Miền Nam Việt Nam từ sau Điện Biên Ph- phần 3
Tình hình chính tr và quân sự vào tng 7 năm 1954 mang những nét sau đây: Trong
trường hợp chiến tranh kéo dài, quân đội Pháp rất có thể sẽ bị buộc phải rút hết khỏi toàn
bộ khu vực phía bắc vĩ tuyến 18; ở phía nam Việt Nam, ở Campuchia và Lào chiến tranh
du kích có thể sẽ cứ kéo dài. Nhưng vẫn chưa thể đưa đến một kết thúc nhanh chóng bằng
quân sự. Chính phủ Mendes-France có thể sẽ bị lật đổ. Vậy chính phủ lên kế vị nó sẽ làm
gì ? Các lực lượng phe cánh tliệu đã đủ mạnh để ngăn không cho phe cánh hữu xin một
cuộc can thiệp ồ ạt bằng quân sự của Mỹ và đặt toàn th thế giới trước việc đã rồi ?
Về phía Việt Nam, sau chiến thắng Điện Biên Phủ, các nhà lãnh đạo nhận thức rất rõ v
mi nguy hiểm từ phía Hoa Kỳ; các cuc thương lượng vốn nhằm mục đích giành cho
được từ tay người Pháp sự công nhận quyền độc lập, nhưng đồng thời, phái đoàn Việt
Nam ở Genève còn c gắng, bằng sự nhân nhượng với Pháp để có được một cuộc đình
chiến, nhằm tránh không cho Hoa Kỳ gia nhập cuc chiến và biến toàn thể đất nước Việt
Nam thành một bãi chiến trường khổng lồ. Ngày 10 tháng 5, ba ngày sau khi Điện Biên
Phủ thất thủ, Phạmn Đồng tại Genève đưa ra 3 đề nghị.
- Nước Pháp sẽ thừa nhận quyền độc lập thống nhất và toàn vẹn lãnh th của Việt Nam.
- Vit Nam sẽ tôn trọng các lợi ích kinh tế và văn hóa của Pháp.
- Vit Nam sẽ nghiên cứu khả năng gia nhập khối Liên hiệp Pháp.
Tính cht ôn hòa của những yêu sách được đưa ra như trên sau một chiến thắng quân sự
lẫy lừng đã làm kinh ngc nhiều nhà quan sát, tương phản với sự ngoan cố của
Bidault. Dư luận Pháp đã không thể không nhận thấy sự ngoan cố đó. Bidault sẽ bị loại
bỏ. Người ta đã không còn có thể tách rời các vấn đề quân sự với các vấn đề chính tr.
Hẳn rằng, tương quan lực lượng trên bình diện quân sự, nguy cơ về một cuộc chiến tranh
lan rộng lôi kéo nhiều bên vào cuc đã không cho phép lực lưng kháng chiến Việt Nam
đánh chiếm tất cả các mục tiêu của mình. Nhưnh Chính phủ Pháp đã buộc phải nhượng
bộ:
- Vmặt cụ thể, trao trả li khu vực ở phía bắc vĩ tuyến 17 cho chính quyền của nước
Vit Nam Dân chủ Cộng hòa.
- Vnguyên tắc, thừa nhận quyền độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt
Nam, những nguyên tắc sẽ phải được cụ thể hóa bằng tổ chức tổng tuyn cử bầu ra mt
Chính phủ thống nhất cho cả nước, chậm nhất vào ngày 20 tng 7 năm 1956.
__________________
Thế là, nền độc lập dân tộc đã trở thành hiện thực trên nửa phía bắc của nước Việt Nam,
Campuchia và Lào cũng trở thành những quốc gia độc lập thật sự. Một điều nữa không
kém phần quan trọng, chúng ta đã tránh được nguy một cuộc xung đột lan rộng ra toàn
th. Từ lâu, đây là lần đầu tiên, mt vấn đề nóng bỏng gia phương Đông và phương Tây
đã được gii quyết bằng con đường thương lưng. Khác với vấn đề Triu Tiên, các cuc
thương lượng đã kết thúc với một hiệp ước không chỉ về quân sự mà cả về chính trị.
Nước Việt Nam, trên nửa phần phía bắc của mình, sắp sửa có thể dồn tâm sức vào công
cuộc xây dựng, tiến dần tới chủ nghĩa xã hi. Trung Quốc cũng sẽ thúc đẩy nn kinh tế
của mình tiến bộ nhanh chóng, to nên cơ sở vững bền để dứt khoát trở thành mt nước
hi chủ nghĩa hùng cường. Như vậy, các Hiệp định Genève ký ngày 20 tháng 7 năm
1954 là một thỏa hiệp, một thỏa hiệp có lợi cho hòa bình thế giới, các điều khon của
những hiệp ước này dẫn đến việc thiết lập ở Đông Dương một khu vực trung lập rộng lớn
v phương diện quân sự. Đối với nhân dân Việt Nam, vấn đề còn li là phải hoàn thành
nền độc lập của mình bằng cách đấu tranh để thi hành những hiệp định này. Bằng cách
gắn liền chính sách gii phóng dân tộc với công cuc bảo vệ hòa bình thế giới, các nhà
lãnh đạo Việt Nam đã tránh được cho đất nước mình khi bị biến thành mt bãi chiến
trường giữa Đông và Tây, và cứu vãn được hòa bình thế giới. Nhưng sự chấp nhận đất
nước bị chia cắt, cho dù có được ghi trong các hiệp định chỉ là tạm thời,ng không vì
thế mà không gây nên những xúc động ln trong tâm tư tình cảm của người Việt Nam.
Các nhà lãnh đạo Việt Nam, sau khi đã lèo lái cuc chiến tranh với một bàn tay bậc thầy,
đã biết tỏ rõ sự khôn ngoan về chính trị, chấp nhận những thỏa hiệp cần thiết. Lời phát
biều của Hồ Chí Minh ở cuộc họp ngày 15 tháng 7 năm 1954 của Ban chấp hành Trung
ương Đảng Lao động Việt Nam, chứng tỏ rằng Chính phnước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa đã có đánh giá hết sức khách quan về tình hình, không tự cho phép mình say sưa với
những chiến thắng rực rỡ trên mặt trận quân sự.
"Những thắng lợi của ta làm cho nhân dân ta và nhân n thế giới phấn khởi, làm cho đa
v ngoại giao của ta ở Genève vững chắc, những thắng lợi của ta buộc địch phải i
chuyện với ta. So với những điều mà Bollaert đưa ra hồi năm 1947, thì thái độ của Pháp
ngày nay thay đổi khá lớn. Từ ngày kháng chiến đến nay, thế ta ngày càng mạnh, thế địch
ngàyng yếu... Nhwung chúng ta cần hết sức chú ý. thế mạnh và yếu ấy là tương đối,
không phải tuyệt đối. Ta chớ chủ quan khinh địch. Thắng lợi của ta làm cho đế quốc Mỹ
bừng tỉnh.
Sau chiến dịch Điện Biên Phủ, âm mưu và kế hoạch can thiệp của Mỹ cũng thay đổi để
kéo dài chiến tranh Đông Dương, quốc tế hóa chiến tranh Đông Dương, phá hoại Hội
ngh Genève, tìm mi cách hất cẳng Pháp để chiếm ba nước Việt, Miên, Lào, biến nhân
dân Việt, Miên, Lào thành nô lệ của Mỹ và gây thêm tình hình căng thẳng trên thế giới.
Do đó, Mỹ không nhng là kẻ thù của nhân dân thế giới mà Mỹ đang biến thành kẻ thù
chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào... Qua hi nghị Genève, mâu thuẫn của
các đế quốc càng rệt. Pháp muốn nói chuyện, Anh nhập nhằng, M thì phá hoi. Đến
nay Mỹ càng bị cô lập...
Hiện nay, Chính phủ Pháp do phe chủ hòa nắm, việc chấm dứt chiến tranh Đông Dương
nhiều khả năng hơn...
Cho đến này ta đã tập trung lực lượng để tiêu diệt lực lượng thực dân Pháp xâm lược.
Bây giờ, Pháp đang nói chuyện với ta, đế quc Mỹ thì đang biến thành kẻ thù chính
trực tiếp, mũi nhọn của ta phải chĩa vào đế quốc Mỹ...
Trước kia, khẩu hiệu của ta: "Kháng chiến đến cung." Nay vì tình hình mới, ta cần nêu
khu hiệu mới là "hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ."Để chống đế quốc Mỹ can
thiệp, kéo dài và mở rộng chiến tranh Đông Dương, ta phải nắm vững lá cờ hòa bình,
chính sách của ta có thay đổi: Trước ta tịch thu tài sản của đế quốc Pháp, nay đã đàm
phán t thể theo nguyên tắc bình đẳng, hai bên cùng lợi, mà gilợi ích kinh tế và
văn hóa của Pháp ở Đông Dương. Trong đàm phán thì phải nhân nhượng nhau đúng mực.
Trước nói: đánh đuổi và tiêu diệt hết quân Pháp, nay đã đàm phán đưa ra yêu cầu và Pháp
đã bằng lòng địnhrút quân. Trước kia, ta không đếm xỉa đến Liên hiệp Pháp, nay ta
nhận bàn việc tham gia Liên hiệp Pháp một cách bình đng và tnguyn. Trước kia ta
chủ trương tiêu diệt ngụy quân, ngụy quyền để thống nhất, bây giờ ta dùng chính sách
khoan đãi,ng biện pháp toàn quc tuyn cử để đi đến thực hiện thống nhất toàn quc...
Muốn ngừng bắn thì phi điều chỉnh khu vực, nghĩa là quân đội đch phải tm tập trung
o một vùng để rút dần, quân đội ta cũng tập trung vào một vùng. Ta phải vùng rng
lớn, đủ những phương tin để xây dựng, củng cố và phát trin lc lượng mà không ảnh
hưởng đến các vùng khác... Khi điều chỉnh và trao đổi khu vực, vùng mà đch sẽ đến tạm
đóng thì đồng bào vùng y sẽ thắc mắc, người sẽ bi quan thất vọng, dễ bị địch lợi
dụng. Ta phải i cho đồng bào biết rõ: vì lợi ích toàn quc, lợi ích lâu dài mà tm thời
phải chịu đựng, đó là mt điều vẻ vang mà toàn quc rất biết ơn...
Giành lại hòa bình không phi là việc dễ, nó là cuộc đấu tranh trường k gian khổ, phức
tạp, nó có những điều kiện lợi,ng có nhng khó khăn... Mỹ ra sức phá hoại việc lập
lại hòa bình ở Đông Dương, phe chủ hòa Pháp t vẫn chưa dứt khoát vớinh hưởng của
M. Tình hình đang ở thời kbiến chuyển lớn, lại nhiều khó khăn và phức tạp... Những
tư tưởng sia lầm có thế nảy ra như sau: "tả" khuynh, có người thấy thắng, muốn đánh
bừa, đánh đến cùng... ch thấy Pháp mà không thấy Mỹ, thiên về tác chiến... Họ đề ra
những điều kin quá cao, địch không chấp nhận được. Việc gì h cũng muốn nhanh,
không biết đấu tranh cho hòa bình là gian khổ và phức tạp. Tả khuynh thì sbị lập, sẽ
xa ri nhân dân Việt Nam và nhân dân thế giới... Hữu khuynh thì bi quan tiêu cực, nhân
nhượng vô nguyên tắc, không tin tưởng vào lực lượng của nhân dân, làm nhụt tinh thần
phấn đấu của nhânn, quên tác phong gian khổ, chỉ muốn mt đời sống yên n và d
dàng...
Hiện nay, đế quốc là kẻ thù chính của nhân dân thế giới và đang trở thành kẻ thù chính
trực tiếp của nhân dân Đông Dương, cho nên mi việc của ta đều nhằm chống đế quốc
M. Bất kỳ người nào, nước nào không thân Mỹ đều có thể làm mặt trận thống nhất (dù
là tm thời) với ta. Mục đích bất di bất dịch của ta vẫn là hòa bình, thng nhất, độc lập,
dân chủ. Nguyên tắc của ta thì phải vững chắc, nhưng sách lược của ta thì linh hoạt[10]".
__________________________________
[10] Hồ Chí Minh tuyển tập, tập II, trang 445.
Tại Hoa Kỳ, tin đình chiến được tiếp nhận một cách đắng cay. Ngay ngày m sau, anh
em Alsop viết trên tNew York Herald Trubue (Diến đàn thông tin New York):
"Đây là một thảm họa làm lung lay toàn bộ thế cân bằng lực lượng mong manh ở châu Á.
Mt mất mát to ln khó bù đắp nổi bằng những món lợi kêism được từ châu Âu. Và đây
là một sự bất hạn mà chính phủ Hoa Kỳ không thể nào được coi là người ngoài cuc."
Tuần báo New Statesman and Nation của Đảng Lao động ANh khẳng định rằng Mỹ là k
duy nhất bị nếm mùi thất bại, còn một số Thượng Nghị Hoa Kỳ thì i đến mt vụ đầu
hàng Minich mới. Ngày 20 tháng 8, Eisenhower tuyên b trước Quốc hội:
"QUân đội Việt Minh được người Trung Quốc yểm trợ đã giành được những thắng lợi
trong khu vực Đông Dương, mặc dù quân đội của Liên hiệp Pháp và các Quc gia liên
hiệp đã mất gần tám nămchieens đấu, bất chấp những vũ k và thiết bị hiện đại mà Hoa
Kỳ đã cung cấp cho họ."
Không đưa được quân của mình vào Đông Dương, Chính phủ Hoa Kỳ sau khi đình chiến,
liền nhanh chóng bắt tay vào việc thực hiện dự án mà họ đã ôm ấp từ lâu: Thiết lập mt
h thống quân sự của phương Tây trong khu vực Đông Nam châu Á và dựng nên một đội
quân hùng mạnh của miền Nam Việt Nam mà Hoa K sẽ giành lấy từ tay người Pháp
quyền tổ chức và huấn luyện.
Mục tiêu trước mắt của Hoa Kỳ trong mùa xuân 1954 là khuyến khích nời Pháp cứ tiếp
tục cuộc chiến tranh và can ngăn họ chớ điều đình. Nột cuộc đình chiến, đối với ông ta
(tức Foster Dulles) chỉ là mt thủ đoạn để trnah thủ thời gian cần thiết cho việc huấn
luyện một đội quân Nam Việt Nam hùng mnh và để dựng nên một hệ thống phòng th
Đông Nam châu Á lần này sxuyên qua Sàin chứ không phải Hà Ni như trước
nữa."[11]
____________________________________
[11] Lacouture - Duvillier, sách đã dn trang 104.
Vấn đề là phải nhanh chóng hàn gn lại khối liên minh phương Tây đã bị phương hại
châu Á bởi hội nghị Genève năm 1954 về đông Dương. Ngay từ ngày 6 tháng 9 năm
1954, tại Manille đã t chức hội nghị bàn vhiệp ước quân sự Đông Nam Á, được gi là
SEATO (South East Asia Treaty Organisation - Tổ chức Hiệo ước Đông Nam Á).Điều 4
của tổ chức này ghi: "Trong trường hợp xảy ra cuộc xâm lược hay tấn công vũ trang
chống lại những bên hay nhng vùng được chỉ rõ trong hiệp ước, thì các bên ký kết s
hành động."
Thuật ngữ xâm lược, bản hiệp ước vạch rõ, bao hàm hết cả mi hình thức xâm lược, kể
cả sự "lật đổ". Nếu mt phong trào nào đó phát sinh tại mt trong nhng nước ở Đông
Nam Á bị các bên ký kết coi là một cuộc lật đổ, thì tổ chức SEATO có thể tính đến mt
hành động quân sự chung. Tường thuật về mt cuộc họp sau đó của tổ chức này, nhà báo
André Fontaine của báo Pháp Le Monde viết: "Lật đổ là mt từ rất tiện để chỉ toàn b
những hoạt động hợp pháp hay không hợp pháp nhằm mc đích đấu tranh trong ni đa
của những quốc gia là thành viên của hiệp ước này chống li các chính quyền liên hiệp
với Hoa Kỳ."[12]
Một nghị định thư kèm theo nói rõ thêm rằng:
"Hoa Kỳ, thành viên của hiệp ước này, thừa nhn rằng Lào, Campuchia, Nam Việt Nam
sẽ được hưởng những điều lợi được đề ra trong Điều 4."
Đây rõ ràng đi ngược với các Hiệp định Genève: "Hai bên ký kết sẽ chú ý giữ gìn để các
khu vực giao cho mình không tham gia bất cứ một liên minh quân sự nào."
Khi liên minh mang danh của Đông Nam châu Á bao gồm: Hoa K, Pháp, Anh, Úc -
tức chủ yếu là những nước cường quốc phương Tây. Trong số các nước châu Á, chỉ
Thái Lan, Philippine và Pakistan, là những nước mà chính phủ của họ đèu gắn bó chặt
chvới Hoa Kỳ. Những nước quan tọng nhất của Đông Nam Á như: Ấn Độ, Miến Đin,
Ceylan, Indonesia đều đã từ chối tham gia, vì hcảnh giác với cái khối liên minh đang
tập hợp lại với nhau cả ba cường quốc thực dân có thành tích bất hảo nhất. Ngày 29 tháng
9 năm 1954, Nehra tuyên bố trước Quốc hội Ấn Độ:
"cần phải tự hỏi liệu Hiệp ước Manille đã làm dịu đi hay m tăng thêm sự căng thẳng ở
Đông Nam châu Á ? Hiệp ước ấy p phần m cho Đông Nam Á hay mt bộ phận
khác của thế giới nhích gần thêm dù chmột bước, tới hòa bình và an ninh hay không.
Thực ra, tôi chẳng thấy sự căng thẳng giảm bớt hay hòa bình nhích gần thêm. Trái lại,
bu không khí thuận li được Hội nghị Genève tạo nên đã bị làm xấu đi mt phần. Đây
đúng là mt chuyện bất lợi."
Ngày 6 tháng 4 năm 1956, hoàng thân Sihanouk nói tớc Đại hi Sangkum:
"Hoa Kỳ trách Campuchia đã không gia nhập khối SEATO. Nhân dân Campuchia coi
SEATO là mt khối quân sự và gia nhập khối này là vi phạm Hiệp định Genève ."
Khái niệm xâm lược bị đáng đồng với "lật đổ" khiến cho tất cả các dân tộc châu Á cảnh
giác, nhất là khi nó được khua lên bởi các cường quốc thực dân.
"Cốt lõi của vấn đề, Walter Lippman viêt, Đông Dương không hề bị mt đội quân của
Trung Quc hay Liên Xô xâm lược, mà chính là những người cách mạnh Đông Dương
đang thâm nhập từ làng này sang làng khác."[13]
Ngay từ năm 1949, trước Hội các tổng biên tập báo chí M (American Society of
Newspaper Editors), Acheson đã nói:
"Xâm lược không chỉ nghĩa là tiếnng bằng quân sự, mà còn là chiến tranh bằng
tuyên truyn và phá hoi ngầm từ bên trong các nước tự do."[14]
__________________________________
[12] Le Monde, ngày 6 tháng 3 năm 1956.
[13] Trích dẫn của báo Tribune des Nation ngày 7 tng 1 năm 1955.
[14] Aragon tch dn Histore parallèle tập II, trang 193.
Song song với việc dựng lên Khi quân sự Đông Nam Á, Hoa K ngay lập tức sau khi
đình chiến, đã ráo riết thiết lập những cơ quan quân sự, kinh tế, hành chính của mình
Nam Việt Nam, bất chấp các điều khoản của các Hiệp định Genève. Ngay tngày 21
tng 7, Eisenhower công bố rằng Hoa Kỳ không hề bị ràng buộc bởi các hiệp định này.
Phái đoàn quân sự MAAG, đáng lẽ phải rút về nước, li được tăng cường. Phái đoàn
USOM (US Organization Mission), có nhim vụ phân phối tin của Mỹ, đặt các cơ quan
của mình trong khách sn lớn nhất ở Sàin và các cố vấn của mình trong các bcủa