ĐẠI HỌC QUỐC GIA TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI & NHÂN VĂN ---o0o--- VŨ THANH VIỆT TRUYỆN NGẮN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN (Qua hai tác giả tiêu biểu: KHÁI HƯNG và THẠCH LAM) Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 60.22.34

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS MAI THỊ HƯƠNG Hà Nội, 2008

MỤC LỤC

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1

1. Lý do chọn đề tài

3

2. Lịch sử vấn đề

2.1. Về Tự lực văn đoàn

3

2.1.1. Từ 1933 đến 1945

3

2.1.2 Từ 1945 đến 1986

4

2.1.3. Thời kỳ 1986 đến nay

7

2.2. Về Khái Hưng

8

2.2.1. Trước 1945

9

2.2.2. Từ 1945 - 1986.

10

2.2.3. Từ 1986 đến nay

11

2.3. Về Thạch Lam

12

2.3.1. Trước 1945

13

2.2.2. Sau 1945 đến trước 1975

13

2.2.3. Từ 1975 đến nay

15

17

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

3.1. Đối tượng

17

3.2. Phạm vi nghiên cứu

17

18

4. Mục đích nghiên cứu

18

5. Phương pháp nghiên cứu

18

6. Cấu trúc của luận văn

B. PHẦN NỘI DUNG

Chương 1: TRUYỆN NGẮN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG, THẠCH LAM

19

1.1. Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc

19

1.1.1. Hoàn cảnh ra đời

19

1.1.2. Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc

22

1.2. Truyện ngắn Tự lực văn đoàn và truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam.

24

1.2.1. Vài nét về truyện ngắn Tự lực văn đoàn

24

1.2..2. Đặc điểm Truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam

29

Chương 2: THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM

41

2.1. Khái niệm nhân vật

41

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam

42

2.2.1.Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Khái Hưng

42

2.2.2. Quan niệm nhân vật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam

43

2.3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam

44

2.3.1. Nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam

44

2.3.2. Nhân vật người dân nghèo

54

Chương 3: ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM

69

3.1. Cốt truyện

70

3. 2. Ngôn ngữ

79

3.2.1. Ngôn ngữ người kể chuyện, lời người trần thuật

79

3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật

87

3.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại

87

3.2.2.2. Độc thoại nội tâm

92

3.3. Giọng điệu

99

3.3.1. Giọng thương cảm, trầm buồn

100

3.3.2. Giọng triết lý nhân sinh

104

C. PHẦN KẾT LUẬN

110

TÀI LIỆU THAM KHẢO

112

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 1.1- Nói đến văn xuôi hiện đại Việt Nam, chúng ta không thể không nói

đến văn xuôi của một văn đoàn mà chỉ vẹn vẹn trong khoảng mươi năm (1932

- 1940) nó đã chiếm ưu thế tuyệt đối trên văn đàn công khai. Chính thức thành

lập năm 1933 (theo Trương Chính), Tự lực văn đoàn gồm có Nhất Linh, Khái

Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam, Tú Mỡ, Thế Lữ. Về sau thêm Xuân Diệu, và

có một số nhà văn cộng tác chặt chẽ với văn đoàn này như Huy Cận, Thanh

Tịnh, Đoàn Phú Tứ. Cơ quan ngôn luận của văn đoàn là tờ tuần báo Phong

hoá, sau đó là tờ Ngày nay và Nhà xuất bản Đời nay.

Trong khoảng trên dưới mười năm, Tự lực văn đoàn đã có công lớn trong

việc đổi mới nền văn hoá, góp phần quan trọng vào việc xây dựng một nền

văn học Việt Nam hiện đại. Hoàng Xuân Hãn đã khẳng định: "Nhóm Tự lực

văn đoàn không phải là nhóm duy nhất nhưng là nhóm quan trọng nhất và là

nhóm cải cách đầu tiên của nền văn học hiện đại" (Sông Hương, số 37, tháng

4 năm 1989, trang 74).

So với trước năm 1930, thời kỳ này các nhà văn Tự lực văn đoàn đã kết

hợp được khá nhuần nhị truyền thống với hiện đại, phương Đông và phương

Tây. Ngôn ngữ văn học cũng trở nên giản dị, trong sáng, giàu khả năng diễn

đạt hơn và đặc biệt rất gần gũi với tâm hồn dân tộc.

Nhìn chung, việc đánh giá Tự lực văn đoàn khen, chê, hoan nghênh hoặc

phê phán của giới nghiên cứu, phê bình và công chúng từng thời kỳ là khác

nhau, thậm chí có nhiều ý kiến trái ngược, đối lập nhau, nhưng những thành

tựu của Tự lực văn đoàn trong mười năm hoạt động khá rực rỡ, đến nay vẫn

để lại những tác phẩm có giá trị. Nhà thơ Huy Cận nhận xét: "Ta đã có dư thời

gian để đánh giá sự đóng góp của Tự lực văn đoàn. Có thể nói Tự lực văn

đoàn có đóng góp lớn vào văn học sử Việt Nam. Họ có hoài bão về văn hoá dân tộc... có những đóng góp lớn vào tính hiện đại của tiểu thuyết, đóng góp vào tiếng nói câu văn của dân tộc, với lối văn trong sáng và rất Việt Nam".

Có thể nói, nhờ tiếp thu được những ảnh hưởng của nền văn học hiện đại

1

phương Tây, Tự lực văn đoàn đã tạo được bước tiến đáng kể trên các thể loại như báo chí, tiểu thuyết, thơ, kịch, truyện ngắn. Đặc biệt là thể loại truyện ngắn với những cây bút tiêu biểu như Khái Hưng và Thạch Lam. Đây là hai tác giả

viết nhiều, là những cây bút trụ cột của văn đoàn, trong lĩnh vực truyện ngắn

Khái Hưng có truyện được khen là "tuyệt hay": Anh phải sống, Dọc đường gió

bụi, Đợi chờ, Đào Mơ, Điếu thuốc lá, Đồng xu...), còn Thạch Lam luôn được

đánh giá có những đóng góp chủ yếu, với các tập truyện Gió đầu mùa (1937),

Nắng trong vườn (1939), Sợi tóc (1942).

1.2- Khái Hưng (tên thật là Trần Khánh Giư) đã để lại một khối lượng tác

phẩm phong phú đa dạng với đủ thể loại: từ tiểu thuyết, truyện ngắn đến kịch.

Trong đó tiểu thuyết và truyện ngắn là hai thể loại được ông dành tâm huyết.

Ông có 9 tiểu thuyết: Hồn bướm mơ tiên (1933), Gánh hàng hoa (1934 - viết

cùng Nhất Linh), Trống mái (1936), Thừa tự (1940), Tiêu Sơn tráng sĩ (1940),

Hạnh (1940), Những ngày vui (1941), Đẹp (1941), và những tập truyện ngắn

như: Dọc đường gió bụi (1936), Anh phải sống (1937 - viết cùng Nhất Linh),

Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1941). Với những đề tài mới mẻ, phù hợp với

tâm lý công chúng đương thời, lối kể chuyện hấp dẫn, duyên dáng, ngôn ngữ

trong sáng, trang nhã, gợi cảm và giàu chất thơ, sáng tác của Khái Hưng được

bạn đọc đón nhận với tấm lòng mến mộ, đặc biệt là thanh niên.

Thạch Lam (tên thật là Nguyễn Tường Lân) một mặt là một nhà văn lãng

mạn, một mặt luôn có xu hướng bước sang lãnh địa của chủ nghĩa hiện thực.

Trong cuộc đời ngắn ngủi 32 năm của mình, nhà văn Thạch Lam chỉ có gần

10 năm cầm bút. Mặc dù số lượng tác phẩm của ông không nhiều so với các

cây bút đương thời, nhưng với quan niệm văn chương tiến bộ và bằng lối rất

riêng, những sáng tác của ông nhẹ nhàng đi vào lòng người. Những tác phẩm

chính bao gồm: Các tập truyện Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938),

Sợi tóc (1942); tiểu thuyết Ngày mới (1939), tập tiểu luận phê bình Theo giòng

(1941), và tuỳ bút Hà Nội băm sáu phố phường (1943). Ngoài ra, ông còn có "Tủ sách hồng" viết cho thiếu nhi: Hạt ngọc, Hai chị em và Lên chùa. Trong

đó lĩnh vực thành công nhất, thể hiện biệt tài của Thạch Lam là truyện ngắn.

1.3- Nói đến những dấu ấn không thể phai mờ những thành công và đóng

góp của Tự lực Văn đoàn, do vậy không thể không nhắc đến đóng góp quan

trọng của các thành viên và các cộng tác viên đã gắn bó chặt chẽ với văn

đoàn, trong đó phải kể đến hai cây bút hàng đầu Khái Hưng và Thạch Lam.

2

1.4 - Đã có nhiều ý kiến, đánh giá về Tự lực văn đoàn nói chung và tác giả Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng, nhưng nhìn chung chưa thật khách

quan, toàn diện và đúng mức. Nhiều công trình nghiên cứu về Tự lực văn

đoàn đã ra đời nhưng chỉ tập trung vào thể loại tiểu thuyết, nhất là của một số

tác giả tiêu biểu Khái Hưng, Nhất Linh và Hoàng Đạo. Trong khi đó, truyện

ngắn cũng là địa hạt quan trọng, "mảnh đất ươm” bộc lộ tài năng, đặc biệt là

Thạch Lam và cũng là một mảng sáng tác không thể thiếu trong sự nghiệp

sáng tạo của Khái Hưng lại chưa được nghiên cứu một cách hệ thống chuyên

sâu. Đó cũng là lý do để chúng tôi mạnh dạn chọn đề tài "Đặc điểm truyện

ngắn Tự lực văn đoàn - qua hai tác giả tiêu biểu Khái Hƣng và Thạch Lam” làm đề tài nghiên cứu. 2. Lịch sử vấn đề Trong vòng chưa đầy 10 năm, Tự lực văn đoàn đã chiếm ưu thế tuyệt đối

trên văn đàn công khai, sách báo của họ in đẹp nhất, bán chạy nhất và có ảnh

hưởng khá mạnh mẽ tới tầng lớp tiểu tư sản thành thị đương thời.

Hơn 70 năm qua, vấn đề văn chương Tự lực văn đoàn và văn nghiệp của

Khái Hưng, Thạch Lam đã được dư luận độc giả và giới nghiên cứu phê bình

thẩm định qua các chặng đường biến động của lịch sử dân tộc. Qua khảo sát

tình hình đánh giá về Tự lực văn đoàn và hai tác giả Khái Hưng và Thạch

Lam chúng tôi nhận thấy:

2.1. Về Tự lực văn đoàn

2.1.1. Từ 1933 đến 1945 Sau khi nhóm Tự lực văn đoàn ra đời, hoạt động sôi nổi và đạt được một số

thành tựu đáng chú ý, một số nhà nghiên cứu phê bình văn học bắt đầu có những

nhận định, đánh giá qua các bài báo hoặc dành các chương mục trong các công

trình để bàn về giá trị văn chương Tự lực văn đoàn ở một số khía cạnh: đấu tranh

giải phóng cá nhân, nghệ thuật tả cảnh, và phác hoạ tâm lý nhân vật. Tiêu biểu là các công trình của Trương Chính: Dưới mắt tôi (1939), Vũ Ngọc Phan: Nhà văn

hiện đại (1942), Dương Quảng Hàm: Việt Nam văn học sử yếu (1943), các bài báo

của Trương Tửu… và bước đầu hình thành hai cách nhìn đối lập nhau. Trương

Chính là ủng hộ và khen ngợi những vấn đề mới mẻ đặt ra trong tác phẩm của các

nhà văn Tự lực văn đoàn. Những trang ông viết về tiểu thuyết Lạnh lùng của Nhất

3

Linh thực chất là những luận điểm mang tính bút chiến với Trương Tửu. Ông khẳng định: “lời phê bình cuối cùng của tôi là một lời khen thành thực” [58]. Ông cũng không đồng ý cách đánh giá của Trương Tửu đối với một số tác phẩm của

Khái Hưng và thẳng thắn bày tỏ: “Đọc Khái Hưng ta thấy cõi lòng sáng hẳn lên

như soi rọi bởi những tia vui trong trẻo. Nói rằng một kỷ nguyên mới trong lịch sử

văn học Việt Nam và tác giả nó là một nhà luân lý cũng không phải là quá đáng...

Nhà luân lý Khái Hưng lại là một nhà tâm lý nữa”[58]. Năm 1942, Vũ Ngọc Phan

với 1.400 trang viết trong cuốn Nhà văn hiện đại đã dành gần 100 trang cho Nhất

Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo, Thạch Lam với nhiều ý kiến xác đáng, nhất là về

tiểu thuyết, truyện ngắn Nhất Linh, Khái Hưng. Năm sau (1943), Dương Quảng

Hàm trong cuốn Việt Nam văn học sử yếu đã giới thiệu sơ lược về tổ chức văn học

Tự lực văn đoàn cùng hai tác giả tiêu biểu là Nhất Linh, Khái Hưng (gồm 4 tác

phẩm nổi bật là Đoạn tuyệt, Lạnh lùng, Hồn bướm mơ tiên, Nửa chừng xuân) và

chỉ ra đặc điểm nổi bật: tác phẩm Nhất Linh là tiểu thuyết luận đề, tiểu thuyết Khái

Hưng thì thiên về khuynh hướng lý tưởng.

Nhìn chung, hoạt động nghiên cứu phê bình văn học thời kỳ này khá sôi nổi

và có nhiều thành tựu. Với Tự lực văn đoàn, sự đánh giá của các nhà nghiên cứu

phê bình không thuần nhất một chiều. Xu hướng chung là khen nhiều hơn chê,

khẳng định nhiều hơn phủ định. Những ý kiến đánh giá ngày càng khách quan,

ủng hộ cái mới, trân trọng những đóng góp của Tự lực văn đoàn, nhất là tiểu

thuyết. Đây là cơ sở quan trọng tạo tiền đề và có ảnh hưởng sâu sắc đối với hoạt

động nghiên cứu các giai đoạn sau.

2.1.2 Từ 1945 đến 1986 Suốt một thời gian dài, khi nước ta trải qua hai cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ

đại, vấn đề được đặt lên hàng đầu là giành lại độc lập dân tộc, giữ vững chủ quyền

đất nước. Trong khoảng gần chục năm từ 1945 đến năm 1954, hiện tượng văn

chương Tự lực văn đoàn gần như ít được sách báo nhắc đến, ngoài bài viết

của Trường Chinh: Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hoá Việt Nam. Sang giai đoạn từ 1954 đến 1975, tình hình tiếp nhận văn chương Tự lực văn đoàn ở hai

miền Nam - Bắc cũng có sự khác biệt khá lớn.

Ở miền Nam nhìn chung có thái độ đánh giá cao văn chương Tự lực văn

đoàn. Các tác giả, tác phẩm Tự lực văn đoàn chiếm vị trí quan trọng trong

chương trình trung học phổ thông. Nhiều công trình nghiên cứu về Tự lực văn

đoàn được xuất bản: Nguyễn Văn Xung - Bình giảng về Tự lực văn đoàn

4

(1958); Phạm Thế Ngũ - Việt Nam văn học sử giản ước tân biên - Tập 3 (1960); Doãn Quốc Sỹ - Về Tự lực văn đoàn (1960); Lê Hữu Mục - Khảo về

"Đoạn tuyệt" (1960); Thanh Lãng - Phê bình văn học thế hệ 32 - Tập 3

(1972); Vũ Hân - Văn học Việt Nam thế kỷ XIX tiền bán thế kỷ XX 1800 -

1945; Thế Phong - Nhà văn tiền chiến 1930-1945. Phạm Thế Ngũ trong Việt

Nam văn học sử giản ước tân biên - Tập 3 đã giới thiệu nhiều mặt hoạt động

của Tự lực văn đoàn: Về người sáng lập Nguyễn Tường Tam; Từ tờ báo đến

văn đoàn; Quan điểm của nhóm về xã hội và nhân sinh; Tôn chỉ và đường lối

sáng tác của văn đoàn; Những cơ quan truyền bá của văn đoàn; Tổng luận về

Tự lực văn đoàn, Phạm Thế Ngũ viết: “Làm việc trong bảy tám năm liền bằng

tờ báo, bằng quyển sách, những người trong nhóm Tự lực văn đoàn đã đi đến

hoán cải bộ mặt xã hội chúng ta hồi đó về hai phương diện tư tưởng và văn

học". "Về đường tư tưởng, chủ trương duy tân và cấp tiến, họ đưa ra tác động

như một cơn lốc thổi vào cái xã hội trì trệ trước 1932, nhất là với cái cười

Phong hoá, không có gì họ nhằm đả phá mà đứng vững được (...). Thật vậy,

không phải chỉ tác động bằng tiếng cười đả phá mà còn bằng tiểu thuyết, bằng

thơ, những sáng tác văn nghệ của họ ngấm sâu vào linh hồn và thay đổi nề

nếp suy cảm của cả một thế hệ độc giả [58]. Năm 1962 trên Tạp chí Bách

khoa số 140 - Nguyễn Hữu Ngư có bài Giải thưởng Tự lực văn đoàn giới

thiệu về những lần xét và tặng giải thưởng cho các nhà văn có tác phẩm dự

thi. Tựu trung có ba lần xét và trao giải: 1935; 1937; 1939. Năm 1938 có xét

nhưng không có tác phẩm nào được tặng giải thưởng. Đây cũng là một hoạt

động có nhiều ý nghĩa của Tự lực văn đoàn. Sau cái chết của Nhất Linh (tháng

7-1963) trên Tạp chí Văn - xuất bản ở Sài Gòn trong nhiều số của năm 1963,

1964, 1965 và tạp chí Bách khoa (Sài Gòn) đã có nhiều bài về Nhất Linh và

các tác giả khác trong văn đoàn. Như vậy ở miền Nam trước 1975, giới phê

bình nghiên cứu văn học và độc giả đã dành nhiều ưu ái cho Tự lực văn đoàn. Việc đánh giá vai trò, vị trí, đóng góp của Tự lực văn đoàn cho tiến trình văn

học hiện đại Việt Nam theo chúng tôi là khá thoả đáng, có cơ sở đứng vững.

Ở miền Bắc, từ sau 1954, việc nghiên cứu đánh giá văn học tiền chiến nói

chung, văn học lãng mạn và văn chương Tự lực văn đoàn nói riêng khá phức tạp.

Sau một thời gian dài ít được quan tâm, từ 1957 trở đi một số công trình nghiên

cứu về văn học giai đoạn trước 1945 được công bố. Nổi bật là Lược thảo lịch sử

5

văn học Việt Nam - Tập 3 (1957) của nhóm Lê Quý Đôn; Văn học Việt Nam 1930 - 1945 (1961) của Bạch Năng Thi, Phan Cự Đệ; Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam

1930 - 1945 (1964); Bàn về những cuộc đấu tranh tư tưởng trong văn học Việt

Nam hiện đại 1930-1954 (1971) của Vũ Đức Phúc; Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại

(1974, 1975) của Phan Cự Đệ. Trên Tạp chí Văn nghệ, tập san Nghiên cứu văn

học, rồi Tạp chí Văn học đăng tải một số bài về văn học lãng mạn và Tự lực văn

đoàn của các nhà phê bình văn học, gây được sự chú ý của độc giả. Một số nhà

nghiên cứu đã chỉ ra được mặt thành công và hạn chế của văn học lãng mạn cũng

như văn chương Tự lực văn đoàn trên nhiều phương diện. Bạch Năng Thi khẳng

định: “Cuộc xung đột "mới, cũ" trong văn học của ta không có quy mô rộng lớn và

không được náo nhiệt như cuộc xung đột giữa phái cổ điển và phái lãng mạn ở

Pháp. Nhưng nó cũng có ý nghĩa xã hội của nó cuối buổi giao thời ấy. Và Tự lực

văn đoàn với một loạt tiểu thuyết mới, cả một loạt Thơ mới nữa, phất cờ chiến

thắng là tất nhiên [58].

Tuy nhiên các ý kiến đánh giá nhìn chung vẫn tỏ ra e dè, rào đón, hầu hết

đều khen ít, chê nhiều, xoay quanh tiêu chí giai cấp; tiêu chí văn học vô sản đối

lập với văn học tư sản; hiểu định hướng văn nghệ phục vụ chính trị một cách

máy móc, nên trong phê bình không tránh khỏi tình trạng suy diễn, thậm chí quy

chụp, nặng về xem xét nội dung xã hội của tác phẩm trên một số phương diện

chính trị, tư tưởng, đạo đức, giá trị hiện thực... Về nghệ thuật nặng về yêu cầu

điển hình hoá, cá thể hoá, miêu tả tâm lý nhân vật. Giới nghiên cứu miền Bắc

thời kỳ này hầu như cùng chung một nhận định: Những năm 1941-1945 là thời

kỳ toàn bộ nền văn học công khai đi vào bế tắc. Vũ Đức Phúc trong Sơ thảo lịch

sử văn học Việt Nam 1930-1945 cho rằng: “Trong cuộc đấu tranh nghệ thuật vị

nghệ thuật, nghệ thuật vị nhân sinh nhóm Tự lực văn đoàn không dám tham gia

cuộc tranh luận. Đường lối cơ hội chủ nghĩa của họ trong thời kỳ này thể hiện

trong sáng tác là muốn "kiếm ăn cả về hai mặt". Một mặt thì vuốt ve công nông bằng những tác phẩm như Tối tăm (1936), mặt khác lại muốn phục vụ cho khách

hàng "tài hoa son trẻ" bằng những tác phẩm như Trống mái (1937) [84]. Hoặc

cho rằng Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo là tiêu biểu cho "một khuynh

hướng" phản động, muốn giữ vững quyền lợi cho giai cấp bóc lột đồng thời ban

ơn cho dân nghèo" (qua một số tác phẩm Con đường sáng, Gia đình) [84]. Hầu

hết các tác phẩm của các thành viên chủ chốt Tự lực văn đoàn (trừ Thạch Lam)

đều được đặt dưới tiêu chí đó để xem xét.

6

Giai đoạn từ năm 1975 đến năm 1985, việc nghiên cứu, đánh giá lại các

di sản văn hoá cũ, nhất là những sáng tác trước 1945 trong đó có Tự lực văn

đoàn theo một cách nhìn mới vẫn chưa có sự thay đổi đáng kể. Các giáo trình

văn học ở bậc đại học, cao đẳng như cuốn Lịch sử văn học Việt Nam (1930-

1945) - tập 5. NXB. Giáo dục H.1978 của nhiều tác giả [71] chủ yếu vẫn giữ

nguyên những nhận định, đánh giá trước đây. Có thể xem đó như một khoảng

lặng giữa hai đợt sóng, đã dần bộc lộ những ý tưởng mới, nhận thức mới,

nhưng chủ yếu là để chuẩn bị cho một thời kỳ đổi mới văn học cả về chất và

lượng từ sau 1986.

2.1.3. Thời kỳ 1986 đến nay Hoà chung trong không khí đổi mới của toàn dân tộc, đây là thời kỳ khởi

phát rực rỡ của văn học cả về phương diện sáng tác, nghiên cứu, phê bình.

Không khí học thuật thật sự có sự biến chuyển lớn. Nhiều hiện tượng văn học

quá khứ được đánh giá lại, các tác phẩm văn chương trước Cách mạng tháng

Tám - 1945, nhất là văn chương lãng mạn trong đó bao gồm văn chương Tự lực

văn đoàn và Thơ mới được thẩm định lại với cái nhìn biện chứng, bình tĩnh và

công bằng hơn. Hầu hết tác phẩm các nhà văn trong Tự lực văn đoàn đã được in

lại và được giới thiệu theo một quan điểm, góc nhìn nhận mới. Phan Cự Đệ viết

lời giới thiệu cho một loạt tác phẩm: Đoạn tuyệt, Đôi bạn, Băn khoăn, Tiêu sơn

tráng sĩ, Trống mái, Thoát ly, Đẹp; Hà Minh Đức viết lời giới thiệu Nửa chừng

xuân, Đời mưa gió; Phong Lê sưu tầm, tuyển chọn, giới thiệu Tuyển tập truyện

ngắn Thạch Lam... Đặc biệt trong giai đoạn này, hàng loạt công trình nghiên cứu

về Tự lực văn đoàn đã làm thay đổi hẳn những nhận thức phần nào thiên kiến

trước đây. Đó là các bộ giáo trình Đại học được chỉnh lý và biên soạn mới của

Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Hà Văn Đức: Văn học Việt

Nam 1930 - 1945 - NXB. Đại học & THCN - 1988; Phan Cự Đệ: Văn học lãng mạn Việt Nam 1932 - 1945 NXB. Giáo dục 1997; Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu,

Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn Đức: Văn học Việt

Nam 1900-1945 - NXB. Giáo dục - 1997. Các công trình này đã đặt Tự lực văn

đoàn trong tiến trình chung của văn học dân tộc và tiến trình văn học hiện đại để

xem xét. Bên cạnh đó là một số bài viết rất có giá trị của các nhà nghiên cứu như:

Lê Thị Đức Hạnh, Trương Chính, Trần Đình Hượu, Phong Lê, Trịnh Hồ Khoa,

7

Lê Thị Dục Tú… Riêng Vu Gia đã lần lượt xuất bản một loạt bốn công trình khảo cứu nghiêm túc về bốn nhà văn chủ chốt của Tự lực văn đoàn: Khái Hưng,

nhà tiểu thuyết - NXB. Văn hoá. H.1993; Thạch Lam thân thế và sự nghiệp-

NXB. Văn hoá H. 1994; Nhất Linh trong tiến trình hiện đại hoá văn học - NXB.

Văn hoá 1995; Hoàng Đạo, nhà báo - nhà văn - NXB. Văn hoá 11-1997.

Những năm cuối cùng của thế kỷ XX nhiều nhà nghiên cứu đã sưu tầm,

biên soạn, giới thiệu và xuất bản các bộ tuyển tập lớn về văn chương Tự lực

văn đoàn như: Tuyển tập Tự lực văn đoàn - NXB. Hội Nhà văn - 1999 - 3 tập

với khoảng 2.000 trang gồm những tác phẩm chủ yếu của Khái Hưng, Nhất

Linh, Hoàng đạo và một số của Thạch Lam, Thế Lữ, Xuân Diệu, Tú Mỡ. Dày

dặn, công phu và tương đối đủ các tác phẩm tiêu biểu của Tự lực văn đoàn là

bộ tuyển tập Văn chương Tự lực văn đoàn của nhóm Phan Trọng Thưởng,

Nguyễn Cừ - NXB. Giáo dục - 1999 với hơn 3.500 trang khổ lớn. Bộ Từ điển

tác phẩm văn xuôi Việt Nam do Vũ Tuấn Anh, Bích Thu chủ biên (NXB. Văn

học, Hà Nội, 2001) là một đóng góp của các nhà nghiên cứu ở trong và ngoài

Viện Văn học. Các bài viết về Tự lực văn đoàn qua các thời kỳ của các nhà

phê bình đã được tập hợp lại, biên soạn thành sách như cuốn Tự lực văn đoàn

trong tiến trình văn học dân tộc - (Mai Hương biên soạn) - NXB. Văn hoá -

Thông tin, Hà Nội, 2000; Mấy vấn đề trong văn học hiện đại Việt Nam của Lê

Thị Đức Hạnh (NXB. KHXH, Hà Nội, 1999) là những đóng góp thiết thực

cho việc nghiên cứu, tiếp nhận bộ phận văn chương này. Trong cuốn sách

Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900 - 2000), Tự lực văn đoàn được đánh giá

như một nhân tố quan trọng thúc đẩy tiến trình hiện đại hoá văn học: "Mở đầu

là phong trào Duy tân của các nhà nho tiến bộ, đến cải cách của Tự lực văn

đoàn, trào lưu hiện thực và văn học cách mạng thấm sâu tư tưởng nhân đạo,

dân chủ, tiến bộ" [64]. Qua đó có thể thấy một điểm thú vị là việc nghiên cứu

phê bình văn học có chất lượng học thuật và đạt thành tựu cao lại tập trung vào hai chặng: những năm 30 đầu 40 và những năm cuối thế kỷ XX đến nay.

Mặc dù thời gian tồn tại của Tự lực văn đoàn chỉ diễn ra trên dưới 10 năm

nhưng đã có ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hoá, văn nghệ dân tộc

suốt một chặng đường dài. Ở mỗi thời kỳ, tuy có những cách nhìn nhận, đánh

giá khác nhau, nhưng nhìn chung ngày càng hướng đến quan điểm thống nhất.

8

2.2. Về Khái Hưng Hơn nửa thế kỷ qua, cũng như những sáng tác của Tự lực văn đoàn nói chung, văn nghiệp của tác giả Khái Hưng nói riêng cũng đã trải qua rất nhiều

“bước thăng trầm”. Cho đến nay, việc nghiên cứu truyện ngắn của Khái Hưng

có thể phân ra 3 thời kỳ:

2.2.1. Trƣớc 1945 Một số truyện ngắn đầu tay của Khái Hưng ngay sau khi ra đời đã được

coi là “món ăn lạ”, giúp “cải thiện khẩu vị đọc cho người dân thị thành”.

Truyện ngắn Bên dòng Hương Giang được in lần đầu tiên trên Báo Phong hoá

ngày 31/3/1933, tập truyện ngắn Dọc đường gió bụi năm 1936 Nhà xuất bản

Đời Nay… đã đón nhận được sự cổ vũ nồng nhiệt của công chúng. Những

truyện ngắn đăng trên báo Phong hóa và Ngày nay của Khái Hưng trong vòng

10 năm phải kể đến vài trăm truyện. Trong thời kỳ mặt trận dân chủ, tuy ưu

thế của Tự lực văn đoàn có bị giảm sút, nhưng những tác phẩm của Khái

Hưng vẫn được đông đảo độc giả chào đón. Thời kháng chiến, các nhà xuất

bản ở Hà Nội đã cho tái bản nhiều lần các tác phẩm của Khái Hưng, trong đó

truyện ngắn chiếm số lượng đáng kể. Nhìn chung các ý kiến đều dành cho

truyện ngắn Khái Hưng sự thiện cảm, nhưng chủ yếu về nghệ thuật như: “văn

hay, tâm lý giản dị và sâu sắc”. Riêng Vũ Ngọc Phan trong bài nghiên cứu về

Khái Hưng đã có cái nhìn khá toàn diện về truyện ngắn của ông từ: nghệ thuật

xây dựng nhân vật, kết cấu, giọng văn… “Về truyện ngắn, Khái Hưng viết

tuyệt hay, người ta thấy phần nhiều truyện ngắn của ông có vẻ linh họat và

cảm người đọc hơn là truyện dài của ông. Truyện ngắn Thạch Lam và Đỗ Đức

Thu ngả về mặt sầu cảm và kín đáo bao nhiêu thì truyện ngắn Khái Hưng vui

tươi và rộng mở thế ấy… Đọc truyên ngắn Khái Hưng, tôi nhận thấy nghệ

thuật của ông là tìm cho ra những ý nghĩa đau đớn hay khoái lạc của mợi việc

ở đời, rồi ghi lại bằng những lời văn gọn gàng, sáng sủa…”- Nhà văn hiện đại

– Nhà xuất bản Văn học. Tuy nhiên, những đánh giá này mới chỉ xuất phát từ một vài tác phẩm cụ thể, chưa phải là một cái nhìn hệ thống xuất phát từ toàn

bộ truyện ngắn Khái Hưng.

Như vậy, công chúng, các nhà phê bình nghiên cứu trước Cách mạng đã

đánh giá khá cao truyện ngắn Khái Hưng. Bằng cách này, hay cách khác (theo

trực cảm, hay khoa học), các nhà nghiên cứu đã có một cách nhìn khách quan,

có phần khoa học về nội dung và nghệ thuật của truyện ngắn Khái Hưng. Tuy

9

nhiên, các ý kiến mới chỉ là những nhận xét khái quát chứ chưa được triển khai kỹ và đi sâu vào từng vấn đề một cách cụ thể.

2.2.2. Từ 1945 - 1986.

Hoàn cảnh xã hội thay đổi, đất nước bị chia cắt thành hai miền kéo theo

việc nghiên cứu văn học cũng phân định rạch ròi giữa hai miền Nam, Bắc.

Ở miền Bắc, nhìn chung các nhà phê bình vừa theo quan điểm trước cách

mạng vừa tiếp tục đi sâu nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng dưới góc độ tư

tưởng. Lấy tiêu chí cách mạng làm hệ quy chiếu, các công trình Lược thảo

lịch sử Văn học Việt Nam (1957 - nhóm Lê Quý Đôn), Sơ thảo lịch sử văn học

Việt Nam (1964 - Viện Văn học - Nhà xuất bản Văn học) đều cho rằng: “Càng

về sau, ông ta (Khái Hưng) lại càng lùi, cuối cùng đã viết những tác phẩm

phản động, chống lại cách mạng… Khái Hưng đề cao lối sống thoát ly hiện

thực, quay lưng lại cuộc sống, hoặc đề cao xu hướng đặt nghệ thuật lên trên

tất cả… Nhiều truyện ngắn, truyện vừa viết về những chủ đề phù phiếm,

không có gì sâu sắc” (Sơ thảo lịch sử Văn học Việt Nam). Năm 1962, trong

cuốn Giáo trình lịch sử văn học Việt Nam (Tập V - Nguyễn Trác - Hoàng

Dung - Nguyễn Đăng Mạnh - Nhà xuất bản Giáo dục) của trường Đại học Sư

phạm Hà Nội có nhận xét về truyện ngắn Khái Hưng như sau: “Khái Hưng tô

hồng cuộc sống bằng một nghệ thuật phi hiện thực, trùm lên xã hội phong

kiến một cái màn hư ảo… Quan điểm nghệ thuật của Khái Hưng mặt khác đã

đưa ông đến chủ nghĩa hình thức. Nhiều truyện ngắn của Khái Hưng không có

nội dung. Có những việc không đâu, những chuyện ít ý nghĩa cũng được ông

xây dựng làm đề tài tác phẩm… Nhiều truyện của ông không có gì là sâu sắc”.

Có thể thấy các nhà nghiên cứu miền Bắc xem xét truyện ngắn Khái Hưng

trên cả hai phương diện nội dung tư tưởng và nghệ thuật, song phê phán nặng

nề những hạn chế về tư tưởng, còn đóng góp nghệ thuật thì chưa nêu thành hệ

thống. Tuy chỉ là những ý kiến chung chung song đó lại là những gợi ý giúp cho chúng tôi thấy cần thiết đi sâu nghiên cứu vấn đề này.

Ở miền Nam, việc tiếp cận và đánh giá truyện ngắn Khái Hưng lại có xu

hướng thiên về nghệ thuật. Có thể kể tên các công trình đề cập hoặc đi sâu

nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng như: Bình giảng về Tự lực văn đoàn -

Nguyễn Văn Xung 1958; Khảo luận về Khái Hưng - Lê Hữu Mục, 1960; Tự

lực văn đoàn của Doãn Quốc Sỹ - 1960, Việt Nam văn học sử giản ước tân

10

biên - tập ba của Phạm Thế Ngũ - 1960, Phê bình văn học thế hệ 32 - Thanh Lãng 1972, Nhà văn tiền chiến của Thế Phong… Đặc biệt, Phạm Thế Ngũ đã

phân loại truyện ngắn Khái Hưng và lấy đó làm cơ sở để khảo cứu về đóng

góp của tác giả này trong tiến trình văn học: "Nếu muốn bắt đầu bằng một

cuộc phân loại thì ta có thể chia các truyện ngắn Khái Hưng ra làm hai loại:

Một loại nhẹ: truyện vui, truyện phiếm đăng vừa một cột… như Tiếng suối

reo, Đội mũ lệch, Số đào hoa. Một loại nặng, đứng đắn, rộng, kích thước hơn,

viết công phu hơn, đặt ra nhiều vấn đề luân lý xã hội, đưa ra một mẫu tâm lý,

một mảng sinh hoạt bắt người ta phải suy nghĩ, đôi khi phải cảm động đau

thương như tập Dọc đường gió bụi, Đợi chờ, Cái Ve, Hạnh… (Tự lực văn

đoàn trong tiến trình văn học dân tộc). Sự phân chia này tương đối có cơ sở

khoa học bởi tác giả Phạm Thế Ngũ đã nhìn nhận truyện ngắn Khái Hưng trên

các tiêu chí nội dung và hình thức của tác phẩm văn học.

Nhìn chung, các nhà phê bình nghiên cứu miền Nam có xu hướng coi

trọng, đề cao Khái Hưng như một nhà cách tân nghệ thuật trong lĩnh vực

truyện ngắn. Song các ý kiến này còn chung chung, phiến diện, chưa sâu và

chỉ dừng ở một vài tác phẩm cụ thể.

2.2.3. Từ 1986 đến nay

Dưới ánh sáng của nghị quyết V, Đại hội VI của Đảng với tinh thần đổi mới

trên mọi lĩnh vực của đời sống, trong đó có văn học nghệ thuật, những đóng góp

của truyện ngắn lãng mạn nói chung, truyện ngắn Khái Hưng nói riêng đã được

đặt trong xu thế "nhìn nhận lại" một cách toàn diện và thoả đáng hơn.

Năm 1989 có thể coi là năm "được mùa" của Khái Hưng. Rất nhiều tác giả,

nhiều cuốn sách, nhiều công trình, hội thảo đã nghiên cứu, bàn luận về sáng tác

của Khái Hưng nói chung và truyện ngắn nói riêng. Nhà xuất bản Khoa học xã

hội cho ra mắt bạn đọc tuyển tập đồ sộ (tám tập) đem đến cho bạn đọc bức tranh

toàn cảnh Văn xuôi lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945. Các truyện ngắn hay, đặc sắc của Khái Hưng được in trong tuyển tập này. Trong Lời giới thiệu, nhà phê

bình Nguyễn Hoành Khung cho rằng: "Khái Hưng xứng đáng được coi là cây bút

dồi dào, tài hoa hơn cả của nhóm Tự lực văn đoàn. Trong thế hệ các nhà văn

mới, Khái Hưng là người duy nhất sinh ra vào thế kỷ trước, song lại là người mở

màn, đi hàng đầu trong phong trào văn nghệ mới, với một ngòi bút trẻ trung, lịch

lãm mà duyên dáng". Phan Cự Đệ, tác giả của công trình Tự lực văn đoàn - con

11

người và văn chương có nhắc ý kiến: "Vũ Ngọc Phan và Bùi Xuân Bào đều cho rằng trong lĩnh vực truyện ngắn, dường như Khái Hưng thành công hơn so với

tiểu thuyết. Thật ra, những nhược điểm này cũng bộc lộ ở cả truyện ngắn…

Trong truyện ngắn do đặc điểm thể loại, Khái Hưng chỉ khai thác một khoảnh

khắc trong cuộc đời nhân vật". Ngày 27/5/1989, Khoa văn Trường Đại học Tổng

hợp và Nhà xuất bản Đại học và trung học chuyên nghiệp tổ chức hội thảo Về

văn chương Tự lực văn đoàn. Các bài viết của các GS. Phan Cự Đệ, Hà Minh

Đức, Phong Lê, Trương Chính, Lê Đình Kỵ… đã có sự nhìn nhận đúng đắn,

nghiêm túc về sáng tác của Khái Hưng nói riêng và của nhóm Tự lực văn đoàn

nói chung. Năm 1991, trên Tạp chí văn học số 3, Lê Thị Đức Hạnh đã tổng kết:

“Văn của Khái Hưng và Nhất Linh trong Tự lực văn đoàn ngay thời kỳ đầu đã là

một bước nhảy vọt” (Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn). Năm 1994

Phan Cự Đệ, Hà Văn Đức trong Lời giới thiệu Tuyển tập truyện ngắn Khái Hưng

đã phân tích khá kỹ “Khái Hưng còn là một cây bút truyện ngắn xuất sắc với

những tập Anh phải sống (viết chung với Nhất Linh 1937), Dọc đường gió bụi

(1936), Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Đội mũ lệch (1941)…”

Sau mấy năm tạm lắng, năm 1997 Nhà xuất bản Văn Học cho ra đời

cuốn Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho văn xuôi hiện đại Việt Nam

(Trịnh Hồ Khoa). Tác giả cuốn sách đã nêu được những đóng góp về nội dung

nghệ thuật của ba nhà văn Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng Đạo. Năm 1999 Nhà

xuất bản Giáo dục cho tái bản tập Văn chương Tự lực văn đoàn gồm 3 tập do

Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ giới thiệu và tuyển chọn, trong đó có in

những truyện ngắn hay, đặc sắc của Khái Hưng. Điều này chứng tỏ truyện

ngắn của ông vẫn có sức hấp dẫn người đọc đương thời.

Cho đến nay đã có nhiều bài tham luận, cùng một số luận văn thạc sĩ và

tiến sĩ nghiên cứu về văn nghiệp của Khái Hưng, nhưng chủ yếu theo hướng

riêng lẻ, chưa đặt việc nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng trong trào lưu chung của Tự lực văn đoàn và các cây bút truyện ngắn đương thời.

2.3. Về Thạch Lam Đã có hàng trăm công trình nghiên cứu và bài báo viết về Thạch Lam ở

mọi góc độ: từ cuộc đời, thân thế, sự nghiệp đến phong cách, phân tích các tập

truyện và các tác phẩm cụ thể... Điểm chung giữa các nhà nghiên cứu là thống

nhất đánh giá cao về thành công và tính độc đáo trong tác phẩm của Thạch

12

Lam, "trữ lượng lớn" càng đào sâu càng phát hiện ra "nhiều tầng, nhiều vỉa", có sức lan rộng, vươn xa... Tuy những ý kiến tương đối thuận chiều, không

thăng trầm, phức tạp như đối với các tên tuổi khác trong Tự lực văn đoàn như:

Khái Hưng, Nhất Linh… nhưng ở từng thời kỳ, mức độ quan tâm, quy mô,

chất lượng nghiên cứu cũng có sự khác nhau.

2.3.1. Trƣớc 1945 Người đầu tiên phát hiện và đón nhận tài năng Thạch Lam có thể nói là

Khái Hưng. Từ 1937, khi tập truyện ngắn Gió đầu mùa ra đời, Khái Hưng đã

khẳng định điểm nổi bật ở Thạch Lam là sự thành thực: “Thành thực, đó là đức

tính không có không được của nhà văn. Ở Thạch Lam, sự thành thực lại trở nên

sự can đảm. Đọc nhiều đoạn văn của Thạch Lam, tôi rùng rợn cả tâm hồn vì sự

thành thực (...), tôi vẫn ước ao có cái can đảm ấy nhưng không sao có được cái

can đảm mà tôi thấy ở Tolstoi, mà trong đám văn sĩ mới nước ta tôi thấy ở Thạch

Lam" [65]. Sau Khái Hưng, Xuân Vi với bài báo "Gió đầu mùa" của Thạch Lam:

một văn sĩ có tài, một kiệt tác đăng trên báo La Renaissance được đăng lại trên

báo Ngày nay số 113, ngày 5/6/1938 đã đánh giá rất cao thành công của Thạch

Lam. Liên tiếp các năm sau 1939, 1942 trong các công trình của các nhà nghiên

cứu: Trương Chính (Dưới mắt tôi - NXB. Thuỵ Ký H, 1939), Vũ Ngọc Phan

(Nhà văn hiện đại - NXB. Tân Dân 1942 - 1944) đều dành nhiều ưu ái khi nhận

xét, ghi nhận thành tựu Thạch Lam đã đạt được: "Sau Nhất Linh, sau Khái Hưng,

Thạch Lam đã hiểu biết người một cách đầy đủ và xác đáng hơn, không một nét

nào thừa và cũng không nột nét nào quá đậm" [58]. Ông chưa chỉ ra ảnh hưởng

của văn đoàn đối với Thạch Lam, nhưng đã chỉ ra nét khác biệt giữa Thạch Lam

với Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo: "Không sâu sắc bằng Khái Hưng, không

điêu luyện bằng Nhất Linh, không rắn rỏi bằng Hoàng Đạo, Thạch Lam có một

tâm hồn dễ rung động hơn, ít tư tưởng và ít tâm lý hơn, nhà văn ấy lại nhiều tình

cảm" [58].

Có thể nói, trước 1945 dư luận chung đều nồng nhiệt tiếp nhận các sáng

tác của Thạch Lam bước đầu khẳng định truyện ngắn của Thạch Lam trên khá

nhiều phương diện.

2.3.2. Sau 1945 đến trƣớc 1975 Từ 1945 trở đi, cũng như việc nghiên cứu văn chương Tự lực văn đoàn,

một thời kỳ dài hàng chục năm, việc nghiên cứu Thạch Lam chững lại. Cho đến

13

1957, Nguyễn Tuân - tác giả Vang bóng một thời đã không ngần ngại nhận xét: "Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam, tức là nói cụ thể đến nghệ thuật viết

truyện ngắn của Thạch Lam. Một số truyện ngắn của Thạch Lam có thể coi như

là mẫu mực được" [58]. Nguyễn Tuân đã đặt Thạch Lam trong tiến trình chung

của văn học dân tộc, nhất là trong nền "Văn xuôi Việt Nam hãy còn trẻ tuổi" để

xét, và khẳng định: “Bằng sáng tác văn học, Thạch Lam đã làm cho tiếng nói

Việt Nam gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại ra, và tươi đậm hơn. Thạch Lam

có đem sinh sắc vào tiếng ta (...) và đánh giá một nhà văn, đứng về nghề nghiệp

chuyên môn mà bàn, thì giá trị một nhà văn xuôi, cụ thể còn là những công đức

lập ngôn của nhà văn đó mở mang thêm vốn liếng dân tộc về tiếng nói được

đến mức nào, và đã góp được phần sáng tạo của mình vào ngôn ngữ Việt Nam

như thế nào [58]. So với những người đi trước, Nguyễn Tuân đã tiến thêm một

bước về nghiên cứu Thạch Lam là nhìn nhận truyện ngắn Thạch Lam dưới góc

độ phong cách. Tuy nhiên khi đánh giá, phân tích, một số truyện ngắn như

Người đầm, Nhà mẹ Lê có vài khía cạnh chưa được dư luận đồng tình. Từ sau

1960 trong tình hình đất nước chia làm hai miền, việc nghiên cứu Thạch Lam ở

mỗi miền cũng có những biểu hiện khác nhau.

Ở miền Bắc, Bạch Năng Thi khi phân tích các tập tiểu thuyết tiêu biểu

của Tự lực văn đoàn đã dành một ít trang để giới thiệu Gió đầu mùa của

Thạch Lam. Nổi bật trong các trang viết này là một thái độ e dè, có chừng

mực, và sự khẳng định là dành cho yếu tố hiện thực trong tác phẩm Thạch

Lam: "Có thể nói Gió đầu mùa có yếu tố hiện thực hơn nhiều tác phẩm lãng

mạn, và Thạch Lam có xu hướng "bình dân" thành thực hơn nhiều nhà văn

lãng mạn khác" [58]. Sau đó những năm 1964, 1965 có các ý kiến của Vũ Đức

Phúc, Nguyễn Đức Đàn trong Sơ thảo lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945

(NXB. Văn học - Hà Nội 1964); Lê Thị Đức Hạnh Mấy ý kiến đánh giá Thạch

Lam (Tạp chí Văn học số 4-1965), Hà Minh Đức trong Nhà văn và tác phẩm (NXB. Văn học Hà Nội 1971). Trong đó, một mặt các tác giả thừa nhận Thạch

Lam "là một nhà văn lãng mạn có thái độ trân trọng đối với người nghèo hơn

cả", một mặt lại phê bình Thạch Lam "thể hiện một lòng thương người không

có ranh giới giai cấp".

Ở miền Nam, nhìn chung, thái độ của giới nghiên cứu và độc giả đối với

văn học lãng mạn nói chung, văn chương Tự lực văn đoàn và Thạch Lam nói

14

riêng là trân trọng đánh giá cao. Đặc biệt nhà nghiên cứu Phạm Thế Ngũ trong công trình Việt Nam văn học sử giản ước tân biên đã rất sâu sắc khi xem xét

Thạch Lam trên các phương diện: Nhà văn có khuynh hướng xã hội, Nhà văn

mô tả những trạng thái tình cảm, Nhà văn chuyên về đoản thiên. Và ông đã

có lý khi đặt Thạch Lam trong hệ thống với các nhà văn chủ chốt Khái Hưng,

Nhất Linh, Hoàng Đạo để so sánh, rút ra những điểm mới, điểm kế thừa và

điểm khác biệt giữa Thạch Lam với các nhà văn này. Theo chúng tôi đây là một

bước tiến về phương pháp nghiên cứu Thạch Lam - phương pháp so sánh. Đồng

thời, riêng đối với Thạch Lam, giới học thuật, nghiên cứu miền Nam trước

đây đã dồn tâm sức vào hai số của tạp chí Văn - Sài Gòn (số 36 ngày

15/6/1965) và Tạp chí Giao điểm - Sài Gòn - số 12-12.1971) với hàng chục

bài viết thuộc đủ các thể loại như thơ, hồi ký, hồi tưởng, kỷ niệm, bình luận,

phân tích, phê bình, tiểu luận...

Trong đó đáng chú ý là bài viết của Đỗ Đức Thu. Với vị thế của một

người đã từng gần gũi và am hiểu Thạch Lam, Đỗ Đức Thu cho rằng: "Tác

phẩm sau cùng Hà Nội băm sáu phố phường này mới là tác phẩm then chốt

của hết thảy văn phẩm Thạch Lam, mới gần đến chỗ hoàn thiện toàn mĩ" [58].

Đây là một cách nhìn mới mẻ, vì từ trước tới nay các nhà nghiên cứu chủ yếu

chỉ mới chú trọng đến truyện ngắn, còn ít người nhìn nhận Thạch Lam theo

góc độ đó.

2.3.3. Từ 1975 đến nay Bẵng đi một thời gian khá dài gần hàng chục năm không có công trình

nào đáng kể, từ 1983 nhất là từ cuối 1986 sau khởi động của công cuộc đổi

mới đất nước nhiều nhà nghiên cứu trong cả nước, đặc biệt là các nhà phê

bình, nghiên cứu văn học ở các trường Đại học, Viện Văn học ở phía Bắc lại

dành nhiều tâm lực cho việc nghiên cứu văn học lãng mạn, phong trào Thơ

mới, văn chương Tự lực văn đoàn và dành một phần không nhỏ cho Thạch Lam,. Đây như là một sự bù đắp cho những hẫng hụt trước đó để cân bằng, trả

lại những giá trị thực của những gì đã có. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương

Chi, Nguyễn Hoành Khung đã đưa Thạch Lam và tác phẩm vào Từ điển văn

học. Lê Thị Đức Hạnh, Nguyễn Đăng Mạnh cũng có nhiều ý kiến xác đáng về

Thạch Lam và dòng truyện ngắn trữ tình. Các tác giả đều nhấn mạnh chất thơ

và chất hiện thực kết hợp với năng lực khám phá thế giới đời sống tâm hồn

con người là yếu tố quan trọng tạo nên bút lực truyện ngắn Thạch Lam.

15

Nếu năm 1965, 1971 là những mốc gắn liền với các hoạt động nghiên

cứu nhằm tưởng niệm Thạch Lam, viết về Thạch Lam ở miền Nam, thì năm

1988 cũng có thể xem là một mốc lớn trên tiến trình nghiên cứu Thạch Lam

trong phạm vi cả nước. Lần đầu tiên Tuyển tập Thạch Lam do Phong Lê tuyển

chọn và viết lời giới thiệu ra mắt bạn đọc, khẳng định: “Tất cả các sáng tác,

bao gồm truyện ngắn, ký, tiểu thuyết, tiểu luận của Thạch Lam, ngay sau khi

ra mắt trên các báo đều được nhanh chóng in thành sách. Đời văn Thạch Lam

ngắn ngủi nhưng được hưởng tất cả ưu thế và thuận lợi của văn đoàn mình.

Đó là lý do giải thích tất cả sáng tác Thạch Lam, nhìn chung vẫn nằm trong

khuôn khổ, trong quy định của văn chương lãng mạn [65].

Tiếp theo đó, nhiều công trình nghiên cứu, bài báo khai thác nhiều

phương diện về cuộc đời và văn nghiệp Thạch Lam: Cốt cách trí thức ở ngòi

bút Thạch Lam (Vương Trí Nhàn); Với Thạch Lam (Hồ Dzếnh); Nghĩ về

Thạch Lam (Phạm Văn Phúc); Thạch Lam (Lê Kim Vinh); Một số bài tham

luận trong Hội thảo về Thạch Lam do Viện Văn học tổ chức đã tập hợp trong

cuốn: Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp (NXB. Hội Nhà văn xuất bản năm

1994) do Vũ Anh Tuấn chủ biên.

Một bài viết khác cũng đáng chú ý là Thạch Lam của Hà Văn Đức (một

chương trong tập Văn học Việt Nam 1930 - 1945 của nhóm tác giả Phan Cự Đệ,

Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí Dũng, Hà Văn

Đức - NXB. Giáo dục - 1997. Trong bài viết này, Hà Văn Đức cũng cho rằng tác

phẩm của Thạch Lam có tính chất đan xen giữa hiện thực và lãng mạn. Thạch

Lam vừa chịu ảnh hưởng Tự lực văn đoàn, "vừa tách riêng một thế giới và tạo nên

được cái độc đáo cho riêng mình. Điều đó giải thích vì sao tác phẩm của Thạch

Lam, trải qua bao thử thách khắc nghiệt của thời gian vẫn nguyên vẹn giá trị của

nó và vẫn được nhiều thế hệ bạn đọc biết đến với một niềm say mê, trân trọng" [37]. Trong những năm này, các nhà nghiên cứu trẻ thường đi sâu vào khai thác

những ý văn trong "cái kho rất sẵn châu báu" của Thạch Lam nhằm phân tích, cảm

thụ những tác phẩm cụ thể, những chi tiết về nội dung, nghệ thuật ở từng truyện

của Thạch Lam. Chẳng hạn trên Tiếng nói tri âm của Nhà xuất bản Trẻ - 1994 các

tác giả Phan Huy Dũng, Lê Tiến Dũng, Nguyễn Thành Thi, Nguyễn Thị Thanh

Xuân đều có bài viết về truyện ngắn Hai đứa trẻ với những phát hiện độc đáo:

16

Tiếng trống thu không và tiếng còi tàu nơi phố huyện của Thạch Lam; Tính nghệ thuật của truyện ngắn "Hai đứa trẻ"; Bóng thức của kinh kỳ trong "Hai đứa trẻ";

"Hai đứa trẻ" trên một vũ trụ già... Nguyễn Thành Thi còn tâm đắc với nhiều

truyện ngắn khác: Tối 30 và khoảnh khắc ngoại ứng của hai kẻ vô loài (Báo Lao

động xã hội - Xuân 1994), Khi gió lạnh đầu mùa trong văn Thạch Lam vẫn thổi

(Sinh viên và thời đại - TP HCM - 1994). Có thể xem đây cũng là một hướng đi

đầy hấp dẫn để hiểu sâu từng trang văn đặc sắc của Thạch Lam.

Từ năm 2000 - năm cuối cùng của thế kỷ XX và những năm đầu của thế kỷ XXI, trong định hướng tổng kết một thế kỷ văn học, với cái nhìn tổng quan trên một khoảng không gian, thời gian rộng lớn, nhiều nhà nghiên cứu chủ chốt của Viện Văn học, các trường Đại học và các cơ sở nghiên cứu khác đã dồn trí lực vào nghiên cứu đã lần lượt công bố các công trình, nhất là trên Tạp chí Văn học mấy năm gần đây. Ở đó, các tác giả đã dành một khoảng nhất định cho việc đánh giá vai trò, vị trí, đặc điểm, phong cách, những đóng góp của Thạch Lam trên các phương diện trong tiến trình văn học dân tộc, phát hiện và khẳng định những đặc điểm cơ bản mới mẻ trong sáng tác của cây bút độc đáo này.

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng Đối tượng nghiên cứu mà chúng tôi tập trung khảo sát đó là đặc điểm truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam trong sự vận động phát triển của văn chương Tự lực văn đoàn trên cả hai phương diện: nội dung tư tưởng và hình thức nghệ thuật. Trong quá trình nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ luận điểm cần chứng minh chúng tôi sẽ tiến hành so sánh truyện ngắn của Khái Hưng, Thạch Lam với một số nhà văn cùng thời, trong và ngoài văn đoàn như: Nam Cao, Nguyễn Tuân, Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố...

3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài có thể mở ra nhiều hướng, quan tâm tới nhiều phương diện nhưng trong phạm vi luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn nghiên cứu một số vấn đề sau: - Về Tự lực văn đoàn: Chỉ khai thác những yếu tố có ảnh hưởng lớn đến

tư tưởng, tình cảm, phong cách nghệ thuật của Khái Hưng, Thạch Lam.

- Về truyện ngắn Khái Hưng: Luận văn khảo sát chủ yếu qua những tập sau: Dọc đường gió bụi (1936), Anh phải sống (1937 - viết cùng Nhất Linh) Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1939), Hạnh (1940), Cái Ve (1940) trong đó tập trung chủ yếu vào một số tác phẩm cụ thể, tiêu biểu.

- Về truyện ngắn Thạch Lam: Khảo sát chủ yếu qua các tập: Gió đầu

17

mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942).

Ngoài ra chúng tôi có tham khảo một số truyện ngắn của Nhất Linh, Nam

Cao, Nguyễn Tuân, Ngô Tất Tố, Nguyễn Công Hoan... để làm tài liệu so sánh

khi nghiên cứu.

4. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu đề tài "Truyện ngắn Tự lực văn đoàn qua hai tác giả tiêu

biểu Khái Hƣng và Thạch Lam", chúng tôi nhằm khẳng định: Tự lực văn

đoàn là một tổ chức văn học có ưu thế trên văn đàn dân tộc trong những năm

30 của thế kỷ XX; có một vị trí quan trọng trong nền văn học dân tộc và với

thể loại truyện ngắn Việt Nam nói riêng.

- Nghiên cứu truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam đặt trong mối liên hệ

mật thiết với tổ chức Tự lực văn đoàn, từ đó xác định giá trị mới, sức cuốn hút

mạnh mẽ của tác phẩm cả về phong cách nghệ thuật độc đáo và nội dung tư

tưởng tiến bộ trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam. Đồng thời từ đó xác

định vị trí, vai trò, đặc trưng phong cách nghệ thuật, đóng góp của Khái Hưng,

Thạch Lam vào thành tựu chung của Tự lực văn đoàn và từ đó, vào tiến trình

văn học dân tộc.

5. Phương pháp nghiên cứu Do mục đích, yêu cầu và phạm vi nghiên cứu của luận văn, chúng tôi sử

dụng một số phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:

- Phương pháp phân tích tác phẩm theo đặc trưng thể loại truyện ngắn.

- Phương pháp hệ thống.

- Phương pháp so sánh.

Trong đó chú trọng phương pháp so sánh phân tích. Các phương pháp

khác có liên quan chặt chẽ, có ý nghĩa hỗ trợ lẫn nhau và được sử dụng phối

hợp, linh hoạt trong quá trình nghiên cứu. 6. Cấu trúc của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và thư mục tài liệu tham khảo, luận văn

gồm ba chương:

Chương 1: Truyện ngắn Tự lực văn đoàn và truyện ngắn Khái Hưng,

Thạch Lam

18

Chương 2: Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Thạch Lam và Khái Hưng Chương 3: Đặc điểm nghệ thuật của truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam

PHẦN NỘI DUNG

CHƢƠNG I

TRUYỆN NGẮN TỰ LỰC VĂN ĐOÀN VÀ TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG, THẠCH LAM

1.1. Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc

1.1.1. Hoàn cảnh ra đời Tự lực văn đoàn ra đời từ cuối năm 1932 - đầu 1933. Đó là kết quả của quá

trình vận động của lịch sử và văn học thời kỳ hiện đại. Thực trạng kinh tế, chính

trị, văn hoá, xã hội Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX đã ảnh hưởng sâu sắc

đến đời sống dân tộc, trong đó văn học cũng chịu sự chi phối, tác động mạnh mẽ.

1. 1.1.1. Thực trạng kinh tế, chính trị, xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX.

Thế kỷ XIX kết thúc, khép lại một thời kỳ lịch sử khá nhiều biến động -

thời kỳ trung đại - để bước vào một chặng đường mới. Đây là một chuyển

biến mang tính tất yếu của lịch sử. Lúc này thực dân Pháp đã hoàn thành sứ

mệnh xâm chiếm Việt Nam và các nước Đông Dương nên đã bắt đầu công

cuộc khai thác thuộc địa. Cách mạng tháng Mười Nga đã thành công tạo ra

một nhà nước công nông đầu tiên trên thế giới và khẳng định thắng lợi của

một hệ tư tưởng mới theo đường lối xã hội chủ nghĩa. Ở Việt Nam phong trào

đấu tranh của quần chúng đã diễn ra sôi nổi, rộng khắp dưới sự lãnh đạo của

Đảng cộng sản Đông Dương những năm 1930, 1931 rất mạnh mẽ, đặc biệt là

cao trào Xô Viết Nghệ Tĩnh. "Hốt hoảng và lo sợ trước các phong trào cách

mạng lên cao, bọn đế quốc đã tiến hành một cuộc khủng bố trắng ghê gớm

chưa từng thấy. Trước hết là những vụ đàn áp phong trào Việt Nam Quốc dân

Đảng, rồi đến phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bị tắm trong biển máu. Có thể nói, suốt từ 1929 đến 1932, không có ngày nào các báo không đăng tin về các

vụ mật thám bắt "hội kín", những vụ xử án của Hội đồng đề lĩnh, những đoàn

tù chính trị bị giải đi Kông Tum, Lao Bảo, Côn Lôn” [38]. Các cuộc đàn áp

khủng bố kinh tế những năm 1929 - 1933 diễn ra nghiêm trọng kéo theo sự

xáo trộn lớn về đời sống xã hội của mọi tầng lớp: Các nhà tư bản bị phá sản,

công nhân, trí thức thất nghiệp, đời sống bấp bênh. Không khí căng thẳng,

19

buồn tẻ bao trùm các đô thị, nhất là đối với tầng lớp thanh niên. Ở nông thôn, dân cày chịu đủ thứ sưu thuế, bọn địa chủ, thực dân thi nhau đè đầu, cưỡi cổ,

hà hiếp dân nghèo. Một sự buồn rầu u uất tràn ngập tâm hồn người dân Việt.

Đồng thời, từ cuối năm 1939, chiến tranh thế giới II bùng nổ, phát xít Nhật

nhảy vào Đông Dương, đẩy nhân dân ta vào ách áp bức “một cổ hai tròng” vô

cùng khốn khổ, phong trào cách mạng lại bị khủng bố đàn áp, Đảng cộng sản

phải rút vào hoạt động bí mật.

Thực dân Pháp và phát xít Nhật thẳng tay đàn áp, bóc lột thuộc địa để

phục vụ chiến tranh. Giá cả năm 1945 tăng vọt, chúng tiến hành dự trữ và xuất

cảng hàng trăm tấn gạo để hơn hai triệu người dân chết đói, hòng dập tắt

phong trào yêu nước và phong trào cách mạng của nhân dân ta. Tuy vậy, trong

bối cảnh này, kinh tế nước ta cũng có nhiều biến đổi lớn. Từ một nền kinh tế

lạc hậu, trì trệ đã có sự mở mang giao thông, buôn bán, kinh tế hàng hoá tạo ra

một thị trường thống nhất từ Bắc đến Nam, nhưng chưa thật vững chắc.

Như vậy, những điều kiện kinh tế, chính trị xã hội Việt Nam nửa đầu thế kỷ

XX đã tạo nên một sự thay đổi về cơ cấu giai cấp. Sự thay đổi đó càng về sau

càng phân hoá rõ rệt. Thời kỳ đầu, xã hội Việt Nam là xã hội thực dân nửa phong

kiến, tồn tại hai mâu thuẫn cơ bản là mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp.

Đến năm 1930, với sự ra đời của Đảng cộng sản đã lãnh đạo phong trào cách

mạng của quần chúng nhân dân khiến mâu thuẫn càng trở nên gay gắt, cơ cấu xã

hội cũng phân hoá ngày càng phức tạp. Giai cấp phong kiến vẫn tồn tại nhưng

mất địa vị thống trị xã hội, giai cấp nông dân bị bần cùng hoá... Vì thế, kéo theo

sự phức tạp, mâu thuẫn, biến đổi trong tư tưởng, văn hoá, xã hội.

1.1.1.2. Tự lực văn đoàn ra đời là một nhu cầu tất yếu của lịch sử văn học

Thực dân Pháp vào Đông Dương, văn học phương Đông không còn

chiếm vị trí độc tôn như trước đây, xuất hiện sự giao lưu văn hoá Đông - Tây.

Bên cạnh các hệ tư tưởng Nho, Phật, Lão phương Đông là những luồng gió mới của tư tưởng dân chủ tư sản phương Tây qua hệ thống Tân thư và các

tầng lớp tân học, tư tưởng Mác - Lênin qua Nguyễn Ái Quốc và các nhà cách

mạng Việt Nam. Tất cả những điều đó đã tác động mạnh mẽ đến mọi tầng lớp,

các lĩnh vực văn hoá, văn học, đẩy lịch sử dân tộc nhanh chóng bước vào thời

kỳ hiện đại. Sau hai cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp trước và sau

đại chiến I, có nhiều sự đổi thay nhanh chóng đã diễn ra trên đất nước ta: quan

20

hệ sản xuất mới mang tính tư bản thuộc địa hình thành song song với quan hệ sản xuất phong kiến cũ kỹ vẫn tồn tại. Bên cạnh các giai cấp trong xã hội cũ

vẫn còn nguyên vẹn, thời kỳ này xuất hiện thêm nhiều giai cấp, tầng lớp mới,

tiêu biểu là giai cấp tư sản, giai cấp vô sản và bộ phận trí thức tiểu tư sản, gắn

liền với nó là các hệ ý thức tư tưởng mới. Giai cấp tư sản, tầng lớp trí thức

thượng lưu, công chức trong các công sở và các bộ phận người dân khác có

đời sống khá giả, du nhập lối sống đô thị theo xu hướng Âu hoá với những

nhu cầu mới về vật chất, tinh thần, văn hoá, sinh hoạt, thời trang... theo thị

hiếu mới. Nền văn minh phương Tây đã du nhập vào Việt Nam, mang theo

hơi thở mới của một nền văn học hiện đại, phá vỡ thành trì của nền văn học

truyền thống, các trường Pháp - Việt được mở ra ở các thành phố, các trường

dạy kỹ nghệ ra đời, chữ Pháp, chữ quốc ngữ dần thay thế chữ Hán, chữ Nôm.

Đặc biệt, đây là cơ hội thuận lợi để các tầng lớp thanh niên và các bộ phận

công chức đô thị tiếp xúc với văn hoá phương Tây, chủ yếu là văn học Pháp,

nhất là văn học lãng mạn. Từ đó ý thức cá nhân nảy nở, nhu cầu khẳng định

cái Tôi cá nhân phát triển mạnh. Một quan niệm mới về văn chương, về thẩm

mỹ xuất hiện cùng với việc nảy sinh tình cảm mới, nhu cầu mới, tạo sự đối lập

sâu sắc với các quan niệm truyền thống diễn ra trên mọi phương diện của văn

chương từ luật lệ, thị hiếu đến thể loại, ngôn từ... những yếu tố chi phối đó đã

đặt ra cho văn học Việt Nam nhiệm vụ phải xây dựng một nền văn học mới

theo yêu cầu thời đại. Bên cạnh đó, thời kỳ này thực dân Pháp lại thi hành một

số chính sách cải lương, các hoạt động "vui vẻ, trẻ trung", các hội thi thể dục,

thể thao, tổ chức cứu tế nhằm xoa dịu các phong trào đấu tranh của nhân dân,

đánh lạc hướng và truỵ lạc hoá thanh niên. Giai cấp tư sản dân tộc lúc này tỏ

ra hoang mang, giao động, thoả hiệp với đế quốc, một bộ phận tiểu tư sản thì

nhụt chí, bi quan... Văn học lãng mạn Việt Nam, tiêu biểu là phong trào Thơ

mới và Tự lực văn đoàn đã ra đời trong hoàn cảnh đó.

Tự lực văn đoàn ra đời đáp ứng một nhu cầu phát triển nền văn học dân

tộc. "Những năm 1932 nhiều hiện tượng văn học dồn dập xảy đến báo hiệu sự

hình thành của những khuynh hướng mới, chuyển hướng sâu sa của văn đàn

Việt Nam, nhất là sự trưởng thành của một thế hệ văn nghệ sỹ trẻ tuổi, ý thức

được trách nhiệm của mình trước lịch sử và hiên ngang đòi quyền lãnh đạo

văn học" [59]. Lần đầu tiên trong lịch sử văn học Việt Nam xuất hiện một văn

21

đoàn có tuyên ngôn, tôn chỉ mục đích và đường lối độc lập và đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể, góp phần vào sự phát triển của văn học dân tộc.

1.1.2. Tự lực văn đoàn trong tiến trình hiện đại hoá văn học dân tộc

Ngay từ khi tiếp nhận Phong hoá mới và những ngày đầu khi vừa thành

lập, các nhà văn, nhà báo trong Tự lực văn đoàn do Nhất Linh đứng đầu có

chủ trương và duy tân cấp tiến. Họ muốn đả phá cái xã hội Nho Phong với tập

tục, lễ giáo mà thế hệ cũ gọi là quốc tuý, quốc hồn, đả phá nhất là những "hủ

tục" của dân quê sau luỹ tre xanh, đả phá cái không khí sầu bi, phong thái đạo

mạo, những thành kiến chán đời của lớp người đứng tuổi trong xã hội khi ấy.

Thay vào đó, họ đưa ra một số quan niệm sống Âu hoá, những tư tưởng tự do

cá nhân, hạnh phúc vật chất, chủ nghĩa yêu đời, “vui vẻ trẻ trung” nhất là đối

với lớp người trẻ.

Quan niệm về xã hội nhân sinh ấy của Tự lực văn đoàn dần dần ngả sang

mục tiêu chính trị: đả kích quan lại phong kiến, tẩy chay chế độ thực dân bù

nhìn, tố cáo những bất công xã hội, đòi hỏi tự do và dân chủ. Có thể nói, lần

đầu tiên trên văn đàn Việt Nam, người ta nghe thấy một tiếng nói dõng dạc và

tự tin về quyền sống, quyền viết như thế. Tiếng nói ấy đã gây được tiếng vang

trên văn đàn và gây được niềm tin trong độc giả. Họ đã thực hiện được những

cuộc cách mạng bằng hành động thiết thực nhất: thành lập Hội Ánh sáng,

đồng thời cho ra đời một tuyên ngôn làm kim chỉ nam cho mọi hành động của

nhóm: "Tự lực văn đoàn họp những người đồng chí trong văn giới, người

trong đoàn với nhau cốt có liên lạc về tinh thần, càng theo đuổi một tôn chỉ,

hết sức giúp nhau để đạt được mục đích chung, hết sức che chở nhau trong

những công cuộc có tính cách văn chương". Tôn chỉ ấy gồm 10 điều như sau:

1. Tự sức mình làm ra những sách có giá trị về văn chương chứ không phiên

dịch sách nước ngoài nếu những sách này chỉ có tính cách văn chương thôi, mục

đích là để làm giàu thêm văn sản trong nước.

2. Soạn hay dịch những quốc sách có tư tưởng xã hội. Chú ý làm cho

người và cho xã hội ngày một hay hơn lên.

3. Theo chủ nghĩa bình dân, soạn những cuốn sách có tính cách bình dân

và cổ động cho người khác yêu chủ nghĩa bình dân.

4. Dùng lối văn giản dị dễ hiểu, ít chữ Nho, một lối văn thật có tính cách

An Nam.

22

5. Lúc nào cũng mới, trẻ, yêu đời, có trí phấn đấu và tin ở sự tiến bộ. 6. Ca tụng những nết hay vẻ đẹp của nước mà có tính cách bình dân,

khiến cho người khác đem lòng yêu nước một cách bình dân. Không có tính

cách trưởng giả quí phái.

7. Trọng tự do cá nhân.

8. Làm cho người ta biết rằng đạo Khổng không hợp thời nữa.

9. Đem phương pháp khoa học Thái tây ứng dụng vào văn chương Việt Nam.

10. Theo một trong chín điều này cũng được, miễn là đừng trái ngược với

những điều khác. [58].

Thực chất của mười tôn chỉ trên chính là những nguyên tắc về nội dung, nghệ

thuật đồng thời là quan điểm sáng tác của Tự lực văn đoàn. Xác định rõ mục tiêu

và quan điểm sáng tác, các nhà văn trong Tự lực văn đoàn đã liên tiếp gặt hái bội

thu được những thành tựu lớn. Hàng loạt tác phẩm trên nhiều thể loại mới xuất

hiện, gây chấn động lớn trong đời sống văn học. Các tác giả đã thể hiện ở đủ mọi

thể loại: truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, phóng sự, bút ký, tiểu luận, phê bình,

thơ, kịch... đáp ứng yêu cầu của một nền văn chương hiện đại. Tuỳ theo năng lực,

sở trường và điều kiện của từng thành viên, mỗi cây bút trong Tự lực văn đoàn đều

đã để lại những tác phẩm có nhiều đóng góp và giữ vị trí xứng đáng trên văn đàn

dân tộc. Sức sáng tạo của mỗi người trong văn đoàn không chỉ tính bằng số lượng

tác phẩm mà cái chính là chất lượng. Mỗi trang viết của họ đều tiềm ẩn nhiều giá

trị, thể hiện quan điểm về xã hội, nhân sinh. Trương Chính có nhận xét: "Chúng

tôi căn cứ vào tôn chỉ, mục đích Tự lực văn đoàn đề ra, rồi xem xét cách họ thực

hiện. Họ, mỗi người có hàng chục tác phẩm, chẳng ai giống ai, chẳng tác phẩm

nào giống tác phẩm nào, chẳng hạn Khái Hưng chuyên về vấn đề gia đình, Nhất

Linh thiên về vấn đề xã hội, Thạch Lam thiên về đi sâu vào tâm lý, Hoàng Đạo

thiên về "cải cách nông thôn". Tú Mỡ thiên về thơ trào phúng, Thế Lữ thiên về thơ

lãng mạn, tiểu thuyết đường rừng, tiểu thuyết trinh thám... Người đứng đầu là Nhất Linh, tức Nguyễn Tường Tam, viết văn hay đã đành, mà lại có óc tổ chức, có

nhiều sáng kiến. Những người ghét ông cũng phải phục, muốn bắt chước cũng

không bắt chước được. Nói gì thì nói, nhóm Tự lực văn đoàn của ông có một vai

trò rất lớn trong sự phát triển văn học của ta những năm ba mươi" [58]. Đây cũng

là sự khẳng định vị thế Tự lực văn đoàn với tư cách là một tổ chức văn học đáp

ứng nhu cầu phát triển của một nền văn học mới - nền văn học Việt Nam hiện đại,

23

nó đã hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình ngay trong thời kỳ đầu mà ta có thể tính từ 1932 (năm báo Phong hoá mới số 14 ra đời) đến năm 1942 (năm Thạch

Lam mất). Đây là thời kỳ phát triển rực rỡ nhất, khẳng định công lao và những

đóng góp của Tự lực văn đoàn, sau đó, do xa dần tôn chỉ, mục đích tiến bộ ban

đầu mà văn đoàn đề ra, Tự lực văn đoàn dần bị phân hoá, thoái trào và tan rã.

1.2. Truyện ngắn Tự lực văn đoàn và truyện ngắn Khái Hưng,

Thạch Lam.

1.2.1. Vài nét về truyện ngắn Tự lực văn đoàn

Quá trình hiện đại hoá văn học Việt Nam nói chung, truyện ngắn Việt

Nam nói riêng, chủ yếu từ những năm đầu của thế kỷ XX, phát triển rực rỡ

trong những năm 1930 - 1945, trong đó truyện ngắn Tự lực văn đoàn góp

phần tạo nên một diện mạo mới, phong phú, đa dạng. Thống kê truyện ngắn

trong cuốn Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam từ năm 1933 (thành lập Tự

lực văn đoàn) đến năm 1945 (năm Tự lực văn đoàn ngừng hoạt động kết thúc

văn học tiền chiến cho thấy kết quả cụ thể như sau:

Từ 1933 - 1945

Cả nước

Tự lực văn đoàn

Tỷ lệ % (TLVĐ)

Tác giả viết truyện ngắn 29 7 24,1%

Số tập truyện ngắn 51 16 31,3%

Số truyện ngắn 540 151 28%

Nếu thống kê theo thư mục in trong Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt Nam

(từ cuối thế kỷ XIX đến 1945) thì đóng góp của Tự lực văn đoàn đối với các

thể loại nói chung và truyện ngắn nói riêng cũng không nhỏ. Tự lực văn đoàn

có 16 tập truyện ngắn trong tổng số 78 tập của cả nước, chiếm 20,5%.

Trong số 8 thành viên chính thức của Tự lực văn đoàn thì đã có tới 7

người viết văn xuôi và truyện ngắn (trừ Tú Mỡ). Tác giả viết ít nhất là 1 tập

(Xuân Diệu), nhiều nhất là 8 tập (Khái Hưng), trung bình là hai, ba, bốn tập.

Mỗi người đều có vị trí và phong cách riêng. Hơn nữa họ còn đứng đầu một

số khuynh hướng truyện ngắn trong tiến trình chung của thể loại truyện ngắn

Việt Nam hiện đại nửa đầu thế kỷ XX.

Ngoài hai cây bút Khái Hưng và Thạch Lam mà luận văn dành khảo sát

riêng, nhiều cây bút văn xuôi Tự lực văn đoàn cũng sáng tác truyện ngắn và ở

những mức độ khác nhau đều có những thành công nhất định.

24

Nhất Linh "cây bút trụ cột" của Tự lực văn đoàn sau nhiều tập tiểu

thuyết Đời mưa gió, Nắng thu, Đoạn tuyệt, Lạnh lùng... từ 1936 cũng tham

gia viết truyện ngắn. Truyện của Nhất Linh đăng trên báo Ngày nay, sau được

tập hợp in trong hai tập Tối tăm (1936) và Hai buổi chiều vàng (1937). Truyện

ngắn Hai vẻ đẹp mang ý nghĩa như một lời tuyên ngôn nghệ thuật, Nhất Linh

muốn gửi gắm những suy nghĩ của ông về vấn đề nghệ thuật với nhân sinh và

sự day dứt của những người tiểu tư sản trí thức với cuộc sống "tối tăm" của

người dân quê. Đỗ cử nhân Luật từ Pháp trở về, nhưng Doãn không ra làm

quan mà ham mê vẽ tranh. Chỉ khi tiếp xúc với cuộc sống "bùn lầy nước

đọng", Doãn phát hiện ra những gì mình vẽ cách bức và không giống với đời

sống thực, chàng bỗng thấy nghệ thuật hết ý nghĩa, cuộc sống bên gia đình mẹ

nuôi giàu có hết thơ thới. Doãn cảm nhận về hai thế giới khác biệt, đối lập và

cảm thấy cái nghệ thuật của chàng không khác gì bức tường cao kín kia bấy

lâu đã che khuất mắt chàng không cho nhìn thấy những cảnh tiều tuỵ bên

ngoài". Doãn không muốn "cái đời đầy đủ sung sướng trên sự thiếu thốn của

người khác". Và thấy "cái vô lý của công việc chàng mê man đi tìm những

ánh sáng huyền ảo trên các nóc tranh, không bao giờ tưởng đến sự thực ảm

đạm, cuộc đời tối tăm dưới những mái tranh ấy. Nghệ thuật, mục đích đi tìm

cái đẹp lúc đó đối với chàng chỉ là một sự mỉa mai, đau đớn". Ngoài Hai vẻ

đẹp, phần lớn truyện còn lại trong tập Tối tăm viết về "những cảnh tối tăm của

mấy hạng người trong xã hội": tình cảnh nghèo khó đến khánh kiệt của Trọng

(Nghèo); sự đối xử bất công của xã hội đối với những người nghèo (Hai cảnh

ngoài phố); về số phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ (Hai chị em,

Tiếng kêu thương). Qua những cảnh ngộ, những mảnh đời bất hạnh ấy, Nhất

Linh muốn gửi gắm những triết lý nhân sinh của mình. Ông có ý thức cảm

thông chia sẻ với những người "dưới đáy" nghèo khổ và bất hạnh. Tuy nhiên, sự xót thương ấy ít nhiều vẫn chỉ là sự xót thương của những người thuộc tầng

lớp trên với những "hạng người thấp kém hơn mình".

So với Tối tăm, Hai buổi chiều vàng đề cập đến nhiều vấn đề và được

viết bằng nhiều bút pháp khác nhau. Theo Vũ Ngọc Phan, những truyện trong

tập này "có những tính cách khác hẳn những truyện trong tập Tối tăm. Hai

buổi chiều vàng là một câu chuyện tình nhẹ nhàng trong sáng. Cái tẩy vừa

25

mang tính chất luận đề vừa ẩn chứa chất triết lý nhân sinh, không nên đi tìm hạnh phúc ở đâu xa mà "Hạnh phúc ở ngay trong lòng mình". Vết thương và

Mười năm qua lại đậm chất trữ tình, mang tới cho người đọc sự thương cảm

man mác... Quả là so với tiểu thuyết, vốn là thể loại "sở trường", truyện ngắn

của Nhất Linh "không bằng truyện dài", nhưng đúng như đánh giá của Vũ

Ngọc Phan, Nhất Linh "cũng có tài viết truyện ngắn".

Hoàng Đạo viết ít truyện ngắn, tuy nhiên chỉ với tập Tiếng đàn (1941),

gồm 13 truyện, cũng có thể thấy được nét riêng trong phong cách của cây bút

này. Phần lớn truyện trong Tiếng đàn không có cốt truyện, chỉ diễn tả tâm

trạng của nhân vật: Một Tiếng đàn, giọng hát của cô kỹ nữ "như tiếng than của

thời đại", khơi dậy những tình cảm thiết tha với quê hương, đất nước trong

lòng Xuân; những cuộc đấu tranh thầm lặng của Bằng (Ánh sáng) trước những

cám dỗ của đời sống vật chất để giữ lấy cái vui, cái đẹp, cái thanh thản cho

mình; tâm trạng của một người vì không chịu luồn cúi đã từ quan để được

sống cuộc đời tự do trong sự hoà đồng với thiên nhiên (Tiếng sáo thiên thai);

câu chuyện đầy ý nghĩa nhân văn về cuộc đời một nhà sư chân tu (Sắc

không)... Một số truyện lại đề cập đến số phận bất hạnh của những người

nghèo trong xã hội, đó là số phận của gia đình chị Tạc (Một gia đình), của gia

đình anh Minh bị tan nát, bị nhấn chìm trong dòng nước lũ (Dưới làn sóng)...

Truyện của Hoàng Đạo phần lớn không có những xung đột, kịch tính gay gắt

mà chỉ như những lời thủ thỉ tâm tình, thuật lại một tâm trạng hay một cảnh

ngộ... Truyện thường man mác, nhưng có sức gợi, giúp người đọc phải suy

ngẫm về cuộc đời, lẽ đời. Kiểu truyện không có cốt truyện này cũng là một

trong những cách tân đáng kể của truyện ngắn Tự lực văn đoàn theo hướng

hiện đại hoá.

Thế Lữ nổi tiếng với Thơ mới, nhưng cũng có những đóng góp đáng quý

trong thể loại truyện ngắn qua các tập: Ba hồi kinh dị (1931), Bên đường thiên lôi (1936), Gió trăng ngàn (1941). Truyện của Thế Lữ phần lớn là truyện kinh

dị, viết về những con người và sự việc rùng rợn, khác thường, trong đó có

những truyện hay, Vũ Ngọc Phan từng đánh giá cao trong Nhà văn hiện đại.

Theo Vũ Ngọc Phan hai truyện hay hơn cả trong mảng truyện này của Thế Lữ

là Hai lần chết và Ông Phán nghiện. Hai lần chết là câu chuyện về Tâm - một

người thông thái, giỏi về khoa học và sống tử tế với mọi người. Tâm cộng tác

26

với Mão, hai người cùng chí hướng và thề cùng suốt đời hy sinh cho khoa học. Trong một lúc cao hứng, Tâm viết chúc thư sẽ trao lại gia tài và sự

nghiệp khoa học cho Mão, nếu qua đời. Rồi một lần, do làm việc căng thẳng,

Tâm ngất xỉu. Mọi người tưởng Tâm chết, vội liệm anh vào quan tài. Đêm

hôm đó tỉnh lại, Tâm thấy Mão đang ngồi bên quan tài của mình, chăm chú

xem tờ di chúc. Thấy Tâm hồi tỉnh, Mão tàn nhẫn tìm cách giết hại anh. Điên

lên vì sự hiểm độc, tàn ác của Mão, Tâm vùng hết sức bóp chết Mão và cho

vào quan tài rồi đi tự thú. Ra toà Tâm được trắng án, nhưng từ đó, sống ẩn dật,

không muốn tiếp xúc với ai. Ít lâu sau, Tâm chết, gục đầu bên tờ chúc thư để

lại di sản cho viện Tế bần. Lần này Tâm chết thật. Còn Ông Phán nghiện kể

về một người kỳ quái, sống đơn độc và kỳ dị trong một căn nhà lá biệt lập.

Thời trẻ, ông đem lòng yêu thương tha thiết một cô gái, nhưng cô đã lừa dối

ông. Từ đó, ông Phán căm ghét đàn bà. Ông chỉ còn thú vui duy nhất là bàn

đèn thuốc phiện và bầu bạn với con rắn cạp nong rất to. Lâu dần con rắn cũng

nghiện và khi ông Phán qua đời, con rắn cũng trở nên đờ đẫn vì thiếu thuốc.

Truyện kinh dị của Thế Lữ thường hấp dẫn và kích thích được sở thích của

lớp công chúng đương thời, đặc biệt những truyện ghê sợ nhưng được giải

thích bằng cơ sở khoa học. Óc quan sát tinh tế và sự nhạy bén khi nắm bắt,

khai thác các sự việc ly kỳ đã tạo nên thành công cho truyện của Thế Lữ. Vũ

Ngọc Phan đánh giá: "Đọc truyện Hai lần chết, tôi phải nhớ đến những truyện

lạ lùng của Edgar Poe, và đọc truyện Ông Phán nghiện, tôi phải nhớ đến

những truyện kỳ quái của Hoffmann" [81]. Ngoài những truyện bí hiểm và

kinh dị, Thế Lữ còn có mảng truyện được viết theo phong cách trữ tình lãng

mạn, phần lớn được tập hợp trong tập Gió trăng ngàn, gồm 8 truyện. Các

truyện đều được xây dựng trên bối cảnh thiên nhiên rừng núi hoang dã và thơ

mộng. Nhân vật chính trong hầu hết các truyện là cô gái Thổ có vẻ đẹp mê

hồn và tính cách khác lạ. "Mỗi câu chuyện như một bài thơ gọn gàng, xinh xắn", "một bài thơ mộc mạc và trong trẻo như tâm hồn cô gái Thổ". Với

những sáng tác độc đáo của ông, Thế Lữ đã đem đến một vẻ lạ, đầy hấp dẫn

cho truyện ngắn Tự lực văn đoàn nói riêng, truyện ngắn Việt Nam hiện đại nói

chung.

Xuân Diệu là thi sĩ "mới nhất trong những nhà thơ mới", tuy nhiên ở thể

loại truyện ngắn ông cũng đã để lại dấu ấn riêng với tập truyện Phấn thông

27

vàng, gồm 10 truyện, trước đó được in rải rác trên báo Ngày nay. Truyện của Xuân Diệu được viết bằng phong cách riêng, đúng như ông đã viết trong lời

tựa Phấn thông vàng: "Ở đây chỉ có một ít đời và rất nhiều tâm hồn". Xuân

Diệu ít viết về những cảnh đời thực, truyện của ông chủ yếu là những cảm xúc

của tâm hồn văn nhân trước cuộc sống, trước những cảnh đời thực đó. Truyện

lấy tên cho cả tập Phấn thông vàng là tâm trạng của một người hoạ sĩ. Sau bao

lần thất bại trong tình yêu, chàng chán nản, tuyệt vọng "lòng mệt mỏi và trống

không như một toà lầu bị cướp". Nhưng rồi vào một ngày hè rực rỡ, chàng tìm

đến một rừng thông để vẽ. Cảnh đẹp của rừng thông đang toả nhị phấn vàng

đã đem lại những cảm xúc mới mẻ trong tâm hồn, gợi khơi lại tình yêu và

niềm vui sống trong người hoạ sĩ lãng mạn và đa tình ấy. Qua câu chuyện về

Tư (Người học trò tốt), người đọc cảm nhận được một tâm trạng phổ biến của

tầng lớp tiểu tư sản đương thời. Tư là học trò thông minh, suốt ngày chỉ vùi

đầu vào sách vở. Hai mươi ba tuổi, Tư đã có tất cả: giàu sang, vinh hiển, bằng

cấp, ngôi bậc... nhưng "khi chàng thành công là chàng thất bại hẳn" bởi nguồn

nhựa sống đã khô héo, cạn kiệt trong Tư. Bên cạnh dạng truyện "chỉ có một ít

đời và rất nhiều tâm hồn ấy", Xuân Diệu cũng có một số truyện viết về những

"nỗi đời cay cực đang giơ vuốt", về cảnh sống lầm than, lay lắt, tủi nhục của

tầng lớp đói nghèo như: Thương vay, Cái hoả lò, Đứa ăn mày, Toả nhị kiều.

Mỗi câu chuyện một cảnh ngộ - những con người hoặc sống trong cuộc sống

tù túng, tẻ nhạt "không ánh nắng, chẳng hương người" (Toả nhị kiều); hoặc

sống trong cảnh nghèo túng, thua thiệt đầy ngang trái của kiếp lẽ mọn (Cái

hoả lò)... Phấn thông vàng, hiển hiện một hiện thực tẻ nhạt buồn chán. Truyện

của Xuân Diệu đẫm chất thơ, với sự chau truốt tinh tế từ câu văn đến hình

ảnh. "... Nó là những bài thơ trường thiên không vần, không điệu, nó là những

bài thơ tự do để phô diễn hết cả cảm tưởng của tác giả về nhân vật, tuy chỉ có

những cuộc đời rất nhỏ, nhưng gợi hứng cho thi nhân lại nhiều... Phấn thông vàng (1939) không phải hạng sách yêu dấu của tất cả mọi người, nó thuộc loại

sách của người ưa suy nghĩ, muốn sống một đời sống tinh thần đầy đủ" [81].

Dù chỉ với một tập, mười truyện ngắn, Xuân Diệu cũng đã đóng góp với Tự

lực văn đoàn, với truyện ngắn Việt Nam hiện đại một phong cách truyện ngắn

trữ tình độc đáo.

Qua một số cây bút chủ chốt và một số tác phẩm tiêu biểu của truyện

28

ngắn Tự lực văn đoàn, có thể thấy, tuy cùng một văn đoàn, cùng tôn trọng tôn chỉ, mục đích chung của cả nhóm, nhưng bằng tài năng và cá tính sáng tạo,

mỗi cây bút truyện ngắn lại để lại dấu ấn và những đóng góp riêng đặc sắc.

Khuynh hướng sáng tác của Tự lực văn đoàn là lãng mạn nhưng trong sự giao lưu

ảnh hưởng của các trào lưu văn học hiện thực, cách mạng cùng thời và tiếp nhận

ảnh hưởng phong trào Mặt trận dân chủ 1936-1939, nhiều truyện ngắn của Tự lực

văn đoàn đã có nội dung xã hội tiến bộ. Ở một số cây bút, một số truyện, do vậy có

thể thấy khá rõ sự cộng hưởng của cả hai dòng bút pháp hiện thực và lãng mạn.

Những tìm tòi cách tân của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn rất đáng kể, thể

hiện trên nhiều phương diện: nghệ thuật xây dựng cốt truyện, nghệ thuật xây

dựng nhân vật, ngôn ngữ, giọng điệu... Có thể nói, các cây bút truyện ngắn Tự

lực văn đoàn đã góp phần đáng kể hiện đại hoá thể loại truyện ngắn. Nhiều

tìm tòi, thể nghiệm của truyện ngắn Tự lực văn đoàn như: truyện không có cốt

truyện, truyện tâm tình, cốt truyện tâm lý, nghệ thuật trần thuật (độc thoại nội

tâm, khám phá chiều sâu tâm hồn nhân vật...) đến nay vẫn là những phương

thức nghệ thuật giàu hiệu quả.

1.2.2. Đặc điểm Truyện ngắn Khái Hƣng và Thạch Lam Trong Tự lực văn đoàn, Khái Hưng và Thạch Lam là hai cây bút viết

hay, viết khoẻ để lại một số lượng tác phẩm không nhỏ với đủ thể loại: tiểu

thuyết, truyện ngắn, truyện vừa, phóng sự, bút ký, kịch, thơ, phê bình, tiểu

luận... trong đó truyện ngắn chiếm một vị trí quan trọng, thu hút được sự cảm

mến của đông đảo bạn đọc. Với những sự cách tân táo bạo, vào cái thời buổi

loạn lạc, sự mâu thuẫn lúc nào cũng khiến con người có thể rơi vào bế tắc,

tuyệt vọng, những tác phẩm văn chương lãng mạn tuy không thôi thúc tầng

lớp tiểu tư sản đứng lên đấu tranh giành lại sự tự do nhưng phần nào cũng góp

phần giải tỏa những dằn vặt nội tâm. Giai đoạn của những năm đầu thế kỷ XX

là sự giao thời, tất cả mọi điều đều có phần thống nhất theo một quy luật chung, ấy là sự tìm tòi, thể nghiệm. Khái Hưng và Thạch Lam, hai tác giả tiêu

biểu của Tự lực văn đoàn đã có những đóng góp đáng kể, quan trọng trong

tiến trình phát triển đa dạng, rực rỡ sắc màu của văn chương đầu thế kỷ XX.

1.2.2.1.Truyện ngắn Khái Hưng

Khái Hưng (1896-1947), tên thật là Trần Khánh Giư, quê quán tại làng

Cổ Am huyện Vĩnh Bảo, tỉnh Hải Dương (nay thuộc Hải Phòng), sinh trưởng

29

trong một gia đình quan lại phong kiến. Thời niên thiếu học ở trường Trung học Anbe Xarô (Hà Nội). Sau dạy học ở trường tư thục Thăng Long (Hà Nội).

Năm 1930 bắt đầu tham gia làm báo, viết văn. Năm 1933 tham gia nhóm Tự

lực văn đoàn và trở thành cây bút chủ chốt của nhóm. Văn nghiệp của Khái

Hưng khá đa dạng và ông đã gặt hái nhiều thành tựu ở nhiều thể loại: tiểu

thuyết, truyện ngắn, kịch, tiểu luận phê bình,... trong đó truyện ngắn là thể loại

ông đạt nhiều thành công với những tập như: Dọc đường gió bụi (1936) Anh

phải sống (1937), viết cùng Nhất Linh, Tiếng suối reo (1937), Đợi chờ (1941),

Cái ve (1944). Có thể nói, truyện ngắn Khái Hưng không nằm ngoài nguyên

tắc sáng tác chung của trào lưu Tự lực văn đoàn, nhà văn đã phản ánh những

đổi thay của thời đại: đả kích xã hội phong kiến thực dân, giải phóng tình yêu,

ca ngợi hôn nhân tự do của con người, trân trọng và đề cao truyền thống văn

hoá của dân tộc. Ông luôn chú ý học tập kế thừa những giá trị văn hoá truyền

thống, đồng thời có sự cách tân độc đáo để tạo nên những “truyện ngắn tuyệt

hay”, có giá trị lâu bền.

* Phê phán xã hội phong kiến

Nếu trong tiểu thuyết, Khái Hưng đả phá chế độ đương thời thông qua

việc lên án lễ giáo phong kiến, đòi quyền tự do hôn nhân (Nửa chừng xuân) thì

trong các truyện ngắn, nhà văn cũng tập trung vạch trần sự thối nát, lạc hậu, độc

ác, xấu xa của xã hội phong kiến. Khái Hưng đã miêu tả tường tận sự bóc lột

tàn nhẫn của bọn địa chủ đối với dân nghèo. Ông Ký Phan trong Lòng tốt: “…

nhờ việc bán rượu ty trong gần hai mươi năm, đã trở nên giàu có nhất vùng:

khắp các phủ, huyện gồm tỉnh lỵ chẳng mấy nơi là không rải rác có ruộng của

ông ta. Những người vay nợ cầm cố kể có hàng trăm, hàng nghìn, ngày ngày

đến chực ở nhà ông ta như chực ở công đường phủ, huyện”. Cái chế độ địa tô,

cho vay nặng lãi đã làm tha hoá con người. Con người trở nên tàn nhẫn và độc

ác. Ở khắp nơi, ai cũng biết tiếng ác của con ông Ký Phan. Xã hội thối nát, đảo điên đã sản sinh ra những con người lừa lọc, đặt đồng tiền lên trên phạm trù đạo

đức, lấy việc làm giàu làm mục đích, làm lý tưởng sống, như ông Hàn Năm

trong Tống tiền là nhà cự phú, nhờ về cho vay nặng lãi hơn là nhờ về buôn bán

mà trở nên giàu có bạc vạn. Ở vùng, ai ai cũng biết ông là người keo bẩn. Ngoài

cái thú là tích của làm giàu, ông ta chẳng còn một thú vui nào khác. Đó là hình

ảnh của những con người đặt đồng tiền, lợi lộc lên trên hết, sẵn sàng chà đạp

30

lên số phận bi thảm của những kẻ cố nông bần cùng, mạt hạng. Nhà văn không chỉ miêu tả, tường thuật mà qua những trang viết tưởng như chỉ là sự phơi bày

nhẹ nhàng, khách quan, đã ẩn chứa sự căm giận, lên án, tuy chưa mạnh mẽ

nhưng phần nào đã khẳng định thái độ thiết tha bênh vực cho những người dân

thấp cổ bé họng. Giai cấp bóc lột sẵn sàng chà đạp lên lương tâm, bán rẻ linh

hồn để cướp bóc, đẩy dân nghèo đến bước đường cùng "Không có tiền thì viết

văn tự tiến chỉ bán ruộng" - đó là bi kịch của người nông dân Việt Nam trước

Cách mạng Tháng 8. Đây là sự bênh vực quyết liệt của nhà văn đối với sự đày

đoạ, đau thương của người dân nghèo khổ.

Không chỉ đả kích bọn địa chủ áp bức, Khái Hưng còn mỉa mai tố cáo

những hủ tục, những thói hư tật xấu trong xã hội cũ. Khác với Ngô Tất Tố -

nhà văn cùng thời, khi miêu tả những hủ tục ở nông thôn trong việc cúng tế

thành hoàng với tất cả những phiền hà, sách nhiễu mà dân quê phải chịu

"Tuần nào tiết ấy, dân làng cứ theo lệ mà sắm sửa, lệ đáng giết lợn thì giết

lợn, lệ đáng giết trâu thì giết trâu "đến việc luật lệ của người thủ từ co việc

đèn hương "Quanh năm người thủ từ phải ngủ ở đình hay ở đền. Làng nào lệ

ngặt, thì thủ từ lúc nào cũng phải bận quần đỏ, bước xuống đất phải đi giày

hay dép, ra sân ra đường phải đội nón. Thủ từ mà có vợ chửa thì làng ăn vạ".

Ngô Tất Tố trực tiếp phê phán những hủ tục lạc hậu ở nông thôn đã bắt nông

dân phải chịu những sách nhiễu, phiền hà thì Khái Hưng, với giọng điệu mỉa

mai châm biếm đã phê phán trò lừa bịp của bọn thực dân phong kiến lợi dụng

sự mê tín của dân chúng để thực hiện chế độ ngu dân, bóc lột như trong truyện

ngắn Tế Thành hoàng. Với lối viết giản dị, hài hước, sự phê phán của tác giả

ẩn dấu dưới những câu văn lạnh lùng: “Dân làng Tiền cũng không ai phàn nàn

về cái thiêng của ngài. Trái lại, người ta còn lấy làm hãnh diện được thờ một

vị thần mà khắp vùng đều kính sợ. Không phải sợ bóng sợ vía, nhưng sợ

những sự tác oai hiển hiện trước mắt. Một lần, một đứa trẻ chăn trâu trèo lên cây muỗm trước miếu, đã bị ngài quật ngã chết tươi. Lại một lần một con bé

bế em đi xem rước giơ tay chỉ trỏ kiệu ngài, bị ngài hành cho một trận ốm

thập tử nhất sinh - câu chuyện mà người ta hay kể nhất, kể với một giọng rụt

rè, kinh hãi, là câu chuyện ông tiên chỉ đương đứng đại bái tế ngài, bị ngài

phạt ngã gục bất tỉnh... Tất cả sự uy linh đó đã bị Khái Hưng hạ bệ bằng sự

việc có thật do ông tiên chỉ làng Tiền kể lại trong lúc say rượu. Đó là lúc ông

31

ta đang đứng tế thì chun quần bị đứt, ông ta giả vờ ngất xỉu để quần không bị tụt. Vẫn giọng điệu mỉa mai, châm biếm, thoạt nghe là những câu chuyện

phiếm, mua vui nhưng ẩn chứa sau đó thái độ phê phán của nhà văn đối với

những hủ tục lạc hậu, mê muội của nông thôn Việt Nam trước cách mạng.

Bao quát hơn, sâu rộng hơn, tác giả phê phán cả một triều đình phong kiến

thực dân thối nát, rối ren vua chẳng ra vua, tôi chẳng ra tôi, tất cả chỉ giống

như một trò đùa bất lương.

* Ca ngợi tình yêu thuỷ chung, trong sáng

Bên cạnh những sáng tác mang tính chất đả kích, lên án, ngòi bút của

Khái Hưng còn chứng tỏ sự đa dạng, phong phú của những đề tài thể hiện.

Mảng sáng tác dành được sự mến mộ đông đảo của nhà văn chính là những

sáng tác viết về tình yêu đôi lứa. Khái Hưng truyền đến độc giả sự rung động,

cảm giác yêu thương, nhớ nhung, khát khao của các nhân vật, những cảnh

ngộ, và hơn hết là những tình yêu mãnh liệt. Có thể thấy tình yêu là một trong

những đề tài chính trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn. Các nhà văn đã đề

cập đến những khát vọng tự do hôn nhân, hướng tới giải phóng cá nhân con

người. Chủ đề này được Khái Hưng tiếp tục khai thác ở thể loại truyện ngắn.

Nhà văn Vũ Ngọc Phan từng nhận xét: “Nhà văn mà được nam nữ thanh niên

yêu chuộng, được họ coi là người hiểu biết tâm hồn họ hơn cả, có lẽ chỉ Khái

Hưng... Khái Hưng là văn sỹ của thanh niên Việt Nam cũng như Alfred de

Musset là thi sỹ của thanh niên Pháp thủa xưa” [91].

Khái Hưng là nhà văn của nam nữ thanh niên không chỉ vì ông viết nhiều

mà còn viết hay và sâu sắc về tình yêu với những cung bậc cùng những trạng

thái tinh vi nhất của tình cảm. Không phải ngẫu nhiên mà trong cuốn Bình

giảng về tự lực văn đoàn - Nhà xuất bản Tân Việt 1958, tác giả Nguyễn Văn

Xung đã đánh giá cao vai trò của Khái Hưng: "nhà văn ý nhị vào bậc nhất của

chúng ta hiện nay". Đó là tình yêu "bất vong, bất diệt" của sư Tuệ trong truyện ngắn Tình tuyệt vọng, tình yêu như một triết lý, một lẽ sống cuộc đời.

Khái Hưng đề cao cuộc sống cá nhân thực tại với những cảm xúc, tình cảm

của chính bản thân mình. Mối tình của Khánh (tên tục của sư Tuệ) và người

vợ bạn là mối tình trong sáng, cao thượng, mặc dù người đàn bà ấy có đáp lại

tình yêu của Khánh hay không, Khánh không một lần tự hỏi. Lúc nào Khánh

cũng sống trong yêu đương, và yêu đương choán cả tâm hồn chàng... Chất

32

lãng mạn ngày một tăng thêm. Người thiếu phụ ấy cũng yêu chàng nồng nàn. Nhưng "bao tính tình cao thượng đã đủ thì giờ... họ đã thấy lòng nhau thì một

tính tình mới vụt nảy nở rất mãnh liệt trong hai tâm hồn. Đó là lòng hi sinh:

họ cùng cố quên nhau". Câu chuyện có phần khiên cưỡng, rõ nét chủ quan của

nhà văn nhưng qua một số truyện ngắn khác, chúng ta thấy Khái Hưng luôn

đề cao tình yêu chân chính, đề cao những cảm xúc trong sáng và tình cảm cao

thượng của con người. Linh trong Đợi chờ là một chàng trai chung tình, chàng

gặp Phụng tình cờ trong một lần xe Phụng hết xăng gần trang trại của chàng.

Chàng cho cô gái mấy lít xăng và mời cô vào trang trại chơi, tình cảm của

Linh thật lạ lùng.Với Linh, đó không phải đơn thuần là tình yêu sét đánh dễ

đến, dễ đi, mà chỉ trong giây phút Linh đã gặp được người tri âm tri kỷ. Tình

cảm ấy không dễ phai nhoà bởi năm tháng và sự xa cách. Đã hai năm chàng

chờ đợi, mong ngóng người ấy như vạn vật trầm ngâm mong ngóng xuân về.

Có thể thấy tình cảm của Linh dành cho Phụng thật chân thành, mộc mạc.

Chàng chờ đợi người xưa quay trở lại, dù Phụng không một lời thề hẹn với

chàng nhưng trong lòng chàng, kỷ niệm ăn sâu vào tâm khảm. Chàng sống với

kỷ niệm xưa ngọt ngào để nuôi hi vọng Phụng sẽ quay trở lại.

Khác với Xuân Diệu khi thi sỹ quan niệm: "Tình chỉ đẹp khi còn dang

dở” Khái Hưng cho rằng tình yêu phải gắn liền với hạnh phúc hôn nhân. Ông

khát khao kéo con người trở về với thế giới thực tại, xây dựng một thiên

đường tình ái ngay trên chính mảnh đất thân quen. Tình cảm vợ chồng sẽ chắp

cánh cho tình yêu bay cao hơn, viên mãn hơn. Truyện Bên giòng Hương

Giang đã vẽ lên tổ ấm của đôi uyên ương Vinh Sơn và Diễm Lan. Khái Hưng

đã đề cập đến một quan niệm về tình yêu của lớp thanh niên mới: "Chẳng cần

gì trinh tiết, chẳng cần gì tứ đức tam tòng... những cái đó không liên can gì

đến ái tình, không có dính dáng gì đến hạnh phúc. Yêu là yêu chứ không phải

là gì khác nữa". Phát và Hoàn trong Thời chưa cưới cũng có một tình yêu đẹp và trong sáng. Mối tình ấy được tạo dựng trong những ngày hè trên bãi biển

Sầm Sơn thơ mộng "hai người cầm tay dắt nhau đi dưới nước, hay rúc rích

nhảy cười theo làn sóng trắng"… Khái Hưng tỏ ra rất am hiểu các cung bậc,

trạng thái tình cảm của tâm hồn những đôi lứa đang yêu. Mỗi con đường dẫn

đến tình yêu của các đôi lứa với những cảnh ngộ rất đặc biệt, và có những mối

tình hết sức cao đẹp như tình yêu của Giao với Cúc (Tình điên), ngòi bút của

33

Khái Hưng rất nâng niu, trân trọng những tình cảm tốt đẹp, chân thành và sâu sắc . Ông viết như để chia sẻ, để đồng cảm với những mối tình thắm thiết, dù

có tuyệt vọng, dù có mong manh, dù có ngắn ngủi thoáng qua hay lâu bền

cùng năm tháng, với Khái Hưng, những tình cảm ấy đều đẹp, đều đáng được

ngợi ca. Có thể nói, truyện ngắn của Khái Hưng đã bộc lộ rõ một khát vọng

của tầng lớp thanh niên lúc đó, đó là khát vọng tự do yêu đương, không bị sự

ràng buộc của lễ giáo, bởi sự can thiệp của gia đình. Trong tác phẩm: "Về Tự

lực văn đoàn" của giáo sư Nguyễn Trác và giáo sư Đái Xuân Ninh đã dành

cho Khái Hưng bốn mươi hai trang với nhiều ý kiến mới mẻ. Trong lời giới

thiệu, hai tác giả đánh giá cao truyện ngắn Khái Hưng: "Khái Hưng có tài viết

văn hơn cả. Với bút pháp lãng mạn trữ tình hay vui tươi sinh động, về nhiều

thể loại truyện ngắn, truyện dài, kịch thuộc về đề tài xã hội hay đề tài tâm lý;

Khái Hưng đều tỏ ra vững vàng sắc sảo".

* Nét đẹp cội nguồn văn hoá

Khái Hưng là thanh niên trí thức tiểu tư sản, ông được tiếp cận với nền văn

minh phương Tây khá sớm. Tuy vậy, trong những sáng tác của mình, bên cạnh

những tác phẩm viết về đời sống hiện đại, Khái Hưng cũng dành một phần không

nhỏ để viết về đề tài cội nguồn văn hoá.

Khái Hưng miêu tả nét đẹp truyền thống qua tài năng của người dân

nghèo không phân biệt tầng lớp, vùng miền. Phía sau sự tài hoa của chân dung

các nhân vật là sự hoài niệm truyền thống văn hoá dân tộc của nhà văn. Tiếng

khèn buồn thảm, đau đáu của gã trai Mèo trong truyện ngắn Tiếng khèn đã gói

ghém tâm trạng buồn thảm, tiếc thương của chính người thổi khèn: khi đi ăn

cưới về, buồn quá, anh ta thổi "vương vấn, ngân nga tựa tiếng ve từ nơi thung

lũng xa xăm nào bay tới", có lẽ đó là tiếng khèn đưa tiễn mối tình đầu tha thiết

nên thơ. Đến ngày nhà có tang, vẫn là tiếng khèn đưa tiễn, nhưng là đưa tiễn

người đã khuất "Tiếng âm nhạc lạ lùng vẫn còn, một mình, từng đoạn kéo dài đều đều trong đêm vắng... Tiếng khèn buồn thảm như tiếng rền rĩ của kẻ bị

thương". Nhà văn trực tiếp bộc lộ cảm xúc: "Tôi cảm thấy sự buồn nản, ghê sợ

từ từ thấm giọt vào hồn tôi, như nước mưa thấm qua núi đá mà tí tách rơi vào

trong hang”. Ấn tượng về tiếng khèn đau đớn của anh trai Mèo đã đi vào tâm

trí tác giả suốt đời: “Và từ đó, tiếng khèn trong buổi chiều tà, tôi nghe ai oán,

như tiếng khóc của một tâm hồn trơ trọi”.

34

Khác với quan niệm của một số người coi thường nghiệp "xướng ca vô loài". Khái Hưng dành cho các nghệ sỹ dân gian những tình cảm yêu thương trân

trọng để ngợi ca tài năng của họ: hát trống quân, hát chèo, hát ả đào,... đều là

những sinh hoạt văn hoá truyền thống của người dân Việt. Nó đã đi vào trang

văn của Khái Hưng với thái độ đề cao, ngợi ca thành thực không hề dấu giếm.

Khái Hưng không chỉ ngợi ca tài năng của những người lao động có phẩm chất

nghệ sỹ mà ông còn thấu hiểu khát vọng được sống với nghệ thuật của họ qua

những truyện ngắn như Véo von tiếng địch, Trăng thu… Những cô gái chàng trai

làng Tó chỉ mong đến dịp Trung thu để gửi lời ca tiếng hát cho nhau, dù đi đâu

cũng phải nhớ về. Bao tâm sự, tình cảm của cuộc đời vất vả, khó nhọc được họ

bộc lộ qua tiếng hát, điệu hò. Nghệ thuật đã nâng đỡ, cứu rỗi tâm hồn người lao

động khỏi sự khô cằn, chai sạn vì những lo toan vất vả đời thường "Những lời

tình tứ, những câu văn hoa, những điệu lẳng lơ, hai bên moi hết ra để chọi nhau,

những lời, những câu, những điệu mà trăng thu trong vắt trên dòng nước thu êm

lặng bao phủ một làn ánh sáng dịu dàng, huyền diệu. Hai bên cùng cảm thấy

mình sống trong một thế giới lạ lùng, một thế giới khác hẳn với cái thế giới bùn

lầy nước đọng, làm ăn vất vả mọi ngày thường”.

Các nhà nghiên cứu đã tỏ ra công bằng khi đánh giá Khái Hưng - nhất là ở

lĩnh vực truyện ngắn, không quá đề cao, cũng không quá hạ thấp truyện ngắn

Khái Hưng. Điểm độc đáo và cũng rất thành công của Khái Hưng là trong những

truyện ngắn lãng mạn của ông ta bắt gặp một ngôn ngữ giàu chất thơ, một thiên

nhiên đầy màu sắc thi vị, thanh âm và cảm xúc. Nhờ thế, truyện ngắn của Khái

Hưng có sức lan tỏa và đọng lại những dư âm vang vọng người đọc.

1.2.2.2. Truyện ngắn Thạch Lam.

Trong ba anh em (Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam), Thạch Lam là

người có cuộc đời ngắn ngủi nhất, viết ít nhất, tác phẩm bán ra chậm nhất

nhưng lại là người tài hoa và viết hay nhất. Thạch Lam (1910 - 1942), tên thật là Nguyễn Tường Vinh sau đổi thành Nguyễn Tường Lân, sinh tại Hà Nội,

trong một gia đình công chức. Sau khi đỗ Cao đẳng Tiểu học, Thạch Lam học

trường Canh nông một thời gian rồi học trường trung học Anbe Xarô Hà Nội,

đỗ tú tài rồi tham gia làm báo với các anh, từng tham gia biên tập các tờ

Phong hoá, Ngày nay của Tự lực văn đoàn. Thạch Lam có những bút hiệu

khác nhau theo từng thể loại và từng thời kỳ sáng tác: Thạch Lam khi viết

35

văn, Việt Sinh, Thiện Sĩ khi làm báo, còn Nguyễn Tường Lân khi vẽ tranh… So với các cây bút Nhất Linh, Khái Hưng thì Thạch Lam viết không nhiều.

Tuy viết nhiều thể loại: Truyện dài Ngày mới (1939), bút ký Hà Nội băm sáu

phố phường (1943), bình luận văn học Theo giòng (1941),... nhưng Thạch

Lam sở trường và thành công hơn cả ở thể loại truyện ngắn “trong đó có

những truyện vào hàng đoản thiên tiểu thuyết đáng kể là hay nhất trong văn

chương Việt Nam” (Vũ Ngọc Phan). Hầu hết truyện ngắn của Thạch Lam đều

đăng báo và sau đó được tập hợp trong các tập: Gió đầu mùa (1937), Nắng

trong vườn (1938), Sợi tóc (1942). "Tác phẩm xuất bản đầu tiên của Thạch

Lam, tập truyện ngắn Gió đầu mùa (1937) cho ta hay Thạch Lam là một nhà

văn có khuynh hướng xã hội. Kể ra thì các nhà văn Tự lực đều có khuynh

hướng ấy... Tuy nhiên, tư tưởng xã hội ấy ở mỗi người có một sắc thái riêng.

Nhất Linh, Hoàng Đạo muốn một cuộc cách mạng từ thành thị về thôn quê và

đặt làm một vấn đề lý luận, một đối tượng tranh đấu... Đối với Thạch Lam,

khác thế, ông lấy làm nhân vật những người tầm thường trong xã hội: mẹ Lê

xóm nghèo, cô hàng xén phố huyện, cậu học trò đi ở trọ, thợ thuyền, tiểu công

chức. Ông thường để ý vạch vẽ cuộc đời của họ, những tình cảm cùng ý nghĩ

của họ chứ không bận tâm lắm đến việc tuyên truyền trực tiếp hay gián tiếp tư

tưởng cách mạng xã hội. Đối với những kẻ nhỏ bé ông thường không đứng

ngoài để xem xét, thương hại, mơ tưởng những công trình cứu giúp to tát như

trường hợp Nhất Linh hay Hoàng Đạo. Ông đi ngay vào cuộc sống của họ,

dùng giọng thân mật vui vẻ với những nỗi khổ eo hẹp của họ"...

* Khơi dậy lòng thương cảm con người

Tuy tham gia trong cùng một văn đoàn, cũng tuân thủ những nguyên tắc

của nhóm, nhưng có phần khác với các cây bút khác Thạch Lam có khuynh

hướng đi gần với đời sống bình dị và tình cảm nghiêng về người nghèo khó

chân thành". Với quan niệm nghệ thuật tiến bộ, dùng cây bút như một khí giới để tố cáo và thay đổi một xã hội giả dối và tàn ác, tham gia cải cách xã hội

bằng "thiên chức của một nhà văn thuần tuý", sáng tác của Thạch Lam mang

nội dung hiện thực rõ nét. Nhiều truyện ngắn của ông đã gợi được sự thương

cảm và bất bình trước số phận bất hạnh, hẩm hiu của những người lao động

nghèo khổ. Hơn một nửa truyện ngắn Thạch Lam đã dành viết về những con

người như thế. Mỗi truyện là một mảng của bức tranh hiện thực ít ánh sáng,

36

nhiều bóng tối. Nhà mẹ Lê khắc họa một gia đình mười một đứa con liu chiu, người cha không còn, toàn bộ sự sống trông chờ vào từ tài xoay xở, tần tảo

của người mẹ không mấy sức vóc, không tấc đất, không chút tài sản, chui rúc

trong một túp lều chỉ "rộng độ chừng hai chiếc chiếu". Mùa rét thì rải ổ rơm

đầy nhà, mẹ con cùng ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ chó con

lúc nhúc. Nhưng như thế với gia đình này "cũng tươm tất lắm rồi". Đây không

phải là gia đình nghèo khổ duy nhất, mà còn nhiều gia đình khác ở cái phố

chợ Đoàn Thôn cùng nghèo nàn như nhau cả. Nhà văn không dùng lối biểu

hiện gay gắt, ồn ào mà chỉ bằng những lời nhẹ nhàng, thủ thỉ đúng như Khái

Hưng phát hiện trong "Tựa" Gió đầu mùa: "Tác giả, mà ta tưởng tượng rất

điềm tĩnh, kỳ thực là những con người có tính tình mãnh liệt" [20]. Đứng

trước sự khốn cùng của mẹ Lê, tác giả chỉ thủ thỉ nói: "giá cứ có người mướn

làm thì cũng không đến nỗi". Nhưng trong cái thủ thỉ ấy ta thấy lòng tức giận

lên đến cực điểm. Hoặc trước việc làm tàn ác của cha con ông Bá, Thạch Lam

chỉ để mẹ Lê giảng giải với các con. Thạch Lam với ngôn ngữ, cách diễn tả

không cầu kỳ, luôn giản dị, nhẹ nhàng và tinh tế. Ông viết hiện thực mà không

đay nghiến bằng chất giọng nghiệt ngã, nó cứ thản nhiên và trầm lắng: “Cái

nghèo không biết tự bao giờ đã vào nhà bác, lúc sinh ra bác đã thấy nó rồi; và

từ đấy nó cứ theo liền bác mãi". Đây cũng là cách nhìn và phản ánh hiện thực

mang đậm phong cách Thạch Lam: điềm tĩnh, nhẹ nhàng mà có sức gợi, sức

ám ảnh ghê gớm.

* Đề cao vẻ đẹp tâm hồn

Bằng bút pháp nghiêng về hiện thực, trong nhiều truyện ngắn, Thạch

Lam còn tiếp tục phát hiện, phản ánh những nét đặc sắc của bức tranh cuộc

sống nhiều mầu, nhiều vẻ, dưới góc độ của một cái nhìn tinh tế, trân trọng,

hướng vào những nét đẹp trong tâm hồn con người (Cô hàng xén, Hai đứa trẻ,

Một đời người, Hai lần chết, Một cơn giận, Đói, Tối ba mươi). Thạch Lam có cách nhìn, cách phản ánh hiện thực tạo ấn tượng sâu sắc, gợi cảm giác khắc

khoải, sâu đậm trong lòng người đọc mọi thế hệ. Điều đặc biệt là ông không

cốt lấy việc miêu tả hiện thực xã hội như một khuynh hướng chủ đạo, theo

nguyên tắc của chủ nghĩa hiện thực phê phán mà theo một kiểu dạng mới, có

thể gọi là hiện thực kiểu Thạch Lam như nhiều người đã chỉ ra và gọi bằng

nhiều tên: "hiện thực tâm lý", "hiện thực tình cảm", "hiện thực trữ tình". Có

37

thể nói, lãng mạn và hiện thực là hai nét cốt yếu vừa mang tính chất đối sánh, vừa bổ sung, vừa tạo đối trọng cần thiết trong truyện ngắn Thạch Lam. Bên

cạnh hàng chục truyện ngắn viết theo bút pháp hiện thực, Thạch Lam còn có

hàng chục truyện nghiêng về bút pháp lãng mạn. Thiên hướng này được

Thạch Lam khai thác và thể hiện sâu sắc, tinh tế trong các truyện Đứa con đầu

lòng, Tiếng chim kêu, Gió lạnh đầu mùa... Ngòi bút Thạch Lam để tâm quan

sát những điều ít ai để ý, nhằm phát hiện những nét tinh vi, độc đáo trong đời

sống tâm hồn mỗi con người và diễn tả bằng một giọng văn giản dị, chân

thành. Truyện Đứa con lại là một phát hiện có giá trị nhân văn sâu sắc. Một số

nhà nghiên cứu nhấn mạnh khía cạnh giải pháp điều hoà xã hội hoặc chí ít làm

dịu đi sự cách bức giữa đầy tớ và chủ nhà, con nợ và chủ nợ bằng sự có mặt

đứa con đẹp đẽ kháu khỉnh của chị Sen làm chuyển hoá thái độ của bà Cả.

Thực tế, truyện đề cập đến nhiều vấn đề, mang nhiều ý nghĩa xã hội và giá trị

nội dung, nghệ thuật độc đáo, nhưng điều cốt lõi làm nên giá trị lâu bền của

thiên truyện là bởi Thạch Lam đã thể hiện được những điều sâu kín nhất trong

tâm hồn con người, dù đó là người do hoàn cảnh cuộc đời làm xơ cứng, quắt

queo gần với sự độc ác cũng có thể hồi sinh và trở về với nhân tính thiên

lương là tình mẫu tử. Chưa hẳn nằm trong số truyện hay nhất của Thạch Lam,

nhưng trong mảng viết về thiếu niên sau Gió lạnh đầu mùa, Hai đứa trẻ thì

truyện Tiếng chim kêu mang đến những điểu thú vị. Bao trùm toàn bộ câu

chuyện là không khí đầm ấm của tình yêu thương, là tình cảm nhân đạo kiểu

Thạch Lam. Lòng trắc ẩn của hai anh em - nhân vật chính của truyện - đối với

con chim ngoài trời mưa gió, rét mướt sẽ không mấy ý nghĩa nếu không phải

là biểu hiện sâu xa của những tấm lòng nhân ái. Tình cảm ấy không phải là

lòng thương hại của những người từ tầng lớp trên nhìn xuống; mà như Thạch

Lam viết: "Khi người ta được yên ấm trong một căn phòng nhà gạch chắc

chắn, không sợ mưa gió về phần mình, thì người ta dễ có lòng thương đối với những người xấu số hơn". Đó cũng là biểu hiện của tính thiện, một nội dung

quan trọng của nhân tính, là phần tốt đẹp trong bản chất của mỗi con người.

Dù rằng cuối cùng hai anh em đều ngại rét, không ai chịu ra mở cửa cứu chim

rồi chìm vào giấc ngủ cũng là việc thường tình, thậm chí nhờ thế mà câu

chuyện chân thực hơn, hấp dẫn hơn.

Gió lạnh đầu mùa là thiên truyện được độc giả và giới nghiên cứu các

38

thời kỳ đặc biệt quan tâm, được xếp vào những truyện hay nhất, có thể "đem vào bộ tuyển những truyện ngắn hay của văn học Việt Nam thế kỷ XX" [20].

Ở đây mọi người đều đáng quý, đáng yêu, bởi dù nghèo nhưng luôn sáng ngời

những phẩm chất đẹp, giàu lòng trắc ẩn, cư xử với nhau bằng tình cảm chân

thành. Hành động của chị em bé Lan, Sơn thấy gió lạnh, mình ấm mà bạn rét

tím tái, "chỉ mặc có manh áo rách tả tơi, hở cả lưng và tay" đã tự lấy áo cho

bạn là xuất phát từ tình cảm tự nhiên, từ "tính bản thiện" của con người. Mẹ

của Hiên, dù rất nghèo "chỉ có nghề mò cua bắt ốc" không có tiền mua áo cho

con, khi được cho áo, biết là việc làm của trẻ thơ, đã đem áo trả lại cho mẹ

Sơn và nói những câu rất tế nhị. Mẹ Sơn nhận lại áo nhưng cho mẹ Hiên vay

năm hào về mua áo rét cho con. Với con, bà lập nghiêm để răn dạy, không

được tự tiện hành động nhưng bản tính thương người lại ngầm thể hiện bà ủng

hộ và mừng vì con mình có lòng nhân ái.

Trong Truyện ngắn Việt Nam nửa đầu thế kỉ XX, GS. Hà Minh Đức nhận

xét: “Truyện ngắn Thạch Lam không lấy điểm tựa và sức hấp dẫn ở cốt truyện

mà ở sự kết hợp giữa sự việc với đời sống khách quan và những cảm xúc chủ

quan. Biết tìm điểm dừng, độ lắng và những xao động của mạch tình cảm và

cuối cùng Thạch Lam đã đưa cảm nghĩ xuôi về khu vực nhân bản nhất, lòng

yêu thương, trân trọng và tin cậy ở con người. Nhìn lại các truyện lãng mạn

Thạch Lam đã viết, đặc điểm nổi bật có thể nhận ra là các nhân vật của ông

thường không đặt trong sự chi phối của một thứ luân lý cao xa nào, ít có quá

trình đấu tranh dằn vặt hoặc phải gồng mình, gắng sức để vượt qua lực cản

của hoàn cảnh, hoặc để hoàn cảnh cuốn đi như các nhân vật trong truyện của

Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo. Ở truyện Thạch Lam, cái tôi được khai

thác như một chất liệu, một đối tượng thẩm mỹ và nhà văn tỏ rõ thiên hướng

đi sâu, tìm tòi phát hiện những nét mỏng mảnh huyền diệu nhất của phạm trù

cái đẹp; hầu như không đẩy đến cái tôi cực đoan. Đó cũng là điểm khác nhau cơ bản giữa Thạch Lam với các nhà văn chủ chốt trong văn đoàn. Đúng như

Phạm Thị Thu Hương nhận xét: "Bởi vì tất cả chỉ là lời thủ thỉ, nhẹ nhàng,

không chứa đựng một cao vọng gì, cũng không hô hào theo dòng văn Tự lực

mà ông là một thành viên. Ở ông sự thừa nhận bản ngã như một chất liệu

trọng yếu, khuynh hướng hướng nội, tạo thành một bút pháp độc đáo - một bút

pháp hoà hợp trong sáng, dịu dàng, kín đáo và giản dị" [20]. Có thể nói

39

khuynh hướng nghệ thuật của Thạch Lam là "tôn thờ nhân bản" như Vũ Bằng từ năm 1970 trên tạp chí Giao điểm ở Sài Gòn đã viết: Trong nhóm Phong

hoá, Ngày nay, Hoàng Đạo là người lý thuyết, Nhất Linh là người thực hành,

Khái Hưng là người đả phá nếp sống cũ để tiến đến một đời sống mới, tựu

trung đều là thương người, yêu người cả, nhưng muốn nói đến một người tôn

thờ nhân bản thực sự, một người yêu thương, xót xa đồng bào từ tâm, can, tỳ,

phế thương ra thì người ấy chính là Thạch Lam [57]. Thạch Lam có khuynh

hướng đi giữa hiện thực và lãng mạn. Điểm quan trọng, nổi bật làm nên sự khác

nhau giữa các tác giả là thái độ, cách nhìn, cách phản ánh hiện thực thể hiện trong

tác phẩm viết về người lao động. Thời kỳ Mặt trận Dân chủ Đông Dương (1936-

1939), phong trào quần chúng phát triển rộng rãi, mạnh mẽ là hoàn cảnh lớn tác

động, chi phối các cây bút thuộc mọi khuynh hướng. Các nhà văn Tự lực văn đoàn

đều hướng vào hiện thực đời sống của những con người "nhỏ bé", lao khổ, bần

cùng, tỏ thái độ thương cảm, bênh vực họ, nhưng khác nhau là ở điểm nhìn, cách

thức và mức độ quan tâm. So sánh Thạch Lam với Khái Hưng, Nhất Linh, Hoàng

Đạo qua các tác phẩm viết trong thời kỳ này ta thấy: Điểm gặp gỡ giữa các tác giả

là hướng về người nghèo, phần nào hiểu được nỗi thống khổ mà những người dân

nghèo thành thị, nông dân, trí thức tiểu tư sản phải chịu đựng, sáng tác của họ chủ

yếu tập trung vào những nội dung mang tính luận đề xã hội (vấn đề chống phong

kiến, nhu cầu giải phóng cái tôi cá thể, đề cao hạnh phúc cá nhân, tự do yêu

đương; các chủ trương cải cách xã hội v. v...). Đối tượng các tác giả này quan tâm

là những vấn đề có tính thời sự, diễn ra trong các giai tầng xã hội trong một giai

đoạn lịch sử nhất định. Do vậy, khi thời đại vượt qua, những đòi hỏi lịch sử cần

được đáp ứng thì giá trị nhiều tác phẩm của họ cũng có phần phai mờ.

Trong tiểu luận Theo giòng Thạch Lam viết: “Cái đẹp man mác trong vũ

trụ, len lỏi khắp hang cùng ngõ hẻm, tiềm tàng ở mọi sự vật bình thường.

Công việc của nhà văn là phát hiện cái đẹp ở chỗ mà không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp mọi sự vật”. Quan niệm văn chương tiến bộ này đã chi

phối toàn bộ sáng tác của Thạch Lam. Truyện ngắn Thạch Lam trong cả hai

khuynh hướng hiện thực và lãng mạn chủ yếu đều hướng về những nội dung

mang tính nhân bản, lấy đó làm cơ sở, làm động lực chi phối cách nghĩ, cách

cảm, cách viết nên tác phẩm có sức vươn rộng, lan xa, tạo thành nhiều tầng,

40

nhiều vỉa, càng đọc càng thấm thía và có giá trị trường tồn.

CHƢƠNG 2

THẾ GIỚI NHÂN VẬT TRONG TRUYỆN NGẮN CỦA KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM

2.1. Khái niệm nhân vật Theo Từ điển văn học (bộ mới) do NXB. Thế giới ấn hành năm 2004:

Nhân vật là "Thuật ngữ chỉ hình tượng nghệ thuật về con người, một trong

những dấu hiệu về sự tồn tại toàn vẹn của con người trong nghệ thuật ngôn từ.

Bên cạnh con người, nhân vật văn học có khi còn là các con vật, các loài cây,

các sinh thể hoang đường được gán cho những đặc điểm giống với con người.

Là phương thức nghệ thuật nhằm khai thác những nét thuộc đặc tính con

người, nhân vật có ý nghĩa trước hết ở các thể loại văn học tự sự và kịch, ở

sân khấu, điện ảnh, điêu khắc, hội hoạ, đồ hoạ. Các thành tố tạo nên nhân vật

gồm: hạt nhân tinh thần của cá nhân, tư tưởng, các lợi ích đời sống, thế giới

xúc cảm, ý chí, các hình thức ý thức và hành động.

Tính toàn vẹn (chỉnh thể) của con người được thể hiện ở văn học trong

giới hạn những khả năng của ngôn từ nghệ thuật, chủ yếu ở các khả năng miêu

tả (tạo hình) và biểu cảm. Ở dạng đầy đủ, đó là hình tượng con người với toàn

bộ những đặc điểm ngoại hình (nét mặt, dáng người, tên riêng...); lối nghĩ;

hành động; thế giới tinh thần; tâm hồn; do vậy khái niệm này gần với khái

niệm tính cách. Nhân vật văn học học là một đơn vị nghệ thuật, nó mang tính

ước lệ, không bị đồng nhất với con người có thật, ngay khi tác giả xây dựng

nhân vật với những nét rất gần với nguyên mẫu có thật. Nhân vật văn học là

sự thể hiện quan niệm nghệ thuật của nhà văn về con người; nó có thể được

xây dựng dựa trên cơ sở quan niệm ấy. Ý nghĩa của nhân vật văn học chỉ có

được trong hệ thống một tác phẩm.

Gắn với sáng tác ngôn từ của những thời đại khác nhau, nhân vật văn học

in dấu những xu hướng tiến hoá của tư duy nghệ thuật. Tiêu biểu cho sử thi là

nhân vật lý tưởng hoá; ở chủ nghĩa cổ điển là kiểu "nhân vật - mặt nạ" cố

định; ở chủ nghĩa lãng mạn là kiểu nhân vật bị vò xé bởi những mâu thuẫn; ở

chủ nghĩa hiện thực thế kỷ XIX - XX là nhân vật được mô tả trong tính xã hội

lịch sử cụ thể, có đời sống tâm lý; ở một số trào lưu có phản nhân vật, tức là

41

một kiểu nhân vật văn học bị tước bỏ nhiều nét vốn có của nó (so với trào lưu truyền thống) nhưng vẫn đứng ở vị trí trung tâm của tác phẩm.

Thực tiễn sáng tác, phê bình và nghiên cứu đã nêu lên nhiều kiểu và loại

nhân vật văn học tương ứng với những dấu hiệu phân loại khác nhau. Do vị trí,

vai trò khác nhau trong tác phẩm người ta nêu ra "nhân vật chính" và "nhân vật

phụ". Do phục vụ cho việc truyền đạt sự đánh giá và thể hiện lý tưởng xã hội của

nhà văn, người ta nêu ra "nhân vật chính diện" (tích cực) và "nhân vật phản diện"

(tiêu cực) - cách phân biệt này tuy ước lệ, nhưng lại tiêu biểu cho sáng tác của

khá nhiều xu hướng văn học. Do gắn với những loại thể văn học khác nhau,

người ta phân biệt "nhân vật tự sự" "nhân vật trữ tình", "nhân vật kịch". Ngoài ra,

các kết quả nghiên cứu sâu vào từng xu hướng và thời đại văn học còn cho phép

nói tới các kiểu "nhân vật ngoại hình" như: nhân vật chức năng (nhân vật - mặt

nạ), nhân vật tính cách, nhân vật tư tưởng"...

Chúng tôi căn cứ vào nội dung khái niệm nhân vật văn học như đã nêu

trên để khảo sát và phân tích thế giới nhân vật trong truyện ngắn của Khái

Hưng và Thạch Lam.

2.2. Quan niệm nghệ thuật về con ngƣời trong truyện ngắn Khái Hƣng

và Thạch Lam

2.2.1.Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Khái Hưng

Khái Hưng là cây bút có năng lực sáng tạo dồi dào, cây bút "trụ cột" của

Tự lực văn đoàn. Trung thành với tôn chỉ của Tự lực văn đoàn, Khái Hưng

nhất quán trong việc chống "cái buồn thời đại", tôn trọng tự do cá nhân con

người và đã có những quan niệm nghệ thuật mới về con người, làm nền tảng

cho việc xây dựng nhân vật trong tác phẩm. Cốt lõi trong quan niệm nghệ

thuật về con người của Khái Hưng là đề cao con người cá nhân trong sự tung

phá khỏi những ràng buộc phong kiến, trong khát vọng tìm ra lối thoát trong

tình yêu, trong thế giới nội tâm. Con người trong quan niệm của Khái Hưng là con người của đời thường trong cuộc sống thường nhật với đầy đủ phẩm chất

của mình; con người phải được sống vui vẻ và sống hết mình.

Quan niệm của Khái Hưng đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển của tư

duy văn học đương thời. Chính đó là cơ sở để thế giới nhân vật trong sáng tác của

ông thoát khỏi cái khung của chủ nghĩa lãng mạn, mở rộng khuynh hướng tận thu

những chất liệu hiện thực để vươn tới một ý nghĩa nhân sinh sâu sắc hơn.

42

Quan niệm nghệ thuật về con người biểu hiện trong toàn bộ cấu trúc của tác phẩm văn học, nhưng biểu hiện tập trung trước hết ở các nhân vật. Với

quan niệm nghệ thuật mới mẻ, Khái Hưng đã sáng tạo được một thế giới nhân

vật đa dạng, phong phú mặc dù thế giới đó không đông đúc, ồn ào. Nhân vật

của Khái Hưng "rất người" - những con người thường ngày, gần gũi. Khi xây

dựng nhân vật nhà văn đã khai thác sâu sắc và tài tình thế giới nội tâm nhân

vật. Trong toàn bộ sáng tác của ông, từ tiểu thuyết đến truyện ngắn, dù theo

khuynh hướng phân tích tâm lý, hay khuynh hướng luận đề xã hội, nhân vật

của Khái Hưng đều có một kích thước tâm hồn, vì đó chính là phiên bản tâm

hồn của tác giả (đặc biệt là nhân vật tiểu tư sản trí thức).

2.2.2. Quan niệm nhân vật về con người trong truyện ngắn Thạch Lam

Thế giới nhân vật của truyện ngắn Thạch Lam nổi lên hai hình tượng cơ

bản. Đó là người tiểu tư sản có nét chân thực và gần với cuộc sống đời

thường. Thạch Lam thường đặt họ vào những hoàn cảnh thực để từ đó bộc lộ

tính cách, tâm lý, tình cảm. Thứ hai là hình tượng người dân nghèo, ông viết

với một lòng cảm thông sâu sắc. Đặc biệt với hình ảnh người phụ nữ, Thạch

Lam khắc họa bằng tất cả sự trân trọng, yêu quý, nhất là người mẹ.

Theo quan niệm của Thạch Lam: Con người là một phức thể với cả

những mặt tốt - xấu, thiện - ác lẫn lộn: "Người ta là một động vật rất phiền

phức. Một người rất tốt có thể có những lúc giận dữ, tàn ác, cũng như một kẻ

ác có thể có những lúc hiền hậu nhân từ”, "người ta là người với tất cả sự cao

quý và hèn hạ của người". Từ quan niệm này về con người, Thạch Lam đi đến

quan niệm, trong một tác phẩm "không có nhân vật hoàn toàn", "Các nhân vật

hoàn toàn không lấy được cảm tình người đọc". Thạch Lam đã sớm nhận ra

tính chất đơn điệu, công thức và tẻ nhạt của loại "Vai chính hoàn toàn". "Đối

với một nhân vật hoàn toàn chúng ta có thể phục nhưng mà chúng ta không

yêu. Chính vì một nhân vật hoàn toàn và nhân vật không thực, một nhân vật bịa đặt bởi tác giả, vì thế nó không linh động chút nào"[56]. Nét độc đáo trong

quan niệm nghệ thuật về con người của Thạch Lam là ông nhấn mạnh đến đời

sống tâm hồn, chiều sâu nội tâm của con người: "Đối với nhà văn, điều quan

trọng là phải miêu tả sự sống mà sự sống tinh vi nhất, sâu kín nhất là sự sống

của tâm hồn". Thạch Lam cảm thấy buồn rầu vì "Có những người sống như

cây cỏ, một đời sống tẻ ngắt và khô khan, phẳng lặng như mặt nước ao tù".

43

Ông khẳng định: "Nếu chỉ có ăn với ngủ, với chơi thì cái đời sống đó chẳng có gì đáng quý, cái đời sống cần là đời sống bên trong, cái đời sống của tâm

hồn". Chính từ quan niệm này mà nhân vật trong tác phẩm của Thạch Lam

chủ yếu là nhân vật hướng nội. Ông viết về những con người nhỏ bé như là sự

tìm kiếm chính mình. Trong Theo giòng Thạch Lam viết: "Theo ý tôi, một tác

phẩm nào của nhà văn cũng có chút ít nhà văn ở trong ấy" và khẳng định vị trí

quan trọng của tâm hồn tác giả: "Cái thực tài của nhà văn có nguồn gốc ở

chính tâm hồn nhà văn" [12]. Đi vào truyện ngắn Thạch Lam ta không gặp

những nhân vật hành động, đi lại nói năng ồn ào hay làm những việc to tát

cùng đám đông hỗn loạn... Đa số nhân vật của Thạch Lam dường như ít

chuyển động, ít sống với xã hội bên ngoài, mà chủ yếu sống với thế giới nội

tâm của họ. Đó có thể là nỗi buồn man mác của nhân vật Liên trước giờ khắc

của ngày tàn nơi phố huyện; là niềm vui ghé, vui lây của hai chị em Liên khi

chờ chuyến tàu mang hơi ấm, ánh sáng từ Hà Nội về (Hai đứa trẻ). Đó có thể

là nỗi đắng cay tủi cực của mẹ Lê khi nhìn đàn con lả đi vì đói (Nhà mẹ Lê)

hay một sự rung động "khẽ như cánh bướm non" của người đàn ông khi lần

đầu tiên làm bố (Đứa con đầu lòng). Cái chết của Dung trong (Hai lần chết),

không phải là cái chết về thể xác ở con sông nơi cô trẫm mình, mà là cái chết

đau đớn về mặt tâm hồn, tình cảm ở nhà chồng, nơi cô khao khát một sự nhân

ái, tình yêu con người mà không có được.

Có thể nói, dù trong cảnh ngộ nào con người trong sự miêu tả của Thạch Lam vẫn luôn hướng về một thế giới tinh thần đẹp đẽ, trong sáng và giàu tính nhân bản. Mẹ Lê sắp chết vẫn cứ ước muốn "giá cứ có người mướn làm" để có tiền nuôi đàn con thơ dại. Hai cô gái trong nhà săm (Tối ba mươi) vẫn hướng về cội nguồn tổ tiên bằng lòng thành kính nâng niu với ước muốn được trở về sống lại "trong một căn nhà ấm cúng sáng đèn, then cửa cài chặt, mọi người đang tấp nập đón năm mới trong sự thân mật và ấm cúng của gia đình"[65]. Giữa cuộc đời thực mà hai cô gái đang phải tồn tại trong đó và tâm hồn họ, luôn có sự đối lập. Trong quan niệm của Thạch Lam, nhân vật phải được nhìn nhận ở nhiều góc cạnh, chiều khía khác nhau và có đời sống tinh thần phong phú. Ở đây ta bắt gặp một nhà văn tha thiết với cái đẹp, cái thiện tiềm ẩn sâu xa nơi con người cho dù họ có là con người chưa hoàn thiện. 2.3. Thế giới nhân vật trong truyện ngắn Khái Hƣng, Thạch Lam 2.3.1. Nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng, Thạch Lam Khi xã hội Việt Nam chuyển từ chế độ phong kiến sang thực dân nửa

44

phong kiến thì xuất hiện tầng lớp tiểu tư sản. Đến 1930 - 1945 hình tượng

người trí thức và tiểu tư sản đã trở nên phổ biến và quen thuộc trong nhiều tác

phẩm của các nhà văn tiêu biểu như: Nhất Linh, Khái Hưng, Thạch Lam, Vũ

Trọng Phụng, Nam Cao, Nguyên Hồng... Cuộc sống đời thường của người trí

thức tiểu tư sản trở thành đề tài cho nhà văn khai thác, khắc họa và qua đó

truyền tải tư tưởng của mình.

Trong các sáng tác của Tự lực văn đoàn hình ảnh người trí thức tiểu tư sản

hiện lên chủ yếu là những con người bất mãn với thực tại và tìm cách thoát li

khỏi những cảnh tù túng, bó buộc. Đó là các nhân vật Dũng, Thái, Trúc, Xuân,

Lộc trong các tác phẩm Nửa chừng xuân, Đoạn tuyệt của Khái Hưng, Đôi bạn

của Nhất Linh. Nhưng dưới cái nhìn lãng mạn của các cây bút Tự lực văn đoàn,

người trí thức tiểu tư sản phần lớn xuất thân từ những gia đình quan lại hoặc tư

sản giàu sang, sống phong lưu, trưởng giả, hoặc là những con người vĩ nhân,

phi thường, hoặc là hiện thân của lối sống lãng mạn, mộng mơ có phần hơi thái

quá. Lối sống ấy khác hẳn với cuộc sống mòn mỏi, bế tắc của tầng lớp trí thức

tiểu tư sản đương thời. Nhân vật tiểu tư sản trong văn chương Tự lực văn đoàn

chủ yếu thường sống xa rời, tách biệt với quần chúng, thái độ tình cảm của họ

đối với quần chúng là thái độ của một kẻ bề trên cúi xuống lớp người “dưới

đáy”. Họ mang trong mình những lý tưởng đẹp đẽ mà hết sức mơ hồ, thứ lý

tưởng "vừa tầm với số thanh niên trí thức thành thị đang bế tắc đã rút lui khỏi

trường đấu chính trị sau khi khởi nghĩa Yên Bái, Lâm Thao thất bại". Nhân vật

tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng thường là những thanh niên có

học, sống theo lối sống mới, có địa vị xã hội. Họ không phải chịu cảnh "nỗi đời

cay cực giơ nanh vuốt, cơm áo không đùa với khách thơ". Khái Hưng xuất thân

trong một gia đình giàu có. Ông được sống một cuộc sống đầy đủ. Cuộc sống

của ông là cuộc sống của các tầng lớp trên trong xã hội. Lúc trẻ ông theo học ở trường Pháp Anbe Xarô. Ông đọc nhiều sách lãng mạn của văn học phương

Tây (Đặc biệt là văn học Pháp). Khái Hưng chịu ảnh hưởng lối sống trí thức

tiểu tư sản thành thị, thích tự do, phóng túng. Tuy ông ghét bọn trưởng giả vô

học nhưng lại không xa rời được cuộc sống tư sản, phong lưu. Ông coi thường

bọn tư sản rẻ tiền (như ông Thiên trong tiểu thuyết Băn khoăn) nhưng vẫn lý

tưởng hoá, thi vị hoá cuộc sống tư sản.

45

Trong truyện ngắn Khái Hưng, nhân vật tiểu tư sản thường là những thanh niên hào hoa, phong nhã có cuộc sống dư dật đầy đủ. Họ hoặc là chìm

đắm trong phút giây đợi chờ hình bóng người con gái mới quen (Đợi chờ)

hoặc thả mình trong những thú vui của tình yêu trong những kỳ nghỉ mát ở

Sầm Sơn, Đồ Sơn, Huế như Vinh Sơn trong Bên dòng Hương Giang, hay

Hoàn và Phát lãng mạn trong Thời chưa cưới hoặc nhàn rỗi đi xem hội hè như

Đoàn, Lực trong Biến đổi.

Nhân vật Vinh Sơn trong Bên dòng Hương Giang đã từng du học ở Pháp

về, mang theo những tư tưởng hoàn toàn mới mẻ, phóng túng. Chàng yêu

Diễn Lan, một cô gái tân thời có học "một cựu nữ sinh viên trường sư phạm,

một trang tân tiến cực kỳ mỹ lệ, đã nổi tiếng lãng mạn Hà Thành". Hai người

yêu nhau nhưng quan hệ của họ không được gia đình và bạn bè chấp nhận.

Nhưng "nghe những lời bình phẩm "Vinh Sơn chỉ cười. Đối với chàng "trinh

tiết", "tức đức tam tòng" những cái đó "không có gì liên quan đến ái tình,

không có dính dáng gì đến hạnh phúc. Yêu là yêu chứ không là gì khác nữa".

Bởi vậy, Vịnh Sơn và Diễn Lan đã quyết định "đưa nhau đi ở ẩn, hay nói đúng

hơn là đi tìm một cảnh thích hợp với ái tình. Cảnh ấy là sông Hương". Trong

truyện, Khái Hưng đã miêu tả cụ thể, chi tiết cuộc sống nhàn rỗi, đắm chìm

trong tình yêu và hạnh phúc của đôi uyên ương này. Bên cạnh đó tác giả còn

khắc hoạ nhân vật Vinh Sơn rất rõ nét, đặc biệt về tư tưởng. Từ ngày ở Pháp

về "ngắm xã hội Việt Nam, từ những hủ tục bó buộc cho chí cách sinh hoạt

khuôn sáo, chàng lấy làm khó chịu, tiếc cái thời ở Paris". Thanh niên tiểu tư

sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng đặc biệt ghét gia đình phong kiến,

ghét những giáo lý hủ tục phong kiến. Nhân vật Vinh Sơn chính là bóng dáng

của Khái Hưng. Vinh Sơn mang những suy nghĩ, tâm tư của Khái Hưng về

chế độ quan lại, về gia đình phong kiến.

Là cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn, Khái Hưng chịu ảnh hưởng sâu sắc những tôn chỉ mà nhóm Tự lực văn đoàn đặt ra, nên trong tác phẩm của

mình, ông không xây dựng những nhân vật lý tưởng mà luôn chú ý đặt các

nhân vật vào những tình huống lúc nào cũng trẻ, cũng yêu đời. Thanh niên

tiểu tư sản trí thức trong sáng tác của Khái Hưng chưa có những hoài bão về

đất nước. Họ tìm cách thoát ly bằng cách chìm vào những thú vui cá nhân.

Trong không khí xã hội ngột ngạt lúc đó, vui chính là để quên đời đầy bất

46

công ngang trái. Nói như Nhất Linh "tâm hồn của họ phảng phất vui buồn tựa những ngày thu nắng nhạt điểm mưa thưa" (Lời tựa Hồn bướm mơ tiên).

Tuy vậy, nhân vật của Khái Hưng bước đầu đã có quan điểm sống rõ rệt.

Đoàn trong Một nhà hiền triết sống theo triết lý do anh tự đề ra: "chẳng đi đâu mà

thiệt". Đó là một triết lý mang tính nhân văn cao thượng. Trong triết lý của Đoàn

gồm cả ba ý nghĩa trung dung, tự nhiên và diệt dục. Anh vui vẻ chấp nhận nó chứ

không hề miễn cưỡng hay giả dối để khoác bên ngoài tấm áo hư danh cao thượng.

Bên cạnh những nhân vật tiểu tư sản trí thức hào hoa phong nhã có cuộc

sống dư dật đầy đủ, Khái Hưng cũng viết về cuộc sống của một số nhân vật

tiểu tư sản trí thức nghèo, nhưng ông không riết róng mạnh mẽ như Nam Cao

mà nhẹ nhàng sâu sắc chỉ ra sự nghèo khó của họ. Họ chưa phải hao tâm khổ

trí kiếm tiền để nuôi sống bản thân như nhân vật của Nam Cao. Cái nghèo cái

khó của họ như là một tất yếu trong xã hội thực dân nửa phong kiến không

trọng dụng người tài. Trong các truyện Cháu nhà quan, Cái Ve, Đồng xu,

Khái Hưng đã nhìn thẳng, nói thẳng những sự thật về cuộc đời của những

người tiểu tư sản trí thức nghèo.

Nhân vật Niệm trong Cháu nhà quan có một cuộc đời thăng trầm lận

đận. Anh là "người học trò tuấn tú, có nhan sắc kiều diễm của phụ nữ, người

học trò giỏi Pháp văn nhất lớp". Thời thanh niên Niệm là niềm tự hào của bao

học sinh trường Bảo hộ, là ánh hào quang lung linh rực rỡ khiến bao người

thèm muốn, ghen tị, nhưng cuộc đời đã đưa đẩy Niệm sang một hướng khác

"người ấy ngày nay đã trở nên bác đi thu tiền, lù dù trong tấm áo lương cũ,

kéo lệt sệt đôi giày dúm dó". Khái Hưng lý giải "vẫn biết rằng khi người ta 40

tuổi, người ta không còn trẻ nữa, không còn nhanh nhẹn như khi 17, 18.

Nhưng cái lưng gù, đôi mắt mờ xạm, cái trán dăn deo không hẳn phải là kết

quả của 40 năm đã sống". Ở đây cách nhìn của Khái Hưng có phần giống với

cách nhìn của Nam Cao. Trong xã hội cũ những người trí thức ôm ấp nhiều hoài bão, ôm mộng đẹp nhưng không thực hiện được, họ đành phải sống một

cuộc sống mòn, tẻ nhạt, sống mà như đã chết. Tương lai và số phận của người

tiểu tư sản trí thức đương thời được thể hiện qua nhân vật Thư trong Cháu nhà

quan. Giống như Niệm, Thư cũng phải chịu một cuộc sống "tài tử đa truân".

Thư đã từng có "tiếng tăm lừng lẫy" về học vấn, về thông minh... có đủ mọi

tài. "Sự học của anh Thư thật là giỏi giang, cái giỏi giang thông minh vốn sẵn

47

tính trời"... "Một lần anh quên không học bài sử ký dài, thế mà sáng hôm sau, đi từ nhà đến trường anh thuộc trơn tru. Lại một lần đến lớp anh mới nhớ là

ngày nộp bài luận văn mà anh chưa làm tức thì anh cầm bút ngoáy một mạch

kín hai trang". Anh Thư đi thi "xectiphica" và đỗ cao, được học bổng. Sự nổi

tiếng của anh không chỉ đem lại vẻ vang cho bản thân anh mà còn cho cả

trường anh, các bạn đồng môn của anh. Nhưng kết cục, cuộc đời Thư lại rơi

vào hố sâu không lối thoát: "Người ấy hiện là một bác nho xác nghiện ngập.

Người ấy ngày nay trông tiều tuỵ quá, na ná nhân vật trong tiệm thuốc nấu:

nước da đen sạm, môi vêu ra vì má lóp xuống sâu quá. Hai con ngươi, dưới

cặp mi húp híp, mờ như đôi kính bám đầy bụi và lờ đờ lười biếng không buồn

đưa đi đưa lại nữa. Khi muốn nhìn về phía nào, cái đầu to phải quay hẳn về

phía ấy, cái đầu như vặn chốt quá chặt vào cổ, cử động rất thong thả, khó

khăn". Quá khứ huy hoàng, một thời oanh liệt của Thư đã rơi vào quên lãng,

lớp bụi thời gian đã phủ đầy. Hiện tại của anh chỉ là những ngày sống mòn

"cùn đi, rỉ ra" vô nghĩa lý.

Cuộc sống mòn mỏi thiếu thốn của người tiểu tư sản trí thức còn được

Khái Hưng phác thảo thấp thoáng qua hình ảnh ông giáo Thanh trong truyện

Cái Ve. Thanh bị mọi người trong nhà trọ ghét bỏ lạnh nhạt. Những anh phu

xe, thợ hồ tưởng anh thuộc tầng lớp tư sản xa cách với họ. Thực ra, cuộc sống

kiếm ăn của Thanh cũng chẳng có gì hơn cuộc sống của những người phu

phen. “Dăm bộ bàn ghế nát, một cái bảng đen. Trong gian nhà lá trống trải, đó

là thứ để tìm kế sinh nhai. Còn khách hàng, vài ba chục cậu học trò nhỏ từ sáu

đến mười hai tuổi, từ lớp đồng ấu đến lớp sơ đẳng, và toàn là con cái nhà bình

dân buôn bán ở ngoại ô, nghĩa là không sẵn tiền và nhiều khi túng bấn nữa”.

Mặc dù tiếng là thày giáo đứng lớp mấy chục học trò nhưng “món tiền thày

giáo kiếm được hàng tháng chẳng mấy khi quá số mười lăm đồng”, lại còn

phải trừ tiền thuê lớp học và các khoản chi phí khác nên chỉ còn hơn chục bạc để ăn tiêu. Cái nghèo cái túng khiến Thanh phải tính toán, tằn tiện ngay cả với

sức khoẻ của chính mình. Chàng ốm nặng nhưng chỉ dám uống thuốc có

chừng mực, sợ tốn tiền. Câu trả lời thành thật của Thanh khiến Ve rơi nước

mắt và người đọc phải thương cảm: “Tôi chỉ còn hơi mệt thôi, nghỉ hôm nữa

sẽ khỏi hẳn... Với lại tốn tiền lắm. Tiền đâu... Dễ tôi uống đến bốn, năm chén

thuốc rồi đấy nhỉ”… Tình cảnh còn đẩy lên đến cao độ hơn, nhức nhối hơn

48

trong truyện ngắn Đồng xu. Cái đói, cái nghèo khiến cho người trí thức tiểu tư sản nghèo khổ sở, điêu đứng. Khái Hưng đã miêu tả khá đầy đủ cuộc sống đói

khổ của Phiên. Phiên là một nhân viên công sở vừa bị thất nghiệp trong túi

duy nhất chỉ còn một đồng xu. Tâm tưởng chàng lúc nào cũng nghĩ đến bữa

ăn, nghĩ đến cơn đói mà mình phải chịu đựng. Nghe thấy tiếng hò reo, tiếng

vỗ tay hoan hô rầm rộ ở phía sau, chàng nghĩ: “Trời rét thế, đá bóng có đói

chết không”. Ý nghĩ về cơn đói đeo đẳng, chi phối mọi hành động, suy nghĩ

của Phiên. “Chàng nghĩ đến món lạc rang, thèm thuồng nhìn những gói giò

xanh, những đoạn lòng lợn treo ở cái lao mài ngắn”, nhìn hơi nước ở cái chén

bốc lên “chàng tưởng ngửi thấy hương chè thơm ngát, nhớ tới đĩa bánh ngọt

chàng còn chảy nước miếng”. Trong lúc đó, Phiên không nghĩ gì ngoài miếng

ăn và đồng tiền. Đi qua toà nhà nguy nga nhìn thấy chậu sứ, đôn sứ, thống sứ

men canh ngũ sắc, Phiên quy đổi và ao ước: "Một cái thống kia cũng đủ nuôi

sống mình được một năm". Nhìn thấy "hai con chim non béo mũm mĩm ninh

ních những thịt, Phiên tưởng ngay đến nồi cháo thơm thường được ăn khi mà

còn sung túc". Kết thúc truyện là cảnh Phiên ném vào một nhà giàu đồng xu

của mình rồi tiếc rẻ trèo vào nhặt và bị vu là ăn cắp, bị đi tù. Trong nhà tù,

Phiên đã được ăn bữa cơm sau hai ngày nhịn đói. Truyện ngắn mang ý nghĩa

tố cáo, phê phán xã hội sâu sắc.

Có thể thấy, nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng

với nhân vật tiểu tư sản trí thức trong tác phẩm của Nam Cao có những nét

tương đồng. Các nhân vật tiểu tư sản là nhà văn, nhà giáo của Nam Cao muốn

làm việc được thì cũng cần phải có cái ăn để sống, Nhu cầu cần phải có tiền

để lo cái ăn cho mình, cho vợ con gia đình mình cũng ngang, thậm chí cao

hơn, quyết liệt hơn nhu cầu sáng tạo; cơm áo kéo ghì mọi ước mơ xuống sát

đất, đó là sự thực và cũng là bi kịch lớn nhất trong đời sống của người trí thức

tiểu tư sản. Một loạt truyện ngắn: Giăng sáng, Đời thừa, Nước mắt, Cười, và cả tiểu thuyết Sống mòn đã minh chứng sâu sắc, cụ thể điều đó. Các nhân vật

Điền, Hộ, Thứ, lúc đầu đều là những người giầu ước mơ, ấp ủ lý tưởng, hoài

bão đẹp. Họ đều muốn làm nhà văn, nhà giáo sống có ích, đem tài năng để

phục vụ cuộc đời; muốn có tác phẩm văn chương nổi tiếng khắp hoàn cầu; mơ

ước một giải Noben, được nhiều người ngưỡng mộ, và có niềm tin mãnh liệt

vào khả năng của mình. Hộ nghĩ: “Đói rét không nghĩa lý gì đối với gã trẻ

49

tuổi, say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Đầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Đối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất

cả, ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa”. Đó là những con

người đẹp về lý tưởng, ước mơ và đẹp về nhân cách, lối sống. Hộ đã chấp

nhận mọi hy sinh để cứu vớt Từ, với tấm lòng cao thượng. Hộ ý thức rõ: "kẻ

mạnh không phải là kẻ dẫm lên vai kẻ khác để thoả mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh

chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác lên trên đôi vai của mình". Nhưng hiện thực đời

sống đã dồn ép những người trí thức này rơi vào bi kịch, bế tắc. Họ phải đối

mặt với thực tế cuộc sống nghiệt ngã, với sự trăn trở, dằn vặt, day dứt, đến nỗi

cái việc cơm áo hàng ngày là một ám ảnh dai dẳng, triền miên không dứt.

Điền trong Trăng sáng lúc nào cũng phải nghĩ đến tiền: "Óc Điền đầy những

lo lắng nhỏ nhen… Hắn thấy mình khổ quá, khổ như một con chó vậy".

Nhưng như thế vẫn còn khả dĩ, bởi dù khó khăn, phải chắt bóp từng đồng

Điền vẫn còn giữ được những gì "căn bản": vợ con, gia đình... Đời thừa mới

thật sự là những bi kịch lớn. Cuộc đời nhân vật Hộ, là những cuộc vật lộn dài

với sự mưu cầu cơm áo và triền miên trong cảm giác tù túng, bức bối đầy bi

kịch. Biết mình là một "thằng khốn nạn" với vợ con, một "kẻ bất lương" với

nghề mình ao ước mà không sao ra khỏi tình trạng đó được. Nhân vật Thứ

trong Sống mòn là sự hội tụ đầy đủ các biểu hiện về bi kịch của người trí thức.

Bao khó khăn và những sự không ngờ xảy đến, Thứ không thực hiện được

giấc mộng lớn phải quay về đối diện với cuộc sống "nửa tỉnh, nửa quê" để rồi

"mòn đi, rỉ ra, mốc lên" của một gã giáo khổ trường tư bệ rạc cùng những toan

tính nhỏ mọn, tẹp nhẹp thường ngày.

So với nhân vật tiểu tư sản trí thức của Nam Cao, nhân vật tiểu tư sản trí

thức của Khái Hưng không có quá trình dằn vặt nội tâm để tự nhận thức và tự

vượt lên chính bản thân mình. Trước những cảnh ngộ trớ trêu của số phận bắt

họ phải gánh chịu, phần đông các nhân vật như Niệm, Thư, Thanh đều chán nản, thất vọng. Mặc dù nhân vật tiểu tư sản trí thức của Khái Hưng chưa có

được những đấu tranh dằn vặt để tự vươn lên chính mình như kiểu nhân vật

tiểu tư sản trí thức của Nam Cao, nhưng đặt trong thời điểm và bối cảnh nhất

định, đây cũng đã là sự nỗ lực lớn của nhà văn.

Như vậy, nhân vật tiểu tư sản trí thức trong truyện ngắn Khái Hưng đã

được khắc hoạ rõ nét. Bên cạnh một số thanh niên hào hoa, phong nhã, dư dả,

50

hầu hết họ cũng phải chịu cuộc sống quẩn quanh, bế tắc và bước đầu họ cũng đã thể hiện quan điểm sống, chính kiến khá rõ ràng. Họ nhận thấy sự tù túng

của những cảnh đời, của sự loạn lạc, đảo điên trong xã hội. Ghi lại những

cảnh đời, những cuộc sống, những tâm trạng ấy, dù được nhìn qua lăng kính

tiểu tư sản nhưng sức tố cáo của những trang viết ấy không hề nhỏ.

Cùng viết về nhân vật tiểu tư sản trí thức, nhưng ở trang văn của Thạch

Lam lại có những nét riêng, độc đáo. Đó là những nhân vật tiểu tư sản lãng

mạn, thường là những học sinh trí thức không giàu có, nhưng cũng không

khốn khó về đời sống vật chất, tinh thần, luôn ấp ủ ước mơ và cuộc sống, tình

cảm trong sáng. Nhân vật Tân trong truyện ngắn Những ngày mới, vốn sinh ra

ở nông thôn, ngay từ nhỏ đã được cha mẹ cho lên Hà Nội ăn học. Tân đã thực

hiện được mong muốn của cha mẹ. Cuộc khủng hoảng kinh tế đã đẩy chàng

vào tình thế cùng quẫn, mất việc, sống vất vưởng ở Hà Nội, cha chàng thất

vọng, buôn rầu từ trần, mẹ không đủ chu cấp... Chàng thấy cần trở về quê "lấy

cái đời giản dị của người làm ruộng" làm niềm vui sống. Và rồi dần dần chàng

mới thấy cái đời chàng sống trước ở tỉnh thành là một cuộc đời phức tạp và vô

vị, không có nghĩa lý gì, chàng thích sống bên cạnh những người nhà quê chất

phác và mộc mạc. Bây giờ chàng mới biết đến trời đất, đến thời tiết, đến sự

thay đổi của mùa nọ sang mùa kia. Một cơn gió hay một cái mầm cỏ non, đối

với chàng đều có ý nghĩa riêng. Tân không dửng dưng như trước với những

cái xung quanh mình. Tâm hồn chàng có liên lạc và rung động cùng với cảnh

vật, chàng có cái cảm giác rằng mình sống... Hình ảnh con người sống và lao

động trên chính mảnh đất quê hương mình được miêu tả sinh động, ngập tràn

niềm vui. Hạnh phúc không cần tìm đâu xa, nó hiện hữu ngay cạnh mình và

có thể kiếm tìm niềm vui từ những người lao động bình dị nhất. Hình ảnh ông

cụ già gọi chàng đến bên cạnh mời hút thuốc lào và uống nước. Uống bát

nước vối đỏ thắm từ cái vò sành của người thợ gặt, Tân thấy: "chưa uống bát nước nào ngon hơn bát nước vối của ông cụ. Chàng nghĩ đến khi còn ở Hà

Nội, uống rượu bia và nước chanh ngâm đá, nhưng chưa thấy bao giờ khoan

khoái người như bây giờ". Những trang viết ấy của nhà văn khiến người đọc

cảm nhận rõ những tình cảm thiết tha, sự trân trọng, yêu mến người lao động,

và từ đó truyền tải thông điệp về hạnh phúc, về người lao động của nhà văn.

So với các nhân vật trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Nhất Linh, Khái

51

Hưng, Hoàng Đạo, thì nhân vật Tân trong Những ngày mới của Thạch Lam chỉ là một thanh niên trí thức tiểu tư sản thất nghiệp có ít ruộng nương ở quê.

Điểm gần gũi giữa Thạch Lam với các nhà văn này là cùng hướng về nông

thôn, đồng cảm với cuộc sống của người lao động. Thời Mặt trận Dân chủ

1936-1939, đây là đề tài các nhà văn đều quan tâm. Tuy nhiên, viết truyện

ngắn này rõ ràng Thạch Lam không nhằm hưởng ứng luận đề cải cách xã hội

làng quê như Khái Hưng và hai người anh của mình, mà chủ yếu là tỏ tình

cảm yêu mến chân thành của nhà văn với những người nông dân cần cù, chất

phác. Khoảng cách giữa anh chàng Tân thất nghiệp ở tác phẩm về làm ông

chủ ở nông thôn với những người nông dân chân lấm tay bùn là không xa

nhau mấy, mặc dù lúc mới đi làm, Tân là cái anh chàng "ăn vận chải chuốt

như một cô gái". Qua lao động, họ càng cảm thông với nhau hơn. Với Tân

bông lúa quí lắm và như có một ý nghĩa thiêng liêng; đấy là kết quả của một

năm làm lụng khó nhọc và vất vả. Không khí một vùng quê được mùa thật

phấn khởi, ai cũng sung sướng làm cho Tân cảm thấy phía chân trời xa,

khoảng ánh sáng của tỉnh thành Hà Nội là "cái khoảng ánh sáng mờ"... và hi

vọng "Một cuộc đời mới đương đợi chờ chàng".

Nghệ thuật không chỉ cho ta nhận thức thẩm mỹ mà còn tái tạo cuộc sống

theo yêu cầu thẩm mỹ. Truyện Những ngày mới như một thứ ánh sáng lung

linh, mát mẻ, một áng văn lãng mạn kiểu Thạch Lam: không mơn trớn, ru ngủ

mà chân thành, cảm động, giàu chất lạc quan nồng hậu gần với cuộc sống và

ước mơ của người lao động. Tuy nhiên, đặt trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của

dân tộc ta trước Cách mạng tháng Tám, trong điều kiện ách áp bức phong kiến

đế quốc luôn đè nặng lên cuộc đời của mọi người dân mất nước, nhất là tầng

lớp người lao động nghèo khổ thì bức tranh lãng mạn này, nếu có cũng chỉ

xuất hiện trong những khoảnh khắc hiếm hoi, tồn tại như một giấc mơ, một

vầng ánh sáng đáng quý.

Bên cạnh đó, những nhân vật tiểu tư sản trong các truyện nghiêng về bút

pháp hiện thực của Thạch Lam là những con người bị cuộc sống cơm áo dồn

đến bước đường cùng, phải đối diện với thực tế, đối diện với chính mình trong

nhiều tình huống bi kịch như trong các truyện Người bạn trẻ, Đói, Cái chân

què. Ở Người bạn trẻ, với giọng văn thủ thỉ, chân thành, Thạch Lam đã dựng

lại cuộc đời Bào thật đáng thương: anh là người hiền lành, đẹp trai, tế nhị,

52

không chơi bời, hư hỏng, chưa nhiễm thói hư tật xấu nào, chịu khó, chịu khổ đi tìm việc làm nhưng mọi ngả đường đều bị chắn lối; ở thành phố không thể

tìm được một chốn yên thân nếu chưa có một mảnh bằng tử tế (trong tiểu

thuyết Ngày mới: Trường cũng vậy, và cũng khó tồn tại với cung cách chân

chỉ, thật thà như Bào), trở về quê nhà, với sức vóc của Bào nếu không ốm đau

thì cũng khó thích ứng. Trường hợp Tân trong Những ngày mới vui vẻ, ham

sống, thất nghiệp ở thành phố thì về quê làm ruộng bởi Tân không phải khổ vì

cơm áo. Hoàn cảnh sống của Tân khác hẳn. Còn Bào học hành dang dở, bệnh

tật triền miên, ăn bám gia đình; là người hiểu biết, có tự trọng anh không thể

tìm được cách nào khác để vượt hoàn cảnh đành tuyệt vọng, tự tử. Có thể nói

Thạch Lam không tuân theo các nguyên tắc nghiêm ngặt của chủ nghĩa hiện

thực, nhưng bằng tài năng nghệ thuật, với bút pháp hiện thực, Thạch Lam đã

khắc hoạ nhân vật Bào như một điển hình về đời sống và số phận của lớp

thanh niên tiểu tư sản nghèo thất thế, bế tắc, không tìm được việc làm và ít có

khả năng thích ứng hoàn cảnh. Cùng đề tài và chủ đề, truyện Đói lại đề cập

khía cạnh khác: Vấn đề nhân cách trước thử thách khốc liệt của hoàn cảnh.

Sinh đã từng là một người thành đạt, học hành tử tế, có tiền và sống phong lưu

với cô vợ tên Mai tuy đã ở xóm cô đầu nhưng họ yêu nhau và có với nhau

những ngày hạnh phúc. Bị thất nghiệp, vợ chồng Sinh nhanh chóng rơi vào

tình thế tuyệt vọng: vay không ai cho, cái đói hành hạ khốn khổ "chàng thấy

đói, một sự đói vô cùng như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào

ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên, trông vật gì cũng lờ mờ như lay

động. Nhưng khi phát hiện ra vì sao Mai có tiền, lòng tự ái kích động, tình

cảm bị tổn thương, Sinh đã vùng lên phản ứng quyết liệt mặc dù cố kìm nén,

Sinh vẫn không thể giữ được bình tĩnh. Nhưng lúc mọi sự lắng xuống, cái đói

trỗi dậy "như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, át đi cả nỗi buồn", cái cảm giác đói

"như nước triều tràn trên bãi cát" và hương vị hấp dẫn của các thứ thức ăn kia lôi cuốn thì Sinh không thể kiềm chế nổi. Phần bản năng và nhu cầu tồn tại

trong con người Sinh đã thắng. Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt.

Chàng nắm chặt miếng thịt trong tay, nhây nhớt mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn

luôn đưa vào miệng. Nghèo, đói, nhu cầu ăn để thoả mãn cái đói tự nó không

có gì xấu. Vấn đề là thái độ biểu hiện và ứng xử trước đòi hỏi đó. Ở đây Sinh

đã để bản năng thắng lý trí, "đặt sự tồn tại lên trên nhân cách", "Vì miếng ăn -

53

một nhu cầu vật chất bình thường của con người mà Sinh đã đánh mất lòng tự trọng và nhân phẩm". Sinh rơi vào một trạng thái "chán nản mênh mông" biểu

hiện của một bế tắc không lối thoát. Sinh không tìm đến cái chết như Bào

nhưng tình cảnh bi đát, khốn quẫn và thảm hại hơn nhiều.

Truyện Cái chân què lại là một đối chứng với hai truyện trên. Nếu như

Bào và Sinh khốn khổ vì không có việc làm, không tìm đâu ra tiền để thoát

khỏi bế tắc hiện tại thì Minh sau khi có tiền nhờ có "cái chân què" của mình

cũng không sung sướng gì hơn. Minh là người tôn thờ sức mạnh đồng tiền:

"Nếu anh có tiền anh làm gì cũng được". Nhưng khi có tiền vạn, Minh lại lao

vào những cuộc chơi bời để trả thù đời, "những cuộc chơi bời của anh kịch liệt

như một sự phản động và chán nản như một vụ tự tử". Để rồi hai năm sau,

không còn một xu nhỏ, nghèo vẫn hoàn nghèo, nhưng tâm hồn Minh rớm

máu, luôn mang tâm trạng của một kẻ chán đời, đấy là cái chán nản sau những

cuộc chơi bời, cái chua chát khi nhận thấy sự thay đổi của lòng người đối với

kẻ có tiền và không có tiền.

Thạch Lam đã nhìn hiện thực đời sống của người tiểu tư sản trong thế đa

chiều, từ đó phát hiện ra những điểm mâu thuẫn, đáng thương, nhìn sâu sắc về

bi kịch tinh thần của họ. Đó là những con người chịu sự bó buộc của hoàn

cảnh nhưng không tìm được cách nào để thoát khỏi những khổ ải đày đọa ấy.

Nhà văn soi chiếu vào ngóc ngách những tâm tư, những mảng tối khuất lấp

trong cuộc sống của họ để mà lên tiếng chia sẻ, cảm thông. Tất cả những điều

đó được thể hiện bằng một bút pháp hiện thực trữ tình mang tính nhân bản,

tạo nên nét độc đáo trong phong cách truyện ngắn Thạch Lam.

2.3.2. Nhân vật người dân nghèo

Hoàn cảnh xã hội bao giờ cũng có vai trò hết sức to lớn ảnh hưởng đến

sáng tác của các nhà văn. Những năm 1936 - 1939 là thời kỳ cao trào đấu

tranh của Mặt trận dân chủ diễn ra sôi nổi. Quần chúng lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng đứng lên đòi quyền tự do dân chủ. Người lao động đã bước lên

vũ đài chính trị công khai. Vai trò, vị trí của người lao động trở nên quan

trọng trong xã hội. Vì thế, vấn đề người lao động, người bình dân được các

nhà văn đề cập rất nhiều trong tác phẩm văn học. Chân dung "người lao động"

và "người nhà quê" xuất hiện nhiều trên báo chí và các sáng tác lúc bấy giờ.

Thời kỳ Mặt trận dân chủ được đánh dấu bằng sự xuất hiện những tác

54

phẩm hiện thực xã hội chủ nghĩa đầu tiên của dòng thơ ca cách mạng. Nhờ sự cổ vũ của văn học cách mạng, đặc biệt là nhờ những tác động của phong trào

quần chúng rộng lớn, văn học hiện thực phê phán đã phát triển khá rực rỡ

trong thời kỳ này. Hàng loạt các cuốn tiểu thuyết ra đời, và lần đầu tiên, văn

học hiện thực phê phán đã xây dựng được tính cách điển hình trong hoàn cảnh

điển hình như chị Dậu - Tắt đèn của Ngô Tất Tố, Nghị Hách - Giông tố của

Vũ Trọng Phụng, Xuân Tóc Đỏ - Số đỏ của Vũ Trọng Phụng, anh Pha - Bước

đường cùng của Nguyễn Công Hoan. Văn học lãng mạn cũng trực tiếp hay

gián tiếp chịu sự tác động của phong trào Mặt trận dân chủ và có những phân

hoá theo hướng tiến bộ. Báo Ngày nay mở mục "Bùn lầy nước đọng" đăng

một số phóng sự điều tra về nông thôn. Năm 1937, Tự lực văn đoàn phát giải

thưởng văn học cho những tác phẩm hiện thực như Bỉ vỏ của Nguyên Hồng,

Kim tiền của Vi Huyền Đắc. Sau đó đã cho đăng tải trên báo Ngày nay những

truyện ngắn và tiểu thuyết viết về người nông dân: Con trâu, Sau luỹ tre,

Những ngày thơ ấu... Các cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn chuyển từ bút

pháp lãng mạn sang hiện thực, gần gũi với người dân lao động hơn.

Trên tờ báo Ngày nay, ở mục "Bùn lầy nước đọng", Hoàng Đạo đã vạch

trần những thối nát và quan điểm của tổ chức phong kiến thực dân khi đó đã

đầy ải người dân quê Việt Nam vào kiếp sống tối tăm, cơ cực. Ông đưa ra

quan niệm về một cuộc cải cách toàn diện hành chính, chính trị, kinh tế, văn

hoá giáo dục đối với dân quê. Là cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn nên

Khái Hưng cũng chịu nhiều ảnh hưởng của phong trào Mặt trận dân chủ. Ông

có một mảng sáng tác về những người dân nghèo khổ với tấm lòng cảm thông

sâu sắc như: Anh phải sống, Xanh cà bung, Người vợ mù, Biển, Lòng tốt...

Hình ảnh người dân nghèo "kiếp người cơm vãi cơm rơi" quanh năm đầu tắt

mặt tối "bán mặt cho đất, bán lưng cho trời" hiện lên khá chân thực trong tác

phẩm Anh phải sống. Chị Lạc và anh Thức đã có ba mặt con với nhau. Hai người sống trong một "gian nhà lụp xụp, ẩm thấp, tối tăm". Khái Hưng không

tả nhiều về cảnh nhà, nhưng chỉ bằng vài hình ảnh, người đọc đã thấu hiểu cái

nghèo cùng kiệt của vợ chồng anh Thức. Thêm vào đó là cảnh những đứa con

đói khóc. Cái Nhớn, cái Bé ăn không được no, mặc không được ấm. Thằng Bò

khát sữa, gào khóc gọi mẹ. Mẹ về nhưng "chả có gì ăn, hết cả sữa", nó lại

càng khóc to hơn. Mệt quá nó ngủ thiếp đi. Bố mẹ không có ăn còn nhịn đói

55

được, những đứa con thơ phải nhịn thật là bất hạnh. Cuộc sống của gia đình chị Thức toàn khó khăn vất vả "không có một sự gì êm đềm đáng ghi chép về

cái đời trống rỗng của hai người khốn nạn". Họ "loay hoay, chằn vặt suốt ngày

này sang ngày khác vẫn không đủ nuôi thân, nuôi con". Cái nghèo, cái đói

khiến họ phải liều thân, phó mặc mạng sống của mình theo dòng nước. Trong

lúc giông to, gió lớn, nước chảy dữ, trời đất điên cuồng nhưng hai vợ chồng

vẫn phải cố gắng lao ra giữa dòng để vớt củi. Con thuyền nhỏ cũng như số

phận của họ "như chiếc lá tre khô nổi trong vũng máu, như con muỗi mắt chết

đuối trong nghiên son". Cuối cùng, chị Lạc đã phải buông tay rơi xuống đáy

sông sâu. Chị Lạc chết, cái chết dường như là sự đầu hàng với số phận, với cái

nghèo. Bóng tối đè nặng lên ba đứa con thơ và người cha phải sống cảnh "gà

trống nuôi con". Đoạn kết của câu chuyện làm day dứt và gây ám ảnh dữ dội

cho người đọc. Sức phê phán của Khái Hưng nhẹ nhàng nhưng thấm thía, có

giá trị sâu sắc. Ông đã vượt khỏi thiên kiến giai cấp của mình để đồng cảm,

hiểu được sự đau khổ, túng quẫn của những người dân nghèo.

Cùng với việc miêu tả những cảnh ngộ đau khổ, nghèo đói của người lao

động ở sông nước, Khái Hưng đã hướng cái nhìn đồng cảm đến với cuộc sống lam

lũ của người dân nghèo sống bằng sự làm thuê qua ngày nhờ vào sức lao động.

Trong xã hội cũ có nhiều nghề lao động vất vả, nhưng có lẽ nghề cu ly xe là cực

nhất. Những người kéo xe tay không khác gì những con ngựa kéo xe, phải sống

kiếp "người - ngựa". Cuộc đời cực nhục của họ đã được phản ánh trong tác phẩm

Người ngựa - ngựa người của Nguyễn Công Hoan, Anh cu ly xe của Nguyễn Tam

Kính, Tôi lái xe của Tam Lang. Với truyện ngắn Xanh cà bung, Khái Hưng không

miêu tả chính về cuộc đời người kéo xe, nhưng chỉ bằng vài chi tiết cũng đủ để

người đọc hiểu được sự cực nhục, vất vả của nghề kéo xe. Hai người kéo xe cùng

chạy lại đón khách. Văn lại ngồi lên xe của người đến sau - mặc cho người đến

trước đã phải chạy thục mạng để mong đến kịp chở được chuyến khách. Nếu người đến trước nói một câu gì phản kháng sẽ bị "Văn thét ầm lên hay xông vào

hành hung". Sự bất công vô lý của những người có tiền thật là nhẫn tâm. Lúc

khách vui vẻ không sao. Lúc giận dữ thì họ sẽ trút hết vào đầu người kéo xe.

Người đến trước không được Văn thuê cũng chỉ dám "yên lặng đứng nhìn theo,

hai con mắt âm thầm oán trách... vì anh ta lo sợ nhớ ngay đến những trận đòn bất

ngờ của những ông khách bất nhã". Nghề kéo xe chịu đủ mọi nhục nhã do khách

56

đem lại, nào mắng chửi, quát tháo, nói những lời xúc phạm đến nhân cách của mình, nhưng những người phu xe vẫn phải nhẫn nhục chịu đựng.

Qua tác phẩm, Khái Hưng không chỉ dừng lại ở một cuộc đời người kéo

xe nghèo khổ mà còn đề cập đến số phận của bao người nghèo khổ khác trong

xã hội. Đó là những người gầy gò, rách rưới, sống trong "căn nhà lá tồi tàn

màu nâu xám". Cảnh vật xung quanh họ toàn là những mùi hôi thối và những

vật dơ dáy, chung quanh toàn những túp nhà lụp xụp, tối tăm. Khái Hưng

miêu tả bữa ăn của người thợ thật đơn sơ đạm bạc. Bữa ăn chỉ có món cà nấu,

lại được bầy trên lá cót đặt trên bốn hòn gạch nhỏ. Mọi người hớn hở "quây

quần lấy xanh cà, xới cơm và ngốn ngấu, cầm thìa múc nước canh húp xì

xụp". Sự nghèo khó ấy luôn bủa vây cuộc sống của những người thợ thuyền,

nhưng nếu có công việc mới có cà ăn, còn không thì nhịn đói luôn. Từ bữa

cơm đến chỗ ở của họ đều là tạm bợ, qua ngày. Đó là những người rách rưới

xanh xao, phải sống chui rúc trong những túp lều tạm bợ để che mưa nắng.

Cái nghèo khó của họ đã làm Văn - một anh nhà giàu - thức tỉnh, cảm thấy

quý trọng bữa ăn, và yêu thương người nghèo đói. Từ đó, trên bàn của Văn

thường có món cà bung. Và mỗi lần nhai miếng cà nóng, chàng lại nhớ đến

những người nghèo khổ. Sự thức tỉnh của Văn phải chăng chính là tình cảm

của Khái Hưng dành cho những người nghèo? Trong Lòng tốt, nhà văn không

tả kỹ, chi tiết, nhưng chỉ vài nét phác hoạ, người đọc cũng hiểu được sự khốn

quẫn của người dân lao động nghèo khổ. Người chồng "gương mặt hốc hác,

nước da xanh tái, cặp mắt sâu hoắm". Gia sản của họ là "cái giường tre với cái

màn nâu cũ vá đầy những miếng vải tây loang lổ, cái bàn khập khiễng xiêu

vẹo, và hai cái trường kỷ tre, lát nan đã bị mọt đục mất từng quãng. Mùi hôi

hám ở cái màn, mùi ẩm mốc ở nền đất ướt, mùi khói ở dưới bếp xông lên".

Gia cảnh đã đói, nghèo khó lại thêm con nhỏ ốm đau, "mất mẻ trộm hơn một

trăm bạc" đã đẩy họ vào việc phải bán ruộng lấy tiền trả nợ. Đứng trước cảnh phải gán ruộng cho ông Lý Phan, hai vợ chồng người mắc nợ hết sức kêu van

lạy lục nhưng không lay chuyển được Nhân. Cực chẳng đã, họ phải dùng "mỹ

nhân kế" - cho con gái đứng nói chuyện đầu mày cuối mắt với Nhân để mong

Nhân mềm lòng cho khất nợ. Cái nghèo khổ đã khiến họ phải làm những việc

"đê hèn khốn nạn". Khái Hưng như thấu hiểu tình cảnh và tâm trạng của

những người mắc nợ - những trang văn của ông gây xúc động lớn trong lòng

người đọc.

57

Trong thế giới nhân vật của mình, Khái Hưng dành nhiều tâm sức hơn cả

cho việc khắc họa hình ảnh người phụ nữ. Điều đó xuất phát từ thái độ trân

trọng, từ ý thức bình đẳng nam nữ trong tư tưởng của ông. Bên cạnh những

người phụ nữ có tài có sắc, được học hành, có một cuộc sống ổn định, dư dả

trong xã hội, Khái Hưng còn quan tâm miêu tả những cuộc đời bất hạnh, vất

vả, lận đận của những người phụ nữ. Ngòi bút của ông dành cho họ một tình

cảm thật nhân hậu và cảm thông, sự trân trọng và thương cảm đặc biệt. Ông

đồng cảm và chia sẻ những đau khổ, bất hạnh mà người phụ nữ phải gánh

chịu. Ngòi bút của ông dành cho họ. Trong truyện ngắn Bến Hòn gai, Khái

Hưng đã miêu tả chị Đông là người con gái đẹp nhất làng. Chị yêu và tin

tưởng một mực vào anh giáo làng bên. Hai người muốn lấy nhau nhưng gia

đình chị Đông không đồng ý vì đã nhận lời ông lý Cựu. Hai gia đình đã sắp

xếp một cuộc hôn nhân giữa chị Đông và anh Bê. Chính những hủ tục nghiệt

ngã "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" đã đẩy chị Đông vào cảnh ngộ khổ cực.

Chị và anh giáo đi lại với nhau, có thai được năm, sáu tháng. Nhưng anh giáo

đổi lên tỉnh, không đi lại thăm nom gì chị nữa. Sự bội bạc của người yêu làm

chị Đông đau đớn. Chị đẻ rơi đứa con trai bên bờ ruộng, không dám đem về vì

sợ bị "cạo đầu bôi vôi", "thả bè trôi sông". Chị Đông đành phải lấy con trai

ông lý Cựu - hai người bỏ làng ra bến Hòn gai sinh sống. Từ một thiếu nữ

xinh đẹp, cuộc sống lam lũ đã biến chị thành một người đàn bà nhếch nhác

lắm điều, tục tằn, thô lỗ, luôn mồm "gào thét, kể lể, trách móc chồng". Ngôn

ngữ của chị toàn những "lời mỉa mai, độc địa, những câu phương ngôn, tục

ngữ chua cay". Hoàn cảnh sống khó khăn, khắc nghiệt nơi sông nước, cộng

với vết thương lòng không thể nào phôi pha đã biến đổi chị Đông hoàn toàn.

Kể lại câu chuyện cuộc đời chị Đông, Khái Hưng gián tiếp lên tiếng tố cáo xã

hội với những hủ tục bất công, vô nhân đạo đã đẩy con người vào hoàn cảnh khổ đau, vào cuộc đời túng quẫn, thiếu thốn.

Nếu sự cả tin của chị Đông phải trả giá bằng một cuộc sống không hạnh

phúc với chồng "ngày nào cũng cãi nhau vài lần", thì sự ngây thơ của Tẹo

trong truyện ngắn Dưới ánh trăng còn phải trả giá bằng chính cuộc đời mình.

Tẹo là cô gái quê ngây thơ xinh xắn. Văn - một chàng trai con nhà giàu ở

thành phố - đã quyến rũ Tẹo trong lần về quê nghỉ hè. Văn tìm mọi cách để

58

tán tỉnh Tẹo. Tẹo chưa va vấp với cuộc sống nên tin tưởng vào những lời tán tỉnh của Văn. Cái háo hức của thời khắc bồng bột yêu đương qua nhanh. Sự

hứng thú phấn khởi khi về quê không còn nữa. Sau khi rủ Tẹo ngủ qua đêm

được với mình, Văn đột nhiên chán Tẹo. Chàng thấy Tẹo không còn xinh xắn,

duyên dáng nữa, mà "giống hệt các cô gái quê khác, thô lỗ, đần độn, ngu

ngốc". Tình yêu cảm tính đi qua nhanh như gió thoảng. Văn bỏ về Hà Nội, để

lại Tẹo bơ vơ nơi quê nhà với cái thai trong bụng. Tẹo bị cha mắng nhiếc,

ngày nào ông cũng uống rượu say rồi lôi Tẹo ra đánh. Mẹ Tẹo ruồng rẫy, chửi

cô. Tẹo đã toan đâm đầu xuống ao chết đi, nhưng tình mẫu tử thiêng liêng

khiến cô không dám. Tẹo "thương đứa bé trong bụng chẳng làm gì nên tội".

Tẹo thương con nhưng cha mẹ cô không chấp nhận cô, hủ tục lâu đời ở làng

Tẹo không để cô yên. Bị đòn đau hàng ngày, không thấy Văn hồi âm, sợ làng

bắt vạ cha mẹ... Tất cả những cái án đó treo lơ lửng trên đầu Tẹo. Cô đã phải

tìm đến cái chết để giải thoát cho mình, để trả giá cho sự ngây thơ, nhẹ dạ của

bản thân mình. Nếu ở truyện ngắn Bến Hòn gai, Khái Hưng mới gián tiếp tố

cáo xã hội, gián tiếp tố cáo những tên mang họ Sở thì ở truyện ngắn này, ông

đã trực tiếp lên án bộ mặt nguỵ quân tử của Văn. Ông đã để Văn tự thốt ra

những lời "thú tội" về bản thân mình: "Người ta đương sống cái đời giản dị,

bình thường của người ta, tự nhiên mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn

nguyện lại bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn là gì?". Qua lời tự

thú của Văn, giá trị tố cáo của tác phẩm đã đạt đến mức độ sâu sắc. Khái

Hưng không chỉ thương cảm chung cho những người phụ nữ bất hạnh, thiệt

thòi mà ông lớn tiếng đòi quyền sống cho họ, đòi những kẻ đã gây tai hoạ cho

họ phải trả giá.

Sống trong hoàn cảnh xã hội đổi thay, cái nghèo khó bủa vây bao bọc làm

cho người phụ nữ thiệt thòi hơn ai hết. Nếu không phải chết thì họ cũng sống

một cuộc sống không ra gì. Hiên trong truyện ngắn Biến đổi vốn là một cô gái xinh đẹp ngây thơ. Nàng xuất thân trong một gia đình gia giáo "cha nàng đã hai

khoa vào đệ tam". Thế nhưng do cảnh nhà nghèo túng, cha bệnh nặng nằm đó,

trong nhà không có lấy một đồng. Hiên bắt buộc phải đánh đổi bản thân mình.

Đầu tiên chỉ là sự cầm tay, câu nói đùa xã giao lơi lả. Sau đó dần dần là những

đêm khuya sang nhà chị Nguyệt hát cô đầu, tiêm thuốc phiện cho khách. Ở đời

nếu không giữ được bản thân mình một lần thì chính mình sẽ trượt dài trên cái

59

vòng xoáy của nó. Chính Hiên đã ý thức được một điều "con gái đêm hôm mò mẫm đến một nơi như nhà chị Nguyệt là rất không phải". Ý thức được điều đó,

nhưng Hiên vẫn phải làm vì "cha nàng ốm nằm kia, tiền đâu lấy thuốc". Lòng

hiếu thuận với cha đã bắt Hiên phải bán dần bản thân mình. Cha Hiên biết con

gái làm những việc không trong sạch đó "ông ta tức uất lên, luôn mồm chửi

mắng con gái, sau vài giờ rồi tắt nghỉ". Chỗ bấu víu duy nhất của Hiên trên con

đường lương thiện đã hết, cái mốc ngăn nàng đừng sa xuống vực sâu đã không

còn... Năm tháng qua đi, Hiên trở thành cô gái giang hồ với "quãng đời phóng

đãng... in dấu trên bộ mặt dạn dầy mưa gió".

Nếu Vũ Trọng Phụng có cái nhìn cay nghiệt, ác cảm với những người phụ

nữ thay đổi theo hoàn cảnh trong hàng loạt các bài phóng sự, tiểu thuyết: Kỹ

nghệ lấy Tây, Làm đĩ, Dứt tình... thì Khái Hưng tỏ ra thương cảm xót xa cho

những người phụ nữ tài sắc, lận đận như Hiên, cô Mơ... Ông vẫn tin một niềm

tin thánh thiện vào giá trị nhân phẩm của con người. Ông muốn thông cảm với

họ, chia sẻ những khó khăn mà họ gặp phải trong cuộc đời. Giá trị nhân đạo sâu

sắc mà Khái Hưng kế thừa từ truyền thống dân tộc chính là ở chỗ đó. Bên cạnh

đó, Khái Hưng chua xót chỉ ra những nạn nhân của xã hội. Nếu đọc thoáng qua,

chúng ta rất dễ lầm tưởng là Khái Hưng phê phán họ, nhưng thực ra, ông bênh

vực và cảm thông tận đáy tâm can với những người như mẹ cô Ve (Cái Ve),

Trinh (Linh hồn), bà Trương Mẫn (Dưới ánh trăng)... Mẹ Tẹo trong Dưới ánh

trăng quá sợ làng phạt vạ nên đã nhắm mắt trước nỗi đau của con gái. Bà không

thể chia sẻ, thông cảm với Tẹo, vì như thế, bà sẽ phải chịu sự xỉ nhục của làng

xóm, họ hàng. Những hủ tục muôn đời đã đè nặng, ăn sâu vào suy nghĩ của bà,

khiến bà trở thành người cay nghiệt. Trinh trong Linh hồn là kết quả của mười

năm hoan lạc giang hồ. Cuộc đời đã đưa đẩy cô đến bước đường cùng không

còn lối thoát. Rồi mẹ cô Ve cũng là do quá nghèo đói mà sinh ra tính toán bần

tiện, bủn xỉn, không còn quan tâm đến con gái. Khái Hưng hiểu những khó khăn đè nặng lên từng người, ông thông cảm với họ một cách thành thực và

chia sẻ những vất vả đó bằng ngòi bút trĩu nặng tình đời, tình người. Những

người đàn bà nghèo khó trong truyện ngắn Khái Hưng có nét gì đó giống với

những người đàn bà nghèo khó trong truyện ngắn Nam Cao. Đó là những người

cục cằn, cau có, mở mồm ra là tính toán tiền nong. Nhưng đó là vì họ nghĩ cho

chồng, cho con. Họ dè xẻn từng xu để chồng con có tiền chi tiêu. Đánh con

60

xong, họ dằn vặt đay nghiến chính mình. Khái Hưng đã đào sâu và tìm ra giá trị đích thực của con người trong mỗi con người thường ngày.

Nhất Linh cũng viết về cuộc sống gian khổ, bất hạnh của người phụ nữ.

Nhưng ông nhìn vấn đề này ở một khía cạnh khác. Duyên trong truyện ngắn

Nước chảy đôi giòng là một cô gái rất xinh đẹp "hai con mắt trong và sáng,

trông thanh tao có vẻ con nhà khuê các". Lúc ở với bố mẹ, cô phải chịu đựng

cuộc sống vất vả một nắng hai sương. Khi đi lấy chồng, cô cũng chẳng sung

sướng gì hơn. Người chồng xấu xí thô kệch, không có tình cảm. Cuộc sống

sông nước vất vả. Nhưng khác với Khái Hưng, Nhất Linh để cho nhân vật của

mình không ý thức được mình khổ, cũng như cô không ý thức được mình xinh

đẹp. Cô sống đơn giản, chấp nhận cuộc sống đang diễn ra và không quan tâm

đến xã hội ngoài kia đang thay đổi như thế nào. Không ý thức được mình khổ

nên Duyên không hề thấy khổ. Đây chính là điểm khác biệt giữa cách tư duy

của Khái Hưng và Nhất Linh. Nếu Khái Hưng đào sâu nỗi khổ của người phụ

nữ để cảm thương, bênh vực cho họ thì Nhất Linh chỉ đề cập thoáng qua. Vì

thế các nhân vật nữ của Nhất Linh ít để lại ấn tượng trong lòng người đọc như

trong sáng tác của Khái Hưng.

Khái Hưng cũng rất quan tâm đến những đứa trẻ nghèo. Cuộc sống của

những đứa trẻ nghèo thiếu thốn cả về vật chất lẫn tinh thần. Em Tuất trong

truyện ngắn Biển mồ côi mẹ từ bé, cha Tuất đi lấy vợ hai. Tuất chỉ được hưởng

sự quan tâm chăm sóc từ người cậu - em của mẹ đẻ mình - Từ ngày cậu mất,

Tuất không còn ai bênh vực, che chở. Em trở nên bơ vơ trong chính căn nhà của

mình. Em đi ở cho nhà bà An Lợi, hầu hạ bà ta để sống qua ngày. Em không

được hưởng sự quan tâm của cha mẹ, cứ tự lớn lên như cây cỏ không người

chăm sóc. Hình ảnh của Tuất khiến người đọc nhớ tới truyện ngắn Nhà mẹ Lê

của Thạch Lam cũng miêu tả cuộc sống đói khổ của mười một đứa con mẹ Lê.

Chúng sống triền miên trong cảnh đói rét thương tâm. Cái đói, cái rét cùng kéo đến một lúc hành hạ chúng. "Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, thằng Phún, thằng Hy

mà con chị nó bế, chúng khóc lả vì không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt

chúng nó cứ thâm tím lại vì rét như thịt con trâu chết". Mỗi cơn gió lạnh thổi đến

làm môi chúng tím lại, da thịt thâm đi, hàm răng đập vào nhau.

Nhà văn Nhất Linh được coi là người bạn chí thân với Khái Hưng - song

có lẽ quan điểm, tư tưởng của họ không hoàn toàn giống nhau. Nhất Linh

61

cũng viết về những người nghèo khổ, nhưng lại đứng trên quan điểm cải lương tư sản. Sự thương xót của ông là sự thương xót của một người ở giai

cấp khác... Nhất Linh đã đem con mắt của những người có học, có óc mới để

quan sát, để rồi kết luận "những cảnh tối tăm ấy là những cảnh mà những kẻ

khốn nạn kia đã tự dấn thân vào vì vô học, vì óc hủ lậu". Trong truyện ngắn

Đầu đường xó chợ, Nhất Linh đứng trên lập trường, ý thức tư sản để nhận xét

cuộc sống của những người dân nghèo: "Cái xã hội xó chợ ấy khác hẳn với cái

xã hội quý phái của tôi ngày trước: này gia đình bác Tèo bán bánh đúc, vợ

chồng bác xã Tắc kéo xe, mẹ con nhà hai Lộc bán nồi đất”. Tác giả miêu tả

cuộc sống của từng gia đình nho nhỏ lúc nhúc trong những căn nhà xiêu vẹo,

tối tăm, bẩn thỉu. Trước một cái rãnh nước dài, đầy những vỏ dưa, lá chuối,

giẻ rách... Ở Nhất Linh, lòng thương người tuy có chân thành, nhưng lại đứng

trên quan niệm của người trí thức tư sản.

Nếu trong tiểu thuyết Gia đình, viết năm 1936, Khái Hưng vẫn còn bộc

lộ những hạn chế này. Ông đã đối lập cuộc sống thanh thản, đủ đầy hạnh phúc

của vợ chồng Hạc, Bảo "làm ruộng" với cuộc sống nhỏ nhen, kình địch về địa

vị xã hội của những anh chị em trong một gia đình phong kiến. Hạc đang học

đốc tờ bỏ về ấp cùng Bảo thực hiện những công việc cải cách ở ấp mình để

nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho dân quê. Họ tuy vẫn thu tô nhưng

sau khi đã nạp đủ thuế còn lại bao nhiêu đem dốc cả vào công việc cải thiện

đời sống cho tá điền như phát thuốc, đắp đường, xây trường học, sân vận động

và dựng cả một khu nhà nghỉ mát. Hạc và Bảo đã thành công dễ dàng, sống

thoả mãn, thanh thản trong công cuộc từ thiện ấy. “Hạnh phúc của họ tức là

hạnh phúc của ta... còn gì sung sướng hơn bằng trông thấy ở trước mắt những

người dân quê mặt mũi sạch sẽ, nô đùa chuyện trò thảnh thơi...”. Ở truyện

ngắn, những hạn chế trong tư tưởng của Khái Hưng đã được khắc phục cơ

bản. Mặc dù ông chưa thoát khỏi ý thức của người trí thức tư sản, nhưng cách nhìn nhận về người dân nghèo đã có nhiều tiến bộ. Khái Hưng cảm thông với

người nghèo xuất phát từ trái tim nhân đạo của ông. Ông miêu tả, phản ánh

cuộc sống nghèo khổ của những người dân để gián tiếp tố cáo xã hội và bênh

vực họ.

Khác với tất cả các thành viên trong Tự lực văn đoàn, Thạch Lam là

người dành nhiều tình cảm ưu ái nhất cho những người lao động nghèo khổ.

62

Họ là những gia đình ở cái phố chợ Đoàn Thôn "tồi tàn gần ngay một huyện lỵ nhỏ ở trung châu" này "làm những nghề lặt vặt: người thì kéo xe, người thì

đánh dậm hay làm thuê, ở mướn cho những nhà giàu có trong làng. Người ta

gọi mỗi gia đình bằng tên người mẹ: nhà mẹ Hiền, nhà mẹ Đối, nhà mẹ Lê.

Những gia đình này đều giống nhau ở chỗ cùng nghèo nàn như nhau. Với

người lao động nghèo cuộc sống luôn bấp bênh, ngày buồn nhiều hơn ngày

vui, nhất là những năm đói kém mất mùa, "cái đói kém đều chen lấn trong phố

chợ". Những người làm thuê không có việc làm. Mẹ Lê thậm chí làm công

không cũng chỉ được nửa bát gạo cho hơn mười miệng ăn, các con mẹ cũng

không thể kiếm được thứ gì vì ao hồ người ta đã cấm không cho thả lờ nữa.

Một bầu không khí ảm đạm bởi cái đói, cái rét trùm lên cả xóm nghèo. Mấy

gia đình ở phố chợ đều đói rét, khổ sở. Nhưng mỗi nhà đều lặng lẽ, âm thầm

mà chịu khổ, không than thở với láng giềng hàng xóm, bởi vì ai nấy đều biết

cũng nghèo khốn như nhau. Điều đáng nói là, Thạch Lam không miêu tả cảnh

sống Nhà mẹ Lê như một hiện tượng cá biệt mà luôn đặt vào khung cảnh

chung của những người lao động nghèo. Cái kết cục bi thảm đã diễn ra sau

nhiều ngày đói rét, không thể ngồi nhìn đàn con nhịn đói, mẹ Lê đành liều đi

xin gạo dù biết nguy hiểm và đã bị nhà giàu xua chó cắn; mẹ Lê lên cơn sốt

nặng, hai hôm sau mẹ Lê chết. Những người nghèo đã góp tiền, lo chôn cất tử

tế dù họ không hơn gì hoàn cảnh nhà mẹ Lê. Cái chết của mẹ Lê đặt ra một

câu hỏi lớn: liệu số phận mười một đứa con nhỏ dại sẽ sống như thế nào nếu

không còn người mẹ tần tảo che chở trong thời buổi đói kém? Khi những

người giàu thì keo kiệt, độc ác, người lao động nghèo khổ sẵn lòng yêu

thương lại cũng chẳng hơn gì tình cảnh nhà mẹ Lê? Liệu kết cục đau xót này

có còn tiếp tục xảy đến với gia đình khác trong cái phố chợ Đoàn Thôn nghèo

đói và bao Đoàn Thôn khác chưa nói đến?... Đó là chị Sen trong truyện Đứa

con cũng vì gia đình quá nghèo nên phải gán nợ không công cho nhà bà Cả. Chị phải làm lụng suốt ngày "đầu tắt mặt tối" mà vẫn bị mắng chửi. Hay nhân

vật Bào trong Người bạn trẻ vì hoàn cảnh nhà nghèo, các em còn bé, bản thân

là chỗ dựa, là niềm hy vọng độc nhất của gia đình "lên Hà Nội làm việc nhưng

rồi bị đuổi, thầy đã chửi mắng anh và bắt anh ra Hà Nội tìm việc làm", nếu

không được thì đừng về trông thấy mặt cha nữa. Có phải vì quá khó khăn

nghèo túng mà người cha đã ép Bào đứng trên ranh giới: Nếu được thì được

63

cả hai (việc làm, tình phụ tử) nếu mất thì mất tất cả. Nhưng sự may mắn đã không đến với Bào. Suốt mấy tháng ở thành phố không tìm được việc làm,

Bào sống vất vưởng, khổ sở mà cũng chẳng dám về nhà. Cuối cùng anh phải

tìm đến cái chết để tự giải thoát. Đọc truyện Hai đứa trẻ của Thạch Lam,

người đọc cứ bị ám ảnh mãi bởi cảm giác về một cuộc sống tàn lụi nơi phố

huyện. Đó không chỉ là chiều tàn, phiên chợ tàn, cảnh vật, đồ vật tàn, mà quan

trọng hơn là những kiếp người tàn. Đó là "mấy đứa trẻ nhặt nhạnh thanh mía,

thanh tre hay bất cứ cái gì có thể dùng được của những người bán hàng để

lại"; là mẹ con chị Tý ngày ngày mò cua bắt tép, tối tối bán hàng nước, chẳng

kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào cũng dọn hàng; là vợ chồng bác Xẩm

góp chuyện bằng mấy tiếng đàn bầu bần bật trong yên lặng; là bác phở Siêu

chắc chắn sẽ "phá sản" vì ở phố huyện này món phở của bác là một thứ hàng

xa xỉ; là chị em Liên đêm đêm vẫn mơ về một vùng sáng xa xăm. Đặc biệt

hình ảnh bà cụ Thi - một nạn nhân điển hình nhất của cuộc sống mòn mỏi,

nghèo nàn. Người còn đó nhưng kiếp người đã bỏ đi, Cụ Thi không còn là

người nữa mà là bóng ma, là hình nhân của cuộc đời. Từng ấy con người, từng

ấy cuộc đời đang cầm cự trong vô vọng. Hai đứa trẻ tiêu biểu cho bút pháp

Thạch Lam. Truyện không có cốt truyện, tất cả các chi tiết đều nhẹ nhàng, sâu

lắng, mơ hồ và thi vị. Nó mang nét riêng của không khí ngày xưa, một phố

huyện nghèo, nhỏ bé và đầy bóng tối. Tình tiết truyện đã quen, cách kể đã

quen, vẫn cái bình dị, cái tinh tế, nhẹ nhàng ấy nhưng sức lay động lòng người

rất lớn.

Với Thạch Lam, hiện thực đời sống được phản ánh trong truyện không

có cái ác quá đáng. Con người với con người nhìn chung thân thiện yêu

thương. Suốt cả ba tập truyện Gió đầu mùa, Nắng trong vườn, Sợi tóc không

có truyện nào có âm thanh kinh sợ của gậy gộc, quát thét, rượt đuổi "huỳnh

huỵch. Tán loạn" hoặc "Chửi. Kêu. Đấm. Đá. Thụi. Bịch. Cẳng tay. Cẳng chân như mưa vào đầu. Như mưa vào lưng"... (Bữa no... đòn) như của Nguyễn

Công Hoan. Như vậy không có nghĩa là hiện thực trong truyện Thạch Lam là

không khắc nghiệt, không đau xót tận độ. Nhà văn đã viết về nhiều cái chết

hoặc mở ra những cái chết. Nguyên nhân trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc sâu xa

là do không có cái ăn: Mẹ Lê và đàn con của mẹ, nhìn rộng ra là cả cái xóm

ngụ cư nơi phố huyện nghèo nàn - những người hàng xóm của mẹ Lê (Nhà mẹ

64

Lê); là Bào - cậu học sinh thất nghiệp cùng quẫn (Người bạn trẻ); là con anh phu xe bị phạt (Một cơn giận). Và cảm giác đói quay quắt của vợ chồng Sinh,

Mai (Đói) sau hành động ăn bản năng, giải quyết cái đói tạm thời trong chốc

lát, cuộc sống của Sinh rồi sẽ ra sao để thoát cái đói và chết đói?... Cũng

không phải không có những hành động tội ác. Việc cha con lão Bá không

những không cứu giúp lại còn thả chó Tây cắn là nguyên nhân trực tiếp dẫn

đến cái chết của mẹ Lê. Đó là một tội ác. Nhưng kiểu nhân vật này không

nhiều, và nhà văn dùng lối kể gián tiếp qua lời mẹ Lê nói với các con nên

dường như một việc thoáng qua rất nhẹ. Đó là một chi tiết rất gợi, rất sâu và

có giá trị tố cáo sâu sắc. Tất cả hợp thành bức tranh về đời sống cơm áo rất

sinh động, mang đậm đặc trưng bút pháp Thạch Lam vừa có giá trị phản ánh,

vừa tố cáo, vừa xây dựng như Thạch Lam giãi bày trong lời giới thiệu Gió đầu

mùa.

Thạch Lam có cách nhìn nghệ thuật riêng đối với con người, không như

các nhà văn "tả chân" nói chung và cũng khác mô hình con người mà văn học

lãng mạn xây dựng. Con người trong văn Thạch Lam, tập trung thể hiện ở

truyện ngắn là con người nhân bản, con người thân phận. Hiện thực được trình

bày trong truyện ngắn Thạch Lam cơ bản là hiện thực tâm lí. Ở đó, khái niệm

thân phận con người không trùng khít với quan niệm của chủ nghĩa hiện thực

nghiêm ngặt. Đó là những con người phải sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt

nhưng vẫn giữ được "phẩm - chất - người" trong sáng, tốt đẹp. "Đọc Thạch

Lam, không thấy cái vùng khuất tối vô thức. Nhân vật của ông là những người

luôn tỉnh thức giữa phần thiên lương và cái xấu xa, giữa bên này, bên kia sợi

tóc của thiện - ác". [20]. Các nhân vật chính trong truyện ngắn nghiêng về

hiện thực của Thạch Lam mang thân phận khổ đau kết cục bất hạnh như mẹ

Lê (Nhà mẹ Lê), Dung (Hai lần chết), Liên, Huệ (Tối ba mươi), Tâm (Cô

hàng xén), Anh phu xe (Một cơn giận), Bào (Anh bạn trẻ), Minh (Cái chân què), Liên (Một đời người)... đã chứng tỏ điều đó, tiêu biểu là các nhân vật nữ.

Cô Liên, công nhân làm việc nặng nhọc trong xưởng, với cực hình phải chịu

sau mỗi buổi làm việc là hành động "khám xét" của tên Tây đen canh cổng.

Nhưng sự hành hạ của mẹ chồng và chồng - mới "chính là một cái địa ngục"

mà chính Liên "cũng không hiểu tại sao chồng nàng và mẹ chồng nàng lại ác

nghiệt, ghét nàng như thế". Đến bữa ăn cũng không yên, Liên bị chửi bới,

65

đánh đập như đòn thù đến ngất lịm. Nàng muốn ra đi theo tiếng gọi của tình yêu nhưng không dứt nổi. Cuối cùng "Ngày nọ nối tiếp ngày kia, Liên lại vẫn

phải chịu cái đời khổ sở, đau đớn mọi ngày" (Một đời người). Dung cũng phải

chịu một đời cơ cực sau khi đi lấy chồng, làm dâu nhà người như Liên. Sau

nhiều đau đớn, cực nhục, Dung muốn dùng cái chết để kết thúc cuộc đời

nhưng rồi lại được cứu sống để phải chịu cảnh chết mòn, chết thật khi còn

sống "trông thấy dòng sông chảy xa xa, Dung ngậm ngùi nghĩ đến cái chết của

mình. Lần này về nhà chồng, nàng mới hẳn là chết đuối, chết không bấu víu

vào đâu được, chết không còn mong có ai cứu vớt nàng ra nữa" (Hai lần chết).

Hình ảnh vợ con người kéo xe tay tên là Dư trong Một cơn giận thật não

nùng. Chồng bị đánh, bị thúc nợ phải chạy trốn, con ốm không thuốc thang,

người mẹ ôm con trong tuyệt vọng, nhìn con chết mà không làm được gì vì

không có tiền mua thuốc. Người phụ nữ tên Mai trong truyện Đói thật đáng

thương. Bị dồn đến bước đường cùng, Mai phải lựa chọn hoặc là nhân phẩm

hoặc là chết đói cả hai vợ chồng, bất đắc dĩ Mai phải lừa dối Sinh, đổi thân

xác lấy ít tiền và thức ăn để kéo dài sự sống.

Nhưng đau xót, khổ nhục nhất là Liên, Huệ trong Tối ba mươi. Số phận

của các nhân vật nữ trong các truyện ngắn đã trình bày trên, dù khổ sở, vất vả,

thậm chí bị chết hoặc bị hành hạ đến mấy thì họ vẫn còn mục đích sống, sự hi

sinh của họ vẫn còn ý nghĩa. Mẹ Lê suốt đời tần tảo, liều chết đi xin gạo nhà

giàu dù biết rất nguy hiểm là vì đàn con đói rét. Cô Tâm hàng xén chạy hết

chợ quê, chợ huyện vẫn vui, dù "cuộc đời cô hàng xén từ tuổi trẻ đến tuổi già

toàn khó nhọc và lo sợ, ngày nọ dệt ngày kia như tấm vải thô" (Cô hàng xén),

thì cô vẫn sung sướng vì ngay từ thời con gái cô đã "thấy chung quanh toàn là

những người đàn bà chịu khó làm ăn vất vả để nuôi chồng, nuôi con. Không

bao giờ Tâm có nghĩ cho mình, cho cuộc đời riêng của cô" (Cô hàng xén). Bé

Liên, chị Tý ngày vất vả, đêm thức tận khuya, ngoài mục đích kiếm chút lời lãi chẳng được bao nhiêu vẫn còn một niềm vui được làm việc, được hưởng

cảm giác chờ đợi con tàu "rầm rộ đi tới" được ngắm "đoàn xe vượt qua các toa

đèn sáng trưng" và mơ tưởng về một "Hà Nội xa xăm, Hà Nội sáng rực vui vẻ

và huyên náo". Mỗi đêm, hình ảnh con tàu đi vào tiềm thức của mọi người,

của Liên, An, của bà con dân phố: "con tàu như đã đem một chút thế giới khác

đi qua. Một thế giới khác hẳn, đối với Liên, khác hẳn cái vầng sáng ngọn đèn

66

chị Tý và ánh lửa của bác Siêu" (Hai đứa trẻ). Dù ít ánh sáng nhiều bóng tối nhưng đó là "đêm của đất quê", của một miền yên tĩnh đáng nhớ, đáng yêu

(Hai đứa trẻ). Hoặc như cô Liên phí hoài cả một đời người "đi làm cầm cập

suốt ngày để nuôi gia đình chồng, về nhà bị chồng nó hành hạ", nhưng vẫn

còn một niềm an ủi bởi tình yêu với Tâm cho dù chút hi vọng về hạnh phúc đó

Liên biết rõ giống như "chỉ là những vật tốt đẹp mà nàng thấy bày trong tủ

kính các cửa hàng, những vật quý giá mà nàng tưởng không bao giờ về nàng

được" (Một đời người). Cuộc sống của Liên, Huệ trong cái không gian vắng

vẻ, cô đơn tột cùng của đêm ba mươi tết - thời điểm dễ dẫn con người đối diện

với chính mình một cách tự nhiên nhất - thì quá khứ "trong mát, tươi non" chỉ

"mang máng cảm giác" nghĩa là rất mơ hồ. Không có gì để nương tựa; tương

lai mờ tối làm lòng người thêm "u ám và nặng trĩu xuống" mà thôi.

Thạch Lam đã miêu tả hiện thực, từ những cảnh, những người, những ý

nghĩ, hành động, tất cả đều diễn ra một cách rất tự nhiên, nhẹ nhàng mà vô

cùng thấm thía. Đặc biệt những chi tiết thiên về cảm giác thường tạo nên hiệu

quả nhiều hơn cả. Mọi cảm giác dồn nén, thức dậy khả năng cảm nhận tinh tế

của con người. Hơn lúc nào hết, khoảnh khắc giao thừa làm sống lại tất cả

những gì mà ngày thường do cuộc sống cơm áo lôi kéo, những buồn vui cùng

đam mê tầm thường, những ô uế, bẩn thỉu, ý thức về thân phận bị lấn lướt bởi

nhịp sống ồn ã, xô bồ thì lúc này Liên, Huệ ý thức được tất cả: "Những giọt

nước mắt nóng chảy tràn mi mắt, nàng không giữ được; Liên cảm thấy một

nỗi tủi cực mênh mang tràn ngập cả người, một nỗi tiếc thương vô hạn; tất cả

thân thể nàng lướt hiện qua trước mắt và những ước mong tuổi trẻ, những thất

vọng, chán chường" (Tối ba mươi). Tiếng pháo xuân dường như muốn đẩy

"hai chị em nép vào nhau", trôi dạt về một vùng khuất lấp trong bóng tối, yên

lặng và càng ý thức rõ thân phận, hoàn cảnh thực tại càng đau xót. Phải chăng

nhà văn muốn nói điều này: bị khổ nhục về tinh thần còn đau đớn gấp bao lần nỗi đau thể xác. Tuy nhiên, Thạch Lam luôn có ý thức không để cho truyện

rơi vào không khí buồn thảm, bi ai mà từ cuộc sống nơi đáy cùng xã hội, các

nhân vật vẫn sáng lên nét đẹp từ cái tâm, cái tình của con người.

Truyện ngắn Thạch Lam thể hiện chủ nghĩa nhân đạo cao đẹp, bức tranh

hiện thực qua ngòi bút của ông được khắc hoạ sắc nét, sinh động, đa diện về

đời sống và số phận của con người thuộc các tầng lớp nghèo khổ, tạo sự đồng

67

cảm sâu sắc với độc giả nhiều thế hệ. Cái lúc giao thời, xã hội loạn li, mọi thứ giá trị bị đảo lộn. Con người quay cuồng với những khát vọng, tham lam, bị

đồng tiền làm mờ mắt, tất cả những đổi thay của cuộc sống xung quanh đều

như một thách thức khó lòng vượt qua. Nhà văn nhìn ra những cảnh đời khổ

đau, cất tiếng nói bênh vực những kiếp người và hơn hết là thể hiện sự trân

trọng và yêu mến họ. Tuy nhiên, có thể thấy, do chưa tìm được căn nguyên

sâu xa nỗi khổ của người dân nghèo, chưa đi sâu vào những mâu thuẫn giai

cấp trong xã hội nên Khái Hưng và Thạch Lam mới chỉ dừng lại ở mức độ băn

khoăn thương cảm cho cuộc sống của họ. Các nhà văn chưa nhìn ra được giải

pháp để cứu những người dân lao động ra khỏi cuộc sống nghèo khổ. Do hạn

chế về giai cấp và tư tưởng, Khái Hưng và Thạch Lam chưa nhìn thấy ánh

sáng của cách mạng. Những nhân vật nghèo khổ của họ chưa tìm thấy con

đường cách mạng, chưa có ý thức đứng lên cứu cuộc đời mình như các nhân

vật A Phủ, Mỵ trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài, hay các nhân

vật dân nghèo của Nguyên Hồng: mẹ La, cụ Cau, cụ Ước, Xin (tiểu thuyết

Cửa biển)... Do đó cuộc đời của những người dân nghèo trong tác phẩm của

Khái Hưng và Thạch Lam cứ lặng lẽ trôi đi trong sự an phận chịu đựng và

68

lòng nhân đạo chân thành của các nhà văn.

CHƢƠNG III

ĐẶC ĐIỂM NGHỆ THUẬT CỦA

TRUYỆN NGẮN KHÁI HƯNG VÀ THẠCH LAM

Tác phẩm văn học luôn là một thực thể hoàn chỉnh với sự thống nhất của

nội dung và hình thức. Mỗi tác phẩm văn chương đều hướng tới nhận thức và

phản ánh mối quan hệ giữa văn học và đời sống, giữa chủ thể sáng tạo và hiện

thực khách quan. Tất cả những cảm xúc, nhận xét, đánh giá ấy được biểu hiện

thông qua một hình thức nhất định.

Hình thức tác phẩm văn học là cái hợp thành của rất nhiều yếu tố: ngôn

ngữ, kết cấu, loại thể (thơ, văn, kịch) và các biện pháp (miêu tả nội tâm, hành

động…) nhằm mục đích tạo nên một dạng nhất định cho nội dung tác phẩm và

khiến tác phẩm văn học được xây dựng thành một chỉnh thể thống nhất. Hình

thức phải đáp ứng được đòi hỏi đầu tiên là phù hợp với nội dung, “nội dung

nào hình thức ấy”. Hơn nữa, hình thức cần phát huy đến mức cao nhất khả

năng biểu hiện nội dung của tác phẩm. Hình thức cũng mang tính độc lập

tương đối, khi những thay đổi của nó khiến nội dung chịu ảnh hưởng và tác

động nhất định. Nội dung chỉ tồn tại khi biểu hiện qua hình thức và hình thức

chỉ có ý nghĩa khi hướng tới thể hiện nội dung. Hình thức và nội dung là đồng

hành không thể thiếu trong sáng tạo nghệ thuật, những cách tân trong hình

thức cũng góp phần quan trọng trong việc khẳng định những biến đổi của nội

dung,: “Tác phẩm nghệ thuật đích thực, nghĩa là tác phẩm ngôn từ, bao giờ

cũng là một phát minh về hình thức và một khám phá về nội dung” (Lêônit

Lêônôp). Tuy nhiên, “Chỉnh thể tác phẩm không phải là một toàn thể đóng kín

một cách cân đối mà là một tổng thể năng động đang phát triển” (J.Jynia nov).

Một sáng tạo nghệ thuật có giá trị không chỉ là sự thành công của riêng nội dung hay hình thức mà là sự kết hợp hài hòa cả hai yếu tố và sự kết hợp ấy

phải tạo được những ý nghĩa mới, phải động chứ không tĩnh.

Khảo sát qua truyện ngắn của Khái Hưng và Thạch Lam chúng tôi nhận

thấy, ngoài nội dung, thủ pháp nghệ thuật là một phần rất quan trọng tạo nên

sự thành công của truyện ngắn của hai cây bút này.

Đi sâu tìm hiểu nghệ thuật truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam, chúng

69

tôi tập trung khảo sát các phương diện: cốt truyện, ngôn ngữ và giọng điệu. Đây là những yếu tố cơ bản của nghệ thuật truyện ngắn nói chung và truyện

ngắn Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng. Chúng tôi cố gắng phân tích, tìm

hiểu để chỉ ra những nét cách tân, những đóng góp của Khái Hưng và Thạch

Lam trong lĩnh vực nghệ thuật viết truyện ngắn.

3.1. Cốt truyện Cốt truyện là một hệ thống sự kiện và hành động trong tác phẩm văn học

thể hiện mối quan hệ và sự phát triển của các tính cách nhân vật theo sự chỉ

đạo của một chủ đề và một tư tưởng nhất định. Nhận thức sâu sắc mối liên hệ

đó, Goócki quan niệm: "Cốt truyện là những liên hệ, những mâu thuẫn, những

thiện cảm và ác cảm, và nói chung là những mối liên hệ qua lại của con người,

là lịch sử phát triển và tổ chức của tính cách này hay khác". Trong văn học cổ

thường có những kiểu cốt truyện truyền thống, những cốt truyện mang ý nghĩa

tiêu biểu và khái quát chung, trong đó mỗi sự kiện và hành động dường như

biểu hiện trực tiếp cho một nội dung và phẩm chất nhất định. Và những kiểu

nhân vật nào đó tiêu biểu cho diện mạo và tinh thần của đời sống xã hội thì

nhất định phải trải qua và được thử thách trong những loại cốt truyện tương

tự. Do đó, cốt truyện cũng như nhân vật dễ mang tính chất ước lệ, công thức,

chưa có những cốt truyện gắn bó trực tiếp với số phận của những cá nhân

riêng lẻ. Cái riêng bị cái chung lấn át, cái riêng đồng nhất với cái chung. Quan

hệ giữa các nhân vật trong tác phẩm không phát triển theo quy luật khách

quan, theo những mối liên hệ phong phú và đa dạng như bản thân cuộc sống

mà gò bó theo những định lệ và nguyên tắc nhất định. Người viết truyện cổ rất

quan tâm đến cốt truyện. Họ xác định phải xây dựng cốt truyện thật hấp dẫn,

phải làm sao cho cốt truyện có những tình tiết éo le, sự kiện ly kì hấp dẫn, tình

huống gay cấn đầy kịch tính, buộc nhân vật hành động theo định hướng nào

đấy để bộc lộ tính cách. Hơn thế, thi pháp đầy tính quy phạm của văn học trung đại quy định chặt chẽ cách dàn dựng cốt truyện theo công thức: gặp gỡ -

chia ly - đoàn tụ. Truyện vì thế bao giờ cũng kết thúc có hậu bằng cảnh đại

đoàn viên tràn đầy hạnh phúc. Một số truyện thường kết cấu theo kiểu này

Truyện Kiều, Nhị độ mai...

Nhìn chung, cốt truyện truyền thống thường được chia làm năm phần cơ

bản: trình bày, thắt nút, phát triển, điểm đỉnh và kết thúc. Truyện ngắn Khái

Hưng và Thạch Lam không tuân thủ theo cốt truyện truyền thống.

70

Với truyện ngắn Khái Hưng, người đọc được sống cùng một lúc hai thế

giới: một thế giới chính của truyện và một thế giới phụ trong câu chuyện đó.

Truyện ngắn Khái Hưng thường có hai cốt truyện - nghĩa là có một câu

chuyện lồng trong một câu chuyện khác. Câu chuyện thứ nhất chỉ là cái cớ, là

ngoại cảnh để tác giả dẫn dắt đến câu chuyện thứ hai mà toàn bộ sự việc, tình

tiết, nội dung chính của truyện lại nằm trong câu chuyện thứ hai. Đó là kiểu

cốt truyện truyện lồng trong truyện. Trong truyện chính có một nhân vật kể lại

câu chuyện của đời mình, hoặc về bạn bè mình, những người có liên quan đến

nhân vật đó. Câu chuyện phụ là nội dung chính của truyện ngắn. Điểm qua

một số truyện ngắn như: Bắt trộm, Linh hồn, Biến đổi, Ngày giỗ, Thời xưa... ta

bắt gặp kiểu cốt truyện này với những biến đổi rất rõ. Truyện Bắt trộm mở

đầu bằng một câu chuyện phiếm, tào lao của đám đông. Mọi người đang bàn

luận về việc ăn trộm, ăn cướp. Có người nói cướp đáng sợ hơn trộm, người lại

nói trộm cao hơn cướp. Cuối cùng, mọi người đều thống nhất "trộm cao siêu,

nghệ thuật" hơn cướp. Đó là một "nghệ thuật rất phiền phức". Bỗng có câu trả

lời nhẹ: "Nhưng bắt trộm cũng là một nghệ thuật, nghệ thuật vì nghệ thuật mà

vẫn ở trong phạm vi luân lý xã hội". Câu trả lời đó là của một ông cụ. Và từ

đây, tác giả dẫn dắt đến câu chuyện chính với nhan đề Bắt trộm - mà lại ở trong

lời kể của một ông cụ ngoài sáu mươi tuổi về chính việc bắt trộm của bản thân

mình. Qua lời ông cụ kể cách đó ba năm trước - khoảng lúc ông gần sáu mươi

tuổi, ông đã bắt được trộm bằng sự mưu mẹo, khôn ngoan của mình. Một đêm,

ông thấy tên trộm dỡ mái nhà, thả dây leo xuống. Ông bình tĩnh nằm chờ tên

trộm leo lên, lợp lại mái nhà. Ông phán đoán và biết được kẻ đã thông gian với

tên trộm chính là thằng Tý - thằng ở cho nhà ông. Mấy hôm sau, ông sai thằng

Tý đi vắng, và bình tĩnh nằm đợi trộm đến. Khoảng hai giờ sáng, tên trộm lại

dỡ mái nhà leo xuống. Ông đã kê sẵn một kiệu mật ở giữa nhà. Tên trộm bị ngã vào đó, lạy van xin hứa với ông từ sau không dám đến ăn trộm. Đó là câu

chuyện ông cụ kể cho mọi người nghe cũng chính là nội dung truyện ngắn Bắt

trộm. Khái Hưng không kể lại tuần tự sự việc xảy ra như thế nào, mà để câu

chuyện được tái hiện qua lời kể của nhân vật chính trong truyện.

Bằng cách kể này, câu chuyện diễn ra tự nhiên, tạo cảm giác mạnh ở tính

chân thực, các sự việc được chứng thực, được thổi vào đó một sự sinh động

71

cần thiết. Truyện Linh hồn lại mở đầu bằng bữa ăn sáng trong hiệu Mỹ Kinh. Nhân vật chính tôi - đang ăn sáng, bỗng gặp người quen. Hai người ngồi ăn,

chuyện trò với nhau. Nhưng "bắt đầu từ đây, tôi sinh ra lơ đãng thực. Tuy

cùng ăn, cùng uống, cũng thỉnh thoảng trả lời người thiếu niên, nhưng tâm trí

tôi để cả ở một gian phòng khách trong một nền nhà gác ở tỉnh lỵ Hà Đông”.

Câu chuyện được tái hiện qua sự hồi tưởng của nhân vật tôi. Đó là một buổi

đánh bài giữa hai vợ chồng Trinh và hai người khách. Người chồng rất nhu

nhược, thường bị vợ mắng té tát mỗi khi đánh thua. "Người vợ có vẻ dữ tợn,

cặp mắt mỉa mai nhìn chồng. Nàng tặng cho chồng đủ mọi điều tàn tệ...". Thế

nhưng khi người vợ mắng đứa con nhỏ, thì người chồng vụt đứng dậy, trở nên

hùng dũng, quả quyết, đôi mắt long sòng sọc và cặp môi mím lại, trông rất dữ

tợn. Người chồng mắng vợ không được quát đứa con nhỏ, vợ lặng lẽ cúi đầu.

Thế nhưng sau phút ấy, anh chồng lại nhu nhược, lại đù đờ, lại bị vợ chửi như

hát hay. Sự hồi tưởng của nhân vật "tôi" dừng lại ở đấy. Trinh - người chồng

giải thích là những lúc vợ hai đánh đập, dằn vặt con, thì trong người anh ta

như có một sức mạnh vô hình - có lẽ do linh hồn vợ cả (đã chết) hiện về giúp

sức cho anh ta. Truyện ngắn Linh hồn có hai sự hồi tưởng - một là của "tôi",

hai là của nhân vật Trinh. Hai sự hồi tưởng đó là câu chuyện chính của tác

phẩm. Còn cuộc gặp gỡ, ăn sáng của hai người chỉ là phụ, là ngoại đề để dẫn

dắt vào câu chuyện chính. Thời gian của câu chuyện được quay ngược lại liên

tục trong những lần hồi tưởng, tính liên tục đôi khi bị đứt đoạn tạo nên sự

chuyển biến linh hoạt cho nội dung cốt truyện.

Cũng trong mạch truyện lồng trong truyện như thế, truyện ngắn Biến đổi

mở đầu bằng cuộc đi chơi của hai chàng trai Lực và Đoàn. Qua sự hồi tưởng

của Lực, câu chuyện về cô gái làng Keo được tái hiện. Mùa xuân năm ấy, Lực

và Đoàn đi chơi hội làng Keo, buổi tối, họ ngủ lại và gặp Hiên - cô gái hiền

lành ngoan ngoãn đã tiêm thuốc cho họ. Rồi câu chuyện về cuộc đời Hiên được tái hiện qua chính lời kể của cô gái. Nhà nghèo, mẹ mất sớm, cha dạy

học, tùng tiệm lắm mới đủ qua ngày đoạn tháng. Hiện giờ cha nàng đang ốm

nặng, nên Hiên phải làm thêm nghề tiêm thuốc để đỡ đần gia đình. Câu

chuyện kết thúc bằng sự hiện diện hội ngộ lại của ba người: Lực, Đoàn, Hiên

trên đê Yên Phụ. Giờ đây, "Hiên nhởn nhơ trong bộ y phục tân thời. Cả một

quãng đời phóng đãng như in dấu vết trên bộ mặt dạn dầy mưa gió". Cô gái

72

quê mùa đã thay đổi bởi hoàn cảnh xã hội. Truyện kết thúc bằng tiếng thở dài buồn của Lực cho thế thái nhân tình.

Mặc dù cốt truyện lồng trong truyện thường được bộc lộ qua lời kể của

nhân vật chính, hoặc qua sự hồi tưởng của nhân vật đó - nhưng câu chuyện

không phải vì thế mà khô khan, đơn điệu. Trái lại, truyện ngắn Khái Hưng vẫn

mượt mà đằm thắm, chuyển tải nội dung một cách nhuần nhuyễn. Ông dẫn dắt

từ hiện tại sang quá khứ bằng những câu chuyển rất tự nhiên, không hề gượng

ép, gò bó tạo nên mạch truyện liền không bị ngắt quãng, đặc biệt trong một số

truyện Biến đổi, Thời xưa, Ngày giỗ, Bắt trộm…

Trong truyện ngắn Khái Hưng còn có những truyện hầu như không có

cốt truyện mà chỉ là sự bộc lộ tâm lý nhân vật trong những hoàn cảnh, sắc thái

khác nhau. Truyện ít sự kiện và hành động của nhân vật, thay vào đó là một

thế giới nội tâm phong phú. Trong truyện Đợi chờ, tác giả miêu tả nhân vật

Linh luôn luôn tưởng nhớ, suy nghĩ về cô gái mình đã gặp mấy năm trước. Xe

cô gái hết xăng, đỗ tại trang trại của Linh. Linh cho cô gái một can xăng và

mời cô vào thăm đồn điền. Thế rồi họ từ biệt nhau. Câu chuyện tưởng chừng

thoáng qua nhưng Linh nhớ mãi, khắc sâu trong tiềm thức. Năm nào chàng

cũng đến chỗ hẹn cũ để ngồi chờ đợi người xưa. Toàn bộ truyện ngắn chỉ bộc

lộ những suy tư, độc thoại, hồi tưởng của Linh. Chàng đợi người năm ấy. Sự

mong mỏi làm rạo rực lòng chàng và như man mác cả linh hồn vạn vật...

Tiếng chim sơn ca hót trong cỏ rậm. Linh giật mình quay nhìn theo con đường

đỏ, và cảm thấy tất cả nỗi thất vọng của một tấm lòng vơ vẩn đợi chờ. Khái

Hưng không đi sâu phân tích những hành động của Linh mà chú trọng phân

tích tâm lý chờ mong, đợi chờ khắc khoải của chàng. Những kỷ niệm giây

phút ấy với Linh đã trở thành vĩnh viễn, thiêng liêng. Hàng năm, cứ đến tháng

chạp khi cam ngoài vườn bắt đầu rám đỏ dưới luồng gió heo may, Linh lại

cảm thấy thân thể và tâm hồn rung chuyển... Linh đợi chờ, mong ngóng. Chàng chờ đợi, mong ngóng cho tới hết mùa cam. Vì Phụng có hứa với chàng

rằng mỗi năm cứ đến mùa cam nàng sẽ lại cùng mẹ một lần lên thăm ấp của

Linh. Lời hứa ấy có lẽ Phụng đã thốt ra theo cách xã giao trong câu chuyện

giao tiếp. Nhưng Linh tin là lời hứa thành thực. Chàng cũng không hiểu sao

chàng lại tin như thế, nhưng chàng không thể không tin được. Ngay ở nhan đề

của truyện, Khái Hưng cũng chú ý đặt cho sát với nội dung "đợi chờ" trong

73

toàn bộ tác phẩm. Đó là tâm trạng mênh mang, xao xuyến chờ mong của Linh đối với người thiếu nữ mà chàng mới gặp một lần thoáng qua. Cuộc gặp gỡ

ngắn ngủi chỉ có một giờ đồng hồ, nhưng hình như nó đã trở thành định mệnh

khiến Linh luôn mơ tưởng đến Phụng.

Nếu truyện ngắn Tập ảnh là dòng suy nghĩ miên man của Lý trong ngày

mùng một Tết, truyện ngắn Đợi chờ là tâm tư của Linh trong một thời khắc thì

Bến đò năm xưa là suy tư của Nguyên trên một chuyến đò. Anh gặp cô gái lái

đò, cứ mang máng như mình đã gặp ở đâu. Kể cả cảnh vật xung quanh: từ bờ

tre, cây gạo, con chó... chàng cũng thấy quen thuộc. "Chàng chau mày tự nhủ

thầm: Hình như ta đã để ở nơi này một kỷ niệm trong giây phút". Thì ra đây

chính là chuyến đò đã có lần Nguyên đi qua, và cô gái chèo đò là con của cô

gái đã chèo đò cho Nguyên mười lăm năm trước. Chàng gặp lại cô lái đò năm

xưa và ngỡ ngàng khi thấy "nàng" vẫn nhận ra mình: "Ngày ấy thầy mặc áo

tơi da chứ không phải áo sơn này. Với lại cái "bao ly" của thầy có quai mà to

hơn nhiều". Từ đó, tâm trí Nguyên cứ miên man với những suy nghĩ kỷ niệm

hồi tưởng.

Truyện của Khái Hưng thường chỉ có một vài sự kiện, còn chủ yếu là suy

nghĩ của nhân vật. Sự kiện chỉ đóng vai trò khơi nguồn cho dòng chảy tâm lý.

Trong truyện dài Hạnh chỉ có một sự kiện ngã xe đạp vỡ đầu và một vài chi

tiết khác, còn lại là suy nghĩ tâm trạng, cảm giác của Hạnh. Hạnh là một thanh

niên bị người đời quên lãng. Từ bé đến lớn, chàng không được hưởng sự yêu

thương chăm sóc của cha mẹ. Đến khi trở thành giáo viên mà tính nết chàng

vẫn thế. Chàng bị ngã xe đạp trên một cái dốc gần đồn điền, bị thương và

được một người trong đồn điền khiêng vào cứu chữa. Tỉnh dậy, thấy đầu được

băng bó cẩn thận và nằm trong căn phòng sạch sẽ, ấm áp, Hạnh không thấy

đau mà còn thấy khoan khoái, hạnh phúc vì sự quan tâm chu đáo của bà chủ

đồn điền và cô em gái. Tâm trạng vẩn vơ, chàng lúc nào cũng suy nghĩ, mặc cảm, trầm tư tự ti. Khi về trường, lúc nào Hạnh cũng mơ tưởng đến bà chủ và

cô em gái bà. Mấy hôm sau, chàng lấy cớ ra tỉnh để ngang qua đồn điền. Bà

chủ đồn điền trông thấy chàng, nhưng không nhận ra chàng. Nỗi buồn lại ập

đến và lan rộng tâm hồn chàng.

Có thể nói, với kiểu kết cấu tâm trạng, truyện ngắn Khái Hưng có một cái

gì đó rưng rưng, xao xuyến tâm hồn người đọc. Mỗi truyện là một mảnh tâm

74

trạng, một mảnh cuộc đời, một số phận, bởi thế, truyện ngắn của ông thấm đẫm chất trữ tình và dễ đi sâu vào lòng độc giả.

Cũng là phong cách trữ tình lãng mạn nhưng kiểu viết của Thạch Lam lại

mang đến một dư vị khác lạ. Với ba tập truyện ngắn và một số truyện in trên

các báo trong khoảng từ 1936 đến 1942, tuy số lượng không nhiều, nhưng cả

truyện ngắn theo khuynh hướng lãng mạn và truyện ngắn nghiêng về hiện

thực của Thạch Lam đều đậm chất trữ tình. Những truyện viết về tình yêu,

tình người, tình quê hương xứ sở, những vấn đề bức xúc trong đời sống của

các tầng lớp trí thức tiểu tư sản, người lao động nghèo, những vấn đề mang

tính nhân bản khác đã được Thạch Lam thể hiện trên từng thiên truyện ngắn,

qua đó định hình một phong cách nghệ thuật mới: phong cách truyện ngắn trữ

tình. Và cũng chỉ đến Thạch Lam mới có thể làm cho truyện ngắn trữ tình

thành một khuynh hướng sáng giá trên văn đàn hiện đại. Sự thành công đó đã

tạo những âm hưởng lớn có sức lan rộng, vươn xa, tác động mạnh mẽ, và

nhiều nhà văn đã bắt nhịp, cộng hưởng làm nên một dòng phong cách truyện

ngắn trữ tình đa sắc, đa thanh, đa giọng điệu.

Trong truyện ngắn trữ tình. Trong đó, vai trò chủ thể nhà văn thường rất

đậm, biểu hiện trên mọi phương diện từ tả cảnh, tả tình, tả ngoại hình đến tả

nội tâm nhân vật. Đặc điểm nổi bật của truyện ngắn trữ tình là thường không

có cốt truyện, hoặc nhà văn không chú ý nhiều đến cốt truyện như ở dạng

truyện ngắn tự sự. Nó có kết cấu gần với cấu tứ của thơ trữ tình. Mối quan hệ

giữa tâm thức với "kinh nghiệm sống" được nhà văn quan tâm miêu tả tinh tế.

Ý nghĩa của truyện thường gắn với không khí, tâm trạng... được gửi gắm trong

tác phẩm. Truyện của Thạch Lam là những câu chuyện về thế giới bên trong

tâm hồn con người với những mặt khuất, bí ẩn, khó lường của nó. Thông

thường đây là những truyện phi cốt truyện và được tổ chức kết cấu theo dòng

tâm trạng, cảm giác của nhân vật. Những truyện này có thể bắt đầu bằng một cảm giác, cảm tưởng nào đó (Đứa con đầu lòng, Một cơn giận, Cuốn sách bỏ

quên, Dưới bóng hoàng lan, Trở về, Cô hàng xén...), có thể kết thúc bằng một

cảm giác cảm tưởng nào đó (Nhà mẹ Lê, Trong bóng tối buổi chiều...) hoặc từ

đầu đến cuối truyện chỉ là dòng cảm giác trôi chảy miên man (Buổi sớm, Hai

đứa trẻ, Dưới bóng hoàng lan…).

Kết thúc truyện Nhà mẹ Lê là cái chết của người mẹ khốn khổ nhưng ám

75

ảnh người đọc lại là số phận của những đứa con. Dường như cái chết chầm chậm dai dẳng đang đến với đàn trẻ và cả những người nghèo nơi đây. Khép

lại những trang cuối của Cô hàng xén, ấn tượng về những chuỗi ngày mệt

nhọc, những lo âu của nhân vật không kết thúc mà lại nối tiếp và chắc chắn sẽ

ngày càng nặng nề hơn. Những dòng cuối cùng của truyện Đói gieo vào lòng

người đọc rất nhiều day dứt về cuộc sống tiếp theo của hai vợ chồng Sinh. Họ

sẽ sống như thế nào sau những đổ vỡ tâm hồn ghê gớm? Đọc xong Cái chân

què, người đọc càng lo âu hơn khi nhân vật mang thân mình tàn phế, tâm hồn

đầy thương tích và tiền sinh sống đã bị cuốn hết theo những cuộc chơi thâu

đêm suốt sáng. Với kiểu kết thúc mở như thế, truyện của Thạch Lam tuy

không có cốt truyện nhưng rõ ràng dấu ấn để lại trong lòng người đọc khá sâu

đậm. Nhà văn luôn có sự cố tâm lí để làm nảy sinh cảm giác, tâm trạng. Đó

thường là một sự kiện nào đó có ý nghĩa khơi mào dòng tâm trạng cảm giác

trong nội tâm nhân vật. Một cái ví có những tờ giấy bạc để hớ hênh; đứa con

đầu lòng ra đời; cây hoàng lan râm mát và ngan ngát hương thơm; một chuyến

tàu đêm đi qua phố huyện, cái đói và miếng thịt hồng hào béo ngậy, miếng

bánh thơm phức; gió lạnh đầu mùa tràn về khi tiết trời còn oi bức; tiếng chim

kêu ngoài trời mưa lạnh buốt... Tất cả đều có giá trị gợi mở thế giới tâm trạng

cảm giác, tạo cho con người nhận thức và cảm thụ về sự sống của thiên nhiên,

xã hội của chính mình.

Đứa con đầu lòng là truyện tiêu biểu cho kết cấu tâm lí. Truyện không có

cốt truyện, chỉ có một tình huống truyện duy nhất - kiểu tình huống thử thách

lương tâm và nhân cách. Đó chỉ là chuyện về tình cảm của người cha khi đứa

con đầu lòng ra đời. Với tình huống này, có thể có những cách xử lí quen

thuộc: hoặc là kể về những niềm hạnh phúc vô bờ khi được làm cha với bao

tình âu yếm nâng niu con trẻ; hoặc là kể về những vất vả gian nan khi phải

nuôi con trong cảnh túng quẫn... Thạch Lam lại có cách xử lí tình huống khá lạ. Ông lần lượt kể về những thay đổi trong tâm hồn, tình cảm của một người

cha bằng búp pháp miêu tả tình cảm tỉ mỉ, điềm tĩnh, rạch ròi. Không gian

truyện khá hẹp, chuyện trong gia đình với những công việc bận rộn không tên

khi chăm sóc trẻ nhỏ. Thời gian truyện cũng chỉ ít lâu sau khi đứa con ra đời.

Sẽ rất khó khăn cho nhà văn nếu không tổ chức được một kết cấu hợp lí với

một truyện chẳng có gì đáng gọi là "chuyện" để kể như vậy. Nhà văn phát

76

triển mạch truyện theo những diễn biến tâm lí của nhân vật chính. Khi đứa con sắp chào đời, Tân đã lo lắng như lửa đốt trong lòng. Chàng hồi hộp mong

ngóng chờ đón con đầu lòng như bất cứ người cha nào. Nhưng trong thực tế,

tâm trạng Tân lại không diễn ra như chàng vẫn tưởng. Đứa con chàng mong

đợi lúc đó chỉ là "một vật gì đỏ hỏn đang động đậy". Nó gợi cho chàng sự tò

mò, ngạc nhiên, xa lạ hơn là cảm giác gắn bó máu thịt. Nhìn cái đầu bé phủ

tóc đen và mượt, "Chàng thấy một cảm tưởng lạ, không rõ rệt, nảy nở trong

lòng [...] Tân không cảm động như chàng tưởng và không có một tình cảm gì

đối với đứa con mới đẻ". Người cha trẻ tuổi chưa thể tìm được mối liên hệ gắn

bó khăng khít với đứa con "lúc nào cũng quấn kín trong miếng vải trắng và

nhắm mắt ngủ kĩ". Nếu người mẹ sung sướng trước những đổi thay hàng ngày

hàng giờ của con, thì người cha chỉ thấy ngạc nhiên, thậm chí có lúc còn khó

chịu vì bị phiền hà. Tình cha con chỉ được đánh thức bởi một sự cố tâm lí.

Chính tiếng khóc nức nở của vợ trước hành động cáu giận vô lí của chồng đã

làm chàng chợt tỉnh, nhận ra sự vô lí của mình. Ngắm nhìn đứa con sạch sẽ

hồng hào chàng thấy trong lòng một mối cảm động êm đềm và phiền phức.

Cảm giác xa lạ tự tan biến dần và thay bằng những tình cảm gắn bó yêu

thương. "Tân cảm thấy lần đầu tiên cái thiêng liêng sâu xa của sự sống, và

cảm thấy chính những cái bé nhỏ, hèn mọn hằng ngày nó phá hoại cuộc đời.

Tình cảm cha con mang đến cho chàng những "những rung động khẽ như cánh

bướm non". Một tình cảm sâu xa và mới mẻ chưa từng thấy. Thạch Lam đã

mang đến cho người đọc một khám phá bất ngờ về bí mật tâm hồn. Tình cảm

giữa con người dù là tình cha con cũng cần phải có thời gian để gắn bó yêu

thương. Điều này phù hợp với quy luật tâm lí. Để diễn tả những cung bậc khác

nhau của tâm hồn như thế, nhà văn đã trao quyền kể chuyện cho nhân vật. Cách

trần thuật theo điểm nhìn của nhân vật đã phát huy lợi thế. Bí mật trong tâm

hồn của người đàn ông lần đầu làm cha được phô diễn một cách thành thực.

77

Hai đứa trẻ cũng để lại cho người đọc nhiều ám ảnh. Truyện về hai đứa trẻ và những người dân ở một phố huyện nhỏ hàng ngày cố thức đợi một chuyến tàu đêm đi qua sẽ không làm người đọc trăn trở nếu không tìm được cách kể chuyện hợp lí. Không gian truyện là phố huyện yên tĩnh, đầy bóng tối lúc chiều đêm buông xuống. Đây là không gian sống của những kiếp người nghèo khó âm thầm. Liên và An phải xa Hà Nội vì thầy thất nghiệp, về sống quẩn quanh với gian hàng tạp hoá nhỏ xíu. Mẹ con chị Tí quẩn quanh với việc mò cua bắt ốc và bán hàng nước trước cửa ga mỗi đêm. Bác phở Siêu ngày

78

ngày nhẫn nại gánh trên vai món hàng ế ẩm trên những nẻo đường đất gập ghềnh. Gia đình bác Xẩm tụm lại trên manh chiếu rách với tiếng đàn bầu rung bần bật trong bóng tối nghe thê thiết, não nùng. Cụ Thi hơi điên với tiếng cười khanh khách đi vào trong bóng tối. Không gian đó cô đặc những cảm giác buồn tẻ, cảm giác tàn lụi. Thời gian cũng chỉ từ chập tối tới đêm khuya. Thời gian của một ngày mà có sức gợi thời gian của cả một kiếp sống triền miên lay lắt như ngọn đèn con của chị Tí. truyện dường như không có cốt truyện, Hai đứa trẻ là một thế giới cảm giác trôi chảy theo dòng tâm trạng của Liên. Cảm giác về thiên nhiên êm ả nơi phố huyện, cảm giác về tình người chân chất bàng bạc vào thời khắc bình lặng của cuộc sống, cảm giác về những rung động của tâm hồn trẻ thơ với ước mơ chập chờn tươi sáng, và ám ảnh nhất là cảm giác về kiếp sống hiu hắt, đơn điệu, âm thầm trong bóng tối. Ngày qua ngày, vẫn chừng ấy con người, chừng ấy công việc. Họ sống cầm chừng trong bóng tối, nuôi niềm hi vọng mơ hồ mong manh về "một cái gì tươi sáng cho sự sống nghèo khổ hàng ngày của họ". Sự kiện duy nhất trong truyện và cũng là sự kiện rộn rã duy nhất trong một ngày dài chỉ là chuyến tàu ngang qua lúc đêm khuya có giá trị khơi sâu thêm tâm trạng. Chuyến tàu đầy âm thanh và ánh sáng như mang một thế giới khác đi qua nơi đây. Chuyến tàu như niềm hi vọng, là nguồn sống cho những kiếp người không biết gì đến ánh sáng và tương lai, đến ước mơ cũng không biết mơ gì hơn một chuyến tàu vụt qua phố huyện tiêu điều mỗi đêm. Kết thúc truyện là tâm trạng của cô bé Liên tự cảm thấy "mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tí chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ" làm cho người đọc càng day dứt. Đâu đây trong cuộc đời này vẫn có những kiếp người sống âm thầm tàn lụi, sống ngoài âm thanh náo nhiệt của cuộc đời. Câu chuyện theo dòng tâm trạng của cô bé Liên, nhà văn kết hợp viền nổi nên những hồi ức liên tưởng về một quá khứ tươi sáng ở Hà Nội đầy âm thanh và rực rỡ ánh đèn đối lập với phố huyện tiêu điều xơ xác, và nỗi luyến tiếc "nhìn theo cái chấm nhỏ của chiếc đèn xanh treo trên toa sau cùng, xa xa mãi rồi khuất sau rặng tre". Tuy chuyến tàu là sự kiện duy nhất có giá trị khơi dậy dòng tâm trạng nhưng vẫn ẩn chứa sự thiếu vắng trống trải mênh mang vì chuyến tàu "đêm nay không đông như mọi khi, thưa vắng người và hình như kém sáng hơn". Chuyện được kể với lời văn đầy chất thơ nhẹ nhàng mà sâu lắng, chất trữ tình ấy đem lại sự ám ảnh khôn nguôi trong tâm trí bạn đọc.

Tuỳ thuộc khuynh hướng truyện ngắn đậm chất trữ tình, nhưng mỗi nhà

văn lại có những phương thức biểu hiện khác nhau. Khái Hưng chú trọng

nhiều đến những tình tiết diễn biến câu chuyện. Truyện ngắn Thạch Lam đi

giữa đôi bờ hiện thực và lãng mạn, có truyện nghiêng hơn về bên này hoặc

bên kia nhưng đều dưới tầm kiểm soát của một nhà văn đã trưởng thành, am

hiểu cuộc sống, thấu hiểu mọi lẽ đời của nhiều tầng lớp người, được bộc lộ

dưới cái nhìn khiêm nhường, ẩn trong những con người bình thường, những

việc hàng ngày, quanh truyện không có gì đặc biệt, sự kiện và biến cố không

nhiều, chỉ là những mảng tâm trạng, hồi ức nhưng qua đó cái lắng đọng, dư

tình miên man không dứt.

3. 2. Ngôn ngữ

Mỗi loại hình nghệ thuật sử dụng một loại chất liệu riêng để xây dựng

hình tượng.

Ngôn ngữ là chất liệu của văn học. Văn học là nghệ thuật ngôn từ. Mỗi nhà

văn có một nghệ thuật sử dụng ngôn từ tuỳ theo sở trường thị hiếu, tâm lý, cá

tính,... để hình thành phong cách riêng của nhà văn đó. "Nếu tác giả nào không

có lối đi riêng thì người đó sẽ không bao giờ là nhà văn cả" (Sêkhốp). Thời kỳ

1930 - 1945, bên cạnh các nhà văn hiện đại đã khẳng định được rõ rệt phong

cách giọng điệu riêng như Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng,

Nhất Linh, Hoàng Đạo, Nguyễn Tuân,... Khái Hưng và Thạch Lam nổi lên là

những cây bút điêu luyện về sử dụng ngôn từ với cách viết tài hoa, độc đáo.

3.2.1. Ngôn ngữ ngƣời kể chuyện, lời ngƣời trần thuật Trong tác phẩm văn học, ngôn ngữ người kể chuyện là yếu tố đóng vai

trò quan trọng cơ bản để bộc lộ chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, nêu bật tính

cách của nhân vật. Trong thần thoại, cổ tích, câu chuyện thường được kể dưới dạng "vô nhân xưng", người kể thường ít để lại dấu vết riêng của mình. Dần dần,

người kể chuyện xuất hiện với tư cách cá thể. Đặc biệt từ văn học lãng mạn trở đi,

tiếng nói của người kể chuyện đóng một vai trò quan trọng trong cách thức tổ chức

tác phẩm của nhà văn. Nó thể hiện khá rõ phong cách nghệ thuật cũng như quan

niệm nghệ thuật của nhà văn ấy.

Trong truyện ngắn Khái Hưng, người kể chuyện có khi xuất hiện ở ngôi

79

thứ nhất, có khi lại xuất hiện qua lời nói của nhân vật. Như vậy, người kể chuyện trong tác phẩm Khái Hưng xuất hiện khá linh hoạt. Trong nghệ thuật

truyện ngắn, người kể chuyện có vai trò dẫn dắt câu chuyện, tạo mạch truyện.

Đứng ở ngôi thứ nhất, giọng người kể chuyện thường theo sát cốt truyện, nhân

vật, tạo một khoảng cách cần thiết với truyện kể. Trong tư cách này, Khái

Hưng thường tỏ ra khách quan kể lại các hành động, sự kiện của nhân vật:

"Hết hè, nhà Pháp và nhà Hoàn nhộn nhịp sắm sửa" (Thời chưa cưới); "Nửa

giờ sau, ông Chánh tổng và ông Lý trưởng đưa mấy chục tuần đinh ập vào nhà

tôi đi lùng khắp các xó vườn để tìm cướp" (Hai người tàn tật)... Nhưng bản

thân những lời kể tưởng như vô nhân xưng lại luôn in bóng dáng trần thuật.

Trong truyện Cái Ve, cùng kể về ông giáo Thanh nhưng thái độ xử sự của mỗi

nhân vật lại khác nhau. Chân dung của nhân vật Thanh được dựng lại qua

điểm nhìn của các nhân vật trong truyện, những người thợ không ưa Thanh,

cho Thanh là "một người kiêu ngạo, ít nói, vui buồn không để lộ ra mặt"; còn

Ve thì kính trọng, quý mến ông giáo Thanh... Những suy nghĩ khác nhau về

nhân vật chính là tình huống truyện tác giả dẫn dắt người đọc.

Mặc dù Khái Hưng cố không lộ diện và không tỏ ra mình là người dàn

xếp sự kiện mà chỉ là người ngoài cuộc, giám sát viên của câu chuyện. Tuy

vậy, mặt khác, nhà văn lại hoá thân vào nhân vật để giải quyết các tình huống

truyện. Trong truyện ngắn Linh hồn, lúc nhân vật "tôi" cảm nhận về gia đình

Trinh, cũng là lúc người kể chuyện xuất hiện dưới vỏ bọc của nhân vật "Trinh

- ông tham Trinh, người đương ngồi đối diện với tôi, hai người bạn cùng bàn

giấy với Trinh và vợ Trinh - một người đàn bà vào trạc tuổi Trinh, nhưng gầy

hơn, già hơn, và hình như từng trải cuộc đời nhiều hơn. Da mặt đầy những nét

răn và những nốt tàn hương mà lượt phấn khá dầy không lấp kín, cặp mắt cân

đối và có lẽ khi xưa sắc sảo lắm, nay đã mờ xạm như không có tinh thần, tuy

hai cái lông mi vẽ vòng bán nguyệt và hai cái quầng mắt đánh chì đen cố làm cho nổi bật lên: cặp môi dài và mỏng lúc nào cũng như cắn khít lấy nhau và

cái hình trái tim vẽ đè lên bằng sơn đỏ không che hết màu xám nhạt còn hở

hai bên mép. Đó đều là những tang chứng hơn mười năm hoan lạc giang hồ".

Nhận xét nhân vật người vợ, Khái Hưng để cho người kể chuyện khách quan

ghi lại để dẫn dắt đến cá tính sau này.

Khi vai trò kể được chuyển về cho nhân vật, điểm nhìn cũng thay đổi.

80

Trong truyện ngắn Linh hồn, ngôn ngữ kể chuyện không chuyển sang ngôi thứ ba mà vẫn ở ngôi thứ nhất. Đây là lời của Trinh kể về vợ mình chứ không phải

là lời vợ Trinh nói: "Nhà tôi lại hơi se sẽ gật. Tôi nhớ đến lời dối dăng, liền

ghé tai sát vào miệng nhà tôi. Tức thì như từ thế giới bên kia đưa lại, mấy

tiếng thì thầm nghe mơ hồ, ghê sợ: Em Thu, em Lan... cậu trông nom cho tôi”.

Nhà văn thông qua hồi ức của nhân vật trình bày ý kiến của mình. Hình thức

tường thuật gián tiếp này khiến cho thiên kiến của nhà văn được giấu đi. Cũng

có khi người kể chuyện mượn lời một nhân vật kể về một nhân vật khác là đối

tượng chính của truyện. Hình thức này một mặt đảm bảo được tính khách

quan của câu chuyện, mặt khác tạo được độ tin cậy của người trong cuộc. Đó

là lời của nhân vật "tôi" khi bàn luận về vợ chồng người ăn xin, bán muối với

tư cách là người chứng kiến: "Gặp nhau, họ vui vẻ mỉm cười hỏi thăm tin tức

của nhau, như hai người bạn thân xa vắng lâu ngày và mong nhớ nhau từng

phút từng giây... Bà lão ngồi thuật cho chồng nghe hết những sự việc đã xảy

ra trong mấy giờ đồng hồ đi làm ăn. Bà ta kể chuyện rất vui vẻ, thỉnh thoảng

lại thêm một câu bình phẩm, một câu khôi hài, khiến người chồng khúc khích

cười, chừng cốt để làm đẹp lòng vợ... Câu chuyện cứ thế kéo dài, âu yếm như

chuyện hai vợ chồng trẻ, đứng đắn như chuyện hai người có giáo dục..."

(Người vợ mù). Lời kể của tác giả giúp người đọc tiếp cận được nhân vật hết

sức tự nhiên. Tuy nhiên, đọc kỹ, chúng ta vẫn thấy tác giả lộ diện trong trường

hợp này. Tác giả tôn trọng tình cảm của hai vợ chồng người bán muối. Ông

quý mến họ một cách thành thực, chân tình. Hay nói chính xác, việc người

dẫn truyện mượn lời nhân vật khác kể về nhân vật của mình hết sức dễ nhận

biết thông qua cách kể độc lập.

Ở nhiều truyện ngắn khác, người kể chuyện cũng trực tiếp tham gia vào

mạch truyện nhưng dưới hình thức trữ tình ngoại đề hoặc những câu bình

luận. Đang suy tư theo cảm xúc của Linh trong Đợi chờ, tác giả lộ ra một lời khác với mạch cảm xúc: "Kẻ ở, người đi, rồi hiện tại sẽ thành dĩ vãng, sẽ

thành một kỷ niệm như cành quýt mà Phụng đã đem về nhà giữ làm kỷ niệm”,

nhờ vậy giọng trần thuật trong tác phẩm có tính triết lý vừa già dặn, suy tư

vừa mang tính lãng mạn.

Khi người kể chuyện hoá thân ở tầng sâu nhất của đời sống nội tâm nhân

vật thì truyện ngắn có sức thuyết phục đáng kể. Đó là trường hợp ngôi thứ

81

nhất và ngôi thứ ba nhiều khi hoà lẫn vào nhau. Nhiều khi nhà văn đã hoá thân vào cuộc đời nhân vật, đó là trường hợp diễn tả tâm trạng. Ngoài ra, qua ngôn

ngữ người kể chuyện, Khái Hưng còn nhằm trực tiếp đánh giá nhân vật, đem

lại cho người đọc một nhận thức nhất định về nhân vật phù hợp với nhận thức

của mình. Cùng với các nhân tố khác, ngôn ngữ người kể chuyện cũng là một

nhân tố quan trọng tạo thành tính cách hoàn chỉnh, góp phần thể hiện tính

cánh nhân vật rõ nét. Nhân vật Sư Tuệ trong truyện ngắn cùng tên được tác

giả nhận xét: "Thường thường thì nhà sư giữ vẻ mặt bình thản, không phải

bình thản kiêu căng của hạng người tự đắc mà bình thản tự nhiên của một tâm

hồn nhũn nhặn".

Ngôn ngữ người kể chuyện trong truyện ngắn Khái Hưng đã bắt đầu

mang cá tính rõ nét. Nó thể hiện một cách tinh tế tâm lý nhân vật. Các nhà văn

lãng mạn là những người đặc biệt chú ý đến cảm giác, đánh thức cảm giác,

bởi thế ngôn ngữ của họ khiến đối tượng hiện lên cụ thể, sinh động, người đọc

như "nghe thấy, ngửi thấy, sờ thấy" được. Đây là một đóng góp của Khái

Hưng nói riêng và của Tự lực văn đoàn nói chung. Trong lời văn nghệ thuật

của Thạch Lam lại có sự khác biệt, lời trần thuật chiếm ưu thế gần như tuyệt

đối cả về số lượng và chức năng miêu tả, tự sự, biểu hiện. Trong những truyện

kể theo điểm nhìn tác giả thì lời văn chủ yếu là lời của tác giả nhập thân vào

nhân vật mà kể như Cô hàng xén, Hai đứa trẻ, Đứa con đầu lòng... Trong

những truyện kể theo điểm nhìn của nhân vật xưng "tôi" thì lời văn thành lời

độc kể của nhân vật như ở Sợi tóc, Người đầm, Một cơn giận, Tình xưa... Hơn

nữa nhân vật của Thạch Lam ít đối thoại, ít hành động. Số phận, tính cách, nội

tâm của nhân vật chủ yếu được thể hiện qua lời tự sự, miêu tả của tác giả hay

người kể chuyện. Do vậy lời trần thuật chiếm ưu thế gần như tuyệt đối trong

lời văn của Thạch Lam.

Lời trần thuật của Thạch Lam có xu hướng tránh xa tính văn chương bác học, vươn tới cái bình dị của đời sống hàng ngày. Nhà văn vốn không ưa dùng

lối diễn đạt bằng những "đại ngôn tráng ngữ", không ưa sự cầu kì uốn éo làm

duyên, thừa thãi lời chữ. Ông ưa dùng lối diễn đạt giản dị, gọi đúng tên đúng

bản chất của sự vật hiện tượng. Trong lời văn, chúng ta thường gặp cách nói

giản dị gần gũi với cách nói của đời sống hàng ngày. Ví dụ như: "Nàng chỉ cúi

mặt khóc. Khi thấy Tâm thất vọng quay đi, nàng đau đớn uất ức như đứt từng

82

khúc ruột"; "Bà cụ đay nghiến nhiếc móc nàng bằng những lời chua cay" (Một đời người); "Anh trở lại với cái nghèo nàn như cũ, với những cái thiếu thốn

của kẻ không tiền. Nhưng tâm hồn anh đã rớm máu bi thương, lòng anh bây

giờ không như trước nữa" (Cái chân què); "Khốn nạn cho Dung, từ bé đến

nay không phải làm công việc nặng nhọc, bây giờ tát nước, nhổ cỏ, làm lụng

đầu tắt mặt tối suốt ngày" (Hai lần chết)... Nhờ sử dụng cách diễn đạt giản dị

đời thường, nên lời văn của Thạch Lam đã tránh được sự cầu kì hoa mĩ vốn là

nhược điểm của một số tác phẩm trong Tự lực văn đoàn.

Từ hứng thú miêu tả con người với đời sống nội tâm phiền phức, nhà văn

đã lựa chọn cách trần thuật theo điểm nhìn nhân vật. Người bạn cũ, Người bạn

trẻ, Người lính cũ, Đứa con, Người đầm, Một cơn giận, Tiếng chim kêu, Sợi

tóc, Tình xưa, Cái chân què, Dưới bóng hoàng lan... là những truyện được kể

theo lời của nhân vật "tôi". Nhà văn đã thâm nhập vào thế giới tâm hồn của

nhân vật, miêu tả theo cái nhìn của nhân vật, từ đó mở ra khả năng đi vào thế

giới nội tâm bí mật bên trong. Khi trần thuật theo điểm nhân vật - điểm nhìn

bên trong, hiệu quả thẩm mĩ, giá trị nhân văn được tăng lên Đây thường là

những tự truyện kể về những "sự cố nội tâm", những "vụ việc" xảy ra trong

quá khứ. Chúng được kể lại bằng những lời tự thú, sám hối của nhân vật. Mặt

khác, đây cũng là những truyện mang dáng dấp luận đề tâm lí. Những diễn

biến tâm lí thầm kín trong cõi sâu của tâm hồn nhân vật được bộc lộ qua điểm

nhìn từ bên trong. Qua những diễn biến tâm lí đó, người đọc có thể tự rút ra

những bài học. Như người ta có thể phụ tình dễ dàng (Tình xưa); có thể bạc

bẽo với bạn cũ dễ dàng (Người bạn cũ); có thể sa cơ lỡ vận dễ dàng (Người

lính cũ, Người bạn trẻ); có thể buông thả chuốc lấy bi kịch đau đớn dễ dàng

(Cái chân què); có thể tàn ác một cách dễ dàng (Một cơn giận)... Những tư

tưởng luận đề như vậy sẽ kém thuyết phục nếu không phải do một người đã

từng nếm trải, chiêm nghiệm tự kể lại nông nỗi của mình; nếu không được chứng minh qua những diễn biến tâm lí phức tạp trong tâm hồn.

Trong Một cơn giận, người kể chuyện là nhân vật Thanh. Anh tự kể lại

một kỉ niệm đáng buồn của mình, chỉ vì một cơn cáu giận vô cớ mà gây nên

hậu quả đau lòng cho gia đình người phu xe nghèo khó. Nhà văn đã để cho

toàn bộ trạng thái tâm lí trong cõi sâu của tâm hồn Thanh được bộc lộ. Thanh

đã trút cơn cáu giận vô cớ lên đầu người phu xe, bực tức, gắt gỏng, giận dỗi

83

trước bất cứ cử chỉ nào của con người khốn khổ: từ cách kì kèo xin thêm hai xu, đến việc chỉ hạ càng xe đứng nguyên chứ không kéo về phía anh, khó chịu

với cả cái xe đệm cứng như gỗ... mà không tự nhận ra những cử chỉ vô lí của

chính mình. Nội tâm nhân vật được mở ra, cho thấy cái phần khó chịu nhất

trong con người mà bình thường không mấy khi bộc lộ. Vì cáu giận vô lí mà

Thanh thành tàn ác. Anh phớt lờ gương mặt già nua hốc hác tái mét của người

phu xe, phớt lờ giọng nói van xin tội nghiệp của một con người khốn khổ. Chỉ

qua cách trần thuật bằng lời nhân vật, thâm nhập vào tâm hồn nhân vật, nhà

văn mới có thể để cho nhân vật tự thú về sự tàn ác của mình không gượng

gạo, không giấu giếm. Đặc biệt, qua điểm nhìn đó, có thể thấy mọi hành động

của nhân vật đều không thuộc về bản chất, và cũng không thể lí giải được căn

nguyên. Nó chỉ là kết quả của một hiện tượng tâm lí bất thường. Sự ăn năn,

hối hận từ tận đáy lòng của Thanh mang đến cho người đọc niềm tin, sự cảm

thông. Nhà văn đã để cho người đọc cùng nếm trải mọi cảm giác cáu giận, tức

bực rồi ăn năn, sám hối với nhân vật. Truyện ngắn của Thạch Lam tuy đề cập

tới vấn đề đạo đức nhưng không nặng nề những điều giáo lí, bởi nhà văn để

cho nhân vật tự kể, tự suy ngẫm lại. Truyện Sợi tóc cho thấy cái thiện và cái

ác luôn tiềm ẩn trong con người như một lẽ tự nhiên và ranh giới chỉ là sợi

tóc. Truyện Người đầm lại được kể từ giọng của nhân vật "tôi". Không hề áp

đặt theo cách nhìn của riêng ai, Thạch Lam đã để cho nhân vật được lên tiếng.

Nhân vật được độc thoại với dòng suy nghĩ tưởng tượng của riêng mình.

Người phụ nữ Pháp ngồi ở ghế hạng nhì trong rạp chớp bóng, qua cái nhìn

đầy thiện cảm của nhân vật "tôi" trở nên nhỏ bé, buồn lặng, rất thân thiện, lịch

thiệp, khác với cái nhìn đầy ác cảm của những người xung quanh dành cho bà.

Nhân vật tự tưởng tượng người đàn bà ngoại quốc có hoàn cảnh tội nghiệp:

chồng chết, phải xa quê. Những tưởng tượng đầy cảm thương đó khiến bà

thành hiện thân của cái đẹp hiền lành, lạc lõng, cô đơn nơi đất khách quê người. Thạch Lam thể hiện được thiện chí của mình với người đàn bà vốn

được coi là "thực dân cái" (chữ dùng của Nguyễn Tuân). Đó là cái nhìn "nhân

loại chung", chứ không phải là cái nhìn giai cấp, dân tộc.

Lời trần thuật qua nhân vật là cách thức còn khá mới mẻ trong văn học

những thập niên đầu thế kỷ XX. Việc di chuyển điểm nhìn vào bên trong đã

tạo cho nhà văn cơ hội thâm nhập vào thế giới tâm hồn của nhân vật, tiến tới

84

khám phá bề sâu tâm hồn con người. Khoảng cách giữa tác giả và nhân vật được rút ngắn tối đa, gần như song trùng. Điều này mở ra khả năng cảm nhận

những biến đổi vi diệu trong tâm hồn con người và tài năng diễn tả cảm xúc,

cảm giác tinh tế của Thạch Lam.

Một số truyện của Thạch Lam được trần thuật theo điểm nhìn tác giả như

Hai lần chết, Trong bóng tối buổi chiều, Cô hàng xén, Một đời người, Cái chân

què, Đứa con... Đây là những truyện thiên về hướng ngoại, kể về cuộc đời nhân

vật với những nỗi buồn đau bất hạnh. Hai lần chết là truyện ngắn tiêu biểu cho

lối trần thuật theo điểm nhìn tác giả. Tách hẳn ra ngoài những sự kiện, người kể

chuyện điềm tĩnh kể về cuộc đời của cô Dung từ tấm bé đến lúc đi lấy chồng

với bao thua thiệt bất hạnh. Ở nhà, Dung chịu thua thiệt vì không được cha mẹ

quan tâm; về nhà chồng Dung chịu khổ sở, tủi nhục vì bị cả nhà chồng hắt hủi,

đay nghiến cho bõ với những đồng tiền mà họ phải bỏ ra mua dâu. Tuy còn rất

trẻ nhưng Dung đã hai lần chết: từ cái chết hụt về thể xác dẫn đến cái chết của

tâm hồn "chết không bấu víu vào đâu, chết không còn mong ai cứu vớt". Nhà

văn đã tạo ra khoảng cách trần thuật cần thiết để giữ được giọng khách quan khi

kể về những khổ đau của một con người. Vì vậy nội dung truyện có sức thuyết

phục hơn, có khả năng gợi sự cảm thông, đồng vọng từ người đọc hơn. Người

đọc có thể thấy rõ những thua thiệt của nhân vật, những nỗi uất ức, tủi nhục

sừng sững đè lên cuộc đời một người phụ nữ nhỏ nhoi.

Không phải ngẫu nhiên khi kể về những nhân vật người dân nghèo,

người lao động, người phụ nữ tần tảo bất hạnh, Thạch Lam khai thác lối trần

thuật theo điểm nhìn tác giả. Điều này trước hết có liên quan đến nội dung của

tác phẩm. Khó có thể tưởng tượng rằng những nhân vật như mẹ Lê (Nhà mẹ

Lê), cô Tâm (Cô hàng xén), cô Liên (Một cuộc đời), cô Dung (Hai lần chết)

lại có lúc nào đó tự kể chuyện, tự than thở về mình. Chính nhân cách nhân vật

không cho phép họ tự nói về mình. Trong những trường hợp như thế, kể chuyện theo điểm nhìn tác giả là sư lựa chọn hợp lí.

Trong những truyện Một đời người, Đứa con, người kể chuyện là nhân

vật xưng "tôi". Tuy nhiên, người kể chuyện không hề tham gia trực tiếp vào

diễn biến truyện, không phải là tác nhân của những biến cố, sự kiện trong

cuộc đời nhân vật chính. Họ chỉ xuất hiện bên cạnh nhân vật chính để quan

sát, miêu tả, kể lại một cách khách quan. Trường hợp này cũng có thể coi là

85

cách trần thuật theo điểm nhìn tác giả. Một đời người kể về những khó khăn bất hạnh trong cuộc đời Minh, một người suốt đời khổ sở về đồng tiền. Người

kể chuyện đã quan sát và thuật lại những biến cố trong cuộc đời người bạn của

anh. Sống thiếu thốn từ bé nên Minh rất khao khát kiếm tiền. Là người không

gặp may nên anh luôn thất bại, luôn túng thiếu. Khi bị tai nạn, bị cưa mất một

chân, anh rơi vào những ngày tuyệt vọng lo âu chỉ thấy tương lai mù mịt đen

tối. Khi có được một vạn đồng, tiền bồi thường tai nạn anh đã mân mê tha

thiết, sương sướng đến nghẹn ngào. Dùng đồng tiền làm phương tiện thụ

hưởng và trả thù đời, Minh lao vào những cuộc chơi. Đến khi hết tiền, mang

thân hình tàn phế, anh càng thấu rõ sự trớ trêu đen bạc của thói đời. Từ điểm

nhìn tác giả, nhà văn đã tạo một khoảng cách nhất định với nhân vật chính,

người kể chuyện đã có một thái độ khách quan khi trần thuật. Thái độ đó sẽ

truyền tới người đọc khi suy ngẫm về lẽ đời, về cái giá của những hạnh phúc

và mất mát do chính đồng tiền mang đến cho con người.

Thành công của Thạch Lam không chỉ ở việc chọn vị trí kể chuyện thích

hợp mà còn do nhà văn đã phối hợp các điểm nhìn trần thuật tạo nên sự đa

thanh hấp dẫn cho truyện. Ông thường phối hợp giữa điểm nhìn tác giả và

điểm nhìn nhân vật, điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài, kết hợp với

điểm nhìn không gian và thời gian. Trong truyện của ông bên cạnh điểm nhìn

chính có điểm nhìn bổ sung, bên cạnh tiếng nói của nhân vật có tiếng nói của

tác giả... Vì vậy mà một số truyện của Thạch Lam đã tiếp cận được tới nghệ

thuật kết cấu trần thuật hiện đại. Đói là truyện ngắn mà điểm nhìn tác giả

chiếm ưu thế. Nhà văn kể một cách khách quan về chuyện chàng trí thức thất

nghiệp. Những nỗi khổ sở của nhân vật trong cảnh nghèo, khi bị cái đói giày

vò, ghen tuông giận dữ, ăn ngấu nghiến thức ăn vợ mang về... tất cả được hiện

lên qua cái nhìn tác giả. Nhưng đó chỉ là "nền cảnh" để diễn biến tâm lí nhân

vật bộc lộ qua điểm nhìn bên trong, điểm nhìn nhân vật. Từ điểm nhìn đó, người đọc có thể chia sẻ cùng nhân vật tình thương vợ, bao nỗi uất ức nghẹn

ngào, căm giận cho số phận của mình, và cả cơn giận dữ tột cùng khi biết vợ

bán mình. Nhờ sự đan xen giữa hai điểm nhìn, nhà văn đã dẫn dắt người đọc

vào thế giới tâm hồn nhân vật. Bên cạnh nỗi đau tột đỉnh của tâm hồn thanh

cao bị xúc phạm ghê gớm, lại có cả sự hèn yếu của một con người bình

thường phải tuân theo nhu cầu bản năng.

86

Viết Hai đứa trẻ, nhà văn muốn truyền cho bạn đọc sự chia sẻ với kiếp người bất hạnh. Đọc truyện, cảm giác buồn tẻ về kiếp đời lầm lụi trong bóng

tối vây bọc lấy tâm hồn độc giả. Người kể chuyện đã từ điểm nhìn bên ngoài,

tách ra khỏi nhân vật để quan sát và thuật lại những cảnh đời một cách khách

quan: hai đứa trẻ cả ngày bán hàng ế ẩm, mẹ con chị Tí trông đợi vào gánh

hàng nước nghèo nàn, tiếng đàn bầu của bác Xẩm não nùng, không có khách

nghe, gánh hàng của bác phở Siêu thành thứ quà xa xỉ nơi phố nghèo... Con

người sống mãi trong cảnh buồn tẻ, hoà trong nhịp sống uể oải đơn điệu lâu

ngày thành thói quen, nên khó có thể tự thấm thía hết nỗi tù túng của cuộc đời

mình. Chỉ có người ngoài cuộc mới nhận thấu nỗi buồn của cuộc sống thiếu

ánh sáng, vắng âm thanh của những con người đến ước mơ cũng không biết

mơ gì hơn một chuyến tàu đêm qua phố huyện. Vì vậy mà điểm nhìn tác giả

được nhà văn lựa chọn đã thực sự phát huy hiệu quả nghệ thuật. Mặt khác

cũng có lúc, nhà văn dịch chuyển điểm nhìn vào bên trong nhân vật, trần thuật

theo điểm nhìn của nhân vật Liên, nhằm khắc hoạ dòng tâm trạng trôi chảy

miên man. Đó là cái nhìn đầy tâm trạng của Liên trong giờ khắc ngày tàn.

"Đôi mắt chị bóng tối ngập đầy dần và cái buồn chiều quê thấm thía vào tâm

hồn ngây thơ của cô, Liên không hiểu sao, nhưng chị thấy lòng buồn man mác

trước cái giờ khắc của ngày tàn". Hay cảm giác nhỏ bé của Liên khi chị thấy

"mình sống giữa bao nhiêu sự xa xôi không biết như chiếc đèn con của chị Tý

chỉ chiếu sáng một vùng đất nhỏ". Với lối trần thuật kết hợp giữa điểm nhìn

tác giả và điểm nhìn nhân vật, Thạch Lam đã tạo chiều sâu cho tác phẩm, góp

phần tạo nên chất trữ tình man mác trên từng trang văn. Hơn nữa, việc di

chuyển điểm nhìn vào bên trong cũng tạo cho nhà văn cơ hội thâm nhập vào

thế giới tâm hồn của nhân vật, khám phá thế giới cảm giác mơ hồ mong manh

vốn rất khó nắm bắt ấy.

3.2.2. Ngôn ngữ nhân vật Trong tác phẩm văn học, thông thường ngôn ngữ nhân vật chiếm tỷ lệ

nhỏ hơn so với ngôn ngữ người kể chuyện, nhưng nó lại có khả năng tái hiện

một cách sinh động trực tiếp tâm lý nhân vật, trình độ văn hoá, kinh nghiệm

cuộc sống và cá tính nhân vật.

3.2.2.1. Ngôn ngữ đối thoại

"Đối thoại là lời trong cuộc sống giao tiếp song phương mà lời này xuất

87

hiện như là phản ứng đáp lại lời nói trước" [21]. Đối thoại trong tác phẩm văn học có thể hiểu là một phần trong nghệ thuật ngôn từ, một thành tố mà chức

năng là tái tạo sự giao tiếp bằng lời nói của các nhân vật. Đối thoại nghệ thuật

khác với đối thoại thông thường do sự chi phối của vai trò người trần thuật.

Nếu như đối thoại thông thường các tham thoại của các cặp trao đáp hoàn toàn

ở thế tự chủ khách quan thì đối thoại trong nghệ thuật nhất định phải được

khúc xạ tinh vi qua sự điều phối của người trần thuật. Như vậy, đối thoại nghệ

thuật là hình thức mới của đối thoại khách quan và trong hình thức mới của nó

đối thoại nghệ thuật thường được nhìn nhận không đơn giản ở góc độ ngôn

ngữ là các lời phát ngôn giao tiếp qua lại giữa các chủ thể mà rộng hơn, nó

phải được xem xét như một phương diện nhằm khám phá nghệ thuật thể hiện

cuộc sống của nhà văn.

Truyện ngắn Khái Hưng đã tái hiện một cách khá sống động chân dung

của nhiều loại người qua ngôn ngữ của họ: đó là tầng lớp trí thức tiểu tư sản,

người dân nghèo, trẻ nhỏ... Ông luôn có ý thức sử dụng ngôn ngữ để khắc hoạ

tính cách nhân vật. Lời lẽ của từng loại nhân vật được ông miêu tả xác đáng,

hợp lý. Người nông dân lúc nào cũng mang tâm lý tự ti, lo sợ, rụt rè, luôn hiện

lên với những ngôn từ thể hiện sự tội nghiệp, đáng thương nhất; trái lại, bọn

nhà giàu, địa chủ hách dịch, trịch thượng. Đây là ngôn ngữ của anh chàng nhà

giàu Văn quát mắng người phu xe trong truyện ngắn Xanh cà bung: "Đỗ lại!

Đỗ lại đây! - Điếc à?... Chỉ cắm đầu chạy tràn! - Trời ơi! Điếc thế, sao không

chọn nghề khác mà lại làm nghề kéo xe! Có đủ tiền đổi đồng bạc không!". Đó

là ngôn ngữ của Nhân - con ông ký Phan - nổi tiếng độc ác cả vùng chuyên

cho vay lấy lãi cao, cắm nhà, cắm ruộng của con nợ - một thứ ngôn ngữ rất

hách dịch, lạnh nhạt, vô cảm với cuộc sống nghèo khó của người nghèo:

Khái Hưng thường không dụng công nhào nặn, đẽo gọt câu chữ, ngôn

ngữ thường nhật được ông đưa vào tác phẩm một cách chân chất. Nhưng sáng tạo của nhà văn chính là ở sự tổ chức, sắp xếp đối thoại bằng chính ngôn ngữ

của nhân vật, thứ ngôn ngữ phù hợp với cuộc sống, tính cách của họ. Tuy

nhiên, trong ngôn ngữ đối thoại của Khái Hưng, lớp ngôn ngữ đối thoại của các

nhân vật nông dân nghèo cũng rất đặc sắc. Ở đó, trạng thái tâm lý của nhân vật

thường được bộc lộ qua giọng điệu của lời thoại. Ví như trạng thái ngao ngán, cơ

cực với nỗi lo về cơm áo gạo tiền, về cái nghèo, cái đói của chị Lạc trong Anh phải

88

sống. Sự lo lắng thường bủa vây người nghèo. Cái nghèo làm họ khúm núm, hễ cất lời lên là kể lể, van xin trình bày, thể hiện trạng thái bất an của con người trong

xã hội: "Lạy cậu, cậu thương" (Lòng tốt) hoặc "Thưa các quan, không phải em

dám làm sao, nhưng thầy em ốm" (Biến đổi). Trong truyện Xanh cà bung cuộc đối

thoại giữa nhân vật Văn và đứa trẻ nấu cơm, rất hồn nhiên, chân thật nhưng qua đó

bộc lộ trạng thái buồn man mác vì nghèo đói của người dân lao động cũng như

nhân vật Văn: "- Cơm đó có ngon không em?- Thưa thầy, ngon lắm chứ.- Sao

cho nhiều nước thế?- Để được nhiều, vì những tám người ăn.- Có món gì

không?- Không ạ! Chỉ có thế này, nhưng chiều thì có cá.- Chỉ nấu với nước

thôi à?- Có muối nữa chứ... Với lại mắm tôm nữa.- Ngon quá nhỉ!- Có gì mà

thầy bảo ngon?- Bây giờ đói kém thợ thuyền ăn kham khổ lắm thầy ạ!".

Những đoạn đối thoại gần như triệt tiêu hoàn toàn lời dẫn, chỉ còn âm thanh

va đập lại nhau của lời đối thoại gọn và sắc. Đặc biệt, Khái Hưng thành công

khi miêu tả ngôn ngữ của tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Ông tỏ ra am hiểu sâu

sắc ở tầng lớp này từ suy nghĩ đến lời ăn tiếng nói. Trong truyện Tình tuyệt

vọng, Sóng gió Đồ Sơn, Cái Ve… là cách nói của những con người thuộc tầng

lớp tiểu tư sản thành thị: văn chương, bóng bẩy, hoa mỹ. Một thứ ngôn ngữ

"thính phòng, kiểu cách" (Phan Cự Đệ). Sự đối đáp hết sức xã giao, cầu kỳ,

kiểu cách, đó là thứ ngôn ngữ sinh hoạt của tầng lớp tiểu tư sản thành thị. Nó

khác hẳn với lối nói bộc tuyệch, suồng sã của người lao động. Nếu trong tiểu

thuyết, ngôn ngữ nhân vật của Khái Hưng vẫn còn sáo mòn, xa lạ với đời

sống: “- Tôi xin thề với Lan rằng tôi giữ được mãi như thế; tôi viện Phật tổ tôi

thề với Lan rằng suốt trong đời tôi, tôi sẽ chân thành thờ ở tâm trí, cái linh hồn

dịu dàng của Lan" (Hồn bướm mơ tiên) thì đến truyện ngắn, ngôn ngữ đã có

một bước chuyển lớn, gần gũi với ngôn ngữ của đời sống. Ngôn ngữ đối thoại

của nhân vật trong truyện ngắn Khái Hưng thường gần với lời ăn tiếng nói của

con người trong đời sống thường nhật. Nhà văn chọn lọc lời thoại đạt tới mức độ cá thể hoá cao tính cách nhân vật và qua lời thoại bộc lộ nội tâm nhân vật.

Vai trò chủ thể của nhân vật đã được chú ý đề cao. Tiếng nói của nhân vật

được xử lý một cách bình đẳng, ngang hàng với các chủ thể có mặt trong thế

giới nghệ thuật. Các nhân vật như đang hành động nói năng ngay trước mắt

bạn đọc. Người đọc không chỉ hình dung được diện mạo nhân vật mà còn

phân biệt được giọng người này với giọng người khác.

89

Trong truyện của Nguyễn Công Hoan lời đối thoại của nhân vật chiếm tỉ lệ rất cao so với lời của người kể chuyện (trừ một số truyện như Chiếc quan

tài, Thế là mợ nó đi Tây, Phành Phạch...). Ông rất tài dựng đối thoại giữa các

nhân vật. Lời đối thoại có tính hành động cao, ngôn ngữ đối thoại gần với

ngôn ngữ kịch. Ở các truyện như Tinh thần thể dục, Oẳn tà roằn, Ngựa người

và người ngựa, Thanh! Dạ... nếu lược bỏ đi lời trần thuật rồi ghép nối các lượt

lời trao đáp giữa các nhân vật với nhau, người ta vẫn có một câu chuyện đang

vận động và phát triển. Ngôn ngữ đối thoại của Thạch Lam ít và cũng ít có giá

trị độc lập so với lời trần thuật. Thông thường để có lời đối thoại, nhà văn tổ

chức trước khá nhiều lời trần thuật để tạo hoàn cảnh cho tiếng nói của nhân

vật cất lên. Ví dụ như trong Nhà mẹ Lê, sau gần ba trang kể về hoàn cảnh

nghèo khó, đàn con đông đúc cả thảy 11 đứa, nhà văn mới để cho lời đối thoại

đầu tiên xuất hiện. Lời đối thoại ngắn được nhân vật dùng theo cách nói

ngược, nói vui. Nếu tách bỏ lời dẫn trước và sau lời đối thoại trên thì chúng

không đủ sức diễn tả tình thương con của người mẹ nghèo, thậm chí có thể

hiểu sai tình cảm của nhân vật. Trong Hai lần chết, với ngót ba trang kể về

những ngày thơ ấu của Dung chỉ có hai lần xuất hiện tiếng nói của nhân vật -

tiếng nói của người mẹ:- Con này sau đến hỏng mất thôi! - May cho con nặc

nô ấy làm gì. Để nó làm rách ra à? Lời của người mẹ tự nói lên bao nỗi thua

thiệt của Dung từ tấm bé. Nó chứng minh, phụ hoạ thêm cho bao thiệt thòi của

Dung mà lời dẫn đang kể. Nếu tách bỏ hai lời thoại đó thì nội dung tự sự cũng

không bị thay đổi có chăng chỉ giảm đi sức lay động lòng người trước những

bất hạnh của nhân vật.

Nhân vật của Thạch Lam ít đối thoại. Ngay khi đối thoại, lời thoại cũng

ngắn, rất ngắn, và cũng chỉ có vài ba lượt lời. Trong một vài trường hợp, lời

đối thoại nếu chuyển thành lời nói gián tiếp, hoà vào lời tác giả thì cũng

không phương hại gì. Như lời than của mẹ Lê trước khi chết: "Trời ơi! Sao tôi khổ thế này" (Nhà mẹ Lê) hay lời cô đỡ mời Tâm vào thăm con "Mời ông vào,

xong cả rồi" (Đứa con đầu lòng). Lời đối thoại của nhân vật có nhiều chức

năng trong đó có hai chức năng quan trọng nhất: đưa đẩy câu chuyện vận

động phát triển và bộc lộ nội tâm cảm xúc của nhân vật. Lời đối thoại của

nhân vật Thạch Lam thiên về bộc lộ nội tâm cảm xúc nhiều hơn. Nhân vật của

ông tuy ít đối thoại nhưng lời thoại lại rất có giá trị biểu hiện tâm trạng cảm

90

xúc. Ứng xử ngôn ngữ của nhân vật qua từng hoàn cảnh cụ thể có thể cho chúng ta thấy được tính cách tâm trạng nhân vật một cách rõ nét. Lời đối thoại

của Tân trong Trở về cho thấy rõ đây là cuộc trò chuyện bắt buộc không mấy

hào hứng đối với anh ta. Tân muốn lấp liếm những tình cảm nhạt nhẽo với mẹ

đẻ, với cội nguồn, thờ ơ trước bao nỗi rưng rưng xúc động của người mẹ già

nua sau sáu năm trời mới được gặp con. Trong cuộc đối thoại với vợ, Tân

chưa tìm được mối liên hệ tình cảm với đứa con bé nhỏ hay khóc quấy phiền

nhiễu. Lời nói của anh tự bộc lộ tâm trạng khó chịu, không thích gần gũi con,

không thích làm những công việc giản đơn mà hạnh phúc của người cha.

Nhưng bí mật nội tâm của nhân vật vô tình đã bị bộc lộ. Như trạng thái ngạc

nhiên bất ngờ của Mai trước hành động của Sinh (Đói) - "Ô hay, anh làm sao

thế? "; trạng thái sửng sốt sợ hãi của Bình khi thấy Bào đến từ biệt với giọng

yếu ớt, phều phào như người hết hơi, "Chết chửa, anh làm sao thế?" Người

bạn trẻ. "Ôi chao, sớm với muộn mà có ăn thua gì?" hay trạng thái ngao ngán,

chán chường của chị Tý trong Hai đứa trẻ.

Trạng thái tâm lý của nhân vật bộc lộ rõ nhất ở giọng điệu của lời thoại.

Chẳng hạn giọng nhẫn nhục cam chịu của mẹ Lê: "Một buổi chiều, mà đàn

con nhịn đói đã suốt buổi, bác Lê vá lại manh áo rét, gọi đứa con cả đến rồi

bảo: "Ở nhà trông các em, tao vào ông Bá xem có xin được ít gạo nào không

(Nhà mẹ Lê). Mặc dù cậu con cả đã nhắc lại rằng, người ta không cho và rất

có thể cậu Phúc sẽ thả chó ra cắn, nhưng mẹ Lê vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận

chịu đựng để có gạo cho các con ăn. Trạng thái tâm lý của nhân vật trong đối

thoại có khi được nhà văn biểu thị trực tiếp bằng các từ ngữ trong lời dẫn. Ví

dụ vú già "buồn rầu" hỏi Dung: "cô đã tỉnh hẳn chưa? " Bà mẹ chồng thì "gay

gắt": "cô định tự tử để gieo tiếng xấu cho tôi à? nhưng đời nào, trời có mắt

chứ đã dễ mà chết được. Thế bây giờ cô định thế nào? định ở hay định về?";

Dung "buồn bã" trả lời: "con xin về" (Hai lần chết). Tương tự như vậy ở Một đời người trạng thái nội tâm của Liên cũng được biểu hiện qua những lời dẫn

thoại: "ghê sợ" khi thấy cái giọng "dịu dàng" của mẹ chồng; "hốt hoảng", "sợ

hãi" khi mẹ chồng hỏi có phải nàng sẽ đi Sài Gòn theo Tâm và "khinh bỉ"

trước những lời thoá mạ, những hành động thô bạo của Tích, chồng nàng. Ở

truyện Cái chân què trạng thái uất ức, chua chát, căm hờn của Minh cũng

được biểu thị bằng tính từ ngay trong lời dẫn: Minh "tấm tức" trả lời câu hỏi

91

của "tôi", "trầm ngâm" nói, "buồn rầu" và "thong thả" trả lời. Có khi trạng thái tâm lý nhân vật được chính nhân vật nói ra bằng ngôn ngữ cụ thể, chính xác

trong từng lời thoại như lời Huệ trong Tối ba mươi: "Liên, khóc làm gì nữa,

buồn lắm" hoặc lời Minh trong Cái chân què, "anh không biết, tôi chơi bời để

khuây khoả nỗi buồn và để quên đi"; lời Liên trong Một đời người: "các chị

bây giờ về nhà, chắc chồng con vui vẻ lắm, chỉ có em là khổ thôi" hoặc lời

Thanh trong Một cơn giận: "cái kỷ niệm buồn rầu ấy cứ theo đuổi tôi mãi đến

bây giờ, rõ rệt như cái việc mới xảy ra hôm qua. Sự đó nhắc cho tôi nhớ rằng

người ta có thể tàn ác một cách dễ dàng. Và mỗi lần nghĩ đến anh phu xe

ngoại ô kia tôi lại thấy đau đớn trong lòng như có một vết thương chưa khỏi".

Ngôn ngữ đối thoại trong truyện ngắn Thạch Lam không phải là phát

ngôn cho một tính cách mà là lời nói bộc lộ nội tâm với những trạng thái tâm

lý cụ thể và phức tạp. Có khi trạng thái tâm lý của nhân vật không chỉ bộc lộ

trong lời thoại mà còn được tác giả "hỗ trợ" bằng lời dẫn. Điều này hoàn toàn

thống nhất với ngôn ngữ trần thuật của nhà văn: từ ngữ nhằm biểu thị trạng

thái tâm lý, cảm giác, cảm xúc là chính yếu.

3.2.2.2. Độc thoại nội tâm

Độc thoại nội tâm là tiếng nói bên trong tâm hồn nhân vật, là lời phát

ngôn của nhân vật nói với chính mình, thể hiện trực tiếp quá trình tâm lí nội

tâm, mô phỏng hoạt động, cảm xúc, suy nghĩ của con người trong dòng chảy

trực tiếp của nó. Độc thoại nội tâm là thủ pháp nghệ thuật độc đáo của nhà văn

nhằm khám phá chiều sâu bên trong của nhân vật. Thông qua lời độc thoại nội

tâm, người đọc thấy được bản chất nhân vật, thế giới tâm hồn, trí tuệ và những

diễn biến tâm lý mà nhân vật không biểu lộ ra bên ngoài.

Khái Hưng đã sử dụng khá thành công thủ pháp độc thoại nội tâm. Khảo

sát truyện ngắn Khái Hưng, độc thoại nội tâm xuất hiện không nhiều bằng đối

thoại, nhưng mỗi khi thủ pháp này xuất hiện, nó đều thể hiện thế giới nội tâm nhân vật hết sức phong phú. Mặt khác, độc thoại nội tâm tuy ít xuất hiện,

nhưng lại có nhiều dạng thức thể hiện khác nhau.

Độc thoại nội tâm được thể hiện xen kẽ giữa ngôn ngữ người kể chuyện

và ngôn ngữ nhân vật. Truyện ngắn Bến đò năm xưa, nhân vật Nguyên mông

lung suy nghĩ. "Hình như ta đã để ở nơi này một kỷ niệm trong giây phút...

Thì ra dưới trời này, mọi vật không bao giờ thay đổi...". Thế rồi Nguyên lên

92

xe: "Cái xe gỗ lạch cạch, lắc lư, nhảy trên con đường đất gồ ghề, lồi lõm, không mấy khi được hân hạnh có chiếc ô tô qua lại. Nhưng Nguyên không

thấy khó chịu như ở quãng đường bên kia sông... Và chàng nghĩ thầm: Sau

mười lăm, mười sáu năm, người ấy còn nhớ mình mặc áo tơi da và cái vali

của mình có quai! Người ấy lại nhớ cả mình vui tính nữa". Ở đây, tác giả sử

dụng hai thủ pháp, biểu hiện và tự sự được sử dụng kết hợp và xen kẽ. Ý nghĩ

của Nguyên được biểu hiện qua ngôn ngữ của nhân vật xen kẽ với ngôn ngữ

tác giả. Trong nhiều hoàn cảnh, tình huống, độc thoại nội tâm còn được thể

hiện dưới dạng nhân vật tự đối thoại với chính mình. Thu Cúc trong Sóng gió

Đồ Sơn rất thương cảm cho mối tình chân thành của Văn Hải dành cho bạn

mình mà không được đáp lại. Nàng miên man một mình: "Đáng thương! con

người đa tình mà lại đi yêu một tảng đá! rồi mình cũng khéo cảm động hão.

Nhưng cũng nên bảo cho anh ta biết mà thôi đi, đừng đeo đuổi nó vô ích mãi.

Phải đấy, ta làm phúc bảo giùm!... hay ta hoạ một bài thơ chơi!". Những dòng

độc thoại nội tâm đem đến chiều sâu cho những miêu tả trong tác phẩm. Lúc

ấy nhân vật như phân thân để tự vấn, tự hỏi chính mình, qua đó những lớp

nghĩa của tác phẩm được hình thành. Nhà văn không phát ngôn cho nhân vật

bằng cách nói từ ngôi thứ ba, mà để nhân vật tự bộc bạch. Ở truyện ngắn

Đồng xu, tác giả dành hơn hai trang để viết về độc thoại của nhân vật Phiên.

Anh đang thất nghiệp, đói, chỉ có một đồng xu trong túi: "Một đồng xu! hừ, ta

có một tài sản nhỏ nhất thế giới! kỷ lục ấy khó lòng ai phá nổi. Đến những

người ăn mày cũng còn giàu hơn ta". "Chắc bác ta đương nguyền rủa mình, vì

bác ta cho rằng mình là một thằng keo bẩn". "... Chả biết mình có đáng sống

không, nhưng thực sự thì mình chẳng sống một tí nào!". "Nhưng mình sao lại

không sống? mình sống lắm chứ! không những mình sống mà còn sống sung

sướng bằng mấy cái bà có giọng the thé ở trên gác kia. Đây này bằng cớ đây

này... Đây này cớ rằng mình sung sướng hơn, giàu có hơn bà ta nữa, là mình có thể cho bà ta đồng xu cuối cùng của mình. Này cho! Cho đấy! chốc nữa

xuống thăm vườn cảnh tìm thấy lại không sướng mê tơi! Hừ! có biết đâu đồng

xu ấy là cả một tài sản của một thư sinh giàu tư tưởng, giàu lòng từ thiện. Ô

hay! sao mình lại ngông cuồng thế nhỉ? một đồng xu! sao mình lại phí của thế

nhỉ?”. Bao trùm lên đoạn độc thoại là giọng điệu hài hước, hóm hỉnh, bộc lộ

khá rõ tính cách của nhân vật.

93

Trong thế giới nghệ thuật của Khái Hưng, nhân vật hiện ra với tính cách đa dạng, phong phú và phức tạp. Độc thoại thường được xuất hiện khi nhân

vật được đặt trong mâu thuẫn với hoàn cảnh. Những tiếng nói của nhân vật,

những điều suy tư luôn đặt nhân vật vào những trạng thái cảm xúc miên man,

dài dằng dặc.

Bên cạnh biện pháp để nhân vật đặt ra cho mình câu hỏi, tự vấn mình là

biện pháp bộc lộ nội tâm bằng chính dòng ý thức liên tục chảy trong suy nghĩ

nhân vật, từ đó diễn ra sâu sắc quá trình suy nghĩ của con người trước những

tình huống tâm lý căng thẳng. Trong các truyện Tập ảnh, Đợi chờ, người đọc

có thể gặp những dòng độc thoại không dứt của nhân vật. Đây là một ví dụ

tiêu biểu về dòng độc thoại trong truyện ngắn Tập ảnh: - “Lý chau mày tự

mắng thầm: dị nghị! mình đã bảo không cần dư luận, sao còn sợ dị nghị?

chẳng qua chỉ tại mình rụt rè, do dự. Giá cứ ở lì trên Vĩnh Liên thì đã hề gì? -

Nàng cau có nhăn mặt và nàng cảm thấy ghét Tết như ghét kẻ thù. Ngày Tết là

những ngày mà người ta làm toàn những điều điên cuồng rồ rại, ăn bánh chưng

cho đau bụng, uống rượu cho mất lương tri, đốt pháo cho điếc tai và đến nhà nhau

chơi cho thêm bực mình. - Một tiếng thở dài. Một ý buồn. Gần ba mươi. Thì cứ

tự thú rằng năm nay mình hăm chín tuổi rồi. - Lý buồn rầu nhận thấy rằng thời

gian đã bắt đầu tuy chưa rõ rệt vạch dấu vết trên vầng trán rộng, trên đôi má

hồng tươi. - Vì sao bỗng dưng ba năm gần đây nàng bắt đầu ghét Tết? nàng

ngỡ rằng trong đời đàn bà tuổi ba mươi là cái giới hạn, đến đó người ta không

ưa được cuộc vui ầm ĩ, phiền phức nữa". Tình huống ở đây là cô Lý đang ngồi

xem tập ảnh của mình thời thanh niên và hồi nghĩ lại đời mình. Ngoài kia,

người người đang ăn Tết vui vẻ. Cô cảm thấy cô đơn, trơ trọi với chính bản

thân mình. Cô đã gần ba mươi tuổi mà vẫn ở vậy bởi thời trẻ tuổi cô đã đặt hết

tình yêu vào một người nhưng không được đền đáp lại. Bao năm trời, cô vẫn

sống khắc khoải trong tình yêu đó. Ngày Tết giở tập ảnh ra xem, cô miên man trong những suy tư không dứt vừa tiếc thời gian, tuổi xuân đã qua đi, vừa

buồn cho đời mình. Những độc thoại trên được trình bày dưới dạng thức chủ

quan, do tái hiện dòng ý nghĩ liên tục xuất hiện trong tâm hồn nhân vật theo

trật tự mà nó xuất hiện. Nhân vật chìm trong dòng suy tư, độc thoại và suy

tưởng về những tháng ngày đã qua. Dòng thời gian được tái hiện, độc giả hiểu

được những bước đi, thăng trầm của nhân vật cùng những cảm giác cô đơn,

buồn bã của cô Lý khi xem lại tập ảnh mình.

94

Thủ pháp độc thoại nội tâm đã giúp Khái Hưng rất nhiều trong việc khám

phá nội tâm phức tạp, đầy mâu thuẫn và tinh tế của con người. Nó mang lại

chiều sâu nội tâm cho nhân vật của Khái Hưng. Chính vì thế, Trương Chính

cho rằng: "Khái Hưng chú ý đến cử chỉ, ý nghĩa và sự biến đổi bên trong của

nhân vật hơn là hình thức bên ngoài. Ông là một nhà văn quan sát kỹ và có

một hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người" [23]. Tuy vậy, phần lớn lớp ngôn

ngữ độc thoại trong văn của Khái Hưng thường mang ngôn ngữ đặc trưng của tầng

lớp tiểu tư sản. Đó là “thứ ngôn ngữ mơ hồ, chỉ thích ứng với những cảm giác

bảng lảng, những cảnh tượng phảng phất những tình cảm mông lung, những ý

nghĩ thoáng qua, hoặc một thứ ngôn ngữ đặc biệt của trí thức thành thị, một thứ

ngôn ngữ kiểu cách của thính phòng”.

Trái lại, cũng là sự nhẹ nhàng, tự độc thoại nhưng nhân vật của truyện ngắn

Thạch Lam có chất giọng khác. Nhân vật của Thạch Lam ít hành động, thiên về

đời sống nội tâm, giàu cảm xúc, cảm giác do đó ông đã sử dụng hình thức độc

thoại nội tâm để bộc lộ một cách sâu sắc những cảm xúc, ý nghĩ thầm kín

trong tâm hồn nhân vật.

Ngôn ngữ độc thoại nội tâm của các nhân vật trong truyện ngắn Thạch

Lam xuất hiện dưới hai dạng: độc thoại (có lời dẫn của tác giả) và độc thoại

(không có lời dẫn của tác giả, chỉ có thể nhận ra qua sự thay đổi giọng điệu,

ngữ điệu). Trong đó, dạng thứ hai nhiều hơn và bộc lộ rõ nhất dòng tâm trạng

của nhân vật. Độc thoại có lời dẫn của tác giả như đối thoại nhưng lại không

phải là lời giao tiếp mà là tự nói với mình. Ngôn ngữ độc thoại dạng này rất

hiếm trong văn Thạch Lam nhưng khả năng biểu hiện nội tâm của nó không

nhỏ. Ta hãy thử xét lời của mẹ Lê: "Bác mơ màng thấy vàng son chói lọi

trong nhà ông Bá, thấy nét mặt gian ác và tinh nghịch của cậu Phúc, con chó

Tây nhe nanh chồm đến... - Trời ơi! Sao tôi khổ thế này?" trong truyện Nhà mẹ Lê. Chỉ một lời độc thoại - một tiếng than trời cũng đủ cho ta thấy nỗi đau

đớn, ấm ức và ai oán của người mẹ nghèo. Cũng như bao người dân ở cái xóm

ngụ cư này, gia đình bác Lê quanh năm thiếu ăn nhưng họ chưa bao giờ than

thở vì ai cũng nghèo khổ cả. Họ chỉ mong có người thuê mướn; thậm chí là

mướn không công để được nửa bát gạo đem về cho con. Vậy mà ngay cả điều

đó cũng không thể. Bác Lê đã nhẫn nhục đến nhà lão Bá với hy vọng xin được

95

chút gì. Nhưng kẻ giàu sang độc ác chỉ khiến bác đau đớn khốn khổ thêm. Và trong cơn mê, những hình ảnh hãi hùng lại kéo đến giày vò bác. "Trời ơi!" -

một tiếng than và "Sao tôi khổ thế này?" - câu hỏi biểu hiện sự đau đớn, ai oán

trong lòng nhân vật; báo hiệu giới hạn cuối cùng của sự chịu đựng. Nếu như

lời độc thoại của bác Lê là sự tự ý thức, tự nhận biết về đời mình tức là độc

thoại hướng nội thì lời độc thoại "Đồ khốn nạn" của Sinh trong Đói lại bộc lộ

thái độ khinh bỉ, giận dữ, phẫn uất của Sinh với Mai - vợ chàng, khi biết Mai

"ngoại tình". Và sau khi độc thoại, Sinh đã hành động rất quyết liệt, phũ

phàng. Sinh đuổi Mai đi để giữ cái danh dự mà chính chàng sau này lại tự

mình đánh mất.

Qua một số khảo sát, có thể nhận thấy, ngôn ngữ độc thoại có lời dẫn tác giả

trong truyện ngắn Thạch Lam rất ít nhưng mỗi khi nhân vật thốt lên lời thì ngôn từ

hàm chứa một dung lượng tình cảm, cảm xúc lớn. Ngôn ngữ độc thoại lúc này như

một sự giải phóng những gì đã kìm hãm, như một sự giải toả đối với trạng thái tâm

lý bị dồn nén trước đó của nhân vật. Độc thoại không có lời dẫn của tác giả xuất

hiện khá nhiều trong văn của Thạch Lam. Dạng độc thoại này khó phân biệt

với ngôn ngữ trần thuật của tác giả vì không có lời dẫn, chỉ có sự thay đổi về

giọng điệu, ngữ điệu; không tập trung trong một đoạn nào đó của tác phẩm mà

rải rác, đan xen, chắp nối khắp từ đầu đến cuối thể hiện dòng cảm xúc luân

chuyển không ngừng trong nội tâm nhân vật. Chẳng hạn ở các truyện Người

đầm, Cuốn sách bỏ quên. Nhân vật "tôi" trong Người đầm đã ngạc nhiên sửng

sốt khi thấy một người đàn bà Pháp ngồi ở ghế hạng nhì và băn khoăn "tự hỏi

sao người đầm ấy lại không lấy vé lô, hay ít ra vé hạng nhất, để ngồi chung

với những người sang trọng mà tôi thấy bệ vệ và mãn nguyện trên các dãy ghế

kia?". Khi thấy người đàn bà Pháp ấy mặc toàn một màu đen thì trong "tôi" lại

vang lên những câu hỏi, suy luận, phán đoán: "Có lẽ bà để tang. Tang cha mẹ,

người thân thích hay chồng? Không biết tại sao, tôi chắc chồng bà đã mất, để lại cho bà đứa bé kia". Như vậy nhân vật "tôi" không hề chú ý đến bộ phim

mà chú tâm vào người đàn bà Pháp với tất cả lòng thương mến hết sức tự

nhiên; Hơn thế "tôi" còn ao ước: "Người Pháp nào cũng tốt như bà; chúng ta

sẽ yêu mến nước Pháp đẹp đẽ và rộng lượng kia biết bao nhiêu, và hai giống

người khác nhau trên mảnh đất này sẽ hiểu biết nhau, coi nhau thân như anh

em một nhà". Trong cái "ao ước" của nhân vật "tôi" có tình cảm đằm thắm,

96

lòng kính trọng với một kẻ nhân từ mà không hề ác cảm, ác ý. Cho tới sau này, mỗi lần đi xem nhân vật "tôi" không thấy người đàn bà Pháp lại tự hỏi:

"Có lẽ bà ta đi tỉnh khác rồi chăng?". Như vậy, trong suốt truyện Người đầm,

ngoài những gì "nhìn thấy", "cảm thấy" thì nhân vật "tôi" không ngừng nghĩ

thầm, tự hỏi, ao ước. Tất cả thể hiện diễn biến nội tâm nhân vật. Không có

hành động nào cụ thể nhưng nhân vật đã bộc lộ mình rất rõ: đó là một người

giàu lòng trắc ẩn; có cái nhìn độ lượng, đầy thương mến với một người đàn bà

Pháp xa lạ. Tác giả khéo léo dẫn dắt cảm xúc của nhân vật biến đổi linh họat

nhờ vào những sự thay đổi luân chuyển của dòng suy nghĩ. Tất cả những ngôn

từ, những sự đối thoại, độc thoại đều quy tụ chung ở một mục đích là làm nổi

lên trên nhất tâm trạng của nhân vật, có đơn giản, có phức tạp, có sự nhất

quán, có sự mâu thuẫn khó phân định rạch ròi. Ở truyện Cuốn sách bỏ quên,

ngôn ngữ độc thoại nội tâm lại cho thấy sự phức tạp trong tâm lý nhân vật

Thành. Không giống độc thoại nội tâm của các nhân vật khác, tiếng nói của

Thành dường như được phân tách thành những lời đối lập như tranh cãi nhau

và những ý nghĩ bao biện, những lời tự hỏi, tự kết luận của nhân vật. Có lúc

tiếng nói bên trong của Thành lại là lời ông Xuân, giám đốc nhà xuất bản,

niềm nở và nịnh nọt: "Sách của ông bán chạy quá. Thật tôi chưa từng thấy nhà

văn nào được hoan nghênh như ông". Lời nói này bộc lộ mơ ước cao đẹp của

chàng: mơ ước sự thành công rực rỡ xứng đáng với tài năng. Nhưng sự thực

thì sách của chàng bị nhà xuất bản từ chối. Vì thế Thành chua chát "tự hỏi

không biết có nên chế giễu mình hay không". Trên tàu, Thành lại tự an ủi lại

thiết tha hy vọng: "Thật ra sách không bán chạy chưa phải chứng tỏ rằng

chàng không có tài, nhiều nhà văn nổi tiếng khắp hoàn cầu lúc mới đầu chẳng

bị thiên hạ bỏ quên và hững hờ là gì. Sự lãnh đạm của công chúng nhiều khi là

cái dấu hiệu của tài năng xuất chúng, không được người ta hiểu, vì vượt ra

ngoài khuôn sáo thường". Suốt cả hành trình của Thành, những lời độc thoại vẫn tiếp tục vang lên. Thấy một thiếu nữ bước lên xe, Thành chăm chú quan

sát lối phục trang nửa quê nửa tỉnh rồi phỏng đoán là học sinh hay người buôn

bán? Đến đoạn thiếu nữ giở đúng cuốn sách của Thành ra đọc thì một mình

Thành đóng cả ba vai; lời độc thoại của chàng là lời một người bạn hỏi: "Kìa,

Anh Văn Sơn? Thế nào, cuốn Người bạn của anh có bán chạy không?" và câu

trả lời mà chàng tưởng tượng ra: "cũng khá". Còn thiếu nữ khẽ thưa: "Em xin

97

lỗi vì sự đường đột, nhưng có phải ông là Văn Sơn không ạ?". Thành đã tự độc thoại bằng lời của cả hai người khác như thế. Rồi chính chàng lại thấy xấu

hổ vì những gì mình vừa mới tưởng tượng ra. Chàng lại tự chất vấn: "Chỉ một

người đọc văn mình cũng đủ làm cho chàng cảm động đến thế ư?". Cuối cùng,

thiếu nữ xuống một ga trước chàng, để lại cuốn Người bạn trên ghế, trong đầu

Thành lúc bấy giờ hiện lên hàng loạt câu hỏi như mũi kim đâm thẳng vào tim

làm chàng đau đớn: "ngộ không phải thiếu nữ bỏ quên chăng? Biết đâu nàng

chẳng bỏ lại vì cuốn truyện tồi khiến nàng không vừa lòng? Biết đâu nàng

không rõ chính chàng là tác giả và cố ý bỏ sách lại để tỏ sự lạnh nhạt của

nàng?" Những câu hỏi ấy cứ xôn xao trong óc Thành khiến cái vui mong

manh như sắp tắt. Đó là sự thất vọng, là thực tế phũ phàng mà Thành thấy

ngay trước mắt, nó đối lập hoàn toàn với ước vọng cao đẹp, lãng mạn của

chàng. Như vậy, độc thoại nội tâm, ở đây, đã cho thấy bi kịch tinh thần của

một văn sĩ.

Nhiều khi người đọc không thấy bóng dáng của những đối thoại gay gắt

nhưng vẫn cảm nhận rất rõ những mâu thuẫn, xung đột, đấu tranh của tâm lý

nhân vật qua những đoạn độc thoại. Và dường như chính những biến đổi khôn

lường của những dòng cảm xúc đan xen mới làm nổi lên được suy nghĩ, trăn

trở của nhân vật và cảnh huống đang gặp phải. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm

trong truyện Kẻ bại trận lại bộc lộ cuộc đấu tranh tư tưởng trong nhân vật

"tôi" khi đột nhiên Lệ Minh, người đồng chí cũ đến nhờ cậy. Thoạt tiên, khi

vú già nói có Lệ Minh đến tìm, nhân vật tôi đã hết sức băn khoăn lo ngại; sợ

người bạn làm tan nát cái yên tĩnh của gia đình mình: "Lệ Minh, người bạn

đồng chí gặp gỡ ở Hà Thành ba năm trước, sao cô lại về đây? Cô đến bí mật

thực. Không biết cô đến tìm tôi có việc gì trong lúc đêm khuya khoắt như thế

này? Đến nhà tránh nạn chăng?". Đến khi Lệ Minh khẩn khoản nhờ "tôi" tìm

việc giúp "tôi" cảm thấy mình hèn nhát không dám hứa và cũng không dám mời Lệ Minh ở lại. Nhưng ngay sau đó "tôi" đã tự thanh minh bao biện:

"Nhưng biết làm thế nào? Mời cô ở lại đây ư? Tôi nghĩ đến cái giận dữ của

Thanh mà sợ: nàng chẳng sẽ làm tan hoang nhà cửa ra mất? ". Cuối cùng, lòng

ích kỷ của một công chức quen ăn no mặc ấm đã chiến thắng, "tôi" để Lệ

Minh ra đi giữa đêm, chìm khuất vào trong bóng tối, dù "tôi" biết mình có

phận sự giúp Lệ Minh một số vốn nhỏ để làm ăn. Lệ Minh đi rồi "tôi" lại băn

98

khoăn tự hỏi trong hai hình ảnh: người thiếu niên hăng hái nhiệt tình năm xưa với hình ảnh người trưởng giả an nhàn, hình ảnh nào là thật của "tôi"?

Độc thoại là ngôn ngữ mang tính bộc lộ rõ nhất. Đó là lời bộc lộ nội tâm

của các nhân vật. Nhưng phụ thuộc vào mỗi hoàn cảnh, tình huống mà ngôn

ngữ độc thoại nhiều hay ít. Thường ở các nhân vật trí thức tiểu tư sản có sự tự

nhận thức thì ngôn ngữ độc thoại nhiều hơn. Và cũng ở đây, ta thấy rõ được

những bí mật sâu kín bên trong mà nhân vật tự thú nhận. Tìm hiểu ngôn ngữ

độc thoại ta còn thấy một điều: đó là sự hoà hợp giữa ngôn ngữ độc thoại của

nhân vật với ngôn ngữ của tác giả, người trần thuật. Sự hoà hợp này chứng tỏ

sự thấu hiểu, đồng cảm của nhà văn với nhân vật. Hay nói cách khác Thạch

Lam đã nhập thân vào nhân vật để diễn tả những cảm xúc, cảm giác, những

trạng thái tâm lý một cách chính xác, uyển chuyển.

Nhận xét về nghệ thuật ngôn ngữ của Thạch Lam, Nguyễn Tuân viết

"Thạch Lam đã làm cho tiếng Việt gọn ghẽ đi, co duỗi thêm, mềm mại và tươi

đậm hơn. Thạch Lam có đem sinh sắc vào tiếng ta"[58]. Ngôn từ nghệ thuật

trong truyện ngắn Thạch Lam mang đậm màu sắc dân tộc gắn với cốt cách của

người trí thức bình dân. Trong những trang viết của ông, chúng ta ít thấy

những từ Hán Việt, và cũng không thấy Thạch Lam mượn lời, mượn ý của

văn Tây mà chỉ thấy tiếng nói dân tộc giản dị trong sáng với những hình ảnh

quen thuộc mang hương sắc đồng quê Việt Nam. Có thể nói, Khái Hưng và

Thạch Lam là những nhà văn có nhiều cách tân trong phương diện sử dụng

ngôn từ. Phần đóng góp của các nhà văn trong Tự lực văn đoàn nói chung, của

Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng vào công cuộc cách tân văn học Việt Nam

những năm đầu thế kỷ XX rất đáng ghi nhận.

3.3. Giọng điệu

Mỗi thể loại có những đòi hỏi và yêu cầu khắt khe riêng đối với giọng

điệu biểu hiện. Mỗi thời kỳ có thể loại riêng phù hợp và kéo theo đó là những thay đổi giọng điệu. Sự thay đổi ấy bắt nguồn sâu xa và trực tiếp từ sự đổi

thay của thời đại và của tâm lý con người. Cách cảm khác, cách tư duy khác

trước đã chi phối đến cách viết và giọng điệu của từng nhà văn. Từ điển thuật

ngữ văn học đã định nghĩa: "Giọng điệu là thái độ, tình cảm, lập trường, tư

tưởng, đạo đức của nhà văn đối với hiện tượng được miêu tả trong lời văn quy

định cách xưng hô, gọi tên, dùng từ, sắc điệu tình cảm, cách cảm thụ xa, gần,

99

thân sơ, thành kính hay suồng sã, ngợi ca hay châm biếm" [21]. Giọng điệu phản ánh lập trường xã hội, thái độ tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ của tác giả,

có vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn và tác dụng truyền

cảm cho người đọc. Thiếu một giọng điệu nhất định nhà văn chưa thể viết ra

được tác phẩm, mặc dù đã có đủ tài liệu và sắp xếp xong hệ thống nhân vật".

Để nghiên cứu giọng điệu một nhà văn, người nghiên cứu buộc phải tìm

thấy những nét đặc sắc nhất trong cốt cách sáng tạo của người nghệ sỹ, trong

cảm quan nghệ thuật của ông ta, phải đặt sáng tác của nhà văn ấy trong thời

đại. Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đăng Điệp, việc nghiên cứu giọng điệu

trong tác phẩm phải trải qua bốn thao tác cơ bản: xác định tư thế của người

nói và điểm nhìn trần thuật; khảo sát nghệ thuật xây dựng lời văn để biểu hiện

giọng điệu, vai trò và mô típ trong việc thể hiện giọng điệu; lý giải chức năng

và vai trò của giọng điệu trong chỉnh thể tác phẩm.

Mỗi truyện phải được kể theo một giọng điệu riêng, không giống bất cứ

truyện nào. Chính giọng điệu góp phần quan trọng tạo nên phong cách riêng

của nhà văn. Trong luận văn này chúng tôi khảo sát một số giọng điệu cơ bản

nhất, nổi bật nhất trong truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam. Từ đó có thể

nhận diện phong cách riêng, cái "tạng" riêng độc đáo của mỗi nhà văn.

3.3.1. Giọng thƣơng cảm, trầm buồn Khái Hưng vốn là một trí thức tiểu tư sản, nhưng khi viết về những người

dân nghèo, nhất là phụ nữ và trẻ em, ông vẫn dành cho họ sự cảm thông chia

sẻ. Giọng điệu cảm thương của Khái Hưng thể hiện khá rõ khi viết về nhân

vật Đông trong truyện Bến Hòn gai. Chị Đông là người con gái đẹp nhất làng.

Chị yêu và tin tưởng một mực vào anh giáo làng bên. Hai người muốn lấy

nhau nhưng gia đình chị Đông không đồng ý vì đã nhận lời ông lý Cựu. Hai

gia đình đã sắp xếp một cuộc hôn nhân giữa chị Đông và anh Bê. Chính

những hủ tục nghiệt ngã "cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy" đã đẩy chị Đông rẽ sang bước ngoặt cuộc đời. Chị và anh giáo đi lại với nhau, có thai được năm

sáu tháng. Nhưng "anh giáo đổi lên tỉnh, không ai đi lại thăm nom gì chị ấy

nữa". Sự bội bạc của người yêu làm chị Đông đau đớn, khóc lóc vật vã. Chị đẻ

rơi đứa con trai trên bờ ruộng nhưng không dám đem về vì sợ bị "cạo đầu bôi

vôi", "thả bè trôi sông". Chị Đông đành phải lấy con trai ông lý Cựu. Hai

người bỏ làng ra bến Hòn Gai sinh sống. Từ một thiếu nữ xinh đẹp, cuộc sống

100

lam lũ đã biến chị thành một người đàn bà nhếch nhác, lắm điều, tục tằn, thô lỗ, luôn mồm "gào thét, kể lể, trách móc chồng". Ngôn ngữ của chị toàn

những "lời mỉa mai, độc địa, những câu phương ngôn, tục ngữ chua cay". Con

người chị biến đổi hoàn toàn như vậy, song chúng ta vẫn bắt gặp một giọng

điệu đầy trân trọng thương cảm của tác giả dành cho chị, bởi tất cả sự biến đổi

đó không phải do chị gây nên. Ở đây Khái Hưng cũng gián tiếp lên tiếng tố

cáo xã hội với những hủ tục bất công vô nhân đạo đã đẩy con người vào hoàn

cảnh khổ đau, vào cuộc đời túng quẫn, thiếu thốn. Nếu sự cả tin của chị Đông

phải trả giá bằng một cuộc sống không hạnh phúc với chồng ngày nào cũng

cãi nhau vài lần thì sự ngây thơ của Tẹo trong truyện ngắn Dưới ánh trăng

còn phải trả giá nặng nề hơn, bằng chính cuộc đời mình. Khái Hưng đã để

Văn tự thốt ra những lời "thú tội" về bản thân mình: "Người ta đương sống cái

đời giản dị, bình thường của người ta, mình về quyến rũ người ta. Rồi khi mãn

nguyện lại bỏ mặc người ta, như thế không gọi là khốn nạn là gì?". Lời tự thú

của Văn cũng chính là giọng điệu cảm thương của Khái Hưng dành cho nhân

vật Tẹo, người phụ nữ qua con mắt của Văn "giống hệt các cô gái quê khác,

thô lỗ, đần độn, ngu ngốc".

Có thể nói, trong nhiều truyện, đặc biệt khi viết về người dân nghèo Khái

Hưng đã dành cho nhân vật của mình những tình cảm thật đặc biệt, trìu mến,

cảm thông và chia sẻ. Giọng điệu cảm thông, chia sẻ đã mang lại hiệu quả

nghệ thuật, đặc biệt trong một loạt truyện như: Nước chảy đôi dòng, Anh phải

sống, Xanh cà bung, Người vợ mù, Biển, Lòng tốt...

Truyện ngắn Thạch Lam có một chất giọng riêng, mỗi truyện có cấu tứ

và giọng điệu như một bài thơ trữ tình nên thơ, trong trẻo và dung dị lạ

thường. Ngay từ lần xuất bản đầu tiên tập truyện Gió đầu mùa, Khái Hưng đã

rất tinh tế nhận định: “Ở chỗ mà người khác dùng tư tưởng, dùng lời nói có

khi rất rậm để tả cảnh, tả tình, ông chỉ nói một cách rất giản dị cái cảm giác của ông, cái cảm giác ấy bao quát hết tư tưởng của độc giả và tác giả, nhiều

khi đi xa hơn, sâu hơn tư tưởng vì có cái cảm thấy mà ta không thể dùng tư

tưởng để mô tả, giải phẫu cái cảm giác của ta ra được [53].

Vũ Ngọc Phan trong Nhà văn hiện đại đã phát hiện: "Có một ngòi bút lặng

lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút chuyên tả tỷ mỷ những cái rất nhỏ và rất đẹp,

những cảm tình, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người, mà

101

ông tả một cách thật tinh vi" [81]. Phong Lê với bài viết Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn đã chỉ rõ: điểm nổi bật là Thạch Lam có một lối văn nhuần nhị, tinh tế,

gọn và gợi được thật là rành rõ những trạng thái của sinh hoạt, xúc cảm và tâm

hồn. Sự chắt lọc ngôn từ giàu chất biểu cảm trong văn chương Thạch Lam đã tạo

nên một sức mạnh riêng không lẫn với một ai, mà chúng ta có thể đánh giá là

giọng văn đầy ám ảnh. Quả là chất giọng trầm buồn, thương cảm luôn ám ảnh

người đọc khi đọc những trang văn của Thạch Lam. Giọng điệu ấy bàng bạc

trong hầu hết các sáng tác của ông, đặc biệt những tác phẩm mang màu sắc hiện

thực đậm nét như: Nhà mẹ Lê, Một đời người, Hai lần chết, Người bạn trẻ,

Người lính cũ, Cái chân què... Ở những truyện này, nhân vật thường bị đặt vào

trong những hoàn cảnh khó khăn trở ngại, đói nghèo dường như lúc nào cũng

đeo đẳng số phận họ, đẩy họ vào những tình huống đầy tuyệt vọng. Nhà văn vừa

kể về cảnh đời vừa diễn tả cảm xúc tâm trạng của họ. Với giọng điệu đó, Thạch

Lam truyền tới người đọc niềm cảm thương sâu sắc trước những cảnh đời cơ cực

bất hạnh cùng niềm tin yêu đối với những con người nhỏ bé.

Nhà mẹ Lê là một câu chuyện thương tâm được kể bằng giọng văn

thương cảm. Giọng điệu đó cất lên ngay từ những dòng đầu của truyện mang

đậm âm sắc ngậm ngùi chua xót. "Người phố chợ là bảy tám gia đình nghèo

khổ không biết quê quán ở đâu, mà người dân trong huyện vẫn gọi một cách

khinh bỉ: những kẻ ngụ cư". Những con người nghèo khó phải rời quê hương

bản quán làm thuê đủ mọi nghề để kiếm miếng ăn. Giọng buồn thương ngậm

ngùi, thấm trong lời văn kể về gia cảnh khốn khó nhà mẹ Lê. "Mùa rét trải ổ

rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó trông như cái ổ chó, chó mẹ và

chó con lúc nhúc". Những ngày đói rét, "mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún,

thằng Hi mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới

manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét như con trâu chết". Những

hồi ức chập chờn trong cơn mê sảng của Nhà mẹ Lê buồn thê thiết. Cả một đời người đằng đẵng chỉ có những ngày khổ sở nhọc nhằn. Nó như một định

mệnh dành cho người nghèo. Đến niềm vui cũng rất cỏn con tội nghiệp,

không cất cánh ra khỏi miếng ăn và cái đói. Đó chỉ là nắm gạo cho con, bữa

cơm nóng mùa rét, hay giản đơn hơn nữa là có người mướn làm mỗi ngày cho

dù công sá rẻ mạt. Giọng buồn thương nhẫn nhịn xót xa khi kể về cái chết đau

đớn của mẹ Lê kéo theo cái chết chầm chậm của đàn con dại. Truyện kết thúc

102

nhưng giọng cảm thương, trầm buồn vẫn đọng lại đâu đây trong nỗi lo âu nặng nề của người dân phố chợ.

Cuộc sống nơi phố huyện nghèo trong rất nhiều truyện ngắn Thạch Lam

mang những ý nghĩa tố cáo sâu sắc. Nhà văn không dụng công để khắc họa

những mâu thuẫn, xung đột hay những biến cố quan trọng mà chỉ kể lại một

cách nhẹ nhàng những hoàn cảnh, những trải nghiệm, những gì mình chứng

kiến. Hai đứa trẻ là niềm cảm thương day dứt đối với những mảnh đời thầm

lặng như những cái bóng lù mù, bị chôn vùi trong kiếp sống vô danh vô nghĩa.

Giọng điệu trầm buồn man mác trải dài theo từng trang văn. Nỗi buồn ngưng

đọng trong cảnh phố huyện chiều hôm, êm ả như ru, văng vẳng tiếng ếch nhái

kêu ran ngoài đồng ruộng theo gió nhẹ bay vào. Nỗi buồn lan toả trong bóng

tối, lẩn trong những quầng sáng, hột sáng mong manh. Ngọn đèn của chị Tý,

gánh phở của bác Siêu, tiếng đàn bầu của bác Xẩm... Cả phố huyện tiêu điều

xơ xác đã phối khí hoà thanh mà tấu lên một khúc nhạc buồn. Đó là nỗi buồn

nhẹ, buồn mờ nhưng dai dẳng, ngưng đọng tù hãm. Nó làm mòn đi ước mơ,

khát vọng sống, biến niềm mong ước chờ đợi vốn có ý nghĩa tươi đẹp rốt cục

lại chỉ còn là thói quen qua ngày. Giọng điệu buồn thấm sâu trong hồi ức của

Liên về Hà Nội xa xăm. Đó là "gia sản tinh thần" của Liên còn mãi đến bây

giờ, là những cốc nước xanh đỏ trong những cuộc đi chơi, Hà Nội nhiều đèn

quá, rực sáng và lấp lánh! Giữa dòng âm điệu buồn thương ngậm ngùi có

những âm thanh náo nức và ánh sáng rực rỡ của đoàn tàu từ Hà Nội về. Đoạn

văn ngắn, mang âm điệu tươi vui rộn rã hiếm có trong sáng tác của Thạch

Lam. Một loạt những động từ mạnh, tính từ sáng được sử dụng, rất có giá trị

biểu cảm: "Hai chị em nghe tiếng rồn rập, tiếng rít mạnh vào ghi. Một làn

khói bừng sáng trắng lên đằng xa, tiếp đến tiếng hành khách ồn ào khe khẽ"...

"Tiếng còi tàu đã rít lên, và tàu rầm rộ đi tới... đoàn xe vụt qua, các toa đèn

sáng trưng, chiếu ánh sáng cả xuống đường. Liên thoáng trông thấy những toa hàng trên sang trọng lố nhố những người, đồng và kền lấp lánh". Giọng điệu

rộn rã trong đoạn văn ngắn đó không đủ làm ấm sáng cả không khí buồn tẻ

ngưng đọng trong tác phẩm. Một thế giới tươi sáng rộn rã vụt qua phố huyện,

khác với ngọn đèn con của chị Tí và ánh lửa của bác Siêu. Thế giới tươi sáng

rộn rã đó càng làm cho người ta thấm thía về kiếp sống bị bủa vây, bị giam

cầm trong cái lặng lẽ trôi xuôi của những mảnh đời vô nghĩa, tăm tối không

sao thoát ra được.

103

Cùng chung giọng điệu trầm buồn, thương cảm nhưng ở mỗi tác phẩm

của Thạch Lam giọng điệu này được thể hiện khác nhau. Đó là giọng chán

nản tủi hổ khi con người phải ăn vụng ăn trộm miếng bánh, miếng thịt đáng

nguyền rủa (Đói). Giọng bi ai đau xót trước số phận đen đủi của người phu xe

vì kéo xe vào phố kiếm thêm mấy xu mà bị phạt số tiền lớn, bị đánh đập phải

bỏ trốn, kéo theo cái chết của đứa con tội nghiệp (Một cơn giận). Giọng buồn

thương xen lẫn cảm phục sâu sắc trước cuộc đời vất vả và đức hi sinh lặng lẽ

cho gia đình, cho người thân của Tâm (Cô hàng xén). Giọng đau xót nghẹn

ngào trước cuộc đời đầy thua thiệt từ tấm bé của Dung đến tận khi lấy chồng,

muốn chết để thoát nhục cũng không xong để rồi sẽ càng chìm sâu vào dòng

khổ nhục (Hai lần chết). Giọng chán chường cay đắng kể về cảm giác lạnh lẽo

thấu tận đáy tâm hồn lúc năm hết tết đến, ở chốn nhơ bẩn của hai cô gái làm

nghề bán hoa (Tối ba mươi)...

Đọc tác phẩm của Thạch Lam, chúng ta cảm nhận trái tim nhân hậu yêu

thương của ông trải trên từng trang sách, qua số phận của từng nhân vật. Qua

lời văn, Thạch Lam luôn truyền cho bạn đọc tình cảm yêu thương nâng niu

những vẻ đẹp bình dị của cuộc sống, niềm tin của con người. Ở Hai đứa trẻ

đó là niềm khát khao chờ đợi một thế giới đầy ánh sáng và âm thanh. Ở Người

lính cũ là khí khái đàng hoàng của người lính dù lâm vào cảnh cùng quẫn, rơi

xuống tận đáy của sự bần cùng. Ở Người bạn trẻ là tình cảm bạn bè thương

yên tôn trọng. Ở Một đời người, Cô hàng xén, Hai lần chết, Tối ba mươi là vẻ

đẹp tâm hồn của những người phụ nữ... Cách nhìn cuộc sống như vậy đã tạo

cho lời văn nghệ thuật của Thạch Lam có giọng điệu trầm buồn man mác hoà

vào giọng điệu cảm thương. Giọng điệu đó ở Thạch Lam cũng khác với Hồ

Dzếnh, một tác giả cùng phong cách trữ tình. Tuy cùng viết về những cảnh

đời cơ cực lam lũ như Chị Yên, Nhà nhiều con, Sáng trăng suông, Chị dâu tôi, Em Dìn... Nhưng Hồ Dzếnh viết bằng giọng tâm sự chia sẻ nhiều hơn. Bởi Hồ

Dzếnh thường viết về những người thân, viết về "chân trời cũ" của riêng ông,

viết về nỗi niềm chông chênh của một kẻ lạc loài giữa hai miền xứ sở. Còn

Thạch Lam, tuy ông có cả một "quê hương sáng tác" nhưng những nhân vật

với những số phận đau khổ đó, ta vẫn gặp đâu đây trong cuộc đời.

104

3.3.2. Giọng triết lý nhân sinh Mỗi nhà văn có một chất giọng riêng, nó thể hiện cái tạng, cái chất của từng người. Chứng kiến những cảnh ngộ, những ngang trái, éo le trong cuộc

sống quanh mình, nhà văn là người ghi lại những đổi thay, những biến

chuyển. Nhưng một điều cần phải thừa nhận rằng, những gì viết ra hời hợt,

đơn giản sẽ không có sức sống lâu bền. Từ những cảnh ngộ ấy, con người ấy,

mỗi nhà văn tìm cho mình một cách thể hiện, trực tiếp, gián tiếp… nhưng phải

thể hiện được ý đồ, tư tưởng của mình. Sáng tác của Khái Hưng rất đa dạng,

phong phú về giọng điệu: giọng trữ tình, giọng tự sự khách quan, giọng tâm

tình trầm lắng... nhưng nổi bật hơn cả là giọng triết lý trong các truyện ngắn

của ông. Dường như đằng sau mỗi truyện ngắn của Khái Hưng đều toát lên

một triết lý mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Những suy nghĩ, trăn trở về cuộc

đời, lẽ sống được nhà văn thể hiện qua những suy nghĩ của nhân vật, từ đó gợi

cho người đọc những suy tư. Truyện Hai cảnh truỵ lạc kể về một gia đình vốn

giàu có nhưng chẳng may bị sa sút, người em phải lên thành phố kéo xe bò.

Người anh cho rằng em mình đã làm hoen ố thanh danh của gia đình, nhưng

người em đáp: "Nghèo khác, thanh danh khác. Yên phận nghèo, làm việc để

sống, sao lại tổn hại đến thanh danh được. Ở đời chỉ có sự lười biếng, ỷ lại

mới là bê tha". Đó cũng chính là suy nghĩ của nhà văn về cuộc sống, phải biết

yêu và tôn trọng lao động.

Không chỉ triết lý về lẽ sống, Khái Hưng còn triết lý về đạo đức làm

người. Truyện ngắn Bến Hòn Gai xoay quanh số phận chị Đông nhỡ dại với

anh thầy giáo, đẻ con ở ruộng lúa, đặt tên con là Ruộng Lúa. Ở phần kết tác

giả dùng ngay câu chuyện này để liên tưởng đến chuyện khác: "Mười hai giờ

đêm, tôi lên bến Quảng Yên, đến thuê phòng ngủ ở một khách sạn. Tới nơi,

tôi gặp một thiếu niên âu phục sánh vai cùng một cô gái quê hấp tấp bước lên

thang gác. Tôi mỉm cười nghĩ ngẫm: Biết đâu lại không có một thằng Khách

Sạn ra đời".

Triết lý về đạo đức, tình người trong tác phẩm của Khái Hưng rất chua

xót. Ông nói tới sự bội bạc trong tình yêu, sự nhẹ dạ ngây thơ của những cô

gái quê và nói tới hậu quả của nó. Đó là những đứa con sinh ra không được sự

che chở của cha mẹ phải sống lay lắt qua ngày ở một nơi tạm bợ nào đó. Triết

lý đau đáu về nhân tình của ông là lời kêu gọi thức tỉnh lương tri, phải biết

sống có trách nhiệm với chính bản thân mình và với xã hội. Có lẽ những điều

105

ông suy nghĩ, chiêm nghiệm là những điều ông hàng ngày chứng kiến, thường ngày vẫn diễn ra trong cuộc sống. Những triết lý về đạo đức, về tình người

được nhà văn chắt gạn, đúc kết từ những cảnh đời cụ thể. Đoạn kết truyện

Biến đổi, Khái Hưng để nhân vật chua chát đau đớn về lẽ đời, về những điều

mình đã chứng kiến: "Hai năm sau, Lực và Đoàn không về xem hội Keo nữa.

Mà hình ảnh cô gái quê con ông đồ nho đạo đức cũng không còn phảng phất

trong trí nhớ hai chàng. Bỗng hôm nay, trên đường Yên Phụ, hai chàng gặp

Hiền nhởn nhơ trong bộ y phục tân thời. Cả một quãng đời phóng đãng như in

sâu dấu vết lên bộ mặt dạn dày mưa gió... Lực thở dài bảo Đoàn: - Nếu quả

thực những người chết vẫn quanh quất chốn dương gian, thì biết bao những

linh hồn sẽ đau đớn vì những biến đổi của người sống".

Chứng kiến xã hội với bao thay đổi đảo điên, giọng triết lý của Khái

Hưng cũng chua chát, chế giễu. Ở điểm này, ông gần với nhà văn hiện thực

phê phán Vũ Trọng Phụng. Vũ Trọng Phụng gọi xã hội là "xã hội chó đểu".

Chủ đề, kết cấu, nhân vật của ông đều bị chi phối mạnh mẽ bởi nhãn quan "vô

nghĩa lý" về đời sống. Vũ Trọng Phụng triết lý về sức mạnh của đồng tiền, về

thế đạo nhân tâm trong xã hội chạy theo đồng tiền. Ông thấy: "Cuộc đời chó

đểu chẳng có nghĩa lý gì... mà con người ở đời chẳng ai ăn ở ra cái quái gì";

hoặc là "sự đời chung quy lại chỉ là những vòng chạy trong đèn cù, luẩn quẩn

loanh quanh, và truyện không thể nào khác được". Triết lý trong tác phẩm của

Vũ Trọng Phụng đã tố cáo mạnh mẽ chế độ bất công tàn bạo đã vùi dập quyền

sống, tha hoá nhân cách con người. Khái Hưng không có chất giọng như Vũ

Trọng Phụng, cái mà nhà văn chủ trương khắc họa là những cảnh đời éo le,

ngang trái của lớp người tiểu tư sản nghèo, của người dân lao, động nhưng cái

đáng đề cao trân trọng chính là tình cảm giữa con người với nhau. Tiếng

dương cầm là câu chuyện cảm động về gia đình của Đoàn, vợ anh bị câm,

nhưng họ vẫn sống hoà thuận bên nhau. Khái Hưng để cho Đoàn nói lên những suy nghĩ thấm thía của anh về hạnh phúc, đó cũng là triết lý của Khái

Hưng về hạnh phúc ở đời. Cũng chung một suy nghĩ về hạnh phúc như thế,

trong truyện ngắn Thời chưa cưới, Khái Hưng kín đáo thể hiện triết lý về tình

yêu: "Hạnh phúc là phải biết giữ gìn, vun đắp, nếu không nó sẽ bị mai một

theo thời gian. Đôi vợ chồng Hoàn và Phát đến ngày cưới lại thấy chán nhau,

chính là do họ đã không xây đắp, vun vén hạnh phúc của mình".

106

Khái Hưng sinh ra và lớn lên trong một gia đình khá giả. So với phần lớn các nhà văn khác, ông sống đầy đủ, không phải lo miếng cơm, manh áo hàng

ngày. Cho nên, ông ý thức được rất rõ vai trò của đồng tiền trong xã hội lúc

đó. Đồng tiền chi phối toàn bộ đời sống con người, đồng tiền khiến người ta

giả dối, lừa lọc nhau. Trong truyện Đồng xu kể về tình cảnh một anh chàng

Phiên thất nghiệp, nghèo đói, chỉ có duy nhất một đồng xu là tài sản. Anh ta

phải nhịn đói, nhịn khát, thèm thuồng đủ thứ. Kết thúc truyện là suy nghĩ của

Phiên trong nhà lao: "Tối hôm ấy, Phiên được ăn bữa cơm đầu tiên sau hai

ngày nhịn đói, bữa cơm tù. Chàng vui vẻ nghĩ thầm: Thế mới biết công dụng

của đồng xu to thực!". Nguyên do là trong lúc hứng chí Phiên đã vứt đồng xu

cuối cùng của mình vào một nhà giàu có. Sau đó chàng tiếc rẻ lại trèo vào

nhặt lại. Người nhà đã gọi cảnh sát bắt Phiên vào tù. Chỉ vì một đồng xu mà

Phiên phải vào tù. Nhưng cũng nhờ vào tù mà Phiên lại được một bữa cơm no.

Truyện vừa hài hước, vừa mỉa mai. Đồng tiền không còn là phương tiện luân

chuyển trong xã hội mà nó trở thành cán cân để đong đo, và nó có thể làm

thay đổi tất cả. Truyện được viết bằng giọng triết lý nhẹ nhàng mà sâu sắc.

Khái Hưng còn suy ngẫm khi đặt con người trong mối quan hệ với hoàn

cảnh. Ông nhận ra hoàn cảnh có thể biến đổi con người: "Đời riêng của anh

Niệm tôi không biết, tôi không rõ anh ấy sống bằng cách gì, anh ấy giàu hay

nghèo, khổ sở hay sung sướng. Chẳng qua nhận thấy cái buồn rầu vô hạn

trong mắt anh, và ngắm cái dáng điệu rụt rè bước đi chầm chậm, tôi đoán hiểu

một đời khúm núm, nhút nhát trong một gia đình quyền quý". Đọc truyện của

Khái Hưng, chúng ta nhận thấy tính triết lý in đậm trong rất nhiều truyện ngắn

của ông. Không phải ngẫu nhiên mà nhà văn Vũ Ngọc Phan đã từng nhận xét:

"Khái Hưng là một nhà tiểu thuyết có chừng mực và ông có một đặc điểm là

truyện ngắn của ông, ông thường ngụ ý thật cao. Như vậy mới nghe tưởng như

trái ngược, nhưng không có gì trái ngược cả, về người và việc trong các truyện, Khái Hưng tả rất bình dị, nhưng ở đoạn kết bao giờ tác giả cũng để

cho người đọc một cảm tưởng xa xăm man mác" [81].

Thạch Lam lại khác, tuy số lượng tác phẩm của Thạch Lam không nhiều so

với nhiều nhà văn cùng thời, nhưng do Thạch Lam chú tâm khai thác khả năng

(bao gồm gợi tả, gợi cảm, gợi nhớ, gợi thương, gợi suy nghĩ về mọi phương diện:

Không gian, thời gian, cuộc sống, lẽ đời, đạo đức...) và nhà văn không áp đặt,

107

không dồn ép nhân vật mà để nhân vật tự thân thể hiện hồn nhiên, giống như khả năng vốn có của nó (cái giọng dửng dưng trong Trở về, Một cơn giận, Sợi tóc,...

chẳng hạn) nên truyện có khả năng mở ra nhiều chiều, khơi dậy khả năng tiếp

nhận tiềm tàng của người đọc.

Trong truyện Một cơn giận, từ sự hối lỗi của nhân vật "tôi" với gia đình

người phu xe, Thạch Lam đã đúc kết nhẹ nhàng về quan hệ ứng xử của con người.

Chỉ vì một cơn giận, một câu nói của anh mà gây ra đau khổ và tai hoạ cho cả một

gia đình, chứng kiến cảnh đó nhân vật tôi vô cùng hối hận từ đó nảy sinh những

triết lý: "Sự giận dữ có thể sai khiến ta làm những việc nhỏ nhen không ai ngờ".

"Sự đó nhắc cho tôi nhớ rằng, người ta có thể tàn ác một cách rất dễ dàng". Chính

những câu nói đơn giản ấy đã giúp chúng ta học được cách đối nhân xử thế, ở

mọi lúc mọi nơi nếu không bình tĩnh, chúng ta sẽ phạm vào những sai lầm

lớn, những sai lầm khiến lương tâm ta luôn phải cắn dứt.

Mặc dù trong truyện ngắn Thạch Lam, chất triết lý không thể hiện rõ nét

trên từng câu chữ, nhưng chúng ta vẫn thấy ẩn sâu trong mỗi truyện ngắn của

ông là giọng điệu triết lý kín đáo. Qua cuộc đấu tranh tư tưởng giữa một bên là

đạo đức, một bên là vô đạo đức của Thành (Sợi tóc) người đọc nhận biết được

các dạng biểu hiện tâm lý trong con người anh ta. Nhìn ví tiền, Thành nảy sinh ý

định ăn trộm, anh phân vân "lấy mấy tờ, độ 2 tờ, tại sao lại hai?" rồi nghĩ đinh

ninh "hai trăm đối với hắn chắc hẳn là bao" và "mỉm cười" biện hộ rằng nếu mất

tiền Bàn chỉ nghi cho nhân tình của hắn mà thôi... Đang miên man suy nghĩ,

tưởng tượng đến món tiền mình có được dễ dàng, Thành bỗng "giật mình" khi

nghe tiếng ai đó mời thuốc mà cứ ngỡ ý định xấu xa của mình bị phát hiện. Nhân

vật Thành được nhà văn mô tả khá kỹ lưỡng từ hành động ngập ngừng, rụt rè, do

dự, những trạng thái "bồn chồn nóng ruột", "băn khoăn day dứt", "lưỡng lự" đến

thái độ điềm nhiên tuy có chút "bần thần ngơ ngác". Tự mình nhìn lại bản thân,

Thành ngạc nhiên vì thấy "mình hãy còn là người lương thiện không phải là kẻ ăn cắp". Vượt qua cái ngưỡng đó, anh ta thấy lòng nhẹ nhõm, thanh thản, tâm trí

"giãn ra như một cây tre uốn cong trở lại cái thẳng thắn lúc thường"[13]. Đó là

một triết lý thầm kín mà nhân vật tự nhận ra qua hành động của mình. Nhưng nó

lại trở thành một triết lý nhân sinh đối với tất cả mọi người: Mỗi người hãy tự

điều chỉnh, tự ý thức hành động của mình sao cho lương tâm mình thanh thản để

con người hướng đến những điều tốt đẹp hơn. Có thể thấy, giọng điệu triết lý

108

nhân sinh trong truyện ngắn của Thạch Lam không phải giọng chủ đạo và thường là giọng triết lý nhẹ nhàng nhưng mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc.

Giọng điệu là yếu tố thể hiện rõ nhất phong cách của mỗi tác giả. Trong

văn xuôi giai đoạn đầu thế kỷ XX, mỗi nhà văn tìm đến cho mình một cách

thể hiện mới mẻ, khác xa với những cái vốn có của giai đoạn trước. Riêng

nhóm Tự lực văn đoàn với những tên tuổi Nhất Linh, Khái Hưng, Hoàng Đạo,

Thạch Lam,… đủ để tạo nên một sự cách tân mới lạ, vừa đa dạng vừa độc

đáo, đặc sắc. Sự đan xen nhiều giọng điệu của những nhà văn đó cũng là một

hiện tượng dễ nhận thấy và là một thành công đáng ghi nhận. Tất cả góp phần

làm nên diện mạo đa dạng của văn chương đầu thế kỷ XX. Tự lực văn đoàn,

hai cây bút Khái Hưng, Thạch Lam đã góp phần quan trọng cho sự đổi mới

không chỉ giọng điệu của truyện ngắn mà còn phần nào khẳng định cho một

109

kiểu tư duy độc đáo tân kỳ, mới mẻ và riêng biệt.

PHẦN KẾT LUẬN

1. Trong đời sống dân tộc nửa đầu thế kỷ XX, trước diễn biến phức tạp, sôi

động của tình hình chính trị, kinh tế, xã hội... văn học đổi mới và phát triển hết sức

mạnh mẽ, đạt nhiều thành tựu rực rỡ, đồng thời nảy sinh nhiều yêu cầu mới đòi hỏi

cần được đáp ứng. Tự lực văn đoàn là một tổ chức văn học có tôn chỉ, mục đích rõ

ràng, tập hợp được nhiều tài năng, thu được nhiều thành tựu, tạo lập được một ưu

thế và uy thế lớn trên văn đàn. Trong tư cách một tổ chức văn học, Tự lực văn đoàn

có một sứ mệnh lịch sử to lớn, đáp ứng những đòi hỏi khách quan của thời đại, góp

phần đưa văn học hiện đại Việt Nam hoà nhập vào bối cảnh chung của văn học khu

vực và thế giới. Đây không phải là một hiện tượng ngẫu nhiên, đột biến mà là kết

quả của một quá trình vận động của lịch sử và văn học dân tộc trên con đường hiện

đại hoá. Các thành viên Tự lực văn đoàn, bên cạnh những đóng góp và hạn chế, mỗi

người đều có một vai trò, vị trí riêng.

2. Là thành viên tích cực, quan trọng của Tự lực văn đoàn, Khái Hưng và

Thạch Lam vừa gắn bó chặt chẽ, tuân thủ nghiêm chỉnh các nguyên tắc, tôn

chỉ, mục đích của văn đoàn, vừa tiếp thu những phần tinh túy trong sáng tác

của các thành viên khác. Đồng thời bằng tài năng, tâm huyết, Khái Hưng và

Thạch Lam đã khẳng định vị trí của mình với một phong cách nghệ thuật độc

đáo. Có thể nhận thấy điểm nổi bật ở đây là, nếu Khái Hưng hướng ngòi bút

vào những vấn đề mang tính con người và xã hội với những mặt tích cực và

hạn chế của nó, thì Thạch Lam - người trung thành với quan niệm "văn

chương là văn chương" - lại tạo cho mình một phong cách trữ tình, trong trẻo,

dung dị lạ thường, nghiêng về biểu hiện chiều sâu nội tâm của những con

người cá nhân. Tuy nhiên, truyện ngắn của Khái Hưng và Thạch Lam về cơ

bản có đều nội dung tiến bộ, đề cập đến một số vấn đề xã hội mà độc giả quan tâm. Thế giới nhân vật của họ là thế giới của đủ mọi tầng lớp xã hội. Từ tầng

lớp tiểu tư sản trí thức đến người dân nghèo. Ở đó, các nhà văn luôn dành cho

nhân vật của mình những tình cảm cảm thông, chia sẻ, trìu mến.

3. Khuynh hướng nghệ thuật của truyện ngắn Khái Hưng và Thạch Lam vừa

lãng mạn vừa hiện thực, đi giữa đôi bờ lãng mạn và hiện thực. Nhìn chung giọng

110

điệu trữ tình được sử dụng triệt để trong các tác phẩm thuộc thể loại truyện ngắn của Khái Hưng. Và nổi bật hơn là giọng triết lý nhân sinh sâu sắc. Tuy nhiên, về phương diện tạo tính khách quan cho tác phẩm, Khái Hưng chưa vươn tới cách thức tổ chức

của các nhà văn hiện thực phê phán như Vũ Trọng Phụng, Nam Cao... Ông còn để

cho những cảm xúc trữ tình lấn át nhiều trong tác phẩm, và chính điều đó làm giảm

đi tính hiệu quả của tác phẩm.

So với truyện ngắn của các thành viên khác trong Tự lực văn đoàn, truyện ngắn

Thạch Lam đã có sự vượt trội về một số mặt và được khẳng định bằng một phong

cách riêng, độc đáo: phong cách trữ tình. Những thành công về truyện ngắn của

Thạch Lam đã có ảnh hưởng sâu sắc, tạo sức hấp dẫn to lớn, có giá trị mở đầu cho

một dòng truyện ngắn trữ tình bao gồm các cây bút tiêu biểu: Thạch Lam, Thanh

Tịnh, Hồ Dzếnh, Đỗ Tốn... Từ Tự lực văn đoàn, Thạch Lam đã phát huy cao độ ảnh

hưởng của mình trong thể loại truyện ngắn và đã để lại được những truyện ngắn đặc

sắc, có sức sống bền lâu trong tâm thể tiếp nhận của nhiều thế hệ độc giả.

Một đóng góp hết sức quan trọng của Khái Hưng và Thạch Lam được thể

hiện qua ngôn ngữ đầy chất thơ, giàu sức gợi, sức ám ảnh với người đọc. Đặc

biệt trong truyện ngắn Thạch Lam, mỗi truyện là một bài thơ trữ tình gợi cảm

giác khắc khoải, sâu đậm trong lòng người đọc.

5. Tự lực văn đoàn là "mảnh đất ươm" tài năng của Khái Hưng và Thạch

Lam, nhưng chính Khánh Hưng và Thạch Lam lại góp phần quan trọng làm

phì nhiêu mảnh đất đó. Bằng các thành tựu sáng tác đặc sắc, các tác phẩm

chứa đựng và kết đọng nhiều giá trị cả về nội dung và nghệ thuật, Khái Hưng

và Thạch Lam đã làm rạng rỡ cho văn đoàn và góp phần làm phong phú diện

mạo văn học Việt Nam hiện đại.

6. Văn chương Khái Hưng, Thạch Lam ngày càng phát lộ những giá trị to

lớn, mãi mãi sẽ là những di sản văn hoá quý báu của dân tộc. Việc giữ gìn và

phát huy những thành quả sáng tác của Khái Hưng và Thạch Lam nói riêng,

của văn chương Tự lực văn đoàn nói chung là hết sức cần thiết, vì thế người viết hy vọng có những công trình nghiên cứu tiếp theo để tìm hiểu ngày một

111

sâu sắc hơn, toàn vẹn hơn về những sáng tác văn chương nhiều lý thú đó.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

A. Tác phẩm

1. Khái Hưng, Dọc đường gió bụi - NXB. Đời nay, 1933

2. Khái Hưng, Anh phải sống (viết cùng Nhất Linh) - NXB. Đời nay, 1937

3. Khái Hưng, Tiếng suối reo - NXB. Đời nay, 1937

4. Khái Hưng, Đợi chờ - NXB. Đời nay, 1939

5. Khái Hưng, Hạnh - NXB. Đời nay, 1940

6. Khái Hưng, Cái Ve - NXB. Đời nay, 1940

7. Khái Hưng, Hồn bướm mơ tiên - Văn chương Tự lực văn đoàn, tập 2, NXB.

Giáo dục, 1999

8. Khái Hưng, Đời mưa gió - NXB. Giáo dục (tái bản), 1989

9. Thạch Lam, Gió đầu mùa - NXB. Đời nay, 1936

10. Thạch Lam, Nắng trong vườn - NXB. Đời nay, 1938

11. Thạch Lam, Ngày mới - NXB. Đời nay, 1939

12. Thạch Lam, Theo giòng - NXB. Đời nay, 1940

13. Thạch Lam, Sợi tóc - NXB. Đời nay, 1942

14. Thạch Lam, Thạch Lam - truyện ngắn và tiểu luận, NXB. Hội Nhà văn, 1997

15. Thạch Lam, Hà Nội băm sáu phố phường - NXB. Văn nghệ TP.Hồ Chí Minh

(tái bản), 1988

B. Sách nghiên cứu

16. Đào Văn A (1981), Tự lực văn đoàn trên sách báo miền Nam trước đây,

TCVH, số 5.

17. Hoài Anh (2001), Chân dung văn học, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội.

18. Vũ Tuấn Anh (Chủ biên) (1994), Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp, NXB.

Hội nhà văn, Hà Nội.

19. Vũ Tuấn Anh, Bích Thu (Chủ biên) (2001), Từ điển tác phẩm văn xuôi Việt

Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

20. Vũ Tuấn Anh, Lê Dục Tú (Chủ biên) (2001), Thạch Lam, Về tác giả và tác

phẩm NXB. Giáo dục, Hà Nội.

112

21. Lại Nguyên Ân (1994), 150 thuật ngữ văn học, NXB. ĐHQG, Hà Nội.

22. Nguyễn Huệ Chi, Nguyễn Phương Chi (1983), "Gió đầu mùa" - Từ điển văn

học. Tập 1, NXB. khoa học xã hội, Hà Nội.

23. Trương Chính (1939), Dưới mắt tôi, NXB. Thuỵ Ký, Hà Nội.

24. Trương Chính (1988), Vấn đề đánh giá Tự lực văn đoàn - TCVH số 3, số 4.

25. Trương Chính (1990), Nhìn lại vấn đề giải phóng phụ nữ trong tiểu thuyết Tự

lực văn đoàn, TCVH, số 5.

26. Trương Chính (1997), "Thạch Lam với Gió lạnh đầu mùa", Dưới mắt tôi -

Tổng tập Văn học, tập 24B, NXB. KHXH, Hà Nội.

27. Đỗ Đức Dục (1963), Sự kế thừa của chủ nghĩa hiện thực phê phán đối với chủ

nghĩa lãng mạn trong văn học, TC Nghiên cứu văn học, số 4.

28. Trần Ngọc Dung (1994), Phong cách truyện ngắn Nguyễn Công Hoan, Nam

Cao, Thạch Lam, Luận án phó tiến sĩ - ĐHSP Hà Nội I.

29. Phan Huy Dũng (1994), "Tính nghệ thuật của truyện ngắn Hai đứa trẻ". Tiếng

nói tri âm, NXB. Trẻ, TP Hồ Chí Minh.

30. Lê Tiến Dũng (1994), "Tiếng trống thu không và tiếng còi tầu nơi phố huyện

của Thạch Lam", Tiếng nói tri âm, NXB. Trẻ, TP.Hồ Chí Minh.

31. Hồ Dzếnh (1998), "Với Thạch Lam", TC Sông Hương, số 31, tháng 5, 6.

32. Hồ Dzếnh (2001), Những trang văn xuôi chọn lọc, NXB. Văn học, Hà Nội.

33. Đặng Anh Đào (2001), Gió Đông gió Tây ảnh hưởng và giao thoa trong văn

học Việt Nam hiện đại - TCVH, số 1.

34. Phan Cự Đệ (1961), Văn học Việt Nam 1930 - 1945, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

35. Phan Cự Đệ, Tự lực văn đoàn - con người và văn chương - NXB. Văn học,

1990

36. Phan Cự Đệ, Nguyễn Trác, Hà Văn Đức (1992), Văn học Việt Nam 1930 -

1945, Tập 2, NXB. Đại học và Giáo dục chuyên nghiệp, Hà Nội.

37. Phan Cự Đệ, Trần Đình Hượu, Nguyễn Trác, Nguyễn Hoành Khung, Lê Chí

Dũng, Hà Văn Đức (1997), Văn học Việt Nam (1900 - 1945), NXB. Giáo dục,

Hà Nội.

38. Phan Cự Đệ (2002), Văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945 (sửa chữa, bổ

sung), NXB. Văn học, Hà Nội.

113

39. Trịnh Bá Đĩnh (2000), Tuyển chọn và giới thiệu, Nhất Linh truyện ngắn, NXB.

Văn học Hà Nội.

40. Hà Minh Đức, Lý luận văn học - NXB. Giáo dục, 1994.

41. Hà Văn Đức (1997), Thạch Lam - Sách Văn học Việt Nam 1900-1945, NXB.

Giáo dục, Hà Nội.

42. Nhóm Lê Quý Đôn (1957), Lược thảo lịch sử văn học Việt Nam - tập 3, NXB.

Xây dựng Hà Nội.

43. Vu Gia (1994), Thạch Lam thân thế và sự nghiệp, NXB. Văn hoá, Hà Nội.

44. Vu Gia, Thế Lữ, Vũ Ngọc Phan (2000), Thạch Lam của cái đẹp, NXB. Giáo

dục, Hà Nội.

45. Dương Quảng Hàm (1993), Việt Nam văn học sử yếu, NXB. Đồng Tháp (tái bản).

46. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (Chủ biên) (1992), Từ điển thuật

ngữ văn học, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

47. Lê Thị Đức Hạnh (1965), Mấy ý kiến đánh giá Thạch Lam, TCVH số 4.

48. Lê Thị Đức Hạnh (1991), Thêm mấy ý kiến đánh giá Tự lực văn đoàn, TCVH

số 3.

49. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, NXB. Hội Nhà văn, Hà Nội.

50. Nguyễn Thanh Hồng (1990), Truyện ngắn Hai đứa trẻ của Thạch Lam,

TCVH, số 3.

51. Đỗ Kim Hồi (2001), Thạch Lam đôi điều cảm nhận - Đặc san Văn học và Tuổi

trẻ số 12.

52. Đinh Hùng (1965), Tìm hiểu Thạch Lam thêm một vài khía cạnh, Tạp chí Văn

Sài Gòn, số 36-15/6-1965.

53. Khái Hưng (1937), "Một quan niệm về văn chương (Tựa Gió đầu mùa)", Ngày

nay số 89,12.12.1937, in lại Tựa gió đầu mùa, NXB. Minh Đức, Hà Nội 1957.

54. Khái Hưng (1957), Lời giới thiệu Gió đầu mùa của Thạch Lam. Nxb. Minh

Đức.

55. Lê Quang Hưng (2001), Dư vị trữ tình từ Dưới bóng hoàng lan - Đặc san Văn

học và Tuổi trẻ số 11.

56. Phạm Thị Thu Hương (1993), Quan niệm nghệ thuật về con người trong

truyện ngắn Thạch Lam, TCVH, số 3.

114

57. Phạm Thị Thu Hương (1995), Ba phong cách truyện ngắn trữ tình trong Văn

học Việt Nam giai đoạn 1930-1945: Thạch Lam, Thanh Tịnh, Hồ Dzếnh, luận

án Phó tiến sĩ, Viện Văn học.

58. Mai Hương (2000), Tự lực văn đoàn trong tiến trình văn học dân tộc, NXB.

Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

59. Trịnh Hồ Khoa (1996), Những đóng góp của Tự lực văn đoàn cho việc xây

dựng một nền văn xuôi Việt Nam hiện đại, luận án Phó tiến sĩ ngữ văn, ĐHQG

Hà Nội.

60. Nguyễn Hoành Khung (1984), "Thạch Lam", Từ điển văn học, tập II, NXB.

KHXH, Hà Nội.

61. Nguyễn Hoành Khung (1990), Lời giới thiệu truyện ngắn Việt Nam 1930 -

1945, tập I, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

62. Nguyễn Hoành Khung (1989), Lời giới thiệu văn xuôi lãng mạn Việt Nam,

Nxb. KHXH.

63. Thanh Lãng (1973), Phê bình văn học thế hệ 1932, Phong trào văn hoá, Sài

Gòn.

64. Mã Giang Lân (2002), Nhìn lại một thế kỷ văn học (1900-2000): Một công

trình nghiên cứu nghiêm túc và có giá trị khoa học, TCVH, số 5.

65. Phong Lê (1988 - sưu tầm, tuyển chọn), Tuyển tập Thạch Lam, NXB. văn học,

Hà Nội.

66. Phong Lê (1988), Thạch Lam trong Tự lực văn đoàn, TCVH, số 2.

67. Phong Lê (1988), Lời giới thiệu tuyển tập Thạch Lam, NXB. Văn học, Hà Nội.

68. Phong Lê (2001), Văn học Việt Nam hiện đại (những chân dung tiêu biểu),

NXB. ĐHQG, Hà Nội.

69. Thế Lữ (1943), Tính cách tạo tác của Thạch Lam, báo Thanh nghị, số 39

16/6/1943; đăng lại tên TC Văn, Sài Gòn số 36 (15/6/1965).

70. Nguyễn Văn Long, Văn học Việt Nam trong thời đại mới - NXB. Giáo dục, 2003

71. Huỳnh Lý, Hoàng Dung, Nguyễn Hoành Khung, Nguyễn Đăng Mạnh, Nguyễn

Trác (1978), Lịch sử văn học Việt Nam 1930-1945, tập V, NXB. Giáo dục, Hà Nội.

72. Nguyễn Đăng Mạnh (1979), Nhà văn tư tưởng và phong cách, NXB. tác phẩm

mới, Hà Nội.

115

73. Nguyễn Đăng Mạnh, Những bài giảng về tác giả văn học Việt Nam hiện đại -

NXB. Đại học Quốc gia, 2005

74. Nguyễn Đăng Mạnh (1983), Khái luận Tổng tập văn học Việt Nam, tập 30A,

NXB. KHXH, Hà Nội.

75. Lê Hữu Mục, Khảo luận về Khái Hưng, Trường Thi xuất bản, 1958

76. Nguyễn Xuân Nam (1984), "Truyện ngắn", Từ điển văn học, tập II, NXB.

KHXH, Hà Nội.

77. Phương Ngân (2000), Khái Hưng nhà tiểu thuyết, NXB. Văn hoá Thông tin,

Hà Nội.

78. Phan Ngọc (2002), Bản sắc văn hoá Việt Nam, NXB. Văn hóaThông tin, Hà

Nội.

79. Vương Trí Nhàn (1990), Cốt cách trí thức ở ngòi bút Thạch Lam, TCVH, số 5.

80. Vương Trí Nhàn (1992), Tìm vào nội tâm, tìm vào cảm giác, TCVH, số 5.

81. Vũ Ngọc Phan (2000), Nhà văn hiện đại, Nxb. Văn hoá - Thông tin - Tái bản.

82. Thế Phong (1971), "Các nhà văn trong Tự lực văn đoàn", Lược sử văn nghệ

Việt Nam, nhà văn tiền chiến 1930-1945, NXB. Vàng son, Sài Gòn.

83. Nguyễn Phúc (1994), "Quan niệm văn chương của Thạch Lam: vị nghệ thuật

hay vị nhân sinh?" Sách Thạch Lam - Văn chương và cái đẹp - NXB. Hội Nhà

văn, Hà Nội.

84. Vũ Đức Phúc, Nguyễn Đức Đàn (1964 - chủ biên), Sơ thảo lịch sử văn học

Việt Nam 1930-1945, NXB. Văn học, Hà Nội.

85. Hoài Thanh (1982), "Một vài ý kiến về phong trào Thơ mới và quyển Thi nhân

Việt Nam", Tuyển tập Hoài Thanh - tập 2, NXB. Văn học, Hà Nội.

86. Nguyễn Thành Thi (1998), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, NXB. Giáo

dục, Hà Nội.

87. Hoàng Kim Thanh (2002), Thạch Lam từ quan điểm nghệ thuật tiến bộ đến giá

trị nhân văn mới mẻ trong sáng tác - Luận văn Thạc sĩ.

88. Nguyễn Thị Thành (2000), Thạch Lam từ quan niệm về cái đẹp đến những

trang văn Hà Nội băm sáu phố phường - Tạp chí Văn học số 10.

89. Lưu Khánh Thơ, Bích Thu (2003 - tuyển chọn), Tuyển tập truyện ngắn lãng

mạn, NXB. Văn học, Hà Nội.

116

90. Bích Thu (1992), Thế giới phụ nữ trong sáng tác của Thạch Lam tạp chí Khoa

học và phụ nữ, số 3.

91. Bích Thu (1992), Sự thức tỉnh của con người trong sáng tác Thạch Lam, tạp

chí Khoa học và Tổ quốc, số 11.

92. Bích Thu, Lưu Khánh Thơ, Thuỷ Liên (sưu tầm - 2001), Tác phẩm được giải

thưởng Tự lực văn đoàn, NXB. Văn học, Hà Nội.

93. Đỗ Đức Thu (1965), Thạch Lam, Tạp chí Văn, Sài Gòn, số 36 (15/6/1965).

94. Ngô Văn Thư (2001), Nửa chừng xuân, bước tiến của nghệ thuật tiểu thuyết,

TCVH, số 7.

95. Phan Trọng Thưởng (2000), Cuối thế kỷ nhìn lại việc nghiên cứu, đánh giá văn

chương Tự lực văn đoàn, TCVH số 2.

96. Phan Trọng Thưởng (2000), Phóng sự (1932 - 1945), Một thành tựu đặc biệt

của tiến trình văn học Việt Nam, TCVH, số 5.

97. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại - Tài liệu bồi dưỡng

thường xuyên chu kỳ 1992 - 1996 cho giáo viên cấp II - Bộ Giáo dục - Đào tạo

- Vụ giáo viên.

98. Nguyễn Trác (1961), Giáo trình Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 5, NXB. Giáo dục.

99. Lê Minh Truyên (2004), Thạch Lam với Tự lực văn đoàn, Luận án tiến sĩ.

100. Xuân Vi (5-6-1938), Gió đầu mùa của Thạch Lam - Một văn sĩ có tài - Một

kiệt tác - Ngày nay số 113.

117