Lược sử ngoại giao VN các thời trước
Chương năm
NGOI GIAO THỜI LÊ LỢI - NGUYỄN TRÃI CHỐNG QUÂN MINH ĐÔ HỘ - phần
5
V. HỘI THỀ ĐÔNG QUAN BẮT HÀNG MƯỜI VẠN GIC, CHM DỨT CHIẾN
TRANH
Đánh tan hai đạo viện binh địch, các lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn chủ trương tiếp tục dụ
hàng địch trong các thành. Đối với địch ở Đông Quan, để làm chúng mất tin tưởng trông
chờ ở viện binh, Lê Lợi cho giải bọn đô đốc Thôi Tụ cùng một số tù binh mang binh p
nguyên soái của Liễu Thăng, hai ấn thượng thư bằng bạc của Lý Khánh, Hoàng Phúc với
một ít vũ khí, chiêng trống, sổ sách của viện binh địch tới trước thành Đông Quan, gọi
đch ra xem, lại trao cho chúng một bức thư của Nguyn Trãii sự thất bại thảm hại
của viện binh và khuyên chúng đầu hàng. Trong thư, Nguyễn Trãi viết:
" ... Nay hãy đem những việc đã qua kể li từng việc các đại nhân nghe, sau lấy việc ngày
nay tỏ lòng tường tận để thấy nên chăng.
Khi trước, việc ước hòa không những làm cho tôi và các đại nhân được yên lòng mà c
quân sĩ hai nước cũng thế. Ai cũng vui mừng nhảy nhót, tự bảo: Nam, Bắc t nay vô sự.
Nhưng không hiểu sao, hai ông Phương (Chính), Mã (Anh), cchấp ý riêng, không biết
thông biến, đã ngăn cản việc ước hòa. Người xưa có câu "lời i làm hng việc", há
chẳng phải sao? Từ đấy thân thiết hóa thành thù đch, yên chuyển thành nguy... Vic ấy
li tại ai? Song việc trước đã qua, không thể lấy lại được nữa.
Nay An viễn hầu Liễu Thăng vâng mệnh đem n mười vạn binh tới Quảng Tây, hai lần
sắc thư gọi về, Liễu Thăng đã trót cầm quân, cưỡng mệnh cứ đi .
Trái lòng người, nghịch lệnh vua, tiến quân tới cửai Chi Lăng, cùng quân sĩ giữ ải của
ta giao tranh mt trận kch liệt, cuối cùng b quân ta giết tại trận. Bảo định thu thập tàn
quân, ny 25 tiến đến Cần Trạm, li bị quân ta giết chết, Lý thượng thư cũng tử trận.
Duy một mình Thôi đô đốc chy thoát, nhưng vẫn tức tối không thôi, ngày 28 tiến quân
đến Phố Cát, lại bị quân ta đánh bại. Quân sĩ mạnh ai nấy chạy, ẩn trốn tan tác, khí gii
mất hết, chỉ còn lại n mt vạn tàn quân. Quân ta đến nơi bao vây bốn mặt, muốn tiến
không hay, muốn lui không được. Đến nay đã mt tháng 14 ngày, lương thực hết cả, quân
nhân chết đói c chất thành núi. Kế cùng sức hết, bèn xông vào vòng vây mạo hiểm ra
đánh, từ giờ Mão đến giờ Thân, sức không thể chống được. Quân của ông Thôi khi đó bị
đánh giết gần hết, chỉ còn lại người gầy yếu ốm đau, tự mở cửa trại ra hàng. . .
Ví bằng việc hòa giải đã xong, t ngày nay tất không có cái họa Liễu Thăng...
Nay đem chân tình thực ý, phúc o để cùng biết. Nếu như các đại nhân lại theo đúng
ước xưa, tôi mong được Sơn đại nhân (Sơn Thọ) qua sông cùng hp, tôi sẽ lui quân v
các vùng Thanh Đàm, Ái Giang, để cho đại nhân được thung dung trở về nước.
Nếu không thế, nhận mnh vào đám tên đạn, để quyết sống mái, thì tôi xin quyết cùng mà
làm, cần gì phải nói đi nói lại mãi làm gì?”.
Thấy viện binh đã tan, kế đã cùng, bọn Vương Thông vừa lo sợ, vừa bối rối, không biết
nên xử trí như thế nào. Chúng ở trong cảnh hoàn toàn bế tắc: quân cô, lực kiệt, viện tuyệt,
thế cùng, mà hàng thì sbị giết, đành kéo dài c thủ trong thành.
Các lãnh tụ nghĩa quân ra lệnh tăng cường vây hãm. Đch hoảng sợ. Đằng nào cũng chết,
đch quyết định cứ liều đánh ra, may có cơ hội vượt được vây, về được nước. Chủ tướng
đch Vương Thông dốc hết quân, tự mình làm tướng, mở cửa thành ra đánh. Nghĩa quân
nghênh chiến, đưa đch vào chphục kích, đánh cho tan tác và truy kích đến tận cửa Nam
thành Đông Quan. Địch tuyệt vọng, thấy không thể cưỡng lại được nữa, đành gửi thư cầu
hòa, bày tỏ nỗi lo sợ bị đánh. Nguyn Trãi viết ttrả li, đưa ra vấn đề hai bên trao đổi
những người thân tín làm con tin, để đch yên lòng:
"Ngày nọ, ta đưa thư, không thấy trả lời. Cho thông sự đi, e khẩn thuyếtbằng, song
việc ngày trước đã qua, nói không lại được...
Ta muốn phiền Sơn đại nhân là người cao tui qua sông cùng hp. Ta cũng cho một hai
đầu mục hoặc người thân tín vào thành hầu tiếp. có như thế, hai bên mới khỏi nghi ngờ
nhau: Ta lập tức lui quân, mở lại đường về. Đại nhân còn mun bảo gì ta đều nhất nhất
nghe theo. Nếu không thế thì i mn nghìn lời cũng là vô ích. . . ".
Bọn Vương Thông sợ chết, muốn hàng, nhưng dùng dằng không muốn bỏ thành, nên đã
ra nhiu lẽ để trì hoãn đầu hàng.
Chúng viện lẽ: tướng đem quân ra cõi ngoài, không thể tự quyn, b đất, cho người khác
mà về, cho nên việc chúng ở hay về phải đi lệnh triều đình của chúng. Như vậy là địch
chỉ muốn đình chiến chchưa đầu hàng. Nguyễn Trãi đã viết thư bác bỏ lẽ của địch:
"Về việc ta muốn đại nhân rút quân, trước sau không thay đổi . . . Nhưng bảo "ly đất
đem cho người khác, là bày tôi không được quyền t chuyện", ta cho là không đúng.
Từ xưa, đế vương trị thiên hạ, chẳng qua chỉ có chín châu. Giao Chỉ là ngoài chín châu.
Như thế, rõ ràng từ xưa, Giao Chỉ không phải là đất Trung Quốc. Huống chi, lấy đất ở cõi
xa, không dùng làm gì nếu giữ chỉ thêm tn cho Trung Quốc, bỏ đin Trung Quốc có
thdễ sống hơn. Như thế, bỏ hay giữ, nên hay không nên, cho tới mn đời sau, ta vẫn
i được. . .
Còn như nói: không có việc nước nhỏ chng lại ớc lớn, làm cho Di trông vào. Ta hiểu
khác thế... Thái vương nhà Chu thờ nước Huân Dục, Văn Đê' nhà Hán hòa với Hung Nô
(Huân Dục, Hung Nô là nước nhỏ. Thái Vương, Văn Đế là vua nước lớn). Hai vua ấy há
chẳng đáng làm khuôn phép cho mn đời sau ư? Vả li, nay ta... lại đem quan quân bắt
được, hơn mấy vạn người, hơn my vạn ngựa, cùng Hoàng thượng thư, Thái đô đốc và
các đô ty, chỉ huy, thiên hộ, bách hộ, hơn mt vạn người, trả hết về kinh sư. Như thế sao
lại là chống lại nước lớn. . .
Ta nghe: Vương giả tr nước ngoài, không tr mà hóa ra tr. Chưa bao giờ thấy làm nhọc
dân, đem quân ra đóng ở chỗ đất vô dụng mà lại là làm cho bn rợ, mn nước trông vào.
Không rõ đại nhân thấy như thế nào.
Ngày nay, quân của nhà vua tiến hay i, chính do đại nhân, đặt quyn thông biến,
quyết định mà thôi”.
Nguyễn Trãi bác bi gọi là "giả đất", “cho đất", lời lẽ thật đanh thép. Vương Thông
không thlàm cách nào khác, đành phải viết thư nói rõ chúng muốn hàng, nhưng sợ bị
cầm tù, không được thả cho về nước.
__________________
Để vạch rõ chtrương hòa bình, nhân đạo của ta, Nguyn Trãi viết cho Vương Thông:
Trước đây, ta bắt quan quân các thành, việc đó không cần i lại. Nay ta cũng mới bắt
được quan quân: binh sĩ tới trên hai vạn người, các chức thượng thư, đô đốc, đô ty, ch
huy, thiên hộ, bách hộ có tớin trăm ni, ngựa ba nghìn con. Như thế, há phải là ta
lừa dối mà bắt được? Hay chỉ là bt đắc dĩ mà phải bắt. Nay ta gimy vạn người ấy ở
lại phục dch ta thì cũng chẳng ích gì cho ta, mà triều đình mất mấy vạn người ấy thì cũng
chẳng tn hại gì. Ta liệu định số quân trong thành của các đại nhân bất quá chỉ vài vạn
người. Ta có tìm cách lừa dối để bắt thì cũng chẳng ích gì cho công việc của ta. . .
Nay đại nhân mang tiết việt, chuyên đánh dẹp việc quân ở cõi ngoài thể tùy tiện xử trí.
Vli, việc binh không thể ở xa mà định đoạt. Lời i: đi tướng ở ngoài i, mệnh vua
có thể không tuân theo" há phải là không đáng tin. Lại bảo rằng: "chết mà ích cho nước
cũng đáng; chết mà không ích gì cho nước, chỉ là chết uổng". Vậy, thế nào ích, thế
o là không có ích. . . Nay bn các ông gimt thành trơ trọi, tự bảo là để chịu chết với
thành, t ích gì cho nước. Ví thử, giđược thành, không để mt thành, thì cũng có ích
gì cho nước. Câu nói: "Tham hư danh mà phải thực họa", thật đúng.
Nay hãy gác việc ấy mà bàn: nếu đại nhân quả cho ta nói là phải thì nên theo li ước
trước, cho Sơn thái giám (Sơn Thọ) sang sông cùng hội họp. Ta cũng cho người thân tín
o thành hầu tiếp, để cho lời giao ước được chc chắn, sau đó sẽ lui quân về các vùng
Thanh Đàm, Lũy Giang, để đại nhân thung dung đem quân vnước. Phàm đường sá, cầu
cống, lương thực cho đại quân ăn đường, cùng sản vật địa phương để tiến công và biểu
tâu cung kính, các thứ ta đều sẵn sàng. Các ông Hoàng thượng thư, Thái đô đốc cũng đã
ta, dâng li tâu về triều. Nếu đại nhân suy lòng như lòng người, thì sao ta phụ bạc
được. Trái lại, vì kéo dài năm tháng, lấy lời nói lừa dối nhau, muốn đợi quân khác cứu
viện, như trước đã làm, ngoài mặt gihòa, trong ngm mưu khác. Rồi đại quân kéo sang,
khiến ta lại phải cùng mt lúc đương đầu với địch ở cả hai phía, trước mặt và sau lưng.
Như thế thì kngu phu ngu phcũng chẳng tin, huống chi ta, dù vô mưu, cũng không sao
tin được. . . " .
Những lời khuyên dụ kiên t của Nguyễn Trãi tác động mạnh tới tinh thần tướng địch.
Chúng xin làm theo lời Nguyễn Trãi, t định việc rút quân về.
Vì nghĩa lớn của dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, Nguyn Trãi và các lãnh tnghĩa quân
Lam Sơn từ lâu vẫn chủ trương dụ hàng quân địch trong thành, thả cho chúng được toàn
quân, toàn mng về nước. Chủ trương này, Nguyễn Trãi đã từng nhấn mạnh:
đã s chết tham sống, phải thành khẩn cầu hòa
Ta để cho giặc toàn quân, mà dân ta được nghỉ.
Chẳng những là mưu kế cực sâu xa
Mà cũng thật cổ kim chưa đã thấy.
(Bình Ngô đại cáo)
Điều kiện trước tiên đề ra cho địch là chúng phải cùng các lãnh tụ nghĩa quân dự hội thề,
sau đó mi n định kế hoạch rút quân và tiến hành những biện pháp cần thiết cho việc
thực hiện kế hoạch đó. Các lãnh tnghĩa quân cho tổ chức hi thề tại phía nam thành
Đông Quan, bên sông Hồng.
Ngày 10 tháng 12 năm 1427, chủ tướng Vương Thông cùng toàn thể các tướng lĩnh, quan
lại cao cấp của địch tới dự hội thề. Thật là nhng giờ phút vinh dự của những người chiến
thắng. Trong buổi lễ chủ tướng Vương Thông thay mặt toàn thể quân giặc, trịnh trọng xin
thề:
" …Tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông quả tự lòng thành, đúng theo lời bàn,
đem quân về nước, không thể kéo dài năm tháng để đợi viện binh đến nơi. Lại phải theo
đúng sự lý bản tâu, đúng lời bàn trước mà làm. . .
…Nếu không có lòng thực, lại tự trái lời thề, người phục dịch và các thuyền đã định rồi,
cầu đập đường sá đã sửa rồi, mà không làm theo lời bàn, lp tức đem quân về nước, còn
kéo dài năm tháng để đợi viện binh, cùng là ngày về đến triều đình lại không theo sự lý
trong bản tâu, không sợ thần linh núi sông ở nước An Nam lại bàn khác đi, hoặc cho quan
quân đi qua đâu cướp bóc nhân dân đó, thì Tri Đất cùng là Danh sơn, Đại xuyên thần
k các xứ tt đem bn tổng binh quan Thành sơn hầu Vương Thông, tbản thân cho đến
cả nhà thân tch, làm cho chết hết, và cả đến quan quân cũng không mt người nào v
được đến nhà...".
Lập hi thề là mt việc nhỏ, nhưng ý nghĩa chiến thắng rất ln. Bắt hàng chục vạn tên
giặc phải đầu hàng, phải xin thề không dám chiếm đóng, không dám xâm lược, phá
phách, để được toàn mạng về nước, như thế quả là "cổ kim chưa đã thấynhư Nguyễn
Trãi đã nói trong Bình Ngô đại cáo.
Sau hội thề, các lãnh tụ nghĩa quân cấp đủ số lương ăn đường cho hơn mười vạn quân
Minh cấp cho chúng hơn 500 chiến thuyền để đi đường thủy, 2 vạn ngựa để đi đường
bộ.
Theo quy định của các lãnh tụ Lam Sơn tại hội thề Đông Quan, đúng ngày 19 tháng 12
năm 1427, hơn 10 vạn quân Minh bắt đầu lên đường về Trung Quốc. Trước ngày lên
đường, chủ tướng Vương Thông sang đại bản doanh nghĩa quân chào từ biệt và ở lại mt
đêm cùng các lãnh t tướng nh nghĩa quân vui chơi, trò chuyn cởi mở chân thật. Khi
Vương Thông lên đường, các lãnh tnghĩa quân tiễn tặng rất hậu trọng. Vương Thông vô
cùng cm động; không chỉ chủ tướng cảm động, tỏ tình lưu luyến khi chia tay, mà toàn
quân giặc đều cảm động, vui sướng trước thái độ khoan hồng, nhân dạo và trước những
cử chỉ cao đẹp của quân dân ta. Trước ngày lên đường vnước, trên 10 vạn người Minh
được tha, cả quân lẫn tướng đều đến quân doanh Bồ Đề, lạy tạ Bình Đnh vương Lê Lợi,
người lãnh tụ tối cao của nghĩa quân Lam Sơn, người đã cùng Nguyễn Trãi và các tướng
lĩnh nghĩa quân kiên quyết thi hành một đường li kết thúc chiến tranh rất sáng tạo và rất
nhân nghĩa:
Nghĩ kế nước nhà trường cửu
Tha cho mười vạn hàng binh
Gây lại hòa hảo cho hai nước
Dập tt chiến tranh cho mn đời
(Nguyn Trãi - Phú núi C Linh)
Sự nghiệp chiến đấu chống xâm lược của Lê Li, Nguyn Trãi và quânn ta thời đó còn
có tác dụng quan trọng là chặn đứng và dập tắt cuồng vng nh trướng của nhà Minh
xuống Đông Nam châu Á, chấm dứt họa "Hạ Tây dương” của bn Trịnh Hòa, một hình
thức vừa uy hiếp quân sự, vừa cướp biển của triều Minh thời đó.
Sau chiến tranh với Việt Nam, triều Minh Trung - Quc suy yếu nghiêm trọng, mất hẳn
kh năng bành trướng, xâm lược nước khác, mà khnăng tự vệ, ginước, cũng rất bạc
nhược. Năm 1449, người Ngõa Lạt là mt bộ tộc ở Mông Cổ tiến công Trung Quốc.
Hoàng đế nhà Minh lúc y là Chu K Chấn, tức Minh Anh Tông thân cầm 10 vạn quân đi
đánh, nhưng đại bại. Minh Anh Tông bị người Ngõa Lt bắt. Một năm sau, Minh Anh
ng mới được Ngõa Lạt thả cho về nước.
Trong sự nghiệp đánh đuổi quân Minh đô h, có phần đóng góp công lao rất quan trọng
của Nguyễn Trãi . Ông vừa gii về quân sự, vừa giỏi về ngoại giao, kết hợp chặt chẽ đấu
tranh quân svi đấu tranh ngoại giao để đánh thắng địch. Nguyn Trãi đấu tranh ngoại
giao với địch rất linh hoạt, sắc bén, đúng thời cơ sát với từng tình huống cụ thể của chiến
trường. Khi đã giành thắng lợi quyết đnh bng quân sự thì tiến hành đàm phán hòa bình,
dùng ngoi giao để phát huy thắng lợi quân sự và chấm dứt chiến tranh, đặt lại quan hệ
bình thường giữa hai nước.
Công tác ngoại giao của Nguyễn Trãi đã góp phần quan trọng vào công cuc đánh thắng
hoàn toàn quân Minh xâm ợc. Đường li và thành tích ngoi giao của Nguyn Trãi
cùng với đường li và thành tích cnh tr, quân sự của ông đã góp phần tạo nên nhng
chiếnng vô cùng rực rỡ của dân tộc ta trong chiến tranh chng xâm lược ở đầu thế kỷ
XV.