ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
NGUYỄN THỊ CẨM THU
KHẢO SÁT PHÔNG NỀN VÀ TỐI ƢU HÓA
HIỆU SUẤT CHO HỆ PHỔ KẾ GAMMA HPGE
TRONG PHÉP ĐO MẪU MÔI TRƢỜNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC TỰ NHIÊN
NGUYỄN THỊ CẨM THU
KHẢO SÁT PHÔNG NỀN VÀ TỐI ƢU HÓA
HIỆU SUẤT CHO HỆ PHỔ KẾ GAMMA HPGE
TRONG PHÉP ĐO MẪU MÔI TRƢỜNG
CHUYÊN NGÀNH: VẬT LÝ HẠT NHÂN NGUYÊN TỬ VÀ NĂNG LƢỢNG CAO
MÃ SỐ: 60-44-05
LUẬN VĂN THẠC SĨ VẬT LÝ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. MAI VĂN NHƠN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – 2010
LỜI CẢM ƠN
Hai năm học cao học và một năm làm đề tài luận văn, một thời gian thử
thách đối với tôi khi cuộc sống quanh tôi còn bộn bề công việc cần phải lo lắng.
May mắn là tôi đã gặp một môi trường rất thuận lợi cho công việc nghiên cứu, đó là
nhóm NMTP của bộ môn Vật lý hạt nhân trường Đại học khoa học tự nhiên thành
phố Hồ Chí Minh. Nơi đây, các ý tưởng nghiên cứu đã nảy sinh, tôi đã trưởng thành
từ môi trường này.
Khi việc thực hiện đề tài hoàn tất, việc đầu tiên tôi nghĩ đến là gửi lời cảm ơn
tới tất cả các thành viên trong nhóm.
Tôi cảm ơn thầy hướng dẫn PGS.TS Mai Văn Nhơn, cũng là người thầy đã
sáng lập ra nhóm, đã gợi ý, hướng dẫn đề tài cũng như dành nhiều thời gian để đọc
và sửa chữa luận văn cho tôi.
Tôi xin chân thành cảm ơn GVC. TS Trương Thị Hồng Loan đã tận tình chỉ
bảo và định hướng cho tôi những lúc tôi gặp khó khăn. Cô cũng là người đồng hành
với tôi trong việc làm mẫu đo và đo phổ của mẫu.
Một thành viên rất đặc biệt khác của nhóm là bạn Th.S Đặng Nguyên
Phương, một người rất nhiệt tình và tâm huyết, đã giúp tôi trưởng thành rất nhiều
trong công tác nghiên cứu.
Cảm ơn các bạn trong nhóm NMTP đã giúp đỡ, chia sẻ với tôi trong quá
trình thực luận văn này.
Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời tri ân đến các thầy cô đã giảng dạy chúng tôi
trong suốt quá trình học tập. Chân thành cảm ơn đến thầy TS.Châu Văn Tạo, người
đã động viên tôi rất chân thành lúc đầu khóa học, giúp tôi vững tin bước tiếp con
đường mà tôi đã chọn.
Tôi chân thành cảm ơn ThS. Thái Mỹ Phê và Trung tâm Kĩ thuật Hạt nhân
Tp-HCM trong việc cho mượn một số mẫu chuẩn và mẫu phân tích.
Xin được phép gửi lời biết ơn đến các thầy cô trong hội đồng đã đọc, nhận
xét và đóng góp những ý kiến quý báu cho luận văn này.
Tôi xin gửi lời biết ơn sâu sắc đến ban lãnh đạo của trường THPT Trí Đức,
nơi tôi công tác, đã tạo điều kiện thuận lợi về thời gian để tôi hoàn tất khóa học này.
Tôi xin chân thành cảm ơn anh Đỗ Văn Hào, người đã miệt mài chế tạo
những chiếc hộp cho quá trình nghiên cứu của tôi.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn đến gia đình, bạn bè xung quanh tôi đã
giúp đỡ, động viên tôi trong suốt khóa học.
Nguyễn Thị Cẩm Thu
MỤC LỤC Danh mục các kí hiệu và các chữ viết tắt ................................................................... 1
Danh mục các bảng ................................................................................................... 3
Danh mục các hình vẽ, đồ thị..................................................................................... 4
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 7
CHƢƠNG 1. PHỔ GAMMA VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÍ PHỔ
GAMMA .................................................................................................................11
1.1 Phổ gamma .........................................................................................................11
1.1.1 Ghi nhận phổ gamma ............................................................................11
1.1.2 Các tương tác ảnh hưởng lên sự hình thành phổ gamma ........................12
1.1.2.1 Hấp thụ quang điện..................................................................12
1.1.2.2 Tán xạ Compton ......................................................................16
1.1.2.3 Hiệu ứng tạo cặp .....................................................................20
1.1.2.4 Bức xạ hãm .............................................................................22
1.2 Hiệu suất của detector ghi nhận phổ gamma .......................................................22
1.3 Các phương pháp xác định hoạt độ phóng xạ của các đồng vị có trong mẫu .......24
1.3.1 Phương pháp WA..................................................................................24
1.3.1.1 Phương pháp tuyệt đối .............................................................25
1.3.1.2 Phương pháp tương đối ...........................................................25
1.3.1.3 Phương pháp WA trong phân tích mẫu môi trường ..................26
1.3.2 Phương pháp FSA .................................................................................29
1.3.2.1 Sơ lược lịch sử ........................................................................29
1.3.2.2 Phương pháp ...........................................................................30
CHƢƠNG 2. PHÔNG NỀN PHÓNG XẠ MÔI TRƢỜNG ..................................32
2.1 Nguồn gốc phóng xạ môi trường ........................................................................32
2.2 Các hạt nhân phóng xạ do bức xạ vũ trụ .............................................................33 2.2.1 Tritium (3T)...........................................................................................33 2.2.2 Cacbon-14 (14C) ...................................................................................33
2.2.3 Beryllium-7 (7Be)..................................................................................34
2.3 Các hạt nhân phóng xạ nguyên thủy....................................................................34
2.4 Các hạt nhân phóng xạ nhân tạo..........................................................................39
2.5 Các đồng vị phóng xạ thường hiện diện trong phông nền phổ kế gamma ............40
2.6 Khảo sát phông nền của hệ phổ kế HPGE tại bộ môn vật lý hạt nhân ..................42
CHƢƠNG 3. XÁC ĐỊNH HOẠT ĐỘ PHÓNG XẠ BẰNG PHƢƠNG PHÁP
FULL SPECTRUM ANALYSIS VÀ THUẬT TOÁN DI TRUYỀN ...................45
3.1 Thuật toán di truyền ............................................................................................45
3.1.1 Biểu diễn di truyền ................................................................................47
3.1.2 Tạo quần thể ban đầu ............................................................................48
3.1.3 Tính độ thích nghi cho mỗi cá thể .........................................................48
3.1.4 Quá trình chọn lọc tự nhiên ...................................................................48
3.1.5 Quá trình sinh sản .................................................................................49
3.1.5.1 Quá trình sinh sản ....................................................................49
3.1.5.2 Lai bố mẹ ................................................................................50
3.1.5.3 Đột biến cá thể con ..................................................................51
3.1.6 Tạo quần thể mới ..................................................................................52
3.1.7 Điều kiện dừng......................................................................................52
3.1.8 Ưu điểm và hạn chế của thuật toán di truyền .........................................52
3.1.8.1 Ưu điểm ..................................................................................52
3.1.8.2 Hạn chế ...................................................................................53
3.2 Áp dụng thuật toán di truyền trong phương pháp FSA ........................................53
3.2.1 Chi bình phương ( 2) trong phương pháp FSA .....................................53
3.2.2 Áp dụng thuật toán di truyền để tìm hoạt độ của các đồng vị phóng xạ
trong tự nhiên ........................................................................................54
3.3 Xác định hoạt độ phóng xạ mẫu môi trường bằng phương pháp FSA..................55
3.3.1 Chuẩn bị mẫu đo ...................................................................................55
3.3.2 Hiệu chỉnh các phổ ................................................................................58
3.4 Kết quả tính toán và nhận xét ..............................................................................59
3.4.1 Kết quả tính toán ...................................................................................59
3.4.2 Nhận xét ...............................................................................................60
CHƢƠNG 4. TỐI ƢU HÓA HÌNH HỌC ĐO CỦA MẪU THỂ TÍCH ...............62
4.1 Tính toán giá trị hiệu suất ...................................................................................62
4.2 Tối ưu hóa hình học đo của mẫu dạng trụ ...........................................................64
4.2.1 Khảo sát tương quan giữa bán kính tối ưu và chiều cao mẫu tối ưu ......65
4.2.2 Khảo sát tương quan giữa bán kính tối ưu và mật độ mẫu .....................69
4.2.3 Khảo sát cấu hình tối ưu theo bán kính mẫu ..........................................70
4.3 Tối ưu hóa hình học đo của mẫu dạng Marinelli .................................................72
4.3.1 Khảo sát cấu hình tối ưu theo bán kính R và chiều cao h1 ......................73
4.3.2 Khảo sát cấu hình tối ưu của hộp Marinelli với thể tích mẫu 450ml ......75
4.4 Lựa chọn cấu hình tối ưu trong đo đạc mẫu phóng xạ môi trường .......................78
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ................................................................................82
TÀI LIỆU THAM KHẢO .........................................................................................
1
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU VÀ CÁC CHỮ VIẾT TẮT
A: hoạt độ riêng của đồng vị phóng xạ tại thời điểm đo
Các kí hiệu
Am: hoạt độ riêng của mẫu đo tại thời điểm đo (Bq/kg)
As: hoạt độ riêng của mẫu chuẩn tại thời điểm đo (Bq/kg)
C: tổng số đếm tại đỉnh năng lượng mà ta quan tâm
c: tốc độ của ánh sáng trong chân không
CB: phần đóng góp của phông nền vào trong phổ S CK: hoạt độ của các hạt nhân phóng xạ 40K
Cm: tổng số đếm tại đỉnh năng lượng của mẫu đo
Cs: tổng số đếm tại đỉnh năng lượng của mẫu chuẩn CTh: hoạt độ của các hạt nhân phóng xạ 232Th CU: hoạt độ của các hạt nhân phóng xạ 238U
Eb: năng lượng liên kết của electron.
Ee: động năng của electron
EK: năng lượng của tia X lớp K
E : năng lượng của tia gamma tới
h: chiều cao mẫu hình trụ
h1: chiều cao phần trụ rỗng của hộp dạng Marinelli
h2: chiều cao phần trụ đặc của hộp dạng Marinelli
I: cường độ phát tia gamma
Im: cường độ phát tia gamma của mẫu đo
Is: cường độ phát tia gamma của mẫu chuẩn
M: khối lượng mẫu
m0: khối lượng nghỉ của electron
R: tốc độ đếm tại đỉnh năng lượng toàn phần (số đếm/giây)
P : xác suất phát tia gamma đang khảo sát
R: bán kính mẫu dạng Marinelli
2
r: bán kính mẫu hình trụ
S: số phân rã của nguồn trong một giây (Bq)
S: phổ cần phân tích
SB: phổ phông nền tự nhiên SK: phổ chuẩn của đồng vị phóng xạ 40K STh: phổ chuẩn của đồng vị phóng xạ 232Th SU: phổ chuẩn của đồng vị phóng xạ 238U
t: thời gian đo mẫu
tm: thời gian đo mẫu đo (s)
ts: thời gian đo mẫu chuẩn (s)
Z: nguyên tử số
hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần tuyệt đối của tia gamma
: góc tán xạ của tia gamma
a: tiết diện hấp thụ
c: tiết diện tán xạ Compton
mật độ mẫu
2: Chi bình phương
: góc tán xạ của electron Compton.
Các chữ viết tắt
ANSI: American National Standards Institute
BMVLHN: Bộ môn Vật lý Hạt nhân
CalEff: Calculating Efficiency
FSA: Full Spectrum Analysis
IEEE : Institute of Electrical and Electronics Engineers
TTKTHN: Trung tâm Kĩ thuật Hạt nhân
WA: Windows Analysis
3
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các tia gamma thường được sử dụng trong phân tích mẫu môi trường .....27 Bảng 1.2. Những hiệu chỉnh đối với sự nhiễu đỉnh trong phép đo 226Ra và 235U .......29
Bảng 2.1. Hoạt độ trung bình của một số hạt nhân phóng xạ phổ biến được tạo ra do
bức xạ vũ trụ ............................................................................................................34
Bảng 2.2. Hoạt độ phóng xạ của một số hạt nhân nguyên thủy .................................39
Bảng 2.3. Một số hạt nhân phóng xạ nhân tạo phổ biến trong tự nhiên .....................40
Bảng 2.4. Diện tích đỉnh của những đồng vị đóng góp đáng kể vào phông nền phổ
kế gamma HPGe được đo trong thời gian 3 ngày (259200s) .....................................44
Bảng 3.1. Đặc điểm của các mẫu chuẩn và mẫu phân tích dạng trụ được dùng trong
thí nghiệm ................................................................................................................56
Bảng 3.2. Đặc điểm của các mẫu chuẩn và mẫu phân tích dạng Marinelli được dùng
trong thí nghiệm .......................................................................................................56
Bảng 3.3. Hoạt độ của mẫu đá bazan được tính bằng hai phương pháp WA và FSA 59
Bảng 3.4. Hoạt độ của mẫu đá trắng được tính bằng hai phương pháp WA và FSA .59
Bảng 3.5. Hoạt độ của mẫu Zr-B được tính bằng hai phương pháp WA và FSA ......60
Bảng 3.6. Hoạt độ của mẫu Zr-Rv được tính bằng hai phương pháp WA và FSA.....60
Bảng 4.1. Một số cấu hình tối ưu dạng Marinelli ứng với các thể tích mẫu và năng
lượng tia gamma khác nhau ......................................................................................75
Bảng 4.2. Cấu hình tối ưu của mẫu dạng Marinelli có thể tích 450ml với các giá trị
năng lượng gamma khác nhau .................................................................................76
Bảng 4.3. Kết quả đo đạc mẫu chuẩn IAEA-RGTh-1 với cấu hình Marinelli quy
ước và cấu hình tối ưu trong [1] ................................................................................77
4
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thiết bị ghi nhận phổ gamma ......................................................12
Hình 1.2. Cơ chế của hấp thụ quang điện .................................................................13
Hình 1.3. Hệ số suy giảm tuyến tính theo năng lượng của một số vật liệu ................14
Hình 1.4. Cơ chế phát tia X ......................................................................................15 Hình 1.5. Đỉnh thóat Iodine trong phổ của nguồn 57Co .............................................15
Hình 1.6. Tán xạ Compton .......................................................................................16
Hình 1.7. Đồ thị trên tọa độ cực của tiết diện tán xạ Compton ứng với một vài giá
trị năng lượng tiêu biểu từ 1keV đến 10 MeV ...........................................................17 Hình 1.8. Phổ của nguồn 137Cs .................................................................................19
Hình 1.9. (a) Tán xạ Compton bởi lớp chì chắn xung quanh detector ....................19
(b) Năng lượng của photon tán xạ theo góc tán xạ .................................19 Hình 1.10. Phổ của tia gamma 1778,9 keV của 28Al .................................................21
Hình 1.11. Sự tạo đỉnh hủy 511 keV trên phổ gamma ..............................................21 Hình 1.12. Phổ bức xạ hãm của electron có năng lượng cực đại 2,8 MeV của 28Al ..22
Hình 1.13. Dạng đường cong hiệu suất theo năng lượng của detector đồng trục loại
p trên thang logarit ...................................................................................................23
Hình 2.1. Sơ đồ phân rã Kali (40K)..........................................................................35 Hình 2.2. Chuỗi phân rã Uranium (238U) ..................................................................36 Hình 2.3. Chuỗi phân rã Actinium (235U) .................................................................37 Hình 2.4. Chuỗi phân rã Thorium (232Th) .................................................................38
Hình 2.5. Sơ đồ hệ detector – buồng chì...................................................................43
Hình 3.1. Cắt chuỗi bit của bố mẹ a và b để tạo con c và d .......................................46
Hình 3.2. Đột biến bằng cách đảo bit của ba mẹ a để tạo cá thể con b ......................46
Hình 3.3. Sơ đồ của thuật toán di truyền ..................................................................47
Hình 3.4. Sự biểu diễn di truyền của một nghiệm .....................................................48
Hình 3.5. Phép lai hai điểm ......................................................................................51
Hình 3.6. Các kích thước của hộp đựng mẫu hình học dạng trụ và Marinelli ............56
5
Hình 3.7. Đèn hồng ngoại và dụng cụ làm phẳng mẫu ............................................57
Hình 3.8. Các mẫu đo dạng trụ .................................................................................57
Hình 3.9. Các mẫu đo dạng Marinelli.......................................................................57
Hình 3.10. Sơ đồ khối hiệu chỉnh lệch phổ ...............................................................58
Hình 3.11. Biểu đồ phân tán giữa các hoạt độ tính bằng hai phương pháp ................61
Hình 4.1. Mặt cắt dọc của detector HPGe GC2018 ..................................................63
Hình 4.2. Sự thay đổi của hiệu suất theo chiều cao và bán kính mẫu ở năng lượng
63 keV ......................................................................................................................65
Hình 4.3. Sự thay đổi của hiệu suất theo chiều cao và bán kính mẫu ở năng lượng
1000 keV ..................................................................................................................66
Hình 4.4. Sự thay đổi của hiệu suất theo chiều cao và bán kính mẫu với các năng
lượng khác nhau ở thể tích 150 ml ............................................................................67
Hình 4.5. Sự thay đổi của hiệu suất theo tỉ số r/h với các thể tích khác nhau tại năng
lượng 63 keV ............................................................................................................68
Hình 4.6. Sự thay đổi của hiệu suất theo tỉ số r/h với các thể tích khác nhau tại năng
lượng 1000 keV ........................................................................................................69
Hình 4.7. Sự thay đổi của hiệu suất theo mật độ và bán kính mẫu đối với tia gamma
năng lượng 63 keV, thể tích mẫu 150 ml ..................................................................70
Hình 4.8. Sự thay đổi của hiệu suất theo thể tích và bán kính mẫu đối với tia
gamma năng lượng 63 keV, mật độ mẫu 1,5g/ml ......................................................71
Hình 4.9. Quy luật thay đổi bán kính tối ưu của mẫu đo theo thể tích.......................72
Hình 4.10. Sự thay đổi của hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần theo chiều cao h1
và bán kính R tại năng lượng 63 keV khi thể tích mẫu đo bằng 200 ml; hiệu suất đạt
giá trị cực đại ứng với R = 4,8cm và h1 = 6,2cm .......................................................73
Hình 4.11. Sự thay đổi của hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần theo chiều cao h1
và bán kính R tại năng lượng 1000 keV khi thể tích mẫu đo bằng 450 ml; hiệu suất
đạt giá trị cực đại ứng với R = 5,5cm và h1 = 6,7cm .................................................74
Hình 4.12. Hai hộp đựng mẫu với cấu hình quy ước và cấu hình tối ưu trong [1] .....77
6
Hình 4.13. Hiệu suất tối ưu của dạng trụ và Marinelli theo thể tích mẫu đo với tia
gamma năng lượng 100 keV .....................................................................................79
Hình 4.14. Giá trị „hiệu suất × thể tích‟ của các cấu hình tối ưu dạng trụ và
Marinelli theo thể tích mẫu đo với tia gamma năng lượng 100 keV ..........................80
Hình 4.15. Giá trị „hiệu suất × thể tích‟ của các cấu hình tối ưu dạng trụ và
Marinelli quy ước theo thể tích mẫu đo với tia gamma năng lượng 100 keV ............81
7
MỞ ĐẦU
Vấn đề xác định hoạt độ của các mẫu phóng xạ có hoạt độ thấp một cách
chính xác và nhanh chóng là một trong những hướng nghiên cứu đã và đang được
phát triển. Để giải quyết vấn đề này, các hệ thiết bị đo đạc bức xạ ngày càng được
cải tiến về khả năng phát hiện sự tồn tại và xác định hoạt độ của các đồng vị phóng
xạ trong mẫu đo. Bên cạnh đó, chúng ta cũng cần phải cải thiện quy trình đo từ
khâu đầu tiên là chuẩn bị mẫu đo đến khâu cuối cùng là xử lí phổ đo được. Với
những mục đích đó, luận văn này được thực hiện tập trung vào cả hai khâu quan
trọng đó.
Trong việc xác định hoạt độ của các mẫu phóng xạ, phương pháp phổ biến
nhất là phương pháp Window Analysis (WA) truyền thống. Trong phương pháp
này, trước tiên diện tích các đỉnh gamma được xác định bởi người dùng hoặc bằng
các chương trình có sẵn như Genie-2000 của hãng Canberra. Sau đó, hoạt độ của
mẫu sẽ được xác định dựa trên các diện tích đỉnh tính được kết hợp với các thông số
như xác suất phát gamma, thời gian đo, hiệu suất ghi nhận của detector,… Việc xác
định hoạt độ bằng phương pháp này đòi hỏi sự công phu và tốn nhiều thời gian
trong việc xử lý. Bên cạnh đó, các hiệu ứng trong quá trình đo đạc như sự trùng
phùng thực, tự hấp thụ hay các sai số trong số liệu từ các thư viện hạt nhân sẽ dẫn
đến sự tăng thêm hay giảm bớt diện tích đỉnh và gây sai lệch đáng kể cho kết quả đo
bằng phương pháp WA. Để hạn chế điều này, thay vì xác định hoạt độ dựa trên các
đỉnh gamma riêng rẽ, chúng ta sẽ sử dụng một phương pháp mới nhằm xác định
hoạt độ dựa trên toàn phổ gamma ghi nhận, phương pháp này được gọi là phương
pháp Full Spectrum Analysis (FSA). Do phương pháp FSA lên quan đến việc tính
toán trên toàn phổ nên có một số ưu điểm nổi trội so với phương pháp truyền thống
chẳng hạn như loại bỏ phần lớn các sai số do trùng phùng, do trừ phông nền
Compton, do thống kê và những sai số về mặt kĩ thuật do hệ đo gây ra. Một ưu điểm
nổi bật khác là có thể rút gọn được thời gian tính toán. Trong phương pháp FSA,
hoạt độ phóng xạ của các hạt nhân phóng xạ nguyên thủy tồn tại trong mẫu đo được
8
tính dựa trên kĩ thuật làm khớp giữa phổ mẫu đo và các phổ chuẩn thực nghiệm của
các đồng vị phóng xạ hiện diện trong mẫu.
Một trong những công trình đầu tiên áp dụng phương pháp FSA vào phân
tích phổ gamma thu được từ hệ phổ kế HPGe là công trình của Katse Piet Maphoto
(2004) [25]. Tác giả đã xác định hoạt độ của các đồng vị phóng xạ nguyên thủy 238U, 232Th và 40K trong các mẫu cát, đất và quặng. Kết quả cho thấy sự phù hợp khá
tốt giữa hai phương pháp WA và FSA. Công trình gần đây nhất về phương pháp
FSA là của R.T. Newman và các cộng sự (2008) [29]. Với các mẫu đo khảo sát
được, nhóm tác giả cũng đã đạt được sự phù hợp của hai phương pháp này là dưới
10%.
Ở trong nước, phương pháp FSA cũng đã lần đầu tiên được tìm hiểu trong
khóa luận tốt nghiệp của Lê Thị Hổ (2008) [2]. Tuy nhiên, sai số đạt được trong
khóa luận vẫn còn khá cao, khoảng dưới 30%. Do đó, trong luận văn này, tác giả đã
tiếp tục nghiên cứu vấn đề này với mục tiêu nhằm đạt được sự phù hợp tốt hơn giữa
hai phương pháp.
Trong quá trình đo đạc phóng xạ, bên cạnh việc lựa chọn thiết bị đo và
phương pháp xử lý phổ, còn một vấn đề khác đóng vai trò quyết định là phải lựa
chọn cấu hình đo sao cho có thể ghi nhận số đếm đỉnh một cách tốt nhất. Do hoạt độ
phóng xạ trong mẫu môi trường tương đối thấp nên để tăng số gamma được ghi
nhận tại mỗi đỉnh thường phải đo mẫu trong thời gian tương đối dài. Thêm vào đó
phải sử dụng lượng mẫu đủ lớn để tăng lượng tia gamma đến bề mặt của detector.
Việc sử dụng lượng mẫu bao nhiêu với cấu hình như thế nào để vừa không bị lãng
phí mẫu vừa ghi nhận được nhiều tia gamma nhất là một bài toán đã tốn khá nhiều
giấy mực của các nhà nghiên cứu. Một trong những nhóm đầu tiên trên thế giới
nghiên cứu về vấn đề tối ưu hóa mẫu đo là nhóm của Takashi Suzuki và cộng sự.
Trong suốt 5 năm (1983 – 1988) với việc sử dụng phương pháp mô phỏng Monte
Carlo, các tác giả đã nghiên cứu cấu hình tối ưu dạng Marinelli trên detector Ge(Li)
đối với các thể tích từ 5–100l trên dải năng lượng từ 100keV đến 2MeV
[27][33][34]. Sau đó, vào năm 1991, Chien Chung và cộng sự [11] đã làm thực
9
nghiệm với mẫu đo dạng nước để tìm ra cấu hình tối ưu dạng Marinelli. Công trình
này được thực hiện khá công phu và đã đưa ra được các cấu hình tối ưu cho thể tích
từ 0,1–4l. Năm 1996, Seppo Klemola [23] sử dụng chương trình máy tính để khảo
sát 3 dạng hình học trụ cố định với bán kính nhỏ hơn, lớn hơn và bằng bán kính của
detector với thể tích từ 3ml đến 500ml đối với hai loại detector HPGe 99,8% và
39,5%. Trong công trình này, tác giả có so sánh các cấu hình tối ưu dạng trụ và cấu
hình dạng Marinelli 500ml nhằm ước lượng cấu hình tối ưu. Tiếp đó, vào năm
1999, M.Barrera và cộng sự [9] đã khảo sát cấu hình tối ưu dạng trụ theo bán kính
và chiều cao mẫu bằng mô phỏng Monte Carlo, đồng thời cũng xét đến sự phụ
thuộc của cấu hình vào mật độ của mẫu đo trong khoảng từ 100keV đến 2000keV.
Năm 2007, Z.B. Alfassi và F. Groppi [8] đã xây dựng công thức bán giải tích và từ
đó tìm ra chiều cao tối ưu của mẫu hình trụ đối với một thể tích cho trước. Gần đây
nhất, năm 2009, Asm Sabbir Ahmed và cộng sự [7] đã khảo sát cấu hình tối ưu mẫu
dạng Marinelli đối với detector HPGe bằng mô phỏng Monte Carlo. Công trình này
bị hạn chế do chiều cao của phần hốc được giữ không đổi do đó các cấu hình tìm
được chỉ là gần tối ưu. Ở trong nước có thể kể đến luận án tiến sĩ của Võ Xuân Ân
[1] năm 2008 về cấu hình tối ưu của mẫu dạng Marinelli thể tích 450ml, tác giả đã
khảo sát trên khoảng mật độ mẫu từ 0,8 đến 1,6g/ml và năng lượng từ 255keV đến
1926keV.
Dù cho đã có không ít công trình nghiên cứu về vấn đề tối ưu hóa hình học
đo, tuy nhiên chưa có công trình nào khảo sát cấu hình tối ưu của cả hai dạng hình
học trụ và Marinelli cùng lúc để giúp cho các nhà thực nghiệm có thể lựa chọn cấu
hình tối ưu tốt và thuận tiện nhất. Do vậy, trong luận văn này, một sự khảo sát khá
toàn diện đã được thực hiện nhằm đưa ra cấu hình tối ưu của mẫu dạng trụ và dạng
Marinelli đối với hệ phổ kế HPGe tại Bộ môn Vật lý Hạt nhân, Trường ĐHKHNTN
TPHCM. Những kết quả thu được từ luận văn sẽ góp phần giúp cho các nhà thực
nghiệm có thể lựa chọn cấu hình một cách tốt nhất cho mẫu đo.
Với những mục đích nêu trên, tác giả đã thực hiện luận văn với bố cục bao
gồm 4 chương:
10
Chương 1 – Phổ gamma và các phương pháp xử lý phổ gamma: trình bày các
khái niệm cơ bản về phổ gamma, nguyên tắc hình thành phổ gamma, giới thiệu khái
quát về hai phương pháp đang được sử dụng để xử lý phổ gamma là phương pháp
WA và FSA.
Chương 2 – Phông nền phóng xạ môi trường: trình bày về nguồn gốc hình
thành phông nền phóng xạ môi trường, các loại phông nền phóng xạ, khảo sát các
chuỗi và đồng vị phóng xạ có trong phông nền hệ phổ kế HPGe tại Bộ môn Vật lý
Hạt nhân.
Chương 3 – Xác định hoạt độ phóng xạ bằng phương pháp Full Spectrum
Analysis và thuật toán di truyền: giới thiệu về thuật toán di truyền và ứng dụng của
nó trong việc phân tích hoạt độ mẫu bằng phương pháp FSA.
Chương 4 – Tối ưu hóa hình học đo của mẫu thể tích: khảo sát cấu hình tối
ưu của các mẫu dạng trụ và Marinelli theo thể tích và năng lượng tia gamma tới.
11
CHƢƠNG 1
PHỔ GAMMA VÀ CÁC PHƢƠNG PHÁP XỬ LÝ
PHỔ GAMMA
Trong tất cả các phương pháp phân tích, đo đạc phóng xạ môi trường,
phương pháp đo hoạt độ bằng cách sử dụng các hệ phổ kế gamma (đặc biệt là các
phổ kế germanium) được ứng dụng rộng rãi nhờ vào những ưu điểm của nó như khả
năng phân tích đa nguyên tố, việc xử lý mẫu không quá phức tạp như khi đo alpha
và beta,... Bên cạnh đó, sự phát triển của kĩ thuật chế tạo tinh thể cũng như công
nghệ điện tử cũng đã góp phần làm cho việc ứng dụng phổ kế gamma ngày càng
rộng rãi. Hệ phổ kế gamma có khả năng ghi nhận trực tiếp các tia gamma do các
đồng vị phóng xạ trong mẫu phát ra mà không cần tách chiết các nhân phóng xạ
khỏi chất nền của mẫu, giúp ta thu được một cách định tính và định lượng các nhân
phóng xạ trong mẫu. Đối tượng của phương pháp phân tích này có thể là các mẫu
sinh học, môi trường như: đất, nước, không khí, trầm tích, các loại rau,… Việc nắm
rõ các đặc trưng của phổ gamma cùng với các cách thức xử lý phổ, tính toán hoạt độ
nguồn là điều cần thiết đối với bất cứ người làm thực nghiệm nào liên quan đến việc
đo đạc hoạt độ phóng xạ bằng các hệ phổ kế gamma.
1.1 PHỔ GAMMA
1.1.1 Ghi nhận phổ gamma
Phần lớn các đồng vị phóng xạ đều có khả năng phát ra bức xạ gamma với
các mức năng lượng và cường độ khác nhau. Để ghi nhận phổ gamma do một đồng
vị phát ra, ta phải dựa vào tương tác giữa tia gamma với vật chất, ở đây chính là
detector.
Tương tác giữa vật chất trong detector với tia gamma rất phức tạp nên các
vạch phổ này bị nở ra. Kết quả là phổ gamma trong thực nghiệm là hệ thống các
đỉnh năng lượng toàn phần có bề rộng xác định.
12
detector
Tiền khuếch đại
Khuếch đại tuyến tính
Bộ chia xung
Chuyển đổi tương tự- số
Bộ nhớ
Cao thế
Thiết bị xuất
Hình 1.1. Sơ đồ hệ thiết bị ghi nhận phổ gamma
1.1.2 Các tƣơng tác ảnh hƣởng lên sự hình thành phổ gamma
Khi đi xuyên qua vật chất, tia gamma sẽ tương tác với vật chất theo nhiều cơ
chế khác nhau, có thể là tương tác quang điện, tán xạ Compton, tán xạ Rayleigh,
hiệu ứng tạo cặp, hay phản ứng quang hạt nhân. Tuy nhiên, đối với các tia gamma
phát ra từ những đồng vị phóng xạ thông thường, chỉ có tương tác quang điện, tán
xạ Compton và hiệu ứng tạo cặp là tham gia chủ yếu vào việc tạo thành tín hiệu
xung trong detector. Ngoài ra, hiệu ứng bremsstrahlung của các electron cũng đóng
góp vào sự hình thành phông nền của phổ gamma.
1.1.2.1 Hấp thụ quang điện
Hiện tượng hấp thụ quang điện xảy ra do tương tác giữa photon với một
trong những electron liên kết trong một nguyên tử.
Electron bay ra từ lớp vỏ của nguyên tử (Hình 1.2) với động năng Ee được
cho bởi
(1.1)
ở đây E là năng lượng của tia gamma tới và Eb là năng lượng liên kết của electron.
Từ công thức (1.1), ta có thể thấy rằng hiện tượng quang điện xảy ra khi
photon tới có năng lượng lớn hơn năng lượng liên kết của electron trong nguyên tử.
13
Hình 1.2. Cơ chế của hấp thụ quang điện
Mức năng lượng mà từ đó electron được giải phóng phụ thuộc vào năng
lượng của tia gamma. Hầu hết các electron phóng ra là electron ở lớp K. Trong
trường hợp năng lượng tia gamma không đủ để bứt electron lớp K thì nó sẽ bứt các
electron ở các mức cao hơn chẳng hạn như L hoặc M. Điều này dẫn đến những
điểm gián đoạn trong đường cong hấp thụ quang điện. Những cạnh hấp thụ này xảy
ra tại những giá trị năng lượng liên kết tương ứng với các lớp vỏ electron. Ví dụ,
trong đường cong của germanium (Hình 1.3), cạnh hấp thụ K xảy ra tại 11,1 keV.
Đối với CsI, có 2 cạnh K, một cạnh tương ứng với lớp K của iodine tại 33,16 keV,
một cạnh tại lớp K của caesium 35,96 keV. Nếu photon có năng lượng dưới những
giá trị năng lượng này, chỉ có các electron ở lớp cao hơn bị bứt ra.
Xác suất để một photon chịu hấp thụ quang điện có thể được biểu diễn qua
a. Qui luật của
a như sau [16]
tiết diện hấp thụ
(1.2)
ở đây n và m nằm trong dải từ 3 đến 5 tùy thuộc vào năng lượng của tia gamma. Ví
dụ, một số hàm đã được đưa ra là và . Tiết diện hấp thụ quang điện
phụ thuộc chủ yếu vào năng lượng của tia gamma tới và nguyên tử số của môi
trường. Theo công thức (1.2), đối với những vật liệu nặng, tiết diện hấp thụ quang
điện lớn ngay cả với tia gamma có năng lượng cao; đối với vật liệu nhẹ thì hấp thụ
quang điện chỉ có ý nghĩa đối với những tia gamma có năng lượng thấp.
14
Cạnh hấp thụ L
Cạnh hấp thụ K
Hệ số suy giảm tuyến tính (m-1)
Năng lượng tia gamma (keV)
Hình 1.3. Hệ số suy giảm tuyến tính theo năng lượng của một số vật liệu
Hệ
Khi hiệu ứng quang điện xảy ra trong detector, những electron bị kích thích này
số
hấp
mang điện tích và bị mất năng lượng do ion hóa hoặc kích thích các nguyên tử tinh
thụ
tuyến
thể, tạo thành các cặp electron-lỗ trống. Còn nguyên tử sau khi bị mất electron sẽ ở
tính
(m-1)
trạng thái kích thích với năng lượng kích thích là Eb và trở về trạng thái cơ bản bằng
một trong hai cách khác nhau. Nguyên tử có thể khử trạng thái kích thích bằng cách
phân bố lại năng lượng kích thích cho các electron còn lại, điều này có thể dẫn đến
việc giải phóng các electron khác từ nguyên tử (electron Auger) hay chuyển thêm
năng lượng của tia gamma cho detector. Một cách khác là việc các lỗ trống để lại
sau khi electron bứt ra sẽ được lấp đầy bằng electron có năng lượng cao hơn đồng
thời sẽ phát ra tia X, được gọi là tia X huỳnh quang (Hình 1.4). Tia X này cũng có
thể bị hấp thụ quang điện. Khi đó, tất cả năng lượng của tia gamma đều bị hấp thụ
và tạo thành đỉnh quang điện toàn phần. (Do nguyên lý bảo toàn động lượng, một
lượng rất nhỏ năng lượng của photon được chuyển thành năng lượng giật lùi
củanguyên tử và có thể được bỏ qua trong thực nghiệm.)
15
Electron
Hạt nhân
Tia gamma
Tia X K
Hình 1.4. Cơ chế phát tia X
Đối với những tương tác gần bề mặt của detector, các tia X huỳnh quang,
hầu hết là các tia X của lớp K, có thể thóat ra khỏi detector. Năng lượng tổng cộng
bị hấp thụ trong detector khi đó sẽ là
(1.3)
ở đây EK là năng lượng của tia X lớp K. Quá trình này được gọi là quá trình thóat
tia X. Đối với germanium thì năng lựơng tia X ở lớp K có hai giá trị là 9,9 keV và
11,1 keV, còn của iodine là 1,7 keV và 1,8 keV. Vì lượng năng lượng này bị mất
nên tạo ra một đỉnh nhỏ có năng lượng thấp hơn đỉnh năng lượng toàn phần một
khoảng đúng bằng lượng năng lượng này. Trong detector germanium, nó được gọi
là đỉnh thóat germanium và trong detector iodine được gọi là đỉnh thóat iodine
(Hình 1.5).
Nguồn 57Co
Đỉnh thóat tia X của Iodine
Cƣờng độ tƣơng đối
Năng lƣợng tia gamma (keV)
Hình 1.5. Đỉnh thoát iodine trong phổ của nguồn 57Co
16
Khi nguyên tử chì có trong các vật liệu che chắn xung quanh detector hấp thụ
photon, phát ra từ nguồn đo hay từ các nguồn xung quanh, nó sẽ phát ra tia X đặc
trưng. Các tia X này thường có năng lượng nằm trong khoảng 70 – 85 keV. Trong
thực tế, người ta thường sử dụng thêm một số lớp vật liệu bọc bên trong buồng chì
để chắn các tia X này. Có thể đặt kế tiếp với lớp chì là một lớp cadmium, lớp này
hấp thụ gần như toàn bộ tia X do chì phát ra. Sau đó đến lượt cadmium phát ra tia X
đặc trưng của nó và được lớp đồng kế tiếp lớp cadmium hấp thụ hết. Cuối cùng, các
tia X do đồng phát ra có năng lượng thấp khoảng 8 – 9 keV thì chỉ cần một lớp
lastic mỏng là hấp thụ hết.
1.1.2.2 Tán xạ Compton
Tán xạ Compton là tương tác trực tiếp giữa photon với một electron được
xem như tự do. Tán xạ Compton xảy ra mạnh ở vùng năng lượng từ 150keV đến
9MeV đối với germanium và ở vùng năng lượng từ 50keV đến 15MeV đối với
Electron hóa trị
Electron Compton
Photon tới
Góc tán xạ
Photon tán xạ
silicon.
Hình 1.6. Tán xạ Compton
Tán xạ này tuân theo định luật bảo toàn năng lượng và động lượng. Năng
lượng của electron sau tán xạ là
(1.4)
17
với Ee là năng lượng của electron sau khi tán xạ
E là năng lượng của tia gamma tới
là góc tán xạ của tia gamma
m0 là khối lượng nghỉ của electron
c là tốc độ của ánh sáng trong chân không
Năng lượng của photon sau tán xạ là
(1.5)
Hai góc và liên hệ với nhau bởi
(1.6)
với là góc tán xạ của electron Compton.
Ở đây do năng lượng liên kết của electron rất nhỏ so với năng lượng của
photon tới nên có thể bỏ qua trong tính toán và xem như electron là tự do.
Tiết diện tán xạ Compton xấp xỉ bởi [14]
(1.7)
Hình 1.7. Đồ thị trên tọa độ cực của tiết diện tán xạ Compton ứng với một vài giá
trị năng lượng tiêu biểu từ 1keV đến 10 MeV [24]
Năng lượng truyền cho electron trong tán xạ Compton (electron Compton)
phụ thuộc vào góc tán xạ của photon. Đối với các trường hợp góc tán xạ nhỏ, hầu
như không có phần năng lượng nào truyền cho electron và photon thứ cấp mang
18
toàn bộ năng lượng của photon tới. Trong trường hợp tán xạ ngược, tức góc tán xạ
lớn nhất = 1800, năng lượng truyền cho electron Compton lớn nhất và có giá trị
(1.8)
khi đó năng lượng của photon thứ cấp là
(1.9)
Khi tán xạ xảy ra bên trong detector, electron Compton sẽ bị mất toàn bộ
động năng bên trong detector và detector sẽ tạo ra xung tương ứng với phần động
năng này. Do đó trên phổ xuất hiện vùng lưng Compton chứa các xung trải dài từ
năng lượng bằng 0 đến năng lượng cực đại của electron Compton. Trên phổ
gamma, tại vị trí ứng với năng lượng cực đại của electron tán xạ sẽ xuất hiện một
chỗ dốc được gọi là cạnh Compton.
Trong trường hợp photon bị tán xạ ngược vào trong detector và bị hấp thụ
hoàn toàn thì trên phổ đồng thời xuất hiện một đỉnh tán xạ ngược ứng với sự hấp
thụ hoàn toàn photon thứ cấp bị tán xạ ngược và một cạnh Compton ứng với sự hấp
thụ toàn bộ năng lượng cực đại của electron tán xạ. Tổng năng lượng của đỉnh tán
xạ ngược và của cạnh Compton bằng với năng lượng của photon tới vì đều là kết
quả của một sự kiện tán xạ Compton.
Trong trường hợp photon thứ cấp bị hấp thụ hoàn toàn trong detector, có thể
xảy ra hai trường hợp, nếu năng lượng photon đủ nhỏ thì chỉ xảy ra hấp thụ quang
điện, còn nếu năng lượng còn khá lớn thì nó sẽ bị tán xạ liên tiếp và cuối cùng kết
thúc bằng hiện tượng quang điện. Khi đó một đỉnh quang điện toàn phần được ghi
nhận. Đỉnh quang điện toàn phần này cách cạnh Compton một khoảng năng lượng
đúng bằng năng lượng của photon tán xạ ngược. Vùng phổ ứng với sự tán xạ
Compton nhiều lần của photon thứ cấp kéo dài từ cạnh Compton đến đỉnh quang
điện toàn phần của photon tới. Hình 1.8 minh họa phổ tán xạ Compton của tia gamma có năng lượng 662 keV của 137Cs.
19
Đỉnh năng lượng toàn phần
Đỉnh tán xạ ngược
Vùng chồng chập xung
Cạnh của vùng Compton liên tục
Số đếm trên một kênh (thang lôgarít)
Vùng tán xạ Compton nhiều lần
Số kênh (năng lượng)
Hình 1.8. Phổ của nguồn 137Cs
Một phần photon phát ra từ mẫu bị tán xạ bởi các lớp chắn xung quanh detector. Các photon có góc tán xạ lớn, nằm trong khoảng từ 1200 đến 1800, mới lọt
được vào detector. Dù năng lượng của photon tới bằng bao nhiêu chăng nữa thì
năng lượng của các photon tán xạ này cũng nằm trong khoảng 200 – 300 keV [19].
Năng lượng của tia gamma bị tán xạ (keV)
detector
Tấm chắn bằng chì
Góc tán xạ ( )
Những tia gamma này làm phổ gamma trong vùng năng lượng này bị dâng cao.
Hình 1.9. (a) Tán xạ Compton bởi lớp chì chắn xung quanh detector
(b) Năng lượng của photon tán xạ theo góc tán xạ
20
1.1.2.3 Hiệu ứng tạo cặp
Khác với hấp thụ quang điện và tán xạ Compton, sự tạo cặp là kết quả do
tương tác giữa tia gamma với toàn bộ nguyên tử. Quá trình này diễn ra trong trường
Coulomb của hạt nhân, kết quả là sự biến đổi từ một photon thành một cặp electron-
positron. Tia gamma biến mất và cặp electron-positron xuất hiện. Tiết diện của quá
trình tạo cặp p tỉ lệ với bình phương nguyên tử số của môi trường [14].
Để hiện tượng tạo cặp xảy ra, tia gamma phải có năng lượng tối thiểu bằng
khối lượng nghỉ của hai hạt, tức là 1022 keV. Trong thực nghiệm, bằng chứng của
sự tạo cặp chỉ được thấy trong phổ gamma khi năng lượng của tia gamma lớn hơn
1022 keV [16]. Hiệu ứng tạo cặp chỉ chiếm ưu thế ở vùng năng lượng trên 10 MeV.
Electron và positron được tạo thành sẽ chia nhau phần năng lượng Ee còn lại trong
công thức (1.10), và mất phần năng lượng này khi chúng bị làm chậm.
(1.10)
với Ee là tổng động năng của electron và positron
E là năng lượng của tia gamma tới
Khi năng lượng của positron giảm xuống gần bằng năng lượng nhiệt, nó sẽ
gặp electron và cả hai sẽ bị hủy, giải phóng ra hai photon hủy 511 keV. Trong thực
tế thì năng lượng của hai photon hủy có giá trị nhỏ hơn vì phải tốn một phần năng
lượng để giải phóng electron ra khỏi liên kết trong nguyên tử. Tuy nhiên phần năng
lượng này chỉ vào cỡ eV, rất nhỏ so với năng lượng của photon. Phản ứng tạo cặp
xảy ra trong khoảng 1 ns, trong khi đó thời gian thu thập điện tích là từ 100 đến 700
ns, nên sự hủy có thể được xem như tức thời với sự tạo cặp.
Nếu hai photon hủy bị tán xạ Compton nhiều lần trong detector và kết thúc
bằng hấp thụ quang điện thì trên phổ thu được đỉnh quang điện toàn phần của hai tia
gamma. Nếu một trong hai photon hủy thóat ra khỏi detector thì có thể xuất hiện
trên phổ một đỉnh thóat đơn, đỉnh này có năng lượng nhỏ hơn đỉnh năng lượng toàn
phần 511 keV. Nếu cả hai photon hủy đều thóat ra khỏi detector thì trên phổ sẽ xuất
hiện một đỉnh thóat đôi cách đỉnh hấp thụ toàn phần 1022 keV.
21
Hiệu ứng tạo cặp xảy ra trong các vật liệu xung quanh detector sẽ tạo ra hai
photon hủy. Do hai photon này có hướng ngược nhau nên chỉ có một photon hủy lọt vào detector tạo đỉnh hủy 511 keV, như trường hợp của 28Al phát ra photon có năng
Vùng bức xạ hãm
Đỉnh thóat đôi
Đỉnh thóat đơn
Đỉnh tán xạ ngược
Số đếm trên một kênh (thang lôgarít)
Sự tạo cặp (đỉnh hủy)
Số kênh (năng lượng)
lượng 1778,9 keV (Hình 1.10).
Hình 1.10. Phổ của tia gamma 1778,9 keV của 28Al
Đỉnh hủy 511 keV này cũng xuất hiện do nguồn phát positron. Khi positron
hủy với một electron cũng tạo hai photon hủy. Một số nguồn phát positron đáng chú ý như 22Na, 65Zn và 64Cu. Do positron và electron trong các quá trình hủy đều có
vận tốc dù nhỏ nên hai photon hủy bị ảnh hưởng bởi hiệu ứng Doppler và kết quả là
Nguồn
Photon hủy
Detector
Tấm chắn bằng chì
đỉnh hủy 511 keV bị nở rộng.
Hình 1.11. Sự tạo đỉnh hủy 511 keV trên phổ gamma
22
1.1.2.4 Bức xạ hãm
Bức xạ hãm là bức xạ điện từ sinh ra do tương tác giữa electron nhanh với
trường Coulomb của hạt nhân. Bức xạ hãm cũng sinh ra trong trường hợp các hạt
mang điện khác bị làm chậm trong môi trường vật chất. Tuy nhiên, bức xạ hãm chỉ
đáng kể đối với các hạt nhẹ mang điện. Bức xạ điện từ này có phổ liên tục và phần
lớn nằm ở vùng tia X.
Sự sinh ra bức xạ hãm càng đáng kể khi năng lượng của electron càng lớn và
môi trường làm chậm có nguyên tử số Z càng lớn. Ví dụ như electron có năng
lượng 1 MeV sinh ra bức xạ hãm đáng kể trong chì (Z = 82) nhưng không đáng kể
trong nhôm (Z = 13).
Sự xuất hiện bức xạ hãm sẽ làm vùng phổ có năng lượng thấp bị dâng cao.
Điều này làm tăng phông nền của các đỉnh có năng lượng thấp và ảnh hưởng đến độ chính xác của phép đo. Trong trường hợp của nguồn 28Al, do electron phát ra có
năng lượng cực đại 2,8 MeV nên làm tăng phông vùng năng lượng thấp đáng kể
Vùng bức xạ hãm
Số đếm (thang logarít)
Mức của vùng liên tục được trong đợi
(Hình 1.12).
Năng lượng (keV) Hình 1.12. Phổ bức xạ hãm của electron có năng lượng cực đại 2,8 MeV của 28Al
1.2 HIỆU SUẤT CỦA DETECTOR GHI NHẬN PHỔ GAMMA
Từ phổ gamma của nguồn đo, ta có thể xác định được số gamma mà detector
ghi nhận được tại một đỉnh năng lượng. Để xác định được hoạt độ của nguồn, cần
biết hiệu suất ghi detector tại đỉnh năng lượng đó. Vì vậy trong việc xử lý phổ
23
gamma, chúng ta cần quan tâm đến hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần tuyệt đối.
Nó được định nghĩa là tỉ số giữa diện tích đỉnh với số photon có năng lượng tương
ứng phát ra từ nguồn
(1.11)
với R là tốc độ đếm tại đỉnh năng lượng toàn phần (số đếm/giây)
S là số phân rã của nguồn trong một giây (Bq)
P là xác suất phát tia gamma đang khảo sát
Hình 1.13 trình bày đường cong hiệu suất theo năng lượng của một detector
Đỉnh
Hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần
Năng lượng tia gamma (keV)
đồng trục loại p.
Hình 1.13. Dạng đường cong hiệu suất theo năng lượng của detector đồng trục loại
p trên thang logarit
Theo Hình 1.13, ở vùng năng lượng trong khoảng 130 – 2000 keV, logarit
của hiệu suất giảm theo logarit của năng lượng. Ở vùng năng lượng dưới 130 keV,
do sự hấp thụ tia gamma trong mẫu đo, trong lớp vỏ ngoài và lớp chết của detector
nên hiệu suất của detector giảm đáng kể theo năng lượng. Điều này có thể giải thích
do sự thoát phần lớn tia gamma ra khỏi detector. Một điều đáng chú ý trên Hình
1.13 là hiệu suất của tia 511 keV thấp hơn rất nhiều do với lí thuyết. Kết quả này là
do đỉnh 511 keV bị ảnh hưởng đáng kể bởi photon hủy.
24
Trong thực nghiệm chúng ta chỉ xác định được một số giá trị hiệu suất tại
một số đỉnh năng lượng khảo sát. Để xác định hiệu suất tại những giá trị khác, cần
nội suy hoặc ngoại suy từ những giá trị đã có. Do đó cần tìm một đường cong phù
hợp với các giá trị đó nhất từ việc làm khớp các giá trị hiệu suất này. Nếu làm khớp
trên toàn phổ năng lượng sẽ dẫn đến sự thiếu chính xác. Một cách thuận tiện hơn cả
là làm khớp trên hai vùng năng lượng: vùng thứ nhất là vùng dưới 130 keV và vùng
thứ hai là vùng trên 130 keV.
Trong thực tế, phần lớn các mẫu đo đều có một thể tích nhất định. Hiệu suất
ghi của nguồn thế tích phụ thuộc vào các yếu tố sau:
Khoảng cách từ nguồn đo đến detector
Hình dạng của nguồn đo
Sự hấp thụ bên trong nguồn đo
Trùng phùng ngẫu nhiên do hoạt độ của nguồn lớn
Trùng phùng thật khi nguồn đo đặt ở gần
Tốc độ phân rã của nguồn trong thời gian đo
Hệ điện tử
Đối với mẫu đo là mẫu môi trường, các nhân tố chính gây ảnh hưởng là cấu
hình đo của hệ, mật độ và thành phần hóa học của mẫu đo.
1.3 CÁC PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH HOẠT ĐỘ PHÓNG XẠ CỦA CÁC
ĐỒNG VỊ CÓ TRONG MẪU
Trong phần này, chúng ta sẽ làm quen với hai phương pháp thường được sử
dụng trong thực tế để xác định hoạt độ phóng xạ có trong mẫu: phương pháp
Windows Analysis (WA) và phương pháp Full Spectrum Analysis (FSA).
1.3.1 Phƣơng pháp WA
Đây là phương pháp phân tích hoạt độ dựa trên việc tính toán hoạt độ của
từng đỉnh riêng rẽ sau đó tổng hợp lại. Trong WA, có hai phương pháp xác định
chính là phương pháp tuyệt đối và phương pháp tương đối.
25
1.3.1.1 Phương pháp tuyệt đối
Trong phương pháp tuyệt đối, hoạt độ riêng của đồng vị phóng xạ được xác
định dựa vào công thức sau
(1.12)
trong đó A là hoạt độ riêng của đồng vị phóng xạ tại thời điểm đo
C là tổng số đếm tại đỉnh năng lượng mà ta quan tâm
M là khối lượng mẫu
I là cường độ phát tia gamma
là hiệu suất ghi tuyệt đối
t là thời gian đo mẫu
Phương pháp này đòi hỏi phải một sử dụng các số liệu hạt nhân và các số
liệu thực nghiệm nên kết quả phân tích sẽ bị ảnh hưởng bởi nhiều nguồn sai số. Tuy
nhiên, nó có lợi thế trong những trường hợp không có mẫu chuẩn có chứa các đồng
vị phóng xạ, thành phần hóa học và mật độ tương đồng với mẫu đo.
Từ công thức (1.12), ta suy ra được công thức tính sai số của phương pháp
tuyệt đối
(1.13)
trong đó dA, dC, dI, dt, dM, d lần lượt là sai số tuyệt đối ứng với các đại lượng A,
C, I, M, t, trong công thức (1.12).
1.3.1.2 Phương pháp tương đối
Hoạt độ riêng của đồng vị phóng xạ được xác định thông qua sự so sánh giữa
mẫu cần phân tích và mẫu chuẩn. Ở phương pháp này, mẫu đo và mẫu chuẩn phải
được đo trong cùng một điều kiện. Khi đó, hoạt độ riêng của đồng vị trong mẫu đo
được xác định bởi
(1.14)
với Am, As là hoạt độ riêng của mẫu đo và mẫu chuẩn tại thời điểm đo (Bq/kg)
26
Cm, Cs tổng số đếm tại đỉnh năng lượng của mẫu đo và mẫu chuẩn
ts là thời gian đo mẫu chuẩn (s)
tm là thời gian đo mẫu đo (s)
Im, Is là cường độ phát tia gamma của mẫu đo và mẫu chuẩn
Phương pháp này khử được phần lớn các sai số hệ thống gây ra do quá trình
chuẩn bị mẫu và do detector. Còn lại sai số chủ yếu do bản chất thống kê của quá
trình phân rã, do hàm lượng của mẫu chuẫn và do sử dụng các số liệu hạt nhân.
Mẫu chuẩn có thể tự chế tạo hoặc đơn giản là dùng các mẫu chuẩn do các
nhà sản xuất cung cấp. Mẫu chuẩn và mẫu đo càng tương đồng về mật độ và thành
phần hóa học thì càng làm giảm sai số. Do đó phương pháp này gặp phải khó khăn
khi phân tích đồng thời nhiều nguyên tố. Trong trường hợp đó, để sử dụng được
phương pháp này ta phải chế tạo nhiều mẫu chuẩn khác nhau nên tốn kém hơn
phương pháp tuyệt đối.
Sai số tương đối được xác định như sau
(1.15)
trong đó dAs, dAm, dMS, dMm, dCs và dCm là sai số tuyệt đối của các đại lượng As,
Am, MS, Mm, Cs và Cm trong công thức (1.14).
1.3.1.3 Phương pháp WA trong phân tích mẫu môi trường
Trong phân tích mẫu phóng xạ môi trường, các đồng vị trong chuỗi phóng xạ 238U, 232Th và đồng vị 40K là những đồng vị thường xuyên xuất hiện trong phổ
gamma đo được và đây cũng là những đối tượng chính trong phân tích hoạt độ phóng xạ. Trong trường hợp cân bằng phóng xạ, hoạt độ của các nhân 238U và 232Th
có thể được suy ra từ hoạt độ của các nhân con của chúng. Bên cạnh các dồng vị có
trong tự nhiên, các đồng vị phóng xạ nhân tạo cũng là một mục tiêu xác định của các nhà nghiên cứu. Các đồng vị nhân tạo có thể kể đến ở đây chẳng hạn như 137Cs, 90Sr, 239Pu, 240Pu,... Bảng 1.1 liệt kê một số đỉnh gamma của các đồng vị phóng xạ
trong tự nhiên thường được sử dụng để xác định hoạt độ phóng xạ bằng phương
pháp WA.
27
Bảng 1.1. Các tia gamma thường được sử dụng trong phân tích mẫu môi trường
Năng lượng (keV) Xác suất phát
Hạt nhân mẹ 238U
235U
63,3 186,211 186,053 241,9 295,2228 351,9321 609,320 1001,03 1120,294 1238,122 1764,491 3,83% 3,89% 0,0088% 7,64% 18,42% 35,60% 45,49% 0,842% 14,92% 5,834% 15,30%
232Th
143,76 163,33 185,715 205,311 235,96 256,23 269,463 299,98 315,82 323,871 329,85 10,96% 5,08% 57,2% 5,01% 17,5% 9,5% 13,9% 3% 42,8% 3,99% 4,0%
93,3 238,6 240,986 338,320 510,77 583,187 727,330 860,557 911,204 968,971 3,5% 43,6% 4,1% 11,27% 22,60% 85,0% 6,67% 12,50% 25,8% 15,8%
40K
Hạt nhân con 234Th 226Ra 230Th 214Pb 214Pb 214Pb 214Bi 234Pa 214Bi 214Bi 214Bi 235U 235U 235U 235U 227Th 227Th 223Ra 227Th 219Rn 223Ra 227Th 228Ac 212Pb 224Ra 228Ac 208Tl 208Tl 212Bi 208Tl 228Ac 228Ac 40Ar 1460,82 10,66%
28
Dựa vào Bảng 1.1, ta thấy ở vùng năng lượng thấp có các đỉnh là 63,3 và 93,3 keV có thể được dùng để xác định hoạt độ của các nhân trong chuỗi 238U và 232Th. Tuy nhiên trong quá trình xác định hoạt độ, cần phải cẩn thận trong việc tính
toán diện tích của các đỉnh này do hiện tượng hấp thụ mạnh bên trong mẫu, lớp vỏ
ngoài và lớp chết của detector trước khi đi vào thể tích hoạt động của detector. Do
sự khác biệt về mật độ và matrix ảnh hưởng mạnh đến hiệu suất ghi của detector
trong vùng năng lượng thấp dưới 100 keV nên nếu sử dụng phương pháp WA, bằng
cách so sánh giữa mẫu chuẩn và mẫu cần phân tích, để tính hoạt độ riêng của các
đỉnh năng lượng này sẽ gặp sai số đáng kể. Đồng thời các đỉnh này bị phông nền của bức xạ hãm 1160 keV của 210Pb và phông Compton của tất cả các đỉnh còn lại
làm các đỉnh này dâng cao. Do đó việc sử dụng các đỉnh này trong tính toán phải rất
thận trọng.
Đỉnh 510,8 keV của 208Tl bị nhiễu rất mạnh do đỉnh hủy 511 keV xuất hiện trên phổ. Các đỉnh 609,3; 1120,3 (238U) và 583,2; 727,3; 795 keV (232Th) bị trùng
phùng đáng kể. Chúng lệch so với giá trị trung bình của hoạt độ lên đến –14%; –
6%; –11%; +15% và –10% (dấu „+‟ ứng với trường hợp lớn hơn và dấu „–‟ ứng với
trường hợp nhỏ hơn) [29]. Còn một số đỉnh như 295,2; 1238,1; 351,9; 1001 keV của chuỗi 238U và 238,6; 338,3; 860,6; 911,2 keV của chuỗi 232Th sử dụng khá tốt
trong tính toán. Đây là điều mà chúng tôi đã nhận thấy rõ qua việc tính hoạt độ một
số mẫu môi trường bằng phương pháp WA.
Đỉnh 144 keV là sự chồng chập ba đỉnh có năng lượng gần bằng nhau của các đồng vị 235U, 230Th và 223Ra nên cần phải tách chúng ra trước khi tính. Tương tự
như vậy, đỉnh 186 keV là sự chồng chập ba đỉnh có năng lượng gần bằng nhau của các đồng vị 230Th, 226Ra và 235U. Do cường độ phát hai tia 144 và 186 keV của 230Th
rất nhỏ nên có thể bỏ qua sự đóng góp của đỉnh này. Bảng 1.2 trình bày một gợi ý
cho sự hiệu chỉnh này trong trường hợp các chuỗi phóng xạ cân bằng trường kỳ và
có độ giàu tự nhiên.
29
Bảng 1.2. Những hiệu chỉnh đối với sự nhiễu đỉnh trong phép đo 226Ra và 235U [16]
Hạt nhân Độ lệch chuẩn
235U 238U 235U
Chuỗi phóng xạ Hoạt độ riêng (Bq/gUnat) Năng lượng gamma (keV) Xác suất phát tia gamma (%) Phần đóng góp vào đỉnh Độ giàu trong tự nhiên Unat (%)
0,720 99,275 0,720 143,76 143,87 144,23 10,96 0,049 3,22 0,720 0,069 0,211 1,14 10,24 2,93
235U 238U 238U
Tỉ số đỉnh 144 keV / đỉnh tổng cộng 235U 575,7 230Th 12346 223Ra 575,7 Hệ số hiệu chỉnh đối với số đếm của 235U khi sử dụng đỉnh 144 keV 0,720 1,14
0,720 99,275 99,275 57,2 3,555 0,0088 185,72 186,21 186,05 0,428 0,571 0,001 1,55 0,86 1025
0,571 0,86
Tỉ số đỉnh 186 keV / đỉnh tổng cộng 235U 575,7 226Ra 12346 230Th 12346 Hệ số hiệu chỉnh đối với số đếm của 226Ra khi sử dụng đỉnh 186 keV Hệ số hiệu chỉnh đối với số đếm của 235U khi sử dụng đỉnh 186 keV 0,571 0,86
1.3.2 Phƣơng pháp FSA
Trong phương pháp này, hầu như toàn bộ phổ đo đều được sử dụng và hoạt
độ của các đồng vị có trong phổ được tính dựa vào việc làm khớp phổ đo với các
phổ chuẩn ứng với từng đồng vị riêng rẽ.
1.3.2.1 Sơ lược lịch sử
Phương pháp FSA được sử dụng ban đầu cho mục đích địa vật lý với việc sử
dụng các hệ detector được làm bằng tinh thể nhấp nháy để phát hiện và ghi nhận tia
gamma của các hạt nhân phóng xạ tự nhiên có trong đất trên bãi biển và trong đất
liền. Các công trình nghiên cứu về phương pháp này có thể kể đến chẳng hạn như
Crossley và Reid (1982) [13], Minty và cộng sự (1998) [26], de Meijer (1998) [15],
Hendriks và cộng sự (2001) [17],... Trong những năm gần đây, phương pháp FSA
đã và đang dần dần được áp dụng vào việc tính toán hoạt độ phóng xạ của các mẫu
30
môi trường được đo bằng các detector trong phòng thí nghiệm, một trong những
công trình tiêu biểu nhất có thể kể đến là Maphoto (2004) [25]. Trong công trình
này, tác giả đã xác định hoạt độ phóng xạ tự nhiên trong đất bằng hai phương pháp
WA và FSA và đã so sánh kết quả tìm được từ hai phương pháp này. Gần đây nhất,
Newman và cộng sự (2008) [29] đã xác định thành công hoạt độ phóng xạ tự nhiên
trong các mẫu đất, cát và quặng dựa vào kĩ thuật FSA khi sử dụng detector HPGe
để đo phổ gamma.
1.3.2.2 Phương pháp
Trong trường hợp phương pháp FSA được áp dụng cho phân tích hoạt độ
phóng xạ tự nhiên, phổ cần phân tích được làm khớp với sự kết hợp tuyến tính của ba phổ chuẩn (238U, 232Th và 40K) và một phông nền. Mỗi phổ chuẩn này tương ứng
với sự đáp ứng của detector với mỗi mẫu có hoạt độ 1Bq/kg chứa các hạt nhân phóng xạ riêng biệt là 238U, 232Th và 40K trong mỗi cấu hình cụ thể. Các phổ chuẩn
này có thể được đo bằng thực nghiệm hoặc dùng phương pháp mô phỏng Monte
Carlo [18]. Phổ cần phân tích S được xem như là sự chồng chập có trọng số của ba
phổ chuẩn SU, STh, SK và phông nền SB, về mặt toán học có thể biểu diễn theo
phương trình
S(i) = CU×SU(i) + CTh×STh(i) + CK×SK(i) + CB×SB(i)
(1.16) CU, CTh, và CK lần lượt là hoạt độ của các hạt nhân phóng xạ 238U, 232Th và 40K
trong mẫu phân tích; CB là phần đóng góp của phông nền vào trong phổ S, trong
thực tế CB được chọn bằng tỉ số thời gian đo giữa S và SB.
Vì làm khớp trên toàn phổ nên phương pháp này khắc phục được một số
khuyết điểm của phương pháp truyền thống WA. Các mẫu môi trường thường có
hoạt độ thấp do đó khi đo phải dùng mẫu thể tích dạng hình trụ hoặc Marinelli để
tăng số đếm. Điều này dẫn đến sự mất hoặc tăng số đếm đỉnh do hiện tượng trùng
phùng của các tia gamma ứng với các đỉnh đó và không may lại xảy ra với các tia
gamma có cường độ phát cao trong phổ môi trường. Phương pháp FSA dựa trên sự
so sánh phổ đo với các phổ chuẩn nên khắc phục được khó khăn này. Thêm vào đó,
thăng giáng thống kê đối với các mẫu có số đếm thấp rất đáng quan tâm. Khi xét
31
phổ đo trên toàn phổ, sẽ làm giảm đáng kể sai số do thăng giáng này gây ra. Khi đó,
vùng lưng Compton cũng không gây ra sai số nhiều trong phép phân tích.
Khi sử dụng kĩ thuật FSA trong phân tích phổ phải qua các bước cơ bản sau:
các mẫu chuẩn được đo bằng detector HPGe. Do thời gian đo tương đối dài nên các
phổ chuẩn này sẽ bị lệch kênh so với nhau do một số nguyên nhân như thăng giáng
nhiệt độ và thăng giáng cao thế .Vì vậy các phổ chuẩn sau khi thu nhận sẽ được
hiệu chỉnh mối quan hệ giữa số kênh và năng lượng tại kênh đó. Trong luận văn
này, chúng tôi đã chọn một phổ chuẩn làm chuẩn và hiệu chỉnh các phổ chuẩn còn
lại, các phổ cần phân tích và một phổ phông nền là nước cất theo phổ chuẩn này.
Bước tiếp theo là trừ phông nền cho các phổ mẫu chuẩn và các phổ mẫu đo. Sau đó,
các phổ chuẩn này sẽ được chuẩn về 1Bq/kg.
32
CHƢƠNG 2
PHÔNG NỀN PHÓNG XẠ MÔI TRƢỜNG
Môi trường xung quanh chúng ta luôn tồn tại các hạt nhân phóng xạ. Các hạt
nhân này có thể được tạo ra do tia vũ trụ tương tác với các hạt nhân khác trong bầu
khí quyển xung quanh Trái đất, do sự tiến bộ của khoa học trong lĩnh vực hạt nhân,
hay có nguồn gốc từ thuở tạo ra vũ trụ. Thông thường, các hạt nhân này thường có
hoạt độ thấp. Tuy nhiên, do sự tồn tại khắp mọi nơi của chúng, trong cả mẫu đo,
ngay bên trong và xung quanh detector nên cũng ảnh hưởng đáng kể đến các phép
đo các mẫu môi trường có hoạt độ thấp. Việc hiểu rõ đặc điểm của một số hạt nhân
phóng xạ tự nhiên phổ biến và các chuỗi phóng xạ tự nhiên, đặc biệt là các chuỗi
thorium, uranium và actinium sẽ giúp ích rất nhiều trong việc đo đạc mẫu môi
trường. Việc nắm vững các tia gamma do các hạt nhân phóng xạ phát ra sẽ giúp
chúng ta có những hiệu chỉnh cần thiết khi xác định diện tích của những đỉnh
gamma mà chúng ta quan tâm. Chương này trình bày sơ lược một số hạt nhân
phóng xạ phổ biến trong tự nhiên, và giới thiệu một phương pháp hiệu chỉnh đóng
góp của phông phóng xạ vào phổ gamma đo đạc mẫu môi trường.
2.1 NGUỒN GỐC PHÓNG XẠ MÔI TRƢỜNG
Phóng xạ là sự biến đổi tự xảy ra của hạt nhân nguyên tử, đưa đến sự thay
đổi trạng thái, số nguyên tử hoặc số khối của hạt nhân. Khi chỉ có sự thay đổi trạng
thái xảy ra, hạt nhân sẽ phát ra tia gamma mà không biến đổi thành hạt nhân khác,
khi bậc số nguyên tử thay đổi sẽ biến hạt nhân này thành hạt nhân của nguyên tử
khác, khi chỉ có số khối thay đổi hạt nhân sẽ biến thành đồng vị khác của nó.
Các công trình nghiên cứu về hiện tượng phóng xạ đã xác nhận rằng các sản
phẩm phân rã phóng xạ của hạt nhân bao gồm 3 loại chính:
+ Tia alpha: là chùm các hạt nhân của nguyên tử Helium (4He).
+ Tia beta: là chùm các electron ( –) và các positron ( +).
+ Tia gamma: là chùm các photon có năng lượng cỡ vài chục keV trở lên.
33
Nguồn phóng xạ trong môi trường được chia làm hai loại: nguồn phóng xạ tự
nhiên và nguồn phóng xạ nhân tạo. Các nguồn phóng xạ tự nghiên gồm hai nhóm:
nhóm các đồng vị phóng xạ nguyên thủy (có từ khi tạo thành trái đất) và vũ trụ và
nhóm các đồng vị phóng xạ có nguồn gốc từ vũ trụ (được tia vũ trụ tạo ra). Nguồn
phóng xạ nhân tạo do con người chế tạo bằng cách chiếu các chất trong lò phản ứng
hạt nhân hay máy gia tốc hoặc từ các vụ thử nghiệm vũ khí hạt nhân.
2.2 CÁC HẠT NHÂN PHÓNG XẠ DO BỨC XẠ VŨ TRỤ
Các bức xạ đến từ vũ trụ, chủ yếu là từ ngoài hệ Mặt trời của chúng ta, có thể
là chùm hạt photon năng năng lượng cao, hạt muon, hay chùm hạt nặng mang điện.
Các bức xạ này tương tác với các hạt nhân nitơ và oxi trong tầng cao của khí quyển và tạo ra các hạt nhân phóng xạ như 14C, 3T, 7Be,…với tốc độ không đổi. Các hạt
nhân phóng xạ này theo nước mưa đến bề mặt của Trái đất. Mặc dù mật độ các hạt
nhân phóng xạ này nhỏ nhưng xét trên toàn cầu thì lượng hạt nhân phóng xạ này
không nhỏ. Chúng có chu kì bán rã dài nhưng phần lớn đều nhỏ hơn chu kì của các
hạt nhân phóng xạ nguyên thủy. Trong số các hạt nhân phóng xạ do bức xạ vũ trụ tạo ra, ba hạt nhân phổ biến nhất là 3T, 14C và 7Be. 2.2.1 Tritium (3T)
Tritium có trên Trái đất một ít là do từ Mặt trời, phần lớn là do các phản ứng
hạt nhân, ví dụ như phản ứng giữa neutron nhanh với 14N
n + 14N → 12C + 3H (2.1)
Phản ứng này tạo ra khoảng 2500 nguyên tử tritium trong mỗi giây, trên mỗi
mét vuông bề mặt của Trái đất. Tritium phóng xạ –, có chu kì bán rã là 12,33 năm
và phần lớn thời gian tồn tại của nó là ở trong nước, tham gia vào chu trình hidro
14C là hạt nhân phóng xạ
– mềm (Emax = 158 keV) có chu kì bán rã 5715 năm. 14C được tạo ra trong bầu khí quyển bởi rất nhiều phản ứng hạt nhân khác nhau, trong đó phản ứng quan trọng nhất là giữa neutron chậm và 14N
toàn cầu. 2.2.2 Cacbon-14 (14C)
n + 14N → 14C + 1H (2.2)
34
Phản ứng này tạo ra khoảng 22000 nguyên tử 14C trong mỗi giây trên mỗi
mét vuông bề mặt của Trái đất. Nếu kể đến sự đóng góp từ các vụ thử hạt nhân, các
nhà máy điện hạt nhân, và sự đốt cháy các nhiên liệu hóa thạch thì hoạt độ riêng trung bình toàn cầu hiện tại của 14C là 13,56 ± 0,07 dpm/gC. 14C được dùng trong phương pháp 14C để xác định niên đại. 2.2.3 Beryllium-7 (7Be)
Beryllium-7 được tạo ra khi bức xạ vũ trụ tương tác với các hạt nhân nitơ và
oxi của khí quyển. Nó có chu kì bán rã là 53,28 ngày.
Bảng 2.1 đưa ra hoạt độ trung bình của các hạt nhân có nguồn gốc từ bức xạ
vũ trụ. Ta có thể nhận thấy rằng hoạt độ của các nhân phóng xạ này tương đối nhỏ
và nhìn chung là gần như ít ảnh hưởng đến phông nền phóng xạ môi trường.
Bảng 2.1. Hoạt độ trung bình của một số hạt nhân phóng xạ phổ biến được tạo ra do
bức xạ vũ trụ [35]
Hoạt độ
6 pCi/g (0,22 Bq/g) trong chất hữu cơ 0,032pCi/kg (1,2.10-3 Bq/kg)
Hạt nhân 14C 3H 7Be 0,27 pCi/kg (0,01Bq/kg)
2.3 CÁC HẠT NHÂN PHÓNG XẠ NGUYÊN THỦY
Các hạt nhân phóng xạ nguyên thủy có từ lúc tạo ra vũ trụ. Đa số các hạt
nhân này có chu kì bán rã rất lớn, khoảng hàng trăm triệu năm. Nếu tính từ lúc Trái
đất được tạo thành, các hạt nhân nào đã trải qua khoảng vài chục chu kì bán rã thì
hầu như không còn tồn tại nữa. Chỉ những hạt nhân có chu kì bán rã lớn, so sánh được với tuổi của Trái đất thì vẫn còn tồn tại như 238U, 235U, 232Th và 40K. Ngoại trừ 40K (Hình 2.1), các sản phẩm của các hạt nhân này cũng không bền nên chúng tiếp
tục phân rã tạo thành ba chuỗi phóng xạ trong tự nhiên.
35
40K
10,72%
89,28%
40Ar
40Ca
Hình 2.1. Sơ đồ phân rã Kali (40K)
Hình 2.2, 2.3 và 2.4 trình bày sơ đồ ba chuỗi phóng xạ Uranium (238U), Actinium (235U) và Thorium (232Th) trong tự nhiên [36][28]. Các sơ đồ này có đầy
đủ những nhánh phóng xạ có xác suất phát thấp.
Các đặc điểm của 3 chuỗi phóng xạ tự nhiên:
+ Thành viên thứ nhất (hạt nhân mẹ) đều là các đồng vị phóng xạ sống lâu
với thời gian bán rã được đo theo các đơn vị địa chất. Tất cả các hạt nhân con trong
mỗi chuỗi đều có chu kì bán rã nhỏ hơn nhiều so với hạt nhân mẹ nên các chuỗi cân
bằng phóng xạ trường kì. Khi đó, hoạt độ phóng xạ của các hạt nhân trong chuỗi
đều bằng nhau và bằng hoạt độ phóng xạ của hạt nhân mẹ.
+ Mỗi chuỗi đều có một thành viên dưới dạng khí phóng xạ, chúng là các đồng vị khác nhau của nguyên tố Radon: ví dụ trong chuỗi Uranium là 226Rn (Radon); trong chuỗi Thorium là 220Rn (Thoron); trong chuỗi Actinium là 219Rn
(Actinon).
+ Sản phẩm cuối cùng trong mỗi họ phóng xạ tự nhiên đều là chì: 206Pb trong
chuỗi Uranium, 207Pb trong chuỗi Actinium và 208Pb trong chuỗi Thorium.
Các chuỗi phóng xạ này tồn ở mọi nơi, mọi vật, có trong đất đá, trong không
khí, trong vật liệu xây dựng,… Trong số các hạt nhân của chuỗi, chỉ có một số có
hoạt độ đáng kể, Bảng 2.2 trình bày các thống kê trong [35] về hoạt độ trung bình
của các hạt nhân này.
36
U238
4,468.109y
1,159m
Pa234
U234
Th234
24,10d
2,455.106y
Th230
7,54.104y
Ra226
1,6.103y
Ra222
3,8235d
0,02%
Po218
At218
99,98%
3,098m
22,26y
Bi214
5,01d Po214
Pb214
99,979%
0,021%
19,9m
Bi210
100%
Po210
Tl210
Pb210
22,20y
5,012d
0%
138,38d
Tl206
Hg206
Pb206 Bền
Hình 2.2. Chuỗi phân rã Uranium (238U)
37
U235
0,704.109y
25,52h
Pa231
Th231
3,276.104y
99%
Th227
Ac227
1%
18,718y
Fr223
Ra223
11,43d
At219
Ra219
10ms
0%
Bi215
At215
Po215
100%
0%
Po211
Bi211
36,1m
2,14m
Tl207
100%
1,781ms Pb211
Pb207 Bền
Hình 2.3. Chuỗi phân rã Actinium (235U)
38
Th232
14.109y
6,15h
Th228
Ra228
Ac228
5,75y
1,9y
Ra224
3,66d
Rn220
55,6s
Po216
0,145s
64,06%
10,64h
Bi212
Po212
Pb212
60,55m
35,94%
0s
Tl208
Pb208 Bền
Hình 2.4. Chuỗi phân rã Thorium (232Th)
Chú thích:
Nét đậm: Nhánh phân rã chính
phân rã beta phân rã anpha
39
Bảng 2.2. Hoạt độ phóng xạ của một số hạt nhân nguyên thủy[35]
Độ giàu trong tự nhiên Hoạt độ
0,7 pCi/g (25 Bq/kg) Hạt nhân 238U
chiếm 99,2745% uranium trong tự nhiên, tổng lượng uranium chiếm từ 0,5 đến 4,7ppm trong đá thông thường
235U 232Th
0,72% uranium trong tự nhiên
1,1 pCi/g (40 Bq/kg)
226Ra
chiếm từ 1,6 đến 20ppm trong đá thông thường và chiếm trung bình khoảng 10,7ppm lượng đá trên bề mặt Trái đất
222Rn
có trong đá vôi và đá phun trào
là khí hiếm
0,42 pCi/g (16 Bq/kg) trong đá vôi và 1,3 pCi/g (48Bq/kg) trong đá phun trào. 0,016 pCi/L (0,6 Bq/m3) đến 0,75 pCi/L (28Bq/m3) (giá trị trung bình hàng năm ở Hoa Kỳ)
40K
1-30 pCi/g (0,037-1,1 Bq/g) có trong đất
2.4 CÁC HẠT NHÂN PHÓNG XẠ NHÂN TẠO
Trong quá trình sử dụng phóng xạ, hơn một trăm năm nay, loài người đã đưa
vào tự nhiên những hạt nhân phóng xạ mới, đóng góp vào lượng phóng xạ tự nhiên.
Các nguồn phát phóng xạ nhân tạo có thể kể đến như là các nhà máy điện hạt nhân,
các vụ thử vũ khí hạt nhân, các khu chứa chất thải phóng xạ, chất thải rắn hay đồng
vị phóng xạ đánh dấu,… Những hạt nhân phóng xạ này ngày càng tăng trong những
lần thử vũ khí hạt nhân và trong những sự cố hạt nhân. Tuy nhiên chúng có chu kì
bán rã ngắn hơn nhiều so với các hạt nhân phóng xạ nguyên thủy.
Nếu kể đến đóng góp vào lượng phóng xạ tự nhiên thì các hạt nhân phóng xạ
nhân tạo đóng góp ít hơn cả, kế đến là các hạt nhân phóng xạ có nguồn gốc từ vũ trụ
và chiếm phần lớn lượng phóng xạ là các hạt nhân phóng xạ tự nhiên. Bảng 2.3 liệt
kê một số hạt nhân phóng xạ nhân tạo phổ biến nhất trong tự nhiên và nguồn gốc
tạo ra chúng.
40
Bảng 2.3. Một số hạt nhân phóng xạ nhân tạo phổ biến trong tự nhiên
Nguồn tạo ra
121I
Hạt nhân Chu kì bán rã 3H 12,3y được tạo ra từ các vụ thử nghiệm và chế tạo vũ khí hạt nhân và từ các lò phản ứng phân hạch
8,04d
129I
sản phẩm phân hạch từ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, lò phản ứng phân hạch và từ việc điều trị bệnh ở tuyến giáp.
137Cs
1,57.107y sản phẩm phân hạch từ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, lò phản ứng phân hạch
30,17y sản phẩm phân hạch từ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, lò phản ứng phân hạch
90Sr
28,78y
99Tc
239Pu
2,11.105y
2,41.104y sản phẩm phân hạch từ thử nghiệm vũ khí hạt nhân, lò phản ứng phân hạch sản phẩm của 99Mo, được sử dụng trong chuẩn đoán bệnh được tạo ra khi neutron bắn phá 238U
2.5 CÁC ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ THƢỜNG HIỆN DIỆN TRONG PHÔNG
NỀN PHỔ KẾ GAMMA
Do các hạt nhân phóng xạ tồn tại khắp mọi nơi, ở xung quanh detector, trong
vật liệu tạo detector và cả trong chất nền của mẫu đo nên chúng cũng được ghi nhận
bởi detector, từ đó tạo nên phông nền phóng xạ trong phổ gamma đo được. Điều
này có thể ảnh hưởng đáng kể đến việc tính toán hoạt độ của các mẫu môi trường,
đặc biệt là các mẫu có hoạt độ thấp. Do đó, việc khảo sát chi tiết phông nền sẽ giúp
chúng ta đáng kể trong việc hiệu chỉnh các đóng góp của chúng lên việc tính toán
các hoạt độ phóng xạ của các mẫu đo.
Ở nước ta, về sự ảnh hưởng các đồng vị phóng xạ nhân tạo lên phông nền
phóng xạ, trong các nghiên cứu [20][31], các tác giả cũng đã nhận thấy dấu hiệu tồn tại của 239+240Pu, 90Sr và 137Cs trong đất ở Việt Nam, đặc biệt giá trị của 137Cs khá
cao so với giá trị trung bình trên toàn cầu được đưa ra bởi UNSCEAR (1969) [37].
Nhìn chung, những đóng góp chủ yếu vào phông nền là do các đồng vị phóng xạ
41
nguyên thủy. Cả bốn đồng vị phóng xạ phổ biến là 238U, 235U, 232Th và 40K đều có
tồn tại trong phông nền. Trong công trình [21], các tác giả đã chỉ ra rằng hàm lượng
các đồng vị phóng xạ tự nhiên có trong đất bề mặt ở miền nam Việt Nam là nằm
trong khoảng giá trị trung bình của thế giới. Trong các chuỗi phóng xạ tự nhiên, hầu
hết các đỉnh năng lượng gamma có xác suất phát cao, thường được sử dụng trong đo
đạc đều có mặt trong phông nền.
Bên cạnh các nhân phóng xạ nguyên thủy và nhân tạo, các đồng vị phóng xạ
có nguồn gốc từ vũ trụ cũng góp phần ảnh hưởng vào phông nền đo gamma. Những
ảnh hưởng có thể kể đến chẳng hạn như:
Do các neutron có nguồn gốc từ bức xạ vũ trụ hoặc phân hạch hạt nhân tự
nhiên có thể xuyên qua lớp chì che chắn của detector một cách dễ dàng, gây ra phản ứng với chì. Tuy nhiên các phản ứng tạo tia gamma như : 207Pb(n,n‟γ)207Pb cho bức xạ gamma năng lượng 569,2 keV; 1063,6 keV; 206Pb(n,n‟γ)206Pb cho bức xạ gamma năng lượng 803,3 keV; 208Pb(n,n‟γ)208Pb cho bức xạ gamma năng lượng 2614,0 keV
có tiết diện phản ứng nhỏ nên không tạo phông phóng xạ cho detector [3].
Các nghiên cứu về ảnh hưởng của neutron trong môi trường lên detector
germanium cũng đã được nghiên cứu trong [19][38]. Các đo đạc thực nghiệm và mô
phỏng Monte Carlo cho thấy rằng tương tác của neutron với tinh thể germanium có
thể tạo nên các đỉnh gamma nằm trong dải năng lượng từ 50 đến khoảng 800 keV.
Đặc biệt là các chùm neutron năng lượng cao có nguồn gốc từ vũ trụ có thể tán xạ không đàn hồi với các nhân 72Ge và 74Ge, gây ra các đỉnh 691 keV và 596 keV
tương ứng.
Ngoài ra, trong chì che chắn còn có chứa một hàm lượng 210Pb nhất định [3]. 210Pb là hạt nhân không bền, phân rã thành nhân con 210Bi với chu kì bán rã 22,3
năm. Phóng xạ – từ 210Bi có năng lượng cực đại 1160 keV, có thể tạo ra các bức xạ
hãm (bremsstrahlung) và các bức xạ đặc trưng tia X của chì (PbKα1 = 75 keV; PbKα2
= 72,8 keV; PbKβ1 = 85 keV; PbKβ2 = 87 keV). Trong thực tế, để giảm thiểu ảnh
hưởng của tia X của chì lên phổ đo, người ta thường lót bên trong buồng chì các lớp
thiếc, đồng hoặc cadmium nhằm hấp thụ bớt các tia X đặc trưng này.
42
2.6 KHẢO SÁT PHÔNG NỀN CỦA HỆ PHỔ KẾ HPGE TẠI BỘ MÔN VẬT
LÝ HẠT NHÂN
Trong việc đánh giá hoạt độ phóng xạ mẫu môi trường, kết quả đo phổ
gamma không phải chỉ là kết quả của mẫu phân tích mà còn có sự đóng góp của
phông do nhiều yếu tố chi phối. Các phóng xạ phông nền này làm cho vùng liên tục
trong phổ gamma được nâng cao đồng thời gây khó khăn cho việc xác định chính
xác diện tích đỉnh tương ứng với gamma phát ra từ nguồn. Để đảm bảo mức độ
chính xác cho kết quả phân tích, mẫu phân tích cần phải được trừ phông trước khi
thực hiện việc tính toán diện tích đỉnh. Có rất nhiều cách khác nhau để trừ nền
phông liên tục (phông do tán xạ Compton), chẳng hạn như làm khớp phông theo các
dạng bậc nhất, bậc hai hay các dạng phức tạp hơn, sau đó loại trừ các phông giải
tích này ra khỏi số đếm trong vùng quan tâm. Còn phông do bức xạ từ môi trường
thì được loại trừ bằng cách trừ phổ đo có nguồn với một phổ đo không nguồn. Phổ
đo không có nguồn sẽ chứa các thành phần làm nhiễu do các bức xạ từ bên ngoài
vào do vậy chúng ta sẽ loại trừ được những thành phần này sau khi trừ phông. Điều
này sẽ giúp việc trừ phông được chính xác hơn, dẫn tới kết quả tính toán diện tích
đỉnh được chính xác.
Trong quá trình đo đạc cũng như tính toán diện tích đỉnh gamma, đặc biệt là
đối với các mẫu có chứa các nhân phóng xạ nguyên thủy, vấn đề ước lượng sự đóng
góp của phông nền phóng xạ vào trong diện tích đỉnh là một việc cần được quan
tâm. Nếu sự đóng góp của phông nền vào phổ đo là lớn, ta cần phải trừ phông nền
trước khi đi tính diện tích đỉnh. Tuy nhiên nếu sự đóng góp của phông nền là nhỏ
thì cũng không nhất thiết phải trừ phông, do việc đo đạc phông nền cũng khá tốn
thời gian. Do đó, việc khảo sát trước phông nền sẽ giúp chúng ta đánh giá được khả
năng ảnh hưởng của phông nền vào phổ đo sau này.
Trong phần này, tác giả đã thực hiện việc khảo sát phổ phông nền được đo
bằng detector HPGe GC2018 tại Bộ môn Vật lý Hạt nhân, Trường Đại học Khoa
học Tự nhiên TPHCM. Detector được đặt trong một buồng chì có dạng hình trụ với
đường kính ngoài 50,8cm, chiều cao 53,1cm, bên trong có lót một lớp thiếc dày
43
1mm và một lớp đồng dày 1,6mm nhằm giảm phông từ môi trường (Hình 2.5). Thời
gian đo phông nền là 3 ngày.
Đồng Thiếc
Chì
Detector
Hình 2.5. Sơ đồ hệ detector – buồng chì
Bảng 2.4 liệt kê những đồng vị đóng góp đáng kể vào phông nền bức xạ.
Trong bảng này, các đồng vị đóng góp đáng kể vào phông nền là các đồng vị trong các chuỗi phóng xạ tự nhiên 238U, 232Th và 40K. Các đồng vị khác có đóng góp
không đáng kể hoặc có diện tích đỉnh quá nhỏ, không thể tính được. Từ các số liệu
được cung cấp trong Bảng 2.4, ta có thể ước lượng được sự đóng góp của phông
nền vào trong các đỉnh gamma phát ra từ mẫu có giá trị năng lượng trùng với các
đỉnh gamma có trong phông nền trong quá trình đo đạc mẫu phóng xạ, từ đó có thể
quyết định rằng việc trừ phông nền bức xạ môi trường có cần thiết hay không. Từ
Bảng 2.4, ta có thể dễ dàng thấy rằng các diện tích đỉnh của phông nền không vượt
quá 3000 số đếm với thời gian đo trong 3 ngày, tức là không vượt quá 0,01 số đếm /
giây. Như vậy đối với các đỉnh gamma có tốc độ đếm vào khoảng 1 số đếm / giây
trở lên thì sai lệch gây ra do phông nền bức xạ không vượt quá 1%.
44
Bảng 2.4. Diện tích đỉnh của những đồng vị đóng góp đáng kể vào phông nền phổ
kế gamma HPGe được đo trong thời gian 3 ngày (259200s)
238U
234Th 238U 226Ra 230Th 214Pb 214Bi
Hạt nhân mẹ Hạt nhân con Năng lượng (keV) Xác suất phát (%) Diện tích phông nền
232Th
63,3 113,5 186,211 186,053 351,9321 295,2228 609,320 1120,294 1238,122 1764,491 1001,03 3,83 0,0102 3,89 0,0088 35,60 18,42 45,49 14,92 5,834 15,30 0,842 1192 1701 797 487 1040 498 255
93,3 338,320 968,971 238,6 583,187 911,204 234Pa 228Ac 212Pb 208Tl 228Ac 3,5 11,27 15,8 43,6 85,36 25,8 2912 139 1202 575 530
40K
1460,82 10,66 2756
45
CHƢƠNG 3
XÁC ĐỊNH HOẠT ĐỘ PHÓNG XẠ BẰNG
PHƢƠNG PHÁP FULL SPECTRUM ANALYSIS
VÀ THUẬT TOÁN DI TRUYỀN
Trong đo đạc phóng xạ môi trường bằng hệ phổ kế gamma, phương pháp
thông dụng nhất để xác định hoạt độ phóng xạ là dựa trên việc lấy thông tin diện
tích đỉnh nằm trong cửa sổ đặt tại năng lượng cần quan tâm trên phổ gamma
(phương pháp Window Analysis – WA). Ngoài ra, còn một phương pháp khác để
xác định hoạt độ, đó là phương pháp lấy thông tin trên toàn phổ (phương pháp Full
Spectrum Analysis – FSA). Phương pháp này mang đến cho người phân tích phóng
xạ trên hệ phổ kế gamma một hướng tiếp cận khác trong việc xác định hoạt độ mẫu
môi trường.
Phương pháp FSA trước đó đã được nghiên cứu trong [2] nhằm phân tích
hoạt độ phóng xạ tự nhiên trong đất. Tuy nhiên, công trình [2] được thực hiện với
mục đích thăm dò và so sánh để tìm ra ưu điểm của phương pháp FSA so với
phương pháp WA truyền thống. Do đó các tính toán trong công trình này chưa thực
sự tối ưu trong việc tìm kiếm các tham số làm khớp. Trong luận văn này, thuật toán
di truyền được sử dụng để xác định hoạt độ phóng xạ tự nhiên của một số mẫu môi
trường trong phương pháp FSA. Kết quả có được từ phương pháp FSA này sẽ được
so sánh với kết quả tính từ phương pháp WA truyền thống.
3.1 THUẬT TOÁN DI TRUYỀN
Thuật toán di truyền do John Holland phát minh vào năm 1975 với việc xuất
bản cuốn sách “Adaptation in Natural and Artificial Systems” [12]. Đây là một
trong những thuật toán phổ biến nhất trong các phép toán tiến hóa. John Holland đã
vận dụng thuyết tiến hóa trong tự nhiên vào các hệ thống nhân tạo. Trong thuyết
tiến hóa, theo cơ chế chọn lọc tự nhiên của Charles Darwin, các cá thể trong tự
nhiên luôn đấu tranh sinh tồn, các cá thể thích nghi sẽ tồn tại và tiếp tục phát triển.
46
Trong quá trình sinh sản, cá thể con được tạo ra sẽ thừa hưởng các đặc tính tốt của
bố và mẹ. Dựa vào cơ chế chọn lọc tự nhiên, Holland đã mô phỏng quá trình tiến
hóa trong tự nhiên vào các bài toán tìm kiếm tối ưu. Sau hơn 30 năm phát triển,
thuật toán di truyền trở thành một công cụ mạnh trong việc tìm kiếm các tham số tối
ưu. Ngày nay, thuật toán di truyền được vận dụng vào những bài toán tối ưu phức
tạp như lập thời khóa biểu, sắp xếp lịch làm việc, chơi game…
Trong thuật toán di truyền cổ truyền, sự biểu diễn di truyền được sử dụng là
một chuỗi các bit (mang hai giá trị 0 và 1) có chiều dài cố định. Mỗi vị trí trong
chuỗi biểu diễn cho một đặc điểm riêng biệt của từng cá thể và mỗi giá trị tại vị trí
đó cho biết đặc điểm đó được thể hiện trong cá thể như thế nào. Thông thường, một
chuỗi được xem như một tập hợp các đặc điểm cấu trúc của một cá thể, chúng có
thể hoàn toàn không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít lên nhau. Chúng tương tự như
những gene trong một cơ thể sinh vật. Các toán tử chính thường được sử dụng trong
phép toán di truyền là toán tử lai tạo và đột biến.
Toán tử lai tạo chính được sử dụng là cắt chuỗi bit, hai chuỗi được cắt đóng
vai trò như là bố mẹ và những cá thể mới được tạo ra bằng cách hoán vị một chuỗi
a)
c)
con (xem Hình 3.1).
1
1
0
1
0
0
1
1
0
1
1
1
b)
d)
1
0
1
1
1
1
1
0
1
1
0
0
Hình 3.1. Cắt chuỗi bit của bố mẹ a và b để tạo con c và d
Một toán tử quan trọng khác là đột biến cá thể bằng cách đảo bit, khi đó một
a)
b)
bit trong chuỗi của bố hoặc mẹ được đảo để tạo ra cá thể con (xem Hình 3.2).
1
1
0
1
0
0
1
1
0
1
1
0
Hình 3.2. Đột biến bằng cách đảo bit của ba mẹ a để tạo cá thể con b
47
Một số toán tử khác cũng được phát triển nhưng ít được sử dụng thường
xuyên hơn, chẳng hạn như toán tử đảo ngược. Sự khác biệt chủ yếu giữa các toán tử
khác nhau là nó có tạo ra thông tin mới cho quần thể hay không, ví dụ như toán tử
lai tạo thì không còn đột biến thì có. Tất cả những toán tử đều bị ràng buộc để điều
khiển một cấu trúc gene hợp lí. Ví dụ như, hai gene ở cùng một vị trí trên hai chuỗi
có thể hoán vị giữa bố và mẹ. Theo cách truyền thống, những cá thể được chọn làm
bố mẹ là những cá thể thích nghi nhất, và cá thể con được tạo ra sẽ thay thế cho bố
mẹ. Sơ đồ của thuật toán di truyền được trình bày trong Hình 3.3.
Tạo quần thể ban đầu
Xác định độ thích nghi của mỗi cá thể
Điều kiện dừng
Xuất kết quả Chọn lọc tự nhiên
Thực hiện phép lai
Thực hiện phép đột biến
Hình 3.3. Sơ đồ của thuật toán di truyền
3.1.1 Biểu diễn di truyền
Mỗi nghiệm của bài toán được biểu diễn bằng một nhiễm sắc thể của cá thể.
Cấu trúc gene của nhiễm sắc thể phản ánh cấu trúc của nghiệm. Allele của một gene
tượng trưng cho giá trị một thành phần của một nghiệm. Một gene là một chuỗi bit
có chiều dài tuỳ ý. Chuỗi này là sự biểu diễn nhị phân của một khoảng giá trị từ
biên thấp đến biên cao.Ví dụ như, Hình 3.4 miêu tả sự biểu diễn di truyền của một
nghiệm.
48
1 0 1 0
1 1 1 0
1 1 1 1
0 1 0 1
Gene 1 Gene 2 Gene 3 Gene 4
Hình 3.4. Sự biểu diễn di truyền của một nghiệm
3.1.2 Tạo quần thể ban đầu
Quần thể là một tập hợp gồm nhiều cá thể. Quần thể ban đầu phải đa dạng để
trong quá trình tiến hóa có thể sinh ra mọi cá thể tương ứng với mọi nghiệm trong
vùng không gian tìm kiếm. Tất cả các allele có xác suất khác nhau của mỗi gene
đều tồn tại trong quần thể. Do đó quần thể ban đầu được tạo ra một cách ngẫu
nhiên. Tuy nhiên, nên có những phỏng đoán ban đầu để độ thích nghi trung bình
của các cá thể cao, giúp thuật toán di truyền tìm nghiệm nhanh hơn. Kích thước của
quần thể cũng phụ thuộc vào độ phức tạp của bài toán, thông thường được chọn một
cách ngẫu nhiên. Kích thước của quần thể càng lớn thì càng dễ thám hiểm vùng
không gian tìm kiếm. Goldberg đã chứng tỏ rằng hiệu quả tìm kiếm tối ưu lớn của
thuật toán di truyền là do kích thước quần thể lớn [32]. Vậy quần thể lớn rất hữu ích
trong bài toán. Kích thước quần thể thông thường khoảng từ vài chục cá thể đến vài
ngàn cá thể. Quần thể được gọi là hội tụ nếu các cá thể trong quần thể giống nhau
và khi đó sự cải tiến chỉ có thể thực hiện qua phép đột biến.
3.1.3 Tính độ thích nghi cho mỗi cá thể
Độ thích nghi của từng cá thể trong thuật toán di truyền là giá trị của hàm
mục tiêu. Độ thích nghi đó cho biết nghiệm tương ứng tốt chưa. Nhiều trường hợp
tìm kiếm tối ưu đồng thời trên nhiều vùng không gian khác nhau. Nếu độ thích nghi
của cá thể được xác định bằng cách kết hợp nhiều vùng không gian tìm kiếm khác
nhau theo một cách đơn giản mà cũng mang lại kết quả khả quan thì các vùng nên
kết hợp một cách nhất quán như vậy. Nhưng trong nhiều bài toán nên xem xét đến
thuyết tối ưu cho nhiều vùng tìm kiếm đồng thời.
3.1.4 Quá trình chọn lọc tự nhiên
Trong tự nhiên, cá thể nào thích nghi với môi trường sẽ tồn tại và phát triển.
Các cá thể này sẽ tạo ra những thế hệ tiếp theo thừa hưởng các đặc tính tốt của thế
49
hệ trước. Trong thuật toán di truyền, các cá thể có độ phù hợp cao sẽ đươc giữ lại.
Những gene trội của các cá thể bố mẹ tốt khi kết hợp lại sẽ cho cá thể con tốt hơn
bố mẹ. Sau nhiều thế hệ các cá thể con sẽ phù hợp hơn rất nhiều.
3.1.5 Quá trình sinh sản
Quá trình sinh sản là trái tim của thuật toán di truyền. Trong quá trình này
các cá thể mới được tạo ra và sẽ tạo ra được cá thể ngày càng thích nghi hơn, từ đó
sẽ tìm ra được cá thể thích nghi nhất (lời giải tối ưu của bài toán). Quá trình sinh
sản bao gồm các bước sau:
Chọn bố mẹ
Lai bố và mẹ để sinh con
Đột biến cá thể con
Thay thế các cá thể ở thế hệ trước trong quần thể bằng các cá thể mới có
độ thích nghi cao hơn
3.1.5.1 Chọn bố mẹ
Từ quần thể, các cá thể bố và mẹ được chọn, sau đó lai tạo và cá thể con
được tạo ra. Số lượng bố và mẹ được chọn tuỳ thuộc vào số cá thể con cần tạo ra.
Theo thuyết Darwin, những cá thể tốt nhất sẽ sinh tồn và phát triển. Chọn bố mẹ
thích hợp để sinh ra con thích nghi hơn, thừa hưởng được các đặc tính tốt của bố
mẹ. Các cá thể bố mẹ thích nghi tốt hơn sẽ có khả năng được chọn hơn cả. Sự lựa
chọn này phải đảm bảo tính phong phú của thế hệ tiếp theo và không xảy ra hội tụ
sớm. Có thể nêu ra ở đây một số cách chọn bố mẹ như sau:
Random selection: trong cách chọn này thì cá thể bố mẹ được chọn ngẫu
nhiên từ quần thể.
Rank selection: chọn một cặp cá thể, sau đó tạo một số ngẫu nhiên R ( từ
0 đến 1). Với r là tham số được đưa ra, nếu R < r thì cá thể thứ nhất được
chọn, nếu R ≥ r thì cá thể thứ hai được chọn. Quá trình này được lặp lại
cho đến khi chọn đủ số cá thể bố mẹ. Hoặc chọn hai cá thể ngẫu nhiên từ
quần thể, cá thể nào thích nghi nhất sẽ được chọn. Theo cách này, số cá
thể được chọn cho đến khi đủ số lượng để đưa vào sinh sản.
50
Tournament selection: các cá thể bố mẹ được chọn là những cá thể thích
nghi nhất trong quần thể.
3.1.5.2 Lai bố mẹ
Phép lai là công cụ mạnh nhất của thuật toán di truyền. Cặp bố mẹ được
chọn khi lai sẽ trao đổi gene tương ứng với nhau để tạo ra cá thể con. Lúc đó cá thể
con sẽ mang thông tin của cả bố và mẹ. Cá thể con thừa hưởng các đặc tính tốt của
cả bố và mẹ, thậm chí vượt cả bố và mẹ. Do đó phép lai cải thiện đáng kể khả năng
tìm kiếm tối ưu của thuật toán di truyền. Có một số cách lai như:
a. Lai một điểm
Trong thuật toán di truyền cổ điển, phép lai một điểm thường được sử dụng,
khi đó hai nhiễm sắc thể của bố và mẹ sẽ được cắt tại hai vị trí tương ứng với nhau
(Hình 3.1). Vị trí cắt này được chọn ngẫu nhiên dọc theo chiều dài của nhiễm sắc
thể. Sau đó, phần nhiễm sắc thể ở phía sau vị trí cắt sẽ được hoán vị với nhau tạo
nên hai cá thể con thừa hưởng các đặc điểm đồng thời của bố và mẹ. Nếu chọn được
bố và mẹ tốt, thêm vào đó là vị trí lai thích hợp, phép lai sẽ tạo ra các cá thể con tốt
nhất (nghiệm của bài toán).
Tuy nhiên, phép lai một điểm có hạn chế là nếu phần đầu và phần đuôi trên
một nhiễm mang các đặc tính tốt thì không tạo được cá thể con thừa hưởng các đặc
tính tốt này. Phép lai hai điểm sẽ khắc phục được hạn chế này.
b. Lai hai điểm
Đối với phép lai hai điểm thì chuỗi nhiễm sắc thể sẽ được cắt tại hai vị trí
được chọn ngẫu nhiên. Các vị trí cắt này trên nhiễm sắc thể bố và mẹ cũng tương
ứng với nhau. Phần nhiễm sắc thể ở giữa của bố và mẹ được giao hoán với nhau tạo
ra hai cá thể con. Cá thể con sinh ra theo cách này thừa hưởng được các đặc tính tốt
ở phần đầu và phần đuôi của nhiễm sắc thể bố hoặc mẹ.
51
Bố
Mẹ
Con
Con
Hình 3.5. Phép lai hai điểm
c. Lai đồng đều
Trong phép lai này, một mạng lọc là một chuỗi bit có chiều dài bằng chuỗi
nhiễm sắc thể được tạo ra một cách ngẫu nhiên. Dựa vào giá trị của số nhị phân trên
mạng lọc để chọn gene từ bố và mẹ cho cá thể con. Ví dụ nếu số nhị phân bằng 1 thì
chọn gene tại vị trí tương ứng của bố cho con, nếu số nhị phân bằng 0 thì chọn gene
tại vị trí tương ứng của mẹ cho con. Vì vậy cá thể con thừa hưởng các gene của bố
và mẹ xen kẽ nhau. Số điểm cắt nhiễm sắc thể của bố và mẹ trong trường hợp này
không cố định, thường là L/2 với L là chiều dài của nhiễm sắc thể.
3.1.5.3 Đột biến cá thể con
Trong số các cá thể con sinh ra, vì nguyên nhân nào đó, sẽ có một số cá thể
con bị đột biến. Cá thể con này mang đặc điểm hoàn toàn khác với bố mẹ. Trong tự
nhiên, các trường hợp đột biến thường tạo ra cá thể con không mong muốn. Tuy
nhiên, trong thuật toán di truyền thì đột biến là một cách thám hiểm vùng không
gian nghiệm một cách độc đáo. Chúng mang thông tin rất khác so với các cá thể
khác trong quần thể, và hi vọng tìm được giá trị tối ưu nhất một cách bất ngờ bằng
cách đột biến này. Phép đột biến cũng góp phần vào việc rút ngắn thời gian tiến hóa
của quần thể, đồng thời cũng giúp thuật toán di truyền tìm kiếm tối ưu một cách
hiệu quả, không rơi vào tối ưu địa phương. Đột biến được thực hiện bằng cách thay
thế allele trên một gene của cá thể bằng một allele khác không phải của bố mẹ mà
52
từ vùng không gian tìm kiếm (Hình 3.2). Tham số quan trọng nhất trong kĩ thuật đột
biến cá thể là xác suất đột biến. Nó quyết định bao nhiêu phần của một nhiễm sắc
thể bị đột biến. Tham số này phải được chọn một cách hợp lí, nếu đột biến thường
xuyên quá sẽ dẫn đến thay đổi kĩ thuật tìm kiếm ngẫu nhiên của thuật toán di
truyền.
3.1.6 Tạo quần thể mới
Sau khi cá thể con được tạo ra, số lượng cá thể trong quần thể tăng lên.
Trong thuật toán di truyền số lượng cá thể ở mọi thế hệ đều bằng nhau. Có thể chọn
số lượng cá thể vào quần thể mới cho thế hệ tiếp theo theo hai cách. Cách thứ nhất
là thay thế toàn bộ cá thể bố và mẹ bằng các thể con. Theo cách này thì mỗi cá thể
con được tạo ra từ bố và mẹ nào sẽ thay thế các cá thể bố và mẹ đó. Cách thứ hai là
chọn cá thể tốt nhất trong toàn bộ các cá thể con và cá thể bố mẹ cho thế hệ tiếp
theo.
3.1.7 Điều kiện dừng
Bài toán sử dụng thuật toán di truyền kết thúc khi thỏa một trong các điều
kiện sau:
Khi số thế hệ tiến hóa đủ lớn, thỏa mãn số thế hệ đưa ra trong bài toán.
Độ thích nghi của các cá thể ổn định, không tăng lên nữa. Lưu ý rằng nếu
số thế hệ tiến hóa đã đủ nhưng độ thích nghi của cá thể đang tăng thì bài
toán cũng dừng lại.
Khi không có sự cải thiện giá trị của hàm mục tiêu.
3.1.8 Ƣu điểm và hạn chế của thật toán di truyền
3.1.8.1 Ưu điểm
Tìm kiếm song song các thông số trong nhiều vùng không gian tìm kiếm
Không gian tìm kiếm rộng
Có khả năng phát hiện tối ưu toàn cục, tránh rơi vào bẫy tối ưu cục bộ
Một bài toán có thể đưa vào nhiều hàm mục tiêu
Chỉ sử dụng giá trị của hàm thích nghi (hàm mục tiêu)
53
Có thể điều khiển một cách dễ dàng vùng không gian tìm kiếm lớn dù
chưa am hiểu tường tận
Sử dụng trong nhiều dạng toán như: tìm kiếm tối ưu, tìm hình dạng của
phân tử protein, lập kế hoạch cho quỹ đạo của robot, lập thời khóa biểu
…
3.1.8.2 Hạn chế
Gặp khó khăn trong vấn đề xác định hàm thích nghi, trong biểu diễn di
truyền.
Dễ xảy ra hội tụ sớm khi thiết lập các thông số không cẩn thận
Đưa vào các thông tin riêng biệt cho bài toán không dễ dàng.
Khó chọn các thông số như kích thước quần thể, tỉ lệ đột biến, tỉ lệ lai…
Khó định hướng tìm kiếm và dự đoán kết quả
Gặp khó khăn khi dự đoán chính xác hoàn toàn tối ưu toàn cục
Đòi hỏi thời gian tính toán lâu khi tìm kiếm trong vùng không gian lớn
…
3.2 ÁP DỤNG THUẬT TOÁN DI TRUYỀN TRONG PHƢƠNG PHÁP FSA
3.2.1 Chi bình phƣơng ( 2) trong phƣơng pháp FSA
Trong phương pháp FSA, để xác định hoạt của của các đồng vị phóng xạ có
trong mẫu, cần làm khớp phổ đo với một bộ các phổ chuẩn theo quan hệ tuyến tính.
Phổ cần phân tích Y được xem là tổng của tích các phổ chuẩn Xj và hoạt độ Cj
tương ứng với mỗi đồng vị phóng xạ có trong mẫu phân tích. Để xác định được các
tham số làm khớp, chúng ta sử dụng tham số chi bình phương ( 2) rút gọn có biểu
thức
(3.1) (3.1)
với i là số thứ tự của kênh; n là số kênh được sử dụng khi làm khớp (trong thực tế,
số kênh được sử dụng khi làm khớp có thể ít hơn số kênh trên phổ đo [25]); m là số
54
tham số làm khớp; σi là độ lệch chuẩn tại kênh i của phổ đo (các số đếm tại mỗi
kênh được giả sử tuân theo phân bố Poisson).
2. Tùy theo bài toán, số lượng các
Hoạt độ của các đồng vị trong mẫu thu được sẽ tương ứng với các giá trị của
các tham số Cj thu được từ việc cực tiểu hóa
tham số làm khớp và vùng không gian tìm kiếm có thể sẽ rất lớn, do đó sẽ rất khó
khăn nếu sử dụng các phương pháp cực tiểu hóa thông thường. Trong luận văn này,
tác giả đã sử dụng thuật toán di truyền để làm khớp phi tuyến các tham số hoạt độ
phóng xạ. Một chương trình C++ Builder được viết để tìm kiếm các tham số hoạt
độ này.
3.2.2 Áp dụng thuật toán di truyền để tìm hoạt độ của các đồng vị phóng xạ
trong tự nhiên
Mục tiêu của bài toán là xác định hoạt độ của các đồng vị phóng xạ với hàm
thích nghi ở đây là hàm 2. Ta xây dựng bài toán như sau:
Biểu diễn di truyền: mỗi nghiệm của bài toán được biểu diễn bởi một
nhiễm sắc thể. Trong trường hợp có m tham số thì mỗi nhiễm sắc thể sẽ
có m gene. Allele của mỗi gene nhận giá trị tương ứng với giá trị của
tham số mà nó biểu diễn. Vùng không gian tìm kiếm của mỗi tham số
được xác định dựa vào phổ cần phân tích và phổ chuẩn tương ứng với
từng tham số.
Tạo quần thể ban đầu: tạo N cá thể một cách ngẫu nhiên. Số lượng cá thể
là bằng nhau qua các thế hệ. Ở đây, chúng tôi chọn số cá thể là 3000 cá
thể. Mỗi allele của mỗi gene trên nhiễm sắc thể nhận giá trị ngẫu nhiên
trong vùng không gian tìm kiếm tương ứng.
Tính độ thích nghi: mỗi cá thể trong quần thể có một độ thích nghi riêng.
2. Giá trị của hàm 2 càng nhỏ
Độ thích nghi này bằng giá trị của hàm
thì cá thể càng thích nghi và ngược lại.
Quá trình chọn lọc tự nhiên: chọn những cá thể thích nghi nhất từ quần
thể để cho sinh sản. Tỉ lệ chọn lọc tự nhiên được chọn phù hợp. Ở đây
chúng tôi chọn tỉ lệ chọn lọc tự nhiên là 0,6.
55
Các cá thể được chọn sẽ được lai, đột biến để tạo ra các cá thể mới, sau
đó chọn lọc các cá thể bố mẹ và con thích nghi nhất để đưa vào quần thể
mới. Chu trình tiến hóa được lặp lại cho đến khi số thế hệ bằng số thế hệ
đưa ra trong bài toán.
3.3 XÁC ĐỊNH HOẠT ĐỘ PHÓNG XẠ MẪU MÔI TRƢỜNG BẰNG
PHƢƠNG PHÁP FSA
3.3.1 Chuẩn bị mẫu đo
Trong luận văn này, tác giả áp dụng phương pháp FSA và thuật toán di
truyền vào phân tích hoạt độ của một số mẫu dạng đất tại Phòng Thí nghiệm
Chuyên đề 2, Bộ môn Vật lý Hạt nhân (BMVLHN), ĐHKHTN – TPHCM. Cấu
hình đo được sử dụng ở đây là cấu hình đo dạng trụ và Marinelli với các kích thước
được cho trong Hình 3.6. Các mẫu được sử dụng bao gồm mẫu đá trắng, đá bazan
(dạng Marinelli) có tại BMVLHN và mẫu Zr-B, Zr-Rv (dạng trụ) được mượn từ
Trung tâm Kĩ thuật Hạt nhân TPHCM (TTKTHN). Do các mẫu này là mẫu đất có trong tự nhiên, các đồng vị chính được xác định có trong mẫu là 238U, 232Th và 40K,
vì vậy chúng ta sẽ sử dụng các mẫu chuẩn của 3 đồng vị này để phân tích. Các mẫu
chuẩn dùng để phân tích được mượn từ TTKTHN gồm có IAEA-RGU-1, IAEA-
RGTh-1 và IAEA-RGK-1 [22] với các đặc điểm được cho trong Bảng 3.1 và Bảng
3.2. Phổ phông nền được sử dụng trong thí nghiệm này là phổ phông nền đo bằng
mẫu nước cất.
Các mẫu được sấy khô bằng đèn hồng ngoại trước khi cho vào hộp đựng và
làm phẳng bề mặt nhằm đạt được cấu hình đo đồng đều (Hình 3.7 và Hình 3.8). Tất
cả các mẫu đo, mẫu chuẩn và phông nền đều có cùng cấu hình đo và được đo bởi
detector HPGe với thời gian từ 2 đến 3 ngày. Bên cạnh phương pháp FSA, hoạt độ
của các mẫu đất cũng được tính lại bằng phương pháp WA để tiện việc so sánh giữa
hai phương pháp.
56
R
h2
h
h1
r
R
Hình 3.6. Các kích thước của hộp đựng mẫu hình học dạng trụ (R =3,58cm;
h=4,3cm ) và Marinelli (R = 5,8cm; r = 4,05cm; h1 = 6,75cm; và h2 = 1,35cm)
Bảng 3.1. Đặc điểm của các mẫu chuẩn và mẫu phân tích dạng trụ được dùng trong
thí nghiệm
Hạt nhân Mẫu chuẩn Khối lượng (kg) Thể tích (ml) Mật độ (g/cm3) Hoạt độ (Bq/kg)
1,30 4940 IAEA-RGU-1 0,167 128
1,25 3250 IAEA-RGTh-1 0,160 128
238U 232Th 40K
1,41 14000 IAEA-RGK-1 0,181 128
1,17 Zr-B 0,150 128
1,25 Zr-Rv 0,160 128
Bảng 3.2. Đặc điểm của các mẫu chuẩn và mẫu phân tích dạng Marinelli được dùng
trong thí nghiệm
Hạt nhân Mẫu chuẩn Khối lượng (kg) Thể tích (ml) Mật độ (g/cm3) Hoạt độ (Bq/kg)
1,30 4940 IAEA-RGU-1 0,681 524
1,25 3250 IAEA-RGTh-1 0,655 524
238U 232Th 40K
1,41 14000 IAEA-RGK-1 0,739 524
1,51 Đá bazan 0,789 524
1,47 Đá trắng 0,770 524
57
Hình 3.7. Đèn hồng ngoại (trái) và dụng cụ làm phẳng mẫu (phải)
Hình 3.8. Các mẫu đo dạng trụ
Hình 3.9. Các mẫu đo dạng Marinelli
58
3.3.2 Hiệu chỉnh các phổ
Trong quá trình đo đạc, do thời gian đo tương đối dài nên các phổ chuẩn và
phổ phân tích có thể bị lệch kênh so với nhau do nhiều nguyên nhân. Vì vậy các phổ
sau khi ghi nhận sẽ được hiệu chỉnh về một tương quan năng lượng và kênh duy
nhất để cho việc làm khớp được chính xác. Để làm được điều này, tác giả đã chọn
một phổ làm chuẩn và hiệu chỉnh các phổ còn lại theo tương quan năng lượng và
kênh của phổ này. Bước tiếp theo là trừ phông nền cho các phổ mẫu chuẩn và các
phổ mẫu đo. Để tiện cho việc xác định hoạt độ của các đồng vị có trong phổ đo, các
phổ chuẩn sẽ được chuẩn về cùng một hoạt độ riêng 1Bq/kg.
Các phổ đo từ detector HPGe
Xây dựng đường chuẩn năng lượng theo kênh tương ứng với mỗi phổ
Chọn một phổ làm chuẩn (phổ phân tích) và chuẩn các phổ còn lại theo phổ này
Chia các phổ cho khối lượng mẫu, thời gian đo; và chia các phổ chuẩn cho hoạt độ riêng để chuẩn về 1Bq/kg
Đưa vào tính hoạt độ
Hình 3.10. Sơ đồ khối hiệu chỉnh lệch phổ
Do các mẫu chuẩn và mẫu phân tích có mật độ khác nhau chút ít do đó hiệu
ứng tự hấp thụ trong các mẫu sẽ không hoàn toàn giống nhau, từ đó gây ra một số
khác biệt trong dạng phổ đo, đặc biệt là ở vùng năng lượng thấp. Bên cạnh đó, ở
vùng năng lượng thấp này cũng thường xuất hiện các đỉnh tia X của chì gây khó
khăn trong việc làm khớp phổ. Do vậy, trong quá trình xử lí chúng tôi loại bỏ 500
59
kênh đầu tiên ứng vùng năng lượng nhỏ hơn 126 keV để hạn chế sai số ở vùng này.
Việc cắt bỏ vùng năng lượng thấp này sẽ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả vì
theo Bảng 1.1 thì phần lớn các đỉnh gamma chính trong các chuỗi phóng xạ đều có
năng lượng cao hơn vùng năng lượng bị cắt bỏ.
3.4 KẾT QUẢ TÍNH TOÁN VÀ NHẬN XÉT
3.4.1 Kết quả tính toán
Bảng 3.2 và Bảng 3.3 trình bày hoạt độ của các đồng vị trong mẫu đá bazan
và đá trắng được đo với dạng hình học Marinelli và được tính theo cả hai phương
pháp WA và FSA.
Bảng 3.3. Hoạt độ của mẫu đá bazan được tính bằng hai phương pháp WA và FSA
WA (Bq/kg) FSA (Bq/kg) Độ lệch tương đối (%)
12,1 12,5 -3,20
13,0 13,5 -3,70
237,0 Hạt nhân 238U 232Th 40K 246,0 -3,66
Bảng 3.4. Hoạt độ của mẫu đá trắng được tính bằng hai phương pháp WA và FSA
WA (Bq/kg) FSA (Bq/kg) Độ lệch tương đối (%)
62,6 67,2 -6,85
99,1 96,6 2,59
1130,8 Hạt nhân 238U 232Th 40K 1325,5 -14,69
Phương pháp FSA sử dụng thuật toán di truyền với các phổ chuẩn IAEA-
RGU-1, IAEA-RGTh-1 và IAEA-RGK-1 cho kết quả lệch so với phương pháp
truyền thống WA trong phạm vi chấp nhận được. Kết quả tính toán này đã cải thiện
đáng kể về độ sai lệch so với kết quả đã nghiên cứu về hai phương pháp WA và
FSA trong [2].
Đối với cấu hình dạng trụ, chúng tôi chọn mẫu để phân tích là các mẫu
zirconium Zr-B và Zr-Rv được mượn từ TTKTHN. Các mẫu chuẩn được sử dụng
vẫn là các mẫu IAEA-RGU-1, IAEA-RGTh-1 và IAEA-RGK-1 nhưng được chuẩn
bị với cấu hình dạng trụ giống với mẫu cần phân tích, các quy trình xác định hoạt
60
độ cũng tương tự như với mẫu dạng Marinelli. Các kết quả tính toán hoạt độ của các đồng vị 238U, 232Th và 40K từ hai phương pháp WA và FSA được trình bày trong
Bảng 3.5 và Bảng 3.6.
Bảng 3.5. Hoạt độ của mẫu Zr-B được tính bằng hai phương pháp WA và FSA
WA (Bq/kg) FSA (Bq/kg) Độ lệch tương đối (%)
7610,1 7887,9 -3,5
1173,7 1237,4 -5,1
77,3 Hạt nhân 238U 232Th 40K 70,7 9,3
Bảng 3.6. Hoạt độ của mẫu Zr-Rv được tính bằng hai phương pháp WA và FSA
WA (Bq/kg) FSA (Bq/kg) Độ lệch tương đối (%)
5579,7 5951,2 -6,2
761,7 865,8 -12,0
182,8 Hạt nhân 238U 232Th 40K 184,9 -1,1
3.4.2 Nhận xét
Dựa vào các Bảng 3.3 – 3.6, ta thấy rằng độ sai lệch giữa các kết quả tính
bằng cả hai phương pháp đều không vượt quá 15%. Đây là một bước cải tiến so với
công trình [2] trước đó có sự sai lệch giữa hai phương pháp lên tới 30%. Trong
công trình [2], với mục đích thăm dò bước đầu phương pháp FSA, các giá trị hoạt
độ của các đồng vị được tính bằng phương pháp làm khớp bình phương tối thiểu sử
dụng ma trận. Ưu điểm của phương pháp này là khả năng tính toán nhanh chóng,
đơn giản trong việc lập trình tính toán, tuy nhiên độ chính xác của phương pháp này
không cao lắm. Bên cạnh đó, việc lệch kênh giữa các phổ đo cũng là một nguyên
nhân quan trọng gây nên sự sai lệch trong kết quả tính toán. Trong luận văn này, tác
giả đã thực hiện những cải tiến về mặt phương pháp như sử dụng phương pháp làm
khớp phi tuyến bằng thuật toán di truyền, hiệu chỉnh sự lệch kênh,… Các cải tiến
này đã đem lại sự phù hợp hơn giữa các kết quả tính toán của FSA so với WA. Từ
đó chúng ta có thể áp dụng phương pháp FSA vào việc đo đạc xác định hoạt độ
phóng xạ của mẫu môi trường một cách chính xác và thuận lợi.
61
Hình 3.10 trình bày biểu đồ phân tán (scatter diagram) giữa các hoạt độ tính
hai phương pháp WA và FSA. Dựa vào đồ thị ta có thể thấy rằng có sự tương quan
tuyến tính giữa các kết quả tính toán từ hai phương pháp này (với hệ số tương quan R2 = 0,995). Điều này chứng tỏ việc phân tích bằng phương pháp FSA hoàn toàn
tương đương với việc sử dụng phương pháp WA để phân tích. Bên cạnh đó, sự so
sánh sai lệch trong các Bảng 3.3 – 3.6 cũng chỉ ra rằng trong phần lớn các trường
hợp, giá trị hoạt độ tính bằng FSA có xu hướng thấp hơn các giá trị tính bằng WA
tương ứng. Trong tương lai cần phải có những nghiên cứu sâu thêm để có thể tìm ra
nguyên nhân của sự sai lệch này.
Hình 3.11. Biểu đồ phân tán giữa các hoạt độ tính bằng hai phương pháp
62
CHƢƠNG 4
TỐI ƢU HÓA HÌNH HỌC ĐO
CỦA MẪU THỂ TÍCH
Trong lĩnh vực nghiên cứu phóng xạ môi trường, việc xác định hoạt độ thấp
của mẫu một cách chính xác luôn là một thách thức được đặt ra cho các nhà nghiên
cứu. Hiện nay, trên thế giới có nhiều công trình nghiên cứu nhằm nâng cao tính
chính xác trong quá trình đo đạc các mẫu môi trường có hoạt độ thấp. Để làm được
điều này, rất nhiều vấn đề liên quan đã được nghiên cứu, chẳng hạn như khảo sát
phông nền của môi trường, cải thiện kĩ thuật đo, kĩ thuật xử lí phổ, chọn cấu hình đo
tối ưu,… Hằng năm, IAEA đều gửi đến các phòng thí nghiệm trên thế giới có đăng
kí tham gia các mẫu có hoạt độ thấp để cải tiến các kĩ thuật đo đạc, xử lý mẫu.
đo là một trong những vấn đề được quan
tâm nghiên cứu nhằm tăng cường khả năng đo đạc các mẫu có hoạt độ thấp bằng
việc lựa chọn hình học mẫu đo sao cho có hiệu suất ghi nhận tốt nhất. Vấn đề này
cũng , chẳng hạn như Suzuki
và cộng sự (1984) [33], Klemola (1996) [26], Barrera và cộng sự (1999) [13],…
T
. Trong luận văn này,
chúng tôi trình bày một phương pháp xác định cấu hình đo tối ưu của mẫu thể tích
dạng trụ và Marinelli dựa vào các phương trình giải tích của đường cong hiệu suất
được xây dựng dựa trên mô phỏng Monte Carlo. Phương pháp luận và kết quả thu
được từ luận văn này sẽ góp phần giúp các nhà thực nghiệm có thể tính toán được
lượng mẫu tối ưu nhất trong việc đo đạc phóng xạ gamma môi trường.
4.1 TÍNH TOÁN GIÁ TRỊ HIỆU SUẤT
Đối với các mẫu đo dạng thể tích, hiệu suất ghi nhận chủ yếu phụ thuộc vào
hình học đo, mật độ, thành phần hóa học (matrix) của mẫu và năng lượng của tia
gamma tới. Do đó, việc trước tiên chúng ta cần làm là tính toán hiệu suất ứng với
63
các cấu hình đo cụ thể để rồi từ đó xác định được hình học đo tối ưu nhất đối với
các yếu tố cho trước như thể tích, mật độ mẫu và năng lượng tia gamma tới.
Trong luận văn , cấu hình detector được sử dụng ở đây là detector
HPGe . Đây là
1,8 keV tại đỉnh gamma 1332 keV nh 20%
dày 11cm 75
49,5mm, lớp nhôm bên ngoài có đường kính 76,2mm hình
detector 4.1.
Hình 4.1. Mặt cắt dọc của detector HPGe GC2018 (kích thước được tính bằng mm)
Thông thường, khi đo các mẫu môi trường, người ta thường đặt mẫu ngay
trên bề mặt detector để đạt được hiệu suất ghi cao nhất. Đây cũng chính là cấu hình
đo của mẫu mà tác giả sẽ khảo sát. Thành phần hóa học của mẫu được sử dụng
trong tính toán là thành phần của đất được cho bởi [10]. Mẫu được đặt trong hộp
dựng bằng plastic có bề dày khoảng 1mm. Hai dạng hình học thường được sử dụng
trong đo mẫu môi trường là dạng hình trụ và Marinelli được sử dụng để khảo sát
hình học đo tối ưu.
Chúng ta có thể thu được hiệu suất ghi nhận ứng với từng cấu hình đo cụ thể
bằng phương pháp thực nghiệm hay mô phỏng Monte Carlo. Tuy nhiên cả hai
64
phương pháp trên đều đòi hỏi thời gian đo đạc hay mô phỏng khá dài, không thuận
lợi cho việc xác định hình học đo tối ưu một cách nhanh chóng. Do vậy, tác giả đã
sử dụng chương trình CalEff [4] trong việc tính toán hình học đo tối ưu. Chương
trình này được xây dựng dựa trên việc giải tích hóa các kết quả mô phỏng hiệu suất
bằng phương pháp Monte Carlo. Ưu điểm của việc sử dụng chương trình CalEff là
khả năng tính toán hiệu suất một cách nhanh chóng, từ đó dễ dàng thu được các
thông số tối ưu của hình học mẫu. Các thông số được sử dụng để xác định hiệu suất
ghi nhận gồm có:
Mẫu dạng trụ: bán kính mẫu (r), chiều cao mẫu (h), mật độ mẫu ( ) và năng
lượng gamma tới (E).
Mẫu dạng Marinelli: bán kính mẫu (R), chiều cao phần trụ rỗng (h1), chiều
cao phần trụ đặc (h2), mật độ mẫu ( ) và năng lượng gamma tới (E).
4.2 TỐI ƢU HÓA HÌNH HỌC ĐO CỦA MẪU DẠNG TRỤ
Đối với các mẫu môi trường có thể tích nhỏ, người ta thường hay sử dụng
hình học đo dạng trụ. Trong phần này chúng ta sẽ đi tính toán các thông số hình học
tối ưu cho mẫu đo có dạng trụ. Một đoạn chương trình nhỏ viết bằng ngôn ngữ lập
trình C++ được đưa vào trong CalEff nhằm mục đích tính toán hiệu suất ghi ứng
với các cấu hình khác nhau với thể tích mẫu cho trước một cách tự động.
Trong tính toán, thông số bán kính r thay đổi từ 0,1cm đến giá trị giới hạn
5,75cm với bước nhảy là 0,1cm, chiều cao mẫu khi đó được tính theo thể tích và
bán kính mẫu tương ứng đồng thời phải thỏa điều kiện không vượt quá 10cm, mật độ mẫu dao động từ 1,0 đến 1,7 g/cm3. Tất cả các giá trị hiệu suất ứng với các cấu
hình cụ thể được so sánh và tìm ra cấu hình sao cho hiệu suất ghi của detector đạt
giá trị lớn nhất.
Chương trình lặp lại các bước tính như trên với các thể tích mẫu từ 10cm3 đến 250cm3, bước tăng là 10cm3. Các kết quả được thống kê, phân tích để tìm ra
quy luật của cấu hình tối ưu dạng trụ. Tương quan ảnh hưởng của các thông số bán
kính, chiều cao và mật độ mẫu lên việc xác định cấu hình đo tối ưu cũng được khảo
sát.
65
4.2.1 Khảo sát tƣơng quan giữa bán kính tối ƣu và chiều cao mẫu tối ƣu
Do cấu hình của mẫu dạng trụ có hai thông số đặc trưng là bán kính r và
chiều cao h nên với thể tích cố định, cấu hình đo sẽ được xác định qua một trong hai
thông số đó. Ở đây, trong phần lớn kết quả trình bày, chúng tôi chọn bán kính r là
thông số đặc trưng cho cấu hình đo ở một thể tích xác định.
Các Hình 4.2 – 4.4 cho ta thấy các kết quả khảo sát sự thay đổi của hiệu suất theo bán kính và chiều cao mẫu với mẫu đo có mật độ 1,5 g/cm3. Hình 4.2 và 4.3
trình bày sự thay đổi của hiệu suất theo r và h với các thể tích khác nhau tại năng
lượng 63 keV và 1000 keV, còn Hình 4.4 trình bày sự thay đổi theo r và h với các
mức năng lượng khác nhau ứng với thể tích mẫu V = 150 ml. Trên mỗi hình đều có
hai loại đường cong, đường cong thứ nhất nằm gần gốc tọa độ biểu diễn sự thay đổi
của hiệu suất theo h và đường cong thứ hai nằm xa gốc tọa độ hơn biểu diễn sự thay
đổi của hiệu suất theo r.
Hình 4.2. Sự thay đổi của hiệu suất theo chiều cao và bán kính mẫu ở năng lượng
63 keV
66
Hình 4.3. Sự thay đổi của hiệu suất theo chiều cao và bán kính mẫu ở năng lượng
1000 keV
Cấu hình tối ưu của mỗi thể tích tương ứng với giá trị của bề dày mẫu và bán
kính mẫu mà tại đó hiệu suất đạt giá trị lớn nhất. Với mỗi thể tích xác định, bán
kính tối ưu luôn lớn hơn bề dày tối ưu để giảm sự tự hấp thụ bên trong mẫu đo
trước khi đến detector. Khi thể tích tăng thì bán kính và bề dày tối ưu cũng tăng
theo. Thể tích mẫu càng nhỏ thì sự ảnh hưởng của cấu hình đo lên sự thay đổi hiệu
suất càng rõ rệt. Ở những thể tích lớn thì sự tối ưu của hiệu suất không thể hiện rõ,
các cấu hình gần giống nhau cho hiệu suất gần như nhau. Không có sự khác biệt
nhiều khi xét quy luật thay đổi của hiệu suất theo cấu hình đo đối với các giá trị
năng lượng 63 keV và 1000 keV một thể tích xác định. Điều này sẽ được làm rõ
thêm trong Hình 4.4 với việc tính toán với nhiều mức năng lượng khác nhau ứng
với cùng một thể tích 150 ml.
67
Hình 4.4. Sự thay đổi của hiệu suất theo chiều cao và bán kính mẫu với các năng
lượng khác nhau ở thể tích 150 ml
Dựa vào Hình 4.4, ta có thể nhận thấy sự thay đổi hiệu suất theo bán kính và
chiều cao có dạng tương tự nhau với các năng lượng trên 100 keV. Tuy nhiên, đối
với năng lượng 63 keV thì bán kính tối ưu lớn hơn với các giá trị năng lượng khác,
nguyên nhân là vì tia gamma 63 keV bị hấp thụ nhiều trong mẫu đo trước khi đến
detector nên cấu hình tối ưu có bán kính lớn và bề dày nhỏ để giảm sự hấp thụ này.
Để xác định mối tương quan giữa bán kính và chiều cao mẫu trong cấu hình
đo tối ưu, chúng ta xem xét sự thay đổi của hiệu suất theo tỉ số giữa bán kính và bề
dày mẫu tương ứng. Kết quả tính toán với hai mức năng lượng với 2 mức năng
lượng 63 và 1000 keV được trình bày trong Hình 4.5 và 4.6.
68
Đối với năng lượng 63 keV, đường cong hiệu suất theo tỉ số r/h đạt cực đại
ứng với giá trị khoảng từ 1–2. Điều này có nghĩa là đối với một thể tích cố định, cấu
hình đo tối ưu sẽ có bán kính lớn hơn từ 1–2 lần so với chiều cao của mẫu. Hình 4.5
cũng chỉ ra rằng khi bán kính nhỏ hơn 1–2 lần so với chiều cao mẫu thì việc tăng
bán kính sẽ giúp tăng hiệu suất lên nhiều hơn so với trường hợp bán kính lớn hơn
1–2 lần so với chiều cao mẫu. Ngoài ra, ta có thể thấy rằng tỉ số r/h tối ưu có xu
hướng giảm theo thể tích, điều đó có nghĩa là thể tích mẫu càng nhỏ thì cấu hình tối
ưu có r càng lớn hơn nhiều so với h.
Hình 4.5. Sự thay đổi của hiệu suất theo tỉ số r/h với các thể tích khác nhau tại năng
lượng 63 keV
Tương tự như vậy, trong Hình 4.6, với năng lượng gamma phát ra từ mẫu là
1000 keV, tỉ số giữa r và h đạt giá trị tối ưu trong khoảng từ 2–3. Từ đây ta có thể
rút ra kết luận rằng khi năng lượng tia gamma phát ra từ mẫu càng lớn thì cấu hình
đo tối ưu càng có xu hướng có bán kính mẫu lớn hơn chiều cao của mẫu.
69
Hình 4.6. Sự thay đổi của hiệu suất theo tỉ số r/h với các thể tích khác nhau tại năng
lượng 1000 keV
4.2.2 Khảo sát tƣơng quan giữa bán kính tối ƣu và mật độ mẫu
Trong quá trình đo đạc mẫu môi trường, các tia gamma có năng lượng thấp
có nhiều khả năng bị suy giảm trong mẫu đo trước khi đến được detector. Sự thay
đổi trong mật độ mẫu sẽ dẫn tới sự thay đổi hiệu suất ghi nhận của detector. Do đó,
mật độ mẫu cũng là một nhân tố có thể ảnh hưởng đến việc xác định cấu hình tối ưu
vốn dựa trên việc xác định hiệu suất ghi cực đại ứng với từng thể tích mẫu xác định.
Mật độ của mẫu môi trường thông thường nằm trong khoảng từ 1,0 – 2,0 g/ml, do
đó chúng ta sẽ khảo sát ảnh hưởng của mật độ lên việc xác định cấu hình tối ưu với
các giá trị mật độ nằm trong khoảng này.
Để khảo sát sự ảnh hưởng của mật độ mẫu, chúng tôi đã tính toán hiệu suất
theo các bán kính và mật độ mẫu khác nhau với thể tích V = 150 ml. Năng lượng tia
gamma được chọn ở đây là 63 keV để có thể dễ dàng nhận thấy sự ảnh hưởng của
mật độ lên hiệu suất ghi nhận. Kết quả tính toán được trình bày trong Hình 4.7.
70
Hình 4.7. Sự thay đổi của hiệu suất theo mật độ và bán kính mẫu đối với tia gamma năng lượng 63 keV, thể tích mẫu 150 ml
Hình 4.7 trình bày hiệu suất theo r và dưới dạng các đường contour. Ta có
thể dễ dàng nhận thấy rằng bán kính tối ưu trong trường hợp này ứng với giá trị
4cm. Đồng thời ta cũng thấy được sự ảnh hưởng không đáng kể của mật độ mẫu lên
cấu hình đo tối ưu trong dải mật độ được khảo sát, hiệu suất luôn đạt cực đại ở giá
trị r ≈ 4 cm ứng với mọi giá trị mật độ trong khoảng 1,0 – 1,7 g/ml. Do đó, trong
quá trình xác định cấu hình đo tối ưu, ta có thể xem như sự ảnh hưởng của mật độ là
không đáng kể.
4.2.3 Khảo sát cấu hình tối ƣu theo bán kính mẫu
Sau khi loại trừ được yếu tố mật độ mẫu lên việc tính toán cấu hình tối ưu,
chúng tôi bắt đầu thực hiện khảo sát các giá trị hiệu suất theo V và r để từ đó xác
định được cấu hình tối ưu ứng với các thể tích khác nhau. Mật độ mẫu được chọn
trong trường hợp này là 1,5 g/ml. Các giá trị năng lượng 63; 100; 500 và 1500 keV
được dùng để tính toán. Hình 4.8 trình bày sự phụ thuộc của hiệu suất theo V và r
đối với tia gamma năng lượng 63 keV.
71
Hình 4.8. Sự thay đổi của hiệu suất theo thể tích và bán kính mẫu đối với tia gamma năng lượng 63 keV, mật độ mẫu 1,5g/ml
Như đã nói ở trên, trong trường hợp mẫu dạng hình trụ, cấu hình tối ưu được
thể hiện qua bán kính tối ưu (ropt) của mẫu, là giá trị bán kính cho hiệu suất ghi nhận
lớn nhất ứng với giá trị V cố định. Từ Hình 4.8 ta có thể nhận xét rằng, khi thể tích
mẫu đo tăng thì bán kính tối ưu của mẫu đo cũng tăng theo. Từ các kết quả tính toán
được, chúng tôi chọn lọc ra các giá trị r cho hiệu suất lớn nhất ứng với từng V cụ
thể. Hình 4.9 trình bày sự phụ thuộc của ropt theo V ứng với các năng lượng 63, 100,
500 và 1500 keV. Đối với thể tích mẫu càng lớn thì chênh lệch giữa ropt của năng
lượng thấp và năng lượng cao càng lớn. Tuy nhiên, với các tia gamma năng lượng
cao thì ropt gần như nhau (hai đường ropt của 500 và 1500 keV gần như trùng khớp
với nhau). Giá trị ropt tăng nhanh với thể tích mẫu dưới 100 ml. Khi thể tích mẫu đạt
trên 100 ml, ropt tăng gần như tuyến tính theo V.
Quy luật thay đổi của bán kính tối ưu theo thể tích tại các giá trị năng lượng
tiêu biểu đều có dạng tương tự như nhau, các bán kính tối ưu ứng với các năng
lượng khác nhau không chênh lệch nhiều so với nhau. Do vậy, trong thực tế chúng
72
ta có thể đưa ra một cấu hình đo “xem như tối ưu” cho mọi năng lượng trong vùng
khảo sát (từ 63 đến 1500 keV) chỉ cần dựa vào một đường cong ropt theo V hoặc lấy
giá trị trung bình của các ropt ứng với các năng lượng tiêu biểu.
Hình 4.9. Quy luật thay đổi bán kính tối ưu của mẫu đo theo thể tích
4.3 TỐI ƢU HÓA HÌNH HỌC ĐO CỦA MẪU DẠNG MARINELLI
Một dạng mẫu thể tích khác cũng phổ biến trong các phép đo phóng xạ môi
trường là dạng Marinelli. Đối với mẫu đo dạng này, tác giả cũng khảo sát tương tự
như đối với mẫu đo dạng trụ. Theo khảo sát ở Hình 4.6, do mật độ hầu như không
ảnh hưởng đến cấu hình tối ưu nên ở đây chúng ta chọn khảo sát với mật độ bằng
1,5g/ml. Ba thông số đặc trưng cho mẫu dạng Marinelli được khảo sát là R, h1 và h2
như Hình 3.6 với bán kính hốc r được chọn bằng 4 cm. Khi đó hộp đựng mẫu sẽ ôm
sát detector cho hiệu suất lớn nhất so với các giá trị khác của bán kính r. Vấn đề về
cấu hình tối ưu của mẫu đo dạng Marinelli đã được khảo sát trong công trình của
A.S. Ahmed và cộng sự [7]. Tuy nhiên, trong công trình này, nhóm tác giả dừng lại
ở việc khảo sát hai thông số là bán kính R và chiều dài h1+h2 với h1 được giữ
nguyên. Việc tối ưu hóa hình học đo của mẫu dạng Marinelli trong luận văn này có
ưu điểm hơn là có thể thay đổi cả ba thông số để tìm ra cấu hình tối ưu đối với mỗi
thể tích.
73
4.3.1 Khảo sát cấu hình tối ƣu theo bán kính R và chiều cao h1
Cấu hình mẫu dạng Marinelli được đặc trưng bởi 3 thông số chính là R (bán
kính ngoài), h1 (hốc trong của hộp) và h2 (chiều cao mẫu tính từ mặt đáy của hốc).
Đối với một thể tích mẫu xác định, ta chỉ cần biết hai thông số, thông số còn lại có
thể suy ra được từ giá trị thể tích và hai thông số kia. Trong luận văn này, tác giả sẽ
chọn 2 thông số R và h1 để khảo sát cấu hình tối ưu của mẫu dạng Marinelli. Cách
thức tính toán cấu hình tối ưu cho mẫu Marinelli cũng tương tự như đối với mẫu
hình trụ. Hình 4.10 và Hình 4.11 trình bày sự thay đổi của hiệu suất đỉnh năng
lượng toàn phần theo chiều cao h1 và bán kính R ở thể tích 200 và 450 ml ứng với
các năng lượng 63 và 1000 keV. Cấu hình tối ưu là cấu hình có các thông số R và h1
sao cho hiệu suất đạt giá trị lớn nhất.
Hình 4.10. Sự thay đổi của hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần theo chiều cao h1
và bán kính R tại năng lượng 63 keV khi thể tích mẫu đo bằng 200 ml; hiệu suất đạt
giá trị cực đại ứng với R = 4,8cm và h1 = 6,2cm
74
Hình 4.11. Sự thay đổi của hiệu suất đỉnh năng lượng toàn phần theo chiều cao h1
và bán kính R tại năng lượng 1000 keV khi thể tích mẫu đo bằng 450 ml; hiệu suất
đạt giá trị cực đại ứng với R = 5,5cm và h1 = 6,7cm
Bằng cách tương tự như trên, chúng ta khảo sát cấu hình tối ưu ứng với các
thể tích mẫu đo từ 200 đến 400 ml, với các gamma phát ra có năng lượng trong
khoảng từ 60 đến 1500 keV, kết quả được trình bày trong Bảng 4.1. Dựa vào bảng
này ta có thể thấy khi thể tích của mẫu đo tăng thì các giá trị bán kính R và chiều
cao h1 cũng tăng theo, trong đó R tăng chậm theo thể tích hơn so với h1. Trong
khoảng thể tích khảo sát từ 200 đến 400 ml, giá trị bán kính thay đổi không đáng kể,
dao động trong khoảng 5cm; chiều cao h1 có giá trị cỡ bán kính, khoảng từ 6 đến
7cm. Ứng với từng thể tích xác định, giá trị thông số của cấu hình tối ưu không thay
đổi nhiều theo năng lượng, ngoại trừ với tia gamma có năng lượng 60 keV tuy
nhiên sự chênh lệch cũng chỉ vào cỡ 0,2cm. Do đó trong thực tế chúng ta hoàn toàn
có thể sử dụng một cấu hình tối ưu cho toàn khoảng năng lượng cần khảo sát.
75
Bảng 4.1. Một số cấu hình tối ưu dạng Marinelli ứng với các thể tích mẫu và năng
lượng tia gamma khác nhau
Thể tích (ml) Năng lượng (keV) R (cm) h1 (cm)
200
60 100 500 1500 4,.8 4,9 4,9 4,9 6,2 5,8 5,8 5,8
250
60 100 500 1500 5,0 5,0 5,0 5,0 6,3 6,2 6,2 6,2
300
60 100 500 1500 5,1 5,2 5,2 5,1 6,5 6,2 6,2 6,4
350
60 100 500 1500 5,2 5,3 5,3 5,3 6,6 6,4 6,4 6,4
400
60 100 500 1500 5,3 5,4 5,4 5,4 6,8 6,6 6,6 6,6
4.3.2 Khảo sát cấu hình tối ƣu của hộp Marinelli với thể tích mẫu 450ml
Trong phần này, tác giả sẽ tiến hành khảo sát cấu hình tối ưu của mẫu dạng
Marinelli với thể tích 450ml. Việc khảo sát cấu hình tối ưu này đã được thực hiện
trong luận án tiến sĩ của tác giả Võ Xuân Ân [1] với hệ phổ kế gamma HPGe
GC1518 tại Trung tâm Kĩ thuật Hạt nhân TPHCM. Kết quả khảo sát trong [1] cho
thấy cấu hình tối ưu của hộp Marinelli là R = 5,36cm và h1 = 6,44cm (theo quy ước
kí hiệu kích thước của luận văn này được trình bày trong Hình 3.6), trong khi đó
hộp có cấu hình quy ước theo tiêu chuẩn ANSI/IEEE Std.680 với R = 5,57cm và h1
= 6,66cm có hiệu suất thấp hơn từ 2–3%. Tuy nhiên, cấu hình tối ưu thu được từ [1]
76
chỉ là cấu hình tối ưu ứng với detector HPGe GC1518 và thể tích mẫu đo 450ml, do
đó không thể áp dụng được cho các detector khác hoặc với thể tích mẫu thay đổi.
Trong luận văn này, cấu hình tối ưu của mẫu dạng Marinelli 450ml đã được
khảo sát lại với hệ phổ kế gamma HPGe GC2018 tại Bộ môn Vật lý Hạt nhân. Bảng
4.2 trình bày kết quả tính toán với mẫu có thể tích 450ml với các năng lượng 63;
364 và 1000 keV. Kết quả cho thấy cấu hình tối ưu tính toán được gần với cấu hình
của hộp chuẩn quy ước hơn là hộp tối ưu trong [1]. Do bước nhảy của các thông số
trong chương trình tính là 0,1cm do đó ta có thể kết luận rằng cấu hình tối ưu trong
trường hợp này là cấu hình quy ước theo tiêu chuẩn ANSI/IEEE Std.680.
Bảng 4.2. Cấu hình tối ưu của mẫu dạng Marinelli có thể tích 450ml với các giá trị
năng lượng gamma khác nhau
Năng lượng (keV) R (cm) h1 (cm)
5,4 6,9 63
5,5 6,8 364
5,5 6,7 1000
Nhằm kiểm tra lại tính chính xác của kết quả tính toán, tác giả đã tiến hành
đo đạc thực nghiệm hai cấu hình trên với mẫu chuẩn IAEA-RGTh-1. Mẫu chuẩn
được đong tới thể tích 450ml bằng beaker nhựa có chia vạch, sau đó lần lượt được
cho vào từng hộp đựng mẫu để thực hiện phép đo. Hai hộp đựng mẫu được chế tạo
bằng các tấm nhựa dẻo PVC (polyvinylchloride) có bề dày 1mm, được kết dính với
nhau bằng keo cyanoacrylate (Hình 4.12). Sai số trong việc chế tạo hộp đựng mẫu
được ước tính là dưới 1mm. Cả hai cấu hình mẫu đều được đo bằng detector HPGe
GC2018 với cùng thời gian đo là 20h.
Bảng 4.3 trình bày sự so sánh số đếm ghi nhận tại đỉnh và diện tích đỉnh tính
được tương ứng với hai cấu hình đo. Các đỉnh được sử dụng để so sánh là các đỉnh trong chuỗi 232Th được cho trong Bảng 2.4.
77
Hình 4.12. Hai hộp đựng mẫu với cấu hình quy ước và cấu hình tối ưu trong [1]
Bảng 4.3. Kết quả đo đạc mẫu chuẩn IAEA-RGTh-1 với cấu hình Marinelli quy
ước và cấu hình tối ưu trong [1]
Cấu hình quy ước Cấu hình tối ưu trong [1]
Năng lượng (keV) Số đếm đỉnh Diện tích đỉnh Số đếm đỉnh Diện tích đỉnh
93,3 46.298 163.547 45.865 160.215
238,6 348.932 1.738.495 334.335 1.682.955
338,3 65.879 348.896 63.133 343.936
583,2 85.520 542.706 81.722 534.499
911,2 47.608 353.164 46.735 348.703
969,0 27.200 199.798 26.656 199.511
Kết quả trình bày trong Bảng 4.3 cho thấy cấu hình quy ước có cả số đếm lẫn
diện tích đỉnh cao hơn so với cấu hình tối ưu trong [1], điều này chứng tỏ hiệu suất
ghi đối với cấu hình quy ước là tốt hơn. Như vậy kết quả thu được từ thực nghiệm
là hoàn toàn phù hợp với kết quả khảo sát của tác giả trước đó. Từ sự chênh lệch
78
diện tích đỉnh ta có thể tính được sự chênh lệch hiệu suất giữa hai cấu hình là từ 1–
3% tùy theo năng lượng đỉnh gamma.
Để lý giải cho sự khác biệt về cấu hình tối ưu đối với hai hệ detector
GC1518 và GC2018 chúng ta có thể dựa vào các cấu hình detector được cho bởi
nhà sản xuất (xem trong [1] và [5]), trong đó đặc biệt quan trọng nhất là kích thước
của tinh thể germanium. Đối với detector GC1518, tinh thể germanium có đường
kính là 5,4cm và chiều dài là 3,2cm; trong khi đó tinh thể germanium của detector
GC2018 có đường kính là 5,2cm và chiều dài là 4,95cm. Sự chênh lệch khá lớn
giữa hai chiều dài tinh thể germanium này có thể là nguyên nhân chính dẫn đến sự
khác biệt về cấu hình tối ưu mặc dù kích thước của lớp vỏ nhôm bên ngoài là như
nhau (cả hai đều là các detector có kích thước 3”×3”). Do đó, cấu hình tối ưu không
chỉ có sự phụ thuộc vào thể tích mẫu và năng lượng tia gamma cần phân tích mà
còn có sự phụ thuộc vào cả bản thân cấu trúc của detector cho dù sự phụ thuộc này
không phải là lớn lắm.
4.4 LỰA CHỌN CẤU HÌNH TỐI ƢU TRONG QUÁ TRÌNH ĐO ĐẠC MẪU
PHÓNG XẠ MÔI TRƢỜNG
Trong quá trình đo đạc mẫu phóng xạ môi trường, vấn đề được đặt ra ở đây
là làm thế nào để lựa chọn cấu hình đo tối ưu nhất ứng với một lượng mẫu cho
trước. Đối với mẫu thể tích, có hai dạng cấu hình đo được xem xét đó là dạng hình
trụ và dạng Marinelli. Thông thường, đối với lượng mẫu nhỏ người ta sẽ đo với
dạng hộp đựng hình trụ, còn đối với lượng mẫu lớn thì dạng hình học Marinelli sẽ
cho hiệu suất ghi tốt hơn. Trong phần này tác giả sẽ đi khảo sát và so sánh hiệu suất
ghi nhận của hai dạng cấu hình đo để từ đó rút ra được cấu hình đo tối ưu nhất để
đo đạc trong thực tế.
Hình 4.12 trình bày các giá trị hiệu suất của tia gamma có năng lượng 100
keV ứng với cấu hình đo tối ưu của hai dạng mẫu hình trụ và Marinelli trong
khoảng giá trị thể tích từ 10 – 400ml. Do giá trị nhỏ nhất của các thông số trong
chương trình CalEff là 0,1cm nên giá trị hiệu suất tối ưu đối với mẫu dạng Marinelli
79
sẽ được tính từ 70ml trở đi. Với các thể tích nhỏ hơn, cấu hình tối ưu của mẫu dạng
Marinelli sẽ có ít nhất một trong các thông số kích thước có giá trị nhỏ hơn 0,1cm.
Hình 4.13. Hiệu suất tối ưu của dạng trụ và Marinelli theo thể tích mẫu đo với tia
gamma năng lượng 100 keV
Trong Hình 4.12, cả hai dạng hình học đo đều có hiệu suất giảm dần theo thể
tích của mẫu đo, trong đó hiệu suất của dạng hình trụ giảm nhanh hơn hiệu suất của
dạng Marinelli.
Hình 4.13 trình bày giá trị „hiệu suất × thể tích‟ đối với các thể tích mẫu khác
nhau. Như ta đã biết, số đếm ghi nhận được bởi hệ phổ kế ứng với một tia gamma
có năng lượng xác định sẽ được tính bằng tích của hiệu suất nhân với số photon có
cùng năng lượng phát ra từ nguồn. Trong trường hợp các mẫu là như nhau và hàm
lượng các đồng vị phóng xạ được phân bố đều trong mẫu thì số photon phát ra sẽ tỉ
lệ với thể tích mẫu. Do đó đại lượng „hiệu suất × thể tích‟ sẽ biểu thị số đếm ghi
nhận được bằng hệ phổ kế gamma khi thay đổi thể tích mẫu mà không thay đổi hàm
lượng phóng xạ. Từ Hình 4.13, ta có thể thấy rằng tuy hiệu suất giảm theo thể tích
nhưng số photon ghi nhận được thì vẫn tăng khi tăng thể tích mẫu và sẽ tiến tới một
giá trị bão hòa như đã khảo sát trong [1][4].
80
Hình 4.14. Giá trị „hiệu suất × thể tích‟ của các cấu hình tối ưu dạng trụ và
Marinelli theo thể tích mẫu đo với tia gamma năng lượng 100 keV
Nếu ngoại suy đường cong hiệu suất của dạng Marinelli trong cả hai Hình
4.12 và Hình 4.13, ta sẽ thấy hai đường cong hiệu suất cắt nhau tại vị trí tương ứng
với thể tích mẫu đo là 40ml. Trong đó, hiệu suất của dạng hình trụ lớn hơn của dạng
Marinelli ở vùng thể tích dưới 40ml và nhỏ hơn ở vùng thể tích trên 40ml. Điều này
cho thấy rằng đối với mẫu đo có thể tích từ 40ml trở xuống ta nên dùng hình học
dạng trụ để đo, còn với thể tích trên 40ml thì dạng hình học Marinelli sẽ cho khả
năng ghi nhận tốt hơn.
Mặc dù vậy, trong thực tế, việc chế tạo hộp đựng mẫu dạng Marinelli tương
đối khó khăn hơn so với dạng hình trụ. Do đó, để tạo thuận lợi trong việc sử dụng
cấu hình Marinelli trong việc đo đạc phóng xạ, Viện Kĩ nghệ Điện & Điện tử
(Institute of Electrical and Electronic Engineers – IEEE) đã tiêu chuẩn hóa cấu hình
của hộp đựng mẫu dạng Marinelli với hai loại thể tích 450 và 1000ml. Cấu hình
Marinelli quy ước trong phần 4.3.2 chính là cấu hình tiêu chuẩn của hộp dựng mẫu
thể tích 450ml. Trong thực tế, các hộp đựng mẫu dạng Marinelli quy ước đã được
thương mại hóa và sử dụng rộng rãi trong các phòng thí nghiệm phục vụ cho việc
đo đạc phóng xạ. Do vậy, bên cạnh việc khảo sát giữa các cấu hình tối ưu với nhau,
tác giả cũng đã tiến hành so sánh các hộp tối ưu hình trụ với hộp Marinelli quy ước
81
để từ đó chọn lựa được cấu hình đo đạc tốt nhất phù hợp với thực tế. Hình 4.14 so
sánh khả năng ghi nhận giữa các hộp tối ưu hình trụ với hộp Marinelli quy ước, từ
đó ta thấy đối với thể tích mẫu từ khoảng 140 – 150ml trở lên, hộp Marinelli quy
ước cho hiệu suất ghi nhận tốt hơn.
Hình 4.15. Giá trị „hiệu suất × thể tích‟ của các cấu hình tối ưu dạng trụ và
Marinelli quy ước theo thể tích mẫu đo với tia gamma năng lượng 100 keV
82
KẾT LUẬN
Luận văn này được thực hiện với mục đích nâng cao khả năng xác định hoạt
độ phóng xạ trong mẫu môi trường một cách nhanh chóng và chính xác. Những vấn
đề được đặt ra ở đây là việc xây dựng phương pháp xác định hoạt độ phóng xạ một
cách chính xác và nhanh chóng nhất, đồng thời cung cấp cho những người làm công
tác đo đạc các cấu hình đo cho hiệu suất ghi nhận tốt nhất nhằm phục vụ cho việc
đo đạc mẫu với số lượng lớn. Trong khuôn khổ luận văn, tác giả đã tập trung vào
việc phát triển một phương pháp xử lý phổ khác với phương pháp xử lý truyền
thống, đồng thời cũng đã khảo sát phông nền phóng xạ và các thông số hình học của
mẫu đo nhằm đạt được khả năng ghi nhận các tia gamma phát ra một cách tốt nhất.
Trong phần đầu của luận văn, tác giả đã thực hiện việc khảo sát đánh giá
phông nền phóng xạ và tính toán các diện tích đỉnh của các đồng vị phóng xạ có
trong môi trường xung quanh hệ phổ kế gamma. Kết quả khảo sát cho thấy phông nền phóng xạ chủ yếu chứa các đỉnh gamma của các chuỗi phóng xạ tư nhiên (238U, 232Th, 40K) và có tốc độ đếm đỉnh khoảng dưới 0,01 số đếm / giây. Do đó khi tiến hành đo đạc các mẫu môi trường có chứa các đồng vị 238U, 232Th và 40K mà có tốc
độ đếm đỉnh trên 1 số đếm / giây thì chúng ta không cần thiết phải trừ phổ phông
nền phóng xạ do sự sai lệch gây ra không vượt quá 1%.
Trong phần kế tiếp, tác giả đã thực hiện việc cải tiến một phương pháp xác
định hoạt độ mới (FSA) trên cơ sở những khảo sát được thực hiện trong công trình
[2] trước đó. Các cải tiến này bao gồm việc sử dụng thuật toán di truyền, một thuật
toán mạnh trong việc tìm kiếm tối ưu, trong việc làm khớp phổ; cùng với các hiệu
chỉnh lệch kênh giữa các phổ đo đã góp phần cải thiện đáng kể độ chính xác của
việc xác định hoạt độ bằng phương pháp FSA. Các kết quả đạt được cho thấy sự
phù hợp khá tốt giữa hai phương pháp FSA và WA với sự sai lệch không quá 15%.
Điều này cho thấy chúng ta hoàn toàn có khả năng vận dụng phương pháp FSA thay
thế cho phương pháp WA truyền thống. Đặc biệt đối với các trường hợp khảo sát
mẫu với số lượng lớn đòi hỏi phải có sự tự động hóa cao, ít cần sự can thiệp của
83
người dùng, về mặt này thì phương pháp FSA xử lý trên toàn phổ hoàn toàn vượt
trội so với phương pháp WA đòi hỏi phải thực hiện nhiều công đoạn như xác định
vi trí đỉnh, diện tích đỉnh,… Bên cạnh đó, phương pháp FSA cũng có một số ưu
điểm hơn WA chẳng hạn như loại bỏ phần lớn các sai số do trùng phùng thực, do
trừ phông nền Compton, do chồng chập đỉnh,…
Tuy vậy, vẫn còn một số điểm cần khắc phục đối với phương pháp FSA,
chẳng hạn như có sự khác nhau giữa thành phần hóa học và mật độ của mẫu chuẩn
và mẫu phân tích, tuy sự khác biệt này là không đáng kể nhưng cũng là một nguyên
nhân đóng góp vào sai số. Ngoài ra, do có mật độ khác nhau nên vùng lưng
Compton của phổ chuẩn và phổ phân tích cũng khác nhau, đặc biệt là ở vùng năng
lượng thấp dưới 100 keV, diện tích đỉnh ở vùng năng lượng này cũng bị ảnh hưởng
đáng kể. Tuy trong luận văn đã cắt bỏ phần phổ ứng với khoảng năng lượng này
trong quá trình làm khớp nhưng việc hiệu chỉnh mật độ trên toàn phổ cũng đáng
được quan tâm. Bên cạnh đó, tác giả dự định sẽ phát triển việc sử dụng các phổ
chuẩn mô phỏng bằng phương pháp Monte Carlo thay cho các phổ chuẩn thực
nghiệm vốn rất hạn chế nhằm áp dụng phương pháp FSA trong phân tích các mẫu môi trường có chứa các đồng vị phóng xạ khác ngoài 238U, 232Th và 40K.
Về vấn đề tối ưu hóa hình học mẫu đo, tác giả đã thực hiện việc khảo sát cấu
hình tối ưu theo thể tích đối với các mẫu đo có hình học dạng trụ và Marinelli. Đối
với mẫu đo dạng trụ, tác giả đã khảo sát sự thay đổi của hiệu suất đỉnh theo các
thông số R và h, từ đó tìm ra được cấu hình tối ưu cho từng thể tích nhất định. Bên
cạnh đó, tác giả cũng đã chỉ ra được rằng sự ảnh hưởng của mật độ lên cấu hình đo
tối ưu là không đáng kể và đối với vùng năng lượng thấp thì tỉ số giữa bán kính tối
ưu và chiều cao tối ưu có giá trị trong khoảng từ 1-2, còn vùng năng lượng cao thì
từ 2-3 và tỉ số này có xu hướng giảm theo thể tích. Kết quả nghiên cứu cũng cho
thấy bán kính tối ưu tăng theo thể tích mẫu, khi thể tích lớn hơn 100ml bán kính tối
ưu tăng gần như tuyến tính theo thể tích và không có sự khác biệt nhiều giữa bán
kính tối ưu ở vùng năng lượng thấp và vùng năng lượng cao.
84
Đối với mẫu đo dạng Marinelli, tác giả đã khảo sát được cấu hình tối ưu cho
mẫu đo từ 200ml đến 400ml với tất cả các thông số đặc trưng cho cấu hình đều có
thể thay đổi. Tương tự với cấu hình dạng trụ, tác giả cũng khảo sát được sự thay đổi
của hiệu suất đỉnh theo cấu hình, từ đó tìm ra được cấu hình tối ưu cho từng thể tích
nhất định. Từ việc tiến hành so sánh với các kết quả cấu hình tối ưu cho mẫu dạng
Marinelli thu được từ [1], luận văn cũng đưa đến một kết luận là cấu hình tối ưu phụ
thuộc cấu hình của detector, mặc dù sự phụ thuộc này là không lớn lắm. Tác giả
cũng đã kiểm tra bằng thực nghiệm kết luận này với hai cấu hình tối ưu khác nhau
trên hai detector khác nhau.
Không chỉ khảo sát cấu hình tối ưu một cách riêng rẽ cho từng dạng hình học
khác nhau, luận văn còn tiến hành so sánh giữa cấu hình tối ưu dạng trụ và dạng
Marinelli. Từ việc khảo sát, tác giả đã rút ra được một số nhận xét hữu ích cho các
nhà thực nghiệm: đối với thể tích mẫu nhỏ hơn 40ml nên đo bằng mẫu dạng trụ tối
ưu, với thể tích lớn hơn 40ml việc đo bằng mẫu dạng Marinelli tối ưu sẽ cho khả
năng ghi nhận tốt hơn. Ngoài ra, việc sử dụng hộp Marinelli quy ước 450ml của
IAEA sẽ cho hiệu suất ghi nhận tốt hơn so với việc sử dụng hộp dạng trụ khi thể
tích mẫu đo lớn hơn 150ml.
Trong tương lai, tác giả dự kiến sẽ mở rộng giới hạn thể tích khảo sát lên đến
1000ml thay vì khoảng 400–500ml như hiện tại. Ngoài ra, thành phần hóa học của
các mẫu môi trường rất đa dạng, có thể là đất, đá, nước, rau,… vì vậy một sự mở
rộng về thành phần hóa học cho công trình cũng là điều cần thiết.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
[1] Võ Xuân Ân (2008), Nghiên cứu hiệu suất ghi nhận của detector bán dẫn siêu
tinh khiết (HPGe) trong phổ kế gamma bằng phương pháp Monte Carlo và
thuật toán di truyền, Luận án Tiến sĩ Vật lý, Trường ĐHKHTN – TPHCM.
[2] Lê Thị Hổ (2008), Xác định hoạt độ trong mẫu phóng xạ môi trường bằng
phương pháp FSA, Khóa luận tốt nghiệp Đại học, Trường ĐHKHTN –
TPHCM.
[3] Phạm Quốc Hùng (2007), Vật lý hạt nhân và ứng dụng, NXB Đại học Quốc
gia Hà Nội.
[4] Trần Ái Khanh (2007), Chuẩn hiệu suất đầu dò HPGe với hình học mẫu lớn
bằng phương pháp Monte Carlo, Luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ, Trường
ĐHKHTN – TPHCM.
[5] Trương Thị Hồng Loan (2010), Áp dụng phương pháp mô phỏng Monte Carlo
để nâng cao chất lượng hệ phổ kế gamma sử dụng đầu dò bán dẫn HPGe,
Luận án Tiến sĩ Vật lý, Trường ĐHKHTN – TPHCM.
Tiếng Anh
[6] Mahmoud I. Abbas (2006), “Analytical calculations of the solid angles
subtended by a well-type detector at point and extended circular sources”,
Applied Radiation and Isotopes, 64, pp.1048–1056.
[7] Asm Sabbir Ahmed, Kevin Capello, Albert Chiang, Erick Cardenas-Mendez,
Gary H. Kramer (2009), “Optimization of geometric parameters for Marinelli
beaker to maximize the detection efficiency of an HPGe detector”, Nuclear
Instruments and Methods in Physics Research A, 610, pp.718–723.
[8] Z.B. Alfassi, F. Groppi (2007), “An empirical formula for the efficiency
detection of Ge detectors for cylindrical radioactive sources”, Nuclear
Instruments and Methods in Physics Research A, 574, pp.280–284.
[9] M. Barrera, I. Ramos–Lerate, R.A. Ligero, M. Casas–Ruiz (1999),
“Optimization of sample height in cylindrical geometry for gamma
spectrometry measurements”, Nuclear Istruments and Methods in Physics
Research A, 421, pp.163–175.
[10] Canberra Inc., GenieTM 2000 Customization Tools Manual, Canberra Industry
Inc., United States of America.
[11] Chien Chung, Cheng-Jong Lee, Shiow-Fen Shiee (1991), “Optimum Geometry
of Radioactive Aqueous Sample Container for Measurement with a
Germanium Detector”, Applied Radiation and Isotopes, 42, pp.541–545.
[12] David A. Coley (1999), An Introduction to Genetic Algorithms for Scientists
and Engineers, World Scientific Publishing.
[13] D.J. Crossley, A.B. Reid (1982), “Inversion of gamma-ray data for element
abundances”, GEOPHYSICS, 47, pp.117–126.
[14] K. Debertin, R.G. Helmer (1988), Gamma and X–ray spectrometry with
semiconductor detectors, North Holland, Amsterdam.
[15] R.J. de Meijer (1998), “Heavy minerals: from „Edelstein‟ to Einstein”, Journal
of Geochemical Exploration, 62, pp.81–103.
[16] Gordon R. Gilmore (2008), Practical Gamma-ray Spectrometry, 2nd Edition,
Nuclear Training Services Ltd Warrington, UK.
[17] P.H.G.M. Hendriks, J. Limburg, R.J.de Meijer (2001), “Full-spectrum analysis
of natural -ray spectra”, Journal of Environmental Radioactivity, 53, pp.365–
380.
[18] P.H.G.M. Hendriks, M. Maucec, R.J. de Meijer (2002), “MCNP modelling of
scintillation-detector -ray spectra from natural radionuclides”, Applied
Radiation and Isotopes, 57, pp.449–457.
[19] G. Heusser (1996), “Cosmic ray interaction study with low-level Ge-
spectrometry”, Nuclear Istruments and Methods in Physics Research A, 369,
pp.539–543.
[20] P.D. Hien, H.T. Hiep, N.H. Quang, N.Q. Huy, N.T. Binh, P.S. Hai, N.Q. Long, V.T. Bac (2002), “Derivation of 137Cs deposition density from measurements of 137Cs in undisturbed soils”, Journal of Environmental inventories
Radioactivity, 62, pp.295–303.
[21] N.Q. Huy, T.V. Luyen (2006), “Study on external exposure doses from
terrestrial radioactivity in Southern Vietnam”, Radiation Protection
Dosimetry, 118, pp.331–336.
[22] IAEA/RL/148 Report (1987), Preparation of Gamma–ray Spectrometry
Reference Materials RGU-1, RGUTh-1, RGK-1, Viena.
[23] S. Klemola (1996), “Optimization of sample geometries in low-level gamma
spectroscopy”, Nuclear Istruments and Methods in Physics Research A, 369,
pp.578–581.
[24] Glenn F. Knoll (2000), Radiation Detection and Measurement, 3rd Edition,
John Wiley & Sons Inc.
[25] K.P. Maphoto (2004), Determination of Natural Radioactivity Concentrations
in Soil: A Comparative Study of Windows and Full Spectrum Analysis, Master
thesis, University of the Western Cape.
[26] B.R.S. Minty, P. McFadden, B.L.N. Kennett (1998), “Multichannel processing
for airborne gamma-ray spectrometry”, GEOPHYSICS, 63, pp.1971–1985.
[27] Takashi Nakamura, Takashi Suzuki (1983), “Monte Carlo calculation of peak
efficiencies of Ge(Li) and pure Ge detectors to voluminal sources and
comparison with environmental radioactivity measurement”, Nuclear
Istruments and Methods, 205, pp.211–218.
[28] National Nuclear Data Center, http://www.nndc.bnl.gov/
[29] R.T. Newman, R. Lindsay, K.P. Maphoto, N.A. Mlwilo, A.K. Mohanty, D.G.
Roux, R.J. de Meijer, I.N. Hlatshwayo (2008), “Determination of soil, sand
and ore primordial radionuclide concentrations by fullspectrum analyses of
high-purity germanium detector spectra”, Applied Radiation and Isotopes, 66,
pp.855–859.
[30] M. Noguchi, K. Takeda, H. Higuchi (1981), “Semi–empirical –ray peak
efficiency determination including self–absorption correction based on
numerical integration”, International Journal of Applied Radiation and
Isotopes, 32, pp.17–22.
[31] N.H. Quang, N.Q. Long, D.B. Lieu, T.T. Mai, N.T. Ha, D.D. Nhan, P.D. Hien (2004), “239+240Pu, 90Sr and 137Cs inventories in surface soils of Vietnam”,
Journal of Environmental Radioactivity, 75, pp.329–337.
[32] S.N. Sivanandam, S.N. Deepa (2008), Introduction to Genetic Algorithms,
Springer-Verlag Berlin Heidelberg, New York.
[33] T. Suzuki, Y. Inokoshi, H. Chisaka (1984), “Optimum geometry of a large
Marinelli-type vessel and its application to environmental aqueous samples”,
International Journal of Applied Radiation and Isotopes, 35, pp.1029–1033.
[34] Takashi Suzuki, Yukio Inokoshi, Haruo Chisaka, Takashi Nakamura (1988),
“Optimum Geometry of Large Marinelli-Type Vessels for In-situ
Environmental Sample Measurements with Ge(Li) Detectors”, Applied
Radiation and Isotopes, 39, pp.253–256.
[35] The Radiation Information Network (2009), Radioactivity in Nature, Idoha
State University, Hoa Kì.
[36] J.K. Tuli (2005), Nuclear Wallet Cards 7th Edition, National Nuclear Data
Center, Hoa Kì.
[37] United Nation Scientific Committee on the Effects of Atomic Radiation (UNSCEAR) (1969), 24th Session, Suppl. No 13 (A/7613), United Nations
New York.
[38] R. Wordel, D. Mouchel, T. Altzitzoglou, G. Heusserb, B. Quintana Arnes, P.
Meynendonckx (1996), “Study of neutron and muon background in low-level
germanium gamma-ray spectrometry”, Nuclear Istruments and Methods in
Physics Research A, 369, pp.557–562.
[39] X-5 Monte Carlo Team (2005), MCNP5 – Monte Carlo N-Particle Transport
Code System, LA-UR-03-1987.