
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
194
MÔ HÌNH LIÊN KẾT GIỮA NHÀ CUNG CẤP DỊCH VỤ VIỄN THÔNG DI
ĐỘNG VÀ NGÂN HÀNG – ĐỊNH HƢỚNG PHÁT TRIỂN CHO THANH
TOÁN DI ĐỘNG Ở VIỆT NAM
LINKAGE MODELS FOR MOBILE TELECOMMUNICATION SERVICES AND
BANKING - DIRECTION FOR DEVELOPMENT IN ELECTRONIC PAYMENT
Lê Xuân Cù
Trường Đại học Thương mại
TÓM TẮT
Các thiết bị di động ngày càng phổ biến đối với mỗi người dân và tiện ích to lớn. Nó không chỉ là
công cụ truyền thông thông thường mà trở thành công cụ quan trọng và hiệu quả trong thương mại di
động. Tiêu biểu cho sự phát triển lĩnh vực này là thanh toán di động cho ph p người sử dụng trao đổi
giá trị tiền tệ, tài chính trên thiết bị di động. Đ y là phương thức thanh toán hiện đại và xu thế phát triển
tất yếu trên toàn cầu. Việt Nam dự báo có tiềm năng rất lớn để phát triển hoạt động này. Tuy nhiên,
trong bối cảnh hiện nay các đối tượng tham gia độc lập triển khai còn gặp khó khăn do điều kiện nội tại
và bên ngoài thì yêu cầu đặt ra cần có sự liên kết để phát triển và tạo lập thị trường bền vững. Do đó,
bài viết tập trung một số lý luận cơ bản; phân tích bối cảnh cần thiết và đưa ra một số đề xuất để tạo sự
liên kết bền vững giữa nhà cung cấp dịch vụ viễn thông và các ngân hàng trong triển khai thanh toán di
động ở Việt Nam
Từ khóa: Thanh toán di động, thương mại di động, thương mại điện tử, thiết bị di động, thiết bị hỗ
trợ số hóa cá nhân PDA (Personal Digital Assisstant), Nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động MNO
(Mobile Network Operator), ngân hàng
ABSTRACT
Mobile technology has gained popularity for the Vietnamese population with its agile connection to
the business. Among major benefits it brings, electronic payments is one of the integration goals for
companies, in order to attract more customers through increased convenience. However, Vietnamese
overall technology infrastructure cannot support the growth rate of such integration. The article aims to
discuss literature, shortfalls, and recommendations for linkages between mobile telecommunication
firms and banks in Vietnam.
1. Một số lý luận cơ bản về thanh toán di động và mô hình liên kết giữa nhà cung cấp
dịch vụ viễn thông di động và ngân hàng trong thanh toán di động
1.1. Khái niệm và bản chất của thanh toán di động
―Thanh toán di động đƣợc hiểu là việc thức thanh toán hàng hóa và dịch vụ thông qua
các thiết bị di động nhƣ điện thoại di động, thiết bị hỗ trợ số cá nhân (PDA) hoặc các thiết bị
khác‖ [10]. Theo đó, thanh toán di động nhƣ quá trình hai bên thực hiện trao đổi giá trị tiền tệ,
tài chính khi sử dụng thiết bị di động.
Theo nhà nghiên cứu Tarasewich, P.Nickerson, RC và Warkentin trong tài liệu ―Các
vấn đề trong thương mại di động‖, ―thanh toán di động là tất cả các hoạt động liên quan đến
việc chuyển giao các giá trị tài chính tiến hành thông qua mạng lƣới thông tin liên lạc với các
thiết bị không dây (hoặc điện thoại di động)‖
Theo một cách hiểu khác, ―thanh toán di động là việc sử dụng các trạm truyền phát dựa
trên các thiết bị không dây nhƣ điện thoại di động và thiết bị số cá nhân (PDA) đƣợc phân
công để thực hiện thanh toán cho các giao dịch B2B hoặc B2C trực tuyến, dựa trên hệ thống
website thƣơng mại điện tử‖ (Theo computerworld)
Bên cạnh các khái niệm trên, các nhà nghiên cứu ở Châu Á đƣa ra cách nhìn về ―thanh
toán di động là hình thức thanh toán đƣợc thực hiện sử dụng thiết bị di động và thiết bị khác,
mua sắm trực tiếp hoặc thực hiện thanh toán cho hàng hóa và dịch vụ.‖[4]

HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2014)
195
Về mặt bản chất, thanh toán di động là hình thức và xuất hiện sau của thanh toán điện
tử. Hình thức này chỉ xuất hiện khi thƣơng mại điện tử đã phát triển đến một mức độ nhất
định, khi nền tảng hạ tầng viễn thông, cũng nhƣ sự nhất thể hóa của các thiết bị điện tử diễn ra
một cách mạnh mẽ mà tiêu biểu là sự tích hợp các thiết bị điện tử trong điện thoại di động.
Chúng đƣợc tích hợp bởi rất nhiều các thiết bị nhƣ máy nhắn tin, máy đàm thoại, máy ảnh,
máy gửi và nhận email, đồng hồ báo thức, lịch thời gian, đặc biệt là đƣợc tích hợp các tính
năng truy cập mạng Internet và các tính năng khác của máy tính cá nhân. Điểm khác biệt cơ
bản giữa thanh toán di động và thanh toán điện tử khác là thanh toán điện tử chủ yếu đƣợc
thực hiện qua mạng Internet bao gồm cả hữu tuyến (sử dụng dây nối) và vô tuyến dựa trên các
máy tính cá nhân, còn thanh toán di động chủ yếu đƣợc thực hiện trên mạng truyền thông vô
tuyến (không dây) [2]
Trên cơ sở các góc độ tiếp cận về thanh toán di động, một khái niệm chung đƣợc đƣa ra
“Thanh toán di động là một tập hợp con của thanh toán điện tử bao gồm bất kỳ hoạt động
thanh toán nào được thực hiện trên mạng truyền thông không dây thông qua sử dụng các thiết
bị di động điện thoại di động, các thiết bị số cá nhân (PDA) và các thiết bị di động khác”
1.2. Các đặc trưng của thanh toán di động
Thanh toán di động mang năm đặc trƣng cơ bản sau:
Tính đồng thời ở khắp mọi nơi: có nghĩa là ở bất kỳ vị trí nào và ở bất kỳ thời gian nào.
Một thiết bị di động nhƣ điện thoại thông minh, máy tính cá nhân có thể gửi thông tin bất kể
vị trí của ngƣời sử dụng. Đặc tính này tạo ra sự truy nhập các thông tin dễ dàng hơn trong thời
gian thực, nó đƣợc đánh giá cao trong thị trƣờng kinh doanh và thị trƣờng ngƣời tiêu dùng
hiện nay.
Tính tiện lợi: cho ngƣời sử dụng trong môi trƣờng không dây. Các thiết bị di động đƣợc
nâng cao về chức năng và tiện lợi trong sử dụng khi vẫn tồn tại các kích cỡ tƣơng tự hoặc trở
nên nhỏ hơn. Không giống nhƣ các máy tính cá nhân, các thiết bị di động dễ dàng mang theo,
cài đặt và phần lớn các kết nối tức thời, nhanh chóng tới mạng Internet và các cơ sở dữ liệu
trực tuyến.
Tính tương giao: so với thực hiện qua máy tính cá nhân, các thiết bị di động mang lại
khả năng tƣơng tác trực tiếp và ở mức độ cao hơn. Các hoạt động hỗ trợ khách hàng và cung
ứng các dịch vụ yêu cầu một mức độ cao và nâng cao giá trị gia tăng cao trên các thiết bị di
động.
Tính cá nhân hóa: Các thiết bị di động về cơ bản là các thiết bị máy tính cá nhân. Bởi
vì máy tính ở nhà, thƣ viện hoặc các quán cafe Internet đƣợc sử dụng bởi một số lƣợng lớn
ngƣời sử dụng, các thiết bị di động gần nhƣ đƣợc sở hữu và hoạt động bởi một cá nhân riêng
lẻ. Điều này cho phép cá nhân hóa ngƣời sử dụng- việc chuyển giao thông tin, sản phẩm và
dịch vụ đƣợc thiết kế để đáp ứng nhu cầu của ngƣời tiêu dùng cá nhân.
Tính địa phương hóa: ngƣời sử dụng đƣợc đặt tại một vị trí vật lý ở bất kỳ một thời
điểm cụ thể nào là chìa khóa để đƣa ra các dịch vụ thích hợp. Tính địa phƣơng hóa sẽ phổ
biến, chẳng hạn nhƣ mọi khách hàng mục tiêu ở một địa điểm nào đó cũng giống nhƣ các chủ
cửa hàng ở một khu vực bán hàng. Hoặc, thậm chí, nó có thể trở thành đích ngắm để cho
những ngƣời sử dụng nhận các tin nhắn, điều đó phụ thuộc vào nơi mà họ đang đứng và
những cái mà họ thích hơn, đó là sự kết hợp giữa cá nhân hóa và địa phƣơng hóa.
1.3. Mô hình hợp tác giữa nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động và ngân hàng trong
thanh toán di động
Một trong số mô hình thanh toán di động đang phát triển đƣợc thực hiện dựa trên sự
hợp tác giữa các đối tác tham gia. Các mô hình hợp tác dựa trên cơ bản sự chia sẻ doanh thu.

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
196
Sự đa dạng các dịch vụ thanh toán di động đƣợc cung ứng trên thị trƣờng, một số dịch vụ
đƣợc thực hiện bởi các ngân hàng hoặc nhà cung cấp mạng viễn thông di động trong khi các
dịch vụ khác có thể đƣợc thực hiện bởi các bên tham gia thứ ba. Ƣu điểm của mô hình các
bên tham gia độc lập là ngƣời sử dụng di động sử dụng các dịch vụ thông qua việc đăng ký,
mà không cần quan tâm đến các nhà cung cấp dịch vụ di động hoặc các ngân hàng. Vì thế, các
dịch vụ mang đến sự tiện lợi và hiệu quả cho ngƣời đối tƣợng tham gia giao dịch. Tuy nhiên,
các bên tham gia độc lập không thể dễ dàng tìm kiếm đƣợc khách hàng khi mới thực hiện
trong khi các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động phát triển mạng lƣới rộng lớn các
khách hàng của mình – đối tƣợng tiềm năng trở thành các khách hàng sử dụng các dịch vụ
thanh toán di động. Vì thế, trong mô hình này, các đối tác kinh doanh theo đuổi giá trị kinh
doanh cốt lõi và sự hợp tác với các bên tham gia khác một cách bình đẳng. Đối với các nhà
cung cấp dịch vụ viễn thông di động (MNO), mô hình hợp tác giữa ngân hàng và MNO sẽ
mang đến sự tin cậy đối với các dịch vụ thanh toán di động trả trƣớc. Đối với các ngân hàng,
khó khăn lớn là chi phí phát triển các nền tảng công nghệ cho hoạt động thanh toán di động
lớn. Mô hình này hứa hẹn sẽ mang đến sự tích hợp các công nghệ mới trong cấu trúc hạ tầng
mang đến sự hợp tác giữa các ngân hàng, MNO và ngƣời bán. Yếu tố cuối cùng tạo nên sự
thuận lợi trong việc thiết lập các chức năng thanh toán di động phi biên giới, tính độc lập của
dịch vụ thanh toán di động của các ngân hàng và MNO, đảm bảo số lƣợng các điểm chấp
nhận thanh toán cao và hỗ trợ các dịch vụ thanh toán một cách hiệu quả.[5]
2. Bối cảnh ảnh hƣởng đến sự cần thiết của mô hình liên kết giữa MNO và ngân hàng
trong thanh toán di động ở Việt Nam
Ở nƣớc ta, các điều kiện cơ bản để phát triển thanh toán di động khá thuận lợi. Đối với
hạ tầng công nghệ thông tin, mạng lƣới viễn thông Internet đƣợc đầu tƣ phát triển mạnh mẽ,
đặc biệt là mạng di động 3G. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ viễn thông di động nhƣ
Vinaphone, MobiFone, Viettel tập trung đấy nhanh tiến độ đầu tƣ mạng lƣới và cung cấp dịch
vụ viễn thông di động chất lƣợng cao. Cả nƣớc có khoảng 145,47 triệu thuê bao, trong đó thuê
bao di động là 136 triệu, thuê bao di động 2G, 3G tăng 4,3 triệu thuê bao (cuối tháng 6/2013).
Bên cạnh đó, số dân kết nối mạng Internet ở nƣớc ta là 36.140.967 ngƣời, chiếm 39% tổng
dân số; tỉ lệ ngƣời sử dụng Internet trên thiết bị di động chiếm 34% dân số (theo
www.vtmgroup.com.vn). Mặt khác, yếu tố văn hóa xã hội có sự chuyển biến đáng kể, tỉ lệ
ngƣời dân đã có thói quen mua sắm trực tuyến là 65% (theo khảo sát của Cục ứng dụng công
nghệ thông tin – Bộ Thông tin và Truyền thông năm 2012) và 71% đối tƣợng khảo sát đã mua
hàng trực tuyến năm 2012 (theo kết quả nghiên cứu của VISA). Qua đó cho thấy ngƣời dân đã
nhận thức đƣợc lợi ích to lớn của thƣơng mại điện tử và tâm lý của họ đã có niềm tin đáng kể
vào mua sắm trực tuyến. Đây cũng là tín hiệu tích cực thúc đẩy phát triển các hoạt động trong
thƣơng mại điện tử. Mặt khác, ngƣời dân đã thực hiện các giao dịch thanh toán thông qua
thiết bị di động nhƣ thanh toán hóa đơn (chiếm 21%), chơi trò chơi trực tuyến (13%), sản
phẩm nội dung số (13%). Chính sự chuyển biến về công nghệ và phi công nghệ đã tạo điều
kiện to lớn phát triển hoạt động thanh toán di động. [1]
Bên cạnh đó, sự tăng trƣởng của thanh toán di động phải kể đến sự nỗ lực của các đối
tƣợng tham gia nhƣ các ngân hàng, nhà cung cấp dịch vụ viễn thông di động (MNO), các
cổng thanh toán trực tuyến v.v. Các ngân hàng thƣơng mại đã đặt những bƣớc chân đầu tiên
cho thanh toán di động với các dịch vụ ngân hàng di động (mobile banking). Điển hình là
ngân hàng Á Châu (ACB) đã hợp tác với Công ty Phần mềm và Truyền thông VASC,
VinaPhone, MobiFone triển khai ngân hàng di động năm 2003. Tiếp sau là sự vào cuộc của
các ngân hàng khác nhƣ Ngân hàng TMCP Quân đội, Ngân hàng TMCP Hàng hải, Ngân hàng
Công Thƣơng v.v. Các ngân hàng tại thời điểm đó coi ngân hàng di động là một lợi thế chiến
lƣợc nâng cao sức cạnh tranh thông qua việc cung cấp dịch vụ nhanh chóng và tiện lợi và các

HỘI THẢO KHOA HỌC - QUẢN TRỊ VÀ KINH DOANH (COMB-2014)
197
chuyên gia kỳ vọng với tốc độ phát triển và nắm bắt công nghệ nhanh chóng của các ngân
hàng, các dịch vụ ngân hàng di động sẽ đạt đến đỉnh cao là cho phép khách hàng thanh toán
chỉ với một tin nhắn ngắn nhƣ các quốc gia phát triển đã có. Tuy nhiên, tính đến thời điểm
năm 2010 các dịch vụ ngân hàng di động phát triển khá chậm chạp, chỉ dừng ở mức độ cho
phép khách hàng tra cứu số dƣ và lịch sử giao dịch, kể cả ngân hàng ACB triển khai dịch vụ
kiểm tra và tra cứu thông tin trên thiết bị di động.
Thị trƣờng thanh toán di động trở nên sôi động hơn với sự vào cuộc của các nhà cung
cấp dịch vụ viễn thông di động. Với các điều kiện thuận lợi về cơ sở hạ tầng công nghệ nhƣ
đƣờng truyền, mạng Internet, công nghệ truyền thông thế hệ mới nhƣ 3G, các trung tâm, trạm
thu phát sóng; số lƣợng thuê bao di động, thƣơng hiệu, nguồn nhân lực công nghệ thông tin
v.v thúc đẩy các đơn vị này tham gia lĩnh vực còn mới mẻ này. Các nhà cung cấp dịch vụ viễn
thông di động đang triển khai một số dịch vụ thanh toán di động nhƣ thanh toán qua tin nhắn
SMS, WAP. Đối với dịch vụ này, các đơn vị nhƣ Viettel, MobiFone, VinaPhone thanh toán
đƣợc khấu trừ trực tiếp vào tài khoản hoặc trừ vào hóa đơn trả sau của khách hàng. Dịch vụ
này phù hợp với thanh toán giá trị nhỏ đối với sản phẩm nội dung số hóa nhƣ nhạc chuông,
nhạc chờ, video, game, hình nền v.v. Ngoài ra, các nhà cung cấp dịch vụ viễn thông triển khai
thanh toán qua thẻ cào nhƣng mệnh giá không cao, cao nhất là 500 nghìn đồng/thẻ cào và ƣu
điểm hình thức này phù hợp với khách hàng không có tài khoản ngân hàng và ở các vùng xa
xôi.[3]
Đối với các đơn vị tham gia khác nhƣ cổng thanh toán trực tuyến cho phép khách hàng
thanh toán thông qua ví điện tử nhƣ Nganluong, Baokim, Sohapay v.v. Khi thanh toán, khách
hàng phải nạp tiền vào trong ví điện tử và có thể thực hiện thanh toán nhƣ mua sắm, chuyển
tiền, các giao dịch khác. Tuy nhiên, hình thức thanh toán này yêu cầu tiền phải có trong tài
khoản ví và không có khả năng chuyển đổi từ tiền điện tử sang tiền mặt khi khách hàng không
muốn sử dụng, không đƣợc hƣởng lãi với số tiền trong tài khoản.
Thị trƣờng thanh toán di động đã khởi động với sự tham gia của các đối tƣợng và các
dịch vụ khác nhau. Tuy nhiên, việc phát triển vẫn chƣa đƣợc nhƣ mong đợi và gặp nhiều rào
cản trong quá trình triển khai bởi một số nguyên nhân:
Tính chuyên nghiệp và triển khai đồng bộ dịch vụ thanh toán di động còn thiếu. Mỗi
đối tƣợng tham gia đều có thế mạnh riêng để triển khai các dịch vụ thanh toán di động nhƣ
đối với ngân hàng, các dịch vụ thanh toán cơ bản đƣợc thực hiện trong môi trƣờng truyền
thống và điện tử, cách thức thực hiện chuyên nghiệp, đủ nguồn lực về tài chính đầu tƣ và
nguồn nhân lực để thực hiện. Tuy nhiên, số lƣợng ngân hàng nhỏ và vừa ở nƣớc ta còn nhiều,
dịch vụ triển khai còn chƣa đồng bộ, hạ tầng công nghệ thông tin và kỹ thuật còn chƣa đảm
bảo để triển khai nhƣ cơ sở dữ liệu, khả năng kết nối, lƣu trữ, các giải pháp an toàn bảo mật.
Ngoài ra, các nhà cung cấp viễn thông di động có lƣợng khách hàng tƣơng đối lớn sử dụng
thiết bị và dịch vụ viễn thông, sẵn có hạ tầng công nghệ truyền thông, mạng lƣới viễn thông
rộng khắp. Tuy nhiên, dịch vụ thanh toán di động chƣa đa dạng, giá trị trao đổi chƣa cao chủ
yếu tập trung dịch vụ vi thanh toán, thanh toán qua thẻ cào, chƣa tận dụng hạ tầng công nghệ
sẵn có và tập khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó, các cổng thanh toán trực tuyến khi triển
khai dịch vụ thanh toán di động gặp nhiều khó khăn về hạ tầng công nghệ, các giải pháp bảo
mật an toàn, chƣa cho phép chuyển đổi giá trị từ tiền điện tử sang tiền mặt, dịch vụ thanh toán
còn đơn giản.
Vấn đề văn hóa – xã hội của người tiêu dùng dịch vụ thanh toán di động. Đây là một
rào cản mang tính phi công nghệ khó khắc phục trong ngắn hạn bởi yếu tố này đƣợc tạo nên
văn hóa và thói quen tiêu dùng, tâm lý và hành vi sử dụng, nhận thức và hành động của ngƣời
tiêu dùng. Ngƣời dân ở nƣớc ta có tập quán mua sắm và thanh toán trong môi trƣờng truyền

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG
198
thống khá lâu đời, có thói quen giao dịch trực tiếp mặt đối mặt, mua sắm không phải tiết lộ
thông tin nhạy cảm về cá nhân, tâm lý yên tâm hơn khi giao dịch trong môi trƣờng truyền
thống. Mặt khác, các hoạt động thƣơng mại điện tử nói chung và thanh toán di động nói riêng,
khách hàng còn tỏ ra chƣa quan tâm bởi họ chƣa thể thay đổi yếu tố văn hóa tiêu dùng cố hữu
và khó thích nghi với văn hóa mua sắm hiện đại. Điều này đƣợc lý giải khi doanh nghiệp và
ngƣời tiêu dùng chƣa nhận thức và hiểu biết về hoạt động và bản chất trong môi trƣờng điện
tử. Mặt khác, hạ tầng thanh toán điện tử nói chung và thanh toán di động nói riêng mà các đối
tƣợng đang có chƣa đáp ứng đƣợc khả năng thực hiện các giao dịch. Điều này có thể thấy rõ
khi các doanh nghiệp triển khai giao dịch di động cần có hạ tầng đồng bộ, có sự đầu tƣ đa
dạng phƣơng thức thanh toán di động, triển khai giải pháp bảo mật thông tin của quá trình
giao dịch, có các tiềm lực tài chính, nguồn nhân lực để triển khai v.v. Do đó, doanh nghiệp
đang rơi vào thế bị động khi triển khai và thiếu tính chủ động trong lôi kéo và thu hút khách
hàng.
Chi phí đầu tư hệ thống thanh toán di động. Đây đƣợc xem là vấn đề rất nhiều doanh
nghiệp hiện nay khi phát triển các dịch vụ thanh toán di động. Bởi doanh nghiệp cần tập trung
đầu tƣ cho hạ tầng công nghệ về phần cứng, phần mềm để khởi đầu, triển khai, duy trì hệ
thống thanh toán di động. Về hạ tầng phần cứng, doanh nghiệp đầu tƣ hệ thống lƣu trữ hệ
thống lƣu trữ cơ sở dữ liệu, mạng kết nối với các đối tác, khách hàng và chi nhánh. Điều này
trở nên quan trọng hơn khi giao dịch thanh toán gia tăng, cấu trúc hạ tầng cần phải đáp ứng,
nâng cấp và đổi mới, đảm bảo tính co giãn, tốc độ xử lý các giao dịch. Đây là điều quan trọng
nhất và thể hiện tính ƣu việt của thanh toán di động so với phƣơng thức thanh toán khác. Đối
với phần mềm, doanh nghiệp tạo lập, duy trì và phát triển ứng dụng thanh toán di động đem
lại cho khách hàng sự thuận tiện, đơn giản, không yêu cầu thao tác thực hiện phức tạp, kỹ
năng. Đồng thời, doanh nghiệp cần tích hợp công nghệ đảm bảo an toàn bảo mật nhƣ mật
khẩu của khách hàng, mã OTP, chữ ký điện tử nhằm xác thực và tính tin cậy của giao dịch.
Ngoài ra, chi phí phát sinh trong quá trình sử dụng, bảo trì, nâng cấp và đổi mới hệ thống. Do
đó, với các yêu cầu trên thì các doanh nghiệp thƣơng mại điện tử ở nƣớc ta chủ yếu quy mô
nhỏ và vừa chƣa thể đảm bảo và đáp ứng hoàn thiện hệ thống thanh toán di động một cách
độc lập.
Yếu tố nguồn nhân lực có kinh nghiệm, kỹ năng và chuyên môn chưa đảm bảo. Để đảm
bảo vận hành, duy trì và phát triển hệ thống thanh toán di động ngoài hạ tầng công nghệ, yếu
tố con ngƣời đóng vai trò quan trọng. Ở nƣớc ta, nguồn nhân lực về công nghệ thông tin nói
chung và thƣơng mại điện tử nói riêng còn thiếu về số lƣợng và chƣa đảm bảo về chất lƣợng.
Trong khảo sát các yếu tố gây trở ngại đối với doanh nghiệp thƣơng mại điện tử của Cục
Thƣơng mại điện tử và Công nghệ thông tin, nguồn nhân lực là một trong sáu trở ngại mà các
doanh nghiệp đang quan tâm. Đối với thanh toán di động, yêu cầu về con ngƣời không chỉ có
hiểu biết về công nghệ, quy trình, cách thức vận hành hệ thống thanh toán đồng thời có kỹ
năng, hiểu biết, nghiệp vụ tƣ vấn các dịch vụ và đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Vì thế, khả
năng hợp tác và liên kết hỗ trợ đáng kể cho đội ngũ nhân lực nâng cao trình độ, kỹ năng và
học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
3. Thành công điển hình của mô hình thanh toán di động Bank-plus giữa MNO Viettel
và các ngân hàng thƣơng mại ở Việt Nam