VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÀNH DANH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHI MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, Năm 2020

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THÀNH DANH

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TỪ THỰC TIỄN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHI MINH

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự

Mã số: 8.38.01.04

NGƯỜI HƯỚNG DẨN KHOA HỌC:

PGS.TS. NGUYỄN THANH DƯƠNG

HÀ NỘI, Năm 2020

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan nội dung luận văn “Áp dụng pháp luật hình sự đối với

tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” là công

trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi thực hiện với sự hướng dẫn khoa học của

Phó giáo sư Tiến sĩ Nguyễn Thanh Dương. Tất cả những tài liệu, số liệu và kết

quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực và chưa được công bố

trong bất kỳ công trình khoa học nào khác.

Tác giả luận văn:

Trần Thành Danh

MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1

Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN ..................... 7

1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội trộm cắp tài sản và phân biệt dấu

hiệu đặc trưng tội trộm cắp tài sản với tội xâm phạm sở hữu có dấu hiệu gần

tương đồng ......................................................................................................... 7

1.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp

tài sản ............................................................................................................... 14

1.3. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản ...... 18

Tiểu kết Chương 1 .............................................................................................. 28

Chương 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI

TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ

CHÍ MINH ……………………..……………………………………………29

2.1. Khái quát tình hình xét xử áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp

tài sản trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh .................................... 29

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong định tội danh đối với tội trộm

cắp tài sản trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh .............................. 33

2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc quyết định hình phạt đối

với tội trộm cắp tài sản ..................................................................................... 47

2.4. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân ........................... 53

Tiểu kết Chương 2 .............................................................................................. 62

Chương 3: CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG ĐÚNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN TRÊN ĐỊA

BÀN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................. 63

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp

tài sản ............................................................................................................... 63

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm

cắp tài sản ......................................................................................................... 68

Tiểu kết chương 3 ............................................................................................... 79

KẾT LUẬN ......................................................................................................... 80

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CHXHCN Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

BLHS Bộ luật hình sự

BLTTHS Bộ luật tố tụng hình sự

QĐHP Quyết định hình phạt

TNHS Trách nhiệm hình sự

TAND Tòa án nhân dân

TTHS Tố tụng hình sự

THTT Tiến hành tố tụng

QPPL Quy phạm pháp luật

ADPL Áp dụng pháp luật

ADPLHS Áp dụng pháp luật hình sự

CQĐT Cơ quan điều tra

VKS Viện Kiểm sát

TP Thẩm phám

XHCN Xã hội chủ nghĩa

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU THỐNG KÊ

Bảng 2.1. Diễn biến tình hình tội trộm cắp tài sản so với các tội xâm

phạm sở hữu trên địa bàn Quận 10 từ năm 2015 đến 2019

Bảng 2.2. Số lượng, số vụ và bị cáo phạm tội trong nhóm tội xâm phạm

sở hữu đã được TAND Quận 10 xét xử, giai đoạn 2015 – 2019

Bảng 2.3. Tỷ lệ % các tội phạm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên địa

bàn Quận 10, giai đoạn 2015 – 2019

Bảng 2.4. Thống kê mức hình phạt mà TAND Quận 10 đã xét xử về tội

trộm cắp tài sản, giai đoạn 2015 – 2019

Bảng 2.5. Thống kê số lượng án bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm hủy, sửa đối với tội trộm cắp tài sản.

MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài

Hiến pháp nước CHXHCN Việt Nam năm 2013 quy định tại Điều 32:

“1. Mọi người có quyền sở hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành,

nhà ở, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, phần vốn góp trong doanh nghiệp hoặc

trong các tổ chức kinh tế khác.

2. Quyền sở hữu tư nhân và quyền thừa kế được pháp luật bảo hộ…”

Ngoài ra, các luật về Dân sự, Hành chính, Hôn nhân gia đình, Lao động,

sở hữu trí tuệ… cũng đã ghi nhận và bảo vệ quyền sở hữu hợp pháp của cá nhân,

tổ chức. Vì vậy, mọi hành vi xâm phạm đến quyền sở hữu hợp pháp đều bị lên án

trước xã hội và có thể dẫn đến bị xử lý. Khi vi phạm đến mức phải xử lý hình sự

thì đó là tội phạm, cho nên vấn đề xử lý tội phạm cần phải tuân thủ áp dụng đúng

quy định của pháp luật hình sự thì mới bảo đảm tính nghiêm minh, khách quan.

Hiện nay, Quận 10 có tổng dân số 250.687 người, với mật độ đông trên

47.000 người/km2. Trong đó người Kinh chiếm hơn 80% dân số, người Hoa

chiếm 18%, còn lại một số dân tộc ít người Kh’Me, Tày, Chăm, Nùng và người

dân tộc khác. Thế mạnh kinh tế chủ yếu tập trung là ngành thương mại – dịch vụ

có tốc độ phát triển nhanh, với nhiều loại hình thương mại – dịch vụ cao cấp và

đa dạng tạo được sự thu hút đầu tư của các doanh nghiệp tham gia đầu tư phát

triển, giá trị thương mại chiếm tỷ lệ khá cao, phát huy lợi thế của mình đã và

đang phấn đấu duy trì tốc độ tăng trưởng, cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng định

hướng lĩnh vực công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, các ngành dịch vụ chất

lượng cao, các tuyến đường khu vực kinh doanh chuyên ngành, đa ngành từng

bước hình thành và phát triển.

Cùng với những thành tựu đã đạt được thì tội phạm cũng phát sinh, diễn

biến phức tạp, trong đó có Tội trộm cắp tài sản. Các cơ quan THTT luôn khẩn

trương tiến hành xử lý theo quy định pháp luật, tuy nhiên trong quá trình xử lý

không tránh khỏi các hạn chế, khó khăn, vướng mắc,… trong việc áp dụng pháp

luật, trong đó đáng chú ý là tại giai đoạn xét xử sơ thẩm tại TAND Quận 10.

1

Qua số liệu đã cập nhật phân tích công tác xét xử từ năm 2015 đến năm

2019 tại TAND Quận 10, tội trộm cắp tài sản ngày càng có xu hướng diễn biến

phức tạp về phương thức, thủ đoạn tinh vi, tính chất, mức độ nguy hiểm cao,

đồng thời độ tuổi người phạm tội ngày càng trẻ hóa,… gây hoang mang trong

đời sống quần chúng nhân dân, làm ảnh hưởng chung đến an ninh trật tự xã hội.

Dù đã được các cơ quan có thẩm quyền tích cực áp dụng các biện pháp phòng

chống, đấu tranh, nhất là việc phát hiện và làm hạn chế và loại bỏ dần các

nguyên nhân làm phát sinh tội trộm cắp tài sản song hiệu quả mang lại chưa

được như mong muốn. Cùng với đó là thực tiễn điều tra, truy tố và xét xử đã cho

thấy còn có bất cập, khó khăn trong việc xác định đối tượng tác động của tội

phạm, một số dấu hiệu định tội, các dấu hiệu định khung tăng nặng, giảm

nhẹ…của người tiến hành tố tụng còn nhiều hạn chế, có vụ định tội danh chưa

thật sựthuyết phục làm cho dư luận xã hội tranh luận nhiều chiều, quyết định

hình phạt vẫn cònmang tính chủ quan cá nhân của một số người tiến hành tố

tụng. Có thể nói, việc áp dụng pháp luật hình sự nói chung và áp dụng pháp luật

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản vẫn còn hạn chế, khó khăn, vướng mắc… mà

yêu cầu thực tiễn hiện nay cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về nhóm tội xâm

phạm sở hữu trong đó có tội trộm cắp tài sản theo quy định của BLHS năm

2015, dẫn đến thực tế áp dụng quy định về các tội này không tránh khỏi việc

chưa thống nhất giữa các cơ quan tiên hành tố tụng, mà quan trọng nhất là

TAND nơi tiến hành xét xử.

Để khắc phục những khó khắn vướng mắc trong việc áp dụng pháp luật

hình sự và đề xuất các giải pháp nhằm bảo đảm áp dụng đúng quy định của pháp

luật hình sự của Tội trộm cắp tài sản tại địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí

Minh, tôi chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ

thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh” để làm luận văn thạc sĩ của mình.

2. Tình hình nghiên cứu của đề tài

Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài được giao, học viên đã tham

khảo các công trình khoa có liên quan sau: Nguyễn Ngọc Hòa (Chủ biên, 2017),

2

Giáo trình Luật hình sự Việt Nam – Phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà

Nội; Võ Khánh Vinh (2014), Định tội danh đối với các tội xâm phạm sở hữu của

tác giả Lê Đăng Doanh, NXb Tư pháp năm 2013; Giáo trình luật hình sự Việt

Nam – Phần chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Võ Khánh Vinh (2013), Các

tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt tài sản của tác giả Cao Thị Oanh

(chủ biên), Nxb Tư pháp năm 2015; Bình luận Bộ luật hình sự năm 2015, Nxb

thông tin và truyền thông, Hà Nội; Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017);

Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015, Nhà xuất bản thế giới, Hà Nội;

Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017); Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng

hình sự năm 2015, Nhà xuất bản Thế Giới, Hà Nội, và các nguồn tài liệu tham

khảo khác sách báo, kể cả internet... Ngoài ra, theo tìm hiểu tác giả còn tham

khảo thêm một số tài liệu và trong các luận văn thạc sĩ có liên quan đến, hoặc

cùng nội dung của tội trộm cắp tài sản có thể được kể đến như:

- Luận văn thạc sĩ “Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật hình sự Việt Nam

từ thực tiễn từ huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội” của tác giả Đỗ Hồng Thúy,

Học viện Khoa học xã hội, 2018.

- Luận văn thạc sĩ “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

từ thực tiễn Quận 6, Thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Lê Ngọc Như Chi,

Học viện Khoa học xã hội, 2019.

- Luận văn thạc sĩ “Áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

từ thực tiễn quận Tân Phú, thành phố Hồ Chí Minh” của tác giả Nguyễn Thị

Linh, Học viện Khoa học xã hội, 2020.

Các tài liệu khoa học trên là cơ sở lý luận chung của tội trộm cắp tài sản,

tuy nhiên chưa có công trình nào nghiên cứu việc áp dụng pháp luật hình sự đối

với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Chính vì

vậy, theo đó trên cơ sở luận văn này tác giả muốn nghiên cứu tìm hiểu thực tế đi

sâu vào thực tiễn tội trộm cắp tài sản, những khó khăn, vướng mắc trong việc áp

dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản. Song song đó, trong việc kế

thừa các công trình của những tác giả trước đó, từ đó để đưa ra các giải pháp

3

kiến nghị với mục đích hoàn thiện và áp dụng đúng các quy định pháp luật hình

sự về tội trộm cắp tài sản.

Qua tìm hiểu và nghiên cứu, tác giả khẳng định Đề tài: “Áp dụng pháp

luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí

Minh” không trùng với bất kỳ đề tài nào đã được công bố tính đến thời điểm

ngày 31/8/2020.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

Luận văn làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn, từ đó làm rõ những vấn đề

chung về áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản tại địa bàn Quận

10, thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời đề xuất những giải pháp đảm bảo cho việc

áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản tại Quận 10, thành phố

Hồ Chí Minh.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Xuất phát từ mục đích trên, luận văn này đề ra các nhiệm vụ nghiên cứu

sau đây:

- Làm rõ những vấn đề lý luận chung, đồng thời phân tích cơ sở khoa học

pháp lý hình sự, căn cứ vào các quy địnhvề áp dụng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản.

- Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên

địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Đề xuất các yêu cầu cụ thể và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và hoạt động

áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10,

Thành phố Hồ Chí Minh.

4.2. Phạm vi nghiên cứu

4

- Về cơ sở pháp lý, “Tội trộm cắp tài sản” trong luận văn này được quy

định tại Chương XIV Điều 138 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) và

Chương XIV, Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

- Về thời gian, đề tài đã sử dụng tài liệu nghiên cứu trên cơ sở thống kê

theo số liệu trong thời gian 05 (năm) năm, từ năm 2015 đến năm 2019 với thực

trạng ADPL trong xét xử hình sự sơ thẩm đối với tội trộm cắp tài sản tại TAND

Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh.

- Về không gian, luận văn này thực hiện đề tài nghiên cứu trên phạm vi

địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

- Trong luận văn này, tên thật của bị cáo và bị hại đã được mã hóa lưu trữ

tại kho cơ sở dữ liệu tòa án theo quy định tại Nghị quyết số 03/2017/NQ-HĐTP

ngày 16/3/2017 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “Về việc công

bố bản án, quyết định trên cổng thông tin điện tử của tóa án”. Vì vậy, tên của

nhân vật đề cặp đã được thay thế bằng tên khác hoặc viết tắt. Tuy nhiên, tác giả

bảo đảm tính khách quan và trung thực về dữ liệu cập nhật nghiên cứu trên cơ sở

thực tiễn và khoa học.

5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác - Lênin

với phép biện chứng duy vật, Tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và

Nhà nước ta về pháp luật và chính sách pháp luật hình sự; về cải cách tư pháp,

phòng và chống các loại tội phạm trong đó có Tội trộm cắp tài sản.

5.2. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu cụ thể gồm: phương pháp hệ thống; phương

pháp lịch sử, logic; phương pháp tìm hiểu, khảo sát, tổng hợp, phân tích, so

sánh… thông qua số liệu thống kê; phương pháp tổng kết kinh nghiệm, đọc

những bản án và phương pháp trao đổi, thảo luận, tham khảo.

6. Những đóng góp khoa học và ý nghĩa của luận văn

Nội dung đề tài này đã nêu rõ khía cạnh lý luận về áp dụng pháp luật hình

5

sự và thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận

10, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đã đề xuất các yêu cầu cụ thể và giải pháp

bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội danh này.

7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục từ các tài liệu tham khảo và phụ

lục kèm theo, danh mục của các bảng, nội dung chính của luận văn gồm 3

chương:

Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng pháp luật hình

sự đối với tội trộm cắp tài sản.

Chương 2: Thực trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh.

Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí

Minh.

6

Chương 1

NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

1.1. Khái niệm, đặc điểm pháp lý của tội trộm cắp tài sản và phân biệt

dấu hiệu đặc trưng tội trộm cắp tài sản với tội xâm phạm sở hữu có dấu

hiệu gần tương đồng

1.1.1. Khái niệm tội trộm cắp tài sản

Tội trộm cắp tài sản, theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 chỉ quy

định "Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị..." mà không nêu rõ

các dấu hiệu pháp lý cụ thể. Vì vậy, hiện nay ở nước ta có rất nhiều quan điểm ý

kiến khác nhau về khái niệm tội trộm cắp tài sản. Theo giáo trình Trường đại học

Luật Hà Nội: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản đang có

chủ” [51, tr.32]. Theo tìm hiểu từ điển bách khoa của Công an nhân dân: “trộm

cắp tài sản được hiểu là hành vi lén lút bí mật đối với người quản lý tài sản để

chiếm đoạt tài sản”. Theo từ điển pháp luật hình sự: “trộm cắp tài sản là hành vi

lén lút chiếm đoạt tài sản đang có người khác quản lý” [16, tr.283]. Trong khi

đó, TS. Hoàng Văn Hùng thì cho rằng: ‘Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút

lấy tài sản của người khác với mục đích chiếm đoạt, do người có năng lực trách

nhiệm hình sự và đủ độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự thực hiện dưới hình thức

lỗi cố ý, xâm phạm các quyền sở hữu được Nhà nước bảo vệ bằng pháp luật”

[17, tr.21].

Từ các khái niệm cụ thể trên, có thể thấy được đặc trưng của Tội trộm cắp

tài sản là “Người phạm tội bằng hành vi lén lút, bí mật chuyển dịch bất hợp pháp

tài sản của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản nhằm chiếm đoạt tài sản nào

đó”. Nói theo cách khác, lén lút là hành vi của chủ thể phạm tội cố ý thực hiện một

hành vi giấu diếm, vụng trộm và không mong muốn để lộ cho người khác biết để

nhằm mục đích chiếm đoạt một cách trái phép tài sản của người đó. Qua đó, điều

này đã nói lên tội trộm cắp tài sản rất rõ ràng cụ thể, đồng thời làm rõ thêm các

dấu hiệu đặc điểm về lỗi của tội phạm trộm cắp tài sản là do lỗi cố ý, người phạm

7

tội phải đủ tuổi chịu TNHS và phải có năng lực trách nhiệm hinh sự (đối với các

hành vi lén lút mà lấy tài sản của những người khác khi chưa đạt được đủ tuổi

chịu TNHS hay đang ở tình trạng tâm lý không có năng lực TNHS thì không

phải là tội phạm.

Trên các cơ sở tham khảo, tìm hiểu tổng kết thực tế các quan điểm khác

nhau về tội trộm cắp tài sản, từ đó tác giả nêu ra định nghĩa về tội trộm cắp tài

sản như sau: “Tội trộm cắp tài sản là hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của

người khác, do người có đủ năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý, xâm phạm

quan hệ sở hữu được Nhà nước bảo vệ”.

1.1.2. Đặc điểm pháp lý của tội trộm cắp tài sản

Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội

có thể chia thành cấu thành tội phạm như sau:

- Cấu thành cơ bản, là tổng hợp các dấu hiệu đặc trưng bắt buộc với mọi

trường hợp phạm tội của một loại tội, phản ánh bản chất của loại tội đó và cho

phép phân biệt được loại tội phạm này với các loại tội phạm khác. Nội dung của

cấu thành cơ bản chỉ bao gồm những dấu hiệu định tội, đây là cấu thành tội phạm

mà mức hình phạt quy định ở khung thấp nhất trong điều luật của BLHS.

Theo quy định về tội trộm cắp tài sản tại Điều 173 BLHS năm 2015 có thể

thấy tội trộm cắp tài sản có các dấu hiệu pháp lý cấu thành tội phạm như sau:

+ Khách thể của tội trộm cắp tài sản

“Khách thể của tội phạm là những quan hệ xã hội được Luật hình sự bảo vệ

và bị tội phạm xâm hại” [52, tr.86].

Khách thể trực tiếp của tội trộm cắp tài sản là một trong những các tội

xâm phạm sở hữu thực hiện có tính chiếm đoạt. Do vậy cũng giống như các tội

xâm phạm sở hữu khác, tội phạm này xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản. Hơn

nữa dễ dàng gây thiệt hại xâm phạm đến các quyền sở hữu về tài sản, cụ thể

người phạm tội trộm cắp tài sản phải tác động đến tất cả tài sản của người chủ sở

hữu. Ví dụ: A trộm cắp tài sản của B, A đã xâm hại đến khách thể là quyền sở

hữu tài sản của B và gây phương hại đến khách thể chung và khách thể loại

8

quyền sở hữu của công dân. Như vậy, về nguyên tắc, đối tượng tác động của tội

trộm cắp tài sản phải là tài sản của người khác. Tuy nhiên, trong trường hợp

người chủ tài sản đã giao tài sản cho người khác quản lý như cho mượn, giữ

hộ… thế nhưng sau đó lại có hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản của mình thì vẫn

có thể cấu thành tội trộm cắp tài sản.

+ Mặt khách quan của tội trộm cắp tài sản

“Mặt khách quan của tội phạm là những biểu hiện bên ngoài của tội phạm

bao gồm hành vi khách quan, hậu quả nguy hiểm cho xã hội của tội phạm và mối

quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả” [52, tr.99].

* Hành vi khách quan của trộm cắp tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản

của người khác bằng thủ đoạn đó là dấu hiệu lén lút, lợi dụng, bất cẩn, thiếu cảnh

giác, sơ sơ hở của người bị hại, hoặc lợi dụng hoàn cảnh mà quản lý tài sản

không biết. Một điểm nữa hành vi lén lút của tội trộm cắp tài sản là bí mật lén lút

cho việc chiếm đoạt tài sản, hơn nữa có thể tội phạm thực hiện hành vi chiếm

đoạt tài sản trước sự có mặt nhiều người và mặt dù người đó không biết được đó

là hành vi trộm cắp tài sản. Điều đáng nói hơn nữa, lén lút cũng có nghĩa là

người thực hiện hành vi phạm tội cố tình che giấu đi hành vi phạm tội của mình

đối với người chủ sở hữu hay người trực tiếp quản lý tài sản khi phạm tội. (Ví

dụ: sau nhiều lần theo dõi gia đình anh H, do đó lợi dụng lúc sở hở cả nhà của

anh H đi về quê chơi, vắng nhà không có người trông coi, C lén lút cạy cửa đột

nhập vào nhà anh H, ngang nhiên vào nhà lấy tài sản trước sự chứng kiến của

nhiều người nhưng họ không hay biết C đang chiếm đoạt tài sản bất hợp pháp

của nhà người khác mà đều nghĩ là người thân của gia đình anh H). Ngoài ra, có

thể người phạm tội thực hiện hành vi lén lút đó với bị hại nhưng công khai với

người khác (cụ thể như: hành vi móc túi trong công viên, bến xe, rạp hát, nhà ga,

siêu thị, trung tâm thương mại…).

* Hậu quả pháp lý của tội phạm này là gây thiệt hại về tài sản cho người

bị hại cụ thể là giá trị tài sản chiếm đoạt. Tài sản của hành vi trộm cắp như: tiền,

vàng, vật các loại, hàng hóa và các giấy tờ có giá trị khác... Hậu quả là những

9

dấu hiệu đặc trưng bắt buộc đối với tội trộm cắp tài sản. Nếu như một người nào

đó có ý định trộm cắp tài sản của người khác, thế nhưng chưa thực hiện được

hành vi chiếm đoạt tài sản mà bị họ phát hiện thì chưa đủ căn cứ cấu thành tội

trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự 2015. Tuy nhiên, sau

đó người phạm tội đã có hành vi dịch chuyển tài sản ra khỏi vị trí ban đầu của tài

sản đó thì sẽ bị xử lý truy tố về tội trộm cắp tài sản mặc dù mục đích chiếm đoạt

tài sản đó có đạt được hay không (Ví dụ: T đột nhập lén lút vào nhà M để trộm

cắp tài sản, thế nhưng chưa kịp đưa số tài sản ra ngoài thì bị M phát hiện. Cho

nên, trường hợp này T đã phạm tội trộm cắp tài sản, nếu T bị phát hiện trước khi

lấy tài sản thì mới không phạm tội).

+ Chủ thể của tội trộm cắp tài sản

“Chủ thể của tội phạm là người phải có đầy đủ năng lực trách nhiệm hình

sự, đạt độ tuổi luật định và đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể” [50, tr.90].

Theo Điều 76 BLHS 2015 quy định phạm vi chịu trách nhiệm hình sự của

pháp nhân thương mại, trong đó không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm

cắp tài sản, như vậy ở chủ thể của tội trộm cắp tài sản là cá nhân.

Tại Điều 12, Điều 173 BLHS 2015 quy định thì người từ đủ 14 tuổi đến

dưới 16 tuổi chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội trộm cắp tài sản tại các

Khoản 3, 4 Điều 173; còn đối với người từ đủ 16 tuổi trở lên thì phải chịu trách

nhiệm hình sự đối với cả những hành vi thuộc các Khoản 1, 2 Điều 173 BLHS.

+ Mặt chủ quan của tội trộm cắp tài sản

“Mặt chủ quan của tội phạm là diễn biến tâm lý bên trong của người

phạm tội” [50, tr.76].

Mặt chủ quan là những gì diễn biến bên trong với các nội dung như sau:

dấu hiệu bắt buộc là lỗi (cụ thể lỗi vô ý và cố ý) và những dấu hiệu không bắt

buộc gồm có động cơ và mục đích.

* Dấu hiệu lỗi của tội trộm cắp tài sản

“Lỗi là thái độ chủ quan của người phạm tội đối với hành vi và đối với

hậu quả thiệt hại cho xã hội do mình gây ra, được thực hiện dưới hình thức lỗi cố

10

ý hoặc vô ý” [6, tr.20].

Về lý trí: Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình gây ra là nguy

hiểm cho xã hội, xâm hại đến trực tiếp về quyền sở hữu tài sản hợp pháp của

người khác.

Về ý chí: người phạm tội mong muốn mặc kệ để cho những hậu quả xảy

ra, chỉ có như vậy người phạm tội mới có thể thực hiện chiếm đoạt được tài sản

của người khác, biến tài sản những tài sản đã lấy cắp của người khác thành tài

sản chính của mình.

* Động cơ, mục đích của người phạm tội trộm cắp tài sản

Ngoài các dấu hiệu đặc trưng về lỗi, mặt chủ quan đối với tội trộm cắp tài

sản còn được xác định bởi động cơ, mục đích phạm tội.

Theo đó đối với tội trộm cắp tài sản động cơ phạm tội chính là vụ lợi, mục

đích phạm tội là chiếm đoạt cho được tài sản của người khác. Cho nên việc xác

định động cơ, mục đích phạm tội này có ý nghĩa quan trọng trong việc làm căn

cứ đánh giá mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội khi xem xét định

tội danh và quyết định hình phạt.

Tóm lại: Tội trộm cắp tài sản được thực hiện do lỗi cố ý. Mục đích là

chiếm đoạt tài sản của người khác do người phạm tội thực hiện. Tuy nhiên, cũng

có những trường hợp, người đồng phạm với người trộm cắp tài sản nhưng không

có mục đích chiếm đoạt tài sản mà không cấu thành tội khác thì vẫn bị truy cứu

trách nhiệm hình sự đối với tội trộm cắp tài sản (Ví dụ: N ghen M vì M có tình ý

với vợ của N, nên N xúi giục K trộm chiếc xe SH của M. Đáng nói hơn, vì tức

giận M phản bội nên N vô tình hành động như vậy chứ không có mục đích để

chiếm đoạt tài sản của M, thế nhưng N vẫn bị xử lý hình sự về tội trộm cắp tài

sản cùng vai trò là đồng phạm.

- Cấu thành tội phạm tăng nặng, bao gồm những dấu hiệu định tội và

những dấu hiệu thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội TP tăng lên rõ rệt.

- Cấu thành tội phạm giảm nhẹ, bao gồm những dấu hiệu định tội và

những dấu hiệu thể hiện mức độ nguy hiểm cho xã hội giảm đi rõ rệt.

11

Tội trộm cắp tài sản theo quy định tại Điều 173 BLHS năm 2015 về mức

hình phạt của tội phạm này được chia thành bốn khung, cụ thể như sau:

- Khung một (Khoản 1): Có mức hình phạt là phạt cải tạo không giam giữ

đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Theo đó, được áp dụng trong

trường hợp phạm tội có đủ các dấu hiệu cấu thành cơ bản như đã trình bày ở

phần mặt khách quan.

- Khung hai (Khoản 2): Có mức phạt tù từ hai năm đến bảy năm. Theo đó,

cụ thể được áp dụng một trong các trường hợp phạm tội sau đây: Có tổ chức; Có

tính chất chuyên nghiệp; Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng

đến dưới hai trăm triệu đồng; Dùng thủ đoạn xảo quyệt, nguy hiểm. Được hiểu là

các thủ đoạn tinh vi rất khó phát hiện (như bố trí trộm cắp xe gắn máy tại bãi giữ

xe) và các thủ đoạn mang tính nguy hiểm gây thiệt hại thêm cho chủ sở hữu (Ví

dụ: C lén lút trèo lên hệ thống thông gió vào nhà trộm cắp tài sản trị giá

5.000.000 đồng…); Hành hung để tẩu thoát; Tài sản là bảo vật quốc gia; Tái

phạm nguy hiểm.

- Khung ba (Khoản 3): Có mức phạt tù từ bảy năm đến mười lăm năm.

Theo đó, được áp dụng đối với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệu đồng đến dưới năm trăm triệu

đồng; Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.

- Khung bốn (Khoản 4): Có mức phạt tù từ mười hai đến hai mươi

năm.Theo đó, được áp dụng với một trong các trường hợp phạm tội sau đây:

Chiếm đoạt tài sản trị giá năm trăm triệu đồng đồng trở lên; Lợi dụng hoàn cảnh

chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.

- Hình phạt bổ sung (Khoản 5).

Ngoài việc phải chịu một trong các mức hình phạt chính nêu trên được

quy định tại Bộ luât hình sự, tuỳ từng trường hợp cụ thể, người phạm tội còn có

thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng.

1.1.3. Phân biệt dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản với một số tội

xâm phạm sở hữu có dấu hiệu gần tương đồng

12

- Thủ đoạn gian dối nhằm chiếm đoạt tài sản là dấu hiệu cấu thành cơ bản

của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản. Hơn nữa, các vấn đề này đã xảy ra nhiều trong

thực tế xã hội đối với trường hợp dùng thủ đoạn gian dối của người phạm tội để

tiếp cận tài sản cho đến khi có điều kiện mới lén lút thực hiện chiếm đoạt tài sản

của người bị hại, qua đó là dấu hiệu đặc trưng của tội trộm cắp tài sản chứ không

dấu hiệu của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: A giả làm người bị bệnh để B thương tình đưa vào nhà của B nghỉ.

Trong lúc cả gia đình B lo làm việc, A lén lút lấy trộm tiền và xe mô tô của B bỏ

trốn. Hành vi của A cấu thành tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội lừa đảo

chiếm đoạt tài sản.

- Thủ đoạn đặc trưng của tội công nhiên chiếm đoạt tài sản là không cần

che giấu hành vi và thực hiện công khai hành vi chiếm đoạt. Nhiều người nhìn

thấy và không nghi ngờ gì về hành vi chiếm đoạt tài sản. Trường hợp người

phạm tội lợi dụng không có ai trực tiếp quản lý tài sản, giả làm ngưòi có trách

nhiệm đến và chiếm đoạt tài sản đó. Trường hợp này người phạm tội đã thực

hiện hành vi lén lút ở việc che giấu thân phận thật của mình (giả làm người có

trách nhiệm) để lén lút với mọi người xung quanh và người quản lý tài sản, tiếp

cận và thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Do vậy, họ phải chịu trách nhiệm

hình sự về tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

Ví dụ: A giả làm nhân viên khách sạn M, dọn dẹp một số cây kiểng trong

khuôn viên của khách sạn. A đã dùng xe chở một số cây kiểng quý đi để chiếm

đoạt số cây kiểng đó. Trường hợp này A lén lút với mọi người xung quanh nên

phạm tội trộm cắp tài sản chứ không phải tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.

- Thủ đoạn đặc trưng của tội cướp giật tài sản là hành vi công khai và

nhanh chóng giằng lấy, giật lấy tài sản thường là gọn nhẹ của người khác rồi

nhanh chóng tẩu thoát. Trường hợp người phạm tội lợi dụng chỗ đông người lén

giật tài sản của người khác để không bị phát hiện rồi sau đó chiếm đoạt tài sản

ấy. Trường hợp này thực chất người phạm tội đã lén lút (không có ý thức công

khai) chiếm đoạt tài sản bằng cách giật lấy tài sản thật nhanh chóng để không ai

13

thấy. Người phạm tội đã lén lút cả đối với người bị hại và đối với người xung

quanh. Do vậy, trường hợp này là tội trộm cắp tài sản chứ không phải là tội cướp

giật tài sản.

Ví dụ: A lợi dụng xếp hàng chen lấn, giả làm khách hàng chen lấn xô đẩy

mạnh làm phân tán sự chú ý của mọi người và cùng lúc đó giật dây chuyền của B

rơi xuống đất để đồng bọn lấy. Trường hợp này, A không có ý thức công khai

thực hiện hành vi này mà lén lút giật lấy tài sản (giật cho dây chuyền rơi xuống)

rồi sau đó cùng đồng bọn chiếm đoạt. Do vậy, hành vi này phải cấu thành tội

trộm cắp tài sản chứ không phải tội cướp giật tài sản.

1.2. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản

1.2.1. Khái niệm áp dụng pháp luật hình sự

Trong xã hội dù ở đâu bất cứ một hình thức Nhà nước nào thì trong đó

pháp luật luôn là một trong những công cụ để đảm bảo cho một xã hội phát triển

bền vững và ổn định, hơn nữa khi đặt ra những quy phạm pháp luật, Nhà nước ta

mong muốn sử dụng chúng để điều chỉnh tất cả các quan hệ xã hội và để đáp ứng

lợi ích của nhân dân lao động cho sự tiến bộ xã hội. Do đó, khi các chủ thể được

thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật trong thực tế đời sống thì mục đích của áp

dụng pháp luật đã đạt được. Từ đó cho thấy việc Áp dụng pháp luật (ADPL) là

hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, trong đó Nhà nước hay cá nhân thông qua

cơ quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tổ chức cho các chủ thể pháp luật

thực hiện các hoạt động cá biệt hoá qui định của pháp luật vào các sự kiện pháp

lý cụ thể và trên cơ sở đó đưa ra các quyết định làm phát sinh, chấm dứt hay thay

đổi một quan hệ pháp luật cụ thể đối với các đối tượng cụ thể theo trình tự, thủ

tục pháp luật quy định. Việc thực hiện pháp luật dựa trên các hình thức sau:

Tuân thủ pháp luật, có nội dung là việc chủ thể pháp luật kiềm chế mình

để không thực hiện điều pháp luật cấm hay nói cách khác chủ thể đã thực hiện

các hành vi đúng hợp pháp theo quy định yêu cầu của pháp luật.

Ví dụ: Việc tuân thủ các quy phạm nghiêm cấm trong Bộ luật hình sự

14

như: không được trộm cắp, không được lừa đảo chiếm đoạt tài sản; không được

xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người... Pháp luật

cấm hành vi mua, bán dâm. Do đó, “không thực hiện hành vi mua, bán dâm”

được xem là tuân thủ pháp luật.

Thi hành pháp luật, là việc chủ thể pháp luật chủ động thực hiện điều

pháp luật yêu cầu và được thực hiện dưới hình thức “hành vi hành động”.

Ví dụ: Pháp luật quy định về nghĩa vụ đóng thuế thu nhập cá nhân/ thuế

thu nhập doanh nghiệp. Do đó, nếu không thuộc trường hợp miễn thuế/đối tượng

không chịu thuế thì chủ thể đóng thuế được xem là “thi hành pháp luật”.

Sử dụng pháp luật, là hình thức trong đó các chủ thể thực hiện quyền pháp

lý của mình theo quy định pháp luật (thực hiện những hành vi mà pháp luật

không cấm và cho phép).

Ví dụ: Việc thực hiện quyền khởi kiện vụ án dân sự hay không khởi kiện vụ

án dân sự của các cá nhân theo quy định của pháp luật tố tụng dân sự; quyền chứng

minh mình vô tội hay quyền không chứng minh mình vô tội trong tố tụng hình sự...

Chủ thể thực hiện hình thức sử dụng pháp luật là tất cả các cơ quan nhà nước, cán

bộ công chức nhà nước, các cá nhân, tổ chức và mọi công dân trong xã hội.

Áp dụng pháp luật, là việc chủ thể pháp luật thực hiện điều mà pháp luật

cho phép, đó có thể là “hành vi hành động” hoặc “hành vi không hành động” tùy

quy định pháp luật cho phép.

Ví dụ: Xử một số vụ án việc phạm tội hình sự, giải quyết tranh chấp về

dân sự, hành chính, kinh tế…phải xác định quyền và nghĩa vụ một công dân… vì

vậy, áp dụng pháp luật phải được tiến hành theo trình tự, thủ tục do pháp luật

quy định. Khi A khởi kiện B ra tòa, tòa án đó có trách nhiệm xem xét và thụ lý

đơn khởi kiện của A. Theo đó, tòa án được xem là cơ quan “áp dụng pháp luật”

Vì vậy, nếu tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật và sử dụng pháp luật là

những hình thức mà trong đó mọi chủ thể pháp luật đều có thực hiện thì ADPL

chỉ được thực hiện bằng hình thức thông qua các hoạt động của nhà nước cơ

quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách, đây được xem như để bảo đảm đặc thù

15

của cơ quan Nhà nước cho các quy phạm pháp luật được thực hiện một cách dễ

dàng thực sự có hiệu quả trong đời sống xã hội. Từ đó, có thể đưa ra định nghĩa

sau: ADPL là một hình thức thực hiện pháp luật đặc biệt, là một hoạt động thực

tiễn pháp lý nhằm cá biệt hóa những quy phạm pháp luật vào các trường hợp

tương ứng đối với các chủ thể pháp luật cụ thể, mang tính tổ chức - quyền lực do

nhà nước thông qua những thiết chế của nó thực hiện.

Tóm lại, với những lý do trình bày phân tích ở trên có thể rút ra khái

niệm: ADPLHS là một dạng của ADPL nói chung, được hiểu là một hoạt động

thực tiễn pháp lý, là quá trình nhằm cá biệt hóa những quy phạm PLHS vào các

trường hợp cụ thể đối với người đã thực hiện hành vi mà nhà nước coi là tội

phạm, mang tính tổ chức - quyền lực nhà nước và được thực hiện theo một trình

tự đặc biệt do pháp luật tố TTHS quy định.

1.2.2. Đặc điểm áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản

Trên cơ sở khái niệm ADPL hình sự, có thể nêu ra khái niệm, đặc điểm

của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản như sau:

- Khái niệm áp dụng pháp luật tội trộm cắp tài sản, là hoạt động mang

tính quyền lực nhà nước của các CQTHTT hình sự, theo trình tự thủ tục do luật

định nhằm cá biệt hóa Bộ luật hình sự về tội trộm cắp tài sản để xử lý tội phạm

đúng người, đúng hành vi phạm tội theo đúng pháp luật.

- Đặc điểm áp dụng pháp luật tội trộm cắp tài sản, là một hình thức thực

hiện pháp luật đặc biệt nên áp dụng PLHS về tội trộm cắp tài sản có những đặc

điểm đó là:

Thứ nhất, hoạt động ADPL luôn có sự tham gia của nhà nước với tư cách

là một tổ chức quyền lực công cho nên điều này làm cho hoạt động ADPL có đặc

điểm thể hiện mang tính tổ chức- quyền lực và được nhà nước thông qua các cơ

quan có thẩm quyền hoặc nhà chức trách tiến hành. Ngoài ra, ADPL cũng là hình

thức thực hiện pháp luật được diễn ra đối với hoạt động hành pháp và tư pháp.

Hơn nữa, ADPL chủ yếu được tiến hành theo ý chí đơn phương của các chủ thể

có thẩm quyền tiến hành, nhưng không phụ thuộc vào ý chí của chủ thể bị

16

ADPL. Cho nên, việc áp dụng này luôn mang tính bắt buộc đối với những chủ

thể bị ADPL và được sự đảm bảo thực hiện bằng hình thức cưỡng chế nhà nước.

Ví dụ: ông C phạm tội có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm và dấu hiệu

pháp lý của tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều 173 Bộ luật hình sự năm

2015, do đó thẩm phán phải căn cứ trên tinh thần thượng tôn pháp luật áp dụng

hình phạt một cách tương xứng được cụ thể tại Điều luật này, đồng thời không

được phép xử mức ở cao hơn hay ở mức thấp hơn.

Thứ hai, hoạt động ADPL có đặc điểm là sự điều chỉnh cá biệt đối với

một chủ thể, cụ thể đến các quan hệ xã hội (có hành vi lét lút trộm cắp xảy ra)

khi có sự kiện pháp lý phạm tội là hoạt động giải quyết trực tiếp những vấn đề

thực tế. Dựa trên những cơ sở mệnh lệnh chung trong quy phạm pháp luật nhất

định và được cá biệt hóa trong từng trường hợp cụ thể vào đời sống xã hội.

Ví dụ: ông B trộm xe môtô SH của M trị giá 50 triệu đồng, do đó cơ quan

tiến hành tố tụng tiến hành xử lý bằng cách áp dụng các quy định pháp luật hình

sự, đã tiến hành xử lý băng cách khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử B. về tội trộm cắp

tài sản và đã tuyên hình phạt tương ứng với hành vi của B dựa trên cơ sở căn cứ

của BLHS 2015.

Thứ ba, Khi nói đến hoạt động ADPL trong đó có phát sinh những quan

hệ pháp luật hình sự rất cụ thể khi phát sinh phải đảm bảo được đối với 02 chủ

thể pháp luật thể hiện với trong những địa vị pháp lý khác nhau giữa Nhà nước

và người phạm tội. Đồng thời, làm căn cứ phát sinh các quan hệ pháp luật hình

sự đã diễn ra trong thực tế của hành vi phạm tội và đến khi thời điểm kết thúc

chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự là khi người phạm tội đã chấp hành hoặc thi

hành xong hình phạt hay thực hiện bất kỳ các biện pháp nào đó mà Nhà nước đã

áp dụng cho người phạm tội; hoặc tại thời điểm người phạm tội đã chết. Chẳng

hạn, tội trộm cắp tài sản thì trong quan hệ pháp luật hình sự khi phát sinh, có

hành vi lét lút trộm tài cắp tài sản xảy ra trong thực tế và cho đến khi thời điểm

kết thúc chấm dứt quan hệ pháp luật hình sự là khi người phạm tội đã chấp hành

hoặc thi hành xong hình phạt hay thực hiện các biệp pháp khác do Nhà nước áp

17

dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản.

Thứ tư, là một hoạt động ADPL phải được tuân thủ nghiêm ngặt được tiến

hành theo những hình thức và được quy định chặt chẽ bởi pháp luật Tố tụng hình

sự. Hơn nữa, điều này có nghĩa là trong việc áp dụng PLHS về tội trộm cắp tài

sản không thể tiến hành một cách tùy tiện, cầu thả mà phải được diễn ra trên cơ

sở căn cứ pháp luật một cách khoa học, trong những điều kiện và theo những

trình tự thủ tục do pháp luật quy định nhất định, rõ ràng nhất đó là thủ tục tố tụng

hình sự (BLTTHS 2015).

Thứ năm, áp dụng PLHS là một hoạt động đòi hỏi tính sáng tạo trong

phạm vi quy định của pháp luật. Tính sáng tạo của các chủ thể trong quá trình áp

dụng đối với việc ADPLHS mang tính khái quát cao còn thực tế thì phong phú

và đa dạng, từ đó cho nên khi chuyển hóa áp dụng những quy định pháp luật vào

đời sống, đòi hỏi các chủ thể ADPL phải sáng tạo (theo khuôn khổ của pháp luật

cho phép) và phải vận dụng các quy phạm pháp luật để điều chỉnh các quan hệ

xã hội phát sinh. Vì vậy, khi người áp dụng PLHS phải có những kiến thức, thực

tiễn, kinh nghiệm, trách nhiệm cao để từ đó có thể áp dụng vận dụng đúng những

quy định của pháp luật tương ứng trong việc để định tội danh và áp dụng TNHS

đối với từng loại tội phạm cụ thể.

Thứ sáu, Chủ thể áp dụng pháp luật hình sự tội trộm cắp tài sản, theo quy

định của pháp luật tố tụng hình sự hình sự, thì mỗi cơ quan chức năng có thẩm

quyền được tiến hành các hoat động nhất định. Đối với tội trộm cắp tài sản thì

chủ thể tiến hành tố tụng bao gồm: Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án

nhân dân. trong đó mỗi cơ quan đều có chức năng và vai trò độc lập trong quá

trình xử lý vụ án từ giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Do đó các cơ quan này là

chủ thể áp dụng pháp luật hình sự, được thực hiện chức năng của mình từ khi

khởi tố vụ án đến khi ban hành bản án có hiệu lực pháp luật.

1.3. Nội dung của áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài

sản

1.3.1. Định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản

18

1.3.1.1. Khái niệm, đặc điểm định tội danh tội trộm cắp tài sản

- Khái niệm định tội danh tội trộm cắp tài sản

Định tội danh có thể được hiểu là hoạt động thực tiễn ADPLHS và

BLTTHS do các cơ quan tiến hành tố tụng từ điều tra, viện kiểm sát, tòa án và

một số cơ quan chức năng có thẩm quyền khác theo quy định của pháp luật dựa

trên cơ sở các chứng cứ, tài liệu thu thập được và những tình tiết thực tế diễn

biến cũng như hiện trường của vụ án nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi

thực tế đã thực hiện với các cấu thành tội phạm cụ thể được quy định trong Bộ

luật hình sự, để từ đó xác định một người có phạm tội hay không, và phạm tội

theo điều luật nào của Bộ luật hình sự. Như chúng ta đã biết, hiện nay trong khoa

học hình sự Việt Nam có rất nhiều cách hiểu khác nhau xung quanh khái niệm

định tội danh, cụ thể là:

Quan điểm GS.TSKH. Lê Cảm cho rằng:“Định tội danh là một quá trình

nhận thức lý luận có tính lôgic, là dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp

luật hình sự cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành trên cơ sở các

chứng cứ tài liệu thu thập được và các tính tiết thực tế của vụ án hình sự để xác

định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi tương ứng do luật hình sự quy

định nhằm đạt được sự thật khách quan, tức đưa ra sự đánh giá chính xác tội

phạm về mặt pháp lý hình sự, làm tiền đề cho việc cá thể hóa và phân tích trách

nhiệm hình sự một cách công minh, có căn cứ và đúng pháp luật” [5].

Theo GS.TS. Võ Khánh Vinh “Định tội danh là việc xác định và ghi nhận

về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ

thể đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định trong

quy phạm pháp luật hình sự” [49, tr.9-10].

Bên cạnh đó TS. Dương Tuyết Miên: “Định tội danh là hoạt độngcủa cơ

quan tiến hành tố tụng (Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án) và một số cơ

quan khác có thẩm quyền theo quy định của pháp luật để xác định một người có

phạm tội hay không, nếu phạm tội thì đó là tội gì, theo điều luật nào của BLHS

hay nói cách khác đây là quá trình xác định tên tội cho hành vi nguy hiểm đã

19

thực hiện” [19]. Theo Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017)

quy định về tội phạm có tên tội danh là “Tội trộm cắp tài sản”, từ kết quả trên tác

giả đồng tình trên khái niệm định tội danh mà GS.TS. Võ Khánh Vinh, sau đây

xin nêu rõ khái niệm định tội danh tội trộm cắp tài sản như sau:

“Định tội danh tội trộm cắp tài sản là việc xác định và ghi nhận về mặt

pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu của hành vi phạm tội cụ thể đã

được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành tội phạm được quy định tại Điều 173

BLHS”.

- Đặc điểm của việc định tội danh tội trộm cắp tài sản

Định tội danh của tội trộm cắp tài sản là một trường hợp định tội danh cụ

thể, vì vậy nó có đặc điểm của định tội danh [49, tr.10].

Một là, định tội danh tội trộm cắp tài sản là một quá trình khoa học theo

nguyên tắc lôgic nhất định, hơn nữa đây là hoạt động xác nhận một quan hệ pháp

luật xảy ra trong thực tế và ghi nhận sự phù hợp của từng trường hợp phạm tội cụ

thể với các dấu hiệu của cấu thành tội trộm cắp tài sản được quy định tại Điều

173 Bộ luật hình sự.

Hai là, định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản là hoạt động của các cơ

quan tiến hành tố tụng đánh giá nhất định về mặt pháp lý trên cơ sở quy định tại

Điều 173 HLHS đối với hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản nguy hiểm cho xã hội.

1.3.1.2. Các trường hợp của việc định tội danh tội trộm cắp tài sản

Tương ứng với các cơ sở căn cứ của việc phân loại khác nhau, do đó việc

định tội danh tội trộm cắp tài sản được phân chia thành các trường hợp cụ thể:

Đầu tiên, căn cứ vào những yếu tố cấu thành tội phạm căn bản được quy

định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017),

định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản được phân chia trên cơ sở bốn yếu tố

cấu thành tội phạm: khách thể, mặt khách quan, chủ thể và mặt chủ quan.

Yếu tố thứ nhất là, định tội danh tội trộm cắp tài sản theo khách thể của

tội phạm là định tội danh theo các quan hệ sở hữu tài sản mà hành vi lén lút

chiếm đoạt tài sản xâm hại.

20

Yếu tố thứ hai là, định tội danh tội trộm cắp tài sản theo mặt khách quan

của tội phạm là định tội danh theo những dấu hiệu hành vi khách quan, hậu quả,

mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả cụ thể được quy định ở Điều 173

BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Yếu tố thứ ba là, định tội danh tội trộm cắp tài sản theo chủ thể của tội

phạm là định tội danh theo dấu hiệu chủ thể thường ở tội trộm cắp tài sản.

Yếu tố thứ tư là, định tội danh tội trộm cắp tài sản theo mặt chủ quan của

tội phạm là định tội danh theo dấu hiệu do lỗi cố ý trực tiếp, gián tiếp hoặc lỗi vô

ý của tội trộm cắp tài sản hoặc trong những trường hợp sai lầm.

Tiếp theo, căn cứ vào mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và vai trò

của nó đối với việc áp dụng pháp luật hình sự, cấu thành tội trộm cắp tài sản,

định tội danh tội trộm cắp tài sản được phân loại chia thành định tội danh tội

trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm cơ bản cụ thể đa số được quy định ở

Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và định

tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng được quy định tại

Khoản 2, 3, 4 Điều 173 BLHS năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

Cuối cùng, tùy vào căn cứ tính chất đặc biệt của tội phạm, thực ra việc

định tội danh tội trộm cắp tài sản được phân loại chia thành định danh đối với tội

trộm cắp tài sản trong ba trường hợp cụ thể: trường hợp hành vi phạm tội chưa

hoàn thành, trường hợp đồng phạm và trường hợp có nhiều tội phạm.

Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đồng phạm là định tội

danh trong trường hợp phạm tội từ hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội

phạm, cụ thể trong đó là tội trộm cắp tài sản.

Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp có nhiều tội phạm là

trường hợp định tội danh trong trường hợp người phạm tội có nhiều hành vi

phạm tội và trong đó có hành vi trộm cắp tài sản. Định tội danh tội trộm cắp tài

sản đối với trường hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành là định tội danh trong

trường hợp chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản và phạm tội chưa đạt trộm cắp tài

sản. Tuy nhiên, theo Điều 14 Bộ luật hình sự 2015 về chuẩn bị phạm tội thì

21

chuẩn bị phạm tội trộm cắp tài sản không phải chịu TNHS. Như vậy, định tội

danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp hành vi phạm tội chưa hoàn thành thì

chỉ có trường hợp hành vi phạm tội chưa đạt theo Điều 15 BLHS.

1.3.1.3. Ý nghĩa của việc định tội danh trộm cắp tài sản

- Đối với hoạt động định tội danh đúng

Việc định tội danh đúng cũng sẽ là yếu tố quan trọng tiền đề cho việc

phân hóa trách nhiệm hình sự cụ thể và cá thể hóa hình phạt một cách khách

quan công minh, có cơ sở pháp lý căn cứ và đúng pháp luật.

Định tội danh đúng cũng là một trong những cơ sở để áp dụng một cách

chính xác các quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự về việc áp dụng biện pháp

khẩn cấp tạm thời (từ tạm giam, thời hạn tạm giam), cho đến khởi tố vụ án hình

sự… bằng những cách đó, định tội danh đúng sẽ góp phần đắc lực vào trong việc

bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.

Định tội danh đúng sẽ góp phần bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá

nhân, tổ chức và được loại trừ trong việc kết án không có căn cứ cho những hành

vi không gây nguy hiểm đáng kể cho xã hội, không trái quy định pháp luật, tạo

tiền đề pháp lý cho việc quyết định hình phạt công bằng đối với người phạm tội.

Định tội danh đúng là sự thể hiện hoạt động có hiệu quả của cơ quan chức

năng tiến hành tố tụng, sự nhận thức và ý thức tuân thủ pháp luật một cách triệt

để, ý thức trách nhiệm trong hoạt động nghề nghiệp của các cơ quan chức năng.

- Đối với hoạt động định tội danh sai

Định tội danh sai chắc chắn sẽ dẫn đến hàng loạt các hệ quả tiêu cực: bỏ

lọt tội phạm, truy cứu trách nhiệm hình sự người không phạm tội, không đảm

bảo sự minh bạch khách quan. Thời gian qua, khi theo dõi thông tin từ thực tiễn

những vụ oan, sai chủ yếu bởi nguyên do từ việc đánh giá các tài liệu chứng cứ

thiếu thận trọng, chưa toàn diện, nóng vội khởi tố vụ án, suy diễn mang tính chủ

quan theo định kiến có tội.

Định tội danh sai sẽ dẫn đến tình trạng không thuyết phục được người

phạm tội về tính đúng đắn và nghiêm minh của bản án, nhiều trường hợp làm cho

22

dư luận chú ý và tranh luận theo nhiều chiều khác nhau, làm giảm hiệu quả giáo

dục của bản án đối với người dân trong xã hội và đồng thời làm giảm uy tín và

hiệu lực của các cơ quan bảo vệ pháp luật, làm giảm hiệu quả của cuộc đấu tranh

phòng và chống và xử lý các loại tội phạm.

1.3.2. Quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

1.3.2.1. Khái niệm quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Quyết định hình phạt (QĐHP) là một trong những khái niệm cơ bản quan

trọng của Luật hình sự Việt Nam, xác định hành vi nào là nguy hiểm cho xã hội,

xâm phạm tới khách thể được pháp luật hình sự bảo vệ, từ đó đưa ra các biện

pháp cưỡng chế phù hợp nhất đối với người phạm tội. Do đó, có thể khẳng định

QĐHP là cầu nối, là một mắt xích quan trọng giữa tội phạm và hình phạt. Vì vậy,

QĐHP là giai đoạn của ADPLHS được Tòa án thực hiện ngay sau việc định tội,

định khung hình phạt.

Hiện nay pháp luật hình sự Việt Nam chưa có một văn bản chính thức cụ

thể để định nghĩa về khái niệm QĐHP, nên khái niệm này chỉ được nghiên cứu

dưới độ là một khái niệm khoa học luật hình sự mà chưa được quy định trong hệ

thống văn bản pháp lý hình sự có tính chất chính thống. Theo PGS.TS. Lê Văn

Đệ thì: "Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình

phạt cụ thể trong phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội cụ thể"

[11, tr.161]. Dưới góc độ của luật tố tụng hình sự, TS. Chu Thị Trang Vân đưa ra

khái niệm như sau:"Quyết định hình phạt là một giai đoạn rất quan trọng trong

hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt và

mức hình phạt cụ thể được quy định trong luật hình sự tương ứng với cấu thành

tội phạm cụ thể để áp dụng với người phạm tội, thể hiện trong bản án buộc tội"

[46, tr.55]. Vì vậy, khái niệm quyết định hình phạt trên có thể được nghiên cứu

từ hai góc độ khác nhau, từ góc độ luật hình sự và từ góc độ luật tố tụng hình sự.

Từ góc độ luật hình sự có thể định nghĩa quyết định hình phạt như sau:

“Quyết định hình phạt là sự lựa chọn loại hình phạt và xác định mức hình

phạt (đối với loại hình phạt có các mức độ khác nhau) trong phạm vi luật định

23

để áp dụng đối với chủ thể chịu TNHS”.

Quyết định hình phạt đối với chủ thể chịu TNHS là sự lựa chọn một trong

số của các hình phạt chính và xác định mức hình phạt đối với loại hình phạt có

mức độ khác nhau trong khung hình phạt được quy định trong luật. Trong khi đó,

nếu chế tài được quy định chỉ có một loại hình phạt chính và có các mức độ khác

nhau thì lúc đó quyết định hình phạt đối với trường hợp này là xác định mức

hình phạt trong phạm vi khung hình phạt được quy định.

Quyết định hình phạt bổ sung có nội dung giống như hình phạt chính thì

đó là việc vận dụng loại hình phạt bổ sung có thể là một hoặc một số loại nếu

luật quy định cho phép áp dụng nhiều loại hình phạt bổ sung và xác định mức

hình phạt trong khung quy định để áp dụng cùng với hình phạt chính.

Do vậy, quyết định hình phạt bao gồm như quyết định hình phạt chính và

quyết định hình phạt bổ sung. Quyết định hình phạt theo nghĩa này được xem coi

như là theo nghĩa hẹp.

Quyết định hình phạt cũng có thể được hiểu theo như các nghĩa rộng khác

nhau sau: Quyết định hình phạt là quyết định hình phạt chính, quyết định hình

phạt bổ sung và quyết định biện pháp tư pháp.

Từ các khái niệm quyết định hình phạt có thể được hiểu theo nhiều nghĩa,

thế nhưng quyết định hình phạt theo nghĩa hẹp vẫn được chiếm đa số các tác giả

ghi nhận trong các tài liệu sách, báo pháp lý.

Tóm lại dựa trên cơ sở đó, có thể đưa ra khái niệm về quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản như sau: “Quyết định hình phạt đối với tội trộm

cắp tài sản là việc Tòa án lựa chọn loại hình phạt với mức hình phạt cụ thể trong

phạm vi luật định để áp dụng đối với người phạm tội trộm cắp tài sản”.

1.3.2.2. Căn cứ quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Theo quy định tại Điều 50 BLHS căn cứ quyết định hình phạt đối với

người phạm tội như sau: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định

củaBộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi

phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS”.

24

Theo các nội dung đã phân tích, căn cứ để quyết định hình phạt đối với tội

trộmcắp tài sản bao gồm:

Thứ nhất, căn cứ vào các quy định của BLHS sau đây

Các quy định có trong Phần chung BLHS: quy định về cơ sở của TNHS

(tại Khoản 1 Điều 2 BLHS); quy định về nguyên tắc xử lý đối với người phạm

tội (tại Khoản 1 Điều 3 BLHS); các quy định về hình phạt (từ Điều 30 đến Điều

45 BLHS); các quy định về biện pháp tư pháp (từ Điều 46 đến Điều 49 BLH);

các quy định về căn cứ của quyết định hình phạt (Điều 50 BLHS), về các tình tiết

giảm nhẹ TNHS (Điều 51 BLHS), các tình tiết tăng nặng TNHS (Điều 52

BLHS), về tái phạm, tái phạm nguy hiểm (Điều 53 BLHS); các quy định về

quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể (từ Điều 54 đến Điều 59

BLHS).

Các quy định có trong Phần chương các tội phạm BLHS: cụ thể đó là các

quy định về khung hình phạt chính cũng như hình phạt bổ sung của tội trộm cắp

tài sản được quy định ở Điều 173 BLHS.

Thứ hai, tùy căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của

hành vi phạm tội

Tính nguy hiểm cho xã hội của tội phạm là một trong những thuộc tính

quan trọng và là yếu tố bắt buộc của tội phạm thể hiện cụ thể ở việc gây thiệt hại

hoặc tạo ra những nguy cơ gây thiệt hại cho các quan hệ xã hội là đối tượng được

bảo vệ theo pháp luật hình sự. Do đó, các khung hình phạt được xây dựng bởi

chủ yếu dựa trên tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của từng tội phạm cụ

thể.

Tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội đối với tội trộm cắp tài sản

phụ thuộc vào những yếu tố sau: tính chất của hành vi phạm tội như thủ đoạn,

công cụ, phương tiện, hình thức thực hiện; tính chất nguy hiểm cho xã hội của

hành vi trộm cắp tài sản đã thực hiện và mức độ của hậu quả do tội trộm cắp tài

sản gây ra; ngoài ra mức độ lỗi như tính chất của động cơ, quyết tâm phạm tội,

nguyên nhân và điều kiện phạm tội; hoàn cảnh phạm tội như khó khăn hoàn cảnh

25

kinh tế, chính trị, xã hội của địa điểm và thời gian xảy ra hành vi phạm tội;

những tình tiết và nhân thân có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi

phạm tội.

Thứ ba, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội trộm cắp tài sản

Đây là nguyên tắc cụ thể thể hiện cá thể hoá hình phạt trong luật hình Việt

Nam. Thế nhưng nguyên tắc này biểu hiện tính nhân đạo, công bằng và cá thể

hoá được thể hiện rõ trong quy định luật hình sự Việt Nam, đồng thời được thực

tiễn khẳng định, có ý nghĩa to lớn trong giáo dục, phòng ngừa tội phạm.

Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản là tổng hợp những đặc điểm

riêng của người phạm tội như: phạm tội lần đầu hay là có tiền án, tiền sự, phạm

tội mang tính chất chuyên nghiệp hay không; là người đủ 18 tuổi hay chưa đủ 18

tuổi; có thái độ ăn năn hối cải hay tự thú (đầu thú) không; là người có hoàn cảnh

khó khăn đặc biệt hay không… Nhân thân người phạm tội trộm cắp tài sản được

coi là căn cứ để quyết định hình phạt nhằm đạt được mục đích trừng trị và giáo

dục người phạm tội.

Thứ tư, căn cứ vào các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Pháp luật hình sự nước ta luôn coi các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách

nhiệm hình sự là căn cứ quyết định hình phạt độc lập để quyết định hình phạt.

Các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được xác định quy định tại

Điều 51 và Điều 52 của BLHS là có tính chất chung và chỉ được áp dụng đối với

tội phạm cụ thể khi tình tiết đó chưa được quy định là dấu hiệu phạm tội, hoặc là

tình tiết định khung.

1.3.2.3. Ý nghĩa quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Quyết định hình phạt là một trong những giai đoạn tố tụng quan trọng

trong quá trình xử lý vụ án, một nội dung quan trọng của quá trình áp dụng luật

hình sự. Hiến pháp năm 2013 và BLHS năm 1999 (và sau đó được thay thề bằng

BLHS năm 2015) đều quy định chỉ có Tòa án mới có quyền quyết định hình

phạt. Quyết định hình phạt luôn đóng vai trò vô cùng to lớn, bởi vì suy cho cùng,

các hoạt động của các cơ quan tiến hành tố tụng hình sự trước đó (từ khi khởi tố,

26

điều tra, truy tố, kể cả trong việc tranh tụng tại phiên tòa) sẽ không có nhiều ý

nghĩa nếu Tòa án không thực hiện làm tốt việc quyết định hình phạt. Quyết định

hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục

đích hình phạt (cho việc cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa

riêng). Do đó, quyết định hình phạt đúng: là cơ sở pháp lý để đạt được mục đích

của hình phạt; là cơ sở pháp lý đảm bảo và nâng cao hiệu quả của hình phạt; là

điều kiện bảo đảm tính thực thi của hệ thống hình phạt, góp phần bảo đảm tính

pháp chế xã hội chủ nghĩa.

Tóm lại: quyết định hình phạt nói chung và quyết định hình phạt về tội

trộm cắp tài sản nói riêng, từ đó đóng vai trò hết sức quan trọng về mặt chính trị

- xã hội trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm. Đồng thời, quyết định

hình phạt đúng pháp luật, công bằng và hợp lý là tiền đề, điều kiện để đạt mục

đích hình phạt (cho việc cải tạo, giáo dục, phòng ngừa chung và phòng ngừa

riêng). Nếu hình phạt quá nặng sẽ tạo tâm lý không công bằng, không thuyết

phục, không hợp lý cho ở người bị kết án dẫn đến thái độ tiêu cực, luôn không

tin tưởng vào pháp luật, không chịu tích cực lao động cải tạo để trở thành người

có ích cho xã hội khi tái hòa nhập cộng đồng. Hình phạt có đạt được mục đích

hay không và đến một mức độ nào đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sau:

xây dựng pháp luật hình sự, chấp hành hình phạt, ý thức pháp luật… cho nên yếu

tố quyết định hình phạt giữ vai trò hết sức quan trọng vì chỉ dựa trên cơ sở nhận

thức và vận dụng đúng đắn các quy định pháp luật cho từng trường hợp phạm tội

cụ thể thì Toà án mới có thể cho ra đời một bản án tuyên hình phạt đúng đắn và

có hiệu quả.

27

Tiểu kết Chương 1

Từ những kết quả trên cơ cở lý luận nghiên cứu các văn bản pháp luật

trong phạm vi Chương 1 của Luận văn này, tác giả đã làm rõ các khái niệm, đặc

điểm của ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản, ADPLHS là một dạng của

ADPL nói chung được hiểu là một hoạt động thực tiễn pháp lý, là quá trình nhằm

cá biệt hóa những quy phạm PLHS vào các trường hợp cụ thểđối với người đã

thực hiện hành vi mà nhà nước coi là tội phạm, mang tính tổ chức - quyền lực

nhà nước và được thực hiện theo một trình tự đặc biệt do pháp luật do pháp luật

TTHS quy định.

Bên cạnh đó, đưa ra được nội dung của ADPL các khái niệm, đặc điểm, ý

nghĩa của định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản, song song với định tội danh

tội trộm cắp tài sản đưa ra được các căn cứ quyết hình hình phạt tương ứng với

định tội danh tội trộm cắp tài sản, hơn nữa làm rõ những dấu hiệu pháp lý cấu

thành tội trộm cắp tài sản.

Qua đó, cũng tìm hiểu thêm về phân biệt các dấu hiệu đặc trưng của tội

trộm cắp tài sản với một số tội có dấu hiệu gần tương đồng, để từ đó có cái nhìn

toàn diện hơn về ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản. Đồng thời, trên cơ sở lý

luận về mặt pháp lý ở Chương 1 là cơ sở để tác giả tiếp cận nghiên cứu thực

trạng áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10,

thành phố Hồ Chí Minh.

28

Chương 2

THỰC TRẠNG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ

ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP TÀI SẢN

TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

2.1. Khái quát tình hình xét xử áp dụng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Với đặc điểm vị trí địa lý là cửa ngỏ tiếp giáp nhiều địa bàn, tạo điều kiện

thuận lợi cho việc kinh doanh thương mại, những thành tựu đã đạt được thì mặt

trái của nền kinh tế thị trường sự gia tăng dân số nhanh với tỉ lệ dân nhập cư

ngày càng lớn gây khó khăn trong công tác quản lý con người và quản lý xã hội

đã làm cho tình hình tội phạm trên địa bàn Quận 10 diễn biến hết sức phức tạp,

trong đó có tội trộm cắp tài sản.

Trong 05 năm giai đoạn 2015- 2019, Tòa án nhân dân Quận 10 đã xét xử

rất nhiều vụ trộm cắp tài sản với nhiều bị cáo. Theo số liệu thống kê của Tòa án

nhân dân Quận 10, từ các năm 2015 đến năm 2019 cho chúng ta nhận biết thấy

một bức tranh tổng thể về tình hình tội trộm cắp tài sản trong những năm gần

đây.

Bảng 2.1. Diễn biến tình hình tội trộm cắp tài sản so với các tội xâm

phạm sở hữu trên địa bàn Quận 10 từ năm 2015 đến 2019

Năm Xâm phạm sở hữu Trộm cắp tài sản Tỷ lệ %

(C)/(A)

(D)/(B)

Số vụ (A) Số bị cáo (B) Số vụ (C) Số bị cáo (D)

68 52,21 48.22 141 59 113 2015

63 58,24 55,26 114 53 91 2017

43 56,45 53,75 80 35 62 2017

30 45,45 38,96 77 25 55 2018

35 48,27 44,87 78 28 58 2019

Cộng

490 379 200 239 52,77 48,77

(Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 10)

29

Bảng 2.2. Số lượng, số vụ và bị cáo phạm tội trong nhóm tội xâm phạm

sở hữu đã được TAND Quận 10 xét xử, giai đoạn 2015 – 2019

STT Loại tội 2015 2016 2017 2018 2019 5 năm

phạm Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị Số Bị

59

68

53

63

35

43

25

30

28

35

vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo vụ cáo

200 239

Trộm cắp

1

tài sản

5

9

3

4

1

1

1

1

3

4

13

19

Cướp tài

2

sản

40

50

32

44

17

24

26

38

25

27

140 193

Cướp giật

3

tài sản

7

8

2

2

7

10

1

1

1

1

18

22

Lừa đảo

4

chiếm

đoạt tài

sản

2

6

1

1

2

2

2

7

1

1

8

17

Lạm dụng

5

tín nhiệm

chiếm

đoạt tài

sản

25

89

48

94

69

108

43

70

37

70

222 431

Các tội

6

phạm

khác

138 230 139 208 131 188

98

147

95

148 601 921

Cộng

(Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 10)

30

Bảng 2.3. Tỷ lệ % các tội phạm trong nhóm tội xâm phạm sở hữu trên

địa bàn Quận 10, giai đoạn 2015 – 2019

Loại

2015

2016

2017

2018

2019

5 năm

S

tội

Số

Bị

Số

Bị

Số

Bị

Số

Bị

Số

Bị

Số

Bị

T

phạm

vụ

cáo

vụ

cáo

vụ

cáo

vụ

cáo

vụ

cáo

vụ

cáo

T

42,7

29,5

38,1

30,2

26,7

22,8

25,5

20,4

29,4

23,6

33,2

25,9

1 Trộm

cắp tài

5%

6%

2%

8%

1%

7%

1%

0%

7%

4%

7%

5%

sản

3,62

3,91

2,15

1,92

0,76

0,53

1,02

0,68

3,15

2,70

2,16

2,06

2 Cướp

tài sản

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

28,9

21,7

23,0

21,1

12,9

12,7

26,5

25,8

26,3

25,0

23,2

20,9

3 Cướp

giật

8%

3%

2%

5%

7%

6%

3%

5%

1%

0%

9%

5%

tài sản

Lừa

5,07

3,47

1,43

0,96

5,34

5,31

1,02

0,68

1,05

0.67

2,99

2,38

4

đảo

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

chiếm

đoạt

tài sản

1,44

2,60

0,71

0,48

1,52

1,06

2,04

4,76

1,05

0,67

1,33 1,84

5 Lạm

dụng

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

%

tín

nhiệm

chiếm

đoạt

tài sản

Các

18,1

38,6

34,5

45,1

52,6

57,4

43,8

47,6

38,9

47,2

36,9

46,7

6

tội

1%

9%

3%

9%

7%

4%

7%

1%

4%

9%

3%

9%

phạm

khác

(Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 10)

31

Bảng 2.4. Thống kê mức hình phạt mà TAND Quận 10 đã xét xử về tội

trộm cắp tài sản, giai đoạn 2015 – 2019

Năm Đã xét xử Mức hình phạt

Số vụ Bị cáo Đến 3 năm Trên 3 năm Trên 7 năm

Đến 7 năm

59 68 6 62 0 2015

53 63 5 58 0 2016

35 43 0 43 0 2017

25 30 2 28 0 2018

28 35 3 32 0 2019

Cộng 200 239 0 223 16

Tỷ lệ % 100 100 0 93,30 6,70

(Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 10)

Đối chiếu qua các số liệu thống kê trên cho thấy, giai đoạn từ năm 2015

đến năm 2019 Tòa án nhân dân Quận 10 đã xét xử tổng cộng 601 vụ án hình sự

với 921 bị cáo. Đối với nhóm tội xâm phạm sở hữu xét xử 379 vụ với 490 bị cáo

(chiếm tỷ lệ 52,77% vụ án và 48,77% bị cáo). Tuy nhiên trong đó, tội trộm cắp

tài sản xét xử 200 vụ với 239 bị cáo (chiếm tỷ lệ 33,27% vụ án và 25,95% bị

cáo); tội cướp tài sản xét xử 13 vụ với 19 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2.16% vụ án và

2,06% bị cáo); tội cướp giật tài sản xét xử 140 vụ với 193 bị cáo (chiếm tỷ lệ

23,29% vụ án và 20,95% bị cáo); tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản xét xử 18 vụ với

22 bị cáo (chiếm tỷ lệ 2,99% vụ án và 2,38% bị cáo); tội lạm dụng tín nhiệm

chiếm đoạt tài sản xét xử 08 vụ với 17 bị cáo (chiếm tỷ lệ 1,33% vụ án và 1,84%

bị cáo); các tội phạm khác xét xử 222 vụ với 431 bị cáo (chiếm tỷ lệ 36,93 % vụ

án và 46,79% bị cáo).

Cụ thể số lượng án hình sự Tòa án nhân dân quận 10 xét xử về tội trộm

cắp tài sản hàng năm như sau: Năm 2015 xét xử 59 vụ với 68 bị cáo; Năm 2016

xét xử 53 vụ/ 63 bị cáo; Năm 2017 xét xử 35 vụ/ 43 bị cáo; Năm 2018 xét xử 25

32

vụ /38 bị cáo; Năm 2019 xét xử 28 vụ/35 bị cáo. Từ những kết quả cập nhật số

liệu trên cho thấy, trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 số lượng các vụ án

Tòa án nhân dân Quận 10 xét xử về tội trộm cắp tài sản tăng giảm không đều qua

các năm nhưng có xu hướng tăng: Năm 2015 tăng, từ năm 2016 đến năm 2018

có sự giảm nhẹ, thế nhưng đến năm 2019 có chiều hướng gia tăng.

Từ những kết quả phân tích các bảng cập nhật số liệu thống kê có thể

nhận thấy trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì các tội xâm phạm

sở hữu chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm các tội phạm, đặc biệt riêng tội trộm cắp

tài sản chiếm tỷ lệ cao nhất trong nhóm các tội xâm phạm sở hữu. Từ kết quả cập

nhật thống kê trên đã thể hiện trong thời gian qua công tác đấu tranh phòng

chống loại tội phạm này đã phát huy hiệu quả đáng ghi nhận, tuy nhiên bên cạnh

đó yêu cầu thực tiễn đòi hỏi cần nâng cao hơn nữa vai trò của các cơ quan chức

năng mà đặc biệt là công tác xét xử của ngành tóa án nhân dân. Xuất phát từ yêu

cầu đó, việc nâng cao hiệu lực hiện quả của nhiệm vụ đề ra trog việc ban hành và

áp dụng các quy định về tội trộm cắp tài sản là hoạt động cần thiết và có ý nghĩa

thực tiễn đóng vai trò quan trọng và là khâu tất yếu trong công tác đấu tranh

phòng chống tội phạm nói chung và tội trộm cắp tài sản nói riêng tại địa bàn

Quận 10.

2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong định tội danh đối với

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh

Đề tài Luận văn này tác giả đã thực hiện trong giai đoạn năm 2015 - 2019

cho nên việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản dựa trên căn

cứ cơ sở pháp lý của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm

2009, gọi tắt là BLHS 1999) và Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung

năm 2017, có hiệu lực ngày 01/01/2018, gọi tắt là BLHS 2015).

2.2.1. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội

phạm cơ bản

Từ thực tiễn kết quả công tác xét xử cấp sơ thẩm tại TAND Quận 10 về

tội trộm cắp tài sản, thì việc định tội danh ở khung cấu thành cơ bản (Khoản 1

33

Điều 173 BLHS 2015) chiếm đa số trong các vụ án trộm cắp, trong 5 năm có

223/239 bị cáo, chiếm 93,30%.

Cấu thành tội phạm cơ bản là loại cấu thành tội phạm chỉ có dấu hiệu định

tội, đó là dấu hiệu mô tả tội phạm và là cơ sở pháp lý cho việc định tội danh và

phân biệt giữa tội này với tội khác, cấu thành tội phạm cơ bản chiếm đa số được

thể hiện ở khoản 1 của phần các tội phạm cụ thể.

Theo đó tại Khoản 1 Điều 173 BLHS quy định cấu thành cơ bản của tội

trộm cắp tài sản (trước đây là Khoản 1 Điều 138 BLHS. Thực tiễn định tội danh

tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh trong năm

năm qua cho thấy toà án đã định tội danh đúng theo các dấu hiệu của yếu tố cấu

thành tội phạm, điều này cho thấy, tình hình trộm cắp trên đìa bàn Quận 10 diễn

ra ngày càng phức tạp, với quy mô khác nhau, dưới nhiều hình thức đa dạng,

thông qua việc nghiên cứu các bản án về tội trộm cắp tài sản cụ thể như sau:

Bản án số 163/2017/HS-ST ngày 06/12/2017 của TAND Quận 10.

Khoảng 09 giờ 00 ngày 13/9/2017, Nguyễn Minh T và Võ Tất N là nhân

viên Công ty Nguyễn Hoàng Phát, đến nhà chị Tạ Thị Phương M - Địa chỉ Cách

Mạng Tháng Tám, P.13, Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh để sửa máy lạnh. Đến

khoảng 11 giờ 00 cùng ngày, bị cáo T vào phòng chị M để rút dây điện và dọn

dẹp đồ thì thấy không có người trong phòng; T liền nảy sinh ý định trộm cắp tài

sản để lấy tiền tiêu xài. T đến bàn trang điểm của chị M kéo hộc bàn ra và lén lút

lấy chiếc đồng hồ Tissot 1853 rồi bỏ vào túi quần phía trước bên phải. Sau đó, T

mang chiếc đồng hồ đi cất giấu tại dãy hoa kiểng phía sau bệnh viện Nhi Đồng

trên Đường 3/2, P.10, Quận 10. Đến khoảng 14 giờ 00 cùng ngày, chị M về nhà

thì phát hiện bị mất tài sản trên; chị M liền đến Công an Phường 13, Quận 10

trình báo sự việc; Công an P.13, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến

cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 chiếc đồng hồ Tissot 1853, qua định giá là

13.000.000 đồng. Tân đã khai ra nơi cất giấu tài sản, nên Cơ quan Công an đã

thu hồi lại tài sản và giao trả cho bị hại. Bị hại không yêu cầu bồi thường.

34

Đối với vụ án này, toà án đã xác định định tội danh tội trộm cắp tài sản

theo khách thể của tội phạm - động cơ, mục đích thể hiện nhằm chiếm đoạt tài

sản lấy tài trên. Cụ thể, vụ án này là hành vi lén lút, bí mật chiếm đoạt của T

bằng cách xâm phạm sở hữu 01 chiếc đồng hồ Tissot 1853 của M thuộc trường

hợp cấu thành tội phạm cơ bản của tội trộm cắp tài sản theo Khoản 1 Điều 138

Bộ luật hình sự năm 1999. Do đó, Hội đồng xét xử TAND Quận 10, Thành phố

Hồ Chí Minh đã định tội danh đúng của tội trộm cắp tài sản được quy định tại

Khoản 1 Điều 138 của Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm

2009).

Bản án số 12/2019/HS-ST ngày 01/03/2019 của TAND Quận 10.

Khoảng 01 giờ 00 ngày 21/02/2018, Hà Minh H điều khiển xe môtô

(không có đăng ký biển số) đến công trình xây dựng tại số V. đường Hùng

Vương, Phường 4, Quận 10 với ý định chiếm đoạt tài sản. Do công trình không

có người trông coi, Hùng đã dùng công cụ vật nhọn và kiềm bẻ khóa cửa đột

nhập vào bên trong lén lút lấy các tài sản gồm: 42,4 kg sắt xây dựng; 01 kìm cắt

sắt dài 80cm; 02 chân chống tăng dài 2m (kèm theo 02 chân kích); 01 bàn uốn

sắt 0,4m x 1,5m; 02 càng cua bẻ sắt dài 1,6m (loại phi 32); 02 càng cua bẻ sắt

dài 0,8m (loại phi 20); 01 cây xà beng dài 1,6m (loại phi 25); 01 cây xà beng dài

0,6m (loại phi 16); 02 tấm tôn lót đổ bê tông (kích thước 1m x 1m). Sau đó, Hùng

chở số tài sản chiếm đoạt được đến cửa hàng mua bán phế liệu của bà Trương

Ngọc D. – địa chỉ: 147/4 đường T, Phường 5, Quận 10 để bán; trong lúc Hùng

đang giao dịch với anh Trần Thanh Tùng (là con trai bà Dung) thì lực lượng

Công an Phường 5 Quận 10 tuần tra phát hiện có biểu hiện nghi vấn nên tiến

hành kiểm tra, làm rõ. Công an Phường 5 Quận 10 bàn giao Công an Phường 4,

Quận 10 lập hồ sơ theo thẩm quyền, sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều

tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản chiếm đoạt là: 42,4kg sắt xây dựng; 01 kìm cắt sắt dài 80cm; 02

chân chống tăng dài 2m (kèm theo 02 chân kích); 01 bàn uốn sắt 0,4m x 1,5m;

02 càng cua bẻ sắt dài 1,6m (loại phi 32); 02 càng cua bẻ sắt dài 0,8m (loại phi

35

20); 01 cây xà beng dài 1,6m (loại phi 25); 01 cây xà beng dài 0,6m (loại phi

16); 02 tấm tôn lót đổ bê tông (kích thước 1m x 1m). Tại Kết luận định giá tài

sản số 227/KL-ĐGTS ngày 30/3/2018 và số 1032/KL-ĐGTS ngày 05/12/2018

của Hội đồng định giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân

dân Quận 10 kết luận: tổng giá trị các tài sản nêu trên có giá 2.522.000 đồng.

Như vậy, dựa trên nội dung của vu ̣án, Tòa án nhân dân Quận 10, thành

phố Hồ Chí Minh đã định tội danh đúng đối với hành vi của Hà Minh H trên cơ

sở các dấu hiêụ đã đáp ứng đầy đủ bốn yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản của tội

Trộm cắp tài sản như sau:

Về khách thể: Hành vi đột nhập vào công trình xây dựng của anh Hà

Thượng Quốc của Hà Minh Hùng đã xâm phạm trực tiếp đến quan hê ̣sở hữu về

tài sản của anh Quốc, làm mất khả năng quản lý, sử dụng và định đoạt số lượng

phế liêụ mà anh Quốc bi trộm cắp.

Về chủ thể: Hà Minh Hùng là người đã thành niên, đạt độ tuổi nhất định

phải chiụ TNHS, có khả năng nhận thức và điều khiển hành trôṃ cắp tài sản của

mình là nguy hiểm cho xã hội xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của anh Quốc

nhưng vẫn cố ý chiếm bằng được số phế liệu của anh Quốc.

Về mặt khách quan: Hà Minh Hùng lợi dụng công trình xây dựng không

có người trông coi, đã có hành vi đột nhập dùng công cụ vật nhọn và kiềm bẻ

khóa vào công trình xây dựng của anh Quốc để lấy tài sản. Hành vi của Hà Minh

Hùng được xem là biểu hiện lén lút với mục đích chiếm đoạt tài sản đã cấu thành

tội trộm cắp tài sản, căn cứ tại Điều 173 BLHS 2015. Hậu quả do hành vi lén lút

lấy số phế liệu theo kết luận định giá tài sản số 227/KL-ĐGTS ngày 30/3/2018

và số 1032/KL-ĐGTS ngày 05/12/2018 của Hội đồng định giá thường xuyên tài

sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết luận tổng giá trị các tài

sản mà Hà Minh Hùng chiếm đoạt có giá 2.522.000 đồng.

Căn cứ vào tri ̣giá tài sản mà Hà Minh Hùng đã trộm cắp trong vụ án trên,

đây là hậu quả được mô tả trong cấu thành tội phạm của tội “Trộm cắp tài sản”

quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017).

36

2.2.2. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội

phạm tăng nặng

So sánh đối chiếu tổng hợp từ những kết quả công tác xét xử cấp sơ thẩm

tại TAND Quận 10 về tội trộm cắp tài sản, thì việc định tội danh ở khung cấu

thành tăng nặng (từ Khoản 2 trở lên) chiếm tỷ lệ thấp trong các vụ án, trong 5

năm có 16/239 bị cáo, chiếm 6,70%.

Cấu thành tội phạm tăng nặng là loại cấu thành tội phạm ngoài các dấu

hiệu định tội còn có thêm các dấu hiệu phản ánh tội phạm có mức độ nguy hiểm

cho xã hội tăng lên một cách đáng kể (được gọi là các dấu hiệu định khung tăng

nặng), các dấu hiệu định khung nặng được quy định tại Khoản 1, 2, 3 của phần

các tội phạm cụ thể. Theo đó, tại Khoản 2, 3, 4 Điều 173 BLHS là hoạt động

định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng.

Sau khi nghiên cứu các bản án đã được TAND Quận 10 xét xử về tội trộm

cắp tài sản, qua đó cho thấy tòa án đã nhận định đúng theo các điều khoản được

quy định trong trong Bộ luật hình sự của tội trộm cắp tài sản. Điều đó, được thể

hiện một cách cụ thể thông qua rất nhiều các vụ án về tội trộm cắp tài sản,mà cụ

thể 02 bản án sau:

Bản án số: 20/2019/HS-ST ngày 17/4/201 của TAND Quận 10.

Thông qua mạng xã hội, Nguyễn Văn C làm quen với các bị hại (người

đồng tính), sau đó dùng thủ đoạn mời đi khách sạn với mục đích quan hệ đồng

tính, sau khi gặp các bị hại tại các phòng khách sạn, lợi dụng sự sơ hở của bị hại

trong việc quản lý tài sản, C đã lén lút thực hiện nhiều hành vi chiếm đoạt tài

sản của các bị hại, cụ thể là 3 vụ sau:

- Vụ thứ nhất: Khoảng 19 giờ 00 ngày 30/03/2018, anh Lê Thanh T1 lên

mạng xã hội Grindr giành cho người đồng tính làm quen và kết bạn với Nguyễn

Văn C (tên gọi khác Nguyễn Văn Khương). C rủ anh T đến phòng 106 khách sạn

“Hoàng Châu” – địa chỉ: 289 đường Th, Phường 14, Quận 10. Đến 23 giờ 40

cùng ngày, anh T điều khiển xe môtô hiệu Honda Airblade biển số 59L2-179.57

đến khách sạn “Hoàng Châu”, gửi xe cho nhân viên bảo vệ (anh T lấy chìa khóa

37

và thẻ xe) rồi lên phòng 106 ở và tâm sự với C. Lúc này, lợi dụng lúc anh T đi

tắm, C lén lấy chìa khóa xe và thẻ gửi xe của anh T. Khoảng 15 giờ ngày

31/3/2018, C nói với anh T là đi ra ngoài mua đồ. Đến 17 giờ 00 cùng ngày, anh

T không thấy C quay lại và không liên lạc được với C nên xuống bãi xe kiểm tra

thì phát hiện mất xe. Anh T xem lại camera an ninh của khách sạn thì biết C lấy

xe của mình nên đến Công an Phường 13, Quận 10 trình báo. Công an Phường

13, Quận 10 lập hồ sơ ban đầu, sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra

Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 397/KL-ĐGTS ngày 01/06/2018 của Hội

đồng định giá kết luận xe môtô hiệu Honda Airblade biển số 59L2-179.57 trị giá

23.000.000 đồng.

- Vụ thứ hai: Khoảng tháng 04/2018, anh Phan Vương L có quen Nguyễn

Văn C (tự xưng tên Khương) thông qua mạng xã hội. Khoảng 10 giờ 20 ngày

13/05/2018, C nhắn tin rủ anh L đến khách sạn “Ngọc Hương” – địa chỉ: A22

đường S, Phường S, Quận O để quan hệ tình dục đồng giới. Anh L đồng ý và

điều khiển xe môtô Honda Airblade biển số 83P3-455.24 đến khách sạn “Ngọc

Hương” thuê phòng số 101. Một lúc sau, C đến phòng số 101 gặp anh L. Tại

đây, C đưa 200.000 đồng bảo anh L đi mua bao caosu và thức ăn. Anh L lấy xe

môtô biển số 83P3-455.24 đi mua đồ. Đến khoảng 12 giờ 00, anh L quay về

khách sạn. Lúc này, C bảo anh L đi tắm trước. Trong khi anh L tắm, C lấy chìa

khóa và thẻ xe và xuống lễ tân lấy xe môtô hiệu Honda Airblade biển số 83P3-

455.24 bỏ đi. Sau tắm xong, không thấy C nên anh L xuống hỏi chị Nguyễn Thị

Trà M (là lễ tân) thì biết C đã lấy xe. Anh L đến Công an Phường 15, Quận 10

trình báo sự việc. Công an Phường 15, Quận 10 lập hồ sơ chuyển đến Cơ quan

Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 426/KL-ĐGTS ngày 11/06/2018 của Hội

đồng định giá kết luận chiếc xe môtô hiệu Honda Airblade biển số 83P3-455.24

trị giá 38.000.000 đồng.

- Vụ thứ ba: Thông qua mạng xã hội Grindr, khoảng 3 giờ ngày

38

21/5/2018, anh Lê Thanh T1 làm quen với Nguyễn Văn C (tự xưng Lý Minh

Hậu). C cho biết C đang ở phòng 206 khách sạn “ Minh Minh Tâm” – địa chỉ:

707-709 đường P, Phường D, Quận O, cần tìm bạn tâm sự và quan hệ tình dục

đồng giới. Khoảng 04 giờ 30 cùng ngày, anh T1 điều khiển xe môtô hiệu Nouvo

biển số 94D1-106.39 chạy đến khách sạn “ Minh Minh Tâm” gặp C. Lợi dụng

lúc anh T1 đi tắm, C lén lấy chìa khóa xe của anh T1. Khoảng 7 giờ 40 cùng

ngày, C nói đi ra ngoài và mua đồ. Sau đó, không thấy C quay lại nên anh T1

xuống lễ tân hỏi thì phát hiện bị mất xe. Anh T1 đến Công an Phường 12, Quận

10 trình báo sự việc. Công an Phường 12, Quận 10 lập hồ sơ chuyển đến cơ

quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tại Kết luận định giá tài sản số 499/KL-ĐGTS ngày 29/06/2018 của Hội

đồng định giá kết luận chiếc xe môtô hiệu Nouvo biển số 94D1-106.39 trị giá

12.000.000 đồng.

Từ nội dung bản án trên, Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí

Minh đã vận dụng quy định pháp luật trên cơ sở các căn cứ sau đây để làm cơ sở

để định khung hình phạt:

Thứ nhất, TAND Quận 10 đã định tội danh tội trộm cắp tài sản do bị cáo

đã có nhiều hành vi lén lút chiếm đoạt tài sản chủ yếu dựa vào tổng tài sản chiếm

đoạt 73.000.000 đồng làm cơ sở “Hội đồng xét xử có đủ cơ sởkết luận bị cáo

Nguyễn Văn C đã phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Tội phạm và hình phạt thuộc

trường hợp được quy định ở điểm c Khoản 2 Điều 173 của BLHS 2015.

Thứ hai, TAND Quận 10 định tội danh tội trộm cắp tài sản căn cứ vào các

tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng.

Hành vi đó là nguy hiểm cho xã hội, không những xâm hại đến quyền sở

hữu tài sản của người khác mà còn xâm phạm đến trật tự an toàn xã hội; ngoài ra

bản thân bị cáo có đặc điểm nhân thân: ngày 11/4/2013 bị Tòa án nhân dân Quận

3 xử phạt 10 tháng tù về tội “Trộm cắp tài sản” (đã được xóa án tích), ngày

23/10/2018 bị Ủy ban nhân dân Phường 14, quận Tân Bình ra quyết định đưa

người nghiện ma túy vào trung tâm tiếp nhận đối tượng xã hội Nhị Xuân để quản

39

lý cắt cơn, giải độc, tư vấn tâm lý trong thời gian làm thủ tục áp dụng biện pháp

xử lý hành chính đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Do vậy dù có chiếu cố đến

đâu đi nữa, thì hành vi phạm tội của bị cáo cần phải bị xử phạt nghiêm minh

bằng luật hình với mức hình phạt tương xứng với nhân thân, tính chất, mức độ

hành vi phạm tội của bị cáo, cụ thể cần thiết phải cách ly bị cáo ra ngoài xã hội

một thời gian nhất định để cải tạo giáo dục bị cáo thành người tốt cho xã hội,

đồng thời cũng để răn đe, giáo dục đối với những người thực hiện hành vi tương

tự, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng chống tệ nạn tại địa phương; Bị cáo bị áp

dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự “Phạm tội từ 02 lần trở lên” (03

lần) theo quy định tại điểm g Khoản 1 Điều 52 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được

sửa đổi bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, ăn

năn hối cải, đã tác động gia đình bồi thường cho các bị hại; vậy Hội đồng xét xử

áp dụng điểm s, b Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ

sung năm 2017) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

Bản án số 24/2018/HS-ST ngày 04/4/2018 của TAND Quận 10.

Khoảng 11 giờ 30 ngày 09/12/2017, Lê Thanh T đi đến Công ty máy tính

“Sao Việt” – địa chỉ: 212 đường Nguyễn Tiểu La, Phường 8, Quận 10, Thành

phố Hồ Chí Minh thì thấy nhà chỉ có khéo cửa cắt lại và không có người trông

coi, do không có tiền tiêu xài, nên T nảy sinh ý định đột nhập vào nhà trên tìm tài

sản để lấy trộm; T vào nhà thì nhìn thấy chiếc túi xách màu đen của bà Tô Khiết

C để trên kệ sau bàn làm việc; T liền lén lút lấy chiếc túi xách rồi bỏ đi (hành vi

trên đã bị camera ghi hình); khi đến hẻm 479 đường Nguyễn Tri Phương,

Phường 8, Quận 10, T mở túi xách ra thấy có 26.200.000 đồng và 65 thẻ cào

Mobiphone và Vinaphone (loại giá 100.000 đồng), T lấy số tài sản trên, còn

chiếc túi xách vứt lại hẻm; sau đó T đến tiệm vàng “Trọng Nghĩa” tại chợ

Phường 2, Quận 10 mua 01 sợi dây chuyền với giá 4.360.000 đồng và 01 nhẫn

vàng với giá 4.450.000 đồng; đối với tiền mặt, T tiêu xài và trả nợ hết

13.690.000 đồng, còn lại cất giữ 3.700.000 đồng, đối với thẻ cào thì T đã xài 11

thẻ còn lại 54 thẻ thì cất giữ tại nhà.

40

Về phía bà Tô Khiết C, sau khi phát hiện bị mất tài sản đã đến Công an

Phường 8 Quận 10 trình bào sự việc. Đến ngày 10/12/2017, Lê Thanh T bị bắt

giữ và sau đó quyết định khởi tố và điều tra đối với Lê Thanh T về hành vi

“Trộm cắp tài sản”.

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 chiếc túi xách, bên trong có 26.200.000 đồng

và 65 thẻ cào Mobiphone và Vinaphone (loại giá 100.000 đồng); đã thu hồi 01

sợi dây chuyền với giá 4.360.000 đồng và 01 nhẫn vàng với giá 4.450.000 đồng,

3.700.000 đồng, 54 thẻ cào, đã trả lại cho bị hại và bị hại đồng ý nhận với giá trị

tương đương trên; như vậy còn lại 13.690.000 đồng và 11 thẻ cào (mệnh giá

100.000 đồng), không thu hồi lại được; bà C yêu cầu bồi thường số tiền

14.790.000 đồng.

Tại bản cáo trạng số 18/CT-VKS ngày 05 tháng 3 năm 2018 của Viện

kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã truy tố: Lê Thanh T về

tội: “Trộm cắp tài sản” theo điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm

2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017).

Đối với vụ án này, ngoài các dấu hiệu định tội trong cấu thành tội phạm

của tội trộm cắp tài sản, bị cáo Lê Thanh T đã thưc ̣ hiêṇ hành vi trôṃ cắp tài sản

theo cấu thành tội phạm tăng nặng: Bị cáo đã có hành vi lén lút chiếm đoạt tài

sản của người khác, trị giá: 26.200.000 đồng + (65 thẻ cào x 100.000 đồng) =

32.500.000 đồng; ngoài ra bản thân bị cáo có quá trình nhân thân xấu, cụ thể:

ngày 24/12/2009 bị Chủ tịch Ủy ban nhân dân Quận 10 Thành phố Hồ Chí Minh

quyết định đưa vào cơ sở chữa bệnh với thời hạn 24 tháng về hành vi “Sử dụng

chất ma túy” (đã hết thời hiệu tính tiền sự), ngày 25/4/2013 bị Tòa án nhân dân

Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh xử phạt 01 năm 06 tháng tù về tội “Cướp giật

tài sản”; ngày 18/9/2015 bị Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

xử phạt 02 năm tù về tội “Trộm cắp tài sản”, như vậy bị cáo đã bị kết án thuộc

trường hợp tái phạm, nhưng chưa được xóa án tích mà lại phạm tội do cố ý, nên

lần phạm tội này thuộc trường hợp tái phạm nguy hiểm theo quy định tại Khoản

2 Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017), xét thấy

41

tội danh “Trộm cắp tài sản” quy định tại Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015

(được sửa đổi, bổ sung năm 2017) có những quy định có lợi đối với bị cáo so với

quy định Điều 138 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi, bổ sung năm 2009)

và hành vi của bị cáo thực hiện trước 00 giờ 00 ngày 01/01/2018; do vậy căn cứ

vào Khoản 3 Điều 7 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm

2017), bị cáo bị truy tố và xét xử tương ứng theo điểm g Khoản 2 Điều 173 Bộ

luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017). Tuy nhiên, xét thấy bị

cáo thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, bị cáo đã tự nguyện giao nộp và khai ra

nơi cất giữ tài để cơ quan điều tra thu hồi trả cho bị hại làm giảm bớt tác hại của

tội phạm; vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, a Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình

sự năm 2015 giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo.

2.2.3. Thực tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đặc

biệt

Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong các trường hợp đặc biệt bao gồm

các trường hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp phạm tội chưa

đạt, trong trường hợp đồng phạm và trong trường hợp có nhiều tội phạm. Thực

tiễn định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đặc biệt cho thấy các tòa

án đa số đều thực hiện áp dụng đúng các quy định của BLHS về phạm tội chưa

đạt, đồng phạm và nhiều tội phạm. Được cụ thể minh họa ví dụ một số bản án

của TAND quận 10 về tội trộm cắp tài sản đối với trường hợp đặc biệt như sau:

- Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp phạm tội chưa đạt

Phạm tội chưa đạt theo khoa học pháp lý là trường hợp người phạm tội cố

ý thực hiện tội phạm nhưng không thực hiện được đến cùng vì những nguyên

nhân khách quan ngoài ý muốn của người phạm tội, người phạm tội chưa đạt vẫn

phải chịu TNHS về tội phạm chưa đạt được quy định tại Điều 15 BLHS 2015,

được thể hiện ở nội dung các bản án sau:

Bản án số: 07/2019/HS-ST ngày 15/02/2019 của TAND Quận 10.

Khoảng 00 giờ 30 ngày 15/01/2019, Trịnh Văn L cầm theo 01 túi màu đen

(bên trong có 04 đầu đoản, 01 khóa từ; 01 tuýp L, 01 con dao xếp có cán bằng

42

kim loại) đi bộ đến trước nhà 187 đường Ngô Quyền, Phường 6, Quận 10 (nơi có

chiếc xe hiệu Honda Airblade biển số 54U4-6861 của anh Phú Lâm Minh Q

đang đậu phía trước), L lén lút dùng đoản tự chế tra vào ổ khóa xe bẻ mạnh;

ngay lúc này, chị Phú Lâm Bích N (là em gái của anh Q) phát hiện tri hô, anh Q

đuổi theo; thấy vậy, L bỏ đoản xe còn gắn trên xe biển số 54U4-6861 và bỏ chạy

đến xe biển số 51H2-8095 do đối tượng tên B (không rõ lai lịch) cầm lái chạy

được khoảng 10 mét thì lực lượng tuần tra Công an Phường 6, Quận 10 đuổi

theo, đạp ngã xe bắt giữ L cùng phương tiện, riêng đối tượng tên B chạy thoát.

Tài sản bị chiếm đoạt là: chiếc xe mô tô hiệu Honda Airblade biển số 54U4-

6861 (do ông Phú Thông S là chủ sở hữu giao cho con là anh Phú Lâm Minh Q

sử dụng) và ổ khóa xe qua giám định đã bị hư hỏng; qua định giá là 21.000.000

đồng; đã thu hồi và giao trả cho bị hại; bị hại không có yêu cầu gì khác.

Tại Quyết định truy tố theo thủ tục rút gọn số 17/QĐ-VKS ngày 31 tháng

01 năm 2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành Phố Hồ Chí Minh đã

truy tố: Trịnh Văn L về tội: “Trộm cắp tài sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật

Hình sự năm 2015 (được sửa đổi, bổ sung năm 2017) và phạm tội thuộc trường

hợp chưa đạt. Đối với bản án trên, TAND Quận 10 đã áp dụng đúng các quy định

của pháp luật hình sự về định tội danh đối với tội trộm cắp tài sản thuộc trường

hợp phạm tội chưa đạt.

- Định tội danh tội trộm cắp tài sản đối với trường hợp đồng phạm

Đồng phạm là một khái niệm khoa học pháp lý về quy mô tội phạm, được

thể hiện trong một vụ án cụ thể hoặc nhiều vụ án có nhiều người cùng tham gia

hành vi phạm tội. Tuy nhiên, không phải có nhiều người tham gia thì là đồng

phạm mà nhiều người tham gia đó phải cố ý cùng thực hiện một tội phạm cụ thể

như:

Bản án số: 161/2017/HS-ST ngày 05/12/2017 của TAND Quận 10.

Khoảng 12 giờ 30 ngày 02/6/2017, Nguyễn Ngọc T gặp và rủ Nguyễn Đức

T1 đi trộm cắp tài sản bán lấy tiền tiêu xài, T1 đồng ý; T điều khiển xe mô tô

biển số 52L7-7913 chở T1 ngồi phía sau; khi đi đến trước nhà số 136 Nhật Tảo,

43

Phường 8, Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh thì T1 nhìn thấy chiếc xe ôtô hiệu

Ford Everest biển số 51A-857.72 của anh Nguyễn Huy Đ dừng tại lề đường

không có người trông coi; T1 liền báo T dừng xe cạnh phía bên trái xe ôtô, T1 đi

đến phía sau xe ô tô rồi dùng tay phải lấy chiếc nắp chụp bánh xe dự phòng; sau

đó, T1 lên xe để T điều khiển bỏ chạy; ngay lúc này, Tổ tuần tra Công an Quận

10 và quần chúng nhân dân phát hiện, bắt giữ T, T1 cùng vật chứng giải giao

đến Công an Phường 8, Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang và

hồ sơ ban đầu; sau đó chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10

điều tra làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 chiếc nắp chụp bánh xe dự phòng của chiếc

xe ôtô hiệu Ford Everest biển số 51A-857.72, qua định giá là 3.000.000 đồng;

qua xác minh chiếc xe trên là của Công ty TNHH CÔNG NGHỆ PHẨM THIÊN

N, giao cho anh Nguyễn Huy Đ quản lý và lái chiếc xe trên; tài sản bị chiếm

đoạt đã được thu hồi và giao trả lại cho người bị hại, phía người bị hại cũng

không có yêu cầu gì.

Tại bản án này, Tòa án dựa trên các căn cứ quy định của pháp luật hình sự

đã định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đồng phạm đối với các bị

cáo với nhận định trong bản án: “Bị cáo Nguyễn Ngọc T và Nguyễn Đức T1 đã

lợi dụng sự sơ hở của anh Nguyễn Huy Đ dừng tại lề đường không có người

trông coi, lén lút dùng tay phải lấy chiếc nắp chụp bánh xe dự phòng; Tài sản bị

chiếm đoạt là 01 chiếc nắp chụp bánh xe dự phòng của chiếc xe ôtô hiệu Ford

Everest biển số 51A-857.72 trị giá là 3.000.000 đồng là phạm tội trộm cắp tài sản

được quy định tại Khoản 1 Điều 138 BLHS 1999 (được sửa đổi bổ sung năm

2009). Hành vi lén lút được mô tả trong bản án nêu trên của các bị cáo Nguyễn

Ngọc T và Nguyễn Đức T1 đã xâm phạm đến tài sản người khác được pháp luật

thừa nhận và bảo vệ đồng thời còn gây ảnh hưởng xấu đến tình hình xã hội an

ninh trật tự chung trên địa bàn. Các bị cáo Nguyễn Ngọc T và Nguyễn Đức T1 là

người có đủ hành vi dân sự và năng lực pháp luật do đó phải chịu trách nhiệm

hình sự đối với hành vi và hậu quả đã thực hiện xuất phát từ động cơ muốn có

44

tiền tiêu sài tức thời mà không phải lao động tạo thu nhập chính đáng cho bản

thân, bên cạnh đó là lười lao động, tham lam mà lại muốn có nhiều tiền tiêu xài

và không có ý thức chấp hành pháp luật cũng như không tôn trọng quyền sở hữu

hợp pháp tài sản của người khác, nên các bị cáo Nguyễn Ngọc T và Nguyễn Đức

T1 trộm cắp tài sản của người khác như nội dung bản án đã ghi nhận. Đây là vụ

án có đồng phạm mang tính giản đơn, ban đầu bị cáo Nguyễn Ngọc T là người

khởi xướng rủ rê, xúi giục và trực tiếp chiếm đoạt tài sản. Còn bị cáo Nguyễn

Đức T1 là đồng phạm giữ vai trò giúp sức tích cực, tuy nhiên sau đó bị cáo

Nguyễn Đức T1 trực tiếp chiếm đoạt tài sản và thực hiện hành vi phạm tội.

- Định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp nhiều đồng phạm

Bản án số: 55/2019/HS-ST ngày 25/9/2019 của TAND Quận 10.

Khoảng 08 giờ 15 phút ngày 04/6/2019, Lê Mẫn Đ điều khiển xe môtô

hiệu Yamaha Novo biển số 52F4 - 3787 chở Nguyễn Thị Bích H và Phạm Bá V

lưu thông trên đường Thành Thái tìm người có tài sản để chiếm đoạt. Khi đến

trước nhà số 73 đường Thành Thái, Phường 14, Quận 10, Đ nhìn thấy chị

Nguyễn Thị Minh Nguyệt điều khiển xe môtô chở chị Đỗ Thị Gia T ngồi phía sau,

chị T có để điện thoại di động hiệu Samsung S6 Edge trong túi áo khoác bên

trái; Đ nói cho H và V biết; sau đó, Đ điều khiển xe áp sát bên trái xe môtô của

chị Nguyệt, còn H dùng tay phải lén lút móc điện thoại trong túi áo khoác của

chị T (V ngồi phía sau nhìn thấy toàn bộ hành vi của H), rồi đưa cho V giữ. Sau

khi lấy được điện thoại, Đ tăng ga xe chạy về hướng đường 3/2. Chị Nguyệt và

chị T phát hiện, liền truy đuổi. Khi đến trước nhà số 49 đường Thành Thái, V

cầm vứt chiếc điện thoại vừa chiếm đoạt được xuống đường. Đến trước số 494

đường 3/2, Phường 14, Quận 10, lực lượng công an và quần chúng bắt giữ được

H, Đ, V cùng vật chứng, phương tiện giao cho Công an Phường 14, Quận 10.

Công an Phường 14 Quận 10 lập biên bản bắt người phạm tội quả tang, sau đó

chuyển đến Cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều tra, làm rõ.

Tài sản bị chiếm đoạt là 01 điện thoại di động hiệu Samsung S6 Egde (Tại

Kết luận định giá tài sản số 396/KL-ĐGTS ngày 11/6/2019 của Hội đồng định

45

giá thường xuyên tài sản trong tố tụng hình sự - Ủy ban nhân dân Quận 10 kết

luận: 01 chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S6 Egde có trị giá là 2.000.000

đồng); đã được thu hồi và trao trả lại cho chị Đỗ Thị Gia T. Nhận lại tài sản, chị

T không có yêu cầu gì khác.

Theo nội dung của bản cáo trạng số 57/CT-VKS ngày 28 tháng 8 năm

2019 của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh đã tiến hành

truy tố bị can: Nguyễn Thị Bích H, Lê Mẫn Đ, Phạm Bá V về tội: “Trộm cắp tài

sản” theo Khoản 1 Điều 173 Bộ luật Hình sự năm 2015.

Tại bản án này, Tòa án dựa trên các quy định của pháp luật hình sự đã

định tội danh tội trộm cắp tài sản trong trường hợp đặc biệt có nhiều tội phạm đối

với các bị cáo: “Các bị cáo Lê Mẫn Đ, Nguyễn Thị Bích H và Phạm Bá V điều

khiển xe môtô hiệu Yamaha lưu thông trên đường Thành Thái tìm người có tài

sản để chiếm đoạt, nhìn thấy chị Nguyễn Thị Minh Nguyệt điều khiển xe môtô

chở chị Đỗ Thị Gia T ngồi phía sau, lợi dụng sơ hở của chị T có để điện thoại di

động hiệu Samsung S6 Edge trong túi áo khoác bên trái; Đ nói cho H và V biết;

sau đó, Đ điều khiển xe áp sát bên trái xe môtô của chị Nguyệt, còn H dùng tay

phải lén lút móc điện thoại trong túi áo khoác của chị T; Tài sản bị chiếm đoạt 01

chiếc điện thoại di động hiệu Samsung S6 Egde có trị giá là 2.000.000 đồnglà

phạm tội trộm cắp tài sản được quy định tại Khoản 1 Điều 173 BLHS 2015. Các

bị cáo Đ, H và V đã xâm phạm đến tài sản người khác được pháp luật thừa nhận

và bảo vệ, ngoài ra còn gây ảnh hưởng xấu đến sự bình yêu của xã hội và an ninh

trật tự chung tại địa phương.

Vụ án này do các bị cáo cùng nhau bàn bạc và thống nhất thực hiện trộm

cắp tài sản, tuy các bịcáocó Đ, H và V tuy có bàn bạc tính toán diễn ra nhau từ

trước, nhưng đến khi rủ nhau cùng đi thực hiện hành vi trộm cắp tài sản của

người khác chỉ là mang tính tức thời, bộc phát, do đó đây chỉ là vụ án đồng phạm

mang tính giản đơn, vai trò của từng bị cáo cũng không rõ ràng nên cần phân tích

làm rõ mức độ góp sức của từng bị cáo trong vụ án để áp dụng mức hình phạt

phù hợp trên cơ cơ quy định pháp luật hình sự hiện hành.

46

2.3. Thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc quyết định hình

phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Trong giai đoạn từ 2015 đến 2019, TAND Quận 10, Thành phố Hồ Chí

Minh đã đưa ra xét xử thẩm tổng 601 vụ án hình sự nói chung. Riêng nhóm án về

tội xâm phạm sở hữu là 379 vụ tỷ lệ 52,77%, Đặc biệt, trong đó tội trộm cắp tài

sản là 200 vụ chiếm tỷ lệ 33,27% so với nhóm tội xâm phạm sở hữu. Qua đối

chiếu số liệu thống kê trong bảng phân tích nêu trên,làm rõ số lượng án về tội

trộm cắp tài sản chiếm tỷ cao. Do đó, tội trộm cắp tài sản luôn được coi là loại

tội phạm gây ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, sự bình yêu của xã hội, làm cho

tâm lý người dân bất an lo lắng và đồng thời bên cạnh đó là nhiệm vụ đấu tranh

phòng chống loại tội phạm này phải được đặt lên hàng đầu trong công tác phòng

chống các loại tội phạm.

Tòa án nhân dân Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh đã xét xử và cũng ban

hành ra các bản án nghiêm minh đúng pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản trên

cơ sở các yếu tố cấu thành tội phạm cơ bản của tội trộm cắp tài sản, các yếu tố

cấu thành tăng nặng của tội trộm cắp tài sản và trong trường hợp phạm tội chưa

đạt, đồng phạm và nhiều tội phạm trên địa bàn Quận 10. Đối với các trường hợp

quyết định hình phạt của tội trộm cắp tài sản tương ứng cụ thể với các trường

hợp định tội danh tội trộm cắp tài sản.

2.3.1. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản theo cấu

thành tội phạm cơ bản.

Bản án số: 166/2017/HS-ST ngày 07/12/2017 của TAND Quận 10.

Khoảng 13 giờ 00 ngày 14/7/2017, Nguyễn Thanh P đi bộ đến trước cổng

Công an Quận 10 – địa chỉ: 47 đường Thành Thái, Phường 14, Quận 10, Thành

phố Hồ Chí Minh, thì nhìn thấy nhiều xe môtô dựng khu vực phía trước cổng nên

đến ngồi trên xe môtô hiệu Dream (không rõ biển số) và quan sát, P thấy bên

trái có chiếc xe môtô hiệu Nouvo màu xám bạc biển số 59Y1-125.25 của chị

Trần Thị Hồng M không có người trông coi; P liền bước xuống và lén lút đẩy

chiếc xe môtô biển số 59Y1- 125.25 lùi ra ngoài, dắt xe đến giao lộ đường Thành

47

Thái - đường 3/2; P đến tiệm sửa khóa (không rõ địa chỉ) nhờ làm 01 chìa khóa

xe; sau đó, P gửi xe tại bãi giữ xe số 160/27E Nguyễn Duy Dương, Phường3,

Quận 10 và giữ thẻ xe số 597.

Về phía chị My, sau khi phát hiện mất xe, chị Trần Thị Hồng M đến Công

an Phường 14, Quận 10 trình báo sự việc; Công an Phường 14, Quận 10 lập hồ

sơ ban đầu, sau đó chuyển đến cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 điều

tra, làm rõ. Ngày 15/7/2017, Nguyễn Thanh P đến Công an Phường 3, Quận 10

đầu thú. Ngày 16/7/2017, cơ quan Cảnh sát điều tra Công an Quận 10 đã quyết

định tạm giữ và quyết định khởi tố, điều tra đối với Nguyễn Thanh P về tội

“Trộm cắp tài sản”.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 chiếc xe Nouvo màu xám bạc biển số 59Y1-

125.25, qua xác minh người đứng tên giấy đăng ký xe là ông Đặng Hữu N, sau

đó giao cho bà Trần Thị Hồng M (vợ anh N) quản lý và sử dụng; qua định chiếc

xe trên trị giá 12.000.000 đồng; P đã khai ra nơi cất giấu tài sản, từ đó cơ quan

Công an đã thu hồi lại tài sản và giao trả cho người bị hại; người bị hại không

có yêu cầu gì.

Về căn cứ các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, Hội đồng

xét xử nhận định:“Tuy nhiên xét thấy bị cáo thành khẩn khai báo, tỏ ra ăn năn

hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, phạm tội nhưng

chưa gây thiệt hại, sau khi thực hiện hành vi phạm tội đã ra đầu thú; vậy Hội

đồng xét xử áp dụng điểm p, h, g Khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999

(được sửa đổi bổ sung năm 2009) giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo; đồng

thời miễn áp dụng hình bổ sung đối với bị cáo.

Đối với vụ án trên, quyết định hình phạt trong cấu thành tội phạm cơ bản

của tội trộm cắp tài sản nêu ở phần quyết định của bản án: “Tuyên bố: Bị cáo

Nguyễn Thanh P phạm tội: “Trộm cắp tài sản”. Áp dụng khoản 1 Điều 138;

điểm g, h, p Khoản 1, 2 Điều 46 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ

sung năm 2009) đối với bị cáo Nguyễn Thanh P. Xử phạt bị cáo Nguyễn Thanh P

01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính ngày 16/7/2017”.

48

2.3.2. Thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản theo cấu

thành tội phạm tăng nặng

Tòa án nhân dân Quận 10 thời gian gần đây qua kết quả xét xử từ các bản

ánthể hiện: Tòa án quyết định hình phạt trên cơ sở căn cứ vào các quy định

chung và các trường hợp cụ thể về quyết định hình phạt, được minh chứng bằng

bản án sau đây:

Bản án số 65/2019/HS-ST ngày 15/10/2019 của TAND Quận 10.

Ngày 19/4/2019, Đỗ Anh T cho Đào Quang H về phòng trọ của mình tại

lầu 1 nhà số 493A/17 Cách mạng Tháng 8, phường 13, quận 10 ngủ. Khoảng 03

giờ ngày 20/4 2019, thấy anh T ngủ say nên Hiếu nảy sinh ý định chiếm đoạt tài

sản. H lấy chìa khoá phòng và chìa khoá cổng bỏ vào túi quần, lấy 01 ba lô màu

xám của anh T, lấy 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max (có cả sạc pin và

tai nghe), 01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9 (có cả sạc pin và tai nghe),

01 đồng hồ hiệu Apple Watch Seri4, 01 bóp tiền (bên trong có 1.000 USD;

21.000.000 đồng; 01 CMND; 01 hộ chiếu) và 01 túi phụ kiện ở vị trí đầu nằm

của anh T cho vào ba lô. Sau đó, H mở cửa phòng đi xuống tầng trệt. Hiếu lấy

01 chìa khoá xe hiệu Piagio Vespa trong túi phụ kiện. Hiếu tiếp tục mở ổ khoá

cổng, rồi đẩy xe mô tô hiệu Piagio Vespa chưa có biểu số ra khỏi nhà rồi chạy về

hướng đường Cách mạng Tháng 8. Đến khoảng 05 giờ cùng ngày, anh Lê Văn V

(là quản lý nhà trọ) phát hiện thấy cửa mở, ổ khoá có gắn chìa khoá nằm trên

yên một xe máy nên báo cho anh T. Anh T kiểm tra, phát hiện tài sản bị mất nên

đến Công an phương 13, quận 10 trình báo. Công an phương 13, quận 10 lập hồ

sơ chuyển đến Cơ quan Cơ quan Cảnh sát điều Công an Quận 10 xử lý.

Tài sản bị chiếm đoạt là: 01 xe mô tô hiệu Piagio Vespa; 01 điện thoại di

động hiệu Iphone XS Max 256 Gb màu bạc (kèm phụ kiện là tai nghe, bộ sạc);

01 điện thoại di động hiệu Samsung Note 9, Ram 6Gb, 128Gb, màu đồng (có cả

sạc pin và tai nghe); 01 đồng hồ hiệu Apple Watch Seris 4 GPS, 40 mm Space

Grey Aluminium Case With Black Sport Band-CH (kèm 01 dây sạc); số tiền mặt

1.000USD và 21.000.000 đồng; 01 túi da màu màu nâu, 01 túi vải màu xám

49

(đựng phụ kiện) và các 01 ba lô màu xám, quai đeo màu xanh cùng các giấy tờ

tùy thân (01 CMND, 01 hộ chiếu mang tên Đỗ Thanh T).

Theo bản kết luận định giá tài sản số 596/KL-ĐGTS ngày 23/7/2019 của

Hội đồng định giá tố tụng kết luận: 01 xe mô tô hiệu Piagio Vespa có trị giá là

75.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu Iphone XS Max 256 Gb màu bạc (có

cả sạc pin và tai nghe) có trị giá là 22.000.000 đồng, 01 điện thoại di động hiệu

Samsung Note 9, Ram 6Gb, 128Gb, màu đồng (có cả sạc pin và tai nghe) có trị

giá là 11.000.000 đồng, 01 đồng hồ hiệu Apple Watch Seri 4 GPS, 40 mili Space

Grey Aluminium Case With Black Sport Band-CH số Seri SG99XR35YKDH0

(kèm 01 dây sạc) có trị giá là 7.200.000 đồng, số tiền mặt 1.000USD có trị giá

23.200.000 đồng. Tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt là 159.900.000 đồng.

Trong vụ án này, TAND Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh về vụ Nguyễn

Văn C phạm tội “Trộm cắp tài sản”, tương ứng với định tội danh tội trộm cắp tài

sản theo cấu thành tội phạm tăng nặng đối với hành vi của bị cáo Nguyễn Văn C

thì tòa án cũng quyết định hình phạt đối với bị cáo Nguyễn Văn C theo cấu thành

tội phạm tăng nặng của tội trộm cắp tài sản dựa vào tổng tài sản chiếm đoạt làm

sơ sở để định khung hình phạt “Tội trộm cắp tài sản” với nhận định: “Tổng giá

trị tài sản bị chiếm đoạt là 159.900.000 đồng”.

Vì vậy, định tội danh của Viện kiểm sát nhân dân Quận 10 truy tố bị cáo

về Tội trộm cắp tài sản theo điểm c Khoản 2, 5 Điều 173 BLHS 2015 là đúng

người, đúng tội và đúng pháp luật. Về căn cứ tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ

TNHS, Hội đồng xét xử nhận định: Tuy nhiên, xét thấy bị cáo thành khẩn khai

báo, tỏ ra ăn năn hối cải, đã khai nhận nơi cất giấu tài sản để thu hồi nhằm ngăn

chặn, giảm bớt tác hại của tội phạm: do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm s, a

Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017)

xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối với bị cáo và Tòa án đã quyết định:

Tuyên bố bị cáo Đào Quang Hiếu phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào điểm

c Khoản 2, 5 Điều 173; điểm a, s Khoản 1 Điều 51 BLHS 2015 đối với bị cáo

Đào Quang H. Xử phạt bị cáo H. 05 (năm) năm tù, tính từ ngày 04/5/2019.

50

2.3.3. Thực tiễn quyết định hình phạt trong trường hợp đặc biệt đối với tội

trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10

- Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp

dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản thể hiện ở Mục 2.2.2. Chương

2 của Luận văn này đối với 02 bản án sau:

Thứ nhất: Bản án số: 20/2019/HS-ST ngày 17/04/2019 của TAND Quận

10, Thành phố Hồ Chí Minh về vụ Nguyễn Văn C phạm tội trộm cắp tài sản nêu

trên, tòa án đã căn cứ áp dụng vào điểm c Khoản 2 Điều 173; điểm g Khoản 1

Điều 52; điểm b, s Khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ

sung năm 2017) để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt

được áp dụng của tội trộm cắp tài sản đối với bị cáo. Xử phạt bị cáo Nguyễn Văn

C 03 (ba) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 20/12/2018.

Thứ hai: Bản án số: 24/2018/HS-ST ngày 17/04/2018 của TAND Quận

10, Thành phố Hồ Chí Minh về vụ Lê Thanh T phạm tội trộm cắp tài sản nêu

trên, tòa án đã căn cứ áp dụng Khoản 3 Điều 7; điểm g Khoản 2 Điều 173; điểm

a, s khoản 1 Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm

2017) để quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp

dụng của tội trộm cắp tài sản đối với bị cáo. Xử phạt bị cáo Lê Thanh T 03 (ba)

năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 10/12/2017.

- Quyết định hình phạt đối với trường hợp phạm tội chưa đạt về tội trộm

cắp tài sản. Chẳng hạn như tại Bản án số: 07/2019/HS-ST ngày 15/02/2019 của

TAND Quận 10 trong phần định tội danh có nội dung đã nêu ở Mục 2.2.3 của

Luận văn này, TAND Quận 10 đã quyết định hình phạt trong trường hợp phạm

tội chưa đạt căn cứ vào các quy định tại Điều 15, 57 BLHS năm 2015 (được sửa

đổi bổ sung năm 2017) và Tòa án đã quyết định: Tuyên bố: bị cáo Trịnh Văn L

phạm tội “Trộm cắp tài sản” (Phạm tội chưa đạt). Áp dụng vào Khoản 1 Điều

173; điểm h, i, s Khoản 1 Điều 51; Khoản 1, 3 Điều 57 Bộ luật Hình sự năm

2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Trịnh Văn L. Xử phạt bị

cáo Trịnh Văn L 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 15/01/2019.

51

- Quyết định hình phạt đối với trường hợp đồng phạm về tội trộm cắp tài

sản. Chẳng hạn như tại Bản án số: 161/2017/HS-ST ngày 05/12/2017 của TAND

Quận 10 như đã nêu trong phần định tội danh ở Mục 2.2.3 Chương 2 của Luận

văn này, TAND Quận 10 đã quyết định hình phạt trong trường hợp phạm đồng

phạm tội đối với tội trộm cắp tài sản. Tuy nhiên xét thấy các bị cáo thành khẩn

khai báo, tỏ ra ăn năn hối cải, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại; vậy Hội đồng

xét xử áp dụng điểm p, g Khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa

đổi bổ sung năm 2009) tương ứng giảm nhẹ một phần hình phạt cho từng bị cáo;

đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo và Tòa án đã quyết

định: “Tuyên bố: Các bị cáo Nguyễn Ngọc T, Nguyễn Đức T1 phạm tội: “Trộm

cắp tài sản”; Áp dụng Khoản 1 Điều 138; điểm g, p Khoản 1 Điều 46; Điều 45;

Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) đối với bị

cáo Nguyễn Ngọc T; Xử phạt bị cáo Nguyễn Ngọc T1 01 (một) năm 06 (sáu)

tháng tù. Thời hạn tù tính ngày 02/6/2017. Áp dụng Khoản 1 Điều 138; điểm g, p

Khoản 1 Điều 46; Điều 45; Điều 53 Bộ luật Hình sự năm 1999 (được sửa đổi bổ

sung năm 2009) đối với bị cáo Nguyễn Đức T; Xử phạt bị cáo Nguyễn Đức T 01

(một) năm 03 (ba) tháng tù. Thời hạn tù tính ngày 02/6/2017”.

- Quyết định hình phạt đối với trường hợp nhiều tội phạm về tội trộm cắp

tài sản.Chẳng hạn như tại Bản án số: 55/2019/HS-ST ngày 15/02/2019 của

TAND Quận 10 trong phần định tội danh có nội dung đã nêu ở Mục 2.2.3 của

Luận văn này, TAND Quận 10 đã quyết định hình phạt trong trường hợp nhiều

tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản với các tình tiết giảm nhẹ: các bị cáo thành

khẩn khai báo, ăn năn hối cải, phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm

trọng, phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại, bị cáo Đ có hoàn cảnh đáng thương (có

02 con còn rất nhỏ và vợ đang mang thai); do vậy Hội đồng xét xử áp dụng điểm

s, h, i Khoản 1, 2 Điều 51 BLHS 2015 xem xét giảm nhẹ một phần hình phạt đối

với từng bị cáo; đồng thời miễn áp dụng hình phạt bổ sung đối với các bị cáo do

mới bị kết án lầu đầu. Do đó Tòa án đã Tuyên bố: “Các bị cáo Nguyễn Thị Bích

H, Lê Mẫn Đ, Phạm Bá V phạm tội “Trộm cắp tài sản”. Căn cứ vào Khoản 1

52

Điều 173; điểm s, h, i Khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm

2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Nguyễn Thị Bích H; Xử

phạt bị cáo Nguyễn Thị Bích H 09 (chín) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày

04/6/2019. Căn cứ vào khoản 1 Điều 173; điểm s, h, i Khoản 1, 2 Điều 51; Điều

50; Điều 58 BLHS 2015 đối với bị cáo Lê Mẫn Đ; Xử phạt bị cáo Lê Mẫn Đ 06

(sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2019. Căn cứ vào Khoản 1 Điều

173; điểm s, h, i Khoản 1 Điều 51; Điều 50; Điều 58 Bộ luật Hình sự năm 2015

(được sửa đổi bổ sung năm 2017) đối với bị cáo Phạm Bá V; Xử phạt bị cáo

Phạm Bá V 06 (sáu) tháng tù. Thời hạn tù tính từ ngày 04/6/2019”.

2.4. Những hạn chế, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân

Từ thực tiễn công tác xét xử sơ thẩm tại TAND Quận 10, và qua kết quả

xét xử phúc thẩm của TAND TP.HCM về tội trộm cắp tài sản đối với các bản án

của TAND Quận 10 giai đoạn năm 2015 – 2019, nhìn chung cơ bản cấp sơ thẩm

đã định tội danh đúng, thuyết phục; nhưng khi áp dụng hình phạt vẫn còn một số

vướng mắc, trong đó có nguyên nhân chủ quan và khách quan. Tuy nhiên cũng

nhìn nhận rằng tỷ lệ án hủy là không có, về số lượng án sửa chiếm tỷ lệ thấp so

với tổng số các vụ án đã được xét xử. Qua bản thống kê cập nhật dưới đây đã thể

hiện được số liệu và có thể phân tích đánh giá được nguyên nhân và tư đó đề

xuất giải pháp hoàn thiện việc áp dụng pháp luật.

Bảng 2.5.Thống kê số lượng án bị cấp phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái

thẩm hủy, sửa đối với tội trộm cắp tài sản.

Số vụ

Năm

Kháng cáo

Đình chỉ

TAND TP.HCM xét xử phúc thẩm Y án Hủy TAND Quận 10 xét xử sơ thẩm Kháng Số bị nghị cáo TAND cấp cao Tái thẩm

59 2015 53 2016 35 2017 25 2018 28 2019 Cộng 200 68 63 43 30 35 239 1 2 1 1 1 6 20 22 25 15 18 100

Sửa Giám đốc thẩm 0 0 0 0 0 0

20 18 16 11 9 74 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 0 2 3 1 1 2 9 (Nguồn: Tòa án nhân dân Quận 10)

53

Qua số liệu thống kê được cập nhật, nhận thấy kết quả xét xử cấp sơ

thẩm tại TAND Quận 10 đạt kết quả cao, đảm bảo đúng thời hạn tố tụng, đảm

bảo hình thức và trình tự thủ tục do luật định.

Trong thời hạn 5 năm 2015 – 2019 có 6 vụ án bị kháng nghị từ cơ quan

viện kiểm sát, nội dụng là đề nghị giảm nhẹ hình phạt mà cấp sơ thẩm đã tuyên;

có 100 vụ kháng cáo với nội dung chính là xin giảm nhẹ hình phạt tù giam, xin

hưởng án treo theo Điều 60 BLHS 1999, Điều 65 BLHS 2015; tất cả các bị cáo

đã bị tuyên phạt với hình phạt không tước quyền tự do đều đồng tình với mức

hình phạt và không kháng cáo.

Ngoài nội dung kháng cáo như trên, không có kháng cáo về các nội dung:

thủ tục tố tụng, giám định tuổi bị cáo, định giá lại giá trị tài sản, xin giảm mức

bồi thường thiệt hại, án phí…

Việc áp dụng hình phạt ở cấp xét xử sơ thẩm áp dụng chưa phù hợp các

điều, khoản của BLHS; áp dụng tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình

sự chưa phù hợp dẫn đến xử bị cáo quá nhẹ hoặc quá nặng, cho hưởng án treo,

xử dưới khung hình phạt không đúng quy định của pháp luật; chưa chú trọng

nhấn mạnh đến bồi thường thiệt hại đến tính chất và hậu quả mà hành vi của bị

cáo thực hiện đã gây ra cho xã hội; việc tịch thu tài sản, xử lý vật chứng hoặc

tiền đã tham gia vào việc phạm tội hoặc do phạm tội mà có chưa đúng các quy

định của pháp luật; Do vậy, trong việc áp dụng BLDS để làm căn cứ xác định

bồi thường thiệt hại đối với người bị hại chưa chính xác hoặc chưa giải quyết

triệt để; việc ra lệnh tạm giữ và tạm giam đối với các bị cáo khi nhận hồ sơ của

VKSND còn có nhiều sai phạm thiếu sót; việc trả hồ sơ điều tra bổ sung cho

VKSND không có cơ sở căn cứ để vụ án bị kéo dài quá quy định; thường cấp

phúc thẩm sửa án của cấp sơ thẩm không có cơ sở hoặc căn cứ chưa phù hợp.

Có những phiên toà mà việc xét hỏi và tranh luận cho thấy nội dung đối

đáp giữa đại diện VKSND với luật sư chưa phản ánh đầy đủ so với yêu cầu tranh

tụng tại phiên toà, nhiều trường hợp đại diện VKSND không đối đáp hết các

quan điểm của luật sư tranh tụng theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

54

02/06/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới chưa tốt: xét hỏi còn phiến diện, không đầy đủ dẫn đến việc ra

bản án quyết định hình phạt không đúng quy định của pháp luật.

Những hạn chế trong hoạt động giải quyết án hình sự là quyết định hình

phạt quá nhẹ, áp dụng (Điều 31, Điều 60 của BLHS 1999) (Điều 36, Điều 65 của

BLHS 2015) để cho cải tạo không giam giữ, hưởng án treo không đúng. Ngược

lại, trong đó có không ít trường hợp quyết định hình phạt quá nặng, áp dụng

chưa đúng các điều khoản của Bộ luật hình sự hiện hành, cũng có trường hợp áp

dụng không đúng quy định về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS; đánh giá

chứng cứ, xử lý vật chứng, xác định tiền án, tiền sự, phân hoá vai trò trong đồng

phạm, cá thể hoá hình phạt, trả hồ sơ điều tra bổ sung không căn cứ chính xác;

coi nhẹ phần giải quyết dân sự trong vụ án hình sự.

Thể hiện qua 02 vụ án mà cấp phúc thẩm đã sửa bản án sơ thẩm như sau:

Vụ án 1: Bị cáo Nguyễn Minh T trộm cắp tài sản, đã bị TAND Quận 10

xét xử sơ thẩm tại bản án hình sự sơ thẩm số 163/2017/HSST ngày 06/12/2017

tuyên phạt 01 năm 03 tháng tù, sau đó bị cáo đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình

phạt.

Bản án hình sự phúc thẩm số 63/2018/HS-ST ngày 07/02/2018 của Tòa

án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh nhận thấy Tòa án cấp sơ thẩm đã cân nhắc

toàn diện hồ sơ vụ án, cân nhắc tính chất mức độ phạm tội của bị cáo cũng như

các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như thành khẩn khai báo, ăn năn hối

cải; phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; phạm tội gây thiệt hại

không lớn; gia đình có hoàn cảnh khó khăn và bản thân từng có thời gian cống

hiến trong quân đội, tuy nhiên mức án mà Toà án sơ thẩm áp dụng đối với bị cáo

là có phần nghiêm khắc, nên Hội đồng xét xử chấp nhận kháng cáo của bị cáo,

giảm cho bị cáo một phần hình phạt.

Tòa án thành phố Hồ Chí Minh xét xử phúc thẩm đã tuyên “Chấp nhận

kháng cáo của bị cáo Nguyễn Minh T và sửa bản án sơ thẩm.Xử phạt bị cáo

Nguyễn Minh T 01 (một) năm tù. Thời hạn tù tính từ ngày 03/10/2017”.

55

Như vậy TA cấp phúc thẩm đã nhận định đầy đủ, khách quan, toàn diện

tính chất, mức độ phạm tội hành vi của bị cáo T cùng với những tình tiết mà bị

cáo được giảm nhẹ và chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà Nước đối với bị

cáo, tuyên giảm nhẹ một phần hình phạt cho bị cáo là phù hợp với quy định hiện

hành, có tình có lý, thuyết phục cao so với bản án sơ thẩm.

Vụ án 2, Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 65/2019/HS-ST ngày 15/10/2019

của TAND Quận 10 đã tuyên phạt bị Đào Trung Hiếu cáo 5 năm tù về tội trộm

cắp tài sản, sau đó bị cáo đã kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt.

TAND TP.HCM đã xét xử phúc thẩm tại Bản án số 42/2020/HS-PT ngày

15/01/2020 đã đánh giá và nhận định: “Mức án 5 năm mà cấp sơ thẩm đã tuyên

đối với bị cáo Hiếu là có phần nghiêm khắc, hiện bị cáo là lao động chính trong

gia đính, nuôi cha mẹ mất sức lao động và 02 con nhỏ đang đi học, gia đình có

công cách mạng được tặng Huân, Huy chương kháng chiến, do đó nghĩ nên chấp

nhận kháng cáo của bị cáo, sửa bản án sơ thẩm giảm nhẹ một phần mức hình

phạt cho bị cáo cũng đủ tác dụng giáo dục, răn đe và phòng ngừa chung”. Do đó

TA cấp phúc thẩm đã chấp nhận kháng cáo tuyên phạt bị cáo 03 năm 06 tháng tù.

TA cấp xét xử phúc thẩm đã đánh giá xem xét toàn diện hoàn cảnh gia

đình, điều kiện cuộc sống của cha mẹ và con bị cáo hiện gặp khó khăn, nên đã

khoan hồng giảm nhẹ một phần hình phạt để bị cáo sớm trở về hòa nhập xã hội,

lao động nuôi gia đình, phụng dưỡng báo hiếu cha mẹ.

Bản án phúc thẩm hoàn toàn phù hợp với pháp luật, đã vận dụng tối đa

các tình tiết giảm nhẹ và sự khoan hồng giúp cho bị cáo cảm thấy thuyết phục,

nhận thức được tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa mà Đảng và Nhà nước dành cho

bị cáo, từ đó quyết tâm cải tạo tốt hơn; việc giảm nhẹ hình phạt giúp bị cáo

không cảm thấy tâm lý bị trừng trị mà sinh ra oán hận, ngược lại việc giảm mức

hình phạt chắc chắc sẽ làm cho bị cáo quyết tâm cải tạo tốt hơn và sớm trở thành

người có ích cho xã hội.

Từ những kết quả xét xử và ADPLHS đối với tội tội trộm cắp tài sản tại

địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2015 - 2019 có những hạn chế

56

nhất định vướng mắc từ nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau:

Các khó khăn vướng mắc trong thực tiễn định tội danh trộm cắp tài sản.

Thứ nhất, về các dấu hiệu định tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính

của người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng”

trong trường hợp trộm cắp tài sản dưới 2 triệu đồng.

Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) đã quy

định đối với một số trường hợp trường hợp trộm cắp tài sản dưới 2 triệu đồng,

thế nhưng có thêm các dấu hiệu “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của

người bị hại và gia đình họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng”. Cho

nên việc quy định dấu hiệu này làm dấu hiệu định tội có thể dẫn đến tùy tiện khi

áp dụng, đây là khoản mở đồng thời cũng là khoản hở của pháp luật, với quy

phạm tùy nghi này dễ phát sinh tiêu cực trong thực tế áp dụng pháp luật khi xét

xử, bởi vì trong trường hợp này hành vi trộm cắp tài sản có giá trị dưới 2 triệu

đồng của một người thì sẽ bị coi là có tội hay không lại không phụ thuộc vào ý

thức chủ quan của người tiến hành tố tụng mà phụ thuộc vào một yếu tố rất ngẫu

nhiên là do “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình

họ” hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng”. Bên cạnh đó, việc định giá tài

sản vẫn có nhiều ý kiến còn là vấn đề bàn luận và tranh cãi để xác định các giá trị

tài sản bị chiếm đoạt, nhất là những tài sản đã được qua sử dụng, cho nện việc

khấu hao tài sản cũng chỉ là xác định giá trị mang tính tương đối. Hiện nay, việc

xác định tài sản qua sử dụng đều thông qua Hội đồng định giá.

Ngoài ra, đây cũng là vấn đề gây không ít khó khăn cho những người tiến

hành tố tụng khi giải quyết xử lý đối với trường hợp trộm cắp tài sản dưới 2 triệu

đồng vì nếu các giá trị tài sản có giá trị dưới 2 triệu đồng thì chỉ cần nên tiến

hành xử phạt hình chính nhưng vì có thêm dấu hiệu này được quy định trong

BLHS “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”

hoặc “tài sản là kỷ vật, di vật, đồ thờ cúng” do đó nên cần phải cân nhắc xem xét

thêm yếu tố này. Điều này gây áp lực không nhỏ thêm về mặt thời gian tố tụng

cũng như những rủi ro nghề nghiệp cho người tiến hành tố tụng, cần phải có sự

57

thống nhất về đường lối xử lý tội phạm. Đồng thời, từ đó quy định rõ tình tiết

đinḥ khung hinh̀ phaṭ “tài sản là phương tiêṇ kiếm sống chinh́” và các cơ sở pháp

lý để xác định tính chất của tài sản bị trộm cắp, từ đó để khi áp dụng có thể kết

luận, định tội một cách chính xác đầy đủ, khách quan, và toàn diện.

Thứ hai, đối với việc định tội danh trong trường hợp trộm cắp tài sản có

thủ đoạn xâm phạm chỗ ở của người khác cũng là vấn đề một quan trọng trong

những vướng mắc. Từ những kết quả khảo sát tình hình thực tế đã diễn ra trong

xã hội, một số vụ án trộm cắp tài sản mà dùng thủ đoạn xâm nhập vào nhà hoặc

nơi ở hợp pháp của người khác đã đặt ra vấn đề liên quan đến định tội danh trong

trường hợp này. Chúng ta có thể xem xét trường hợp phạm tội trộm cắp tài sản

nêu ở Mục 2.2.1 của Luận văn này tại Bản án số: 12/2019/HS-ST ngày

01/3/2019 của TAND Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh. Trong vụ án này, Tòa

tuyên án Hà Minh Hùng phạm tội trộm cắp tài sản không có gì phải nói để tranh

luận và bàn cãi vì tội danh đã rõ. Tuy nhiên về mặt lý luận, ngoài việc có hành vi

trộm cắp tài sản thì Hà Minh Hùng đã thực hiện trộm cắp tài sản với thủ đoạn

vào chỗ ở người khác một cách trái pháp luật, cho nên hành vi này lại có dấu

hiệu của “tội xâm phạm chỗ ở người khác” (quy định tại Điều 158 BLHS năm

2015, được sửa đổi, bổ sung 2017), do đó, cơ quan chức năng có thẩm quyền cần

phải có văn bản hướng dẫn để xử lý thêm hành vi của Hà Minh Hùng về tội xâm

phạm chỗ ở của người khác hay không?

Trong trường hợp nêu trên, bị cáo Hà Minh Hùng không có ý định xâm

nhập chỗ ở của người khác nên không có dấu hiệu của “tội xâm phạm chỗ ở

người khác”, Hà Minh Hùng chỉ bị xử lý về tội trộm cắp tài sản. Vấn đề này tại

Điều 173 BLHS năm 2015 chưa có quy định làm dấu hiệu định khung tăng nặng

hoặc tình tiết định tội đối với hành vi này. Do đó, Nhà nước cần có nghiên cứu từ

thực tiễn tình hình hiện nay để đưa ra hướng dẫn áp dụng pháp luật hình sự đối

với trường hợp này.

Nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế, bất cập trong việc định tội danh

và quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

58

Nguyên nhân chủ quan:

Thực tế cho thấy nhân viên thực thi công vụ mà cụ thể là đội ngũ Điều tra

viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán còn thiếu chưa đủ về số lượng so với yêu cầu

thực tiễn mà công tác này đòi hỏi, một số cán bộ, công chức còn hạn chế về trình

độ chuyên môn nghiệp vụ, năng lực, kinh nghiệm công tác thực tiễn, nhưng lại

chưa chịu tích cực học tập, bồi dưỡng để nâng cao trình độ.

Ngoài ra, khi thực thi nhiệm vụ quyền hạn, có một số Thẩm phán chưa

thực hiện làm hết nhiệm được giao, tư duy phiến diện mang tính áp đặt khi xem

xét đánh giá chứng cứ, nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách toàn diện, chưa đầu tư

cập nhật nghiên cứu kỹ các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản mới,

không chú trọng đến quan điểm của người bào chữa.

Vẫn còn có số ít bộ phận thiếu trách nhiệm, không bản lĩnh, sa sút về

phẩm chất đạo đức. Điều này chắc chắn sẽ ảnh hưởng lớn đến nội dung do mình

quyết định và làm cho kỷ cương pháp luật, hiệu lực của Bộ máy nhà nướcgiảm.

Nguyên nhân khách quan:

Hiện nay, các quy định về cấu thành tội trộm cắp tài sản nói riêng và các

tội xâm phạm sở hữu khác nói chung trong khoa học pháp lý về lĩnh vực hình sự

cũng như việc hướng dẫn áp dụng pháp luật về tội trộm cắp tài sản còn mang

tính khát quát chung chung, chưa cụ thể rõ ràng gây khó hiểu dễ dẫn đến nhầm

lẫn.

Thiếu văn bản hướng dẫn, áp dụng thống nhất quy định của luậtcho hoạt

động xét xử án hình sự nên một số cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm

phán chưa nhận thức đầy đủ các dấu hiệu đặc trưng của các tội xâm phạm sở hữu

một cách chính xác, từ đó dẫn đến quan điểm giữa Điều tra viên, Kiểm sát viên,

Thẩm phán và giữa các cơ quan tiến hành tố tụng đối với cùng một vụ án khác

nhau. Xuất phát từ phân tích nêu trên, có thể thấy rằng đây là nguyên nhân

thường xảy ra tình trạng các vụ án bị Tòa án cấp trên sửa, huỷ có chiều hướng

tăng.

Hiện nay, pháp luật Việt Nam quy định về quyết định hình phạt đối với

59

tội trộm cắp tài sản chưa đầy đủ và thiếu đồng bộ. Bên cạnh đó, các thẩm phán

đều có mỗi quan điểm khác nhau khi đánh giá cùng một số tình tiết trong vụ án.

Vì vậy, việc ban hành văn bản quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành chưa kịp

thời dẫn đến việc quyết định hình phạt còn chưa thống nhất trong toàn ngành.

Hiện nay, trong pháp luật hình sự Việt Nam không có quy định chi tiết, cụ

thể về việc xác định lấy trị giá các loại tài sản bị chiếm đoạt làm căn cứ để xử lý

trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở hữu. Tuy nhiên, đến thời điểm

hiện nay chưa có văn bản quy phạm pháp luật cụ thể nào hướng dẫn của cơ quan

có thẩm quyền về vấn đề xác định giá trị các loại tài sản bị chiếm đoạt. Do đó,

các tổ chức, cá nhân trong lỉnh vực thẩm định giá trị vật chứng, tài sản trong tố

tụng hình sự không nắm bắt kịp giá cả theo thị trường và lúng túng trong việc

định giá các loại tài sản này.

Nguyên nhân của vi phạm, sai sót, khó khăn, hạn chế trong quyết định

hình phạt đối với tội trộm cắp tài sản

Do quy định của pháp luật trong lĩnh vực hình sự chưa cụ thể rõ ràng,

thiếu văn bản hướng dẫn thi hành pháp luật kịp thời: Hệ thống pháp luật, chính

sách về kinh tế - xã hội chưa đồng bộ, còn nhiều sơ hở, thiếu sót; chế tài xử lý vi

phạm (cả xử lý hành chính và xử lý hình sự) chưa đủ sức răn đe và còn bất cập.

Năng lực của người tiến hành tố tụng chưa tập trung đồng đều, nhận thức

quan điểm mỗi vụ án chưa thống nhất với nhau. Thêm vào đó trong thực tiễn,

trình độ chuyên môn của đa số Hội thẩm nhân dânở TAND các cấp chưa đáp ứng

với yêu cầu xét xử đòi hỏi kiến thức pháp luật củaHội thẩm nhân dântham gia

HĐXX phải tương đương Thẩm phán, nhưng thực tế chưa đạt. Từ đó, dễ dẫn đến

những thiếu sót sai lầm nghiêm trọngtrong việc áp dụng pháp luật.

Chưa thường xuyên gắn kết việc giám đốc xét xử kịp thời phát hiện những

sai sót để chấn chỉnh với công tác tổng kết xét xử để có được những đường lối

thống nhất và thông báo rút kinh nghiệm cho những lần xét xử sau trong việc áp

dụng pháp luật.

Chưa xây dựng được án lệ về tội trộm cắp tài sản này: Nhằm giúp ích cho

60

quá trình xét xử các vụ án hình sự có tính chất đặc biệt một cách dễ dàng hơn, từ

đó tiết kiệm thời gian chi phí và công sức của người tiến hành tố tụng. Hiện nay,

Tòa án đã ban hành nhiều một số án lệ về Hình sự, dân sự, hành chính, lao

động… để áp dụng trong thực tiễn theo tinh thần Nghị quyết số 04/2019/NQ-

HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vể quy

trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.

Thực ra cũng có những tác động tiêu cực của mặt trái xã hội: Đây là hiện

trạng thường xuyên xảy ra một cách phổ biến, chịu sự tác động chi phối bởi quy

luật của nền kinh tế thị trường, ngoài ra còn có sự can thiệp của các cơ quan ban

ngành vào hoạt động chuyên môn của người đang thực hiện vai trò tố tụng hình

sự làm ảnh hưởng đến công tác điều tra, truy tố và xét xử. Bên cạnh đó, là sự

cám dỗ vật chất và các giá trị khác làm mờ mắt, dần dần bị tha hóa, thay đổi biến

chất về phẩm chất đạo đức, vì lợi ích kinh tế của một bộ phận cán bộ làm trong

các cơ quan tiến hành tố tụng dẫn đến xảy ra các tệ nạn tiêu cực, chạy án, tham ô,

hối lộ… câu kết làm sai lệch hồ sơ vụ án, truy tố và xét xử nhẹ hơn hoặc với tội

danh có mức hình phạt thấp hơn thực tế khách quan tội danh thực của người

phạm tội. Điều đó, cũng làm ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình hoạt động áp

dụng tính đúng đắn của pháp luật.

Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, về các chủ trương chính sách

của Nhà nước, các biện pháp về đảm bảo an ninh trật tự, phòng ngừa vi phạm

pháp luật, phòng chống tội phạm chưa được tiến hành đồng bộ quyết liệt liên tục,

thường xuyên, sâu rộng và mạnh mẽ, nội dung chưa thật bám sát cụ thể để phù

hợp với từng loại đối tượng, trên địa bàn cơ sở cho nên hiệu quả vẫn còn nhiều

hạn chế.

61

Tiểu kết Chương 2

Tội trộm câp tài sản trên địa bàn Quận 10 trong giai đoạn năm 2015 –

2019 xảy ra liên tục, tháng nào cũng có vụ án mới. Các cơ quan chức năng tiên

hành tố đã khẩn trương tiên hành xử lý theo quy định pháp luật, đặc biệt TAND

Quận 10 luôn bảo đảm công tác xét xử kịp thời, nghiêm minh, đúng người đúng

tội, hình phạt tương xứng với với tính chất mức độ hành vi của bị cáo. Tuy nhiên

việc định tội danh và áp dụng hình phạt vẫn còn gặp một số khó khăn, hạn chế,

vướng mắc nhất định.

Chương 2, tác giả đi sâu phân tích thực tiễn áp dụng PLHS, cụ thể là phân

tích việc định tội danh và thực tiễn quyết định hình phạt đối với tội trộm cắp tài

sản trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh. Dựa trên những kết quả cập

nhật thống kê, so sánh,phân tíchtrong việc ADPL đối với các tội xâm phạm sở

hữu, đặc biệt là tội trộm cắp tài sản trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019.

Trên cơ sở phân tích thực tiễn chỉ ra những khó khăn, hạn chế vướng mắc

và nguyên nhân, từ đó đưa ra cụ thể các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng

đúng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản được thể hiện ở Chương 3.

62

Chương 3

CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM

ÁP DỤNG ĐÚNG PHÁP LUẬT HÌNH SỰ ĐỐI VỚI TỘI TRỘM CẮP

TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN QUẬN 10, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với tội

trộm cắp tài sản

Từ những kết quả phân tích lý luận áp dụng pháp luật nói chung và

ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng một cách cụ thể đúng đắn có ý

nghĩa vô cùng quan trọng để đưa pháp luật thực tế đi vào cuộc sống. Để áp dụng

đúng pháp luật hình sự trong giai đoạn xét xử đối với tội trộm cắp tài sản đòi hỏi

phải bảo đảm các yêu cầu sau:

Thứ nhất, phải thực hiện đầy đủ quy định của Hiến pháp năm 2013 và Bộ

luật hình sự năm 2015 về quyền con người và quyền; nghĩa vụ cơ bản của công

dân.

Quyền con người là tiếng nói chung, quyền được lên tiếng bằng nhiều

hình thức khác nhau và cũng là mục tiêu chung để pháp triển của xã hội loài

người. Pháp luật về quyền con người được ghi nhận trong các tư tưởng và lý luận

về quyền con người, bảo vệ và thúc đẩy sự phát triển tự do, nhân phẩm và hạnh

phúc của mỗi người, mỗi quốc gia và văn minh nhân loại. Thực ra quyền con

người được quy định trong Hiến pháp 2013 thể hiện quan điểm cơ bản của Đảng

và Nhà nước Việt Nam: Quyền con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự

phát triển đất nước, vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.

Quyền được sống, quyền được mưu cầu hạnh phúc, tự do, bình đẳng… là những

quyền cơ bản của con người được khẳng định trong Hiến pháp năm 2013 của

nước ta. Hơn nữa Hiến pháp năm 2013 là căn cứ pháp lý cao nhất để bảo vệ

quyền con người và quyền cơ bản của công dân là định hướng lớn của Đảng và

nhà nước trong quá trình cải cách tư pháp, còn pháp luật hình sự cụ thể hóa việc

bảo vệ quyền con người và quyền cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy

định, theo đó các quyền và tự do cơ bản của con người với mục tiêu và quan

63

trọng nhất là tiếp tục phát huy dân chủ, bảo đảm chủ quyền nhân dân, bảo đảm

thực hiện tốt hơn quyền con người. Nội dung Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội

chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định quyền chủ thể không chỉ là công dân mà

quyền của con người, của mọi người. Chính vì vậy, những quyền được quy định

trong Hiến pháp không chỉ công dân Việt Nam mà tất cả mọi người, mỗi người

với tư cách thành viên xã hội, người nước ngoài có mặt trên lãnh thổ Việt Nam

cũng được Hiến pháp và pháp luật Việt Nam bảo đảm.

Bộ luật hình sự năm 2015 được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực từ

ngày 01/01/2018 tại Điều 1 cũng đã quy định nhiệm vụ của BLHS đã khẳng định

về bảo vệ quyền con người và cụ thể hóa việc bảo vệ quyền con người và quyền

cơ bản của công dân đã được Hiến pháp quy định. Trong đó, nhiều quy định mới

của BLHS năm 2015 đã thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc như tuổi chịu trách

nhiệm hình sự, các biện pháp áp dụng kèm theo miễn TNHS đối với người dưới

18 tuổi, tha tù trước thời hạn có điều kiện, thực ra những vấn đề này khi được áp

dụng trên thực tiễn thì chúng sẽ đi vào cuộc sống

Thứ hai, thực hiện tốt yêu cầu cụ thể hóa chủ trương chính sách của Đảng

và pháp luật của Nhà nước trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm đối

với tội trộm cắp tài sản.

Phòng, chống tội phạm là một trong những nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách,

thường xuyên, liên tục và lâu dài nhằm thực hiện Hiến pháp, pháp luật góp phần

bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân… đặt dưới sự lãnh đạo

trực tiếp, toàn diện của Đảng và Nhà nước ta đối với công tác trong đấu tranh

phòng chống tội phạm, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị,

kết hợp chặt chẽ giữa công tác phòng chống tội phạm với nhiệm vụ phát triển

phát triển kinh tế - xã hội. Đây là nhiệm vụ quan trọng của cả hệ thống chính trị

và toàn dân, trong đó chú trọng đối với công tác phòng ngừa tội phạm được

Đảng và Nhà nước quan tâm. Hơn nữa trong thời gian qua tội trộm cắp tài sản đã

và đang diễn biến ngày càng phức tạp về mức độ tinh vi và thủ đoạn phạm tội, để

xử lý các loại tội phạm này Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều biện pháp chủ

64

trương, chính sách thông qua các Nghị quyết, văn bản pháp luật trong đó có Bộ

luật hình sự với quy định cụ thể về các tội xâm phạm sở hữu nói chung cũng như

đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng. Do đó, để đáp ứng được yêu cầu phòng,

chống tội phạm đối với tội trộm cắp tài sản thì việc hoàn thiện các quy định của

pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản là yêu cầu cấp bách trong bối cảnh ở

nước ta hiện nay theo tinh thần Nghị quyết số 96/2019/QH14 ngày 27 tháng 11

năm 2019 của Quốc hội “Về công tác phòng, chống tội phạm và vi phạm pháp

luật, công tác của Viện kiểm sát nhân dân, của Tòa án nhân dân và công tác thi

hành án”.

Thứ ba, yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp hình sự và xây dựng

nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản được xuất phát từ yêu cầu thực hiện

công cuộc cải cách tư pháp theo tinh thần Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về “Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới” [2] và Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính

trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, với mục tiêu: “Xây dựng nền

tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ,nghiêm minh, bảo vệ công lý, từng bước

hiện đại, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc Việt Nam XHCN; hoạt động tư

pháp mà trọng tâm là hoạt động xét xử được tiến hành có hiệu hiệu quả và hiệu

lực cao” [3]. Nhiệm vụ này là đáp ứng yêu cầu đổi mới nền tư pháp công minh,

liêm chính, vững mạnh phục vụ xây dựng đất nước và hội nhập quốc tế đồng thời

nâng cao vị thế Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của Nhân dân, do Nhân

dân, vì Nhân dân.

Do vậy, yêu cầu đầu tiên cải cách tư pháp hình sự phải đặt trong quan

điểm chỉ đạo về xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN của Nhân

dân, do Nhân dân và vì Nhân dân, mà trong đó nền tư pháp luôn luôn bảo đảm

truy tố, xét xử đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, không để xảy ra oan sai,

bỏ lọt tội phạm là một yêu cầu hết sức quan trọng. Hoạt động xét xử của Tòa án

được tiến hành có hiệu quả và hiệu lực cao sẽ khắc phục những hạn chế, bất cập,

65

nhằm bảo vệ tốt hơn quyền con người, quyền công dân, đúng như bản chất của

Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa.

Những nguyên tắc đặc trưng như: độc lập, khách quan và chỉ tuân theo

pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng phải được

quy định đầy đủ trong Bộ luật tố tụng hình sự. Điều này là hoàn toàn phù hợp đối

với quan điểm định hướng “Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sựphân công

vàphố hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền

lập pháp, hành pháp và tư pháp” [7].

Một yêu cầu rất quan trọng trong việc cải cách tư pháp hình sự và xây

dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam XHCN, cụ thể đó những yêu cầu tất yếu

phải tuyệt đối tuân thủ các nguyên tắc trong APPLHS, tôn trọng và bảo vệ quyền

công dân, quyền con người, đồng thời đòi hỏi các cơ quan tư pháp phải thực sự

là công cụ mang lại công bằng, bình đẳng và dân chủ trong xã hội, qua đó nó thể

hiện ở việc Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án phải tạo điều kiện và đảm

bảo mọi cơ quan, tổ chức, cá nhân được bình đẳng trước pháp luật, bảo đảm mọi

hành vi vi phạm PLHS đều phải xử lý triệt để nghiêm minh, không phân biệt giai

cấp, địa vị trong xã hội.

Một trong những yêu cầu không thể thiếu trong việc cải cách tư pháp hình

sự và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN cụ thể là phải đặt mục tiêu dưới sự

lãnh đạo của Đảng, ngoài ra phải tuân thủ các chủ trương, chính sách, đường lối,

nghị quyết của Đảng. Hơn nữa, phải củng cố phát huy tổng hợp trí tuệ, sức lực

của toàn dân vào công tác này và phải đặt dưới chịu sự giám sát của Nhân dân và

các cơ quan dân cử để thực hiện.

Bên cạnh đó, còn có yêu cầu khác rất quan trọng về của cải cách tư pháp

hình sự và xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa, đó là yêu

cầu về một đội ngũ cán bộ Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán phải có

trình độ, chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ và đạo đức trong áp dụng pháp luật

hình sự. Bởi vì, đối với việc cải cách đổi mới trong các cơ quan tư pháp hình sự

theo định hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân đòi

66

hỏi cơ quan THTT gồm ĐTV, KSV, TP và cả Hội thẩm nhân dân cần phải nâng

cao năng lực ADPLHS, đồng thời kiến nghị, đề xuất các sáng kiến đổi mới và

hoàn thiện hệ thống PLHS lấy con người, vì con người là trung tâm phụng sự.

Ngoài ra, yêu cầu của cải cách tư pháp hình sự và xây dựng Nhà nước

pháp quyền, là phải bảo đảm nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật trong

hoạt động áp dụng PLHS của các cơ quan tiến hành tố tụng. Đây chính là yêu

cầu pháp lý được thừa nhận chung trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa

không chỉ trong hoạt động xét xử mà còn bao hàm cả trong hoạt động điều tra,

truy tố.

Thứ tư, Yêu cầu của xu thế hội nhập quốc tế

Nước ta đang trong quá trình hội nhập mạnh mẽ, toàn diện với tất cả các

quốc gia trên thế giới, bên cạnh những thuận lợi trong quá trình hội nhập quốc tế

thì nước ta phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức, trong đó có sự gia

tăng về tội phạm tổ chức xuyên quốc gia… Do đó, vấn đề cấp thiết đặt ra là phải

xác định chính xác những hành vi phạm tội, xác định đúng tội danh, quyết định

hình phạt đúng và xử lý nhanh chóng kịp thời, nghiêm minh những tội phạm đó,

đồng thời phải đảm bảo phù hợp với các thỏa thuận mà nước ta đã ký kết nhằm

bảo vệ pháp lý, bảo vệ an ninh, trật tự trong nước và tạo điều kiện mở rộng hội

nhập quốc tế.

Trong quá trình hội nhập quốc tế, Việt Nam đã ký kết nhiều Hiệp định

tương trợ tư pháp và dẫn độ tội phạm với một số nước trong khu vực và trên thế

giới, vì vậy yêu cầu đặt ra là hệ thống pháp luật hình sự cần phải tiếp tục được

sửa đổi, bổ sung đầy đủ, cho phù hợp với các nguyên tắc và các quy phạm được

thừa nhận chung của pháp luật quốc tế nhằm phù hợp với các chuẩn mực pháp lý

chung của cộng đồng quốc tế trên cơ sở tôn trọng của tập quán của từng quốc

gia, dân tộc, vùng lãnh thổ.

Trong bối cảnh nước ta đang trong tiến trình hội nhập Quốc tế, và là thành

viên chính thức của nhiều công ước quốc tế đã ký kết về phòng, chống tội phạm.

Do đó, trong các quy định của pháp luật Việt Nam nói chung và pháp luật hình

67

sự hiện hành nói riêng, cụ thể trong đó có tội trộm cắp tài sản cũng cần phải sửa

đổi, cần bổ sung cho phù hợp với các quy định bắt buộc của công ước quốc tế.

Ngoài ra, việc áp dụng pháp luật hình sự đối với tội trộm cắp tài sản phải đảm

bảo yêu cầu hội nhập của nước ta với quốc tế phù hợp với tình hình thực tế xã

hội Việt Nam trong bối cảnh thực tế xã hội nước ta nay.

3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự đối với

tội trộm cắp tài sản

Thực tiễn qua phân tích các nguyên nhân, hạn chế vướng mắc trong việc

ADPLHS về tội trộm cắp tài sản trên địa bàn Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh

đã nêu cụ thể ở phần Chương 2 của Luận văn này, tác giả xin đưa ra những đề

xuất giải pháp hoàn thiện trong việc áp dụng pháp luật hình sự về tội trộm cắp

theo hướng sau:

3.2.1. Tiếp tục hoàn thiện pháp luật hình sự

Thứ nhất, cần hoàn thiện Điều 173 BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm

2017 theo hướng mô tả rõ ràng hành vi phạm đối với tội trộm cắp tài sản.

Từ thực tế cho thấy ADPLHS cần phải vận dụng hiểu rõ hơn nội hàm của

tội trộm cắp tài sản, cho nên cần phải có sự áp dụng thống nhất mới đảm bảo yêu

cầu của nguyên tắc pháp chế trong áp dụng pháp luật hình sự. Do đó, trong pháp

luật hình sựViệt Nam cũng như trong các văn bản quy phạm phạm pháp luật

khác đều không có bất kì các văn bản nào định nghĩa thế nào là tội trộm cắp tài

sản. Cụ thể Tội trộm cắp tài sản ở Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định

như sau “Người nào trộm cắp tài sản của người khác có giá trị từ 2.000.000

đồng..” Điều luật này cho thấy chỉ nêu tên tội phạm mà không mô tả dấu hiệu

của hành vi khách quan trong cấu thành tội phạm. Do đó, cần phải có việc sửa

đổi, bổ sung theo hướng mô tả rõ ràng hành vi phạm tội trộm cắp tài sản, để từ

đó đáp ứng được các yêu cầu đảm bảo phân biệt giữa tội trộm cắp tài sản với các

tội khác trong BLHS. Như vậy, có thể xây dựng mô hình cấu thành tội phạm cơ

bản tại khoản 1 Điều 173 BLHS cần bổ sung:

“1. Người nào lén lút chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ

68

2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng …”

Thứ hai, căn cứ vào những dấu hiệu định tội của tội trộm cắp tài sản quy

định ở Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 nên bỏ tình tiết này đối với

các dấu hiệu định tội “tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và

gia đình họ” và “tài sản là di vật, cổ vật” hoặc đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về

mặt tinh thần đối với người bị hại.

Về tình tiết định tội tài sản trong việc định lượng, xác định “tài sản là

phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ” và “tài sản là di

vật, cổ vật” cũng như đồ thờ cúng có giá trị đặc biệt về mặt tinh thần đối với

người bị hại rất khó xác định, từ đó gây khó khăn đối với người tiến hành tố tụng

khi áp dụng xử lý đối với trường hợp này.

Do đó, nên bỏ tình tiết này, vì chúng mang tính định tính rất cao, rất khó

áp dụng. Ý thức phạm tội đối với tội trộm cắp tài sản là rất ngẫu nhiên; mục đích

phạm tội của họ là nhằm chiếm đoạt tài sản mà không cần phân biệt tài sản có

phải là nguồn sống chính hay không. Quy định như vậy chẳng khác nào luật bắt

buộc người phạm tội trước khi phạm tội phải điều tra xem tài sản chuẩn bị phạm

tội có phải phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình của người

bị hại hay không. Hay khuyến khích việc phạm tội phải chiếm đoạt số tiền nhiều

hơn 2 triệu đồng hoặc dưới 2 triệu đồng, vì lý do từ đâu chiếm đoạt 2 triệu đồng

mà là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại cũng phạm tội.

Do đó, cần sửa đổi, bổ sung tại Khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015Tội

trộm cắp tài sản cần thiết (nếu có) phải loại bỏ điểm d và đ khoản 1 Điều này.

Thứ ba, tại Khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 chưa có những quy định

cụ thể dấu hiệu định khung tăng nặng về “xâm phạm chỗ ở của người khác” của

tội trộm cắp tài sản.

Như đã trình bày nội dung và phân tích cụ thể trong phần Chương 2 của

Luận văn này trong thực tiễn định tội danh, đối với trường hợp trộm cắp tài sản

với thủ đoạn xâm nhập vào chỗ ở người khác một cách trái pháp luật bất hợp

pháp, ngoài rahành vi trộm cắp tài sản này ra lại có thêm dấu hiệu của tội xâm

69

phạm chỗ ở người khác được nêu rõ quy định cụ thể tại Điều 158 BLHS năm

2015, do đó cần phải có quy định để xử lý thêm tội xâm phạm chỗ ở của người

khác bất hợp pháp hay không? Theo đó, trong BLHS năm 2015 tại Điều 173

BLHS năm 2015tội trộm cắp tài sảnđều cũng không quy định điểm khoản nào về

dấu hiệu “xâm phạm chỗ ở của người khác” làm dấu hiệu định khung tăng nặng.

Trên cơ sở lý luận, hành vi xâm phạm chỗ ở của người khác có thể bị xử phạt

hành chính hoặc hình sự, cho nên pháp luật phải có quy định “xâm phạm chỗ ở

của người khác” là dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội trộm cắp tài sản

mới giải quyết được vấn đề, để có cơ sở pháp lý xử lý thêm về tội xâm phạm chỗ

ở người khác nữa hay không vì trong trường hợp trộm cắp tài sản với thủ đoạn

xâm phạm chỗ ở của người khác. Nếu pháp luật có quy định cụ thể về “xâm

phạm chỗ ở của người khác” là dấu hiệu định khung tăng nặng đối với tội trộm

cắp tài sản, thì ta chỉ cần xử một tội là tội trộm cắp tài sản mà thôi, ngoài ra việc

xâm phạm chỗ ở của người khác một cách bất hợp pháp thì trở thành dấu hiệu

định khung tăng nặng của tội này.

Do đó, nên xử lý hình sự khi người vi phạm trộm cắp tài sản xâm phạm

nhà ở của người khác bất hợp pháp, không dựa vào giá trị tài sản để xử lý hình

sự. Vì vậy, cần kiến nghị bổ sung vào Khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015 tội

trộm cắp tài sản về dấu hiệu định khung tăng nặng “xâm phạm chỗ ở của người

khác”. Cụ thể là: bổ sung thêm điểm h: Xâm phạm chỗ ở của người khác tại

khoản 2 điều này.

Thứ tư, tại điểm c Khoản 1 Điều 173 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định

“gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”. Tuy nhiên, cụ thể Bộ

luật hình sự chưa quy định nêu rõ như thế nào là “gây ảnh hưởng xấu đến an

ninh, trật tự, an toàn xã hội” sẽ dẫn đến khó khăn trong việc để hiểu và áp dụng,

do đó đây là tình tiết định khung cơ bản, định khung tăng nặng, hậu quả mang

tính phi vật chất, khó định lượng; từ đó việc đánh giá, áp dụng nếu không được

hướng dẫn cụ thể sẽ có thể dẫn tới tùy nghi, phụ thuộc vào nhận thức của các cơ

quan, người tiến hành tố tụng cũng như phụ thuộc vào đặc trưng và điều kiện

70

phát triển kinh tế - xã hội của từng vùng miền, địa phương khác nhau. Chính vì

vậy, quốc hội cần sớm ban hành quy định hướng dẫn chi tiết về việc áp dụng tình

tiết định khung cơ bản, định khung tăng nặng cho tình tiết “gây ảnh hưởng xấu

đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội”, theo hướng cụ thể quy định trong từng lĩnh

vực mức độ, phạm vi ảnh hưởng đối với tình hình trật tự, an toàn, xã hội.

Thứ năm, đối với việc cơ quan tiến hành tố tụng áp dụng về tình tiết định

khung tăng nặng theo quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 đã bỏ tình tiết định

khung tăng nặng “gây hậu quả nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng” và

“gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” trong tội trộm cắp tài sản, nhưng về tình tiết

“hành hung để tẩu thoát” vẫn còn (quy định tại điểm đ, Khoản 2 Điều 173 BLHS

năm 2015).

Mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02 thì khi áp dụng tình tiết “hành hung

để tẩu thoát” tại điểm đ Khoản 2 Điều 138 BLHS 1999 thì chuyển hóa từ tội

trộm cắp tài sản thành tội cướp tài sản. Đối với những trường hợp hành hung để

tẩu thoát, người phạm tội có hành vi dùng vũ lực gây thiệt hại về sức khỏe, tính

mạng cho người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ thì sẽ bị xử lý như thế nào?

Theo đó tại Thông tư liên tịch số 02 chưa có quy định cụ thể như thế nào

là “bị phát hiện”. Vì vậy, để khắc phục các vướng mắc trên đối với tội trộm cắp

tài sản cần kiến nghị sửa đổi, bổ sung Mục 6 Phần 1 Thông tư liên tịch số

02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 về việc

hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu"

của bộ luật hình sự năm 1999 như sau:

“6.1. Phạm tội thuộc trường hợp “hành hung để tẩu thoát” là trường hợp

mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau khi chiếm đoạt

được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây bắt giữ thì đã có

những hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc chống trả lại

người bắt giữ hoặc người bao vây nhằm tẩu thoát.

6.2. Nếu người phạm tội chưa chiếm đoạt được tài sản hoặc ngay sau khi

đoạt được tài sản, nhưng đã bị người bị hại hoặc người khác giành lại, mà người

71

phạm tội có hành vi dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực ngay tức khắc tấn công

người bị hại hoặc người khác nhằm giữ cho được tài sản chiếm đoạt được và tẩu

thoát thì trường hợp này không phải là “hành hung để tẩu thoát” mà đã có đầy

đủ các dấu hiệu cấu thành tội cướp tài sản”. Có thể loại bỏ tình tiết “hoặc ngay

sau khi chiếm đoạt được tài sản” trong 02 tiểu mục này.

Ngoài ra, hiện nay cũng có vướng mắc trong áp dụng văn bản việc xử lý

hành vi nhiều lần trộm cắp tài sản. Bộ luật Hình sự năm 2015 đã có nhiều quy

định kế thừa quy định của Bộ luật Hình sự năm 1999 về việc lấy trị giá tài sản bị

chiếm đoạt làm căn cứ để xử lý trách nhiệm hình sự. Tuy nhiên đến thời điểm

hiện nay vẫn chưa có văn bản hướng dẫn của Cơ quan có thẩm quyền về vấn đề

xác định giá trị tài sản bị chiếm đoạt đối với trường hợp thực hiện nhiều lần cùng

loại hành vi xâm phạm sở hữu liên tục kế tiếp nhau về mặt thời gian còn có nhiều

ý kiến quan điểm khác nhau. Như vậy, Thông tư số 02 của liên ngành tư pháp

trung ương chỉ mới hướng dẫn quy định cụ thể về trường hợp hành vi nhiều lần

chiếm đoạt tài sản mà liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian trong đó mỗi lần

chiếm đoạt tài sản đều dưới mức truy cứu trách nhiệm hình sự thì cộng tổng giá

trị chiếm đoạt tài sản tại các lần để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự đối

với những người này. Cụ thể: Tại tiểu mục 5 Mục II Thông tư số 02 quy định:

“Trong trường hợp một người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm

sở hữu, nhưng mỗi lần giá trị tài sản bị xâm phạm dưới mức tối thiểu để truy cứu

trách nhiệm hình sự theo quy định của BLHS và không thuộc một trong các

trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự (gây hậu quả nghiêm trọng; đã

bị xử phạt hành chính; đã bị kết án nhưng chưa được xoá án tích…), đồng thời

trong các hành vi xâm phạm đó chưa có lần nào bị xử phạt hành chính và chưa

hết thời hiệu xử phạt hành chính, nếu tổng giá trị tài sản của các lần bị xâm

phạm bằng hoặc trên mức tối thiểu để truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy

định của BLHS, thì người thực hiện nhiều lần cùng loại hành vi xâm phạm sở

hữu phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng theo tổng giá trị

tài sản của các lần bị xâm phạm, nếu: Các hành vi xâm phạm sở hữu được thực

72

hiện một cách liên tục, kế tiếp nhau về mặt thời gian..”. Hiện nay với các quy

định của pháp luật chưa có quy định ướng dẫn thi hành đối với việc định lượng

tài sản trộm cắp để định khung hình phạt trong trường hợp người phạm tội thực

hiện hành vi trộm cắp liên tục kế tiếp về mặt thời gian trong đó có lần đã đủ yếu

tố cấu thành tội phạm trộm cắp tài sản để truy cứu trách nhiệm hình sự, có lần

không đủ yếu tố định lượng để truy cứu trách nhiệm hình sự (giá trị tài sản chiếm

đoạt dưới hai triệu đồng) dẫn tới khó khăn vướng mắc trong quá trình giải quyết

vụ án. Kiến nghị liên ngành tư pháp TW cần ban hành văn bản sửa đổi, hướng

dẫn thực hiện để thống nhất vận dụng trên thực tế.

3.2.2. Nâng cao năng lực, phẩm chất trình độ nhận thức, áp dụng pháp

luật hình sự đối với người tiến hành tố tụng

Theo quan điểm của Đảng và Nhà nước ta hiện nay coi yếu tố con người

vừa là mục tiêu, vừa là động lực của quá trình tiến bộ và phát triển xã hội, cho

nên nền tư pháp cũng vậy đòi hỏi đội ngũ cán bộ tư pháp quyết định chất lượng

công tác, hoạt động của họ ảnh hưởng trực tiếp đến an ninh chính trị của Nhà

nước và trật tự an toàn xã hội. Vì vậy, yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ tư

pháp khi thực hiện áp dụng PLHS về tội trộm cắp tài sản phải có đủ năng lực

phẩm chất, đạo đức, năng lực chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng được ngang tầm

nhiệm vụ mới. Hiêṇ nay số lượng cán bô ̣tư pháp về hình sư ̣có trình đô ̣chuyên

môn đại học và trên đại học chiếm tỷ lệ cao, trong đó đại đa số là các Điều tra

viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán. Như vậy, một số cán bộ đạt trình đô ̣đại hoc ̣

chiếm chưa cao. Để đạt được những mục tiêu trên, trước hết đội ngũ cán bộ tư

pháp cần nhận thức đúng lý luận và cơ sở pháp luật của áp dụng đúng PLHS đối

với với tội trộm cắp tài sản. Việc áp dụng đúng pháp luật hình sự đòi hỏi Người

tiến hành tố tụng phải nghiên cứu kỹ đúng đắn nội dung của các quy định của

pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự. Đồng thời, đội ngũ làm công tác

tố tụng cần nhận thức nhất quán, đồng bộ các nguyên tắc, căn cứ trong việc áp

dụng PLHS và pháp luật TTHS khi áp dụng PLHS đó là không được suy diễn

theo thức chủ quan của người tiến hành tố tụng mà phải luôn căn cứ trên quy

73

định của các quy định PLHS và thực tế khách quan để giải quyết vụ án. Bên cạnh

đó, Điều tra viên, Kiểm sát viên và Thẩm phán cũng cần chăm chỉ bồi dưỡng

kiến thức về chuyên môn; bồi dưỡng kỹ năng giải quyết, xử lý các vụ án hình sự

về tội trộm cắp tài sản thông qua thực tế khách quan, có như vậy họ mới tôn

trọng sự thật khách quan của vụ án, tôn trọng các chủ thể khác tham gia vào quá

trình áp dụng PLHS và chỉ căn cứ vào pháp luật để đưa ra phán quyết đúng pháp

luật.

Đề nâng cao hiệu quả năng lực, trình độ nhận thức, áp dụng pháp luật hình

sự đối với người tiến hành tố tụng trong công tác điều tra, truy tố và xét xử đối

với các tội trộm cắp tài, cụ thể tác giả xin đưa ra một số giải pháp như sau:

Một là: Cơ quan điều tra, Viện kiểm, Tòa án cần chú trọng xây dựng, đào

tạo đội ngũ cán bộ áp dụng PLHS có bản lĩnh, có phẩm chất đạo đức chính trị

vững vàng; giỏi về trình độ chuyên môn, vững về nghiệp vụ. Từ đó kịp thời bổ

sung, bổ nhiệm đội ngũ này đủ các điều kiện tiêu chuẩn, có khả năng đáp ứng

khối lượng công việc ngày càng tăng và tội phạm ngày càng nguy hiểm tinh vi.

Hai là: Mở rộng nguồn thi tuyển chọn Thẩm phán, lựa chọn hình thức thi

tuyển chất lượng cao, đa dạng về kiến thức; nâng cao trình độ của Thẩm phán

bằng các chương trình đào tạo có hệ thống, nội dung tập huấn có chất lượng cao;

đồng thời, bảo đảm cơ sở vật chất tốt cho các Thẩm phán khi tham gia học tập;

đảm bảo chế độ đãi ngộ thỏa đáng và khen thưởng tốt nhất cho đội ngũ Thẩm

phán, cũng như Hội thẩm nhân dân để họ yên tâm công tác và phấn đấu vươn

lên. Ngoài ra, Hội thẩm nhân dân cũng cần tăng cường thường xuyên tổ chức

việc đào tạo bồi dưỡng nghiệp, tập huấn hàng năm và được tuyên truyền giáo

dục nâng cao kiến thức pháp luật và đạo đức nghề nghiệp để họ thấy được trách

nhiệm của mình trong hoạt động xét xử.

Ba là: Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn

nghiệp cho Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán. Từ đó, mở rộng nguồn thi

tuyển Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có chế độ đãi ngộ thỏa đáng tốt

để thu hút nhân tài cống hiến cho Ngành. Tăng cường địa vị pháp lý và trách

74

nhiệm độc lập cá nhân của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán trong hoạt

động tố tụng của mình. Đồng thời, phải coi việc học tập nâng cao trình độ

chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước, tin học, ngoại ngữ là công việc

bắt buộc đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán và là tiêu chí đánh giá

chất lượng đảng viên, cán bộ công chức hàng năm. Ngoài ra, cần có chính sách

khuyến khích Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán tự học tập, rèn luyện

nâng cao kiến thức, tiếp thu nhuần nhuyễn nội dung của các chính sách pháp luật

trong đó có lĩnh vực pháp luật hình sự mới và kiến thức pháp lý khác nhằm đáp

ứng được yêu cầu mục tiêu nhiệm vụ đã đề ra.

Bốn là: Kịp thời phát hiện và nghiêm khắc xử lý những thành phần thoái

hóa, biến chất, tham nhũng, vi phạm pháp luật; cho thôi việc hoặc bố trí công

việc khác đối với các Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán yếu năng lực

chuyên môn, bản lĩnh chính trị và không tự tu dưỡng, rèn luyện.

Tóm lại, thực hiện hiệu quả các giải pháp nâng cao nguồn lực chất lượng

cao của các chủ thể áp dụng PLHS là một yếu tố quan trọng hàng đầu để đưa

công tác áp dụng PLHS đối với tội trộm cắp tài sản đạt hiệu quả cao nhất, đáp

ứng được thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm.

3.2.3. Tăng cường công tác giám đốc xét xử, tổng kết thực tiễn xét xử; giải

thích, hướng dẫn áp dụng pháp luật; thanh tra, kiểm tra hoạt động áp dụng pháp

luật

Để tăng cường và nâng cao vai trò của công tác giám đốc thẩm; tái thẩm

các vụ án hình sự, TAND tối cao phải thường xuyên hơn nữa công tác kiểm tra

nghiệp vụ của các Tòa án. Từ đó, tăng cường cho cán bộ các bộ phận thực hiện

chức năng thanh tra, kiểm tra nghiệp vụ, kịp thời phát hiện sai sót, yếu kém và có

biện pháp khắc phục.

TAND cấp trên có trách nhiệm thực hiện giám sát chất lượng các hoạt

động chuyên môn của TAND cấp quận, huyện thuộc quyền quản lý của mình và

thông qua thực hiện công tác giám sát, kiểm tra nghiệp vụ nhằm phát hiện ra các

sai sót vi phạm để rút kinh nghiệm chung hoặc đề xuất kiến nghị cấp có thẩm

75

quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm khi có sai lầm nghiêm

trọng hoặc có tình tiết mới.

Vì vậy, việc kháng nghị giám đốc thẩm, tái thẩm được thực hiện một cách

thận trọng, chặt chẽ, đúng quy định của pháp luật. Đối với những vi phạm thiếu

sót ít nghiêm trọng về tố tụng mà không ảnh hưởng tới nội dung giải quyết vụ án

thì không nên kháng nghị mà chỉ cần thông báo rút kinh nghiệm với Tòa án đã

ban hành bản án, quyết định đó.

TAND tối cao cần phải tăng cường công tác tổng kết thực tiễn đã xét xử,

xem xét đánh giá các khó khăn vướng mắc, từ đó ban hành các văn bản hướng

dẫn kịp thời đảm bảo áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử. Điều đó cho

thấy, mỗi năm cần phải thống kê đánh giá một cách chính xác, khách quan, trung

thực và toàn diện về thực tiễn tổng kết công tác xét xử, qua đó phải đánh giá

được về mức độ, hiệu quả của việc ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản; làm rõ

những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân cho việc áp dụng pháp luật hình sự đối

với tội trộm cắp tài sản để từ đó có những đề xuất, giải pháp kịp thời đáp ứng yêu

cầu nâng cao hiệu quả trong việc ADPL hình sự đối với tội danh này.

Do đó, hơn nữa cần tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, thanh tra, kiểm

tra của Tòa án cấp trên với Tòa án cấp dưới nhằm kịp thời chỉ đạo, uốn nắn

những sai phạm thiếu sót, sai lầm vi phạm trong xét xử và quyết định hình phạt

đối với tội trộm cắp tài sản hoặc có những biểu hiện tiêu cực trong công tác xét

xử. Ngoài ra, trong đó công tác kiểm tra đối với các hoạt động của Tòa án là một

trong những phương thức hữu hiệu để nâng cao chất lượng hoạt động xét xử của

tòa án.

Xuất phát từ những yêu cầu đó, để đảm bảo cho việc áp dụng đúng các

quy định của Bộ luật hình sự trong việc giải quyết các vụ án trộm cắp tài sản trên

địa bàn Quận 10 thì trong thời gian tới các cơ quan tiến hành tố tụng cần tăng

cường công tác giám đốc xét xử và tổng kết thực tiễn trong giải quyết các vụ án

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản.

3.2.4. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về nâng cao ý

76

thức chấp hành pháp luật của người dân

Bên cạnh các giải pháp cơ bản đối với việc hoàn thiện pháp luật; nâng cao

năng lực, phẩm chất, trình độ nhận thức ADPL hình sự đối với người tiến hành

tố tụng và tăng cường công tác giám đốc và tổng kết thực tiễn xét xử, thì công

tác công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật trong nhân dân cũng góp phần quan

trọng trong việc bảo đảm áp dụng đúng pháp luật hình sự nói chung, trong đó có

tội trộm cắp tài sản.

Để thực hiện tốt công tác này cần phải đồng bộ các giải pháp sau:

Thứ nhất, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, chỉ đạo chính quyền phối

hợp với Mặt trận tổ quốc các đoàn thể đối với công tác giáo dục pháp luật.

Phải coi đây là giải pháp quan trọng hàng đầu, đảng bộ các cấp phải

thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo và có nghị quyết theo định kỳ cũng như công tác

tổng kết đánh giá rút kinh nghiệm công tác giáo dục pháp luật trên địa bàn quản

lý và phải luôn đề caotính gương mẫu của các đảng viên và vai trò tiên phong

trong việc tuyên truyền giáo dục pháp luật tại địa phương. Ủy ban nhân dân cần

chủ động xây dựng kế hoạch định kỳ hàng tháng, quý, nămđối với công tác giáo

dục pháp luật tại địa phương phù hợp với điều kiện và tình hình thực tế theo từng

giai đoạn cụ thể. Dự trù và cấp chi phí đủ để hoạt động tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật được triển khai tốt nhất. Cuối các định kỳ phải tổ chức sơ kết,

tổng kết, đánh giá, rút kinh nghiệm những mặt làm được và những hạn chế nhằm

ra các giải pháp phương hướng oạt động hiệu quả hơn; thực hiện tốt chính sách

thi đua khen thưởng kịp thời những người có thành tích cao trong công tác.

Thứ hai, có chính sách bồi dưỡng nâng cao trình độ, năng lực cho các

tuyên truyền viên,khuyến khích các tuyên truyền viên tự nâng cao trình độ

chuyên môn, nghiệp vụ, đặc biệt là công tác đặc cách tuyển dụng người có khả

năng làm tốt công tác này. Thường xuyên mở các lớp tập huấn về kỹ năng và

nghệ thuật giao tiếp nói chuyện trước công chúng. Đồng thời, tăng cường trang

bị các công cụ kỹ thuật, ứng dụng tin học vào công tác tuyên truyền, phổ biến

giáo dục pháp luật.

77

Thứ ba, luôn linh hoạt đổi mới nội dung sinh động, kết hợp nhiều hình

thức, phương pháp tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật.

Cần chú trọng nắm bắt đặc điểm và tình hình dân cư gắn liền với thực tiễn

địa phương và nhu cầu của quần chúng nhân dân, mà tổ chức đa dạng hóa hình

thức cũng như phương pháp. Ngoài các hình thức cũ, xin gợi ý thêm các hình

thức mới: Bản tin an ninh trật tự địa phương, sinh hoạt chủ đề pháp của các hội

đoàn, mời chuyên gia về địa phương nói chuyện, tổ chức tranh luận, phản biện

các vấn đề pháp luật mà dư luận xã hội quan tâm. Thực hiện trợ giúp pháp lý

miễn phí cho người có nhu cầu tuân thủ đúng theo Điều 10 Luật trợ giúp pháp lý.

Thứ tư, lồng ghép sinh động các tình huống minh họa thực tế gắn liền đạo

đức, ứng xử vào trường họctừ độ tuổi trung học cơ sở trở lên,tùy theo thực tiễn

các môn học và các hoạt động sinh hoạt khác của nhà trường… để giáo dục ý

thức cho lứa tuổi thanh thiếu niên ngày từ khi còn là học sinh để các bạn có ý

thức hình thành nhân cách, đạo đức, lối sống đúng đắn, chuẩn mực về pháp luật

và cuộc sống. Qua công việc này, góp phần nâng cao trình độ dân trí và cải thiện

hành vi ứng xử văn minh, văn hóa cho nhân dân.

Thứ năm, ADPL trong công tác xét xử của TAND không thể tách rời với

nhiệm vụ tuyên truyên, phổ biến, giáo dục nâng cao ý thức pháp luật đối với

quần chúng nhân dân.

Việc Tòa án nhân dân ADPL trong hoạt động xét xử các VAHS nói chung

và các vụ án trộm cắp tài sản nói riêng không chỉ để đấu tranh phòng chống và

trừng phạt tội phạm, minh oan người không phạm tội, mà thông qua đó còn có

nhiệm vụ giáo dục người phạm tội có tay nghề, hoàn lương, trở thành người có

ích cho xã hội, có ý thức tôn trọng và tuân thủ chấp hành pháp luật và các quy

tắc ứng xử chuẩn mực đã được thừa nhận của cuộc sống dưới sự lãnh đạo của

Đảng, quản lý điều hành của Nhà nước theo mục tiêu định hướng chế độ xã hội

chủ nghĩa mà quan trọng hơn là thông qua hoạt động xét xử của TAND sẽ phát

huy tích cực tính giáo dục và răn đe cũng như đấu tranh phòng chống các loại tội

phạm, góp phần làm giảm các loại tội phạm trong đó có tội trộm cắp tài sản.

78

Tiểu kết Chương 3

Trong Chương 3, tác giả đã phân tích các yêu cầu bảo đảm áp dụng đúng

pháp luật đối với tội trộm cắp tài sản. Trên cơ sở đề cao nguyên tắc bảo đảm thực

hiện đúng và đầy đủ quy định về quyền con người và quyền cơ bản của công dân

tại Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chũ nghĩa Việt Nam năm 2013 và tiếp tục

xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa; đáp ứng yêu cầu về

phòng, chống tội phạm và cải cách tư pháp mà Đảng, Nhà nước và pháp luật đã

đề ra.

Đồng thời, tác giả cũng đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm hoàn thiện

pháp luật hình sự và pháp luật tố tụng hình sự đối với tội trộm cắp tài sản; vấn đề

cần nâng cao năng lực, phẩm chất đạo đức Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,

Kiểm sát viên và Điều tra viên, chế độ chính sách, bồi dưỡng chuyên môn, tập

huấn nghiệp vụ, công tác kiểm tra, giám sát, giám đốc, tổng kết đánh giá thực

tiễn xét xử, công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp luật… Tất các các giải

pháp đó nhằm nâng cao hiệu quả đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình sự nói

chung và đảm bảo áp dụng đúng pháp luật hình đối với tội trộm cắp tài sản nói

riêng.

79

KẾT LUẬN

Trong những năm gần đây, tội trộm cắp tài sản ở Quận 10, thành phố Hồ

Chí Minh đang gia tăng, có chiều hướng ngày càng diễn biến phức tạp về

phương thức, thủ đoạn, mức độ liều lĩnh càng tinh vi. Do đó, việc ADPLHS của

các cơ quan tiến hành tố tụng đối với loại tội phạm này gặp nhiều khó khăn, vì

vậy nghiên cứu một cách cơ bản hoạt động ADPLHS trong giai đoạn xét xử đối

với tội trộm cắp tài sản của Tòa án nhân dân Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh là

vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc. Qua đó đề tài “Áp dụng pháp luật

hình sự đối với tội trộm cắp tài sản từ thực tiễn Quận 10, thành phố Hồ Chí

Minh”, tác giả nhận thấy các cơ quan tiến hành tố tụng đã có nhiều cố gắng nhằm

giải quyết xử lý đối với tội trộm cắp tài sản, đảm bảo đúng pháp luật, đúng

người, đúng tội; hạn chế thấp nhất trong việc bỏ lọt tội phạm và xử oan người vô

tội. Tuy nhiên, trên thực tiễn từ điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn bộc lộ một số

thiếu sót, hạn chế, nguyên nhân và vướng mắc trong quá trình ADPLHS đối với

trộm cắp tài sản, từ đó làm giảm hiệu quả trong nhiệm vụ đấu tranh phòng,

chống loại tội phạm này.

Ngoài ra, hiện nay trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của Việt

Nam cũng chưa có định nghĩa cụ thể về khái niệm tội trộm cắp tài sản, một số

quy định của pháp luật về tội này cũng chưa rõ ràng, chặt chẽ dẫn đến việc áp

dụng các quy định của Bộ luật hình sự và các văn bản hướng dẫn về tội trộm cắp

tài sản của các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng chưa thật sự

thống nhất, làm ảnh hưởng đến công tác xử lý các vụ án hình sự.

Qua nghiên cứu hoạt động ADPLHS của TAND quận 10, thành phố Hồ

Chí Minh trong thời gian từ năm 2015 đến năm 2019 thấy rằng, hoạt động

ADPLHS đối với tội trộm cắp tài sản của Tòa án chủ yếu do Hội đồng xét xử áp

dụng tại phiên tòa, theo thủ tục tố tụng hình sự, kết quả đạt được thể hiện qua các

bản án. Trong những năm qua, hầu hết hoạt động ADPLHS của TAND Quận 10

đã thực hiện đúng quy định của pháp luật, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ xét

xử các vụ án trộm cắp tài sản, thể hiện qua nhiều bản án xét xử đúng người, đúng

80

tội, đúng pháp luật, không xử oan người không phạm tội, không bỏ lọt tội phạm

góp phần quan trọng vào việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,

tạo môi trường ổn định, thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, bên

cạnh những kết quả đạt được vẫn còn nhiều khó khăn, vướng mắc và xảy ra sai

lầm trong định tội danh và quyết định hình phạt như xác định đúng tội danh

nhưng sai khung hình phạt; có sự nhầm lẫn giữa tội trộm cắp tài sản với một số

tội; quyết định hình phạt không phù hợp do bỏ sót tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm

hình sự; sai lầm trong về quyết định biện pháp chấp hành hình phạt; tổng hợp

hình phạt không đúng. Mà thực trạng này xuất phát từ nhiều nguyên nhân như

bất cập từ các quy định pháp luật, hạn chế từ chính đội ngũ cán bộ ADPLHS,

điều kiện cơ sở vật chất còn thiếu, chưa đáp ứng đủ nhu cầu thực tế…

Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật đối với tội trộm cắp

trên địa bàn Quận 10, thành phố Hồ Chí Minh, tác giả cũng làm sáng tỏ được

những hạn chế, vướng mắc trong quá trình ADPLHS đối với tội phạm này. Từ

đó, đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật hình sự về tội trộm cắp tài sản, tăng

cường công tác giám đốc thẩm, tổng kết ADPLHS; kiểm tra, giám sát trong quá

trình áp dụng pháp luật hình sự; tăng cường tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp

luật nâng cao ý thức pháp luật của người phạm tội và ý thức pháp luật của quần

chúng nhân dân, tạo lòng tin trong xã hội. Với công sức nghiên cứu của mình

trong luận văn này, tác giả mong sao những giải pháp đã nêu ra sớm được thực

hiện và góp phần nâng cao hiệu quả và chất lượng công tác đấu tranh phòng,

chống loại tội phạm này trên địa bàn Quận 10.

Bản thân tác giả ít có điều kiện tham khảo pháp luật, thời gian nghiên cứu

không nhiều, nhưng do niềm đam mê học tập và nghiên cứu khoa học, đặc biệt là

pháp luật hình sự nên đã cố gắng học tập và nỗ lực hoàn thành luận văn này, nên

nội dung của luận văn này không tránh khỏi những sai sót, nhầm lẫn. Rất được

sự hướng dẫn và đóng góp ý kiến của quý Thầy Cô và đồng nghiệp để luận văn

được hoàn thiện tốt hơn, đồng thời góp phần vào việc ADPLHS nói chung và đặc

biệt đối với tội trộm cắp tài sản nói riêng.

81

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Trần Văn Biên – Đinh Thế Hưng (2017) Bình luận khoa học Bộ luật

Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội.

2. Bộ chính trị: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 22/01/2002 về một số

nhiệm vụ trọng tâm công tác cải cách tư pháp trong thời gian tới.

3. Bộ chính trị: Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược

cải cách tư pháp đến năm 2020

4. Lê Thị Bình (2018) Tội trộm cắp tài sản theo pháp luật Hình sự Việt

Nam từ thực tiễn tỉnh Bình Phước, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

5. Lê Văn Cảm (Chủ biên) (2014) Giáo trình Luật hình sự Việt Nam

(Phần chung), Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, Hà Nội

6. Lê Đăng Doanh (2013), Định tội danh đối với tội xâm phạm sở hữu,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

7. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội Đại biểu Toàn quốc

lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

8. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày

02/01/2002 của Bộ Chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp

trong thời gian tới, ban hành ngày 02/01/2002, Ban chấp hành trung ương Đảng,

Hà Nội.

9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày

02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020, ban

hành ngày 02/6/2005, Ban chấp hành trung ương Đảng, Hà Nội.

10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn

quốc lấn thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội.

11. Lê Văn Đệ (2005), Định tội danh và quyết định hình phạt trong luật

hình sự Việt Nam, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

12. Võ Thúy Hằng (2015) Tội cướp giật tài sản theo pháp luật Hình sự

Việt Nam từ thực tiễn quận Tân Bình, Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ,

Học viện Khoa học xã hội.

13. Nguyễn Ngọc Hòa (2017), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam, Nxb

Công an nhân dân, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Tội phạm và cấu thành tội phạm, Nxb Tư

pháp, Hà Nội.

15. Nguyễn Ngọc Hòa (2015), Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm

2015 (sửa đổi bổ sung năm 2017), Nxb Tư pháp, Hà Nội.

16. Nguyễn Ngọc Hòa và Lê Thị Sơn (2006), Từ điển Pháp luật hình sự,

Nxb Tư pháp, Hà Nội.

17. Hoàng Văn Hùng (2017), Tội trộm cắp tài sản và đấu tranh phòng

chống tội phạm này ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội,

Hà Nội.

18. Vũ Duy Khanh tổng hợp (2017) So sánh đối chiếu Bộ luật Hình sự

năm 1999, năm 2015 và Bộ luật Hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017, Nxb Hồng

Đức.

19. Dương Tuyết Miên (2007) Định tội danh và quyết định hình phạt

(sách chuyên khảo – in lần hai, có sửa chữa bổ sung), Nxb Lao động –xã hội, Hà

Nội.

20. Đinh văn Quế (2005), Bình luận khoa học vềcác tình tiết tăng nặng,

giảm nhẹ, Nxb Tổng hợp Thành phố HồChí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh.

21. Đinh Văn Quế (2018) Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự năm2015 –

phần thứ nhất những quy định chung, Nxb Thông tin và truyền thông, Hà Nội.

22. Quốc hội (2013), Hiến pháp năm 2013, Hà Nội;

23. Quốc hội (1999), Bộ Luật hình sự năm 1999, Hà Nội.

24. Quốc hội (2009), Bộ Luật hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm

2009), Hà Nội.

25. Quốc hội (2015), Bộ Luật dân sự năm 2015, Hà Nội.

26. Quốc hội (2017), Bộ Luật hình sự (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Hà

Nội.

27. Quốc hội (2003), Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2003, Hà Nội.

28. Quốc hội (2015), Bộ Luật Tố tụng hình sự năm 2015, Hà Nội.

29. Trần Thị Kim Quy (2017) Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm

phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 9, Thành phố

Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ, Học viện Khoa học xã hội.

30. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án số:

161/2017/HS-ST ngày 05/12/2017.

31. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản án số:

163/2017/HS-ST ngày 06/12/2017.

32. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Bản ánsố:

166/2017/HS-ST ngày 07/12/2017.

33. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án số:

24/2018/HS-ST ngày 04/4/2018.

34. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số:

07/2019/HS-ST ngày 15/2/2019.

35. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số:

12/2019/HS-ST ngày 01/3/2019.

36. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số:

20/2019/HS-ST ngày 17/4/2019.

37. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số:

55/2019/HS-ST ngày 25/9/2019.

38. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Bản án số:

65/2019/HS-ST ngày 15/10/2019.

39. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Bản án số:

63/2018/HS-ST ngày 07/2/2018.

40. Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh (2020) Bản án số:

42/2020/HS-ST ngày 15/01/2020.

41. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2015) Báo cáo

tổng kết công tác thi đua năm 2015.

42. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2016) Báo cáo

tổng kết công tác thi đua năm 2016.

43. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2017) Báo cáo

tổng kết công tác thi đua năm 2017.

44. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2018) Báo cáo

tổng kết công tác thi đua năm 2018.

45. Tòa án nhân dân Quận 10, Thành phố Hồ Chí Minh (2019) Báo cáo

tổng kết công tác thi đua năm 2019.

46. Chu Thị Trang Vân (2003), “Tìm hiểu việc định tội và quyết định hình

phạt từ phương diện là hoạt động áp dụng pháp luật hình sự cơ bản của Tòa

án”, Khoa học, (chuyên san Kinh tế-Luật).

47. Võ Khánh Vinh (2012), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam–phần

chung, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

48. Võ Khánh Vinh (2014), Giáo trình luật Hình sự Việt Nam–phần các

tội phạm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

49. Võ Khánh Vinh (2013), Lý luận chung về định tội danh, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Như Ý, Đỗ Xuân Việt, Phan Xuân Thành (2006),

Từ điển tiếng việt căn bản, Nxb Thanh Niên.

50. Trường Đại học Luật Hà Nội (2014) Giáo trình Luật Hình sự Việt

Nam (tập 1), Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.

51. Trường Đại học Luật Hà Nội (2016), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam – tập 2, Nxb Công an nhân dân.

52. Trường Đại học Luật Hà Nội (2010), Giáo trình Luật hình sự Việt

Nam, tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.