
5
MỞ RỘNG VIỆC LÀM: MÔ HÌNH ĐỊNH LƯỢNG VÀ HÀM Ý CHÍNH
SÁCH (TRƯỜNG HỢP NGHIÊN CỨU Ở CÁC TỈNH/THÀNH PHỐ
DUYÊN HẢI VIỆT NAM)
PGS. TS. Đinh Phi Hổ1, Đinh Nguyệt Bích2, Nguyễn Hải Triều3
(1)Trường Đại học Kinh tế TP. HCM; (2)Trường Đại học Văn Hiến
(3)Công ty TNHHMTV Cao su Bình Thuận
Tóm tắt:
Nghiên cứu này nhằm đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mở rộng việc làm của vùng
Duyên hải Việt Nam. Nhóm tác giả dựa vào dữ liệu bảng (168 quan sát) của 21 tỉnh thành
trong vùng giai đoạn 2009-2016, kết hợp hàm hồi quy dữ liệu Bảng. Ba mô hình hồi quy cơ
bản đối với dữ liệu bảng được sử dụng: (i) Mô hình hồi quy truyền thống theo phương pháp
bình phương nhỏ nhất (Pooled OLS regression model), (ii) Tác động ngẫu nhiên (REM), (iii)
Tác động cố định (FEM). Kết quả nghiên cứu cho thấy mô hình tác động cố định là phù hợp
và các yếu tố tác động đến mở rộng việc làm bao gồm: (i) Cơ cấu giá trị ngành công nghiệp
của tỉnh, thành phố trong tổng giá trị ngành công nghiệp cả nước; (ii) Tốc độ tăng trưởng
GDP; (iii) Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh; (iv) Số tàu đánh bắt hải sản xa bờ; (v) Thu
nhập bình quân hàng năm của người lao động trong doanh nghiệp; (vi) Tỷ lệ học sinh tốt
nghiệp trung học phổ thông.
Từ khóa: Việc làm; Vùng Duyên Hải; Dữ liệu Bảng; Hồi quy tác động cố định.
1. Giới thiệu
Nằm trong chuỗi các chính sách, chiến lược phát triển kinh tế, kinh tế biển được Việt
Nam hết sức chú trọng. Đảng cộng sản Việt Nam và Chính phủ Việt Nam đã có nhiều Nghị
quyết, Chỉ thị về phát triển kinh tế biển từ những năm đầu thập niên 1990. Đáng chú ý nhất là
Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành trung ương Đảng khóa X đã thông qua Nghị quyết số 09-
NQ/TW ngày 09/02/2007 về chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020. Việt Nam có đường
bờ biển dài 3.260 km, trên 1 triệu km2 thềm lục địa với nhiều đảo, quần đảo; nhiều tài nguyên
biển như hải sản, dầu khí; tiềm năng kinh tế biển như du lịch, cảng biển, giao thông biển, sửa
chữa tàu, thuyền, dịch vụ hậu cần, có thể hình thành vùng phát triển cao, tạo hiệu ứng thúc
đẩy các vùng, miền kinh tế khác cùng phát triển.
Tuy nhiên, để phát triển kinh tế biển ngoài việc khai thác tốt các tiềm năng, lợi thế về
biển cần chú trọng khai thác tốt nguồn lực lao động, trong đó đáng chú ý là lực lượng lao
động các tỉnh, thành phố duyên hải. Phát triển kinh tế biển phải gắn liền với ổn định đời sống,
việc làm và tạo việc làm mới cho người lao độngcác tỉnh, thành phố duyên hải.
Với các hiệp định thương mại tự do được Việt Nam ký kết với các tổ chức, các nước,
như: Liên minh châu Âu (EU), Khu vực mậu dịch tự do các nước Đông - Nam Á (AFTA),
Liên minh kinh tế Á - Âu (EAEU), Nhật Bản, Hàn Quốc đang mở ra cho Việt Nam những
triển vọng phát triển kinh tế nhưng cũng không ít khó khăn, thách thức, trong đó có thách
thức về việc làm. Vấn đề tranh chấp chủ quyền biển, đảo trên biển Đông những năm gần đây
tạo nên những tiềm ẩn nhiều rủi ro đang đe dọa đến việc làm và đời sống của ngư dân và
người lao động ở nhiều ngành nghề kinh tế biển như dầu khí, du lịch biển, cảng biển, giao
thông biển, khai thác, đánh bắt hải sản. Do đó, mở rộng việc làm là thách thức của phát triển
kinh tế của vùng Duyên Hải.
Tuy nhiên, thời gian qua, chưa có nhiều nghiên cứu một cách có hệ thống để giải
thích câu hỏi đặt ra: Yếu tố nào ảnh hưởng đến mở rộng việc làm? Vấn đề đặt ra cũng là
thách thức đối với các nhà nghiên cứu và những nhà chính sách ở Việt Nam. Bài viết này, tập
trung vào 3 nội dung chính: (1) Cung cấp nền tảng cơ sở lý thuyết về việc làm; (2) Mô hình