự mình trải nghiệm. Ông thuyết phục người đọc bằng giọng văn rất
bình thản, khách quan và chừng mực của mình. Tác giả tiếp tục thể hiện sự
tinh tường, am hiểu về nguồn gốc của cà phê xuất hiện ở Hà Nội từ những
ngày đầu khốn khó và phát triển rộng khắp cho đến tận bây giờ. “Ngày nay,
không thể đếm được số quán, cũng không thể kể hết các nhãn hiệu cà phê tại
Hà Nội. Song cà phê vẫn không phải là thứ uống bình dân vì giá không hề rẻ.
Nếu ai sành cà phê và qua nhiều tỉnh thành khắp đất Việt sẽ không khó để
nhận ra cà phê Hà Nội là số một. Dường như bên ly cà phê, người Hà Nội sắc
sảo hơn khi tranh luận về bóng đá, rượu và cả chính trị. Đó cũng là một nét rất
riêng của Hà Nội” [44; 222]. Là một nhà báo, Nguyễn Ngọc Tiến chắc hẳn
cũng đã đặt chân đến rất nhiều nơi trong và ngoài nước vì thế mà trong giọng
điệu toát lên sự tự tin, chắc chắn khi khẳng định nét riêng Hà Nội qua dẫn
chứng là những ly cà phê đậm “chất Hà Nội”. Quả thật, tác giả đã không hề
nói quá bởi cà phê là một thức uống rất thú vị, nó là chất xúc tác tạo nên cảm
hứng cho người uống nhưng vẫn khiến họ luôn tỉnh táo. Đối với người Hà
Nội nhiều khi uống cà phê không phải cần đến một địa chỉ với không gian
lãng mạn, sang trọng mà chỉ cần ngồi lại với nhau nơi một góc quán nhỏ trên
vỉa hè, nhâm nhi cốc cà phê và dành ra chút thời gian ít ỏi ấy để bình tâm lặng
ngắm, lắng nghe mọi âm thanh của phố phường hay trút bầu tâm sự, suy
ngẫm về cuộc đời, hoặc đơn giản là tán gẫu vu vơ đôi ba câu chuyện phiếm.
Đó là cách, là tinh thần họ tận hưởng vị đắng, vị ngọt, mùi thơm quyến rũ của
cà phê và cuộc sống.
Chính sự tìm tòi cặn kẽ, tỉ mỉ với những đánh giá khách quan của một
nhà báo đã tạo nên chất giọng rất đặc biệt của Nguyễn Ngọc Tiến. Một giọng
điệu không mạnh mẽ, không bay bổng, không nhấn nhá, cứ thản nhiên, bình
tĩnh nhưng vẫn cuốn hút bởi những gì tác giả cung cấp. Người đọc như phải
chạy theo con chữ để theo kịp hết những khám phá của tác giả. Cuốn sách đã
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 72
chạm đến những hiện tượng rất nhỏ nhặt, gần gũi với người Hà Nội và cuộc
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội sống Hà Nội hằng ngày, để mang đến cho người đọc nhận thức mới mẻ, sâu
sắc hơn về mảnh đất thủ đô được tạo nên bởi chính những điều bình dị, thân
thương ấy. Đi ngang Hà Nội để lại ấn tượng trong lòng độc giả bởi những ghi
chép cẩn thận, thú vị song dư âm đọng lại chính từ cách thể hiện qua giọng
điệu suy tư đầy triết lý, chiêm nghiệm sắc sảo, trí tuệ của Nguyễn Ngọc Tiến.
3.2.3. Giọng trào lộng
Tạp văn của Nguyễn Việt Hà không phải thứ văn chương nhung lụa,
cao siêu. Nó chỉ là những câu chuyện đời thường, người ta có thể mắt thấy, tai
nghe nhưng được ông thể hiện trong văn hết sức hài hước, cuốn hút. Văn của
ông dễ đọc, dễ thích, phản ánh rất rõ tính cách của người viết. Tập tạp văn
Con giai phố cổ đọc lên sực nức đùa giễu với đủ mọi thành phần, đủ thứ
chuyện ở Hà Nội. Với giọng điệu gần gũi pha chút trào lộng, giễu nhại khi
viết về những hiện tượng vẫn diễn ra hằng ngày trong cuộc sống, tác giả qua
đó muốn gửi đến người đọc những thông điệp hết sức nhẹ nhàng về sự thay
đổi cần thiết để gìn giữ lấy những giá trị thuần túy Hà Nội dù là nhỏ bé, giản
đơn. Mặc dù giọng văn thể hiện có vẻ thờ ơ, hờ hững nhưng ẩn sau đó lại là
một thứ tình cảm đặc biệt của tác giả đối với Hà Nội.
Nguyễn Việt Hà mang đến cho người đọc một cái nhìn hài hước nhưng
cũng rất tinh tế của con người Hà Nội qua giọng văn nói quá, dí dỏm của
mình. “Vì thế, chỉ cần nghe một vài ngữ điệu giao tiếp, người ở Hà Nội sành
sỏi biết ngay người đối thoại thuộc loại nào. “Chất chơi” hay “chất quê”.
Thậm chí còn định vị đúng anh/ chị ta đang sống ở phố cổ hay ở rìa cửa ô”
[12; 21]. Có lẽ đó chính là “bản năng” của người Hà Nội gốc bởi họ được
sinh ra, lớn lên ở mảnh đất hội tụ mọi nét đẹp và tinh hoa của dân tộc. Họ trở
thành những con người thanh lịch, khuôn mẫu nhờ được hưởng sự giáo dục
nề nếp, nghiêm khắc của gia đình, của các thế hệ ông cha - những người mà
dường như mọi nét văn hóa Hà Nội truyền thống, cổ xưa đều như khắc tạc
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 73
trong suy nghĩ họ. Vậy nên mọi giá trị lệch chuẩn từ những việc nhỏ nhất là
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội lời nói, giọng nói, hành động cũng luôn được họ phát hiện, nhìn nhận chính
xác, thấu đáo.
Con giai phố cổ chính là minh chứng tiêu biểu cho giọng điệu trào lộng
mang phong cách tạp văn Nguyễn Việt Hà. Sự tếu táo trong câu chữ, trong lời
văn của ông đã phác họa ra chân dung những người đàn ông sinh ra ở phố cổ -
nơi mà chỉ nhắc tới tên phố người ta đã hình dung ra một Hà Nội cổ xưa vẫn
còn đọng mãi mặc cho bao thăng trầm của thời gian. Cũng có thể, đây chỉ là
một cách gọi đại diện, tượng trưng của tác giả về con trai Hà Nội song dù là
gọi một bộ phận hay toàn thể thì qua đó người đọc cũng thấy được cái sự khác
biệt, cái chất riêng của Hà Nội in dấu trong những con người này. “Con giai
phố cổ thời tem phiếu đều nồng nàn thiết tha yêu Bờ Hồ. Đó là nơi lý tưởng
để câu cá trộm với trùng điệp hầm “tăng xê” làm chỗ giấu cá. Rồi hòa bình nó
có cái khách sạn dở dang trung lưu mang tên đúng như thế bán bia hơi tuyệt
ngon, hơn hẳn Thủy Tạ nhờ đồ kèm là phở xào tử tế hoặc thịt lợn nướng rất
biết cách tẩm ướp. Nỗi nhớ hồ Hoàn Kiếm luôn đọng thành vũng trong tim
những kẻ trót bất hạnh đi xa và kể cả những người may mắn còn ở lại… Bọn
họ thong thả ăn, tinh tế mặc, chầm chậm sống. Có bọn họ, Hà Nội hôm nay
mới có nổi dăm bảy hàng phở ngon, vài ba quán cà phê thị dân sâu lắng. Bọn
họ chẳng ra gì, sống bạc nhược nghệ sĩ nửa mùa, rồi trả ơn Hà Nội bằng cách
quyết liệt tự nuôi cho mình những thói quen của bao đời Hà Nội” [12; 26].
Những người đàn ông được tác giả phác họa mang nét tính cách ngạo nghễ,
có chút ngang tàng, mạnh mẽ được ẩn trong cái dáng dấp tinh tế, thanh lịch
của người Tràng An. Họ có cách sống, cách lao động và cách hưởng thụ riêng
góp phần tạo nên phong vị độc đáo không thể nhầm lẫn của Hà Nội. Đó là
một kiểu Hà Nội không thể gọi tên nhưng chắc chắn ai đã từng đến với Hà
Nội sẽ cảm nhận được nó rất rõ ràng.
Nguyễn Việt Hà cũng chọn lấy không khí ngày Tết để bày tỏ những
cảm xúc bâng khuâng. Không động chạm đến những vấn đề to tát, tác giả chỉ
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 74
ra sự thay đổi của hoa đào xưa và nay đồng thời chỉ ra nguyên nhân tạo ra sự
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội khác biệt ấy bằng giọng điệu có chút buồn giận pha tiếc nuối: “Khoảng hơn
chục năm lại đây, Tết Nguyên Đán ở Hà Nội đã nuối tiếc bớt đi quá nhiều
những màu đáng kể… Thôi, khỏi nhắc đến hoành tráng bánh pháo đỏ kinh
điển Bình Đà nữa, chuyện xưa rồi, nhưng cứ thử nhìn thật kỹ đóa hồng đào
ngoại tỉnh này xem. Không những cánh của nó bị mỏng lớp mà sắc thắm cũng
bị kém hơn nhiều nếu phải so với đào cũ Nhật Tân, hồi vườn ở đây còn mênh
mông trùng trùng điệp điệp gốc đào chưa bị đám bê tông cốt thép của khu biệt
thự liền kề hay chung cư cao cấp hung bạo lấn. Màu đào đã không còn nồng
nàn thắm thì đương nhiên má của mấy thiếu nữ đứng bán hoa đào dọc theo
hai bên đường đê Yên Phụ cũng tai tái vắng sắc hồng. Mùa xuân sẽ phôi pha
nhanh hơn khi mà tết nhất hụt thiếu đi những gam màu đỏ” [12; 285]. Cái linh
hồn ngày tết đang bị phôi pha bởi tốc độ đô thị hóa cao, diện tích đất của các
vườn đào bị thu hẹp để nhường chỗ cho các công trình xây dựng. Tác giả đã
vẽ lại bức tranh ngày tết bằng một thứ màu hồng hoa đào nhạt nhòa và thứ
cảm xúc vương vấn nhớ thương.
Tác giả đã đến với mọi không gian Hà Nội để thấy được những chuyển
biến rõ nét của Hà Nội hôm nay. Người ta đến với thư viện không chỉ còn là
thú vui đọc sách, đi vu vơ dạo qua những kệ sách để bắt gặp một tên sách thú
vị và ngồi nghiền ngẫm, để thảnh thơi đắm mình trong những trang văn thơ bay
bổng mà đọc sách bây giờ cần có mục đích rõ ràng: “Thư viện hôm nay tuyệt
không thấy một ai mơ màng ngồi đọc thơ nữa, đa phần đều cồn cào ngốn ngấu
những loại sách thời thượng gọi là sách công cụ. Một nghìn cách làm giàu.
Làm thế nào để bạn trở thành quyến rũ. Quản trị kinh doanh thật là đơn giản.
Hiếm hoi có lần thấy một nàng đọc Chiến tranh và Hòa bình. Tò mò xúc động
rón rén nhìn trộm vào vở, hóa ra em đang làm luận văn tốt nghiệp về văn học
Nga thế kỷ 19” [12; 291]. Có chút trào lộng nhưng lại nghèn nghẹn trong giọng
văn, phải chăng chính nhà văn cũng đang khao khát muốn được thấy lại một
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 75
nét xưa cũ ở cái nơi vốn được coi là bình yên giữa lòng Thủ đô này mà đến rồi
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội lại mang về một nỗi niềm thất vọng ngậm ngùi khi thấy mọi thứ diễn ra cũng
tấp nập, hối hả như những con đường ngoài phố kia.
Đọc tạp văn Nguyễn Việt Hà cõ lẽ không khó để nhận ra nét trào lộng
có chút ngang tàng trong giọng điệu. Phải chăng chính sự thể hiện đó đã tạo
ra một cách “thưởng thức” Hà Nội rất riêng. Từ con người, cảnh vật và những
địa điểm cụ thể được tác giả đưa vào và tái hiện sinh động, chân thực song
vẫn làm toát lên không khí của Hà Nội cổ kính hôm qua luôn nhẹ nhàng, tinh
tế đối lập với Hà Nội hôm nay đang gồng mình chạy đua trong tư thế gấp gáp,
vội vàng.
3.2.4. Giọng tự nhiên, dí dỏm
Nguyễn Trương Quý viết Ăn phở rất khó thấy ngon với giọng điệu dí
dỏm, nóng hổi chuyện phố xá nhưng để lại dư vị sâu lắng. Không viết về Hà
Nội một cách trực tiếp quanh những sinh hoạt, văn hóa, Nguyễn Trương Quý
đi vào khai thác một mảng đề tài rất mới đó là cuộc sống, suy nghĩ của “dân
văn phòng” thời mới trên nền của thành phố đông đúc, nhộn nhịp. Bằng những
liên tưởng sinh động, phong phú, thú vị kết hợp với giọng điệu tự nhiên, dí
dỏm tất cả mọi chuyện được tác giả phơi bày chân thật, châm biếm nhẹ nhàng
thấm thía nhưng không mang lại cảm giác nặng nề.
Tác giả châm biếm nhẹ nhàng một tật xấu phổ biến của dân công sở
hiện nay đó là vấn đề ngoại tình bằng cách nói theo kiểu “chán cơm thèm
phở”. Hành động này tạo nên một nếp sống không văn minh chưa nói đến còn
gây những hệ lụy đáng tiếc cho rất nhiều người và vì thế nó sẽ ảnh hưởng đến
bộ mặt chung của toàn xã hội. “Ngày nghỉ thì đi nhà nghỉ nghe vừa tai thế.
Những ai ngày thường không có nhau, nay ngày nghỉ, nói tôi phải đi công tác
đột xuất, mẹ hay vợ/ chồng đừng nấu cơm, tôi ăn phở cũng được. Phở ở đây
là “phở nhà nghỉ”, đôi lứa thần tiên suốt một ngày, chán phở thì chuyển sang
bún, bún bung chân giò… Nếu dân Hải Phòng ngày nghỉ đi Đồ Sơn hay dân
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 76
Sài Gòn đi Vũng Tàu để cua đào thì dân Hà Nội sang Gia Lâm. “Ăn Giáp Bát,
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội hát Thanh Xuân, ngủ Gia Lâm, đâm Thái Hà, chó Nhật Tân, vần Hồ Tây”
[39; 13, 24]. Nguyễn Trương Quý không ngại ngần dấn thân vào những mảng
tối của đời sống để mà đả kích, giễu nhại như góp một tiếng nói làm thức tỉnh
những ai đã và đang có ý định “làm quen” với hiện tượng này. Những thói hư
tật xấu này đang ngày một lan tràn nhanh chóng và rộng rãi khiến ai cũng có
thể mắc phải. Chỉ chọn một thành phần “phức tạp về nghĩ ngợi” nhất trong xã
hội để phản ánh nhưng thông điệp mà nhà văn gửi đi dành cho tất cả mọi
người. Thể hiện bằng giọng điệu hài hước song đằng sau tiếng cười sảng
khoái ấy lại chứa đựng sự quan tâm sâu sắc của tác giả với những biểu hiện
tiêu cực của xã hội hiện đại. Trong guồng quay hối hả của thời đại hội nhập,
ai ai cũng vội vã chạy đua, cạnh tranh không ngừng mà đã vô tình đánh mất đi
những giá trị cốt lõi của cuộc sống, của hạnh phúc, mải mê kiếm tìm những
cái hư ảo mà quên mất những người thân yêu ngay bên cạnh. Cách kể chuyện
và bàn luận nghe có vẻ vu vơ, “vô thưởng, vô phạt” nhưng Nguyễn Trương
Quý đã bộc lộ khả năng nhìn nhận đa chiều về mọi “ngóc ngách” của cuộc
sống, ẩn chứa niềm đau đáu không nguôi của mình về con người và cuộc sống
hôm nay.
Vẫn tiếp tục là những câu chuyện rất nhỏ nhặt của cuộc sống hằng ngày
nhưng đều được Nguyễn Trương Quý phát hiện và ghi lại. “Vì đi bằng thang
máy nên ở những tòa nhà mới này, dân viên chức về đến nơi thì mắt trước
mắt sau tìm mọi cách leo lên căn hộ, nơi sự khép kín đảm bảo tuyệt đối, và
kiểu mẫu mới lúc này là đèn nhà ai nhà nấy rạng. Mà có liếc ra đèn nhà khác
thì cũng chỉ thấy những cánh cửa nằm im lìm quanh sảnh thang máy” [39;
58]. Đó chính là hình ảnh chúng ta vẫn bắt gặp mỗi ngày nhưng tất cả đều bỏ
qua và không mấy quan tâm. Mọi người sống xa cách, không gặp gỡ, không
giao lưu và chỉ biết đến mình, gia đình mình. Một cộng đồng người sống
trong một tập thể, chung cư, các nhà liền kề nhau nhưng có người nhiều khi
không biết hàng xóm nhà mình là những ai? có mấy người? làm nghề gì?…
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 77
Chính lối sống này đã dần tạo nên thói vô cảm trong đời sống hằng ngày, mọi
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội người lạnh lùng, thờ ơ với những việc xảy ra xung quanh mình. Nhà văn gợi
nhắc vấn đề bằng một giọng điệu dí dỏm nhẹ nhàng nhưng lại hướng độc giả
đến sự suy ngẫm sâu xa, phê phán và thức tỉnh mọi người cần thay đổi thái độ
sống của chính mình trước khi quá muộn.
Không chỉ ở Việt Nam mà trên khắp thế giới món Phở đã trở thành
thương hiệu của người Việt Nam, bởi vậy mà nó đã được tìm hiểu, nghiên
cứu rất nhiều nhưng với Nguyễn Trương Quý, phở lại được nhìn dưới một
góc độ mới mẻ gắn với cách sống, cách cảm của con người hôm nay. “Phở
không ngon vì 100 lý do: cuộc sống đã phong trần hơn, ăn đã sướng mồm
hơn, Hà Nội đã bớt hữu tình hơn… nhưng có ai nghĩ là chúng ta sẽ để phở
xuống giá thế thảm, để chất lượng bát phở đuểnh đoảng đến phát ngán và món
phở, đã không còn là thức thời trân như thời của những “thương nhớ mười
hai”. Hình như từ món phở này, cách sống với những giá trị của chúng ta soi
từ đấy thấy cũng nông nông, tùy tiện” [39; 153]. Rất nhiều nhà văn đưa món
ăn dân tộc này vào trang viết với những tình cảm ca ngợi, đưa người đọc đến
khám phá cái ngon và hấp dẫn của phở thì Nguyễn Trương Quý lại chỉ ra cái
không ngon. Song phở hôm nay không ngon không phải bởi hương vị, nguyên
liệu… tự bản thân nó mà bởi những người nấu và ăn nó không đúng cách. Đó
là sự cẩu thả trong chế biến, món ăn không được tạo nên bằng cái tâm và sự
trân trọng của người nấu, người ta chạy theo những thị hiếu thị trường, kinh
doanh chỉ hướng đến lời lãi, chỉ chăm chú chọn lấy những thứ nguyên liệu giá
rẻ mà không quan tâm đến chất lượng của món ăn…. Và kết quả là hàng phở
nào ra đời những nhang nhác nhau, mượn tạm “thương hiệu” của nhau. Tác
giả mượn chuyện ăn phở để bàn đến cách sống của con người. Giữa chốn đô
thị tấp nập này, ai cũng đang cuống cuồng chạy theo những công việc và kế
hoạch của riêng mình vì vậy mà họ phải tiết kiệm thời gian để “soi gương”
cho mình. Chỉ biết lao vào làm theo, bắt chước theo những thứ xã hội cần mà
chưa bao giờ tự hỏi nó có phù hợp với mình không. Họ dần đánh mất ý thức
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 78
phải khẳng định bản thân, nhiều khi cố gắng làm ngơ để hòa mình vào đám
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội đông, đồng ý theo đa số rồi vô tình lãng quên cá tính, bản sắc của riêng mình.
Con người trở nên lười nhác, lười nhìn lại chính mình và lên tiếng với người
khác, tất cả chấp nhận cuộc sống nhạt nhòa, chỉ “khát khao” đổi lấy sự yên
thân ích kỷ. Nguyễn Trương Quý đã thể hiện sự tinh tế vô cùng trong quan sát,
nhìn nhận và đánh giá vấn đề. Tác giả mạnh dạn lên tiếng trước những điều
mắt thấy tai nghe mỗi ngày bằng cách lồng ghép vào những câu chuyện hài
hước tưởng như không liên quan nhưng lại có khả năng nêu bật được vấn đề
muốn bày tỏ. Đó là những chuyện ai cũng biết, ai cũng hiểu nhưng ít ai nói ra.
Bằng cách dẫn chuyện khéo léo, giọng điệu rất tự nhiên, hóm hỉnh,
Nguyễn Trương Quý gửi đến người đọc những nghĩ ngợi sâu xa đằng sau mỗi
câu chuyện hài hước mà tác giả ghi lại. Tuy chỉ tập trung chủ yếu khai thác vào
đối tượng là dân văn phòng nhưng những gì tác giả đề cập đến dường như là
vấn đề chung hiện này của rất nhiều người. Lấy bối cảnh chung của thành phố
nhộn nhịp, nhà văn đi vào tìm hiểu cách sống và cách nghĩ của những con
người nơi đây trước những biến chuyển liên tục của tình hình kinh tế, văn hóa,
xã hội. Ăn phở rất khó thấy ngon đã mang đến những câu chuyện rất đỗi giản
dị gắn với việc sinh hoạt, đi làm, đi chơi hằng ngày của mỗi người nhưng lại
chất chứa biết bao điều không hề giản đơn đáng để ngẫm, để xét và để thay đổi.
3.3. Không gian, thời gian nghệ thuật
3.3.1. Không gian nghệ thuật
Trong văn học, không gian được nhắc tới với thuật ngữ “không gian
nghệ thuật”. Theo Iu. Lotman “không gian nghệ thuật là hệ quả của những
quan niệm coi tác phẩm như một không gian được khu biệt theo một cách nào
đó, phản ánh trong cái hữu hạn của mình về một đối tượng vô hạn là thế giới
hiện thực” [21; 376]. Còn cuốn Từ điển thuật ngữ văn học định nghĩa:
“Không gian nghệ thuật là hình thức bên trong của hình tượng nghệ thuật thể
hiện tính chỉnh thể của nó. Sự xác định của không gian nghệ thuật trong tác
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 79
phẩm văn học bắt đầu bằng hoạt động miêu tả, trần thuật xuất phát từ một
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội điểm nhìn diễn ra trong một trường nhìn nhất định, qua đó thế giới nghệ thuật
cụ thể, cảm tính bộc lộ toàn bộ cảm tính của nó” [13; 162]. Như vậy, không
gian trở thành phương tiện để con người thể hiện quan điểm của mình về thế
giới bên ngoài, nó thống nhất nhưng không đồng nhất với khách thể. Không
gian vật chất bên ngoài không phụ thuộc vào ý thức tồn tại của con người, nó
chỉ trở thành không gian nghệ thuật khi tác giả cảm nhận về nó, qua đó thể
hiện cách cảm, cách nghĩ về thế giới nhân sinh và thái độ sống.
Các tác giả đều sử dụng phố phường Hà Nội làm không gian chính để
triển khai tác phẩm. Đó có thể là không gian rộng lớn chung chung toàn cảnh
Hà Nội, nhưng cũng có thể là không gian hẹp là những con đường, căn nhà,
góc phố được gọi tên cụ thể. Song dù ở không gian nào Hà Nội vẫn đẹp theo
một cách riêng của nó, đẹp từ nhà ra ngõ, đẹp từ chính những điều nhỏ nhoi,
bình dị của cuộc sống đã làm nao lòng bao tâm hồn nhạy cảm. Chiều kích
không gian được các tác giả mở rộng, thu hẹp một cách linh hoạt, trở thành
phông nền để soi chiếu, làm nổi bật hiện tượng bàn đến trong từng câu chuyện
nhỏ. Đó là không gian thực, sống động của một Hà Nội hiện đại, tấp nập và
xô bồ trong thời mở cửa, du nhập mọi luồng văn hóa trong và ngoài nước đan
xen với không gian hoài niệm trong trí nhớ về một Hà Nội hào hoa, cổ kính,
thâm trầm trong quá khứ. Do đó, sự thuyên chuyển không gian thường xuyên
diễn ra giữa Hà Nội cổ xưa và đô thị Hà Nội náo nhiệt, hiện đại.
Đỗ Phấn đã phác lại một hình ảnh quen thuộc mà có lẽ ai được sinh ra
và lớn lên ở Hà Nội ở thế kỷ trước đã một lần được nhìn ngắm. Đó là không
gian sống yên bình, cổ kính của một Hà Nội xa xưa mà nay khó có cơ hội
thấy lại được. “Vài chục năm trước theo lũ bạn con nhà nghèo ở ven sông
Hồng lên cầu Long Biên chơi… Nhìn vào Hà Nội lúp xúp lô xô ngói nâu nhà
cổ và một màu tường vôi xám buồn rầu. Những cái đấu bằng gạch trát vữa
cầu kì trên các đầu hồi nhà mọi khi đứng gần nhìn rõ gờ chỉ, lợi chậu, hoa văn
rất đẹp mắt, giờ chỉ còn là một khối nham nhở đen kịt chĩa hoang mang lên
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 80
trời” [33; 148]. Đó là dáng hình của Hà Nội đã đi vào thơ ca nhạc họa thật dịu
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội dàng, trầm mặc biết bao. Chính vẻ đẹp mộc mạc ấy lại thu hút và làm mê đắm
lòng người tứ xứ khi nghĩ về Hà Nội. Những liên tưởng về quá khứ cũng
nhanh chóng đẩy người ta trở về với hiện tại để chứng kiến sự đối lập của
không gian Hà Nội trước sự tác động không ngừng của thời gian và con
người. Cái nét thô sơ giản dị qua bao thăng trầm đang cựa mình thay đổi bằng
những tòa cao ốc, khu đô thị hào nhoáng, sang trọng. Không gian đô thị, phố
phường đã biến đổi màu của thành phố hôm nay không còn là màu của gạch,
ngói nhấp nhô, san sát, là màu của bức tường xám phủ rêu phong mà là màu
của đèn điện lấp lánh suốt ngày đêm. Có tiếc nuối, ngậm ngùi thì con người ta
vẫn phải chấp nhận bởi đó là quy luật bất biến của thời gian, của xã hội khi
mọi vật luôn không ngừng vận động, đổi thay và phát triển đi lên. Cảnh sắc
yên ả của thủ đô nay chỉ còn tồn tại trong ký ức của những lớp người thế hệ
trước song nó vẫn chứa đựng những giá trị không bao giờ phôi pha, nhạt nhòa
theo thời gian bởi nó luôn hiện hữu trong tâm khảm của những người con
nặng lòng với Hà Nội để tiếp tục lưu truyền mãi mãi cho thế hệ trẻ hôm nay
và mai sau.
Tạm rời xa những không gian trong miền ký ức xa xôi, Đỗ Phấn đưa
người đọc trở về hiện tại để thưởng ngoạn khung cảnh lãng mạn, huyền ảo
như tranh vẽ với bố cục hài hòa về hình ảnh, đường nét, màu sắc và âm thanh
giữa lòng thủ đô. “Hạ tuần trăng, bốn giờ sáng một mình phóng xe lên Hồ
Tây. Mặt trăng như một chiếc mâm vàng khổng lồ đang từ từ lặn về phía
Trích Sài, Võng Thị. Chứa chan trên sóng nước Tây Hồ là ánh trăng xao động
khẽ rùng mình trong heo may phảng phất mùi hoa huệ. Bóng tối quanh hồ
đậm đặc hơn lúc nào hết. Mờ tỏ lá cành, mông lung ngọn tháp bên chùa Trấn
Quốc. Đứng ở ven hồ trước cửa đền Quán Thánh chợt như quên đi cái ồn ào
náo nhiệt của cả một thành phố mệt nhoài ngay phía sau lưng mình” [33;
226]. Đắm mình giữa không gian yên bình, tĩnh mịch của chốn đền, chùa linh
thiêng nghiêng mình trong mây, nước, trăng thanh, người ta như được thả hồn
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 81
mình hòa cùng với thiên nhiên để tạm xa lánh và quên đi những mệt mỏi, lo
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội toan bận rộn của đời sống thường nhật, để bình tâm, thảnh thơi nhìn lại sự đổi
thay của chính mình và cuộc đời. Giữa Hà Nội tấp nập, ồn ào hôm nay vẫn
giữ gìn được những không gian như vậy thật đáng quý và trân trọng biết bao.
Không gian ấy tựa như một nốt trầm đầy sâu lắng, da diết ngân nga cất lên
giữa bản nhạc sôi động, rộn ràng, tươi vui của thành phố. Chính sự điểm
xuyết này đã tạo nên một nét đặc trưng, khác biệt của Hà Nội - một thành phố
đang vươn mình mạnh mẽ theo hướng hiện đại nhưng không đánh mất đi
những nét văn hóa truyền thống của dân tộc từ ngàn đời. Sự kết hợp hài hòa
giữa văn hóa nội sinh và ngoại sinh đã khiến cho Hà Nội luôn giữ được nét
đẹp thanh lịch, quý phái của riêng mình. Mảnh đất Kinh kì nghìn năm văn
hiến chắc chắn sẽ tiếp tục kéo dài hành trình lịch sử của mình để níu giữ
những trái tim luôn dành trọn tình yêu cho Hà Nội.
Đối lập với Đỗ Phấn thường hay chọn những khung cảnh lãng mạn như
tranh vẽ, những không gian tĩnh của Hà Nội để bày tỏ cảm xúc thì Nguyễn
Ngọc Tiến lại “chụp” lấy những bức ảnh rất đỗi bình dị, chân thật trong cái
không gian động của con phố mà chỉ cần nhắc đến tên ai ai cũng đều biết. “Ở
nhiều phố, có hộ chật đến mức ngày giỗ cha, mấy chục con cháu phải ăn rải từ
sáng đến chiều mới xong. Tôi đã từng ăn tết đứng ở phố Hàng Đào vì nhà quá
chật. Chuyện vệ sinh thì không chỉ thời bao cấp mà bây giờ vẫn dở khóc dở
cười. Bạn tôi ở đầu hàng Buồm, lúc nhỏ bị mẹ huấn luyện phải ngồi bô vào
tầm trưa để không phải chờ đợi nếu đi vào buổi sáng. Nhiều nhà chật nhưng
không có khả năng mua nhà mới nên con trai lấy vợ chỉ còn cách làm gác xép.
Gác xép chỉ cách sàn nhà chừng hơn một mét, ban đêm có cả đống người ngủ
ngay phía dưới nên khổ cho cặp vợ chồng kia cứ phải nhẹ nhàng như kẻ trộm.
Bây giờ vẫn thế” [44; 148, 249]. Không gian sinh hoạt nơi phố cổ được phác
ra mang lại cho người đọc đúng cái cảm giác mà tác giả đã gọi tên lên ở đầu
đề tác phẩm. Có lẽ cho đến tận bây giờ nhiều người vẫn đặt ra câu hỏi tại sao
người Hà Nội gốc vẫn chấp nhận cuộc sống “ngột ngạt” trong những căn nhà
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 82
lụp xụp, chật chội, bất tiện, chung đụng “chia năm xẻ bảy” nơi phố cổ đắt đỏ.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Họ không được quyền quyết định với chỗ ở của chính mình, không thể đập đi
xây lại vì ảnh hưởng đến kết cấu chung và quan trọng nó thuộc diện bảo tồn
của quốc gia. Người ở ngoài thì cảm thấy chán nản, khâm phục những người
vẫn hằng ngày sinh sống trong cảnh khổ sở ấy, còn người ở trong thì lại
không nỡ từ bỏ “mảnh đất” đã “chôn rau cắt rốn” này mà đi bởi sự gắn bó quá
bền chặt, qua sâu sắc qua biết bao thế hệ. Một con phố mà chỉ gọi đến tên thôi
đã gợi lên cho người ta cảm giác về những gì cũ kĩ nhưng chất chứa đầy hoài
niệm, đầy kí ức đẹp đẽ về một Hà Nội xa xưa lúc nào cũng duyên dáng, thanh
lịch toát lên từ đất và người nơi đây. Và không hề nói quá khi khẳng định cái
chất Hà Nội, sự chuẩn mực trong văn hóa Hà Nội ấy cũng đã được sinh ra,
hình thành từ chính con phố nhỏ này. Nguyễn Ngọc Tiến đã khám phá không
gian phố cổ Hà Nội theo cả chiều rộng và chiều sâu. Đó không chỉ là không
gian sinh hoạt đơn thuần mà hơn hết đó là không gian văn hóa chứa đựng
những nét đẹp mang linh hồn Hà Nội. Viết về cảnh sinh sống một cách khá
“trần trụi” nơi phố cổ chính là cách tác giả lên tiếng nhắc nhớ mọi người về
một không gian lịch sử đang cần được bảo tồn nghiêm túc trước những thay
đổi chóng mặt của tốc độ đô thị hóa, quy hoạch xây dựng kết cấu hạ tầng…
và vấn đề ổn định đời sống của cư dân phố cổ trong hiện tại và tương lai.
Với đặc trưng phong cách văn chương có phần trẻ trung, phóng khoáng
của mình Nguyễn Việt Hà không tìm đến những không gian tĩnh trong quá
khứ mà tập trung tái hiện không gian đang hiện hữu ở hiện tại với sự biến đổi
dễ dàng nhận thấy. “Thư viện sẽ hết Tết khi cái siêu thị đối diện đông người
trở lại. Người ta hớt ha hớt hải vét hàng khuyến mại, tranh nhau đem xe gửi
vào khuôn viên của nhà chứa sách. Cả tòa biệt thự cũ chợt nhiên nhợt nhạt
mất đi trầm lắng cổ kính. Rồi nó sẽ giống như mọi phố phường của Hà Nội
đời thường hôm nay, chỉ toàn những ồn ào vội vã” [12; 292]. Trên mọi nẻo
đường, ngõ phố Hà Nội đều có thể tấp nập, hối hả, ồn ào nhưng thư viện sẽ
luôn là địa điểm cần có sự yên tĩnh tuyệt đối. Bởi người ta đến thư viện để để
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 83
đọc sách, học tập và nghiên cứu - những công việc luôn đòi hỏi không gian
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội tĩnh mịch để đạt được hiệu quả của việc đúc kết kiến thức từ sách hay đơn
giản chỉ muốn tìm đến một không gian thanh bình để tĩnh tâm, đắm mình
trong những trang sách lý thú, hấp dẫn có khả năng truyền cảm hứng làm
phong phú tâm hồn. Giữa thành phố nhỏ bé hàng triệu dân này, đi đến đâu
người ta cũng phải chen chúc, chen từ nhà ra phố nên chẳng ai cần biết đến
cái không gian thoáng đãng hiếm hoi kia đang bị lạm dụng, lấn chiếm bởi
những hành vi xâm phạm của chính họ. Dùng thư viện như một ví dụ điển
hình, nhà văn đang nêu bày một thực trạng phổ biến ở Hà Nội hiện nay. Mọi
địa điểm hay ngay cả những công trình văn hóa đều có thể bị chiếm dụng để
phục vụ cho nhiều mục đích khác nhau nhưng những nhà quản lý lại quá thờ
ơ, bỏ quên trách nhiệm của mình. Nhà văn không khỏi tiếc nuối và xót xa khi
chứng kiến một không gian đẹp và sâu lắng của Hà Nội đang bị đánh cắp dần
từng ngày. Với tạp văn của Nguyễn Việt Hà những không gian xuất hiện
không chỉ dừng lại ở việc thưởng ngoạn mà hơn hết nó khơi gợi đến những
điều đáng để suy ngẫm. Đó là thái độ, cách ứng xử, ý thức của con người hôm
nay với những giá trị cần bảo tồn vĩnh viễn.
Mỗi nhà văn đã “dựng” lên Hà Nội ở một không gian, chiều kích riêng
biệt được thêu dệt bằng những cung bậc cảm xúc khác nhau: có tự hào, ngợi
ca song cũng không tránh khỏi sự tiếc nuối ngậm ngùi. Song một điều dễ
dàng nhận thấy đó là sự trân trọng của các tác giả khi cảm nhận về những
không gian đẹp đẽ của Hà Nội. Dù có mênh mang sông nước, mây trời hay tù
túng, chật hẹp; dù có cũ kĩ, bạc màu hay sang trọng, lấp lánh thì Hà Nội vẫn
cứ đẹp, cái đẹp thích nghi trong từng thời kỳ, từng hoàn cảnh. Sự thuyên
chuyển không gian liên tục từ quá khứ đến hiện tại và ngược lại mang đến
những liên tưởng thú vị, sâu sắc về một Hà Nội hiện đại nhưng vẫn còn lưu
lại không ít những nét xưa cũ của văn hóa truyền thống. Đó là một không gian
đặc trưng và khó có thể tìm thấy ở thủ đô của bất kỳ một quốc gia nào. Khi
nhìn lên những tòa nhà, khu đô thị đẳng cấp quốc tế người ta có niềm tin để
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 84
hy vọng về sự đổi mới, vận động mạnh mẽ vươn lên của thành phố song khi
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội bắt gặp những gánh hàng rong bình dị, tất tưởi buổi sớm người ta lại thấy
được một nét thân quen, gần gũi tựa như quê nhà. Các nhà văn không chỉ giới
thiệu về cảnh sắc Hà Nội mà còn gieo vào lòng độc giả những khát khao được
một lần sống và trải nghiệm dưới bầu trời thủ đô, để hòa mình vào nhịp sống
trẻ sôi động, tất bật, nhộn nhịp của buổi sớm và đắm chìm trong không gian
yên ả, lãng mạn của màn sương đêm.
3.3.2. Thời gian nghệ thuật
Theo Từ điển thuật ngữ văn học thì thời gian nghệ thuật là “hình thức
nội tại của hình tượng nghệ thuật thể hiện tính chỉnh thể của nó. Cũng như
không gian nghệ thuật, sự miêu tả, trần thuật trong văn học nghệ thuật bao giờ
cũng xuất phát từ một điểm nhìn nhất định trong thời gian. Và cái được trần
thuật bao giờ cũng diễn ra trong thời gian, được biết qua thời gian trần thuật.
Sự phối hợp của hai yếu tố thời gian này tạo thành thời gian nghệ thuật, một
hiện tượng ước lệ chỉ có trong thế giới nghệ thuật. Khác với thời gian khách
quan được đo bằng đồng hồ và lịch, thời gian nghệ thuật có thể đảo ngược,
quay về quá khứ, có thể bay vượt tới tương lai xa xôi, có thể dồn nén một
khoảng thời gian dài trong chốc lát, lại có thể kéo dài cái chốc lát thành vô
tận. Thời gian nghệ thuật được đo bằng nhiều thước đo khác nhau, bằng sự
lặp lại đều đặn của các hiện tượng đời sống được ý thức: sự sống, cái chết,
gặp gỡ, chia tay, mùa này, mùa khác… tạo nên nhịp điệu trong tác phẩm. Như
vậy, thời gian nghệ thuật gắn liền với tổ chức bên trong của hình tượng nghệ
thuật. Khi nào ngòi bút nghệ sĩ chạy theo diễn biến sự kiện thì thời gian trôi
nhanh khi nào dừng lại miêu tả chi tiết thì thời gian chậm lại. Thời gian nghệ
thuật phản ánh sự cảm thụ thời gian của con người trong từng thời kỳ lịch sử,
từng giai đoạn phát triển, nó cũng thể hiện sự cảm thụ độc đáo của tác giả về
phương thức tồn tại của con người trong thời gian. Trong thế giới nghệ thuật,
thời gian nghệ thuật xuất hiện như một hệ quy chiếu có tính tiêu đề được giấu
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 85
kín để miêu tả đời sống trong tác phẩm, cho thấy đặc điểm tư duy của tác giả.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội Gắn với phương thức, phương tiện thể hiện, mỗi thể loại văn học có kiểu thời
gian nghệ thuật riêng” [13; 322].
Các tác giả đã sử dụng thời gian như một công cụ hữu hiệu để bộc lộ
những cái nhìn thấu đáo khi so sánh sự đổi thay của Hà Nội xưa và nay qua
những hiện tượng cụ thể. Đó có thể là những mốc thời gian chính xác trong
lịch sử gắn với từng chặng đường phát triển của thành phố hoặc có khi là cái
khoảnh khắc về mùa với những dư vị sâu lắng len lỏi trong trí nhớ, hay những
ngày, những tháng mơ hồ nào đó vấn vương vài kỷ niệm… Cứ như vậy, thời
gian hiện tại và thời gian trong quá khứ thể hiện qua kí ức nhân vật đan xen
nhau. Song dù ở thời điểm nào, Hà Nội vẫn đứng đó hiên ngang, kiêu hãnh
với những nét quyến rũ, hấp dẫn đặc biệt.
Với Hà Nội thì không có tuyết, Đỗ Phấn đã chủ động phân chia tản văn
chạy dọc theo dòng thời gian thành bốn phần gắn với bốn mùa trong năm:
xuân - hạ - thu - đông. Mỗi mùa qua đi đều để lại một chút kỷ niệm, một nét
nhung nhớ rưng rưng của tác giả với Hà Nội thân thương. Mạch thời gian cứ
đan xen liên tục đưa tác giả trở về với những cảm xúc về mùa thật đẹp, nhẹ
nhàng mà buâng khuâng đến lạ. Đó là khoảnh khắc lãng mạn của mùa thu lá
vàng xao xuyến, là nỗi nhớ nao lòng với những cơn mưa phùn của ngày Tết,
là chút giật mình đón nhận cái rét của gió mùa về hiu quạnh, là sự vui tươi,
rộn rã trong cái nắng hè oi ả, rực rỡ… tất cả đã làm nên một Hà Nội lung linh
sắc màu, lung linh xúc cảm.
Dòng thời gian vô hình như chảy chầm chậm, miên man gọi về những
ký ức và nỗi nhớ một thời tuổi trẻ của tác giả. Ngày ấy, tháng ấy không chỉ
gợi nhắc cả dân tộc nhớ về thời khắc của những trận đánh lịch sử, những tin
mừng thắng trận hò reo hòa trong những bài ca cách mạng bất hủ âm vang
khắp mọi nẻo đường thủ đô, mà đối với riêng tác giả đó còn là ngày tháng ăm
ắp những yêu thương chưa bao giờ phai nhòa gắn liền với những góc phố nhỏ
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 86
của Hà Nội. “Vậy mà đã ba mươi bảy tháng Tư qua rồi. Cô bạn gái năm xưa
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội tặng hoa loa kèn giờ đã là một bà ngoại về hưu đáng kính. Sáng nay, tôi gặp ở
bờ hồ Hoàn Kiếm sau buổi tập dưỡng sinh. Thấy ngồi ghế đá bên hồ thủ thỉ
với mấy bà bạn cho đến tận tám giờ sáng chưa về. Chẳng biết có nhắc gì về
những tháng Tư nhung nhớ” [33; 90]. Tháng tư về với sắc hoa loa kèn trắng
tinh khôi như chính tuổi học trò trong sáng, vụng dại. Những kỷ niệm từ thưở
còn ngồi trên ghế nhà trường đầy vô tư, hồn nhiên ùa về, đan xen trong những
rung động ngọt ngào của tình yêu học trò vẫn thổn thức nhè nhẹ khi bắt gặp
mùa loa kèn nở rộ. Đỗ Phấn đã ghi lại khoảnh khắc thời gian đẹp đẽ trong quá
khứ của riêng mình nhưng lại vô tình tạo nên sự đồng điệu trong tâm hồn của
biết bao độc giả. Những dòng tản văn như chảy tràn trong trái tim người đọc
để ai cũng giật mình nhận ra có mình trong câu chuyện đó và hình như mình
cũng đã từng trải qua một thời như thế. Cái thời còn ngây ngô, ngượng ngùng
trước những rung cảm đầu đời với một cô bé hay chàng trai nào đó. Gần một
nửa thế kỷ đã trôi qua, nhưng những ký ức đẹp đẽ ấy mãi còn in dấu trong
tâm trí tác giả để mỗi khi thấy hoa loa kèn báo hiệu mùa về nó lại thức dậy
vẹn nguyên và trong trẻo như thưở ban đầu. Một “tháng Tư nhung nhớ” đã
đưa người đọc quay ngược dòng thời gian để trở về với những cung bậc cảm
xúc thật đẹp tựa như được lắng nghe một giai điệu du dương, bay bổng, ngân
nga cất lên từ nhịp đập của những trái tim đồng điệu.
Nếu như Đỗ Phấn luôn trung thành với cách sử dụng thời gian quá khứ
để hoài niệm và dễ dàng bày tỏ cảm xúc, thì Nguyễn Ngọc Tiến lại tập trung
khai thác sự vật, hiện tượng theo các mốc thời gian chính xác từ lịch sử cho
đến hiện tại. “Đến năm 1953, các nhà máy bia ở Đông Dương hợp doanh lại
thành công ty Bia - Đá Đông Dương… Đầu năm 1957, theo chính sách phục
hồi kinh tế của chế độ mới, nhà máy Hommel được khôi phục… Ngày 15 - 8 -
1958, bia chai đầu tiên mang nhã hiệu Trúc Bạch đã xuất xưởng… Năm 1978,
Nhà máy bia Hà Nội đầu tư nâng cấp nhà nấu và hệ thống làm lạnh theo công
nghệ của Cộng hòa Dân chủ Đức nâng công suất lên 50 triệu lít/ năm. Nhờ đó
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 87
các điểm bán bia trong thành phố cũng nhiều hơn và lượng bia cung cấp cũng
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội dồi dào hơn” [44; 30, 31]. Bởi tản văn của ông nghiêng về mang tính chất
khảo cứu, vì vậy các hiện tượng, sự kiện đã và đang diễn ra ở Hà Nội mà ông
nhắc tới hầu hết đều được tái hiện sinh động theo quy trình phát triển của
chúng. Với sự dày công tìm hiểu tư liệu, thông tin tác giả đưa ra cụ thể và
chính xác tới từng ngày từng năm. Bia Hà Nội chỉ là một trong những ví dụ
tiêu biểu cho quá trình nghiên cứu rất phong phú của ông. Đó là những mốc
thời gian quan trọng đánh dấu sự ra đời, trưởng thành cho đến khi khẳng định
được thương hiệu của bia Hà Nội. Thời gian trong Đi ngang Hà Nội là thời
gian chạy dọc theo chiều dài lịch sử, nó vận động liên tục, không ngừng từ
quá khứ cho đến hiện tại do đó giúp người đọc dễ dàng nhận ra sự khác biệt
của hiện tượng trong thế đối sánh giữa xưa và nay.
Với đặc trưng luôn viết về những hiện tượng nóng hổi của đời sống, vì
vậy mà thời gian trong tản văn của Nguyễn Trương Quý thường là thời gian ở
hiện tại. Tác giả phản ánh hiện tượng số lượng người tham gia giao thông chủ
yếu sử dụng xe máy để lưu hành gây nên khá nhiều những hệ quả tiêu cực cho
Hà Nội hôm nay dưới góc nhìn hài hước: “Những năm đầu thế kỷ 21 này, có
đi đâu xa, dân văn phòng sống ở thành phố như Hà Nội mới ngộ ra, lắm khi
cái nao nao kỷ niệm lại là tiếng còi xe máy trong những phút tắc đường. Ở
thành phố bây giờ, tiếng còi kem trưa hè bồi hồi tâm trí bọn trẻ thì đã xa lắc,
tiếng metro sầm sập thì chưa tới. Dân văn phòng thành phố chúng ta bây giờ,
có thể định nghĩa là sinh vật di chuyển bằng xe máy hai bánh chứ không phải
hai chân. Nếu vẽ tranh biếm họa hay giả tưởng về dân văn phòng trên đường
phố hôm nay, hoàn toàn có thể vẽ một sinh vật đầu người mình xe máy” [39;
159]. Chỉ trong một khoảng thời gian ngắn, thành phố nhỏ bé này đã trở nên
chật trội hơn rất nhiều bởi phải chứa đến hai triệu xe máy mà đa phần là của
người dân tứ xứ dồn về Hà Nội để làm ăn, mưu sinh. Đi theo nó là hàng loạt
các vấn đề về ô nhiễm không khí, tiếng ồn, tắc nghẽn giao thông đang diễn ra
hằng ngày đã vô tình làm cho Hà Nội hôm nay xấu đi nhiều. Tác giả đặt vấn
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 88
đề trong sự so sánh giữa thời gian quá khứ và hiện tại để nhận thấy tốc độ
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội thay đổi chóng mặt của thành phố. Bên cạnh những mặt phát triển tích cực
chắc chắn thành phố cũng không tránh khỏi những hạn chế, tồn tại nảy sinh
trong quá trình đô thị hóa. Song nếu có sự chung tay, đồng hành từ ý thức
người dân và trách nhiệm của các nhà quản lý một cách chặt chẽ thì thành phố
hoàn toàn có hy vọng và niềm tin về sự đổi mới đẹp đẽ hơn, hoàn thiện hơn.
Quan sát và ghi chép mọi vấn đề ở hiện tại thông qua những sự vật, hiện
tượng tưởng chừng như rất nhỏ bé song tác giả đã chứng minh những tác
động không hề nhỏ của chúng theo thời gian và cả những thách thức đặt ra ở
tương lai đối với sự phát triển chung của thủ đô.
Nói như nhà văn Nguyễn Việt Hà “Hà Nội những năm gần đây đã rùng
rùng thay đổi, từ một thành phố tinh tế sâu lắng bỗng chốc tấp nập trưởng
thành” [12; 278]. Thật vậy, Hà Nội đang “thay da đổi thịt” từng ngày, mảnh đất
Kinh kỳ không chỉ là nơi lưu giữ những dấu ấn văn hóa nghìn năm qua bao
triều đại Việt Nam mà đang vận động mạnh mẽ, hòa chung trong xu thế hội
nhập của thế giới. Thời gian chính là thước đo chính xác nhất trước mọi biến
đổi của thành phố từ những điều dù là nhỏ bé nhất. Chọn lựa sáng tạo và linh
hoạt những khoảng thời gian quá khứ, hiện tại nhằm mục đích tái hiện những kí
ức của cá nhận hay tập thể, ghi chép những hiện tượng của đời sống thường
nhật các tác giả đã mang đến một góc nhìn đa chiều, sâu sắc, toàn diện hơn về
Hà Nội hôm qua và hôm nay. Xuất phát từ điểm nhìn nhất định trong những
khoảng thời gian cụ thể, mỗi tác giả có một cách khai thác riêng để thể hiện ý
tưởng và bày tỏ cảm xúc, suy nghĩ của mình trước sự biến chuyển của mỗi hiện
tượng, con người từ quá khứ cho tới hiện tại và tương lai.
Tiểu kết: Với ưu thế của thể loại tản văn, các tác giả sáng tác về Hà
Nội có cách triển khai mang đặc sắc nghệ thuật khác nhau. Với các thủ pháp
nghệ thuật đặc sắc, các tác giả đã mang đến một cách thể hiện rất mới mẻ, đầy
màu sắc về cuộc sống đô thị hiện đại qua những trang viết tản mạn đầy hấp
dẫn. Xuất phát từ những điểm nhìn và ngôi kể khác nhau, bốn tác giả đã tóm
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 89
lược, tái hiện tương đối đầy đủ về mọi vấn đề của đời sống con người từ thói
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội quen sinh hoạt, cung cách làm việc, nếp sống, nếp nghĩ đến sự đổi thay không
ngừng của cảnh quan thủ đô Hà Nội hôm qua và hôm nay. Sự linh hoạt trong
việc liên tục thuyên chuyển giữa không gian, thời gian từ quá khứ đến hiện tại
mang đến một cái nhìn chân thực hơn, toàn diện và sâu sắc về quá trình vận
động của con người và đời sống đô thị qua từng thời kỳ lịch sử cụ thể.
Đặc biệt, bốn tác giả với bốn giọng điệu khác nhau đã thể hiện những
cung bậc cảm xúc đan xen phong phú. Tuy không tránh khỏi có những nỗi
buồn, xót xa, nuối tiếc song hơn hết các tác giả đã rất thành công khi truyền
được cho độc giả tình yêu, niềm tự hào, sự tin tưởng tuyệt đối với những giá
trị văn hóa truyền thống sẽ mãi được lưu truyền qua các thế hệ và niềm hi
vọng lớn lao về một Hà Nội ngày một trưởng thành hơn, bền vững hơn, đẹp
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 90
đẽ hơn trong tương lai.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
KẾT LUẬN
Qua việc nghiên cứu về Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các
nhà văn Hà Nội (qua sáng tác của Nguyễn Việt Hà, Đỗ Phấn, Nguyễn
Trương Quý...), chúng tôi đi đến kết luận sau:
1. Văn học Thăng Long, văn chương viết về Hà Nội... là khái niệm
được hình thành trong lịch sử văn học Việt Nam. Truyền thống sáng tác về
Thăng Long - Hà Nội khởi nguyên từ việc chọn nơi đây là kinh đô của nước
Việt Nam, cũng là nơi hội tụ của văn chương khoa bảng. Theo lịch sử, đội ngũ
sáng tác trở nên đông đảo và đa dạng. Từ vua, quan, danh sĩ các triều đại phong
kiến, đến những người hoạt động trong lĩnh vực văn học nghệ thuật hiện đại,
tất cả tạo nên bức tranh sinh động của văn chương viết về Thăng Long - Hà
Nội. Truyền thống văn chương ấy là chiếc cầu nối góp phần xây dựng cảm
quan cho các nhà văn hiện đại tiếp tục gắn bó với đề tài viết về Hà Nội.
2. Văn chương viết về Hà Nội thực sự chuyển mình khi đối tượng phản
ánh được gắn với những hiện thực khách quan mới của đô thị hiện đại. Con
người tự nhận thức được những giá trị tồn tại xưa cũ, vẻ đẹp ngàn năm của
mảnh đất kinh kỳ. Cùng với đó là sự phát hiện những vẻ đẹp đô thị thời kỳ
hội nhập phát triển, những tiện nghi của cơ sở vật chất, cơ sở hạ tầng nâng
cao, ngày một tiện ích. Tuy nhiên, tản văn viết về Hà Nội cũng cho thấy một
bộ mặt khác bên cạnh những phát triển của Hà Nội, đó là nguy cơ đánh mất
bản sắc trong sự quy hoạch vội vàng, sự xuống cấp về văn hóa, lối sống, cùng
với đó là sự cô đơn của con người giữa dòng người đang tấp nập với cuộc
sống mưu sinh. Bức tranh toàn cảnh về Hà Nội, một đô thị thời kỳ đổi mới
được khắc họa rõ nét trong từng trang văn của các nhà văn viết về Hà Nội. Họ
có cái nhìn đa chiều kích với trái tim của những người yêu Hà Nội một cách
nồng nàn.
3. Trong quá trình sáng tác về Hà Nội, các nhà văn có những phong
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 91
cách nghệ thuật độc đáo gắn với cá tính sáng tạo riêng. Trước hết là việc sử
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội dụng ngôi kể, điểm nhìn trần thuật dưới góc nhìn ngôi kể thứ nhất khi nhớ về
các hồi ức, ngôi thứ ba khi có sự nhận diện góc nhìn mới của đô thị thời kỳ
mở cửa. Cùng với đó là sự kết hợp các giọng điệu khác nhau (hoài niệm trữ
tình, suy tư triết lý, trào lộng, tự nhiên dí dỏm) khi phản ánh các nội dung
khác nhau. Cùng với đó là những góc cạnh không gian, thời gian khác nhau
của Hà Nội được phản ánh trong tác phẩm theo cá tính sáng tạo riêng của mỗi
nhà văn.
Được cảm nhận và thể hiện bởi những nghệ sỹ với tâm hồn thấm đẫm
tình yêu sâu sắc dành cho mảnh đất “lắng hồn núi sông ngàn năm” nhưng lại
có cái nhìn sắc sảo và đa diện của thời đại hội nhập, Hà nội qua tản văn của
thế hệ nhà văn đương đại hiện ra trong sự đan xen, sự hòa trộn, sự đấu tranh
của tất cả những gì vốn khác biệt nhau như cổ xưa và hiện đại, thâm trầm và
tươi trẻ, đẹp và chưa đẹp, tinh tế, thanh lịch và ồn ã, xô bồ... Nhưng trên tất
cả, đó là một đô thị nghìn năm tuổi mà vẫn đang căng tràn sức sống, đang
phát triển, đang vươn tới một tương lai đầy hứa hẹn tốt đẹp. Đó là dự cảm tốt
lành nhất về Hà nội mà cả nhà văn và độc giả đều cùng chung trải nghiệm,
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 92
đều không khó để thống nhất với nhau.
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Thái Vàng Anh (2010), Giọng điệu trần thuật trong tiểu thuyết Việt
Nam đương đại, Tạp chí khoa học đại học Huế, số 60
2. Arnaudop (1978), Tâm lý học sáng tạo văn học, Hoài Lam và Hoài Ly
dịch, NXB Văn học
3. M. Bakhtin (1970), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Phạm Vĩnh Cư
dịch, NXB Hội nhà văn
4. Tồn Am Bùi Huy Bích (2007), Hoàng Việt thi tuyển, NXB Văn học
5. Trần Văn Bính (2010), Văn hóa Thăng Long – Hà Nội hội tụ và tỏa
sáng, NXB Thời đại
6. Nguyễn Huệ Chi (2010), Gương mặt văn học Thăng Long, NXB Hà Nội
7. Trần Chiến (2014), A đây rồi Hà Nội 7 món, NXB Hội nhà văn
8. Trương Minh Dục, Lê Văn Định (2010), Văn hóa và lối sống đô thị
Việt Nam một cách tiếp cận, NXB Chính trị Quốc gia
9. Đặng Minh Dũng (2010), Thăng Long thi tuyển, NXB Văn hóa –
Thông tin
10. Hà Minh Đức (2002), Lý luận văn học, NXB Giáo dục Việt Nam
11. Nguyễn Việt Hà (2013), Đàn bà uống rượu, NXB Trẻ
12. Nguyễn Việt Hà (2013), Con giai phố cổ, NXB Trẻ
13. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ
văn học, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
14. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB Hội Nhà văn
15. Đào Duy Hiệp (2008), Phê bình văn học từ lý thuyết đến hiện đại, NXB
Giáo dục
16. Nguyên Hồng (2012), Nguyên Hồng tuyển tập, NXB Văn học
17. Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án (2012), Tang thương ngẫu lục, Trúc Khê,
Ngô Văn Triện dịch, NXB Hồng Bàng
18. Đoàn Tử Huyến (2008), Nguyễn Công Trứ cuộc đời và thơ, NXB Phụ nữ
19. M.B Khrapchenko (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp nghiên
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 93
cứu văn học, Trần Đình Sử dịch, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội 20. Mã Giang Lân (2005), Thơ Nguyễn Bính, NXB Hà Nội
21. IU. M. Lotman (2004), Cấu trúc văn bản nghệ thuật, Trần Ngọc Vương,
Trịnh Bá Đĩnh, Nguyễn Thu Thủy dịch, NXB Đại học Quốc gia
22. Nguyễn Lộc (2004), Văn học Việt Nam nửa cuối thế kỷ XVIII – hết
thế kỷ XIX, NXB Giáo dục
23. Huỳnh Lý chủ biên (1978), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỷ XVIII
nửa đầu thế kỷ XIX, NXB Văn học, Hà Nội
24. Vương Trí Nhàn (1986), Một số nhà văn Việt Nam hôm nay với Hà
Nội, NXB Hà Nội
25. Trần Văn Nhi (2010), Tuyển tập thơ chữ hán - Cao Bá Quát, NXB Văn
hóa - Văn nghệ
26. Trần Văn Nhĩ (2007), Thơ chữ Hán Nguyễn Du, NXB Văn Nghệ
27. Nhiều người soạn (1984), Thơ văn Cao Bá Quát. Nxb Văn học
28. Nhiều tác giả (1977), Thơ văn Lý - Trần, NXB Khoa học Xã hội
29. Nhiều tác giả (2001), Tuyển tập Nguyễn Đình Thi, NXB Văn học
30. Nhiều tác giả (2006), Tuyển tập Nguyễn Công Hoan I,II , NXB Văn học
31. Nhiều tác giả (2012), Tuyển tập Ngô Tất Tố, NXB Văn học
32. Ngô Gia Văn Phái (2002), Hoàng Lê nhất thống chí, Nguyễn Đức Vân
- Kiều Thu Hoạch dịch, NXB Văn học
33. Đỗ Phấn (2013), Hà Nội thì không có tuyết, NXB Trẻ
34. Đỗ Phấn (2013), Dằng dặc triền sông mưa, NXB Trẻ
35. Philippe Papin (2014), Lịch sử Hà Nội, Mai Thu Hương dịch, NXB
Thế Giới
36. Hoàng Phê (2009), Từ điển Tiếng Việt, NXB Đà Nẵng
37. Vũ Trọng Phụng (2012), Vũ Trọng Phụng tuyển tập, NXB Văn học
38. Đoàn Đức Phương (2011), Phương pháp luận nghiên cứu văn học, Đề
cương môn học đào tạo Ths Văn học, Trường Đại học KHXH và NV –
Đại học QGHN
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 94
39. Nguyễn Trương Quý (2013), Ăn phở rất khó thấy ngon, NXB Trẻ
Lê Ngọc Hà Đề tài đô thị hiện đại trong tản văn của các nhà văn Hà Nội 40. Yves Reuter (2003), Dẫn nhập phân tích tiểu thuyết, Phạm Xuân
Thạch dịch
41. Băng Sơn (2013), Hà Nội rong ruổi quẩn quanh, NXB Kim Đồng
42. Băng Sơn (2013), Ngày thường Hà Nội, NXB Văn hóa – Thông tin
43. Trần Đình Sử ( 2004), Tự sự học, Nxb Đại học sư phạm
44. Nguyễn Ngọc Tiến (2013), Đi ngang Hà Nội, NXB Thời đại
45. Nguyễn Ngọc Tiến (2013), Đi dọc Hà Nội, NXB Thời đại
46. Nguyễn Ngọc Tiến (2013), 5678 bước chân quanh Hồ Gươm, NXB
Hồng Đức
47. Hoà thượng Thích Giác Toàn, PGS.TS. Trần Hữu Tá chủ biên (2010),
Văn học, Phật giáo với 1000 năm Thăng Long - Hà Nội, NXB Văn hóa
Thông Tin
48. Nguyễn Huy Tưởng (2014), Sống mãi với thủ đô, NXB Kim Đồng
49. Lê Hữu Trác (2012), Thượng kinh ký sự, NXB Trẻ
50. Phạm Thị Trâm (2014), Nhận thức và thực tiễn văn hóa Hà Nội, NXB
Đại học Quốc gia Hà Nội
Tài liệu mạng
51. An Ngọc, Họa sĩ, nhà văn Đỗ Phấn: “Cả đời, tôi sẽ chỉ viết sách về
Hà Nội”
http://www.vietnamplus.vn/hoa-si-nha-van-do-phan-ca-doi-toi-se-chi-
viet-sach-ve-ha-noi/285321.vnp
52. Lam Thu, Nhà văn Nguyễn Việt Hà đau lòng trước sự xô bồ của Hà Nội
http://giaitri.vnexpress.net/tin-tuc/sach/lang-van/nha-van-nguyen-viet-
LVTN - Khoa Văn học, ĐH KHXH&NV, ĐHQGHN 95
ha-dau-long-truoc-su-xo-bo-cua-ha-noi-3131127.html