BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP. HỒ CHÍ MINH _________________ Nguyễn Thị Ngân Sương

: Văn học Việt Nam : 60 22 34

Chuyên ngành Mã số

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. HỒ QUỐC HÙNG

Thành phố Hồ Chí Minh - 2007

LỜI TRI ÂN

Học viên Nguyễn Thị Ngân Sương kính lời cảm ơn đến quý thầy cô đã

hết lòng truyền đạt những tri thức quý báu trong thời gian qua.

Kính lời cảm ơn đến quý thầy cô của Phòng KHCN - Sau Đại học trường

ĐHSP TP. Hồ Chí Minh đã tạo những điều kiện thuận lợi cho tôi trong suốt

những năm học ở đây.

Đặc biệt, tôi chân thành cảm ơn thầy Hồ Quốc Hùng đã tận tình hướng

dẫn, động viên, giúp đỡ trong suốt thời gian học tập và hoàn thành khóa luận

này.

TP. Hồ Chí Minh, 20-12-2007

Học viên Nguyễn Thị Ngân Sương

Kính lời

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Thế giới truyện cổ tích - thế giới của những giấc mơ dân gian, đẹp đẽ vô

ngần. Trong thế giới ấy, những giấc mơ đã thành hiện thực và cũng còn rất

nhiều ước mơ chỉ là ước mơ mà thôi. Khám phá thế giới cổ tích là bước vào

thế giới vô cùng vi diệu của những điều trần tục trong thế giới của những ông

Bụt, bà Tiên và những phép nhiệm màu kỳ ảo. Do vậy, bước vào thế giới cổ

tích để sống với những ước mơ của dân gian cũng chính là để sống với những

ước mơ của chính mình, mong muốn mình sẽ trở nên tốt đẹp hơn. Tâm lý của

người sáng tạo truyện cổ tích và những người đọc cổ tích là đón chờ một điều

gì đấy công bằng tốt đẹp, nhìn thấy cái thiện được thưởng xứng đáng và cái ác

bị trừng trị:

“Ở hiền thì lại gặp hiền,

Người ngay thì gặp người tiên độ trì”.

và tin rằng thế giới cổ tích có điều nhân quả. Sức hấp dẫn của truyện cổ tích

rất mạnh và không thể phủ nhận được.

Đề tài “Những hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích Việt Nam”

dựa vào nguồn khảo cứu, sưu tầm của kho tàng truyện cổ tích Việt Nam của

nhiều nguồn truyện khác nhau. Bên cạnh đó, cùng với những bài viết, những

công trình nghiên cứu của nhiều người đi trước kết hợp trực tiếp với việc

nghiên cứu tác phẩm, người viết có cơ sở xác tín hơn để nghiên cứu. Đó là

những cơ sở sau đây:

1.1. Kết cấu của truyện cổ tích thường được tổ chức theo mô hình. Mô típ

phổ biến trong truyện cổ tích đặc biệt trong truyện cổ tích thần kì là mô típ

trừng phạt và mô típ ban thưởng (nhân vật được kết hôn hoặc được lên ngôi,

hưởng một cuộc sống sung sướng còn kẻ ác bị giết chết, trở về với cuộc sống

nghèo khổ hoặc bỏ quê mà ra đi). Hay nói một cách khác kết thúc trong

truyện cổ tích thường là kết thúc có hậu. Nghiên cứu phần kết thúc của truyện

cổ tích, lý giải cái hay, cái đẹp của truyện chính là đi vào khám phá những

quan niệm nhân sinh qua kết cấu đặc trưng của nó. Người nghe bao giờ cũng

quan tâm đến kết thúc của truyện hoặc có khi hồi hộp theo dõi xem nhân vật

sẽ làm gì (như thế nào) trước khó khăn, thử thách. Những lúc như vậy, người

nghe cũng thầm mong ước cho nhân vật mình yêu thích vượt qua mọi hoạn

nạn và thở phào nhẹ nhõm trước kết thúc tốt đẹp.

1.2. Hình thức tổ chức cơ bản của một tác phẩm thuộc loại tự sự là liên kết

các sự kiện thành truyện. Có thể nói, truyện là một chuỗi sự kiện xảy ra cho

nhân vật trong không gian và thời gian, có mở đầu, có phát triển và kết thúc,

thể hiện những quan hệ, những mâu thuẫn… nhằm phản ánh quá trình nhận

thức và giải quyết những xung đột trong cuộc sống. Hệ thống các sự kiện

được tổ chức, sắp xếp lại gọi là cốt truyện. Trong truyện cổ dân gian, cốt

truyện cực kì quan trọng. Mỗi cốt truyện kể về cuộc đời và sự phát triển tính

cách của nhân vật chính, nhằm phản ánh quan điểm, tư tưởng và thẩm mỹ của

nhân dân đối với hiện thực cuộc sống. Đối với truyện cổ tích thần kỳ, câu

chuyện được kết thúc ở phần mở nút, xung đột, mâu thuẫn bị triệt tiêu và

truyện để lại trong lòng người đọc một sự thỏa mãn và niềm tin. Như vậy, đề

tài “Hình thức thưởng - phạt trong truyện cổ tích thần kỳ Việt Nam” góp phần

lý giải mối quan hệ giữa các hình thức kết cấu cốt truyện để hiểu rõ thêm

những kiểu mang tính quy luật.

1.3. Tất cả truyện cổ tích nói chung và một số truyện cổ tích có chứa hình

thức thưởng phạt đều gặp nhau ở các mô-típ cơ bản: mô- típ chàng trai, cô

gái, người nông dân… nghèo khổ, bất hạnh xuất hiện, gặp khó khăn trở ngại

trong cuộc sống; Bụt, tiên hoặc một ai đó hiện ra giúp đỡ, chỉ dẫn cho họ (trao

cho một công cụ chinh phục), loại trừ hay chiến thắng kẻ khác, cứu được

người tốt thoát khỏi hoạn nạn, cho được hưởng cuộc sống hạnh phúc với giấc

mơ thay đổi cuộc đời đã thành hiện thực (làm quan, làm phò mã, lên ngôi trị

vì, giàu sang, cưới được vợ đẹp…); còn kẻ ác, kẻ xấu bị trừng trị (bị trừng

phạt, bị đày đi biệt xứ, hóa kiếp thành những con vật nhỏ bé, dơ bẩn…).

Nghiên cứu hình thức thưởng phạt trong cổ tích vì vậy không thể tách rời với

việc nghiên cứu về những mô- típ cơ bản để phát hiện ra những cách biểu đạt

riêng của thể loại. Hơn nữa, nghiên cứu truyện cổ tích của các dân tộc khác

nhau trên cơ sở vừa khảo sát vừa đối chiếu so sánh để qua đó nhận diện

những nét khu biệt trong diện mạo văn hóa của từng dân tộc. Từ công việc

nghiên cứu này, chúng ta thấy rõ hơn sự độc đáo và tính đa dạng trong đời

sống văn hóa các dân tộc anh em Việt Nam.

Với những lý do trên, đề tài được chọn theo chúng tôi nhằm hệ thống hóa

lại các dạng thức thưởng phạt được xem như là một phần kết cấu quan trọng

của thể loại.

2. Lịch sử vấn đề

Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích từ trước đến nay vẫn được nhiều người

quan tâm. Vì vậy, tình hình tư liệu về nguồn truyện cổ tích rất phong phú.

Chúng tôi cố gắng tìm được nguồn tư liệu có liên quan đến đề tài hoặc ít

nhiều phục vụ cho đề tài như sau:

2.1. Một số giáo trình đại học và một số công trình nghiên cứu về truyện

cổ tích của tác giả Nguyễn Ngọc Côn, Đinh Gia Khánh, Cao Huy Đỉnh, Đỗ

Bình Trị, Nông Quốc Chấn và Phan Đăng Nhật, Võ Quang Nhơn, Chu Xuân

Diên- La Chí Quế, Nguyễn Đổng Chi…, chúng tôi cũng đã tìm được những

thông tin bổ ích cho đề tài nghiên cứu. Nguyễn Đổng Chi (phần nghiên cứu

trong sách Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam tập I) và Cao Huy Đỉnh (Tìm

hiểu tiến trình văn học Việt năm, 1973) đều đề cập đến đặc điểm của truyện

cổ tích đặc biệt là cổ tích thần kì là phản ánh hiện thực thông qua yếu tố thần

kì và kết thúc có hậu. Truyện thể hiện tinh thần lạc quan, quan điểm thẩm mỹ

tích cực của nhân dân lao động. Trong chương III: phần viết về nghệ thuật

truyện cổ tích, Lịch sử Văn học Việt Nam, tập I, nhà nghiên cứu Nguyễn

Ngọc Côn cho rằng về phương diện kết cấu truyện cổ tích có phần mở đoạn,

khai đoạn và kết thúc. Cốt truyện được xây dựng theo trình tự tuyến tính lấy

nhân vật làm xuất phát điểm; tình tiết của truyện xoay quanh một vấn đề và

hai tuyến nhân vật nhằm thể hiện cho tư tưởng thiện ác. Ngoài ra tác giả còn

đề cập đến đặc điểm chức năng của yếu tố thần kì trong truyện cổ tích với vai

trò quan trọng. Còn trong Lịch sử Văn học Việt Nam, tập I, chương IV,

Nông Quốc Chấn và Phan Đăng Nhật chú ý nhiều đến các yếu tố thần kì (sự

hóa thân của nhân vật, vật thiêng biến hóa…) của truyện cổ tích các dân tộc

và cho rằng truyện cổ tích dùng những hình ảnh nghệ thuật thần kì làm

phương tiện để dẫn đến kết cục có ý nghĩa nhân đạo cao cả: sự chiến thắng

của cái thiện. Qua đấy, các tác giả cũng chỉ rõ ra các nhân vật giúp đỡ con

người trong các truyện cổ miền núi không phải là ông Bụt, ông Phật như

trong truyện cổ người Việt mà là cây cỏ, con thú…quen thuộc của người dân

miền núi. Như vậy trong công trình nghiên cứu của mình, các tác giả đã giúp

cho người đọc thấy sự phong phú, đa dạng của các loại mô- típ, kiểu truyện

của nhiều dân tộc có điều kiện sống khác nhau và nét độc đáo của truyện cổ

từng dân tộc trong cách nhìn nhận, phản ánh đời sống hiện thực. Ở đôi chỗ,

hai tác giả cũng có cái nhìn đối sánh về yếu tố thần kì của truyện cổ tích của

các dân tộc. Công trình nghiên cứu ấy đã khơi nguồn, tạo cơ sở cho chúng tôi

trong cái nhìn nghiên cứu, đối sánh giữa hình thức thưởng phạt của các dân

tộc khác nhau trên dải đất Việt Nam. Trong mục Truyện cổ tích trong Từ

điển văn học, tác giả Chu Xuân Diên nêu lên những đặc điểm cơ bản về

phương pháp sáng tác truyện cổ tích thần kì là vai trò quan trọng của yếu tố

thần kỳ trong kết cấu. Quá trình dẫn dắt câu chuyện biểu hiện ở chỗ yếu tố

thần kì can thiệp vào cốt truyện dẫn đến kết thúc có tính chất ước mơ là sự đổi

đời của nhân vật chính. Nhân vật được cấu tạo theo hai tuyến thiện- ác, nhân

vật thiện xây dựng theo khuynh hướng lý tưởng hóa tượng trưng cho cái tốt

còn nhân vật ác thể hiện theo khuynh hướng phê phán xã hội thể hiện cho cái

xấu, thế lực tàn bạo. Tuy nhiên công trình chưa thể hiện được tính hệ thống

các mô hình thưởng phạt. Cũng cùng quan điểm như trên, tác giả Lê Chí Quế

(phần Truyện cổ tích trong Văn học dân gian Việt Nam) cũng nhấn mạnh

vai trò của yếu tố thần kì. Theo ông, trong truyện cổ tích thần kỳ, yếu tố này

chi phối mọi hành động của cốt truyện còn trong truyện cổ tích thế sự, yếu tố

này nhạt dần và mất dần lối kết thúc có hậu. Nó chỉ có ý nghĩa tô đậm một

yếu tố nào đó trong kết cấu mà thôi (chẳng hạn như cái chết của nhân vật

trong truyện Trầu Cau). Trong phần viết về truyện cổ tích (sách Văn học dân

gian Việt Nam tập II- Tủ sách Đại học Sư phạm), tác giả Hoàng Tiến Tựu

cho rằng lực lượng thần kỳ giữ một vai trò rất quan trọng trong truyện cổ tích

thần kỳ. Nó chi phối và tác động đến cách lý giải cuộc sống của dân gian,

biểu hiện cho lý tưởng thẩm mỹ của nhân dân lao động.

Nhìn chung, những bài viết này dừng lại ở việc phân tích và tìm hiểu đặc

điểm nổi bật của truyện cổ tích, nghiên cứu đặc điểm nghệ thuật, khám phá

bản chất của thể loại, đưa ra phương pháp nghiên cứu căn cứ vào đặc trưng

của thi pháp thể loại. Tuy có đề cập đến hình thức thưởng và các yếu tố có

liên quan đến thưởng phạt nhưng các công trình trên không xem nó như một

biểu hiện có tính trội về hệ thống.

2.2. “Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề truyện cổ tích qua truyện Tấm

Cám” của Đinh Gia Khánh xuất bản năm 1968 là công trình nghiên cứu có

tính chất toàn diện, đề cập đến hầu hết các vấn đề chính trong truyện Tấm

Cám ở Việt Nam. Theo ông trong truyện “Tấm Cám” của Việt Nam phải để

Tấm trừng phạt Cám như vậy mới được chân thực. Cô Tấm buộc phải chọn

cách giết chúng (mẹ con mụ dì ghẻ) để được sống yên lành. Đáng chú ý trong

công trình này ông đã phân tích sự kết hợp hai chủ đề trong truyện cổ tích:

chủ đề đấu tranh xã hội và chủ đề phong tục. Trong những bài viết khác, Đinh

Gia Khánh cũng đề cập đến yếu tố siêu nhiên, yếu tố thần kì và cho rằng phần

hư cấu rất quan trọng. Nó là phương tiện tiếp sức cho nhân vật chính hoàn

thành nhiệm vụ. Như vậy, những công trình được đề cập trên ít nhiều đã gợi ý

cho chúng tôi đi sâu hơn vào vấn đề nghiên cứu đề tài luận văn.

2.3. Trong chuyên luận Truyện cổ tích dưới mắt các nhà khoa học, GS

Chu Xuân Diên đã tập hợp, phân tích những bài nghiên cứu của nhiều tác giả

về truyện cổ tích đã gợi lên những hướng tiếp cận cho chúng tôi trong quá

trình đi sâu vào lý giải các hình thức thưởng phạt. Chuyên luận chỉ ra cơ sở

khoa học và sự thành công của các công trình nghiên cứu chính là việc dựa

vào dân tộc học để bóc tách các lớp lịch sử văn hóa và để lý giải những truyện

cổ tích cụ thể. Ở mục “Tinh thần phê phán xã hội và lý tưởng dân chủ

nhân đạo trong truyện cổ và các thể tài khác ở giai đoạn đầu của chế độ

phong kiến” (Trích “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,

1974” của Cao Huy Đỉnh), tác giả đã phỏng đoán khoa học về các mốc lịch sử

xã hội làm cơ sở cho sự hình thành cốt truyện. Theo đó, truyện “Trầu cau”

phản ánh sự xung đột giữa hai quan niệm và hình thái hôn nhân: chế độ quần

hôn thời mẫu hệ và chế độ hôn nhân, gia đình, lứa đôi thời phụ hệ còn “Tấm

Cám” phản ánh nền kinh tế phụ quyền và cơ sở xung đột bước đầu có tính

chất giai cấp, truyện “Cây khế” đề cập đến mối quan hệ anh chị em trong gia

đình phụ quyền. Một số công trình khác như: “Qua tục ăn trầu và truyện

trầu cau của người Việt bàn về mối quan hệ anh em, vợ chồng” (Tạp chí

văn học số 1-1984) của Tăng Kim Ngân), “ Chủ đề thử tài kết hôn- Sự biến

đổi từ phong tục dân tộc học đến mô típ truyện cổ tích thần kỳ” (Trích

Tạp chí văn hóa dân gian, số 3- 1997), “Nghiên cứu nhân vật xấu xí mà có

tài trong truyện cổ tích các dân tộc” (Tạp chí văn học số 4-1985) của

Nguyễn Thị Huế, “Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kì Mường”

của Nguyễn Thái Thuyên, “ Từ nhân vật của truyện cổ tích thần kì đến

nhân vật truyện cười” và “Về những đặc điểm trong truyện cổ tích thần

kì ở Việt Nam” của Hà Châu là những gợi ý cho chúng tôi đi sâu vào tìm

hiểu quan niệm xưa của dân gian trong vấn đề phản ánh thực tại gắn liền với

sự phát triển của lịch sử. Những mô típ, những chi tiết trong truyện cổ tích

không hoàn toàn huyễn hoặc mà có cơ sở khoa học, phù hợp với dự cảm thẩm

mỹ của dân gian, đầy sức mạnh của quan niệm. Dựa vào những kết quả của

những công trình trên, chúng tôi có điều kiện đi sâu tìm hiểu những mô típ

thường gặp trong hình thức thưởng phạt như các mô típ về vật thiêng có phép

thuật, người mang lốt vật và cởi bỏ lốt vật (mô típ hóa thân), mô típ về sự thử

thách để thử tài và đạo đức của nhân vật. Trên cơ sở ấy, chúng tôi cố gắng tìm

hiểu sự giống nhau cũng như một số nét độc đáo riêng biệt giữa các hình thức

thưởng phạt của cổ tích các dân tộc trên dải đất Việt và một số nước trong

khu vực.

2.4. Một số công trình viết về thần thoại và truyền thuyết tuy hơi xa với đề

tài luận văn nhưng cũng giúp cho chúng tôi hiểu thêm một số phương diện để

lý giải truyện cổ tích như: “Góp phần tìm hiểu các nguồn gốc truyền thuyết

Âu Cơ- Lạc Long Quân” của Phan kế Hoành (Tạp chí văn học số 4-1978),

“Hình bóng người anh hùng sáng tạo văn hóa trong truyền thuyết dân

gian Không Lộ” (Tạp chí văn học số 6 ) của Nguyễn Quang Vinh, “Tìm hiểu

mô típ cây trong họ Hồng Bàng và Đẻ đất đẻ nước” của Nguyễn Thị Huế

(Tạp chí văn học số 5- 1983). Những công trình trên liên quan đến việc tìm

hiểu nguồn gốc và một số mô típ trong truyện cổ tích như mô típ của sự thụ

thai thần kì, mô típ người lấy vật, mô típ chết đi hóa thân vào thân cây. Đấy

là sự phát hiện mang tính gợi ý giúp cho chúng tôi tìm hiểu sâu hơn giá trị của

những nhân vật ẩn mình trong hình thức thưởng phạt…

2.5. Đáng chú ý hơn nữa là chuyên luận nghiên cứu về truyện cổ tích của

GS. Chu Xuân Diên về “Về cái chết của mẹ con Cám” (Tạp chí văn hóa dân

gian số 2, 1999). Chuyên luận này đã tập hợp những bài nghiên cứu khác

nhau viết về kết thúc truyện Tấm Cám và cũng từ đó tác giả đã phân tích và

rút ra kết luận là trả thù hay trừng phạt. Thông qua công trình này tác giả cũng

đi sâu vào nghiên cứu một số mô típ trong truyện và lý giải nguồn căn của

những mô típ ấy. Tác giả của bài viết rất công phu trong việc tìm hiểu vốn

văn hóa cổ của Việt Nam và các nước trên thế giới. Quan trọng hơn tác giả rất

thận trọng trong cách đánh giá vấn đề, bám sát các nguyên tắc nghiên cứu

phônclo, lý giải các mô típ và các thành tố nghệ thuật khá thuyết phục. Tác

giả đã đưa ra phỏng đoán như sau: “Các tình tiết làm thành đoạn kết của

truyện “Tấm Cám” không phải là do “quyền tự do sáng tạo của dân gian”,

mà là những mô típ, hay nói đúng hơn, những biến thể của những mô típ có

nguồn gốc từ thực tại và quan niệm thực tại của những con người thời xưa.

Những mô típ ấy đã trải qua quá trình được nhào nặn lại không phải là tùy

tiện mà có qui luật, theo một lôgic không phải lôgic của lối cảm, lối nghĩ, lối

sống hiện đại, mà lôgic của tư duy cổ tích” [9, tr.13]. Trong những mô típ của

truyện “Tấm Cám”, tác giả xác định được mô típ chính của truyện là mô típ

trừng phạt biểu thị cho tư tưởng cái ác bị trừng phạt (theo bản kể của Vũ

Ngọc Phan thì mô típ này chuyển sang dạng mô típ trả thù- và hai mô típ

dùng để miêu tả cái chết “chết do dội nước sôi” và “mẹ ăn thịt con”). Kết thúc

truyện bằng hai mô típ song song “cái ác bị trừng phạt”, “mẹ ăn nhầm thịt

con” và chết, cái thiện được ban thưởng. Dù rằng công trình này chỉ đi sâu

nghiên cứu các vấn đề liên quan đến một truyện cổ tích cụ thể nhưng qua đây

chúng tôi rút ra được nhiều tư liệu nghiên cứu quý báu và học tập cách tiến

hành nghiên cứu để xác định hướng đi cho đề tài của mình. Với tình hình

nguồn tư liệu như thế, chúng tôi cố gắng tư duy và phân tích để xây dựng cho

mình những ý tưởng cơ bản phù hợp với đề tài nghiên cứu. Trong đó, chúng

tôi lấy việc nghiên cứu những truyện cổ tích cụ thể nhằm đưa ra những nhận

xét bước đầu trong việc tìm hiểu đặc điểm của những hình thức thưởng phạt.

3. Giới hạn đề tài

Có thể nói, hình thức thưởng phạt là một hình thức phổ biến trong truyện

cổ tích và nó cũng thể hiện khá rõ quan điểm thẩm mỹ của dân gian trong việc

phản ánh, lý giải những vấn đề của cuộc sống. Hơn thế nữa, hình thức thưởng

phạt tham gia vào quá trình vận động và phát triển của cốt truyện, là thành tố

cấu thành quan trọng của truyện cổ tích. Nó là yếu tố chứa đựng nội dung lại

là yếu tố hình thức của tác phẩm. Do đó, nó thu hút nhiều mối quan hệ với các

yếu tố khác tham gia vào cấu thành tác phẩm đặc biệt là ở phần phát triển

đỉnh điểm và kết thúc của truyện. Đề tài nghiên cứu chỉ tập trung chủ yếu vào

các hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích Việt Nam do đó chúng tôi chỉ

đề cập đến những yếu tố, hình thức có liên quan đến các biểu hiện của nó.

Hướng nghiên cứu của bài viết dựa trên cơ sở đi tìm các mối quan hệ có liên

quan đến các hình thức thưởng phạt để rút ra những đặc điểm của hình thức

thưởng phạt cũng như lý giải chúng ở góc nhìn văn hóa của dân tộc. Cho nên

những vấn đề về kiểu truyện, phân loại, chủ đề…được đề cập đến chỉ hỗ trợ

cho việc đi tìm những đặc điểm và những quan điểm thẩm mỹ của dân gian

được gởi gắm thông qua các hình thức thưởng phạt tồn tại trong truyện. Tất cả

những điều trên liên quan trực tiếp đến việc thu thập, lựa chọn nguồn truyện

khảo sát. Do đó, trong chừng mực có thể chúng tôi cũng không loại trừ những

truyện đồng dạng với nhau trong việc khảo sát vì công việc của đề tài bao

hàm cả quá trình so sánh các hình thức thưởng phạt giữa các dân tộc với nhau.

Do thời gian có hạn, chúng tôi chỉ có thể lấy truyện khảo sát chủ yếu từ nguồn

truyện cổ tích thần kì của các dân tộc thuộc dạng kết thúc có hậu.

Để thực hiện đề tài này, chúng tôi sử dụng khoảng 120 truyện của hai

mươi bốn dân tộc anh em để nghiên cứu. Đây là những tộc người tương đối

lớn ở Việt Nam và có đời sống vật chất và tinh thần khá đa dạng, phong phú.

Chúng tôi cũng hi vọng và tin tưởng rằng số lượng truyện như thế phần nào

cũng thể hiện những đặc điểm cơ bản nhất của hình thức thưởng phạt của Việt

Nam nói chung và từng nhóm dân tộc nói riêng.

4. Phương pháp nghiên cứu

Trong quá trình nghiên cứu đề tài, người viết đã sử dụng những phương

pháp nghiên cứu văn học dân gian như phương pháp nghiên cứu liên ngành và

phương pháp so sánh. Chúng tôi cũng đồng thời vận dụng song song các thao

tác khảo sát, thống kê, hệ thống và phân tích để hỗ trợ cho những phương

pháp nêu trên.

Trong quá trình tìm hiểu các hình thức thưởng phạt cũng như lý giải các

giá trị thẩm mỹ trong quan niệm xưa của dân gian ở các dân tộc khác nhau,

người viết không tùy tiện suy diễn mà đều dựa vào những cơ sở khoa học và ý

nghĩa thực tiễn của những kết luận. Trong quá trình khảo sát, phân tích, đánh

giá, người viết có liên hệ, so sánh hình thức thưởng phạt của các dân tộc với

nhau. Cũng cùng một kiểu truyện tương đồng nhưng các dân tộc khác nhau lại

có hình thức thưởng phạt khác nhau. Kết quả so sánh không những giúp

chúng tôi hiểu biết sâu sắc về các hình thức thưởng phạt của một dân tộc nhất

định mà còn nhận thức toàn diện, đầy đủ tất cả các đối tượng nghiên cứu. Sau

khi phác họa những đặc điểm chung của các hình thức thưởng phạt, chúng tôi

mới tiến hành so sánh, đối chiếu những đặc điểm ấy giữa các dân tộc khác

nhau, tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt. Và cũng trên cơ sở ấy

chúng tôi lại lý giải tại sao lại có những hiện tượng như vậy.

Bên cạnh đó, các phương pháp khảo sát, thống kê, phân tích được chúng tôi

tiến hành xuyên suốt trong quá trình nghiên cứu. Cùng với quá trình khảo sát

ấy, người viết hệ thống, sắp xếp các truyện theo trình tự các khía cạnh của vấn

đề, lọc ra những truyện có chung một mô hình xếp vào một nhóm theo kiểu

xâu chuỗi chứ không đi vào từng dân tộc cụ thể tránh sự trùng lặp không cần

thiết.

Từ việc xác định được hình thức thưởng phạt, lập mô hình, nghiên cứu

mô típ, người viết dựa vào đó phân tích, lý giải để rút ra những nhận định

khách quan, khoa học tránh được lối áp đặt, suy diễn. Chúng tôi cũng hy vọng

và mong muốn rằng, tất cả những phương pháp và thao tác nghiên cứu đã

được đề cập ở trên sẽ nghiên cứu đúng bản chất của sáng tác dân gian, đặc

biệt là các vấn đề cụ thể của thể loại truyện cổ tích.

5. Nguồn dẫn liệu

Kết quả của bài viết dựa vào hầu hết các tuyển tập truyện cổ của các dân

tộc, bao gồm trước và sau năm 1975. Từ những tuyển tập đó chúng tôi rút ra

được 120 truyện của hai mươi bốn dân tộc khác nhau. Cụ thể nguồn dẫn liệu

như sau:

Danh mục truyện chọn khảo sát

Gồm có 120 truyện của hai mươi bốn dân tộc trên đất nước Việt Nam.

1. Dân tộc Kinh

1. Sự tích chim tu hú

2. Sự tích con muỗi.

3. Sự tích con khỉ.

4. Sự tích con mối hay Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho.

5. Bốn người bạn.

6. Con chó, con mèo và anh chàng nghèo khổ.

7. Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng.

8. Ông thần núi xanh và anh chàng họ Lục

9. Lấy chồng dê

10. Mụ dì ghẻ ác nghiệt hay Sự tích con dế.

11. Cô gái muốn lấy chồng hoàng tử

12. Ai mua hành tôi hay Lọ nước thần.

13. Bính và Đinh.

14. Cây khế.

15. Của Thiên trả Địa.

16. Bán tóc đãi bạn.

17. Hai cô gái và cục bướu

18. Sọ Dừa.

19. Cây tre trăm đốt.

20. Chữa bệnh cho Long Vương.

21. Tấm Cám.

22. Con chim khách nhiệm mầu.

23. Tiêu diệt mãng xà

24. Người con út hiếu thảo.

25. Thạch Sanh.

26. Bốn cô gái muốn lấy chồng hoàng tử.

27. Chàng đốn củi và con tinh.

28. Hà rầm hà rạc.

29. Hai ông trạng nhỏ.

30. Vua Quạ.

2. Dân tộc Mèo (H’Mông)

1. Kho vàng của mặt trời.

2. Y Đam và nàng H’bia.

3. Người chồng bội bạc.

4. Người anh tham lam.

5. Người tham vỡ bụng.

6. Túi da cáo và lưỡi câu gai.

7. Nàng mù và anh chàng thong manh.

8. Ở ác gặp ác.

9. Sính Lữ cứu con Ngọc Hoàng.

10. Nàng Hoa Lược.

11. Hòn gạch nên nghĩa vợ chồng.

12. Chàng rể bảy.

13. Sự tích cây chuối rừng.

3. Dân tộc Khmer

1. Bốn chàng hói.

2. Chau Bay Cà Đâng hay Chàng Cơm Cháy.

3. Sóc lành, Sóc ác hay Sự tích hoa cỏ may.

4. Niêng Mô-mắc -mê -đa hay Cô gái mồ côi.

5. Chau Sanh và Chau Thong.

6. Mê Núp.

7. Hai cây khế.

8. Cối xay thần.

9. Niềng Kòn-Tuốc và Niềng Chông-Ầng-Kam.

4. Dân tộc Thái

1. Lúa chàng Nai.

2. Chàng Hoa Đất.

3. Nàng Khao, Nàng Đăm.

4. Ý Noọng, Ý Ưởi.

5. Tham thì thâm.

6. Chàng Rùa.

7. Nàng Han.

8. Nàng tiên trứng.

5. Dân tộc Vân Kiều

1. Ta lăn, Ta lê.

2. Sự tích chim thù thì.

3. Cá bống thần.

4. Rú Roọc Xađie.

5. Xi Piệc Nhe Nhe.

6. Piềng Riềng.

7. Anh em mồ côi và con ếch nhỏ.

6. Dân tộc Dao

1. Cối đá đổi vàng.

2. Con cày hương biết hát.

3. Mồ côi và tên nhà giàu xấu bụng.

4. Ba sợi râu của sư tử.

5. Chiếc khăn thêu.

6. Chàng Lùn.

7. Dân tộc Chàm

1. Phò mã Sọ Dừa.

2. Xin chôn ở núi vàng.

3. Nàng ngón út.

4. Da Rác lấy chồng tiên.

5. Vua quạ

8. Dân tộc Nùng

1. Người nghèo lấy được con vua.

2. Ò Pẻn, Ò Kín.

3. Tài Xì Phoòng.

4. Chim phàng náo.

9. Dân tộc Chăm Hơ-roi.

1. Em bé và con chim vàng anh.

2. Pơ - ria, Pơ - ró.

3. Chàng lười.

4. Chàng Rít.

10. Dân tộc Tày

1. Tua Gia, Tua Nhi

2. Hố vàng hố bạc.

3. Hoàng tử Rùa Trắng.

4. Chuyện Hột Nhồi.

11. Dân tộc Gia Rai

1. Chàng Lợn.

2. Bà Pôm và Y Rít.

3. H’Bia Rác lấy chồng chồn.

12. Dân tộc Cơ tu

1. A lan và A ly

2. Ông Hùi.

3. Mụ dì ghẻ ác độc và hai đứa con chồng.

13. Dân tộc Ê-đê

1. H’Bia Ngo.

2. Rum Dú với gái nhà trời.

14. Dân tộc Giáy

1. Hai anh em mồ côi.

2. Bảy chị em.

3. Quả bầu ước.

15. Dân tộc H’rê

1. Nàng tiên thứ chín

2. Hai dòng suối

3. Ú và Cao

16. Dân tộc Xơ – đăng

1. Quả dưa dại.

2. Chàng Rùa.

3. Lưỡi búa của thần sét.

17. Dân tộc Ba-na

1. Hơ-lúi.

2. Cóc và H’Bia Phu.

18. Dân tộc Cao Lan

1. Chú ba lấy vợ

2. Hoàng tử rắn.

19. Dân tộc Pu Péo

1. Ính và Inh.

2. Hai anh em mồ côi.

20. Dân tộc Mường

1. Chàng Sơn.

2. Hai đứa mồ côi và bà dì ghẻ.

21. Dân tộc Ka-dong

1. Y- zật Y- noók.

2. Chàng cóc.

22. Dân tộc Phù Lá

1. Mồ côi lấy con vua.

23. Dân tộc Lô Lô

1. Vùi và Lu.

24. Dân tộc X’rê.

1. Gơ-lui Gơ-lát.

6. Cấu trúc khóa luận

Khóa luận gồm có 109 trang (không kể Phụ lục). Ngoài Phần mở đầu (18

trang) và Phần kết luận (3 trang), luận văn gồm hai chương sau đây:

Chương 1: Đặc diểm các hình thức thưởng- phạt trong truyện cổ tích

Việt Nam.

Trong chương này, luận văn có nhiệm vụ đi tìm các đặc điểm của hình thức

thưởng- phạt trong truyện cổ tích Việt Nam. Từ những nguồn truyện đọc

được, chúng tôi thống kê, sắp xếp chúng theo từng nhóm riêng: nhóm truyện

chỉ có một hình thức thưởng, nhóm truyện chỉ có một hình thức phạt và nhóm

truyện có hình thức thưởng và phạt. Sau đó, luận văn đi vào miêu tả từng

nhóm có chứa các hình thức thưởng phạt như đã phân loại trên và tìm ra

nguyên tắc, cách thức thưởng và phạt trong từng nhóm nhỏ. Thông qua đó,

chúng tôi cố gắng lập sơ đồ, mô hình hóa các hình thức thưởng phạt của loại

hình tự sự gian dân này. Và từ đó chúng tôi đưa ra những đặc điểm của các

hình thức thưởng – phạt.

Để làm được nhiệm vụ này, chúng tôi đã tiến hành những bước như sau:

1.1. Giới thuyết về hình thức thưởng – phạt

1.2. Phân loại, miêu tả các hình thức thưởng – phạt.

1.3. Đặc điểm các hình thức thưởng – phạt.

Chương 2: Mối quan hệ giữa các hình thức thưởng- phạt và những mô

típ tiêu biểu.

Nhiệm vụ của chương là đi tìm những mô típ tiêu biểu tham gia vào trong

sự phát triển cốt truyện có mối quan hệ với các hình thức thưởng - phạt. Các

mô típ này là mục đích và công cụ để nhân vật giành được phần thưởng, sự

chiến thắng cuối cùng và tiêu diệt cái ác, cái xấu xa. Luận văn cũng xác định

rõ những mô típ cơ bản để tạo nên kiểu truyện có kết thúc có hậu rồi miêu tả,

tìm đặc điểm và vai trò của chúng. Từ đó, luận văn chỉ ra được mối liên hệ

giữa các mô típ và những hình thức thưởng – phạt. Trong quá trình tiến hành

luận văn bước đầu có so sánh, đối chiếu việc sử dụng các mô típ thưởng –

phạt ở các dân tộc có nguồn truyện khảo sát để thấy được nét độc đáo riêng.

Theo đó, chương hai này có những nội dung sau:

1.1 Các mô típ ban thưởng

1.1.1 Mô típ “Phương tiện thần kì”

1.1.1.1. Mô típ “Con vật thiêng có phép”

1.1.1.2. Mô típ “Báu vật thần kì”

1.1.2. Mô típ “Người trợ giúp thần kì”

1.1.3. Mô típ “Hóa thân nhiều lần”

1.1.4. Mô típ “Kết hôn và lên ngôi”

1.1.4.1. Mô típ “Người trần kết hôn với tiên”

1.1.4.2. Mô típ “ Người trần kết hôn với người thủy cung”

2.1. Mô típ trừng phạt

2.1.1. Mô típ “ Sự bắt chước không thành công”

2.1.2. Mô típ “Cái chết và sự biến hình”.

Chương 1: ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HÌNH THỨC

THƯỞNG PHẠT TRONG TRUYỆN CỔ TÍCH

VIỆT NAM

Truyện cổ tích là tấm gương phản chiếu một cách phong phú và chân thực

đời sống dân tộc. Trong thể loại này, bên cạnh những phần tưởng tượng chen

lẫn với tâm lý chất phác, ngây thơ, tác giả dân gian bao giờ cũng thể hiện

niềm tin vào khả năng, tài nghệ khéo léo của con người cho đến những phẩm

chất tốt đẹp của họ. Vì vậy, phần lớn kết cục của truyện cổ tích, kẻ có tội

không tránh khỏi hình phạt thích đáng bất kể kẻ có tội ấy thuộc tầng lớp nào

trong xã hội. Hình phạt cho kẻ ác thường rất khốc liệt, có khi tương xứng với

tội ác mà chúng gây ra thậm chí có lúc còn khủng khiếp hơn nhiều lần, còn

người lương thiện, dù là kẻ yếu, cuối cùng cũng chiến thắng và được nhận

phần thưởng. Phần thưởng cũng vô cùng xứng đáng, thỏa mãn ước mơ của

dân gian: giàu sang, sung sướng, hạnh phúc tột đỉnh. Cổ tích thường kết thúc

bằng hai mô típ song song: cái thiện được ban thưởng, cái ác bị trừng phạt.

Nhờ kiểu kết cấu này mà truyện cổ tích sau khi khép lại đã mở ra cho người

đọc một thế giới kỳ diệu. “… Trong truyện cổ tích người ta bay lên không

trung ngồi trên một tấm thảm biết bay, đi đôi hia bảy dặm, phục sinh người

chết bằng cách rưới nước thần vào người họ, trong một đêm thôi cũng xây

dựng được những lâu đài. Và nói chung truyện cổ tích mở trước mắt tôi một

1 Dẫn theo Đinh Gia Khánh, Chu Xuân Diên (1977), Văn học dân gian Việt Nam, Tập II, NXB Đại học và Trung học chuyên nghiệp, tr 48.

cuộc sống có một lực lượng tự do, không biết sợ sệt đang tồn tại và hoạt động, mơ tưởng đến một cuộc đời tốt đẹp hơn.”(Gorơki) 1

1.1. Giới thuyết về thưởng- phạt

Truyện cổ tích được xây dựng trên những chân lý, niềm tin giản dị của

nhân dân về điều thiện tất sẽ chiến thắng còn cái ác nhất định sẽ bị trừng trị.

Phần cuối của kiểu truyện kết thúc có hậu thường là sự đổi đời. Kết thúc

truyện bằng hình thức thưởng- phạt thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ của nhân gian

khi đọc truyện cổ tích.

1.1.1. Thưởng

Nhìn chung trong kết cấu truyện cổ tích thường thấy phần thưởng thường

dành cho nhân vật chính diện nằm ở cuối chặng đường đi tìm hạnh phúc (nằm

ở kết truyện). Các hình thức ấy biểu hiện đa dạng nhưng thống nhất. Mỗi khi

nhân vật vượt qua những khó khăn hay thử thách nào đó thì lập tức được trao

cho báu vật hay phương tiện thần kì để giành chiến thắng cuối cùng. Sự trợ

giúp này tiếp sức cho nhân vật vượt qua khó khăn để giành lấy phần thưởng

cuối cùng. Người em (trong truyện “Chữa bệnh cho Long Vương” của dân

tộc Kinh) liên tiếp có được những vận may từ con cầy hương biết múa và

những hóa thân của nó. Con cầy hương đã giúp anh có được nửa bầy trâu do

người lái buôn tặng thoát khỏi cảnh nghèo khó. Từ cái máng lợn (hóa thân

của con cày hương), anh nuôi trâu, nuôi lợn lớn nhanh như thổi. Cái lược chải

vào đầu làm mái tóc xanh và mượt hơn. Từ cái răng còn sót lại của lược

người em lấy làm cần câu thì câu được nhiều cá hơn và sau đó anh vì may

mắn có cơ hội gặp Long Vương để có hạnh phúc tột đỉnh sau này. Còn anh

chàng họ Lục trong “Ông Thần núi xanh và anh chàng họ Lục” may mắn

được ông Thần núi xanh kết bạn và giúp đỡ cho anh bộ óc thông minh để thi

đỗ Trạng nguyên có cơ hội thay đổi toàn bộ cuộc đời của mình. Sự trợ giúp

của những lực lượng siêu nhiên ban cho người lương thiện là những phương

tiện hoặc báu vật thần kì. Bằng những phương tiện như cung tên, chiếc lọ

chứa nước thần, cây đàn thần có khi cả lốt rùa, lốt cóc xấu xí, họ vượt qua

những chặng thử thách, đi tiếp cho đến hết chặng đường đấu tranh gian khổ

của mình.

Từ biểu hiện trên, chúng tôi quan niệm, thưởng trong cổ tích được hiểu là

ước mơ của dân gian đã được thỏa mãn và đó là sự hạnh phúc, niềm vui, sự

giàu sang phú quý, danh vọng và quyền lực ….Tất cả dành cho những con

người có phẩm chất đạo đức, có cách ứng xử phù hợp với đạo lý làm người.

Phần thưởng dành cho nhân vật cũng đồng nghĩa với sự đền bù: đền bù cho

những gian truân, tủi nhục mà nhân vật đã trải qua. Đôi khi đó chính là trao

trả lại những gì mà họ đáng được hưởng, những gì vốn là của họ. Tất cả

chính là ước nguyện của nhân vật đã trở thành hiện thực. Kết thúc truyện theo

chiều hướng mơ ước mang tính lãng mạn của dân gian.

Người em (trong “ Cây khế” của dân tộc Kinh) phải trải qua nhiều tủi

nhục khi cha mẹ mất đi. Anh chỉ nhận được một túp lều tranh và một cây khế

còn bao nhiêu tài sản cha mẹ để lại, người anh lấy hết. Cuối cùng, anh có

được cuộc sống giàu có nhờ con chim phượng hoàng thần kỳ giúp đỡ. Còn

người anh tham lam phải chuốc lấy hậu quả thảm thương: rơi xuống biển chết

do lấy quá nhiều vàng. Và người em lấy lại được tất cả những gì thuộc về

mình và sống hạnh phúc. Đó là sự ban thưởng cho người hiền lành, thật thà,

chăm lao động. Phần thưởng là sự đền bù cho những tháng ngày lao động vất

vả của người em. Người em (trong truyện Sự tích chim thù thì- dân tộc Vân

Kiều) cũng bị anh hắt hủi, giành hết gia tài khi cha mẹ mất đi. Nhờ chăm chỉ

lao động và gặp nhiều may mắn, cuối cùng anh lại có nhiều nhà cửa ngang

dọc, to lớn, trâu bầy lợn đàn nhung nhúc, có cuộc sống sung sướng lại cưới

được con gái Dàng.

Nhiều khi phần thưởng là lên ngôi vua, làm trạng nguyên, có nhiều của cải

và giàu sang tột bậc chưa hẳn là giấc mơ cuối cùng, chưa hẳn là cao quý nhất.

Dân gian chỉ nhận những gì xứng đáng với mình, xứng đáng với khả năng của

mình. Họ có thể chối bỏ của cải, vật chất, quyền lực ngay cả khi lên ngôi vua,

giàu có nhất bản làng. Những ước mơ xứng với cuộc sống thực tại thoát ra

khỏi cảnh nghèo hèn, làm ăn thuận lợi, đủ sống và được làm chủ bản thân của

mình. Có khi là sự ban tặng, cho nhân vật những gì mà họ không có, chỉ mơ

ước thôi. Dân gian thường ban tặng cho nhân vật lý tưởng sắc đẹp tuyệt đối

(mang một diện mạo mới- thường là trở nên xinh đẹp hơn…), sự thông minh,

tài trí, sự giàu sang phú quý, có sức khỏe vô địch, có hạnh phúc tột đỉnh (việc

kết hôn với công chúa, cô gái đẹp hay hoàng tử, được bầu làm Xuất hoặc làm

Anha)… Và bao giờ cũng vậy phần thưởng cuối cùng là cao quý nhất, lớn

nhất mà nhân vật đã đạt được. Dân gian nhiều khi chối bỏ cả chức tước và địa

vị để sống cuộc sống thanh bình, yên ổn.

Cuối cùng, hai con người hiền lành, tốt bụng (trong truyện “Rú Roọc và

Xađie” của dân tộc Vân Kiều) nên vợ chồng, dựng nhà bên bờ suối bốn mùa

có gió hát bên bờ lau, có chim ca trong rừng rậm. Họ yêu thương nhau hơn cả

chim triền, chim cuốc sánh đôi giữa rừng có bếp lửa vây quanh giữa nhà cùng

với tiếng cười, lời âu yếm của vợ chồng lại có tiếng khóc của trẻ con, ấm áp

hạnh phúc vô cùng. Họ không phải lo sợ sự chia cắt, lo sợ người chị của mình

hãm hại nữa.

Vì truyện cổ tích thể hiện niềm tin của dân gian về sự công bằng, về sự

chiến thắng cuối cùng của cái thiện cho nên nhân vật chính diện bao giờ cũng

là nhân vật được dân gian trao cho phần thưởng xứng đáng. Trong truyện cổ

tích, chúng tôi nhận thấy những nhân vật được ban thưởng trước hết là những

người có nguồn gốc xuất thân và cuộc đời đau khổ, bất hạnh. Đó là những con

người có hình dạng xấu xí, người mang lốt vật (Sọ Dừa, nàng Cóc, nang Út

trong ống tre, chàng Rùa, chàng Rắn, chàng Trăn, cu Vách- Ốc Sên, chàng

Gù, chàng Ghẻ, em bé Nhọ Nồi…) nhưng ẩn chứa bên trong là những tấm

lòng nhân ái cao đẹp. Hay đó còn là những con người vừa có sức mạnh thể

lực và phẩm chất đạo đức: chàng trai khỏe, bảy anh tài, chàng Húc núi, anh

Vật voi, anh Vít ngọ cây đa, anh Siêng, anh Lười …. Bên cạnh đó, nhân vật

chính còn là người có địa vị thấp hèn trong gia đình và ngoài xã hội: người

mồ côi, người em út, người con riêng, người đày tớ, người vợ lẽ… Họ có

hoàn cảnh sống và nghề nghiệp của gia đình thấp kém: người mồ côi, anh trai

cày, người nông dân, người tiều phu…Một kiểu người khác cũng được dân

gian chú ý đến là người có đức hạnh, mưu trí. Có thể nói họ thường sống lẻ

loi, không có tài sản, không nơi nương tựa, có địa vị thấp kém, bị thua thiệt,

bị ức hiếp áp bức, bóc lột, chịu hết oan uổng này đến nỗi cơ cực khác. Nhưng

họ cũng có những phẩm chất tốt đẹp của người dân lân động nghèo: thật thà,

hiền lành, chất phát, chăm chỉ và rất giỏi chịu đựng. Bên cạnh đó họ còn là

những con người giàu mơ ước, có khát vọng sống mãnh liệt. Nhưng khi

những người bất hạnh này gặp khó khăn, trở ngại đều được ông Bụt, bà Tiên,

những con vật thiêng hiện ra giúp đỡ và cho họ một cuộc sống hạnh phúc.

Như vậy, có thể nói, những nhân vật cổ tích mang trong mình những tín hiệu

thẩm mỹ riêng, đó là nhân vật nghèo khổ bất hạnh và tốt đến mức lý tưởng.

R.Gamdatốp, nhà thơ lớn của Liên Xô đã viết rất đúng rằng: “Trong những

lâu đài, cung điện, người ta không sáng tác truyện cổ tích. Truyện cổ tích không cần thiết cho những kẻ sống ở đấy”. 1

Trong thế giới cổ tích, mọi việc diễn ra và kết thúc của những xung đột

theo xu hướng mà nhân dân mong muốn như thế hoặc tin như thế đều là nhờ

ở sự can thiệp của một loại nhân vật đặc biệt. Nhân vật này thường trợ giúp

hoặc trao phần thưởng cho nhân vật chính diện gồm có: Long Vương và các

âm binh, âm tướng ở cõi âm, các thần sông nước, ông Bụt, bà Tiên, các vị

1 R.Gamadatốp, Bài ca về những truyện cổ tích của tuổi thơ tôi, Chuyển dẫn theo Đỗ Bình

Trị - Trần Đình Sử, Sách đã dẫn, tr. 150.

thần (Thổ thần, thần núi…), có khi người giúp đỡ là Vua, là Xuất, A-nha có

khi là một ông già cao lớn, gia đỏ đậm như gỗ Sa-tring, râu xoắn như cây cù

lâu và một bộ ngực chàm xanh đứng che hết cả một khoảng trời. Lực lượng

trợ giúp có khi còn là chim thần, trăn tinh, hồ tinh… Ngay cả những vật có

phép màu như cung tên thần, gươm thần, đàn thần, bút thần, sách thần, sách

ước, cây roi thần, cây tre thần, nhiều khi còn là một bộ da cóc, lốt trăn… cũng

trợ giúp cho con người lương thiện. Và trong cái thế giới tốt đẹp đó, những

con người hiền lành cũng còn có thể hóa thân, đội lốt vật rồi từ lốt vật quay

trở lại thành người.

Rõ ràng, những nhân vật này không có trong thế giới thực tại. Chúng chỉ

có và tồn tại trong thế giới cổ tích mà thôi. Tuy nhiên sáng tạo ra những nhân

vật này trước hết là để thỏa mãn ước mơ dân gian một phần khác gắn liền với

tín ngưỡng dân gian bản địa. Các nhân vật này thường đứng về phía thiện,

nhân danh công lý và giúp nhân vật chính chiến thắng. (Ông già tóc bạc phơ-

Bụt và cây tre trăm đốt, vua Thủy Tề và cây đàn thần, niêu cơm thần, chim

phượng hoàng và cây khế…). Như vậy, lực lượng này trợ thủ cho nhân vật

chính giành được phần thưởng cuối cùng. Nhân vật vượt qua thử thách bằng

chính sức mạnh, phẩm chất tốt đẹp, trí thông minh và niềm tin của chính bản

thân mình.

Có bao nhiêu phần thưởng là có bấy nhiêu ước mơ của nhân dân xưa về

một xã hội, một con người, một cuộc đời hạnh phúc. Và bao giờ cũng vậy

phần thưởng cuối cùng giành cho nhân vật có mối liên hệ lôgic bên trong với

sự trợ thủ của các lực lượng thần kì trước đó. Sự trợ thủ trước đó là cơ sở, là

tiền đề để cho nhân vật lập nên chiến công kế tiếp và nhận phần thưởng sau

cùng (cô Tấm nhận được quần áo và đôi giầy xinh đẹp là để chuẩn bị gặp vua

và cuộc đời cô chuyển sang hướng khác; Thạch Sanh nhận được cung tên để

tiêu diệt chằn tinh và sau đó cũng dùng cung tên này tiêu diệt đại bàng, giải

thoát cho con vua Thủy Tề. Cũng từ đây Thạch Sanh lại nhận được cây đàn

thần và niêu cơm thần vừa có thể giải oan cho mình và đẩy lui quân mười tám

nước chư hầu. Phần thưởng cao quý nhất dành cho Thạch Sanh là một đất

nước yên vui, một hạnh phúc lý tưởng). Phần thưởng thường không ban tặng

không cho nhân vật mà bao giờ cũng tuân theo nguyên tắc chung của dân

gian. Có khi phần thưởng ấy gắn liền với phẩm chất tốt đẹp mà nhân vật có,

có khi nó là kết quả tương xứng với tài năng và công trạng nhân vật đạt được,

có khi nó lại ứng với những bất hạnh, những thử thách, cam go mà nhân vật

trải qua. Như vậy, kết thúc truyện cổ tích thường có mối liên hệ với triết lý

nhân quả trong cuộc sống: “Gieo nhân nào gặp quả ấy; Ở hiền thì gặp lành”.

Khi đưa yếu tố thần kì vào trong truyện, dân gian cũng muốn thông qua đó

phơi bày những bản chất của quy luật đời sống dù cho chúng có vẻ ngược đời

đến đâu đi chăng nữa. Phần thưởng cũng là một biện pháp nghệ thuật đặc biệt

của nhân dân nhằm thúc đẩy cốt truyện theo một mục đích nghệ thuật đã

được định sẵn: mục đích thiện phải thắng ác. Những kẻ tốt bụng như người

mồ côi, người em út, người con riêng có phẩm chất tốt sẽ gặp hoàn cảnh

thuận lợi, có cố gắng bản thân hoặc ngẫu nhiên được trời, Bụt, vật thiêng giúp

đỡ qua cái nhìn nhân ái của nhân gian sẽ thông minh, giàu có và hạnh phúc.

Ông Bụt, bà tiên và những phương tiện thần kỳ được đưa vào để giải tỏa

những ấm ức, làm người nghe cảm thấy hả lòng, hả dạ.

1.1.2. Phạt

Truyện cổ tích cũng tạo ra cho con người một sức mạnh và niềm tin tuyệt

đối rằng cái ác nhất định phải bị trừng phạt. Bên cạnh phần thưởng cao quý

dành cho nhân vật lý tưởng là đòn trừng phạt dành cho kẻ thù.

Đối tượng bị trừng phạt chính là kẻ thù của nhân vật chính. Trong gia đình

đó là những người anh cả, chị cả tham lam, độc ác. Bên cạnh vẻ ngoài xấu xí,

chúng còn là những kẻ xấu bụng nữa. Đó là những kẻ nhác việc nhưng tham

ăn (Rú roọc trong Rú roọc Xađie), có lòng tham khôn cùng thấy vợ em đẹp,

chồng em đảm và giàu có thì ghen tức, tìm mọi cách để giết hại em (Bảy

người anh trai hèn nhát, tham lam trong Piềng Riềng, bảy cô chị gái láu táu,

lười biếng và gian dối trong XiPiệc Nhe Nhe, người anh chuyên hà hiếp em,

bắt em phải làm việc cực nhọc còn mình thì hưởng sung sướng trong Anh mồ

côi và con ếch nhỏ, người chị xấu bụng trong Nàng Khao, nàng Đăm). Khi

cha mẹ còn sống, họ luôn dành những công việc thuận lợi, nhẹ nhàng mà làm

và sẵn sàng cướp công người em. Khi cha mẹ mất đi, họ dành hết cả gia tài,

chỉ chia cho em những gì không có giá trị. Đó là một túp lều rách nát và một

cây khế, một con chó và một con mèo, là chiếc bè trôi trên sông, có khi chỉ là

một chiếc rựa cùn. Đến khi em có cuộc sống sung sướng thì lân la đến gần và

sẵn sàng mưu hại em. Người xưa quả rất công bằng khi cho những người anh

cả, chị cả ấy bị trừng phạt.

Người bị trừng phạt còn là người mẹ kế độc ác, luôn hành hạ và giết chết

con chồng để mọi của cải thuộc về con mình (mụ dì ghẻ trong Tấm Cám).

Cũng có khi người mẹ tàn nhẫn ấy lại xui chồng đem con chồng bỏ vào rừng

cho gấu ăn thịt hoặc xúi giục người cha phải giết chết đưa con và đem gan về

nhà cho mụ (mụ dì ghẻ trong Hoàng tử Rùa Trắng, Nàng Khao, nàng Đăm).

Không chỉ có mụ dì ghẻ, những ông bố vợ cũng tàn ác không kém. Ông bố vợ

thường coi khinh con rể nghèo hèn, hoặc lão phú ông bóc lột sức lao động mà

không chịu gả con hay chia tài sản cho con rể (lão nhà giàu trong Ông thần

núi xanh và anh chàng họ Lục, lão phú ông trong Cây tre trăm đốt). Có khi,

ông bố vợ muốn giết con rể đi cho rãnh mắt (lão nhà giàu trong Cối đá đổi

vàng).

Một đối tượng nữa bị trừng phạt trong xã hội những kẻ gây thiệt hại, gây

tai họa cho nhân vật chính và thường là những kẻ độc ác, đểu cáng, giả mạo,

phản bội (mẹ con Lý Thông, tên địa chủ giàu có tham lam, tên chúa bản, tên

A- nha độc ác có khi là yêu tinh đội lốt người già, kẻ giả danh cô gái gặp

nạn…). Đó còn là những kẻ có quyền, có thế lực như tên vua độc ác chuyên

cướp vợ người khác, tên A- nha giàu có lắm mánh lới, tên địa chủ tham lam,

tên quan hám của, tên thổ ty muốn phá nhà ai cũng được, muốn cướp vợ ai

cũng xong…

Nhân vật trừng phạt đa phần cũng chính là những người ban thưởng cho

nhân vật chính. Đó là ông Bụt, ông tiên, là Dàng, là trời, là thần thánh có khi

là những vật thiêng. Đôi khi trong truyện cổ tích nhân vật trừng phạt là lực

lượng siêu nhiên nào đó không được nói rõ, luôn tồn tại đâu đó quanh ta, luôn

giám sát hành vi hằng ngày của con người mà không phải là con người. Mẹ

con Lý Thông (truyện Thạch Sanh- Kinh) bị sét đánh chết và hóa thành con

bọ hung, người anh tham lam bị rớt xuống biển (truyện Cây khế - Kinh).…

Có lúc người trừng trị lại chính là nhân vật chính, khi đã có đủ khả năng và

sức mạnh của riêng mình. Tấm (trong Tấm Cám – Kinh) giành lại ngôi hoàng

hậu và trừng trị mẹ con Cám, Ý Ưởi (trong Ý Ưởi Ý Noọng – Thái ) trở về

gặp lại chồng là Tạo Khum Chương và trừng trị người em độc ác; Sọ Dừa

(trong Sọ Dừa – Kinh ) vạch mặt hai cô chị; người chồng (trong Ai mua

hành tôi hay Lọ nước thần) mặc bộ quần áo của tên vua và ra lệnh cho quân

lính trừng trị hắn, Hột Nhồi (trong Chuyện Hột Nhồi – Tày) đẩy thổ ty Quàng

và cả nhà hắn ta xuống vực…. Đôi khi người trừng trị chính là những thế lực

quyền lực khác như vua, quan.

Cách thức trừng phạt trong truyện cổ tích Việt Nam cũng khá phong phú

và đa dạng. Phần này chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau. Có bao nhiêu sự trợ

giúp dành cho nhân vật chính diện cũng chính là bấy nhiêu hình phạt dành

cho kẻ thù.

Hình thức trừng phạt trong cổ tích có hai cấp độ biểu hiện cụ thể: trách

phạt (hình thức phạt nhẹ, có chức năng cảnh cáo) và trừng phạt nặng nề.

Trừng phạt trong cổ tích thể hiện sâu sắc niềm tin về công lý, về sự chiến

thắng của cái thiện để bảo đảm sự công bằng xã hội.

Chúng tôi quan niệm, trách phạt ở đây cũng đồng nghĩa với những rủi ro,

những thất bại liên tiếp xảy ra. Đôi khi trách phạt còn đồng nghĩa với việc bị

bẽ mặt, bị xấu hổ trước mọi người, trước cộng đồng làng xã. Hình thức trách

phạt này nhằm lay động lương tri của đối tượng và để cảnh báo trước cho

chúng những điều tệ hại, xấu nhất sẽ xảy ra. Trước khi trừng phạt đối thủ, cổ

tích thường có một hình thức trung gian giữa trách phạt và trừng phạt: sự vạch

mặt kẻ xấu. Và sau màn vạch mặt là đòn trừng phạt thích đáng dành cho kẻ

ác, kẻ xấu.

Cô chị cả (trong truyện Sọ Dừa của dân tộc Kinh) tham lam, độc ác đã

nhiều lần hại em và khi thấy em quay về thì cảm thấy xấu hổ rồi bỏ nhà đi

biệt xứ. Người dì ghẻ độc ác trong “Tấm Cám” nhiều lần cùng với đứa con

gái mình hại chết Tấm cuối cùng nhận sự trừng phạt đau đớn: con Cám chết

do giội nước sôi, mụ dì ghẻ lăn đùng ra chết khi nhìn thấy cái đầu lâu của con

trong hũ mắm.

Như vậy, trừng phạt ở đây được hiểu là sự tước đoạt tất cả những gì nhân

vật có từ của cải vật chất cho đến những niềm vui tinh thần. Nhân vật bị mất

hết tài sản, chụi sống trong cảnh nghèo. Có khi, trừng phạt còn biểu hiện dưới

dạng là sự đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần. Trừng phạt cũng đồng thời đi

liền với cái chết và sự hóa thân của nhân vật. Đây là một hình thức trừng phạt

thường thấy nhất trong cổ tích các dân tộc Việt Nam.

Có thể nói, sức hấp dẫn của cổ tích Việt Nam không phải ở sự phi lý của

bản thân câu chuyện mà là ở khả năng phối hợp và chuyển hóa tài tình giữa

các yếu tố huyền ảo với cái hiện thực, giữa ước mơ dân gian và cuộc sống

thực tại với những mâu thuẫn phức tạp. Qua đó ước mơ của dân gian được soi

rọi rõ: kẻ xấu bụng qua vòng quay của số mệnh hoặc kiếp luân hồi sẽ chết đắc

kì tử, mất hết tài sản hoặc rơi vào vòng bất hạnh. Còn người tốt bụng gặp

hoàn cảnh thuận lợi, do sự cố gắng của bản thân hoặc ngẫu nhiên do trời, Bụt,

vật thiêng giúp đỡ sẽ trở nên thông minh, giàu có và hạnh phúc. Bụt, Tiên,

trời… là những phương tiện thẩm mỹ giải tỏa ấm ức, làm người nghe thỏa

mãn. Tất cả chuyển hóa từ giấc mơ thần thoại thuở sơ khai, bắt rễ từ đời sống

khốn khó nhưng giàu mơ ước của dân tộc, từ lối sống thực tiễn nhưng thấm

đẫm nghĩa tình của con người đất Việt.

2.1. Phân loại, mô tả các hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích Việt

Nam.

Điều hấp dẫn và lý thú của truyện cổ tích chính là cốt truyện chứ không

phải là ở nhân vật hay chi tiết nghệ thuật như trong truyện hiện đại. Cốt

truyện đóng vai trò quan trọng trong việc phơi bày những mâu thuẫn, những

xung đột trong xã hội. Và lẽ dĩ nhiên, truyện cổ tích lại hướng sự chú ý vào

cách cấu tạo cốt truyện chứ không phải bản thân cốt truyện. Cốt truyện là

thành tố thuộc nội dung còn cách cấu tạo cốt truyện chính là yếu tố nghệ thuật

của tác phẩm folklore. Nhân vật hoạt động theo mạch cốt truyện và ý nghĩa

của truyện cũng chính là những quan điểm, tư tưởng thẩm mỹ của dân gian lại

gửi gắm vào phần kết. Trong truyện kể dân gian nói chung, cổ tích nói riêng,

cốt kể đóng vai trò cực kì quan trọng trong việc phơi bày những xung đột xã

hội. Sự hấp dẫn của cốt kể bảo đảm cho sự tồn tại của bản thân tác phẩm

trong không gian và thời gian. Chức năng của cốt kể ở đây là sự phản ánh

hiện thực đời sống xã hội bằng hình tượng nghệ thuật nhưng theo đặc trưng

riêng của folklore. Cốt truyện cổ tích thường được theo trình tự thời gian một

chiều trong không gian khép kín có giới hạn. Phản ánh xã hội theo phương

thức hóa, cốt truyện cổ tích cũng xây dựng những nhân vật của mình có tính

khái quát hóa cao, tiêu biểu cho từng loại người khác nhau trong xã hội.

Mỗi câu chuyện cổ tích hay mỗi cốt kể đều nói về cuộc đời và sự phát triển

tính cách của nhân vật chính nhằm phản ánh quan điểm tư tưởng và thẩm mỹ

của nhân dân đối với đời sống xã hội. Câu chuyện thường được kết thúc ở

phần mở nút và để lại trong lòng người nghe những cảm xúc thỏa mãn vì sự

chiến thắng của điều thiện. Do đó, cốt truyện cổ tích phải đáp ứng được

những yêu cầu về trình độ tư duy của một giai đoạn lịch sử với kiểu mở đầu,

kiểu kết thúc và hàng loạt những mô típ nghệ thuật có sẵn được lặp đi lặp lại.

Như vậy, cốt truyện cổ tích được tạo lập nên bởi toàn bộ những cái đã xảy ra

mà người kể muốn đề cập, giúp chúng ta hiểu rõ hơn ý nghĩa triết lý cũng như

những quan niệm sống mà dân gian đã gửi gắm vào trong mỗi câu chuyện cổ

tích.

Nghiên cứu hình thức thưởng – phạt trong truyện cổ tích cũng chính là đi

vào trả lời câu hỏi: “Truyện cổ tích đã kể lại những chuyện đó như thế nào và

bằng cách nào?”[39, tr.37]. Cũng chính từ cơ sở này, chúng ta lĩnh hội được

cách cảm, cách nghĩ về cuộc sống, về con người của cha ông qua một giai

đoạn lịch sử. Như vậy, kết thúc truyện sẽ chi phối rất lớn trong việc lựa chọn

nhân vật, các tình tiết, các chi tiết và các mô típ tham gia xây dựng cốt truyện.

Dụng ý nghệ thuật của nhân dân quy định lựa chọn một số lượng nhân vật với

những đặc điểm tương ứng và cũng chính số lượng nhân vật quyết định kết

cấu cốt truyện và kết thúc. Truyện có cùng lúc một thưởng- phạt ở kết truyện

thì cốt truyện càng diễn biến phức tạp, phân chia nhiều chặng, móc nối nhiều

tình tiết, xâu chuỗi hành động. Và có thể xem hình thức thưởng phạt trong

truyện cổ tích là một yếu tố vừa xem là nội dung lại vừa thuộc lĩnh vực hình

thức.

Chúng tôi tạm thời chia và phác họa ra ba cách thức vận động của hình thức

thưởng- phạt như sau:

2.1.1. Cốt truyện có một hình thức thưởng

Những truyện có dạng kết cấu một hình thức thưởng thường chiếm tỉ lệ

khá lớn trong quá trình khảo sát (chiếm khoảng 26.4 %). Chúng tôi đã cố

gắng tìm thấy 22 truyện có một hình thức thưởng của các dân tộc Kinh (2

truyện), Gia Rai (6 truyện), Thái (4 truyện), Khmer (1 truyện), Giáy (1

truyện), Nùng (1 truyện), Cao Lan (1 truyện), Chăm Hơ- roi (1 truyện), Chàm

(1 truyện), Cơ – tu (1 truyện). Trong những truyện này, phần kết thúc truyện

có sự góp mặt của những mô típ sau : mô típ về sự đổi đời, mô típ kết hôn, mô

típ lên ngôi báu.

Vấn đề phản ánh qua những truyện chỉ có một hình thức thưởng là số

phận của con người cá nhân với những phẩm chất tốt đẹp của họ. Lẽ đương

nhiên, cuộc đời và số phận của một con người phụ thuộc vào lối sống, cách

ứng xử cũng như phẩm chất đạo đức của họ. Qua những câu chuyện ấy, người

xưa muốn nhận xét, đánh giá và nhìn nhận con người bằng phạm trù đạo đức

xã hội. Thông qua truyện có một hình thức thưởng, số phận cá nhân được

nhìn nhận với một thái độ lạc quan, với một cái nhìn đầy mơ ước và tiếng nói

ca ngợi.

Với truyện có một hình thức thưởng, cốt truyện tương đối đơn giản. Các

tình tiết của cốt truyện chủ yếu xoay quanh một nhân vật chính là người tốt

và cốt truyện kết thúc bằng dự cảm mà dân gian đã có dụng công xây dựng từ

đầu câu chuyện. Quan điểm dân gian thông qua những câu chuyện này rất rõ :

người tốt sẽ được ban thưởng. Do vậy, ở truyện chỉ có một hình thức thưởng,

cảm hứng chủ yếu của dân gian là ca ngợi, đề cao những con người có cách

cư xử tốt, có phẩm chất đạo đức tốt để từ đó người đời sau rút ra được bài học

về đạo đức để biết cách “ đối nhân xử thế”.

Cốt truyện tương đối đơn giản, chưa có xung đột giữa hai tuyến nhân vật

đối lập và cũng không nhiều tình tiết. Truyện chỉ xoay quanh một nhân vật

với những nét tính cách đặc trưng là tốt. Ở những truyện này, nội dung cốt

truyện chỉ xoay quanh những vấn đề thuộc phạm trù đạo đức của con người

chứ chưa phản ánh những xung đột xã hội. Thông qua đó, nhân vật chính của

cốt kể bộc lộ tính chất và hành động của mình để từ đó dân gian đưa ra những

phán xét ở cuối cốt truyện. Cũng theo đó, nhân dân sẽ ca ngợi hoặc trao phần

thưởng xứng đáng cho những ai có phẩm chất đạo đức tốt như kiên trì, tốt

bụng, thông minh…. Thông qua những truyện khảo sát được, chúng tôi nhận

thấy có hai nguyên tắc thưởng trong nhóm truyện này như sau:

Thứ nhất, thưởng căn cứ vào hành vi đạo đức, cách ứng xử tốt đẹp của con

người (phần thưởng mang tính ngẫu nhiên, thể hiện cho quan niệm: “Ở hiền

gặp lành”)

Thứ hai, thưởng căn cứ vào những công trạng, khả năng của nhân vật trong

quá trình chinh phục thử thách đến với phần thưởng cuối cùng.

Thông qua những truyện khảo sát được, chúng tôi có thể miêu tả cách thức

thưởng trong nhóm truyện này như sau:

a. Nhân vật có người chồng đẹp và có gia đình hạnh phúc gồm 5 truyện.

Nàng H’Bia Rác ( H’Bia Rác lấy chồng chồn ) được chồn cứu khi bị kẹt đá

dưới suối vẫn một mực chung thủy với chồn. Khi chồng bị ốm H’Bia Rác đã

vượt qua bao khó khăn, gian khổ: xin mật gấu, xin nước bọt hổ để cứu chồng

mà không bị quyến rủ bởi những chàng trai đẹp do chồn hóa thành. Phần

thưởng dành cho nàng là người chồng đẹp trai, khỏe mạnh và hai vợ chồng

sống hạnh phúc đến già. Còn Chàng Nai (Lúa chàng Nai – Thái ) nhờ chăm

chỉ, siêng năng và hiền lành, vượt qua bao khó khăn gian khổ để lên trời tìm

nàng út đã làm động lòng thần linh nên vợ được quay về trần gian sống hạnh

phúc. Anh chàng họ Lục (Ông thần núi xanh và anh chàng họ Lục - Kinh),

hiền lành giỏi giang và nổi tiếng thanh liêm, ngay thẳng đã được thần núi thử

thách, giúp đỡ và cuối cùng cưới được S’Lao Ỷ làm vợ, hai vợ chồng hạnh

phúc đến già. Phò mã Sọ Dừa (Phò mã Sọ Dừa – Chàm) cùng cô út sống

hạnh phúc đến trọn đời không sợ ai hại cả.

b. Nhân vật được đổi đời, kết hôn trở nên giàu có.

Gồm có 10 truyện. Trong số ấy có 6 truyện nói về sự kết hôn và theo đó là

sự thay đổi cuộc đời nhân vật. Chàng trai nghèo khổ hỏi Ngọc Hoàng những

oan trái của người khác mà quên đi những oan trái của bản thân mình. Cuối

cùng, anh được họ quan tâm và giúp đỡ, thi đỗ trạng nguyên và cưới được con

gái phú ông lại có thêm một chĩnh vàng. Chàng Hơ Rít (Chiếc sáo thần kì –

Giá Rai); mồ côi, tốt bụng, siêng năng chịu khó được thần linh cho chiếc sáo,

xuống dưới lòng đất và cứu được con gái vua. Nhờ gan dạ cưới được con gái

M’Tao, Y Rít sau đó chịu khó làm ăn nên hai vợ chồng sung sướng tới già

(Trong đại bàng bị giết – Gia Rai ), còn Chàng Sơn ( Chàng Sơn – Mường ),

nhờ có viên ngọc của rắn nên tìm được ấn ngọc của vua bị mất, rồi chàng

thoát nạn và được vua gả con gái cho. Chàng mồ côi nhờ tốt bụng nên bà lão

cho hai bông hoa, rồi làm cho mình đẹp hơn trước, cưới công chúa làm quan

trong triều sống sung sướng đến trọn đời (Mồ côi lấy con vua- Phù Lá ). Còn

chàng trai (Người nghèo lấy được con vua – Khmer ) nhờ thông minh nhanh

trí nên được vua gả công chúa cho. Nàng Hơ Lúi thương người, tốt bụng, lấy

chồn làm chồng mặc cho các chị khinh khi. Sau đó, chồn bỏ lốt và hai vợ

chồng làm ăn ngày càng giàu có, chiêng ché đầy nhà, trâu bò thả khắp rừng.

Họ sống hạnh phúc đến già cùng với những đứa con thân yêu của mình.

Hai truyện còn lại nói về sự thay đổi cuộc đời của nhân vật. Vợ chồng

H’Bia và Y Đam trở thành kẻ giàu mạnh trong một vùng (Y Đam và nàng

H’Bia – dân tộc M’nông), chàng rùa (Chàng rùa – dân tộc Thái ) sống sung

sướng cùng với nàng Lả và mẹ mình. Hai người có tôi tớ và người nhà ngày

đêm sẵn sàng chịu sự sai bảo của hai vợ chồng nàng. Cuộc sống nghèo khổ

không còn tồn tại trong tâm trí họ nữa.

c. Nhân vật lên ngôi báu : có 2 truyện, Chàng Cơm Cháy (Chàng Cơm

Cháy – Khmer ) nghèo khổ nhờ có được viên ngọc lấy được công chúa con

vua và khi có giặc chàng ra tay đánh đánh đuổi quân thù. Sau đó, vua nhường

ngôi cho Cơm Cháy. Còn chàng Lợn (Chàng Lợn – Dân tộc Giá Rai ), mang

lốt lợn nhưng tỏ ra là một người tài năng khác thường. Sau đó, chàng trút bỏ

lốt lợn xấu xí, cưới H’Bia Ngo và M’tao già đã giao toàn quyền cai quản và

để của cải lại cho lợn.

d. Nhân vật được lên cõi tiên, được bản làng ghi nhớ công ơn : Có 1 truyện

Nàng Han (Nàng Han – Thái ) có lòng dũng cảm, sức khỏe hơn người được

dân bản tôn làm tướng cầm quân đánh giặc. Sau dó, nàng ra bờ sông Nậm So

rồi biến mất. Dân bản cho rằng nàng đã lên trời thành tiên. Cả làng ghi nhớ

công ơn của nàng, hằng năm đều tổ chức lễ hội ăn mừng chiến thắng.

2.1.2. Truyện có một hình thức phạt

Loại này chiếm số lượng nhỏ trong khoảng 120 truyện chúng tôi khảo sát

được (khoảng 13.2%). Đối tượng bị trừng phạt là những kẻ có phẩm chất xấu,

những kẻ ấy cũng chính là nhân vật chính của truyện mà không phải là kẻ thù

gây thiệt hại cho người khác. Rõ hơn, nhân vật chính bị trừng phạt chủ yếu là

vì lí do đạo đức như cô gái cáu kỉnh (trong Hai cô gái và cục bướu- Kinh);

Bất Nhẫn không nhẫn nại tu tâm (trong Sự tích chim tu hú –Kinh), người

anh dối trá, tham lam, ác độc…

Trong số 11 truyện chỉ có một hình thức phạt, chúng tôi tìm thấy có bốn dân

tộc khác nhau: Kinh (7 truyện), dân tộc Mèo (1 truyện), H’mông (1 truyện) và

dân tộc Khmer (1 truyện). Ở những truyện này, chúng tôi thấy có sự góp mặt

của một số chức năng của cổ tích như chức năng “vạch mặt” và “trừng phạt”.

Để thực hiện những chức năng trên, dân gian đã đưa vào nhóm truyện này

một số mô típ cơ bản: mô típ “chết hóa thành những con vật bẩn thỉu, bé nhỏ,

tầm thường”, “chết dưới nhiều hình thức khác nhau”.

Thông qua những truyện chỉ có một hình thức phạt, vấn đề phản ánh số

phận con người cá nhân được đặt ra cùng với ý thức rất cao về vị trí và vai trò

của mỗi thành viên trong gia đình, trong làng xã và ngoài cộng đồng. Truyện

chưa có xung đột giữa những tuyến nhân vật đối lập mà nhân vật được đặt

vào những tình huống khó khăn để thử thách. Nếu không vượt qua được hoặc

có những hành vi không phù hợp với những chuẩn mực đạo đức xã hội thì

nhân vật ấy bị trừng phạt. Đó chính là cơ sở để dân gian nhìn nhận hay phán

xét một con người. Dân gian luôn lên án những kẻ có tâm địa độc ác, có

những hành vi xấu xa…với mục đích cuối cùng là thức tỉnh lương tri người

đọc, người nghe. Thông qua truyện có một hình thức phạt, số phận của mỗi

con người được nhìn nhận với một thái độ nghiêm túc, với một tinh thần

nghiêm khắc phê phán.

Cốt truyện của nhóm truyện này cũng tương đối đơn giản. Các tình tiết của

cốt truyện chủ yếu xoay quanh một nhân vật chính là người xấu, là những kẻ

có hành vi đạo đức và cách ứng xử không đúng đắn. Cốt truyện kết thúc bằng

dự cảm mà dân gian dã có dụng công xây dựng từ đầu câu chuyện: trừng phạt

kẻ có tội, kẻ xấu. Do vậy, ở truyện chỉ có một hình thức phạt, cảm hứng chủ

yếu của dân gian là phê phán để từ đó người đời sau có cách ứng xử cho phù

hợp và nhìn vào đó mà sống tốt hơn. Theo đó, kết cấu cốt truyện có những

dạng như sau:

a. Nhân vật có phẩm chất đạo đức xấu hoặc có cách hành xử không đẹp nên

bị trừng phạt.

b. Nhân vật không vượt qua được thử thách nên bị trừng phạt.

Thông qua kết quả khảo sát, chúng tôi rút ra được cách thức trừng phạt

trong nhóm truyện này như sau:

Thứ nhất là sự trừng phạt bằng cái chết và hóa thành những con vật bẩn

thỉu, đáng ghét: con tu hú, con muỗi, con nhái trong các truyện “Sự tích chim

tu hú”, “ Sự tích con muỗi”, “ Sự tích con nhái”, “Sự tích con mối hay

Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho” của dân tộc Kinh.

Thứ hai là sự trừng phạt cũng bằng cái chết nhưng dưới những hình thức

khác : bị thần sét đánh chết và bị con hổ ở bìa rừng nhảy ra vồ xé mất xác

trong truyện “Bốn người bạn”- dân tộc Kinh; tên Xâu tham lam lấy nhiều

vàng bị mặt trời thiêu cháy thành than trong “Kho vàng của thần mặt trời” –

H’mông (Mèo).

Cuối cùng, kết thúc truyện bằng sự trừng phạt dưới nhiều hình thức khác:

gia sản tiêu tán bởi con ma Ngũ Hải, vợ con chẳng thèm nhìn nhận, sống

trong cô đơn (Người chồng bội bạc – Mèo ); thi mãi không đậu muốn nối

duyên với người vợ cũ cũng không được (Chưa đỗ ông nghè đã đe hàng

tổng – Kinh); bốn anh chàng bị hói đầu vì tham lam, không nghe lời vị hòa

thượng cho nên cuối cùng đầu cũng vẫn không có một sợi tóc nào (Bốn

chàng hói – Khmer ).

Tương ứng với hành vi đạo đức, cách ứng xử của từng con người cụ thể mà

dân gian định ra cách thức trừng phạt. Rõ ràng qua kết quả của những truyện

mà chúng tôi khảo sát được ở trên, cách đưa ra hình thức trừng phạt dành cho

nhân vật của người Kinh bao giờ cũng nặng nề hơn các dân tộc còn lại. Đối

với dân tộc này, các truyện thường dừng lại ở cái chết mới thích đáng với

hành vi xấu xa của nhân vật.

Nói thêm ở những truyện có một hình thức phạt, tính răn đe thể hiện rất

mạnh mẽ và quyết liệt. Điều này không chỉ thể hiện bằng hình thức trừng phạt

ở kết thúc truyện mà tính quyết liệt của nó còn hiện diện mãi trong đời sống

hằng ngày bằng những minh chứng sinh động (là hình ảnh con muỗi, con đỉa,

con tu hú, con mối, là những câu thành ngữ, châm ngôn để đời : “Thạch Sùng

còn thiếu mẻ kho”, “Chưa đỗ ông Nghè đã đe hàng tổng”…). Có thể nói, đấy

cũng là một biểu hiện rất tinh tế và sâu sắc của tinh thần nhân đạo của ông cha

xưa kia.

Tóm lại, kiểu truyện có một hình thức thưởng hoặc phạt chiếm tỉ lệ nhỏ và

cốt truyện chưa thể hiện dạng xung đột giữa hai tuyến nhân vật. Dân gian

thông qua những truyện có kiểu kết cấu này cho con người thấy rằng số phận

và cuộc đời của mỗi người phụ thuộc rất lớn vào cách ứng xử và phẩm chất

đạo đức của chính họ.

2.3. Truyện có một hình thức thưởng và một hình thức phạt

Có thể nói đây là một biểu hiện phổ biến nhất của kiểu truyện kết thúc có

hậu. Ở những truyện có một hình thức thưởng – phạt, cốt truyện phát triển

xoay quanh hai tuyến nhân vật đối lập nhau hoàn toàn về cuộc đời, số phận,

tài năng cũng như phẩm chất đạo đức. Dân gian cũng thông qua kiểu truyện

này đồng thời thực hiện hai chức năng : một là ban thưởng cho người tốt,

người bất hạnh, người có tài năng và một là trừng phạt kẻ xấu gây ra thiệt hại

cho người khác.

Trong quá trình khảo sát, chúng tôi thống kê được có 87 truyện cùng kiểu

(chiếm khoảng 72.5 % số lượng truyện khảo sát) ở hầu hết tất cả các dân tộc

khác nhau. Đây là loại cốt truyện phổ biến nhất của kiểu truyện kết thúc có

hậu của cổ tích Việt Nam. Xu hướng phát triển của cốt truyện cũng luôn luôn

theo sát những hành vi của nhân vật từ khi mới bắt đầu hành trình của cuộc

đấu tranh thiện ác cho đến cho đến chung cục của cuộc đấu tranh ấy. Tuy

nhiên, điều đáng nói, điểm độc đáo nghệ thuật ở đây người đọc có thể đoán

định được ai là người được thưởng còn ai là kẻ bị trừng phạt. Thưởng hay

phạt tương ứng với cách ứng xử và hành vi đạo đức của nhân vật. Nhiều khi,

mức độ của thưởng phạt ấy cũng tăng cấp thêm nhiều lần vượt cả mức độ của

hành vi đạo đức và cách ứng xử mà nhân vật đã làm.

Kết cấu cho kiểu cốt truyện này là hai dạng biểu hiện cơ bản. Thứ nhất,

những truyện có hai chặng kể : chặng một giành cho nhân vật thể hiện với kết

thúc tốt đẹp và chặng hai tiếp tục kể về cuộc đời nhân vật đối lập với hình

thức trừng phạt thích đáng. Dạng còn lại thông qua những mâu thuẩn và xung

đột của hai nhân vật, dưới sự giúp sức của nhân vật phù trợ hoặc nhờ trí thông

minh, sự may mắn của bản thân, nhân vật thiện giành chiến thắng, được ban

thưởng và cùng lúc là nhân vật ác bị trừng phạt. Thưởng và phạt nằm ở kết

thúc câu chuyện.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng nhóm truyện này có cốt truyện phức tạp

với nhiều tình tiết và móc xích tinh vi thú vị hơn nhóm truyện này chỉ có một

thưởng hoặc một phạt như đã nêu trên. Điều đó không chỉ phụ thuộc vào số

lượng nhân vật tham gia vào câu chuyện mà nó còn bị chi phối bởi những mối

quan hệ trong xã hội cũng như quan niệm của dân gian về cuộc sống xung

quanh. Trong quá trình khảo sát, chúng tôi nhận thấy ở kiểu truyện này

thường có kết cấu ba bước :

Bước 1 : Nhân vật ra đời phải chịu nhiều bất hạnh, gian khổ, bị ghẻ lạnh,

bị tước đoạt quyền sống, quyền thừa kế, không được hưởng hạnh phúc thậm

chí còn bị ngược đãi, bị áp bức nặng nề.

Bước 2 : Nhân vật bất hạnh trên phải ứng phó với nhiều thử thách trong

cuộc sống: đấu tranh chống lại thế lực thù địch hoặc ứng xử với tất cả những

tình huống thử thách mang tính khuôn mẫu của thi pháp hư cấu truyện dân

gian.

Bước 3 : Nhờ vào khả năng và vận may của chính mình, phần lớn nhờ các

thế lực siêu nhiên giúp đỡ, nhân vật vượt qua thử thách, giành lại hạnh phúc

đã bị tước đoạt và cuộc sống hạnh phúc giàu sang đáng nhẽ mình phải được

hưởng, nhân vật thù địch bị trừng phạt.

Ba bước này có sự chi phối, qui định chặt chẽ với nhau. Bước ba là kết

quả tất yếu của hai bước trên. Thông qua đó, chúng tôi cũng nhận thấy rằng

nhân vật chính diện bao giờ cũng tiêu biểu cho cái thiện, cái đẹp đến tận cùng

từ đầu đến cuối câu chuyện còn kẻ nào ác và xấu lại cũng ác và xấu đến tận

cùng. Do đó, số phận, đường đi nước bước của nhân vật bị chi phối bởi cái

nhìn này và được tác giả dân gian định hình trước. Dễ thấy với nhân vật bất

hạnh, người xưa bao giờ cũng dành cho tình cảm tốt đẹp và phần thưởng xứng

đáng còn nhân vật phản diện bị trừng phạt thích đáng.

Từ quan niệm một cách tiên nghiệm rằng cái đẹp, cái thiện sẽ dứt

khoát chiến thắng cái ác, cái xấu nên kết thúc truyện tồn tại song song một

hình thức thưởng và một hình thức phạt mang tính chức năng (Theo V.

Ia.Prốp trong những công trình nghiên cứu truyện cổ tích thần kì thì chức

năng phổ biến ở kết thúc truyện là chức năng trừng trị - chức năng 30, kí hiệu

“ H” và chức năng ban thưởng và kết hôn – chức năng 31, kí hiệu “ C”).

Trong quá trình khảo sát và nghiên cứu 87 truyện có chứa một hình thức

thưởng – một hình thức phạt ở kết truyện, chúng tôi nhận thấy kết truyện này

thể hiện kết hợp các chức năng : chức năng trừng phạt luôn đi kèm với sự

vạch mặt, với cái chết và hóa thân; chức năng ban thưởng lại đi kèm với sự

tiếp nhận phương tiện thần kì, sự biến hình và lên ngôi báu. Đôi khi sự ban

thưởng lại bao gồm cả sự chiến thắng và niềm vui chiến thắng thế lực thù địch

của nhân vật chính diện. Cấu tạo của truyện cổ tích là sự kết hợp của các chức

năng nhân vật thực hiện. Với kết truyện có một hình thức thưởng và một hình

thức phạt tức là kết truyện cùng lúc đã thực hiện đồng thời hai chức năng :

ban thưởng và trừng phạt. Do đó trong cuộc đấu tranh một mất một còn này,

nhân vật chính diện không bao giờ chịu thất bại; hoặc giả có chết đi thì đấy

cũng chỉ là cái chết tạm thời, sự thất bại tạm thời mà thôi. Sau đó, nghệ nhân

dân gian sẽ tưởng tượng và đưa ra yếu tố thần kì để giúp nhân vật hồi sinh và

trở lại với một hình hài mới với sức mạnh vô biên; cuối cùng cũng tìm thấy

niềm vui và hạnh phúc. Từ việc mô tả trên, chúng tôi tạm thời phác họa mô

hình đầu tiên cho những truyện có một hình thức thưởng và một hình thức

phạt. Dạng này có hai biểu hiện cụ thể như sau:

Thứ nhất, nhân vật chính diện có cảnh ngộ đáng thương nhưng có phẩm

chất đạo đức tốt và được sự trợ giúp của lực lượng thần kì chiến thắng đối

thủ. Đối thủ bị tiêu diệt.

Thứ hai, nhân vật chính diện có cảnh ngộ đáng thương, có phẩm chất

đạo đức tốt và ngẫu nhiên gặp may mắn đã dùng khả năng của mình qua thử

thách của địch thủ. Nhân vật được phần thưởng, kẻ địch thủ bị trừng phạt.

Nhưng do sự phân hóa giai cấp trong xã hội ngày càng sâu sắc hơn, dữ dội

và quyết liệt hơn, kéo theo những mâu thuẩn, những xung đột trong xã hội

xuất hiện ngày càng gay gắt hơn. Sự biến đổi về lịch sử xã hội ấy cùng với

chế độ tư hữu tư nhân làm nảy sinh một thực tế khắc nghiệt: những con người

bất hạnh, người mồ côi…bị áp bức nặng nề cả về vật chất lẫn tinh thần, bị

khinh rẻ, bị hất ra ngoài xã hội. Càng bị áp bức, những con người bất hạnh ấy

càng có nhiều ước mơ, càng có khát vọng sống mãnh liệt hơn nữa. Vì thế cốt

truyện cổ tích ngày càng phức tạp và có nhiều tình tiết, nhiều chặng phát triển

hơn. Cốt truyện phân thành nhiều chặng đấu tranh với nhiều mâu thuẩn, xung

đột khác từ trong gia đình đến ngoài xã hội; liên kết với nhiều tình tiết, nhiều

chức năng lại với nhau. Nó thể hiện rõ dụng ý nghệ thuật đã được dân gian

tiên nghiệm sẵn: nhân vật được phương tiện hay báu vật thần kì, chiến thắng

kẻ địch thủ, kết hôn và đôi khi được lên ngôi báu còn kẻ địch thủ bị vạch mặt,

bị trừng trị, chết và hóa thân.

Ban đầu, nhân vật nhận được sự trợ giúp để vượt khó khăn và thay đổi cuộc

đời trước đó của mình. Để nhận được sự trợ giúp, nhân vật phải trải qua thử

thách của người ban tặng hoặc trải qua những gian khổ bộc lộ những phẩm

chất mới tiếp nhận những phương tiện thần kì hay là báu vật thần kì. Những

phương tiện này có thể là con vật có phép (con chó, con mèo biết hát, con cày

hương biết hát, con sư tử với những sợi râu phép màu, con hổ do người mẹ

thần kì hiện ra để giúp đỡ con gái, con cá bống mú, con cá vẩy đen…), những

đồ vật thần kì tiếp thêm sức mạnh cho nhân vật vượt qua khó khăn (đàn thần,

ngọc ước, niêu cơm thần, túi da cáo, chiếc giày, cối xay thần…) và những

phẩm chất có thể ban tặng trực tiếp như sức khỏe, khả năng biến hóa để chiến

thắng các địch thủ hoặc những con vật gây cản trở trên bước đường đi tìm

hạnh phúc như chằng tinh, thuồng luồng, đại bàng…. Nhờ đó, nhân vật thay

đổi cuộc đời của mình. Nhưng đó mới chỉ là kết quả tạm thời.

Sau đó, nhân vật lại tiếp tục bị kẻ đối thủ gây hại nhiều lần. Thậm chí, nhân

vật còn bị kẻ đối thủ giết hại để đoạt lấy tất cả những gì nhân vật ấy vừa mới

đạt được. Cứ thế nhân vật phải đấu tranh với kẻ địch thủ qua nhiều chặng và

cuối cùng mới chiến thắng, tiêu diệt được đối thủ. Những gì nhân vật mất đi

nay mới giành lại được. Trong truyện có một hình thức thưởng- phạt, sự

thưởng – phạt cuối cùng là quan trọng và có ý nghĩa nhất đối với câu chuyện

và đối với bản thân nhân vật. Còn những lần gặp may mắn liên tiếp trước đó

hay sự trợ thủ trước đó chỉ là hình thức thúc đẩy câu chuyện phát triển, tiếp

sức cho nhân vật đi tiếp trong quá trình đấu tranh với nhân vật thù địch để tìm

hạnh phúc đích thực cho mình. Câu chuyện nhờ thế mà tăng sức hấp dẫn.

Theo trí tưởng tượng bay bổng và phong phú của dân gian, hình thức thưởng

phạt cũng đa dạng và phong phú theo. Tính chất cao quý của phần thưởng cứ

tăng dần theo mức độ và qui mô theo mỗi chặng đường đấu tranh của nhân

vật. Phần thưởng cuối cùng mà nhân vật nhận được là cao quí và quan trọng

nhất. Cũng như vậy, nhân vật phản diện qua mỗi chặng đường cũng liên tiếp

gặp rủi ro, những bất trắc. Tất cả chúng đều mang ý nghĩa cảnh báo. Cuối

cùng, hình phạt cho kẻ địch thủ thật đáng sợ và nặng nề làm sao!

Dựa vào cơ sở vừa trình bày trên, chúng tôi phác thảo tạm thời mô hình vận

động thứ hai cho những truyện có một hình thức thưởng và một hình thức

phạt như sau:

Nhân vật bất hạnh luôn bị đối thủ hành hạ và đối xử thậm tệ. Kẻ đối thủ

luôn đưa ra những thử thách, những việc làm khó khăn buộc nhân vật phải

làm. Nhờ có sự trợ giúp của lực lượng thần kỳ nên nhân vật chính diện vượt

qua thử thách, thay đổi được cuộc đời và giành chiến thắng. Nhưng tất cả chỉ

là sự chiến thắng tạm thời. Sau đó, kẻ địch thủ liên tiếp gây hại thậm chí tiêu

diệt cả những vật phù trợ và nhân vật chính diện. Do đó, nhân vật phải trải

qua nhiều kiếp hóa thân rồi trở về với diện mạo mới để vạch mặt, tiêu diệt kẻ

đối thủ. Nhân vật nhận được phần thưởng cuối cùng.

Cần lưu ý thêm về nhân vật trừng trị kẻ đối thủ. Có khi, kẻ đối thủ bị tiêu

diệt bởi nhân vật chính, người vừa trở về sau những kiếp hóa thân, sau những

lần hoạn nạn. Nhưng cũng có truyện người trừng trị kẻ đối thủ không phải là

nhân vật chính mà là do người khác. Thường thì đó là những người có quyền

lực hơn như vua, quan, tạo mường…

Được sự trợ giúp của Bụt, Tấm (trong truyện Tấm Cám – Kinh) vượt qua

những gian khổ mà mẹ con Cám đặt ra để đi dự hội và được làm vợ vua. Sau

đó, nàng bị mẹ con Cám giết hại nhiều lần. Nhưng nhờ vào khả năng biến hóa

kì ảo của mình (chim vàng anh cây xoan đào khung cửi cây

thị, quả thị) Tấm trở về với diện mạo mới (xinh đẹp và mạnh mẽ hơn trước),

tiêu diệt mẹ con Cám và sống hạnh phúc sung sướng. Các truyện cùng kiểu

với truyện Tấm Cám của những dân tộc khác nhau trên dải đất Việt đều có

kết cấu như thế. Nhưng truyện Tấm Cám của người Kinh thì tự tay Tấm trừng

trị mẹ con Cám. Còn một số truyện của các dân tộc khác thì do kẻ có quyền

lực hơn trừng trị. Trong Nàng Khao, nàng Đăm của dân tộc Thái, người tiêu

diệt mẹ con mụ dì ghẻ không phải là nàng Khao mà là do Tạo Khum

Chương.

Từ đó có thể thấy, hình thức ban thưởng cuối cùng cũng do những chuỗi

may mắn, thuận lợi nối tiếp nhau do các báu vật thần kì hay phương tiện thần

kì mang lại trước đó. Theo đó, nhân vật địch thủ cũng liên tiếp gặp rủi ro và

bị trừng trị đích đáng ở cuối truyện. Từ con cày hương biết nhảy múa, người

em (Chữa bệnh cho Long Vương- Kinh) lần lượt có được những thuận lợi,

điều may mắn: được nửa đàn trâu, trở nên giàu có; được cây táo rụng cho quả

vàng, quả bạc; được cái máng lợn để nuôi lợn lớn như trâu nghé; được cái

lược chải đầu thì tóc xanh và mượt; được cái cần câu, câu nhiều cá và cuối

cùng là được một quả bầu thần kì có cô gái chui ra, sống hạnh phúc với người

em. Còn người anh liên tiếp gặp thất bại và cuối cùng bị trừng phạt. Chúng tôi

khảo sát có rất nhiều truyện có hình thức thưởng – phạt như thế này: Cá bống

thần – Vân Kiều; Nàng Khao, nàng Đăm – Thái; Con cày hương biết hát –

Dao; Túi da cáo và lưỡi câu gai; Ở ác gặp ác, Người tham vỡ bụng– Mèo;

Hai anh em – Hà Nhì....

Ở những truyện này, sau những chuỗi may mắn nhận được và thậm chí cả

của cải vật chất do những con vật hay báu vật thần kì ban tặng, nhân vật chính

đều được kết hôn với công chúa Thủy Tề hoặc kết hôn với người tiên. Phần

thưởng lớn nhất mà dân gian dành tặng cho họ là cuộc đời vui vẻ, hạnh phúc.

Đó mới là cái vĩnh cữu, là thiêng liêng nhất đối với mỗi con người của chúng

ta. Dù trong mơ ước, dù là sử dụng yếu tố hư cấu thần kì nhưng cái mà con

người khao khát, theo đuổi, muốn đạt được vẫn là hạnh phúc đơn giản, gia

đình vui vẻ chứ không phải là thứ xa vời của cuộc sống. Quả là sâu sắc và ý

vị biết bao! Dù là mơ ước lãng mạn, bay bổng diệu kì, cuối cùng tư duy coi

trọng thực tiễn của dân gian vẫn thắng thế, lấn át tất cả.

Có bao nhiêu tặng thưởng dành cho nhân vật chính diện là cũng có bấy

nhiêu hình phạt cho nhân vật phản diện, nhân vật thù địch. Mơ ước, khát

vọng cho cuộc đời hạnh phúc cứ lớn dần theo năm tháng qua những gian khổ,

thử thách mà nhân vật chính diện trải qua thì mức độ của những hình phạt cứ

tăng dần, càng ngày càng nghiêm trọng hơn dành cho nhân vật thù địch. Có

khi hình phạt lại nặng nề hơn hẳn hành động mà nhân vật đã làm, theo tư

tưởng “Gieo gió gặt bão”; nhiều khi hơn cả việc “Gieo nhân nào gặt quả ấy”.

Những hình phạt này không chỉ thể hiện cho quan niệm công bằng xã hội mà

chúng còn mang ý nghĩa nhân sinh sâu sắc. Hình phạt nhằm răn đe, thức tỉnh

lương tri mỗi con người để cuộc sống sau này muôn vàn tốt đẹp hơn. Và rõ

ràng đằng sau những hình phạt ấy lại là một tấm lòng nhân ái của dân gian.

Trong mỗi câu chuyện kể có một hình thức thưởng - phạt, chúng ta cũng nhận

thấy rằng lần phạt sau cùng bao giờ cũng nặng nề hơn sự cảnh báo, sự trách

trước đó. Hình phạt sau cùng là thích đáng nhất để cái ác, cái xấu bị tiêu diệt

vĩnh viễn. Câu chuyện vì thế làm người nghe hả lòng, hả dạ.

Từ đây, chúng tôi đi vào khái quát những cách thức thưởng- phạt trong kiểu

truyện có một hình thức thưởng và một hình thức phạt khá đa dạng, cụ thể

như sau:

Trước hết phải kể đến một hình thức phạt phổ biến nhất là cái chết. Cái

chết cũng được thể hiện dưới nhiều hình thức bị dìm xuống biển (Cây khế -

Kinh, Cây khế - Khmer), bị dìm xuống vực (Cối đá đổi vàng – Dao), bị chìm

xuống biển cùng với chiếc thuyền và cối xay thần (Cối xay thần – Khmer); bị

treo cổ chết (Chàng rể cóc – Kinh); bị hổ xé xác (Người anh tham lam- Mèo,

Hai anh em – Hà Nhì), bị em chém nhiều nhát và quạ đen móc mắt, moi gan;

hổ báo ăn thịt, xương bị từng đàn săng- mao tha đi vung vãi ( Ở ác gặp ác –

Mèo ); chết vì sợ hãi, lăn đùng ra chết (Tấm Cám – Kinh , Ý Noọng Ý Ưởi –

Thái, Nàng Khao Nàng Đăm – Thái; Vùi và Lu – Lô Lô ); chết ở xó rừng

(Tua Gia và Tua Nhi – Tày); ngã xuống sông chết, bị quạ rỉa thịt (Gơ Liu Gơ

Lát – X’rê ); hốt hoảng bưng mặt chạy trốn, trợt chân té xuống ao bị cá sấu

táp, nuốt vào bụng (Niềng Kòn- tuốc và Niềng Chông-ầng - kam – Khmer);

rớt xuống đất bị hổ xé xác (Mồ côi và tên nhà giàu xấu bụng – Dao ); bị sư

tử và thú rừng giết chết (Ba sợi râu của sư tử - Dao); chết và chôn ở một góc

rừng sâu hiu quạnh (Nàng mù và anh chàng thong manh – Mèo ); bị sét

đánh chết (Chau Sanh và Chau Thong – Khmer , Thạch Sanh- Kinh …); kẻ

bị chuột cắn rồi vết thương sưng tấy lên, đau nhức mà chết, kẻ bị xử chém, bị

chặt ra từng khúc làm mắm (Cô gái mồ côi – Khmer ); bị rắn cắn chết (Cái

ang vàng – Mường); nuốt hạt đậu tương bị trương bụng mà chết (Người tham

vỡ bụng – Mèo ); chết do uống phải thuốc độc mà trước đó đã dùng để hại

người khác (Hai ông trạng nhỏ - Kinh); xấu hổ phải ăn lá ngón mà chết (Hòn

gạch nên nghĩa vợ chồng – Mèo); bị bóp cổ chết (Tam và Tứ - Kinh); vấp

ngã, đầu đập vào bức tường vàng mà chết (Vua quạ - Kinh); vợ con chết và

điên dại chết luôn (Cá bống thần – Vân Kiều)…

Có lúc nhân vật chết hoặc biến thành những sự vật, con vật bẩn thỉu, tầm

thường : hóa thành con khỉ suốt ngày nhảy nhót trong rừng, tách xa cuộc sống

loài người (Sự tích con khỉ - Kinh ); hóa thành con chim thù thì suốt đời chui

rúc trong đêm tối, lo sợ khi nghe tiếng động (Sự tích chim thù thì – Vân

Kiều); chết và biến thành con bọ hung suốt đời chui rúc trong chốn dơ bẩn

(Thạch Sanh – Kinh ); chết và hồn biến thành quạ đen (Nàng Khao nàng

Đăm – Thái); mẹ chết hóa thành con diều hâu, con chết hóa thành hoa mơ -

miêng hôi thối (Pơ Ria, Pơ Ró - Chăm Hơ – roi); chết và hóa thành cây

chuối rừng cô độc (Sự tích cây chuối rừng- Mèo); chui xuống gậm giường

trốn nhưng vì sợ hãi quá nên vỡ mật chết hóa thành con dế (Mụ dì ghẻ ác

nghiệt hay Sự tích con dế - Kinh) ...

Dân gian còn cho rằng cái chết chưa phải là hình thức trừng phạt nặng nề

nhất mà còn có nhiều hình thức khác còn khó chịu và khủng khiếp hơn nhiều.

Bởi chết đi còn dễ chịu hơn phải sống và đối diện với những người xung

quanh khi họ đã biết rõ bản chất và hành vi xấu của mình. Sống trong hổ thẹn,

bị ruồng rẫy còn đáng sợ hơn cả chết. Dân gian để cho kẻ có lòng dạ xấu xa

phải chịu đựng những tủi nhục về tinh thần: xấu hổ, bẽ mặt trước mọi người

(Bánh chưng, bánh dày – Kinh, Nàng ngón út - Chàm), suốt đời phải mang

bên mình dị tật (Hai cô gái và cục bướu – Kinh); sợ hãi bỏ nhà, từ bỏ quê

hương đi biệt tích (Sọ Dừa- Kinh ), mẹ con mụ dì ghẻ chạy ù té và trốn biệt

vào rừng (Niêng Kòn- Tuốc và Niềng Chồng - Ầng – Kam – Khmer), đi ăn

xin lại bị chồng cũ, vợ cũ nhận mặt nên xấu hổ chạy ù té vào rừng trốn biệt

(Mê Núp – Khmer). Không chỉ thể, dân gian còn biết những kẻ xấu ấy chịu

đau đớn cả thể xác lẫn tinh thần: cả họ hàng lão phú hộ bị dính vào cây tre,

chổng ngược lên trời (Cây tre trăm đốt – Kinh ); người anh tham lam xấu hổ

với bà con hàng xóm, bị giải lên quan đánh cho năm mươi lăm trượng và đền

bù chạy chữa cho nạn nhân (Bính và Đinh – Kinh). Có lúc, dân gian lại tước

đoạt tất cả những gì không thuộc về những kẻ xấu xa ấy như cuộc sống giàu

sang, phú quý, chức tước, địa vị, hạnh phúc gia đình (Của Thiên trả Địa –

Kinh, Sính Lữ cứu con Ngọc Hoàng – Mèo…).

Đôi khi kẻ xấu được tha do lòng khoan dung độ lượng của người thân :

người chị được người em tha thứ và từ đó không làm điều ác nữa (Phò mã Sọ

dừa - Chàm; Chàng Trăn ), cha mẹ bị xấu hổ không dám nhìn con vì đã trót

đối xử không tốt với con trước đó.

Từ việc khảo sát những truyện trên, chúng tôi nhận thấy lý do khiến cho

nhân vật bị trừng phạt chủ yếu là : do tham lam, độc ác, hám sắc, thích địa vị

và quyền lực, có lòng ganh ghét và đố kị với người, vong ân, bội tín, không

chung thủy, biếng nhác, không vượt qua được thử thách của người ban

tặng…. Dân gian đã dành cho những kẻ xấu xa ấy những hình phạt đích đáng

với thái độ rất nghiêm khắc.

Song song với việc trừng phạt kẻ xấu, truyện cổ tích bao giờ cũng dành

một góc tốt đẹp cho người tốt, người lương thiện. Đó là phần thưởng xứng

đáng dành cho họ ở cuối truyện. Truyện đã thể hiện một cách trọn vẹn tư

tưởng quan điểm của dân gian khi sáng tạo truyện cổ tích: thể hiện ước mơ

cháy bỏng của con người về sự công bằng xã hội và ước mơ thay đổi cuộc

đời. Có bao nhiêu cuộc đời khốn khổ, bất hạnh là bấy nhiêu ước mơ cháy

bỏng. Ước mơ lại nối tiếp ước mơ và để thấy rằng con người quả có một sức

sống dai dẳng, một ý chí sắt đá và một tinh thần lạc quan vô bờ bến. Nhân vật

trung tâm trong truyện cổ tích là những con người thấp hèn trong xã hội giai

cấp nên dân gian giải quyết số phận, cuộc đời họ theo kết cục có tính chất ước

mơ. Lý tưởng thẩm mĩ của truyện cổ tích lấy tư tưởng xã hội làm cơ sở và

hướng vào những tư tưởng đạo đức, phẩm chất trong sáng của xã hội thị tộc.

Hình thức ban thưởng trong nhóm truyện này cũng khá phong phú và

da dạng. Chúng tôi nhận thấy lúc nhân vật chính được tiếp nhận những

phương tiện thần kì (ngựa thần, chim thần, niêu cơm thần, sáo thần..) hay

những phẩm chất ban tặng trực tiếp (sức khỏe, trí thông minh, khả năng biến

hóa, ứng xử nhanh trong cuộc sống…) cũng chính là lúc họ đã được ban tặng

xứng đáng, báo hiệu cho phần thưởng cao quý hơn ở cuối truyện. Chúng xuất

hiện khá phổ biến trong truyện cổ tích. Sự ban tặng này là động lực để nhân

vật giành chiến thắng ở cuối truyện. Trước hết khi khảo sát 87 truyện có chứa

song song một hình thức thưởng- một hình thức phạt, chúng tôi nhận thấy

một hình thức thưởng khá phổ biến là nhân vật mang một diện mạo mới cùng

với sự kết hôn lên ngôi. Thông thường sự biến hình sẽ dẫn tới sự kết hôn và

lên ngôi. Đó chính là sự ban thưởng cho nhân vật chính. Hình dáng mới này

do phép thần thông của nhân vật trợ thủ như ông Bụt, bà tiên, vị hòa thượng,

thậm chí lũ quỷ (lũ quỷ trong Hai cô gái và cục bướu – Kinh, đã lấy cục

bướu trên khuôn mặt cô gái hiền lành do đó cô trở nên xinh đẹp hơn)…. Hình

dáng này nhiều khi nhân vật sử dụng phương tiện thần kì có được (người vợ

trong truyện Lọ nước thần- Kinh, vô tình lấy lọ nước thần kì ra tắm nên xinh

đẹp). Kiểu này chiếm tỉ lệ khá lớn trong lượng truyện mà chúng tôi khảo sát.

Còn rất nhiều truyện nhân vật mang một diện mạo mới do có phép thần thông

từ trước: Sọ Dừa (Sọ Dừa – Kinh) hóa thành chàng trai xinh đẹp, trăn (Ta-

lăn, Ta-lê – Vân Kiều) hóa thành chàng trai khôi ngô, khỏe mạnh, dê (Lấy

chồng dê – Kinh) cởi lốt bên ngoài trở thành chàng trai tuấn tú…. Loại truyện

này rất khá phổ biến. Sự biến hình cùng với một diện mạo của nhân vật chính

– người mồ côi, con út, con riêng, người mang lốt xấu xí thể hiện ước muốn

được thay đổi của đời của dân gian và mang ý nghĩa xã hội sâu sắc. Tâm lý

dân gian muốn khôi phục lại truyền thống cũ - để những con út, con riêng,

con côi bị tước đoạt quyền hạnh phúc.. lại được thừa kế tài sản và được duy

trì bếp lửa gia đình của thị tộc. Nhưng thực tế không cho họ có quyền ấy nên

dân gian đành chuyển ước mơ này vào hình tượng văn hóa dân gian thông qua

những con vật xấu xí, nhỏ bé tầm thường ẩn bên trong là những chàng trai cô

gái xinh đẹp, tài giỏi hơn người. Hơn nữa, quá trình biến hóa này xuất phát từ

tư duy thô sơ, chất phác của người xưa. Họ quan niệm rằng: con người và loài

vật có cùng tư duy, cùng một nguồn gốc bản thể; giữa người và loài vật hầu

như không có một khoảng cách lý tính; con vật có thể biến thành người và

ngược lại. Hơn nữa, con người nhận con vật làm tổ thì con người lấy con vật

làm anh em, vợ chồng là logic tự nhiên, không có gì là khó hiểu. Người mang

lốt vật hay có hình tượng xấu xí còn liên quan đến quan niệm thẩm mĩ của

dân gian nhằm khẳng định vẻ đẹp đích thực của con người – vẻ đẹp ở bên

trong, vẻ đẹp tâm hồn: “ Tốt gỗ hơn tốt nước sơn; Xấu người tốt nết còn hơn

tốt người”. Thông qua việc sử dụng các yếu tố thần kì, các nghệ nhân dân

gian đã xây dựng theo một mục đích nghệ thuật đã định sẵn: thiện phải thắng

ác.

Khi nhân vật xuất hiện với diện mạo mới và thường là có cuộc sống hạnh

phúc, giàu sang hơn, gắn liền với việc kết hôn:

Trước hết, nhân vật chính lấy vợ, chồng (chồng, vợ là những con người có

nguồn gốc bình bình thường) và sống cuộc đời hạnh phúc, vui vẻ (Rú roọc

Xađie, Sự tích chim thù thì – Vân Kiều). Có lúc, nhân vật chính đỗ trạng

nguyên, làm quan và kết hôn với công chúa hoặc người bình thường không

phải là công chúa (Người dân nghèo và Ngọc Hoàng – Kinh, Mê Núp –

Khmer...). Nhờ có công trạng, nhân vật được vua gả công chúa cho, sống

cuộc đời hạnh phúc (Chàng Sơn – Mường, Chàng rể cóc – Kinh, Mồ côi lấy

con vua – Phù Lá, Vua quạ - Chàm …). Đôi khi, nhân vật chính có công

trạng lớn, có tài năng nên được kết hôn với công chúa rồi lên ngôi báu, sống

cuộc đời hạnh phúc (Chàng Cơm Cháy – Khmer, Người nghèo lấy được con

vua - Kinh, Ba sợi râu của sư tử - Dao, Nàng tiên thứ chín - H’rê …).

Cũng có khi, việc lên ngôi báu của nhân vật như là một phần thưởng mang

tính may mắn, ngẫu nhiên (Lọ nước thần hay Ai mua hành tôi – Kinh,

Chàng Lùn – Dao)…

Có khi, nhân vật đã có vợ nhưng mất vợ, nhờ vào khả năng của bản thân

hoặc nhờ vào thế lực thần kì giúp đỡ tìm được vợ, gia đình đoàn viên và sống

hạnh phúc (Mồ côi tìm vợ -.Kinh, Lúa chàng Nai- Thái…)

Một hình thức thưởng cũng khá phổ biến trong truyện cổ tích Việt Nam là

nhân vật thay đổi cuộc đời. Hầu hết, các truyện chúng tôi khảo sát đều có biểu

hiện của sự ban thưởng này. Các nhân vật đều được thay đổi cuộc đời khốn

khó trước đây và sống ấm no, sung túc trong giàu sang, có nhiều của cải vật

chất, có kẻ hầu người hạ. Có khi nhân vật được nhận phần thưởng bằng tiền

hay được đền bù xứng đáng với nhiều hình thức : ban thưởng tiền bạc, chức

tước, lấy nhiều vàng bạc, cuộc sống thoát khỏi cảnh nghèo khó, đói rách trước

đây (Người dân nghèo và Ngọc Hoàng – Kinh, Mê Núp – Khmer, Chàng

Lợn – Gia Rai…). Cũng có lúc, nhân vật được hưởng toàn bộ gia tài do người

anh đổi hoặc chết để lại hoặc do người khác trao đổi và cưới vợ (Cây khế -

Kinh, Hai cây khế - Khmer, Sính Lữ cứu con Ngọc Hoàng – Mèo, Chàng

Lùn- Dao…). Đôi lúc, phần thưởng dành cho nhân vật là sự chiến thắng kẻ

thù địch quay về trong niềm hân hoan của gia đình và của cộng đồng (Chuyện

Hột Nhồi – Tày, Chàng Cóc – Ka - dong…)

Mỗi câu chuyện là tư duy, là tâm hồn của một dân tộc, gắn liền với cuộc

sống lao động, sinh hoạt của dân tộc ấy. Cuộc sống phức tạp, khó khăn nhưng

cuối cùng rồi ước mơ lãng mạn sẽ đến với họ. Kết cục của truyện cổ tích như

vậy, cũng theo ước mơ dân gian mà phát triển. Cuộc sống mà họ chịu đựng

càng ngày càng phức tạp thì kết cấu cốt truyện cũng phức tạp dần theo. Vấn

đề đấu tranh giai cấp được lồng vào vấn đề công lý đạo đức. Trong sự phân

biệt rạch ròi hai tuyến nhân vật tốt- xấu, thiện - ác, đối lập nhau từ tính cách

cho đến hình tượng để phản ánh mâu thuẩn xã hội, dân gian bao giờ cũng

giành phần ưu ái cho người tốt. Chất trữ tình và chất lãng mạn thấm đượm

trong từng câu chuyện kể. Dân gian đã gởi gắm tất cả nỗi niềm cơ cực và khát

khao được sống hạnh phúc, ấm no khi kể về người bất hạnh, người mồ côi..

Trong nhóm truyện có một hình thức thưởng – một hình thức phạt, với

nhân vật chính được ban thưởng, đối thủ bị trừng phạt thì có sự tham gia của

mô típ cơ bản có tính bao trùm : nhân vật bất hạnh bị thế lực đen tối áp bức

nặng nề về cả tinh thần lẫn vật chất, bị khinh rẻ thậm chí bị hất ra khỏi đời

sống cộng đồng. Nhờ có lòng tin, trí thông minh, sự hỗ trợ đắc lực của các thế

lực siên nhiên (thần, Bụt, Phật, tiên, thẻn, đạo sĩ, chim, thú, thần..), nhân vật

giành và giữ được hạnh phúc vốn có đã bị tước đoạt trong xã hội tư hữu. Qua

đó, con người muốn khẳng định vị trí của người mồ côi con riêng, con út, em

út, người hóa bụi, cô đơn, nghèo khổ trong xã hội ấy.

Trên cơ sở mô típ có tính bao trùm toàn bộ trong hệ thống truyện cổ tích

thần kì các dân tộc Việt Nam này, tác giả dân gian đã đặt ra vấn đề cốt tử

trong đời sống : hạnh phúc và bất hạnh, giàu và nghèo, độc đoán và dân chủ,

sự độc ác và lòng nhân ái, tình yêu và hận thù…theo cách nhìn và quan điểm

của người lao động. Mô típ cơ bản này đóng vai trò quan trọng trong việc

thúc đẩy sự phát triển của cốt truyện và định hướng cho cốt truyện. Rõ ràng,

trong kiểu truyện có một hình thức thưởng và một hình thức phạt, ta thấy sự

phát triển của cốt truyện xoay quanh những xung đột phức tạp từ trong gia

đình ra ngoài xã hội. Do đó, phần kết thúc truyện thường giải quyết thỏa đáng

những xung đột ấy và trao phần thưởng xứng đáng cho ai là người tốt bụng và

ngược lại, sẽ là hình phạt dành cho đối thủ, thỏa mãn tâm lí của dân gian và

người đọc mọi thế hệ sau. Tuy nhiên, qua khảo sát của chúng tôi xác định

được một số mô típ cụ thể sau:

Mô típ ban thưởng gồm có mô típ nhận được báu vật hay phương tiện thần

kì; mô típ biến hình; mô típ người trần kết hôn với tiên, người tiên đội lốt vật,

với người thủy cung; mô típ lên ngôi báu và kết hôn với công chúa, hoàng tử.

Còn những mô típ trừng phạt bao gồm mô típ bị tước đoạt cuộc sống giàu

sang, quyền lực; mô típ bắt chước nhiều lần không thành công; mô típ hóa

thân và cái chết.

Với những mô típ trên cùng với sự vận động đặc trưng của thể loại, kết

thúc truyện thường có hậu: nhân vật chính được đền đáp xứng đáng, được

hưởng hạnh phúc lý tưởng theo quan niệm nhân dân lao động. Phải chăng dân

gian thấy cần có một phần thưởng xứng đáng cho người mồ côi, nghèo khổ,

có ngoại hình xấu xí, có phảm chất tốt đẹp, có trí thông minh thì mới có công

bằng xã hội? Hơn nữa khi con người có ước mơ, có khát vọng thay đổi cuộc

đời thì họ mới thay đổi được? Dân gian quả là sâu sắc và có lý chứ không

phải là ảo tưởng một cách thuần túy. Đó là sự khẳng định niềm tin của nhân

dân vào một tương lai tươi sáng hơn dù cho rằng cuộc sống hiện tại là bất

hạnh đầy rẫy đau thương và phi lý. Dân gian, thông qua kho tàng truyện cổ

của dân tộc, hướng tới khát vọng ngàn đời của con người là thay đổi cuộc đời,

giành lại công bằng xã hội và khẳng định cái thiện, cái đẹp; phủ nhận cái xấu

cái ác.

Tương ứng với số lượng hình thức thưởng – phạt tham gia xây dựng cốt

truyện, chúng tôi tạm thời phác họa ra mô hình vận động cụ thể của hình thức

thưởng phạt như sau:

(1). Cách thức vận động của hình thức thưởng – phạt của cốt truyện có duy

nhất một hình thức thưởng hoặc một hình thức phạt.

(a) Nhân vật bất hạnh có hành vi đạo đức, cách ứng xử tốt đã gặp may mắn

hoặc được ban thưởng để rồi có cuộc đời hạnh phúc.

(b) Nhân vật có phẩm chất đạo đức xấu đã không vượt qua thử thách hoặc

có cách hành xử không đẹp nên bị trừng phạt.

Ở mười bảy dân tộc có truyện đưa vào khảo sát, chúng tôi nhận thấy cách

thức vận động của hình thức thưởng hoặc một phạt tương đối khá trọn vẹn,

tương ứng với sơ đồ trên. Có thể nói, mô hình vận động của hình thức một

thưởng hoặc một phạt đơn lẻ tương đối đơn giản nhưng ở mỗi truyện có mỗi

dạng vẻ khác nhau. Đặc biệt, trong cách thức vận động này, nhân vật ứng xử

và hành động đơn tuyến chưa có tuyến nhân vật đối lập chỉ có môi trường để

nhân vật hoạt động, để nhân vật được thử thách. Dụng ý của người sáng tác

muốn xây dựng hình tượng một nhân vật tốt hoặc xấu để thông qua đó nêu lên

một quan niệm, một cách sống cụ thể và thể hiện một cảm hứng phê phán hay

ngợi ca chủ đề ngợi ca tôn vinh con người tốt, người lương thiện, biết đối xử

tốt với người khác và phê phán kẻ xấu, có hành vi đạo đức xấu.

Qua đó, chúng tôi nhận thấy cách thức thưởng hay phạt ở dân tộc Kinh rõ

ràng và cụ thể hơn các dân tộc khác, nhất là ở hình thức phạt. Người Kinh hay

dùng cái chết hóa thân của nhân vật chính diện để răn đe kẻ xấu.

(2). Cách thức vận động của truyện có cùng một hình thức thưởng và một

hình thức phạt.

Mô hình 1: Nhân vật bất hạnh trong cuộc đấu tranh với nhân vật địch thủ

bộc lộ những phẩm chất đạo đức tốt, vượt qua thử thách, được ban thưởng

(cuộc sống giàu sang, hạnh phúc) và đối thủ thì bị tước đoạt mọi thứ và nhiều

khi bị trừng phạt bằng cái chết và sự hóa thân.

Như đã đề cập, đây là cách thức vận động phổ biến nhất của hình thức

thưởng – phạt trong truyện cổ tích (gồm có 87 truyện để khảo sát). Cách thức

thưởng phạt của các dân tộc nhìn chung có nhiều điểm tương đồng. Ở hai

mươi bốn dân tộc có truyện khảo sát, hình thức thưởng phạt trong những

truyện này có mô hình vận động cụ thể theo hai hướng sau:

Hướng thứ nhất, nhân vật chính diện bị thế lực thù địch áp bức, gây hại.

Nhân vật này đấu tranh chống lại kẻ địch thủ có nhờ sự giúp sức của lực

lượng thần kì. Nhân vật chiến thắng và tiêu diệt được đối thủ.

Hướng thứ hai, cả hai tuyến nhân vật cùng gặp thử thách giống nhau

nhưng chỉ có một nhân vật chính diện mới khắc phục được thử thách và được

ban thưởng còn đối thủ bị trừng phạt.

Ở cả hai hướng vận động này, nhân vật phản diện bị tiêu diệt bằng chính

lực lượng giúp sức bằng cái chết và sự hóa thân hoặc giả nhẹ hơn cũng bị

tước đoạt tất cả cuộc sống giàu sang, hạnh phúc trước đó. Đôi khi nhân vật

thiện sẽ dùng khả năng của mình mà tiêu diệt đối thủ hoặc tha thứ cho họ

nhưng họ cũng không dám nhìn mặt mọi người nữa. Còn nhân vật thiện được

hưởng hạnh phúc, giàu sang hoặc được kết hôn với công chúa, hoàng tử và

lên ngôi vua hoặc ít nhất cũng giành lại được những gì mình đã mất.

Như vậy, thưởng và phạt của những truyện dạng này đều có ý nghĩa xã hội và

ý nghĩa giáo dục sâu sắc, thuyết minh cho qui luật cuộc sống “Ác giả ác báo”,

“Gieo nhân nào gặt quả ấy”

Mô hình 2: Nhân vật bất hạnh trong cuộc đấu tranh với nhân vật địch thủ

bộc lộ những phẩm chất đạo đức tốt, vượt qua thử thách, được ban thưởng

(cuộc sống giàu sang, hạnh phúc). Nhưng sau đó, đối thủ lại bị tước đoạt mọi

thứ thậm chí giết hại cả nhân vật chính diện. Nhân vật hóa thân nhiều lần rồi

trở về với một diện mạo mới. Kẻ đối thủ bị trừng phạt bằng cái chết và sự hóa

thân.

Cách thức vận động của cốt truyện theo mô hình này khá phức tạp với

nhiều chặng đấu tranh, với nhiều tặng thưởng và nhiều đòn trách phạt dành

cho kẻ thù. Nhân vật chính diện và kẻ đối thủ cùng đặt trong tình huống thử

thách. Kết quả nhân vật thiện được tặng thưởng còn nhân vật ác liên tiếp gặp

rủi ro. Nhân vật ác này tìm cách tiêu diệt hoặc tước đoạt cuộc sống hạnh phúc

của đối thủ. Nhưng nhờ có sự trợ giúp thần kì hoặc dựa vào bản thân mình,

nhân vật thiện được ban thưởng xứng đáng còn đối thủ lại bị trừng trị thích

đáng.

Trong 87 truyện có một hình thức thưởng và một hình thức phạt, chúng tôi

thống kê được 36 truyện có cách thức vận động của các cốt truyện phức tạp

theo mô hình 2. Trong đó, các dân tộc Kinh, Mèo, Khmer, Thái, Vân Kiều có

kiểu truyện với kết cấu cốt truyện phức tạp như trên nhiều nhất. Cách thức

vận động của hình thức thưởng phạt ở đây diễn biến dài dòng, phức tạp đồng

thời lại rất hấp dẫn. Hành trình đi tìm hạnh phúc của nhân vật chia làm nhiều

chặng với nhiều mối quan hệ phức tạp dần từ trong gia đình đến ngoài phạm

vi xã hội rộng lớn phản ánh nhiều quan niệm nhiều cách nhìn nhận cuộc sống

đa dạng, phong phú. Về chung cục, chúng tôi nhận thấy, thông qua những

truyện này, các hình thức thưởng phạt bao quát cả một vòng đời của nhân vật

từ khi mới sinh ra cho đến khi được hưởng hạnh phúc đến già. Dường như

người kể muốn tạo nên một dư âm hạnh phúc lâu bền trong lòng người đọc và

trong mỗi câu chuyện kể.

1.3. Đặc điểm của các hình thức thưởng phạt

Như đề cập trong các phần trên, vấn đề số lượng hình thức thưởng – phạt

có liên quan đến chủ đề, nội dung tư tưởng của truyện cổ tích. Ngược lại dụng

ý nghệ thuật cả dân gian chi phối đến số lần thưởng và phạt trong truyện cổ

tích. Thật khó xác định được tách bạch ranh giới rõ ràng của các hình thức

thưởng – phạt. Do đó, chúng tôi tạm chia ra những truyện có một hình thức

thưởng, nhóm truyện có một hình thức phạt và nhóm truyện có một hình thức

thưởng – một hình thức phạt như ở trên. Thông qua quá trình phân loại, miêu

tả, chúng tôi khái quát được những đặc điểm cơ bản của từng nhóm truyện

như sau:

1.3.1. Nhóm truyện chỉ có một hình thức thưởng hoặc một hình thức

phạt

Trong những dân tộc tìm được nguồn truyện khảo sát, chỉ có các dân tộc

như Ê- đê, Mường, Hà Nhì, Tà Ôi, Xê đăng, Khmer, Giáy, Nùng, Chăm Hơ –

roi, Chăm… có một đến hai truyện; còn lại một số dân tộc: Vân Kiều, Tày,

Dao, Lô Lô, Pu Péo, Ba Na, Cơ Tu, X’rê chúng tôi không tìm thấy truyện

nào. Do đó, khi tìm hiểu ảnh hưởng của một hình thức thưởng hoặc phạt đối

với việc thể hiện chủ đề của truyện, chúng tôi dựa trên số lượng của các dân

tộc có số lượng truyện tương đối dồi dào. Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy

có bốn dân tộc : Kinh, Gia Rai, Thái, Cao Lan thuộc nhóm có nhiều truyện có

kết cấu một thưởng hoặc một phạt. Người Kinh có 9 truyện, Gia Rai có sáu

truyện, Cao Lan có ba truyện, Thái có bốn truyện. Vấn đề truyện chỉ có một

hình thức thưởng hoặc một hình thức phạt phản ánh điều gì?

Qua tìm hiểu, chúng tôi nhận thấy truyện có một thưởng hoặc một phạt

thường đề cặp đến số phận cá nhân, hạnh phúc cá nhân với cảm hứng ngợi ca

hoặc phê phán. Người xưa muốn đề cao sự khỏe mạnh, trí thông minh và sự

khéo léo và những phẩm chất tốt đẹp ( thanh liêm, ngay thẳng, tốt bụng, thật

thà, biết vượt qua khó khăn để tìm hạnh phúc…) của con người đặt trong tập

thể, cộng đồng người.. Những truyện này chưa có nhân vật đối kháng mà vấn

đề trung tâm là cách cư xử và hành vi đạo đức của con người trước khó khăn,

thử thách trong cuộc sống. Nó giống như một sự đề cao, tôn vinh quan niệm

sống đúng sống đẹp để tu dưỡng nhân cách, trau dồi tài năng.

Bên cạnh đó cũng thông qua cách ứng xử trước những vấn đề cuộc sống

nhưng có nhân vật bị trừng phạt. Hình thức phạt rất sống động. Ở các truyện

của người Kinh, sự trừng phạt có tính chất nặng nề hơn các dân tộc khác.

Thông qua các truyện về sự tích, dân gian không những tước đoạt niềm vui,

hạnh phúc đang có của con người mà còn bắt họ phải chết, hóa thân thành

những sự vật, con vật bé nhỏ, xấu xí để răn đời, răn người. Do đó, có thể nói,

so với các dân tộc anh em khác, bốn dân tộc trên thường chú trọng hơn đến

vấn đề đời sống cá nhân bên cạnh những vấn đề chung của đời sống cộng

đồng. Ở đây lĩnh vực đời thường được chú trọng, quan tâm hơn các vấn đề

đấu tranh chống chọi với thiên nhiên. Với mục đích rõ ràng như vậy, những

nghệ nhân dân gian đã lựa chọn cốt truyện có một hình thức thưởng hoặc

những truyện chỉ có một hình thức phạt. Mặc dù tình tiết và màu sắc ở các

truyện trên có sự khác biệt song tất cả đều toát lên ý nghĩa ngợi ca những con

người có phẩm chất tốt đẹp hay phê phán những kẻ có thói hư tật xấu.

Cốt truyện chỉ có một hình thức thưởng hoặc một hình thức phạt tương

đối đơn giản, chưa có tuyến nhân vật đối lập. Truyện chỉ xoay quanh một

nhân vật với những nét tính cách đặc trưng hoặc tốt hoặc xấu. Ở những truyện

này, nội dung cốt truyện chỉ xoay quanh những vấn đề thuộc phạm trù đạo

đức của con người. Thông qua đó, nhân vật chính của cốt kể bộc lộ tính chất

và hành động của mình để từ đó dân gian có cơ sở mà đưa ra những phán xét

ở cuối cốt truyện. Cũng theo đó, dân gian sẽ ca ngợi hoặc trao phần thưởng

xứng đáng cho những ai có phẩm chất đạo đức tốt như kiên trì, tốt bụng,

thông minh…và sẽ trừng phạt nếu đó là người xấu xa, chuyên hại người khác.

Tất cả đều có tính chất thuyết minh cho những quan niệm đạo đức xã hội dựa

trên tinh thần nhân ái của dân gian.

Sự tham gia của các yếu tố thần kì vào trong nhóm truyện này không đóng

vai trò quyết định. Yếu tố thần kì chỉ thể hiện rõ nét ở phần kết truyện chứ

không tham gia vào đầu câu chuyện như các truyện thuộc nhóm có một hình

thức thưởng, một hình thức phạt. Yếu tố thần kì không chi phối và dẫn dắt

toàn bộ nội dung câu chuyện mà chỉ đóng vai trò phù trợ mà thôi. Vai trò

quyết định thưởng hay phạt chủ yếu là do phẩm chất đạo đức và cách ứng xử

của con người.

1.3.2. Nhóm truyện có một hình thức thưởng - một hình thức phạt

Số lượng truyện có cùng lúc một hình thức thưởng và phạt chiếm phần lớn

truyện chúng tôi khảo sát được và có lẽ cũng chiếm số lượng lớn trong kho

tàng truyện cổ các dân tộc trên dải đất Việt. Ở đây chúng ta chỉ có thể đưa ra

ước đoán rằng, có thể, những truyện có cùng lúc một hình thức thưởng phạt

phản ánh đúng bản chất đặc trưng nhất của truyện cổ tích là phản ánh số phận

những con người bình thường trong xã hội, thể hiện tinh thần nhân đạo và

tinh thần lạc quan của nhân dân lao động (thông qua khát vọng thay đổi cuộc

đời, số phận và ước mơ về sự công bằng xã hội) thông qua cốt truyện và hình

tượng được hư cấu có chủ định. Chủ đề chủ yếu của nó là chủ đề xã hội, phản

ánh nhận thức của nhân dân qua những xung đột đặc trưng trong một thời kỳ

lịch sử đã có chế độ tư hữu về tài sản, có gia đình riêng, có mâu thuẫn giai cấp

và đấu tranh giai cấp. Truyện cổ tích có một hình thức thưởng- phạt đã phản

ánh chân thực cách nhìn nhận thực tiễn của người xưa.

Hơn nữa, mỗi câu chuyện kể (hay nói đúng hơn là cốt truyện) kể về cuộc

đời và sự phát triển tính cách của nhân vật. Truyện kết thúc ở phần mở nút,

xung đột bị triệt tiêu, cái thiện ban thưởng, cái ác trừng trị. Nhưng cũng

không thể dựa vào đó mà cho rằng truyện thể hiện cho một trình độ thấp của

quá trình sáng tao nghệ thuật mà nó đáp ứng yêu cầu của trình độ tư duy của

một giai đoạn lịch sử, thỏa mãn nhu cầu dễ nhớ, dễ thuộc, dễ kể, dễ lưu

truyền. Đó cũng là một tiêu chuẩn quan trọng đảm bảo cho sự tồn tại lâu dài

của một tác phẩm folklore trong không gian và thời gian.

Ở cốt truyện có hình thức thưởng phạt, dân gian thường sử dụng những

công thức có sẵn trong kho tàng văn liệu văn học dân gian như các kiểu mở

đầu, các kiểu kết thúc và các mô típ nghệ thuật được lặp đi lặp lại ở những

dân tộc khác nhau trên dải đất Việt. Đó là một trong những lý do cắt nghĩa

cho sự tương đồng của các truyện cổ tích của các dân tộc anh em.

Có thể thấy, trong những truyện cổ tích mà chúng tôi khảo sát, các dân

tộc đều có truyện chứa một hình thức thưởng phạt. Nhiều nhất là các dân tộc

Kinh, Mèo, Khơme….Các truyện này đề cập đến tất cả những xung đột khác

nhau từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Trong đó dường như nó có hé mở

một bộ mặt xã hội phong kiến hết sức bề bộn, rối ren. Vấn đề số phận, đạo

đức của con người cá nhân được đưa ra trong bối cảnh không gian lớn hơn

với nhiều mối quan hệ từ lối sống cho đến vốn văn hóa riêng của từng dân

tộc.

Cụ thể, từ mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, truyện cổ tích đã

đề cập rõ đến xung đột dì ghẻ-con chồng, bố vợ -chàng rể, anh cả- em út, chị

cả- em út. Trong truyện chỉ có một hình thức thưởng – phạt, những xung đột

này xuất phát từ những vấn đề về quyền lợi vật chất cụ thể là vấn đề thừa kế

tài sản giữa các thành viên trong gia đình. Bao giờ cũng vậy, người con

riêng, người mồ côi, người em út, người con rể nghèo khổ luôn luôn bị khinh

rẻ, bị chà đạp và bị đối xử thậm tệ. Thậm chí, họ bị người khác tìm cách giết

đi nhưng kết quả ngược lại, nhờ sự trợ giúp của lực lượng thần kì, những đối

tượng này được hưởng hạnh phúc còn kẻ ác bị trừng trị.

Trong mối quan hệ này, chúng tôi nhận thấy giữa các dân tộc không có

điểm khác biệt gì lớn. Có chăng, chúng tôi nhận thấy những người dân ở miền

núi, ở vùng cao như dân tộc H’mông, Lô Lô, Thái, Dao, Tày, Nùng, Cao

Lan… thường hay đề cập đến xung đột giữa bố vợ và chàng rể bên cạnh xung

đột khác còn lại. Điều này phản ánh một cách nghệ thuật phong tục đi ở rể

của các dân tộc này. Đúng như nhận xét của E.M.Mêlêtinxki: “Địa vị hèn kém

của chàng trai, cô gái trong nhà bố vợ (hoặc bố chồng) về mặt nhân chủng

học nó được giải thích bằng địa vị chú rể là một kẻ làm thuê trong chế độ

“hôn nhân gửi rể để trả công” và bằng địa vị của nàng dâu trong chế độ kinh

tế phụ hệ của bố chồng…” [18, tr.107-115].

Rõ ràng, mô típ nhân vật kết hôn và có cuộc sống sung sướng sau màn thử

thách xuất phát từ trong đời sống xa xưa của các dân tộc, có sức dồn nén của

các quan niệm, phong tục, tập quán, những luật tục hôn nhân mẫu hệ. Với

việc mô tả quan hệ chàng rể - bố vợ, cách cư xử hà khắc của những ông bố vợ

cũng đã làm phương tiện để thể hiện chủ đề đấu tranh xã hội, một mặt phản

ánh thực trạng xã hội có sự phân hóa rất rõ rệt: người nghèo muốn lấy được

vợ phải làm lụng rất vất vả và xã hội chỉ trọng những người giàu có.

Còn khi phản ánh mối xung đột ngoài xã hội, những truyện có một hình

thức thưởng- phạt cũng đề cập đến xung đột của người mồ côi với trưởng

làng, chủ đất, với vua quan, chậu Mường, A- nha. Nói chung, phần thưởng và

sự chiến thắng cuối cùng cũng dành cho nhân vật mồ côi, kẻ bất hạnh còn các

thế lực thù địch trên nhận thất bại thảm hại. Các truyện cổ tích của các dân tộc

khi phản ánh mối quan hệ, xung đột này về cơ bản có những nét tương đồng

nhau. Cuối cùng kẻ bất hạnh hưởng cuộc đời hạnh phúc, giàu sang đôi khi có

quyền cao, chức trọng còn người xấu thì bị trừng phạt.

Thưởng và phạt trong truyện có một hình thức thưởng và một hình thức

phạt thường cân xứng nhau. Bù đắp và thưởng cho nhân vật chính diện cái gì

thì cũng tước đi của nhân vật phản diện chính cái đó, từ của cải vật chất cho

đến niềm vui tinh thần. Cô gái hiền lành, chăm làm, vui vẻ lại có giọng hát

hay được lũ quỷ lấy đi một cục bướu và trở nên xinh đẹp hơn. Còn cô gái cáu

kỉnh, lười biếng, con nhà giàu có hay coi thường người khác không những

không được quỷ lấy đi một cục bướu mà lại có thêm một cục bướu nữa, trở

nên xấu xí hơn trước, không dám nhìn ai (Hai cô gái và cục bướu- Kinh). Hai

người anh trai và hai chị dâu khinh vợ của hoàng tử út là nhỏ bé, còn đặt điều

xem nàng là phù thủy nhưng cuối cùng hoàng tử út lại làm hài lòng vua cha,

được cha truyền ngôi cho, Ka Điêng được làm hoàng hậu. Hai người kia phải

xấu hổ, quay trở về không (Nàng ngón út – Chàm). Có khi, nhân vật địch thủ

buộc nhân vật chính phải tìm ra một vật gì đó với điều kiện vô cùng khó khăn

hoặc giả vật đó không có thực trên cõi đời này. Nhưng cuối cùng nhờ sự giúp

sức của lực lượng thần kỳ, nhân vật chính đã tìm ra được và chính những cái

tìm được đó lại là công cụ để trừng trị nhân vật thù địch. Lão phú hộ bắt anh

Khoai tìm ra cây tre trăm đốt nhưng chính cái vật không có thật ấy lại trừng

trị hai vợ chồng nhà phú hộ, làm hắn một phen hú vía, buộc hắn phải giữ lời

hứa gả con gái cho anh (Cây tre trăm đốt- Kinh). Và thông qua những truyện

chúng tôi khảo sát được, cách thức thưởng- phạt khá phổ biến là nếu nhân vật

địch thủ hại người khác bằng hành động và thủ đoạn gì thì cuối cùng mình lại

bị trừng phạt bởi chính hình thức ấy, thậm chí là bằng cái chết. Về vấn đề này

chúng tôi nhận thấy người Kinh (Việt) mềm dẻo, linh động và cứng rắn trong

cách ứng xử hơn các dân tộc khác. Thường những truyện của người Kinh, kết

thúc bằng hình phạt của cái chết và sự hóa thân thành những con vật xấu xí,

nhơ bẩn. Có thể nói, người Việt chú trọng đến vấn đề số phận cá nhân, thông

qua việc giải quyết mối quan hệ xã hội, đạo đức, giai cấp. Nó phản ánh một

trình độ xã hội đã phát triển cao để rồi chuẩn bị sản sinh ra xã hội mới. Trong

xã hội ấy, con người có ý thức đề cao bản thân mình trước cộng đồng. Chính

vì thế, hình thức thưởng – phạt cũng nhằm hướng đến số phận con người cá

nhân dựa trên xu hướng ngợi ca hoặc phê phán rất rõ.

Trong những truyện này, chúng tôi thấy có chứa đựng nhiều mô típ cơ bản

tạo nên cốt truyện phát triển theo nhiều chặng đan lồng vào nhau. Trong

truyện có một hình thức thưởng một hình thức phạt, chúng tôi nhận thấy có sự

tham gia của nhiều mô típ sau : mô típ hóa thân nhiều lần, mô típ phương tiện

thần kì hay báu vật thần kì, mô típ người trần kết hôn với người tiên, công

chúa; mô típ lên ngôi vua, mô típ chết và hóa thân; mô típ biến hình. Tùy vào

tính chất của cuộc đấu tranh chính - tà sẽ dẫn tới sự thu hút, kết hợp những

tình tiết, những mô típ thưởng phạt khác nhau để trên cơ sở đó, cốt truyện sẽ

đi theo chiều hướng phát triển rất linh động. Vấn đề có cùng lúc một hình

thức thưởng một hình thức phạt nói lên điều gì ?

Ở cốt truyện có một hình thức thưởng- một hình thức phạt, dụng ý của

người xưa thông qua cuộc đấu tranh của hai tuyến nhân vật đối lập để thể hiện

một cách cảm, cách nghĩ về những vấn đề đạo đức của xã hội; về những xung

đột về quyền lợi trong gia đình và ngoài xã hội. Những truyện có một nhân

vật địch thủ và xoay quanh cuộc đấu tranh về phạm trù đạo đức thì các mô típ

tham gia ít hơn và chủ yếu là để khẳng định tư tưởng “ Tham thì thâm” hoặc “

Ác giả, ác báo”. Hình phạt dành cho kiểu xung đột này nói chung là nhẹ

nhàng hơn, chỉ nhằm thức tỉnh lương tri, cảnh báo tai họa cho con người là

chủ yếu, rất ít truyện phải dùng hình phạt nặng nề bằng cái chết. Còn những

truyện có hai nhân vật là địch thủ trở lên và có kết hợp xung đột thuộc phạm

trù đạo đức và những xung đột về quyền lợi của con người từ trong gia đình

ra ngoài xã hội thì cốt truyện phức tạp hơn và có nhiều tình tiết hơn. Chẳng

hạn, trong truyện “ Túi da cáo và lưỡi câu gai” của dân tộc Mèo, người bạn

tham lam mượn túi da cáo nhưng nó không hát nên hắn bị bọn lái buôn mắng

cho một trận, không cho vải đẹp (trách phạt lần 1), mượn cây gai nhưng cây

cây gai không phun nước tưới cho nương lúa không tốt (lần 2), cần câu toàn

rắn rết (lần 3). Còn anh con trai Mèo có túi da cáo biết hát được thưởng cho

mấy tấm vải đẹp ( trợ giúp lần 1); có cây gai phun nước tước cho nương lúa

tốt (lần 2); cần câu câu được nhiều cá to và cuối cùng được vua Thủy Tề

thưởng cho chén ngọc, cưới được con gái vua Thủy Tề sống hạnh phúc. Rõ

ràng, trong những truyện như thế nào thưởng bao giờ cũng nhiều lần và mức

độ đậm nét hơn phạt .

Ở những truyện này ta thấy, các mô típ báu vật thần kì (báu vật thần kì gắn

với mô típ may mắn hay vận rủi liên tục ); mô típ người trần thế kết hôn với

người cõi trên, với người chốn thủy cung. Đôi khi có cả mô típ lên ngôi báu

và biến hình. Nhưng mô típ biến hình rất ít.

Còn ở truyện “Hai anh em” (Hà Nhì), cốt truyện chia thành hai chặng

phát triển với hai nhân vật địch thủ khác nhau. Chặng một là xung đột quyền

lợi trong gia đình giữa người anh và người em là Á Phò và Á Lá sau khi cha

mẹ qua đời. Ở chặng này ta bắt gặp các mô típ như trên. Nhưng đến chặng

thứ hai, nhân vật địch thủ mới xuất hiện : Khoàng Tí (xung đột xã hội ) –

Khoàng Tí cướp vợ đẹp của Á Lá, xuất hiện trên mô típ trừng phạt bằng cái

chết của Khoàng Tí và Á Lá lên ngôi thay Khoàng Tí.

Rõ ràng chúng ta nhân thấy sự tham gia của nhiều mô típ hay ít mô típ

không những phụ thuộc vào số lượng nhân vật mà còn bị chi phối rất lớn của

quan hệ và xung đột của các nhân vật. Truyện có càng nhiều nhân vật thì tình

tiết của nhân vật càng dài, câu chuyện càng trở nên hấp dẫn và li ki hơn.

Trong cuộc đấu tranh với kẻ xấu và cái ác, phần thưởng mà nhân vật được

nhận tương đương với phẩm chất đạo đức và gian lao, thử thách mà nhân vật

vượt qua. Tương ứng với phần thưởng dành cho nhân vật là hình phạt dành

cho địch thủ. Do đó, cốt truyện cứ phát triển dần hết chặng này đến chặng kia

với mức độ phức tạp tăng dần và cuối cùng kết thúc ở chỗ cái ác bị triệt tiêu

hoàn toàn. Mỗi câu chuyện, mỗi chặng đường nhân vật đi qua đều là những

thông điệp có ý nghĩa sâu sắc.

Như vậy, tùy vào từng đặc điểm riêng của từng kiểu nhân vật chính

diện ( nhân vật bất hạnh, người mồ côi, người con riêng, con út, người có hình

dáng bề ngoài xấu xí… ), tùy thuộc và xung đột phản ánh sẽ dẫn đến thu hút

các tình tiết, các mô típ chức năng khác nhau để trên cơ sở đó, cốt truyện sẽ

phát triển theo từng hướng riêng linh động. Rõ ràng, do những đặc trưng riêng

hình thức thưởng- phạt trong truyện cổ tích cho phép thu hút các mô típ đặc

trưng và cốt truyện của nó và những mô típ mang tính chất kì ảo và cả những

mô típ mang tính chất hiển nhiên, theo lô gíc phát triển của sự vật. Tuy nhiên,

những mô típ li kì là mô típ cơ bản của kết thúc có hậu. Xu hướng phát triển

của cốt truyện thưởng- phạt luôn theo sát hành trình của nhân vật từ khi nhân

vật đối thủ xuất hiện cho đến khi kết thúc cuộc đấu tranh ấy. Sự góp mặt của

nhiều hình thức thưởng – phạt góp phần tạo nên một bức tranh da dạng và đầy

đủ về cuộc sống quá khứ của dân tộc cũng như mơ ước cháy bỏng ngàn đời

của con người: ước mơ về sự thay đổi cuộc đời, ước mơ về sự công bằng xã

hội. Trước hết, truyện có cùng lúc một hình thức thưởng- một hình thức phạt

chụi sự chi phối, dẫn dắt của yếu tố thần kỳ. Đấy chính là động lực giúp cho

câu chuyện phát triển qua nhiều chặng tranh đấu khác nhau, giúp cho nhân vật

chiến đấu cho đến cuối cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc của mình. Vai trò

của yếu tố thần kì ở đây là cực kì quan trọng.

Lấy truyện của người Kinh làm ví dụ. Thông qua các truyện “Tấm Cám”,

“Thạch Sanh”, “Con chó con mèo và anh chàng nghèo khổ”, “Chữa bệnh

cho Long Vương”..., ta thấy số phận cá nhân của con người không chỉ đề cập

trong mối quan hệ gia đình (dì ghẻ - con chồng, anh cả- em út, bố vợ - chàng

rể) mà nó còn đề cập đến xung đột ngoài xã hội mang tính giai cấp. Ở đó,

nhân vật trung tâm nhờ những phẩm chất tốt đẹp, cách ứng xử khéo léo mà

chiến thắng kẻ ác, kẻ xấu, bảo vệ hạnh phúc cho mình và cho mọi người.

Cụ thể qua truyện “Tấm Cám”, người xưa muốn đề cập số phận của người

con riêng- con côi trong mối quan hệ với mẹ con mụ dì ghẻ (quan hệ gia đình)

và những xung đột về quyền lợi xã hội từ khi Tấm làm vợ vua. Rõ ràng nhân

vật có cảnh ngộ vô cùng đáng thương nhưng thật thà, hiền lành, tốt bụng cuối

cùng được hưởng hạnh phúc qua bao phen hoạn nạn. Còn kẻ ác có lắm mưu

nhiều mẹo, cuối cùng cũng bị trừng trị thích đáng. Qua đây, chúng tôi muốn

nói thêm về hình thức thưởng- phạt trong truyện “Tấm Cám” so với các kiểu

truyện này ở các dân tộc khác. Về các hình thức ban thưởng nói chung ở các

dân tộc tương tự nhau nhưng về sự trừng phạt cuối cùng thì “Tấm Cám” của

dân tộc Kinh có phần khác biệt. Ý Ưởi, Ý Noọng của dân tộc Thái; Tua Gia,

Tua Nhi của dân tộc Tày… đều có sử dụng mô típ “sự bắt chước không

thành công” giống Tấm Cám của dân tộc Kinh: thấy chị đẹp cũng muốn đẹp

giống như chị và kết quả bị gội nước sôi chết. Nhưng “Tấm Cám” của người

Kinh có thêm đoạn tự tay Tấm chặt Cám ra làm mắm gửi biếu mụ dì ghẻ và

khiến mụ lăn đùng ra chết khi ăn gần hết thịt con, trông thấy cái đầu lâu của

con. Rõ ràng, về phần này có rất nhiều ý kiến đánh giá mà chúng tôi không

thể nhắc lại ở đây. Qua đó, chúng tôi mới nhận thấy rằng, cách giải quyết và

nhìn nhận vấn đề của dân tộc Kinh cương quyết và cứng rắn hơn. Có thể,

ngoài cuộc đời thực không có một nàng Tấm nào có hành động dữ dội như thế

cả. Người Kinh muốn tưởng tượng ra một kết truyện có kết thúc bằng hình

phạt khốc liệt như thế để răn đe, cảnh tỉnh cái xấu, cái ác. Bởi vì kẻ xấu dù có

lắm mưu nhiều mẹo thì cuối cùng cũng bị chết khốc liệt như vậy cả. Đau đớn

nhất là ăn nhầm thịt con mà không biết. Cái ác, cái xấu khiến cho con người

mụ mị đi không còn tỉnh táo nữa dù cho có con quạ cảnh báo trước. Vậy ai

còn dám làm điều xấu nữa?

Truyện “Con chó, con mèo và anh chàng nghèo khổ” phản ánh số phận

của người em út trong gia đình khi bố mẹ qua đời. Trong đó, nó hé lộ cho

chúng ta thấy những mâu thuẩn trong gia đình bắt đầu trở nên gay gắt hơn

dựa trên cơ sở phân chia tài sản và khi xã hội đã có sự phân hóa giàu nghèo.

Dân gian đã lấy đạo đức xã hội và đạo lý để làm chuẩn mực cho mọi hành

động của con người. Thưởng và phạt cũng dựa vào từng hành động cụ thể để

đoán định. Những hình thức thưởng- phạt đều dựa vào tư duy tưởng tượng

phong phú của người xưa thông qua quá trình xâu chuỗi nhiều hành động một

cách lô gíc và hợp lý.

Từ đó có thể thấy, nếu mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội càng phức

tạp, càng rối ren thì con người càng phải đấu tranh mạnh mẽ và quyết liệt hơn,

càng phải có ý thức vươn lên trong cuộc sống. Số lượng truyện có một hình

thức thưởng - phạt ở cuối truyện phản ánh đầy đủ và phong phú cho những

mối quan hệ càng ngày càng phức tạp ấy. Nhưng cũng có thể thấy ở những

truyện này, yếu tố thần kì hay sự may mắn ngẫu nhiên đóng vai trò quan trọng

và xuất hiện đậm đặc. Do đó, vai trò và khả năng của con người cá nhân rất

mờ nhạt.

Nhìn chung, vấn đề soi rọi lịch sử- văn hóa- xã hội vào việc xem xét số

lượng hình thức thưởng phạt trong quá trình xây dựng và phát triển cốt truyện

ở các dân tộc cũng có nhiều điều cần lưu ý. Sự vận động và phát triển của văn

học và nhất là văn học dân gian diễn ra không có đường biên tương đối rõ

ràng để so sánh tương ứng theo lối một đối một. Do đó, mọi sự so sánh đều

không thể cho kết quả rõ ràng, chính xác, cũng như không thể cùng lúc so

sánh nhiều dân tộc với nhau. Vì vậy, mọi so sánh bước đầu chỉ mang tính ước

đoán mà thôi.

Tóm lại, những hình thức thưởng – phạt khi tham gia vào kết cấu truyện

cổ tích đã tạo ra cho thể loại này ba kiểu cốt truyện khác nhau: cốt truyện có

một hình thức thưởng, cốt truyện có một hình thức phạt và cốt truyện có một

hình thức thưởng và phạt. Với ba dạng biểu hiện trên, cốt kể của cổ tích thể

hiện được sự phát triển từ dạng đơn tuyến lên đa tuyến. Các mối quan hệ cứ

phức tạp dần lên, phản ánh sự phân hóa của xã hội ngày càng sâu sắc.

Vai trò của yếu tố thần kì khi tham gia vào mỗi dạng thức thưởng- phạt

không giống nhau. Ở truyện có một hình thức thưởng hoặc phạt đơn lẻ, yếu tố

thần kì xuất hiện ở kết truyện, mang tính chất quyết định thưởng hay phạt đối

với nhân vật. Còn ở những truyện có một hình thức thưởng và phạt, yếu tố

thần kì tham gia vào đầu câu chuyện, dẫn dắt nhân vật vượt qua khó khăn

trong cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Yếu tố thần kì tạo duyên cớ thúc đẩy

câu chuyện phát triển. Nếu không có nó, truyện sẽ dừng lại hoặc đi đến kết

thúc bi kịch. Yếu tố thần kì này tạo ra phần thưởng cho nhân vật chính diện

và hình phạt cho nhân vật phản diện; thể hiện cho vẻ đẹp riêng của cổ tích .

Có thể thấy rõ, các hình thức thưởng - phạt trong cổ tích là sự sáng tạo

độc đáo, sinh động của những quan niệm sống, những ước mơ dân gian.

Người xưa nhìn nhận cuộc sống từ góc nhìn đạo đức, mọi hình thức thưởng

phạt đều thể hiện cho tư tưởng: “Gieo nhân nào, gặt quả ấy”. Có bao nhiêu

cách thức thưởng – phạt là có bấy nhiêu ước mơ về công lý, về sự thay đổi

cuộc đời.

Hình thức thưởng – phạt do đó, là yếu tố hình thức quan trọng chuyên chở

trong nó bao giá trị đạo đức sâu sắc, bền vững.

Chương 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA CÁC

HÌNH THỨC THƯỞNG PHẠT VÀ NHỮNG

MÔ TÍP TIÊU BIỂU

Do có những đặc trưng riêng, hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích

Việt Nam cho phép thu hút vào cốt truyện của nó những mô típ mang tính

chất li kỳ thần thánh. Những mô típ đóng vai trò hết sức quan trọng. Nó là

yếu tố mang tính chất quyết định cho những hình thức thưởng phạt.

2.1. Mô típ ban thưởng

Để nhận được phần thưởng cao quý nhất ở cuối truyện, nhân vật phải trải

qua nhiều gian lao, thử thách. Sau mỗi lần vượt khó khăn, nhân vật được giúp

đỡ, được sự phù trợ của thế lực thần kỳ. Sự phù trợ của các lực lượng thần kỳ

này giúp cho nhân vật có sức mạnh để giành phần thưởng lớn nhất ở cuối

truyện. Mô típ ban thưởng được thể hiện cụ thể như sau:

2.1.1 Mô típ phương tiện thần kì ( Sự tặng thưởng)

Mô típ “ phương tiện thần kì” là mô típ quen thuộc trong truyện cổ tích

Việt Nam cũng như truyện cổ tích thế giới nhất là những truyện cổ tích thần

kì và những câu chuyện có kết thúc có hậu. Sự xuất hiện báu vật thần kì là

một điều hết sức ngẫu nhiên trong cổ tích. Nếu không có mô típ này, cổ tích

sẽ không có hấp dẫn nữa và câu chuyện có phần nào đó trở nên lạc điệu với

thế loại tự sự dân gian này. Hơn thế này mô típ này bắt rễ từ trong cội nguồn

văn hóa của từng dân tộc. Mô típ “ phương tiện thần kì” là cở sở để dẫn nhân

vật từ may mắn này đến may mắn khác chiến thắng từng bước đối thủ và

giành hạnh phúc mĩ mãn cuối cùng. Mô típ này bao gồm hai biến thể: mô típ

“ báu vật thần kì” và “ Con vật thiêng có phép”.

2.1.2. Mô típ “ con vật thiêng có phép”

Đây cũng là một mô típ thường thấy trong truyện cổ tích. Riêng đối với

những truyện có chứa hình thức thưởng phạt, mô típ này đóng vai trò chuyển

tiếp đặc biệt giúp cho nhân vật chính diện đạt được ước mơ lớn nhất của

mình.

Con chim phượng hoàng thần kì (Cây Khế – Kinh) giúp cho người ta

thay đổi cuộc đời của mình nhờ vào tấm lòng tốt và sự thật thà. Còn dân tộc

Nùng (cũng trong kiểu truyện “Cây khế” ) lại đưa ra hình ảnh con chim phàng

náo thần kì cũng giúp cho người em có cuộc sống sung sướng. Hay cũng cùng

đề cập đến số phận người mồ côi trong mối quan hệ xung đột giữa người mồ

côi và họ hàng (chú, bác, cô, dì …), dân tộc Ka Dong (trong truyện Anh em

mồ côi) lại sử dụng mô típ con vượn thần kì và con chim tru thần kì. Nhờ hai

con vật này, mồ côi A Lềnh mới chiến thắng được ông cậu gian tham và

giành hạnh phúc. Còn dân tộc M’nông (trong Con dơi (Nơ Đơn, Con côi )

dùng mô típ con voi rừng thần kì để trợ giúp cho mồ côi trở nên giàu có,

người chú tàn ác hổ thẹn, không dám gặp mặt đứa cháu mồ côi của mình. Ta

có thể bắt gặp các mô típ con vật thiêng có phép khác ở các dân tộc anh em

trên dải đất Việt. Đó là con cày hương biết hát (“Chữa bệnh cho Long

Vương”- Kinh; “ Con cày hương biết hát” – Dao ); con chó, con mèo biết hát

(“ Hai anh em”- Hà Nhì ); mô típ con chó, con mèo biết cày (Con chó, con

mèo và anh chàng nghèo khổ - Kinh ), con sư tử có phép (Ba sợi râu của sư

tử – Dao), con cá bống thần trong bụng có vàng bạc, quần áo, nồi đồng lại

biết nói tiếng người và kết nghĩa Cà lơi với con người (Cá bống thấn – Vân

Kiều ); con cá vẩy đen (Ở ác gặp ác – Mèo), con ngựa mù có thể cứu được

chủ khi bị sa xuống hố sâu rồi hú vang gọi chim chóc, muôn loài mang thức

ăn đến cho chủ (Nàng mù và anh chàng thong manh- Mèo).

Qua việc khảo sát trên, chúng tôi nhận thấy được tính phong phú và

đa dạng trong việc sáng tạo các mô típ ở những dân tộc khác nhau. Thậm chí,

một dân tộc có thể sử dụng nhiều mô típ về con vật thiêng có phép khác nhau

và dân tộc khác có thể sử dụng lại mô típ này bên cạnh mô típ riêng của dân

tộc mình. Ẩn sau trong mô típ “ Con vật thiêng có phép” là sợi dây liên kết vô

hình giữa các tộc người trên dải đất việt. Các con vật thiêng có phép này tiếp

sức cho nhân vật trong quá trình đấu tranh với địch thủ, giúp cho nhân vật

giành lấy phần thưởng cuối cùng dễ dàng và thuận lợi hơn. Có khi, những con

vật thiêng có phép giúp sức trực tiếp hoặc cho nhân vật những vật báu thần kì

khác; có khi cho nhân vật của cải, vật chất để họ thay đổi cuộc đời nghèo khó

của mình. Nhưng hầu như các con vật thiêng có phép này chỉ giúp đỡ cho

nhân vật lần đầu còn những lần sau chỉ có hóa thân của nó. Ở những lần sau,

các con vật này lại gián tiếp đưa ra lời chỉ dẫn thần kì. Nhân vật cứ làm theo

chỉ dẫn ấy sẽ tìm thấy cuộc sống sung sướng. Hầu hết các truyện có chứa mô

típ con vật thiêng có phép đều đi theo hướng phát triển nói trên. Riêng truyện

“Ba sợi râu của sư tử” - dân tộc Dao có hiện tượng khác lạ. Ở truyện này,

con sư tử có phép thiêng không những giúp cho hoàng tử út tìm con chim quý

bằng vàng mà sau đó nó còn cho hoàng tử ba sợi râu phép của mình để vượt

khó khăn. Đến cuối truyện, nó lại xuất hiện để giúp cho hoàng tử loại trừ hai

người ác độc của mình, giành được ngôi báu. Hiện tượng này chúng tôi chưa

tìm thấy ở truyện nào của các dân tộc khác. Không rõ đấy là do sự tưởng

tưởng mang tính ngẫu nhiên cho phù hợp với sự phát triển lô gic câu chuyện

hay là hiện tượng gắn liền với đời sống văn hóa tinh thần của tộc người này?

Mô típ “Con vật thiêng có phép” là sự khẳng định cho tư tưởng của dân

gian “Ở hiền gặp lành”. Sự xuất hiện con vật thiêng cũng chính là một hình

thức tặng thưởng- một phần thưởng xứng đáng cho người lương thiện, tốt

bụng.

Song song với việc tìm hiểu mô típ con vật thiêng có phép, chúng tôi còn

thấy được một hình thức xuất hiện khác của nhân vật chính – cũng ẩn mình

trong những con vật thiêng có phép - một hình thức ban thưởng có ý nghĩa

lớn lao. Sau đó, nhân vật xuất hiện với diện mạo mới.

Con vật thiêng nhiều khi xuất hiện một cách ngẫu nhiên giống như bùa hộ

mệnh của nhân vật đi theo giúp đỡ nhân vật theo sự chỉ bao của một lực lượng

siêu nhiên nào khác. Con sư tử xuất hiện một cách ngẫu nhiên khi chàng

hoàng tử thứ ba đi vào một hang trú mưa và từ đó sư tử lại xuất hiện khi

hoàng tử gặp nạn, khó khăn (Ba sợi râu của sư tử - Dao). Đôi lúc con vật

thiêng có phép này được nhân vật chính giúp đỡ, yêu quí và trả ơn lại cho anh

ta. Đây là một dạng phổ biến trong những truyện chúng tôi tìm được. Anh

chàng mồ côi rất nghèo không có nỗi một con chó, một con mèo làm bạn

nhưng anh lại rất yêu súc vật. Một lần đi vào rừng thấy con cày hương bị mắc

bẫy, anh động lòng thương gỡ bẫy thả nó ra, nhai thuốc đắp vết thương cho

nó. Từ đó, con cày hương (và những hóa thân của nó) theo giúp đỡ anh mồ

côi có được viên ngọc quí và có cuộc sống êm ấm.

Con vật thiêng có phép thiêng là sự trợ giúp đầu tiên để sau đó nhân vật có

những phần thưởng xứng đáng hơn. Con vật thiêng chỉ giúp cho kẻ lương

thiện, người hiền lành và cũng sẵn sàng trừng phạt kẻ xấu xa, kẻ gây hại cho

người khác, không có lòng nhân ái.

Qua phần trình bày trên, chúng tôi rút ra được những nhận xét như sau :

Trước hết, mô típ con vật thiêng có phép thường sử dụng hình ảnh những

con vật gắn liền với môi trường sinh thái, với đặc điểm lịch sử văn hóa của

từng tộc người. Đó có thể là sản phẩm quen thộc của cư dân canh tác lúa nước

vùng đầm lầy (Kinh, Khmer, Chăm…). Đó có thể là sản phẩm của miền rừng

núi và phương thức canh tác nương rẫy ( Hà Nhì, Dao, Mèo… ).

Bên cạnh đó ta bắt gặp sự giao thoa văn hóa giữa các tộc người, giữa các

vùng miền qua những mô típ con vật thiêng có phép giống nhau (Kinh ,Vân

Kiều, Mèo, Hà Nhì…). Hiện tượng này tạo ra tính phổ biến bên cạnh tính độc

đáo riêng của từng miền văn hóa, từng tộc người khác nhau.

Dù xuất hiện dưới hình thức nào đi nữa, các con vật này vẫn rất gần gũi

với đời sống của người lao động nghèo khổ, thật thà và đó cũng chính là

người bạn thân thiết. Con vật thường giúp sức cho nhân vật chính cũng là một

biểu hiện có ý nghĩa vừa cụ thể vừa sâu sắc cho mối quan hệ này.

2.1.3. Mô típ báu vật thần kì

Giống như mô típ con vật thiêng có phép, mô típ báu vật thần kì cũng

thể hiện tính đa dạng và phong phú của nó ở các tộc người khác nhau trên dải

đất Việt trong từng chủ đề của truyện cổ tích. Nếu như mô típ con vật thiêng

có phép xuất hiện trực tiếp và có thể giúp trực tiếp cho con người thì mô típ

báu vật thần kì cũng có chức năng như vậy. Khác chăng, mô típ báu vật thần

kì ít khi xuất hiện như tư cách một con người thật sự : nói năng, đi đứng, kết

bạn với con người như con vật được. Báu vật thần kì là một công cụ có khả

năng kì lạ, mang lại sức mạnh để con người chiến thắng. Báu vật thần kì có

khi cây cỏ thần kì: mô típ lá cây hồi sinh (Đôi trẻ mồ côi – Thái ) đã giúp cho

hai em mồ côi cưới được con gái chúa bản trở thành người giàu có sang

trọng; cây tre trăm đốt cùng với lời chú thần kì đã giúp anh Khoai trừng trị

lão phú hộ và cưới được cô gái út xinh đẹp. Mô típ “hoa đỏ ngoài biển” (Y Rít

- Gia Rai ), quả bầu, dây bí thần kì (Ý Ưởi, Ý Noọng – Thái ) đã đem trồng

hạt bí ở trước của sân nhà; thế là cây bí mọc lên và có sức sống kì diệu, ngày

một xanh tốt, dài vô tận, Ý Ưởi cứ theo ngọn cây bí gặp lại cha đẻ của mình

khi đã là hoàng hậu.

Báu vật thần kì còn là đồ vật thần kì gắn bó với cuộc sống vật chất cũng

như đời sống tinh thần của con người. Các dân tộc Thái, Mèo, Ka- dong… sử

dụng mô típ chim thần, khèn thần, sáo thần.. là công cụ để nhân vật tìm hạnh

phúc. Nhờ có chiêng thần, khèn thần mà những chàng trai cô gái mồ côi, thấp

hèn, nghèo khổ lấy được vợ hoặc chồng đẹp, trở nên giàu có sung sướng hơn

người. Hơn nữa, tiếng khèn, tiếng sáo, tiếng chiêng thần cũng làm cho bọn

vua quan, A- nha, chậu mường, chủ làng tham lam độc ác phải đền tội, công

lý được thực hiện. Đây là mô típ độc đáo riêng của các dân tộc thiểu số miền

núi của Việt Nam (còn được thể hiện ở một số dân tộc của Lào ). Nó vừa là

hình thức nhạc cụ quen thuộc, thân thiết lại là một biểu tượng văn hóa, thẩm

mĩ của họ trong đời sống hằng ngày cũng như trong lễ hội. Còn ở dân tộc

Kinh thì họ không sử dụng mô típ trên hoặc có mà rất hiếm hoi. Trong truyện

Sọ Dừa của dân tộc Kinh có sử dụng mô típ tiếng sáo thần kì. Tiếng sáo thần

kì của Sọ Dừa véo von làm cho mọi người hăng say làm việc, trâu mải mê

gặm cỏ và làm cho cô út say mê, yêu mến Sọ Dừa. Dân tộc Kinh lại có mô típ

cây đàn thần, mô típ chiếc giày hạnh phúc, mô típ tiếng hát tâm tình. Thạch

Sanh nhờ có tiếng đàn thần mà giãy bày được nỗi oan của mình, làm cho công

chúa tươi tỉnh hẳn lên và cưới được công chúa, cũng nhờ cây đàn thần đã làm

rệu rã tinh thần của quân sĩ mười tám nước chư hầu – đánh đuổi họ về nước.

Trong truyện này còn có sự xuất hiện mô típ niêu cơm thần – niêu cơm có thể

thết đãi hết quân sĩ của mười tám nước chư hầu, khiến họ phải thán phục

chàng trai trẻ và rút quân về nước. Phải chăng trong cuộc sống của cư dân

vùng nông nghiệp lúa nước thì ước mơ và cuộc sống no đủ, dư thừa là điều

mà họ có thể có được?

Như vậy, mô típ báu vật thần kì cũng được xem là phương tiện, công

cụ để nhân vật vượt qua một hoặc nhiều thử thách nào đấy chứ chưa hẳn là

phần thưởng cuối cùng giành cho nhân vật. Có báu vật trong tay, nhân vật có

phương tiện để chinh phục khó khăn, thử thách và đi đến đích của cuộc hành

trình đi tìm hạnh phúc. Đây cũng xem là sự hỗ trợ tinh thần đắc lực dành cho

nhân vật. Và để có được tặng thưởng này nhân vật phải có phẩm chất đạo đức

tốt hoặc có cử chỉ đúng đắn hoặc có tài năng nào đó. Nhờ có tài năng bơi lội

giỏi mà anh chàng mồ côi (Con cày hương biết hát – Dao) đã lặn được xuống

nước, gỡ được lưỡi câu cho Long Vương và được Long Vương tặng cho viên

ngọc thần kì- có thể bơi lặn dưới nước như đi trên cạn và muốn bắt con cá nào

tùy thích. Nhờ tấm lòng nhân hậu của mình, anh Nghèo (Ai mua hành tôi

hay Lọ nước thần – Kinh) được con chim sẻ tặng cho lọ nước thần. Nhờ lọ

nước này, vợ anh chàng mồ côi nghèo khổ trở nên xinh đẹp, trồng củ hành lại

to lạ thường và đó là điều kiện để dẫn dắt anh chàng nọ đến cuộc sống giàu

sang, hạnh phúc tột đỉnh: lên ngôi vua và sống hạnh phúc với người vợ xinh

đẹp.

Mô típ báu vật thần kì là sản phẩm của trí tưởng tượng gắn liền với cuộc

sống sinh hoạt và lao động hằng ngày của con người, phản ánh đời sống tâm

linh vô cùng sinh động và phong phú của họ. Những phương tiện thần kì ấy

vừa có thể là phương tiện để họ sinh sống, vừa là phần thưởng để họ đạt được

ước mơ cháy bỏng của mình; vừa là bạn để họ chia sẻ buồn vui trong cuộc

sống nghèo nàn, khốn khó của mình, vừa là công cụ đắc lực giúp họ chiến

thắng. Ngoài hai mô típ kể trên, báu vật thần kì còn có thể là sự ban tặng trực

tiếp cho nhân vật sức khỏe phi thường, khả năng biến hóa … nhằm giúp cho

nhân vật khắc phục thiếu thốn, khả năng chiến thắng và đạt được ước nguyện

của đời mình.

Như vậy, mô típ “ phương tiện thần kì” ít nhiều phản ánh quan niệm thần

bí của người xưa đối với mọi vật xung quanh mình : chúng đều có linh hồn.

Nó phản ánh ước mơ của người xưa là có đủ sức mạnh và có những phương

tiện kì diệu để giành quyền sống và hạnh phúc chính đáng của mình. Nó còn

là duyên cớ để dẫn dắt câu chuyện phát triển và đi đúng đích mà nghệ nhân

dân gian đã đặt ra và nó là nhân tố quyết định cho sự chiến thắng cuối cùng

của nhân vật. Nó là chi tiết thắt nút rồi mở nút, dẫn câu chuyện đi đến cao trào

và kịch tính và qua đó thấy được tư duy lô gíc và sự sáng tạo độc đáo của dân

gian. Có thể hình dung qua sơ đồ sau:

Dạng thứ nhất:

Nhân vật gặp khó khăn, có phẩm chất đạo đức tốt

Gặp thử thách vượt qua thử thách

Được tặng thưởng báu vật thần kì (tặng thưởng )

Tiếp tục cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc.

Dạng thứ 2 :

Nhân vật có hoàn cảnh bất hạnh nhưng có lòng tốt

Giải cứu cho con vật Giải cứu cho con vua,

vua thoát khỏi hoạn nạn

Được trả ơn và ban tặng phương tiện thần kì.

Khắc phục khó khăn và tiếp tục cuộc hành trình tìm hạnh phúc.

Dạng thứ 3:

Nhân vật có hoàn cảnh bất hạnh, có phẩm chất tốt

May mắn có được phương tiện thần kì

Chinh phục thử thách, giành chiến thắng.

2.1.4. Mô típ “ Người trợ giúp thần kì”

Người trợ giúp thần kì ở những truyện chúng tôi khảo sát được của dân

tộc Kinh là hình tượng ông Bụt, bà Tiên (mà hầu như hình tượng ông Bụt

chiếm ưu thế). Chính ông Bụt chứ không phải pháp sư như ở truyện

Nêangcantốc – Songangcát của Campuchia, cũng không phải như người mẹ

hóa thân như trong các truyện của dân tộc Tày, Thái, Kadong của ta…đã đưa

con người nghèo khổ bất hạnh lên hạnh phúc, có cuộc sống sung sướng. Và

nếu tăng lữ, pháp sư có vai trò to lớn trong đời sống tinh thần của người dân

Khmer, thì ông Bụt, bà Tiên thì có ảnh hưởng rất lớn đến đời sống tâm linh

của người Kinh. Trong bậc thang giá trị văn hóa của người Kinh, ông Bụt là

hình tượng hay nói đúng hơn là biểu tượng Phật giáo đã được dân gian hóa

nên rất gần gũi với nhân dân lao động. Với lối tư duy thuần phác, dân tộc

Kinh buổi đầu đã xem Bụt như một lực lượng có phép màu thần kì, chỉ xuất

hiện khi cần thiết – khi con người gặp hoàn cảnh éo le không vượt qua được

và Bụt xuất hiện chỉ giúp người nghèo mà không cần điều kiện gì. Bốn lần

Tấm khóc (tiếng khóc của sự cô đơn, tức tưởi, uất ức ở trong lòng) là bốn lần

Bụt xuất hiện với những câu hỏi giản dị quen thuộc nhưng đã ăn sâu vào

trong tâm thức của bao người: “Làm sao con khóc?” (lần 1: bị Cám trút hết

giỏ cá, Bụt cho con cá bống; lần 2: con cá bống bị ăn thịt Bụt bảo nhặt xương

chôn ở chân giường; lần 3: Tấm không được đi xem hội – bị mụ dì ghẻ hành

hạ phải nhặt thóc lẫn hạt đậu – Bụt sai đàn chim sẽ giúp; lần 4 : không có

quần áo đẹp đi xem hội- Bụt lại chỉ cho nơi có quần áo đẹp). Rõ ràng, Bụt chỉ

xuất hiện khi còn người không và chưa có đủ sức mạnh để đương đầu với cái

ác, xuất hiện giúp kẻ cô thế mà thôi.

Như vậy, mô típ Bụt hiện ra và giúp đỡ người nghèo khổ, côi cút của

dân tộc Kinh vừa dân dã vừa cao siêu, chứng tỏ dân tộc này đã tiếp thu Phật

giáo theo cách riêng của mình. Có thể nói, Bụt là hình tượng văn học dân gian

đẹp nhất, thể hiện cô đọng và tập trung ước mơ hạnh phúc và công bằng xã

hội của một dân tộc canh tác lúa nước của vùng của vùng đồng bằng châu thổ

Sông Hồng, Sông Mã, Sông Chu, Sông Cửu Long qua hàng nghìn năm lịch

sử. Bên cạnh đó hình tượng ông Bụt cũng thể hiện cho triết lí nhân sinh sâu

sắc của dân tộc này : vừa nhân ái bao la, vừa gẩn gũi thân thiện. Bụt cũng

như người thân gần gũi với mọi người, bất hạnh, cô thế, vừa xoa dịu bao nỗi

đau của con người vừa giúp con người tự tin vào mình bằng báu vật thần kì

hoặc ban cho những lời chỉ dẫn thần kì. Các dân tộc khác không sử dụng mô

típ này mà thay thế vào hình tượng ông Bụt là người mẹ thần kì dẫn dắt con

gái đến hạnh phúc. Rõ ràng, người mẹ thần kì trong những truyện mà chúng

tôi khảo sát được ở các dân tộc Thái (Ý Ưởi Ý Noọng), Tày (Tua Gia Tua

Nhi; Nàng Đăm Nàng Khao), Ka Dong (Y Zật Y Nook), H’rê (Ú và Cao),

Chăm Hơ-roi (Pơ ria, Pơ ró ), Khmer (Cô gái mồ côi)… có ảnh hưởng rất lớn

đến số phận và hạnh phúc của con gái mình. Ở những truyện này, tác giả dân

gian đã dụng công xây dựng hình ảnh người mẹ là những nhân vật thực sự.

Song mức độ ảnh hưởng của người mẹ đến hạnh phúc của người con gái ở

những truyện cụ thể có mức độ đậm nhạt khát nhau. Hình tượng người mẹ “Ý

Ưởi Ý Nọong” với hai lần hóa thân : một là đười ươi, một là mãnh hổ để biến

con gái mình từ chỗ lam lũ, nghèo khổ để trở thành một hoàng hậu xinh đẹp

đã được khắc họa sâu đậm và mang giá trị thẩm mĩ lớn. Không có những lần

hóa thân của người mẹ thì các cô gái mồ côi không thể có hạnh phúc. Ở

những truyện còn lại, người mẹ hóa thân từ một đến hai lần sau khi chết (Cá

trình – mẹ, quả đào lộn hột -mẹ trong “Y Zật – Y Noók”, chim tru- mẹ, quả

chôm chôm – mẹ trong “Ú và Cao” ) nhưng ảnh hưởng đến tương lai của con

không lớn lắm. Những hình ảnh hóa thân của những ngưới mẹ chính là tín

ngưỡng vật tổ xa xưa của các dân tộc thiểu số Việt Nam. Đấy còn là những

sản phẩm riêng của vùng cao nguyên Trung Bộ (hình ảnh con cá trình, trái

chôm chôm, chim tru và quả đào lộn hột) của vùng núi Tây Bắc vả Bắc Bộ

Việt Nam (hình ảnh mãnh hổ, đười ươi).

Trong quá trình khảo sát, chúng tôi còn nhận thấy người trợ giúp thần

kì có khi là những người già : ông lão, bà lão. Bà lão (trong “Sự tích con

khỉ”– Kinh) đã chỉ cho những cô gái nghèo khổ mút bông hóa trắng để trở

thành cô gái xinh đẹp hơn. Ông già cao lớn, da đỏ đậm như gỗ Sa - tring, râu

xoắn như cây cù lâu và một bộ ngực chàm xanh, đứng che hết một khoảng

trời hiện ra và giúp đỡ người nghèo khổ của dân tộc Tây Nguyên.

Như vậy, mô típ “ người trợ giúp thần kì” ở loại truyện nói về những nhân

vật bất hạnh khá phong phú về số lượng và các dạng thức biểu hiện. Do đó,

trước hết khẳng định trí tưởng tượng phong phú tuyệt vời của người xưa; sâu

xa hơn nó lại phản ánh nhiều nội dung khác nhau có liên quan đền nhiều vấn

đề trong đời sống cộng đồng. Cụ thể như sau:

Trước tiên, nó là dấu ấn cho quá trình cơ chế thị tộc mẫu hệ đến lúc giải

thể nhường chỗ cho chế độ phụ hệ gắn liền với chế độ tư hữu tài sản. Vai trò

người mẹ, người phụ nữ trong gia đình không còn được coi trọng nữa, tài sản

là của người cha, người chồng. Trong gia đình, người cha, người chồng quyết

định tất cả. Thực tế là vậy, nên nhiều người mẹ trong gia đình bị hắt hủi, bị

đối xử thậm tệ và chết sớm. Nhiều đứa con trở nên mồ côi mẹ. Hầu như điều

này in rõ nét trong cổ tích. Nhưng về mặt tâm lý, nhân dân còn tiếc quá khứ

với truyền thống cố kết cộng đồng, với phong tục tập quán cũ xem trọng vai

trò của người phụ nữ và người con út trong gia đình mới là người có quyền

thừa kế và giữ gìn bếp lửa gia đình. Do đó, người mẹ luôn muốn đi theo và

luôn muốn bảo vệ hạnh phúc cho con mình.

Thứ hai, nó phản ánh mơ ước, khát vọng mãnh liệt của dân gian. Bởi

lịch sử bao giờ cũng khách quan và mang tính biểu hiện. Con người với tư

cách là cá thể nên không thể chống lại quy luật xã hội được. Người con côi,

con út, con riêng, người đàn bà hóa bụa… không thể có hạnh phúc trong xã

hội tư hữu gắn liền với địa vị độc tôn của người cha, người con cả. Do vậy,

muốn thắng những thế lực ấy, những nhân vật bất hạnh này hiển nhiên phải

mượn đến những phép mầu thần kì của ông Bụt, bà tiên, ông trời, pháp sư,

đạo sĩ, chim thần, thú thần… để hỗ trợ.

Thứ ba, nó phản ánh dấu vết của quan niệm vật tổ và tín ngưỡng dân

gian về sự hóa thân của người mẹ thần kì. Quan sát thời gian ta nhận thấy

diễn biến của mô típ “Người trợ giúp thần kì” chuyển hóa thành một đặc tính

thẩm mỹ nghệ thuật của truyện cổ tích. Mô típ “ Người trợ giúp thần kì” là cơ

sở lý giải cho tính chất kì ảo và lối kết thúc theo mơ ước của truyện cổ tích.

Dĩ nhiên đó là một đặc trưng thẩm mĩ, mở màn cho không khí kì ảo, đưa nhân

vật bước di trên con đường đến hạnh phúc. Nó giữ vai trò chuyển tiếp nghệ

thuật của truyện dân gian. Có thể hình dung những điều trình bày qua sơ đồ

Nhân vật có cảnh ngộ đáng thương Địch thủ.

Bị hành hạ, bị đối xử thậm tệ

Người trợ giúp thần kì xuất hiện

(Người mẹ thần kì hoặc lực lượng siêu nhiên)

Báu vật hay phương tiện thần kì

Cuộc sống sung sướng, Bị trừng phạt,

hạnh phúc. bị chết.

sau:

2.1.5. Mô típ “ hóa thân nhiều lần”

(Nhân vật chính hóa thân nhiều lần khác với “sự biến hình” của nhân vật

phản diện.)

Mô típ này khá phổ biến trong kho tàng truyện cổ tích Việt Nam nhất là

đối với những truyện có nhiều hình thức thưởng phạt. Một mặt, nó phản ánh

đặc trưng thẩm mỹ của các thể loại, tạo ra những không khí kì ảo cho câu

chuyện. Mặt khác, nó khẳng định sức sống bền bỉ, dai dẳng và ý thức vươn

lên mạnh mẽ của con người. Con người không thể chết đi. Mỗi lần hóa thân

chỉ là một sự thất bại tạm thời cũng đồng thời minh chứng cho thấy sau những

lần hóa thân ấy con người trở nên mạnh mẽ hơn. Mô típ hóa thân nhiều lần để

rồi trở lại làm người với hình dáng đẹp đẽ hơn xưa – gắn liền với mô típ biến

hình của nhân vật chính diện. Nhân vật mang một diện mạo mới. Sự biến hình

này cuối cùng dẫn tới sự kết hôn hay sự ban thưởng.

Trước hết, là sự biến hình của nhân vật chính. Tấm ( bị giết chết khi

trèo cau ) chim vàng anh (Cám ăn thịt ) cây xoan đào bị chặt

cái khung củi bị đốt thành tro cây thị, quả thị làm

người con gái ( xinh đẹp hơn trước ).

Còn nàng Khao ( Nàng Khao, Nàng Đăm – Thái ) lên cây bồ quân hái

quả (chặt cây) chim cu (nhiều lần bị giết) cây tre ngà (vua

quí, bị chặt), củi đốt cháy cô gái đẹp.

Tua Gia trèo lên cây cha chặt cau con uyển (bị giết )

bụi tre cào mặt Tua Nhi (chặt) làm mắc màn (đâm tay Tua Nhi) (bị

đốt) tro bà lão mang về cô gái đẹp.

Trong 120 truyện chúng tôi khảo sát có hơn nửa số truyện có mô típ

này. Đây cũng có thể nói là mô típ trung tâm của mẫu truyện kết thúc có hậu.

Nó là hệ quả của những mô típ đầu là cơ sở cho mô típ kết hôn và lên ngôi.

Xoay quanh mô típ này là những quan niệm gắn bó với những dấu vết tín

ngưỡng tôn giáo của đời sống xã hội một thời, vừa thể hiện khát vọng sống

mãnh liệt của con người bình dân.

Cổ tích là thể loại ra đời khi công xã nguyên thủy đã tan rã và bước vào

thời đại xuất hiện gia đình nhỏ. Tuy nhiên, giai đoạn phát triển nhất của cổ

tích phải kể đến thời kì xã hội có sự phân hóa sâu sắc và gia đình phụ quyền

có vai trò độc tôn. Nhiều mâu thuẩn, nhiều xung đột xuất hiện trong gia đình

và ngoài xã hội. Trong cuộc đấu tranh sinh tồn, đòi quyền sống, quyền tự do

ấy, con người sẽ không dễ dàng đương đầu được ngay. Ý chí, nghị lực và khả

năng sinh tồn có ý nghĩa quyết định, có tính chất sống còn để nhân vật tiếp

tục cuộc hành trình đấu tranh giành hạnh phúc của mình.

Hơn nữa, mô típ “hóa thân nhiều lần” còn xuất phát từ quan niệm

mang tính duy vật thô sơ chất phác của người xưa. Người xưa quan niệm con

người và loài vật, cây cối, đồ vật xung quanh có cùng một nguồn gốc bản thể.

Nhiều áng thần thoại, sử thi nhân gian đã quan niệm như thế. Sau này truyện

cổ tích nối tiếp cách nghĩ ấy để đề ra cách giải quyết khó khăn nhưng đã bớt

đi vẻ kì diệu, hoang sơ vốn có của các thể loại trên. Trong quá trình vận động

của thể loại, cổ tích đã tăng vẻ đẹp trần tục, xác định tư thế chủ thể của con

người. Nhưng con người trong cổ tích cũng chưa tự phân lập mình với thế

giới tự nhiên xung quanh. Họ chỉ thấy mình với thế giới tự nhiên là một, thậm

chí còn sùng bái tự nhiên, gán cho sự vật xung quanh cũng có linh hồn và đặc

điểm như con người. Do đó, con người chọn vật tổ, cây linh hồn cho tộc

người mình. Những hình ảnh họ chọn để đưa vào cổ tích lại rất bình dị, dân

dã gần gũi gắn liền với đời sống của từng tộc người. Do vậy, các kiếp hóa

thân của con người gắn liền với các con vật, với cây cối là điều dễ hiểu.

Vả lại, số phận của những người con côi, con riêng… chẳng khác nào

thân phận của con sâu, con kiến. Do đó, không dễ gì có thể khẳng định được

các thế lực đối lập. Đội lốt cây cối, con vật để sau đó thành người dẹp hơn,

mạnh mẽ hơn là dụng ý đầy nghệ thuật của dân gian.

Một đặc điểm nổi bật nữa trong mô típ “ hóa thân nhiều lần” đó là sự

kết hợp giữa hai mô típ nhỏ: đó là mô típ người đội lốt vật và mô típ người

đội lốt cây cối, hoa quả. Từ đây có thể khẳng định, con đường quay trở lại với

thân phận và cuộc sống của chính mình là cực kì khó khăn và vô cùng gian

khổ. Bên cạnh đó, quá trình này còn khẳng định thêm bởi mưu toan đánh tráo

thân phận của thế lực thù địch. Nhưng rõ ràng các kiếp hóa thân chỉ nhờ vào

các lực lượng siêu phàm, chỉ có tính chất mơ ước, ảo vọng, khó có thể thực

hiện được trong đời thực. Nhưng qua đó cũng khẳng định cho chúng ta một

điều: con người có thể chối bỏ tất cả nhưng hạnh phúc thật sự, thân phận thật

sự thì không thể nào chối bỏ được. Điều này chúng tôi cùng quan điểm với

Nguyến Tấn Đắc: “Bài học của truyện Tấm Cám là thân phận con người

không thể đánh tráo, tranh cướp được” [7, tr.22]

Sau mô típ “hóa thân nhiều lần” nhân vật chính diện quay trở lại làm

người: xinh đẹp mạnh mẽ hơn và được đoàn tụ với gia đình của mình. Điều

đó có nghĩa là nhân vật chính được nhận ra, nhân vật phản diện bị vạch mặt

và sau đó bị tiêu diệt. Mô típ này là sự phát triển lô gíc của mô típ “ báu vật

thần kì”. Nếu như ở mô típ “báu vật thần kì”, nhân vật được ban tặng sức

mạnh, khả năng biến hóa kì lạ… thì mô típ này là những biểu hiện cho hành

trạng đó. Nó trở thành tiêu điểm để dẫn dắt số phận nhân vật vào cuộc hành

trình gian khổ để nhân vật giành hạnh phúc. Chúng tôi nhận thấy mô típ này

đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển cốt truyện. Nó xuất hiện như một

thành tố nghệ thuật đánh dấu tố chất phi thường của nhân vật, là hệ quả của

nhận được báu vật thần kì.

Hành hạ, đối xử thậm tệ

Nhân vật có cảnh ngộ đáng thương Địch thủ.

Bị hành hạ, bị đối xử thậm tệ

Người trợ giúp thần kì xuất hiện

(Người mẹ thần kì hoặc lực lượng siêu nhiên)

Báu vật hay phương tiện thần kì

Cuộc sống sung sướng, Gặp gỡ Cuộc sống nghèo khổ,

hạnh phúc. Gây hại. túng bấn.

Chúng tôi tạm phác thảo những điều trình bày qua sơ đồ sau:

chết và hóa thân nhiều lần liên tiếp gặp rủi ro, thất bại.

trở thành người đẹp đẽ hơn. Bị vạch mặt

Cái ác bị tiêu diệt,

cuộc sống hạnh phúc, giàu sang đột đỉnh.

2.1.6. Mô típ “ Kết hôn và sự lên ngôi” (Sự ban thưởng)

Có thể khẳng định đây là một mô típ trung tâm của hình thức thưởng

phạt. Nó là hệ quả của hai mô típ đầu và là mô típ mang tính chức năng của

truyện cổ tích. Xoay quanh mô típ này, ta thấy lấp lánh những điểm sáng về

nội dung; thể hiện nhiều quan điểm, nhiều mơ ước của người xưa về đời sống,

cách ứng xử gắn liền với dấu vết của đời sống xã hội một giai đoạn lịch sử.

2.1.6.1 Mô típ kết hôn

2.1.6.1.1. Mô típ “người trần kết hôn với tiên”

Nhân vật chínhp trong truyện cổ tích của người Kinh có chứa mô típ này

là nho sĩ, nho sinh, thầy đồ và anh chàng nghèo khổ. Những con người này do

một duyên cớ nào đấy hết sức ngẫu nhiên đã gặp tiên và kết hôn. Sau khi kết

hôn, các chàng trai, cô gái theo người tiên về trời hoặc vào cõi hư vô. Hoặc

giả như có kết hôn xong cũng không được sống hạnh phúc mà phải chia xa.

Trong tâm thức của dân tộc này, cõi tiên gắn liền với cái hư vô, không tồn tại

trong cuộc đời thực. Do vậy, kết hôn với người cõi tiên rất khó tìm thấy hạnh

phúc nơi cõi trần. Có thể thấy với mô típ này, ý nghĩa xã hội của truyện vì thế

bị thu hẹp, ảnh hưởng tiêu cực đến nhân sinh quan. Rõ ràng cùng một mô típ

nhưng ở các dân tộc khác nhau có sắc thái ý nghĩa khác nhau. Truyện cổ các

dân tộc khác cũng có mô típ này. Đối với họ, người phàm trần có thể hạnh

phúc với người cõi tiên. Chúng tôi tìm thấy mô típ này ở các truyện sau:

Chàng lùn- Dao, Sính Lữ cứu con Ngọc Hoàng- Mèo, Da Rác lấy chồng

tiên- Chàm, Nàng tiên thứ chín- H’rê, Hai đứa mồ côi và bà dì ghẻ- Mường,

Nàng tiên trứng- Thái… Lấy truyện Nàng tiên trứng- Thái làm ví dụ cho

nhận xét trên. Ta có thể nhận thấy nàng tiên trứng (nàng Kháy) có xuất thân

từ cõi trời nhưng cuối cùng kết hôn với chàng Hoa Long nghèo khổ và cùng

chàng sống hạnh phúc ở cõi trần mãi mãi. Nàng đã giúp cho chàng Hoa Long

giành được ngôi báu của tên vua độc ác, ham sắc để rồi cùng chồng làm

hoàng hậu và sống cuộc đời hạnh phúc. Các dân tộc này nhìn nhận con người

ở hai cõi trời (tiên) - trần không có sự tách biệt và ngăn cách nhau là mấy. Và

cuộc sống của người trần sau khi kết hôn với người cõi tiên là hạnh phúc mĩ

mãn. Hai anh em mồ côi (Hai đứa mồ côi và bà dì ghẻ- Mường) cưới được

vợ tiên từ gạc bò rừng và sau đó họ có kẻ hầu, người hạ cùng sống đầm ấm,

hạnh phúc với người cha. Mụ dì ghẻ độc ác phải chết vì ăn sừng trâu.

2.1.6.1.2. Mô típ “ người trần lấy vợ thủy cung”.

Đây là mô típ phổ biến của các dân tộc ở môi trường canh tác lúa nước,

nơi có nhiều ao rạch sông ngòi, hồ đầm. Đây là môi trường có nhiều loài vật

thích nghi với nước như rắn, cá sấu, thuồng luồng, ba ba, cá. Chính những

mối quan hệ giữa con người với những loài vật trong môi trường nước trên đã

làm nảy sinh trong truyện cổ dân gian những cuộc hôn phối đầy màu sắc

huyền thoại giữa con người với các loài thủy tộc. Và để cho những cuộc hôn

phối tưởng tượng ấy thêm long trọng, để hành trạng nhân vật thêm li kì, nghệ

nhân dân gian thường để họ lấy con vua Thủy Tề (tức Long Vương). Các dân

tộc thiểu số khác của Việt Nam có ít hoặc không có mô típ người trần lấy vợ

thủy cung vì môi trường sống của họ ở vùng cao nên ít liên quan đến cuộc

sống của các loài thủy tộc. Họ chỉ tưởng tượng đến cuộc sống của những loài

sơn tộc như voi, hổ, gấu, nhím, khỉ, vượn. Tất nhiên, mô típ người trần lấy vợ

thủy cung cũng có ở các tộc người khác trên dải đất Việt. Nhưng ở các dân

tộc ở vùng cao, mô típ phổ biến hơn đó là người lấy ếch, lấy cá…, một biến

thể của người Thủy cung. Trong quá trình khảo sát chúng tôi nhặt được những

mô típ này ở các truyện sau: Chữa bệnh cho Long Vương, Con gái thủy

thần mê chàng đánh cá (Kinh); Hai anh em (Hà Nhì), Túi da cáo và lưỡi

câu gai , Ở ác gặp ác (Mèo), Nàng tiên cá (Mường), Hoàng tử rắn (Cao

Lan)…

Cũng như mô típ “ người trần lấy vợ tiên”, mô típ “người trần lấy người

thủy cung” thể hiện một cách đầy ấn tượng về mơ ước đạt được hạnh phúc

của con người. Người thủy cung có khi là con thuồng luồng, con cá sấu, có

khi là con rắn, có khi là con cá, có lúc đội lốt trái bầu. Đây là những con vật,

sự vật này đôi lúc có hình thù kì dị, gớm ghiếc, đáng sợ nhưng tất cả đều biến

thành người sau đó. Từ đó, chúng ta nhận thấy cách nhận thức về cuộc sống,

về các loài vật xung quanh người xưa còn mơ hồ, ấu trĩ. Họ cho rằng vạn vật

đều có linh hồn và có thể giao cấu với con người, và gán cho nhân vật ấy một

khả năng và thân thế đặc biệt. Điều đó phản ánh ít nhiều về trình độ nhận thức

còn đơn giản, chất phác ở các tộc người.

Mô típ này được tổ chức bởi một chuỗi những hành động và sự kiện có

mối liên hệ mật thiết với nhau. Nhân vật chính hoặc người thân của họ gặp

rắc rối, gặp thử thách. Nhân vật chính vượt qua thử thách, kết hôn với những

con vật xấu xí, gớm ghiếc (trăn, rắn, thuồng luồng). Đôi khi sự việc kết hôn

này cũng là do lời hứa của người thân. Sau khi kết hôn, những con vật này cởi

bỏ lốt vật trở về là những chàng hoàng tử, nàng công chúa con vua Thủy Tề

xinh đẹp, tài giỏi, giàu sang. Có khi nhân vật chính do có lòng tốt hay tình cờ

giải thoát cho vua Thủy Tề hoặc con vua Thủy Tề nên được tặng báu vật để

trả ơn. Thường vật dùng để ban tặng là những báu vật có giá trị. Đôi khi được

người khác mách nước (có thể là hoàng tử, công chúa con vua), nhân vật

chính chỉ nhận một báu vật có giá trị thật sự. Sự ban tặng này này ảnh hưởng

rất lớn lao đến cuộc đời của họ sau đó. Lúc trở về dương gian, báu vật hóa

thành cô gái xinh đẹp, kết hôn với nhân vật chính sống cuộc đời hạnh phúc.

Mô típ này khẳng định phẩm chất tốt đẹp của nhân vật và đó là những

phần thưởng xứng đáng cho những chàng trai cô gái hiếu thuận, có tấm lòng

nhân hậu và giàu đức hy sinh. Hơn nữa, cũng thông qua mô típ này, người

xưa muốn thể hiện cách nhìn và sự kiến giải của mình về cuộc sống: con

người khó có thể tìm được hạnh phúc ở cõi trần thế đầy rẫy bất công, ngang

trái mà phải tìm hạnh phúc ở thế giới khác: thủy cung. Thủy cung trong con

mắt của người xưa đó là một thế giới tuyệt vời, bằng lặng, hạnh phúc, giàu

sang và có những con người tài giỏi, có vị vua nghiêm minh. Từ thế giới ấy,

con người mới thay đổi thân phận và cuộc đời của mình rồi sẽ tìm về cuộc

sống hạnh phúc nơi trần thế. Đây là một thế giới trung chuyển trong quá trình

đi tìm hạnh phúc cho chính nhân vật. Ai bước vào thế giới dưới nước – thế

giới có nhiều báu vật thần kì rồi sẽ tìm thấy hạnh phúc và kết hôn với người

thủy cung. Cuộc đời của họ từ đó sẽ có sự dổi thay vĩnh viễn.

Có thể hình dung những mô típ trên qua sơ đồ sau:

Người trần có hoàn cảnh bất hạnh, có phẩm chất đạo đức tốt.

May mắn gặp được người cõi tiên.

Kết hôn

Cùng người cõi tiên Cùng người cõi tiên sống

vào chốn hư vô. trong giàu sang, hạnh phúc.

Dạng thứ nhất:

Dạng thứ hai:

Nhân vật chính hoặc người thân nhân vật chính gặp rắc rối, gặp khó khăn

Họ bị hoặc chủ động đưa ra điều kiện, lời hứa,

Người thủy cung xuất hiện giải phóng được khó khăn thử thách

[

Nhân vật chính kết hôn với người thủy cung

Người thủy cung cởi bỏ lốt vật thành nàng công chúa hoàng tử

Sống giàu sang, hạnh phúc.

Dạng thứ ba:

Nhân vật chính có lòng tốt hoặc ngẫu nhiên giải cứu cho người ở thủy cung.

Đưa xuống thủy cung

Tặng cho báu vật ( hóa thân từ chàng trai cô gái thủy cung ).

Báu vật hóa thân thành người khi về cõi trần.

Sống hạnh phúc.

2.2. Mô típ trừng phạt

2.2.1. Mô típ “Sự bắt chước không thành công”

Mô típ “ bắt chước không thành công” phổ biến trong truyện dân gian

Việt Nam cũng như nhiều nước khác trên thế giới. Có thể nói đây là mô típ có

từ lâu đời. Vốn dĩ mô típ này xuất phát trong thần thoại – một thể loại truyện

dân gian có trước truyện cổ tích, ra đời từ buổi sơ khai của nền văn minh nhân

loại. Mô típ này trong thần thoại chủ yếu là để thực hiện và nhấn mạnh sự đối

lập giữa hai nhân vật (nhân vật của thần thoại chủ yếu là các vị thần), thông

minh, khéo léo, tốt bụng và ngu dốt, vụng về, độc ác. Trong truyện cổ tích mô

típ này được sử dụng rộng rãi và phổ biến trong các chủ đề nói về xung đột

trong gia đình: anh chị, chị em, bố vợ, con rể, dì ghẻ con chồng. Trong đó,

loại truyện nói về sự phân chia tài sản không công bằng là khá phổ biến ở

nhiều dân tộc trên dải đất Việt nói riêng và nhiều dân tộc khác nhau ở Đông

Nam Á nói chung. Nhân vật người anh, người chị có lúc lại là người bạn ghen

ghét với người em, đối xử tệ bạc với nhân vật này. Sau đó, nhờ may mắn hay

được người khác giúp sức, người em trở thành giàu có. Người anh, người chị

hay người bạn ấy một mặt cảm thấy ganh ghét người em, mặc khác cũng

muốn giàu có giống như em. Thế là, những con người ấy bắt chước những

điều mà người em đã làm một cách thành công. Nhưng sự bắt chước của họ

lại không thành công. Cách kể như thế này rất phổ biến ở các truyện của các

dân tộc: Cây khế, Hà rầm hà rạc, Con chó, con mèo và anh chàng nghèo

khổ, Chữa bệnh cho Long Vương, Hai cô gái và cục bướu của dân tộc

Kinh; Túi da cáo và lưỡi câu gai, Người tham vỡ bụng của dân tộc Mèo;

người Khmer có các truyện Cối xay thần, Cây khế; người Vân Kiều có các

truyện Rú Roọc Xađie, Sự tích chim thù thì; dân tộc Giáy với truyện Hai

anh em mồ côi, người Nùng có truyện Chim phàng náo; người Tày có

truyện Hố vàng hố bạc; người Dao có truyện Con cày hương biết hát; dân

tộc Chàm có truyện Xin chôn ở núi vàng, Ca đốp và Ca đoéc; dân tộc Hà Nhì

có truyện Hai anh em; dân tộc Pu Péo có truyện Ính và Inh; dân tộc Cơ Tu

với truyện “A lan và A ly”..

Trong các truyện kể trên và nhiều truyện chưa kể tên hết được, kết quả

cuối cùng của truyện là người bắt chước ấy bị chết sau những đòn cảnh báo

(trách phạt) trước đó. Cũng theo những truyện kể trên, sở dĩ như vậy là do

lòng tham của người anh, người chị, người bạn hoặc do không làm đúng theo

lời chỉ bảo “ thiêng liêng” (lời dặn của thần, lời chỉ bảo của người em, của rùa

biển, của chim thần...) hoặc đối xử thô lỗ và quá độc ác với kẻ đã trợ sức có

phép thần (con chim thần, con cày hương biết múa…). Rõ ràng với mô típ

này của truyện cổ tích, người xưa muốn nhấn mạnh vào yếu tố đạo đức “ Ở

hiền gặp lành”, “ Ở ác gặp ác”.

Bên cạnh đó, mô típ bắt chước không thành công còn phổ biến trong

truyện nói về cuộc xung đột giữa dì ghẻ - con chồng, bố vợ - chàng rể. Ở

xung đột giữa dì ghẻ - con chồng có sự kết hợp xung đột giữa con chồng và

con riêng (chị và em) như đã đề cặp ở một số truyện trên. Ngoài ra trong quá

trình khảo sát, chúng tôi còn tìm thấy mô típ này ở những truyện kể như sau:

Cối đá đổi vàng – Dao; Gơ-liu Gơ-lát (X’rê ), Pơ- ria Pơ-ró (Chăm Hơ –

roi), Tua Gia, Tua Nhi (Tày), Niêng Rô-mắc -mê – đa (Khmer); Ý Ưởi, Ý

Noọng (Thái); Tấm Cám ( Kinh )… Trong những truyện này, đứa con riêng

của chồng thường xuyên bị hắt hủi và hành hạ. Sau đó nhờ vào “ báu vật thần

kì” hay “ người trợ giúp thần kì”, mà trở nên giàu có sung sướng. Người mẹ

kế cũng bảo con mình bắt chước làm theo hành động trước đó của con chồng.

Kết quả là sự bắt chước ấy không thành công. Cô ta liên tiếp bị trừng phạt,

liên tiếp gặp rủi ro và thất bại. Còn ở xung đột bố vợ - chàng rể (tiêu biểu là

truyện Cối đá đổi vàng – Dao) cũng có mặt trong mô típ này nhưng sự lặp lại

ít hơn. Thường thì những ông bố vợ trong câu truyện kể không ưa gì chàng rể

và luôn tìm cách hại cho anh ta chết đi cho rảnh mắt. Sau những lần tìm cách

hãm hại, anh con rể không chết mà ngược lại nhờ trí thông minh anh ta có của

cải đem về và lừa được bố vợ. Và rồi bố vợ cũng thích được giàu có nên bắt

chước làm theo sự chỉ dẫn của con rể. Cuối cùng bố vợ bị thiệt mạng hoặc

không ai còn thấy ông ta nữa vì sự bắt chước không thành công. Mô típ trên

được hình dung qua sơ đồ sau:

Nhân vật mồ côi Địch thủ.

có cảnh ngộ đáng thương Bị hành hạ, bị đối xử thậm tệ

Người trợ giúp thần kì xuất hiện ban cho

báu vật hay phương tiện thần kì

Cuộc sống sung sướng, Gặp gỡ Cuộc sống nghèo khổ,

hạnh phúc. Bắt chước túng bấn.

Hành hạ, đối xử thậm tệ

Sự bắt chước không thành công Liên tiếp gặp rủi ro

2.2.2. Mô típ “Cái chết và sự biến hình”

Đây là một mô típ cơ bản nằm trong những truyện có kết thúc có hậu.

cùng với mô típ kết hôn và lên ngôi báu, mô típ trừng phạt bằng cái chết rất

phổ biến trong kho tàng truyện cổ tích của các dân tộc Việt Nam. Nó cũng là

hệ quả của những mô típ đầu. Xoay quanh mô típ này, chúng ta thấy rõ quan

niệm của người xưa: cuộc đấu tranh sinh tồn rất quyết liệt, giữa hai tuyến

nhân vật có sự xung đột một mất một còn. Để tồn tại, nhân vật địch thủ phải

bị tiêu diệt. Trong kết thúc truyện cái chết của nhân vật phản diện thực hiện

một chức năng duy nhất của hành động cổ tích: trừng phạt cái ác. Đây là một

kết truyện quá hiển nhiên đối với mọi người.

Mô típ này bắt nguồn từ những duyên cớ của đời sống bắt đầu có sự

phân chia giai cấp và có sự phân hóa giàu nghèo. Trong cuộc sống, để khẳng

định mình và chiếm cho bằng được những gì mình muốn, nhân vật địch thủ

luôn luôn tiêu diệt kẻ khác bằng mọi cách. Nhưng cuối cùng đó chính lại là

đòn trừng phạt dành cho chính mình như ông cha ta quan niệm “ Ác giả, ác

báo”. Trước hết, cái chết là kết cục tương ứng với những hành vi tội ác mà

nhân vật gây ra. Dân gian thường chọn lại đúng những địa điểm và những

hành vi xấu gây hại đến người khác mà nhân vật đó đã làm để trừng trị chính

những kẻ xấu ấy; để người sau thấy rõ hễ “ Gieo nhân nào, gặt quả ấy”. Hình

thức cái chết để đền tội này thực hiện chức năng duy nhất của hành động cổ

tích: trừng phạt cái xấu. Lão bố vợ giàu có (Cối đá đổi vàng – Dao) muốn giết

con rể cho rảnh mắt, lừa đem anh vào rừng trói vào lưng chừng cây, sau đó

vào chặt cây hòng dìm con rể xuống hố sâu chết. Cuối cùng anh con rể thoát

chết do lừa được một gả nhà giàu khác và đem tiền lừa được về nói dối với bố

vợ và rồi người bố vợ nhảy ùm xuống hố sâu ấy trên lưng mang theo cối đá

chìm nghỉm, không còn ai gặp nữa. Cái chết là kết quả của việc “bắt chước

không thành công”, là hệ quả của mô típ trên. Tên vua độc ác không muốn ai

thông minh hơn mình nên bắt hai em bé thông minh uống thuốc độc chết (Hai

ông trạng nhỏ - Kinh ). Hai em nhờ mưu trí của mình cuối cùng sống lại còn

tên vua ấy lại bị chính chỗ thuốc độc còn lại của mình giết chết. Qua hai ví dụ

minh hoạ trên, chúng tôi nhận thấy hai cách thức trừng phạt bằng cái chết phổ

biến trong những truyện chúng tôi khảo sát được trừng phạt

Mô típ bị trừng phạt bằng cái chết còn thể hiện rõ quan điểm của dân

gian: “ Tham thì thâm”. Trong những truyện chúng tôi khảo sát được, những

nhân vật chính vì thói lam lam, ích kỉ chiếm số lượng lớn. Người anh (Cây

khế - Kinh ) vì quá tham lam không làm đúng theo lời dặn của chim phượng

hoàng – chết chìm dưới biển sâu. Cũng người anh trong truyện Hố vàng hố

bạc – Tày và những truyện cùng loại của các dân tộc khác cũng vì tham lam,

muốn giàu có giống em của mình bị khỉ quẳng xuống vực sâu chết ngấm.

Không chỉ những kẻ tham lam bị chết mà những kẻ ích kỉ, không giữ chữ tín,

không biết yêu thương cha mẹ cũng bị chết. Người chị trước lời hứa của cha

phải lấy trăn thì tỏ ra lo lắng, sợ hãi. Đến khi thấy em lấy chồng trăn thì khinh

bỉ, ghê tởm chồng em, từ chối đây đẩy không nhận lời và rồi khi thấy em có

cuộc sống hạnh phúc cũng bắt chước đi tìm chồng trăn giống em. Cuối cùng

bị trăn nuốt vào bụng và chết ở trong đó (Ta lăn Ta lê – Vân Kiều ). Tên Xâu

(trong Kho vàng của mặt trời – dân tộc Nùng ) thấy bạn mồ côi trở nên giàu

có cũng giết cha mẹ mình để trở thành mồ côi và mới có cơ hội đi lấy vàng

giống bạn. Cũng vì quá tham lam mải mê lấy vàng của thần mặt trời mà quên

cả lời dặn nên hắn bị thần thiêu chết.

Mặc dù bị trừng phạt bằng cái chết nhưng hình thức biểu hiện của cái

chết cũng khá phong phú (nội dung này đã trình bày ở phần trước ). Chúng tôi

cũng lưu ý thêm về cái chết không toàn thây, chết trong cô đơn lạnh lẽo,

không ai biết đến. Dân gian vẫn dùng hình thức này để trừng phạt kẻ xấu với

mức độ nặng nề hơn nhiều. Bởi lẽ, người xưa một mặt quan niệm chết là trở

về với thế giới bên kia, nghĩa là bước vào cuộc sống của một thế giới khác.

Cho nên, mỗi khi chôn cất người chết, họ luôn muốn người thân của mình

được mồ yên mã đẹp và đốt gởi theo cho người chết nhà cửa, quần áo, vàng

mã…Mặc khác người xưa cũng lại cho rằng, những người chết, kết thúc cuộc

sống của mình rồi, cho nên khi người thân hết, họ khóc than, tổ chức nghi lễ

long trọng đưa tiễn, họ hàng đông đủ để nhìn mặt lần cuối. Thậm chí, cây cối

trong vườn, dồ dùng trong nhà cũng để tang, cũng buồn bã, héo úa. Do đó,

chết không toàn thây là một điều đau đớn nhất của người chết. Tên vua tham

lam, hiếu sắc, đã bắt vợ của Trâu Trua (Trâu Trua múa khèn – dân tộc Mèo )

bị bò húc lòi ruột, chó cắn áo và cắn tan xác), người anh tham lam (Người

anh tham lam của dân tộc Mèo ), chọc thủng mắt em và muốn giàu có như

em, vào rừng bị hổ lợn lòi xé xác ra từng mảnh; người bạn độc ác đã giết vợ

hại bạn cuối cùng bị hổ xé xát, quạ rỉa thịt, xương thì bị từng đàn săng – mao

tha đi khắp nơi. Chết không toàn thây cũng theo người xưa khó có thể tái sinh

lại được ở thế giới khác. Hồn sẽ vất vưởng không nơi nương tựa, trở thành cô

hồn.

Dân gian cũng cho rằng, những kẻ ác khi chết sẽ không có ai chôn cất

phải chết trong cô đơn, lạnh lẽo. Khi sống con người rất cô đơn, sợ bị ghẻ

lạnh. Nếu ai chết trong cô đơn, không ai biết đến là một điều tệ hại vô cùng.

Người bố (Tua Gia Tua Nhi – Tày) cùng với người vợ kế hại con ruột của

mình. Cuối cuộc đời ông đi lang thang chết trong xó rừng không ai biết đến;

người chị dâu độc ác đã nhiều lần hại em chồng nên cuối cùng rơi xuống vực

sâu mà chết, em vớt lên đem chôn ở một góc rừng sâu, buồn bã, chẳng ai

thèm đoái hoài đến nữa.

Cái chết của nhân vật phản diện thường đi kèm với sự hóa thân (theo

V.Ia. Prốp đây là chức năng 30 trong truyện cổ tích thần kì, kí hiệu là chữ “

H” ). Đó là một hình phạt nặng nề, có sức ám ảnh dai dẳng dành cho tất cả

mọi người. Trước hết, dân gian đã chọn những sự vật, con vật bé nhỏ, bẩn

thiểu đáng ghét để làm kiếp hóa thân cho nhân vật phản diện. Đó là hoa mơ -

miêng hôi thối (một hóa thân độc đáo dành cho Pơ – ró trong Pơ- ria Pơ- ró

của dân tộc Chăm Hơ- roi ), đó là con bọ hung suốt đời chiu rúc trong chốn

bẩn thỉu (hình phạt giành cho mẹ con Lý Thông trong truyện Thạch Sanh của

dân tộc Kinh; thành con muỗi suốt đời bay theo người khác hút máu (Sự tích

con muỗi- Kinh ); thành con diều hâu hóa thân của người mẹ độc ác trong Pơ

ria Pơ ró;, làm con khỉ suốt ngày nhảy nhót trong rừng sâu, tách biệt hẳn với

cuộc sống loài người (Sự tích con khỉ- Kinh ), là con dế chui rúc trong hang

không dám ra vì ngượng mặt với đứa con chồng (Mụ dì ghẻ độc nghiệt và

hai đứa con chồng -Kinh ); thành hoa cỏ may khiến người khác phải tránh xa

để khỏi bị bám vào quần áo (Sự tích hoa cỏ may – Khmer ).

Qua khảo sát chúng tôi nhận thấy có những cái chết bắt nguồn từ trong

những nghi lễ truyền thống xa xưa của xã hội Trung cổ về cái chết tạm thời để

rồi tái sinh: chết bằng cách gội nước sôi, chết thiêu (tiêu biêu là truyện Tấm

Cám- Kinh, Kho vàng của mặt trời- H’mông (Mèo), chết như một vật tế sinh:

bị trăn, thuồng luồng, cá sấu nuốt vào bụng, bị người khác ăn thịt. Và chết

bằng cách giống như những gì trước mình đã âm mưu hại kẻ đối thủ (hợp với

tư duy lô gíc của câu chuyện và đánh dấu khả năng sáng tạo của người kể.

Hơn nữa, cổ tích thể hiện một giấc mơ của người xưa về sự công bằng

xã hội . Trong những mô típ vừa trình bày trên, có những mô típ hết sức phổ

biến trong truyện cổ dân gian (mô típ phương tiện thần kì). Đồng thời cũng có

những mô típ mang tính đặc thù cho kiểu truyện kết thúc có hậu ( mô típ “hóa

thân nhiều lần”, mô típ “kết hôn và lên ngôi”, và mô típ “ sự bắt chước không

thành công”…). Chính một mô típ quan trọng ấy đóng một vai trò hết sức

quan trọng việc phân biệt những đặc trưng mang tính mang tính chất loại hình

của hình thức thưởng – phạt, phân biệt với các hình thức kết cấu khác trong

cổ tích. Hình thức thưởng – phạt trong truyện cổ tích Việt Nam so với các

hình thức kết cấu của các dân tộc khác có những đặc điểm thống nhất nhưng

khồng đồng nhất với nhau, góp phần tạo nên nhiều kết cấu đa dạng cho cốt

truyện cổ tích Việt Nam.

Mô típ trên được hình dung qua sơ đồ sau:

Hành hạ, đối xử thậm tệ

Nhân vật mồ côi Địch thủ.

có cảnh ngộ đáng thương Bị hành hạ, bị đối xử thậm tệ

Người trợ giúp thần kì xuất hiện ban cho

báu vật hay phương tiện thần kì

Cuộc sống sung sướng, Gặp gỡ Chết và hóa thân

hạnh phúc. Bắt chước .

Dạng thứ nhất:

Sự bắt chước không thành công Liên tiếp gặp rủi ro

Nhân vật chính diện có Kẻ ác, kẻ xấu có

cuộc sống sung sướng, Gặp gỡ cuộc sống nghèo khổ,

hạnh phúc. Gây hại. túng bấn.

Lực lượng thần kỳ

chết và hóa thân nhiều lần liên tiếp gặp rủi ro, thất bại.

trở thành người đẹp đẽ hơn. Bị vạch mặt

Cái ác bị tiêu diệt (chết, hóa thân)

Người tốt có cuộc sống hạnh phúc,

giàu sang đột đỉnh.

Dạng thứ hai:

Có thể nói, những mô típ mà chúng tôi trình bày chưa bao quát chưa

đầy đủ và toàn bộ những mô típ liên quan đến việc xây dựng hình thức

thưởng phạt trong cổ tích Việt Nam. Tuy nhiên có thể xem đây là mô típ cơ

bản có vai trò bao quát trong việc thực hiện ý đồ nghệ thuật của dân gian. Đến

lượt mình, những đặc trưng riêng của kiểu truyện kết thúc có hậu qui định vấn

đề thu hút các mô típ tham gia xây dựng cốt truyện.

Trên cơ sở trình bày những mô típ liên quan đến hình thức thưởng phạt,

chúng tôi đi vào đối sánh một số mô típ vừa trình bày trên giữa các dân tộc

với nhau với mục đích tìm ra những cái độc đáo riêng bên cạnh những nguyên

tắc chung của các hình thức thưởng-phạt. Cụ thể như sau:

Điểm tương đồng đầu tiên của truyện có kết thúc có hậu và có chứa đựng

hình thức thưởng phạt là đều chứa đựng mô típ cơ bản, có tính bao trùm: nhân

vật chính diện bị các thế lực đen tối bị áp bức nặng nề về vật chất lẫn tinh

thần, bị khinh rẻ, thậm chí bị hất ra khỏi cộng đòng song nhờ ý chí nghị lực,

lòng tin, và trí thông minh, nhưng chủ yếu là dựa và sự hổ trợ đắc lực của lực

lượng siêu nhiên đã giành giữ được hạnh phúc, khẳng định vị trí của mình

trong cộng đồng xã hội. Bên cạnh đó, hầu hết các truyện đều sử dụng mô típ

thử thách tài năng, sức khỏe, ý chí, nghị lực, trí thông minh và lòng nhân ái,

tính kiên trì của nhân vật chính diện. Tham gia đắc lực vào trong kết cấu cốt

truyện, là yếu tố dẫn dắt cốt truyện phát triển đến mức cần thiết, chính là mô

típ phương tiện thần kì. Trên cơ sở ấy chúng tôi cũng nhận ra những điểm

khác biệt sau:

Trong kiểu truyện phản ánh xung đột giữa mẹ ghẻ - con chồng, truyện

Tấm Cám của dân tộc Kinh không sử dụng mô típ người mẹ thần kỳ dẫn dắt

con gái tới hạnh phúc “Ý Ưởi Ý Noọng” của dân tộc Thái, “Y Pịa Y Chịa”

của dân tộc Tày, “ Y zật Y Noók” của người Ka Dong và “ Ú và Cao” của

người H’Rê. Thật vậy, người mẹ đã mất trong “Tấm Cám” không có ảnh

hưởng gì đến số phận và hạnh phúc của đứa con gái còn các dân tộc trên thì

xây dựng người mẹ như một nhân vật quan trọng. Những lần hóa thân của

người mẹ (từ một đến nhiều lần) đã khắc họa sâu đậm và có giá trị thẩm mĩ to

lớn. Không có những lần hóa thân của người mẹ thì con gái của mình khó có

thể tìm thấy hạnh phúc. Điều này có thể lý giải ở những dân tộc trên vai trò

của người phụ nữ - người mẹ là vô cùng quan trọng (dấu vết còn lại của xã

hội thị tộc) và trong tâm thức của người dân còn lưu luyến với chế độ mẫu hệ

- với vai trò chính thống của người phụ nữ trong gia đình. Thay thế vào mô

típ người mẹ thần kỳ của các dân tộc trên, người Kinh sử dụng mô típ Bụt làm

yếu tố thần kỳ. Chính Bụt chứ không phải ai khác đã đưa nhân vật bất hạnh

giành lấy hạnh phúc. Với lối tư duy thuần phác của mình, người Kinh đã

xem ông Bụt là đấng cứu thế toàn năng, có thể biết mọi chuyện xảy ra với

những con người bất hạnh và hiện ra giúp đỡ họ đúng họ cần.

Còn trong mô típ phương tiện thần kì, người Kinh sử dụng mô típ vốn

phổ biến trong nhiều truyện dân gian Châu Âu, Châu Á làm mô típ “ đôi giày

hạnh phúc”, tiền thân của mô típ này có lẽ là đôi giày quyền lực. Xưa kia, vua

chúa và những người có quyền thế ngồi trên ngai vàng, ngồi trên sập lớn cho

nên khi thần dân quỳ lại thì không bao giờ thấy mặt mà chỉ thấy đôi giày.

Theo thời gian mô típ đôi giày quyền lực đã dần dần chuyển sang mô típ đôi

giày hạnh phúc. Ở truyện Tấm Cám của dân tộc Kinh, Ý Ưởi, Ý Noọng của

dân tộc Thái có mô típ này. Nhờ có mô típ đôi giày thần kỳ mà Bụt đã ban

cho duy nhất chỉ có một người mà nhân vật đã tìm thấy hạnh phúc – trở thành

vợ vua. Cũng từ rất lâu rồi, đôi giày có một vị trí quan trọng trong đời sống

văn hóa của dân tộc Kinh, Thái không chỉ như một phương tiện đi lại mà còn

như một mô thức văn hóa, như một biểu tượng cho cái đẹp được chọn lọc,

sàng lọc. Và như thế nó trở thành biểu tượng của văn hóa dân gian – biểu

tượng cho cái đẹp.

Trong những truyện phản ánh mối quan hệ và xung đột quyền lợi trong

gia đình và ngoài xã hội, dân tộc Kinh sử dụng con chim phượng hoàng thần

kì, dân tộc Nùng sử dụng con chim phàng náo thần kì còn dân tộc H’mông

(trong truyện Hai anh em mồ côi) lại sử dụng mô típ hang đá thần kì để giúp

người em giàu có còn người anh bị trừng phạt thích đáng. Có thể nói mô típ

hang đá là một sáng tạo độc đáo của người Mèo, gắn liền với phương phức

sinh sống của họ là dùng cối đá xay ngô thành bột làm thức ăn hằng ngày mà

người Mèo gọi là miền miến. Chúng tôi nhận thấy các sinh hoạt của người

Mèo gắn liền với đá và hang đá. Hang đá còn là nơi trú ngụ, che chở cho

người Mèo.

Cùng một kiểu truyện nhưng ở các dân tộc khác nhau có những mô típ

khác nhau. Trong mô típ thử tài để kết hôn – lên ngôi, người Kinh (Sọ Dừa,

Cây tre trăm đốt…) và người H’Mông (trong truyện Vua Ếch) hay sử dụng

những mô típ thử thách về trí tuệ (khả năng làm việc và khả năng ứng biến

của con người). Trong khi đó, người Thái (qua truyện Chàng Chồn, Chàng

Rùa) hay đưa ra mô típ thử tài săn bắn để kén rể. Còn dân tộc Ê-đê, dân tộc

Tày lại thường đưa ra mô típ thử thách khả năng khéo léo. Người đưa ra thử

thách thường là những ông bố vợ và có ý nghĩa chủ yếu là phản ánh xung đột

giữa hai lực lượng đối kháng trong xã hội đang hình thành giai cấp. Đồng thời

về mặt ý nghĩa dân tộc học, mô típ này phản ánh một cách nghệ thuật và khái

quát phong tục thử tài kết hôn với có trong truyền thống xa xưa của nhiều dân

tộc trải qua chế độ mẫu hệ. Tuy nhiên với mỗi dân tộc cùng với đời sống văn

hóa khác nhau và địa bàn cư trú khác nhau mà đưa ra các mô típ phù hợp với

dân tộc mình.

Còn ở mô típ hóa thân nhiều lần, dân tộc Kinh sử dụng mô típ hóa thân

nhiều lần ở ngay nhân vật chính còn ở một số dân tộc khác sử dụng mô típ

hóa thân ở ngay người mẹ - nhân vật phụ. Tần số hóa thân trong những truyện

của dân tộc Kinh cao hơn, chết đi sống lại nhiều lần. Còn hóa thân của các

nhân vật khác thấp hơn, chỉ một đến hai lần. Nó cũng phản ánh trình độ tư

duy và khả năng tưởng tượng khá phong phú của dân tộc Kinh so với các dân

tộc khác trong những buổi đầu lịch sử.

Thông qua thao tác so sánh, đối chiếu, người viết đã chỉ ra, ở mức độ giả

thiết ban đầu những đặc điểm chung cũng như những cái riêng của những

hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích các dân tộc anh em rên dải đất

Việt. Những điểm tương đồng có thể xuất phát từ những nét chung về vị trí

địa lý, điều kiện tự nhiên của địa bàn sinh thái, từ tâm lý chung của con người

trước những hiện tượng diễn ra xung quanh đời sống, từ những chuẩn mực

đạo đức, từ sự giao lưu trao đổi văn hóa một cách cởi mở đầy tinh thần dân

tộc và tình đoàn kết. Điểm dị biệt có lẽ, hình thành trên cơ sở khoanh vùng

địa lý tự nhiên, phân bố dân cư, đặc biệt là do những đặc trưng riêng trong đời

sống văn hóa vật chất cũng như văn hóa tinh thần của từng tộc người.

Những điểm tương đồng hay dị biệt chỉ không thể nhìn nhận một cách

tuyệt đối; khó có thể bao quát một cách thật cụ thể, đầy đủ những diễn hóa

tinh vi của hình thức thưởng phạt trong quá trình vận động và phát triển qua

các không gian và thời gian khác nhau với sự gia giảm, rơi rụng hoặc kết hợp

những thành tố mới qua từng giai đoạn lịch sử của các dân tộc.

Qua việc tìm hiểu sơ lược các mô típ xây dựng cơ bản của kiểu truyện

có chứa hình thức thưởng – phạt, chúng tôi bước đầu phác họa những đặc

điểm cơ bản của hình thức thưởng – phạt và các mối quan hệ của nó với sự

các mô típ cơ bản như sau:

Trước hết, hình thức thưởng phạt trong truyện cổ tích có tính chất thuyết

minh cho những quan niệm và tư tưởng nhân ái của nhân gian trong cuộc đấu

tranh giành quyền sống, quyền mưu cầu hạnh phúc của con người.

Bên cạnh đó, nó thể hiện rất rõ ước mơ thay đổi hạnh phúc cuộc đời và

ước mơ về sự công bằng xã hội, cho nên kết cục có tính chất ước mơ ấy đã

được tác giả chủ định đặt ra ngay từ đầu và từ đó qui tụ các mô típ tham gia

vào việc xây dựng cốt truyện theo chủ ý định sẵn đó. Cốt truyện chỉ có một

hình thức thưởng đơn lẻ thì mô típ làm nền tảng, qui định cho hình thức

thưởng là mô típ “kết hôn và lên ngôi”. Mô típ này nằm ở cuối truyện để nói

về sự thay đổi cuộc đời của nhân vật sau khi vượt qua khó khăn hoặc có cách

ứng xử đúng đắn. Nó phản ánh cho ước mơ thay đổi cuộc đời của nhân vật.

Còn ở kiểu truyện chỉ có một hình thức phạt, mô típ “cái chết và sự hóa thân”

thường xuất hiện ở kết truyện. Ở kiểu truyện chỉ có một hình thức thưởng

hoặc phạt đơn lẻ, chúng tôi thấy rất ít khi có sự xuất hiện của các mô típ

“phương tiện thần kì”, “người trợ giúp thần kì”, “sự bắt chước không thành

công”. Các mô típ này xuất hiện chủ yếu ở hầu hết các truyện có một hình

thức thưởng và phạt. Nó là phương tiện dẫn dắt cho nhân vật đi đến cuối

chặng đường đi tìm hạnh phúc của mình, là phương tiện để nhân vật giành

chiến thắng và trừng phạt kẻ địch thủ. Các mô típ này là bước đệm quan trọng

cho sự xuất hiện hai mô típ cơ bản xuất hiện ở kết truyện: mô típ “kết hôn và

lên ngôi”, “mô típ cái chết và sự hóa thân”. Số lượng các mô típ tham gia vào

cốt truyện sẽ qui định kết cấu cốt truyện đơn tuyến hay đa tuyến, đơn giản hay

phức tạp. Theo đó, từng mô típ sẽ chuyển tải những ước mơ khác nhau của

dân gian.

Hơn nữa, trong khi đấu với thế lực thù địch, trong cuộc hành trình đi tìm

hạnh phúc, phần thưởng giành cho nhân vật chính diện hay đòn trừng phạt

cho kẻ địch thủ chủ yếu dựa vào yếu tố thần kì (sự trợ giúp của lực lượng siêu

nhiên hay do những trợ vật kì diệu giúp sức) chứ không phải dựa vào khả

năng trực tiếp của nhân vật. Cái để người xưa bám vào định ra hình thức

thưởng – phạt chính là đạo đức và cách đối xử của nhân vật. Do đó, hình thức

thưởng – phạt là sản phẩm của sự kết hợp hài hòa giữa trí tưởng tượng bay

bổng của dân gian với tình cảm và tư duy lí tính. Do đó, hình thức thưởng –

phạt trong truyện cổ tích tạo nên kết cấu có hậu – kết cấu cốt truyện theo mơ

ước dân gian. Đều mà tất cả mọi người quan tâm là số phận nhân vật được

giải quyết cụ thể như thế nào ở kết truyện.

Lấp lánh ẩn hiện sau mỗi hình thức thưởng- phạt trong truyện cổ tích

Việt Nam là một tấm lòng nhân ái của dân gian. Thông qua những mối quan

hệ, qua những cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc của nhân vật là một bức tranh

đời sống phong phú đa dạng, là một diện mạo xã hội đang trên đường xác lập

nền văn hóa bản địa với những phong tục tập quán, lối sống, cách ứng xử với

những tình cảm tốt đẹp của mình. Đồng thời qua đó, cổ tích còn phản ánh một

xu thế của xã hội đang vặn mình chuẩn bị chuyển sang một giai đoạn văn

minh mới xuất hiện sự phân hóa giai cấp mà trong đó mối quan hệ giữa con

người với con người ngày càng sâu sắc hơn, đi sâu vào giá trị nhân bản với

mọi biểu hiện đa dạng, phức tạp. Qua mỗi hình thức thưởng – phạt, người xưa

muốn gởi gắm những mong ước, khát vọng về cuộc sống tốt đẹp hơn, ổn định

hơn, khoan hòa hơn mang đậm tính nhân bản. Đó chính là những ước mơ vô

tận không bao giờ chấm dứt trong tâm thức của mỗi người con đất Việt qua

mỗi chặng đường lịch sử với bao thăng trầm của cuộc đời. Nó trở thành một

thứ tài sản quí báu và thiêng liêng của ông cha ta muốn truyền cho con cháu ngàn đời sau về lối sống và cách ứng xử ở đời.

KẾT LUẬN

Hình thức thưởng- phạt trong truyện cổ tích Việt Nam là một dạng thức

thể hiện rất đặc trưng của cổ tích; nó là yếu tố vừa mang giá trị nội dung vừa

là yếu tố hình thức. Đề tài của luận văn nhằm phát hiện những kiểu kết cấu

mang tính đặc trưng của thể loại và những nội dung xã hội chứa đựng trong

kho tàng truyện cổ tích của các dân tộc Việt Nam. Từ việc miêu tả, lý giải các

hình thức thưởng phạt trong kết cấu truyện cổ tích của hai mươi bốn dân tộc,

chúng tôi rút ra một số kết luận sau:

1. Trong quá trình chung sống lâu dài, các dân tộc có mối quan hệ giao lưu

và trao đổi văn hóa lẫn nhau, từ đấy không ngừng cung cấp cho nhau một

cách tự phát những sơ đồ, mô típ… trong quá trình vận động của thể loại cổ

tích. Kết quả là hàng loạt dị bản hình thành xoay quanh kiểu truyện chung. Do

đó, khi nghiên cứu hình thức thưởng- phạt, chúng tôi nhận thấy có sự tương

đồng khá phổ biến về mặt kết cấu mô típ thưởng phạt giữa truyện cổ tích các

dân tộc.

2. Bên cạnh sự tương đồng trên, chúng tôi nhận thấy sự xuất hiện mô hình

vận động của các hình thức thưởng phạt ở các dân tộc cũng có những dị biệt.

Mô hình vận động của những truyện chỉ có một hình thức thưởng hoặc phạt

đơn lẻ xuất hiện nhiều ở các dân tộc Kinh, Gia Rai, Thái, Khmer, Mèo

(H’mông) và rải rác ở một số dân tộc Cao Lan, Chăm Hơ – roi, Nùng, Cơ- tu,

Giáy…. Còn các dân tộc H’rê, Lô Lô, Pu Péo, Phù Lá, X’rê, chúng tôi chưa

tìm thấy truyện nào.

Mô hình vận động của những truyện có một hình thức thưởng- phạt xuất

hiện ở cả hai mươi bốn dân tộc. Nhiều nhất là các dân tộc Kinh, Mèo, Khmer,

Nùng, Thái, Vân Kiều, Dao… và ít nhất là những dân tộc Lô Lô, H’rê, X’rê,

Pu Péo. Nhưng có một điều khiến chúng tôi lưu ý ở các dân tộc chỉ có một vài

truyện đều có những biểu hiện phức tạp. Mô hình vận động của các truyện

này thường chia làm nhiều chặng đấu tranh, móc nối nhiều tình tiết và phức

tạp không kém gì truyện của người Kinh, Khmer…. Điều này phản ánh được

sự phân hóa xã hội ở các dân tộc này cũng khá sâu sắc và có nhiều mâu thuẩn,

xung đột chồng chéo từ quyền lợi của con người trong gia đình đến địa vị

ngoài xã hội, tuy trình độ phát triển xã hội chưa bằng các dân tộc phổ biến

nhiều kiểu truyện trên.

3. Số lượng hình thức thưởng phạt ở cuối truyện qui định các kiểu kết cấu

cốt truyện. Kết truyện chỉ có một hình thức thưởng hoặc phạt đơn lẻ thì ứng

với kiểu kết cấu đơn tuyến, chưa có xung đột, mâu thuẩn giữa các tuyến nhân

vật đối lập. Tình huống truyện đơn giản, đến cuối truyện yếu tố thần kì mới

thể hiện rõ vai trò thưởng- phạt của mình. Còn tương ứng với kiểu kết truyện

có một hình thức thưởng- phạt, kết cấu cốt truyện đa tuyến, có hai dạng biểu

hiện sau:

Dạng đơn giản có hai tuyến nhân vật đối lập cùng gặp thử thách, ai vượt

qua được- thưởng, ai không vượt qua- trừng phạt.

Dạng phức tạp hơn được chia làm nhiều chặng đấu tranh và có thể một

nhân vật có nhiều mối xung đột với nhiều nhân vật khác tương ứng với từng

quãng đời của mình. Cuối cùng, mâu thuẩn được giải quyết. Thưởng- phạt

nằm ở kết truyện.

Ở kết cấu truyện dạng này, yếu tố thần kì đóng vai trò quan trọng, có thể

góp mặt ngay từ đầu câu chuyện cho đến khi nhân vật chính diện hoàn toàn có

thể tự mình đấu tranh giành hạnh phúc. Phần thưởng cuối cùng được quyết

định một phần do những lần tặng thưởng và trách phạt trước đó.

4. Cuối cùng, các kiểu thưởng phạt phản ánh trình độ nhận thức, đặc điểm

văn hóa của từng tộc người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Thông qua

các kiểu thưởng phạt, dân gian muốn bày tỏ cách nhìn nhận con người và

cuộc sống theo những quan niệm đạo đức riêng. Đấy là những quan niệm

sống tốt đẹp mà người xưa muốn truyền lại cho con cháu muôn đời sau. Tuy

khác nhau về trình độ văn minh, điều kiện lịch sử - xã hội nhưng mẫu số

chung của các quan niệm này là: làm phúc sẽ được hưởng hạnh phúc, gieo tai

họa sẽ nhận lấy bất hạnh, “Ở hiền gặp lành”, “Ác giả, ác báo”. Cũng thông

qua kho tàng truyện cổ của tộc người mình, dân gian khuyến khích mọi người

làm điều thiện, tránh xa cái xấu để cuộc sống tốt đẹp hơn. Thể hiện dưới

những hình thức thưởng- phạt độc đáo ở các dân tộc anh em là cách cảm, cách

nghĩ của con người về cuộc sống xung quanh, gắn liền với một giai đoạn lịch

sử nhất định.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Duy Bắc (sưu tầm và tuyển chọn), Truyện cổ xứ Lạng, NXB

Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

2. Nguyễn Văn Bổn, Trần Hoàng, Võ Văn Thắng (1984), “Truyện cổ tích

mấy vấn đề thi pháp truyện cổ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng”,

Phần truyện cổ, Văn nghệ dân gian Quảng Nam – Đà Nẵng, Sở văn

hóa Thông tin .

3. Nguyễn Đổng Chi (1972), “Nghiên cứu truyện cổ tích nói chung và

truyện cổ tích Việt Nam”, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, Nxb.

Khoa học xã hội, Hà Nội.

4. Nguyễn Đổng Chi, (1982), “ Phần thứ ba: Nhận định tổng quát về kho

tàng cổ tích Việt Nam”, Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, NXB

Khoa học xã hội, Hà Nội.

5. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam (2 tuyển: 5

tập), NXB Giáo dục.

6. Chu Xuân Diên (1989), Truyện cổ tích dưới mắt nhà khoa học, Trường

Đại học Tổng hợp Thành Phố Hồ Chí Minh, Khoa ngữ văn, thành

phố Hồ Chí Minh.

7. Chu Xuân Diên (1984), “Truyện cổ tích”, Từ điển văn học, Nxb. Khoa

học xã hội, Hà Nội.

8. Chu Xuân Diên, Lê Quế Chí (1987), Tuyển tập truyện cổ tích Việt Nam,

Nxb. Đại học và trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

9. Chu Xuân Diên (1999), “Về cái chết của mẹ con người dì ghẻ trong

truyện “Tấm Cám” ”, (2), tr. 7-33.

10. Phạm Đức Dương (1982), Việt Nam trong bối cảnh Đông Nam Á, Tạp

chí Dân tộc học, (2), Hà Nội.

11. Quang Đạo (biên soạn) (2004), Truyện cổ các dân tộc Việt Nam hay

nhất, NXB Thanh Hóa.

12. Nguyễn Tấn Đắc (1990), Về các bảng mục tra cứu típ và mô típ của

truyện kể dân gian, Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội.

13. Nguyễn Tấn Đắc (1996), “Mối giao lưu và tương tác văn hóa giữa các

dân tộc ở Đông Nam Á qua truyện kể Tấm Cám”, TCVH, (6), tr. 19.

14. Y Điêng, Hoàng Thao (sưu tầm và biên soạn) (1978), Truyện cổ Ê Đê,

NXB Văn học dân tộc Hà Nội.

15. Cao Huy Đỉnh (1974), Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam,

Nxb. Khoa học xã hội Hà Nội.

16. Cao Huy Đỉnh (1974), “Chương III. Tinh thần phê phán xã hội và lý

tưởng nhân đạo và dân chủ trong truyện cổ và các thể tài dân gian

khác ở giai đoạn đầu của chế độ phong kiến”, Tìm hiểu tiến trình

văn học dân gian Việt Nam, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

17. Nguyễn Xuân Đức (2003), “Nhân vật chức năng trong cổ tích thần kỳ”,

TCVH, (2), tr. 70.

18. E.M.Mêllêtinxki, Nhân vật của truyện cổ tích thần kì, Nguồn gốc của

hình tượng, Thư viện Viện văn học, Người dịch: Nguyễn Văn Dao

và Phan Hồng Giang, tr. 107-115.

19. Nguyễn Văn Hòa (2001), Truyện cổ và dân ca Thái vùng Tây Bắc Việt

Nam, NXB Văn hóa dân tộc.

20. Kiều Thu Hoạch (chủ biên) (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam, tập 1:

Phần văn học dân gian, NXB Khoa học xã hội.

21. Việt Hoàng (1997), “Nhân vật xấu xí mà tài ba trong truyện cổ tích các

dân tộc Việt Nam”, (2), tr. 105-106.

22. Vi Hồng (1985), “Một vài quan niệm về vũ trụ quan, nhân sinh quan

người Tày cổ qua một số truyện của họ””, TCVH, (4), tr. 45.

23. Nguyễn Thị Huế (1983), “Tìm hiểu mô típ cây trong truyện Họ Hồng

Bàng và Đẻ đất đẻ nước”, TCVH, (6), tr. 69.

24. Nguyễn Thị Huế (1983), “Tìm hiểu mô típ cây trong truyện Họ Hồng

Bàng và Đẻ đất đẻ nước”, TCVH, (6), tr. 69

25. Nguyễn Thị Huế (1985), “Nhân vật có tài mà xấu xí trong truyện cổ tích

các dân tộc Việt Nam”, TCVH, (4), tr. 105.

26. Nguyễn Thị Huế (1991), “Mô típ tiếng hát trong truyện cổ dân gian Việt

Nam”, TCVH, (5), tr. 32.

27. Nguyễn Thị Huế (1997), “Chủ đề “Thử tài kết hôn” – sự biến đổi từ

phong tục dân tộc học đến mô típ truyện cổ tích thần kỳ”, (3), tr. 81-

87.

28. Lại Phi Hùng- Nguyễn Hữu Sơn (1994), “Cảm quan phật giáo trong

truyện cổ tích Việt Nam”, Văn hóa dân gian, (2), Hà Nội.

29. Lại Phi Hùng (1994), “Về tương quan giữa kiểu truyện người bất hạnh

của Lào với truyện cùng tên của Việt Nam”, (1), Hà Nội.

30. Đinh Gia Khánh- Chu Xuân Diên (1972), “Văn học dân gian Việt Nam”,

Giáo trình Đại học Tổng hợp Hà Nội, Nxb. Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

31. Đinh Gia Khánh (1986), Sơ bộ tìm hiểu những vấn đề của truyện cổ tích

qua truyện Tấm Cám, Nxb. Văn học, Hà Nội.

32. Đinh Văn Khánh (1996), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn

hóa Đông Nam Á, Tạp chí khoa học, Trường Đại học Tổng hợp Hà

Nội.

33. Đinh Gia Khánh (1993), Văn hóa dân gian Việt Nam trong bối cảnh văn

hóa Đông Nam Á, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

34. Nguyễn Xuân Lạc (1991), “Thử đề xuất một cách tiếp cận “Tấm Cám”

theo tinh thần Folklore học”, (3), tr. 38-40.

35. Tăng Kim Ngân (1983), Việc biên soạn từ điển “típ” và “mô típ” trong

nghành Folklore thế giới, Văn hóa dân gian, (3+4), Hà Nội.

36. Tăng Kim Ngân (1991), Khái niệm cốt truyện và sự phân biệt giữa cốt

truyện của tác phẩm văn học thành văn với cốt truyện trong truyện

kể dân gian, Văn hóa dân gian, (4), Hà Nội.

37. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kỳ người Việt- đặc điểm cấu tạo cốt

truyện, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.

38. Tăng Kim Ngân (1991), “ Khái niệm cốt truyện và sự phân biệt giữa cốt

truyện của tác phẩm văn học thành văn với cốt truyện trong truyện

kể dân gian”, (3), tr.16- 20.

39. Tăng Kim Ngân (1991), “Truyện cổ tích xét về thể loại – Vấn đề định

nghĩa truyện cổ tích”, (4), tr. 49-55.

40. Tăng Kim Ngân (1992), Khảo sát những đặc điểm trong cách cấu tạo cốt

truyện cổ tích thần kỳ dân tộc Việt, Luận án phó tiến sĩ khoa học

ngữ văn, Trường ĐHTH, HN.

41. Trần Đức Ngôn (1993), Lý thuyết hình thái văn học của V.Iap Prốp và

truyện cổ tích thần kỳ của Việt Nam, Văn hóa dân gian, (3), Hà Nội.

42. Trần Đức Ngôn, Nghiên cứu kết cấu truyện cổ tích thần kỳ viết theo hình

thái của V.Iap Prôp, Tiểu luận cấp 1 (Sau đại học) bảo vệ 1980-

1981, Chu Xuân Diên hướng dẫn, Tài liệu lưu ở thư viện Trường

Đại học Sư phạm Hà Nội I.

43. Trần Đức Ngôn (1991), “Lý thuyết hình thái của V.Ia.Prốp và truyện cổ

tích thần kỳ của người Việt”, (3), tr.12-15.

44. Bùi văn Nguyên (1965), Truyện cổ Ba Na- Tây Nguyên, 2 tập, NXB Hà

Nội.

45. Bùi Văn Nguyên (1985), “Tìm hiểu cội nguồn Việt cổ qua một số mô típ

tiêu biểu trong truyện cổ tích dân gian các dân tộc thiểu số Việt

Nam”, TCVH, (4), tr. 91.

46. Hoàng Anh Nhân (1978), Truyện cổ dân tộc Mường, NXB Hà Nội.

47. Bùi Mạnh Nhị (chủ biên), (2002), Văn học dân gian, những công trình

nghiên cứu, NXB. Giáo dục.

48. Nhiều tác giả (sưu tầm và biên soạn) (2001), Truyện cổ các dân tộc miền

núi Bắc miền Trung, NXB Thuận Hóa- Nghệ An- Thanh Hóa.

49. Nhiều tác giả (sưu tầm và biên sọan) (1987), Truyện cổ Dao, NXB Văn

hóa dân tộc Hà Nội.

50. Nhiều tác giả (sưu tầm và biên sọan) (1980), Truyện cổ Thái, NXB Văn

hóa Hà Nội.

51. Võ Quang Nhơn (1981), Truyện cổ dân gian Cơ Tu, NXB Hà Nội.

52. Lê Phong (1993), “ Về nhân vật tôn giáo trong cổ tích”, TCVH, (1), tr.

31.

53. Lê Phong (1995), “Tính nguyên hợp của truyện cổ Tây Nguyên”, TCVH,

(1), tr.22.

54. Lâm Quý, Phương Bằng (1983), Truyện cổ Cao Lan, NXB Văn hóa.

55. Trần Ngọc Thêm (1996), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB. TP.

Hồ Chí Minh.

56. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa ở Việt

Nam, NXB Trẻ TP. HCM.

57. Đào Văn Tiến (1964), “Thử đánh giá lại ảnh hưởng của đạo Phật trong

truyện Tấm Cám”, TCVH, (1), tr.57.

58. Y Thi (1984), Truyện cổ H’Mông, tập 1, Sở Văn hóa Thông tin Darlak.

59. Đặng Thái Thuyên (1983), “ Đề tài hôn nhân trong truyện cổ tích thần kì

Mường”, TCVH, (5), tr. 94.

60. Trần Mạnh Thường (2005), Việt Nam - Văn hóa và du lịch, NXB Thông

tấn.

61. Nguyễn Ngọc Thường (1987), “Về mối quan hệ giữa mô típ và cốt

truyện”, TCVH, (2), tr. 57.

62. Nguyễn Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ (2001), Tuyển tập văn học dân gian

Việt Nam, quyển 2, tập 1, 2, Truyện cổ tích, NXB Giáo dục.

63. Huỳnh Ngọc Trảng (sưu tầm và biên soạn) (2002), Truyện dân gian Khơ

–me (tập 1), NXB Đồng Nai.

64. Truyện cổ Việt Bắc, tập 2. NXB Việt Bắc, 1974.

65. Đặng Nghiêm Vạn, Đặng Văn Lung, Tăng Kim Ngân (1985), Truyện cổ

các dân tộc Trường Sơn- Tây Nguyên (2 tập): Dòng Nam Đảo và

dòng Nam Á, NXB Văn học.

66. Tầm Vu (1967), “Tư tưởng chủ yếu của người Việt cổ qua những truyện

đứng đầu trong thần thoại và truyền thuyết”, TCVH, (3), tr. 60.

67. Lê Trung Vũ (1982), “Hình tượng người mồ côi trong văn học dân gian

Mèo”, TCVH, (4), tr. 67.

68. Lê Trung Vũ (1984), Truyện cổ H’mông, NXB Văn hóa Hà Nội

69. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Tạp

chí văn hóa nghệ thuật, Nxb. Văn hóa dân tộc, Hà Nội.

70. Trương Thị Xúng, Hoàng Quyết (1994), Truyện cổ dân tộc Mông, tập 1,

NXB Văn học.

PHỤ LỤC

Sự tích chim tu hú (Kinh)

Có hai nhà sư Bất Nhẫn và Năng Nhẫn cùng xuất gia đi tu từ nhỏ. Sau

một thời gian dài, Năng Nhẫn được đức Phật độ cho thành chính quả. Bất

Nhẫn thấy mình cũng tu hành không kém gì bạn mà không được như bạn nên

đến trước tòa sen kêu nài với đức Phật. Đức Phật khuyên bảo nên tiếp cuộc

khổ hạnh rồi sẽ thành chính quả.

Bất Nhẫn nghe theo và tỏ ra kiên trì nhẫn nại. Chỉ còn một ngày mùa hè

nữa là kết thúc cuộc tu luyện. Một hôm có hai vợ chồng chim sẻ đến xây tổ

trên đầu Bất Nhẫn rồi đẻ trứng, thay nhau ấp con. Khi con nở, chim vợ đi

kiếm mồi và bị nhốt trong một đóa hoa sen mãi đến sáng sau mới về tổ. Hai

vợ chồng chim cãi vã và tiếng chim con kêu chíu chít điếc cả tai. Đến lúc

này, Bất Nhẫn không chụi được, vứt cả tổ chim xuống đất và chửi mắng. Thế

là công tu hành của hắn thốt nhiên vứt bỏ trong chốc lát.

Nhưng Bất Nhẫn vẫn không nản chí, chàng hứa sẽ kiếm cách tỏ rõ sự hối

hận của mình. Sau đó, chàng tìm đến một khúc sông làm người chèo đò.

Luôn trong hai năm làm việc rất nhẫn nại. Hôm ấy, trời đổ mưa lớn, khúc

sông nước chảy xiết hơn. Có hai mẹ con nhà nọ (thực chất do Phật Bà Quan

Âm xuống thử lòng đệ tử) đòi qua sông rồi dọa nạt, sai khiến Bất Nhẫn đủ

điều. Cuối cùng Bất Nhẫn chưa thực tâm nhẫn nhục nên bị Phật bà bắt hóa

thành giống chim tu hú.

Sự tích con muỗi (Kinh)

Có hai vợ chồng nhà nọ rất mực yêu thương nhau, thề hẹn không bao giờ

xa rời nhau dù là khi chết đi.

Sau đó, người vợ trẻ tự dưng chết một cách đột ngột, anh chồng nhiều lần

tìm cách chết theo nhưng không được vì người nhà can ngăn. Hôm sắp cất

đám cho vợ thì có một vị đạo sĩ nọ bày cho cách cứu người chết sống dậy.

Cách đó không khó gì miễn người chồng phải gan dạ và kiên trì.

Anh chàng nghe theo nhưng vì xác vợ bay mùi thối khắp nơi, anh đành

phải đưa vợ lên một chiếc bè đi nơi khác. Chiếc bè theo dòng nước trôi mãi.

Sau đó anh gặp được đức Phật. Đức Phật chỉ cho anh cách cứu sống vợ. Anh

chích đầu ngón tay lấy ba giọt máu nhỏ vào miệng, người đàn bà sống dậy

và thề bồi sẽ yêu anh suốt đời.

Đức Phật gọi cá sấu đến để chở họ về quê. Đi được nữa đường, cá sấu

đói, bảo hai vợ chồng vào quán ăn cơm đợi mình đi kiếm thức ăn. Trong

quán có một khách thương sang trọng. Thấy người vợ có nhan sắc diễm lệ,

hắn nảy ra mưu toan muốn chiếm đoạt. Chờ đến khi hai vợ chồng ngủ say,

hắn đến gọi riêng người vợ dậy rồi gạ gẵm người đàn bà xuống thuyền. Lòng

người đàn bà lay chuyển và đi theo hắn luôn. Cá sấu đến, gọi người chồng

dậy và cả hai không thấy người đàn bà đâu. Sau đó, cả hai biết được người

đàn bà đã theo vị khách thương nọ. Anh chồng đuổi theo thấy người vợ ngồi

trong thuyền, gọi mãi, vợ vẫn không chịu quay về còn ném cho anh một gói

vàng để trả ơn. Tức quá anh ném gói vàng xuống sông và quay lại tìm đức

Phật. Khi gặp đức Phật gặp họ, giục cá sấu quay lại chiếc thuyền khách

thương để cho anh chàng đòi ba giọt máu của mình.

Người đàn bà sau khi chích ba giọt máu ở tay thì ngã vật xuống chết

ngay. Người khách thương chạy chữa nhưng vô hiệu, bèn ném xác xuống

biển. Nhưng do phép màu của đức Phật, người đàn bà hóa thành con muỗi,

lúc nào cũng đi chích trộm máu người để sống.

Sự tích con khỉ (Kinh)

Ngày xưa có một cô gái đi ở cho nhà trưởng giả. Chủ đối xử rất thậm tệ

lại thường xuyên đánh đập, thường không có cái ăn cái mặc. Người cô gái cứ

quắt lại, xấu xí hết chỗ nói.

Một hôm nhà lão trưởng giả có cỗ, cô gái phải đi gánh nước luôn vai. Đến

lần gánh thứ mười, cô mệt quá ngồi bưng mặt khóc. Một ông già hiện ra thử

lòng cô gái. Sau khi biết cô có lòng tốt, ông già trở lại nguyên hình là đức

Phật, chỉ cho cô mút bông hoa dưới giếng sẽ đạt ước nguyện. Cô lội xuống,

mút bông hoa trắng. khi lên bờ, cô biến thành người khác: trắng trẻo, xinh

xắn, có quần áo đẹp.

Cô gánh nước quay trở về, cả họ hàng trưởng giả vô cùng kinh ngạc.

Nghe cô gái kể chuyện, ai nấy đều muốn đến giếng cầu may. Họ đến và đức

Phật cũng chỉ cho cách y như đã dặn cô gái.

Dưới giếng có hoa đỏ và trắng. Cả nhà lão trưởng giả mút bông hoa đỏ vì

cho màu đỏ là đẹp. Khi lên bờ, ai nấy cứ già thêm mãi, mặt mũi nhăn nheo,

lông lá đầy mình và đằng sau có đuôi. Những người di gánh nước cùng cảm

thấy hoảng hồn, la ó và xúm nhau đánh đuổi bọn họ đi. Chúng chạy thẳng

vào ẩn náu trong rừng sâu, hóa thành con khỉ. Từ đó, cô gái cùng với những

người hầu hạ được hưởng những của cải do họ hàng trưởng giả để lại.

Lấy vợ cóc (Kinh)

Vợ chồng nhà nọ sinh được một con cóc và nuôi tới chín mười năm. Một

hôm cả nhà đi vắng cóc hóa thành một cô gái xinh đẹp ngồi dệt vải và dọn

trong nhà sạch sẽ. Có một anh học trò đi ngang qua, cô gái đẹp đi ra têm trầu

cho khách ăn. Nhưng đến khi họ vào nhà thì không thấy cô gái đẹp đâu cả,

mà chỉ thấy một con cóc, bèn bỏ đi. Riêng có một anh học trò trong số đó,

lúc về giục mẹ đi hỏi: - “ Nó là cóc con lấy làm gì?” – “Mẹ cứ hỏi cho con

đi”.bố mẹ cóc nhận lời gã mà không đòi hỏi gì cả. Ngày đưa dâu chẳng mấy

ai tới dự, người ta bỏ cóc vào võng đưa về. Ai cũng cười chê: “Người mà lấy

cóc”. Nhưng đến đêm thì cóc hóa thành người, sáng dậy thì hóa thành dạng

cóc. Được ba ngày chồng bảo vợ: - “ Người ta cười quá lắm nàng phải làm

cho họ thôi cười mới được”. Cóc bèn hóa thành người ra mắt bà con lối xóm.

Bố mẹ chồng thấy thế mừng quá, giết trâu bò mời họ mời làng.

Nàng út ( dân tộc Kinh )

Hai vợ chồng nhà nọ, hiếm con hết lòng xin đức phật để có một đứa con.

Người vợ sau đó tự nhiên có con và đẻ ra ở đằng trán một cô bé bằng ngón

tay nên đặt tên là nàng út. Cho là quái thai, bố mẹ chỉ muốn vứt út đi cho

khuất mắt. Một hôm người bố đưa út lên rừng sâu, bảo út đứng chờ một chỗ,

chờ chặt củi xong thì sẽ mnag về. Nhưng sau đó ông ta theo đường khác mà

về bỏ con lại. Út cứ chờ mãi hết ngày này sang ngày khác. Trước đấy có một

con quạ ăn dưa nhả gần chỗ út. Hạt dưa mọc thành cây. Út dùng lá dưa như

một thứ mái nhà để che sương che gió. Cây có quả út nâng niu quả dưa, định

bụng giành cho bố.

Bỗng có một hoàng tử đi săn ngang qua đấy thấy có quả dưa chín bèn hái

ăn, quẳng vỏ lại. Út ăn dưa thừa tự dưng có mang, đẻ ra một đứa con trai

cũng bé xíu như mẹ nó. Hai mẹ con ở trên cây đa. Sau đó một hôm nhớ tới

quả dưa ăn lần trước, hoàng tử bèn tìm đến khu rừng cũ. Trông thấy hai mẹ

con út hoàng tử bỏ vào túi rồi đưa về cung lấy làm vợ. Vua cha thấy thế giận

lắm tìm cách chia rẽ.

Một hôm vua ra lệnh cho các cung nữ, ai may áo cho vua vừa vặn và đẹp

thì sẽ cho làm vợ hoàng tử. Bộ quần áo vua mặc vừa vặn và đẹp nhất lại

chính là của nàng Út. Vua lại ra lệnh cho làm cổ nếu mà vua nếm món nào

thấy ngon nhất thì sẽ cho lấy hoàng tử. Cổ ngon nhất lại là của Út. Vua lại

sai mở hội trong cung cuộc thi sắc đẹp, kén vợ cho hoàng tử. Trong khi

hoàng tử lo lắng thì nàng Út lập đàn cầu trời. Thần hiện xuống làm cho nàng

út lớn lên như người thường, nhan sắc đẹp tuyệt vời. Vua hài lòng cho phép

hoàng tử lấy nàng Út.

Cô gái lấy chồng hoàng tử (Kinh)

Ngày xưa ở một làng nọ có một cô gái rất xinh đẹp và cô có một ước

nguyện thầm kín là lấy được hoàng tử. Ngày nào cô cũng đi chợ mua hương

đến đền cầu thần phù hộ cho ước nguyện của mình.

Một tên lái buôn hương ở chợ nhiều lần theo chòng ghẹo cô gái, bị cô cự

tuyệt. Hắn không nản lại nảy ra ý định xem cô mua hương để làm gì. Thấy

cô gái vào đền, hắn cũng vào đền. Nghe lời cô gái lầm rầm khấn vái, hắn

hiểu được ý định của cô.

Một hôm nọ, hắn chạy vào đền trước, nấp sau pho tượng thần. Đợi cô gái

vái xong, hắn giả tiếng thần bảo rằng số cô phải lấy người lái buôn hương

ngoài chợ. Cô gái rất buồn và nghĩ số mệnh mình như thế. Thế là tên lái

buôn hương đạt được ý nguyện của mình. Nhưng hắn quá tham lam, không

muốn mang lễ vật cho nhà gái nên tìm cách dụ cô gái theo không hắn về quê.

Cả tin ở số phận, cô gái trốn đi theo. Không muốn cho ai biết, hắn bảo cô

ngồi vào bồ để hắn gánh đi. Đường đi qua khu rừng vắng, nhân lúc hoàng tử

đang đi săn nên người, ngựa, chó săn vây bọc khắp ngả. Vì đang làm việc

gian lận nên hắn sợ quẳng cả gánh hàng bỏ chạy. Sau đó, hoàng tử phát hiện

ra cô gái và đưa nàng về cung làm vợ. Nghe cô gái kể hết mọi việc xảy ra lại

nhân lúc săn được con hổ, hoàng tử bỏ vào mẹt, đậy lại rồi bỏ đi. Sau khi

hoàng tử bỏ đi, tên lái buôn hương quay lại gánh hàng trở về nhà. Về đến

nhà, hắn gánh bồ vào buồng kín, đóng cửa lại. Hổ nhảy ra vồ hắn ăn thịt.

Sự tích con mối ( Dân tộc Kinh )

Một chàng trai trẻ tuổi nhà giàu, ao ước được một người vợ đẹp như tiên.

Cha mẹ hỏi cho đám nào, hắn cũng không vừa ý. Hắn đáp:- “ Con chỉ muốn

lấy được một người vợ đẹp như tiên mà thôi”. Mấy năm sau, cha mẹ lần lượt

qua đời, nhưng hắn vẫn chưa có vợ.

Cái tính khó của anh được truyền đến tai Ngọc Hoàng. Thương hại hắn,

Ngọc Hoàng sai một nàng tiên xuống, bảo: - “ Ngươi hãy xuống với nó thử

xem nó có biết người biết của hay không. Nếu nó không thấy được cái đẹp

chính đáng thì hãy cho nó một bài học”.

Thế là từ ngày ấy, nhà hắn có một người con gái đến xin làm công. Cô gái

này mặt mũi tầm thường nhưng mọi việc đều thông thạo, tính tình rất tốt.

Nàng khéo tay đến nỗi ba bữa cơm không có tay nàng nấu là hắn ăn không

ngon. Gặp ngày giỗ, hắn than thở với nàng là không biết nhờ ai làm cỗ bàn

bánh trái cho thật ngon để trước cúng cha mẹ sau lại đãi quan khách. Nàng

hứa sẽ cố gắng làm công việc đó. Quả nhiên, khách và chủ đều ngạc nhiên vì

họ được một bữa cổ ngon và lạ chưa từng có. Họ xúm lại khen ngợi nàng.

Người chủ trẻ bắt đầu để ý tới nàng nhưng nhìn tới nhan sắc hắn lại lảng

ngay.

Ít lâu sau đó, anh chàng sắm sửa thuyền bè đi tìm một cô gái xinh đẹp

theo ý muốn. Ở nhà cô gái hóa thành một người xinh đẹp tuyệt trần. Khi

thuyền của chủ trở về, những người đầy tờ liền báo lại việc ấy cho chủ biết.

Người chủ vào nhà rất đồng ý với diện mạo có một không hai của người

thị tỳ. Hắn sấn lại ngồi gần nhưng nàng đã lùi bước ra xa. Hắn rối rít xin lỗi,

nói là mình đuôi mù mới không thấy một vị tuyệt thế giai nhân bấy lâu ở

trong nhà, và xin lấy nàng làm vợ. Nàng không đáp và sau đó hắn đánh bạo

chạy lại ôm nàng.

Hắn ôm hụt vì nàng đã bay lên trời và nói cho hắn biết mình là tiên, nay

đã hết hạn ở trần gian nên phải về thượng giới. Hắn chỉ còn giật một cái chéo

áo của nàng.

Từ đó hắn tiếc mãi và luôn luôn chắt lưỡi tiếc vì bao nhiêu ngày ở với

tiên mà không biết.

Người dì ghẻ ác nghiệt hay là Sự tích con dế (Kinh)

Ngày xưa có một người đàn ông hai vợ, vợ cả chết để lại đứa con tên Văn

Linh. Người vợ kế cũng có một đứa con tên Văn Lang. Hai đứa trẻ rất

thương yêu nhau nhưng ngược lại, mụ dì ghẻ rất ghét đứa con chồng.

Nhà họ khá nhất vùng. Đứa con cả theo nghiệp đèn sách còn đứa bé từ

nhỏ đã theo bố làm lụng và quen việc cày cấy.

Khi bố mất, theo tục lệ, Văn Linh sẽ nhận nhiều tài sản hơn còn Văn

Lang giỏi lắm cũng nhận vài mẫu ruộng. Mụ dì ghẻ bỗng nảy ra tà tâm,

muốn giết con chồng đi để con mình chiếm trọn tài sản.

Một hôm, mụ sai hai anh em mang tiền đi mua gỗ và dặn con phải trừ khử

người anh. Văn Lang không muốn nghe theo lời mẹ, cũng không muốn làm

mẹ phật ý nên cứ giả vờ nhận lời ra đi. Nhưng khi đến nơi, Văn Lang nói hết

mọi việc cho anh biết và bảo anh hãy trốn đi nơi khác.

Văn Linh chẳng biết đi đâu, tìm đến mồ mẹ than khóc rồi thiếp đi. Ở dưới

mồ, mẹ thương con quá, bèn hiện lên thành con chim phượng hoàng lớn,

dùng chân quắp lấy con mang đi một nơi rất xa. Sau đó, phượng hoàng ra

mọi thứ để con yên tâm ăn ở và học tập. Ban ngày biến đi, đêm đến bảo vệ

con. Sau đó, chàng quen với một người hàng xóm mới tên Ngọc Châu. Từ

chỗ quen, họ yêu thương và nên nghĩa vợ chồng. Phượng hoàng nghe tin

mang mọi thứ đến tổ chức lễ cưới cho con và từ đó không đến nữa.

Sau năm năm học tập, Văn Linh đi thi rồi đỗ tiến sĩ. Hôm vinh qui, chàng

trở về quê. Thấy anh vinh hiển, em mừng rỡ vô cùng. Còn mụ dì ghẻ nghe

tin đột ngột không kịp trốn, chui xuống gậm giường, sợ đến vỡ mật chết, hóa

thành con dế.

Tiêu diệt mãng xà (Kinh)

Ngày xưa có một con mãng xà phá phách rất hung dữ, ăn thịt không biết

bao nhiêu súc vật và người. Cuối cùng vua sai dựng một cái đền và cứ mỗi

năm dâng cho nó một người. Vua rao khắp cả nước, ai tiêu diệt được mãng

xà phong làm quận công, gả công chúa cho.

Có một chàng trai trẻ tuổi học võ nghệ với nhà sư ở trên núi. Thành tài,

anh quay trở về quê. Thầy trao cho thanh gươm quý. Khi đi ngang qua đền

mãng xà, không biết đấy là đâu, anh ghé vào nghỉ chân và nghe tiếng khóc

thút thít. Anh thấy có một cô gái bị trói vào cột ở góc điện. Vừa cởi trói cho

cô gái, anh vừa hỏi mọi chuyện. Sau đó, anh dắt cô gái ra khỏi đền còn mình

ở lại tiêu diệt con ác thú. Cuối cùng anh tiêu diệt được nó nhưng mũi gươm

bị gãy. Giết được mãng xà, anh chàng trẻ tuổi chạy khắp rừng tìm nước rồi

mệt quá ngủ thiếp đi.

Trưa hôm sau, viên quản có phận sự gác đền đến thấy xác con mãng xà,

vội vàng chặt đầu nó, chạy về cung lĩnh thưởng. Vua khen ngợi rồi giữ đúng

lời hứa. Đám cưới rất linh đình. Gần đến giữa lễ cưới, có một chàng trai trẻ

tuổi vào yết kiến vua xin lại mảnh gươm gãy còn gắt trong đầu mãng xà.

Mọi chuyện vỡ lỡ. Chàng trai trẻ ngồi vào ngôi vị phò mã, tiếp tục lễ cưới.

Viên quản bị dẫn ra pháp trường.

Ông thần núi xanh và anh chàng họ Lục (Kinh)

Từ lâu, châu Quảng Yên tỉnh Cao Bằng có ngôi đền thờ Thanh Sơn đại

vương rất linh ứng, khiến ai nấy đều nể sợ. Duy có chàng trai họ Lục hiền

lành tốt bụng là không hề nao núng, chỉ coi thần như một người bình thường.

Anh mồ côi đi làm thuê cho một nhà phú ông giàu có nhưng độc ác và keo

kiệt. Hắn hứa gã con gái S’lao Ỷ xinh đẹp cho hắn sau ba năm làm việc,

nhưng không ngờ theo thời gian, giữa họ đã nảy xinh tình cảm với nhau. Đến

kì hạn tên phú ông lật lộng, bắt anh lên rừng tìm dây mây dài có thể quấn

quanh mười vòng mảnh nương mới cho cưới. Biết điều kiện đó là không thể

thực hiện, nhưng anh vẫn đi. Lúc ghé ngang qua đền Thanh Sơn đại vương,

anh quên ngã nón chào. Tức giận cũng muốn xem anh có phải là người chính

trực hay không, thần cỡi mây theo dõi. Trời trưa nắng gắt, anh đi ngang qua

một nương dưa, anh lấy một trái dưa ăn rồi cột tiền để lại. Tới suối hạt vàng,

anh cũng chỉ uống nước chứ không lấy hạt vàng nào cả. Trời sẫm tối, anh

gặp cô gái xinh đẹp bị chứng đau bụng kì lạ hành hạ, anh sẵn sàng giúp

nhưng chỉ giám áp bụng chéo lên để khỏi mang tội với trời đất. Cô gái ấy

chính là Thanh Sơn đại vương. Cảm phục ngày cùng anh kết nghĩa bạn bè

rồi giúp anh được thông minh, đồng thời biến Slao Ỷ thành xấu xí để nàng

mãi là của anh. Sau nhiều năm kinh sách, anh vinh qui bái tổ đỗ trạng nhưng

từ quan dạy học, kết hôn với S’lao Ỷ. Một ngày nọ Thanh Sơn đại vương

ghé thăm, giúp S’lao Ỷ trở lại vóc dáng như xưa. Ngài còn bảo anh dùng

viên ngọc quí được tặng năm xưa để chữa bệnh cứu người. Danh tiếng anh

lan rộng, anh được khắp người người yêu mến và cùng vợ sống đầm ấm,

hạnh phúc đến già.

Cây Khế (Kinh)

Có hai anh em, cha mẹ mất sớm, người anh tham lam bủn xỉn còn

người em hiền lành. Khi chia gia tài, anh chiếm hết cả, chỉ để lại cho em độc

một mảnh vườn trong đó có một cây khế ngọt. Em vẫn không trách móc gì

anh, chỉ lo chăm chỉ làm thê cuốc mướn nuôi thân. Đến mùa khế có quả, một

hôm có một con chim rất lớn từ đâu bay đến, chọn quả nào chín mổ ăn bằng

hết. Người em buồn phiền kêu xin với chim, chim đáp :- “ Ăn một quả trả

một cục vàng may túi ba gang mang theo mà đựng”. Anh làm theo lời. Chim

bèn vượt biển đến một hòn đảo đầy vàng bạc châu báu. Anh chỉ lấy vừa đủ

túi, rồi chim chở vượt biển về nhà yên lành.

Thấy em phút chốc trở nên giàu có lớn, người anh hỏi hết sự tình liền

đòi người em đổi hết gia sản của mình lấy cây khế. Ít lâu sau chim lại đến

cây khế tìm ăn, câu chuyện diễn ra như lần trước, và chim cũng dặn hắn may

túi ba gang theo mình vượt biển. Nhưng hắn muốn lấy được nhiều vàng bạc

nên hắn đã làm trái lời dặn của chim, may một túi chín gang. Khi xuống hải

đảo hắn lấy đầy túi xong còn dắt vàng ngọc vào khắp người, đến lúc chim

cất cánh, chỉ bay ra đến giữa biển thì chim chao đảo sải cánh vì quá nặng.

Người anh rơi khỏi mình chim, lăn tõm xuống nước mà chết.

Lọ nước thần (Kinh).

Ngày xưa có một anh con trai mồ côi cả cha lẫn mẹ tên là Nghèo. Anh

Nghèo hiền lành chăm chỉ, tốt bụng lại trắng trẻo khôi ngô mặc dù nhà anh

rất nghèo, nhưng vẫn có rất nhiều cô gái để ý. Anh vẫn chưa lấy vợ. Một

hôm, trong lúc đang chặt củi, khi thấy một con quạ khoang đang rỉa một con

chim sẻ thì anh chạy lại đánh đuổi con quạ, cứu rồi chăm sóc con chim sẻ dù

con quạ đe dọa trả thù. Biết ơn chim sẻ mang lại biếu anh một lọ nước thần

có thể làm cho người trẻ khỏe, cây cối tươi tốt hơn thường. Anh Nghèo cất

lọ nước đi, coi như vật báu. Rồi một ngày, anh Nghèo cũng lấy vợ, hai vợ

chồng nồng ấm, hạnh phúc bên nhau. Một hôm, khi anh nghèo đi cày, chị vợ

thấy lọ nước thần thơm nên lấy tắm và hóa thành một cô gái xinh đẹp tuyệt

trần. Anh Nghèo rất mừng hay ngắm vợ và nhớ vợ đến nỗi phải vẽ bức họa

vợ đem theo đi làm để ngắm. Con quạ khoang năm xưa cắp tấm hình bỏ vào

cung vua. Vua sai người tìm kiếm mĩ nhân trong hình và bắt vợ anh Nghèo

vào trong cung. Nhưng vợ anh Nghèo vào cung thì sinh bệnh, không cười

nói gì. Anh nghèo sau đó nhờ lọ nước thần, trồng được những củ hành to và

đem vào cung bán. Vợ anh nghe tiếng chồng rao vui mừng mời chồng vào.

Tên vua thấy người đẹp cười thì bắt chước mặt áo rách của anh Nghèo vào

mà rao. Vợ anh Nghèo thả chó cắn chết vua. Anh Nghèo lúc này đang mặc

hoàng bào đường hoàng bước lên ngai vàng làm vua, vợ anh làm hoàng hậu

và hai người sống hạnh phúc.

Vua quạ (Kinh)

Ngày xưa có hai anh em mồ côi, người anh tham lam giành hết của cải.

Em không nói gì, chỉ làm một cái bè rồi nằm lên đấy, mặc cho bè trôi đi đâu.

Có một con cá tự dưng nhảy lên bè. Mồ côi đem nướng cá thì bỗng có con

quạ bay đến cắp cá. Nó bay đến vườn ngự của vua. Công chúa trông thấy

liền đuổi quạ lấy được cá và ăn. Bỗng nhiên nàng thụ thai và sau đó đẻ ra

một đứa con rất khôi ngô. Vua và triều thần bàn cách mở hội để cho đứa bé

nhận mặt cha, hễ nó theo ai thì người đó chính là thủ phạm.

Bao nhiêu người đàn ông trong nước đều đến dự hội nhưng đứa trẻ chưa

theo ai. Chàng mồ côi vẫn nằm trên bè chẳng buồn đi dự hội. Sau đó quan

quân bắt lên bờ, vừa thấy mặt chàng đứa trẻ theo ngay.

Vua cha giận lắm, đuổi đi. Hai vợ chồng đành lên bè trôi đi mãi. Một

ngày kia, bè trôn đến nước quạ. Một con quạ thấy chàng nằm im tưởng xác

chết, sà xuống rỉa bị mồ côi tóm lấy. Không ngờ bị chính là vua quạ. Vua

quạ xin tha chết và tạ ơn bằng một cái trống bốn mặt gõ ra tiền, bạc, vàng và

thóc lúa, gạo cơm.

Hai vợ chồng lên bờ, đem trống ra gõ. Phút chốc có của cải ê hề, lâu đài

tráng lệ. Trong khi đó, vua cha gặp hạn lớn, trời nóng nực, cả kho thóc bốc

cháy. Bấy giờ, chồng bảo vợ đón bố về chơi. Vua trọng phú khinh bần bảo

phải có vàng rải lên đường đi mới đến. Mồ côi làm đúng lời. Vua đến chơi,

thấy nhiều vàng nên mê mẩn cả người. Mải ngắm vàng không dè vấp ngã

đập đầu vào bức tường vàng mà chết.

Sọ Dừa (Kinh)

Một bà cụ hái củi một hôm khát quá, uống nước mưa trong một cái đầu

lâu, về nhà có mang đẻ ra một cục thịt tròn, nhân đó đặt tên là Sọ Dừa. Sọ

Dừa vừa đẻ đã biết nói lớn lên đi chăn trâu cho phú ông và được ba cô con

gái của phú ông thay phiên nhau đưa cơm. Đến lượt cô thứ ba thấy Sọ Dừa

biến ra chàng trai ngồi thổi sáo, có kẻ huầ người hạ. Cuối cùng cô gái cũng

trở thành vợ của Sọ Dừa, Sọ Dừa thì đã trở thành người học trò đỗ trạng.

Trước khi từ giã vợ đi sứ, cũng như truyện lấy chồng dê, chồng đưa cho vợ

một hòn đá, một con dao, nhưng ở đây có thêm quả trứng gà. Vợ Sọ Dừa

cũng bị hai chị dìm chết, cả thuyền và người lọt vào bụng cá kình, nhưng

nhờ có con dao và đá lửa, nàng tạo nên một cuộc sống mới trên đảo hoang:

lại nhờ có hai quả trứng nở thành hai con gà, nàng được chúng báo hiệu cuộc

sống lưu lạc bằng tiếng gáy: Ò ó o o !

Phải thuyền quan trạng rước cô tôi về.

Sau đó, hai vợ chồng Sọ Dừa nhận ra nhau. Chàng đưa vợ về mở tiệc ăn

mừng, hai cô chị xấu hổ, bỏ nhà đi biệt tích.

Sự tích cây chuối rừng (Mèo)

A Páo làm công cho một chúa đất giàu có quyền thế. Tới ngày hội anh rất

buồn vì không có gì để đi dự hội. Một ông tiên thấy vậy thương tình làm

phép cho anh có nhiều quần áo đẹp và ngựa ô. Thấy chàng đẹp và lịch sự,

con gái chúa đất yêu mến. Chúa đất biết vậy bèn chọc mù mắt anh rồi đuổi

anh vào rừng. Ở rừng, anh kết bạn với voi. Ông tiên hiện ra và cho anh hòn

đá ước nhờ đó mắt anh sáng ra và trở thành giàu có. Thấy A Páo về, giàu có

hơn, chúa đất mời đến nhà uống rượu rồi ăn cắp hòn đá ước. Về sau, ông tiên

lại cho anh một cái roi. Chúa đất quen mùi bèn đến nhà và mưu toan chiếm

roi thần, bị anh khấn cho roi quật vào người chúa đất túi bụi. Chúa đất xin

nộp tất cả, kể cả con gái để được tha nhưng roi thần vẫn quật hắn cho đến

chết. Cuối cùng, hắn hóa thành cây chuối rừng.

Sính Lữ cứu con Ngọc Hoàng (Mèo)

Sinh lữ mồ côi bố, nhà nghèo nhưng lại có sức khỏe. Vua nghe tin muốn

mượn tay anh để giết rắn lớn sắp bắt con gái Ngọc Hoàng đi qua, hứa sẽ gã

cho cô gái ấy nếu ai cứu được. Anh mượn gươm vua ra đi, nhưng rắn quá lớn

sức chém của anh đối với nó chã mùi mẽ gì. Anh theo dấu rắn đến một cái

hang sâu. Vua sai dòng dây xuống cho anh. Gặp cô gái cô can anh đừng treo

nó mà nguy hiểm. Nghe lời cô anh thử nhấc mũi kiếm của nó lên thì không

nổi. Anh buồn phát khóc. Tự nhiên một giọt rượu từ trên trời rơi xuống

miệng anh, anh nuốt vào thấy khỏe ra, lại nhất thử thì thấy nổi. Anh lần lượt

xin cô gái hai bát rượu cái, cuối cùng nhấc nhẹ như lông, anh tung mũi kiếm

của nó lên trời rồi giơ đầu hứng lấy đội vào. Cô gái khuyên anh nên chém

quái vật vào lúc nó mở mắt vì chính lúc ấy nó mới thật sự ngủ. Anh làm theo

quả chặt được quái vật ra làm chín khúc. Xong anh giật dây cho cô gái Ngọc

hoàng lên trước. Nhưng thấy cô gái đẹp vua muốn giữ cô gái cho riêng mình

không kéo anh lên. Ở lại hang rắn anh đi lục lọi khắp nơi và tìm được một

thái tử con Ngọc Hoàng bị rắn giam vào hang đá trong bao nhiêu năm, hang

đá đã liền lại nhưng bức tường. Sinh Lữ đục tường và cứu được con của vua

trời ra. Thái tử đưa anh lên trời được vua trời đối đãi rất hậu, nhưng anh từ

chối mọi tặng vật, chỉ xin một con chó bếp theo lời mớm của thái tử. Khi về

cõi trần nhờ có chó bếp anh có nhà của lâu đài, người hầu kẻ hạ đẹp như tiên,

trong đó có một người đẹp nhất làm vợ Sinh Lữ. Anh đón mẹ về ở, cuộc đời

sung sướng bắt đầu. Một anh anh bảo mẹ mời nhà vua đến ăn cơm. Thấy

những người hầu đẹp đẽ, nhất là thấy vợ anh nhan sắc không ai sánh kịp, vua

gạ gẫm anh đổi lấy chín người đẹp trong cung của mình.

Vợ anh ghé tai bảo anh cứ đổi, nhưng đi một đoạn thì giả vờ quên cái này

hai cái khác để trở lại đúng ba lần, sẽ thấy sự lạ. Khi Sính Lữ trở lại lần ba

thì vợ anh đập vào đấy chảo ba cái, tự nhiên một tiếng sét nổ vang, nhìn lại

thì vua đã cháy đen, còn nàng vợ tiên cùng đoàn người hầu hạ đã biến đâu

mất cả. Sinh Lữ bèn về cung lấy chín người vợ vua và lên ngôi.

Hòn gạch nên nghĩa vợ chồng ( Mèo )

Có hai bố con nhà nghèo sáng đi làm thuê tối ngủ nhờ ngoài hè nhà

người. Con đã lớn nhưng chưa có vợ vì con gái không ai thèm lấy. Khi bố

sắp chết dặn con chôn tại một gò nọ, hễ thấy vậy gì lạ thì đem về mà sinh

sống. Thoạt đầu mộ mọc lên một bụi cỏ rất tốt, anh cắt về bán cho các nhà

nuôi ngựa. Sau đó hết cỏ, mộ mọc lên một đống gạch màu vàng. Anh lấy

một hòn để gối đầu. Con gái lão nhà giàu bị cấm cung, thấy người chàng trai

ngủ nhờ ngoài hè tự nhiên tỏa sáng, bèn lấy áo từ trên lầu quẳng xuống cho

anh đắp. Sáng dậy cô hỏi tung tích hòn gạch gối đầu. Anh chỉ nơi có ngọi

mộ, đến nơi thì chỉ thấy toàn những hòn gạch bình thường. Tuy vậy cô cũng

xin bố lấy anh làm chồng. Người bố can không được đuổi đi.

Hai vợ chồng đưa nhau đi nơi khác ở. Lần lượt họ đưa đống gạch về được

chín gian nhà. Gạch còn thừa bỏ thành đống chỉ ít lâu đã hóa thành vàng bạc.

Hai vợ chồng trở nên giàu có, đưa vàng bạc về cho bố mẹ chở trên lưng ba

con ngựa. Thấy anh đến từ đằng xa, người bố vợ sai người đống sập của lại

thật chặt vì ngỡ chàng rể đến đây để đòi tiền. Vợ chồng thấy của đóng phá

của và đặt bạc ở bàn rồi đi. Bố mẹ hoa cả mắt nhưng kể từ đấy họ ăn tiêu

phung phí, dần dần trở nên ngèo đói. Bà vợ phải cải trang làm người Xa

Phang đi làm thuê kiếm sống. Ba năm sau nữa, lại một ông già Xạ Phang đến

làm thuê. Họ nhận ra nhau là vợ chồng nhưng họ không nhận ra đó chính là

nhà của con gái mình. Về phần con gái cũng không biết đó là bố mẹ mình.

Sau đó một thời gian, họ nhận ra nhau, bố mẹ xấu hổ phải ăn lá ngón mà

chết.

Người tham vỡ bụng (Mèo)

Một người anh có vợ chiếm hết gia tài của bố mẹ rồi đuổi em đi. Em phát

nương khỏe nhưng không có hạt giống bèn đến xin người anh. Chị dâu vốn

có dã tâm nên rang hết tất cả rồi mới cho. Hai lần tỉa hạt đều không mọc, anh

bèn đi hỏi Bụt nguyên do. Bụt cho em biết tất cả nhưng cứ bảo về lấy hạt

thóc lép sau nhà anh chị rồi tỉa cũng đủ. Cuối cùng ba cây lúa khổng lồ mọc

lên và hạt to bằng cái chĩnh. Khi chim đến tha hạt, người em đâm bổ đi tìm.

Đi mãi, anh gặp một bà tiên và bà thú thực là chim của mình đã ăn lúa

của người em, muốn gì bà sẽ đền. người em không mong muốn gì hơn là xin

một ít ngô giống. Nhưng bà tiên lại cho anh một chiếc cối xay bé tí có thể

xay ra mọi thứ kể cả hạt giống. Từ đó, anh trở nên giàu có, nương lúa tươi

tốt như mây.

Hai vợ chồng đi qua nương ngô của em thì ngợp mắt, vội tìm đến nhà để

hỏi lý do. Biết em có chiếc cối xay mầu nhiệm, anh liền mượn về, hy vọng

xay ra tiền bạc. Nhưng khi đem về, hắn chỉ xay ra rắn rết. Hắn liền quẳng cối

xuống suối vỡ tan. Khi em đến hỏi thì chỗ ném cối đã mọc lên thành cây, em

bèn chặt về làm máng cho lợn ăn. Không ngờ lợn nuôi lớn nhanh như thổi.

Người anh thấy lạ lại mượn máng lợn về nhưng lợn của hắn thì gầy gò và

cuối cùng chết cả. Tức giận y đốt máng đi. Người em đến chỉ còn mấy miếng

gỗ cháy dở, bèn nhặt về làm lược chải đầu; chải đến đâu tóc mượt đến đấy.

Còn người anh mượn lược chải đến đâu tóc rụng đến trọc cả đầu. Khi em

sang đòi lược thì nó đã bị đốt thành tro. Em bới tro nhặt được một hạt đỗ

tương bèn bỏ vào mồm nuốt. Khi đi ngoài, hạt đỗ mọc thành bụi, từ bụi ấy

tỏa ra đầy nương chi chít những quả. Anh chị đến xin mỗi người một hột

nuốt vào bụng. Hạt đỗ không chụi ra mà trương lên làm chúng vỡ bụng chết.

Chàng dê ( Dân tộc Mèo ).

Một con dê thần cò nhiều phép biến hóa, một hôm rủ lốt dê vào nhà

một ông quan có hai cô con gái xinh đẹp, hỏi một cô làm vợ. Dê nói mãi,

quan bất đắc dĩ phải gọi hai con gái ra hỏi. Cô chị chê, cô em ưng thuận.

Quan đòi nhiều vàng bạc châu báu mới gả. Sáng dậy đã có đủ, lại có cả tiệc

dọn toàn của ngon vật lạ đãi họ hàng. Dê ở gửi rể, tối là người, ngày là dê.

Một hôm vợ nhân chồng ngủ say lấy lốt dê đi đốt. Từ đấy vĩnh viễn là người

sinh con đẻ cháu đông đúc.

Cô chị thấy em sung sướng, tiếc quá, đòi bố cho lấy chồng dê. Một hôm

có một con dê đến thật. Cô bắt nó lên giường, nó nhảy lung tung đạp rách

chăn màn, xô đổ đồ đạc, lại húc cô gái ngã lăn phải kêu cứu.

Chàng rắn ( Mèo )

Một ông già vợ chết sớm sinh được ba cô gái. Một hôm vì kiệt sức

không bẩy nõi hòn đá, ông bèn ước :- “Giá có ai giúp ta sẽ gả cho một đúa

con gái”. Một con rắn hiện ra xin làm giúp, và sau khi xong việc, nó giục

ông thực hiện lời hứa. Đưa rắn về nhà, ông lần lượt hỏi ý kiến các con, chỉ có

cô thứ ba là ưng thuận, hai bên thành vợ chồng. Ban ngày mang lốp rắn, ban

đêm Rắn cũng hóa thành người. Ông già một hôm bắt được lốt rắn bèn giấu

đi. Hai vợ chồng đẻ được một đứa con trai đặt tên là Mãng Dư. Hai chị thấy

chồng em đẹp bèn lập kế giành. Một hôm, họ rủ em đi cắt cỏ ngựa rồi đẩy

em xuống hang cho chết. Rắn về thì chị cả đã nằm sẵn ở giường. Rắn hỏi : -

“Sao chị lại nằm ở đây?” – “ Tôi là vợ anh, anh hoa mắt hay sao?” – “ Nếu là

vợ thì mang giỏ cá hàng ngày ra xem, có đúng không?”. Chị cả mang lại, rắn

bảo không đúng. Đáp : –“ Giỏ mọi ngày mèo thấy mùi tanh tha đi mất rồi”.

Mãng Dư nói : - “ Mẹ mọi ngày vào cửa vào lọt hôm nay sao vào cửa còn

rộng”. Đáp : - “ Vì mẹ làm nhiều nên gầy”. Tuy vậy, rắn cũng ở với chị cả,

đẻ được một đứa con. Vợ rắn hóa thành một con chim, một hôm bay đến cửa

gọi con: - “ Chị của mẹ giết mẹ tranh chồng”. Con mách với bố. Rắn bảo

chim : - “Có phải vợ thì đậu xuống đây”. Chim đậu vào tay, Rắn mang về

nuôi ở buồng. Chị cả bắt chim làm thịt, cho con mình ăn một miếng, Mãng

Dư một và giành cho chồng một. Rắn về hỏi, thì đáp : - “ Vì chim mổ mắt

con nên làm thịt”. Rắn ném miếng thịt vào tro, miếng thịt hóa thành kéo.

Một bà già đi xin tro múc cả kéo đem về. Hàng ngày kéo cũng hóa thành

người từ trong tráp chui ra, dọn dẹp nhà của lo cơm nước sẵn . Bà già cũng

giả đò đi nhưng nửa đường quay về bắt được, từ đấy nuôi làm con. Mãng Dư

sang chơi, thấy giống mẹ bèn về mách bố. Bố bảo con nhổ trộm một sợi tóc

đưa về. Khi biết là vợ Rắn bảo con tìm cách dẫn về. Hai vợ chồng gặp nhau,

nhưng vẫn còn giấu hai chị. Rắn bảo vợ hàng ngày cài cửa buồng lại. Một

hôm vợ quên đóng cửa, cả hai chị đều vào. Chúng nó ngỏn ngoẻn : - “ Em

làm cách gì mà tóc dài đẹp thế?”. Đáp : - “ Nấu một chảo nước thật sôi, bắt

ba cái ghế đứng lên rồi thả tóc xuống mà gội”. Hai chị tranh nhau trèo, ghế

đổ, rơi vào chảo chết tuốt.

Hoàng tử Cam (Mèo)

Một ông vua có hai vợ. Thứ phi không có con thường xuyên bị vua ghét.

Bà ta buồn, bỏ đi cầu tự. Một lần đi trảy cam cùng mọi người. Thấy trên cây

có một quả cam chín mọng, bà hái ăn, từ đó có mang sinh được một hoàng tử

thông minh, nhưng chính phi ghen ghét vu cho bà chửa hoang nên hai mẹ

con bà bị đổi ra khỏi cung để chờ ngày xét xử.

Một hôm vua cho gọi các quan lại phán: - “ Hãy là một bữa cỗ có thịt đàn

bà có râu”. Các qua không hiểu ý vua. Một ông quan già trở về đi ngang qua

chỗ giam giữ hai mẹ con thứ phi. Em bé chạy ra hỏi: - “ Có gì mà ông có vẻ

lo lắng thế?”. Ông này không đáp nhưng sau khi thấy em bé hỏi gặng bèn kể

cho nghe: - “ cũng dễ tìm thôi”, em nói: - “ tìm ở đâu” – “ đàn bà có râu là

con dê cái”. Về kể vua nghe, vua khen tên quan thông minh, vua lai ra lệnh

tìm hoa bốn mầu. Lão quan lại đi hỏi em bé – “ đó chính là cây hoa thuốc

phiện ( trắng, hồng, xanh, tím nhạt)”. Vua lại ra một câu hỏi khác: - “ món gì

ăn có đủ năm vị”. Cũng nhờ em bé mà lão quan trả lời được đó là trầu (nồng,

cay, đắng, chát, ngọt). Vua lại bắt tìm cho thứ “ tam biến vạn hóa”. Lão quan

lại được em bé cho biết đó là mây. Cuối cùng vua lại đố “ Cái gì nhọn nhất?”

em bé giảng đó là nước nhọn nhất

Mấy lần giải đáp thông suốt, lão quan được vua khen ngợi và ban cho

quyền cao chức trọng. Sợ để em bé lại thì có ngày lộ chuyện, nên một hôm

lão quan nhắc vua xử ngay vụ oán thứ phi chửa hoang kẻo để lâu e mất danh

giá. Vua sai dọn tiệc linh đình mời hoàng tử ( tức em bé) về dự, trong tiệc có

chắn rượu thuốc độc. Không ngờ hoàng tử uống xong lại lớn phổng như thổi

làm cho vua quan sợ quá bỏ chạy ra ngoài thành, cuối cùng bị hổ ăn thịt.

Hoàng tử mời mẹ về cung.

Gầu Nà ( Mèo )

Mẹ Gầu Nà vì gia đình thiếu bò bèn hóa ra bò cho chồng cày ruộng.

Hằng ngày ra đồng bò hóa thành người, giúp đỡ con xe lanh, bắt cháy, tối lại

hóa thành bò trở về nhà. Cho đến khi người bố lấy vợ kế, vợ kế ghét Gầu Nà

vì nàng đẹp và xe lanh giỏi hơn con gái riêng của mình là Gầu Rềnh. Một

hôm, dì hỏi vì sao con xe lanh nhiều và đẹp. Gầu Nà đáp: “ Bò đái thì uống,

bỏ ỉa thì ăn, tự nhiên xe lanh hết”. Nhưng Gầu Rềnh nuốt biết bao nhiêu cứt

đái bò đến lộn mửa mà lanh vẫn xe không nên, Thấy thế, dì lôi Gầu Nà ra

đánh, rồi giả ốm lấy lời thần bảo chồng phải giết con bò cúng thần mới lành.

Thế là mẹ Gầu Nà bị giết.

Một hôm làng có hội. Mẹ con Gầu Rềnh trước khi đi dự hội, bắt Gầu

Nà phải nhặt riêng đậu trộn chung với gạo, xong mới cho đi. Đang nhặt,

nàng bỗng nghe tiếng gọi và chỉ ra máng cỏ. Có một cái gói xuất hiện ở

máng cỏ có đủ quần áo trang sức và giày. Chàng trai Nù Náng mấy lần gặp

Gầu Nà nhưng mất hút. Lần thứ ba, chàng rắc tro, Gầu Nà chạy vội làm rơi

mất giày, Nù Náng nhặt được đem thử chân mọi người không vừa, mãi đến

lượt Gầu Nà mới vừa, bèn lấy làm vợ. Nhưng dì ghẻ lại tìm cách dèm pha

nhiều lần (ví dụ lấy vừng rang nói gầu nà nhiều rận). Biết thế Nù Náng trả

miếng lại mụ (lấy hạt lanh rang nổ to hơn để nói rận Gầu Rềnh to). Ngăn trở

không được mụ tìm cách đánh tráo. Đợi hai người ngủ say, mụ bế Gầu Na ra

chỗ khác thay Gầu Rềnh vào nhưng Nù Náng biết, lại lắn mang Gầu Nà về.

Mụ dì không ngờ có việc ấy, bèn lấy sáp ong gắn mắt lại không biết đấy là

con mình. Mờ sáng hai người trốn đi, khi mụ biết con mình đã bị đánh tráo

thì đã không còn kịp.

Đoạn thứ hai, nhờ quạ chỉ, Gầu Rềnh cũng tìm được đến với Nù Náng.

Một hôm Gầu Rềnh rủ Gầu Nà ra suối tắm, rồi cầm dao đâm chết, khi về tự

nhận mình là Gầu Nà. Gầu Nà cũng hóa thành chim “là lẩy” bay về với

chồng và con. Lại bị Gầu Rềnh giết, rồi tái sinh làm cây bương. Bương bị

chặt đốt thành tro. Một bà già Đang Pa (ma) đến xin tro về, sàng nhặt được

một cái nhẫn, bèn bỏ vào hủ. Một cô gái cũng từ trong hủ hiện ra don com

canh cho bà, về sau cũng bị bà rình bắt được. Bà đập vỡ cái hủ để cô khỏi

biến đi và bắt nàng chăn bò. Cô gái (tức Gầu Nà) gặp lại con, nhờ đó vợ

chồng tái ngộ, nhưng bà Đang Pa không cho lấy, Bụt vẽ cho cách cỡi ngựa

cướp vợ, và tung tro ớt ra sau để Đang Pa không đuổi kịp. Gầu Nà cũng bày

cha Gầu Rềnh đổ nước sôi lên người cho đẹp. Gầu Rềnh chết, Gầu Nà cắt

thịt làm cỗ mời dì đến ăn. Ăn xong, mẹ vào tăm con gái, mở ra thấy một cặp

vú với một con lợn, mụ lăn ra chết. nhưng hồn mẹ con lập tức hóa thành hai

cây gạo to ngăn cách hai vợ chồng Nù Náng và Gầu Nà không cho gặp nhau,

nếu đục cây thủng lại liền lại ngay. Nù Náng bén hóa thành cỏ túa ( một loại

lanh ), Gầu Nà hóa thành một loài ong “ Mua”, đứa con hóa thành chim lược

có mỏ dài. Loài này thường đến ăn mật ong mà không bị ong đốt.

Người anh tham lam (Mèo)

Có hai anh em bố mẹ chết để lại cho đàn lợn béo. Chôn cất bố mẹ xong

hai anh em đưa lợn ra chợ bán. Qua một miếu thần, người anh vào miếu quỳ

hỏi: “Lòng ngay thẳng hơn hay lòng gian ác hơn?”. Thần bảo cái sau hơn.

Nghe vậy, anh bèn chọc mù mắt em rồi chiếm lấy đàn lợn. Em lạc vào rừng

sâu rồi trèo lên cây cao nằm ngủ, không ngờ dưới gốc cây là chỗ tụ hợp thú

vật. Em lắng tai nghe câu chuyện của chúng. Hổ nói: “Tao thấy dưới sàn nhà

nọ có ba hố bạc”. Lợn nói: “Tao đào củ thấy một chỗ nọ có ba hòm tiền”.

Khỉ nói: “Tao biết có một loại cây mà lấy mủ nhỏ vào mắt mù thành mắt

sáng”. Rồi khỉ chỉ đúng cây mà người em đang ngồi.

Sau khi thú vật bỏ đi, người em hái quả, lấy mủ nhỏ vào mắt, quả nhiên

mắt sáng lại. Người em đi tìm các vật quý như các con vật đã kể. Khi người

anh bán lợn xong quay trở về nhà thì đã thấy em ở đấy, lại có lắm của nhiều

tiền. Nghe em kể chuyện, người anh lại đi hỏi thần miếu. Thần miếu trả lời

như cũ. Anh về cũng bảo em chọc mù mắt. em không chụi, anh tự làm lấy,

tìm đến cây nọ tự leo lên. Nhưng khỉ đã trông thấy hắn, liền báo cho các con

vật khác biết. Chúng rung cây, người anh rơi xuống đất bị hổ xé xác. Thần

miếu bỏ chạy.

Ca - đốp và Ca – đoéc (Chăm)

Một phú ông chết để lại cho hai con trai một gia tài lớn. Lúc em (Ca

Đoéc) đi chôn bố thì người anh là Ca đốp giấu tất cả vàng bạc. Em về hỏi : -

“ Vàng bạc của cha đâu?”. Đáp :- “ Không biết”. Thấy em không nói gì, Ca

đốp còn lấn tới : - “ Của cha mẹ chỉ có cái nhà này, tao có vợ con, mày chưa

có gì, mày hãy nhường nhà cho tao, đi ở chỗ khác”. Nói rồi chiếm lấy tất cả,

chỉ chia cho em một con chó và một con mèo và một mảnh ruộng hoang.

Không có sức kéo, Ca- đoéc bắt chó và mèo kéo cày. Chúng lôi không nổi.

Chàng đánh mạnh tay làm chúng kêu ầm ĩ. Một hòn đá gần đấy thấy vậy liền

hóa miệng cười để lộ vàng lấp lánh, Ca- đoéc bằng lấy về tậu ruộng cất nhà,

trở nên giàu có.

Khi nghe em kể sự tình, Ca đốp nổi giận và đánh Ca-đoéc và nói : -“

Sao không gọi tao với!”. Rồi giành lấy chó và mèo, vội thuê xe bảo vợ và

người nhà cùng lên chỗ có đá. Cũng bắt chước em đánh chó với mèo, và

miệng đá cũng há ra cười. Hắn vội vàng lấy tay đút vào miệng đá lấy vàng

ra. Nhưng chưa kịp rút tay thì đá đã ngậm lại. Biết là chết, hắn gọi vợ lại cho

hắn vui đùa. Đá cũng liền hóa miệng ra cười. Thoát nạn hắn lại về đánh em

một lần nữa, mắng :- “ Đồ xỏ lá và tham lam, dám lừa ta. Anh em mà không

biết thương nhau”.

Chàng Cơm Cháy (dân tộc Khmer)

Một đứa trẻ nhà nghèo phải đi xin từng miếng cơm cháy mà ăn, nên

người ta gọi là Cơm Cháy. Cơm Cháy ở với bà. Một hôm, nó đi câu nhưng

không được gì. Thần Thích Đế thương tình bèn cho ba con cá lần lượt mắc

vào lưới. Khi Cơm Cháy đưa cá về thì gặp một người toan vứt xuống sông

một con mèo chuyên ăn vụng của chủ. Chàng xin đổi hai con cá. Lần thứ hai

cũng như thế chàng đổi được một con chó. Hai con vật hằng ngày chia nhau

đi trộm cơm, đi trộm thịt về nuôi chủ.

Một hôm Cơm Cháy đem chó lên rừng lùng rùa. Bắt được hai cái trứng

rất lớn, Cơm Cháy mừng lắm mang về bảo bà mượn cho mình cái nồi lớn để

luộc. Không ngờ trứng ấy là do vợ Long Vương đẻ ra trong một cuộc lên

chơi cõi trần. Lần thứ nhất Cơm Cháy không luộc được trứng, vì người làng

thấy trứng lạ không cho luộc trong làng; lần thứ hai sắp luộc thì trứng đã nở,

có hai con rồng lật đổ nồi bò ra. Cơm Cháy bắt vào bỏ trong chậu. Sáng mai

thấy lớn đầy cả chậu. Đêm bỏ vào vại sáng mai thấy lớn đầy cả vại, lại phải

bỏ ra ao. Đến ngày thứ bảy hai con vật to lớn không thể tưởng tượng được.

Cơm Cháy không đủ thức ăn mà nuôi nữa. Nhưng hai con của Long Vương

rủ Cơm Cháy về nhà chúng.

Được nhận lại con, Long Vương cho Cơm Cháy một viên ngọc ước để

trả ơn. Sau đó, Cơm Cháy trở về bắt bà đi hỏi con gái vua làm vợ. Vua thách

là một nhà vàng, một cầu bạc. Cơm Cháy nhờ ngọc có đủ mọi thứ cần thiết.

Cuối cùng chàng lấy được công chúa một cách dễ dàng. Nghe tin ở Khơ –

me có nhà vàng, cầu bạc, vua Xiêm đem quân sang cướp. Cơm Cháy xin đi

dẹp, và chàng làm cho quân địch tan tác không còn một manh giáp. Một tên

tù binh giặc vào hầu trong nhà Cơm Cháy đã nhân lúc chàng sơ hở, đánh cắp

lấy ngọc trốn về nước, nộp cho vua. Cơm Cháy bảo chó và mèo đi tìm hộ.

Mèo cũng ra lệnh cho chúa chuột bảo quân lính của mình thi nhau gặm tủ sắt

của vua Xiêm trong đó có ngọc. Chúng gặm hăng quá nên con nào con nấy

gẫy cả răng. Được ngọc, chó và mèo mang về cho chủ, nhưng để rơi xuống

nước, cá nuốt vào bụng. Mèo đến bờ sông và chộp lấy một con rái cá và bảo

chúng đi tìm. Rái cá tra tìm được ngay. Chó lại giành mang đi. Gặp diều, cho

sủa ầm ĩ nên lại đánh rơi, viên ngọc lọt vào tay diều. Mèo lại phải dùng kế :

bắt một con rắn hổ mang, buộc nó phải mổ chết một con bò. Thấy có bò

chết, diều sà xuống rỉa nhưng mèo đã rình sẵn, bắt lấy nó và bảo nó phải trả

viên ngọc, nhưng lại đánh mất lần thứ ba. Lần này nhờ mưu mèo đưa mật

biếu kiến chúa để tung quân đi tìm.

Cuối cùng chúng cũng tìm được ngọc trở lại, Cơm Cháy làm cho kẻ

thù tan tác, và sau khi thắng lợi được vua nhường ngôi.

Bốn chành hói (Khmer)

Có bốn anh chàng hói đầu thường bị bọn trẻ trêu chọc, bèn không quản

đường sá xa xôi tìm đếm một vị hòa thượng trên núi Hi-ma-van để nhờ cứu

chữa. Vị hoà thượng chỉ cho họ một cái hồ ở sau núi, bảo hụp xuống thì tóc

sẽ mọc nhưng chỉ được hụp có một lần.

Bốn chàng hụp xuống hồ, quả nhiên tóc mọc đen nhánh. Nhưng họ còn

muốn cho tóc mọc nhiều hơn để thông minh hơn nữa, bèn rủ nhau hụp xuống

lần nữa. Nhưng khi lên mớ tóc vừa xuất hiện lại biến mất. Lại rủ nhau hụp

xuống lần nữa, những sợi tóc còn lại cũng mất sạch.

Trở lại chỗ của vị hòa thượng, họ xin giúp lần chót. Vị hòa thượng lắc

đầu, nói: “Không thể chữa được nữa. đó là hình phạt của kẻ tham lam không

chán”.

Cối xay thần (Khmer)

Có ba anh em mồ côi, hai anh lớn giành hết gia tài còn em út bị đuổi ra

mé rừng với một con dao. Ngày ngày, chàng làm lụng kiếm sống, đêm về

ngủ trong hang ông Tà. Ông Tà thương tình bèn chỉ cho người em cách vào

hang núi lấy cối xay thần. Theo đúng lời ông Tà dặn, chàng trai lấy được cối

xay và trở nên giàu có. Anh thường chia sẻ của cải cho những người dân

nghèo. Nghe tin em giàu có, hai người anh dò đến hỏi nguyên do. Nghe rồi,

hai người anh tìm cách cướp cho được cối xay thần. Nhân lúc em ngủ, hai

anh lén mang chiếc cối xay thần xuống thuyền nhắm phía đông đi thẳng. Khi

đã an toàn, hai người mang cối xay ra, đọc thần chú và ước có nhiều muối để

bán. Chiếc thuyền đã đầy muối mà không có cách gì cho cối xay ngừng lại.

Họ chưa học được ở người em câu thần chú này. Dù họ đã gào thét khản cà

cổ, cối vẫn xay. Chiếc thuyền từ từ chìm sâu vào lòng nước mang theo chiếc

cối xay và hai người anh. Từ đó, biển mặn mãi đến bây giờ.

Hai cây khế (Khmer)

Một già có hai người con trai. Anh cả tham lam, lười biếng. Còn đứa em

út làm lụng vất vả nuôi cha già yếu nhưng vì túng quá phải đi ăn trộm và bị

bắt đi tù.

Người anh ở nhà bỏ mặc cha già yếu bỏ đi xa. Sau đó, hắn làm quan mà

vẫn nghĩ đến việc quay về chăm sóc cha. Không ai chăm sóc, người cha chết.

Ở trong tù, nghe tin cha mất, người em khóc lóc xin quan cho về lo tang ma

cho cha. Trên đường đi ghé vào thăm anh, người em bị anh đuổi đi. Đến khi

mãn hạn tù, người em quay về ở dưới gốc hai cây khế và ngày ngày chăm

sóc nó.

Đến mùa khế chín, quạ đến hái quả. Người em đuổi đi. Quạ bảo với

người em vợ chúa quạ đang bị bệnh nếu cho hái khế, chúa quạ sẽ đền ơn.

Người em nghe vợ chúa quạ bệnh liền cho ngay. Chúa quạ đến và mang

người em qua sông lấy nhiều vàng bạc. Người em bỗng chốc trở nên giàu có.

Đến ngày giỗ cha, em mời anh về. Anh thấy em giàu có nên mưu toan đoạt

gia tài. Người anh dọa báo quan vì của cải em có được là do ăn cắp. Em sợ

quá phải kể lại hết mọi việc xảy ra. Người anh nghe thế lại giành quyền thừa

hưởng hai cây khế. Năm đó, vợ chúa quạ lại phát bệnh cũ cũng đến xin khế

người anh. Hắn không cho và chúa quạ hứa là trả ơn bằng cách chở đi lấy

vàng. Đến núi vàng, hắn lấy nhiều quá, quạ chở không nổi nghiêng cánh,

người anh rơi tõm xuống sông sâu, sóng cả.

Sóc Lành Sóc Ác hay Sự tích hoa cỏ may ( Khmer)

Sóc Lành mồ côi ở với bà, nhà nghèo, người làng ai cũng thương. Sóc Ác

người cùng làng nhưng nhà giàu có mà lại độc ác nên ai cũng ghét. Một hôm

Sóc Ác rủ Sóc lành đi chặt tre về sửa nhà cho bà Sóc – lành, Sóc – lành nói: -

“Tôi không có dao rựa và lương ăn”. Đáp:- “ Ta sẽ cho mượn đồ dùng và

lương ăn”. Lên rừng, Sóc – lành làm được nhiều, còn Sóc – ác chỉ ham chơi.

Khi ăn, Sóc – ác thọc chủng hai mắt Sóc – lành rồi đạp xuống suối, về nhà

nói dối là bị hổ ăn thịt. Sóc – lành rơi xuống suôi luôn miệng cầu nguyện: -

“Lạy đức phật” một con cá sấu thấy thương mang về cho chúa. Nghe Sóc –

lành kể chúa gắn hai mắt vào, mắt lại lành như cũ, đoạn cho một nắm cát

đem về rải lên chùa, cát hóa thành vàng bạc châu báu. Từ đấy Sóc – lành trở

nên giàu có.

Nghe kể chuyện, Sóc- ác nhờ Sóc – lành chọc thủng hai mắt mình rồi đạp

xuống suối. Nhưng dầu hắn cầu nguyện: - “Lạy đức phật!” rầm rĩ nhưng

chẳng ai đến cứu. Cái đầu lâu Sóc – ác tuy bị rỉa hết thịt, vẫn kêu: “Lạy đức

phật!” luôn mồm. Mấy cô con gái nhặt được đem về cho bố, thấy thế bố liền

đặt mâm đem vào triều. Y đánh cược với các quan một trăm lượng vàng, nếu

y sai khiến được đầu lâu nói: - “Lạy đức Phật”. Nhưng y mất số tiền cược vì

đầu lâu không chịu nói. Tức giận, y ném đầu lâu xuống suối. Một nhà sư

nhặt được đem về làm lễ siêu độ rồi thiêu hóa, đem tro ấy trộn với tro quét

lên xe của mình. Nhưng chiếc xe ấy thỉnh thoảng văng tục vào người đi

đường và hai lần làm cho nhà sư vất vả phải chạy trốn để khỏi họ bị trừng

phạt. Cuối cùng, chiếc xe bị đốt cháy, nhưng tro của nó biến thành cây cỏ

may luôn bám vào chân của người đi đường làm người ta khó chịu.

Con cày hương biết hát (Dao)

Xưa có một anh chàng mồ côi nghèo, tính tình hiền lành, vốn yêu động

vật và quan tâm, tử tế với mọi người. Một hôm, anh cứu sống một con cày

hương bị mắc bẫy trong rừng, đem về nhà nuôi. Cầy hương biết ơn anh nên

đã giúp anh lấy được cô nàng hát hay nhất trong những đêm anh đi hát đối

tìm bạn đời. Gã trai bạn, một người bạn hay đi kiếm sống với anh , vốn tính

tham lam mượn con cày hương về. Anh ta không biết chăm sóc, quí trọng

mà còn bỏ đói, bỏ rét cầy hương. Thế là cầy hương chết, anh ta lại không lấy

được vợ. Anh mồ côi xót xa, ẵm con cầy hương đêm chôn cất tử tế. Từ nầm

mồ của con cầy hương mọc lên một cây tre quý, đem lại cho gia đình anh mồ

côi thật nhiều tiền của, chẳng mấy chốc trở nên giàu có. Gã trai bạn cũng

muốn mượn cây tre về để làm giàu nhưng không được, hắn tức, phá nát cây

tre. Anh mồ côi lấy thân cây tre về làm máng gà, máng lợn, con nào con nấy

ăn xong lại lớn rất nhanh. Người bạn cũng muốn mượn máng về cũng không

được như mong đợi, hắn bực mình chẻ đôi máng đem vứt. Anh mồ côi lấy

một mảnh tre làm chiếc trâm cài đầu cho vợ, mỗi lần cô chải là được một lá

vàng, người bạn tham lam cũng tới mượn về, cũng như những lần trước hắn

cũng không được như ý, mỗi lần chải lại rụng rất nhiều tóc, hắn bèn bẻ chiếc

trâm vứt đi. Anh mồ côi dùng mảnh trâm gãy làm lưỡi câu, anh câu được

nhiều cá lớn. Người bạn lại đến mượn về đi câu thì lại câu dính vào lưỡi của

Long Vương, sợ hãi hắn về bảo mồ côi ra gỡ. Nhân đó, mồ côi được Long

Vương tặng một viên ngọc lụy nước rất quí giá. Gã trai bạn tham lam câu

một lần nữa thì bị Long Vương giết chết. Anh mồ côi lo ma chay cho bạn

mình thật đường hoàng.

Chàng mồ côi và tên nhà giàu xấu bụng (Dao)

Xưa có một chàng mồ côi nghèo, ngày nào cũng lên rừng đốn củi nhưng

vẫn đói rét. Một hôm, có một lão nhà giàu keo kiệt thấy vậy đem đổi củi của

chàng, cho chàng một bát cơm thiu và còn cho chó đuổi cắn anh. Mồ côi tức

quá la lên, mọi người chạy đến làm tên nhà giàu bẽ mặt, đợi dịp trả thù.

Rồi một ngày, hắn lừa mồ côi đi làm cạm bẫy kiếm tiền. Mồ côi tưởng

thật liền nghe theo. Hắn dẫn chàng đến một thung lũng, khi làm xong lều hắn

bảo chàng xuống khe núi, múc đầy nước, còn hắn thì bỏ về. Chàng múc hoài

nhưng không được. May mắn là có một con cua làm kín lổ hỏng rồi chàng có

nước mang về. Bây giờ chàng mới biết mình bị lừa nên lang thang khắp nơi,

gặp một cụ già bày cho cách bẫy thú, sấy khô chúng, bán kiếm được rất

nhiều tiền. Có tiền, chàng đặt thợ làm nhiều vòng cổ, vòng tay, nhẫn rồi đi

tìm vợ nhưng chẳng ai thèm lấy chàng. Ông cụ lại bày cho cách lấy được vợ,

dặn dò đủ điều. Mồ Côi thực hiện đúng như vậy cho khi tới được một túp

lều. Chàng bước vào thì không thấy ai ngoài một cụ già và một con mèo.

Chàng đói quá bèn lấy cơm mèo ăn và lăn ra ngủ. Lát nữa, cả nhà đi về,

chàng cũng tỉnh giấc. Họ nói rằng chàng và con gái nhà họ có thể lấy nhau.

Hai người sống hạnh phúc còn lão nhà giàu thấy chàng đổi đời bèn hỏi làm

thế nào. Mồ côi nói rằng cứ làm theo những gì chàng làm lúc bị lừa. Hắn làm

theo thì bị hổ, khỉ và gấu xé xác.

Chiếc khăn thêu (Dao)

Mùa xuân năm ấy, công chúa Lưu Chi xinh đẹp tung khăn để kén chồng.

Ai nấy cũng nô nức đi dự. Anh mồ côi nghèo khổ không có tấm khố che

thân không đi dự nhưng nhặt được chiếc khăn. Anh không biết khăn của ai

rơi, sợ người ta đổ cho tội ăn cắp vội vàng đem cất đi.

Vào tục hội xuân của làng, dân làng phải có một thứ nộp cho chúa bản.

Tên chúa bản gian ác, cướp lấy khăn và mang đến để làm phò mã. Hắn vội

vã bắt nhốt mồ côi vào ngục và định mang đi chém. Tin này lọt vào tai công

chúa. Nàng hỏi mồ côi và biết rõ mọi việc. Tên chúa bản bị chém làm gương.

Công chúa đòi lấy mồ côi liền bị vua cha đuổi ra khỏi cung. Hai người dắt đi

đến một miền xa xôi để sinh sống. Mồ côi vào rừng đốn củi, gặp được cây

vàng đem về xây dựng cơ ngơi và cả một lâu đài tráng lệ hơn cả cung vua

cha.

Tin ấy đồn đến tận tai vua, vua không tin bèn thân hành đến tận nơi để

xem. Hai vợ chồng ra đón vua cha. Vua hối hận vì những việc làm trước đây

của mình, nhường lại cả giang sơn gấm vóc cho con.

Côi lên làm vua, công chúa làm hoàng hậu. Cuộc sống muôn dân yên ổn,

thái bình.

Chàng Lùn (Dao)

Xưa có hai vợ chồng mãi đến già thì người vợ mới mang thai. Khi chồng

chết đi bà vợ mới sinh được một đứa con trai, chân tay ngắn củn nên đặt tên

là Lùn.

Lớn lên Lùn làm việc rất khỏe, kiếm củi rất giỏi. Tên nhà giàu biết thế

liền đến thuê Lùn vác củi cho nhà hắn và hứa nuôi cả hai mẹ con chàng. Một

hôm đi lấy củi, Lùn về rất muộn. Bà mẹ lo sợ, hỏi nguyên do. Lùn liền kể

việc thấy con rắn to cắp cô gái, mình đã chém rắn như thế nào và mất giấu

nó ra sao. Hai mẹ con giữ kín chuyện ấy và ngày ngày, Lùn vẫn làm công

việc kiếm củi của mình.

Sau đó mấy hôm, vua loan tin mất con gái. Ai biết con gái vua đâu thì sẽ

được thưởng lớn, ai cứu được sẽ lấy công chúa làm vợ. Mọi người nô nức đi

tìm còn Lùn không hay biết việc này. Tên nhà giàu đến hỏi Lùn. Lùn thật thà

kể hết mọi chuyện. Hắn về bàn với vợ rủ Lùn cùng đi sau đó lấp hang đá

không cho chàng lên. Bà mẹ nghe thấy chuyện không cho Lùn đi nhưng

chàng vẫn một mực đi cứu người. Đến nơi, Lùn giết được rắn, cứu được

công chúa. Chàng bảo công chúa lên trước còn mình lên sau. Trước khi lên,

công chúa lấy một cái bát đập vỡ, trao cho Lùn một nửa để làm tin.

Công chúa lên đến nơi, tên nhà giàu lấp hang lại, Lùn phải ở lại dưới

hang, xẻo thịt rắn ăn dần. Sau đó, chàng phá hang cứu được con trời. Hoàng

tử con trời đưa chàng lên trời. Vua trời ban cho anh nhiều của cải, vàng bạc

nhưng Lùn đều từ chối. Chàng trai con trời bảo Lùn chỉ xin ba ống cào cào

và một con vịt để khi trở về sẽ cần đến nó. Lùn nghe theo và tìm đường về

với mẹ.

Sau đó, con vịt biến thành cô gái xinh đẹp còn ba ống cào cào biến thành

trâu bò, dê, lợn, gà và có cả một căn nhà nguy nga. Hai người kết thành vợ

chồng và Lùn yêu thương vợ rất mực. Vợ khuyên Lùn phải đi làm mới có

của ăn. Lùn đi nhưng mang theo hình vợ để ở đầu bờ. Gió thổi mang hình vợ

đi và người nhà giàu bắt được mang về cho chủ. Tên nhà giàu tìm đến và bảo

Lùn đổi người vợ cho hắn để lấy cả dinh cơ và chín người vợ. Lùn thương

vợ vịt lắm không chụi nhưng vợ vịt bảo Lùn cứ đổi vì nàng phải về trời

không ở lại được. Lùn lại nhận ra người vợ thứ chín chính là cô gái năm xưa

mình cứu. Lùn nhận lời lấy chín người vợ và cả dinh cơ.

Trên đường đi, lấy cớ quên giày, Lùn quay về nhà. Khi về đến nơi thấy

vợ vịt hóa phép đánh chết tên nhà giàu. Quay về lần nữa, Lùn không thấy vợ

đâu, nhà chỉ còn là một bãi đất hoang. Từ đó, Lùn sống yên vui với chín vợ

và cả dinh cơ của tên nhà giàu.

Chàng rể cóc.

Ngày xửa ngày xưa có một nữ tì hầu hạ trong cung vua. Một sáng nàng

sắp xếp chăn gối, nhặt được một chiếc cúc bằng ngoc. Nàng định khi làm

xong việc sẽ trả lại cho vua. Nhưng mãi làm, nàng nuốt chiếc cúc vào bụng.

Ít lâu sau, nàng có thai nhưng mãi đến ba năm sau nàng mới sinh được một

con cóc nói tiếng người. Do bà con hàng xóm, người thương xót, người dè

bĩu nên nàng phải trốn lên một túp lều hoang trên núi, một mình nuôi dạy

con.

Một hôm, cóc vòi mẹ cho đi chăn trâu cho nhà vua. Mẹ cóc xin vua và

nhà vua chấp thuận. Cóc làm tốt công việc chăn trâu, con nào cũng béo múp.

Hôm nọ, người mang cơm cho cóc bị bệnh, nhà vua sai hai con gái của mình

mang cơm cho cóc. Cô con cả không chịu nhưng cô con út lẳng lặng mang

cơm cho cóc. Từ đó, hai người nảy sinh tình cảm với nhau.

Sau ba năm hết hạn chăn trâu, cóc xin mẹ hỏi cưới con gái út của vua và

đưa mẹ một cái gùi vào hầu vua. Chiếc gùi vỡ ra thành bạc, người con gái út

nhặt thì đống bạc bay hết vào túi. Vua ra lễ vật bắt mẹ con cóc phải tìm mọi

thứ mới cho cưới con gái. Đêm ấy, trời mưa to và gió rất lớn. Sáng hôm sau,

túp lều biến thành tòa dinh thự, lễ vật đầy đủ trước mặt. Thế là cóc cưới

được công chúa.

Một đêm trăng sáng, cóc biến thành người, vợ cóc biết được, đốt lốt cóc

dưới giường khiến chàng không biến thành cóc nữa.

Người con gái cả của vua ghen tỵ, tìm mọi cách hại vợ chồng cóc. Một

hôm, cô đào hố dụ dỗ chàng cóc lọt vào và chàng đã sập bẫy và chết. Vợ

chàng cóc lo lắng đi tìm. Tìm thấy chồng nàng đưa cho chồng ăn một chiếc

lá thần nhặt được. Chàng cóc sống dậy, hai người sống vua vẻ bên nhau. Còn

cô chị cả độc ác thì bị treo cổ.

Chuyện Hột Nhồi (Tày)

Ngày xưa, có một cậu thanh niên tên là Hột Nhồi, mồ côi từ bé nổi tiếng

thông minh tháo vát và có tài kể chuyện. Hột Nhồi phải đi ở cho Quàng –

một tên thổ ty giàu có, ăn chơi khét tiếng thường hay phá làng xóm. Ở cùng,

Hột Nhồi thấy Quàng than vãn ăn uống không ngon, thường sai Hột Nhồi

phải dâng buồng chuối chín, rồi con cá chép to. Nhưng như thế vẫn chưa đủ

mà còn bắt Hột Nhồi đứng dưới sàn mà lễ. Bằng sự thông minh, lanh lợi của

mình. Hột Nhồi nhiều lần đã khiến cho Quàng tức tối, nhưng không có cớ

nào bắt bẻ được như: đưa bát cơm nguội, dâng buồng chuối toàn vỏ vì

Quàng không nói rõ là chuối như thế nào, có khi còn dâng cá ươn…

Vì nhiều lần làm cho Quàng tức giận nên trong một lần lừa quan khách

nhà thổ ty, Hột Nhồi đã bị Quàng bắt phạt, bắt phải vào bao tải và nhảy

xuống vực.

Nhưng với sự lanh lợi tài trí của mình, Hột Nhồi đã thoát và dụ được một

tên nhà của thổ ty khác nhảy vào bao tải chết thay. Quàng vẫn tưởng Hột

Nhồi đã chết. Mấy ngày sau Hột Nhồi trở về và nói với Quàng rằng nhờ ơn

Quàng mà Nhồi đã được gặp tổ tiên nhà Quàng. Cả nhà Quàng tin lời Hột

Nhồi, ai nấy đều làm lồng để xuống gặp tổ tiên và bị Hột Nhồi đẩy xuống

vực. Cô vợ Quàng ở lại nhà nghe Hột Nhồi bảo tổ tiên không cho Quàng về

nữa nên đã đi lấy chồng khác. Từ đấy, nhà Quàng hết giống nòi, bản làng chỉ

còn những người bạn thật thà, tốt bụng, nhờ vào sự lanh lợi, tài trí của Hột

Nhồi.

Tua Gia, Tua Nhi (Tày)

Có hai chị em chị là Tua Gia đẹp và hiền, em là Tua Nhi con gái riêng

của mụ dì ghẻ, thì trái lại. Mẹ của Tua Gia là vợ cả bị chồng giết chết sau

một chuyến đi bắt ếch ( Y bỏ ếch vào giỏ rách ếch lọt ra hết, lại tưởng vợ

tham ăn không để giành cho mình). Tua Gia từ đấy bị dì ghẻ đối xử tệ,

thường đặt điều để hành hạ như đi múc nước băng ống bương thủng ( nhưng

nhờ quạ bảo giúp nên không việc gì), bảo bưng nồi cháo nóng ( bỏng tay làm

đổ hết thức ăn). Từ đấy về sau không được ăn no. Nhưng nhờ các nàng tiên

hiện ra bảo các con vật mang thức ăn cho Tua gia ăn, nên nàng vẫn không

gầy. Một hôm nàng gặp được hoàng tử trong lúc đang đi chăn vịt, hai bên

yêu nhau cùng nhau hát lượn và tặng trầu. Lúc về thấy môi đỏ, hỏi thì đáp là

“ cứt vịt”. Dì bảo Tua Nhỉ giành lấy công việc để được như Tua Gia, nhưng

Tua Nhi chẳng thấy môi đỏ tí nào. Một hôm Tua Gia chăn vịt gặp một bà cụ

nhờ nhổ tóc bạc phơ. Thấy đầu có sẹo mới biết là mẹ mình. Mẹ đưa con về

thủy phủ, cho con ăn ngon và cho một con gà về nuôi. Gà nuôi lớn, dì bảo đi

lấy củi rừng xa, ở nhà bắt làm thịt, quẳng xương ra bờ rào. Nàng gặp mẹ, mẹ

trao cho một cái hộp nhỏ bảo bỏ xương vào rồi chôn dưới chân giường. Bảy

ngày sau cô đào lên thấy có giày đẹp. Tua Nhỉ hỏi vì sao mà có thì nàng đáp:

- “Đem quần áo cho trâu ăn thò tay vào đít trâu mà lấy ra sẽ có đồ đẹp”. Tua

Nhi làm theo nhưng chẳng được gì, lại mất hết áo xống, trần như nhộng chạy

về.

Hoàng tử nhớ Tua Gia, bèn mở hội bắt cá ( bư – pia) buộc nam nữ đều

phải tới dự. Vì dì bắt Tua Gia đến muôn nên hoàng tử không gặp. Lần thứ

hai, hoàng tử nhân hội chợ, ra lệnh cho mọi người tới dự. Mụ lại trộn vừng

vào gạo bắt Tua Gia nhặt xong mới cho đi. Mặc dù nàng tiên sai sóc giúp

nhưng nàng cũng đến muộn nhưng không gặp. Tua Gia về qua cầu đánh rơi

chiếc giày xuống suối. Hoàng tử nhặt được cho người loan báo cho tất cả các

cô gái đến ướm chân. Cuối cùng chỉ có Tua Gia là ướm vừa, nhưng dì nàng

không bằng lòng; bắt phải đặt cáng dưới mái nhà để hai cô lăn từ mái nhà

xuống, ai rơi vào cáng thì được lấy hoàng tử. Tua Nhỉ thử trước lăn bịch

xuống đất. Tua Gia lăn đúng vào cáng mụ dì ghẻ đành để nàng lấy hoàng tử.

Một hôm bố ốm, dì nhắn Tua Gia về. Tua Gia cũng trèo hái quả cho dì.

Thấy bố chặt gốc, nàng van khóc, bố bảo nàng cởi quần áo ném xuống thì

thôi, nhưng tuy con đã ném xuống nhưng người bố vẫn cứ chặt. Cây đổ, Tua

Gia chết. Tua Nhi đóng bộ vào giả làm Tua Gia đến ở với hoàng tử. Nói là

mình phải trông nốm bố ốm nên gầy hốc hác. Mặc dầu con không nhận mẹ,

và hoàng tử tỏ ý hờ hững, nhưng Tua Nhi cứ ở lại với hoàng tử.

Tua Gia hóa thành chim yểng bay đến hỏi người chăn ngựa hoàng tử có

còn nhớ tới vợ củ nữa không. Thấy yểng, hoàng tử cũng hỏi: - “Yểng à có

phải Tua Gia chui vào tay áo”, yểng bay đến hoàng tử đưa về buồng. Yếng

biến thành Tua Gia, kể lại mọi việc và cứ bảo để xem Tua Nhi muốn làm gì.

Từ đấy đêm là Tua Gia ngày là yểng. Chỗ này khác với truyện của ta. Một

hôm Tua Nhi nhìn vào buồng thấy Tua Gia thì nổi ghen, bèn tìm dịp giết

chết yểng, vùi vào gốc tre. Từ đấy hoàng tử đi ngang qua thì cây tre cuối

xuống vuốt ve, còn Tua Nhi đi ngang qua thì nó cào xước mặt. Tua Nhi chặt

tre làm cọc màn, cọc đâm vào tay mỗi khi mắc màn. Lại ném vào lửa, cọc

tỏa khói làm cay mắt. Một bà lão đến xin lửa cầm cọc màng chạy về. Đưa về

nhà, cọc biến mất, chỉ để lại cho hai quả trứng. Cũng có hai cô gái từ trong

trứng chui ra dọn dẹp, lo cơm canh cho bà cụ mỗi khi vắng nhà. . Bà lão

cũng rình xem và bắt gặp hai cô gái. Đó là Tua Gia và nàng hầu. Tua Gia

bảo bà mời hoàng tử tới dùng cơm. Hoàng tử bắt phải trải lụa trên dường đi.

Tua Gia bảo bà cụ trải lá chuối rồi dùng phép hóa thành lụa. Hoàng tử đến ăn

thấy món ăn giống như Tua Gia dọn ngày trước nhưng vẫn chưa gặp vợ.

Nhưng nhờ có mèo tha cái đùi gà nên đứa con đuổi theo chạy vào buồng mẹ

thì nhận ra mẹ nó. Hai người gặp nhau. Sau đó, Tua Gia giả làm người hàng

bánh, bày cho Tua Nhi cái làm đỏm bằng cách nhảy vào nước sôi. Tua Nhi

làm theo và chết bỏng. Tua Gia cũng làm nắm Tua Nhi gởi về cho dì và bố

một con quạ bay đến hỏi: - “ Ăn thịt con gái có thơm không?”. Mụ sinh nghi,

tìm thấy đầu lâu con, mụ lăn ra chết, người bố cũng lan thang chết ở xó rừng.

Nàng tiên trứng (Tày )

Môt anh chàng mồ côi và một con chó mực nhặt được quả trứng lạ đem

về cất ở gốc chạn, chưa kịp luộc ăn thì trứng đã tỏ sự lạ bí mật dọn cơm thức

ăn, sửa soạn thức ăn khi anh và chó vắng nhà. Một hôm, vờ đi nhưng nửa

đường quay về, anh thấy từ trong trứng hiện ra một cô gái cầm chổi quét

nhà. Khi anh đột ngột chạy vào nắm lấy áo, cô bảo anh cho mình một chiếc

đũa và một chiếc nhẫn, và một chiếc vòng cô nuốt vào có xương mới sống

được. Và khi lấy anh làm chồng cô còn dặn anh phải kiêng ăn trứng, nếu

không thì sẽ có sự chia ly. Từ đấy anh sống vui vẻ cùng cô gái.

Một hôm vui bạn, anh ăn món canh trứng. Về nhà thấy vợ đã đâu mất.

Bèn cùng chó mực đi xuống một hang sâu. Qua bao nhiêu gian khổ mới gặp

được vợ và mới biết vợ là con gái thứ mười hai của thần sông. Thần bắt anh

làm một số công việc, có xong mới cho đưa vợ về. Thử thách thứ nhất là anh

phải ăn đúng bát cơm do vợ anh xới, bát này đặt lẫn lộn giữa mười hai bát

khác, nếu ăn sai sẽ bị chém đầu. Nhờ ruồi anh thắng cuộc. Thứ hai là vào

đúng buồng vợ (cũng là một trong mười hai buồng), có chỉ đúng thì cho đưa

vợ về. Một con chuột bảo anh buộc lá khô vào đuôi của mình, rồi chờ, hễ

thấy có tiếng sột soạt ở buồng nào thì cứ mở ra thì đúng. Sáng hôm sau thần

sông cho anh một cái hộp và dặn về đến nhà mới được mở. Còn vợ anh thì sẽ

về sau. Hộp càng về đến nhà thì càng nặng. Không ngăn được tò mò, anh mở

ra xem, thì hóa ra vợ anh trong hộp. Nhưng vì vội mở nên một con khỉ chúa

đã đến bắt vợ anh đi mất. Tìm mãi đến một cái hang, nhờ có tắc kè kêu giúp

cho cho hang đá nứt ra, anh mới được gặp vợ. Hai người lập mẹo lừa cả đàn

khỉ để trốn đi. Dọc đường họ nhờ nhện giăng tơ phủ kín dấu chân, lại nhờ

châu chấu làm cho đàn khỉ phải nhìn lên mặt trời chói mắt. Khi biết bị lừa

khỉ chúa nổi giận, đánh vào châu chấu, châu chấu đau đầu khỉ này sang khỉ

khác làm cho khỉ chúa vụt lấy vụt để, nhưng chưa vụt đúng thì châu chấu

biến đâu mất, cuối cùng đàn khỉ chết hết. Trong khi tức đến phát điên, lại bị

một con nhái nép dưới chổ ngồi chế giễu, khỉ chúa tìm giết nhái, nhái lén đi

hắn nhìn thấy hai hòn dái của mình, liền tưởng là nhái liền đạp mạnh vào dái

nên chết luôn hai vợ chồng trở về an toàn.

Hai anh em mồ côi (Tày)

Có hai anh em bố mẹ chết sớm để lại cho một đàn lợn béo. Chôn cất xong

hai anh em đưa lợn ra chợ bán. Qua một miếu thần, người anh vào quỳ hỏi: -

“ Lòng ngay thẳng hơn hay lòng gian ác hơn ?”thần bảo cái sau hơn. Anh

bèn chọc thủng hai mắt em rồi chiếm lấy đàn lợn. Em lạc vào rừng sâu rồi

trèo lên một cây cao nằm ngủ, không ngờ dưới gốc cây là nơi tụ họp của thú

vật. Em lắng tai nghe câu chuyện của chúng. Hổ nó: - “ Tao thấy dưới sàn

nhà nọ có ba hố bạc”. Lợn nói: - “Tao đào củ ở một chỗ nọ thấy ba hòm

tiền”. Gấu cũng chỉ một kho của ở bìa rừng. Khỉ chỉ cây mà quả của nó vắt

nước vào mắt người mù thành mắt sáng. Chúng hỏi:- “Cây nào?”. Khỉ trỏ

vào cây mà người em đang ngồi. Sau khi các thú vật bỏ đi người em hái quả,

nhỏ nước vào mắt, quả nhiên mắt sáng lại thật. Rồi anh lần lượt đi tìm các

vật quí như các con vật đã kể. Khi người anh bán xong lợn về thì đã thấy

người em ở nhà, mắt sáng và giàu có. Nghe người em hỏi chuyện người anh

cũng đi hỏi miếu thần. Thần miếu trả lời như cũ. Anh về bảo em chọc mù

mắt mình, em không chịu anh tự chọc mắt mình rồi trèo lên cây. Nhưng khỉ

trông thấy hắn liền báo cho các con vật khác biết. Chúng rung cây người anh

rơi xuống, bị hổ xé xác. Thần miếu bỏ chạy.

Hố vàng hố bạc (Tày)

Một anh trai nghèo đi câu cá. Một lũ khỉ đến hỏi: - “ Câu cá bằng mồi

gì?”. – “ Ruột khỉ”. Nghe nói thế lũ khỉ sợ hãi bỏ chạy. Chốc sau chúng lại

đến hỏi, anh vẫn trả lời như cũ. Cho là người này giết khỉ thực, lũ khỉ bẻ

nhánh đánh anh. Anh đau nằm vật xuống như chết. Lũ khỉ bảo nhau: -“ Chôn

ở đâu bây giờ? Hố vàng hố bạc hay hố hủi ?” – “ Hố bạc”. Nhờ vậy anh

chàng trở nên giàu có. Một người khác nghe tin cũng đi câu cá, gặp lũ khỉ và

sự việc lại diễn ra như cũ. Nhưng đến khi chúng hỏi chôn ở đâu, một con dáp

: - “ hố hủi”, hắn nhổm dậy nói :- “ hố vàng kìa” – “ À ra hắn còn sống”.

Chúng nói thế rồi quẳng anh xuống ghềnh.

Chàng con côi (Tày )

Một người thợ săn vì giết hại nhiều hươu nai, bị ngọc Hoàng bắt hóa

thành nai đực. Người ấy từ biệt vợ con lên rừng ở. Khi con tên là Pơ – Jạ (

Pơ – Jạ: mồ côi ) lớn lên hỏi mẹ : - “ Bố con đâu?” – “ Bố con đã hóa nai

không về được nữa”. Anh bảo mẹ nắm cơm cho mình lên rừng tìm cha. Vì

tuy ở với nai, người bố vẫn ăn đồ chín, anh tìm đến đống than có vùi hoa

chuối, đặt gói cơm vào rồi trèo lên cây nấp rình. Quả nhiên anh thấy bố mình

nửa mình người nửa mình nai về ăn gói cơm có vẻ ngon lành. : -“ Bố ơi con

đến đón bố về ở với mẹ” – “ Không về được đâu” nai đáp “ Bố sắp biến hoàn

toàn thành nai rồi”. Nghe con nài mãi nai theo về, nhưng đến cổng bị chó

vàng cắn đuổi, nai lại lao vào rừng. Người con lại tìm, sau khi đã nhốt chó,

nhưng vẫn bị chó tung cả nơm ra cắn. Đến lần thứ ba con đón về sau khi đã

giết chó, nhưng khi thấy đầu chó trong chảo, nai cũng hoảng sợ chạy ra cửa,

sừng mắc vào cột gẫy mất. Bố dặn con : - “ Từ nay bố không về được nữa vì

đã hoàn toàn thành nai rồi. Con hãy lấy dây buộc cái sừng này vào mà kéo,

hễ nó mắc vào đâu thì ở đấy mà sinh cơ lạc nghiệp”. Sừng sau đó mắc vào

nơi ở của một bà góa, không lôi đi được. Anh bèn thương lượng với bà dọn

nhà đi nơi khác, còn mình thì ở đấy khai phá trồng lúa. Không ngờ đền mùa

lúa chín, anh gặt không xuể vì bông lúa vừa gặt đằng trước thì đằng sau đã

hiện ra. Có bảy nàng tiên đi hái dâu tình nguyện gặt giúp, gặt đến đâu các

nàng nhổ nước cốt trầu vào (hoặc rắc phấn tiên hoặc lấy giấy nút lại ) nên lúa

không ra bông nữa. Vì vậy ngày nay cây lúa chia thành từng lớp, một lớp có

vỏ xốp trắng và một lớp đỏ. Thấy các nàng đẹp, anh trộm đôi cánh của cô

thứ bảy giấu đi. Cô không về trời được bèn ở lại nhà chàng trai. Nhưng vì

nhà không cót, không ván, và chỉ có một chiếc giường nên cô đành làm vợ

chàng trai. Ăn ở được ít lâu nàng sinh được hai con. Khi chồng vắng nhà, vợ

ở nhà thấy con hay quấy, trái lại khi bố ở nhà thì các con vui vẻ. Một hôm

mẹ hỏi thì con đáp : “Bố có cánh hoa thích lắm”- “ Thế bố để ở đâu ?” – “ Ở

đống thóc già năm kia; ở đóng thóc non năm ngoái”. Nghe lời con, nàng tìm

được cánh và định bay về trời. Trước khi đi, nàng dặn các con hễ bố đánh

bằng đũa hoặc chổi thì gọi mẹ, mẹ sẽ xuống đón. Về nhà thấy mất vợ, anh

mới hay con đã chỉ cánh cho mẹ nên đã cầm roi đánh. Nhưng đánh bao nhiêu

chúng vẫn cười. Tức mình, anh đánh nữa, chúng vẫn chịu đựng. Một lần anh

trở cán chổi đánh, chúng òa lên khóc. Ở trên trời nàng tiên nghe con khóc,

liền thả xuống một cái túi bằng vải da cho con trèo lên. Thấy con được lên

với mẹ chúng, bố cũng kêu khóc inh ỏi. Vì túi quá bé, nàng tiên bèn thả

xuống một cái túi giấy, nhưng kéo chồng lên được nửa chừng, người nặng,

túi rách, bố rơi xuống hóa thành cây han ình và vắt.

Ò Pèn Ò Kín ( dân tộc Nùng )

Có hai chị em cùng cha khác mẹ tên là Ò Pèn và Ò kín. Mẹ Ò Kín đẹp

được chồng yêu, trái lại mẹ Ò Pẻn bị chồng ghét, bắt làm tất cả mọi công

việc nặng. Sau đó, một hôm bà bị chồng đánh chết quăng lên rừng. Ò Pẻn từ

đó làm mọi việc, kể cả việc đêm đêm phải lên rừng canh nương. Mẹ Ò Pèn

hóa thành hùm tinh thường đến giúp đỡ con, lại bắt thịt rừng cho con ăn.

Thấy Ò Pèn nói nhờ hùm tinh mà trở nên béo tốt, dì ghẻ cho Ò Kín đi

canh nương thay, nhưng không được gì của hùm tinh mà trái lại bị hùm tinh

tát chết kéo vào buồng đắp chiếu lại. Một con quạ bay về báo tin: - “ quạ quạ

con mày chết đêm qua”. Mẹ Ò Kín không tin, cho rằng con mình đang được

hùm tinh cho ăn thịt và tặng mọi thứ. Quạ đến báo lần ba mụ cùng chồng

chạy lên. Khi biết sự thật thì hùm tinh đã nấp ở gốc nhà nhảy ra cắn chết cả

hai.

Nàng Khao, nàng Đăm (Thái)

Ngày xửa ngày xưa, hai vợ chồng nhà nọ sinh được một cô con gái, tên là

Khao vừa xinh đẹp lại còn tốt nết. Ít lâu sau, người chồng lấy thêm một

người vợ lẽ, người vợ có một cô con gái riêng vửa xấu xí lại còn đanh đá tên

là Đăm. Về sau mẹ con nàng Khao bị người bố ghét bỏ. Một hôm, nàng

Khao và nàng Đăm theo bố ra đồng bắt ếch. Nàng Khao lặn lội nhưng chỉ bắt

được một con nhưng bị nàng Đăm lừa, nói với bố là mình đã bắt được. Trưa

đến, người bố về nhà bảo mẹ của nàng Khao đem ếch đi làm thịt. Nhưng mẹ

của nàng Khao bị ông bố nghi là ăn vụng ếch nên ông đã cầm thuổng giết

chết mẹ của nàng Khao. Mẹ của nàng Khao chết và biến thành hổ.

Bị mồ côi mẹ, nàng Khao bị hết khổ sở này đến khổ sở khác. Nàng đi bắt

cá thì bị Đăm lừa lấy hết cả giỏ. Khi bố đi vắng, mẹ con nàng Đăm còn đem

nước muối đổ vào chậu làm cho nước mắt mặn để người bố tin rằng, mẹ con

chúng yêu thương ông nhiều hơn và ông đã đuổi nàng Khao vào rừng. Trong

rừng, nàng tình cờ gặp lại người mẹ hổ của mình.

Mẹ hổ cho nàng nhiều váy hoa áo đẹp, vàng bạc, kiềng vàng rồi bỏ đi.

Chúa một mường đi ngang qua thấy nàng ăn mặc rất đẹp nên cưới nàng về

làm vợ. Nàng từ đó được sống trong cảnh giàu sang sung sướng. Ít lâu sau,

nàng sinh được một đứa con trai

Bố lúc này đói rách lần theo dây bầu tìm đến nhà nàng Khao, được nàng

tiếp đãi rất hậu, tặng cho nhiều vật quý mang về.

Nàng Đăm cũng tìm đến nhà nhưng bị Khao đối xử không tốt: lên nhà

bằng thang sậy, giữa chừng thang gãy rơi xuống đất bị bọ chó cắn; ngồi ghế,

ghế gãy bị chó mèo cắn; ăn cơm bị đũa nứa cứa đứt mồm; khi về Khao cho

cỡi dê gàn, dê đâm vào bụi này vũng kia.

Về nhà, Đăm ghen tức xui bố mời Khao về chơi. Đăm bảo Khao lên cây

bồ quân hái quả cho bố rồi chặt gốc. Khao chết biến thành chim cu quẩn

quanh chân chồng. Đăm giết, Khao biến thành cây tre ngà cho Tạo mắc võng

nằm. Đăm đốt cây tre. Bà cụ láng giềng đi xin lửa cầm thanh tre về, than rơi

vào chậu nước hóa thành cô gái đẹp sống cùng bà lão. Một hôm cô dệt vải

đánh rơi thoi xuống sàn nhà dưới. Vừa lúc con Tạo chơi gần đấy, nhặt hộ

cho Nó nhìn thấy bàn tay giống mẹ liền đi mách bố. Hai vợ chồng nhận ra

nhau.

Một hôm Khao hỏi Đăm sao môi đỏ thế? Đáp vì khi chăn vịt, ăn cứt vịt.

Đăm nghe lời, cố nuốt cứt vịt môi càng thâm sì. Lại hỏi, làm sao có áo đẹp?

Vì để trâu ăn mất áo nên Trời cho áo đẹp. Đăm làm theo không thấy trời cho

áo nên trần truồng chạy về. Hôm khác lại hỏi sao trắng trẻo, đẹp đẽ? Vì tắm

nước sôi. Đăm làm theo, chết bỏng. Sau đó, nàng Khao lấy Đăm làm mắm,

bỏ vào hủ biếu dì. Đến khi dì ghẻ ăn gần hết, thấy đầu lâu con thì mụ lăn

đùng ra chết.

Ý Ưởi Ý Noọng (Thái)

Có hai chị em cùng cha khác mẹ, chị là Ý Uởi, em là Ý Noọng. Ý Ưởi bị

dì ghẻ hành hạ. Một hôm, bố sai hai con đi xúc cá, ai xúc được nhiều hơn thì

được khen. Ý Noọng vừa xúc vừa chơi không được gì, lừa Ý Ưởi: - “ Đầu

lắm cứt trâu xuống gội đi kẻo về bố mắng”. Rồi chờ Ý Ưởi hụp xuống nước,

cướp lấy giỏ cá đem về trước. Vì không xúc được cá, Ý Ưởi bị đánh đuổi

phải đem chó chạy vào rừng, đêm phải ngủ trong túp lều lợp lá chuối. Có

một con hổ tới đòi ăn thịt, và sau đó thương Ý Uởi, nó ăn chó thay người, lại

dặn sáng dậy tới hốc đá nơi nó thường ỉa. Sáng dậy, Ý Ưởi làm theo và thấy

có quần áo đẹp và trang sức. Mặc xong, nàng gặp chúa đất “ Tạo” Khôn

chương ( hay Khum Chương) đi săn. Thấy nàng đẹp, Tạo đưa về làm vợ và

sinh được một người con trai.

Tiếp theo Ý Ưởi về thăm bố cũng bị mẹ con Ý Noọng xui trèo cây bồ

quân hái quả. Đang trèo thì mụ chặt gốc, nàng hỏi thì mụ trả lời: “ Dì đuổi

kiến cho con”. Cây đổ, Ý Ưởi rơi xuống ao chết. Xác bị cá rỉa hết chỉ còn

miếng phổi hóa thành chim cu gáy. Trong khi đó Ý Noọng mặc quần áo của

Ý Ưởi đến với Tạo. Chim gáy đậu hót, Tạo rút gươm ra hỏi: “ Có phải vợ thì

hãy đậu lên gươm”. Chim đậu, Tạo đem về nuôi trong một lồng đẹp. Chim

nhiếc Ý Noọng dệt vải hay đứt, bị Ý Noọng ném cái thoi chết, quăng xác vào

lửa. Một bà già đi xin lửa thấy chim tưởng là than, bèn cầm về, vô tình đánh

rơi vào chậu nước, chim bèn hóa thành người. Nàng ở với bà cụ dệt vải. Một

hôm con Tạo đi chơi qua gầm sàn, nàng bỗng đánh rơi cái thoi, thò tay

xuống nhờ nhặt. đứa bé thấy cánh tay, nhận ra mẹ bèn về mách bố. Hai vợ

chồng sum họp. Ý Noọng theo lời Ý Ưởi tắm nước sôi, bị chết bỏng, sau đó

làm mắn gởi về cho mẹ nó ăn. Ăn gần hết thấy đầu lâu con ló ra, mụ gã lăn

ra chết.

Lúa chàng Nai (Thái)

Một người đàn bà góa một hôm lên núi giải khát ở một vũng nước nai

thường uống, từ đó có mang, sinh ra một đứa bé đặt tên là Nai. Lớn lên, Nai

đi tìm cha ở vũng nước. Gặp một con nai già cho một cái gâc ( sừng) thần,

bảo dùng nó để làm rẫy. Nhờ có gạc, Nai vỡ được nhiều đám ruộng, gọi là

ruộng cha Nai. Khi lúa chín, gặt đằng này, lại trổ đằng khác, không thuể gặt

xuể. Nai ngồi khóc, nghe tiếng khóc, hai cô tiên đi hái dâu đến gặt giúp, gặt

đến đâu nút rạ lại đến đó. Nhưng một trong hai nàng bị chàng giấu cánh,

đành phải ở lại làm vợ và đẻ được một trai, một gái. Một hôm vợ Nai cũng

được cánh trong bó lúa, bèn lấp vào tập bay. Thấy con cười, mẹ cũng bảo : “

Sằng sặc chi bay, ba ngày vắng mẹ thì bày xương ra”. Nàng tiên cũng nấu

cháo múc thành nhiều bát trước khi lên trời. Chồng về hai tay mang hai con

vào rừng tìm vợ. Con nai già hiện ra bảo cỡi lên lưng mình mang đi tìm. Đến

đất trời cha con gặp nàng tiên đang chuẩn bị làm lễ mừng cho con gái vua

Then – vợ Nai mới trở về. Nai nhờ hai nàng bế con đến gập mẹ nó. Vợ

chồng sai khi gập nhau xin phép vua Then cho đoàn tụ. Vua cho, nhưng một

thời gian sau Nai nhớ cõi trần, đòi vợ trở về. Nai già nghe lời khấn cũng hiện

ra cõng chàng và hai con, theo sau là vợ Nai bay xuống cõi trần.

Phò mã Sọ Dừa (Chàm)

Một người nọ nhà rất nghèo, một hôm cùng con gái lên rừng kiếm củi. Cô

gái bỗng tìm thấy ở một hòn đá có một mạch nước chảy, bèn uống và tắm

thảo thích. Nhưng khi người cha đến thì nước không còn một giọt. Cô gái từ

đó có mang. Đủ ngày đủ tháng đẻ ra một cục thịt tròn như quả dừa. Thằng bé

bảy tháng biết nói, một năm biết tự lăn đi, ba năm biết chăn dê. Sau đó, nó

bảo mẹ đưa mình đến cung vua để xin đi chăn trâu. Trâu vua có ba mươi vạn

con, có ba mươi người chăn mà vẫn thường thất lạc, nhưng thấy Sọ Dừa cam

đoan nên vua bèn lòng thuê.

Ngày đầu tiên công chúa bé nhất mnag cơm đến. Công chúa thấy trâu ăn

thành từng bầy rất trật tự, nhưng không thấy sọ dừa. Gọi một tiếng thì Sọ

Dừa ở đâu lăn ra nhận lấy cơm. Chiều lại đưa trâu về đủ số.

Ngày hôm sau, vua giao công việc cắt dây buộc nhà. Khi đem cơm công

chúa đúng rình thấy giữa rừng có một nhà lầu, có dê lợn và có kẻ hầu người

hạ. Một số người hầu thì đi chăn trâu, còn một số thì đi cắt dây. Công chúa

gọi lên một tiếng thì mọi thứ biến mất, còn sọ dừa lăn đến nhận cơm như cũ.

Buổi chiều trâu về con nào con ấy dây cuốn đầy sừng. Vua rất thán phục khi

thấy quân hầu tháo được một trăm xe. Lần đưa cơm thứ ba, công chúa cũng

rình thấy giữa kẻ hầu người hạ đông đúc có một chàng trai đẹp tựa trăng

rằm, khi gọi tên thì chàng trai biến vào lốt lăn ra như cũ.

Hôm sau, hai công chúa lớn từ chối việc đưa cơm nên công chúa em lại

phải đi thay. Hôm ấy trời mưa gió Sọ Dừa đánh trâu về lăn ngay vào bếp

sưởi ấm, đụng vào chân hai công chúa lớn đang nấu ăn ở bếp, bị họ đánh

chửi.

Hôm khác, vua giao thêm việc chặt tre. Công chúa ba đưa cơm mang theo

một gói trầu do mình têm để tặng Sọ Dừa. Tre của Sọ Dừa chặt nhiều đến

nổi vua phải huy động dân làng về, chặt được một trăm xe. Mọi người đều

tấm tắm khen về tài năng phi thường của Sọ Dừa.

Chăn trâu được mười lăm ngày, Sọ Dừa giục mẹ đi hỏi một trong ba cô

gái con vua cho mình làm vợ. Mẹ bất đắc dĩ ra đi. Vua hỏi ý kiến ba cô công

chúa chỉ có cô ba là ưng thuận. Đám cưới kéo dài một trăm ngày, một trăm

đêm, các dân làng được vua mời về dự. Vua bảo hoàng hậu hỏi dò xem con

gái ăn nằm với Sọ Dừa như thế nào. Công chúa cho biết : “ Sáng là sọ dừa

đêm là người”. Một đêm nọ công cháu đem lốt dấu đi. Sọ Dừa đành phải ra

mắt mọi người. Thấy chàng trai đẹp ai nấy nô nức đi nhìn mặt.

Sau lễ cưới một tháng, Sọ Dừa chuẩn bị tàu lớn đi buôn, có vợ và hai chị

vợ đi theo. Lúc ra khơi, hai chị bảo em tháo nhẫn mà Sọ Dừa tặng đưa cho

xem rồi giả vở tuột tay làm rơi xuống biển. Em nhảy xuống vớt nhưng tàu

chạy rất nhanh, khi Sọ Dừa biết thì đã mất dạng cho tàu quay về Sọ Dừa

khóc lóc ngày đêm. Hai chị vợ nấu cơm tem trầu cho ăn, lại đến ăn nằm với

Sọ Dừa nhưng chàng vẫn không nguôi nhớ vợ.

Vợ Sọ Dừa vớt được nhẫn nhưng lại bị chìm xuống biển sâu. Nhờ sự

nhiệm mầu của chiếc nhẫn mà nàng biến thành người tí hon ẩn mình trong

một vỏ trai lớn. Bị sống đánh, trai trôi vào bờ. Một vợ chồng làm nghề bắt

trai nghe tiếng khóc tỉ tê trong vỏ trai, liền nhặt lấy đem về nhà.

Mỗi lần hai vợ chồng đi vắng, công chúa từ vỏ trai chui ra biến thành

người lớn, quét dọn nấu cơm nước, đoạn lại chui vào như cũ. Một hôm họ

cùng rình và bắt được quả tang, họ nhận công chúa làm con nuôi. Công chúa

bảo họ mua cho mình một ít bông về dệt thành chăn. Chăn dệt xong công

chúa bảo mẹ nuôi mang đến cung vua bán, lại đưa nhẫn cho mẹ nuôi đeo.

Vua thấy tấm chăn giống chăn của công chúa thứ ba. Còn Sọ Dừa nhận ra

chiếc nhẫn, bèn theo người đàn bà về nhà. Hai vợ chồng về nhà, sau đó Sọ

Dừa thay vua cha trị vì thiên hạ.

Nàng ngón út (Chàm)

Xưa có hai vợ chồng tuổi đã cao nhưng không có con. Họ lấy làm buồn

phiền. Một hôm, sau khi sắm lễ vật đến tháp cầu con. Sau mấy hôm thì ngườ

vợ có nghén. Hai ba năm sau với sự âu lo của hai vợ chồng, bé gái ra đời

nhưng chỉ bằng ngón tay út. Họ đặt tên con là Ka Điêng. Thấy đứa con quá

quái dị suốt mười tám năm không lớn lên. Ông chồng đêm bỏ con vào rừng

cùng một số lương thực rồi trồng cho con một rẫy dưa. Thỉnh thoảng ông ra

chăm sóc rẫy dưa ngoài rừng cho con. Một hôm có một chàng hoàng tử đi

săn qua thấy dưa ngon bèn ăn thử, ăn được nửa quả thì chàng thấy no bỏ dở.

Đoàn người và chàng hoàng tử vừa đi, Ka Điêng nhặt lên ăn nửa trái còn lại.

Sau khi ăn dưa, một năm sau, nàng thụ thai. Một hôm, chàng hoàng tử lại đi

săn, chàng ghé vào rẫy dưa năm trước. Chàng nghe tiếng ru con quyến rũ

lòng người, bèn tìm đến và gặp một đứa trẻ, nàng Ka Điêng bé nhỏ. Hoàng

tử bày tỏ ý muốn Ka Điêng trở thành vợ của mình. Từ đó, hai người nên vợ

chồng. Tin hoàng tử lấy một người vợ bé nhỏ đến tai vua. Vua nghe lời hai

người con lớn cho rằng Ka Điêng là yêu quái, nhà vua cho truyền lệnh trong

vòng bảy hôm, ba chàng hoàng tử phải ra mắt nàng dâu và lễ vật. Hoàng tử

út về kể lại cho Ka Điêng nghe. Trái lại với thái độ lo lắng của chồng, Ka

Điêng chỉ mỉm cười. Đền ngày hẹn, Ka Điêng chợt hiện nguyên hình là một

cô gái xinh đẹp. Hai vợ chồng sắm sữa lễ vật và cùng lên dâng vua. Hai

người anh của hoàng tử dâng lễ vật lên không vừa với ý vua cho nên không

được kế ngôi. Đến lượt hoàng tử út, lễ vật của hai vợ chồng chàng là bánh rất

ngon, đồ quý giá vua thử vào thấy vừa như in còn nàng dâu Ka Điêng thì

xinh đẹp, có hiếu, thông minh dâng lễ vật lên vua cha với những lời chân

thành, đầy ý nghĩa. Hoàng tử út lên làm vua, còn nàng Ka Điêng lên làm

hoàng hậu.

Vua quạ (Chàm)

Tà – bong một chàng trai lười bẩm sinh, một hôm đi câu. Ba lần câu được

cá thì bị quạ tha mất. Đến con thứ tư hắn đái vào đầu cá. Quạ lại tha mất

nhưng lị đánh rơi vào bể nước của cung vua. Công chúa thứ ba bắt được đem

về nấu ăn, không ngờ có mang. Vua muốn tìm ra bố đúa bé, bèn sai công

chúa ném khăn trầu vào đám hội có đủ đông người tới xem khăn rơi vào

người nào, nhưng khăn không rơi vào người nào cả. Vua hỏi xem còn sót

những ai. Người ta cho biết chỉ còn sót anh Tà – bong vì lười không đến.

Vua cho đi gọi, Tà – bong vẫn không đi. Vua phải cho người cán hắn đến

đám hội. Lần này khăn trầu của cong chúa rơi đúng vào người của Ta –

bong. Vua sai lính lén lút giết cả hai nhưng họ lại lén thả cho họ, rồi lấy máu

chó bôi vào gươm để tâu dối với vua.

Nằm thẳng cẳng dưới cây xoài, Tà – bong chờ cho quả rơi xuống miệng

mới ăn. Vua quạ đến ăn xoài thấy anh, tưởng có xát chết liền xà xuống mổ,

liền bị anh tóm cổ. Quạ phải cho anh hòn đá ước. Nhờ có đá, anh ước ra lâu

đài nhà cửa, trâu bò và có kẻ hầu người hạ. Một hôm anh sai quân đi đắp đập

chắn nguồn nước. Thấy dân khổ sở vì khô cạn không có nước dùng nhà vau

sai lên thượng nguồn để thăm dò, thì thấy có lâu đài nguy nga, và trên có

cấm một lá cờ đề chữ “ Vua mới”.Quân đội nhà vua kéo đến định đánh.

Nhưng trên thành lại treo một lá cờ khác bảo vua cũ hãy nhường ngôi cho

vua mới, dân sẽ có nước uống. Sau khi nghĩ ngợi, vua bèn lòng nhường ngôi

cho con rể.

Sự tích chim thù thì (Vân Kiều)

Xưa có hai anh em chung sống với nhau. Anh tham lam và cáu kỉnh còn

em thì thật thà, vụng dại.

Mỗi lần đi làm ăn xa về, người anh thường lén đến sàn nhà em vơ vét hết

của cải. Mất của, em ngồi buồn, khóc tỉ tê. Khóc chán, người em lại lấy khèn

khui ra thổi. Tiếng khèn ai oán, buồn thảm động đến tai Dàng. Dàng sai con

gái xuống trần để xem dưới này có việc gì không. Con gái Dàng biến thành

cô gái niềm rừng xinh đẹp và làm quen với người em. Người con gái ấy giúp

đỡ anh rất nhiều và đòi kết duyên vợ chồng. Từ chối không được cuối cùng,

người em cũng ưng thuận. Sau đó một ngày một đêm, vợ dắt chồng lên chỗ

cha mẹ xin của làm lễ Khơi. Lên đến nhà trời, Dàng thấy người em thật thà,

lại vượt qua được thử thách của Dàng nên được quay trở về mặt đất, sống

sunng sướng, no đủ.

Sau khi đi làm ăn xa về, thấy em bỗng chốc giàu có, anh sang hỏi thăm và

cố ý lấy trộm cái khèn khui của em. Rồi hắn bắt chước lên một nơi vắng vẻ,

dựng một chòi rách nát rồi cũng lấy khèn khui ra thổi. Hắn cũng gặp một cô

gái con Dàng và kết duyên chồng vợ. Hắn vội vã giục vợ dẫn mình đi gặp

cha. Đến xứ Dàng, hắn không ý tứ đến phép lệ của Dàng và chê bai đây là xứ

của ma quỷ. Hắn không vượt qua thử thách của Dàng nên bị biến thành con

chim thù thì chuyên rên hừ hừ và chỉ dám đi kiếm ăn vào ban đêm, thấy

người là trốn lủi vào hốc cây, bụi rậm.

Ta - lăn Ta – lê (Vân Kiều)

(Chuyện con trăn)

Có một bà mẹ với mười một cô con gái rất chăm chỉ làm nương. Nương

của bà trồng rất nhiều chuối. Cây chuối ở giữa nương rất to, thân đến một

người ôm không xuể, đang trổ hoa. Từ khi trổ hoa cho đến khi chuối chín,

không ngày nào, bà mẹ không lên nương ngắm nghía. Đến khi thò tay chặt

buồng chuối đem về thì có một con trăn rất to đang nằm trong đó. Bà toan bỏ

chạy nhưng con trăn cất tiếng gọi lại và yêu cầu bà mang về. Nghĩ đó là ý

Dàng nên bà mẹ lại phải mang về. Đi giữa đường con trăn lại đòi lấy một

đứa con gái của bà làm vợ. Bà gọi các con về nhưng mười đứa đầu chẳng ai

chụi lấy trăn. Bà mẹ than khóc và gọi đứa con út về. Thương mẹ, A- chung

nhận lời. Nhìn vào gùi chẳng thấy trăn đâu, cô chỉ thấy một anh con trai đẹp

nên đoán biết đó là ý Dàng, cô cảm thấy vui vẻ. Còn bà mẹ thì lòng nặng

trĩu. A- chung theo trăn đi còn bà mẹ về nhà. Ít lâu sau, A-chung cùng trăn

quay về xin mẹ cho làm lễ khơi. Lễ khơi xong, A-chung phải theo trăn về

nhà nó. Đi mãi đến một chỗ khuất, trăn cởi bỏ lốt, hiện ra là một chàng trai

đẹp đi bên cạnh vợ. Vợ chồng chăm chỉ làm ăn, đốt rẫy làm nương. Một

hôm, khi chồng đốt nương không để ý, A-chung lấy lốt trăn đốt đi. Sau đó ít

lâu, hai vợ chồng sinh được một đứa con và cùng nhau địu con về thăm bà

ngoại. Bà mẹ vui mừng bảo hai vợ chồng ở lại chơi một tuần trăng. Các cô

chị thấy hai vợ chồng em đẹp đôi trong lòng ghen ghét. Cô cả thao thức mãi,

nài nỉ người mẹ đi tìm một con trăn khác để ả lấy làm chồng.

Chiều ý con, bà mẹ cũng đi tìm một con trăn khác. Nhưng cô cứ bắt mẹ

tìm một con trăn lớn hơn cả chồng em. Cuối cùng, bà mẹ cũng tìm được con

trăn to, mang về nhà. Cô chị hí hửng, ngăn buồng riêng, đem con trăn vào

giường ngủ trước khi các em đi làm về. Và cô ả bị con trăn nuốt vào bụng.

Bà mẹ thấy thế kêu khóc, gọi các con về. Ta-lăn (chồng của A-chung) về kẹp

chết con trăn, mổ bụng lôi xác chị vợ ra. Cả nhà lo tổ chức ma chay, Ta-lăn

mời tất cả mọi người và các con vật cùng dự buổi tiệc tiễn ma. Dân làng

càng yêu mến vợ chồng Ta-lăn hơn.

Anh mồ côi với con ếch nhỏ (Vân Kiều)

Có hai anh em mồ côi chung sống với nhau, người anh luôn tìm cách hiếp

đáp em. Mọi việc anh đều bắt em làm nhiều hơn nhưng khi làm xong, anh

lấy phần nhiều hơn.

Một hôm đi tát cá, người anh bắt em làm hết mọi việc. Khi nước cạn, anh

bắt hết cá mang về, người em không còn gì để bắt ngoài con ếch nhỏ. Em

ngồi khóc, con ếch cất tiếng an ủi và bảo anh mang mình về nhà nuôi. Dọc

đường, ếch bảo người em hãy làm thuyền đi buôn sẽ thay đổi cuộc sống

khốn khó của mình. Ếch còn bảo người em lấy lá đoong nhét đầy vào giỏ và

bỏ mình vào đó. Nếu gặp thuyền buôn đòi đổi thì bảo phải có đầy đủ một

thuyền vàng bạc mới chụi. Thế là anh mồ côi nghe theo, cứ ôm giỏ ếch khư

khư vào lòng, ai hỏi cũng trả lời là của quý. Nhiều người thắc mắc không

biết đấy là gì thì làm sao còn buôn bán, đổi chác được. Một thuyền buôn nọ

nhất quyết đòi xem cho được món hàng. Nhưng anh mồ côi ra điều kiện

không được để mất, nếu mất phải đền. Người lái buôn nọ chụi đền một

thuyền vàng bạc, của cải. Anh mồ côi lần lượt giở hết lá dong này đến lớp

khác. Con ếch nhảy bật lên lao xuống sông. Thế là người lái buôn mất một

thuyền vàng bạc.

Người em có một thuyền vàng bạc, lập nương, dựng nhà, phát rẫy. Cuộc

sống no đủ, giàu có gấp mấy lần thằng anh.

Xipiệc Nhe Nhe (Vân Kiều)

(Con chồn mõm nhọn)

Một ông già có tám người con gái xinh đẹp sống giữa rừng tách biệt với

mọi người. Khi các cô chị khôn lớn, chúng đi lại và kết duyên với bảy con

khỉ. Còn cô con gái út thương một con chồn mõm nhọn. Các chị thường trêu

ghẹo cô út, còn người cha tỏ ra rất buôn về việc này. Nhưng cuối cùng cô út

cũng ở với con chồng. Một lần, ông già bảo thèm mật và các con rể khỉ

không tìm được, lại nói dối phải đem voi ra mới chở về hết. Ông già ra

không thấy, chỉ thấy chồn lấy được nhiều mật. Hôm sau, ông già bảo thèm

cá. Cuối cùng chỉ có rể chồn tìm được nhiều cá. Lần sau, ông già bảo thi xây

nhà, các rể khỉ láu táu làm cho xong chuyện còn chàng chồn làm một cái nhà

đẹp. Các chàng rể khỉ láu táu, nhảy vào nhà mới xây, leo lên các giường đá,

bị đốt bỏng đít, chạy tít vào rừng sâu. Còn chồng cô út, sau đó, bỏ lốt chồn

thành một chàng trai đẹp đẽ. Cuối cùng, hai vợ chồng làm lễ Khơi, động đến

Dàng, Dàng bắt hai vợ chồng cùng nhau đi lên trời.

Hai anh em mồ côi (Truyện cổ Tây Nguyên)

Ngày xưa có hai anh em mồ côi mẹ, mẹ ghẻ hành hạ hai anh em rất thậm

tệ. Hằng ngày, hai anh em phải làm việc rất cực khổ. Một hôm, đang nướng

chim cho người vợ ngọn, vì quá đói bụng hai anh em lỡ ăn mất một cánh của

chim. Vì thế họ bị đuổi ra khỏi nhà.

Lang thang trong rừng, một hôm hai anh em gặp một ông già, già to lớn

và đưa họ về hang nuôi dưỡng dạy cho cách lẫy cung bắn ná. Khi khốn lớn

và đã bắn rơi được hai con chim trong đàn chim bay thành hình cánh cung và

một con chim bay trong đàn thành hình mũi tên, hai anh em từ biệt già ra đi.

Trên đường, họ gặp một đôi thỏ trắng, một đôi gấu và một đôi cáo, một đôi

gà trống và một đàn ong, hai anh em nhận tất cả vào đoàn. Hai anh em chia

đôi đàn súc vật, để cây giáo của mình vào gốc cây và dặn nhau, sau đó người

em đi về phía tây, còn người anh thì đi về hướng đông. Người em đi vào một

bản làng và lên rừng để cứu được con gái của A – nha bị một con rắn mười

hai đầu bắt. Đến hang rắn chàng đi vào hang mặc cho sự ngăn cản của cô

gái. Khi rắn về người em và rắn đánh nhau. Kết quả là rắn chết nhờ sự giúp

đỡ của các con vật. Trên đường về một con phượng hoàng giết chàng trai và

cướp cô gái đi. Nhờ sự giúp đỡ của các con vật, chàng sống dậy và đi tìm cô

gái. Khi về đến bản anh cưới được vợ đẹp sau đó anh và bầy thú bị mụ già

trên cây hóa thành đá. Còn về phần anh khi biết em gập nạn thì lên đường đi

tìm em, lại gập Nhắc Pa – ma già và quyết chiến với mụ. Cuối cùng mụ bị

giết. Người em và bầy thú sống lại và cùng anh trở về bản. Nhưng người

con gái không nhận biết đâu là chồng mình và anh chồng. Người em đã kể

lại chuyện của mình với anh trai, A – nha vui mừng và khăn ngợi và giao đất

và của cải của bản làng cho hai anh em coi giữ.

Lưỡi búa của thần sét ( dân tộc Ka dong )

Y Reng là nô lệ của một tù trưởng, hằng ngày phải đi chăn một đàn trâu,

nhưng vì bị đối đãi quá tàn tệ, một hôm liền nghĩ đến chuyện báo thù. “ Phải

có một lưỡi búa của thần sét thì mới giết nó được”. Bèn làm một cái bẫy sập

lớn gầy ở ngoài cửa hang. Đoạn bẻ cành cây làm cày, rồi bắt một con cóc

vàng buộc vào cày mà kéo. Vì cóc là dòng dõi của Ngọc Hoàng, nên khi thấy

thế Ngọc Hoàng liền nổi giận, sai thần sét đánh Y Reng. Thần sét cầm búa

nhảy xuống, vừa đén của hang thì bị sập bẫy, bị nhốt ngay vào trong. Thất

cơ, thần sét đành phải năng nỉ, cuối cùng phải cho Y Reng búa thần để đổi

lấy tự do. Nhờ có búa của thần sét Y Reng đã tiêu diệt được tên tù trưởng.

Chàng Cóc ( Ka dong )

Một nhà nọ có chín cô gái đẹp, trong đó có cô thứ ba là Di Dật đẹp hơn

tất cả. Một hôm nhân khát quá, Di Dật thấy giữa hòn đá tảng có nước ngọt,

bèn uống (thực ra đó là mưu kế của thần nước ). Từ đó nàng có mang đẻ ra

một con cóc. Bị làng xóm xua đuổi, cô đưa cóc vào rừng nuôi. Nhờ phép của

cóc, hai mẹ con có hàng trăm người hiện ra làm rẫy cho.

Cóc xin đi chăn trâu cho chúa làng. Mỗi lần chăn, cóc ném quả ké lên

đầu trâu để đánh dấu và cứ bảo trâu ra đồng ăn lúa cho no, ăn xong cóc hóa

phép cho lúc mọc ra như cũ. Sau ba năm cóc lấy công một con trâu trắng rồi

hóa phép làm cho chỗ mình thành một làng thịnh vượng, đông đúc. Sau đó,

cóc đi tìm bố (tức thần nước) rủ bố đi xem hội đâm trâu cho mẹ gặp. Cóc

làm lễ cưới cho bố mẹ tại làng của mình.

Cóc biến thành chàng trai đẹp đi tìm vợ. Hai con gái của Vu Dơ - ría

rất đẹp tuy đã đính hôn với Dơ – róc Dơ rây nhưng nghe tiếng cóc hỏi chào,

hai cô cũng như trai gái trong làng đều mê mệt quên hết tất cả. Hôm Dơ –

róc Dơ rây làm lễ cưới, cóc làm cho hai cô gái theo mình. Tức giận Dơ – róc

Dơ – rây làm một trận bão ghê gớm. Cóc hóa làm rắn chặn gió bão. Dơ – róc

Dơ – rây định giết cóc, cóc hóa thành chàng trai to lớn – đánh bại. Hai bên

đánh nhau suốt một năm cuối cùng cóc chém được kẻ địch. Về dọc đường,

Cóc gập Cầu – Vồng là bố của Dơ – róc Dơ – rây lại đánh nhau. Sắp thua,

cóc nhờ mưu mẹo của bồ câu, chém được cầu vồng đổ sụp tước lấy bình

phép. Cóc còn tiếp tục đánh nhau với Hàm – răng – ma, và sau đó đánh nhau

với thằng lùn cũng đều nhờ bồ câu mà thắng lợi. Sau chiến công đó, cóc làm

cho làng trở lại giàu có, thịnh vượng và cưới hai cô gái con của Vu Dơ – ría

làm vợ.

Chàng Lợn ( Gia Rai )

Bà già Pôm ở với cháu gái là Lúi ( Lúi = út ). Môt hôm Lúi cùng bà đi

hái bong, nhân khát đi tìm nước. Thấy một cây nấm có nước đái của con lợn

rừng, nàng không nghe lời bà mà lấy nước uống. Từ hôm ấy, nàng về nhà tự

nhiên có mang, đẻ ra được một con lợn. Vì xấu hổ cho cháu, bà Pôm chôn

lợn đi nhưng mấy lần đắp đất kĩ càng, về nhà đã thấy lợn về trước. Nghe tin

Lúi đẻ lợn, Pơ – tao là tù trưởng giàu có đến xem, bà cháu nói dối nhưng lợn

đã tự khai cho Pơ – tao biết. Khi Pơ – tao về, lợn đòi theo. Pơ – tao không

mang lợn theo nhưng về đến nhà thấy lợn nằm gọn trong gùi. Mấy lần Pơ –

tao bắt trả về cho Lúi nhưng khi về đến nhà mình, lợn đã có mặt ở đấy rồi.

Pơ – tao đành phải nuôi lợn. Pơ – tao có con gái xinh đẹp là Hơ – bia thường

đi chăn trâu đàn. Một hôm nàng bận đi tát cá nên lợn xin đi chăn thay.

Không ngờ, lợn chăn giỏi. Hơ – bia đi rình thấy lợn lột xác hóa thành chàng

trai tuấn tú, nhưng khi hỏi lợn, lợn tìm cách nói không biết. Hơ – bia xin cha

chuẩn bị lễ cưới chồng – một người mà nàng chưa nói tên. Đến khi chuẩn bị

xong, cha hỏi lấy ai, nàng mới nói là lấy lợn. Lợn làm bộ từ chối để cho Hơ

– bia năn nỉ mãi, mới nhận lời. Gần hôm ăn cưới, nhà không đi lấy nước kịp

để vào bình rược cần, lợn chỉ múc một ống nhỏ nhưng rót mãi không hết.

Một hôm, dân làng đi săn, lợn hỏi thì họ giễu cợt, Hơ – bia phải an ủi

chồng. Chuyến đi ấy dân làng chẳng săn được con thịt nào, trừ một con đã bị

hổ ăn một nửa. Đến lượt, lợn đi săn cùng em vợ thì được thịt nai phơi đầy cả

một nhà. Hôm khác dân làng đi dỗ voi, chỉ được một con voi què. Đến lượt

lợn đi, Lợn trèo lên đầu con voi chúa làng. Voi chạy làm đủ cách nhưng Lợn

vẫn không rơi. Sau đó, voi lặn xuống suối một tháng để đuổi lợn, lợn ngậm

măng cho thối bỏ lên đầu voi, bảo voi nếu lặn lâu thì thối mất đầu. Voi sờ lên

thấy thối, tưởng thật bèn đầu hàng lợn, đem cả đàn voi về. Dân làng từ đấy

mới phục lợn. Một hôm lợn đi tắm, Hơ – bia giấu lốt, Lợn đành phải làm

người. Khi Pơ – tao già giao quyền và của cải lại cho lợn.

H’Bia Rác lấy chồng chồn (Gia Rai)

Ngày xưa có hai ông bà sinh được hai đứa con gái. Cô chị càng lớn càng

xinh đẹp nên dân làng gọi là H’Bia Rác.

Một hôm, hai chị em vào rừng phát nương. Nắng quá, họ rủ nhau xuống

suối tắm. Nước trong vắt, H’Bia Rác tắm mãi không muốn lên. Cô em nhắc,

H’Bia Rác đứng lên nhưng càng cựa quậy, chân càng thụt sâu. Cô gọi em,

em sợ quá về gọi cha mẹ và mọi người đến cứu. Người cha bảo ai cứu được

sẽ gả cho người ấy. Chẳng ai gỡ được chân ra. Cuối cùng, có một con chồn

từ đâu chạy lại cứu được cô gái lên bờ.

Nhưng lần này, chồn lại bị ốm. Cha mẹ chỉ vào chồn và bảo đấy là chồng

Rác, Rác phải chăm sóc. Để cứu sống chồn, Rác phải vào rừng xin mật gấu,

xin nước bọt hổ. Lấy được những thứ ấy, chồn khỏi bệnh. Rác đưa chồng ra

suối tắm. Chồn cởi lốt hiện nguyên hình là một chàng trai khỏe mạnh. Rác

sung sướng dẫn chồng về, sống hạnh phúc đến trọn đời.

Vùi và Lu (Lô Lô)

Một người đàn ông nhà giàu có hai vợ, mỗi vợ chỉ sinh một người con

gái. Con vợ cả là Vùi, con vợ lẽ là Lu. Chẳng bao lâu vợ cả qua đời, để lại

Vùi sống với dì ghẻ. Vùi phải làm lụng vất vả không còn biết đến cái vui của

ngày hội, ngày chợ như hồi mẹ còn sống.

Vùi càng lớn càng xinh đẹp còn Lu dù được chìu chuộng nhưng càng lớn

càng xấu xí. Mụ dì ghẻ thấy Vùi xinh đẹp, sợ con mình không lấy được

chồng bèn tìm cách giết hại Vùi đi. Vào ngày rằm tháng bảy, mụ bảo Vùi leo

lên cây hái cau cúng ma. Khi Vùi leo lên, mụ ở dưới chặt cây. Vùi ngã

xuống ao chết hóa thành bông hoa lê trắng muốt. Bà lão gần đấy hái hoa về,

treo ở đầu giường. Lần nào bà đi về cũng có cơm canh ngon lành. Nhiều lần

như vậy, bà lão rình và bắt được Vùi, nhận làm con nuôi. Một hôm đi hội,

Vùi gặp lại mẹ con Lu. Sau đó, mẹ con Lu tìm giả vờ thương nhớ, lôi kéo

Vùi về nhà, lại đối xử rất thậm tệ.

Vua mở hội kén vợ cho Hoàng tử, Vùi được chọn. Vua chết, hoàng tử lên

ngôi vua, Vùi làm hoàng hậu. mẹ con dì ghẻ đến và tìm cách hại chết Vùi

một lần nữa. Vùi chết, hóa thành chim họa mi. Vua rất yêu họa mi, Lu hại

chết họa mi. Qua nhiều kiếp hóa thân, Vùi trở lại được cung vua và xinh đẹp

hơn trước. Lu thấy Vùi xinh đẹp hơn hỏi nguyên do. Vùi chỉ cách cho là

nhảy vào hố nước sôi sẽ xinh đẹp giống mình. Lu chết, Vùi làm mắm gửi

biếu dì ghẻ. Mụ ăn gần hết, nhìn thấy đầu lâu của con, lăn đùng ra chết.

Hai anh em (Hà Nhì)

Có hai anh em mồ côi sống với nhau. Người anh tên Á Phò, người em tên

Á Lá. Đến khi người anh có vợ, nghe lời vợ xui đuổi em. Á Lá bị xua đuổi

ôm chó, ôm mèo ra đi. Con chó, con mèo biết múa hát làm cho Á Lá đỡ

buồn.

Một hôm có một đàn người đi buôn qua thấy con chó, con mèo biết hát.

Đàn người sau khi nghe hát xong thưởng cho Á Lá một đàn ngựa và những

thồ hàng. Á Lá từ đó sống sung sướng yên vui nhất làng. Á Phò thấy vậy,

đến mượn chó mèo của em. Hắn để chúng đói và rét cóng cho nên khi đàn

người đi qua không con nào hát được. Á Phò bị đàn người đánh cho một trận

thừa sống thiếu chết.

Hắn tức giận đánh chết chó mèo. Người em thương hai con vật quá, đem

về chôn. Chỗ chôn ấy mọc lên cây khà tươi tốt, Á Lá lấy cây khà làm lược

chải đầu thì tóc xanh và mượt. Anh đến mượn, chải vào đầu thì da đầu lở loét

nhức nhối.

Hắn tức giận đem đốt lược đi. Người em chạy đến chỉ còn sót một cái

răng lược và lấy về làm lưỡi câu câu cá. Từ đó, em câu nhiều cá to, sống

sung túc. Anh đến mượn cần câu, câu lên thấy một con rắn mào đỏ, hoảng

hốt bỏ chạy.

Mất câu, em ra bờ sông ngồi buồn rồi ngủ quên lúc nào không hay. Trong

mơ, người em gặp con gái Long Vương nhờ anh xuống Thủy cung chữa

bệnh cho vợ Khoàng Tí (chính làcây ló mì bị tổ ong bám chặt) và gỡ lưỡi

câu cho Khoàng Tí. Khoàng Tí vui mừng thưởng cho nhiều thứ trong đó có

con gà đen. Về đến trần gian, con gà đen biến thành cô gái xinh đẹp làm vợ

Á Lá.

Tên Khoàng Tí ở trần gian thấy Á Lá có vợ đẹp, cho người đến bắt vợ

của Á Lá. Trước khi đi, người vợ dặn chồng hãy kiếm đủ lông thú làm áo rồi

mới đi tìm mình. Khi tìm đủ rồi, anh gánh hàng đi bán và tìm đúng nơi vợ ở.

Nghe tiếng chồng rao, người vợ kêu vào. Nàng trở nên vui vẻ hơn. Thấy

người đẹp vui vẻ, Khoàng Tí mượn áo lông thú mặc vào. Con hổ trong cũi

bỗng nhiên sổng ra ngoài, thấy người mặc áo lông thú liền nhảy ra xé xác.

Á Lá lên ngôi Khoàng Tí, lấy hết của cải chia cho mọi người. Hai vợ

chồng sống hạnh phúc.

Mụ dì ghẻ ác độc và hai đứa con chồng (Cơ – tu)

Có một người đàn ông lấy hai vợ. Người vợ gốc có hai đứa con: một trai,

một gái. Người vợ ngọn không có con nhưng được ông chồng chiều chuộng.

Nghe lời vợ ngọn, ông đánh đuổi vợ gốc ra khỏi nhà. Còn hai đứa con thì

suốt ngày bị mụ hành hạ, sai khiến. Rồi mụ lại bảo chồng đem bỏ hai đứa

con vào rừng. Hai đứa trẻ bị bỏ vào rừng thì kêu khóc và đi tìm thức ăn.

Chúng đi mãi và lạc vào cánh rừng lạ, có một căn nhà sau bụi lồ ô. Đấy là

nhà của mụ quỷ chuyên ăn thịt người. Mụ vắng nhà, hai đứa trẻ đào một cái

bẫy giữa nhà và giết được mụ quỷ. Chúng ở đấy làm nương sinh sống.

Ngày qua ngày, hai đứa trẻ đã trưởng thành. Có một người đi săn lạc vào

rừng, thấy cô em xinh đẹp hỏi cưới làm vợ. Ngày cưới hai anh em mời bố và

dì ghẻ đến. Người anh để con rắn độc vào nồi và nhờ dì ghẻ thổi cơm. Mụ bị

rắn độc cắn nhưng không biết. Sau đó, người anh lại xui mụ về trước trông

nhà để cha ở lại chơi vài ngày. Đi giữa đường, nọc độc ngấm vào mình, mụ

lăn ra chết. Từ đó, ba bố con lại sống hạnh phúc bên nhau.

Ông Hùi (Cơ – tu)

Ở làng kia có một người đàn ông già nhưng chưa có vợ. Ông nghèo,

không có tên tuổi lại mắc bệnh hủi nên dân làng gọi ông là ông Hùi. Trong

làng ông Hùi có một lão Brê- nha rất giàu. Lão có mười cô con gái và muốn

kén cho chúng những người chồng xứng đáng.

Một hôm, lão gọi các con đến và hỏi: “Sau này có chồng, các con mang

ơn cha hay ơn chồng?”. Chín cô chị đều đáp mang ơn cha, chỉ có cô út bảo

mang ơn chồng. Lão Brê- nha tức giận, liền gả cô út cho ông Hùi.

Từ ngày có vợ, ông Hùi chăm chỉ làm ăn. Có điều kì lạ là sau khi ông

phát rẫy xong sau một đêm cỏ lại mọc như cũ. Tức quá, ông rình và bắt được

một con khỉ trắng. Ông mang khỉ đi định giết thì khỉ van xin, hứa sẽ cho ông

giàu có, hết bệnh hủi vả trẻ đẹp hơn xưa. Ông Hùi nhận lời và còn đòi thêm

một chiếc chiêng thần.

Về nhà, vợ con không nhận ra nên ông phải kể mọi việc diễn ra ở trên

rẫy. Sau đó, ông Hùi muốn làm lễ cưới vợ lại. Lão Brê- nha lại thách cưới rất

nhiều sính lễ. Ông Hùi mang chiêng đánh. Bố vợ và họ hàng thấy nhiều của

cải thì tranh nhau giành lấy. Cuối cùng lão Brê –nha bị họ hàng đánh chết.

Hai anh em mồ côi (Pu Péo)

Có hai anh em mồ côi cha mẹ, người anh có vợ bắt em làm đầy tớ cho

mình mới cho ăn. Em buồn lắm và xin chia tài sản ra ở riêng. Anh không cho

gì ngoài con chó, em nhận chó ra đi không nói nửa lời.

Em làm việc chăm chỉ, không có trâu cày đất, em bắt chó đi cày luôn an

ủi, vỗ về nó. Chuyện chó kéo cày đã tới tai người anh. Hắn tưởng em mình

có của quý, liền mò sang mượn chó về cày. Ở với ông chủ độc ác, keo bẩn

này, chó không được cho ăn mà còn bắt đi làm sớm, nó không kéo cày được.

Người anh tức quá nện nó chết.

Buốn quá, em lấy cần câu đi câu cá. Câu mãi chẳng được gì ngoài con cá

bé tí. Chàng ngủ thiếp đi, khi tỉnh dậy trời đã tối. Chàng tìm nơi trú ngụ và

vào nhà một bà lão xin nghỉ nhờ. Chàng nướng cá cho mèo (bà lão hóa

thành) ăn thịt còn mình ăn xương. Đêm đến, hổ con từng đàn kéo đến, bà

lão đuổi đi và hôm sau bà cho anh vàng bạc về để mua con trâu khỏe, cái cày

tốt.

Người em vui vẻ quay về tới đầu nương gặp anh. Anh khám người em

thấy có vàng bạc định cướp không. Hắn vu cho em ăn cắp. Người em đành

phải kể hết mọi việc. Người anh nghe xong thích quá, giật lấy cần câu đi câu.

Câu được một con cá, hắn nằm chơi đợi đến tối sẽ đến nhà bà lão. Bà lão

cũng cho ngủ nhờ. Hắn nướng cá và bà lão cũng hóa thành mèo đến đòi ăn.

Hắn bảo đợi cá chín sẽ cho ăn xương. Cá chín hắn ăn rồi vứt xương và đẩy

mèo ra xa. Đêm đến, hổ kéo đến ăn thịt người anh độc ác chỉ còn những mẩu

thịt vụn.

Hai anh em mồ côi (Giáy)

Có hai anh em mồ côi sống rất hòa thuận, sau anh lấy vợ rồi nghe lời vợ

sinh lòng ác hắt hủi và chửi mắng em thậm tệ. Một hôm, vào rừng gác nương

bắp đang chín, mệt quá người em nằm ngủ mơ gặp cụ già tóc trắng như

cước, râu dài đến ngực, mặt đỏ hồng hào, tay chống gậy trúc vàng óng. Cụ

bảo khi gặp khỉ phải nằm giả chết để khỉ khiêng đi chôn, đến nơi thấy gì lấy

đó mang về. Người em làm đúng như lời và quả nhiên khỉ khiêng đi đến núi

vàng. Em lấy vàng bạc mang về và trở nên giàu có.

Thấy vậy, người anh lân la đến gần hỏi em nguyên nhân vì sao giàu có.

Nghe em kể anh cũng làm giống như em. Nhưng khi khỉ khiêng đi chôn,

người anh mở mắt ngó xuống thấy vực sâu thăm thẳm, hắn bủn rủn tay chân,

bụng sôi ùng ục. Nghe mùi thối, các con khỉ khiêng đi chôn than thở. Khỉ

đầu đầu ngỡ là xác chết đã thối rửa, bèn bảo quăng xuống vực. Người anh

chết tan xác.

Bảy chị em gái (Giáy)

Có hai vợ chồng nhà nọ sinh được bảy người con gái. Ông già làm ruộng

phải đắp phai để ngăn nước vào mương. Người bố đắp mãi không được nên

ước nếu ai đắp được sẽ gả con gả cho. Vừa dứt lời có một chàng trai lạ đến

và đắp được. Nhưng sáu người con lớn không ai chịu lấy vì thấy cổ chàng

trai quấn chăn nên họ đoán chàng là rắn. Cô bảy thương cha nên phải nhận

lời.

Chàng trai ấy là con vua Thủy Tề nên sau đó dẫn vợ về thủy cung sống

sung sướng. Ít lâu, họ sinh được một đứa con trai. Họ sắp sửa nhiều quà, dắt

con về thăm cha mẹ. Người chị cả thấy em sung sướng thì ghen tức, định

cướp chồng em. Ả rủ em vào rừng hái quả chua rồi đẩy em xuống hồ sâu

chết. Sau đó, người chị cả thay em làm vợ chàng rắn.

Người em út chết hóa thành con chim, vua yêu quý và đem nuôi trong

lồng. Người chị cả lại giết chim và em hóa thành rau tầm bóp, bụi mai. Mỗi

lần chồng và con đi qua, bụi mai sà xuống chải đầu cho hai cha con còn

người chị cả đi qua bị nắm mớ tóc vụt lên trời. Tức quá, ả chặt bụi mai. Có

một bà lão thấy bụi mai bị chặt bèn xin một ống còn sót lại về đựng nước.

Chuyện lạ xảy ra là ngày nào bà lão đi làm về cũng thấy cơm nước dọn sẵn.

Bà rình và nhận cô gái bước ra từ ống nước làm con nuôi.

Sau đó, nhờ đứa con sang chơi và phát hiện mẹ còn sống nên vợ chồng,

con cái gặp nhau. Mụ cả thấy em về lại xinh đẹp hơn trước nên tức tối trong

lòng và hỏi: “Sao em đẹp thế?”. Đáp: “Tắm nước sôi nấu với hoa mận, hoa

đào, hoa dẻ”. Mụ bắt chước, nhảy vào máng tắm. Nước quá nóng, mụ chết

cứng trong máng, mắt trắng dã.

Chàng Rá (Dân tộc H’rê )

Có một bà cụ nghèo khổ sinh ra một đứa con xấu xí tròn như quả bầu

đặt tên là Rá. Rá ăn rất khỏe, mới lọt lòng đã ăn hết một đấu gạo. Lớn lên đi

ở cho một tù trưởng, ai cũng ghét chỉ có cô tám là thương Rá, nhận hằng

ngày đưa cơm cho anh. Khi đến nơi thấy Rá còn ngủ, tiếng gáy như sấm. Cô

chờ Rá dậy, đưa cơm cho Rá ăn, rồi đứng rình xem thì thấy Rá tách đôi hóa

thành người rất khỏe, đẹp lại hát hay và chia nhau chặt cây, chỉ một lát là

xong. Sau cô gái ốm tương tư và đòi lấy chàng Rá. Bố mẹ thuận gã nhưng

đuổi hai vợ chồng ra khỏi nhà. Nhờ có phép Rá, trở nên giàu có còn tù

trưởng thì sau hóa thành hổ.

Chàng rùa ( Xơ – đăng )

Một ông già hóa vợ có mười cô con gái, một hôm bằng lòng để con

rùa sửa giúp cái lờ đơm cá với điều kiện là gả cho nó một cô làm vợ. Các cô

đều từ chối, chỉ có cô út bằng lòng làm vợ rùa. Mỗi lần đến với vợ, rùa đều

hóa thành chàng trai, và căn buồng tự nhiên sáng rực lên, làm cho các chị

tưởng buồng bị cháy, kêu cứu ầm ĩ.

Một hôm, ông già ốm bảo muốn ăn óc cá, bảo các chàng rể đi tìm.

Chẳng ai lấy được cả, chỉ có rùa lấy được mấy nong. Ông già lại tổ chức thi

trâu rồi lại thi xây nhà, rùa đều thắng cuộc, làm cho các chị vợ ghen tức.

Sau đó, rùa sang nước Lào buôn bán. Trước khi đi, rùa giao cho vợ một

quả trứng, một con dao và một quả dừa. Mấy chị thấy chồng em có tài bèn

em rủ nhau đi lấy củi rồi đi mua muối nhưng vợ rùa đều từ chối. Nhưng

nàng lại bằng lòng khi các chị rủ đi chơi đu. Bị các chị chặt đu, vợ rùa chết,

xác văng xuống sông, bị cá nuốt, nhưng lại sống dậy và sinh con trong bụng

cá. Rồi vợ rùa cũng lấy dao vạch bụng cá, bế con chui ra. Quả trứng nở thành

gà trống, còn quả dừa thì mọc thành cây dừa lớn nhanh như thổi. Vợ rùa trèo

lên, cây cao lên mãi. Ở trên cây vợ rùa nhìn tận sang tận nước Lào. Nàng bảo

gà gọi chồng về. Nghe tiếng gà gáy, rùa lên đường về ngay. Trời mưa như

trút, phải ẩn dưới cây dừa, rùa vừa kêu đói thì cơm trên ngọn cây rơi xuống,

kêu khát thì quả dừa rụng. Hai vợ chồng gặp nhau. Nghe vợ kể mọi chuyện,

rùa bỏ vợ vào gùi mang về, lại trao cho một cái kim cứ đâm vào mắt người

nào nhìn vào gùi. Thấy gùi nặng , mấy chị vợ rùa liền hí hửng ra đón. Khi

nhìn vào gùi thì bị kim đâm vào mắt, đứa hóa thành chó, đúa hóa thành mèo.

Về sau chó mèo ấy chuyên giữ nhà cho vợ chồng rùa.

Cóc và H’Bia Phu ( Dân tộc Ba-na)

Con gái bà Xóc- ia là Bơ- roong-hia phơi thóc ở đường cái. Voi của

Đăm Phu ngang qua giậm phải. Bơ – roong – hia tức mình chửi. Nhưng vì

sợ, nàng hóa làm cái sọt. Đăm Phu tìm không được, tức quá đái vào nồi cơm.

Bơ – roong – hia không biết ăn phải cơm. Tự nhiên nàng có mang đẻ ra

một con cóc. Một hôm bác cóc tới chơi. Nhà cóc nghèo, nhưng cóc đã làm

cho một quả bầu có phép lấy gạo mãi không hết. Sau đó, cóc đòi theo về nhà

bác, nhưng người bác không cho vì sợ người ta cười. Nhưng bác cóc về dọc

đường mấy lần phát hiện ra cóc ngồi trong ống tên của mình, mấy lần đuổi

cóc về, nhưng đâu lại hoàn đấy. Cuối cùng bác phải cho đi nhưng buộc cóc

khi đến nhà mình phải ngồi trong buồng kín không được đi đâu. Cóc không

đi đâu nhưng lại ước các cô gái lại kéo tới nhà mình nườm nượp để tìm

mình. Cuối cùng, bác cóc cũng phải cho cháu mình ra tiếp. Trong số đó, có

H’Bia – phu là người đẹp nhất vùng tỏ ra quyến luyến cóc. Đêm ấy, cóc ước

cho mọi người đi vắng, trừ H’Bia Phu. Nghe tiếng đàn của cóc bấy giờ đã

hóa thành chàng trai tuấn tú - ở nhà “ rông”, lòng nàng không yên phải tìm

cho thấy được người gẩy đàn, nhưng khi nàng đến thì chàng trai đã hóa

thành cóc. Mấy lần đi đi về về đều như vậy, nhưng H’Bia Phu vẫn yêu cóc,

dần dần sinh ốm tương tư. Thấy vậy, bố nàng cho mời các chàng rai đến

nhưng chỉ làm cho bệnh nặng thêm. Khi cóc đến thì H’Bia Phu lành bệnh

như không có việc gì. Khi thấy con một hai đòi lấy cóc làm chồng, bố mẹ

nàng đành phải gả rồi đuồi đi sau khi làm lễ cưới rất đạm bạc. Đến một khu

rừng, cóc hóa phép ra nhà cửa, trâu bò, lúa gạo và nô lệ. Vợ cóc đẻ ra một

con trai gọi là Đăm Pen lớn nhanh như thổi.

Một hôm H’Bia Phu bảo con mời ông bà ngoại tới chơi. Ông bà ngoại

bắt phải đắp một con đường lớn có voi đứng nối đuôi nhau mới chịu đi, cóc

hóa phép làm ngay. Họ ở nhà rể ba ngày, được ăn toàn của ngon vật lạ. Khi

ra về được rể tặng một con trâu bé tý, bố vợ cóc không thèm lấy, còn lấy

điếu gõ vào đầu cho trâu chết, nhưng càng gõ trâu càng lớn nhnah như thổi,

cuối cùng to bằng con voi, phải nhận. Về sau, khi ông bà ngoại mời cháu đến

chơi. Đăm Pen cũng đòi như khi họ thách bố nó trước kia. Nhưng dù cố sức

đắp nhưng đường vẫn hẹp, voi thì không đủ. Khi Đăm Pen trở về ông bà

cũng tặng một con trâu mộng nhưng nó không chịu nổi một cái gõ bằng ống

điếu của chàng.

Em bé và chim vàng anh (Chăm Hơ- roi )

Hai vợ chồng người kiếm củi có đứa con trai múa giỏi, đồng thời có

nuôi một con chim vàng anh hót rất hay. Thấy con chim quí, một lão nhà

giàu đến cướp lấy vể định nuôi cho nó hót. Nhưng chim không chịu hót, ủ rủ

không ăn mấy ngày liền. Lão nhà giàu bèn vứt chim ra bụi. Đứa con trai nhà

kia lại nhặt chim về chăm sóc, chim béo khỏe lại hót hay như trước.

Nghe nói chim đã sống lại như trước, lão nhà giàu liền đến giành chim,

nhưng chim đã mổ vào mắt hắn túi bụi.

Gơ – Liu, Gơ - Lát ( X’rê )

Hai chị em cùng cha khác mẹ lại xinh đẹp như nhau nhưng Gơ Liu thì

tính nết hiền hậu, còn Gơ Lát thì gian ác. Một hôm có một con quạ mang

một đôi hài không phải của hai cô gái mà là của hoàng tử Chàm cho phụ nữ

ướm chân, nếu vừa thì hoàng tử lấy làm vợ. Gơ Liu ướm vừa chân, được đón

về cung Gơ-Lát được phép theo chị. Một hôm trong lúc chồng đi đánh giặc,

Gơ -Liu bị Gơ- lát giết rồi phao tin chết vì bệnh. Gơ- Lát thay Gơ- liu làm

vợ, hoàng tử nhận nhưng tỏ ý rất ghét. Ở mộ Gơ- Liu mọc lên một khóm

trúc, hoàng tử cho rằng là hồn vô tái sinh, sai rào kín, nhưng cây bị Gơ- Lát

chặt mất trong khi chồng đi vắng. Hồn Gơ- Liu lại nhập vào con chim nhỏ

lông vàng, một hôm nó thả xuống trước mặt hoảng tử một hộp trầu. Thấy

hộp trầu quen thuộc hoàng tử cũng bảo: - “ Có phải Gơ Liu thì xuống đây

với ta”. Chim bay xuống, nhưng khi hoàng tử đi vắng thì Gơ Lát bắt làm thịt.

Lông chôn bên đường hóa thành cây thị có độc một quả. Một bà cụ đi ngang

qua nghe có tiếng gọi, một hộp trầu tự dưng rơi vào tay bà, có tiếng bảo bà

hãy đưa đến cho hoàng tử. Hoàng tử theo bà đến cây thị thì quả thị rơi xuống

như lời khấn của bà cụ, rồi hóa thành Gơ Liu.

Khi hoàng tử biết rõ chuyện, sai xẻ thịt Gơ-Lát gởi về biếu mụ dì ghẻ. Mụ

ăn hết nắm, rồi đến thăm con gái trong lúc vợ chồng Hoàng tử ăn mừng sum

họp. Bị đánh đuổi và khi biết mình đã ăn thịt con, mụ nhảy xuống sông chết.

Có con quạ đến để rỉa thịt mụ.

Nàng tiên thứ chín ( H’rê )

Một chàng trai nghèo ở với mẹ cũng được tiên bày cho cách đi tìm vợ và

trộm lấy cánh của các cô gái nhà trời thường đáp xuống hồ trên núi để tắm.

Quả nhiên anh ta buộc được cô thứ chín đẹp nhất làm vợ. Họ cũng sinh được

một trai và sau đó bộ hạ nhà trời (ở đây là thần sét) xuống buộc nàng phải về

nếu không sẽ giết chết cả chồng lẫn con. Nàng tiên bèn lấy ba uống nước vắt

sữa để lại cho con, cắt một nắm tóc để lại cho chồng, rồi theo thần sét về trời.

Trở về thấy mất vợ, anh chàng cũng được con chim sắt ( phải phải do thần

mà do người thợ rèn chế ra), biết bay. Sắp tới thiên đình, còn phải vượt một

con sông. Chồng đã thấy vợ ngồi giặt áo ở bên kia, nhưng chim sắt không

thể vượt nổi. Hai bên chỉ trông nhau mà khóc.

Dân nhà trời thấy vậy, bèn họp nhau xin phép vua cho họ gặp nhau.

Nhưng vua đã có ý định gả nàng cho người nhà trời, nên không thuận.

Nhưng dân lại dùng áp lực buộc vua phải theo. Cuối cùng vua cũng chấp

nhận nhưng buộc anh phải vượt qua ba thử thách.

Thử thách thứ nhất: Nhặt cho hết số vừng gieo trong một cánh rừng dài

khoảng chim bay mỏi cánh. (nhờ có chim sẻ giúp cho việc này )

Thứ hai: ăn cho hết ớt chín trong một khu vườn trồng toàn ớt ( nhờ có

thầy cúng hóa thành chim ăn hộ)

Thứ ba: phải làm một ngôi nhà đẹp giữa sông (nhờ thần cá ra lệnh các

giống thủy tộc cùng nhau làm nên kì công này nên vợ chồng mẹ con gặp

nhau. Trong khi đó vua nhà trời vì có cái hứng nấu ăn trên ngôi nhà mới, nên

các giống thủy tộc thấy nóng lần lượt trốn chạy làm cho vua và các bộ hạ

chết đuối. Vì thế anh chàng dược dân nhà trời cho thay vua cai quản thiên

đình.

Chàng Sơn ( Mường )

Chàng Sơn nhờ vợ chồng rắn trắng cho nước bọt làm thuốc nên sống

sung túc. Một hôm anh định giết chết con rắn đen để cứu rắn trắng. Không

ngờ đã bắn nhầm con rắn vợ. Rắn trắng chồng toan báo thù nhưng biết được

ý định của Sơn, bèn tặng Sơn một viên ngọc nghe được tiếng loài vật.

Một hôm, vì quên để dành bộ lòng cho quạ nên Sơn bị quạ báo thù bằng

cách sai chuột đến trộm viên ngọc của anh. Chuột đã thành công nhờ mưu

ngoáy đuôi vào mũi Sơn hắt hơi làm văng viên ngọc ngậm trong miệng lúc

ngủ. Sau đó, mèo giúp Sơn đi tìm viên ngọc. Mèo tóm chuột, bắt chuột phải

khai thật. Khai xong, chuột còn bày cho mèo kế “ giả chết bắt quạ”. Quạ thấy

mèo nằm chết, tưởng có món bở, xà xuống định mổ. Nhưng không ngờ mèo

chộp được quạ, giành lấy viên ngọc rồi đưa cho chủ. Quạ giận lắm, nhân cắp

được mũi tên có khắc tên Sơn, bèn cấm vào xác chết trôi sông. Sơn do đó bị

hạ ngục. Nhưng vì có viên ngọc, Sơn tìm thấy được ấn ngọc của vua bị mất,

nên được tha và vua gả công chúa.