ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ---o0o--- VŨ THANH VIỆT TRUYỆN NGẮN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (Qua hai tác giả tiêu biểu: KHÁI HƯNG và THẠCH LAM) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34
LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS MAI THỊ HƯƠNG Hà Nội, 2008
MỤC LỤC
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1
1. Lý do chọn đề tài
3
2. Lịch sử vấn đề
2.1. Về Tự lực văn đoàn
3
2.1.1. Từ 1933 đến 1945
3
2.1.2 Từ 1945 đến 1986
4
2.1.3. Thời kỳ 1986 đến nay
7
2.2. Về Khái Hưng
8
2.2.1. Trước 1945
9
2.2.2. Từ 1945 - 1986.
10
2.2.3. Từ 1986 đến nay
11
2.3. Về Thạch Lam
12
2.3.1. Trước 1945
13
2.2.2. Sau 1945 đến trước 1975
13
2.2.3. Từ 1975 đến nay
15
17
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
17
3.2. Phạm vi nghiên cứu
17
18
4. Mục đích nghiên cứu
18
5. Phương pháp nghiên cứu
18
6. Cấu trúc của luận văn
B. PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: TRUYỆN NGẮN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG, THẠCH LAM
19
1.1. Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc
19
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời
19
1.1.2. Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc
22
1.2. Truyện ngắn Tự lực văn đoàn và truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam.
24
1.2.1. Vài nét về truyện ngắn Tự lực văn đoàn
24
1.2..2. Đặc điểm Truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam
29
Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM
41
2.1. Khái niệm nhân vật
41
2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam
42
2.2.1.Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Khái Hưng
42
2.2.2. Quan niệm nhân vật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam
43
2.3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam
44
2.3.1. Nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam
44
2.3.2. Nhân vật người dân nghèo
54
Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM
69
3.1. Cốt truyện
70
3. 2. Ngôn ngữ
79
3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện, lời người trần thuật
79
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật
87
3.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại
87
3.2.2.2. Độc thoại nội tâm
92
3.3. Giọng điệu
99
3.3.1. Giọng thương cảm, trầm buồn
100
3.3.2. Giọng triết lý nhân sinh
104
C. PHẦN KẾT LUẬN
110
TÀI LIỆU THAM KHẢO
112
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài 1.1- Nói đến văn xuôi hiện đại Việt Nam, chúng ta không thể không nói
đến văn xuôi của một văn đoàn mà chỉ vẹn vẹn trong khoảng mươi năm (1932
- 1940) nó đã chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai. Chính thức thành
lập năm 1933 (theo Trương Chính), Tự lực văn đoàn gồm có Nhất Linh, Khái
Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Về sau thêm Xuân Diệu, và
có một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này như Huy Cận, Thanh
Tịnh, Đoàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của văn đoàn là tờ tuần báo Phong
hoá, sau đó là tờ Ngày nay và Nhà xuất bản Đời nay.
Trong khoảng trên dưới mười năm, Tự lực văn đoàn đã có công lớn trong
việc đổi mới nền văn hoá, góp phần quan trọng vào việc xây dựng một nền
văn học Việt Nam hiện đại. Hoàng Xuân Hãn đã khẳng định: "Nhóm Tự lực
văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là
nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại" (Sông Hương, số 37, tháng
4 năm 1989, trang 74).
So với trước năm 1930, thời kỳ này các nhà văn Tự lực văn đoàn đã kết
hợp được khá nhuần nhị truyền thống với hiện đại, phương Đông và phương
Tây. Ngôn ngữ văn học cũng trở nên giản dị, trong sáng, giàu khả năng diễn
đạt hơn và đặc biệt rất gần gũi với tâm hồn dân tộc.
Nhìn chung, việc đánh giá Tự lực văn đoàn khen, chê, hoan nghênh hoặc
phê phán của giới nghiên cứu, phê bình và công chúng từng thời kỳ là khác
nhau, thậm chí có nhiều ý kiến trái ngược, đối lập nhau, nhưng những thành
tựu của Tự lực văn đoàn trong mười năm hoạt động khá rực rỡ, đến nay vẫn
để lại những tác phẩm có giá trị. Nhà thơ Huy Cận nhận xét: "Ta đã có dư thời
gian để đánh giá sự đóng góp của Tự lực văn đoàn. Có thể nói Tự lực văn
đoàn có đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam. Họ có hoài bão về văn hoá dân tộc... có những đóng góp lớn vào tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói câu văn của dân tộc, với lối văn trong sáng và rất Việt Nam".
Có thể nói, nhờ tiếp thu được những ảnh hưởng của nền văn học hiện đại
1
phương Tây, Tự lực văn đoàn đã tạo được bước tiến đáng kể trên các thể loại như báo chí, tiểu thuyết, thơ, kịch, truyện ngắn. Đặc biệt là thể loại truyện ngắn với những cây bút tiêu biểu như Khái Hưng và Thạch Lam. Đây là hai tác giả
viết nhiều, là những cây bút trụ cột của văn đoàn, trong lĩnh vực truyện ngắn
Khái Hưng có truyện được khen là "tuyệt hay": Anh phải sống, Dọc đường gió
bụi, Đợi chờ, Đào Mơ, Điếu thuốc lá, Đồng xu...), còn Thạch Lam luôn được
đánh giá có những đóng góp chủ yếu, với các tập truyện Gió đầu mùa (1937),
Nắng trong vườn (1939), Sợi tóc (1942).
1.2- Khái Hưng (tên thật là Trần Khánh Giư) đã để lại một khối lượng tác
phẩm phong phú đa dạng với đủ thể loại: từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến kịch.
Trong đó tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại được ông dành tâm huyết.
Ông có 9 tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933), Gánh hàng hoa (1934 - viết
cùng Nhất Linh), Trống mái (1936), Thừa tự (1940), Tiêu Sơn tráng sĩ (1940),
Hạnh (1940), Những ngày vui (1941), Đẹp (1941), và những tập truyện ngắn
như: Dọc đường gió bụi (1936), Anh phải sống (1937 - viết cùng Nhất Linh),
Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1941). Với những đề tài mới mẻ, phù hợp với
tâm lý công chúng đương thời, lối kể chuyện hấp dẫn, duyên dáng, ngôn ngữ
trong sáng, trang nhã, gợi cảm và giàu chất thơ, sáng tác của Khái Hưng được
bạn đọc đón nhận với tấm lòng mến mộ, đặc biệt là thanh niên.
Thạch Lam (tên thật là Nguyễn Tường Lân) một mặt là một nhà văn lãng
mạn, một mặt luôn có xu hướng bước sang lãnh địa của chủ nghĩa hiện thực.
Trong cuộc đời ngắn ngủi 32 năm của mình, nhà văn Thạch Lam chỉ có gần
10 năm cầm bút. Mặc dù số lượng tác phẩm của ông không nhiều so với các
cây bút đương thời, nhưng với quan niệm văn chương tiến bộ và bằng lối rất
riêng, những sáng tác của ông nhẹ nhàng đi vào lòng người. Những tác phẩm
chính bao gồm: Các tập truyện Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938),
Sợi tóc (1942); tiểu thuyết Ngày mới (1939), tập tiểu luận phê bình Theo giòng
(1941), và tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Ngoài ra, ông còn có "Tủ sách hồng" viết cho thiếu nhi: Hạt ngọc, Hai chị em và Lên chùa. Trong
đó lĩnh vực thành công nhất, thể hiện biệt tài của Thạch Lam là truyện ngắn.
1.3- Nói đến những dấu ấn không thể phai mờ những thành công và đóng
góp của Tự lực Văn đoàn, do vậy không thể không nhắc đến đóng góp quan
trọng của các thành viên và các cộng tác viên đã gắn bó chặt chẽ với văn
đoàn, trong đó phải kể đến hai cây bút hàng đầu Khái Hưng và Thạch Lam.
2
1.4 - Đã có nhiều ý kiến, đánh giá về Tự lực văn đoàn nói chung và tác giả Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng, nhưng nhìn chung chưa thật khách
quan, toàn diện và đúng mức. Nhiều công trình nghiên cứu về Tự lực văn
đoàn đã ra đời nhưng chỉ tập trung vào thể loại tiểu thuyết, nhất là của một số
tác giả tiêu biểu Khái Hưng, Nhất Linh và Hoàng Đạo. Trong khi đó, truyện
ngắn cũng là địa hạt quan trọng, "mảnh đất ươm” bộc lộ tài năng, đặc biệt là
Thạch Lam và cũng là một mảng sáng tác không thể thiếu trong sự nghiệp
sáng tạo của Khái Hưng lại chưa được nghiên cứu một cách hệ thống chuyên
sâu. Đó cũng là lý do để chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài "Đặc điểm truyện
ngắn Tự lực văn đoàn - qua hai tác giả tiêu biểu Khái Hƣng và Thạch Lam” làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Trong vòng chưa đầy 10 năm, Tự lực văn đoàn đã chiếm ưu thế tuyệt đối
trên văn đàn công khai, sách báo của họ in đẹp nhất, bán chạy nhất và có ảnh
hưởng khá mạnh mẽ tới tầng lớp tiểu tư sản thành thị đương thời.
Hơn 70 năm qua, vấn đề văn chương Tự lực văn đoàn và văn nghiệp của
Khái Hưng, Thạch Lam đã được dư luận độc giả và giới nghiên cứu phê bình
thẩm định qua các chặng đường biến động của lịch sử dân tộc. Qua khảo sát
tình hình đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai tác giả Khái Hưng và Thạch
Lam chúng tôi nhận thấy:
2.1. Về Tự lực văn đoàn
2.1.1. Từ 1933 đến 1945 Sau khi nhóm Tự lực văn đoàn ra đời, hoạt động sôi nổi và đạt được một số
thành tựu đáng chú ý, một số nhà nghiên cứu phê bình văn học bắt đầu có những
nhận định, đánh giá qua các bài báo hoặc dành các chương mục trong các công
trình để bàn về giá trị văn chương Tự lực văn đoàn ở một số khía cạnh: đấu tranh
giải phóng cá nhân, nghệ thuật tả cảnh, và phác hoạ tâm lý nhân vật. Tiêu biểu là các công trình của Trương Chính: Dưới mắt tôi (1939), Vũ Ngọc Phan: Nhà văn
hiện đại (1942), Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu (1943), các bài báo
của Trương Tửu… và bước đầu hình thành hai cách nhìn đối lập nhau. Trương
Chính là ủng hộ và khen ngợi những vấn đề mới mẻ đặt ra trong tác phẩm của các
nhà văn Tự lực văn đoàn. Những trang ông viết về tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất
3
Linh thực chất là những luận điểm mang tính bút chiến với Trương Tửu. Ông khẳng định: “lời phê bình cuối cùng của tôi là một lời khen thành thực” [58]. Ông cũng không đồng ý cách đánh giá của Trương Tửu đối với một số tác phẩm của
Khái Hưng và thẳng thắn bày tỏ: “Đọc Khái Hưng ta thấy cõi lòng sáng hẳn lên
như soi rọi bởi những tia vui trong trẻo. Nói rằng một kỷ nguyên mới trong lịch sử
văn học Việt Nam và tác giả nó là một nhà luân lý cũng không phải là quá đáng...
Nhà luân lý Khái Hưng lại là một nhà tâm lý nữa”[58]. Năm 1942, Vũ Ngọc Phan
với 1.400 trang viết trong cuốn Nhà văn hiện đại đã dành gần 100 trang cho Nhất
Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam với nhiều ý kiến xác đáng, nhất là về
tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Năm sau (1943), Dương Quảng
Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu đã giới thiệu sơ lược về tổ chức văn học
Tự lực văn đoàn cùng hai tác giả tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng (gồm 4 tác
phẩm nổi bật là Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân) và
chỉ ra đặc điểm nổi bật: tác phẩm Nhất Linh là tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết Khái
Hưng thì thiên về khuynh hướng lý tưởng.
Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu phê bình văn học thời kỳ này khá sôi nổi
và có nhiều thành tựu. Với Tự lực văn đoàn, sự đánh giá của các nhà nghiên cứu
phê bình không thuần nhất một chiều. Xu hướng chung là khen nhiều hơn chê,
khẳng định nhiều hơn phủ định. Những ý kiến đánh giá ngày càng khách quan,
ủng hộ cái mới, trân trọng những đóng góp của Tự lực văn đoàn, nhất là tiểu
thuyết. Đây là cơ sở quan trọng tạo tiền đề và có ảnh hưởng sâu sắc đối với hoạt
động nghiên cứu các giai đoạn sau.
2.1.2 Từ 1945 đến 1986 Suốt một thời gian dài, khi nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ
đại, vấn đề được đặt lên hàng đầu là giành lại độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền
đất nước. Trong khoảng gần chục năm từ 1945 đến năm 1954, hiện tượng văn
chương Tự lực văn đoàn gần như ít được sách báo nhắc đến, ngoài bài viết
của Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam. Sang giai đoạn từ 1954 đến 1975, tình hình tiếp nhận văn chương Tự lực văn đoàn ở hai
miền Nam - Bắc cũng có sự khác biệt khá lớn.
Ở miền Nam nhìn chung có thái độ đánh giá cao văn chương Tự lực văn
đoàn. Các tác giả, tác phẩm Tự lực văn đoàn chiếm vị trí quan trọng trong
chương trình trung học phổ thông. Nhiều công trình nghiên cứu về Tự lực văn
đoàn được xuất bản: Nguyễn Văn Xung - Bình giảng về Tự lực văn đoàn
4
(1958); Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên - Tập 3 (1960); Doãn Quốc Sỹ - Về Tự lực văn đoàn (1960); Lê Hữu Mục - Khảo về
"Đoạn tuyệt" (1960); Thanh Lãng - Phê bình văn học thế hệ 32 - Tập 3
(1972); Vũ Hân - Văn học Việt Nam thế kỷ XIX tiền bán thế kỷ XX 1800 -
1945; Thế Phong - Nhà văn tiền chiến 1930-1945. Phạm Thế Ngũ trong Việt
Nam văn học sử giản ước tân biên - Tập 3 đã giới thiệu nhiều mặt hoạt động
của Tự lực văn đoàn: Về người sáng lập Nguyễn Tường Tam; Từ tờ báo đến
văn đoàn; Quan điểm của nhóm về xã hội và nhân sinh; Tôn chỉ và đường lối
sáng tác của văn đoàn; Những cơ quan truyền bá của văn đoàn; Tổng luận về
Tự lực văn đoàn, Phạm Thế Ngũ viết: “Làm việc trong bảy tám năm liền bằng
tờ báo, bằng quyển sách, những người trong nhóm Tự lực văn đoàn đã đi đến
hoán cải bộ mặt xã hội chúng ta hồi đó về hai phương diện tư tưởng và văn
học". "Về đường tư tưởng, chủ trương duy tân và cấp tiến, họ đưa ra tác động
như một cơn lốc thổi vào cái xã hội trì trệ trước 1932, nhất là với cái cười
Phong hoá, không có gì họ nhằm đả phá mà đứng vững được (...). Thật vậy,
không phải chỉ tác động bằng tiếng cười đả phá mà còn bằng tiểu thuyết, bằng
thơ, những sáng tác văn nghệ của họ ngấm sâu vào linh hồn và thay đổi nề
nếp suy cảm của cả một thế hệ độc giả [58]. Năm 1962 trên Tạp chí Bách
khoa số 140 - Nguyễn Hữu Ngư có bài Giải thưởng Tự lực văn đoàn giới
thiệu về những lần xét và tặng giải thưởng cho các nhà văn có tác phẩm dự
thi. Tựu trung có ba lần xét và trao giải: 1935; 1937; 1939. Năm 1938 có xét
nhưng không có tác phẩm nào được tặng giải thưởng. Đây cũng là một hoạt
động có nhiều ý nghĩa của Tự lực văn đoàn. Sau cái chết của Nhất Linh (tháng
7-1963) trên Tạp chí Văn - xuất bản ở Sài Gòn trong nhiều số của năm 1963,
1964, 1965 và tạp chí Bách khoa (Sài Gòn) đã có nhiều bài về Nhất Linh và
các tác giả khác trong văn đoàn. Như vậy ở miền Nam trước 1975, giới phê
bình nghiên cứu văn học và độc giả đã dành nhiều ưu ái cho Tự lực văn đoàn. Việc đánh giá vai trò, vị trí, đóng góp của Tự lực văn đoàn cho tiến trình văn
học hiện đại Việt Nam theo chúng tôi là khá thoả đáng, có cơ sở đứng vững.
Ở miền Bắc, từ sau 1954, việc nghiên cứu đánh giá văn học tiền chiến nói
chung, văn học lãng mạn và văn chương Tự lực văn đoàn nói riêng khá phức tạp.
Sau một thời gian dài ít được quan tâm, từ 1957 trở đi một số công trình nghiên
cứu về văn học giai đoạn trước 1945 được công bố. Nổi bật là Lược thảo lịch sử
5
văn học Việt Nam - Tập 3 (1957) của nhóm Lê Quý Đôn; Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam
1930 - 1945 (1964); Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học Việt
Nam hiện đại 1930-1954 (1971) của Vũ Đức Phúc; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại
(1974, 1975) của Phan Cự Đệ. Trên Tạp chí Văn nghệ, tập san Nghiên cứu văn
học, rồi Tạp chí Văn học đăng tải một số bài về văn học lãng mạn và Tự lực văn
đoàn của các nhà phê bình văn học, gây được sự chú ý của độc giả. Một số nhà
nghiên cứu đã chỉ ra được mặt thành công và hạn chế của văn học lãng mạn cũng
như văn chương Tự lực văn đoàn trên nhiều phương diện. Bạch Năng Thi khẳng
định: “Cuộc xung đột "mới, cũ" trong văn học của ta không có quy mô rộng lớn và
không được náo nhiệt như cuộc xung đột giữa phái cổ điển và phái lãng mạn ở
Pháp. Nhưng nó cũng có ý nghĩa xã hội của nó cuối buổi giao thời ấy. Và Tự lực
văn đoàn với một loạt tiểu thuyết mới, cả một loạt Thơ mới nữa, phất cờ chiến
thắng là tất nhiên [58].
Tuy nhiên các ý kiến đánh giá nhìn chung vẫn tỏ ra e dè, rào đón, hầu hết
đều khen ít, chê nhiều, xoay quanh tiêu chí giai cấp; tiêu chí văn học vô sản đối
lập với văn học tư sản; hiểu định hướng văn nghệ phục vụ chính trị một cách
máy móc, nên trong phê bình không tránh khỏi tình trạng suy diễn, thậm chí quy
chụp, nặng về xem xét nội dung xã hội của tác phẩm trên một số phương diện
chính trị, tư tưởng, đạo đức, giá trị hiện thực... Về nghệ thuật nặng về yêu cầu
điển hình hoá, cá thể hoá, miêu tả tâm lý nhân vật. Giới nghiên cứu miền Bắc
thời kỳ này hầu như cùng chung một nhận định: Những năm 1941-1945 là thời
kỳ toàn bộ nền văn học công khai đi vào bế tắc. Vũ Đức Phúc trong Sơ thảo lịch
sử văn học Việt Nam 1930-1945 cho rằng: “Trong cuộc đấu tranh nghệ thuật vị
nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh nhóm Tự lực văn đoàn không dám tham gia
cuộc tranh luận. Đường lối cơ hội chủ nghĩa của họ trong thời kỳ này thể hiện
trong sáng tác là muốn "kiếm ăn cả về hai mặt". Một mặt thì vuốt ve công nông bằng những tác phẩm như Tối tăm (1936), mặt khác lại muốn phục vụ cho khách
hàng "tài hoa son trẻ" bằng những tác phẩm như Trống mái (1937) [84]. Hoặc
cho rằng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo là tiêu biểu cho "một khuynh
hướng" phản động, muốn giữ vững quyền lợi cho giai cấp bóc lột đồng thời ban
ơn cho dân nghèo" (qua một số tác phẩm Con đường sáng, Gia đình) [84]. Hầu
hết các tác phẩm của các thành viên chủ chốt Tự lực văn đoàn (trừ Thạch Lam)
đều được đặt dưới tiêu chí đó để xem xét.
6
Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985, việc nghiên cứu, đánh giá lại các
di sản văn hoá cũ, nhất là những sáng tác trước 1945 trong đó có Tự lực văn
đoàn theo một cách nhìn mới vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể. Các giáo trình
văn học ở bậc đại học, cao đẳng như cuốn Lịch sử văn học Việt Nam (1930-
1945) - tập 5. NXB. Giáo dục H.1978 của nhiều tác giả [71] chủ yếu vẫn giữ
nguyên những nhận định, đánh giá trước đây. Có thể xem đó như một khoảng
lặng giữa hai đợt sóng, đã dần bộc lộ những ý tưởng mới, nhận thức mới,
nhưng chủ yếu là để chuẩn bị cho một thời kỳ đổi mới văn học cả về chất và
lượng từ sau 1986.
2.1.3. Thời kỳ 1986 đến nay Hoà chung trong không khí đổi mới của toàn dân tộc, đây là thời kỳ khởi
phát rực rỡ của văn học cả về phương diện sáng tác, nghiên cứu, phê bình.
Không khí học thuật thật sự có sự biến chuyển lớn. Nhiều hiện tượng văn học
quá khứ được đánh giá lại, các tác phẩm văn chương trước Cách mạng tháng
Tám - 1945, nhất là văn chương lãng mạn trong đó bao gồm văn chương Tự lực
văn đoàn và Thơ mới được thẩm định lại với cái nhìn biện chứng, bình tĩnh và
công bằng hơn. Hầu hết tác phẩm các nhà văn trong Tự lực văn đoàn đã được in
lại và được giới thiệu theo một quan điểm, góc nhìn nhận mới. Phan Cự Đệ viết
lời giới thiệu cho một loạt tác phẩm: Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Băn khoăn, Tiêu sơn
tráng sĩ, Trống mái, Thoát ly, Đẹp; Hà Minh Đức viết lời giới thiệu Nửa chừng
xuân, Đời mưa gió; Phong Lê sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu Tuyển tập truyện
ngắn Thạch Lam... Đặc biệt trong giai đoạn này, hàng loạt công trình nghiên cứu
về Tự lực văn đoàn đã làm thay đổi hẳn những nhận thức phần nào thiên kiến
trước đây. Đó là các bộ giáo trình Đại học được chỉnh lý và biên soạn mới của
Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Hà Văn Đức: Văn học Việt
Nam 1930 - 1945 - NXB. Đại học & THCN - 1988; Phan Cự Đệ: Văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 NXB. Giáo dục 1997; Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu,
Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức: Văn học Việt
Nam 1900-1945 - NXB. Giáo dục - 1997. Các công trình này đã đặt Tự lực văn
đoàn trong tiến trình chung của văn học dân tộc và tiến trình văn học hiện đại để
xem xét. Bên cạnh đó là một số bài viết rất có giá trị của các nhà nghiên cứu như:
Lê Thị Đức Hạnh, Trương Chính, Trần Đình Hượu, Phong Lê, Trịnh Hồ Khoa,
7
Lê Thị Dục Tú… Riêng Vu Gia đã lần lượt xuất bản một loạt bốn công trình khảo cứu nghiêm túc về bốn nhà văn chủ chốt của Tự lực văn đoàn: Khái Hưng,
nhà tiểu thuyết - NXB. Văn hoá. H.1993; Thạch Lam thân thế và sự nghiệp-
NXB. Văn hoá H. 1994; Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học - NXB.
Văn hoá 1995; Hoàng Đạo, nhà báo - nhà văn - NXB. Văn hoá 11-1997.
Những năm cuối cùng của thế kỷ XX nhiều nhà nghiên cứu đã sưu tầm,
biên soạn, giới thiệu và xuất bản các bộ tuyển tập lớn về văn chương Tự lực
văn đoàn như: Tuyển tập Tự lực văn đoàn - NXB. Hội Nhà văn - 1999 - 3 tập
với khoảng 2.000 trang gồm những tác phẩm chủ yếu của Khái Hưng, Nhất
Linh, Hoàng đạo và một số của Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ. Dày
dặn, công phu và tương đối đủ các tác phẩm tiêu biểu của Tự lực văn đoàn là
bộ tuyển tập Văn chương Tự lực văn đoàn của nhóm Phan Trọng Thưởng,
Nguyễn Cừ - NXB. Giáo dục - 1999 với hơn 3.500 trang khổ lớn. Bộ Từ điển
tác phẩm văn xuôi Việt Nam do Vũ Tuấn Anh, Bích Thu chủ biên (NXB. Văn
học, Hà Nội, 2001) là một đóng góp của các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài
Viện Văn học. Các bài viết về Tự lực văn đoàn qua các thời kỳ của các nhà
phê bình đã được tập hợp lại, biên soạn thành sách như cuốn Tự lực văn đoàn
trong tiến trình văn học dân tộc - (Mai Hương biên soạn) - NXB. Văn hoá -
Thông tin, Hà Nội, 2000; Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam của Lê
Thị Đức Hạnh (NXB. KHXH, Hà Nội, 1999) là những đóng góp thiết thực
cho việc nghiên cứu, tiếp nhận bộ phận văn chương này. Trong cuốn sách
Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900 - 2000), Tự lực văn đoàn được đánh giá
như một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến trình hiện đại hoá văn học: "Mở đầu
là phong trào Duy tân của các nhà nho tiến bộ, đến cải cách của Tự lực văn
đoàn, trào lưu hiện thực và văn học cách mạng thấm sâu tư tưởng nhân đạo,
dân chủ, tiến bộ" [64]. Qua đó có thể thấy một điểm thú vị là việc nghiên cứu
phê bình văn học có chất lượng học thuật và đạt thành tựu cao lại tập trung vào hai chặng: những năm 30 đầu 40 và những năm cuối thế kỷ XX đến nay.
Mặc dù thời gian tồn tại của Tự lực văn đoàn chỉ diễn ra trên dưới 10 năm
nhưng đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hoá, văn nghệ dân tộc
suốt một chặng đường dài. Ở mỗi thời kỳ, tuy có những cách nhìn nhận, đánh
giá khác nhau, nhưng nhìn chung ngày càng hướng đến quan điểm thống nhất.
8
2.2. Về Khái Hưng Hơn nửa thế kỷ qua, cũng như những sáng tác của Tự lực văn đoàn nói chung, văn nghiệp của tác giả Khái Hưng nói riêng cũng đã trải qua rất nhiều
“bước thăng trầm”. Cho đến nay, việc nghiên cứu truyện ngắn của Khái Hưng
có thể phân ra 3 thời kỳ:
2.2.1. Trƣớc 1945 Một số truyện ngắn đầu tay của Khái Hưng ngay sau khi ra đời đã được
coi là “món ăn lạ”, giúp “cải thiện khẩu vị đọc cho người dân thị thành”.
Truyện ngắn Bên dòng Hương Giang được in lần đầu tiên trên Báo Phong hoá
ngày 31/3/1933, tập truyện ngắn Dọc đường gió bụi năm 1936 Nhà xuất bản
Đời Nay… đã đón nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của công chúng. Những
truyện ngắn đăng trên báo Phong hóa và Ngày nay của Khái Hưng trong vòng
10 năm phải kể đến vài trăm truyện. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ, tuy ưu
thế của Tự lực văn đoàn có bị giảm sút, nhưng những tác phẩm của Khái
Hưng vẫn được đông đảo độc giả chào đón. Thời kháng chiến, các nhà xuất
bản ở Hà Nội đã cho tái bản nhiều lần các tác phẩm của Khái Hưng, trong đó
truyện ngắn chiếm số lượng đáng kể. Nhìn chung các ý kiến đều dành cho
truyện ngắn Khái Hưng sự thiện cảm, nhưng chủ yếu về nghệ thuật như: “văn
hay, tâm lý giản dị và sâu sắc”. Riêng Vũ Ngọc Phan trong bài nghiên cứu về
Khái Hưng đã có cái nhìn khá toàn diện về truyện ngắn của ông từ: nghệ thuật
xây dựng nhân vật, kết cấu, giọng văn… “Về truyện ngắn, Khái Hưng viết
tuyệt hay, người ta thấy phần nhiều truyện ngắn của ông có vẻ linh họat và
cảm người đọc hơn là truyện dài của ông. Truyện ngắn Thạch Lam và Đỗ Đức
Thu ngả về mặt sầu cảm và kín đáo bao nhiêu thì truyện ngắn Khái Hưng vui
tươi và rộng mở thế ấy… Đọc truyên ngắn Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ
thuật của ông là tìm cho ra những ý nghĩa đau đớn hay khoái lạc của mợi việc
ở đời, rồi ghi lại bằng những lời văn gọn gàng, sáng sủa…”- Nhà văn hiện đại
– Nhà xuất bản Văn học. Tuy nhiên, những đánh giá này mới chỉ xuất phát từ một vài tác phẩm cụ thể, chưa phải là một cái nhìn hệ thống xuất phát từ toàn
bộ truyện ngắn Khái Hưng.
Như vậy, công chúng, các nhà phê bình nghiên cứu trước Cách mạng đã
đánh giá khá cao truyện ngắn Khái Hưng. Bằng cách này, hay cách khác (theo
trực cảm, hay khoa học), các nhà nghiên cứu đã có một cách nhìn khách quan,
có phần khoa học về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Khái Hưng. Tuy
9
nhiên, các ý kiến mới chỉ là những nhận xét khái quát chứ chưa được triển khai kỹ và đi sâu vào từng vấn đề một cách cụ thể.
2.2.2. Từ 1945 - 1986.
Hoàn cảnh xã hội thay đổi, đất nước bị chia cắt thành hai miền kéo theo
việc nghiên cứu văn học cũng phân định rạch ròi giữa hai miền Nam, Bắc.
Ở miền Bắc, nhìn chung các nhà phê bình vừa theo quan điểm trước cách
mạng vừa tiếp tục đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng dưới góc độ tư
tưởng. Lấy tiêu chí cách mạng làm hệ quy chiếu, các công trình Lược thảo
lịch sử Văn học Việt Nam (1957 - nhóm Lê Quý Đôn), Sơ thảo lịch sử văn học
Việt Nam (1964 - Viện Văn học - Nhà xuất bản Văn học) đều cho rằng: “Càng
về sau, ông ta (Khái Hưng) lại càng lùi, cuối cùng đã viết những tác phẩm
phản động, chống lại cách mạng… Khái Hưng đề cao lối sống thoát ly hiện
thực, quay lưng lại cuộc sống, hoặc đề cao xu hướng đặt nghệ thuật lên trên
tất cả… Nhiều truyện ngắn, truyện vừa viết về những chủ đề phù phiếm,
không có gì sâu sắc” (Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam). Năm 1962, trong
cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (Tập V - Nguyễn Trác - Hoàng
Dung - Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà xuất bản Giáo dục) của trường Đại học Sư
phạm Hà Nội có nhận xét về truyện ngắn Khái Hưng như sau: “Khái Hưng tô
hồng cuộc sống bằng một nghệ thuật phi hiện thực, trùm lên xã hội phong
kiến một cái màn hư ảo… Quan điểm nghệ thuật của Khái Hưng mặt khác đã
đưa ông đến chủ nghĩa hình thức. Nhiều truyện ngắn của Khái Hưng không có
nội dung. Có những việc không đâu, những chuyện ít ý nghĩa cũng được ông
xây dựng làm đề tài tác phẩm… Nhiều truyện của ông không có gì là sâu sắc”.
Có thể thấy các nhà nghiên cứu miền Bắc xem xét truyện ngắn Khái Hưng
trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật, song phê phán nặng
nề những hạn chế về tư tưởng, còn đóng góp nghệ thuật thì chưa nêu thành hệ
thống. Tuy chỉ là những ý kiến chung chung song đó lại là những gợi ý giúp cho chúng tôi thấy cần thiết đi sâu nghiên cứu vấn đề này.
Ở miền Nam, việc tiếp cận và đánh giá truyện ngắn Khái Hưng lại có xu
hướng thiên về nghệ thuật. Có thể kể tên các công trình đề cập hoặc đi sâu
nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn -
Nguyễn Văn Xung 1958; Khảo luận về Khái Hưng - Lê Hữu Mục, 1960; Tự
lực văn đoàn của Doãn Quốc Sỹ - 1960, Việt Nam văn học sử giản ước tân
10
biên - tập ba của Phạm Thế Ngũ - 1960, Phê bình văn học thế hệ 32 - Thanh Lãng 1972, Nhà văn tiền chiến của Thế Phong… Đặc biệt, Phạm Thế Ngũ đã
phân loại truyện ngắn Khái Hưng và lấy đó làm cơ sở để khảo cứu về đóng
góp của tác giả này trong tiến trình văn học: "Nếu muốn bắt đầu bằng một
cuộc phân loại thì ta có thể chia các truyện ngắn Khái Hưng ra làm hai loại:
Một loại nhẹ: truyện vui, truyện phiếm đăng vừa một cột… như Tiếng suối
reo, Đội mũ lệch, Số đào hoa. Một loại nặng, đứng đắn, rộng, kích thước hơn,
viết công phu hơn, đặt ra nhiều vấn đề luân lý xã hội, đưa ra một mẫu tâm lý,
một mảng sinh hoạt bắt người ta phải suy nghĩ, đôi khi phải cảm động đau
thương như tập Dọc đường gió bụi, Đợi chờ, Cái Ve, Hạnh… (Tự lực văn
đoàn trong tiến trình văn học dân tộc). Sự phân chia này tương đối có cơ sở
khoa học bởi tác giả Phạm Thế Ngũ đã nhìn nhận truyện ngắn Khái Hưng trên
các tiêu chí nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.
Nhìn chung, các nhà phê bình nghiên cứu miền Nam có xu hướng coi
trọng, đề cao Khái Hưng như một nhà cách tân nghệ thuật trong lĩnh vực
truyện ngắn. Song các ý kiến này còn chung chung, phiến diện, chưa sâu và
chỉ dừng ở một vài tác phẩm cụ thể.
2.2.3. Từ 1986 đến nay
Dưới ánh sáng của nghị quyết V, Đại hội VI của Đảng với tinh thần đổi mới
trên mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có văn học nghệ thuật, những đóng góp
của truyện ngắn lãng mạn nói chung, truyện ngắn Khái Hưng nói riêng đã được
đặt trong xu thế "nhìn nhận lại" một cách toàn diện và thoả đáng hơn.
Năm 1989 có thể coi là năm "được mùa" của Khái Hưng. Rất nhiều tác giả,
nhiều cuốn sách, nhiều công trình, hội thảo đã nghiên cứu, bàn luận về sáng tác
của Khái Hưng nói chung và truyện ngắn nói riêng. Nhà xuất bản Khoa học xã
hội cho ra mắt bạn đọc tuyển tập đồ sộ (tám tập) đem đến cho bạn đọc bức tranh
toàn cảnh Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945. Các truyện ngắn hay, đặc sắc của Khái Hưng được in trong tuyển tập này. Trong Lời giới thiệu, nhà phê
bình Nguyễn Hoành Khung cho rằng: "Khái Hưng xứng đáng được coi là cây bút
dồi dào, tài hoa hơn cả của nhóm Tự lực văn đoàn. Trong thế hệ các nhà văn
mới, Khái Hưng là người duy nhất sinh ra vào thế kỷ trước, song lại là người mở
màn, đi hàng đầu trong phong trào văn nghệ mới, với một ngòi bút trẻ trung, lịch
lãm mà duyên dáng". Phan Cự Đệ, tác giả của công trình Tự lực văn đoàn - con
11
người và văn chương có nhắc ý kiến: "Vũ Ngọc Phan và Bùi Xuân Bào đều cho rằng trong lĩnh vực truyện ngắn, dường như Khái Hưng thành công hơn so với
tiểu thuyết. Thật ra, những nhược điểm này cũng bộc lộ ở cả truyện ngắn…
Trong truyện ngắn do đặc điểm thể loại, Khái Hưng chỉ khai thác một khoảnh
khắc trong cuộc đời nhân vật". Ngày 27/5/1989, Khoa văn Trường Đại học Tổng
hợp và Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp tổ chức hội thảo Về
văn chương Tự lực văn đoàn. Các bài viết của các GS. Phan Cự Đệ, Hà Minh
Đức, Phong Lê, Trương Chính, Lê Đình Kỵ… đã có sự nhìn nhận đúng đắn,
nghiêm túc về sáng tác của Khái Hưng nói riêng và của nhóm Tự lực văn đoàn
nói chung. Năm 1991, trên Tạp chí văn học số 3, Lê Thị Đức Hạnh đã tổng kết:
“Văn của Khái Hưng và Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn ngay thời kỳ đầu đã là
một bước nhảy vọt” (Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn). Năm 1994
Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn Khái Hưng
đã phân tích khá kỹ “Khái Hưng còn là một cây bút truyện ngắn xuất sắc với
những tập Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh 1937), Dọc đường gió bụi
(1936), Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Đội mũ lệch (1941)…”
Sau mấy năm tạm lắng, năm 1997 Nhà xuất bản Văn Học cho ra đời
cuốn Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi hiện đại Việt Nam
(Trịnh Hồ Khoa). Tác giả cuốn sách đã nêu được những đóng góp về nội dung
nghệ thuật của ba nhà văn Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo. Năm 1999 Nhà
xuất bản Giáo dục cho tái bản tập Văn chương Tự lực văn đoàn gồm 3 tập do
Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ giới thiệu và tuyển chọn, trong đó có in
những truyện ngắn hay, đặc sắc của Khái Hưng. Điều này chứng tỏ truyện
ngắn của ông vẫn có sức hấp dẫn người đọc đương thời.
Cho đến nay đã có nhiều bài tham luận, cùng một số luận văn thạc sĩ và
tiến sĩ nghiên cứu về văn nghiệp của Khái Hưng, nhưng chủ yếu theo hướng
riêng lẻ, chưa đặt việc nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng trong trào lưu chung của Tự lực văn đoàn và các cây bút truyện ngắn đương thời.
2.3. Về Thạch Lam Đã có hàng trăm công trình nghiên cứu và bài báo viết về Thạch Lam ở
mọi góc độ: từ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp đến phong cách, phân tích các tập
truyện và các tác phẩm cụ thể... Điểm chung giữa các nhà nghiên cứu là thống
nhất đánh giá cao về thành công và tính độc đáo trong tác phẩm của Thạch
12
Lam, "trữ lượng lớn" càng đào sâu càng phát hiện ra "nhiều tầng, nhiều vỉa", có sức lan rộng, vươn xa... Tuy những ý kiến tương đối thuận chiều, không
thăng trầm, phức tạp như đối với các tên tuổi khác trong Tự lực văn đoàn như:
Khái Hưng, Nhất Linh… nhưng ở từng thời kỳ, mức độ quan tâm, quy mô,
chất lượng nghiên cứu cũng có sự khác nhau.
2.3.1. Trƣớc 1945 Người đầu tiên phát hiện và đón nhận tài năng Thạch Lam có thể nói là
Khái Hưng. Từ 1937, khi tập truyện ngắn Gió đầu mùa ra đời, Khái Hưng đã
khẳng định điểm nổi bật ở Thạch Lam là sự thành thực: “Thành thực, đó là đức
tính không có không được của nhà văn. Ở Thạch Lam, sự thành thực lại trở nên
sự can đảm. Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự
thành thực (...), tôi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái
can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới nước ta tôi thấy ở Thạch
Lam" [65]. Sau Khái Hưng, Xuân Vi với bài báo "Gió đầu mùa" của Thạch Lam:
một văn sĩ có tài, một kiệt tác đăng trên báo La Renaissance được đăng lại trên
báo Ngày nay số 113, ngày 5/6/1938 đã đánh giá rất cao thành công của Thạch
Lam. Liên tiếp các năm sau 1939, 1942 trong các công trình của các nhà nghiên
cứu: Trương Chính (Dưới mắt tôi - NXB. Thuỵ Ký H, 1939), Vũ Ngọc Phan
(Nhà văn hiện đại - NXB. Tân Dân 1942 - 1944) đều dành nhiều ưu ái khi nhận
xét, ghi nhận thành tựu Thạch Lam đã đạt được: "Sau Nhất Linh, sau Khái Hưng,
Thạch Lam đã hiểu biết người một cách đầy đủ và xác đáng hơn, không một nét
nào thừa và cũng không nột nét nào quá đậm" [58]. Ông chưa chỉ ra ảnh hưởng
của văn đoàn đối với Thạch Lam, nhưng đã chỉ ra nét khác biệt giữa Thạch Lam
với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo: "Không sâu sắc bằng Khái Hưng, không
điêu luyện bằng Nhất Linh, không rắn rỏi bằng Hoàng Đạo, Thạch Lam có một
tâm hồn dễ rung động hơn, ít tư tưởng và ít tâm lý hơn, nhà văn ấy lại nhiều tình
cảm" [58].
Có thể nói, trước 1945 dư luận chung đều nồng nhiệt tiếp nhận các sáng
tác của Thạch Lam bước đầu khẳng định truyện ngắn của Thạch Lam trên khá
nhiều phương diện.
2.3.2. Sau 1945 đến trƣớc 1975 Từ 1945 trở đi, cũng như việc nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn,
một thời kỳ dài hàng chục năm, việc nghiên cứu Thạch Lam chững lại. Cho đến
13
1957, Nguyễn Tuân - tác giả Vang bóng một thời đã không ngần ngại nhận xét: "Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam, tức là nói cụ thể đến nghệ thuật viết
truyện ngắn của Thạch Lam. Một số truyện ngắn của Thạch Lam có thể coi như
là mẫu mực được" [58]. Nguyễn Tuân đã đặt Thạch Lam trong tiến trình chung
của văn học dân tộc, nhất là trong nền "Văn xuôi Việt Nam hãy còn trẻ tuổi" để
xét, và khẳng định: “Bằng sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói
Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn. Thạch Lam
có đem sinh sắc vào tiếng ta (...) và đánh giá một nhà văn, đứng về nghề nghiệp
chuyên môn mà bàn, thì giá trị một nhà văn xuôi, cụ thể còn là những công đức
lập ngôn của nhà văn đó mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được
đến mức nào, và đã góp được phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam
như thế nào [58]. So với những người đi trước, Nguyễn Tuân đã tiến thêm một
bước về nghiên cứu Thạch Lam là nhìn nhận truyện ngắn Thạch Lam dưới góc
độ phong cách. Tuy nhiên khi đánh giá, phân tích, một số truyện ngắn như
Người đầm, Nhà mẹ Lê có vài khía cạnh chưa được dư luận đồng tình. Từ sau
1960 trong tình hình đất nước chia làm hai miền, việc nghiên cứu Thạch Lam ở
mỗi miền cũng có những biểu hiện khác nhau.
Ở miền Bắc, Bạch Năng Thi khi phân tích các tập tiểu thuyết tiêu biểu
của Tự lực văn đoàn đã dành một ít trang để giới thiệu Gió đầu mùa của
Thạch Lam. Nổi bật trong các trang viết này là một thái độ e dè, có chừng
mực, và sự khẳng định là dành cho yếu tố hiện thực trong tác phẩm Thạch
Lam: "Có thể nói Gió đầu mùa có yếu tố hiện thực hơn nhiều tác phẩm lãng
mạn, và Thạch Lam có xu hướng "bình dân" thành thực hơn nhiều nhà văn
lãng mạn khác" [58]. Sau đó những năm 1964, 1965 có các ý kiến của Vũ Đức
Phúc, Nguyễn Đức Đàn trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945
(NXB. Văn học - Hà Nội 1964); Lê Thị Đức Hạnh Mấy ý kiến đánh giá Thạch
Lam (Tạp chí Văn học số 4-1965), Hà Minh Đức trong Nhà văn và tác phẩm (NXB. Văn học Hà Nội 1971). Trong đó, một mặt các tác giả thừa nhận Thạch
Lam "là một nhà văn lãng mạn có thái độ trân trọng đối với người nghèo hơn
cả", một mặt lại phê bình Thạch Lam "thể hiện một lòng thương người không
có ranh giới giai cấp".
Ở miền Nam, nhìn chung, thái độ của giới nghiên cứu và độc giả đối với
văn học lãng mạn nói chung, văn chương Tự lực văn đoàn và Thạch Lam nói
14
riêng là trân trọng đánh giá cao. Đặc biệt nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ trong công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên đã rất sâu sắc khi xem xét
Thạch Lam trên các phương diện: Nhà văn có khuynh hướng xã hội, Nhà văn
mô tả những trạng thái tình cảm, Nhà văn chuyên về đoản thiên. Và ông đã
có lý khi đặt Thạch Lam trong hệ thống với các nhà văn chủ chốt Khái Hưng,
Nhất Linh, Hoàng Đạo để so sánh, rút ra những điểm mới, điểm kế thừa và
điểm khác biệt giữa Thạch Lam với các nhà văn này. Theo chúng tôi đây là một
bước tiến về phương pháp nghiên cứu Thạch Lam - phương pháp so sánh. Đồng
thời, riêng đối với Thạch Lam, giới học thuật, nghiên cứu miền Nam trước
đây đã dồn tâm sức vào hai số của tạp chí Văn - Sài Gòn (số 36 ngày
15/6/1965) và Tạp chí Giao điểm - Sài Gòn - số 12-12.1971) với hàng chục
bài viết thuộc đủ các thể loại như thơ, hồi ký, hồi tưởng, kỷ niệm, bình luận,
phân tích, phê bình, tiểu luận...
Trong đó đáng chú ý là bài viết của Đỗ Đức Thu. Với vị thế của một
người đã từng gần gũi và am hiểu Thạch Lam, Đỗ Đức Thu cho rằng: "Tác
phẩm sau cùng Hà Nội băm sáu phố phường này mới là tác phẩm then chốt
của hết thảy văn phẩm Thạch Lam, mới gần đến chỗ hoàn thiện toàn mĩ" [58].
Đây là một cách nhìn mới mẻ, vì từ trước tới nay các nhà nghiên cứu chủ yếu
chỉ mới chú trọng đến truyện ngắn, còn ít người nhìn nhận Thạch Lam theo
góc độ đó.
2.3.3. Từ 1975 đến nay Bẵng đi một thời gian khá dài gần hàng chục năm không có công trình
nào đáng kể, từ 1983 nhất là từ cuối 1986 sau khởi động của công cuộc đổi
mới đất nước nhiều nhà nghiên cứu trong cả nước, đặc biệt là các nhà phê
bình, nghiên cứu văn học ở các trường Đại học, Viện Văn học ở phía Bắc lại
dành nhiều tâm lực cho việc nghiên cứu văn học lãng mạn, phong trào Thơ
mới, văn chương Tự lực văn đoàn và dành một phần không nhỏ cho Thạch Lam,. Đây như là một sự bù đắp cho những hẫng hụt trước đó để cân bằng, trả
lại những giá trị thực của những gì đã có. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương
Chi, Nguyễn Hoành Khung đã đưa Thạch Lam và tác phẩm vào Từ điển văn
học. Lê Thị Đức Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh cũng có nhiều ý kiến xác đáng về
Thạch Lam và dòng truyện ngắn trữ tình. Các tác giả đều nhấn mạnh chất thơ
và chất hiện thực kết hợp với năng lực khám phá thế giới đời sống tâm hồn
con người là yếu tố quan trọng tạo nên bút lực truyện ngắn Thạch Lam.
15
Nếu năm 1965, 1971 là những mốc gắn liền với các hoạt động nghiên
cứu nhằm tưởng niệm Thạch Lam, viết về Thạch Lam ở miền Nam, thì năm
1988 cũng có thể xem là một mốc lớn trên tiến trình nghiên cứu Thạch Lam
trong phạm vi cả nước. Lần đầu tiên Tuyển tập Thạch Lam do Phong Lê tuyển
chọn và viết lời giới thiệu ra mắt bạn đọc, khẳng định: “Tất cả các sáng tác,
bao gồm truyện ngắn, ký, tiểu thuyết, tiểu luận của Thạch Lam, ngay sau khi
ra mắt trên các báo đều được nhanh chóng in thành sách. Đời văn Thạch Lam
ngắn ngủi nhưng được hưởng tất cả ưu thế và thuận lợi của văn đoàn mình.
Đó là lý do giải thích tất cả sáng tác Thạch Lam, nhìn chung vẫn nằm trong
khuôn khổ, trong quy định của văn chương lãng mạn [65].
Tiếp theo đó, nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khai thác nhiều
phương diện về cuộc đời và văn nghiệp Thạch Lam: Cốt cách trí thức ở ngòi
bút Thạch Lam (Vương Trí Nhàn); Với Thạch Lam (Hồ Dzếnh); Nghĩ về
Thạch Lam (Phạm Văn Phúc); Thạch Lam (Lê Kim Vinh); Một số bài tham
luận trong Hội thảo về Thạch Lam do Viện Văn học tổ chức đã tập hợp trong
cuốn: Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp (NXB. Hội Nhà văn xuất bản năm
1994) do Vũ Anh Tuấn chủ biên.
Một bài viết khác cũng đáng chú ý là Thạch Lam của Hà Văn Đức (một
chương trong tập Văn học Việt Nam 1930 - 1945 của nhóm tác giả Phan Cự Đệ,
Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn
Đức - NXB. Giáo dục - 1997. Trong bài viết này, Hà Văn Đức cũng cho rằng tác
phẩm của Thạch Lam có tính chất đan xen giữa hiện thực và lãng mạn. Thạch
Lam vừa chịu ảnh hưởng Tự lực văn đoàn, "vừa tách riêng một thế giới và tạo nên
được cái độc đáo cho riêng mình. Điều đó giải thích vì sao tác phẩm của Thạch
Lam, trải qua bao thử thách khắc nghiệt của thời gian vẫn nguyên vẹn giá trị của
nó và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc biết đến với một niềm say mê, trân trọng" [37]. Trong những năm này, các nhà nghiên cứu trẻ thường đi sâu vào khai thác
những ý văn trong "cái kho rất sẵn châu báu" của Thạch Lam nhằm phân tích, cảm
thụ những tác phẩm cụ thể, những chi tiết về nội dung, nghệ thuật ở từng truyện
của Thạch Lam. Chẳng hạn trên Tiếng nói tri âm của Nhà xuất bản Trẻ - 1994 các
tác giả Phan Huy Dũng, Lê Tiến Dũng, Nguyễn Thành Thi, Nguyễn Thị Thanh
Xuân đều có bài viết về truyện ngắn Hai đứa trẻ với những phát hiện độc đáo:
16
Tiếng trống thu không và tiếng còi tàu nơi phố huyện của Thạch Lam; Tính nghệ thuật của truyện ngắn "Hai đứa trẻ"; Bóng thức của kinh kỳ trong "Hai đứa trẻ";
"Hai đứa trẻ" trên một vũ trụ già... Nguyễn Thành Thi còn tâm đắc với nhiều
truyện ngắn khác: Tối 30 và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài (Báo Lao
động xã hội - Xuân 1994), Khi gió lạnh đầu mùa trong văn Thạch Lam vẫn thổi
(Sinh viên và thời đại - TP HCM - 1994). Có thể xem đây cũng là một hướng đi
đầy hấp dẫn để hiểu sâu từng trang văn đặc sắc của Thạch Lam.
Từ năm 2000 - năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, trong định hướng tổng kết một thế kỷ văn học, với cái nhìn tổng quan trên một khoảng không gian, thời gian rộng lớn, nhiều nhà nghiên cứu chủ chốt của Viện Văn học, các trường Đại học và các cơ sở nghiên cứu khác đã dồn trí lực vào nghiên cứu đã lần lượt công bố các công trình, nhất là trên Tạp chí Văn học mấy năm gần đây. Ở đó, các tác giả đã dành một khoảng nhất định cho việc đánh giá vai trò, vị trí, đặc điểm, phong cách, những đóng góp của Thạch Lam trên các phương diện trong tiến trình văn học dân tộc, phát hiện và khẳng định những đặc điểm cơ bản mới mẻ trong sáng tác của cây bút độc đáo này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi tập trung khảo sát đó là đặc điểm truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam trong sự vận động phát triển của văn chương Tự lực văn đoàn trên cả hai phương diện: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Trong quá trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ luận điểm cần chứng minh chúng tôi sẽ tiến hành so sánh truyện ngắn của Khái Hưng, Thạch Lam với một số nhà văn cùng thời, trong và ngoài văn đoàn như: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố...
3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài có thể mở ra nhiều hướng, quan tâm tới nhiều phương diện nhưng trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu một số vấn đề sau: - Về Tự lực văn đoàn: Chỉ khai thác những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến
tư tưởng, tình cảm, phong cách nghệ thuật của Khái Hưng, Thạch Lam.
- Về truyện ngắn Khái Hưng: Luận văn khảo sát chủ yếu qua những tập sau: Dọc đường gió bụi (1936), Anh phải sống (1937 - viết cùng Nhất Linh) Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Hạnh (1940), Cái Ve (1940) trong đó tập trung chủ yếu vào một số tác phẩm cụ thể, tiêu biểu.
- Về truyện ngắn Thạch Lam: Khảo sát chủ yếu qua các tập: Gió đầu
17
mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942).
Ngoài ra chúng tôi có tham khảo một số truyện ngắn của Nhất Linh, Nam
Cao, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... để làm tài liệu so sánh
khi nghiên cứu.
4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài "Truyện ngắn Tự lực văn đoàn qua hai tác giả tiêu
biểu Khái Hƣng và Thạch Lam", chúng tôi nhằm khẳng định: Tự lực văn
đoàn là một tổ chức văn học có ưu thế trên văn đàn dân tộc trong những năm
30 của thế kỷ XX; có một vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc và với
thể loại truyện ngắn Việt Nam nói riêng.
- Nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam đặt trong mối liên hệ
mật thiết với tổ chức Tự lực văn đoàn, từ đó xác định giá trị mới, sức cuốn hút
mạnh mẽ của tác phẩm cả về phong cách nghệ thuật độc đáo và nội dung tư
tưởng tiến bộ trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam. Đồng thời từ đó xác
định vị trí, vai trò, đặc trưng phong cách nghệ thuật, đóng góp của Khái Hưng,
Thạch Lam vào thành tựu chung của Tự lực văn đoàn và từ đó, vào tiến trình
văn học dân tộc.
5. Phương pháp nghiên cứu Do mục đích, yêu cầu và phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử
dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn.
- Phương pháp hệ thống.
- Phương pháp so sánh.
Trong đó chú trọng phương pháp so sánh phân tích. Các phương pháp
khác có liên quan chặt chẽ, có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau và được sử dụng phối
hợp, linh hoạt trong quá trình nghiên cứu. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm ba chương:
Chương 1: Truyện ngắn Tự lực văn đoàn và truyện ngắn Khái Hưng,
Thạch Lam
18
Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam và Khái Hưng Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam
PHẦN NỘI DUNG
CHƢƠNG I
TRUYỆN NGẮN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG, THẠCH LAM
1.1. Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc
1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Tự lực văn đoàn ra đời từ cuối năm 1932 - đầu 1933. Đó là kết quả của quá
trình vận động của lịch sử và văn học thời kỳ hiện đại. Thực trạng kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng sâu sắc
đến đời sống dân tộc, trong đó văn học cũng chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ.
1. 1.1.1. Thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.
Thế kỷ XIX kết thúc, khép lại một thời kỳ lịch sử khá nhiều biến động -
thời kỳ trung đại - để bước vào một chặng đường mới. Đây là một chuyển
biến mang tính tất yếu của lịch sử. Lúc này thực dân Pháp đã hoàn thành sứ
mệnh xâm chiếm Việt Nam và các nước Đông Dương nên đã bắt đầu công
cuộc khai thác thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công tạo ra
một nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới và khẳng định thắng lợi của
một hệ tư tưởng mới theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam phong trào
đấu tranh của quần chúng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Đông Dương những năm 1930, 1931 rất mạnh mẽ, đặc biệt là
cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. "Hốt hoảng và lo sợ trước các phong trào cách
mạng lên cao, bọn đế quốc đã tiến hành một cuộc khủng bố trắng ghê gớm
chưa từng thấy. Trước hết là những vụ đàn áp phong trào Việt Nam Quốc dân
Đảng, rồi đến phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị tắm trong biển máu. Có thể nói, suốt từ 1929 đến 1932, không có ngày nào các báo không đăng tin về các
vụ mật thám bắt "hội kín", những vụ xử án của Hội đồng đề lĩnh, những đoàn
tù chính trị bị giải đi Kông Tum, Lao Bảo, Côn Lôn” [38]. Các cuộc đàn áp
khủng bố kinh tế những năm 1929 - 1933 diễn ra nghiêm trọng kéo theo sự
xáo trộn lớn về đời sống xã hội của mọi tầng lớp: Các nhà tư bản bị phá sản,
công nhân, trí thức thất nghiệp, đời sống bấp bênh. Không khí căng thẳng,
19
buồn tẻ bao trùm các đô thị, nhất là đối với tầng lớp thanh niên. Ở nông thôn, dân cày chịu đủ thứ sưu thuế, bọn địa chủ, thực dân thi nhau đè đầu, cưỡi cổ,
hà hiếp dân nghèo. Một sự buồn rầu u uất tràn ngập tâm hồn người dân Việt.
Đồng thời, từ cuối năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, phát xít Nhật
nhảy vào Đông Dương, đẩy nhân dân ta vào ách áp bức “một cổ hai tròng” vô
cùng khốn khổ, phong trào cách mạng lại bị khủng bố đàn áp, Đảng cộng sản
phải rút vào hoạt động bí mật.
Thực dân Pháp và phát xít Nhật thẳng tay đàn áp, bóc lột thuộc địa để
phục vụ chiến tranh. Giá cả năm 1945 tăng vọt, chúng tiến hành dự trữ và xuất
cảng hàng trăm tấn gạo để hơn hai triệu người dân chết đói, hòng dập tắt
phong trào yêu nước và phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tuy vậy, trong
bối cảnh này, kinh tế nước ta cũng có nhiều biến đổi lớn. Từ một nền kinh tế
lạc hậu, trì trệ đã có sự mở mang giao thông, buôn bán, kinh tế hàng hoá tạo ra
một thị trường thống nhất từ Bắc đến Nam, nhưng chưa thật vững chắc.
Như vậy, những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ
XX đã tạo nên một sự thay đổi về cơ cấu giai cấp. Sự thay đổi đó càng về sau
càng phân hoá rõ rệt. Thời kỳ đầu, xã hội Việt Nam là xã hội thực dân nửa phong
kiến, tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.
Đến năm 1930, với sự ra đời của Đảng cộng sản đã lãnh đạo phong trào cách
mạng của quần chúng nhân dân khiến mâu thuẫn càng trở nên gay gắt, cơ cấu xã
hội cũng phân hoá ngày càng phức tạp. Giai cấp phong kiến vẫn tồn tại nhưng
mất địa vị thống trị xã hội, giai cấp nông dân bị bần cùng hoá... Vì thế, kéo theo
sự phức tạp, mâu thuẫn, biến đổi trong tư tưởng, văn hoá, xã hội.
1.1.1.2. Tự lực văn đoàn ra đời là một nhu cầu tất yếu của lịch sử văn học
Thực dân Pháp vào Đông Dương, văn học phương Đông không còn
chiếm vị trí độc tôn như trước đây, xuất hiện sự giao lưu văn hoá Đông - Tây.
Bên cạnh các hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão phương Đông là những luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua hệ thống Tân thư và các
tầng lớp tân học, tư tưởng Mác - Lênin qua Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách
mạng Việt Nam. Tất cả những điều đó đã tác động mạnh mẽ đến mọi tầng lớp,
các lĩnh vực văn hoá, văn học, đẩy lịch sử dân tộc nhanh chóng bước vào thời
kỳ hiện đại. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trước và sau
đại chiến I, có nhiều sự đổi thay nhanh chóng đã diễn ra trên đất nước ta: quan
20
hệ sản xuất mới mang tính tư bản thuộc địa hình thành song song với quan hệ sản xuất phong kiến cũ kỹ vẫn tồn tại. Bên cạnh các giai cấp trong xã hội cũ
vẫn còn nguyên vẹn, thời kỳ này xuất hiện thêm nhiều giai cấp, tầng lớp mới,
tiêu biểu là giai cấp tư sản, giai cấp vô sản và bộ phận trí thức tiểu tư sản, gắn
liền với nó là các hệ ý thức tư tưởng mới. Giai cấp tư sản, tầng lớp trí thức
thượng lưu, công chức trong các công sở và các bộ phận người dân khác có
đời sống khá giả, du nhập lối sống đô thị theo xu hướng Âu hoá với những
nhu cầu mới về vật chất, tinh thần, văn hoá, sinh hoạt, thời trang... theo thị
hiếu mới. Nền văn minh phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, mang theo
hơi thở mới của một nền văn học hiện đại, phá vỡ thành trì của nền văn học
truyền thống, các trường Pháp - Việt được mở ra ở các thành phố, các trường
dạy kỹ nghệ ra đời, chữ Pháp, chữ quốc ngữ dần thay thế chữ Hán, chữ Nôm.
Đặc biệt, đây là cơ hội thuận lợi để các tầng lớp thanh niên và các bộ phận
công chức đô thị tiếp xúc với văn hoá phương Tây, chủ yếu là văn học Pháp,
nhất là văn học lãng mạn. Từ đó ý thức cá nhân nảy nở, nhu cầu khẳng định
cái Tôi cá nhân phát triển mạnh. Một quan niệm mới về văn chương, về thẩm
mỹ xuất hiện cùng với việc nảy sinh tình cảm mới, nhu cầu mới, tạo sự đối lập
sâu sắc với các quan niệm truyền thống diễn ra trên mọi phương diện của văn
chương từ luật lệ, thị hiếu đến thể loại, ngôn từ... những yếu tố chi phối đó đã
đặt ra cho văn học Việt Nam nhiệm vụ phải xây dựng một nền văn học mới
theo yêu cầu thời đại. Bên cạnh đó, thời kỳ này thực dân Pháp lại thi hành một
số chính sách cải lương, các hoạt động "vui vẻ, trẻ trung", các hội thi thể dục,
thể thao, tổ chức cứu tế nhằm xoa dịu các phong trào đấu tranh của nhân dân,
đánh lạc hướng và truỵ lạc hoá thanh niên. Giai cấp tư sản dân tộc lúc này tỏ
ra hoang mang, giao động, thoả hiệp với đế quốc, một bộ phận tiểu tư sản thì
nhụt chí, bi quan... Văn học lãng mạn Việt Nam, tiêu biểu là phong trào Thơ
mới và Tự lực văn đoàn đã ra đời trong hoàn cảnh đó.
Tự lực văn đoàn ra đời đáp ứng một nhu cầu phát triển nền văn học dân
tộc. "Những năm 1932 nhiều hiện tượng văn học dồn dập xảy đến báo hiệu sự
hình thành của những khuynh hướng mới, chuyển hướng sâu sa của văn đàn
Việt Nam, nhất là sự trưởng thành của một thế hệ văn nghệ sỹ trẻ tuổi, ý thức
được trách nhiệm của mình trước lịch sử và hiên ngang đòi quyền lãnh đạo
văn học" [59]. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam xuất hiện một văn
21
đoàn có tuyên ngôn, tôn chỉ mục đích và đường lối độc lập và đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần vào sự phát triển của văn học dân tộc.
1.1.2. Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc
Ngay từ khi tiếp nhận Phong hoá mới và những ngày đầu khi vừa thành
lập, các nhà văn, nhà báo trong Tự lực văn đoàn do Nhất Linh đứng đầu có
chủ trương và duy tân cấp tiến. Họ muốn đả phá cái xã hội Nho Phong với tập
tục, lễ giáo mà thế hệ cũ gọi là quốc tuý, quốc hồn, đả phá nhất là những "hủ
tục" của dân quê sau luỹ tre xanh, đả phá cái không khí sầu bi, phong thái đạo
mạo, những thành kiến chán đời của lớp người đứng tuổi trong xã hội khi ấy.
Thay vào đó, họ đưa ra một số quan niệm sống Âu hoá, những tư tưởng tự do
cá nhân, hạnh phúc vật chất, chủ nghĩa yêu đời, “vui vẻ trẻ trung” nhất là đối
với lớp người trẻ.
Quan niệm về xã hội nhân sinh ấy của Tự lực văn đoàn dần dần ngả sang
mục tiêu chính trị: đả kích quan lại phong kiến, tẩy chay chế độ thực dân bù
nhìn, tố cáo những bất công xã hội, đòi hỏi tự do và dân chủ. Có thể nói, lần
đầu tiên trên văn đàn Việt Nam, người ta nghe thấy một tiếng nói dõng dạc và
tự tin về quyền sống, quyền viết như thế. Tiếng nói ấy đã gây được tiếng vang
trên văn đàn và gây được niềm tin trong độc giả. Họ đã thực hiện được những
cuộc cách mạng bằng hành động thiết thực nhất: thành lập Hội Ánh sáng,
đồng thời cho ra đời một tuyên ngôn làm kim chỉ nam cho mọi hành động của
nhóm: "Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới, người
trong đoàn với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, càng theo đuổi một tôn chỉ,
hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong
những công cuộc có tính cách văn chương". Tôn chỉ ấy gồm 10 điều như sau:
1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên
dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi, mục
đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.
2. Soạn hay dịch những quốc sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho
người và cho xã hội ngày một hay hơn lên.
3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân
và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.
4. Dùng lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách
An Nam.
22
5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân,
khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính
cách trưởng giả quí phái.
7. Trọng tự do cá nhân.
8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.
9. Đem phương pháp khoa học Thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.
10. Theo một trong chín điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với
những điều khác. [58].
Thực chất của mười tôn chỉ trên chính là những nguyên tắc về nội dung, nghệ
thuật đồng thời là quan điểm sáng tác của Tự lực văn đoàn. Xác định rõ mục tiêu
và quan điểm sáng tác, các nhà văn trong Tự lực văn đoàn đã liên tiếp gặt hái bội
thu được những thành tựu lớn. Hàng loạt tác phẩm trên nhiều thể loại mới xuất
hiện, gây chấn động lớn trong đời sống văn học. Các tác giả đã thể hiện ở đủ mọi
thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký, tiểu luận, phê bình,
thơ, kịch... đáp ứng yêu cầu của một nền văn chương hiện đại. Tuỳ theo năng lực,
sở trường và điều kiện của từng thành viên, mỗi cây bút trong Tự lực văn đoàn đều
đã để lại những tác phẩm có nhiều đóng góp và giữ vị trí xứng đáng trên văn đàn
dân tộc. Sức sáng tạo của mỗi người trong văn đoàn không chỉ tính bằng số lượng
tác phẩm mà cái chính là chất lượng. Mỗi trang viết của họ đều tiềm ẩn nhiều giá
trị, thể hiện quan điểm về xã hội, nhân sinh. Trương Chính có nhận xét: "Chúng
tôi căn cứ vào tôn chỉ, mục đích Tự lực văn đoàn đề ra, rồi xem xét cách họ thực
hiện. Họ, mỗi người có hàng chục tác phẩm, chẳng ai giống ai, chẳng tác phẩm
nào giống tác phẩm nào, chẳng hạn Khái Hưng chuyên về vấn đề gia đình, Nhất
Linh thiên về vấn đề xã hội, Thạch Lam thiên về đi sâu vào tâm lý, Hoàng Đạo
thiên về "cải cách nông thôn". Tú Mỡ thiên về thơ trào phúng, Thế Lữ thiên về thơ
lãng mạn, tiểu thuyết đường rừng, tiểu thuyết trinh thám... Người đứng đầu là Nhất Linh, tức Nguyễn Tường Tam, viết văn hay đã đành, mà lại có óc tổ chức, có
nhiều sáng kiến. Những người ghét ông cũng phải phục, muốn bắt chước cũng
không bắt chước được. Nói gì thì nói, nhóm Tự lực văn đoàn của ông có một vai
trò rất lớn trong sự phát triển văn học của ta những năm ba mươi" [58]. Đây cũng
là sự khẳng định vị thế Tự lực văn đoàn với tư cách là một tổ chức văn học đáp
ứng nhu cầu phát triển của một nền văn học mới - nền văn học Việt Nam hiện đại,
23
nó đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình ngay trong thời kỳ đầu mà ta có thể tính từ 1932 (năm báo Phong hoá mới số 14 ra đời) đến năm 1942 (năm Thạch
Lam mất). Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, khẳng định công lao và những
đóng góp của Tự lực văn đoàn, sau đó, do xa dần tôn chỉ, mục đích tiến bộ ban
đầu mà văn đoàn đề ra, Tự lực văn đoàn dần bị phân hoá, thoái trào và tan rã.
1.2. Truyện ngắn Tự lực văn đoàn và truyện ngắn Khái Hưng,
Thạch Lam.
1.2.1. Vài nét về truyện ngắn Tự lực văn đoàn
Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nói chung, truyện ngắn Việt
Nam nói riêng, chủ yếu từ những năm đầu của thế kỷ XX, phát triển rực rỡ
trong những năm 1930 - 1945, trong đó truyện ngắn Tự lực văn đoàn góp
phần tạo nên một diện mạo mới, phong phú, đa dạng. Thống kê truyện ngắn
trong cuốn Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ năm 1933 (thành lập Tự
lực văn đoàn) đến năm 1945 (năm Tự lực văn đoàn ngừng hoạt động kết thúc
văn học tiền chiến cho thấy kết quả cụ thể như sau:
Từ 1933 - 1945
Cả nước
Tự lực văn đoàn
Tỷ lệ % (TLVĐ)
Tác giả viết truyện ngắn 29 7 24,1%
Số tập truyện ngắn 51 16 31,3%
Số truyện ngắn 540 151 28%
Nếu thống kê theo thư mục in trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam
(từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) thì đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với các
thể loại nói chung và truyện ngắn nói riêng cũng không nhỏ. Tự lực văn đoàn
có 16 tập truyện ngắn trong tổng số 78 tập của cả nước, chiếm 20,5%.
Trong số 8 thành viên chính thức của Tự lực văn đoàn thì đã có tới 7
người viết văn xuôi và truyện ngắn (trừ Tú Mỡ). Tác giả viết ít nhất là 1 tập
(Xuân Diệu), nhiều nhất là 8 tập (Khái Hưng), trung bình là hai, ba, bốn tập.
Mỗi người đều có vị trí và phong cách riêng. Hơn nữa họ còn đứng đầu một
số khuynh hướng truyện ngắn trong tiến trình chung của thể loại truyện ngắn
Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỷ XX.
Ngoài hai cây bút Khái Hưng và Thạch Lam mà luận văn dành khảo sát
riêng, nhiều cây bút văn xuôi Tự lực văn đoàn cũng sáng tác truyện ngắn và ở
những mức độ khác nhau đều có những thành công nhất định.
24
Nhất Linh "cây bút trụ cột" của Tự lực văn đoàn sau nhiều tập tiểu
thuyết Đời mưa gió, Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng... từ 1936 cũng tham
gia viết truyện ngắn. Truyện của Nhất Linh đăng trên báo Ngày nay, sau được
tập hợp in trong hai tập Tối tăm (1936) và Hai buổi chiều vàng (1937). Truyện
ngắn Hai vẻ đẹp mang ý nghĩa như một lời tuyên ngôn nghệ thuật, Nhất Linh
muốn gửi gắm những suy nghĩ của ông về vấn đề nghệ thuật với nhân sinh và
sự day dứt của những người tiểu tư sản trí thức với cuộc sống "tối tăm" của
người dân quê. Đỗ cử nhân Luật từ Pháp trở về, nhưng Doãn không ra làm
quan mà ham mê vẽ tranh. Chỉ khi tiếp xúc với cuộc sống "bùn lầy nước
đọng", Doãn phát hiện ra những gì mình vẽ cách bức và không giống với đời
sống thực, chàng bỗng thấy nghệ thuật hết ý nghĩa, cuộc sống bên gia đình mẹ
nuôi giàu có hết thơ thới. Doãn cảm nhận về hai thế giới khác biệt, đối lập và
cảm thấy cái nghệ thuật của chàng không khác gì bức tường cao kín kia bấy
lâu đã che khuất mắt chàng không cho nhìn thấy những cảnh tiều tuỵ bên
ngoài". Doãn không muốn "cái đời đầy đủ sung sướng trên sự thiếu thốn của
người khác". Và thấy "cái vô lý của công việc chàng mê man đi tìm những
ánh sáng huyền ảo trên các nóc tranh, không bao giờ tưởng đến sự thực ảm
đạm, cuộc đời tối tăm dưới những mái tranh ấy. Nghệ thuật, mục đích đi tìm
cái đẹp lúc đó đối với chàng chỉ là một sự mỉa mai, đau đớn". Ngoài Hai vẻ
đẹp, phần lớn truyện còn lại trong tập Tối tăm viết về "những cảnh tối tăm của
mấy hạng người trong xã hội": tình cảnh nghèo khó đến khánh kiệt của Trọng
(Nghèo); sự đối xử bất công của xã hội đối với những người nghèo (Hai cảnh
ngoài phố); về số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ (Hai chị em,
Tiếng kêu thương). Qua những cảnh ngộ, những mảnh đời bất hạnh ấy, Nhất
Linh muốn gửi gắm những triết lý nhân sinh của mình. Ông có ý thức cảm
thông chia sẻ với những người "dưới đáy" nghèo khổ và bất hạnh. Tuy nhiên, sự xót thương ấy ít nhiều vẫn chỉ là sự xót thương của những người thuộc tầng
lớp trên với những "hạng người thấp kém hơn mình".
So với Tối tăm, Hai buổi chiều vàng đề cập đến nhiều vấn đề và được
viết bằng nhiều bút pháp khác nhau. Theo Vũ Ngọc Phan, những truyện trong
tập này "có những tính cách khác hẳn những truyện trong tập Tối tăm. Hai
buổi chiều vàng là một câu chuyện tình nhẹ nhàng trong sáng. Cái tẩy vừa
25
mang tính chất luận đề vừa ẩn chứa chất triết lý nhân sinh, không nên đi tìm hạnh phúc ở đâu xa mà "Hạnh phúc ở ngay trong lòng mình". Vết thương và
Mười năm qua lại đậm chất trữ tình, mang tới cho người đọc sự thương cảm
man mác... Quả là so với tiểu thuyết, vốn là thể loại "sở trường", truyện ngắn
của Nhất Linh "không bằng truyện dài", nhưng đúng như đánh giá của Vũ
Ngọc Phan, Nhất Linh "cũng có tài viết truyện ngắn".
Hoàng Đạo viết ít truyện ngắn, tuy nhiên chỉ với tập Tiếng đàn (1941),
gồm 13 truyện, cũng có thể thấy được nét riêng trong phong cách của cây bút
này. Phần lớn truyện trong Tiếng đàn không có cốt truyện, chỉ diễn tả tâm
trạng của nhân vật: Một Tiếng đàn, giọng hát của cô kỹ nữ "như tiếng than của
thời đại", khơi dậy những tình cảm thiết tha với quê hương, đất nước trong
lòng Xuân; những cuộc đấu tranh thầm lặng của Bằng (Ánh sáng) trước những
cám dỗ của đời sống vật chất để giữ lấy cái vui, cái đẹp, cái thanh thản cho
mình; tâm trạng của một người vì không chịu luồn cúi đã từ quan để được
sống cuộc đời tự do trong sự hoà đồng với thiên nhiên (Tiếng sáo thiên thai);
câu chuyện đầy ý nghĩa nhân văn về cuộc đời một nhà sư chân tu (Sắc
không)... Một số truyện lại đề cập đến số phận bất hạnh của những người
nghèo trong xã hội, đó là số phận của gia đình chị Tạc (Một gia đình), của gia
đình anh Minh bị tan nát, bị nhấn chìm trong dòng nước lũ (Dưới làn sóng)...
Truyện của Hoàng Đạo phần lớn không có những xung đột, kịch tính gay gắt
mà chỉ như những lời thủ thỉ tâm tình, thuật lại một tâm trạng hay một cảnh
ngộ... Truyện thường man mác, nhưng có sức gợi, giúp người đọc phải suy
ngẫm về cuộc đời, lẽ đời. Kiểu truyện không có cốt truyện này cũng là một
trong những cách tân đáng kể của truyện ngắn Tự lực văn đoàn theo hướng
hiện đại hoá.
Thế Lữ nổi tiếng với Thơ mới, nhưng cũng có những đóng góp đáng quý
trong thể loại truyện ngắn qua các tập: Ba hồi kinh dị (1931), Bên đường thiên lôi (1936), Gió trăng ngàn (1941). Truyện của Thế Lữ phần lớn là truyện kinh
dị, viết về những con người và sự việc rùng rợn, khác thường, trong đó có
những truyện hay, Vũ Ngọc Phan từng đánh giá cao trong Nhà văn hiện đại.
Theo Vũ Ngọc Phan hai truyện hay hơn cả trong mảng truyện này của Thế Lữ
là Hai lần chết và Ông Phán nghiện. Hai lần chết là câu chuyện về Tâm - một
người thông thái, giỏi về khoa học và sống tử tế với mọi người. Tâm cộng tác
26
với Mão, hai người cùng chí hướng và thề cùng suốt đời hy sinh cho khoa học. Trong một lúc cao hứng, Tâm viết chúc thư sẽ trao lại gia tài và sự
nghiệp khoa học cho Mão, nếu qua đời. Rồi một lần, do làm việc căng thẳng,
Tâm ngất xỉu. Mọi người tưởng Tâm chết, vội liệm anh vào quan tài. Đêm
hôm đó tỉnh lại, Tâm thấy Mão đang ngồi bên quan tài của mình, chăm chú
xem tờ di chúc. Thấy Tâm hồi tỉnh, Mão tàn nhẫn tìm cách giết hại anh. Điên
lên vì sự hiểm độc, tàn ác của Mão, Tâm vùng hết sức bóp chết Mão và cho
vào quan tài rồi đi tự thú. Ra toà Tâm được trắng án, nhưng từ đó, sống ẩn dật,
không muốn tiếp xúc với ai. Ít lâu sau, Tâm chết, gục đầu bên tờ chúc thư để
lại di sản cho viện Tế bần. Lần này Tâm chết thật. Còn Ông Phán nghiện kể
về một người kỳ quái, sống đơn độc và kỳ dị trong một căn nhà lá biệt lập.
Thời trẻ, ông đem lòng yêu thương tha thiết một cô gái, nhưng cô đã lừa dối
ông. Từ đó, ông Phán căm ghét đàn bà. Ông chỉ còn thú vui duy nhất là bàn
đèn thuốc phiện và bầu bạn với con rắn cạp nong rất to. Lâu dần con rắn cũng
nghiện và khi ông Phán qua đời, con rắn cũng trở nên đờ đẫn vì thiếu thuốc.
Truyện kinh dị của Thế Lữ thường hấp dẫn và kích thích được sở thích của
lớp công chúng đương thời, đặc biệt những truyện ghê sợ nhưng được giải
thích bằng cơ sở khoa học. Óc quan sát tinh tế và sự nhạy bén khi nắm bắt,
khai thác các sự việc ly kỳ đã tạo nên thành công cho truyện của Thế Lữ. Vũ
Ngọc Phan đánh giá: "Đọc truyện Hai lần chết, tôi phải nhớ đến những truyện
lạ lùng của Edgar Poe, và đọc truyện Ông Phán nghiện, tôi phải nhớ đến
những truyện kỳ quái của Hoffmann" [81]. Ngoài những truyện bí hiểm và
kinh dị, Thế Lữ còn có mảng truyện được viết theo phong cách trữ tình lãng
mạn, phần lớn được tập hợp trong tập Gió trăng ngàn, gồm 8 truyện. Các
truyện đều được xây dựng trên bối cảnh thiên nhiên rừng núi hoang dã và thơ
mộng. Nhân vật chính trong hầu hết các truyện là cô gái Thổ có vẻ đẹp mê
hồn và tính cách khác lạ. "Mỗi câu chuyện như một bài thơ gọn gàng, xinh xắn", "một bài thơ mộc mạc và trong trẻo như tâm hồn cô gái Thổ". Với
những sáng tác độc đáo của ông, Thế Lữ đã đem đến một vẻ lạ, đầy hấp dẫn
cho truyện ngắn Tự lực văn đoàn nói riêng, truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói
chung.
Xuân Diệu là thi sĩ "mới nhất trong những nhà thơ mới", tuy nhiên ở thể
loại truyện ngắn ông cũng đã để lại dấu ấn riêng với tập truyện Phấn thông
27
vàng, gồm 10 truyện, trước đó được in rải rác trên báo Ngày nay. Truyện của Xuân Diệu được viết bằng phong cách riêng, đúng như ông đã viết trong lời
tựa Phấn thông vàng: "Ở đây chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn". Xuân
Diệu ít viết về những cảnh đời thực, truyện của ông chủ yếu là những cảm xúc
của tâm hồn văn nhân trước cuộc sống, trước những cảnh đời thực đó. Truyện
lấy tên cho cả tập Phấn thông vàng là tâm trạng của một người hoạ sĩ. Sau bao
lần thất bại trong tình yêu, chàng chán nản, tuyệt vọng "lòng mệt mỏi và trống
không như một toà lầu bị cướp". Nhưng rồi vào một ngày hè rực rỡ, chàng tìm
đến một rừng thông để vẽ. Cảnh đẹp của rừng thông đang toả nhị phấn vàng
đã đem lại những cảm xúc mới mẻ trong tâm hồn, gợi khơi lại tình yêu và
niềm vui sống trong người hoạ sĩ lãng mạn và đa tình ấy. Qua câu chuyện về
Tư (Người học trò tốt), người đọc cảm nhận được một tâm trạng phổ biến của
tầng lớp tiểu tư sản đương thời. Tư là học trò thông minh, suốt ngày chỉ vùi
đầu vào sách vở. Hai mươi ba tuổi, Tư đã có tất cả: giàu sang, vinh hiển, bằng
cấp, ngôi bậc... nhưng "khi chàng thành công là chàng thất bại hẳn" bởi nguồn
nhựa sống đã khô héo, cạn kiệt trong Tư. Bên cạnh dạng truyện "chỉ có một ít
đời và rất nhiều tâm hồn ấy", Xuân Diệu cũng có một số truyện viết về những
"nỗi đời cay cực đang giơ vuốt", về cảnh sống lầm than, lay lắt, tủi nhục của
tầng lớp đói nghèo như: Thương vay, Cái hoả lò, Đứa ăn mày, Toả nhị kiều.
Mỗi câu chuyện một cảnh ngộ - những con người hoặc sống trong cuộc sống
tù túng, tẻ nhạt "không ánh nắng, chẳng hương người" (Toả nhị kiều); hoặc
sống trong cảnh nghèo túng, thua thiệt đầy ngang trái của kiếp lẽ mọn (Cái
hoả lò)... Phấn thông vàng, hiển hiện một hiện thực tẻ nhạt buồn chán. Truyện
của Xuân Diệu đẫm chất thơ, với sự chau truốt tinh tế từ câu văn đến hình
ảnh. "... Nó là những bài thơ trường thiên không vần, không điệu, nó là những
bài thơ tự do để phô diễn hết cả cảm tưởng của tác giả về nhân vật, tuy chỉ có
những cuộc đời rất nhỏ, nhưng gợi hứng cho thi nhân lại nhiều... Phấn thông vàng (1939) không phải hạng sách yêu dấu của tất cả mọi người, nó thuộc loại
sách của người ưa suy nghĩ, muốn sống một đời sống tinh thần đầy đủ" [81].
Dù chỉ với một tập, mười truyện ngắn, Xuân Diệu cũng đã đóng góp với Tự
lực văn đoàn, với truyện ngắn Việt Nam hiện đại một phong cách truyện ngắn
trữ tình độc đáo.
Qua một số cây bút chủ chốt và một số tác phẩm tiêu biểu của truyện
28
ngắn Tự lực văn đoàn, có thể thấy, tuy cùng một văn đoàn, cùng tôn trọng tôn chỉ, mục đích chung của cả nhóm, nhưng bằng tài năng và cá tính sáng tạo,
mỗi cây bút truyện ngắn lại để lại dấu ấn và những đóng góp riêng đặc sắc.
Khuynh hướng sáng tác của Tự lực văn đoàn là lãng mạn nhưng trong sự giao lưu
ảnh hưởng của các trào lưu văn học hiện thực, cách mạng cùng thời và tiếp nhận
ảnh hưởng phong trào Mặt trận dân chủ 1936-1939, nhiều truyện ngắn của Tự lực
văn đoàn đã có nội dung xã hội tiến bộ. Ở một số cây bút, một số truyện, do vậy có
thể thấy khá rõ sự cộng hưởng của cả hai dòng bút pháp hiện thực và lãng mạn.
Những tìm tòi cách tân của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn rất đáng kể, thể
hiện trên nhiều phương diện: nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nghệ thuật xây
dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu... Có thể nói, các cây bút truyện ngắn Tự
lực văn đoàn đã góp phần đáng kể hiện đại hoá thể loại truyện ngắn. Nhiều
tìm tòi, thể nghiệm của truyện ngắn Tự lực văn đoàn như: truyện không có cốt
truyện, truyện tâm tình, cốt truyện tâm lý, nghệ thuật trần thuật (độc thoại nội
tâm, khám phá chiều sâu tâm hồn nhân vật...) đến nay vẫn là những phương
thức nghệ thuật giàu hiệu quả.
1.2.2. Đặc điểm Truyện ngắn Khái Hƣng và Thạch Lam Trong Tự lực văn đoàn, Khái Hưng và Thạch Lam là hai cây bút viết
hay, viết khoẻ để lại một số lượng tác phẩm không nhỏ với đủ thể loại: tiểu
thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, phóng sự, bút ký, kịch, thơ, phê bình, tiểu
luận... trong đó truyện ngắn chiếm một vị trí quan trọng, thu hút được sự cảm
mến của đông đảo bạn đọc. Với những sự cách tân táo bạo, vào cái thời buổi
loạn lạc, sự mâu thuẫn lúc nào cũng khiến con người có thể rơi vào bế tắc,
tuyệt vọng, những tác phẩm văn chương lãng mạn tuy không thôi thúc tầng
lớp tiểu tư sản đứng lên đấu tranh giành lại sự tự do nhưng phần nào cũng góp
phần giải tỏa những dằn vặt nội tâm. Giai đoạn của những năm đầu thế kỷ XX
là sự giao thời, tất cả mọi điều đều có phần thống nhất theo một quy luật chung, ấy là sự tìm tòi, thể nghiệm. Khái Hưng và Thạch Lam, hai tác giả tiêu
biểu của Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp đáng kể, quan trọng trong
tiến trình phát triển đa dạng, rực rỡ sắc màu của văn chương đầu thế kỷ XX.
1.2.2.1.Truyện ngắn Khái Hưng
Khái Hưng (1896-1947), tên thật là Trần Khánh Giư, quê quán tại làng
Cổ Am huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng), sinh trưởng
29
trong một gia đình quan lại phong kiến. Thời niên thiếu học ở trường Trung học Anbe Xarô (Hà Nội). Sau dạy học ở trường tư thục Thăng Long (Hà Nội).
Năm 1930 bắt đầu tham gia làm báo, viết văn. Năm 1933 tham gia nhóm Tự
lực văn đoàn và trở thành cây bút chủ chốt của nhóm. Văn nghiệp của Khái
Hưng khá đa dạng và ông đã gặt hái nhiều thành tựu ở nhiều thể loại: tiểu
thuyết, truyện ngắn, kịch, tiểu luận phê bình,... trong đó truyện ngắn là thể loại
ông đạt nhiều thành công với những tập như: Dọc đường gió bụi (1936) Anh
phải sống (1937), viết cùng Nhất Linh, Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1941),
Cái ve (1944). Có thể nói, truyện ngắn Khái Hưng không nằm ngoài nguyên
tắc sáng tác chung của trào lưu Tự lực văn đoàn, nhà văn đã phản ánh những
đổi thay của thời đại: đả kích xã hội phong kiến thực dân, giải phóng tình yêu,
ca ngợi hôn nhân tự do của con người, trân trọng và đề cao truyền thống văn
hoá của dân tộc. Ông luôn chú ý học tập kế thừa những giá trị văn hoá truyền
thống, đồng thời có sự cách tân độc đáo để tạo nên những “truyện ngắn tuyệt
hay”, có giá trị lâu bền.
* Phê phán xã hội phong kiến
Nếu trong tiểu thuyết, Khái Hưng đả phá chế độ đương thời thông qua
việc lên án lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do hôn nhân (Nửa chừng xuân) thì
trong các truyện ngắn, nhà văn cũng tập trung vạch trần sự thối nát, lạc hậu, độc
ác, xấu xa của xã hội phong kiến. Khái Hưng đã miêu tả tường tận sự bóc lột
tàn nhẫn của bọn địa chủ đối với dân nghèo. Ông Ký Phan trong Lòng tốt: “…
nhờ việc bán rượu ty trong gần hai mươi năm, đã trở nên giàu có nhất vùng:
khắp các phủ, huyện gồm tỉnh lỵ chẳng mấy nơi là không rải rác có ruộng của
ông ta. Những người vay nợ cầm cố kể có hàng trăm, hàng nghìn, ngày ngày
đến chực ở nhà ông ta như chực ở công đường phủ, huyện”. Cái chế độ địa tô,
cho vay nặng lãi đã làm tha hoá con người. Con người trở nên tàn nhẫn và độc
ác. Ở khắp nơi, ai cũng biết tiếng ác của con ông Ký Phan. Xã hội thối nát, đảo điên đã sản sinh ra những con người lừa lọc, đặt đồng tiền lên trên phạm trù đạo
đức, lấy việc làm giàu làm mục đích, làm lý tưởng sống, như ông Hàn Năm
trong Tống tiền là nhà cự phú, nhờ về cho vay nặng lãi hơn là nhờ về buôn bán
mà trở nên giàu có bạc vạn. Ở vùng, ai ai cũng biết ông là người keo bẩn. Ngoài
cái thú là tích của làm giàu, ông ta chẳng còn một thú vui nào khác. Đó là hình
ảnh của những con người đặt đồng tiền, lợi lộc lên trên hết, sẵn sàng chà đạp
30
lên số phận bi thảm của những kẻ cố nông bần cùng, mạt hạng. Nhà văn không chỉ miêu tả, tường thuật mà qua những trang viết tưởng như chỉ là sự phơi bày
nhẹ nhàng, khách quan, đã ẩn chứa sự căm giận, lên án, tuy chưa mạnh mẽ
nhưng phần nào đã khẳng định thái độ thiết tha bênh vực cho những người dân
thấp cổ bé họng. Giai cấp bóc lột sẵn sàng chà đạp lên lương tâm, bán rẻ linh
hồn để cướp bóc, đẩy dân nghèo đến bước đường cùng "Không có tiền thì viết
văn tự tiến chỉ bán ruộng" - đó là bi kịch của người nông dân Việt Nam trước
Cách mạng Tháng 8. Đây là sự bênh vực quyết liệt của nhà văn đối với sự đày
đoạ, đau thương của người dân nghèo khổ.
Không chỉ đả kích bọn địa chủ áp bức, Khái Hưng còn mỉa mai tố cáo
những hủ tục, những thói hư tật xấu trong xã hội cũ. Khác với Ngô Tất Tố -
nhà văn cùng thời, khi miêu tả những hủ tục ở nông thôn trong việc cúng tế
thành hoàng với tất cả những phiền hà, sách nhiễu mà dân quê phải chịu
"Tuần nào tiết ấy, dân làng cứ theo lệ mà sắm sửa, lệ đáng giết lợn thì giết
lợn, lệ đáng giết trâu thì giết trâu "đến việc luật lệ của người thủ từ co việc
đèn hương "Quanh năm người thủ từ phải ngủ ở đình hay ở đền. Làng nào lệ
ngặt, thì thủ từ lúc nào cũng phải bận quần đỏ, bước xuống đất phải đi giày
hay dép, ra sân ra đường phải đội nón. Thủ từ mà có vợ chửa thì làng ăn vạ".
Ngô Tất Tố trực tiếp phê phán những hủ tục lạc hậu ở nông thôn đã bắt nông
dân phải chịu những sách nhiễu, phiền hà thì Khái Hưng, với giọng điệu mỉa
mai châm biếm đã phê phán trò lừa bịp của bọn thực dân phong kiến lợi dụng
sự mê tín của dân chúng để thực hiện chế độ ngu dân, bóc lột như trong truyện
ngắn Tế Thành hoàng. Với lối viết giản dị, hài hước, sự phê phán của tác giả
ẩn dấu dưới những câu văn lạnh lùng: “Dân làng Tiền cũng không ai phàn nàn
về cái thiêng của ngài. Trái lại, người ta còn lấy làm hãnh diện được thờ một
vị thần mà khắp vùng đều kính sợ. Không phải sợ bóng sợ vía, nhưng sợ
những sự tác oai hiển hiện trước mắt. Một lần, một đứa trẻ chăn trâu trèo lên cây muỗm trước miếu, đã bị ngài quật ngã chết tươi. Lại một lần một con bé
bế em đi xem rước giơ tay chỉ trỏ kiệu ngài, bị ngài hành cho một trận ốm
thập tử nhất sinh - câu chuyện mà người ta hay kể nhất, kể với một giọng rụt
rè, kinh hãi, là câu chuyện ông tiên chỉ đương đứng đại bái tế ngài, bị ngài
phạt ngã gục bất tỉnh... Tất cả sự uy linh đó đã bị Khái Hưng hạ bệ bằng sự
việc có thật do ông tiên chỉ làng Tiền kể lại trong lúc say rượu. Đó là lúc ông
31
ta đang đứng tế thì chun quần bị đứt, ông ta giả vờ ngất xỉu để quần không bị tụt. Vẫn giọng điệu mỉa mai, châm biếm, thoạt nghe là những câu chuyện
phiếm, mua vui nhưng ẩn chứa sau đó thái độ phê phán của nhà văn đối với
những hủ tục lạc hậu, mê muội của nông thôn Việt Nam trước cách mạng.
Bao quát hơn, sâu rộng hơn, tác giả phê phán cả một triều đình phong kiến
thực dân thối nát, rối ren vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, tất cả chỉ giống
như một trò đùa bất lương.
* Ca ngợi tình yêu thuỷ chung, trong sáng
Bên cạnh những sáng tác mang tính chất đả kích, lên án, ngòi bút của
Khái Hưng còn chứng tỏ sự đa dạng, phong phú của những đề tài thể hiện.
Mảng sáng tác dành được sự mến mộ đông đảo của nhà văn chính là những
sáng tác viết về tình yêu đôi lứa. Khái Hưng truyền đến độc giả sự rung động,
cảm giác yêu thương, nhớ nhung, khát khao của các nhân vật, những cảnh
ngộ, và hơn hết là những tình yêu mãnh liệt. Có thể thấy tình yêu là một trong
những đề tài chính trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn. Các nhà văn đã đề
cập đến những khát vọng tự do hôn nhân, hướng tới giải phóng cá nhân con
người. Chủ đề này được Khái Hưng tiếp tục khai thác ở thể loại truyện ngắn.
Nhà văn Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Nhà văn mà được nam nữ thanh niên
yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẽ chỉ Khái
Hưng... Khái Hưng là văn sỹ của thanh niên Việt Nam cũng như Alfred de
Musset là thi sỹ của thanh niên Pháp thủa xưa” [91].
Khái Hưng là nhà văn của nam nữ thanh niên không chỉ vì ông viết nhiều
mà còn viết hay và sâu sắc về tình yêu với những cung bậc cùng những trạng
thái tinh vi nhất của tình cảm. Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn Bình
giảng về tự lực văn đoàn - Nhà xuất bản Tân Việt 1958, tác giả Nguyễn Văn
Xung đã đánh giá cao vai trò của Khái Hưng: "nhà văn ý nhị vào bậc nhất của
chúng ta hiện nay". Đó là tình yêu "bất vong, bất diệt" của sư Tuệ trong truyện ngắn Tình tuyệt vọng, tình yêu như một triết lý, một lẽ sống cuộc đời.
Khái Hưng đề cao cuộc sống cá nhân thực tại với những cảm xúc, tình cảm
của chính bản thân mình. Mối tình của Khánh (tên tục của sư Tuệ) và người
vợ bạn là mối tình trong sáng, cao thượng, mặc dù người đàn bà ấy có đáp lại
tình yêu của Khánh hay không, Khánh không một lần tự hỏi. Lúc nào Khánh
cũng sống trong yêu đương, và yêu đương choán cả tâm hồn chàng... Chất
32
lãng mạn ngày một tăng thêm. Người thiếu phụ ấy cũng yêu chàng nồng nàn. Nhưng "bao tính tình cao thượng đã đủ thì giờ... họ đã thấy lòng nhau thì một
tính tình mới vụt nảy nở rất mãnh liệt trong hai tâm hồn. Đó là lòng hi sinh:
họ cùng cố quên nhau". Câu chuyện có phần khiên cưỡng, rõ nét chủ quan của
nhà văn nhưng qua một số truyện ngắn khác, chúng ta thấy Khái Hưng luôn
đề cao tình yêu chân chính, đề cao những cảm xúc trong sáng và tình cảm cao
thượng của con người. Linh trong Đợi chờ là một chàng trai chung tình, chàng
gặp Phụng tình cờ trong một lần xe Phụng hết xăng gần trang trại của chàng.
Chàng cho cô gái mấy lít xăng và mời cô vào trang trại chơi, tình cảm của
Linh thật lạ lùng.Với Linh, đó không phải đơn thuần là tình yêu sét đánh dễ
đến, dễ đi, mà chỉ trong giây phút Linh đã gặp được người tri âm tri kỷ. Tình
cảm ấy không dễ phai nhoà bởi năm tháng và sự xa cách. Đã hai năm chàng
chờ đợi, mong ngóng người ấy như vạn vật trầm ngâm mong ngóng xuân về.
Có thể thấy tình cảm của Linh dành cho Phụng thật chân thành, mộc mạc.
Chàng chờ đợi người xưa quay trở lại, dù Phụng không một lời thề hẹn với
chàng nhưng trong lòng chàng, kỷ niệm ăn sâu vào tâm khảm. Chàng sống với
kỷ niệm xưa ngọt ngào để nuôi hi vọng Phụng sẽ quay trở lại.
Khác với Xuân Diệu khi thi sỹ quan niệm: "Tình chỉ đẹp khi còn dang
dở” Khái Hưng cho rằng tình yêu phải gắn liền với hạnh phúc hôn nhân. Ông
khát khao kéo con người trở về với thế giới thực tại, xây dựng một thiên
đường tình ái ngay trên chính mảnh đất thân quen. Tình cảm vợ chồng sẽ chắp
cánh cho tình yêu bay cao hơn, viên mãn hơn. Truyện Bên giòng Hương
Giang đã vẽ lên tổ ấm của đôi uyên ương Vinh Sơn và Diễm Lan. Khái Hưng
đã đề cập đến một quan niệm về tình yêu của lớp thanh niên mới: "Chẳng cần
gì trinh tiết, chẳng cần gì tứ đức tam tòng... những cái đó không liên can gì
đến ái tình, không có dính dáng gì đến hạnh phúc. Yêu là yêu chứ không phải
là gì khác nữa". Phát và Hoàn trong Thời chưa cưới cũng có một tình yêu đẹp và trong sáng. Mối tình ấy được tạo dựng trong những ngày hè trên bãi biển
Sầm Sơn thơ mộng "hai người cầm tay dắt nhau đi dưới nước, hay rúc rích
nhảy cười theo làn sóng trắng"… Khái Hưng tỏ ra rất am hiểu các cung bậc,
trạng thái tình cảm của tâm hồn những đôi lứa đang yêu. Mỗi con đường dẫn
đến tình yêu của các đôi lứa với những cảnh ngộ rất đặc biệt, và có những mối
tình hết sức cao đẹp như tình yêu của Giao với Cúc (Tình điên), ngòi bút của
33
Khái Hưng rất nâng niu, trân trọng những tình cảm tốt đẹp, chân thành và sâu sắc . Ông viết như để chia sẻ, để đồng cảm với những mối tình thắm thiết, dù
có tuyệt vọng, dù có mong manh, dù có ngắn ngủi thoáng qua hay lâu bền
cùng năm tháng, với Khái Hưng, những tình cảm ấy đều đẹp, đều đáng được
ngợi ca. Có thể nói, truyện ngắn của Khái Hưng đã bộc lộ rõ một khát vọng
của tầng lớp thanh niên lúc đó, đó là khát vọng tự do yêu đương, không bị sự
ràng buộc của lễ giáo, bởi sự can thiệp của gia đình. Trong tác phẩm: "Về Tự
lực văn đoàn" của giáo sư Nguyễn Trác và giáo sư Đái Xuân Ninh đã dành
cho Khái Hưng bốn mươi hai trang với nhiều ý kiến mới mẻ. Trong lời giới
thiệu, hai tác giả đánh giá cao truyện ngắn Khái Hưng: "Khái Hưng có tài viết
văn hơn cả. Với bút pháp lãng mạn trữ tình hay vui tươi sinh động, về nhiều
thể loại truyện ngắn, truyện dài, kịch thuộc về đề tài xã hội hay đề tài tâm lý;
Khái Hưng đều tỏ ra vững vàng sắc sảo".
* Nét đẹp cội nguồn văn hoá
Khái Hưng là thanh niên trí thức tiểu tư sản, ông được tiếp cận với nền văn
minh phương Tây khá sớm. Tuy vậy, trong những sáng tác của mình, bên cạnh
những tác phẩm viết về đời sống hiện đại, Khái Hưng cũng dành một phần không
nhỏ để viết về đề tài cội nguồn văn hoá.
Khái Hưng miêu tả nét đẹp truyền thống qua tài năng của người dân
nghèo không phân biệt tầng lớp, vùng miền. Phía sau sự tài hoa của chân dung
các nhân vật là sự hoài niệm truyền thống văn hoá dân tộc của nhà văn. Tiếng
khèn buồn thảm, đau đáu của gã trai Mèo trong truyện ngắn Tiếng khèn đã gói
ghém tâm trạng buồn thảm, tiếc thương của chính người thổi khèn: khi đi ăn
cưới về, buồn quá, anh ta thổi "vương vấn, ngân nga tựa tiếng ve từ nơi thung
lũng xa xăm nào bay tới", có lẽ đó là tiếng khèn đưa tiễn mối tình đầu tha thiết
nên thơ. Đến ngày nhà có tang, vẫn là tiếng khèn đưa tiễn, nhưng là đưa tiễn
người đã khuất "Tiếng âm nhạc lạ lùng vẫn còn, một mình, từng đoạn kéo dài đều đều trong đêm vắng... Tiếng khèn buồn thảm như tiếng rền rĩ của kẻ bị
thương". Nhà văn trực tiếp bộc lộ cảm xúc: "Tôi cảm thấy sự buồn nản, ghê sợ
từ từ thấm giọt vào hồn tôi, như nước mưa thấm qua núi đá mà tí tách rơi vào
trong hang”. Ấn tượng về tiếng khèn đau đớn của anh trai Mèo đã đi vào tâm
trí tác giả suốt đời: “Và từ đó, tiếng khèn trong buổi chiều tà, tôi nghe ai oán,
như tiếng khóc của một tâm hồn trơ trọi”.
34
Khác với quan niệm của một số người coi thường nghiệp "xướng ca vô loài". Khái Hưng dành cho các nghệ sỹ dân gian những tình cảm yêu thương trân
trọng để ngợi ca tài năng của họ: hát trống quân, hát chèo, hát ả đào,... đều là
những sinh hoạt văn hoá truyền thống của người dân Việt. Nó đã đi vào trang
văn của Khái Hưng với thái độ đề cao, ngợi ca thành thực không hề dấu giếm.
Khái Hưng không chỉ ngợi ca tài năng của những người lao động có phẩm chất
nghệ sỹ mà ông còn thấu hiểu khát vọng được sống với nghệ thuật của họ qua
những truyện ngắn như Véo von tiếng địch, Trăng thu… Những cô gái chàng trai
làng Tó chỉ mong đến dịp Trung thu để gửi lời ca tiếng hát cho nhau, dù đi đâu
cũng phải nhớ về. Bao tâm sự, tình cảm của cuộc đời vất vả, khó nhọc được họ
bộc lộ qua tiếng hát, điệu hò. Nghệ thuật đã nâng đỡ, cứu rỗi tâm hồn người lao
động khỏi sự khô cằn, chai sạn vì những lo toan vất vả đời thường "Những lời
tình tứ, những câu văn hoa, những điệu lẳng lơ, hai bên moi hết ra để chọi nhau,
những lời, những câu, những điệu mà trăng thu trong vắt trên dòng nước thu êm
lặng bao phủ một làn ánh sáng dịu dàng, huyền diệu. Hai bên cùng cảm thấy
mình sống trong một thế giới lạ lùng, một thế giới khác hẳn với cái thế giới bùn
lầy nước đọng, làm ăn vất vả mọi ngày thường”.
Các nhà nghiên cứu đã tỏ ra công bằng khi đánh giá Khái Hưng - nhất là ở
lĩnh vực truyện ngắn, không quá đề cao, cũng không quá hạ thấp truyện ngắn
Khái Hưng. Điểm độc đáo và cũng rất thành công của Khái Hưng là trong những
truyện ngắn lãng mạn của ông ta bắt gặp một ngôn ngữ giàu chất thơ, một thiên
nhiên đầy màu sắc thi vị, thanh âm và cảm xúc. Nhờ thế, truyện ngắn của Khái
Hưng có sức lan tỏa và đọng lại những dư âm vang vọng người đọc.
1.2.2.2. Truyện ngắn Thạch Lam.
Trong ba anh em (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam), Thạch Lam là
người có cuộc đời ngắn ngủi nhất, viết ít nhất, tác phẩm bán ra chậm nhất
nhưng lại là người tài hoa và viết hay nhất. Thạch Lam (1910 - 1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, sinh tại Hà Nội,
trong một gia đình công chức. Sau khi đỗ Cao đẳng Tiểu học, Thạch Lam học
trường Canh nông một thời gian rồi học trường trung học Anbe Xarô Hà Nội,
đỗ tú tài rồi tham gia làm báo với các anh, từng tham gia biên tập các tờ
Phong hoá, Ngày nay của Tự lực văn đoàn. Thạch Lam có những bút hiệu
khác nhau theo từng thể loại và từng thời kỳ sáng tác: Thạch Lam khi viết
35
văn, Việt Sinh, Thiện Sĩ khi làm báo, còn Nguyễn Tường Lân khi vẽ tranh… So với các cây bút Nhất Linh, Khái Hưng thì Thạch Lam viết không nhiều.
Tuy viết nhiều thể loại: Truyện dài Ngày mới (1939), bút ký Hà Nội băm sáu
phố phường (1943), bình luận văn học Theo giòng (1941),... nhưng Thạch
Lam sở trường và thành công hơn cả ở thể loại truyện ngắn “trong đó có
những truyện vào hàng đoản thiên tiểu thuyết đáng kể là hay nhất trong văn
chương Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan). Hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều
đăng báo và sau đó được tập hợp trong các tập: Gió đầu mùa (1937), Nắng
trong vườn (1938), Sợi tóc (1942). "Tác phẩm xuất bản đầu tiên của Thạch
Lam, tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937) cho ta hay Thạch Lam là một nhà
văn có khuynh hướng xã hội. Kể ra thì các nhà văn Tự lực đều có khuynh
hướng ấy... Tuy nhiên, tư tưởng xã hội ấy ở mỗi người có một sắc thái riêng.
Nhất Linh, Hoàng Đạo muốn một cuộc cách mạng từ thành thị về thôn quê và
đặt làm một vấn đề lý luận, một đối tượng tranh đấu... Đối với Thạch Lam,
khác thế, ông lấy làm nhân vật những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê
xóm nghèo, cô hàng xén phố huyện, cậu học trò đi ở trọ, thợ thuyền, tiểu công
chức. Ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời của họ, những tình cảm cùng ý nghĩ
của họ chứ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền trực tiếp hay gián tiếp tư
tưởng cách mạng xã hội. Đối với những kẻ nhỏ bé ông thường không đứng
ngoài để xem xét, thương hại, mơ tưởng những công trình cứu giúp to tát như
trường hợp Nhất Linh hay Hoàng Đạo. Ông đi ngay vào cuộc sống của họ,
dùng giọng thân mật vui vẻ với những nỗi khổ eo hẹp của họ"...
* Khơi dậy lòng thương cảm con người
Tuy tham gia trong cùng một văn đoàn, cũng tuân thủ những nguyên tắc
của nhóm, nhưng có phần khác với các cây bút khác Thạch Lam có khuynh
hướng đi gần với đời sống bình dị và tình cảm nghiêng về người nghèo khó
chân thành". Với quan niệm nghệ thuật tiến bộ, dùng cây bút như một khí giới để tố cáo và thay đổi một xã hội giả dối và tàn ác, tham gia cải cách xã hội
bằng "thiên chức của một nhà văn thuần tuý", sáng tác của Thạch Lam mang
nội dung hiện thực rõ nét. Nhiều truyện ngắn của ông đã gợi được sự thương
cảm và bất bình trước số phận bất hạnh, hẩm hiu của những người lao động
nghèo khổ. Hơn một nửa truyện ngắn Thạch Lam đã dành viết về những con
người như thế. Mỗi truyện là một mảng của bức tranh hiện thực ít ánh sáng,
36
nhiều bóng tối. Nhà mẹ Lê khắc họa một gia đình mười một đứa con liu chiu, người cha không còn, toàn bộ sự sống trông chờ vào từ tài xoay xở, tần tảo
của người mẹ không mấy sức vóc, không tấc đất, không chút tài sản, chui rúc
trong một túp lều chỉ "rộng độ chừng hai chiếc chiếu". Mùa rét thì rải ổ rơm
đầy nhà, mẹ con cùng ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ chó con
lúc nhúc. Nhưng như thế với gia đình này "cũng tươm tất lắm rồi". Đây không
phải là gia đình nghèo khổ duy nhất, mà còn nhiều gia đình khác ở cái phố
chợ Đoàn Thôn cùng nghèo nàn như nhau cả. Nhà văn không dùng lối biểu
hiện gay gắt, ồn ào mà chỉ bằng những lời nhẹ nhàng, thủ thỉ đúng như Khái
Hưng phát hiện trong "Tựa" Gió đầu mùa: "Tác giả, mà ta tưởng tượng rất
điềm tĩnh, kỳ thực là những con người có tính tình mãnh liệt" [20]. Đứng
trước sự khốn cùng của mẹ Lê, tác giả chỉ thủ thỉ nói: "giá cứ có người mướn
làm thì cũng không đến nỗi". Nhưng trong cái thủ thỉ ấy ta thấy lòng tức giận
lên đến cực điểm. Hoặc trước việc làm tàn ác của cha con ông Bá, Thạch Lam
chỉ để mẹ Lê giảng giải với các con. Thạch Lam với ngôn ngữ, cách diễn tả
không cầu kỳ, luôn giản dị, nhẹ nhàng và tinh tế. Ông viết hiện thực mà không
đay nghiến bằng chất giọng nghiệt ngã, nó cứ thản nhiên và trầm lắng: “Cái
nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi; và
từ đấy nó cứ theo liền bác mãi". Đây cũng là cách nhìn và phản ánh hiện thực
mang đậm phong cách Thạch Lam: điềm tĩnh, nhẹ nhàng mà có sức gợi, sức
ám ảnh ghê gớm.
* Đề cao vẻ đẹp tâm hồn
Bằng bút pháp nghiêng về hiện thực, trong nhiều truyện ngắn, Thạch
Lam còn tiếp tục phát hiện, phản ánh những nét đặc sắc của bức tranh cuộc
sống nhiều mầu, nhiều vẻ, dưới góc độ của một cái nhìn tinh tế, trân trọng,
hướng vào những nét đẹp trong tâm hồn con người (Cô hàng xén, Hai đứa trẻ,
Một đời người, Hai lần chết, Một cơn giận, Đói, Tối ba mươi). Thạch Lam có cách nhìn, cách phản ánh hiện thực tạo ấn tượng sâu sắc, gợi cảm giác khắc
khoải, sâu đậm trong lòng người đọc mọi thế hệ. Điều đặc biệt là ông không
cốt lấy việc miêu tả hiện thực xã hội như một khuynh hướng chủ đạo, theo
nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán mà theo một kiểu dạng mới, có
thể gọi là hiện thực kiểu Thạch Lam như nhiều người đã chỉ ra và gọi bằng
nhiều tên: "hiện thực tâm lý", "hiện thực tình cảm", "hiện thực trữ tình". Có
37
thể nói, lãng mạn và hiện thực là hai nét cốt yếu vừa mang tính chất đối sánh, vừa bổ sung, vừa tạo đối trọng cần thiết trong truyện ngắn Thạch Lam. Bên
cạnh hàng chục truyện ngắn viết theo bút pháp hiện thực, Thạch Lam còn có
hàng chục truyện nghiêng về bút pháp lãng mạn. Thiên hướng này được
Thạch Lam khai thác và thể hiện sâu sắc, tinh tế trong các truyện Đứa con đầu
lòng, Tiếng chim kêu, Gió lạnh đầu mùa... Ngòi bút Thạch Lam để tâm quan
sát những điều ít ai để ý, nhằm phát hiện những nét tinh vi, độc đáo trong đời
sống tâm hồn mỗi con người và diễn tả bằng một giọng văn giản dị, chân
thành. Truyện Đứa con lại là một phát hiện có giá trị nhân văn sâu sắc. Một số
nhà nghiên cứu nhấn mạnh khía cạnh giải pháp điều hoà xã hội hoặc chí ít làm
dịu đi sự cách bức giữa đầy tớ và chủ nhà, con nợ và chủ nợ bằng sự có mặt
đứa con đẹp đẽ kháu khỉnh của chị Sen làm chuyển hoá thái độ của bà Cả.
Thực tế, truyện đề cập đến nhiều vấn đề, mang nhiều ý nghĩa xã hội và giá trị
nội dung, nghệ thuật độc đáo, nhưng điều cốt lõi làm nên giá trị lâu bền của
thiên truyện là bởi Thạch Lam đã thể hiện được những điều sâu kín nhất trong
tâm hồn con người, dù đó là người do hoàn cảnh cuộc đời làm xơ cứng, quắt
queo gần với sự độc ác cũng có thể hồi sinh và trở về với nhân tính thiên
lương là tình mẫu tử. Chưa hẳn nằm trong số truyện hay nhất của Thạch Lam,
nhưng trong mảng viết về thiếu niên sau Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ thì
truyện Tiếng chim kêu mang đến những điểu thú vị. Bao trùm toàn bộ câu
chuyện là không khí đầm ấm của tình yêu thương, là tình cảm nhân đạo kiểu
Thạch Lam. Lòng trắc ẩn của hai anh em - nhân vật chính của truyện - đối với
con chim ngoài trời mưa gió, rét mướt sẽ không mấy ý nghĩa nếu không phải
là biểu hiện sâu xa của những tấm lòng nhân ái. Tình cảm ấy không phải là
lòng thương hại của những người từ tầng lớp trên nhìn xuống; mà như Thạch
Lam viết: "Khi người ta được yên ấm trong một căn phòng nhà gạch chắc
chắn, không sợ mưa gió về phần mình, thì người ta dễ có lòng thương đối với những người xấu số hơn". Đó cũng là biểu hiện của tính thiện, một nội dung
quan trọng của nhân tính, là phần tốt đẹp trong bản chất của mỗi con người.
Dù rằng cuối cùng hai anh em đều ngại rét, không ai chịu ra mở cửa cứu chim
rồi chìm vào giấc ngủ cũng là việc thường tình, thậm chí nhờ thế mà câu
chuyện chân thực hơn, hấp dẫn hơn.
Gió lạnh đầu mùa là thiên truyện được độc giả và giới nghiên cứu các
38
thời kỳ đặc biệt quan tâm, được xếp vào những truyện hay nhất, có thể "đem vào bộ tuyển những truyện ngắn hay của văn học Việt Nam thế kỷ XX" [20].
Ở đây mọi người đều đáng quý, đáng yêu, bởi dù nghèo nhưng luôn sáng ngời
những phẩm chất đẹp, giàu lòng trắc ẩn, cư xử với nhau bằng tình cảm chân
thành. Hành động của chị em bé Lan, Sơn thấy gió lạnh, mình ấm mà bạn rét
tím tái, "chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay" đã tự lấy áo cho
bạn là xuất phát từ tình cảm tự nhiên, từ "tính bản thiện" của con người. Mẹ
của Hiên, dù rất nghèo "chỉ có nghề mò cua bắt ốc" không có tiền mua áo cho
con, khi được cho áo, biết là việc làm của trẻ thơ, đã đem áo trả lại cho mẹ
Sơn và nói những câu rất tế nhị. Mẹ Sơn nhận lại áo nhưng cho mẹ Hiên vay
năm hào về mua áo rét cho con. Với con, bà lập nghiêm để răn dạy, không
được tự tiện hành động nhưng bản tính thương người lại ngầm thể hiện bà ủng
hộ và mừng vì con mình có lòng nhân ái.
Trong Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, GS. Hà Minh Đức nhận
xét: “Truyện ngắn Thạch Lam không lấy điểm tựa và sức hấp dẫn ở cốt truyện
mà ở sự kết hợp giữa sự việc với đời sống khách quan và những cảm xúc chủ
quan. Biết tìm điểm dừng, độ lắng và những xao động của mạch tình cảm và
cuối cùng Thạch Lam đã đưa cảm nghĩ xuôi về khu vực nhân bản nhất, lòng
yêu thương, trân trọng và tin cậy ở con người. Nhìn lại các truyện lãng mạn
Thạch Lam đã viết, đặc điểm nổi bật có thể nhận ra là các nhân vật của ông
thường không đặt trong sự chi phối của một thứ luân lý cao xa nào, ít có quá
trình đấu tranh dằn vặt hoặc phải gồng mình, gắng sức để vượt qua lực cản
của hoàn cảnh, hoặc để hoàn cảnh cuốn đi như các nhân vật trong truyện của
Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Ở truyện Thạch Lam, cái tôi được khai
thác như một chất liệu, một đối tượng thẩm mỹ và nhà văn tỏ rõ thiên hướng
đi sâu, tìm tòi phát hiện những nét mỏng mảnh huyền diệu nhất của phạm trù
cái đẹp; hầu như không đẩy đến cái tôi cực đoan. Đó cũng là điểm khác nhau cơ bản giữa Thạch Lam với các nhà văn chủ chốt trong văn đoàn. Đúng như
Phạm Thị Thu Hương nhận xét: "Bởi vì tất cả chỉ là lời thủ thỉ, nhẹ nhàng,
không chứa đựng một cao vọng gì, cũng không hô hào theo dòng văn Tự lực
mà ông là một thành viên. Ở ông sự thừa nhận bản ngã như một chất liệu
trọng yếu, khuynh hướng hướng nội, tạo thành một bút pháp độc đáo - một bút
pháp hoà hợp trong sáng, dịu dàng, kín đáo và giản dị" [20]. Có thể nói
39
khuynh hướng nghệ thuật của Thạch Lam là "tôn thờ nhân bản" như Vũ Bằng từ năm 1970 trên tạp chí Giao điểm ở Sài Gòn đã viết: Trong nhóm Phong
hoá, Ngày nay, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành,
Khái Hưng là người đả phá nếp sống cũ để tiến đến một đời sống mới, tựu
trung đều là thương người, yêu người cả, nhưng muốn nói đến một người tôn
thờ nhân bản thực sự, một người yêu thương, xót xa đồng bào từ tâm, can, tỳ,
phế thương ra thì người ấy chính là Thạch Lam [57]. Thạch Lam có khuynh
hướng đi giữa hiện thực và lãng mạn. Điểm quan trọng, nổi bật làm nên sự khác
nhau giữa các tác giả là thái độ, cách nhìn, cách phản ánh hiện thực thể hiện trong
tác phẩm viết về người lao động. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-
1939), phong trào quần chúng phát triển rộng rãi, mạnh mẽ là hoàn cảnh lớn tác
động, chi phối các cây bút thuộc mọi khuynh hướng. Các nhà văn Tự lực văn đoàn
đều hướng vào hiện thực đời sống của những con người "nhỏ bé", lao khổ, bần
cùng, tỏ thái độ thương cảm, bênh vực họ, nhưng khác nhau là ở điểm nhìn, cách
thức và mức độ quan tâm. So sánh Thạch Lam với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng
Đạo qua các tác phẩm viết trong thời kỳ này ta thấy: Điểm gặp gỡ giữa các tác giả
là hướng về người nghèo, phần nào hiểu được nỗi thống khổ mà những người dân
nghèo thành thị, nông dân, trí thức tiểu tư sản phải chịu đựng, sáng tác của họ chủ
yếu tập trung vào những nội dung mang tính luận đề xã hội (vấn đề chống phong
kiến, nhu cầu giải phóng cái tôi cá thể, đề cao hạnh phúc cá nhân, tự do yêu
đương; các chủ trương cải cách xã hội v. v...). Đối tượng các tác giả này quan tâm
là những vấn đề có tính thời sự, diễn ra trong các giai tầng xã hội trong một giai
đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, khi thời đại vượt qua, những đòi hỏi lịch sử cần
được đáp ứng thì giá trị nhiều tác phẩm của họ cũng có phần phai mờ.
Trong tiểu luận Theo giòng Thạch Lam viết: “Cái đẹp man mác trong vũ
trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi sự vật bình thường.
Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp mọi sự vật”. Quan niệm văn chương tiến bộ này đã chi
phối toàn bộ sáng tác của Thạch Lam. Truyện ngắn Thạch Lam trong cả hai
khuynh hướng hiện thực và lãng mạn chủ yếu đều hướng về những nội dung
mang tính nhân bản, lấy đó làm cơ sở, làm động lực chi phối cách nghĩ, cách
cảm, cách viết nên tác phẩm có sức vươn rộng, lan xa, tạo thành nhiều tầng,
40
nhiều vỉa, càng đọc càng thấm thía và có giá trị trường tồn.
CHƢƠNG 2
THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM
2.1. Khái niệm nhân vật Theo Từ điển văn học (bộ mới) do NXB. Thế giới ấn hành năm 2004:
Nhân vật là "Thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong
những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ.
Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây,
các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống với con người.
Là phương thức nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính con
người, nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các thể loại văn học tự sự và kịch, ở
sân khấu, điện ảnh, điêu khắc, hội hoạ, đồ hoạ. Các thành tố tạo nên nhân vật
gồm: hạt nhân tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các lợi ích đời sống, thế giới
xúc cảm, ý chí, các hình thức ý thức và hành động.
Tính toàn vẹn (chỉnh thể) của con người được thể hiện ở văn học trong
giới hạn những khả năng của ngôn từ nghệ thuật, chủ yếu ở các khả năng miêu
tả (tạo hình) và biểu cảm. Ở dạng đầy đủ, đó là hình tượng con người với toàn
bộ những đặc điểm ngoại hình (nét mặt, dáng người, tên riêng...); lối nghĩ;
hành động; thế giới tinh thần; tâm hồn; do vậy khái niệm này gần với khái
niệm tính cách. Nhân vật văn học học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính
ước lệ, không bị đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng
nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là
sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được
xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có
được trong hệ thống một tác phẩm.
Gắn với sáng tác ngôn từ của những thời đại khác nhau, nhân vật văn học
in dấu những xu hướng tiến hoá của tư duy nghệ thuật. Tiêu biểu cho sử thi là
nhân vật lý tưởng hoá; ở chủ nghĩa cổ điển là kiểu "nhân vật - mặt nạ" cố
định; ở chủ nghĩa lãng mạn là kiểu nhân vật bị vò xé bởi những mâu thuẫn; ở
chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX - XX là nhân vật được mô tả trong tính xã hội
lịch sử cụ thể, có đời sống tâm lý; ở một số trào lưu có phản nhân vật, tức là
41
một kiểu nhân vật văn học bị tước bỏ nhiều nét vốn có của nó (so với trào lưu truyền thống) nhưng vẫn đứng ở vị trí trung tâm của tác phẩm.
Thực tiễn sáng tác, phê bình và nghiên cứu đã nêu lên nhiều kiểu và loại
nhân vật văn học tương ứng với những dấu hiệu phân loại khác nhau. Do vị trí,
vai trò khác nhau trong tác phẩm người ta nêu ra "nhân vật chính" và "nhân vật
phụ". Do phục vụ cho việc truyền đạt sự đánh giá và thể hiện lý tưởng xã hội của
nhà văn, người ta nêu ra "nhân vật chính diện" (tích cực) và "nhân vật phản diện"
(tiêu cực) - cách phân biệt này tuy ước lệ, nhưng lại tiêu biểu cho sáng tác của
khá nhiều xu hướng văn học. Do gắn với những loại thể văn học khác nhau,
người ta phân biệt "nhân vật tự sự" "nhân vật trữ tình", "nhân vật kịch". Ngoài ra,
các kết quả nghiên cứu sâu vào từng xu hướng và thời đại văn học còn cho phép
nói tới các kiểu "nhân vật ngoại hình" như: nhân vật chức năng (nhân vật - mặt
nạ), nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng"...
Chúng tôi căn cứ vào nội dung khái niệm nhân vật văn học như đã nêu
trên để khảo sát và phân tích thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Khái
Hưng và Thạch Lam.
2.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong truyện ngắn Khái Hƣng
và Thạch Lam
2.2.1.Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Khái Hưng
Khái Hưng là cây bút có năng lực sáng tạo dồi dào, cây bút "trụ cột" của
Tự lực văn đoàn. Trung thành với tôn chỉ của Tự lực văn đoàn, Khái Hưng
nhất quán trong việc chống "cái buồn thời đại", tôn trọng tự do cá nhân con
người và đã có những quan niệm nghệ thuật mới về con người, làm nền tảng
cho việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm. Cốt lõi trong quan niệm nghệ
thuật về con người của Khái Hưng là đề cao con người cá nhân trong sự tung
phá khỏi những ràng buộc phong kiến, trong khát vọng tìm ra lối thoát trong
tình yêu, trong thế giới nội tâm. Con người trong quan niệm của Khái Hưng là con người của đời thường trong cuộc sống thường nhật với đầy đủ phẩm chất
của mình; con người phải được sống vui vẻ và sống hết mình.
Quan niệm của Khái Hưng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của tư
duy văn học đương thời. Chính đó là cơ sở để thế giới nhân vật trong sáng tác của
ông thoát khỏi cái khung của chủ nghĩa lãng mạn, mở rộng khuynh hướng tận thu
những chất liệu hiện thực để vươn tới một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc hơn.
42
Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng biểu hiện tập trung trước hết ở các nhân vật. Với
quan niệm nghệ thuật mới mẻ, Khái Hưng đã sáng tạo được một thế giới nhân
vật đa dạng, phong phú mặc dù thế giới đó không đông đúc, ồn ào. Nhân vật
của Khái Hưng "rất người" - những con người thường ngày, gần gũi. Khi xây
dựng nhân vật nhà văn đã khai thác sâu sắc và tài tình thế giới nội tâm nhân
vật. Trong toàn bộ sáng tác của ông, từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, dù theo
khuynh hướng phân tích tâm lý, hay khuynh hướng luận đề xã hội, nhân vật
của Khái Hưng đều có một kích thước tâm hồn, vì đó chính là phiên bản tâm
hồn của tác giả (đặc biệt là nhân vật tiểu tư sản trí thức).
2.2.2. Quan niệm nhân vật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam
Thế giới nhân vật của truyện ngắn Thạch Lam nổi lên hai hình tượng cơ
bản. Đó là người tiểu tư sản có nét chân thực và gần với cuộc sống đời
thường. Thạch Lam thường đặt họ vào những hoàn cảnh thực để từ đó bộc lộ
tính cách, tâm lý, tình cảm. Thứ hai là hình tượng người dân nghèo, ông viết
với một lòng cảm thông sâu sắc. Đặc biệt với hình ảnh người phụ nữ, Thạch
Lam khắc họa bằng tất cả sự trân trọng, yêu quý, nhất là người mẹ.
Theo quan niệm của Thạch Lam: Con người là một phức thể với cả
những mặt tốt - xấu, thiện - ác lẫn lộn: "Người ta là một động vật rất phiền
phức. Một người rất tốt có thể có những lúc giận dữ, tàn ác, cũng như một kẻ
ác có thể có những lúc hiền hậu nhân từ”, "người ta là người với tất cả sự cao
quý và hèn hạ của người". Từ quan niệm này về con người, Thạch Lam đi đến
quan niệm, trong một tác phẩm "không có nhân vật hoàn toàn", "Các nhân vật
hoàn toàn không lấy được cảm tình người đọc". Thạch Lam đã sớm nhận ra
tính chất đơn điệu, công thức và tẻ nhạt của loại "Vai chính hoàn toàn". "Đối
với một nhân vật hoàn toàn chúng ta có thể phục nhưng mà chúng ta không
yêu. Chính vì một nhân vật hoàn toàn và nhân vật không thực, một nhân vật bịa đặt bởi tác giả, vì thế nó không linh động chút nào"[56]. Nét độc đáo trong
quan niệm nghệ thuật về con người của Thạch Lam là ông nhấn mạnh đến đời
sống tâm hồn, chiều sâu nội tâm của con người: "Đối với nhà văn, điều quan
trọng là phải miêu tả sự sống mà sự sống tinh vi nhất, sâu kín nhất là sự sống
của tâm hồn". Thạch Lam cảm thấy buồn rầu vì "Có những người sống như
cây cỏ, một đời sống tẻ ngắt và khô khan, phẳng lặng như mặt nước ao tù".
43
Ông khẳng định: "Nếu chỉ có ăn với ngủ, với chơi thì cái đời sống đó chẳng có gì đáng quý, cái đời sống cần là đời sống bên trong, cái đời sống của tâm
hồn". Chính từ quan niệm này mà nhân vật trong tác phẩm của Thạch Lam
chủ yếu là nhân vật hướng nội. Ông viết về những con người nhỏ bé như là sự
tìm kiếm chính mình. Trong Theo giòng Thạch Lam viết: "Theo ý tôi, một tác
phẩm nào của nhà văn cũng có chút ít nhà văn ở trong ấy" và khẳng định vị trí
quan trọng của tâm hồn tác giả: "Cái thực tài của nhà văn có nguồn gốc ở
chính tâm hồn nhà văn" [12]. Đi vào truyện ngắn Thạch Lam ta không gặp
những nhân vật hành động, đi lại nói năng ồn ào hay làm những việc to tát
cùng đám đông hỗn loạn... Đa số nhân vật của Thạch Lam dường như ít
chuyển động, ít sống với xã hội bên ngoài, mà chủ yếu sống với thế giới nội
tâm của họ. Đó có thể là nỗi buồn man mác của nhân vật Liên trước giờ khắc
của ngày tàn nơi phố huyện; là niềm vui ghé, vui lây của hai chị em Liên khi
chờ chuyến tàu mang hơi ấm, ánh sáng từ Hà Nội về (Hai đứa trẻ). Đó có thể
là nỗi đắng cay tủi cực của mẹ Lê khi nhìn đàn con lả đi vì đói (Nhà mẹ Lê)
hay một sự rung động "khẽ như cánh bướm non" của người đàn ông khi lần
đầu tiên làm bố (Đứa con đầu lòng). Cái chết của Dung trong (Hai lần chết),
không phải là cái chết về thể xác ở con sông nơi cô trẫm mình, mà là cái chết
đau đớn về mặt tâm hồn, tình cảm ở nhà chồng, nơi cô khao khát một sự nhân
ái, tình yêu con người mà không có được.
Có thể nói, dù trong cảnh ngộ nào con người trong sự miêu tả của Thạch Lam vẫn luôn hướng về một thế giới tinh thần đẹp đẽ, trong sáng và giàu tính nhân bản. Mẹ Lê sắp chết vẫn cứ ước muốn "giá cứ có người mướn làm" để có tiền nuôi đàn con thơ dại. Hai cô gái trong nhà săm (Tối ba mươi) vẫn hướng về cội nguồn tổ tiên bằng lòng thành kính nâng niu với ước muốn được trở về sống lại "trong một căn nhà ấm cúng sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người đang tấp nập đón năm mới trong sự thân mật và ấm cúng của gia đình"[65]. Giữa cuộc đời thực mà hai cô gái đang phải tồn tại trong đó và tâm hồn họ, luôn có sự đối lập. Trong quan niệm của Thạch Lam, nhân vật phải được nhìn nhận ở nhiều góc cạnh, chiều khía khác nhau và có đời sống tinh thần phong phú. Ở đây ta bắt gặp một nhà văn tha thiết với cái đẹp, cái thiện tiềm ẩn sâu xa nơi con người cho dù họ có là con người chưa hoàn thiện. 2.3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Khái Hƣng, Thạch Lam 2.3.1. Nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam Khi xã hội Việt Nam chuyển từ chế độ phong kiến sang thực dân nửa
44
phong kiến thì xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản. Đến 1930 - 1945 hình tượng
người trí thức và tiểu tư sản đã trở nên phổ biến và quen thuộc trong nhiều tác
phẩm của các nhà văn tiêu biểu như: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ
Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng... Cuộc sống đời thường của người trí
thức tiểu tư sản trở thành đề tài cho nhà văn khai thác, khắc họa và qua đó
truyền tải tư tưởng của mình.
Trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn hình ảnh người trí thức tiểu tư sản
hiện lên chủ yếu là những con người bất mãn với thực tại và tìm cách thoát li
khỏi những cảnh tù túng, bó buộc. Đó là các nhân vật Dũng, Thái, Trúc, Xuân,
Lộc trong các tác phẩm Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt của Khái Hưng, Đôi bạn
của Nhất Linh. Nhưng dưới cái nhìn lãng mạn của các cây bút Tự lực văn đoàn,
người trí thức tiểu tư sản phần lớn xuất thân từ những gia đình quan lại hoặc tư
sản giàu sang, sống phong lưu, trưởng giả, hoặc là những con người vĩ nhân,
phi thường, hoặc là hiện thân của lối sống lãng mạn, mộng mơ có phần hơi thái
quá. Lối sống ấy khác hẳn với cuộc sống mòn mỏi, bế tắc của tầng lớp trí thức
tiểu tư sản đương thời. Nhân vật tiểu tư sản trong văn chương Tự lực văn đoàn
chủ yếu thường sống xa rời, tách biệt với quần chúng, thái độ tình cảm của họ
đối với quần chúng là thái độ của một kẻ bề trên cúi xuống lớp người “dưới
đáy”. Họ mang trong mình những lý tưởng đẹp đẽ mà hết sức mơ hồ, thứ lý
tưởng "vừa tầm với số thanh niên trí thức thành thị đang bế tắc đã rút lui khỏi
trường đấu chính trị sau khi khởi nghĩa Yên Bái, Lâm Thao thất bại". Nhân vật
tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng thường là những thanh niên có
học, sống theo lối sống mới, có địa vị xã hội. Họ không phải chịu cảnh "nỗi đời
cay cực giơ nanh vuốt, cơm áo không đùa với khách thơ". Khái Hưng xuất thân
trong một gia đình giàu có. Ông được sống một cuộc sống đầy đủ. Cuộc sống
của ông là cuộc sống của các tầng lớp trên trong xã hội. Lúc trẻ ông theo học ở trường Pháp Anbe Xarô. Ông đọc nhiều sách lãng mạn của văn học phương
Tây (Đặc biệt là văn học Pháp). Khái Hưng chịu ảnh hưởng lối sống trí thức
tiểu tư sản thành thị, thích tự do, phóng túng. Tuy ông ghét bọn trưởng giả vô
học nhưng lại không xa rời được cuộc sống tư sản, phong lưu. Ông coi thường
bọn tư sản rẻ tiền (như ông Thiên trong tiểu thuyết Băn khoăn) nhưng vẫn lý
tưởng hoá, thi vị hoá cuộc sống tư sản.
45
Trong truyện ngắn Khái Hưng, nhân vật tiểu tư sản thường là những thanh niên hào hoa, phong nhã có cuộc sống dư dật đầy đủ. Họ hoặc là chìm
đắm trong phút giây đợi chờ hình bóng người con gái mới quen (Đợi chờ)
hoặc thả mình trong những thú vui của tình yêu trong những kỳ nghỉ mát ở
Sầm Sơn, Đồ Sơn, Huế như Vinh Sơn trong Bên dòng Hương Giang, hay
Hoàn và Phát lãng mạn trong Thời chưa cưới hoặc nhàn rỗi đi xem hội hè như
Đoàn, Lực trong Biến đổi.
Nhân vật Vinh Sơn trong Bên dòng Hương Giang đã từng du học ở Pháp
về, mang theo những tư tưởng hoàn toàn mới mẻ, phóng túng. Chàng yêu
Diễn Lan, một cô gái tân thời có học "một cựu nữ sinh viên trường sư phạm,
một trang tân tiến cực kỳ mỹ lệ, đã nổi tiếng lãng mạn Hà Thành". Hai người
yêu nhau nhưng quan hệ của họ không được gia đình và bạn bè chấp nhận.
Nhưng "nghe những lời bình phẩm "Vinh Sơn chỉ cười. Đối với chàng "trinh
tiết", "tức đức tam tòng" những cái đó "không có gì liên quan đến ái tình,
không có dính dáng gì đến hạnh phúc. Yêu là yêu chứ không là gì khác nữa".
Bởi vậy, Vịnh Sơn và Diễn Lan đã quyết định "đưa nhau đi ở ẩn, hay nói đúng
hơn là đi tìm một cảnh thích hợp với ái tình. Cảnh ấy là sông Hương". Trong
truyện, Khái Hưng đã miêu tả cụ thể, chi tiết cuộc sống nhàn rỗi, đắm chìm
trong tình yêu và hạnh phúc của đôi uyên ương này. Bên cạnh đó tác giả còn
khắc hoạ nhân vật Vinh Sơn rất rõ nét, đặc biệt về tư tưởng. Từ ngày ở Pháp
về "ngắm xã hội Việt Nam, từ những hủ tục bó buộc cho chí cách sinh hoạt
khuôn sáo, chàng lấy làm khó chịu, tiếc cái thời ở Paris". Thanh niên tiểu tư
sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng đặc biệt ghét gia đình phong kiến,
ghét những giáo lý hủ tục phong kiến. Nhân vật Vinh Sơn chính là bóng dáng
của Khái Hưng. Vinh Sơn mang những suy nghĩ, tâm tư của Khái Hưng về
chế độ quan lại, về gia đình phong kiến.
Là cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn, Khái Hưng chịu ảnh hưởng sâu sắc những tôn chỉ mà nhóm Tự lực văn đoàn đặt ra, nên trong tác phẩm của
mình, ông không xây dựng những nhân vật lý tưởng mà luôn chú ý đặt các
nhân vật vào những tình huống lúc nào cũng trẻ, cũng yêu đời. Thanh niên
tiểu tư sản trí thức trong sáng tác của Khái Hưng chưa có những hoài bão về
đất nước. Họ tìm cách thoát ly bằng cách chìm vào những thú vui cá nhân.
Trong không khí xã hội ngột ngạt lúc đó, vui chính là để quên đời đầy bất
46
công ngang trái. Nói như Nhất Linh "tâm hồn của họ phảng phất vui buồn tựa những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa" (Lời tựa Hồn bướm mơ tiên).
Tuy vậy, nhân vật của Khái Hưng bước đầu đã có quan điểm sống rõ rệt.
Đoàn trong Một nhà hiền triết sống theo triết lý do anh tự đề ra: "chẳng đi đâu mà
thiệt". Đó là một triết lý mang tính nhân văn cao thượng. Trong triết lý của Đoàn
gồm cả ba ý nghĩa trung dung, tự nhiên và diệt dục. Anh vui vẻ chấp nhận nó chứ
không hề miễn cưỡng hay giả dối để khoác bên ngoài tấm áo hư danh cao thượng.
Bên cạnh những nhân vật tiểu tư sản trí thức hào hoa phong nhã có cuộc
sống dư dật đầy đủ, Khái Hưng cũng viết về cuộc sống của một số nhân vật
tiểu tư sản trí thức nghèo, nhưng ông không riết róng mạnh mẽ như Nam Cao
mà nhẹ nhàng sâu sắc chỉ ra sự nghèo khó của họ. Họ chưa phải hao tâm khổ
trí kiếm tiền để nuôi sống bản thân như nhân vật của Nam Cao. Cái nghèo cái
khó của họ như là một tất yếu trong xã hội thực dân nửa phong kiến không
trọng dụng người tài. Trong các truyện Cháu nhà quan, Cái Ve, Đồng xu,
Khái Hưng đã nhìn thẳng, nói thẳng những sự thật về cuộc đời của những
người tiểu tư sản trí thức nghèo.
Nhân vật Niệm trong Cháu nhà quan có một cuộc đời thăng trầm lận
đận. Anh là "người học trò tuấn tú, có nhan sắc kiều diễm của phụ nữ, người
học trò giỏi Pháp văn nhất lớp". Thời thanh niên Niệm là niềm tự hào của bao
học sinh trường Bảo hộ, là ánh hào quang lung linh rực rỡ khiến bao người
thèm muốn, ghen tị, nhưng cuộc đời đã đưa đẩy Niệm sang một hướng khác
"người ấy ngày nay đã trở nên bác đi thu tiền, lù dù trong tấm áo lương cũ,
kéo lệt sệt đôi giày dúm dó". Khái Hưng lý giải "vẫn biết rằng khi người ta 40
tuổi, người ta không còn trẻ nữa, không còn nhanh nhẹn như khi 17, 18.
Nhưng cái lưng gù, đôi mắt mờ xạm, cái trán dăn deo không hẳn phải là kết
quả của 40 năm đã sống". Ở đây cách nhìn của Khái Hưng có phần giống với
cách nhìn của Nam Cao. Trong xã hội cũ những người trí thức ôm ấp nhiều hoài bão, ôm mộng đẹp nhưng không thực hiện được, họ đành phải sống một
cuộc sống mòn, tẻ nhạt, sống mà như đã chết. Tương lai và số phận của người
tiểu tư sản trí thức đương thời được thể hiện qua nhân vật Thư trong Cháu nhà
quan. Giống như Niệm, Thư cũng phải chịu một cuộc sống "tài tử đa truân".
Thư đã từng có "tiếng tăm lừng lẫy" về học vấn, về thông minh... có đủ mọi
tài. "Sự học của anh Thư thật là giỏi giang, cái giỏi giang thông minh vốn sẵn
47
tính trời"... "Một lần anh quên không học bài sử ký dài, thế mà sáng hôm sau, đi từ nhà đến trường anh thuộc trơn tru. Lại một lần đến lớp anh mới nhớ là
ngày nộp bài luận văn mà anh chưa làm tức thì anh cầm bút ngoáy một mạch
kín hai trang". Anh Thư đi thi "xectiphica" và đỗ cao, được học bổng. Sự nổi
tiếng của anh không chỉ đem lại vẻ vang cho bản thân anh mà còn cho cả
trường anh, các bạn đồng môn của anh. Nhưng kết cục, cuộc đời Thư lại rơi
vào hố sâu không lối thoát: "Người ấy hiện là một bác nho xác nghiện ngập.
Người ấy ngày nay trông tiều tuỵ quá, na ná nhân vật trong tiệm thuốc nấu:
nước da đen sạm, môi vêu ra vì má lóp xuống sâu quá. Hai con ngươi, dưới
cặp mi húp híp, mờ như đôi kính bám đầy bụi và lờ đờ lười biếng không buồn
đưa đi đưa lại nữa. Khi muốn nhìn về phía nào, cái đầu to phải quay hẳn về
phía ấy, cái đầu như vặn chốt quá chặt vào cổ, cử động rất thong thả, khó
khăn". Quá khứ huy hoàng, một thời oanh liệt của Thư đã rơi vào quên lãng,
lớp bụi thời gian đã phủ đầy. Hiện tại của anh chỉ là những ngày sống mòn
"cùn đi, rỉ ra" vô nghĩa lý.
Cuộc sống mòn mỏi thiếu thốn của người tiểu tư sản trí thức còn được
Khái Hưng phác thảo thấp thoáng qua hình ảnh ông giáo Thanh trong truyện
Cái Ve. Thanh bị mọi người trong nhà trọ ghét bỏ lạnh nhạt. Những anh phu
xe, thợ hồ tưởng anh thuộc tầng lớp tư sản xa cách với họ. Thực ra, cuộc sống
kiếm ăn của Thanh cũng chẳng có gì hơn cuộc sống của những người phu
phen. “Dăm bộ bàn ghế nát, một cái bảng đen. Trong gian nhà lá trống trải, đó
là thứ để tìm kế sinh nhai. Còn khách hàng, vài ba chục cậu học trò nhỏ từ sáu
đến mười hai tuổi, từ lớp đồng ấu đến lớp sơ đẳng, và toàn là con cái nhà bình
dân buôn bán ở ngoại ô, nghĩa là không sẵn tiền và nhiều khi túng bấn nữa”.
Mặc dù tiếng là thày giáo đứng lớp mấy chục học trò nhưng “món tiền thày
giáo kiếm được hàng tháng chẳng mấy khi quá số mười lăm đồng”, lại còn
phải trừ tiền thuê lớp học và các khoản chi phí khác nên chỉ còn hơn chục bạc để ăn tiêu. Cái nghèo cái túng khiến Thanh phải tính toán, tằn tiện ngay cả với
sức khoẻ của chính mình. Chàng ốm nặng nhưng chỉ dám uống thuốc có
chừng mực, sợ tốn tiền. Câu trả lời thành thật của Thanh khiến Ve rơi nước
mắt và người đọc phải thương cảm: “Tôi chỉ còn hơi mệt thôi, nghỉ hôm nữa
sẽ khỏi hẳn... Với lại tốn tiền lắm. Tiền đâu... Dễ tôi uống đến bốn, năm chén
thuốc rồi đấy nhỉ”… Tình cảnh còn đẩy lên đến cao độ hơn, nhức nhối hơn
48
trong truyện ngắn Đồng xu. Cái đói, cái nghèo khiến cho người trí thức tiểu tư sản nghèo khổ sở, điêu đứng. Khái Hưng đã miêu tả khá đầy đủ cuộc sống đói
khổ của Phiên. Phiên là một nhân viên công sở vừa bị thất nghiệp trong túi
duy nhất chỉ còn một đồng xu. Tâm tưởng chàng lúc nào cũng nghĩ đến bữa
ăn, nghĩ đến cơn đói mà mình phải chịu đựng. Nghe thấy tiếng hò reo, tiếng
vỗ tay hoan hô rầm rộ ở phía sau, chàng nghĩ: “Trời rét thế, đá bóng có đói
chết không”. Ý nghĩ về cơn đói đeo đẳng, chi phối mọi hành động, suy nghĩ
của Phiên. “Chàng nghĩ đến món lạc rang, thèm thuồng nhìn những gói giò
xanh, những đoạn lòng lợn treo ở cái lao mài ngắn”, nhìn hơi nước ở cái chén
bốc lên “chàng tưởng ngửi thấy hương chè thơm ngát, nhớ tới đĩa bánh ngọt
chàng còn chảy nước miếng”. Trong lúc đó, Phiên không nghĩ gì ngoài miếng
ăn và đồng tiền. Đi qua toà nhà nguy nga nhìn thấy chậu sứ, đôn sứ, thống sứ
men canh ngũ sắc, Phiên quy đổi và ao ước: "Một cái thống kia cũng đủ nuôi
sống mình được một năm". Nhìn thấy "hai con chim non béo mũm mĩm ninh
ních những thịt, Phiên tưởng ngay đến nồi cháo thơm thường được ăn khi mà
còn sung túc". Kết thúc truyện là cảnh Phiên ném vào một nhà giàu đồng xu
của mình rồi tiếc rẻ trèo vào nhặt và bị vu là ăn cắp, bị đi tù. Trong nhà tù,
Phiên đã được ăn bữa cơm sau hai ngày nhịn đói. Truyện ngắn mang ý nghĩa
tố cáo, phê phán xã hội sâu sắc.
Có thể thấy, nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng
với nhân vật tiểu tư sản trí thức trong tác phẩm của Nam Cao có những nét
tương đồng. Các nhân vật tiểu tư sản là nhà văn, nhà giáo của Nam Cao muốn
làm việc được thì cũng cần phải có cái ăn để sống, Nhu cầu cần phải có tiền
để lo cái ăn cho mình, cho vợ con gia đình mình cũng ngang, thậm chí cao
hơn, quyết liệt hơn nhu cầu sáng tạo; cơm áo kéo ghì mọi ước mơ xuống sát
đất, đó là sự thực và cũng là bi kịch lớn nhất trong đời sống của người trí thức
tiểu tư sản. Một loạt truyện ngắn: Giăng sáng, Đời thừa, Nước mắt, Cười, và cả tiểu thuyết Sống mòn đã minh chứng sâu sắc, cụ thể điều đó. Các nhân vật
Điền, Hộ, Thứ, lúc đầu đều là những người giầu ước mơ, ấp ủ lý tưởng, hoài
bão đẹp. Họ đều muốn làm nhà văn, nhà giáo sống có ích, đem tài năng để
phục vụ cuộc đời; muốn có tác phẩm văn chương nổi tiếng khắp hoàn cầu; mơ
ước một giải Noben, được nhiều người ngưỡng mộ, và có niềm tin mãnh liệt
vào khả năng của mình. Hộ nghĩ: “Đói rét không nghĩa lý gì đối với gã trẻ
49
tuổi, say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất
cả, ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa”. Đó là những con
người đẹp về lý tưởng, ước mơ và đẹp về nhân cách, lối sống. Hộ đã chấp
nhận mọi hy sinh để cứu vớt Từ, với tấm lòng cao thượng. Hộ ý thức rõ: "kẻ
mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh
chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác lên trên đôi vai của mình". Nhưng hiện thực đời
sống đã dồn ép những người trí thức này rơi vào bi kịch, bế tắc. Họ phải đối
mặt với thực tế cuộc sống nghiệt ngã, với sự trăn trở, dằn vặt, day dứt, đến nỗi
cái việc cơm áo hàng ngày là một ám ảnh dai dẳng, triền miên không dứt.
Điền trong Trăng sáng lúc nào cũng phải nghĩ đến tiền: "Óc Điền đầy những
lo lắng nhỏ nhen… Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy".
Nhưng như thế vẫn còn khả dĩ, bởi dù khó khăn, phải chắt bóp từng đồng
Điền vẫn còn giữ được những gì "căn bản": vợ con, gia đình... Đời thừa mới
thật sự là những bi kịch lớn. Cuộc đời nhân vật Hộ, là những cuộc vật lộn dài
với sự mưu cầu cơm áo và triền miên trong cảm giác tù túng, bức bối đầy bi
kịch. Biết mình là một "thằng khốn nạn" với vợ con, một "kẻ bất lương" với
nghề mình ao ước mà không sao ra khỏi tình trạng đó được. Nhân vật Thứ
trong Sống mòn là sự hội tụ đầy đủ các biểu hiện về bi kịch của người trí thức.
Bao khó khăn và những sự không ngờ xảy đến, Thứ không thực hiện được
giấc mộng lớn phải quay về đối diện với cuộc sống "nửa tỉnh, nửa quê" để rồi
"mòn đi, rỉ ra, mốc lên" của một gã giáo khổ trường tư bệ rạc cùng những toan
tính nhỏ mọn, tẹp nhẹp thường ngày.
So với nhân vật tiểu tư sản trí thức của Nam Cao, nhân vật tiểu tư sản trí
thức của Khái Hưng không có quá trình dằn vặt nội tâm để tự nhận thức và tự
vượt lên chính bản thân mình. Trước những cảnh ngộ trớ trêu của số phận bắt
họ phải gánh chịu, phần đông các nhân vật như Niệm, Thư, Thanh đều chán nản, thất vọng. Mặc dù nhân vật tiểu tư sản trí thức của Khái Hưng chưa có
được những đấu tranh dằn vặt để tự vươn lên chính mình như kiểu nhân vật
tiểu tư sản trí thức của Nam Cao, nhưng đặt trong thời điểm và bối cảnh nhất
định, đây cũng đã là sự nỗ lực lớn của nhà văn.
Như vậy, nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng đã
được khắc hoạ rõ nét. Bên cạnh một số thanh niên hào hoa, phong nhã, dư dả,
50
hầu hết họ cũng phải chịu cuộc sống quẩn quanh, bế tắc và bước đầu họ cũng đã thể hiện quan điểm sống, chính kiến khá rõ ràng. Họ nhận thấy sự tù túng
của những cảnh đời, của sự loạn lạc, đảo điên trong xã hội. Ghi lại những
cảnh đời, những cuộc sống, những tâm trạng ấy, dù được nhìn qua lăng kính
tiểu tư sản nhưng sức tố cáo của những trang viết ấy không hề nhỏ.
Cùng viết về nhân vật tiểu tư sản trí thức, nhưng ở trang văn của Thạch
Lam lại có những nét riêng, độc đáo. Đó là những nhân vật tiểu tư sản lãng
mạn, thường là những học sinh trí thức không giàu có, nhưng cũng không
khốn khó về đời sống vật chất, tinh thần, luôn ấp ủ ước mơ và cuộc sống, tình
cảm trong sáng. Nhân vật Tân trong truyện ngắn Những ngày mới, vốn sinh ra
ở nông thôn, ngay từ nhỏ đã được cha mẹ cho lên Hà Nội ăn học. Tân đã thực
hiện được mong muốn của cha mẹ. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã đẩy chàng
vào tình thế cùng quẫn, mất việc, sống vất vưởng ở Hà Nội, cha chàng thất
vọng, buôn rầu từ trần, mẹ không đủ chu cấp... Chàng thấy cần trở về quê "lấy
cái đời giản dị của người làm ruộng" làm niềm vui sống. Và rồi dần dần chàng
mới thấy cái đời chàng sống trước ở tỉnh thành là một cuộc đời phức tạp và vô
vị, không có nghĩa lý gì, chàng thích sống bên cạnh những người nhà quê chất
phác và mộc mạc. Bây giờ chàng mới biết đến trời đất, đến thời tiết, đến sự
thay đổi của mùa nọ sang mùa kia. Một cơn gió hay một cái mầm cỏ non, đối
với chàng đều có ý nghĩa riêng. Tân không dửng dưng như trước với những
cái xung quanh mình. Tâm hồn chàng có liên lạc và rung động cùng với cảnh
vật, chàng có cái cảm giác rằng mình sống... Hình ảnh con người sống và lao
động trên chính mảnh đất quê hương mình được miêu tả sinh động, ngập tràn
niềm vui. Hạnh phúc không cần tìm đâu xa, nó hiện hữu ngay cạnh mình và
có thể kiếm tìm niềm vui từ những người lao động bình dị nhất. Hình ảnh ông
cụ già gọi chàng đến bên cạnh mời hút thuốc lào và uống nước. Uống bát
nước vối đỏ thắm từ cái vò sành của người thợ gặt, Tân thấy: "chưa uống bát nước nào ngon hơn bát nước vối của ông cụ. Chàng nghĩ đến khi còn ở Hà
Nội, uống rượu bia và nước chanh ngâm đá, nhưng chưa thấy bao giờ khoan
khoái người như bây giờ". Những trang viết ấy của nhà văn khiến người đọc
cảm nhận rõ những tình cảm thiết tha, sự trân trọng, yêu mến người lao động,
và từ đó truyền tải thông điệp về hạnh phúc, về người lao động của nhà văn.
So với các nhân vật trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái
51
Hưng, Hoàng Đạo, thì nhân vật Tân trong Những ngày mới của Thạch Lam chỉ là một thanh niên trí thức tiểu tư sản thất nghiệp có ít ruộng nương ở quê.
Điểm gần gũi giữa Thạch Lam với các nhà văn này là cùng hướng về nông
thôn, đồng cảm với cuộc sống của người lao động. Thời Mặt trận Dân chủ
1936-1939, đây là đề tài các nhà văn đều quan tâm. Tuy nhiên, viết truyện
ngắn này rõ ràng Thạch Lam không nhằm hưởng ứng luận đề cải cách xã hội
làng quê như Khái Hưng và hai người anh của mình, mà chủ yếu là tỏ tình
cảm yêu mến chân thành của nhà văn với những người nông dân cần cù, chất
phác. Khoảng cách giữa anh chàng Tân thất nghiệp ở tác phẩm về làm ông
chủ ở nông thôn với những người nông dân chân lấm tay bùn là không xa
nhau mấy, mặc dù lúc mới đi làm, Tân là cái anh chàng "ăn vận chải chuốt
như một cô gái". Qua lao động, họ càng cảm thông với nhau hơn. Với Tân
bông lúa quí lắm và như có một ý nghĩa thiêng liêng; đấy là kết quả của một
năm làm lụng khó nhọc và vất vả. Không khí một vùng quê được mùa thật
phấn khởi, ai cũng sung sướng làm cho Tân cảm thấy phía chân trời xa,
khoảng ánh sáng của tỉnh thành Hà Nội là "cái khoảng ánh sáng mờ"... và hi
vọng "Một cuộc đời mới đương đợi chờ chàng".
Nghệ thuật không chỉ cho ta nhận thức thẩm mỹ mà còn tái tạo cuộc sống
theo yêu cầu thẩm mỹ. Truyện Những ngày mới như một thứ ánh sáng lung
linh, mát mẻ, một áng văn lãng mạn kiểu Thạch Lam: không mơn trớn, ru ngủ
mà chân thành, cảm động, giàu chất lạc quan nồng hậu gần với cuộc sống và
ước mơ của người lao động. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của
dân tộc ta trước Cách mạng tháng Tám, trong điều kiện ách áp bức phong kiến
đế quốc luôn đè nặng lên cuộc đời của mọi người dân mất nước, nhất là tầng
lớp người lao động nghèo khổ thì bức tranh lãng mạn này, nếu có cũng chỉ
xuất hiện trong những khoảnh khắc hiếm hoi, tồn tại như một giấc mơ, một
vầng ánh sáng đáng quý.
Bên cạnh đó, những nhân vật tiểu tư sản trong các truyện nghiêng về bút
pháp hiện thực của Thạch Lam là những con người bị cuộc sống cơm áo dồn
đến bước đường cùng, phải đối diện với thực tế, đối diện với chính mình trong
nhiều tình huống bi kịch như trong các truyện Người bạn trẻ, Đói, Cái chân
què. Ở Người bạn trẻ, với giọng văn thủ thỉ, chân thành, Thạch Lam đã dựng
lại cuộc đời Bào thật đáng thương: anh là người hiền lành, đẹp trai, tế nhị,
52
không chơi bời, hư hỏng, chưa nhiễm thói hư tật xấu nào, chịu khó, chịu khổ đi tìm việc làm nhưng mọi ngả đường đều bị chắn lối; ở thành phố không thể
tìm được một chốn yên thân nếu chưa có một mảnh bằng tử tế (trong tiểu
thuyết Ngày mới: Trường cũng vậy, và cũng khó tồn tại với cung cách chân
chỉ, thật thà như Bào), trở về quê nhà, với sức vóc của Bào nếu không ốm đau
thì cũng khó thích ứng. Trường hợp Tân trong Những ngày mới vui vẻ, ham
sống, thất nghiệp ở thành phố thì về quê làm ruộng bởi Tân không phải khổ vì
cơm áo. Hoàn cảnh sống của Tân khác hẳn. Còn Bào học hành dang dở, bệnh
tật triền miên, ăn bám gia đình; là người hiểu biết, có tự trọng anh không thể
tìm được cách nào khác để vượt hoàn cảnh đành tuyệt vọng, tự tử. Có thể nói
Thạch Lam không tuân theo các nguyên tắc nghiêm ngặt của chủ nghĩa hiện
thực, nhưng bằng tài năng nghệ thuật, với bút pháp hiện thực, Thạch Lam đã
khắc hoạ nhân vật Bào như một điển hình về đời sống và số phận của lớp
thanh niên tiểu tư sản nghèo thất thế, bế tắc, không tìm được việc làm và ít có
khả năng thích ứng hoàn cảnh. Cùng đề tài và chủ đề, truyện Đói lại đề cập
khía cạnh khác: Vấn đề nhân cách trước thử thách khốc liệt của hoàn cảnh.
Sinh đã từng là một người thành đạt, học hành tử tế, có tiền và sống phong lưu
với cô vợ tên Mai tuy đã ở xóm cô đầu nhưng họ yêu nhau và có với nhau
những ngày hạnh phúc. Bị thất nghiệp, vợ chồng Sinh nhanh chóng rơi vào
tình thế tuyệt vọng: vay không ai cho, cái đói hành hạ khốn khổ "chàng thấy
đói, một sự đói vô cùng như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào
ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên, trông vật gì cũng lờ mờ như lay
động. Nhưng khi phát hiện ra vì sao Mai có tiền, lòng tự ái kích động, tình
cảm bị tổn thương, Sinh đã vùng lên phản ứng quyết liệt mặc dù cố kìm nén,
Sinh vẫn không thể giữ được bình tĩnh. Nhưng lúc mọi sự lắng xuống, cái đói
trỗi dậy "như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, át đi cả nỗi buồn", cái cảm giác đói
"như nước triều tràn trên bãi cát" và hương vị hấp dẫn của các thứ thức ăn kia lôi cuốn thì Sinh không thể kiềm chế nổi. Phần bản năng và nhu cầu tồn tại
trong con người Sinh đã thắng. Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt.
Chàng nắm chặt miếng thịt trong tay, nhây nhớt mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn
luôn đưa vào miệng. Nghèo, đói, nhu cầu ăn để thoả mãn cái đói tự nó không
có gì xấu. Vấn đề là thái độ biểu hiện và ứng xử trước đòi hỏi đó. Ở đây Sinh
đã để bản năng thắng lý trí, "đặt sự tồn tại lên trên nhân cách", "Vì miếng ăn -
53
một nhu cầu vật chất bình thường của con người mà Sinh đã đánh mất lòng tự trọng và nhân phẩm". Sinh rơi vào một trạng thái "chán nản mênh mông" biểu
hiện của một bế tắc không lối thoát. Sinh không tìm đến cái chết như Bào
nhưng tình cảnh bi đát, khốn quẫn và thảm hại hơn nhiều.
Truyện Cái chân què lại là một đối chứng với hai truyện trên. Nếu như
Bào và Sinh khốn khổ vì không có việc làm, không tìm đâu ra tiền để thoát
khỏi bế tắc hiện tại thì Minh sau khi có tiền nhờ có "cái chân què" của mình
cũng không sung sướng gì hơn. Minh là người tôn thờ sức mạnh đồng tiền:
"Nếu anh có tiền anh làm gì cũng được". Nhưng khi có tiền vạn, Minh lại lao
vào những cuộc chơi bời để trả thù đời, "những cuộc chơi bời của anh kịch liệt
như một sự phản động và chán nản như một vụ tự tử". Để rồi hai năm sau,
không còn một xu nhỏ, nghèo vẫn hoàn nghèo, nhưng tâm hồn Minh rớm
máu, luôn mang tâm trạng của một kẻ chán đời, đấy là cái chán nản sau những
cuộc chơi bời, cái chua chát khi nhận thấy sự thay đổi của lòng người đối với
kẻ có tiền và không có tiền.
Thạch Lam đã nhìn hiện thực đời sống của người tiểu tư sản trong thế đa
chiều, từ đó phát hiện ra những điểm mâu thuẫn, đáng thương, nhìn sâu sắc về
bi kịch tinh thần của họ. Đó là những con người chịu sự bó buộc của hoàn
cảnh nhưng không tìm được cách nào để thoát khỏi những khổ ải đày đọa ấy.
Nhà văn soi chiếu vào ngóc ngách những tâm tư, những mảng tối khuất lấp
trong cuộc sống của họ để mà lên tiếng chia sẻ, cảm thông. Tất cả những điều
đó được thể hiện bằng một bút pháp hiện thực trữ tình mang tính nhân bản,
tạo nên nét độc đáo trong phong cách truyện ngắn Thạch Lam.
2.3.2. Nhân vật người dân nghèo
Hoàn cảnh xã hội bao giờ cũng có vai trò hết sức to lớn ảnh hưởng đến
sáng tác của các nhà văn. Những năm 1936 - 1939 là thời kỳ cao trào đấu
tranh của Mặt trận dân chủ diễn ra sôi nổi. Quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên đòi quyền tự do dân chủ. Người lao động đã bước lên
vũ đài chính trị công khai. Vai trò, vị trí của người lao động trở nên quan
trọng trong xã hội. Vì thế, vấn đề người lao động, người bình dân được các
nhà văn đề cập rất nhiều trong tác phẩm văn học. Chân dung "người lao động"
và "người nhà quê" xuất hiện nhiều trên báo chí và các sáng tác lúc bấy giờ.
Thời kỳ Mặt trận dân chủ được đánh dấu bằng sự xuất hiện những tác
54
phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa đầu tiên của dòng thơ ca cách mạng. Nhờ sự cổ vũ của văn học cách mạng, đặc biệt là nhờ những tác động của phong trào
quần chúng rộng lớn, văn học hiện thực phê phán đã phát triển khá rực rỡ
trong thời kỳ này. Hàng loạt các cuốn tiểu thuyết ra đời, và lần đầu tiên, văn
học hiện thực phê phán đã xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh
điển hình như chị Dậu - Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Nghị Hách - Giông tố của
Vũ Trọng Phụng, Xuân Tóc Đỏ - Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, anh Pha - Bước
đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Văn học lãng mạn cũng trực tiếp hay
gián tiếp chịu sự tác động của phong trào Mặt trận dân chủ và có những phân
hoá theo hướng tiến bộ. Báo Ngày nay mở mục "Bùn lầy nước đọng" đăng
một số phóng sự điều tra về nông thôn. Năm 1937, Tự lực văn đoàn phát giải
thưởng văn học cho những tác phẩm hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng,
Kim tiền của Vi Huyền Đắc. Sau đó đã cho đăng tải trên báo Ngày nay những
truyện ngắn và tiểu thuyết viết về người nông dân: Con trâu, Sau luỹ tre,
Những ngày thơ ấu... Các cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn chuyển từ bút
pháp lãng mạn sang hiện thực, gần gũi với người dân lao động hơn.
Trên tờ báo Ngày nay, ở mục "Bùn lầy nước đọng", Hoàng Đạo đã vạch
trần những thối nát và quan điểm của tổ chức phong kiến thực dân khi đó đã
đầy ải người dân quê Việt Nam vào kiếp sống tối tăm, cơ cực. Ông đưa ra
quan niệm về một cuộc cải cách toàn diện hành chính, chính trị, kinh tế, văn
hoá giáo dục đối với dân quê. Là cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn nên
Khái Hưng cũng chịu nhiều ảnh hưởng của phong trào Mặt trận dân chủ. Ông
có một mảng sáng tác về những người dân nghèo khổ với tấm lòng cảm thông
sâu sắc như: Anh phải sống, Xanh cà bung, Người vợ mù, Biển, Lòng tốt...
Hình ảnh người dân nghèo "kiếp người cơm vãi cơm rơi" quanh năm đầu tắt
mặt tối "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" hiện lên khá chân thực trong tác
phẩm Anh phải sống. Chị Lạc và anh Thức đã có ba mặt con với nhau. Hai người sống trong một "gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm". Khái Hưng không
tả nhiều về cảnh nhà, nhưng chỉ bằng vài hình ảnh, người đọc đã thấu hiểu cái
nghèo cùng kiệt của vợ chồng anh Thức. Thêm vào đó là cảnh những đứa con
đói khóc. Cái Nhớn, cái Bé ăn không được no, mặc không được ấm. Thằng Bò
khát sữa, gào khóc gọi mẹ. Mẹ về nhưng "chả có gì ăn, hết cả sữa", nó lại
càng khóc to hơn. Mệt quá nó ngủ thiếp đi. Bố mẹ không có ăn còn nhịn đói
55
được, những đứa con thơ phải nhịn thật là bất hạnh. Cuộc sống của gia đình chị Thức toàn khó khăn vất vả "không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép về
cái đời trống rỗng của hai người khốn nạn". Họ "loay hoay, chằn vặt suốt ngày
này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con". Cái nghèo, cái đói
khiến họ phải liều thân, phó mặc mạng sống của mình theo dòng nước. Trong
lúc giông to, gió lớn, nước chảy dữ, trời đất điên cuồng nhưng hai vợ chồng
vẫn phải cố gắng lao ra giữa dòng để vớt củi. Con thuyền nhỏ cũng như số
phận của họ "như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết
đuối trong nghiên son". Cuối cùng, chị Lạc đã phải buông tay rơi xuống đáy
sông sâu. Chị Lạc chết, cái chết dường như là sự đầu hàng với số phận, với cái
nghèo. Bóng tối đè nặng lên ba đứa con thơ và người cha phải sống cảnh "gà
trống nuôi con". Đoạn kết của câu chuyện làm day dứt và gây ám ảnh dữ dội
cho người đọc. Sức phê phán của Khái Hưng nhẹ nhàng nhưng thấm thía, có
giá trị sâu sắc. Ông đã vượt khỏi thiên kiến giai cấp của mình để đồng cảm,
hiểu được sự đau khổ, túng quẫn của những người dân nghèo.
Cùng với việc miêu tả những cảnh ngộ đau khổ, nghèo đói của người lao
động ở sông nước, Khái Hưng đã hướng cái nhìn đồng cảm đến với cuộc sống lam
lũ của người dân nghèo sống bằng sự làm thuê qua ngày nhờ vào sức lao động.
Trong xã hội cũ có nhiều nghề lao động vất vả, nhưng có lẽ nghề cu ly xe là cực
nhất. Những người kéo xe tay không khác gì những con ngựa kéo xe, phải sống
kiếp "người - ngựa". Cuộc đời cực nhục của họ đã được phản ánh trong tác phẩm
Người ngựa - ngựa người của Nguyễn Công Hoan, Anh cu ly xe của Nguyễn Tam
Kính, Tôi lái xe của Tam Lang. Với truyện ngắn Xanh cà bung, Khái Hưng không
miêu tả chính về cuộc đời người kéo xe, nhưng chỉ bằng vài chi tiết cũng đủ để
người đọc hiểu được sự cực nhục, vất vả của nghề kéo xe. Hai người kéo xe cùng
chạy lại đón khách. Văn lại ngồi lên xe của người đến sau - mặc cho người đến
trước đã phải chạy thục mạng để mong đến kịp chở được chuyến khách. Nếu người đến trước nói một câu gì phản kháng sẽ bị "Văn thét ầm lên hay xông vào
hành hung". Sự bất công vô lý của những người có tiền thật là nhẫn tâm. Lúc
khách vui vẻ không sao. Lúc giận dữ thì họ sẽ trút hết vào đầu người kéo xe.
Người đến trước không được Văn thuê cũng chỉ dám "yên lặng đứng nhìn theo,
hai con mắt âm thầm oán trách... vì anh ta lo sợ nhớ ngay đến những trận đòn bất
ngờ của những ông khách bất nhã". Nghề kéo xe chịu đủ mọi nhục nhã do khách
56
đem lại, nào mắng chửi, quát tháo, nói những lời xúc phạm đến nhân cách của mình, nhưng những người phu xe vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng.
Qua tác phẩm, Khái Hưng không chỉ dừng lại ở một cuộc đời người kéo
xe nghèo khổ mà còn đề cập đến số phận của bao người nghèo khổ khác trong
xã hội. Đó là những người gầy gò, rách rưới, sống trong "căn nhà lá tồi tàn
màu nâu xám". Cảnh vật xung quanh họ toàn là những mùi hôi thối và những
vật dơ dáy, chung quanh toàn những túp nhà lụp xụp, tối tăm. Khái Hưng
miêu tả bữa ăn của người thợ thật đơn sơ đạm bạc. Bữa ăn chỉ có món cà nấu,
lại được bầy trên lá cót đặt trên bốn hòn gạch nhỏ. Mọi người hớn hở "quây
quần lấy xanh cà, xới cơm và ngốn ngấu, cầm thìa múc nước canh húp xì
xụp". Sự nghèo khó ấy luôn bủa vây cuộc sống của những người thợ thuyền,
nhưng nếu có công việc mới có cà ăn, còn không thì nhịn đói luôn. Từ bữa
cơm đến chỗ ở của họ đều là tạm bợ, qua ngày. Đó là những người rách rưới
xanh xao, phải sống chui rúc trong những túp lều tạm bợ để che mưa nắng.
Cái nghèo khó của họ đã làm Văn - một anh nhà giàu - thức tỉnh, cảm thấy
quý trọng bữa ăn, và yêu thương người nghèo đói. Từ đó, trên bàn của Văn
thường có món cà bung. Và mỗi lần nhai miếng cà nóng, chàng lại nhớ đến
những người nghèo khổ. Sự thức tỉnh của Văn phải chăng chính là tình cảm
của Khái Hưng dành cho những người nghèo? Trong Lòng tốt, nhà văn không
tả kỹ, chi tiết, nhưng chỉ vài nét phác hoạ, người đọc cũng hiểu được sự khốn
quẫn của người dân lao động nghèo khổ. Người chồng "gương mặt hốc hác,
nước da xanh tái, cặp mắt sâu hoắm". Gia sản của họ là "cái giường tre với cái
màn nâu cũ vá đầy những miếng vải tây loang lổ, cái bàn khập khiễng xiêu
vẹo, và hai cái trường kỷ tre, lát nan đã bị mọt đục mất từng quãng. Mùi hôi
hám ở cái màn, mùi ẩm mốc ở nền đất ướt, mùi khói ở dưới bếp xông lên".
Gia cảnh đã đói, nghèo khó lại thêm con nhỏ ốm đau, "mất mẻ trộm hơn một
trăm bạc" đã đẩy họ vào việc phải bán ruộng lấy tiền trả nợ. Đứng trước cảnh phải gán ruộng cho ông Lý Phan, hai vợ chồng người mắc nợ hết sức kêu van
lạy lục nhưng không lay chuyển được Nhân. Cực chẳng đã, họ phải dùng "mỹ
nhân kế" - cho con gái đứng nói chuyện đầu mày cuối mắt với Nhân để mong
Nhân mềm lòng cho khất nợ. Cái nghèo khổ đã khiến họ phải làm những việc
"đê hèn khốn nạn". Khái Hưng như thấu hiểu tình cảnh và tâm trạng của
những người mắc nợ - những trang văn của ông gây xúc động lớn trong lòng
người đọc.
57
Trong thế giới nhân vật của mình, Khái Hưng dành nhiều tâm sức hơn cả
cho việc khắc họa hình ảnh người phụ nữ. Điều đó xuất phát từ thái độ trân
trọng, từ ý thức bình đẳng nam nữ trong tư tưởng của ông. Bên cạnh những
người phụ nữ có tài có sắc, được học hành, có một cuộc sống ổn định, dư dả
trong xã hội, Khái Hưng còn quan tâm miêu tả những cuộc đời bất hạnh, vất
vả, lận đận của những người phụ nữ. Ngòi bút của ông dành cho họ một tình
cảm thật nhân hậu và cảm thông, sự trân trọng và thương cảm đặc biệt. Ông
đồng cảm và chia sẻ những đau khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh
chịu. Ngòi bút của ông dành cho họ. Trong truyện ngắn Bến Hòn gai, Khái
Hưng đã miêu tả chị Đông là người con gái đẹp nhất làng. Chị yêu và tin
tưởng một mực vào anh giáo làng bên. Hai người muốn lấy nhau nhưng gia
đình chị Đông không đồng ý vì đã nhận lời ông lý Cựu. Hai gia đình đã sắp
xếp một cuộc hôn nhân giữa chị Đông và anh Bê. Chính những hủ tục nghiệt
ngã "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" đã đẩy chị Đông vào cảnh ngộ khổ cực.
Chị và anh giáo đi lại với nhau, có thai được năm, sáu tháng. Nhưng anh giáo
đổi lên tỉnh, không đi lại thăm nom gì chị nữa. Sự bội bạc của người yêu làm
chị Đông đau đớn. Chị đẻ rơi đứa con trai bên bờ ruộng, không dám đem về vì
sợ bị "cạo đầu bôi vôi", "thả bè trôi sông". Chị Đông đành phải lấy con trai
ông lý Cựu - hai người bỏ làng ra bến Hòn gai sinh sống. Từ một thiếu nữ
xinh đẹp, cuộc sống lam lũ đã biến chị thành một người đàn bà nhếch nhác
lắm điều, tục tằn, thô lỗ, luôn mồm "gào thét, kể lể, trách móc chồng". Ngôn
ngữ của chị toàn những "lời mỉa mai, độc địa, những câu phương ngôn, tục
ngữ chua cay". Hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt nơi sông nước, cộng
với vết thương lòng không thể nào phôi pha đã biến đổi chị Đông hoàn toàn.
Kể lại câu chuyện cuộc đời chị Đông, Khái Hưng gián tiếp lên tiếng tố cáo xã
hội với những hủ tục bất công, vô nhân đạo đã đẩy con người vào hoàn cảnh khổ đau, vào cuộc đời túng quẫn, thiếu thốn.
Nếu sự cả tin của chị Đông phải trả giá bằng một cuộc sống không hạnh
phúc với chồng "ngày nào cũng cãi nhau vài lần", thì sự ngây thơ của Tẹo
trong truyện ngắn Dưới ánh trăng còn phải trả giá bằng chính cuộc đời mình.
Tẹo là cô gái quê ngây thơ xinh xắn. Văn - một chàng trai con nhà giàu ở
thành phố - đã quyến rũ Tẹo trong lần về quê nghỉ hè. Văn tìm mọi cách để
58
tán tỉnh Tẹo. Tẹo chưa va vấp với cuộc sống nên tin tưởng vào những lời tán tỉnh của Văn. Cái háo hức của thời khắc bồng bột yêu đương qua nhanh. Sự
hứng thú phấn khởi khi về quê không còn nữa. Sau khi rủ Tẹo ngủ qua đêm
được với mình, Văn đột nhiên chán Tẹo. Chàng thấy Tẹo không còn xinh xắn,
duyên dáng nữa, mà "giống hệt các cô gái quê khác, thô lỗ, đần độn, ngu
ngốc". Tình yêu cảm tính đi qua nhanh như gió thoảng. Văn bỏ về Hà Nội, để
lại Tẹo bơ vơ nơi quê nhà với cái thai trong bụng. Tẹo bị cha mắng nhiếc,
ngày nào ông cũng uống rượu say rồi lôi Tẹo ra đánh. Mẹ Tẹo ruồng rẫy, chửi
cô. Tẹo đã toan đâm đầu xuống ao chết đi, nhưng tình mẫu tử thiêng liêng
khiến cô không dám. Tẹo "thương đứa bé trong bụng chẳng làm gì nên tội".
Tẹo thương con nhưng cha mẹ cô không chấp nhận cô, hủ tục lâu đời ở làng
Tẹo không để cô yên. Bị đòn đau hàng ngày, không thấy Văn hồi âm, sợ làng
bắt vạ cha mẹ... Tất cả những cái án đó treo lơ lửng trên đầu Tẹo. Cô đã phải
tìm đến cái chết để giải thoát cho mình, để trả giá cho sự ngây thơ, nhẹ dạ của
bản thân mình. Nếu ở truyện ngắn Bến Hòn gai, Khái Hưng mới gián tiếp tố
cáo xã hội, gián tiếp tố cáo những tên mang họ Sở thì ở truyện ngắn này, ông
đã trực tiếp lên án bộ mặt nguỵ quân tử của Văn. Ông đã để Văn tự thốt ra
những lời "thú tội" về bản thân mình: "Người ta đương sống cái đời giản dị,
bình thường của người ta, tự nhiên mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn
nguyện lại bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn là gì?". Qua lời tự
thú của Văn, giá trị tố cáo của tác phẩm đã đạt đến mức độ sâu sắc. Khái
Hưng không chỉ thương cảm chung cho những người phụ nữ bất hạnh, thiệt
thòi mà ông lớn tiếng đòi quyền sống cho họ, đòi những kẻ đã gây tai hoạ cho
họ phải trả giá.
Sống trong hoàn cảnh xã hội đổi thay, cái nghèo khó bủa vây bao bọc làm
cho người phụ nữ thiệt thòi hơn ai hết. Nếu không phải chết thì họ cũng sống
một cuộc sống không ra gì. Hiên trong truyện ngắn Biến đổi vốn là một cô gái xinh đẹp ngây thơ. Nàng xuất thân trong một gia đình gia giáo "cha nàng đã hai
khoa vào đệ tam". Thế nhưng do cảnh nhà nghèo túng, cha bệnh nặng nằm đó,
trong nhà không có lấy một đồng. Hiên bắt buộc phải đánh đổi bản thân mình.
Đầu tiên chỉ là sự cầm tay, câu nói đùa xã giao lơi lả. Sau đó dần dần là những
đêm khuya sang nhà chị Nguyệt hát cô đầu, tiêm thuốc phiện cho khách. Ở đời
nếu không giữ được bản thân mình một lần thì chính mình sẽ trượt dài trên cái
59
vòng xoáy của nó. Chính Hiên đã ý thức được một điều "con gái đêm hôm mò mẫm đến một nơi như nhà chị Nguyệt là rất không phải". Ý thức được điều đó,
nhưng Hiên vẫn phải làm vì "cha nàng ốm nằm kia, tiền đâu lấy thuốc". Lòng
hiếu thuận với cha đã bắt Hiên phải bán dần bản thân mình. Cha Hiên biết con
gái làm những việc không trong sạch đó "ông ta tức uất lên, luôn mồm chửi
mắng con gái, sau vài giờ rồi tắt nghỉ". Chỗ bấu víu duy nhất của Hiên trên con
đường lương thiện đã hết, cái mốc ngăn nàng đừng sa xuống vực sâu đã không
còn... Năm tháng qua đi, Hiên trở thành cô gái giang hồ với "quãng đời phóng
đãng... in dấu trên bộ mặt dạn dầy mưa gió".
Nếu Vũ Trọng Phụng có cái nhìn cay nghiệt, ác cảm với những người phụ
nữ thay đổi theo hoàn cảnh trong hàng loạt các bài phóng sự, tiểu thuyết: Kỹ
nghệ lấy Tây, Làm đĩ, Dứt tình... thì Khái Hưng tỏ ra thương cảm xót xa cho
những người phụ nữ tài sắc, lận đận như Hiên, cô Mơ... Ông vẫn tin một niềm
tin thánh thiện vào giá trị nhân phẩm của con người. Ông muốn thông cảm với
họ, chia sẻ những khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc đời. Giá trị nhân đạo sâu
sắc mà Khái Hưng kế thừa từ truyền thống dân tộc chính là ở chỗ đó. Bên cạnh
đó, Khái Hưng chua xót chỉ ra những nạn nhân của xã hội. Nếu đọc thoáng qua,
chúng ta rất dễ lầm tưởng là Khái Hưng phê phán họ, nhưng thực ra, ông bênh
vực và cảm thông tận đáy tâm can với những người như mẹ cô Ve (Cái Ve),
Trinh (Linh hồn), bà Trương Mẫn (Dưới ánh trăng)... Mẹ Tẹo trong Dưới ánh
trăng quá sợ làng phạt vạ nên đã nhắm mắt trước nỗi đau của con gái. Bà không
thể chia sẻ, thông cảm với Tẹo, vì như thế, bà sẽ phải chịu sự xỉ nhục của làng
xóm, họ hàng. Những hủ tục muôn đời đã đè nặng, ăn sâu vào suy nghĩ của bà,
khiến bà trở thành người cay nghiệt. Trinh trong Linh hồn là kết quả của mười
năm hoan lạc giang hồ. Cuộc đời đã đưa đẩy cô đến bước đường cùng không
còn lối thoát. Rồi mẹ cô Ve cũng là do quá nghèo đói mà sinh ra tính toán bần
tiện, bủn xỉn, không còn quan tâm đến con gái. Khái Hưng hiểu những khó khăn đè nặng lên từng người, ông thông cảm với họ một cách thành thực và
chia sẻ những vất vả đó bằng ngòi bút trĩu nặng tình đời, tình người. Những
người đàn bà nghèo khó trong truyện ngắn Khái Hưng có nét gì đó giống với
những người đàn bà nghèo khó trong truyện ngắn Nam Cao. Đó là những người
cục cằn, cau có, mở mồm ra là tính toán tiền nong. Nhưng đó là vì họ nghĩ cho
chồng, cho con. Họ dè xẻn từng xu để chồng con có tiền chi tiêu. Đánh con
60
xong, họ dằn vặt đay nghiến chính mình. Khái Hưng đã đào sâu và tìm ra giá trị đích thực của con người trong mỗi con người thường ngày.
Nhất Linh cũng viết về cuộc sống gian khổ, bất hạnh của người phụ nữ.
Nhưng ông nhìn vấn đề này ở một khía cạnh khác. Duyên trong truyện ngắn
Nước chảy đôi giòng là một cô gái rất xinh đẹp "hai con mắt trong và sáng,
trông thanh tao có vẻ con nhà khuê các". Lúc ở với bố mẹ, cô phải chịu đựng
cuộc sống vất vả một nắng hai sương. Khi đi lấy chồng, cô cũng chẳng sung
sướng gì hơn. Người chồng xấu xí thô kệch, không có tình cảm. Cuộc sống
sông nước vất vả. Nhưng khác với Khái Hưng, Nhất Linh để cho nhân vật của
mình không ý thức được mình khổ, cũng như cô không ý thức được mình xinh
đẹp. Cô sống đơn giản, chấp nhận cuộc sống đang diễn ra và không quan tâm
đến xã hội ngoài kia đang thay đổi như thế nào. Không ý thức được mình khổ
nên Duyên không hề thấy khổ. Đây chính là điểm khác biệt giữa cách tư duy
của Khái Hưng và Nhất Linh. Nếu Khái Hưng đào sâu nỗi khổ của người phụ
nữ để cảm thương, bênh vực cho họ thì Nhất Linh chỉ đề cập thoáng qua. Vì
thế các nhân vật nữ của Nhất Linh ít để lại ấn tượng trong lòng người đọc như
trong sáng tác của Khái Hưng.
Khái Hưng cũng rất quan tâm đến những đứa trẻ nghèo. Cuộc sống của
những đứa trẻ nghèo thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Em Tuất trong
truyện ngắn Biển mồ côi mẹ từ bé, cha Tuất đi lấy vợ hai. Tuất chỉ được hưởng
sự quan tâm chăm sóc từ người cậu - em của mẹ đẻ mình - Từ ngày cậu mất,
Tuất không còn ai bênh vực, che chở. Em trở nên bơ vơ trong chính căn nhà của
mình. Em đi ở cho nhà bà An Lợi, hầu hạ bà ta để sống qua ngày. Em không
được hưởng sự quan tâm của cha mẹ, cứ tự lớn lên như cây cỏ không người
chăm sóc. Hình ảnh của Tuất khiến người đọc nhớ tới truyện ngắn Nhà mẹ Lê
của Thạch Lam cũng miêu tả cuộc sống đói khổ của mười một đứa con mẹ Lê.
Chúng sống triền miên trong cảnh đói rét thương tâm. Cái đói, cái rét cùng kéo đến một lúc hành hạ chúng. "Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, thằng Phún, thằng Hy
mà con chị nó bế, chúng khóc lả vì không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt
chúng nó cứ thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết". Mỗi cơn gió lạnh thổi đến
làm môi chúng tím lại, da thịt thâm đi, hàm răng đập vào nhau.
Nhà văn Nhất Linh được coi là người bạn chí thân với Khái Hưng - song
có lẽ quan điểm, tư tưởng của họ không hoàn toàn giống nhau. Nhất Linh
61
cũng viết về những người nghèo khổ, nhưng lại đứng trên quan điểm cải lương tư sản. Sự thương xót của ông là sự thương xót của một người ở giai
cấp khác... Nhất Linh đã đem con mắt của những người có học, có óc mới để
quan sát, để rồi kết luận "những cảnh tối tăm ấy là những cảnh mà những kẻ
khốn nạn kia đã tự dấn thân vào vì vô học, vì óc hủ lậu". Trong truyện ngắn
Đầu đường xó chợ, Nhất Linh đứng trên lập trường, ý thức tư sản để nhận xét
cuộc sống của những người dân nghèo: "Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái
xã hội quý phái của tôi ngày trước: này gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ
chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộc bán nồi đất”. Tác giả miêu tả
cuộc sống của từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những căn nhà xiêu vẹo,
tối tăm, bẩn thỉu. Trước một cái rãnh nước dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối,
giẻ rách... Ở Nhất Linh, lòng thương người tuy có chân thành, nhưng lại đứng
trên quan niệm của người trí thức tư sản.
Nếu trong tiểu thuyết Gia đình, viết năm 1936, Khái Hưng vẫn còn bộc
lộ những hạn chế này. Ông đã đối lập cuộc sống thanh thản, đủ đầy hạnh phúc
của vợ chồng Hạc, Bảo "làm ruộng" với cuộc sống nhỏ nhen, kình địch về địa
vị xã hội của những anh chị em trong một gia đình phong kiến. Hạc đang học
đốc tờ bỏ về ấp cùng Bảo thực hiện những công việc cải cách ở ấp mình để
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân quê. Họ tuy vẫn thu tô nhưng
sau khi đã nạp đủ thuế còn lại bao nhiêu đem dốc cả vào công việc cải thiện
đời sống cho tá điền như phát thuốc, đắp đường, xây trường học, sân vận động
và dựng cả một khu nhà nghỉ mát. Hạc và Bảo đã thành công dễ dàng, sống
thoả mãn, thanh thản trong công cuộc từ thiện ấy. “Hạnh phúc của họ tức là
hạnh phúc của ta... còn gì sung sướng hơn bằng trông thấy ở trước mắt những
người dân quê mặt mũi sạch sẽ, nô đùa chuyện trò thảnh thơi...”. Ở truyện
ngắn, những hạn chế trong tư tưởng của Khái Hưng đã được khắc phục cơ
bản. Mặc dù ông chưa thoát khỏi ý thức của người trí thức tư sản, nhưng cách nhìn nhận về người dân nghèo đã có nhiều tiến bộ. Khái Hưng cảm thông với
người nghèo xuất phát từ trái tim nhân đạo của ông. Ông miêu tả, phản ánh
cuộc sống nghèo khổ của những người dân để gián tiếp tố cáo xã hội và bênh
vực họ.
Khác với tất cả các thành viên trong Tự lực văn đoàn, Thạch Lam là
người dành nhiều tình cảm ưu ái nhất cho những người lao động nghèo khổ.
62
Họ là những gia đình ở cái phố chợ Đoàn Thôn "tồi tàn gần ngay một huyện lỵ nhỏ ở trung châu" này "làm những nghề lặt vặt: người thì kéo xe, người thì
đánh dậm hay làm thuê, ở mướn cho những nhà giàu có trong làng. Người ta
gọi mỗi gia đình bằng tên người mẹ: nhà mẹ Hiền, nhà mẹ Đối, nhà mẹ Lê.
Những gia đình này đều giống nhau ở chỗ cùng nghèo nàn như nhau. Với
người lao động nghèo cuộc sống luôn bấp bênh, ngày buồn nhiều hơn ngày
vui, nhất là những năm đói kém mất mùa, "cái đói kém đều chen lấn trong phố
chợ". Những người làm thuê không có việc làm. Mẹ Lê thậm chí làm công
không cũng chỉ được nửa bát gạo cho hơn mười miệng ăn, các con mẹ cũng
không thể kiếm được thứ gì vì ao hồ người ta đã cấm không cho thả lờ nữa.
Một bầu không khí ảm đạm bởi cái đói, cái rét trùm lên cả xóm nghèo. Mấy
gia đình ở phố chợ đều đói rét, khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm
mà chịu khổ, không than thở với láng giềng hàng xóm, bởi vì ai nấy đều biết
cũng nghèo khốn như nhau. Điều đáng nói là, Thạch Lam không miêu tả cảnh
sống Nhà mẹ Lê như một hiện tượng cá biệt mà luôn đặt vào khung cảnh
chung của những người lao động nghèo. Cái kết cục bi thảm đã diễn ra sau
nhiều ngày đói rét, không thể ngồi nhìn đàn con nhịn đói, mẹ Lê đành liều đi
xin gạo dù biết nguy hiểm và đã bị nhà giàu xua chó cắn; mẹ Lê lên cơn sốt
nặng, hai hôm sau mẹ Lê chết. Những người nghèo đã góp tiền, lo chôn cất tử
tế dù họ không hơn gì hoàn cảnh nhà mẹ Lê. Cái chết của mẹ Lê đặt ra một
câu hỏi lớn: liệu số phận mười một đứa con nhỏ dại sẽ sống như thế nào nếu
không còn người mẹ tần tảo che chở trong thời buổi đói kém? Khi những
người giàu thì keo kiệt, độc ác, người lao động nghèo khổ sẵn lòng yêu
thương lại cũng chẳng hơn gì tình cảnh nhà mẹ Lê? Liệu kết cục đau xót này
có còn tiếp tục xảy đến với gia đình khác trong cái phố chợ Đoàn Thôn nghèo
đói và bao Đoàn Thôn khác chưa nói đến?... Đó là chị Sen trong truyện Đứa
con cũng vì gia đình quá nghèo nên phải gán nợ không công cho nhà bà Cả. Chị phải làm lụng suốt ngày "đầu tắt mặt tối" mà vẫn bị mắng chửi. Hay nhân
vật Bào trong Người bạn trẻ vì hoàn cảnh nhà nghèo, các em còn bé, bản thân
là chỗ dựa, là niềm hy vọng độc nhất của gia đình "lên Hà Nội làm việc nhưng
rồi bị đuổi, thầy đã chửi mắng anh và bắt anh ra Hà Nội tìm việc làm", nếu
không được thì đừng về trông thấy mặt cha nữa. Có phải vì quá khó khăn
nghèo túng mà người cha đã ép Bào đứng trên ranh giới: Nếu được thì được
63
cả hai (việc làm, tình phụ tử) nếu mất thì mất tất cả. Nhưng sự may mắn đã không đến với Bào. Suốt mấy tháng ở thành phố không tìm được việc làm,
Bào sống vất vưởng, khổ sở mà cũng chẳng dám về nhà. Cuối cùng anh phải
tìm đến cái chết để tự giải thoát. Đọc truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam,
người đọc cứ bị ám ảnh mãi bởi cảm giác về một cuộc sống tàn lụi nơi phố
huyện. Đó không chỉ là chiều tàn, phiên chợ tàn, cảnh vật, đồ vật tàn, mà quan
trọng hơn là những kiếp người tàn. Đó là "mấy đứa trẻ nhặt nhạnh thanh mía,
thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để
lại"; là mẹ con chị Tý ngày ngày mò cua bắt tép, tối tối bán hàng nước, chẳng
kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng; là vợ chồng bác Xẩm
góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng; là bác phở Siêu
chắc chắn sẽ "phá sản" vì ở phố huyện này món phở của bác là một thứ hàng
xa xỉ; là chị em Liên đêm đêm vẫn mơ về một vùng sáng xa xăm. Đặc biệt
hình ảnh bà cụ Thi - một nạn nhân điển hình nhất của cuộc sống mòn mỏi,
nghèo nàn. Người còn đó nhưng kiếp người đã bỏ đi, Cụ Thi không còn là
người nữa mà là bóng ma, là hình nhân của cuộc đời. Từng ấy con người, từng
ấy cuộc đời đang cầm cự trong vô vọng. Hai đứa trẻ tiêu biểu cho bút pháp
Thạch Lam. Truyện không có cốt truyện, tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, sâu
lắng, mơ hồ và thi vị. Nó mang nét riêng của không khí ngày xưa, một phố
huyện nghèo, nhỏ bé và đầy bóng tối. Tình tiết truyện đã quen, cách kể đã
quen, vẫn cái bình dị, cái tinh tế, nhẹ nhàng ấy nhưng sức lay động lòng người
rất lớn.
Với Thạch Lam, hiện thực đời sống được phản ánh trong truyện không
có cái ác quá đáng. Con người với con người nhìn chung thân thiện yêu
thương. Suốt cả ba tập truyện Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc không
có truyện nào có âm thanh kinh sợ của gậy gộc, quát thét, rượt đuổi "huỳnh
huỵch. Tán loạn" hoặc "Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng tay. Cẳng chân như mưa vào đầu. Như mưa vào lưng"... (Bữa no... đòn) như của Nguyễn
Công Hoan. Như vậy không có nghĩa là hiện thực trong truyện Thạch Lam là
không khắc nghiệt, không đau xót tận độ. Nhà văn đã viết về nhiều cái chết
hoặc mở ra những cái chết. Nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc sâu xa
là do không có cái ăn: Mẹ Lê và đàn con của mẹ, nhìn rộng ra là cả cái xóm
ngụ cư nơi phố huyện nghèo nàn - những người hàng xóm của mẹ Lê (Nhà mẹ
64
Lê); là Bào - cậu học sinh thất nghiệp cùng quẫn (Người bạn trẻ); là con anh phu xe bị phạt (Một cơn giận). Và cảm giác đói quay quắt của vợ chồng Sinh,
Mai (Đói) sau hành động ăn bản năng, giải quyết cái đói tạm thời trong chốc
lát, cuộc sống của Sinh rồi sẽ ra sao để thoát cái đói và chết đói?... Cũng
không phải không có những hành động tội ác. Việc cha con lão Bá không
những không cứu giúp lại còn thả chó Tây cắn là nguyên nhân trực tiếp dẫn
đến cái chết của mẹ Lê. Đó là một tội ác. Nhưng kiểu nhân vật này không
nhiều, và nhà văn dùng lối kể gián tiếp qua lời mẹ Lê nói với các con nên
dường như một việc thoáng qua rất nhẹ. Đó là một chi tiết rất gợi, rất sâu và
có giá trị tố cáo sâu sắc. Tất cả hợp thành bức tranh về đời sống cơm áo rất
sinh động, mang đậm đặc trưng bút pháp Thạch Lam vừa có giá trị phản ánh,
vừa tố cáo, vừa xây dựng như Thạch Lam giãi bày trong lời giới thiệu Gió đầu
mùa.
Thạch Lam có cách nhìn nghệ thuật riêng đối với con người, không như
các nhà văn "tả chân" nói chung và cũng khác mô hình con người mà văn học
lãng mạn xây dựng. Con người trong văn Thạch Lam, tập trung thể hiện ở
truyện ngắn là con người nhân bản, con người thân phận. Hiện thực được trình
bày trong truyện ngắn Thạch Lam cơ bản là hiện thực tâm lí. Ở đó, khái niệm
thân phận con người không trùng khít với quan niệm của chủ nghĩa hiện thực
nghiêm ngặt. Đó là những con người phải sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt
nhưng vẫn giữ được "phẩm - chất - người" trong sáng, tốt đẹp. "Đọc Thạch
Lam, không thấy cái vùng khuất tối vô thức. Nhân vật của ông là những người
luôn tỉnh thức giữa phần thiên lương và cái xấu xa, giữa bên này, bên kia sợi
tóc của thiện - ác". [20]. Các nhân vật chính trong truyện ngắn nghiêng về
hiện thực của Thạch Lam mang thân phận khổ đau kết cục bất hạnh như mẹ
Lê (Nhà mẹ Lê), Dung (Hai lần chết), Liên, Huệ (Tối ba mươi), Tâm (Cô
hàng xén), Anh phu xe (Một cơn giận), Bào (Anh bạn trẻ), Minh (Cái chân què), Liên (Một đời người)... đã chứng tỏ điều đó, tiêu biểu là các nhân vật nữ.
Cô Liên, công nhân làm việc nặng nhọc trong xưởng, với cực hình phải chịu
sau mỗi buổi làm việc là hành động "khám xét" của tên Tây đen canh cổng.
Nhưng sự hành hạ của mẹ chồng và chồng - mới "chính là một cái địa ngục"
mà chính Liên "cũng không hiểu tại sao chồng nàng và mẹ chồng nàng lại ác
nghiệt, ghét nàng như thế". Đến bữa ăn cũng không yên, Liên bị chửi bới,
65
đánh đập như đòn thù đến ngất lịm. Nàng muốn ra đi theo tiếng gọi của tình yêu nhưng không dứt nổi. Cuối cùng "Ngày nọ nối tiếp ngày kia, Liên lại vẫn
phải chịu cái đời khổ sở, đau đớn mọi ngày" (Một đời người). Dung cũng phải
chịu một đời cơ cực sau khi đi lấy chồng, làm dâu nhà người như Liên. Sau
nhiều đau đớn, cực nhục, Dung muốn dùng cái chết để kết thúc cuộc đời
nhưng rồi lại được cứu sống để phải chịu cảnh chết mòn, chết thật khi còn
sống "trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của
mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu
vào đâu được, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa" (Hai lần chết).
Hình ảnh vợ con người kéo xe tay tên là Dư trong Một cơn giận thật não
nùng. Chồng bị đánh, bị thúc nợ phải chạy trốn, con ốm không thuốc thang,
người mẹ ôm con trong tuyệt vọng, nhìn con chết mà không làm được gì vì
không có tiền mua thuốc. Người phụ nữ tên Mai trong truyện Đói thật đáng
thương. Bị dồn đến bước đường cùng, Mai phải lựa chọn hoặc là nhân phẩm
hoặc là chết đói cả hai vợ chồng, bất đắc dĩ Mai phải lừa dối Sinh, đổi thân
xác lấy ít tiền và thức ăn để kéo dài sự sống.
Nhưng đau xót, khổ nhục nhất là Liên, Huệ trong Tối ba mươi. Số phận
của các nhân vật nữ trong các truyện ngắn đã trình bày trên, dù khổ sở, vất vả,
thậm chí bị chết hoặc bị hành hạ đến mấy thì họ vẫn còn mục đích sống, sự hi
sinh của họ vẫn còn ý nghĩa. Mẹ Lê suốt đời tần tảo, liều chết đi xin gạo nhà
giàu dù biết rất nguy hiểm là vì đàn con đói rét. Cô Tâm hàng xén chạy hết
chợ quê, chợ huyện vẫn vui, dù "cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già
toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô" (Cô hàng xén),
thì cô vẫn sung sướng vì ngay từ thời con gái cô đã "thấy chung quanh toàn là
những người đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không
bao giờ Tâm có nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô" (Cô hàng xén). Bé
Liên, chị Tý ngày vất vả, đêm thức tận khuya, ngoài mục đích kiếm chút lời lãi chẳng được bao nhiêu vẫn còn một niềm vui được làm việc, được hưởng
cảm giác chờ đợi con tàu "rầm rộ đi tới" được ngắm "đoàn xe vượt qua các toa
đèn sáng trưng" và mơ tưởng về một "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ
và huyên náo". Mỗi đêm, hình ảnh con tàu đi vào tiềm thức của mọi người,
của Liên, An, của bà con dân phố: "con tàu như đã đem một chút thế giới khác
đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn
66
chị Tý và ánh lửa của bác Siêu" (Hai đứa trẻ). Dù ít ánh sáng nhiều bóng tối nhưng đó là "đêm của đất quê", của một miền yên tĩnh đáng nhớ, đáng yêu
(Hai đứa trẻ). Hoặc như cô Liên phí hoài cả một đời người "đi làm cầm cập
suốt ngày để nuôi gia đình chồng, về nhà bị chồng nó hành hạ", nhưng vẫn
còn một niềm an ủi bởi tình yêu với Tâm cho dù chút hi vọng về hạnh phúc đó
Liên biết rõ giống như "chỉ là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bày trong tủ
kính các cửa hàng, những vật quý giá mà nàng tưởng không bao giờ về nàng
được" (Một đời người). Cuộc sống của Liên, Huệ trong cái không gian vắng
vẻ, cô đơn tột cùng của đêm ba mươi tết - thời điểm dễ dẫn con người đối diện
với chính mình một cách tự nhiên nhất - thì quá khứ "trong mát, tươi non" chỉ
"mang máng cảm giác" nghĩa là rất mơ hồ. Không có gì để nương tựa; tương
lai mờ tối làm lòng người thêm "u ám và nặng trĩu xuống" mà thôi.
Thạch Lam đã miêu tả hiện thực, từ những cảnh, những người, những ý
nghĩ, hành động, tất cả đều diễn ra một cách rất tự nhiên, nhẹ nhàng mà vô
cùng thấm thía. Đặc biệt những chi tiết thiên về cảm giác thường tạo nên hiệu
quả nhiều hơn cả. Mọi cảm giác dồn nén, thức dậy khả năng cảm nhận tinh tế
của con người. Hơn lúc nào hết, khoảnh khắc giao thừa làm sống lại tất cả
những gì mà ngày thường do cuộc sống cơm áo lôi kéo, những buồn vui cùng
đam mê tầm thường, những ô uế, bẩn thỉu, ý thức về thân phận bị lấn lướt bởi
nhịp sống ồn ã, xô bồ thì lúc này Liên, Huệ ý thức được tất cả: "Những giọt
nước mắt nóng chảy tràn mi mắt, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một
nỗi tủi cực mênh mang tràn ngập cả người, một nỗi tiếc thương vô hạn; tất cả
thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt và những ước mong tuổi trẻ, những thất
vọng, chán chường" (Tối ba mươi). Tiếng pháo xuân dường như muốn đẩy
"hai chị em nép vào nhau", trôi dạt về một vùng khuất lấp trong bóng tối, yên
lặng và càng ý thức rõ thân phận, hoàn cảnh thực tại càng đau xót. Phải chăng
nhà văn muốn nói điều này: bị khổ nhục về tinh thần còn đau đớn gấp bao lần nỗi đau thể xác. Tuy nhiên, Thạch Lam luôn có ý thức không để cho truyện
rơi vào không khí buồn thảm, bi ai mà từ cuộc sống nơi đáy cùng xã hội, các
nhân vật vẫn sáng lên nét đẹp từ cái tâm, cái tình của con người.
Truyện ngắn Thạch Lam thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, bức tranh
hiện thực qua ngòi bút của ông được khắc hoạ sắc nét, sinh động, đa diện về
đời sống và số phận của con người thuộc các tầng lớp nghèo khổ, tạo sự đồng
67
cảm sâu sắc với độc giả nhiều thế hệ. Cái lúc giao thời, xã hội loạn li, mọi thứ giá trị bị đảo lộn. Con người quay cuồng với những khát vọng, tham lam, bị
đồng tiền làm mờ mắt, tất cả những đổi thay của cuộc sống xung quanh đều
như một thách thức khó lòng vượt qua. Nhà văn nhìn ra những cảnh đời khổ
đau, cất tiếng nói bênh vực những kiếp người và hơn hết là thể hiện sự trân
trọng và yêu mến họ. Tuy nhiên, có thể thấy, do chưa tìm được căn nguyên
sâu xa nỗi khổ của người dân nghèo, chưa đi sâu vào những mâu thuẫn giai
cấp trong xã hội nên Khái Hưng và Thạch Lam mới chỉ dừng lại ở mức độ băn
khoăn thương cảm cho cuộc sống của họ. Các nhà văn chưa nhìn ra được giải
pháp để cứu những người dân lao động ra khỏi cuộc sống nghèo khổ. Do hạn
chế về giai cấp và tư tưởng, Khái Hưng và Thạch Lam chưa nhìn thấy ánh
sáng của cách mạng. Những nhân vật nghèo khổ của họ chưa tìm thấy con
đường cách mạng, chưa có ý thức đứng lên cứu cuộc đời mình như các nhân
vật A Phủ, Mỵ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, hay các nhân
vật dân nghèo của Nguyên Hồng: mẹ La, cụ Cau, cụ Ước, Xin (tiểu thuyết
Cửa biển)... Do đó cuộc đời của những người dân nghèo trong tác phẩm của
Khái Hưng và Thạch Lam cứ lặng lẽ trôi đi trong sự an phận chịu đựng và
68
lòng nhân đạo chân thành của các nhà văn.
CHƢƠNG III
ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA
TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM
Tác phẩm văn học luôn là một thực thể hoàn chỉnh với sự thống nhất của
nội dung và hình thức. Mỗi tác phẩm văn chương đều hướng tới nhận thức và
phản ánh mối quan hệ giữa văn học và đời sống, giữa chủ thể sáng tạo và hiện
thực khách quan. Tất cả những cảm xúc, nhận xét, đánh giá ấy được biểu hiện
thông qua một hình thức nhất định.
Hình thức tác phẩm văn học là cái hợp thành của rất nhiều yếu tố: ngôn
ngữ, kết cấu, loại thể (thơ, văn, kịch) và các biện pháp (miêu tả nội tâm, hành
động…) nhằm mục đích tạo nên một dạng nhất định cho nội dung tác phẩm và
khiến tác phẩm văn học được xây dựng thành một chỉnh thể thống nhất. Hình
thức phải đáp ứng được đòi hỏi đầu tiên là phù hợp với nội dung, “nội dung
nào hình thức ấy”. Hơn nữa, hình thức cần phát huy đến mức cao nhất khả
năng biểu hiện nội dung của tác phẩm. Hình thức cũng mang tính độc lập
tương đối, khi những thay đổi của nó khiến nội dung chịu ảnh hưởng và tác
động nhất định. Nội dung chỉ tồn tại khi biểu hiện qua hình thức và hình thức
chỉ có ý nghĩa khi hướng tới thể hiện nội dung. Hình thức và nội dung là đồng
hành không thể thiếu trong sáng tạo nghệ thuật, những cách tân trong hình
thức cũng góp phần quan trọng trong việc khẳng định những biến đổi của nội
dung,: “Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nghĩa là tác phẩm ngôn từ, bao giờ
cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” (Lêônit
Lêônôp). Tuy nhiên, “Chỉnh thể tác phẩm không phải là một toàn thể đóng kín
một cách cân đối mà là một tổng thể năng động đang phát triển” (J.Jynia nov).
Một sáng tạo nghệ thuật có giá trị không chỉ là sự thành công của riêng nội dung hay hình thức mà là sự kết hợp hài hòa cả hai yếu tố và sự kết hợp ấy
phải tạo được những ý nghĩa mới, phải động chứ không tĩnh.
Khảo sát qua truyện ngắn của Khái Hưng và Thạch Lam chúng tôi nhận
thấy, ngoài nội dung, thủ pháp nghệ thuật là một phần rất quan trọng tạo nên
sự thành công của truyện ngắn của hai cây bút này.
Đi sâu tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam, chúng
69
tôi tập trung khảo sát các phương diện: cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Đây là những yếu tố cơ bản của nghệ thuật truyện ngắn nói chung và truyện
ngắn Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng. Chúng tôi cố gắng phân tích, tìm
hiểu để chỉ ra những nét cách tân, những đóng góp của Khái Hưng và Thạch
Lam trong lĩnh vực nghệ thuật viết truyện ngắn.
3.1. Cốt truyện Cốt truyện là một hệ thống sự kiện và hành động trong tác phẩm văn học
thể hiện mối quan hệ và sự phát triển của các tính cách nhân vật theo sự chỉ
đạo của một chủ đề và một tư tưởng nhất định. Nhận thức sâu sắc mối liên hệ
đó, Goócki quan niệm: "Cốt truyện là những liên hệ, những mâu thuẫn, những
thiện cảm và ác cảm, và nói chung là những mối liên hệ qua lại của con người,
là lịch sử phát triển và tổ chức của tính cách này hay khác". Trong văn học cổ
thường có những kiểu cốt truyện truyền thống, những cốt truyện mang ý nghĩa
tiêu biểu và khái quát chung, trong đó mỗi sự kiện và hành động dường như
biểu hiện trực tiếp cho một nội dung và phẩm chất nhất định. Và những kiểu
nhân vật nào đó tiêu biểu cho diện mạo và tinh thần của đời sống xã hội thì
nhất định phải trải qua và được thử thách trong những loại cốt truyện tương
tự. Do đó, cốt truyện cũng như nhân vật dễ mang tính chất ước lệ, công thức,
chưa có những cốt truyện gắn bó trực tiếp với số phận của những cá nhân
riêng lẻ. Cái riêng bị cái chung lấn át, cái riêng đồng nhất với cái chung. Quan
hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm không phát triển theo quy luật khách
quan, theo những mối liên hệ phong phú và đa dạng như bản thân cuộc sống
mà gò bó theo những định lệ và nguyên tắc nhất định. Người viết truyện cổ rất
quan tâm đến cốt truyện. Họ xác định phải xây dựng cốt truyện thật hấp dẫn,
phải làm sao cho cốt truyện có những tình tiết éo le, sự kiện ly kì hấp dẫn, tình
huống gay cấn đầy kịch tính, buộc nhân vật hành động theo định hướng nào
đấy để bộc lộ tính cách. Hơn thế, thi pháp đầy tính quy phạm của văn học trung đại quy định chặt chẽ cách dàn dựng cốt truyện theo công thức: gặp gỡ -
chia ly - đoàn tụ. Truyện vì thế bao giờ cũng kết thúc có hậu bằng cảnh đại
đoàn viên tràn đầy hạnh phúc. Một số truyện thường kết cấu theo kiểu này
Truyện Kiều, Nhị độ mai...
Nhìn chung, cốt truyện truyền thống thường được chia làm năm phần cơ
bản: trình bày, thắt nút, phát triển, điểm đỉnh và kết thúc. Truyện ngắn Khái
Hưng và Thạch Lam không tuân thủ theo cốt truyện truyền thống.
70
Với truyện ngắn Khái Hưng, người đọc được sống cùng một lúc hai thế
giới: một thế giới chính của truyện và một thế giới phụ trong câu chuyện đó.
Truyện ngắn Khái Hưng thường có hai cốt truyện - nghĩa là có một câu
chuyện lồng trong một câu chuyện khác. Câu chuyện thứ nhất chỉ là cái cớ, là
ngoại cảnh để tác giả dẫn dắt đến câu chuyện thứ hai mà toàn bộ sự việc, tình
tiết, nội dung chính của truyện lại nằm trong câu chuyện thứ hai. Đó là kiểu
cốt truyện truyện lồng trong truyện. Trong truyện chính có một nhân vật kể lại
câu chuyện của đời mình, hoặc về bạn bè mình, những người có liên quan đến
nhân vật đó. Câu chuyện phụ là nội dung chính của truyện ngắn. Điểm qua
một số truyện ngắn như: Bắt trộm, Linh hồn, Biến đổi, Ngày giỗ, Thời xưa... ta
bắt gặp kiểu cốt truyện này với những biến đổi rất rõ. Truyện Bắt trộm mở
đầu bằng một câu chuyện phiếm, tào lao của đám đông. Mọi người đang bàn
luận về việc ăn trộm, ăn cướp. Có người nói cướp đáng sợ hơn trộm, người lại
nói trộm cao hơn cướp. Cuối cùng, mọi người đều thống nhất "trộm cao siêu,
nghệ thuật" hơn cướp. Đó là một "nghệ thuật rất phiền phức". Bỗng có câu trả
lời nhẹ: "Nhưng bắt trộm cũng là một nghệ thuật, nghệ thuật vì nghệ thuật mà
vẫn ở trong phạm vi luân lý xã hội". Câu trả lời đó là của một ông cụ. Và từ
đây, tác giả dẫn dắt đến câu chuyện chính với nhan đề Bắt trộm - mà lại ở trong
lời kể của một ông cụ ngoài sáu mươi tuổi về chính việc bắt trộm của bản thân
mình. Qua lời ông cụ kể cách đó ba năm trước - khoảng lúc ông gần sáu mươi
tuổi, ông đã bắt được trộm bằng sự mưu mẹo, khôn ngoan của mình. Một đêm,
ông thấy tên trộm dỡ mái nhà, thả dây leo xuống. Ông bình tĩnh nằm chờ tên
trộm leo lên, lợp lại mái nhà. Ông phán đoán và biết được kẻ đã thông gian với
tên trộm chính là thằng Tý - thằng ở cho nhà ông. Mấy hôm sau, ông sai thằng
Tý đi vắng, và bình tĩnh nằm đợi trộm đến. Khoảng hai giờ sáng, tên trộm lại
dỡ mái nhà leo xuống. Ông đã kê sẵn một kiệu mật ở giữa nhà. Tên trộm bị ngã vào đó, lạy van xin hứa với ông từ sau không dám đến ăn trộm. Đó là câu
chuyện ông cụ kể cho mọi người nghe cũng chính là nội dung truyện ngắn Bắt
trộm. Khái Hưng không kể lại tuần tự sự việc xảy ra như thế nào, mà để câu
chuyện được tái hiện qua lời kể của nhân vật chính trong truyện.
Bằng cách kể này, câu chuyện diễn ra tự nhiên, tạo cảm giác mạnh ở tính
chân thực, các sự việc được chứng thực, được thổi vào đó một sự sinh động
71
cần thiết. Truyện Linh hồn lại mở đầu bằng bữa ăn sáng trong hiệu Mỹ Kinh. Nhân vật chính tôi - đang ăn sáng, bỗng gặp người quen. Hai người ngồi ăn,
chuyện trò với nhau. Nhưng "bắt đầu từ đây, tôi sinh ra lơ đãng thực. Tuy
cùng ăn, cùng uống, cũng thỉnh thoảng trả lời người thiếu niên, nhưng tâm trí
tôi để cả ở một gian phòng khách trong một nền nhà gác ở tỉnh lỵ Hà Đông”.
Câu chuyện được tái hiện qua sự hồi tưởng của nhân vật tôi. Đó là một buổi
đánh bài giữa hai vợ chồng Trinh và hai người khách. Người chồng rất nhu
nhược, thường bị vợ mắng té tát mỗi khi đánh thua. "Người vợ có vẻ dữ tợn,
cặp mắt mỉa mai nhìn chồng. Nàng tặng cho chồng đủ mọi điều tàn tệ...". Thế
nhưng khi người vợ mắng đứa con nhỏ, thì người chồng vụt đứng dậy, trở nên
hùng dũng, quả quyết, đôi mắt long sòng sọc và cặp môi mím lại, trông rất dữ
tợn. Người chồng mắng vợ không được quát đứa con nhỏ, vợ lặng lẽ cúi đầu.
Thế nhưng sau phút ấy, anh chồng lại nhu nhược, lại đù đờ, lại bị vợ chửi như
hát hay. Sự hồi tưởng của nhân vật "tôi" dừng lại ở đấy. Trinh - người chồng
giải thích là những lúc vợ hai đánh đập, dằn vặt con, thì trong người anh ta
như có một sức mạnh vô hình - có lẽ do linh hồn vợ cả (đã chết) hiện về giúp
sức cho anh ta. Truyện ngắn Linh hồn có hai sự hồi tưởng - một là của "tôi",
hai là của nhân vật Trinh. Hai sự hồi tưởng đó là câu chuyện chính của tác
phẩm. Còn cuộc gặp gỡ, ăn sáng của hai người chỉ là phụ, là ngoại đề để dẫn
dắt vào câu chuyện chính. Thời gian của câu chuyện được quay ngược lại liên
tục trong những lần hồi tưởng, tính liên tục đôi khi bị đứt đoạn tạo nên sự
chuyển biến linh hoạt cho nội dung cốt truyện.
Cũng trong mạch truyện lồng trong truyện như thế, truyện ngắn Biến đổi
mở đầu bằng cuộc đi chơi của hai chàng trai Lực và Đoàn. Qua sự hồi tưởng
của Lực, câu chuyện về cô gái làng Keo được tái hiện. Mùa xuân năm ấy, Lực
và Đoàn đi chơi hội làng Keo, buổi tối, họ ngủ lại và gặp Hiên - cô gái hiền
lành ngoan ngoãn đã tiêm thuốc cho họ. Rồi câu chuyện về cuộc đời Hiên được tái hiện qua chính lời kể của cô gái. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, cha dạy
học, tùng tiệm lắm mới đủ qua ngày đoạn tháng. Hiện giờ cha nàng đang ốm
nặng, nên Hiên phải làm thêm nghề tiêm thuốc để đỡ đần gia đình. Câu
chuyện kết thúc bằng sự hiện diện hội ngộ lại của ba người: Lực, Đoàn, Hiên
trên đê Yên Phụ. Giờ đây, "Hiên nhởn nhơ trong bộ y phục tân thời. Cả một
quãng đời phóng đãng như in dấu vết trên bộ mặt dạn dầy mưa gió". Cô gái
72
quê mùa đã thay đổi bởi hoàn cảnh xã hội. Truyện kết thúc bằng tiếng thở dài buồn của Lực cho thế thái nhân tình.
Mặc dù cốt truyện lồng trong truyện thường được bộc lộ qua lời kể của
nhân vật chính, hoặc qua sự hồi tưởng của nhân vật đó - nhưng câu chuyện
không phải vì thế mà khô khan, đơn điệu. Trái lại, truyện ngắn Khái Hưng vẫn
mượt mà đằm thắm, chuyển tải nội dung một cách nhuần nhuyễn. Ông dẫn dắt
từ hiện tại sang quá khứ bằng những câu chuyển rất tự nhiên, không hề gượng
ép, gò bó tạo nên mạch truyện liền không bị ngắt quãng, đặc biệt trong một số
truyện Biến đổi, Thời xưa, Ngày giỗ, Bắt trộm…
Trong truyện ngắn Khái Hưng còn có những truyện hầu như không có
cốt truyện mà chỉ là sự bộc lộ tâm lý nhân vật trong những hoàn cảnh, sắc thái
khác nhau. Truyện ít sự kiện và hành động của nhân vật, thay vào đó là một
thế giới nội tâm phong phú. Trong truyện Đợi chờ, tác giả miêu tả nhân vật
Linh luôn luôn tưởng nhớ, suy nghĩ về cô gái mình đã gặp mấy năm trước. Xe
cô gái hết xăng, đỗ tại trang trại của Linh. Linh cho cô gái một can xăng và
mời cô vào thăm đồn điền. Thế rồi họ từ biệt nhau. Câu chuyện tưởng chừng
thoáng qua nhưng Linh nhớ mãi, khắc sâu trong tiềm thức. Năm nào chàng
cũng đến chỗ hẹn cũ để ngồi chờ đợi người xưa. Toàn bộ truyện ngắn chỉ bộc
lộ những suy tư, độc thoại, hồi tưởng của Linh. Chàng đợi người năm ấy. Sự
mong mỏi làm rạo rực lòng chàng và như man mác cả linh hồn vạn vật...
Tiếng chim sơn ca hót trong cỏ rậm. Linh giật mình quay nhìn theo con đường
đỏ, và cảm thấy tất cả nỗi thất vọng của một tấm lòng vơ vẩn đợi chờ. Khái
Hưng không đi sâu phân tích những hành động của Linh mà chú trọng phân
tích tâm lý chờ mong, đợi chờ khắc khoải của chàng. Những kỷ niệm giây
phút ấy với Linh đã trở thành vĩnh viễn, thiêng liêng. Hàng năm, cứ đến tháng
chạp khi cam ngoài vườn bắt đầu rám đỏ dưới luồng gió heo may, Linh lại
cảm thấy thân thể và tâm hồn rung chuyển... Linh đợi chờ, mong ngóng. Chàng chờ đợi, mong ngóng cho tới hết mùa cam. Vì Phụng có hứa với chàng
rằng mỗi năm cứ đến mùa cam nàng sẽ lại cùng mẹ một lần lên thăm ấp của
Linh. Lời hứa ấy có lẽ Phụng đã thốt ra theo cách xã giao trong câu chuyện
giao tiếp. Nhưng Linh tin là lời hứa thành thực. Chàng cũng không hiểu sao
chàng lại tin như thế, nhưng chàng không thể không tin được. Ngay ở nhan đề
của truyện, Khái Hưng cũng chú ý đặt cho sát với nội dung "đợi chờ" trong
73
toàn bộ tác phẩm. Đó là tâm trạng mênh mang, xao xuyến chờ mong của Linh đối với người thiếu nữ mà chàng mới gặp một lần thoáng qua. Cuộc gặp gỡ
ngắn ngủi chỉ có một giờ đồng hồ, nhưng hình như nó đã trở thành định mệnh
khiến Linh luôn mơ tưởng đến Phụng.
Nếu truyện ngắn Tập ảnh là dòng suy nghĩ miên man của Lý trong ngày
mùng một Tết, truyện ngắn Đợi chờ là tâm tư của Linh trong một thời khắc thì
Bến đò năm xưa là suy tư của Nguyên trên một chuyến đò. Anh gặp cô gái lái
đò, cứ mang máng như mình đã gặp ở đâu. Kể cả cảnh vật xung quanh: từ bờ
tre, cây gạo, con chó... chàng cũng thấy quen thuộc. "Chàng chau mày tự nhủ
thầm: Hình như ta đã để ở nơi này một kỷ niệm trong giây phút". Thì ra đây
chính là chuyến đò đã có lần Nguyên đi qua, và cô gái chèo đò là con của cô
gái đã chèo đò cho Nguyên mười lăm năm trước. Chàng gặp lại cô lái đò năm
xưa và ngỡ ngàng khi thấy "nàng" vẫn nhận ra mình: "Ngày ấy thầy mặc áo
tơi da chứ không phải áo sơn này. Với lại cái "bao ly" của thầy có quai mà to
hơn nhiều". Từ đó, tâm trí Nguyên cứ miên man với những suy nghĩ kỷ niệm
hồi tưởng.
Truyện của Khái Hưng thường chỉ có một vài sự kiện, còn chủ yếu là suy
nghĩ của nhân vật. Sự kiện chỉ đóng vai trò khơi nguồn cho dòng chảy tâm lý.
Trong truyện dài Hạnh chỉ có một sự kiện ngã xe đạp vỡ đầu và một vài chi
tiết khác, còn lại là suy nghĩ tâm trạng, cảm giác của Hạnh. Hạnh là một thanh
niên bị người đời quên lãng. Từ bé đến lớn, chàng không được hưởng sự yêu
thương chăm sóc của cha mẹ. Đến khi trở thành giáo viên mà tính nết chàng
vẫn thế. Chàng bị ngã xe đạp trên một cái dốc gần đồn điền, bị thương và
được một người trong đồn điền khiêng vào cứu chữa. Tỉnh dậy, thấy đầu được
băng bó cẩn thận và nằm trong căn phòng sạch sẽ, ấm áp, Hạnh không thấy
đau mà còn thấy khoan khoái, hạnh phúc vì sự quan tâm chu đáo của bà chủ
đồn điền và cô em gái. Tâm trạng vẩn vơ, chàng lúc nào cũng suy nghĩ, mặc cảm, trầm tư tự ti. Khi về trường, lúc nào Hạnh cũng mơ tưởng đến bà chủ và
cô em gái bà. Mấy hôm sau, chàng lấy cớ ra tỉnh để ngang qua đồn điền. Bà
chủ đồn điền trông thấy chàng, nhưng không nhận ra chàng. Nỗi buồn lại ập
đến và lan rộng tâm hồn chàng.
Có thể nói, với kiểu kết cấu tâm trạng, truyện ngắn Khái Hưng có một cái
gì đó rưng rưng, xao xuyến tâm hồn người đọc. Mỗi truyện là một mảnh tâm
74
trạng, một mảnh cuộc đời, một số phận, bởi thế, truyện ngắn của ông thấm đẫm chất trữ tình và dễ đi sâu vào lòng độc giả.
Cũng là phong cách trữ tình lãng mạn nhưng kiểu viết của Thạch Lam lại
mang đến một dư vị khác lạ. Với ba tập truyện ngắn và một số truyện in trên
các báo trong khoảng từ 1936 đến 1942, tuy số lượng không nhiều, nhưng cả
truyện ngắn theo khuynh hướng lãng mạn và truyện ngắn nghiêng về hiện
thực của Thạch Lam đều đậm chất trữ tình. Những truyện viết về tình yêu,
tình người, tình quê hương xứ sở, những vấn đề bức xúc trong đời sống của
các tầng lớp trí thức tiểu tư sản, người lao động nghèo, những vấn đề mang
tính nhân bản khác đã được Thạch Lam thể hiện trên từng thiên truyện ngắn,
qua đó định hình một phong cách nghệ thuật mới: phong cách truyện ngắn trữ
tình. Và cũng chỉ đến Thạch Lam mới có thể làm cho truyện ngắn trữ tình
thành một khuynh hướng sáng giá trên văn đàn hiện đại. Sự thành công đó đã
tạo những âm hưởng lớn có sức lan rộng, vươn xa, tác động mạnh mẽ, và
nhiều nhà văn đã bắt nhịp, cộng hưởng làm nên một dòng phong cách truyện
ngắn trữ tình đa sắc, đa thanh, đa giọng điệu.
Trong truyện ngắn trữ tình. Trong đó, vai trò chủ thể nhà văn thường rất
đậm, biểu hiện trên mọi phương diện từ tả cảnh, tả tình, tả ngoại hình đến tả
nội tâm nhân vật. Đặc điểm nổi bật của truyện ngắn trữ tình là thường không
có cốt truyện, hoặc nhà văn không chú ý nhiều đến cốt truyện như ở dạng
truyện ngắn tự sự. Nó có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình. Mối quan hệ
giữa tâm thức với "kinh nghiệm sống" được nhà văn quan tâm miêu tả tinh tế.
Ý nghĩa của truyện thường gắn với không khí, tâm trạng... được gửi gắm trong
tác phẩm. Truyện của Thạch Lam là những câu chuyện về thế giới bên trong
tâm hồn con người với những mặt khuất, bí ẩn, khó lường của nó. Thông
thường đây là những truyện phi cốt truyện và được tổ chức kết cấu theo dòng
tâm trạng, cảm giác của nhân vật. Những truyện này có thể bắt đầu bằng một cảm giác, cảm tưởng nào đó (Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Cuốn sách bỏ
quên, Dưới bóng hoàng lan, Trở về, Cô hàng xén...), có thể kết thúc bằng một
cảm giác cảm tưởng nào đó (Nhà mẹ Lê, Trong bóng tối buổi chiều...) hoặc từ
đầu đến cuối truyện chỉ là dòng cảm giác trôi chảy miên man (Buổi sớm, Hai
đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan…).
Kết thúc truyện Nhà mẹ Lê là cái chết của người mẹ khốn khổ nhưng ám
75
ảnh người đọc lại là số phận của những đứa con. Dường như cái chết chầm chậm dai dẳng đang đến với đàn trẻ và cả những người nghèo nơi đây. Khép
lại những trang cuối của Cô hàng xén, ấn tượng về những chuỗi ngày mệt
nhọc, những lo âu của nhân vật không kết thúc mà lại nối tiếp và chắc chắn sẽ
ngày càng nặng nề hơn. Những dòng cuối cùng của truyện Đói gieo vào lòng
người đọc rất nhiều day dứt về cuộc sống tiếp theo của hai vợ chồng Sinh. Họ
sẽ sống như thế nào sau những đổ vỡ tâm hồn ghê gớm? Đọc xong Cái chân
què, người đọc càng lo âu hơn khi nhân vật mang thân mình tàn phế, tâm hồn
đầy thương tích và tiền sinh sống đã bị cuốn hết theo những cuộc chơi thâu
đêm suốt sáng. Với kiểu kết thúc mở như thế, truyện của Thạch Lam tuy
không có cốt truyện nhưng rõ ràng dấu ấn để lại trong lòng người đọc khá sâu
đậm. Nhà văn luôn có sự cố tâm lí để làm nảy sinh cảm giác, tâm trạng. Đó
thường là một sự kiện nào đó có ý nghĩa khơi mào dòng tâm trạng cảm giác
trong nội tâm nhân vật. Một cái ví có những tờ giấy bạc để hớ hênh; đứa con
đầu lòng ra đời; cây hoàng lan râm mát và ngan ngát hương thơm; một chuyến
tàu đêm đi qua phố huyện, cái đói và miếng thịt hồng hào béo ngậy, miếng
bánh thơm phức; gió lạnh đầu mùa tràn về khi tiết trời còn oi bức; tiếng chim
kêu ngoài trời mưa lạnh buốt... Tất cả đều có giá trị gợi mở thế giới tâm trạng
cảm giác, tạo cho con người nhận thức và cảm thụ về sự sống của thiên nhiên,
xã hội của chính mình.
Đứa con đầu lòng là truyện tiêu biểu cho kết cấu tâm lí. Truyện không có
cốt truyện, chỉ có một tình huống truyện duy nhất - kiểu tình huống thử thách
lương tâm và nhân cách. Đó chỉ là chuyện về tình cảm của người cha khi đứa
con đầu lòng ra đời. Với tình huống này, có thể có những cách xử lí quen
thuộc: hoặc là kể về những niềm hạnh phúc vô bờ khi được làm cha với bao
tình âu yếm nâng niu con trẻ; hoặc là kể về những vất vả gian nan khi phải
nuôi con trong cảnh túng quẫn... Thạch Lam lại có cách xử lí tình huống khá lạ. Ông lần lượt kể về những thay đổi trong tâm hồn, tình cảm của một người
cha bằng búp pháp miêu tả tình cảm tỉ mỉ, điềm tĩnh, rạch ròi. Không gian
truyện khá hẹp, chuyện trong gia đình với những công việc bận rộn không tên
khi chăm sóc trẻ nhỏ. Thời gian truyện cũng chỉ ít lâu sau khi đứa con ra đời.
Sẽ rất khó khăn cho nhà văn nếu không tổ chức được một kết cấu hợp lí với
một truyện chẳng có gì đáng gọi là "chuyện" để kể như vậy. Nhà văn phát
76
triển mạch truyện theo những diễn biến tâm lí của nhân vật chính. Khi đứa con sắp chào đời, Tân đã lo lắng như lửa đốt trong lòng. Chàng hồi hộp mong
ngóng chờ đón con đầu lòng như bất cứ người cha nào. Nhưng trong thực tế,
tâm trạng Tân lại không diễn ra như chàng vẫn tưởng. Đứa con chàng mong
đợi lúc đó chỉ là "một vật gì đỏ hỏn đang động đậy". Nó gợi cho chàng sự tò
mò, ngạc nhiên, xa lạ hơn là cảm giác gắn bó máu thịt. Nhìn cái đầu bé phủ
tóc đen và mượt, "Chàng thấy một cảm tưởng lạ, không rõ rệt, nảy nở trong
lòng [...] Tân không cảm động như chàng tưởng và không có một tình cảm gì
đối với đứa con mới đẻ". Người cha trẻ tuổi chưa thể tìm được mối liên hệ gắn
bó khăng khít với đứa con "lúc nào cũng quấn kín trong miếng vải trắng và
nhắm mắt ngủ kĩ". Nếu người mẹ sung sướng trước những đổi thay hàng ngày
hàng giờ của con, thì người cha chỉ thấy ngạc nhiên, thậm chí có lúc còn khó
chịu vì bị phiền hà. Tình cha con chỉ được đánh thức bởi một sự cố tâm lí.
Chính tiếng khóc nức nở của vợ trước hành động cáu giận vô lí của chồng đã
làm chàng chợt tỉnh, nhận ra sự vô lí của mình. Ngắm nhìn đứa con sạch sẽ
hồng hào chàng thấy trong lòng một mối cảm động êm đềm và phiền phức.
Cảm giác xa lạ tự tan biến dần và thay bằng những tình cảm gắn bó yêu
thương. "Tân cảm thấy lần đầu tiên cái thiêng liêng sâu xa của sự sống, và
cảm thấy chính những cái bé nhỏ, hèn mọn hằng ngày nó phá hoại cuộc đời.
Tình cảm cha con mang đến cho chàng những "những rung động khẽ như cánh
bướm non". Một tình cảm sâu xa và mới mẻ chưa từng thấy. Thạch Lam đã
mang đến cho người đọc một khám phá bất ngờ về bí mật tâm hồn. Tình cảm
giữa con người dù là tình cha con cũng cần phải có thời gian để gắn bó yêu
thương. Điều này phù hợp với quy luật tâm lí. Để diễn tả những cung bậc khác
nhau của tâm hồn như thế, nhà văn đã trao quyền kể chuyện cho nhân vật. Cách
trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật đã phát huy lợi thế. Bí mật trong tâm
hồn của người đàn ông lần đầu làm cha được phô diễn một cách thành thực.
77
Hai đứa trẻ cũng để lại cho người đọc nhiều ám ảnh. Truyện về hai đứa trẻ và những người dân ở một phố huyện nhỏ hàng ngày cố thức đợi một chuyến tàu đêm đi qua sẽ không làm người đọc trăn trở nếu không tìm được cách kể chuyện hợp lí. Không gian truyện là phố huyện yên tĩnh, đầy bóng tối lúc chiều đêm buông xuống. Đây là không gian sống của những kiếp người nghèo khó âm thầm. Liên và An phải xa Hà Nội vì thầy thất nghiệp, về sống quẩn quanh với gian hàng tạp hoá nhỏ xíu. Mẹ con chị Tí quẩn quanh với việc mò cua bắt ốc và bán hàng nước trước cửa ga mỗi đêm. Bác phở Siêu ngày
78
ngày nhẫn nại gánh trên vai món hàng ế ẩm trên những nẻo đường đất gập ghềnh. Gia đình bác Xẩm tụm lại trên manh chiếu rách với tiếng đàn bầu rung bần bật trong bóng tối nghe thê thiết, não nùng. Cụ Thi hơi điên với tiếng cười khanh khách đi vào trong bóng tối. Không gian đó cô đặc những cảm giác buồn tẻ, cảm giác tàn lụi. Thời gian cũng chỉ từ chập tối tới đêm khuya. Thời gian của một ngày mà có sức gợi thời gian của cả một kiếp sống triền miên lay lắt như ngọn đèn con của chị Tí. truyện dường như không có cốt truyện, Hai đứa trẻ là một thế giới cảm giác trôi chảy theo dòng tâm trạng của Liên. Cảm giác về thiên nhiên êm ả nơi phố huyện, cảm giác về tình người chân chất bàng bạc vào thời khắc bình lặng của cuộc sống, cảm giác về những rung động của tâm hồn trẻ thơ với ước mơ chập chờn tươi sáng, và ám ảnh nhất là cảm giác về kiếp sống hiu hắt, đơn điệu, âm thầm trong bóng tối. Ngày qua ngày, vẫn chừng ấy con người, chừng ấy công việc. Họ sống cầm chừng trong bóng tối, nuôi niềm hi vọng mơ hồ mong manh về "một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Sự kiện duy nhất trong truyện và cũng là sự kiện rộn rã duy nhất trong một ngày dài chỉ là chuyến tàu ngang qua lúc đêm khuya có giá trị khơi sâu thêm tâm trạng. Chuyến tàu đầy âm thanh và ánh sáng như mang một thế giới khác đi qua nơi đây. Chuyến tàu như niềm hi vọng, là nguồn sống cho những kiếp người không biết gì đến ánh sáng và tương lai, đến ước mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu vụt qua phố huyện tiêu điều mỗi đêm. Kết thúc truyện là tâm trạng của cô bé Liên tự cảm thấy "mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" làm cho người đọc càng day dứt. Đâu đây trong cuộc đời này vẫn có những kiếp người sống âm thầm tàn lụi, sống ngoài âm thanh náo nhiệt của cuộc đời. Câu chuyện theo dòng tâm trạng của cô bé Liên, nhà văn kết hợp viền nổi nên những hồi ức liên tưởng về một quá khứ tươi sáng ở Hà Nội đầy âm thanh và rực rỡ ánh đèn đối lập với phố huyện tiêu điều xơ xác, và nỗi luyến tiếc "nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre". Tuy chuyến tàu là sự kiện duy nhất có giá trị khơi dậy dòng tâm trạng nhưng vẫn ẩn chứa sự thiếu vắng trống trải mênh mang vì chuyến tàu "đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Chuyện được kể với lời văn đầy chất thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, chất trữ tình ấy đem lại sự ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí bạn đọc.
Tuỳ thuộc khuynh hướng truyện ngắn đậm chất trữ tình, nhưng mỗi nhà
văn lại có những phương thức biểu hiện khác nhau. Khái Hưng chú trọng
nhiều đến những tình tiết diễn biến câu chuyện. Truyện ngắn Thạch Lam đi
giữa đôi bờ hiện thực và lãng mạn, có truyện nghiêng hơn về bên này hoặc
bên kia nhưng đều dưới tầm kiểm soát của một nhà văn đã trưởng thành, am
hiểu cuộc sống, thấu hiểu mọi lẽ đời của nhiều tầng lớp người, được bộc lộ
dưới cái nhìn khiêm nhường, ẩn trong những con người bình thường, những
việc hàng ngày, quanh truyện không có gì đặc biệt, sự kiện và biến cố không
nhiều, chỉ là những mảng tâm trạng, hồi ức nhưng qua đó cái lắng đọng, dư
tình miên man không dứt.
3. 2. Ngôn ngữ
Mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng một loại chất liệu riêng để xây dựng
hình tượng.
Ngôn ngữ là chất liệu của văn học. Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Mỗi nhà
văn có một nghệ thuật sử dụng ngôn từ tuỳ theo sở trường thị hiếu, tâm lý, cá
tính,... để hình thành phong cách riêng của nhà văn đó. "Nếu tác giả nào không
có lối đi riêng thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả" (Sêkhốp). Thời kỳ
1930 - 1945, bên cạnh các nhà văn hiện đại đã khẳng định được rõ rệt phong
cách giọng điệu riêng như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,
Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân,... Khái Hưng và Thạch Lam nổi lên là
những cây bút điêu luyện về sử dụng ngôn từ với cách viết tài hoa, độc đáo.
3.2.1. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện, lời ngƣời trần thuật Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ người kể chuyện là yếu tố đóng vai
trò quan trọng cơ bản để bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, nêu bật tính
cách của nhân vật. Trong thần thoại, cổ tích, câu chuyện thường được kể dưới dạng "vô nhân xưng", người kể thường ít để lại dấu vết riêng của mình. Dần dần,
người kể chuyện xuất hiện với tư cách cá thể. Đặc biệt từ văn học lãng mạn trở đi,
tiếng nói của người kể chuyện đóng một vai trò quan trọng trong cách thức tổ chức
tác phẩm của nhà văn. Nó thể hiện khá rõ phong cách nghệ thuật cũng như quan
niệm nghệ thuật của nhà văn ấy.
Trong truyện ngắn Khái Hưng, người kể chuyện có khi xuất hiện ở ngôi
79
thứ nhất, có khi lại xuất hiện qua lời nói của nhân vật. Như vậy, người kể chuyện trong tác phẩm Khái Hưng xuất hiện khá linh hoạt. Trong nghệ thuật
truyện ngắn, người kể chuyện có vai trò dẫn dắt câu chuyện, tạo mạch truyện.
Đứng ở ngôi thứ nhất, giọng người kể chuyện thường theo sát cốt truyện, nhân
vật, tạo một khoảng cách cần thiết với truyện kể. Trong tư cách này, Khái
Hưng thường tỏ ra khách quan kể lại các hành động, sự kiện của nhân vật:
"Hết hè, nhà Pháp và nhà Hoàn nhộn nhịp sắm sửa" (Thời chưa cưới); "Nửa
giờ sau, ông Chánh tổng và ông Lý trưởng đưa mấy chục tuần đinh ập vào nhà
tôi đi lùng khắp các xó vườn để tìm cướp" (Hai người tàn tật)... Nhưng bản
thân những lời kể tưởng như vô nhân xưng lại luôn in bóng dáng trần thuật.
Trong truyện Cái Ve, cùng kể về ông giáo Thanh nhưng thái độ xử sự của mỗi
nhân vật lại khác nhau. Chân dung của nhân vật Thanh được dựng lại qua
điểm nhìn của các nhân vật trong truyện, những người thợ không ưa Thanh,
cho Thanh là "một người kiêu ngạo, ít nói, vui buồn không để lộ ra mặt"; còn
Ve thì kính trọng, quý mến ông giáo Thanh... Những suy nghĩ khác nhau về
nhân vật chính là tình huống truyện tác giả dẫn dắt người đọc.
Mặc dù Khái Hưng cố không lộ diện và không tỏ ra mình là người dàn
xếp sự kiện mà chỉ là người ngoài cuộc, giám sát viên của câu chuyện. Tuy
vậy, mặt khác, nhà văn lại hoá thân vào nhân vật để giải quyết các tình huống
truyện. Trong truyện ngắn Linh hồn, lúc nhân vật "tôi" cảm nhận về gia đình
Trinh, cũng là lúc người kể chuyện xuất hiện dưới vỏ bọc của nhân vật "Trinh
- ông tham Trinh, người đương ngồi đối diện với tôi, hai người bạn cùng bàn
giấy với Trinh và vợ Trinh - một người đàn bà vào trạc tuổi Trinh, nhưng gầy
hơn, già hơn, và hình như từng trải cuộc đời nhiều hơn. Da mặt đầy những nét
răn và những nốt tàn hương mà lượt phấn khá dầy không lấp kín, cặp mắt cân
đối và có lẽ khi xưa sắc sảo lắm, nay đã mờ xạm như không có tinh thần, tuy
hai cái lông mi vẽ vòng bán nguyệt và hai cái quầng mắt đánh chì đen cố làm cho nổi bật lên: cặp môi dài và mỏng lúc nào cũng như cắn khít lấy nhau và
cái hình trái tim vẽ đè lên bằng sơn đỏ không che hết màu xám nhạt còn hở
hai bên mép. Đó đều là những tang chứng hơn mười năm hoan lạc giang hồ".
Nhận xét nhân vật người vợ, Khái Hưng để cho người kể chuyện khách quan
ghi lại để dẫn dắt đến cá tính sau này.
Khi vai trò kể được chuyển về cho nhân vật, điểm nhìn cũng thay đổi.
80
Trong truyện ngắn Linh hồn, ngôn ngữ kể chuyện không chuyển sang ngôi thứ ba mà vẫn ở ngôi thứ nhất. Đây là lời của Trinh kể về vợ mình chứ không phải
là lời vợ Trinh nói: "Nhà tôi lại hơi se sẽ gật. Tôi nhớ đến lời dối dăng, liền
ghé tai sát vào miệng nhà tôi. Tức thì như từ thế giới bên kia đưa lại, mấy
tiếng thì thầm nghe mơ hồ, ghê sợ: Em Thu, em Lan... cậu trông nom cho tôi”.
Nhà văn thông qua hồi ức của nhân vật trình bày ý kiến của mình. Hình thức
tường thuật gián tiếp này khiến cho thiên kiến của nhà văn được giấu đi. Cũng
có khi người kể chuyện mượn lời một nhân vật kể về một nhân vật khác là đối
tượng chính của truyện. Hình thức này một mặt đảm bảo được tính khách
quan của câu chuyện, mặt khác tạo được độ tin cậy của người trong cuộc. Đó
là lời của nhân vật "tôi" khi bàn luận về vợ chồng người ăn xin, bán muối với
tư cách là người chứng kiến: "Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức
của nhau, như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày và mong nhớ nhau từng
phút từng giây... Bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hết những sự việc đã xảy
ra trong mấy giờ đồng hồ đi làm ăn. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng
lại thêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích
cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ... Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như
chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục..."
(Người vợ mù). Lời kể của tác giả giúp người đọc tiếp cận được nhân vật hết
sức tự nhiên. Tuy nhiên, đọc kỹ, chúng ta vẫn thấy tác giả lộ diện trong trường
hợp này. Tác giả tôn trọng tình cảm của hai vợ chồng người bán muối. Ông
quý mến họ một cách thành thực, chân tình. Hay nói chính xác, việc người
dẫn truyện mượn lời nhân vật khác kể về nhân vật của mình hết sức dễ nhận
biết thông qua cách kể độc lập.
Ở nhiều truyện ngắn khác, người kể chuyện cũng trực tiếp tham gia vào
mạch truyện nhưng dưới hình thức trữ tình ngoại đề hoặc những câu bình
luận. Đang suy tư theo cảm xúc của Linh trong Đợi chờ, tác giả lộ ra một lời khác với mạch cảm xúc: "Kẻ ở, người đi, rồi hiện tại sẽ thành dĩ vãng, sẽ
thành một kỷ niệm như cành quýt mà Phụng đã đem về nhà giữ làm kỷ niệm”,
nhờ vậy giọng trần thuật trong tác phẩm có tính triết lý vừa già dặn, suy tư
vừa mang tính lãng mạn.
Khi người kể chuyện hoá thân ở tầng sâu nhất của đời sống nội tâm nhân
vật thì truyện ngắn có sức thuyết phục đáng kể. Đó là trường hợp ngôi thứ
81
nhất và ngôi thứ ba nhiều khi hoà lẫn vào nhau. Nhiều khi nhà văn đã hoá thân vào cuộc đời nhân vật, đó là trường hợp diễn tả tâm trạng. Ngoài ra, qua ngôn
ngữ người kể chuyện, Khái Hưng còn nhằm trực tiếp đánh giá nhân vật, đem
lại cho người đọc một nhận thức nhất định về nhân vật phù hợp với nhận thức
của mình. Cùng với các nhân tố khác, ngôn ngữ người kể chuyện cũng là một
nhân tố quan trọng tạo thành tính cách hoàn chỉnh, góp phần thể hiện tính
cánh nhân vật rõ nét. Nhân vật Sư Tuệ trong truyện ngắn cùng tên được tác
giả nhận xét: "Thường thường thì nhà sư giữ vẻ mặt bình thản, không phải
bình thản kiêu căng của hạng người tự đắc mà bình thản tự nhiên của một tâm
hồn nhũn nhặn".
Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn Khái Hưng đã bắt đầu
mang cá tính rõ nét. Nó thể hiện một cách tinh tế tâm lý nhân vật. Các nhà văn
lãng mạn là những người đặc biệt chú ý đến cảm giác, đánh thức cảm giác,
bởi thế ngôn ngữ của họ khiến đối tượng hiện lên cụ thể, sinh động, người đọc
như "nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy" được. Đây là một đóng góp của Khái
Hưng nói riêng và của Tự lực văn đoàn nói chung. Trong lời văn nghệ thuật
của Thạch Lam lại có sự khác biệt, lời trần thuật chiếm ưu thế gần như tuyệt
đối cả về số lượng và chức năng miêu tả, tự sự, biểu hiện. Trong những truyện
kể theo điểm nhìn tác giả thì lời văn chủ yếu là lời của tác giả nhập thân vào
nhân vật mà kể như Cô hàng xén, Hai đứa trẻ, Đứa con đầu lòng... Trong
những truyện kể theo điểm nhìn của nhân vật xưng "tôi" thì lời văn thành lời
độc kể của nhân vật như ở Sợi tóc, Người đầm, Một cơn giận, Tình xưa... Hơn
nữa nhân vật của Thạch Lam ít đối thoại, ít hành động. Số phận, tính cách, nội
tâm của nhân vật chủ yếu được thể hiện qua lời tự sự, miêu tả của tác giả hay
người kể chuyện. Do vậy lời trần thuật chiếm ưu thế gần như tuyệt đối trong
lời văn của Thạch Lam.
Lời trần thuật của Thạch Lam có xu hướng tránh xa tính văn chương bác học, vươn tới cái bình dị của đời sống hàng ngày. Nhà văn vốn không ưa dùng
lối diễn đạt bằng những "đại ngôn tráng ngữ", không ưa sự cầu kì uốn éo làm
duyên, thừa thãi lời chữ. Ông ưa dùng lối diễn đạt giản dị, gọi đúng tên đúng
bản chất của sự vật hiện tượng. Trong lời văn, chúng ta thường gặp cách nói
giản dị gần gũi với cách nói của đời sống hàng ngày. Ví dụ như: "Nàng chỉ cúi
mặt khóc. Khi thấy Tâm thất vọng quay đi, nàng đau đớn uất ức như đứt từng
82
khúc ruột"; "Bà cụ đay nghiến nhiếc móc nàng bằng những lời chua cay" (Một đời người); "Anh trở lại với cái nghèo nàn như cũ, với những cái thiếu thốn
của kẻ không tiền. Nhưng tâm hồn anh đã rớm máu bi thương, lòng anh bây
giờ không như trước nữa" (Cái chân què); "Khốn nạn cho Dung, từ bé đến
nay không phải làm công việc nặng nhọc, bây giờ tát nước, nhổ cỏ, làm lụng
đầu tắt mặt tối suốt ngày" (Hai lần chết)... Nhờ sử dụng cách diễn đạt giản dị
đời thường, nên lời văn của Thạch Lam đã tránh được sự cầu kì hoa mĩ vốn là
nhược điểm của một số tác phẩm trong Tự lực văn đoàn.
Từ hứng thú miêu tả con người với đời sống nội tâm phiền phức, nhà văn
đã lựa chọn cách trần thuật theo điểm nhìn nhân vật. Người bạn cũ, Người bạn
trẻ, Người lính cũ, Đứa con, Người đầm, Một cơn giận, Tiếng chim kêu, Sợi
tóc, Tình xưa, Cái chân què, Dưới bóng hoàng lan... là những truyện được kể
theo lời của nhân vật "tôi". Nhà văn đã thâm nhập vào thế giới tâm hồn của
nhân vật, miêu tả theo cái nhìn của nhân vật, từ đó mở ra khả năng đi vào thế
giới nội tâm bí mật bên trong. Khi trần thuật theo điểm nhân vật - điểm nhìn
bên trong, hiệu quả thẩm mĩ, giá trị nhân văn được tăng lên Đây thường là
những tự truyện kể về những "sự cố nội tâm", những "vụ việc" xảy ra trong
quá khứ. Chúng được kể lại bằng những lời tự thú, sám hối của nhân vật. Mặt
khác, đây cũng là những truyện mang dáng dấp luận đề tâm lí. Những diễn
biến tâm lí thầm kín trong cõi sâu của tâm hồn nhân vật được bộc lộ qua điểm
nhìn từ bên trong. Qua những diễn biến tâm lí đó, người đọc có thể tự rút ra
những bài học. Như người ta có thể phụ tình dễ dàng (Tình xưa); có thể bạc
bẽo với bạn cũ dễ dàng (Người bạn cũ); có thể sa cơ lỡ vận dễ dàng (Người
lính cũ, Người bạn trẻ); có thể buông thả chuốc lấy bi kịch đau đớn dễ dàng
(Cái chân què); có thể tàn ác một cách dễ dàng (Một cơn giận)... Những tư
tưởng luận đề như vậy sẽ kém thuyết phục nếu không phải do một người đã
từng nếm trải, chiêm nghiệm tự kể lại nông nỗi của mình; nếu không được chứng minh qua những diễn biến tâm lí phức tạp trong tâm hồn.
Trong Một cơn giận, người kể chuyện là nhân vật Thanh. Anh tự kể lại
một kỉ niệm đáng buồn của mình, chỉ vì một cơn cáu giận vô cớ mà gây nên
hậu quả đau lòng cho gia đình người phu xe nghèo khó. Nhà văn đã để cho
toàn bộ trạng thái tâm lí trong cõi sâu của tâm hồn Thanh được bộc lộ. Thanh
đã trút cơn cáu giận vô cớ lên đầu người phu xe, bực tức, gắt gỏng, giận dỗi
83
trước bất cứ cử chỉ nào của con người khốn khổ: từ cách kì kèo xin thêm hai xu, đến việc chỉ hạ càng xe đứng nguyên chứ không kéo về phía anh, khó chịu
với cả cái xe đệm cứng như gỗ... mà không tự nhận ra những cử chỉ vô lí của
chính mình. Nội tâm nhân vật được mở ra, cho thấy cái phần khó chịu nhất
trong con người mà bình thường không mấy khi bộc lộ. Vì cáu giận vô lí mà
Thanh thành tàn ác. Anh phớt lờ gương mặt già nua hốc hác tái mét của người
phu xe, phớt lờ giọng nói van xin tội nghiệp của một con người khốn khổ. Chỉ
qua cách trần thuật bằng lời nhân vật, thâm nhập vào tâm hồn nhân vật, nhà
văn mới có thể để cho nhân vật tự thú về sự tàn ác của mình không gượng
gạo, không giấu giếm. Đặc biệt, qua điểm nhìn đó, có thể thấy mọi hành động
của nhân vật đều không thuộc về bản chất, và cũng không thể lí giải được căn
nguyên. Nó chỉ là kết quả của một hiện tượng tâm lí bất thường. Sự ăn năn,
hối hận từ tận đáy lòng của Thanh mang đến cho người đọc niềm tin, sự cảm
thông. Nhà văn đã để cho người đọc cùng nếm trải mọi cảm giác cáu giận, tức
bực rồi ăn năn, sám hối với nhân vật. Truyện ngắn của Thạch Lam tuy đề cập
tới vấn đề đạo đức nhưng không nặng nề những điều giáo lí, bởi nhà văn để
cho nhân vật tự kể, tự suy ngẫm lại. Truyện Sợi tóc cho thấy cái thiện và cái
ác luôn tiềm ẩn trong con người như một lẽ tự nhiên và ranh giới chỉ là sợi
tóc. Truyện Người đầm lại được kể từ giọng của nhân vật "tôi". Không hề áp
đặt theo cách nhìn của riêng ai, Thạch Lam đã để cho nhân vật được lên tiếng.
Nhân vật được độc thoại với dòng suy nghĩ tưởng tượng của riêng mình.
Người phụ nữ Pháp ngồi ở ghế hạng nhì trong rạp chớp bóng, qua cái nhìn
đầy thiện cảm của nhân vật "tôi" trở nên nhỏ bé, buồn lặng, rất thân thiện, lịch
thiệp, khác với cái nhìn đầy ác cảm của những người xung quanh dành cho bà.
Nhân vật tự tưởng tượng người đàn bà ngoại quốc có hoàn cảnh tội nghiệp:
chồng chết, phải xa quê. Những tưởng tượng đầy cảm thương đó khiến bà
thành hiện thân của cái đẹp hiền lành, lạc lõng, cô đơn nơi đất khách quê người. Thạch Lam thể hiện được thiện chí của mình với người đàn bà vốn
được coi là "thực dân cái" (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Đó là cái nhìn "nhân
loại chung", chứ không phải là cái nhìn giai cấp, dân tộc.
Lời trần thuật qua nhân vật là cách thức còn khá mới mẻ trong văn học
những thập niên đầu thế kỷ XX. Việc di chuyển điểm nhìn vào bên trong đã
tạo cho nhà văn cơ hội thâm nhập vào thế giới tâm hồn của nhân vật, tiến tới
84
khám phá bề sâu tâm hồn con người. Khoảng cách giữa tác giả và nhân vật được rút ngắn tối đa, gần như song trùng. Điều này mở ra khả năng cảm nhận
những biến đổi vi diệu trong tâm hồn con người và tài năng diễn tả cảm xúc,
cảm giác tinh tế của Thạch Lam.
Một số truyện của Thạch Lam được trần thuật theo điểm nhìn tác giả như
Hai lần chết, Trong bóng tối buổi chiều, Cô hàng xén, Một đời người, Cái chân
què, Đứa con... Đây là những truyện thiên về hướng ngoại, kể về cuộc đời nhân
vật với những nỗi buồn đau bất hạnh. Hai lần chết là truyện ngắn tiêu biểu cho
lối trần thuật theo điểm nhìn tác giả. Tách hẳn ra ngoài những sự kiện, người kể
chuyện điềm tĩnh kể về cuộc đời của cô Dung từ tấm bé đến lúc đi lấy chồng
với bao thua thiệt bất hạnh. Ở nhà, Dung chịu thua thiệt vì không được cha mẹ
quan tâm; về nhà chồng Dung chịu khổ sở, tủi nhục vì bị cả nhà chồng hắt hủi,
đay nghiến cho bõ với những đồng tiền mà họ phải bỏ ra mua dâu. Tuy còn rất
trẻ nhưng Dung đã hai lần chết: từ cái chết hụt về thể xác dẫn đến cái chết của
tâm hồn "chết không bấu víu vào đâu, chết không còn mong ai cứu vớt". Nhà
văn đã tạo ra khoảng cách trần thuật cần thiết để giữ được giọng khách quan khi
kể về những khổ đau của một con người. Vì vậy nội dung truyện có sức thuyết
phục hơn, có khả năng gợi sự cảm thông, đồng vọng từ người đọc hơn. Người
đọc có thể thấy rõ những thua thiệt của nhân vật, những nỗi uất ức, tủi nhục
sừng sững đè lên cuộc đời một người phụ nữ nhỏ nhoi.
Không phải ngẫu nhiên khi kể về những nhân vật người dân nghèo,
người lao động, người phụ nữ tần tảo bất hạnh, Thạch Lam khai thác lối trần
thuật theo điểm nhìn tác giả. Điều này trước hết có liên quan đến nội dung của
tác phẩm. Khó có thể tưởng tượng rằng những nhân vật như mẹ Lê (Nhà mẹ
Lê), cô Tâm (Cô hàng xén), cô Liên (Một cuộc đời), cô Dung (Hai lần chết)
lại có lúc nào đó tự kể chuyện, tự than thở về mình. Chính nhân cách nhân vật
không cho phép họ tự nói về mình. Trong những trường hợp như thế, kể chuyện theo điểm nhìn tác giả là sư lựa chọn hợp lí.
Trong những truyện Một đời người, Đứa con, người kể chuyện là nhân
vật xưng "tôi". Tuy nhiên, người kể chuyện không hề tham gia trực tiếp vào
diễn biến truyện, không phải là tác nhân của những biến cố, sự kiện trong
cuộc đời nhân vật chính. Họ chỉ xuất hiện bên cạnh nhân vật chính để quan
sát, miêu tả, kể lại một cách khách quan. Trường hợp này cũng có thể coi là
85
cách trần thuật theo điểm nhìn tác giả. Một đời người kể về những khó khăn bất hạnh trong cuộc đời Minh, một người suốt đời khổ sở về đồng tiền. Người
kể chuyện đã quan sát và thuật lại những biến cố trong cuộc đời người bạn của
anh. Sống thiếu thốn từ bé nên Minh rất khao khát kiếm tiền. Là người không
gặp may nên anh luôn thất bại, luôn túng thiếu. Khi bị tai nạn, bị cưa mất một
chân, anh rơi vào những ngày tuyệt vọng lo âu chỉ thấy tương lai mù mịt đen
tối. Khi có được một vạn đồng, tiền bồi thường tai nạn anh đã mân mê tha
thiết, sương sướng đến nghẹn ngào. Dùng đồng tiền làm phương tiện thụ
hưởng và trả thù đời, Minh lao vào những cuộc chơi. Đến khi hết tiền, mang
thân hình tàn phế, anh càng thấu rõ sự trớ trêu đen bạc của thói đời. Từ điểm
nhìn tác giả, nhà văn đã tạo một khoảng cách nhất định với nhân vật chính,
người kể chuyện đã có một thái độ khách quan khi trần thuật. Thái độ đó sẽ
truyền tới người đọc khi suy ngẫm về lẽ đời, về cái giá của những hạnh phúc
và mất mát do chính đồng tiền mang đến cho con người.
Thành công của Thạch Lam không chỉ ở việc chọn vị trí kể chuyện thích
hợp mà còn do nhà văn đã phối hợp các điểm nhìn trần thuật tạo nên sự đa
thanh hấp dẫn cho truyện. Ông thường phối hợp giữa điểm nhìn tác giả và
điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài, kết hợp với
điểm nhìn không gian và thời gian. Trong truyện của ông bên cạnh điểm nhìn
chính có điểm nhìn bổ sung, bên cạnh tiếng nói của nhân vật có tiếng nói của
tác giả... Vì vậy mà một số truyện của Thạch Lam đã tiếp cận được tới nghệ
thuật kết cấu trần thuật hiện đại. Đói là truyện ngắn mà điểm nhìn tác giả
chiếm ưu thế. Nhà văn kể một cách khách quan về chuyện chàng trí thức thất
nghiệp. Những nỗi khổ sở của nhân vật trong cảnh nghèo, khi bị cái đói giày
vò, ghen tuông giận dữ, ăn ngấu nghiến thức ăn vợ mang về... tất cả được hiện
lên qua cái nhìn tác giả. Nhưng đó chỉ là "nền cảnh" để diễn biến tâm lí nhân
vật bộc lộ qua điểm nhìn bên trong, điểm nhìn nhân vật. Từ điểm nhìn đó, người đọc có thể chia sẻ cùng nhân vật tình thương vợ, bao nỗi uất ức nghẹn
ngào, căm giận cho số phận của mình, và cả cơn giận dữ tột cùng khi biết vợ
bán mình. Nhờ sự đan xen giữa hai điểm nhìn, nhà văn đã dẫn dắt người đọc
vào thế giới tâm hồn nhân vật. Bên cạnh nỗi đau tột đỉnh của tâm hồn thanh
cao bị xúc phạm ghê gớm, lại có cả sự hèn yếu của một con người bình
thường phải tuân theo nhu cầu bản năng.
86
Viết Hai đứa trẻ, nhà văn muốn truyền cho bạn đọc sự chia sẻ với kiếp người bất hạnh. Đọc truyện, cảm giác buồn tẻ về kiếp đời lầm lụi trong bóng
tối vây bọc lấy tâm hồn độc giả. Người kể chuyện đã từ điểm nhìn bên ngoài,
tách ra khỏi nhân vật để quan sát và thuật lại những cảnh đời một cách khách
quan: hai đứa trẻ cả ngày bán hàng ế ẩm, mẹ con chị Tí trông đợi vào gánh
hàng nước nghèo nàn, tiếng đàn bầu của bác Xẩm não nùng, không có khách
nghe, gánh hàng của bác phở Siêu thành thứ quà xa xỉ nơi phố nghèo... Con
người sống mãi trong cảnh buồn tẻ, hoà trong nhịp sống uể oải đơn điệu lâu
ngày thành thói quen, nên khó có thể tự thấm thía hết nỗi tù túng của cuộc đời
mình. Chỉ có người ngoài cuộc mới nhận thấu nỗi buồn của cuộc sống thiếu
ánh sáng, vắng âm thanh của những con người đến ước mơ cũng không biết
mơ gì hơn một chuyến tàu đêm qua phố huyện. Vì vậy mà điểm nhìn tác giả
được nhà văn lựa chọn đã thực sự phát huy hiệu quả nghệ thuật. Mặt khác
cũng có lúc, nhà văn dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật, trần thuật
theo điểm nhìn của nhân vật Liên, nhằm khắc hoạ dòng tâm trạng trôi chảy
miên man. Đó là cái nhìn đầy tâm trạng của Liên trong giờ khắc ngày tàn.
"Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn chiều quê thấm thía vào tâm
hồn ngây thơ của cô, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác
trước cái giờ khắc của ngày tàn". Hay cảm giác nhỏ bé của Liên khi chị thấy
"mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tý
chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ". Với lối trần thuật kết hợp giữa điểm nhìn
tác giả và điểm nhìn nhân vật, Thạch Lam đã tạo chiều sâu cho tác phẩm, góp
phần tạo nên chất trữ tình man mác trên từng trang văn. Hơn nữa, việc di
chuyển điểm nhìn vào bên trong cũng tạo cho nhà văn cơ hội thâm nhập vào
thế giới tâm hồn của nhân vật, khám phá thế giới cảm giác mơ hồ mong manh
vốn rất khó nắm bắt ấy.
3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật Trong tác phẩm văn học, thông thường ngôn ngữ nhân vật chiếm tỷ lệ
nhỏ hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện, nhưng nó lại có khả năng tái hiện
một cách sinh động trực tiếp tâm lý nhân vật, trình độ văn hoá, kinh nghiệm
cuộc sống và cá tính nhân vật.
3.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại
"Đối thoại là lời trong cuộc sống giao tiếp song phương mà lời này xuất
87
hiện như là phản ứng đáp lại lời nói trước" [21]. Đối thoại trong tác phẩm văn học có thể hiểu là một phần trong nghệ thuật ngôn từ, một thành tố mà chức
năng là tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của các nhân vật. Đối thoại nghệ thuật
khác với đối thoại thông thường do sự chi phối của vai trò người trần thuật.
Nếu như đối thoại thông thường các tham thoại của các cặp trao đáp hoàn toàn
ở thế tự chủ khách quan thì đối thoại trong nghệ thuật nhất định phải được
khúc xạ tinh vi qua sự điều phối của người trần thuật. Như vậy, đối thoại nghệ
thuật là hình thức mới của đối thoại khách quan và trong hình thức mới của nó
đối thoại nghệ thuật thường được nhìn nhận không đơn giản ở góc độ ngôn
ngữ là các lời phát ngôn giao tiếp qua lại giữa các chủ thể mà rộng hơn, nó
phải được xem xét như một phương diện nhằm khám phá nghệ thuật thể hiện
cuộc sống của nhà văn.
Truyện ngắn Khái Hưng đã tái hiện một cách khá sống động chân dung
của nhiều loại người qua ngôn ngữ của họ: đó là tầng lớp trí thức tiểu tư sản,
người dân nghèo, trẻ nhỏ... Ông luôn có ý thức sử dụng ngôn ngữ để khắc hoạ
tính cách nhân vật. Lời lẽ của từng loại nhân vật được ông miêu tả xác đáng,
hợp lý. Người nông dân lúc nào cũng mang tâm lý tự ti, lo sợ, rụt rè, luôn hiện
lên với những ngôn từ thể hiện sự tội nghiệp, đáng thương nhất; trái lại, bọn
nhà giàu, địa chủ hách dịch, trịch thượng. Đây là ngôn ngữ của anh chàng nhà
giàu Văn quát mắng người phu xe trong truyện ngắn Xanh cà bung: "Đỗ lại!
Đỗ lại đây! - Điếc à?... Chỉ cắm đầu chạy tràn! - Trời ơi! Điếc thế, sao không
chọn nghề khác mà lại làm nghề kéo xe! Có đủ tiền đổi đồng bạc không!". Đó
là ngôn ngữ của Nhân - con ông ký Phan - nổi tiếng độc ác cả vùng chuyên
cho vay lấy lãi cao, cắm nhà, cắm ruộng của con nợ - một thứ ngôn ngữ rất
hách dịch, lạnh nhạt, vô cảm với cuộc sống nghèo khó của người nghèo:
Khái Hưng thường không dụng công nhào nặn, đẽo gọt câu chữ, ngôn
ngữ thường nhật được ông đưa vào tác phẩm một cách chân chất. Nhưng sáng tạo của nhà văn chính là ở sự tổ chức, sắp xếp đối thoại bằng chính ngôn ngữ
của nhân vật, thứ ngôn ngữ phù hợp với cuộc sống, tính cách của họ. Tuy
nhiên, trong ngôn ngữ đối thoại của Khái Hưng, lớp ngôn ngữ đối thoại của các
nhân vật nông dân nghèo cũng rất đặc sắc. Ở đó, trạng thái tâm lý của nhân vật
thường được bộc lộ qua giọng điệu của lời thoại. Ví như trạng thái ngao ngán, cơ
cực với nỗi lo về cơm áo gạo tiền, về cái nghèo, cái đói của chị Lạc trong Anh phải
88
sống. Sự lo lắng thường bủa vây người nghèo. Cái nghèo làm họ khúm núm, hễ cất lời lên là kể lể, van xin trình bày, thể hiện trạng thái bất an của con người trong
xã hội: "Lạy cậu, cậu thương" (Lòng tốt) hoặc "Thưa các quan, không phải em
dám làm sao, nhưng thầy em ốm" (Biến đổi). Trong truyện Xanh cà bung cuộc đối
thoại giữa nhân vật Văn và đứa trẻ nấu cơm, rất hồn nhiên, chân thật nhưng qua đó
bộc lộ trạng thái buồn man mác vì nghèo đói của người dân lao động cũng như
nhân vật Văn: "- Cơm đó có ngon không em?- Thưa thầy, ngon lắm chứ.- Sao
cho nhiều nước thế?- Để được nhiều, vì những tám người ăn.- Có món gì
không?- Không ạ! Chỉ có thế này, nhưng chiều thì có cá.- Chỉ nấu với nước
thôi à?- Có muối nữa chứ... Với lại mắm tôm nữa.- Ngon quá nhỉ!- Có gì mà
thầy bảo ngon?- Bây giờ đói kém thợ thuyền ăn kham khổ lắm thầy ạ!".
Những đoạn đối thoại gần như triệt tiêu hoàn toàn lời dẫn, chỉ còn âm thanh
va đập lại nhau của lời đối thoại gọn và sắc. Đặc biệt, Khái Hưng thành công
khi miêu tả ngôn ngữ của tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Ông tỏ ra am hiểu sâu
sắc ở tầng lớp này từ suy nghĩ đến lời ăn tiếng nói. Trong truyện Tình tuyệt
vọng, Sóng gió Đồ Sơn, Cái Ve… là cách nói của những con người thuộc tầng
lớp tiểu tư sản thành thị: văn chương, bóng bẩy, hoa mỹ. Một thứ ngôn ngữ
"thính phòng, kiểu cách" (Phan Cự Đệ). Sự đối đáp hết sức xã giao, cầu kỳ,
kiểu cách, đó là thứ ngôn ngữ sinh hoạt của tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Nó
khác hẳn với lối nói bộc tuyệch, suồng sã của người lao động. Nếu trong tiểu
thuyết, ngôn ngữ nhân vật của Khái Hưng vẫn còn sáo mòn, xa lạ với đời
sống: “- Tôi xin thề với Lan rằng tôi giữ được mãi như thế; tôi viện Phật tổ tôi
thề với Lan rằng suốt trong đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở tâm trí, cái linh hồn
dịu dàng của Lan" (Hồn bướm mơ tiên) thì đến truyện ngắn, ngôn ngữ đã có
một bước chuyển lớn, gần gũi với ngôn ngữ của đời sống. Ngôn ngữ đối thoại
của nhân vật trong truyện ngắn Khái Hưng thường gần với lời ăn tiếng nói của
con người trong đời sống thường nhật. Nhà văn chọn lọc lời thoại đạt tới mức độ cá thể hoá cao tính cách nhân vật và qua lời thoại bộc lộ nội tâm nhân vật.
Vai trò chủ thể của nhân vật đã được chú ý đề cao. Tiếng nói của nhân vật
được xử lý một cách bình đẳng, ngang hàng với các chủ thể có mặt trong thế
giới nghệ thuật. Các nhân vật như đang hành động nói năng ngay trước mắt
bạn đọc. Người đọc không chỉ hình dung được diện mạo nhân vật mà còn
phân biệt được giọng người này với giọng người khác.
89
Trong truyện của Nguyễn Công Hoan lời đối thoại của nhân vật chiếm tỉ lệ rất cao so với lời của người kể chuyện (trừ một số truyện như Chiếc quan
tài, Thế là mợ nó đi Tây, Phành Phạch...). Ông rất tài dựng đối thoại giữa các
nhân vật. Lời đối thoại có tính hành động cao, ngôn ngữ đối thoại gần với
ngôn ngữ kịch. Ở các truyện như Tinh thần thể dục, Oẳn tà roằn, Ngựa người
và người ngựa, Thanh! Dạ... nếu lược bỏ đi lời trần thuật rồi ghép nối các lượt
lời trao đáp giữa các nhân vật với nhau, người ta vẫn có một câu chuyện đang
vận động và phát triển. Ngôn ngữ đối thoại của Thạch Lam ít và cũng ít có giá
trị độc lập so với lời trần thuật. Thông thường để có lời đối thoại, nhà văn tổ
chức trước khá nhiều lời trần thuật để tạo hoàn cảnh cho tiếng nói của nhân
vật cất lên. Ví dụ như trong Nhà mẹ Lê, sau gần ba trang kể về hoàn cảnh
nghèo khó, đàn con đông đúc cả thảy 11 đứa, nhà văn mới để cho lời đối thoại
đầu tiên xuất hiện. Lời đối thoại ngắn được nhân vật dùng theo cách nói
ngược, nói vui. Nếu tách bỏ lời dẫn trước và sau lời đối thoại trên thì chúng
không đủ sức diễn tả tình thương con của người mẹ nghèo, thậm chí có thể
hiểu sai tình cảm của nhân vật. Trong Hai lần chết, với ngót ba trang kể về
những ngày thơ ấu của Dung chỉ có hai lần xuất hiện tiếng nói của nhân vật -
tiếng nói của người mẹ:- Con này sau đến hỏng mất thôi! - May cho con nặc
nô ấy làm gì. Để nó làm rách ra à? Lời của người mẹ tự nói lên bao nỗi thua
thiệt của Dung từ tấm bé. Nó chứng minh, phụ hoạ thêm cho bao thiệt thòi của
Dung mà lời dẫn đang kể. Nếu tách bỏ hai lời thoại đó thì nội dung tự sự cũng
không bị thay đổi có chăng chỉ giảm đi sức lay động lòng người trước những
bất hạnh của nhân vật.
Nhân vật của Thạch Lam ít đối thoại. Ngay khi đối thoại, lời thoại cũng
ngắn, rất ngắn, và cũng chỉ có vài ba lượt lời. Trong một vài trường hợp, lời
đối thoại nếu chuyển thành lời nói gián tiếp, hoà vào lời tác giả thì cũng
không phương hại gì. Như lời than của mẹ Lê trước khi chết: "Trời ơi! Sao tôi khổ thế này" (Nhà mẹ Lê) hay lời cô đỡ mời Tâm vào thăm con "Mời ông vào,
xong cả rồi" (Đứa con đầu lòng). Lời đối thoại của nhân vật có nhiều chức
năng trong đó có hai chức năng quan trọng nhất: đưa đẩy câu chuyện vận
động phát triển và bộc lộ nội tâm cảm xúc của nhân vật. Lời đối thoại của
nhân vật Thạch Lam thiên về bộc lộ nội tâm cảm xúc nhiều hơn. Nhân vật của
ông tuy ít đối thoại nhưng lời thoại lại rất có giá trị biểu hiện tâm trạng cảm
90
xúc. Ứng xử ngôn ngữ của nhân vật qua từng hoàn cảnh cụ thể có thể cho chúng ta thấy được tính cách tâm trạng nhân vật một cách rõ nét. Lời đối thoại
của Tân trong Trở về cho thấy rõ đây là cuộc trò chuyện bắt buộc không mấy
hào hứng đối với anh ta. Tân muốn lấp liếm những tình cảm nhạt nhẽo với mẹ
đẻ, với cội nguồn, thờ ơ trước bao nỗi rưng rưng xúc động của người mẹ già
nua sau sáu năm trời mới được gặp con. Trong cuộc đối thoại với vợ, Tân
chưa tìm được mối liên hệ tình cảm với đứa con bé nhỏ hay khóc quấy phiền
nhiễu. Lời nói của anh tự bộc lộ tâm trạng khó chịu, không thích gần gũi con,
không thích làm những công việc giản đơn mà hạnh phúc của người cha.
Nhưng bí mật nội tâm của nhân vật vô tình đã bị bộc lộ. Như trạng thái ngạc
nhiên bất ngờ của Mai trước hành động của Sinh (Đói) - "Ô hay, anh làm sao
thế? "; trạng thái sửng sốt sợ hãi của Bình khi thấy Bào đến từ biệt với giọng
yếu ớt, phều phào như người hết hơi, "Chết chửa, anh làm sao thế?" Người
bạn trẻ. "Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì?" hay trạng thái ngao ngán,
chán chường của chị Tý trong Hai đứa trẻ.
Trạng thái tâm lý của nhân vật bộc lộ rõ nhất ở giọng điệu của lời thoại.
Chẳng hạn giọng nhẫn nhục cam chịu của mẹ Lê: "Một buổi chiều, mà đàn
con nhịn đói đã suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, gọi đứa con cả đến rồi
bảo: "Ở nhà trông các em, tao vào ông Bá xem có xin được ít gạo nào không
(Nhà mẹ Lê). Mặc dù cậu con cả đã nhắc lại rằng, người ta không cho và rất
có thể cậu Phúc sẽ thả chó ra cắn, nhưng mẹ Lê vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận
chịu đựng để có gạo cho các con ăn. Trạng thái tâm lý của nhân vật trong đối
thoại có khi được nhà văn biểu thị trực tiếp bằng các từ ngữ trong lời dẫn. Ví
dụ vú già "buồn rầu" hỏi Dung: "cô đã tỉnh hẳn chưa? " Bà mẹ chồng thì "gay
gắt": "cô định tự tử để gieo tiếng xấu cho tôi à? nhưng đời nào, trời có mắt
chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? định ở hay định về?";
Dung "buồn bã" trả lời: "con xin về" (Hai lần chết). Tương tự như vậy ở Một đời người trạng thái nội tâm của Liên cũng được biểu hiện qua những lời dẫn
thoại: "ghê sợ" khi thấy cái giọng "dịu dàng" của mẹ chồng; "hốt hoảng", "sợ
hãi" khi mẹ chồng hỏi có phải nàng sẽ đi Sài Gòn theo Tâm và "khinh bỉ"
trước những lời thoá mạ, những hành động thô bạo của Tích, chồng nàng. Ở
truyện Cái chân què trạng thái uất ức, chua chát, căm hờn của Minh cũng
được biểu thị bằng tính từ ngay trong lời dẫn: Minh "tấm tức" trả lời câu hỏi
91
của "tôi", "trầm ngâm" nói, "buồn rầu" và "thong thả" trả lời. Có khi trạng thái tâm lý nhân vật được chính nhân vật nói ra bằng ngôn ngữ cụ thể, chính xác
trong từng lời thoại như lời Huệ trong Tối ba mươi: "Liên, khóc làm gì nữa,
buồn lắm" hoặc lời Minh trong Cái chân què, "anh không biết, tôi chơi bời để
khuây khoả nỗi buồn và để quên đi"; lời Liên trong Một đời người: "các chị
bây giờ về nhà, chắc chồng con vui vẻ lắm, chỉ có em là khổ thôi" hoặc lời
Thanh trong Một cơn giận: "cái kỷ niệm buồn rầu ấy cứ theo đuổi tôi mãi đến
bây giờ, rõ rệt như cái việc mới xảy ra hôm qua. Sự đó nhắc cho tôi nhớ rằng
người ta có thể tàn ác một cách dễ dàng. Và mỗi lần nghĩ đến anh phu xe
ngoại ô kia tôi lại thấy đau đớn trong lòng như có một vết thương chưa khỏi".
Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Thạch Lam không phải là phát
ngôn cho một tính cách mà là lời nói bộc lộ nội tâm với những trạng thái tâm
lý cụ thể và phức tạp. Có khi trạng thái tâm lý của nhân vật không chỉ bộc lộ
trong lời thoại mà còn được tác giả "hỗ trợ" bằng lời dẫn. Điều này hoàn toàn
thống nhất với ngôn ngữ trần thuật của nhà văn: từ ngữ nhằm biểu thị trạng
thái tâm lý, cảm giác, cảm xúc là chính yếu.
3.2.2.2. Độc thoại nội tâm
Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là lời phát
ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội
tâm, mô phỏng hoạt động, cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy
trực tiếp của nó. Độc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn
nhằm khám phá chiều sâu bên trong của nhân vật. Thông qua lời độc thoại nội
tâm, người đọc thấy được bản chất nhân vật, thế giới tâm hồn, trí tuệ và những
diễn biến tâm lý mà nhân vật không biểu lộ ra bên ngoài.
Khái Hưng đã sử dụng khá thành công thủ pháp độc thoại nội tâm. Khảo
sát truyện ngắn Khái Hưng, độc thoại nội tâm xuất hiện không nhiều bằng đối
thoại, nhưng mỗi khi thủ pháp này xuất hiện, nó đều thể hiện thế giới nội tâm nhân vật hết sức phong phú. Mặt khác, độc thoại nội tâm tuy ít xuất hiện,
nhưng lại có nhiều dạng thức thể hiện khác nhau.
Độc thoại nội tâm được thể hiện xen kẽ giữa ngôn ngữ người kể chuyện
và ngôn ngữ nhân vật. Truyện ngắn Bến đò năm xưa, nhân vật Nguyên mông
lung suy nghĩ. "Hình như ta đã để ở nơi này một kỷ niệm trong giây phút...
Thì ra dưới trời này, mọi vật không bao giờ thay đổi...". Thế rồi Nguyên lên
92
xe: "Cái xe gỗ lạch cạch, lắc lư, nhảy trên con đường đất gồ ghề, lồi lõm, không mấy khi được hân hạnh có chiếc ô tô qua lại. Nhưng Nguyên không
thấy khó chịu như ở quãng đường bên kia sông... Và chàng nghĩ thầm: Sau
mười lăm, mười sáu năm, người ấy còn nhớ mình mặc áo tơi da và cái vali
của mình có quai! Người ấy lại nhớ cả mình vui tính nữa". Ở đây, tác giả sử
dụng hai thủ pháp, biểu hiện và tự sự được sử dụng kết hợp và xen kẽ. Ý nghĩ
của Nguyên được biểu hiện qua ngôn ngữ của nhân vật xen kẽ với ngôn ngữ
tác giả. Trong nhiều hoàn cảnh, tình huống, độc thoại nội tâm còn được thể
hiện dưới dạng nhân vật tự đối thoại với chính mình. Thu Cúc trong Sóng gió
Đồ Sơn rất thương cảm cho mối tình chân thành của Văn Hải dành cho bạn
mình mà không được đáp lại. Nàng miên man một mình: "Đáng thương! con
người đa tình mà lại đi yêu một tảng đá! rồi mình cũng khéo cảm động hão.
Nhưng cũng nên bảo cho anh ta biết mà thôi đi, đừng đeo đuổi nó vô ích mãi.
Phải đấy, ta làm phúc bảo giùm!... hay ta hoạ một bài thơ chơi!". Những dòng
độc thoại nội tâm đem đến chiều sâu cho những miêu tả trong tác phẩm. Lúc
ấy nhân vật như phân thân để tự vấn, tự hỏi chính mình, qua đó những lớp
nghĩa của tác phẩm được hình thành. Nhà văn không phát ngôn cho nhân vật
bằng cách nói từ ngôi thứ ba, mà để nhân vật tự bộc bạch. Ở truyện ngắn
Đồng xu, tác giả dành hơn hai trang để viết về độc thoại của nhân vật Phiên.
Anh đang thất nghiệp, đói, chỉ có một đồng xu trong túi: "Một đồng xu! hừ, ta
có một tài sản nhỏ nhất thế giới! kỷ lục ấy khó lòng ai phá nổi. Đến những
người ăn mày cũng còn giàu hơn ta". "Chắc bác ta đương nguyền rủa mình, vì
bác ta cho rằng mình là một thằng keo bẩn". "... Chả biết mình có đáng sống
không, nhưng thực sự thì mình chẳng sống một tí nào!". "Nhưng mình sao lại
không sống? mình sống lắm chứ! không những mình sống mà còn sống sung
sướng bằng mấy cái bà có giọng the thé ở trên gác kia. Đây này bằng cớ đây
này... Đây này cớ rằng mình sung sướng hơn, giàu có hơn bà ta nữa, là mình có thể cho bà ta đồng xu cuối cùng của mình. Này cho! Cho đấy! chốc nữa
xuống thăm vườn cảnh tìm thấy lại không sướng mê tơi! Hừ! có biết đâu đồng
xu ấy là cả một tài sản của một thư sinh giàu tư tưởng, giàu lòng từ thiện. Ô
hay! sao mình lại ngông cuồng thế nhỉ? một đồng xu! sao mình lại phí của thế
nhỉ?”. Bao trùm lên đoạn độc thoại là giọng điệu hài hước, hóm hỉnh, bộc lộ
khá rõ tính cách của nhân vật.
93
Trong thế giới nghệ thuật của Khái Hưng, nhân vật hiện ra với tính cách đa dạng, phong phú và phức tạp. Độc thoại thường được xuất hiện khi nhân
vật được đặt trong mâu thuẫn với hoàn cảnh. Những tiếng nói của nhân vật,
những điều suy tư luôn đặt nhân vật vào những trạng thái cảm xúc miên man,
dài dằng dặc.
Bên cạnh biện pháp để nhân vật đặt ra cho mình câu hỏi, tự vấn mình là
biện pháp bộc lộ nội tâm bằng chính dòng ý thức liên tục chảy trong suy nghĩ
nhân vật, từ đó diễn ra sâu sắc quá trình suy nghĩ của con người trước những
tình huống tâm lý căng thẳng. Trong các truyện Tập ảnh, Đợi chờ, người đọc
có thể gặp những dòng độc thoại không dứt của nhân vật. Đây là một ví dụ
tiêu biểu về dòng độc thoại trong truyện ngắn Tập ảnh: - “Lý chau mày tự
mắng thầm: dị nghị! mình đã bảo không cần dư luận, sao còn sợ dị nghị?
chẳng qua chỉ tại mình rụt rè, do dự. Giá cứ ở lì trên Vĩnh Liên thì đã hề gì? -
Nàng cau có nhăn mặt và nàng cảm thấy ghét Tết như ghét kẻ thù. Ngày Tết là
những ngày mà người ta làm toàn những điều điên cuồng rồ rại, ăn bánh chưng
cho đau bụng, uống rượu cho mất lương tri, đốt pháo cho điếc tai và đến nhà nhau
chơi cho thêm bực mình. - Một tiếng thở dài. Một ý buồn. Gần ba mươi. Thì cứ
tự thú rằng năm nay mình hăm chín tuổi rồi. - Lý buồn rầu nhận thấy rằng thời
gian đã bắt đầu tuy chưa rõ rệt vạch dấu vết trên vầng trán rộng, trên đôi má
hồng tươi. - Vì sao bỗng dưng ba năm gần đây nàng bắt đầu ghét Tết? nàng
ngỡ rằng trong đời đàn bà tuổi ba mươi là cái giới hạn, đến đó người ta không
ưa được cuộc vui ầm ĩ, phiền phức nữa". Tình huống ở đây là cô Lý đang ngồi
xem tập ảnh của mình thời thanh niên và hồi nghĩ lại đời mình. Ngoài kia,
người người đang ăn Tết vui vẻ. Cô cảm thấy cô đơn, trơ trọi với chính bản
thân mình. Cô đã gần ba mươi tuổi mà vẫn ở vậy bởi thời trẻ tuổi cô đã đặt hết
tình yêu vào một người nhưng không được đền đáp lại. Bao năm trời, cô vẫn
sống khắc khoải trong tình yêu đó. Ngày Tết giở tập ảnh ra xem, cô miên man trong những suy tư không dứt vừa tiếc thời gian, tuổi xuân đã qua đi, vừa
buồn cho đời mình. Những độc thoại trên được trình bày dưới dạng thức chủ
quan, do tái hiện dòng ý nghĩ liên tục xuất hiện trong tâm hồn nhân vật theo
trật tự mà nó xuất hiện. Nhân vật chìm trong dòng suy tư, độc thoại và suy
tưởng về những tháng ngày đã qua. Dòng thời gian được tái hiện, độc giả hiểu
được những bước đi, thăng trầm của nhân vật cùng những cảm giác cô đơn,
buồn bã của cô Lý khi xem lại tập ảnh mình.
94
Thủ pháp độc thoại nội tâm đã giúp Khái Hưng rất nhiều trong việc khám
phá nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn và tinh tế của con người. Nó mang lại
chiều sâu nội tâm cho nhân vật của Khái Hưng. Chính vì thế, Trương Chính
cho rằng: "Khái Hưng chú ý đến cử chỉ, ý nghĩa và sự biến đổi bên trong của
nhân vật hơn là hình thức bên ngoài. Ông là một nhà văn quan sát kỹ và có
một hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người" [23]. Tuy vậy, phần lớn lớp ngôn
ngữ độc thoại trong văn của Khái Hưng thường mang ngôn ngữ đặc trưng của tầng
lớp tiểu tư sản. Đó là “thứ ngôn ngữ mơ hồ, chỉ thích ứng với những cảm giác
bảng lảng, những cảnh tượng phảng phất những tình cảm mông lung, những ý
nghĩ thoáng qua, hoặc một thứ ngôn ngữ đặc biệt của trí thức thành thị, một thứ
ngôn ngữ kiểu cách của thính phòng”.
Trái lại, cũng là sự nhẹ nhàng, tự độc thoại nhưng nhân vật của truyện ngắn
Thạch Lam có chất giọng khác. Nhân vật của Thạch Lam ít hành động, thiên về
đời sống nội tâm, giàu cảm xúc, cảm giác do đó ông đã sử dụng hình thức độc
thoại nội tâm để bộc lộ một cách sâu sắc những cảm xúc, ý nghĩ thầm kín
trong tâm hồn nhân vật.
Ngôn ngữ độc thoại nội tâm của các nhân vật trong truyện ngắn Thạch
Lam xuất hiện dưới hai dạng: độc thoại (có lời dẫn của tác giả) và độc thoại
(không có lời dẫn của tác giả, chỉ có thể nhận ra qua sự thay đổi giọng điệu,
ngữ điệu). Trong đó, dạng thứ hai nhiều hơn và bộc lộ rõ nhất dòng tâm trạng
của nhân vật. Độc thoại có lời dẫn của tác giả như đối thoại nhưng lại không
phải là lời giao tiếp mà là tự nói với mình. Ngôn ngữ độc thoại dạng này rất
hiếm trong văn Thạch Lam nhưng khả năng biểu hiện nội tâm của nó không
nhỏ. Ta hãy thử xét lời của mẹ Lê: "Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi
trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác và tinh nghịch của cậu Phúc, con chó
Tây nhe nanh chồm đến... - Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?" trong truyện Nhà mẹ Lê. Chỉ một lời độc thoại - một tiếng than trời cũng đủ cho ta thấy nỗi đau
đớn, ấm ức và ai oán của người mẹ nghèo. Cũng như bao người dân ở cái xóm
ngụ cư này, gia đình bác Lê quanh năm thiếu ăn nhưng họ chưa bao giờ than
thở vì ai cũng nghèo khổ cả. Họ chỉ mong có người thuê mướn; thậm chí là
mướn không công để được nửa bát gạo đem về cho con. Vậy mà ngay cả điều
đó cũng không thể. Bác Lê đã nhẫn nhục đến nhà lão Bá với hy vọng xin được
95
chút gì. Nhưng kẻ giàu sang độc ác chỉ khiến bác đau đớn khốn khổ thêm. Và trong cơn mê, những hình ảnh hãi hùng lại kéo đến giày vò bác. "Trời ơi!" -
một tiếng than và "Sao tôi khổ thế này?" - câu hỏi biểu hiện sự đau đớn, ai oán
trong lòng nhân vật; báo hiệu giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng. Nếu như
lời độc thoại của bác Lê là sự tự ý thức, tự nhận biết về đời mình tức là độc
thoại hướng nội thì lời độc thoại "Đồ khốn nạn" của Sinh trong Đói lại bộc lộ
thái độ khinh bỉ, giận dữ, phẫn uất của Sinh với Mai - vợ chàng, khi biết Mai
"ngoại tình". Và sau khi độc thoại, Sinh đã hành động rất quyết liệt, phũ
phàng. Sinh đuổi Mai đi để giữ cái danh dự mà chính chàng sau này lại tự
mình đánh mất.
Qua một số khảo sát, có thể nhận thấy, ngôn ngữ độc thoại có lời dẫn tác giả
trong truyện ngắn Thạch Lam rất ít nhưng mỗi khi nhân vật thốt lên lời thì ngôn từ
hàm chứa một dung lượng tình cảm, cảm xúc lớn. Ngôn ngữ độc thoại lúc này như
một sự giải phóng những gì đã kìm hãm, như một sự giải toả đối với trạng thái tâm
lý bị dồn nén trước đó của nhân vật. Độc thoại không có lời dẫn của tác giả xuất
hiện khá nhiều trong văn của Thạch Lam. Dạng độc thoại này khó phân biệt
với ngôn ngữ trần thuật của tác giả vì không có lời dẫn, chỉ có sự thay đổi về
giọng điệu, ngữ điệu; không tập trung trong một đoạn nào đó của tác phẩm mà
rải rác, đan xen, chắp nối khắp từ đầu đến cuối thể hiện dòng cảm xúc luân
chuyển không ngừng trong nội tâm nhân vật. Chẳng hạn ở các truyện Người
đầm, Cuốn sách bỏ quên. Nhân vật "tôi" trong Người đầm đã ngạc nhiên sửng
sốt khi thấy một người đàn bà Pháp ngồi ở ghế hạng nhì và băn khoăn "tự hỏi
sao người đầm ấy lại không lấy vé lô, hay ít ra vé hạng nhất, để ngồi chung
với những người sang trọng mà tôi thấy bệ vệ và mãn nguyện trên các dãy ghế
kia?". Khi thấy người đàn bà Pháp ấy mặc toàn một màu đen thì trong "tôi" lại
vang lên những câu hỏi, suy luận, phán đoán: "Có lẽ bà để tang. Tang cha mẹ,
người thân thích hay chồng? Không biết tại sao, tôi chắc chồng bà đã mất, để lại cho bà đứa bé kia". Như vậy nhân vật "tôi" không hề chú ý đến bộ phim
mà chú tâm vào người đàn bà Pháp với tất cả lòng thương mến hết sức tự
nhiên; Hơn thế "tôi" còn ao ước: "Người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta
sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia biết bao nhiêu, và hai giống
người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh
em một nhà". Trong cái "ao ước" của nhân vật "tôi" có tình cảm đằm thắm,
96
lòng kính trọng với một kẻ nhân từ mà không hề ác cảm, ác ý. Cho tới sau này, mỗi lần đi xem nhân vật "tôi" không thấy người đàn bà Pháp lại tự hỏi:
"Có lẽ bà ta đi tỉnh khác rồi chăng?". Như vậy, trong suốt truyện Người đầm,
ngoài những gì "nhìn thấy", "cảm thấy" thì nhân vật "tôi" không ngừng nghĩ
thầm, tự hỏi, ao ước. Tất cả thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật. Không có
hành động nào cụ thể nhưng nhân vật đã bộc lộ mình rất rõ: đó là một người
giàu lòng trắc ẩn; có cái nhìn độ lượng, đầy thương mến với một người đàn bà
Pháp xa lạ. Tác giả khéo léo dẫn dắt cảm xúc của nhân vật biến đổi linh họat
nhờ vào những sự thay đổi luân chuyển của dòng suy nghĩ. Tất cả những ngôn
từ, những sự đối thoại, độc thoại đều quy tụ chung ở một mục đích là làm nổi
lên trên nhất tâm trạng của nhân vật, có đơn giản, có phức tạp, có sự nhất
quán, có sự mâu thuẫn khó phân định rạch ròi. Ở truyện Cuốn sách bỏ quên,
ngôn ngữ độc thoại nội tâm lại cho thấy sự phức tạp trong tâm lý nhân vật
Thành. Không giống độc thoại nội tâm của các nhân vật khác, tiếng nói của
Thành dường như được phân tách thành những lời đối lập như tranh cãi nhau
và những ý nghĩ bao biện, những lời tự hỏi, tự kết luận của nhân vật. Có lúc
tiếng nói bên trong của Thành lại là lời ông Xuân, giám đốc nhà xuất bản,
niềm nở và nịnh nọt: "Sách của ông bán chạy quá. Thật tôi chưa từng thấy nhà
văn nào được hoan nghênh như ông". Lời nói này bộc lộ mơ ước cao đẹp của
chàng: mơ ước sự thành công rực rỡ xứng đáng với tài năng. Nhưng sự thực
thì sách của chàng bị nhà xuất bản từ chối. Vì thế Thành chua chát "tự hỏi
không biết có nên chế giễu mình hay không". Trên tàu, Thành lại tự an ủi lại
thiết tha hy vọng: "Thật ra sách không bán chạy chưa phải chứng tỏ rằng
chàng không có tài, nhiều nhà văn nổi tiếng khắp hoàn cầu lúc mới đầu chẳng
bị thiên hạ bỏ quên và hững hờ là gì. Sự lãnh đạm của công chúng nhiều khi là
cái dấu hiệu của tài năng xuất chúng, không được người ta hiểu, vì vượt ra
ngoài khuôn sáo thường". Suốt cả hành trình của Thành, những lời độc thoại vẫn tiếp tục vang lên. Thấy một thiếu nữ bước lên xe, Thành chăm chú quan
sát lối phục trang nửa quê nửa tỉnh rồi phỏng đoán là học sinh hay người buôn
bán? Đến đoạn thiếu nữ giở đúng cuốn sách của Thành ra đọc thì một mình
Thành đóng cả ba vai; lời độc thoại của chàng là lời một người bạn hỏi: "Kìa,
Anh Văn Sơn? Thế nào, cuốn Người bạn của anh có bán chạy không?" và câu
trả lời mà chàng tưởng tượng ra: "cũng khá". Còn thiếu nữ khẽ thưa: "Em xin
97
lỗi vì sự đường đột, nhưng có phải ông là Văn Sơn không ạ?". Thành đã tự độc thoại bằng lời của cả hai người khác như thế. Rồi chính chàng lại thấy xấu
hổ vì những gì mình vừa mới tưởng tượng ra. Chàng lại tự chất vấn: "Chỉ một
người đọc văn mình cũng đủ làm cho chàng cảm động đến thế ư?". Cuối cùng,
thiếu nữ xuống một ga trước chàng, để lại cuốn Người bạn trên ghế, trong đầu
Thành lúc bấy giờ hiện lên hàng loạt câu hỏi như mũi kim đâm thẳng vào tim
làm chàng đau đớn: "ngộ không phải thiếu nữ bỏ quên chăng? Biết đâu nàng
chẳng bỏ lại vì cuốn truyện tồi khiến nàng không vừa lòng? Biết đâu nàng
không rõ chính chàng là tác giả và cố ý bỏ sách lại để tỏ sự lạnh nhạt của
nàng?" Những câu hỏi ấy cứ xôn xao trong óc Thành khiến cái vui mong
manh như sắp tắt. Đó là sự thất vọng, là thực tế phũ phàng mà Thành thấy
ngay trước mắt, nó đối lập hoàn toàn với ước vọng cao đẹp, lãng mạn của
chàng. Như vậy, độc thoại nội tâm, ở đây, đã cho thấy bi kịch tinh thần của
một văn sĩ.
Nhiều khi người đọc không thấy bóng dáng của những đối thoại gay gắt
nhưng vẫn cảm nhận rất rõ những mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh của tâm lý
nhân vật qua những đoạn độc thoại. Và dường như chính những biến đổi khôn
lường của những dòng cảm xúc đan xen mới làm nổi lên được suy nghĩ, trăn
trở của nhân vật và cảnh huống đang gặp phải. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm
trong truyện Kẻ bại trận lại bộc lộ cuộc đấu tranh tư tưởng trong nhân vật
"tôi" khi đột nhiên Lệ Minh, người đồng chí cũ đến nhờ cậy. Thoạt tiên, khi
vú già nói có Lệ Minh đến tìm, nhân vật tôi đã hết sức băn khoăn lo ngại; sợ
người bạn làm tan nát cái yên tĩnh của gia đình mình: "Lệ Minh, người bạn
đồng chí gặp gỡ ở Hà Thành ba năm trước, sao cô lại về đây? Cô đến bí mật
thực. Không biết cô đến tìm tôi có việc gì trong lúc đêm khuya khoắt như thế
này? Đến nhà tránh nạn chăng?". Đến khi Lệ Minh khẩn khoản nhờ "tôi" tìm
việc giúp "tôi" cảm thấy mình hèn nhát không dám hứa và cũng không dám mời Lệ Minh ở lại. Nhưng ngay sau đó "tôi" đã tự thanh minh bao biện:
"Nhưng biết làm thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của
Thanh mà sợ: nàng chẳng sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất? ". Cuối cùng, lòng
ích kỷ của một công chức quen ăn no mặc ấm đã chiến thắng, "tôi" để Lệ
Minh ra đi giữa đêm, chìm khuất vào trong bóng tối, dù "tôi" biết mình có
phận sự giúp Lệ Minh một số vốn nhỏ để làm ăn. Lệ Minh đi rồi "tôi" lại băn
98
khoăn tự hỏi trong hai hình ảnh: người thiếu niên hăng hái nhiệt tình năm xưa với hình ảnh người trưởng giả an nhàn, hình ảnh nào là thật của "tôi"?
Độc thoại là ngôn ngữ mang tính bộc lộ rõ nhất. Đó là lời bộc lộ nội tâm
của các nhân vật. Nhưng phụ thuộc vào mỗi hoàn cảnh, tình huống mà ngôn
ngữ độc thoại nhiều hay ít. Thường ở các nhân vật trí thức tiểu tư sản có sự tự
nhận thức thì ngôn ngữ độc thoại nhiều hơn. Và cũng ở đây, ta thấy rõ được
những bí mật sâu kín bên trong mà nhân vật tự thú nhận. Tìm hiểu ngôn ngữ
độc thoại ta còn thấy một điều: đó là sự hoà hợp giữa ngôn ngữ độc thoại của
nhân vật với ngôn ngữ của tác giả, người trần thuật. Sự hoà hợp này chứng tỏ
sự thấu hiểu, đồng cảm của nhà văn với nhân vật. Hay nói cách khác Thạch
Lam đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả những cảm xúc, cảm giác, những
trạng thái tâm lý một cách chính xác, uyển chuyển.
Nhận xét về nghệ thuật ngôn ngữ của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết
"Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại và tươi
đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta"[58]. Ngôn từ nghệ thuật
trong truyện ngắn Thạch Lam mang đậm màu sắc dân tộc gắn với cốt cách của
người trí thức bình dân. Trong những trang viết của ông, chúng ta ít thấy
những từ Hán Việt, và cũng không thấy Thạch Lam mượn lời, mượn ý của
văn Tây mà chỉ thấy tiếng nói dân tộc giản dị trong sáng với những hình ảnh
quen thuộc mang hương sắc đồng quê Việt Nam. Có thể nói, Khái Hưng và
Thạch Lam là những nhà văn có nhiều cách tân trong phương diện sử dụng
ngôn từ. Phần đóng góp của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn nói chung, của
Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng vào công cuộc cách tân văn học Việt Nam
những năm đầu thế kỷ XX rất đáng ghi nhận.
3.3. Giọng điệu
Mỗi thể loại có những đòi hỏi và yêu cầu khắt khe riêng đối với giọng
điệu biểu hiện. Mỗi thời kỳ có thể loại riêng phù hợp và kéo theo đó là những thay đổi giọng điệu. Sự thay đổi ấy bắt nguồn sâu xa và trực tiếp từ sự đổi
thay của thời đại và của tâm lý con người. Cách cảm khác, cách tư duy khác
trước đã chi phối đến cách viết và giọng điệu của từng nhà văn. Từ điển thuật
ngữ văn học đã định nghĩa: "Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư
tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả trong lời văn quy
định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần,
99
thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm" [21]. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả,
có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền
cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết ra
được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống nhân vật".
Để nghiên cứu giọng điệu một nhà văn, người nghiên cứu buộc phải tìm
thấy những nét đặc sắc nhất trong cốt cách sáng tạo của người nghệ sỹ, trong
cảm quan nghệ thuật của ông ta, phải đặt sáng tác của nhà văn ấy trong thời
đại. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp, việc nghiên cứu giọng điệu
trong tác phẩm phải trải qua bốn thao tác cơ bản: xác định tư thế của người
nói và điểm nhìn trần thuật; khảo sát nghệ thuật xây dựng lời văn để biểu hiện
giọng điệu, vai trò và mô típ trong việc thể hiện giọng điệu; lý giải chức năng
và vai trò của giọng điệu trong chỉnh thể tác phẩm.
Mỗi truyện phải được kể theo một giọng điệu riêng, không giống bất cứ
truyện nào. Chính giọng điệu góp phần quan trọng tạo nên phong cách riêng
của nhà văn. Trong luận văn này chúng tôi khảo sát một số giọng điệu cơ bản
nhất, nổi bật nhất trong truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam. Từ đó có thể
nhận diện phong cách riêng, cái "tạng" riêng độc đáo của mỗi nhà văn.
3.3.1. Giọng thƣơng cảm, trầm buồn Khái Hưng vốn là một trí thức tiểu tư sản, nhưng khi viết về những người
dân nghèo, nhất là phụ nữ và trẻ em, ông vẫn dành cho họ sự cảm thông chia
sẻ. Giọng điệu cảm thương của Khái Hưng thể hiện khá rõ khi viết về nhân
vật Đông trong truyện Bến Hòn gai. Chị Đông là người con gái đẹp nhất làng.
Chị yêu và tin tưởng một mực vào anh giáo làng bên. Hai người muốn lấy
nhau nhưng gia đình chị Đông không đồng ý vì đã nhận lời ông lý Cựu. Hai
gia đình đã sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa chị Đông và anh Bê. Chính
những hủ tục nghiệt ngã "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" đã đẩy chị Đông rẽ sang bước ngoặt cuộc đời. Chị và anh giáo đi lại với nhau, có thai được năm
sáu tháng. Nhưng "anh giáo đổi lên tỉnh, không ai đi lại thăm nom gì chị ấy
nữa". Sự bội bạc của người yêu làm chị Đông đau đớn, khóc lóc vật vã. Chị đẻ
rơi đứa con trai trên bờ ruộng nhưng không dám đem về vì sợ bị "cạo đầu bôi
vôi", "thả bè trôi sông". Chị Đông đành phải lấy con trai ông lý Cựu. Hai
người bỏ làng ra bến Hòn Gai sinh sống. Từ một thiếu nữ xinh đẹp, cuộc sống
100
lam lũ đã biến chị thành một người đàn bà nhếch nhác, lắm điều, tục tằn, thô lỗ, luôn mồm "gào thét, kể lể, trách móc chồng". Ngôn ngữ của chị toàn
những "lời mỉa mai, độc địa, những câu phương ngôn, tục ngữ chua cay". Con
người chị biến đổi hoàn toàn như vậy, song chúng ta vẫn bắt gặp một giọng
điệu đầy trân trọng thương cảm của tác giả dành cho chị, bởi tất cả sự biến đổi
đó không phải do chị gây nên. Ở đây Khái Hưng cũng gián tiếp lên tiếng tố
cáo xã hội với những hủ tục bất công vô nhân đạo đã đẩy con người vào hoàn
cảnh khổ đau, vào cuộc đời túng quẫn, thiếu thốn. Nếu sự cả tin của chị Đông
phải trả giá bằng một cuộc sống không hạnh phúc với chồng ngày nào cũng
cãi nhau vài lần thì sự ngây thơ của Tẹo trong truyện ngắn Dưới ánh trăng
còn phải trả giá nặng nề hơn, bằng chính cuộc đời mình. Khái Hưng đã để
Văn tự thốt ra những lời "thú tội" về bản thân mình: "Người ta đương sống cái
đời giản dị, bình thường của người ta, mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn
nguyện lại bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn là gì?". Lời tự thú
của Văn cũng chính là giọng điệu cảm thương của Khái Hưng dành cho nhân
vật Tẹo, người phụ nữ qua con mắt của Văn "giống hệt các cô gái quê khác,
thô lỗ, đần độn, ngu ngốc".
Có thể nói, trong nhiều truyện, đặc biệt khi viết về người dân nghèo Khái
Hưng đã dành cho nhân vật của mình những tình cảm thật đặc biệt, trìu mến,
cảm thông và chia sẻ. Giọng điệu cảm thông, chia sẻ đã mang lại hiệu quả
nghệ thuật, đặc biệt trong một loạt truyện như: Nước chảy đôi dòng, Anh phải
sống, Xanh cà bung, Người vợ mù, Biển, Lòng tốt...
Truyện ngắn Thạch Lam có một chất giọng riêng, mỗi truyện có cấu tứ
và giọng điệu như một bài thơ trữ tình nên thơ, trong trẻo và dung dị lạ
thường. Ngay từ lần xuất bản đầu tiên tập truyện Gió đầu mùa, Khái Hưng đã
rất tinh tế nhận định: “Ở chỗ mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời nói có
khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói một cách rất giản dị cái cảm giác của ông, cái cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của độc giả và tác giả, nhiều
khi đi xa hơn, sâu hơn tư tưởng vì có cái cảm thấy mà ta không thể dùng tư
tưởng để mô tả, giải phẫu cái cảm giác của ta ra được [53].
Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã phát hiện: "Có một ngòi bút lặng
lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp,
những cảm tình, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người, mà
101
ông tả một cách thật tinh vi" [81]. Phong Lê với bài viết Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn đã chỉ rõ: điểm nổi bật là Thạch Lam có một lối văn nhuần nhị, tinh tế,
gọn và gợi được thật là rành rõ những trạng thái của sinh hoạt, xúc cảm và tâm
hồn. Sự chắt lọc ngôn từ giàu chất biểu cảm trong văn chương Thạch Lam đã tạo
nên một sức mạnh riêng không lẫn với một ai, mà chúng ta có thể đánh giá là
giọng văn đầy ám ảnh. Quả là chất giọng trầm buồn, thương cảm luôn ám ảnh
người đọc khi đọc những trang văn của Thạch Lam. Giọng điệu ấy bàng bạc
trong hầu hết các sáng tác của ông, đặc biệt những tác phẩm mang màu sắc hiện
thực đậm nét như: Nhà mẹ Lê, Một đời người, Hai lần chết, Người bạn trẻ,
Người lính cũ, Cái chân què... Ở những truyện này, nhân vật thường bị đặt vào
trong những hoàn cảnh khó khăn trở ngại, đói nghèo dường như lúc nào cũng
đeo đẳng số phận họ, đẩy họ vào những tình huống đầy tuyệt vọng. Nhà văn vừa
kể về cảnh đời vừa diễn tả cảm xúc tâm trạng của họ. Với giọng điệu đó, Thạch
Lam truyền tới người đọc niềm cảm thương sâu sắc trước những cảnh đời cơ cực
bất hạnh cùng niềm tin yêu đối với những con người nhỏ bé.
Nhà mẹ Lê là một câu chuyện thương tâm được kể bằng giọng văn
thương cảm. Giọng điệu đó cất lên ngay từ những dòng đầu của truyện mang
đậm âm sắc ngậm ngùi chua xót. "Người phố chợ là bảy tám gia đình nghèo
khổ không biết quê quán ở đâu, mà người dân trong huyện vẫn gọi một cách
khinh bỉ: những kẻ ngụ cư". Những con người nghèo khó phải rời quê hương
bản quán làm thuê đủ mọi nghề để kiếm miếng ăn. Giọng buồn thương ngậm
ngùi, thấm trong lời văn kể về gia cảnh khốn khó nhà mẹ Lê. "Mùa rét trải ổ
rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó trông như cái ổ chó, chó mẹ và
chó con lúc nhúc". Những ngày đói rét, "mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún,
thằng Hi mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới
manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như con trâu chết". Những
hồi ức chập chờn trong cơn mê sảng của Nhà mẹ Lê buồn thê thiết. Cả một đời người đằng đẵng chỉ có những ngày khổ sở nhọc nhằn. Nó như một định
mệnh dành cho người nghèo. Đến niềm vui cũng rất cỏn con tội nghiệp,
không cất cánh ra khỏi miếng ăn và cái đói. Đó chỉ là nắm gạo cho con, bữa
cơm nóng mùa rét, hay giản đơn hơn nữa là có người mướn làm mỗi ngày cho
dù công sá rẻ mạt. Giọng buồn thương nhẫn nhịn xót xa khi kể về cái chết đau
đớn của mẹ Lê kéo theo cái chết chầm chậm của đàn con dại. Truyện kết thúc
102
nhưng giọng cảm thương, trầm buồn vẫn đọng lại đâu đây trong nỗi lo âu nặng nề của người dân phố chợ.
Cuộc sống nơi phố huyện nghèo trong rất nhiều truyện ngắn Thạch Lam
mang những ý nghĩa tố cáo sâu sắc. Nhà văn không dụng công để khắc họa
những mâu thuẫn, xung đột hay những biến cố quan trọng mà chỉ kể lại một
cách nhẹ nhàng những hoàn cảnh, những trải nghiệm, những gì mình chứng
kiến. Hai đứa trẻ là niềm cảm thương day dứt đối với những mảnh đời thầm
lặng như những cái bóng lù mù, bị chôn vùi trong kiếp sống vô danh vô nghĩa.
Giọng điệu trầm buồn man mác trải dài theo từng trang văn. Nỗi buồn ngưng
đọng trong cảnh phố huyện chiều hôm, êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái
kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ bay vào. Nỗi buồn lan toả trong bóng
tối, lẩn trong những quầng sáng, hột sáng mong manh. Ngọn đèn của chị Tý,
gánh phở của bác Siêu, tiếng đàn bầu của bác Xẩm... Cả phố huyện tiêu điều
xơ xác đã phối khí hoà thanh mà tấu lên một khúc nhạc buồn. Đó là nỗi buồn
nhẹ, buồn mờ nhưng dai dẳng, ngưng đọng tù hãm. Nó làm mòn đi ước mơ,
khát vọng sống, biến niềm mong ước chờ đợi vốn có ý nghĩa tươi đẹp rốt cục
lại chỉ còn là thói quen qua ngày. Giọng điệu buồn thấm sâu trong hồi ức của
Liên về Hà Nội xa xăm. Đó là "gia sản tinh thần" của Liên còn mãi đến bây
giờ, là những cốc nước xanh đỏ trong những cuộc đi chơi, Hà Nội nhiều đèn
quá, rực sáng và lấp lánh! Giữa dòng âm điệu buồn thương ngậm ngùi có
những âm thanh náo nức và ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu từ Hà Nội về. Đoạn
văn ngắn, mang âm điệu tươi vui rộn rã hiếm có trong sáng tác của Thạch
Lam. Một loạt những động từ mạnh, tính từ sáng được sử dụng, rất có giá trị
biểu cảm: "Hai chị em nghe tiếng rồn rập, tiếng rít mạnh vào ghi. Một làn
khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ"...
"Tiếng còi tàu đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới... đoàn xe vụt qua, các toa đèn
sáng trưng, chiếu ánh sáng cả xuống đường. Liên thoáng trông thấy những toa hàng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh". Giọng điệu
rộn rã trong đoạn văn ngắn đó không đủ làm ấm sáng cả không khí buồn tẻ
ngưng đọng trong tác phẩm. Một thế giới tươi sáng rộn rã vụt qua phố huyện,
khác với ngọn đèn con của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Thế giới tươi sáng
rộn rã đó càng làm cho người ta thấm thía về kiếp sống bị bủa vây, bị giam
cầm trong cái lặng lẽ trôi xuôi của những mảnh đời vô nghĩa, tăm tối không
sao thoát ra được.
103
Cùng chung giọng điệu trầm buồn, thương cảm nhưng ở mỗi tác phẩm
của Thạch Lam giọng điệu này được thể hiện khác nhau. Đó là giọng chán
nản tủi hổ khi con người phải ăn vụng ăn trộm miếng bánh, miếng thịt đáng
nguyền rủa (Đói). Giọng bi ai đau xót trước số phận đen đủi của người phu xe
vì kéo xe vào phố kiếm thêm mấy xu mà bị phạt số tiền lớn, bị đánh đập phải
bỏ trốn, kéo theo cái chết của đứa con tội nghiệp (Một cơn giận). Giọng buồn
thương xen lẫn cảm phục sâu sắc trước cuộc đời vất vả và đức hi sinh lặng lẽ
cho gia đình, cho người thân của Tâm (Cô hàng xén). Giọng đau xót nghẹn
ngào trước cuộc đời đầy thua thiệt từ tấm bé của Dung đến tận khi lấy chồng,
muốn chết để thoát nhục cũng không xong để rồi sẽ càng chìm sâu vào dòng
khổ nhục (Hai lần chết). Giọng chán chường cay đắng kể về cảm giác lạnh lẽo
thấu tận đáy tâm hồn lúc năm hết tết đến, ở chốn nhơ bẩn của hai cô gái làm
nghề bán hoa (Tối ba mươi)...
Đọc tác phẩm của Thạch Lam, chúng ta cảm nhận trái tim nhân hậu yêu
thương của ông trải trên từng trang sách, qua số phận của từng nhân vật. Qua
lời văn, Thạch Lam luôn truyền cho bạn đọc tình cảm yêu thương nâng niu
những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, niềm tin của con người. Ở Hai đứa trẻ
đó là niềm khát khao chờ đợi một thế giới đầy ánh sáng và âm thanh. Ở Người
lính cũ là khí khái đàng hoàng của người lính dù lâm vào cảnh cùng quẫn, rơi
xuống tận đáy của sự bần cùng. Ở Người bạn trẻ là tình cảm bạn bè thương
yên tôn trọng. Ở Một đời người, Cô hàng xén, Hai lần chết, Tối ba mươi là vẻ
đẹp tâm hồn của những người phụ nữ... Cách nhìn cuộc sống như vậy đã tạo
cho lời văn nghệ thuật của Thạch Lam có giọng điệu trầm buồn man mác hoà
vào giọng điệu cảm thương. Giọng điệu đó ở Thạch Lam cũng khác với Hồ
Dzếnh, một tác giả cùng phong cách trữ tình. Tuy cùng viết về những cảnh
đời cơ cực lam lũ như Chị Yên, Nhà nhiều con, Sáng trăng suông, Chị dâu tôi, Em Dìn... Nhưng Hồ Dzếnh viết bằng giọng tâm sự chia sẻ nhiều hơn. Bởi Hồ
Dzếnh thường viết về những người thân, viết về "chân trời cũ" của riêng ông,
viết về nỗi niềm chông chênh của một kẻ lạc loài giữa hai miền xứ sở. Còn
Thạch Lam, tuy ông có cả một "quê hương sáng tác" nhưng những nhân vật
với những số phận đau khổ đó, ta vẫn gặp đâu đây trong cuộc đời.
104
3.3.2. Giọng triết lý nhân sinh Mỗi nhà văn có một chất giọng riêng, nó thể hiện cái tạng, cái chất của từng người. Chứng kiến những cảnh ngộ, những ngang trái, éo le trong cuộc
sống quanh mình, nhà văn là người ghi lại những đổi thay, những biến
chuyển. Nhưng một điều cần phải thừa nhận rằng, những gì viết ra hời hợt,
đơn giản sẽ không có sức sống lâu bền. Từ những cảnh ngộ ấy, con người ấy,
mỗi nhà văn tìm cho mình một cách thể hiện, trực tiếp, gián tiếp… nhưng phải
thể hiện được ý đồ, tư tưởng của mình. Sáng tác của Khái Hưng rất đa dạng,
phong phú về giọng điệu: giọng trữ tình, giọng tự sự khách quan, giọng tâm
tình trầm lắng... nhưng nổi bật hơn cả là giọng triết lý trong các truyện ngắn
của ông. Dường như đằng sau mỗi truyện ngắn của Khái Hưng đều toát lên
một triết lý mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Những suy nghĩ, trăn trở về cuộc
đời, lẽ sống được nhà văn thể hiện qua những suy nghĩ của nhân vật, từ đó gợi
cho người đọc những suy tư. Truyện Hai cảnh truỵ lạc kể về một gia đình vốn
giàu có nhưng chẳng may bị sa sút, người em phải lên thành phố kéo xe bò.
Người anh cho rằng em mình đã làm hoen ố thanh danh của gia đình, nhưng
người em đáp: "Nghèo khác, thanh danh khác. Yên phận nghèo, làm việc để
sống, sao lại tổn hại đến thanh danh được. Ở đời chỉ có sự lười biếng, ỷ lại
mới là bê tha". Đó cũng chính là suy nghĩ của nhà văn về cuộc sống, phải biết
yêu và tôn trọng lao động.
Không chỉ triết lý về lẽ sống, Khái Hưng còn triết lý về đạo đức làm
người. Truyện ngắn Bến Hòn Gai xoay quanh số phận chị Đông nhỡ dại với
anh thầy giáo, đẻ con ở ruộng lúa, đặt tên con là Ruộng Lúa. Ở phần kết tác
giả dùng ngay câu chuyện này để liên tưởng đến chuyện khác: "Mười hai giờ
đêm, tôi lên bến Quảng Yên, đến thuê phòng ngủ ở một khách sạn. Tới nơi,
tôi gặp một thiếu niên âu phục sánh vai cùng một cô gái quê hấp tấp bước lên
thang gác. Tôi mỉm cười nghĩ ngẫm: Biết đâu lại không có một thằng Khách
Sạn ra đời".
Triết lý về đạo đức, tình người trong tác phẩm của Khái Hưng rất chua
xót. Ông nói tới sự bội bạc trong tình yêu, sự nhẹ dạ ngây thơ của những cô
gái quê và nói tới hậu quả của nó. Đó là những đứa con sinh ra không được sự
che chở của cha mẹ phải sống lay lắt qua ngày ở một nơi tạm bợ nào đó. Triết
lý đau đáu về nhân tình của ông là lời kêu gọi thức tỉnh lương tri, phải biết
sống có trách nhiệm với chính bản thân mình và với xã hội. Có lẽ những điều
105
ông suy nghĩ, chiêm nghiệm là những điều ông hàng ngày chứng kiến, thường ngày vẫn diễn ra trong cuộc sống. Những triết lý về đạo đức, về tình người
được nhà văn chắt gạn, đúc kết từ những cảnh đời cụ thể. Đoạn kết truyện
Biến đổi, Khái Hưng để nhân vật chua chát đau đớn về lẽ đời, về những điều
mình đã chứng kiến: "Hai năm sau, Lực và Đoàn không về xem hội Keo nữa.
Mà hình ảnh cô gái quê con ông đồ nho đạo đức cũng không còn phảng phất
trong trí nhớ hai chàng. Bỗng hôm nay, trên đường Yên Phụ, hai chàng gặp
Hiền nhởn nhơ trong bộ y phục tân thời. Cả một quãng đời phóng đãng như in
sâu dấu vết lên bộ mặt dạn dày mưa gió... Lực thở dài bảo Đoàn: - Nếu quả
thực những người chết vẫn quanh quất chốn dương gian, thì biết bao những
linh hồn sẽ đau đớn vì những biến đổi của người sống".
Chứng kiến xã hội với bao thay đổi đảo điên, giọng triết lý của Khái
Hưng cũng chua chát, chế giễu. Ở điểm này, ông gần với nhà văn hiện thực
phê phán Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng gọi xã hội là "xã hội chó đểu".
Chủ đề, kết cấu, nhân vật của ông đều bị chi phối mạnh mẽ bởi nhãn quan "vô
nghĩa lý" về đời sống. Vũ Trọng Phụng triết lý về sức mạnh của đồng tiền, về
thế đạo nhân tâm trong xã hội chạy theo đồng tiền. Ông thấy: "Cuộc đời chó
đểu chẳng có nghĩa lý gì... mà con người ở đời chẳng ai ăn ở ra cái quái gì";
hoặc là "sự đời chung quy lại chỉ là những vòng chạy trong đèn cù, luẩn quẩn
loanh quanh, và truyện không thể nào khác được". Triết lý trong tác phẩm của
Vũ Trọng Phụng đã tố cáo mạnh mẽ chế độ bất công tàn bạo đã vùi dập quyền
sống, tha hoá nhân cách con người. Khái Hưng không có chất giọng như Vũ
Trọng Phụng, cái mà nhà văn chủ trương khắc họa là những cảnh đời éo le,
ngang trái của lớp người tiểu tư sản nghèo, của người dân lao, động nhưng cái
đáng đề cao trân trọng chính là tình cảm giữa con người với nhau. Tiếng
dương cầm là câu chuyện cảm động về gia đình của Đoàn, vợ anh bị câm,
nhưng họ vẫn sống hoà thuận bên nhau. Khái Hưng để cho Đoàn nói lên những suy nghĩ thấm thía của anh về hạnh phúc, đó cũng là triết lý của Khái
Hưng về hạnh phúc ở đời. Cũng chung một suy nghĩ về hạnh phúc như thế,
trong truyện ngắn Thời chưa cưới, Khái Hưng kín đáo thể hiện triết lý về tình
yêu: "Hạnh phúc là phải biết giữ gìn, vun đắp, nếu không nó sẽ bị mai một
theo thời gian. Đôi vợ chồng Hoàn và Phát đến ngày cưới lại thấy chán nhau,
chính là do họ đã không xây đắp, vun vén hạnh phúc của mình".
106
Khái Hưng sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả. So với phần lớn các nhà văn khác, ông sống đầy đủ, không phải lo miếng cơm, manh áo hàng
ngày. Cho nên, ông ý thức được rất rõ vai trò của đồng tiền trong xã hội lúc
đó. Đồng tiền chi phối toàn bộ đời sống con người, đồng tiền khiến người ta
giả dối, lừa lọc nhau. Trong truyện Đồng xu kể về tình cảnh một anh chàng
Phiên thất nghiệp, nghèo đói, chỉ có duy nhất một đồng xu là tài sản. Anh ta
phải nhịn đói, nhịn khát, thèm thuồng đủ thứ. Kết thúc truyện là suy nghĩ của
Phiên trong nhà lao: "Tối hôm ấy, Phiên được ăn bữa cơm đầu tiên sau hai
ngày nhịn đói, bữa cơm tù. Chàng vui vẻ nghĩ thầm: Thế mới biết công dụng
của đồng xu to thực!". Nguyên do là trong lúc hứng chí Phiên đã vứt đồng xu
cuối cùng của mình vào một nhà giàu có. Sau đó chàng tiếc rẻ lại trèo vào
nhặt lại. Người nhà đã gọi cảnh sát bắt Phiên vào tù. Chỉ vì một đồng xu mà
Phiên phải vào tù. Nhưng cũng nhờ vào tù mà Phiên lại được một bữa cơm no.
Truyện vừa hài hước, vừa mỉa mai. Đồng tiền không còn là phương tiện luân
chuyển trong xã hội mà nó trở thành cán cân để đong đo, và nó có thể làm
thay đổi tất cả. Truyện được viết bằng giọng triết lý nhẹ nhàng mà sâu sắc.
Khái Hưng còn suy ngẫm khi đặt con người trong mối quan hệ với hoàn
cảnh. Ông nhận ra hoàn cảnh có thể biến đổi con người: "Đời riêng của anh
Niệm tôi không biết, tôi không rõ anh ấy sống bằng cách gì, anh ấy giàu hay
nghèo, khổ sở hay sung sướng. Chẳng qua nhận thấy cái buồn rầu vô hạn
trong mắt anh, và ngắm cái dáng điệu rụt rè bước đi chầm chậm, tôi đoán hiểu
một đời khúm núm, nhút nhát trong một gia đình quyền quý". Đọc truyện của
Khái Hưng, chúng ta nhận thấy tính triết lý in đậm trong rất nhiều truyện ngắn
của ông. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Vũ Ngọc Phan đã từng nhận xét:
"Khái Hưng là một nhà tiểu thuyết có chừng mực và ông có một đặc điểm là
truyện ngắn của ông, ông thường ngụ ý thật cao. Như vậy mới nghe tưởng như
trái ngược, nhưng không có gì trái ngược cả, về người và việc trong các truyện, Khái Hưng tả rất bình dị, nhưng ở đoạn kết bao giờ tác giả cũng để
cho người đọc một cảm tưởng xa xăm man mác" [81].
Thạch Lam lại khác, tuy số lượng tác phẩm của Thạch Lam không nhiều so
với nhiều nhà văn cùng thời, nhưng do Thạch Lam chú tâm khai thác khả năng
(bao gồm gợi tả, gợi cảm, gợi nhớ, gợi thương, gợi suy nghĩ về mọi phương diện:
Không gian, thời gian, cuộc sống, lẽ đời, đạo đức...) và nhà văn không áp đặt,
107
không dồn ép nhân vật mà để nhân vật tự thân thể hiện hồn nhiên, giống như khả năng vốn có của nó (cái giọng dửng dưng trong Trở về, Một cơn giận, Sợi tóc,...
chẳng hạn) nên truyện có khả năng mở ra nhiều chiều, khơi dậy khả năng tiếp
nhận tiềm tàng của người đọc.
Trong truyện Một cơn giận, từ sự hối lỗi của nhân vật "tôi" với gia đình
người phu xe, Thạch Lam đã đúc kết nhẹ nhàng về quan hệ ứng xử của con người.
Chỉ vì một cơn giận, một câu nói của anh mà gây ra đau khổ và tai hoạ cho cả một
gia đình, chứng kiến cảnh đó nhân vật tôi vô cùng hối hận từ đó nảy sinh những
triết lý: "Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ".
"Sự đó nhắc cho tôi nhớ rằng, người ta có thể tàn ác một cách rất dễ dàng". Chính
những câu nói đơn giản ấy đã giúp chúng ta học được cách đối nhân xử thế, ở
mọi lúc mọi nơi nếu không bình tĩnh, chúng ta sẽ phạm vào những sai lầm
lớn, những sai lầm khiến lương tâm ta luôn phải cắn dứt.
Mặc dù trong truyện ngắn Thạch Lam, chất triết lý không thể hiện rõ nét
trên từng câu chữ, nhưng chúng ta vẫn thấy ẩn sâu trong mỗi truyện ngắn của
ông là giọng điệu triết lý kín đáo. Qua cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một bên là
đạo đức, một bên là vô đạo đức của Thành (Sợi tóc) người đọc nhận biết được
các dạng biểu hiện tâm lý trong con người anh ta. Nhìn ví tiền, Thành nảy sinh ý
định ăn trộm, anh phân vân "lấy mấy tờ, độ 2 tờ, tại sao lại hai?" rồi nghĩ đinh
ninh "hai trăm đối với hắn chắc hẳn là bao" và "mỉm cười" biện hộ rằng nếu mất
tiền Bàn chỉ nghi cho nhân tình của hắn mà thôi... Đang miên man suy nghĩ,
tưởng tượng đến món tiền mình có được dễ dàng, Thành bỗng "giật mình" khi
nghe tiếng ai đó mời thuốc mà cứ ngỡ ý định xấu xa của mình bị phát hiện. Nhân
vật Thành được nhà văn mô tả khá kỹ lưỡng từ hành động ngập ngừng, rụt rè, do
dự, những trạng thái "bồn chồn nóng ruột", "băn khoăn day dứt", "lưỡng lự" đến
thái độ điềm nhiên tuy có chút "bần thần ngơ ngác". Tự mình nhìn lại bản thân,
Thành ngạc nhiên vì thấy "mình hãy còn là người lương thiện không phải là kẻ ăn cắp". Vượt qua cái ngưỡng đó, anh ta thấy lòng nhẹ nhõm, thanh thản, tâm trí
"giãn ra như một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường"[13]. Đó là
một triết lý thầm kín mà nhân vật tự nhận ra qua hành động của mình. Nhưng nó
lại trở thành một triết lý nhân sinh đối với tất cả mọi người: Mỗi người hãy tự
điều chỉnh, tự ý thức hành động của mình sao cho lương tâm mình thanh thản để
con người hướng đến những điều tốt đẹp hơn. Có thể thấy, giọng điệu triết lý
108
nhân sinh trong truyện ngắn của Thạch Lam không phải giọng chủ đạo và thường là giọng triết lý nhẹ nhàng nhưng mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Giọng điệu là yếu tố thể hiện rõ nhất phong cách của mỗi tác giả. Trong
văn xuôi giai đoạn đầu thế kỷ XX, mỗi nhà văn tìm đến cho mình một cách
thể hiện mới mẻ, khác xa với những cái vốn có của giai đoạn trước. Riêng
nhóm Tự lực văn đoàn với những tên tuổi Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,
Thạch Lam,… đủ để tạo nên một sự cách tân mới lạ, vừa đa dạng vừa độc
đáo, đặc sắc. Sự đan xen nhiều giọng điệu của những nhà văn đó cũng là một
hiện tượng dễ nhận thấy và là một thành công đáng ghi nhận. Tất cả góp phần
làm nên diện mạo đa dạng của văn chương đầu thế kỷ XX. Tự lực văn đoàn,
hai cây bút Khái Hưng, Thạch Lam đã góp phần quan trọng cho sự đổi mới
không chỉ giọng điệu của truyện ngắn mà còn phần nào khẳng định cho một
109
kiểu tư duy độc đáo tân kỳ, mới mẻ và riêng biệt.
PHẦN KẾT LUẬN
1. Trong đời sống dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, trước diễn biến phức tạp, sôi
động của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội... văn học đổi mới và phát triển hết sức
mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đồng thời nảy sinh nhiều yêu cầu mới đòi hỏi
cần được đáp ứng. Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học có tôn chỉ, mục đích rõ
ràng, tập hợp được nhiều tài năng, thu được nhiều thành tựu, tạo lập được một ưu
thế và uy thế lớn trên văn đàn. Trong tư cách một tổ chức văn học, Tự lực văn đoàn
có một sứ mệnh lịch sử to lớn, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thời đại, góp
phần đưa văn học hiện đại Việt Nam hoà nhập vào bối cảnh chung của văn học khu
vực và thế giới. Đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, đột biến mà là kết
quả của một quá trình vận động của lịch sử và văn học dân tộc trên con đường hiện
đại hoá. Các thành viên Tự lực văn đoàn, bên cạnh những đóng góp và hạn chế, mỗi
người đều có một vai trò, vị trí riêng.
2. Là thành viên tích cực, quan trọng của Tự lực văn đoàn, Khái Hưng và
Thạch Lam vừa gắn bó chặt chẽ, tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc, tôn
chỉ, mục đích của văn đoàn, vừa tiếp thu những phần tinh túy trong sáng tác
của các thành viên khác. Đồng thời bằng tài năng, tâm huyết, Khái Hưng và
Thạch Lam đã khẳng định vị trí của mình với một phong cách nghệ thuật độc
đáo. Có thể nhận thấy điểm nổi bật ở đây là, nếu Khái Hưng hướng ngòi bút
vào những vấn đề mang tính con người và xã hội với những mặt tích cực và
hạn chế của nó, thì Thạch Lam - người trung thành với quan niệm "văn
chương là văn chương" - lại tạo cho mình một phong cách trữ tình, trong trẻo,
dung dị lạ thường, nghiêng về biểu hiện chiều sâu nội tâm của những con
người cá nhân. Tuy nhiên, truyện ngắn của Khái Hưng và Thạch Lam về cơ
bản có đều nội dung tiến bộ, đề cập đến một số vấn đề xã hội mà độc giả quan tâm. Thế giới nhân vật của họ là thế giới của đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ tầng
lớp tiểu tư sản trí thức đến người dân nghèo. Ở đó, các nhà văn luôn dành cho
nhân vật của mình những tình cảm cảm thông, chia sẻ, trìu mến.
3. Khuynh hướng nghệ thuật của truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam vừa
lãng mạn vừa hiện thực, đi giữa đôi bờ lãng mạn và hiện thực. Nhìn chung giọng
110
điệu trữ tình được sử dụng triệt để trong các tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn của Khái Hưng. Và nổi bật hơn là giọng triết lý nhân sinh sâu sắc. Tuy nhiên, về phương diện tạo tính khách quan cho tác phẩm, Khái Hưng chưa vươn tới cách thức tổ chức
của các nhà văn hiện thực phê phán như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Ông còn để
cho những cảm xúc trữ tình lấn át nhiều trong tác phẩm, và chính điều đó làm giảm
đi tính hiệu quả của tác phẩm.
So với truyện ngắn của các thành viên khác trong Tự lực văn đoàn, truyện ngắn
Thạch Lam đã có sự vượt trội về một số mặt và được khẳng định bằng một phong
cách riêng, độc đáo: phong cách trữ tình. Những thành công về truyện ngắn của
Thạch Lam đã có ảnh hưởng sâu sắc, tạo sức hấp dẫn to lớn, có giá trị mở đầu cho
một dòng truyện ngắn trữ tình bao gồm các cây bút tiêu biểu: Thạch Lam, Thanh
Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn... Từ Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã phát huy cao độ ảnh
hưởng của mình trong thể loại truyện ngắn và đã để lại được những truyện ngắn đặc
sắc, có sức sống bền lâu trong tâm thể tiếp nhận của nhiều thế hệ độc giả.
Một đóng góp hết sức quan trọng của Khái Hưng và Thạch Lam được thể
hiện qua ngôn ngữ đầy chất thơ, giàu sức gợi, sức ám ảnh với người đọc. Đặc
biệt trong truyện ngắn Thạch Lam, mỗi truyện là một bài thơ trữ tình gợi cảm
giác khắc khoải, sâu đậm trong lòng người đọc.
5. Tự lực văn đoàn là "mảnh đất ươm" tài năng của Khái Hưng và Thạch
Lam, nhưng chính Khánh Hưng và Thạch Lam lại góp phần quan trọng làm
phì nhiêu mảnh đất đó. Bằng các thành tựu sáng tác đặc sắc, các tác phẩm
chứa đựng và kết đọng nhiều giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, Khái Hưng
và Thạch Lam đã làm rạng rỡ cho văn đoàn và góp phần làm phong phú diện
mạo văn học Việt Nam hiện đại.
6. Văn chương Khái Hưng, Thạch Lam ngày càng phát lộ những giá trị to
lớn, mãi mãi sẽ là những di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Việc giữ gìn và
phát huy những thành quả sáng tác của Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng,
của văn chương Tự lực văn đoàn nói chung là hết sức cần thiết, vì thế người viết hy vọng có những công trình nghiên cứu tiếp theo để tìm hiểu ngày một
111
sâu sắc hơn, toàn vẹn hơn về những sáng tác văn chương nhiều lý thú đó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. Tác phẩm
1. Khái Hưng, Dọc đường gió bụi - NXB. Đời nay, 1933
2. Khái Hưng, Anh phải sống (viết cùng Nhất Linh) - NXB. Đời nay, 1937
3. Khái Hưng, Tiếng suối reo - NXB. Đời nay, 1937
4. Khái Hưng, Đợi chờ - NXB. Đời nay, 1939
5. Khái Hưng, Hạnh - NXB. Đời nay, 1940
6. Khái Hưng, Cái Ve - NXB. Đời nay, 1940
7. Khái Hưng, Hồn bướm mơ tiên - Văn chương Tự lực văn đoàn, tập 2, NXB.
Giáo dục, 1999
8. Khái Hưng, Đời mưa gió - NXB. Giáo dục (tái bản), 1989
9. Thạch Lam, Gió đầu mùa - NXB. Đời nay, 1936
10. Thạch Lam, Nắng trong vườn - NXB. Đời nay, 1938
11. Thạch Lam, Ngày mới - NXB. Đời nay, 1939
12. Thạch Lam, Theo giòng - NXB. Đời nay, 1940
13. Thạch Lam, Sợi tóc - NXB. Đời nay, 1942
14. Thạch Lam, Thạch Lam - truyện ngắn và tiểu luận, NXB. Hội Nhà văn, 1997
15. Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường - NXB. Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh
(tái bản), 1988
B. Sách nghiên cứu
16. Đào Văn A (1981), Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây,
TCVH, số 5.
17. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội.
18. Vũ Tuấn Anh (Chủ biên) (1994), Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB.
Hội nhà văn, Hà Nội.
19. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (Chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt
Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
20. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (Chủ biên) (2001), Thạch Lam, Về tác giả và tác
phẩm NXB. Giáo dục, Hà Nội.
112
21. Lại Nguyên Ân (1994), 150 thuật ngữ văn học, NXB. ĐHQG, Hà Nội.
22. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi (1983), "Gió đầu mùa" - Từ điển văn
học. Tập 1, NXB. khoa học xã hội, Hà Nội.
23. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB. Thuỵ Ký, Hà Nội.
24. Trương Chính (1988), Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn - TCVH số 3, số 4.
25. Trương Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự
lực văn đoàn, TCVH, số 5.
26. Trương Chính (1997), "Thạch Lam với Gió lạnh đầu mùa", Dưới mắt tôi -
Tổng tập Văn học, tập 24B, NXB. KHXH, Hà Nội.
27. Đỗ Đức Dục (1963), Sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với chủ
nghĩa lãng mạn trong văn học, TC Nghiên cứu văn học, số 4.
28. Trần Ngọc Dung (1994), Phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nam
Cao, Thạch Lam, Luận án phó tiến sĩ - ĐHSP Hà Nội I.
29. Phan Huy Dũng (1994), "Tính nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ". Tiếng
nói tri âm, NXB. Trẻ, TP Hồ Chí Minh.
30. Lê Tiến Dũng (1994), "Tiếng trống thu không và tiếng còi tầu nơi phố huyện
của Thạch Lam", Tiếng nói tri âm, NXB. Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.
31. Hồ Dzếnh (1998), "Với Thạch Lam", TC Sông Hương, số 31, tháng 5, 6.
32. Hồ Dzếnh (2001), Những trang văn xuôi chọn lọc, NXB. Văn học, Hà Nội.
33. Đặng Anh Đào (2001), Gió Đông gió Tây ảnh hưởng và giao thoa trong văn
học Việt Nam hiện đại - TCVH, số 1.
34. Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
35. Phan Cự Đệ, Tự lực văn đoàn - con người và văn chương - NXB. Văn học,
1990
36. Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Hà Văn Đức (1992), Văn học Việt Nam 1930 -
1945, Tập 2, NXB. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.
37. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí
Dũng, Hà Văn Đức (1997), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB. Giáo dục,
Hà Nội.
38. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 (sửa chữa, bổ
sung), NXB. Văn học, Hà Nội.
113
39. Trịnh Bá Đĩnh (2000), Tuyển chọn và giới thiệu, Nhất Linh truyện ngắn, NXB.
Văn học Hà Nội.
40. Hà Minh Đức, Lý luận văn học - NXB. Giáo dục, 1994.
41. Hà Văn Đức (1997), Thạch Lam - Sách Văn học Việt Nam 1900-1945, NXB.
Giáo dục, Hà Nội.
42. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam - tập 3, NXB.
Xây dựng Hà Nội.
43. Vu Gia (1994), Thạch Lam thân thế và sự nghiệp, NXB. Văn hoá, Hà Nội.
44. Vu Gia, Thế Lữ, Vũ Ngọc Phan (2000), Thạch Lam của cái đẹp, NXB. Giáo
dục, Hà Nội.
45. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, NXB. Đồng Tháp (tái bản).
46. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (1992), Từ điển thuật
ngữ văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
47. Lê Thị Đức Hạnh (1965), Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, TCVH số 4.
48. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn, TCVH
số 3.
49. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội.
50. Nguyễn Thanh Hồng (1990), Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam,
TCVH, số 3.
51. Đỗ Kim Hồi (2001), Thạch Lam đôi điều cảm nhận - Đặc san Văn học và Tuổi
trẻ số 12.
52. Đinh Hùng (1965), Tìm hiểu Thạch Lam thêm một vài khía cạnh, Tạp chí Văn
Sài Gòn, số 36-15/6-1965.
53. Khái Hưng (1937), "Một quan niệm về văn chương (Tựa Gió đầu mùa)", Ngày
nay số 89,12.12.1937, in lại Tựa gió đầu mùa, NXB. Minh Đức, Hà Nội 1957.
54. Khái Hưng (1957), Lời giới thiệu Gió đầu mùa của Thạch Lam. Nxb. Minh
Đức.
55. Lê Quang Hưng (2001), Dư vị trữ tình từ Dưới bóng hoàng lan - Đặc san Văn
học và Tuổi trẻ số 11.
56. Phạm Thị Thu Hương (1993), Quan niệm nghệ thuật về con người trong
truyện ngắn Thạch Lam, TCVH, số 3.
114
57. Phạm Thị Thu Hương (1995), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong Văn
học Việt Nam giai đoạn 1930-1945: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, luận
án Phó tiến sĩ, Viện Văn học.
58. Mai Hương (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB.
Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
59. Trịnh Hồ Khoa (1996), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây
dựng một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, luận án Phó tiến sĩ ngữ văn, ĐHQG
Hà Nội.
60. Nguyễn Hoành Khung (1984), "Thạch Lam", Từ điển văn học, tập II, NXB.
KHXH, Hà Nội.
61. Nguyễn Hoành Khung (1990), Lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 -
1945, tập I, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Hoành Khung (1989), Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam,
Nxb. KHXH.
63. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hoá, Sài
Gòn.
64. Mã Giang Lân (2002), Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900-2000): Một công
trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị khoa học, TCVH, số 5.
65. Phong Lê (1988 - sưu tầm, tuyển chọn), Tuyển tập Thạch Lam, NXB. văn học,
Hà Nội.
66. Phong Lê (1988), Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, TCVH, số 2.
67. Phong Lê (1988), Lời giới thiệu tuyển tập Thạch Lam, NXB. Văn học, Hà Nội.
68. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại (những chân dung tiêu biểu),
NXB. ĐHQG, Hà Nội.
69. Thế Lữ (1943), Tính cách tạo tác của Thạch Lam, báo Thanh nghị, số 39
16/6/1943; đăng lại tên TC Văn, Sài Gòn số 36 (15/6/1965).
70. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB. Giáo dục, 2003
71. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn
Trác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập V, NXB. Giáo dục, Hà Nội.
72. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB. tác phẩm
mới, Hà Nội.
115
73. Nguyễn Đăng Mạnh, Những bài giảng về tác giả văn học Việt Nam hiện đại -
NXB. Đại học Quốc gia, 2005
74. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Khái luận Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A,
NXB. KHXH, Hà Nội.
75. Lê Hữu Mục, Khảo luận về Khái Hưng, Trường Thi xuất bản, 1958
76. Nguyễn Xuân Nam (1984), "Truyện ngắn", Từ điển văn học, tập II, NXB.
KHXH, Hà Nội.
77. Phương Ngân (2000), Khái Hưng nhà tiểu thuyết, NXB. Văn hoá Thông tin,
Hà Nội.
78. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB. Văn hóaThông tin, Hà
Nội.
79. Vương Trí Nhàn (1990), Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam, TCVH, số 5.
80. Vương Trí Nhàn (1992), Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, TCVH, số 5.
81. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại, Nxb. Văn hoá - Thông tin - Tái bản.
82. Thế Phong (1971), "Các nhà văn trong Tự lực văn đoàn", Lược sử văn nghệ
Việt Nam, nhà văn tiền chiến 1930-1945, NXB. Vàng son, Sài Gòn.
83. Nguyễn Phúc (1994), "Quan niệm văn chương của Thạch Lam: vị nghệ thuật
hay vị nhân sinh?" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp - NXB. Hội Nhà
văn, Hà Nội.
84. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964 - chủ biên), Sơ thảo lịch sử văn học
Việt Nam 1930-1945, NXB. Văn học, Hà Nội.
85. Hoài Thanh (1982), "Một vài ý kiến về phong trào Thơ mới và quyển Thi nhân
Việt Nam", Tuyển tập Hoài Thanh - tập 2, NXB. Văn học, Hà Nội.
86. Nguyễn Thành Thi (1998), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, NXB. Giáo
dục, Hà Nội.
87. Hoàng Kim Thanh (2002), Thạch Lam từ quan điểm nghệ thuật tiến bộ đến giá
trị nhân văn mới mẻ trong sáng tác - Luận văn Thạc sĩ.
88. Nguyễn Thị Thành (2000), Thạch Lam từ quan niệm về cái đẹp đến những
trang văn Hà Nội băm sáu phố phường - Tạp chí Văn học số 10.
89. Lưu Khánh Thơ, Bích Thu (2003 - tuyển chọn), Tuyển tập truyện ngắn lãng
mạn, NXB. Văn học, Hà Nội.
116
90. Bích Thu (1992), Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam tạp chí Khoa
học và phụ nữ, số 3.
91. Bích Thu (1992), Sự thức tỉnh của con người trong sáng tác Thạch Lam, tạp
chí Khoa học và Tổ quốc, số 11.
92. Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Thuỷ Liên (sưu tầm - 2001), Tác phẩm được giải
thưởng Tự lực văn đoàn, NXB. Văn học, Hà Nội.
93. Đỗ Đức Thu (1965), Thạch Lam, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36 (15/6/1965).
94. Ngô Văn Thư (2001), Nửa chừng xuân, bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết,
TCVH, số 7.
95. Phan Trọng Thưởng (2000), Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn
chương Tự lực văn đoàn, TCVH số 2.
96. Phan Trọng Thưởng (2000), Phóng sự (1932 - 1945), Một thành tựu đặc biệt
của tiến trình văn học Việt Nam, TCVH, số 5.
97. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại - Tài liệu bồi dưỡng
thường xuyên chu kỳ 1992 - 1996 cho giáo viên cấp II - Bộ Giáo dục - Đào tạo
- Vụ giáo viên.
98. Nguyễn Trác (1961), Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 5, NXB. Giáo dục.
99. Lê Minh Truyên (2004), Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, Luận án tiến sĩ.
100. Xuân Vi (5-6-1938), Gió đầu mùa của Thạch Lam - Một văn sĩ có tài - Một
kiệt tác - Ngày nay số 113.
117