BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH

DƯƠNG THẾ THUẬT

ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT DẠ NGÂN

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 602234

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

PGS. TS. NGUYỄN THÀNH THI

TP. HỒ CHÍ MINH - 2011

LỜI CẢM ƠN

----------

Tôi xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô đã tận tình giảng dạy chúng tôi

trong suốt thời gian tôi học tập, nghiên cứu tại Trường Đại học Sư phạm Tp.

Hồ Chí Minh.

Tôi cũng xin chân thành cảm ơn Quý Thầy, Cô, Anh, Chị ở Phòng Sau

Đại học và Thư viện Nhà trường đã nhiệt tình giúp đỡ chúng tôi trong quá

trình chúng tôi học tập tại Trường.

Tôi xin gửi lời cảm ơn đến Trường Cao đẳng Cộng đồng Bình Thuận,

đồng nghiệp, bạn bè, người thân đã động viên, giúp đỡ, tạo điều kiện thuận lợi

để tôi có thể hoàn thành được khoá học khi tôi đã ở độ tuổi không còn trẻ.

Xin cho tôi được gửi lời cảm ơn đến nhà văn Dạ Ngân, người đã dành

thời gian cho tôi được tiếp xúc, trao đổi, cung cấp thêm cho tôi những tư liệu,

giúp tôi có thêm điều kiện để nghiên cứu, hoàn thành luận văn.

Đặc biệt, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Nguyễn Thành

Thi, người Thầy đã định hướng, nghiêm túc chỉ bảo, hết lòng giúp đỡ tôi

trong quá trình tôi thực hiện luận văn này.

Tôi xin chân thành cảm ơn.

Phan Thiết, tháng 10 năm 2011

Người thực hiện

Dương Thế Thuật

MỤC LỤC

LỜI CẢM ƠN .................................................................................. 2

MỤC LỤC ........................................................................................ 3

MỞ ĐẦU ........................................................................................... 1

CHƯƠNG MỘT: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI DẠ NGÂN– NHÌN TỪ VỐN SỐNG VÀ CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT .................... 7 1.1. Dạ Ngân – Nhà văn của cái hôm qua và cái hôm nay ........................... 7

1.1.1. Dạ Ngân – Nét vẽ chân dung nhìn từ cuộc đời ......................................... 7

1.1.2. Dạ Ngân – nét vẽ chân dung nhìn từ sáng tác ........................................ 10

1.1.3. Một cái nhìn cuộc sống đa dạng, nhiều chiều: ....................................... 15

1.2. Sáng tác của Dạ Ngân – tiếng nói của lòng nhân hậu và niềm tin: .. 26

1.2.1. Ký ức về chiến tranh và nỗi đau thời hậu chiến: .................................. 26

1.2.2. Nghịch cảnh thời hậu chiến và những băn khoăn về cuộc đời, con người: ................................................................................................................... 32

1.2.3. Tiếng nói trân trọng cảm thương thân phận “bé mọn” của con người” ............................................................................................................................... 39

1.3. Sáng tác của Dạ Ngân – Tiếng nói của tình quê hương. ................... 52

CHƯƠNG 2: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT DẠ NGÂN – ĐẶC ĐIỂM VỀ THỂ LOẠI VÀ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ ............... 67 2.1. Nhà văn nữ của nhiều thể loại: ............................................................. 67

2.1.1. Sáng tác của Dạ Ngân – Nhìn từ thể loại: ............................................... 67

2.1.2. Đóng góp của Dạ Ngân – Nhìn từ truyện ngắn: ..................................... 68

2.1.3. Đóng góp của Dạ Ngân – nhìn từ tiểu thuyết, truyện vừa: ................... 79

2.1.4. Đóng góp của Dạ Ngân– Nhìn từ tản văn: .............................................. 85

2.1.5. Chất thơ trong văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân. ....................................... 91

2.2. Những thành công trên bình diện phương thức tự sự: ...................... 98

2.2.1. Tạo tình huống, sự kiện và khắc hoạ nhân vật: ..................................... 98

2.2.2. Kết cấu dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện: ............................ 106

2.2.3. Trần thuật đa điểm nhìn và vai kể độc thoại: ...................................... 111

CHƯƠNG 3: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT DẠ NGÂN – ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN TỪ .................................................................. 115 3.1. Vẻ đẹp hài hoà trong văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân ......................... 115

3.1.1. Khái niệm: “ngôn ngữ văn xuôi” – “lời văn nghệ thuật” và quan niệm về “vẻ đẹp hài hoà “ .......................................................................................... 115

3.1.2. Sự hài hoà giữa chất văn xuôi và chất thơ ............................................ 118

3.1.3. Sự hài hoà giữa ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ............................ 124

3.1.4. Sự hài hoà giữa ngôn ngữ tự sự với trữ tình ........................................ 129

3.2. Chất Nam Bộ đậm đặc trong lời văn nghệ thuật Dạ Ngân .............. 133

KẾT LUẬN .................................................................................. 149

THƯ MỤC THAM KHẢO ......................................................... 153

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài:

Những công trình nghiên cứu nghiêm túc về văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau năm 1975 ở tầm khái quát rất cần thiết, nhằm nhìn nhận, đánh giá

một cách khách quan, toàn diện về văn xuôi nghệ thuật trong tiến trình văn

học chung của đất nước.

Ngoài những công trình nghiên cứu khái quát, sự nghiên cứu về văn xuôi

nghệ thuật của từng nhà văn cũng rất cần, nhất là đối với những nhà văn có

những đóng góp thật sự cho văn xuôi nghệ thuật Việt Nam sau năm 1975.

Trong số những nhà văn nữ sáng tác văn xuôi sau 1975, Dạ Ngân đã có

những thành công nhất định. Chị đã bắt đầu sáng tác từ năm 1978. Với

khoảng trên 15 tác phẩm đã xuất bản, từ tiểu thuyết truyện vừa, truyện ngắn

đến tản văn, chị đã nhận khoảng 4 giải thưởng chính và 1 tặng thưởng văn

học ( 1 của Tạp chí Văn nghệ Quân đội (năm 1987), 1 của báo Tuổi trẻ TP.

HCM (năm 1989), 1 của Hội Nhà văn Hà Nội (năm 2005), 2 của Hội Nhà văn

Việt Nam (năm 2004 và năm 2006) cùng một số giải thưởng khác về các

truyện ngắn.

Với những giải thưởng đã được nhận, cả ở truyện ngắn và tiểu thuyết, Dạ

Ngân đã được ghi nhận là một trong những nhà văn nữ có giọng điệu riêng

hiện nay.

Là một trong những gương mặt nhà văn nữ có tác phẩm đến với bạn đọc

từ trên 25 năm qua, có giọng điệu riêng, chị đã và vẫn đang tiếp tục cuộc hành

trình của mình trong việc sáng tác văn chương. Với những tác phẩm đã cho ra

mắt bạn đọc, Dạ Ngân đã có vị trí nhất định trên văn đàn. Tác phẩm của chị

cần được nghiên cứu một cách có hệ thống, cả ở mảng tiểu thuyết, truyện vừa,

truyện ngắn và cả tản văn. Sự nghiên cứu một cách nghiêm túc, cẩn trọng các

tác phẩm văn xuôi nghệ thuật của Dạ Ngân chắc chắn sẽ rút ra những điều có

ích, đóng góp thêm vào việc nghiên cứu chung văn xuôi nghệ thuật Việt Nam,

từ sau năm 1975, nhất là đối với những sáng tác của những nhà văn nữ.

2. Lịch sử vấn đề:

Dù sự nghiệp sáng tác của Dạ Ngân đã được thời gian và công chúng

khẳng định, nhưng những công trình nghiên cứu về sáng tác của Dạ Ngân vẫn

còn quá ít ỏi. Phần lớn các bài viết hiện có ở dưới dạng cảm nhận về một tập

truyện ngắn, một tiểu thuyết mới xuất bản, một lời giới thiệu sách.

Năm 1986, Chu Huy đã có cảm nhận khi đọc tập truyện ngắn Quãng đời

ấm áp của Dạ Ngân “ Dù viết về đề tài nào đi nữa, Dạ Ngân đều hướng người

đọc tìm đến cội nguồn trực tiếp hoặc gián tiếp, từ những tình cảm trong sáng,

mãnh liệt, từ những nền tảng tư tưởng không bao giờ mờ phai của những năm

chiến tranh giải phóng đầy hi sinh gian khổ mà rất đổi hào hùng”. Chu Huy

cũng nhận xét nét đặc sắc của văn phong Dạ Ngân: “ Viết khá sành về tâm lý

nhân vật nữ”.

Nhà phê bình Nguyễn Văn Lưu đã có nhận định qua truyện ngắn đầu tay

của Dạ Ngân : “ Truyện của chị đậm đà tâm tình của người phụ nữ Nam Bộ

giàu tình cảm và suy tư, luôn trăn trở về cuộc sống của cá nhân mình và đồng

đội, bạn bè, với gia đình, quê hương, với lý tưởng và nghĩa vụ, những khao

khát nồng cháy của trái tim thiếu nữ trước cuộc đời…Chị viết về chiến tranh

nhưng không nặng về mô tả chiến trận hay sự kiện”.

Truyện ngắn Trên mái nhà người phụ nữ, giải nhì Tạp chí văn nghệ

Quân đội năm 1987, đã được Nguyễn Trọng Hoàn đánh giá : “ Truyện có

nhiều đoạn thành công bởi ở đó hình ảnh, màu sắc, âm thanh…được khai thác

một cách triệt để làm trang viết trở nên thi vị, thực sự có hồn, khiến người đọc

có thể trực tiếp tri giác như được bước vào một thế giới sinh động tồn tại dưới

dạng vật chất”.

Nhà văn Ngô Ngọc Bội đã có nhận định về tập truyện ngắn Con chó và vụ

ly hôn (1990) của Dạ Ngân : “ Văn của Dạ Ngân lắng đọng, vừa ấm áp đôn

hậu, vừa dữ dằn cay đắng rất Nam Bộ, để rồi hướng tới cái thiện…Cái mạnh

nhất, quý nhất của Dạ Ngân là nghệ thuật khắc họa, cách nhìn của chị góc

cạnh. Khai thác tâm lý nhận vật, tình tiết, chi tiết và sử dụng ngôn ngữ thật tài

hoa”.

Phó Giáo sư - Tiến sĩ Mai Hương trong bài viết “ Truyện ngắn của Dạ

Ngân” đã đánh giá cao hướng khai thác, tiếp cận hiện thực riêng, nét đặc sắc

trong thế giới nhân vật và văn phong của Dạ Ngân.

Nguyễn Hoàng Sơn đã có nhận định về truyện vừa Miệt vườn xa lắm: “

Chị chú trọng phân tích tâm lý và khéo sử dụng chi tiết để khắc họa tính cách

nhân vật”.

Tiểu thuyết Gia đình bé mọn là một thành công lớn của chị, đã nhận

được nhiều ý kiến phản hồi từ những người nghiên cứu. Nhà phê bình

Nguyễn Hoài Nam đã nhận định “Những phẩm chất làm nên thế mạnh ngòi

bút của Dạ Ngân: Sự cẩn trọng và tinh tế trong câu chữ, khả năng kết hợp

nhuần nhuyễn giữa “mỹ văn” và ngôn ngữ đời thường của người Nam Bộ, sự

sắc sảo trong phác họa nhân vật bằng vài chi tiết đắt giá, nhanh gọn; và sau

cùng là một cái nhìn cuộc đời – dù với sự phê phán - nhưng vẫn luôn đôn

hậu”. Còn Hoàng Thị Quỳnh Nga đã nhận xét; “Ngoài những trang viết tinh

tế và xúc động về cảm giác và sự giằng xé, Gia đình bé mọn còn hấp dẫn

người đọc bởi bức tranh xã hội thời bao cấp.”

Nhà văn- dịch giả Trần Thiện Đạo cũng đã có những lời tâm tình với bạn

đọc khi được đọc Gia đình bé mọn của Dạ Ngân: “… Một mình một bóng,

trên con đường quen thuộc hơn một phần tư thế kỷ cầm bút trong Nam ngoài

Bắc, tác giả đã nhè nhẹ nắm tay người đọc, “rù quyến”, lôi cuốn, dẫn họ cùng

rảo bước với mình từ trang đầu tới trang chót…”

Tác giả Tuy Hoà trong bài viết “Dạ Ngân theo nước nguồn xuôi mãi” đưa

ra nhận định: “Ngón nghề của nhà văn Dạ Ngân trong tập Nước nguồn xuôi

mãi là khơi dậy những mẩu chuyện be bé và luận giải thấu đáo tâm trạng cá

thể giữa xô đẩy thời đại đang cưu mang chúng ta…. Truyện Dạ Ngân không

phải đọc để nắm bắt cuộc sống, mà đọc để nghĩ ngợi cuộc sống”.

Đến năm 2006, Cao Thị Huệ đã hoàn thành luận văn Thạc sĩ “Sáng tác của

Dạ Ngân” tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, nghiên cứu 9 tác phẩm của

Dạ Ngân xuất bản từ năm 1986 đến 2005, bao gồm các truyện ngắn, tiểu

thuyết. Cao Thị Huệ đã rất tinh tế để nhận ra Miệt vườn xa lắm dồn nén, chất

chứa bao nhiêu kỷ niệm của cô bé Tiệp Kiến Vàng trong khoảng thời gian chỉ

vẻn vẹn là một ngày từ mờ sáng cho đến nửa đêm.

Năm 2009, Hoàng Thị Kim Cúc đã hoàn thành luận văn thạc sĩ với đề tài

“Phong cách truyện ngắn Dạ Ngân” tại Trường Đại học Vinh trên cơ sở

nghiên cứu 7 tập truyện ngắn của Dạ Ngân, xuất bản từ 1986 đến 2008. Nhiều

cảm hứng phê phán trong các tác phẩm của Dạ Ngân, đặc biệt ở Gia đình bé

mọn đã được Hoàng Thị Kim Cúc phát hiện, đề cập trong luận văn của mình.

Wayne Karlin, nhà văn, giáo sư văn học Đại học Maryland (Hoa Kỳ), một

người am hiểu văn học Việt Nam, trong lời giới thiệu tiểu thuyết Gia đình bé

mọn bản dịch ra tiếng Anh (Rosemary Nguyen dịch) ấn hành bởi nhà xuất

bản Curbstone Press năm 2009, đã có nhận định: “ Hành trình của Tiệp và

hành trình của cái “gia đình bé mọn” của nàng trùng hợp với hành trình của

đất nước nàng”,… “ Tiệp từ chối nhìn thế giới qua lăng kính truyền thống”.

Điều đó cũng có nghĩa: Nhân vật Tiệp đã đồng hành cùng đất nước và nhân

vật ấy đã có một cái nhìn mới mẻ về thế giới mà mình đang sống, trải nghiệm,

không phụ thuộc vào truyền thống ngày xưa.

Năm 2011, Quách Thanh Tạng đã viết luận văn thạc sĩ với đề tài “Đặc

điểm truyện của Dạ Ngân” tại Trường Đại học Cần Thơ. Quách Thanh Tạng

đã có những phân tích sâu sắc tác phẩm Ngày của một đời, tiểu thuyết đầu

tay của Dạ Ngân.

Nhận định của những người nghiên cứu, phê bình đi trước là những cứ liệu

khoa học, những gợi ý quý báu để chúng tôi đi sâu hơn, khảo sát một cách có

hệ thống những sáng tác của Dạ Ngân, bao gồm cả 7 tập truyện ngắn, 2 tiểu

thuyết, 2 truyện vừa, 5 tập tản văn, mong nhận ra được những đặc điểm

văn xuôi nghệ thuật của Dạ Ngân cũng như đóng góp của chị đối với văn xuôi

nghệ thuật Việt Nam thời kỳ đổi mới.

3. Mục đích của đề tài:

Luận văn tập trung nghiên cứu đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân

nhằm:

- Phát hiện những cảm hứng sáng tạo chủ đạo trong văn xuôi nghệ thuật

Dạ Ngân, phân tích những biểu hiện cụ thể của những cảm hứng ấy qua các

sáng tác: truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, tản văn của nhà văn.

- Khẳng định sự thống nhất chặt chẽ giữa hình thức nghệ thuật với tư

tưởng, cảm hứng trong tính chỉnh thể của văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân: nhận

diện những đặc điểm; những nét riêng của nhà văn bộc lộ trên các bình diện:

nội dung và phương thức thể hiện, hình thức nghệ thuật.

- Xem xét những đóng góp cụ thể của Dạ Ngân đối với sự phát triển

của truyện ngắn, tiểu thuyết, truyện vừa, tản văn Việt Nam sau 1975 nói

chung.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:

4.1.Đối tượng nghiên cứu:

Đặc điểm văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân bao gồm:

- Những cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật

- Những đặc điểm về hình thức nghệ thuật

4.2. Phạm vi nghiên cứu:

Tất cả các sáng tác văn xuôi nghệ thuật của Dạ Ngân xuất bản từ năm

1986 đến năm 2010 bao gồm:

 7 tập truyện ngắn

 2 tiểu thuyết

 2 truyện vừa viết cho thiếu nhi

 5 tập tản văn

5. Phương pháp nghiên cứu:

Luận văn sử dụng kết hợp những phương pháp nghiên cứu sau:

- Phương pháp hệ thống

- Phương pháp so sánh

- Phương pháp loại hình

Luận văn cũng sử dụng thường xuyên thao tác thống kê trong khảo sát miêu

tả đối tượng nghiên cứu.

6. Cấu trúc luận văn:

Ngoài Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, Phụ lục; nội dung chính

của luận văn được tổ chức, triển khai thành ba chương:

Chương 1: Đặc điểm văn xuôi Dạ Ngân - Nhìn từ vốn sống và cảm

hứng nghệ thuật

Chương 2: Văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân – Đặc điểm về thể loại và

phương thức tự sự

Chương 3: Văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân – Đặc điểm về ngôn từ

CHƯƠNG MỘT: ĐẶC ĐIỂM VĂN XUÔI DẠ NGÂN– NHÌN TỪ VỐN SỐNG VÀ CẢM HỨNG NGHỆ THUẬT

1.1. Dạ Ngân – Nhà văn của cái hôm qua và cái hôm nay

1.1.1. Dạ Ngân – Nét vẽ chân dung nhìn từ cuộc đời

Trong dòng chảy của cuộc sống, mỗi một con người ghi lại sự hiện diện

của mình bằng những cách khác nhau, và bằng những cảnh đời khác nhau.

Trong những cảnh đời ấy, có những cảnh đời êm ả, phẳng lặng; nhưng lại

cũng có những cảnh đời chẳng hề bình lặng một tí nào.

Dạ Ngân, một người con của vùng sông nước Tây Nam Bộ, một người đã

có một phần tư thế kỷ cầm bút, sống trong Nam, rồi ra ngoài Bắc, đã có nhiều

trải nghiệm đời thường.

Dạ Ngân đã thổ lộ : “Quê gốc tôi ở miệt vườn Cao Lãnh sông Tiền

nhưng vì ông nội tôi thích thi thố nên đưa tất cả anh em giạt xuống tận Cần

Thơ để phỉ chí nghề vườn. Tôi là phụ nữ miệt vườn chính cống và tôi luôn tự

hào về điều đó.

Tuổi thơ tôi được bảo bọc bằng nghề vườn, cây vườn và nhà nội, trong

đó vai trò quyết định thuộc cô tôi, người đàn bà goá đã ở vậy đến già để

chăm nuôi bầy cháu cho ba tôi đi kháng chiến. Cho đến khi ba tôi bị tù, án

khổ sai Côn Đảo rồi chết trong xà lim thì tôi thuộc về cô tôi hoàn toàn, tâm

hồn và tính cách ấy đã quyết định tư chất tôi. Ở vào vùng hành lang giữa

căn cứ kháng chiến tỉnh với căn cứ kháng chiến Khu Chín, gia đình tôi

không có sự lựa chọn nào khác cho chị em gái nhà tôi: Tất cả phải đi vào

Cứ tham gia đánh giặc, con đường của cha tôi. Lý tưởng đã được đơn giản

hoá thành thù nhà rồi sau mới là nghĩa nước” [12, 27].

Là người con của một cán bộ kháng chiến bị tù đày và sau này đã hy

sinh trong tù, chị đã tiếp nối những chặng đường kháng chiến của cha, đi vào

Cứ, sống những tháng ngày đạn bom ác liệt, làm thư ký đánh máy, rồi làm

báo, những công việc khác nhau. Với bao khó khăn, thiếu thốn, với nhiều vất

vả gian nan. Nhưng lẫn trong những gian khổ, vẫn có những giây phút bình

yên, ấm áp với đồng đội, với người thân.

Một Lê Hồng Nga – tên thật của Dạ Ngân – nhiệt tình, say sưa, cặm cụi

với công việc trong rừng, trong Cứ. Quãng đời ấy, đã để lại những

kỷ niệm ấm áp trong chị. Song, không chỉ có ấm áp, đã có những nỗi buồn,

những tiếc thương, khi đồng đội, khi những người chị, người anh của cùng

cơ quan với chị, những người gởi quãng đời thanh xuân, tươi đẹp, rực rỡ của

mình vào cuộc kháng chiến cao cả mà cũng thật nhiều gian nan của dân tộc,

đã hy sinh.

Những tháng năm trong Cứ, đẹp đẽ, hào hùng, mà cũng thật khó nhọc,

hiểm nguy. Những tháng năm kháng chiến ấy mãi trong ký ức của Hồng Nga,

đã trở thành những ám ảnh nghệ thuật trong chị.

Hoà bình trở lại, chị đến với nghiệp làm báo, viết văn. Lại tiếp tục những

tháng năm khó khăn thời bao cấp. Cuộc hôn nhân đến với chị sau những ngày

hoạt động chung trong rừng, có những chung đụng về thể xác, đã không là sự

chọn lựa của chị trên tình yêu. Để, về sau này, khi sống gần nhau, cùng nhau,

dần theo thời gian, đã cho chị thấm thía: Chị phải gánh chịu những đau khổ

âm thầm của một người vợ, mà trái tim hai người không cùng chung nhịp đập.

Sau những rạn nứt trong cuộc sống vợ chồng là cả một quãng thời gian dài chị

phải chịu nhiều áp lực nặng nề, bị lên án, từ gia đình, đến cơ quan.

Ở gia đình, đó là sự ràng buộc của nền nếp gia phong, không cho phép

chị đến hết lòng với người mình yêu, khi chị còn đang là vợ của một cán bộ

tuyên giáo tỉnh với hai con nhỏ. Những người có quyền uy trong gia tộc

không cần biết: Chị sống với chồng mà có tình yêu hay không; chồng chị là

một người có tâm tính như thế nào.

Bao nhiêu đau khổ đã đến với chị, khi chị chấp nhận yêu một người đàn

ông đang có vợ. “Chấp nhận và đau khổ. Biết bao nhiêu nước mắt đã chảy.

Hơn 11 năm trời…”, “Nhiều thứ áp lực như thể tôi bị nhốt vào cái thùng

phuy mà đậy vậy” [12, 109 – 110].

Sức ép ấy, người phụ nữ làm văn chương ấy phải chịu đựng từ cơ quan,

từ gia tộc, từ con cái và cả của bạn bè, rồi còn cả dư luận nữa.

Nếu không vì một tình yêu chân thật, dễ gì nhà văn nữ của chúng ta

có thể vượt qua được tất cả những sức ép nặng nề ấy với đằng đẵng từng ấy

năm.

Rồi còn phải miếng cơm manh áo thường nhật, rồi còn phải nuôi con ăn

học, rồi còn bao lo toan khác. Có lẽ, như những người luôn gặp những cảnh

ngộ kém may, chị như đã được tiêm vaccin để tạo kháng thể, để quen chịu

đựng những cảnh ngộ khó khăn.

Sự kéo dài thủ tục ly hôn, rồi việc không ngại vượt những chặng đường

xa thẳm để đến với tình yêu mới, rồi tâm trạng cứ luôn trĩu nặng khi nghĩ

mình chưa lo cho hai con chu đáo đã luôn trong suy tư của chị, để rồi những

băn khoăn ấy đã dồn nén thành những ám ảnh nghệ thuật của nhà văn.

Dạ Ngân từng thổ lộ “Nghĩa là sống với tất cả các cung bậc tình cảm của

mình, với tất cả giác quan của từng tế bào trong con người mình. Nguyên liệu

sẽ sinh ra từ từng giây phút sống ấy” [71, 179].

Cuộc đời từng trải của chị, lắm khổ đau, từng hạnh phúc, đã vẽ nên chân

dung Dạ Ngân, nhạy cảm, quan sát tinh tế, sống hết mình, cả trong công việc,

lẫn trong tình cảm .

Nhà văn nữ của chúng ta, Dạ Ngân, đã có những quan niệm gì trong tình

yêu? “Tình yêu luôn vừa phải lãng mạn, vừa thực tế, vừa phóng khoáng, lại

đòi hỏi bao dung” [12, 109].

Và “Bởi con đường đến đích cuối cùng bao giờ cũng đòi hỏi tình yêu hai

chiều, đòi hỏi sự hy sinh ghê gớm mới có hạnh phúc”[12, 111].

Có lẽ, nét vẽ chân dung Dạ Ngân gần gũi với nhận định của một

nhà nghiên cứu văn học cao niên, giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh, về nghề văn:

“Phải vật lộn với hoàn cảnh, nghĩa là phải sống và chiến đấu thật sự, lại phải

vật lộn với chất liệu nghệ thuật, với chữ nghĩa, với chính bản thân mình để

chống lại sự lười nhác, dễ dãi, để tự tạo lấy những vốn liếng mới, những khả

năng mới, đáp ứng cho được những yêu cầu ngày càng cao của xã hội” [46,

88].

Sống thật sự, với những cảm xúc thật của một con người nhạy cảm; với

hoàn cảnh cũng thật, không tạo nên, không tô vẽ, đã tạc nên một Dạ Ngân –

Lê Hồng Nga nhìn từ cuộc đời.

Song, là một nhà văn, điều để phân biệt với người khác, chính là ở tác

phẩm mà người ấy mang đến cho bạn đọc, sáng tạo vì bạn đọc.

Trong suốt hơn hai mươi lăm năm sáng tác của mình, với trên mười lăm

tác phẩm đã được xuất bản, cả truyện ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, tản văn,

người đọc dễ dàng nhận ra một chân dung Dạ Ngân nhìn từ sáng tác của chị.

1.1.2. Dạ Ngân – nét vẽ chân dung nhìn từ sáng tác

Mỗi một nhà văn đều có những cách khác nhau trong quá trình sáng tạo

nghệ thuật. Có người đi nhiều, tiếp xúc với nhiều người làm nhiều công việc

khác nhau, để viết nên những trang văn giàu sức sống, như Nguyễn Tuân,

như Tô Hoài. Lại có những nhà văn từ thực tế quan sát được, kết hợp với

những kiến thức khoa học, sáng tạo nên những câu chuyện cổ tích thời nay

như Phạm Hổ. Lại có nhà văn chỉ chuyên viết cho một lứa tuổi, tuổi mới lớn

như Nguyễn Nhật Ánh. Mỗi nhà văn ấy, có những nét riêng trong phong cách,

trong sáng tác của mình.

Dạ Ngân đã từng tâm sự “Tôi là tạng nhà văn cái gì không ngấm vào mình,

không trải qua thì không thể viết sâu sắc” [22, 103].

Từ những sáng tác của chị, người đọc dễ nhận ra một chân dung Dạ Ngân

trong muôn mặt đời thường.

Chúng ta có thể nhận ra một Dạ Ngân của ngày thơ ấu trong Miệt vườn

xa lắm. Thuở ở miệt vườn Long Mỹ, Hậu Giang, Tiệp yêu thương, quý trọng,

kính phục vô vàn cô Tư Ràng, cô em út của ba chị, một người đã gác lại cuộc

sống riêng của mình, để nuôi, dạy dỗ một đàn cháu, con của ông anh đi kháng

chiến đã ngồi tù với án hai mươi năm khổ sai.

Chị đã học rất nhiều điều tốt đẹp từ cô. Từ việc kính yêu ông bà nội, việc

chịu khó làm lụng, đến việc thực hiện bổn phận con cháu trong gia đình, cả

tính kỷ luật trong công việc, sự tháo vát, ý thức tiết kiệm, ý chí và nghị lực

vươn lên trong cuộc sống.

Tất cả, chị có được từ cô Tư Ràng. Đọc trọn Miệt vườn xa lắm, gấp sách

lại, mấy ai không có cảm nhận đó. Mẹ chị đã cho chị hình hài. Nhưng người

tạo cho chị tính cách mạnh mẽ mà vẫn luôn đôn hậu lại là cô Tư. Lời của Tiệp

trong tác phẩm cũng là nỗi lòng của nhà văn. “Tình thương với má và với cô

là hai ngôi song song đau khổ trong lòng tôi, giằng xé, tranh cãi nhưng không

thể không tồn tại được”. Chị luôn mang ơn cô Tư, bởi “ Cô đã gồng gánh

hết sức bằng sự đảm lược có thể nói là phi thường”.

Người đọc nhận ra một Dạ Ngân tinh tế, cẩn trọng từ hình ảnh một

cô bé Tiệp ngày thơ “Tôi biết đọc những niềm hy vọng của người khác và tôi

biết tiếp tục những cử chỉ nhỏ nhoi ấy một cách lặng lẽ, ý tứ” và điều quan

trọng mà Tiệp ý thức được là “Tôi cảm nhận được sự kỳ diệu của đời sống

tinh thần giữa cô và tôi”; “ Càng ngày tôi càng thấy cái quỹ đạo của cô thật

có lý, sâu sắc”. Một bài học của cuộc đời mà cô Tư rút ra từ chính bản thân

mình quả đúng với mọi người, trong đó có Tiệp. “Nhà mình không có đàn

ông. Ráng chịu cực đi tụi con! Có cực khổ, chừng ra đời tụi con xông vô chỗ

nào cũng thấy nhẹ tênh hết. Ráng đi tụi con!” Tiệp của ngày xưa đã lớn lên

trong công nuôi dưỡng của mẹ, của cô và trong sự dạy dỗ một cách sâu sắc,

gần gũi, yêu thương của cô Tư như vậy đó.

Nếu ở Miệt vườn xa lắm, Tiệp vô cùng kính yêu, nể phục cô Tư Ràng;

thì sang Gia đình bé mọn, hình ảnh cô Tư vẫn luôn trọn vẹn trong trái tim

của Tiệp: “Tiệp thương má bằng tình thương ngậm ngùi xương thịt, nhưng

với cô em út của ba nàng, người đã ở vậy để thay anh trai chăm cha mẹ già

rồi gánh vác luôn một bầy con của ông anh nữa, bà cô Tư ấy xứng đáng được

nàng yêu bằng tình cảm thần thánh, tri kỷ, tình cảm ấy thường khiến nàng

mềm lòng và thức tỉnh”.

Vào Cứ, khi mới mười bốn tuổi, là một thiếu nữ, “Tiệp nhớ cô bằng với

nhớ má và luôn ao ước: cô mình ít chữ nhưng mình chỉ mong nữa mình cũng

sắc sảo, xông pha, tinh tế và biển cả như cô thôi”. Trong lòng Tiệp, đã từ rất

lâu, có một hình mẫu để Tiệp ước ao, hướng tới.

Ngoài hình mẫu cô Tư Ràng, Tiệp còn có một người tri kỷ thời ở Cứ:

Chú Tư Thọ, một người bạn vong niên của Tiệp, “người đã tiên đoán con

đường văn chương của Tiệp sau này”, “ Chú Tư Thọ là cha tinh thần đúng

nghĩa dưới mái vòm kiến trúc bằng lý tưởng yêu nước, nàng tin vào dự cảm

của chú Tư về dân tộc và tương lai của mình”[ 59, 114].

Sống dưới sự giáo dục của cô Tư Ràng và sự chỉ bảo của chú Tư Thọ ở

những ngày đầu đi theo cách mạng, phải nói đó là điều đặc biệt quý đối với

nhà văn. Sự ảnh hưởng tính cách cô Tư, sự tin vào dự cảm của chú Tư Thọ đã

hướng Tiệp đến với văn chương sau này, và gắn bó với chị dài lâu.

Tất nhiên, đời sống của một nhà văn không chỉ có những mối quan hệ đó,

những sự ảnh hưởng đó. Nhưng đây là hai nhân vật chủ chốt, đã có ảnh

hưởng đến cuộc sống của chị, đến sự nghiệp văn chương của chị.

Dạ Ngân đã từng bộc bạch: “Hình như tư chất và tính cách của một người

chính là số phận của người đó” [71,179]. Mà Tiệp thì “Tiệp tung tăng…Tiệp

bay nhảy…Tiệp lai láng…Tiệp thích chỗ đông người” [59, 94].

Tiệp còn là một người phụ nữ có lúc bồng bột để đến nỗi mắc phải sai

lầm. Tiệp đã không dấu nỗi lòng mình khi có những điều thật sự không hoà

hợp giữa nàng và Tuyên. Nhưng quả tình, Tiệp đã sống hết mình và đã nói hết

nỗi niềm của mình, khi không còn chịu đựng được nữa. Một cô Ràng sắc sảo

đã thật đúng khi thốt lên: “Ừ thì con chán nản, con ấm ức nhưng sao lại làm

um lên tui có người khác đây, chồng ơi tui có người khác đây nè! Thân bại

danh liệt, con giết con, con giết cả thanh danh nhà mình…”[59, 98].

Dạ Ngân cũng từng bày tỏ: “Tôi quan niệm nhà văn phải sống trước đã.

Sống tức là viết được phân nửa điều mình muốn tuyên ngôn”[71, 179].

Với những tác phẩm mà chị đã cho ra mắt bạn đọc, có thể thấy, từ Quãng

đời ấm áp, Con chó và vụ ly hôn, Cõi nhà, Nhìn từ phía khác, Nước

nguồn xuôi mãi; rồi Miệt vườn xa lắm, Gia đình bé mọn, đến Lục bình

mải miết, 100 tản mạn hồn quê, Phố của làng, Gánh đàn bà…Người đọc

dễ nhận ra thấp thoáng trong những tác phẩm ấy bóng dáng của chị, những

trải nghiệm của chị, tính cách của chị, những đất, những người mà chị đã

từng sống, từng cùng chia ngọt sẻ bùi, lẫn chịu đựng nhau trong cay đắng. Và

cả những chuyện đời mà chị đã được nghe kể lại, tạo sự xúc cảm trong chị,

tạo những day dứt không nguôi trong chị.

Dạ Ngân đã để Tiệp nói thay tiếng nói của lòng mình: “Văn chương với

nàng giống một thứ tín ngưỡng hơn là thứ phương tiện. Nàng không biết nó

đến với nàng từ đâu…Văn chương đã mon men rủ rê nàng từ hồi con nhỏ

Tiệp cuộn tròn cuốn tập học trong tay bước đi dưới vòm cây trong vườn, rồi

nó biến thành sự nghiêm cẩn thường trực khi nàng làm một bài văn trong lớp

hay lúc ôm một cuốn sách bất ngờ bắt được, cuối cùng nó chiếm lĩnh toàn bộ

nàng, thiết kế số phận và đẩy nàng đi, đi mãi” [59,196].

Nhà văn hầu như đã gắn bó phần lớn cuộc đời mình với văn chương,

chữ nghĩa, trong những lúc còn thảnh thơi, hay những lúc đầy đau khổ, ngổn

ngang trăm mối khi những biến cố gia đình xảy ra, kéo dài. Vậy mà rồi “cũng

có lúc nàng thấy văn chương thật phù phiếm và vô tăm tích” [59,198].

Để có những trang viết gởi tới bạn đọc, Dạ Ngân đã thường tìm đến sự

cô đơn. Trong sự tĩnh lặng của đêm, một mình với chiếc máy chữ và trang

giấy, chị đã trải lòng mình. Cả khi đã tìm được sự hạnh phúc với người mình

yêu, sau những năm dài trắc trở, nhà văn vẫn muốn tìm đến sự cô đơn, để suy

ngẫm, và để viết. Chị đã rút ra được rằng “Yếu tố làm nên hoàn cảnh và điều

kiện để người nghệ sĩ tồn tại, ấy là sự cô độc” [71,180].

Viết văn với gần ba mươi năm, vì gánh nặng chữ nghĩa và cũng vì sinh kế,

nhà văn đã có những chia sẻ: “Với tôi, văn chương hoàn toàn xứng đáng

được coi như đạo, bởi có nói gì gì nó vẫn có ý nghĩa cứu rỗi, hướng thiện cho

con người. Chính vì vậy mà nó cày lật không nương tay mặt trái của xã hội

loài người và mảnh đất tâm linh của kiếp người”[71,179].

Với quan niệm như vậy, chị đã lặng lẽ quan sát quanh mình và chính

mình, lặng lẽ suy ngẫm để những trang viết ra đời. Trong những trang viết ấy

có những nét đẹp tâm hồn người, có những nét đẹp của cảnh vật, có những chi

tiết làm người ta nhớ mãi; lại cũng rất nhiều chi tiết, nhiều hình ảnh, hành

động của con người không đẹp một chút nào. Dạ Ngân đã có những trang viết

“dấm ớt” về nhân tình thế thái, về những khuất tất của cơn sốt tập đoàn hoá

ở miền Nam, về một Hà Nội bị nông thôn hoá sau những ngày miền Nam mới

hoàn toàn giải phóng. Những tồn tại ấy, những thiếu sót ấy, đã để lại dấu ấn

rất đậm trong tâm trí của chị; và với những trang viết của mình, chị đã khiến

bạn đọc không thể nào quên, cùng chị. Nhắc thế, để rồi cùng hướng mọi

người đến một ngày mai, xây dựng một Hà Nội, một thủ đô, và xây dựng cả

nước theo con đường đổi mới.

1.1.3. Một cái nhìn cuộc sống đa dạng, nhiều chiều:

Thực sự đến với văn chương từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng,

nhưng với kinh nghiệm chín năm ở Cứ, đã từng làm cách mạng từ những

ngày còn là một thiếu nữ mười bốn tuổi, Dạ Ngân thực sự đã có nhiều trải

nghiệm trong cuộc đời. Và chị đã là một ngòi bút của cả cái hôm qua và của

cái hôm nay.

Với trải nghiệm của mình, Dạ Ngân đã hướng ngòi bút của chị về những

ngày đã qua, những năm tháng còn thơ dại ở miệt vườn ở Long Mỹ, Hậu

Giang, những năm tháng ở Cứ với bao gian khổ xen lẫn ngọt bùi thời kháng

chiến, những sự việc ở thành, ở vùng tạm chiếm; rồi những năm hậu chiến

với tập đoàn hoá ở miền Nam, Hà Nội những ngày sau giải phóng. Cũng là

nhà văn của thời hiện tại, Dạ Ngân hướng ngòi bút đến cả những việc,

những người của ngày nay. Tất cả, với nhiều cảnh đời, nhiều thân phận. Chị

đã nhìn cuộc sống với sự đa dạng, nhiều chiều. Tất cả, đều gắn với con người.

Con người với những nét đẹp tâm hồn, con người với mặt còn khuất lấp, con

người trong đời sống tâm linh.

1.1.3.1. Nhìn cuộc sống ở nét đẹp tâm hồn con người.

Dẫu có quan niệm văn chương “cày xới không nương tay mặt trái của xã

hội loài người, thì rồi cuối cùng cũng phải hướng tới cái thiện cho con

người”, Dạ Ngân trước hết, đã hướng ngòi bút của chị đi theo trái tim của chị,

nhìn cuộc sống ở nét đẹp tâm hồn con người.

Ở Quãng đời ấm áp, đó là hình ảnh một chú Tư Thọ, người thủ trưởng

Bê Hai, một cơ quan công tác chính trị tư tưởng thời kháng chiến chống Mỹ.

Chú điềm đạm, chú quan tâm đến anh chị em trong cơ quan, nhất là đối với cô

Tiệp, một thiếu nữ mới vào Cứ. Chú hiểu tâm lý anh em trong đơn vị, chú

động viên, chia sẻ với anh em trong gian khổ của chiến tranh. Yêu những giờ

phút hiếm hoi lắng đọng trong Cứ với chương trình Tiếng Thơ của Đài Tiếng

nói Việt Nam và chú cùng chia sẻ niềm yêu này với anh em nhân viên trong

đơn vị. Với Tiệp, chú là người cha tinh thần tuyệt vời, như từ trong trí tưởng

tượng của chị bước ra. Khi chú hy sinh, Tiệp vẫn nhớ như in những lời nhắc

nhở, những lời động viên tận tình của chú. Những lời dặn dò ấy của chú, Tiệp

xem nó là một thứ hành trang, tạo động lực để chị đi trọn con đường kháng

chiến.

Ở Thợ vẽ truyền thần, là hình ảnh một người hoạ sĩ già, bác Hà. Trước

yêu cầu vẽ lại bức chân dung của một người bộ đội ngày xưa với trang phục

trang trọng của ngày nay, ông đã có những phản ứng tức thời.

Dầu vậy, ông vẫn nhận lời vẽ. Người hoạ sĩ ấy đã hoàn thành bức vẽ với

thời gian sớm nhất và không để phạm một sai sót kỹ thuật nào. Song, ông đã

không thành công. Bởi, từ trong trái tim ông, trái tim của một người hoạ sĩ già

có tài, ông đã thấy việc lắp ghép ấy là khiên cưỡng: Một người lính cụ Hồ

năm xưa với dáng vẻ phong trần, làm sao tương thích được với bộ áo vét, cà

vạt của ngày nay.

Ở Trăng về, là hình ảnh của Nguyệt. Nguyệt quê tận U Minh,

xứ sở có nhiều bông tràm và mật ong. Nguyệt đẹp tự nhiên và hoàn hảo, đặc

biệt là đôi chân. Một đôi chân của một người đẹp, giữa hầm bí mật của chiến

khu, lại càng thêm khêu gợi. Bởi nó như một kiệt tác. “Một vẻ đẹp được nhào

nặn để được tôn vinh, được công kênh cho mọi người chiêm ngưỡng nếu như

không có chiến trận” [56, 15 – 16].

Không chỉ có thế, Nguyệt còn có tài xoay xở trước việc khó trong Cứ. Để

rồi, muốn tự làm cái phòng tắm có vách làm từ những thân sậy, thân lách,

chị đã đi dọn và rồi vướng phải trái nổ. Đôi chân đẹp đẽ ấy đã chẳng còn ra

hình thù gì. Vậy mà, giữa lúc cực kỳ nguy hiểm ấy, Nguyệt vẫn bộc lộ phẩm

chất tuyệt vời của mình “Chị Nguyệt ngã ngửa, đang cố ngóc dậy để nhìn đôi

chân không còn ra hình thù và bằng tất cả sức mạnh chớp nhoáng, Chị kéo

mạnh tôi xuống, cố gắng nghiêng người đè lên để che đạn cho tôi”.

Lo lắng cho người khác, một đứa em của mình trong khi bản thân đang

bị thương nặng, Nguyệt càng thêm đẹp bội phần. Vẻ đẹp ấy còn nhiều lần

hơn dáng hình của Chị.

Với Ngọn nến phập phồng. Ngữ, một Phó Tiến sĩ sử học, tốt nghiệp ở

Đông Âu, đã nhận lời với bà Loan: Nhận làm cha của một đứa bé khi bản

thân cháu bé chưa biết mặt ba mình. Ngữ đã đau đáu vì lòng trắc ẩn trước

hoàn cảnh của một cô bé mồ côi : Mồ côi mẹ, rồi bà ngoại cũng mất; cha thì

nhiều năm không biết tăm hơi: “Có một ngọn nến nhỏ trước mặt tôi, ngọn

nến rất trắng đang cho tôi ánh sáng phập phồng của lòng trắc ẩn. Tôi không

thể rời bàn tay vun đắp ra khỏi nó được, chỉ vì nó phải cháy lên cho cuộc đời

nó và cho cả phần đời của tôi nữa” [56, 166]. Vẻ đẹp từ lòng trắc ẩn của

Ngữ chưa gặp được sự đồng điệu từ người đầu ấp tay gối với mình.

Chiến tranh đã qua đi trên đất nước chúng ta, những ký ức về nó vẫn

chưa thể xoá nhoà trong tâm trí Dạ Ngân – Chị vẫn từng viết về nó, về những

ngày phải trực tiếp đối mặt với những người bên kia chiến tuyến. Trong sáng

tác của Dạ Ngân, có truyện ngắn Câu chuyện nhiều năm. Truyện là sự nối

tiếp mạch truyện Nhìn từ phía khác, cùng viết đề tài về cuộc gặp gỡ của

những cán bộ cách mạng với những người lính của chế độ cũ, với một cách

nhìn khác, đời hơn. Hai mươi lăm năm trôi qua sau cuộc chiến tranh ác liệt,

đã có điều kiện để Chị nhìn về một thời khói lửa, về những cảnh ngộ, về

những tâm trạng, những cảm xúc của những con người ở những chiến tuyến

khác nhau. Câu chuyện nhiều năm đã ghi lại những tâm trạng của những

con người. Truyện đã dẫn dắt người đọc bắt đầu từ sự việc Thẩm vào Cứ

thăm chồng. Trực thăng của địch tràn tới. Giữa toán lính với “Tiếng giày rầm

rập nghẹt thở, những gương mặt râu tóc mụn nhọt nắng nôi được súng đạn và

uy lực của trực thăng hỗ trợ biến thành những gã robot cứng đanh hùng hổ”

[49,22] là một hình ảnh khác của người chỉ huy “viên thiếu uý dong dỏng,

gậy chỉ huy rất điệu và đôi kính cận thư sinh”. Thiếu uý Ng. Đ. Sang, người

chỉ huy cuộc đổ quân, đã nhận ra ngay được Thẩm, khi nhìn thấy cây đèn chai

đặc trưng của những người đi Cứ và hộp kem nho nhỏ, loại kem trang điểm

thịnh hành thời đó.

Thiếu uý Sang đã không quá ngây thơ để không nhìn ra chị. Cuộc đối

thoại rất lạ lùng giữa thiếu uý Sang và Thẩm đã tái hiện trước người đọc một

cảnh ngộ cam go thời khói lửa. Nhưng sâu xa hơn cả, sau những câu nói

tưởng như đùa một thiếu uý kiểng, lại thấy thấp thoáng một tấm lòng. Có thể

xuất phát từ cái nhìn trước một cô gái khá xinh, người thiếu uý ấy không nỡ

để cô làm “bia thịt”. Sang đã là một người có lòng nhân, một tâm hồn đẹp

khi nói với Thẩm “Tụi tui sẽ để ba má con trở lại chòi cũ trước, cứ bám hầm

cho chắc ăn, tụi nó không hơi đâu diệt hết từng cái chòi. Quân rút, pháo cũng

nghỉ mệt, chừng đó xuống ghe về hay ở lại với Việt cộng thây kệ các người”

và “Hộp kem thì trả, còn chai đèn, cho giữ làm kỷ niệm chơi há!”.

Hành động và lời nói ấy, đã khiến Thẩm không thể nào quên buổi trưa của

trận càn. Thẩm đã nhận ra rằng, chị đã rất mang ơn hai mẹ con người nông

dân đã nhận chị làm thành viên trong gia đình. “Chị cảm thấy rõ ràng sự

thiêng liêng biển cả, đó là sự cưu mang vô điều kiện của nhân dân, lòng dân,

sự vĩ đại của nhân dân” [49, 21]. Và lẽ nào, chị không nhận ra viên thiếu uý

đại đội trưởng thư sinh với đôi kính cận ấy lại là người không thực thi mệnh

lệnh của cấp trên anh ta: tìm diệt những người theo kháng chiến.

Nếu ở mảng truyện ngắn, Dạ Ngân, bằng nét bút tài hoa mà sắc sảo của

mình, đã khắc vào lòng bạn đọc hình ảnh những con người trong muôn mặt

đời thường với những tấm lòng nhân hậu, đẹp đẽ; thì với mảng truyện vừa,

chị cũng đã tạc nên những hình ảnh tươi đẹp, với những sắc màu đậm nhạt

khác nhau.

Hình ảnh cô Câm trong Miệt vườn xa lắm là những nét chấm phá của

một con người tốt, trong chị. Cô Câm bụng mang dạ chửa, vẫn chạy đuổi theo

Tiệp, để trả lại cho Tiệp gói tiền mà cô bé đã đánh rơi.

Hình ảnh người cha của Tiệp, đã ủng hộ nhà máy dệt lụa tơ tằm cho Tuần

lễ vàng kháng chiến để rồi trở thành một cán bộ kháng chiến gương mẫu, cho

gia đình, cho cả dòng họ. Sự đóng góp ấy cho kháng chiến, cũng có thể nói, là

tấm gương điển hình. Nhưng nổi bật hơn cả trong Miệt vườn xa lắm, người

đọc rất dễ nhận ra, cô Tư Ràng cứng rắn như đàn ông, nhưng hết sức nhân ái,

đôn hậu. Chồng Cô qua đời khi cô ở độ tuổi hai mươi tám, Cô đưa con của

mình ra thành cho nội nó. Rồi “Cô quay về nhận một lời ký thác của ba tôi: –

Làm đàn ông, lúc này anh không mặt mũi nào ở nhà. Anh giao ba, má vườn

tược với bầy con anh cho em. Anh biết chị dâu em vụng mà con anh đông,

anh trông cậy vào em nghen Ràng!”; “Ai chớ ba tôi mà cầu xin thì cô tôi chỉ

còn nước chôn tuổi trẻ xuống đất mà đứng lên. Vì ba tôi là anh trai duy nhất,

người đàn ông toàn diện, tuyệt vời nhất mà cô tôi tôn thờ. Tình cảm của cô

dành cho ba tôi là vô điều kiện, trang trọng, mãi mãi” [58, 64].

Cứ thế, thực hiện theo đúng lời hứa với anh trai mình, cô Tư, ở độ tuổi

hai mươi tám, đã gác lại tình duyên, giao con mình về nội nó, để toàn tâm

toàn ý thay anh lo cho cha mẹ già, đàn con dại của ông anh, cùng với người

chị dâu, bươn chải làm lụng, một nắng hai sương, để nuôi bầy cháu, dạy

dỗ bầy cháu khôn lớn. Cô, dẫu không biết chữ, nhưng đã thuộc tên, thuộc mặt

những nhà tù mà anh cô đã từng nếm trải. Để khi anh chết trong nhà tù Côn

Đảo, những đêm thanh vắng, cô đã bật khóc, những trận khóc đêm thất

thường .

Có trực tiếp tiếp xúc với nhà văn Dạ Ngân, mới thấy được niềm kính

yêu, sự quý trọng, lòng biết ơn của chị đối với người cô của mình. Bởi tất cả

những gì cô Tư đã mang lại cho chị em Hồng Nga là tài sản quý giá nhất đối

với chị em chị. Cô Tư Ràng trong đời thực, đã là nguyên mẫu cho nhân vật

Tư Ràng trong Miệt vườn xa lắm và Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

Ở tiểu thuyết Gia đình bé mọn, chúng ta lại gặp những nét đẹp khác

của tâm hồn con người.

Bà ngoại Hai, bà bác quen dọc đường, đã giúp đỡ tận tình cho Tiệp khi

mẹ con chị khệ nệ tay xách nách mang, nhất là lúc chị bị băng huyết trên

đường đi lại, khi từ thị trấn Điệp Vàng đến Bệnh viện, như tấm lòng thương

người của mọi bà mẹ.

Bà mẹ Đính, quý trọng con mình, quý yêu cháu nội. Bà đã hiểu được tình

cảm và tâm trạng của Đính, khi vợ chồng sống không thuận hoà. Để, với sự

giới thiệu tỉ mỉ, đầy thiện cảm của con trai, bà đã thu xếp gặp người thương

của con mình.

1.1.3.2. Nhìn cuộc sống ở mặt còn khuất tất của con người thời hậu chiến:

Con người với những nét đẹp tâm hồn đã đầy ắp trong các sáng tác của Dạ

Ngân. Điều đó phần nào nói lên tấm lòng nhân hậu của chị. Yêu cuộc sống,

yêu con người, đã giúp chị xây dựng nên những hình tượng đẹp đẽ, những

nhân cách đáng ngưỡng vọng.

Song, không chỉ có thế. Bởi cuộc sống muôn màu vẫn còn làm chị có

những trăn trở, nghĩ suy. Một Dạ Ngân đã rất nhạy bén, tinh tế khi nhìn ra

những mặt còn khuất tất của con người, nhất là ở thời hậu chiến.

Những khuất tất ấy, dễ nhận ra ở Gia đình bé mọn.

Đó là hình ảnh của những con người một thời làm mưa làm gió đối với

người dân, của những cán bộ thương nghiệp, cán bộ quản lý thị trường, của

những cán bộ văn hoá thông tin thời bao cấp.

Đúng như quan niệm của nhà văn nữ đồng bằng sông Cửu Long “Văn

chương,… nó cày lật không nương tay mặt trái của xã hội loài người…”. Mặt

trái ấy, có không ít trong cuộc sống hôm nay. Mặt trái ấy, luôn hiện diện trong

tác phẩm của Dạ Ngân.

Chính văn hoá thương nghiệp độc quyền đã làm cho những người cán

bộ thương nghiệp, khi biết được lợi thế của mình, đã có những lời lẽ, hành vi,

xử xự thiếu văn hoá đối với nhân dân, trong những năm sau ngày miền Nam

hoàn toàn giải phóng.

Tệ hại hơn nữa, những cán bộ văn hoá thông tin, là những người cần

có thái độ, hành vi có văn hoá đối với dân, đã có những hành động quá thô lỗ,

cực kỳ thiếu văn hoá: “Đang đi, vụt cái tiếng còi, còi hẳn hoi nhá, một tổ ba

ông băng đỏ hẳn hoi ở đâu túa ra hỏi giấy, túm tay như mình bị truy nã. Thế

rồi áp vô gốc cây dùng kéo sởn một nhát nhanh như AQ bị người ta cách

mạng cái đuôi sam đi” [59, 43].

Để đến nỗi, nhà văn đã phải thốt lên “Ở dưới địa ngục người ta cũng

không đối xử với tóc dài quần loe như mấy ông văn hoá thông tin xứ này!”

Một con người khác, Tuyên, bản thân là một cán bộ Ban Tuyên giáo

Tỉnh, đã có những thái độ vô trách nhiệm, hoàn toàn thiếu tình cảm đối với

người vợ đầu ấp tay gối của mình, khi đến ba lần, chị phải tự đi phá thai lấy

một mình, để anh rảnh rang lo việc cơ quan.

Tiệp đã u buồn nhớ lại: “Lần thứ hai rồi lần thứ ba, lần nào nàng cũng

trèo từ chiếc honđa 67 của chồng xuống, một mình chiến đấu với mọi công

đoạn, lại đói và khát, xế chiều lại tự đi mua thuốc rồi ra cổng vẫy xe lôi về

nhà nằm rũ xuống như một tàu lá héo. Không lần nào Tuyên đi vắng, cơ quan

anh cũng chưa di dời, bệnh viện tỉnh vẫn nằm trên trục đường cơ quan Tuyên

giáo tỉnh với nhà của anh”. Để rồi chị lại biện minh cho chồng: “Hay anh

thuộc nhóm máu cá, xa môi trường nước của công sở một lát là anh không

chịu nổi và sự tận tuỵ tuyệt đối của anh với cương vị phó phòng tuyên truyền

của Ban là đáng được thông cảm và đề cao?” [59,54].

Khi nghe Tiệp đặt vấn đề không nên kéo dài cuộc hôn nhân không có tình

yêu, Tuyên đã có những lời lẽ nặng nề đối với nghề nghiệp và niềm đam

mê của vợ mình “Đã nói dính tới văn chương là trốn chúa lộn chồng mà. Cô

với thằng nào, thằng văn thơ trời đánh nào hả?”;“Ra khỏi nhà để thành điếm

chớ gì? Đã bảo đi với cái ngữ ăn trợn nói trạo đó là hư thân mất nết ngay

mà!” [59, 84].

Giữa Tiệp và Tuyên mãi mãi là sự không hoà điệu, trong cuộc sống

vợ chồng. Tiệp quá nhạy cảm, Tuyên lại quá thờ ơ. Thờ ơ quá mức đối với vợ

của mình, kể cả khi vợ trong cơn thập tử nhất sinh, băng huyết vì sẩy thai, thế

mà “mãi sáng hôm sau Tuyên mới nhắn xuống: Ba ngày nữa sẽ ngồi xe cơ

quan xuống đón mấy mẹ con về luôn. Yên tâm, đã hỏi qua ý kiến của bác sĩ

của Ban bảo vệ sức khoẻ Tỉnh uỷ trên này, băng huyết vì sẩy thai mà can

thiệp kịp thời thì không có việc gì đâu!” [59,104].

Hồng Nga trong đời thực đã phải gánh chịu những đau đớn một mình,

giữa những cơn thập tử nhất sinh. Sự quá đỗi thờ ơ của chồng trước những

giờ phút nghiêm trọng nhất của đời nàng đã khiến những trang viết trong Gia

đình bé mọn càng dễ gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc. Gia đình bé

mọn giàu chất tự truyện, về cuộc đời của Lê Hồng Nga_ Dạ Ngân, vừa tươi

rói chất sống, lại trầm chất nghĩ suy về thân phận con người và tình người

trong những trạng huống gay go nhất.

Dạ Ngân đã rất sắc sảo để nhận ra rằng: Nhiều điều còn khuất tất của

con người thời hậu chiến vẫn đang diễn ra quanh chị, trong cuộc sống của

chúng ta. Nó không chỉ quẩn quanh trong gia đình chị; mà nó vẫn còn hiện

hữu ở trong những con người có chút ít quyền hành trên chị .

Đã có lúc Tiệp hoang mang, Tiệp tưởng chừng như mình phải gục ngã

trước bao sức ép, từ gia tộc, đến cơ quan. Bởi “Một trong những sự yếu đuối

của con người là sợ bị cộng đồng lãng quên hoặc ruồng bỏ” [59, 201].

Nhưng rồi, chính nhờ nhìn ra những điều khuất tất quanh mình, sống thực với

lòng mình, với tình cảm cao đẹp và chân thật của mình, Tiệp đã vững chải

đứng lên.

Bao nhiêu điều còn chưa trọn vẹn, chưa đường hoàng của con người thời

hậu chiến vẫn hiện diện trong sáng tác của Dạ Ngân, mà tiêu biểu nhất, vẫn ở

Gia đình bé mọn.

Song, chị không chỉ nhìn thấy cuộc sống ở những mặt còn khuất tất của

tâm hồn con người; sống trong dòng chảy của văn hoá Việt, Dạ Ngân đã

có những lúc nhìn cuộc sống ở đời sống tâm linh.

1.1.3.3. Nhìn cuộc sống ở khía cạnh đời sống tâm linh của con người:

Người Việt Nam chúng ta, từ xa xưa, đã rất coi trọng đời sống tâm linh.

Có lẽ, một phần, khi gặp khổ đau, bất trắc, ông cha ta vẫn luôn tin vào những

điều thiêng liêng, bí ẩn, để giúp mình vượt qua khó khăn, vươn lên phía trước.

Truyện Kiều là một kiệt tác văn chương của dân tộc ta, vẫn thấm đẫm niềm

tin vào đời sống tâm linh khi rọi soi số phận nàng Kiều. Những lận đận của

một đời người mãi gieo vào lòng những người dễ rung cảm những nghĩ suy,

ưu tư. Đối với Dạ Ngân cũng vậy.

Cuộc sống với không ít những đau khổ, khó khăn cả vật chất và đời sống

tình cảm, đã tạo cho Dạ Ngân tin vào đời sống tâm linh của con người “Đời

có số hết” [59, 292].

Sâu xa hơn, khi nghiệm hoạ phúc đời mỗi con người, nhân vật trong tác

phẩm của Dạ Ngân đã từng nói “Tại tụi bây, hồi vô cái nhà này tụi bây không

cúng kiếng lễ lạt đất đai thần thổ mà thằng Biên còn quật đổ trang Phật với

bàn thờ gia tiên của người ta” [56, 31]. Sống cho phải với đạo lý ở đời, để

được phúc, để lánh hoạ, đã ăn sâu trong tâm hồn người Việt; và cũng đã ẩn

chìm trong tâm hồn nhà văn.

Dạ Ngân đã có lúc tin vào con tạo xoay vần. Để từ sự gặp gỡ này của hơn

mười lăm năm trước, hai con người của hai chiến tuyến lại gặp nhau trong

một hoàn cảnh “Bỗng dưng một cuộc xoay vần khác nữa xuất hiện, rắp tâm

đặt họ vào tình huống lựa chọn quá sức đối với họ” [56, 35]. Cả hai con

người ấy, cùng cô đơn sau những nghịch cảnh của cuộc đời, nhớ về chuyện

cũ, họ đã từng hàm ơn nhau. “Con đường của hai người là đường cánh cung

từ hai phía mười lăm năm, nó tiến dần về một điểm, suy cho cùng, không ai

từng không hoặc từng có nhiều hơn ai, đó là những hạt cát từng bay lên và đã

rơi xuống trong giông gió cuộc đời” [56, 34].

Trần Thuỳ Mai, nhà văn nữ xứ Huế, cũng đã nhìn thân phận của những

người phụ nữ như những hạt bụi trong cuộc đời “Rượu thấm đẫm linh hồn và

thể xác tôi đến nỗi không còn gì dẫn dụ tôi được nữa, kể cả những người đàn

bà giá ba nghìn ở Bến Me nay cũng chỉ còn là những hạt bụi hổ nhục xa mờ

trong ký ức” [44, 117].

Ở một góc nhìn khác, nhân vật trong tác phẩm đã nói hộ Dạ Ngân về một

niềm tin tâm linh, bởi cái đẹp của cuộc sống và con người là vĩnh hằng, chỉ có

thân xác con người là hữu hạn: “Tôi như kẻ thất tình, cho đến khi tôi tiễn

được chị Nguyệt lên trời, thỉnh thoảng, cho tới hôm nay, tôi vẫn hay gặp chị

nhìn tôi, thăm hỏi tôi qua vẻ đẹp ngậm ngùi của ánh trăng hồi đó” [56,17].

Đây đó trong những sáng tác của Dạ Ngân, vòng tròn tạo hoá vẫn đang

hiện hữu, cuốn xoay số phận của những con người mà không chờ đợi sự

chuẩn bị của họ. “Hình như cái vòng tròn riết róng trên hành trình xoắn ốc

đã nhanh tay đặt tôi vào, nó không cho tôi kịp hoàn hồn hay kịp thở sau

chặng đời phải nói là ghê gớm ở Đông Âu” [56, 152].

Khi trải lòng mình với Gia đình bé mọn, Dạ Ngân dẫn dắt người đọc

theo chị với những suy nghĩ về đời sống tâm linh. Với chị, ông bà tổ tiên, dù

là của mình hay của người khác, đều phải luôn được ngưỡng vọng. Sống

trong một cuộc sống với nhiều bất trắc, với lắm gian truân, và có lúc,

như cô độc trên hành trình cuộc đời mình, Dạ Ngân đã có một niềm tin rất

mạnh mẽ vào đời sống tâm linh “Tiệp trải tờ giấy báo trắng và đặt lên nó một

chiếc lư hương nhỏ để tưởng nhớ đứa con trai út đã “tuẫn tiết” của ngài đại

tá đang còn ở trại cải tạo nào đó rất xa”. Và nàng đã từng giữ vững một lòng

tin: “Nàng tin linh hồn trẻ ở cõi kia vẫn thỉnh thoảng đáo qua đây thăm nhà,

mong cậu ta phù hộ cho các con nàng vượt qua những sự cố trong cuộc sống

đơn độc và bất trắc của chúng” [59, 195].

Tiệp, người phụ nữ gan góc trong Gia đình bé mọn, vẫn đã nghĩ về một

kiếp sau. Tiệp bị dằn xé bởi một bên là tình yêu còn bên kia là tình mẫu tử.

Để khi nàng đến với bên này, bên kia phải chịu thiệt thòi thôi “Nàng… lại

nghĩ, như muôn ngàn lần trong mười mấy năm qua, rằng nếu có kiếp sau thì

nàng sẽ chọn gì, tình yêu hay tình mẫu tử? Phải, nếu như có cái kiếp sau ấy

thì nàng sẽ chọn sao cho hai thứ tình ấy có trong nhau, sinh ra cho nhau và vì

nhau, mãi mãi, suốt đời” [54,279].

Nhà văn đã để nhân vật nói hộ mình “Nhưng mà phải rắn rỏi lên, đời có

số hết”. Sau bao năm lận đận vì tình duyên, giờ được sự hạnh phúc, thì lập

tức, Tiệp lại nhận được tin chẳng lành. Tiệp lại tiếp tục suy nghĩ về luật bù trừ

của tạo hoá. Ở đấy, hạnh phúc đan cài với khổ đau, được đi liền với mất, gần

gũi đi với rời xa. Tiệp nghĩ đến cuộc đời, đến bàn tay sắp xếp của tạo hoá

“Cha ăn mặn con khát nước, nàng đang được thì con nàng phải mất, đúng

không? Bù và trừ, lẽ nào cuộc đời lại nhẫn tâm với nàng như vậy?” [59, 292].

Tiệp nghĩ nhiều về số phận của con gái, sao hình như cùng một số phận

như nàng? “Tình duyên lận đận, học hành dở ương, con cái nhỏ dại, cái vòng

tròn của nàng chưa khép lại mà vòng tròn con gái nàng đã chồng lên…” [59,

293].

Nhà văn nữ của chúng ta vẫn đang nhìn cuộc sống ở khía cạnh đời sống

tâm linh của con người. Bởi trong truyền thống văn hoá Việt vẫn đang hiện

hữu đời sống tâm linh; và Dạ Ngân, với những tháng năm cay cực, vẫn đang

có một niềm tin vào số phận của con người.

1.2. Sáng tác của Dạ Ngân – tiếng nói của lòng nhân hậu và niềm tin: Sáng tác của Dạ Ngân là tiếng nói trân trọng, cảm thương cho thân phận

con người bước ra từ chiến tranh, hay con người trong muôn mặt đời thường.

Tiếng nói ấy có thể thấm đẫm ký ức, có thể đầy thao thức về nghịch cảnh và

thân phận con người.

1.2.1. Ký ức về chiến tranh và nỗi đau thời hậu chiến:

1.2.1.1. Về cuộc sống ở Cứ trong những tháng ngày rực lửa:

Dạ Ngân đã viết về cuộc sống ở Cứ trong những ngày còn chiến tranh.

Chị đã có những trải nghiệm thực tế, với đất, với người. Không có sự bao

quát những khung cảnh rộng lớn của chiến trận, nhưng với những tháng ngày

từng hứng chịu lửa khói đạn bom, ở Quãng đời ấm áp, Chị đã có những

trang viết mang hơi thở riêng của mình, về một cuộc sống vẫn đầy chất thơ,

dẫu lửa khói bộn bề. “Những hoàng hôn, mặt nước nhuộm hồng tấp nập ghe

xuồng của cán bộ, bộ đội và nhân dân… Tâm hồn mở ra, lồng ngực bồi hồi,

dào dạt tình yêu sôi nổi với một cánh hoa tra vàng óng bất ngờ loé ra giữa

những cành lá dập bầm, một vành nón tai bèo xinh xinh ôm lấy khuôn mặt dễ

thương của một cô bộ đội nào đó không hề quen, một tiếng hát đột nhiên bay

vút lên không trung êm ả, một ngọn gió trong lành không có mùi vị đạn bom”

[49, 12].

Thời gian làm việc chung không dài, nhưng giữa Chú và Chị đã có một

sự đồng cảm mạnh mẽ, có lẽ, hình ảnh Chú Tư Thọ trong Quãng đời ấm áp

và sau này trong Gia đình bé mọn là hình ảnh tiêu biểu của những cán bộ

cách mạng, yêu nước, chịu đựng được cực khổ trong kháng chiến, và đã có

những thành công trong việc dìu dắt thế hệ sau tham gia cách mạng. “Những

lời động viên tận tình của chú, chị đã thuộc lòng, nó giúp chị đi trọn con

đường gian khổ. Nó là hành trang kháng chiến chị mang theo mà không hề

thấy nặng” [49, 30].

1.2.1.2. Về những con người trong kháng chiến:

Cuộc sống ở Cứ những tháng ngày rực lửa luôn gắn bó với con người.

Những con người trong kháng chiến cũng đa dạng trong tính cách, phong

phú trong ứng xử. Rải rác trong các sáng tác của Dạ Ngân, người đọc vẫn

dễ dàng nhận ra điều đó. Má con Chị Liệt là một minh chứng. Hai tâm hồn

đẹp, cùng hướng về mục tiêu chung của cách mạng. Song, con đã hiểu lầm

mẹ. Mà, mẹ vì thực hiện nhiệm vụ bí mật do đơn vị giao, đã không thể giải

thích gì với con. Nhà văn Dạ Ngân đã khéo dựng tình tiết hai mẹ con gặp

nhau trong một cảnh ngộ quá đỗi đau thương. Xác chị Liệt cùng với một xác

cán bộ nữa nằm trên vệ cỏ, bị giặc hạ gục ở một nơi nào, kéo về hàng rào

thép gai của căn cứ tiểu đoàn bảo an của địch“Chị Liệt, chị Liệt… của tôi,

sao chị cam tâm nằm lại bên mép lộ đáng nguyền rủa này, sao hai mẹ con chị

lại tìm thấy nhau trong hoàn cảnh tàn khốc này, sao vậy?” [56,82].

Ở đây, đã cho chúng ta thấy, một Dạ Ngân sắc sảo trong quan sát, tinh

tế trong rung cảm, tài năng trong diễn đạt, phong phú trong ngôn từ.

Đúng như lời nhà nghiên cứu văn học Phong Lê “Nghề phải đi kèm với tài

năng để sao cho sự thật cuộc đời trở thành sự thật nghệ thuật”[39, 62]. Bằng

tài năng của mình, Dạ Ngân đã xây dựng nên hình tượng của những người

phụ nữ kháng chiến, chịu đựng bao mất mát hy sinh để làm nhiệm vụ cách

mạng, với những trang viết làm xúc động lòng người.

Ở Trăng về, thông điệp mà Dạ Ngân muốn gởi gắm đến bạn đọc, có

phải là: Chiến tranh dù đã tàn khốc đến bao nhiêu, vẫn không làm nao lòng

những con người có niềm tin sắt đá vào kháng chiến, những con người luôn

thương yêu, đùm bọc đồng đội của mình.

1.2.1.3. Chiến tranh – Nhìn từ phía khác:

Chiến tranh với những gian nan, ác liệt, tàn nhẫn của bom đạn, của lạnh

lùng. Thế nhưng, hơn hai mươi năm sau cuộc chiến tranh ấy, Dạ Ngân đã có

những cảm nhận khác hơn về người lính cộng hoà, ở bên kia chiến tuyến.

Thảo, một nữ cán bộ cách mạng, trong vai cô hầu bàn ở nhà hàng Vĩnh

Thịnh, một nhà hàng ở vùng địch kiểm soát, nơi cô được cắm vào để khai

thác thông tin, đã gặp tình huống khó khăn: bọn thực khách thô lỗ với cô, gây

sự, không chịu trả tiền… Trong tình huống hiểm nguy ấy, Thuận, một thương

phế binh đã giải thoát cho cô bằng những hành động dứt khoát, rõ ràng.

Để rồi, sau đó, họ đã có những lúc ngồi bên nhau. “Chúng tôi ngồi bên

nhau tối đó và không biết bao nhiêu là tối nữa, ngẩn ngơ bế tắc với sự ẩn

hiện ma quái của chiến tranh…” [56, 143].

Đây quả là hồi ức của một con người, sau gần một phần tư thế kỷ, nhìn lại

về cuộc chiến, về những cảnh ngộ mà mình đã trải qua, dưới một góc nhìn

khác, tâm trạng khác: “Hai mươi lăm năm, tôi, người đàn bà từng có tuổi đôi

mươi bỗng thấy cộm lên trong mớ ký ức bắt đầu lộn xộn của mình một hình

ảnh ban đầu thoáng qua như bức ảnh mờ, sau nó trở đi trở lại ngày một dày

hơn kèm theo sự thúc bách câm lặng những da diết như có sự xui khiến nào”

[56, 128].

Cuộc chiến tranh, dưới cái nhìn của nhiều nhà văn khác, là máu lửa là chết

chóc, là đói cơm lạt muối, là sự chiến đấu dũng cảm, ngoan cường của những

con người vì chính nghĩa với những con người ở chiến tuyến bên kia. Dạ

Ngân đã có cái nhìn khác. Thảo trong Nhìn từ phía khác lướt qua trong

ký ức của mình: “Hay tâm hồn con người là thứ khó cắt nghĩa nhất, nó quá

nhiều ngóc ngách để một khoảng khắc nào đó, nó bất chợt rung lên một hình

ảnh, một kỷ niệm, một chi tiết bởi cái mạng nhện tưởng là mong manh của ký

ức” [56, 128].

Đã từ lúc nào, một cô Thảo cán bộ cách mạng được vào vai một cô hầu

bàn, đã có những thao thức “… Tôi là thân phận trôi dạt và đang trôi cùng tôi

là một thân phận khác, chúng tôi luôn có nỗi buồn và những giọt nước mắt

giống nhau, chúng tôi nhỏ nhoi thường tình yếu đuối như mọi người đàn ông

đàn bà trên đời”.

Ngoài nhiệm vụ cao cả mà cách mạng giao phó, Thảo cũng chỉ là một con

người, với tình cảm, với những rung động thường tình, trước một người ơn.

Nhà nghiên cứu văn học Chu Huy đã từng viết: “Nhìn từ phía khác có lẽ là

một cách cảm nhận có phần mới mẻ của Dạ Ngân về những người lính phía

bên kia trận tuyến. Đây cũng là một cách viết có tìm tòi trong mảng đề tài

chiến tranh” [47, 63].

Tiếp nối mạch viết này là Câu chuyện nhiều năm. Người đọc dễ chú ý

đến một cuộc đối thoại lạ lùng giữa Thẩm, người đi từ tỉnh lỵ vào Cứ thăm

chồng, với viên thiếu uý có đôi kính cận thư sinh Ng. Đ. Sang của quân đội

Sài Gòn. Số phận đẩy đưa để mười lăm năm sau, hai người gặp lại. Thế cuộc

xoay vần, để rồi Thẩm và Sang lại đến với nhau khi mà hoàn cảnh khiến hai

gia đình riêng của họ ly tán.

Điều mà Dạ Ngân muốn gởi đến bạn đọc qua Câu chuyện nhiều năm:

Chiến tranh đã qua rồi, mọi việc đều được hàn gắn theo thời gian, những con

người cũng thế . Dạ Ngân đã để ở đây một cái kết mở: Thẩm và Sang sẽ quyết

định chuyện tình cảm của mình “Điều quan trọng là họ đã có nhau, hiểu

nhau như mọi người, những con người bình thường quyết gắn bó với nhau

một cách bình thường” [56, 36].

Phải chăng, khi có một quan niệm về văn chương “cày lật không nương

tay mặt trái của xã hội loài người” để rồi “nó vẫn có ý nghĩa cứu rỗi, hướng

thiện cho con người”, Dạ Ngân đã có những điểm mới mẻ trong cách nhìn

về con người trong chiến tranh, những người lính của bên kia chiến tuyến.

Đây là một trong những điểm khá nổi bật trong tư tưởng nghệ thuật Dạ Ngân.

Khi chiến tranh đã lùi xa, bình tâm nhìn lại, chị đã nhìn về những người lính

của bên kia giới tuyến. Những người lính ấy vẫn có lúc thời cuộc đẩy đưa, họ

phải tham gia chiến trận, và họ cũng phải gánh chịu những hậu quả của chiến

trận, cực khổ vì trận mạc, họ chán chường; ở họ, vẫn có những nét đẹp của

lòng nhân, của lẽ phải, trong những tình huống và cảnh ngộ cụ thể. Khi

binh lửa hết rồi, họ vẫn là những con người, những người đàn ông, những

người đàn bà của một đất nước, một dân tộc, vẫn có tình cảm, tình yêu, vẫn

tìm đến nhau khi bắt gặp ở nhau sự đồng điệu. Sự hoà hợp ấy mới là sự bình

thường trong cuộc đời này, của ngày hôm nay. Đây cũng là điểm mới trong

tư tưởng nghệ thuật của Dạ Ngân sau nhiều năm Chị cầm bút, cũng là

điểm nhìn khá khác biệt của Chị so với những nhà văn cùng thời. Bởi, nó

đậm tính nhân văn, nó hướng con người đến với tình yêu, hạnh phúc.

1.2.1.4. Những nỗi buồn do chiến tranh mang lại:

Những cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc đã thắng lợi. Thành công

ấy, đã có từ những hy sinh, mất mát của bao người.

Từ những trải nghiệm của bản thân và gia đình mình, nhà văn của chúng

ta đã có vô vàn nỗi đau từ thơ ấu, mãi cho đến trưởng thành.

Nếu ở Miệt vườn xa lắm, cô Tư Ràng cứng rắn, gan góc, vẫn có lúc “Cô

Ràng cũng linh cảm được ngày mảnh vườn này sẽ bị chiến tranh xâu xé, có

thể cái khuôn đất dành sẵn cho ông bà nội tôi ở góc vườn cũng sẽ không còn.

Biết vậy nên cô đã gồng gánh hết sức bằng sự đảm lược có thể nói là phi

thường” [58, 97]. Chiến tranh có thể tàn phá tất cả, kể cả đất dành làm mộ

phần của ông bà.

Tiếp theo mạch truyện của Miệt vườn xa lắm, những nỗi buồn do chiến

tranh mang lại đã thể hiện trong Gia đình bé mọn của Dạ Ngân.

Chiến tranh đã làm cho những người đàn ông trong cái gia đình lớn ấy ra

đi không về, để những người phụ nữ trong gia đình ấy trở thành những người

đàn bà goá bụa. Xung quanh Tiệp là “ những bà goá, cô goá, má goá, chị

goá, cô em út cũng goá, bốn bức tường gương mà nếu nàng soi vào thì nàng

phải lập tức quên tuổi trẻ và khát vọng của mình đi để nhớ rằng không thể so

sánh nỗi bất hạnh nào với nỗi bất hạnh của những người goá bụa” [59, 22].

Chiến tranh vẫn còn đây đó để lại những di hoạ, trên gia đình chị Hoài,

trên chính đứa con thân yêu của chị, và trên gia đình Mỹ Út “Thằng Hớn con

chị Hoài bị gãy xương chân vì chất nổ sót trong vườn nhà, Mỹ Út nhận được

tin báo tử chồng, lúc đó con gái nó mới có biết đi!” [59,95].

Không chỉ trong Gia đình bé mọn, ở những truyện ngắn của mình, Dạ

Ngân cũng đã viết về những nỗi buồn do chiến tranh mang lại. “Có thể lắm

cái cậu thầy giáo đã để lại chiến trường biên giới một bàn chân ấy” [51, 30],

“Chị đã chờ nhưng anh không bao giờ trở lại nữa. Thêm một lần, giông bão

chiến tranh cuốn mất cái bóng cây trên mái nhà của chị”. Những người đàn

ông là những cái bóng cây trên mái nhà của người phụ nữ. Những bóng cây

ấy, lần lượt rời mái nhà của những người phụ nữ, do chiến tranh, bởi chiến

tranh mà ra. Hai Mật vẫn luôn tự an ủi mình “Dĩ nhiên rồi nó sẽ qua, chiến

tranh và những nỗi khổ” [51, 34].

Ký ức về chiến tranh vẫn trở về trong những sáng tác của Dạ Ngân, để

sau Trên mái nhà người phụ nữ, Má con Chị Liệt lại tiếp tục tái hiện sự

khốc liệt của nó. Những người con của kháng chiến đã phải chịu bao mất mát,

hy sinh mới có thành quả của tháng tư năm bảy mươi lăm. Để rồi sau chiến

thắng vĩ đại ấy, vẫn có những người con âm thầm, hiu hắt chịu cảnh cô đơn

Làm sao có thể kể hết có bao nhiêu trang viết của Dạ Ngân ghi lại những

nỗi buồn do chiến tranh mang lại. Đó có thể là sự chết chóc, sự hy sinh; đó

có thể là những thương tật để lại trên thân thể con người; đó có

thể là sự goá bụa của những người đàn bà có chồng tham gia chiến trận; đó

có thể là lúc thân xác của người thân bị phơi giữa vòng rào kẽm gai của quân

thù; đó cũng có thể là sự gặp gỡ của hai người vợ khi chồng tập kết, về lại

miền Nam sau khi kết thúc chiến tranh. Dạ Ngân đã viết về những điều ấy rất

nhiều. Người đọc đọc những tác phẩm của chị, gấp sách lại, thì sự hình dung

trong đầu, không phải không khí thê lương ảm đạm, cũng không phải hào khí

ngất trời của những cuộc chiến, mà đó chính là: sự cứng cỏi chịu đựng, sự rắn

rỏi vượt qua, để rồi cùng vươn lên, tiến về phía trước; theo dòng chảy của

những ngày đã qua, đến hôm nay và đi tới ngày mai của những con người đã

từng sống trong những ngày lửa đạn. Và đây cũng chính là sự thành công của

chị, nét riêng của chị khi chị viết về chiến tranh.

1.2.2. Nghịch cảnh thời hậu chiến và những băn khoăn về cuộc đời, con người:

1.2.2.1. Những nghịch cảnh ở mỗi gia đình thời hậu chiến:

Chiến tranh dẫu đã lùi xa, một thời đại mới bắt đầu, nhưng đây đó, vẫn

còn nghịch cảnh ở mỗi gia đình.

Thực hiện theo Hiệp định Genève, những cán bộ miền Nam đã tập kết ra

Bắc những năm 1954 – 1955. Những năm tháng dài của cuộc kháng chiến, sự

chia xa về địa lý, đã khiến những cán bộ miền Nam khi chia tay với vợ, với

người yêu nghĩ rằng: chưa biết ngày nào gặp lại, và cũng có khi, người vợ ấy,

người yêu ấy đã có chồng. Để rồi, trên miền Bắc, họ xây dựng gia đình. Chiến

tranh kết thúc. Gia đình đoàn tụ. Nhưng không ít gia đình đã gặp hoàn cảnh

khó xử: Một cán bộ tập kết, có cả vợ ở ngoài Bắc, vẫn còn vợ ở miền

Nam. Dù phải sống ít hơn đã tái hiện lại nghịch cảnh này. Niềm trong tác

phẩm là hình ảnh một người phụ nữ miền Nam chờ chồng suốt hai mươi năm

“Hồi anh đi, chị là vợ chưa cưới. Vắng anh hai chục năm trời, chị vẫn giữ

nguyên vẹn cái dáng con gái ấy chờ anh. Giờ quá tuổi, chị không thể có con

được, không thể có vẻ tươi tròn sau cái vặn mình sinh nở nhưng chị có dáng

son trẻ ngày nào” [51, 41]. Niềm đã tự mình viết thư, mời mẹ, con cô Hạnh

vào thăm. Cô ấy đã gửi bức điện đáp lại. Niềm đã nghĩ ngợi nhiều về việc gặp

gỡ này, giữa người vợ của chồng mình với mình. Đây là khoảnh khắc rất éo

le, xét về tình cảm. Và quyết định cuối cùng đã đến với Niềm. Khi chị thấy

rằng: “Anh thấy không, phía em chỉ có em cần anh, còn phía cô ấy, có tới ba

người cần anh” [44, 49].

Quyết định của chị chính là: chị đã tìm một không gian khác như ý muốn,

chỉ có điều, không có Thịnh, không có người chồng. Dù phải sống ít hơn,

nhưng Niềm thật sự đã mang lại hạnh phúc nhiều hơn cho những người thân

yêu quanh mình. Những điều oái ăm đó, những nghịch cảnh đó, đã là những

điều có thực ở đất nước chúng ta, khi mà những cuộc kháng chiến kéo quá

dài.

Cuộc chiến ấy cũng đã để lại những nghịch cảnh khác ở mỗi gia đình. Gia

đình bé mọn đã tái hiện phần nào. Nếu một Tuyên sau chiến tranh chỉ tập

trung cho vai trò một cán bộ tuyên huấn, một cách mẫn cán và có chủ đích, thì

ngay trong gia đình anh, cô em gái kế Tuyên lại tìm đường vượt biên mong

cứu tương lai của chín người em của mình. Với cái nhìn sắc sảo, nhưng nhân

hậu, Dạ Ngân đã để lại trên những trang viết của mình những lời chia sẻ,

những sự cảm thông trước những điều không hay ấy.

Cả trong Câu chuyện nhiều năm, Biên, một cán bộ kiên trung gan lì

trong kháng chiến, sau chiến tranh trở thành một giám đốc công ty năng động,

đã có cú trượt dài vì sự hãnh tiến và để trả đũa một thời cực khổ, cuối cùng đã

“chết dưới vòi hoa sen khách sạn sau khi nốc cả một cơn say với một cô

điếm”. Thẩm, người vợ của anh, làm sao thoát khỏi sự dè bỉu, chê bai của

người đời. Sự tha hoá trong lối sống của một số cán bộ sau chiến tranh cũng

đã để lại không ít hệ luỵ ở những gia đình.

Còn nghịch cảnh khác nữa, một thực tế của miền Nam những năm mới

giải phóng. Những gia đình có người đã từng làm việc với chế độ cũ, đã âm

thầm lên kế hoạch vượt biên. Nhiều lý do để những kế hoạch ấy của họ không

thành: kế hoạch bị lộ, hải tặc cướp tàu, người vào bụng cá giữa đại dương bao

la… để rồi, lại thêm những gia đình ly tán, đau thương. Câu chuyện nhiều

năm viết về những cảnh đời ấy. “Vợ con anh, vợ con anh đã ôm nhau, ôm cả

mộng tự do xuống lòng biển, mãi mãi anh không biết họ có còn được nắm

xương hay vào bụng cá hết, mãi mãi” [49, 35]. Những nghịch cảnh ấy là có

thật, trên mảnh đất quê hương Việt Nam chúng ta, những tháng năm mới giải

phóng. Những trang văn, cũng là những trang đời ấy, tồn tại, để nhắc nhở

chúng ta: Cuộc sống vẫn rất cần đến những tấm lòng để sẻ chia lúc đau

thương, cô quạnh.

Không chỉ có nghịch cảnh ở mỗi gia đình thời hậu chiến, còn có những

ảnh hưởng lớn lao của phong trào hợp tác hoá ở miền Nam.

1.2.2.2. Những tác động của phong trào hợp tác hoá ở miền Nam:

Sau năm 1975, Nhà nước ta đã tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa nhằm

thống nhất nền kinh tế theo mô hình chung trên cả nước. Đối tượng của công

cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa vẫn nhằm vào kinh tế tư nhân và kinh tế cá thể.

Theo “Tiến trình lịch sử Việt Nam” của Nguyễn Quang Ngọc (Nhà xuất bản

Giáo dục xuất bản 2009): “Trong nông nghiệp, từ cuối năm 1978 đến cuối

năm 1980, phong trào hợp tác hoá nông nghiệp được đẩy mạnh ở các tỉnh

phía Nam. Tính đến tháng 7 – 1980, toàn miền đã xây dựng được 1518 hợp

tác xã nông nghiệp, 9350 tập đoàn sản xuất, thu hút 35,6% tổng số hộ nông

dân vào con đường làm ăn tập thể.”.

Một thực tế xảy ra là: Ở miền Nam, những năm mới giải phóng, tư tưởng

nóng vội muốn tiến hành nhanh việc cải tạo xã hội chủ nghĩa, đã xảy ra tình

trạng dùng mệnh lệnh ép buộc nông dân vào hợp tác xã nông nghiệp, vào các

tập đoàn sản xuất một cách ồ ạt. Việc quản lý yếu kém, trang thiết bị nghèo

nàn, lạc hậu, đã không đem lại năng suất, sản lượng sản phẩm cao. Các

nguyên tắc tự nguyện, cùng có lợi và quản lý dân chủ trong các hợp tác xã

nông nghiệp chưa được chú ý.

Lịch sử nước ta đã ghi lại những sự không thành công của việc tổ chức

hợp tác xã nông nghiệp ở miền Nam những năm 1976 – 1980.

Đối với Dạ Ngân, đó là “Cơn tập đoàn hoá đã làm cho ruộng nương tiêu

điều, vô chủ hết” [52, 28]. Và đây nữa “Chuyện tập đoàn trườn qua như cơn

bão, ruộng đất bị xới tung, nhổ bưng cả tình làng nghĩa xóm một thời” [46,

29].

Ở Câu chuyện nhiều năm, việc tổ chức tập đoàn hoá, hợp tác hoá thiếu

hiệu quả, để lại hậu quả lâu dài, đã là nỗi niềm ưu tư thường trực trong tâm

tưởng của nhà văn. Dưới cái nhìn của Dạ Ngân, Chị vẫn nghiêm minh nhìn

nhận “Cùng với thuỷ tặc, một cơn lũ khác, cơn lũ tập đoàn hoá, hợp tác hoá

đã tràn qua thôn xóm, cuối cùng, không ít nhà nông bên kia sông Tiền đã làm

một cuộc ra đi vô định” và “Ăn độn là nỗi nhục chưa từng có với dân miền

Tây, có phải vậy mà dân nghèo bỏ xứ, còn kẻ ở thành thị thì rủ nhau vượt

biên ào ào.”

Đề cập đến vấn đề ấy trong tác phẩm, Dạ Ngân một lần nữa lại như muốn

cày xới mặt trái của xã hội. Điều đó dường như để nói lên rằng: Sau những

thành quả rực rỡ của cuộc kháng chiến chống Mỹ, sự quản lý kinh tế của

những người lãnh đạo đã không thành công, những năm sau giải phóng. Điều

đó, cần phải được đổi thay sớm.

Những tác động không đem lại hiệu ứng tốt trong đời sống nhân dân của

phong trào hợp tác hoá ở miền Nam tiếp tục xuất hiện trong Gia đình bé

mọn, dưới góc nhìn của Dạ Ngân. “Để dân miền Tây ăn độn thì đúng là trời

còn phải chịu thua mấy ông hợp tác hoá!” [59, 39]. Rồi tiếp tục phải gánh

chịu thiên tai, cuộc sống của những người nông dân lại phải thêm nhiều cơ

cực “Sau trận lụt lịch sử năm ngoái, kẻ chèo người dong buồm là dừa nước

vừa đi vừa đổi cả tư trang, bàn ghế và tủ thờ để lấy gạo, chờ cơn sốt tập đoàn

hoá hợp tác hoá qua đi ”.

Miền Nam cần nhanh chóng qua đi những ngày ấy, những ngày của

những cơn sốt tập đoàn hoá.

Thế miền Bắc những ngày sau thống nhất đã có những nét riêng gì?

1.2.2.3. Miền Bắc những ngày sau thống nhất:

Trong những sáng tác của mình, Dạ Ngân đã có những niềm say

mê những nét văn hoá cội nguồn. Yêu thích chương trình Tiếng thơ của Đài

Tiếng nói Việt Nam trong Quãng đời ấm áp đối với cô Đầm là một minh

chứng. Rồi yêu Hà Nội bởi người mình yêu đã từng sống ở đó, bởi Hà Nội là

Thủ đô, với truyền thống văn hoá cội nguồn.

Nhưng, sao có điều lạ, bao trùm Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, vẫn là

một Hà Nội với bao nhiêu khó khăn, thiếu thốn, tất bật; một Hà Nội với nhiều

điều đáng ngạc nhiên, dưới nét nhìn của một phụ nữ miền Nam.

Nào là “Hà Nội đã cơ bản hoàn thành xong quá trình luộm thuộm, cũng

như mấy ông lâm nghiệp đã cơ bản phá xong rừng” [59, 130]. Nào là “Cả Hà

Nội người ta không đánh răng sao?” “Không sao, em súc miệng bằng nước

muối cho chắc răng. Mà muối cũng phân phối, phải tiết kiệm từng hột” [59,

132]. Nào là “Xe đạp còn có biển đăng ký thì em hình dung, con người bị

kiểm soát tới mức nào!” [59, 137]. Tình yêu Hà Nội với tinh hoa văn hiến đã

không giúp cô Tiệp xoá bớt đi những cảm nhận không mấy đẹp về Hà Nội.

“Những chiếc muỗng chết cười. Những cái muỗng gọi là thìa ấy bị đục một

cái lỗ tròn nhỏ ở chỗ đáng ra nó phải rất nguyên rất lành để làm một cách

trọn vẹn và tốt đẹp chức năng giúp cho người ta húp được nước phở”. Những

chiếc muỗng ấy hiện diện trong cửa hàng phở quốc doanh, là dấu tích một

thời của Hà Nội. Đính, chàng nhà văn, người yêu của Tiệp đã có nhận xét sắc

sảo.“Người ta làm thế để chống ăn cắp. Chỉ có những kẻ ăn cắp thành thần

thì mới nghĩ ra cách chống ăn cắp độc chiêu thế này!” [59, 142].

Là một thủ đô của một đất nước mới vừa ra khỏi chiến tranh, Hà Nội

cần có thời gian để xây dựng. Dưới mắt Tiệp, một người phụ nữ miền Nam,

đã quen cách sống, nếp nghĩ khác, tất yếu, khi đến với Hà Nội, miền Bắc

những lần đầu, đã có những cảm nhận lạ lẫm, về lối sống của người dân thủ

đô, về sinh hoạt thường ngày của họ. Ngẫm cho cùng, đây cũng là một cách

nhìn của Tiệp, với cư dân thủ đô, với một thời bao cấp khốn khó bộn bề. Sự

quan sát sắc sảo của Tiệp đã tạo nên những trạng thái tình cảm đầy ấn

tượng trong chị, đã dệt nên những trang viết về Hà Nội với những gam

màu chưa được tươi sáng lắm. “Buổi sáng giờ cao điểm, dân Hà Nội giống

một đàn kiến lầm lụi trên những chiếc xe đạp hoặc nội địa hoặc của Tàu hoặc

khá hơn, của những người đi Đông Âu khuân về, dù có chút khác nhau về

đẳng cấp ấp thì vẫn cứ là xe đạp có đeo biển hoặc không đeo biển, xám xịt và

buồn thảm. ” [54, 159].

Trong Gia đình bé mọn, dưới sự chiêm nghiệm của Đính, Hà Nội của

thời kỳ bao cấp đã để lại trong anh một ấn tượng rất đậm về việc xếp hàng.

Không phải chỉ có ở Hà Nội người ta mới thường xếp hàng ở chỗ quy định

cho đám đông. Cả nước vẫn đã xếp hàng trong thời kỳ bao cấp. Thế nhưng ,

hàng dãy dài của những vật dụng hỏng ấy được thay cho con người để người

ta khỏi phải xếp hàng ngay chỗ ấy thì chỉ có ở Hà Nội mới có. Điều quan

trọng là, Đính đã khái quát một cách rất sâu sắc về dãy xếp hàng ấy. Dãy gạch

vỡ, nón mê… ấy, dưới sự ngẫm suy sắc sảo của Đính, có thân phận, dấu ấn,

ước vọng diện mạo, linh hồn. Quả đây là một phát hiện thú vị độc đáo của

Đính, song có không ít chua xót. Khi được hỏi nếu làm công trình xã hội học

về Hà Nội thời kỳ này, Đính đã trả lời “Anh sẽ vẽ một dãy loằng ngoằng

những gạch vỡ, nón mê, làn cũ, chổi cùn, dép sứt, can nhựa hỏng, áo rách…

đó là những vật hình rất hay được dùng để thay thế con người trong dãy xếp

hàng ở chỗ người ta quy định cho đám đông, anh nghĩ nếu đứng riêng trong

một cái phông thật tĩnh thì cái dãy ấy rất sinh động, chúng có thân phận, có

dấu ấn, có ước vọng, có linh hồn, chúng có diện mạo của những người như

anh, như em gái anh, như bạn bè, như các con anh sau này”.

Hà Nội dưới sự quan sát của Tiệp, là những chung cư không được sạch sẽ

vệ sinh, là những vòi nước công cộng với những người lao động đôi khi

khiếm nhã… “Tất cả nói rằng, Hà Nội được nông thôn hoá một cách rất là

hiệu quả” [59, 163].

Những chi tiết ấy trong Gia đình bé mọn đã tạo ấn tượng rất đậm trong

lòng bạn đọc về một Hà Nội những ngày sau khi đất nước thống nhất. Điều ấy

phải chăng cũng từ quan niệm về văn chương của Dạ Ngân: “Cày xới không

nương tay mặt trái của xã hội”. Để những băn khoăn ấy của chị hướng về Hà

Nội những ngày đã qua sẽ là mong mỏi của chị về Hà Nội trong những ngày

tới, một ngày mai tươi đẹp hơn, đàng hoàng hơn.

1.2.3. Tiếng nói trân trọng cảm thương thân phận “bé mọn” của con người”

1.2.3.1. Thân phận con người nói chung trong và sau chiến tranh: bé

mọn:

Nhân vật trong sáng tác của Dạ Ngân thuộc nhiều tầng lớp khác nhau

trong xã hội. Những cán bộ kháng chiến với những mặt tốt đẹp và những điều

chưa tốt đẹp; những người nông dân lam lũ chân lấm tay bùn hai sương một

nắng mà vẫn luôn nghèo; những nhà văn nhìn đời sắc sảo thích dịch chuyển,

những nhân viên thừa hành trong guồng máy chính quyền thời hậu chiến;

và cả những người lính của chế độ cũ tiếp nối cuộc đời mình sau chiến

tranh… Những nhân vật ấy, đa dạng về hình hài, hết sức khác nhau về tính

cách, phong thái, ứng xử.

Có một điều người đọc dễ nhận thấy: thân phận của những con người

trong sáng tác của Dạ Ngân luôn gặp những trắc trở, khó khăn, nghịch cảnh,

cả trong và sau chiến tranh. Những phận người ấy, rất nhỏ bé trước cuộc đời

này. Nó như một chiếc tam bản, nhỏ bé giữa dòng sông xiết, nó như một hạt

bụi giữa khoảng không gian bao la, nó như những chiếc vòng tròn lặng im,

toả rộng nối các đời người.

Truyện ngắn Một khúc sông là một trong những sáng tác thành công của

chị. Bời là một đại đội trưởng kháng chiến, có vợ là một nữ pháo thủ chiến

đấu anh dũng một thời. Cả hai vợ chồng đều là thương binh. Sau giải phóng,

anh về đất cũ, tiếp nối nghề của cha mình, làm nghề chở đất mướn để nuôi

năm miệng ăn. Anh đã có cái nết của người cha xưa “Không làm lấy để ăn

tiền, công xá dễ chịu, không từ chối đất mỡ, lên đất gọn hơ, và có khi nhà chủ

nhờ cũng không nề hà” [52, 26]. Thế nhưng, chính vì muốn thoát khỏi

sự lệ thuộc với gia đình chủ tịch Lấu anh đã ráng làm thêm, thêm những

chuyến tam bản đem đất về, khi nước sông đang xiết, lại thêm lũ lục bình dày

đặc vướng đường. Trong những nỗ lực hết sức của Bời, giữa dòng nước xiết,

Bời chỉ còn kịp thoát thân, và đành nhìn theo chiếc tam bản của mình bỏ mình

dưới dòng nước hung hãn.

Dạ Ngân đã đau đáu về thân phận về người nông dân quê mình như thế,

dẫu người nông dân ấy đã một thời góp xương máu của mình cho kháng

chiến, cho sự nghiệp độc lập dân tộc, cho sự hồi sinh của một quốc gia. Viết

về thân phận con người trong và sau chiến tranh, nhà văn nữ của đồng bằng

sông Cửu Long của chúng ta như muốn nhắn gởi một nỗi niềm: Làm sao để

những người nông dân Nam Bộ bớt khổ, thoát nghèo, để họ vươn lên, đứng

vững trên đôi chân của chính mình, trên mảnh đất cha ông mình và cả chính

bản thân mình đã từng đứng, từng sống, chiến đấu; để họ luôn vững một niềm

tin khi nghĩ về cuộc đời họ và cuộc đời con cháu họ, ngày mai.

Ở một cảnh đời khác, Dạ Ngân đã bùi ngùi ghi lại, trong truyện ngắn

Muỗi mía, trong tập Nhìn từ phía khác. Một tiểu đoàn trưởng Lĩnh, đã từng

“Ngày xưa anh đẹp anh giòn anh lừng lững như một cây gỗ quý được thời

cuộc đánh bóng” trong chiến tranh; thì ngày nay, số phận đã biến anh thành

“nó đã bị vất lên cạn, một khúc gỗ gầy gò, mốc nẻ trong trò lơ đễnh của số

phận” [56,103]. Điều ấy bởi vì đâu? Một sự lý giải của nhà văn với nhiều tiếc

nuối, ngậm ngùi. Tâm trạng của một con người, người sĩ quan của một tiểu

đoàn quân giải phóng, trước một trận đánh với nhiều mất mát, hy sinh của

đồng đội. Có ai thấu hiểu nỗi tiếc thương của Lĩnh khi biết tin những người

bạn của anh ở các ban chỉ huy đại đội không còn một ai. Anh đã quá đau xót,

thiếu bình tĩnh, lơ là trong vai trò của một vị chỉ huy. “Anh xông vào ngửa

mặt lên trời khóc như bộng, để mặc cho quân mình lia tiểu liên vào đống

hàng binh”. Phải chăng, với cương vị chỉ huy trận đánh, anh đã vi phạm

chính sách tù binh? Anh Lĩnh của một thời huy hoàng đã tự lột súng, ra quân,

và cũng không về quê nữa. Nhà văn đã dẫn dắt người đọc suy nghĩ nhiều về

hành động ấy của Lĩnh “Không ai biết vì sao anh bỏ ngũ rồi lẫn trốn, những

cái chết ám ảnh hay tâm trạng thù ghét súng đạn và sợ hãi giết chóc?” [56,

108]. Tiểu đoàn trưởng Lĩnh “vùng vẫy, bậm trợn, bất cần” của một thời; giờ

đã trở thành “một con chó hết thời”, “người anh hùng ngã ngựa”, “cái chân

sai vặt ở cả những nơi không có tiền công” [56, 110]. Sự tiếc nuối của Quý,

người bạn thời xa xưa của Lĩnh, hay cũng chính là sự tiếc nuối của chính

người cầm bút, để Lĩnh không “làm một con số không trước mắt mọi người”

[56, 111]. Sự kỳ lạ ấy trong con mắt của Quý, cũng là sự trớ trêu của số phận

một con người. Một con người đã đánh mất chính bản thân mình sau những

phút lơ là khi ở cương vị chỉ huy mà cương vị ấy luôn đòi hỏi sự tỉnh táo, dẫu

trong những phút giây gay go nhất của hoàn cảnh, thời binh lửa.

Và những phận người khác, những con người của bên kia chiến tuyến,

thiếu uý Sang với dáng vẻ thư sinh và đôi kính cận của Câu chuyện nhiều

năm, thương phế binh Thuận với cái bàn chân gỗ của Nhìn từ phía khác, sau

cuộc chiến, họ đã trải qua những ngày tháng khác của cuộc đời. Họ cũng có

những yêu thương, họ cũng có những chờ đợi, chờ đợi một hình bóng, một

tình yêu, rồi họ cùng hoà chung trong dòng chảy của cuộc đời, trong dòng

chảy chung của lịch sử dân tộc, theo một chặng đường mới.

Bàng bạc trong sáng tác của Dạ Ngân, những phận người với nhiều

khổ đau, nhiều bất hạnh. Nhưng người đọc cũng dễ nhận ra dưới tầng sâu

của những câu chữ u hoài của chị, là những ánh sáng của một ngày mai.

1.2.3.2. Thân phận người phụ nữ trong và sau chiến tranh: càng bé mọn.

* Trong tình yêu:

Ở truyện ngắn Xuân nữ, Dạ Ngân đã có những cảm nhận khác về thân

phận người phụ nữ trong tình yêu. Một Chị Xuân giữa những tháng năm lửa

đạn, vẫn rất đẹp nhưng sao tình duyên cứ mãi lận đận. “Chị như một món quà

giữa khung cảnh hoang tàn và bị dồn đuổi sau Tết Mậu Thân”, “lần đầu tiên

tôi thấy những người đàn ông trong nhóm của mình bất động như bị điểm

huyệt trước một người đàn bà”. Với một bà mẹ mù loà, chị phải bám trụ với

mấy người bà con trong đội du kích khi người chồng đầu là bộ đội hy sinh,

chị “phải tự tìm ra con cá lá rau và đêm đêm còn phải lên đồng cuốc đất vãi

mạ cấy gặt để có hột gạo lứt mà cầm cự với thời cuộc”. Người phụ nữ nhan

sắc, gan góc như thế trong chiến tranh khốc liệt. Vậy mà, chị đã bị đồn rằng:

Chị là “Một xuân nữ cao có số sát chồng, nguy hiểm còn hơn một tay bắn

tỉa” [83, 38]. Ba sĩ quan cấp tiểu đoàn, là những sĩ quan chủ lực miền, lần

lượt được giới thiệu ra mắt với những người trong Cứ, nối nhau, hy sinh chỉ

trong một năm. Song không chỉ dừng lại ở chừng ấy, những người đàn ông

trận mạc lại yêu chị, đến với chị, rồi lại tiếp tục hy sinh trên chiến trường.

Bảy người như thế! Lý giải về điều này như thế nào đây? Chiến tranh thôi!

Chiến tranh tàn khốc, chẳng chừa một ai. Những sĩ quan chủ lực miền cũng là

những phận người trong chiến tranh, và cũng có thể hy sinh bất cứ lúc nào.

Và người xuân nữ ấy, khao khát đến với tình yêu, với những người đàn ông

của trận mạc, đó cũng là phận người phụ nữ bé mọn trong tình yêu, trong

cuộc chiến tranh này và mãi cho đến tận ngày ba mươi tháng tư lịch sử. Dạ

Ngân đã nói hộ chúng ta về những người phụ nữ đẹp và tài năng ấy, vẫn rất

cần có trong cuộc sống của chung ta để cuộc đời này không tẻ nhạt “Trời sinh

ra những người đàn bà đẹp để làm gì? Họ là những ánh chớp cho ta thấy cả

đất và trời trong một lúc nào đó, không hư vô thường tình chút nào, lúc đó.

Rồi mọi thứ sẽ trở lại đều đều, quân bình, nhàm chán, thậm chí tẻ nhạt. Nó,

những tia chớp giật ấy là hiểm hoạ mà cũng là tài năng phải có trong cuộc

đời này, không dành riêng cho ai cả” [65, 43].

Ở Tóc dài mấy lạng, Dạ Ngân, thêm một lần nữa, cho ta thấy sự cảm

thông sâu sắc của chị đối với thân phận những người phụ nữ trong tình yêu.

Một người phụ nữ, đã có thời là sinh viên, nhẹ dạ, cả tin; để rồi trở thành một

người mẹ trẻ. Một người mà những tháng ngày nối nhau chỉ là: sinh con, nuôi

con, chấm hết. Phận người sao nhỏ nhoi thế. Rồi đây nữa “Rồi em thành kẻ

ngửa tay quen thói, em không sao biết chồng mình đang làm gì đang ở đâu

trong nhiều ngày liền…” [61, 234]. Người mẹ trẻ ấy đã vượt lên, thoát cảnh

đời cũ, tìm một nghề nghiệp giản dị, sống ở một nơi khác, để không còn cảnh

tháng ngày ngửa tay nhận tiền của chồng. Đã có lúc, người phụ nữ ấy muốn

rằng “Em không cần tiền bán tóc nhưng cắt nó đi là thật sự chia tay một

quãng đời, chia tay một chặng đường, chia tay với một giai đoạn”. Nhưng rồi

cũng có lúc khác, chị đã suy nghĩ lại. Hoá ra, sự chọn lựa cho mình một quyết

định trong tình yêu cũng không dễ dàng gì.

Ở Gia đình bé mọn, Tiệp đã thật sự mạnh mẽ, vươn lên, để nói tiếng nói

thật của lòng mình, trước một tình yêu. Bao cách trở, bao cản ngại, từ trong

gia đình, dòng họ, đến cơ quan, đồng nghiệp, bạn bè đã bủa vây Tiệp tứ phía.

Người phụ nữ ấy, phải vượt lên trên những tất cả rào cản, để đến được với

tình yêu. Tình yêu ấy quả lớn lao, còn phận người sao lận đận. Tìm về Hà

Nội, nơi Đính đang sống “Nàng thấy mình bỗng thật sự nhỏ bé và bơ vơ như

con cá nhỏ vừa cả gan tìm về cội nguồn nhưng không biết sẽ xoay sở ra làm

sao nữa” [59, 130].

Có thể nói, trên nhiều trang viết của mình, Dạ Ngân đã đau đáu khi viết

về thân phận của những người phụ nữ trong tình yêu.

• Trong bổn phận làm mẹ:

Trong đời sống của người Việt, tình mẫu tử luôn là nguồn mạch, mãi

không bao giờ cạn. Tình cảm thiêng liêng ấy, đậm trong ca dao, cổ tích; và

vẫn lặng lẽ hiện diện trong những sáng tác ngày nay.

Dạ Ngân đã luôn nặng ưu tư về bổn phận làm mẹ. Điều ấy, thấm đẫm

trong các sáng tác của nhà văn.

Ở Cõi nhà, là tâm trạng của một người mẹ, sau ly hôn, luôn lo lắng cho

con trai của mình. Đó là sự nhớ miên man về một thời đã qua, có những đắng

cay, có nhiều chua chát về một mối tình, một cuộc hôn nhân không trọn vẹn.

Dạ Ngân với những quan sát sâu sắc về tình mẹ đã để lại ở trang viết

về Tiền của má. Một người mẹ một đời lam lũ, trước phút lân chung, đã

khiến các con phải nghẹn ngào. Hai gói, một gói gồm những gì quý nhất mà

mẹ để lại và một gói khác gồm số tiền, đã được trao cho đứa cháu nội đích tôn

và người con gái út. Với Tiền của má, Dạ Ngân đã xây nên một truyện ngắn

mang yếu tố kịch hoá. Đó là một kết thúc truyện bất ngờ nhưng rất đẹp. Dẫu

là tình huống chia ly.

“Mai kia khi vào tuổi má, những người con này sẽ hiểu vì sao một bà mẹ

hay một ông bố có thể quý đứa con này mà lại chăm bẵm đứa con kia, đó là

cái lý tự nhiên mà không phải lúc nào người khác cũng hiểu được” [56, 48].

Với Miệt vườn xa lắm, Dạ Ngân đã từ tốn, chậm rãi dẫn dắt người đọc

ngược về ký ức tuổi thơ của mình để về miệt vườn Long Mỹ, Hậu Giang. Ở

đó, cô Tiệp Kiến Vàng của ngày xưa có dịp kể về cô Tư, và về má của mình.

Má trong ký ức của Tiệp, có dịu hiền của tình mẹ, có sự lam lũ một nắng hai

sương, có sự “nhỏ nhoi” có phần ích kỷ khi chỉ lo con mình trong một đại gia

đình thiếu bóng dáng đàn ông. “Bà chỉ khoanh phạm vi quan tâm trong đám

con của bà”. Ý thức về bổn phận và tình thương con quá lớn đã khiến cho

“Bà chỉ nhìn con ăn chứ mình thì chỉ lót dạ cho đừng đói và không dám sắm

sanh riêng mình thứ gì” [58, 67 – 73]. Có lúc, trong suy nghĩ của mình, bà

vẫn nói lẫy với đám con mình, khi biết rằng ở khả năng hạn hẹp của bà, bà chỉ

biết lo cho đám con theo cách của mình, không thể nào bằng cô em chồng

tháo vát, cứng cỏi “Phải mà, tụi bây là ngữ mượn bụng tao để chui ra còn

thờ thì bây thờ người khác!”. Tiệp đã ý thức được về vai trò của mẹ mình,

trong gia đình nhà nội, trong sự chăm sóc bầy con; và cả ở một vế ngược lại:

vai trò lớn lao của gia đình nhà nội với cuộc đời của mẹ mình. “Tôi thương

má như con dế với cái hang của nó, với mặt đất của nó, cái mặt đất mà thiếu

ánh sáng và bầu trời nhà nội thì đã không có con dế ấy”. Ngẫm cho cùng,

thân phận người mẹ ấy cũng thật bé mọn, trước cuộc đời này.

Với Cái ban công trống, một cuộc chiến tranh nữa được tái hiện với

những trang viết của Dạ Ngân, chiến tranh biên giới Tây Nam. Tình thương

con của chị Biên quá lớn để lại trong chị một sự lo lắng, bất an thường trực,

khi mà cuộc chiến ấy cũng khốc liệt không kém cuộc kháng chiến chống Mỹ

cứu nước năm nào. Luôn là tìm mọi biện pháp để đem Tung về. Bởi trong

Tung đã định hình một quyết tâm: đúng mười tám tuổi là đăng lính. Rồi Tung

đã đăng lính thật. Và cùng với điều ấy là sự bặt tăm. “Nhưng mà bặt tăm, một

đứa con mình không tăm tích không mồ mả thì nó hành hạ anh với chị như

thế nào cô có hình dung được không?” Và nỗi lòng của chị Biên là “Má ơi có

cách nào đi cứu thằng Tung, ba nó có bề gì con chịu được chớ thằng Tung

mà có bề gì thì… thì con thề cả hai vợ chồng cùng phải chết theo nó chớ con

không chịu để yên cho ổng đâu!”

Anh Hoàng, cha của Tung, đã góp nhiều năm cho kháng chiến. Và giờ

tiếp tục đến Tung, lại góp cho cuộc chiến khác. Tung đã phải ngồi xe lăn, đã

có lúc về nhà. Nhưng rồi sau đó, nó đã muốn giải thoát cho chính bản thân

mình, nên đã ra đi. Sự ra đi của đứa con trai trong vô định, đã để lại sự đau

xót trong lòng cha mẹ, quá đau xót. Để, chị Biên đã tìm cách giải thoát cho

mình, khi tự kết liễu đời mình, sau những ngày dằn vặt vì nhớ, vì chờ, vì đợi

con. Cuộc chiến đã qua sao nỗi đau vẫn chưa vơi trên gia đình nhỏ bé ấy.

Tiếp thêm một nỗi u hoài cho người đọc khi nghĩ về một chiếc ban công làm

chưa trọn, như một bổn phận người mẹ làm chưa tròn, trong suy nghĩ của Chị

Biên?

Với Gia đình bé mọn, một cô Tiệp nhà văn vẫn luôn ray rứt trong bổn

phận làm mẹ, trong tình mẫu tử, với cả các con, Thu Thi và Vĩnh Chuyên.

Tiệp, để đến với tình yêu, nàng đã phải chịu đựng quá nhiều trắc trở. Sự

vất vả trong cuộc sống, những tai tiếng phải gánh chịu, sự kiểm điểm của tổ

chức, sự từ bỏ của gia tộc… đè nặng trên vai người phụ nữ ấy. Song, nàng đã

cương quyết đứng lên, bằng chính nghị lực của mình “Mẹ hứa với con là

người ta sẽ phải thừa nhận mẹ cho con mở mày mở mặt” [59, 205].

Tiệp luôn trong một tâm trạng áy náy, ray rứt, như một người có lỗi trước

các con mình. Và thường trực trong chị là một lòng yêu các con, luôn suy

nghĩ về con. Bên cạnh hình tượng Tiệp, hình ảnh người mẹ của Đính cũng

đã để lại trong lòng bạn đọc những nét đẹp khác. Hình tượng đẹp đẽ ấy, phải

chăng xuất phát từ những gì mà bà đã đem lại cho các con, lo lắng cho các

con, mà Đính là người tiêu biểu trong số các con ấy của bà. “Mẹ đã cho anh

tất cả, tình mẫu tử và tình bạn, ánh trời và đất đai, tình thương và sự ngưỡng

mộ” [59, 167].

Thân phận người phụ nữ trong bổn phận làm mẹ thời chiến tranh và

sau chiến tranh mãi vẫn nhỏ bé trước cuộc đời. Song, vượt lên những điều

đó, trong bổn phận làm mẹ, bao người phụ nữ đã để lại dấu ấn sâu đậm trong

sáng tác của Dạ Ngân.

Những người phụ nữ Việt Nam của chúng ta mãi vẫn gắn bó với gia

đình, chịu sự ràng buộc bởi nền nếp gia phong.

* Trong sự ràng buộc bởi nền nếp gia phong: Mỗi gia đình Việt mang

dấu ấn văn hoá Việt Nam đậm nét. Dấu ấn văn hoá ấy được để lại trong lối

sống, mối quan hệ cộng đồng, của người Việt ngày trước, đó là “Những

nguyên tắc luân lý cũng như phong tục tập quán trói buộc người ta vào những

điều hết sức khe khắt, làm cho mất hết tự do cá nhân, ngăn cản tham gia vào

đời sống xã hội rộng lớn” [11, 85], “Tất cả vì chữ “hiếu”, sợi dây tinh thần

và tình cảm trói buộc mỗi thành viên với gia tộc, làm cho gia tộc càng thêm

bền vững” [11, 88]. Ở nhiều vùng nhiều miền trên đất nước chúng ta, sự gắn

bó giữa mọi thành viên với gia tộc rất chặt chẽ. Nếu ở Thời xa vắng, Lê Lựu

đã vẽ nên chân dung anh Giang Minh Sài hơn phân nửa cuộc đời phải sống

cho gia tộc, vì gia tộc; thì ở Nàng ở đâu ra, Dạ Ngân đã từng viết “Nàng

nhớ, từ hồi còn rất nhỏ, nàng đã mơ hồ hiểu rằng, hạnh phúc là phải sống

cho người khác, là phải biết hy sinh cho đại gia đình mà nàng, dù bé tí, cũng

phải cảm thấy tự hào mà vun vén”…, “còn phải luôn luôn một trật tự trên nói

dưới nghe quấn quýt chan hoà”…[56, 88].

Nền nếp gia phong ấy nó đã tạo nên những dòng họ gắn bó với nhau, biết

giúp đỡ nhau, trên bảo dưới nghe, quý trọng sự học và thành công trong cuộc

sống. Với Nàng ở đâu ra, Nàng, vợ của Mẫn, đã luôn phải vâng lời mẹ “Mà

phàm là đàn bà thì phải phụng sự cho nhà chồng chớ!” [56, 92]. Việc phụng

sự ấy sẽ đi kèm với việc phục tòng, không được phản kháng, dù với bất cứ lý

do gì, tất yếu dẫn tới sự lệ thuộc, sự cam chịu, sự ray rứt của những người phụ

nữ.

Nhưng, cũng có những thân phận của những người phụ nữ bé mọn trong

sự ràng buộc của nền nếp gia phong. Tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn ngự

trị trong những gia đình Việt, trong sáng tác của Dạ Ngân. Miệt vườn xa lắm

đã thấp thoáng điều đó “Con gái mới buồn! Ông nội nói nhà gì toàn nước

mắm thúi không” [58, 51]. Một lối nói thẳng, cám cảnh cho thân phận người

phụ nữ, trong một gia đình cũng có vườn tược, có của ăn, của để. Và người

đàn ông trong gia đình Tiệp, mới chính là trụ cột, mới chính là trí tuệ, mới

chính là niềm tin của các con “Ba con hơn má con tới mười cái đầu!” [58,

71]. Cô Tư Ràng, người em út của ba Tiệp, người đang nhận một nhiệm vụ

rất nặng nề do ông anh đi kháng chiến trao lại, đã có một nhận định về người

anh của mình như thế so với chị dâu mình. Ở trong những suy nghĩ đã hằn sâu

như thế của những con người trong gia đình, thân phận người phụ nữ mới nhỏ

bé làm sao.

Người đàn ông vẫn còn rất thiêng liêng khi họ hiện diện trong gia đình

của mình. Sự hiện diện ấy, không chỉ khi họ có mặt. Sự hiện diện ấy, có thể là

những ảnh hưởng của họ đến người thân, bằng những kỷ vật mà họ gởi lại

“Đôi bông cưới, đôi bông hình đài hoa mù u ấy là kỷ vật của nhà nội, là hơi

hướng của ba tôi, nó còn trên tai má tôi là cuộc hôn nhân còn thiêng liêng,

các con má có thể nhìn vào đó mà nhớ đến và tin tưởng…” [51, 82].

Sự ràng buộc ấy của nền nếp gia phong càng hiện diện rõ ràng trong gia

đình bé mọn của Dạ Ngân. Để sống cho thật đúng với những cảm xúc chân

thật của lòng mình, cho những khát khao cháy bỏng; nhưng lại phải dằn

xuống cho hợp với những quy định của xã hội, những quy định của bổn phận

không thành văn nhưng hơn cả thành văn – người phụ nữ phải chịu quá nhiều

áp lực. “Nàng nghĩ cái cuống nhau gia tộc lắm lúc giống như sợi thòng lọng

dai dẳng, mình an phận thì nó nhắc nhở thúc giục nhưng mình muốn nhốm

chạy thì nó kéo lại, thít chặt vào hơn” [54, 28]. Dưới tâm trạng của Tiệp, sự

ràng buộc của nền nếp gia phong thật nặng nề đối với những người phụ nữ,

những người phụ nữ nhỏ nhoi trước cuộc đời này, trong đó có nàng. Sợi dây

thòng lọng, hình ảnh của những trói buộc, càng vùng vẫy, càng bị thít chặt,

càng khó trốn chạy hơn mà thôi. Nền nếp gia phong , từ nhiều đời và cả đến

bây giờ, vẫn ngự trị trong gia tộc nàng. “Tôi đã quỵ xuống và đây là ý nguyện

của gia tộc” [54, 51]. Ý nguyện ấy là sự hàn gắn, là sự trở về cuộc sống vợ

chồng theo sự ràng buộc của hôn nhân. Bất kể hôn nhân ấy, đầm ấm hay tẻ

lạnh, bằng phẳng hay chênh vênh. Đã có lúc, Tiệp phải buông xuôi như thế.

Gia tộc nàng, từ miệt vườn cổ Cao Lãnh, rồi về Long Mỹ, Hậu Giang,

dưới sự trải nghiệm và nghĩ suy của Tiệp, đó là “Gia tộc nàng, một gia tộc

lấy sự trong trẻo giản đơn, sự hiếu thuận phẳng lặng và thứ văn hoá thuần

tuý ứng xử và tôn ti trật tự truyền thống làm nền” [59, 165]. Một quan niệm

hiếu thuận và giữ tôn ti trật tự truyền thống để gia tộc ấy mãi giữ thanh danh,

mãi luôn nền nếp. Bằng ngược lại, hẳn là sự đỗ vỡ, sự bất an, thanh danh gia

tộc sẽ không còn. Sống trong môi trường ấy, sẽ yên ổn đối với những con

người thích yên ổn, chịu chấp nhận; còn nếu không, sẽ rất khó được sự chấp

nhận của gia tộc.

Cô Tư Ràng, mãi mãi là niềm ngưỡng vọng, tôn thờ đối với Tiệp, là hiện

thân của một người giữ nền nếp gia phong của gia tộc nàng. Cô sống gương

mẫu trong nền nếp ấy. Cô dạy cháu con theo nền nếp ấy. Và cô không thể

chấp nhận trong gia tộc mình, có người cháu đi ngược lại với nền nếp ấy.

Tiệp dằn vặt, Tiệp đau khổ khi nghĩ đến ngày cô Ràng “xử trảm” nàng. “Đó

là tội danh có thể làm nàng đau đớn, xấu hổ nhất, hơn là tà dâm, ngoại tình,

giựt chồng, đánh cắp hạnh phúc người khác… cái tội bị cô Ràng xử trảm, cái

tội bị gia tộc ruồng bỏ, mà không có gia tộc thì không người Việt Nam nào

yên ổn với lương tâm cả” [59, 194]. Bị gia tộc ruồng bỏ, là cái án cao nhất mà

Tiệp, người phụ nữ bé nhỏ, sợ nhất khi phải đón nhận. Thế mới biết, thân

phận người phụ nữ thật bé mọn trong sự ràng buộc bởi nền nếp gia phong.

Bởi nền nếp ấy đã hằn sâu từ nhiều đời, trên những miền quê Việt, trong

những gia đình Việt, và trên chính mảnh đất quê hương mà Tiệp sống cùng

mẹ, cùng cô.

Mãi đến sau này, sau nhiều năm của cuộc tình đầy trắc trở giữa Tiệp

và Đính, Tiệp vẫn chưa dứt nỗi lo âu khi tìm đường trở về với niềm thương

yêu của gia tộc. “Còn một bức tường nữa mà nàng phải vượt qua trên con

đường mã hồi với gia tộc, đó là cô Ràng, nàng vẫn còn lãng tránh bức tường

đó vì nàng cần một sự chính danh với Đính” [54, 237]. Và quả tình, Tiệp chỉ

có thể vượt qua bức tường đó, bức tường cô Tư, bức tường của một con người

giữ nền nếp gia phong của gia tộc, bằng sự chính danh khi đến với nhau, giữa

Tiệp – một người phụ nữ đã có hai con, và Đính – một người đàn ông đã ba

con trước đó. Gan góc thay và cũng thật bền bỉ thay cho một người phụ nữ

trước tình yêu thật sự của mình, trước nền nếp gia phong coi trọng hiếu thuận

và tôn ti trật tự truyền thống của gia tộc nàng.

1.2.3.3. Dù “bé mọn”, con người vẫn đáng trân trọng; đơn giản vì

nó là “người” trước chính nó, trước tiểu cộng đồng (gia đình) và đại cộng

đồng (xã hội).

Thấp thoáng trong những sáng tác của Dạ Ngân, là những phận người.

Phận người bé mọn trong những sáng tác của Dạ Ngân. Nhưng những con

người ấy vẫn đáng trân trọng. Bởi, những con người ấy, ẩn hiện trong những

nhân vật trong những sáng tác của Dạ Ngân là những con người sống thật với

lòng mình.

Đó cũng là hình ảnh người mẹ trong Tiền của má. Đó là tâm trạng của

hoạ sĩ già, bác Hà trong Thợ vẽ truyền thần . Ở Miệt vườn xa lắm, mẹ của

cô bé Tiệp, một bà mẹ không mạnh mẽ, không tháo vát như Cô Tư Ràng,

nhưng khi bà về quê mình, Tiệp đã thấy “Tôi còn thấy một sự thú vị khác, đó

là được nhìn thấy má tôi tự chủ, kiêu hãnh như một con cá giữa dòng nước

cội nguồn, thậm chí bà còn lóng lánh hạnh phúc vì nhà chồng có tiếng và các

con bà trông vẫn cứ sáng rõ hơn đám cháu trong họ mình” [58, 72]. Phải

chăng, mỗi một con người, khi ở đúng môi trường thích hợp, mới phát huy

hết khả năng, sở trường của mình, mới phát huy đầy đủ hết thế mạnh của

mình. Cuộc sống của một con người có ý nghĩa hơn, từ đấy.

Con người không chỉ trong phạm vi gia đình. Những con người còn gánh

vác những nhiệm vụ khác nhau trong xã hội, ở thời đại, ở những tháng năm

mình sống. Những con người ấy, phải gánh vác những nhiệm vụ khác nhau,

người nhỏ nhoi, người lớn lao, to tát. Miệt vườn xa lắm một lần nữa đã nói

thay Dạ Ngân: “Dù sao cũng đã bày ra rõ ràng hơn trước mắt tôi một sự

thật: Việc ông tôi đi dài xuống cực nam để nối dài miệt vườn là một sứ mệnh;

việc ba tôi cất bỏ xưởng dệt và nghề tằm tơ để theo Vệ quốc đoàn cũng là một

sự lựa chọn của sứ mệnh; việc cô tôi ở goá để gánh vác bổn phận dang dở

của ba tôi với gia đình cũng là một sứ mệnh …Và chúng tôi, con Nghĩa con

Tiệp sẽ ra đi, sẽ lên Cứ, ở bưng hay ở rừng để tròn đạo hiếu với ba tôi cũng

là một sứ mệnh. Tất cả đều là sứ mệnh vừa cao cả nhọc nhằn, vừa cay đắng

trói buộc. Đó là mặt thuận và mặt trong của tấm huân chương làm người

trong cái thời của mình vậy” [58, 149 – 150].

Sự lý giải của nhà văn ở đây đều xuất phát từ tình yêu thương con

người, trân trọng con người, luôn đặt niềm tin vào những con người mang

những phẩm chất tốt đẹp của nhà văn.

Gia đình bé mọn vẫn tiếp mạch của Miệt vườn xa lắm khi nói về con

người. Với những nỗi niềm, tâm trạng, cảm xúc thật, Tiệp vẫn mang một

niềm tin mình đã sống thật với con người mình. Con người ấy, có tình cảm,

có khát vọng, có hướng thiện. “Mấy năm qua, chưa bao giờ nàng có ý nghĩ tự

vẫn dù dư luận cứ vây riết như vậy, nàng tin rằng nàng có sự lương thiện

trong khát vọng của mình…” [59, 25]. Nếu không vững vàng, con người ấy

dễ rơi vào bế tắc. Tiệp của Gia đình bé mọn vẫn vững vàng vượt lên. Dẫu áp

lực của dư luận xã hội không hề nhẹ nhàng “Thế là chuyện sẽ kinh thiên động

địa ở quê, sẽ làm cho những người thân của nàng phải cúi mặt xuống khi ra

đường, sẽ biến nàng thành một con hủi ghê tởm và đáng phải biệt tăm” [54,

94]. Để sống thật với lòng mình, với tình yêu đến muộn mằn nhưng đằm thắm

đến khi đã có hai con, Tiệp phải vượt qua những rào cản khó lay chuyển của

một quan niệm xưa cũ trong ý thức gia tộc, trong ý thức của cộng đồng. Tiệp

vẫn mạnh mẽ, vẫn là một người đàn bà dám đứng lên trước những công kích

của những con người có quyền uy. Hơn ai hết, Tiệp đã ý thức được giá trị của

bản thân mình. Nàng đã vươn lên, trong sóng gió. “Nhưng nàng đã không

vâng lời, đôi chân nàng không còn đầu gối nữa, nó run rẩy nhưng nó cương

quyết không gấp lại nữa, nó phải giúp nàng một dáng đứng tấn công. Nàng

nói về sự phi lý của trận đòn hội chợ” [59, 19].

Nhân vật trong những sáng tác của Dạ Ngân dẫu nghĩ suy có khác nhau,

phận người không cùng trải, thì con người, dầu nhỏ bé trước vũ trụ bao la,

vẫn xứng đáng được trân trọng. Bởi đó là những con người, thật với mình,

thật trong gia đình, và thật trước xã hội.

1.3. Sáng tác của Dạ Ngân – Tiếng nói của tình quê hương. 1.3.1. Tình yêu quê hương của một người con Nam Bộ,“thế hệ thứ tư”

Dạ Ngân là người con của miền quê Nam Bộ, rất nặng lòng với cái nôi

sinh thành, nuôi dưỡng mình. Chị đã rất tự hào về nghề vườn của gia đình

mình, tự hào mình là một người phụ nữ miệt vườn Cần Thơ – Hậu Giang. Chị

đã yêu quê hương của mình bằng tình yêu máu thịt. Nói điều ấy, quả không

sai đối với Dạ Ngân. Trong rất nhiều tác phẩm của mình, Dạ Ngân đã gởi

gắm nỗi niềm, tình yêu sâu nặng đối với quê hương của chị. Trong truyện

ngắn, truyện vừa, tiểu thuyết, tản văn của chị, người đọc dễ dàng thấy chị trải

lòng với quê hương, về quê hương, dẫu khi chị ở ngay trên quê hương hay khi

xa mảnh đất cội nguồn.

Dạ Ngân đã từng chia sẻ “Hồn quê của Việt Nam quá rộng, mặt đất và

bầu trời, con người và cảnh sắc, cánh chim và hạt bụi… tất cả đều mang

trong mình cốt quê, hồn quê và bể dâu, biến động, nhớ quên, thương tích,

thăng trầm” [60, 215]. Hồn quê Việt Nam rộng lớn quá, mặc sức cho chị nghĩ

suy, trải lòng trên từng trang viết.

Những tập tản văn của Dạ Ngân, từ Mùa đốt đồng, đến Lục bình mải

miết, Một trăm tản mạn hồn quê, và gần đây, là Phố của làng, Gánh đàn

bà, hầu như là những hoài niệm của chị về quê hương Nam Bộ. Phải là một

người con của vùng Tây Nam Bộ am hiểu nhiều về vùng đất chôn nhau của

mình, nặng lòng với quê hương xứ sở lắm, cùng với tài kể chuyện như thủ thỉ,

như tâm tình, mới làm nên được những sáng tác thấm đẫm tình yêu quê

hương của Dạ Ngân.

Truyện vừa Miệt vườn xa lắm cũng cùng một giọng kể tâm tình như vậy

về quê hương như ở Mùa đốt đồng và Lục bình mải miết. Nói như Nguyễn

Huy Thiệp ở Giăng lưới bắt chim:“Họ hiểu rằng nhà văn sinh ra là để “kể

chuyện”. Kể chuyện hay! Có thế thôi” [76, 312]. Dạ Ngân đã kể chuyện hay

về quê hương mình. Chị cuốn hút bạn đọc, cả người lớn và thiếu nhi, bằng

một giọng kể tâm tình, thủ thỉ, để người đọc cùng hoà chung nhịp đập trái tim

cùng chị về một tình yêu đối với miệt vườn cổ Cao Lãnh, miệt vườn mới

Long Mỹ, Hậu Giang, về một miền Tây Nam Bộ dân dã, mộc mạc, với những

con người đậm nghĩa tình. Không cứ luận tác phẩm phải thật dày, triết lý phải

thật sâu, Mùa đốt đồng, Lục bình mải miết, Một trăm tản mạn hồn quê,

Phố của làng của Dạ Ngân để đi vào lòng người đọc, chính từ sự dung dị của

nó.

1.3.2. Cảnh sắc, hương vị quê hương Nam Bộ qua những rung động

tinh tế của Dạ Ngân.

Có thể nói, viết về cảnh sắc, hương vị quê hương Nam Bộ chị đã có

những thành công. Đây là mảng đề tài quen thuộc của chị. Chính ở mảng

đề tài này, chị đã thể hiện sự am hiểu, chị đã có những rung động tinh tế

và chị đã diễn đạt những sự am hiểu ấy, những rung cảm ấy, bằng những

ngôn từ nghệ thuật sinh động.

Viết về cảnh sắc, hương vị quê hương, trước đây, đã có rất nhiều nhà văn,

nhà thơ thành công. Thạch Lam với Nắng trong vườn và Hà Nội băm sáu

phố phường đã có những nét rất riêng. Và Nguyễn Tuân, một nhà văn tài

hoa, đầy cá tính sáng tạo với những sáng tác đậm cảnh sắc quê hương (như

Trên đỉnh non Tản, Cô Tô, Sông Đà, Vĩnh Linh – Đất lửa, …) và những

sáng tác đậm đà hương vị đất nước (Những chiếc ấm đất, Phở, Giò lụa,

Cốm…). Nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Đăng Mạnh đã từng có những

nhận xét sâu sắc về những tác phẩm của Nguyễn Tuân “Cái làm nên linh hồn

của những áng văn “xê dịch” của Nguyễn Tuân chính là tấm lòng gắn bó

thiết tha hơn ai hết của nhà văn với quê hương đất nước mình” và ông đã lý

giải về những thành công của những trang viết của Nguyễn Tuân “Cái hơn

đời của ông hoàn toàn không phải là do đi nhiều, mà là trên mỗi bước đường

đi qua, đều biết đặt tất cả tâm hồn của mình vào cỏ cây sông nước. Tình cảm

chân thật, sâu sắc bao giờ cũng có nội dung rất cụ thể. Lòng yêu nước của

Nguyễn Tuân là thứ tình cảm như thế” [82, 6]. Với Lý Lan, một nhà văn

nữ của miền Đông Nam bộ, ở Bày tỏ tình yêu là những hồi ức về Tết, bánh

tét, tiếng cười của ngoại, là ký ức về Nhà má, là những cảm nhận của nhà

văn về Bòn bon, vú sữa, sầu riêng. Người đọc vẫn dễ nhận ra hồn quê Việt

Nam trong tác phẩm của chị. Người đọc dễ bị xúc động khi đọc những trang

viết giàu sức gợi cảm của Lý Lan.

Với Dạ Ngân, cảnh sắc quê hương Nam bộ đã được ghi lại trong các tập

tản văn của chị.

Ở Lục bình mải miết trong tập tản văn cùng tên, chị đã viết về lục bình,

một loại bèo tây, ở vùng sông nước Hậu Giang, quê chị: “Một vệt lục bình

vừa trôi vừa trổ bông, tươi rồi lại héo theo mùa” [57, 83] và “Bông lục bình

thật hư vô, cái màu phớt tím càng làm cho vẻ mong manh của nó thêm trầm

trọng nhưng không hiểu sao, khi bị ngộp trong nước thì nó lại cho ra cái mùi

ngào ngạt của dưa hấu”.

Chỉ với một tản văn ngắn, Dạ Ngân đã nhắc lại đến 32 lần chữ Lục bình,

nào “giẻ lục bình, giề lục bình, tay lục bình, rễ lục bình, bông lục bình, nhánh

lục bình”… Và cùng với sự xuất hiện của lục bình ở nhiều sáng tác khác của

chị, điều ấy dễ thấy: Lục bình, loại bèo tây ấy, đã là một trong những đề tài,

luôn ám ảnh nhà văn trong sáng tác. Lục bình hiện diện quanh sông Hậu,

quanh cuộc sống của người dân miệt vườn, như để điểm tô thêm cuộc sống,

và để trở thành nỗi nhớ của nhà văn.

Ở Dừa nước miền Tây, nhà văn đã cho chúng ta thấy công dụng của dừa

nước “Cây dừa nước gắn bó và sinh lợi cho người nông dân như thế nào.

Dừa nước để che nắng che mưa; không, không chỉ có thế, dừa nước là cây

tiên phong trên những bãi bồi mà không có nó, cái gì sẽ thay thế nếu không

phải là nga nghễ, tâm mức và những thứ cỏ vô tích sự khác? Sự có mặt của

nó là thân phận cũng là sứ mệnh khi sình lầy chưa đem lại cho con người thứ

gì khác” [50,11]. Và những biền lá dừa nước tiếp tục trở thành nỗi nhớ của

nhà văn.

Dừa nước, một loại cây đặc trưng của miền Tây, cũng trong một tản văn

ngắn trên, đã được nhà văn lặp lại đến 23 lần. Và dừa nước đã nhiều lần xuất

hiện trên các trang viết khác của Dạ Ngân. Điều ấy cho thấy: Dừa nước có

một vị trí đáng kể trong cuộc sống của người miền Tây.

Có thể nói gì thêm về những hình ảnh đặc trưng của nông thôn Nam Bộ?

Dạ Ngân đã nói hộ chúng ta điều ấy. Đó là hình ảnh dập dìu của những chiếc

vỏ lãi trên sông nước miền Tây. Trước, có tên tắc ráng, hình phao, lái bằng,

mũi cất cao, hình thon đều; nay, tên vỏ lãi, thân dài và căng như một mũi tên

trước nỏ. “Giờ, vỏ lãi đã thành hình ảnh đặc trưng của nông thôn Nam bộ.

Khách tới, nếu chưa được đi vỏ lãi coi như chưa thưởng thức đủ hương vị của

miền sông nước”, và “Giờ các chuyến đò dọc khắp miền thảy đều dùng vỏ lãi

làm tàu… vỏ lãi quả là con đò vừa đắc dụng vừa thanh lịch, ấm áp với khách

đường dài” [55, 99]. Miền Tây Nam Bộ, sông nước, kênh rạch chằng chịt, vỏ

lãi đã phát huy tác dụng của nó, phục vụ đời sống cộng đồng. Và dưới mắt

nhìn của một nhà văn Nam Bộ, một người phụ nữ miệt vườn, chị đã thầm cám

ơn nhân dân đã làm nên vỏ lãi.

Không chỉ có lục bình, dừa nước, vỏ lãi, tản văn của Dạ Ngân đã dẫn dắt

người đọc đến với những cảnh sắc đa dạng của Nam Bộ: Đèn đáy trên sông,

Cái bếp củi dừa, Tiếng chèo khuya, Dã quỳ vàng, Đom đóm lá biền, Mùa

đốt đồng, Mùa bông tràm, Nhớ cầu khỉ…

Giữa sông nước mênh mông, hàng đáy vẫn luôn hiện diện. “Đáy gồm có

ba hàng cọc bằng cau lão, những cái cây được chắp lại cho cao lên và lúc

nào cũng rung rinh kịch liệt bởi sức nước… Hàng đáy là một bộ phận của

dòng sông, nó là ranh giới giữa doi và vịnh… Không hiểu sao con người có

thể cắm được những cái cây dài như vô tận ấy xuống dòng sông” [50, 23].

Hàng đáy ấy, có lưới đánh cá hình ống to và dài, có cọc để giữ miệng lưới.

Những ánh đèn đáy ấy, cũng là một nét riêng của vùng sông nước Tây Nam

Bộ, hình ảnh một thời của cuộc mưu sinh. “Những ánh đèn trên những cái

cọc phi thường rung rinh rung rinh để báo hiệu rằng cuộc mưu sinh trên sông

nước đã từng nên thơ mà cũng đã từng nhọc nhằn biết mấy” [50, 29].

Không chỉ có thế, cảnh sắc Nam Bộ tuy đơn sơ nhưng vẫn có cái nét đẹp

riêng của một vùng đất mới. Cây dừa nước ở vùng nước lợ miền Tây Nam Bộ

với những biền lá chạy dài như tường thành. Giữa những biền lá ấy, là hình

ảnh của những tán bần nhấp nháy trong đêm. “Như có những đội quân bí ẩn

đi giăng đèn, cần mẫn, quán xuyến, trong một trò lễ hội không có màn kết” và

“Có ánh đèn của thiên nhiên từ lũ đom đóm, cơ man là đom đóm… ban đêm

chúng dồi dào và hoa lá cành đến như thế” [60, 125]. Đom đóm trong biền

lá, một nét đẹp của cảnh sắc Nam Bộ trong ký ức Dạ Ngân vẫn hiện diện trên

những trang văn của chị.

Cả Cái ổ rơm ấm áp, thân quen, gần gũi với những con người Nam Bộ

cũng đã khiến người đọc rung cảm dịu dàng. “Hơn mọi thứ, rơm mang đậm

mùi thơm của một cái ổ. Hoá ra, cái ổ ấy khiến ta thú vị vì nó có mùi của

ruộng đồng đất đai sông ngòi, mùi mà trời đất đã đi vào mẹ ta và làm nên

chính ta hôm nay” [60, 139].

Dạ Ngân cũng đã từng thể hiện tài năng quan sát và diễn đạt của mình

ở tản văn Mùa bông tràm. Quả vậy, nếu phần đầu, chỉ là những câu kể thông

thường “Ở Việt Nam mình, chắc chắn chiếc nôi của tràm phải là U Minh

Thượng hay Đồng Tháp Mười. Tràm sống trên đất ngập phèn, nhất định phải

đất phèn tràm mới mau lớn”, thì ở phần sau, sẽ là những câu văn xuôi thơ

mộng, mượt mà: “Sẽ vô cùng thú vị nếu bạn quan sát rừng tràm vào mùa hội

của nó, đó là mùa tràm trổ bông. Bông tràm mọc từng chùm, nó và lũ sóc

chắc có nợ nần nhau nên bông tràm rất giống cái đuôi sóc lúc chúng hưng

phấn nhất. Bạn sẽ thấy trên cành nhánh cơ man “đuôi sóc” dựng đứng lên,

vào những hôm sương dày, cả một không gian bồng bềnh có thể lấy nón mà

múc từng chút một. Nhưng không, ta không múc sương mà phải ngắm để thấy

sự trắng muốt của bông tràm hiện dần ra khi mặt trời lên. Lạ thật, đất chua

chua, thân cây xù xù vàng sậm mà hoa lại tưng bừng trắng, không hiểu sao

thiên nhiên lại hào phóng xếp bày như vậy” [62, 74]. Và đây nữa “Một chùm

bông tràm thì chỉ nghe thấy thoang thoảng nhưng một rừng bông thì không

sao quên được sự vây bọc của mùi hương” [62, 75].

Nói đến miền Tây Nam Bộ mênh mông sông nước, kênh rạch, người ta

khó quên hình ảnh của những cây cầu khỉ. Dạ Ngân cũng đã từng đi trên

những cây cầu khỉ quê mình từ thời thơ ấu. Những cảm giác hồi hộp thân

quen của trẻ con khi bước chân trên cầu khỉ mà tay vịn bằng tre đã rơi xuống

nước rồi. Ở Nhớ cầu khỉ, Nhà văn đã viết:“Ngày xưa, dân miền Tây còn thưa

thớt, ở những ranh vườn người ta hay dùng những thân cây có sẵn để làm cầu

nối hàng xóm với nhau. Dừa thì một cây, thân dừa nham nhám, đậm và bền

một cách lý tưởng. Nếu là cau thì người ta ghép hai thân cau làm một, chiếc

cầu thẳng và suông vừa đẹp vừa dễ đi. Còn một thứ cây làm cầu rất hay, đó

là cây gòn” và “Cầu khỉ qua mương ranh bằng dừa, bằng cau, bằng gòn vẫn

là những chiếc cầu ân tình nhất” [62, 157 – 158].

Dạ Ngân lại lặng lẽ viết nên những trang ký ức về miền quê Nam Bộ,

không bằng cảnh sắc kỳ vĩ, rực rỡ, mà bằng mùi khói đốt đồng. Có lẽ, chính

ký ức của một thời đã xa gợi lại trong chị những ánh lửa lung linh, mùi thơm

của rơm trong lửa. Nhưng trước hết, đó là “Cánh đồng màu xanh đòng đòng

đã đẹp, cánh đồng mùa gặt càng đẹp hơn và cánh đồng tuyền những gốc rạ

lại cho ta vẻ đẹp thảnh thơi, ngơi nghỉ, trọn vẹn. Cứ thế rạ phơi bày, đón

chân em nhỏ trong ngày diều, trong ngày Tết và đón chờ phút hoá thân về để

nhanh với đất thực hiện sứ mệnh quay vòng lặng lẽ” [60, 165]. Mùa đốt

đồng ấy, thường vào tháng Tư, trước khi trời sa mưa. Hãy nghe Dạ Ngân tả

về khung cảnh đốt đồng “Tàn tro bắt đầu bay vần vụ không trung. Mùi khói

rơm rạ nồng ấm không thể tưởng. Những người đàn bà goá bụa bỗng thấy

bứt rứt, bồn chồn… chân trời không ban ngày, không màu nắng mà bỗng ửng

hồng như gương mặt họ, trong đêm… Lửa cháy đến khuya, lửa hạ, cũng là

lúc sương rơi ướt đẫm vai người, thứ sương đặc, quánh vì ban ngày nắng to”.

Nhà văn nữ của chúng ta đã có những trang viết nên thơ khi chợt nhớ về một

hình ảnh đã qua “Trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về cái gì đã xa và đã từng

thuộc về ta, không chỉ có lúa mùa, mùi cơm thơm hay màu rạ sáng, mà còn có

những buổi tối lâng lâng bởi khói đốt đồng” [60, 166].

Với những tản văn của mình, Dạ Ngân đã tái hiện lại những cảnh, những

việc, những người của quê hương Nam bộ, khi chị sống trên đất Bắc. Chính

sự xa cách về địa lý, sự lùi dần theo thời gian đã giúp chị có điều kiện ngẫm

suy, và có thời gian viết về những cảnh, những vật bình dị, thân thương của

quê mình.

Không chỉ có cảnh vật, hương vị của những sản vật quê hương cũng

đã được tái hiện trong những sáng tác của Dạ Ngân. Từ món canh chua cá

linh nấu với bông điên điển, đến rau muống, đến con ba khía, con mắm

sống, và cả cọng rau muống tím, giàn bầu; và đây nữa, bánh hỏi, bánh bò

hồng, bánh phồng… những món ăn dân dã của quê hương đã được

chị mô tả một cách nhẹ nhàng nhưng sống động. Và hầu như những bài viết

ấy, mang hơi hướng hoài niệm của Dạ Ngân, như để giúp chị lưu giữ ký ức

một thời của mình.

Ở Bông điên điển, chị đã viết về món canh chua cá linh với bông điên

điển “Cá linh đặt vó kéo lên, không cần mổ bụng, chúng là loại sống bằng

phù du mùa nước. Nước sôi trên bếp than, cho me trái vào, một ít đường nữa

mới đúng khẩu vị của dân tứ giác, cô gái sẽ làm cho những con cá tươi ròng

ấy mềm mà vẫn nguyên trong nước chua. Cuối cùng, nhấn bông điên điển

vào, một ít ngò om và ớt xanh nữa, hương vị mùa lụt đã dậy lên” [57, 7]. Dân

dã mà đậm đà, không cầu kỳ mà vẫn nhớ mãi. Món ăn mộc mạc, đặc sắc của

miền Nam.

Rồi một thứ rau quê hương ở Còn thương rau đắng, Dạ Ngân đã giúp

người đọc hình dung ra một loại rau rất dễ trồng, dễ mọc, dễ sống, sống khoẻ,

lại để nhiều nỗi nhớ cho bao người: Rau đắng. “Rau đắng có ở khắp mọi nơi,

đang đi trên bờ mẫu, bỗng dưng thấy một đám rau đắng rất non vượt từ mặt

nước lên, xanh không thể tả. Và những mép ao, mép mương, góc chái, ven

đường, chỗ nào có sự sống là có thể có rau đắng”, “Mình chưa đi xa mà đã

thương rau đắng, những người tha hương thì sẽ nhớ nó đến mức nào” [60,

194]. Một thứ rau đơn sơ nhưng đã để lại dư vị đậm đà trong lòng người Nam

bộ, trong lòng Dạ Ngân.

Con ba khía, “Cư dân của rừng sú, rừng vẹt, rừng đước Cà Mau, nó có

họ hàng với còng, và chắc chắn là có bà con xa với cua” [60, 203], với loại

mắm đặc trưng, đã làm cho người xa quê vẫn luôn nhớ tới.

Ở tản văn Hỏi người làm ra bánh hỏi, Dạ Ngân một lần nữa đã giúp

người đọc hiểu thêm về cách thức làm bánh hỏi, việc thưởng thức món bánh

này, và thêm vào đó, là sự giao lưu văn hoá dân tộc. “Bánh hỏi được ép trong

khuôn, như bún, nhưng khi những sợi bánh nhỏ như sợi tóc tuôn xuống từ đáy

khuôn, người thợ đã dùng tay mình hứng và ria sao cho những sợi bánh ấy

thành những miếng bánh có hình mặt võng. Những miếng bánh không to quá

bàn tay phụ nữ, xinh như hàng mỹ nghệ… Hình như bánh hỏi được làm từ

tim, từ tâm hồn chứ không phải từ đôi tay hay khối óc”.

Thứ bánh ấy, vừa xinh xắn, vừa ngon. Dưới mắt nhìn của nhà văn, bánh

hỏi đẹp, xứng đáng được chọn khi đãi đám hỏi, đám cưới. Thứ bánh ấy, đã

vươn lên từ sự dân dã, để nó trở thành một món ăn ngon, cần có mặt trong

những buổi tiệc lớn của gia tộc.

Dòng hồi ức về thời đã qua dẫn dắt nhà văn đến với Má với giàn bầu.

Những công đoạn trồng bầu với má đã là những kỷ niệm đẹp, êm ả trong Chị.

Và thành quả lao động ấy của má sau những ngày chăm chút giàn bầu, má đã

tiếp tục đem niềm vui đến cho các con. Món bầu kho cá rô, dân dã, đậm đà,

với cá kho đủ mặn, với bầu đậm vị ngọt, đã hoà quyện vào nhau, để những

người con của má, mãi vẫn nhớ về. “Nhất cái món bầu kho cá rô này…

Những con cá rô rất thơm và rất mềm vừa đủ mặn kho lẫn với những miếng

bầu to hơn con cờ, một chút hành lá nữa, thật là dân dã và có lý cái món cá

kho bầu của má” [55, 153].

Nhẹ nhàng mà tinh tế, Dạ Ngân đã ghi lại những cảm nhận của mình về

những cảnh sắc và hương vị quê hương Nam bộ qua những sáng tác của

mình, trong đó, có ở những tản văn. Sự phong phú trong cảnh sắc với những

cách diễn đạt và những ngôn từ diễn đạt khác nhau, cùng với lối kể, lối tả

dung dị, nhẹ nhàng, đã làm cho những sáng tác của chị về cảnh vật, hương vị

quê hương có chất riêng của mình: nhẹ nhàng, tinh tế, phong phú, gần gũi.

Người đọc, tiếp xúc với tản văn về quê hương Nam Bộ của chị, dễ cảm nhận

được tấm lòng của chị đối với quê hương. Tấm lòng ấy, không quá ồn ào,

không đao búa lớn, nó cứ lặng lẽ lan toả, từ miền quê này đến miền quê khác,

từ khung cảnh này đến khung cảnh nọ; từ món ăn này đến món ăn kia, để Dạ

Ngân, dẫu có trong Nam, hay ra ngoài Bắc, thì với sáng tác của mình, chị vẫn

có dịp nhớ về quê hương, trải lòng với quê hương. Những sáng tác ấy đến

được với bạn đọc, như một lời tri ân đến quê hương, của chị.

1.3.3. Cá tính con người và văn hoá Nam bộ qua ngòi bút chăm chút

đầy trân trọng, trìu mến của Dạ Ngân

Là một người con của miệt vườn Nam bộ, Dạ Ngân đã lặng lẽ quan sát,

suy ngẫm về vùng đất, về những con người ở quanh mình. Vùng đất ấy, nơi

chị đã từng sinh ra và lớn lên, mang đậm dấu ấn riêng của những con người,

và với những nét văn hoá khó trộn lẫn.

Theo nhà nghiên cứu văn hoá Ngô Đức Thịnh: “Vùng văn hoá Nam bộ

bộc lộ những sắc thái văn hoá tiêu biểu, những “tính cách” riêng của mình…

Đây là vùng đất mới… Đất mới, con người cũng mới, trên vai không trĩu

nặng truyền thống hàng ngàn năm, con người mạnh bạo, năng động, cởi

mở…” [78, 284]; “Nói tới sắc thái riêng của Nam bộ, người ta thường không

quên nhắc tới tính cách Nam bộ. Tính cách là một khía cạnh của văn hoá ứng

xử và để lại dấu ấn rõ rệt trong mọi mặt đời sống văn hoá”; và “Những

người khai phá đất mới này là những người coi nghĩa khí làm đầu… Họ cư xử

hào hiệp, trọng nghĩa khí, coi khinh tiền tài… Họ còn là những người mến

khách… Trong ứng xử, họ cởi mở, chan hoà, dễ kết thân, dễ hoà vào với cộng

đồng mới lạ, không coi trọng môn đăng hộ đối”; “Họ là những người sẵn

sàng tiếp nhận và hướng về cái mới, nhạy cảm với cái mới trong cả việc làm

ăn, vui chơi giải trí” [78, 327].

Dạ Ngân đã rất tự hào mình là một người phụ nữ miệt vườn. Chị đã từng

đưa vào những trang viết của mình “Người miền Tây Nam bộ chúng tôi chia

địa lý khu vực làm bốn miệt theo kiểu dân gian, miệt vườn – thuộc vùng nước

ngọt dọc hai triền sông Tiền và sông Hậu, miệt ruộng – vùng nước lợ Sóc

Trăng và Bạc Liêu, miệt biển – Rạch Giá, miệt rừng – Cà Mau” [55, 65].

Chị cũng đã từng dẫn lời của nhà văn Sơn Nam “Miệt vườn, đó là vùng

văn hoá ngọt ngào rất đáng khám phá ngưỡng mộ và đương nhiên, rất cần

phải được trân trọng giữ gìn” [55, 6]. Vùng văn hoá đáng khám phá ấy đã

được nhiều nhà nghiên cứu khảo sát, tìm hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau,

từ địa lý, lịch sử, đến con người, ngôn ngữ, kiến trúc, ẩm thực, trang phục, tín

ngưỡng, âm nhạc… phong phú, đa dạng, khác với những vùng văn hoá khác

của đất nước ta. Những nét đặc sắc ấy trong văn hoá Nam Bộ, trong cá tính

con người Nam Bộ đã được Dạ Ngân tái hiện lại trong những sáng tác của

mình một cách trân trọng, trìu mến.

Nếu hiểu cá tính là những đặc trưng tâm lý của cá nhân bao gồm tính cách

và sở thích của một con người, thì nhiều hình ảnh của những con người trong

các tác phẩm của Dạ Ngân đã có nét tâm lý riêng, cả trong truyện ngắn,

truyện vừa, tản văn của chị.

Đó là hình ảnh ông nội của cô Tiệp Kiến vàng trong Miệt vườn xa lắm,

một ông nội gan góc, vững chãi, cái vững chãi của một người đàn ông Nam

bộ thích mạo hiểm, giỏi tính toán, có sức khoẻ và có cả chí làm giàu “Chắc là

ông cũng từng trẻ, từng xốc nổi và gan trời mới dám kéo vợ con và một bầy

em trai vượt sông Tiền, vượt qua cả sông Hậu rồi đi hết kênh xáng Xà No để

cắm vườn vào một nơi chưa hề biết nghề vườn là gì” [58, 90].

Chính nhờ sự gan lì, giỏi giang ấy của ông, mới có một ngày sau của

mảnh vườn nhà cô Tiệp trù phú, không lo sự đói nghèo “Tôi lớn lên trong sự

thu vén kỳ công ấy. Cái nền móng mà ông nội tôi xây đắp quá chắc chắn, cây

cứ thế cho trái, nước cứ thế vào ra, việc còn lại chỉ là làm cỏ, dọn dẹp và thu

hoạch” [58, 97].

Đó còn là tính cách của một người cha: Là một người đàn ông, trong hoàn

cảnh đất nước bị kẻ thù xâm lược, đã không đành lòng ở nhà với vợ con. Ông

đã hiến tặng cho kháng chiến trong Tuần lễ vàng một nhà máy dệt lụa tơ tằm.

Rồi cũng chính ông, đã làm một “Lê Lai cứu Chúa”, cứu một đồng chí Bí thư

Tỉnh uỷ, để phải chịu án tù hai mươi năm khổ sai Côn Đảo. Và rồi, lại tiếp tục

tỏ rõ bản lĩnh của mình, một lòng với cách mạng, đã bị chết trong tù. Ở Một

người cha thì như thế nào?, Dạ Ngân đã viết về tính cách của một người đàn

ông Nam bộ, tính cách ấy có trong một hoàn cảnh đặc biệt: trong cuộc kháng

chiến đầy cam go, thử thách, hy sinh, ác liệt. “Một người cha là như thế nào,

đứa con nào cũng thường trực câu hỏi ấy khi đi tìm chân dung hoặc đầy đủ

hoặc thoáng qua của cha mình. Bởi người cha là nóc nhà, nhà chúng tôi có

tới hai lớp, lớp ngoài của ông nội tôi và bên trong là ba tôi ” [56, 84]. Tiết

tháo của một người đàn ông của thời ấy là một sự tiếp nối của tính cách người

đàn ông Nam bộ những năm mở cõi vốn “trọng nghĩa khinh tài”.

Không chỉ có những người đàn ông. Trong cuộc kháng chiến cao cả mà

thật ác liệt của dân tộc, những người phụ nữ vẫn phải mạnh mẽ, cứng cỏi để

lo cho bầy cháu như cô Tư Ràng, ở Miệt vườn xa lắm.

Đáp lại lời nhắn nhủ của anh mình, cô Tư ấy, người phụ nữ đảm lược ấy

đã không phụ lòng tin, sự trông cậy của ông anh mình, cô đã an lòng gác đi

một sứ mệnh để nhận lãnh một sứ mệnh khác hết sức nặng nề chẳng biết khi

nào kết thúc theo lời dặn dò, gởi gắm của người anh trai. “Sài Gòn có quá

nhiều dấu chân cô trên những nẻo đường vừa buôn bán, vừa chạy vạy thăm

nuôi ông anh suốt mấy năm trời trước khi ông thụ án” [58, 113].

Ảnh hưởng những tính cách của những con người thân yêu ấy, chị em cô

Tiệp chắc chắn sẽ vững chãi sống, vững chãi làm lụng, vững chãi dựng xây

cuộc đời mình, dẫu cuộc đời ấy, hoàn toàn không êm ả, phẳng lặng.

Không chỉ như vậy, Dạ Ngân đã dành nhiều trang viết để nói về những

nét văn hoá Nam Bộ, quê mình. Những bài vọng cổ ngọt ngào đã từng đi

vào lòng người dân của mọi miền đất nước, thấm vào tim can của những

người dân Nam Bộ. Những làn điệu vọng cổ, cải lương Nam Bộ đã từng làm

rơi nước mắt biết bao người, đã từng làm say đắm biết bao người. Dưới cảm

nhận của mình, Dạ Ngân đã nói về hoàn cảnh ra đời của Dạ cổ hoài lang “Có

sống trong cảnh nước nổi mưa dầm mới thấy vì sao nghệ sĩ Cao Văn Lầu

nghĩ ra bài Dạ cổ hoài lang cho dân miền Tây nhấm nháp tháng ngày” [60,

101]. Cũng chính ở Câu vọng cổ cuối trời, chị đã từng chia sẻ “Bạn sẽ thấy

người xưa có lý khi để những câu ca dài ra, nhiều lời, da diết, gởi gắm vì nhu

cầu trải lòng, nhắn gởi, sẻ chia” [60, 102].

Không chỉ thế, Dạ Ngân cũng đã viết về câu vọng cổ ở những tác phẩm

khác của mình. Đó là những người thợ câu yêu vọng cổ trong Bóng chim tăm

cá “Để cho đêm bớt dài, chiếc xuồng bớt đơn độc, họ bèn cất lời ca, ca riết

thành mùi mẫn, thành điêu luyện trở thành “Cây vọng cổ” trong đám tiệc, cái

chính là cái tiếng ca đêm đêm của họ trở thành nỗi niềm của sông nước,

thành thức ăn của tâm hồn, thành kỷ niệm đặc sắc của kẻ đi xa” [55, 69]. Đó

còn là niềm yêu thích vọng cổ của bà má Nam Bộ trong Nhớ chiếu“Má rất

thích bài vọng cổ Tình anh bán chiếu của nghệ sĩ Út Trà Ôn” [62, 13].

Chỉ đôi nét chấm phá thôi, Dạ Ngân đã nói hộ tiếng lòng của những con

người Nam Bộ: yêu vọng cổ, bởi ở đó, họ được nghe những làn điệu ngọt

ngào, để trải lòng với những lời ca da diết, đánh thức những cung bậc tình

cảm trong họ, nhưng không hề quá uỷ mị; để rồi sau đó, họ còn tiếp tục làm

lụng, mưu sinh.

Một nét khác trong cá tính con người Nam Bộ cũng đã được Dạ Ngân ghi

lại trong tản văn Bóng chim tăm cá của chị: hiếu khách – Lòng hiếu khách

của người dân Nam bộ được chị diễn tả ở mức độ tăng dần, như một cách

khẳng định, như một lời chứng minh “Nhà có khách ư, trà lá thủng thỉnh một

lát, ông chủ xin phép ra sông, ào xuống lặn hụp hồi lâu thế nào cũng được rá

tôm càng tìm trong mé bờ. Nếu khách ở lâu, đừng ngại, đã sẵn hai rượng đáy

ở hai đầu xóm, cắp rổ ra đi lát sau đã có tép bạc và cá bống mang về ” [55,

69].

Ở một tản văn khác của chị, Gạo đường xa, Dạ Ngân lại có dịp giãi bày

về lòng hiếu khách này. Ở đây, là sự nghĩ về ngày sau, một nét triết lý trong

nghĩ suy của những người phụ nữ Nam Bộ. Lo cho khách ngày nay để ngày

sau có người khác lo lại cho con cháu mình. Con người sống chung trong

cộng đồng. Nhà không ai lui tới, người Nam Bộ rất lo về điều ấy “Nhà không

có ai lui tới là thứ nhà mạt vận, nghe con!”. Lòng hiếu khách đó, có thời kỳ,

như là một bổn phận. Trong kháng chiến của dân tộc ta, điều dó là một minh

chứng. Hội Mẹ chiến sĩ ở các xóm thôn chuyện lo cơm nước cho những anh

bộ đội những lúc các anh về làng. “Mẹ kể khách khứa thời của ngoại còn

nhiều lo toan hơn thời kỳ của mẹ nữa. Ấp nào xóm nào cũng có Hội Mẹ chiến

sĩ để chăm sóc người đi kháng chiến. Đang đêm nghe tiếng xuồng khua dưới

bến, vậy là ngoại với mẹ phải choàng dậy cơm nước trong khi những người

lính còn phải lo hầm hố ở hậu vườn, trong đêm”. Mỗi khi mẹ rên rỉ thì ngoại

dịu lời: “Má đang gánh gạo đường xa cho các anh chị của con; chúng nó

cũng sẽ được người khác cho ăn, cho mặc như mẹ lo cho con của người ta

bây giờ!”. Chính vì tiếp nối truyền thống ấy của gia đình từ lời khuyên của

ngoại, mà “Ngoại đã ra người thiên cổ, mẹ đã lục tuần mà vẫn không ngơi

triết lý gánh gạo đường xa” [63, 201 – 203].

Điểm qua một đôi nét như vậy để thấy rằng Dạ Ngân đã từng sống trên

mảnh đất Nam Bộ, ăn những bát cơm trên mảnh đất này, sống giữa những con

người thân yêu quanh chị, chịu những ảnh hưởng của những tập tục quanh

chị, giữa những cuộc kháng chiến cùng chị, để những nét văn hoá Nam Bộ, cá

tính của những con người Nam Bộ như đã thấm vào máu thịt của Dạ Ngân, để

rồi, khi có dịp, được gợi khơi, những nét tính cách ấy, những nét văn hoá ấy

lại ùa về trên những giòng văn của chị, góp phần tạo nên những trang văn

khó trộn lẫn, của chị, so với mọi người.

CHƯƠNG 2: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT DẠ NGÂN – ĐẶC ĐIỂM VỀ THỂ LOẠI VÀ PHƯƠNG THỨC TỰ SỰ

2.1. Nhà văn nữ của nhiều thể loại:

2.1.1. Sáng tác của Dạ Ngân – Nhìn từ thể loại:

Dạ Ngân là một nhà văn nữ sáng tác nhiều thể loại: truyện ngắn, truyện

vừa, tiểu thuyết, tản văn,...

Từ tập truyện ngắn đầu tiên Quãng đời ấm áp được xuất bản năm

1986, sau đó chị đã có Con chó và vụ ly hôn in năm 1990, Cõi nhà 1993,

Truyện ngắn chọn lọc 1995; tiếp đó, chị đã cho ra mắt tập Nhìn từ phía

khác vào năm 2002, và sau này là Nước nguồn xuôi mãi xuất bản năm 2008.

Truyện ngắn chọn lọc của chị là sự chọn lựa lại một số truyện chị đã

cho xuất bản trước đó và trong 20 truyện của tập Nước nguồn xuôi mãi, có

11 truyện là những sáng tác mới của chị, còn lại 9 truyện là những truyện đã

được in trong các tập xuất bản trước đó.

Ngoài ra, còn có một số truyện ngắn chị sáng tác sau này, đăng rải rác

ở các báo, và Văn mới năm năm 2006 – 2010.

Có thể nói, Dạ Ngân viết nhiều truyện ngắn và khá nhiều những truyện

ngắn của chị đã để lại những cảm xúc, ấn tượng trong lòng bạn đọc, gợi

những nghĩ suy trong lòng bạn đọc về tình người, tình đời.

Dạ Ngân cũng viết tiểu thuyết từ khá sớm, 1989, với Ngày của một

đời. Và sau này, Gia đình bé mọn, xuất bản lần đầu năm 2005 là một thành

công lớn của chị, với hai giải thưởng liền trong hai năm, 2005, 2006.

Chị cũng còn viết truyện vừa. Miệt vườn xa lắm in năm 2003 là một

thành công khác của nhà văn nữ Nam Bộ này.

Đặc biệt, Dạ Ngân đã viết khá nhiều tản văn. Nếu tính từ Mùa đốt

đồng được in từ năm 2000 thì liên tiếp sau này, chị đã có Lục bình mải miết

in năm 2002, 100 tản mạn hồn quê in năm 2006, và nhất là gần đây, Phố

của làng, Gánh đàn bà đã ra mắt bạn đọc cả nước vào năm 2010.

Dạ Ngân đã sáng tác bền bỉ, liên tục trong suốt hơn hai mươi lăm năm

qua với nhiều thể loại. Và ở mỗi thể loại, chị đã có những thành công riêng,

có những đóng góp riêng bằng những sáng tác của mình.

2.1.2. Đóng góp của Dạ Ngân – Nhìn từ truyện ngắn:

2.1.2.1. Thể loại truyện ngắn:

Theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán – Trần Đình Sử –

Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên), thì “Truyện ngắn là tác phẩm tự sự cỡ

nhỏ. Nội dung của thể loại truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện

của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái độc đáo của nó là ngắn…

Truyện ngắn hiện đại là một kiểu tư duy mới, một cách nhìn cuộc đời, một

cách nắm bắt đời sống rất riêng, mang tính chất thể loại… Truyện ngắn

thường hướng tới việc khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một nét bản chất

trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn của con người. Vì thế trong

truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp. Và nếu mỗi nhân vật

của tiểu thuyết là một thế giới, thì nhân vật của truyện ngắn là mảnh nhỏ của

thế giới ấy. Nhân vật của truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái

quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.

Cốt truyện của truyện ngắn thường diễn ra trong một thời gian, không

gian hạn chế, chức năng của nó nói chung là nhận ra một điều gì đó sâu sắc

về cuộc đời và tình người. Kết cấu của truyện ngắn không chia thành nhiều

tầng, nhiều tuyến mà thường được xây dựng theo nguyên tắc tương phản hoặc

liên tưởng. Bút pháp tường thuật của truyện ngắn thường là chấm phá.

Yếu tố quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là những chi tiết cô đúc,

có dung lượng lớn và lối hành văn mang nhiều ẩn ý, tạo cho tác phẩm những

chiều sâu chưa nói hết” [20, 370 – 371].

Theo Từ điển văn học thì “Truyện ngắn là một thể loại tự sự cỡ nhỏ,

thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của đời

sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về dung

lượng, tác phẩm truyện ngắn thích hợp với việc người tiếp nhận (độc giả) đọc

nó liền một mạch không nghỉ.

Những nét riêng – “có chuyện” và “ngắn” – vốn đã có ở các tác phẩm

thể truyện thời trung đại, ở các hình thức truyện kể dân gian (truyện cười,

giai thoại, truyện cổ tích, v.v…), nhưng truyện ngắn với đặc điểm thể tài riêng

biệt chỉ thực sự phát triển ở các nền văn học hiện đại, gắn với sự xuất hiện và

phát triển của báo chí.

Với tư cách một thể tài tự sự, truyện ngắn hiện đại, cũng như truyện

vừa, truyện dài hiện đại đều ít nhiều mang những đặc tính của tư duy tiểu

thuyết (sự tiếp cận cái thực tại đương thành, vai trò của hư cấu tự do, của

kinh nghiệm sống trực tiếp của tác giả…). Tuy vậy, khác với truyện vừa và

truyện dài – vốn là những thể tài mà quy mô cho phép chiếm lĩnh đời sống

trong toàn bộ sự toàn vẹn, đầy đặn của nó – truyện ngắn thường nhằm khắc

hoạ một hiện tượng, phát hiện một đặc tính trong quan hệ con người hay

trong đời sống tâm hồn con người. Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện

phức tạp, chồng chéo. Nhân vật truyện ngắn ít khi trở thành một thế giới hoàn

chỉnh, một tính cách trọn vẹn, thường khi là hiện thân cho một trạng thái

quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái tồn tại của con người.

Cốt truyện của truyện ngắn thường tự giới hạn về thời gian, không

gian; nó có chức năng nhận ra một điều gì sâu sắc về cuộc đời, về con người.

Kết cấu truyện ngắn thường không gồm nhiều tầng, nhiều tuyến mà được

dựng theo kiểu tương phản hoặc liên tưởng.

Chi tiết và lời văn là những yếu tố quan trọng cho nghệ thuật viết

truyện ngắn. Lời kể và cách kể chuyện là những điều người viết truyện ngắn

đặc biệt chú ý khai thác và xử lý, nhằm đạt hiệu quả mong muốn” [24, 1846,

1847].

Định nghĩa truyện ngắn trong 150 thuật ngữ văn học (Nxb Đại học

Quốc gia Hà Nội, 1999) như sau: “Truyện ngắn là một thể tài tác phẩm tự sự

cỡ nhỏ, thường được viết bằng văn xuôi, đề cập hầu hết các phương diện của

đời sống con người và xã hội. Nét nổi bật của truyện ngắn là sự giới hạn về

dung lượng: tác phẩm truyện ngắn thích hợp với người tiếp nhận đọc nó liền

một mạch không nghỉ”.

Theo Bùi Việt Thắng: “Truyện ngắn thường ít nhân vật, ít sự kiện

chồng chéo. Nhân vật truyện ngắn ít khi trở thành một thế giới hoàn chỉnh,

một tính cách đầy đặn, thường khi là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã

hội, ý thức xã hội, hoặc trạng thái tồn tại của con người. Cốt truyện của

truyện ngắn thường tự giới hạn về không gian, thời gian. Nó có chức năng

nhận ra một điều sâu sắc về cuộc đời, về con người. Chi tiết và lời văn là yếu

tố quan trọng của nghệ thuật viết truyện ngắn”[73,33].

Từ những định nghĩa và những ý kiến về truyện ngắn nêu trên, chúng ta

có thể xác định một số tiêu chí về truyện ngắn như sau:

- Là hình thức ngắn của tự sự.

- Truyện ngắn thường khắc hoạ một hiện tượng, phát hiện một một nét

bản chất trong quan hệ nhân sinh hay trong đời sống tâm hồn con người.

- Truyện ngắn ít nhân vật, ít sự kiện phức tạp.

- Nhân vật truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới.

- Kết cấu của truyện ngắn thường là một sự tương phản, liên tưởng.

- Chi tiết có dung lượng lớn, hành văn mang ẩn ý.

- Giọng điệu, cái nhìn cũng làm lên cái hay của truyện ngắn.

2.1.2.2. Đóng góp của Dạ Ngân – nhìn từ truyện ngắn:

Những truyện ngắn của Dạ Ngân khá đa dạng về nội dung, về những đề

tài, về bút pháp mà chị thể hiện.

Với trên sáu mươi truyện ngắn mà chị đã viết, đã ra mắt bạn đọc, không

phải tất cả những nhân vật mà chị đã xây dựng đều đẹp về hình hài, nhưng rất

nhiều trong số đó, là những con người đẹp về tâm hồn, đẹp trong cách cư xử,

trong lối sống, trong hành vi, giữa khói lửa của chiến tranh, lẫn trong muôn

mặt đời thường.

Đó là tâm hồn của người hoạ sĩ già, trong Thợ vẽ truyền thần. Hai lần

vẽ hỏng bức chân dung vị Chủ tịch Thị xã ngày nay, có phải đi từ việc ông

không bằng lòng với “trò” tham mưu của người cán bộ Uỷ ban Thị xã? Ông

đã hết sức sáng suốt và mẫn cảm nhận ra rằng: “Không, không những nó vô

bổ mà còn phi lí như ông vừa giát vàng lên xi măng của bức tượng đã được

thời gian khẳng định nhờ chất rắn và vẻ dãi dầu của nó”.

Người hoạ sĩ ấy thất bại, không phải ông lụt nghề, mà hẳn là trái tim

ông, khối óc ông đã cảm nhận rằng: Hình ảnh người lính cụ Hồ năm xưa đẹp

tươi trong sắc áo ấy, thần thái ấy, dáng vẻ ấy. Ghép thần thái ấy của một

người lính cụ Hồ với vẻ bệ vệ của một bộ vét, với cà vạt sắc màu là khung

của ngày nay, làm sao hợp được. Hay, điều mà tác giả muốn gởi gắm, lại ở

những lời ẩn dụ “vẻ mặt vị Chủ tịch quả đã sai biệt một cách thảm hại với

gương mặt ngày xưa”.

Đó còn là vẻ đẹp trong tâm hồn và ở cách cư xử của chú Tư Thọ trong

truyện ngắn Quãng đời ấm áp. Chú Tư Thọ đã để lại những ấn tượng hết sức

sâu đậm trong lòng cô thư ký có cha đi kháng chiến bị tù đày.

Ký ức của một thời khói lửa chiến tranh hình như chưa bao giờ nhạt

nhoà trong tâm tưởng Dạ Ngân. Để, những nét đẹp của những con người tham

gia kháng chiến vẫn luôn là những ám ảnh nghệ thuật trong Chị. Má con Chị

Liệt là một trong những truyện ngắn đặc sắc của nhà văn nữ giàu cá tính này.

Dựng lên một hình ảnh Chị Liệt trong Má con Chị Liệt đẹp đẽ, tháo

vát, quả Dạ Ngân đã đưa được cái hồn, cái thần thái tươi đẹp, gan dạ của

những con người trong kháng chiến vào tác phẩm, rồi từ đó, đến với bạn đọc

trong cuộc đời này, của những tháng ngày này.

Bạn đọc đã yêu hình tượng của một Chị Liệt xinh tươi với “mái tóc dày

thắt bím thả lệch một bên ngực, đồng tiền mơ hồ đáo để, đôi vai thon gọn

trong chiếc áo bà ba màu tro”…; thì khi vào nhiệm vụ, chị có “điệu bộ chính

uỷ và cái kiểu băm băm bổ bổ”, “Chị Liệt bước đi phía trước, cách đi nhón

chân gọn gàng thành thạo, dù không nhìn thấy rõ, tôi vẫn cảm giác được vẻ

quả quyết, xông xáo của chị”.

Và nữa, thím Năm, má chị Liệt lại là một hình ảnh của người cán bộ

kháng chiến phải vào vai vợ của người đàn ông bình thường, cũng là thực

hiện một nhiệm vụ quan trọng của cách mạng. Sự thật của cuộc đời đã làm

nên những sáng tạo trong Má con chị Liệt của Dạ Ngân.

Ký ức về chiến tranh vẫn luôn thấp thoáng, hiện về, trong tư duy nghệ

thuật của nhà văn nữ vùng đồng bằng sông Cửu Long. Dạ Ngân đã có một cái

nhìn khác về tâm hồn con người trong Nhìn từ phía khác. Sống chung trên

một mảnh đất, hai con người, kẻ trước, người sau, do hoàn cảnh cũng có, do

nhiệm vụ cách mạng giao cũng có, đã gặp nhau. Một người là thương phế

binh chế độ cũ, Thuận; người kia lại là một nữ cán bộ cách mạng được tổ

chức giao thực hiện một nhiệm vụ trong nội thành, dưới vai một cô hầu bàn ở

nhà hàng, Thảo.

Trong cơn say chếnh choáng, những thực khách khiếm nhã ở nhà hành

Vĩnh Thịnh đã trêu ghẹo cô em gái hầu bàn. Do không chịu nỗi những sự trêu

ghẹo thô bỉ của thực khách sàm sở, Thảo đã tát lại họ. Trước tình hình gay go,

Thuận, một thương phế binh, cũng là một người khách của quán, đã đứng ra

can thiệp. Không chỉ đưa tiền ra, như một cách để Thảo bù cho nhà hàng,

hành động ấn tượng hơn, đó chính là việc anh rút cái chân giả ra, đặt lên giữa

bàn, để nói chuyện với bọn thực khách thô bỉ. “Sĩ quan cộng hoà thương phế

binh tại trận, khúc chân này đủ tư cách nói chuyện với các người chưa, đủ

chưa?”.

Hành động ấy đã để lại ấn tượng rất sâu đậm, trước bọn khách sàm sở,

ăn trây nói trúa, đã đuổi được bọn ấy về, giải quyết được một tình huống

nghiêm trọng đối với Thảo.

Thuận đã trở thành người ơn của Thảo từ lúc ấy.

Để rồi, khó khăn thay mà cũng thuận lẽ thay, khi lần gặp sau đó của hai

người “Hình như có luồng điện khác thường khi chúng tôi nhìn thấy nhau, cái

nhìn không phải của một cái lệnh, một cái đinh một con ốc trong cái guồng

đang điều khiển sự tồn tại của tôi mà của một trái tim lần đầu với một người

có tên chung là đàn ông”.

Từ là một ân nhân, đó đây đã thấp thoáng tình cảm giữa hai người “Tôi

linh cảm mối quan hệ này sẽ đi vào ngõ cụt và chỉ chuốc lấy nỗi buồn”.

Là một người con của một liệt sĩ, đã từng có những tháng năm ở Cứ,

đối mặt với chiến tranh, hiểu được sự khốc liệt của chiến tranh, nhưng Dạ

Ngân đã có một cái nhìn rất nhân văn, khi viết nên Nhìn từ phía khác. Với

một Thuận, thương phế binh chế độ cũ, và Thảo, một cán bộ cách mạng được

cắm vào hoạt động ở nội thành, giữa họ đã có những tình cảm nhẹ nhàng, bắt

nguồn từ việc “làm ơn”. “Tôi là thân phận trôi giạt và đang trôi cùng tôi là

một thân phận khác, chúng tôi luôn có nỗi buồn và những giọt nước mắt

giống nhau, chúng tôi nhỏ nhoi thường tình yếu đuối như mọi người đàn ông

đàn bà trên đời”.

Đây có phải là một cái nhìn khác, của một nhà văn nữ, từng là con một

liệt sỹ hy sinh trong nhà tù Côn Đảo, từng là một cán bộ có chín năm tham gia

kháng chiến trong Cứ, cảm nhận về tình người? Nhiệm vụ thật lớn lao, cô

Thảo, một cán bộ cách mạng phải hoàn thành, đã được đặt bên cạnh tình cảm,

nảy sinh từ những giờ phút thực thi nhiệm vụ được phân vai, khi xảy ra tình

huống gay cấn. Có tình cảm ấy không, giữa cuộc đời này? Nhà văn Dạ Ngân

đã dẫn dắt người đọc đi vào một tình huống cực kỳ khó xử nhưng cũng rất

người. “Tôi chiến đấu với tâm trạng của tôi: tình yêu giả để nhiệm vụ thật

hay là tôi phải thú nhận với tổ chức và tháo chạy khi tôi còn chưa là gì với

gia đình ấy?”.

Người cán bộ nữ cách mạng ấy đã nghĩ bằng trái tim một người con gái

thường tình: “Tôi nhắm mắt lại, âm thanh và mùi vị chiến tranh tôi nào có lạ

nhưng trước nỗi đau của một người như con người này, có cần tồn tại giữa

chúng tôi đường biên khắc nghiệt nào không?”.

Nhưng rồi, Thảo đã trở về với nhiệm vụ thật của mình, đã về Cứ nằm

chờ theo lệnh của cấp trên.“Thế là không sao lần ra dấu vết của hạt bụi ấy,

một hạt bụi đã từng rơi vào mắt tôi cam phận trong bóng tối và thỉnh thoảng

làm tôi đau xốn mà không dứt ra được”. Người ân ấy, người yêu ấy, giờ chỉ

như là một hạt bụi, một hạt bụi luôn làm Thảo day dứt. Không, không chỉ là

hạt bụi, mà là cả những gợn sóng mạnh mẽ đang xôn xao trong lòng người

phụ nữ ở bến bờ này. Đành vậy thôi, bởi người phụ nữ ấy, ngoài tiếng đập của

con tim, còn có nhiệm vụ lớn lao phải hoàn thành, trong cuộc chiến đấu vĩ đại

của dân tộc.

Chúng ta có thể nói gì về những đóng góp của Dạ Ngân cho truyện

ngắn đương đại?

Ở cảm hứng nghệ thuật của chị, đó là một góc nhìn cuộc sống đa

dạng, cả những nét đẹp và những điều còn khuất tất. Với gần sáu mươi

truyện ngắn, Dạ Ngân đã xây dựng nên nhiều hình ảnh của con người, từ

người cán bộ cách mạng đến người sĩ quan của phía bên kia; từ những người

phụ nữ chịu thương chịu khó sống trong goá bụa đến những người phụ nữ

lặng lẽ nhường hạnh phúc của mình cho người khác; từ người hoạ sĩ già đến

một đại đội trưởng phục viên về chăm chỉ làm ăn ở mảnh đất quê nhà…

Ở truyện ngắn của Dạ Ngân, người đọc dễ nhận ra những nét bản

chất trong mối quan hệ nhân sinh.

Từ những sáng tác đầu tay của mình, Dạ Ngân đã gây được sự chú ý

trong lòng bạn đọc. Con chó và vụ ly hôn, được in ở Tuần báo Văn nghệ 5.

7. 1986 là một minh chứng. Truyện đã ghi lại một phát hiện mới của chị về

một nét bản chất trong mối quan hệ nhân sinh. Chuyện từ một con chó, dẫn

đến sự ly hôn của đôi vợ chồng. Điều mà Dạ Ngân muốn gởi gắm, đó chính

là: Sự thiếu đồng điệu, thiếu hoà hợp, không cùng một quan niệm sống, sự

chênh nhau trong tư duy, chênh nhau trong tầng sâu văn hoá của đôi vợ

chồng. Để trước một con vật nuôi trong gia đình, họ đã có sự đối xử rất khác

nhau. Nếu với người này là sự yêu thương, thì với người kia là sự khó chịu,

thậm chí căm ghét. Nếu với người này là sự chăm sóc, thì với người kia là sự

sẵn sáng đánh đập và hơn cả, là sự kết liễu cuộc đời. Và con chó ấy chỉ là một

cái cớ của vụ ly hôn. Còn nguyên nhân sâu xa là: Với một người nặng tình

cảm, không thể chấp nhận một cuộc sống chung với một người tàn ác, nhẫn

tâm với một con vật nuôi trong nhà. Mối quan hệ vợ chồng ấy, thật chông

chênh để cuối cùng phải đến hồi kết thúc.

TS. Hoàng Thị Văn đã từng viết “Truyện ngắn 1986 có mặt khắp mọi

nơi trong cuộc sống để phát hiện, rọi sâu vào từng ngõ ngách trong tâm hồn

con người để nhận biết kiếm tìm” và Con chó và vụ ly hôn của Dạ Ngân đã

cùng một số truyện ngắn khác cùng thời điểm xuất bản đã “tạo nên một dòng

chảy quan niệm nghệ thuật mới về con người” [86, 36].

Xung đột gia đình trong Con chó và vụ ly hôn cũng đã đi từ thực tế

cuộc sống. Xung đột ấy đã đi vào văn chương của Dạ Ngân và truyện ngắn ấy

đã được bạn đọc đón nhận. Năm 1989, GS. TSKH Lê Ngọc Trà đã từng viết

Đã đến lúc cần chấm dứt hẳn quan niệm cho rằng những gì viết về cái xấu và

sự kém cỏi của con người, nỗi đau và sự mất mát, bi kịch và hạnh phúc cá

nhân, những buồn vui phi lý, những xung đột tưởng như không đâu trong

khuôn khổ gia đình đều là tạp nhạp, nhỏ bé, thua kém các đề tài lớn về sản

xuất và chiến đấu thậm chí không lợi, không xứng đáng với sự nghiệp cách

mạng” và “ Đặc biệt cần làm sao để có được những tác phẩm diễn tả sâu

sắc thế giới nội tâm và đời sống tinh thần của con người” [80, 44 – 45].

Những truyện ngắn khác của Dạ Ngân đã lặng lẽ góp thêm những tiếng

nói của chị cho quan niệm nghệ thuật mới về con người, trong dòng chảy

chung của truyện ngắn nước nhà, từ sau những năm đổi mới, như Thợ vẽ

truyền thần, Trăng về, Một khúc sông, Nhìn từ phía khác, Câu chuyện

nhiều năm, Má con Chị Liệt, Cái ban công trống…

Kết thúc của những truyện ngắn của Dạ Ngân thường chứa đựng những

tư tưởng nghệ thuật mà tác giả muốn gởi gắm, và thường là những đoạn văn

nên thơ, mượt mà. Cũng đã có dạng kết mở để bạn đọc tiếp tục nghĩ suy.

Ở bài viết “Nghiên cứu và dạy học truyện ngắn hiện đại” của GSTS

Nguyễn Thanh Hùng, đã có đoạn “Truyện ngắn hiện đại không hướng tới kết

thúc mà hướng đến sự mở đầu. Vấn đề căn bản ở đây không phải là kết thúc

bằng cách nào” mà là “mọi chuyện bắt đầu từ đâu” [41, 297].

Dạ Ngân đã có những truyện ngắn có kết thúc mở. Câu chuyện nhiều

năm, Xuân nữ là những minh chứng.

Ở Câu chuyện nhiều năm, phần kết của truyện ngắn này, tác giả đã để

người đọc tự suy nghĩ, chọn lựa. Sang, một sĩ quan chế độ cũ, sau ngày giải

phóng, hoàn cảnh đưa đẩy, đã gặp lại Thẩm, người từng vào Cứ thăm chồng

năm nào, để rồi “Bỗng dưng một cuộc xoay vần khác nữa xuất hiện rắp tâm

đặt họ vào tình huống lựa chọn quá sức đối với họ”. Họ đã lại yêu nhau. Họ

có thể đi nước ngoài theo gia đình Sang, mà cũng có thể trở về sống trên

miếng vườn nhỏ do má Thẩm cắt cho. “Thẩm và anh, hai người có thể dắt tay

nhau vượt đại dương bắt đầu lại tất cả mà cũng có thể làm những người yên

ổn trên mảnh vườn nhà sao lại không thể như vậy chứ? Điều quan trọng là họ

đã có nhau, hiểu nhau như mọi người, những con người bình thường quyết

gắn bó với nhau một cách bình thường” [56,36].

Ngẫm cho cùng, những vấn đề Dạ Ngân đặt ra qua Câu chuyện nhiều

năm cũng là điều dễ xảy ra. Thẩm và Sang cũng chỉ là những con người, họ

đã từng gặp nhau, đối mặt với nhau trong chiến tranh, và Thẩm đã từng

“mang ơn” Sang. Giờ gặp lại, họ là hai con người, với những mất mát riêng.

Chiến tranh đã lùi xa. Con người của hai chiến tuyến ngày xưa đang xích lại.

Họ là những cá nhân, có số phận riêng. Dạ Ngân đã có cái nhìn mới mẻ về

những con người sau cuộc chiến. Đây là đóng góp của chị về mảng đề tài hậu

chiến, sau những quan sát, ngẫm suy của chị về con người và cuộc đời. Lê

Ngọc Trà cũng đã từng chia sẻ “Trong một ý nghĩa giản dị, văn học là buồn

vui đời người, là sự chiêm nghiệm về những gì được, mất, là hồi ức về quá

khứ, sự không thoả mãn với hiện tại và dự cảm về tương lai, là trầm tư về lẽ

tồn vong của con người trong mối quan hệ với xã hội, tự nhiên và vũ trụ. Đó

là những chủ đề cơ bản và lâu dài của văn học” [80, 45].

Xuân nữ cũng là một truyện ngắn có kết thúc mở của Dạ Ngân.

Người phụ nữ thường dân bám trụ cùng với đội du kích đã từng có những

người yêu là bộ đội. Bảy người cả thảy, những chàng bộ đội ấy đã lần lượt

quen chị, rồi lần lượt hy sinh. Đến khi người thứ bảy ngã xuống ngay ngày 30

tháng 4 năm 1975, chị đã biến mất. “Cho tới tận hôm nay, nhiều lúc bất chợt

gặp một cái cằm hơi vuông nhìn nghiêng bên vành khăn sư nữ hay một dáng

di thanh thoát trong nếp áo nâu sồng, tôi vẫn thắt tim hy vọng. Có phải chị đó

không, Xuân nữ? Nhưng chắc gì trời đã để chị chọn đường tu, có khi chị đã

về với trời xanh và mây trắng, đã xong một sứ mệnh và một đời người…” [65,

44].

Truyện ngắn Dạ Ngân tạo sự chú ý trong lòng bạn đọc còn ở những chi

tiết nghệ thuật. Những chi tiết ấy cô đúc, nhưng mang dung lượng lớn, gợi

nhiều nghĩ suy trong lòng bạn đọc.

Ở Quãng đời ấm áp là hình ảnh chiếc mùng rách nát cùng với nền xi

măng nhớp nháp của nhà tù, và cặp mắt của tên cai ngục mà Đầm được chứng

kiến khi ở cùng cha tại trại tạm giam trước khi cha bị giải về khám Chí Hoà

đã để lại một dấu ấn rất đậm trong ký ức của Đầm; và đã có cả những chi tiết,

khi chú Tư Thọ mất, vợ chú đã yêu cầu Đầm cùng thím đốt tất cả những lá

thư ấy; để xoá những lá thư, những kỷ vật, cũng là đúng ý nguyện của chú

Tư. Đó là chi tiết Nhiêu, chồng Đoan, đập đầu con chó của chị nuôi bằng búa,

rồi Hành, người bạn của Nhiêu hỏi “Vú chó ăn ngon như vú heo nái không?”

Chi tiết ấy, chỉ gồm mấy từ thôi, nhưng sao nó gợi lên một cảm giác rợn

người. Bởi sự tàn ác, dã man của những con người được đẩy lên mạnh hơn

nữa, tiếp theo việc Nhiêu liệng ba con chó con xuống sông mà chẳng có một

chút xúc động nào.

Đó còn là chi tiết vị Chủ tịch xã ngắt câu tuỳ tiện, liên tục ngắc ngứ

trước những từ ngữ chuyên môn của bài phát biểu tại buổi lễ khai mạc phòng

triển lãm tranh của hoạ sĩ Hà; và cả chi tiết “Chiếc áo vét và chiếc cà vạt cứ

muốn tách khỏi cái người muốn trói buộc mình vào nó, chính xác hơn là con

người thời xưa của ông chủ tịch đã từ chối nó” trong Thợ vẽ truyền thần.

Bởi, dáng vẻ của người lính cụ Hồ ngày xưa chỉ thích hợp với chiếc áo sơ mi

sậm màu của thời ấy mà thôi.

Ở Một khúc sông, đó là chi tiết Bời, một đại đội trưởng phục viên, về

tiếp tục làm người chở đất mướn cho bà con trong xóm, có “niềm vui âm

thầm khi thả bộ qua những liếp vườn, những rẫy mía phát đạt nhờ món phù

sa anh đưa về hay những bờ bến trụ được trước xói mòn của năm tháng, niềm

vui đứng ngoài tiền bạc…”; đó còn là chi tiết sức mạnh của nước lớn quật ngã

chiếc ghe “Trong lúc anh loay hoay như con kiến, giề lục bình trôi cùng chiếc

ghe rung rinh, tiếp đó là chiếc ghe bị quật vào cọc đáy đánh kinh rợn người”

[52, 34].

Trăng về đã gợi lên hình ảnh Nguyệt một người phụ nữ đẹp. Nhưng

chi tiết đọng mãi trong lòng người đọc chính là hình ảnh đôi bắp chân tuyệt

đẹp của Nguyệt dưới ánh trăng trong những ngày kháng chiến gian khổ. Để

rồi sau đó là chi tiết cũng đôi chân ấy không còn ra hình thù khi Nguyệt

vướng phải mìn.

Những chi tiết ấy, cùng với rất nhiều chi tiết nghệ thuật khác nữa trong

những truyện ngắn của Dạ Ngân đã để lại ấn tượng rất đậm trong lòng bạn

đọc. Quả, Dạ Ngân đã khéo chọn các chi tiết để đưa vào những sáng tác của

mình, để tạo nên những ám ảnh trong lòng bạn đọc. Những chi tiết ấy, không

nhàn nhạt để người đọc chỉ đọc một lần rồi quên. Mà, nó là lửa, là hương để

bạn đọc, khi gấp sách lại, vẫn còn nhớ. Để rồi nhớ đến Dạ Ngân, người nhiều

năm đem đến cho đời những trang văn giàu chất nghĩ suy, giàu niềm thương

cảm.

2.1.3. Đóng góp của Dạ Ngân – nhìn từ tiểu thuyết, truyện vừa:

2.1.3.1. Thể loại tiểu thuyết:

Cũng theo Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi, thì “Tiểu thuyết là tác phẩm tự sự cỡ lớn có khả năng phản

ánh hiện thực đời sống ở mọi giới hạn không gian và thời gian. Tiểu thuyết có

thể phản ánh số phận của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục, đạo

đức xã hội, miêu tả các điều kiện sinh hoạt giai cấp, tái hiện nhiều tính cách

đa dạng.

Tiểu thuyết nhìn cuộc sống ở góc độ đời tư. Tiểu thuyết hấp thụ vào

bản thân nó mọi yếu tố ngổn ngang bề bộn của cuộc đời. Nhân vật tiểu thuyết

là “con người nếm trải”, tư duy, chịu khổ đau, dằn vặt của cuộc đời. Tiểu

thuyết miêu tả hiện thực như cái hiện tại đương thời của người trần thuật.

Tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các khả năng

nghệ thuật của các thể loại văn học khác” [20, 328 – 331].

Theo GS. TS Nguyễn Văn Hạnh: “ Tiểu thuyết là một thể truyện, tiểu

thuyết hiện đại viết bằng văn xuôi. Tiểu thuyết đề cập đến những chuyện bình

thường, xảy ra hằng ngày trong xã hội. Nhân vật của tiểu thuyết là những con

người bình thường với những lo toan, vui buồn bình thường của họ. Tiểu

thuyết đặc biệt chú ý đến tình yêu, hạnh phúc lứa đôi, cuộc sống gia đình.

Tiểu thuyết là sản phẩm của thời kỳ hiện đại trong nhiều nền văn học. Do khả

năng rộng lớn của nó trong vấn đề phản ánh cuộc sống, đi sâu vào những

biểu diễn phức tạp trong tâm hồn con người, tiểu thuyết giữ vị trí hàng đầu

trong văn học thời kỳ hiện đại”[21,97-98].

Tóm lại, từ những định nghĩa nêu trên, có thể xác định một cách khái

quát một số đặc điểm về tiểu thuyết như sau:

- Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn.

- Tiểu thuyết nhìn cuộc sống từ góc độ đời tư.

- Miêu tả cuộc sống như một thực tại cùng thời đang sinh thành.

- Nhân vật tiểu thuyết là “con người nếm trải”.

- Cốt truyện đóng vai trò chủ yếu cùng với nhân vật.

- Tiểu thuyết là thể loại văn học có khả năng tổng hợp nhiều nhất các

khả năng nghệ thuật của các loại văn học khác.

2.1.3.2. Đóng góp của Dạ Ngân – nhìn từ tiểu thuyết:

Dạ Ngân viết tiểu thuyết không nhiều. Tính đến nay, chị có hai cuốn

tiểu thuyết được xuất bản, Ngày của một đời, xuất bản năm 1989, và Gia

đình bé mọn, xuất bản lần đầu năm 2005.

Theo Quách Thanh Tạng “Ba tôi không còn nữa” như một điệp khúc

cứ xoáy đi xoáy lại trong lòng người đọc cũng như trong trái tim suốt đời tận

tuỵ, yêu thương về người ba của Chung. Cô không hề “thần thánh hoá” ba

mình, bởi trong cuộc chiến ba Chung đang đối đầu không phải súng đạn kẻ

thù, mà là tiệc tùng, thù tạc, tội ác, thấp hèn, mưu mô, ích kỉ, vụ lợi… của con

người trong hoàn cảnh no cơm ấm áo. Đáng buồn và oái ăm hơn khi trong số

ấy, không ít người đã từng là đồng chí cũ của ba![71, 28].

Nhiều năm gắn bó với nông trường Bình Minh ở Đồng Sậy, chú Năm

Được đã nhận được tình cảm quý mến của bà con. Và giữa ý nguyện của chú:

được hoả táng khi qua đời, với nguyện vọng của bà con Đồng Sậy: chú phải

có một nắm đất khi nằm xuống, cuối cùng đã được thực hiện: “Hãy cho người

sống thể hiện hết mức tình cảm của mình với người quá cố!” [50, 337].

Nghi thức an táng chú cũng đã khác với nghi thức an táng thông

thường: hoả táng xong, tro hài cốt ấy lại được chôn. Chú Năm Được đã sống

mãi trong lòng bà con Đồng Sậy.

Đó, phải chăng cũng là thông điệp mà Dạ Ngân muốn gởi đến người

đọc: những người đã suốt đời tận tuỵ lo cho dân, dân sẽ không bao giờ quên

ơn.

Một cuốn tiểu thuyết khác của Dạ Ngân, Gia đình bé mọn, xuất bản

năm 2005, đã được Hội Nhà văn Hà Nội và Hội Nhà văn Việt Nam trao giải

thưởng và tặng thưởng trong các năm 2005, 2006. Đến năm 2010, tác phẩm

đã được tái bản đến lần thứ năm. Tiểu thuyết Gia đình bé mọn đã được dịch

sang tiếng Anh (Do Rosemary Nguyen dịch) và được ấn hành bởi Nhà xuất

bản Curbstone Press năm 2009.

Nhà phê bình Nguyễn Hoài Nam đã viết gì về Gia đình bé mọn? “Gia

đình bé mọn trước hết là cuốn tiểu thuyết kể chuyện gia đình. Đúng hơn là kể

chuyện những gia đình của nhân vật trung tâm: nữ nhà văn Mỹ Tiệp”, là ba

gia đình, “Con đường đời của Tiệp là đi từ gia đình một đến gia đình ba,

đằng đẵng, chông chênh, nghẹt thở. Để có được gia đình ba, Tiệp đã phải trả

giá: trước hết là sự từ bỏ – từ những người đàn bà goá ở gia đình một, tiếp

đến là sự lên án và xa lánh của bộ phận xã hội khư khư thứ luân lý cổ hủ và

nặng nề hơn hết là sự dằn vặt bản thân, khi phải cân nhắc giữa tình mẫu tử

và tình yêu đôi lứa. Vượt lên trên tất cả, tác giả cho thấy một mẫu hình phụ

nữ chủ động lèo lái con thuyền cuộc đời mình, kiên nhẫn tới mức lì lợm để

sống thật với nhu cầu tinh thần của mình”, và “còn có thể đọc Gia đình bé

mọn như một tiểu thuyết có đề tài rộng hơn, đó là thân phận con người dưới

sức ép chiến tranh”. Và Nguyễn Hoài Nam đã khái quát “Một lần nữa người

ta lại thấy ở Dạ Ngân những phẩm chất từng làm nên thế mạnh ngòi bút của

bà: sự cẩn trọng và tinh tế trong câu chữ; khả năng kết hợp nhuần nhuyễn

giữa mỹ văn và ngôn ngữ đời thường của người Nam Bộ; sự sắc sảo trong

phác hoạ nhân vật bằng một vài chi tiết đắt giá, nhanh gọn; và sau cùng là

một cái nhìn – dù với sự phê phán – nhưng vẫn luôn đôn hậu”.

Bản thân Nhà văn Dạ Ngân cũng đã từng chia sẻ: “Gia đình bé mọn là

cuốn tiểu thuyết viết về đề tài hậu chiến. Sống trong đất nước của những cuộc

chiến kéo dài, thân phận người Việt nào cũng có một bắt nguồn từ chiến

tranh, chiến tranh ảnh hưởng đến rất nhiều thế hệ, còn dấu vết cho tới tận

bây giờ”.

Gia đình bé mọn giàu yếu tố tự truyện. Tác phẩm đã thể hiện cái nhìn

cuộc sống từ góc độ đời tư. Những gia đình của Tiệp, được tái hiện theo thời

gian, với những mối quan hệ khác nhau. Có khi là mối quan hệ của những

người trong đại gia đình của Tiệp: mẹ, cô Tư, các chị, các em của nàng; có

khi là mối quan hệ giữa nàng và Tuyên; khi là mối quan hệ giữa nàng và

Đính.

Ở Gia đình bé mọn, bạn đọc còn nhìn thấy nhiều yếu tố ngổn ngang bề

bộn của cuộc đời, bao gồm cả điều cao cả, lẫn cái tầm thường; bi và hài lẫn

lộn. Tiệp đã khác với những người còn lại trong gia tộc nàng, những người

luôn lấy sự trật tự và hiếu thuận làm mực thước. Tiệp nhìn Hà Nội những

năm sau giải phóng ở thời kỳ bao cấp theo cách nhìn của riêng nàng. Cái

nhìn ấy nhìn về phía còn khuất tất của một thủ đô mới vừa ra khỏi cuộc chiến

tranh.

Gia đình bé mọn đã diễn tả những cung bậc tình cảm rất khác nhau

của Tiệp trong nhiều tình huống, nhiều cảnh ngộ, mà phần lớn, là những tình

huống éo le, những cảnh ngộ không may, những tâm trạng đau buồn. Vậy mà,

trong gian khó ấy, Tiệp vẫn vững vàng đi tới, đến với hạnh phúc. Gia đình bé

mọn cũng đã khắc hoạ những sự dằn xé trong lòng Tiệp, khi nàng cứ luôn lo

lắng rằng: Trong khi tìm đến với tình yêu, vẫn lo cho con chưa trọn vẹn. Sự

dằn vặt ấy, Tiệp trải lòng trong tác phẩm.

Gia đình bé mọn quả đã góp thêm một tiếng nói mới, làm phong phú

thêm diện mạo tiểu thuyết Việt Nam thời kỳ đổi mới.

2.1.3.3. Đóng góp của Dạ Ngân – nhìn từ truyện vừa:

Theo GS. TS Trần Đình Sử: “Truyện vừa là thể loại văn xuôi tự sự cỡ

trung bình. Trần thuật của truyện vừa thường cô đọng, hàm súc hơn, bám sát

sự phát triển của cốt truyện và đặc điểm nhân vật hơn. Tâm lý, ý nghĩ, ngôn

từ… của đời sống không được tái hiện chi tiết, tường tận như tiểu thuyết.

Cách trần thuật trầm tĩnh, ít xoáy sâu vào các tình thế bi thảm. Truyện vừa ít

miêu tả quá trình vận động của tính cách, quan hệ hơn tiểu thuyết”[43, 397-

398].

Miệt vườn xa lắm, được xuất bản từ năm 2003, là một truyện vừa

mang đậm yếu tố tự truyện của Dạ Ngân. “Tự truyện lại yêu cầu nhà văn tái

hiện đoạn đời đã qua của mình trong tính toàn vẹn, cụ thể – cảm tính, phù

hợp với một lý tưởng xã hội – thẩm mỹ nhất định” [20, 265].

Theo Cao Thị Huệ “Miệt vườn xa lắm làm sống dậy cả một quãng đời

tuổi thơ hồn nhiên, nghịch ngợm “được bao bọc trong cây trái, phù sa, ánh

sáng, nhân tình” – cái nôi đầu tiên đưa Dạ Ngân đến với nghiệp văn chương.

Chỉ có điều, quãng đời ấy không hiện lên tuần tự theo kiểu lịch biểu: ngày –

tháng – năm mà dồn nén, chứa chất trong hình dung, tưởng tượng, trong

những kỷ niệm chất chồng như cùng lúc ùa về sống động, sinh sắc trong

khoảng thời gian là một ngày (từ mờ sáng cho đến nửa đêm) của cô bé Tiệp

Kiến Vàng. Vì vậy đây không phải là sự thông báo về quá khứ mà là tác phẩm

nghệ thuật có khả năng làm cho quá khứ được tái sinh, hấp dẫn, lung linh”

[27, 102].

Miệt vườn xa lắm đã ghi lại những ấn tượng khó phai của cô bé Tiệp

Kiến Vàng với mảnh vườn mà ông nội cô đã chăm chút tạo dựng để phỉ chí

nghề vườn. Đó còn là những ký ức về cô Tư Ràng, một người cô, mà cũng

một người ơn sâu nặng đối với chị em Tiệp, đã vừa làm lụng để nuôi cháu, đã

chăm chút dạy cháu, từ việc nhỏ như việc chải mái tóc khi mới thức dậy, đến

việc phải chịu khó làm lụng để tập tánh kiên nhẫn, chịu khó khi vào đời, đến

việc phải tiết kiệm trong thời buổi khó khăn để đủ ngày đủ bữa… Có lẽ, sự

ảnh hưởng từ người cô quá sâu đậm đối với cô bé Tiệp Kiến Vàng đã để lại

trên những trang viết của nhà văn những lời thiết tha, trìu mến. Điều đó đã có

tác động không nhỏ đến người đọc. Bạn đọc dễ nhớ đến một miệt vườn thân

quen của Tiệp Kiến Vàng với những sản vật, những con người, những nét văn

hoá đặc trưng Nam Bộ khó lòng trộn lẫn.

Đó cũng chính là sự đóng góp của Miệt vườn xa lắm của Dạ Ngân cho

văn xuôi thời kỳ đổi mới của nước ta.

2.1.4. Đóng góp của Dạ Ngân– Nhìn từ tản văn:

2.1.4.1. Thể loại tản văn:

Theo Từ điển Thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán– Trần Đình Sử–

Nguyễn Khắc Phi( Đồng chủ biên), thì “Tản văn là loại văn xuôi ngắn gọn,

hàm súc, có thể trữ tình, tự sự, nghị luận, miêu tả phong cảnh, khắc hoạ nhân

vật. Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá, không nhất

thiết đòi hỏi có cốt truyện phức tạp, nhân vật hoàn chỉnh nhưng có cấu tứ độc

đáo, có giọng điệu, cốt cách cá nhân. Điều cốt yếu là tản văn tái hiện được

nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã hội, bộc lộ trực tiếp tình cảm ý

nghĩ mang đậm bản sắc cá tính của tác giả…

Trong văn học hiện đại, tản văn bao gồm các thể ký, tùy bút, văn tiểu

phẩm, văn chính luận, tạp văn, ngụ ngôn, chân dung văn học…

Tản văn là loại văn tự do, dài ngắn tùy ý, cách thể hiện đa dạng, đặc

biệt là thể hiện nổi bật chính kiến và cá tính tác giả, có truyền thống lâu đời

và sức sống mạnh mẽ”[17, 293–294].

Theo Từ điển Bách Khoa Việt Nam, “Tản văn là một thể văn không

vần, không đối ngẫu như thể phú, viết bằng văn xuôi thuần tuý”.

Theo Dương Thị Lệ Giang “Tản văn là một biến thể của ký gắn liền với

báo chí…Nếu ký là thể loại không thể thiếu để làm nên diện mạo văn xuôi

Việt Nam hiện đại thì tản văn là một biến thể tất yếu của ký không thể thiếu

trong giai đoạn đổi mới văn học…Trong tản văn, những gì được biểu hiện

đều mang đậm dấu ấn cảm nhận, cảm nghĩ của nhà văn… Ở tản văn, cái tôi

được biểu diễn đa dạng hơn: gồm cảm xúc, suy tưởng, triết lý, nghị luận và

cả cái tôi hành động… thường chỉ với một hình thức ngắn, một bài tản văn

vẫn có thể mở ra được nhiều chiều không gian, cả bề rộng lẫn bề sâu với

lượng tri thức phong phú và mới mẻ”.

Và quả Dương Thị Lê Giang đã cảm nhận một cách rất nên thơ rằng

“Tản văn cứ lặng lẽ níu kéo người ta trong những tình cảm thiết tha, sâu nặng

với quê hương, với lịch sử, với văn hoá, với tất cả những gì thân thương, gần

gũi xung quanh mình” [19, 9 – 13].

Ở Tản văn thời kỳ đổi mới, Lê Trà My đã có những nhận định: “Tản

văn hiện đại Việt Nam sau những thành tựu của một số cây bút mở đường như

Tản Đà, Xuân Diệu, Nguyễn Tuân, Chế Lan Viên, Phùng Tất Đắc,…nửa đầu

thế kỷ XX, phải tới những năm 90 mới có những dấu hiệu khởi sắc trở lại.

Nhìn lại đời sống văn học hơn mười năm qua, thấy bên cạnh những thể loại

được coi là chủ chốt trên văn đàn như tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ,…tản văn

đã thực sự có chỗ đứng trong ý thức tiếp nhận của công chúng. Nó vươn dậy

tự nhiên trong nhu cầu mạnh mẽ muốn góp những tiếng nói chân thực và biểu

lộ chính kiến của các nhà văn về tất cả các vấn đề trong cuộc sống, bởi tản

văn là thể loại bộc lộ trực tiếp “cái tôi” của người sáng tác.

Hai điều kiện chính yếu góp phần dấy lên không khí mới cho tản văn là

không khí tự do dân chủ thời đổi mới và đời sống báo chí sôi động…

Giờ đây, tản văn có thể tung đôi cánh tự do của nó, làm đầy đặn thêm

diện mạo văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới”[38, 285–286].

Tựu trung, tản văn có thể được nhận diện bằng các tiêu chí:

- Là loại văn xuôi ngắn gọn, hàm súc, có thể miêu tả phong cảnh, khắc

hoạ nhân vật, là loại văn tự do.

- Lối thể hiện đời sống của tản văn mang tính chất chấm phá.

- Có cấu tứ độc đáo.

- Có giọng điệu, cốt cách cá nhân.

- Tản văn tái hiện được nét chính của các hiện tượng giàu ý nghĩa xã

hội.

- Cách thể hiện đa dạng, đặc biệt là thể hiện nổi bật chính kiến, dấu ấn

cảm nhận, cảm nghĩ và cá tính tác giả.

- Với một hình thức ngắn, một bài tản văn vẫn có thể mở ra được nhiều

chiều không gian, cả bề rộng lẫn bề sâu với lượng tri thức phong phú và mới

mẻ.

Trong những năm qua, tản văn nở rộ, cả ở những sáng tác đến được với

công chúng và số các nhà văn tham gia viết thể loại này. Có thể kể những tác

giả đã có những tản văn để lại những nét riêng: Băng Sơn, Hoàng Phủ Ngọc

Tường, Mai Văn Tạo, Vương Trí Nhàn, Lý Lan, Nguyễn Ngọc Tư…và nhiều

nhiều nhà văn khác nữa.

Trong số những nhà văn ấy, có Dạ Ngân. Chị đã lặng lẽ góp năm tập

tản văn vào đời sống văn học nước nhà trong những năm qua, với những đề

tài khác nhau, với những cách thể hiện khác nhau, mang dáng vẻ riêng của

chị.

2.1.4.2. Đóng góp của Dạ Ngân– Nhìn từ tản văn:

Có thể nói, với năm tập tản văn đã xuất bản, Dạ Ngân đã có điều kiện

trải lòng mình trước những trang viết về những cảnh sắc, hương vị của quê

hương; trong đó, phần lớn, là quê hương Nam Bộ. Miệt vườn Tây Nam Bộ,

nơi chị được sinh ra, lớn lên, đã luôn hiện diện trên những trang viết của chị.

Lục bình, dừa nước, cầu khỉ, vỏ lãi, đèn đáy, bông tràm, bông điên điển,

rau đắng, ba khía, bánh hỏi ... đã luôn thấp thoáng trong những trang văn

của Dạ Ngân. Rồi cá tính của những con người Nam Bộ, văn hoá Nam Bộ

cũng đây đó được tỏ bày trên những dòng văn. Sự gan góc, chịu khó trong

lao động của những con người Nam Bộ, lòng mến khách, tình yêu máu thịt

đối với câu vọng cổ…đã được Dạ Ngân gói ghém trong những tản văn của

mình với những nỗi cảm hoài về quá khứ khi phải sống xa quê.

Nét riêng của tản văn Dạ Ngân không chỉ bộc lộ ở nội dung mà còn bộc

lộ qua bút pháp.

“ Bút pháp là cách thức hành văn, dùng chữ, bố cục, cách sử dụng các

phương tiện biểu hiện để tạo thành một hình thức nghệ thuật nào đó. Ở đây

bút pháp cũng là cách viết, lối viết..

Khái niệm bút pháp tương đồng với khái niệm phong cách, văn phong.

Khái niệm phong cách nay được hiểu rộng hơn, có tính hệ thống hơn, còn bút

pháp thường chỉ yếu tố của phong cách”[20, 29-30].

Là một phụ nữ, yêu tha thiết miệt vườn, nơi mình sinh ra, lớn lên, chị

đã từng tự hào mình là một người phụ nữ miệt vườn. Và có lẽ, chính từ tấm

lòng yêu quê hương sâu nặng, nên dẫu có nhiều bất trắc, đau khổ trong cuộc

đời, thì nhà văn nữ của chúng ta, trên những tản văn của mình, vẫn luôn giữ

một chất thơ bay bổng. Giống bèo tây– lục bình luôn có mặt trong cuộc sống

của những con người miền Tây Nam Bộ, quanh chị, đã là nguồn cảm hứng để

chị viết lên những dòng “Giác này con sông Hậu mênh mang bồn chồn như

người đàn bà hồi xuân, trên đó lục bình nghiêng nghiêng trôi dài về hướng

Trà Nóc theo nhịp triều lên. Có cái gì đó thật hồn hậu sẽ sàng trong vị ngọt

chân thành của hột bắp và mùi hoang sơ bờ bãi của lục bình, thứ lục bình

tươi nguyên ít thấy trên mặt nước xiết sông Tiền, càng không thể tìm thấy

trong màu nước mắt mèo của sông Vàm Cỏ”[57,78–79].

Người đọc còn nghe được những giọng chuyện trò của chị, những lời

thủ thỉ, như tâm sự, như vẽ lên trước mắt chúng ta, những cảnh, những màu,

những hình, những hương, đẹp như một bức thủy mặc. Tất cả điều ấy, có ở

Mùa bông tràm.

Nếu ở Rơm rạ xốn xang, một tản văn của Nguyễn Ngọc Tư, việc đốt

đồng được diễn tả bằng hình ảnh của những ngọn lửa nhỏ run rẩy, với khói

từng bầy dùng dằng dưới cảm nhận của một cậu bé thơ ngây “Sang tháng ba

thì rạ ngoài đồng đã khô quéo cọng, đứa bé kia lúp xúp theo cha nó đi đốt

đồng. Ngọn lửa nhỏ run rẩy trong tay, chẳng mấy chốc cơn lửa chạy lan đi.

Khói từng bầy dùng dằng tan tác trong những cơn gió rối bời cuối

mùa”[85,91]; thì với Mùa đốt đồng, Dạ Ngân đã có những trang viết nên thơ

“Tàn tro bắt đầu bay vần vụ không trung. Mùi khói rơm rạ nồng ấm không

thể tưởng…Trong nỗi nhớ tiếc khôn nguôi về cái gì đã xa và đã từng thuộc về

ta, không chỉ có lúa mùa, mùi cơm thơm hay màu rạ sáng, mà còn có những

buổi tối lâng lâng bởi khói đốt đồng”[60,166]. Cảm nhận ấy của Dạ Ngân,

phải chăng là cảm nhận của một người phụ nữ, tinh tế, dịu dàng?

Trong hồi tưởng về làng quê của mình, Băng Sơn nhớ về chiếc chiếu. Ở

Mảnh hồn làng, đó là “Ta đi ra từ làng, hồn làng theo ta…mảnh chiếu vuông

nơi nền nhà đất nện…Hồn chiếu lúc mới là chiếu tân hôn, là chiếu tiếp khách,

mươi năm nó cũ càng mệt nhọc, nó trở thành chiếu trải đầu hè đêm đón gió

nam, và cuối cùng nó thành cái manh che cửa chuồng trâu những đêm trở

gió…Chiếu đã chứng kiến một đời người, thành mảnh hồn theo con người,

toát ra hơi ấm và sẻ chia”[68,152]. Còn đối với Dạ Ngân, chị cũng đã có

những cảm nhận về chiếc chiếu quê hương. Ở Nhớ chiếu, chị đã viết: “Có

những ngày đông miền Nam bỗng dưng trở lạnh khác thường, mền mỏng và

chỉ đủ dùng, má nghĩ ra kế cho các con đắp bằng chiếu…không ngờ đắp

chiếu lại ấm hơn. Nhớ mãi những ngày đông thương nhớ ấy, nhớ cả cảm giác

thèm được trở lạnh một cách khác thường để mấy chị em rúc vào trong chiếu

lùng nhùng đùa giỡn rồi ngủ vùi trong mùi thơm không gì thay thế được của

một chiếc chiếu thơm”[62,10–11]. Hoài niệm về quê hương của Dạ Ngân gắn

bó mật thiết với những đồ vật bình dị của gia đình, với những ký ức tuổi thơ,

với tình quê đọng lại khó phai mờ. Cũng là hơi ấm của chiếu, nhưng với Dạ

Ngân, chị diễn đạt truyền cảm, dễ khiến bạn đọc có cùng chung một nỗi

niềm nhớ quê, cùng chị. Đó chính là một trong những cách truyền tải

những thông điệp về tình người qua ngôn từ nghệ thuật của Dạ Ngân. Và

chị đã thành công.

238 tản văn đã được in trong 5 tập khác nhau, đã nói lên sức viết bền bỉ

của chị cho thể loại này.

Có lẽ, sự thành công tiếp theo của Dạ Ngân sau truyện ngắn chính là ở

những tản văn của chị. Song, bên cạnh những tản văn giàu chất thơ, để lại

những suy nghĩ, những dấu ấn trong lòng bạn đọc; thì vẫn còn đó những tản

văn còn nhàn nhạt, như Câu hát tình yêu, Cửa kính dày ấm sực…Điều ấy, âu

cũng là thường tình.

Điều bạn đọc dễ nhận ra là tình cảm với quê hương vẫn luôn thường

trực trong trái tim của chị. Để khi có dịp, chị vẫn trải lòng trên những trang

viết của mình, về con người và cảnh sắc, hương vị quê hương. Và những

trang viết ấy , vẫn còn lôi cuốn bạn đọc, để bạn đọc cũng vui buồn cùng chị,

và cùng yêu mảnh đất Nam Bộ như chị đã từng.

Dạ Ngân cũng đã có những phát hiện tinh tế, sâu sắc trước những sự

vật bình thường quanh chị, lẫn quanh chúng ta. Cọng rau muống tím, Cây

me với cây gòn, Cây so đũa, Cái bếp củi dừa, Về một người sạ lúa, Màu

tím Huế, Ngày xưa thương nhớ, Ô môi đang mùa, Hoa xoan lớp lớp, Ký

ức khẩn hoang, Bánh phồng đêm ba mươi Tết, Dã quỳ vàng, Tiếng chèo

khuya, Chuyến xe thổ mộ, Khoảnh khắc thu vàng, Buổi chiều tản mác…

là những tản văn chị đã mang đến cho bạn đọc. Chỉ lướt qua thế thôi, cũng dễ

thấy chị đã để tâm rất nhiều đến những mảng đề tài khác nhau, và ở mỗi tản

văn của mình, lòng hoài vọng về quê hương chưa từng vơi trong chị.

2.1.5. Chất thơ trong văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân.

Theo Từ điển Thuật ngữ Văn học của Lê Bá Hán, Trần Đình Sử,

Nguyễn Khắc Phi, thì “Chất thơ để chỉ những sáng tác văn học (bằng văn vần

hoặc văn xuôi) giàu xúc cảm, nhưng cô đọng, ngôn ngữ giàu hình ảnh và nhịp

điệu” [20, 310]. “ Lời thơ cũng như lời tác phẩm tự sự và kịch đều mang tính

hình tượng, gợi cảm và hàm súc . Nhưng với ngôn ngữ thơ, còn có những đặc

điểm riêng, đó là sự bão hoà cảm xúc và giàu nhạc tính “[40, 364 – 365].

Ở văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân, chúng ta dễ nhận ra chất thơ trong

nhiều sáng tác của chị. Chất thơ ấy, không chỉ ở trong tản văn, truyện ngắn,

mà người đọc còn dễ nhận ra trong truyện vừa, tiểu thuyết.

2.1.5.1. Chất thơ trong tản văn Dạ Ngân.

Tản văn Dạ Ngân ngập tràn hoài niệm, về cảnh sắc, về hương vị của

quê hương. Có lẽ, mười lăm năm sống ở Thủ đô, xa miệt vườn Tây Nam Bộ,

đã khiến chị nhớ nhiều về quê hương, nhớ cảnh, nhớ người, nhớ không khí

lao động, nhớ mối quan hệ bà con xóm làng thân thương. Có bao nhiêu điều

nhớ. Để, những tản văn ấy, dạt dào cảm xúc, đi từ hồn văn, chất văn ẩn trong

sâu thẳm tâm hồn người sáng tác đã ra đời.

Hãy đọc Bóng chim tăm cá của Dạ Ngân: “Thật không thể hình dung

khi cánh đồng có hồn lại thiếu cánh cò, một buổi chiều lại thiếu tiếng quốc

hay tiếng cúm núm, một khung cảnh đường bệ lại thiếu cánh giang sen hay bồ

nông.”[55,71].

Lại đọc Dừa nước miền Tây của chị: “Dừa nước cho lá đã đành, còn

cho lạt, cho củi và cho cả những buồng trái thú vị như những thứ có họ dừa.

Với những người nhạy cảm, nhất là những người đã đi xa, nó cho tiếng gió

xạc xào vào những đêm thanh vắng, cho tiếng lách chách của lũ cá thòi lòi,

cho mùi vị phù sa và âm điệu trải dài của con bìm bịp…, nó cho rất nhiều,

những thứ mà người ta gọi là quê hương, là ký ức”[57,12–13].

Lại còn những ký ức chưa dễ phai mờ của chị về lục bình trong Lục

bình mải miết: “Tôi dấp rễ lục bình lên ống chân để nghe vị phù sa chảy

man mát trên da non, tôi tách những tay lục bình nhỏ xíu lên ngắm và tưởng

tượng đó là mụn búp bê ngộ nghĩnh trong vòng tay của mình, tôi nhúng bông

lục bình xuống nước– tôi thích nhất trò này– khi đưa chúng lên mũi, chao ơi,

mùi dưa hấu ập đến cùng với mùi của nước bạc và gió chướng nữa”[50, 82].

Dạ Ngân đã viết gì về bông so đũa nấu canh chua trong Cây so đũa?

“Một ít rau thơm trên mặt, vén đũa xuống dưới một chút là những chú cá rô

to cỡ ba, bốn ngón tay nằm giữa một đám bông so đũa trắng muốt, ngon

lành… để người ta quay về khi nghe thấy mùi gió chướng chờn vờn ở đâu

đó”[57, 53].

Và cả Tiếng chèo khuya của mẹ: “Sông nước phập phồng, lục bình

man mác, tiếng chèo của má đơn độc mà kiên gan giữa cô tịch, tiếng chèo ấy

đã đi theo, theo mãi khi cô bé lớn lên, chừng như trong mớ ký ức khắc khoải

bây giờ, thỉnh thoảng nó vẫn khua lên như những tiếng thở dài xót xa mà vẫn

thấy êm dịu” [60, 14].

Ký ức về trâu có lẽ hiếm hoi trong các sáng tác văn chương thời nay.

Với Dạ Ngân thì không thế. Chị đã có những trang viết tri ân trâu vàng trong

Ngày xưa thương nhớ: “Dẫu nông thôn xô lệch đi nhiều, dẫu vẻ thanh bình

không còn ngự trị trọn vẹn như xưa. Nhưng ký ức về trâu vẫn sẽ nối dài trong

nhiều thế hệ người Việt hiện đại… Và bởi vì ngày xưa bao giờ cũng đáng yêu,

vì vậy nó luôn khắc khoải và đáng nhớ”[62, 60].

Chị cũng đã có những nỗi nhớ khác, nhớ một thời vang bóng của làng

quê, trong Đi dỡ chà: “Chính vì vậy mà thấy nhớ, nhớ tiếng hò reo sảng

khoái của cánh đàn ông những trưa dỡ chà, nhớ những con cá đẹp và nức

tiếng ngon, nhớ một thời vang bóng của làng quê, cái thời trên bờ chim kêu

vượn hú, dưới sông tôm cá ngời ngời, yên lành và giàu có biết bao”[55, 96].

Có thể nói gì thêm về những cảm xúc mãnh liệt, mạnh mẽ trong lòng

người viết về những ký ức của quê hương? Không sang cả, thật bình dị, mà

sao lại dễ lay động lòng người đến vậy? Có lẽ, sự chân chất, mộc mạc, tự bản

thân nó đã gợi cảm mà không chờ đến bóng bẩy, hào nhoáng bề ngoài.

Bên cạnh đó, những lời văn giàu nhạc tính đã tạo những dư âm ngân

nga trong lòng người đọc. Hãy đọc lại Mùa bông tràm để thấy nhịp ngân

nga: “Bạn sẽ thấy trên cành nhánh cơ man đuôi sóc dựng đứng lên, vào

những hôm sương dày, cả một không gian bồng bềnh có thể lấy nón mà múc

từng chút một. Nhưng không, ta không múc sương mà phải ngắm để thấy sự

trắng muốt của bông tràm hiện dần ra khi mặt trời lên.”[62, 74 ].

Và cả đây nữa, hãy nghe Dạ Ngân viết về trăng trong Rằm tiễn nước :

“Ban đêm, nhìn cánh đồng cạn vào độ này sẽ thấy trăng đúng là trăng thanh

trên những sóng lúa mẫy mà … Rạo rực trăng, rạo rực lúa, rạo rực cối chày,

rạo rực mùi hương[ 62, 42–43].

Rất dễ tìm thấy những lời văn giàu nhạc tính trong các tản văn của Dạ

Ngân. Một người cha thì như thế nào? Độc diễn, Nhớ mạ, Nước chum, Có

lẽ nào? Tuổi thơ của mỗi người, Tóc chết,… đã có trong đấy rất nhiều lời

văn giàu tính nhạc.

2.1.5.2. Chất thơ trong truyện ngắn Dạ Ngân:

Dạ Ngân được bạn đọc biết đến nhiều từ những truyện ngắn của chị.

Những phát hiện tinh tế về cuộc sống quanh mình, lối kể chuyện như thủ thỉ,

như tâm tình đã dẫn dắt người đọc vui buồn cùng chị. Và những trang viết thơ

mộng trong những truyện ngắn đã góp phần không nhỏ tạo sức hấp dẫn cuả

những sáng tác của Dạ Ngân.

Một khúc sông đã mở đầu bằng những dòng đầy chất thơ: “Con sông

quả là buồn… Vẻ buồn thao thiết của thiên nhiên còn chưa mất đi nét trầm tư,

bí ẩn”[52,19].

Nhìn từ phía khác cũng đã có những trang viết giàu chất thơ của chị:

“Hay tâm hồn con người là thứ khó cắt nghĩa nhất, nó quá nhiều ngóc ngách

để một khoảnh khắc nào đó, nó bất chợt rung lên một hình ảnh, một kỷ niệm,

một chi tiết bởi cái mạng nhện tưởng là mong manh của ký ức?.” [56, 149]. \

Dạ Ngân lại có những trang viết về trăng trong Trăng về: “Trăng cuối

thu mênh mông buồn. Trăng chập chã trên những cánh đồng đã chứng kiến

biết bao nhiêu cái chết của cả hai bên.”[56, 8].

Cả ở Muỗi mía, cũng có những lời văn mượt mà : “Sông sâu nước

chảy, cây lành trái ngọt cùng với gió đồng đã sinh ra bầu không khí đặc biệt

thanh cao. Và sinh ra những người con gái tóc dài da trắng…”[56, 105].

Chất thơ trong truyện ngắn của Dạ Ngân còn hiện diện ở những lời văn

đẹp được chị sử dụng lặp đi lặp lại trong sáng tác của mình. Với Trên mái

nhà người phụ nữ đó là những câu văn đẹp: “Đó là một buổi chiều yên tĩnh,

chiến tranh chỉ lảng vảng ở đâu đó bên ngoài cảm giác của trái tim đang

yêu” và” chị gặp Cường tại bờ bến, trong ánh hoàng hôn chập choạng chị

nhìn thấy ánh mắt tỏ tình ngượng ngập của anh. Chị đáp lại anh bằng nụ

cười của một đoá quỳnh trong khoảnh khắc bừng nở”, “ Dĩ nhiên rồi nó sẽ

qua, chiến tranh và những nổi khổ”[51,29–34].

Dạ Ngân đã lặng lẽ quan sát quanh mình, hai người phụ nữ của cùng

một người đàn ông, nghịch cảnh ấy đã có không ít ở những gia đình thời hậu

chiến, khi mà, người đàn ông tập kết, về lại với quê hương sau ngày đất nước

thống nhất. Chị đã viết về điều ấy trong Dù phải sống ít hơn.

Đó còn là giây phút ngạc nhiên của bà mẹ khi phát hiện sợi bạc trên

mái tóc con trai mình. Chị đã viết bằng tâm trạng của một người mẹ trong

Chiều thanh thản: “Bất giác bà nhìn thấy trên đầu anh , đứa con trai đầu

lòng, một sợi tóc bạc trồi lên từ mớ tóc trán. Bà phát hiện nó bằng trái tim

nhạy cảm của người mẹ trong khi mắt bà đã kém nhiều… ”[44,129–130].

Quả, Dạ Ngân đã diễn đạt được cảm xúc mạnh mẽ trong lòng người mẹ qua

một sự vật nhỏ nhoi. Và đấy cũng chính là những lời thơ trên những truyện

ngắn của chị.

Trong dòng hồi ức về chiến tranh, chị cũng đã có những trang viết nên

thơ mà sao vẫn cứ đượm buồn. Xin hãy lần về với Chỗ ngồi ưa thích: “Hồi

xưa, cái hồi sống cũng hay mà chết cũng chẳng hề gì, mỗi khi dân đi Cứ

chúng tôi bất thình lình vớ được một cái bến có một cây gừa nhoài ra thì như

là về tới vườn nhà. Một cây gừa, một cái bến như vậy nhiều niềm an ủi nhưng

buồn, buồn hoang mang đau đớn vì thương cái bến và thương cả những tích

tắc sống của mình”[61, 215].

Dạ Ngân cũng đã có những trang viết nên thơ khi viết về hai người đàn

bà rủ nhau đi U Minh kiếm cá làm mắm, qua ngã ba Giáp Nước lúc chạng

vạng chiều. Hãy đọc lại những trang văn của chị ở Gặp ở Giáp Nước: “Trời

chạng vạng, nước ở đây mênh mang không còn biết đang lớn hay đang

ròng…Hoàng hôn ở đây thật nôn nao, nước thì lai láng mà trời lại màu tím

hoa cà, nước trộn với trời cứ lùi dần lùi dần như vẫy chiếc vỏ lãi nhỏ nhắn

của hai bà goá đi theo. ”[61,146–147].

Cứ thế, Dạ Ngân dẫn dắt người đọc đi từ trang văn này đến những

trang văn khác cùng chị. Những cảnh đời, những tâm trạng buồn vui, dẫu

trong chiến tranh, dẫu khi thống nhất, thì, chị vẫn nhìn ra những phút giây

yên tĩnh của tâm hồn con người, để tìm đến và hoà mình cùng thiên nhiên, để

hoà chung tâm trạng ấy, những nỗi niềm cảm xúc, và cùng với những lời văn

giàu hình ảnh, giàu nhạc điệu của mình, chị đã khiến người đọc cùng vui

buồn với chị, khó có thể thờ ơ. Sức hấp dẫn từ những truyện ngắn giàu chất

thơ của Dạ Ngân là thế.

2.1.5.3. Chất thơ trong truyện vừa, tiểu thuyết của Dạ Ngân:

Không chỉ có những trang văn đầy chất thơ trong tản văn và truyện

ngắn, Dạ Ngân cũng đã thể hiện bút lực của mình khi viết những trang văn

thơ mộng trong truyện vừa và tiểu thuyết của mình.

Ở Miệt vườn xa lắm, ấn tượng để lại trong lòng người đọc chính là

hình ảnh gan góc của ông nội cô Tiệp Kiến vàng. Ông đã giã từ miệt vườn cổ

Cao Lãnh, để đưa gia đình cùng ông xuống vùng Long Mỹ, Hậu Giang để lập

vườn từ đầu, một cách căn cơ, bài bản. Đã có những đoạn văn viết về ông,

đầy chất thơ, dễ tạo ấn tượng mạnh trong lòng bạn đọc: “Tôi lớn lên trong sự

thu vén kỳ công ấy. Cái nền móng mà ông nội tôi xây đắp quá chắc chắn, cây

cứ thế cho trái, nước cứ thế vào ra, việc còn lại chỉ là làm cỏ, dọn dẹp và thu

hoạch” và đây, những trang văn thơ mộng của Dạ Ngân vẫn ngân vang trong

lòng bạn đọc:”Tôi thích nhất những khoảnh khắc này. Dĩ nhiên những ngày

đó phải nhằm mùa xuân, khi nắng chưa làm tội con người và cây cối, nắng

chỉ vừa đủ làm cho buổi chiều dài ra và rất nhiều gió”. Còn đây nữa, những

trang viết của chị về trăng, về mùi thơm rơm rạ vẫn hấp dẫn người đọc đến

diệu kỳ:” Trăng trên giang đồng sau mùa gặt mới đúng là trăng thanh và gió

mát…Trăng dàn ra trên hậu vườn, trăng lai láng trên mặt đồng mà chúng tôi

như người lạ, chúng tôi tận hưởng màu xanh rồi màu vàng của lúa nhưng

không thuộc về nó...”[58, 97–120].

Ở tiểu thuyết Ngày của một đời, người đọc vẫn dễ dàng tìm thấy

những trang văn giàu chất thơ của chị:” Xa xa, trước mặt chúng tôi , sau mấy

lớp nhà thiêm thiếp dưới bầu trời nhờ tối là mặt sông bao la thanh bình và bí

ẩn như cánh đồng đêm, tưởng có thể chạy băng băng trên đó được…[50, 44].

Chất thơ trong tiểu thuyết của Dạ Ngân không chỉ ở phong cảnh mà chị

miêu tả. Nó còn ở những nhịp lao động mê say, hối hả, như một hoạ sĩ xuất

thần trước bức vẽ ưng ý của mình, như một nhạc sĩ trước những giai điệu đẹp

mà mình mới sáng tạo nên. Vẫn tiếp tục trong Ngày của một đời : “Quả tình

tôi đã nhìn thấy một người không phải đương vốc lúa gieo xuống đường cày

mà một nghệ sĩ múa đang say mê với công việc thiêng liêng của mình. Sau khi

bưng thúng lúa lên, bác Tám đứng thần người trước vạt đất, như để nhập

thần rồi mới bước, bước những bước tung tẩy, nhịp nhàng và bàn tay mặt

cũng nhịp nhàng thả xuống trước mặt những đường cong hình bán nguyệt

màu nâu đều đặn”[43, 125]. Và cả đây nữa, những nét đẹp của mùa màng

dưới ngòi bút của chị vẫn thấm đẫm chất thơ: “Không gian khoáng đạt trong

ánh trăng suông, cánh đồng im lìm như đại dương bát ngát, cái bát ngát về

đêm mới có được, gió lạnh so se dào lên từng hồi hiền lành đưa lại mùi rơm

rạ còn mới, còn khô nỏ và mùi nước bạc thường kéo về cùng với tuần trăng.

Tất thảy nói với tôi rằng tất thảy hãy bình yên và tất thảy sẽ vững bền…”[50,

293].

Ở một trạng huống khác, là những nỗi niềm của một người mẹ trước

tình cảnh đau khổ của đứa con, như mình của những tháng ngày cũ. Gia đình

bé mọn đã ghi lại điều ấy: “Một người mẹ như nàng thì bao xa nữa mới hết

con đường mẫu tử của mình…Hình như con đường ấy quá dài, nó trải ra,

thác ghềnh, sông ngòi, biển cả và tận cùng chắc chắn sẽ là một nắm đất,

nhưng cho dù có là một nắm đất mệt nhoài đi nữa thì hành trình ấy chắc gì

đã kết thúc”[59, 292].

Bạn đọc dễ nhận ra chất thơ trong những sáng tác của Dạ Ngân. Những

sáng tác ấy, cả khi viết về quê hương luôn trong nỗi nhớ, lẫn khi viết về

những nỗi đau của người mẹ khi chạm phải những nỗi đau của con mình, và

cả những nỗi đau triền miên của chính bản thân, Dạ Ngân vẫn dễ làm chúng

ta xúc động. Sự rung cảm do nhà văn dệt nên từ những tác phẩm của mình, đã

làm nên trang thơ trên chính những dòng văn xuôi của Chị, những dòng văn

xuôi giàu cảm xúc và nhạc điệu của Dạ Ngân.

2.2. Những thành công trên bình diện phương thức tự sự:

2.2.1. Tạo tình huống, sự kiện và khắc hoạ nhân vật:

2.2.1.1 Tạo tình huống, sự kiện:

Theo Albert Thibaudet, nhà lý luận về tiểu thuyết Pháp đầu thế kỷ XX

“ Nghệ thuật xây dựng một tình huống, tức là đặt nhân vật vào trong hoàn

cảnh bi kịch về tinh thần, hoàn cảnh đó giúp cho nhân vật có thể bộc lộ được

tính cách rõ ràng nhất”[16, 651].

Giáo sư Phan Cự Đệ đã có quan niệm khác về tình huống: “Nhà văn

cần phải đặt nhân vật của mình vào những tình huống đặc trưng chứ không

nhất thiết phải là tình huống bi kịch”[16,651].

Cũng theo X.L. Rubinxtêin: “ Để phơi bày ra được tính cách thật của

một con người, điều quan trọng là tìm cho được những tình huống đặc trưng

mà trong đó một tính cách nhất định được thể hiện ra một cách đầy đủ và

thích hợp nhất”[ 16, 651].

Nói về tình huống trong truyện ngắn, nhà văn Nguyễn Kiên, một người

có khá nhiều kinh nghiệm trong sáng tác theo thể loại này cũng đã từng bày

tỏ:” Điều quan trọng đối với truyện ngắn là phải lựa chọn cho được cái tình

thế tự nó bộc lộ ra nét chủ yếu của tính cách và số phận, tự nó đặc trưng cho

một hiện tượng xã hội” [64, 47].

Dạ Ngân đã khéo dựng nên một tình huống nên thơ trong truyện ngắn

Quãng đời ấm áp. Đó là hình ảnh hai người phụ nữ, một già một trẻ. Người

lớn tuổi là vợ của một cán bộ cách mạng mới hy sinh. Người trẻ tuổi là cô

nhân viên đánh máy cũng của chính người cán bộ cách mạng kia. Ba ngày sau

khi chú Tư hy sinh, tại chính nghĩa trang nơi chú yên nghỉ, hai gói nhỏ của

hai người phụ nữ cất giữ đã được mở ra, và cùng với sự mở ra đó, hai người

phụ nữ ấy đã hiểu thêm về những tình cảm trong sáng, nhưng rất đổi thân

thương giữa hai con người chung một chiến hào, giữa cô Đầm và chú Tư.

Ngọn lửa đã nuốt đi những trang thư ấy, để nó không còn là dấu tích của một

thời. Ngọn lửa ấy sáng lên, như soi sáng một kỷ niệm, một quãng đời, để bạn

đọc mãi nhớ đến Quãng đời ấm áp của Dạ Ngân.

Buổi chạng vạng, với hai người đàn bà goá, Tư Tầm với Năm Gấm,

chống chọi với con nước dữ trong Gặp ở Giáp Nước cũng thể hiện tài khéo

dựng tình huống của nhà văn. May mà có người đàn ông nghe được tiếng kêu

cầu cứu của hai người. Để rồi sau đó, hai người đàn bà ấy, thỉnh thoảng vẫn

nhớ về chuyện chìm ghe ở Giáp Nước, nhưng nhớ về trong sự im bặt để tự

lắng nghe mình.

Đó còn là tình huống Bời, một đại đội trưởng thương binh phục viên,

về lại quê mình sống bằng nghề chở đất mướn, trong một chuyến làm ráng,

lúc chiều tà, đã gặp lúc nước chảy xiết, ghe anh bị sức nước chảy dữ dội nhấn

chìm, may mà anh bám được vào một bẹ dừa nước, lên được bờ, trong truyện

ngắn Một khúc sông. “Sức nước đã không cho anh toan tính, nghĩ ngợi lâu.

Nó chảy bừng bừng, đã nghe rõ tiếng dây ràng đáy quạt trên đầu lục bình sàn

sạt. Một sức mạnh phi thường. Trong lúc anh loay hoay như con kiến, giề lục

bình trôi cùng chiếc ghe rung rinh, tiếp đó là chiếc ghe bị quật vào cọc đáy

đánh kình rợn người, trước khi bay lên sợi dây chăng của hàng cọc, anh còn

nghe nó quay mòng dưới chân để rồi nghiêng hẳn, từ từ mất tăm dưới mặt

nước”[52,34].

Ở Má con chị Liệt, tình huống hai mẹ con chị Liệt gặp nhau lại là một

tình huống vô cùng đau thương.

Ở Nhìn từ phía khác, Dạ Ngân đã dẫn dắt người đọc vào một tình

huống đầy kịch tính: Thuận, một thương phế binh chế độ cũ, trước một màn

ăn trây nói trúa thành thạo của một số khách sàm sỡ với cô Thảo, hầu bàn, đã

tháo khúc chân giả ra để trước mặt chúng với lời lẽ giận dữ” Sĩ quan cộng hoà

thương phế binh tại trận, khúc chân này đủ tư cách nói chuyện với các người

chưa, đủ chưa?” Hành động ấy một cách mạnh mẽ, quyết liệt của Thuận đã

giúp kết thúc một tình huống hết sức khó khăn, gay cấn đối với cô hầu bàn.

Để rồi sau đó, họ đã phải lòng nhau, như những người đàn ông, đàn bà khác,

từ sự mang ơn nhau, dẫn đến.

Lại thêm một tình huống khác trong sáng tác của Dạ Ngân ở Tóc dài

mấy lạng. Đó là tình huống giữa trưa hè Hà Nội, một tiếng rao, vâng , chỉ

một tiếng rao thôi nhưng sao nó thê thiết biết mấy: “Ai tóc dài bán…

đ..ơ..i…!”. Để, nhân vật trong truyện phải thốt lên với lòng mình “Em nhìn

quanh cố đợi, em đợi một người chưa quen biết, em đợi một thân phận chắc

chắn là dân tỉnh lẻ trôi nổi, em đợi để hỏi về cái nghề vô hại nhưng thê thiết,

rợn người”[61,227]. Tình huống ở đây, được tạo nên bởi một tiếng rao, tình

huống ấy, chưa là bi kịch, nhưng thật sự nó đã có sức lay động đến trái tim

con người, nhất là đối với những ai nhạy cảm, dễ xúc động trước những

nghịch cảnh đời người. Bởi mua tóc thật, tóc dài quả là một nghề mới.

Ở truyện vừa Miệt vườn xa lắm, Dạ Ngân cũng đã khéo tạo tình huống

để bộc lộ tính cách nhân vật. Đó là hình ảnh một cô câm tốt bụng, không tham

tiền của Tiệp Kiến vàng, ráng chạy theo cho kịp với Tiệp, để trả lại cho người

đánh rơi; trong khi Tiệp Kiến vàng lại vô cùng lo sợ. Lại thêm một tình huống

khác, một cô Tư Ràng cứng cỏi là vậy. Ấy thế mà, khi nằm mơ thấy anh

mình, một người anh mà cô hằng kính trọng, hiện về với miệng dính đầy máu,

cô Tư đã “Cô tôi khóc, cô Ràng lại khóc rồi, mỗi khi cô khóc nửa đêm nửa

hôm như vầy thì thê thảm, tức tửi như đứa trẻ bị oan ức mà không thể khóc to

lên được”[58, 129].

Riêng đối với tiểu thuyết Gia đình bé mọn , đã có nhiều tình huống

gay cấn mà ở đấy, nó bộc lộ được tính cách mỗi người. Tiệp đã chủ động nói

với chồng mình, dứt khoát, rạch ròi : “– Anh Tuyên này, tôi biết chuyện viết

lách của tôi, tính khí, sở thích của tôi, cả những mối quan hệ của tôi hay làm

anh lo ngại, bực mình. Tôi với anh bị chiến tranh đưa đẩy, tôi thấy không nên

kéo dài cuộc hôn nhân không có tình yêu này! Mà đã khi nào anh nghĩ tôi âm

thầm có người khác không?”

Nàng vừa thực hiện một cú nhảy và chính mình cũng vừa té lộn nhào.

Không, hơn như thế nhiều, nàng thấy mình vừa bị sát thương vì chính tiếng

nổ do mình gây ra” [59, 82– 84]. Hành động ấy của Tiệp đã nói lên tính cách

mạnh mẽ của nàng dứt khoát, rõ ràng, cả trong việc làm lẫn trong tình cảm.

Những lời nói của nàng như những tuyên ngôn. Tiệp đã tự nói ra những

lời thật khó khăn, nhưng đúng với tiếng lòng mình. Có lẽ, ở tình huống đầy

kịch tính như vậy, cái chất rắn rỏi, cứng cỏi của Tiệp đã bộc lộ tỏ tường. Và ở

đây, một cô Tiệp nhà văn không còn mang dáng dấp của một người phụ nữ

bé mọn trong nề nếp gia phong xưa cũ nữa. Ấy vậy rồi, Tiệp lại cảm thấy,

dường như mình vừa mới giết chính bản thân mình. Đấy mới chính là bi kịch.

Bi kịch tự trong bản thân nội tâm cô Tiệp nhà văn. Tiệp đang mâu thuẫn với

chính mình.

Và cả tình huống mà Tiệp phải đối diện với cô Tư khi cô nghe tin hai

vợ chồng Tiệp đã có sự rạn nứt trong tình cảm: “Cô Ràng bật ngồi dậy, hai

chân xếp bằng tròn, hai nắm tay phừng phừng, trợn trắng:

– Bây giờ thì anh Tuyên thế nọ thế kia. Ừ thì con chán nản, con ấm ức

nhưng sau lại làm um lên tui có người khác đây, chồng ơi tui có người khác

đây nè! Thân bại danh liệt, con giết con, con giết cả thanh danh nhà

mình…”[59,98].

Đây lại là một tình huống cực kỳ gay go với Tiệp. Cô Tư, người “cầm

chịch” trong việc giữ nền nếp gia phong trong gia tộc nàng đang lên tiếng.

Tiếng nổ sát thương mà Tiệp đau đớn cảm nhận đã được bồi thêm bởi những

lời lẽ đanh thép của cô Tư. Cô Tư trí lự, cô Tư thần tượng của nàng đang đặt

mạnh trước nàng một tấm bằng “thanh danh nhà mình”. Thanh danh ấy, của

nhiều thế hệ trong gia tộc nàng vun đắp, mới có. Làm khác đi những nền nếp

gia tộc đã có, Tiệp, dưới sự nhìn nhận của cô Tư, đã chôn vùi thanh danh gia

tộc.

Nhưng có lẽ, cuộc họp kiểm điểm nàng ở cơ quan với những lời lẽ

đằng đằng sát khí của những vị lãnh đạo đã càng làm cho Tiệp cứng cỏi hơn.

Nàng đã đứng lên, để tự bảo vệ mình. Tình huống ấy, quả cực kỳ cam go, hết

sức nặng nề đối với một người phụ nữ. “Cuối cùng họ vẫn đến, những ông,

những bà đằng đằng sát khí ấy vẫn đến, như cơn bão đã hình thành thì chỉ

còn nước ngồi đợi xem sức gió của nó thuộc cấp mấy”[54, 190]. Và “Tai

Tiệp ù đặc vì bầu không khí trong ngực căng như sắp nổ bùng... Nhưng nàng

đã không vâng lời, đôi chân nàng không còn đầu gối nữa, nó run rẩy nhưng

nó cương quyết không gấp lại nữa, nó phải giúp nàng một dáng đứng tấn

công”[59,192–193].

Tiệp đã rắn rỏi đứng lên nhờ sức mạnh của tình yêu. Sự quả cảm ấy của

một người phụ nữ, không dễ kiếm tìm. Nhất là, khi xung quanh nàng, một loạt

vòng cương toả: cơ quan, đoàn thể, luật lệ… vẫn còn đang hiện diện, vẫn còn

đang có giá trị áp đặt lên mỗi con người. Ý thức tôn trọng nhân phẩm chính

bản thân mình là một nét nổi bật trong tính cách của Tiệp. Tiệp đã không

để người lãnh đạo làm mưa làm gió với mình. Nàng đã là luật sư cho chính

bản thân mình về một vấn đề muôn thuở của con người: tình yêu.

Quả tình, với những tình huống mà nhân vật đã gặp phải trong các tác

phẩm của Dạ Ngân, đã là những tình huống đặc trưng, mà ở đó, tính cách

nhân vật được bộc lộ rất rõ. Phần nhiều trong số đó, là những cảnh ngộ không

may, những tình huống căng thẳng mà nhân vật đã gặp trong những phút giây

cam go của cuộc đời.

Chính trong những tình huống gay go ấy, tính cách nhân vật được bộc

lộ rõ hơn. Để hình ảnh của Bời ở Một khúc sông, Tư Tầm và Năm Gấm ở

Gặp ở Giáp Nước, cô Đầm và chú Tư Thọ ở Quãng đời ấm áp, Tiệp và cô

Tư Ràng trong Miệt vườn xa lắm và trong Gia đình bé mọn…còn đọng lại

nhiều năm trong lòng bạn đọc.

Những tình huống đặc trưng ấy trong những sáng tác của Dạ Ngân rất

đa dạng.

Đó có thể là tình huống con người phải đối diện với thiên nhiên dữ dội,

cuồng nộ, lạnh lùng, hung hăng ở Một khúc sông, Gặp ở Giáp nước.

Đó cũng có thể là tình huống con người phải trực diện với những con

người khác, mà những con người khác ấy, không cùng chung quan điểm sống,

khác tính cách ở Con chó và vụ ly hôn, Gia đình bé mọn.

Đó cũng có thể là tình huống con người gặp phải những cảnh ngộ gay

go, hiểm nguy, nhưng may mắn có người giúp đỡ, như ở Nhìn từ phía khác,

Câu chuyện nhiều năm.

Đó cũng có thể là tình huống nhân vật gặp bất ngờ khi nghĩ lầm về một

nhân vật khác, như ở Miệt vườn xa lắm.

Đó cũng có thể là tình huống con người chạm phải những niềm đau

thương, như Má con chị Liệt.

Tất cả những tình huống đặc trưng ấy, đã góp phần làm cho nhân vật có

điều kiện bộc lộ rõ tính cách của mình. Tác phẩm của Dạ Ngân, nhờ thế, dễ đi

vào lòng bạn đọc.

2.2.1.2. Khắc hoạ nhân vật:

Dạ Ngân, trên những trang viết của mình, đặc biệt ở truyện ngắn và tiểu

thuyết, truyện vừa đã khéo khắc hoạ nhân vật.

Nhân vật trong những sáng tác của chị thuộc đủ hạng người khác nhau,

với những tính cách, hành động khác nhau.

Đó là Nhiêu trong Con chó và vụ ly hôn, một người có nhân tính ít ỏi,

khi có thể đang tâm ném những con chó con xuống sông, rồi đập đầu con chó

mà vợ mình hết sức yêu quý để làm thịt ăn. Con người ấy, sống chỉ nghĩ đến

mình, không quan tâm đến những điều mà người thân trong gia đình mình

quan tâm. Những hành động ấy của Nhiêu, chỉ được nhà văn mô tả lướt qua,

nhưng quả nó đã tạo một hiệu ứng lớn về mặt cảm xúc đối với bạn đọc. Có lẽ

vì vậy, mà khi truyện mới ra mắt công chúng, 1986, bạn đọc đã chú ý đến Dạ

Ngân. Bởi sự quan sát tinh tế, và khả năng khắc hoạ nhân vật của Chị.

Đó còn là Liệt trong Má con chị Liệt. Một người phụ nữ đẹp, lại gan

dạ, sắc sảo. Hãy nghe những lời của chị để thấy một cô giao liên trẻ, đẹp

trong thực thi nhiệm vụ ở thời buổi đất nước còn lửa đạn là thế nào: “Bà con

đồng chí mình nhớ cho, khi áp lộ, phải đi nhón chân trong nước, đi kiểu ba lê

nầy nầy; ai mắc ho có thể nuốt một cục đất, cắt cơn liền, hổng tin sao, thử

hỏi lúc đó lá cây đâu để nuốt, mà lá thì dễ có sâu, chỉ có đất, nhai đại một

chút đất, ghê miệng cái hết ho luôn. …Ai chưa thông, ai thấy sợ, cứ phát biểu,

có sợ quá thì đái đại trong quần đi để nhẹ bụng, dễ chạy. Ai ý kiến nào?

Không ý kiến hả, vậy thì đi thôi!”[56,,72–73].

Liệt có dáng dấp của chị Út Tịch trong Mẹ vắng nhà của Nguyễn Thi,

Ở chị, có sự quả cảm, sự gan dạ, song vẫn mang nét chân chất, dễ gần. Đặc

biệt, nhà văn đã đặc tả nhân vật Liệt qua lời thoại, lại là lời thoại một chiều.

Đây là kỹ thuật dựng truyện của Dạ Ngân.

Sự khắc hoạ nhân vật của chị còn ở những con người khác trong kháng

chiến trở về. Ở Muỗi mía, một tiểu đoàn trưởng Lĩnh gan lì trong kháng

chiến” Ngày xưa anh đẹp anh giòn, anh lừng lững như một cây gỗ quý”, ấy

vậy mà rồi ngay sau giờ phút chỉ huy chiến trận, sau một trận chiến ác liệt,

đồng đội nhiều người hy sinh, trong một phút thiếu chỉ huy, anh đã để anh em

xả súng vào số hàng binh, Lĩnh nghĩ mình vi phạm quy định đối với một sĩ

quan, anh đã tự ý bỏ ngũ. Để rồi sau đó, khi về quê, anh chỉ còn là một con

người “ không hồn không vía gì ráo, …, cả hai lần anh đều im lặng ngước

nhìn hai người vừa xỉa xóc mình bằng con mắt của một con chó hết

thời…Người anh hùng ngã ngựa của chị đã thật sự biến mất, thay vào là một

hình ảnh khác, hoàn toàn thích hợp với cái chân sai vặt ở cả những nơi không

có tiền công[56, 107–110]. Với những chi tiết không nhiều, nhưng quả tình

bạn đọc rất dễ nhận ra một Lĩnh, với một sự thay đổi quá lớn, cả trong cuộc

sống, lẫn trong tính cách.

Đọc Miệt vườn xa lắm, người đọc dễ nhận ra một cô Tư Ràng với

gương mặt chữ điền , với nét đẹp của một người phụ nữ miệt vườn. Nhà văn

đã dành rất nhiều lời kính trọng, khâm phục và yêu thương đối với nhân vật

cô Tư Ràng trong tác phẩm của mình. Và nhân vật ấy, cũng chính là nhân vật

trung tâm của Miệt vườn xa lắm, mãi sống động dưới ngòi bút Dạ Ngân.

Tiếp nối với Miệt vườn xa lắm, nhân vật cô Tư Ràng vẫn hiện diện

trong Gia đình bé mọn. Vẫn là một cô Tư quyền uy, sắc sảo, rất hiểu việc

đời, xứng đáng là người thay cha mình, anh mình trong việc giữ gìn nề nếp

gia phong, giữ mối hiếu thuận, tôn ti trật tự trong gia tộc. Và trực diện với cô

Tư, phân giải với cô Tư là một trong những việc khó khăn nhất mà Tiệp phải

đối mặt khi đã chấp nhận đến với tình yêu của mình. Quả cô Tư đã rất đúng

trong nhiều lẽ. Cô đã đúng khi gợi cho Tiệp nhớ lại rằng chính Tiệp là người

đã tự nguyện đi đến hôn nhân với Tuyên. Cô cũng đã đúng khi cho rằng Tiệp

sẽ làm mất danh dự của chính bản thân Tiệp, làm mất danh dự của gia tộc khi

đã nói ra với chồng: mình đã có một tình yêu khác, bởi cô đang đứng ở góc

nhìn của một người đang quán xuyến gia tộc mình, và gia tộc ấy, có giềng

mối của nó, có tôn ti, trật tự hiếu để của nó. Nhân vật ấy, vẫn có một vị trí lớn

lao trong gia tộc, trong suy nghĩ của Tiệp. Dẫu không còn là một nhân vật

trung tâm trong Gia đình bé mọn, nhưng nhân vật cô Tư vẫn là một trong

những nhân vật mang đậm cá tính trong tác phẩm. Và đọc Gia đình bé mọn,

người đọc không thể nào không nhớ đến nhân vật cô Tư.

Giáo sư Phan Cự Đệ đã từng viết: “Nhiệm vụ khó khăn nhất của nhà

viết tiểu thuyết là miêu tả quá trình phát triển của tâm lý con người…Mà

chính cái thế giới bên trong này của con người mới, với tất cả những hoài

bão, ước mơ cao cả, những tư tưởng, tình cảm đẹp đẽ, lại chính là điều hấp

dẫn nhất đối với bạn đọc tiểu thuyết ngày nay”. Nói như L. Tônxtôi: “Mục

đích chính của nghệ thuật là nói lên sự thật về tâm hồn con người, nói lên

những điều bí ẩn không thể diễn tả bằng ngôn ngữ thông thường được”[17,

654–655]. Quá trình phát triển tâm lý của Tiệp, khi gặp sự thiếu hoà thuận

của đời sống vợ chồng, đến với một tình yêu mới, là một quá trình rất dài của

những dằn vặt, nghĩ suy, của những lo lắng cho sự không tròn giữa bổn phận

của một người mẹ với tình yêu của mình. Tiệp nặng bổn phận, trách nhiệm

với con, nhưng cuối cùng vẫn mạnh mẽ vượt lên, để sống thật với những cảm

xúc của lòng mình, dù chịu không ít cam go, điều tiếng. Gia đình bé mọn đã

có những hấp dẫn riêng đối với bạn đọc, có lẽ, phần lớn ở những cung bậc

tình cảm, những dằn vặt, cùng những yêu thương của nhân vật Tiệp được gởi

gắm qua những trang viết đậm tình.

Lướt qua như thế, để thấy Dạ Ngân khéo trong việc tạo tình huống,

sự kiện và khắc hoạ tính cách nhân vật. Dẫu ở truyện ngắn, truyện vừa, hay

tiểu thuyết, thì người đọc vẫn dễ nhận ra những con người với cá tính riêng,

những tình huống khó quên mà nhân vật gặp phải. Và chị đã có những thành

công nhất định trên bình diện phương thức tự sự.

2.2.2. Kết cấu dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện:

Dạ Ngân cũng đã có những thành công khác trên bình diện phương

thức tự sự. Tác phẩm của chị đã có kết cấu theo dòng ý thức và chị đã khéo

trong việc lồng ghép truyện. Trong bài viết Vài nét về tư duy tự sự của

người Việt của Vương Trí Nhàn có đoạn: “Hình thức tự sự cũng ngày càng

trở nên phức tạp, điều này có thể thấy rõ ở hai điểm. Một là, thay cho lối kể

trước sau tuần tự dễ gây cảm giác tẻ nhạt, nay, các tác giả thường hay nhảy

ngay vào giữa sự kiện, mà miêu tả để gợi không khí, tiếp đó, mới quay về

những nguyên nhân ban đầu; và hai là, không lan man rải ra mỗi chỗ một tí

mà chỉ tập trung vào một vài sự kiện có tính cách tiêu biểu, nhờ thế cái nhìn

của độc giả tập trung hơn mà cũng sâu sắc hơn”[59, 163–164].

Trong bài viết Tiểu thuyết Việt Nam những năm đầu thời kỳ đổi

mới, Giáo sư Phan Cự Đệ cũng đã từng viết: “Không chỉ đa dạng trong các

phương thức tiếp cận mà cả trong các biện pháp nghệ thuật, kết hợp độc

thoại nội tâm, “ dòng ý thức”, nghệ thuật đồng hiện…( nghệ thuật đồng hiện

có thể giúp các nhà văn kết hợp dòng suy nghĩ và tâm lý của nhân vật dường

như là một hiện tượng phổ biến trong tiểu thuyết thời kỳ đổi mới) với những

sự kiện mang tính chất sử thi( dường như phổ biến trong tiểu thuyết thời kỳ

chiến tranh)[84,551].

Rất nhiều chương trong Gia đình bé mọn, Dạ Ngân đã viết theo lối kết

cấu dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện.

Chương tám của tiểu thuyết này đã thể hiện dòng ý thức của người dẫn

chuyện, từ đoạn cô Tư Ràng lên thị xã để hỏi từng người một trong hai người

, Tiệp và Tuyên, khi nghe chuyện lục đục giữa đôi vợ chồng này.”Cô Ràng

nhướng cao đôi lông mày oai vệ trên gương mặt chữ điền:– Khỏe, khỏe hết!

Nghe chuyện của bây rồi không ai còn dám bịnh hoạn gì nữa…”. Và rồi,

dòng ý thức của người dẫn truyện đã đưa người đọc trở về với quãng thời gian

và những sự kiện trước đó”

Thật ra, người được Tuyên cầu cứu đầu tiên là anh Năm Trường và

chính anh cũng là người chất vấn Tiệp trước hết…” – Sao, nghe cô Tám tính

bỏ chồng? Bịnh đứng núi này trông núi nọ ở đâu ra? Cô Tám làm thiệt hay

làm kiểu văn nghệ hả?” Để rồi sau đó, dòng ý thức của người dẫn truyện lại

trở về với sự việc cô Tư. Sau khi hỏi chuyện với Tuyên xong, đến lượt cô Tư

nói chuyện riêng với Tiệp. Và rồi: “Cô Ràng bỗng nín bặt, như một vai diễn

trước khán giả đang chết lặng vì mình…. Cô là người đàn bà tháo vát phi

thường vì vậy nết khóc của cô cũng có vẻ lợi hại, nó khiến người ta run sợ và

quy phục. Tiệp bắt đầu khóc theo cô, nàng khóc cho nỗi niềm không có đàn

ông của những người thân và mảnh vườn, khóc vì yêu thương bà cô trời biển

và khóc cái tuổi trẻ bị đánh cắp của mình…”.

Tiếp đó, ở chương chín của Gia đình bé mọn, kết cấu theo dòng ý thức

thêm một lần nữa được trở lại. Từ việc đang nói chuyện với sếp nhà thơ, Tiệp

đã nhớ về buổi chiều mùa thu trước đó, khi nàng bị sẩy thai, băng huyết ở thị

trấn Điệp Vàng.

“ Mãi sáng hôm sau Tuyên mới nhắn xuống: Ba ngày nữa sẽ ngồi xe cơ

quan xuống đón mấy mẹ con về luôn. Yên tâm, đã hỏi qua ý kiến của bác sĩ

Ban Bảo vệ sức khỏe Tỉnh ủy bên này, băng huyết vì sẩy thai mà can thiệp kịp

thời thì không việc gì đâu!”. Mạch truyện sau đó lại trở về với câu chuyện

cùng sếp nhà thơ.” Đi, nên trở lại với những chuyến đi, em là chân xông xáo

mà. Đừng đi thành đoàn mà nên đi kiểu điền dã một mình, cơm dân nước chợ,

rồi em sẽ thấy mọi chuyện nhẹ hơn.” Rồi mạch truyện lại về với đoạn đối

thoại cùng Tuyên:” Tuyên ngồi xổm trên ghế,… cười gằn: – Cô thì đú đởn

chớ công tác mẹ gì!– Tôi cấm anh xúc phạm tới công việc của tôi!– Không đú

đởn sao hết thằng này tới thằng khác? – Thằng ở đây là những ai?– Thì hồi

đầu là thằng sếp nhà thơ, rồi thằng nhà báo chạy xịt, rồi thế nào cũng tòi ra

một thằng nào đó nữa cho coi!.”

Theo nhà nghiên cứu văn học Bùi Việt Thắng ở bài viết Tiểu thuyết

Việt Nam sau 1975– nhìn từ góc độ thể loại: “ Vai trò của ký ức đối với

những thay đổi của cấu trúc tiểu thuyết, nó được coi như một thành tố quan

trọng, dùng để tổ chức tác phẩm…

Ký ức chính là dòng hồi tưởng “Đi tìm thời gian đã mất” trong tâm lý

nhân vật, nối quá khứ với hiện tại, sự” móc nối” này do một hoặc hai nhân

vật đảm nhiệm. Vì thế, Ký ức còn có một tác dụng khác là tạo cho tiểu thuyết

một cấu trúc kép, tạo nên những” tiểu thuyết trong tiểu thuyết”[41, 190].

Gia đình bé mọn đã được kết cấu theo dòng ý thức và kỹ thuật lồng

ghép truyện như thế. Những hồi ức được đan cài với những sự việc của hiện

tại. Chuyện của quá khứ được gợi lại nối mạch với chuyện của ngày nay. Cứ

thế, người dẫn truyện dẫn dắt người đọc theo diễn biến tâm lý của Tiệp cùng

những con người và sự kiện quanh nàng, chứ không theo tuần tự thời gian,

dẫu thời gian diễn ra của một chuyện tình để đi đến bến bờ phẳng lặng đã kéo

dài đến trên mười năm.

Không chỉ ở tiểu thuyết, truyện ngắn của Dạ Ngân cũng đã có kết cấu

theo dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện. Ở Con chó và vụ ly hôn, từ

diễn biến tại phiên toà, mạch truyện đã dẫn dắt người đọc đến đoạn kể về con

chó, ngay từ lúc nó mới được xin về. Để rồi truyện không kết thúc lại bằng

một phiên toà, mà kết thúc bằng những chi tiết tạo ấn tượng rất mạnh đến

người đọc:

“ Khi chị về đến nhà, con gái chị lại lập cập mách:

- Ba rủ mấy chú ở chỗ ba tới làm thịt con Mực rồi. Ba đập đầu nó bằng

búa. Con thấy nó ngó ba y như lúc má giơ roi đánh con. Rồi con không dám

dòm, con trốn dưới gậm giường mình ngủ. Con nghe tiếng chú Hành hỏi ba:

Vú chó ăn ngon như vú heo nái hôn?”

Ở một truyện ngắn khác, Cái ban công trống, Dạ Ngân cũng đã viết với

kết cấu dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện. Truyện được mở đầu bằng

sự gặp gỡ của vợ chồng người phụ nữ gốc miệt vườn với Hoành, một người

anh nuôi. Mạch truyện lại dẫn dắt về tình tiết: Biên, vợ Hoành, té lầu chết, từ

một cái ban công trống, không có thanh chắn như mọi cái ban công thông

thường. Rồi truyện lại dẫn về những sự kiện khác: Tung, đứa con trai của hai

anh chị vào bộ đội từ năm 18 tuổi. Chiến tranh đã chẳng chừa một ai, Tung đã

sớm thành một thương binh khi tuổi đời còn quá trẻ “Thằng Tung ngồi xe lăn,

nó nhập vào đám người cùng cảnh lượn phố, vô định qua ngày, rồi đòi lên

Trại an dưỡng chứ nhất quyết không chịu về nhà…Ít lâu sau nó trốn nhà,

xuống tàu đò ra chợ huyện rồi biến mất ở đâu đó cho dù anh Hoành bới hết

các nơi lên cũng không tìm thấy. Mãi mới tìm ra một mảnh giấy nó nhét trong

áo gối nó hay nằm, nó nói nó muốn giải thoát cho nó, cho mọi người, đừng có

tìm kiếm mất công.” Chính sự không tìm ra tung tích đứa con trai thương binh

ấy, đã là nỗi đau đớn trong lòng hai vợ chồng, Biên và Hoành. Nỗi đau khổ

ấy, thường trực trong gia đình họ, để họ thường cắn cấu nhau. Nói như cách

nói của Hoành:” Nhưng mà bặt tăm, một đứa con mình không tăm tích, không

mồ mả thì nó hành hạ anh với chị như thế nào cô có hình dung được không?”

Để cái kết cuộc đau buồn đối với gia đình họ: Chị Biên té ban công lầu chết,

cái ban công dang dở, không có thanh chắn. Dang dở như cuộc đời của con

trai họ, Tung, một chiến sĩ tình nguyện, được đưa sang chiến đấu nơi biên

giới Tây Nam Tổ quốc.

Kết thúc truyện lại trở về với hiện tại, với nỗi đau thương của Hoành, mãi

mãi khó mờ phai. “Không ai có lỗi cả, thật sự anh và chị đều đáng thương

như nhau, và cả tôi nữa, ba cuộc chiến chứ đâu phải hai, ba cuộc chiến trong

nửa thế kỷ và những vết thương sẽ theo người ta xuống mồ”[61,213].

Đúng như nhận định của Bùi Việt Thắng : “Sự tìm tòi những kiểu kết

cấu khác nhau của tiểu thuyết đương đại là nhằm phát hiện ra tính chất ngày

càng phức tạp hơn của đời sống và con người. Suy cho cùng những biến đổi

trong kết cấu thể loại là phản ảnh những đổi thay kết cấu trong đời sống xã

hội xét về nhiều mặt”[41,191]. Dạ Ngân đã hướng kết cấu tiểu thuyết của

mình theo dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện. Chính từ mạch phát triển

tự nhiên của tâm lý Tiệp, cùng những nỗi niềm và tâm trạng của nàng, hai

mươi chương của tiểu thuyết Gia đình bé mọn là sự đan cài giữa quá khứ và

hiện tại, của truyện lồng trong truyện, ngổn ngang, đầy những khó khăn lẫn

trong khó khăn, của một câu chuyện tình thời hậu chiến.

2.2.3. Trần thuật đa điểm nhìn và vai kể độc thoại:

Theo Nguyễn Văn Hiếu trong Một vài khuynh hướng vận động cuả

điểm nhìn trong văn xuôi Việt Nam sau 1975:”Điểm nhìn là một phạm trù

quan trọng của thi pháp học hiện đại. Nó là vị trí mà người kể chuyện hoặc

nhà văn lựa chọn để quan sát, thâu tóm hiện thực được phản ánh trong tác

phẩm . Giáo sư Trần Đình Sử so sánh điểm nhìn với hình ảnh chiếc ống kính

camera dẫn dắt người cầm bút khám phá hiện thực và đưa người đọc đi vào

thế giới nghệ thuật của tác phẩm. Như vậy, tìm hiểu điểm nhìn thực chất là

tìm hiểu một kiểu quan hệ, một phương thức tiếp cận của nhà văn với hiện

thực.

Có thể thấy sự vận động của điểm nhìn– trước hết là điểm nhìn trần

thuật– chính là một trong những biểu hiện rõ nét của quá trình đổi mới văn

xuôi Việt Nam sau 1975…Sự chọn lựa điểm nhìn không những chi phối nhà

văn viết cái gì mà còn quyết định nhà văn viết như thế nào để tạo hiệu quả

nghệ thuật tối ưu cho tác phẩm[41,300].

Dạ Ngân đã có những điểm nhìn khác nhau trong quá trình trần thuật.

Khảo sát 14 truyện ngắn ở tập Nhìn từ phía khác, đã có 8 truyện nhà văn

trần thuật ở ngôi thứ nhất, tôi( Ở các truyện Trăng về, Người thương mến,

Má con Chị Liệt, Vườn cổ, Nhìn từ phía khác, Ngọn nến phập phồng,

Thương lấy chị tôi, Bệnh nhân định kỳ).; Chỉ còn 6 truyện được nhà văn

trần thuật ở ngôi thứ ba, số ít ( Ở các truyện: Câu chuyện nhiều năm, Tiền

của má, Nàng ở đâu ra, Muỗi mía, Thời gian vĩ đại, Lòng tốt đàn bà ).

Khảo sát 11 truyện ngắn in lần đầu ở tập Nước nguồn xuôi mãi ( Tập

này có 20 truyện , nhưng đã có 9 truyện in từ các lần xuất bản trước đó), có 6

truyện nhà văn trần thuật ở ngôi thứ nhất, số ít, Tôi, Ta( Ở các truyện: Tách

cà phê, Phòng chờ, Khoang tàu chật quá, Cái ban công trống, Chỗ ngồi

ưa thích, Cùng trời cuối đất); Chỉ còn 5 truyện được nhà văn trần thuật ở

ngôi thứ ba, số ít( Gặp ở Giáp nước, Người duy nhất, Nước nguồn xuôi

mãi, Tóc dài mấy lạng, Hôm ấy trời đẹp lắm).

Với sự liệt kê trên, có thể thấy: Điểm nhìn trần thuật trong sáng tác của

Dạ Ngân có sự đa dạng, trong đó, xu hướng cá thể hoá, in đậm dấu ấn cá tính

nhà văn có tính nổi trội hơn. Nhà văn đã đứng ở vị trí là người trong cuộc để

bộc lộ những nỗi niềm, những tâm trạng, những cung bậc tình cảm khác nhau.

Với giọng thủ thỉ tâm tình, bạn đọc dường như được dẫn dắt bởi chính tác giả,

vào những tình huống, những cảnh ngộ, những vui buồn của cuộc sống

thường nhật. Nói như Nguyễn Văn Hiếu ở bài viết được đề cập ở trên: “ Dấu

ấn cá tính trong điểm nhìn trần thuật dần trở thành một tiêu chí của giá trị,

một mối quan tâm của văn chương. Cá thể hoá là khuynh hướng vận động tất

yếu của điểm nhìn, phù hợp với nhu cầu của nhà văn và yêu cầu của thời

đại”[38, 301].

Với một nhà văn có vốn sống phong phú và từng có nhiều sự trải

nghiệm như Dạ Ngân, chị am hiểu tâm lý phụ nữ và có thể diễn tả những nét

tâm lý ấy dưới những góc độ khác nhau, bằng những ngôn từ khác nhau, với

những điểm nhìn cũng khác. Ngoài ngôi thứ nhất, số ít, chị cũng đã đứng ở

ngôi thứ ba vai kể, để là Thẩm trong Câu chuyện nhiều năm, là chị Hường

trong Tiền của má, là Quý trong Muỗi mía , là chị trong Thời gian vĩ đại,

Lòng tốt đàn bà, là Duệ trong Người duy nhất, là Dị trong Nước nguồn

xuôi mãi, là Anh trong Hôm ấy trời đẹp lắm…Truyện của chị, nhờ thế, đa

dạng, về lối kể; để mỗi truyện có dáng vẻ riêng, có thể đứng cùng nhau trong

một tuyển tập mà vẫn có nét riêng của mình, không lặp lại.

Đã có những trang viết của Dạ Ngân là những trang với vai kể độc

thoại. Một cô Thảo của Nhìn từ phía khác có lúc đối thoại một mình “ Tôi

là ai? Quả tình không phải lúc nào tôi cũng dễ dàng nhớ ra tôi là ai. Quả tình

có lúc tôi chỉ muốn gào to lên rằng tôi không Thảo, không hầu bàn, không thù

riêng, không nợ nước, tôi là thân phận trôi giạt và đang trôi cùng tôi là một

thân phận khác, chúng tôi luôn có nỗi buồn và những giọt nước mắt giống

nhau, chúng tôi nhỏ nhoi thường tình yếu đuối như mọi người đàn ông, đàn

bà trên đời”; và đây nữa: “ Thế là không sao lần ra dấu vết của hạt bụi ấy,

một hạt bụi đã từng rơi vào mắt tôi cam phận trong bóng tối và thỉnh thoảng

làm tôi đau xốn mà không dứt ra được”[56,144–148].

Hay ở Má con chị Liệt, đó là những lời đau xót, một mình: “Chị Liệt,

Chị Liệt… của tôi, sao chị cam tâm nằm lại bên mép lộ đáng nguyền rủa này,

sao hai mẹ con chị lại tìm thấy nhau trong hoàn cảnh tàn khốc này, sao vậy?”

Lại ở Tóc dài mấy lạng, đó là những lời độc thoại nội tâm, của một

người phụ nữ, trước, xúc động khi nghe có người rao mua tóc; sau, nhìn lại

cuộc đời mình, cũng lắm phong ba, cũng nhiều trắc trở: “ Em sẽ gọi cô nàng

tóc dạo đến, em sẽ xén phứa mái tóc tội nợ này cho đỡ cực trong mùa hè. Em

không cần tiền bán tóc nhưng cắt nó đi là thật sự chia tay một quãng đời,

chia tay một chặng đường, chia tay với một giai đoạn. Chắc em sẽ thấy nhẹ

hơn khi không có nó, lúc này”[61,238].

Nói thế để thấy rằng Dạ Ngân đã sáng tác theo nhiều thể loại. Và mỗi

thể loại chị đã có những thành công riêng. Nếu ở truyện ngắn là những quan

sát sâu sắc tinh tế của chị, về cuộc đời, về tình người; để bằng những chi tiết

nghệ thuật đặc sắc, chị đã làm người đọc khó quên những truyện ngắn của Dạ

Ngân; thì ở tản văn, chị đã trải lòng mình cùng với quê hương, với những ân

tình sâu nặng. Cái hay của chị và cũng là nét riêng của chị, là chị đã quan sát

rất tỉ mỉ, và với một kỹ năng diễn đạt cao tay, chị đã mang đến cho bạn đọc

nhiều trang văn giàu chất thơ, về những cảnh sắc và hương vị của đất nước,

đặc biệt là phong cảnh và hương vị của những sản vật Nam Bộ, của những

miệt vườn.

Trên bình diện phương thức tự sự, chị đã khéo tạo những tình huống

khó quên trong lòng bạn đọc trong những sáng tác của mình. Có khi chỉ đôi

nét chấm phá, chị cũng giúp người đọc nhớ mãi những nhân vật trong các

trang văn. Kết cấu theo dòng ý thức và kỹ thuật lồng ghép truyện đã dệt nên

những trang văn của Dạ Ngân đa dạng, theo mạch cảm xúc, theo diễn biến

tâm lý phong phú, phức tạp của nhân vật trong tác phẩm. Và cùng với đó, là

điểm nhìn của nhà văn cũng đã có những góc khác nhau khi quan sát, và tái

hiện cuộc sống trên các trang viết của mình.

Chính những điều ấy đã góp phần mang lại những thành công cho

những sáng tác của Dạ Ngân.

CHƯƠNG 3: VĂN XUÔI NGHỆ THUẬT DẠ NGÂN – ĐẶC ĐIỂM VỀ NGÔN TỪ

3.1. Vẻ đẹp hài hoà trong văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân

3.1.1. Khái niệm: “ngôn ngữ văn xuôi” – “lời văn nghệ thuật” và quan niệm về “vẻ đẹp hài hoà “

“Ngôn ngữ văn xuôi” và “lời văn nghệ thuật” là các khái niệm quen

thuộc, song rất căn bản, lại có sự chồng lấn về nội hàm, không thể không

nhận thức rõ. Theo chúng tôi, có thể dựa vào một số ý kiến sau đây để giới

thuyết khái niệm.

Ngôn ngữ văn xuôi (hiểu theo nghĩa không bao hàm văn xuôi phi nghệ

thuật) trước hết phải là ngôn ngữ nghệ thuật (còn gọi là lời văn nghệ thuật).

Vậy nên muốn hiểu ngôn ngữ văn xuôi phải hiểu ngôn ngữ nghệ thuật. Đó là

điều hiển nhiên. “Không thể nghiên cứu ngôn ngữ tiểu thuyết tách rời ngôn

ngữ văn xuôi và ngôn ngữ nghệ thuật nói chung. Những đặc trưng thẩm mỹ

của ngôn ngữ nghệ thuật cũng là những đặc trưng của ngôn ngữ tiểu

thuyết”[16, 755] – GS. Phan Cự Đệ, trong khi nghiên cứu ngôn ngữ tiểu

thuyết Việt Nam hiện đại nói riêng, văn xuôi Việt Nam hiện đại nói chung, đã

khẳng định như thế.

Vậy ngôn ngữ nghệ thuật là gì?

Đơn giản có thể giải thích đó là dạng lời văn có tính nghệ thuật.

Từ điển thuật ngữ văn học của Lê Bá Hán – Trần Đình Sử – Nguyễn Khắc

Phi đã giải thích rõ tiêu chí này. Tác giả cho rằng Lời văn nghệ thuật là

“Dạng phát ngôn được tổ chức một cách nghệ thuật, tạo thành cơ sở ngôn từ

của văn bản nghệ thuật, là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn

học. Lời thơ, lời trần thuật, lời nhân vật, lời thoại trong kịch và các dạng của

chúng đều là các bộ phận tạo thành lời văn nghệ thuật. Khác với lời nói hằng

ngày, lời văn nghệ thuật có tính chất cố định, tính độc lập hoàn chỉnh trong

bản thân nó, có tính vĩnh viễn. Tính hình tượng của lời văn nghệ thuật có

được do bản chất của hình tượng của tác phẩm: mọi hiện tượng, cảnh vật,

con người trong văn học đều muốn nói lên bằng lời văn nghệ thuật. Do đó, về

nguyên tắc, lời văn nghệ thuật phục tùng cấu trúc hình tượng của tác phẩm,

phục tùng đặc điểm của ý thức nghệ thuật, tư duy nghệ thuật và có tính tổ

chức rất cao.” [20,187–188].

Có thể mượn cách hệ thống hoá của Lê Tiến Dũng để xác định rõ hơn

đặc trưng của lời văn nghệ thuật [15,43–48] bằng mấy nét chính sau:

– Tính hình tượng: “(…) lời văn trong tác phẩm văn học mang tính

hình tượng từ trong bản chất… Tính hình tượng của lời văn nghệ thuật được

thể hiện ở thế giới hình tượng mà nhà văn đã tạo nên qua ngôn từ.”

– Tính biểu cảm; tính chính xác, hàm súc; tính đa nghĩa và đặc biệt là

tính riêng gắn với dấu ấn cá tính sáng tạo của mỗi tác giả: Lời văn nghệ thuật

bao giờ cũng ghi đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn”.

Tuy nhiên, ngôn ngữ văn xuôi, mà tiêu biểu nhất là văn xuôi hư cấu

(như truyện ngắn, tiểu thuyết) khác ngôn ngữ thơ hay văn xuôi trữ tình như

tùy bút chẳng hạn ở sự tương tác giữa các thành tố dệt nên văn bản ngôn từ

của tác phẩm. Đúng như nhận định của GS. Phan Cự Đệ: “Đặc trưng của

ngôn ngữ văn xuôi là sự tác động qua lại rất phức tạp giữa tiếng nói tác

giả, người kể chuyện và nhân vật, giữa ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được

miêu tả. … Chúng ta tìm thấy trong văn xuôi những hình thức pha trộn rất

phức tạp (ngôn ngữ của người kể chuyện, lời độc thoại nội tâm của nhân

vật)[16, 772–773]; và: “ Nếu như trong ngôn ngữ của người kể chuyện có xen

lẫn giọng nói của nhân vật thì ngược lại, trong ngôn ngữ của nhân vật (đặc

biệt là những nhân vật tích cực) ta cũng thường nghe thấy giọng nói của tác

giả… Điều cần phải chú ý là trường hợp ngôn ngữ của nhân vật này hoà lẫn

vào ngôn ngữ của nhân vật khác, tiếng nói của nhân vật này bộc lộ công khai

một phần tiếng nói thầm kín bên trong của nhân vật kia…”; hoặc: “Ngôn ngữ

song thanh là một trong những đặc trưng cơ bản của ngôn ngữ văn xuôi.”

“Những khám phá của Bakhtin về loại hình ngôn ngữ song thanh (và đa

thanh) đặt ra vấn đề phải nghiên cứu văn xuôi trong văn bản đối thoại, ở đây

các giọng nói tác động lẫn nhau rất phức tạp. Đối với nhà viết tiểu thuyết, thế

giới hiện thực tràn đầy những ngôn từ của người khác; họ phải làm việc với

một bảng pha màu ngôn từ rất phong phú và họ sử dụng bảng pha màu đó rất

điêu luyện”[16, 779–780].

Tóm lại, có thể xác định một cách cô đọng, khái quát về ngôn ngữ văn

xuôi như sau:

- Là kiểu lời văn được tổ chức một cách đặc biệt, có tính nghệ thuật

cao;

- Là sự kết hợp của nhiều thành phần, dạng thức ngôn ngữ: ngôn ngữ

người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật; ngôn ngữ đối thoại, độc thoại; ngôn ngữ

đơn thanh, ngôn ngữ đa thanh;…

- Là dạng lời văn mang đậm dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn.

Thế còn quan niệm về vẻ đẹp hài hoà? Thường ngày ta vẫn bình giá đối

tượng nọ, đối tượng kia có “vẻ đẹp hài hoà”. Nhưng thế nào là một vẻ đẹp

được xem là hài hoà?

Abectia Leon Batixta (1404–1472), một trong những đại biểu xuất sắc

của Mỹ học Phục hưng Ý, khi định nghĩa cái đẹp, đã từng viết: “Cái đẹp là sự

chan hoà, sự phối hợp nhịp nhàng như thế nào đó giữa các phần trong cái

tổng thể mà chúng tạo thành: sự chan hoà và phối hợp này bao giờ cũng

tương ứng với những con số chặt chẽ, những quy tắc và sự sắp xếp mà sự hài

hoà, tức là cái nguyên lý tuyệt đối, nguyên lý đầu tiên của tự nhiên, yêu

cầu”[89,257].

Lê Ngọc Trà, từ góc độ triết mĩ, văn hoá, xem hài hoà là nguyên tắc tồn

tại phổ quát của thế giới tự nhiên, xã hội và nghệ thuật: “ Hài hoà phổ biến

khắp nơi. Hài hoà gắn liền với sự sống. Hài hoà giữa âm và dương không

phải chỉ là đặc điểm của riêng con người. Đó là nguyên lý bảo tồn của vũ

trụ… Ở đâu hài hoà cũng hiện ra như là điều kiện chủ yếu để duy trì mọi vận

động, hoạt động… Tách con người ra khỏi thiên nhiên, coi thường sự thống

nhất hài hoà giữa con người và vũ trụ sẽ mang lại những tổn thất không

lường trước được… Sáng tạo theo những quy tắc của cái đẹp là đặc điểm

chung, phổ biến của toàn thể hoạt động của con người.

Hài hoà là sự thống nhất biện chứng giữa các yếu tố tạo nên sự vật,

giữa cái bộ phận với cái toàn thể, giữa cái bên ngoài và cái bên trong. Đó là

những mối liên hệ, những kiểu kết hợp mang lại cảm giác về sự thăng bằng,

hoàn thiện và toàn vẹn, tạo thành cơ sở tự nhiên của cái đẹp… Tác phẩm văn

chương cũng thường được tổ chức theo nguyên tắc hài hoà… Những kiểu hài

hoà đó không loại bỏ nhau mà bổ sung cho nhau, tạo nên bức tranh nhiều

màu sắc, thoả mãn những nhu cầu thẩm mỹ luôn luôn biến đổi, đáp ứng thị

hiếu vô cùng phong phú, muôn màu muôn vẻ của con người”[80,257–263].

Có thể vận dụng quan niệm về vẻ đẹp hài hoà trong các ý kiến trên làm

cơ sở phân tích, miêu tả vẻ đẹp hài hoà trong văn xuôi nghệ thuật của nhà văn

Dạ Ngân. Đó là sự hài hoà giữa chất văn xuôi và chất thơ; giữa ngôn ngữ toàn

dân và phương ngữ Nam Bộ; giữa tự sự với trữ tình.

3.1.2. Sự hài hoà giữa chất văn xuôi và chất thơ

Chất văn xuôi ở đây, được hiểu như một cái gì góc cạnh, thô nhám,

thông tục.

Là một nhà văn, chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, Dạ Ngân

đã ngày đêm cặm cụi với những con chữ. Những tình cảm, những ý tưởng,

những trải nghiệm của cuộc đời, những suy tư trăn trở về số phận, về tình yêu

đã được chị trải lòng trên những trang viết. Những trang viết ấy, có sự mượt

mà trau chuốt, có sự chọn lọc tinh tế, nhưng cũng có cả những thông tục, thô

nhám của đời thường.

Đối với Dạ Ngân, một người đã dành nhiều thời gian, tâm huyết cho

việc viết truyện ngắn, tiểu thuyết, thế giới của những sáng tác của chị tràn đầy

ngôn từ của những người khác nhau, có ngôn từ của chính chị, một nhà văn;

ngôn từ của những người thân quanh chị, cô Tư Ràng, chị Hai Hoài, chị Mỹ

Nghĩa, anh Năm Trường; ngôn từ của chồng chị, Tuyên và sau này là Đính;

ngôn từ của những người cán bộ kháng chiến, như chú Tư Thọ, thím Năm, chị

Liệt, chị Nguyệt; lại còn ngôn từ của những người bên kia chiến tuyến: thiếu

úy Sang, thương phế binh Thuận; và còn ngôn từ của nhiều người khác nữa:

những em bé, những người nông dân quanh năm sống ở miệt vườn, những

người đàn bà goá trong và sau chiến tranh, người hoạ sĩ già, …Rõ ràng là để

có thể diễn tả những tâm trạng, những hành động, lời nói của những con

người khác nhau về tuổi tác, về nghề nghiệp, về giới tính, về vùng miền, về

trình độ, về tính cách như vậy, chị đã phải quan sát, phải lắng nghe, phải chọn

lọc, phải sắp xếp làm sao để trong tác phẩm của mình, lời nói của nhân vật

nào phải đúng là của nhân vật ấy, tự nhiên như trong cuộc sống vốn có, mà

người đọc không thấy đó là sự sắp đặt của nhà văn. Có thế mới thành văn

chương.

Ở thời kỳ đổi mới, đề tài trong văn học không chỉ là những vấn đề to

lớn, mang tầm vóc chung của cả cộng đồng , mà đã đi vào những quan hệ thế

sự và đời tư, đi vào những ngóc ngách trong đời sống tâm hồn, tình cảm , tâm

linh bí ẩn của con người. Trong những ngóc ngách riêng tư ấy , có đời sống

tình dục. Tình dục là một nhu cầu bản năng của con người. Trên không ít

trang viết của mình, Dạ Ngân đã đề cập đến lĩnh vực nhạy cảm ấy. Những câu

chữ diễn tả một cách trần trụi những sinh hoạt riêng tư của đời sống vợ chồng

đã được Dạ Ngân đưa vào Gia đình bé mọn : “Tuyên cư xử một cách đại

khái với mình, thậm chí nàng luôn luôn bằng lòng để Tuyên chỉ cởi bỏ mảnh

dưới của mình, thói quen y nguyên của thời chiến, lúc cả hai còn sợ bị chết

trần chết truồng, Tuyên không có nhu cầu ngắm vuốt nàng, không cảm thấy

vướng víu khi giữa da thịt hai người là chiếc áo của nàng, mãi mãi như thế,

nàng chưa bao giờ là Eva trước mặt chồng, mãi mãi một cảm giác chán

chường, rất nhanh nhưng rất chán…”. Với chồng thì như thế, còn với người

tình thì sao? “ Tại sao da thịt và mùi vị của Đính khi có mùi mồ hôi trên quần

áo lại dễ thân thuộc hơn khi anh thành Adam thế này?. Và mạnh bạo hơn

nữa, Dạ Ngân đã trực tiếp mô tả, mà không hề e ấp, ngượng ngùng: “Những

câu chuyện thì thầm cùng với da thịt nguyên sơ. Lần đầu tiên nàng cảm thấy

trong bàn tay tinh nghịch của mình một sinh vật cừ khôi– trước đây với Tuyên

nàng không có nhu cầu đùa giỡn với nó, chắc chắn vì nàng không khao khát

nó” [59, 154–156].

Những con chữ mô tả những sự thật trần trụi của cuộc đời, nó thô nhám

và thô tục.

Văn xuôi Dạ Ngân còn bộc lộ bằng những ngôn từ thô nhám khác “

Đất doi mà con bầy, ổng làm mướn riết rồi như cái nùi giẻ. Giờ mà ổng giở

mấy chuyện đánh chác ngày xưa ra là tụi con nít bịt mũi kêu đừng có giỡn

mặt, thúi lắm”[56,107]. Hay “ Chằm chặp mà dửng dưng, tằm tò mà ghẻ

lạnh, đó là điệu bộ của vợ tôi khi nhìn thấy bé Trà, giống một vị lang băm ế

khách tự dưng con bệnh đến cầu cạnh mình”[56,162]. Và đây nữa: “ Lúc tôi

quay vào, eo ơi, chị đã ngủ tịt rồi! Chị tôi dễ ngủ như một tay cu li, nghĩa là

đặt lưng xuống thì ngủ mê ngủ mệt ngủ vùi ngủ vẩn như một con ma đói

ngủ… Chị ngủ xuôi lơ, ngủ không một tiếng ngáy nhỏ, dân gian gọi là ngủ

như đi thiếp và, nếu hạ cánh tay đang vòng trên trán xuống thì đó chính là

giấc ngủ trong quan tài…[49, 171]. Rồi lại có những đoạn : Lại nghe thấy

mùi thum thủm rên rỉ trong mọi xó xỉnh, thứ mùi rất đặc trưng do cuộc sống

bệ rạc chứ không chỉ do độ ẩm thường xuyên cao. Hành lang nhiều dây phơi,

quần lót phụ nữ tự may lấy, những cái khăn made in quốc doanh thô nhám

vàng khè, bếp lò để ngoài cửa, chuồng sắt để trồng mấy thứ rau gia vị…tất cả

nói rằng Hà Nội được nông thôn hoá một cách rất là hiệu quả”[59, 162–

163].

Từ các trích đoạn trên, có thể khẳng định rằng ngôn ngữ văn xuôi trong

các sáng tác Dạ Ngân không chỉ có sự mượt mà. Nó đã đi vào mô tả những sự

vật, sự việc và con người, một cách đúng nhất, mà không ngại làm cho người

đọc ngại ngần, ghê sợ. Ngôn ngữ văn xuôi thô nhám, sần sùi ấy, để giúp

người đọc dễ chạm vào sự thông tục của cuộc đời. Để cũng từ đây, khi gặp

những cảnh, những lúc cuộc sống tươi sáng hơn, con người ta sẽ cảm thấy dễ

chịu hơn, cuộc đời đáng yêu, nên thơ hơn.

Song, văn xuôi Dạ Ngân, mặt khác, cũng thấm đẫm chất thơ. Chất thơ

ở đây được hiểu là lối văn có âm hưởng trữ tình bay bổng, có cái đẹp thăng

hoa từ văn bản ngôn từ và giàu nhạc tính.

Có thể nói gì hơn về những tản văn của Dạ Ngân ngoài cụm từ “đẫm

chất thơ”. Lần đọc lại những tản văn của chị: Mùa đốt đồng, Bông điên

điển, Dừa nước miền Tây, Cây so đũa, Lục bình mải miết, Cái bếp củi

dừa, Hỏi người làm ra bánh hỏi, Ngày xưa thương nhớ, Mùa bông tràm,

Cọng rau muống tím, Nhớ cầu khỉ, Bóng chim tăm cá, Rằm tiễn

nước,…chúng ta thấy có thật nhiều những đoạn văn mượt mà, bay bổng.

Cảnh sắc đã được ngôn từ mô tả sống động, chân thật, làm nên những bức hoạ

nên thơ. Ở những tản văn cuả chị, ngôn ngữ văn xuôi thô nhám dường như đã

nhường bước lại trước những lời văn nghệ thuật trang nhã, trong một khuôn

khổ ngôn từ có hạn, nhỏ xinh. Có lẽ, những cảm xúc chân thành nhất của tâm

hồn một người phụ nữ miệt vườn miền Tây Nam Bộ chính gốc, với những

tháng ngày sống xa quê đã khiến chị luôn nhớ về quê hương của mình, với

những hoài niệm đẹp, với ký ức khó nhạt phai. Chính cảm xúc dâng tràn ấy

đã dẫn dắt ngòi bút của chị trải nhẹ tênh trên những trang viết của mình.

Truyện ngắn của chị cũng như thế. Từ Trăng về với cảm nhận của

người kể về nét đẹp của đôi bắp chân người phụ nữ, giữa kháng chiến gian

khổ vẫn không thể nào giấu được những rung động của trái tim những người

đàn ông khi có những giờ phút hiếm hoi để ngắm nhìn. Đến Má con chị Liệt,

tiếp tục lại là một chị Liệt xinh đẹp, tài hoa, nhưng vẫn rất cứng cỏi, gan dạ

trong công việc, đã đóng góp trọn vẹn cuộc đời ngắn ngủi của mình cho

kháng chiến. Một Xuân nữ đẹp mặn mà, cũng từng làm rung động bao trái

tim bộ đội, cả với những anh sĩ quan chủ lực miền; nhưng sao tình duyên của

người phụ nữ ấy cứ mãi lận đận, cứ mãi dở dang. Rồi chị ấy, Xuân nữ xuân

sắc ấy, trôi dạt về đâu sau những ngày đất nước thống nhất? Những vẻ đẹp ấy,

cũng là chất men nồng, gợi nên những trang viết đậm chất thơ của truyện

ngắn Dạ Ngân.

Song không chỉ có thế. Trong những cảnh ngộ gay go của cuộc đời

những nhân vật trong các truyện ngắn của chị, Dạ Ngân cũng đã khéo dùng

từ. Chị diễn tả chính xác, nghệ thuật những tình huống cực kỳ căng thẳng của

những nhân vật chính trong các truyện: Một khúc sông, Gặp ở giáp

nước…Đó là sự cố gắng của Bời chống chọi lại dòng nước xiết, cố giữ cho

vững chiếc xuồng chở đất, tài sản quý giá nhất của gia đình mình, nhưng đã

không thành công. Đó là sự chống chọi của hai người phụ nữ mảnh mai với

sức nước hung hãn vào một buổi chạng vạng chiều ở giáp nước. Có lẽ, khi

hoàn cảnh gay go, đẩy con người vào những cảnh ngộ một mất một còn, ngòi

bút của Dạ Ngân cũng đi theo cao trào, cảnh ngộ ấy, để mọi dây thần kinh

căng theo, của nhân vật mà cũng là của cả người cầm bút, để những trang viết

đẫm chất thơ của chị ra đời.

Ở truyện vừa Miệt vườn xa lắm, Dạ Ngân cũng đã có nhiều trang viết

đẫm chất thơ. Những đoạn tả về cảnh sắc trong vườn nhà của nội, hồi ức của

cô Tiệp vẫn dệt những những hình ảnh lung linh, rực rỡ. Đó là “ Ra vườn từ

lúc cô Tư còn nghỉ trưa thì tôi nhảy cò bẹp một mình, ca hát một mình, làm

bạn với tu hú với cu cườm và các thứ bướm sặc sỡ trong vườn thuốc nam của

ông nội. Bạn của tôi là giọt nắng, mùi hương và những cây cầu bắc tạm qua

những con mương vườn, dưới đó là bông súng và những con chuồn chuồn

nước”[58, 49,50]. Rồi đây nữa: “ Tôi thích nhất những khoảnh khắc này. Dĩ

nhiên những ngày đó phải nhằm mùa xuân, khi nắng chưa làm tội con người

và cây cối, nắng chỉ vừa đủ làm cho buổi chiều dài ra và rất nhiều gió. Gió từ

phía ven cây bên ngoại tôi thổi sang, thứ gió đi qua một giang đồng đem theo

mùi khói rơm và mùi tro rạ của những vạt đất đã đốt hoặc đang đốt”[58,98].

Chất thơ trong miêu tả cảnh sắc, chất thơ trong miêu tả tâm trạng,

cảnh ngộ là những điểm dễ nhận ra trong những sáng tác của Dạ Ngân.

Có lẽ, do nặng lòng với quê hương, do nhiều trải nghiệm từ cuộc sống, cùng

với vốn từ ngữ phong phú, đã giúp chị viết nên những trang văn có sức lay

động lòng người.

Ngay trong từng tác phẩm của Dạ Ngân, vẫn có một sự đan xen giữa

chất văn xuôi và chất thơ. Sự thông tục khi mô tả những sinh hoạt riêng tư

của đời sống vợ chồng, của những tình nhân, của những mảng màu xám của

một Hà Nội những ngày còn bao cấp dưới mắt nhìn của một phụ nữ miền

Nam; đã cùng hiện diện bên cạnh những trang viết về nét đẹp của lòng người,

của không gian thoáng đãng của vùng sông nước Tây Nam Bộ, của ngoại

thành Hà Nội trong Gia đình bé mọn.

Người đọc còn có thể dễ dàng nhận thấy sự đan cài ấy trong Câu

chuyện nhiều năm. Thời điểm giặc càn quét, truy lùng, sự căng thẳng khi

phải tìm đường tránh tầm kiểm soát của những người lính, sự căng thẳng khi

phải đối chất với những câu chất vấn của thiếu úy N. Đình Sang, chỉ huy cuộc

càn quét; vẫn để lại trong hồi ức của Thẩm, một người ở tỉnh lỵ, vào Cứ thăm

chồng, những hình ảnh của một buổi trưa “ Thẩm nhớ, nhớ rất rõ buổi trưa

ấy, khi chị bị viên thiếu úy tách ra để chỉ có chị và hắn ở chỗ vách ngoài.

Buổi trưa yên ắng, tưởng như sẽ xuất hiện một tiếng cu gáy trong mảnh vườn

nào đó. “ Ban đêm vô mùng, cây đèn chai này có châm muỗi được không?”.

Thẩm rùng mình: “ Thiếu úy biết ba má con tui là thường dân sao không thả

ra?”. Cười khẩy, nếu không có chiến tranh đây có thể là người thanh niên rất

là mơ mộng, quyến rũ: “Thả ra để tốp khác nó bắt lại sao? Tưởng tụi tôi giữ

mấy người để làm bia thịt hả? Bộ vó với nốt ruồi Khánh Ly này nói cô em làm

ruộng không có giỏi đâu, đúng không?”. “ Rồi các ông thả chúng tôi lúc

nào?”. “ Chà, coi bộ có học, coi bộ đẹp gái mà không biết xin xỏ lễ phép gì

ráo! Khẩu côn với cây gậy này không có cận thị đâu nhá!”[56, 26–27]. Chính

sự hoà hợp tự nhiên giữa chất văn xuôi và chất thơ trong các tác phẩm đã tạo

nên sự đa dạng thẩm mỹ trong văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân. Và đó cũng

chính là một trong những thành công của Chị.

3.1.3. Sự hài hoà giữa ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ

Ngôn ngữ là vốn liếng căn bản, là chất liệu để nhà văn viết nên những

tác phẩm của mình. Nhà văn Nguyễn Khải, người đã đạt giải thưởng Hồ Chí

Minh về văn học và nghệ thuật năm 2000, là một trong những nhà văn hàng

đầu của nền văn học cách mạng Việt Nam, là người có nhiều kinh nghiệm

trong việc sáng tác văn chương, ở bài viết Trôi theo tự nhiên đã từng chia sẻ:

“ Miêu tả tư tưởng là một thách thức đối với mọi cây bút. Cái khu vực ấy sở

dĩ hấp dẫn vì nó đang còn hoang vu mời gọi ta mặc sức khai phá miễn là phải

hết lòng say mê nó và cũng phải có cái tài thăm dò nó, tìm ra những vỉa mới

của nó và điều quyết định để nó trở thành văn chương là phải có một vốn

ngôn ngữ Việt giàu có, tinh tế và cô đọng để miêu tả một cách hấp dẫn mọi

ngóc ngách của cái thế giới siêu hình trong mỗi cá nhân”[32, 418].

Sự tích góp để cái vốn chữ nghĩa được nhiều, giúp cho việc diễn tả

những ý nghĩ, những nội dung kiến thức khoa học, những cung bậc tình cảm

của con người được đa dạng, chính xác, và nhất là hay thuộc cá nhân mỗi

người. Đối với nhà văn, cái kho chữ nghĩa ấy lại càng quan trọng. Kho ấy

càng dày, phong phú, đủ để nhà văn diễn tả những cảnh ngộ, những tâm

trạng, những con người, với những vui, buồn, lo âu, giận dữ, với những sắc

màu tình cảm khác nhau, sao cho đúng, sao cho hay, sao cho đủ sức lay động

lòng người, điều ấy quả không dễ. Cái kho ngôn ngữ ấy, vừa phải rộng, lại

vừa phải sâu.

Nhà văn Dạ Ngân đã có trên 15 tác phẩm được ra mắt bạn đọc. Với

nhiều thể loại, với nhiều đề tài, với nhiều nhân vật khác nhau trong những tác

phẩm văn xuôi nghệ thuật của chị, số lượng từ ngữ chị đã dùng không hề ít.

Và tất nhiên, ngôn ngữ toàn dân đã được chị huy động tối đa cho những sáng

tác của mình. Những tháng ngày mới chập chững vào nghề văn chương, còn ở

miệt vườn Tây Nam bộ; đến những sáng tác sau này, khi chị đã ra Hà Nội

sinh sống, hoạt động tiếp tục trong lĩnh vực văn chương. Sống ở lòng Thủ đô

15 năm trọn, ngôn ngữ toàn dân đã được chị đắp bồi, một cách tự nhiên, như

sự hít thở không khí quanh mình. Và ngôn ngữ toàn dân ấy đã tự nhiên đi vào

những tác phẩm của chị. Song trong các sáng tác của mình, có nhiều lời văn

nghệ thuật Dạ Ngân sử dụng đã được chị viết ra từ cái kho chữ nghĩa từ thuở

bé của mình, mang đậm dấu ấn của miệt vườn.

Có thể dẫn ra những cách sử dụng phương ngữ của chị : “ Chiều qua

Thẩm đi từ tỉnh lỵ vào cứ thăm chồng”; “Trời, du kích giăng bãi lửa tùm

lum, hổng chừng nãy giờ người ta gài trái nổ kín đường mòn rồi, càn xuống

chi để chết chùm, mấy chú!”; “ Ăn độn là nỗi nhục chưa từng có đối với dân

miền Tây, có phải vậy mà dân nghèo bỏ xứ còn kẻ ở thành thì rủ nhau vượt

biên ào ào, tụi bây nói tao nghe thử?”[49, 18– 29]. “ Bà con đồng chí mình

nhớ cho, khi áp lộ, phải đi nhón chân trong nước, đi kiểu ba lê này này; ai

mắc ho có thể nuốt một cục đất, cắt cơn liền, hổng tin sao, thử hỏi lúc đó lá

cây đâu để nuốt, mà lá thì dễ có sâu, chỉ có đất, nhai đại một chút đất, ghê

miệng cái hết ho luôn”; “ Ai chưa thông, ai thấy sợ, cứ phát biểu, có sợ quá

thì đái đại trong quần đi để nhẹ bụng, dễ chạy” [56,72–73].

Phương ngữ Nam Bộ đã đi vào những sáng tác của Dạ Ngân, cùng

đứng chung với ngôn ngữ toàn dân, một cách tự nhiên, đồng điệu. Phong cách

khẩu ngữ đã được nhà văn dùng trong các đoạn đối thoại; để “tùm lum, hổng

chừng, áp lộ, hổng tin, nhai đại, đái đại…” phát huy cao độ ý nghĩa của nó

trong tác phẩm.

Và đây nữa, ở một truyện ngắn khác, Vườn cổ: “Vào cữ tháng chạp,

miệt vườn Cao Lãnh quê tôi trông sởn sang như người đàn bà mấy tháng sau

cơn vượt cạn. Bắt đầu vỗ về những hàng cây vàng võ vì nước ngập, phù sa

hào phóng có mặt khắp nơi lặng lẽ làm cái việc đền bù…” và ‘ Coi mòi ông

thèm nuốt trọn người ta. Ngữ ông không thầy không chú, xách dép cho cổ

còn khó, liệu hồn!”[ 56, 112–121].

Rõ ràng, ở truyện ngắn trên, Dạ Ngân vẫn sử dụng phương ngữ Nam

Bộ cùng với ngôn ngữ toàn dân, để “sởn sang, coi mòi, ngữ ông…” tiếp tục

là những từ mang hơi thở của miệt vườn cùng lan toả trong sáng tác của chị.

Ở một chặng sáng tác khác của Dạ Ngân, chị vẫn với với một giọng

văn giàu phương ngữ Nam bộ. Trong Gặp ở giáp nước, chúng ta sẽ thấy: “

Sóng gió lúc này không trững giỡn nữa mà còn đẩy giúp, cuối cùng chị níu

được một tàu dừa nước ngã rạp trước mặt. “ Sống rồi, chưn tao đụng đất rồi

Gấm ơi!”. Hai người đứng thọc chân trong mé bờ cố giữ cho cái lưng vỏ

đứng yên nhưng xem chừng nó cứ muốn trôi lại hướng Giáp Nước. Chị này

run nhiều dữ hả, đây, thay đồ rồi tui làm gió cho. Sao, hay là chị muốn tui

làm cái việc sấy quần áo cho mấy chị để chị kia làm gió cho chị, hả?... “Vợ

tui sanh mấy lần trật vuột hoài, lần được cái thằng Sành này thì bị băng

huyết. Nhà xa sông rộng, đi đâu có kịp, chị!”…Chiếc vỏ lãi rướn khá sâu vào

lòng xẻo nhờ nước lớn, nước lớn có nghĩa là họ đang xuôi gió khi rẽ vô sông

Nước Đục quê nhà”[53,150].

Những đoạn đối thoại ấy trong tác phẩm, chân chất, thật thà, của người

đàn ông là ân nhân của hai chị, mang dấu ấn ngôn ngữ miệt vườn Nam Bộ.

Và đoạn ấy, gần gũi, tương xứng với đoạn Tư Tầm vui mừng báo với Nắm

Gấm mình vừa thoát cảnh hiểm nguy.

Tản văn của Dạ Ngân cũng giàu phương ngữ. Trong Bóng chim tăm

cá, đó là: “ Hồi xưa ấy à, thò chân xuống nước không sợ đỉa mà sợ cá, đủ thứ

cá xúm vô xỉa. Mỗi tháng hai lần nhằm con nước ông nội tụi bây ghe vợt ra

sông, ở nhà cứ nấu sẵn nồi cháo suông chờ, coi như đêm đó thức suốt để làm

tôm cá.” [ 55, 65]. Trong Bông mù u thương nhớ, đã có những lời thoại: “

Sao hồi nào giờ con hổng thấy má đeo? Tôi hỏi. Bà bỗng nghiêm trang: “ Thì

để tết nhứt, lễ lạt, giờ bom đạn đầy rồi má đâu nó đó, má còn thì nó còn!”[

55, 62].

Không chỉ trong truyện ngắn và tản văn, truyện vừa của Dạ Ngân cũng

đậm đà phương ngữ Nam bộ. Miệt vườn xa lắm là một minh chứng. Người

đọc dễ dàng nhận ra phương ngữ Nam bộ trong những đoạn thoại: “Thiếm gởi

cho nội với cô Tư mấy con cá đỡ ! Tội, nhà hổng có đàn ông mà cũng hổng

có ruộng!” . “ Cô Tư đi buôn bán hay ở nhà? Chèn ơi, giỏi giắn mà tiết

hạnh như cô Tư của tụi cháu vậy, hiếm lắm!”, “ Cháu của cô Ràng đây hả?

Con nhỏ này, giống chang cô à nghen! Nè, độ này còn ăn cơm muộn nữa

không? Nhà toàn đàn bà con gái mà đồng tâm, hiệp lực khó ai bằng!”. Và cả

trong những câu trần thuật: “ Má tôi là người con thứ mười của gia đình có

tới mười ba người con ở cách vịnh tôi một giang đồng”; “ Vì vậy mỗi vịnh là

một xóm nhà biệt lập với xóm doi. Vịnh chơi với vịnh, doi đi lại với doi. Gia

đình tôi không bao giờ sang cái doi bên kia sông nên tôi chỉ thấy toàn nga

nghễ, rau muống tím và lá dừa nước, vương quốc của trái bần, dơi chuột và

những ánh đèn xa khuất”[ 58, 27].

Với những đoạn như vậy, người đọc Nam Bộ dễ thấy văn Dạ Ngân

đang nói thay họ tiếng lòng của mình, bởi nó được viết lên bằng lời ăn tiếng

nói hằng ngày của họ; bạn đọc ở miền khác dễ phân biệt rõ những từ đậm sắc

thái địa phương: hổng có, chèn ơi, giống chang, giang đồng… để thấy nó

Ở Gia đình bé mọn, Dạ Ngân cũng sử dụng nhiều phương ngữ. “ Con

có hơi hướng miền Nam.

Mỹ Út đâu!– miếng trầu trong miệng cô Ràng rào rạo– Nói má con lên đây

xúm nhau bàn coi mấy tháng hè mình đem hai đứa nhỏ về đây thì ở trển vợ

chồng con Tiệp nó hàn gắn ra làm sao. Ra đây chút đi chị Ba, con Hoài cũng

ngồi xuống đi, cụ bị chi nhiều, cái ngữ hư hốt đó thì lo cho lắm cũng uổng

công thôi!”[54, 19].

“ Đặng vợ mất chồng là chuyện của thế gian, giờ hai tay hai đứa con

bỗng dưng con vùng vằng? Ừ thì con chán nản, con ấm ức nhưng sao lại làm

um lên tui có người khác đây, chồng ơi tui có người khác đây nè!”[54,98 ].

Có thể nói: ngôn ngữ toàn dân đã có một sự đan kết tự nhiên với

phương ngữ Nam bộ, được Dạ Ngân đưa vào những sáng tác của mình. Sự

kết hợp hài hoà ấy, có lúc khó tách bạch. Câu chữ nối tiếp nhau, cứ tuần tự,

để chị dệt nên những trang văn làm đẹp thêm cho cuộc đời.

3.1.4. Sự hài hoà giữa ngôn ngữ tự sự với trữ tình

“ Trong tác phẩm, ngôn ngữ văn học là một trong những yếu tố quan

trọng thể hiện cá tính sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn. Mỗi nhà

văn lớn bao giờ cũng là tấm gương sáng về mặt hiểu biết sâu sắc ngôn ngữ

nhân dân, cần cù lao động để trau dồi ngôn ngữ trong quá trình sáng tác.

Ngôn ngữ của các tác phẩm trữ tình là ngôn ngữ được tổ chức trên cơ

sở nhịp điệu, hết sức cô đọng, hàm súc và đặc biệt gợi cảm…Ngôn ngữ của

các tác phẩm tự sự là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của nhiều tính cách.

Trong tác phẩm tự sự, ngôn ngữ người kể chuyện giữ vai trò quyết định đối

với toàn bộ cấu trúc ngôn ngữ của tác phẩm”[20, 215–216].

Sáng tác của Dạ Ngân, có thể nói, đều là những tác phẩm văn xuôi. Bởi

vậy, ngôn ngữ trong các tác phẩm ấy, là ngôn ngữ đa dạng, ngôn ngữ của

nhiều tính cách. Những tính cách ấy, của những nhân vật khác nhau. Những

người phụ nữ trong và sau chiến tranh, trong đó có Tiệp và cô Tư Ràng cùng

những người phụ nữ goá bụa trong gia đình cô ở Miệt vườn xa lắm và Gia

đình bé mọn; có cả những người phụ nữ đẹp mặn mà như Nguyệt trong

Trăng về, như Xuân trong truyện ngắn Xuân Nữ , như Liệt trong Má con chị

Liệt; lại có những người phụ nữ không cùng một quan điểm sống với chồng

như Đoan trong Con chó và vụ ly hôn; như Thảo, một cán bộ cách mạng

phải đóng vai một cô hầu bàn trong Nhìn từ phía khác; như Tư Tầm và Năm

Gấm gan dạ trong Gặp ở Giáp Nước…Có cả những người hoạ sĩ như Hà

trong Thợ vẽ truyền thần; những anh bộ đội phục viên như Bời trong Một

khúc sông; những người trí thức du học nước ngoài về như Ngữ trong Ngọn

nến phập phồng; cả những sĩ quan chế độ cũ như Sang trong Câu chuyện

nhiều năm; như thương phế binh Thuận trong Nhìn từ phía khác, một người

đàn ông với nhân tính ít ỏi như Nhiêu trong Con chó và vụ ly hôn …Những

nhân vật ấy, đa dạng về tính cách, đa dạng trong cách ứng xử, và cả sự đa

dạng trong ngôn ngữ thường dùng. Với Nhiêu trong Con chó và vụ ly hôn,

đó là những lời cộc cằn : “– Tui tính không nói gì hết. Đã tới nước này, tui

định bụng không nói một tiếng nào trước toà. Cô Đoan cổ kéo tui ra đây tức

là cổ đã quyết rồi, có nói gì cũng vô ích. Tính của cổ tui rành quá mạng,

muốn gì được nấy mới thôi. Mà chuyện có đáng gì. Toàn chuyện vớ vẩn vì

một con chó!...Giữa người chồng và con chó, cổ chọn con chó”[51, 7–8]. Với

người chuyên viên văn hoá của Ủy ban Thị xã trong Thợ vẽ truyền thần, thì

đó là những ngôn ngữ xum xoe của một cán bộ mẫn cán, một người chỉ

chuyên muốn lấy lòng lãnh đạo: “– Thế bác tưởng người chết hoặc sắp chết

mới phải truyền thần ư? Truyền thần chỉ dùng cho thờ cúng thôi ư?... Theo

cháu, người ta có quyền bất tử trước khi chết lắm chứ bác. Điều đó hoàn toàn

xứng đáng với những người có công trạng lớn”[44, 79].

Đó còn là lời của Thầy Tiền, một thanh niên trẻ trung, xông xáo trong

kháng chiến ở Miệt vườn xa lắm: “ Anh muốn đi bộ đội. Anh đi dạy bổ túc

văn hoá cho bộ đội tiểu đoàn Tây Đô tỉnh. Ở đây lặng lờ quá, anh muốn xông

pha, di chuyển, chiến đấu…[51, 53]. Miệt vườn xa lắm vẫn còn âm vang

những câu nói mang tầm nhìn xa của một người đàn ông trụ cột của gia đình,

ông nội cô Tiệp kiến vàng: “Làm vườn mà trồng cây ăn trái dọc bờ ranh khác

nào rủ ăn trộm vô đi, vườn tui nhiều trái lắm. Trồng sao mới lạ, vài chục năm

nữa, con cháu ra riêng cho mỗi đứa vài ba cây đóng ghe cất nhà, còn hơn

cho vàng ấy chớ!”[58, 91].

Rồi cô Tư Ràng trí lự, người đàn bà tháo vát, giỏi giang. Lời cô trong

Gia đình bé mọn là lời của những người phụ nữ có tầm nhìn xa, hết sức

thông minh, dẫu cô không biết chữ: “Tư biết chớ, biết con không hạnh phúc

như mong muốn của gia đình bởi con là ngôi sao của dòng họ. Nhưng con nói

tuột ra hết với chồng là ngu dại chớ không phải đàng hoàng. Đàng hoàng mà

khôn ngoan mới là người có mưu có trí. Phải bảo toàn cái mạng của mình, có

sống thì mới nuôi được con, sau nữa là bảo toàn cái thanh danh của mình.

Dù gì cũng dĩ lỡ ra rồi, con suy nghĩ kỹ thêm đi, đã làm thì làm cho trúng, đã

kén chọn thì phải chọn cho hay, coi chừng xộ rồi phải quay đầu lại thì nhục

tới hai lần, chừng đó có nước tự tử luôn![59,102].

Và đây nữa, một quan niệm sống của người phụ nữ tháo vát, Tư Ràng,

được thể hiện một cách dân dã, mà gần gũi, thân thương khi thổ lộ cùng cháu:

“ Tư hay cho người ta là Tư gánh gạo đường xa cho các con, sau này đi đâu

các con cũng được người khác cho lại!”[ 58, 69 ].

Song, không chỉ có ngôn ngữ đa dạng của những nhân vật khác nhau

trong tác phẩm. Ngôn ngữ của tác giả, của người dẫn truyện, với những sắc

thái khác nhau, đã góp phần quan trọng tạo nên thịt da, hồn cốt của tác phẩm.

Dạ Ngân đã tỏ rõ vốn ngôn từ của mình rất dồi dào, cả ở những tác phẩm

truyện ngắn, truyện vừa và tản văn. Đó có thể là những đoạn xen lẫn tả cảnh,

lẫn những lời kể, vừa đẹp, vừa dễ gây ấn tượng đối với người đọc. Ở Miệt

vườn xa lắm, đó là: “ Tôi đi qua một lùm cây quỳnh anh vàng um tùm, một

cây tra cũng đang nở bông vàng chói. Có mùi hoa dành dành ở đâu đó nữa.

Sao tự dưng tôi nhìn và nghe thấy rất nhiều hoa?” [58, 30].

Ở tản văn của chị, lời người dẫn chuyện vẫn phong phú về từ, lại vẫn

bộc lộ những cung bậc tình cảm của tác giả trước cảnh sắc thiên nhiên mình

đang chiêm ngưỡng . Tản văn Chỗ tin yêu đã có những đoạn: “ Đường đến

nơi này không dễ dãi như đường lên Đền Hùng Phú Thọ hay thơ mộng hữu

tình như Suối Yến, Chùa Hương. Từ thị xã Uông Bí rẽ vào đi mãi đi mãi vẫn

chưa thấy gì. Thỉnh thoảng dòng suối lộ ra những viên đá bị thời gian mài

nhẵn và rất nhiều dây leo dại phởn phơ bên vách núi.”[ 63, 71].

Lại thấy trong tản văn của Dạ Ngân, có những đoạn mang tính triết

luận. Tóc chết đã nói lên điều ấy: “ Tóc chết để cho những ý nghĩ xanh tươi

được xuất hiện, đó là giá trị của quy luật và với những người nắm giữ vận

mệnh của nhiều người, những sợi tóc chết trong đêm của họ là hạnh phúc của

cộng đồng, là phần thưởng cho chính họ và cho cả quốc gia”[63, 115].

Ngôn ngữ người dẫn chuyện Dạ Ngân vẫn luôn có nét riêng, tạo ấn

tượng sâu với người đọc. Hãy đọc Ô môi đang mùa: “Ô môi trút hết lá trước

khi ra bông, những cành bông dài hàng sải tay màu hồng sáng, tươi thắm như

anh đào Nhật Bản, và cũng giống anh đào ở chỗ cây phải trưởng thành, phải

có tán rộng thì cây mới ra bông. Rất bề thế, trang trải và đài các, bến nước

nào có một cây ô môi vào mùa hanh khô thì cũng đủ làm ngẩn ngơ cả không

gian vốn um tùm quanh nó”[62, 128–129].

Vừa gợi tả ô môi, vừa đánh thức những cảm nhận của người đọc về

một loài cây đặc trưng Nam Bộ; vừa dẫn dắt người đọc về những miền xa hút

nhưng không vắng vẻ, mà lại nhộn nhịp, đông vui. Dạ Ngân đã bộc lộ một

trong những thế mạnh của chị: viết dạt dào tình cảm, viết dẫn dắt người đọc đi

vào thế giới riêng tư của con người khi cảm nhận vẻ đẹp của thiên nhiên.

Và cả đây nữa, Dạ Ngân đã thật sâu sắc khi dùng những từ tù đọng, hoa

nát dưới gót giày và xuân cũng cạn theo để nhắc đến bài Mưa xuân của

Nguyễn Bính trong tản văn Hoa xoan lớp lớp: “ Em và mẹ, hai thế hệ đàn bà

tù đọng chỉ mong có hội hát chèo để đi gặp người thương. Và đương nhiên,

những người con trai ấy đã lỡ hẹn để hoa nát dưới gót giày và xuân cũng cạn

theo”[62, 185].

Ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân, ngoài tính chất tự sự, chính

luận, còn có một nét đặc sắc khác, đó là tính chất trữ tình. Ở truyện ngắn

Ngọn nến phập phồng, đã có đoạn tác giả viết rất dạt dào tình cảm: “ Có một

ngọn nến nhỏ trước mặt tôi, ngọn nến rất trắng đang cho tôi ánh sáng phập

phồng của lòng trắc ẩn. Tôi không thể rời bàn tay vun đắp ra khỏi nó được,

chỉ vì nó phải cháy lên cho cuộc đời nó và cho cả phần đời của tôi nữa “ [

56, 166 ].

Và rồi, cả trong tản văn, cũng xuất hiện những đoạn đậm tính trữ tình,

như trong Cây so đũa: Bông so đũa hình lưỡi hái, hình vành trăng khuyết, nó

không hương sắc nhưng đáy nhụy đầy mật, đặc biệt màu trắng của nó trông

thật gợi cảm, hiền lành . Bông xuất hiện thành chùm, nội trong tuần là đời

hoa kết thúc và trái hình thành, suông dài xanh rợn như những chiếc đũa giắt

trong ống trời rập rờn gió bấc.” [ 57, 52].

Dạ Ngân đã tinh tế khi nhận ra rằng: Sự gợi cảm, vẻ hiền lành của bông

so đũa trắng; để rồi sau đó, khi đã là trái, nó như những chiếc đũa trong ống

trời. Sức tưởng tượng của nhà văn đã dệt nên những ngôn từ giàu màu sắc,

thanh điệu, tràn cảm xúc.

Điểm qua như thế để thấy rằng: ngôn ngữ văn xuôi nghệ thuật Dạ Ngân

là một sự hài hoà giữa, đan xen giữa tự sự, trữ tình, chính luận. Chính sự đa

dạng như thế, đã tạo nét riêng trong sáng tác của chị, thu hút bạn đọc tìm đến

tác phẩm của chị.

3.2. Chất Nam Bộ đậm đặc trong lời văn nghệ thuật Dạ Ngân

Nói chung, sáng tác của các nhà văn Nam Bộ đều đậm chất Nam Bộ.

Trường hợp Dạ Ngân cũng thế. Là một nhà văn nữ giàu cá tính, nặng lòng

với quê hương, Dạ Ngân, đã tạo nên trong văn xuôi của chị một sắc thái

riêng. Đó là phong vị vùng miền trong cách gọi tên người, sự vật; trong cách

khai thác vốn từ ngữ địa phương, sử dụng thành ngữ; cách diễn đạt giàu tính

khẩu ngữ.

3.2.1. Cách gọi tên người, sự vật (đại từ, danh từ đậm sắc thái địa

phương) theo thói quen, nghi thức lời nói của cư dân vùng quê Nam Bộ

Người Nam Bộ, quen lối gọi tên kèm theo thứ đứng trước. Lời văn

nghệ thuật trong các tác phẩm của Dạ Ngân, vẫn luôn có cách gọi như vậy: cô

Tư Ràng, chú Tư Thọ, Hai Khâm… trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn; chị

Ba Niệm, chị Tư Khanh, chị Bảy Nghĩa… trong truyện vừa Miệt vườn xa

lắm; Tư Tầm, Năm Gấm trong truyện ngắn Gặp ở Giáp nước…Út Điệp,

Hai Hoành trong truyện ngắn Chiếc ban công trống; Má Ba Phối, Tư

Ruộng trong truyện ngắn Đường dây một người… Cách gọi ấy, vừa thân

mật, gần gũi với người Nam Bộ; lại không phân biệt chức vụ, sang hèn.

Không chỉ có cách gọi tên người, cách gọi tên sự vật cũng mang đậm

chất Nam Bộ. Đó là những thẻo bờ, bông điên điển, dừa nước, nga nghễ,

tâm mức, rượng đáy, gió chướng, đặt lú, lục bình,… trong tập tản văn Lục

bình mải miết. Đó là lẹ chưn, đầu ngàn với hậu vườn, giang đồng, biền

nhà, dớn, choại,… ở tập tản văn Phố của làng. Đó là gương mặt nám đùm

nám đề, mái tóc còi chỉ còn nhúm bùi nhùi sau ót, tàu dừa nước úa xàu

quắt queo trước giông gió cuộc đời trong truyện ngắn Một khúc sông…Đó

còn là đất doi mà con bầy, như cái nùi giẻ, cái cà ràng bằng đất nung …

trong truyện ngắn Muỗi mía.

Có thể nói gì về cách gọi tên người, sự vật mang đậm chất Nam Bộ

trong những sáng tác của Dạ Ngân? Trước hết, chị là một người con của quê

hương Nam Bộ. Bát cơm chị ăn, quê nhà chị lớn, cảnh sắc chị ngắm nhìn, tâm

trạng chị từng trải, tất cả, từ xứ sở quê hương. Dẫu có mười lăm năm sống

cùng chồng trên đất Bắc, thì tâm hồn chị, trái tim chị vẫn là của miệt vườn.

chị vẫn luôn tự hào về điều đó, và gởi gắm điều đó trong những tác phẩm của

mình.

3.2.2. Việc sử dụng từ láy, thành ngữ, điệp ngữ:

3.2.2.1. Việc sử dụng từ láy:

Nhà văn nữ của chúng ta đã sử dụng rất nhiều từ láy trong những sáng

tác của mình, ở mọi thể loại.

Ở truyện ngắn Đừng nói điều ơn nghĩa trong tập Quãng đời ấm áp,

với 18 trang sách, đã có đến 208 từ láy. Các từ láy ấy lại rất khác nhau, ít có

sự lặp lại, và phần lớn là những tính từ, động từ( 198 từ); chỉ có một tỉ lệ nhỏ

danh từ( 10 từ ).

Ở một truyện ngắn khác, Hôm ấy trời đẹp lắm, trong tập Nước nguồn

xuôi mãi, với 11 trang sách, cũng đã có đến 82 từ láy, trong đó, tính từ và

động từ vẫn chiếm phần lớn( 71 từ ), còn lại là danh từ ( 11 từ ).

Ngay cả trong tiểu thuyết Gia đình bé mọn, mật độ từ láy xuất hiện

cũng rất dày. Chương 11 là tiêu biểu. Với 16 trang sách, đã có đến 109 từ láy.

Những từ láy ấy, vẫn rất khác nhau, và hầu như ít có sự lặp lại.

Theo Hoàng Tuệ, Diệp Quang Ban: “ Láy của tiếng Việt phải được

hiểu là “ sự hoà phối ngữ âm có tác dụng biểu trưng hoá”(Hoàng Tuệ), tức

là tạo ra được một thứ ý nghĩa biểu trưng, ý nghĩa “ ấn tượng”[4, 52].

“ Láy không phải là sự lặp lại âm thanh một cách nguyên vẹn, mà là sự

lặp lại âm thanh có biến đổi và có tác dụng tạo nghĩa biểu trưng. Sự biến đổi

âm thanh ở hiện tượng láy là sự biến đổi đều đặn tạo thành những quy tắc

hoà phối ngữ âm khá chặt chẽ”[ 4, 56].

“ Nghĩa của từ láy được tạo thành nhờ đặc điểm âm thanh của tiếng và

sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng. Trong trường hợp từ láy có tiếng có

nghĩa làm gốc, thì nghĩa của từ láy có thể có những sắc thái riêng so với tiếng

gốc như sắc thái biểu cảm, sắc thái giảm nhẹ hoặc nhấn mạnh,…”[ 67, 42].

Chương 11 của tiểu thuyết Gia đình bé mọn, chương viết về chuyến

ra Hà Nội của cô nhà văn Tiệp để gặp người yêu Đính, với những cảm nhận

ban đầu của một người con Miền Nam trước cảnh và người Hà Nội những

năm đất nước mới vừa ra khỏi cuộc chiến tranh, những sắc thái biểu cảm rõ

rệt, nhấn mạnh, đã được nhà văn sử dụng tối đa, với việc dùng những từ láy

sắc thái hoá và từ láy cách điệu. Nhâng nháo, ngất ngây, ngẩn ngơ, trắc trở,

khắc khổ, kham khó, buồn buồn, bải hoải, bủn rủn, vật vã, lì lợm, ngầy

ngà, tình tứ, thê thảm, giả lả, ầm ĩ, nhăn nhó…là những minh chứng.

Sự hoà phối âm thanh giữa các tiếng trong từ láy đã tạo những sự du

dương, êm tai cho nhiều đoạn trong tác phẩm, trong đó có cả truyện ngắn và

tản văn.

Ở truyện ngắn Hôm ấy trời đẹp lắm, Dạ Ngân đã có những đoạn văn

nên thơ với nhiều từ láy được sử dụng. “ Anh đứng tư lự bên hậu vườn hương

hoả nhà mình, tầm mắt luôn hướng về phía đó trong nhiều ngày qua. Trìu

mến với tất cả. Thật sự có ý nghĩa mấy từ nghỉ ngơi, nhau rún, cội nguồn.

Anh không tìm thấy cái bờ ngàn, con kinh thủy lợi đã xẻ đôi cánh đồng của ký

ức anh. Ngày xưa mùa này đồng ruộng thông thống, hậu vườn của anh nhiều

dừa còn hậu vườn của người ấy nhiều tre, khoảng giữa là rơm rạ sáng rộm

lên và chỉ vướng cái bờ ngàn lúp xúp cỏ ống làm ranh giới lãnh thổ của cư

dân hai bên”[ 53,252]. Và “ Cái bờ kinh đã nhấn chìm cái bờ ngàn thương

nhớ của anh xuống bên dưới nó. Không còn biết đâu là đâu. Bông so đũa

trăng trắng đong đưa và nước đang lên óc ách mép bờ. Anh tần ngần hồi lâu,

nắng sớm như có mật ong, gió chướng có mùi nước bạc nhưng cái bờ ngàn

mãi mãi không còn. Anh nghe thấy tiếng trâu ăn cỏ, tiếng dế gáy, tiếng chó

sủa trong ngày trai tráng hai bên giang đồng ới nhau đi dặm chuột và…

Chuyến bay nửa vòng trái đất, tâm trạng bập bềnh hàng tuần liền khi đã

đứng ngay trên quê cha đất tổ, khi tất cả các giác quan bỗng trở nên mẫn

cảm một cách lạ lùng thì anh lại thấy rõ ràng hơn nỗi niềm thường nhật của

mình, cái nỗi niềm không gì diễn tả đủ bằng mấy từ ly hương, xa xứ”[61,

254].

Từ láy được nhà văn sử dụng rất dày ở truyện ngắn này, trước hết, thể

hiện sự phong phú về mặt ngôn từ cuả Dạ Ngân. Với vốn từ đa dạng, chị đã

dễ dàng sáng tạo nên tác phẩm của mình. Từ láy là tính từ đã giúp chị diễn tả

ngày một sâu sắc hơn tâm trạng của nhân vật: tự lự, tần ngần, bập bềnh…

lại có những từ láy làm rõ ý nghĩa cho những danh từ trước nó, như thông

thống, lúp xúp, óc ách… Câu văn nhờ thế, đa dạng hơn, chuyển tải sâu sắc

hơn nội dung, dễ gây xúc động trong lòng bạn đọc.

Ở tản văn Bóng dừa đằng xa, nhà văn cũng đã dẫn dắt người đọc đến

với những đoạn văn giàu cảm xúc “ Càng đi xa bóng dừa, chúng tôi càng cảm

thấy bơ vơ, thật sự cảm giác đất khách quê người, xa lạ và bí hiểm một cách

không lường được. Như một đứa trẻ xa mẹ, luôn luôn thương nhớ và bất an,

cứ bồn chồn và muốn khóc. Cho đến khi quay về, lúc này Tổ quốc đang ở

ngay phía trước, chao ơi, xe vừa đi qua cột mốc, dừa ở đâu ra mà bạt ngàn,

thướt tha, hồn hậu, thảo thơm, cảm giác như được về lại trong bụng mẹ, diệu

kỳ”[60, 6].

Cũng với từ láy, Dạ Ngân đã dẫn dắt người đọc, mang tâm trạng bất an,

lo âu khi rời xa quê hương, Tổ quốc. Để rồi tâm trạng ấy đã được xoá đi, nhạt

nhoà dần, khi chị được nhìn thấy bóng dừa quê hương gần gũi, thân thương,

tạo sự an tâm trong dạ.

Ở một tản văn khác, chúng ta lại nghe những âm điệu du dương của

những câu văn với khá nhiều từ láy, tản văn Mùa phượng cháy “ Khi phượng

nhú bông thì nó càng đáng nể hơn, những chùm búp xanh non hăm hở như

những cô cậu học trò trong tâm trạng thư thái nhất. Rồi không ai chú ý mấy

nữa vì các cô cậu ấy còn bận bịu học ôn. Rồi bỗng dưng một ngày nhiều nắng

tháng Năm, phượng ta bỗng tóe bùng một màu đỏ thắm, rập rờn, náo nức.

Các nam thanh nữ tú bắt đầu thấy xao xuyến một cách vô cớ mà lạ kỳ, thế là

mùa thi đã đến thật rồi, cũng có nghĩa là sau những ngày này sẽ có chia tay,

người đỗ đạt, kẻ rớt lại, cái chính là tuổi công dân đã thật sự bắt đầu và phía

sau là một quãng học trò thần tiên không bao giờ có lại được nữa”[60, 66].

Từ láy dưới bàn tay sắp xếp của Dạ Ngân, đã phát huy rất hiệu quả

tác dụng của nó. Đó là những tâm trạng hăm hở, thư thái, náo nức, xao

xuyến của phượng mà cũng là của những cô cậu nam nữ học trò vào những

mùa thi. Đó còn là những rung động mạnh mẽ của những giờ chia tay, khi

những nam thanh nữ tú sắp để lại sau lưng quãng đời thơ mộng của thời cắp

sách.

Từ láy trong các sáng tác của Dạ Ngân phong phú và đa dạng, phần

lớn thuộc từ láy sắc thái hoá( Là từ láy mà trong đó phần gốc còn đủ rõ

nghĩa và chi phối nghĩa cơ sở của toàn bộ từ láy) , và từ láy cách điệu( Là từ

láy không chứa bộ phận còn đủ rõ nghĩa từ vựng) , đã góp phần tạo nên

những âm điệu du dương trong những trang viết của chị. Và cũng chính

những từ ấy, khi có mặt, đã dễ dàng tạo nên chất thơ trong những sáng tác của

nhà văn.

3.2.2.2. Việc sử dụng điệp ngữ:

Nhiều truyện ngắn của Dạ Ngân đã hiện diện điệp từ. Truyện ngắn Một

khúc sông, với điệp từ đương nhiên, được nhiều lần lặp lại. Cái sự đương

nhiên ấy thuộc về Lộc, con trai của một vị chủ tịch huyện, nhưng đằng sau

những từ đương nhiên ấy, là một sự ấm ức, một sự tức tối, một sự so sánh cho

thân phận của những con người. “Lộc, con trai ngài chủ tịch đương kim quả

là người của mọi sự đương nhiên…Miếng vườn đương nhiên có hoa lợi, ngôi

nhà tường to nhất xóm đương nhiên mọc lên và anh ta cũng đương nhiên

thành ông chủ của Bời trong nhiều việc liên quan tới công xá”[52, 30].

Truyện ngắn Cõi nhà cũng đã xuất hiện những điệp từ. Cũng với mạch

tâm trạng canh cánh lo cho con của một người phụ nữ, trước những thay đổi

về tâm lý của con trai mình, chị đã viết: “Nó, đại biểu hồn nhiên và ưu tú của

thế hệ cứ muốn phắt sướng, lớn lên phải phắt giàu hoặc phắt thành lãnh đạo.

Giờ thì cứ phắt nổi điên!”[52, 94–95].

Người đọc cũng dễ dàng nhận thấy những điệp từ khác xuất hiện trong

truyện ngắn Nàng ở đâu ra, điệp từ hạnh phúc. “ Nàng đã mơ hồ hiểu rằng

hạnh phúc là phải sống cho người khác, là phải biết hy sinh cho đại gia đình

mà nàng, dù bé tí cũng phải cảm thấy tự hào mà vun vén…Hạnh phúc, đó là

lúc bà nội ngồi lùi sau mâm cơm tối bên ngọn đèn dầu vừa và trầu vừa tỉ tê

bài giảng về công đức của tổ tiên và người ông quá cố đã để lại cho con

cháu…Hạnh phúc, cái kén ấy thật kỳ diệu cho tuổi thơ nàng…”[ 56, 88].

Tiểu thuyết Gia đình bé mọn cũng đã có những trang viết nhấn mạnh

ý, thể hiện cảm xúc mạnh mẽ của nhân vật chính, nữ nhà văn Tiệp. Chương 2

của tác phẩm đã có điệp từ goá. Dạ Ngân đã làm người đọc khó quên cảnh

goá bụa của những người phụ nữ trong gia đình mình khi chị viết: “ Vòng vây

của nàng là những bà goá, cô goá, má goá, chị goá, cô em út cũng goá, bốn

bức tường gương mà nếu nàng soi vào thì nàng phải lập tức quên tuổi trẻ và

khát vọng của mình đi để nhớ rằng không thể so sánh nỗi bất hạnh nào với

nỗi bất hạnh của những người goá bụa”[59, 22].

Một sự nhấn mạnh khác, nhấn mạnh về những khuôn phép mà cô Tư

Ràng dạy cho Tiệp từ những ngày chị còn thơ ấu. Điều ấy đã ăn sâu, thật sâu

vào ký ức của chị. “Từ hồi con Tám Tiệp đèo đẹt biết tự tay gài nút áo và chải

đầu thì đã phải thuộc lòng những bài học về sự đàng hoàng của thủ lĩnh Tư

Ràng. Con gái con lứa nhớ sáng ra việc đầu tiên là phải cầm lược chải gỡ

đàng hoàng; người lớn có gọi có bảo phải dạ thưa cho đàng hoàng, khi trả

lời phải đứng ngay ngắn lại nhìn thẳng vào người hỏi để nói năng cho đàng

hoàng…Trong giáo trình của cô Ràng và người thừa nhiệm mẫn cán Hai

Hoài thì Danh dự là đàng hoàng, mà đàng hoàng là thể diện, thể diện là tốt

khoe, xấu che”[59, 79–80].

Ở những trang văn khác trong Gia đình bé mọn, lại là những nỗi niềm

cảm xúc của Tiệp khi hồi tưởng một quãng đời đẹp đẽ lúc ở Cứ. “ Ông( Chú

Tư Thọ) là thủ trưởng trực tiếp của Tiệp, hai chú cháu có năm năm bên n hau

ở Cứ, đã chia sẻ với nhau từng thước đường kênh rạch, chia nhau từng đêm

trăng sao, chia nhau từng bài hát từng bài thơ trên đài qua cái radio Nhật

nhỏ như quyển vở để trên sạp xuồng, chia nhau cả những lần hụt chết, như

cha con, như thầy trò, như bạn bè, như mọi người tri kỷ yêu dấu nhau”[59,

112].

Người đọc cũng dễ dàng tìm thấy những điệp từ, điệp ngữ khác trong

các tản văn của Dạ Ngân. Ở tản văn Một người cha thì như thế nào, Chị đã

nhấn mạnh mặt này để nhằm mục đích chỉ ra sự thiếu thốn của mặt kia “Tuổi

thơ tôi có tất cả, chỉ thiếu một người. Tôi có ông nội quắc thước và mẫu

mực…Tôi có bà nội hát bội rất hay và biết làm nhiều thứ bánh ngon. Tôi có

bà má nhẫn nại bền gan mà lại có thêm người cô út trí tuệ, can cường. sáng

rỡ. Tôi có chị có anh và có mảnh vườn quanh năm cây lành trái ngọt, không

phải thèm khát thứ gì. Tôi chỉ khát thèm mùi mồ hôi của cha, đôi bàn tay cha,

sự ân cần của cha, tất cả, những thứ mà tôi không thể tìm thấy ở ông nội hay

anh trai của mình”[63, 78–79].

Ở tản văn Tuổi thơ của mỗi người, ta cũng sẽ bắt gặp những điệp ngữ

nhấn mạnh những trải nghiệm của nhà văn “Thế nhưng khi ta đi nhiều, biết

nhiều và suy ngẫm nhiều thì ta mới vỡ lẽ, càng rộng dài thiên lý đất trời càng

trập trùng, càng tiếp xúc càng thấy con người trúc trắc, càng khám phá càng

thấy thế gian thật bí ẩn” [52, 122].

Quả tình là, Dạ Ngân đã khéo sử dụng những điệp từ, điệp ngữ để nhấn

mạnh những cảm xúc của mình, làm nổi bật ý mà mình muốn gởi gắm

trong tác phẩm. Người đọc khó quên những bài học đầu đời mà Tiệp được

dạy dỗ bởi cô Tư Ràng. Người đọc cũng không thể nào quên cảnh goá bụa

của những người phụ nữ trong gia đình chị. Và còn nữa, những cảnh xếp hàng

của người Hà Nội, cùng bao điều khó quên khác khi những tác phẩm của chị

đến với bạn đọc, do chị đã sử dụng đúng nơi, đúng chỗ điệp ngữ, điệp từ.

3.2.2.3. Thành ngữ Nam Bộ cũng được Dạ Ngân sử dụng nhiều

Hiểu một cách đơn giản nhất, thì “Thành ngữ là loại cụm từ có cấu tạo cố

định, biểu thị một ý nghĩa hoàn chỉnh. Nghĩa của thành ngữ có thể bắt

nguồn trực tiếp từ nghĩa đen của các từ tạo nên nó nhưng thường thông qua

một số phép chuyển nghĩa như ẩn dụ, so sánh…

Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao”

[67, 144].

Trong các sáng tác của mình, Dạ ngân đã sử dụng nhiều thành ngữ. Gia

đình bé mọn đã xuất hiện những thành ngữ: cơm lành canh ngọt, đứng núi

này trông núi nọ, trống đánh xuôi kèn thổi ngược, chạy trời không khỏi

nắng, góc biển chân trời, trói gà không chặt, trốn chúa lộn chồng, quân

lệnh như sơn, ngàn cân treo sợi tóc, ăn tươi nuốt sống, cơm thừa canh cặn,

rổ rá cạp lại, thân cô thế cô.

Đã có 14 thành ngữ được sử dụng ở đây. Trong đó, có những thành ngữ để

chỉ về mối quan hệ vợ chồng (cơm lành canh ngọt, trốn chúa lộn chồng, rổ

rá cạp lại…), cùng những thành ngữ dạng khác. Những thành ngữ được nhà

văn sử dụng, vừa hàm súc, ngắn gọn, lại rất giàu hình ảnh, mang tính biểu

cảm cao.

Thành ngữ được sử dụng đúng chỗ, đã phát huy hiệu quả của nó, làm bật

được ý của đoạn văn, câu văn, làm tăng sức biểu cảm của tác phẩm.

Ở tập Nhìn từ phía khác, nhà văn cũng đã sử dụng nhiều thành ngữ, nào

là tay hòm chìa khoá, cạn tàu ráo máng, ngàn cân treo sợi tóc, lên bờ

xuống ruộng, …

Với phép chuyển nghĩa ẩn dụ, so sánh, thành ngữ đã làm tăng tính biểu

cảm của đoạn văn, những câu văn của Dạ Ngân, nhờ thế, được nhấn mạnh

thêm, tăng hiệu quả tác động đến người đọc.

3.2.3. Cách diễn đạt giàu chất khẩu ngữ – văn nói mang truyền

thống ngôn ngữ văn chương Nam Bộ

Từ xưa, truyện thơ của các nhà thơ miền ngoài như Nguyễn Du, Phạm

Thái, Nguyễn Huy Tự,… thường có vẻ đẹp của truyện đọc, thơ ngâm; truyện

thơ của các tác giả miền trong mà tiêu biểu là Nguyễn Đình Chiểu lại mang

vẻ đẹp khác vẻ đẹp của thơ kể, văn nói. Sau này, sự khác biệt đó trong văn

chương có thu hẹp đi. Song trong sáng tác văn chương của các tác giả Nam

Bộ hiện đại vẫn lưu lại nhiều dấu vết thơ kể, văn nói của truyền thống quê

hương. Từ góc độ ngôn từ có thể thấy trong tác phẩm của Dạ Ngân một số

dấu vết của truyện kể, văn nói như thế.

3.2.3.1. Lời của những nhân vật trong tác phẩm của Dạ Ngân giàu chất

khẩu ngữ

Là người con của miệt vườn Nam Bộ, Dạ Ngân luôn nhớ về mảnh đất

mình đã được sinh ra và lớn lên. Chị luôn tự hào mình là một cô gái miệt

vườn. Trên mảnh đất ấy, bao người thân yêu quanh chị, trong mái nhà với

nhiều người phụ nữ goá bụa, với xóm làng, với thân tộc, với những người

cùng chung một chiến hào, và cả những con người của bên kia chiến tuyến.

Tất cả những sự gặp gỡ đó, đã để lại trong chị nhiều dấu ấn, khó phai. Trong

đó, có lời lẽ của mỗi người. Chị đã lặng lẽ quan sát họ, lắng nghe họ, cùng

sống với họ, cùng buồn vui trăn trở bên họ. Để những nhân vật trong các tác

phẩm của chị nên vóc nên hình. Và cũng thật tự nhiên, nó đậm đà lời của

những con người Nam Bộ. Làm sao có thể quên lời chị Liệt dặn dò trước khi

chị hướng dẫn đồng chí mình qua lộ: “ Bà con đồng chí mình nhớ cho, khi áp

lộ, phải đi nhón chân trong nước, đi kiểu ba lê này này…Nói là nói vậy chứ

đây là lộ liên tỉnh, lộ Bốn mới gay, ở đây tụi bảo an vừa nhát vừa làm biếng,

rất ít khi đi phục nên cung đường này ít tổn thất nhất”[56, 72–73].

Ở một truyện ngắn khác, Câu chuyện nhiều năm, lại là những lời

thoại đậm phong cách khẩu ngữ Nam Bộ: “ Người nhà Việt cộng hả, rõ ràng

hồi nãy có người từ đây chạy xuống mí vườn!”. Bà má đứng giữa toán lính

xanh môi xanh miệng nhưng cố vung tay làm già: “ Ngồi trên trực thăng cái

gì cũng thành Việt cộng! Hai đứa nhỏ này, đã biểu về đồng dặm lúa rải phân

tới chiều, có ở đêm được đâu mà quần quần áo áo đồ ăn thức uống lùm xùm.

Vìa nhà, biết tay tao!”. “ Bà già xạo! Rõ ràng mấy thứ này để tiếp tế cho Việt

cộng đây!”. “ Nếu đồ tiếp tế thì để dưới ghe chứ đem lên đồng dây chi, mấy

chú!”[49, 22].

Tiểu thuyết Gia đình bé mọn cũng đã có những đoạn văn, câu văn giàu

chất khẩu ngữ. “ Giọng cô Ràng gay gắt:

- Kêu trời thì giải quyết được cái gì chị Ba? Em đã mời chị lên xúm vô

giác đác khuyên bảo thêm cho nó mà chị đâu có chịu. Còn nói như con Hoài,

Tư cũng thấy nghịch nhĩ lắm. Gì thì gì cũng phải nghĩ tới cái danh dự, thử

nghĩ coi ông bây, ba bây, cô bây đây không xả thân ra thì liệu tụi bây có được

n hư ngày hôm nay không?”[59, 23].

Ngôn ngữ văn chương Nam Bộ đã có những nét riêng, phản ánh những

cảnh và người Nam Bộ. Ngôn ngữ trong sáng tác của Dạ Ngân cũng đã rất

gần gũi với những phong tục tập quán của mảnh đất Nam Bộ, với những cách

nói năng suy nghĩ của con người Miền Nam, những người luôn quanh chị,

cùng sống, cùng làm lụng, cùng chịu nhiều mất mát đau thương như chị.

Chính vì thế, dẫu sau này, khi đã có 15 năm sống tại Hà Nội, thì trong lời văn

nghệ thuật mà chị sáng tác , vẫn mang hơi hướng của mảnh đất chị sinh ra,

lớn lên, với bao buồn vui, kỷ niệm. Miệt vườn Nam Bộ máu thịt ấy, chắc chắn

vẫn sẽ còn trên những trang viết của chị dài lâu. Và cũng nhờ thế, bạn đọc

vẫn tìm thấy những nét riêng của Dạ Ngân ở chính những đóng góp cho đời

của chị, bằng những tác phẩm văn xuôi nghệ thuật của mình.

3.2.3.2. Diễn ngôn của người kể chuyện và của cái tôi trữ tình trong sáng

tác của Dạ Ngân có nét tự nhiên

- Diễn ngôn của người kể chuyện trong truyện ngắn, tiểu thuyết của Dạ

Ngân có vẻ tự nhiên, ít trau chuốt.

Ở truyện ngắn Thi vi cuộc đời, đã có nhiều đoạn, người kể chuyện dẫn dắt

mạch truyện một cách bình dị, không trau chuốt. Lời dẫn chuyện có thể là

“Đám nhậu nhìn ra, cùng reo lên, ồn ào mời Tâm nhập bọn”, “Tâm ngồi sà

xuống mâm nhậu, lấy đôi đũa của ai đó, gắp miếng thịt rắn bỏ vô miệng nhai

ngon lành”; “ Chị sẽ đi. Người ta sinh ra cái miệng không phải chỉ để ăn, để

nói mà còn để kêu, và đôi chân không chỉ để làm lụng, rong chơi, mà còn để

đến những nơi cần đến!” [49, 80 – 81 – 93].

Cứ thế, lời dẫn chuyện vẫn cứ như lời nói thường ngày, những ngôn từ

bình dân, giản dị. Với Dạ Ngân là thế, ít trau chuốt. Có lẽ, chị chỉ trau chuốt

cho lời dẫn của mình khi thật sự cần.

Lại một truyện ngắn khác, Người của mỗi người, phản ánh mặt trái của

những gia đình, khi con dâu coi mẹ chồng chỉ là một thứ “đồ ăn hại”. Lời

dẫn cũng thật trần trụi, giống tình huống dẫn tới một kết cuộc khó có thể khác

hơn. “Con mèo bỗng thành cái bia để họ nhắm bắn nhau, hạ sát nhau và mặc

cho bà mẹ can gián, trong trớn giật điên cuồng, nàng dâu giật con tam thể

trong tay con gái, dụng hết công lực như vận động viên ném nó vào tường

trong tiếng kêu thất thanh của đứa trẻ. Cùng tiếng tru hể hả: Chết đi, đồ ăn

hại, chết bớt đi!” [51, 56]. Phải chăng, chính từ đời sống khó khăn, đã khiến

con dâu có thái độ, lời lẽ bóng gió với mẹ chồng. Hay đây lại là sự đảo lộn

trật tự của nền nếp gia phong, mà nhà văn muốn gióng lên hồi cảnh báo.

Hài kịch cuối đời là một truyện ngắn khác của Dạ Ngân. Ở đó, diễn ngôn

của người kể chuyện đã mang ít nhiều “dấm ớt”, hình ảnh của một người cán

bộ nhàn rỗi, vô tích sự nhưng vẫn là người có quyền ăn nói trước mọi người

dưới ngòi bút của nhà văn như dự báo một hành động không hay “Khi ấy ông

ngồi vặt râu trong cuộc họp với một cơ quan hành chính đang mắc căn bệnh

thời đại là đấu tranh nội bộ, mà ông phải nói lên tiếng nói phân giải cuối

cùng của nhà tổ chức, bỗng nghe người rùng xuống bần thần như trúng gió

và hình ảnh mà ông vụt loé lên sắt nét, nhói đau rồi biến nhanh như một tia

chớp” [52, 136].

Ở Cùng trời cuối đất, Dạ Ngân đã viết: “Gã ta cũng không khéo chọn

chỗ để trốn chạy lắm đây. Không khí mùa khô đất Tây Nam dễ chịu. Đã nghe

thấy hơi núi giác chiều, trời sẫm đỏ thứ hoàng hôn mà gã từng viết… Thật

đáng mặt cái thứ hoàng hôn cuối trời của gã!” [61, 240]. Cách gọi nhân vật

của mình cũng đã là một sự bỗ bã; cách nhìn về nơi đến của nhân vật, cùng

với cách gọi một hành động của nhân vật đã giúp người đọc nhận ra: Lời

người dẫn truyện như chẳng có một sự trau chuốt nào, nó tự nhiên vào mạch

truyện.

Gia đình bé mọn cũng với lối diễn ngôn của người kể chuyện mang đậm

mùi vị “dấm ớt”. Ý thức luôn phán xét của một người viết văn, nhìn sự việc ở

cả hai mặt của nó, đã dẫn dắt Dạ Ngân viết lên những dòng “Công việc hàng

tuần của chồng nàng là chạy sang mấy cái ngành lính – lúa – lương để lấy số

liệu gọi là tiến độ trong tuần…, ngoài ra còn phải tập tọng viết diễn văn cho

mấy ông lãnh đạo đi hỡi hỡi ở các cuộc mít tinh và tổng kết…” Sự gian khổ,

lận đận, sự vất vả, lo toan, sự đắng cay, đau khổ như dồn nén lại, để người

dẫn truyện viết nên “Bất chấp những nguyên do nổi chìm thế nào, cuối cùng

họ vẫn đến, những ông nhũng bà đằng đằng sát khí ấy vẫn đến, như cơn bão

đã hình thành thì chỉ còn nước ngồi đợi xem sức gió của nó thuộc cấp mấy”

[59, 190]. Nhưng dầu nhũng xúc động mãnh liệt, thì lời dẫn vẫn là những lời

tự nhiên, không thấy dấu dụng công.

- Cũng như thế, trong diễn ngôn của cái tôi trữ tình ở tản văn Dạ Ngân ít

thấy sự làm duyên, làm đẹp lộ liễu, mà thấy nét đẹp mộc, tự nhiên, hầu như

không điểm trang son phấn, nghĩ sao nói vậy.

Dạ Ngân đã viết nhiều tản văn. Trong số đó, không ít tản văn mang đậm cá

tính cùng những tình cảm sâu nặng của chị, về quê hương, về những cảnh sắc,

về những hương vị, về những con người chị đã từng gặp, từng làm việc, từng

chung một chiến hào.

Hãy đọc những dòng chị viết trong Nơi tận cùng bờ cõi “Cầu Tháng

Giêng Bảy Chín ban đêm trông uy nghi hơn nhiều sau giờ đóng cửa khẩu…

Một cây số rộng phía bờ bắc là đường biên, thật rạch ròi của ý nghĩa bờ và

cõi, thả chân chầm chậm trên chiếc cầu quan trọng ngang với Kỳ Lừa chót

vót ở Lạng Sơn, hẳn ai cũng sẽ thấy tâm hồn tràn ngập nỗi niềm thế sự”

[55,20]. Là một người đã từng đi qua chiến tranh, hiểu những nỗi khổ của

chiến tranh, chị yêu quý Tổ quốc, quý trọng từng tấc đất quê hương một cách

chân tình, mộc mạc.

Hãy đọc lại tản văn Tết miệt vườn của Dạ Ngân để thấy chị có cái duyên

lôi cuốn người đọc đến với những trang viết của mình: “Vâng, không khí bắt

đầu từ những gốc mai ấy đấy. Khoảng giữa tháng chạp là người ta dứt lá cho

mai và sau đó, con người bỗng đọc thấy giữa những cành nhánh trơ trụi của

nó có cái gì trọng đại sắp bắt đầu” [55, 74]. Cái duyên ấy, đến tự nhiên như

mạch nghĩ suy và tấm lòng của chị đối với Tết quê nhà.

Ánh đuốc tuổi thơ, một tản văn khác của chị, cũng có lối dẫn chuyện tự

nhiên mà hợp lý đến vậy. Đi từ sản vật mộc mạc đến tình người, đơn sơ mà

gần gũi, bình dị mà không kém nên thơ. “Xứ này là dừa nhiều lắm, nhiều vô

kể. Có lẽ vậy mà người trong ấp xóm rất hay đi lại với nhau. Đi để củng cố

tình giao hảo láng giềng. Đi để chia sẻ nổi niềm mà ngày thường chỉ có thể

trò chuyện với cây cối hiu quạnh, đi để đánh lên trong đêm ánh đuốc lá dừa

làm át đi ánh sáng của lũ đom đóm và bóng tối u hoài bên sông Cái”[57, 36].

Có khi, lại là lời gợi mở để người đọc hình dung về những sản phẩm rất

lâu đời của quê hương, mang dáng dấp của văn hoá cội nguồn, nếu một lúc

nào đó thiếu vắng. Đó cũng là những diễn ngôn của cái tôi trữ tình ở tản văn

của Dạ Ngân, không nhiều lời, nhưng đằng sau đó, là đau đáu một nỗi niềm

về chiếc nón lá bình dị của dân tộc, ở tản văn Tôi thèm nón lá “Thử hình

dung, trên một thửa ruộng hay trên một dòng sông vào một ngày nào đó ta

bỗng dung không nhìn thấy bóng dáng chiếc nón lá đâu nữa. Cùng với chiếc

áo dài, chiếc nón lá là hiện thân của người phụ nữ Việt…” [60, 26].

Ở tản văn Gánh hàng hoa, diễn ngôn của cái tôi trữ tình trong tản văn này

vẫn đẹp tự nhiên như vậy. Không nhiều lời, không làm duyên làm dáng,

nhưng người đọc vẫn có thể hình dung trong tâm trí mình vẻ đẹp nguyên sơ

của hoa ở Tây Hồ. Vẻ tươi tắn của hoa mạn Hồ Tây được Dạ Ngân chuyển tải

đến bạn đọc một cách chân chất, nhưng hết sức ấn tượng “Thích nhất vẫn là

những nhánh hoa trên xe đạp của các cô hay bán dạo quanh Tây Hồ. Hoa

này mới đích thị là hoa gốc, hoa din của đất làng hoa. Chúng tươi ròng ròng,

tươi đến độ không chút khả nghi về phẩm hạnh tươi của chúng. Bó nào và

loại nào cũng tươi tắn dâng hiến như nhau” [62, 230 – 231].

Cùng một lối viết như thế, Dạ Ngân còn có Những bông hồng cổ, Hoa

xoan lớp lớp, …hay gần gũi với nó, là Mùa bông tràm, Ô môi đang mùa…

Diễn ngôn của cái tôi trữ tình trong tản văn Dạ Ngân tiếp tục là nỗi niềm

khắc khoải khi nghĩ về những kỳ nhân, những người làm nên giá trị tinh thần

cho Sài Gòn, như móng của một toà nhà, ở tản văn Khoảng trống kỳ nhân

viết về nhà văn Sơn Nam. Diễn ngôn ấy, nhìn ở bề sâu, nhìn ở bề xa “Móng

nhà không là thứ lộ thiên… Nhưng không có cái móng âm thầm ấy thì đã

không có một toà nhà” [63, 39].

Có thể nói, với những sáng tác của mình, Dạ Ngân đã có lối diễn đạt giáu

chất khẩu ngữ - văn nói mang truyền thống ngôn ngữ văn chương Nam Bộ.

Văn chị mang hơi hướng lời nói thường ngày nhưng vẫn ẩn chứa những phát

hiện những nét bản chất của mối quan hệ nhân sinh. Người đọc còn tìm đến

những sáng tác của chị bởi cái duyên ngầm của những diễn ngôn của người

kể chuyện trong truyện, của cái tôi trữ tình trong những tản văn chị đã mang

đến cho đời. Ngẫm cho cùng, sự giản dị trong diễn đạt, dẫu trong văn chương,

vẫn dễ đi vào lòng người, để văn của chị vẫn còn đọng mãi trong lòng bạn

đọc.

KẾT LUẬN

4.1. Những trải nghiệm của cuộc đời của một người phụ nữ đã là chất men

nồng để Dạ Ngân đến với những cảm hứng trong sáng tạo nghệ thuật, để từng

trang văn của chị ra đời. Những trải nghiệm ấy, phong phú, đa dạng, để những

cảm hứng trong sáng tác của chị cũng nhiều vẻ như chính cuộc đời của nhà

văn. Một Dạ Ngân của cái hôm qua và cái hôm nay. Một Dạ Ngân đã nhìn

cuộc sống ở nhiều góc cạnh: Những nét đẹp vẫn luôn ẩn chìm và hiện hữu ở

tâm hồn con người cả trong và sau chiến tranh, lẫn những mặt còn khuất tất

của những con người thời hậu chiến, và cả những niềm tin của một đời sống

tâm linh vẫn luôn đang hiện diện.

Trên tất cả, những sáng tác của Dạ Ngân vẫn là tiếng nói của lòng nhân

hậu và niềm tin. Dẫu có chua cay, dẫu có những khi oán hận; có khi là lời tự

trách, nhưng ở tầng sâu của những nỗi niềm mà nhà văn gởi gắm, vẫn tràn

ngập những tiếng nói trân trọng, cảm thương cho thân phận con người; những

con người trong chiến tranh, bước ra từ chiến tranh và trong muôn mặt đời

thường. Những tiếng nói ấy cất lên từ ký ức không dễ mờ phai của Dạ Ngân,

từ biết bao thao thức nghĩ suy về những nghịch cảnh và thân phận con người

của chị. Trong những phận người ấy, thân phận người phụ nữ của ngày hôm

qua và cả của ngày nay, vẫn còn bao điều nhà văn luôn suy tư, trăn trở.

Cảm hứng nghệ thuật của chị còn là những nỗi niềm với quê hương. Bàng

bạc trong các trang viết của chị, là một tình yêu quê hương sâu nặng. Những

vẻ đẹp bình dị, mộc mạc của miệt vườn của miền Tây Nam Bộ, những hương

vị của những sản vật dân dã mà sao quá đỗi đậm đà của quê hương, luôn thấp

thoáng trong những truyện ngắn, truyện vừa của chị ngày xưa, và trở về tràn

đầy trong những tản văn của chị gần đây. Trên nền của những cảnh sắc,

hương vị ấy, vẫn là con người Nam Bộ với những cá tính riêng mang đậm bản

sắc văn hoá của một vùng.

4.2. Nếu những cảm hứng nghệ thuật của Dạ Ngân đa diện, đa chiều, thì về

mặt thể loại và phương thức tự sự, nhà văn đã có những nét riêng và đóng

góp đáng kể.

Chị đã có những sáng tạo ở nhiều thể loại: Từ những truyện ngắn ban đầu,

đến tiểu thuyết, truyện vừa và những tản văn về sau. Bạn đọc cả nước nhớ đến

Dạ Ngân bởi nhiều truyện ngắn của chị. Sự sắc sảo của Dạ Ngân trong cách

nhìn về những cảnh ngộ của cuộc đời, về cách ứng xử của con người trước

những tình huống bất ngờ, đã tạo cho những trang viết của chị luôn hấp dẫn

người đọc.

Không chỉ ở sự từng trải, Dạ Ngân đã có những nét riêng khi thể hiện

những sáng tác của mình ở những phương thức khác nhau. Sự khắc họa tâm

trạng nhân vật một cách sâu sắc, ấn tượng đã để lại những tác phẩm đọng mãi

trong lòng người đọc. Đọc Gia đình bé mọn, người đọc không thể nào quên

những cảm giác, cảm xúc của Tiệp trong tình yêu, cũng như tâm trạng dằn vặt

của một người mẹ luôn mặc cảm không sống hết mình cho con. Những cảm

giác, tâm trạng ấy được Dạ Ngân thể hiện trên những trang viết của mình một

cách tinh tế, sâu sắc.

Dấu vết cuộc đời của tác giả cũng đã được ghi lại những nét rất rõ trong

sáng tác của nhà văn. Từ Miệt vườn xa lắm đến Gia đình bé mọn là một sự

tiếp nối của cuộc đời chị, cũng là cuộc đời của cô Tiệp năm nào, giờ đã lớn

lên; với bao hạnh phúc, với nhiều khổ đau. Nếu ngày xưa, một cô bé Tiệp vô

tư, vô lự ở mảnh vườn của gia đình; thì nay, một cô Tiệp phải gồng mình

chống lại bao điều tiếng, bao sự bủa vây, từ trong gia tộc, đến cơ quan, để đến

với tình yêu thực sự của mình. Những chi tiết nghệ thuật trong sáng tác của

chị được chị phác họa đơn sơ nhưng với tài năng, với cách quan sát tinh tế

con người và sự việc, đã giúp Dạ Ngân làm nên những trang viết gây ấn

tượng với bạn đọc.

Mặt khác, ở tản văn, chị đã có nhiều trang viết mượt mà, đẫm chất thơ.

Phải chăng, khi viết về quê hương, về những cảnh sắc quê nhà, về những sản

vật bình dị của một miền quê, chính cảm xúc từ trong sâu thẳm tâm hồn đã

dẫn dắt ngòi bút của Dạ Ngân trải nhẹ tênh, thênh thang trên tác phẩm?

Không chỉ ở tản văn, truyện ngắn và tiểu thuyết của chị cũng đã có những

trang tràn đầy thơ mộng.

Với một số lượng tác phẩm không nhỏ trong suốt hai mươi lăm năm cầm

bút, Dạ Ngân cũng có những thành công trên bình diện phương thức tự sự.

Từ những cảnh ngộ, tình huống trong cuộc đời mà chị đã quan sát hoặc

trải qua, Dạ Ngân đã khéo sáng tạo nên những tình huống trong tác phẩm của

mình, và sắc sảo trong khắc hoạ nhân vật. Để một cô Tư Ràng ung dung, thư

thái, quyền uy trong Miệt vườn xa lắm vẫn tiếp tục là một cô Tư Ràng quyền

uy, mạnh mẽ trong Gia đình bé mọn.

Ký ức ngày xưa luôn luôn hiện về trong cuộc sống ngày nay, để tác phẩm

của Dạ Ngân vẫn là một dòng chảy đan cài giữa hiện thực và hoài niệm. Và

đêm đêm, bên chiếc máy đánh chữ của mình, nhà văn vẫn cứ thủ thỉ với mình,

để những lời thủ thỉ ấy, ngày sang ngày, đến được với công chúng, với bạn

đọc yêu mến những trang văn của chị, để rồi bạn đọc cùng nghĩ suy, cùng

buồn vui với chị.

4.3. Tài năng của Dạ Ngân, của một nhà văn nữ, đã được bạn đọc khẳng

định. Tài năng ấy được thể hiện rõ ở những ngôn từ nghệ thuật mà Dạ Ngân

đã viết nên. Những ngôn từ nghệ thuật ấy rất phong phú, đa dạng, tinh tế, diễn

tả chính xác những cảnh, những hình, những cung bậc của tình cảm.

Đã có một sự hài hoà giữa chất văn xuôi và chất thơ trong lời văn nghệ

thuật của Dạ Ngân. Có thể ở đây là những lời văn đầy góc cạnh, thông tục; thì

ở nơi khác, lời văn lại mang âm hưởng trữ tình, bay bổng, mượt mà. Chính sự

hoà hợp tự nhiên giữa chất văn xuôi và chất thơ đã tạo nên sự đa dạng thẩm

mỹ trong sáng tác của nhà văn. Ở tản văn, trong truyện ngắn, cả trong tiểu

thuyết, nhiều trang văn của Dạ Ngân giàu chất thơ, và đó đây, thể hiện những

suy tư, triết luận

Lời văn nghệ thuật của Dạ Ngân còn là sự hài hoà giữa ngôn ngữ toàn dân

và phương ngữ Nam Bộ; và còn là sự hài hoà giữa tự sự, trữ tình và chính

luận.

Bạn đọc cả nước dễ nhận ra chất Nam Bộ đậm đặc trong lời văn nghệ

thuật của Dạ Ngân. Cách gọi tên người, sự vật với những đại từ, danh từ

mang đậm sắc thái địa phương; cùng những lớp từ ngữ mang trầm tích văn

hoá Nam bộ; với sự vận dụng những điệp ngữ, thành ngữ trong tác phẩm của

mình, cách đặt câu, trình bày, diễn đạt giàu chất khẩu ngữ mang truyền thống

ngôn ngữ văn chương Nam Bộ, những trang viết đã mang dấu ấn Dạ Ngân.

Đặc biệt, Dạ Ngân đã sử dụng rất nhiều từ láy trong các tác phẩm của

mình. Những từ láy, vừa phong phú, đa dạng, chính xác mà hiệu quả trong

sáng tạo nghệ thuật đã góp phần cùng với những yếu tố khác của lời văn nghệ

thuật làm cho những lời văn nghệ thuật của Dạ Ngân có những nét rất riêng,

giàu tính nhạc, không lẫn với bất cứ một nhà văn nữ nào khác.

4.4. Quá trình sáng tác của Dạ Ngân diễn ra cùng thời với quá trình đổi

mới văn học theo hướng dân chủ hóa; chính những làn gió mạnh mẽ của công

cuộc đổi mới của Đảng đã mở ra một khung trời rộng, đã tạo điều kiện cho

những sáng tác văn học nghệ thuật mới ra đời, trong đó có những tác phẩm

của Dạ Ngân với những nét đặc sắc riêng. Với những sáng tạo ấy của chị, Dạ

Ngân đã lặng lẽ góp những đứa con tinh thần của mình vào nền văn học Việt

Nam đương đại. Chúng ta trân trọng với những đóng góp bền bỉ của Dạ Ngân,

trong suốt chặng đường một phần tư thế kỷ vừa qua.

THƯ MỤC THAM KHẢO

1. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học về sự phát triển, Tạp chí Văn

học số 4/1995.

2. Phan Thị Vàng Anh (1995), Khi người ta trẻ, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

3. Phạm Thanh Ba (1989), Về một chặng đường văn xuôi (lược thuật hội

thảo của Hội đồng văn xuôi mở rộng, Báo văn nghệ số 12, 13/1989.

4. Diệp Quang Ban (Chủ biên), Hoàng Văn Trung (2006), Ngữ pháp

Tiếng Việt, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

5. Nguyễn Thị Bình (1996), Những đổi mới của văn xuôi nghệ thuật Việt

Nam sau 1975, Luận án Phó Tiến sĩ khoa học Ngữ văn.H. 1996.

6. Nguyễn Bính (1939), Tương tư, thơ, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội

(Tái bản 2009).

7. Nguyễn Minh Châu (1981), Đôi điều về truyện ngắn, Văn Nghệ Quân

đội (số 8,1981).

8. Nguyễn Minh Châu (1983), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành,

Nxb tác phẩm mới, Hà Nội.

9. Nguyễn Minh Châu (1987), Hãy đọc lời ai điếu cho một giai đoạn văn

nghệ minh họa, Báo Văn nghệ số 49,50/1987.

10. Nguyễn Minh Châu (1989), Cỏ lau, Nxb Văn học, Hà Nội.

11. Trương Chính, Đặng Đức Siêu (1978), Sổ tay văn hoá Việt Nam, Nxb

Văn hoá, Hà Nội.

12. Hoàng Thị Kim Cúc (2008), Phong cách truyện ngắn Dạ Ngân, Luận

văn Thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh, Nghệ An;

13. Nguyễn Văn Dân (2006), Phương pháp luận nghiên cứu Văn học,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội;

14. Trần Ngọc Dung (2006), Đời sống thể loại văn học sau 1975, Nghiên

cứu Văn học số 2/2006.

15. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lý luận văn học, phần tác phẩm văn

học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

16. Phan Cự Đệ (1978), Tiểu thuyết Việt Nam hiện đại (2 tập), Nxb Đại

học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội; Tái bản lần thứ ba (2001), Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

17. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

18. Phan Cự Đệ (chủ biên) (2007), Truyện ngắn Việt Nam – lịch sử – thi

pháp – chân dung, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

19. Dương Thị Lệ Giang (2005), Những nét đặc sắc trong tản văn của

Hoàng Phủ Ngọc Tường, Luận văn thạc sĩ ngữ văn, Trường ĐHSP Huế.

20. Lê Bá Hán – Trần ĐÌnh Sử – Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007),

Từ điển Thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

21. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học– vấn

đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

22. Hoàng Ngọc Hiến (1991), Thi pháp của truyện, Báo Văn nghệ số

31/1991.

23. Đỗ Đức Hiểu, Nguyên Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (Chủ

biên) (2004), Từ điển Văn học, Nxb Thế giới, Hà Nội.

24. Tô Hoài, Tản mạn Miệt vườn xa lắm của Dạ Ngân.

25. Phạm Hổ (2005), Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

26. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển Bách Khoa Việt Nam

(2005), Từ điển Bách Khoa Việt Nam, tập 4, Nxb Từ điển Bách Khoa, Hà

Nội.

27. Cao Thị Huệ (2006), Sáng tác của Dạ Ngân, Luận văn Thạc sĩ ngữ

văn, Trường ĐHSP Hà Nội, Hà Nội;

28. Nguyễn Thanh Hùng (2008), Đọc hiểu tác phẩm văn chương trong

nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

29. Mai Hương (1991), Truyện ngắn của Dạ Ngân, Tạp chí Nghiên cứu

Phụ nữ số 2/1991.

30. Chu Huy (1986), Quãng đời ấm áp, Báo văn nghệ số 48/1986.

31. Nguyễn Khải (1982), Gặp gỡ cuối năm, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

32. Nguyễn Khải (1985), Thời gian của người, Nxb Tác phẩm mới, Hà

Nội.

33. Nguyễn Khải (2009), Tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

34. Ma Văn Kháng (1986), Mùa lá rụng trong vườn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

35. Chu Lai (1994), Nghĩ về hơi văn một vùng sông nước, Văn nghệ Quân

đội số 4/1994.

36. Lý Lan (2009), Bày tỏ tình yêu, Nxb Văn nghệ, Tp.HCM.

37. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi

được giải, Tạp chí Văn học số 12/ 1994.

38. Tôn Phương Lan (2001), Một vài suy nghĩ về con người trong văn xuôi

thời kỳ đổi mới, Tạp chí Văn học số 9/2001.

39. Phong Lê (2005), Nguời trong văn, Nxb Văn hoá Sài Gòn, Tp.HCM.

40. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam thời đại mới, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

41. Nguyễn Văn Long – Lã Nhâm Thìn (đồng chủ biên) (2006), Văn học

Việt Nam sau 1975– Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo

dục, Hà Nội

42. Lê Lựu (1986), Thời xa vắng, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

43. Phương Lựu (chủ biên) (2003), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà

Nội;

44. Trần Thuỳ Mai (2001), Quỷ trong trăng, Nxb Trẻ, Tp.HCM.

45. Nguyễn Đăng Mạnh (2000), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của

Nhà văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội (Tái bản lần thứ hai).

46. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại

học Quốc gia Hà Nội (Tái bản).

47. Nguyễn Đăng Mạnh – Bùi Duy Tân – Nguyễn Như Ý (đồng chủ biên)

(2009), Từ điển tác giả tác phẩm văn học Việt Nam dùng cho nhà trường,

Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội;

48. Hoài Nam (2005), Bốn lời bình cho Gia đình bé mọn, Báo người đại

biểu nhân dân ngày 25/7/2005.

49. Dạ Ngân (1986), Quãng đời ấm áp, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội.

50. Dạ Ngân (1989), Ngày của một đời, Nxb Văn nghệ TP Hồ Chí Minh.

51. Dạ Ngân (1990), Con chó và vụ ly hôn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

52. Dạ Ngân (1993), Cõi nhà, Nxb Thanh Niên, Hà Nội.

53. Dạ Ngân (1995), Truyện ngắn chọn lọc, Nxb Văn học, Hà Nội.

54. Dạ Ngân (1997), Truyện ngắn chọn lọc (in chung với Nguyễn Quang

Thân), Nxb Phụ nữ.

55. Dạ Ngân (2000), Mùa đốt đồng, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

56. Dạ Ngân (2002), Nhìn từ phía khác, Nxb Hà Nội.

57. Dạ Ngân (2002), Lục bình mải miết, Nxb Kim Đồng, Hà Nội.

58. Dạ Ngân (2003), Miệt vườn xa lắm, Nxb Kim Đồng, Bản in lần thứ ba,

Nxb Kim Đồng, 2006.

59. Dạ Ngân (2005), Gia đình bé mọn, Nxb Phụ nữ, Hà Nội; Nxb Thanh

niên 2010 (tái bản lần 5).

60. Dạ Ngân (2006), 100 tản mạn hồn quê, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

61. Dạ Ngân (2008), Nước nguồn xuôi mãi, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

62. Dạ Ngân (2010), Phố của làng, Nxb Thanh niên, Hà Nội .

63. Dạ Ngân (2010), Gánh đàn bà, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

64. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ, TP Hồ Chí

Minh;

65. Nhiều tác giả (2010), Văn mới 5 năm 2006–2010, Nxb Hội Nhà văn, Hà

Nội.

66. Bảo Ninh (2005), Thân phận của tình yêu, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

67. Nguyễn Khắc Phi (Tổng Chủ biên) (2011), Ngữ văn 7, tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội (Tái bản lần thứ tám).

68. Băng Sơn (2005), Thú ăn chơi người Hà Nội, Nxb Văn hoá Thông tin,

Hà Nội.

69. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, Bộ Giáo

dục và Đào tạo, Hà Nội.

70. Trần Đình Sử (chủ biên) (2004), Tự sự học – một số vấn đề lý luận và

lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.

71. Quách Thanh Tạng (2011), Đặc điểm truyện của Dạ Ngân, Luận văn

thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Cần Thơ.

72. Ngô Thảo & Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1995), Nhà văn Việt Nam

chân dung tự họa tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội;

73. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn – Những vấn đề lý thuyết và thực

tiễn thể loại; Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

74. Bùi Việt Thắng (2008), Phía trước của tiểu thuyết, trích từ Tuyển tập

các bài viết về Tiểu thuyết ở Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội. .

75. Nguyễn Thành Thi (2000), Phong cách Văn xuôi nghệ thuật Thạch

Lam, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn.

76. Nguyễn Thành Thi (2010), Văn học – Thế giới mở, Nxb trẻ, Tp.HCM.

77. Nguyễn Huy Thiệp (2010), Giăng lưới bắt chim, Nxb Thanh niên, Hà

Nội.

78. Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam bộ, Nxb Khoa học Xã

hội, Hà Nội.

79. Ngô Đức Thịnh (Chủ biên) (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn

hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

80. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mỹ và văn hoá, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

81. Truyện ngắn ba tác giả nữ đồng bằng sông Cửu Long (2005), Nxb

Văn học.

82. Nguyễn Tuân (1988), Cảnh sắc và hương vị đất nước, Nxb Tác phẩm

mới, Hà Nội.

83. Nguyễn Tuân (2009), Tác phẩm chọn lọc Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà

Nội.

84. Nguyễn Văn Tùng (2008), Tuyển tập các bài viết về Tiểu thuyết ở Việt

Nam thế kỷ XX, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

85. Nguyễn Ngọc Tư (2008), Biển của mỗi người, Nxb Văn hoá Sài Gòn,

Tp.HCM.

86. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến

đầu thập niên 90, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn.

87. Chế Lan Viên (2009), Những tác phẩm chọn lọc, Nxb Giáo dục Việt

Nam, Hà Nội.

88. Viện Ngôn ngữ học (2006), Từ điển từ láy Tiếng Việt, Nxb Văn hoá

Sài Gòn, Tp.HCM.

89. Nguyễn Anh Vũ (2005), Đọc truyện ngắn ba tác giả nữ đồng bằng

sông Cửu Long, Báo Văn nghệ số 27/2005.

90. Nguyễn Như Ý (2009), Từ điển thành ngữ học sinh, Nxb Giáo dục

Việt Nam.

PHỤ LỤC 1

THỐNG KÊ TỪ LÁY Truyện ngắn: Đừng nói điều ơn nghĩa (Tập “Quãng đời ấm áp” – NXB Phụ Nữ 1986)

Từ láy là

Các từ láy Số lượng Trang (của truyện) Danh từ Động, tính từ

1 6 6

2 12 2 10

3 9 9

4 15 15

5 10 10

6 18 18

7 9 9

8 12 12

9 11 11

10 18 2 16 dữ dội, ngượng nghịu, lóng ngóng, chúm chím, xẻn lẻn, lúng búng. sượng sùng, xác xơ, song song, rậm rì, lau lách, lé đé, lực lưỡng, thành thạo, lụp bụp, chốc chốc, bực bội, mên mến. tíu tít, rải rác, điêu đứng, gồng gánh, dìu dắt, ngao ngán, lặt vặt, xoay xở, đơn độc. mò mẫm, vĩnh viễn, nấu nướng, nghìn nghịt, dạn dĩ, vất vả, vo ve, lóng ngóng, nhút nhát, lo lắng, hùng hục, cày cục, chu chu, đăm đăm, nhỏ nhắn. sáng sủa, cao cả, sắm sửa, háo hức, nhấp nhỏm, tỉnh tảo, cẩn thận, hin hỉn, hun hút, chu chu chúm chím, ngượng nghiụ, lóng ngóng, vụng về, hun hút, chu chu, cần cù, dửng dưng, nhút nhát, săm soi, lâu lắc, mênh mông, uyển chuyển, hờ hững, xinh xinh, khe khẽ, đinh ninh, rủ rỉ. đùng đục, run run, rối rắm, nghiêm nghị, bối rối, bực bội, cau có, phũ phàng, luống cuống. dạt dào, gấp gáp, âm thầm, tinh tế, trắng trẻo, mịn màng, tán tỉnh, vụng về, thảm thương, khinh khỉnh, đắm đuối, thẫn thờ. hả hê, nhẹ nhàng, lục tục, vất vả, sàm sỡ, căng thẳng, nặng nề, liên miên, loáng thoáng, chình ình , đủng đỉnh. cơ sở, lực lượng, lụm cụm, tíu tít, săm soi, bàn tán, lớn lao, nghêu ngao, khấp khởi, vời

12 12 11

15 3 12 12

11 1 10 13

11 1 10 14

15 1 14 15

8 8 16

11 11 17

5 5 18 vợi, thiên thanh, bồi hồi, lả lướt, xao xác, chết chóc, dữ dội, rú rít, xèn xẹt. ngoan ngoãn, thác lác, lực lưỡng, sơ sài, tới tấp, ào ào, ấm áp, ngượng nghiụ(2 lần), rụt rè, cứng cỏi, lởn vởn. tò mò, độc địa, mệnh lệnh, nhẹ nhàng, lấp lánh, sôi nổi, trang trọng, hồi hộp, hào hứng, thủ thuật, nghỉ ngơi, hầm hố, chống chọi, hung hăng, hộc tốc. tất bật, đồ đạc, chồm hỗm, lồng lộn, rôm rốp, hậm hực, tè tè, lắc lư, dẹp lép, nóng nảy, căng thẳng. lùm lùm, gay go, đớt đát, nho nhỏ, bồng bông, lé đé, hoảng hốt, căng thẳng, nồng nồng, cầu cứu, gởi gắm. dáo dác, chống chọi, đơn độc, lụm cụm, vu vơ, vĩnh viễn, lất phất, mù mịt, mòng mọng, lát lát, sụt sùi, lều bều, ào ào, đủng đỉnh, lập cập. nhỏ nhắn, lố nhố, sùm sụp, lảo đảo, khủng khiếp, thiêng liêng, lào xào, run run. lặng lẽ, lầm lũi, xanh xao, vật vã, nghỉ ngơi, ngắn ngủi, thanh thản, đau đớn, thì thào, ân hận, phũ phàng. lòng khòng, lực lưỡng, xinh xắn, vững vàng, nồng nàn.

Tổng cộng 208 10 198

PHỤ LỤC 2

THỐNG KÊ TỪ LÁY Truyện ngắn “Hôm ấy trời đẹp lắm” (12/ 2005) (Tập “Nước nguồn xuôi mãi” – NXB Phụ Nữ, 2008)

Từ láy là

Các từ láy Số lượng Trang (của truyện) Danh từ Động, tính từ

1 10 2 8

2 9 9

3 12 2 10

4 6 6

5 5 5

6 10 4 6

7 8 4 4 1 3 4

9 8 1 7

10 10 10

tư lự, hương hoả, nghỉ ngơi, thông thống, lúp xúp, đổ xô, rậm rạp, đất đai, hăm hở, lụi đụi. săn sóc, dỗ dành, quày quả, ngon ngót, bần thần, cao ráo, lóp ngóp, man mát, ngồ ngộ. trầm trồ, trăng trắng, đong đưa, óc ách, tần ngần, mãi mãi, trai tráng, bập bềnh, lạ lùng, rõ ràng, nỗi niềm, chần chừ. quen quen, dễ dàng, thiếu thốn, biền biệt, bùi nhùi, chắc chắn. ngơ ngẩn, lẳng lặng, ráo rảnh, rạo rực, cần cù. vòng vàng, học hành, dần dừ, sứt sẹo, xót xa, thỉnh thoảng, thanh tân, thân thiết, huỷ hoại, thân thể. ngặt nghèo, rầu rầu, mịt mù, sức sống. lóng ngóng, hui hút, vui vẻ, dân dã. êm đềm, đất đai, thờ ơ, sơ sài, đối đáp, vội vàng, rời rạc, lúng túng. đinh ninh, thông thường, sột soạt, đàng hoàng, hôi hám, lấm láp, lính quýnh, lấm lét, bực bội, bải hoải. tức tưởi, hoàng hôn, sững sờ, chập chờn.

11 Tổng cộng 4 82 1 11 3 71

PHỤ LỤC 3

THỐNG KÊ TỪ LÁY Tiểu thuyết “Gia đình bé mọn” (Chương 11 – gồm 16 trang)

Từ láy là

Các từ láy Số lượng

Trang (của truyện) 127 128

Danh từ Động, tính từ 2 3 2 3

129 7 7

130 11 11

131 9 9

132 4 1 3

133 10 3 7

134 8 8

135 10 1 9

136 6 1 5

137 8 1 7

138 4 4

139 6 6

140 4 4

141 6 1 5

142 1 11 10

lóng nhóng, nhâng nháo. ngất ngây, mù mịt, phì phò. đo đỏ, xì xào, vung vãi, nhịp nhàng, tôi tối, lung linh, triền miên. ngẩn ngơ, thướt tha, nền nã, luộm thuộm, thiêng liêng, bơ vơ, trắc trở, suôn suôn, khắc khổ, hô hố, thánh thót chầu chực, mảnh khảnh, vòng vòng, nền nã, tràn trề, xoay xở, kham khó, buồn buồn, vất vả. chớp chớp, lục lọi, phân phối, thịt thà. dai dẳng, bải hoải, tuổi tác, chầy chống, vẻn ven, thừa thãi, bủn rủn, hơi hướng, linh tính, nghi ngờ. chì chiết, run rẩy, vật vã, gặp gỡ, lăm le, thánh thót, lăng xăng, lù lù. lì lợm, khúc khích, phừng phừng, mảnh khảnh, tình tứ, đồ đạc, lích kích, nhộm nhoạm, chòng chành, hí hí. ngầy ngà, tuổi tác, thơm tho, sóng sánh, hoàn toàn, khớ khớ. chần chừ, nhủn nhẳn, lặng lẽ, đồ đạc, lèo tèo, thê thảm, thăng bằng, tha thẩn. lẹp xẹp, lóc cóc, lặng lẽ, thủ thỉ. ngập ngừng, giả lả, cẩn thận, dữ dằn, chật chội, thiếu thốn. ầm ĩ, lùm đùm, bộc bạch, nghe ngóng. vàng vàng, lởm khởm, hành hung, thịt thà, lưu cửu, chen chúc. vung vãi, xương xóc, xanh xanh, bưng bê, ngắc ngứ, liều lĩnh, lấn cấn, rõ rệt, meo méo, nhăn nhó, đột ngột.

Tổng cộng 9 109 100

PHỤ LỤC 4

THỐNG KÊ CÁC ĐIỆP TỪ & ĐIỆP NGỮ

Tiểu thuyết: Gia đình bé mọn

Điệp từ, điệp ngữ đã dùng

không còn sẽ không có, đến goá bây bận đàng hoàng khóc chia nhau những muốn có, như (đồng điệp từ) yên tâm mẹ thành những từ mẹ nó chia tay nhớ mãi 6 11 18 22 23 74 79 99 112 124 125 160 161 167 174 184 196 199 218 220

1 2 7 8 9 10 13 14 15 16 19 270 - 271 có

STT Chương Trang