102
HNUE JOURNAL OF SCIENCE
Social Sciences 2024, Volume 69, Issue 1, pp. 102-112
This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn
DOI: 10.18173/2354-1067.2024-0011
EACH”, “ONE” AND SYNTAX
STRUCTURES CONTAINING “EACH -
EACH/ONE” IN VIETNAMESE
SENTENCES
Dao Duy Tung* and Le Viet Doan
School of Social Sciences and Humanities,
Can Tho University, Can Tho city, Vietnam
*Corresponding author: ddtung@ctu.edu.vn
Received December 14, 2023.
Revised January 18, 2024.
Accepted February 12, 2024.
Abstract. The article discusses the different
perspectives and explanations for the classification
of “each” and “one” in the Vietnamese word class
system. According to these perspectives, “each”
and “one” can be classified as adjectives,
demonstratives, nouns, numerals, adverbs, or
functional words, and they can belong to either the
lexical word or functional word category. Some
authors have provided brief explanations of the
meaning of these two words, but the syntactic
structure of sentences containing “each-one/every”
has not been analyzed. Based on the analysis, the
article argues that “each” and “one” are both
quantifiers, and they belong to the functional word
category. In addition, “one” can additionally be
classified as a numeral and belong to the lexical
word category. The pair of coordinating
quantifiers “each - each/one” can be used together
to mark the boundary between the theme and rheme
of a sentence. In this case, “each” marks the theme,
and “each/one” marks the rheme of the same
grammatical level. Additionally, when used alone,
“each” or “every one” also marks the theme.
Keywords: each, one, syntactic structure, theme, rheme.
“MỖI”, “MỘT” VÀ CẤU TRÚC
CÚ PHÁP CHỨA “MỖI - MỖI/MỘT”
TRONG CÂU TIẾNG VIỆT
Đào Duy Tùng* Lê Việt Đoàn
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Cần Thơ, Tp. Cần Thơ, Việt Nam
*Tác gi liên h: ddtung@ctu.edu.vn
Ngày nhận bài: 14/12/2023.
Ngày sửai: 18/1/2024.
Ngày nhận đăng: 12/2/2024.
Tóm tắt. Bài viết khái quát các quan điểm
giải nguyên nhân xác định “mỗi”, “một” khác nhau
trong hệ thống từ loại tiếng Việt. Theo đó, các nhà
nghiên cứu quan niệm “mỗi”, “một” là tính từ, chỉ
định tự, danh từ, số từ, phụ từ, từ công cụ,… thuộc
thực từ hay hư từ. Hai từ này cũng mới chỉ được
một số tác giả giải thích lược về mặt ý nghĩa.
Còn về mặt pháp, cấu trúc câu chứa “mỗi - mỗi/
một” chưa được phân tích. Bài viết quan niệm
“mỗi”, “một” cùng nhóm với “từng, mọi”,…
lượng từ, thuộc hệ thống từ; còn “một” cùng
nhóm với “hai, ba, bốn”,lượng từ, thuộc hệ
thống thực từ. Cặp lượng từ “mỗi - mỗi/ một”
ứng với nhau tác dụng đánh dấu biên giới đề -
thuyết các bậc. Trong đó, mỗi” đánh dấu đề,
“mỗi/ một” đánh dấu thuyết cùng bậc quan hệ
pháp. Ngoài ra, khi được dùng đơn lẻ, “mỗi”, hay
“mỗi một” cũng đánh dấu đề.
Từ khóa: mỗi, một, cấu trúc cú pháp, đề, thuyết.
1. M đầu
T năm 1915, những giáo người Ý, B Đào Nha, như Francisco Buzomi, Francisco de
Pina, Gaspar de Amaral, Antonio Barbosa, Cristoforo Borri, Alexandre de Rhodes c Lộ),…
đã tới Vit Nam truyn giáo. Trong quá trình truyền giáo, các giáo sĩ đã học và nghiên cu tiếng
Việt, và năm 1951, Alexandre de Rhodes bắt đầu bàn v ng pháp tiếng Vit trong cun T đin
“Mỗi”, “một” và cấu trúc cú pháp chứa “mỗi - mi/một” trong câu tiếng Vit
103
Vit - B - La (Dictionarium Annamiticum - Lusitanum - Latinum) [1]. Nhưng gần 200 năm sau,
vi s xut hin ca công trình Ng pháp tiếng Vit ca Taberd (1838) [2], sau đó hai công
trình Grammaire Annamite (1864) ca G. Aubaret [3] Grammaire de la langue Annamite
(1883) của Trương Vĩnh Ký [4] thì ngữ pháp tiếng Vit mi thc s đưc miêu t chi tiết và bài
bản. Như vậy, có th nói, ng pháp tiếng Vit bắt đầu được nghiên cu khong t năm 1651 cho
ti ngày nay. Gần 400 năm, những vấn đề v ng pháp tiếng Việt được nghiên cu, làm qua
nhiu khía cạnh, góc độ khác nhau, t khái quát đến c th.
Do quan nim khác nhau v phm trù t vng - ng pháp, v tiêu chuẩn phân định, các nhà
nghiên cứu đưa ra các ý kiến khác nhau v h thng t loại, trong đó xác đnh t loi ca
“mỗi”, “một”, th khái quát thành: (1) “mỗi”, “một” tính t ch s; (2) “mỗi”, “một”
ch định t hay s mc ch định t; (3) “mỗi”, “một” là danh t; (4) “mỗi”, “một” s từ, lượng
t hay s ng t; (5) “mi”ph từ, định t, hay phó t; “mt”s t - “mt” là định t;
(6) “mỗi”, “một” ph từ, hư t hay t công c, t ng pháp. Trong s đó, một s tác gi ch
giải thích lược v mặt ý nghĩa của “mỗi”, “mt”, mà chưa phân tích cấu trúc cú pháp câu cha
“mi - mi/ mt”. Do đó, trên cơ sở tng thut những quan điểm tiêu biu v ng pháp, trong đó
có xác định t loi ca “mỗi”, “một”cu trúc cú pháp cha “mi - mi/ mt”, bài viết phân
tích, ch ra nguyên nhân ca việc định v “mỗi”, “một” khác nhau trong h thng t loi tiếng
Việt, đặc bit bài viết bước đầu phân tích mt cách có h thng các mô hình cu trúc cú pháp câu
cha “mi - mi/ mt”. Trong câu, khi được dùng phi hp, “mỗi”, “mỗi mt” đánh dấu đề,
“mi/ một”, “mi mt” đánh dấu thuyết cùng bc quan h cú pháp. Ngoài ra, khi được dùng đơn
l, “mi”, hay “mi mt” cũng có tác dụng đánh dấu đ.
2. Ni dung nghiên cu
2.1. “Mỗi”, “một” trong h thng t loi tiếng Vit
2.1.1. Định v “mi”, “mt” trong h thng t loi tiếng Vit
ới đây là một s quan điểm tiêu biu v việc định v “mỗi”, “một” trong h thng t loi
tiếng Vit.
2.1.1.1. “Mỗi”, “một” là tính từ ch s
Trong các sách ng pháp trước đây về tiếng Vit, các hc gi xếp s t vào tính từ, như
Trương Vĩnh Ký, Bu-sê, Bác-bi-ê, Bùi Đức Tnh, Nguyễn Lân,
mc s ca danh t (nombre du substantif), Trương Vĩnh (1883) đề cp đến nh t ch
s (l’adjectif numéral) mt. Theo tác gi, danh t trong tiếng Vit không biến đổi nh thái. Trong
đó, danh t s ít được xác định (chính xác) hoặc không xác định. Danh t s ít xác định kết hp
vi mo t phía trước, chng hn: Con chim bay (l’oiseau vole). Danh từ s ít không xác định,
nếu muốn rõ ràng hơn, chúng ta đặt trước nó tính t ch s mt (un), chng hn: Mt người có ti
(un homme coupable); Mt cái cây (un arbre, une pièce de bois); Tôi mua mt cây dù (j’achète
un parapluie),… [4; 78].
Theo Trương Vĩnh Ký, mi, mi mt là tính t ch s đứng trước danh t, thuc tính t ch
s không xác định. Trong s các tính t ch s không xác định tính t nghi vn (adjectifs
indéfinis et interrogatifs), mt s tính t luôn đứng trước mt s luôn đứng sau danh t.
Trong đó, những t đứng trước danh t gm: c, c và, c thy, hết, hết thy, hết mi, hết cả, đều,
mi, mi (Mi gi, à toute heure, chaque heure; mi người mi ưng, chacun consent, consenti à
l’unanimité; mi nước mi vua, un souverain à chacun des Etats, chaque royaume a son roi; mi
người mi ý, chacun son avis), mi mt (Mi mt năm, chaque année), hng, trn, trót, nhng,
các, mấy, bao nhiêu, chúc, chúng, chư, chung [4; 147-150].
th thy, quan nim của Trương Vĩnh (1883) về v trí và kh năng kết hp ca “mỗi”,
“một”, “mỗi mt” rt sát hp. Các công trình nghiên cu v ng pháp tiếng Việt sau này đa
phần đều miêu t theo hướng đó nhưng cách dùng thuật ngkhác.
DD Tùng* & LV Đoàn
104
2.1.1.2. “Mỗi”, “một” là chỉ định t hay s mc ch định t
Mt s hc gi xếp “mỗi”, “một” vào loi ch định t, hay s mc ch định tự, như J. Coóc-
đi-ê, Trn Trng Kim, Phm Duy Khiêm, Bùi K,…
chương VI, Trần Trng Kim, Phm Duy Khiêm, Bùi k (1940) chia ch định t thành: (1)
ch th ch định t, (2) s mc ch định t, (3) nghi vn ch định t, (4) phiếm ch ch định t [5;
49-60]. Trong đó, s mc ch định t gồm: (1) lượng s ch định t và (2) th t ch định t. Theo
đó, mt nm trong s đếm, thuc ng s ch định t [5; 52]. Mi nm trong phn phân phi,
cũng thuộc ng s ch đnh t. Các tác gi cho rằng: “Những tiếng lượng s ch định t ch định
cái phn phân phi là: mi, tng, dùng đứng trước tiếng danh t để ch từng đơn vị” [5; 54]. Các
tác gi giải thích thêm: “Tiếng lưng s ch định t mi th dùng đứng trước tiếng danh t làm
ch t hay túc t:
Mi người làm mt vic.
Nó cho mi người một đồng bc [5; 54].
Tương tự Trn Trng Kim, Phm Duy Khiêm, Bùi k, tác gi Bùi Đức Tịnh (1952) cũng cho
rng “mt” s đếm, còn “mi” ng s ch định t ch một lượng ít, ch đơn vị ca mt
toàn s. C hai thuc s mc ch định t [6; 61-62].
2.1.1.3. “Mỗi”, “một” là danh từ
G. Aubaret (1864) xếp “mt” vào danh t ch s (des noms de nombre) [3; 25-29].
Tương tự, các tác gi y ban Khoa hc hi Vit Nam (1983) quan nim mt (hai, ba,
i, một trăm,…), nhng, các, vài, mấy,… tất c, s đông, phần lớn,…danh t ch s ng
s vt (danh t s ng) [7; 78]. Tuy G. Aubaret (1864) và các tác gi y ban Khoa hc Xã hi
Việt Nam (1983) không đề cập đến “mi”, nhưng theo cách trình bày hệ thng t loi trong sách,
có th hiu “mi” cũng là danh từ ch s.
2.1.1.4. “Mỗi”, “một” là số từ, lượng t hay s ng t
Mt s hc gi xếp “mỗi”, “một” vào t loi s từ, lượng t hay lượng s t như: Nguyễn
Kim Thản, Trương Văn Chình - Nguyn Hiến Lê, Nguyn Tài Cẩn, Đái Xuân Ninh, Hồ Lê, Cao
Xuân Ho, Nguyn Vân Phổ,…
Nguyn Kim Thn (1963) xếp “mt” vào định s t, còn “mỗi” (mi, tng) vào ng s
t, c hai đều thuc s t. Theo tác giả, “mi là t n ca tiếng Hán; nó còn có hình thc na
mi mt. Nó ch một đơn vị riêng l trong mt s ng nhất định. Thường thường danh t này
ch đơn vị tính toán (ch s vật được phân phối), sau đó còn có t t s t + danh từ… Song
hin nay do ảnh hưởng ca li diễn đạt trong các ngôn ng n Âu, nhiu khi mi được dùng vi
nghĩa mi, tt c, các, và sau đó không có từ t s t + danh t na [8; 198].
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê (1963) xác định “một”, “mỗi” ng t nhất định,
thuc tiu loi ng t. Các tác gi quan nim nhng tiếng dùng làm lượng t, v t tính là th
từ. Theo đó, “mt là s đầu trong s đếm, tr ng nhất định lấy làm đơn vị. Ta cũng dùng mi.
Mi ngoài nghĩa là mt, còn hàm thêm ý “như nhau”; tỉ d:
Mi bữa tôi ăn ba bát cơm.
Mi năm có bn mùa.
tức là “bữa nào cũng như bữa nào, tôi đều ăn ba bát cơm cả”, “năm nào cũng như năm nào
đều có bốn mùa”.
Ta còn nói mi mt:
Mi mt bữa tôi ăn ba bát cơm.
Mi mt năm có bốn mùa.
Có khi mi không dùng theo nghĩa nói trên, mà chỉ có ý nhn mnh:
Tôi ăn có mi mt qu cam [9; 310-311].
“Mỗi”, “một” và cấu trúc cú pháp chứa “mỗi - mi/một” trong câu tiếng Vit
105
Cao Xuân Ho, Nguyn Vân Ph cũng cho rằng “mỗi”, “một” là lượng t. Theo Cao Xuân
Ho, mt (hai, ba, năm, bảy…) ng t xác định (s t); còn mi (nhng, các, mi…) ng
t không xác định [10; 100]. Nguyn Vân Ph cho rng mt ng t chính xác (s t) [10;
357], còn mi (nhng, các, my, mi, tng) là ng t không chính xác [11; 368].
H (1992) gp hai tiu loi s t lượng t thành s ng t. Theo tác gi, mi (nhng,
các, tng, c) là ng t; còn mt (hai, ba… vài, dăm ba, dăm by) là s t [12; 144-149]. Còn
Đái Xuân Ninh (1978) quan niệm mt (hai, ba, bốn…) là t ch s (a2) [13; 89]; mi (tng, mi,
nhng, các) là t ch s ng (a3) [13; 89, 112]. Tương t các tác gi khác, Đái Xuân Ninh cho
rằng: “Những t ch s ng là nhng t kèm đi theo danh từ [13; 112].
2.1.1.5. “Mỗi” là phụ từ, định t, hay phó từ; “một” là số t - “một” là định t
Lê Văn Lý (1948, 1972) và hầu hết các tác gi sau thp niên 80 ca thế k XX đều cho rng
“mi” ph t nh t), còn “mt” s t. Các tác gi cũng phân biệt “mt” s t (xác
định) và “mt” là định t (bất định).
n cho rằng “mi” ph t khởi đầu, bên cnh các ph t trung gian, ph t tn ng
ph t t do, thuc nhóm ph t, như: mi ngưi; n “mt” thuc t loi s t [14; 125].
Diệp Quang Ban (1989) xác định “mt”s t, còn “mi”ph t chuyên đi kèm danh
từ, được gi là định t (mt tiu loi ca ph t). Theo tác gi, mt (hai, ba, bn…) s t s
đếm xác đnh, bên cnh s đếm phng chừng như một vài, dăm ba, dăm bảy..., s t th t
[15; 123]. Định t chuyên đi kèm về phía trước danh tch quan h v s ng. Các định t
thường gp các, nhng, mt, mi, mi, tng, my… [15; 141]. Ba t nhng, mt, cácdng
zêrô làm thành một đối h được gi là các quán t; các t mi, mi, tng có ý nghĩa phân phi
[15; 141].
Tương tự, Dip Quang Ban - Hoàng Văn Thung [16; 107], Lê Biên [17; 140], Nguyễn Văn
Thành [18; 351], Nguyễn Văn Lộc - Nguyn Mnh Tiến [19; 43] cũng quan niệm “một” là s t
xác định. Còn đối với “mi”, Dip Quang Ban - Hoàng Văn Thung cho rng “mỗi” cùng nhóm
vi tng, mi ng kèm trước danh t, ch ý nghĩa phân phối v s ng (định t) [16; 123]. Lê
Biên cho rng “mỗi” (mi, tng) ph t biu th ý nghĩa phân lượng, phân phi [17; 149].
Nguyễn Văn Lộc, Nguyn Mnh Tiến xác định “mi” (tng, mi, nhng, các) phó t đi kèm
danh t [19; 143].
Các tác gi được đề cp trên cũng phân biệt “mt” là s t “mt” định t. Theo Dip
Quang Ban - Hoàng Văn Thung, “một” cùng nhóm vi nhng, cácđịnh t (mt tiu loi ca
ph t) [16; 121-122]. Biên cho rằng mt” “những” còn được gi ph t phiếm định
(quán t phiếm định) [17; 149]. Nguyễn Văn Thành cũng phân biệt “mt”s t s ng [18;
351] và “mt” (con, cái, chiếc, nhng, các) là định t [18; 363].
Đinh Văn Đức cũng cho rằng “mt” (hai, mười, trăm, nghìn, vạn, triu) là t ch s đếm,
còn “mỗi” (mi, tng) là t có ý nghĩa phân phối [20; 85]. Nhng t này xut hin v trí -3 và
thành t ph trước danh t [20; 79]. Ngoài ra, theo tác gi, mt (nhng, các) còn hư t ch
s, với ý nghĩa bất định [20; 86].
Trong các quan nim, quan nim (5) có nhiu s đồng tình ca các nhà nghiên cu.
2.1.1.6. “Mỗi”, “một” là phụ từ, hư từ hay t công c, t ng pháp
Lê Cn, Phan Thiu (1983) quan nim “mỗi”, “một” đều ph t. Trong đó, “mi” (tng)
ph t trước ca danh t ch ý nghĩa riêng lẻ [21; 154]; “mt” cũng là ph t trước ca danh
t - ph t ch s ng chính xác [21; 155].
Nguyn Anh Quế (1988) cho rng nhng các, mi, mi, tng, cái là các từ nhóm A; cũng,
vẫn, đã, đang, không, chưa, chẳng, hãy, đng, ch, rất, hơi... là hư t nhóm B. Nhóm A chuyên
làm thành t ph cho một đoản ngdanh t làm trung tâm, nhóm B chuyên làm thành t ph
cho một đoản ng động t làm trung tâm [22; 68]. Các t mi, mt, tng thuc tiu loi A2.
Theo tác giả, “các từ này nét nghĩa chung là đều biu th ng s ca danh t trung tâm
DD Tùng* & LV Đoàn
106
như nhng, các, mi. Song nếu như nhng, các, mi ch yếu là để nêu lên đặc trưng về s nhiu
ca danh t trung tâm, thì trái li, mi, mt, tng li ch yếu biu th ng s ít do đó
liên quan v ng nghĩa với mt s từ” [22; 76].
Đỗ Thanh đồng nht và gi chung t công ct hư, từ ng pháp. Theo tác gi, mi, mt,
mi mt t công c (t hư, từ ng pháp), có th kết hp vi mt thành kết hp mi mt, mi …
một … hoc mi … mỗi … [23; 118-119].
2.1.2. Nhn xét
2.1.2.1. Như vậy, trên chúng tôi đã lưc thut mt s quan điểm tiêu biu v việc định v “mỗi”,
“mt” trong h thng t loi tiếng Vit. Những công trình có đề cập đến ng pháp tiếng Vit t
thế k XIX tr v trước đều được biên son bng tiếng La tinh tiếng Pháp. Các công trình
giai đoạn này bàn lun, miêu t v ng pháp tiếng Vit theo kiu phng ng pháp châu Âu,
nht tiếng Pháp. T thp k 40 ca thế k XX tr v sau, các nhà Vit ng hc bắt đầu
nhng công trình nghiên cu chi tiết hơn v ng pháp tiếng Việt, trong đó có vấn đ t loi tiếng
Vit, và việc định v “mi”, “một” trong h thng t loại cũng có nhiều d bit.
2.1.2.2. “Mỗi”, “một” được định v khác nhau trong h thng t loi là do quan nim khác nhau
v phm trù t vng - ng pháp, v tiêu chuẩn phân định t loi.
V phm trù t vng - ng pháp, “mỗi”, “một” được xác định là tính t, hay danh t, thuc
nhóm thc từ, như quan niệm của Trương Vĩnh Ký, Bu-sê, Bác-bi-ê, i Đức Tnh, Nguyn Lân;
G. Aubaret, y ban Khoa hc hi Vit Nam,… “Mt” cùng h thng vi t ch s đếm,
thc từ, một” cùng nhóm vi những, các,… từ, chng hạn như Trương Văn Chình -
Nguyn Hiến Lê, Nguyn Kim Thn, Dip Quang Ban, Dip Quang Ban - Hoàng Văn Thung, Lê
Biên,… Cả “mỗi”, “một” đều là ph từ, từ hay t công c, t ng pháp, như Lê Cận - Phan
Thiu, Nguyn Anh Quế, Đỗ Thanh,…
V tiêu chuẩn phân định, G. Aubaret, Trương Vĩnh Ký, Trn Trng Kim - Phm Duy Khiêm
- Bùi K, Bùi Đức Tịnh,… da vào ý nghĩa của t; Lê Văn Lý dựa vào hoàn cnh xut hin ca
t hay kh năng kết hp ca t; Nguyn Kim Thản, Đái Xuân Ninh, Diệp Quang Ban, Dip Quang
Ban - Hoàng Văn Thung, Lê Biên,… dựa vào s kết hp các tiêu chun v ý nghĩa khái quát, kh
năng kết hpchc năng cú pháp ca t.
2.1.2.3. Chúng tôi quan nim “mỗi”, “một” (tng, mi, nhng, các, mấy,…) lượng t không
xác định, thuc h thống hư từ; còn “mt” (hai, ba, bốn,…) lượng t xác đnh (s t), thuc h
thng thc t.
“Mi” cùng nhóm vi tng, mọi,… là lượng t ý nghĩa phân phối v ng. “Mi” có ý
nghĩa tách từng s vt, tng cá th trong c s vt; “mi” ch mt phn t bt kì ca mt tp hp
bao gm nhng cái cùng loại, được xét riêng lẻ, qua đó để nói chung cho mi phn t ca tp hp.
“Mt” cùng nhóm vi hai, ba, bốn,… lượng t ch s ợng xác định, nm trong h thng
thc t. “Mt” cùng nhóm vi những, các,… cũng là lượng từ, nhưng thuộc hư từ.
S phân bit gia “mt” là lượng t xác định (s t), thuc h thng thc t vi “một”,
“mi” lượng t không xác định, thuc h thống từ, ngoài ý nghĩa khái quát như được đề
cp trên, còn chc năng pháp. “Mtlượng t xác định chức năng làm đ, thuyết
thuc các bc quan h cú pháp; còn “một”, “mỗi” là lượng t không xác định thì không có chc
năng này.
“Mt” là lượng t xác định (s t), thuc h thng thc t, có kh năng làm đề ca câu, cú,
tiu cú.
(1) a. Mt cu s trái li Tú Anh. (Vũ Trọng Phng, Giông t)
b. Mt là c phép gia hình,
Hai là li c lu xanh phó v. (Nguyn Du, Truyn Kiu)
c. Mt n rt cao, hai là phá sn, xung rt thp. (Chu Lai, Ăn mày dĩ vãng)